Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
JOESTUDWELL
NHỮNGBỐGIÀ CHÂUÁ
ASIANGODFATHERS
Bản quyền tiếng Việt© 2010 Công ty SáchAlpha
TrầnCungdịch
NHÀ XUẤT BẢNTHẾGIỚI
Ebookmiễnphítại:www.Sachvui.Com
Tạo ebook: Tô HảiTriều
Ebook thực hiện dànhchonhữngbạnchưacóđiềukiệnmuasách.
Nếubạn cókhảnănghãymua sách gốc đểủnghộ tácgiả,người
dịchvàNhàXuấtBản
LỜI GIỚITHIỆU
Joe Studwell là nhàbáo, nhà văn, biên tậpviên viên truyền hìnhđã hoạt động ở nhiềunơi trên thế giới. Từ
1997-2007, ông làmviệctạiTrungQuốc,làtổng biên tập Tạp chíChina EconomicQuarterly, cũng làNgười sáng lập vàGiám đốc Công ty tưvấnDragonomics châuÁ.Hiệnnay,ôngđang
theo đuổi một chươngtrình nghiên cứu sauđại học tại Đại họcCambridge với đề tài:Các công ty TrungQuốctrongngànhnănglượng mặt trời, gió vàpin; và ông lại đangviếtmộtcuốnsáchmới
về sự phát triển củachâuÁ.
Joe Studwell đã viết(hoặc là đồng tác giả)khoảng 10 cuốn sách.Cuốn Giấc mơ TrungHoa của ông được tờThe Financial Timescho là "đã định hướng
lại cuộc tranh luận vềbảnchấtcủathịtrườngTrung Quốc." Sau khicuốnsáchmớinhấtcủaông - Những bố giàchâu Á: Tiền bạc vàquyền lực ở HồngKông vàĐôngNamÁ - được xuất bản năm
2007, cũng tờ báo nàyđã tuyên bố: "JoeStudwell xứng đángđược coi là bậc thầytrong việc tạo nênnhững huyền thoại vềcôngviệckinhdoanhởchâu Á..." Còn TheWallStreetJournalgọi
Những bố già châu Álà "một quả bom tấn"và coi nó làmột trong10 cuốn sách viết vềchâu Á hay nhất củanăm2007.TờBusinessWeek thì cho rằngNhững bố già châu Álà một trong 10 cuốn
sáchviếtvềkinhdoanhhaynhấtthếgiới.
*
Cuốn sáchxoayquanhcâu chuyện về mộtnhómkhoảngvài chụcôngtrùm–hayđạigia- ở Đông NamÁ mà
JoeStudwellgọilàcác"bốgià".Trongsốhọ,có 8 doanh nhân đượcTạpchíForbesghi têntrong danh sách 25người giàu nhất thếgiới, và 13 người ởtrong danh sách 50người giàu nhất thế
giới. Họ đều là người“ĐôngNamÁ”,nhưnglại có thể đại diện chotoàn “châu Á” rộnglớn. Và có một hiệntượng thật đáng ngạcnhiên:90%bọnhọđềulà người có gốc gácTrung Hoa – những
người “ngoại quốc”đếnlàmăntạicácnướcĐôngNamÁ, trải quamột quá trình “tiếpbiếnvănhóa”bằngbảnnăng của những con“tắckèhoa”, trở thànhcông dân địa phương,rồi trở thành các “bố
già” thống trịnềnkinhtế quốc nội, và thậmchí khuynh đảo nềnchính trị của nước sởtại.
Cácphương tiện thôngtin đại chúng thườngcoicácôngtrùmnàylànhững người có khả
năngvềkinh tế, tạo racủacảivàcôngănviệclàm cho xã hội; haythường kể những câuchuyện mang tính giaithoạivềtínhcáchhoặctácphongsinhhoạtcủahọ… TrongNhững bốgià châu Á, Joe
Studwelllạimiêutảhọnhư những con ngườirất đời thường, nhưngcũng không thiếunhững chuyện thuộcloại“thâmcungbísử”.Nhìn chung, họ lànhững con người có ýchí và nghị lực phi
thường, làmviệcchămchỉ và nghiêm túc để“từ nghèo khổ trở nêngiàucó”.Hiệnnay,khiđã là những tỉ phúnhiều tỉ đô la, có thếlực lớn trong gia đình,trong giới kinh doanhvà xã hội, nhưng lúc
cần tằn tiện thì họ cóthể tằn tiện không aibằng, vànhữngkhi họănchơi thìcũngchẳngaidámsánh…
Vớingòibúttàitìnhvàcác dữ liệu phong phúthu thậpđược từnhiềunguồn khác nhau, đặc
biệt là từ các cuộcphỏng vấn, trò chuyệnmà các bố già ưu áidành cho tác giả, JoeStudwell đã vẽ nênchândungbathếhệbốgià:thờithuộcđịa,thờihậu Chiến tranh thếgiới thứ hai và các bố
già thời nay. Tác giảđặcbiệtnhấnmạnhquátrình họ đã “nhập vai”đểtrởthànhbốgiànhưthếnào,luồngtiềnmặtchủyếumàhọnắmgiữđến từ đâu, cấu trúcdoanh nghiệp của cácbốgiàđược tổchứcra
saođểhọcóthểăn“từgốc đến ngọn”, ngânhàng mà họ lập ranhằm phục vụ côngchúng hay chỉ là“những con lợn bỏống”củahọ,thịtrườngchứngkhoáncóphảilànơihọchiếmdụngvốn
của các cổ đông thiểusố hay không, họ đãcấukếtvớibọnđầusỏchính trị như thế nàođể có được nhữngnhượng bộ và giấyphép độc quyền kinhdoanh của chính phủ,“mạng lưới tre” của
bọnhọcóthựcsựhiệuquảnhưlờiđồnđạihaykhông…
*
Những nếu chỉ có thếthìNhữngbốgià châuÁ chẳng xứng đáng là“một trong 10 cuốn
sáchnóivềkinhdoanhhaynhấtthếgiới.”Đâycòn là một cuốn sáchrất có giá trị đối vớinhững bạn đọc muốntìmhiểuvànghiêncứuvề kinh tế chính trị,kinh tế học vĩ mô, tàichính - ngân hàng, bất
động sản và chứngkhoán…Nói như JohnD.VanFleet,cốvấnvàtrợ lý giảng dạy tạitrường Cao đẳng KinhtếvàQuản lýAnTháithuộc Đại học Giaothông Thượng Hải,cũng là người phụ
trách chuyên mục“Kinh doanh và GiáodụcởTrungQuốc”củaTạp chí ChinaEconomic Review, thìNhững bố già châu Ácònlà“mộtcâuchuyệnbuồn”. Đó là câuchuyện về nguồn của
cải dồi dàobị làmchochệchhướng,vềcáccơhội phát triển đã bị trìhoãn, về sự nghèo đóikhôngđượcgiúpđợ̃.
Trong cuốn sách này,Studwell đặt ra nhữngcâuhỏi lớn,mang tínhhọc thuật rất cao: Tại
saoĐôngNamÁ,mộtkhu vực với gần 500triệu dân, nơimàmứclương 500 đô la mộttháng đã là “quá tốt”,năm 1993 đã đượcNgân hàng Thế giớimệnh danh là “sự kỳdiệuĐôngÁ”,lạicósự
phânphối của cải theokiểuMỹLatinh, đasốdân chúng sống trongcảnhnghèokhóvà chỉcó một thiểu số cựcgiàu mang tính hiệntượng? Tại sao mộtkhu vực không có lấymộtcôngtyngoàiquốc
doanh nào ở trongDanh sách Fortune500màlạicóđến13cánhân ở trong số 50người giàu nhất thếgiới?
Với những dẫn chứngrõràngvàlậpluậnsắcsảo, Studwell khẳng
định:Trên thực tế, cácbốgiàđãđónggóprấtít vào việc tạo nên sựphồn vinh thực sự củakhuvựcĐôngNamÁ.Rốt cục, họ chỉ lànhững “kẻ ăn bám”,những “động vật kýsinh”.Họgiàucólàdo
họđãranhmatạodựngnên mối quan hệ làmăn, chia chác với giớitinhhoa chính trị (vốnyếu kém trong việcquản lý các doanhnghiệp và đời sốngchínhtrị),vàduytrìnóthông qua các hình
thức hối lộ khác nhauđể có được độc quyềntiếp cận cácnguồn lực- vốn có hạn và là tàisản chung của toàn xãhội - như tài nguyênthiên nhiên, nguyênliệu,đấtđai,bếncảng,giấy phép độc quyền
kinh doanh và thànhlập ngân hàng, nguồnvốnhỗtrợpháttriểnvàkhắcphụchậuquảcủacác cuộc khủnghoảng... Trên thực tế,sự tăng trưởngGDP ởĐông Nam Á có liênquanmậtthiếtvớităng
trưởng xuất khẩu hàngnăm.Cácbốgiàchẳngcóvaitrògìquantrọngtronglĩnhvựcsảnxuấtvà kinh doanh xuấtkhẩunày,vìđó là lĩnhvựcđòi hỏi cạnh tranhthực sự khốc liệt,không hề giống các
ngành kinh doanh độcquyền – những ngành“làmchơiănthật”-màhọ ưa thích. Theo tácgiả, “những nữ côngnhâncầnmẫnlàmviệcngày đêm trong cácdây chuyền lắp ráp tạicác nhà máy gia công
hàng xuất khẩu” và“các doanh nhân,doanh nghiệp vừa vànhỏởđịaphương”mớithựcsựlànhữngngườilàm choĐôngNamÁtrở nên thịnh vượng.Còncácbốgià, có thểhọ chính là thủ phạm
gây ra Cuộc khủnghoảngtàichínhchâuÁnăm 1997 khiến chohàng tỉ người phảikhốnđốn.
*
Có thể nói, JoeStudwell viết cuốn
Những bố già châu Átrướchếtvì lợi íchcủatoànthểdânchúngcầnlao Đông Nam Á, vàông đã đạt được ướcmơ cao đẹp trong sựnghiệp trước tác củamình.
Xin trân trọng giới
thiệucuốnsáchrấthaynàyvớibạnđọc.
HàNội,tháng05-2010
CôngtysáchAlpha
MỞĐẦU
FITZGERALD: “Anhbiết không, người giàukhácvớianhvàtôi.”
HEMINGWAY:“Đúng thế, vì họ cónhiềutiềnhơnmà.”
Trao đổi giữaERNESTHEMINGWAY và F.SCOTTFITZGERALD
Cuốn sách này nói vềmột nhóm nhỏ nhữngđại gia, những tỉ phúvùngĐôngNamÁthời
hậu Chiến tranh thếgiới thứ hai, nhữngngườithốngtrịcácnềnkinh tếquốcnộiởkhuvực. Trong cuốn sách,khu vựcĐôngNamÁđược xác định là nămnước thành viên banđầu của Hiệp hội các
quốcgiaĐôngNamÁ(ASEAN), bao gồmSingapore, Malaysia,TháiLan,IndonesiavàPhilippines, cộng thêmHồng Kông. Sáu thựcthể này, những quốcgia đóng góp cho sựthịnhvượngchungcủa
ĐôngNamÁ, làmnêndiện mạo kinh tế củamột khu vực đã đượcNgân hàng Thế giớimệnh danh là “sự kỳdiệu của châu Á” vàonăm1993.
Năm 1996, một nămtrướckhibắtđầuCuộc
khủng hoảng tài chínhchâuÁ,nềnkinhtếcủakhu vực này được coilànềnkinhtếdẫnđầu.Tạp chí Forbes, trongxếphạnghàngnămcủamình về những ngườigiàu nhất thế giới, đãghi tên 8 doanh nhân
ĐôngNamÁ trong số25ngườigiàunhất thếgiới,và13ngườiĐôngNam Á trong số 50người giàu nhất thếgiới.
Một khu vực nhỏ bé,lạikhôngthểtựhàovìkhông có một công tynào nằm trong số 500
doanhnghiệphàngđầuthế giới , nhưng lạichiếmgầnmộtphầnbatrongsố25ngườigiàunhất hành tinh. Đây lànhững người tiênphong của các bố giàchâu Á, mỗi người cótài sản hơn 4 tỉ đô-la
Mỹ, ví dụ nhưLýGiaThành, Robert Quách,Dhanin Chearavanont,Lâm Thiệu Lương,Trần Vũ và QuáchLệnh Minh. Đằng sauhọ là một đội hìnhnhữngđạigiakémgiàuhơn,nhưngcũngcótài
sản trị giá một vài tỉđô-la.
Trong một khu vực,nơimứclương500đô-lamột tháng đã là caothì sự túng quẫn củanhiềungườivàsựgiàucócủamột số ítngườicho thấy khoảng cách
giàu nghèo quá lớntrong xã hội. Vậy tạisao những đại gia haygiấu giếm tài sản ấythống trị được cácnềnkinh tế của khu vựcĐông Nam Á? Họ đãđóng góp gì vào sựphát triển kinh tế của
toànkhuvực?Và,cólẽquantrọngnhất,tạisaohọ vẫn cực kỳ hùngmạnh khi Cơn khủnghoảngtàichínhchâuÁxảy ra trên cả bề rộnglẫnchiềusâu–mộtsựkiệntácđộngtolớntớichính họ? Họ có phải
là tâm điểm công kíchcủanhiềunhàphântíchkhông?Điềuđókhôngxảyra.Nhưchúngtasẽthấy,nhữngđạigianàyhìnhnhưchẳngbaogiờthay đổi, chỉ rất ítnhững thành viên yếunhất của tầng lớp này
không chèo chống nổigánh nặng nợ nần củacông ty họ nênmới bịcuốn vào cái rốn xoáycủa cơn khủng hoảng.Việc tìm kiếm nhữngcâu trả lời chocáccâuhỏi nêu trên là nhiệmvụ trung tâmcủa cuốn
sáchnày.
Trong quá trình tìmkiếmnhữngcâutrảlời,cácchươngtiếptheosẽsử dụng những đại gianày như một công cụđểkhảosátcácvấnđềchính trị và kinh tếrộng lớn hơn. Với tác
giả,đâylàmộtcáimẹovề cấu trúc để khôngphảiđưaramộtlờixinlỗi nào. Đây chỉ là sựtườngthuậtlịchsửmộtcách trung thực, baogồm cả hai vùng lãnhthổlànhữngtrungtâmxuất nhập khẩu (nếu
khôngcầnmiêu tảquáchính xác về chính trịthì việc xem xétHồngKông và Singapore làhữu ích nhất); và bốnquốcgia“hợp thức” làMalaysia, Thái Lan,Indonesia vàPhilippines đang bị
chiacắtvàkiệtsứcthậtkhôngđúnglúc.Đâylàmột cách tiếp cận hơivòng vo nhưng có lẽthân thiện với bạn đọchơn.
MIỀN ĐẤT ĐÔNGNAMÁ
Đối với lịch sử ĐôngNam Á cận đại, sửdụng cách tiếp cận từ-dưới-lên là khá nguyhiểm(Saolạicóthểsửdụng thuật ngữ này đểnóivềnhữngngườinổitiếng?). Nguy hiểm ởchỗbạnđọccóthểquá
chú ý, đi sâu vào cáctiểu tiết có tính chấtgiaithoạivềcuộcsống,đôikhikỳquáivàkhácthường,củacácđạigiamà bỏ lỡ không chú ýđến những chi tiết củamột bức tranh kinh tếvàchínhtrịtolớnhơn.
Để giảm thiểu rủi ronày,sẽthậthữuíchnếutóm tắt các chủ đềchính của cuốn sáchnày một cách thẳngthắn.
Đólà,trướchếtvàtrênhết, nền kinh tế ĐôngNam Á là sản phẩm
của mối quan hệ giữacác thế lực kinh tế vàquyền lực chính trị đãđược phát triển trongthời thuộcđịa vàđượcduy trì ở một sắc tháikhác với những đặcđiểm của thời hậuthuộc địa. Trong mối
quanhệnày,mộtnhómtinh hoa chính trị bancho những thành viêncủamộtnhómtinhhoakinhtếnhữngđiềukiệnđộc quyền, thườngtrong các dịch vụ nộiđịa, cho phép nhómngười này bòn rút
những nguồn tài sảnkhổnglồ,màkhôngcómột yêu cầu nào đốivới việc tạo ra nhữngnăng lực kỹ thuật,những công ty cóthương hiệu, và đạtđược năng suất laođộngcaođểđiềukhiển
sự phát triển kinh tếbền vững. Trong suốtthời thuộc địa, nhữngsự sắp đặt này đượcgiớihạnởphạmvilớnđối với những thànhviêncủanhómtinhhoathuộcđịa,vàởphạmvinhỏ hơn với những
nhómngườingoàicuộckhác. Trong thời hậuthuộcđịa,nóthíchhợpvớinhữngnhàlãnhđạochính trị người bảnxứnhằmnuôidư-ỡngtầnglớp phụ thuộc vào họ,điểnhình là nhữngđạigia không phải người
bản xứ – những ngườicó thể lợi dụng các kẽhở về kinh tế để kiếmlợi và chia chác chonhững người nắmquyền chính trị màkhông gây ramộtmốiđe dọa nào đối vớiquyềnlựcchínhtrịđó.
Tầng lớp đại gia phụcvụ mục đích chính trịcủa riêng nó và sảnsinh ra các cá nhângiàu có khổng lồ,nhưng lại làm rất ít đểthúcđẩysựtăngtrưởngkinh tế chung. Thayvàođó, sự tăng trưởng
đến từ nỗ lực kết hợpcủanhữngdoanhnhânnhỏ, nhiều người tậptrung trực tiếp và giántiếpvàosảnxuấtvàcóchính sách thuê mướnnhân công ngoài lựclượng lao động địaphương, và họ là
những nhà xuất khẩuđa quốc gia rất hiệuquả. Hồng Kông vàSingapore phát triểnphồn vinh với tư cáchlàhảicảnglànơixửlýcácvấnđềvềtàichínhvàlàtrungtâmtàngtrữnguồn vốn cấp cho
phần còn lại của khuvực. Tất cả những sựsắpđặtkinhtếnàyxuấthiệnvàđượcthựchiệntốthếtmứccóthể,chođếnkhicósựtấncôngcủa cơn khủng hoảngtài chính tháng Bảynăm1997.Ởthờiđiểm
đó, rõ ràng sự pháttriểnởĐôngNamÁcónhững sụt giảm mạnh.Thể chế chính trị đãđược thiết lập ở khuvựcnàycónguycơsụpđổ vô cùng lớn. Hầuhết các vấn đề tồn tạiđã không được khắc
phục trong thập niênmà cơn khủng hoảngxảy ra, và vẫn cònkhôngrõrànglànhữngvấnđềđócóxảyrahaykhông. Những nhómtinh hoa kinh tế vàchính trị tiếp tục sốnggiàu sang, tin tưởng
vào quyền cai trị củamình.
Cuối cùng, cần phảinóivềtiêuđềcủacuốnsách này. Trong việcphong tước hiệu chocácđạigialà“bốgià”,tác giả không có ýphánxéthọnhưnhững
người có ảnh hưởnghoàn toàn xấu, cũngkhông ngụ ý rằng họthamgiavàoviệcđiềuhành các băng nhómtội phạm có tổ chức.Nhưng hiển nhiên là,một số bố già châu Ácó dính dáng đến việc
buôn lậu cácmặt hàngcứng vàmềm , và cácphivụbuônngười,matúyvàvũkhí ítxảy rahơn. Một số đại giacũng có quan hệ rấtmật thiết với trò cờbạc. Những hoạt độngnày thường xuyên kéo
theosựtiếpxúcvớithếgiớitộiphạmchâuÁ–hội Tam Hoàng củaTrungQuốc,hộiNgườitiền sử preman củaIndonesia,v.v...Vàđâylàmột thực tế của đờisốngmànhữngđạigiathường dính líu tới.
Nhưngkhôngcónghĩahọ là những ông chủcủa các tổ chứcmafia.Dĩ nhiên là, đa số cácbăngnhómtộiphạmcótổ chức ở châu Á đềusống hai mặt, toàn bộđềucómối liênhệvớinhững đại gia này.
Cũng phải nhớ rằng,những chính kháchchâu Á – những nhàthựcdânAnhvàNhật,TrungQuốc, Indonesia– đều có một lịch sửlâudàihợptácvớicácbăngnhómtộiphạmcótổchứckhihọcầnđến
chúng.Vềphươngdiệnnày, họ không khácmấy với những doanhnhânđịaphương,vìcóthể là họ thích nhưvậy.
Việcsửdụngthuậtngữ“bố già” trong cuốnsách này nhằm phản
ánh những truyềnthống của thói giatrưởng, quyền lựcthuộc về đàn ông, tháiđộ xa lánh và thuậthuyền bí hoàn toàn làmột phần không thểthiếu được của nhữngcâu chuyện về các đại
giachâuÁ.Tiêuđềcủacuốn sách cũng hơimangtínhchấtgiễucợtmột chút. Đúng nhưMario Puzo, tác giảcuốn Bố già, luôn nóiông đã dựa trên sựtưởng tượng tinh tế –“mộtđiềuhoangđường
được lãng mạn hóa”như ông đã gọi. Nhưvậy,cũngdoganhđuavới tác phẩm này màmột câu chuyện thầnthoạikhácđãrađờivàlớn lên xung quanhnhững đại gia ĐôngNam Á, làm cho họ
xuất hiện có vẻ huyềnbí cũngnhưkhông thểđụngtới.Truyềnthuyếtchâu Á chứa đựngnhững điều hoangđường nho nhỏ vềchủng tộc, văn hóa, ditruyền học, nghề thầukhoán, nhưng thực ra,
toànlànhữngđiềucănbản của sự tiến triểnkinh tế trong khu vựctừkhichếđộ thựcdânchấmdứt.Với ý nghĩanày, Những bố giàchâuÁlàsựđảongượctác phẩm của MarioPuzo – chúng ta đã có
sẵn một câu chuyệnhoang đường; côngviệc của tác giả chỉ làchếbiếnnó.
NHỮNG GÌ KHÔNGTHUỘC VỀ ĐÔNGNAMÁ
Trong những nỗ lực
bócđimộtvài lớpcủamột quan điểm đượcthừanhậnnhưngkhôngcó căn cứ xung quanhlịch sử Đông Nam Á,con đường thuật lạinhững gì xảy ra tiếptheo cắt qua một địahình khá chông gai và
nguy hiểm. Đó là bốicảnh của chủng tộc,dân tộc và văn hóa ởmột trong những vùngchứa nhiều khác biệtnhấttrênthếgiới.Lịchsử hiện đại của ĐôngNam Á là lịch sử gắnliềnvớicáccuộcdicư
– của người châu Âuvà người Mỹ (nhữngnhà thựcdânđicai trị,và những người khác),người Trung Hoa, ẤnĐộ,Srilanka,ngườiDoThái phiêu bạt, ngườiArmenia, vànhiềudântộc khác – vào trong
những xã hội trước đólà tiền công nghiệp,nửa phong kiến; hơnnữa,nhữngcưdânchủnhà đã có sự pha trộnrất lớn vềmặt dân tộcvà tôn giáo – chứkhôngđềcậpđếnsựlytán theo phương nằm
ngang do những phânbiệt vềgiai cấpvà cácquyền cơ bản (thườnghoàn toàn dễ hiểu đốivớingườichâuÂu)tạoramộtmôi trường vớiít nhiều sự kích độngvềxungđột sắc tộcvàxã hội như ở châu Âu
hoặcchâuPhi.Tácgiảxin được thứ lỗi vì tấtcả những điều phiềnphức không tính trướccóthểxảyratrongquátrìnhnày.
Ở cấp độ kinh tế,những giải thích về sựphát triển dựa trên
chủng tộc từ lâu đãhình thành nền tảngchosựphân tíchĐôngNam Á. Mỗi đứa trẻđang đi học ở châu Áđều biết rằng ở thế kỷXIXvàđầuthếkỷXX,nhiều nhà thực dândùng những nguồn lực
khoa học, thể chế vàđạo đức vượt trội củamình để áp đặt lênnhững người châu Áhèn kém, hòng đưa họđếnvớivănminh.Hấpdẫn hơn là, trong kỷnguyênsauđộclập,sựgiải thíchvềchủngtộc
tiếp tục thống trị cáccuộc thảo luận về sựbùng nổ kinh tế khởiđầubởingườidatrắng.Lýdochính là tínhưuviệthơnvềthươngmạicủa nhóm ngườichuyển cư lớn nhấttrongkhuvực–người
Trung Quốc. Điều nàykhuyến khích việc đọccâu chuyện về pháttriển dựa trên văn hóavà chủng tộc của 50năm đã qua với nhiềusắc thái hơn, nhưng ítnhầm lẫn hơn.Một sốngười coi ngườiTrung
Quốc như những cánhân đặc biệt chóisáng, những ngườikhác nhìn họ nhưnhữngloàikýsinhđặcbiệt; còn những ngườikhácnữalạitranhluậnrằng họ đã được địnhhình trước về văn hóa
theo những cách thứckhác (những doanhnghiệp gia đình tuyệtvời, có thể vận hànhtoàn cầu, có bảo đảmđể duy trì cán cânthương mại...). Cuốnsách này tiếp cận vấnđềvới từng thànhkiến
rậpkhuônnày.
Tuy nhiên, không khóđểnhậnthấycáchthứcdùng dữ liệu thô đểgiới thiệu những kháiniệm về chủ nghĩangoại lệ của ngườiTrung Quốc. Cổ phầnvốn đã niêm yết của
ngườigốcHoatrên thịtrường chứng khoánĐôngNamÁđượcướctính chiếm 50–80%,tùy thuộc vào nướcđang xem xét; trongkhi họ chỉ chiếm 2%dân số ở Philippines,4%ởIndonesia,10%ở
Thái Lan, 29% ởMalaysia và 77% ởSingapore. Xem xétvấn đề này từ góc độkhác, vào thập niên1990, những nhànghiên cứu ước tínhrằng “người TrungQuốc” có dính líu đến
việckiểmsoát45%cáccông ty lớn ởPhilippines,18trongsố20 công ty lớn nhất ởIndonesia, 9 trong số10 doanh nghiệp lớnnhấtởTháiLan,và24trong số 60 công tyhàng đầu ở Malaysia.
Hầu hết các bố giàchâu Á đều là ngườigốc Hoa. Những nămbùng nổ của thập niên1990 là một khoảngcách lớn nhất đối vớinhững lý thuyết gia vềchủng tộc, và đặt raphía tr-ước một vũng
lầy đối với các cuốnsách viết về năng lựckinh tế của ngườiTrung Quốc ở hảingoại dựa trên cơ sởvăn hóa. Trong sốnhững cuốn sách đángnhớ và có ảnh hưởnglớn,cócáccuốn“Tinh
thần của chủ nghĩa tưbảnTrungHoa”củaS.Gordon Redding(1990), “Những vịchúa tể của vươngquốc”, và “Những bộtộc: Chủng tộc, tôngiáo và dân tộc quyếtđịnh thành công trong
nền kinh tế toàn cầumới như thế nào” củaJoel Kotkin (1992).Cuốn sau cùng baogồm cả người TrungQuốc ở hải ngoại giữamột số “những bộ lạctoàn cầu” được dựđoán là sẽ thành công
về thương mại. Thuậtngữ“mạnglướitre”đãtrởthànhmộttừcótínhthời thượng để mô tảmốiliênkếtngầmgiữanhững người gốc Hoakhắp khu vực và giảithíchvềđộng lựckinhtếcủahọ.Nhìnchung,
cácphươngtiệntruyềnthông–nghiêm túcvàgiật gân–đã thamgiavào sự phân tích vănhóanày theomột cáchthức to lớn mangmàusắc bí ẩn, và sắc tháihộiTamhoàng củanólàm cho câu chuyện
thêm độc đáo. Đồngthời,giớihànlâmcũngsản sinh ra một nhómnhỏ nhưng kiên địnhgồmnhữngnhàkinhtếhọc hoài nghi về chủnghĩa ngoại lệ củangườiTrungQuốc,dẫnđầu là những học giả
Nhật Bản, nhưng độingũ của họ lớn rộngdần trong cuộc chạylấy đà tới cuộc khủnghoảng tàichínhvàhậuquảcủanó.
Tác giả muốn thẳngthắn tranh luận vềthuyết định mệnh văn
hóa.Kinhnghiệmsốngmột thậpniênởTrungQuốc, cộng với mộtthời gian dài nghiêncứu để viết cuốn sáchnày đã sản sinh ba lờiphảnbiệncơbảnvềsựgiải thích lấy văn hóalàm trung tâm đối với
đóng góp kinh tế củangườigốcHoaởĐôngNam Á. Trước hết lànhững quan niệm vềmộtmệnhlệnhvănhóađã phớt lờ đi bối cảnhlịch sử. Hầu hết sự ditrú đến Đông Nam Áxảyratrongthờithuộc
địa, khi những nhómkhácnhauđượcnhữngchínhphủthuộcđịahỗtrợvàdẫnđường–vớinăng lực tổ chức “ưuviệt” của họ – hướngtới những hoạt độngkhác nhau. Đế quốcAnh đã tuyển mộ
nhữngngườiẤnĐộvàSri Lanka có học chonhững vị trí trongchínhquyềnvàchuyênmôn. Vì thế, một nhàquansátbênngoàicáctòa án tối cao ởSingapore hoặc KualaLumpur ngày nay sẽ
lưu ý rằng, quá nhiềuluật sư và quan tòa cógốcgác từ tiểu lụcđịanày.Khôngphảinhữngngười Ấn Độ đượcbiến đổi về mặt ditruyền để làm luật sư,mà đó là di sản cai trịthuộc địa của Anh
quốc.KhingườiTrungQuốc đến Đông NamÁ,họthườngbịcôlậpkhỏicácdịchvụchínhquyền và nhiều ngànhnghề khác, và thườngkhông được cho phépsởhữuđấtnôngnghiệphoặc hoạt động canh
tác, tuy những cơ hộitrong buôn bán vàthương mại thì phầnlớnkhôngbịngăncản.Những người nói rằngngười Trung Quốc là“những thương giabẩm sinh” cũng mắcsai lầm một cách hồn
nhiênnhưnhữngngườinói người Do Thái là“những nhà tài phiệtbẩmsinh”.Họđãquênrằng, ngườiDoTháiởchâu Âu trước thế kỷXIXđãbịloạitrừkhỏinhững phường hội,khỏi nhiều lĩnh vực
buônbánvà côngviệccanhtác,trongkhinhàthờ Thiên chúa giáonghiêm cấm các conchiên của họ cho vaynợ lãi (giống nhưĐạoHồiđươngthời).Đasốcác cơ hội kinh tế chongười Do Thái bị giới
hạn, trong khi đónhững người trongngành ngân hàng lạitrưởng thànhmột cáchkhác thường. Một sựđồng điệu đương thờicủa tình trạng này cóthể được thấy ở Nga,nơigầnnhưtấtcảgiới
đầu sỏ chính trị thốngtrị nền kinh tế của đấtnước sau Chiến tranhLạnh – với chỉ thị,mệnh lệnh và cả ýthích bất thường củamột nhóm tinh hoachính trị gốc Slavơthuần túy hơn – hầu
nhưđềucógốcgácDoThái.
Phản biện thứ hai đốivới lý thuyết dựa trênvăn hóa là nó ngụ ýrằngngườiTrungQuốclà đồng nhất và ngườiTrung Quốc ở ĐôngNam Á là điển hình
cho chủng tộc ngườiHoa nói chung. Vậymà người Trung Quốcở thời kỳ trước 1949,khi có sự di trú hàngloạt,lạirấtkhôngđồngnhất.Đây làđiềuhoàntoàn hiển nhiên nếuxem xét vấn đề ngôn
ngữ nói. Trung Quốcvẫnlàmộtnơimàmộtngười chỉ cần đi nămmươi hoặc sáu mươikilômétlàđãnghethấymột phương ngữ hoàntoànkhóhiểuvàmớilạ(một sự lạc lõng trongbối cảnh Trung Quốc,
trongkhiởnhữngnướckhác,một phương ngữkhác nhau chỉ có ýnghĩalàcósựthayđổitương đối khác trongcách phát âm, từ vựngvà ngữ pháp mà thôi).Tầm quan trọng củachủ nghĩa địa phương
này, trong lịch sửTrung Quốc ngày nay,đã được ngụy trangbằng việc chính quyềnsau năm 1949 đã rấtthành công trong việcđề cao sử dụng mộtngôn ngữ tiêu chuẩnthống nhất toàn quốc,
cũng như đạt tỉ lệ biếtđọcbiếtviếtchưatừngthấy. Tuy nhiên, vàonăm1949, hầunhư tấtcả các cuộc di trú củangười Trung Quốc tớiĐông NamÁ đã hoànthành. Khi nó xảy ra,những người rời quê
hương không phải chủyếu với tư cách là“người Trung Quốc”,mà với tư cách lànhững thành viên củacác nhóm phương ngữkhó hiểu, được némvào một cái lò đúc xalạ.Nhiều nhà quan sát
bên ngoài trong thờithuộc địa đã bình luậnvề những kết quả này.Victor Purcell, trongtác phẩm “NgườiTrung Quốc ởMalaysia”đãnhậnxét:“Những bộ lạc TrungQuốcđượcđưalạigần
nhaukhônggìsánhnổitrong đất nước quêhương củahọ–nhữngbộ lạc nói nhữngphươngngữkhácnhaucoi nhau chủ yếu nhưnhững người ngoạiquốc.” Từ những năm1830,Bá t-ướcGeorge
Windsor đã sớm nhậnra một điều là, nhữngnhóm nói tiếng TrungQuốc khác nhau ởĐông Nam Á thực sựđã “chống đối nhauquyết liệt, cứ như thểhọthuộcvềnhữngdântộc thù địch”. Tuy
nhiên, những nhà vănnày,trongcácquansátcủa họ đã không nắmrõ những sự liên quanvề kinh tế. Sự phânmảnh của những “bộlạc” Trung Quốc cũngcó ý nghĩa là họ cạnhtranh khốc liệt – đôi
khixảy rabạo lựcnếuthiếu vắng một chínhphủ có hiệu quả – vìcác cơ hội kinh tế.Vàkhôngcógìcơbảnhơnđối với sự tiến bộ vềkinh tế bằng sự cạnhtranh. Trong ý nghĩanày, lập luậnvề thuyết
địnhmệnhvănhóachỉcó thể đứng vững nếumột người nói rằng vềlịch sử, một bộ phậnlớn người TrungQuốcở hải ngoại đã khôngthậtsựlà“ngườiTrungQuốc” một chút nào.Một lập luận như vậy
sẽ cóvẻgâykhókhăncho những ngườiTrung Quốc theothuyết ưu sinh hiệnnay, như nguyên Thủtướng Singapore LýQuangDiệu.
Vấnđềhệquảcủaviệcliệu có phải người
Trung Quốc ở ĐôngNamÁnóiriêngcóthểđượcnhắcđếnđểphảnánh “những tiêuchuẩn” về phẩm chấtcủangườiTrungQuốc,cũng là một vấn đề tếnhịcótínhchấtlịchsử.Nhìn chung, thật công
bằng khi nói rằngnhững người di cư từbấtkỳxãhộinào–họlà người Ai Len hoặcItalia đi tới Mỹ, hoặcngười Nhật chấp nhậnquá cảnh để tới Brazilvào đầu thế kỷ XX –đềulàmtốthơn,xétvề
tổng thể, những ngườimà họ đã bỏ lại đằngsau. Những người ditrú đó làmột nhóm tựlựa chọn, gồm nhữngcánhâncósựkhácbiệtvề thái độ sẵn sàngchấpnhậnnhữngrủirolớnđểcónhữngcơhội
lớn cho một tương laitốt đẹp hơn. Với ýnghĩa này, đó là sựtương đồng về di trúmà những người ra đikhông hòa hợp vớinhững người ở lại.Dođó,cầnphảithậntrọngđề phòng những phép
ngoại suy văn hóa.NhưngởĐôngNamÁ,câu chuyện vẫn mangnhiều sắc thái hơn.Đólà vì, mặc dù sử dụngthủđoạngiantrá,sựépbuộc và các hợp đồngthuê lao động ngườinướcngoàikhôngcông
bằng không phải làhiếm thấy trong sốnhững người TrungQuốc di trú. Ở ĐôngNam Á, những ngườidicưtựlựachọncóvẻđược tự do hơn nhómlớnthứhaigồmnhữngngười đến từ tiểu lục
địaẤnĐộ.Trong thờiđại lao động từ nướcngoàivào(mộtsựthaythế những nô lệ từnhững năm 1840 bởinhững người “tự do”),những lao động trongcác điền trang và hầmmỏẤnĐộ đến từmột
thuộc địaAnh nào đó,nơi sự tuyển mộ tậptrung một cách có hệthống vào đẳng cấpthấp, thường là nhữngcộng đồng “không thểđụngtới”.Nhữngnôngnô bị dọa nạt này ítmangđếnchochủnhân
đồn điền người datrắngsựrắcrối,vìhọítham muốn trở thànhnhững kẻ thắng cuộcvềkinhtếsovớinhữngngười Trung Quốc tựlựachọndicư.
Thứ ba, và thách thứccuốicùngđốivớiquan
niệm uy thế văn hóacủangườiTrungQuốcởĐôngNamÁ, là nóđã trộn lẫn ngườiTrung Quốc di cư vớicácbốgià.Đólàsựsailạcsâusắc.Bắtđầuvớilập luận rằng, đa sốngười Trung Quốc ở
hải ngoại thường cóthu nhập trên trungbình.Ởnhữngnơinhưcác thành phố bên bờbắc của Java vàSumatra hoặc ở cácvùngkhôngphảithủđôcủa Thái Lan, nơi córất nhiều gia đình
người Trung Quốc đãsốngnhiềuthếhệtrongsựnghèokhó,thấphènchẳngkémnhữngngư-ờikhác.Sắc tộckhôngphảilàmộtsựbảođảmcho thành công. MộtnhàsửhọcTrungQuốcởhảingoại,LynnPan,
đãviết:“Bảngphânvaisau này của ngườiTrung Quốc ở hảingoại với tư cách lànhững doanh nhânthành đạt làm lu mờmột sự thực là, sự thấtbại chiếm phần lớntrong những trải
nghiệm của người dicư.”NếuđasốcácnhàtỉphúlàngườigốcHoahoặc lai Trung Quốc,cũng cần nhớ lại rằngnhững người di cư từTrung Quốc là nhữngngườiđầu tiênđã từngtạo nên phong trào
cộng sảnởĐôngNamÁ,mộtsựphảnánhvềtìnhtrạngthôngthườngcủahọ:vôsảnvàbịápbức. Người TrungQuốc ở Đông Nam Ákhông tự mình xácđịnh chắc chắn, nhưngcon đường dân tộc và
giai cấp là một kháiniệmhoàntoàndễhiểuvới họ– chodù, trướcđâymột nửa thế kỷ, ởnước khác, nó đã bịcho là điều cấm kị vềchínhtrịkhiđềcậptớigiai cấp trong xã hộicủahọ.
Nhữngbốgiàđượccoilàmộtbộphậntinhhoakhông điển hình, mộttầnglớpquýtộckinhtếlàmviệcởnướcngoài,bắttayvớibộphậntinhhoa chính trị củanướcsở tại. Về văn hóa,nhữngbốgià lànhững
con tắc kè hoa thườngđãđượcgiáodụctốt,làngười theo chủ nghĩathế giới, nói đượcnhiềuthứtiếngvàđượccách ly kỹ lưỡng đốivớisựquantâm,chămsócnhàmchánvàbuồntẻ củanhữngngười bà
con thân tộc của họ.Hơn nữa – và trái vớithành kiến phổ biến –những đại gia của khuvựcxa lánhmọingườiTrung Quốc. Chỉ mộtthiểusốlàngườiTrungHoathuầnkhiếtcómốiquan hệ văn hóa và
ngônngữmạnhmẽvớiTrung Quốc. Nhữngđại gia khác là ngườiTrung Quốc chínhthống nhưng đã mấtkhánhiềuquanhệvănhóa với Trung Quốc,vàmộthoặc tấtcảkhảnăng đọc và viết tiếng
Trung Quốc (mặc dùhiếm khi họ thừanhận).Nhiềungười laiÂu Á, dù cho dòngmáukhôngTrungHoathỉnhthoảngđượcnhìnnhận là nguồngốc củasựbốirốivàđixuống,đặc biệt ở bối cảnh
TrungHoa.Vàsauđó,có những bố già hoàntoàn không phải ngườiTrung Quốc. Cuốnsách này sẽ cho thấyhành vi đó của phầnlớn người gốc Hoatrong nhóm những đạigia không có sự khác
biệtlớnvớinhững“đạigia” người Anh hoặcXcốtlenởHồngKông,những bố già gốc TâyBanNha ở Philippineshay những người giàucó nhất ở Malaysia,hay một người Tamilgốc Sri Lanka. Trước
hết, họ được coi là bốgià,và thứhai làđượcnhìn nhận theo chủngtộc.
Bất chấp mọi thứ nóitrên, sẽ là quá khinhmiệtkhicóýchorằnghàng đống tài liệunghiêncứuhànlâmvề
“chủ nghĩa tư bảnTrung Quốc” đã xuấtbản chỉ là nhữngnghiêncứukhôngmấygiá trị. Đơn giản là,những giải thích vănhóalàquálạmdụngvàcần phải được đối xửvới thái độ hoài nghi,
đặcbiệtkhichúngthayđổi sắc thái – như sẽđược mô tả – thànhnhững lý thuyết chủngtộchếtsứcthôthiển.Ởcấp độ chung, thànhcôngtươngđốivềkinhtế của người TrungQuốc ở hải ngoại làm
cho người ta rất khólậpluậnlànhữngnhântốvănhóa–chủnghĩagiađìnhcốkết,sựcăngthẳngvềcácvaitròbắtbuộc, kỷ luật và lònghiếu thảo – không cóảnhhưởngởcấpcơsở.Lập luận trừu tượng
hơn về một “hệ thốnggiá trị” Nho giáo điềukhiển những hành viđộc đáo của nhữngdoanh nhân ngườiTrung Quốc cũngkhông thể đứng vững.Đặc biệt, thảo luận vềHọc thuyết Khổng Tử
không thể phân biệtđượcgiữalýthuyếtcủamộtbảngliệtkênhữngcâuchâmngônđạođứcmập mờ và sự thựchiện những tư tưởngquá thiếu thực tế nhưvậy còn lâu mới đượctônvinhtrongbốicảnh
sự vi phạm nhiều hơnsự tuân thủ.Chẳng thểnói được điều gì chắcchắnrằng,trongcácxãhội mà người TrungQuốcchiếmưuthếnhưSingapore,HồngKôngvà chính Trung Quốc,những lời kêu gọi cho
đạo đức Nho giáothường được sử dụngbởinhữngchínhkhách– cả chính khách địaphương lẫn chínhkhách thực dân – đểbiện minh cho tất cảcác cách thức điềukhiểnmộtxãhộikhông
duytâm.
SỰCHĂMSÓCQUÁMỨC BÌNHTHƯỜNG
Phải chăng những kếtluận nhuốm màu vănhóa phần lớn đạt đượcthôngquacácphântích
kinh tế về Đông NamÁ (trong đó những đạigia gốc Trung Quốc –tốt hơn hoặc xấu hơntùythuộcvàosựmôtảcủa tác giả – là đỉnhđiểmcủaquátrìnhpháttriển) là không hoànthiện về căn bản.
Những gì là lý do thậtsự cho sự trỗi dậy củacác bố già và sự nắmgiữquyềnlựchìnhnhưkhông thể lay chuyểnđược – quá mạnh mẽđến nỗi, họ vẫn vô sựtrong sự náo động vàtàn tạ của cơn khủng
hoảng tài chính châuÁ?Cuốnsáchnàybiệnluận rằng, những cánhân này trước hết làsản phẩm kinh tế củanhững môi trườngchính trị trong đó họhoạt động, và rằngcũngchínhmôi trường
chính trị này đang cảntrở khu vực không đạtđượcsựpháttriểnkinhtếbềnvững.Trongmộtkịch bản xấu nhất,vùngĐôngNamÁ cóthể hướng tới sự đìnhtrệ và mất công bằngtheokiểuMỹLatinh.
Những chính phủ tậptrung hóa không điềuchỉnhnổisựcạnhtranh(với nghĩa là thất bạitrong việc bảo đảm sựhiện diện của chínhmình), và lại điềuchỉnh sự tiếp cận thịtrường một cách thái
quá(thôngquahạnchếcấp phép và đấu thầukhông cạnh tranh)nhằm bảo đảm rằngnhững doanh nhân tưbản – hoặc buôn bánbất động sản, nếu sửdụngmột thuậtngữcóý nghĩa xấu hơn – sẽ
không vươn lên tớiđỉnhcaođểche lấp sựvôhiệuquảvềkinh tếmà tầng lớp chínhkhách đã tạo ra.Khuynh hướng nàyđược củng cố ở ĐôngNamÁ bởi sự có mặtrộngkhắpcủanhữnggì
có thể đư-ợc gọi “nềndânchủcóđiềukhiển”,hoặc dưới chiêu bàinềndânchủđịnhtrướckẻ thắng (ởSingapore,Malaysia và Indonesiathời tổng thốngSuharto), hoặc mộtkịchbảnkhácmàởđó
doanhnghiệpquantâmđếnviệcđiềukhiểnhệthống chính trị và họhầu như không bị ảnhhưởng bởi những thayđổi của chính phủ khiđiều đó xảy ra (như ởThái Lan vàPhilippines). Trong cả
haivídụ,nhữngchínhkhách đã bỏ ra nhữngkhoảntiềnkhổnglồđểduy trì việc nắm giữquyền lực có vẻ hợppháp. Điều này cónghĩa là việc cấp vốnchỉ được thực hiệnthông qua quyền sở
hữu chính trị trực tiếpcủa doanh nghiệp lớn,hoặc thông thườnghơn, những đóng góptừ doanh nghiệp lớnđộclậptrêndanhnghĩachịu ơn giới chính trị.Bất chấp thế nào, cơchếtạorasựphụthuộc
không phải là khôngvui vẻ của các nhómtinh hoa bao gồmnhững chính trị gia vànhữngđại gia.Vàmốiquanhệ thoảimáinhấtlà quan hệ giữa chínhkhách là người bảnxứvàđạigialàmộtngười
dicưkhôngcómốiđedọavềchínhtrị.
Sau 15 năm xem xétcác nước đang pháttriển ở Đông Nam Á,tácgiảnhậnthứcđượcrằng, trong việc xácđịnhnhữngxãhội nàođangởtrongtìnhtrạng
nguyhiểmkhiđangleolên đỉnh núi của sựthịnhvượngthìchếđộsẽ quan trọng hơn conngười. Không phải lànhững cá nhân mà lànhững thiết chế xã hộivàchínhtrịcóhiệuquảhơnđã làmchonhững
nước khác nhau nhưNhật Bản, Hoa Kỳ vàhầuhết thànhviên củaLiênminhchâuÂutrởnêngiàucó.SựthựclàcácnướcĐôngNamÁ– trừ hai thành quốccựckỳmaymắn–vẫncòn khá nghèo. Chính
trị và thể chế sẽ phảithay đổi nếu khu vựcnàymuốn tiếp tục tiếnlênphíatrước.
Những bố già châu Áphản ánh hơn là tạonêncácnềnkinhtếđịaphương,giốngnhưcáctriều đại tài chính ở
châu Âu đầu thế kỷXIX – Warburgs,Rothschilds, Barings –hoặcsựđổihướngcủanhững nhà tài phiệt vànhững đại gia ngườiMỹ khi có sự chuyểngiao thế kỷ –Morgan,Vanderbilt, Carnegie,
Rockefeller– lànhữngsản phẩm của một tậphợp đặc biệt gồmnhững hoàn cảnh kinhtế và chính trị. Đã cómột thời, những ôngchủngânhàngchâuÂukhai thác những quốcgia nhỏyếu, nơi chính
quyền cai trị không cókho bạc, không cóngân hàng trung ươngvà hệ thống thu thuếxác đáng, không cókênh nào khác để quađó tăng cường và đầutư vốn. Nhà tài phiệtthờichuyểngiaothếkỷ
ngườiMỹlàJ.PierpontMorgan đã thúc đẩymạnh quyền lực củanhững người môi giớitại thời điểm nhữngcông ty đangnổi đượctổchứcquátồivàthiếutiềnmặt,khicóthểlợidụngcáccổđôngthiểu
số mà gần như khôngbịtrừngphạtvàkhisựgiám sát lập pháp vềthực hành chống cạnhtranh còn đang trongtrứng nước. (Một sốngười này có thể kháquen thuộc với ngườichâu Á.) Trong môi
trường béo bở này,nhữngđại gia dầu lửa,công nghiệp và đườngsắt là những kẻ đồnglõahài lòng trongviệcdựng nên những thịtrường khổng lồ hoặc“nhữngtờ-rớt”.
Câu chuyệnvề cácđại
giamôi giới chấm dứtở châu Âu và Mỹ khicác chính phủ pháttriển năng lực để quảnlý nền tài chính củamìnhvàtàichínhcôngthông qua các chínhkhách được bầu chọn.Họ đã có trong tay đủ
nhữnggìmàmộtcuốnsách nổi tiếng nhữngnăm 1930 gán cho họcái tên là “những namtước ăn cướp”.Cácbốgià người Mỹ bị kiềmchếbởiVănphònggìngiữ tín nhiệm của cáccôngtydướithờiTổng
thống Roosevelt, CụcDựtrữLiênbangđượcthành lập để đóng vaitrò một ngân hàngtrungươngđộclậpvớigiới thương mại, Đạoluật an sinh bắt buộcnghiêmkhắcvớinhữngyêu cầu công khai hóa
thông tin về các côngty, và Dự luật Glass-Steagall nổi tiếng bắtbuộc tách các ngânhàng cho vay lẻ khỏinhữngdoanhnghiệpansinhxãhộivàdođócắtđứtconđườngrộnglớnnhất để đi tới sự lạm
dụng các nhà đầu tưthiểu số. Tất cả nhữngsự kiện này xảy raxung quanh hàng loạtcác cuộc khủng hoảngtài chính, đáng chú ýnhất là cuộc khủnghoảngnăm1907vàvụSụpđổởphốWallgây
ra cuộc Đại khủnghoảngnăm1929.
Bộ máy chính trị HoaKỳ,bấtchấpphảichịuđựng mức độ thamnhũng trầm trọng lúcbấy giờ, phản ứng lạicác cuộc khủng hoảngnàybằngviệc thihành
cuộccảicáchcơbảnvềthể chế. Hai câu hỏiđược đề cập trongnhững giai đoạn saucủacuốnsáchnàylàaihoặc cái gì sẽ chếngựđược những bố giàchâuÁ, vàkhi nào thìđiềunàycóthểxảyra?
Khikhởiđầudựánviếtcuốn sách này, tác giảđã nghĩ – trong khimay mắn là không hềbiết gì về sự suy đoántrước nghiên cứu –rằng cơn khủng hoảngtài chính châu Á đãkhốc liệt đến đâu và
phơi bày nhiều vịhoàng đế không ngaimột cách trần trụi nhưthế nào, rằng khu vựcnàysẽbịbắtbuộcphảithay đổi từ gốc đếnngọn để theo đuổinhữnghệthốngkinhtếvàchínhtrịcóthểgiúp
ích cho sự phát triểnbền vững. Tuy phảibay những chặngđường dài và ghi chéprất nhiều cuộc phỏngvấn,nhưngtácgiảthấyđược rõ ràng là khuvựcĐôngNamÁđượccân bằng ở một vị trí
nhất thời. Tuy vậy,từng nước “riêng” màchúng ta sẽ theo dấuphảilàmrõsựlựachọngiữa một con đườngdẫnđếntìnhtrạngquốcgiapháttriểnhoặcmộtquỹ đạo không ngừngxoay tròn, giống như
Mỹ La tinh, trong sựhốihậnvìnhữnggìmàNgân hàng Thế giớigọi là“cácnềnkinh tếcó thunhập trungbìnhthấp”. Một lý do chođiềunàyđãđượcgợiý,đó là kịch bảnMỹ Latinh không phải không
hấp dẫn với nhómngười tinh hoa hùngmạnh,vàhọsẽtiếptụcsốngtốt thậmchíngaycảkhigiấcmơcủabaongườibịphávỡ.Trongkhiđó,nhữngkhuvựcnhư Hồng Kông vàSingapore – không
mấykhácnhaunhưcóthể tưởng tượng – đềucónhữngvấnđềchínhtrịcầnphảigiảiquyết.
SỰ TĂNG TRƯỞNGTHỰC SỰ LÀ DOĐÂU?
Những bố già châu Á
thường chủ tâm khaithácsựkhônghiệuquảvề chính trị để thu lợi.Điều này sẽ sớm đượclàm rõ. Nhưng việcthiết lập thước đochính xác về nhữngđóng góp của họ chosự phát triển của khu
vực cũng rất quantrọng.Câu trả lờingắngọnlàđiềunàykhácxavới niềm tin mà côngchúng đã tin tưởng.Nhữngbốgià làngườiđược hưởng lợi nhiềuhơnnhữngkẻxúigiụctăng trưởng. Một chỉ
báo cho điều này làviệc làmăncủanhữngcông ty mà họ đangvậnhànhcósựtụthậughê gớm về năng suấtso với nền kinh tế nóichung. Và chẳng cótriển vọng gì đối vớiviệcpháttriểnmộtnền
kinh tế bền vững nếunăngsuấtlaođộngvẫncứnhưvậy.Vídụ,mộtnghiên cứu gần đây ởThái Lan cho thấy,năng suất tăng thêmtrong 20 năm qua đãcao hơn đáng kể tronglĩnh vực nông nghiệp
và sản xuất so vớinhững ngành dịch vụmà những đại giachiếm ưu thế. Tươngtự, lợi nhuận trongnhữngcôngtyniêmyếtdocácbốgiàkiểmsoátcòn lâu mới gây đượcấn tượng, làm cho
ĐôngNamÁ–tráivớihình ảnh phổ biến về“những con hổ” – lâmvàotìnhtrạnggiaodịchtồi tệ nhất trên thịtrường chứng khoán ởbất kỳ quốc gia nàođang nổi lên trong haithập niên vừa qua.
Hiện tượng đáng tiếcnày sẽ được bàn luậnchitiết.
Như vậy, nếu khôngphải là vật trang điểmchobìanhữngcuốntạpchíkinhdoanhchâuÁ,thì điều gì là đầu tàukinh tế của khu vực
này? Lý lẽ của cuốnsách này – tuy khôngphải là một sự phântíchkinhtếchínhthống– là các doanh nghiệpđịaphươngcóquymônhỏ hơn sự làm việcchăm chỉ, tính tằn tiệncủa người Đông Nam
Á đã điều khiển sựphát triển. Điều nàyđúng một cách giántiếp–thôngquasựtiếtkiệmcủacôngchúng–với những hệ quả cóliênquanvớinhau,đôikhi tiêu cực không cóchủý,vàtheomộtcách
thức trực tiếp tích cựchơn nhiều, thông quacác doanh nghiệp vừavà nhỏ.Một cách giántiếp, nhiều dự án tăngtrưởng được cấp vốnđầu tư đã làm chochúng trở nên thíchhợp với thiên hướng
cao của người côngnhân là tiết kiệm thunhậpcủahọ–đượcgọibằng thuật ngữ thườngsửdụng trongkhuvựclà“tỉlệtiếtkiệm”hoặctỉ lệ của thu nhập hộgiađìnhcóthểsửdụngmàkhôngtíchtrữtrong
ngânhàngvàcáccôngcụtiếtkiệmkhác.Tỉlệtiết kiệm của vùngĐông Nam Á là caonhất thế giới, lên đỉnhđiểmtrướccuộckhủnghoảng tài chính châuÁ, tớigần40%.Cóvẻthật đáng khâm phục,
nhưng nó ngày cànglàm cho đồng tiềnmấtgiá quá nhiều, thôngqua hệ thống tài chínhnằm trong tay nhữngchínhkháchvàcácđạigia cũng như đối táccủa họ. Chúng ta sẽxem xét làm thế nào
mà, trong nhữngtrường hợp quá cựcđoan ở các nước nhưIndonesia vàPhilippines, những bốgiàđãbiếnnhữngngânhàngthươngmạithànhnhững ngân hàng cánhân tựa như con lợn
bỏ ống của họ. Trongcú chạy lấy đà đếncuộc khủng hoảng tàichính châu Á năm1997, cách đầu tư nhưvậy làm chệch hướngsang những dự ánkhông hề mang tínhthương mại chút nào.
Do vậy, sự sụp đổ làkhôngthểtránhkhỏi.
Một cách trực tiếp,nhữngdoanhnghiệpcóquymônhỏhơn–nhưnhữngnhàcungcấpvàcác chủ cửahàng–vànhững người bìnhthường điều khiển sự
phát triển của khu vựcĐôngNamÁ vì họ làtâmđiểmcủasự thànhcông rực rỡ về xuấtkhẩu của cả vùng.Khôngcógì,trongthờigian 45 năm qua, đãtạo nên một đóng gópcó thể so sánh được
nhưvậyđốivớisựtăngtrưởng bền vững.Trongkhinhữngchínhsách công nghiệp hóavà thay thế nhập khẩu–thườngthuhútnhữngcông tycủacácbốgià–đưalạikếtquảnghèonàn,thìsựthúcđẩysản
xuấthàngxuấtkhẩuđãluôn luôn thành công.Giá trị của đồng đô-lado xuất khẩu từ cácnước ASEAN ban đầutăng khoảng 11% đến15% một năm trongsuốt những năm từ1960đến2005,vàtăng
nhiềuhơn trongnhữngthời kỳ đỉnh cao nhưnhững năm giữa thậpkỷ 1980. Đây khôngphải là một cuốn sáchđượctạorabằngnhữngđồ thị, nhưng nhữngthông điệp chứa đựngtrongHình1 củaphần
Phụlụccũngđángnhớ.Hình này cho thấynhữngmối quan hệ rõràng giữa sự tăngtrưởng kinh tế (tăngtrưởng danh nghĩatrong tổng sản phẩmquốcnộiGDP)vàhàngxuấtkhẩutừnăm1965
ở các nước mà chúngta đang khảo sát. Cómột sựphân rẽnàođótrước khi nền kinh tếxuấtkhẩucủavùngbứtphá từđầunhữngnăm1970,nhưngsauđósựtăng trưởng và xuấtkhẩugầnnhưđisátvới
nhau. Nói tóm lại,không có hàng xuấtkhẩu, những nền kinhtế này không thểchuyểnđổi.
Khámphá lớn của cácchính phủ Đông NamÁvàocuốinhữngnăm1960 là những cư dân
đa sắc tộc của họ (tráivới điều hoang đườngthờithuộcđịa)đềukhásiêng năng, tự giác vàcần cù làm việc cảngày lẫn đêm trongnhững xí nghiệp maymặc, đóng giày, nhàmáysảnxuấthàngtiêu
dùngvàđiệntử.Chínhphủ chỉ cần thuyếtphụcnhữngnhàđầutư–hầuhếtlàngườinướcngoài–bằngquyềnsởhữuđầyđủcủahọvớinhững cơ sở sản xuất,ưu đãi về thuế và canthiệp với ngân hàng
trung ương để giữ chođồng tiền địa phươngkhỏi mất giá, từ đóxuất khẩu với giá rẻ.Lời đề nghị này hấpdẫn tớimứckhông thểcưỡnglạiđượcđốivớicáccôngtyđaquốcgiađang cần cắt giảm chi
phívàmuốncạnhtranhtoàn cầu, trừ nhữngdoanhnghiệpnhỏởđịaphương chỉ cung cấpbán thành phẩm, sảnxuất theo hợp đồng vàhỗ trợ dịch vụ: bất cứviệcgì,từviệclàmmôhình để đúc đồ chơi
đến đóng gói thiết bịbán dẫn, đến việc dọndẹp nhà máy của cáccông ty đa quốc gia.Khi những chính sáchthay thế nhập khẩu bịgỡbỏ,phầnlớncácđạigia vẫn ở lại cho đếnhết cuộc chơi chếbiến
gia công xuất khẩu.Theođịnhnghĩa,đó làsự cạnh tranh quốc tế,vàdođókhôngcósứccuốnhútđốivớinhữngngười có lợi thế sosánhvềkhảnăngdùngmưu kế, khai thác lỗhổng về luật pháp và
thóiquanliêu,tângbốccác chính trị gia đểđoạt được các thươngvụ.
Doanh nghiệp nhỏ vànhững người lao độngmẫncánlàmviệctrongnhững nhà máy củangười nước ngoài –
phần lớn hàng xuấtkhẩu là từ Thái Lan,Malaysia, Indonesia,Philippines vàSingapore được làmtrongcácdoanhnghiệpcó vốn đầu tư nướcngoài, trong khi đa sốcác nhà sản xuất ở
HồngKônglạisảnxuấtđể cung cấp hàng hóacho những người thiếtkếvàcácnhàbánlẻđaquốc gia – trở thànhngười tạo ragiá trịgiatăng không ngừng,không cần được cangợi nhiều của nền
kinh tế Đông Nam Á.Đó là quy mô của sựbùng nổ về ngoạithương ở Malaysia –giá trịđồngđô-lahàngxuất khẩu của họ tăng118điểmtrongkhoảngtừ năm 1960 đến năm2005 – tổng giá trị
hàng xuất khẩu hàngnăm vượt quá giá trịtổng sản phẩm quốcnộiGDP.(Đócóthểlàvì, không giống nhưGDP, những con sốxuất khẩu chưa đượcbáo cáo trên cơ sở giátrị, và ở những nước
nhưMalaysia,việctínhtoán còn bao gồmnhiều bán thành phẩmnhập khẩu.) ỞSingapore, hàng xuấtkhẩu của họ tăng 150lầntrongcùngthờikỳ,nâng số dư tài khoảnhiện thời cao nhất thế
giới–mộtconsốtrungbìnhđángkinhngạclà17%GDPtừnăm1990–phảnánhcáncântíchcựcvàtolớnvềthươngmại trong sản xuấthànghóavàdịchvụ.
Thật không may, môhình phụ thuộc xuất
khẩu – vừa mới đâyđược Trung Quốc ápdụng – có những mặthạn chế của nó.Ở nơicóquánhiềuhàngxuấtkhẩuđượcsảnxuấtbởicác công ty nướcngoài, những ngườimua có thể là những
bạn hàng đỏng đảnh.Vào những năm 1990,cácnướcĐôngNamÁkhám phá ra điều nàykhinhữngnhàsảnxuấtnước ngoài bắt đầuđịnh vị lại hoạt độngcủa họ, hướng tớinhững nơi có chi phí
thấp hơn, rõ ràng nhấtlàởTrungQuốc, vàởcác nước như ViệtNam và Bangladeshcũngthế.Quátrìnhnàybắt đầu tốt đẹp trướccơn khủng hoảng tàichính nhưng lại làmtrầmtrọngthêmnhững
hiệu ứng của nó.Không phải sự trùnghợpngẫunhiênlànăm1996,nămtrướckhủnghoảng,chứngkiếnmộtsự giảm tốc đột ngộttrong tăng trưởng xuấtkhẩukhắpkhuvực.TạiThái Lan, nơi cơn
khủng hoảng bắt đầu,hàng xuất khẩu đềuđược ký hợp đồng. Trong những năm kếtiếp,cósựphụchồivềhàngxuấtkhẩuởĐôngNamÁ, được thể hiệnquavậnđơncủanhữngmặt hàng như gỗ tấm,
cao su, dầu cọ vàmộtsố mặt hàng chuyêndụng, nhưng khuynhhướng hàng xuất khẩuchogiátrịgiatăngthấphơn là quá trình mởrộng quy mô củanhững cơ sở sản xuấtcóđầutưnướcngoài.
Khi cỗmáy xuất khẩudừng hoạt động mạnhở Đông Nam Á, hiệuứngnàylạitậptrungsựchúývàonhữnggìmàcác nền kinh tế trongkhu vực đang đặt ra.Câu trả lờihiệnnay làkhông đầy đủ. Các
doanh nghiệp nội địado các bố già châu Ávận hành lớn lên làmcho các thị trườngđượcbảohộchánngấyvớinhữngcartelvàcácgói thầu không có sựcạnhtranhchoviệcxâydựng công trình phúc
lợicôngcộng.Kếtquảlà, gần như không cóngoại lệ – từ các ngânhàng Singapore đếnnhững siêu thị ởHồngKông cho tới nhữngnhàsảnxuấtmìănliềnở Indonesia – khu vựcĐông Nam Á thiếu
vắng các công ty cósức cạnh tranh toàncầu. Hơn nữa, khônggiốngnhưởNhậtBản,HànQuốcvàĐàiLoanphụ thuộc nhiều vàonhững nhà cung cấpnước ngoài về côngnghệvàquảnlýdựán,
các bố già tập trungnhiều vào các thươngvụ dùng mưu mẹotrongnhững thị trườngcó sự điều chỉnh quámứcvàhọdànhsựvậnhành kỹ thuật chonhững người ngoài.Điều này đã dẫn tới
những gì mà học giảngười Nhật làYoshihara Kunio, mộttrong những nhà phêbình sớm nhất vềnhững nền kinh tế củacácbốgià,gọilà“côngnghiệphóakhôngcôngnghệ”. Khu vực Đông
Nam Á có tất cả cácdiệnmạo củamột nềnkinh tế hiện đại –những nhà máy côngnghệ cao, những tòanhàchọctrời,hệthốngvậnchuyểnhiệnđạivànhững nhà cung cấptiệních–nhưngkhông
có những công ty lớncủa người bản xứ sảnxuất ra những sảnphẩm và dịch vụ tầmcỡ thế giới, do vậy,không có các thươnghiệu toàn cầu. Tínhcạnh tranh thực sự bịhạn chế đối với các
doanh nghiệp có quymô tương đối nhỏ vìnhững đại gia đã chộpgiật hết tất cả thànhquảkinhtếbéobởchoriêng mình. Thật đángnhớ lại những gìYoshiharađãnóitrongcông trình còn phôi
thai của ông hai thậpkỷ trước đây: “Mụcđích thực sự của tôi…là kêu gọi mọi ngườichúýtớisựnổilêncủamộthiệntượngbềmặtkémhiệuquảvàkhôngsángrõcủanềnkinhtế,đểmọingười suynghĩ
vềnhữngvấnđềđặtracho sự phát triển kinhtếtrongtươnglai.”
Được viết mười nămtrướccơnkhủnghoảngtài chính châu Á,những lời đó là mộtcảnh báo mang tínhtiên tri, như là những
lờicủanhàkinhtếhọcPaul Krugman ngườiMỹhồiđầunhữngnăm1990. Dohậuquảcủacơnkhủnghoảng,hìnhnhư có một thời giancáccấu trúckinh tếvàchínhtrịtạora“lớpáo”của nền kinh tế Đông
Nam Á, sẽ được quétbỏ. Có nhiều cuộc tròchuyện,và thậmchí làhànhđộngnàođó,liênquan đến cải cách vàbãi bỏ quy định. ỞIndonesia có nhữngcuộcbầucửdânchủvàở Thái Lan (tuy thế
cũng) có Hiến phápmới. Nhưng sự mongđợi về một đư-ờngphân cách đã bị đặtkhôngđúng chỗ.Ngàynay,mộtphầnlýdođểthực hiện một cuộchành trình khác vàonhững nền kinh tế do
các bố già thống trị làtìm hiểu xem nhữngnhóm tinh hoa kinh tếvà chính trị của ĐôngNamÁquảnlýthếnàođể bảo vệ những điềntrang, thái ấp của họ.Tuy vậy, không cầnphải quá bi quan về
tương lai. Ở châu Âu,Hoa Kỳ và Nhật Bảncuối thếkỷXIX,đó làmột thách thức phổbiến chậmchạpnhưngcóphốihợptừdướilêntrên,thúcđẩyđờisốngchính trị và các doanhnghiệplớntiếnlênphía
trước. Liệu có thể hyvọngmột sức đẩy nhưvậy sẽ được tạo ra ởĐôngNamÁ?
NHỮNG NGƯỜIGIÀU CÓ ĐÁNGYÊU
Sẽ sai lầm khi bắt đầu
cuộc phiêu lưu củachúngtanếunghĩrằngcác bố già – không kểđến hàng tỉ đô-la củahọ và vị trí trung tâmcủahọtrongcơnkhủnghoảngtàichínhchâuÁ– là đám người kémhiểu biết. Chắc chắn,
cơcấukinhtếvàchínhtrịcủakhuvựcđòihỏihọ phải hối lộ cũngnhư vận động hànhlang, đe dọa cũng nhưthuyết phục, và nóinhững lời dối trá tốtlành. Nhưng do khảnăng tuyệt vời, họ đã
leo lên tớinhữngvị trícao quý để hiểu đượcnhững góc độ thươngmạicủakhuvựcĐôngNamÁ.Chúng taphảihọc hỏi nhiều ở họ.Giống như những bốgià xưakiaở châuÂuvà Hoa Kỳ, họ không
sẵnsàngmởlòngmìnhvớinhữngngườixa lạ,chỉ có những chốc látriêng tưmộtđôingườihạ cố nói chuyện vớivệ sĩ của họ. Kinhnghiệm của tác giả là,nhiều đại gia xem xétnhững biến dạng của
nềnkinhtếĐôngNamÁtheocáchcũngngâyngô như một ngườiquan sát độc lập vẫnlàm. Nhưng công việccủa họ, giống như bấtkỳ doanh nhân nào, làkiếm được càng nhiềutiềncàngtốt trongmột
môi trường mà họchiếm ưu thế. Họ bảovệ môi trường đó, đôikhi khôngbiết xấuhổ,bởi vì nó là một phầncủa thành công trongkinhdoanhcủahọ.
Cũng thật sai lầm khinghĩ rằng những đại
gia tuân theo bất kỳhình mẫu rập khuônnào về tính cách. Tínhcáchcủahọcósựkhácbiệt rất lớn – mặc dùhoàntoànđángngưỡngmộ. (Trong quá trìnhnghiên cứu, tính cáchcủahọtrởthànhnhững
điệpkhúckhôihàicủatác giả.) Sự thật là,trong những vấn đềchung của xã hội,những bố già thể hiệnmột mức độ đồngthuận cao trong nhómngười tinhhoa lúcnàocũng luôn tỏ ra rất
chuyên nghiệp. Nhữngdoanhnhânởkhắpnơiđều bảo thủ, nhưngkhuynhhướngnàyđư-ợc củng cố ở ĐôngNam Á bởi bản chấtcựckỳđadạngcácloạihìnhdoanhnghiệp củanhữngđại gia.Nóphụ
thuộc rất nhiều vàonhững ân huệ đặc thùcủacácchínhphủvàítphụ thuộc vào sựchuyênmônhóamangtính cạnh tranh. Vớimọi người chơi cùngtrò chơi, có ít điềuđược tranh luận một
cáchcôngkhai.Nhữngxung đột công khai –trái ngượcvới thói nóixấu sau lưng lén lút –xuất hiện ngày càngtăng trong số nhữngngười sử dụng hànghóavàdịchvụđắttiềncủa các bố già, như
điện năng hoặc cácphươngtiệncầucảngởHồngKông.Mộttrongnhữngđạigiagiàunhấtcủakhuvực,trongmộtcuộcchuyệnphiếmbộctrựcvàêmảởnhà,đãví nềnkinh tế củakhuvực với “một bát xúp
cá ngon lành”, đủnhiều để phục vụ ôngta và những ngườinganghàngvớiôngta.Ông ta đã hỏi ngườiviết cuốn sách này:“Tại sao anh lạimuốnthêm mắm thêm muốivàothế?”
Tácgiảđáplạicâuhỏiđó,rằngcầnlàmthếđểcho rành mạch, chứkhôngphảilàmuốnhạthấp những đại gia.Chođếnnay,nhữnggìcác chuyên gia và cácphương tiện truyềnthông thảo luận về họ
làcóthểhiểuđược.Nódao động giữa sự hâmmộmang tính xu nịnhđối với một vài doanhnhân châu Á hoangđườngnàođóvàsựkếtán thô thiển giốngnhau: họ là những kẻlàm nhà cho thuê và
sống ký sinh. Cuốnsáchnàysẽchỉrarằng,trên thực tế những đạigia chỉ là nhữngthươnggiacóhiệuquảcao trong những môitrường có những đềnghị thuê mướn. Hiệuquả kinh tế của điều
này là tạo ra nhữnghàng hóa và dịch vụtrong nước. Liệu cóphải một căn hộ ởHồng Kông hoặc bộtmìởMalaysia đắt hơnhơn thường lệ và hạnchếsựtăngtrưởngcủanhững công ty cạnh
tranh toàn cầu?Nhưngkhitráchmóc,cầnquykết nhiều nhất, có thể,tráchnhiệmcủanhữngchínhkháchchứkhôngphải của những doanhnhân. Công việc củanhững chính khách làbảovệlợi íchcủatoàn
xã hội. (Vấn đề nangiải sẽ xuất hiện khinhững doanh nhânchâu Á trở thànhnhững chính khách –chứ không phải lànhữngkẻđồng lõavớihọ – sẽ được đề cậpđúng lúc.) Công việc
của một doanh nhânbình thường chỉ làkiếm được càng nhiềutiềncàngtốt.
Sẽ sớm đến lúc đượcgặp gỡ những bố già.Nhưng trước hết,chúng ta phải hiểunhững dữ kiện cơ bản
về lai lịchcủahọ.Cácnhà bình luận đươngthời về Đông Nam Áhiếm khi làm sáng tỏbốicảnhlịchsử,vànếuthiếu phần này thìkhông thể hiểu đượccâuchuyệnkinhtếcủakhu vực. Vì vậy, cần
thực hiện một chuyếndu lịch ngắn đến khuvựcĐôngNamÁ thờitrướcthuộcđịavà thờithuộc địa. Điều nàydẫn đến kết luận vềcuộccáchmạngởNhậtBản những năm 1930chống lại chủ nghĩa
thực dân da trắng, sựhỗn loạn có lợi củaChiến tranh Thế giớithứ hai, chiến tranhViệt Nam và TriềuTiên, và những cuộcđấu tranh giành độclập.Sauđó,chúngtasẽxem xét những bố già
đương thờiđã làmchohầu bao của họ đầycăng rủng rỉnh bằngcáchnào.
LƯU Ý CỦA TÁCGIẢ
Những ngôn ngữ châuÁ đang nổi lên ganh
đua với các hệ ngônngữ La tinh hóa nêngâyrasựlộnxộntrongviệc tạo phong cáchviếtcáctênriêng,bằngtiếng Mã Lai ởIndonesia, tiếng TháihoặctiếngTrung.Cuốnsách này tuân theo
những cáchdùngquenthuộcnhấtvớibạnđọctiếng Anh đương đại.Đối với những tênriêng tiếng Trung, cóbaphươngánchínhđểbiểu diễn âm La tinhhóahiệnđangđượcsửdụng ở Đông Nam Á,
nhưng sẽ tuân theophong cách viết tênriêng được sử dụngthường xuyên nhất tạinơingườiđócưtrú.Vìthế, ởHồngKông, nơitên tiếngTrungcódấunối ở giữa, chúng tathấycótênLiKashing
(Lý Gia Thành).Những nơi khác ởĐôngNamÁ,ngườitathích dùng ba từ táchbiệt, ví dụ như LiemSioeLiong(LâmThiệuLương).ỞTrungQuốcđại lục, tronghệ thốngphiên âm pinyin, được
xác định bởi hai từ, vídụ như Hu Jintao (HồCẩm Đào). Nhữngngười có tên trộn lẫngiữa tên phương Tâyvà Trung Quốc đượcviết như chúng thườngdùng–vídụnhưPeterNgô. Tất nhiên, ở
ĐôngNamÁhiệnnay,nhiềungười – đặcbiệtlà những người nhậpcư–cóđếnvàicáitên,ví dụ: một tên tiếngThái, một tên tiếngTrungHoa vàmột têntiếngAnh.
Cuốnsáchnàycũngcố
gắngsửdụngcácthuậtngữđịa lý và chính trịđương đại quen thuộcvớibạnđọccàngnhiềucàng tốt. Đây cũng làtrường hợp trongchương 1, phần nói vềlịch sử Đông Nam Ácó liên quan tới câu
chuyện của chúng ta.Chúng tôi sẽ bỏ quaviệc chuyểnđổi nhữngđịnh nghĩa hợp phápcủa những thực thểchính trị khác nhau vànhững sửa đổi về tênquốcgia.Đặcbiệt,quátrình chuyển tiếp từ
một nước thuộc địasangmộtnướcđộclậpđược bỏ qua như mộtsự đứt quãng. Nhưngvới những vấn đề đặcbiệt phức tạp củaMalaysiavàSingapore,việc nhắc lại nhữngđiểm chính về lịch sử
sau đây có thể là sựthamkhảohữuích.
SựcómặtcủathựcdânAnh ở Đông Nam Áhồi thế kỷ XIX tuântheohaidạngluậtphápcơbản.ĐảoSingapore,đảo Penang (thuộc tâybắc Malaysia) và tỉnh
liềnkềWellesleyởbánđảoMalaysia,Malacca,vàmộtsốhònđảonhỏkhác bị chiếm làmthuộc địa, được chínhthức xác nhận từ năm1867,vàđượcgọilàeobiển Settlements.Những bang khác của
Malaysia tự nhập vào“sự bảo hộ” của Anh,kéo theo sự chỉ địnhnhững cố vấn cư trú,theomộtloạthiệpđịnhbắtđầuvàonăm1874.Các bang Perak,Selangor, NegriSembilan và Pahang
sau đó được tổ chứcthành một liên banghànhchínhđượcgọilàLiênbangMãLai.Bốnbang miền bắc cóquyền tự trị đượcTháiLan nhượng lại choAnh vào năm 1909,cộng với một bang
quan trọng là Johore(giáp biên giớiSingapore), được quảnlý riêng. Mặc dù vậy,thuật ngữ “Malaya”thường được sử dụng,không có cơ sở luậtpháp chính thức nàotrước Chiến tranh thế
giới thứhai.Sauchiếntranh,chỉcóSingapoređược tái lập như mộtthuộc địa của Vươngquốc Anh, và từ năm1948, Liên bangMalaya được nhóm lạithànhmộttậpthểcùngchung quyền lợi của
Anhtrênbánđảocũngnhưnhữnghònđảobaogồm cả Penang. Năm1957, Liên bangMalayagiànhđượcđộclập và năm 1963,Malaysiađãđượchìnhthành, bao gồm cảSingapore (đã độc lập
phầnlớntừnăm1959)với tư cách là mộtbang, Sarawak vàBorneo thuộc Anh(ngày nay là bangSabah). Singapore rờikhỏi liên hiệp này vàonăm1965.
Chính quyền Anh tại
lãnh thổ Malaysia ủnghộviệclưugiữlạimộtsở thích của địaphương. Đó là một hệthốngphứctạpcủacáctướchiệudanhdự,chođến nay vẫn còn tồntại. Ngoài tước hiệuTengkucha truyềncon
nối (được đánh vần làTunkuởmộtvàibang),tương đương với“hoàng tử”,còncóvàidanhhiệukínhcẩncấpliên bang được nhữngngườiđạidiệnchochíngia đình hoàng tộcMalaysia (nhưng điển
hình là khuyến nghịcủa chính phủ) phongtặng dựa trên cơ sởkhông cha truyền connối, cũng như nhữngtước hiệu chung hơn,được sử dụng trongcuốnsáchnày:
Tun: Một tước hiệu
cấpliênbanghạngnhấtđượcgiữkhôngquá25năm khi người đượcphongtặngcònsống.
Tan Sri: Tước hiệucấpliênbanghạnghai.
Datuk: Một tước hiệuliênbangcấpthấphơn.
Dato’: Một tước hiệucấpbang.
Những danh hiệu tônkính được phong tặngở các vùng lãnh thổkháccủaĐôngNamÁít phức tạp hơn mộtchút và sẽ được giảithích khi chúng xuất
hiện trong các chươngsau.
Cụm từ “ngườiTrungQuốc ở hải ngoại”được sử dụng nhiềutrong cuốn sách này.Đó là một danh từchung, nhưng là mộtthuật ngữ có vấn đề.
Người Trung Quốc ởhải ngoại, hay Hoakiều –một sự kết hợpcủanhữngtừ“Hoa”cónghĩa là “người TrungHoa”, và “kiều” cónghĩa “một cư dân cưtrú dài hạn” – là cáchgọi,vềmặtlịchsử,mà
người Trung Quốcdùng để chỉ nhữngngười di trú ra nướcngoài. Nó ngụ ý haiđiều: những ngườiđang nói đến là ngườiTrung Quốc xét vềquốc tịch, vàhọ sẽ trởlạiTrungQuốckhinào
việc tạm trú của họchấm dứt. Điều nàyphản ánh quan điểmcủađasốngườidi trú:họlàmănởĐôngNamÁkhá thànhđạtvàTổquốc mong đợi sự trởlại của họ. Trên thựctế, đa số người di trú
không trở lại; họ địnhcư ở nước ngoài. Saukhi rời khỏi đất nướcnghèonànnơihọđượcsinhra,họsinhconđẻcái,và trở thànhngườinhậpcưthựcthụ,khácnhau về mức độ đồnghóa và họ dần dần
được nhập quốc tịchmới. Do đó, thuật ngữHoa kiều hiện naykhông thích hợp vớinhiều người Malaysiagốc Trung Hoa, ngườiThái gốc Trung Hoa,v.v... mà chúng ta sẽbàn luận. Tuy nhiên,
cụm từ này vẫn đượcsử dụng thường xuyênvà linh hoạt vì cuốnsách này sẽ bỏ qua sựkhôngchínhxácđó,vàbỏ qua cả sự thay đổivề ngữ nghĩa học đốivớiquanhệgiữanhữngngười di cưgốcTrung
Quốcvànhữngcưdâncủa nước hiện giờ họđang mang quốc tịch.Nóimộtcáchhàihước,trong 15 năm qua, đãcó sự phát triển củamột “bộ lạc toàn cầu”mới là Hoa kiều, vớidânsốhàngtrămnghìn
người,ditrú(thườnglàbấthợppháp)từTrungQuốc ra nước ngoài,đích đến là Liên minhchâu Âu và Hoa Kỳ,mongkiếmđượcnhiềutiền và sau đó trở vềTrung Quốc. Nhưngcũng có rất nhiều
ngườisẽkhôngtrởvề.
Thuật ngữ cartel đượcsử dụng thường xuyêntrong cuốn sách này.Theo nghĩa hẹp, thuậtngữ có gốc gác châuÂunàycónghĩalàmộthiệphộicósựcấukết,thông đồng với nhau,
được thiết lập bởinhững doanh nghiệpmuốngiữđộcquyềnvàđiều khiển giá cả củanhững sản phẩm hoặcdịch vụ nào đó. Trongtiếng Italia, từ cartellobắtnguồntừmột thuậtngữ dùng để chỉ một
thứgiấy tờ,banđầu làmột thỏa thuận bằngvăn bản để chấm dứtnhững việc gì đó.Nghĩa hẹp của thuậtngữ châu Âu này làkhông thích hợp đốivới cuốn sách nói vềĐông Nam Á nên
chúng tôi sẽ khôngchuyển ngữ. Ở ĐôngNam Á, có rất nhiều,nếukhôngmuốnnóiđasố, cartel là sản phẩmcủa chính sách dochính phủ đề ra (vàthường là di sản củachínhphủthuộcđịa)để
hạn chế đầu vào thịtrường, thường thôngqua biện pháp cấpphép. Trong nhữngtrường hợp như vậy,những doanh nhântham gia cartel đượchưởng lợi từ cơ hộiđịnhgiávàhạnchếsự
cạnh tranh. Nhưngkhông thể nói là họcùng góp dựng nêncartelđó.Một lập luậncơ bản của cuốn sáchnàylà,cácdoanhnhânĐông Nam Á là mộtsảnphẩmcủamôi trư-ờngchínhtrịmàhọtác
nghiệptrongđó,vàđâylàmộtvídụ.Dầndần,thuậtngữcartelthựctếđược sử dụng để nhắcnhở bạn đọc rằng việctổ chức cartel ở ĐôngNam Á thường khôngngụ ý đến nghĩa hẹpcủathuậtngữnày.
Trong cuốn sách này,các khoản tiền khi thìđượcbiểuthịbằngtiềnđịa phương, khi thìbằng đô-la Mỹ tùythuộc vào từng bốicảnh cho hợp lý hơn.Trong một số trườnghợp, giá trị tiền địa
phương đã được quyđổi sang đô-la sẽ đểtrong dấu ngoặc đơn.Điềunàyxuấthiệnkhinàosựchuyểnđổi tiềntệ quá phức tạp, điểnhình là trong thời kỳphát triển cần một tỉgiátraođổitrungbình.
Để quy đổi những giátrị tiền tệ địa phươngmột cách đơn giản,bảngsausẽrấthữuích.Nócho thấy tỉgiá traođổivớiđồngđô-laMỹvàongàymồng1tháng7 năm 1997 (ngàytrước khi cuộc khủng
hoảngtàichínhchâuÁbắt đầu) – là tỉ giátrongngày thấpnhất –và tỉ giá vào ngàymồng 1 tháng 4 năm2007. Các đồng tiềnĐôngNamÁđượcquyđổi theo những cáchkhácnhau ra đồngđô-
la trước cuộc khủnghoảng. Và như vậy, tỉgiángàymồng1tháng7 năm 1997 là mộtminh chứng mạnh mẽcho giá trị của đồngđô-la Mỹ tại mọi thờiđiểm, từ giữa nhữngnăm 1980 đến năm
1997.
Ghi chú: Ủy ban tiềntệ của Hồng Kông đặt
những giới hạn buônbán tuyệtđối;giớihạnvào năm 1997 là 7,75;nhưnggầnđâyđãđượctăng lên trong khoảng7,75-7,85;phảnánhgiátrị vào ngày mồng 1tháng Tư năm 2007 là7,82.
Nguồn: oanda.com.Đây là tỉ giá liênngânhàng trung bình trongngày.
Với những bạn đọcmuốnbiếtthêmchitiếtvề tính cách và hoàncảnhxuấtthâncủamộtdoanh nhân hay chính
khách trong cuốn sáchnày, xinmời đọcphần“Tiểu sử nhân vật” ởcuối sách. Tác giả đãnỗ lực hết sức để đảmbảo sự chính xác củanguồn tham khảo này.Nhưng cũng cần lưu ýrằng, có khá nhiều
thông tin trong “Tiểusử nhân vật” được lấytừ các nguồn tư liệuthứ cấp, chứ khôngphải từ các nguồn tưliệu sơ cấpphần chínhvăncủacuốnsách.
PhầnI. NHỮNGBỐGIÀ CỦAMỘT THỜI
ĐÃQUA
1.BỐICẢNH
“Conngườibịmắcvàocáibẫycủalịchsử,cònlịchsửlạimắcvàocáibẫycủaconngười.”
JAMES BALDWIN,Ghi chép của mộtngườicon luôngắnbóvớiquêhương(1955)
Bốicảnhkinhtếđươngđại của Thái Lan,Malaysia, Indonesia,Philippines, Singaporevà Hồng Kông được
địnhhìnhbởisựtươngtácgiữahaithếlựclịchsử: sự di trú và chủnghĩa thực dân. Sự ditrú xảy ra trước. Rấtlâu trước khi nhữngnhà thực dân châu Âuđến Đông Nam Á, thìngườiẢRập,ngườiẤn
Độ và người TrungQuốc đã định cư ởvùng này. Nhữngngười Trung Quốc tuyđếnsau,dồnvềtừmộtnơi được coi là nềnkinh tế lớn nhất thếgiớichođếntậnthếkỷXIX, nhưng lại chiếm
sốlượngnhiềunhất.
Đoạn đầu của câuchuyện dài về nhữngngười di cư này đượcghichéphếtsứcsơsài.Điềumà chúng ta biếtlà, cập bến vào nhữngquốc gia phong kiếnnhỏ yếu và chắp vá
(nơi Thái Lan là quốcgiathốngnhấtduynhấtcó địa giới tươngđương như ngày nay),những người mới đếntham gia vào nhữnglĩnhvực làmănkhôngmấy quen thuộc. ỞThái Lan, nơi những
ghichépvềlịchsửđầyđủ hơn các nơi kháctrong khu vực, nhữngngười nhập cư đượcthuê làm những côngviệc do triều đình phêchuẩn ít nhất là từ thếkỷXVI. Người Ba Tưvà người Trung Quốc
(người TrungQuốc đổdồn về do sự hợp tácbuôn bán quốc tế chủyếu củaTháiLan) bánnhững hàng hóathươngmại độc quyềnvà vận hành các trangtrạiđịatô,phảitrảmộtkhoảntôtứccốđịnhđã
thỏa thuận cho các giađình hoàng gia cóquyền ở địa phương.Cho đến cuối thế kỷXVIII, sử chép rằngngười Trung Quốc đãlàmviệcchotriềuđìnhTháiLanvớitưcáchlànhững người quản gia
vàkế toán.Tuynhiên,trong nhiều trườnghợp, có lẽ là đa sốngười Ba Tư, Ảrập vànhững người đến từtiểu lục địa Ấn Độđược chọn làm quảngia nhiều hơn. Thị tộcBunnag, vẫn còn nổi
bật trong giới côngchức dân sự và giớichínhtrịTháiLan,vốnlà những người Ba Tưtheo đạo Hồi nhập cưtừ cuối thế kỷ XVIII,điềuhànhtoànbộvùngBangkok rộng lớn.Ưuthế của người Trung
Quốc với những hànghóa thương mại độcquyền được triều đìnhphê chuẩn ở Thái Lantrởnênápđảovào thếkỷXIX.TrênđảoJava,ngày nay là Indonesia,có bằng chứng chothấynhữngdoanhnhân
Trung Quốc đã thamgiasắpđặtviệcquảnlýđộc quyền và hànhchínhcùngvớitầnglớpquý tộc Java trước khingườichâuÂuđếnđâyvàothếkỷXVI.
Trong giai đoạn đầuhình thànhnhànướcở
ĐôngNamÁ,mộtmẫuhình không bao giờbiếnmất đã được pháttriển: sự phân biệtchủng tộc trongnhữngngười lao động, trongđóngườiđịaphươnglànhững doanh nhânchính trị tập trung vào
việc duy trì quyền lựcchính trị để chống lạinhững địch thủ ngườibản xứ, và về sau,trong quan hệ đối tácvớinhữngnhàthựcdânÂu, Mỹ và nhữngngười từ nước ngoàiđếnrồitrởthànhdoanh
nhân kinh tế, và nhưmột hệ quả, thànhnhững doanh nhânquanliêu.Tấtnhiênlà,quyền lực chính trịchiến thắng tất cảnhữngquyền lựckhác,và như vậy sự sắp đặtcó một ý nghĩa hoàn
hảo đối với tầng lớpquýtộcngườibảnxứ.
Những người nhập cưbiết rằngđịavị củahọđượcchấpnhậnbởixuhướng tiếp biến vănhóa – một quá trìnhđiềuchỉnhvềvănhóa.TầnglớpquýtộcĐông
Nam Á đã không trởthành những bản saogiống hệt của nhữngngườinhậpcưlàmthuêcho họ; thay vào đó,những người nhập cưphải tiếpbiếnvănhóa.Điều đó đã xảy ra đốivới người TrungQuốc
cũngnhưngườiBaTư,dùnhữngngườiTrungQuốc nổi tiếng là cómột bản sắc văn hóakhông phục tùng. Vídụ,lịchsửcậnđạiTháiLan là câu chuyện kểvề những người TrungQuốc thành công ở
Thái đã nhanh chóngđổi sang quốc tịchThái.CácvuaTháiLankhuyếnkhíchđiềunày,phongtướcquýtộcchonhững địa chủ và viênchứccótiềncủangườigốc Hoa. Đến tuổitrưởng thành, tất cả
ngườiTrungQuốcđềubịbuộcphảichọngiữaquốc tịch Thái hayquốc tịchTrungQuốc;nếu họ chọn quốc tịchThái, họ sẽ cắt bỏnhững bím tóc đuôisam Mãn Châu củamình.Đạiđasốcácgia
đìnhlàmnhưvậyởthếhệthứhaihoặcthứba.Mục tiêu củahọ là trởthànhnhómngười tinhhoa; sẵn sàng cắt bớtmột chút béo bở tronglợi nhuận thương mạito lớn để tránh khôngbịmộtrủironào,trong
khi những thương giaTrungQuốcchưađượcđồnghóasẽcóthểchịumọithứrủiro,trongđócóviệcphải trởvềđấtmẹ. Thật ngạc nhiênđến khó tin là, vớiquyền lựa chọn đó,người nhập cư Trung
Quốcthườngthíchlàmchínhtrịgiahơnlàlàmdoanh nhân kinh tế.Điềutươngtựcũngxảyra ở Java, nơi nhữngngười Trung Quốcthành đạt tìm cách kếthôn với giới quý tộcJava.
Sựchúýcủacácsửgiavề ảnh hưởng của vănhóa Trung Quốc trênkhắp châu Á thật làhoài phí. Việc di trúđếnĐôngNamÁ–củangườiTrungQuốc,BaTư,ngườiẢ–rậpvàẤnĐộthậtsựlàmsángtỏ
mộtbàihọckhác:việcditrúvàonhữngxãhộihiệnhữuthườngkhôngnói lên nhiều về xuấtkhẩu văn hóa mà gầnnhư nói nhiều về việcđa số người di trúmong muốn và sẵnlòng trở thành người
địa phương. Hơn nữa,sự tiếp biến văn hóanhanhnhấtxuấthiệnởnhữngngười đầy thamvọng, dám nghĩ dámlàm, những người đãnhậnthứcđượcrằngsựtiếnbộkinhtếlàtấtcảnhưng không thể đạt
được nếu không hộinhập với nhóm ngườitinhhoaởđịaphương.Đâylàmộtbàihọcmànhững bố già đầu tiênsớmhọcđược,vàcũngchẳng khó khăn gì khilàm theo, bởi ĐôngNam Á là một mảnh
đấtkhoandungvàđầylòng nhân ái, với dâncưthưathớt,ítcócạnhtranh về tài nguyên.Đơn giản là, trong kỷnguyên nông nghiệp,Đông Nam Á đượcChúa Trời ban tặngmột thiên nhiên trù
phú, đặc biệt là so vớiTrungQuốcvàẤnĐộ.
THOÁTKHỎIGÁNHNẶNG
Sựdunhập củanhữngnhà thựcdânchâuÂu,xảy ra từ thế kỷ XVInhưng không hung
hăng bành trướng chođến thế kỷ XIX, đãcủng cốvà sắpxếp lạinhữngxuhướngđãtrởnên hiển nhiên. Sựcủng cố xảy ra vì chủnghĩa thực dân ở cácnước này không đượcủnghộbằngviệcbốtrí
lạinhânsựquálớn.Dođó,nhữngnhàthựcdântìm cách cai trị thôngquacácnhóm tinhhoahiện thời, cả hai nhómtinh hoa chính trị lẫnkinh tế. Sự bố trí lạixảy ra vì chính quyềnthuộc địa tạo ra mối
quan hệ ba bên, nơitrước đó chỉ có mốiquan hệ hai bên đơngiản hơn. Người châuÂu bây giờ đại diệncho quyền lực tốithượng và các lãnh tụchínhtrịvàkinhtếcầncómốiquanhệvớihọ
cũng như với nhau.Điềunàygâyranhữnghiệu ứng sâu sắc. Vớinhữngngườidicưđầythamvọng,nócónghĩalà họbắt đầu tiếpbiếnvăn hóa châu Âu vìngườichâuÂuđạidiệncho quyền thống trị.
Tầng lớp tinh hoachính trị địa phương,theocáchnàođó,cũngchuyển sang các tiêuchuẩn văn hóa châuÂu,khimốiquanhệưuviệthơnvềvănhóađốivới người nhập cưđáng chú ý nhất là
ngườiTrungQuốc–bịđảo lộn. Thái Lan làmột ngoại lệ vì chưachính thức bị chiếmlàm thuộc địa. Ở đó,quá trình người TrungQuốc chuyển sangquốctịchTháiLanvẫndiễn ra nhanh chóng
chođếnđầuthếkỷXX,khi có sự tăng nhanhvề tốc độ nhập cư (donhững sự cố chính trịvà kinh tế ở TrungQuốc và tính sẵn sàngcủa các dịch vụ vậnchuyển hành kháchmới), phụ nữ Trung
Quốc đến nhiều hơn,và một làn sóng củachủnghĩadântộcTháitạm thời làm cho quátrình đồng hóa bị ngắtquãng.
ĐólàtrườnghợpngườiHàLan ở Java, và saunàyởIndonesia,những
ngườikhôngngừngtậphợp lại dựa trên sựphân chia giữa hoạtđộng chính trị và kinhtế.Việckiểmsoátkhốidân số lớn được thựchiệnthôngquatầnglớpquý tộc priyayi ở địaphương, những người
tiếp tục cai quản cáctỉnhvàhuyện,vớimộtsố nhỏ “cư dân” thựcdân Hà Lan làm nềntảng.Cácvị tríkinh tếchủ chốt chuyển sangtayngườiTrungQuốc.Họ là những nông dântạoralợitứcbởitấtcả
các loại thuế và hànghóa thương mại độcquyền, từ phí về sátsinhđộngvậttớiquyềnvận hành những khuchợđãđượccấpphép.Trang trại có lợi tứclớn nhất là trang trạichế biến và buôn bán
thuốc phiện. Nó trởthành chỗ dựa chínhchothunhậpcủachínhphủtrongmỗilãnhthổmàchúngtaquantâm,và điều này đặc biệtquantrọngởIndonesiavìnhữngngườibảnxứcũng là những khách
hànglớn;mặtkhác,hútthuốc phiện là sự giảitrí của phần lớn ngườiTrungQuốc.
Cũng gắn chặt với vaitrò kinh tế của ngườiTrungQuốc, ngườiHàLan đề cao một nhómnhỏ những người lãnh
đạo cộng đồng ngườiTrung Quốc hùngmạnh (việcnhập cư từTrungQuốc tăng đángkể vào thế kỷ XVII),những người trungthành với họ. Nhữngngườinàytrởthànhbốgià,đạigiađầutiêncủa
khuvựcĐôngNamÁ.NgườiHàLandựnglạimột truyền thống dongười Bồ Đào Nhakhởi xướng – dấu ấnquyềnlựcchâuÂuđầutiên ở ĐôngNamÁ –là phong cho ngườiđứng đầu cộng đồng
ngườiTrungQuốctướchiệu đại úy quân đội.Việcnàyđượcmởrộngthành một hệ thống sĩquan hoàn chỉnh baogồm những thiếu tá,đạiúy,thiếuúymộtsựphân cấp thứ bậc tồntại bền bỉ suốt hai thế
kỷ. Những sĩ quanngười TrungQuốc giữmột cuốn sổ thống kêdân số người TrungQuốc,đánhthuếvàthutiền phạt những ngườiTrungQuốc, được cấpphép, và những ý kiếncủa họ rất quan trọng
trongnhữngphiên tòa.Họlànhữngngườiđầyquyền lực, và đồngthời, thường nắm giữnhững trang trại có lợitứclớnvàlàmviệcnhưnhững người môi giớicho người Hà Lan.Hơn nữa, người Trung
Quốc bình thường bịbắt buộc sống ở cáckhuvựcđược chỉ địnhcủa những thành phốđã được phê chuẩn vàchỉ được đi lại nếuđượcchophép.Nhữngquyđịnhnàykhôngápdụng với nhóm tinh
hoangườiTrungQuốcvà những người làmthuê trong các trangtrại có lợi tức của họ.Những cabang atas,hay “nhánh cao nhất”,khi nhóm tinh hoangười Trung Quốc đãđược thừa nhận, nắm
quyền vận hành đấtnước trong khi nhữngngườiđồngbào–cũnglà những đối thủ cạnhtranhtiềmnăngcủahọvề lý thuyết, bị giamhãmtrongnhữngkhuổchuột chốn thị thành.Những điều luật hạn
chếđi lại thườngbị lờđi, nhưng những sĩquan có nhiều quyềnlực hơn, kể cả quyềnhợp pháp, có thể làmcho cuộc sống của bấtcứ ai dám qua mặt họtrở nên vô cùng khóchịu.
Xã hội Trung Quốctiếp tục quá trình tiếpbiến văn hóa ởIndonesia, với các thếhệkếtiếpnhữngngườinhậpcưđangmấtđisựthành thạo với ngônngữTrungHoacủahọvà trở nên quen thuộc
với những phong tụcđịaphương.NhưngkhingườiHàLanmởrộngquyền lực sang khuvựcquầnđảo, thìcàngkhuyến khích nhữngngười nhập cư đầytham vọng tìm kiếmviệc làm trong những
gia đình của vua chúaJava hoặc kết hôn vớitầng lớp quý tộcpriyayi. Mặt khác, xãhội châu Âu da trắngdung thứcáccuộchônnhân hỗn hợp, khácchủng tộc và sự đồnghóa đối với nhóm
người Hà Lan. KhônggiốngnhưởTháiLan,nơisựhộinhậpđầyđủvới tầng lớp tinh hoacầm quyền là có thể,những gì xảy ra ở đâylà một bản sắc “ngôinhà giữa đường” đãđược tạo nên. Vào
khoảng thế kỷ XIX,người Trung Quốc nóitiếng Mã Lai (ngônngữ dùng để buôn bánở bản xứ), tuân theomột nền văn hóa gồmcả yếu tố miền namTrung Hoa lẫn yếu tốJava, trong khi hướng
tới thựcdânHàLanvìmuốn có được đặc ânvà sự tiến bộ, để gianhậpmộtnhómlớngọilà peranakan. Nhữngperanakan hàng đầu,những người lãnh đạoxã hội TrungHoa làmviệcvớingườiHàLan
như những sĩ quan đểgiữ cho cư dân TrungQuốc trong khuônphép;họđấuthầuđượccác trang trại có lợitức;vàhọlàmviệcvớicác priyayi ở địaphương để bảo vệnhững trang trại của
họ,thườngbịbọnbuônlậu − đặc biệt là buônlậu thuốc phiện, quấyphá. Những doanhnhân thành đạt nhấtphảilàngườicónguồngốc Trung Quốc, ítnhất họ phải hòa nhậpvề văn hóa với những
cư dân Hà Lan, vớitầng lớp quý tộcpriyayi và sự hòa trộnhuyết thốngmang tínhtiếnhóa.
MộttìnhtrạngtươngtựnhưvậycũngdiễnraởPhilippines, nơi ngườiTây Ban Nha đã đến
saukhivượtTháiBìnhDương, ngang qua cácthuộcđịacủahọởMỹLatinh,vàocuốithếkỷXVI. Không giốngnhững nhà thực dânAnh vàHàLan nhữngngười đại diện chohàng hóa thương mại
độc quyền và Công tyĐôngẤnthuộcAnhsứmệnhcủathựcdânTâyBan Nha là một sứmệnhtôngiáovàchínhtrịkhônghềúpmở.Nótìm cách làm chonhững ngườiPhilippines cải trang
theo Đạo Thiên chúa.Về phương diện này,người Trung Quốc,những người đã buônbán ở khu vựcManilakhingườiTâyBanNhađến, cảm thấy rất khóchịu. Người Tây BanNha cần người Trung
Quốcđểcungứngchobinh lính của họ vàbuôn bán những hànghóa xa xỉ của TrungQuốc;cònngườiTrungQuốclúcđầuđãkhángcự lại những ngườitheo Đạo Thiên chúa.Tiếp theo đó, có sự
cách biệt thật phiềntoái,đượcđánhdấubởihàng loạt cuộc tàn sátđẫmmáutrongsuốtthếkỷ XVII. Đồng thời,người Tây Ban Nhaban thưởng cho nhữngngười Trung Quốc cảitheo Đạo Thiên chúa
vànhữngngười đãkếthôn với phụ nữ địaphươngbằngmứcthuếthấp hơn, quyền tự dođi lại và khả năng gianhập nhóm tinh hoachính trị của địaphương.Một quá trìnhtiếp biến văn hóa bắt
đầu,vàonăm1800ướctính đã có 120.000người Trung Quốc laithổ dân – tiếngIndonesia gọi làperanakan – so với7.000 người TrungQuốc thuần chủng và4.000ngườida trắngở
Philippines; chiếmkhoảng5%dân số.Sựkiểm soát chặt chẽ vềsố lượng người TrungQuốc thuần chủngđược phép cư trú tiếptục khuyến khích việcphát triểnxãhộingườilaithổdân.
Những người lai thổdânthốngtrịviệcbuônbán quốc tế tại quầnđảo này và ngày càngtiếnsâuvàoviệcchiếmgiữđấtđai.NgườiTâyBan Nha luôn luôn losợrằnghọsẽ lãnhđạonhữngngườiIndonesia
bảnxứnổiloạn,nhưngtrên thực tế, người laiTrung Quốc ít nhất làgắn liền với phiên bảnPhilippines của vănhóa Tây Ban Nha vớitư cách là ngườiIndonesia đã được đôthịhóa,từbỏphầnlớn
sựquyếnluyếnvớivănhóa Trung Hoa. ỞIndonesia cũng nhưMalaysia,họcónhữngkiểuquầnáocủa riêngmình và những phongtục phản ánh một nềnvănhóaphatrộn.
KỶ NGUYÊN
CỦA SỰ DI TRÚHÀNGLOẠT
Từ giữa thế kỷ XIX,hìnhmẫu của sựdi cưsố lượng nhỏ và sốngười Trung Quốcthườngtrúđãđồnghóasâu sắc bắt đầu thayđổi. Có hai nguyên
nhân. Trước hết, sốlượng người nhập cưtăng theo cấp số nhân.Và thứ hai, mục tiêucủa các thế lực thựcdân cầm quyền vừathay đổi lại vừa đượcmởrộng.
Côngnghệđã tạođiều
kiện thuận lợi cho sựbùng nổ di trú.Nhữngcon tàu chạy bằng hơinước đầu tiên đưa vàosửdụng từnhữngnăm1840, được sử dụngrộngrãiđểchuyênchởhành khách ở châu Ávào những năm 1860.
Cái gọi là Cuộc chiếntranh thuốc phiện18391842và18561860thúcđẩyviệcmởracáchải cảng lớn ven biểnTrungQuốc,đặcbiệtlànhững trung tâmdi trútruyền thống củamiềnnam, và những trung
tâm này nhanh chóngđược kết nối với nhaubằng tuyến tàu chạybằng hơi nước tới cáchảicảng lớncủaĐôngNamÁ.Nhiềucuộcditrúđượcxácđịnhbằngđiểmđếncủatuyếntàuchạy bằng hơi nước
củađịaphương.Vídụ,việcmởmộtdịchvụtừHảiKhẩu của tỉnhđảoHải Nam tới Bangkoklàlýdochínhgiảithíchrằngnhiềungườicó tổtông gốc Hải Namđang sốngởTháiLan.Những ước lượng
chínhxácnhấtchobiếtvào khoảng năm 1850cónửa triệungườigốcHoa, lai và không lai,sống trên những lãnhthổ mà chúng ta đangkhảo sát. Họ tập trungnhiều nhất ở Thái Lanvà Indonesia, cùngvới
HồngKông,SingaporevàMalaysia (chưa sápnhậpchínhthứcvàođếquốc Anh). TrướcChiến tranh Thế giớithứ nhất, có 34 triệungười gốc Hoa trongkhu vực, phần lớnthuộc thế hệ thứ nhất.
Cómộtdanhsáchngàycàngdàicác lýdo làmcho người ta rời khỏiTrungQuốc.Đất nướcnàychịusứcép lớnvềdânsốtừthếkỷXVIII.Những cuộc bạo loạnxảy ra với tần sốngàycàngtăng,tạoranhững
xung đột lớn giữa thếkỷ XIX: các cuộc bạoloạn của người Hồigiáoởmiềntâynamvàtây bắc Trung Quốc,các cuộc khởi nghĩaNiệp Quân và TháiBình Thiên Quốc ởnhững tỉnh thuộc trung
nguyên. Cuộc khởinghĩaTháiBìnhThiênQuốc được một ngườitinrằngôngtachínhlàem trai của Đức ChúaGiêxu và một ngườicấp phó tự xưng làThần Ma lãnh đạo đãgâyrarắcrốilớnnhất;
nóđãlấyđisinhmạngcủa hàng chục triệungườitrongnhữngthậpniên1850và1860.
Khi những con tàuchạy bằng hơi nướcđưahọ ra khỏi nơimàmộtsửgiagọi là“mộtmôitrườngtheothuyết
Mantuýt triệt để”,những người TrungQuốcởmiềnnamnhậnthấy điểm đến ĐôngNamÁvớidâncưthưathớtvàtươngđốithanhbình có sức lôi cuốnnhất: giá trị ngày cônglaođộnglớngấpnhiều
lầnởquêhương. Vàogiữa thế kỷXIX, TháiLanchỉcó5 triệudân,Malaysia có 2 triệurưỡivàIndonesiacó23triệu (Java là một nơitương đối đông dân ởĐông Nam Á), bằngkhoảngmộtphầnmười
dân số ngày nay.Những người di trúmay mắn hơn đượcnhững người họ hànghoặcbàconthântộcđãđịnh cư ở nước ngoàigiúpđỡ,cảvềtàichínhlẫncôngănviệclàm.
Ngọn triều dâng của
những người lao độngnhập cư xảy ra trùngvới bình minh của cáigọi là “chủ nghĩa đếquốc cấp cao” từ giữathếkỷXIX,vàsựbùngnổ các mặt hàng đòihỏi nhiều lao động cósức khoẻ và dẻo dai
tiếp tụcxảy ra vào thếkỷXX.Từnhữngnăm1830, những hàng hóađộc quyền thươngmạicủaAnh vàHàLan bịhủybỏvàcácquốcgiachâu Âu nắm quyềnquản lý thuộc địa ởĐông Nam Á. Một
hiệp ước giữa Hà LanvàAnhnăm1824phânchia những khu vựcriêng về lợi ích báotrước một chiến dịch:ngườiHàLan sẽ kiểmsoát toàn bộ quần đảoIndonesia, và sau nàylà sự hiện diện của
người Anh ở bán đảoMalaysia. Việc trựctiếp kiểm soát thuộcđịađôikhilàđiềukiệnquyếtđịnhchosựpháttriển những đồn điềnmới rộng lớn hoặcnhữnghầmmỏ–nhưởbán đảo Malaya, nơi
nhữnghầmmỏnhỏcủangười Trung Quốc đãđược thiết lập xảy rasausựkiệnnày.Ởmộtmức độ nào đó, có sựthúc đẩy mâu thuẫnchính trị ở châu Âu –một mặt để mở rộngcácgiới hạn của chính
quyền thực dân, mặtkhác để bãi bỏ nhiềulĩnhvựcthươngmạivàđầu tư quốc tế. Trongmột kỷ nguyên đượcmô tả bằng những ghichép của Ricardo vàAdamDavidSmith,cảSingapore (1819) lẫn
HồngKông(1842)đềuđược thiết lập với tưcáchlànhữnghảicảngtựdokhôngcó sựhạnchế hoặc đánh thuếthương mại. (Nhữngthứ thu được ở thuộcđịa này cũngphản ánhlòng ham muốn kiểm
soátcáchònđảochiếnlượccủađếquốcAnh.)Một Thống đốc HồngKông đã thuyết phụcngườiTháiLanbãi bỏcác quy định về buônbán bằng Hiệp ướcBowring vào năm1855.Thậmchí những
người Philippines laiTây Ban Nha cũngchuyển sang hướngnày, chấm dứt sự độcquyền thương mại củanhững tổng đốc cấptỉnh vào năm 1844 vàmở cửa cho doanhnghiệp nước ngoài. Vì
cáchmạngcôngnghiệpđãbỏquaTâyBanNhanênnền thươngmạibịcáccôngtyMỹvàAnhthống trị, với cờ hiệunhỏ hơn một chút đểnhắc nhở những nhàbuôn rằng họ đang ởtrênđấtTâyBanNha.
Vào nửa cuối thế kỷXIX,nhữngquanđiểmvề sựbùngnổdo toàncầuhóa,ởmộtvàikhíacạnh nào đó, đã báotrước một điều sẽ bắtđầu trong những năm1890. Động lực thúcđẩynhucầulàthếgiới
thiếu hàng hóa nôngnghiệp và khoáng sảnhoặc đang được chôngiấu dưới lòng đấtĐôngNamÁ,hoặc cóthể được gieo trồng ởđó; những vùng đấtrộnglớnluônsẵncóđểthànhlậpcácđồnđiền.
Sự hỗ trợ của côngnghệcùngvớiviệcmởcửa kênh đào Xuyênăm1869vàđồngthời,việc phát triển nhữngcon tàu chạy bằng hơinước đã cho phép vậnchuyển quanh nămkhối lượng hàng hóa
lớn với chi phí thấp.Cácthiếtbịtoànbộdưthừa và rẻ nhờ cónguồn lao động nhậpkhẩu là người Ấn ĐộvàTrungQuốc.
Thậtcôngbằngkhinóirằng phần lớn ngườiẤnĐộđượcnhậpkhẩu
để làm việc trong cáctrang trại ở nhữngthuộc địa của Anh vànhững phần đất củaIndonesia, một số laođộngchân tayphụcvụtrong những dự áncông trình công cộngvà làm người hầu của
các công chức thựcdân; một nhóm tinhhoa nho nhỏ gồmnhững doanh nhân ẤnĐộ bao gồm ngườiParsees, Sindhis vàChettiar – trải rộngkhắp khu vực. Nhữngngười nhập cư Trung
Quốcthốngtrịlĩnhvựckhai mỏ, nhưng cũngtản rộng sang lĩnh vựcbán buôn, bán lẻ ngàynay gọi là các dịch vụhậucầnnôngnghiệpvànhiều lĩnh vực khác.Điềunàyphảnánhmộtthực tế là ngườiTrung
Quốcbậctrungđượctựdo hơn trong việc lựachọn quyết định nhậpcư. Phần lớn nhữngngười di cư Ấn Độ,trongkhoảng thời giangiữa năm 1850 vàChiến tranh Thế giớithứnhất,đượckýgiao
kèolàmlaođộngnôngnghiệp, có nghĩa rằnghọkýhợpđồngđểlàmviệc ở các đồn điền,được chở tới nhữngđồn điền đó và sốngtập trung trong nhữnglán trại, sau một thờigian–nếuhọsốngsót
thườngđượcgửitrảvềẤn Độ. Người miềnNam Trung Quốc sửdụng các hệ thống tínphiếu, có nghĩa lànhững người di trú bịràng buộc vào chủ sửdụnglaođộngchođếnkhihọđãtrảhếtchiphí
di trú của họ, cả vốnlẫn lãi, nhưng sau nàyhọ được ở lại ĐôngNam Á và hòa nhậpvào những cộng đồngngười Trung Quốc ởhải ngoại đã đượcthànhlập,chủyếulàởkhu vực thành thị và
bámrễđãhàngthếkỷ.Một báo cáo của Liênhiệp quốc về sự di trúđược xuất bản năm2004 đã làm một việcdũng cảm là cố gắngtậphợpnhữngghichépcó tính lịch sử củangười Ấn Độ và kết
luận rằng, có khoảng30 triệu người Ấn Độđãđiđếncácvùngđấttrên khắp thế giới từnăm1834chođếnnăm1937, nhưng 24 triệungườiđãtrởvề.Chúngta không biết tỉ lệngười Trung Quốc trở
về vì Trung Quốckhông có những ghichép tầm quốc gia cóthể so sánh với nhữnggìngườiAnhvàngườiẤn Độ còn giữ được,nhưng chắc chắn là tỉlệnàythấphơnnhiều.
Sau đây là một luận
điểm quan trọng. CórấtnhiềungườiẤnĐộở khắp khu vực ĐôngNam Á thuộc địanhưng họ không đóngvai trò quan trọng đốivớicácnềnkinhtếđịaphương trongmột thờigiandài,bởivìhầuhết
họ không ở lại đủ lâuđểcóthểhòanhậpvàoxãhội.Gầngiốngnhưngười Trung Quốc, họcũng là một nhómngườibịchàđạpnhưngbất hạnh hơn. Nhữngarkatia hay những nhàtuyển dụng Ấn Độ
người tổ chức đemnhâncôngxuấtkhẩuranước ngoài rất chútrọng đến các nhómthiểu số ở dưới cùngcủanấcthangđẳngcấp(không có khái niệmtươngđươngvềxãhộihọc ở Trung Quốc),
giống như ngườiTamilsđếntừphíanamhoặc những ngườithuộccácbộlạcsốngởvùngđồinúiđôngbắc.Những người này làmhài lòng các ông chủđồn điền và chínhquyền thực dân vì –
khônggiốngnhưngườiTrungQuốc thường tựcao tự đại hơn – họchẳng hề gây ra mộtrắc rối nào. NgàiFrederic Weld, giámđốcCơquanđịnhcưtừnăm 1880 đến năm1887, khi bàn giao
công việc đã có mộtnhận xét về số lượngngày càng gia tăngnhững người Ấn Độđược nhập khẩu vàokhu vực này như sau:“Những người Ấn Độlà một chủng tộc yêuhòabìnhvàdễcaitrị.”
Có lẽ ông ta khôngnhận thức được rằng,ông ta đã nói về mộtnhóm người Ấn Độkhông mấy tiêu biểu.Nông sản ban đầu đãlôi kéongười châuÂutới Đông Nam Á lànhững đồ gia vị, được
sử dụng chủ yếu đểướp thịt trong thời kỳtrướckhicócôngnghệlàm lạnh nhân tạo.Nhưng trong thế kỷXIX,đãxuấthiệnthêmnhiều giống cây trồngkhác có thể thu đượctiền mặt, trong số đó
mía đường ởPhilippines và TháiLanlàquantrọngnhất.Sau đó đến thiếc, đầutiênđượcnhữngngườiTrung Quốc khai thácở Indonesia nhưng saunàyđượcpháthiệnvớitrữ lượng nhiều hơn ở
Malaysia vàmiềnnamThái Lan. Vào thờiđiểm chuyển giao thếkỷ có cao su, và trongsảnxuất cao su thì laođộng người Ấn Độvượttrộihơnnhiều,vàđólàđầuvàochobuổibìnhminh của xe ô tô
vànhiềusảnphẩmtiêudùngkhác.Cũngđãcósự bùng nổ các mặthàng tiêu dùng trongkhuvựcvàcáctiếnbộvề công nghệ tiếp tụclàm tăng thêmquymôthương mại. Ví dụ,trong khai mỏ, công
nghệ mới đã giúpchuyển đổi hoạt độngtừ những công việc vềcơ bản phải làm bằngtayvớixàbengvàcuốcchimsangcôngviệccơkhí quy mô lớn cùngcácmáyđàovét.
THAY ĐỔI, THAY
ĐỔI,VÀTHAYĐỔI
Từ quan điểm vềnhững bố già ĐôngNam Á, cuối thế kỷXIX làmột thời kỳ cócả những rủi ro lớncũngnhưnhữngcơhộilớn. Những tầng lớptinh hoa truyền thống,
bao gồm người Tháigốc Trung Quốc đãđược đồng hóa, nhữngperanakan củaIndonesia, baba củaMalaysia và mestizocủa Philippines bịtháchthứcbởisựđổxôvề của lớp lớp các làn
sóngnhữngngườinhậpcư đói rách, nhữngngười khôngphải luônluôn dễ kiểm soát.Đồng thời, vào nhữngnăm1880khinhànướcThái và các chế độthuộcđịatrởnênmạnhhơn, không còn cần
những nông dân laođộng tự do, nhữngngười nắm giữ hànghóa độc quyền thươngmạicũngdầndầntừbỏviệc thuê mướn nhâncông.Tuynhiên,chiếcbánh kinh tế đang trởnên lớn hơn. Và sự
chia chác tay ba giữachínhquyền thuộcđịa,nhómtinhhoachínhtrịbản xứ và nhóm tinhhoa kinh tế của nhữngngười gốc Hoa hiệnđang áp đảo, tiếp tụcmang lại lợi ích chocác đại gia, những có
thể làm việc hiệu quảnhất với những mốiquan hệ bên ngoài củamìnhtrongkhivẫnduytrìđượcquyền lựcbêntrongcộngđồngnhữngngười nhập cư đangphát triển rất nhanh.(Lao động Ấn Độ
thường do nhập khẩutrực tiếp những chủđồn điền từ thuộc địavàdođógiúpsảnsinhracácbốgiàngườiẤnĐộ.) Một cái nhìn vềnhững đặc trưng nổibậtcủacácđạigiaxuấtsắc vào thời điểm
chuyển giao thế kỷ sẽsoisángvấnđềnày.
Hoàng Trọng Hàm làngười giàu nhấtIndonesia. Đặt trụ sởtại Semarang ở trungJava, quê hương củanhữngngười nôngdântrồng cây thuốc phiện,
những peranakanthống trị quầnđảonàyvàothếkỷXIX,Hoànglà con trai của mộtthương gia đã thíchnghi, được phong làThiếu tá của ngườiTrung Quốc ởSemarang. Tuy nhiên,
người con trai có khảnăng nhân số tài sảnđáng kể mà cha mìnhđãcólêngấpbộibằngviệcmởrộngmộtcơsởtruyền thống ra phạmvi thếgiới.Vàonhữngnăm 1880, khi nôngdân làm thuê bị ảnh
hưởng của suy thoáikinhtế,ôngtađãthắngthầu và được nhậnnhữngđịa tô chịu thuếquan trọng. Ông takhông nói được tiếngHà Lan, nhưng hiểuthứ ngôn ngữ của cácthủ tục thực dân tốt
hơn những người châuÂu khác. Một ngườicon gái của ông đã kểlại trong hồi ký củamình rằng: “Tôithường đứng trên hiênrộng của tòa lâu đàinhà chúng tôi, đợichiếc xe ngựa của cha
đang chạy bon bontrongthunglũngởbêndưới…Lúcnólướtquacánh cổng vào nhà,mộtngườihầuMãLaitừđâuđóđãxuấthiện,tay bưng chiếc khaybạc đựng một chiếckhănấmtẩmnướchoa
Cologne. Cha tôi, thậtđẹp trong phục trangchiếc quần dài trắngtinh và chiếc áo vétcũngmàutrắngmayrấtkhéotheokiểuphươngTây,lautayvàmặtvớichiếc khăn ướp nướchoa đó trước khi ông
bướcxuốngxengựavàtiến lại phía tôi. Thậtgiống như một mànmúa balê.” Hoàngthường tiếp đãi hàophóng và tặng quànhững quan chức thựcdân. Giống như chaông, ông là Thiếu tá
củangườiTrungQuốcở địa phương, sốngtrongmộttòanhàlớnởkhuChâuÂucủathànhphố;ôngnóitiếngJavavàMã Lai tốt hơn bấtkỳphươngngữnàocủaTrungQuốc.
Trong kinh doanh,
Hoàng đi theo mộtchiếnlượcđadạnghóađãtrởthànhtiêuchuẩncủa những đại giaĐông Nam Á thời đó.Ông có được nguồntiền bạc từ các trangtrạicólợi tức,đặcbiệtlàthuốcphiện,vàdùng
nóđểcấpvốnmởrộngrất nhiều hoạt độngkhác.Ônglàngườinổibật nhất ngành míađường, phát triểnnhữngđồnđiềnvàxâydựng nhà máy chếbiến.Cácnhàmáynàysửdụngmáymócnhập
khẩutừchâuÂuvàdongười Hà Lan bảo trì.Ông cũng thuê nhữngkế toán và quản lýngười Hà Lan chonhững vị trí then chốt.Ôngmởrộngsangvậntải biển và mở mộtngânhàngởSemarang.
Vào thời gian ChiếntranhThếgiớithứnhất,ông chuyển tớiSingapore, và qua đờiởđónăm1924.Ônglàmột doanh nhân địaphươngcónhữngcôngtycóthểcạnhtranhvềquy mô với những
công ty lớn của ngườiHàLan.
Một nhân vật thíchnghitốthơnnữalàLụcHữu,đượccoilàngườiTrung Quốc giàu nhấttrên bán đảo Mã Laihồi đầu thế kỷ XX.Ông đã sớm xây dựng
doanh nhiệp cung ứngthực phẩm và vũ khícho các toán thổ phỉkhai mỏ người TrungQuốc mà Hội TamHoàng làm đại diện.Khi người Anh chínhthức nắm quyền kiểmsoát Malaya từ năm
1874,ôngđãpháttriểnmột đế quốc khai thácmỏ thiếc lộ thiên dướidanh nghĩa canh táctrangtrạichịuthuếcủanhànước.Mỏnàythuêhàng nghìn lao độngngười Trung Quốc,những người mà ông
cũng cung ứng thuốcphiện, rượu và nhữngcơ sở đánh bạc. LụcHữu hợp tác gần gũivới những tổ chức bímậtngườiTrungQuốcđể nhập khẩu và quảnlý những công nhâncủamình; ông cũng là
mộtthànhviêncủaHộiTam Hoàng NghĩaHưng hùng mạnh.Công sứ người Anh ởcác bang có hầm mỏlớn dựa vào ông ta đểvừa kiểm soát dânTrung Quốc nhập cưvừa để thu một phần
lớnchongânsách.Đếnlượtmình,LụcHữucốgắng đặt các đối tácthực dân của ông vàothế bị động.Ông hànhxửtheonhữngtậpquáncủangườiAnh,kếtbạnvới người đứng đầubốn bang trong Liên
bangMalaysialàFrankSwettenham,và làmộttrong những người đỡđầu chính cho mộttrường học bằng tiếngAnh cho con cái tầnglớp tinh hoa ở KualaLumpur, trườngVictoria. Ông làm ăn
vớinhữngcôngtyAnhvà Xcốtlen, cũng nhưvới đại gia người ẤnĐộ đến từ Tamil làThamboosamy Pillay. Quyền lực đàm pháncủa ông ta với chínhquyền thực dân là rấtlớn.Vídụ,khigiáthiếc
giảm vào năm 1896,chính quyền bangSelangorthựchiệnmộthànhđộngchưacótiềnlệ là giảm phí cố địnhmàông taphải trảchocác trang trại trồngthuốcphiệnvìchorằngchúng rất quan trọng
đốivớiviệckinhdoanhcủa bang. Năm 1898,ông được cấp một sốtrang trạicóđóng thuếở vùng Benteng củabang Pahang với mứcthuế chỉ tồn tại trêndanh nghĩa, và giảmbớtthuếkhaithác,như
một sự khuyến khíchđểmởmangvùngnày.Ngoài khai mỏ, LụcHữucònđầutưvàobấtđộng sản, những đồnđiền cao su và nhiềulĩnh vực khác; ông tađược phong tặng tướchiệu hiệp sĩ Anh.
Những chiến lược kếthợp hoạt động trangtrại có đóng thuế lợitứcvớikhaimỏvàliêndoanhđồnđiềnlàđiểmchung của những đạigiatrongtoànkhuvực.Rõ ràng nhất là, nógiảm bớt chi phí nhân
côngvốnđãrẻmạt.
Trương Bật Sĩ có mốiquan tâm đối với việctrồng thuốc phiện, bánrượukhắpvùngvàcáctrangtrạitrồngthuốclátrên cả hai bờ của eobiển Malacca, ởSumatra, Malaya và
Singapore, và kết hợpnhữngthứnàyvàomộtđế chế rộng lớn tậptrung vào những đồnđiền.DònghọHứaxâydựng một doanhnghiệpkếthợpkhaimỏthiếc và làm trang trạicó đóng thuế lợi tức
trảirộngtừPenangđếnphíatâynamTháiLan,và sauđóđadạnghóađầu tư. Ở Singapore,những gia đình nàythống trị việc canh táchạttiêuvàcâynholấynhựa (được sử dụngtrong thuộc da và
nhuộm), và là nhữngngười chủ lớn nhất ởđóhồicuốithếkỷXIX,nắm giữ các trang trạicó đóng thuế lợi tức –trồng thuốc phiện làchủ yếu và đóng gópmột nửa ngân sáchhàng năm của chính
phủ.Ởnơinàocótrangtrại nộp thuế lợi tức –ngụ ý có sự ủy quyềncủachínhquyềnbang–đềucóhộiTamhoàng.Nhưngđâykhôngphảilà mối quan tâm lớncủa chính phủ thựcdân, từ lâu đã nhận ra
rằngchấpnhậnsựhiệndiện những tổ chức bímật làcáchdễnhấtđểquản lý việc nhập cưcủangườiTrungQuốc.Nhưmộtquansátviênđã ghi chép ngày 17tháng 2 năm 1899:“Chính phủ không có
phương tiện thông tintrực tiếp với ngườiTrung Quốc tầng lớpthấp, và do đó côngviệc này do những tổchức bí mật thựchiện.”
ỞPhilippines,ngườivĩđại nhất trong số các
cabecillas (nghĩa đenlà“những thủ lĩnh”) làDon Carlos PalancaTrầnThiênSơn.Ôngtalàngườimôigiớinhâncông, người điều phốiđộc quyền chủ yếu vềthuốcphiệnvàlàngườithu thuế những hoạt
động thương mại nóichung,từhàngdệtmaychođếnmíađường, từgạo tới bất động sản.Là người nhập cư gốcPhúc Kiến, TrungQuốc, có họ hàng đãđịnh cư ởManila, ôngta học tiếng Tây Ban
Nha, chuyển theo ĐạoThiên Chúa và tìmđược một ông thầythực dân có thế lực làĐạitáCarlosPalancayGutierrez đỡ đầu, vàsau này trở thành connuôiôngta.Đồngthời,ôngtađãcẩnthậnviết
thư cho chính quyềnnhà Thanh ở TrungQuốc, trongđó tônvaitrò của mình lên làngười lãnh đạo cộngđồng người TrungQuốc đang phát triểnnhanh chóng ởPhilippines.Nhưnhiều
ngườicùngthời,ôngtamua một tước quanTrung Quốc và mặcquanphụctrongnhữngdịp trang trọng. TrầnThiên Sơn là công cụđắclựctrongviệcthúcép nhà ThanhmởmộtlãnhsựquánởManila,
đặt trong tòa nhà Thịtrưởng Sangleyes (khilãnh đạo người TrungQuốc này chính thứcđược người Tây BanNha phong tước hiệu).Trần đôi khi giữ vị trínàyvàđôikhichỉđơnthuần là dùng nó để
gâyảnhhưởng.VàTòaán Sangleyes đã nhiềulần buộc tội Trần làthao túng thị trường.Ông ta và con trai đềulà những nhân viênlãnhsựquán.
Trần chết năm 1901,khiđãrấtgiàucó.Ông
tađãthiếtlậpđượcmộttrạng thái cân bằng xãhội học thật hoàn hảogiữangườiTrungQuốcnhậpcưvànhữngcộngđồng người Tây BanNha thực dân, nhậnnhững tước hiệu danhdựcủacảhainhànước.
Như nhà sử họcPhilippines, AndrewWilson đã nhận xét:“Trải nghiệm củangườiTrungQuốccuốithế kỷ XIX chứng tỏrằng,thếlựckinhtếvàxã hội chỉ đến vớinhữngngườiđồngthời
kiểm soát được nhữngngườicôngnhậnsựtồntại của người TrungQuốc ở xứ Philippinesthuộcđịavàcóquanhệtốt đẹp nhất với họcũng như có nhữngmốiliênkếtvềthểchếvới nhóm người nước
ngoàicóuyquyền.”
Không phải ai cũngngưỡng mộ khả nănghoàn thành những tiêuchí này. Nhà văn vàngười theo chủ nghĩadân tộc củaPhilippines,JoséRizal,ngườicódòngmáu lai
Trung Quốc, gần nhưchắc chắn sử dụngTrần Thiên Sơn lànguyên mẫu cho nhânvậtQuiroga,mộtngườiTrungQuốc dối trá vàkhúm núm trong tiểuthuyết Cướp biển (ElFilibusterismo)củaông
(1891).Đó là bản chấtlai tạo về nhân cáchcủa Quiroga mà Rizalthấyrấtđángchêtrách–nóinhưtácgiả,đượcbiểuthịqua“sựlẫnlộnthảm hại” của nhữngkiểu cách ứng xửmàumè trong nhà anh ta.
Tuy thế, những khuvườntrangtrítheokiểuTrung Quốc, nhữngcâycộtHyLạp,đồvậtbằng sắt Xcốtlen, sànnhà lát đá cẩm thạchItalia được những bốgiàĐôngNamÁrấtưachuộng cũng phản ánh
sứmạngcủahọ; côngviệccủahọ làcốgắngtrởthànhtấtcảđốivớimọi người. Trong quátrình đó, những điềumang tính hiếu kỳ màhọ sản sinh ra khôngđơn thuần chỉ là kiếntrúc.Nhữngngườinhư
Hoàng Trọng Hàm,hoặcnhữngđốitácchủchốt của chính phủthuộc địaAnh ởHồngKông như Khai HàKhải, được nhiềungười và những kẻthựcdâncoi là lãnh tụtrong cộng đồng của
họ,nhưnghọchẳngnóisõi một thứ phươngngữ Trung Quốc nào.Họ thực sựbịmắckẹttrong chốn lao tù vănhóa.
ĐỊNH HÌNH BỞIHOÀNCẢNH
Phác họa ngắn gọn vềnhững bố già của thờiđiểm chuyển giao thếkỷ này cho thấy phạmvinhữnghoạtđộngcủahọ được định hình bởimôitrườngtrongđóhọhoạt động. Họ tìmkiếm những trang trại
đóngthuếlợitứcvìđólàcáchdễnhấtđểkiếmđượcnhiềutiền.Nhữnglợi nhuận béo bở nhấtthu được vào giữa thếkỷ XIX, những ngườiTrung Quốc làm trangtrại biết rõ về giá trịcủa những hàng hóa
độc quyền của họ hơnchính những nhà nướcđã giao độc quyền đócho họ. Vì nhà nướcdần dần trở nên mạnhhơn và nắm thôngthông tin tốt hơn,nhữnggóithầuđầythủđoạn,quyềnthanhtoán
chậm và những thứtương tự trở nên khóhơn. Việc canh táctrang trại có thuế lợitứcđượckếthợprấttựnhiên với việc tuyểnmộ những lao độngTrung Quốc nhập cưđang tràn vào Đông
NamÁ từ giữa thế kỷXIX, và họ cũng lànhữngngười tiêudùngchính trong nhữngnông trại đầy rẫy thóihư tật xấu. Việc quảnlý lao động bị buộcchặt vào việc lãnh đạocộng đồng những
ngườinhậpcưcótiếngnói khácnhauvàđangtranh nhau kiếm việclàm.CóchỗdựalàHộiTam Hoàng biết nóinhiềuphươngngữkhácnhau,cácđạigiacóthểtạo ra một doanhnghiệplạlùng,vòngvo
mà trong đó gần nhưtất cả tiềnbạcđềuvàotay ông ta: vận hànhcác trang trại đầy thóihư tật xấu, thuênhữngngườinhậpcưchocácdoanh nghiệp cầnnhiều lao động nhưkhai mỏ và đồn điền,
thường ở những vùngsâuvùngxa,vàsauđóbánchongườilaođộngnhững sản phẩm vàdịch vụ không lànhmạnh hoặc bất cứ thứgì mà họ yêu cầu, đểbòn rút hầu hết thunhập của họ. Trên tất
cảnhữngthứđó,bốgiàchỉ cung cấp một thứduy nhất là căn cướcchính trị cho nhữngngười di cư ở quêhươngmớicủahọôngta đại diện cho quyềnlợi của cộng đồngtrướcnhữngngườinắm
giữquyềnlựcchínhtrịtốicao.
Nhưng chính quyềnthực dân (và tình hìnhkinh tế quốc tế trongbuổi bình minh củatoàn cầu hóa) đã địnhhình nên một thế giớicủa các bố già đang
khát khao nắm đượcquyền lực bằng nhiềucách hơn là chỉ làmmột ông chủ trang trạivàbóc lột nhữngđồngbào của họ. Thời kỳnày thiết lập nên mộtcơ cấukinh tếởĐôngNamÁ sẽđược chứng
minh là rất khó thayđổi. Những chínhquyền thực dân khôngcókếhoạchlâudàichokhu vực, nhưng lạithiếtlậpcơcấuthươngmại thuận lợi nhất chohọ. Điều này có nghĩalànhậpkhẩuvàochính
quốccácmặthàngtiêudùngvàxuấtkhẩusangĐông Nam Á nhữnghànghóasảnxuấtcôngnghiệp đã hoàn chỉnhđể chi trả, ít nhất mộtphần, cho những mặthàng tiêu dùng đó.Trongquátrìnhnày,sự
bùngnổhàngtiêudùngxảy ra cùng với việchợp lý hóa các sảnphẩmđầura.TháiLanlàmột nền kinh tế lúagạo cùng với một vàimỏ thiếc ở miền nam,Malayakhai thác thiếcvà cao su, Philippines
sảnxuấtđườngvàdừa,Java trồng mía đườngvà cà phê, và Sumatraở miền tây Indonesiatrồng thuốc lá và caosu.Hàngtiêudùng,vậtliệu xây dựng và máymócđượcnhậpkhẩutừchâu Âu và Hoa Kỳ
trong quá trình nàyđược hỗ trợ bằng cáchhạ thuế nhập khẩu.Tình trạng này thậmchíđượclặplạiởTháiLan không phải thuộcđịa, áp dụngmức thuếnhậpkhẩu thấpnhất là3% đối với hàng hóa
sản xuất công nghiệpchođếntậnnăm1926.Khi Hoa Kỳ nắmquyền kiểm soát ởPhilippines vào năm1898, Washington kếthợp thuế nhập khẩuthấp với hạn ngạchxuất khẩu có bảo lãnh
cho mặt hàng đườngmía của Philippines,tiếp tục chú trọng hơnđếnviệcưutiênđốivớixuất khẩu những mặthàng tiêu dùng cơ bảnvà nhập khẩu nhữngmặthàngsảnxuấtcôngnghiệp có giá trị gia
tăngcaohơnvàoĐôngNamÁ.
Không bao giờ nên bỏqua ảnh hưởng của tấtcả những điều này.Hầu như không có sựkhuyến khích đầu tưvào sản xuất côngnghiệpởĐôngNamÁ.
Những nhà thực dânthíchbánhànghóasảnxuấtởthịtrườngchínhquốc của họ trong khinhững doanh nhân địaphương chẳng hứngthú tranhđuavớihàngnhập khẩu được miễnthuếhoặcchịu thuếrất
thấp.Ngược lại,giácảcácmặthàngtiêudùngtăng làm cho việc vậnhành các đồn điền vàhầmmỏ,cũngnhưcácdoanh nghiệp dịch vụcó liên quan, trở nênhấp dẫn. Các doanhnghiệp TrungQuốc và
châuÁkhácvẫncứtậptrung vào kinh tế dựatrên buôn bán vì họ lànhững “thương giabẩm sinh”, và vì sảnxuất công nghiệp cónhiềurủirohơnvàkhólàm hơn. Trong quátrình Chiến tranh Thế
giới thứ hai, câuchuyện kinh tế vĩ môcủaĐôngNamÁlàsựmở rộng thươngmại –bằng chứng là thời kỳbùngnổcủaSingapore,tăngtrưởngthươngmạitrung bình từ 67 triệuđôlamỗinămvàonăm
18711873 lên tới 431triệu đôla vào nhữngnăm 19001902, nhưngkhông có một bướcnhảy vọt nào về sảnxuất công nghiệp.James Ingram, sử giakinh tế, đã mô tả tìnhhình ở Thái Lan vô
cùngsúctích:
Chúngtađãthấynhiềuthayđổitrongnềnkinhtế của Thái Lan hàngtrăm năm qua[18501950], nhưngkhông có nhiều “tiếnbộ” với ý nghĩa có sựtăng thu nhập bình
quântrênđầungười,vàkhông có nhiều “pháttriển” với ý nghĩa sửdụng nhiều vốn liênquan đến lao động vàcác kỹ thuật mới.Những thay đổi chủyếu là việc sử dụngtiền bạc trải rộng, sự
chuyênmônhóavà sựtrao đổi tăng chủ yếunhờ vào thị trường thếgiới, và nạn phân biệtchủng tộc trongnhữngngười lao động cũnggia tăng. Dân số tăngnhanh chủ yếu đượcthu hút vào trồng trọt
lúa gạo… Với đa sốcácvùng,thayđổikinhtếxảyrađểđápứngsựkíchthíchtừbênngoài.Thái Lan là một thựcthểbịđộng,đangthíchnghi với những thayđổi và ảnhhưởngxuấtpháttừkinhtếthếgiới.
Có ít sáng kiến bắtnguồntừnộitại,vàhầuhết phản ứng để thíchnghi với ảnh hưởng từbên ngoài đã xảy ratheocáchtruyềnthống.
Những đại gia chỉ lànhững người đồnghành với tình trạng
này, là người hỗ trợtrong một trò chơi màtrong đó họ không cóchút ảnh hưởng gì đốivới luậtchơi.Họkiếmlợi với tư cách lànhững cá nhân, nhưngvề tổng thể, những cáihọđượcchẳnglàgìso
với những cái mà cáccông ty lớn của châuÂu kiếm được. Vìnhững công nghệ mớicần đầu tư vốn vàodoanh nghiệp nhiềuhơn, nên đầu thế kỷXX, những đại giacũng phải chịu áp lực
vì lợi thế truyền thốngcủa công nghệ mới làtạo ra sản lượng lớn,chi phí cho lao độngnhập cư thấp. Khaithác thiếc, lĩnhvựcmàLục Hữu đã làm ănphát đạt, là một ví dụđiểnhình.Ôngtathành
lập một đội quân hơnmột vạn công nhân,cung ứng cho họ mọithứ, từ chỗ ở tạm chođến thực phẩm vàthuốc phiện. Nhưngviệc phátminh ramáyđào vét chạy bằng hơinước, cùng với tình
trạng cạn kiệt củanhững mỏ lộ thiên dễkhai thác, đã thay đổibản chất của doanhnghiệp từ thập kỷ thứhaicủathếkỷXX.Vàonăm 1920, ở bán đảoMalaysia có 20 máyđàovétcóthểlàmviệc
tới chiều sâu khoảng20 mét, và năm 1930đã có hơn 100 máy.Những nhóm khai mỏngườiTrungQuốckhaithác lộ thiên trướcđâykhông thể cạnh tranh.Đa sốkhông cónguồnvốnđầutưcầnthiếtđể
mua sắm trang thiết bịvà thậm chí nhữngngười có thể, như LụcHữu, cũng đã mất đilợi thế so sánh của họnếuphảitừbỏmôhìnhlao động cường độcao.
Tầm quan trọng việc
tiếpcậnnguồnvốnlớncủa các doanh nghiệphồi đầu thế kỷXX trởthành hiển nhiên trongkhắp khu vực. Nhữngdoanh nhân TrungQuốcđã cạnh tranh cóhiệu quả khi sản xuấtnông nghiệp dựa trên
mộtquymô tươngđốinhỏvàsựđầutưtươngđối khiêm tốn. Nhưngkhi nhữngđồnđiền cólãi nhất được nhân lênvề quy mô, khai mỏđược cơ khí hóa vànhữngcontàuhiệnđạităng lên cả về kích
thước lẫn sự phức tạpkỹ thuật, một rào cảnmới về vốn đầu vàotăng lên. Nói chung,những người sẽ là đạigia châu Á đã bị đẩylùi bởi những đối thủchâuÂucủahọhồiđầuthế kỷ XX và Chiến
tranhThếgiới thứhai.Ví dụ, ở Thái Lan,nhữngcôngtychâuÂuđến thâu tóm các lâmtrường gỗ và nhà máyxay xát, nơi trước kiangười Miến Điện vàTrung Quốc đã từngthốngtrịvớihoạtđộng
quy mô nhỏ; nắm giữngành công nghiệpluyện thiếc với nhữngnhàmáy lớn trở thànhtiêuchuẩnkhuônmẫu;vàthâutómngànhvậntải biển ở nơi mànhững chiếc thuyềnbuồmcủaTháiLanvà
Trung Quốc đã mộtthờithốngtrị.Lĩnhvựcduy nhất mà ngườiTrungQuốccòncóthểkiểm soát là nhữngtrang trạicóđóng thuếlợitức,nhưngvàocuốithế kỷ XIX cũng phảichuyểnsangcácdựán
thương mại mới, chủyếu là do các thiết bịcần vốn đầu tư tươngđối rẻ và người tiêudùng chủ yếu của cácsảnphẩmnàylàcưdânTrung Quốc sống ởMalaya, Singapore vàHồngKông.
Những ngân hàng dongười Châu Âu nắmquyềndẫnđầulàNgânhàng Hồng Kông vàThượng Hải, Ngânhàng Hoàng gia ẤnĐộ,AustraliavàTrungQuốc – hầu như kìmhãm tất cả hoạt động
củahọđốivớitàichínhthương mại. Các côngty lớncủaMỹvàchâuÂucũngnângvốnđầutưcủahọởchínhquốc.Các ngân hàng thuộcđịa cũng có một cuộcchạy đua hiệu quả khiđếngiaodịchvớiđasố
người châu Á. Một tỉphú đã tám mươi tuổinhớ lại thời kỳ trướcđộc lập: “Đối với mộtdoanh nhân TrungQuốc, được diện kiếncácôngchủngânhàngngười Anh cũng ghêgớm như được diện
kiến Chúa Trời.”Những người theo đạoChettiar và Sikh củaẤn Độ nhanh chónglàmnghềchovaynặnglãi ở trong vùng. Họthiết lập một đườngdây tín dụng cho cưdânđịaphương,nhưng
ápđặtmột lãisuấtcaohơn rất nhiều so vớingườichâuÂu.MộtsốngânhàngTrungQuốcphát triển vào hai thậpniên đầu của thế kỷXX,nhưngchúngcũngbị bóbuộcmôi trườnghoạt động. Không có
một ngân hàng trungương để cho vay trựctiếp.Khicácngânhàngthương mại được thảlỏng tạm thời, có mộtthực tại là đa số cácnướcĐôngNamÁ lạiđiều hành các ủy bantiền tệ để tiếp tục cho
vay hạn chế. Hậu quảcủahệthốngnày–vẫntồn tại ở một số quốcgia trên thế giới chođếnngàynay– là trựctiếp tróibuộcđồngnộitệvàosựcungứngchotrao đổi ngoại tệ. Khilượngtraođổingoại tệ
từ những mặt hàngxuấtkhẩusuygiảm,thìsự cung ứng nội tệcũng giảm.Với giá cảcảmặt hàng tiêu dùngthayđổi nhanh, và cácnướcĐôngNamÁphụthuộc nặng nề vào chỉmộthoặchai loạihàng
xuất khẩu, nguồn cungứng tiền cũng thayđổitương đương. Cơ sốtiền tệ ở Malaya giảmmộtnửavàođầunhữngnăm1920, phần lớnvìgiácaosugiảm.Dosựdao động lên xuốngnhư vậy, những ngân
hàng địa phương giữkhoảngmộtnửasốtiềngửi để chuyển thànhtiền mặt, thay vì chovay. Các ngân hàngquốctếkhônggặpphảinhững vấn đề đó. Và,bất chấp sự thận trọngcủahọ,đasốcácngân
hàng Trung Quốc ởMalaya và Philippinessụp đổ vì tình trạngđìnhđốnđóvàvìcuộckhủnghoảnghànghóanhữngnăm1930.
Trướckhicótìnhtrạngđình đốn đó, kinh tếĐôngNamÁ đã bùng
nổmộtcáchlẻtẻtrongsuốt 40 năm. Đây lànguồn lực dồi dào chonhững người sẽ trởthànhbốgià,nhưngnókhông thể ngụy trangđược một sự thật là,một số khía cạnh củamôi trường hoạt động
đangbắtđầuchống lạihọ. Sự căng thẳng vềvốn của các doanhnghiệplớnxảyracùngvới sự xuống dốc củacáctrangtrạiphảiđóngthuế lợi tức mà theotruyền thống đã cungcấpluồngtiềnmặt,đưa
những người đàn ôngmạnh mẽ này trở lạiphạm vi của nhữngdoanh nghiệp thươngmại bình thường. Vàonhững năm 1920, thờicủanhữngnôngtrạiđãkết thúc. Đồng thời,việc chính quyền thực
dânmiễn cho các “thủlĩnh” của họ khôngphải thực hiện một sốnghĩa vụ, tự động xácnhận đại gia là ngườiđứng đầu cộng đồngcủa ông ta. Ví dụ, ởMalaya, ông trùm thủlĩnhcuốicùngđượcbổ
nhiệm vào thập niênđầucủa thếkỷXX,vàngười cuối cùng từchức ở thập niên thứba.Ởmộtmứcđộlớn,thể chế “thủ lĩnh” nàyđược thay thế bởi sựphát triển phòngthương mại Trung
Quốcởđịaphươngmànhững nhân vật chủchốt của nó đều lànhững doanh nhânhùng mạnh nhất.Nhưngthờikỳkhinắmchắc trong tay mộtdanh xưng thiếu táhoặc đại úy Trung
Quốc, và do đó đượcnhà cầm quyền thừanhậnlà“ngườiđượcuỷquyền”đãquađi.
Trong một số trườnghợp, đã xuất hiện dấuhiệucủasựchuyểntiếpsang một dạng ít phụthuộc vào bên ngoài
hơn của các doanhnghiệp do những đạigiathầukhoánnắmgiữtrong thập niên cuốicùng trước kỷ nguyênđộc lập. Hai trườnghợpđiểnhìnhxuấthiệnởSingaporelàHồVănHổ và TrầnGia Canh.
Những người này, lầnlượt sinhnăm1882và1874,đãxâydựngnênnhững doanh nghiệplớn không phải bằngcôngviệcmôigiớichocác thương gia hoặclàm chủ trang trại. Cólẽ, gây ấn tượngmạnh
hơn, họ đi vào buônbán các hàng hóa tiêudùng hơn là chỉ thamgia buôn bán cácnguyên liệu thô vàhàng hóa bán thànhphẩm. Sản phẩm códấuhiệuđặc trưngcủaHồVănHổlà“dầucao
conhổ”,mộtloạithuốcmỡchữabáchbệnhvàxoa bóp chỗ đau vẫncònđượcbán rộng rãi.ĐếchếcủaHồđãpháttriển một loạt thuốcchữa bệnh được phépbánmà không cần bácsĩ kê đơn như thuốc
chữa đau đầu, saysóng,đauhọngvàchữachứng táo bón.Ông tamởrộnghoạtđộngbánbuônvàbánlẻởHồngKông, Trung quốc đạilục, Java, Sumatra vàThái Lan. Từ thuốcmen, Hồ Văn Hổ mở
rộngsangxuấtbảnbáochíởkhắpkhuvực,đasố là báo chí tiếngTrung.
Trần Gia Canh cũngbắt đầu với các đồnđiền, nhưng khônggiốngcácnhàsảnxuấtchâuÁkhácthíchnghi
với môi trường thuộcđịa với tư cách lànhững nhà cung cấpcácmặthàngbánthànhphẩmhoặcnguyênliệuthô, ông ta quyết địnhsản xuất cao su dochínhmìnhtrồng.Trầncó các nhà máy sản
xuấtlốpxe,giàyvàđồchơibằngcaosuvàmởcácđạilýbánlẻnhữngsản phẩm đó. Tuynhiên, quyết định củaông ta khi tiếp nhậnnhững nhà sản xuấtchâu Âu, Nhật và Mỹmàkhôngcósựbảovệ
thuế quan, góp phầnlàm suy giảm lợi íchkinh doanh chính củamình trong tình trạngtrì trệ. Ông đã cónhữngnỗlựcdũngcảmđể chống lại hệ thốngnày, nhưng đều thấtbại.
CHỦ NGHĨA DÂNTỘC VÀ GIAICẤP: KHÚC DẠOĐẦU
Trần là một đại giadoanh nhân TrungQuốc ở nước ngoài cótính hiếu kỳ khácthường, vàduy tâmvề
mặt chính trị. NhữngcuộcviếngthămTrungQuốc thời trước năm1949 đã thuyết phụcông hỗ trợ nhữngngười cộng sản theoMao Trạch Đông, vànăm 1950, ông rời bỏSingapore để sống nốt
quãng đời còn lại ởnước Cộng hòa nhândânTrungHoa,vàmấtnăm 1961. Đây khôngphảilàmộtkhuônmẫutrongnhữngcộngđồngngười châu Á gốcTrungQuốc,nơi thànhcông tột đỉnh thường
liên kết với khả năngkhẳng định với chínhquyền địa phương nhưmộtphươngtiệnđểđạtđược mục đích. Lậptrường quan điểm củaTrần Gia Canh là mộtsự kiện gần như độcđáođượckhuyếnkhích
bởimộtkỷnguyênmànhững doanh nhânkhôngcònchịuơnthựcdânbanphátgiấyphépvà những trang trại cóđóng thuế lợi tức, khichủnghĩadântộcđangthựcsựtrỗidậyởkhắpkhu vực. Tuy nhiên,
theo quan điểm củangười Trung Quốc ởhảingoạithìchủnghĩadântộclàmộtcondaohai lưỡi. Sự trỗi dậycủa nó ở các nướcĐông Nam Á có thểchỉ tập trung sự chú ývàovai tròkinh tếcủa
người TrungQuốc. Sựtăng trưởng hiện thờicủaýthứcgiaicấptiếptục soi sáng thêm sựthống trị của tầng lớptinh hoa trong kinhdoanh và chính trị.Không điều gì trongnhững năm 1930 báo
trước rõ ràng cho cácđại gia. Tuy nhiên,kinh nghiệm thực tếcho thấy những cấutrúc quyền lực truyềnthốngsẽgiữchonhữngthách thức của chủnghĩadân túychính trịvẫn còn nguyên vẹn.
Trườnghợpnàyđãxảyra ở Thái Lan trướcChiến tranh thế giớithứhai.
Tình trạng suy thoáikinh tế toàn cầu, chứkhông chỉ riêng nhucầu về hàng hóa tiêudùng,đãthúcđẩycuộc
đảo chính không đổmáuởTháiLanxảyravàotháng6năm1932,thay thế chế độ quânchủ lập hiến bằng chếđộ quân chủ chuyênchế. Đảng Nhân dânnắm chính quyền vớichương trình nghị sự
đã được công khaituyên bố để bảo vệquyền lợi của nhữngngười dân thường.Chương trình này cómộtmàusắcchủngtộcrấtđậm.“Kinh tếTháicho người Thái” trởthành câu khẩu hiệu
trong các cuộc chạyđua chính trị nhữngnăm1930.Thựctế,chủnghĩadântộccủaTháiLan là chất men saycủamột thời.Nhà vuaRamaVI,ngườicai trịvương quốc từ năm1910 đến 1925, đã
nhiềulầnđượcnêulàmvídụchothuyếtchủngtộcđãcóthờiphổbiếnở châu Âu. Tác phẩmcủa WilliamShakespeareNgười láibuôn thành Veniceđược dịch sang tiếngThái và một luận văn
nói về người TrungQuốc ở châu Á vớinhan đề Những ngườiDo Thái của phươngĐông (1914) đã đượcphổ biến. Tuy nhiên,những điều đã trởthành hiển nhiên, vớitư cách là những biện
pháp hạn chế đã đượcthực hiện để chống lạingười Trung Quốc, lànhóm tinh hoa gốcTrungQuốc đang ở vịtrícóthểthíchnghi.
Sự di cư hàng loạt bịthắt chặt lại sau năm1932 bằng việc tăng
chi phí đăng ký nhậpcưvàhạnchếthờihạncư trú. Sau tình trạngđình đốn trên toàn thếgiới, các chính sáchnày vừa giảm bớt việcnhập cư và xúc tiếnviệctrởvềTrungQuốccủanhiềulaođộngtạm
trú. Tầng lớp tinh hoagốc Trung Quốc phảiđương đầu với mộtchương trìnhquốchữuhóa mạnh mẽ trongnhững doanh nghiệpmà họ đang thống trị,bao gồm sản xuấtmuối, thuốc lá và gạo.
Tuynhiên,khi sự thayđổi chính trị đã kếtthúcuythếkinhtếcủacác gia đình canh táctrang trạicóđóng thuếlợi tức, nó không làmxóimònuythếkinhtếcủa cộng đồng cácdoanh nghiệp Trung
Quốc rộng lớn.Nhữnggiađìnhmớiđộtpháđểtừ những thương giaTrung Quốc trở thànhnhững đối tác tích cựccủa chính phủ trongviệc quản lý nhữngdoanh nghiệp “nhànước” mới. Những
quan chức quan liêungườiTháikhôngđịnhlàm nhơ bẩn thêm bàntay của họ với thươngmại.Chínhphủthuêvàmuanhữngnhàmáy,xínghiệpdongườiTrungQuốc sở hữu trongnhiều ngành, nhưng
hầu hết các doanhnghiệp đó vẫn dongười Trung Quốcquản lý, trong khi sựtậptrungvàohànghóađộcquyềndonhànướcdẫndắtthườngđẩygiácảvàlợinhuậnlêncao.“Kinh tế Thái cho
người Thái” không cónghĩa là công bằng xãhội tăng lên; nó chỉ làsự điều chỉnh lại cáchđối xử giữa nhữngngười thuộc các tầnglớp tinh hoa. Nhưnhữngghichépcủasửgia kinh tế Suehiro
Akira: “Dù chủ ý banđầunhưthếnàođinữa,cụm từ “những ngườiThái”khôngphảidùngđể chỉ nhân dân nóichung cũng như nôngdânTháiLan,mànócónghĩalàcácquanchứcnhà nước hoặc một
nhóm chính trị gia cụthể.” Suehiro đã tiếnhànhmộtkhảosátthấuđáo những công ty bịquốc hữu hóa trongthờikỳnàyvàchothấyhầuhếtcáccổđôngvàgiám đốc người Tháitrởthànhđảngviêncủa
Đảng Nhân dân, hoặcnhữngngườithuộcphehọ,trongkhinhữngđốitáccủahọluônluônlàcác gia đình đại giangười Trung Quốc.Ông kết luận: “Ở cấpđộ những người lãnhđạo doanh nghiệp
Trung Quốc, một sốnhóm có thể khéo léochuyểnđổiquyềnkiểmsoát của nhà nướcthành một công cụ đểmở rộng những doanhnghiệpcủahọ…Trongsựtraođổiđểcungcấpnhữngkỹnăngquảnlý
và vốn, những ngườilãnhđạodoanhnghiệpTrungQuốccóđượcsựan toàn cũng như sựbảotrợchínhtrị.”
Nhữngđại gia đã từnglà nhữngngười thu lợitứctừnhữngngườilaođộng tự do cho triều
đìnhTháiLan,bâygiờtrởthànhnhữngđốitácliên doanh của chínhquyền quan liêu TháiLan. Điều đó đặt rahình mẫu cho chế độđộc tài quân sự ở kỷnguyênsauchiếntranh,vận hành từ 1947 đến
1973. Tuy nhiên, dướisự quản lý của quânđội, quy mô sự thamgia của nhà nước vàokinh tế ở dạng nhữngdoanhnghiệpkéo theobè phái quân đội vàcảnh sát khác nhau vàmức độ hợp tác với
giới lãnh đạo doanhnghiệp gốc TrungQuốc trở nên lớn hơnso với dưới thời chínhphủdânsựtrước1947.Chính quyền quân sựkhông phải là nhữngnhà quản lý lợi nhuậncủa họ được lấy từ cổ
phầnvàcácchứcgiámđốc–nhưngsứcmạnhchính trị cho phép họxác lập các điều kiệncho hoạt động kinhdoanh. Ví dụ như, vớinhững mặt hàng tiêudùngchủyếu,từthuốclá đến thịt lợn, những
mặt hàng độc quyềnphân phối được quyđịnh,cónghĩalànhữngcartelcủangườiTrungQuốc có thể tự kiểmsoátviệcđịnhgiá.Vàonhững năm 1950,những lĩnh vực mởrộng chính của chính
quyền quân sự vàTrung Quốc là ngânhàngvàbảohiểm,phíachính quyền quân sựcung cấp dịch vụ bảovệvàphíaTrungQuốchưởnglợitừviệcthoátra khỏi sự cạnh tranhvới nước ngoài, tiếp
cận nguồn vốn nhànước và đảm bảo vaitrò cung cấp tài chínhcho các công trìnhcông cộng.Quy tắc cơbản của trò chơi, nhưSuehiro ghi chép, rấtđơn giản: “Không cónhàtưbảnTrungQuốc
hàng đầu nào có thểsốngsóthoặcmởrộngdoanh nghiệp của họmà không cần liênminhvới tầng lớp tinhhoa cầm quyền ởTháiLan.” Đây là một cáigiánhỏphảitrảnếunócũngcónghĩa–nhưở
những nước khác – làmột khả năng giữ chonhững công ty Mỹ vàchâu Âu không xâmnhập được vào thịtrường.
ĐẦU TIÊN LÀMỘT CUỘC CHIẾNTRANHDỄCHỊU
Tuy vậy, trước khinhững ông tướng TháiLan lên cầm quyền,Chiến tranh Thế giớithứ hai, tác nhân lớnnhấtcủasựthayđổivềchính trị trên phạm vitoàncầuvàothếkỷXXđã xảy ra. Đông Nam
Á cũng không phải làmột ngoại lệ. Chiếntranh đã đến cùng vớicuộcxâmlượccủacácđộiquânNhậtBảnvàokhu vực tháng 12 năm1941, có nghĩa là tròchơi đế chế doanhnghiệp đã kết thúc.
Mặc dù ngườiNhật bịđánh bại sau ba nămrưỡi, nhưng có quánhiềuthayđổivàothờigian này.Một mặt, sựvắng mặt của nhữngnhàquảnlýngườiAnh,HàLanvàMỹtạorasựthúc đẩy lớn cho nền
chính trị dân tộc chủnghĩa; mặt khác, tìnhhình trên đã tạo ramảnhđấtphìnhiêuchonhữngdoanhnhântháovát. Một thế hệ mớicủacácđạigiađãsớmtạo nên vận mệnh củamình từ những cơ hội
buôn lậu và hoạt độngđầu cơ tích trữ bởi cóxungđộtvànhữnghậuquả của nó. NhữnghoạtđộngnàytậptrungvàoSingaporevàHồngKông, hai hải cảngthenchốt.
Như một trong những
ngườigiàunhấtchâuÁđươngđạinhớlại:“Đólàmột thờigian rất tồitệ.” Mặc dù không kểchi tiết về các hoạtđộng buôn lậu của giađình ông ta trong thờigian có chiến tranh,ôngtanhấnmạnhrằng
một thương vụ cungcấp hoa quả và rauxanh cho 80.000 tùnhân người Nhật saukhi chiến tranh chấmdứt làmột cơ hội lớn.Buôn lậu, buôn bántrong chiến tranh, việcmua bán thiết bị quân
sự dư thừa và các hợpđồngtáithiếtsauchiếntranhvới nhữngkhoảntiền lót taykếchxùđãsớm tạo nên nhiều bốgià ngày nay. Mộttrongsốrấtítngườiđãtừng nói công khai vềthờigiannàylàStanley
Hà, vua sòng bạc tạiMacao. Câu chuyệncủa ông ta cung cấpthông tin bổ ích vềnhững khả năng đổimàunhưnhữngcontắckèhoacủatầnglớpcácbốgià.
Khi người Nhật xâm
chiếmHồngKông,báccủa Stanley là RobertHàĐông,đạigiatưsảnmại bản hàng đầumộtthời đã chuồn tớiMacao trung lập theomột lời mách nướcngầmcủaviên lãnh sựngười Nhật, người đã
nhận ra rằng sự chiếmđóngcầncósựhợptáccủacácbốgià.StanleyHà,mớimườitámtuổiđầu, được hồ sơ củangười Anh ở HồngKông ghi chép là mộtnhânviêntổngđàiđiệnthoại.Khi chế độ thực
dân sụpđổ, anh ta vứtbỏbộđồngphụcvàlênmột con thuyền chạysangMacao (trước khianh ta rời đi, quân độiNhật ở Hồng Kôngchặn anh ta lại bởi vẻbề ngoài laiÂuÁ củaanh ta; nhưng nhờ có
khả năng tiếng TrungQuốctrôichảynênanhtađãkhôngbịbắt làmtùnhânchiếntranh).ỞMacao, lúc bấy giờ làtrungtâmbuônlậukhuvựcHồngKôngTrungQuốc,bácRobertgiúpanh ta có việc làm.
Chẳng mấy chốc,Stanleykiếmđượcmộtvị trí thú vị hơn ởMacao,được thành lậpnhưmột liêndoanhbabên giữa người Nhật,bố già Pedro Lobo vàmột nhóm doanh nhânTrungQuốc.
Lobo, yếu nhân củadoanh nghiệp này, đãlàmchophẩmchất tắckè hoa của StanleyHàlộ rõ. Về mặt chủngtộc, anh ta là ngườiTrung Quốc Bồ ĐàoNha Hà Lan Mã Lai.Sinh ra ởĐông Timor
thuộc Bồ Đào Nha,được nuôi dạy trongmột trường dòng củaĐạoThiênchúa,vàrồitrở thànhđạidiệnkinhtế nhiều quyền hànhcủaHợptácxãMacao,và làmột đại gia hàngđầu, có hạm đội phi
thuyền và một âuthuyền riêng, cùng vớinhững đối tác ngườiTrung Quốc buôn bánvàng để kiếm lời. Stanley Hà ở trongmộtbènhómtuyệtvờivà học được rất nhiềuđiều. Hợp tác xã
Macaocungcấpnhữngtàu kéo, xà lan và cácdịch vụ vận tải kháccho quân đội Nhật ởQuảngChâu,vàchởvềgạo,vảivóc,bấtkỳthứgìđápứngnhucầucủacư dân Macao đangbùngnổ(cũngnhưcủa
cư dânHồngKông vànhữngnơikhác,nhữngngười đang đưa hànghóa buôn lậu ra khỏiMacao).
Vì đã nắm được nhiềuđầu mối, Stanley Hàbắt đầu buôn bán vớingườiNhậtđểkiếmlợi
riêngchomình.Anhtakiếm được đủ tiền đểmở một nhà máy dầuhỏa nhỏ, nó trở thànhmột cái môn bài đểkiếmtiềnsaukhingườiMỹ ném bom đườngống xăng dầu củaMacao tại vùng biển
ngoài cảng. Stanley cóđược vỏ bọc chính trịvìanhtadạytiếngAnhcho Đại tá Sawa, thủtrưởngcơquanmậtvụNhật(Kempeitai)đóngtại địa phương, và cóquyềnlựcchínhtrịthậtsự ởMacao. Họ tuyên
bố anh ta chỉ một lầnnhờ Sawa can thiệp,khi người chỉ huy hảiquân Nhật ở địaphương cố gắng lẩntránhviệccấpphátgạomà ông ta nợ, để đổilấy một số máy móc.Thế là Stanley có gạo.
Có nhiều thời điểmkhủng khiếp trong cácchuyến buôn lậu củaStanley, và các cuộchành trình buôn bánngược sông Ngọc vànhiềusôngnhánhkháccủanókểcảmộtlầnbịcướp biển tấn công
nhưng Stanley vẫnsống sót và phát đạt.Theo những ngườiquen biết Stanley kểlại,anhtabuônbánđủthứ, từ vàng cho đếnmáy bay. Vào cuốichiến tranh, phái viêncủa Đảng dân tộc chủ
nghĩa Trung Quốc cốgắng buộc tội Stanleylà cộng tác viên củaNhật, nhưng Stanleyphủ nhận. Ủy viêncảnhsátMacaotinvàotrường hợp của anh tavàbắtnhữngpháiviêncủa Đảng dân tộc chủ
nghĩa vào tù thay.Stanley Hà vẫn tiếpbước trên con đườngtrởnêncựckỳgiàucó.ÔngtađãvuivẻkểchonhàsửhọcPhilipSnowvàonăm1995:“Tôiđãkiếm được rất nhiềutiềntừcuộcchiếntranh
này.”
Một điều vĩ đại củachiến tranh, theo quanđiểm của các doanhnhân, là nó không baogiờ thật sự chấm dứt.Có một thời kỳ hỗnloạn, tồi tệ của chínhquyềnquânsựcủaphe
đồng minh sau khicuộc chiến tranh TháiBìnhDươngchínhthứckhéplại;vàsauđó,vàonăm 1950, cuộc xungđột ở Triều Tiên bắtđầu. Năm 1951, Liênhiệp quốc áp đặt lệnhcấm vận thương mại
đối vớiTrungQuốcvìcấu kết với Bắc TriềuTiên, tạo ra một nềncông nghiệp buôn lậukhổnglồtậptrungcảởMacaovàHồngKông. Stanley Hà tiến hànhcác phi vụ buôn lậu,vận chuyển tôn lá, lốp
cao su, và một sốlượng lớn vadơlin vàoTrung Quốc. Đối táctương lai của ông ta ởMacao, người giữ độcquyền về đánh bạc, làHenry Hoắc, trở thànhngười chinh phụcnhững phê chuẩn, đại
gia trên quy mô lớn,vận chuyển một sốlượng lớn các sảnphẩm dầu mỏ, thuốctây,và–mặcdùôngtaluônkhôngthừanhận–cảvũkhínữa.Điềutraviên của Tạp chí Thờiđại hồi tháng 8 năm
1951pháthiện“nhữngtàuchởhàngtrênsôngChâu tuần trước chấtđầy những đường raythép, kẽm tấm, nhựađường, cao suIndonesia, bôngPakistan, xe tải Mỹ,ống thép”. TạiMacao,
bơmdầu tại âu thuyềnvận hành suốt ngàyđêm, hàng trăm côngnhân âu thuyền HồngKôngđượcthuêđểđápứng yêu cầu này, và“những tiệm hút thuốcphiện có điều hòakhông khí đang phát
đạt”.
Ngoài Stanley Hà vàHenryHoắc,cótinđồnliên quan đến việcbuôn lậu của một sốgia đình doanh nghiệplớnởHồngKôngcũngnhư ở Singapore –chính quyền địa
phươngkhôngbaogiờcómột vụ khởi tố lớnnào. Chính phủ HồngKông bịWashingon lalối vì không hànhđộng, và bị chính phủAnh tại London chỉtrích, nhưng họ tuyênbố rằng tình trạng này
vượtquátầmkiểmsoátcủa họ. Suy cho cùng,kinh doanh là thế,Hồng Kông vàSingapore là như vậy,mặc dù một hoặc haingười tham gia buônlậu bị lương tâm cắnrứt. John Cheung, đối
tác người Trung Quốccủangườithaotúngthịtrường chứng khoánmột cách vô đạo đứcvà ông chủ củaWheelockMarden làGeorge Marden ởHồng Kông được cholà đã bán nhiều loại
dược phẩm đáng ngờtrong suốt Chiến tranhthế giới thứ hai vàChiếntranhTriềuTiên.Ông ta đã sống trongsợ hãi suốt cuộc đờicủa mình. SimonMurray, cựu giám đốcđiềuhànhcủatậpđoàn
Hutchison tại HồngKông, nói rằng mìnhđã tớimột cuộc họp ởquê John Cheung vàchứng kiến ông sốngtrong một căn phòngkhông cửa sổ với cáigiường đặt ngang cửaravào.
Ở Singapore, tấmmànbímậtxungquanhviệcbuôn lậu thời chiếntranh được vén caohơn. Đảo quốc này,trung tâm hậu cần củamột vùng bị chia táchtừ thế kỷ XIX thànhnhững đơn vị kinh tế
chuyên về các sảnphẩm công nghiệp vànôngnghiệpkhácnhaucũng có nhiều tiềmnăngchoviệcbuônbántrái phép như HồngKôngvàMacao.Cóvôsố lợi lộc cho nhữngngười có thể lén lút
chuyểngạodư thừa từThái Lan sangMalayađang thiếu đói haymang hàng côngnghiệp ra khỏiIndonesia. Một ngườitâmphúccủanhómcácđạigiađịaphương,bảntính trầm lặng, đã 80
tuổi, không nhiệt tìnhkhibànvềchủđềnày,nhưng có lưu ý rằngđàikỷniệmhìnhthápởphía trông ra biển củaSingapore được cácdoanh nhân dựng lênđể tưởng nhớ nhữngngười Trung Quốc bị
người Nhật giết hại“phần lớnđược chi trảbằng tiền của nhữngngười buôn lậu”. MộttrongnhữngngườibạncủagiađìnhhọQuách,người hiện có hai đứacon sinh đôi QuáchLệnh Minh và Quách
Lệnh Xán, đều là tỉphú, nói rằng tộctrưởngthờichiếntranhKwek Hong Png“khôngbaogiờ thậtsựphủ nhận” rằng nhiềutài sản của ông ta cóđược bắt nguồn từbuôn lậu cao su
Indonesia và buôn bánvới ngườiNhật. TrongcuộcChiếntranhTriềuTiên, rất nhiều cao sutìm được đường tớiTrung Quốc, nhưnhững ghi chép củabáo Thời đại năm1951.
Chiến tranh Thế giớithứ hai kết thúc, ởIndonesia nó biến đổithành cuộc chiến tranhgiải phóng dân tộcchống lại Hà Lan,những người đang cốgắng tái kiểm soátthuộcđịacủahọ.Điều
nàychỉ tạo thêmnhiềucơ hội cho nhữngngười buôn lậu tạiSingapore. Nhiều vũkhí được sử dụng bởicác lực lượngIndonesia đến từ bánđảoMãLai, nơi đã cómộtnguồncungcấpvũ
khídưthừacủaAnhvàNhật. Đó là nhữngthương gia TrungQuốc, thường hoạtđộng giữa Singaporevà Sumatra, nhữngngườinắmgiữviệcvậnchuyển vũ khí, thuốcmen và thực phẩm.
BáocáocủaChínhphủHàLanđươngthờichothấy giá cả trao đổihànghóachoviệcbuônlậuvũkhíđãđượcxácđịnh cẩn thận: Ví dụ,một tấn cao su cho bamươibăngđạn,haitấncho một súng trường.
Việc buôn bán nàymang lại siêu lợinhuận, và những contàu do các doanhnghiệp lớn sở hữu đãthamgia tíchcực.MộtcontàulớnthuộccôngtyconcủaLeeRubber,doconrểcủaTrầnGia
CanhlàLýQuangTiềnkiểm soát, được chínhquyềnHà Lan bắt quảtang đang nhập khẩuhàng hóa quân sựkhônggâyhạichoconngười tới Indonesiavàotháng8năm1946.Trương Minh Thiên,
một người Malaysiamới nổi lên là một bốgiàtrongkhuvực,chếtsớm do cuộc sống ănchơiquáđộ, trướcđâykiếm được rất nhiềutiền vì là kẻ buôn lậucao su lớn nhất ởIndonesia. Ko Teck
Kin, người cuối nhữngnăm1950đã trở thànhChủtịchPhòngthươngmại Trung Quốc ởSingapore cũng vậy.Saukhinộichiếnchấmdứt, Mohamad “Bob”Hassan là đối tác củamột đại tá sư đoàn
trưởng đóng ởSemarang tên làSuharto trong một phivụbuônlậumíađườngrất lớn, thách thứcchính quyền trungương. Suharto, ngườiđã tham gia buôn bánthuốc phiện trong thời
gian nội chiến, maymắnkhôngbịthảihồi.
Tuy vậy, buôn lậukhôngphảilàcáchduynhất để kiếm tiền thờicó xung đột. Ở cácthuộc địa Anh, chiếntranhkếtthúcđãmanglại cho chính quyền
quân sự Anh, đã rấtmệtmỏi,vàđôikhi cảnhững sĩ quan thamlam có ít hoặc khôngcó kinh nghiệm kinhdoanh, các hợp đồngmua sắm hoặc xâydựng béo bở. Sựnhượng bộ kinh doanh
đểnuôi80.000tùnhânchiến tranh, được đềcập ở phần trước, đãđược hai sĩ quan củakhối Thịnh vượngchungquyếtđịnhtrongvài giờ đồng hồ. Vàothời gian chính quyềnquân sự Anh ở những
lãnh thổ khác nhau bịgiải tán, hoặc một sốtrường hợp sau này,việc bán đấu giá cácthiếtbịquânsựvàdânsự dư thừa cũng giúpcácđạigiamớinổithuđược bạc triệu. Trướckhi trở thành một
người hùng buôn lậu,Henry Hoắc là ngườihưởng lợi đầu tiên củanhững cuộc bán đấugiáởHồngKông.
Ở Hồng Kông lưutruyền giai thoại rằngFok sinh ra trên mộtchiếc thuyền tam bản
và không được họchành tử tế. Trên thựctế, anh ta đã thi đỗ vàđược học bổng củaTrường cao đẳngHoàng gia dành chotầng lớp tinh hoa củaHồng Kông nằm trênđường Bonham, ở đó
anh ta học tiếng Anh,vìthếcókhảnăngđọccác nhật báo về bánđấu giá. Các cuộc đấugiá rẻ sau chiến tranhlà công việc kinhdoanh nghiêm túc đầutiên của anh ta. ỞMalaysia, đại gia sòng
bạcđầyquyềnlựcLâmNgô Đồng thừa nhậntrong tiểu sử chínhthức của ông ta rằng,ông ta trở nên tinhthông trong việc sắpđặt các cuộc bỏ thầucho bán đấu giá sauchiến tranh bằng cách
làmviệcvớicácnhómbạnbè.Ôngtagặpmayngaylầnđầutiêntrongthương vụ bán máy ủiđất, cần cẩu, và cácthiết bị tương tự, hoặcsửdụngnóđể trangbịcho công ty xây dựngcủamình.
Đó là một người cóhọc,lắmtiềnnhiềucủavà cũng là một ngườitheochủnghĩathếgiới,người kiếm được lợinhuận nhanh nhất nhờchiến tranh. Ở HồngKông, những thànhviên của tầng lớp tinh
hoa Trung Quốc ở địaphươngđãgặpmaybởimua hết “những đồngtiềngiấyépbuộc”đôlaHồng Kông do nhữngchủ ngân hàng địaphươngpháthànhdướisự chỉ đạo của Nhậttrước khi người Anh
nắm lại chính quyền.Tiền giấy được muavới giá chỉ bằng mộtphầnnhỏcủamệnhgiághi trên tờ tiền, vớimong đợi khi chínhquyền thựcdân trở lại,sẽ có cơ đội để thuyếtphụchọ tônvinhđồng
tiềnnàyvới tư cách làphương tiện để phụchồi “sự ổn định củanềnkinh tế”.Vàonăm1946, việc này bị đưara tòa án. Ngân hàngHồng Kông đã mua119 triệu đôla HồngKông với đúng mệnh
giá ghi trên tờ tiền.Mộttrongnhữngngườihưởng lợi đầu tiên làSiknin Châu, một bácsĩ phẫu thuật kiêmdoanh nhân đã đượcđàotạoởViênvàLuânĐôn, là con trai củaShouson Châu người
TrungQuốcđầutiênởHồng Kông được bầuvàoỦybanHànhphápHồngKông.
Ngoàinhữnglợinhuậnngắn hạn mà nó sảnsinh, Chiến tranh Thếgiới thứ hai báo trướcmột sự thay đổi mạnh
mẽtrongbốicảnhkinhdoanhởĐôngNamÁ,vìcósựđổichỗvề lợiích của người Mỹ vàngười châu Âu trongthời kỳ mở rộng. Chođến cuối cuộc ChiếntranhTháiBìnhDươngtháng Tám 1945,
những doanh nhânnước ngoài nếu khôngchết trong cuộc chiếnthì cũng bị quản thúchoặc bắt buộc lưuvong, nhưng nhữngngườitrởlạilàmviệcởĐông Nam Á thườngkhông bị như vậy cho
đến khi đình chiến.Trong khi đó nhữngdoanh nhân châu Á,tiêu biểu là người gốcHoa được chính phủthuộcđịachấpnhậnhọvới vai trò trung giangiữanhữngnềnkinhtếtrồngtrọtởđịaphương
và kinh doanh theokiểu làm ăn lớnphươngTây,đượctraotặng những cơ hội đểthayđổiđịavị củahọ.Ví dụ, ở Thái Lan, 14ngân hàng và 25 côngtybảohiểmđược thiếtlập giữa những năm
1943 và 1952, hầu hếtdo những doanh nhângốc Trung Quốc quảnlý và được che đậybằng cách bầu nhữngquanchứccaocấpTháiLan làm chủ tịch hoặcủyviênhội đồngquảntrị. Sử gia Suehiro
Akira người Nhật đãnhận xét: “Khi ngườichâu Âu trở lại TháiLan, họ nhận ra rằngnhững ngành nghềchính, đặc biệt trongnhững lĩnh vực tàichính và thương mại,mà trước đây họ kiểm
soát thì bây giờ ngườiTrung Quốc hoặc ẤnĐộđangthốngtrị.”Sựchuyển tiếpnàykhôngsâu sắc lắm ở mỗinước, nhưng chiếntranh đã cải tổ trật tựkinh tế một cách sâusắcchưatừngthấy.
Dochiếntranhthếgiớivà xung đột ở TriềuTiên, Đông NamÁ salầy vào cuộc ChiếntranhLạnh–mộtcuộcđấu tranh chống cộngdoMỹ cầm đầu. Điềunày gây ra sự phânnhánh quan trọng và
sâu sắc hơn về lãnhthổ, bởi vì nó tạo ramột dòng tiền củaMỹchảyvàokhuvực.Sauđộc lập, ở Philippinescó hai căn cứ quân sựchính – hải quân đóngởvịnhSubicvàkhôngquân đóng ở Clark và
hàng tỉ đôla tiền việntrợ được rót vào khuvựcnày,phầnlớnđượcchế độ Marcos hưởnglợi.ỞTháiLan,tàitrợcủa Mỹ cho quân độiđược sự dụng để hậuthuẫnchocáiđượcgọilà một nhà nước “tiền
đồn” chống cộng, ủnghộ chế độ quân sựnhững năm 1950 và1960. Tất cả các quốcgia ủng hộ Mỹ trongkhu vực đều đượchưởng lợi, và các nhàchínhtrịvàdoanhnhânở địa phương được họ
bảo trợ.Mộtvídụcựcđoan ở Thái Lan liênquan đến PhaoSriyanonda.Ông ta trởthành phó Tổng giámđốc cảnh sát sau cuộcđảochínhquânsựnăm1947, rồi Tổng giámđốc vào năm 1951.
Phao sửdụng cácmáymóc quân sự do CIAcung cấp để thiết lậplực lượng cảnh sát vớinhững đơn vị khôngquân, hải quân và xebọc thép trong nhữngnăm1950,vàtrởthànhmột nghiệp đoàn buôn
lậu thuốc phiện lớnnhấtởnướcnày, trongkhiTháiLan trở thànhtrung tâm buôn bánherointoàncầu.Kháchhàng cỡ đại gia chủchốtcủaPhaovàngườibố vợ đầy quyền lựccủa ông ta là Marshal
Phin Choonhavan làChin Sophonpanich,người đã dựng nênNgânhàngBangkok,tổchức tài chính ngoàiHồngKông lớnnhấtởĐôngNamÁ,vàlànhàtài phiệt của nhiều bốgià sau chiến tranh,
nhưchúngtasẽthấy.
CHỦ NGHĨA DÂNTỘC VÀ GIAICẤP: SỰ KIỆNKHÔNG CÓ HỒIKẾT
Nếu Thái Lan nhữngnăm 1930 gợi ý rằng
những người dânthường không phải lànhữngngườihưởnglợichính của sự thay đổichính trị và sự chấmdứtchủnghĩathựcdân,thìnhữngnướccòn lạitrong vùng đã chứngminhđiềuđósauchiến
tranh. Chiến tranh làmộtchấtxúc tácmạnhmẽchoýthứcgiácngộchủ nghĩa dân tộc vàgiai cấp khắp khu vựcĐôngNamÁ.Nócũngchấm dứt cùng với sựtrỗi dậy của những ýtưởng mới về việc
chính phủ có thể canthiệpvàokinhtếđểsảnsinhrakếtquảđápứngnhững mong đợi phổbiến về công bằng xãhộivàdântộc.Vàtrêndanhnghĩa,đâylàmộtkỷ nguyên đầy kíchđộng.Nhữngnăm1950
chứng kiến phong tràocộng sản mạnh mẽ ởcác nước dân chủmớitrong khu vực Ủy bantình trạng khẩn cấpMalaya, một cuộc bạoloạn chính trị có vũtrang,bắtđầuvàonăm1948.Sukarno, lãnh tụ
sau độc lập đầu tiêncủa Indonesia đượcđảng cộng sản ở nướcnày ve vãn. Tư tưởngchống Trung Quốckhiến những ngườilãnh đạo chính trị bảnxứ nhận thấy rằngnhững động thái lập
pháp chống lại sựthống trị kinh tế củangười gốc Hoa là phổbiến. Tuy nhiên, bấtchấp tất cả, kinhnghiệm của Thái Lantrước chiến tranh đãcho thấy quan hệ làmăn truyền thống giữa
các nhóm tinh hoachính trị và kinh tếkhác nhau – nhữngngườiđãvượtquaranhgiới chủng tộc – là vôcùng bền vững; và nóđãđượcchứngminhởđâuđótrongkhuvực.
Những thửnghiệmvới
chế độ dân chủ ởPhilippines, Malaysiavà Indonesia và trướcđóởTháiLan–đãthấtbạikhixemxéttoànbộcấu trúc xã hội truyềnthống. Ở những quốcgia hậu thuộc địa,nhữngnhàthựcdânđã
không còn, nhưngnhững nhóm tinh hoachính trị người bảnxứmớivẫncaitrịvớicáchthức tương tự,mặc dùcó những lúc sự phânbiệtsắctộcvàquốcgiađãdẫntớibạolực.Cầnphải xem xét sơ lược
nhữngtháchthứcchínhtrị phổ biến liên quanđến các nước khácnhau ra sao mới hiểuđượccácnhà làmkinhtếcácđạigiađãtồntạinhưthếnào.
CÔNG ƯỚCBALIMBING
Philippines đã có sựkhởi đầu sai lầm vớichủ nghĩa dân tộc từlâu, trước cuộc đảochính ở Thái Lan năm1932, và chuyển sangnềnquânchủ lậphiến.Đã có một cuộc nổidậy mang tính cách
mạng chống lại ngườiTâyBanNhavàonăm1896. Nhưng quânphiến loạn đã khôngđoànkếtvàhànhđộngcủa họ có khuynhhướng phân quyền nócóvẻnhưchiatáchđấtnước ra, rồi lại nhập
vào như những bangđộc lập.Trongsựkiệnnày,cuộcnổidậyđượcloại bỏ bởi một cuộcchiến tranh năm 1898giữa Hoa Kỳ và TâyBanNha vớiCuba, đãđặtPhilippinesvào tayMỹ.Washingtonquyết
địnhgiữquầnđảonày.Trước hết, áp dụngphươngcáchđốixửtốtvới những nhà cáchmạng ở địa phương,sau đó mở một chiếndịch trong vòng hainămđểđànáphọ;mộtsố quân nhóm quân
phiến loạn quan trọngđược mua chuộc bằngtiềnmặtvàdođó,côngnhận chế độ mới. Vìnước Mỹ không trảiqua thời thuộc địa,cách thực tế duy nhấtđể điều hànhPhilippines là hợp tác
với những người môigiới của chính quyềnhiện hành. Do đó,nhóm tinh hoa ởManila và trong khuvựckhôngchỉquaylạikinh doanhmà họ cònlà một vũ đài trungtâm. Người Mỹ mang
đếnmộtyếutốcủachủnghĩa duy tâm chínhtrị,nhưngnóđượcứngdụngkhôngđủmột hệthốngchínhtrịMỹphatạp được ghép vàoPhilippines để tạo ramột chính phủ trungươngốmyếu,trongkhi
những kẻ chuyênquyềnvềđấtđai thốngtrị quốchộimới, kiểmsoát các cuộc bầu cửcần thiết ở địa phươnghọ ngay cả khi quyềnbầu cử đượcmở rộng.Trong khi ở Thái Lanhoặc Indonesia, các
nhómtinhhoachínhtrịkiểmsoátbộmáyquanliêu và cấu kết vớiphần lớn doanh nhângốc Trung Quốc đểchia sẻ những thươngvụchothuêkinhtế,thìhệ thống được pháttriểnởPhilippinestỏra
cóđủcơsởđểgiámsátquốc hội, khống chếchính quyền trungương. Tính cách sắctộc của bọn đầu sỏchính trị có đất đai –phần lớn là người TâyBan Nha và lai TrungQuốc–làhậuquảhiển
nhiên không nhỏ. Tấtcả bọn họ đang chơicùng một trò chơi.Theo Paul Hutchcroft,tácgiảcuốnChủnghĩatư bản chiến lợi phẩm(Booty Capitalism1998),giảngviênchínhvềchủđềnhómhuynh
đệ của các đại giakhống chế nhà nướcPhilippines, rất khóphân biệt được nhữngai có tổ tông là ngườiTrung Quốc và nhữngai không phải gốcTrungQuốc.VấnđềởPhilippines là liệu bạn
có phải là một bố giàhay là một thành viêncủa masa nhóm đa sốhaykhông.
Môhìnhchonhữngcáigìphảiđếnsẽđếnđượcthiếtlậpvàonăm1916với sự thành lậpNgânhàng quốc gia
Philippines (PNB).Việc này xảy ra đúnglúc chính quyền thựcdânMỹbanchongườiPhilippinesquyềnkiểmsoát cả hai nghị việncủaquốchội.PNB trởthành“khobạccánhâncủa bọn đầu sỏ chính
trị”, cho những giađình làm nông nghiệpvay vốn. Chính phủđượcyêucầunộptấtcảnhững khoản tiền đặtcọc của mình vàonhững ngân hàng cóthể phát hành tiền tệ.Chỉ5nămsau,PNBđã
có cơn khủng hoảnglớn đầu tiên của nó,vào thời gianmà ngânhàngđãhoangphítoànbộ cơ số vốn của nó,mộtnửasốtiềngửicủachính phủ, và làm xóimòn hệ thống tiền tệquốc gia. Đồng thời,
bọn đầu sỏ chính trịđang được nuôi dưỡngbằngnguồntíndụngổnđịnh từ PNB, được hỗtrợbởichínhsáchkinhtế của Mỹ, cung cấpmột hạn ngạch xuấtkhẩu có bảo lãnh vàbảo hộ thuế quan đối
vớimặthàngđườngvàcũnghỗtrợngànhcôngnghiệpdừa.Xuất khẩuđường tăng bảy lầntrong thời kỳ có luậtthuế quanPayneAldrich của Mỹtừ năm 1909 đến giữanhững năm 1930,
chiếmkhoảngmộtnửatổng luợng hàng hóaxuất khẩu. Đó là mộtkịchbảnđượcđảmbảođể sinh ra những đạigiagiànhđượcthếđộcquyền,nhữngngườicóthể bán các sản phẩmnông nghiệp không
mang tính cạnh tranhtoàncầuvàothịtrườngMỹtrongkhithaotúngmột hệ thống chính trịchỉ dân chủ bề ngoài.Họ được tài trợ nhữngkhoảnvaykhổnglồ,vàkiểm soát quốc hội đểngăn ngừa hai điều có
thểhủyhoạilợiíchcủahọ là cải cách ruộngđất và tăng thuế. Vấnđề duy nhất đối vớinhóm tinh hoa, nhưnhiềunhàbìnhluậnđãlưu ý, là phải kêu gọiđộclậpchoPhilippinesđể có sự tín nhiệm tối
thiểu trong bầu cử;trong thực tế, các bốgiàthờiMỹthấykhiếpsợnhữnghàmýkinhtếcủađộclập.Nhữngnỗlựclớnđượcthựchiệnđể có được một hiệpước thương mại songphương giữ gìn khả
năng tiếp cận hạnngạch vào thị trườngMỹ trước khi có độclậpvàothángBảynăm1946.
Với lợi lộc của mốiquan hệ với Mỹ đượcgìn giữ cho đến năm1974 dựa trên cái sau
này trở thành luật thuếquan LaurelLangley,và thêm rất nhiều đôlacóđượctừcácvụviệntrợ tái thiết sau chiếntranh và đóng căn cứquân sự, chính phủPhippines tuyên bốrằnghọđã rũbỏđược
gông xiềng thuộc địa.Truyền thống bầu cửcủa việc chia chácnhững điều kiện cầnthiết của quyền lực,hoặc ở dạng chỉ địnhchính trị của tất cảquan chức nhà nướchoặcsựgiảingânngân
sách cho những côngtrìnhcôngcộngcứlớndần,lớndần.Ýthứchệchính trị là một tráchnhiệm pháp lý trongmột hệ thống nơinhững chính kháchnhảy tới nhảy lui giữahai phe phái chính để
tìm kiếm những điềukhoản có lợi nhất.Người Philippines gọinhữngnghịsĩcủahọlàbalimbing, một loạiquảhìnhsaonhìn theochiều nào cũng thấygốngnhau.Thậtchẳngđáng ngạc nhiên, quỹ
đạochínhtrịlàmộtcáiđó dẫn tới kleptocracy– những quan chức kẻcướp của FerdinandMarcosvàonhữngnăm1960. Dựa theo đườnghướng này, có nhữngthời khắc chủ nghĩasôvanh nước lớn bên
trong các chính trị gianổi tiếngđượcđẩy lêncao, rõ ràng nhất làĐạoluậtquốchữuhóathươngmạibánlẻnăm1954. Nó tìm cách bắtbuộc những ngườiTrung Quốc khôngnhậpquốctịchrờikhỏi
các cửa hiệu truyềnthống của họ nhưngkhông có con đườngnàotạoramộtcuộctấncông vào cấu trúc siêutinh hoa của xã hội.CácbốgiàTrungQuốcvàlaiTrungQuốccùngsẻ chia may rủi với
nhữngbốgiàkhác,chứkhông chia sẻ với loạingười Trung Quốc chỉcócáccửahiệunhỏ.
MỘTCUỘCMẶCCẢTHUẦNTÚY
Hành trình đi đến độclập của Malaysia năm
1957 sản sinh ra mộthiệpướcgiữacác tầnglớp tinh hoa chính trịvàtinhhoakinhtế,bộclộ đầy đủ một thứthườngđượcgọilà“sựmặc cả”. Lớp tinh hoachínhtrịMãLaitruyềnthống, dựa trên cơ sở
xãhộiquýtộc,đốimặtvới một vấn đề tươngtựcủacácđạigiachínhkhách Philippines theochủnghĩadântộcđangdânglênmạnhmẽ:cầnhỗ trợ sựnghiệpgiànhđộclậpmàkhôngphảitrảgiávềkinhtế.Ngay
khichủnghĩathựcdânMỹ ủng hộ vị trí củatầng lớp có đất đai ởPhilippine,sựhiệndiệncủa Anh đảm bảo chođịavịcủatầnglớptinhhoaMã Lai trong mộttình trạng mà, vàonhững năm 1950,
những người Mã Laitrởthànhmộtđasốtrơtrọi do sự di cư hàngloạt từ TrungQuốc vàẤnĐộ.Vớisựdunhậpcủa nền dân chủ, đảngcủagiaicấpcầmquyềnở Malaysia Tổ chứcQuốc gia Thống nhất
Malaysia(UMNO)cầnmộtsựthíchứngchínhtrị với nhóm tinh hoakinh tế người TrungQuốc để bảo đảm cholợi ích củamọi người.NhữngbiệnphápđểđitớikếtcụcnàylàHiệphội Malay – Trung
Quốc (MCA), mộtchínhđảngđược thànhlập vào năm 1949 vàđược các doanh nhânTrung Quốc hàng đầutài trợ. Những ngườinàylàLưuBáQuầnvàH. S. Lý, một chủmỏthiếc lớn, và Trần
Trinh Lộc và con traiông ta làTrầnTuTín,những thành viên củamộttriềuđạingườiMãLai gốcTrungQuốc ởMalacca với nguồn lợilớn từcao su.TrầnTuTín sau này trở thànhmộtbộtrưởngtàichính
quan trọng. MCA vàUMNO thành lậpLiênminh, một cỗ xe vậnđộngbầu cửhướngvềđộc lập vận hành bởisự đồng thuận khôngthànhvăncủacác tầnglớp tinh hoa vì sựthống trị của chế độ
quan liêu Mã Lai vàkhông có sự tấn côngcủanhànướcvàovịtrícủangườiTrungQuốctrong kinh doanh.Edmund TerenceGomez, học giả hàngđầu về mối quan hệnhà nước và doanh
nghiệp ở Malaysia, đãmôtảđặcđiểmcủasựsắp đặt này là “sựthống trị của tầng lớpđược ngụy trang bằngchủ nghĩa dân túy dântộc”. Trong cuộc tổngtuyển cử đầu tiên vàonăm 1955, Liên minh
đã loại bỏ 51 trong số52ghếnghịsĩ.
Trong chính phủ sauđộc lập, những ngườilãnh đạo MCA chiếmgiữ các vị trí kinh tếchủ chốt trong các bộtài chính, thương mạivà công nghiệp, và
những doanh nhânTrung Quốc được banphát các giấy phépthànhlậpngânhàngvàxí nghiệp sản xuất cóbảo hộ thuế quan.Những người lãnh đạoUMNOnắmgiữquyềnlực tối thượng, và do
đónắmgiữnhữngkhảnăng vô hạn để làmgiàu.Cáctầnglớptinhhoa rất mãn nguyện.Tuy nhiên, suốt nhữngnăm 1960, sự khôngbình đẳng tăng thêmtrongmỗinhómchủngtộcởMalaysia, vàđặc
biệtlànhómngườiMãLai. Có nhiều dự ánnhằm thiết lập nhữngcơquantincậyvàmộtngân hàng chính sáchđểhỗtrợngườiMãLaibản xứ, nhưng chẳngcó gì đủ chắc chắn đểtránh được cuộc xung
đột sắc tộc ở KualaLumpur vào tháng 5năm1969.
Phản ứng với vụ bạolựcnàylàmộtlờinhắcnhở ảm đạm đối vớicộngđồngngườiTrungQuốc không có mộtquyền lực chính trị
thực sự nào. Năm1971, chính phủ banhành Chính sách Kinhtếmới(NEP)vớinhiềumục đích – phân chiagiá trị tài sản chung,việc làm ở thành thị,tuyển sinh đại học –được thiết kế để nâng
cao vị thế của ngườigốcMãLai.Trongkhitầng lớp trung lưungười Trung Quốc vàcon cái họ chịu ảnhhưởng lớn các điềukhoản của chính sáchnày –bị loại khỏi cáccơhộiviệclàmvàgiáo
dục–việctăngtỉtrọnggiá trị tài sản chungtrongcácdoanhnghiệpcủa người bản xứ chủyếuđạtđược làdocácdoanh nghiệp nướcngoài (chủ yếu làdoanh nghiệp Anh) sửdụng tiền bán dầu mỏ
(những đồng đôla dầumỏ) họ có được vàonhững năm 1970 đểmua lại toàn bộ cổphiếu của nhà nước.Không có sự rạn nứtnàovềcấutrúckinhtếở tầng lớp tinh hoa.Sau thời hạn haimươi
năm đương đầu vớichínhsáchkinhtếmới,hết hiệu lực vào năm1990, tỉ trọng tài sảnchung trong doanhnghiệp của người MãLaiởMalaysiađãtăngtừgầnnhưkhôngcógìtới khoảng một phần
năm,nhưngtỉtrọngtàisản chung của ngườiTrung Quốc chỉ tănggấp đôi, từ một phầnnămlênhaiphầnnăm.
Việcnàyphảnánhmộtsự thật là nhómhuynhđệcủacácđạigiađanglàm tốt hơn bao giờ
hết.Chínhsáchkinhtếmới đã không chấmdứt được sự câu kếtgiữacácnhómtinhhoachính trị và nhóm tinhhoa kinh tế khác nhauvềthànhphầndântộc.
CHỦNGHĨAXÃHỘIXA HOA CỦA
SUKARNO
Sau độc lập Indonesialà nước cảnh báo rõràng nhất về việc phábỏ cấu trúc kinh tế vàxã hội truyền thống.Sukarno, Tổng thốngđầu tiêncủanướcnày,xuất thân từ một gia
đình có đặc quyền,nhưng ông ta cũng làmộtngườidân tộcchủnghĩa ưa bạo động vàtựcoimìnhlàmộtnhàcáchmạng. Sự ủng hộmà ông ta dành choPartai KomunisIndonesia(PKI–Đảng
cộng sản Indonesia),một đảng được nhiềungười ở Indonesia ủnghộ, ít nhất một phầnđược thúc đẩy bởi sựao ước giải thoát đấtnước khỏi nhữngtruyền thống phongkiến của nó. Nhưng
cuốicùng,Sukarnochỉsốngmộtcuộcsốngxahoa trong dinh tổngthống mà chẳng làmđược điều gì.Cấu trúcvà định kiến chốngthương mại của vănhóa Java vẫn cònnguyênvẹn.Đãcómột
thờikỳdàipháidântúyngượcđãidânnhậpcưTrung Quốc, bị cho làcướp đi quyền lợi cơbản của dân bản xứ,nhưng điều này khônggâyramột thayđổicơbản nào trong xã hội.Cái gọi là Chương
trìnhBenteng, từ 1950đến 1957, điều chỉnhlại traođổingoại tệvàcấpphépnhậpkhẩuđốivớicácthươnggiabảnxứ để hỗ trợ họ pháttriển, nhưng chỉ làmnạn tham nhũng thêmđiên cuồng. Điều này
tạo nên một hình mẫukhông phải cho việctăng khả năng cạnhtranhcủadoanhnghiệpbảnxứmàchomộtnềnvănhóa tiền lót tayvàtrang sức bằng chínhtrị. Những cố gắng đểkiềmchếvaitròkinhtế
củangườigốcHoalênđếncựcđiểmvàonăm1958 thểhiệnquaviệccấm ngoại kiều(khoảng một nửa cưdânTrungQuốckhôngcó quyền công dân)không được tham giavàohoạtđộngbánlẻở
các vùng nông thôn.Một số vùng ở nôngthôncấmngoạikiềucưtrú. Ở Philippines vàcácnơikháctrongkhuvực, có rất ít ngườiTrung Quốc né tránhđượcsứcmạnhcủacơncuồngnộvềdântộc.Ở
Indonesia, sự đàn ápnhư thế cũng xảy ranăm1960,ước tính có130.000 người chấpnhận đề nghị hồihương tự do của nhànước Cộng hòa nhândânTrungHoa.
Kỷ nguyên Sukarno
thậtsựkhóchịuđốivớigần như tất cả ngườigốc Hoa thậm chí tàisản của Hoàng TrọngHàm còn bị nhà nướctịch thu.Nhưng khôngcó gì xảy ra ở cấp độcấu trúc để ngăn ngừamột sự đảo ngược
nhanhtớihìnhtháilịchsử khi Sukarno bị đẩyra ngoài chính trườngvào những năm 1960.Thực tế hoàn toànngược lại. Năm 1957,Sukarno lợi dụng cuộctranh luận về lãnh thổIrian Jaya (Tây New
Guinea)–màngườiHàLan bám chặt cho đếnnăm1963–đểbắtđầuquốc hữu hóa cácdoanh nghiệp Hà Lan,và sau này, quốc hữuhóa các doanh nghiệpnước ngoài khác, ôngta đang mở ra không
giankinh tếmànhữngsauđódoanhnhângốcTrung Quốc sẽ dichuyển vào. Chỉ riêngnăm nhà buôn ngườiHà Lan lớn nhất đãchiếm giữ 60% hoạtđộng ngoại thương.Tính tổng số, khoảng
800doanhnghiệpnướcngoài rơi vào tay nhànướcsaunăm1958,vàchính phủ cũng nhưquân đội không thểđiều hành chúng cóhiệu quả. Trải quanhững năm đầu thậpniên 1960, điều kiện
kinh tế trở nên xấu đivới tốc độ kinh hoàngtrong khi lạm phát nổilên.Giaiđoạnnàythiếtlập hoàn hảomột hoạtđộngcứutrợ liênquanđến việc quay lại sựphân công lao độngtruyền thốnggiữakinh
tếvàchínhtrị.
Đó là những gì xảy rasau cuộc đảo chínhsớm năm 1965 thừanhậnĐạitáSuhartobắtđầu nổi lên nắm giữquyền lực và thay thếSukarno làm tổngthống vào năm 1967.
Suharto là loại người“bìnhthường”củatầnglớp quý tộc Java nhỏnhenvàthiểncận,bằnglòng với những truyềnthống được tôn kínhtrong văn hóa địaphương và cam kết,trên hết là duy trì sự
hài hoà – như vẫnthường nói là đưa cácmốiquanhệxãhộivàokhuôn phép. Ông taphụcvụtrongquânđộidưới thời Hà Lan vàNhật, và đã học đượccáchgiữgìnsựổnđịnhbằng sức mạnh. Nói
tóm lại, không giốngSukarno, Suharto làmộtngườibảothủbẩmsinh, thuộc tầng lớp sĩquan quân đội – nơinhiều quý tộc priyayicủaJavabị tổn thươngsaukhigiànhđượcnềnđộc lập – cũng giống
như ông ta. Suhartocũng là một sĩ quanhậucầnđãquenlàmănvới các thương giaTrungQuốc.Khi đanglãnh đạo sư doànDiponegoro đóng ởSemarang, vào nhữngnăm 1950, ông ta câu
kết với Mohamad“Bob”Hasanvànhữngngườikhácđể làmchoviệc buôn bán nhữngmặt hàng nhu yếuphẩm, như đườngchẳng hạn, trở thànhđộc quyền của quânđội,vàdođóthêmtiền
vào ngân quỹ chínhthức của ông ta.Suharto cũng từngbuônlậu,vì thếsauđóbịmột đại tá quân độilà H. Nasution tố cáo.Ông ta tránh được tòaán quân sự vào năm1959 do được một sĩ
quan cao cấp là Đạitướng Gatot Subroto,người cũng tình cờ làcha nuôi của BobHasan, giúp đỡ. Vớiquyền lực tối thượngtrong tay, vào nhữngnăm 1960, Suharto cóthểphânphát nhỏgiọt
nhữngnhượngbộkinhdoanh theo cách quenthuộc của ông ta tớinhữngngười làmđượcviệc và những ngườikhôngtạoramộttháchthức chính trị nào đốivới uy quyền củamình.
Những người nàythường là người từTrungQuốc di cư đếncáchđâykhônglâu.Rõnhất là Lâm ThiệuLương,mộtthươnggiahẹp hòi thiển cận đếnJava vào năm 1938,ngườimàSuhartocũng
có quan hệ buôn bánvào những năm 1950.Trong thời gian Chiếntranh Thế giới thứ haivà Chiến tranh chốngHà Lan, Lâm đã sớmkiếmđượcmộtsốtiền,cùng với em trai cungứngchoquânđộicộng
hòa,vàdođóquenbiếtcác sĩquanchủchốtởJava, trong đó cóSuharto. Vào năm1968, ông ta được chophép độc quyền kiểmsoátmộtnửatrongviệcnhập khẩu cây đinhhương, thànhphầnchủ
yếutrongthuốcláđiếuKretek của Indonesia.Năm 1969, sự nhượngbộ kinh doanh đó trởthành độc quyền toànphầnvềnhậpkhẩu,xayxát và phân phối bột,và vào những năm1970 gần như độc
quyền về sản xuấtximăng. Ông ta cũngtận hưởng sự bảo hộtrongbuônbáncaosu,đường và cà phê. Trởlại mối quan hệ quấnquít giữa quyền lựcchínhtrịvàcácthươnggia Trung Quốc – yếu
tố làm nên đặc điểmcủa thế kỷ XIX. NhưEdwin Soeryadjaya,contraicảcủaWilliamSoeryadjaya,mộttrongsố những đại gia giàunhất Indonesia dướithời Suharto đãmô tả:“Khi Suharto nắm
quyền, ông ta muốnlàmvua.Dođó,ôngtađã làm chính xácnhữnggìmàngườiHàLanđãlàm.”
Người Indonesia đãsáng tạo ra thuật ngữcukong để mô tả mộtdoanhnhânchịuơnvề
chính trị để có thànhcôngvềthươngmại,vàanh ta phải cắt lại chonhững chính khách vàsĩ quan quân đội mộtphần lợi nhuận.Philippines vào nhữngnăm 1960 đã sản sinhra thành ngữ “nhà tư
bản chí thân”. ỞMalaysia,nhữngdoanhnghiệp do người gốcMãLaiđứngtênnhưngdo người Trung Quốclàm chủ được gọi làhoạt động “Ali Baba”,trong đó Ali là tiếngMã Lai và Baba là
tiếngTrungQuốc.FredRiggs, một giảng viênởTháiLan, đúckết ramột câu “nhà tư bảnsống bên lề xã hội” –một nhóm nhỏ ngườiẤnĐộkhôngnênđụngchạm tới để chỉ nhữngdoanh nhân bị xã hội
ruồng bỏ trong giaotiếp chính trị nhưngđược khoan dung vớiđiều kiện là họ chỉđượcchútâmvàohoạtđộng kinh doanh củamình.Chỉcósựsắpđặtlạiđờisốngchínhtrịtừdưới lên mới có thể
thayđổihìnhmẫuhoạtđộng này, và nhữngđiều như thế mớikhông xảy ra. KhắpĐông NamÁ, với cácthế lực phổ biến củachủ nghĩa dân tộc vàgiai cấp được hàmchứa và bị cản trở
trong những cấu trúcxã hội cũ, liệu cácchínhphủcóđượcbầucử một cách dân chủhaykhông?
KINH TẾ HỌC HỆTƯ TƯỞNG THỜIĐẠI
Liên quan đến chínhsách lớn, một ảnhhưởng trí tuệ toàn cầuđang hiện hành trongkhu vực ở kỷ nguyênđộc lập là, những nhàkinh tế học thườngnghiêng về lập kếhoạch và kiểm soát
nhiều hơn. Đây chỉ làmột đề nghị đối vớinhững cấu trúc doanhnghiệp ở địa phươngcủacácbốgià.Mỗikỷnguyên cóhệ tư tưởngthờiđạivềkinh tếcủanó, đó là “tinh thần”củanó.Đầukỷnguyên
hiệnđạiởchâuÂu, từnăm 1500 đến 1800,tínhhámlợilànhântốkinh tế căn bản khôngcần tranh cãi. Vào thếkỷXIX,cósự trỗidậycủa các học thuyết tựdo thương mại.Khoảng năm 1930, do
hậu quả của sự đìnhđốn kinh tế toàn cầu,Chiến tranh thế giớithứ nhất và tư tưởngchủ nghĩa xã hội, việclập kế hoạch và kiểmsoát chiếm ưu thế lớn.Thời kỳ của các nhàkinh tế học theo chủ
nghĩacanthiệpbắtđầudưới sự quản lý củathựcdânvà tiếp tụcđiquathờikỳđầucủakỷnguyên độc lập, vớimục tiêu là chuyển từsự thiên vị đế quốcsangsựpháttriểntrongnước khi những chính
phủ do người địaphươngcầmquyền.
Vào giữa thế kỷ XX,mỗi nền kinh tế ĐôngNam Á mà chúng tađang bàn đến đều cốgắng thực hiện cái gọilà công nghiệp hóathay thế nhập khẩu
(ISI).Côngnghiệphóathay thế nhập khẩu làsự đối phó hợp lý vớisự kết thúc của chủnghĩathựcdân.Nhữngngười tán thành quanđiểm này đã chỉ rarằng, chính quyềnthuộc địa đã cấu trúc
những nền kinh tế màhọ kiểm soát để cungcấphànghóabánthànhphẩm và mua về cáchànghóasảnxuấtcôngnghiệp rõ ràng nhất làchính sách thuế quanvàđiềunàylàmnhữngnhà sản xuất châu Á
thất vọng. Kết quả làcó sự phụ thuộc kinhtế, trong đó các nướcĐông Nam Á bị mắckẹt vào các hoạt độngcógiá trịgia tăng thấptrong nông nghiệp vàkhai mỏ, bị ép buộcphải xuất khẩu bán
thànhphẩmvànguyênliệu thô sang nhữngnước công nghiệp tiêntiến để nhập khẩu cáchànghóasảnxuấtcôngnghiệp tương đối đắtcủa họ.Cách duy nhấtđể thoát khỏi cái vòngluẩnquẩn,nhưđãđược
tranhluận,làtăngthuếnhập khẩu, trợ giá tíndụng công nghiệp vàquản lý vi mô đối vớisự cung cấp ngoại tệnhằm hỗ trợ các nhàsản xuất trong nướcpháttriển.
Lý thuyết này rất có
sức thuyết phục do nócó sự ủng hộ đáng kểcủa các cơ quan quốctế nhưNgân hàngThếgiới(WB)vàQuỹTiềntệQuốc tế (IMF). Tuynhiên, trong thực tế,công nghiệp hóa thaythế nhập khẩu đã sai
lầmởbướctiếptheo-ítnhấtnếuđượcđánhgiádựa trên ý định tạo ramột nền công nghiệpnội địa có tính cạnhtranhtoàncầu.Lýdolàchính sách này bị xóimòn bởi mối quan hệtruyền thống ngự trị
giữa những nhóm tinhhoachínhtrịvàkinhtế.Mộtsốkinhnghiệmđãđượcnóitớitrongphầntrước, vì nó liên quanrất nhiềuvới tiến trìnhsau độc lập của nềnchính trị dân tộc chủnghĩa và sự giật lùi so
với lịch sử ngườiTrung Quốc thống trịtrong những lĩnh vựckinh tế. (Tất nhiên,quan niệm sau là mộtđiềuhoangtưởngvìsựthựclàcáccôngtylớnchâu Âu và Mỹ thốngtrị trong thời thuộc
địa.)
Ở Thái Lan, quốc hữuhóa bắt đầu vào cuốinhững năm 1930,nhưngcôngnghiệphóathay thế nhập khẩu cóliên quan chủ yếu vớichế độ Field MarshalSarit Thanarat, người
lên nắm quyền bằngcuộc đảo chính năm1957. Tại mỗi bướcngoặt, tiến trình côngnghiệp hóa thay thếnhập khẩu ở Thái Lanđược xây dựng quanhnhững quý tộc trởthành nhà tư bản và
mộtnhómnhỏ cácđốitác là những đại giangườigốcHoa.Nhữngđạigianàyxuấtthântừbối cảnh thương mại,vàđiềunàyđãxácđịnhcách tiếp cận của họvới sản xuất. Họ tìmkiếm những điều kiện
có lợi từ những chínhkhách và sĩ quan quânđội, sau đó đến lượtnhững doanh nghiệpnướcngoài–thườnglàdoanh nghiệp Nhật đểcung ứng cho họ côngnghệ và quy trình sảnxuất. Những nhà sản
xuất hiện hữu ở TháiLan thường không thểtănggiálênquámứcvìnhững dự án thay thếnhập khẩu của chínhphủ trong các ngànhmới, nơi những yêucầu đầu tư tối thiểuhoặcnănglựcsảnxuất
tối thiểu vượt quá khảnăng của họ. Thay vìcác nhà sản xuất hiệnthời được hỗ trợ bởichính sách của chínhphủ để lớn mạnh vàcạnhtranhtrênquymôlớn,nhữngnhàbuôncóquan hệ tốt với những
ngườicóthếlựcđãđộcquyền các thương vụsảnxuấtđượcbảohộ.
Tiêu chuẩn này dànhchomộtnhànhậpkhẩusản phẩm để trở thànhnhà lắp ráp ở địaphương theo sự dànxếp với nhà cung cấp
nước ngoài.Một ví dụlàmặthàngô tôvàxemáy,bảohộthuếquanđược tăng cường chonhững liên doanh sảnxuất với Nissan,Toyota, Mitsubishi,Hino, Daihatsu, Isuzuvà Honda, nhưng
không hề có sản xuấtnội địa hóa đích thực.Sự thay thế nhập khẩusinh ra những công tylớn, nhưng không đạtđược mục tiêu là làmcho những doanhnghiệpTháisảnxuấtracác mặt hàng công
nghiệp có sức cạnhtranh toàn cầu. Nhữngnăm 1970, nền côngnghiệpTháiLanlàmộtloạt tập đoàn lớn phụthuộc vào những đốitác nước ngoài, thànhlập ở những thời điểmkhác nhau, bởi các đại
gia thương mại hưởngứngchínhsáchthaythếnhập khẩu mới tronglắp ráp ô tô, đồ điện,sảnxuấtthép,kính,hóachất và chế biến thựcphẩm. Suehiro Akira,tácgiảcủabàiphêbìnhvề Đông Nam Á viết
bằng tiếng Nhật đãnhậnxét:“ỞNhậtBảnvà các nước côngnghiệp hóa khác,những chuyên gia kỹthuật và chủ nhà máythườnglànhữngngườicóđónggópquantrọngvào sự phát triển nền
công nghiệp trongnước… Ở Thái Lan,không hề có sự pháttriểnnhưvậy.”
Một hìnhmẫu về tầnglớp tinh hoa kinh tếchộp giật những thànhquảcủachínhsách ISIthậm chí còn rõ ràng
hơn ở Philippines. Sựkhác biệt của nhómtinh hoa người địaphương đã bén rễkhôngchỉởtrongkinhdoanhmàhọ còn là disảncủathựcdânvềđấtnôngnghiệp.Điềunàytạoranhữngmâuthuẫn
sâusắc.Cácchủđấtcómốiquanhệvớinhữngngười có thế lực thamgia vào lĩnh vực sảnxuất trong những năm1950và1960tiêubiểulà lắp ráp hoàn thiệncác sản phẩm của Mỹvì phân bổ ngoại tệ,
những khoản vay củanhànước,miễnthuếvàbảo hộ thuế quan cónghĩa là những lợinhuận trời cho.Nhưngnhữngđạigiacóruộngđất,cũnglànhữngnhàxuấtkhẩucácmặthàngnông sản và khai
khoáng, bị ép buộc từbỏlợinhuậnxuấtkhẩucủa họ để hỗ trợchương trình côngnghiệp hóa thay thếnhập khẩu. Do đó, họđã sớm quay sang cácngànhcólợinhuậncaokhi sự tăng trưởng sản
xuấtởvàokhoảng10%một năm trong nhữngnăm 1950 và sau đóquaysangchốnglạinóvào đầu những năm1960.Trongnăm1962,việckiểmsoátngoạitệđượcnânglênvàđồngpeso mất giá khoảng
50%. Hậu quả là cácđạigiacólợi íchtrongnông nghiệp, khai mỏ,sản xuất và ngân hàngkhông có cam kết đặcbiệt với bất kỳ chiếnlược phát triển quốcgia nào – họ chỉ tìmkiếm những điều kiện
cólợi.Cácgiađìnhcóđất đai tham gia vàosản xuất dưới chươngtrình công nghiệp hóathay thế nhập khẩugồm có Aboitizs,Aranetas, AyalaZobelsvà Cojuangcos;Gokongweis và
Palancas có điểm xuấtphát từ khai mỏ. NhàkinhtếhọcPhilippinesTemarioRiveraviếtvềmột cấu trúc xã hội“được thống trị bởinhững gia đình có đấtđaitheođuổinhữnglợiích tự mâu thuẫn, làm
yếuđitínhpháplýcủamột chiến lược tăngtrưởng và phát triểncông nghiệp nhấtquán”. Nói cách khác,công nghiệp hóa thaythế nhập khẩu đã bịnhững kẻ “khả nghibình thường” cướp
đoạt.
Indonesia, như đã bànluận ở trên, theo đuổiChương trình Bentengdân tộc chủ nghĩa vàonhững năm 1950 chiaphần ngoại tệ chonhững thương gia bảnxứ. Sử gia kinh tế
Richard Robison nhậnxét rằng, nó tạo ra“không phải một giaicấp tư sản thươngmạibản xứ mà là mộtnhómnhữngngườimôigiới giấy phép và đútlót giới chính trị”. Sựthật này tái diễn vào
những năm 1970, khibỗng nhiên nguồn tiềnbán dầu khí dồi dàogiữalúcgiácảquốctếtăngcao,chínhphủthửnghiệm công nghiệphóathaythếnhậpkhẩutronglĩnhvựcsảnxuất.Nhưnggiấyphépvàsự
hỗtrợkhôngđếnđượcvớicácnhàsảnxuấtcỡvừa,màđếnvớinhữngpribumicóquanhệvớinhững người có thếlực,vàcácđạigiagốcTrung Quốc. Các nhàmáy sắt thép, ximăng,ô tô, hóa chất và sản
xuất phân bón đượcxây dựng trên cơ sởcácthươnggiađưacáccông ty đa quốc giavào để cung cấp côngnghệ trong khi họ tậptrung vào những thỏathuậnmang tính chínhtrị. Adam Schwartz,
một chuyên gia ởIndonesia khá lâu, tácgiảvànhàbáo,viếtvềcái mê cung quan liêuđó: “Trong khi nhiềudoanh nghiệp tư nhâncó hậu thuẫn chính trịmạnh mẽ ra đời trongthời kỳ này, những
doanh nghiệp nhỏ hơnbị vùi dập dưới đốngsạt lở của cái trần nhàtín dụng và các quyđịnh bao trùm cả sảnxuất, đầu tư và phânphối, và phải chịunhiềuđaukhổ.”
Và điều bất biến của
khu vực là: côngnghiệp hóa thay thếnhập khẩu không nuôidưỡng những nhà sảnxuấtđịaphươngnhỏđểhọ lớn thành các nhàsản xuất có thể cạnhtranhtoàncầu,màđơngiản,nóchỉcủngcốvị
trí của nhóm tinh hoadựa trên buôn bán củakỷnguyênthuộcđịa.ỞMalaysia, chính sáchcông nghiệp hóa thaythếnhậpkhẩutrongsựnáo động của thời kỳtrước năm 1969 chothấy, ví dụ, Robert
Quách – xuất thân từmộtgia đìnhbuônbánđã đồng hóa liên tụctiếnvàonhữngkhuvựcđược bảo hộ trong sảnxuấtđường,bộtvàvậntảibiểnthôngquaquanhệ đối tác với nhữngnhà cung cấp công
nghệNhật.NhiềucôngtycủaAnhởMalaysiađược hưởng lợi từ sựbảohộcủacôngnghiệphóathaythếnhậpkhẩutrongkhinhữnglợiíchcủa họ trên thị trườngđã được những chínhkhách ở địa phương
đảm bảo để đền ơnngười Anh sớm bancho Malaysia nền độclập. Các thương giaTrungQuốc trong thờikỳnày cóđượcnhữnggiấy phép quan trọngđể mở ngân hàng vànhững hoạt động kinh
doanh sòng bạc. Saunăm1969,côngnghiệphóathaythếnhậpkhẩumở đường cho quốchữu hóa tài sản củangười Anh và ngườinước ngoài khác sửdụng thu nhập từ dầukhítrờicho–nhiềutài
sảnsaunàylạiđượctưnhân hóa, rơi vào taynhóm tinh hoa kinh tếgồmcácbốgià.Ởkhắpnơi trong khu vực,công nghiệp hóa taythế nhập khẩu đã thấtbại trong việc tạo ranhững truyền thống
của chủ nghĩa tư bảncôngnghiệpđểbổsungcho chủ nghĩa tư bảnthươngnghiệpđã từngphát đạt trong kỷnguyênthuộcđịa.Thayvào đó, những nhà tưbản thương nghiệpthành đạt thu được lợi
ích từ sản xuất trongcác liên doanh hoặc bịràng buộc về côngnghệ với các nhà tưbản công nghiệpphương Tây và NhậtBản. Hình mẫu nàykhông bao giờ thayđổi.
VỀHỒNGKÔNGVÀSINGAPORE
Một trong số chủ đềthảo luận hữu ích vềlịch sử kinh tế châuÁlà, làm thế nào màHồng Kông vàSingapore lại có thểthích hợp với cấu trúc
kinh tế chung củaĐôngNamÁnhưvậy;và chính sách mở cửalại với thế giới bênngoài của Trung Quốcsaunăm1979nữa.Chỉcó thể hiểu đúng khuvựcnàynếunhậndiệnđượcđộnglựcđặcbiệt
củahai đối tượngxemxét này. Như chúng tađã thấy, đều là sảnphẩmcủađếquốcAnhvàđều làmột hònđảoxa bờ độc lập, nên vaitrò cấu trúc của HồngKông và Singapore rấtgiống nhau. Sự thực
nàychỉbịlumờbởisựtự mô tả bản thân củaHồng Kông sau chiếntranh là một pháo đàicủa tự do thương mại(nhưngkhôngđúngđốivới nền kinh tế quốcnội của nó) vàSingapore làmộtvídụ
điển hình về nền kinhtế trung ương tậpquyền. Việc Singaporetựmô tả nhưmột “đấtnước” là do có sựnhầmlẫnvềquanđiểmkinhtế.
Điều quan trọng cầnnói về Hồng Kông và
Singapore là hai lãnhthổ này nguyên lànhững thành quốc-“nhữngthànhquốchảicảng”thìđúnghơn.Từthờiđầuthuộcđịa,việcbuônbánởđóđãđượcmiễn thuế (rất ít hoặckhông khi nào bị hỏi
buôn bán hàng gì) vàđều là nơi tập trungtiền tệ (rất ít hoặckhông khi nào bị hỏitiền đến từ đâu). Lànhữngthànhquốcbangtương đối dễ quản lývới dân nhập cư thuầntúyvàcóđộnglựcthúc
đẩy cao, Hồng Kôngvà Singapore đã thựchiện một mánh khóekinh tế đơn giản: kinhdoanh chính sự kémhiệuquảvềkinhtếcủacác vùng nội địa củamình. Nói cách khác,một doanh nghiệp đến
hai đảo quốc này vìmuốn thực hiện nhữngnhiệm vụ nhất địnhphần lớn làdịchvụ tốthơnmột chút so với ởcác nước xung quanh.Cả hai đều là cảngnước sâu tự nhiên vàđược xây dựng từ lâu
dựa trên lợi thế này.Vùng nội địa gần nhấtcủa Hồng Kông làmiềnnamTrungQuốc,nhưng sự hạn chế vớiphầnlớnviệcbuônbánởđại lục trongkhoảngtừ năm 1949 và năm1979 làm cho Hồng
Kông chú trọng vàokhu vực này hơn làbuônbánvớicácnướckhác ở Đông Nam Á.Nhữngvùngnộiđịacóưu thế của Singapore,trái với lôgic hiểnnhiên về địa lý là bánđảo Mã Lai, lại là
Indonesia. Điều nàykhôngphải ngụý rằngMalaysia không quantrọng mà chỉ ngụ ýrằng Indonesia quantrọnghơn,bởivìnó làmột nền kinh tế lớnhơn. Thương mại củaSingapore với
Indonesia (tập trungvào Sumatra vàBorneo) lớnhơnnhiềuso với Malaysia vàocuốithếkỷXIXvàtìnhtrạng này vẫn tiếp tụcvào thếkỷXX.Ví dụ,vào những năm 1950,gầnmộtnửahàngxuất
khẩu của Singapore làcao su và hầu hết đềuđến từ Indonesia,thường có được thôngqua trao đổi hàng lấyhàngmộtcáchbấthợppháp. Singapore nổitrội như một hải cảngtrên biển đối với cả
Malaysia lẫnIndonesiatrongthờikỳsauChiếntranhThếgiới thứhai,đến nỗi chính phủSingapore không chocông bố nhiều dữ liệuthương mại của nótrongmộtcuộcbỏthầutương đối thành công
để tránh sự công khaikhôngcầnthiết.
Hồng Kông vàSingapore có truyềnthống là những trungtâmbuônbánhànglậucũngnhưbuônbánhợpphápcủakhuvực.Khinhững nước xung
quanhápđặtthuếquanhoặc hạn ngạch vềthương mại để tạonguồn ngân sách chochínhphủ,HồngKôngvà Singapore đã kiếmlợi từ việc dùngmánhlới để phá vỡ nhữnghạn chế đó. Ngay từ
những năm 1860,Phòng thương mạiHồngKôngvàcácnhàbuôncóảnhhưởnglớnnhư Jardine Mathesonđãbiểu thị sựphẫnnộvàbấthợp táckhiôngRobertHartngườiAnhvà phần lớn nhân viên
người Anh của ông tatiếp tục quản lý Dịchvụ hải quan TrungQuốc và cố gắng giúpnhà nước Trung Quốcyếu kém tăng cáckhoản thuế cần thiết.Khi Robert Hart bắtđầukiểmsoátchặtviệc
buôn lậu bắt nguồn từHồng Kông, ông tanhậnrarằngchínhphủHồngKông không sẵnlònghợptác.
Hồng Kông vàSingapore ít nhất cótầmquan trọngvề lịchsửvớitưcáchlànhững
nơigiữvốn,vàvai trònàymới tănglên trongnhữngthậpkỷgầnđâycùng với sự phát triểncủa những dịch vụ tàichính hiện đại. Nhữngđạigiacógốcgácnướcngoài đã kiếm lợi từcác điều kiện kinh
doanh thuận lợi ởnhững nước xungquanh luôn luôn tìmcách giữ vốn ở nướcngoài, vì sợ với lý dochínhđáng– rằngmộtngày nào đó họ có thểlànạnnhâncủanhữngthay đổi về chính trị.
Những khả năng trốnthuế và thay đổi cáchđịnh giá giữa cácquyền tài phán khácnhau ở Đông Nam Ácũngsảnsinhranguồnvốnkhổng lồ cần thiếtcho chốn thiên đườnggiữa đại dương này.
Tínhbảomậtcủangânhàng ởHồngKông vàSingapore,mongmuốnmở tài khoản ngânhàngởnướcngoàicủacác công ty chỉ tồn tạitrên hình thức và việcHồng Kông miễn chonhữngcông ty tưnhân
cácthủtụccầnthiếtđểlập tài khoản công, đãtạo ranơiẩnnáuhoànhảo,có thể tiếpcậndễdàng. Ví dụ, trong kỷnguyên Marcos, ngườitanóirằngHồngKôngbịthúcđẩybởisựpháttriểnmáybay tưnhân,
đơn giản vì gia đìnhMacros và nhữngngười bạnnối khố củaông ta có thể đi đi vềgiữa những ngân hàngởHồngKôngcủamìnhngay trong ngày; vàImeldaMarcosđãmuasắm rất nhiều ở Hồng
Kông.
Vaitròởgiữakhuvựccủa Hồng Kông vàSingapore là bất biếntuyệt đối từ khi chúngđược phát hiện, vàkhông hề có một dấuhiệu nào của sự thayđổi. Do hậu quả của
cuộc khủng hoảng tàichính ở châu Á,Michael Chambers,người đứng đầu cuộcnghiêncứuởIndonesiacho Credit LyonaisSecurities Asia(CLSA), ước tính dựavàothôngtin từnguồn
dữ liệu của các ngânhàng rằng khoảng 200tỉ đôla vốn củaIndonesia nằm trongcác ngân hàng ởSingapore trong khiGDP của Indonesia là350 tỉ đôla. Một sốkhoản tiền gửi trong
nhữngngânhàngởhaiđịa danh này là vốn ởnước ngoài hợp pháp,vàmộtsốkhoảnlàthunhập kiếm được mộtcách bất chính. HồngKôngvàSingaporechothấyrằngmộtsốlợiíchđược tách làm đôi.
Thực ra, trong nhữngnămgầnđây, khiLiênminh châu Âu cuốicùngđãgâysứcépvớiNgânhàngThụySĩ vàcácngânhàng tưnhânkhác ở châu Âu đểngănngừatrốnthuếvàđưa ra mức thuế thu
nhậpchomộtsốngườikhôngcó tưcáchcôngdân. Singapore đãchiếm được một thịtrường riêng trên toàncầucũngnhưkhuvực.Đảo quốc này tăngthêmcácđiềukhoảnvềbảo mật tài khoản và
thayđổiluậttínthácđểthu hút các loại tiềnnhư Thụy Sĩ đã từnglàm.Sốlượngcácngânhàng tư nhân nướcngoài ở Singapore gầnnhưtănglêngấpđôitừnăm 2000 đến năm2006. Sau khi
Singapoređăngcaimộthội nghị của IMF hồitháng 9 năm 2006, cómộtquanđiểmhiếmcóvà rất thú vị thườngthầm lặng – làmột sốngân hàng đầu tư thậtsựnhìnnhậnđảoquốcnày như thế nào.
Khôngchịunổi“nhữnglời pha trò lịch sự đếnbuồnnôn”củahộinghịvà một bữa ăn tối vớiThủ tướng Lý HiểnLong, tại đó nhữngngườingoạiquốc“xunxoenịnhhótôngta,cứnhư ông ta là ông
hoàng vậy”, nhà kinhtế học của Công tyMorganStanleyởchâuÁ, Andy Xie, đã hủybỏmộtbứcthưđiệntửđịnh gửi cho các đồngnghiệp.
Trong nội dung thưAndy nói, mọi người
trong cuộc họp “đangganh đua với nhau đểkhen ngợi Singaporenhư làmột thành côngcủa toàn cầu hóa…Thật sự, thành côngcủaSingaporephầnlớndonólàmộttrungtâmrửa tiềnchocácdoanh
nhân và quan chứcchính phủ tham nhũngở Indonesia… Để duytrì nền kinh tế củamình, Singapore đangxây dựng những sòngbạc để thu hút nhữngđồng tiền tham nhũngtừ Trung Quốc.” Khi
emailnàybị rò rỉ,mộtphát ngôn viên củaMorgan Stanley nóirằng nội dung bức thư“chỉ nhằm mục đíchkhuyếnkhíchcáccuộctranhluậntrongnộibộcông ty”; và ông Xiexintừchức.
Đi cùng với các dịchvụ ngân hàng ở HồngKông và Singapore làbất động sản, dịch vụmuasắmvàcáctrògiảitrí. Những thị trườngnhà cửa xa hoa ở đâyluôn được điều khiểnbởi những người nước
ngoài – ngày nay làngười Trung Quốc lụcđịa ở Hồng Kông; ởSingapore luôn làngười Indonesia. Nơiẩn náu Hồng KônghoặcSingapore thậtantoàn và là một nguồnđầutưđángtincậyđối
với các đại gia củaThái Lan, Malaysia,Indonesia vàPhilippines, cả thế kỷXIX và ngày nay. Saucuộc khủng hoảng tàichínhchâuÁvàvụbạoloạn chống ngườiTrung Quốc ở
Indonesia, các chuyếnbay sáng sớm thứ Haivà chiều thứ Sáu giữaSingapore và Jakartatrở thành một chuyếnbaytốchànhvìcácđạigia người IndonesiagốcTrungQuốccứbayqua bay lại như con
thoi.Họ di chuyển giađìnhtừnhữngngôinhàở Jakarta sang nhữngngôi nhà ở Singaporecủahọ.HồngKôngvàSingapore từ lâu cũnglàtrungtâmcủanhữngcửa hàng xa hoa vànhữngđầubếp tinh tế.
Trong khi Hồng Kôngcótròđuangựavàgầnđâylàsòngbạc,thìcáctròănchơisađọadiễnra ở Macao. Mặc dùnhiều người ngạcnhiên,đókhôngphảilàmộtcáigìđóliênquanđến tính liên tục của
lịch sử khi chế độ độctài ở Singapore, vàonăm 2005 quyết địnhrằng họ sẽ cấp phépcho hai khu nghỉdưỡng có sòng bạckhổng lồ. Singaporesau độc lập của LýQuang Diệu và gia
đìnhôngtachỉcólòngnhiệtthànhđạođứcgiảkhinókhôngcanthiệpvào việc kinh doanh ởĐảo quốc này. Do đó,có sự tương phản giữatính bảomật của ngânhàngvàsựdungthứtừlâu cho hoạt độngmại
dâm phần lớn phục vụcác doanh nhân đếnthăm với khía cạnhhoàntoànkhácnhưcáckhoản tiền phạt củaSingapore với lỗi nhưđi tiểuxongkhôngdộinướchaykhôngbuôngrèm cửa trong trạng
thái không mặc quầnáo.ThủtướngLýHiểnLong chào mừng sựhợp pháp hóa việcđánh bạc với câu hỏimang tính hùng biện:“Nếu chúng ta khôngthayđổi,chúngtasẽởđâutrong20nămtới?”
Nhưng trên thực tế,những sòng bạc củaSingapore chỉ là giaiđoạnpháttriểngầnđâynhất, những giai đoạncòn lại cũng sẽ nhưthế.
Hồng Kông vàSingapore đã được
địnhsẵnsẽthànhcông.Tất cả những gì phảilàm là đạt được mộtmức độ hiệu quả hơn,một mức độ lôi cuốnhơnvề tiềnvốnsovớicác nước xung quanh,vàthịnhvượng.Sựnhỏbé sẽ làmột đức hạnh
tốt. Tuy nhiên, điềunày không phải luônluôn là hiển nhiên đốivới những người lãnhđạo Singapore. Năm1963, những ngườilãnh đạo quốc giamớiđộc lập này bị ám ảnhbởi ý tưởng rằng nơi
này không thể tự tồntại và họ đã mangthành phố nhập vàoLiên bang Malaysia,nhưng sau hai năm lạitách ra. Thủ tướng LýQuang Diệu đã thankhóc một cách côngkhai về điều đó. Tình
tiết quan trọng này cólẽ đã cứu vớt nhữngngười từng lập luậnrằngnhàchínhtrịưutúsau độc lập củaSingapore không baogiờhiểuthếnàolàkinhdoanhvànhữngdoanhnhân làm việc thật sự
như thế nào. Nếu ôngtahiểu, thìchắcôngtacũng thừa nhận rằngSingapore luôn luôngiàucóbởitựthânnó.Dưới thời Lý QuangDiệu người chẳng baogiờ thích tư thươngSingapore đi theo một
mô hình thống kê,chính phủ nắm quyềnkiểm soát công khaicáccôngtyquantrọngnhất. Bất kỳ sự mấtmátnàovềhiệuquảdophương thứcphát triểnnày đều không quantrọng, bởi vì hải cảng
và những ngân hàng ởSingapore vẫn tươngđốihiệuquảhơn,vàantoàn hơn những ngânhàng ở Indonesia vàMalaysia. Ngược lại,Hồng Kông theo đuổimộtmôhìnhthịtrườngtự do – mặc dù, như
sau này chúng ta sẽthấy, những dịch vụcủanótrênthựctếluônluôn được cartel hóarất mạnh và có nhiềungườivậnhànhcảngtưnhân và ngân hàng tưnhân hơn.Cuối thế kỷXX,kếtquảcủanhững
cáchtiếpcậncóvẻđốilậphoàntoànvớiquảnlýkinhtếlàGDPbìnhquân đầu người ở haithành phố chênh lệchnhau chưa đến 1.000đôla, 23.930 đôla ởHồng Kông và 22.960ở Singapore. Đây có
phải là một bài học?Rằng,mộtquốcgiacócảng nước sâu chiếnlượctrongmộtkhuvựccó trình độ quản lýtương đối kém, nạntham nhũng và bất ổnđịnh về chính trị, vẫnthịnh vượng mà rất ít
nhắc đến các triết lýkinhtếchínhthống.
Luôn luôn có hai loạiđại gia đang cư trú ởHồng Kông vàSingapore – ngườinhập cư và người bảnđịa.Cómộtdòngchảyđều đặn của những bố
già đã nhập cư từ cácnướcxungquanh.MộthàngdàinhữngđạigiaIndonesia, từ HoàngTrọng Hàm trở đi, đãđịnh cư với tư cách làcác công dân riêng lẻvà doanh nhân củadoanh nghiệp
Singapore;trởngạiduynhất đối với họ là xuhướng này làm chochính phủ Indonesiabựcbội.Cũngnhưthế,cómộthàngdàinhữngđạigiangườiMalaysia,từEuTongsenchođếnRobert Quách, người
đãkếtthúcsựnghiệpởHồngKông.Mộtsốgiađình đại gia gốcSingapore như HoàngĐình Phương – đã tựtách ra ở hai nơi làSingapore và HồngKông. Những đại giaHồng Kông không di
trú tới Singapore, dochính phủ ở đó đangcấmnhậpcưvìđãquáđôngđúc.
Các bố già gốc HồngKôngvàSingaporelầnlượt chia ra hai nhómnhỏ: những người đặtvốn liếng vào đất đai
và những người đặtvốn liếng vào ngânhàng.Vìđấtđaicựckỳkhan hiếm ở nhữngkhuvựcnày, từ thếkỷXIX, trên thực tế bấtđộngsảnluônluônđắtđỏ theo các tiêu chuẩncủakhuvựcvàquốctế,
giá cả thay đổi nhanhvàrấtlớn;nếubiếtđầutư có tính toán sẽ đạthiệu quả cao. Do đó,bất động sản là nguồngốccủasựgiàucócủađasốcácđạigia.
Kinhdoanhngânhànglàtrụcộtchínhcủacác
tỉ phúmặc dù ởHồngKông, nơi chính phủthực dân tồn tại chođến năm 1997, haingân hàng của Anh làHong Kong andShanghai BankingCorporation vàStandardChartered(kế
nghiệpCharteredBankcủa India,Australia vàTrungQuốc)cóthểtồntại như những ngườichơi vượt trội. ỞSingapore, ngân hàngcủa chính phủ nhườngchỗ cho ba ngân hàngtư nhân địa phương
tầmcỡ.Một điềukháccần biết về sự giàu cócủacácbốgiàởHồngKông là có sự kết nốivềcấutrúcthứcấpvớinhững người giàu cónhờ buôn lậu và tổchức đánh bạc ở bêncạnh là Macao. Cựu
thuộcđịaBồĐàoNhalà một nơi thật lạthường, đầy rẫy thamnhũng và vô cùng mêhoặc sẽ đượcnói tới ởnhững phần sau. Tuynhiên, để kết luận vềcuộc khảo sát lịch sửcủachúngta,cầnquay
trởlạivớithếgiớikinhtếhọcvĩmô.
TỪ CUỐICÙNG TRONG CỤMTỪVIẾTTẮT
Công nghiệp hóa thaythế nhập khẩu (ISIImport Substitution
Industrialisation), nhưchúng ta đã thấy, vừalà một phần của cái“mốt”kinh tế toàncầuvừa là phản ứng tựnhiên sau chiến tranhđối với cách thức màtrong đó các chế độthực dân cấu trúc nền
kinh tế Đông Nam Ánhư một nguồn cungcấp hàng tiêu dùng vàtiêu thụ hàng côngnghiệp.Trongthờihạnngắn, ISI tạo ra tốcđộtăng trưởng đáng nểtrong khu vực. Nhưngtất cả những cái đó bị
tầnglớpcácđạigianổilên nhờ buôn bán thaotúng một cách quá dễdàng. Mọi nỗ lực đểlậpkếhoạchphát triểncông nghiệp đều trởthành cơ hội kinhdoanhbéobởkhácchonhững người có quan
hệvớinhữngngườicóthếlựcchínhtrị.Thôngthường, thủ tụcđể chomột đại gia có đượcgiấy phép cần thiết làgiới thiệu một đối tácnướcngoàisẽcungcấpmột quy trình sảnxuấtthườnglà lắpráptrang
thiết bị (đa số là linhkiệnnhậpkhẩu),vàsauđó nấp sau hàng ràothuế quan để bánnhữnghànghóakhôngthể bán được trên thịtrường toàn cầu. Kếtquả là lợi nhuận, chứkhông phải là những
tiến bộ tối thiểu trongviệcxâydựngmộtnềnsản xuất trong nướcbềnvững.Mứcđộlạmdụng là khác nhau ởmỗidựán,ởmỗinước,nhưng vào cuối nhữngnăm 1960, rõ ràng làISI không phải là một
liều thuốc chữa báchbệnh cho sự phát triểnkinh tế. Hơn nữa,nhữngnơiởĐôngBắcÁ – gồm Nhật Bản,HànQuốcvàĐàiLoanđang phát triển nhanhvà bền vững hơn cácnước Đông Nam Á
theomô hình dựa trênsản xuất hàng côngnghiệp xuất khẩu. Vídụ, Hàn Quốc và ĐàiLoan vượt quaPhilippines –đứng thứhai chỉ sau Nhật BảnvềGDPtrênđầungười–vềgầnnhưtấtcảcác
chỉsốkinhtếvàocuốinhữngnăm1950.
Nhưvậy,ởĐôngNamÁ, bắt đầu có sự thayđổi cụm từ viết tắt, từISI sang EOI (ExportOrientedIndustrialisation) cáimàcácnhàkinhtếgọi
là “công nghiệp hóađịnhhướngxuấtkhẩu”.Điều này đã đượcNgân hàng Thế giới,Quỹtiềntệquốctế,vàđặc biệt là chính phủMỹkhuyếnkhích.Câuchuyện bắt đầu ởSingapore,nơitiếpcận
xu hướng ISI từ giữanhững năm 1950, đểxâydựng cácnhàmáycán thép và lắp ráp ôtô.Sựkiệnnàychỉ tồntạimột thờigianngắn.Những nhà lập kếhoạch của Singapoređã xoay sang hướng
khác. Khoảng giữanhững năm 1960, khucông nghiệp Jurong ởbờ tây đảo quốcSingapore được khaihóa từđất đầm lầy, vàchính phủ kêu gọi cácnhàđầu tưđịnhhướngxuất khẩu nước ngoài
đầu tư vào khu côngnghiệpđó.Thànhcôngsớmđếnvớinhữngnhàsản xuất hàng bán dẫncủa Mỹ như TexasInstruments vàFairchild, và như lờimờimọc,Singaporecóvai trò như một trung
tâmgiacônghàngđiệntửngoàinướcMỹ.Đầunhững năm 1970, vớinhữngcôngtyđaquốcgia tiết kiệm đượcnhiềuchiphítừviệcsửdụnglaođộngchâuÁ,vàchínhphủSingapoređãlàmhếtsứcmìnhđể
giúp đỡ họ, hầu hếtviệcsảnxuấthàngbándẫn ngoài chính quốccủathếgiới–baogồmcácquátrìnhxửlýcuốicùngcógiátrịgiatăngthấp hơn – được đưavào Singapore. Năm1973, lần đầu tiên, giá
trị hàng công nghiệpxuất khẩu vượt lênnhững mặt hàng tiêudùng. Qua một thờigiandài,sựđầutưcủaNhậtBảntỏralớnhơncủaMỹ.Cáccôngtyđaquốc gia từ Nhật Bảndichuyểnphầnlớnvốn
đầutưđịnhhướngxuấtkhẩu tới Singapore,bao gồm các dự áncôngnghiệpnặngtrongngành sửa chữa vàđóng tàu biển vàonhững năm 1960 vàđầu những năm 1970,vàmộttổhợpsảnxuất
hóa chất lớn đượcSumitomo thiết lập.Đồng yên được đánhgiácaosovớicácđồngtiền chính vào nhữngnăm1970,vàđiềunàykhích lệcáccuộcvượtbiển khác. Matsushitalôi kéo những nhà sản
xuất đồ dùng gia đìnhkhác tới Singapore,bằngviệcthiếtlậpmộtnhàmáy sản xuấtmáynénkhíchotủlạnhđầutiên,năm1972.
Những gì bắt đầu ởSingapore, và sau đómở rộng ra toàn khu
vựcthậtấn tượng.Cácchínhphủpháttínhiệuvề sự thay đổi đườnglối hành động của họbằngcácphápchếmới.Ví dụ, Philippines đãthôngquamộtđạoluậtkhuyến khích đầu tưnăm1967,vàMalaysia
cũng noi gương vớimột đạo luật cùng tênvào năm 1968. Cácchính phủ cũng nhanhchóngcắtbớtquyềnlợicủa công nhân để làmyên lòng những nhàđầutưnướcngoài.
Chế độ Sarit ở Thái
Lan hủy bỏ nhữngpháp chế cung cấpquyền cóviệc làmchocông nhân và đình chỉcác nghiệp đoàn ngaytừ năm 1958. ỞSingapore, đảng Hànhđộng vì nhân dân(PAP) của Lý Quang
Diệu, nắm quyền dựatrênmột liênminhvớicác nhóm công nhân,đã thiết lập sự kiểmsoát của chínhphủđốivớinhữngnghiệpđoànvà cố tình giảm mứclương vào những năm1970 thông qua Hội
đồng mức lương quốcgia. Bước đi của việcthựcthicácchínhsáchđầu tư thân thiện vớinướcngoài khácnhau,và các chính phủ tiếptục bảo hộ các doanhnghiệp trong nướcbằng thuế quan và các
biệnphápkhác, nhưngđịnh hướng của chínhsáchkinhtếthayđổivềcăn bản. EOI đáp ứngyêucầuvềtăngtrưởngkinh tế, phát sinh ranhiềungoại tệvàcũngtạoraviệc làmtốthơnrấtnhiềusovớiISI,hệ
quả tất yếu là dân sốsau chiến tranh cũngtănglênđángkể.
Từ những năm 1970,sựphát triểncủaĐôngNamÁ được xác địnhbởi EOI. Ví dụ, ởMalaysia, tỉ trọng xuấtkhẩucủasảnxuất tăng
từ 12% vào năm 1970lên74%vàonăm1993.Hàng xuất khẩu tănglên tới mức cao hơntổng sản phẩm quốcnội (GDP). EOI củaĐôngNamÁđượcdẫndắtrấtnhiềubởinhữnghoạt động lắp ráp sử
dụng linh kiện nhậpkhẩu. Giai đoạn quantrọngnhấtcủasựbùngnổ xuất khẩu là giữanhững năm 1980.Trong những năm1970, các chính phủ ởMalaysia, Indonesia vàThái Lan có sự quan
tâm đáng kể đối việcphát triển chính sách,vì giá dầu và khí đốttăng làm cho thu nhậpcủa họ từ những mặthàng này tăng lên vùnvụt. Thế nhưng, sautình trạng suy thoái vìnợ tiền nhiên liệu vào
giữa những năm 1980,cầnphảithuhútđầutưnước ngoài một cáchtíchcựchơn.Điềunàyxảy ra cùng với việccáccôngtyđaquốcgiatập trung nhiều hơnvào những lợi ích củasản xuất ở nước ngoài
dẫn tới sự tăng trưởngmạnh về xuất khẩukhắp khu vực trongmộtthậpkỷ,bắtđầutừnăm 1987. EOI manglại sự tăng trưởng vàviệc làm, nhưng nókhôngphảilàmộthìnhảnhphảnchiếucủacác
kinh nghiệm ở ĐôngBắc Á. Ở Nhật Bản,Hàn Quốc và ĐàiLoan, hàng xuất khẩuđược các công ty bảnxứpháttriển,trongkhicác chính phủ ngănchặn đầu tư nướcngoài.Sựbềnvữngcủa
môhình này là do cáccôngtytăngcườngkhảnăng quản lý nghiêncứu và phát triểnnhững sản phẩm mới,và dần dần xây dựngnhững thương hiệuđẳngcấpquốctế.Côngnghiệp hóa thay thế
nhập khẩu không đạtđược những mục tiêunày ở Đông Nam Á,thayvàođó,nó lại tạoranhữnghoạtđộnglắpráp phải mang ơnnhữngđốitácvànhữngnhà cung cấp nướcngoài. Và EOI cũng
không giải quyết đượcvấn đề này. Thay vàođó,cáimànólàmđượclàcungcấpnguồnnhâncông giá rẻ ở ĐôngNam Á cho nhữngcôngtyđaquốcgiađãđưa quá trình sản xuấtgia công ra ngoài,
trong khi giữ các hoạtđộng nghiên cứu vàphát triển ở lại cácnước phát triển hơn.Ngườitalậpluậnrằng,điều này tạo ra mộthình thức phụ thuộcmới, mặc dù có thôngqua các chính phủ độc
lập trái ngược với cấutrúcđổihàngtiêudùnglấy hàng công nghiệpthời thuộcđịa.Dù cholập luận trên có xácđánghaykhôngthì tácđộng của EOI vẫn rấtlớn. Vào năm 1990 ởSingapore,nơimôhình
được thực hiện trướctiên,gầnnhưchínphầnmười sản phẩm xuấtkhẩu trực tiếp đến từcácdoanhnghiệpnướcngoàisửdụnglãnhthổnàynhưmộtmặt bằngsảnxuất.
Phản ứng của các
doanh nghiệp trongnước đối với nhữngcông ty xuất khẩu đaquốc gia được cácchính phủ chào đón vìđã sớm trở lại sau khicácdoanhnghiệpnướcngoài từng lớn lêntrongthời thuộcđịađã
bịđuổirahoặctrảtiềnđể họ về nước, là rấtđáng chú ý. Nhữngcông ty nhỏ tìm đượcvô số cơ hội cung cấpcác bộ phận linh kiện,và dịch vụ cho nhữngnhàđầutưđaquốcgia.Nhưng khả năng nâng
chuỗi giá trị lên cònyếu vì thiếu một quymô làm cho họ khôngcóđủcácnguồnlựcđểnghiên cứu và pháttriển.Mặtkhác,cácđạigia, có quy mô và sựtiếp cận vốn, nhưnghiếmkhiquantâmđến
lĩnhvựcxuấtkhẩu.Lýdo thật đơngiản.Xuấtkhẩu làmột hoạt độngkinh doanh mang tínhcạnh tranh toàn cầu.Lựa chọn tốt nhất củacác bố già là kinhdoanhdựatrênsựkémhiệu quả của các nền
kinh tếnộiđịaởĐôngNamÁ,hoặcdướihìnhthức những chínhkháchsẵnlòngdốccáihầu bao nhượng bộkinhdoanhmàhọđanggiữ độc quyền trên cơsở quan hệ cá nhân,hoặc qua lợi nhuận
kiếm được khi cácchính phủ cố gắngquảnlýpháttriểncôngnghiệp vimô.Với cácđạigia,lợiíchcủaEOIlàquan trọngnhưng làlợi ích gián tiếp: sựtăng trưởngmà nó tạora nằm ởmối quan hệ
mật thiết giữahai tầnglớp tinh hoa chính trịvà tinhhoakinh tế,vàlàm giảm sức ép choviệc bãi bỏ những quyđịnh trong nền kinh tếnội địa có hiệu quả.Các dự án công trìnhcông cộng không qua
đấu thầu và việc tưnhân hóa được quyếtđịnh sau những cánhcửađóngkín,làkhảthihơn về mặt chính trịkhi hàng xuất khẩuđang điều khiển nềnkinh tế Đông Nam Á.Đâylàbốicảnhkinhtế
vĩmôthựcsựđầythamvọng của những nămcuối thập kỷ 1980 và1990, khi các đại giachúcmừnglẫnnhautạinhữnghộinghịvà trêncácphươngtiệntruyềnthông vì đã làm choĐông Nam Á thịnh
vượng,trongkhi(phầnlớn)nữcôngnhânlàmviệc trong các dâychuyền lắp ráp tại cácnhàmáygiacônghàngxuất khẩumới thực sựlà những người làmcho Đông Nam Á trởnên thịnh vượng. Thật
khôngmay, giống nhưđa số mọi người, họbiểu thị một khả năngtự phân tích rất hạnchế. Như StephenBrown,mộtnhànghiêncứu kỳ cựu của KimEng Securities ởHồngKông, viết: “Họ thành
thật tin tưởng rằng:‘Nếu tôi khôngphải làmột thiên tài kinhdoanh, thì tất cả cácngười đã thất nghiệprồi.’”
PhầnII. NHỮNGBỐGIÀ THỜIHẬU
CHIẾN
2. HỌ ĐÃ TRỞTHÀNH BỐ GIÀNHƯ THẾ NÀO? #1:NHẬPVAI
“Chúngtađãquáquenvới việc ngụy trang
trước người khác, rốtcục chúng ta đã ngụytrang trước cả chínhmình.”
LAROCHEFOUCAULD
Bối cảnh xã hội hậuChiến tranh thế giới
thứhaivàsauđộc lập,nhưđãmôtảởchươngtrước, thật là đại hỗnloạn. Nhưng sự phụthuộc lẫn nhau và lâudài giữa các tầng lớptinh hoa chính trị vàkinh tế vốn tồn tạiriêng rẽ vẫn không hề
bịxóabỏ.Chắcchắnlàthờiđạiýthứcgiaicấpvà chủ nghĩa dân tộcđang nổi lênmạnhmẽtrongnhữngnăm1950và1960(vàtrướcđóởTháiLan)đangđedọacộngđồngngườiTrungQuốc và Ấn Độ ở hải
ngoại. Nhưng ngườithựcsựphảihứngchịulà những chủ cửa hiệunhỏ,nhữngngườibuônbán nhỏ và người laođộng chứ không phảitầng lớp các bố già.Khi tầng lớp lao độngcó tổ chức và chủ
nghĩa dân tộc đã đượckiểm soát bởi mộtnhóm những nhà lãnhđạo độc tài mới, điềuđáng chú ý là khônghiểu tại sao họ khôngtừbỏcách thứcđốixửvới những doanh nhânngười thiểu số như ở
thời thuộc địa, màtrong nhiều trườnghợp,còncủngcốthêm.Do đó, thách thức đốivới các bố già khôngphải là bất kỳ sự thayđổi cấu trúc nào trongxã hội, mà là phải đốimặtvớicáccuộctranh
giành quyền lực trongtầnglớptinhhoachínhtrị bản xứ, khi chủnghĩathựcdânđãrađi.Ởgócđộkhảnănghòanhập và thay đổi củacác đại gia, thì tínhcáchcótầmquantrọnghơnbaogiờhết.
Tại Thái Lan, chế độcủa Thống chế Sarit(19571963)đãổnđịnhmối quan hệ với tầnglớp thương gia ngườiTrungQuốcvàẤnĐộ,coihọlànhữngđốitáckinh doanh không chủđộng đầu tư của quân
đội.Mặcdùnền chínhtrị của đất nước saunăm 1932 có vẻ hỗnloạn những không sâusắc lắm – chế độSaritchỉ là một trong 18cuộcđảochínhđãdiễnra,gầnđâynhấtlàcuộchạ bệ Thaksin
Shinawatranăm2006–nên sau năm 1957,hiếmcócácsĩquanvàviên chức chính phủmới nào có thể đingược lại lợi ích củacácđạigiacóchứcvụ.Thay vào đó, các bốgià đã trở nên quá lão
luyệntrongviệcủnghộtất cả các phe phái.Như Sarasin Viraphol,nhà lãnh đạo cao nhấtcủa DhaninChearavanont, thuộctập đoàn CP, kinhdoanh từ chăn nuôi gàchođếnviễnthông,đã
nóitấtcảchỉlàvấnđềtiền bạc và quản giachotốt:“Chúngtôiủnghộ tất cả mọi người...Lúc nào bạn cũng nêncómột bức chân dungmộtnhàlãnhđạoquânsự nào đó treo trêntường. Đó là một việc
làm bình thường. VànênlàchândungĐạitácảnh sát, Thị trưởngthành phố Bangkok...”Thậm chí, ChinSophonpanich, ngườirất căng thẳng với cácđối thủ thuộc pháiSarit, bao gồm trùm
buôn bán heroin PhaoSriyanonda vàNguyênsoái PhinChoonhavanđãbỏchạysang Hồng Kông khiSarit lên nắm quyềnvàonăm1957khiđangsống lưu vong vẫnđượcphéptiếp tụcxây
dựng Ngân hàngBangkokthànhtổchứctàichínhlớnnhấtTháiLan. Như Sarasin nói,đólà“tròchơicủamộtquý ông” về đảochính.
Có một sự gián đoạndàihơncủacácbốgià
ở Indonesia trongnhữngnăm1960sovớicác bố già ở Thái LansaukhiSarit chấmdứtchủnghĩadântuý.Sauviệc quốc hữu hóa cácdoanh nghiệp nướcngoàiđầyhỗnloạncủaSukarno trong những
năm1950,saucuộchồihương của hàng chụcnghìn người TrungQuốcvàonăm1960vàtrận chiến chống cộngđẫm máu năm 1965,Suhartoquaysangủnghộ các doanh nhânTrungQuốcmàông ta
quen biết sau khi nắmchính quyền.Điều nàycó nghĩa là một sốdoanh nhân không nổitiếng lắm được đẩynhanh lên đỉnh caothànhcácbốgià.Đángkể nhất là Mohamad“Bob” Hasan, một
ngườigốcHoacảisangđạo Islam, và LâmThiệu Lương, còn gọilà Sudono Salim.Những người này đãkết giao với Suhartomộtthờigiandàivàtừnhững thương nhânnhỏ, họ đã trở thành
doanh nhân hàng đầuđất nước chỉ trongvòng vài năm. Tínhkhôngổnđịnhvềđịavịcủa Suharto hoặc ítnhất là quan điểm củaông ta khi ông ta thiếtlậpđượcquyềnlựccủamình vào cuối những
năm1960làmchomốiquanhệgiữaôngta,làmột nhà chính trị xứJava, và những ngườibạnnốikhốtrongkinhdoanh của ông ta,những người nướcngoài gốc TrungQuốckhông gây tổn hại cho
ai, trở nên quan trọnghơn tất cả. Trong suốttriều đại của mình,Suharto,theolờinhữngngườithâncậncủaôngta ở Jakarta, phàn nànrằng các doanh nhânngười bản xứ khôngđáng “tin cậy” bằng
các doanh nhân gốcTrung Quốc. Trongthời gian đó, một sốnhỏ các doanh nhângốc Ấn Độ và SriLanka cũng đã trởthành những người lệthuộc chủ chốt. Nổitiếngnhấttrongsốnày
làMarimutuSinivasan,ngườiSriLankađếntừTamil, nguồn cung dàihạn cho các quỹ đencủa đảng Golkar doSuharto lãnh đạo. Dựavào quyền lực củaSuharto, tập đoànTexmacocủaSinivasan
cũngcóđược900triệuđôla từ ngân hàngtrung ương khi cuộckhủng hoảng tài chínhchâu Á lên đến đỉnhđiểm. Sau khi nhà độctài nàybị hạbệ, chínhphủIndonesiatuyênbốôngtalàngườichovay
có tội to nhất, đã làmthấtthoátđến2tỉđôla.
Ở Philippines, một kẻtiếm ngôi khác làFerdinand Marcos đãthểhiệnmột phảnứngtương tự như củaSuharto, liên quan đếncác khả năng quan hệ
với bố già. Sau khithắng lợi ở hai nhiệmkỳtổngthốngbằngcáccuộc bầu cử (tất nhiênlà mờ ám),Marcos nétránh sự hạn chế chỉhai nhiệm kỳ ở đấtnước này bằng cáchtuyên bố tình trạng
thiếtquânluậtvàonăm1972. Giống nhưSuharto, ông ta cũngđược coi là tầng lớptinhhoabốgiàđãđồnghóa và ổn định ởPhilippines, đó là cácgia đình người lai TâyBan Nha và Trung
Quốctruyềnthống–vàtìmramộtsốngườiđểủy nhiệm việc kinhdoanh chủ yếu. Tươngtự như vậy là LucioTrần (tên Trung QuốclàTrầnVĩnhTài),mộtngười nhập cư thế hệđầu tiên và nguyên
trướcđâylàmộtngườitrông coi trường học,sauđó,dướisựbảotrợMarcos, trở thành nhàbuônthuốcláhàngđầucủa Philippine, cónhiềulợitứctrongmọilĩnhvực, từ ngânhàngđến bất động sản.Đây
có lẽ là như với LâmThiệuLương,ngườiđãquen biết Suharto quaviệcchuyênchởthưtừcho quân đội ở trungJava–TrầnvàMarcosquen biết một ngườikhácđếntừIlocos,quêhươngcủaTổngthống,
nơi Trần có nhà máythuốclánhỏđầutiên.
Cả Suharto và Marcosđãbáohiệusựthayđổichế độ bằng cách thúcđẩynhữngngười nướcngoàimới, không phảingười bản địa, trởthành các bố già. Trần
là một hình mẫu rõràng ở đất nướcPhilippines có nhiềudân tộc đã lai tạo vớinhau, và ông ta đạidiện cho cái gọi là“ngườiTrungQuốcđãđồng hóa và được đặtmộtcáitênđịaphương.
Sự thăng tiến củanhững người nướcngoàimớitạorahaicáilợi cho những kẻ độctài: các nguồn lực tàichính cực kỳ trungthành với họ và giađình họ, và một lờicảnh báo đối với tầng
lớp tinhhoakinh tếđãđượcđồnghóarằnghọkhông phải không thểthay thế. TạiPhilippines trước thờiMarcos, các doanhnhân với nhiều thànhphần dân tộc đã ngàycàng thành công trong
việc vượt mặt và thaotúngmộthệthốngnghịviệnyếukém,vàdođóxóa bỏ dần sự phụthuộc trong mối quanhệ làm ăn với nhữngngười có quyền lựcchính trị cao nhất.Ferdinard Marcos đã
đảo ngược xu hướngnày,mặcdùnóvẫncònlà một xu hướng tiềmtàng ở cả Philippineslẫn Thái Lan khi sựlãnh đạo của chínhquyền trung ương suyyếu.
Bảng niên đại của
Malaysia tiến triểnmuộnhơncácquốcgialâncận,nhưngvẫncònthấy một hình mẫu ýthức hệ của các tầnglớptheochủnghĩadântúy và chủ nghĩa dântộcđangtăngcao,theosaunólàsựnốilạimối
quan hệ khăng khítgiữa hai tầng lớp tinhhoachínhtrịvàkinhtế.Chính quyền thực dânvẫn chưa kết thúc chođếnnăm1957,và thậpkỷcuốicùngcủanócósự liên quan chặt chẽvới một cuộc chiến
chốnglạitìnhtrạngtrỗidậy của những ngườicộng sản, lãnhđạobởiĐảngcộngsảnMalaya(CPM), mà đảng viênphần lớn là nhữngngười gốc Hoa (cùngvới một số người ẤnĐộ).Sựrađicủangười
Anh nhường chỗ chomộtkỷnguyênđộclậpcó phần giả tạo trongkhi cấu trúc kinh tếthực dân được để lạivẫn hầu như nguyênvẹn. Nhận xét nàyđược tầng lớp quý tộcMã Lai, những người
nắm chính quyền thừanhận. Cuối cùng, chủnghĩa dân tộc đã đếncùngvớicuộcbạoloạnnăm 1969, dẫn đếnchínhsáchkinhtếmới(NEP).
Tuy nhiên, lời hứa vềmộtchương trìnhhành
độngtíchcựchướngvềngười Mã Lai bản xứkhông che giấu đượcsự nóng lòng chờ đợiđiều sẽ xảy ra, ởMalaysiathườnggọilà“kinh doanh chính trị”ở cấp độ tinh hoa.Chương trình hành
động tích cực tronggiáo dục và việc làmnhắm đến mục tiêunhững người dânthườngTrungQuốcvàẤnĐộngườiẤnĐộlànhữngngườichịu thiệthạilớnvìhọđãbịloạibỏ ra khỏi những dịch
vụ dân sự- trong khichính sách của ngànhtài chính có lợi chonhững người Mã Laibản xứ thuộc tầng lớptrên.NgườiMãLaibảnxứ ở nông thôn vẫnnghèo,trongkhicácbốgiàgốcTrungQuốcvà
ẤnĐộđã trởnêngiàucóhơnbaogiờhết.Xuhướngphânbiệtchủngtộc được duy trì, vàhầu như không thểtránh khỏi đặc biệt làkhingôisaochínhtrịlàMahathirMohamadnổilên vào những năm
1970. Mahathir đưa raquan điểm về chủngtộc sắtđácủaôngdựatrên những nguyênnhân gốc rễ của thànhcông về kinh tế trongcuốn sách "Malaysiatiến thoái lưỡng nan”,xuấtbảnnăm1970khi
ôngtatạmthờibịkhaitrừkhỏiĐảngquốcgiadân tộc liên hiệp MãLai (UMNO), đảngcầm quyền, và bị trụcxuất khỏi Malaysia.Quanđiểmnàybiểuthịsuy nghĩ củaMahathircho rằng sự tàn tật có
tínhditruyềnlàdokếthôn khác chủng tộc.Chínhông tacócha làmộtngườiMãLaigốcẤn đến từ Kerala vàmẹ là một phụ nữMãLai,một thựctếkhôngbao giờ được đề cậpcông khai ở Malaysia.
Trongmôn học chínhtrị phổ thông, lập luậnvề chủng tộc củaMahathir đã được sửdụngđểbiệnminhchochương trình hànhđộng tích cực. Nhưngxét về quan điểm cánhân, những định kiến
củaôngđãquárõràng.Sau khi trở thành Thủtướng năm 1981, ôngđã đỡ đầu một nhómnhỏ các doanh nhângốcTrungQuốcvàSriLanka Tamil mà ôngcholàcókhảnănghiệnthực hóa tầm nhìn của
ông về một nướcMalysia được hiện đạihóa một cách triệt để.Việcđótạotiềnđềchongườiđồngminhchínhtrị trongmột thời giandài của ông là DaimZainuddin phấn đấu,tìm mọi phương cách
làmchongườiMãLaibản xứ thành nhữngngườichiếnthắng.Bốnkẻ chuyên quyền lớnnhất ở Đông Nam Áthời hậu chiếnMahathir, Lý QuangDiệu, Suharto vàMarcos – về căn bản
đềucóquanđiểmphânbiệt chủng tộc, và đâylà những tin tốt lànhchocácbốgià.
TRONG KHI ĐÓ, ỞTHÀNHPHỐ...
KhiLýQuangDiệutrởthành Thủ tướng của
Singapore vào năm1959, các bố già ở địaphương đã gặp phảimột vấn đề: Lý khôngthíchcácdoanhnghiệptưnhân.Ông ta khôngcó kinh nghiệm cánhânvềkinhdoanhmàchỉ làmộtnhà tổchức
chính trị được dạy dỗtrong một môi trườngAnh hóa và chịu ảnhhưởng của cả haitrường phái cấp tiếncủa những năm 1930chủ nghĩa cộng sản vàchủ nghĩa phát-xít. Khi nhà nước
Singaporemởrộngtầmkiểmsoátvềkinhtế,đểcóđượccáccổphầntưnhân trong nhữngcartel và các công tyđộcquyềnbịgiảmsút,cácđại gia đã tiếp cậnvới chính phủ. Mặtkhác, Lý làmột người
siêu tinh hoa nên đãkhông định để chonhững người vô sảnquêmùacụcmịchngạcnhiên về lối sống củaôngtahoặccủacácbốgià.Ông đã đàn áp sựbất đồng, thuần phụccácđoànthểvàbắtđầu
xây dựng nhà nướckiểu vú em hàng đầuthế giới nhà nước lochodânbằngcáchbanhànhnhiềuquyđịnhcụthểnhưngômđồm,canthiệp quá sâu vào đờisống của người dân.Một số đại gia thường
là những người cũnggiốngnhưLý,ngườiđã“thạo đời” hơn vàtrước đây đã gần gũivới chính quyền thuộcđịa, như trùm ngânhàngLýQuangTiềnvàHoàngTổDiệu-đãbắttay với nhà lãnh đạo
mớinày.Nhữngngườikhác, như trùm buônlậu khét tiếng và kẻđầu cơ Kwek HongPng, thì kém dễ chịuhơn. Nhưng Kwekcũng sở hữu rất nhiềutài sản, đặc biệt là bấtđộngsảntạiSingapore,
và Lý Quang Diệu đãkhôngdínhlíuvàoviệcquốc hữu hóa cácdoanhnghiệpnàybằngsức mạnh. Có đủ chỗchokiểungườiquáidịnhư Kwek phát đạt ởmột quốc gia thànhbangcónềnkinhtếchỉ
huy.
ỞHồngKông,sauThếchiến thứ hai đã cónhững cuộc kêu gọiđặc biệt om sòm choviệc hủy bỏ tước vịHiệp sĩ, cho việc điềutravàthậmchíchothửnghiệmcủacácđạigia,
những người đã hiểucần phải hợp tác thânthiện và sẵn lòng vớingười Nhật. NhưngngườiAnhkhôngcósựthay đổi nào đối vớingười Trung Quốc đãAnh hóa và tầng lớptinhhoamanghaidòng
máu Á-Âu, nhữngngườiđãhỗtrợchosựcaitrịcủahọ,vàhọđãnhanh chóng quay lại.Biên tập viên của cáctờ báo địa phươngđược chỉ đạo hãy bỏqua những câu chuyệnvềsựhợptácđơnđộc.
Vớihậuquả của chiếntranh, nhóm các đạigia, cùng với nhữngđồng sự ngang hàngngườiAnhởvịtrílãnhđạocáctậpđoànlớnởthuộc địa, hoặc cáchãng buôn lớn củangoại kiều, là phương
tiện để ngăn chặn cáckế hoạch dự kiến củaAnh.Đólàsựkết thúccủa mối đe dọa trongnửa thế kỷ ở cấp địaphương. Thay vào đólà sự mở rộng, nhưnghầu như bất lực củaHội đồng Lập pháp
(Legco). Các doanhnghiệp lớn chấm dứtvai trò chính trị củamình thông qua cácthành viên và nhữngngười vận động hànhlangđượcchỉđịnhvàoLegco.Hệ thốngchínhtrị đầu sỏgiảmạonày
đượcngườiAnhduytrìđối với người TrungQuốc cho đến năm1985 khi Tuyên bốchung về việc bàn lạichủ quyền của TrungQuốc đối với HồngKôngvàonăm1997đãđượcnhấttríbằngviệc
tạo ra các đơn vị bầucử “chức năng”, trongđóchophépcácbốgiàcólợiíchthamgiahoạtđộng ngân hàng, bấtđộng sản, bảohiểmđểđưa thêmnhữngngườivận động hành langvàoLegco.Khôngdính
dáng đến việc đó,người Trung Quốcthành lập “ủy ban tưvấn” riêng của họ vềvấn đề trao trả thuộcđịa, và các thành viêncủa ủy ban này bị cácđại gia chế ngự. Tuynhiên, điểm chính yếu
cũng đơn giản: dùHồng Kông được caitrị bởi thực dân Anh,ngườiNhậthoặcngườiTrungQuốcđạilục,nóvẫn luôn luôn đượcquản lý bởimột nhómngười.
Mặc dù Hồng Kông
được tuyên bố là mộtđặc khu tự do thươngmại,từlâu,nhiềuthànhviên tham gia cuộcchơi đã có liên quanđến hoạt hoạt độngchính trị của các đạigia. Thông tin luônluôn có giá trị, như
được thấy vào năm1946,khimộtsốbốgiànắm quyền kiếm đượctiền triệu nhờ đầu cơvào đồng đôla HồngKôngdoNhậtBảnpháthành và được ngườiAnh chuộc lại khi họ.Việc móc nối với
những người có quyềnlựcchínhtrịcũngquantrọng đối với các đạigia.Chođếnnay,chínhhọlànhữngngườilãnhđạo cộng đồng, và họđã“hiểurõ” lợi ích tốtnhất của đa số ngườidân. Tuy nhiên, hơn
bấtcứthứgìtrongthờikỳsauchiếntranh,giớichínhtrịcóýđịnhduytrì một nền kinh tếtrong nướcmang nặngtínhcartelđãtiếnhànhcho vay tài chính đốivới một số nhỏ cácdoanh nhân. Các đại
giangườiTrungQuốc,như chúng ta sẽ thấy,đã có một vị trí vữngchắc trong thị trườngbất động sản được rápnốibềnchặt.Từnhữngnăm 1970, các bố giàđịa phương đã bắt đầugiành giật quyền kiểm
soátphầnlớncáccartelkhác,bắtđầutừcáctậpđoàn do người Anhkiểmsoátvàpháttriển.Điều đáng bàn nhất làtrongquá trình chuyểnđổi quyền sở hữu, cónhững hành động đổixuất phát từ cảmhứng
chính trị nhằm đưa sựcạnh tranh nhiều hơnvào nền kinh tế địaphương.
Hoạtđộngchínhtrịvẫnvôcùngquantrọngđốivới đại gia lớn nhấtHồngKông.Ôngtađãphục vụ lợi ích riêng
của mình, cũng là lợiích của những ngườitrong chính quyềnthuộc địa, và gọi côngviệc củamình là “lãnhđạocộngđồng”.Trongnhững cuộc đình cônglan rộng ở thập niên1920, bố già cấp cao
hơnlàRobertHàĐôngđãđứngrathuxếpmộtcuộc hòa giải với tưcách là một kẻ thạođời. Robert Kotewallvà Chu Thọ Thần, hainhânvậthàngđầukháctiếp tục nhận đượcdanhhiệuhiệpsĩ,đãtổ
chức những cuộc diễnthuyết trên đường phốđể hô hào người laođộng Trung Quốcchống lại những cuộcđình công liên kết, vàchỉ đạomột lực lượngđầu gấu bảo vệ nhữngngười không tham gia
đình công tránh khỏinhữngngườikíchđộngcuộc đình công. Khinhữngkẻvôsảnlạinổidậy vào cuối nhữngnăm 1960 để hưởngứng cuộc cách mạngvănhóaởTrungQuốc,các đại gia lại cho
chính phủ vay tiền đểhỗ trợ và xúi giục dânchúng chống lại lời đềnghị của Đảng Cộngsản Trung Quốc. LeoGoodstadt,một cựu cốvấn chính sách chochínhphủHồngKông,đãbình luận:“Bạo lực
chínhtrịnăm1967nóiriêng, dường như đãlàm cho sự sống còncủa chính quyền thựcdân dân Anh trở nênphụthuộcvàotầnglớptinh hoa hơn bao giờhết.” Việc cơ quanngoại giaoAnh và các
bố già đã tiễn đưa cáctầnglớpthấp,vàcácvịcựu Thống đốc củaHồngKôngtỏlòngbiếtơn, đủ để chứngminhkhả năng phản khángcao trước các ý tưởngtự do chính trị và xãhội khởi xướng từ
Londontrongthậpniên1960 và 1970. Chínhquyền Hồng Kông vàcác đại gia đã khoekhoang trước thế giớirằng, họ đã tạo ramộtxã hội tự do thươngmại vĩ đại. Hình nhưkhông một ai chú ý
rằng điều này hoàntoànkhôngphảilàtìnhcảnh của các ngànhdịchvụ trongnước,vàcácdựánxâydựngnềnkinh tế đều do các bốgiàchiếmgiữ.
XINMỜINGỒILÊNGHẾTRÀNGKỶ
Khi tình hình đã lắngdịu ở khu vực ĐôngNamÁ thời sau thuộcđịa,cácbốgiàquaytrởlạinơimàhọluônluôncó mặt, đó là duy trìviệcnângcaomốiquanhệchínhtrịđểkiếmlợitừ các đặc ân có tính
chất phân biệt đối xử,và do đó đã làm biếndạng nền kinh tế dochính phủ kiểm soát.Như vậy, loại ngườinào thực sự là bố giàthờihậuchiến?
Chỉcómộtnghiêncứuthực nghiệm về nguồn
gốc xã hội và văn hóacủa các đại gia ĐôngNam Á trong nửa thếkỷ qua được hoànthành, và thực sự hấpdẫn.Nghiêncứunàytựgiới hạn trong số cácđại gia có gốc gácTrung Quốc ở Thái
Lan, nhưng cũng cókhông ít các kết quảnghiên cứu khá thú vịvề những nhóm ngườinhập cư và các nhómxãhộikhác.Giữa thậpniên1950,mộthọcgiảngười Mỹ là G.William Skinner đã
tiếp cận được, ở mộtmức độ đặc biệt, vớicác đại gia của TháiLan. Ông giành đượccảmtìnhcủahainhàtưsản mại bản TrungQuốc hoạt động trongngành ngân hàng nêncó được các nguồn
thôngtintốtđểđịnhra135 doanh nhân gốcHoahùngmạnhnhấtởThái Lan, và ông đãthành công trong việcphỏng vấn 130 ngườitrong số họ. Ông nóitrôi chảy cả tiếngTháivà tiếng Quan Thoại,
cókiếnthứcvềphươngngữ miền nam TrungQuốc, cũng như có sựkiêntrìđángkinhngạc.Từtrướcđếnnay,chưacómộthọcgiảhaynhàbáonàothựchiệnđượcmột cuộc điều tra cóchất lượng cao như
vậy.
Cáckếtquảđạtđượclàhoàn toàn rõ ràng đốivớinhữngaiđãtừngbịmắckẹtởlĩnhvựcvănhóanằmgiữanhómcưdân đến từ TrungQuốc,màđạidiệnchohọ là những nhà lãnh
đạocộngđồng,vàtầnglớp tinh hoa chính trịThái. Những ngườinhập cư đến từ TrungQuốc đã dùng sự tiếpbiến văn hóa như mộtphương tiện để đạtđượcsựnhượngquyềnvà những tiến triển
trongkinhdoanh.Pháthiện là: Không giốngnhưmongđợi,hầuhếtcác doanh nhân khôngphải là người đã “mấtgốc Trung Quốc” vềphươngdiệnngônngữ,tập quán, giáo dục - íthơn so với mong đợi.
Vềkhíacạnhmốiquanhệ của các đại gia vớicộngđồngngườiTrungQuốc, Skinner đã đềxuất một khái niệm“lãnh đạo từ xa” đểhiểu được một thực tếlà, cácbốgià lãnhđạocộngđồngcủahọbằng
sự giàu có và ảnhhưởng, bất chấpkhoảng cách xa xôi vềđịa lý vàvănhóagiữahọ. “Một trong nhữngđềtàichínhcủanghiêncứu này,” ông đã viết,“làmột số lượng đángkể các nhà lãnh đạo
Trung Quốc có ảnhhưởng nhất, gần nhưchắc chắn, là nhữngnhàlãnhđạotừxacủaxã hội và văn hóaTrung Hoa nhữngngười luôn hướng vềdân tộc của mình vớilòngtrungthànhvôbờ
bến.”
Nghiên cứu củaSkinnernêubậtmọisựphức tạp trong việcnhận diện các đốitượng,đượcchảichuốtkỹ lưỡng bởi nhữngkhuôn mẫu định kiếnthông thường của “đại
gia Trung Quốc”. Đãnổi lênmộthiệntượnglà,đạigiacànggiàuvàcàngcóảnhhưởnglớnthì càng ít phục sứctheo kiểu TrungQuốc.Skinner đã xây dựngcác bảng biểu về sựgiàu có và uy tín của
các đối tượng mà ôngnghiên cứu theo mứcđộ đồng hóa với vănhóa Thái. Không nghingờ rằng, muốn thànhcông thì điều phải làmlà giảm “tính TrungQuốc” và hướng vềbản sắc văn hóa Thái
của giới quyền lựcchính trị. Đồng thời,cần có một mức độ“Trung Quốc” nhấtđịnh để duy trì hìnhảnh một nhà lãnh đạocộng đồng người gốcHoa, cũng là để cungcấpđộingũhậubịcho
việc kinh doanh củacácđạigia.
Ở đây, có thể có sựmâu thuẫn khi đưa rathông tin vềnhân thâncủa các bố già trongtoàn khu vực. Nếukhông có một nghiêncứu thực nghiệm như
củaSkinnerởcácquốcgia khác nhau, mộtluậnvănnhưthếcóthểkhông được chứngminhvềmặtkhoahọc.Thế nhưng, nhữngchứng cứ mang tínhgiai thoại, đã thu thậpđể viết cuốn sách này,
ủng hộ ý kiến rằng,tính cách cá nhân củacác bố già được tô vẽvà đôi khi gây nhầmlẫn.Mộtmộtngườihọhàng của Henry Hoắclà người ngay từ sớmđãlàmviệctrongchínhquyền Anh ở Hồng
Kôngtrướckhitrởnêngầngũi,đủđểlàmviệcvới chính phủ BắcKinhvàđượcbổnhiệmlàm Phó chủ tịch HộinghịhiệpthươngchínhtrịnướcCộnghòanhândân Trung Hoa nóirằng hành vi của các
đại gia nên được xemxét qua lăng kính củacuốn sách bán chạynhấtnăm1960củaEricBerne có nhan đề Tròchơi người ta thườngchơi (The GamesPeople Play), và ôngnói thêm: “Họ đều
muốn có một sự thumình... để được ngườiđời tha thứ.” Berne đãphát triển một nhánhliệupháp tâmlýgọi làPhân tích tác dụngtươnghỗ,màđiểmnổibật là tính dễ uốn nắncủa nhân cách. Henry
Hoắc,ngườiđãquađờitại một bệnh viện ởBắc Kinh hồi thángMười năm 2006, biếttất cả về sự đa dạngcủanhâncách.Ôngđãtrải qua quá trìnhAnhhóa với một học bổngcủa chính phủAnh tại
một trường học dànhcho con cái tầng lớptinhhoaởHồngKông,trở thành một cầu thủquầnvợtvàbóngđátàinăng, và tiếp tục sựtiếp biến văn hóa củagiađìnhbằngcáchgửicác con trai của mình
du học tại trườngMillfield ở Anh. Tuynhiên, đa số giới cầmquyềnAnh chẳngmặnmà gì với ông vì cácphivụbuônlậulớncủaông trong cuộc chiếntranh Triều Tiên, vàBắc Kinh đã thưởng
công bằng cách bancho ông quyền độcquyền kinh doanhtrong một số hoạtđộng, ông đã được táisinhvớitưcáchlàmộtngười theo chủ nghĩadân tộc Trung Quốcđến cuồng tín. Trong
nhiều năm, tạp chíForbes đã cốgắng thuxếp một cuộc phỏngvấnvớiFok,ngườichỉquan tâm đến việc nóichuyệnvớicácnhàbáoTrungquốcđại lụcmàông biết sẽ công bốnhững lời tán tụng
chính thức.Cuối cùng,khi đã đồng ý có mộtcuộc gặp mặt tạiZhuhai,ôngđãrakhỏixehơicủamìnhđủlâuđể tuyên bố như sau:“Mộtkhi cácnướcgiàcỗiđãđixuốngnhưẤnĐộ, Ai Cập, thậm chí
cả Anh họ không baogiờ ngóc đầu lên đượcnữa. Nhưng TrungQuốc sẽ lại trỗi dậy."Sau đó, ông chui ngayvào trong xe và dôngthẳng, chỉ để lại chophóngviênmộttàiliệuphotocopyrấtngắn.
Chơi trò đóng vaimộtphầntấtyếutrongcuộcsốngcủacácbốgiàcóthểgiảithíchsựmấtanninh dường như luônlàm họ khổ sở. Khíacạnhnàylàmộtnỗiámảnh với địa vị của họ.CácbốgiàchâuÁ thu
thập và trưng bày cáchuychương,danhhiệudanhdự,bằngtiếnsĩ...mộtcáchhàohứngđếnnỗi khiến cho các tỉphúngườiphươngTâyphải xấu hổ. Ví dụ,Stanley Hà quả quyếtrằng rằngcác thuộchạ
luôn gọi ông ta là“Tiến sĩ Hà”; HenryHoắcđãtừngđượcgọilà“TiếnsĩHoắc”.Điềunày không thích hợpvớicácđạigiacờbạc.Khi một trong nhữngtrợ lýcủaStanleygiaotiếptrênđiệnthoại,nói
bằng tiếng Anh câu:“VănphòngTiếnsĩHàđây”, người có thểthường xuyên nghethấy tiếng la hét bằngtiếngQuảngĐông củađại gia, có âm thanhcủa bầy vệ sĩ của ôngta làm nền. Tại
Malaysia, các tỉ phúcao cấp kết hợp cácdanh hiệu khác nhaumà chính quyền liênbangvà tiểubang tặngchohọvớinhữngdanhhiệu của các học viện,và họ tự tạo hìnhmẫuvới những lời tônkính
tănglêngấpbalần.Vídụ,KhâuGiaBànhcủaHiệp hội doanh nhânMalaysia (MUI) là“Tan Sri Dato Tiến sĩKhâu Gia Bành”. Khiquan sát cácxuhướngtương tự ở Thái Lan,nơi các đại gia người
nước ngoài từ lâu đãkhao khát các danhhiệu do hoàng gia bantặng, Skinner nhấnmạnh nghiên cứu tâmlý xã hội. Ông lưu ý,việc xem xét nhữngtình huống của nhómthiểu số cho thấy rằng
những người đã trảiquađồnghóaởmứcđộđặcbiệtcaođượcđịnhhướngđểcóđượcmộtbộ đầy đủ các đặcquyền dành cho nhómngười đã đồng hóa.“Các nhà lãnh đạongười Trung Quốc có
tầmảnhhưởngnhất,tạithời điểm thực tế,”Skinner viết, “nhạycảm hơn những ngườiTrungQuốckháctrongviệc tạo ramột áp lựchướng đến đồng hóahơn nữa." Các biểutượng của sự công
nhận cấu thành danhhiệu chính thức, dođótrở nên đặc biệt quantrọng.
Nhưng cuộc khủnghoảngvềnhậndiệncácbố già vượt xa nhữnglời nói tôn kính (và làmột điểm yếu đối với
các văn phòng cựcrộng trên tầng áp máihọ muốn được hiểunhưnghĩađencủabiểnhiệu đặt trên đỉnh tòanhà). Một chủ đề gâytranhcãi làcácđạigiathường bị thu hút bởigiáo lý Cơ đốc Phúc
âm. Thomas vàRaymond Quách củaTân Hồng Cơ vàRonnie Trần của tậpđoàn Hồng Long ởHồngKông,KhâuGiaBành của MUI và giađìnhYeohcủatậpđoànYTL ở Malaysia,
Riadys của tập đoànLippovàSoeryadjayas,ngườinắmquyềnkiểmsoát Astra ở IndonesiachínhlànhữngtỉphúởĐông NamÁ cải theođạoThiên chúa.Trongsố những người tíchcực cải đạo nhất có
KhâuGiaBành, ngườibạn và đối tác kinhdoanh của nhà truyềngiáo qua truyền hìnhngười Mỹ PatRobertson, người đãmua lại nhà hát KualaLumpurbịbỏkhôngđểlàmnhàthờvàbắtđầu
xây dựng nhóm doanhnhânvìChúaKitô.Giađình Riady đã xâydựng một nhà nguyệntưnhânở tòa thápvănphòng Lippo Centre ởHồngKôngvàhọmờinhữngngườimuốn cảiđạo tới đó.Một người
bạn lâu năm của giađìnhnóiôngtađãsốngtrongnỗi sợhãi khi bịlôikéođếnđó.Mộtsốngườibiếtđạigia theoKitôgiáohoài nghi vềtín ngưỡng tôn giáocủahọ,nhưngđiềunàykhông trả lời cho câu
hỏitạisaomộtsốđángkể trong hội huynh đệcủa đại gia này đượclôi kéo theo đạo Cơđốc phúc âm. ChínhFrancisYeohcủaYTLđã nói rằng Kitô giáođối lập với chủ nghĩacánhântháiquávốncó
trong văn hóa TrungHoa. Ông than phiền,người Trung Quốcgiống như vi khuẩnamíp. Tại Indonesia,Edwin Soeryadjaya,con trai cả của tộctrưởngWilliam,nóivềsức thu hút của Kitô
giáo: “Lý do có thể làkhông hề có sự chắcchắn nào ở đất nướcnày. Vì vậy, bạn đặtniềm tin của bạn vàoai?” Các tín đồ bố giàkhông gợi ý điều gì,nhưng cũng có thểđúng là đạo Cơ đốc
Phúc âm cho phép họcó một niềm tin mạnhmẽởnơimàcuộcsốnghàng ngày của họ thểhiệnkhôngcóniềmtinvào tất cả, trừkhi giớinắm quyền lực chínhtrị đưa ra một lời ámchỉ. Cũng có thể tin
rằng, tôn giáo khônglàm cho các chính trịgia châu Á phải phiềnnão, trong khi nếu cónhững quan điểm độclậpvềchính trịhayxãhộilạilàthảmhọa.
Một điều nữa có vẻ làbiểuhiệncủasựmấtan
ninh trong số các bốgià người Trung Quốclànỗiámảnhvới“tínhTrung Quốc” đã đượcchứng minh cùng vớithuyết ưu sinh. Điềunàychỉtrởnênrõrànghơntrongthờigiangầnđây, khi Trung Quốc
lại nổi lên với tư cáchlàmộtthếlựclớntrongkhu vực. Nghiên cứutrường hợp nổi tiếngnhấtlàLýQuangDiệu,một đại gia thuộc loạiđứchạnhvớimột thựctế là ông ta đã quốchữu hóa và nắm giữ
nền kinh tế củaSingapore sau năm1959.LýđãthụhưởngnềngiáodụcAnh,họctại Học viện Rafflesdành cho tầng lớp tinhhoavàĐạihọcRafflestạiSingaporecũngnhưĐại học Cambridge
(cáchọcviệntừnggiáodục những đại gia củaMalaysiavàSingapore,trong đó có RobertQuách và Quách LệnhXán).Saukhiđiduhọcvề, ông ta được gọi làHarry Lý. Năm 1967,ông ta nói với một
thính giả tại Hoa Kỳ:“Tôi không còn làngườiTrungQuốcnữa,cũng như Tổng thốngKennedy không còn làngườiAilen.”
Tuy nhiên, khiSingaporetrởnênphồnvinh và Trung Quốc
bắt đầu mở cửa vàothập niên 1980, Lý đãtrởnênthựctếhơnbaogiờ hết trong việc giảithíchsựthànhcôngcủaquốc gia thành bangnày theo văn hóa Nhogiáo và các giá trị“châu Á”. Ông từng
học tiếng Quan Thoạivà Phúc Kiến củaTrungQuốctrongthậpniên1950,vàđầuthậpniên 1960, khi đã ổnđịnhđịavịchínhtrịnổitiếngcủamìnhthìnhândạng cũ của Lý đã bịchôn vùi. Có lần, Lý
Quang Diệu đã cảnhbáo sinh viênSingapore, vào năm1986, rằng họ khôngbaogiờđượcđánhmất“xu hướng Nho giáocủamìnhđểliênkếtlạiquanh vùng đất trungnguyên, thời khắc đó
chúng ta sẽ trở thànhmộtxãhộiThếgiớithứba”. Như nhà viết sửTrung Quốc ở hảingoại Lynn Pan đãviết:“ViệclàmkhácđihìnhảnhcủaNhogiáoở Singapore là mộttrong số cách thức thể
hiệnlớncủachủnghĩađề cao chủng tộc cánhân." Hành trình tìmhiểu nhân diện củaLýQuangDiệuđãlàmchoông ta được coi nhưngày càng trở nên sayđắm thuyết ưu sinh vềchủng tộc phổ biến ở
nước Anh thời vuaEdward VII. Ông đãthiết lập một cơ quannhànướclàmviệcmaimối tại Singapore, gọilà Cơ quan phát triểnxã hội, để giúp ghépđôicáccặpcómứcđộthông minh như nhau,
vàủnghộchosựtrởlạicủatụcđathêtrongxãhộiTrungQuốctruyềnthống.LynnPanđãđềcập đến nhận định củanhà báo T.J.S. Georgerằng “ông ta phát hiệnở Lý sự mất an ninhcủamộtngườiđànông
bịbệnh tâmthầndobịtrói chặt bằng sợi dâychãoTrungQuốc,mộtngười, vì không hoàntoàn thuộc về nơi nào,đã phải tái chếSingapore trong hìnhảnhcủachínhmìnhđểbù đắp cho sự bị ghét
bỏcủariêngmình”.
Không để hiểu hếtđượcáplựctâmlýxảyrakhibịtróibuộcgiữacác nền văn hóa khácnhau.Một bố già điểnhình cần phải là mộtngười nói được nhiềuthứ tiếng, có thể trình
diễn hơn một bản sắcvănhóađểthànhcông.Mộtđại gia gốcTrungQuốc thành công tuyệtđỉnh sẽ nói được haihoặc ba phương ngữTrung Quốc tiếngQuảngĐông,cộngvớimột hai thứ tiếngkhác
cũng như tiếng QuanThoại, tiếng Anh, mộttiếng bản địa ĐôngNamÁnhư tiếngTháihoặc tiếng IndonesiaBahasa, và có lẽ mộtchút tiếng Nhật đãlượm lặt được trongchiếntranh.Cómộtsự
căng thẳng liên tục đicùngvớiđiềunày,liênquan đến câu hỏi: bảnsắc “thực sự” của mộtngườinàođólàgì?
Lývẫncònxarờithựctế là tiếngTrungQuốccủa ông ta không tốtbằngtiếngAnh.Đâylà
một điều kiện có ảnhhưởngđếnnhiềungườiTrungQuốcđượcgiáodục theo kiểu Anh.David Lý của NgânhàngĐôngÁcủaHồngKông, người đã đượcgửi đến một trườngcông lập ở Anh, nhạy
cảmvới thực tế làôngta hiểu các văn bảntiếng Trung Quốc rấtkém. Budi Hartono,Giám đốc điều hànhcủa đế chế thuốc láDjarum là người gốcHoa, và là một trongnhữngđạigiagiàunhất
Indonesia, từng học ởmột trường của thựcdânHàLanvàvẫncònđọc và viết tiếng HàLan tốt hơn so vớitiếng IndonesiaBahasa; ông ta khôngnói được tiếng TrungQuốc. Ngược lại,
Dhanin Chearavanont,tộc trưởng người gốcHoa của của tập đoànCP ở Thái Lan, luônluônlúngtúngvì tiếngThái của ông vẫn cònrất nặng giọng TrungQuốcmặc dù gia đìnhông đã hoạt động ở
Thái Lan từ thập niên1920.
Nỗi khó chịu nổi lênhàngđầu là thànhkiếnchủng tộc mà nhữngngườicủathếhệcácbốgià tiền bối phải chịuđựng trong thời thuộcđịa. Thái độ trịch
thượng của chínhquyền thuộc địa Anhtại Singapore đối vớimột người có lòng tựtrọng như Lý QuangDiệu là không dễ chịuđựng. Robert Quách,người đã trở nên nổitiếng với đám bạn bè
làm ăn về học thuyếtgien di truyền củamình, và các quanđiểm mạnh mẽ vềchủngtộc,đãđượcgửitớimộttuviệnkhicònlàmộtđứa trẻ,nơicácbàxơdạybảorằngcáccuộc đi lễ chùa chiền
thờ Phật của gia đìnhông là một dạng thờphụng ma quỷ. NềngiáodụcAnhdànhchoconnhàthuộctầnglớptinh hoa mà ông đượcthụ hưởng trường đạihọcAnhtạiJohorBarucủaMalaysiavàtrường
Raffles ở Singapore và sự nổi lên của ôngnhư là một “ngườiTrungQuốc được sinhmộtlầnnữa”trongthờikỳ độc lập, giống nhưmột hình phản chiếucủa Lý Quang Diệu.Quách trở thành một
nhà tài trợ chính cho“các hội nghị” củangười Trung Quốc ởhải ngoại trong nhữngnăm1990;ôngđãpháttín hiệu về độ thuầnkhiết Trung Quốcthông qua cuộc hônnhân thứ hai củamình
(ngườivợđầucủaônglàmộtphụnữlaiÁÂu)bằng cách đặt tên chocác con bằng tiếngTrungQuốc;vàôngtrởnênthẳngthắnhơnbaogiờhếtkhiđặtcơsởditruyền cho sự thànhcông về kinh tế của
người Trung Quốc ởhảingoại.
Ở nơi có sự phân tíchlạnh lùng về thànhcông của những ngườinhư Lý Quang Diệu,Robert Quách vàHenry Hoắc đã tìm ranguồn gốc của thành
công trong tính chấtcủa chủ nghĩa thế giớicủa họ khả năng làmviệc trong các môitrường ngôn ngữ vàvăn hóa khác nhau họtự tìm kiếm một lờigiải thích giản đơn vềvăn hóa. Điều này có
thể gây khó chịu choconcáicủacácbốgià,nhiều người trong sốhọ - phù hợp với môitrường có giao thoavănhóamàhọ lớn lêntrong đó - đã kết hônvới người không phảigốc Trung Quốc. Một
người anh em rể củaRobert Quách mô tảôngtalà“mộtngườicốchấpvềchủngtộcnhấtmàtôitừnggặp”.
Tuy nhiên, điểm lớnhơn làcácbốgiàđanghai lầnvướngvàomộttrò tự lừa dối mình.
Đầu tiên là để giả vờrằng câu chuyện pháttriển kinh tế ở ĐôngNam Á là một câuchuyệnTrungQuốc, ởnơinólàcâuchuyệnvềsựnhậpcư.Thứhai làđể tránh một thực tếrằnghọ - cácđại gia -
thường có các lợi thếthực tế trong nhómnhững người nhập cưđểthànhcôngtrêntoànthế giới. Trở lại côngtrình nghiên cứu củaSkinner về các đại giacủa Thái Lan, đó rõràng là những lợi thế
mà họ có. Các đốitượng nghiên cứu củaSkinner được giáo dụctốt hơn so với chươngtrình giáo dục phổbiến. Ông cho rằng:"Đối với kết quả giáodục, không thể bác bỏlà cácnhà lãnhđạođã
tạo nênmột nhómđặcquyền trong xã hộiTrung Hoa ởBangkok.” Và chỉ cómộtphầnnămtrongsốhọcóthểđượcmôtảlà“tự thân vận động”.Mộtthựctếcáclợi thếvềhoàn cảnh ra đời là
phổbiến.Điềucheđậyđáng chú ý nhất củacác bố già là lòngquyết tâm của họ đểchứngminh cómột sựbiến chuyển từ nghèokhổtrởthànhgiàucó.
NGUỒNGỐCXUẤTTHÂN RẤT BÌNH
THƯỜNG
Cácđạigiađãphảikhổsở trongmột thời giandàiđểthiếtlậpnênđịavị của mình. Họ lànhữngngười cónguồngốc xuất thân rất bìnhthường, và họ đã tựmình làm nên sự
nghiệp.Như đã thấy ởtrên, các chế độ củaSuharto và Marcos đãsản sinh ra những câuchuyện từ tầng lớpcông nhân trở thành tỉphú, vì những kẻ độctài đã mời gọi nhữngngườinướcngoàixalạ
trở thành những kẻđồng lõa đáng tin cậycủa họ trong việc chiachác các chiến lợiphẩmkinhtếmàquyềnlực của họ mang lại.Tuy nhiên, đây khôngphải là chuẩn mựctrong lĩnh vực chính
trị, thường ổn địnhhơn. Nếu có một địnhkiến về giai cấp chovươngquốccủacácbốgià Đông Nam Á, thìđólàmộttầnglớpquýtộc kinh tế phất lênnhanhchóng.
TrungQuốccómộtcâu
tục ngữ nổi tiếng nóivề sự giàu có ba đời,trong đó một thế hệlàmnêngiasản,thếhệtiếptheogiữgìnnóvàthế hệ thứ ba sẽ đánhmất nó. Kinh nghiệmthựctếtronghàngtrămnăm qua chỉ ra một
trình tự bốn thế hệ,trongđóthếhệđầutiênthiết lập một hạt nhânvốnliếngmàthếhệthứhai, nhờ quan hệ vớigiớiquyềnlựcchínhtrịđượccảithiện,sẽnângnó lên thành một tàisảnlớn.Sauđó, thếhệ
thứbacốgắnggiữgìnmột khối tài sản vôcùngđadạngphảnánhtính cách cá nhân độcđáovàcácmốiquanhệcủangườicha.Đếnthếhệ thứ tư, vì thiếu sựchuyêntâmtrongcôngviệcnày,vàcósựphân
rãcủacácmốiquanhệbanđầumàcácđếchếdoan nghiệp được xâydựngdựatrênđóđiểmyếu cố hữu của cácdoanh nghiệp dựa trêngiađìnhhơnlàquảnlýchuyên nghiệp sẽ làmchokhốitàisảnđósụp
đổ.
Câu chuyện từ nghèokhổ trở nên giàu cótrongmột thế hệ có lẽlà ngoại lệ. Các nềnkinh tế trongnướccủaĐông Nam Á còn lâumới được chính phủkiểm soát chặt chẽ để
làm nên điều đó. NhưAdrian Zecha, mộttrùmkinhdoanhkháchsạnsangtrọngbậcnhấtởTrungQuốc-HàLan- Malaysia Czech -Thai Lan - Đức -Indonesia, và là ngườicóvaivế trongxãhội,
ngườihiểubiếtrõnhấtvề các đại gia đươngđại, nói về con đườngdẫn đến vương quốccủacácbốgià:“Trongmột thế hệ là rất khókhăn,vìnókhôngphảilà một xã hội kinh tếmở. Bạn có thể làm
được như vậy ở nướcMỹ.Mức độ thấp hơnở Anh, mức độ thấphơnnữavẫncòncóthểthấyởlụcđịachâuÂu.Nhưng ở đây thìkhông," WangGungwu, một nhà vănsáng tác nhiều về
người Trung Quốc ởhảingoạithườngtrútạiĐại học Quốc GiaSingapore, đồng tình:“Tôivẫnchưathấymộtdoanh nhân nào khởinghiệpvớixuấtthânlàmộtngườiculi."
Mặc dù vậy, như một
truyền thống lâu đời,cácđạigiathườngthầnthoại hóa nguồn gốcxuấtthânkhiêmtốnvàcuộcđấutranhđểthoátkhỏinanhvuốtcủađóinghèo. Một ví dụ cổđiển là doanh nhângiàunhấtTháiLan,và
làThủtướngtrongthờigian gần đây, ôngThaksin Shinawatra.Trongcácbàiphátbiểuvà các ấn phẩm chínhthức, Thaksin liên hệđến câu chuyện mộtnềngiáodụccứngnhắcvà những trường học
không được cấp kinhphíđầyđủnênphảisửdụng các trang thiết bịhưhỏng.Ôngtuyênbốtrongmộtbàiphátbiểutại Manila năm 2003:“Do xuất thân từ mộtgia đình khiêm tốn...Tôi đã hiểu được
nhữngkhókhăncủasựđói nghèo ở các vùngnông thôn. Tôi biếtđược tầm quan trọngcủaviệcđạtđượcphầnthưởng bằng cách làmviệc chăm chỉ." Trongthực tế, gia đìnhThaksin là một triều
đại đã tồn tại lâu đờiđến từChiềngMai, đãđượctraocácnôngtrạicó đóng thuế trướcnăm 1932, và chuyểnsangkinhdoanhtơ lụacũngnhưtàichính,xâydựng, và sau đó là bấtđộng sản. Thaksin tự
mình đã học qua cáctrườnghọcđịaphươngtốt nhất, sau đó là họcviện quân sự, rồi kếthônvớicongáimộtvịtướng. Sự thăng tiếncủa ông qua các cấpbậc trong lực lượngcảnhsátTháivàsựtiếp
cận đến nhượng bộkinh doanh của nhànướcđãđượcrấtnhiềungười trong cuộc kểlại.
TạiHồngKông,đạigiagiàu nhất châu Á LýGiaThành, rất saysưavớidanh tiếngmình là
con trai của một giáoviên đến Hồng Kôngnăm 1940 chẳng mộtxudínhtúi.Trangwebchính thức của ông tạiCheungKongHoldingstuyên bố: “Đặt lên vaitrách nhiệm chăm losinhkếcủacảgiađình,
ôngLýbuộcphảinghỉhọc khi 15 tuổi và tìmđược công việc trongmộtcôngtykinhdoanhnhựa, nơi ôngphải laođộng16giờmộtngày.Đếnnăm1950, vì tinhthầnlàmviệchếtmình,sự thận trọng và quyết
tâm theo đuổi thànhcôngôngxâydựngnêncôngtyriêngcủamình,đó là công ty CheungKong Industries.”Trong thực tế, Lý đãđược đi học một vàinămvà sauđóbắtđầulàm việc cho một
ngườichúgiàucó (giađình đã từng sở hữucông ty Chung NamWatch Co. ở HồngKông).Sauđóôngtrởthành một phần củanhómnhữngngườidẫnđầu các đại gia quantrọng, nhờ kết hôn với
congáiôngchủ.Ngườivợ đã quá cố của Lý,AmyChongYuetming,là em họ ông con gáicủangườichúgiàucó.Doanh nghiệp mà Lýlàm việc trong thực tếthuộcvềbốvợông;vànhữnggìLý làmđược
là tổ chức các hoạtđộng. Theo một bạntìnhtrongthờigiandàicủaLý,mẹvợcủaôngcũng giúp thêm choôngvềmặttàichính.
Kết hôn với con gáicủa ông chủ khôngphảilàkhôngphổbiến
trong quá trình pháttriển của các bố già.MộtvídụnổitiếngcủaSingapore là trùm tàiphiệt Lý Quang Tiền,năm 1920 đã kết hônvới con gái của TrầnGia Canh và trở nênthành đạt bảy năm sau
đó, với tư cách là thủquỹ trong doanhnghiệpcủabốvợtrướckhi tách ra thành lậpdoanhnghiệpcủariêngmình. Trịnh Dụ Đồng,ngườisánglậpcôngtyvận tải biển OrientOverseas Line và là
thânsinhcủathốngđốcđầu tiên của HồngKông sau khi trao trảthuộc địa, Đổng KiếnHoa, có được gia sảnnhờcuộchônnhânvớigiađìnhhọKhâudanhtiếng ở Thượng Hải.Trong thếhệhiện tại,
TrịnhDụĐồngcủatậpđoànNewWorld cũngdo hôn nhân mà cóđược công ty kinhdoanh đồ trang sứcChow Taifook có mặtở khắp Hồng Kông.Đối với người sẽ trởthànhbốgià,khikhông
thểdựavàosựgiàucócủa bố đẻ để khởinghiệp kinh doanh thìsựgiàucócủagiađìnhvợ là một nguồn lựcchủyếu.
Không nên ngạc nhiênvề điều này, vì đóchínhlàtínhưuviệtvề
mặt xã hội của các xãhội ở Đông Nam Á.Tuy nhiên, thật là tòmò khi muốn biết cácđại gia bị ràng buộcnhư thế nào với câuchuyện huyền thoại từnghèokhổtrởnêngiàucó. Ngài David Lý, tỉ
phú đứng đầu NgânhàngĐôngÁtạiHồngKông luôn bị một nhàquan sát tinh khônđẳng cấp quốc bámtheo. Người này quảquyết rằng nhiều đạigia đã tự thêu dệt nênchuyện đó.Ví dụ, ông
ta đã trích dẫn đại giađiệnảnhvàtruyềnhìnhlàNgàiRunRunShaw,Lý Triệu Cơ củaHenderson Land vàHenry Hoắc. NhưngRunRunShawvà anhemcủamìnhlàcontraicủamột đại gia ngành
dệt ở Thượng Hải. LýTriệu Cơ xuất thân từmột gia đình kinhdoanh ngân hàng vàbuônbánvàngbạcgiàucóởquậnShuntaktỉnhQuảngĐông;vàHenryHoắcmặcdùxuấtthântừ giai cấp công nhân
chínhcốngđã làmnênsự khác biệt nhờ mộthọc bổng của chínhphủ Anh và được vàohọc tại một trườngdành cho tầng lớp tinhhoa. Nếu không cóMarcos và Suhartokhuấymọi thứlên,các
bốgiàchâuÁsẽkhôngphải là sản phẩm củatínhlưuđộngxãhộirấtlớn. Tuy nhiên, có ýniệm rằng đó là mộtphần thiết yếu trongviệc tự nhận thức củacácđạigia.Điềuđórấtquan trọng đối với ý
thứctựhàocánhâncủahọ, vàđó cũng là điềuquan trọng để duy trìnhữngcơcấuchính trịđộc tài và các thịtrường không tự dotrong khu vực, thườnghạn chế cơ hội củanhiều doanh nhân tài
năngkhác.
TÍNH CĂN CƠ CÓCHỌNLỌC
Mộtyếutốtiếptụcgâyhiểu lầm về hình ảnhcủa các đại gia là sựnổi tiếng về tính căncơ,tằntiệncủahọ.Một
phần, điều này là hợplý,nhưngphầnkhácsựtiêuphatằntiệncủahọvẫn là cực lớn so vớimứctiêuxàichungcủaxã hội. Sự tiết kiệmchính đáng đó phảnánh mong muốn bảnnăng của một doanh
nhân là bảo tồn vốn.Như một chủ ngânhàngđầutưchâuÁlâunăm(vàlàbạntìnhcủađại gia) nhận xét: “Sovớichủngânhàngđầutư hạng trung bình, họgiỏi hơn ở chỗ biết tựtừ chối những phần
thưởng trần tục tứcthời.” Ví dụ, RobertQuáchđãmuamột tòabiệt thự ở đườngVịnhnước sâu (DeepWaterBay) của Hồng Kông(một dạng “nhà ở ngõhẻm” của các đại gia,gần một sân gôn chín
lỗmàcácbốgiàrấtưathích chỉ để được chơivài hiệp vào mỗi sángsớm)trongcuộckhủnghoảng tài chính châuÁ, với cái giá bèo bọtlà 80 triệu đôla HồngKông.Ôngđãcốgắngsốngtrongngôinhàđó,
nhưng theo các thànhviên của gia đình, ôngtrở nên ám ảnh với ýniệmrằngbấtđộngsảnđãquánhiều, thậmchíngay cả đối với mộtngười có tài sản nhiềutỉđôla.Cuốicùng,ôngchorỡbỏngôinhà,xây
dựngnămcănnhàphốkhiêm tốn ở vị trí đó,một căn dùng chomình, hai căn cho giađình và cho thuê haicăn còn lại. Quáchsốngtrongloạinhàmàở châuÂu vàMỹmộtngười quản lý ngân
hàng có những thànhcông ở mức độ khiêmtốnthườngở.
Các bố già cũng thíchdùng điện báo để gửinhữngtinnhắnhữuíchcho nhân viên và cácnhà cung cấp dịch vụ.Mộtchủngânhàngđầu
tư tạiMalaysianhớ lạimột cuộc họp tạiLondon vào năm 1999với Lâm Quốc Thái,contraicủatỉphútrùmgiảitríLâmNgôĐồng,để xác nhận việc mualạicôngtyCruiseLinscủaNaUyvớigiá2tỷ
đôla. Rời khỏi vănphòng luật sư trongthành phố, Quốc Tháigọi một chiếc xe taximà các chủ ngân hàngđoánrằngsẽđưahọtớisân bay Heathrow đểbay sang Na Uy.Nhưng đi được một
dặm rưỡi, người thừakế tỉ phú đã ra lệnhdừng xe và dẫn mọingười đến lối vàođường tàu điện ngầmLondon. Ông đã tiếtkiệm một vài poundbằng cách đi tàu điệnđến sân bay.Khi đã ở
sân bayHeathrow, cácchủ ngân hàng đầu tưlạilúngtúngnhậnthấynhóm của mình đãđược đặt vé hạngthườngchochuyếnbayđến Oslo. K. S. Li(thườngđượcgọi làLiKashingLýGiaThành
khi ở Hồng Kông)thích chứng tỏ sựkhiêm tốn của mìnhbằng cách nhắc nhởmọi người về đồng hồloại đeo tay Seiko vàCitizen rẻ tiềnmà ôngđãđeonhiềunăm“vẫndùng tốt”. Một người
quản lý của ông đãđượcnghecâunóinàyquá nhiều lần đến nỗithuộc nằm lòng. Hìnhảnh chiếc đồng hồ rẻtiền đã trở thành biểutượng của ông. Trongmột cuộc phỏng vấnhiếm hoi với tạp chí
Fortune, Lý lại đưa rachủđềđồnghồ:“Đồnghồ của anh sang trọnghơn,” ông chỉ chiếcđồng hồ của phóngviên. “Của tôi rẻ hơn,rẻhơn50đôla.”
Ngoài bản năng bảotoànvốn,các thủthuật
kinh doanh nhạy béncũngthểhiệnchonhânviênbiếttínhtiếtkiệm.Tuynhiên,cómộtthỏathuận ngầm rất tốt vềlối sống được cho làkhiêm tốn của bố giàhạng trung. Một niềmtự hào khác của công
chúngdànhchoLýGiaThành là một thực tế,rằng ông đã rút nhữngkhoản tiền lương nhỏtừ các công ty đạichúngcủamìnhđểchitiêunăm2005,ôngchỉrútkhoảng10.000đôlaHồngKông từ công ty
Cheung KongHoldings. Điều nàykhông bao giờ ngụ ýrằng tại Hồng Kôngngười ta chỉ đánh thuếthu nhập dựa trên tiềnlương chứ không theocổ tức, do đó, khuyếnkhích các đại gia trốn
thuế lợi tức. PeterChurchouse, một cựugiámđốcđiềuhànhtạiMorgan Stanley ởHồng Kông, nhắc đếntrường hợp của mộttrong những bạn đồngnghiệp của Lý GiaThành:“LýTriệuCơ,”
ôngnói,“đãnhậnđược150đến300 triệuđôlacổ tức chỉ từ [công tyvận tải biển]Henderson trong haimươi năm." Lý đã sửdụng tiền để mua30.000 căn hộ chungcưtạiHoaKỳ.Suycho
cùng, chắc chắn đâykhông phải là nhữngngườichỉsốngnhờcáckhoảnthunhậpnhỏ.
Tính hoang tàng thựcsựvàbímậtcủanhómanhem,bạnbècácđạigia nằm ở thói cờ bạccao cấp của họ. Hầu
hết các thành viên củanhóm đều tuyên bốrằng tất cả các thànhviên khác (chứ khôngphảichínhhọ)đềuluônluôn ham mê cờ bạc.“Cảbọn chúng tôi đềulànhữngconbạc lớn,”một tỉ phú ở Hồng
Kông đã nói như vậy.“Hai người duy nhấtkhôngphảiconbạclớn[nhưngvẫnlàbốgiàcờbạc] là Stanley Hà vàHenryHoắc”. Các chủngân hàng đầu tư ởHồng Kông vàSingapore thường xì
xầm đồn đại rằng tròchơi gôn ăn tiền củacác đại gia có giá trịđến1triệuđôlamộtlỗ.Hoặc có người thườngthua đậm trong cácchuyến đi đếnAustralia và Mỹ đểđánh bạc. Tất nhiên,
chẳngcótintứcgìtrêncác phương tiện thôngtinđạichúngbởivìcácđại gia không côngkhai. Những lời đồnđạicó rấtnhiềuvàgợiý một hình thức đánhbạcvangtiếngmộtthờicủa các ông vua ở
Trung Đông nhữngkhoảntiềnkhổnglồđãbị thổi bay bởi nhữngngườikhôngbiếtgiátrịthựctếcủatiềnbạc,vìhọ đã không thực sựkiếmđượcnó.
BỐ GIÀ LUÔN LÀÔNG CHỦ CỦA GIA
ĐÌNH
Điềuthậtsựkhôngthểphủnhậnvềcácbốgiàlà, họ duy trì quyềnthống trị của đàn ông,truyềnthốnggiatrưởngcủagiađìnhởmộtmứcđộ cao hơn bìnhthường. Trong việc
điều hành doanhnghiệpcủagiađình,họyêu cầu một sự phụctùng triệt để từ nhữngngười thânvà sửdụngnhiều chiến thuật đểbảo đảm điều đó.Mộttrong số chiến thuậthiệu quả nhất để giữ
cho con cái và ngườithân khác trung thànhvới viễn cảnh quyềnthừa kế to lớn là kiểmsoát để họ luôn luônkhông có nhiều tiềnmặt. Hoàng ĐìnhPhương, chủ đất tưnhân lớn nhất
Singapore và sở hữunhiều tỉ đôla là mộttrường hợp điển hình.Con trai cả của ông làRobert,điềuhànhSinoLand ở Hồng Kông,khi còn nhỏ, là mộttrongnhữngnhàđầutưphát triển lớn nhất tại
lãnh thổ này. Robertđược giáo dục trongmột trường nội trú nóitiếng Anh, và bây giờđangởđộtuổi50,ôngsống trongmột cănhộthuê và chỉ sở hữuriêng khoảng 1 triệuđôla cổ phần tại Sino
Land. Trong khi đó,cha ông luôn liên lạcqua điện thoại mỗingày để kiểm tra bảnthu chi tiền mặt củadoanh nghiệp. Tươngtự, người em trai làPhilip cũng được giữbằngmột sợi dây xích
chặt chẽ như thế tạiSingapore.
MichaelVatikiotis,nhàbáo, cựu biên tập viênFar Eastern EconomicReview (Tạp chí KinhtếViễnđông) làngườitiếp cận gần nhất vớigia đình Chearavanont
ở Thái Lan. Ông nhớlạibữaăntốivớingườiđứng đầu gia đình vàcáccontraicủaôngta,trong đó những ngườinày không được phépnói chuyện với khách.Mộtchủngânhàngđầutư từng làm việc với
nhà Chearavanont đãvẽ nên một bức tranhtương tự, trong đónhững người con trai“phải cầu xin để đượcmua một chiếc xemới”.Mộtyếu tốkhácđảmbảoquyềnlựcgiatrưởng trong các gia
đình Trung Quốc làkhôngcóquy tắcai sẽđược bàn giao phầnnào trong tài sản củagia đình. Một nhậnthức sai lầm thườngxảyrachorằng,cómộtsốhìnhthứcquyềncontrưởngtrongcôngviệc.
Trong thực tế, ngườicon trưởng có thể làngười thừa kế doanhnghiệpnếuanhtađượcnhìn nhận xứng đángvớicươngvịcủamình.Điều hoàn toàn bìnhthường là, có thể mộtngười khác trong số
anh chị em được lựachọn làm người thừakế, mặc dù nam giớiluôn luôn được xếphàng trước nữ giới.Chẳng hạn, đại giasòng bạc MalaysiaLâm Ngô Đồng đãchọn Lâm Quốc Thái
thừa kế chứ khôngchọn con trai cả. LâmThiệuLươngđãbỏquacontraicảlàAlbertkhichỉ định AnthonySalim làm người thừakế. Henry Hoắc cũngloạibỏTimothylàcontrai trưởng và chọn
người con trai thứ làIan. Những người contrai nhỏ tuổi hơn ít cókhả năng rời bỏ giađình khi họ biết rằnghọ không nhất thiếtphải tách ra khỏi việcđiều hành các hoạtđộng để trở thành ông
chủlớn.
Văn hóa của doanhnghiệp gia đình có thểlàngộtngạtkhóthở,vàthườnglànguyênnhâncủanhiềunỗibấthạnh,nhưng nó hầu nhưkhôngbaogiờbịtháchthức.Hơnnữa,sựgiao
nhautrêntấtcảcácloạihìnhxãhội họckhôngbị ảnh hưởng bởi mộtgia đình có pha trộnchủng tộc hay không,hoặcbốgiàcóđượcđihọcở trườngthuộcđịahay không. Ngườiđứng đầu gia tộc luôn
luôn làôngvua. Nhìntừ bên ngoài, điều nàyđược Helmut Sohmen,chàngrểngườiÁocủađạigiavậntảibiểnBaoNgọcCươngđãquácố,chứng kiến tận mắt.Anh ta gọi đó là “tìnhyêu đối với sự xuất
sắc”.Cóthểhiểuđượckhái niệm tương tựthông qua các mô tảthường xuyên của LýGia Thành về “nhữngcon sư tử thân thiện”.Ở góc độ này, các đạigia ở Đông Nam Ákhaokhátđịavịchađỡ
đầu hiền lành, nhânhậu. Nhưng, trong khiđiều này có thể xảy ratrong nhận thức chungcủa công chúng, thìtrên thực tế quyền hạntrong các gia đình vàthường là trong cáccôngtytấtcảđượcvận
dụng bằng sự bắt nạtrất con người. Nhữngngườiconđãtrungtuổicủa cácbốgià nhưLýGia Thành và RobertQuách thường sốngtrong sợ hãi mỗi khichamìnhgiậndữ.Mộtngười quản lý của Lý
nhớlại,contraicảcủaônglàVictorđangngủgà ngủ gật trong mộtcuộc họp đã bị đánhthức bằng một tiếngthét, như tiếng sấm,của cha mình. Cácthành viên Hội đồngquản trị của công ty
South China MorningPost, doRobertQuáchkiểm soát, không biếtphải nhìn đi đâu nữatrong một cuộc họpđánghổthẹnhồithángHai năm 2003, khi đạigia mất bình tĩnh vớicậucontraiEan,khiđó
đã48tuổi,lamắngcậuta trước mặt các giámđốccómặttrongphònghọp.Trongkhiđó,mộtđạigia sởhữunhiều tỉđôla đã tìm cách kiểmsoátnhữngcơngiậndữcủa mình với sự trợgiúp của một bác sĩ
liệupháphànhvi.
Các tỉ phúđược coi lànhữngngườiluônluônbận rộn và điều trôngđợi của nhiều ngườitrongsốhọlàđạtđượcsựcânbằnggiữa“côngviệc và cuộc sống”.Nhưng, quyền không
được phép hỏi han,khôngđượcphépngănchặncác tộc trưởngcómột ảnh hưởng khôngtốtđếnmốiquanhệgiađình. Richard, ngườicontraithứcủaLýGiaThành là một ví dụhiếm hoi của sự nổi
loạn bán chủ động.Anhnàyđượcgửi đếntrường nội trú khimớimườihaituổi,vàngườitađồnmẹanhđãtựtử.MộttiểusửbằngtiếngTrung Quốc xuất bảntráiphépnăm2004,chỉcó thể được cung cấp
thông tin bởi nhữngngười tay trong củaRichardLý,nhấnmạnhmối quan hệ gần gũicủa anh với mẹ mình,cùng quá trình thànhlập công ty riêng vàsau đó tiếp quản côngtyHongKongTelecom
mà không cần thôngbáochocha,vàthựctếanh đã coi Lý QuangDiệu chứ không phảiLýGiaThànhlàngườianh hùng của mình.Thông điệp tới cácthính giả người TrungQuốc đặc biệt rõ ràng:
cha và con trai khônghợp nhau vì nhữngđịnhkiếnvănhóa.TimHoắc, con trai cả củaHenryHoắc,tiếtlộmộtphần về bản chất củacuộc sốnggia đìnhđạigia. Anh mô tả nhữngtrải nghiệm “kỳ quái”
khi trở về nhà từtrường công lập củaAnh để kỷ niệm sinhnhật lần thứ 16, và bịchađuổi trở lại trườngvìôngcònbậnđimuachiếc tàu cao tốc đầutiên hiệuHitachi để đilạigiữaHồngKôngvà
MaCao.Thậtchuaxótkhi anh kết luận: “Tôinghĩ rằng cha tôi quantâmtớiviệcđiđếncáchộp đêm hơn là quantâmđếntôi.”
Không cógì xácđịnhquyền lực của bố giàtrong gia đình nhiều
như sự phóng túng đểthỏa mãn những hammuốn tình dục. HenryHoắc,ngườiđãquađờivào năm 2006, vàStanley Hà đều cónhiềuvợchếđộđathêkhông bị cấm ở HồngKông cho đến khi có
Pháplệnhcảicáchhônnhânnăm1971.Nhiềuđại gia đã tận hưởngcái thú có nhiều tìnhnhânvàdưthừanhữngmối quan hệ tình dụcngoài hôn nhân. Mộttrongnhữngngườiđànông giàu nhất châu Á
đã rất thẳng thắn nóirằng, trong cuộc sốngcủacácbốgià,quanhệtình dục là nhữngkhoảng tạm nghỉ chủyếu trong một ngàylàm việc ở văn phòng:“Giới kinh doanh làthế,” ông nói. “Không
ai có bạn bè chỉmangtínhxãhội.Họngủvớimột cô gái, rũ bỏ sựchai sạncủahọvà sauđó trở lại làm việc.”Tất nhiên, ông takhông hoàn toàn đủthẳng thắn để thừanhận, sự quan sát này
cũng áp dụng cho ôngta, mặc dù một thànhviên của gia đình ôngđảm bảo rằng điều đócó xảy ra: “Nếu họkhông có một ngườiphụnữmỗingàythìhọkhông thể hiện được‘chức năng đàn ông’”,
người này đã nói nhưvậyvềnhómhuynhđệcủa các đại gia. Sẽ làham muốn nhục dụcquá mức nếu nhấnmạnh, về mặt cơ học,cách thức những ônggiàbảymươihoặctámmươi tuổi mà còn tổ
chức cung cấp liên tụccáchoạtđộng tìnhdụctươi mát. Nhưng chỉcầnnóirằngcáctỉphúnhững người sở hữucác tòa nhà lớn cónhiều căn hộ, chuỗikháchsạnvàduthuyềncó quán nhậu trang trí
bắt mắt có rất nhiềukhông gian riêng tư ởcáchxanhà.
Có một truyền thốnglâuđờicủacácbốgià.Con gái của đại giaHoàng Trọng Hàm ởIndonesia thời trướcchiến tranhviếtvềcha
mình: “Trong suốtcuộcđờimình, ôngđãcó mối quan tâm rấtlớnđếnđànbàvà tìnhdục.Ôngcóđến18thêthiếp được công nhậnvàcóvớihọtổngsố42đứacon.”Nhómngườicùng tuổi ngày nay
khiêmtốnhơn,mặcdùEkaTjiptaWidjayacủaIndonesia có liên quanvới ít nhất là 30 đứacon. Stanley Hà có 17đứa con được thừanhận.Khônghềíthơn,cácđạigiachâuÁvẫnthíchsựphóngtúngvề
tình dục một cáchkhông bình thường.Như một chủ ngânhàng đầu tư kỳ cựu ởHồngKôngđãnói:“Sựthamlamvềtìnhdụclàđặc hữu đối với vănhóacủahọ...Thựctếlànhữngngườivợcủahọ
chẳng nói gì về điềuđó,khácvớicácbàvợcủa các tỉ phú phươngTây”. Tuy nhiên, điềunày không có nghĩa làcon cái họ không bịảnh hưởng. Điều đángchú ý trong gia đìnhmộtsốbốgiàlà,những
đứa con trai trong giađìnhbựcbộivàbịảnhhưởng vì sự trác tángcủachachúng,vàviệcđócũngảnhhưởngđếnmẹ chúng. Một điềuđáng chú ý khác là,chính những đứa contraiđókhilớnlêncũng
trở thành kẻ phóngđãngvề tìnhdụcyhệtchachúng.
QUYỀN LỰCKHÔNGĐI ĐÔI VỚITRÁCHNHIỆM
Yếu tố cuối cùng tôđiểm cho một bố già
tiêu chuẩn là tính kínđáo, bí mật. Đây hầunhư là sự phản ánhnhất quán về văn hóachâu Á và văn hóaTrung Quốc. Bức thưcủaRobertQuáchnăm1991 gửi cho tạp chíFar Eastern Economic
Review để từ chốimộtcuộc phỏng vấn làtrường hợp điển hình.“Người Trung Quốctrunglưu,”Quáchviết,“ngại công khai vìnhiều lý do, khôngthích vạch áo chongườixemlưng,vàdo
đó cũng không thíchgiaoduvớigiớitruyềnthông.” Nhưng đằngsau việc trông cậy vàosự bảo vệ về văn hóacủa những người theochủnghĩa thếgiới triệtđể như Robert Quách,cómộtsựthậtlớnhơn:
người hay đàm phánnhưôngtavàsựbímậtluôn đi cùng nhautrongbấtkỳxãhộinào.Rấtđángnhớcáchthứccácngânhàng tưnhâncũ thống trị nền tàichính quốc tế tạiLondon và New York
vào cuối thế kỷ XIXWarburg, Rothschild,Morgan và nhữngngười khác không đặtbiểnhiệubênngoàitrụsở chính của họ. Vănphòng chính của J.P.Morgan&Companyởgócngãtưgiữahaiphố
BoardvàWallởLowerManhattan,khôngcógìnhiều hơn số 23 trêncửa.
Những người như J.Pierpont Morgan đãsốngtrongmộtthếgiớimà việc kinh doanhđược xác định bởi các
mối quan hệ và nhữngthôngtintaytrong.Dođó,nhưngườiviếttiểusử củaMorgan là RonChernow đã nói: “Cácđạigiacảmthấykhôngcó nghĩa vụ giải thíchvề bản thân hoặc vớicác nhà đầu tư nhỏ,
hoặcvới toànthểcôngdân nói chung”. Ðó làtrường hợp ở ĐôngNam Á. Hầu hết cácthoả thuận đều liênquanđếnmộtsốyếutốvề giấy phép hoặc sựnhượng quyền củachính phủ, những điều
đókhiếncảhaibênđềumuốngiữkínđáo.Thịtrườngtrongnướcđangbị“cartelhóa”nặngnề,và khi một doanhnghiệpkhôngthamgiasẽ bị một cartel tháchthức bằng một chiếndịchxâmnhậpvàocác
hoạt động của nó. Tấtcả các tập đoàn khácnhau của châu Áhưởng lợi từ quá trìnhcartel hóa, và như vậyngăn chặn được sựkhiếu nại của côngchúng về sự dàn xếplàm họ đặc biệt khó
chịu. Và vì có cuộckhủng hoảng tài chínhchâu Á nên mới cóđược một phong tràotuyên truyền tích cựccủa các cổ đông trongkhu vực. Tóm lại, cácđạigiađãcóthểduytrìmộttiểusửmờnhạtvì
họ không phải đấutranh để giành giật thịtrườngchỉđấutranhđểcó được sự nhượngquyền và các cổ đôngcủa họ thường thụđộng.
Sựbímật,tấtnhiên,lànhiều mảnh ghép của
truyền thuyết. NhưQuách Lệnh Xán củaMalaysia, nguyên mẫumột đại gia ngườiTrung Quốc bí hiểm,đãluivềởẩntrongcănnhà một mái trên tòatháp văn phòng HồngLongcủamìnhởKuala
Lumpur.NhưngQuáchcũng là một luật sưbiện hộ luôn ngậmxìgà,ngườiđượccoilàtrụ cột tại MiddleTemple, một thànhviên nằm trong Liênminh bốn đoàn luật sưở London. Gia đình
ông bây giờ đã đượcAnh hóa triệt để. Emhọ của ông, QuáchLệnhMinh, làmột đạigia khách sạn và bấtđộng sản có trụ sở tạiSingapore, cũng họcluật ở Anh và tốtnghiệp Đại học
London. Quách có lẽcòn bí ẩn hơn so vớingười anh em họ củamình. Ông ta bị tiếngxấu tại cuộc họp cổđôngvìtừchốicáccâuhỏi và chỉ nói nhữngcâu đã được chuẩn bịsẵn.Nhưngvìôngnày,
giống như người anhem họ của mình, cógốc gác Trung Hoa,hoặc vì họ đều lànhững người theo chủnghĩa thế giới nên cóthểphảirađivìhànhviấy không được dungthứ ở thị trường Mỹ
hoặcchâuÂu.
Có lẽ lập luận mạnhmẽ nhất chống lại ýniệmkhiêmtốnvốncócủacácđạigiachâuÁlàmối quan hệ của họvớicôngchúng tinhvihơn rất nhiều so vớiviệc trốn tránh các
phương tiện truyềnthông.Khimộtnhàbáotiếp cận được các bốgià, ấn tượng nổi bậtrất thường thấy làphòng chờ tràn ngậpcác tài liệu thuộc loạitự khen mình. Trongquá trình phỏng vấn
chocuốnsáchnày,bảnsao của các tạp chíFortune,ForbesvàFarEastern EconomicReview trong thời đạinàythườngđăngchỉsốDow Jones hàng tuầnvà đặc trưng cho cácdanh sách xu nịnh bất
tậnvềcáccôngtychâuÁ“làmăntốthơn”-làdạng tài liệu phổ biếnnhất được trưng bày.Fortune và Forbes lànhững tạp chí mà cácđại gia thích tài trợ vàdành các cuộc phỏngvấnhiếmhoiđểbùđắp
cho các phóng viênphải nhọc công tìmkiếm.Thậtkhókhănđểcó thể nói rằng các bốgià châu Á không cóbản ngã. Người ta nóirằng, LýGia Thành làbậc thầy của hình ảnhít nói trước đám đông.
Khi ông ta đến vănphòng vào buổi sáng,việcđầutiênlàđọcbáotrực tiếp bằng tiếngTrung Quốc, và báobằngtiếngAnhđãdịchsang tiếng Trung. Vănphòng của công ty lưugiữbảnsaocácbàibáo
nóivềông,đôikhiôngdùng bútmàu để đánhdấu,vàghichépbênlềkhimuốn phản bác lạinhững người chỉ tríchmình. Theo các nhàquản lý báo chí HồngKông, bất cứ điều gìLýcoilànghiêmtrọng
đều được công ty tựdịchđểcắtbớtchiphíquảng cáo. Doanhnghiệp của Lý ngừnglàm quảng cáo với tạpchí Next và ấn phẩmkhác của nó là AppleDaily sau khi tạp chínàyđiềutravềcáichết
củavợông.Nhưngcácbài tường thuật ít suyđoán cũng có thể sinhranhữngkếtquảtươngtự. Ví dụ, một bài chỉtríchLýkinhdoanhcónội gián năm 1986,đăng trên tờ SouthChina Morning Post
tháng11năm2003gầnnhưhai thậpkỷsausựkiệnđóđãdẫnđếnviệcLý ngừng ngay tức thìviệc quảng cáo với tờbáonày.
Cómột lý do rất hayđểgiúpcácbốgiàchâuÁ thoát khỏi sự nhòm
ngó của công chúng:trong vài thập kỷ ởĐôngNamÁcóvấnđềbắtcóccácdoanhnhânthườnglànhữngngườigốcHoa,và thườngcósự tham gia của cácbăng nhóm tội phạmngười Trung Quốc.
Vấnđềnày lớnnhấtởPhilippines. JohnGokongwei, một đạigia thuần khiết TrungQuốc,ngườiđiềuhànhtập đoàn J.G. Summitmang tên ông, có congáilàRobinabịbắtcócnăm 1981, và năm
1997bịmấtngườiconrể Ignacio Earl Ong,khi cảnh sát bắn hàngtrămviênđạnvàomộtchiếc xe mà anh tađang được giấu trongđó. Ở Philippines,trungbìnhmỗinămcóhơn một trăm vụ bắt
cóc.Ởnhữngnơikhác,mối đe dọa này chưagay gắt lắm, nhưngcũng không phải làkhông đáng lo ngại.Một người anh em họcủa Robert Quáchngười trông hơi giốngông ta bị bắt cóc tại
Malaysiadonhậndạngnhầm. Trong một câuchuyện có lẽ là ngụytạo,bạnbècủagiađìnhnóirằng,RobertQuáchđãbỏramộtkhoảntiềnchuộc và sau đó yêucầu người anh em họđóphải thanhtoáncho
ôngta.
Giữa thập niên 1990,việc bắt cóc có sựchuyển biến ngoạnmụctạiHồngKôngvớisự xuất hiện của cácbăngnhómkếtnốivớihội Tam hoàng ởTrung Quốc đại lục.
Nhómcủa“Kẻtiêutiềnnhư nước” CheungTzeKeung vào năm1996 đã tóm WalterQuáchcủagiađìnhnhàbuônbánbất động sảnTân Hồng Cơ và giữôngtaởnơimàWalterđã mô tả là “một cái
hộp” trong năm ngày,cho đến khi ông tađược chuộc lại. Trảinghiệm này làm chomối quan hệ giữaWalter với hai ngườiem những người ôngđã nghi ngờ là dùngquá nhiều thời gian để
thương lượng về tiềnchuộc trở nên căngthẳng.Năm 1997, “Kẻtiêu tiềnnhưnước”vàđồng bọn đã bắt giữcon trai cả củaLýGiaThành là Victor, đòitiền chuộc 1 tỉ đôlaHồng Kông. Theo
những người gần gũivớigiađìnhnhàLý,đãxảyramột trảinghiệmcó thể nói là hài hướcvì không đến nỗi quánguy hiểm.Giống nhưQuách, gia đình Lýquyết định không báochocảnhsát.Thayvào
đó, Lý Gia Thành bắttay với các đồngnghiệpvànhânviêntincậy để rút 1 tỉ đôla từngânhàngHồngKôngsau một thông báongắn một việc khôngphải dễ làm. "Kẻ tiêutiền như nước" là một
ngườicựckỳliều lĩnh,sauđóđãkéođếnnhàcủaLýcạnhVịnhnướcsâuđểthumóntiềnphinghĩa này. Tuy nhiên,hắn đã không tính đếnkhối lượng vật lý củamón tiền. Hắn khôngthể nhét hết số tiền đó
vàoxe,dođómangđitrước một phần lớn,sau đó quay lại để lấynốt phần còn lại. Hơinực cười, nhưng cuốicùng phần thắng vẫnthuộcvềkẻbịbắtcóc.Hắnđãbịbắtcùngvớinhiều đệ tử khi qua
biên giới Trung Quốc,đãbịxửkínvàbịhànhhình tháng 12 năm1998. Có tin đồn lantràn ở Hồng Kôngrằng,LýGiaThànhvàcác nhân viên an ninhriêng của ông do mộtcựu ủy viên cảnh sát
HồngKôngcầmđầuđãmuốn"Kẻtiêutiềnnhưnước” bị bắt ở chínhTrung Quốc để hắn bịxử tử hình. Chính phủHồng Kông không ápdụnghìnhphạt tửhìnhkhông cố gắng để dẫnđộnhữngloạitộiphạm
đã được cam kết vớithẩm quyền của mình.Đại gia thống đốcHồngKôngĐổngKiếnHoa nói rằng “Kẻ tiêutiềnnhưnước”đangbịxét xử tại TrungQuốcvớitưcáchlàtộiphạm“có tổ chức”. Rất ít
người ở Hồng Kôngthông cảm với hắn, vànghềbắtcóccủahắnlàmột lờinhắcnhởrằng,các gia đình bố già cólýdođểsuynghĩvềsựantoàncủahọ.Nhưngmốiđedọacủanạnbắtcóc không là gì ngoài
lờigiải thíchsựbímậtcủa các đại gia đangđượcmởrarộnghơn.
KẾT LUẬN SAUCÙNG
Câu chuyện về các bốgià châu Á luôn luônkểvềhọnhư lànhững
ngườicóthểđiềuchỉnhnhân dạng, như nhữngcon tắc kè hoa có thểđổi màu. Việc phânchiaquyềnlựcchínhtrịvà kinh tế theo thànhphần dân tộc mongmuốnđiềunày.Chếđộthực dân mong muốn
điều này. Và gần đâynhất, đối với các đạigiagốcTrungQuốc,sựtrỗi dậy của TrungQuốc cùng với nhữnglờikêugọihấpdẫncủađất nước này đối vớinhững người TrungQuốc“yêunước”ởhải
ngoạicũngmongmuốnđiều này. Những đạigia từ lâu đã được tậpcho quen dần với việc“nhậpvai”khicần.
Ởmộtmứcđộnàođó,đây là một phần của“tròchơi”kinhdoanhởchâuÁmà cácđại gia
laovào, cóý thứchayvôthức.Vídụ,contraicả của Henry Hoắc làTim tóm lược sựnghiệp của cha mìnhnhư sau: “Không phảinói về tiền bạc,” ôngnói. “Đó là một cuộcchơi.” Một thành viên
trong gia đình RobertQuách, khi giải thíchsựvôíchcủabanỗlựcđểnghỉhưu trongsuốt15nămquacủađạigia83 tuổi này đã nhậnxét:“Tạisaolạingừngkinh doanh và bắt đầuchơi gôn? Đó chỉ là
mộttròchơikhác.”VàHelmut Sohmen tổngkếtđộnglựccủangườibố vợ đã quá cố củamình là Bao NgọcCương cũng theo cáchnhư vậy: “Ông thíchtrò chơi đó, ông thíchcôngviệcđó.”
Trò chơi này thực sựlà rất vui khi có đượcsự nhượng quyền kinhdoanh của chính phủhaykhimột thươngvụkếtthúctốtđẹp.Nhưngsựméomócủabảnsắcmà các bố già thườngtựtạorađãkhônglàm
chohọyêntâm.Khôngthiếu những bằngchứng chi tiết từ việckhao khát các danhhiệu tôn kính và xếphạng chính thức đếnviệc trôngcậyvàođạoCơ đốc Phúc âm – vềnhiều đại gia đang tìm
kiếm nhân dạng đíchthực của mình. Điềunàyđặcbiệtrõràngvớiphần lớn những ngườiđã kết hôn với ngườitrong gia đình các bốgià Trung Quốc trongnửathếkỷqua.HelmutSohmen,mộtngườiÁo
đãkếthônvớicongáicả Anna trong số bốncô con gái của BaoNgọcCương, nhậnxétmột cách hơi châmbiếmvềcuộcđấutranhnhân dạng: "Hãy đưanó cho một thế hệkhác, và có thể mọi
người sẽ ngừng suynghĩ, người TrungQuốc có nghĩa là gì."Bây giờ, cuộc đấutranh này vẫn còn tiếpdiễn, để lại một số ấntượngvềsựhiếukỳ.Vídụ, tác giả đã viếngthăm văn phòng của
mộttỉphúngườiTrungQuốcởHồngKôngvàphát hiện ra, chẳngđáng ngạc nhiên, đầyrẫynhữngđồ trang trí,tranh ảnh, nội thấtkhuôn sáo có “tínhTrungQuốc”.Thật bấtngờ khi đượcmời đến
nhà của bố già, tuynhiên,nhữnggìnổibậtlà hầu như chẳng có“dấu ấn” văn hóaTrung Quốc nào trongngôi nhà đó: các bứctường được trang trívớinghệthuậtchâuÂukhông có gì nổi bật;
một bức tranh khá tệ,kì quái, vẫn cònnguyên nhãn bán hàngở mặt trước. Bối rốihơnnữa là sựbộtphátcủađạigiađượccholàtheođuổisựmêtíncủangười Trung Quốc,theo cách gần như là
đọc truyện tranh dànhcho trẻ em khi đưa raquyếtđịnhkinhdoanh,mặc dù ông thường lamắng con cái mình làphíphạmthờigianvớimột liệu pháp y họcTrungHoa.“Tôikhôngtin vào nó,” ông búng
ngóntaykêutanhtách.Liệuđiềunàycónghĩalà cuộc sống của conngườilàmộtsựgiảbộcó tính toán?Gần nhưchắc chắn không phải.Những gì nó chỉ ra làmột tỉ phú sống vớimột bản sắc văn hóa
pha trộn còn lâu mớithấy thoải mái vớichínhmình.
Nhữnglậpluậnvềtìnhtrạngtâmtrícủacácbốgiàkhôngđượcủnghộ,bởi thực tế là họthường hoàn toànkhông tiếp xúc với
những gì được gọi làthếgiớithực.Ởgócđộnày, câu chuyện ngụngôn“từnghèokhổtrởnên giàu có” đặc biệtgây hiểu nhầm bởi vìnó ngụ ý rằng, các bốgià hạng trung thì cókinhnghiệmcuộcsống
như người bìnhthường. Trong thực tế,các tỉ phúHồngKônghay Singapore khôngbiết gì về cuộc sống ởcáckhuchungcưtrongthành phố, cũng nhưcác tỉ phú Malaysiađược bảo vệ quá cẩn
mật ở Kuala Lumpurnênchẳnghềbiếtgìvềcuộc sống ở các làngxã. Bernard Trần, mộtcháu trai của ChinSophonpanichcaiquảnchi nhánh Hồng Kôngcủa Ngân hàngBangkok, người thừa
kế đại gia lại có mốiquan tâm rất cao đếncác chính sách xã hội.Anh ta nói với mộtnhómnghiêncứu,cólẽlà duy nhất, rằng anhđã tổ chức giới thiệucho một nhóm các bốgià cao tuổi về sự
nghèo đói của ngườigià đang lan rộng ởthànhphốnày.Anhđãđưahọ ra khỏi các tòabiệt thự riêng ở HồngKông để đến các khudân cư trên bán đảoCửuLong.“Tấtcảmọingườiđềubịsốc,”Trần
nói,vìhọđãgặpnhữngngườithuêgiườngtầngtừngđêm.Họđãmùtịtvề thực tế là sự nghèođói như vậy đang tồntại ở Hồng Kông.Nhưng tâm điểm củacâuchuyệnlàphảnứngcủa một trong những
người giàu nhất HồngKông. Trong một nỗlựcđể tưvấnvềchínhsách hữu ích, ông tagợiýrằngngườinghèonên được di dời vềTrung Quốc đại lục,nơiđósứcchitiêuvốnhạnchếcủahọsẽđược
cải thiện hơn. Khôngcó sự xem xét nào vềcácdịchvụxãhộihoặcytếtạiTrungQuốcđạilục có thỏa đáng haykhông,hoặcngườidâncó muốn đến với cácdịch vụ đó không.Bernard Trần từ chối
khẳng định đại gia đólà ai. Một người thamgiachuyếnđinóiđólàmộttrongnhữngngườianh em của Quách“được sinh một lầnnữa”. Một người quảnlýđãcónhiềunămlàmviệc cho các bố già ở
HồngKôngnóivềmốiquan hệ của họ vớicuộc sống hàng ngày:“Tôi nhận thức đượcrằng, các đại gia biếtcuộc sống đó như thếnào. Nhưng họ khôngcóýkiếngì.”
3. HỌ ĐÃTRỞTHÀNH BỐGIÀ NHƯTHẾ NÀO?
#2:LUỒNGTIỀN MẶTCHỦYẾU
Trung tâm đế chếdoanh nghiệp của mộtbố già hạng trung là
mộtđiềukhoảnưuđãivàgiấyphéploạiAđểtạo ra sự tăng trưởngcủa loại hàng hóa độcquyềnhaymộtsốhànghóa chủ yếu. Tronghoàn cảnh như vậy,đây không phải làtrường hợp bất thường
củanềnkinh tếcócấutrúc được chính phủtạoradẫnđếnmộtmôitrường, nơi một cartelcủa các bố già có thểpháttriểnhoặcsựbịsựcạnh tranh kìm hãmmột cách giả tạo. Đâylà thực tế cơ bản về
việc kinh doanh củacác đại gia ở ĐôngNam Á. Mỗi bố giàmới nổi đều quan tâmđến dòng tiềnmặt chủyếunày,consôngvàngnóngchảygiữchoôngta đi qua cả thời giantốtvàxấu,đểđảmbảo
rằng ngay cả một đếchếdoanhnghiệpđồsộnhất cũng khó bị lậtđổ.
Nguồn gốc của dòngtiềnmặtchủyếucóthểcực kỳ đơn giản. Nửatá những người giàunhất ở Hồng Kông và
Malaysia phụ thuộcvào nguồn tiền từ độcquyền cờ bạc để mởrộng nguồn vồn chocác tập đoàn kinhdoanh của họ. StanleyHà, người đã có đượcsự độc quyền ở MaCao về tất cả các hình
thức cờ bạc từ năm1961, và đã được giahạn thêm 15 năm vàonăm1986,nổitiếngvềviệc này. Nhưng đứngsau Stanley Hà làHenry Hoắc, người đãtạođượcmộtphầnvốncổ phiếu thường trong
Sociedade de TurismoeDiversõesdeMaCao(STDM), công ty tưnhânđượcthànhlậpđểkinh doanh các trò cờbạcởcựuthuộcđịacủaBồ Đào Nha. Haingười này được liênkết lại bởi một người
thứ ba là đại gia trongtương lai Trịnh DụĐồng, sau cuộc đấuthầu cho dự án vàonhữngnăm1970đãtrởthànhtrungtâmcờbạclớnthứbatrênthếgiới,chỉ sau Las Vegas vàAtlantic City. Khi
Hoắcđãnổitiếngkhắpnơi là một nhà đầu tưbất động sản ở HồngKông và Trung Quốcđại lục, và Trịnh đãphát triểnnênmột loạtcác công ty niêm yếtvới cái tên Thế GiớiMới, thu nhập của các
sòng bạc đảm bảo sựmởrộngcủanó.(Hoắc,người đã giúp TrungQuốc chống chọi vớilệnhcấmvậncủaLiênhợp quốc trong và saucuộcChiếntranhTriềuTiên nên đã có đượcđộcquyềnkhuynhđảo
tiềnmặt về nhập khẩucáttừđạilụcvàoHồngKông trong suốt cuộcbùng nổ về xây dựngsauchiến tranh.) Việcnắmgiữcổphầnchínhxác trong STDM đãkhông bao giờ đượckhẳngđịnh, nhưng các
giám đốc công ty làmviệc nhiều năm đã gợiýrằngHàvàHoắcmỗingười nắm giữ 2530%và Trịnh nắm khoảng10%.Bấtchấpcổphầnhạn chế của Trịnh DụĐồng,giớitàichínhtạiHồng Kông suy đoán
rằng cổ phần STDMcủa ông tạo ra nhiềutiềnmặthơnvịtrínắmquyền kiểm soát cáctàuchởhàngbuônbáncông khai trong NewWorld Development(Phát triển Thế giớiMới).
Ananda Krishnan,người giàu nhấtMalaysia kể từ khiRobert Quách sangHồng Kông vào thậpniên 1970, được xemnhưmột người có tầmảnh hưởng rộng lớnnhất về bất động sản,
viễn thông và truyềnthông, người đã xâydựng nên tòa nhà caonhất thế giới – tòaTháp Đôi Petronas ởKuala Lumpur. Tronggần 20 năm, Krishnanđã có thểdựavàomộtnguồn cung cấp tiền
mặt ổn định từ sựnhượng quyền kinhdoanhđộcquyềnvềcácược trên trường đuangựa Malaysia. Một tỉphúkháccủaMalaysialà Vincent Trần, dựavào tiền mặt từ việcbán quyền tổ chức các
hoạt động cờ bạc donhà nước kiểm soáttrước đây trong thậpniên 1980. Năm 1985,Trần mua lại quyềnkiểm soát công ty Xổsố Thể thao Malaysiatrong công cuộc “tưnhânhóa”màkhônghề
có sự báo trước nào,cũng chẳng có cuộcđấu thầu công khainào.Sauđộclập,tỉphúLâm Ngô Đồng làngười thụ hưởng đầutiên của loại hìnhnhượng quyền thươngmại cờ bạc tư nhân,
phản ánh thói hư tậtxấu ở các trang trạithuộc địa cũ. Năm1969, ông đã có giấyphépgiahạnba tháng,để sòng bạc hợp phápduy nhất ở Malaysiađược hoạt động. Giấyphépnàycóhiệulựctừ
đó.ĐốitáccủaLâmlàMohamadNoahOmar,chavợ củahai đời thủtướng Malaysia –Abdul Razak(19711976)vàHusseinOnn (19761981). Sauđó, tập đoàn Gentingcủa Lâm đa dạng hóa
đầu tư vào các đồnđiền,bấtđộngsản,phátđiện, làm giấy và dulịch biển, nhưng sòngbạc to lớn của nó vẫntiếp tục sản sinh hầuhết các khoản thunhập.
Những hàng hóa độc
quyền và cartel đượcchính phủ chấp thuậnsớmnhấtsauđộclậpởĐông Nam Á là nhậpkhẩu và kinh doanhthựcphẩm.Việc tạoracác giấy phép này đềunhằmmóc túi tầng lớpbố già, và nhằm kiềm
chế đầu cơ và bình ổngiá cả cho những mặthàng thiết yếu. Nhưngcuốicùng,sựkìmhãmcạnh tranh đã sản sinhra dòng tiền mặt nuôidưỡngcácđạigiatrongnhiều thập kỷ. Mộttrong những người
được hưởng lợi lớnnhấtvềđộcquyềnnhậpkhẩu là Lâm ThiệuLương của Indonesia.Sau khi Suharto lênnắm quyền vào năm1965,Lâmđãđượccấpgiấyphépđộcquyềnvềviệc nhập khẩu đinh
hương cùng với ngườianh cùng cha khácmẹcủa Suharto làProbosutedjo. Riêngông được cấp độcquyềnsảnxuấtbột,dođóđãtrởthànhôngvuamì ăn liền tại một đấtnước thích ăn mì ăn
liền. Đây là dòng tiềnchủyếuchophépLâmkinh doanh tất cả mọithứ, từ bất động sảnđến hàng dệt may vàcao su, đến khai thácgỗ và buôn bán sắtthép, xi măng. Trêncon đường đó, ông ta
luôncóđủkhảnăngđểmắc những sai lầmđáng kể bất chấp quymô của các khoản tiềnđầu tư phát triển kinhtế mà ông ta đã đượctài trợ. Tại Malaysia,RobertQuách làngườithụhưởngđầutiêncác
chính sách hạn chếnhập khẩu đường tinhluyện và bột. ỞIndonesia, một nhàkinh doanh hàng hoáđộcquyềnmềm làchủyếu, cũng hợp tác vớiLâm trong việc kinhdoanh đường và bột.
Quách vẫn là cổ đôngkiểmsoátbatrongbốnnhà máy tinh chếđườngcủaMalaysiavàđượcphânbổphầnlớnhạn ngạch mà chínhphủ đặt ra cho việcnhập khẩu đường thô.Sự thu xếp này được
cho là đúng đắn dựatrên cơ sở Quách đãgiữ được giá bột vàđường ổn định khi đốimặt với sự biến độngcủa thị trườngquốc tế.Nhưng ở Indonesia,chođếnkhiđộcquyềnnhậpkhẩuđãđượcbãi
bỏ, sau khi Suharto bịhất cẳng năm 1998,một thực tế khác làngười tiêu dùng phảichitrảnhiềuhơn,vàhọđã phải chi trả trongmột thị trường tự do.Khi Quách đang tiếnhành một cuộc vận
động hành lang đểđượcbảohộthuếquantoàn bộ và có đượcgiấy phép tinh chếđường ngay sau khiđộc lập, hai nhà đồngđầutưchínhcủaônglàhai đại gia đang nổikhác, Khâu Gia Bành
và Quách Lệnh Xán.Không khó để nhận rasức hấp dẫn của hànghóađộcquyền.
ỞPhilippinesđãtồntạitruyền thống phân bổquyềnlựcchínhtrịcủacơ quan nhà nước, vàtư tưởng tự do phóng
túng của chính phủđược hình thành từnhữngnăm1920, dướisự cai trị của thựcdânMỹ, cho đến khi đượckếtluậnmộtcáchlogicdưới thời FerdinandMarcos.Cónhữnggiấyphép độc quyền kinh
doanh lớn cho việcnhập khẩu hàng thựcphẩm,vàchocácgiốngcây trồng chủ yếu củađịa phương là mía vàdừa. Eduardo“Danding” Cojuangcolàmộttrongnhữngnhàđộc quyền hàng đầu
thờiMarcos.(Điềunàylàm chúng ta nhớ lạicái thế giới tinh hoanhỏ bé bị tiền bạc vàquyền lực thống trị ởĐông Nam Á, vàDanding cũng xuấtthântừmộtgiađìnhcónhiềuđấtđainhưCory
Aquino, và phong trào“quyền lực thuộc vềnhân dân” của ông tađã lật đổ Marcos vàonăm 1986.) Danding,một người yêu thíchMarcos, hưởng lợi từchính sách thuế mớitrong sản xuất dừa đã
cung cấp vốn liếng đểthành lập Ngân hàngLiênhiệpnhữngngườitrồngdừa.Ôngtađượcbầu làm chủ tịch ngânhàng,vàsauđóđãmuasạchcáccơsởchếbiếndừa của Philippines.Dòng tiền mặt về dừa
của Danding đã đủmạnh để mua sạch cảnhiều cơ sở chế biếndừa của các nước bêncạnh. Ông ta trở nênnổi tiếng như MrPacman, một nhân vậttrongtròchơivideođãăn hết tất cả mọi thứ
gặptrênđườngđi.CáccôngtyđộcquyềnthờiMarcosđãthiếtlậpnêncác tiêu chuẩn mới vềquyềnlựcmàchúngđãtrân trọng trao cho họ.Công ty Thuốc láFortunecủaLucioTrầnđược miễn giảm thuế
vàcácthủtụchảiquan,được cấp vốn vàmiễntrừ các thủ tục phápquy tương đương vớisự độc quyền trongnướcvềsảnxuấtthuốclá, đã viết ra một dựthảo luật thuốc lámới,mà Marcos đã phê
chuẩn thành một đạoluật. Trong cùng thờigian đó, Trần cũng bịcáo buộc là đã in giảtem thuế của cơ quanthuếvụđểdán lêncácbaothuốclá.Dòngtiềntừ thuốc láđãđưađẩyông vào ngành hóa
chất, nông nghiệp, dệtmay, rượu bia, bấtđộngsản,kháchsạnvàngân hàng. Sau khiMarcos bỏ trốn sangHawaiinăm1986,Trầnviết một bức thư ngỏchoTổngthốngmớilàCoryAquino, trongđó
ông ta quảquyết rằng:“Chúng tôi có thể tựhàokhinóirằng,chúngtôi không bao giờ phụthuộcvàosựbốthí,sựtrợgiúpcủachínhphủhay sự bảo hộ độcquyền trong suốt quátrìnhlịchsửcủachúng
tôi.”
CARTEL Ở KHẮPMỌINƠI
Cái thô bỉ của sự độcquyền mà Marcos đãđưara,vàSuhartocóýđịnhlàmchonólumờ,làsựhiệndiệncủacác
côngtyđộcquyền,củanhững cartel và thịtrường có kiểm soát ởĐông Nam Á trở nênphổ biến. Hồng Kônglàmột trườnghợpnhưvậy, không phải vì nóthường xuyên đượcbìnhchọnlàmột trong
những nền kinh tế tựdo nhất trên thế giới.NhữngngườiMỹcánhhữu nghĩ rằng tổ chứcHeritageFoundationđãxếp hạng Hồng Kôngđứng thứ nhất (vàSingapore đứng thứhai) trong Các chỉ số
về tự do kinh tế trong14 năm qua. Ngườiđược Giải thưởngNobel,nhàkinhtếhọcMiltonFriedmanđãtándương Hồng Kôngtrongnhiềuthậpkỷnaynhư là một thành trìcủa thị trường tự do.
Chỉ một tuần sau khivùng lãnh thổ này trởvề với chủ quyền củaTrung Quốc vào năm1997, ông ta lại thanvãn: "Phải chăng chỉcòncóHoaKỳlàtựdonhư Hồng Kông thôi."Sựkhẳngđịnhnhưvậy
phảnánhtìnhtrạngcủaHồngKôngvớitưcáchlà một hải cảng tự dovề thuế quan và traođổithươngmạiquốctếkhông cần kiểm soát.Nhưng nền kinh tếtrong nước của HồngKông, nơi các bố già
hoạt động, lại là mộtcâu chuyện khác. Trênthựctế, từ lâunóđã làsự chắp vá của nhữngcartel.
Nguồn gốc của cartelnằm ở thời kỳ thuộcđịa.Cartelđã thống trịthịtrườngbấtđộngsản
của Hồng Kông và lànguồn gốc giàu sangcủa tất cả tỉ phúHồngKông. Chính quyềnAnh đã đặt bối cảnhchothịtrườngbấtđộngsản bởi vì nó đã chọnđểviệckinhdoanhphụthuộc rất nhiều vào
việcbánđấtđai–toànbộđấtđaiđềuđượccoilà “đất củaNữ hoàng”cho đến khi được bánđi – để sung vào ngânsáchcủahọ.KhiHồngKông đã tăng trưởngtrong thời kỳ hậuChiến tranh thế giới
thứhai,Chínhphủbánđấu giá đất dự án vớigiáđắthơnbaogiờhết:1tỷđôlachomộtmảnhđấtlớnvàogiữanhữngnăm1990.Bấtcứaiđãmua được đất tại thịtrường thứ cấp màchưa được quy hoạch
đểxâydựng–diệntíchgieotrồngnôngnghiệpở các vùng lãnh thổmới đều ở trong tầmngắm của gia đình cácđại gia nấp sau TânHồngCơvàHendersonvào những thập niên1970 và 1980 – đều
phảitrảmộtsốtiềnđặtcọc lớn trước khi cóthể bắt đầu xây dựng.Hậu quả là những đốithủ nhỏ và nhữngngười không có quanhệ tốt với các ngânhàng lớn của Anh đềubịloạitrừ.Mộtbáocáo
năm 1996 của Hộiđồng người tiêu dùngHồng Kông do chínhphủủyquyềnđãchỉrarằng,giữanăm1991và1994,baphầntưdựánnhà ở tư nhân mới có10 nhà đầu tư pháttriển cấp vốn, và chỉ
55%sốvốnđếntừcácnhà đầu tư phát triểnlớn nhất.Một xem xétriêngvềkhảnăngsinhra lợi nhuận cho thấy,chỉ có 13 dự án là dựánpháttriểnnhàở.Lợinhuận là rất bấtthường, đặc biệt ở
những nơi có lệ phíchuyển đổi được đượcxác định thông quangười bỏ thầu tư nhânchonhững lô đất nôngnghiệp lớn. Trongnhững trường hợp đó,lợi nhuận thấp nhấtđượcHộiđồngcácmặt
hàng tiêu dùng xácđịnh – theo tỷ lệ phầntrăm của tổng chi phípháttriểnướctính,baogồm cả đất – là 77%.Lợi nhuận cao nhất là364%.
Mức độ tập trung caonhưvậyvàothịtrường
bấtđộngsản,ởcấpđộlý thuyết kinh tế, dẫnđến bắt buộc phảichống cạnh tranh.Những tin đồn về đấuthầu đất cát là một đềtài đàm luận truyềnthống ở Hồng Kông.“Những người buôn
bánđấtcátthườnglàmgiá một chút khi đấuthầu. Sau đó, mộtngười có được nó; vàsau đó, ởmột tiệc trà,đóchínhlànơihọchiachác”, Ngài WilliamPurves, cựu Giám đốcđiều hành của Ngân
hàng HSBC, đã nhậnxét một cách thảnnhiênnhưvậy.Vìvậy,mặc dù thu nhập chảyvề như nước và ngânsách được ổn định,chính quyền thực dân(và Ngân hàng HSBCcó tầm ảnh hưởng
ngườichovaythếchấpvà là nhà đầu tư pháttriển lớn nhất) vẫnchưa hài lòng với sựthuxếpvềbấtđộngsảnnày.Hệthốngnàyđơngiảnvàđượcduy trì ởmứcđộ thấp.Nhưmộttrong sốnhữngđại gia
vềbấtđộngsảnbộclộ:Chủ nghĩa tư bảnAnhở Hồng Kông luônthích những đại giathân thiện này.” Trongkhi đó, tầng lớp trunglưu ởHồngKông, tuytrả thuế danh nghĩathấp, nhưng đã tạo ra
một số tiền công khốcao nhất trên thế giới,hoặc trả nợ thế chấpnhưngphí quản lý nhàở tương đương 1315%tiềnthuê.
Ở Hồng Kông thờithuộcđịa,truyềnthốnglàm việc vớimột số ít
các “đại gia” – vềnguồn gốc các đại gianày là các hãng buôncủa ngoại kiều ngườiAnh quản lý đủ loạicarteltừđiềuhòanhiệtđộchotớithangmáy–phản ánh nhu cầu củanhững người chuyên
quyềnởxứĐôngNamÁ là cần có nhữngngười cấp phó phụtrách thương mại tincậy. Ví dụ thú vị nàyxảy ra vào những năm1950 và 1960, khichính quyền HồngKông thương lượng
thànhcôngđểcóđượchạn ngạch xuất khẩuhàng dệtmay lớn nhấtthế giới cho ngànhcông nghiệp sản xuấtcủa địa phương. Đó làhành vi đáng ngưỡngmộ đối với một chínhquyền thực dân vì nó
đãchốnglạicáclợiíchtốt nhất của các nhàsảnxuấtdệtmaynướcAnh. Nhưng khi phânphối hạn ngạch, chínhphủ lại tỏ ra có mộtchút không côngbằng.Thay vì bán đấu giáquyền xuất khẩu cho
nhà thầu trả giá caonhất hoặc tìm một sốcông thức khác để xácđịnh các nhà sản xuấthiệuquảnhất,cácquanchứcquanliêuchỉđơngiản là cấp những hạnngạchcógiátrịlớnchocácnhàsảnxuấtvànhà
xuất khẩu lớn nhất.Nhiều hãng sản xuấttrongsốnàyđượcđiềuhành bởi các ông vuadệt may Thượng Hảitrướcđây,nhữngngườiđã chuyển đến HồngKông từnăm1949, vàcó liên quan mật thiết
vớiviệcthiếtlậpthuộcđịa.Sauđóhọđãpháttriểnmộtthịtrườngthứcấpvềhạnngạch, nhờđó những người tiếpnhận hạn ngạch miễnphítrởthànhcácnhàtưbản sống bằng tiền lợitứcdobánquyềnđược
xuấtkhẩu.
Hồng Kông không cóluật cạnh tranh và cácbố già của nó, gốcTrung Quốc, Anh vàquốc tịch khác, chiếtphần lệ phí giao thônglớnchocácdịchvụđịaphương. Hải cảng, nơi
bận rộn nhất thế giới,cólẽcũnglạilànguồngốc của nỗi thất vọnglớn nhất. Phí quản lýđườngdâyvận chuyểncôngtennơ của HồngKông là cao nhất thếgiới,mặcdùchiphílaođộngthấphơnnhiềuso
với chi phí lao động ởcácnướccóGDPbìnhquân đầu người tươngtự. Các công ty sảnxuất nhỏ khắp vùnggiáp giới với lục địađang sử dụng cảngHồng Kông, đã vậnđộng chống lại sự độc
quyền về cảng trongnhiều năm, đặc biệt làcác chủ tàu hàng,nhưng không thànhcông. Các cổ đôngthống trị các công tyvận hành đường dâychuyênchởcôngtennơ,đồngthời lànhữngđại
gia lớn nắm giữ bấtđộng sản, gồm có:Hutchison, NewWorld, Tân Hồng Cơ,Jardine’s HongkongLand và Wharf. Côngty Hutchison của LýGia Thành là ngườilãnh đạo được thừa
nhận của nhóm này,hiệnkiểmsoát14trongtổng số 24 vũng đậutàu. Đây là dòng tiềntừ vận hành hải cảngchophépLýGiaThànhtiến hành nhiều vụ cácược lớn về tài suyđoán thị trường bất
động sản trong nhiềunăm. Các ngân hàngđầu tư tin rằng ông tađã phá sản trong cuộcđổvỡbấtđộngsảnvàogiữa thập niên 1980,nhưng chỉ đối với thunhập hải cảng củaHutchisonmàthôi.
Những cartel trên thựctế khác ở Hồng Kôngbao gồm các siêu thị,nơicôngviênkiêmcửahàng (PARKnSHOP)của Lý Gia Thành vàWellcome của Jardinekiểmsoátkhoảng70%việcbuônbánhàngtạp
hóa và các cửa hàngthuốctây,nơicáccôngty Watson của Lý vàMannings của Jardinethống trị. Nỗ lực củanhà bán lẻ ngườiCarrefour của Pháp vàmột doanh nghiệp địaphương mới ra đời và
có nhiều vốn liếng làAdmart nhằm phá vỡtình trạng lũng đoạncủa các cửa hàng tạphóanhiều tỉđôla trongsuốt thập kỷ qua, đãkhông thành công.Những kẻ chiếm giữ,với cánh tay bất động
sản lớncủahọ,sởhữucácđịađiểmbánlẻchủyếu khắp Hồng Kôngvà làm cho các nhàcung cấp hiểu rõ rằngviệckinhdoanhcủahọsẽ bị cắt giảm nếu họlàmănvớicácđối thủcạnh tranh mới. Theo
MarkSimon, người đãdậptắtviệckinhdoanhcủa Admart sau khithua lỗ 120 triệu đôla,xe tải giao hàng củacông ty không đượcphép vào khu dân cưvà các tòa nhà vănphòng do Lý Gia
Thành kiểm soát. Lýcũng kiểm soát mộtnửa độc quyền điệnnăng của Hồng Kông,nửa khác do ChinaLight and Power củagia đình Kadoorie –một gia đình ngườiIraq theo đạoDo Thái
kiểm soát. Kế hoạchpháp quy của chínhphủ liên kết lợi nhuậnmà các công ty đượcphép thựchiệnvới chiphí vốn, tạo ramột sựkhuyến khích đầu tưquá nhiều vào tài sảncố định với thời gian
khấuhaodài.Hậuquảlà giá điện hơi cao.Những cartel quantrọng khác bao gồmvận tải hành khách,xăngdầu, bê tông trộnsẵn và các dịch vụchuyênchở.
Người tanói rằng,hầu
hết mọi doanh nghiệpchính ở Hồng KôngtrongđóLýGiaThànhhoạt động đều có đặcđiểmcủamộtcartelbấtđộng sản, hải cảng,điện,ximăng,bêtông,nhựa đường và chuỗisiêu thị bán lẻ. Như
Simon Murray, ngườiquản lý công tyHutchison cho Lý từnăm 1984 đến năm1993 đã nhận xét:“Hồng Kông là mộtmôitrườngcủacartel...Nếuchínhphủsắpbancho anh một sự độc
quyền,thìhãytúmchặtlấy nó. Một trong sốcác thương vụ chínhcủa Murray là tiếpquản HongkongElectric, là một cartelcũvàmột công ty độcquyền hoạt động tạiHồng Kông đã bị xóa
bỏ trong những nămgần đây. Cartel nàychịu tỉ lệ lãi suất đượccácngânhàngởHồngKông áp dụng từ năm1964trongsuốthơnbathập kỷ, có các nhàquản lý họp vào thứSáu hàng tuần để thiết
lập tỉ giá (chính phủcũng áp dụng các biệnphápkhôngtheothônglệđểkiềmchếviệcdunhập của các ngânhàngnướcngoài,vàdođó đã giúp cho ngânhàng HSBC và ngânhàng chị em của nó là
Hang Seng (HằngSinh) giữ được số cổphần đặt cọc khoảng50%).Nhưng cuộc tấncông lớn nhất vào thếđộc quyền của HồngKôngxảyralàviệcbãibỏquyđịnhcủangànhcôngnghiệpviễnthông
dưới thời thống đốccuối cùng của HồngKông là Chris Patten.Điều thú vị là, nó dẫntớimột cuộc chạy đuađiêncuồngcủacác tậpđoàn do các đại giakiểm soát nhằm chenchân vào kinh doanh
viễnthông,hủydiệtlợinhuận của những kẻmới đến. Thông điệphìnhnhưlàcácđạigiachưa bao giờ sử dụngcác biện pháp cạnhtranhlànhmạnh.
Một trong những hànhđộngthựcsựsớmnhất
của chính phủ hậuthuộc địa đầu tiên, dođại gia vận tải biểnĐổng Kiến Hoa dẫnđầu,đã từchối lờikêugọi của Hội đồngngười tiêu dùng HồngKôngđểchorađờimộtbộ luật cạnh tranh
chung. Vị trí này đãkhông bị thay đổi lớndưới thời người kếnhiệm Đổng với tưcách là người điềuhành Hồng Kông, mộtquanchứccựckỳquanliêu là Donald Tằng,mặc dù nhu cầu phổ
biếnvềkiềmchếcartelvẫn tiếp tục tăng cao.Các tổ chức quốc tếnhư Tổ chức Thươngmại Thế giới (WTO),Tổ chứcHợp tácKinhtế Phát triển và Nghịviện châu Âu đã chỉtrích sự thất bại của
Hồng Kông vì việctăng cường tính cạnhtranhtrongnềnkinhtếquốc nội của nó. Nhưgiáo sư RichardSchmalense, trưởngkhoaQuản lý vốn đầutưcủađạihọcMITđãnhận xét: “Thực tế là
Hồng Kông không cómột bộ luật chống cốđịnhgiávàhànhvicủanhữngcartelvềcơbảnlà khá kỳ lạ.” Tuynhiên, bằng cách nàođó, ảnhhưởng của cácdoanh nghiệp lớn đốivới chính phủ vẫn còn
làmột trường hợp cầnxemxét.
Cho đến gần đây,Singapore là nền kinhtế phát triển duy nhấttrên thế giới không cóluật cạnh tranh. Quốcgia thành bang ở phíanam này đã thông qua
Luật cạnh tranh vàonăm2004,bắtđầuthựcthi năm 2006. Tuynhiên,một số lĩnhvựcrộng lớn của nền kinhtế quốc nội điện, khíđốt, nước, nước thải,viễn thông, truyềnthông, dịch vụ bưu
chính, cảng và một sốdịchvụngânhàng–docác công ty nhà nướckiểmsátđượcmiễnthihành bộ luật này.Không hề rõ ràng làtínhcạnhtranhcủađịaphươngởSingaporecótự do hơn là ở Hồng
Kông hay không. Sựtương phản giữa nềnkinh tế hướng ngoạicạnh tranh toàn cầunhững nhà sản xuấthàng xuất khẩu - vànền kinh tế quốc nộiđược nâng niu, chiềuchuộng – của các đại
gia - rõ ràng là nhưnhauởcảhaiquốcgiathànhbangđó.Vídụ,ởHồng Kông vàSingapore, các ngânhàng có thể bắt kháchhàng bán lẻ và kinhdoanh nhỏ xếp hàngchờ một giờ trước khi
gán cho họ các khoảnphímàcácnềnkinhtếphát triển khác khônghề biết đến. Các ngânhàng Hồng Kông tínhphí cho các chủ cửahiệu để họ chuyển đổicác doanh nghiệp củamình. Các ngân hàng
Singapore độc quyềnbán quỹ tín thác côngtyđầu tư tạovốnbằngcách bán cổ phần chocáccánhânvàdùngsốtiền đó để đi mua cổphần của công ty khácvà nhân viên thườngbiết rất ít về những gì
họ đang bán. Trảinghiệmcủakháchhàngkhông như những gìđược mong đợi trướckhi bước vào các tòanhà chọc trời đangthống trị các thànhphố.
THI THOẢNG, CÁC
BỐGIÀCŨNGSỐNGBẰNG TIỀN LỢITỨC
CácbốgiàĐôngNamÁduytrìdòngtiềnmặtchủ yếu để có đượcgiấy phép kinh doanhđộc quyền hoặc cáchànghóaưu tiênởbất
cứ nơi nào họ hoạtđộng. Sự khác biệt cơbản giữa các địaphương là nhữngquyền lợi này đã đượcphân phát lại bởi cácchính phủ thời kỳ hậuthuộc địa ở Thái Lan,Malaysia, Indonesia và
Philippines. Nhữngquyền lợi này - ngoạitrừmột sốquyềnđượckinh doanh ngân hàngvàbấtđộngsản–đượcchính phủ tạiSingapore nắm giữ, vàtừng bước chuyển đếnHồngKôngkhicácđại
giaởđịaphươngđãbắtđầu thách thức và tiếpquản các hãng buôncủa ngoại kiều ngườiAnh thành lập từ đầunhững năm 1970. Tuynhiên, về cơ bản, ởkhắp nơi, người ta đãđược chứng kiến một
quátrìnhtiếnhóaphảnánh sự cắt bỏ cácquyền lợi kinh tế ởthuộc địa một cáchnhẫn tâm. Một nhàbình luận giấu tên,trong hồ sơ năm 1991về Robert Quách – cólẽ là đại gia xuyên
quốc gia thành côngnhất trong khu vực –đã mô tả một cáchngắn gọn và súc tích:“Robert Quách,” nhàbìnhluậnnói,“đãhiệnđạihóahệthốnghưởnglợi tức ở Đông NamÁ.” Và đó là điều mà
các bố già khác cũnglàm.
Trên con đường này,các đại gia đã lót tay,“bôi trơn” cho cácquan chức rất nhiều.Tácgiảđãgiảvờngạcnhiên khi một trongnhữngtỉphúhàngđầu,
trong một cuộc thảoluận có ghi âm lại ởvăn phòng, đã lãnhđạmmô tả việc hối lộmộtvịThủtướngđểcóđược một giấy phépquan trọng, được giahạn ngay sau khi mộtquốcgiađượcđộclập.
Tất nhiên, ông ta luônngụýrằnghốilộbằngmộtkhoảnchovay,chỉđòilạisốtiềnkhônglờilãi gì sau nửa thế kỷ.Mộtđại gia gốcTrungQuốclàmănởmộtvàinướcĐôngNamÁchỉtríchgaygắt vềnhững
gìôngtacoilàvănhóađútlótcủacácchínhtrịgia bản xứ. “Họ luôntúngthiếu,”ôngtanói.“Hãy cho cái miệngluônháuđói củamìnhăn đi. Đó là cách họsuy nghĩ.” Nhữngngười như thế ít nhiều
bị chỉ trích là đã làmnhiềuđiềutộilỗitrongcáichếđộthựcdânmàông ta đã tham gia.Ông nói đến “nhữngthói quen bất lịch sự”tại Hồng Kông, cáccông chức dân sự caocấp và các giám đốc
điều hành Ngân hàngHồng Kông đang nắmgiữ chỗ ngồi riêng tạicác trường đua ngựa,và mối quan hệ nồngấm mà các doanhnghiệp lớn của Anhcùnghưởngthụvớichếđộthựcdân.Vídụ,ông
nhớ lại JohnBremridge, người đãchuyển từ điều hànhdoanh nghiệp Swirecủa Anh sang làm Bộtrưởng tài chính củaHồngKông.Vớicươngvị đó, ông ta đã đứnglêntrướcHộiđồngLập
pháp và công bố vùnglãnhthổnàysẽchỉcấpphép cho một hãnghàng không. CathayPacific là hãng hàngkhông đó, và là mộttrong những doanhnghiệp chính củaSwire. Bremridge rời
khỏi chính phủ năm1986 để trở lại một vịtrí tại tổng hành dinhcủa Swire tại London.Một trường hợp tươngtự sau đó là BaronessLydia Dunn, người đãgia nhập tập đoànSwire năm 1963, trở
thành thành viên caocấp củaHội đồngđiềuhành Hồng Kông, vàsau đó quay trở lạiLondon làm việc choSwire.
Ở Hồng Kông vàSingapore, quan hệgiữacácdoanhnhânvà
cácchính trịgia từ lâuđã được dàn dựng rấtcẩn thận để tránh bấtkỳsựxuấthiệnnàocủasự thông đồng côngkhai.ỞHồngKông,cóHội đồngLậpphápvàHội đồng Điều hànhđạidiệnchochínhphủ,
bấtchấpmộtthựctếlàhọ được “đóng vàocùngmột gói” với cácđại diện không đượcbầu của các doanhnghiệp lớn. ỞSingapore,mốiquanhệgiữagiớichínhtrịcầmquyền và các đại gia
được bao bọc cẩn mậthơn. Một mối tươngquan có lẽ rõ ràng vàcó xu hướng quay trởlạithờikỳthuộcđịa,làcác gia đình đượchưởng ân huệ biểu lộsự cao quý của họthông qua các công
việc từ thiện tại địaphương, nên mới cóQuỹShaw (do anh emnhà Shaw thành lậpnăm1957)vàQuỹLee(dogiađìnhLýQuangTiềnlậpranăm1952).Truyền thống này vẫnđang tiếp tục. Các đại
giaphátđạtnhờngườiAnh, hay người kế vịcủa họ là Lý QuangDiệu, thường khôngbận tâm về các hoạtđộng từ thiện côngkhai.KwekHongPng,trùm buôn lậu cao suvà con trai là Kwek
LengBe,dobị từchốimột giấy phép hoạtđộng ngân hàng tạiSingapore nên khôngném tiền vào một quỹnào.
Ởnhữngnơikhác,mốiquan hệ doanh nhân –chính trị gia rất thô
thiển. Suharto đã sửdụngcácquỹtừthiện-yayasan–doôngtavàgia đình ông ta kiểmsoátnhưlàphươngtiệnđểthuhàngtỉđôlatiềnhối lộ. Nhưng trongviệc móc nối với mộtchính trị gia hàng đầu
và hối lộ người đó,những toan tính củacác bố già muốn sốngsótphứctạphơnnhiều.Có một danh sách dàicác đại gia đã trả giáchoviệc“đặttấtcảcácquả trứng của họ vàomột cái giỏ chính trị”.
Lâm Thiệu Lương làmục tiêu đầu tiênkhông thể tránh khỏicủaphảnứngchốnglạicáimàngườiIndonesiagọi là “KKN”(“korupsi, kolusi dannepotisme” “thamnhũng, thông đồng và
giađìnhtrị”)trongsuốtcuộc khủng hoảng tàichính châu Á. Nhữngkẻphárốiđãthựchiệnmột chuyến bay thẳngđến nhà riêng ở bắcJakarta của ông ta đểcướp phá và viết lêncổng dòng chữ “Con
chó của Suharto”. TạiThái Lan, ChinSophonpanich phảitrốn đến Hồng Kôngvài năm sau khi cuộcđảo chính năm 1957của Marshall Sarit, vìsợrằngsựgầngũicủamình với chế độ đã bị
lậtđổ sẽ làmchocuộcsống của mình bị rủiro. Tại Malaysia, toànbộ các doanh nhân cósản nghiệp lớn đều bịthiệt hại vì họ đã quágần gũi với cựu Bộtrưởng tài chínhRazaleigh Tengku
Hamzah khi ông nàytháchthứcMahathirđểtranh quyền lãnh đạoUMNOvàonăm1987. Hoặc như AnwarIbrahim khi Mahathirđãquyếtđịnhchấmdứtsựnghiệpchínhtrịcủamộtphóthủtướngmột
thập kỷ sau đó. Khimột đại gia Malaysiađã được coi là một“thằng nhóc củaAnwar” hay “thằngnhóc củaDaim” – saukhi Daim Zainuddinlàm Bộ trưởng tàichính–thìcódấuhiệu
là ông ta bắt đầu mộtcuộctụtdốc.
Các bố già thực sự vĩđại không bao giờ chophépmìnhchỉđứngvềmột phía trong cáccuộc chiến chính trị.Do đó, không phảingẫu nhiên mà hai
người giàu nhấtMalaysia là RobertQuách và AnandaKrishnan được coi làbậc thầy trong việcquanhệvớimọi chínhtrị gia. Mối quan hệcủa Quách là khôngchê vào đâu đượcmột
phầnlàdotuổitác.Chaông thường chơi mạtchược với Onn binJaafar,mộtnhàquýtộcvà làchủ tịch sáng lậpcủa đảng UMNO, khiRobertQuáchđanglớnlên tại bang Johore.Robert đã theo học
cùng trường với contraicủaOnnbinJaafarlà Hussein Onn, saunàytrởthànhthủtướngthứ ba của Malaysia,và cùng học ở đại họcRaffles với AbdulRazak, sau này trởthànhthủtướngthứhai
của Malaysia, và cảHarry Lý Quang Diệunữa. Đó là tất cả,nhưngkhôngthểnóilàông quen biết toàn bộbộ sậu đang tiến hóacủa Malaysia vàSingapore sau độc lập.Mặc dù đôi khi có sự
căng thẳng trong mốiquanhệvớiLýQuangDiệu và Mahathir,Quách không bao giờđặt mình ở vị trí đếnmứcbịđedọaởnhữngnơiđầutưcủamìnhtạiSingapore, và đáng kểhơn, ông vẫn còn hoạt
động độc quyền hàngnhẹtạiMalaysia.
Krishnanvượttrộihơn.Trongnhững thậpniên1960 và 1970, ông làmộtđốitáckinhdoanhthântìnhvàlàbạncủaRazaleigh,vàđãtưvấncho vị Bộ trưởng tài
chính này về tạo dựngdoanhnghiệpPetronas,một công ty dầu lửacấp quốc gia, và quốchữu hóa các mỏ thiếc.KhiMahathirtrởthànhThủ tướng vào năm1981,Krishnantiếptụccó được sự ưu đãi,
được chỉ định làGiámđốc Ngân hàng trungương năm 1982 vàGiám đốc Petronasnăm1984.Khiquanhệgiữa Razaleigh vàMahathir xấu đi,Krishnan vẫn giữ mốithân tình với từng
người, đi nghỉ với cảhai người và tìm kiếmcon cái của Mahathirkhi họ ra nước ngoài.Các đại gia khác thâncậnvớiRazaleigh,nhưKhâu Gia Bành, tìmđượccáchthoátrakhỏichiến tranh lạnh sau
thất bại của nhữngngười bảo trợ mìnhtrong cuộc bầu cửUMNO năm 1987,nhưngkhôngđượcnhưKrishnan. Ông ta đãbao quát mọi góc độ.Khi các cuộc hòa giảigiữa Razaleigh và
Mahathir có kết quảvào năm 1996, mộtcuộcgặpgỡđãdiễnratại nhà riêng củaKrishnan.
CórấtítbốgiàchâuÁchơi được với cácchính trị gia. Phi vụxâydựng tòaThápđôi
Petronas cao 88 tầng,được coi là tòa nhàchọc trời tại KualaLumpur, làm choKrishnannổitiếngnhấtvới tư cách làmột bậcthầyvềnghệthuậtthaotúng lịch thiệp. Ngườinàyđãghimchặtdòng
tiền mặt chủ yếu củamìnhvàosựđộcquyềnvềcácượcđuangựaởMalaysia, sau đó chọnđượcmộtkhuđấtrộng39 hécta của SelangorTurfClubtạitrungtâmthành phố KualaLumpurchomộtdựán
bấtđộngsảnkhổnglồ.Ông đến gặp kiến trúcsư người Mỹ gốcÁchentina là CésarPelli và chuyển lờirằng, Mahathir rất mênhữngtòanhàcaonhấtthế giới, tương xứngvới Tầm nhìn năm
2020 của Thủ tướng,để làm cho Malaysiatrở thành một nướcphát triểnvàonămđó,với thiết kế tổng hợpcácyếutốcủakiếntrúcHồi giáo. Mahathir đãraobán,vàchỉchừalạimột văn phòng riêng
hình bể cá cảnh trênđỉnh một ngọn tháp. Theo các tài liệu lưutrữvềviệcđăngkýcáccông ty, Krishnan đãcóđượclôđấtdựántrịgiátổngcộng378triệuringgit Malaysia.Nhưng các nhà định
giá tư nhân ngay lậptứctínhralôđấtnàycógiá trị thựctế trên1 tỷtiền Malaysia (khoảng385 triệu đôla Mỹ tạithời điểm đó).Krishnan có thể vayvốnđốivớisựđịnhgiáđộc lập, và với sự hỗ
trợ của Mahathir, đầutư vào Petronas với tưcáchlàmộtnhàđầutưbằng tiền mặt và làngườithuêchủlực.Kếtquảcuốicùnglàbốgiànàycóđược48%trongmộtdựánbấtđộngsảnđãđượccấpvốn1,3 tỉ
tiền Malaysia màchẳngcầnsửdụngtiềnriêngcủamình.Sauđó,ông gọi thầu các côngty xây dựng của NhậtBản và Hàn Quốc đểdựnglênmộttượngđàichoMalaysia.
Krishnanlặplạitròbịp
bợmnàytronglĩnhvựctruyền thông và viễnthông, cố gắng làmthỏamãnsựngẫuhứngcủa Mahathir về pháttriển một ngành côngnghiệp truyền thôngchâu Á. Được hỗ trợbằng sự trợ giá của
chính phủ, ông đã đưanhữngvệ tinhđầu tiêncủa Malaysia vào quỹđạo. Ông đã thành lậpcác công ty sản xuấtphần mềm để tạo rangôn ngữ lập trìnhhoàn toàn bằng tiếngMã Lai mà không có
ảnh hưởng “củaphương Tây”. Nhưngpha trộn với nhữngcôngnghệcaođó,việclàm ăn hoàn toàn lànhmạnh về mặt đạo đứcvà các doanh nghiệpđạtđượclợinhuậnlớn.Krishnancũngcóđược
giấy phép độc quyềnlàm cho ông ta trởthành một đối thủ cựckỳ xuất sắc trongngành điện thoại diđộng.Ôngmuavéthếtthị trường truyền hìnhqua vệ tinh thực sựsinhlời–cungcấpcác
chương trình bằngtiếngTrungQuốcnhậpkhẩuvề,bằngcáchnàyhay cách khác, cho cưdân gốc Trung Quốcđang sống ởMalaysia.Vàôngđãđượcđầutưthêm tiền mặt từ cáccôngtycủachínhphủ.
Cơquanđầutưcủanhànước là KhazanahNasionalđãđầutư260triệu đôla để chiếm15%sốvốncủadoanhnghiệptruyềnhìnhquavệ tinh của ông ta.Giống như các bố giàkhác, ông đã mua lại
bất kỳ công nghệ vàchương trình nào màôngmuốntheophươngthức chìa khóa traotay.
NGÔI NHÀ THỰCSỰCỦAMỐIQUANHỆ
Từ “guanxi” trongtiếng Trung Quốc, cónghĩalàmộtsựkếtnốihoặcmộtmốiquanhệ,đượcsửdụngrấtnhiềuở châu Á như là chữviết tắt cho vai tròmàmột cá nhân quan hệvới những người nắm
giữ cuộc chơi quyềnlực chính trị nhằm tạođiềukiệnthuậnlợichokinh doanh. Từ nàyngụ ý rằng tiền hối lộcó thể được chi trả vàchấp nhận. Đối vớingười Trung Quốc,thuật ngữ này bị lạm
dụng hơi nhiều, khôngphảivìởTrungQuốcítcó tham nhũng. Thayvào đó, vì diện tíchlãnhthổvàsựphứctạpđáng tranh cãi củaTrung Quốc, một kháiniệmđơngiảnđãđượcđềxuất,đólàtìmđúng
người, lót tay chongười đó và kết thúcthương vụ. Các nhàngoại thương khônghiểu điều này sẽ mấtrất nhiều thời gian ởBắc Kinh để nịnh nọtcác chính trị gia ởtrung ương, những
ngườithườngkhôngcóquyền lực để ban phátsự nhượng quyền kinhdoanh và các thươngvụ mà họ muốn. ỞĐôngNamÁthìkhác.Người ta rất thích thếgiới quan hệ như nóvốncó.Mộtthươngvụ
sẽ được thực hiện bởimột Suharto, mộtMarcos hoặc mộtMahathir. Do đó, theođuổi một mối quan hệtốt với những ngườinhư vậy là một lựachọnhợplýcủadoanhnghiệp (Lý Quang
Diệu, mà tính liêmkhiết của ông ta cũngbị đặt dấu hỏi, pháthiện ra sự tương phảnvới TrungQuốc là chiphí của những ngườinộp thuế ở Singaporelà đáng kể. Khi chínhphủ củaôngđãđầu tư
hàng tỉ đôla vào việcxâydựngmộtkhucôngnghiệp lớnởTôChâu,Trung Quốc, bất chấpmốiquanhệkhôngthểsánhkịpcủaLýởBắcKinh, chính quyền địaphương đã chống lạicác dự án của
Singapore, hối hả pháttriển một khu côngnghiệpkhácnhằmthaythế nó, và đã nhanhchóng làm nó suyyếu.)
Đó là di sản của thờithuộcđịavàsựlykhaitruyền thống giữa các
tầnglớptinhhoachínhtrị bản xứ (định kiếnquý tộc và định kiếnchống kinh doanh) vàtầng lớp làm kinh tếđến từnướcngoài.Nóbảo đảm rằng ĐôngNam Á là ngôi nhàthựcsựcủacácthương
gialàmăndựatrêncácmối quan hệ. Các bốgià chính là nhữngngườikhoảnđãi,ngườilàm trò tiêu khiển vàngười tặng quà cáp cótrình độ cao cấp. Khicácnhàlãnhđạochínhtrịhoặcgiađìnhcủahọ
đi du lịch nước ngoàithì nhà riêng, kháchsạn và nhân viên củacácđạigialàđểchohọtùyýsửdụng.AnandaKrishnan làmộthuyềnthoại khi rất chú trọngđếncuộcsốngriêngtưcủacácchínhtrịgiavà
concáihọ,nênđãduytrì một máy bay phảnlực tư nhân, một duthuyền lớn và nhà cửaở Thụy Sĩ, Úc vàLondon. Ngoài ra cònkhông thiếu các chứcgiám đốc được trả thùlao hẳn hoi dành cho
nhữngngườicầnsựvuivẻ.Vídụ,tạiMalaysia,đólàđiềubìnhthườngvìcácgiađìnhcóchântrong đảng đảng cầmquyền UMNO vànhữngngườithuộccácgiađìnhhoànggiađềuđược thưởng bằng cổ
phầnvàcácchứcgiámđốc.VuasòngbạcLâmNgô Đồng chăm sóccác cổ đông Mã Laicủa ông ta rất chu đáobởi cờ bạc là một lờinguyền, một điều cấmkỵ của đạo Hồi. Hầunhư tấtcảcáccổđông
lớn trong bộ máy củaông ta đều được bổnhiệm vào các vị trítrong công ty. NhưngLâm không thể chegiấu sự phụ thuộc củamìnhvàocácmốiquanhệ chặt chẽ với lựclượng cảnh sát
Malaysia đầy quyềnlực. Các sĩ quan nghỉhưu chiếm nhiều việclàm ở sòng bạc khổnglồ của ông, trong khiđócácghếgiámđốcvàgiámđốcđiềuhànhcủaGenting,công tychínhcủa ông ta, đã có một
vị tướng nguyên làtổng thanh tra và mộtvị tướng khác nguyênlà phó tổng thanh tracủa lực lượng cảnh sátquốc gia. Đại giaQuáchLệnhXánđãsửdụng thành viên củahoàng gia Malaysia,
một người anh em rểcủa Mahathir, con cáivà anh chị em của cáccựu thủ tướng và bộtrưởng làm giám đốc.Đôi khi, sự đầu tư dàihạnvàonhữngcánhâncó quan hệ với nhữngngười có thế lực cũng
đềnđáplạicácđạigia.Khi Mahathir bất ngờnhường bước choAbdullah Badawi hồitháng 11 năm 2003,Robert Quách đã đẩymộtgiámđốclênđịavịlãnh đạo, Lâm ChíHoa, người đã xây
dựng quan hệ vớiBadawi kể từ khi họcùng học ở Đại họcMalaya. Khi nhữngdoanh nhân khác cốgắngtháchthứcsựđộcquyền về đường míacủa Quách ở Malaysiadướichếđộmới,chính
quyền đã dứt khoát từchốinhữnglờikêugọicảicách.
Tuynhiên,gầnnhưcácchức giám đốc, việcphân phát các cổ phầnmiễnphíhaycógiáưuđãi và lót tay trực tiếpđềuđượctínhlàchiphí
trong kinh doanh.Doanh nghiệp cần cóđặc ân về chính trị vànhững người có quyềnlực mong đợi đượcthưởng công cho việcđầutưcủariênghọvàoápphe chính trị. Nhưmột thư ký chính trị
của Badawi nhận xétvề hệ thống quyền lựcở Malaysia: “Sự thamnhũngđãtrởthànhmộtđịnh kiến, không hơnkhông kém. Trong khihệ thống quyền lực ởĐông Nam Á là thamnhũng, nó có hiệu quả
hơnnhữnghệthốngcóliên quan đến các xãhội mà ở đó nhữngngười nắm giữ quyềnlực cũng tìm cách bóclột các doanh nghiệp.Đông Nam Á khôngthể so sánh vớikleptocracies -“những
quanchứckẻcướp”đãhủy hoại nhiều quốcgia ở châu Phi. Tronghầuhếtcáctrườnghợp,các chính trị gia ởĐông Nam Á bán cácnguồn tài nguyên củacông và quyền làmkinh tế cho các doanh
nghiệp tư nhân vàkhông can thiệp vàoviệc điều hành doanhnghiệp. Khi những kẻbạochúachâuÁcưxửgiốngnhư“nhữngquanchức kẻ cướp” ở châuPhi – khi tình trạngđược phép làm bất cứ
điều gì mình hammuốn của những đứacon nhà Suharto tănglênđếnmứckhôngthểkiểm soát được trongthậpkỷmàôngtacầmquyền – thì kết quảcũngtươngtự.
Trạngtháibìnhthường
của việc trả tiền chogiớichínhtrịtrongkhuvực dần dần dẫn đếnviệc phải trả nhiềukhoản chi phí khôngmong muốn. Hồi ứccủa một tỉ phú nói vềviệc hối lộ một thủtướng, đã trích dẫn ở
trên, vang vọng tronglời mô tả của mộtngườicontraicủaChinSophonpanich về quátrình chi trả cho cácchínhtrịgiavàcácôngtướng Thái “hào hoaphong nhã”. Đâykhông phải là một từ
mà một người ngoàicuộctựnhiêncóđược,mà nó được sử dụngbởicontraimộtđạigialớnởTháiLan, khônghềcósựmỉamai,châmbiếm.Đã lâu trướckhiThaksinShinawatratrởthành Thủ tướng Thái
Lan,cácsửgiaTháivàcác tác giả PasukPhongpaichit và ChrisBakerđãhỏiôngtavềmức tiền lót tay tiêuchuẩnchonhữngdựáncó liênquanđếnchínhphủ ở đất nước này.Ông trả lời một cách
lậplờrằng10%làmứcbình thường, nhưngcon số này có lẽ phảicao hơn 35% đối vớinhững dự án rất lớn.Cũngtheocáchđó,cácdoanh nhân đã nói cáigiá chính thức củakhoảnchiphícóthểtrả
cho công việc kinhdoanh dưới chế độSuharto ở Indonesia.Vợ ông ta, bà Tien,thường được giới kinhdoanh gọi là MadameTienPerCent (QuýbàPhần trăm). SudarpoSastrosatomo, chủ
côngtyvậntảibiểnlớnnhấtcủaIndonesia,gọicác quỹ mà Suhartođược sử dụng để thutiền lót tay làmột “hệthốngthuếsongsong”.
Các quốc gia ĐôngNam Á tập trung hóa,vớicấutrúcxãhộidựa
trên giai cấp, làm chokhu vực này trở thànhthủđô châuÁcủa cácmốiquanhệ.ĐángchúýlàJohnMcBeth,mộtphóng viên lão thànhcủa Tạp chí Kinh tếViễn đông tạiIndonesia,khikhảosát
các danh nhân hàngđầu của quốc gia nàyđãchorằnghọđãđisaiđường ở thời kỳ giữađộc lậpvà cuộckhủnghoảng tài chính châuÁ,mặcdùkhôngchỉrõra là Sukarno hoặcSuhartođãkéodàicác
truyền thống phongkiến. RoeslanAbdulgani, một danhnhân chính trị đángkính từ khi khai sinhnước cộng hòa này vàlàmộtBộtrưởngngoạigiaodướithờiSukarno,đã thanvãn:“Cáctầng
lớp trên trong xã hộinày chỉ tìm kiếm đồcống nạp”. TạiIndonesia vàMalaysia,thói quen bán sựnhượng quyền và giấyphép kinh doanh đãchuyển tiếp sang thờikỳ độc lập mà không
hề bị gián đoạn. Dướithời thực dân Hà Lan,tầng lớp quý tộcpriyayi của Indonesiađã luôn luôn có tiềnđầutư,tàisảnvàquyềnlựcđểbán.Vẫncòncónhiều nơi ở Malaysia,phần lớn trong số đó
khôngphảilàthuộcđịachính thức của ngườiAnh, đất đai và nhiềuquyền lợi có giá trịkinhtếkháclọtvàotaycácgiađìnhhoànggia.Ví dụ, các thương vụbất động sản lớn củaRobert Quách thời kỳ
đầukhôngdựatrêncácgiao dịch với ngườiAnh, mà với gia đìnhhoàng gia Johore. Khichếđộthuộcđịađãquađi, ngoài đượcnhượngquyềnkinhdoanh,tầnglớptinhhoachínhtrịởđịa phương lại còn có
thêm các khoản tiềnđầu tư kinh tế trongtay. Tại Thái Lan, đãcó sự tiếp nối liềnmạch của thông lệ cấptiền đầu tư kéo dài từcuộc cách mạng năm1932–cuộccáchmạngchấm dứt chế độ quân
chủchuyênchế.Tấtcảnhững gì đã xảy ra làmột phần chiến lợiphẩm được chuyểnsang giới quan chứcquan liêuvàcác tướnglĩnh quân đội. ỞPhilippines, việc đútlót,hốilộmộthệthống
chínhtrịcóvẻbềngoàidân chủ là một côngviệcđangdiễn ra dướisự cai trị của thựcdânMỹ,vìWashingtondầndầnchuyểngiaoquyềnlực sang Manila. Nạntham nhũng đã hoàntoàn được hoàn thiện
sau khi độc lập. Thamnhũng chính trị thôthiển không phải theocùng một trật tự ởSingapore và HồngKông mặc dù cả haithànhphốnàyvănhóacầm tiềnhối lộđãphổbiến rộng rãi cho đến
thập niên 1970, – vìkhả năng thu hút vốncủa cả khu vực có xuhướngdồnvềhaithànhphố tương đối “sạch”và“ổnđịnh”nàysovớicác vùng sâu vùng xacủa chúng. Tuy nhiên,số lượng các vụ thông
đồng giữa doanhnghiệp tư nhân vàchính quyền ở cả haithành phố này khôngnơi nào chịu kém nơinào. Đó là điều mà aicũng có thể mườngtượngđược.
QUAN HỆ KHÔNG
TẠO NÊN MỘTMẠNGLƯỚITRE
Các mối quan hệ cótầmđặcbiệtquantrọngở Đông Nam Á, vìchúng mang lại hiệuquả. Nhưng trong khicác đại gia tích cựcgiaoduđểmongmuốn
có được các mối quanhệvớicácchínhtrịgia,một câu chuyện thầnthoại đáng kể về cáchthứcmàcácbốgiàlàmviệc với nhau đã đượcdựng nên. Đây là câuchuyện thần thoại về“mạng lưới tre,”được
cho là tồn tại giữa cácđại gia gốc TrungQuốc, tạo nên một“mạng lưới hợp táctoàn vùng”, là duynhất, độc đáo đối vớivăn hóa của họ. Bằngchứng được đưa ra làmột thực tế rằng, các
bố già Trung Quốcthường cùng nhau đầutư,đólàđiềukhôngthểphủ nhận. Các tạp chíkinh doanh châu Á vàmột số bộ sách mangtính học thuật thườngxuyên minh họa bằngđồthịvềviệccùngđầu
tư của họ. Tuy nhiên,lý thuyết “mạng lướitre”làsailầm.Thựctế,các đại gia thườngbuộc phải cùng nhauđầu tư vì bản chất củamôitrườngtrongđóhọhoạt động. Các nềnkinh tế dựa trên giấy
phép yêu cầu các nhàđầu tư nước ngoài tìmkiếmcácđốitáccóảnhhưởngchínhtrị;nhữngcartelcũngcầnhợptác.Các đối tác sẽ thườnglà người có gốcTrungQuốcdovaitròkinhtếưu việt của những
người Trung Quốcnhậpcưtrongkhuvực.Nhưng các đại giaTrungQuốccũngcùngđầu tư và hợp tác vớicácđối tác khôngphảingười Trung Quốc.Hầunhư tất cả bọnhọđều hoạt động thông
qua liêndoanhvớicáccôngtyđaquốcgiađểcó được công nghệ vàkỹ năng quản lý. Họcũng làm việc với cácbố già có nguồn gốcdân tộc khác. Mạnglưới tre vừa đơn giảnthái quá vừa lãngmạn
hóatháiquá.Trongkỷnguyêndicưhàngloạtcủa thế hệ thứ nhất,người Trung Quốcthuộc giai cấp côngnhân dựa vào nhữngmạng lưới được xácđịnh theo phương ngữchắc chắn như một
rặng tre. Các bố giàtheochủnghĩaquốc tếđã chưa bao giờ ởtrong tình trạng nhưvậy.Họ hợp tác ở nơihọphảihợptác,nhưnghầu hết thời gian họdùng để cạnh tranh rõràngnhấtlàcạnhtranh
để có được các đặc ânchính trị. Sát cánhbênnhau bất kể họ là ai,nên câu lạc bộ hỗ trợlẫn nhau đã gợi lênkháiniệmvềmộtmạnglướitre.
MốiquanhệgiữaLâmThiệu Lương của
Indonesia và RobertQuách của Malaysia,hai đại gia nổi tiếngnhất trong khu vựctrong hơn nửa thế kỷqua, là một minh họađiển hình. Quách làngười trội hơn, đượcchechởbằnggiấyphép
độc quyền kinh doanhhàng nông phẩm baogồm đường và bột tạiMalaysiatừcuốinhữngnăm 1950. Khi ôngmuốn chuyển một nhàmáy chế biến đườnglớn sang Indonesia, rấttự nhiên là ông muốn
cómộtmô hình tươngtự tại nước này. Ảnhhưởng của Lâm vớiSuharto là không cóđối thủ, và Suharto đãlàm cho việc kinhdoanhđường trở thànhđộc quyền của giớiquân sự, điều hành
nhiều doanh nghiệpthôngquaLâm.Quáchcũng khuyến khíchLâm tiến hành cuộcvậnđộnghànhlangvớiSuharto để có độcquyền nhập khẩu lúamì, xaybột, được chiaphầnvới giới quân sự.
Quách và Lâm đã trởthành những ngườicùng đầu tư buôn lúamìvàđường,trồngmíađường trong suốt bathập kỷ. Những ngườinàythườngxuyênđượcca ngợi trên cácphương tiện truyền
thông là các liênminhtheo mạng lưới quantrọng.Giađìnhhọđềuở các thành phố thuộctỉnh Phúc Kiến củaTrung Quốc, chỉ cáchnhau có bốn mươikilômét.Trongthựctế,Lâm và Quách đã là
các đối tác trong mộtcuộc hôn nhân buộcphải thuận theo, giốngnhưvôsốđạigiakhác.Khoảnggiữa thậpniên1990, Quách bán hếtBogosari, doanhnghiệp độc quyền vềnhập khẩu lúa mì và
xaybộtởIndonesia,vìtin rằng Lâm và giớiquânsựđãgianlậnvớiông, chia chác lợinhuận không côngbằng. Khi cuộc khủnghoảngtàichínhchâuÁnhấn chìm đế chế củaLâm,Quáchđãtrảđũa
lạicùngvớinhiều“bạnbè” khác của Lâm” –bằng cách từ chốikhôngchoôngnàyvaytiền. Như PhilipPurnama, một giámđốc điều hành cao cấphợp tác với Anthny,con trai Lâm, để cố
gắng xây dựng mộtdoanhnghiệpgiađình,đã nhận xét: “Trongsuốtcuộckhủnghoảng,khi Anthony cần tiền,cái gọi là mạng lướinày đã đòi anh ta trả70%lãisuất.”
Bản chất thực sự của
việc hợp tác giữa cácđại gia đã trở nên rõràng hơn với tác giảnhờ một cuộc gặp gỡvào bữa ăn sáng vớimộttrongnhữngngườigiàunhấtchâuÁ.Cólẽvì một bữa tiệc thú vịđếnbấtngờcủabốgià
tốihôm trước–ông tađãchỉngủcónămgiờđồnghồvìđạigianàykhông bị bảo vệ nhưcác tỉ phú khác trongcuộcthảoluậnvớimộtngười mà ông đượcnhững người ngoàicuộc cho biết là đặc
biệt thân tín.Ôngkhởinghiệp với một ngườimàôngđãcùngđầutưtrongnửathếkỷ,ngườimàôngcho là“rất thôkệch”,“rấtthậtthà”vàgọi sự cải đạo sangKitô giáo của ông tachẳng khác gì một nỗ
lực để lấy lòng ngườida trắng. Một đối táckinh doanh lâu dàikhác của ông là “mộtkẻ bất lương”, mộtngười chỉ biết nghiềnngẫm sách vở khi liêndoanh. Ông cho biết,có lầnôngđã sáng tác
ra một câu chuyệnthương tâm về việc đãthua lỗ 100 triệu đôlatrong một thương vụvậntảibiểnđểvaytiềncủamộtgãtrùmlàbạnbèđểchitrảhợplýhơncho một liên doanh;ông đã nhận được 5
triệu đôla cho vay,nhưngsauđóôngnhậnranóđãđượckhấutrừvào cổ tức kỳ tới củaông. Một đối tác kinhdoanhlâunămkhácđãbị mắng nhiếc vềchủng tộc vì nhữngthiếu sót có thể hiểu
đượccủanhómphươngngữ của Trung Quốcđược coi là “mộtmafia” và cũng bị lênánvì tínhdâmdật củamình.Điềunày ít nhấtlà tử tế hơn nhữngnhận xét dành cho cácđối thủcạnhtranhtrực
tiếpcủacáctỉphú.Mộtngườilà“kẻgiếtngườicókhuônmặt trẻ thơ”.Người khác là “mộtconrắnhổmang”,gầnđây đã gửi một hộpsôcôlachocontraicủamột bố già. Ông nàykhuyênngườikếvịcủa
mình,đầutiênhãychochóănthửđã,nếuconvật vẫn còn sống saumột vài giờ thì “hãythử cho con chó cáimộttíđã”.
Simon Murray, ngườiđược Lý Gia Thànhtuyển dụng để điều
hànhHutchisonsaukhiđại gia đầu bảng củaHồng Kông mua đượcmột doanh nghiệpnguyên là của mộtngoại kiều ngườiAnh,nhớlạiconđườnglòngvòng của mình khi cốgắng tìm hiểu về mối
quanhệcủacácbốgià.Không lâu sau khiđược bổ nhiệm,Murray nhận được lờimờitừTrịnhDụĐồng,tỉ phú đứng đầu tậpđoàn New World, đếngặp ông ta để tròchuyện.VìTrịnhvàLý
đãnổitiếnglàbạnchơigôn và đánh bài nênđiều này có vẻ hoàntoàn tự nhiên. Tuynhiên, khi Murray nóicho Lý biết về cuộctiếpxúcvớiTrịnh,ôngta tỏ ra rất ngạc nhiênbởi hành động này.
Ông nhớ lại là Lý đãlạnh lùng cảnh báo:“Phảithậtcẩnthậnvớibọn này. Hầu hết họđều thông minh nhưchúng ta.” Murraynhận xét: “Họ chỉ làbạnbècủanhautrênlýthuyết.”
Nhìn theo cách khác,bản chất thực sự củamối quan hệ giữa cácđại gia được thể hiệntrong các kết quả, khihọ đã cố gắng để chủđộng hợp tác với tưcáchlàcácnhómtrongkinh doanh. Điều này
giống như sự hợp tácthụ động cần thiết đểduy trìmộtcartelhoặcchia chác một khoảnvốn đầu tư.Một ví dụnổi tiếng tại Malaysialà việc thành lậpMultiPurposeHoldings(MPH)dướisựbảotrợ
củaHiệp hộiMalaysiaTrung Quốc (MCA)chính đảng của ngườiMã Lai gốc TrungQuốc, vào giữa nhữngnăm1970.MPHlàmộtphương tiệnđầu tư tậpthểhứahẹnbảovệ lợiích thương mại của
người Trung Quốctrong các chương trìnhhànhđộngđượckhẳngđịnh là vìMã Lai củachính phủ. Mặc dùcôngtythuhútkhoảng30.000nhàđầutư,chủyếu là người TrungQuốc, một vài đại gia
sẽcómộtviệcgìđóđểlàmnhưnghọthíchtìmnơi chốn của riênghọ,làm việc trực tiếp vớicácnhàlãnhđạochínhphủ. Những doanhnhân nổi bật tham giaMPH đã không nhìnthấy một thảm họa.
Vào những năm 1980,tập đoàn này đã côngbố thiệt hại lớn nhấttrong lịch sử các côngty của Malaysia, vàgiámđốcđiềuhànhcủanó, Tan Koon Swan –nguyên là quản lý cấpcao tại Genting của
Lâm Ngô Đồng đã bịphạt tùở cảSingaporevàMalaysiavìtộigianlận.ÔngtađãtuồnquỹcủaMPHvàomộtcôngtyriêngcủamình.Mộtcâuchuyệnítkịchtínhhơnnhưngtươngtựvềsự thất bại trong hợp
tác của các đại gia làviệc thành lập ởHồngKôngmộttậpđoàntậptrung vào Trung Quốcvào đầu những năm1990, trong đóLýGiaThành,StanleyHà,giađình Riady củaIndonesia vàHội đồng
phát triển thương mạiSingapore là các đốitác.TậpđoànTheNewChina Hong Kongchính xác không nhậnđược lợi lộc gì, vìnhữngngườihậuthuẫnquyền thế của nókhôngmuốn và không
thể làm việc cùngnhau.
Các mối quan hệ, nhưnhà đầu tư các kháchsạn sang trọng AdrianZecha nhận xét, là rấtquan trọng ở ĐôngNam Á vì các xã hộinàyđược tầng lớp tinh
hoa điều khiển mộtcách quá đáng. “Khibạn làmột nhà đầu tưphát triển,” ông nói,“nếu người lập kếhoạch đã từng họccùng với bạn thì bạnmới có cơ hội.” Thựctếlà,mộtsốnhỏcơsở
giáo dục, thường cónguồngốcthuộcđịa,lànhững nơi khởi nguồnchungcủatầnglớptinhhoa ở Hồng Kông,MalaysiavàSingapore.Tuy nhiên, không nênnhầm lẫn tầm quantrọng củamối quanhệ
với khái niệm cácmạnglướihợptác.ThếgiớikinhdoanhởchâuÁ là một thế giới cấuxé lẫn nhau, trong đócác bố già luôn khaokhát cạnh tranh để cóđược sự bảo trợ chínhtrịkhanhiếm.Điềunày
gợi ramột định nghĩa,các đại gia làmột loạingười có vẻ bề ngoàicực kỳ duyên dáng,luôn theochủnghĩacánhânvànhiềukhithựcdụngđếnnhẫntâm.
TIỀN MẶT LÀ CHỦYẾU, LIÊN KẾT
THEO CHIỀUDỌC, ĐẦU TƯ ĐADẠNG HÓA NGẪUNHIÊN
Không phảimạng lướitre làm cho các bố giàchâuÁ giàu thêm;màdòng tiềnmặt chủ yếubắt nguồn từ các thị
trườngkhông có tựdolàm cho họ giàu thêm.Dòng tiềnmặt cũng làchiếcmặtnạcựctốtđểgiấu giếm sự thất bạicủa nhiều doanhnghiệp. Ngay sau khingười giàu nhất khuvực là Lý Gia Thành
có được lợi ích thốngtrị của mình trongcartel hải cảng củaHồng Kông, dòng tiềnmặt bất tận của nó đãgiải cứu ông. Nhữngnăm 19821983, suythoái kinh tế toàn cầukếthợpvớicuộckhủng
hoảng chính trị tại địaphương, khi các cuộcđàm phán để HồngKông trở lại với chủquyềncủaTrungQuốcbắtđầu.Thịtrườngbấtđộng sảnđã tụt dốc tựdo, và thu nhập tạicông ty bất động sản
Cheung Kong của Lýcũng thế. Tệ hơn nữa,Lý bị nhiều tin đồn làlỗ nặng trong công tytưnhân thựchiệnmuabán bất động sản màông bảo đảm có mứclãi tối thiểu. Khôngthành vấn đề. Trong
Tháng Ba năm 1984,Hutchison, một doanhnghiệp vốn là củangườiAnh,mànhờnónên lợi nhuận về hảicảng của Lý vẫn giữđược, đã đổ ramột sốtiền mặt từ khoản cổtức 256 triệu đôla, và
phầnlớnsốtiềnđãđếnvới Lý. (Cổ tức chỉđược trả cho cổ phầnưu đãi trong đó Lý sởhữu rất nhiều – chứkhông phải cổ phiếuthường). Ông đã đượcgiải cứu. Mặc dù Lýthườngxuyênđượcbáo
chí Hồng Kông gọi là“siêunhân”, sựnghiệpđầu tư của ông cónhiềuthươngvụkhônggặp thời, và lợi nhuậnthu được phải trải quamột thời gian quằnquại mới kết trái. Đầuthập niên 1990, ông
tuyênbốthiệthạiđángkểvìđầu tưđiện thoạidiđộngvànhắntinquásớmởAnh,ÚcvàcácnướcchâuÁkhác.Sauđó, ông đã có mộtkhoản lợi nhuận trờicho rất lớnvớiOrangeở cuối những năm
1990, trước khi chìmđắm trong điện thoại3Gvẫncònnóngbỏngvới số tiền lớn chưatừng có. Việc chuyểnsang công ty dầu lửaHuskycủaCanadanăm1987, và tăng tiếp vốnở đó, dẫn đến nhiều
năm thua lỗ và giảmgiá trị tài sản. Qua tấtcả các khoản đầu tưnày,dòngtiềnmặtchủyếutừcáccảng,bánlẻ,năng lượng điện vànhững cartel ở HồngKôngkhácđãbảohiểmcho sự mở rộng của
Lý. Kinh nghiệm củamột trong những nhàđầutưthànhcôngnhấtởĐôngNamÁnày làmộthướngdẫntốtgiúpcác đối thủ cạnh tranhkhông phải lênh đênhchìmnổi.
Dòngtiềnmặtchủyếu
làchínhsáchbảohiểmcủa một bố già. Nócũngkhuyếnkhíchhaiđặc điểm tiêu biểukhác, thường là chungcho các doanh nghiệpcủa các đại gia. Việcđầutiênlàliênkếttheochiều dọc, các hoạt
động bao quanh mộtmặt hàng độc quyềnhay thị trường nhánh.Khi Henry Hoắc cóđược độc quyền nhậpkhẩu cát của TrungQuốcđạilụcvàoHồngKông vào những năm1950, ông mua ngay
các xà lan để vậnchuyển và lập các nhàkho để trữ cát. Nhiềunhà độc quyền còn đixa hơn thế. Trở lại vídụ về đường mía đãthảo luận trước đây,Robert Quách có cáccôngtytrồngmía,tinh
chế đường, đóng gói,bánđường,tiếpthịchođường, cũng như cáctàu thủy chuyên chởđường. Vì Quách cóđộcquyềncònthờihạntrong phân phối tạiMalaysia, nên có mộtsự cám dỗ tự nhiên
khiến ông đầu tư vàocác hoạt động có liênquan. Liên kết theochiềudọccũnghấpdẫnvì nó giúp cho các đạigia tự do làm theo ýmình, tính toán xemđầutưbaonhiêu,lỗlãibao nhiêu tại mỗi giai
đoạn cụ thể của mộtdoanh nghiệp. Ví dụ,chi phí chuyên chởhàng có thể được tănglên để chuyển số tiềnkiếm được vào vận tảibiển xa bờ, một hoạtđộng được miễn thuế.Tại Hồng Kông, các
giađìnhcócôngtybấtđộng sản được niêmyết công khai hoạtđộng trong một cartelhiệu quả đều có côngty xây dựng riêng.Điềunày,về lý thuyết,tạoramộtcơchếhoànhảo để bòn rút lợi
nhuận từ các doanhnghiệp đầu tư pháttriển được niêm yết.Theo luật của HồngKông, các công ty xâydựng tư nhân khôngphải công bố các tàikhoản.
Tác động thứ hai của
dòngtiềnmặtcótừcáccông ty độc quyền làmộtcáigìđóphảntrựcgiác. Bên cạnh cácdoanh nghiệp đượccartel hóa và liên kếttheo chiều dọc để tạora phần lớn tiền mặtcủa mình, các bố già
thường thíchđầu tưđadạng hóa ngẫu nhiên.Hầunhư tất cả bọnhọđều điều hànhmột tậpđoàn. Đó là điều hoàntoàn bình thường đốivới một đại gia đầubảng để kiểm soát bahoặcbốn trămcông ty
tư nhân và đưa haimươicôngtyvàoniêmyết.Mộtphần,điềunàyphảnánhtrạngtháitâmlýcủamôi trườnghoạtđộngdựatrênviệccấpphép trong đó sự cạnhtranhđượcgiớihạnbởinhànước,vàdođóbất
kỳ cơ hội kinh doanhmới nào cũng phảichộplấy.Nhưchúngtasẽ thấy trong Chương4, cũng có ảnh hưởngtương đối yếu của cáccổ đông thiểu số,những người thích tậptrung đầu tư vào các
công ty đại chúng cóthunhậptốiđa.Vàcầncóđộng lựcđể sởhữunhiều tài sản khácnhau, có nhiều quyềnhạn khác nhau, trongtrường hợp xu thếchính trị ở chính quốccủa một bố già diễn
biến theo những chiềuhướng khác nhau. Tuynhiên, còn hơn thế, đadạnghóađầu tư làsảnphẩmcủaviệccóđượctiền mặt và vay đượcvốn tín dụng quá dễdàng. Như những nơikhác trên thế giới, các
đạigiaởĐôngNamÁđangnghiêngvềđầutưrấtnhiềulĩnhvựckhácnhau vì họ có nhiềutiền mặt. Điều nàyđúng với mọi ngườithuộcmọidântộc.Đạigia người Trung QuốccủaMalaysia làQuách
LệnhXán,với19côngty niêm yết trong cáchoạtđộngtừngânhàngvàmáy điều hòa nhiệtđộchođếnsảnxuấtđồbán dẫn và bất độngsản, không khác nhiềuvềchủngtộcsovớiđạigia người Tamil là
Ananda Krishnan,người đang nhúng tayvào phim hoạt hìnhtrên truyền hình, viễnthông, phát điện, giảitrí, thămdòdầukhívàbất động sản.Và cũngkhông xa rời thế giớiđó,giađìnhngườiAnh
làSwirecũngthamgiavào điều hành cácdoanh nghiệp kinhdoanhhàngkhôngđộcquyền, vận tải biển,bánlẻ,đồuốngnhẹvàđược xếp ở một vị tríđáng kính nể, ở hàngthứ hai trong những
cartel bất động sản ởHồng Kông. Rốt cục,chính sựđộcquyềnđãkhuyến khích các nhàđộc quyền rải tiền củahọrakhắpnơi.
4. HỌ ĐÃTRỞTHÀNH BỐGIÀ NHƯTHẾNÀO,#
3: CẤUTRÚC CỦATỔ CHỨCNHỮNG“NÔ LỆ
TRƯỞNG”VÀNHỮNG“CON CHÓTÂY THEOĐUÔI ÔNG
CHỦ”
Khimột người nói vớibạn rằng ông ta giàulên nhờ chăm chỉ, bạnnên hỏi ông ta: "Sựchămchỉcủaai?"
DONMARQUIS
Một bố già làm việcchămchỉnhư thếnào?Đâylàcâuhỏithậthấpdẫn. Ý kiến thườngđược chấp nhận là họlàm việc nhiều giờmànhiều người kháckhông thể làm được.Đổng Kiến Hoa, con
traiđạigiavậntảibiển,ngườiđã trở thànhđặckhutrưởngHồngKôngđầu tiên và thườngcông khai nhắc đếnnhữngphươngkếtrongcuộc chạy đua củamình, cuối cùng cũngtuyênbốrằng,sựgiảm
sútvềsứckhỏedophảiliên tục làm việc 1618giờ mỗi ngày đã bắtbuộcôngphảitừbỏvịtrícaonhấttrongchínhquyềnHồngKông.Cácđại gia, từ Bao NgọcCươngchođếnLýGiaThànhđềuđượccholà
nhữngngười luôn thứcdậytrướcbìnhminhvàcoi khinh khái niệm"ngàylễ".
Không nghi ngờ rằng,các bố già thường làmviệc vào những giờnày. Nhưng bản chấtmộtngày làmviệccủa
họ không phải là củamột giám đốc điềuhànhbìnhthường.Nhưmột cán bộ tài chínhlàm việc cho một đạigia Singapore, và cựuGiám đốc điều hànhcủa doanh nghiệp giađình Indonesia, đã
phảnánh:"Họlàmviệcchăm chỉ ư? Họ chỉlàmviệcchomốiquanhệ của họ...” Đây làmột điểm phân biệtquan trọng. Xét theomô hình quản lý kiểuphươngTây,cácbốgiàthườngđượccoinhưlà
Tổng giám đốc điềuhành. Nhưng trongthực tế, hoạt động củahọ giống như nhữngngười Chủ tịch luônluôn quá bận rộn: lậpchiến lược, tìm kiếmcác thương vụ, đànđúmvớiđốitác,nhưng
cuối cùng để chonhữngngườikhácthựchiệncụthểnhữnggìhọđã đề ra. Một môitrườnghoạtđộngtrongđócácmốiquanhệ,sựủng hộ chính trị vàgiấyphéplàquantrọnghơn nhiều so với hiệu
quảvốncóvàsứccạnhtranhtoàncầucủamộtdoanhnghiệp, làmchođiều này trở nên bìnhthường.Cácbốgià,vànhân viên hỗ trợ gầngũicủahọ,dànhnhiềuthời gian để đảm bảocácbứcảnhcủacácđại
giachụpchungvớicácchính trị gia đang nổiđược trưngbày tạivănphòng của họ (và ảnhcủa các chính trị giahết thời thì được gỡxuống), tổ chức cáccuộc chơi gôn, bố trínhà ở, du thuyền và
khách sạn cho nhữngngười cần được ưu ái,giải quyết vấn đềnhững đứa con ươngngạnhcủacácchínhtrịgia và gửi quà tặng đikhắpthếgiới.
Trò chơi gôn là thànhphần cơ bản của cái
hỗnhợpkinhdoanhxãhội này. Hầu nhưkhông cóngoại lệ, cácbố già đều chơi tròchơi này. Ví dụ, ởHồngKông,cácđạigiađầu bảng như Lý GiaThành, Robert Quách,anhemnhàQuách,Lý
Triệu Cơ, Trịnh DụĐồngđềulànhữnggônthủ có thâm niên vàmộtsốtrongbọnhọcósânriêng(bênkiabiêngiới,ởTrungQuốcđạilục) đểmời khách đếnchơi. Những nhà độctài châu Á cũng là
những người mê đánhgôn như điếu đổ.Suharto chơi hàngtuần, trongkhiMarcostuyên bố có thể sẵnsàng tháchđấuvới bấtkỳ nhà lãnh đạo nàotrên thếgiới (vệ sĩ củaông ta bị kỷ luật vì đã
lấy chân đá một cúđánh có tính chất cầumayvà rất tồi củaôngtarakhỏiphầnsânbãigồ ghề; những ngườicùng chơi nói ông takhôngbaogiờăngian).Chơi gôn, hơn bất kỳhoạtđộngnàokhác, là
chấtbôitrơnxãhộicủacácdoanhnghiệplớnởchâuÁ.Dođó,sângônlà một phần của côngviệc. Cũng tương tựnhư là tham dự đámcưới và đám tang củacácđối tác kinhdoanhvàcácchínhtrịgianhư
người Hồng Kông gọilà “làm những việc đỏvà trắng”: đỏ là màucủa một đám cướiTrung Quốc, trắng làmàu của đám tang.Cũng như là kinhdoanh cả trong khi ănuống; các bố già hiếm
khi ăn ở nhà.Và cũngnhư là các cuộc tiệctùng và thù tiếp bấttận.
Vì vậy, một ngày củabố già hạng trung rấtdài nhưng mang tínhgiao tiếp xã hội. Vàomột ngày điển hình
trong cuộc đời của LýGiaThành,đạigiagiàunhất châu Á, Lý sẽđượcđánhthứctrước6giờsángvà từcănnhàtrên đồi Deep WaterBay Road ở bờ namđảo Hồng Kông đixuống sân gôn chín lỗ
bên cạnh bờ vịnh vàođúnggiờuốngtràbuổisáng,7giờ.Ôngcóthểchơi với một hoặc vàitỉphúkhác,họcũngcónhà ở gần Câu lạc bộgôn Hồng Kông, cùngvới một trong nhữngngười điều hành cấp
caocủamình,hoặcvớimộtđốitáckinhdoanhmới mà ông muốnthăm dò. Lý đến vănphòng vào lúc 10 giờsáng. Kể từ khi hoànthành tòa nhà 70 tầngTrung tâm CheungKongánngữphíađông
của khu kinh doanh ởtrung tâm, văn phòngnày ngự trên đỉnhmộttòatháplắpkínhvàmạcờrôm màu vàng, vớimộtbểbơicómáiche.CôngviệcđầutiêncủaLýlàkiểmtraxembáochí có tin gì liên quan
đếnôngtahaycôngtycủaôngtakhông.Ôngnói được tiếng Anh,nhưng thích đọc tiếngTrungQuốc,dođócácphần có liên quan củacácbáobằngtiếngAnhđượcdịchsẵntrướckhiôngđếnvănphòng.Lý
cũng rất quan tâm đếnnhữngphóngsựnóivềcác công ty của mình.Những người làm Lýgiận dữ chắc chắn sẽnhận được một cuộcgọitừmộttrongcáctrợlý thân cận của Lýhoặcmộtláthưtừluật
sưcủaông.Nhưđãđềcập trước đây, Lýthường xuyên ra lệnhcho các công ty củaôngcắtquảngcáo trêncácbáochíđãlàmchoông bực mình. Khi cóbáochí,giấytờ,thưtừtrong tay, Lý có thể
nhấc điện thoại và nóichuyện với, hoặc chogọimộthoặcnhiềunhàquản lý cấp cao đến.Hệ thống điện thoạibáo cho họ rằng đó làSếpLớnđanggọi.Lúc11 giờ 30, Lý đã sẵnsàng để đi massage.
Sau đó, ông dành mộtchút thời gian để tiếptụccáccôngviệchànhchínhđếntrướcbữaăntrưa, lúc 13 giờ, chắcchắncũng làmộtdạnglàm việc. Sau khi ăntrưa, Lý làm việc tạivănphòngmộtvàigiờ
nữa trước khi về nhàlúc 4 giờ chiều. Lúc 5giờ, có thể ông đimassage lần nữa, vàsau đó, có lẽ, chơi bàivới các đối tác kinhdoanh lúc 6 giờ 30.Cuốicùng,mộtbữaăntối để làm việc trước
khi nghỉ ngơi lúc 10giờ tối, và chukỳmớilạibắtđầu.
Vìmọithứđềucóthểtính là làmviệc,Lývàcácbốgià khác có thểlàm việc đến 16 giờmỗi ngày. Tuy nhiên,nhiệm vụ điều khiển
doanh nghiệp thực tếđược gán cho nhữngngười quản lý, để cácđại gia có thời gianđàm phán các thươngvụ, chơi gôn hay ăntrưa. Có rất nhiềungườiquảnlýnhưvậy,và trong hầu hết các
doanh nghiệp của cácđạigia,có thểdễdàngnhận ra những ngườithườngđượcgọilà“nôlệtrưởng”–hayngười“đầu tắt mặt tối”. Đâylàngườiđầu tiênđượcgọi khi bố già muốnlàm một cái gì đó.
Trong trường hợp củaLý, đó là CanningHoắc, một Giám đốcđiềuhànhmậpmạpvớimái tócmuối tiêu luônbù xù, đôi khi ở trướcđám đông, đang đưachoLýmột chiếc điệnthoại di động bằng cả
hai tay một cử chỉthường dùng để lấylòngcủangườichâuÁ,thường sử dụng khiđưa danh thiếp. Hoắcđảm nhận tất cả cácnhiệmvụlớnnhỏ.Mộtmặt, ông ta theo dõikhoản tiền đầu tư hơn
20 tỉ đôla trong doanhnghiệp điện thoại diđộng thế hệ thứ ba.Mặtkhác,cóthểlàgọiđiện la mắng nhữngnhà phân tích chứngkhoánđãthựchiệnmộtlời chào bán công tycủaLýkhôngtốt.Paul
Mackenzie, một nhàphântíchlàmviệcmộtthời gian dài ởBrokerage CLSA,ngườiđãbịHoắc“điềutrị”, rất ngạc nhiên làHoắc có thể tìm đượcthời gian để làm việcnày. “Bạn sẽ nghĩ
CanningHoắcnên làmnhữngviệckhácthìtốthơn,” ông ta nói. Tuynhiên, công việc củanhững “nô lệ trưởng”là làm theo những ýthích bất chợt của ôngchủ và hành động vớitư cách là người thừa
hành của ông ta.CanningHoắcđặcbiệtthiên về dọa nạt. Mộtngười ở Hồng Kôngnhớ lại khi ngheHoắcnói về một hợp đồngkinh doanh trong bữaăn trưa, trước khingười của Lý nói về
đối thủ: "Họ sẽ phảihợp tác trong vụ này,nếu không, chúng tôisẽđèbẹphọ."Thựcralà người đómuốn nói,“giống như một cảnhtrongphimBốgià”.
“Nô lệ trưởng” lànhững người phải làm
việc tối tăm mặt mũi.Họđượctrảthùlaorấtcao Canning Hoắc cóthể là Giám đốc điềuhànhcómứclươngcaonhấtởngoàinướcMỹ,ông ta kiếm đượckhoảng 15 triệu đôlamỗi năm nhưng họ
chẳng phải làm gì hơnlàphụcvụvàtuânlệnhông chủ của mình,hàng ngày. Hoắc hiếmkhiđượcngủđến2giờsáng vì phải có mặt ởvănphòngtrướckhiLýđến. “Nô lệ trưởng”của Lý Triệu Cơ, đối
thủ xếp sau Lý GiaThànhvề sựgiàu cóởHồng Kông, là ColinLam,PhóChủtịchcủaHenderson Land. Lamsởhữu,theotiêuchuẩnHồng Kông, một ngôinhà nguy nga ở khuvựcVịnhRepulse.Tuy
nhiên, ông ta hầu nhưkhông bao giờ sống ởđóvìphầnlớnđềungủquađêmtrongmộtcănhộôngtamuaởđườngThángNămtạibờkháccủaHồngKông.Lýdolà để luôn ở gần ôngchủ, người có thể cho
gọi ông ta vào bất cứlúc nào. Thật vậy, ảnhhưởng nghiêm trọngđến sức khỏe vì phảilàm việc quá nhiều làmối nguy hiểm chungcủamọi“nôlệtrưởng”.Taysaiđắclựccủađạigia người Malaysia
Ananda Krishnan làRalph Marshall, ngườigốc Ấn, vẫn cứ phảilàmviệcmặcdùđãcómột ca phẫu thuật timlớn trong những nămgầnđây.Mộtchủngânhàng đầu tư, ngườiquen Krishnan mô tả
sự cư xử củaMarshallnhư là“mộtkẻbắtnạthàngloạt”.Nhưlàmộtví dụ điển hình, ngườinày nhớ lại có lầnKrishnan ở châu ÂuquyếtđịnhgọiđiệnchoMarshall, ngay cả khicó những vấn đề tầm
thườngnhất.Khi đượcnhắcnhởrằngởKualaLumpur đang là 3 giờsáng, Krishnan trả lờirằngđiềunàylàkhôngquan trọng và vẫn cứgọi cho người phụ táđangngủsay.Marshallcũng tựkểvới tácgiả,
“Tôi chỉ là một thằngnhócchạy loong toongtrong văn phòng”, ôngta nửa đùa nửa thật.“Nô lệ trưởng” củaRobert Quách làRichard Lưu, ngườithườngphải nuốt nướcmắt vì sự căng thẳng
củacôngviệc,bịbỏrơiđến chết tại Sân bayquốc tếKuala Lumpurvào ngày Tết âm lịchnăm2002.CáichếtcủaLưu buộc Quách buộcphải tự mình quản lýcôngviệchàngngày.
Nhữngngười cóquan
hệ chặt chẽ với cácnhânvật“nôlệtrưởng”nói rằng không chỉ làtiền lương, mà cảmgiácquyềnlựcvàđượcgầngũi với cácbốgiàthúc đẩy họ làm việc.Cảmxúcvềquyền lựclớnhơnrấtnhiềutrong
một doanh nghiệp đaquốcgiakhôngbaogiờbị ảnh hưởng bởi tìnhcảm con người, đặcbiệt là từkhivị trícủacác đại gia có sự ràngbuộc trực tiếp hơn vớisựtiếpcậnđếncácđặcânvềchính trị củahọ.
Tuyvậy,cuốicùng,địavị của những “nô lệtrưởng” cũng chỉ làmột ảo ảnh.Anh ta cóthể được quyền chọncổ phiếu nhưng quyềnkiểm soát doanhnghiệp sẽ không baogiờ được trao cho anh
ta;mànósẽquađikhiđếnthờicácthếhệsaucủa gia đình các đạigia. Với ý nghĩa này,anh ta phải chịu đựngnhữngý thíchbấtchợtcủa một ông chủ hayđổi ý nhưng chẳng đểlàmgìcả.
NGƯỜI NƯỚCNGOÀI CỦA NGƯỜINƯỚCNGOÀI
Với định nghĩa nhưtrên,các“nôlệtrưởng”thường là người châuÁ. Anh ta thường làngười có cùng chủngtộc với đại gia, có thể
nói cùng thứ tiếng vàtương tác hoàn toànđầyđủvớigiađìnhđạigia. Nhưng trong độingũ quản lý của mộtđạigiathờihiệnđại,lạicómộtnhânvật tươngphảnhoàntoàn.Đâylàngười thuộc chủng tộc
nước ngoài, thường làngười châu Âu hoặcngườiMỹ. Thường thìcómộtsựcânbằngvềlịch sử nào đó trongviệc sử dụng nhữngngười như vậy. Trongthời thuộc địa, cácngân hàng và các nhà
buôn phương Tâythường dựa vào cácnhàtưsảnmạibảnlàmtrung gian cho việckinhdoanhvới cưdânđịaphương.Đó làmộtvị trí có lợi rất nhiều,tàng chứa những khảnăng cho việc đút lót,
hối lộcũngnhưnhữngkhoản hoa hồng hợppháp.MộtôngchúcủaStanleyHà,RobertHàĐông, là nhà tư sảnmạibảnlớnnhất trongsốđó(đốivớicáccôngty Jardine, Matheson)và là người Trung
Quốc đầu tiên đượcphép sống ở HồngKông. Ông ngoại củaDavidLýlàmộttưsảnmại bản hợp tác vớicôngtySwire.
Một bố già đương đạichẳng phụ thuộc vàonhững người nước
ngoài như những nhàthực dân đã phụ thuộcvàonhàtưsảnmạibảnông ta là một ngườitheochủnghĩaquốctế,thường học ở nướcngoàivànóiđượctiếngAnhthếchonênnhữngngười nước ngoài vẫn
làmộtthànhphầnquantrọng đóng góp vàonhững thành công lớncủacácdoanhnghiệpởĐông Nam Á. Ông tacó thể cần một sốchuyên gia, năng lựckỹthuậthoặccầnkhắcphục các vấn đề chính
trị mà các doanhnghiệpgiađìnhthườnggặpphải.
Cuối thế kỷXIX, cácđại gia như HoàngTrọng Hàm củaIndonesia đã thuê cáckỹsưchâuÂuđểgiúphọ trong hoạt động
nhập khẩu máy móc,thiết bị. Nhưng trongthời kỳ sau độc lập,nhucầucủacácbốgiàngàycàngtrởnênphứctạp. Bỗng nhiên, họ lànhữngngườiliênminhvới giới làm chính trị,giữ giấy phép độc
quyền và ở một vị trícó thể mua hết hoặcchiếm hết những lợiíchthươngmạicủacácnhà thực dân cũ. Khiquyền lực của họ đãtănglên,họcầnbiếtvềthị trường toàn cầu vànguồnvốnđầu tư toàn
cầu.Trongbốicảnhđó,một sân khấu đã đượcdựng nên cho sự trỗidậycủacáiđượcgọilàgweilo running dog(gweilo, từ QuảngĐông có nghĩa là“người ma”, là mộtuyển ngữ thông dụng
trong khu vực để chỉmộtngườinướcngoài;từ running dog xuấtphát từ tiếng Quanthoạizougou,ngụýlàmột người nô lệ theohầu ông chủ). Một số“chú chó” của các bốgià chẳng mang lại
điềugìhơnlàkhảnăngquản lý chuyên môn;những“chúchó”khác,thường là những nhânvậtchẳnghayhogìđãvàđangsẵnsàng thamgia vào tất cả các loạihoạt động theo cáchthứckhôngchínhđáng.
Rodney Ward, ngườiđứngđầudàydạnkinhnghiệm của ngân hàngđầu tư UBS của ThụySĩ tại châu Á, gợi ýrằng, đối với doanhnghiệp kinh doanh vônguyên tắc trong thờisau độc lập: “Các chú
chóTây theođuôi ôngchủ”khôngchỉvìhámtiền mà làm việc, bởihọ còn thường đượclàm nhiều điều mà họmuốn."
Mộttrongnhữngngườisớm nhất như thế làCharles Letts, một tên
cướp biển người Anhđã từng chiến đấu bêncạnh một nhóm ngườicộng sản trong cuộcnội chiến Tây BanNha, và sau này vớinhững người cộng sảnThái Lan trong Thếchiến thứ hai. Là một
người nói tiếng Thái,ôngtađãbịquânNhậtbắt giam. Sau chiếntranh, ông ta đã làmviệc cho công tyJardine, Mathesonđóng trụ sở tạiSingaporevàMalaysia.Nhưng trong kỷ
nguyên độc lập, Lettsđãngày càng thấy thấtvọng rằng hãng buôncủa Anh, và gia đình"đạiban"Keswickvẫnkhông điều chỉnh theomôitrườngkinhdoanhmới; ông đã đề nghịđưa các ngôi sao đang
nổi của các doanhnghiệp địa phương lênsân khấu kinh doanhnhưng nhanh chóng bịcự tuyệt.Letts kết làmbạn bè với các đại giaĐôngNamÁđangnổilên như Robert Quáchvà Quách Lệnh Minh.
Trong những năm1960, ông trở thànhmộttrongnhữngngườinước ngoài đầu tiênthực hiện việc buônbán vượt qua cái giớihạnghêgớmvềchủngtộc. Ông đã cùng hợptác với Lý Lợi Thành,
contraicủamộtngườigốcHoarấtthànhcôngtrongviệckhaithácmỏthiếc ở Malaysia, sauđó chuyển sang kinhdoanh đồn điền. Saukhi Malaysia độc lậpvàonăm1957,côngtycủaAnhđãbắtđầubán
hết các cơ sở sản xuấtnông nghiệp.Việc nàyđượcxúctiếnrấtnhanhchóngbởisựxuấthiệncủaChínhsáchkinhtếmới (NEP) năm 1970.Mặc dù được thiết kếđểmởrộngcác lợi íchkinh tế của người gốc
Mã Lai, trong thực tế,NEP nhắm thẳng đếnviệc chống lại các lợiíchthươngmạicủacácthế lực thực dân trướcđó. Letts và Lý LợiThành cómột quanhệđối tác hiệu quả, vớiLý là xác định các
doanh nghiệp và đấtđai ông ta muốn cóđược, và Letts đã đếnLondon để đàm phánvề vụ này. Lý LợiThànhđãtrởthànhchủđồn điền tư nhân lớnnhất Malaysia, tậptrung vào cao su, và
sau này, vào dầu cọ.Letts,khôngđángngạcnhiên, trở thành mộtnhân vật bị nghi ngờtrong số những cơ sởkinhdoanhnướcngoài.Bâygiờ,ởtuổihơn80,ôngvẫncònđiđếnvănphòngởSingaporecủa
mình,vàmỗingàyvẫnphụcvụtrongbanlãnhđạo của doanh nghiệptư nhân mà gia đìnhnhàLýđangnắmgiữ.
Theotrậttựcủacácđếchế sau đó, cũng hoàntoàntựnhiênlàcácbốgià Đông Nam Á tiền
bối sẽ tìm nhân tàinướcngoàiđểsửdụng.MộtsốcốvấnvànhânsựchủchốtmàRobertQuách đã thu nạp baogồm JacobBallas,mộtngườiIraqtheođạoDoThái, người đã trởthànhChủ tịchỦyban
chứng khoánSingapore; Paul Bush,một kế toán cấp caongườiAnhđãtừnglàmviệc cho Coopers vàLybrand (nay làPricewaterhouseCoopers) tại Malaysia,vàPietYap,mộtngười
TrungQuốcđãphươngTâyhóa,từnglàmviệccho các công ty kinhdoanh lớn củaHà Lanở xứ Indonesia thuộcđịa và trở thành mộtquản lý chủ chốt chocáclợiíchđanglênrấtnhanh của Quách tại
đấtnướcnày.Giớihạnduynhấtvớicái lợicóthể thu được từ việcthuênhữngtàinăngđasắctộclàkhảnăngcácđạigiađặtsựtintưởngvào người nước ngoàiđó như thế nào. Tronghầuhếtcáctrườnghợp,
điềunày chứng tỏmộtsự gượng gạo. Rất tựnhiên, các doanhnghiệpgiađìnhthườnglàm cho người nướcngoài, đặc biệt là“những chú chó Tây”nghi ngờvề sự tin cậyđốivớihọ.Trêntấtcả,
mộtđạigiahạng trungcórấtnhiềubímậtcầngiữ.Nhưngmộtbốgià,hơntấtcảnhữngngườikhác,nhậnrarằngmộtgweilo trả lương hậuhĩnh cũng có thể đángtin cậy nhưmột ngườichâu Á. Đó là đại gia
Lý Gia Thành, chủnhân tối cao của cácgweilo. Theo SimonMurray, người đã điềuhành công tyHutchison cho Lýtrong một thập kỷ:“ÔngLýlàngườihoàntoàn không phân biệt
chủng tộc. Ông nhìnvào con người và thấyđượcgiátrị”.
HOÀN TOÀN LÀMỘTCÁICŨI
Lý bắt đầu tạo dựngliên minh quan trọngvới người Anh trong
thập niên 1970. Năm1979, sau khi nắmquyền kiểm soát côngty Hutchison của Anhtrướcđây,ôngđãtuyểndụng các cán bộ quảnlý cấp cao người châuÂu vàBắcMỹ cho bộmáy của mình. Bao
Ngọc Cương, tiền bốicủa Lý với tư cách làđại gia nổi trội nhấtHồng Kông, đã có cáimà Murray gọi là“những gweilo vôhình”, nhưng Lý đãđưasựquốc tếhóa lênmộtcấpđộmới.Trong
khi ông tự điều hànhdoanhnghiệpbấtđộngsản ban đầu của mìnhlà Cheung Kong,“Hutchison đã đượcđiều hành bởi cácgweilo, qua đó,Hutchison là một đấtnướccủacácgweilo”“,
Murray nói. Cácgweilo là sự kết hợpcủa sự tâng bốc, sựtham lam và tínhchuyên nghiệp nhưngtất cả bọn họ đều hữuích.
Một trong nhữngmốiquan hệ sớm nhất và
lâu dài nhất của Lý làmốiquanhệvớiPhilipTose, một người đànông có cái tên đồngnghĩavớisựsụpđổcủatậpđoànPeregrine,chođến năm 1998 vẫn làngân hàng đầu tư vàmôigiới lớnnhấtchâu
ÁnằmngoàiNhậtBản.Nó đã sụp đổ vớikhoảng 4 tỉ đôla nợnần,vàToseđãbịcấmgiữcácchứcgiámđốctại Hồng Kông trongbốnnămvìcácthấtbạivề quản trị đóng gópvào sự sụp đổ của
Peregrine. Ông ta đếnHồngKôngnăm1972,được cha là một nhàmôi giới chứng khoángửi đi để thoát khỏicảnh phải thuê ngườiAnh với giá đắt đỏ vàđểđịa phươnghóađộingũ nhân viên của
Vickers da Costa, khiđó làmột trong nhữngcông ty môi giới lớnnhất thuộc sở hữu củaAnh. Vào thời điểmngànhcôngnghiệpmôigiới địa phương ở giaiđoạn trứng nước, ôngđã viết những điềumà
ônggọilàbáocáođầutiên về một công tyTrung Quốc ở HồngKông với cái nhìn củamột chuyên gia môigiới quốc tế. DoanhnghiệpđượcxemxétlàCheung Kong của LýGia Thành. Sau đó,
Toseđãnóivớinhữngnhân viên củaPeregrine rằng, trướckhicôngbố,ôngđãgửimột bản sao của báocáođếnCheungKong.Khi một người bợ đỡLý gọi điện thoại đểchỉ ra một lỗi nhỏ,
Tose đã in lại toàn bộbản báo cáo. Đó là sựkhởiđầucủamốiquanhệlàmviệcbathậpkỷdài với Lý, người màTose đã công khai gọilà “một người bạn rấtthân thiết”. Khi Tosethành lập Peregrine
năm 1988, Lý là mộttrongnhữngnhàđầutưcủaôngta.
Về môi giới chứngkhoán, Tose đóng vaitrò là người đầu cơcuồng nhiệt của HồngKông và châu Á. Nổibật trên lĩnh vực xã
hội, ông là một ngườisaymêcácđạigia.Đầunhững năm 1980, ôngđã tán dương đế chếkinh doanh dựa trêngian lận của GeorgeTrần,xuấtbảnmộtbàiđánhgiá thẳng thắnvềtập đoàn Carrian của
mìnhvàotháng11năm1981, và khẳng địnhmột khuyến nghị muamới của Vickers ngaytrước khi Carrian rơivào vụ bê bối thamnhũng lớn nhất tronglịch sử các công ty tạiHồngKông.
Có những lập luậnthườngxuyênrằngmốiquan hệ của Tose vớicácđạigiagầngũihơnsovớinhữnggìđãbiết.Năm1982, Tòa án xétxửcácvụgiaodịchcónội gián đầu tiên củaHồngKôngtiếtlộrằng
Tose hướng dẫn cáckhách hàng của mìnhmua càng nhiều cổphần của Hutchisoncàng tốt trongvòng24giờ trước khi Lý GiaThành thông báo tiếpquản công ty này;mộtphần cổ phiếu đã chạy
vào tài khoản cá nhâncủagiađìnhTose.Ôngta đã phủ nhận việcgiao dịch dựa trênthông tin nội gián, vàđược hỗ trợ bởi lờichứngcủaLýnênđượcmiễn tội. Đầu năm1991, cựu chuyên gia
phân tích củaPeregrine, trong mộtbáo cáo nghiên cứu,nói rằng Tose đã canthiệp để ngăn chặnkhuyến nghị “bán”đượcHutchisonđưara.“Philip Tose đã xuốngphòngnghiêncứuvàtự
viết lại nó,” một cựunhân viên nói. Khôngcó cáo buộc rằng sựthayđổi trongbáo cáođó có liên quan đếnmột thương vụ củangân hàng đầu tư,nhưng nó ngụ ý đó làcách làm việc của
Tose.Ôngtađãtừchốithảo luận về vụ việcnày.
Đầu năm 1996, thịtrường chứng khoánHồng Kông đầy rẫynhữngtinđồnvềcósựđiều khiển thị trườngkhi Peregrine đưa ra
một cuộc gọi bánHutchison. Giá cổphiếu giảm xuốngkhoảng13%vàLýGiaThành bước vào đểmua thêm nhiều cổphần cho chính mình.Might Peregrine đãgiúp Lý có được cổ
phầnvớigiárẻchăng?Cho đến khi Peregrinenổtungvàonăm1998,Ủy ban hàng hóa vàchứng khoán nổi tiếnglà không can thiệp củaHồngKôngđãphảilêntiếngvàilờivềcôngtynày. Peregrine đã bị
khiểntráchmộtlầnvàonăm 1993 vì đã gửilệnh giao dịch cho cáccông ty môi giới theocách thức khác, làmcho thị trường chứngkhoán giao dịch sôiđộngmột cách giả tạosovớithựctế.
KếtcụccủaPeregrinecũnggiốngnhưkếtcụccủa bất kỳ nhà điềukhiểnthịtrườnggiálêntrắngtrợnnào.Côngtynàykhôngthểsốngsótqua một thời kỳ suythoái về kinh tế. Khicuộc khủng hoảng tài
chính châu Á xảy ravào cuối năm 1997,Peregrine bị “lâynhiễm”bởi baphần tưvốn của nó chỉ đượchai công ty bệnh hoạnở Indonesia vay mộtcông ty taxi ở Jakartalà Steady Safe đã liên
kết với gia đìnhSuharto,vàcôngtyBộtgiấy & Giấy châu Á,một doanh nghiệp củabố già Eka TjiptaWidjaya, và là con nợquáhạnlớnnhấtĐôngNam Á. Số tiền đãkhôngtrởlại,Peregrine
không thể thực hiệnđược cácnghĩa vụ củamình,vàdođógụcngãtrong tháng 1 năm1998.LýGiaThànhđãkhông mở hầu bao đểcứu Peregrine, nhưngôngđãtỏrõlòngtrungthành với thương hiệu
của mình là một thủlĩnhđáng tin cậy.Mặcdù người ta đã côngkhaitấtcảcáctiêucựcxung quanh sự sụp đổcủaPeregrinevàtòaáncấm Tose không đượcđiều hành một doanhnghiệpnào,Lývẫnđưa
ôngtavàobiênchếcủamìnhvới tưcách làcốvấnchoHutchison.Tạitầng cao nhất của toànhà Hutchison ở trungtâmHồngKông,ôngtavẫn còn lưu giữ cácbức ảnh về hiện thânđầy nghị lực củamình
như là một vận độngviênđuaxeCông thức3 của thập niên 1960.Mộttainạnlàmôngtaphải nằm bệnh việnbốn tháng đã kết thúcsự nghiệp đó.Christopher Wood,chiến lược gia về
chứng khoán nổi tiếngchâuÁ, người bắt đầusự nghiệp là một nhàphântíchtạiPeregrine,đãnhậnxétvềcuộcđờicủa Tose: “Ông takhông biết đi đườngnào khi đến những lốirẽ."
Mộtgweilokháccũngđược Lý Gia Thànhtuyểnmộ sớm làAlanJohnsonHill, người đãlàmviệcchoôngvớitưcách “trợ lý thứ nhất”vào cuối thập niên1970. JohnsonHill làcựu giám đốc điều
hànhtạiCôngtychứngkhoán Slater WalkercủaJimSlater,đãtừngthamdựmộtcuộcchơigiành giật đầy hàohứng ở châu Á đầuthập niên 1970, baogồm Haw Par, mộtdoanh nghiệp được
thành lập bởi đại giangườiSingapore làHồVănHổ.SlaterWalkerlà một công ty đầu tưmạnh mẽ khác đã phásản, liênquanđếnmộtcuộcđiềutracủachínhphủ Singapore. Nhiềunghi vấn được tập
trung vào công tychứng khoán Spydar,mà cổ đông của nó làcác lãnh đạo cấp caocủaHawPar (trong sốđó có AlanJohnsonHill), đượcthành lập để buôn bánsongsongvớiHawPar
vàcácthươngvụkhác,vì lợi ích cá nhân củahọ.Một người quản lýcủaHawParlàRichardTarling,bịkếtántùtạiSingaporevàotháng11năm1979.JohnsonHilllà một trong nhữngngười không bị liên
lụy. Tuy nhiên, nghingờ về sự lạm quyềntrong chứng khoán đãkhôngngoạitrừôngta.Làm việc cho Lý GiaThành, ông cũng đãđược Tòa án kinhdoanh có nội gián đầutiên của Hồng Kông
gọi là người mua cổphần của Hutchison170.000 cổphiếungaytrước khi đại gia nàycông bố cổ phần kiểmsoát công ty.JohnsonHill nói rằngông ta đã quyết địnhmua vài giờ trước khi
Lý nói với ông vềthươngvụnày.Ôngđãcung cấp lời khai chotòa án bằng văn bản,nhưng tại tòa án, ôngđã không nói gì đểkiểm tra chéo.Saukhitòa án quyết định ôngkhông có quyền gì để
trảlờinữa,JohnsonHillđã trở lại châuÂu, vàđã muamột vườn nhoởPháp.
Mối liên hệ của HawPar vẫn được tiếp tụcvới việc tuyển mộGeorgeMagnuscủaLýGia Thành. George
Magnus là một nhàquản lý người AnhđượcthuêđểđiềuhànhHawPar tại Singaporesau khi chính phủ bắtđầu cuộc điều tra vềnó. Haw Par đã mua20% cổ phần tạiCheung Kong của Lý
GiaThànhvới tư cáchđầu tư, một cổ phầnlàmchocôngtycủaLýlà một mục tiêu tiếpquản nếu rơi vàonhững bàn tay khác.Một vài tuần sau khiMagnus từ chức giámđốcđiềuhànhcủaHaw
Par vào năm 1978,người tađãcôngbố làCheungKong đã đượcbán cho Lý. Sau đó,Magnus xuất hiện trởlại là một Giám đốcđiều hành của CheungKong,tiếpđótrởthànhPhóChủtịch,cũngnhư
Giám đốc những côngty khác của Lý. ÔnglàmviệcvớiLýhơn25nămtrướckhinghỉhưutại một hòn đảo ởVancouver,vàvẫncònlàmộtGiámđốckhôngđiều hành của CheungKong. Năm 1986, Lý,
Magnus và các giámđốc của Cheung Kongbị phát hiện là “thamgia vào việc kinhdoanh nhờ tin tức nộigián”tạiTòaánxétxửviệc kinh doanh nộigián thứ hai củaHồngKông. Các bản kết tội
liên quan đến kinhdoanh cổ phiếu tạiInternational CityHoldings, một công tycủaLý,chỉlàmộthìnhphạt tượng trưng, vìgiao dịch có nội giánđãkhôngđượccoilàviphạm ở Hồng Kông
cho đến sau cuộckhủng hoảng tài chínhchâuÁnăm1997.
Năm 1984, Lý thuêSimon Murray, mộtcựu quản lý củaJardine, Matheson,người đã từng thànhlập doanh nghiệp
thương mại riêng củamình, làm Giám đốcđiều hành củaHutchison. Murray,cũng được ưa thích vàtôn trọng trong giớikinh doanh tại HồngKông,đượcmộtsốnhàquan sát xem nhưmột
ví dụ về việc sử dụnggweilo khác. Lý GiaThànhgầnđâyđãbuộcban quản trị củaHutchison chi trả mộtkhoản cổ tức đặc biệttrị giá 256 đôla, mộtcông việc khó khănnhất đối với công ty
Cheung Kong của Lý,đangcựckỳtúngquẫnvì vụ đổ vỡ bất độngsản hồi đầu thập niên1980. Việc thanh toánvẫncứxảyrabấtlờitừchối công khai từ mộtGiámđốcđiềuhànhcũcủa Lý tại Hutchison,
rằng công ty khôngphải là một nhà phânphốitiềnmặt.ĐócũnglàthờigianLýđangbịnghi ngờ về giao dịchcó nội gián vớiInternational CityHoldings. Trong bốicảnh này, Murray đã
mang lại sự tín nhiệmrất cần thiết khi tuyênbốrằnglãisuấtcủacáccổ đông thiểu số tạiHutchisonsẽđượcbảovệ.Ôngtatiếptụcđiềuhành công ty cho đếnnăm 1993, khi một sốquanđiểmkhácbiệtvề
tấtcảmọithứ,từchiếnlược đến quan điểmchính trị về tương laicủaHồngKông – làmchoôngphảirađi.Lý,thậtđúngnguyênmẫu,cẩn thận đảm bảo sựchia tay vớiMurray làmột sự xuống dốc nhẹ
nhàng. Ông ta giữMurraylạibanquảntrịcủa Hutchison vàCheung Kong, và hậuthuẫn cho Murraythành lập công ty kinhdoanh chứng khoáncủa riêngông ta.Theomạch tương tự,
Hutchison của Lý đãthanh toán gần 3 triệuđôlavàonăm1984mộtkhoản tiền đáng kểtrong những ngày ấycho ba giám đốc điềuhành cấp cao, nhữngngườibịđẩy ra rìakhichiacổtứcđặcbiệt.Họ
không được vui vớicách cư xử của Li,nhưng ra đi một cáchnhẹnhàng.
Khi công việc kinhdoanhcủaLýmởrộng,có nhiều người nướcngoài đượcông ta đưavào làmviệc trongcác
lĩnh vực chuyên mônhẹp. Hiện nay, haingười Anh đang điềuhành hải cảng và cácdoanh nghiệp bán lẻcho ông ta.Một ngườiCanadagiữvai tròchủchốt Giám đốc tàichính tại Hutchison.
Dù các gweilo làm gì,Lý sử dụng họ khônggiống như những đạigia khác. Ông là hiệnthân cao nhất của mộtbố già luôn vận độngvà ủng hộ chủ nghĩaquốc tế. Tiếng Anh tựhọc của ông không
phảihoàntoànlưuloát,nhưng nó đủ để giaotiếp với những gweilocủa ông. Lý chưa baogiờ sửdụng tiếngAnhtại cuộc họp cổ đônghoặc vào những dịphiếm hoi khi đám nhàbáo quây quanh ông.
Vào những thời điểmđó, bản sắc của ôngthựcsựlàngườiQuảngĐông (dù cái giọngThiều Châu của ôngthậtkhácbiệt).Báochíđịa phương tại HồngKông đề cao ông nhưmộtdanhnhânsuốtba
thập kỷ hiệp sĩ Lý,hoặc“siêunhân”Lý,vìđã tiếp nhận và đánhbại các doanh nghiệplớn của thực dân. Lýthường dành thời giantiếpcácnhàbáongườiQuảng Đông mà ôngưa thích. Các nhà báo
nói tiếng Anh và cáctiếng nước ngoài khácbiểu lộ sự ít sùngkínhhơn đối với ông nênhiếm khi ông đồng ýtiếp. Ngược lại, cácbáo này thường nhậnđượcnhữngbứcthưđedọa từ các luật sư của
ông.BathángtrướckhiLý làmột trongnhữngngười đầu tiên đượcgọi là những ngườikinh doanh dựa vàothông tin nội gián ởHồng Kông hồi thángBa 1986, ông đã đượcbồithườngthiệthạikhi
bị South ChinaMorning Post đưa tinrằng, đúng là ông đãlàmnhưthế.
LýGia Thành làmộtbậcthầyvĩđạivề"múarối" mặc dù RobertQuách lão luyện hơntrong việc hòa nhập
vào các nền văn hóatinh hoa khác nhau ởkhắp khu vực. Lý làmột người sử dụnggweilo xuất sắc. Chodùcóđượcquyềnmiễntrừ thực hiện nghĩa vụtrong hệ thống lưuthông phân phối của
chính quyền thuộc địaHồng Kông, hay quảnlý một mối quan hệquan trọng với NgânhàngHồngKông(xemchương 5), và cho dùđã tuyển dụng một“chú chó Tây” khôngcó ý thức về luân lý
hay thuê một chuyêngiakỹthuật,Lýđãlàmmàkhôngcóbấtkỳsựbứt rứt về chủng tộcnào.Đâykhôngphảilàchuẩn mực trong khuvực, nơi có lịch sử vềthành kiến chủng tộccủachếđộthựcdânvà
các ý niệm về chủnghĩa ngoại lệ TrungQuốc tạo ra mọi kiểurối loạn về nguồn gốcdân tộc. Như ChrisPatten,Thốngđốccuốicùng của Hồng Kông,nhận xét: “Ông takhôngchophépnhững
lợithếđượcchồngchấtlên để ủng hộ cácdoanh nghiệp củangoại kiều, nhữngdoanh nghiệp đã làmcho ông ta cay đắng."Lý chỉ tập trung vàonhững gì, về lâu dài,làmchoôngtalàngười
chiếnthắng.Pattenchobiết thêm: "Ông ta làmộttrongnhữngdoanhnhân, rõ ràng là mộtdạng thiên tài mà tôitừngđượcthấy."
NHƯNG TẠI SAOPHẢI HIỆN ĐẠIHÓA?
Kỹ năng điều khiểncon người của Lý đãgiúp ông, theo đa sốcácước tính, trở thànhbố già giàu nhất châuÁ. Trong khi một sốdoanhnhânchẳngcógìhơn là một gweilo chỉmang tính biểu trưng,
gầnnhưlàlờinhắcnhởvề chủng tộc của ôngchủ(một“chúchótheođuôichủ”đơnđộcnhưthếởHồngKông,đượcmột gia đình danh giáthuê là quá dủ để duytrì một số hoạt độnggiải trí hàngngày),Lý
đã tô điểm đế chế củamìnhbằngviệccómộtgiám đốc điều hànhthuê từ các doanhnghiệp quốc tế. Tuynhiên, chúng ta đừngquênvaitròcủasựđộcquyền và cartel trongviệc tạo ra tất cả sự
giàu có của bố già. ỞHồng Kông, một sốngân hàng đầu tư suyđoán rằng hai ngườihưởng lợi hàng đầukháccủachínhsáchđấtđai của địa phương vàcartel bất động sảnLýTriệu Cơ của công ty
Henderson và gia đìnhQuáchcủacôngtyTânHồngCơcũnggiàucóchẳng kém gì Lý nếutính đến tất cả tài sảncủa họ. Không ai bàncãi rằng không có sựkhácbiệtđángkểvềtàisảngiữabangườinày.
Nhưng điều này đãkhông tính đến mộtthựctếlàLývàQuáchđãchẳnglàmlàmđượcgì nhiều với hầu hếtcáckhoảnthunhậpcủahọ hơn là “tái chế”chúng thànhcáckhoảnđầu tư thụ động,
thường là ở nướcngoài.Sovớitấtcảmồhôi nước mắt của LýGiaThànhkhicốgắngxâydựngmộttậpđoàntoàn cầu với một lựclượng lao động toàncầu, thì số người vẫntậptrungvàoviệc“vắt
sữa” một thị trườngkhôngcótựdothươngmạicònrấtnhiều.Nhìnchung, các bố già ítđónggópchokhoahọcvề quản lý nguồn lựccon người. Họ trảlương hậu hĩnh chonhững “nô lệ trưởng”
vànhững“chúchóTâytheođuôiôngchủ”củamình, bởi vì nhữngngười như thế thườngcó gốc gác là nhữngngười cán bộ quản lýkinh doanh toàn cầu.Nhưng phần lớn nhânsự trong các tổ chức
ngổn ngang của họ cóchút gì đó như lànhững tấmbia đỡđạn,vớimứclươnghạnchếbởi sức ép lâu dài củahoạtđộngnghiệpđoànở Đông Nam Á vànhập khẩu lao độngnước ngoài rẻ hơn khi
các doanh nghiệp lớncó nhu cầu (từIndonesia đếnSingapore,TrungQuốcđại lục tới HồngKông). Doanh nghiệpcủa các bố già thườngtrước hết có đượcmộtphầnđộcquyềnvàsau
đó cắt giảm chi phí,chứkhôngphảilàthuênhững người giỏi nhấtđể tạo ra những tháchthức trong một thịtrường tự do. So vớicác công ty đa quốcgia, cáchệ thốngquảnlý của họ là tương đối
ít và tương đối khóhiểu.VấnđềdễhiểulàýchícủamộtÔngChủLớn. Trái tim củamỗidoanh nghiệp của đạigia làmột ban thư ký,một “nô lệ trưởng” vàmột đội hình các giámđốc điều hành luôn
luôn căng thẳng chờđợi những chỉ thị tiếptheo của một cá nhân,không bao giờ có thểdựđoántrướcđược.
5. HỌ ĐÃTRỞTHÀNH BỐGIÀ NHƯTHẾNÀO #
4: NGÂNHÀNG,NHỮNGCON LỢNBỎỐNG, VÀ
SỰ SÔIĐỘNG CỦATHỊTRƯỜNGVỐN
"Tôi tin rằng các ngânhàng gây nhiều nguyhiểm đối với quyền tựdocủachúngtahơnlànhữngđộiquânthườngtrực."
THOMASJEFFERSON, Thưgửi Bộ trưởng Ngân
khốHoaKỳ,1802
Ngoài giấy phép chothị trường hàng hóachủ yếu và nhượng bộkinhdoanh,còncómộtnguồn lực thứ hai màcác bố già Đông NamÁkhông thể làmđượcgìnếukhôngcónó,đó
là tiếp cận nguồn vốn.Trong kỷ nguyên hậuthuộc địa, nguồn vốntrởnên sẵncóchocácdoanh nghiệp địaphương mới thành lậpvì có ba sự tiến triển.Thứnhấtlànhữngthayđổi trong hoạt động
cho vay của các ngânhànghiện có.Thứhai,cácđạigiacómốiquanhệtốtvớinhữngngườicóthếlựcđềucóđượcgiấy phép mở ngânhàng tư nhân, thườngna ná như những conlợn đất để bỏ tiền tiết
kiệm, nhưng tiền bỏống lại hoàn toàn làtiền của người khác.Tiến triển thứba là sựtăng trưởng của thịtrường vốn trong khuvực. Dưới thời thựcdân,cómộtsốđiềuhạnchế đối với doanh
nghiệpđịaphươngnhưkhó vay được vốn vớilãi suất hợp lý. Cácngânhàng châuÂuvàMỹ có chút quan tâmtới việc cho cácdoanhnghiệpchâuÁvayvốnhoạtđộngưathíchcủahọ là cấp vốn thương
mạiquốctếquathưtíndụng và những hỗ trợkhác và khi họ chongười địa phương vaythì những nhà tư sảnmại bản lại rất thamlam nên thường đòitiền lót tay trước.Trongkhuvực,cómột
sốngânhàngdongườiThái và người TrungQuốckiểmsoát,nhưnghọ cực kỳ bảo thủtrong hoạt động chovay. Hầu hết các ngânhàngđịaphươngđãtrởthành người cho vaytiền theo truyền thống
ẤnĐộvớimứclãisuấtcắt cổ. Tuy nhiên, bắtđầu từ những năm1950,việcquảnlýkinhdoanh gắt gao tại haingânhàngởchâuÁbắtđầu thayđổi tình trạngnày. Đó là Ngân hàngBangkok có trụ sở
chính ở Thái Lan vàNgânhàngHồngKôngvàThượngHảiđóngởHồngKông.
Luôn nổi bật làNgânhàngBangkok,doChinSophonpanich lãnhđạo. Cha ông là ngườiThiềuChâuvàmẹông
là người Thái. Là mộtthương nhân có kinhnghiệm hoạt động chợđen hồi cuối Chiếntranh thế giới thứ hai,Chin đã được đưa vàomột cơ sở từ thiệnđượcthànhlậpdướisựbảo trợ của hoàng gia
Thái Lan. Đầu tiên,ông ta được sử dụngvới tư cách là nhà tưsảnmạibảnrồisauđótrở thành tổng giámđốc.Trongnhữngnămtiếptheo,Chinđãdựngnên một doanh nghiệpcóquanhệtốtvớigiới
chính trị hùng mạnhnhấtTháiLanthờihậuchiến, mà trái tim làNgân hàng Bangkok.Sau cuộc đảo chínhquânsựnăm1947,ôngđãliênkếtvớigiađìnhcácvịlãnhđạo,Thốngchế Phin Choonhavan
và Tổng Giám đốccảnh sát PhaoSiriyanon với tư cáchlàcáccổđôngvàGiámđốccủacáccôngty,đãtái cơ cấu ngân hàngnày để chính phủ trởthànhcổđônglớnnhấtcủa nó. Đổi lại, ông
được nhà nước cungcấp những khoản vốnlớn,gầnnhưđộcquyềnbuôn bán vàng vàngoại tệ, vàxử lý việcchuyển tiền về nướccủa người lao độngTrungQuốc,đồngthờiđược bảo vệ khỏi sự
cạnhtranhvàcónhữngkhách hàng tiềm năngkhông ai sánh được.Giống nhưmọi bố giàthành công nhất, Chincũng khắc phục sựkhác biệt về phươngngữ của cộng đồngngười Trung Quốc,
tuyển dụng đượcnhững sinh viên ngườiTháilaiTrungQuốctốtnghiệp Đại họcThammasat Elite loạixuất sắc (người Tháithuần khiết hầu nhưluôn luôn thích các vịtrícôngchứchơnkinh
doanh). Một trongnhững người quantrọng nhất là BoonchuRojanasathien, mộtngườigốcởHảiNam,ngườiđãcứunguychoChin sau khi NguyênsoáiSaritThanarattiếnhành cuộc đảo chính
năm1957.ChinnhanhchóngmờiSaritlàmcốvấn và ông này đã bổnhiệm Bộ trưởng NộivụcủamìnhlàNguyênsoái PrapassCharusathiara làm chủtịch Ngân hàngBangkok. Nhưng mối
quanhệcủaôngtavớiPhinvàPhao,lúcđóđãbị lật đổ, làm ông taquálolắngvềviệcgiữmình ở Bangkok. ÔngđãlưuvongsangHồngKôngchođếnkhiSaritquađờinăm1963.Khiông vắng mặt,
Boonchu điều hànhngân hàng, được độingũquản lý thuộc loạigiỏi nhất chọn lựa ởThái Lan hậu thuẫn.Một ví dụ về việc độingũGiámđốcnàyđiềuhành giới kinh doanhvà chính trị hiệu quả
nhưthếnàolà,tínhđếnnăm 1980, ban lãnhđạo Ngân hàngBangkok đã dựng nênba Phó Thủ tướng vàhaiphátngônviêncủaQuốc hội Thái Lan. Tuy nhiên, các Giámđốcđiềuhànhnàycũng
là những nhà kinhdoanh; họ đã đưa tiếtkiệm dài hạn và tíndụng nông thôn vàoTháiLan.
Chin Sophonpanich đãgiúp ngân hàng lớnnhất ở Đông Nam Ámanglạilợinhuậncực
cao. Một báo cáo củaQuỹ tiền tệ quốc tếnăm1973 cho rằng, vịtríđặcquyềncủaNgânhàng Bangkok chophépnótạorathunhậphơn 100% một nămdựatrênnguồnvốncủamình (một tuyên bố
củacấpphócủaChin).Điều không cần tranhcãi là nguồn tiền gửingân hàng đang tănglên ở Thái Lan lạikhông được cho vayvớilãisuấttốiưu.ĐâylànơiChincáchmạnghóa môi trường ngân
hàng ở Đông Nam Á.Ông đi lại giữa HồngKông, Singapore,Kuala Lumpur vàJakartađểtranhthủthếhệmớicủacácđạigiathờihậuthuộcđịa.Mộttriệu phú nhớ lại việckiếm tiền cuối những
năm 1950 để cấp vốncho một thương vụthay thếnhậpkhẩumàông được cấp phép.NghenóivềChin,ôngtađãđềnghịđượcgặpChin. Câu trả lời củaChinlàkhôngcầnphảithế tự thân ông ta sẽ
đến gặp khách hàng.“Các doanh nhânTrung Quốc ở ĐôngNamÁđãcómột thờigian dài vay tiền củaChin Sophonpanich,”đại gia này nói. "Ôngta đã phá vỡ những gìđượccoi là rấtbảo thủ
củahệthốngngânhàngthựcdân."
Chinđãchocácbốgiàở ngoài Hồng KôngRobert Quách ởMalaysia, Lâm ThiệuLương ở Indonesia,Chearavanonts ở TháiLan cũng như những
người khác ởSingapore và HồngKông vay tiền. Giữanhững năm 1970, haiphần năm các khoảnthunhậpcủangânhàngđến từ hơn một chụcchi nhánh ở bên ngoàiThái Lan. Chin được
nhóm các đại gia nhớđếnmộtcáchtrìumến.“Chin trông rất quyếnrũ – ông ta có khoảngsáu tình nhân,”một tỷphúquenbiếtChinhồitưởng lại thời gian tátúc tạiHồngKôngcủamình.Mộtđạigiakhác
gọiChinlà“mộtphiếnđá hoa cương”. Chincũng là một đại giakhôngđểýđếnluânlýđiểnhình.Ôngđãdínhlíu đến đường dâybuôn bán heroin tạiThái Lan thông quaviệc cho vay cá nhân
với nhân vật buôn bánma túy là PhaoSiriyanon, và cùngvớicác chính trị gia khácthamgiavàoviệcđiềuhành các hoạt độngbuôn bán ma túy. Cáckhoản đầu tư cá nhâncủa ông ta, theo một
ngườibạn,baogồmcảcác quán bar với dàntiếpviênănmặccựckìkhêugợi.
Các đại gia là nhữngcái máy in tiền, vàkhôngaitìmđượccáchvượt qua ý kiến củaChin. Tuy nhiên, từ
đầu những năm 1980,ngôisaobảnmệnhcủaông ta và của Ngânhàng Bangkok bắt đầumờ dần. Chin bị mộtcăn bệnh rất lâu khỏi(trướckhi ôngquađờinăm 1988), bệnh lạitrầm trọng hơn bởi
chứngnghiệnrượu(đặtbiệt là rượu manh) vàphụnữ.Đồngthời,ôngđã thất bại trong việcđưa Ngân hàngBangkok vượt lên vớitư cách là người cấpvốn cho các đại giatương lai người gốc
Hoa. Trong hai thậpniên1950và1960,đâylàmộtcuộccáchmạng,nhưng điều đó khôngđủđểduy trì sựđi lêncủa Ngân hàngBangkok. Chin làngười theo chủ nghĩaquốc tế, đủ để là nhà
kinh doanh ngân hàngđối với mọi ngườiTrung Quốc, nhưngkhôngđủđểtạoramộtngânhàngtoànchâuÁ,và sau đó làmột ngânhàngtoàncầuthựcthụ.Sau khi ông chết, việcquản lý Ngân hàng
Bangkok thuộc về concáiôngchứkhôngphảilà các nhà quản lýmàôngđãgâydựng.Chinrờibỏthếgiớinàynhưmột con tắc kè hoa xãhội xuất sắc. Sự đồnghóavà“tínhchấtThái”của ông thể hiện qua
việc ông đã được hỏatáng theo kiểu Thái(truyền thống củaTrung Quốc là chôncất) và giàn thiêu đãđượcđíchthânnhàvuaThái châm lửa. Tuyvậy, lúc ở đỉnh cao,ôngđãhứahẹnhơnthế
rấtnhiều.
HSBC ĐƯỢC SINHRATỪĐÂU?
Đó là phần còn lại đểmột công ty thuộc địatiếp tục cuộc cáchmạngvềtàichính.TậpđoànNgân hàngHồng
Kông và Thượng Hải(HSBC) đã từ bỏ hoạtđộng chủ chốt củamình tại Thượng HảivàrútsangHồngKôngnăm 1949, sau chiếnthắngcủanhữngngườicộng sản trong cuộcnội chiến ở Trung
Quốc. Những người ởđịa phương biết làNgânhàngHồngKôngđã cấp vốn cho nhiềunhàsảnxuấtởThượngHải, những người đãbỏchạykhỏiđạilụcđểbắt đầu lại công việckinh doanh của họ tại
HồngKông.Dùsaođichăng nữa, nó vẫn làmột tổ chức thuộc địanhư nó vốn vậy. Chođến những năm 1960,ngân hàng này vẫn sửdụng một nhà tư sảnmại bản, người bảolãnh việc vay vốn cho
các doanh nghiệp địaphương. Hàng trămnhàquảnlýnướcngoàiđiều hành doanhnghiệp này hiếm khigặpgỡcácdoanhnhânTrung Quốc và khôngtrực tiếp đánh giá vềtiêu chuẩn được vay
vốn tín dụng của họ.Những người quản lýnướcngoàithườngphụtrách việc cho vay đốivới những người nướcngoàikhác.
Tuy nhiên, khônggiống như các doanhnghiệp do gia đình
kiểm soát của ngườiAnh, quyền sở hữuNgânhàngHồngKôngđược phát tán rộng rãikhông cá nhân nàođượcphép sởhữuhơn1% cổ phần và nhữngngười quản lý có thểdùngmọicáchđểđược
đứngvàotốpđầutrongdoanh nghiệp. Có lẽđiều này đã làm chocác Giám đốc điềuhành chủ chốt trongthời hậu chiến quantâm chặt chẽ hơn đếnmộtthếhệmớicácđạigiangườiTrungQuốc,
vìrõrànglàsựgiàucócủahọngàycàngtăng,vàhậuthuẫnchohọđểhọtiếpquảncácdoanhnghiệpthuộcđịađãsuyyếu. Sự kỳ thị chủngtộc đã mất đi khi cácbố già địa phươngđóng vai trò then chốt
đối với sự phát triểnngân hàng này với tưcách là doanh nghiệplớn nhất Hồng Kông.Như Leo Goodstadt,người đứng đầu Cơquan chính sách củachính phủ Hồng Kôngtrongnhữngnăm1990
đã viết: “Chính nó[ngân hàng] đã chủ trìsự chuyển giao quyềnkiểm soát kinh tế cótrật tự và có lợi nhuậncao từcáccông tycủaAnh sang các công tycủaTrungQuốc."Điềunày không có nghĩa là
NgânhàngHồngKôngcócamkếtvớimột thịtrườngtựdo.Mốiquanhệcủanóvớicácchínhquyền thuộc địa là vôđịch, cho phép nó bảovệ địa vị đặc quyềnduynhất.Chođếngiữanhững năm 1990, với
việcthànhlậpCơquantiền tệ Hồng Kông,trong thực tế, nó đã làmột ngân hàng trungương, phát hành giấybạc,hoạtđộngnhưmộtngân hàng hối đoái,được sử dụng chínhsách tự do lãi suất đối
vớisốthặngdưcủahệthống ngân hàng, hoạtđộng như một ngânhàng của chínhphủvàbiết nhiều thông tin vềnhữngngânhàngkhác.Đượcbảovệbằnglệnhcấm cấp phép ngânhàng từ giữa những
năm 1960 đến năm1978,sựthỏathuậnvềlãi suất được giữnguyên chođếnnhữngnăm 1990. Tiếp quảnmột ngân hàng địaphương lớn là HangSengvàonăm1965vớisự hỗ trợ của chính
phủ, HSBC chiếmkhoảng 50% tổng sốtiền gửi của toàn bộcácngânhàngởHồngKông. Thậm chí, nócòn lớnxuất sắcnhiềuso với Ngân hàngBangkok ở Thái Lancủa Chin
Sophonpanich. VàgiốngnhưChin, nóđãsử dụng vốn củamìnhđể đầu tư vào cácdoanh nghiệp củakhách hàng cũng nhưchovaydựatrênnhữngkhoản tiềngửi cực lớncủa mình. Bằng cách
này, nó đã chi phốiviệc bổ nhiệm nhữngchức vụ quan trọngtrong chính phủ HồngKông.
Hai đại gia có ảnhhưởngchiphốiởHồngKôngthờihậuchiếnlàBaoNgọcCương,chết
năm 1991, và Lý GiaThành đều đã đượcHSBCtônlênđẳngcấpcaonhấtsovớicácđạigia đồng lứa với họ.Người thứ nhất, BaoNgọc Cương đã thúcđẩy ngân hàng quyếtđịnhđầutưvàocácdự
án vận tải biển và cấpvốnchochúng;điềuđóchophépôngtrởthànhngười sở hữu tàu biểntư nhân hàng đầu thếgiới. Bao xuất thân từmộtgiađìnhgiàucóởđại lục, đã có kinhnghiệm đáng kể trong
sản xuất, bảo hiểm vàngân hàng trước khiđến với gia đình tạiHồngKôngnăm1949.GiađìnhBao thamgiaquản lý các ngân hàngvàphầnlớnsựgiàucócủa họ tăng lên cùngvới chúng. Đầu thập
niên 1950, Bao NgọcCương đã xây dựngthành công một doanhnghiệpxuất nhậpkhẩutrong thời thuộc địađược phù trợ do cuộcchiến tranh Triều Tiênbùng nổ trước khi ôngmua con tàu chở hàng
đầu tiên củamình vàonăm 1955. Việc thâmnhập vào vận tải biểndần dần làm cho ônghiểurằngsựđầu tưđótốt đến mức khácthường. Chính phủNhật Bản đang hỗ trợngành công nghiệp
đóng tàu bằng việcpháthànhcáckhoảntíndụng xuất khẩu như làmột khoản vay chokháchhàngnướcngoàiđể trang trải đến 80%chiphíđóngtàuvớilãisuấtcốđịnh trong thờihạn khoảng 8 năm.
Đồng thời, sựbùngnổsau chiến tranh chothấy các công tythương mại lớn củaNhậtBản,sogoshosha,đã sẵn sàng đăng kýthuê các con tàu nàydàihạn,thườngtrên10năm, để đảm bảo thu
nhập cho các con tàumà người nước ngoàisở hữu và thường sửdụng đội ngũ thủy thủngười nước ngoài vớigiárẻmạt.Điềunàycóthểkhiếnchocácngânhàng của các công tythương mại phải phát
hành thư bảo đảm vềhiệusuấthoạtđộngcủacác con tàu thuê này,làm cho tiền thuê trởnên cố định. Khi mọithứđãđượcrápnốivớinhau, họ cộng dồnthành một thương vụkhábấtthường.Baocó
thể đóng tàu ở NhậtBản, trả tiền cho hầuhếtcáccontàuđóbằngtiền của chính phủNhật Bản và sau đócho các công ty Nhậtthuêdàihạn,sốtiềnmàhọ phải trả được cácngân hàng Nhật bảo
lãnh.Saumộtthờigiancho thuê, con tàu sẽhoàntoànthuộcvềôngtavềmặtpháplý.NhưchàngrểngườiÁocủaônglàHelmutSohmen,người điều hành Tậpđoàn Vận tải biểnBergesen WorldWide,
nhận xét: "Đó là tưduy của một ông chủngân hàng luôn nhìnthấykhảnăngkhaitháclònghảotâmcủachínhphủ."
VấnđềcủaBaolàôngkhông có một ngânhàng.Ông có thể trích
20% số vốn để làmthêm vài con tàu,nhưng để nắm bắt cơhộithựcsự,ôngcầncónhiều tiền hơn nữa.Quyết định của HSBCtrợgiúpônglàrấtquantrọng. Nó được thúcđẩy bởi Jake Saunders
và Guy Sayer, haingười trở thành Chủtịch của ngân hàngtrong những năm tiếptheo, và đã quen biếtY.KPaoquacôngviệccủa họ tại bộ phận tàichính thương mại củangân hàng. Thật khác
thường khi các nhàquản lý người nướcngoài trực tiếp giaodịch với các doanhnhân người TrungQuốc"Vẫncònmộtdảingăn cách," Sohmennói nhưng thực tế làBao đã tự học tiếng
Anh, đã có một kiếnthức nền tảng về ngânhàngvàđã làmnênsựgiàucóbằngcáchkhácbiệt. Bản chất chắc ăncủacáckhoảnđầutưtừNhật Bản là như vậy.HSBCtiếptụccấpvốncho Bao Ngọc Cương
để ông mua thêm tàuvà trở thành một đốitácbìnhđẳngtrongcáccôngty liêndoanhđầutư vào vận tải biển.Vào năm 1979, Baokiểm soát 202 con tàuvới trọng tải hơn 20triệutấn.Đólàhạmđội
lớn nhất thế giới, lớnhơn nhiều so với haihạm đội Onassis vàNiarchos của Hy Lạphợp lại. HSBC đượchưởng lợi lớn từ mốiquan hệ của nó vớiBao. Năm 1971, ngânhàng này đưa ông vào
Hội đồng Quản trị, vàsau đó trở thành PhóChủ tịch ngân hàng.BaolàGiámđốcngườiTrung Quốc đầu tiêncủangânhàng,vàviệcbổnhiệmôngbáohiệusự khởi đầu của xuhướngcácđạigiađang
nổi người Trung Quốcngồi chật kín phònghọpHộiđồngQuản trịcủanó.
Tuy nhiên, điều nàychỉ xảy ra khi Ngânhàng này hỗ trợ Baotấncôngvàocácdoanhnghiệp do người Anh
kiểm soát, và nó thựcsự làm rung chuyểngiới có quyền uy ởHồngKông.Cuối thậpniên 1970, Bao bán điphần lớn hạm đội củamình để tích lũy tiềnmặt cho những vụ đầutưkhác.Mộtsốvụđầu
tư đó làmcổphần củaông tăng dần tại Côngty hàng hải WharfHồng Kông và CửuLong, và Công ty khobãiGodown,mộtcôngty liên kết với Jardine,Matheson. Khi JardinequyếtđịnhtiễnđưaPao
bằngmột giá đấu thầutiếp quản vào năm1980, ông đã ra đònquyếtđịnhvớiđềnghịcủa họ bằng vốn tíndụngvaytừNgânhàngHSBC và đã đượcGiámđốcbộphậnđầutư của ngân hàng là
Wardley tư vấn. Mộtvài năm trước đó,không ai có thể thểtưởng tượng rằng mộtdoanh nhân TrungQuốc có thể lấy đi bấtcứ thứ gì từ Jardine.Nhưng với sự hỗ trợcủaHSBC,Baođãlàm
được điều đó. Việc cơquanquảnlýgiaodịchchứng khoán miễn trừchoBaokhỏiphảiđưaragiáchungchocáccổphần của Wharf, màôngkhôngcó,chứngtỏPaobâygiờđãthựcsựlà người trong cuộc.
Năm1985,ôngtiếptụcnắm quyền kiểm soátmột công ty khác củangười Anh làWheelock Marden.Jardine,Matheson–đãcó một thời không thểchạm tới–giờ trởnênkhiếp sợ sự liên minh
củaHSBC với các đạigiaTrungQuốc, vàđãmấtrấtnhiềuthờigiantrongthậpniên1980đểcơ cấu lại tổ chứcmộtcáchrất tốnkémnhằmchống lại các cuộc tấncông liên tục vào lợiíchcủanó.
Cái gọi là doanhnghiệp của một ônghoàng thật đáng sợ, vìHSBC đã bước vàogiai đoạn đỉnh caotrong sựphát triển củanó. Giữa những năm1970, ngân hàng nàyđã sử dụng vốn riêng
của mình để trở thànhmộtnhântốquantrọngtrongdoanhnghiệpvậntải biển củaBao, cũngnhư sở hữu một phầntư tài sản chính củadoanh nghiệp Swire,hãng hàng khôngCathayPacific, vàmột
phần năm tài sản củamộtdoanhnghiệpđanglao đao của Anh làHutchison Whampoa.Tronggiaodịchvớidựán đầu tư cuối cùngnày, ngân hàng đã bịaramốiquanhệvớimộtbố già, thậm chí quan
trọnghơnmốiquanhệvớiBaoNgọcCương.
Nó xảy ra với sựchứng kiến của mộtTổng Giám đốc điềuhànhthờihậuchiếncótiếngtămvàgâynhiềutranhcãinhấtcủaNgânhàng HSBC Michael
Sandberg, Chủ tịchNgân hàng trong thờikỳ 19771986. Là mộtngười lãnh đạo cónhiều kinh nghiệmbuôn bán và thực hiệncác thương vụ so vớingười tiền nhiệm,Sandberg đã tỏa sáng
như một hình tượngtrang nghiêm củaHSBC. Nhiều ngườinói ông ta luôn thèmkhát cạnh tranh, đấuđá. Ông để lại dấu ấnrõràngcủamìnhtrongngânhàngvớiviệcxâydựng trụ sở chính tại
Hồng Kông, một thiếtkếkhôngngạitốnkémdo kiến trúc sư nổitiếng người Anh làNorman Foster thựchiện,vàchiphícủanócaohơnbốnlầnsovớitòanhàlớnhơnởngaybêncạnhlàNgânhàng
China. Sandberg cònxahoahơnnhiềutrongviệc trang trí ngôi nhàriêngdongânhàngchucấp cho mình, SkyHigh, nằm trên điểmcao nhất của HồngKông. Ở cấp độ chiếnlược, ông bắt đầu toàn
cầu hoá HSBC bằngviệc mua lại MarineMidland ở Bắc NewYork năm 1980. Ôngcũng đã mua lại haingân hàng thươngmạiở London và cố gắngmuaNgânhàngHoàngGia Scotland ở Anh,
nhưng không thành.Tuy nhiên, do mốiquan hệ với Lý GiaThành mà Sandbergđược mọi người ởHồng Kông nhớ đến.Sandberg khẳng địnhLýlàngườikếtụcBaoNgọc Cương “với tư
cáchlàbốgiàđầuđàn”khi ông ta đặt vào tayôngmột cổphầnkiểmsoát trong HutchisonWhampoa bằng cáchbán không qua đấuthầu.
Ngân hàng đã sở hữuphầnvốnnàyquacuộc
thoát hiểm củaHutchison và công tyconcủanótrướcđâylàCôngtyvũngtàuHồngKôngvàWhampoahồiđầu thập niên 1970.Giống như Peregrine,25 năm sau đó,Hutchisonchìmđắmvì
kinhdoanhmạohiểmởIndonesia, trong hoạtđộng cho thuê theotừng vụ việc của nó.NgânhàngHồngKôngtái cấp vốn, vàHutchison Whampoađã phải bán 22% vốnsởhữucủanóchomột
nhà quản lý người Úclà Bill Wyllie để làmcho nó mạnh trở lại.Hai năm sau khiSandbergtrởthànhchủtịch HSBC, ông đãquyết định bán doanhnghiệpchếtđi sống lạinày.Tuynhiên,ôngđã
làmnhưvậymàkhôngtuyên bố rộng rãi vớinhữngngườimua tiềmnănghai doanhnghiệpdongườiAnhthốngtrị,Jardine và Swire, hoặcBaoNgọcCương,hiệnlà đối tác ngườiTrungQuốc của Ngân hàng.
Thay vào đó, thươngvụnàyđượcgiảiquyếttrực tiếp với Lý GiaThành, với nhữngđiềukhoản cực kỳ hàophóng.BillWyllietínhtoán rằng, cái giá đãthỏa thuận là 639 triệuđôla Hồng Kông, thấp
hơnmộtnửagiá trị tàisảnròngcủacácdoanhnghiệp hợp thànhHutchison.Và ông nóirằng, có nhiều ngườimua xếp hàng để trảgiá cao hơn nhiều."ĐốivớiLý,đólàmộtthương vụ thành công
rực rỡ," hơn hai thậpkỷ sau đó,Wyllie nhớlại."Giátrịkhigiảithểcủa công ty này lớngấp đôi số tiền ông tađã trả." Hơn nữa, Lýđược thanh toán chậm,lại đượcgiảmgiá thựcsự. Một vụ mua bán
khôngquađấuthầuvớigiárất thấpthườngđặtra rất nhiều dấu hỏi.Tuy nhiên, ở cấp độchiến lược, quyết địnhbánchoLýkhôngphảilà một cú đặt cượcngây ngô. Năm 1979,khi thương vụ
Hutchison đã xongxuôi, Công ty CheungKong của Lý GiaThành là công ty bấtđộngsản lớn thứhaiởHồng Kông, chỉ đứngsau Hồng Kông Landcủa Jardine. Sau đó,cáctàisảnchủyếucủa
Hutchison đã đảm bảochoLýbướclênđịavịcao nhất trong số cácđạigia.Ôngcóđượcvịtrídẫnđầutrongcartelhải cảng và container,một phần độc quyềnsong mại trong hệthống bán lẻ, siêu thị,
các hiệu thuốc tây vớiPARKnSHOP vàWatsons(ngườisởhữukhác là Jardine), vànhiềumảnh đất có giátrị trên đảo HồngKông. Tóm lại, Lý đãtham gia lắp ghép cácmảnhghépthươngmại
dễ chịu thời thuộc địathànhnềnkinhtếtrongnước của Hồng Kông.Ông đã làm việc vớiNgân hàng HồngKông, để đến nhữngnăm 1980 và năm1990, nó sẽ đưa phầnlớn các doanh nghiệp
điđúngconđườngcủachúng. Một Giám đốccaocấpcủaLýđãnhậnxét: "Cái xương sốnghiện tại củaLý là, cácdoanh nghiệp mà ôngcóđượcđềuthôngquacácngânhàng."Ônglàmột Phó Chủ tịch
không tham gia điềuhành của Ngân hàngHồng Kông, kế tụcxuất sắc Bao NgọcCương, vì ngân hàngđangcóxuthếlấpđầycác vị trí không điềuhành trong Hội đồngQuản trị bằng các đại
giangườiTrungQuốc.Điều này cũng đưa rathông điệp cho các bốgià khác rằng Ngânhàng sẵn sàng cấpvốnchohọ.
Sandberg đã phát triểnmối quan hệ gần gũivớinhữngtaychơi lớn
khác, như Trịnh DụĐồng củaNewWorld.Tất cả mọi người (trừgia đình Keswick tạiJardine,Matheson)đềuvui vẻ. Ngân hàngHồngKôngcủngcốvịthếlànhàcungcấpvốnthống trị tại trung tâm
tài chính dẫn đầu củaĐôngNamÁ.Các đạigia người Trung Quốcđược phép phát huytiềmnăngvàcan thiệpvào các doanh nghiệpcủa thực dân, và cấutrúc cartel cơ bản củanềnkinhtếđịaphương
vẫn còn nguyên vẹn.Khi Sandberg về hưuvàonăm1986,K.SLiđã chứng tỏ mối quanhệ thân tình của họbằng cách tặng ông tamột món quà là bảnsaotổnghànhdinhmớicủa Ngân hàng Hồng
Kông, caokhoảngmộtmét bằng vàng ròng.Một nhóm khách mờicóchọnlọctạimộtbữatiệctốiđượctổchứctạikhách sạn Hilton củaLý đã kinh hoàng khinhìn thấy vật kỷ niệmthể hiện lòng sự trìu
mến không hề khiêmtốnấyđượcmởra.
Với vai trò chi phốiviệc bổ nhiệm nhữngchức vụ quan trọngtrong chính phủ trướccácđạigia,HSBCmớigiữ được vị trí nổi bậtnhất mình tại đặc khu
hành chính này suốtthời hậu chiến. Tất cảcácbạnbè tri kỷ thậmchí một người nhưHenry Hoắc, người cóquan hệ với ĐảngCộng sản Trung Quốctrong lý thuyết, đã kếtthúc mối quan hệ của
mình với chính quyềnAnh đều có mối quanhệ lớn với cái mà ởHồng Kông chỉ đượcgọi đơn giản là “ngânhàng”.Tấtnhiên,chọnra những người chiếnthắngcũngkhôngphảihoàn toàn dễ dàng.̣
DướithờiSandberg,đãcócảnhtượngChủtịchngânhàngthấtbạidướitay một nghệ sĩ xuấtsắcnhấtvềlừabịpcủamọi thời đại, GeorgeTrần. Trần đã bị phásảnởSingapore,ôngtađến Hồng Kông năm
1972 và ở đó quá thờihạnthịthựckhoảng11năm. Với số tiền vaymượnđượcvàbằngrấtnhiềuvụhốilộcùngsựcảgan, trơ tráo,ông tađã tạo dáng cho côngty đầu tư “nóng nhất”HồngKôngđầunhững
năm 1980 là tập đoànCarrian.Cáchoạtđộngcủa Trần được diễn ratrong một văn phòngốp gỗ sang trọng vớicác tác phẩm nghệthuật đắt tiền và cáctấm thảm phươngĐôngquýphái.Ôngta
thuê một đội gweilo,"các chú chóTây theođuôiôngchủ" làmchoông ta phần nào trônggiống một bố già.Đườngdâycấpvốnlớnnhất củaông ta đến từchi nhánh tại HồngKông của Ngân hàng
Bumiputra thuộc chínhphủ Malaysia. NhưngngườiđỡlưngchủyếuởđịaphươngcủaTrầnlàmộtngườimàôngtathường gọi là “BácMike”. Sandberg đãmấtcảchìlẫnchàivớiGeorgeTrần.Ôngtađã
cùngTrầngiảitrítronglô riêng của mình tạitrường đua ngựa ởHồng Kông và giớithiệu Trần với cácdoanhnhânchủchốtởxứthuộcđịanày.Ngânhàng Hồng Kông đãcho Trần vay một số
tiền đáng kể. Khi trảlời phỏng vấn của cácnhàbáo,Sandberg chobiết tổng số tiền Trầnvay là gần 200 triệuđôla Mỹ. Điều quantrọng hơn, chứng thựccủa Sandberg và củangânhàngchoTrầnđã
khuyếnkhíchcácngânhàng châu Âu và Mỹcùnghỗtrợôngta.KhiCarrian sụp đổ, giữalúcthịtrườngbấtđộngsản Hồng Kông đangrớt giá, các khoản nợlên tới 1,3 tỉ đôla Mỹcủa nó là một vụ phá
sảnlớnnhấtchưatừngcó ở Hồng Kông. Vụnày là bằng chứngmạnh mẽ đối với sứcmạnh của HSBC, cảtrực tiếp và gián tiếp,trongviệcphânbổvốnởxứthuộcđịanày.
Sandberg về hưu vào
năm 1986 với tư cáchlà một quý tộc ngườiAnh, sống ở một điềntrangvùngHampshire,bị các cuộc điều trahình sự xung quanhGeorge Trần động đếnmộtvàilần.Tuynhiên,danh tiếng của ngân
hàng “cũng chịu ảnhhưởng một chút vàocuốithờicủaông”,nhưmột cựu đồng nghiệpcấp cao thừa nhận.Sandberg cắt đứt mốiquan hệ với GeorgeTrần,vàmộtngườiÚctênlàAlanBondngười
sẽ là đại gia châu Átrongtươnglai.Ôngđãphải vào tù, cũng nhưviệc ông nhận quà củacác doanh nghiệp đãbắtđầulàmchomộtsốbạn bè của ông cảmthấy xấu hổ. “Ông tasưu tầm những chiếc
đồng hồ ngộ nghĩnh.Ngày này qua ngàykhác,aicũng tặngôngta đồnghồ,”một đồngnghiệpnhớ lại, ámchỉbộ sưu tập đồng hồ vĩđại của Sandberg.Sandberg đã bán đấugiábộsưutậpnàynăm
2001 với giá chỉ hơn13 triệu đôla, chỉ tặclưỡithêmmộtlần.Tuynhiên, dù có nhữngđiểmyếumangtínhcánhân,vàmặcdùđãbánHutchison trong mộtthương vụ không gọithầu cho Lý Gia
Thành, Sandberg đãhoàn thành công cuộcchuyểnđổinềnkinhtếHồngKông,bắtđầutừkhi ngân hàng hỗ trợBao Ngọc Cương. Từđó, hai doanh nghiệpcủa người Anh cònsống sót Swire và
Jardine suy yếu hơnnhiều sẽ chia sẻ quyềnlực trong nền kinh tếquốcnộivớimộtnhómcác đại gia ngườiTrungQuốc.Đó làkếtquả của những quyếtđịnhdongườinắmgiữcao nhất việc phân bổ
nguồn vốn ở HồngKôngNgânhàngHồngKôngđưara.
CÁC NGÂNHÀNG LUÔN LUÔNNÓI"CÓ"
Singapore đã ngheđượctiếngvangvềmột
số kinh nghiệm củaHồng Kông, với bốnngân hàng lớn nhấtquyết định sự tiếp cậnnguồn vốn. Sự khácbiệt là, đằng sau bốnngân hàng này, trựctiếp và gián tiếp, đềuthuộc một gia đình,
những người trongdòngtộcnhàLý.Chínhphủ đã ngừng toàn bộviệc cấp phép hoạtđộng ngân hàng vàonăm 1973, giới hạnhoạtđộngcủacácngânhàng thươngmại nướcngoài và giúp đỡ các
ngân hàng địa phươngbằng cách cho phépnhậpvàocácdòngsảnphẩm mới và khởiđộng việc tiếp quản.Lớn nhất trong số cácngân hàng địa phươnglàNgânhàngPháttriểnSingapore (DBS) do
nhà nước sở hữu. Cácđấu thủ lớnkhác trongcuộc chơi Ngân hàngTrung Quốc hải ngoại(OCBC) và Liên hiệpcác ngân hàng hảingoại (UOB, đã tiếpquảnmộtngânhàngtưnhân lớn thứ ba là
NgânhàngLiêndoanhhải ngoại OUB vàonăm 2002) được điềuhành bởi các gia đìnhđã Anh hóa, ngườiđứng đầu gia đìnhthường xuất thân từtầnglớptinhhoa,vàlàchỗ thân tình của Lý
Quang Diệu. Kết quảlà, các bố già địaphương không hoạtđộngngânhàngsauđóđãcóýthứcrõràngvềsự cần thiết đứng ởphía bên phải gia đìnhLý để giữ cho đườngdây tín dụng của họ
luônluônmở.Khimộtgia đình như thế, giađình Hoàng ĐìnhPhương chẳng hạn,đượcmờiđếnmộtcuộctụ tập do nhà Lý tổchức, cha, con traiPhilip (đóng trụ sở tạiSingapore) và con trai
Robert(đóngtrụsởtạiHồngKông) sẽ nói vềbất cứviệcgì họđanglàm và nhiệt tình mờimọingườithamdự.LýQuangDiệuhiểurấtrõgiá trị của việc kiểmsoát hầu bao củaSingapore sau khi độc
lập, cũng như nhữngvấn đề chính trị củanó.
Ở những nơi kháctrong khu vực, cuộcchiếnđểtiếpcậnnguồnvốnxảy ra theonhữngcách khác nhau. Thayvìlàmcontinchomột
tổ chứcngânhàng củabên thứ ba đang thốngtrị như ở Hồng Kông,hoặc một hệ thốngngân hàng nằm dướingón tay trỏ của mộttriều đại đang cầmquyền như ởSingapore, các đại gia
hàngđầuchiếmưuthếvì họ có những ngườibảo trợvề chính trị đểcó thể điều hành ngânhàng của riêng mình.Đây là một đóng gópcho cuộc khủng hoảngtàichính,nhưngchẳngchính phủ nào dám
thừanhận.Mộtphầnlýdo là hiệu quả hoạtđộng của các ngânhàng nhà nước từ lâuđãrấtkém,chúnghìnhnhư luôn là nạn nhâncủa nạn tham nhũng.Nghĩ hơi tò mò mộtchút thì các nhà hoạch
định chính sách nghĩrằng, ngân hàng củacác bố già có thể còntốt hơn so với nhiềungân hàng thuộc sởhữutưnhân.Tấtnhiên,việccấpgiấyphéphoạtđộng ngân hàng lànguồn gốc của nhiều
vụ hối lộ béo bở nhấttrong khu vực. NướckhởiđầuchoviệcquảnlýngânhàngmộtcáchtồitệlàPhilippines.
Việc lạmdụngnghiêncứu về hệ thống ngânhàng của các đại giangười Philippines lần
đầutiênđượcthựchiệndưới thời Mỹ cai trị.Người Mỹ đã tình cờtrở thành thực dân ởmột mức độ nào đấysauchiếnthắngcủahọtrong cuộc chiến tranhMỹTâyBanNhanăm1898 đã chuyển giao
một phần quyền lựcđáng kể cho tầng lớptinh hoa địa phươngtrong Chiến tranh thếgiới thứ nhất. Từ năm1916, ngườiPhilippines kiểm soátcả hai viện của Quốchội và điều khiển nền
hànhchínhquốcgiarấtnhiều,dướisựgiámsáthạnchếcủamột thốngtướng Mỹ. Đồng thời,MỹcũngthiếtlậpNgânhàng Quốc giaPhilippines (PNB) vớitư cách là một ngânhàngpháttriểncủanhà
nước, được cấp vốnđầy đủ để hỗ trợ côngcuộc hiện đại hóa. Nógiữ tiền gửi của chínhphủ, phát hành giấybạcvàgiaodịchngoạihối. Thật không may,sự kết hợp của quyềnlực chính trị đã được
chuyểngiaovàbộmáyhành chính quan liêuyếu kém đã không thểkiềm chế được cácdoanh nhân chuyểnthành chính trị gia, vàcáingânhànglớnnhétđầy tiền này đã chứngtỏđólàmộtsựkếthợp
tồi tệ. Ngay từ đầu,việc đăng ký vay củaPNB đã tăng lên trêncơ sở ưu tiên chính trịđược các gia đình làmnôngnghiệpcóthếlựcđềxuất.BanGiámđốcngânhàngvàcáccộngsựcủahọcũngởtrong
số những người vaylớn nhất. Khi tiền gửicủa chính quyền địaphương và ngân hàngdự trữ nước ngoài tạiNew York được tuônra nhưmột nguồn vốnvay,PNBgầnnhưmộtngân hàng trung ương
đãcóthểintiềnđểtiếptục cho vay. Vào năm1921, chỉ 5 năm saukhi chuyểngiaoquyềnlực, các bố già địaphương đã không chỉlàm cho Ngân hàngQuốc gia Philippinesvỡ nợ,mà họ còn làm
tiền tệmất giá và làmcho chính phủ trungương ở bên lề của sựphásản.
Đó là sự khởi đầu ấntượng của các đại giavà sự báo hiệu chonhữnggìsẽđếnsaukhiđộclậpvàonăm1946.
Trongthờikỳnày,việcchútrọngvàongànhtàichính đã chuyển sangviệc tạo ra các ngânhàngtưnhânmới,cùngvớiđólàcácràngbuộcpháp lý về hoạt độngcủa các tổ chức nướcngoài. Số lượng các
ngân hàng thươngmạitư nhân tăng từ 1 vàocuốinăm1940lênđến33vàonăm1965.PaulHutchcroft, chuyên giahàng đầu về hệ thốngtài chính ở Philippinesđãnhậnxét: "Gầnnhưcác gia đình lớn đều
đầutưvàongânhàng."Chính phủ, lúc này đãtrở thành đồ chơi củacác doanh nghiệp đầusỏ, hỗ trợ các ngânhàng mới này với cácyêu cầu về vốn thấp,tiền gửi của nhà nước,ngân hàng trung ương
chovaylạivàbảolãnhviệc giao dịch ngoạihối. Trong khi đó, cácgia đình đứng sau cácngân hàng đã lấy tiềntrongngânhàngđểchocác công ty của riêngmình và của bạn bèvay. Cựu Thống đốc
ngân hàng trung ươngGregorioLicarosđãtrảlời phỏngvấn củaTạpchíKinh tếViễnĐôngnăm1978:"MộtdoanhnhânngườiPhilippinesthuộc hạng trung cũnglập ngân hàng, khôngphải vì lợi nhuận do
ngânhàngmanglạimàđể sử dụng ngân hàngcủa mình cho cácdoanh nghiệp trongliênminh".
KhôngaiởPhilippinesbị truy tố vì cho vaybất hợp pháp, do đómọi ngân hàng ở
Philippines đều liênquan đến cuộc khủnghoảng. Khủng hoảngbắt đầu vào giữa thậpniên 1960 và khôngbaogiờngừnglại.Năm1964, người ta đổ xôđếnNgânhàngPublic,mộtngânhàngtưnhân
lớn thứ ba. Danh mụccho vay của các ngânhàng có mối quan hệmậtthiếtvớigiớichínhtrị có thể tăng lên rấtnhanh vì một nửa sốtiền gửi được nói làtiền nhà nước. Cáckhoảnvaylớnđượcgia
hạnvớingườichưavayđủ hoặc không có tàisản thế chấp, vàkhoảngmộtnửasốtiềnnày đã đến với cácthành viên của Hộiđồng Quản trị ngânhàng. Khi người ta đổxô đến ngân hàng này
và đe dọa đẩy nó đếnbờ vực phá sản, ngânhàng trung ương đã ralệnh cho PNB tiếpquảnnó.Nhưngmộtcổđông giữ quyền kiểmsoát Ngân hàngRepublic, đại gia rượuvàgỗPabloR.Roman,
lại có ý tưởng khác.Ôngđượcbầuvàomộtghế trongQuốchội tạicuộcbầucửnăm1965,đã trở thành Chủ tịchcủaỦybanNgânhàng,tiềntệvàcáctổngcôngty. Ông đã kiện ngânhàng trung ương về
việc đã xử lý NgânhàngRepublic.Ôngđãthắngmột loạt vụkiệndựa trên lập luận rằngngân hàng trung ươngđã “tuỳ tiện” tronghành xử, và ông đãđược khôi phục vị tríchủtịchngânhàngcủa
mình vào năm 1968.Tương tựnhưvậy, tòaán tối cao bãi bỏ cáclệnh thanh lý Ngânhàng hải ngoạiManilado đại gia EmeritoRamos điều hành, saukhinóđượcngânhàngtrung ương tiếp quản
vào năm 1967 vì chovaynộibộhàngloạtvàviphạmnhiềuquyđịnhkhác.
Trong thời thiết quânluật của Marcos, sựlạm dụng các ngânhàngtrởnêntồitệhơn.Sau khi hứa giải thoát
đất nước khỏi “mộtchínhthểđầusỏhợplýhóa cho bản thân mọiquyền lực và lợi ích”,ôngvàđámbốgiàthâncậnđãnắmquyềnkiểmsoát hàng chục ngânhàng. Lucio Trần, mộtbốgià đầubảngngười
Philippines, cho đếnnay vẫn sống sót, đãkiểm soát được Ngânhàng Liên minh từđống tro tàn củaGeneral Bank và andTrust Co. (GenBank),đãkhốnkhổvìcuộcđổxô năm 1976 sau khi
cho các cổ đông chínhcủa mình vay quánhiều tiền. Tân, ngườithường xuyên hợp tácđầu tư vớiMarcos, vàcác cộng sự đã “mua”GenBank trong mộtphiên đấu giá năm1977được tổchứcsau
khithôngbáochỉcóbangày. Năm 1990, Ủyban Vì một chính phủtốtđẹpcủaPhilippinescáo buộc ông đã trảmột khoản tiền, nhưngíthơn1%sovớigiátrịước tính của GenBanktại thời điểm đó. Sau
đó, Tân được cấp giấyphép thành lập ngânhàngmớihoàntoànvàGenBank trở thànhNgân hàng Liênminh,tiếp tục duy trì lợi íchtừmộtdòngvốnvaytừngân hàng trung ươngvà ngân hàng trung
ương lại bảo lãnh chonó vay vốn của ngânhàng nước ngoài. Chỉtrong hai năm, nó trởthành ngân hàng lớnthứbatrongcảnước.
Ít nhất, Trần đã chứngminhđượcbảnlĩnhcủamìnhtrongkinhdoanh,
không giống như hầuhết nhữngôngbạnnốikhố của Marcos.Roberto S. Benedicto,bạnhọccủaMarcostạitrường luật ởPhilippines, bạn chơigôn yêu thích và đốitác kinh doanh thường
xuyên, lần đầu tiênđượcgiaolàmChủtịchNgân hàng quốc giaPhilippines, và sau đóđược phép tiếp quảnhaingânhàngtưnhân.Ông và bạn bè củamìnhđãcướpđoạtmọingân hàng, một trong
số đó là Ngân hàngRepublic Planter, cóthểchovaymộtnửasốquỹvớisựcấpvốncủangânhàng trungương.HerminioDisini,ngườiđãkết hônvới Imelda,cô emhọ thứnhất củaMarcos, cũng được
giao quyền kiểm soáthai ngân hàng. Tiềntrongcácngânhàngđógiúp anh ta thành lậpmộtvănphòngbanđầuchỉ có một thư ký vàmột người đưa tin vàonăm 1969, nhưng đãphát triển lên thành
một tập đoàn có 50côngty,từhóadầuchođến năng lượng hạtnhân, vào giữa nhữngnăm1970.
Những trò hềnhư thếđã phổ biến ởPhilipines đầu nhữngnăm 1980, khi cái chế
độ nợ nần chồng chấtđã hoàn toàn lệ thuộcvào các khoản vaynước ngoài và một sốngân hàng đang cónguy cơ đổ vỡ. Tuynhiên, sau sự rađi củaMarcos năm 1986,chính phủ của Cory
Aquino đã giải cứu hệthống ngân hàng bằngcách phát hành tráiphiếuchínhphủvớilãisuất cao và cung cấpthêmnhữngkhoảntiềngửi của chính phủ vớilãi suất thấp. Hànhđộng này đã phải trả
giá vào năm 1993, khingân hàng trung ươngcũbịđóngcửavớimộtkhoảnkết sổ trịgiá12tỷđôlacủakhobạcnhànước và những ngườinộp thuế.Chi phí dịchvụhàngnămcủakhoảnnợ này, giữa những
năm 1990, là lớn hơnngân sách chi choy tếcủa Philippines. Cácđại gia này, nhữngngười không mất gì,như Benedicto vàDisini, trốn chạy cùngvớiMarcos,vàỦybanvì một chính phủ
Philippines tốt đẹp,may mà còn sống sót,nhận thấy các ngânhàng của họ hồi sinhbằng tiền công và cóthể củng cố việc địnhgiá những cartel vàocuối thập kỷ 1990 đãcho họ những lợi
nhuận tốt nhất ở châuÁ. Mặc dù mọi cartelthương mại, sản xuấtvà doanh nghiệp độcquyềnđượcMarcosvànhững người khác ởPhilippines phê chuẩn,Paul Hutchcroft vẫnkết luận rằng ngành
ngânhàngluônluônlà“thành trì vững chắcnhấtcủacácđặcquyềnvàlợinhuận”.
DẢITHIÊNHÀCÁCNGÂNHÀNG
Biến thể về chủ đề lợinhuận ngân hàng của
Indonesia vượt trội vềsố lượng tuyệt đối củacác ngân hàng đượcphép hoạt động trướckhi xảy ra cuộc khủnghoảngtàichínhchâuÁkhôngíthơn240.Giữanhữngnăm1990,tấtcảcác doanh nghiệp lớn
trong nước, và nhiềudoanhnghiệpnhỏhơn,đãđổxôđếnmộtngânhàngđangchovayđiêncuồng, dẫn đến sự sụpđổ của cả hệ thống tàichính năm 19971998.Không chỉ các bố giàbình thường có ngân
hàng, con cái Suhartocũngcóngânhàng,cáctổchứcthugomđồhốilộcủaSuhartocóngânhàng và các phe pháikhácnhaucủaquânđộicũngcóngânhàng.
Vớinhiềuýtưởngxấu,dải thiên hà các ngân
hàngcủa Indonesiabắtnguồntừmộtnỗlựccóthiện ý để giải quyếtmột vấn đề đã tồn tạinhiều năm. Giống nhưPhilippines vàMalaysia, Indonesiasau độc lập đã mắcphảimộtvấnđềtồntại
từ lâu với các ngânhàng nhà nước đượctạodựngbởicácbốgiàvà các chính trị giatham nhũng để tài trợcácdựánđầutưkhôngxứng đáng cho vay.Cuốinhữngnăm1980,tỷlệcácngânhàngnhà
nước có lãi suất hoặctiền vốn hoặc cả haikhông được hoàn trảchiếm khoảng mộtphầnnăm,vàtìnhtrạngnàytiếptụcxấuđihơnnữa trong những năm1990. Tiến về phíatrước, những người
ủng hộ chế độ kỹ trịtrong chính phủ quyếtđịnhbãibỏhệthốngtàichính này và tăngcường thêm các ngânhàngtưnhântheođịnhhướng lợi nhuận.Không may, việc bãibỏ quy định đã được
thựchiệnnhưngkhôngcómộtkhuônkhổpháplý mạnh mẽ, và quantrọng hơn, các nguyêntắc thường được soạnthảo ra rất nhanh lạithường được thi hànhkém hiệu quả. Số tiềntrả vốn cho ngân hàng
mới chỉ được 12 triệuđôla.Hầuhếtcácngânhàng nhanh chóng cắtbớtđầutưvàtăngthêmvốnbằngviệcniêmyếtcác mức lãi suất tốithiểu trên thị trườngchứng khoán Jakarta.Từ năm 1988 tới giữa
những năm 1990, cókhoảng120ngânhàngmới mở. Tuy nhiên,thayvì tìmcách tốiđahóa lợi nhuận cho cáccổ đông của mình,chúng đã trở thànhnguồn cung cấp vốngiá rẻ cho các bố già
đang kiểm soát chúng.Giới hạn cho vay đốivới các bên liên quanchưa bao giờ đượcngân hàng trung ươngthi hành, và nó cũngkhông điều chỉnh cóhiệuquảcáckhoảnvaytừ nước ngoài. Sau
cuộc khủng hoảng tàichính châuÁ, các nhàđiều tra phát hiện ramức độ nguy hiểm vềtài chính bất thườngcủacáccôngtyanhchịem trong số các ngânhàngcủanhữngbốgiàlớn. Tại Ngân hàng
Trung Á của LâmThiệu Lương, cáckhoản vay của các chinhánhchiếmđến60%,sovớingưỡngchovaytối đa theo quy địnhcủa luật pháp là 20%.Tại một ngân hàng tưnhân lớn khác, Ngân
hàng Dagang NegaraIndonesia (BDNI) củaSjamsul Nursalim, cácchi nhánh chiếm hơn90%sốtiềnvay.ChínhvợNursalim, người đãlấy mẫu tòa nhà chọctrời của Ngân hàngChina do I. M. Pei sở
hữu ởHồngKông, rồiyêu cầu các kiến trúcsư người Mỹ gốcTrungQuốcxâyhaitòanhà như thế, ở cạnhnhau, tại Jakarta choBDNI. Phần cao nhấtcủasiêucấutrúcnàylàmột đôi cột bằng
bêtông dựng đứng lênnhư hai điếu thuốc lákhổnglồ.
Không thiếu nhữngthông tin về ngànhngân hàng Indonesiađược dẫn dắt như thếnào trong những năm1990. Điều đó giúp
Edward,contraicảcủađại gia giàu thứ hainước này, WilliamSoeryadjaya,chỉcầnbanăm để tạo ra mộttrong mười ngân hànglớn nhất Indonesia, tựcho mình vay tiềnnhiều nhất để bỏ vào
cácdựánởkhắpĐôngNamÁ.SựsụpđổcủaNgânhàngSummavàođầu năm 1993, vớikhoản nợ phải trả gần700triệuđôlacầnđượccoi là lời cảnh báomạnh mẽ. EdwardSoeryadjaya đã ra giá
cho việc gia đình ôngkiểm soát công ty ôtôAstracủaIndonesia,vàvượt lên cha mìnhtrong bảng xếp hạngcácđạigia.Nhưngcácbốgiàkhácmualạitàisản của Soeryadjaya,ngân hàng trung ương
nhận một khoản nợkhác trên sổ sách củamình và cuộc sống cứthế tiếp diễn. Năm1994, một trong bảyngân hàng nhà nướclớn là Bapindo sụp đổdo sức nặng của việccho vay có sự điều
khiểncủacácchính trịgia. Năm 1995, NgânhàngPacific,mộtngânhàng tư nhân cỡ trungdogiađìnhđạigiadầulửa Ibnu Sutowo kiểmsoát bị vỡ nợ sau khibảo lãnh 1 tỷ đôla chiphiếu thương nghiệp
lãi suất cao cho nướcngoài,chủyếucấpvốnđầu tư cho các doanhnghiệp gia đình khác.Ngân hàng trung ươngđã giải thoát Ngânhàng Pacific bằng tiềncủa những người đóngthuế.
Vớisựnhậnthứcmuộnmằn,chẳngngạcnhiêngì khi năm 1997, hệthống tài chính củaIndonesia đã rơi vàokhủng hoảng. GregSirois, người đã điềuhànhmộtdoanhnghiệpcho thuê tài chính đối
vớiNgânhàngSummatrướckhinóđổbể,nóivề tình huynh đệ củacác đại gia: “Mọingười đều có một hayhai ngân hàng, và họdược phóng lên vị trímàhọkhôngđượcđàotạo để làm việc với
nó”. Kevin O’Rourke,một nhà cựu kinhdoanh chứng khoán ởJakarta và là tác giảcủa một tác phẩm lớnvề cuộc khủng hoảngtàichính,đãcómộtcáinhìnxahơn:"Vớithựctrạng rõ ràng của hệ
thống ngân hàng ởIndonesia, cuộc khủnghoảng đã được kíchhoạt, có hiệu lực nhưsự thanh toán một lầncho nhiều thập kỷ làmănsaitrái."Tuyvậy,ởPhilippines,vớicácbốgià có ngân hàng, đặc
biệt là những bố giàlớn, chính phủ khôngdámđểhọthấtbại.Khicuộc khủng hoảng tồitệ hơn ở Indonesia từtháng 11 năm 1997,các ngân hàng củanhững đại gia lớn đềnghị được nhận các
khoản vay từ ngânhàng trung ương đểtrang trải cho các nhucầu rút tiền.Có ítnhấthai phần ba các khoảnvay đã đến với cácngân hàng của bốn bốgià:LâmThiệuLương,Sjamsul Nursalim,
Mohamad “Bob”Hasan và UsmanAtmadjaya.Sauđó,cáckiểm toán viên pháthiện ra rằngcáckhoảnvaytừngânhàngtrungương với tổng trị giá14tỉđôla,bằngkhoảngba lần số tiềnđược rút
từcácngânhàngtrongthời gian chúng đượcgiải ngân. Có thể cácbố già sử dụng cáckhoản tín dụng vay từngân hàng trung ươngđể mua ngoại tệ (giúpbình ổn tỉ giá hối đoáicủađồngrupitronglúc
cuộc khủng hoảng lênđến đỉnh điểm) đểchuyển tài sản của họranướcngoài,đặcbiệtlà sang Singapore.Không nghi ngờ gìnữa, các bố già thíchcuộc khủng hoảngkhông bao giờ xảy ra,
vì việc mở ngân hàngcủa họ được hưởngchínhsáchbảohiểmlãisuất. Khi cơn lốc bụiđã lắng xuống, Cơquan tái cấu trúc ngânhàng của Indonesia(IBRA)cốgắngtrừbớttiền của chính phủ và
ngân hàng trung ươngbằng cách chấp nhậntài sản của các đại giamàgiá trị củanóđángphải nghi ngờ. Mộttrong những vụ nổitiếng nhất là khiNursalimbàngiaomộttrang trại nuôi tôm
rộnglớn,cùngnhàmáychế biến, ngân hàngđầu tư Mỹ LehmanBrothers đã định giá1,8 tỉ đôla. Hai nămsau đó những ngườithẩmđịnhcủaIBRAđãxác định giá trị thựccủanóchỉ là100 triệu
đôla. Tổng số tiền kếtsổcủaIBRAkhinóđãchấm dứt nỗ lực giảiphóngcáimặtbằngđổnát của cuộc khủnghoảng tài chính trongnăm2004là56tỉđôla.Ngành tòa án khôngchấp nhận gần như tất
cả cácviệndẫnmànóđưarađểchốnglạicácconnợ.
ĐÓLÀNƠIĐỂTIỀN
Câu nói này được quycho một tên cướp nhàbăng khét tiếng ở Mỹtên là Willy Sutton
“Tôi cướp ngân hàngvìđólànơiđểtiền”sẽkhôngphải làmột bảnmôtảcôngviệckhôngchínhxácđốivớinhiềubố già châu Á. Sự tànphámàcácđạigia tạoradoquálạmdụngcácngân hàng tư nhân và
nhà nước được nhấnmạnhbởisựphụthuộcnặngnềđếnbấtthườngcủakhuvựcvàongànhtài chính ngân hàng.Trước cuộc khủnghoảng tài chính, việcchovaycủangânhàngchiếmkhoảngmộtnửa
đến bốn phần năm tấtcảcáctàisảntàichínhởcácnướcĐôngNamÁ, so với một phầnnăm tại Mỹ. Việc chovay tại các nước nàytrongthậpkỷtrướckhicó cuộc khủng hoảngđã được thúc đẩy bởi
sự gia tăng lượng tiềngửi ngân hàng trongnước trung bình hàngnăm là hơn 20%, vì tỉlệ tiết kiệm trong cáchộ gia đình cũng tănglên. Các số liệu đãđược đơn giản hóa:những người bình
thường gửi tiền vàongân hàng và các bốgiàdùngnóđểcấpvốncho các dự án đầu tưcủahọ,dẫndắtsựtăngtrưởng bằng cách chovay ở khắp Thái Lan,Malaysia, Indonesia vàPhilippines từ năm
1986tớinăm1996.
Hệ thống tài chính sẽan toàn hơn nhiều nếunó được đa dạng hóaqua ngân hàng, cổphiếu, trái phiếu, chothuê tài chính và cáccôngcụkháctheocáchthức tương tự như ở
châu Âu và Mỹ. Thịtrường chứng khoántrongkhuvựcđãđượcmở rộng nhanh chóngtừ những năm 1980,nhưng vẫn còn tươngđối nhỏ và bị ngườitrong nội bộ các côngtychứngkhoántácoai
tác phúc. Thị trườngtrái phiếu đã được dựđịnhchiếmkhoảngmộtphầnmười,đượccoilàquan trọng, trong điềukiện tương đối giốngnhư ở các nước pháttriển. Có nhiều lý dochovấnđềnày,nhưng
lýdođơngiảnnhất là:chỉcógiớiquýtộckinhtếởĐôngNamÁmớivayđượctiềncủangânhàngmộtcáchdễdàng.Ở khắp mọi nơi trênthếgiới,cácngânhàngthươngmạiđềucóvấnđềnhàkinhtếhọctừng
đoạt giải Nobel làMertonMillergọihoạtđộng ngân hàng là"một công nghệ thiênvềthảmhọacủathếkỷXIX" nhưng trong bốicảnhĐôngNamÁ,cácngânhànglàmộtthảmhọa được bảo lãnh để
xảyra.
Có lẽ, kẻ cướp đoạtngân hàng tinh tế nhấtvà tương đối tiêu biểulàbốgiàđượctônkínhởSingapore,KhâuĐứcBạt, người đã qua đờivào năm 2004. Ông talàmộtđạigiađiểnhình
được tôn trọng nhất,sinh ra trong một giađìnhgiàucó,làcontraicủa Khoo Yang Thin,một nhà đầu tư vàoNgân hàng Phúc Kiếnở Singapore, được sápnhập vào Tập đoànNgânhàngTrungQuốc
hảingoại(OCBC)năm1933. Ông thường cốgắng chứng minh thịhiếuđơngiảncủamìnhmặcquầnáorẻtiềnvàmuabữaăntrưatừmộtgian hàng ở chợ trongkhi nắm giữ nhiều phiđội xe RollsRoyces,
Mercedes và BMW.Khoobắtđầu làmviệctạiOCBCvàthăngtiếnđến vị trí Phó TổngGiám đốc. Tuy nhiên,ông không bao giờ cóquyềnkiểmsoátdoanhnghiệpnày.Năm1959,ôngbỏ rangoàivàbắt
đầuthànhlậpTậpđoànNgân hàngMã Lai tạiKuala Lumpur, mởrộng nó rất nhanhchóng với 100 chinhánhởkhắpMalaysiavàSingapore chỉ trongvòng sáu năm. Phầnlớn các khoản tiền đã
được chính Khâu vaycho các dự án đầu tư,đặc biệt là bất độngsản,baogồmcảđầutưvào khách sạn lớn củamình tại Singapore.Tuy nhiên, tin đồn vềquymôcáckhoảnvaycho chính mình của
Khâudẫnđếnsựđổxôvềngânhàngnàynăm1966, và chính phủMalaysia buộc ôngphải từbỏquyềnkiểmsoát.
Cuộc phiêu lưu vềngânhàngtiếptheocủaKhâulàởBrunei.Ông
đã thuyết phục quốcvương Hồi giáo OmarAliSaifuddien III (chacủa quốc vương hiệnhành) cho thành lậpNgân hàng Quốc giaBrunei vào năm 1965.Các thành viên khácnhau của gia đình
hoàng gia đã tham gialàm cổ đông thiểu sốcủangânhàngnày.Đólà ngân hàng duy nhấtởquốcgia nhỏbénàyvà chịu sự giám sátthận trọng tối thiểu.Khâuđãsớmthựchiệncáckhoảnvay lớn cho
chínhmìnhđểmởrộngcác công ty bất độngsản tại Singapore, Úcvàcácnơikhác.Sựsắpxếp như vậy kéo dàihaithậpkỷchođếnkhiquốc vương Omar quađời năm 1986, và contrai ông đã thuê các
nhàđiều tra ngườiMỹkiểm tra sổ sách củaNgân hàng. Việc chovay vốn thực hiện đốivới các công ty củaKhâulàchủyếu,vìvậyvị quốc vươngmới đãđóng cửa ngân hàngnày. Khâu thu xếp để
tránh bị bắt, có lẽ ôngđã luồn lọt để bán hếttài sản và quyết toánvới kho bạc Brunei.Con trai của ông làKhoo Ban Hock,nguyên là Chủ tịchngân hàng, bị hai nămtù giam. Điều trớ trêu
nhất trong cuộc phiêulưu ngân hàng củaKhâu là cùng năm đó,Ngân hàng quốc giaBrunei đã hạ thấp giátrịsốtiềnôngtừngđầutư vào StandardChartered của Anh là300 triệu đôla. Khoản
đầu tư theo đúng quyđịnhđócógiátrị2,7tỉđôlakhiKhâuchết,đólà tài sản chủ yếu củaông. Ông cũng giữ lạiđượchầuhếtlợitứcvềbất động sản ởSingapore của mình,baogồmcáckháchsạn
Goodwood, York,Omni Marco Polo,Orchard Parade vàHolidayInn.
VÀSAUNÓLÀTHỊTRƯỜNG CHỨNGKHOÁN
Tỉ lệ tiếtkiệmcaocủa
Đông NamÁ, hầu hếtmọingườiđềugửitiềnvào ngân hàng, chochínhmìnhvay,đãlàmcho hệ thống ngânhàng ngày càng phìnhthêm quá cỡ. Chínhđiềunàyđãchocácbốgiàcơhộiđểlạmdụng.
Cómột dòng tiền trựctiếp được rút ra từ cácngân hàng trong khuvực bằng các mánhkhóe nội bộ dẫn đếncuộc khủng hoảng tàichínhchâuÁ.Bảnchất“quánhiềungânhàng”củaĐôngNamÁcũng
giúpgiảithíchmộtcâuhỏi hóc búa đã khiếnmột sốnhàđầu tưvốncổ phần của khu vựcphảitựhỏi:Mặcdùtốcđộ tăng trưởng kinh tếđang lênnhưng tại saolợinhuậntừ thị trườngchứngkhoándàihạnở
Đông Nam Á lại vẫnrất tồi tệ? Từ năm1993,khicơnmưatiềntừnướcngoài làmchovốn tư bản tại thịtrường khu vực tănglên khoảng 2,5 lầntrong một năm, lợinhuận thanh toánbằng
đồng đôla cho cổ tứcđược tái đầu tư (cácnhà đầu tư thường gọilà “tổng lợi nhuận”)vào tất cả các thịtrường trong khu vựcthấp hơn so với thịtrường New York vàLondon, và chỉ bằng
mộtphầnsovớicácthịtrường khác đang nổilên ởĐôngÂu vàMỹLatinh.Giữanăm1993và cuối năm 2006, lợinhuận tính theo đồngđôla tại Thái Lan vàPhilippines thực sự rấtthấp, thị trường chứng
khoánởhainướcđóđãphá hủy các nguồnvốn. Lợi nhuận tạiMalaysia và Indonesiacòn tồi tệhơnnên tiềnđể lại trong tài khoảnngân hàng cao, trongmột thời kỳ lãi suấtthấp đến bất thường.
Singapore sản sinh ralợi nhuận ít hơn mộtnửalợinhuậnthuđượcở London hay NewYork. Chỉ có HồngKông đạt được lợinhuận từ những thịtrường đã phát triển,nhưngchỉquảnlýđược
bằng một nửa MỹLatinhvàmột phầnbaĐông Âu. Thị trườngchứng khoán khá hơnlên vào cuối nhữngnăm 1980, nhưng đâylàkếtquảnhỏnhoiđốivới phần lớn các nhàđầu tư, vì giao dịch ở
Đông Nam Á lúc đóquá ít và họ hầu nhưkhôngmuabán tài sảntừcácnhàquảnlýtiềnquốc tế. Thậm chí nếuquaylạithờiđiểmcuốinăm 1987, khi các chỉsố được sử dụng phổbiến nhất là Morgan
Stanley CapitalInternational (chỉ sốMSCI) đối với thịtrường đang nổi châuÁđãđượcápdụng,thịtrường chứng khoánĐông Nam Á, ngoạitrừHồngKôngđãhoạtđộng kém hiệu quả so
với thị trường chứngkhoánMỹvàAnh.
Lợi nhuận đáng thấtvọng của thị trườngchứng khoán ĐôngNam Á gần như chắcchắn là tác động phụcủa sự thừa thãi tiềntiết kiệm được giữ
trong các ngân hàngcủakhuvực.Điềunàyđẩy chi phí vay giảmxuống đặc biệt là khibênvaykiểmsoátngânhàng và làm giảm lợinhuận chung của vốnđầutư.CảchâuÁphảikhổvìcái taiươngdai
dẳng là tỉ lệ tiết kiệmcao và các ngân hàngthì cứ tiếp tục phìnhlên, làm giảm sút lợinhuận đầu tư chứngkhoán trên toàn khuvực.Lợinhuậndàihạntrên cổ phần ở cácnước đang phát triển
vùng Đông Bắc Á làĐàiLoanvàHànQuốccũng thấp, nhưng ởĐôngNamÁcòn thấphơn. Đã có tác độngcủa tỉ lệ tiết kiệm tưnhân cao tập trung ởcácngânhàng,lạikèmtheo sự giám sát kém
thậntrọngnhấtcủacácngân hàng để tạo áplực tối thiểu với thịtrường vốn nên lợinhuậntạorachẳngkháhơn. Nhìn theo cáchkhác, tại sao phải làmviệc chăm chỉ để tănggiá cổ phiếu của công
tyvà trả cổ tứckhi tấtcả các nguồn vốn bạncần luôncósẵnvới lãisuất gần như bằngkhông, ở một ngânhàngmàhộiđồngquảntrịcủanódobạnkiểmsoát?Khôngcógìđángngạcnhiênlàlợinhuận
tốt nhất của thị trườngchứng khoán ĐôngNam Á đến từ HồngKông ngay cả BaoNgọcCươngvàLýGiaThành cũng phải chịuơn Ngân hàng HồngKông đã bảo hộ chặtchẽ cho những thành
công của họ nơi có hệthống ngân hàng vậnhànhđúngnhấttheocơchế thương mại. Nhưđãđềcậpởtrên,khôngcổđôngnàođượcphépsởhữuquá1%vốncổphần của Ngân hàngHSBC, điều đó có thể
giải thích lý do tại saoHSBC là ngân hàngtoàn cầu duy nhất cóthể phát triển vượt rangoài phạm vi ĐôngNamÁ.
Khi phản ánh về sựtăng trưởng cao củakhu vực và lợi nhuận
từ thị trường chứngkhoán thấp, cũng hữuích nếu nhớ rằng thếgiới của của các côngty được niêm yếtkhông phản ánh nềnkinh tế thực sự. Điềunày là không bìnhthường.NhậtBản,Hàn
Quốc và Đài Loankhông đề cập đếnLondon và New Yorkcó những công ty xuấtkhẩu có thương hiệumạnh và công nghệđang phát triển đượcgiaodịchmuabántrênthịtrườngchứngkhoán
củamìnhbêncạnhcácngânhàng,cáccôngtybảo hiểm, các nhà bánlẻ, v.v... Nhưng ngànhxuất khẩu nhằm đẩymạnh sự tăng trưởngkinhtếởĐôngNamÁbị chi phối bởi cáccông ty đa quốc gia
khôngniêmyếtởnướcsở tại, và cũng khôngđể cácnhàbán lẻ toàncầuhưởnglợimộtcáchhàophóngtừkhảnăngcắt giảm chi phí sảnxuấtcủakhuvực.Thayvào đó, thị trườngĐông Nam Á bị chi
phối bởi một vài nhânvật lớn trong dịch vụvà xây dựng nghĩa làcác bố già của chúngta. Ngay cả ở HồngKông, cũng chỉ có thểtự hào vì có một vàidoanh nghiệp đủ sứccạnh tranh toàn cầu
(như HSBC). Nếu 10doanh nghiệp củaTrung Quốc đại lụcđược tách ra khỏi chỉsố Hang Seng củaHồng Kông thì có 8công ty trong số 24côngtycònlạilàcôngtybấtđộngsảncủacác
đại gia, trong đó 4côngtylàcôngtydịchvụ công cộng do cácđại gia kiểm soát.Mộtsố công ty khác làdoanh nghiệp của cácbố già một mình giađình Lý Gia Thànhkiểmsoátnămcổphiếu
có quyền bầu cử củaHang Seng. Nói cáchkhác, mua cổ phần ởĐông NamÁ chủ yếulàmuamôhìnhdoanhnghiệp của các bố già;nókhôngchophépnhàđầu tư tiếp cận đếnngoại thương, và câu
chuyệntoàncầuhoásẽđịnhhướngnềnkinhtếcủakhuvực.Mộtlýdokhác là thị trườngchứng khoán ĐôngNam Á luôn luôn cónguycơhoạtđộngkémhiệu quả so với mongđợi.
Cuốicùng,cácbốgiàĐôngNamÁ không engạikhichiếmđoạtcổphần của các cổ đôngthiểu số. Thị trườngchứngkhoántạoramộtgiaiđoạntuyệtvờichotàinăngcủacácđạigiakỹ thuật và tài chính
phức hợp, tác độngtươnghỗmờnhạtgiữacác công ty đại chúngvà công ty tư nhân –cho họ khả năng vùnglên đánh bại chứngkhoán tư nhân bằngviệc kịp thời móc ranhữngthôngtinnộibộ.
Kể từ khi những nhàmôi giới đầu tiên từLondon đến HồngKông đầu thập niên1970 để kích hoạt cáibong bóng đầu cơ lớnđầutiêntrongkhuvực,rõ ràng là sự kết hợpcủa một công chúng
luôn thiếu thông tin,cácbốgiàvàsựtưvấncủa những người nướcngoài nói giọng khónghe là một điều xấuđối với cácnhàđầu tưthiểu số. Sở dĩ có sựthấtvọngvềthịtrườngchứng khoán của khu
vực là vì hình tượngHồngKôngthờixưađãsụpđổ.Năm1973,chỉsố Hang Seng đã lêndần và đạt mức đỉnhhồi tháng Ba là 1.775điểm, trước khi nó tụtdốc xuống 150. SimonMurray, khi đó là một
quản lý người nướcngoài háu ăn mới vàonghề, làm việc choJardine,Matheson,nhớlại rằng ông đã đặt60.000 bảng Anh vàothịtrườngnàyphầnlớnlàtiềnvaytạithờiđiểmlươngcủaônglà2.000
bảngAnh.Ôngđangđitrượt tuyết thì thịtrường đạt đến đỉnhcủanó.Mộtngày, trênsườndốccủakhutrượttuyết, ông bỗng nhậnđược,mộtbứcđiệnbáokhó hiểu “BS156” nóicổ phiếu của ông ở
Butterfield và Swire,đã tăng giá chín lần.Ông bỏ dở buổi trượttuyết, cảm thấy nhưngười bị say rượu vìchỉ suy nghĩ về tiềnbạc. Thật không may,chỉ số chứng khoángiảm xuống còn 820
trước khi ông kết thúckỳ nghỉ của mình, rồigiảmđến420trướckhimáy bay của ông hạcánh tại Hồng Kông.“Đó cũng là chuyếnviếng thăm cuối cùngcủa tôi đến thị trườngchứngkhoánmàtôiđã
thamgiakhálâu,”ônghồitưởnglại.
Sir William Purves,ngườikhônggiốngnhưMichael Sandberg,không phải là loại làmviệc có tính võ đoán,nhớlạithờikỳcóhàngloạt cáo bạch lần đầu
tiên gọi vốn côngchúng (IPO) và côngviệc giấy tờ có liênquan thường cản trởchức năng hoạt độngbình thường của NgânhàngHồngKông. ”Nóthật là lộn xộn,” ôngnói.“Córấtnhiềugiấy
tờvàmọingườikhôngthểchenvàođượcvàongân hàng trong ngàyIPO.” Purves đã cốgắng thuê nhà thờCathedral Hall củaHồng Kông để làmtrung tâm xử lý IPOnhằm giữ cho các nhà
đầu tư khỏi tức giậnngân hàng của mình,nhưng nhà thờ Anhgiáo này đã từ chối vìđãnguyệnxâydựngnókhôngphảiđểlấytiền.Thay vào đó, ông đãđược sử dụng nhà gaSt. John Ambulance
trênđườngGardencủađảo Hồng Kông “vớihy vọng sẽ hạn chếđược sự leo trèo củamọingười”.
Tuy nhiên, đằng saunhững giai thoại khôihàiđólàcâuchuyệncổtíchvềsựhànhxửcủa
mộtbốgiàĐôngNamÁ điển hình, của đámthường dân mất sạchcơ nghiệp và hành vikhông biết xấu hổ của“những chú chó Tâytheo đuôi ông chủ”.Đặc tính rõ nét của sựbùng nổ năm 1973,
theo lờiPurves là, "Sựbùng nổ này được cáccông ty môi giớiLondon đẩy lên mộtmức độ cao." Sau khisụp đổ, giá của nhiềucổ phiếu có tiếng đãniêmyếtđầunăm1973như Cheung Kong và
New World giảmxuống một phần mườihoặc ít hơn mức IPOcủa chúng. Trong sốcác công ty môi giớiLondon, đầu tiên vàtrên hết là Vickers daCosta.Có thểnóichắcchắnrằngbaGiámđốc
Điều hành cấp cao tạitrungtâmchứngkhoánLondon đã dẫn dắt thịtrường, làm cho cáchoạt động tại HồngKôngvàothờigiannàykết thúc bằng sai lầmcủa các vụ án thươngmại. Philip Tose
“Tosey”làtêngọithờihọc sinh cuối cùng đãbịcấmlàmGiámđốcởHồngKông do đã gópphần làm sụp đổPeregrine (mà ở nhiềukhía cạnh, là sự đầuthai mới của Vickersda Costa vào những
năm1990, sửdụng rấtnhiều nhân viên trướcđâycủanó).Ngườithứhai là Ewan Launder,một Giám đốc củaVickers, người đã tiếptục làmGiámđốcđiềuhành của Ngân hàngđầu tư HSBC,
Wardley, bắt đầu cuộcđời của nó như làmộtliêndoanhvớiVickers,và Michael Sandbergchịu trách nhiệm thiếtlập và phê duyệt banquảnlýcấpcaocủanó.Ewan Launder chạytrốn đến Hồng Kông
khiôngtabịtruytốvìnhận các khoản thanhtoán lớn từ ông bạnGeorge Tan củaSandberg, sau sự sụpđổ của tập đoànCarrian năm 1983.Launder đã điều hànhmột thập kỷ trước khi
bịbắtgiữtạiAnh.Cuốicùng, ông bị kết tộinhận 4,5 triệu đôlaHồngKôngtiềnlạiquảvìđãchoTanvayvàbịkếtán5nămtù,khôngđược kháng cáo vì toàphúc thẩmHồngKôngđã phát hiện ra các lỗi
cúpháp trongcácđiềukhoảnnóivềnghĩavụ.Người thứ ba làGeoffrey Collier, mộttrong những nhà phântíchcủaPhilipTosetạiVickersởHồngKông,người đã thăng tiếnnhanh chóng qua mọi
cấp bậc và đã tiếp tụclàm việc cho MorganGrenfell ở London,công ty đứng đầu liêndoanh toàn cầu về cổphiếu. Đó là một sailầm. Nếu ngành tưphápVươngquốcAnhnghiêm ngặt hơn,
Collier sẽ trở thànhngười đầu tiên ở Anhbị kết án vì hành viphạm tội mới là kinhdoanh có nội gián vàonăm 1987. Ông ta đãthựchiệncácgiaodịchnội gián, do đó đã bịbạn bè cũ tại Vickers
lên án. Chủ đề về cácvụ bê bối ở Vickerskhông dừng lại ở đó.Trong suốt nhữngnăm1990, số Giám đốc bịkhiểntráchhoặcbịkếtán giao dịch có nộigián và các tội danhkhác tăng lên nhiều so
với những năm 1980.Rõ ràng là, trước khichúng ta tìm hiểu cácdoanh nghiệp đượcniêmyếtcủacácbốgiàđãchènépcácnhàđầutưthiểusốnhưthếnào,điều quan trọng cầnnhớlà:cáccôngtymôi
giớinướcngoàivàcácngân hàng đầu tưthườngđượcchếtáctừcùng một tảng đá đạođứcnhưnhau.
CHÀO MỪNG BẠNĐÃ GIA NHẬPMẠNGLƯỚI
Cơchếcơbảnđểcướpđoạt các cổ phần thiểusố ở Đông Nam Á làmột mạng lưới tậpđoàn,màthôngquađó,một bố già vận hànhmột công ty rất lớn,đầu tàu, nhưng vẫn cóquyềnhànhmờámđối
với rất nhiều công tykhác nhau. Các doanhnghiệp bình thườngmột General Electric,một Tesco, ngay cảmộtHSBCđềucóduynhấtmộtcông tyđượcniêm yết. Tuy nhiên,doanh nghiệp của một
bố già lại có đến 15hoặc thậmchí20côngty được niêm yết. Cóthểdễdàngkhẳngđịnhđiềunày,nhưngcáccổphần thiểusố tạinhiềucông ty đượcniêmyếtkhácthìkhócóthểxácđịnh. Một ví dụ điển
hình là Quách LệnhXán,cháucủatỷphúởKualaLumpurlàKwekHong Png đã quá cố,anh em họ của tỷ phúQuách Lệnh Minh ởSingapore, có 19 côngtyđượcniêmyếtcóthểnhận biết rõ ràng.
Những công ty nàythamgiacáchoạtđộngkhác nhau, từ ngânhàng cho đến sản xuấtmáyđiềuhòanhiệtđộ,hay bất động sản. Sauđó, Quách cũng hiệndiện như một nhà đầutư nhỏ nhưng quan
trọngtrongcáccôngtyniêm yết khác, ở đóquyền sở hữu của ôngthật khó phát hiện, vàôngtacònsởhữuriêngtới hàng trăm công tytưnhân.Đólàquanhệtươnghỗgiữacáccôngty đại chúng được
tuyên bố, các công tyniêm yết không đượccông bố, trong đó cácbốgiàcólợiích,vàcáccôngtytưnhânmàhầuhếtcáchồsơvềquyềntài phán ở châu Ákhông ghi chép côngkhai xác định hoạt
độngcủanhiềuđạigia.Mộtbốgiàtỉphúkhác,người được cho làkiểm soát khoảng300400 công ty, baogồm rất nhiều công tyđược thừa nhận côngkhai, đã cho biết:“Thỉnh thoảng, chúng
tôithànhlập15côngtytrongmộttháng.”
Sau cuộckhủnghoảngtàichínhchâuÁ,Ngânhàng Thế giới cử mộtnhóm các nhà kinh tếvà các nhà nghiên cứucủa Đại học TrungQuốcởHồngKôngđể
xemxétcácdữliệuvềquyền sở hữu của hơn2.500 công ty đạichúng ở châu Á baogồmNhậtBảnvàHànQuốc cũng như ĐôngNam Á (trừ TrungQuốc) để hiểu rõ hơnvề mạng lưới doanh
nghiệp của khu vực.Cáckếtquả,nếucóthểtin được, thật đángkinh ngạc. Các nhànghiên cứu kết luậnrằng 8 tập đoàn lớnnhất trong khu vựcthực hiện kiểm soáthiệu quả một phần tư
các công ty niêm yết,trong khi 22 tập đoànhạng vừa kiểm soátmột phần ba các côngtyniêmyết.Danh tínhcủa tám tậpđoànhàngđầu đã không đượccôngbốvào thời điểmđó, nhưng có thểđược
tiếtlộởđây:6trongsốđó là tập đoàn côngnghiệp lớn của NhậtBản (keiretsu) được tổchứctheotruyềnthốngcông nghiệp của NhậtBản và 2 tập đoàn làcủaĐôngNamÁ.HaitậpđoànnàylàcủaLý
Gia Thành và SimeDarby của Malaysia.Tập đoàn thứ hai liênkếtvớimộtsốgiađìnhngười Trung Quốc ởhải ngoại có thế lựccũng như chính phủMalaysia.Mỗimột tậpđoàn trong 8 tập đoàn
đó được các nhànghiêncứuxácđịnhlàcóhơn20côngtyniêmyết ở mức 1020%quyềnsởhữu,ngoàiracòn có nhiều công tyđược thừa nhận côngkhai. Mục đích chínhcủacácnhànghiêncứu
là phân tích cấu trúccácmối quan hệ trongmạng lưới tậpđoànđểhiểu được cách thứclàm việc của chúng.Nhữnggì họphát hiệnra, hết lầnnàyđến lầnkhác, là sự kiểm soátđược thực hiện thông
quacấutrúchìnhtháp,tạo ra mức độ kiểmsoát không cân xứngvới quyền sở hữu cổphần.Ví dụ,một côngtyởđỉnhhìnhthápcủamộttậpđoàn(cóthểcómột số hình tháp khácnhau trong mạng lưới
tổng thể của tập đoàn)cóthểsởhữu50%củacông ty niêm yết X,đến lượt công tyX lạisở hữu 40% của côngtyniêmyếtY,đếnlượtnó lại sởhữu30%củacông ty đượcniêmyếtZ.Kếtquảlà,tậpđoàn
này có 6% quyền sởhữu công ty Z, nhưngnó vẫn có được 30%quyền biểu quyết, đủđể chi phối. Các nhànghiêncứuđãsửdụngphươngphápphântíchtiền chi trả cổ tức, cầnphảichitrảngangbằng
cho tất cả các nhà đầutư,đểchứngminhrằngcácnhàđầutưthiểusốbịchiếmdụngvốnmộtcáchcóhệthốngvìhọluôn ở dưới đáy hìnhtháp. Điều này thườngxảy ra ở mức 1020%quyền sở hữu; việc
nắm giữ cổ phiếu củamột tập đoàn khôngđượcghinhậnrộngrãinhưng nó vẫn có thểchi phối.Nhữngngườiđứngđầudựánnghiêncứunàyđãviếtmộtbàicho Tạp chí Kinh tếMỹ, trong đó họ nhấn
mạnh theo các tiêuchuẩn khoa học:“Chúngtôiđãlậpđượctàiliệu,rằngcácvấnđềquản trị doanh nghiệpở Đông Á, nếu có bấtcứ vấn đề gì, đềunghiêm trọng hơn vàkhôngchữatrịđượcso
với những gì các nhàbình luận đã nêu khicuộc khủng hoảng tàichính lên đến đỉnhđiểm." Và các tác giảđã kết luận: “Sự tậptrungchiếmdụngtrongmộtsốtậpđoànđủlớnđể thao túng hệ thống
chính trị củamột quốcgiacónghĩalà:vấnđềquan trọng ở đây là ýchíchínhtrịđểthựcthiluật pháp và các quyđịnh về sổ sách kếtoán."
Điểmcuốicùngnàylàquantrọng.Mộtnghiên
cứuchitiếtvềnhữnggìtiếp tục diễn ra trongcác tập đoàn lớn chothấy,vềmặtlịchsử,sựthất bại của các chínhtrị gia trong việc thihành các chuẩnmực ítnhất cũng quan trọngnhư thiếu các bộ luật
nêncácbốgiàmớitrốntránh được các nghĩavụ của họ. Ở một đấtnước như Malaysia,nơisựmiễntrừcácquyđịnh của thị trườngchứngkhoánđượcbanbố nhưng không có sựphảnbiện,vàthôngtin
của các phương tiệntruyềnthôngđạichúngvề tư nhân hóa khôngquađấu thầu làchủđềthảoluậnchoviệcsoạnthảo các đạo luật bímật chính thức. Điềunày thật đáng ngạcnhiên.Nhữngnhậnxét
nàycũngđượcápdụngtrong một thị trườngnhư ởHồngKông.Kểtừ khi móc nối vớiNgânhàngHồngKôngnăm1979và trở thànhmộtphầncủaviệcthiếtlập kinh tế, sự nghiệpcủaLýGiaThành,một
mẫu mực của các bốgià, là một chuỗi dàicủa các miễn trừthường không thể giảithích nổi đối với cácquyđịnhcủathịtrườngchứng khoán. KhiHutchison tiếp quảnHongkongElectricvào
năm1985,Lýđãđượcmiễn trừ báo giá côngkhai dù vượt quá 35%quyền sở hữu. KhiHutchisontăngcổphầncủamình tạimột côngty khác trong mạnglưới của Lý làCavendish, từ 23% lên
52%năm1987,ông tacũng được miễn trừbáo giá công khai.Cùng năm đó, quyềnmiễntrừtươngtựcũngđược cấp cho Lý khiông tăng cổ phần cánhân của mình ởCheung Kong lên trên
35% và Cheung Kongtăng cổ phần của nó ởtrong Hutchison lêntrên35%.Trongnhữngtrường hợp này, BộtrưởngTàichínhHồngKông đã phủ nhận vàbác bỏ ý kiến của Ủyban tiếp quản thị
trường chứng khoán.Trong những năm1990, Lý làm chomọingười phải há hốcmồm kinh ngạc khithấy ông ta có đượchàng loạt miễn trừkhôngbìnhthườngchocông ty Internet của
mình là tom.com. Cácquyềnmiễn trừđóchophép công ty này pháthành cổ phiếumới chỉsáu tháng sau lần đầutiên gọi vốn côngchúng (IPO), để chođội ngũ nhân viênchiếm tới 50% giá trị
vốn cổ phần của côngty (luật quy định chỉ10%),vàchophépcáccổ đông lớn bán cổphầncủahọchỉsausáutháng chứ không phảihainămnhư luậtđịnh.Kinh nghiệm củaTom.com làm cho
người được coi là tìnhnhân của Lý, SolinaChauHoishuen,chỉsaumột đêm đã trở thànhtỷphúđôlaMỹ ítnhấtlà trên giấy tờ. Điểmlớn khác là các quyđịnh của thị trườngchứng khoán ra đời
khôngphảiđểápdụngcho các bố già lớn,ngaycảởHồngKông.
Tình trạng này chứngtỏcáccôngtyniêmyếtcủa Lý Gia Thànhtrong suốt những nămquađãthuhútsựchúýcủa một số mối quan
hệ làm việc chủ yếucủaôngta.MốiliênkếtvớiNgân hàngHSBC,mà chủ tịch của nótrongthời thuộcđịađãluôn luôn được coi làmạnh hơn cả Thốngđốc, đã được thiết lập.Cũng rất quan trọng là
mối quan hệ vớiCharles Lý NghiệpQuảng, một trongnhững yếu nhân củacông ty luật Woo,Kwan, Lee & Lo, Cảhaiđềulàluậtsưvàcốvấn chủ chốt của Lý.Cũng giống như công
việc pháp luật về cácthương vụ đầu tư,Woo,Kwan,Lee&Lokhông phải thực hiệnnhiều thủ tục chuyểnnhượngđối với tài sảncủa Cheung Kong vàHutchison.“Hãytưởngtượng 2% của số đó,”
mộtGiámđốc cao cấpcủa Lý nói. Đồng thờiCharles Lý, người haohao giống Toad củaToadHall, làChủ tịchcủa công ty Chứngkhoán và Thanh toánHồng Kông, ngườiđiều hành thị trường
chứng khoán HồngKôngvàcácthịtrườngkhác trong những năm19921994 và20042006; ông vẫn làmột ủy viên Hội đồngchấp hành. RonaldArculli, một cộng sựlâu năm khác của Lý,
nhà thầu và Giám đốccôngtycủaLý,nguyênlà nhân viên lập phápvềbấtđộngsảnvàxâydựng rồi trở thành ủyviên Hội đồng điềuhành,đãtiếpquảnvịtríchủtịchỦybanchứngkhoán hồi tháng Tư
năm 2006. Cùng nămđó, ông được bầu làmChủ tịch một nhómnghiên cứu về cải tổcác dịch vụ tài chínhcủa chính phủ HồngKông với mục tiêu vềlý thuyết là cải thiệnviệc thực hiện chức
năng của thị trường vìlợiíchcủacácnhàđầutưnóichung.Ởnhữngnơi khác, sự xung độtlợiíchmãnhliệtnàysẽgây ra một cơn bãochính trị; nhưng ởHồng Kông thì hiếmkhixảyra.
ĐỪNG LẮC CONTHUYỀN
Sự che đỡ của giớichínhtrịchocácbốgiàkhắp khu vực có cảtính chủ động và phảnứng lại. Loại đầu xảyrakhicácthươngvụvàđặc ân được được trao
cho các đại gia. Cònloại thứ hai, khi cácchính trị gia can thiệpđểbảovệmốiquanhệgiữa tầng lớp tinh hoachính trị và tầng lớptinhhoakinh tếđã tồntại nhiều thế hệ, cũngquantrọngkhôngkém.
Một lần nữa, nó cũngđượcápdụngtạiHồngKông.
Một ví dụ điển hìnhxảy ra năm 1987, khimột thanh niên làRobertHoàng,con traitỉ phú SingaporeHoàng Đình Phương,
đanghăngháiđầucơởthị trường kỳ hạn củaHồng Kông đúng lúcthị trường này đổ vỡvào tháng Mười nămđó. Anh ta đã có12.000 hợp đồng kỳhạn lâu dài, để lại choanhtamộttráchnhiệm
pháp lý trên giấy tờhơn 1 tỷ đôla HồngKông. Robert đã thúcđẩy thị trường thôngqua hai công ty đăngký ở Panama và tìmcách từ chối tráchnhiệmvềcáckhoảnnợtrên cơ sở trách nhiệm
pháp lý hữu hạn. Tuynhiên, Văn phòng tộiphạmkinhtếcủaHồngKông (CCB) đã pháthiện ra bằng chứng sơbộlàcósựthôngđồnggiữa anh ta và mộttrong những công tymôi giới cáchợpđồng
có kỳ hạn, cho phépanhtatránhphảitrảlãikhi thị trường xuốngdốc. Đây là điều bấthợppháp.
CCB tìm được mộtngười cung cấp thôngtinchấtlượngcaovàtựtrangbịchomìnhgiấy
phép để tìm kiếm hơnhai mươi địa chỉ. Cáccông chức cao cấp đãđượcthuyếtphụcrằng,lầnđầutiên,họđãđịnhtómcổmộtbốgiàlớn.Nhưng điều này sẽkhông bao giờ xảy ra.Tại một loạt các cuộc
họpgồmcácquanchứccấp bộ của chính phủ,mà đỉnh cao là cuộcchạm trán tại dinh thựcủa Thống đốc ởFanling, người ta đãthấy rằng nếu bắtRobert Hoàng sẽ cónguy cơ đối với sự ổn
định của thị trườngchung;điềunàykhôngbao giờ được giảithích, công khai hoặcriêngtư.Cảnhsátđãbịđánh bại. Một trongnhững công chức caocấp nhớ lại: “[Ngườiđứng đầu CCB] Russ
Masonquaylạivànói:"Thế đấy, các chàngtrai ạ. Không có chỗchocáclợiíchchung".Thay vì bị điều tra,Robert Hoàng đã cóđược một thỏa thuậncho phép anh ta trảkhoảng 60% những gì
anhtacònnợtrongtámnăm (tương đương vớiviệc hoàn trả ngay lậptức khoảng một nửa).Phần còn lại của hóađơn đã được các côngtymôigiớinướcngoàigánhvác,bằngtiềncủachính phủ Hồng Kông
và những người đóngthuếởđịaphương.
Điềuthúvịlà,cảnhsátđược phép theo dõiRonald Lý, người đãđiều hành thị trườngchứng khoán tại thờiđiểmcóvụđổbểnăm1987.Lýđãlàmnênsự
nghiệp của mình bằngcáchyêucầuphânchocánhânmìnhcổphiếukhi phê duyệt IPO vàđãđiềuhànhviệcgiaodịch chứng khoán nhưđiều hành một thái ấpcủariêngmình.Nhưngquyếtđịnhđóngcửathị
trường chứng khoántrong một tuần lễ vàonăm 1987 của ông tađãlàmgiảmtrầmtrọnguy tín quốc tế củaHồngKôngvớitưcáchlà một thị trường tiềntệ, cũng như phá hoạicác hợp đồng kỳ hạn,
cho thấy quyền lựcthực dân ở trong tayông ta mạnh như thếnào.Lýđãbịxétxửvềvụ phân bổ cổ phầnniêmyếtcủahãnghàngkhông Cathay Pacificvà Novel Enterprisesmặc dù điều đó có
nghĩa là chỉ ra côngkhaisựthôngđồngcủachi nhánh Ngân hàngHồng Kông Wardleytrong việc phân bổ cổphần và bị kết án bốnnămtù.Ôngtalàmnênmột ví dụ hiếm hoi.Ngườicảnhsátnóitrên
nhận xét: “[Cựu thủtrưởngcơquantưphápNew York] EliotSpitzersẽcómộtngàynghiên cứu thực địa ởđây.Tấtcảbọnhọđềusắp vào tù. Lần lượt,từngngườimột."
Rất may cho các bố
già, Đông Nam Ákhông phải là NewYork,vàcáchhànhxửghê gớm của các nhàđầutưthiểusốvàcôngchúng nói chung đãqua đi đối với mộtdoanh nghiệp bìnhthường.Điềuđángchú
ýlàsaukhiĐổngKiếnHoa trở thành Thốngđốcđầu tiên củaHồngKông sau thời thuộcđịa, câu chuyện riêngcủa ông ta về cácphương thức và quytrình quản lý doanhnghiệp gây sốc đó chỉ
như một lời thì thầmnho nhỏ. Các phươngtiện truyền thông đãquantâmđếnmộtthựctế là, Henry Hoắc đãthiết kế một vụ giảicứu cho công ty chínhcủa Đổng vào nhữngnăm 1980 bởi vì công
tynàycungcấpnhữngbằng chứng tường tậnlà Đổng chịu ơn BắcKinh,vìcácngânhàngnhà nước của chínhphủ Trung Quốc đãcung cấp phần lớn sốvốn cho ông. Nhưngcâuchuyệnsâusắchơn
là, Đổng, cậu con traikémtàicủatỷphúvậntảibiểnđãquácốTrịnhDụ Đồng, đã gặp rắcrối đầu tiên vì ông đãtham gia vào việc lạmdụngcáccông tyniêmyếtmàcácbốgiàkháccũng tham gia. Đầu
những năm 1980, saukhi Đổng Kiến Hoatiếpquảnđếchếdoanhnghiệp của gia đình,ôngđượcủyquyềnduytrìhàngtrămtriệuđôlaMỹ các khoản vay từcông ty đã niêm yếtchính của mình là
Orient Overseas(Holdings) Ltd(OOHL), công ty màônggọilàTậpđoàntưnhânnhàhọĐổng,mộtuyểnngữdùngchohơn200côngtytưnhânmàông kiểm soát. Nhữngkhoản vay này, vì
không có nhà đầu tưthiểusốminhmẫnnàoởOOHLmuốnvaynênbịphungphíhoặcđượcđầu tư vào những chỗmà lợi nhuận của nó,nếu có, chỉ đổ dồn vềmột mình nhà họĐổng.KhiOOHLđược
táicơcấuvàocuốinăm1986, công ty đạichúng này đã xóa nợ156 triệu đôla cho cáckhoản vay đã củadoanh nghiệp tư nhânnhàhọĐổng.Bốgiàcómáitóchúicuanàyđãgửi một bức thư riêng
chocácnhàđầutưvàongày 10 tháng 11, nóirằng: “Trong năm1985, vị thế tài chínhcủa Tập đoàn OOHLxấuđinhiềudosựsuygiảm nhanh chóng vềvịthếtàichínhcủaTậpđoàn tư nhân dòng họ
Đổng, vốn cómối liênkết chặt chẽ vớiOOHL, và vì một sốtiền lớn còn bị nợ”.Không cần phải nóirằng, chẳng có lời xinlỗi nào về việc lạmdụng vốn của các cổđông.
NGHỆ THUẬT GIẾTNGƯỜI
Người con trai họĐổng, trong thực tếkhông đủ thông minhđể giết chết các cổđôngthiểusốvớisựtựtincủamộtbốgiàngaycảkhihọlànhữngcon
bò được giết mổ theomộtnghi thứcđặcbiệttrên lễ đài Tây BanNha.Cácđấu sĩbò tótthực thụ có thể lạmdụng các nhà đầu tưkháctrongmộtcôngtyđại chúng bằng hàngtrămcách trướckhihọ
thông báo, và sau đó,với một khuôn mặtlạnhnhưtiền,thựchiệnmột kết cục hoàn hảođềnghịđưamộtdoanhnghiệp đại chúng đãráchnátvàobàntaytưnhân để đổi lấy mộtphầngiátrị tàisảncủa
nó. Khi tuân thủ đúngluật chơi, không hề cómột vụ giải thoát hoặctái cấu trúc lúng túngvàbắtbuộcnào.Đó làmộtbộmônnghệthuậtmà các bố già luônthành thạo. RobertQuách,ngườicónhững
doanhnghiệpniêmyếtcó hồ sơ theo dõi dàihạn về hoạt động kémhiệu quả dựa theo cácchỉ số chính của thịtrườngmà chúng đanghoạt động, là một bậcthầy.Trongnhiềunăm,ôngđãcómộtcông ty
vận tải biển lớn đượcniêm yết ở Singaporelà Pacific Carriers Ltd(PCL),màgiácảvàcổtứcgâynỗikinhhoàngđến nỗi “cái quầy thungân” này trở nên nổitiếng đối với giớithương gia là
“Xinhãycắtlỗ”. Năm2001, Quách đã tưnhân hóa PCL với sựcắtgiảmrất lớnvềgiátrị tài sản ròng của nó(NAV hay giá trị tàisản trên sổ sách củacông ty). Hầu nhưkhông vết thương nào
của các nhà đầu tưthiểu số tại thị trườngSingapore được chữalànhkhi tháng10năm2003,đạigianàycôngbố,ôngtađãtiếnhànhgọivốncôngchúnglầnđầu (IPO) cho mộtcôngtyconcủaPCLlà
MalaysiaBulkCarriers(MBC) ở thị trườngchứng khoán KualaLumpur.Quáchđãbán30% của MBC chochínhphủMalaysiavớigiáphảichăng,vàngânhàngđầutưđịaphươngcủa ông, do người em
traicủaPhóThủtướngđiều hành, đảm bảoIPO làmột thànhcôngrấtđángtrântrọng.Sauđó, Quách tìm cách“cứu trợ” các nhà đầutư đã khổ sở một thờigian dài ởHồngKôngbằng công ty bất động
sản Kerry Properties,vớiđềnghịtưnhânhóavàotháng4năm2003,giảm giá 53% so vớigiátrịtàisảnròng.Ôngta đã la mắng ngườiquản lý tài chính củamình khi các nhà đầutư thiểu số không cắn
câu. Những năm gầnđây,LýTriệuCơđãnỗlực thực hiện ba vụ tưnhân hóa với sự giảmgiá 40% giá trị tài sảnròng; con rể của BaoNgọc Cương là PeterNgôđềnghịmột côngtybánlẻđượcniêmyết
rằngmộtnhàphântíchước tính giảm giá100% và sau khi đềnghị một mức tăngkhiêm tốn, ông ta đãthành công; Trịnh DụĐồngtìmcáchmualạiNew World TMT củamình với một chút
giảm giá; và con traicủaK.S. làRichardLiđã có một nỗ lực cựckỳ láu cá để tư nhânhóadoanhnghiệpđiệnthoại di động Sundayvới giá rẻ. Như PeterChurchouse, cựuGiámđốc điều hành của
MorganStanleyởchâuÁ,đãnóivềcácdoanhnhân này: "Họ đã làmcho các ông chủ ngânhàng đầu tư trônggiốngnhưmộtcậuhọctrò." Tất nhiên, mộtdoanhnghiệpniêmyếtđãđượclàmsuyyếuđi
trước khi nó có thểđược mua lại với giárẻ. Công ty bách hóaLane Crawford củaPeterNgô, tổchứccáccông ty đượcniêmyếtcủa mình theo hìnhthápthôngquacôngtyở đỉnh là Wheelock,
công bố lỗ 72 triệuđôlatrong5nămtrướckhibị tưnhânhóavàonăm1999.Côngtynàythậmchíkhôngchialợinhuậntrongcuộcbùngnổ bao quanh sự kiệnHồng Kông được traotrả cho chính phủ
TrungQuốcnăm1997,chophépnóđượcmualạivớigiá thấphơnsovới giá trị trong danhmụcđầutưcổphiếuvàbất động sản của nó.Mạng lưới Wheelockcủa các công ty, trênthực tế, đã được sử
dụng như một nghiêncứutrườnghợpvềviệcthực hành không thânthiện với nhà đầu tưcủacácnhànghiêncứutạiĐạihọcTrungQuốccủa Hồng Kông(CUHK) được Ngânhàng Thế giới tài trợ.
Họ đã chỉ ra làm thếnào mà các doanhnghiệpnhỏởdướiđáycủahìnhthápquyềnsởhữu của Wheelock bịlạm dụng để cung cấptiền mặt cho chủ sởhữu là các công ty lớncủa họ, để họ đương
đầu với rủi ro khôngđáng có trong các dựánđầutưliêndoanh.
Một ví dụ tiêubiểuvềdựáncủamộtcông tyđượcniêmyếtởĐôngNamÁxảyravàonăm1997 khi Wheelockcôngtyconđượcniêm
yếthàngđầucủanó làWharf, hai công tyđượcniêmyếthàngthứhai là New Asia vàHarbourCenter,vàmộtcông tyđứnghàng thứba là RealtyDevelopment, mỗicôngtychiếm20%lợi
nhuậntrongmộtdựánxây dựng một nhà gaxe lửa công cộng cótênlàMTRCKowloonStation Package Two.Cácnhànghiêncứuđãcho thấy việc cấp vốncho dự án này đến từcác công ty con của
Wheelock ra sao, vàtrong nhiều trườnghợp,cáckhoảnvayđềuđược miễn lãi suất.Chính bản thânWheelock là người chỉvay trong mạng lướicáccôngtyliêndoanh;với nguồn tài chính rẻ
và rủi ro tối thiểu,nhưng được chia sẻbình đẳng nếu có rủiro; công ty này gầnnhấtvớiPeterNgônênkhó có thể bị lỗ. Năm1999, ba công ty concósởhữuítnhất tronghìnhthápWheelockđã
cho dự án liên doanhvay khoảng 60160%vốn đầu tư của mình.Giáo sư tài chính củaCUHK là Larry Langmô tả chúng như là“máy rút tiền tựđộng”được kiểm soát bởiWheelock. Đồng thời,
vì các dự án bất độngsản là một dự án liêndoanh, nó không đượcyêu cầu phải báo cáothườngxuyên.Nguyêntắc niêm yết ở HồngKông chỉ áp dụng chocáccông tyđượcniêmyếtvàcáccông tycon
củachúng;córấtnhiềuthứ khác không đượckiểmsoát.Khôngcógìngạcnhiên là hiệuquảhoạt động trên thịtrường chứng khoáncủaNewAsia,HarbourCenter và RealtyDevelopment thực sự
tồi tệ. Tháng 2 năm2003, Peter Ngô tưnhân hóa RealityDevelopment trở lạiNewAsia với sựgiảmgiáhàophóngđếnmứckhông bình thường là19% giá trị tài sảnròng.
Mưuđồliêndoanhcáccôngtyniêmyếtlàmộtsở thích cũ ở châu Á,đặc biệt là ở HồngKông. Lý do mà côngty mẹ Cheung Kongcủa Lý Gia Thành sởhữu 49,9% Hutchisonchứkhônghơnlàvìnó
ngụ ý liên doanh giữahai doanh nghiệp lớntrongđócónhiềucôngtyconkhôngđượcyêucầu phải báo cáothườngxuyên.Cáchợpđồng quản lý, thoảthuậncungcấpvàviệcmua bán các tài sản
khác không phải đốimặt với sự giám sátminh bạch. Nợ nầnthực sự, tài sản và cácvị trí chịu trách nhiệmpháp lýcủa liêndoanhkhông được xem xétbởi người ngoài. Mộtdự án lớn của Lý Gia
Thành đã chứng minhđiều này xảy ra trongnhững năm 1990 khicông ty con củaHutchison làHongkong Electric bỏnhà máy điện cũ vàkho dầu của nó ở ApLei Chau, bờ nam của
đảo Hồng Kông. CáchtốtnhấtchoHongkongElectric tối đa hoá giátrị củamột lôđất rộnglớn của nó, nối vớinhaubằngmộtcâycầudẫn sang một khu dâncưhạngnhất,cóthểđãđược đấu thầu cho dự
án phát triển giữa cácnhà đầu tư bất độngsản khác nhau. Thayvào đó, HongkongElectric không thểtránh khỏi được kéovào liên doanh vớiCheung Kong vàHutchison. Họ cùng
nhau dựng lên 34 tòatháp và hai khu muasắmmàkhôngbaogiờphải cung cấp cho cáccổđôngcủaHongkongElectric tài khoản chitiết và chi phí của dựán.Ngườitachỉcóthểđoán lợi nhuận trung
bình trên thị trườngchứng khoán HồngKông là bao nhiêu vànhư thế đã tốt hơnnhiềusovớinhữngnơikhác ở Đông Nam Ánếulợiíchcủacổđôngthiểu số được đối xửngang bằng với những
ngườicủacácđạigia.
Điềunàykhôngxảyra,và những gì các nhàđầu tư thường nhìnthấy là các thương vụthực sự tốt luôn đếnvớicáccôngtytưnhâncủa bố già, trong khingười ngoài chỉ có
được các thương vụbìnhthường.HoặcnhưcựuquảnlýcủaLýGiaThành là SimonMurraynói:“Ailạiđặtchuyện tào lao trongcôngtyriêngcủamìnhkhi họ có thể bán nócho công chúng?" Sự
khác biệt chỉ là nhữngcâu chuyện nhảm nhíkhôngthể tinđượccácdựántruyềnthôngmớivônghĩa,cơsởhạtầngvô giá trị, những sailầm của Trung Quốcđại lục được nghe kểtrongcáccôngtyniêm
yết của của tập đoànNew World của TrịnhDụ Đồng, ngược lạivới “con lừa ỉa ra tiềnvàng” mà ông ta sởhữu riêng.Câu chuyệnnổitiếngnhấtcủanhânvật thứ hai là lợi íchlâu dài trong việc
nhượng quyền kinhdoanhđánhbạc tạiMaCaocủaStanleyHàvàHenryHoắc.Mộtsựbổsungđiểnhìnhgầnđâyxảy ra năm 2001 khiTrịnhvàcácôngbạntỉphú của mình là anhem nhà Lâu nhìn thấy
mộtcơhộiđểcóđượccáccửahàngbáchhóacủa người Nhật là chinhánh của Sogo ởHồngKông.Đólàmộtdoanh nghiệp tử tế, cóđịađiểmđẹp,nhưngnợnầnchồngchấtvàđangsa lầy trong tình trạng
bánlẻtồi tệnhất trongmột thập kỷ. Trịnh vàanh em nhà Lâu sửdụng các công ty tưnhân của họ để muaSogo,trảhếtnợnầnvàcó được nguồn vốnngânhàngrẻhơn.Vàothời điểm mua lại nó,
lợi nhuận cho thuê ởtòa nhà Sogo đã tăng910%, nhưng cácdoanhnghiệpniêmyếtcủa Trịnh và nhà Lâuđã không đánh hơiđược thương vụ này.Các ông chủ mới tiếnhành một số cắt giảm
chi phí không thươngtiếcvà sauđó,khinềnkinhtếTrungQuốcđạilụcnónglêntrongnăm2003, công bố một dựánSogo thứhaiở trênđường tàu điện ngầmmới tạikhuvựcbán lẻchínhcủaThượngHải,
đường Nam Kinh.Tháng4năm2004,cáccửa hàng Sogo đượcniêm yết trong danhsách gọi vốn từ côngchúng lần đầu đầu củaHồng Kông và ChowTai Fook,một công tytưnhânđăngkýtạiđảo
Cook mà Trịnh DụĐồng thừa hưởng từgia đình nhà vợ, đạtđược một lợi nhuậnkhổng lồ. Lúc đó, cổphiếucủacôngtyniêmyết chính của Cheng,New WorldDevelopment,cógiátrị
thấp hơn năm 1986.Gary Coull, nhà môigiới chứng khoán,người đồng sáng lậpCredit LyonnaisSecurities Asia(CLSA), đã gần gũiCheng, giúp ông niêmyếtcáccôngtyvàphục
vụ tại Hội đồng Quảntrị của New WorldInfrastructure và NewWorld TMT, cuốicùng cũng thừa nhận:“Ông [Trịnh] kiếmđược bộn tiền nhờ cáccông ty tư nhân... Cácnhà đầu tư đã đầu tư
vào NewWorld ở cấpvĩ mô đã bị đấm túibụi”.
Kể từ lần đầu tiênlượng tiền lớn từnướcngoài đến với thịtrườngvốnĐôngNamÁvàonăm1993,đãcómột quy tắc rất hay là
“quy tắc ngón tay cái”đối với sự đầu tư vàocác doanh nghiệp củacác bố già. Tuy nhiên,mộtlầnnữa,phảinhấnmạnh rằng đây khôngphải là một luận điểmmang tính chủng tộckhi nói về việc đầu tư
với các đại gia gốcTrung Quốc. Luậnđiểmnàyvượtrangoàikhái niệm chủng tộc.Khi Ananda Krishnancủa Sri Lanka mua bộphim có giá trị củaTrungQuốcvàđưatrởlại danh mục của
CelestialFilms,ôngđãlàmchínhxácnhữnggìRobertQuáchcóthểđãlàm. Ông đã mua nócùng với một công tytư nhân và sau đó bánnócùngvớimộtdoanhnghiệp mà đám chủngânhàngđầutưgọilà
“mộtmónbéobở”đốivới doanh nghiệptruyền thông đã niêmyết của ông, là Astro.Nếutìmmộtkỷlụctồitệ nhất về quản trịdoanh nghiệp trongkhu vực suốt ba mươinăm qua, một ứng cử
viên sáng giá phải làJardine, Matheson,doanh nghiệp lúc banđầu là của một bố giàda trắng. Trên cơ sởđiều chỉnh đầy đủ, cổphần trong JardineMatheson Holdings(JMH), công tyởđỉnh
trong tập đoàn, có giátrị cao hơn vào năm1973sovớigiá trịcủachính nó vào năm2003. Gia đìnhKeswick, người tuyênbố là hậu duệ củangườicháugáiWilliamJardine, đã đối xử với
cácnhàđầutưthiểusốtheo cách làm chonhiều bố già phải xấuhổ. Giữa những năm1980,họđã tạoramộtcấu trúc nắm quyềnchéo trong mạng lướicác công ty niêm yếtcủamình,chophépgia
đìnhnàyđiềuhànhtậpđoànmặcdùhọchỉsởhữu dưới 7% trongJMH.Đồng thời họđãđi tiên phong trongviệc mua lại cổ phiếugiá rẻ từ các công tycon mà họ đã ngầmđiều hành.Nắm quyền
chéo có thể được thựchiện qua sáp nhập lạihoặc niêm yết lại ởBermuda, nơi chínhphủ của nước có mứcthuế thấp do ngườiAnh kiểm soát nàythuyết phục viết cácđạo luật tiếp quản chỉ
ápdụngchonămcôngty của Jardin, và nhàKeswick giữ đượcquyền thừa kế của họ.Tất nhiên, không aitrongdoanhnghiệpnàylàmbấtcứđiềugì chonhà đầu tư thiểu số,những người có thể
được tha thứ khi họnhắc đến trụ sở chínhtại Hồng Kông củaJardine,vớicáccửasổtròn nhỏ khác biệt củanó, như tòa tháp của“Một nghìn kẻ đángkhinh”.
NGÂNHÀNG,NGÂN
HÀNG, SAU ĐÓ LÀTHỊTRƯỜNG
Về tổng thể, bất chấpsự vung vãi của thịtrường vốn, các ngânhàng ở Đông Nam Ácó vai trò rất quantrọng trong việc tiếpcận câu chuyện về
nguồn vốn của các bốgià.Vớitỷlệtiếtkiệmcủa khu vực cao nhưvậy, có các hệ thốngngân hàng đứng trunggian,đâylàđiềukhôngthể tránhđượcnếuxétvề kinh tế vĩ mô. CácmốiquanhệgiữaNgân
hàng Hồng Kông vớiBao Ngọc Cương vàLý Gia Thành, NgânhàngBangkokvớimộtbố già người Thái,Malaysia và Indonesianào đó, các ngân hàngPhilippines vàIndonesia với các đại
giakẻ cướpmànhữnghònđảođã sinh ra họ,và cùng với họ lànhữngâmmưuđangẩnnáu. Theo “quy luậtngón taycái”, sựkiểmsoátmàcácbốgiàthựchiệnvớicácngânhàngcàng lớn thì thiệt hại
màchúngbắtđồngbàocủa chúng phải gánhchịu cũng càng lớn.NgânhàngHồngKôngđượcnắmgiữrộngrãi,đốivớitấtcảnhữnggìcó thểnói là chống lạivị trí gần như độcquyền dài hạn của nó,
khôngbaogiờđếngầnmộtcuộckhủnghoảng.Nó cũng là một trongsố ít các doanh nghiệpniêm yết ởĐôngNamÁ đem lại cho các cổđông lợi nhuận thuộcloại dài hạn mà cáccuốnsáchgiáokhoavề
kinh tế gợi ý là họmong đợi ở các nềnkinh tế đang nổi lên.Mặtkhác,lợinhuậncóhệ thống của các ngânhàng ở Philippines vàIndonesia, đã khôngchỉlừagạtcácnhàđầutưthiểusốmàcònlàm
têliệttoànbộnềnkinhtế.
Thị trường chứngkhoán đến muộn hơncácngânhàng,vàđóngvai trò thấp hơn. Mặcdù có nhận thức phổbiến về sự tương phảnnày, gần 15% người
lớn ở các lãnh thổ củaĐôngNamÁ trực tiếpsở hữu cổ phiếu, thậmchí ngày nay, ở HồngKôngxãhộisởhữucổphiếu đứng đầu thếgiới tỷ lệ này là 28%.Không những thế, lợinhuậnkhágâysốctrên
thị trường Đông NamÁkểtừđầunhữngnăm1990 đổ lỗi cho tiềntiết kiệm dư thừa nếubạn làmộtnhàkinh tếvĩ mô, đổ lỗi cho cácbố già nếu bạn nghĩrằngcáccánhânquyếtđịnhkếtquảcủa thành
côngtrongcuộcđờicómộttácđộngphụ.Điềunày là do châuÁ, đặcbiệtlàĐôngNamÁ,lànguồnvốntoàncầucủamột công chúng bắtbuộc phải tiết kiệm.Malaysia,SingaporevàPhilippines có các quỹ
tiết kiệm bắt buộc từthời thuộc địa.Indonesia bắt đầu mộtquỹ hưu trí bắt buộcchocácnhânviêncôngty trong những năm1970, và Hồng Kôngđã lập thêm Quỹ tiếtkiệm bắt buộc của
mìnhvàotháng12năm2000. Thái Lan cũngdự định lập một quỹnhư vậy. Khi việc tiếtkiệm bắt buộc ở châuÁ được hướng vào thịtrường chứng khoáncủakhuvực,trừkhixuhướng thay đổi lợi
nhuậnthấpdàihạn,nósẽ làm cho người dânthường bị ảnh hưởngdohoạtđộngkémhiệuquảcủathịtrường.
Tuy nhiên, chủ đề nàylàmộtchủđềkhóđánhgiá vì hai lý do. Thứnhất,ngườiĐôngNam
Áđã quen với lãi suấtthấpcủacáckhoảntiềntiết kiệm bắt buộc.Theo tính toán khoahọc, tại Singapore giaiđoạn 19871997, khiQuỹ tiết kiệm trungương chủ yếu đầu tưvào trái phiếu chính
phủ, lợi nhuận hàngnăm gần như bằngkhông.Vấn đề thứ hailà các chính phủ ởĐôngNamÁrấtbímậtvềnhữnggìxảyravớicáckhoảntiếtkiệmbắtbuộc không thể xácđịnh xu hướng chắc
chắnnào.Công ty đầutư của chính phủ củaSingapore (GIC), mộttrongnhữngnhàđầutưtối cao của Quỹ tiếtkiệm trung ương, chỉhé lộ thành phần củaHội đồngQuản trị vàonăm 2001. Harry Lý
Quang Diệu, chủ tịchHội đồng Quản trị,năm 2006 đã tuyên bốrằng lợi nhuận trungbìnhhàngnămthựcsựcủa GIC chỉ là 5,3%trong25nămqua.Cácnguồn tin khác đã tiếtlộ lợi nhuận của GIC
đến từ việc đầu tư baphần tư số tiền củamình ở Mỹ, Châu Âuvà Nhật Bản. NgườiSingapore phải hyvọngsựphânbổtàisảnnày được duy trì. CảQuỹTiềntệquốctếvàcác cơ quan đánh giá
tínnhiệmnhưStandard& Poor’s tiếp tục chỉtríchsựkhôngsẵnlòngcủa Singapore trongviệc việc cung cấpthông tin chi tiết vềquản lý công quỹ. TạiMalaysia,việcphânbổvà quản lý tiền tiết
kiệmbắtbuộcvẫncònlà một hộp đen. Cácnhàphêbình cáobuộcrằng, các khoản chitiêu ngắn hạn từ Quỹtiếtkiệmchongườilaođộng (EPF) chỉ đượcduy trì bằng việc tiếnhành xem xét bất ngờ
cơsốvốncủanóvàsửdụng việc chuyển tiềntừ các nguồn côngcộng khác, như cơquan đầu tư của chínhphủ Malaysia làPermodalan NasionalBerhad. Điều chắcchắnduynhấtlà,nhưở
cácnơikháctrongkhuvực, không hề có mộtbộ sổ sách kế toánđáng tin cậy để côngchúngcóthểxemxét.
PhầnIII.NHỮNGBỐ GIÀNGÀYNAY, BẢO
VỆ NHỮNGTÀI SẢNQUÝGIÁ
6. NHỮNG NĂM1990: HẠNH PHÚCVÀTOANTÍNH
“ĐiềutốtcủaNhogiáolà nó làm cho ngườidân châu Á vui lòngchịuđaukhổ...”
Lời đại gia của HồngKông, RONINIECHAN,đăngtrên
TạpchíTàichínhchâu
Á(2002)
Thập kỷ 1990 nhưtronghaitácphẩmNhớlại những năm 1990(Remember thenineties) hoặc Điều gìxảy ra nếu quay lạinhững năm 1990?(What if it turns out
like the nineties?) làmộtbản tốckývề lịchsử châu Á, về nhữngsai lầm của các nềnkinhtếđangpháttriển.Nhưng để hoàn toànhiểuđượcnhữnggì đãxảy ra, chúng ta phảitrởlạinhữngnăm1980
một lát. Hơn nữa,chúng ta phải tạm thờikhông nói về các ôngbạnbốgiàcủachúngtanữamàxemxétnhữnggì đã xảy ra trong nềnkinh tế vĩ mô nóichung.
Câu chuyệnvĩmôdẫn
đến cuộc khủng hoảngtài chính châuÁ đượcxác định bởi bốn xuhướng mạnh mẽ vàtăng cường cho nhau.Đầu tiên là vào nhữngnăm 1980, chính phủcủa các nước "hợpthức"màchúngtađang
xem xét đã sao chépcác hình mẫu củaSingapore và HồngKông rồi áp dụngmộtchính sách phân phốilợiíchkhôngcầntranhluận vào các nền kinhtế đối ngoại của họ.Công nghiệp hóa theo
định hướng xuất khẩu(EOI) thay cho côngnghiệp hóa thay thếnhập khẩu (ISI) đã trởthành vũng lầy trongcái đầm lầy buôn bánchứng khoán của cácbố già và sự thamnhũng đang phổ biến
một cách chính thống.Điều này xảy ra cùngvớicơnvượtcạntrọngđại đầu tiên của kỷnguyên toàn cầu hoá.Vào những năm 1980,không thiếu các côngtyđaquốcgiatìmkiếmlợinhuậnbằngcáchdi
dời các hoạt động sảnxuất chủ yếu sang cácnước đang phát triển.NgaykhigiớichínhtrịĐông Nam Á đã sẵnsàngchothuêlaođộnggiá rẻ của nó, cácnguồn vốn từ phươngTây đã sẵn sàng giải
ngân.Dòngđầutưtrựctiếp của nước ngoàitrêntoàncầubắtđầurộlên trong những năm1980, và vào giữanhững năm 1990, mỗinăm đầu tư ra nướcngoàitrêntoànthếgiớicógiátrịbằngtổngđầu
tư trong một thập kỷ.Phản ứng dây chuyềnlàhoàntoànhiểnnhiêntrong việc mở rộngxuất khẩu của ĐôngNamÁ.Trong26nămtừ1960đến1985,xuấtkhẩu từ Thái Lan,Malaysia, Philippines
vàIndonesiatăngtrungbình 1015% một năm.Đó là lợi nhuận lànhmạnh,đượcđiềukhiểnrất mạnh bởi sự bùngnổ hàng tiêu dùngnhững năm 1970. Không những thế, sựgia tăng này có điểm
xuất phát thấp. Khiviệc sản xuất và chếbiến hàng xuất khẩutăng lên từ giữa thậpniên 1980 các cơ sởsảnxuấttăngtỉ lệ tăngtrưởng tăng lên đángkể. Trong 10 năm từ1986 đến 1995, tăng
trưởngxuấtkhẩutrungbình ở Thái Lan,Malaysia vàPhilippines tăng lên410% mỗi năm. Quamột thập kỷ, dấu hiệutăngtrưởngnàycóảnhhưởng khá lớn. Xuấtkhẩu của Thái Lan đã
tăng từ 9 tỷ đôla năm1986lên57tỉđôlavàonăm1995.
Sự bùng nổ trong sảnxuất cần nhiều laođộng để làm việc tạicáckhunhàmáylớnởngoại ô và các trungtâm chuyên làm hàng
xuất khẩu khác nhưPenang (ở Malaysia)xảy ra đồng thời vớimột động lực thứ haithúc đẩy sự tăngtrưởng, đó là số liệuthống kê dân số. TốcđộtăngdânsốởĐôngNam Á đạt đỉnh ngay
thậpkỷsauChiếntranhthếgiớithứhai,vàvàonhữngnăm1980cóvôsốthanhniêntìmkiếmviệc làm để có thunhập bằng tiềnmặt. ỞThái Lan, Malaysia,Philippines vàIndonesia trong giai
đoạn 19501980, tỷ lệsinh vẫn cao trong khitỷ lệ tử vong ở trẻ sơsinh giảm, nên dân sốtăng gấp đôi trongvòng ba mươi năm.Nguồn vốn con ngườilàmộtđầuvàokinh tếmà sự gia tăng của nó
tạo ra sự tăng trưởnggiốngnhưbấtkỳnướcnào. Các tập đoàn đaquốc gia tự nhận thấy,trong một kỷ nguyênthanh bình êm ả, nơilao động hầu nhưkhôngcóquyềnmặccả(cóquánhiềulaođộng
nhưthế)vàtốcđộtăngnăng suất rõ ràngnhanh hơn tốc độ tănglươngrấtnhiều.
Xu hướng thứ ba là tỷlệ tiết kiệm tăng. Sốngườigianhậpvàolựclượng lao động và cólương tăng lên hơn là
làm việc trong nôngnghiệp có ít hoặckhông có tiền mặt vàhọđãgửitiếtkiệmmộtphần thu nhập ngàycàng tăng của họ. Cácchính phủ ít khi bịthâm hụt ngân sáchcũnggửitiếtkiệm.Kết
quả là tiền tiết kiệmtrongnướcnhư làmộtphầncủaGDP,lênđến30% ở Hồng Kông,Indonesia và hơn 45%ởSingapore.Giữathậpniên 1960, tỷ lệ tiếtkiệm ở Đông Nam Áđã ngang với ở Mỹ
Latinh; và vào đầunhữngnăm1990,nóđãcao hơn khoảng 20%.Đây là số tiền đượcchấtvàocácngânhàngcủa nhà nước và củacácbốgiàđếnmứcđầytràn.Tuynhiên,từgócnhìn củamột nhàkinh
tế vĩ mô, một cái hốsâu đầy tiền tiết kiệmlà một điều hoàn toàntốtchomộtnềnkinhtếđang phát triển, vì nócókhảnăngtạoramứcđầu tư cao, và do đótạoracơsởhạtầngvànăng lực sản xuất cần
thiết cho tăng trưởngdài hạn.Đầu tư là cầnthiếtchogiaiđoạnđầuphát triển kinh tế; lờicảnh báo duy nhất làchi tiêu nói chung cầnphải hữu ích và khôngđượclạmvàovốn.
Giữanhữngnăm1990,
tiết kiệm trong nướccũng được bổ sungbằngcácdòngvốnđầutư lớn từ nước ngoàichảy vào. Sau này,trongphântíchnguyênnhân của cuộc khủnghoảng tài chính, sẽ cómột cuộc tranh luận
nóng bỏng và thườnglà chẳng đi đến đâugiữa các nhà chính trịvànhàkinh tế vềmứcđộ mà các nguồn vốnngắnhạntừnướcngoàiđóng góp vào cuộckhủnghoảngđó.
Cuối cùng, trong thời
kỳ trướckhủnghoảng,Đông Nam Á dườngnhư được hưởng mộtloại lợi thế tâm lý cóthể thấy trong các nềnkinh tế mới nổi, pháttriển nhanh trong giaiđoạnđầu củanó.Hiệntượngnày có thểđược
gọi là “tuần trăng mậtphát triển”. Những gìxảy ra trong thời kỳnàylà,quầnchúngquásẵn lòng tin tưởngvàolờihứamanglạisựcảithiện liên tục về mứcsống của chính quyềnvà các nhà lãnh đạo.
Khi người dân ĐôngNamÁ được bảo rằngcác hiệp hội lao độngtự do là đối chọi vớităng trưởng sự kíchthíchtínhtòmòvềthấtbại của các tổ chứccông đoàn nhằm ngănchặn sự nổi lên của
Mỹ, Châu Âu, NhậtBản và Hàn Quốc vàrằng,nhữnghạnchếvềtự do cá nhân và cácphương tiện truyềnthông làmột phần củavănhóachâuÁ,họđãưng thuận. Mọi ngườiđã làm công việc của
mình, nói chung là vôcùng chăm chỉ, và tinrằng đó chỉ là vấn đềcủahaihoặcbathậpkỷtrước khi đất nước họsẽ nổi lên thành mộtquốc gia phát triểnmàtrong đó, tất cả mọingười sẽ đều được
hưởng một phần lợilộc. Nhiều người đãchútrọngvàotươnglaicủa con emhọ.Với tỷlệ tăng trưởng GDPtrungbìnhtừ1986đến1995 lên đến 810%một năm tại Malaysia,TháiLanvàIndonesia,
so với 68% của giaiđoạnsaunăm1960,họtinvàocácchínhtrịgiavàchờđợiđểđượclêncõiNiếtbànvàsẽđượcgiải thoát khỏi cáixiềng xích nhu cầu vềkinhtế.
CẢ HAI ĐỀU MƠ
MỘNG
Các lực lượng vĩ môtạorabốicảnhchomộtthời kỳ mà sự hoangtưởng ngày càng tăng,và cuối cùng lên đếnđỉnhđiểm.Sựbùngnổtrong hoạt động xuấtkhẩu có đầu tư nước
ngoàiđãđónggópvàotăng trưởng và tạo ranhiều việc làm, nhưngnó không thay đổiđược sự bất lực củaĐông Nam Á trongviệc tạoracáccông tycó sức cạnh tranh toàncầu. Mũi nhọn nhân
khẩu học dẫn dắt sựtăng trưởng, nhưng nócũngchemấtmộtthựctế là, sự tăng trưởngnày là do đầu vào laođộng tăng cũng nhưnăng suất tăng. Tỉ lệtiết kiệm tăng chuyểnsangđầutưnhiềuhơn,
nhưngsựđầutưđóchủyếu thông qua trunggian là ngân hàng củanhà nước và của cácđạigiachứkhôngđượcđưa thẳng vào cácđườngdâythươngmại.Giữanhữngnăm1990,thịtrườngchứngkhoán
tụt dốc theo đườngthẳngđứngtừcácđỉnhcaođạtđượccuốinăm1993vàđầunăm1994,vìlợinhuậncủadoanhnghiệp đã không đápứngđượcnhữngmongđợicủanhàđầutư,màcác ngân hàng thì chỉ
biếtchovay.Trongkhiđó, tínhnhumìdễbảocủa cưdânĐôngNamÁ, vừa làm tăng danhtiếngcủakhuvựcvềsựcần cù siêng năng củangười lao động, vừathắplênthamvọngcủacác nhà lãnh đạo của
họ.
Một thế giới tưởngtượng bắt đầu địnhhình, trong đó mọingườiđềutinvàocáchthức tưởng tượng củahọ. MahathirMohamad, thủ tướngMalaysia, đã dành rất
nhiềuthờigianđểđiềuchỉnhtầmnhìncủaôngvềđấtnướcsẽđạtđếntrạng thái phát triểnnhưthếnàotrongvòngmộtphần tư thếkỷ,vàông gọi nó là “Tầmnhìn 2020”. Mahathirđãphêduyệtcácdựán
đập nước lớn, sân baymớivàhệthốngđườngsắt.Vàonăm1995,ôngquyết định chuyển thủđôhànhchínhcủa liênbangđếnmộtđịađiểmmới trong rừng, vàkếtnối nó với KualaLumpur bằng một
“siêu hành lang đaphươngtiệncôngnghệcao”. Rất nhiều tiềnchoxâydựngcơsởhạtầngđượclấytừdoanhthucủangànhdầukhí.Vị tiến sĩ nhỏ béchuyển vào một dinhthự mới rộng lớn của
thủ tướng với cácphương tiện chỉ huy;ôngđểmắtđếncácdựán xây dựng và hàngngàygọiđiệnthoạichocác nhà quản lý dự ányêucầuhọbáocáotiếnđộ. Người bạn thuộcloại đại gia gần gũi
nhất của Mahathir làAnanda Krishnan đãbắt đầu xây dựng Tòatháp đôi Petronas ởtrung tâm KualaLumpur, và tòa thápcao nhất thế giới hoànthành lúc cuộc khủnghoảng tài chính đang
tồitệnhất.
Ở nước láng giềngSingapore, Harry LýQuang Diệu đang caogiọng hơn bao giờ hếtvề "những giá trị châuÁ" và lý thuyết chủngtộc Trung Quốc đangdẫndắtsựtăngtrưởng.
Ông ta diễn giảngtrướccácnhà lãnhđạosau thời Marcos củaPhilippines,làCorazonAquino và FidelRamos,về sựcần thiếtáp dụng kỷ luật trướckhi thực hiện dân chủtrong xã hội của họ.
Ôngtachỉrõhiệuquảthực thi rất thấp củanước này trong nhữngnăm 1990 có thể liênquan đến món nợ củacáichínhphủkẻcướp,hàkhắc,khôngdânchủcủa FerdinandMarcos,chođếnnăm1986mới
trả hết. Aquino, bảnthân bà cũng mangtrongmìnhmộtphầntưdòngmáuTrungQuốc,dánchoHarrycáinhãn"kẻkiêungạo"saumộtcuộcchạmtránvớiôngta. Con gái của nữhoàng Anh là công
chúa Anne, ngườithường bị ám ảnh bởiviệc cưỡi ngựa, đãđược nghe học thuyếtgien di truyền của Lývà nhận xét một cáchchâmchọc:“Nókhôngđúngvớilũngựa.”KhithànhphốtânNhogiáo
của ông đạt được sựtăng trưởng cao vàonăm1993và1994, rấtítngườidámtranhluậnvớiHarryLý.
Tại Indonesia, bấtchấpcáichếtcủangườivợ, người bạn đời yêudấu,MadameTien,vào
năm 1996, Suharto kếtluận rằng ông chỉ cóthể được tin cậy nếulãnh đạomột quốc giacó tốc độ tăng trưởng8% mỗi năm. Ở tuổi76,vàonăm1998,ôngđãbướcsangnhiệmkỳTổng thống thứ bảy
củamình.ÔngđãchọnJusuf Habibie, một Bộtrưởng bị nhiều ngườinhạo báng là đã tiêuhàng tỷ đôla để cốgắngtạorangànhcôngnghiệp sản xuất máybay ở một nước thếgiới thứ ba, làm Phó
Tổngthống.
Tại Thái Lan, ý thứcchơi trội và tình trạngthiếu thực tếmãnh liệthơn bất cứ điều gì.Tháng 5 năm 1992,khoảng50ngườiđãbịmất mạng trong cuộcbiểutìnhchốnglạimột
cuộcđảochínhquânsựxảy ra vào năm 1991.Nhưng trong một vàinăm, việc kinh doanhvàchínhtrịkhôngdiễnra bình thường, mà“trên mức bìnhthường".Với nền kinhtế đang tăng trưởng ở
mức 9%, BanharnSilpaArcha, nổi tiếngvới tư tưởng chính trịphóngtúngcủamìnhlà“máy ATM di động”,đã thắng cử năm 1995với lời thềnguyệnxâydựng đường cao tốcsáu làn trên khắp đất
nước. Một năm sau,cựu Tư lệnh trưởngChavalitYongchaiyudh thôikhông hỗ trợ choBanharn, sử dụngkhoảng 800 triệu đôlacho một cuộc bầu cử,vàgiậtđượcvịtríđứng
đầuchomình.
NgaycảởHồngKôngcũng có xu hướng chorằng,xãhộitốtđẹpcủahọ đã được xây dựngtrên nền tảng vữngchắc. Chris Patten,được phái từ Londonđến với sứ mệnh giải
phóng thuộc địa vàonăm1997theocáchcónguyên tắc khácthường, đã xây dựngchiến lược chính trịhoàntoàntậptrungvàoviệc mở rộng quyềnbầu cử.Ngoại trừ việcbãi bỏ công ty độc
quyền viễn thông dongười Anh vận hành,khôngcóđộngtháilớnnào để giải quyếtnhững cartel đang làmđầytúitiềncủacácđạigiaởđịa phương.Mộtloạt báo cáo về cạnhtranhcó thiệnýnhưng
không cóhiệuquả củaHội đồng người tiêudùng Hồng Kông chỉcótácdụngthiếtlậpxuhướng cho nhiều nămthảoluậnkhôngđâuvềnhững gì cần làm vớimột nền kinh tế trongnước hiển nhiên là
chốngcạnhtranh.
LIỆU BIẾT THÌ CÓTỐTHƠNKHÔNG?
Tất nhiên, các nhàchính trị luôn nói vềnhững điều ngớ ngẩn,vàhànhvicủacácnhàlãnh đạo tự mở rộng
thêm quyền hành ởĐông Nam Á nhữngnăm 1990 được dânchúngcoilànằmởđâuđógiữasựlậpdịvàsựtẻ nhạt. Điều thực sựquan trọng là có bằngchứngkinhtếrõràng–kểcảquagiai thoạivà
phân tích trong thờigiancuộckhủnghoảngtàichínhđangđượcấpủ. Như một hệ luỵ,cũngcócâuhỏivềQuỹTiền tệ quốc tế vàNgân hàng thế giới đãthực hiện nhiệm vụgiámsátvà tưvấncủa
họnhưthếnào.Ởmứcđộgiai thoại, đã cóbahình mẫu có thể nhìnrõ ở giữa những năm1990. Thứ nhất là sựtham lam, tham nhũngquáđángvàliêntụcđãthoát khỏi tầm kiểmsoát. Thứ hai là việc
buônbánbất động sảnđang thay thế sản xuấtkinhdoanhvớitưcáchlàhoạtđộngcốtlõicủanhiềutậpđoàn.Vàthứba, một số tổ chức tàichínhđãbắtđầubịrạnnứtdocăngthẳng.
Mộtvídụvềlòngtham
đang là chuyện mỏvàngBusangmaquáiởIndonesia.Nóđượcbắtđầuvàonăm1996,khimột công ty củaCanada công bố họ đãtìmramộtmỏvànglớnở Borneo. Đó cũng lànăm mà vợ Suharto,
MadameTiênquađời.Bà làmột trongnhữngngười có thể giữ chonhữngđứaconkẻcướpcủa Suharto trong tầmkiểm soát. Điều tiếptheo công bố vềBusang là tuyên bố tựdo cho mọi người,
công khai đến choángváng, khi con trai cảSigit Harjojudanto vàcon gái cả SitiHardijanti Rukmana(thường được gọi làTutut)chuyểnsang tấncông đối thủ là hiệpđoàn khai mỏ quốc tế
vàđềnghịSuhartochohọquyềnkhaithácmỏ.Suharto,chẳngbiếtlàmgì hơn, cho gọi bố giàlàbạnchơigônvớiôngta, “Chú” Bob Hasan,đếnlàmtrunggianhòagiải cho các con. Bobcắt bỏ một thương vụ
củacáccôngtymàôngta và các thành viênkháccủagiađìnhđangkiểm soát với cổ phần30% trong khu mỏtương lai, với nhữngchi tiết sẽ được nóiriêng. Tất cả điều nàyđã được tường thuật
trên các phương tiệntruyền thông quốc tế,và nhà Suhartos chưabao giờ vô liêm sỉ vàtham lam đến thế. Vụnày kết thúc vào năm1997, khi người ta vỡlẽ ra rằng, các mẫuvàng gốc đã được làm
giả,chẳngcóchút tiềngửi nào, và những sựkiệnnày làdobọn lừađảobàyđặtrađểnhânthêm giá trị cổ phầncủa công ty khai thácmỏ của chúng tạiCalgary.
Lòng thammù quáng
và thiếusuynghĩcũnglà nguyên nhân chínhdẫnđếnvụtainạnchếtngười của ngân hàngđầu tư Peregrine ởIndonesia.Cácphươngtiệnthôngtinđạichúngtường thuật rằng,khoảnchovaybắccầu
270triệuđôlacủangânhàng này với công tytaxi Steady Safe ởJakarta, là một phầnđộng lực nhằm xâydựng một doanhnghiệp trái phiếu tạpnhamở châuÁ.Đó làmột sự thật. Nhưng
trongvụnày,Peregrinekhông chỉ đơn giản làcấp kinh phí choSteadySafeđểhọmuamộtsốcơsởthulệphícầu đường mà TututSuhartocóởkhắpnơi;nóđãcungcấpvốnchoTututđểrúttiềnmặttừ
những tài sản đó vớigiá hời. Ngân hàngPeregrine muốn dẫndắt kế hoạch tư nhânhóa của công ty khaithác cầu đường JasaMargaởIndonesia,màTutut có một ảnhhưởng vượt trội. Cũng
có tin đồn rằng, bà tasẽ tiếp quản cha mìnhnếu ông không thànhcông trong nhiệm kỳTổngthốngthứbảy.Vìvậy, Peregrine đã đặtcược một phần ba cơsố vốn của mình vàomột thể chế chính trị,
khimộtngânhàngbìnhthường sẽ lưỡng lựkhông dám liều đưa5% vốn của mình vàomộtthươngvụgầnnhưchắc chắn về kinh tế.Sớmhaymuộn,cácvụđặt cược không đượcđảm bảo lớn như thế
này cũng sẽ kết thúctrong nướcmắt. PhilipTose luôn luôn phủnhậnviệcôngtừngphêduyệtvụSteadySafe.
“Các công ty nàykhông có chiến lược.Đơngiảnlàhọchỉbiếtbuôn bán,” Michael
Porter,Giáosưvềquảnlý của trường HarvardBusiness School nhậnxét về các công ty củaĐông Nam Á lúc đó.Đó làmộtđiểmcó thểtranhluận.Kinhdoanhbất động sản đã quyếtđịnh về các doanh
nghiệp Đông Nam Á.Quỹđạocủamộttrongnhữngđạigiamớikháhỗn hào, Vincent TrầnChíViễn, nói lên điềunày. Trần bắt đầu leolêncáidốckinhdoanhtrơn như mỡ ởMalaysia trong những
năm 1980 theo cáchthứctruyềnthống.Ôngđã xây dựng các mốiquan hệ của mình vớiMahathir và tầng lớptinh hoa chính trị củaMalaysia. Ông đã gâydựngđượcmốiquanhệgầngũivớingườicháu
yêuthíchcủaMahathirlà Ahmad Mustaphabin Mohamad Hassan,và đã đưa anh ta vàomộtsốHộiđồngQuảntrịcôngty.Trầnvàemtrai là Danny cũng đãtham gia vào mộtdoanh nghiệp kinh
doanhxehơivớingườicon rể của Mahathir.Năm 1984, VincentTrần có được vụ tưnhân hóa không quađấu thấu đầu tiên củamình,muamộtcôngtycôngnghiệpnhỏ từ cơquan đầu tư của nhà
nướclàPERNAS.Mộtnăm sau đó, với dòngtiền mặt chủ yếu củamình, ông ta lại có cơhội tư nhân hoá ngànhxổsố,cũngkhôngquađấu thầu.Sauđó,Trầntiếp tụcchuyếndulịchmuasắmcủamình,xây
dựngbảydoanhnghiệpniêm yết tham gia vàomọi thứ, từ hàng hóatiêu dùng cho đến cơsở hạ tầng, truyềnthông, khách sạn vàmôi giới chứngkhoán.Nhưng nổi bật nhấttrên đại dương các
công ty của ông ôngcũng có cả doanhnghiệp hàng không làkhông hiểu sao lợinhuận hoạt động rấtnhỏ.Hầunhưtấtcảthunhập đều đến từ bánbấtđộngsản,thườnglàgiữa Trần và các công
ty niêm yết của riêngông.Ông cómột côngtydệtđãtrởthànhmộtdoanhnghiệpkhaithácgỗ; ông có một doanhnghiệpkhai thácgỗđãtrở thànhmột tậpđoàndịchvụtàichính;côngty xổ số kiến thiết của
ông đã được bán ngaytrướcmắt các nhà đầutư trong công ty vuichơi giải trí củamình,chỉ tái xuất hiện thôngqua việc tiếp quản lạinómộtnămsauđó.Từnăm 1989 đến giữanhững năm 1990, lợi
nhuận từ việc bán bấtđộngsảnthườngchiếmkhoảng hai phần batổng lợi nhuận củacông ty. Lợi nhuậnròng từ hoạt động, làmột phần của doanhthu,thỉnhthoảnglạitụtxuống dưới 1%. Năm
1995, các nhà đầu tưthiểusốđãpháthiệnranhững gì đang xảy ravà những gì đang làmgiảm giá trị cổ phầncủacôngty,nhưngcácngân hàng vẫn hậuthuẫnchoông.VincentTrần và những người
như ông là một tấmgương sáng cho cácdoanhnghiệpđangtrốnchạyđểkhỏibịvàotù.
Cuộckhủnghoảng tàichính không đến mộtcách hoàn toàn bấtngờ; các ngân hàngđangbắt đầuđổvỡđã
định hướng cho nó.Như đã thuật lại chitiết, tại Indonesia,Ngân hàng Summa đổvỡvàonăm1993;mộtngân hàng nhà nướclớn là Bapindo, năm1994, và Ngân hàngPacific năm 1995. Tại
Thái Lan, sự sụp đổcủaNgânhàngThươngmại Bangkok (BBC)năm1996đượccoinhưlời cảnh báo khẩn cấpvề một cơ bão lớn sẽtới. Và nó đã tới.Nhưng thực tế là cácngân hàng trung ương
ở Đông Nam Á, đượclãnh đạo bởi các nhàchính trị, luôn giảithoát cho các ngânhàng thương mại, nênđưa ra những lời cảnhbáokhôngmạnhmẽvàdễbị bỏqua.Từ1983đến 1991, nhà nước
Thái Lan đã giải thoátkhông ít hơn 30 tổchứctàichính.Ngaycảkhi danhmục cho vaykhủng khiếp của BBCđã bắt đầu được côngbố vào mùa hè năm1996, ngân hàng trungương đã bí mật chi
thêm 20 tỷ đôla (BBCcần khoảng 2 tỷ đôla)đểchốngnợchocáctổchức tài chính khác,chủyếu làcáccông tytàichính.Điềunàychỉđược tiết lộ trong lờichứng của Thống đốcngânhàng trungương,
ChaiyawatWibulswasdi, sau khicuộc khủng hoảng nổra. Tóm lại, cuộckhủng hoảng ngânhàng đã đạt đến đỉnhcao mới, nhưng ĐôngNam Á luôn có cáccuộc khủng hoảng
ngânhàngvàcácchínhphủ trước đây đã thuxếp để đối phó vớichúng sau những cánhcửađóngkín.
HÃY XỬ BẮNNHỮNG NHÀ KINHTẾ
Hồ sơ phân tích củacác nhà kinh tế vĩ môtrước khi có cuộckhủnghoảngđãkhôngđượctốt.Việckiểmtrathực tế kịp thời duynhất là công trình củaAlwynYoung tạiViệnCông nghệ
Massachusetts và mộtđộingũkếtoánvềtăngtrưởng, đã được PaulKrugman phổ biếntrongmộttàiliệungoạigiaovàotháng11năm1994. Bài báo củaKrugman "Điều hoangtưởng về phép màu
châu Á" là một đònphảncôngtrựctiếpđốivới báo cáo khải hoàncủa Ngân hàng Thếgiới, "Phép màu ĐôngÁ", xuất bảnmột nămtrước đó. Krugmantrìnhbàymộtphântíchcho thấy, phần lớn sự
tăng trưởng của ChâuÁđãđếntừnguồnvốnđầu vào, từ nguồn laođộngtăngcao,vànăngsuất đạt được lại tụthậu sovới nềnkinh tếMỹ đã thuần thục.Nhiềudữliệutậptrungvào Singapore và làm
cho Harry Lý tức sặcmáu.Nghiêncứukểtừkhi có khủng hoảngchothấy,việcđạtđượcnăngsuấtởĐôngNamÁ tốt hơn so với bàiviết của Krugman,nhưng điểm cơ bản làquỹ đạo kinh tế hiện
thời không bền vững,chínhxáclàtráingượcvới ý kiến đã đượccông nhận. Tuy nhiên,YoungvàKrugmanđãdự báo một sự chữnglạichứkhôngphảimộtcuộckhủnghoảng.
Ngân hàng Thế giới,
vào giữa thập niên1990, đang sống trongmột thếgiớimộngmơmà khuônmẫu của nóđã được ghi lại rất rõnét trong báo cáo"Phép màu Đông Á"xuấtbảnnăm1993vốnđược rất nhiều người
trích dẫn. Ngân hàngcó một đội ngũ nhânviênxuấtsắctrongkhuvực, và trong nhữngnămquađãcho rađờimột số phân tích sắcsảo và quan trọng. Vídụ,tạiIndonesia,trongmột nghiên cứu được
xuấtbảnnăm1981,nóđã lên án chế độ cấpgiấyphép côngnghiệpmột cách dứt khoát.Đầuthậpniên1990,nóđã cảnh báo về nợnước ngoài sẽ tăng.Tuy nhiên, khi Ngânhàng thế giới tiếp tục
điều hành các vănphòng lớn ở các nướcĐôngNamÁ,hìnhnhưhọphảingàycàngkhổsở vì đã dính líu quáchặt chẽ với chínhquyền địa phương.Tiếp tục ví dụ ởIndonesia, các phóng
viên nước ngoài ởJakartanăm1996đãvôcùngsửngsốtkhinghecác nhân viên củaNgân hàng tán dươngvấn đề cấp giấy phépviễn thông mới củachính phủ, nói rằngviệc bán giấy phép
được thực hiện "hoàntoànminhbạchvàtuânthủ nghiêm ngặt cácnguyêntắcđãđượcxácđịnh rõ ràng." Trongthực tế, toàn bộ ngànhcôngnghiệpviễnthôngđã khắc họa nên cungcáchđồibạivàmờám
nhất của đám con cáicùng bạn nối khố củaSuharto. Ngân hàng,nhưphóngviênkỳcựucủa Tạp chí Kinh tếViễn Đông AdamSchwarzđãviết,"đãcónhững hiểu lầmnghiêm trọng về hiệu
ứng tàn phá của nạntham nhũng trong nềnkinh tế Indonesia".ViệcquảnlýcủaNgânhàngThếgiớichothấy,hầunhưkhôngcóviệcquan tâm đến sự caiquản của các cơ quannhà nước. Chỉ có các
cuộc biểu tình tượngtrưngphảnđốiviệcrútruộthàngtỷđôlatừcácnguồntàitrợpháttriển.KhimộthọcgiảngườiMỹ, Jeffrey Winter,ước tính rằng có tớimột phần ba các quỹcủa Ngân hàng bị nạn
tham nhũng rút ruột,đại diện thường trú tạiJakartađãbácbỏtuyênbốnàyngaycảkhimộtcuộc xem xét nội bộcủa Ngân hàng chỉ rarằng có đến 30% sốtiềnđã thực sựmấtđi.Vấnđề là, khi so sánh
với châu Phi và MỹLatinh, ở châu Á,những quan chức caocấp và nhân viên củaNgânhàngthếgiớichỉmiễn cưỡng làm mộtviệc gì đó; điều nàykhiếnchonhữngngườivốn ưa thích họ phải
ngượngnghịu.
Quỹ tiền tệ quốc tếIMF,chịusựkiểmsoátcủa cấp trung ươngnhiềuhơnsovớiNgânhàngthếgiới,đãkhôngcó những dính líu quásâuởĐôngNamÁ.Ởnhiều khía cạnh, thất
bại của các cơ quannhànước là ngược lại:họquantâmkhôngđầyđủ đến các chính sáchmà chính họ đã đặt rađượcthựchiệnthếnàotrên thực tế. IMFcũngkhônghềđặtracâuhỏigiả thiết dài hạn trong
một môi trường đangthay đổi trước khi quámuộn. Như JonathanAnderson, một nhânviên IMF ở Bắc Kinhtrong thời gian khủnghoảng, đã nhận xét:"Khôngcócâuhỏinào.Quỹ tiền tệ quốc tế có
lẽđangngủgật."ĐánhgiáképcủaIMFvềsựtiến bộ qua thập niên1980 và đầu thập niên1990làtưnhânhoávàbãi bỏ quy định.Nhưngkhitưnhânhóahầu như lúc nào cũngđược thực hiện không
quađấuthầu,vàbãibỏquy định chỉ thay thếcác công ty độc quyềncủa nhà nước bằngnhữngcartelcủacácbốgià, cơ quan này đãkhông gióng lên hồichuôngbáođộng.Hìnhnhư là, những lời hoa
mỹ về tư nhân hóa đãgây ra nhiều vấn đềhơn thực tế. Thực tếkhôngdiễnranhưvậy.Việc"bãibỏquyđịnh"vềcácdịchvụtàichínhđã một tác động đặcbiệt xấu. Thái Lan vàIndonesia sản sinh ra
hàng trăm ngân hàngmới và các tổ chức tàichínhphingânhàngdocác bố già điều hành,vàchúngthựchiệnchovay phần lớn số vốncủa mình đối với cácdoanh nghiệp của bốgiàcóliênquan.
Việc không đặt ranhữngcâuhỏigiảthiếtdài hạn gây thiệt hạilớn nhất ở quan điểmcủa nó về các chínhsách tỉ giá trao đổingoạitệcủaĐôngNamÁ. Từ đầu những năm1980, mỗi chính phủ,
màchúngtađangquantâm,đãquyếtđịnhquyđổitiềntệquốcgiacủamình sang đồng đôlaMỹ. Các quyết địnhnày dẫn đến một loạtcuộc khủng hoảngngân hàng đầu nhữngnăm1980,vàsuythoái
vào giữa thập kỷ này.Sự hấp dẫn lớn nhấtcủađồngtiềnquyđổi–bằng các phương phápkỹ thuật khác nhau ởnhữngnướckhácnhaulà nó làm yên lòngnhữngnhàđầutưnướcngoàivềgiátrịquốctế
tương lai của cáckhoản đầu tư của họ,vàlàmyênlòngnhữngnhàxuất khẩuvềnănglực cạnh tranh quốc tếcủa các sản phẩm củahọ. Sau 15 năm, dòngchảyđầutưtrựctiếptừnước ngoài và hàng
xuất khẩu tăng nhanh,nên tất yếu là giữanhững năm 1990,người ta cho rằng quyđổi ngoại tệ đã đượcchứngminhlàtốt.Tuynhiên, bất cứ điều đãcố định nào cũng cóthể thay đổi nếu thế
giới quan của nó thayđổi.Đó lànhữnggìđãxảy ra vào những năm1990, khi dòng chảyngắn hạn của tiền tệquốc tế tăng theo cấpsốnhân,đồngđôlaMỹbắt đầu được đánh giácao và các ngân hàng
đầu tư, những bố giàchâuÁđãpháthiệnranhữngcơhộibuônbánchứngkhoánvớichínhsách quy đổi tỷ giángoại tệ. Mexico, mộtquốcgiakháccótiềntệđượcquysangđôlaMỹđã trải qua một cuộc
khủng hoảng tài chínhvào năm 1995, nhưngrấtítngườixemđâylàmột điềm báo trướccho châu Á. Một lầnnữa,cácnhàkinhtếtạicáctổchứcquốctếnhưIMFđãcógiảthiếtdàihạn rằng điều đó khó
có thể thay đổi. Cuộckhủng hoảng củaMexicolàkiểucủaMỹLatinh,đượcbùngphátbởi chính phủ đã đùacợtvớisựvỡnợ,xoayquanh trái phiếu nhànước. Ngược lại, cácchínhphủởĐôngNam
Á điều khiển đượcthặng dư ngân sách vàquản lý được nợ nần.Trong nền kinh tếchính trị giám sát képcủa khu vực này, vớicác tầng lớp tinh hoachínhtrịvàkinhtếtáchbiệt, khu vực doanh
nghiệp tư nhân cónhiều nợ nần nhất. Vàdoanh nghiệp tư nhânkhông cư xử thiếutrách nhiệm như chínhphủ. Hoặc người tanghĩ như vậy. NhưJonathanAndersonnhớlại:"Cuộckhủnghoảng
châu Á là một hìnhthứckhủnghoảnghoàntoànmới,màkhôngcóai ở IMF suy nghĩ vềnó."
Không phải là nhânviêncủaIMFkhôngcósựquantâm.Cóthểhọđã thấy tư nhân hóa
của Mahathir khôngphải là thực tiễn tốtnhất, hoặc có sự nghingờvềdữliệuchovaycủa các ngân hàng ởIndonesia. Nhưng họkhông cần suynghĩ xahơn về những gì bênngoài cái văn phòng
nhàmcháncủahọmộtcái gì đó gần như khókhăn không thể làmđược khi phải đối mặtvới những tham vọngngông cuồng của thờiđại họ đã không baogiờ có khả năng đểxem xét những gì sắp
xảy ra. IMF bắt đầuphảnứngvớicáccuộckhủng hoảng lớn chỉkhi có các số liệu tínhtoán lớn. Số liệu năm1995và1996chothấysự thâm hụt tài khoảnhiện tại và ngoạithươngđang chaođảo,
gợi ý có sự mất cânbằng trong các nềnkinh tế không bềnvững.Sauđó,Quỹtiềntệ quốc tế đã đề nghịchính phủ Thái Lan,như làmột ví dụ, thôikhông quy đổi tiền tệvà hạ thấp tỉ giá trong
một số trường hợp. Đây là một lời nhắcnhởvềnhữnggìcáctổchức quốc tế có thểlàm, rằng các quanchức Thái Lan tronghai năm 1995 và 1996đãnóidốimộtcáchtrơtrẽnvớiIMFvànhững
người khác về thựctrạngcủaviệcdựtrữvàtraođổingoạitệ.
CÒSÚNGVÀKHẨUSÚNG
Nhiều phân tích saucuộc khủng hoảng ởchâu Á tập trung vào
vai tròcủa sự thayđổitỉgiáhốiđoáiquốc tế,dòng vốn ngắn hạn vàcác khoản vay nướcngoài của các doanhnghiệp trong việc pháhoại những đồng tiềnquy đổi của khu vực.Các chủ đề này đều
quan trọng và phảiđượcxửlý.Tuynhiên,cần phải làm rõ ngay,cuộc khủng hoảng tàichínhchâuÁnóivềsựmấtcânbằngngắnhạnnhiềuhơn.Một sốnhàkinh tế cho rằng, nếucó các chính sách vĩ
môtốthơnvàkhôngcósự can thiệp từ các tổchức quốc tế thì sẽkhông có cuộc khủnghoảng nào. MiltonFriedmanđãđixahơnkhi nói rằng việc giảithoátMexico của IMFvàonăm1995đãtạora
niềm tin to lớn rằng:đầu cơ quốc tế cái gọilàsựrủirovềđạođứcđượcIMFbảohiểm,đãgây ra cuộc khủnghoảng châu Á. Tuynhiên,Friedmanđã saikhi ông tuyên bố nềnkinh tế Hồng Kông là
tự do nhất thế giới, vàông cũng đã sai về lờibuộc tội này. Nếukhông có tỷ giá hốiđoái được quy đổi vàkhông có IMF, thờigian và hình thức củacuộc khủng hoảng nàycó thể đã khác, nhưng
nóđãđượcbáotrướclàsẽ xảy ra.Cuộc khủnghoảngtàichínhlàmcácnướcphảikhổsởvìsựthao túng của giớichính trị đối với nềnkinh tế, hệ thống ngânhàng bị lạm dụng,cartel hóa và những
hạn chế về tự do kinhdoanh. Ngay cả trongmột thế giới đã toàncầu hoá, sự mất cânbằng nội bộ này quantrọnghơnmấtcânbằngbên ngoài rất nhiều.Nóicáchkháclàđãcósựnhầmlẫngiữakhẩu
súngvàcòsúng.Điểmmấu chốt là vào giữanhữngnăm1990,ĐôngNamÁđãchếtạođượcmột khẩu súng lớn, vànó đã sẵn sàng nhảđạn.
Câuhỏi: “cái gì là còsúng” không phải một
câuhỏi phụ, nó có thểkhôngbaogiờđượctrảlời thỏa đáng, bởi vìtrong cuộc khủnghoảng tài chính củakhu vực có nhiều cáicò súng. Với ý nghĩanày, ẩn dụ khẩu súngđã bị phá vỡ. Tuy
nhiên, điều quan trọngcần biết là cái gì dẫnđến khủng hoảng.Điểm đầu tiên là tỷ lệđầu tư tăng mạnh mẽnhất từ giữa thập niên1980 đến giữa thậpniên 1990 (tại TháiLan, nơi cuộc khủng
hoảng bắt đầu) vàMalaysia(nơibịhưhạido cuộc khủng hoảngnày,nhưngíthơnđángkểsovớiTháiLan).Làmột phần của GDP,đầutưtạicácnướcnàynhảy vọt từ 25% lêntrên 40%. Tại
Singapore và HồngKông,tỷlệđầutưtănglên khoảng 8% so vớicùngkỳ.TạiIndonesia,nước hoàn toàn kiệtsức bởi cuộc khủnghoảng, sự tăng tỷ lệđầu tư không gay gắtlắm,xuhướnglêngiữa
thậpniên1980vàgiữathậpniên1990khoảng23%đến30%GDP.Tỷlệđầu tưởPhilippinesđã sút kém trong thờihậu Marcos đau khổ,giữa thập kỷ 1980, vàchỉ phục hồi đến mộtphần tư GDP vào thời
gianxảyracuộckhủnghoảng châu Á. Việctăng tỉ lệ đầu tư,thường ít khi đượcnhắc đến, vì thế thamgiaíthơnvàoviệcdẫndắt hoàn hảo đếnnhữnggìsắpxảyra,vàít ảnh hưởng đến
những người sẽ phảihứng chịu nhiều nhất.Loại trừ Philippines,với thờiđạidoMarcosdẫndắt,mộtchỉbáotốtnhất làmứcđộ sự lạmdụng và tham nhũngtươngđối trongcáchệthống ngân hàng. Từ
tồitệnhấtđếntốtnhất,theo thứ tự: Indonesia,Thái Lan, Malaysia,Singapore, HồngKông.
Cho đến đầu nhữngnăm 1990, đầu tư ởĐông NamÁ chủ yếulấy từ tiền tiết kiệm
trong nước. Tỉ lệ tiếtkiệm cao nhất thế giớicủakhuvựcsẽluôncóxu hướng đẩy chi phívayvốnthấpxuống,vàlãi suất thực tế đầunhững năm 1990 là sốâmhoặcthấpđasốcácnướckhác.Điềunàycó
nghĩa là lạm phát vàchiphílợinhuậnxấpxỉnhư nhau, và các nhàđầu tư trong nước cóthểmongđợimộtcáchcó lý là giá trị đầu tưkhông được giao dịchtrên phạm vi quốc tếbất động sản làmột ví
dụ kinh điển – để ítnhất là bắt kịp chi phídanh nghĩa của đồngtiền. Chẳng hạn,HồngKông có lãi suất thựctếlàsốâmtừcuốinăm1990 đến đầu năm1995.GaryCoull,đồngsáng lập CLSA, cho
biết ông hiểu thập kỷ1990làgìkhiK.S.La,đạigiabấtđộngsảnvàlàanh traicủaVincentLa, nói với ông là ôngta sẽ mua bất kỳ bấtđộng sản nào ở HồngKông mà không cầnxem trước. Đó là cách
những bố già thôngminh đã suy nghĩ vàcũng là một lời gợi ývề tính chất mạnh mẽcủa xu hướng đầu tư.Tại Thái Lan,Malaysia, Indonesia vàPhilippines, từ mộtphần năm đến một
phần tư cáckhoản chovaytrongcuộcchạyđàcủa cuộc khủng hoảngđãđượcđổvàocácdựánbấtđộngsản.
Các dòng vốn nướcngoài không nổi tiếnglắm chỉ trở nên quantrọng trong vài năm
cuối cùng trước cuộckhủng hoảng. Nếuchúng ta lấy Thái Lan(nướccócácluồngvốnđầu tư nước ngoàimạnh nhất) làm ví dụ,93% các dự án đầu tưgiaiđoạn19871996đãđược cấp vốn bởi tiền
tiếtkiệmcủacáchộgiađình. Tuy nhiên, tàichính của chính phủsuy yếu đáng kể trongnhững năm 1990, vàchính phủ Thái Lantronggiai đoạnnàyđãđiều chỉnh thâm hụtngânsáchlênhơn10%
tiết kiệm trong nước.Điềunàyđãgâynênsựthiếu hụt khoảng 20%tổngđầutưbằngngoạitệ,đasốlàđầutưngắnhạn.
Việc ngoại tệ đổ xôvào thị trường chứngkhoán Đông Nam Á
năm1993đã trở thànhchủ đề thảo luận sôinổi. Các nguồn vốnđầu tư khác được thuhút bởi mức lãi suấtdanh nghĩa cao. Cácnhà đầu tư trong nướcthường muốn vay vớilãi suất thực tế thấp,
còn người nước ngoàimuốn cho vay với lãisuất danh nghĩa cao vìsaunàyhọ sẽ đưa tiềncủa họ về nước, đếnnhững nơi có mức độlạm phát thấp hơn.Tìnhtrạngbuônbáncóphần không theo kiểu
trực giác này đã đượckhẳngđịnhtrênthựctếlà, hầu hết mọi ngườiđều mong đợi sự quyđổitiềntệcònkéodài,dođó,khôngcó rủi rolà biến động tiền tệ sẽlàm đổ bể việc kinhdoanh. Rất nhiều giấy
mực đã được sử dụngđể tranh cãi trong bầukhông khí nóng bỏng:các ngân hàng nướcngoài có đang đẩymạnh traođổi ngoại tệvào Đông NamÁ haykhông, hoặc nhữngngười vay ở địa
phươngchủyếu làcácbốgiàcủachúng tavàcác ngân hàng của họcó mù quáng khi vaynhư vậy hay không.Câutrảlờilàcảhai:tấtcảmọingườiđềuđangtìm kiếm một thươngvụ, đó là bản chất của
kinh doanh. Tại TháiLan, tình hình cànglàm cho tồi tệ hơn khichính phủ tích cựckhuyếnkhíchcácngânhàng nước ngoài chovay ngoại tệ từ nướcngoàinhư làmộtbướcđệmchosựbãibỏquy
định, và cho việc xâmnhập thị trường trongnướccủahọ;giấyphépđược dự kiến sẽ đếnvới những người đãchứngtỏlàcócamkếtmạnh mẽ nhất bằngcách cho vay nhiềunhất.
Thành phần cuối cùngtrong mớ hỗn độntrước cuộc khủnghoảng là những gì đãxảy ra với đồng đôlaMỹmà các loại tiền ởĐông Nam Á đã quyđổi theo nó, và đồngyên Nhật Bản nữa, tại
các thị trường tiền tệquốc tế. Đồng yên làquantrọngvìNhậtBảnlà nhà cung cấp vốnchủ đạo cho việc đầutưdàihạnvàolĩnhvựcsản xuất hàng xuấtkhẩu trong khu vực.Khiđồngyênmạnhso
vớicác loại tiền tệcủakhuvực,hàngdệtmay,hóa dầu, điện tử vàxuấtkhẩuôtômàcôngty Nhật Bản đầu tưtrong khu vực có giáhấpdẫnhơnsovớikhiđồng yên yếu. Điềunày là hiểnnhiên.Tuy
nhiên, do hậu quả củacuộckhủnghoảngnày,có một xu hướng kínđáo cho biết rằng, sựsuy yếu của tỷ giá hốiđoái yên đôla trongcuộcchạyđànăm1997làmộtlưỡidaoquốctếđâm vào lưng Đông
NamÁ theo một cáchnào đó. Trong thực tế,các nền kinh tế chếbiến xuất khẩu địaphương đã có sự tăngtrưởng mạnh bấtthường do đồng đôlaMỹ rất yếu, và vì thếđồngyênmạnhlênvào
đầu những năm 1990,do suy thoái kinh tế ởMỹvànhữngthâmhụtthương mại quenthuộc.Khôngcónhữngbình luận rằng thời kỳđó là bất thường,nhưng sau cuộc khủnghoảng châu Á nhiều
người nói rằng sự trỗidậy củađồngđôlaMỹvào giữa những năm1990nóđượcđánhgiácao hơn 30% so vớiđồng yên trong 18tháng, bắt đầu từ mùaxuân năm 1995 làkhông bình thường.
Trong thực tế, cácnềnkinhtếĐôngNamÁởthời điểm này quámỏngmanhdễvỡ,khómà phát đạt trong thếgiới thực tại. Đồngđôlamạnhhơnvàđồngyên yếu hơn đã làmcho một phần hàng
xuấtkhẩucủakhuvựckhông có sức cạnhtranh nhiều nhà chếbiếnhàngxuấtkhẩurẻtiền chuyển đến TrungQuốc và tăng trưởngxuất khẩu chung sụtxuống.Nềnkinhtếchếbiến xuất khẩu vẫn là
một phần cạnh tranhtoàn cầu duy nhất củanềnkinhtếĐôngNamÁ rộng lớn, nhưng nókhôngcòncóthểmanglại thặng dư để có thểbùđắpchonhữngđiểmyếu của nền kinh tếtrongnước.
ĐÊMPHÁOHOA
Vàsauđó,cuộckhủnghoảng bắt đầu. Vàotháng 6 năm 1997,ngân hàng trung ươngThái Lan đã gần nhưhết dự trữ ngoại tệ.Amnuay Viravan, mộtcựu lãnh đạo Ngân
hàng Bangkok củaChin Sophonpanich,BộtrưởngTàichínhđãcốgắnggiảicứucartelngân hàng của TháiLan, nhưng vẫn khôngthông báo cho IMF vềsự suy giảm dự trữngoại tệ, đã từ chức
vào giữa tháng. Haituần sau, ngày2 tháng7,chínhphủđãbỏquyđổiđôlavàđểchotiềntệ tự trôi nổi. Cuộckhủng hoảng tài chínhchâu Á bắt đầu. Đồngbạt nhanh chóngchuyển từ 25 bạt ăn
một đôla Mỹ đến 50,một tỷ lệ trao đổi màlúc cuối năm, sẽ tănggấp đôi chi phí nợnước ngoài. Người tagọi cho IMF và,khoảng giữa tháng 8,IMFđãđồngývớimộtloạtcảicách lớnvềcơ
cấu,mang đến 17,2 tỷđôla Mỹ hỗ trợ đaphương, được giảingân khi có sự thayđổi. Nhưng liên minhcủa Chavalit và cartelngân hàng do các bốgià điều hành khôngthích dùng phương
thuốc của IMF. Vàotháng 10, Thủ tướngChavalitrútlạiviệccảicách thuế, một Bộtrưởng Tài chính kháctừchức(sớmxuấthiệnlại, như chúng ta sẽthấy, như là một nhânviên của ông Thaksin
Shinawatra) và cáccuộc biểu tình trênđường phố ở Bangkokbắt đầu. Chavalitkhông được sự hỗ trợcủa giới quân sự đểtuyên bố tình trạngthiếtquân luậtnênsụpđổngày3tháng11,và
đượcthaythếbằngmộtchính quyền mới dướisựlãnhđạocủaChuanLeekpai.
Trong khi đó, từ thờiđiểm sự quy đổi ngoạitệ đã tan vỡ, các loạitiền tệ khác trong khuvực cũng bắt đầu chịu
sức ép. Các nhà quảnlý quỹ nước ngoàimuốn rút một số tiềncủa họ ra khỏi thịtrường chứng khoánđịaphương;ngânhàngnước ngoài muốn hạnchếchovaybằngcáchđòicáckhoảnvayngắn
hạn của họ; các ngânhàng địa phương vàdoanh nghiệp tranhnhaumuađôlađểtrangtrải các khoản nợ nầncủa họ; các bố già bắtđầu chuyển tiền ranước ngoài, các nhàđầu cơ trong nước và
nướcngoàibắtđầuvayvà bán các loại tiền tệchâuÁvớikỳvọngrồisẽ mua lại với giá rẻhơn trong tương laiđược gọi là “bánngắn”. Lần đầu tiêntronghơnmộtthậpkỷ,mọi người trong khu
vựcđều chămchúvàosự ràng buộc của cácloại tiền tệ với đồngđôla Mỹ. Trong môitrường mới này, cácngân hàng trung ươngnhanhchóngbuộcphảitừ bỏ việc quy đổi rađôla, và trongvòngba
tháng, việc quy đổiđôla tại Indonesia,Philippines vàMalaysiađềubịbãibỏ.Đồng rupi củaIndonesia các doanhnghiệp địa phương đãcó khoản vay ngoại tệkhoảng80tỉđôlatrong
khi dự trữ của ngânhàngtrungươngchỉ là20tỉtrượttừ2.500rupiăn một đôla lên 3.000rupi vào cuối thángTám, trongkhi trên thịtrường chứng khoánJakarta nó giảm giá trị35%. Đồng peso của
Philippinesgiảmxuốngthấp hơn và chínhquyền Manila kẻ sayIMFnhưđiếuđổngaylập tức kêu cứu vớiIMF.Đồng ringgit củaMalaysiatừ2,5ănmộtđôla lên 3 ringgit ănmột đôla vào giữa
tháng9.Đâymớichỉlàđiểmkhởiđầu.
Vàotháng9,Mahathirđã sử dụng cuộc họpthường niên của IMFtại Hồng Kông để đổlỗi: "Cuộc khủnghoảng được thao túng do có sự thông đồng
của phương Tây vàngười Do Thái đểkhiến người châu Áluôn luôn nghèo.”ChúngtôilàngườiHồigiáovàngườiDoTháikhônghàilòngkhithấyngười Hồi giáo tiếnbộ," ông nói, cộng
thêm một chút thiếuthành thật: “Chúng tôicóthểnghingờrằnghọđãcómộtchươngtrìnhnghị sự, nhưng chúngtôi khôngmuốn tố cáohọ." Mahathir cấm"bán ngắn" trên thịtrường Kuala Lumpur,
nhưng chỉ số chứngkhoán vẫn cứ tụtxuống.Saucuộckhủnghoảng, một cuộc điềutra của IMF tìm đượcmột số bằng chứngrằng các công ty làmliều và các nhà đầu tưcó ảnh hưởng khác
đóng vai trò quantrọng. Bằng chứng cótính giai thoại đượcphổbiếnrộngrãitrongkhuvựclàviệcchuyểnvốn lớn được các đạigia địa phương dànxếp; nhưng do nguyêntắc bí mật của ngân
hàng Singapore vàHồngKôngnênkhôngthể định lượng được.Vào ngày 8 tháng 10thời gian đồng rupiđược giao dịch với3.700rupiănmộtđôlaMỹSuhartođãcầucứuIMF và các cuộc đàm
phánbắtđầu.Ngày23tháng 10, sự chú ýchuyểnsangthịtrườngtàichínhlớnnhấttrongkhuvựclàHồngKông.Chỉ số Hang Seng sụtgiảm 10% mỗi ngày.Cácnhàđầucơđã tìmcách tấn công đồng
đôla Hồng Kông,nhưng bất chấp hệthống tiền tệ khắt khecủa vùng lãnh thổ này(nghĩa là, về cơ bản,đồng đôla Hồng Kôngđang lưu thông hoàntoàn được hậu thuẫnbằng quỹ dự trữ đôla
của Mỹ), điều nàykhông dẫn đến phá vỡsựquyđổimàdẫnđếnviệc tăng lãi suất; nhucầu tích trữđôlaHồngKông để bán ngắn chỉlàm tăng chi phí vay.Tuynhiên,Ủybantiềntệ không phải là liều
thuốc chữa bách bệnhvì lãi suất cao khiếncho thị trường chứngkhoántrởnênhỗnđộn.Từ đầu tháng 8 đếncuối tháng 10, thịtrường Hồng Kông đãmấtđimộtnửasốvốncủa nó. Giá bất động
sản cũng bắt đầu suygiảm theo đường dốcđứng.
Nămmới 1998 có sựsụt giá mạnh của cácloại tiền tệĐôngNamÁ. Vào tháng Giêng,đồng bạt Thái sụt giásovớiđồngđôla,56ăn
1, đồng rupi Indonesia15.000 ăn 1, đồngringgitMalaysia4,8ăn1 và đồng peso củaPhilippines là 44 ăn 1,biểu thị sự mất giáchung 4585% trongmột vài tháng. Tỷ giáhốiđoáixuốnggầnđến
mức thấp nhất trongcơn khủng hoảng.Trong thời gian này,những nước cờ cuốicùng của Suharto bắtđầu được triển khai ởIndonesia. Ngày 31tháng 10 năm 1997,chínhphủIndonesiađã
kýmột lá thư đầu tiênngỏývới IMFvềmộtgóicứu trợ43 tỷđôla.Tuy nhiên, việc giảingân số tiền này đượcđặt điều kiện là phảibãibỏcartelvánépcủa"Chú" Bob Hasan,công tyđộcquyềnxay
xát bột Bogosari củaLâm Thiệu Lương,công ty độc quyềnnhập khẩu cây đinhhươngđểđổilấythuốclá kretek, và nhiềucôngtykhácnữa.IMFcũngyêucầuđóngcửa16ngânhàngđãvỡnợ,
bao gồm Ngân hàngPacific của IbnuSutowo, Ngân hàngAndromeda củaBambang Suharto vàmột ngân hàng dongười em cùng chakhácmẹcủaSuhartolàProbosutedjo kiểm
soát.
Việc đóng cửa cácngân hàng này trongtháng11có thể làmộtsailầmvìđãgâyrasựhoảng loạn ngày càngtăng ồ ạt làn sóng rúttiền của những ngườigửivàcáccuộcchuyển
vốn ranướcngoàiướctính khoảng 8 tỷ đôlavàcàng tăngcao trongquý IV năm 1997.Nhưngquan trọnghơnlà,trênthựctế,tiềncủaIMF đã không đượcgiải ngân, bởi Suhartonóimột đằng làmmột
nẻo.NgaycảtrướckhiđồngýkýthưgửiIMF,ông đã chỉ đạo ngânhàng trung ương choNgânhànghỗtrợthanhkhoản Indonesia (hoặcBLBI, viết tắt theotiếng Mã Lai ởIndonesia) vay tiền để
hỗtrợcácngânhàngtưnhân đang túng quẫn.Trong tháng 11, BộtrưởngTàichínhMarieMuhammad từchối trảlời tin đồn rằng ngânhàng trung ương đãcho vay ra 8 nghìn tỷrupi,tráivớichínhsách
cho vay nghiêm ngặtmà IMF muốn có đểbảovệcác loại tiền tệ.BambangSuhartođượcphép chuyển nhượngtàisảnvàcáckhoảnnợcủa Ngân hàngAndromeda cho mộtngân hàng do Lâm
Thiệu Lương kiểmsoát. Trong tháng 12,Suharto sa thải bốntrongsốbảyGiámđốcđiều hành của ngânhàng trung ương vàcông tác tín dụng củaBLBI liên tục khôngđược kiểm soát. Đến
cuối tháng1, 85nghìntỷ rupi đã được bơmvào hệ thống ngânhàng, và con số đó sẽtăng tới 145 nghìn tỷ.Chỉ có 50 nghìn tỷ làdo công chúng rút ra,sốcòn lạiđượccácbốgià sử dụng để mua
ngoạitệ(vàdođócànglàmchođồng rupimấtgiáthảmhại).Saunày,có người tiết lộ rằngôngbạnnốikhốngườiTamil Sri Lanka củaSuharto là MarimutuSinivasan, người đứngđầutậpđoànTexmaco,
cũng kiếm cho mìnhđượcsố tiềnđángkinhngạc 900 triệu đôla từquỹ dự trữ ngoại tệđang teo dần của ngânhàng trung ương vàođầunăm1998.Suhartođã nói với ngân hàngtrung ương rằng bạn
mìnhcầnsốtiềnđó.
Đồng rupi đang chìmnghỉm và không baogiờcómộtcơhộingoilên.Tiềnmặttronglưuthông tăng 50% trongba tháng tính đến hếtthángGiêng.Indonesialà nước đầu bảng đưa
cuộc khủng hoảng vàođạihỗnloạn.Lầnlượt,các nhà lãnh đạo thếgiới gọi điện choSuhartovàyêucầuônglưu ý đến IMF. VàothángGiêng,mộtnhómnhân viên IMF quaytrở lại và đã ký một
thỏa thuận thứ hai,vĩnh viễn lưu lại mộttrong những hình ảnhấn tượng thời đại nàyGiám đốc điều hànhcủa IMF là MichelCamdessus đứngkhoanh tay cao hơnSuharto khi ông già
nàyđangđặtbútkýcácthứ giấy tờ. NhưngSuharto đã không còncam kết mạnh mẽ vớivụ này như thỏa thuậnthứ nhất. Trong tháng2, lực lượng vũ trangcủa ông bắt đầu cóphản ứng với các vụ
biểu tìnhcủasinhviênbằng những vụ bắt bớtrái luật. Đầu tháng 3,ông tái đắc cử chứcTổng thống và lập ramột nội các kém tincậy nhất trong lịch sửIndonesia, giao choTutut Suharto làm Bộ
trưởng các dịch vụ xãhội, Bob Hasan là BộtrưởngThươngmại vàCôngnghiệp.Vàongàythứhai trong cươngvịnày, Bob đã bày tỏquanđiểmcủamìnhvềcáccôngtyđộcquyền:"Nếu họ phục vụ các
nhucầucủangườidân,thì không có vấn đềgì."
Lạm phát đã tăng vọt,tiền lương thực tế sụtgiảm,vàcáccuộcbiểutình lan rộng. Bạo lựcxảyratrongtháng5tạiJakarta, Yogyakarta,
Bogor và Medan. Sauđó,cácsựkiệntrởnênkháclạ.IMFđãcóthỏathuậnkháctrongtháng4, một trong nhữngđiều kiện là tăng giánhiênliệulênmộtchút.Vào ngày 5 tháng 5,Suharto tăng giá nhiên
liệu lên70%vàgiávéxe buýt cũng tăngtương đương. Vàongày 9 tháng 5,Suhartođãtổchứcmộtcuộchọpbáohiếmhoi,tại đó ông nói rằng,ông thôngcảmvớinỗikhổ của người dân vì
chínhôngcũngđãtừngnghèo khổ, rồi đểmặcđấtnước,ôngthựchiệnmột chuyến công dukéo dài 10 ngày. Cáccuộc xung đột đẫmmáu với lực lượng anninh đã sớm xảy rakhắp Indonesia, điển
hình là cuộc bạo độnglớn nổ ra ở Jakartangày14tháng5.Trongba ngày, đám đôngnhững preman, "ngườitiền sử" thế giới ngầmcủa Indonesia theo hộiTamHoàngvàbọnduthủ du thực đã cướp
bóc, hãm hiếp và giếtngười. Hơn 1.200người chết, khu phốcủangườiTrungQuốcởphíabắcJakartađãbịtàn phá nặng nề. Lựclượng an ninh thôngđồng với đám ngườinày, mặc dù đã được
chỉđạo,và sựviệckếtthúc thế nào cho đếnnayvẫn làvấnđềphảiphỏng đoán.Nếu quânđội ủng hộ Suharto,bạolựccóthểphùhợpvới mục đích của ôngta,nhưngnếuquânđộiquay lưng lại với
Suharto điều đó đãtừng xảy ra với ngườichỉhuycaocấpvàứngcử viên Tổng thốngtương lai là tướngWiranto bạo lực cũngcó thể biện minh choviệc quản lý quân độicủaông ta.Cuối cùng,
người thua trong cuộcchơi “Khuyến khíchhỗn loạn và Tự giớithiệumình”vớitưcáchmột vị cứu tinh chínhlà Suharto. Quay lạiJakarta, ông nhận raquân đội và Wirantokiên quyết chống lại
mình,vàôngđãđồngýtừ chức vào ngày 20tháng5.Tuynhiên,đólà một thất bại đượcdàn xếp vì quân độiđồng ý rằng Phó ChủtịchJusufHabibiesẽlàngười thay thếSuharto.
Nhưthế,Indonesiađãthiết lập nên các tiêuchuẩn kiểm nghiệmhoặclàbạolựcdẫnđếnchết người hoặc làthảm họa về kinh tếcho cuộc khủng hoảngtài chính châu Á.Trong quý II năm
1998, số liệu chínhthứcchothấynềnkinhtế giảm 16,5% so vớinăm trước, trong khigiá cả tăng hơn 50%trong sáu tháng đầunăm. Việc hất cẳngSuharto khiến chínhphủmớicóthểlàmcái
gì đó nghiêm túc hơnvới IMF, nhưng nó đãkhông làm, cho đếntháng1năm1999,cácđạoluậtđãđượcthôngqua tạo khả năng chonhữngcuộcbầucửdânchủ hơn vào cuối nămđể chấm dứt nhiệm kỳ
của Habibie. Sau mộtgiai đoạn ngắn ngủicủachínhphủthiểncậndo giáo sĩAbdurrahman Wahidđứng đầu,một sai lầmkhác lại bắt đầu dướinhiệm kỳ Tổng thốngcủa người con gái
Sukarno là MegawatiSukarnoputri. Cả haichính phủ đều đã mắcbệnh dịch tham nhũngvàbạolựccủacácphephái.
ĐẾNNƯỚCNGAVÀQUAYLẠI
Ngay khi Suharto mấtchức Tổng thống vàomùa hè 1998, giữa lúctìnhtrạngbạolựctồitệnhất ở Indonesia trongbathậpkỷ,cuộckhủnghoảngtàichínhchâuÁđã lây lan ngoài khỏikhu vực, sang đến
nước Nga. Mặc dù cósự hỗ trợ của IMFtrongtháng7,đồngrúpcủa Nga giảm giá vàotháng 8 và việc trả nợcủa chính phủ bị hoãnlại.Trongthựctế,cuộckhủnghoảngởNgacóít điểm chung với
những gì diễn ra ởĐông Nam Á, nhưngnó bổ sung rất nhiềuvào tình cảnh bất ổnmang tínhquốc tế.TạiKuala Lumpur,Mahathir đã quyếtđịnh, sự quan tâm củaIMF thế là đủ và giải
phápcủaMalaysiachovấn đề của nó là mộtgiải pháp đơn phương.Ông đã áp đặt việckiểmsoátvốnvàongày1tháng9,đãgọingườibạn đồngminh cũ củamình là DaimZainuddinvàonộicác.
Bằng cách này, cónhiều thời gian để cácnguồn vốn có thể đưara nước ngoài, nhưngcử chỉ không hòa hảovới IMF và việcDaimđã công bốmột khoảngiảicứu2,7tỷđôlachodoanh nghiệp dài hạn
của UMNO, tập đoànRenong, đã kích thíchvòng quay cuối cùngcủa các loại tiền tệchâuÁ khác. Cấp phócủaMahathirlàAnwarIbrahim,một người đãtừng hoạt động trongphong trào sinh viên,
ngườiđãtừngđượcthunạp bởi giới tinh hoachính trị của UMNO,rồibịthảihồivàbịbắtvề tội tham nhũng, vàsau đó là vì quan hệđồng tính.Sai lầmcủaônglàbấtđồngvớiôngchủ của mình. Kuala
Lumpur, theo nhữngtiêu chuẩn khu vực,một thời gian dài đãđược thụ hưởng quangcảnh đồng tính namtương đối rộng mở vàkhoandung,nhưngkhicầnmột cái cớ để tiêudiệtcấpphócủamình,
Mahathir đã lột bỏ cáiáo choàng che đậy sựvi phạm trắng trợn vềđạođức.Anwartừchốimọi vụ việc; ông đãphải chịu đánh đập vàmột phiên tòa rất nựccười.Đólàsựnghiêngngả điển hình của
ĐôngNamÁ.
Đúng lúc Mahathirđangsẵnsàngthắtchặtthị trường Malaysiavào tháng 8, chínhquyền Hồng Kôngcũng đang khổ sở vìcơn bệnh hoang tưởngcấptínhcủahọ.Joseph
Yam, Giám đốc điềuhànhcủaHộiđồngtiềntệHồngKông(biếnthểđịa phương của mộtngânhàngtrungương),thông báo rằng vùnglãnh thổ này đang đốimặt với một "âmmưunghiêm trọng" của các
nhà đầu cơ. Sau đó,Yam tuyên bố: "Cácnhà đầu cơ tung ranhững cuộc tấn côngcó sự điều phối và đãđược lập kế hoạch tốttrên khắp các thịtrường của chúng tôi."Trênthựctế,ýniệmvề
mộtâmmưuquốctếlàhuyền ảo, nhưng cácnhàđầucơcánhânnhưlà thói quen của họ đãchứngtỏlàrấttháovát.Họ tích lũyđôlaHồngKôngbằngcácphươngtiệnnhưpháthành tráiphiếungắnhạn rồi sẵn
sàng bán hết trên thịtrường chứng khoán.Điều này đã làm choHội đồng tiền tệ,những người đã kíchthích lãi suất khi đồngđôla Hồng Kông đượcvaythôngquahệthốngngân hàng, ít hiệu quả
hơn trong việc giảmnhẹ đầu cơ nhằmchốnglạiviệcquyđổi.Nhưngthayvìtiếpcậnđểđiềuchỉnhquyđịnhvídụ,thắtchặtcácđiềukhoản thanh toán đốivới bánngắn cácquanchức quan liêu quyết
định tuyên chiến vớithị trường. Ngày 28tháng 8, chính phủ đổ15 tỉ đôla dự trữ củamình vào các sàn giaodịch ở địa phương,muatăng10%cổphiếuvốnlớn(chủyếulàcácbố già) như một nhát
búa đánh vào nhữngngười bán ngắn. Điềunàyđã tạora thông tinrằng Joseph Yam vàđồng nghiệp của ôngđãmô tả động thái vàcácmốiđedọatiềmẩnkhác liên quan đến"thắng" và "bại" trong
trận chiến chống đầucơ.Khôngcómộtgợiýnào về hoàn cảnh củaHồng Kông phản ánhnhững điểm yếu có hệthốngtrongnềnkinhtếcủanó,khôngcóngụýnàovềbãibỏquyđịnh,xóa bỏ những cartel
hoặcđảmbảosứccạnhtranh mạnh hơn. Việcmuacổphần lớn tựnóđã được ấn định thờigian một cách ngẫunhiên và sẽ chứngminhlàcólãi.
Nhưng, trong nhậnthức, hành động này
báo hiệu một sự canthiệp vào nền kinh tếchủđộnghơntheokiểuSingapore. Sáu thángsau, Donald Tằngthông báo rằng chínhphủđãbàngiao lô đấtđịnhxâychungcưcaocấpcuốicùng trênđảo
Hồng Kông cho contrai của LýGia Thànhlà Richard trong mộtdự án không qua đấuthầu,lạiđượctrảchậmđểxâydựng cái gọi làmột "cổng thông tinmáy tính". Dự án nàylạihóathànhmộtdựán
xây dựng khu nhà ởsang trọng với mộtcổng thông tin hữutuyến. Hồng Kôngkhông bao giờ là nềnkinh tế tựdonhư thựcdân Anh đã tuyên bố,mà hiện giờ nó đangđược dẫn dắt đi tiếp
theo một hướng sailầm.
Điềumỉamai của tròhề cuốimùa hè này làcác nền kinh tế ĐôngNam Á đang dần ổnđịnh. Đồng bạt TháiLan, đồng rupiIndonesia, đồng peso
Philippines, đồng đôlaSingapore,đồngringgitMalaysia đã trụ vữngvào mùa thu và đãđượccủngcốmộtcáchkhiêm tốn từ tháng 9.Những lời nói hoamỹtrênnóivềcuộckhủnghoảngtiềntệvàsựđầu
cơ hèn nhát, nhưngthựctếhiểnnhiênlàthịtrường đã hoàn toànđiều chỉnh tiền tệ đếnmức tương xứng vớinhữngnguyên tắckinhtếcơbản.Đặcbiệt,cácloại tiền đã giảm đếnđiểm mà tại đó các
ngành hàng xuất khẩucủaĐôngNamÁ luônluôn được giữ ở tìnhtrạng hợp lý vì họ sảnxuấtranhữnghànghóađượcbán trênphạmviquốctếđãcósứccạnhtranhhơn.Khôngcógìđáng ngạc nhiên là sự
phục hồi của khu vựckhông phải do các tậpđoàncủacácbốgiàmàdo các nhà xuất khẩudẫn dắt. Tuy nhiên,trong khi sự phục hồichậm chạp và chắp vádiễn ra, ảnhhưởng lâudài của cuộc khủng
hoảngđối với cấu trúcdoanh nghiệp trongnướclạikhôngmấyrõràng.Với kiến thứcvềmột thập kỷ như trên,bâygiờchúngtađãcóthể nói chuyện vềnhững người có thẩmquyền lớn hơn, nhưng
chưathểkết luậnđượcđiềugì.
MỘT CUỘC KHỦNGHOẢNGÁCĐỘC
Cuộc khủng hoảng tàichínhchâuÁđãgâyrahai điềuđối với doanhnghiệp trongnướcquy
môlớnởĐôngNamÁ.Thứ nhất, nó thủ tiêuhoặcloạibỏmộtsốbốgià có sức cạnh tranhkémnhất,cógiátrịsuygiảm lớn nhất củanhững năm 1990. Thứhai, nó mang đếnnhữngthayđổipháplý
đángkể,mặcdùmộtsốthay đổi chỉ có cái vẻbề ngoài. Hậu quả là,đầu tư trực tiếp củanước ngoài, kéo theoáplựccạnhtranhtrongcác ngành "nhạy cảm"trướcđâyđóngcửađốivới đầu tư bên
ngoàichẳng hạn nhưdịch vụ tài chínhtănglên và đã có một tácđộng tích cực. Tuynhiênvàđâylàđiềutácgiảvẫncòndèdặtcuộckhủnghoảngđãkhôngthayđổicấutrúcchínhtrị kinh tế cơ bản của
khuvực.Cácnềnkinhtế địa phương vẫn lànềnkinh tếcủacácbốgià, và những bố giàthôngminh nhất, khônkhéonhấtthựcsựđượccuộckhủnghoảng làmcho mạnh thêm. Chođếnkhihệthốngtạora
nềnkinhtếcủacácđạigia thayđổi,đa sốcácbốgiàsẽvẫnkhôngthểchạmtớigiốngnhưcácbố già người Mỹ hồiđầu thế kỷ XX. Hơnnữa, như chúng ta sẽthấy,cácbốgiàmớisẽrađời.
Nhữngbốgiàyếukémnhất là những bố giàtừngđượctônvinhlênđịavịcaovìcáigọi làmục đích xã hội học.Đây là trường hợp cácđạigiacủaMalaysiavàIndonesia, nhữngngườiMãLaivàngười
Indonesia bản xứ.Philippines có mộtnhóm các bố già đượcnângniu chiều chuộngdướithờiMarcoshọđãtạoracácđếchếdoanhnghiệp chỉ vì họ đãcùng học đại học vớiTổng thống hoặc thân
với vợ Tổng thống;nhữngngườinàyđãbịxóa sổ trong cuộckhủng hoảng vào đầuvàgiữathậpniên1980ởPhilippines.
Tại Malaysia vàIndonesia, các côngdân gốc Trung Quốc
hoặc lai Trung Quốcđôi khi tuyên bố cácđại gia người gốc MãLai và gốc Indonesiathất bại ở cuối thậpniên 1990 vì họ đãkhông thích nghi vềvănhóa,thậmchícảvềchủngtộcvớiviệckinh
doanh. Trong thực tế,những người này chưabao giờ được chọn lọcnhư cách các bố giàngười nước ngoài đãđượcchọnlọc;giađìnhhọ chưa bao giờ phảikiếm những triệu đôlađầu tiên để tham gia
cuộc chơi của các bốgià. Tại Malaysia, họđều xuất thân từ cácđường phố ở thành thị(điều này không cónghĩalàđườngphốcủagiai cấp công nhân).Tại Indonesia, hầu hếthọ là con em của
Suharto,vàbạnbècủahọ. Hơn nữa, nhữngngười này không phảilà đại gia theo nghĩathôngthường.Phầnlớnhọ đóng vai trò lànhững cái kho chôngiấu của cải của cácchính trị gia tài sảnvà
các nguồn tài trợ cóliênquanđếnĐảngdântộc thống nhấtMãLaivà các gia đình cầmquyền cùng bộ máychínhtrịGolkarcủanóở Indonesia. TạiMalaysia, các bố giàgốcMãLaiởđẳngcấp
cao nhất cũng thiếudòng tiềnmặt chủ yếucác công ty độc quyềnvề hàng mềm và giấyphép tổ chứcđánhbạccó thể tạo ra sự bảođảmđểchốngđỡtrongthời kỳ khó khăn.Những người theo đạo
Hồi không được thamgia các hoạt động cờbạc, vào thời gian đólại có rất nhiều ngườibảnxứlàmkinhdoanh,nên họ thường đượcsắp xếp cho các côngty độc quyền có lợinhất. Tóm lại, những
người đại diện chongười bản xứ này đãrơi vào cơn khủnghoảng, nhưng khôngphảivìlýdoditruyền.
ỞMalaysia,kẻbùnhìnngười gốc Mã Lai làHalim Saad, một kẻthích ăn diện và dùng
những đồ nội thất vănphòng đắt tiền, đượcBộtrưởngTàichínhvàthủ quỹ DaimZainuddin của UMNOthunạp.Halimđãđượcbổ nhiệm vào thời kỳcao điểm của năm1990, khi việc kiểm
soát đường cao tốcBắcNamcủaMalaysia,sau đó trực tiếp thuộcsở hữu của UMNO,được chuyển cho ôngta.Ôngtađãđổitàisảnnày để kiểm soát mộtcông ty niêm yết đanghấphốilàRenong.Sau
đó, doanh nghiệp đầutàu này được nhồi đầycác hợp đồng tư nhânhóa không qua đấuthầu của chính phủ ởmọinơi.Năm1997,nócó11côngtyconđượcniêm yết tham gia vàotất cảmọi lĩnh vực, từ
ngân hàng, viễn thôngcho đến xây dựng cơsở hạ tầng và dầu khí.Mặcdùhàophóngnhưvậy nhưng Renong đãcó một lịch sử khủnghoảng về thanh toán,kiếm được rất ít tiền,vànăm1997đãnợ25
tỷ ringgit món nợ lớnnhất trong cả nước,chiếm khoảng 5% sốdư nợ của hệ thốngngânhàng.Khi sự suythoái và mất giá lêncao, Renong không cócáchnàotrảlãichocáckhoảnvaycủanó.Giải
pháp của chính phủ làmột cuộc giải cứu, đãthiết lập nên một tiêuchuẩn mới cho sựkhông biết hổ thẹn làgì.
Daim,quay lạinộicácnăm 1997, ủy quyềncho một trong những
côngtyniêmyếtkhôngcó ảnh hưởng củaRenong là UnitedEngineers Malaysia(UEM), để vay 2 tỷringgit và sử dụngkhoản vay này, cộngvới dự trữ tiền mặt,mua 32% công ty mẹ
của mình mà khôngcần phải làm thủ tụcchào giá chung. Đó làmột mũi tên bắn vàocác cổ đông thiểu sốcủa UEM buộc phảimuamột công ty đangthất bại để cứu vớtRenong. Nhưng việc
làmđókhônghiệuquả,vìvớiviệcbánđấugiácông khai như vậy,Halim Saad buộc phảihứa hẹn mua lại cổphầncủaRenongtrongvòngbanăm.
Nhưng ông ta đãchẳng có cách nào để
thực hiện lời hứa đó.Ông ta đã dành thờigian để mơ về mộtkhoản trái phiếu 17 tỷringgit phải thanh toánmột lần sau 7 năm sẽđượccôngbốvìmộtlýdonàođấy.Nhưng thịtrường này đã không
quan tâm. Năm 2001,chínhphủđãbuộcphảisửdụngcôngquỹđểtưnhân hóa UEM, vàcũng đã làm như thếvới Renong vào năm2003. Chi phí chongười nộp thuế vàmạng lưới chuyển
nhượng tài sản ít nhấtlà 10 tỷ ringgit.HalimSaad, người năm 1997từngcôngbốtàisảncánhân củamình là 2 tỷđôla, đã rời bỏ sânkhấu kinh doanh.Mahathir đã thả lỏngôngtasaukhibấtđồng
với Daim vào năm2001 với những lý dorất mờ ám, nhưngMahathir có thói quentiết lộ với rất nhiềungười và năm 2006,Halimphảiđốimặtvớinỗi nhục đứng trướcvành móng ngựa của
tòaánvớitộidanhpháhoạitínnhiệm.
KếtcụccủamộtnhânviênđượcDaimcheđỡlà Tajudin Ramli cũngnhưvậy.Làmộtngườigốc Mã Lai xuất thântừ gia đình giàu cócũng như Halim,
Tajudin được cấp giấyphépđộcquyền5nămvề kinh doanh điệnthoại di độngvào cuốinhững năm 1980, vàsauđó, vàonăm1992,đã nhận được cáckhoảnvaycánhân lớnnhất trong lịch sử
Malaysia, cho phépông ta kiểm soát hệthống vận tải hàngkhôngquốcgia(MAS).Khi cuộckhủnghoảngtàichính làmgiảm lưulượng hành khách,MAS đã công bốnhững thua lỗ rất lớn.
Những người đóngthuế của Malaysia,thôngquacơquancủaDaim Zainuddin, đếnđể cứuhộvào tháng2năm 2001 bằng cáchmua lại cổ phần củaTajudin với giá 8ringgit một cổ phần
trongkhigiáthịtrườngchỉ trên 3 ringgit mộtchút (quanh thời gianđó, chính phủPhilippines cũng đãgiải thoát ông bạn nốikhố của Marcos làLucio Trần, người đãtiếp quản Hãng hàng
không Philippines).Tajudin được sử dụngsố tiền này để chèochống doanh nghiệpđiện thoại của mình.Không may, người tađã tìm ra bằng chứngrằngông tacó thể thụtkét một khoản tiền rất
lớn của MAS, nhiềumáybayvậntảikýhợpđồng ở Đức với mộtcông ty tư nhân, trongđó Tajudin giữmột sốtiền đặt cược khá lớnnhưng không công bố.MAS đã đệ đơn kiệnTajudin Ramli lên tòa
ántốicaoMalaysiavàonăm2006.
TrongsốnhữngngườiMalaysia gốc TrungQuốc,cómộtvàikẻvôlạinhấtđãbịxửchém.JosephChong,mộtcựuchínhtrịgiacấpcaolàđồng minh của
Mahathir, xây dựngmột tổng công ty theohình tháp điển hìnhtrong thập niên 1990cùngvớinhàmáyđóngtàu Sabah, các dự ánbấtđộngsảnlớnvàcácdoanh nghiệp sản xuấtđểtrangtríchonó.Đồ
trang trí lớn nhất là"CôngtythépquốcgiaPhilippines",một phầncủa đề án xuất khẩu"công nghệ" Malaysiacủa Mahathir ra khắpkhuvực.NhàmáythépởMindanaođãgặprắcrối nặng năm 1996 và
chính phủ thuyết phụcHalimSaad, thôngquamột công ty tư nhân,mua nó với giá trên 3tỷ ringgit. Các nguồnvốn hỗ trợ trả nợ màchính phủ Malaysiacấp cho Halim khôngcông bố điều gì về tài
sản vật chất ởPhilippinesđãđượcthếchấp cho các chủ nợđịa phương và nhữngngười nộp thuế ởMalaysiachịuphầnlớncáchóađơnthanhtoánsau khi nhà máy thépquốc gia bị đình chỉ
sảnxuất tháng11năm1999. Trong khi đó,JosephChong côngbốlỗhàngtrămtriệuđôlatrongcácdoanhnghiệpkhác của ông ta, và làdoanh nhân đầu tiênnhờtòaánbảovệtrướccác chủ nợ khi cuộc
khủng hoảng tài chínhxảyra.Ôngtađãthoátra khỏi đời sống côngty. Công ty bất độngsản đa mục đích(MPH) do bố già nàylãnh đạo, đã phá sảnngoạn mục trongnhững năm 1980 sau
khi được tiếp thị vớicộngđồngngườiTrungQuốc là một doanhnghiệp hợp tác đầu tưlớn.Saukhiôngchủcũcủanóvàotù,MPHđãđược bán cho LimThian Kiat (thườngđượcgọilàT.KLim),
mộtbốgiàtươnglaicóquan hệ tốt với giớichính trị như AnwarIbrahim. Trong nhữngnăm 1990, Lim lặp lạihành động dại dột củaMPH, tiếp tục chìmđắm và giúp doanhnghiệp của ông ta nợ
gần1tỷđôla.MPHcódòng tiềnmặt chủ yếutheohình thứcnhượngquyềnkinhdoanhsòngbạc Magnum nhưngLim vẫn quản lý kémnên nó lại bị phá sảnmột lần nữa. Quan hệcủa ông ta với Anwar
bị đứt sau khi vị PhóThủ tường này phảivàotù,cónghĩalàLimkhôngcònbạnbètronggiới quyền lực. TạiIndonesia, sự sụp đổcủa Suharto làm chohầu hết các đại giatham nhũng trắng trợn
đều phải có một sốtoan tính khiêm tốn.Cái gia đình đệ nhấttrước đây, mặc dùnhững lời hoa mỹmangtínhchínhtrịđặcbiệt nay đã nói ngượclại, là tất cả nhưngkhông thể đụng chạm.
Suharto biết quá nhiềuvề tội lỗi của nhữngngườicònlạitronggiớitinhhoachính trị; cáctướng lĩnh cao cấpkhông muốn ông taphải ra tòa, và nhữngngườikếvị củaông tađặc biệt là Habibie,
Wahid và Megawatihầu như không cóhướng để giải quyếtông vua đã bị lật đổnày.Hơn nữa, Suhartođã già, đã chịu nhiềucơn đột quỵ sau cuộckhủng hoảng, và rấtnhiều bác sĩ sẵn sàng
chứng thực rằng ôngkhông thể đối mặt vớicác cuộc thẩm vấnhoặc xét xử. Số tiềnphải trả liên quan đếnviệcgianlậntạicáccơsở mà gia đình ôngkiểm soát, nhưng chưabao giờ nghiêm túc
theo đuổi đã được xóavàotháng5năm2006.NhữngướclượngkhácnhauvềsựgiàucómàSuhartos tích lũy đượctrong suốt thời giancầm quyền đã đượcđưa ra.Một cuộc điềutra năm 1999 của tạp
chí Time cho biết giátrị tàisảnkhoảng15 tỉđôla.Tổchứcgiámsátviệc đút lótTransparenyInternational đóng ởBerlin lại cho làkhoảng 1535 tỷ đôla,để ở một nơi nào đó
trong khu vực. DavidBackman,mộthọcgiả,đã liệt kê được 1.247công ty mà gia đìnhnày có cổphần.Trướcsự tức giận đến cùngcựccủadânchúngsaucuộckhủnghoảng,hầuhếtconcáinhàSuharto
đềutỏrakhiêmtốn.Họlặng lẽbánhết tài sản,bao gồm cả các bấtđộngsảnsangtrọngthểhiệnsựgiàucócủahọ.Tháng 4 năm 2002,Bambang từ bỏ quyềnkiểm soát của mìnhtrongcông tychínhdo
gia đình nắm giữ làBimantara.
VấnđềlàTommy,contrai út của Suharto, vìcoi khinh các tổ chứccủa chính phủ và sựnhòmngó có vẻ khiêukhích của công chúngnên anh ta trở thành
một nhân vật đặc biệtđáng ghét. Vào cuốinăm1998,Tổng thốngkế vị là Habibie, tuyệtnhiên không dính líuđến gia đình dòng dõinày trướckhicáccuộcbầucửdiễnravàonăm1999, đã cho phép
người đứng đầu cơquantưpháptiếnhànhxét xử Tommy vì mộtvụ tham nhũng nhỏ.Anhtaxuấthiệntạitòaán vào tháng 4 năm1999 vớimột đám cáccôgáitrẻtháptùng(dotay chân của Tommy
sắp xếp), và cười toetoét một cách ngạomạn trước ống kínhcủabáogiới.Tiếptheođó làmộtvởkịchcâmvề tư pháp củaIndonesia, trong đóTommyđãhailầnchốibỏ mọi trách nhiệm ở
tòa án cấp dưới khi bịkết tội, và kháng cáolênchínhquyềnWahidhồi tháng9năm2000.LýdoWahid tuyênbốtrắngánkỳcụchếtchỗnói,chỉlàmộtviphạmtương đối nhỏ, nhưngthực tế là mỗi khi
Tommy hoặcBambang,anhtraihắn,được nhà nước triệutập,mộtquảbomlạinổở đâu đó tại Jakarta. Hình như Tommy vàbè đảng thường xuyênlui tới với bọn khủngbố. Và sau vụ đánh
bom ngày 13 tháng 9tại trung tâm chứngkhoánJakarta,trongđócó 15 người chết,Wahid mới muốn loạitrừhắn.Tommybịkếtán18thángtùvàđượcgiam trong một phòngriêng sang trọng. Hắn
đãphảnđốivàtiếptụcchạy án. Sau tháng 7,người đứng đầu banhội thẩm có ba thànhviêncủatòaántốicao,người đã xét xửTommy, bị ám sát.Vàhai thángsau,mộtbanhội thẩm khác của tòa
ántốicaođãlậtngượcán phạt tù Tommy vàhắn vẫn nhởn nhơngoài vòng pháp luật.Trướcsựlaócủacôngluận trong nước vàquốc tế, cảnh sáttrưởng Indonesia đã bịsa thải tháng 11/2001,
và một ngày sau đó,cảnh sát đã tìm đượcTommy một cách kỳdiệu. Hắn được đưađến trụ sở chính củacảnh sát Jakarta. Cảnhsát trưởngđịa phương,có lẽ quên cảnh nàyđang được truyền hình
trực tiếp, nên thảnnhiênômhônchàođónhắn. Tháng 7 năm2002,Tommybịtòaántối cao kết án 15 nămtù,baogồmcảtộidanhra lệnh giết người.Công tố viên đã đềnghị một án phạt nhẹ
khác thường, hắn tiếptục được giảm án, vàTommyđược ra tùhồitháng10năm2006.
Nhânvậtnổitiếngthứhaikhiếndưluậnchúýlà Mohamad "Bob"Hasan. Phiên tòa xửông ta cũng theo mô
hìnhnhưđãxảyravớiTommy, trước khi gãcon traiútcủaSuhartobắt đầu giết người.Hasan bị buộc tội vớihai vụ gian lận liênquan đến việc nhượngquyềnkhai thácgỗ,vàbịkếtánvìmộtvụ,vào
tháng2năm2001.Đầutiên,ôngtachỉbịquảnthúctạigia,nhưngsaumột làn sóng phẫn nộcủacôngchúng,ôngtađược đưa đến nhà tùtrên đảo PulauNusakambangan, nơihàng ngàn tù chính trị
thờiSuhartođãphảibỏmạng. Điều này có vẻnhưmộtcửchỉđầyấntượng,nhưngsauđósựviệc lộ ra rằng, Bobđược cấp một phòngriêng và được đối xửnhư thượng khách chứkhông phải là một
người tù; và ông tađượcphóngthíchtháng2năm2004.
Mộtsốbốgiàcónguycơ vào tù đã học theocáchcủaSuhartolàgiảvờ ốm. SjamsulNursalim, nổi danh vìtrang trại nuôi tôm, đã
bịbắtvàotháng4năm2001 vì nghi ngờ làgian lận. Ông ta nóimìnhcóvấnđềvề timmạch nên đã được thảvà sau đó trốn sangSingapore qua đườngNhật Bản. Người anhem cùng cha khác mẹ
của Suharto làProbosutedjo,bịkếttộilừa gạt trong chươngtrình trồng rừng năm2003 và bị kết án bốnnămtù,cũngmắcbệnhởIndonesia.Trongmộtđộng thái bất ngờnăm2005, ông ta được kéo
ra khỏi phòng điều trịriêngtạimộtbệnhviệntư nhân ở Jakarta vàtống vào tù. SinivasanMarimutu,ôngchủcủaTexmaco, người đãgiàu lên nhờ dự trữngoại tệ của nước nàytrong cuộc khủng
hoảng tài chính, quyếtđịnh rời khỏi đất nướcsaukhibỏquamộtvàilệnh triệu tậpcủacảnhsát; luật sư của ông tanóiôngtacầnđiềutrịytế. Đã có lệnh truy nãông ta trên phạm viquốc tế và hồ sơ của
ông ta vẫn còn xuấthiện trên website củaInterpol.
TÍNH BỨC THIẾTCỦA VIỆC BÃI BỎQUYĐỊNH
Còn lâu mới dễ dànghạ bệ các bố già, và
việc truy tố các vụtham nhũng thông quacơquantưphápđãhọcđược cách để đáp lạingườiđặtgiácaonhất,thôngqua cácđạo luậtmớivàchophépbãibỏmột sốquyđịnh thôngthường của các nền
kinh tế Đông Nam Á.Đâylàtácđộngthứhaicủa cuộc khủng hoảngtài chính. Lực phátđộng lúc đầu ởIndonesia và Thái Lanlà các cuộc giải thoátcủaIMF,vớiđiềukiệnIMFđặtralàtiếnhành
một sốcuộccải tổcấutrúcchưacótiềnlệ.TạiIndonesia, những thayđổi cấu trúc bao gồmchấmdứt việc sắp xếphạn chế thị trườngnhững cartel – đối vớicácsảnphẩmximăng,giấy, gỗ dán; và chấm
dứt trợ cấp công chocácliêndoanhsảnxuấtmáy bay của Habibie,loạibỏBan tiếp thịgỗđinh hương củaTommy Suharto, giảmhỗ trợ cho các chươngtrìnhxehơiquốcgiavàchấm dứt việc đóng
góp 2% sau thuế bắtbuộc vào quỹ từ thiện(trước đây do Suhartokiểm soát). Danh sáchcácmục tiêu tập trungtrực tiếp vào gia đìnhSuharto và các bố giàđẳngcấpcaothânthiếtvớihọ.IMFgặpvấnđề
lớntrongđảmbảoviệctuân thủ các điều kiệncủa nó, nhưng nhữngthayđổicôngkhainàyphầnlớnđềuđượcthựchiện.
Tuy nhiên, những yêucầu quan trọng nhấtcủaIMF,liênquanđến
ngân hàng, và kết quảcủa những mục tiêuđịnhlượngđạtđượctốthơn sovới nhữngmụctiêu định tính. Ở khắpĐông Nam Á, cácchính phủ đã buộcđóng cửa và sáp nhậpcác tổ chức tài chính
nhỏ nhất và yếu nhất,đồng thời gia tăng cácyêucầuđốivớivốnvàkhảnăngchitrảđểgiữsố lượng ngân hàngtrong tương lai trongtầm kiểm soát. TháiLan vàMalaysia đã đixa nhất trong số các
nước "hợp thức".Malaysia không thamgia vào chương trìnhcủa IMF nên nhữngngười điều chỉnh ngânhàngchẳngcầnđểmắtđếnnhữngđềxuấtcủaIMF;tuynhiên,hơn50ngân hàng đã được
giảm xuống đến 10.Indonesia, nơi ngânhàngcủacácbốgiàđãhoàn toàn không thểkiểm soát được trongthời gian dẫn tới cuộckhủng hoảng, vẫn có131 ngân hàng vàocuối năm 2006, nhưng
đang kiên nhẫn hướngtới một quá trình hợpnhất chậm chạp đượcbắt đầu từ năm 1997.Khó có thể tìm đượcbằngchứngcủasựthayđổi về chất trongquanhệ giữa quyền lựcchínhtrịvàngânhàng.
IMF yêu cầu luật hóacác ngân hàng trungương độc lập, nhưngcác cuộc giải cứu dongânhàngdẫndắtdướisự ủy trị của DaimZainuddin tạiMalaysiasau cuộc khủng hoảngđã thất bại, nhiều
khoản vay có sự phêchuẩncủagiớichínhtrịtại các ngân hàng nhànướcởIndonesiatrongnhữngnămgầnđây,vànhữngnỗlựclặpđilặplại của ThaksinShinawatraởTháiLanđể chỉ đạo chính sách
của ngân hàng trungương, không hề cótriểnvọng.
Việc ngân hàng trungương bơm tiền nhằmtăng cường khả năngthanh toán cho cácngân hàng ở IndonesiavàTháiLantrongcuộc
khủnghoảng,đượcđổichỗ cổ phần, làm chochính quyền địaphương trở thành chủsở hữu một nửa cổphần trong hệ thốngngânhàngcủahọ(mặcdù điều này đã đượcthực hiện sau tư nhân
hóa).Cứchorằngngânhàng nhà nước làm ănthậm chí tệ hơn cácngân hàng của các bốgià về các khoản vaykhông phải để làm ăntrong thời gian khủnghoảng, việc mở rộngquyền sở hữu của nhà
nước, kết hợp với thấtbại trong việc tạo racác quy định thực sựđộc lập về ngân hàng,thật kém cỏi. Cuộckhủng hoảng đã để lạimột số nhỏ các ngânhàng trong tay các giađìnhvàmộtsốlớnhơn
trong tay nhà nước.Điều đó đã không tạoranhữngngânhàng tưnhân đa dạng, hoàntoàntáchkhỏiquảnlý,được coi là lợi thế sosánh về cấu trúc, nhưNgân hàng HồngKông.
Các nhà đầu tư nướcngoài, thường là trongkhuvực,đãđượccuộckhủnghoảnggợiýchonhững cơ hội mà họkhông thể có trướcnăm 1997. Một phần,điều này phản ánh cácđiềukiệncủa IMFyêu
cầu tăng cổ phần củangườinướcngoàitrongnhững lĩnh vực kinhdoanhchophép.Ngườimua lớn nhất làSingapore, từ khi cócuộc khủng hoảng đãxuất khẩu một lượngrất lớn thặng dư tài
khoản hiện tại của họthông qua đầu tư ởnước ngoài. Các tổngcông ty nhà nướcmualại các ngân hàng ởIndonesianhưcácngânhàng tư nhân UOB vàOCBC cũng như cácdoanh nghiệp viễn
thông tại Thái Lan vànhiều doanh nghiệpkhác. Các doanhnghiệpnhànướcvàcáccơquanchínhphủcủaMalaysia đầu tư vàocác đồn điền và ngânhàng ở Indonesia. Cáccông ty châu Âu, Mỹ
và Nhật Bản tăng vốncổ phần của họ trongcác liêndoanhhiện tạivềsảnxuất,viễnthông,hóa dầu và bảo hiểm;vàtrongmộtsốtrườnghợp,ởnhữngnơiđượccho phép, và mua hếttoànbộcácđốitáccủa
chúng.Các công ty đaquốcgiavàcáchãngtưnhân mua các doanhnghiệpsảnxuấtvàcácngân hàng với một sốlượng khiêm tốn. Tấtcả điều này đã có tácđộngtíchcựcđếnhiệuquả kinh doanh, mặc
dùviệc thựchiệncạnhtranhtrêntoàncầuvẫnkhôngcầnthiếtởđasốcácdoanhnghiệpĐôngNamÁvìhànghóacủahọkhôngđượcbánquabiêngiới.
Hồng Kông vàSingapore không bị áp
lực vì các điều chỉnhlớn đối với hệ thốngngân hàng của họ, vìcác ngân hàng có vốnlớnvàvữngchắctừlâuđã chiếm vị trí trungtâm trong vai trò củahọ, cũngnhư là nhữngtrung tâm tài chính ở
nước ngoài. Số lượnglớnvốntháochạyđãđivàocácngânhàngcủahọ trong thời giankhủng hoảng. Sự dưthừangânhàngởHồngKôngđãđượcthắtchặtbởi cơ chế điều chỉnhsau khi có sự sụp đổ
ngân hàng đầu nhữngnăm 1980; và ởSingapore, được thắtchặt bằng quyền sởhữu các tổ chức lớnnhấtcủanhànướcbảothủvớimộtchếđộ lậpquy nặng nề. Mặc dùvậy, Cơ quan tiền tệ
Hồng Kông tiếp tụctăngyêucầucôngkhaitài chính của các ngânhàng, trong khiSingapore đi đườngvòng với các ngânhàngtưnhânmangtínhthươngmạihơn,họđãkhởi tố gay gắt ngân
hàng UOB vào năm2000vìcó sự saikháctrongviệckêkhaimộtchinhánhkhôngchínhthức.
ỞHồngKông,cácnhàlãnh đạo chính trị vàỦy ban chứng khoánvàhànghóacókỳhạn
(SFC) ít chịu ảnhhưởng của cuộckhủnghoảng. Các chính trịgia, trong thời kỳ19972005 do đại giađặc khu trưởng ĐổngKiến Hoa nắm quyềnlãnh đạo, chống lại tấtcả các lời kêu gọi tạo
ra một cơ chế điềuchỉnh các công ty độcquyền như ở nhữngquốc gia phát triểnkhác. Các vị trí chínhthức đã được mở cửacho cuộc thảo luậndàihơidưới thờingườikếnhiệm của Đổng là
Donald Tằng, nhưngkhông có sự thay đổilớn. Ủy ban chứngkhoán và hàng hóa cókỳ hạn, với ban quảntrịtừlâuđãbịchiphốibởi các bố già vànhững người được ủynhiệm của họ, tỏ ra
không quan tâm đếncác cuộc cải cách cơbản phổ biến nhất vớicácnhàđầutưthiểusố.Thay vào đó, cơ quannày mãn nguyện vớichính nó qua việc thắtchặt thêm một số quyđịnh hiện hành. Một
cuộckhảosátdoCLSAMarkets côngbố trongtháng 4 năm 2001 chothấy, chỉ có 5% cáccông ty niêm yết ởHồng Kông có mộtChủtịchđộclập,íthơn20% có "Ban Giámđốc" thực sự độc lập,
trong khi bốn phầnnăm doanh nghiệp cóHội đồng Quản trị vàBan Giám đốc về cơbản là được điều hànhbởi cùng một sốngười.
Tuy nhiên, sau cuộckhủng hoảng ở Hồng
Kông,xảyramộtcuộcvận động của các nhàđầu tư thiểu số, đượctiếnhànhtheocáchđộcđáo. Một phần, điềunày phản ảnh quy môlớnhơnvàtínhquốctếcủa thị trường địaphương, với các quỹ
phòng hộ lớn hơn vàcácnhàđầu tư tổchứckhông muốn chơi cáctrò chơi dễ chịu vàkhéo léo theo truyềnthốngđápứngcácnhucầu của các bố già vàcác ngân hàng đầu tưcủa họ. Ngọn đèn pha
dẫn đường trong cuộcđấu tranh từ dưới lênnày là David Webb,mộtchủngânhàngđầutư và cựu nhân viêncủa bố già người địaphương Peter Ngô,ngườiđãthànhlậpnênHiệp hội các cổ đông
thiểu số Hồng Kông(HAMS). Kiến nghịcủa HAMS là nó trởthànhmộttổchứcgiámsát nguồn lực chínhthức,vớimộtbanquảntrị được bầu, được tàitrợ 0,005% tiền thuếthu được về giao dịch
trên thị trường chứngkhoán, đượcnhiềunhàđầutưhỗtrợ,nhưngđãbị chính phủ giải tánnăm 2002. Tuy nhiên,website của Webb vàHAMS vẫn có 14.000người đăng ký vàDavidWebb được bầu
làm Giám đốc khôngđiềuhành củaCông tytrao đổi và thanh toánHồng Kông, một côngty hoạt động về chứngkhoán, cũng là thànhviêncủaBantiếpquảnvà sáp nhập. Vớinhững năng lực này,
ông đã lãnh đạo cáccuộcvậnđộngchomộtloạtcảicách,xâydựngmột cơ sở dữ liệu vềcác trường hợp lạmdụng nhà đầu tư thiểusố và đi đầu trongphong trào chặn đứngmộtsốđềnghịtưnhân
hóa với giá thấp saucuộc khủng hoảng tàichính của các bố giànhư Robert Quách, LýTriệu Cơ và Trịnh DụĐồng. Như Webb đãnói:"Đólàđiềukhảthiđểđạtđượcsựthayđổiở đây. Ở Hồng Kông,
tôikhôngbịđedọavềthân thể, nhưng nếu ởJakarta hay Manila thìtôisẽkhôngcốgắng."
Phản ứng củaSingapore đối với vấnđề quản lý doanhnghiệp, dấy lên bởicuộc khủng hoảng, là
mộtminhhoạhoànhảovề cách tiếp cận củađất nước này đối vớiviệc kinh doanh. Mộtmặt,cơchếđiềuchỉnhđược áp dụng cho yêucầu quản trị doanhnghiệp khó khăn hơnnhiều so với Hồng
Kông, với sửa đổi lớntrongLuậtcôngtynăm2000,vàsauđólàLuậtchứng khoán và hànghóa kỳ hạn.Mặt khác,Singaporevẫnlànơiẩnnáu truyền thống củacác bố già Indonesia.Trong cuộc khủng
hoảng,quốcgianàytrởthànhcăncứhoạtđộngcho các bố già nhưLâm Thiệu Lương vàcontraiônglàAnthonytrong khi chờ cho tìnhhình an ninh ở Jakartađượccảithiện,đểchắcchắn rằng họ không
phải đối mặt với sựtruycứuvềnhiềuhànhđộng bất hợp pháp.Sjamsul Nursalim, bịtruy nã ở Indonesia vìbị nghi là gian lận từnăm2001,cũngđãmởcửahàngtạiSingapore,từđâyôngvẫntiếptục
hoạt động kinh doanhcủamình.CôngtyAsiaPulp & Paper (APP)của gia đình Widjaya,vỡ nợ với 14 tỷ đôla,vàsauđónhưchúngtasẽ thấytrongphầntiếptheo là đối tượng củamột vấn đề khác
thườngvìnhàWidjayađã cố gắng mua lạiquyền kiểm soát côngtyvớigiárẻ,đượcđiềuhànhtừSingapore.Tộctrưởng Eka TjiptaWidjaya đã cư ngụ tạiSingaporekể từkhicókhủng hoảng. Chính
quyền địa phương đãkhôngbaogiờtìmthấynguyên nhân để điềutra APP hoặc bất kỳdoanh nghiệp nào củacác bố già lớn khác ởIndonesia.
Cuộckhủnghoảngđãto đậm thêmmột thực
tế của Singapore: mộtbộmáylậpquycựckỳtrong sạch trái ngượchẳn với một số doanhnghiệp và doanh nhâncựckỳghêtởm.Trongcuộckhủnghoảngnày,Singapore cũngđã sửađổi các quy định để
vạch ra các công việctài chínhởnướcngoàitheomôhìnhkhácvớiThụySĩ,màLiênminhchâu Âu đã từng gâyáplựcđểyêucầunóhỗtrợ kiềm chế việc trốnthuếvàrửatiền.Trongkhiđó,giađìnhLýđức
hạnh quyết định chophép và đấu thầu haikhu nghỉ mát kiêmđánh bạc rộng lớn bấtchấp tầm quan trọngcủa"giátrịchâuÁ”độtnhiên được cho là rấtcần thiết cho tăngtrưởngvàviệclàm.
Ở những nơi kháctrong khu vực, tiến bộvề quy định quản trịdoanhnghiệpđượcđặctrưng bởi những sựchia tách theo truyềnthốnggiữalýthuyếtvàthực hành. Thị trườngchứng khoánMalaysia
đã giới thiệu nhữngquyđịnh tựnguyệnvềquản trị doanh nghiệpvàonăm2000,thayđổicác nguyên tắc niêmyết, trong đó có lệnhcấm (trước đây đượchưởng nhiều ân huệ)các khoản vay đối với
các công ty khôngniêm yết và các bênthứbakhác.Tuynhiên,khi những thay đổikhiêmtốnnàyđượcđềxuất, chính phủ lạiđangđangbậngiảicứucác công ty có mốiquan hệ tốt với giới
chính trị như Renongvà Hãng hàng khôngMalaysia. ỞPhilippines, hầu nhưkhông có thay đổi nàovề luật định, và Tổngthống Joseph Estradavẫnkhẳng định thịtrường chứngkhoán là
“bình thường”. MộttrongnhữngyếutốgópphầnvàosựsụpđổcủaEstrada năm 2001 làmột vụ bê bối về thaotúng, trong đó Estradavẫncốgắngngănchặncác cơ quan điều tra.LucioTrần,một người
bạnvàngườihậuthuẫnvề tài chính choEstrada, nắm đượcquyền kiểm soát Ngânhàng quốc giaPhilippines (PNB) vớinhững quyền đượcchính phủ xác nhận làchỉ trao cho Tan. Sau
đó, Tan đã bội ướckhôngmuahếtcổphầncủachínhphủ tạiPNBvì ông ta đã có đủquyền kiểm soát nó.Eduardo “Danding”Cojuangco, một ôngbạn nối khố khác củaMarcosvàbạnthâncủa
Estrada, cũng phát đạttrong nhiệm kỳ Tổngthống của Estrada, vàgiành lại được chứcChủ tịch của SanMiguel. Tại Indonesia,yêu cầu đối với cáccuộc cải cách lớn vềquản trị là tăng cường
tính độc lập của BanGiámđốcvà thành lậpcác uỷ ban kiểm toán.Tại Thái Lan, cũngtương tự, những thayđổilàkhákhiêmtốn.
NHỮNG THAY ĐỔIBỔSUNG...
Phần trướckhôngphảikhôngngụýrằngcuộckhủng hoảng khôngphải là một tác nhânthay đổi. Điều muốnnói là, sự thay đổi chỉdiễn ra ngoài lề và vềbản chất là không cơbản. Điều này trở nên
rõ ràng khi chúng taquay lạimột phân tíchmang tính giai thoạinhiềuhơnvềcách làmăncủacácbốgià.
Philippines ít bị ảnhhưởng của cuộckhủnghoảng hơn các nướcĐông Nam Á khác vì
nó đã trải quamột lầngầnnhưsụpđổvềkinhtế trong những nămcuối thờiMarcos cũngnhư những năm tiếptheocuộclưuvongcủaông.Đâylànềnkinhtếbạn nối khố thô thiểnnhất cho sự giám sát
của IMF và các nhiệmkỳ Tổng thống củaCory Aquino và FidelRamosvànóđãkhôngmang theo gánh nặngnợ nần theo phongcách châu Á , ở giữanhữngnăm1990.Điềunày được ủng hộ bởi
một thực tế là, ngườinướcngoàibịkiềmchếkhông muốn đổ tiềnvào Philipines trongthời kỳ này. Tuy thế,Philippinesbiểulộmộtsố kinh nghiệm saukhủnghoảng củanướccó chế độ chính trị
tươngtựvớinólàTháiLan. Trong cuộc bầucử Tổng thống ởPhilippines năm 1998,mà Aquino và Ramosđãđứng ra tranhcửcảhai đều là thành viêncủa tầng lớp tinh hoachínhtrịtruyềnthống
Joseph “Erap” Estradađã thắng cử vì đã đưaphương tiện thông tinđại chúng đến ngườinghèo ở các đô thị vànông thôn. Về nguồngốc xuất thân thật sự,ônglàđứacontrailãngtử của một nhà thầu
khoán của chính phủ,thuộc tầng lớp trunglưu.LớnlênởmộtkhuphốhỗnđộncủathủđôManila, nhưngErap tựcoilà“ngườicủangườinghèo”, và cái nghềđóng phim hạng Btrong đó ông chuyên
đóngvai"anhhùngcủangười nghèo" đã giúpông trúng cử. Estradađãđượchậu thuẫncủanhiềubốgiànhưLucioTrần và DandingCojuangco, cũng nhưcủacácôngchủsởhữucác hoạt động cờ bạc
bất hợp pháp, tất cảbọnhọđềumongkiếmchác từ nhiệm kỳ củaông ta.Ông ta chỉ kéodàiđượchainămtrướckhi Quốc hội bắt đầucácthủtụccáobuộcvịTổng thống của nótham nhũng, và ông ta
bị buộc phải rời khỏicương vị này saunhững cuộc biểu tìnhtrên đường phố, sựchống đối của các lựclượng vũ trang và cácthủđoạncủaPhóTổngthống(đượcbầuriêng)Gloria
MacapagalArroyo,vàothángGiêngnăm2001.Với MacapagalArroyo,con gái của một cựuTổng thống, quyền lựcđã trở lại tay của giớiquyền uy. Tuy nhiên,Estrada đã chỉ ra khảnăngcủamộtcáchthức
dân túy mới trong tròchơi chính trị ở kỷnguyêntruyềnhình.
TạiTháiLan,tròchơitương tự cũng đượckhám phá không phảibởi một chính trị giavới hậu thuẫn của cácbố già mà bởi chính
một đại gia.Kể từ khichế độ quân quản ởThái Lan đã bắt đầumờ nhạt vào nhữngnăm 1970, số lượngcác doanh nhân đượcbầuvàoQuốchội tănglên sau mỗi cuộc bầucử. Đây là một xu
hướng dài hạn bắt đầulàmlumờsựkhácbiệtgiữa quyền lực chínhtrị và kinh tế. Nó đãđược củng cố bằngviệc tiếp tục đồng hóacủa người Thái gốcTrung Quốc, nhữngngười thống trị các
doanhnghiệp lớn.Vàonhững năm 1990, chủnghĩa dân tộc kinh tếcủa những năm 1940đã bị lãng quên, vàkhôngphảilàvìchủngtộcmàcácdoanhnhânlai Trung Quốc chiếmđa số các ghế trong
Quốc hội. Kết quả là,cái sân khấu đã đượcdựnglênchocácdoanhnghiệp lớn và giớichínhtrịhòanhậphoàntoàn, và đầu tàu làThaksin Shinawatra.Thaksin xuất thân từmộtgiađình làmnông
nghiệpcóđóngthuếvàkinh doanh ở ChiềngMai, đã có một quátrình tham gia vàochính trị. Ông đã gianhậpgiớichính trị củanướcnàyvìsựgiàucóbắt nguồn từ viễnthông và phát thanh
truyền hình, là nhữngkẽ hở đã được giớichínhtrịtranhluậngaygắt nhất,mà nhà nướcbuộcphảichophépvàocuối thậpniên1980vàđầu thập niên 1990.Cáccôngtyviễnthôngkhác của Thái Lan là
những cánh tay hậuthuẫndàicủacácchínhđảng đang tìm kiếmđặc ân. Năm 1994,Thaksin đã tham giaNội các của ChuanLeekpai với cương vịBộ trưởngNgoại giao.Như trong tiểu sử của
Thaksin, PasukPhongpaichit và ChrisBakerđãviết:"Ôngđãbướcquadảiphâncáchgiữa kinh doanh vàchính trị." Và ôngkhông bao giờ đingượclại.Thaksinnắmquyền lãnh đạo một
đảng nhỏ gọi làPhalang Tham (Sứcmạnhđạođức)vàphụcvụ hai nhiệm kỳ ngắnvới tư cách Phó Thủtướng trong liên minhtrước khi có cuộckhủnghoảng.Khi việcquy đổi đồng bạt Thái
đổ vỡ, Thaksin códoanh nghiệp viễnthông lớn duy nhấttrong cả nước, mà cáckhoản nợ ngoại tệ đủlớn của nó có thể bảovệ sựmất giá.Một sựtrùng hợp lý thú làThanong Bidaya, Bộ
trưởngTài chính trongthời gian sắp khủnghoảng, là một trongnhững người đã quyếtđịnh thả nổi tiền tệ, làGiám đốc ngân hàngtrướcđâycủaThaksin,nhânviênvàgiámđốccủa một số doanh
nghiệp khác. Mộtngười khác tham giavào quyết định đó làBokhin Polakun, sauđó bị cáo buộc trongmột cuộc tranh luậncủaQuốc hội là ngườiđã báo trước choThaksinvềsựmấtgiá;
năm 2004, ông ta đãtrở thành Bộ trưởngNộivụcủaThaksin.
Đồngbạtmấtgiámộtnửa so với đồng đôlakhông ảnh hưởng đếnThaksin như các đốithủ của ông. Nhưngvào lúc khủng hoảng,
ông vẫn còn nhữngkhoản nợ lớn, và việctham gia chính trị củaông đã không ngănđược những giấy phépviễn thông mới vànhững nhượng bộ chocácđạigiakhácủnghộphe chính trị đối lập.
Hơnnữa,saucanthiệpcủaIMF,chínhphủđãđồng ý cho các doanhnghiệpviễnthôngthiếtlập một cơ chế điềuchỉnh độc lập, bắt đầutừ tháng10năm1999.Đây không phải là tintốtlànhchomộtdoanh
nghiệpcủabốgià.Tuynhiên, tháng 7 năm1998, một năm saucuộc khủng hoảng,Thaksin đã quyết địnhsẽtrởthànhmộttỉphútiềnmặt:ôngthànhlậpĐảng Thai Rak Thai(NgườiTháiyêungười
Thái), lúc đầu đặt tạitòanhàvănphòng củaông. Trong 12 thángtiếp theo, khi Thaksinxây dựng được hìnhảnh trước công chúngvề một cậu bé nghèolàmviệctốt,vàchươngtrình nghị sự dân túy
cùng với cách thứcxuất hiện trên truyềnhình củaônghìnhnhưgây được tiếng vangvới cử tri, các bố giàkhác lại ủng hộ ông.Ông được đối thủ lâudài là DhaninChearavanont của tập
đoàn CP – mà doanhnghiệpvàgiađìnhcủaông ta cung cấp choThaksinhai thànhviênnội các; gia đìnhSophonpanich củaNgân hàng Bangkok;đại gia truyền thôngSondhi Limthongkun,
và một số nhà đầu tưbất động sản lớn chấpnhận. Đó là một liênminh của các bố già,phấtlênnhờcáckhoảntiềnchothuêkinhtếvàcùng choáng váng bởicuộc khủng hoảng, đasốđềukhông thamgia
vào lĩnh vực sản xuất.Nhưng, rực rỡ nhưngcũng thật trâng tráo,Thaksin đã bán đứngchính mình và đảngThai Rak Thai với tưcách là người đại diệnchínhtrịcủacácdoanhnhân nhỏ và người
nghèoởnôngthôn,vớitinh thần dân tộc chủnghĩa mạnh mẽ (chứkhôngphảichủngtộc).Không giống như cácđảngchínhtrịtrướcđó,Thai Rak Thai cũngtuyên bố rõ ràng mộtsốchínhsách,trongđó
có xóa nợ cho nôngdân,cungcấptíndụngvà chăm sóc y tế chomọingười.
Thaksincũngđãđượctài trợ và ủng hộ, vàtrong cuộc chạy đuađến cuộc bầu cử toànquốc vào năm 2001,
khoảng một trăm nghịsĩ chạy sang đảng củaông ta. Đây là truyềnthống củaTháiLanvàPhilippines, các chínhtrị gia thường nươngtheochiềugió.Thaksinbảođảmcuộcvậnđộngđược tập trung vào sự
sùng bái cá nhân đểđảm bảo uy thế củaông ta.Cómột tiểu sửđược đăng nhiều kỳtrênbáochívà tómtắttrong tài liệu của cuộcvận động được phóngto và treo tại khu vuichơi giải trí Horatio
Algercủaôngta:"Hỡicácanhchịem,tôixuấtthân từ nông dân... Làmộtđứatrẻnôngthôn,con trai của một chủhiệucàphê,tôiđãgiúpcha tôichămsócvườncây ăn quả, giao báo,chiếu phim di động...
Ngàynay, tôicónhiềubạnbè,từnhữngngườiláixeômchođếnTổngthống các nước lớn".Trong cuộc bầu cử,đảng Thai Rak Thaigiành được thắng lợichưa từng thấy, chiếm248 trên tổng số 500
chỗ.
Nămdoanhnghiệp lớnủng hộ Thaksin, trongđócóTậpđoànCPcủaDhanin Chearavanont,đã được thưởng bằngcácvịtrítrongNộicác.Theo quan sát củaPasuk và Baker: “Sự
nổi lên của Thaksin làsựmởrộnghợplýcủa‘nềnchínhtrị tiềnbạc’do doanh nghiệp chiphối của Thái Lan,nhưngcũngcósựthayđổiđángkểvềquymô.Nómangmộtsốyếutốphong phú nhất của
nguồn vốn trong nướcvàoquyềnlực.Nóthaythế ‘nền chính trị tiềnbạc’ bằng ‘nền chínhtrị lắm tiền.’” Vớichiến thắng này, dònglợilộcnhanhchóngbắtđầu tuôn chảy. Vàongàylàmviệcđầutiên,
Bộ trưởng Truyềnthông của Thaksinthôngbáovềviệcxemxét một công ty điệnthoại di động mới donhànướcquảnlý,đượcchính phủ đã mãnnhiệm kỳ của ChuanLeekpai phê duyệt để
tăng sức cạnh tranh,làm cho công ty nàyphải ngừng khaitrương. Công ty Shincủa gia đình ThaksinThủ tướng và vợ ông,đểđápứngcácyêucầulậphiến,đãchínhthứcchuyển giao cổ phần
của mình cho con cái,người thân và nhânviên của họ đã muamộtdoanhnghiệpđiệnthoại di động khác ởđịaphươngvàbuộcđốitácnướcngoàicủanó,công ty TelekomMalaysia, phải rút lui.
Trong khi đó, Thaksincông khai chê bai tiêuchuẩn công nghệ cạnhtranh của các công tykhác và hỗ trợ thànhcông Tổ chức ĐiệnthoạiTháiLancủanhànướcduytrìphíkếtnốivới các đối thủ cạnh
tranh mà không tínhphí cho các doanhnghiệp của Shin; (mộttrong những công tycạnh tranh được kiểmsoát bởi DhaninChearavanont, một lờicảnh báo sớm với ôngrằng đối tác chính trị
mới của ông sẽ giámsát lợi ích của mình).Việc bổ nhiệm nhữngngười quản lý tại Ủyban viễn thông quốcgia mới, được cho làdẫn dắt những nỗ lựcbãi bỏ quy định, đượcchặn lại. Với sự cạnh
tranhhạnchế,việcbãibỏ quy định bị ngănchặn và việc phục hồikinh tế được nuôidưỡng bằng nhữngchínhsáchkinhtếrộngmởhơn,luồngtiềnmặtchủ yếu của Shin từdoanh nghiệp điện
thoại di độngAdvanced InfoService(AIS) của nó tăng vọtlên. Lợi nhuận từdoanh nghiệp này từdưới4tỷbạtnăm2001tăng lên hơn 8 tỷ bạtvàonăm2003.Shinđadạng hóa đầu tư vào
các dịch vụ tài chínhvớiNgânhàngDBSdonhà nước Singaporequản lý (được cấp cácloại giấy phép), vàomột liên doanh vớihãng vận tải hàngkhông giá rẻ củaMalaysia là AirAsia
(được quyền hạ cánhtại Thái Lan và giảm50% lệ phí hạ cánh),đồng thời mua lạiquyền kiểm soát kênhiTV độc lập (đượcgiảm lệ phí cấp phépmà nó trả cho chínhphủ và tăng một số
kênh giải trí giá rẻmànó được phép phátsóng). Khi thị trườngchứngkhoánTháiLanbước sang giai đoạnhồi phục năm 2003,tănggấpđôilượngvốnđã suy giảm nhiều củanó, giá trị năm doanh
nghiệp niêm yết củaShintănglêngấpba.
Thaksin không phải làngười không biết nhìnxatrôngrộng.KhiShinđang phát đạt, ông đãhứahẹntrongcáccuộcvậnđộnglớncủamình,đặcbiệtlàđốivớinông
dân. Ông đẩy mạnhtăng trưởng bằng cáchkhuyến khích gia hạncho các khoản nợ củahộgiađìnhvà thuxếpgần như là cấp vốn từcông khố để tăng chitiêu của dân chúngnhằm tránh không có
sự bùng nổ ngắn hạntrong vay mượn củacông chúng. Sau bầucử,đảngThaiRakThaithu hút thêm ba chínhđảng, và vào tháng 2năm 2005, giữ đượcnhiệm kỳ thứ hai vớibaphầntưsốghếtrong
Quốc hội cho Thaksinđủsốphiếuđểthayđổihiến pháp và để ngănchặn các động thái chỉtrích.Ôngđãphátbiểuvềmột phần tư thế kỷnắm quyền. Khôngmay,Thaksinđãcóhaitính toán sai lầm: ông
đã thất bại trong việcgiữchocácôngbạnbốgiàvuivẻvàquáítchúýđếnlựclượngđốilậpthuộc tầng lớp trunglưu ở Bangkok. Điềunày đã mở đường choquânđộibướcvào.
Trongtruyềnthốngtốt
nhất của cái gọi là“Mạng lưới tre”,Thaksin đã quên mấtsự ủng hộ của các đạigia ở thời điểm ôngđược bầu. Không phảilà chủ sở hữu ngânhàng, ông không biểulộ sự quan tâm đến
việc bảo vệ nhữngcartel ngânhàng cũđãphải bán cổ phần vàtrong một số trườnghợp,cònkiểmsoátviệcchuyển vốn từ nướcngoài vào. Gia đìnhSophonpanich củaNgân hàng Bangkok,
buộc phải giảm bớt cổphần của mình xuốngdưới 20% sau cuộckhủnghoảng,đãxarờiThaksin trong nhiệmkỳ đầu tiên của ông.Dhanin Chearavanont,bố già hàng đầu trướccuộc khủng hoảng,
cung cấp các quỹ vàcác Bộ trưởng nội cáccho Thaksin, nhưngthấy ông không muốncung cấp các loại hỗtrợ chính trị cho cácdoanh nghiệp viễnthôngcủaTậpđoànCPmà chỉ hỗ trợ doanh
nghiệp của nhà mình.Khi dịch cúm gia cầmtràn vào Thái Lan,Thaksin để mặcChearavanonts quản lýcác doanh nghiệp chếbiến gia cầm rộng lớncủamìnhmàkhôngcósựcanthiệpcủacánbộ
y tế công cộng – nênsau đó ông ta đã mấtkhông còn một doanhnghiệp chăn nuôi gànào.Khicácthànhviênvà nhân viên của cácgia đìnhSophonpanichvà Chearavanont đượctác giả phỏng vấn vào
năm 2005 và đầu năm2006, họ đã nói thẳnglà họ không ưaThaksin.Đólàmộtcâuchuyệnxấuvềsựghentị của các bố già và làmột điềm báo trướccho các vấn đề mà vịThủ tướngnày sẽ phải
đối mặt. SondhiLimthongkun, đại giatruyền thông thất bại,ngườitheoThaksinlúcđầu,đãtrởthànhngườilãnhđạocáccuộcbiểutình lớn chống lại ôngta.
Châm ngòi cho khối
thuốc nổ hất cẳngThaksin là việc báncông tyShin cho côngty Temasek Holdingscủa chính phủSingaporetháng1năm2006.Vụmuabánnàydiễn ra êm thấm cùngvới việc miễn thuế thị
trường chứng khoán.Nội các của chính phủđãphêchuẩnmột thỏathuậnthuếmớihấpdẫnđối với doanh nghiệpđiệnthoạidiđộngAISvài tuần trước vụ muabán. Và việc tăngquyền sở hữu cổ phần
tốiđađãchophépcácnhàđầu tưnướcngoàiđầutưvàocáccôngtyviễn thông, lại có hiệulực thi hành một ngàytrước khi thỏa thuậnnày được soạn thảoxong. Hơn nữa, 1,9 tỷđôla thu được từ một
giao dịch cổ phiếu đãđượcmiễnthuế.
Thaksin đã xúc phạmcác đối thủ bố già củamình, và cả tầng lớptrung lưu ở Bangkokbằngnhiềuthủđoạnđểthuđượcnhữnglợilộctrời cho bằng tiền mặt
và bằng một vụ muabán hào phóng vớingười Singapore đángghét. Các cuộc biểutìnhtrênđườngphốvớiquy mô hàng chụcnghìn người đã xảy ratrong suốt mùa xuân.Vào tháng 4, Thaksin,
vẫn tin chắc rằng sựủng hộ nông thôn sẽtạo ramột chiến thắngnữa tại các cuộc trưngcầudânývềkhảnănglãnh đạo của ông.Nhưng phe đối lập đãtẩy chay nó. Thaksinđãthửdùngnhữngthủ
đoạnkhác,baogồmcảtạm thời bước xuốngbụclãnhđạo.Vàomùahè,điềurõràngvớicácđối thủ của Thaksintrongcác tầng lớp tinhhoachínhtrịvàkinhtếcũ là sự can thiệp củaquân đội không giống
như việc châm ngòicho các loại phản ứngcủa dân chúng tại thủđô năm 1992 khi mọingười xuốngđườngđểphản đối sự can thiệpcủa quân sự vào chínhtrị. Cựu Thủ tướngquân sự ba nhiệm kỳ
hiện làcốvấnchonhàvua tướng PremTinsulanonda đã lêntiếng ủng hộ tầng lớptinh hoa cũ tiến hànhmột cuộc đảo chính.Cuộcđảochínhnàyđãdiễn ra đúng, vào đêm19 tháng 9, trong khi
Thaksin đang ở nướcngoài,buộcôngtaphảilưuvong.
Cuộc đảo chính chắcchắn phát tín hiệu vềsự trở lại với sự phâncông lao động truyềnthống giữa các nhómchính trị và nhóm các
đại gia. Nó đã đượcchứng minh, nếu cầnchứng minh, rằng cácbố già không có khảnăng hợp tác lâu dài.Thaksin đã đưa nhữngđại gia này vào cuộcphiêu lưu cùng vớiđảng Thai Rak Thai,
nhưng khi rõ ràng ôngđã là người hưởng lợichínhthìmọi toantínhcủa ông cũng sẽ sụpđổ,từngmảngmột.
Tuy nhiên, điều nàykhông nói lên rằngThaksin đã tích cựcngăn cản sự phục hồi
sau khủng hoảng củanhữngngườikhác.Cácgia đình có ngân hàngthiệthạiđángkể,làlựclượng thị trường tronglĩnhvựctàichínhđãcửnhạc tiễn đưa ông.Nhưng DhaninChearavanont, với
dòng tiền mặt liên tụctừ các doanh nghiệpnôngnghiệpcủamình,đã có thể bán đi cáccông ty không cốt lõi,baogồmcả lợi íchsảnxuấtbiavàxegắnmáyở Trung Quốc và siêuthị Lotus ở Thái Lan,
để giải quyết một sốkhoản nợ củamình vàđàmphánlạivớingườikhác. Đến năm 2006,Tập đoàn CP lại mởrộngmộtlầnnữa,thêmrất nhiều siêu thị ởTrungQuốc.VớisựrađicủaThaksin,Dhanin
đã một lần nữa ganhđua cho vị trí thủ lĩnhcủacácbốgià.ÔngđãcạnhtranhvớiCharoenSiriwattanapakdi, mộtngười hậu thuẫn choThaksin khi xưa.DoanhthucủaCharoentừ các doanh nghiệp
bia và rượu whiskeyTháicủaôngtăngcao.Cũng như các bố giàkhác trong suốt cuộckhủng hoảng, ông đãmuađượcnhiềudoanhnghiệpmớivớigiáhạ.Năm 2006, tạp chíForbes đã xếp hạng
ông làngườigiàunhấtTháiLan,vớigiátrịtàisản ròng là 3 tỷ đôla.Một bài báo của cácnhànghiêncứutạiĐạihọc Hitotsubashi ởTokyo, năm 2004 đãphát hiện ra rằng cổphần vốn trên thị
trường chứng khoánnăm2000củagiađìnhônglàlớnnhấttrongsố30 tập đoàn gia đình,vẫn y nguyên nhưtrướckhixảyrakhủnghoảng.
Sau cuộc đảo chínhchống lại Thaksin,
chínhphủquânsựmớiđãbắtđầumộtsốcuộcđiềutradonghingờvịThủtướngtrướcđâyđãphạm tội tham nhũng,nhưng không có câuhỏinàođượcxớilênvềcác vụ làm ăn củanhững bố già khác.
Đảng Thai Rak Thaibắt đầu tan rã từngmảng ngay sau khiThaksin biến mất, sốnghị viên trong quốchội của nó cũng dầndần tuyên bố ra khỏiđảngnày.Họchờxemcuộc bầu cử chính trị
mới nào, do chínhquyềnquânsựhứahẹn,sẽ diễn ra. Dù câu trảlờilàgìđinữa,cũngđãcó chút nghi ngờ rằng,một lần nữa họ sẽ tìmđếnsựbảo trợcủacácđạigia.
BÁC SĨ SẼ KHÁM
CHO ANH NGAYBÂYGIỜ
Tại Malaysia, sự kìmkẹp đối với đời sốngchínhtrịcủaĐảngđântộcMãLai thống nhất(UMNO) đồng nghĩavới việc không có khảnăngthayđổimốiquan
hệ giữa các quyền lựcchính trị và kinh tế.UMNOchẳng cóphảnứng chính trị nào đốivớicuộckhủnghoảng,và các bố già phải tựxử lý hậu quả. Nhómđại gia tương lai doAnwar Ibrahim gióng
dựng trongnhữngnăm1990 chẳng hạn nhưchủ ngân hàng và nhàmôi giới RashidHussain và TongKooiOng, những người đãmở chung một doanhnghiệpngânhàng,môigiới và bất động sản
lớn chu cấp cho việccủng cố các doanhnghiệp của chính phủtrongkhiAnwarbịbắtgiam.Cácbốgiàtươnglai gốc Mã Lai củaDaim Zainuddin đãmột phen lênh đênhtrôi dạt khi Daim phải
rời chính phủ năm2001. Khi Mahathirnghiền nát các đối thủchínhtrịcủaôngtrongUMNO,vàchiếnthắngtrong cuộc tổng tuyểncửnăm1999vớisựhỗtrợcủacáccửtringườigốc Hoa rất sợ ảnh
hưởng lớn của cácđảngHồigiáo,sựthịnhvượng của các bố giàđi xuống những mốiquan hệ với vị bác sĩgiỏi này. Các bạn bèthân thích được giớihạndựa trên thực tế làmốiquanhệcủahọvới
ôngtacònđượcduytrìcẩnthậnhaykhông.
Quách Lệnh Xán bịmột cú sốc khi Ngânhàng Hồng Long củaông không được đưavàodanhsáchbanđầugồm các tổ chức chủyếu được phép củng
cố; nhưng sau một sốcuộc vận động hànhlang tích cực, doanhnghiệp của ông đãđượcbổsungvàodanhsách.AnandaKrishnanđã bị đóng đinh vàocác khoản nợ ngoại tệlớnvìmuathiếtbịviễn
thông, truyền thanh vàvệ tinh; nhưng ông đãtiếp cận được vớiMahathir. KrishnanđượctrợgiúpbởiCôngty dầu khí quốc giaPetronas đã mua hếtphầnlớncácquyềnlợicủa ông tại các dự án
bất động sảnTháp đôiPetronasvàTrung tâmThành phố KualaLumpur.Vớinguồntàichínhdồidào,Petronasđã chi tiền mặt để lậpquỹ phát triển dự án.Krishnanđãtựđàochomìnhmộtcáihốsâunợ
nần, nhưng nhờPetronas ông là Giámđốcsánglậpvàonhữngnăm1970–hoạt độnggiống như một ngânhàngchứkhôngphảilàmột công ty dầu khí,với dòng tiền mặt dồidào từ hoạt động giải
trí và độc quyền phátsóng cũng như các cổphầntrongphátđiệnvànhữngcartelđiệnthoạidiđộng,ôngđãcó thểthoát ra ngoài.Ông đãbánmộtphầnbadoanhnghiệp điện thoại diđộng của mình cho
British Telecom vàonăm 1998 để lấy tiềnmặt,nhưngdãdànxếpđểmualạinóvàonăm2001. Khi nền kinh tếphục hồi, Krishnanniêmyếtdoanhnghiệpđiện thoại, phát thanhtruyền hình và vệ tinh
của mình cùng vớidoanhnghiệpgiảitrívànhà máy điện đã thôikhông niêm yết trướccuộc khủng hoảng.Năm2004ôngđãkiểmsoát các công ty đạichúng với tổng số vốnhơn 10 tỷ đôla. Trong
sốcácbốgiàMalaysia,ônglàmộtngườiquảnlý trênmức trungbình(mặcdùkhôngtốtnhưôngnghĩ),trongkhilợiích từ các vụ nhượngbộkinhdoanhmàôngcóđượctừnhànướclạirấttốt.
LâmNgôĐồngvàcontrai là Quốc Thái, vớiđộcquyềnvềsòngbạc,cũng có chút lo lắngtrong cơn khủnghoảng.Nhữngnhà conMalaysia giữ chặtngành cờ bạc khi dulịch đánh bạc không
nhất thiết là từ TrungQuốc đang gia tăng.Vấn đề chính là phảilàm gì với số tiềnmặtnày. Gia đình Lâm đãmở rộng sang các tàudulịch,trênđócũngcóbàn đánh bạc đặc biệt,trởthànhdoanhnghiệp
lớnthứbatrênthếgiớivào năm 2004. Nhưngchiếc tàu Star Cruiseđăng ký ởHồngKôngphải đối mặt với cạnhtranh toàn cầu, chưahồi phục trở lại và giácổ phiếu của nó đanghéo hon. Tin tốt đến
với gia đình Lâm vàonăm 2006 khi một tậpđoàn của họ đã thắnggói thầuxâydựngmộttổhợpchơigame3,4tỉđôla trên đảo Sentosacủa Singapore. Điềunày dẫn đến việc vuacờ bạc của Macao là
Stanley Hà cho giađình Lâm được quyềnđiềuhànhmộtsòngbạctạiMaCao đang bùngnổ để đổi lấy cổ phầntrong Star Cruise, vàdo đó tiếp cận đượcthương vụ Singapore.Thật không may, gia
đình Lâm chưa từnglàm việc vớiHarryLýnên đã nghĩ rằng vụnàytrót lọt.ChínhphủSingaporenhanhchóngtỏ rõ họ sẽ không chophép Stanley làm việctrên đất của họ, vàthương vụ này đã bị
phábỏ.Có lẽ cũng tốtcho Lâm, vì những nỗlựccủaStanleykhilàmviệc với những bố giàkhác trong quá khứkhông đề cập đến emgái ông là Winnie –thường mắc vào cayđắngvàkiệntụng.Nói
riêng,giađìnhLâmđãmua được đường dâycá cược của Anh làStanley Leisure năm2006, củng cố một xuhướng là các đại giabậc cao ở Malaysiathườngđầutưtiềnthuêtài chính của họ vào
các tài sản của chínhquyền thực dân trướcđây.
Giống như AnandaKrishnan,giađìnhLimcó được một số tiềnmặt bổ sung ởMalaysia, được đảmbảo với tư cách là
những nhà sản xuấtđiện độc lập (IPPs).CáchợpđồngcủaIPP,được trao cho các bốgià lớn mà không quađấu thầucôngkhai,vềkhí ga có trợ giá từPetronas, còn sản xuấtđiệnthìcôngtydịchvụ
công cộng của nhànước là Tenaga buộcphải mua. Người thụhưởng lớn nhất của sựnhượng bộ kinh doanhnày, và là người đầutiênđượccấptàitrợ,làcông tyYTLCorpcủaFrancisYeoh,vớichín
nhà máy điện. Doanhnghiệp được quản lýtheo kiểu bảo thủ nàylàmộtvídụvề trườnghợpcácđạigiacódòngtiền mặt từ độc quyềnkinh doanh thực tế đãhưởng lợi từ cuộckhủng hoảng như thế
nào. Năm 1997, khicuộc khủng hoảng xảyra, Yeoh đã có tiềntrong tay. Ông ta dầutư vào TaipingConsolidated, mộtdoanhnghiệpbấtđộngsản ngập trong nợ nầndo một người gốc Mã
Lai kiểm soát, với tàisản chủ yếu tại KualaLumpur.Với 332 triệuringgitkhoảng80triệuđôla vào thời điểm đóông ta chọn một khumua sắm sầm uất củathủ đô, một một trungtâmmớihơnvàquyến
rũ hơn gần đó, kháchsạn năm sao JWMarriotvàmộtquỹđấtđô thị rộng 118 héctalàm dự án. Đó là mộtđộng thái chính trịnhạy cảm mà một đạigia gốc Trung QuốcthựchiệnTaipinglàsự
phô trương của ngườigốc Mã Lai từ đầunhững năm 1990nhưngYeohgiữchủcũlạilàmcổđôngvàChủtịchcôngty,vàUMNOđểchosựviệcnàydiễnra. Tiềnmặt củaYeohtiếp tục tăng, nhưng ở
Malaysiakhôngcómộtthương vụ nào ngọtngào như thế nữa. Vìvậy,năm2002,ôngđãhuyđộng1,8tỷđôlađểmualạicôngtydịchvụcông của Anh tại khuvực Đông Nam Á làWessex Water từ một
công ty năng lượngđangxậpxệcủaMỹlàEnron. Ba năm sau,ôngchuyểnsangđầutưvào ngành điện ởIndonesia. Đây lànhững giao dịch theotruyền thống tốt nhấtcủa bố già giàu nhất
Malaysia là RobertQuách. Ông cũng đãnhanh chóng đăng kýmua thật nhiều tài sảnkhắp khu vực này vànhững nơi khác trênthếgiớitrongsuốtcuộckhủng hoảng vì dòngtiền mặt chủ yếu của
ông vẫn còn nguyênvẹn.Doanhnghiệpgầnnhư độc quyền nhiềucủaQuáchtrongngànhmía đường nhiều thậpkỉ sống sót sau cuộckhủnghoảng tàichính,bất chấp các cuộc vậnđộng hành lang của
nhữngbốgiàkhác.
Điều ít thayđổi trongcơcấukinhtếđãđượcMahathir chứng minh.Ông đã bỏ quamột sốdoanh nghiệp có liênquan với Anwar vàDaim, tự nhìn nhậnmình là "người được
lựa chọn" mới. SyedMokhtar AlBukhary,một cựu thương giabuônbángiasúcvàlúagạo (như DaimZainuddin,đồnghươngcủa thủ tướng, ngườibang Kedah), lần đầutiên được yết kiến
Mahathir khi cuộckhủng hoảng tài chínhxảy ra. Mahathir đãsớmnhậnrarằngSyedMokhtar, tuycónguồngốc xuất thân khôngphải thuộc giới tinhhoanhưHalimSaadvàTajudin Ramli, nhưng
là một doanh nhânngườigốcMãLaithựcsự tài năng. Trongvòng 5 năm, SyedMokhtar trở thành nhàsản xuất điện độc lậplớnnhấtởMalaysia,đãđược chính phủ tài trợđểxâydựngmộtcơsở
mới tại cảng containerPort Tanjung Pelepas(PTP), và có nhiều lợiích trongkhaimỏ,đồnđiền và khách sạn.Giống như AnandaKrishnanngườiđãmờiMahathir đi nghỉdưỡngvàchămsóccon
cái ông ta khi ở nướcngoài hoặc FrancisYeohngười đãđổ tiềnvàođảoLangkawiyêudấuvàcácdựándùlỗnhưng nổi tiếng củaMahathir SyedMokhtarđãtìmracáchđể "bấm nút" vị Thủ
tướngnày.Ôngđãxâydựng một trung tâmnghệ thuật Hồi giáo ởKuala Lumpur, cótrang trí những vòmmái hình củ hành, đàiphun nước và đá hoacương trắng; Mahathirthườngxuyênđếnhiện
trườngđểkiểmtratiếnđộ. Sau đó, SyedMokhtarđitheotruyềnthống lâu đời bằngcách bán nhữngnhượng bộ kinh doanhmàôngcóđược,thôngqua các công ty tưnhân, cho các doanh
nghiệpđầutàuđãniêmyết, nơi ông kiểm soátHộiđộngQuảntrị,vớigiá béo bở. PTP đượcbán vào năm 2002 vớigiá 500 triệu đôla, vàmộtcôngtytưnhâncóquyền xây dựng mộtnhà máy điện 2.100
megaoát tại bangJohoređãđượcbánvớigiá 220 triệu đôla vàonăm 2003. Trong thựctế, ông đã rút tiềnmặtra khỏi những dự ánnhượng bộ kinh doanhdài hạn và đòi hỏinhiều vốn, mà chính
phủ đã cấp cho ông.Nhưng Syed Mokhtarđã không thành côngkhivậnđộngnhànướccấp cho ông ta mộtphầnđángkểtrongđộcquyền mía đường củaRobert Quách. Năm2006 ông đã cố gắng
tiếp quản công tyBernas, một công tygiữ độc quyền nhậpkhẩuvàphânphốigạo.Theo cách này, SyedMokhtar cũng đã gánhvác những doanhnghiệpđangvỡnợcủachính phủ, bao gồm
mộthãngsảnxuấtthiếtbị điện, các dự án bấtđộng sản tại KualaLumpur và dự án xehơiquốcgiaProtonảmđạm. Trái với quanđiểm của Mahathir,ông quan tâm đếnnhiều thứ giống như
mộtHalimSaadmới.
Tháng 10 năm 2003,cuốicùngvịbácsĩcủachúng ta bước xuốngbục sau 22 năm nắmquyền. Cấp phó gầnnhấtcủaông,AbdullahBadawi, đã tiếp nhận,và tháng 5 năm 2004,
đãgiànhthắnglợivangdội trong cuộc bầu cửtoàn quốc. Trongnhững tháng trướcngàybầu cử,Abdullahđã tiến hành một sốcuộc điều tra về thamnhũng đối với cácdoanhnhânhạngtrung
vàhủybỏmộtsốdựánnổi tiếngcấptiểubangliên kết với Mahathir,baogồmmột sốdựánnhượng bộ kinh doanhcấpchoSyedMokhtar.Nhiều người Malaysiaca ngợi một khởi đầumới về chính trị. Tuy
nhiên, đối với LiênminhMặttrậnquốcgiađang nắm giữ 198trong số 219 ghế ởquốchội,điềunàythậtngây thơ. UMNOmạnhhơnbaogiờhết,và một thế hệ nhữngngườikhaokhátquyền
lực chính trị đã tănglênbaogồmcảconemcủa cựu Thủ tướng vàcác Bộ trưởng – vàđangchenlấnvìquyềnlực trong thời hậuMahathir. Họ đòi hỏimột chu kỳ mới củachính sách phân biệt
đối xử tích cực hướngvề người gốc Mã Lai,theo truyền thống làmột đạo luật màAbdullah đã lên ántrước cuộc bầu cử làphân phát cho "nhữngngười Mã Lai thamlam giành được độc
quyền." Sự hăng háichống tham nhũng vàbãi bỏ quy định sớmtiêu tan, cácdự án lớncủa chính phủ đượckhởi động lại, và cácbố già tiếp tục kinhdoanh như bìnhthường.Cósựthayđổi
trong giọng điệu củaMahathir, thể hiệntrong những lời vị bácsĩ này thường huênhhoang trước côngchúng, hoặc đôi khitrướccácnhàbáođượctriệutậpđếnvănphònghình bể cá cảnh của
ông trên đỉnh một tòatháp Petronas, rằngAbdullah có nhiệm vụphải làm việc đó.Nhưng điều này chỉmangtínhchấtcánhânchứ không phải hệthống.
NGHỆ THUẬT
TRONGBÓNGTỐI
Tại Indonesia, khôngthể kể lại câu chuyệnsau khủng hoảng củacánhâncácbốgiàmộtcách chắc chắn bởi vìnhư với hầu hết mọithứ ở Indonesia câuchuyện đó thật là mờ
nhạt.Hơnbaogiờhết,các đại gia, nhữngngười đã ở tâm điểmcủasựđổbểkinhtếtồitệnhấtcủakhuvực,đãtìm cách che giấu cáchoạt động của họ đốivới công chúng. Nhưmột bố già hàng đầu,
ngườiđãhưởnglợihậuhĩ trong thời Suhartothanvãn:“Bạnthựcsựkhông biết ai sở hữucáigì.”Tuynhiên,nhìnchunglàmộtvàithứđãrõ ràng về các doanhnghiệp của các bố giàsaucuộckhủnghoảng:
họ đã xuất khẩu mộtlượng lớn về vốn, đặcbiệt là sangSingapore,và thu xếp để giữ tàisản ở nước ngoài; họbàn giao tài sản trongnước, với chất lượngđáng ngờ, cho chínhphủIndonesiathaycho
cáckhoảnnợvàsauđótìmcáchmualạisốtàisảnđóvớigiátrịíthơnhọ đã tuyên bố.Và vềchínhtrị,sựsụpđổcủaSuharto nối tiếp bằngmột thời gian thamnhũng hoàn toàn miễnphí. Khi gia đình đệ
nhất rời chức Tổngthống, bản năng đầutiên của các chính trịgia vừa mới được bầulà đặt tay lên nhữngmón quà tặng mà uythế30nămcủaSuhartođãtừchốichúng.Tìnhhình đã bắt đầu dịu đi
chỉ dưới nhiệm kỳTổng thống của SusiloBambang Yudhoyono,được bầu trong cuộcbầucửtổngthốngtrựctiếp đầu tiên của nướcnàyvàonăm2004.
Sudono Salim còn gọilà Liêm Thiệu Lương
và con trai làAnthonyđiều hành tập đoànmạnh nhất Indonesiacủa ông bạn nối khốphần lớn được ngânhàng tư nhân lớn nhấtcủa Indonesia là Ngânhàng Trung Á (BCA)cấp vốn tại thời điểm
có khủng hoảng. Theomộtsốtínhtoán,doanhthu toàn bộ của nótương đương với 5%GDP. Gia đình Salimđã bỏ chạy đếnSingapore trước khiđámđôngtrànđếnnhàhọ ở Bắc Jakarta hồi
đầumùahè1998,cảnhbáo cho các đại giakhác về nỗ lực sớmcứu vãn càng nhiềudoanhnghiệp càng tốt.Khi cơn gió bụi lắngxuống, họ còn nợ Cơquan tái cấu trúc ngânhàngIndonesia(IBRA)
53nghìntỷrupi,tươngđương 6,6 tỉ đôla theotỉgiábìnhquântrong5năm tính từ 1997, chocác khoản tín dụng đãđược ngân hàng trungương bơm vào BCA.Đổi lại cho việc miễntruytố,giađìnhnàyđã
bàn giao hơn 100doanh nghiệp trongnướcởIndonesia,đượcnói là có giá trị 53nghìn tỷ rupi. Với sựkhẳng định của IMF,gia đình Salim bị mấtđộcquyền sinh lời lớnnhất và quyền kiểm
soát BCA của họ,nhưnghọgiữđượcmộtsố trong 400 công ty,baogồmdoanhnghiệpxay bột Bogosari vàIndofood, nhà máy mìăn liền chi phối thịtrường trong nước.Ngoài ra, gia đình
Salim còn giữ đượcquyền kiểm soát côngty First Pacific tạiHồng Kông, mà thờigian đầu khủng hoảngchiếm 40% doanh thucủa tập đoàn. IBRAdầndầnđặtvấnđềbáncác công ty mà nó đã
tiếpnhận.Khicơquannày đã hoàn tất việcchuyển nhượng cáccông ty của gia đìnhSalim, nó đã gây lạiđược khoảng 20 nghìntỷ rupi, hoặc khoảnghaiphầnnămnhữnggìhọđãnợ.Mặcdùvậy,
không cóviệc khởi tố,vì chính phủ củaMegawatiSukarnoputricôngbốgiađìnhSalimđã giải quyết hết cáckhoản nợ của họ vàIBRA giải thể vàotháng2năm2004.Lậpluận của của gia đình
Salim là những tài sảnkhi họbàngiao cógiátrị ngang bằng và sauđó chỉ mất giá trị vìcuộc khủng hoảngtrong nền kinh tếIndonesia. Đến năm2005, Anthony đã trởvề ngôi nhà đã được
tân trang lại của giađình họ ở Bắc Jakartanơi mà đám đông đãviếtdòngchữ“conchócủaSuharto”trêncổng.Dòng chữ đó ám chỉngười cha, người vẫngiữcơ sởcủamình tạinhàriêngởSingapore.
Gia đình Salim lànhững người đượchưởng lợi của thuyếttươngđối.Họđãtrảlạihaiphầnnămkhoảntíndụngvaytừngânhàngtrung ương trongnhững ngày cuối cùngSuharto bị hạ bệ để là
người trên trung bình.Chính phủ Indonesiađãbócra650nghìn tỷrupi trong các vụ giảicứu (trong đó cáckhoản tín dụng ngânhàng tạm thời chỉ làmột phần) hoặc mộtnửa sản lượng kinh tế
của một năm nhưngchưa đến một phần tưđược thu hồi. Ngânhàng của SjamsulNursalimnhậnđược27nghìntỷrupi,vàôngtađãbàngiaotàisản,baogồmcáctrangtrạinuôitôm nổi tiếng của
mình, cho phép IBRAthuhồikhoảng10%sốnợ. Đóng trụ sở ởSingapore và tự tạophong cách vào cácthời điểm khác nhauvớibabiến thểcủacáitên Trung Quốc: LiemTek Siong, Lim Tek
SiongvàLiemTjenHoNursalim tiếp tục kinhdoanh bình thường.Ôngmởrộngcáccôngtybất động sảnvà sảnxuấtmạch in niêm yếtởSingapore,TuanSingHoldings và Gul TechHabitatProperties,một
công ty bất động sảnkhác ở Singapore màgiađìnhôngkiểmsoát,đồng thời ông còn cócácdoanhnghiệpkhácởngoàiđảo.Ôngcũngmở rộng quyền kiểmsoát củamình với Tậpđoàn Grand Hotel,
được niêm yết ở Úc.Nursalim có vẻ nhưkhông muốn tiền mặt,bằng chứng gián tiếpcó lẽ là tuyên bố rằngcác bố già đã sử dụngcáckhoảntíndụngcủangân hàng trung ươngtrong cuộc khủng
hoảngđểmuangoại tệ(dođó,làmgiảmgiátrịcủađồng rupi) đểxuấtkhẩu sang Singaporevà những nơi khác.Năm 2003, khi IBRAbán được hai trong sốnhiều doanh nghiệp ởIndonesiacủaNursalim
hãng sản xuất lốp xeGajah Tunggal và GTPetrochem Industriescho Garibaldi VentureởSingapore,nhiềunhàquansátchorằngchínhNursalimđãđứngđằngsauvụmuabánnày.Sựthực là con rể của
Nursalim vẫn là GiámđốcđiềuhànhtạiTrungQuốc của GajahTunggal, năm 2004từng tuyên bố đây lànhà sản xuất lốp xethay thế lớn nhất củanướcnàyvớidoanhthuhơn 1 tỷ đôla, ngụ ý
làm rõ là gia đình nàyđã thoát khỏi khủnghoảng. MichaelChambers, người đứngđầu văn phòng CLSAAsiaPacificMarketstạiJakarta,vàlàmộttrongnhững người tin rằngNursalim đã lấy lại
được quyền kiểm soátGajahTunggal,đãnói:“Cấu trúc của tái tưbản hóa cho phép cácgia đình lớn sống lại.”Và ông cho rằng thủđoạn phổ biến là:“Cuộcthảoluậndiễnranhư sau: ‘Nghe này,
Michael, đừng nói choaibiếtnhé,tôichỉmualạinóvớigiá5%bằngđôla.’Đólàsựvônhânđạo."
GiađìnhRiadylàmộttrường hợp khác bị tốcáo đã lén lút mua lạicác tài sản với giá rẻ.
Không giống như hầuhết các bố già lớn, giađình Riady không bịđưavàodanhsáchcấmhoạt động ngân hàngnữa. Họ tìm đượcmộtsố vốn bổ sung choNgân hàng Lippo củahọ trong cuộc khủng
hoảng,vànhờcóquanhệ gần gũi với ngườivừa kế nhiệm SuhartolàHabibie,họđãđượcnhànướcchothamgiađiều chỉnh cơ cấu vốnngay trong đợt đầutiên. Gia đình Riadyvẫnlàcổđôngtưnhân
lớn nhất, với 9% vốnchính thức trong ngânhàngnàychínhphủgiữ52%vàđemlạilợitứccho INGBaring với tưcách là những cố vấnquản lý, phù hợp vớiyêu cầu của IMF. Tuynhiên,từnăm2000đến
2003, gia đình Riadytham gia vào một loạtcác hành vi vi phạmnguyên tắc của thịtrường chứng khoán,baogồmthaotúngbáocáo hàng năm năm2002 của Ngân hàngLippo,dẫnđếnbịphạt
và giá cổ phiếu củaNgânhàngLipobị sụtđáng kể. Cũng cónhững vụ kiểm toáncho thấy có quá nhiềucác tài sản thế chấpđượcgiảmgiátrongsổsách của ngân hàng.Nhiều người ở Jakarta
kết luận rằng gia đìnhRiady đang lái giá cổphiếu của Ngân hàngLippo giảm xuốngtrước khi chính phủbáncổphầncủamình.Điều gây tòmò là giađình Riady có thể đặtgiátrựctiếpchonhững
cổ phần đó năm 2004,nhưnghọđãkhônglàmnhư vậy, bất chấp sựtham gia quản lý liêntục của họ trongNgânhàngLippo,vàrõràngđó là mong muốn táikiểm soát ngân hàngnày. Thay vào đó,
IBRA đơn phương thuhẹpmộtnhómcácnhàđặt giá thành một nhàthầu, đã mua lại cổphầncủachínhphủvàothángGiêngnăm2004.TậpđoànnàybaogồmNgân hàng RaiffeisencủaÁo và ba quỹ đầu
tư. Các nhà phê bìnhnóirằnggiađìnhRiadyđangđứngsaucácquỹđầu tư này, một trongsố đó, theo MichaelChambers, được "điềuhành bởi một ngườiMỹ gốc Ý sống trongmộtcửahànggiàydép
ởThụySĩ".
Thực tế thật khó nắmbắt ở Indonesia. Quanđiểm của Chambers làsaucuộckhủnghoảng:"Trong số mười giađìnhhàngđầu,chíngiađình có lẽ vẫn ở tốp10" nếu xét về tài sản
mà họ chuyển ra nướcngoàivànhữngcôngtymà họ vẫn kiểm soátthôngquanhữngngườiđược ủy quyền ởIndonesia. Các nhàquan sát dày dạn kinhnghiệm khác tin rằngcó đã có sự thay đổi
lớn hơn. GeneGalbraith,mộtnhàmôigiới chứng khoán vàdoanh nhân kỳ cựu ởJakarta,ngườiđãđượcđưa vào điều hànhNgân hàng Trung Ásau khi nó được bánchocácnhàđầutưMỹ
và gia đình buôn bánthuốc lá Hartono, chorằng: "Hầu như tất cảnhữngkẻbất lương cũđãgiảmđinhiều,hoặcđang im lặngchờ thời.Họ đã giữ được nhiềucủa cải, nhưng khảnănghoạtđộngcủahọ
giảmđinhiều."Cómộtvài sự thật trong câunói này. Một thập kỷsaucuộckhủnghoảng,có một sự hòa hợpkhông dễ chịu giữachính phủ của SusiloBambang Yudhoyonovàmột vài bố già lớn.
Chẳng hạn như,Prajogo Pangestu, mộtđại gia gỗ tấm hàngđầu, người đã làm ănvới các thành viêntronggiađìnhSuharto,đã hơnmột lần bị dọatruy tố vì đã lạmdụngcác quỹ tái trồng rừng
và những vi phạmkhác. Prajogo lo âu vàgiữmột thái độ khiêmtốn, nhưng chẳng cóhành động pháp luậtnào diễn ra trong thựctế.Ôngđãbịbuộcphảibán quyền kiểm soátcông ty sản xuất bột
giấy của mình choMarubeni của NhậtBản, và doanh nghiệphóa dầu cho Temasekcủa Singapore. NhưngPrajogovàcontraiôngvẫn còn quyền kiểmsoátvềquảnlýđốivớidoanh nghiệp đầu tàu
của mình, công tyBarito Pacific Timber,mặc dù thực tế là hầunhưtấtcảvốncổphầnvề lý thuyết đều thuộcvềcácchủnợcủaông.Điều đó cho thấy mộttìnhhìnhphứctạp.Mộtngười được tạp chí
Forbesxácđịnhlàgiàunhất Indonesia năm2006trịgiáướctínhlà2,8 tỷ đôla là một đạigia gỗ tấm thờiSuharto, SukantoTanoto,ngườimàngânhàngnhànướcMandirinăm 2006 đã đưa vào
danh sách một trongsáuconnợquáhạnlớnnhất; sau đó, ông đãthương lượng một kếhoạch trả nợ và đượcđưa rakhỏidanhsách.Tanto cũng bị điều travề gian lận tại ngânhàng mà ông đã từng
sở hữu. Không cầnphải nói cũng biết,công ty Asia PacificResourcesInternationalHoldings Ltd (APRIL)được điều hành từSingapore.
Mộtlýdotạisaochínhphủ Indonesia không
có những động tháimạnhhơnđểchốnglạicác bố già là niềm tinrằng, qua làm việc vớihọ, vốn tháo chạy ranước ngoài do khủnghoảng sẽ được hồihương. MichaelChambers, căn cứ vào
quanđiểmcủamìnhvềthông tin từ các ngânhàng, tin rằng có đến200 tỉ đôla củaIndonesia đang nằm ởSingapore. Năm 2005,Phó Tổng thốngIndonesia Jusuf Kallađãgặpgỡmộtnhómbố
già, bao gồm PrajogoPangestu, AnthonySalim và Tanoto,những người đã hứahẹn sẽ dần dần hồihương các quỹ đã cấtgiấu ở nước ngoài.Việc đàm phán giữanhànướcvàcácbốgià
sẽthayđổimộtsốluật.Tuynhiên, đây là điềunguy hiểm. Nó tiêubiểu cho cách thứcmàvăn hóa chính trị Javaluôndiễnra.Chínhphủđược bầu hoàn toàndân chủ củaYudhoyono, đã đưa ra
mộtbiệnphápbìnhổntừnăm2004,khôngxalạ với truyền thốngnày.JusufKallavàBộtrưởng Nội cácAburizal Bakrie đềuxuất thân từnhữnggiađìnhdoanhnhânngườigốc Indonesia, từ lâu
đã được hưởng lợi từnhượng bộ kinh doanhcủa nhà nước. Mộttrong những ngườikhácởtrongdanhsáchnhữngconnợcứngđầunhất năm 2006 củaNgân hàng Mandiri làngườiconrểcủaKalla
Yudhoyono nguyên làmột tướng lĩnh củaSuharto. Một trong sốcác câu chuyện về cácbố già Indonesia chothấy, ngay cả khi đấtnước đang chuyểnđộng đúng hướng vềhầu hết mọi thứ, vẫn
còn có những đại giakhông chuyển độngđúng hướng đó là EkaTjiptaWidjaya.Đạigiađa thêWidjaya, ngườicó tài sản bao gồm rấtnhiềungọcngàvàmộtchiếc thắt lưng đã sờnvới chữ “Eka” nạm
bằngkimcương,đãlậpnên Tập đoàn SinarMas, chỉ đứng sau đếchế của Salim trướckhi có khủng hoảng.Doanhnghiệp lớnnhấtcủa Tập đoàn SinarMas đồ sộ là mộtdoanh nghiệp tích hợp
lâmnghiệp,vánép,bộtgiấyvàgiấy,nằmtrongAsia Pulp & Paper(APP)vànhiềucôngtycon của nó. Gia dìnhWidjaya là bố già bậcthầy của nghệ thuật tổchức các công ty niêmyết theo hình tháp và
cósựtươngtácmờámgiữa các doanh nghiệpđại chúng và tư nhân.Trước cuộc khủnghoảng, họ đã có ngânhàng riêng với cáckhoản tiền gửi mà họcứvắtkiệtdần,vàchảyvàotaycủaIBRA.Tuy
nhiên, một ngân hàngkiểu con lợn bỏ ống ởđịa phương chưa thểthỏa mãn tham vọngcủaEkaTjiptaWidjaja.Trongnhữngnăm1980và1990,ông trở thànhvua trái phiếu doanhnghiệp của Indonesia,
báncáckhoảnnợbằngngoạitệthôngquamộtchủsởhữucáccôngtycon. Việc bán tráiphiếulớntrongbanămtrước cuộc khủnghoảng được trợ giúpbởi việc niêm yết củaAPP trên thị trường
chứng khoán NewYork,ởđỉnhđiểmcủacơn sốt châu Á, vàonăm 1995. Sau đó,cuộc khủng hoảng ởchâu Á xảy ra, tiếptheolàsựchìmđắmvềgiá bột giấy trên thịtrường quốc tế năm
2000.Năm 2001,APPralệnhhoãntrảnợcáckhoảnlãivàvốnchính.Sauđó,cóngườitiếtlộrằng khoản nợ tổnghợpcủatậpđoànnàylàmộtconsốgâychoángváng:13,9tỉđôla.
Trongkhithihànhmột
hệ thống luật sẽ chấmdứtsựtồntạicủaAPP,những người nắm giữtrái phiếu sẽ phải thếchấp tài sản của họ đểnếukhông trảđượcnợthì các tài sản đó sẽđược thanh lý. Nhưngđối với Eka Tjipta
WidjajavàgiađìnhcủaôngtạiIndonesia,cuộcchơivẫntiếptục.ĐộngtháiđầutiênkhiđếnkỳtrảnợlàmộtthôngbáocủaAPPrằng,nóđãlỗ220 triệu đôla tronggiao dịch ngoại hối và"không nên dựa vào"
những báo cáo tàichính của nó chonhững năm 19971999.Sau đó, APP cho biếthọ đã gặp phải sự cốkhi thu1 tỷđôla trongcác khoản phải thu từcáccôngtykinhdoanhởnướcngoài.Công ty
này khẳng định, cáccôngtyđăngkýởquầnđảo Virgin thuộc Anhđã không quan hệ vớinó hoặc gia đìnhWidjaya, nhưng TạpchíphốWall phát hiệnnhân viên củaAPP đãlàm việc tại đó. Các
chủ nợ tố cáo rằng đóhình như là một độngthái của gia đìnhWidjaya để giấu tiềnmặt ra nước ngoài.Quan điểm này đượccủng cố khi một kiểmtoán viên bên ngoàiphát hiện ra rằng một
đơnvịcủaAPPđãgửimột khoản tiền 200triệuđôlavàomộtngânhàngtạiquầnđảoCookở Tây Nam Thái BìnhDương, mà gia đìnhWidjayakiểmsoát.HaidoanhnghiệpkháccủaWidjaya, không thuộc
APP cũng đã có hàngtrămtriệuđôlatiềngửi.Tại New York, giá cổphiếu của APP đã sụtkhoảng1%sovớimứcđỉnhcủanó,vàtháng7năm2001,côngtynàyđã được yêu cầu thôiniêmyết.Sauđó,nóđã
ngừng sản sinh các tàikhoản được kiểm toánvà hợp nhất, đặt cácchủ nợ vào tình trạnggần như mù tịt vềnhững gì xảy ra trongdoanhnghiệp.
Tấtcảđiềunàyđãbắtđầu làm giảm giá trái
phiếuAPP, đặc biệt làtrênthịtrườngthứcấp,vì với khả năng giảmnhư vậy, chúng sẽđược hoàn trả đầy đủ.Trước công luận, giađình Widjaya nói họmuốncómộtcuộctổngkiểm tra nợ, nhưng họ
tỏ ra ít quan tâm đếnviệcđàmphánnghiêmtúc với chủ nợ, nhữngngười chẳng được trảlãicũngnhưvốn.Thayvào đó, năm 2003, haiđơnvịcủaAPPbắtđầuhànhđộnghợppháptạicác tòa án Indonesia,
cáobuộcrằngviệcpháthành trái phiếu mà họđã thực hiện là khôngphù hợp với luật phápđịa phương và kết quảkinh doanh đã đượccác ngân hàng đầu tưquốc tế bóp méo.Trong khi đó, các chủ
nợ đang để mắt cẩnthận hơn đến tài sảncủa APP lưu ý rằnghoạtđộngchếbiếnbộtgiấy của công ty là sựthao túng lớn đối vớinhữngnhượngbộkinhdoanh lâm nghiệp củaIndonesia do gia đình
Widjaya giữ riêng;ngay cả khi các nhàmáy bột giấy và giấycó thể bị tịch thu,chúngcóthểbịtừchốiviệc cung ứng nguyênliệu thô.Giá tráiphiếucủaAPP tại thị trườngthứ cấp vẫn tiếp tục
xuốngthấp.Năm2004,các tòa án địa phươngphát hiện ra cả haicông ty con của APP;một công ty có tráiphiếu500triệuđôlađãđược tuyên bố khôngcòngiátrị.
Kếtquảcủasựlừabịp
này có ba khía cạnh.Thứ nhất, gia đìnhWidjaya gần như chắcchắn đã giấu số lượnglớn tiền mặt ở nướcngoài, ngoài tầm taycủa các chủ nợ. Thứhai, bàn tay của giađìnhnày trongviệc tái
cấu trúc các khoản nợtổng thể của nó đãmạnh lên đáng kể. Vàthứ ba, nó đã có thểmua hết trái phiếu màcácđơnvịAPPđãpháthành bằng tiền trongnước dựa trên đồngđôla. Chiến lược chủ
yếu của gia đình này,khiđãcóthểnhìnthấy,là tách các khoản nợcủacácdoanhnghiệpởIndonesia của nó rakhỏicáccôngtyconởnước ngoài. Với nhucầu đầu tư trong nướcở Indonesia cao, các
hoạtđộngkháccótriểnvọngngắnhạntốthơn.Đặc biệt là ở TrungQuốc, nơi bắt đầumộtthời kỳ phát triển kinhtế nhanh chóng vàonăm 2003, đang có sựtăngtrưởngvàmởrộngmạnh đối với các đơn
vị của APP ở địaphương. Công ty nàycũng không trả cáckhoản vay từ ngânhàng Trung Quốc, bấtchấplệnhcấmhoãnnợtrái phiếu. Năm 2003,gia đình Widjaya đềxuất đổi 660 triệu nợ
trái phiếu chưa thanhtoánsang99%cổphầnsở hữu các hoạt độngcủa APP ở TrungQuốc, được kiểm soátthôngquamột công tycủaBermuda.Trongtàiliệu của đề nghị này,giađìnhWidjayanóilà
sở hữu 23% trái phiếuthông qua ngân hàngmà họ kiểm soát tạiquần đảo Cook; baphần tư giá trị tráiphiếu sẽ được phêduyệt. Sau những gìcác thương gia nói làhoạt động không thể
kiểm soát được trongviệcmuabántráiphiếudo cácđơnvị ởTrungQuốc phát hành, mộtcuộcbỏphiếuđãđượctổchứctrongđónhữngngười nắm giữ tráiphiếuđạidiệncho89%giátrịcủasốtráiphiếu
nóitrên,chobiếthọđãủng hộ đề nghị này.Một tòaánởBermudađã phê chuẩn việc táicấu trúc vốn này. Giađình Widjaya đã đạtđược thỏa thuận củahọ.Khôngmay,sauđóđã có một số lời bàn
tán khá tiêu cực khimột công ty ở NewYork tiến hành bỏphiếu và cố gắng tiếpxúc với những ngườinắm giữ cổ phiếu đãđăngkýđểgửicổphầncủa họ vào doanhnghiệp ở Trung Quốc.
Khoảng150ngườinắmgiữ tráiphiếu,đạidiệncho 19% giá trị, làngười Đài Loan đã đệtrìnhhồsơđăngkýchocuộc bỏ phiếu thôngqua công ty NomuraSecurities tạiSingapore, nơi đặt trụ
sởchínhcủaAPP(cácnhàđầutưtổchứctiếnhànhviệcđăngkýquathưđiệntử,màbâygiờlà chuẩn mực). Tất cảnhữngngườiĐàiLoanđãbỏphiếuủnghộ táicấu trúc vốn. NhưngkhicôngtyBondholder
Communications ởNewYork liên lạc vớicácsốđiệnthoạihọđãcho,một vài số khôngtồn tại, một vài số saivà những số khác thìngười ta có trả lờinhưngtừchốinốimáyđể người gọi liên lạc
vớingườinắmgiữ tráiphiếu có tên đã đăngký.Nhữngngườitrảlờikhác xác nhận họ làngười thân của ngườinắm giữ trái phiếu,nhưng nói rằng hoàntoàn không phải làngười đang sở hữu
nhiều triệu đôla tiềnđầu tư họ là nhữngnhânviêncấpthấpcủaAPP tại Đài Loan.Năm 2004, công tyBondholderCommunications đãviết thư cho các thẩmphán tòa án tối cao
Bermuda,nhữngngườiđã phê chuẩn việc táicấu trúc năm trước đểchắc chắn nó tin là cóđếnmộtphầnbangườinắm giữ trái phiếu đãđăng ký giá trị có thểkhôngphảichủsởhữucó lợi ích thực sự.
Trước lời cáo buộcđó,APP đã không phủnhậnrằngnhữngngườinắm giữ trái phiếu lànhân viên của họnhưng tuyên bố trongmột báo cáo viết rằng,vìlýdovănhóa,nhữngngười châu Á không
thích thảo luận về cácvấn đề tài chính vớingười lạ, và ngụ ýnhữngngườiđókhôngmuốnthừanhậnsốtiềnđầu tư lớncủahọ.Trừviệc xem xét về pháplý bất lợi ở Bermuda,cho đến tháng 5 năm
2007 mới xảy ra, giađình này đã có được"những người TrungQuốcyêudấu"củahọ.
TạiIndonesia,giađìnhWidjaya có được mộtthỏa thuận năm 2005đốivớikhoảnnợ6,7tỷđôlacóthểquychocác
công ty ở Indonesiacủahọ.Cácđiềukhoảncóvẻkháổntheoquanđiểmcủagiađìnhnày.Chỉ có 1,2 tỉ đôla sẽđược hoàn trả đầy đủ;phần còn lại của mónnợđãđượcchuyểnđổithành trái phiếu mới
saumột bút toán quantrọng về tiền lãi chưathanh toán với kỳ hạnphải thanh toán là 22năm. Hầu hết các chủnợ đều quả quyết họbuộc phải chấp nhậnthỏa thuận này, đạtđược hai phần ba số
phiếuủnghộcầnthiết,mặcdùNgânhàngxuấtnhập khẩu Hoa Kỳ vàmột số người nắm giữtrái phiếu Mỹ tiếp tụckiệnAPPtạicáctòaánHoa Kỳ. Quyền lựcliên tục của gia đìnhWidjaya ở Indonesia,
và khả năng chuyểntiềnmặt vào và ra cácdoanh nghiệp theo ýmuốn của họ, đã làmchocácchủnợtơibời.Ngân hàng DeutscheBank và BNP ParibasđãđềnghịmộttòaánởSingapore bổ nhiệm
một người quản trị đểđiều hành các cơ sở ởđịa phương thay giađình Widjaya, nhưngtòaánnàyđãchẳngthểlàmđượcđiềuđó.Mộtbức thư hồi tháng 3năm 2003 của các vịđại sứ của Hoa Kỳ,
Nhật Bản, Canada vàtámnướcchâuÂukêugọi chính phủIndonesia phải làm gìđó đối với cách cư xửcủa APP với các chủnợ, cũng như phải cósựcanthiệpcủamộtsốvị lãnh đạo nhà nước,
nhưngJakartavẫnphớtlờ.Thựcra,cácchủnợsẽ may mắn nếu họđược thanh toán ngaycả với các điều khoảnmà gia đình Widjayađã đồng ý năm 2005.Tháng 11 năm 2006,tòa án tối cao tại
Jakarta tán thành mộttrong những phánquyết năm 2004 củatòa án quận rằng 500triệuđôla tráiphiếudoAPP phát hành là bấthợp pháp, và do đókhôngcầnphảitrả.
Gia đình Widjaya
đúnglàkhôngthểđụngchạm.Sựthamgiacủahọ trong khai thác gỗtrái phép ở Indonesiađãđượccácnhàbáovàcáctổchứcmôitrườngchứngminh nhiều lần,nhưng chính phủ cũngchẳng làm gì. Trong
khi gia đình này tránhtrả nợ các chủ nợ củaAPPsaunăm1998,vàgiữlạiquyềnkiểmsoáttấtcảcácdoanhnghiệpbột giấy và giấy củahọ,lợiíchkhổnglồcủariênghọ trong cácđồnđiềnbướcvàomộtgiai
đoạn tăng trưởngnguyhiểm bởi tác động củasự bùng nổ hàng hóatoàn cầu gần đây. Giađình Widjaya, con nợquốc tế hàng đầu củaIndonesiatạithờiđiểmcó cuộc khủng hoảng,ngàynaygiàuhơnbao
giờ hết. Theo GeneGalbraith: "Họ kiếmtiền như đi cướp."Cũng cần lưu ý rằngIndonesiahợpvớihìnhmẫu bố già sau khủnghoảngkhôngchỉvìmộtsốbốgià vô sự,mà làhọ thực sự béo bở do
cókhủnghoảng.Thêmvàođó,hệthốngchínhtrị vàkinh tế cũng sảnsinh ra những bố giàmới.
ĐángsợnhấttrongsốnàylàTommyWinata,một doanh nhân rấtthân với giới quân sự,
bao gồm nguyênTổngTư lệnh các lực lượngvũ trang Edi Sudradjatvà Try Sutrisno, vàtheo cácnhàphêbình,cócảthếgiớitộiphạmngầm.Sau cuộckhủnghoảng, tập đoàn ArthaGrahacủaôngtađãnổ
tung. “Ông ta là mộttrongbanhàphát triểnbấtđộngsảntừhaibàntay trắng, ngôi saođang lên của nền kinhtế Indonesia”, PhilipPurnama, một Giámđốc điều hành cấp caolàm việc cho Anthony
Salim nói. Winata cóđượcđủloạigiấyphépđể chen chân vàongành vận tải biển,khai thác than,dịchvụtài chính và nhiềungành mới khác.Tommy, như tên gọicủa ông ta gần đây là
Tommy Suharto,không phải là mộtngười thích làm ănchung.Khimộttạpchítin tức nổi tiếng nhấtIndonesia là Tempo,đăng tải một báo cáonăm2003rằngrõràngcơn hỏa hoạn tại một
khu chợ ở Jakarta, màWinata đã quan tâmđếnpháttriểnlạicóthểđem lại lợi ích chomình, một nhóm cônđồ hung hãn cùng vớimột đội cảnh sát hộtống khởi hành từ vănphòng của Tempo và
bắt đầu tiếnhành cuộctấncôngtổngbiêntập.
Ít đáng sợ hơn mộtchút,nhưngkhôngítbíẩn, là bố già mới nổilên từ khi có khủnghoảng,BambangHarryIswantoTanoesoedibjo, thường
được gọi là HarryTanoe. Ông ta đãmualạiquyềnkiểmsoáttậpđoànBimantara từ contrai của Suharto làBambang Trihatmodjohồi tháng4năm2002.Ông ta cũng đã muađược cácgiấyphép có
giá trị trong nhiệm kỳtổng thống củaAbdurrahman Wahid,người mà cả ông vàcha ông đều có mốiquan hệ lâu năm.Ngoài Bimantara, cácdoanh nghiệp đầu tàutrongđầu tư chính của
Harry Tanoe bao gồmPT Bhakti Investama.Không thể tránh khỏicó nhiều suy đoán vềviệc làm thế nào màmộtdoanhnhânở tuổi40lạicóđượctiềmlựctài chính để xây dựngnên một trong những
đế chế doanh nghiệplớn nhất tại nước nàytrong những năm qua.Một số người nóiHarry Tanoe, mộtngười gốc Hoa đãchuyển sang đạo Hồi(nhưBobHasan),đangkinh doanh bằng tiền
của Salim, nhữngngườikháclạinóirằngsau lưngông ta làmộtSuharto. Ở Indonesia,đã từng không thiếunhững học thuyết âmmưu,bấtkỳthuyếtnàocũngđúng,hoặcchẳngcóthuyếtnàolàđúng.
TRANHTỐI,TRANHSÁNG
Trải nghiệm của cácđạigiatạiSingaporevàHồng Kông sau cuộckhủng hoảng tài chínhlà một trải nghiệmtương đối thụ động.Các nền kinh tế quốc
nội của hai lãnh thổnày phụ thuộc vào tốcđộ tăng trưởng tại cácnước trong khu vựcquanh họ, và các bốgià, với sựgiàu cóbắtnguồntừngânhàngvàbất động sản, cần phảichờsuy thoáikết thúc.
Đó là sự chờ đợi lâudài, nhưng dòng tiềnmặtchủyếucủacáctỷphú địa phương vẫnnhư vậy nên chẳng aitrong số họ phải đốimặt với mối đe dọanghiêm trọng là phásản.
Ở Singapore, chínhphủ với chính sáchkinhtếchỉhuycủagiađìnhLeechủđộnghơnso với chính quyềnhànhchínhHồngKôngtrong việc điều chỉnhchínhsách,hầunhưtấtcả đều trùng khớp với
những lợi ích tốt nhấtcủa các bố già. Mộtquyếtđịnhcũngcótầmquan trọng đối vớingành chế biến xuấtkhẩu thống trị nhiềuquốc gia: đồng đôlaSingapore được chophép mất giá từ 1,4
đôla Singapore ăn 1đôla Mỹ vào đầu năm1997đếnmứchơn1,8ăn 1 sau cuộc khủnghoảng. Điều này làmtăng khả năng cạnhtranh của hàng xuấtkhẩuvàhạnchếsựgiatăng thất nghiệp. Một
câu hỏi về nguồn tăngtrưởng mới trong nềnkinh tế quốc nội cácđại gia tập trung sựquantâmcủamìnhvàođâu gợi lên hai ýtưởng. Thứ nhất, nhưđãnóitrướcđây, làhọcốgắngđểcóđượccác
doanh nghiệp ngânhàngtưnhânmangtínhquốc tế cao hơn trongthờikỳLiênminhchâuÂuvàHoaKỳđangcốgắng kiềm chế việctrốnthuếthôngquacáctrung tâm tài chínhquốc tế, đặc biệt là ở
Thụy Sĩ. Sau một loạtthayđổiquyđịnhđượcđưa ra với sự giúp đỡcủa các ngân hàng tưnhân quốc tế, tổng sốtiềnđượcquảnlýtrongcáccáccôngtyquảnlýtài sản đóng ởSingaporetăngtừ92tỷ
đôlanăm1998lên350tỷvàđangtiếptụctăngbắt đầu từ năm 2005.Trongsốnày,hơnmộtphần ba là tiền củangânhàng tưnhân.Sựthay đổi thứ hai, cũngđã được thảo luận, làviệc cấp phép cho hai
khu nghỉ dưỡng kiêmsòngbạcnhiềutỷđôla;một sự nhượng quyềnkinh doanh đã đến vớigia đình Lâm củaMalaysia, khácvới tậpđoàn Sands ở LasVegas.
Đằngsauconsốhàng
tỷ đôla của Indonesiabị chuyển sang cácngân hàng củaSingapore và bất độngsản cao cấp – tờ PostJakarta tuyên bố năm2007 là 18.000 trongtổngsốướctính55.000“ngườisiêugiàu”sống
ở Singapore là ngườiIndonesiahaiđộngtháinàylàmộtlợiíchđángkể đối với các bố giàđịa phương, nhữngngười sởhữubấtđộngsảncaocấpvàcổphầntrong cartel ngân hàngcủa Singapore. Chính
phủcũngđãbắtđầucógắngtưnhânhóangânhàng và tiền đầu tư từnhững người Ấn Độgiàu có, mặc dù trongnhiệm vụ này nó phảiđối mặt với sự cạnhtranhgaygắttừDubai.
Các ngân hàng gia
đìnhởSingapoređãcóítcơhộiđểlàmtiêutanchính mình trước khicó cuộc khủng hoảngbởi vì chính phủ ở đócónhiệmvụdựtrữvốnliênquanđếnnhữngtàisảnchưavượtquá tiêuchuẩnquốctế.Bangân
hàng tư nhân lớnOCBC, OUB và UOBđã bị hạn chế trongviệc mở rộng, nhưngvẫncólợinhuậnlớndolà thành viên của mộtcartel nhỏ nhưng ấmcúng. Sự suy thoái bấtđộngsảnsaunăm1997
đã được công bố, vớigiá bất động sảnthươngmạivàgiáthuêsụt giảm khoảng 40%.Nhưng những vănphòng cao cấp và khuvực dân cư, trong đólợi ích của các bố giàchiếm ưu thế, là sôi
độngnhất,vàvàonăm2006,đãvượtquámứcgiá đỉnh của nhữngnămbùngnổ.Sở thíchcủa Quách LệnhMinhvàHoàngĐìnhPhươngkhông bị thiệt thòinhiều lắm, và họ cótiền mặt trong tay để
mua tài sản có sẵn đểbán đổ bán tháo. Cácgia đình bố già lớn ởSingapore vẫn giữ tàisản ròng của họ hoặctăng nó lên một chút.Trong khi đó, chínhphủ tỏ ra hơi bối rốivới danh sách dài các
bố già Indonesia đangđi "cắm trại" ởSingapore nhiều ngườitrongsốhọbịtruynãởở Jakarta để thẩm vấntrongcáccuộcđiềutradânsựvàhìnhsự.Vàotháng 5 năm 2006, tạpchí Tempo của
Indonesia liệt kêSukanto Tanoto,Sjamsul Nursalim,Lâm Thiệu Lương vàEka Tjipta Widjaja tấtcả các đại gia lớn màcuốn sách này nói đếncộng với BambangSutrisno và Andrian
Kiki Ariawan (cả haiđềubịtòaánIndonesiakết án tù vì biển thủquỹ của ngân hàngtrung ương), AgusAnwar (đượccấpquốctịch Singapore năm2003, bị truy nã vìtham ô), và một số
người khác đang bịxem xét ở đất nướcnày.Vớimộtđộngtháibất ngờ vào tháng 4năm 2007, Singapoređã đồng ý với vớiIndonesia về một hiệpướcdẫnđộmặcdù tạithời điểm viết cuốn
sáchnàynóchưađượcphê chuẩn và khôngbiết nó sẽ ra sao trongthựctế.
Ở Hồng Kông, cũnggiống như Singapore,cácbốgiàbiếtrõgiátrịcủa các doanh nghiệpniêmyếtcủahọvàtình
trạng hỗn loạn của thịtrường bất động sảntrong cuộc khủnghoảng giá trị tài sảnsuy giảm trung bìnhhơn 40% nhưng, mộtlần nữa như ởSingapore, nhiều tàisản tư nhân của họ đã
đượctáiđầutưtạiHoaKỳ, Canada, Úc vàchâu Âu, và như vậy,được cách ly khỏinhữngrốiloạnnày.Sựkhác biệt chủ yếu ởHồng Kông là năm1997 chứng kiến sựchuyển tiếp từ chính
quyền thuộc địa sangchính phủ của các đạigia, khi người thừa kếdoanh nghiệp vận tảibiển Đổng Kiến Hoatrở thành người đứngđầuvùnglãnhthổnày.Đổngđãđượcrấtnhiềuhậu thuẫn của các bố
già bạn bè trong côngviệc củamìnhđặcbiệtlà Henry Hoắc và LýGia Thành và nhữngngười hào phú rất kỳvọng vào chính quyềncủa ông ta. Có lẽ ýthức được rằng mìnhđượcnhiềungười nhìn
nhậnlàmộtconrốicủanhữngđạigia,Đổngđãsớm tuyên bố nhữngchính sách nhấn mạnhchủnghĩadântuý.Ôngkêu gọi cần có sự giatăng lớn trong việccung cấp nhà ở và hỗtrợ của ngân hàng cho
các doanh nghiệp vừavà nhỏ. Nhưng nó đãtồntạikhônglâu,trướckhi quyền lợi của cácbố già được đáp ứng.Tháng 8 năm 1998,chính phủ đã rót 15 tỉđôla dự trữ ngoại hốicủamìnhvàođầutưcổ
phần để hỗ trợ thịtrường chứng khoán;nhưngrấtnhiềutiềnđãchuyển thành cổ phiếucủacáccôngtycủacácđạigia.Năm1999,contrai của LýGia Thànhlà Richard Lý đượcquyền không đấu thầu
để phát triển một quỹđất rất có giá trị trênđảo Hồng Kông, cáiđược gọi là Dự ánCổng thông tin máytính (Cyberport). Saunày,còncómộtloạtdựán phát triển bất độngsản cực lớn và gây
tranh cãi mà ngườihưởnglợichínhlàtầnglớp bố già. Chính phủlập kế hoạch cho mộttrungtâmtriểnlãmlớnmới, một khu hậu cầntrênđảoLantauvàxâydựng một bến cảngmới để phát triển khu
vực trung tâm và khuvực Wanchai của đảoHồng Kông. Năm2004, kết cục của thịtrường bất động sảnthậtbuồn tẻ,nhưng lạicó sự hồi phục lớnnhất. Công ty TânHồng Cơ của anh em
nhàQuáchvàTậpđoànNew World của TrịnhDụĐồng,đãxâydựngđược2.000cănhộnhàở xã hội có sự trợ giácủachínhphủphùhợpvới chính sách nhà ởmới của Đổng KiếnHoa, được áp dụng để
hạ giá nhà ở xã hộixuống và đưa giá cácchungcưcaotầngsangtrọng lên cao. Đã cóbánđấugiácôngkhai.Sự phẫn nộ lại xảy rakhi chính phủ củaĐổng tư nhân hóa cáccửahiệuvàchỗđậuxe
trong các khu nhà ởcông cộng mà khôngxin phê duyệt củaHộiđồng lập pháp. Dự ángây tranh cãi nhất củaĐổng liên quan đếnmộtkếhoạchpháttriểnmột khuđất rộng rộnglớn ở phía Tây Cửu
Longtừlâuđãhứalàmcông viên cho thànhphố đông dân này.Chính quyền nói rằngthaychocôngviên,nósẽ tạo ra một "trungtâm văn hóa". Đối vớihầu hết các nhà quansát, những kế hoạch
được đệ trình bởi cácbốgiàrấtgiốngcácdựán bất động sản nhàcao tầng, với một vàicôngtrìnhcôngcộngởgiữa.Nhưngcácbốgiàkhăngkhănglàvănhóagần gũi với tâm hồncủa họ. Anh em nhà
Quách dựng lên mộtbức màn sân khấu cókích thước 10x16 métdo Picasso thiết kế tạithápIFCcủahọởkhutrung tâm, và tổngthống Pháp JacquesChirac đã khánh thànhnó. Công ty Cheung
Kong của Lý GiaThành đã đưa các nhàbáo ởHồngKông đếnLouvre. Công chúngcũng chẳng mấy cảmđộng. Khi nhiệm kỳthứ hai của Đổng bắtđầu vào năm 2002, sựcăm phẫn của dân
chúng càng trào lênmãnhliệt.
ChếđộcủaĐổngcũngcóhaivấnđề tương tựnhư chính phủ bố giàcủa ThaksinShinawatraởTháiLan.Trướchết,nóchútrọngvàoýkiếncủatầnglớp
trung lưu có học vàobảnchấtvề sựgiàucócủa các bố già màtrướcđâychưabaogiờđượcbànđến.NgườitakhôngnóiđếnthựctếởHồng Kông như mộtthuộcđịađãkhácxasovới huyền thoại chính
thức về một nhà nướcvớichếđộthịtrườngtựdo như những nhà caitrị người Anh đã trìnhbày. Khi một đại giaphụtráchvàởgiữacơnsuy thoáikinh tế tồi tệnhất trong một thế hệcâu hỏi về sự thông
đồng giữa quyền lựcchính trị và quyền lựckinh tế được đặt lênhàng đầu trong cuộctranh luận của côngchúng. Đại diện củanhững đại gia, nhữngngười nắm giữ các vịtrí của "đơn vị bầu cử
chức năng" dựa trênngànhnghềkinhdoanh(không phải do dânbầu), trong Hội đồngLập pháp đã làm hếtsứcmìnhđểgiới thiệunhữngdựánxâydựnglớnnhưcâutrảlờihợplýchotìnhtrạngbấtổn
về kinh tế. Nhưngnhững đại biểu do dânbầu trong Hội đồngngày càng tinh thôngkhi kéo sự chú ý sangbản chất tự phục vụcủaviệcvậnđộnghànhlang trong kinh doanh.Vấn đề thứ hai của
Đổnglàuythếcủaôngđãkíchđộngsựghentịvà cay đắng tiềm ẩngiữa các bố già trongkhu vực. Không giốngnhư Thaksin, Đổngkhông phải là ngườithắngđậmvềtàichínhdo giành được quyền
lực, nhưng những đạigia bạn bè ông nhanhchóng buồn phiền vìông đã đối xử thiên vịvớimộtsốngườitrongbọn họ. Việc traonhượng quyền kinhdoanh Cyberport choRichard Lý năm 1999
dấy lên đến một lànsóng tố cáo công khaichưatừngthấycủacácbốgiàđịchthủ.RonnieTrần,RobertHoàngvàGordonNgôđềulênánviệc không tuân theothủ tục đấu thầu rộngrãi.GordonWulàmột
tỷphúvềcơsởhạtầngvàbấtđộngsản,khôngmấythànhcông,ngườiđã cạnh tranh vớiRonnie Trần để lăngmạ dân chủ là kẻ thùcủa sự phát triển, thanvãnvớitờSouthChinaMorning Post trong
năm 2005: "Hãy nhìnCyberportvàdựáncấpquậnvềvănhóaởphíatây Cửu Long, và bạnsẽbiếtchỉnhữngcôngtylớnmớiđủđiềukiệnđểthamgiasânchơiởHồng Kông... Môitrường kinh doanh
trong những năm qualàrấtxấu."Sangnhiệmkỳ thứ hai của Đổng,công chúng khôngthích ông ta, và đa sốcácbốgià cũngkhôngthíchôngta.Ôngloạngchoạng 18 tháng nữatrướckhi từchứcngày
10 tháng 3 năm 2005với lý do sức khỏekém. Trung Quốc đưamột công chức dân sựđãđượcđàotạoởAnhlà Donald Tằng lênthaythếông.
ViệcbổnhiệmTằngđãlàm cho dân chúng đỡ
oán giận các bố già.Ông là một chính trịgiakhônngoanhơnsovới Đổng và cũng saymê các dự án củangườitiềnnhiệm,đángchú ý nhất là dự ánphát triển phía TâyCửuLong.Nhưngthay
vì nói với công chúngrằngHồngKôngkhôngcần một đạo luật vềcạnh tranh và độcquyền,Tằngnóiôngsẽsuynghĩ thêmvềnó–để làm nguôi lòng cácđại gia và ông đã suynghĩvềnóhainămnay
rồi.Các bố già đã xếphàng để hỗ trợ chocuộc "bầu cử" chínhthức của ông với mộtnhóm nhân sĩ 800thành viên, hầu hết họđều được Bắc Kinhủnghộ,vàtháng3năm2007, ông đã trúng cử
một cách hợp lệ. Tuynhiên,khôngthểthulạinhững lờimàĐổngđãnói. Việc tham giachính trường ở HồngKôngdướicáinhìncủaông là phức tạp vàthâm căn cố đế. Cũngvì có sự gia tăng về ý
thức chính trị của cáccửtri,trongnhữngnămĐổngcầmquyền,cósựgây sức ép chưa từngthấy của các tổ chứcphi chính phủ trongkhu vực. Hiệp hội cácnhà đầu tư thiểu số đãđược tổ chức để ngăn
chặn nhiều vụ tư nhânhóacủacácđạigia,đãđược nói ở trên, vàthúc đẩy các ứng cửviên thamgia tranh cửvào Hội đồng chứngkhoán Hồng Kông.Những người khôngphụ thuộc nghĩ những
cơquannhưvậy,đángchú ý nhất là CivicExchange, sẽ tạo ranhữngbáocáonêubậtnhữngvụkiệnvì thiếucạnh tranh trong nềnkinh tế quốc nội vànhững xung đột về lợiíchtrongviệcchuẩnbị
bầu cử ở các đơn vịbầucửchứcnăng.Cácbố già đã bị khuấyđộng nếu chưa bị làmchokiệtquệmộtcáigìđó được chứng minhbằng các tuyên bốthường xuyên tăng lênvề sự nguy hiểm của
cảicáchchính trị.Mộtcâuhỏilớnnổibậtlên,sẽ được đề cập trongchương cuối cùng, làliệu các bố già có thểgiữđượcranhgiớinàycho đến khi động lựcchính trị của nhân dântiêu tan, hoặc những
tháchthứcđốivớicáchsống của họ có tăngthêmkhông.
Cho đến bây giờ, cácđạigiavẫncótìnhhìnhtài chính tốt. Họ đãđược Đổng Kiến Hoaném chomột vài khúcxương có dính thịt,
trong khi khuynhhướng của chính phủthời hậu thuộc địa ởHồng Kông là hướngtới mức độ cao hơntronggiảingânvốnchủyếu là cho cơ sở hạtầng mà lúc nào cũngcó lợi cho họ. Trong
năm 2006, thị trườngbất động sản địaphương quay trở lạimức giá năm 1997, vàthịtrườngchứngkhoánđã ở đỉnh cao kỷ lụcvào đầu năm 2007.Nhưng phần lớn thờigian,thịtrườngvẫncứ
nhảy múa theo điệunhạc của các bố già,ngay cả khi họ đangphải đối mặt với sựchống đối quyết liệtcủa các nhà đầu tưthiểu số. Những năm1999 và 2000, các tỷphúbất động sảnhàng
đầumệtlửvìcáccôngty kinh doanh chứngkhoántrênmạngkhôngcó sức thu hút trongviệc gọi vốn côngchúnglầnđầu(IPO)đểtận dụng lợi thế bongbóng công nghệ củaMỹvàchâuÂu.Chúng
là các doanh nghiệpkhông có kinh doanh,và đang tuột dốc. SaukhinềnkinhtếInternetsụp đổ năm 2001,mốtthời trang tiếp theo làniêmyếttínthácđầutưbất động sản (REIT).Đây là cuộc chơi để
các đại gia bán nhữngtàisảncấpthấpchocáccôngtymới,chấtthêmgánh nặng trả nợ chongườimuavàniêmyếtchúng cùng với câuchuyện rằng cổ tứctrong năm sẽ dẫn đếncác khoản thu nhập
trong tương lai. Nhưthường lệ, Lý GiaThànhlàtổngđạodiễn.Công tyCheungKongProsperityReitcủaôngvào cuối năm 2005 đãhuy động được 1,92đôlaHồngKông,tạoralợi tức hấp dẫn 5,3%.
Tuy nhiên, cơ cấu nợcủaProsperitylàkhôngtrả lãi tiền vay trongnăm thứ nhất. Việcniêmyếtcôngtyvẫnđitheo con đường vòngcủacácbốgiàcổđiển.Đượcbánvới giá 2,16đôla Hồng Kông, giá
cổphiếucủaREITtăngthêm 20% trong mộtngày rồi tụt dốc đềuđềumặc dù thị trườngđang lên. Vào tháng 3năm 2007, nó đượcgiao dịch với giá 1,78đôla Hồng Kông. Đầunăm 2004, Lý và chủ
ngân hàng đầu tư củaông đưa ra một quảngcáo tương tự, với lợiíchphụcủaHutchison,về một công ty đượcgọi là Hệ thống vàTruyền thông Vanda,cũngphất lênmột thờigian ngắn rồi đổ vỡ,
trước khi được bán lạichotưnhânvớigiáchỉbằngmộtnửagiániêmyết. Cậu con traiRichard có lẽ bị mộtđònđaunhấttronglịchsửHồngKôngmà cácnhà đầu tư thiểu số đãgiáng vào công ty
Pacific Century CyberWorks (PCCW) củaanh ta. Tất cả các cổphiếu tiếp quản từHongkong Telecomtrong thời kỳ bongbóng Internet, đã rơithẳng từ đỉnh xuốngđáy, giá cổ phần của
PCCW giảm 97%. Đểcó biện pháp tốt nhất,chàng Lý trẻ tuổi theođuổi một vụ hối lộ đểniêmyếtcáctàisảnbấtđộng sản của PCCW,cũng leo lên đến đỉnhrồi tụtmạnh về giá cổphiếu. Phản ánh về
hành vi của Lý GiaThành, cựu giám đốcđiều hành củaMorganStanley, PeterChurchouse bình luận:"Với tôi, đó hoàn toànlà sự bóc lột vô nhânđạo đối với một côngchúngsùngbáiông ta,
nhưngkhôngbiếtrõvềôngta."
Tại sao mọi ngườikhôngbiếtrõlàrấtkhóđo đạc lòng người.REITlàmộtvídụđiểnhình về các kiểu kinhdoanh không mua cổphầncủacácbốgià.Lý
GiaThànhcủaCheungKongchỉquantâmgiữ18,6% cổ phần niêmyết;vớiHutchisonôngđang nắm giữ 10,4%.Điều này có nghĩa làchínhôngchủsẽchỉsởhữu khoảng 10%những gì ông ta đang
bán, một dấu hiệu rõrànglàtàisảnđãđượcđịnh giá quá cao. Mộtsố doanh nghiệp củacácbốgià, từngcógiátrị khi các nhà đầu tưthiểu số mua cổ phầncủa chúng, là nhữngdoanh nghiệp mà ông
chủ lớn sở hữu nhiềunhất, vì sau đó ông taphảichiasẻbấtcứthuathiệt hoặc lợi lộc nào.Ho không thể bảo vệcácnhàđầutưnhỏvớisự phán đoán kém cỏicủa riêng họ, nhưngđiều lạ lùng là nhiều
người không hiểu rõmột quy tắc đơn giảnnhư vậy. Anson Chan,thư ký trưởng củaHồng Kông dưới thờiChris Patten, sỉ vả LýGiaThànhvìnhữngtròhề của ông ta trên thịtrường vốn sau khủng
hoảng. Trong một sốlần,bànói rằngông tađã đe dọa các quanchức chính phủ vàcôngchúngrằngôngsẽrút tiền của mình rakhỏi Hồng Kông nếucáccơquanđiềuchỉnhhành động chống lại
cái mà ông coi lànhững lợi ích tốt nhấtcủa “doanh nghiệp”.“Tôi rất không tôntrọng đa số các doanhnhân lớn ở HồngKông,” bà tức giận.Nhưng những lời dọadẫm của Lý không có
gìmới.Ông tađãphátbiểunhưvậynăm1990khi đang cần có miễntrừpháplýđặcbiệtchoStarTelevisionmàsauđóôngkiểmsoát.Hơnnữa, rất khó tin là Lýsẽtừbỏđịavịthốngtrịcủa mình trong những
cartel bất động sản,phátđiện,bánlẻvàhảicảng để cạnh tranhtrongnhững thị trườngrộng lớn hơn. Sau khiHutchison đã có đượckhoản lợi nhuận trờicho 15 tỷ đôla từ việcbán cổ phần của nó ở
doanh nghiệp điệnthoạidiđộngEuropeanOrange năm 1999, vàngaylậptứcđặtsốtiềnđó vào các giấy phép3G khắp thế giới, Lýcần dòng tiền mặt ởHồng Kông của ôngmột lần nữa chảy ra
nước ngoài, vào mộtdoanhnghiệpthiếuvốnvàđanglàmănthualỗ.Nếu không có doanhthu như vậy, Lý hoàntoàncóthểphảixóasổbadoanhnghiệp“số3”mình trongnhữngnămgầnđây.
Thay vào đó, Lý đãbướcvàonăm2007vớiđếchếcònnguyênvẹnvà đang mở rộng củamình, và tên tuổi củaông vẫn ở đầu danhsáchnhữngngườigiàunhấtchâuÁcủatạpchíForbes.Ôngcũngđứng
đầudanhsáchcủanăm2006,ướctínhlàngườigiàu thứmười trên thếgiới. Tài sản cá nhâncủaLýđãtăngtừ8,2tỉđôla lên 18,8 tỷ đôla,tính từ bảng xếp hạnggần nhất trước cuộckhủng hoảng châu Á,
năm 1996. Không cóđại gia Đông Nam Ánàođượcđánhgiácaotrongsố25tỷphúhàngđầu năm 2006, và chỉcóhaigiađìnhanhemnhàQuách với 11,6 tỷđôla và Lý Triệu Cơvới 11 tỷ đôla được ở
trongsố50tỷphúhàngđầu. (Vềđiềunày,hãynhớ lại phần mở đầu,năm 1996 có 8 bố giàtrong nhóm 25 ngườigiàu nhất thế giới, và13 bố già trong nhóm50ngườigiàunhất thếgiới.) Tuy nhiên, sự
thayđổinàykhôngchothấysựgiàucócủacácbố già châu Á đanggiảm đi. Thay vào đó,họđãbắtkịpnhữngtỷphú người ÂuMỹ; thịtrường bất động sảncủa họ tiếp tục thịnhvượngcuốinhữngnăm
1990 và chỉ thụt lùimột thời gian ngắn vìsự bùng nổ toàn cầucủabongbóngInternetnăm 2001. Chỉ cầnnhìnvàogiá trị tài sảnròng, 8 người ĐôngNamÁgiàunhấttrongdanh sách 25 người
giàunhất thếgiới năm1996, sự giàu có củaLýGiaThànhvẫntănglên đáng kể bất chấpcuộckhủnghoảng.Bốnbốgià đãduy trì đượctàisản,1ngườiđãchếtvàtàisảncủaôngtađãđược chia cho những
người thừa kế, và chỉcó2ngườithualỗ.Tàisảnròngtổngcộngcủa8bốgiàĐôngNamÁnăm 2006 là 66,5 tỷđôlasovới65,1tỷđôlaở thập kỷ trước. Vượtlêndanhsách8bốgiànăm2006đó,nhiềuđại
giaĐôngNamÁkhácđã tăng tài sản của họlên một cách rõ rệtthông qua cơn khủnghoảng.Trongsốnhữngngười được kể đếntrongcuốnsáchnày,cóStanley Hà tài sảntrongcácdoanhnghiệp
cờbạccủaông ta tăngđến 6,5 tỷ đôla; vàAnanda Krishnan củaMalaysia có tài sảntăng đến 4,3 tỷ đôlavào năm 2006. Theoquan điểm củamột bốgià, cuộc khủng hoảngchâu Á không hề
phóngđạitínàocóthểcòntồitệhơnnhiều.
7. MÀNCUỐI: ĐỜISỐNGCHÍNHTRỊ, THẬT
BUỒNTẺ
"Nếuchúng tôiđã làmđiềugìsaitrái,hãygửingười của Ngài đếnvới người của tôi, đểhọ có thể làm lại việcnày."
J. PIERPONTMORGANT Trả lờiTổng thống TEDDYROOSEVELT,saukhi
nghetinvềmộtvụkiệngây mất lòng tin củachínhphủ.
"Có thể tôi đã phạm
nhiều tội lỗi trongđời, nhưng tôi có thểnói với các bạn rằng,tôikhônghềăncắp."
FERDINANDMARCOS Trả lờiphỏng vấn của TEDKOPPEL,
phóng viên chươngtrình ABC Nightline,trongkhilưuvong,
ngày 4 tháng 4 năm1986.
Từ quan điểm kinh tếvĩmô,sựphụchồikinhtế của Đông Nam Á
nhữngnămgầnđâycóthể được tóm tắt tronghai vấn đề: hàng xuấtkhẩu và sự bùng nổ ởTrung Quốc, bắt đầuvào năm 2003. Hàngxuất khẩu sản xuất ởĐôngNamÁđượccáccông ty đa quốc gia
đưa sang cho các nhàthầuđịaphươngcókhảnăngnhưngcóquymônhỏvàcónhữngngườicôngnhâncầncùchămchỉ.Cácbốgiàcóthamgia nhưng không đángkể. Nhưng luận điểmcho rằng hàng xuất
khẩu, ở một mức độnào đó, đã giúp ĐôngNam Á thoát ra cơnkhủng hoảng tài chínhđược ít người thừanhận. Độc giả của cácbáo có thể suy nghĩrằng, tất cả các hoạtđộng chế biến, gia
côngxuấtkhẩucủathếgiới đã chuyển sangTrungQuốc,vàsựthayđổivềnhậnthứclàmộtyếu tố quan trọng đốivới cuộc khủng hoảngở châu Á. Thực tế,hàng xuất khẩu củaĐông Nam Á từ năm
1997saumộtcuộcsuythoái ngắn trước vàtrongkhủnghoảng–đãlàm tỷ lệ tăng trưởngthấpđimộtchútsovớitỷ lệ tăng trưởng trungbình dài hạn trong 30nămqua.Vìphảicạnhtranhtoàncầu,cácnhà
sản xuất hàng xuấtkhẩu phải bỏ vốn từdòngtiềnmặtlưuđộngđể có được sự tăngtrưởng sau khủnghoảng hoặc trongtrườnghợpcáccôngtyđa quốc gia thông quađầu tư trực tiếp từ các
công tymẹ.Côngviệcgiacôngcógiátrịthấphơn được chuyển vàoTrung Quốc (và ViệtNam, Bangladesh) vớitốc độ nhanh chóng.Nhưngviệclàmnàyđãbắt đầu trước khi cókhủng hoảng và vẫn
còn tiếp tục.Các côngviệc có chuyên môncao hơn, hoặc yêu cầuđược bảo vệ quyền sởhữu trí tuệ không thểthực hiện tại TrungQuốc,tiếptụcmởrộngsangĐôngNamÁ.Vídụ, hàng bán dẫn xuất
khẩu từ Malaysia vàPhilippinesđãtăngvọttrong thập kỷ qua.Đồngthời,cáccôngtyđaquốcgiađãcóphảnứng với việc Mỹ vàchâuÂu hạn chế nhậphàng xuất khẩu củaTrung Quốc vì thặng
dư thương mại củanước này đang tăngcaovàgiátrịđồngtiềntươngđốirẻbằngcáchxácđịnh,vàđôikhisửdụng, các nhà cungứng khác nhau trongkhu vực. Đây là cuộcchơigiốngnhưhồiđầu
thập niên 1990, khichínhquyềnClintonđedọa trừng phạt TrungQuốc vì đã xâm phạmquyền con người. Vídụ, hãng Nike đã sảnxuấtmộtnửasảnlượnggiàyđếmềmtạiTrungQuốc và một nửa tại
Indonesia. Hàng xuấtkhẩu là trụ cột củaĐông Nam Á, và đãkhông bị đổ vỡ dokhủng hoảng. Mộttrongnhữngđiềunóđãlàmđượclàđầutưvàosản xuất trong nước,phần lớn xuất phát từ
các công ty thống trịnềnkinhtếđịaphươngcủa các bố già (tráingược với những nềnkinhtếbênngoài).Khikhủnghoảngnổra,cácngân hàng trong khuvựcđasốdocácbốgiàkiểmsoátvà thao túng
đãbịphásảnvàkhôngthể cho vay được nữa.Cácđại gia, đắmchìmtrong bất động sảnkhôngbánđượcvàcáctài sản không sinh lờinênkhôngthểvayvốn,cho đến khi các nhàchính trị giải cứu họ
hoặc các nền kinh tếhồi phục đến mức đủđểlàmdịucơnbộithựccủahọ.Saucơnkhủnghoảng,đầutưcủatoànĐôngNamÁgiảmhơn10%. Kết quả là, tỉ lệđóng góp của xuấtkhẩu ròng vào GDP
tăng vọt. Xuất khẩutrêndanhnghĩa,với tưcách là là tỷ trọngGDP, tại các lãnh thổmàchúngtađangkhảosát tăng từ 45% năm1997 lên 65% năm2006. Các chính phủbiếtrõvềnhữnggìsắp
xảyrađốivớiviệcgiảicứu các doanh nghiệpnên mua vét hết cácnguồn vốn ngoại tệ đểgiữ giá cho đồng tiềncủahọ (vàvì thếhàngxuất khẩu rẻ), lại tiếptục quy đổi ra đồngđôlađốivớingânsách
dựtrữ.
Nhiều bố già, mặc dùkhônghoạt động trongkhu vực sản xuấtnhưngvẫnđượchưởnglợilớntừlànsóngxuấtkhẩu thứ hai sau cuộckhủnghoảngđólàxuấtkhẩu hàng hoá. Hiện
tượng này là do nhucầu từ Trung Quốc,một đất nước bắt đầucó sự bùng nổ do đầutư mạnh mẽ vào năm2003, tốc độ tăngtrưởng lên đến hơn10% một năm, điềuchưa từng có ở nước
này.Đốivớihàngxuấtkhẩu đến người tiêudùng cuối cùng chủyếuởchâuÂu,MỹvàNhậtBản,chươngtrìnhcôngnghiệphóacóchỉhuycủaTrungQuốcđãthúcđẩy thêmnhucầuvề hàng hóa cứng và
mềmchoĐôngNamÁkhígaMalaysia,caosuThái Lan, gỗ tấm củaIndonesia,v.v...Khônggiống như sản xuất,đây là những lĩnh vựcmàcácbốgiàthamgiarất tích cực, bởi họ cóđược sự nhượng bộ
kinh doanh từ giớichính trị. Các đại giaĐông Nam Á đã từngbị mất những khoảntiềnlớntạiTrungQuốctrongnhữngnăm1990dosựbùngnổvàđổbểbất động sản lại kiếmđượcnhữngkhoảntiền
lớn hơn do hàng hóađến từ Trung Quốc.Những người hưởnglợi tiêu biểu là RobertQuách và Eka TjiptaWidjayavớidầucọvàsảnphẩmđồnđiền; vàAnanda Krishnan,người cóđượcnhượng
bộvềdầukhí tưnhân.Trung Quốc cũng gâynênsựbùngnổvềkinhdoanhsòngbạcởchâuÁ, vì tại nước này,sòngbạcvàhầuhếtcáchình thức cá cược làbất hợp pháp, nhưngviệc qua lại biên giới
của công dân thì đãđược giải phóng. Tổhợp sòng bạc GentingHighlands to lớn củagiađìnhnhàLâmởgầnKuala Lumpur bắt đầugiảm giá cho các conbạcngườiTrungQuốc,nhưng kẻ thụ hưởng
lớnnhất làMaCao,từnăm 1999 là một đặckhu hành chính củaTrung Quốc. CựuthuộcđịaBồĐàoNhanày đã trở thành cáimáy thu tiềnkhổng lồ,tạoratròtiêukhiểnđểnhiềuquan chức chính
phủ và Giám đốcdoanhnghiệpnhànướcởTrungQuốcrửasạchnhững của cải bấtchính mà họ dễ dàngkiếmđược.Độcquyềnvềkinhdoanhsòngbạccủa StanleyHà,HenryHoắc và Trịnh Dụ
Đồng đã hết hạn vàonăm 2001 do sự xuấthiệnvà cạnh tranh củacácsòngbạcMỹthànhraítquantrọnghơnđốivới việc thu hút dòngtiền mới từ TrungQuốc chảy vào MaCao. Năm 2006, Ma
Cao đã vượt qua LasVegas để trở thànhthành phố có thu nhậpvềvuichơigiải trí lớnnhất thế giới. Bố giàStanley Hà có thể hơimệt mỏi trong nhữngngàynày,nhưngôngtavẫn mỉm cười và trở
nên giàu có hơn baogiờ hết. May mắn làChiến tranh thế giớithứhaiđãkhiếnôngtatừ Hồng Kông vượtqua cửa sông ChâuGiangđểđếnMacao.
NHỮNG NGƯỜIPHẢITRẢGIÁ
Nếu các bố già hạngtrungkhôngtrảgiáchocuộc khủng hoảng tàichính châu Á, việcGDPcủaĐôngNamÁquay ngược lại năm1995 có phải là mộtcăn bệnh trầm trọngkhông? Để trả lời câu
hỏi này, phải tìm hiểuđời sống của nhữngngườidânbìnhthường.Vềlýthuyết,cóthểđolường sự thay đổi vềmức độ giàu có trongnhững xã hội khácnhaubằngcáctínhtoándựatrêndữliệukinhtế
vĩmô: cácnhàkinh tếcốgắngđongđocảcủacải về tài chính baogồm tiềnmặt, tiền gửingân hàng, chứngkhoán, trái phiếu vàđầutưởnướcngoàivàcủa cải vật chất gồmbất động sản, nhàmáy
và trang thiết bị, hàngtồnkho,v.v...Bằngcảhai phép đo, và nếuquyđổisangđồngđôlaMỹ, người dân ĐôngNam Á hồi đầu năm2007 đã nghèo đi sovớinăm1995,bấtchấpkinh tế đã tăng trưởng
vững chắc trở lại. Tuynhiên, cáchđo sựgiàucó của kinh tế vĩ mômắc phải nhiều nhượcđiểm về phương phápluận.Cólẽsẽthiếtthựchơn khi xem xét ai đãphải chịu khổ nhiềunhất do cuộc khủng
hoảng này bằng cáchnhìnvàocácchỉsốđơngiản hơn, như tiềnlương thực tế và sựnghèođói.
Hãy bắt đầu vớiSingapore và HồngKông. Rất khó tránhđược kết luận rằng,
những người phải trảgiá cho cuộc khủnghoảng này không phảilà những người tạo ranó, và họ có khả năngchi trả thấp nhất. Hậuquả này, một phần làdoáplựckiềmchếlạmphát đưa ra sau năm
1997vàmộtphầnlàdocác chính sách có cânnhắc cẩn thận củachính phủ. ỞSingapore,theodữliệuriêng của chính phủ,thu nhập thực tế củanhững người nghèonhấtchiếm40%dânsố
giảm xuống trong thờigiantừ2000đến2005,thậm chí cả khi nềnkinh tế đã tăng trưởngmạnh trở lại. Ngườithuathiệtnhiềunhấtlànhững người trên 50tuổi – những lao độngdư thừa do không còn
nhữngviệclàmcómứclương thấp, và với tấtcả sự giàu có của nó,nhànướcSingaporelạihầu như không có trợcấp thất nghiệp. Đồngthời, chínhphủ lại tiếptụcbanhànhmộtchínhsách giảm thuế thu
nhập cá nhân đối vớiphần dân số giàu nhấttừ 28% năm 2000xuốngchỉcòn20%; tỷlệ thuếthunhậpdoanhnghiệp cũng được hạthấp. Ngược lại vớinhững động thái đó,các loại thuế gián tiếp
mọingườiđềuphải trảđã tăng lên vào năm2007 thuếVAT từ 5%tăng lên đến 7%. Thậtkỳquái,cácBộtrưởnglại nói rằng việc tăngthuếnàylàcầnthiếtđểhỗ trợ thêm cho ngườinghèo. Harry Lý
Quang Diệu, người đãtừng học ở Học việnRaffles và Đại họcCambridge, khi thanhminh cho chính sáchthuế này, đã nói vớicác nhà báo: "Đây làmột thế giới khắcnghiệtđầycạnhtranh."
Cư dân địa phươngđànhphảingậmngùivìhailýdothôngthường:người dân ở các quốcgialânbangcònnghèohơn và bị ngược đãinhiều hơn, và dânSingaporerấtsợnhữngcơngiậndữcủaHarry.
Những người đi chàomờikinhdoanh,bịhạnchế trong địa hạt kinhdoanh ở cấp trungương,không thể tưởngtượngnổisựnghèođóivà một tầng lớp dướiđáy lại tồn tại ởSingapore; nhưng chỉ
cần đi vào các khuchung cư là thấy rõđiềuđó.
Tại Hồng Kông,những người ít có khảnăng chi trả cũng phảitrả giá đắt cho cuộckhủng hoảng châu Á.Mặc dù phúc lợi có
tăngmộtchútdướithờiThốngđốccuốicùnglàChrisPatten,đóinghèođã tăngdầnởkhuvựcthành thị trong thậpniên 1990, và cuộckhủng hoảng đã làmcho điều này trầmtrọng hơn, lại thêm
nhiều người có mứclương thực tế giảmxuống. Dấu hiệu củađói nghèo ở HồngKông thể hiện ở tỷ lệcác hộ gia đình sốngdướimứcmột nửa thunhập hàng tháng củacác hộ gia đình hạng
trung, chỉ 1.290 đôla.Với xu hướng này, tỷlệngườinghèo tăng từ11,2% vào năm 1991lên 15% năm 1996 và18,3% vào năm 2000.Đa số người giàu ởHồng Kông cho conemhọđihọcở trường
tưởnướcngoài, trongkhimộtphầntưtrẻemđang đi học ở HồngKông hiện nay đều làcon em các gia đìnhnghèokhó,tiếptụcgâythêm áp lực cho hệthống giáo dục cônglập thường được cấp
kinh phí rất eo hẹp.Cuộc khủng hoảngcũng ảnh hưởng đếnthu nhập của nhữngngười tự cho mìnhthuộc tầng lớp trêntrunglưu.Năm2001,tỉlệ thu nhập của ngườinghèo chỉ chiếm
15,6%.Sựkhácbiệtvềảnh hưởng của cuộckhủng hoảng giữaHồng Kông vàSingapore là, HồngKông giữ được đồngtiền của mình ổn địnhhơnnênáplựchạnchếlạm phát tại Hồng
Kông là do thị trườngchứng khoán và bấtđộng sản, chứ khôngphảidotỷgiáhốiđoái.Đa số tiền vốn củangười giàu, chiếmmộtnửadânsố,đãđượcsửdụngđểđầutưvàobấtđộngsảnvànhàởmột
cáchtiêucực,suốtmộtthậpkỷchođếnkhigiánhà ở trung bình bắtđầuđạtmứcnăm1997vào cuối năm 2006.Cơn sốc này đối vớicác tầng lớp có nghềnghiệp có thể đã gópphần đáng kể vào việc
thúc đẩy đời sốngchính trị của HồngKôngtrongnhữngnămgầnđây.
TạiTháiLan,Malaysiavà Indonesia, tầng lớptrung lưu ở thành thịcũng bị ảnh hưởng,nhưngđaukhổthựcsự
rơi xuống đầu hàngchục triệu người dânnghèo vì tiền lươngthực tế giảm đi, tỷ lệthất nghiệp và thiếuviệc làm tăng, và chiphí cho nhu cầu thiếtyếu hàng ngày tăngnhanh.Mứcđộgiàucó
của tầng lớp trung lưuở thành thị bị ảnhhưởng đầu tiên, tronghainăm19971978,khichứng khoán và bấtđộng sản tụt dốc, tiềnlương thực tế ở thànhthị giảm xuống. Tácđộng đến người nghèo
có chậm hơn, nhưng 5năm sau cuộc khủnghoảng thì trở nênnghiêm trọng. Cuộckhủng hoảng có mộtđặcđiểmchungvềđịalý,đầutiênnótácđộngđến các thành phố đặcbiệt là các thành phố
lớn và sau đó bắt đầulây lan, những vùngnông thôn cũng khôngthểtránhkhỏi.TạiTháiLan, hầu hết các ướctính cho thấy khoảngmột triệu người trongsố60triệudânđãbịtáinghèo. Tại Malaysia,
một nước có rất ít cáccông trình nghiên cứuvề đói nghèo sau cuộckhủng hoảng, tỉ lệ bịtác động cũng tươngtự. Tại Indonesia, lạmphát làm giảm tiềnlương thực tế củakhoảng40%dânsố,tỷ
lệ đói nghèo sau cuộckhủng hoảng tăng gấpđôi, lên đến 27% dânsố, khoảng 54 triệungười. Sau đó, đóinghèo tuyệt đối cógiảm đi phần nào, rồilại có xu hướng tănglên vào năm 2005.
Năm 2006, một sốnhóm công tác xã hộiđã ước tính có khoảng80 triệu ngườiIndonesia đang sốngtrong cảnh nghèo đói.Di sản thảm hại màcuộc khủng hoảng đểlạinhưnhau,đốivớisố
người Đông Nam Áđang sống ở trên mứcnghèo đói một chút.BáocáoPháttriểnnăm2006vớichủđề"côngbằngvàpháttriển"củaNgân hàng Thế giớicho thấy, tỷ lệ dân sốsống trên hơn ngưỡng
nghèo1đôlamỗingày,nhưng ít hơn 2 đôlamỗi ngày, là 52% ởIndonesia, 32%ởTháiLan. Tỷ lệ so sánh ởArgentina là14%vàởBrazillà22%.
Cómột chút hy vọnglà ở Philippines, việc
tháo gỡ những khókhănvềkinhtếcủanóđược bắt đầu vàonhững năm cuối thờiMarcos,lànướccònlạicủa khu vực mà tỉ lệđói nghèo không tăngvàvẫncóđủviệc làm.Theo Báo cáo Phát
triển năm 2006, 15%dân số Philippinesđang sống trong cảnhnghèođóituyệtđối,và47%đangsốngvớithunhập12đôlamộtngày.Một nửa trong số 12triệu dân của thủ đôManilaphảisốngtrong
cáckhuphốtồitàndọctheo đường cao tốc,đường sắt và đườngthuỷ.Sau25nămlạicókhủng hoảng kinh tế,nềnkinhtếPhilippinesgiờ đây hoàn toàn phụthuộc vào thu nhập ởnướcngoàicủakhoảng
10triệungười,chủyếulà lao động nữ trêntổng dân số 80 triệulàm những công việcnhưchămsóctrẻem,ytá ở nhiều nước giàuhơn trên thế giới. Sốlao động này tiếp tụclàm việc ở nước ngoài
và chẳng có quốc gianào lại phụ thuộc vàonguồnkiềuhốiđếnnhưvậy: 12 tỷ đôla đượcgửi về năm 2006,chiếm 15% GDP củaPhilippines.
ĐỜI SỐNG CHÍNHTRỊ
Rõ ràng, tình trạngkinh tế của các bố giàlà tác nhân làm tăngnghèo đói và bất bìnhđẳng ở Đông Nam Á.Hàng chục tỷ đôla tàisản của ngân hàng bịxóasổdoviệcgiảicứucác doanh nghiệp đã
sinh ra lạm phát, chitiêuchophúclợigiảm,thuế má thì tăng màtiền lương thực tế củanhiều người lại giảm.Các bố già rất nhiềungười trong số họ đãkhôiphụcđượctàisảnlà tác nhân duy nhất
của tai họa này. Tráchnhiệmthựcsựthuộcvềcácchínhtrịgia,nhữngngườiđãchophéptìnhtrạng kinh tế của cácbố già tồn tại ở ngôiđầu. Phần giới thiệucủa cuốn sách này đãtuyênbốrằng,saucuộc
khủng hoảng, ĐôngNam Á tự thấy mìnhđang ở một ngã bađường,vànóphảithựchiện một lựa chọnmang tính chính trị:một con đường xuốngdốc nghiêng về phíabất bình đẳng và xa
lánh xã hội, cùng vớinhững cuộc khủnghoảngkinhtếlặpđilặplại như ở khu vựcMỹLatinh; hoặc một conđườngđốclêndẫnđếntăng trưởng bền vữngvà công bằng xã hội.Đây không phải là
những lời nói khoatrương được đưa ra đểgây sốc đối với ngườiđọc. Sau cuộc khủnghoảng,nghèođói tuyệtđối ở Philippines còntồi tệ hơn, và ởIndonesia cũng xấunhư vậy, cũng như ở
NamMỹ, trong khi tỷlệ người dân ởPhilippinnes,IndonesiavàTháiLanđangsốngdưới mức 2 đôla mộtngày tăng lênđángkể.Một hình bóng củanghèo đói khi so vớiđấtnướcVenezuelalao
đao củaHugoChavez.Bấtbìnhđẳng–đikèmvới đói nghèo ở bốnquốc gia chính củaĐông Nam Á màchúngtađangnóiđến,như hệ số Gini tiêuchuẩnđãxácđịnh,vẫncòn ít nghiêm trọng
hơn sovớiMỹLatinh,nhưngnóđangtrởnêntồi tệ hơn. Tại HồngKôngvàSingapore, sựbất bình đẳng đã tăngđếnmức độ như trongthập kỷ trước. Hệ sốGini của hai lãnh thổnày hiện giống như ở
các đô thị củaArgentina. Đời sốngchính trị đặt ra rấtnhiều câu hỏi choĐôngNamÁ,vàđólàmộtchuyếndulịchvàonền chính trị đươngthời mà chúng ta phảirút ra kết luận. Nếu
không có thay đổi vềchính trị, khu vực nàychắc sẽ tự nhận thấymình đang bị mắc kẹttrênxalộMỹLatinh.
Đó là Philippines, đitiên phong về thất bạichínhtrịthờihậuthuộcđịaởĐôngNamÁ,và
nhữngdiễntiếnởđókểtừkhi cókhủnghoảngđãlàmnhữngngườilạcquan phải tỉnh ngộ.Tầng lớp tinh hoachính trị cũ, đượcCorazon Aquino thuộcdòng dõi bố già khôiphục sau khi Marcos
bắt đầu nắm quyềnnăm 1986, có vẻ cựcđoan chưa từng thấy.Tổng thống hiện nay,GloriaMacapagalArroyo congái của một cựu Tổngthống đã dành nhiềuthời gian để chống đỡ
những lờibuộc tộicủaQuốchộiđốivớibàvìnhững cách thức, cóthể là trái với Hiếnpháp,màbàđãdùngđểlậtđổngườitiềnnhiệmcủa mìnhJosephEstrada năm 2001, vànhững luận điệu tranh
cử của bà năm 2004.Trong một diễn tiếntương tựởMỹLatinh,đã có sự gia tăngkhủng khiếp trong cácvụtửhìnhcácnhàbáo,họcgiảvàcácnhàhoạtđộngxãhộimàkhôngquaxétxửtrongnhiệm
kỳ của bàMacapagalArroyo,mặcdùcánhânbàtakhôngdính líu gì. Cảnh sátPhilippinesnóirằngđãcó 110 vụ tử hìnhkhôngquaxétxửmangtínhchínhtrịkểtừnăm2001. Tổ chức Ân xá
quốc tế đã lập hồ sơn240 trường hợp;Kerapatan, một nhómnhân quyền ở địaphương, tuyên bố hơn700 trường hợp;Kerapatan cho rằng cókhoảng 3.000 ngườimất mạng trong hai
thập kỷ Marcos nắmquyền. Philip Alston,ngườichuẩnbịbáocáođặcbiệtchoLiênHiệpQuốcvềtửhìnhkhôngqua xét xử được pháiđến Manila vào đầunăm2007,đãmôtảlựclượng vũ trang của
Philippines – mà ngaycảcácquanchứcchínhphủ cũng thừa nhận làcác đơn vị của nó cóliênquanđếnnhiềuvụgiếtngườiởtrong"mộttình trạng hoàn toànlộng quyền". BàMacapagalArroyo,
trong tháng 2 năm2006 đã tuyên bố tìnhtrạng khẩn cấp, chophépbắtgiữkhôngcầngiấy phép đối vớinhững kẻ thù của nhànước đã đổ lỗi choHiếnphápvìsựbấtổnvề chính trị. Bà nói
Philippinescầnchuyểnđổi sang chế độ Quốchội một nghị viện.Nhưngtrongkhinhữnglập luận của bàMacapagalArroyokhôngđượckhenngợi,những nỗ lực của bànhằm đảm bảo cho sự
thay đổi Hiến pháp đãchothấycóchútsựtôntrọng đối với nhữngquytắcdânchủ.Tháng12 năm 2006, bà sửdụng đa số phiếu củamình tại Quốc hội đểbác bỏ quyền phủquyếtcủaThượngnghị
viện; việcnàydẫnđếncác cuộc biểu tình lanrộng của dân chúngnên bà vội vã rút lui.Niềm tin trong tiếntrình chính trị đã mấtđi, sự nổi dậy củanhững người cộng sảndiễn ra ở hầu hết các
tỉnh, tầng lớp tinh hoaở địa phương vẫn làtầng lớp ích kỷ và tưlợinhấttrongkhuvực.Tác giả nổi tiếng củaPhilippines, SionilFrancisco José, thanthởtrêntạpchíKinhtếViễn Đông tháng 12
năm 2004: "Chúng tanghèo vì tầng lớp tinhhoacủachúngtakhônghiểu về dân tộc mình.Họ hợp với những aicó quyền hành ngườiTây Ban Nha, ngườiNhật, người Mỹ, vàtrong thời gian gần
đây, với Marcos. Cáctầng lớp tinh hoa củachúngtahấpthụnhữnggiátrịcủacácnhàthựcdân.” Tóm lại,Philippines chưa baogiờ thoát khỏi kỷnguyên thuộc địa vànhữnghìnhmẫu thống
trị vô luân lý của tầnglớp tinhhoamànó tạora.
TháiLantừlâuđãlặplạihìnhthứccaitrịcủaPhilippinesvàhiệnnaynhững điểm tươngđồng này rõ ràng hơnbao giờ hết. Từ những
năm 1980, tầng lớptinh hoa kinh tế Tháithông qua việc ứng cửvà ngày càng chiếmđược nhiều ghế trongQuốc hội bắt đầu trànsang lĩnhvực chính trịvà sápnhập cácquyềnđược hưởng thụ về
kinhtếvàchínhtrịvàomột chính thể đầu sỏthống nhất. Sau khủnghoảng, sự phát triểnnày đã đạt đến giaiđoạn cực thịnh, với sựnổi lên của ThaksinShinawatra, trước khicósựghentịtrongtầng
lớp tinh hoa do chínhsách cai trị của ôngsinh ra, mở cánh dẫnđến một cuộc đảochính quân sự khác.Cuộc sống sau đảochính, diễn ra vàotháng9năm2006,chothấyđời sốngchính trị
ở quốc giaĐôngNamÁcóítnhấtdisảnthựcdân này tiếp tục thấtbạithảmhại,cũngnhưở Philippines. Nói vậykhông phải để đổ lỗichongườilãnhđạocaonhất vì những gì saitrái xảy ra trong khu
vực. Trong vài thángsau khi nhậm chức, vịThủ tướng "dân sự"mới của giới quân sự,tướng SurayudChulanont, đã có bấtđồng với người đứngđầuhộiđồng tưvấn làtướng Sonthi
Boonyaratglin. Đườnglối hành động thật rốirắm, chính quyền camkếtvềmột"nềnkinhtếtoàn diện"mậpmờ donhà vua Bhumiboltưởngtượngra.Đườnglốihànhđộngnàyhìnhnhưmuốndựavàochủ
nghĩadântộcvàsựbảohộ, dẫn đến nhữngđộng thái vội vàng làáp đặt quyền quản lýngoại hối có giới hạnvàsửađổicácluậtliênquanđếndoanhnghiệpcó sở hữu nước ngoài.Thị trường chứng
khoán và đầu tư nướcngoài quay cuồng,chínhphủbếtắc,vàBộtrưởng Tài chính mộtthànhviêncủagiađìnhHoàng gia Thái đã từchức vào tháng 2 năm2007. Tại miền Nam,chính phủ vẫn tiếp tục
chiến dịch tàn bạo củaThaksinchốnglạicuộcnổi dậy của nhữngngườitheođạoHồinêntình hình càng trở nêntồi tệ hơn. Trong khiđó, Thaksin tuy vẫnlưu vong nhưng nhiềutỉ đôla của ông ta vẫn
còn nguyên vẹn. Ôngđãđikhắpthếgiới, trảlờicáccuộcphỏngvấn,tựgiới thiệumìnhnhưlà một vị cứu tinhkhiêm tốn của nhândânđãbị cácvị tướngquân đội tàn nhẫn làmdangdởsựnghiệp.Tại
Bangkok, chứng cớ rõràng về thói đạo đứcgiả của các chính trịgia Thái là những vếtnứt lớn xuất hiện trênđường băng của sânbay mới, dự án cơ sởhạtầngquantrọngnhấtcủaThaksin.Đólàmột
vở hài kịch chính trịvới những câu chuyệnđùa,nhưthườnglệ,nóivề những người dânTháiLan.Quânđội lạihứa hẹn về một hiếnpháp mới, một cuộctrưng cầu dân ý vànhữngcuộcbầucửvào
cuối năm 2007, nhưngđiềunàycònlâumớirõràngnếucácôngtướngchưa cúi chào để hạmànhàikịchđó.
Philippinnes, ở mứcđộ thấp hơnThái Lan,làđiểmthamchiếuchocác chính trị gia như
LýQuangDiệu, ngườicho rằng quá dân chủlà không tốt cho sựpháttriển.Nhưngtấtcảnhững gìmà các quốcgia này thực sự chứngminh được là nền dânchủ đến bằng nhiềucách,vàmộtchính thể
tự do trong việc thựchiệnchứcnăngđòihỏimột bộ máy tư pháp,mộtlựclượngcảnhsát,mộtđộingũquanchứcvàmộtngânhàngtrungương độc lập và hiệuquả.Dothiếuvắngcácthể chế sau cùng, các
tầng lớp tinh hoa củaPhilippines và TháiLankếthợpcácđơnvịbầu cử của người laođộng ở nông thôn vàthành thị lại, rồi xâydựng các liên minh ítsản sinh ra những lợilộcvềquyềnlựcchính
trị, và làm việc thoảimáimà không sợ rằngcảnh sát, thẩm phánhoặc ngân hàng trungươngsẽthấthứa.ĐôngNam Á đưa ra nhữngbài học về sự thất bạicủa nền dân chủ: cóquánhiềukhókhănđối
với việc làm cho nêndân chủ hoạt động cóhiệuquả.
BIẾN THỂMALAYSIA -INDONESIA
TạiMalaysia,sựxuyêntạc có chủ tâm về
nguồngốcdân tộc củanền dân chủ trên danhnghĩaphôbàymộthìnhảnh xấu khi đất nướcnàytổchứclễkỷniệmlầnthứnămmươingàyQuốc khánh vào năm2007.TầnglớpquýtộcMã Lai - và người kế
nhiệm mới nổi của nólà Mahathir nắm chặtquyềnlựchàngnửathếkỷ bằng cách kết hợpquyền bầu cử củangười Mã Lai - chínhthốngvớisựhỗtrợcủangười Trung Quốc vàẤn Độ rất sợ phe đối
lập theo đạo Hồi.Mộtmạnglướibảotrợrộnglớn, chủ yếu được chitrảbởinhữngđónggópcủa các bố giàMalaysia,đãđượcpháttriển xung quanh liênminhMặt trận dân tộccầm quyền mà cốt lõi
là Tổ chức dân tộcthống nhất Mã Lai(UMNO). Năm 2004,cáccửtriđãủnghộđểngười kế nhiệm củaMahathir là AbdullahBadawi có một chiếnthắng vang dội trongcuộc tổng tuyển cử
chiếm198trongsố218ghếquốchộikhiôngtahứa hẹn một khởi đầumới cùng với bãi bỏquyđịnhvềkinhtế,cảicáchlựclượngcảnhsáthung bạo và đấu tranhchốngthamnhũngtriệtđể.Nhưng đã có rất ít
thayđổi;cácchiếndịchchống tham nhũng vàcảicáchlựclượngcảnhsát nói riêng diễn rayên tĩnh một cách kỳquái sau khi chiếnthắng đã ở trong tayôngta.Badawiđãtừngnói về việc xóa bỏ
chương trình hànhđộng chống phân biệtđối xử tốn kém củaMalaysia, trong đó tạora một thế hệ các nhàtư bản bản xứ sốngbằngtiềnlợitứcvàlàmchođóinghèolanrộngtrong người gốc Ấn,
nhưng tình hình hoàntoànngược lại.Ông losợ một cuộc nổi loạncủa UMNO nếu ôngthách thức chươngtrình hành động chốngphân biệt đối xử; vàtrong năm 2006 đãcôngbốmộtkhoảnchi
2 tỉ ringgit mới giúpngườiMãLaimuabấtđộng sản. Điều này làkhông đủ đối với mộtthếhệcácnhàlãnhđạoUMNO mới nhiềungười là con cái cácnhà cựu lãnh đạonhữngngườiđãbắtđầu
chán ngấy các khoảntraotayvàmuốnnhiềuhơn thế. Tại hội nghịthường niên củaUMNO tháng 11 năm2006, các đại biểu đãphát biểu những lời lẽgây kích động nhất vềchủng tộc. Họ hứa sẽ
"tắm trong máu" đểbảovệquyềnlợicủađasố người Hồi giáochống lại thiểu sốngười Trung Quốc vàẤn Độ. Bộ trưởng BộGiáo dục đã huơ mộtthanhđoảnkiếmKeristruyền thống để biểu
thị sức mạnh và niềmđam mê của mình, vàkêu gọi hãy sử dụngnó. Nhiều ngườiMalaysianóirằng,hiệnnayởnướcnàycóítsựtương tác giữa cácnhómchủngtộcsovớihơnbamươinămtrước
đây. Những người hyvọng có sự đảo ngượcxu hướng này, và hyvọngchủnghĩabạnbègiảm đi, đã cảm thấycónhiệt tâmkhingườicấp phó của MahathirlàAnwarIbrahimthoátkhỏichốnngụctùnăm
2004. Anwar tìm cáchthống nhất các chínhđảng đối lập dựa trênmột cương lĩnh chung.Đảng của chính ông,Keadilan, là một đảngđa sắc tộc. Nhưng căncứ vào cách làm việccủa UMNO, nếu
Anwar trở thành mộtmối đe dọa chính trịnghiêm trọng, có khảnănglàUMNOsẽchàođónôngtatrởlạivớivịtrílãnhđạocaocấpcủachính phủ; và hoàntoàncóthểlàAnwarsẽchấp nhận, dựa trên
những việc làm trướcđây. Thật khó tưởngtượng điều gì sẽ thayđổi quỹ đạo chính trịcủa Malaysia. Nếukhông có thay đổi, sựlãngphívàkhônghiệuquả về kinh tế sẽ vẫncao, và mức tăng
trưởngsẽgiảmđi.
Indonesia là một nước"hợp thức" như chúngtađãxemxét,lànơiđãtừng có một thước đocủasựtiếnbộchínhtrịkể từ sau cuộc khủnghoảng tài chính. Điềunày ngược lại với sự
kiện Suharto sụp đổnăm 1998. Các chínhphủ của AbdurrahmanWahid và MegawatiSukarnoputri, trongthời gian 1999-2004,đặctrưngbởiviệcthâutómquyềnlựcđếnđiêncuồng, tham nhũng
ngangbằnghoặc tồi tệhơn thời Suharto vàxảy ra xung đột phephái ở các vùng khácnhaucủaquầnđảonày.Susilo BambangYudhoyono,ngườiđầutiên trở thành Tổngthống được bầu trực
tiếp sau cuộc khủnghoảng, năm 2004, đãlàmviệckhá tốt đểổnđịnh tình hình. Khônggiống như các chínhphủ ở Philippines vàThái Lan, ông giảiquyết các vụ bạo loạnbắtnguồntừđóinghèo
vàbấtcông,nhấtlàbấtđồng về ý thức hệ,bằng cách đàm phán,cũng như bằng "cuộcchiến chống khủngbố". Một vụ tấn côngphiếnquânởAceh,bắcSumatra, nơi có hơn10.000 người đã thiệt
mạng trong cuộc xungđột với lực lượng anninh kể từ cuối nhữngnăm 1980, đã dẫn đếngiảigiápvũkhívàhòabình trong năm 2005.Xung đột giáo phái ởcác tỉnh miền ĐôngMalukuvàSulawesi,từ
năm 1999 đến 2001,gâytổnthấthàngnghìnsinh mạng, cũng đượcgiải quyết. SBY, nhưdân chúng thường gọivị Tổng thống này,không đại diện cho sựphân chia về chính trị;ông là một tướng lĩnh
cấpcaothờiSuhartovàcó khuynh hướng lậplờ nước đôi điển hìnhcho văn hóa chính trịJava. Tuy nhiên, bấtchấp đói nghèo tăngcao, đa số ngườiIndonesiachorằngôngta thành thật và đại
diện cho lợi ích củacộng đồng rộng lớn.Trong cuộc thăm dò ýkiến vào đầu năm2007, điểm đánh giátán thành cho SBY là70%, đa số là củanhững cử tri đã đưaông lên nắm quyền.
Tăngtrưởngkinhtếđãtrở lại mức 6%, lạmphátđượckiểmsoátvàđồng tiền đã lên giá.Trong khi đó, Tổngthốngđã cómột sốnỗlực cải cách thể chế.Ông đã thành lập mộtđội ngũ quản lý theo
môhìnhBộ thammưucủa Tổng thống HoaKỳ cánh Tây của NhàTrắng với một nỗ lựcbuộc thay đổi bộ máyquanliêukhổnglồcủaIndonesia. Phần lớncác khoản thu thuế đãđược phân phối cho
chính quyền địaphương với hy vọngrằng việc phân quyềnsẽ làm cho chính phủhoạt động hiệu quảhơn.Trợgiánhiênliệuđã được cắt giảm đểcânbằngngân sáchvàcácbướcthămdòđược
thực hiện để giảm sốlượng các doanhnghiệp do quân độikiểm soát và đưa cácthành viên của nó racác tòa án dân sự. Sẽlạc quan quá mức khinói rằng tiếnbộvềcảicáchrấtấntượngnhiều
chủ trương còn dởdang hoặc bị trì hoãnnhưng những thay đổiđó đủ để cho các nhàlãnh đạo quân sự đãnghỉ hưu là TrySutrisno và TyasnoSudarto bắt đầu côngkhai rêu rao rằng sự
dàn xếp dân chủ mớigâynên"sựhỗnloạn".Tại Indonesia, nhữngkhúc ai ca như vậy cólẽ là dấu hiệu của sựtiếnbộ.Bấtchấpsựchỉtrích về dân chủ củacácvịtướngnày,trongcuộc đấu tranh lâu dài
để cải cách chế độ tưpháp chuyên ăn hối lộcủa Indonesia và cácdoanh nghiệp hùngmạnhcủagiớiquânsự,SBY ít phải đối mặtvới rủi rovềmộtcuộcđảo chính như ởPhilippines hay Thái
Lan. Quân độiIndonesia, mặc dùtham nhũng và thamlam,nhưngthườngđápứng ý kiến của côngchúng, và sự nổi tiếngcủa SBY là không thểphủ nhận. Thêm mộtmối đe dọa nữa là
tháchthứctừPhóTổngthốngJusufKallatrongcuộc tổng tuyển cửnăm 2009. Kalla, xuấtthântừmộtgiađìnhbốgià người Mã Lai bảnxứ giàu lên nhờ dượcnhượng bộ kinh doanhcủa nhà nước những
năm1950,vàđôikhilàmột phụ tá hữu ích vàchắc chắn có sức lôicuốn cho chính quyềncủa SBY. Nhưng viễncảnh về một gia đìnhđạigiađịaphươngnắmgiữ ghế Tổng thốngkhôngphảilàmộtviễn
cảnhcósứcthuhút;nódẫn Indonesia đến cáiđầm lầy chính trị nhưPhilippines và TháiLan. May mắn là, cáccử tri Indonesia đãnhậnrađiềunày.
SINGAPORE CÓTHỂDỰĐOÁN
Trong những năm gầnđây, có rất ít điều đểnói về đời sống chínhtrị của Singapore nơinương náu yêu thíchcủa những kẻ vô lạingười Indonesia. Năm2006,Đảnghànhđộngnhân dân cầm quyền
(PAP) đã giành thắnglợi trong cuộc bầu cửlần thứmười,với67%số phiếu. PAP đã sửdụng bộmáy chính trịto lớncủanó,vàđượcsự hỗ trợ đáng tin cậycủa các phương tiệntruyền thông của nhà
nước. Họ thường hứavề các quỹ nhà ở bổsung cho các đơn vịbầu cử có đông côngnhânđãủnghộhọ, vàcảnhbáotrướclàsẽtừchối tài trợ cho nhữngai không ủng hộ họ.Các luật sư của PAP
tung ra những vụ kiệnphỉ báng truyền thốngđể chống lại các chínhtrị gia đối lập, và hầuhết bọn họ đều nhanhchóng khom lưng uốngốichứkhôngdámđốimặt. Lãnh tụ của pheđối lập chính bị tống
giam một thời gianngắn trước cuộc thămdòýkiếnđể thẩmvấnvề sự độc lập của bộmáytưphápvàmộtlầnnữa sau cuộc thămdò,vì nói trước côngchúng mà không đượccho phép. Đó là chiến
thắng đầu tiên trongbầucửđốivớiLýHiểnLong, con trai của LýQuang Diệu; và ônggià này vẫn giữ chiếcghếởNộicáccủamìnhvới cái danh hiệu lốbịch là Bộ trưởng cốvấn. Giống như
UMNO, phần lớnthànhcôngcủaPAPlàhìnhnhưnókhông thểbịcôngkích,vàdođócó thể thu nạp thêmnhững người có thamvọng về chính trị.Trongnhững cuộcbầucử gần đây, hơn một
phần nămứng cử viêncủanólàngườiứngcửlần đầu. Tuy thế, sựủnghộ của75%cử tritrong cuộc tổng tuyểncử trước đó đối vớiPAPđãmấtđivàonăm2006. Và sau khủnghoảng, chính phủ
khuyến khích chuyểnvốn đầu tư ra nướcngoài thông qua giảmthuế, trong khi lại cânđốingânsáchnhànướcbằngcáchtăngcácloạithuếgiántiếp,dẫnđếntình trạng căng thẳngtrong xã hội. Tăng
trưởng GDP trở lạimức 8% năm 2006,nhưngtăngtrưởngtiêudùng cá nhân chỉ là3%.Điềunàyphầnnàophản ánh sự mở rộngnhanh hơn nhiều củacácdoanhnghiệpcósởhữunướcngoài,vàtrái
lại, sự thuhẹpdầncácdoanh nghiệp địaphương. Tương tự, cósự bùng nổ về cácdoanh nghiệp nướcngoài chi phối thịtrường bất động sảnsang trọng, trong khităng trưởng trong đầu
tưvàobấtđộngsảncủangười địa phương chỉtrên 2%. Với hầu hếtcác tiêu chuẩn đánhgiá,SingaporevàHồngKônglàhainơigiàucónhưng bất bình đẳngnhấtthếgiới;vàsựbấtbình đẳng này ngày
càng tăng một cáchđáng lo ngại. Tuynhiên, ở Singapore,những người muốnkhiếu nại phải thậntrọngvìmớiđâychínhphủ tăng mức thuếquan đối với 19 mứcthuế hiện hành và ban
hành những hình phạtmới đối với những viphạm trật tự côngcộng, từ các cuộc tụhọp đông người chođến việc đăng tin trênInternet. Cũng hữu íchkhinhớlạirằng,xứsởSingaporeyênbìnhvẫn
duy trì hình phạt caonhất thế giới là xử tử,cũng như Trung Quốchay Ảrập Xêút. Thayđổichínhtrịkhôngthểxảy ra nếu Harry Lýkhông bước xuống vũđàichínhtrị.
HỒNG KÔNG: MỘT
LOẠILÃNHĐẠOTỪBÊNNGOÀIKHÁC?
Ở Đông NamÁ, phầnlớncácvấnđềchínhtrịlà những nước nàythườngbỏqua(và làmlạchướngsựchúýnhư"bình thường") nhữngbài học xấu như nhau.
Những bài học đó làcác chính trị gia thaotúng nền dân chủ,không có thị trường tựdo trong những nềnkinh tế dựa trênnhượng bộ kinh doanhnên không có cạnhtranhthựcsự,vàdođó
tốc độ tăng trưởngkhông cao để có thểphát triểnbềnvững.Ởgóc độ này, hy vọngchính trị thực sự choĐông Nam Á trongnhữngnămtớicóthểlàHồngKông,mộtthànhphốcóvịtríđịalýởlề
khuvực.Đâylànơicóthể tạo ra sự lãnh đạocần thiết. Cái mà cácnhà xã hội học gọi là"hiệu ứng biểu tình"cực kỳ quan trọng đốivớicácnướcđangpháttriển:môhìnhdoNhậtBản thiết lập, như sẽ
phác họa dưới đây, cótính quyết định trongviệcgâyảnhhưởngđốivớicác thuộcđịacũ làHàn Quốc và ĐàiLoan,vàđãgiúphọtrởnên giàu hơn nhiều sovớicácquốcgiaĐôngNam Á, bất chấp xuất
phát điểm sau chiếntranh của họ khá thấp.Ở châu Âu, “hiệu ứngbiểutình”ởLiênminhchâuÂuđãdẫnhướngcho tiến bộ kinh tế vàchính trị của các quốcgiaĐôngÂukểtừnăm1989. Mặc dù Hồng
Kôngởbênlềkhuvựcnhưng cộng đồngdoanh nghiệp ĐôngNam Á đã coi nó làthành phố dẫn đầu vềcácý tưởngkinh tế vàkinh doanh. HồngKôngcóthịtrườngvốnchi phối khu vực, một
nềnkinhtếlớngấpđôiSingapore, và quantrọng nhất là có cácnhàtưbảncôngnghiệpbản địa trong một thếgiớiphụthuộcvàoviệcđầutưchocáccôngtysản xuất đa quốc gia.Trong tương lai,Hồng
Kôngcóthểtạoramộtloạihiệuứngbiểu tìnhmàĐôngNamÁđangcần.
QuátrìnhchínhtrịhóacủacưdânHồngKôngtrong những năm gầnđây đã khiến hầu hếtmọi người ngạc nhiên.
Ở thời thực dân, sựpháttriểncủađờisốngchính trị bị kiềm chếbởi hai lực lượng:mộtlà,chođếnnhữngnăm1990,hầuhếtcưdânlànhững người nhập cưthếhệ thứnhất cókhảnăngnhậnthứchạnchế
về bản sắc của HồngKông; và hai là cácThốngđốcdoBộngoạigiao Anh phái đếnquyếttâmngănchặnsựnổidậy trongđời sốngchính trị của dânchúng, một chính sáchđãđượckhoáclêncáiý
niệm huyền ảo rằngnhững người TrungQuốc vốn "phi chínhtrị". Việc hình thànhmộtbảnsắcchínhtrịrõràng của Hồng Kôngtiếp tục bị trì hoãntrongnhữngnăm1980,khi phần lớn dân địa
phương giàu có đãkhông đóng bảo hiểm,bằng cách sử dụng tưcách công dân nướcngoài,đểphảnđốiviệckhôi phục chủ quyềncủa Trung Quốc. Cáccuộcthămdòýkiếnđãluôn cho thấy những
người giữ hộ chiếunướcngoàiítquantâmđếnchínhtrị,hoặcbầucử. Không những thế,mongmuốnthayđổiđãđược ấp ủ thầm kíntrongnhữngnăm1990,và nó bắt đầu sôi sụcdưới thời Thống đốc
cuối cùng là ChrisPatten. Vào thời gianPattenđượcThủtướngAnh John Major bổnhiệm năm 1992, saukhi Major mất kiênnhẫn với việc hành xửquá dễ dãi và khôngthíchhợpcủaBộngoại
giao Anh trong mốiquan hệ với TrungQuốc,đa sốngườidânHồng Kông đều sinhtại địa phương nên cónhữnghiểubiếtrõràngvề vùng lãnh thổ này.Pattenlàmộtnhàchínhtrị chuyên nghiệp
nhưng không có nhiềukiến thức về TrungQuốc,sauđóđãcómộtquyếttâmkhôngmạnhmẽlắmnhằmtạoralốithoátchothuộcđịalớncuối cùng của nướcAnh trên cơ sở cácnguyên tắc chính trị.
Ôngđưaranhữngthayđổi đáng kể đối vớiviệcchuẩnbịbầucửởHồngKông – thể hiệntrongcácvănbản thỏathuận bàn giao chínhthức với Trung Quốc,mặc dù trái với nhữngcamđoantrướcđâymà
các quan chứcAnh vàcác quan chức TrungQuốc đã bàn kín vớinhauvàđặt ramưukếchonhiềuđiềusắpxảyrađốivớicuộcbầucửhoàntoàndânchủnăm1995.Cácchínhtrịgiaủng hộ dân chủ đã
giànhchiếnthắngvàcóđược sự ủng hộ củacông chúng. Pattenkhông nhượng bộ khiBắc Kinh muốn đảongược những thay đổivề bầu cử khi họ đãkhôi phục được chủquyền vào năm 1997.
Đâylàđiềuđã thựcsựxảy ra, nhưng vị thầnđa nguyên chính trị ởHồngKông đã chui rakhỏi chiếc lọ thần vàchưa bao giờ bị buộcphảiquaylạiđó.Hànhđộng ôm hôn trẻ nhỏ,cáccuộcvihành trong
dângianvàsựsẵnlòngtựmình làmviệc cũngnhư tranh luận với cơquan lập pháp củaPattengiúpHồngKôngcó đượcmột cái gì đómới mẻ. Ông đã, vàvẫncòn,rấtnổitiếngởthànhphốnày,mặcdù
thực tế ông không nóiđược tiếng Hoa vàkhông có những kiếnthứctốithiểuvềlịchsửchâuÁ.
ẢnhhưởngcủaPattenkhông thể đến đượccác lực lượng khác sựtrỗi dậy của bản sắc
chính trị khác biệt củaHồngKông, sự trưởngthànhcủacácchính trịgiađịaphương,sựthừanhận rộng rãi rằngnhiều thập kỷ tăngtrưởng đã không làmcho đa số người dângiàu lên nhưng nó là
đángkể.Ngày1 tháng7 năm 2003, sáu nămsau khi Patten đến, tấtcả các xu hướng dẫnđếnchínhtrịhóamạnhhơn ở Hồng Kông đãtrởnên cựckỳ rõ ràngtrongmột sự kiện duynhất. Sau khi đặc khu
trưởng đầu tiên, ĐổngKiếnHoađềxuấtphápchế chống lật đổ đượcBắc Kinh mong đợi,hơn nửa triệu người10% dân số xuốngđường phản đối cuộctấn công vào quyền tựdocơbảncủacôngdân
vàsựlãnhđạocủacácđạigia.Đốivớibấtkỳai, như tác giả, nhữngngười đã sống ởHồngKông tẻ nhạt về chínhtrị những năm 1990,cảnh tượng này thậttuyệtvời.Nềnchínhtrịtừ dưới lên, tự phát và
không có tính cáchmạngcủanhữngngườidân bình thường tráingược với sự quản lýtừ trênxuống của tầnglớp tinh hoa đã đếnđược Hồng Kông, vàdo sự kết giao vớiĐôngNamÁ.
Dù ít dùnhiều, ngườidân đã bàn tán về cácbộ luật chống lật đổ.Thay vào đó, chươngtrình nghị sự về chínhtrị đã chuyển sangvấnđềcảicáchviệcbầucửcủa Hồng Kông. Chếđộ thực dân trước thời
Patten được Bắc Kinhphục hồi năm 1997 cónghĩa là độc quyềnkinh doanh nhỏ, cácđơn vị bầu cử chứcnăng phân chia theodoanh nghiệp và đượccác nhà bảo thủ và lợiíchcủacácbốgiàkiểm
soát–trướckiachịuơnnướcAnhvàbâygiờlàTrungQuốcgiữsựcânbằngchoquyềnlựccủaHội đồngLậppháp.Ởgóc độ này, cải cáchchính trị hoàn toàn làmột cuộc đấu tranhgiữa quần chúng và
tầng lớp tinh hoa kinhtế. Nói riêng, câu hỏivề bầu chọn đặc khutrưởng, người hiệnđượcchọnbởimộtỦyban Bầu cử 800 thànhviênđa sốủnghộBắcKinh sẽ như thế nào.Cuộcđấutranhchodân
chủ ở Hồng Kông đãsinhracuộcđấuthúvịnhất trên bàn cờ chínhtrị Đông Nam Á. Mộtbên là các doanhnghiệp lớn, liên quanđếnquyềnlợiđượcthụhưởngvàTrungQuốc,vàbênkialànhữngcử
tri khác của HồngKông khi được phépthamgia bầu cử ở cácđơn vị bầu cử phântheo khu vực địa lý –cho thấy sựhỗ trợđắclực cho các ứng cửviên có xu hướng dânchủvàbãibỏquyđịnh
vềkinhtế.
Quân cờ quan trọngnhất trên bàn cờ làDonald Tằng,một cựucông chức thuộc địacao cấp và là ngườithay thế cho đại gialãnh đạo đã thất bạiĐổng Kiến Hoa đã
được Bắc Kinh chấpnhận. Tằng là mộtngười thuộc tầng lớptinh hoa, vốn dĩ coitrọng quyền lực theothể thức Trung Hoa,nhưng khi ông ta lênnhậmchứclại theothểthứccủaBộngoạigiao
Anh (ông ta vẫn ngạithắt nơ con bướm).Nhưng ông cũng đủthông minh để hiểukhái niệm công luận.Động tháiđầu tiêncủaông, năm 2005, là đềxuất sửa đổi một chútviệc chuẩn bị bầu cử
cho vị trí của mìnhnăm2007,vàcáccuộcbầuHộiđồngLậpphápnăm2008.Khôngmay,ông không thể hiểuđược Hồng Kông đãthay đổi nhiều thế nàohoặc dân chúng đangcần một chính phủ
thíchứnghơnnữa.Mọiphương cách đềukhông thể bảo đảm cóđượcđasốhaiphầnbacần thiết trong Hộiđồng Lập pháp, vì họhầu như không có sựhỗtrợchínhthống.Sauđó, Tằng nói sẽ không
có thay đổi nào trongnăm 2007 và 2008.Tuynhiên,điềunàychỉlàm suy yếu khả năngchiarẽđốithủcủaông.Cácchínhđảnglớn,vàcáccựucôngchứccaocấp như thư ký trưởngAnsonTrầncủaPatten,
tậphợplạixungquanhcác kiến nghị chuyểntiếp sang nền dân chủcóphân chia giai đoạnở cả cơ quan lập phápvà bầu cử đặc khutrưởng giữa năm 2008vànăm2016.
Tháng 3 năm 2007,
Tằng được chính thứcđược Ủy ban bầu cửkhôngcócảicáchvàbịBắcKinhchiphối"bầuchọn". Thắng lợi củaông là một quyết địnhđã được dự tính trước,nhưng cách vận độngbầu cử của Tằng đã
đẩyôngvàomộtngãrẽgiống như Đổng KiếnHoa.Ôngđãkhôngthểxây dựng được mộthình ảnh chính trị phùhợp với nguyện vọngcủa dân chúng để thaythế cho việc phải dựavào sự hỗ trợ truyền
thốngcủa tầng lớpcácbố già. Chủ trì chiếndịch tranh cử của ônglàDavid Lý củaNgânhàng Đông Á, cũng làngườicungcấpcácvănphòng hiện đại để làmtổng hành dinh chocuộc vận động. Các
nhà tài trợ chính củaTằnggồmmộtloạtcácđạigia.Hầuhếtmỗibốgià ở Hồng Kông, vàtrongnhiềutrườnghợplà con cái của các bốgiàcũngnhưcácGiámđốc điều hành cao cấpđều đóng góp 100.000
đôla Hồng Kông theogợiýcủapheTằng.Bagia đình lớn K.S. Lý,Peter Ngô và StanleyHà–mỗinhàđónggóp900.000 đôla HồngKông. Những nhà tàiphiệt hậu thuẫn choTằng đã chi số tiền
nhiều hơn bảy lần màông đã dành cho bầucử; nhiều hơn số tiềnđã đóng góp cho cácquỹtừ thiện.Vìnhữngtin tức ban đầu nóirằngTằngsẽnhậnbàngiaotừĐổngKiếnHoavào tháng 3 năm 2005
đãtrởnêncôngkhaidobố già ngành cờ bạcStanleyHànói chuyệnvới các nhà báo, nêncuộcbầucử2007củngcốýniệmrằngcácđạigia là trái tim của hệthốngchínhtrịởHồngKông. Tằng đã thắng
cử, nhưng cách chiếnthắng của ông đãkhông tạo ra bất kỳtínhhợpphápphổbiếnnghiêm túc nào. Cuộcvận động cải cáchchính trị có lẽ đượccủngcốbởimộtthựctếlà,Tằngkhông thể tạo
radiệnmạocủamộtcơsở ủng hộ chính trịrộnglớnhơndướiviệcchuẩn bị bầu cử hiệnhành. Nếu không thừanhậntínhcấpthiếtphảicónhữngcảicách lớn,Tằngcónguycơkhôngđược quần chúng tín
nhiệm cũng như ĐổngKiến Hoa. Rủi ro củaôngcaohơnnhưngbấtchấp công luận – nênchiếnlượclàphải lặnglẽ và chắc chắn đếnBắc Kinh rồi nói rằngnếukhôngcókếhoạchcải cách chính trị,
Hồng Kông có khảnăng sẽ trở nên khôngthểquảnlýđược.Điềunàysẽdẫnđếnmốiđedọatiềmẩnlàtừchức.Ở Trung Quốc, thỉnhcầuhoặcđốiđầumạnhmẽ cũng chẳng manglại điều gì; chỉ một
tuyên bố giản đơn vềcácsựkiệnlàkhảnăngthay đổi đặc khutrưởngcóthểxảyra.
Tất nhiên, có nhiềukhảnăng,Tằngsẽchơicanhbạclàcóthểphảitừ chứcmà chẳng làmđược điều gì nghiêm
túc trong cải cáchchính trị, tăng trưởngkinh tế sẽ củng cố lợiích chính trị, vàTrungQuốc sẽ không ngốcnghếchtạoramộtđiểmbùng phát khác nữanhưphápchếchốnglậtđổ khiến dân chúng
phải biểu tình trênđườngphố.Ôngcóthểđúng, nhưng HồngKông luôn là câuchuyệnchính trị thúvịnhấtởĐôngNamÁ,vìcó thể ông cũng sai.Dân chúng đã hiểu rõách kìm kẹp của giới
tinh hoa chính trị vàmuốnhọphảinới lỏngra. Hiện luôn luôn cósự bàn tán xôn xao vềchính trị, xung quanhviệc cần phải có luậtcạnh tranh và bãi bỏquy định đối với nềnkinhtếtrongnước.Các
bốgiàđangbịvâyhãmchứ không thoải máinhưtrướcnữa.BáochíbằngtiếngTrungQuốcbạo dạn hơn thập kỷtrước rất nhiều. Vànhững mánh lới cũnhằm biện minh chocáchoạtđộngthựctiễn
về chính trị và kinh tếdựa trên những khácbiệt về xã hội và vănhóađãlỗithờihơnbaogiờ hết. Như EdmundTerence Gomez, họcgiả hàng đầu thế giớivề quyền lực và cácmốiquanhệgiữachính
trị và kinh doanh ởĐôngNamÁ,đãnhậnxét: "Cuộc khủnghoảng châu Á đã phávỡ huyền thoại vềquyền lực." Ở góc độnày, có một sự tươngtự về lịch sử với nướcAnh.HồngKôngđãrời
xa thời đại Victoria,nơi chỉ mặc những bộlễ phục sang trọngcũngđủđểcóđượcsựtônkínhđốivớiquyềnlựcchínhtrịvàkinhtế,để chuyển sang thờiEdward, nơi nhữngmongđợi của tầng lớp
tinh hoa khác xa vớinhững mong đợi củacôngchúng.Cácbốgiàvà một số công chứckhôngmuốncógìthayđổi nhiều, họ khăngkhăng rằng nhữngphương thức cũvẫn làtốt nhất; và bất cứ ai
không đồng ý với họđều bị cho là kẻ gâyrối. Trong khi đó,nguyện vọng cá nhânvà nguyện vọng chínhtrịcủaphầnlớncưdânđã tăng lên, và cácchính trị gia đã đượcbầu chọnđangbắt đầu
thích ứng với nhữngđiều này.Nhưng ý chíchính trị mà WinstonChurchillđãđềcậpđếntrongthậpniên1910là"quần chúng bị bỏquên"sẽđượcgiúpđỡ,còn lâu mới rõ ràng.Kết cục là một cảnh
tượnggâytòmò,trongđóHồngKông trởnênphức tạp và có tínhquốc tế hơn nhiều sovới năm 1997, đồngthờirấtnhiềutỷphúvàcác vị lãnh đạo chínhphủtỏrakhóhiểumộtcách vô lý; và những
quan điểm chính trịtrịch thượng của họthậmchíchẳnghữuíchchútnào.
Cần nhấn mạnh rằng,khi cải cách chính trịtại Hồng Kông chắcchắn sẽ dẫn đến việcbãibỏnhữngquyđịnh
kinh tế, thì không cónghĩa là có sự chấmdứtthờiđạicủacácbốgià đã thích nghi. Họđãcóquánhiềutiền,vànhư các cháu trai củamộttrongnhữngngườigiàunhấtĐôngNamÁđã nói: "Nói chung,
tiền lại làm ra tiền."Tuynhiên, việc bãi bỏquy định là hết sứcquan trọng, nếu khôngnó sẽ gây nên tìnhtrạng những doanhnghiệp trẻ, sáng tạohơn, và các doanhnghiệp sản xuất đang
muốn đổi mới côngnghệkhôngđượcquantâm đúng mức. Hiệnnay, các công ty nàyđang tiếnvàomột lĩnhvực mới với nhữnghoạt động sản xuấtvượtrangoàibiêngiớiTrungQuốc.Khôngcó
gì để họ làm ở HồngKông, vì tất cả khônggian kinh tế của nềnkinh tế trong nước đãbị giới tinh hoa cựcđoan chiếm giữ. Cácdoanh nhân côngnghiệp hàng đầu ởHồng Kông như
Michael của doanhnghiệpmaymặcEspritvà Patrick Vương củanhà sản xuất động cơđiện cực nhỏ JohnsonElectrics đã gia nhậphàng ngũ tỷ phú củathế giới những nămgần đây. Nhưng trái
ngược với các đại giatronglĩnhvựcdịchvụ,họ chẳng được hưởnggìtừnhữngảnhhưởngchính trịvàchínhsáchởHồngKông.Điềuđócũng cho thấy, ở mộtnơi dễ kiếm tiền nhưHồngKông,nhữngnhà
tư bản công nghiệpđang có xu hướng bánbớt vốn sở hữu củamình khi các doanhnghiệp sản xuất đã đạtđến một quy mô nhấtđịnh, nhưng không bỏtiềnvàocácdựánđầutư thụ động như bất
độngsản.
Ở mức tối thiểu, cảicách chính trị và kinhtế tại Hồng Kông sẽlàm cho nơi này côngbằng hơn, và đây cóthể là lập luận tốtnhấtcho nhu cầu cần thayđổi. Hồng Kông được
coi như phần còn lạicủa Đông Nam Á làmộtnơirấtkhôngcôngbằng. Các doanh nhângiàu nhất ngày cànggiàu có hơn vì cónhữngcartelvàcôngtyđộc quyền, trong khinhữngngườikhácphải
gượng gạo trả giá caonhưng lại chỉ nhậnđược những dịch vụchất lượng thấp vàkhông phải là dịch vụthiết yếu, vì nhữngchínhsáchhạnchếnhưnhau.Tầnglớpcácđạigiagiàucóđếnkhótin
chẳngphải trảmột thứthuế nào vì họ có thunhập từ cổ tức miễnthuế, hoàn toàn tươngphản với cư dân laođộng, mức lương tốithiểu cứ giảm dầntrong khi phải trả giácao (vì lạm phát) cho
thức ăn, điện, khí đốt,dịchvụngânhàng,bấtđộng sản và nhiều thứkhác nữa. Ở một mứcđộ nào đó, nếu dânchúng được tham giavào tiến trình chính trịthì cuộc sống củangười nghèo ở các
thành phố còn có thểchịuđược.Nhưngđiềunày lại thiếu vắng ởHồng Kông. Hầu nhưkhôngcóđấtchocôngviên đô thị (các dự ánphát triểnđãchoánhếtkhông gian), không cósự quan tâm tối thiểu
đến chất lượng môitrường (ô nhiễm môitrường đang nhanhchóng trở nên tồi tệhơn, và các đại gia lạithường xuyên ở nướcngoài,nênhìnhnhưhọkhông mấy quan tâm)và việc liên tục xây
dựng đường bộ (đượcmột thiểu số giàu có,sởhữunhữngchiếcxehơi sang trọng phêduyệt) tiếp tục làmxuốngcấpcáckhuvựcmà đa số người dânsinh sống. Hồng Kônglà một bài toán: Công
việckhókhănthìcùnglàmchung,nhưngphânphốilợinhuậncóđượctừcôngviệcđólạicựckỳbấtcông.Tínhthíchứngcủachínhtrịvàbãibỏ quy định kinh tế làhợp lý, cần thiết và cóthể.Về khía cạnh này,
HồngKông làmộtnơicó thể chỉ cho ngườidânởkhắpĐôngNamÁ thấy rằng,một cuộcsốngtốtđẹphơnsovớicuộc sốnghiện tại,màhầu hết người dân đãphảicamchịutừlâu,làhoàntoànkhảthi.
MỘTMÔHÌNHHIỆUQUẢHƠN
Nếuphântích trênđâyvề tiềm năng chính trịcủa Hồng Kông có vẻhơi mơ tưởng thì cầnnhớ là châu Á khôngcó một mô hình pháttriển khác, đã được
kiểm chứng, để làmchoxãhộigiàucóhơn,bìnhđẳngvàtựdohơnnhững xã hội ở ĐôngNam Á. Mô hình nàycòn lâumới hoàn hảo,nhưngnóchỉrasựyếukémcótínhbiệnchứngcủa những người đang
lập luậnrằng, tỷ lệđóinghèo ở một quốc gianhư Thái Lan giảm từhai phần ba trongnhững năm 1960xuống dưới 10% hiệnnay, Đông Nam Á cóthểđượcnhậnxétlàđãlàm tốt công tác xóa
đói giảm nghèo. Dòngsuy nghĩ như thế chỉhợp lý nếu hạn chếkhắt khe những mongđợicủacủangườidân.Thay vào đó, nếu sosánh với Đông Bắc Áthì thấy rõ đời sốngchính trị quan trọng
như thế nào đối vớiphát triển kinh tế. Môhình Đông Bắc Á doNhật Bản phát triểnhơn một thế kỷ trướcđây đã trực tiếp dựatrên những lựa chọnchínhtrị,nóvẫnlàmôhình duy nhất để đưa
một nước không phảicủa người da trắngthoátkhỏiđóinghèovàtrở thành một nướcphát triển. Thực tế làcó một quốc gia đãtheohiệuứngbiểutìnhcủa Nhật Bản; đó làĐài Loan một xã hội
Trung Hoa. Nó chothấy rằng văn hóa vàchủng tộc thực sựkhông quá quan trọngđối với phát triển kinhtế,mặcdùcácnhàlãnhđạo Đông Nam Áquyết tâm chứngminhđiều ngược lại. Đài
Loan cũng có tínhTrungQuốcnhưHồngKônghoặcSingapore–haiquốcgiahoàn toànthuộcvềĐôngNamÁnhưng về khía cạnhkinh tế, nógiốngNhậtBảnnhiềuhơn.
Có ba điều làm cho
mô hình Đông Bắc Ákhác với mô hình củaĐôngNamÁ,vàtấtcảđều liên quan đến đờisống chính trị. Thứnhất làNhậtBản,HànQuốc và Đài Loan đãthực hiện cải cáchruộng đất, và do đó
đảm bảo rằng họ sẽđược hưởng một quátrìnhphát triển từdướilên, trong đó gần nhưtấtcảmọingườiđềucómột chút vốn liếng đểxây dựng một cuộcsống tốt hơn. Ở ĐôngNam Á, tầng lớp tinh
hoa chính trị lẩn tránhcải cách ruộng đất.Trường hợp rõ nhất làPhilippines,nhưđãlưuý,cótầnglớpchínhtrịíchkỷnhất và chỉ biếtchăm chút lợi ích củamình,chủyếudựavàosự giàu có về đất đai.
Các chính phủ ĐôngBắc Á thực hiện cảicáchruộngđấtvìhọcómột cam kết chính trịrộng mở hơn đối vớimục tiêucôngbằngxãhội. Hệ số Gini củaNhật Bản, Hàn QuốcvàĐàiLoanlầnlượtlà
0,25, 0,32 và 0,24. ỞĐông Nam Á, chỉ sốnày là 0,34 ởIndonesia, và nhanhchóng tăng lên 0,5 ởHồng Kông vàSingapore. Tính hòanhập về chính trị tạiĐôngBắcÁcũngđược
phảnánh thôngquasựkhoan dung của nhànướcđốivớingườilaođộng và các tổ chứccủa họ dưới hình thứcnghiệpđoàn.Cácchínhtrị gia có thể khôngthích nghiệp đoàn,nhưng không như ở
Đông Nam Á, họkhôngđènénhoặclàmdân chúng suy nhược,hoặc lý luận rằng cáctổ chức đại diện chocông nhân nếu hoạtđộngđộclậpthìsẽcảntrởsựpháttriển.
Đặc điểm thứ hai của
mô hình Đông Bắc Álà,khicácchínhphủcốgắng chọn người đượchưởng lợi về kinh tếnhưtấtcảcácquốcgiađangpháttriểnđãquenlàmviệcnàyhọđãhậuthuẫn cho các nhà sảnxuất và doanh nghiệp
cókhảnăngphátminhracôngnghệmới.Hầunhư tất cả các công tyđược ưu tiên ở NhậtBản,HànQuốcvàĐàiLoanlàcáccôngtygiađình,vàhọcũnghốilộcácchínhtrịgia,nhưngkhôngphảilàcáccông
tycóhoạtđộngbịgiớihạn trong thương mạivàdịchvụ.Vìcóđượccác khoản cho thuêkinh tế trong dịch vụtàichínhcôngcộng,vàđược tiếp cận nguồnvốn nên những dòngtiềnmặt có giá trị này
ítbịgiới tinhhoakinhtế không tham gia sảnxuất kiềm giữ, vì họkhông thể cạnh tranhtoàn cầu. SamsunghoặcHyundailànhữngtập đoàn khổng lồ củagia đình, nhưng nócũng là một doanh
nghiệpmàmộtsốcôngtyconcủanó sảnxuấtranhữngloạihànghóađượcbán trênphạmvitoàn cầu. Ngược lại,các tập đoàn ở ĐôngNamÁkhôngquenvớithị trường toàncầu,vàkhi được cấp nhượng
bộ kinh doanh thì chỉđơn giản là đưa ra cácyêu cầu về công nghệvà tạo thêm việc làmcho các công ty đaquốc gia. Sự sa lầy đãlâu vào "công nghiệphoá không có côngnghệ" này như
Yoshihara đặt tên chonó hai thập kỷ trướcđây–thườngđượcchegiấu bằng tỉ lệ tăngtrưởng cao và nhữngtòa nhà chọc trời sángbóng chốn thị thành.Vàthựctếlà,nănglựcxuất khẩu quy mô lớn
củaĐôngNamÁlàdocác nhà đầu tư nướcngoài tạo ra. Nói nhưvậy có thể gây tranhcãi, nhưng có mộtminh chứng mạnh mẽlà bản chất của côngnghiệphóađịnhhướngxuất khẩu thực sự làm
giảm khả năng cạnhtranhquốctếcủaĐôngNam Á, bởi vì nókhông tạo raáp lựcđểcó chính sách kinh tếtrong nước hiệu quảhơn. Hiện nay, HànQuốc và Đài Loanđang có GDP bình
quân đầu người caogấp312lầnsovớibốnnước chính ở ĐôngNamÁ.Đầu thậpniên1950, sự khác biệt làkhông đáng kể. HànQuốc và Đài LoangiốngnhưNhậtBảnđãthànhcông trên trường
quốc tế, có nhữngdoanh nghiệp cóthươnghiệumạnh;cònĐôngNamÁ hầu nhưkhôngcódoanhnghiệpnào.
Điểm khác biệt thứ baởmôhìnhĐôngBắcÁlà, hệ thống chính trị
luôn luôn hoạt độngnghiêmtúchơnởĐôngNamÁ,vàlàđộnglựcphát triển.Cuối thếkỷXIX,khiNhậtBảnbắtđầuhiệnđạihóa,đãcómột cuộc tranh luậnkhácởimởvề loại thểchếchính trịnào là tốt
nhất và phù hợp nhấtvới đất nước. Saunhiều cuộc khảo sát,Nhật Bản đã sao chéphiến pháp của Đứcnhiều nhất, và đã vượtlên sự nghèo nàn củachínhmìnhvàtừlâuđãgâynênmộtcuộctranh
luận về chủ nghĩangoại lệ trongvănhóađanglantrànởchâuÁ.Trong kỷ nguyên hậuChiến tranh thế giớithứ hai, khi Nhật Bảnlặp đi lặp lại thủ thuậtphát triển nhanh theomột Hiến pháp được
người Mỹ sửa đổi, thìHànQuốcvàĐàiLoanđều đang trải qua mộtthời kỳdài của chếđộđộc tài quân sự. Tuynhiên, khi những hạnchế của chế độ lãnhđạo độc tài trở nên rõràng hơn vào những
năm1980,cácquốcgianày đã tăng cườngnăng lực một cáchđáng kể để thực hiệnnhững điều chỉnh vềchính trị và thể chế.HànQuốcvàĐàiLoanđã tiến hành cuộcchuyển tiếp sang dân
chủ đầy đau thươngnhưng cũng đầy quyếttâm. Khi Hàn Quốc làquốcgiaởĐôngBắcÁbị ảnh hưởng nhiềunhất do cuộc khủnghoảng tài chính, độthuần thụcvề chính trịlại càng rõ ràng hơn.
KimDaejung(KimĐạiTrung), một nhà hoạtđộng lâu năm trongphong trào dân chủ vànhân quyền, được bầulàm Tổng thống năm1997 và bắt đầu quátrình cải cách đạt hiệuquảcaonhấtsovớicác
quốc gia chịu ảnhhưởng của cuộckhủnghoảng. Một trongnhữngthướcđocủasựthành công tương đốicủa Hàn Quốc trongviệc giải quyết sự đổvỡvề tài chính là, vàođầu năm 2007,họ đã
đưa tỉ giá traođổi tiềntệ của họ so với đồngđôla Mỹ trở lại tỉ giánăm1996,trongkhitỷgiá trao đổi với đồngđôlaMỹ của các quốcgiaĐôngNamÁkháckhông hồi phục đượcnhưvậy.HànQuốccó
nhữngvấnđềriêngcủanó, nhưng thành tíchchính trị, thể chế vàkinh tế của nó từ năm1997 đã làm cho hìnhảnh các nước ĐôngNamÁlumờ.
NÓI "KHÔNG" VỚIBỮA ĂN TRƯA
MIỄNPHÍ
Người dân Đông NamÁđã thất bại là vì cácchính trị gia của họ.Điều này không chỉ làthấtbại có tính lịch sửcủa tầng lớp chính trịgia sau thời độc lập,màđócònlàsựbấtlực
của họ trong việc nắmbắt các cơ hội pháttriển sẵn có hiện nay.Rõràngnhấtlàcáclợiích bắt nguồn từ mộtthị trường tích hợpchungcủaASEAN.
Một Cộng đồngKinhtế ASEAN trên lý
thuyết, trong đó cáccuộcthảoluậnvòngvoxungquanhviệcbãibỏquyđịnhkinh tế, là sựlặplạichínhxáccáitênCộng đồng Kinh tếchâu Âu (EEC), đượcthiết lập bởi sáu quốcgiakhácnhauvàonăm
1957. Nhưng nhữngnét tương đồng đãkhông còn nữa. Nămmươi năm trước đây,Liên minh châu Âu,như tên gọi ngày nay,được đặc trưng bởi sựlãnhđạochínhtrịmạnhmẽ. Các thành viên
sáng lập của EECPháp, TâyĐức,Ý,Bỉ,Hà Lan vàLuxembourg trongnhiều năm qua, đã rấtnghiêm túc trong việcphân chia thị trường,và ởmột số khía cạnhnào đó, đã điều tiết
nguyệnvọngcủamìnhđể bãi bỏ thỏa thuậnnăm 1957. Ngược lại,ASEANcómột truyềnthống là thảo luận quánhiềumàhànhđộnglạiquáít.Hiệnnay,nhómnày cómười quốc gia,có một Ban thư ký
trung ương nhỏ đóngtrụ sở tại Jakarta.Mỗiquốcgia thànhviêncómột Ban thư ký địaphương, phản ánhmộttruyền thống chính trị"không can thiệp vàocôngviệccủacácnướcthànhviênkhác".Trên
thực tế,ASEANchỉ làmột câu lạc bộ vui vẻcủa các chính trị giatrong khu vực, khôngcóthayđổigìtừkhirađời vào những năm1960 như là một liênminh chống cộng dướidự lãnh đạo của Mỹ.
Cuộc thảo luậnvềmộtthịtrườngchungvàbãibỏ quy định đã đượcbàn tán từkhi có cuộckhủng hoảng châu Á,nhưng thực tế vẫn tụthậu. Năm 2003, cácnước ASEAN cam kếtvới nhau về một hiệp
định thươngmại tựdotrong buôn bán hànghoá, dịchvụvàđầu tưvào năm 2020. Đầunăm 2007, hạn chótđược xác định lại lànăm 2015. Tuy nhiên,khôngcóthờigianbiểuchi tiết, không có cơ
chế tuân thủ và khôngcó các nhà lãnh đạocấp khu vực đủ uy tínđể thúc đẩy quá trìnhnày. Một trong nhữngthướcđocủatìnhtrạngthương mại là sự kiệnnăm 2007, một nhómcác nhà chính trị lão
thành (EminentPersonsGroup),docựutrợ lý của Marcos làFidelRamosđứngđầu,đã kêu gọi các chínhphủ hiện nay củaASEAN tăng cườngthực thi các mục tiêuđãđặtra.
Việcthiếusựlãnhđạothiết thực và khả năngnắm bắt tình trạng trìtrệcủasựtiếnbộlàrấtđáng thất vọng. TạichâuÂu,việchộinhậpthị trường đã làm nênbathậpkỷtăngtrưởngnhanh chóng ở các
nước nhỏ có sự khácbiệt, và họđãgiàu lênnhiều hơn so với cácnước Đông Nam Á.Người Pháp gọi đó là"bamươinămvẻvang"(les trentes glorieuses).Tấtnhiên,phầnlớncácđộng lực để hội nhập
tạichâuÂulàdoChiếntranh thế giới thứ haitạo ra.Đó làmột biếnđộnglớnmàsovớinó,cuộckhủnghoảngchâuÁ chỉ là sự mô phỏngmờnhạt.Khôngnhữngthế,nhucầukinhtếcủaĐôngNamÁítnhấtlà
cũngcấp thiếthơncủachâu Âu. Dân số củaASEAN nhanh chóngtăng đến 560 triệungười, so với dân số300triệungườicủa27nước thành viên thuộcLiên Minh Châu Âu.ASEAN phải cạnh
tranhvềvốnvàsứchútcủa thị trường TrungQuốc và Ấn Độ, nơiECCđãbuộcphảiphảidè chừng vớiMỹ.Khilàm điều đó, ASEANphải đối mặt với mộttháchthứcrõràng:làmchochiphíthựctếcủa
chế biến xuất khẩuthấp, phù hợp với lờihứa về một thị trườngtrong nước rộng lớn.Điều này không quákhó khăn, mặc dù thunhập bình quân đầungười trung bình cũnglàvấnđềđặt ravới cả
TrungQuốcvàẤnĐộ.Tuy nhiên, với mườinước nhỏ, việc chàohàng của ASEAN sẽkhông bao giờ có hiệuquả.Khuvựcnàyhiệnvẫn là một nơi nghỉdưỡng cho các nhàquản lý cấp trung
chẳng có gì xuất sắccủa các công ty đaquốc gia. Không cómột thị trường chung,ASEANchẳngbaogiờcó thể được xuất hiệntrên trangnhấtcủacáctạp chí kinh tế toàncầu.
Không thể biết đếnbaogiờ thìĐôngNamÁmớicóthểchốnglạiđược lực hấp dẫn củalogic kinh tế. Trongthời kỳ sau khủnghoảng, Malaysia, mộtđất nước nhỏ với 27triệu dân, là công cụ
ngăn chặn những toantính tự do thương mạitrong một khu vực códân số cao gấp 20 lầndân số của nó; độnglựcdẫndắtnólàmongmuốn bảo vệ ngànhcông nghiệp ô tô bénhỏ, kém hiệu quả và
những lợi ích về dầucọ. Trong toàn khuvực,chiphíchonhữnglợiíchthứyếunhưvậychothấymộtthựctếlà,saucuộckhủnghoảng,đa số các toan tínhthương mại thuần túytrong nội bộ khu vực
đều thất bại. Năng lựcxuất khẩu trên danhnghĩa có tăng nhưngkhi một số doanhnghiệpphụtùngvàlinhkiệnpháttriểnsangđấtTrungQuốcbịxélẻ,rõràng là Đông Nam Áphải lệ thuộcvào châu
ÂuvàMỹhơnbaogiờhết. Không thể mởrộng thươngmại trongnộibộkhuvựchiệntạilà 20% so với 50%trong Liên minh châuÂu vì ASEAN khôngtự điều chỉnh chínhmình. Nếu thực tiễn
chính trị không thayđổi điều này, thì cuốicùng hoàn cảnh bênngoài sẽ thay đổi nó.Trongmộtthậpkỷ,củatừtrêntrờirơixuốngởĐôngNamÁsauchiếntranh làdầucọ,khígavà gỗ sẽ bắt đầu cạn
kiệt. Nhưng thay đổitrong những điều kiệnnhư thế này sẽ rất tồitệ,khinhữngđiểmyếucủanềnkinhtếthựcsựđãbộclộ,cũngnhưkhigiới chính trị bắt đầuđổlỗichonhau.
VÀ CUỐI
CÙNG, NHỮNG TINTỐTLÀNH
Sau cuộckhủnghoảngtàichính,nếucónhữngtin tốt lành ở ĐôngNam Á, thì sẽ là thếnày: một kinh nghiệmđau thương cuối cùngđã xua tan lời tự dối
mình, rằngnềnkinh tếcủa khu vực ĐôngNam Á là câu chuyệnvề chủng tộc chứkhôngphảivềgiaicấp,hoặcnóimộtcáchđơngiản, là câu chuyện vềnhững người nhập cưchứkhôngphải về các
tầng lớp tinh hoa.Những nỗ lực mà cácnhà chính trị Thái Lanđã thực hiện vào mùahènăm1997đểđổ lỗirằng, cuộc khủnghoảng về lợi ích củacác doanh nghiệp củangười "Trung Quốc"
khiến công chúngphảikhổsở.Sauđó,pheđốilập với chính quyềncủa ThaksinShinawatra, sau năm2001, đã không để ýđến tính cách sắc tộcTrungHoa củaông ta,hoặc của nhiều bộ
trưởng trong Nội cáccủaông.TạiIndonesia,mọingườiđềutinrằngdù không được chứngminh một cách thuyếtphục quân đội đứngđằngsaunhữngvụ tấncông đầy bạo lực vàocộng đồng người
Indonesia gốc TrungQuốc vào mùa xuânnăm 1998. Nhưngnhững cố gắng châmngòichosựcăngthẳngvề chủng tộc nàykhônggâyracácvụnổbom giết người phổbiếnnhưđất nướcnày
đã chứng kiến trongnhững thập niên 1960và 1970. Ngược lại,các chínhphủ sau thờiSuharto đã dỡ bỏ lệnhcấmsửdụngngônngữTrung Quốc và lễ đónnăm mới của ngườiTrungQuốcvớimộtsố
bất đồng nho nhỏ. Ýniệm cho rằng, tráchnhiệm đối với cuộckhủng hoảng có thểđược đặt lên nhữngngười gốc Hoa hoàntoàn không bị phảnđối.
Dù sao đi nữa, “tính
TrungQuốc”đượcbànđến khá nhiều ởĐôngNam Á trong nhữngngày này, đôi khi thậtkỳ quái. Với kịch bảnPhố Tàu khi xưa đangphát đạt ở Bangkok,hầu hết diễn viên hiệnnay lại là người Lào,
người Trung Quốc đãchuyển đi khỏi đó đểlàmcáccôngviệcđượctrảlươngtốthơn.Dướithời Thaksin, hầu hếtứng cử viên của đảngThai Rak Thai (ngườiThái yêu người Thái),trong khi vận động
tranhcửđãviếttêncủahọ bằng chữ TrungQuốctrênápphích.Tấtcả điều này liên quanrất nhiều đến sự trỗidậy về kinh tế củaTrung Quốc, với mộtmongmuốnđược thừanhận là đang hiệu
chỉnh "tương lai",nhưng cũng phản ánhmột thời kỳ suy giảmvề năng lực của cáctầng lớp tinh hoa bảnđịa để chia và trị cácđốitượngcủahọ.Thờigiankể từkhikết thúclàn sóng nhập cư quy
mô lớn trước Chiếntranh thế giới thứ haivừa làmộtngườichữabệnh vừa là một nhàgiáo dục. ỞPhilippines, chủng tộckhông là vấn đề lớn.Hồng Kông đã trởthành một xã hội cởi
mở hơn về văn hóa,thuầnthụcvàhòanhậpsaukhichếđộthựcdânkếtthúcvàonăm1997.Các trường hợp ngoạilệ là Singapore, vớingười Trung Quốcchiếm đa số, và HarryLýQuangDiệusẽ tiễn
đưa lý thuyết ưu sinhảm đạm của ông taxuống nấm mồ; vàMalaysia, nơi vẫn cònsự cân bằng tương đốivề số dân người gốcHoa và người Mã Laibảnđịa,chophép tầnglớp tinh hoa chính trị
bản xứ (nếu thuật ngữnày vẫn còn có ýnghĩa) kiềm hãm đấtnước này dưới danhnghĩa phânbiệt đối xửtíchcực.Khôngnhữngthế, ở khắp khu vực,câuchuyệnvềquanhệchủng tộc là một câu
chuyệnrấttíchcực.
SựpháttriểncủaTrungQuốc không phải làvấn đề thảo luận củacuốnsách,nhưngtrongnhững trải nghiệmgầnđây, có nhiều bài họcsâu sắc cho gã khổnglồ châu Á này – nơi
khởi nguồn của rấtnhiềucuộcnhậpcưvàoĐông Nam Á. Hơnnữa,bấtcứđiềugìliênquan đến Trung Quốccó tác động nhất địnhđến phần còn lại củakhu vực. Hiện nay,Trung Quốc đang lớn
mạnh, với tỉ lệ tăngtrưởng hàng năm màcáchđâykhônglâucácnướcĐôngNamÁ đãtừng đạt được, vớiniềm đammê riêng vềcáclýthuyếtpháttriểnmang tính văn hóa.Nhiềunhàlãnhđạocao
cấp của chính phủTrung Quốc, và nhiềunhà quan sát từ bênngoài, đã cả quyết làđất nước này sẽ đượchưởng một số quyềnvănhóađểtiếnbộ.Mộttrường hợp tương tựthường thấy là Nhật
Bản, một nước lớn,đông dân, có nền vănhóa được định hìnhchặt chẽ. Nhật Bảncũng sớm tiếp thunhững luân lý đạođứctừTrungQuốc,vậyhọđã làm thế nào mà họđi sau nhung lại tốt
hơn? Lập luận nàykhông vững chắc nếuchúngtanhớlạinhữngthảo luận trướcđâyvềcáchệthốngkinhtếvàchínhtrịđươngthờibađiềuxácđịnhNhậtBảnvà Đông Bắc Á là cảicáchruộngđất,sựphát
triển của các doanhnghiệp có thương hiệumạnh bắt nguồn từcông nghệ và cạnhtranh toàn cầu, và khảnăng điều chỉnh cấutrúc chính trị. TrungQuốc thực sự nhìnnhận, dựa trên sự cân
nhắc kỹ lưỡng, khôngmấy dễ chịu về ĐôngNamÁ.Cảicáchruộngđấtđãdiễnrasaunăm1979, chophép cáchộgia đình ở nông thôncanh tác trên đất củagia đình mình với tưcách là người thuê đất
của nhà nước, nhưngquyền sở hữu đất đaikhông bao giờ đượcchuyển giao, nghĩa làngười nông dân khôngthể bán, cho thuê haythế chấp đồng ruộngcủa họ. Đây là nhữngđiều cốt lõi của một
cuộccảicáchruộngđấtthực sự. Vẫn chưa thểkết luận được về sựtăng trưởng của cáccông ty toàn cầu cónăng lực công nghệ.Trung Quốc là mộtnước có diện tích cỡmột châu lục, với thị
trường trong nước tolớn đảm bảo cho cácnhà sản xuất trongnước có được quy môphát triển to lớn hơncácnướcĐôngNamÁ.Thếnhưng60%vàconsố này vẫn đang tănglênhàngxuấtkhẩucủa
cảnướcđangđượccáccôngtynướcngoàisảnxuất, chủ yếu dựa trênmô hình chế biến xuấtkhẩutươngtựnhưTháiLanhoặcMalaysia.Sốlượng các doanhnghiệp TrungQuốc cóthể cạnh tranh về
thương hiệu và pháttriển sản phẩm chứkhông phải các nhàcungcấpchocáccôngty đa quốc gia – cònkhá nhỏ. Về mongmuốn tham gia pháttriển chính trị và đanguyênvề thểchếmôi
trường chính trị, tự dobáo chí, tư pháp độclập... Trung Quốc lạiđang đứng sau ĐôngNam Á. Dựa vào cácsố liệu thống kê trên,nguycơtanrãcủamộtĐông Nam Á có thểlớnhơn củamộtĐông
BắcÁđangtrênđườngđi đến thịnh vượng vàtự do. Nhưng nhữngđiều đó cũng có thểthayđổi.
Trong khi đó, ĐôngNamÁ,giốngnhưMỹLatinh, cung cấp mộtbài học trực quan về
cách thức phát triểntrong những điều kiệnkhó khăn. Con đườngdẫn đến một vài thậpkỷ tăng trưởng kinh tếnhanh, trong một thếgiới toàn cầu hoá,khôngphải làkhó tìm.Tuy nhiên, những
tháchthứcmàcáctầnglớp tinh hoa chính trịvà kinh tế đang kìmhãm sự phát triển cótínhgiaicấpvàlịchsửlớn hơn nhiều.Và đâycó lẽ là thách thức lớnnhất đối với phát triểnbền vững. Thực sự
đáng chú ý rằng, nhưđã nêu, Nhật Bản đãgiảiquyếthiệuquảcácnhiệm vụ chính trịcũng như thể chế từhơn một thế kỷ trướcvà không có nhiềuphiềnphứcchođếnkhicó sự nổi lên của chủ
nghĩa phát xít Nhậttrong thập niên 1930.Nguồn gốc của cănbệnh ung thư tiềm ẩnnày là rất phức tạp vàgây nhiều tranh cãi,nhưngkhôngnghi ngờrằng nó đã làm mờ đisự sáng chói của
chương trình hiện đạihóa của Nhật Bản lúcđầu. Sau đó, toàn thếgiớiđãthấykhócóthểcảithiệntìnhtrạngnày.Đối với tất cả các tổchứctoàncầuhiệnnaycủa chúng ta Quỹ tiềntệ quốc tế, Ngân hàng
Thế giới, các chuyêngia toàn cầu và cáctrườngdạykinhdoanhchúngtađangphấnđấuhếtsứcđểhiểuvềcáchthức làmchocácnướcnghèotrởnêngiàucó.
ĐÃ ĐẾN LÚC NÓILỜICHIATAY
Chắc bạn đọc sẽ nhậnthấy rằng, các bố giàgần như hoàn toànvắngmặttrongchươngcuối cùng này. Đó làmộthệquảtấtyếucủacáimẹovềcấutrúccủacuốn sách sử dụngnhững người giàu có,
nhiềumàusắcvàthúvịđể kể một câu chuyệndài về lịch sử, về cácnền kinh tế và sự pháttriển. Các bố già chỉđơn thuần là sảnphẩmcủa môi trường chínhtrị Đông Nam Á, vàcuốicùng, tự thânmôi
trường mới chính làvấn đề lớn của khuvực.
Tuy nhiên, chúng tađành phải chia tay vớinhữngđạigianày.Chodù bạn sống ở ĐôngNam Á, hoặc chỉ đếnthăm nó, hoặc chẳng
nghĩđếnnhữngđạigianhững kẻ phú hào làmmê hoặc lòng ngườinày thì Lý Gia ThànhvàLýTriệuCơvẫncứđangchơimộthiệpđấuchỉ có hai người tạiCâu lạc bộ gôn HồngKôngnằmkềbênVịnh
nước sâu. Stanley Hà,đangchỉnhlạikhuyáosmocking với sự chămchút của nửa tá vệ sĩ,rồi đi khai trươngmộtsòng bạc mới nữa.Madame Quắc đangkiểm tra tòa nhà caonhấtHồngKôngTrung
tâm tài chính quốc tếcùngvới bangười contraitrungtuổicủabàlàWalter, Raymond vàThomas đang ngoanngoãn tháp tùng mẹ.(Cácbàvợcủahọđangbận rộnđặtmộtphòngtắm 5.000 đôla khác
chomộtđiềntrangmớiởCửuLong.)Ởkhubờsông, một SimonKeswick tính khí kháthất thường đang dựmộtcuộchọpHộiđồngquản trị ởTòa tháp có“một nghìn cái lỗ hậumôn”–nhưlờinguyền
rủacủanhữngcổđôngngờnghệch.Trongkhiđó,SirAdrianSwirevàSir William Purvesđang nghỉ hưu“parttime” khá thoảimái ở Lodon, hoặcngồi tựa lưng trên ghếsofa đâu đó ở văn
phòng công ty trongthành phố và ngẫmnghĩ về việc chuẩn bịtiếpđãiCheltenhamvàAscot như thế nào;(không hiểu sao màngười châu Á lại yêuđua ngựa đến vậy). ỞSingapore,HoàngĐình
Phươngnhấcđiệnthoạivà gọi cho chàngRoberttrẻtuổi,bảobắtchuyến bay buổi chiềutừHồngKôngsangăntốivớiHarryLýQuangDiệu. Trên một conđường của thủ đôKualaLumpur,Ananda
Krishnan đang đi dạotại khu tam giác vàngcủathànhphốcùngvớiTiến sĩ Mahathir hayba hoa. Quách LệnhXán có thể đang nhìnhọtừvănphòngđầyđủtiện nghi trên tầng ápmái của ông, miệng
cười toe toét trong khivẫnbậpmộtđiếuxìgàlớn. Tại Bangkok,Dhanin Chearavanontkhông ở nhà, ông đãđến Thượng Hải đểkiểm tra trường đuangựa và các siêu thịcủa công tyLotus.Tại
Jakarta,AnthonySalimđang nghỉ ngơi mộtchút chẳng có ai bắtông ta phải nghiêmnghịnữa,BudiBloodyHartono đã mua lạingânhàng củaông, vàvẫn còn nhiều dự áncủangườiTrungQuốc.
Tại Manila, ở câu lạcbộ chơi gôn, LucioTrầnđangđọcmộtbàibáovềcácchínhtrịgiađang dọa đưa ông ratòavìmộtvụtrốnthuếkhác; những kẻ xuẩnngốc này sao chẳngbiếtđiềuvậynhỉ?
Đó là tất cả những gìxảy ra trong vươngquốc của các bố già.Dùýkiếncủahọlàgì,các đại gia đã dẫn dắtcuộc sống ít hơn bìnhthường điều chỉnh đểthích nghi với chế độthực dân, chiến tranh,
độclậpvàbâygiờ,nhưmộtvàingười trongsốhọ đã đề cập, làInternet. Thật khôngphải dễ dàng tìm hiểulý do tại sao nhữngngười nhập cư, giađìnhnhữngngườinướcngoài với khát khao
thành công và đượcthừa nhận lại là phầncơbảncủacâuchuyệnkể về Đông Nam Á.Tuynhiên, thậtxấuhổkhinhữngýniệmngâythơ về sự ưu việt củachủng tộc và giai cấpđã được đặt lên trên
câu chuyện cổ tích rấthay về tính linh hoạtcủa con người và việckinhdoanh.Một sốbốgià, và đa số các nhàlãnh đạo chính trị chủchốt ở khu vực trongthờihậuchiến,thựcsựtin rằng họ hơn người
là vì hoàn cảnh xuấtthân và giáo dục.Không những thế, nhưđãnêu trongphầngiớithiệu của cuốn sáchnày,cũngcónhữngbốgià hoàn toàn biết rõluồnggiókinhtếđãtừđâu thổi đến Đông
Nam Á. Họ nhận rarằng, sự tiến bộ sauchiến tranh là một nỗlực tập thể của nhữngngười nhập cư vàngườibảnxứ,cùngvớinhữnglỗilầmvàthànhcông của cả hai bên.Họ cũng biết rằng sự
đóng góp của nhữngngườinhậpcưsẽlàrấtít ỏi nếu không cónhững nỗ lực phithường (tuy thườngkhôngđượcthừanhận)củangườigốcHoa,ẤnĐộ, Sri Lanka và cácchủcửahiệukhác,các
chuyên gia và các nhàsản xuất nhỏ mà nghịlựccủahọthêmvàođólàcủangườidânởđịaphương là nguồn lựcthực sự của sức mạnhkinh tế của khu vực.Một vài lời đàm luậncủa một trong những
bố già cực kỳ giàu cóvề thực tiễn của khuvực Đông Nam Á sẽlàmnêngiaithoạicuốicùngnhưsau:
Thời trai trẻ, đại gianày cómột thúgiải tríưathíchlàđicâucádàingàyởbiểnĐông.Ông
và gia đình cùng cácnhà quản lý cấp caotrongcácdoanhnghiệpcủamình thường cùngnhau đi nghỉ một vàingày. Trong cácchuyến đi đó, bố giànày thường kết giaovới một chủ hiệu nhỏ
trên một hòn đảo, màông và đoàn tùy tùngcủa ông thường dừnglại ở đó để mua thựcphẩmdựtrữ.Đólàmộtngười gốc Hoa, làmviệc tất cả các giờtrong ngày và thườngxuyên bị ngư dân địa
phương đánh thức vàolúc nửa đêm để muadầu diésel và các đồdùng thiết yếu kháctrướckhihọđiđánhcálúc trời vừa rạng sáng.Thường thì ngư dânkhông có tiền ngay vàhọ phải ký vào sổ nợ,
lầnnàocũngvậy.Ôngchủ hiệu là một ngườiluôn tỏ ra hào phóng.Ông kết hôn với mộtphụnữngườiHảiNamđộcthânđãcómộtđứacon gái (một việc khóthực hiện), và nhậntrách nhiệm chăm lo
cho cả hai mẹ con cô.Quanhiềunăm,bốgiàvà người chủ hiệu nàytrở thànhđôibạn thân.Sự khác biệt duy nhấtgiữa họ, như đại gianày nhận xét, là dohoàncảnhxuấtthânvàđược giáo dục tốt nên
ôngtrởnêngiàucó,trởthành một tỷ phú lớn,trong khi người chủhiệu kia phải làm việckhông bao giờ ngừngnghỉvàđãphảibỏmấtcả tuổi thanhxuân.Vàbố già này kết luận,một cách rất chân
thành: “Đó là câuchuyện thực sự vềĐông Nam Á". Nóixong, ông tỏ vẻ mãnnguyện vì đã được tậnhưởng những kỷ niệmhết sức ngọt ngào, rồimời tác giả cuốn sáchnày một ly rượu vang
Pháptuyệtngon.
8. TIỂU SỬTÓM TẮTCÁC NHÂNVẬTDOANH
NHÂN BỐGIÀ VÀCÁCCHÍNH TRỊGIA
I) CÁC DOANHNHÂN/BỐGIÀ
THÁILAN:
DònghọBunnag
Điều quan trọng nhấtcủacácgiađìnhBaTưtheo đạoHồi là phụng
sựvớitưcáchlànhữngngười quản lý cao cấpở Xiêm (tên của TháiLantừnăm1939trởvềtrước) trong thế kỷXIXvàsauđó.ChuangBunnag (18081883),với tước hiệu chínhthức là Somdet Chao
PhrayaBoromMahaSiSuriyawongse, là mộttấm gương. Ôngnguyên là Bộ trưởngBộ nội vụ một trongbốnbộquan trọng củaXiêm và sau này trởthành quan nhiếpchính. Gia đình
Bunnag điều hànhvùngBangkokrộnglớnvới tư cách là nhữngngười phân bổ cáctrangtrạichịuthuế.Họđã cấp đất cho rấtnhiều người họ hàngcủamình;họkiểmsoátnhững lợi ích vận tải
biển lớn và rất nhiềudoanhnghiệpkhác.Giađình này cho con cáikết hôn với dòng dõihoàng tộc Thái vànhững gia đình ngườiThái gốc Trung Quốcdanh tiếng. Hai Thủtướng thế kỷ thứ XX
đềucódòngdõiHoànggia,SeniPramojvàemtrai cùng mẹ khác chacủaôngtalàKukrit.
Dòng họChearavanont
Bố già thời hiện đạiDhanin Chearavanont,
vàonăm1983,đã thừakế doanh nghiệp nôngnghiệp do cha ông làChia Ek Chaw – mộtngười Thái gốc TrungQuốcvàmộtngườichúxây dựng. Gia đìnhChearavanont hồi đó(cũngnhưhiệnnay)có
mộtdoanhnghiệpbuônhạt giống rất thànhcông ở Trung Quốctrước năm 1949.Dhanin, sinh năm1939,đãđưaTậpđoànCP (CharoenPokphand) trở thànhdoanh nghiệp nông
nghiệp lớn nhất, vàtrướccơnkhủnghoảngtài chính, nó là tậpđoànliênkếtnhiềukhuvực lớn nhất ở TháiLan. Sắc sảo về chínhtrị, ông lợi dụng chínhsách công nghiệp hóathaythếnhậpkhẩucủa
chínhphủđể sảnxuất,và là một trong sốnhững người đượcNgân hàng Bangkokcủa ChinSophonpanich, cũngnhư ngân hàng nhànước cấp vốn. Vàonhững năm 1980 và
1990, CP đã đa dạnghóa cả về ngành hàngcũng như về lãnh thổvàtrởthànhmộtđếchếthốngtrịtừnuôigàđếnviễn thông, và có lẽ lànhàđầutưngướcngoàilớnnhấtởTrungQuốc.Sau cơn khủng hoảng
tàichínhchâuÁ,CPbịép bán nhiều tài sảncủa nó ở Trung Quốcvà Thái Lan. Dhaninđược một người anhtrai và ba con trai củamình trợ giúp. Vàonhững năm 1990, ônglàThượngnghịsĩvàcố
vấncủachínhphủTháiLan, nhưng phải lựatheo thế lực củaThaksin Shinawatra từ1998, đưa một con rểvào Nội các của Thủtướng mới. Nhưngnhững quan hệ giữaChearavanont và gia
đình Thaksin trở nêncăng thẳng bởi cuộcchạy đua giành giật vịtrí bố già hàng đầu.Dhanin thích nhângiống gà chọi và chimbồcâunuôitạinhà;bồcâuhiệnđượcnuôitrênmái nhà của một tòa
nhà ở Thượng Hải, vàđược một người contraitrôngnom.
Dòng họ Khaw (họHứa)
Khaw Soo Cheang(Hứa Tứ Chương) làmột ông trùm Trung
Quốc nhập cư từ rấtsớm, sinh năm 1797,người có đất đai ởPenangvàgặpvậnmaytrong canh tác trangtrạichịuthuếcũngnhưkhai thác mỏ thiếc ởmiền Nam Thái Lan.Ông cũng xây dựng
nên một doanh nghiệphànghảiởPenang.Cácthế hệ tiếp theo củadòng họ Hứa, do HứaTâmMỹlãnhđạo,thựchiện thành công mộtliên doanh khai thácmỏ thiếc với các nhàđầutưAustralia,nhưng
hoạt động ở Penangcủa họ thất bại và sauđó gia đình này bị sasút.
Dòng họSophonpanich
Sinh ở Bangkok năm1910, tộc trưởng Chin
Sophonpanich đượcgửivềSánĐẩu(QuảngĐông,TrungQuốc) đểđi học và trở lại TháiLanlúc17tuổi,khichachết.Ông đã từng làmgiáo viên rồi trở thànhmột thương gia buôngỗ tấm thành công.
Bước đột phá lớn củaông xảy ra năm 1952,khi ông được cử làmTổng Giám đốc Ngânhàng Bangkok đangsuy nhược. Người bảotrợ chính trị chủ yếucủaông là tướngPhaoChung Siryanon, tổng
giámđốccảnhsát.Ôngkết giao với tầng lớptinh hoa người TrungQuốc gốc Thái nhưPrasit Kanchanawat vàBoonchuRojasthanien,đểvậnhànhngânhàngmột cách rất chuyênnghiệp. Khi Phao là
nạnnhâncủacuộcđảochính do tướng SaritThanaratcầmđầunăm1957,ChingiaoquyềnchocấpdướivàrờivềHồng Kông cho đếnkhi Sarit chết năm1963. Trong thời gianở đây, Chin tập trung
vào xây dựng mạnglưới ở nước ngoài vàcấpvốnchomộtthếhệcác ông trùm trongtoàn khu vực. Khoảngcuối những năm 1980,NgânhàngBangkoklàngân hàng nằm ngoàiHồng Kông lớn nhất
Đông Nam Á, và tậpđoàn kinh doanh liênkhuvựccủanócótầmcỡlớnnhấtởTháiLan.Vì thuyết phục đượccác nhà tài trợ chínhphủ cấp vốn để pháttriển Ngân hàngBangkok,Chinđạtđến
đỉnhcaocủasựnghiệpbằng cách nắm quyềnkiểm soát ngân hàngnày. Ông chết năm1988. Con trai cả củaChin là Robin thừa kếcác lợi ích tại HồngKôngcủagiađình,contrai thứ là Chatri nắm
giữcáctàisảnchủyếuởTháiLan.NgânhàngBangkok bị đổ bể bởicơn khủng hoảng tàichính châu Á, với lỗlũykếgần3tỉđôlatừnăm 1998 đến 1999,nhưnggia đìnhhọvẫngiữ quyền kiểm soát,
mặcdùyếuhơn,nhờ1tỉ đô la cổ phiếu pháttriển mới. Hiện đa sốcổphầnlàcủacácnhàđầu tư lớn, khoảng50%, đều là các nhàđầutưnướcngoài.Contrai của Chatri,Chartsiri hiện đang là
Chủtịchngânhàng.
ThaksinShinawatra
Sinh năm 1949 trongmột gia đình ngườiThái gốc Trung Quốcgiàu có ở ChiềngMai(cố nội củaThaksin làmộtchủtrangtrạichịu
thuế, cha của ông làmột doanh nhân và lànghị viên), nhưngThaksinđãđauđớn từchốicáigốcgácbímậtvề pháp lý của mình.ÔnghọcđạihọcởHoaKỳvàđitheomộtnghềnghiệpđặctrưngbởisự
thăng tiến nhanh – đólà lực lượng cảnh sátThái Lan; và kết hônvớicongáicủamộtvịtướng cảnh sát. Khilàm việc trong ngànhcảnhsát,vàvềsaunàynữa, Thaksin đã cónhiều cuộc thử sức
không thành côngtrongkinhdoanhtrướckhi kiếm được một sốtiền lớn do cho ngànhcảnh sát thuêmáy tínhvà các thiết bị khác,cũng như cómột côngty nhắn tin di động.Năm 1986, ông được
trao một hợp đồngkhôngquađấu thầuvềhoạtđộngđiệnthoạidiđộng trong20năm,vàvào năm 1990 đượccấp phép để vận hànhdịchvụvệtinhnộiđịa.SaukhiniêmyếtCôngtyShinawatracủamình
(vềsauđổitênlàShin)năm1990,Thaksinmởrộng các dịch vụ phátthanh truyền hình vàviễnthôngkhác.
Vào giữa những năm1990,khiviễnthônglàlĩnhvựcđượcchínhtrịhóa nhiều nhất ở Thái
Lan,Thaksinbướcvàolĩnhvựcchínhtrịởcấpquốc gia. Ông đượcchọn làm Bộ trưởngNgoại giao vào năm19941995, Phó Thủtướng dưới thời “cáimáy rút tiền ATM diđộng” Teochiu
Banharn Silpaarchavàonăm19951966, vàlạiđượcchọn làmPhóthủ tướng vào nhữngngày cuối cùng củachính phủ ChungChavalit Yongchaiydhnăm 1997. Trong thờigian này, ông bị buộc
tội là kiếm lợi từ việcbiết trước sự mất giácủađồngbạtvàotháng7 năm 1997. Tháng 7năm 1998, trong vòngxoáy của cơn khủnghoảngtàichínhchâuÁvàdodoanhnghiệpcủaôngnợnầnchồngchất,
ThaksinthànhlậpđảngThai Rak Thai (ngườiThái yêu người Thái)vàthựchiệnchiếndịchvề một chương trìnhdân túy chú trọng đếnchăm sóc sức khỏetoàn dân, hoãn nợ chonông dân và lập quỹ
phát triển ở mỗi làngxã. Ông bị cuốn vàoquyền lực năm 2001.Nhiềuchínhsáchđượcthực hiện, tỉ lệ nghèogiảm mạnh, mặc dùnhững người chỉ tríchcho rằng nhiều khoảnchi trả cho việc cấp
vốn và xóa nợ khôngthể chứng minh được.Thaksincũngtheođuổicuộc đấu tranh chốngma túy và trận chiếnchống lại nhữngngườibạo loạn Hồi giáo ởmiền Nam, gây ra tổnthất hàng nghìn sinh
mạng. Năm 2005, ôngtái đắc cử với mộtchiếnthắnglongtrờilởđất. Tuy nhiên,Thaksinkhôngđượcưachuộng ở Bangkok vàbị chỉ trích vì có sựkhácnhauvềquyềnlợigiữahainhómquânsự
vànhânquyền.Khigiađình ông bán hết cácquyền lợi đang kiểmsoát ở Công ty Shincho Công ty Temasekcủa Singapore vớimộtkhoảnmiễn thuế1,9 tỉđô la hồi tháng Giêngnăm 2006, các cuộc
biểu tình của côngchúng bùng lên.Thaksinkêugọinhữngcuộc bầu cử mới,nhưng bị phe đối lậptẩychay.Saumộtmùahèvật lộnvềchính trị,một cuộc đảo chínhquânsựđãxảyratrong
tháng 9, khi Thaksinđang ở New York, vàquân đội chỉ địnhSurayudChulanont lênlàmThủtướng.
MALAYSIA:
Chang Ming Thien(TrươngMinhThiên)
Sinh tại Penang năm1917, Trương đã kiếmđược rất nhiều tiềntrong và sau Chiếntranh Thế giới thứ hainhờbuônlậucaosurakhỏiMalaysia. Sau đóông ta thiết lập cácngân hàng ở Hồng
Kông và Malaysia, vàmộtcôngtytàichínhởThái Lan, cũng nhưđầu tư dàn trải vàonhiều doanh nghiệpkhác. Vào những năm1970, Trương MinhThiên có khuynhhướngtrởthànhmộtbố
già lớn trong khu vực,nhưng cuộc sống dâmdục và tràn ngập rượucồnđãbủavâyông ta.Ôngtachếtnăm1982,sau một trận sốc đếnnôn mửa khi ra khỏimộtcănphòngởkháchsạn Merlin tại Kuala
Lumpur. Năm 1985,NgânhàngThương tínHải ngoại (OTB) ởHồng Kông củaTrươngsụpđổ,domắcphải sự lừa gạt mộtcách có hệ thống củanhữngGiámđốc trongnhiều năm. Chính phủ
Hồng Kông đã phảigiải thoátnhữngkháchhàng gửi tiền bằngcách tiếp quản nó vớisốtiền256triệuđôla.
DaimZainuddin
Sinh cùng một làng ởKedah với Thủ tướng
Malysia MahathirMohamad, Daim tốtnghiệpĐại họcLuậtởLuânĐônvàcósựđộtpháđầutiêntrongkinhdoanh bất động sản ởKuala Lumpur.Ông tabắt đầu được traoquyềnquảnlýcáccông
ty của chính phủ vàocuối những năm 1970khi Mahathir là PhóThủtướng.Ôngtatiếpquản bộ phận đầu tưcủa Tổ chức quốc gialiên hiệp Mã Lai(UMNO), tập đoànFleet sau khiMahathir
trở thành Thủ tướngvàonăm1981,vàcũnglà người giữ quỹ củaUMNO.Đượcchỉđịnhlàm Bộ trưởng Tàichính vào năm19841991, Daim nuôidưỡng một nhómnhững doanh nhân
người gốc Mã Lai –“những chú nhóc củaDaim”, gồm HalimSaad,TajudinRamlivàWan Azmi WanHamzah – bằng chínhsáchtưnhânhóakhôngphảiđấuthầuvànguồnvốn tín dụng của nhà
nước. Daim đượcMahathir gọi lại vàochínhphủtạithờiđiểmcócơnkhủnghoảngtàichính châu Á để tổchức giải thoát chonhững công ty có đặcân khác nhau. Ông tachấm dứt quan hệ với
Mahathir vào năm2001có lẽvìxungđộtlợi ích kinh doanh vớiconcáiMahathirvà từchức.Từlâu,ôngđượccácphóngviênchâuÁphongtặng“nhàtiểutưsản” vì có thể móc rabấtcứcáigìôngmuốn.
Nóichung,DaimđượccoilàbốgiàngườigốcMãLaigiàunhất.
EuTongsen (DưĐôngTuyền)
Sinh trưởng trong mộtgia đình người TrungHoa nhập cư đã mở
cửa hiệu trước khi đivàokhaithácmỏthiếc,Dư (18771941) đượcgiáo dục theo chủnghĩa toàn thế giớitrongcảcáctrườngđạihọc dạy bằng tiếngTrung lẫn tiếng Anh.Ông đã mở mang
doanh nghiệp của giađình, trở thànhđối thủcạnh tranh hàng đầucủaLụcHữu,vàđầutưđadạngvàonhữngđồnđiền,ngànhngânhàng,bất động sản và buônbán.Gần cuối đời,DưchuyểnvềHồngKông.
Ở đó, ông ta cho xâydựng ba tòa lâu đàitheo kiểu gôtích vàchất đầy trong đónhững pho tượng cácnàngtiênxinhđẹp.
HalimSaad
Sinh năm 1953 trong
một gia đình gốc MãLaigiàucó,đượcDaimZainuddin che chở.Halim Saad đã từnglãnh đạo Tập đoànRenong, một cái khochôn giấu tài sản củaTổchứcQuốcgiaLiênhiệp Malaysia
(UMNO) cầm quyền,phát đạt nhờ nhữnghợpđồngxâydựng cơsởhạ tầng lớncủanhànước, bao gồm conđường cao tốc Bắc –Nam huyết mạch củaMalaysia.Mặcdùvậy,Renong đã được chính
phủ giải thoát khỏinhiềuvụviệc,gầnđâynhất là trong cuộckhủng hoảng tài chínhchâu Á. Trước cuộckhủng hoảng, Renongcó 11 công ty liêndoanh đã niêm yết,nhưng sau đó bị bắt
buộc phải bỏ bớt mộtsố tài sản.HalimSaadbịloạibỏkhỏibanlãnhđạo Renong sau khicơn khủng hoảng xảyra.
RashidHussain
Sinh ở Singapore năm
1946, có cha là ngườiẤnĐộvàmẹ làngườiMã Lai (cũng có sựphatrộnchủngtộcnhưMahathir Mohamad),Hussain lớn lên trongmột gia đình đã Anhhóa giàu có. Sau khilàm môi giới chứng
khoán ở London, cựuPhóThủ tướngGhafarBaba giúp anh ta cóđược quyền công dânMalaysia, đưa Hussainvàomộtđườngdâycấpgiấy phép buôn bánchứng khoán theochính sách của một
chương trình hànhđộng của chính phủ.Trong 15 năm tiếptheo, ông ta đã xâydựngnêntậpđoàndịchvụ tài chính hàng đầucủaMalaysialàRashidHussain Berhad(RHB).Tuynhiên,vào
những năm 1990,Hussain liênminh quáchặt chẽ với Phó Thủtướng Anwar Ibrahim;khi Mahathir Anwarthấtthếvàonăm1998,Hussain thấy mìnhthiếumộtsựcheđỡvềchính trị giữa cơn
khủnghoảng tàichính.Ông ta cũng bị cáobuộc làm mất giá và“bán ngắn” đồngringgittrongcơnkhủnghoảng, dođó cùngvớiMahathirđónggópvàocáigọilà“mộtâmmưuquốc tế” làm cho
Malaysia đổ nát.Hussain mất quyềnđiều khiển doanhnghiệp củamình trongngành ngân hàng bấtchấp sự tài trợ củachính phủ. Ông ta kếthônvớimộtcôcongáicủa Robert Quách, tên
làSue.
KhooKayPeng(KhâuGiaBành)
Sinh tại Johore năm1938, Khâu khởinghiệp trong ngànhngân hàng tại Công tyNgân hàng Hải ngoại
TrungHoa(OCBC)vàNgân hàng Malayantrước khi chuyển sangNgân hàng Bumiputra,thànhlậpnăm1965đểcung cấp vốn tín dụngchonhữngdoanhnhânbản xứ, dưới thời ChủtịchngânhàngTengku
Razaleigh Hamzah.Giữa họ hình thànhmột mối quan hệ gầngũi. Khi Razaleigh trởthành Bộ trưởng Tàichính vào giữa nhữngnăm 1970, Khâuchuyển một công tynhỏ, Liên hiệp công
nghiệp Malayan hợpnhất (MUI), thànhmộtdoanhnghiệpniêmyếtlớn nhất nước, đưacông ty tham gia vàongành đường mía,ximăng, tài chính, bảohiểm, dịch vụ ngânhàng, kinh doanh
khách sạn, bất độngsản và sản xuất. Khâucũng gần gũi nhữngchính khách của đảngcầm quyền UMNOhùng mạnh, bao gồmBộ trưởng Nội vụ vàngười phát ngôn củaQuốc hội cũng như
chính quyền Johore làTan Sri MahamadNoah bin Omar. Tuynhiên, khi RazaleightháchthứcMahathirđểnắm quyền lãnh đạoUMNO vào năm 1987và bị thua, Khâu nhậnrarằngôngtađãthắng
cỗ xe ngựa của mìnhvào chỉmột con ngựa.Do đó, tập đoàn củaông ta có quá ít thànhcông. Khâu kết giaothân thiết với RobertQuách, một ngườiđồng hương ở Johore.Ông là một tín đồ Cơ
đốc giáo Phúc âm vàđãcómộtsốdựánđầutư với nhà truyền giáoMỹ là Pat Robertson.Vào năm 1998, Khâunắm quyền điều khiểnmột doanh nghiệp bánlẻ theo kiểu Anh làLauraAshley.
AnandaKrishnan
Là con trai của mộtcôngchứcngườiTamilSri Lanka, sinh vàothời buổi Chiến tranhthế giới thứ hai,Krishnan có được tấmbằngMBA từ đại họcHarvard và kiếm được
tiền triệu đầu tiên nhờbuônbándầumỏ,củngcố tình bạn cùng họctrường kinh doanhHarvard với gia đìnhhoàng tộc Saudi cũngnhư với chính kháchRoberto Ongpin ngườiPhilippines, đồng thời
liênkếtkinhdoanhvớinhà Suharto vàFerdinandMarcos.Đầutiên, Krishnan làm tưvấnquốctếvềcấutrúccôngnghiệpdầumỏvàkhí đốt của Malaysiavà thu xếp để hun đúctìnhbạnlâubềnvớicả
Tengku RazaleighHamzah lẫn địch thủtinh quái là MahathirMohamad. Dưới thờiMahathir, Krishnan cóđược nhiều nhânnhượng của chính phủcho việc tổ chức cácược về đua ngựa và
xổ số, điện thoại diđộng,phátthanhtruyềnhìnhvàvệ tinh,vàcácdự án phát triển khuvực trung tâm thànhphố, trong đó có tòathápđôiởgiữa thủđôKualaLumpurrộnglớnvới sự cung cấp tài
chính của Petronas,một công ty dầu lửacủa nhà nước. KhiKrishnan cần tiền mặttrong thời gian khủnghoảng tài chính,Petronas đã bơm choông rất nhiều tiền.Krishnan được quảng
bárấtnhiềukhiông tahỗtrợtàichínhchocácbuổihòanhạcgâyquỹtàitrợđượctruyềnhìnhtrực tiếp. Con cái củaôngtachẳngtỏraquantâmđếncôngviệckinhdoanh của bố. Ngườicon trai trở thành một
nhà sư ở Thái Lan,người con gái làm bácsĩởAnh.
DònghọQuách
Tộc trưởng RobertKuok Hock Nian(Robert Quách, hayQuách Hạc Niên), cậu
emút trongbaanhemtraisinhtạiJohorenăm1923, thành công vớitư cách là một thươnggia buôn bán lúa gạo,bộtmìvàđường.Đượchọc hành tại nhữngtrường học thực dândành cho tầng lớp tinh
hoa ở Johore, vàtrường cao đẳngRaffles (một trongnhững trường là tiềnthân củaĐại học quốcgia Singapore), Quáchđã xây dựng nên sảnnghiệpcủamìnhthôngquabuônbánhàngnhẹ
và sản xuất hàng thaythế nhập khẩu sau khikết thúc Chiến tranhThế giới thứ hai. Vàonhững năm 1970, ôngta bắt đầu nổi tiếng làmột “ông vua đườngmía”vớicácthươngvụbuôn bán đường cực
lớn và các thủ đoạntinhranhtrênnhữngthịtrường tương lai ởLondon. Ông cũng đadạng hóa đầu tư vàocác lĩnh vực kinhdoanhhànghóacóđiềutiết khác như bột vàdầucọ,cũngnhưhàng
hải, bất động sản,khách sạn, dịch vụ tàichính và nhiều thứkhác nữa. So vớinhững doanh nhânkhác, Quách cũng liêntụcdichuyểncơsởcủamình từ Malaysia đếnSingapore,HồngKông
vàcác lãnh thổkhácởĐông NamÁ. Ông đãkinh doanh ở TrungQuốc từ thời Chiếntranh Triều Tiên, đầunhữngnăm1950.
Người anh trai thứ haicủa Quách, một “conmọt sách”, lại chọn
mộthướngđirấtkhác.Khôngtheoconđườngkinh doanh của giađình,WilliamgianhậpĐảng Cộng sảnMalayan của giai cấpcôngnhânđểđấutranhchống chủ nghĩa thựcdânAnhvàbịlínhAnh
bắn chết ở Pahang hồitháng9năm1953.Anhta được nhiều bạn bèbiết đến nhờ khả năngđọcthuộclòngcáccâuthơ của Shakespeare.NgườianhcảPhiliptrợgiúp việc kinh doanhcủa gia đình trước khi
theo đuổi sự nghiệpngoạigiaovàlàđạisứcủaMalaysia.
Robert Quách có támngườicontronghailầnkếthôn.Con traiBeauvàChye,kếtquảcủatừlần kết hôn đầu tiêncủa ông với một phụ
nữTrungQuốclaiAnhtênlàJoyceCheah,giữnhững vị trí cao trongdoanh nghiệp của ông.Các cháu trai Chye vàEdward,cháugáiKaye(con của Philip) cũngvậy.Chưarõsựnghiệpcủa Robert Quách sẽ
được kế tục như thếnào.
LeeLoySeng (LýLợiThành)
Lý sinh năm 1921trongmộtgiađìnhkhaithácmỏthiếcrấtthànhđạt ở Hakka (Quảng
Đông).Ông ta tiếp tụckhai mỏ thiếc một vàinăm sau Chiến tranhThế giới thứ hai trướckhi chuyển sang làmđồn điền. Lý có đượccác khu đồn điền vớigiá rất thấp, trước hếtvì người Anh công bố
“tình trạng khẩn cấp”sau các cuộc bạo loạncủa phe cộng sản vàonhững năm 19481960,và sau này khi nhữngcông ty đồn điền châuÂu tìm cách xử lýnhững tài sản sau độclập và bắt đầu các
chính sách kinh tếhướngtớinhữngngườigốc Mã Lai. Công tyKLKepongcủaLýtrởthànhđồnđiềntưnhânvà là doanh nghiệp bơthực vật lớn nhất ởnước này; nó cũng sởhữu chuỗi siêu thị bán
lẻCrabtree&Evelynởngoài Malaysia. Lýchết năm 1993, vànhữngcontraicủaônghiện đang điều hànhdoanhnghiệp.
DònghọLâm(Lim)
Lâm Ngô Đồng (Lim
GohTong)sinhtạitỉnhPhúc Kiến, TrungQuốcvàonăm1918vàchuyển đến KualaLumpur vào cuốinhững năm 1930 đểlàm việc trong mộtdoanhnghiệpxâydựngcủa người chú, phụ
thuộc chủ yếu vào cáchợp đồng của chínhphủ. Lâm kiếm đượctiền từ buôn bán thiếtbịxâydựngquânsựdưthừa sau Chiến tranhThếgiới thứhai–ôngta rất thành thạo cácthủ đoạn đấu thầu và
thiết lập công ty xâydựng riêng của mình,thắng thầu trong nhiềuhợp đồng xây dựngcông trình công cộng.Ôngtacũngđivàolĩnhvực khai mỏ. Sau độclậpnăm1957,Lâmcóđược giấy phép mở
sòng bạc duy nhất ởMalaysia và xây dựngkhu nghỉ dưỡngGenting Highlandsrộng lớn, với 4.000phòngởngoạiôKualaLumpur. Rất nhiềuthànhviêncủatầnglớptinhhoachínhtrịđược
tin tưởng mời làm cổđông thông qua nhữngngười được chỉ định.NhữngtàisảnkháccủaLâm nằm trong nhữngđồnđiền,bấtđộngsảnvàngànhđiệnlực.
ContraithứLâmQuốcThái (Lim Kok Thay),
được cha rất yêu quýsovới người anh, hiệnđang điều hành doanhnghiệp của gia đình.Quốc Thái đã dùngnguồn tiền mặt thuđược do tổ chức đánhbạcđểmởrộngđầu tưsang những tuyến du
lịch trên biển (StarCruisers), tiếp quảntuyếndu lịch trênbiểncủaNaUy (NCL) vàonăm1999, vàmới đâyđã thắng một gói thầutrị giá 3,4 tỉ đôla đểxâydựngmộtkhunghỉdưỡngvàvuichơi trên
đảo Sentosa củaSingapore.
LokeYew(LụcHữu)
Sinh năm 1845 tạiQuảng Đông, Lục làmnên sự nghiệp củamình ở Larut,Malaysia; hợp tác với
Hội Tam hoàng NghĩaHưng (Ghee Hin) đểnhập khẩu và quản lýcông nhân khai mỏngười Trung Quốc.Ông cũng nhận đượccáctrangtrạicólợitứccủa chính phủ thuộcđịa, học tiếng Anh,
phong cách của ngườiAnh và gia nhập liêndoanh với người nướcngoài. Lục Hữu chếtnăm 1917, và ngườicon trai tao nhã củaông là Lục Vận Đào(Loke Wan Tho) đãđiều hành doanh
nghiệp của gia đìnhcho đến khi bị chếttrongmột tai nạnmáybaynăm1964.
Quek Leng Chan(QuáchLệnhXán)
Xem trong mụcSingapore, Gia đình
Quách.
TajudinRamli
DoanhnhânngườigốcMãLai, và là cựu chủngân hàng đầu tưTajudin,sinhnăm1946tại Kedah, có nhữngmối liên kết chặt chẽ
vớiDaimZainuddinvàđảng cầm quyềnUMNO. Ông ta làmviệc cho Daim vàonhững năm 1980 vàsaunàynhậnđượcgiấyphép không cần đấuthầuvềvậnhànhmạngđiện thoại di động
Celcom. Vào năm1994,tậpđoàncủaôngnắm quyền kiểm soátHệ thống Hàng khôngMalaysian (MAS),hãng vận tải quốc gia.Cả hai doanh nghiệpđềugặpkhókhăntrongcơn khủng hoảng tài
chínhchâuÁ.Công tynắmcổphầnkhốngchếcủa Tajudin làTechnology ResourcesIndustry (TRI), chuyênvề thanh toán tráiphiếu. Sau khi Daimrờichínhphủvàonăm2001, Tajudin mất
quyền kiểm soát cáccôngtyvàbịtruytốlàlừa gạt thông qua cáchợp đồng dịch vụ vớicác doanh nghiệp tưnhân mà trong đó ôngta giữ những khoảntiền đặt cọc khôngtuyênbốcôngkhai.
TanKoonSwan
Tan là một công chứcbậc thấp và nhân viêncủaCôngtydầulửađaquốcgiaEssotrướckhitrở thành Tổng Giámđốckhunghỉdưỡngcósòng bạc GentingHighlands của Lâm
Ngô Đồng vào đầunhững năm 1970. Sauđó, ông xây dựng nêntập đoàn riêng củamìnhtrướckhikhởitạoMultiPurposeHoldings(MPH) như mộtphươngtiệnđầutưchonhững nhà đầu tư Mã
Lai gốc Trung Quốc.Sau đó, Tan trở thànhChủtịchHộingườiMãLai gốc Trung Quốc(MCA). Ông ta sápnhậpdoanhnghiệpcủamình, một cách tùyhứng,vớinhữngdoanhnghiệp của MCA, vì
thếnăm1986đãbịbắtở Singapore vì tội lừađảo.RobertQuách vộivàng bảo lãnh và đáplời mời gọi của MCAđể đến “dọn dẹp”MultiPurpose đã bịkhuynh đảo bởi thamnhũng và kiểm tra sổ
sáchkếtoánvềsựthualỗ của tập đoàn này.TanKoonSwanbị kếtán hai năm tù giam.Dưới quyền sở hữumới, MultiPurpose đãphụchồitrởlạisaucơnkhủnghoảngtàichính.
Vincent Tan Chee
Yioun(TrầnChíViễn)
Sinh năm 1952, Trầnđạidiệnchomộtnhómôngtrùmmớinổivượtlên phía trước thôngqua việc tư nhân hóakhôngcầnđấuthầuvàonhững năm 1980 vàđầu những năm 1990.
Sự bứt phá mà ông tacó là do được nhậntrung tâm xổ số SportToto từ chính phủMalaysia năm 1985.Vớiluồngtiềnmặtchủyếu này, và những vụtư nhân hóa khác, ôngđầutưđadạngvàomọi
thứ, từ cơ sở hạ tầngchođếnbáochí,kháchsạn. Tan có mối quanhệ thân thiết vớiMahathir.
K. ThamboosamyPillay
Sinh trưởng trong một
gia đìnhẤnĐộ Tamilgiàu có ở Singapore,Pillayđượcđào tạo tạiHọc viện Raffles củatầng lớp tinh hoa vàlàm cả kinh doanh lẫnlàm việc cho cơ quanchínhphủ,đầutiênvớiCơquancưtrúAnhtại
Malaysia, và sau đó làJames GuthrieDavidson.Ôngtổchứcnhập khẩu lao độngdưới sự che chở củachính phủ trước khibước vào các lĩnh vựckinh doanh khác nhưcho vay tiền, là nhà
thầu của chính phủ vàngườikhaimỏ.ÔngvàLụcHữu là những đốitáctrongCôngtyKhaithác mỏ thiếc mới ởRawang. Giống nhưLụcHữu,Pillaylàmộttrong những ngườisánglậptrườngđạihọc
Victoriadànhcho tầnglớp tinh hoa ở KualaLumpur.Ôngchếtnăm1902.
Dòng họ Yeoh(Dương)
Bố già thời hiện đạiFrancis Dương Túc
Bân xuất thân từ mộtgia đình gốc TrungHoađãAnhhóabathếhệ,thamgiangànhxâydựng và sản xuất vậtliệu xây dựng. Doanhnghiệp của gia đình,YTL,đượcđặttêntheotên cha của Francis là
Dương Trung Lễ,ngườimở rộngnónhờcáchợpđồngxâydựngcác công trình côngcộng ngay từ đầu thờihậuđộclậpnhữngnăm1950 và 1960. DướithờiMahathir,từ1981,YTL đã giành được
những hợp đồng lớntrong các khu vực nhànước và phát điện, trởthànhnhàsảnxuấtđiệnđộclậpđầutiênởnướcnày. Trong số nhữngtài sản ở hải ngoại,YTL sở hữu dịch vụcấp nước ở Wessex,
nước Anh. Dòng tiềnmặtchủyếucủadoanhnghiệp cứ tuôn chảynhưthế trongsuốt thờigian có cuộc khủnghoảng tài chính châuÁ. Nhờ đó, Dương cóthểmua hết các kháchsạn cao cấp và bất
động sản ở KualaLumpur khi giá cả sụtgiảm. Francis Dươngvà sáu anh chị em củaông ta là những tín đồCơ đốc Phúc âm; lâuđài ở Kuala Lumpurcủa gia đình Yeohđược gọi là “Sáng
thế”.
INDONESIA
DònghọBakrie
Người cha AchmadBakrieđãxâydựngvàpháttriểndoanhnghiệpBakrie & Brothers từ
mộthãngbuônởmiềnNam Sumatra thànhmột trong số ít nhữngtập đoàn sản xuất bảnxứ lớn. Achmad đượchưởng lợi từ Chươngtrình Benteng, đượctriểnkhaiđểhỗtrợcácdoanhnhânbảnxứsau
khi nền độc lập đượctuyên bố vào năm1945, và được tiếpquản những nguồn lợivề sắt thép được quốchữu hóa từ người HàLan.Con traiAburizalđang điều hành tậpđoàn bản xứ lớn nhất
từ viễn thông đến đồnđiền–vàothờigiancócuộc khủng hoảng tàichính,và thamgiavàocác lĩnh vực kinhdoanhcùngvớimộtsốthànhviêncủagiađìnhSuharto. Suýt bị phásản vào cuối những
năm1990,ôngtabuộcphải vay 1 tỉ đô la đểcấu trúc lại doanhnghiệp năm 2001. Saukhi Suharto sụp đổ,Aburizal tự bộc lộ làmột chính khách dânchủ và đảm nhận mộtsốvaitròtrongnộicác
chính phủ. Giá trị củacáclợiíchkhaimỏcủagiađìnhđãcăngphồnglên trong sự bùng nổhàng hóa toàn cầu gầnđây. Vào năm 2006,Bakrie bán doanhnghiệp khai thác thanBorneo của họ với giá
1,2 tỉ đô la, đánh dấumộtsựtrởlạituyệtvời.Vào thời gian này,Aburizal là Bộ trưởngcôngtácxãhội.
GiađìnhHartono
Hiện là một ông chủlớn,R.“Budi”Hartono
xuất thân từ một giađình Trung Hoa đãsống lâu đời ở Kudus,Java, nắm quyền kiểmsoát P.T. DjarumKudus,mộttrongsốbacông ty sảnxuất thuốclá điếu lớn nhất ởIndonesia. Budi
Hartono,đượcchaquýhơn người anh traiMichael BambangHartono, đang điềuhành doanh nghiệp,nhưng họ vẫn tiếp tụclàm việc cùng nhau.Budi học ở trường HàLanvàkhôngnóiđược
tiếng Trung Quốc. Từnhững năm 1970, ôngđadạnghóađầutưvàolắp ráp hàng điện tử,hàngdệt,chếbiếnthựcphẩm và ngân hàng.ContraiVictorRahmatHartono của ông chắcchắn sẽ là người thừa
kế doanh nghiệp củagia đình. Sau khủnghoảng tài chính,Hartonomuamộtsốcổphần của Ngân hàngTrung tâm Châu Á cũcủaLâmThiệuLương.
Mohammad ‘Bob’Hasan (Tập đoànKian
Seng–KiếnThành)
Sinh ở Semarang năm1931 trong một giađìnhbuônbánthuốclángười Trung Quốc,Hasan trở thành connuôi của tướng GatotSubroto, người phụtrách việc bảo vệ
Suharto. Anh ta đượcđại tá quân độiNasutionủnghộvàchechở cho cáchoạt độngbuôn lậu vào cuốinhững năm 1950.Hasan người hợp tácvới bọn buôn lậu dầndần trở thành người
thân tín gần gũi nhấtcủa Suharto. Họ cùngnhau phát triển kinhdoanh sau khi Suhartonhận bàn giao từSubroto với tư cáchngười chỉ huy trungđoàn Diponegoro củaquân đội vào giữa
những năm 1950. Vàkhi Suharto trở thànhTổng thống, BobHasan đã tích lũy đủnhững điều kiện khaithác gỗ, liên kết vớicáccôngtynướcngoàinhư Georgia PacificcủaMỹ.Khi Indonesia
cấm xuất khẩu nguyênliệu thô năm 1981,HasanđãdẫndắtHiệphội gỗ dán Indonesia,Apkindo, thu đượcnhữngkhoản tiềnkếchxù từ công nghiệpnghiền gỗ ở địaphương. Ông ta còn
đầu tư vào hàng hải,bất động sản, ngânhàng và nhiều ngànhkhác,vànắmgiữnhiềucông ty cùng vớinhững thành viên củagia đình Suharto. Saukhi Suharto đổ vàonăm 1998, Hasan bị
cáo buộc dính líu đếnmộtvụgianlậnnhỏvềbảnđồrừngởJavađầunhữngnăm1990,vàbịbỏ tù hồi tháng 2 năm2001. Trong thời gianngồi tù, ông ta đượcđối xử tương đối đặcbiệt rồi được thả vào
tháng2năm2004.
HashimDjojohadikusumo
Anh trai của tướngPrabowo Subianto, kếthônvớicongáithứhaicủa Suharto là SitiHedijanti Harijadi,
thường gọi là Titiek.Hashim gia nhập vàidoanhnghiệpcùngvớiem dâu của mình, vànăm 1998, tiếp quảnnhà sản xuất xi mănglớn thứ hai củaIndonesia.Nhàmáy ximăngTirtamascủaông
ta chồng chất nợ nần,doanh nghiệp khai mỏvàvậntảibiểngầnnhưkiệt sức trong cơnkhủnghoảngtàichính.
DònghọKalla
Hadji Kalla, cha củatộc trưởng Jusuf Kalla
hiện thời, khởi nghiệpvớimộtcôngtythươngmạibảnxứởSulawesi,hưởng lợi đáng kể từChương trình Bentengnhữngnăm1950 (xemmục Dòng họ Bakrie).Dưới thời Suharto,Hadji đầu tư đa dạng
vào xây dựng, phânphối xe hơi, chế biếnnông sản... Con traiJusuf kế nghiệp năm1967 và lập thêmnhững doanh nghiệpmới, bao gồm cả viễnthông.SaukhiSuhartođổ, Jusuf trao quyền
lãnh đạo cho em traiAchmad để làm chínhtrị. Ông ta ủng hộHabibie, sau đó cóđược một vị trí trongNội các dưới thờiAbdurrahman Wahid,nhưng bị giải tán donhững cáo buộc tham
nhũng không có đủbằng chứng. Ông taquay lại với chínhphủcủa Susilo BambangYudhoyono, làm PhóChủ tịch và lãnh đạocủa đảng Golkar doSuhartolậpnên.
DònghọLiem(Lâm)
Sinh tại Phúc Kiến,Trung Quốc, năm1916, Lâm ThiệuLương (tên Indonesialà Sudono Salim) đếnJava từđầu thếkỷXXđể làm việc cho mộtông chú. Lâm xâydựngmối quan hệ với
Suhartokhiông tacònở trung đoànDiponegoro ở miềnTrung Java, và thamgia vào các hoạt độngbuôn lậu. Khi Suhartonắmchínhquyền,Lâmnhậnđượcnhiềuquyềnlợiđộcquyềngiúpông
ta từ một thương gianhỏ ở địa phương trởthành bố già lớn nhấtIndonesia. Vào nhữngnăm 1990, tài sản củaông ta chiếm khoảng5% tổng sản phẩmquốcnội.Cáclĩnhvựckinh doanh của ông ta
bao gồm ngân hàng(với sựhỗ trợvềquảnlýcủaMochtarRiady),những mặt hàng nhẹ(nơi Lâm có quan hệđối tác với RobertQuách), chế biến thựcphẩm, xi măng, sắtthép và bất động sản.
LâmđưangườinhàcủaSuharto như con cái,hoặc người em họ củaTổng thống làSudwikatmono vàonhững công ty nhưcông ty độc quyền vềbột Bogosari, công tyIndocement và Ngân
hàngTrungtâmÁchâu(BCA), với tư cách lànhững cổ đông.Phương tiện đầu tưchính ở hải ngoại củaLâm là công ty niêmyết First Pacific ởHồngKông.Trongcơnkhủng hoảng tài chính
châuÁ,BCAbịsụpđổdưới đống tro tàn chovayliênquanđếnđảngphái bất hợp pháp, vàLâm phải bàn giaonhiều tài sản củamìnhchonhànướcđểtrảsốtiềntrợgiúp7tỉđôla.
Con trai thứ ba,
Anthony Salim (đượcngười trong gia đìnhgọilàAnton)hiệnđangđiềuhànhnhữngdoanhnghiệp còn lại, nhưngcònchưarõrànglàgiađìnhhọthựcsựcóbaonhiêu tiền mặt và cổphầntrongcáccôngty
khác nhau. Gia đìnhnày vẫn còn kiểm soátFirstPacific vàmột sốtài sản lớn ởSingapore.
GiađìnhNursalim
Sinh năm 1942,Sjamsul Nursalim là
người gốc Trung Hoa(cũngđượcgọilàLiemTjoenHo – LâmĐiềnHà, và có một vài bídanh tiếng Trung Hoakhác) mở rộng một sốdoanh nghiệp sản xuấtcủa gia đình, như sămlốp và sơn, sử dụng
những đối tác NhậtBản để cung cấp côngnghệ. Năm 1980, ôngta trở thành người sởhữu 50% Ngân hàngDagang NasionalIndonesia (BDNI),ngân hàng tư nhân lâuđờinhấtnước,trướcđó
donhàvuaYogyakartakiểmsoát.Vớisựthamgia của Nursalim,BDNIbắt đầudính líuđến sự cho vay liênquanđếnđảngphái vàlà một trong nhữngkháchhànglớnnhấtvềtín dụng tiền mặt của
Ngân hàng trung ươngtrongcơnkhủnghoảngtài chính châu Á.Nursalim thường làngười đầu tư cùng vớigia đìnhSuhartomangtiếng xấu vì các trangtrạinuôitômtrịgiá1,8tỉđôlamàôngtagiao
chonhànướcđểchitrảmột phần những mónnợ của mình; sau nàynhững nhà kiểm toáncủachínhphủđánhgiánó chỉ đáng 100 triệuđô la. Do có khủnghoảngtàichính,ôngtađã sang Singapore, từ
đó tiếp tục điều hànhmột doanh nghiệp địaphươnglớn.
GiađìnhOei(Hoàng)
Là con trai một nhàbuôn đã đồng hóa tạiSemarang, Java, OeiTiong Ham (Hoàng
Trọng Hàm) sinh năm1866 và xây dựngdoanh nghiệp địaphương lớn nhất ởĐông Nam Á trướcChiến tranh Thế giớithứ hai. Hoạt độngthươngmại củaông tacóchinhánhkhắpkhu
vực, cũng như ở ẤnĐộ, Trung Quốc vàAnh. Những lĩnh vựckinh doanh chính baogồm buôn bán, sảnxuất đường, vận tảibiển và bất động sản.Phần lớn luồng tiềnmặt để mở rộng kinh
doanh đến từ thuốcphiện và các trang trạicó đóng thuế lợi tứckhác. Đầu những năm1920, Hoàng TrọngHàm chuyển đếnSingapore,vàchếtởđónăm1924.Một số contraicủagiađìnhHoàng
kế tục quản lý doanhnghiệp,nhưngvàonăm1961, những doanhnghiệp tại Indonesiacủagiađìnhhọbịquốchữu hóa. Những hoạtđộngởhảingoại,phầnlớn ở Singapore,Malaysia và Thái Lan
vẫn giữ được. Ngườicon trai là Oei TjongIe, cũng hợp tác vớiKhâu Đức Bạt trongviệc thiết lập Ngânhàng Malayan trongnhững năm 1960, đãtrở thành chủ tịch đầutiên của Ngân hàng
này.
PrajogoPangestu
Là con trai một ngườigốcHoa làm nghề cạomủcaosu,sinhsốngởmiền Tây Kalimantan.Prajogocóđượcnhữngđiều kiện thuận lợi về
khai thác gỗ dưới thờiSuharto và nổi lên làmột nhà sản xuất gỗdán từ gỗ cứng nhiệtđới lớn nhất thế giớivào những năm 1990.Ông ta cũng liên kếtvớicontraithứhaicủaSuharto là Bambang
Trihatmodjo,trongmộttổhợphóadầuởmiềnTây Java rộng lớn.Công ty khai thác gỗBarito Pacific củaPrajogo và nhữngdoanh nghiệp quantrọng khác bị ảnhhưởng nặng của cơn
khủnghoảng tàichính,nhưng ông ta vẫn trụlạiđược.
Probosutedjo
Là anh em cùng chakhác mẹ của Suharto.Probosutedjo được cấpmột trong hai giấp
phép nhập khẩu câyđinhhương (giấyphépkia thuộc về LâmThiệuLương)vàocuốinhữngnăm1960,cũngnhư những điều kiệnưuđãi vềkhai thácgỗvà những hợp đồngkhác của chính phủ.
Probosutedjo đã mởrộngđầutưvàolắprápxe hơi, đồn điền, bấtđộng sản và nhiềungành khác. Ông ta bịcho là phạm tội hối lộvà lạm dụng nhữngchương trình tái tạorừngvàonăm2003,rồi
bịbắtvìcốgắngđútlóttòa án tối caođể tránhbị phạt tù. Thế nhưng,năm 2005, ông ta vẫnbị kéo ra khỏi phòngđiều hành của mộtbệnh viện tư nhân ởJakartavàbịbỏ tùvớithờihạn4năm.
DònghọRiady
Tộc trưởng MochtarRiady sinh tại MalangởĐôngJavanăm1929.Ông theo nghề ngânhàng và làm việc choNgân hàng PanIndonesia (Panin) mớithànhlập–dogiađình
nhà vợ kiểm soát vàođầu những năm 1970trướckhichấpnhậnlờiđềnghịcủaLâmThiệuLương để trở thànhquản lývàmộtđối táccó 20% cổ phần trongNgân hàng Trung tâmÁ Châu (BCA).
MochtarRiadylàmchoBCA trở thành ngânhàng tư nhân lớn nhấtở nước này, và về sauxâydựngnênmộtngânhàng nhỏ hơn củachínhmình,NgânhàngPerniagaan Indonesia,đượcsápnhậpvớimột
ngânhàngkhácđểhìnhthành Ngân hàngLippo. Tập đoàn ngânhàngLipposaunàyđãđadạnghóađầutưvàoviệc sản xuất, lắp rápchocôngtyMitsubishicủaNhật,bấtđộngsảnvà những dịch vụ tài
chính khác. MochtarRiady đánhmất quyềnkiểm soát ngân hàngcủamìnhvàotaychínhphủ Indonesia trongthời gian khủng hoảngtài chính châu Á.Nhưngcótinđồnrộngrãi là ông đã lấy lại
quyềnkiểmsoátvớisựgiúp đỡ của một sốngười tay trongkhi nóđược Cơ quan tái cấutrúc ngân hàngIndonesia (IBRA) bánđấugiá.James,contraiMochtar, hiện đangđiều hành doanh
nghiệp gia đình ởIndonesia, trong khingười con trai khác làStephentrôngnommộtsố công ty ở HồngKông. Gia đình họ lànhững tín đồ Cơ đốcPhúcâm.CáitênRiadythườngcómặttrênbáo
chí HoaKỳ năm 1996bởi vì sự liên kết lâudàivớiTổngthốngBillClinton – họ muaquyền kiểm soát NgânhàngWorthen ở cơ sởchính trị Little Rockcủa Clinton làArkansas và vì viện
dẫn rằng họ đã cónhững đóng góp bấthợp pháp cho đảngDânchủthôngquamộtcựu nhân viên củaRiady đang làm việccho chính quyềnClinton.
SudarpoSastrosatomo
Là con trai của mộtcông chức thuộc địangười bản xứ,Sastrosatomo tham giacuộc cách mạng củanhữngngườicộnghòa.Sauđộclập,ôngtalàmviệctạiLiênhiệpquốcvà tại Đại sứ quán
Indonesia ởWashington. Em traicủa ông ta điều hànhĐảngXãhộichủnghĩaIndonesia. SudarpoSastrosatomo bắt đầukinh doanh vào nhữngnăm1950,tậndụnglợithế của Chương trình
Benteng. Sau đó, ôngta mua một công tyhàng hải Hà Lan vàdần dần xây dựng nênSumudera, tập đoànhàng hải lớn nhất củaIndonesia, đã niêm yếtở Singapore. Gia đìnhnàycũng thamgiavào
ngành ngân hàng vàcác lĩnh vực kinhdoanhkhác.
MarimutuSinivasan
Bố già người gốcTamil. Là trợ lý củaSuharto, Sinivasan đãcó được với sự ủy
quyền của Tổng thốnggần 1 tỉ đôla ngoại tệcủaCụcdựtrữngoạitệIndonesia trong thờigian khủng hoảng tàichính.Ôngtađứngđầutập đoàn Texmaconhưng hiện thời đangtrốn tránh cảnh sát
Indonesia.Họchorằngông ta định theo đuổi“những điều khôngđúngluậttàichính”,vàđang bị tổ chức cảnhsát quốc tế (Interpol)truynã.
GiađìnhSoeryadjaya
William Soeryadjaya(TjiaKianLiong),sinhnăm 1923 ở Tây Java,đã cùng các anh emcủamìnhxâydựngnêntập đoàn Astra, tậpđoàn lớn thứ hai ởIndonesia đầu nhữngnăm 1990. Doanh
nghiệp cốt lõi củaAstra chính là đối tácđịa phương củaToyota, cũng nhưHonda và Komatsu, ởIndonesia; và làm chotậpđoànnày trở thànhhãng xe hơi lớn nhất.Từ những năm 1970,
Soeryadjaya đa dạnghóađầutưvàodịchvụtàichính,đồnđiền,bấtđộng sản, v.v... Tuynhiên, vào năm 1993,giađìnhhọphảibáncổphần khống chế ởAstrađểcứuvãnNgânhàng Summa, đã được
người con trai út làEdward tiếp quản vàmởrộngvớitốcđộcựcnhanh.Người anh trai,Edwin, là một nhânviêncaocấpcủaAstra,sau này đã tạo dựngnên một đế chế kinhdoanh hùng mạnh tập
trungvàokhaimỏ.Giađình Soeryadjaya lànhững tín đồ Cơ đốcPhúcâm.
IbnuSutowo
Sutowo, con trai củamột viên chức thuộcdòngdõiquý tộc Java,
thamgiacáchmạngvànăm 1957 được bầulàm người đứng đầumột cơ quan, sau nàytrở thành công ty dầulửaquốcgiaPertamina.Ở đó, ông trở thànhmột người bảo trợchính, liên kết với
nhiềubốgiàngườibảnxứ để đưa gia đìnhmình vào kinh doanhtừ khách sạn cho đếnngânhàng,hànghảivàbất động sản. Sutowoủy quyền đầu tư rấtnhiều tại Pertamina,đặc biệt khi giá dầu
tăng cao vào nhữngnăm19731974.Ông tarờibỏcôngtyvàonăm1976, để lại món nợ10,5 tỉ đôla, tươngđương 30% tổng sảnphẩm quốc nội củaIndonesiathờibấygiờ.Gia đình ông ta vẫn
hùngmạnhnhưtrước.
HarryTanoesoedibjo
Cũng thường gọi làHarry Tanoe, là mộtông trùm đang lên.Trong đêm trước củacơn khủng hoảng tàichính, ông ta đã mua
quyền kiểm soát côngty Bimantara củaBambangTrihatmodjo.Có tin đồn và sự suyđoánbấttậnvềviệcđólà tiềncủangườikhác,còn Harry Tanos chỉđứngtênthôi.
SukantoTanoto
Cótêntrongdanhsáchcủa tạp chí Forbes làngười giàu nhấtIndonesia năm 2006vớiướctínhsởhữutàisản có giá trị ròng là2,8 tỉ đôla. Tanototrước đấy được biếtđến nhưmột ông trùm
buôn gỗ thời Suharto,có những tài sản ngàycàngmở rộngqua cơnkhủnghoảng tàichính.Ông ta có hàng triệuđôlatiềnvaytrảkhôngđúng kỳ hạn ở ngânhàng nhà nướcMandiri, đang bị điều
tra về sự gian lận tạingân hàng mà ông tatừng kiểm soát; nhưngkhông điều gì có vẻliên quan đến sự giàucócủaông ta.Công tycổ phần quốc tế tàichính châu Á TháiBình Dương (APRIL)
củaTanotođượcđặt ởSingapore.
GiađìnhThio
Sinh năm 1840, ThioThiau Siat (tên TrungQuốclàTrươngBậtSĩ)làmột bố già vô cùnglinhhoạtvàthànhcông
hồithếkỷXIX.Ôngtapháttriểnnhữngdoanhnghiệp đầu tiên củamìnhở Javavà sauđóđi theo quân đội HàLankhihọchuyểnđếnSumatra, hoạt độngnhư người cung cấpchính cho quân đội để
chiếnđấuởvùngAceh.Thio có được nhữngtrangtrạichịuthuếởcảIndonesia vàMalaysia,đầu tư vào đồn điền,hàng hải và bất độngsản. Đế chế doanhnghiệp của ông ta trảirộng ở Indonesia,
Penang và Singapore.Cuối đời, ông ta trởthành một nhà đầu tưtíchcựcởTrungQuốc.Ông chết năm 1916.Những người anh emhọcủaThiolàTjongAFie và Tjong YongHian, cũng là những
ông trùm thành công,đặt cơ sở ở Medan,Sumatra. Họ sở hữunhững đồn điền rộnglớn và thành lập nênNgân hàng Trung Hoađầu tiên ở Indonesia,vàngânhàngDeli.
GiađìnhWidjaya
Eka Tjipta Widjaya(Oei Ek Tjhong) sinhnăm1922tạitỉnhPhúcKiến, Trung Quốc, làcontraimộtthươnggiaở Sulawesi, và dựngnên tập đoàn SinarMas,hoạtđộngvềđồnđiền, bột giấy và giấy,
hàng hải, bất độngsản... Eka TjiptaWidjayakhởinghiệplàmột thương gia trongthời gian Chiến tranhThế giới thứ hai,chuyểnsangngànhdầucọ và phát đạt vàonhững năm 1960. Sau
đó, ông ta nhận đượcnhững điều kiện thuậnlợi trong khai thác gỗdưới thời Suharto vàonhữngnăm1970.
Những năm 1980, EkaTjipta Widjaya đã đủmạnh để móc nối vớigiới tinh hoa chính trị
và kinh tế để nắm giữcông ty Bimoli, mộtnhàcungcấphàngđầucủa Indonesia, trongmột liên doanh vớiLâm Thiệu Lương.Vào những năm 1990,ông ta niêm yết haidoanh nghiệp bột giấy
vàgiấyởJakarta,cũngnhưcôngtybộtgiấyvàgiấyAsiaởNewYorkvào năm 1995. Ông tacó được quyền kiểmsoátNgânhàngquốctếIndonesia, và mở rộngđầu tư sang lĩnh vựcđồnđiền,bấtđộngsản,
khách sạn và dịch vụtài chính ở Indonesiavà những nơi khác ởchâu Á. Sinar Mascũngkiểmsoátcôngtychếbiếnthựcphẩmlớnnhất của Singapore làCông ty thực phẩm vàbất động sản Asia.
Trong thời gian khủnghoảng tài chính châuÁ,SinarMasmấtngânhàngvàmột số tài sảnkhác,trongkhiCôngtybột giấy và giấy phảiquản lý một món nợkhông trảđượcgần14tỉ đôla vào năm 2001.
Mặc dù vậy, gia đìnhWidjaya tháo vát vẫngiữ được quyền kiểmsoát các doanh nghiệpcủa họ. Eka TjiptaWidjaya có rất nhiềuvợ(ngườitađồnôngtacó 7 bà vợ nhưng giađình không cung cấp
thông tin) và khoảng40đứacon.BốnngườicontraicủavợcảTriniDewiLasuki làTeguh,Indra, Muktar vàFranky là nhữngGiámđốc chính của doanhnghiệp gia đình hiệnnay.Mộtngườicontrai
khác,OeiHongLeong(Hoàng Hồng Long),trướcđâythamgiavàodoanhnghiệpcùngvớiem trai của Lý QuangDiệu là Lý Kim DiệuvàđượcsựtrợgiúpcủaLýGia Thành ởHồngKông.
TommyWinata
Làdoanhnhânliênkếtvới quân đội, Winatađã làm cho công tyArtha Graha của ônglớnmạnhtừcơnkhủnghoảngtàichính.Mộtsốngười coi ông ta là bốgià thế hệ mới hàng
đầucủađấtnước.
GiađìnhWonowidjojo
Wonowidjojo là mộtgia đình gốc TrungQuốc đứng đằng sauGudang Garam, mộtdoanh nghiệp thuốc lálớn nhất ở Indonesia.
NgườisánglậpranólàTjoa Jien Hwie (TháiVânHuy)đãxâydựngdoanhnghiệpnàydướithời Suharto và chếtnăm 1985. Con trai cảcủa ông ta, RachmanHalim (Tjoa To Hing,hayTháiĐạoHành)kế
nghiệpvàmởrộngđầutư vào những năm1990.Ông ta được tạpchí Forbes bình làngười đàn ông giàunhất ở Indonesia trướckhủnghoảng tàichính,trướckhicónhiềumónnợ bị đòi sau cơn
khủng hoảng. Tuynhiên, luồng tiền mặtchủ yếu từ thuốc láđiếuđãbảođảmđịavịtỉ phú của gia đìnhnày.
PHILIPPINES
DònghọAboitiz
LàngườiTâyBanNhacó nguồn gốc từ vùngBasque, gia đìnhAboitiz nhập cư vàoPhilippinescuốithếkỷXIX và bắt đầu kinhdoanh gai dầu, chuốisợivàcùidừakhô.Cáchoạt động này đã dẫn
đếnmộtliêndoanhvậnchuyểnliênđảovàsauđótiếptụcđadạnghóađầutư,dướichínhsáchcông nghiệp hóa thaythếnhậpkhẩu,vàoxaybột, ngân hàng, bấtđộngsản...Tàisảncủagia đình tập trung trên
địabàntỉnhCebu.Tộctrưởng của dòng họhiện nay là thế hệ thứba của Luis M.Aboitiz.
RobertoBenedicto
Vốn là sinh viên luậthọc cùng trường đại
học với FerdinandMarcos, từ giữa thậpniên1960Benedictolàmột người bạn thânthiết của Marcos. Ôngđượcbổnhiệmvào rấtnhiềuvịtrítrongchínhphủ,baogồmlãnhđạoỦy ban Mía đường
Philippine, trongđócóviệc nắm giữ độcquyền về thương mạiđường.
GiađìnhCojuangco
Gia đình bố già hàngđầu của vùng Tarlac.Họ tham gia vào hoạt
động chính trị và chiathành nhiều phe phái.Gia đình này là ngườiTrung Quốc nhập cưvàothậpniên1860,vàbâygiờđãphatrộnhaidòng máu PhilippinesvàTrungQuốc.
Mộtdòngcủagiađình
cóquanhệgầngũivớiMarcos, và Eduardo“Danding” CojuangcoJr được hoạt động độcquyền trong sản xuấtdầu dừa và đứng đầuhãngthựcphẩmvàbiaSan Miguel khổng lồ.Ông đã bỏ chạy với
Marcosvàonăm1986,chỉ trở lại trong năm1989vàgiúpchocuộctranh cử chiếc ghếTổng thống của ngôisao điện ảnh Joseph“Estrada Erap” năm1998.HaingàysaukhiEstradađảmnhậnchức
Tổng thống, Dandinglấy lại chức Chủ tịchSanMiguel.Tuynhiên,ông đã không thể lấylại quyền kiểm soátvốncổphầnápđảokểtừ khi tòa ánPhilippines xác địnhrằngrấtnhiềucổphiếu
ông đã mua tại SanMiguel dưới thờiMarcos là “của cải phinghĩa”. Danding cónhững lợi ích khácnhautrongvậnchuyển,khai thác, kinh doanhnông nghiệp và phânphốinướcgiảikhát.
Nhóm thứ hai của giađìnhdoAntonio“TonyBoy” Cojuangco cầmđầu, người đã từng làGiámđốcđiềuhànhvàChủ tịch củaPhilippines LongDistance Telephone(PLDT) cho đến cuối
những năm 1990, vàcũng là người hợp tácvới Lucio Tan (LucioTrần hay Trần VĩnhTài) để tư nhân hóahãng hàng khôngPhilippines Airlines(PAL).
Nhóm thứbabaogồm
Corazon "Cory"Aquino, người đã gópphần lật đổ Marcostrong phong trào dânquyền năm 1986, vàngườiemtraicủabàlàPedro “Pete”Cojuangco, người đãlãnh đạo gia đìnhmua
cácđồnđiềntrồngmíarộng lớn và nhà máytinh chế đường tạiTarlac trong nhữngnăm 1950. Người emtrai khác, Jose“Peping”Cojuangco,làmộtNghịsĩ.
RodolfoCuenca
Là bạn thân củaMarcos và người đónggóp cho chính trị,Cuenca có một tậpđoànxâydựngdựatrênhợp đồng của chínhphủvàđãgâydựngnóthànhmột trongnhữngdoanh nghiệp lớn nhất
của Philippines. Thếnhưng, tình trạng kinhdoanh của doanhnghiệpsớm trởnên tồitệ,ngaycảkhiMarcosvẫnnắmchínhquyền.
DeweyDee
Một người Philippines
gốcTrungQuốc,ngườithừa kế một doanhnghiệpsảnxuấtcủagiađình. Dee là một nhàđầucơlớn,cảcổphiếuvà bất động sản, vàsòng bạc.Ông đã pháthành tín phiếu thươngmại để trang trải thua
lỗ của mình trước khibị buộcphải chạy trốnra nước ngoài hồitháng1năm1981, vớisốtiền80triệuđôlanợnần. Đây là ngòi nổkích hoạt cho cuộckhủnghoảnglớntạithịtrường tài chính
Philippines.
HerminioDisini
Là bạn thân củaMarcos và là ngườiđónggópchochínhtrị,Disini là một ngườigốcÝ,kếthônvớimộtngười em họ của
Imelda Marcos. Từgiữa những năm 1970,ông ta giữ độc quyềnvề thị trường đầu lọcthuốc lá, vì ông đượcphéptrả10%thuếnhậpkhẩu nguyên liệu thô,trong khi đối thủ cạnhtranh của ông phải trả
100%. Disini đã từngphát đạt, nhưng cũngsớm đổ bể, thậm chítrước cả khi Marcostrốnranướcngoài.
DònghọGokongwei
Tộc trưởng JohnGokongwei sinh trong
một gia đình giàu có,thuầnTrungQuốc,làmnghề vận tải biển vàđịnh cư ở Cebu vàonăm1927.Ôngbắtđầusự nghiệp bằng việckinhdoanhquầnáocũ,kim loại phế liệu vàgạo trong Chiến tranh
Thế giới thứ hai; sauđó mở rộng sang chếbiếnthựcphẩmvàkhaithác mỏ. Gokongweicóđượccáckhoảnvaylớn từ chính phủ dướithờithiếtquânluậtcủaMarcos. Doanh nghiệpgiađìnhcủaônglàtập
đoàn JG Summit, cóquyền lợi trong chếbiếnthựcphẩm,bánlẻ,viễn thông, hóa dầu,bất động sản, vậnchuyển và hãng hàngkhông Cebu PacificAirways. Trong nhữngnăm gần đây, JG
Summit đã bán hếtquyền kiểm soát trongngânhàngcủanó.ContraiJohnJr,thườnggọilà Lance, hiện đangđiều hành việc kinhdoanh hàng ngày.Gokongweibịmấtmộtngười con rể trong vụ
giảicứubắtcóckhôngthànhnăm1997.
DònghọLopeze
Ông trùm đường míamột thời gian dài củaNegros,làhậuduệcủadòng dõi quý tộc TâyBan Nha, nhà Lopeze
đadạnghóađầutưvàophátđiện,truyềnthôngvànhiềulĩnhvựckhácđể trở thành gia đìnhkinh doanh lớn nhấtđầu thập niên 1960.Tham gia sâu vàochính trị, gia đình nàykhốn đốn cùng với
Marcos hồi đầu thậpniên1970vàđãbịtướcquyền sở hữu tài sản.Mộtsốtàisảncủacôngty đã được chính phủAquinotrả lạisaunăm1986 khi Eugenio“Geny”LopezJrtrởlạiPhilippines từ nơi lưu
vong.Ôngquađờinăm1999vàcontraiônglàEugenio “Gabby”Lopez III tiếp tục xâydựng lại tập đoànBenpres của gia đình.Tàisảnchủyếucủagiađình là doanh nghiệptruyềnthôngABSCBN
Broadcasting dịch vụtruyền hình chính củađất nước, và ManilaElectric(Meralco)–cócơsởvậtchất lớnnhấtPhilippines.
GiađìnhPalanca
Carlos Palanca Chen
Qianshan (Trần ThiênSơn)làbốgiànhậpcưtừ Trung Quốc nổitiếngnhấtthếkỷXIXởPhilippines. Sinh tạiPhúc Kiến năm 1869,Palanca tự coi mìnhsống giữa triều đìnhphong kiến Trung
Quốc và đất nướcPhilippines thuộc địa,kinh doanh từ hoạtđộng buôn bán nhâncông đến sản xuấtrượu. Ông mất năm1901. Các doanhnghiệp của ông đãđược người con trai là
Carlos Palanca Jr tiếpquảnvàsauđóthừakế,nhưngquyềnlựcvàsựgiàu có của gia đìnhdần dần bị tiêu tán.Quỹ Carlos Palancahiện vẫn còn hoạtđộng.
GiađìnhRomualdez
NhàRomualdezlàmộtgia đình bố già bìnhthường, từ lâuđãhăngháithamgiahoạtđộngchínhtrị,đãsảnsinhraImelda Marcos.Benjamin, em trai củabà, đã được sự hỗ trợcủa Ferdinand Marcos
vàtrởthànhThốngđốctỉnhLeytevàđạisứtạiHoa Kỳ, được traoquyền kiểm soát nhiềudoanh nghiệp lớn, baogồm cả những doanhnghiệp bị tịch thu từgia đình Lopez. Mộtem trai khác là
Alfredo,hoạtđộngđộcquyền sòng bạc ở cácthànhphốlớn.MộtchịgáilàAlitalàmviệctạingân hàng trung ươngtrong khi vẫn cùngchồng điều hành mộttậpđoàn.
Gia đình Tan (Tập
đoànLucioTrần)
Lucio Tan (hay TanIng Chai – Trần VĩnhTài) sinh năm 1934 ởHạ Môn (Phúc Kiến),thuộc thế hệ ngườiTrung Quốc nhập cưđầu tiên, đã phất lêndưới thời Ferdinand
Marcos. Ông sớmchiếm ưu thế trongngành công nghiệpthuốc lá, được giaoquyền kiểm soát mộtngânhànglớnvàđượcphépmởhãngbiaAsiaBrewery Inc. để cạnhtranhvới hãngbia độc
quyền SanMiguel. Cómột sốngười emcùnglàm việc với ông.Chính quyền thời hậuMarcosđãmấthaithậpkỷnỗlựcchốnglạicácvụ đút lót, trốn thuếcủaTrần,nhưngkhôngthành.Năm1992,Trần
câu kết với Antonio“Tony Boy”Cojuangco, em họ củaCory Aquino ngườithay thếMarcos, trongmộtthươngvụtưnhânhóa hãng hàng khôngquốc gia PhilippinesAirlines (PAL). PAL
đãđượcchínhphủgiảicứu sau cuộc khủnghoảngtàichính.
Chỉ có một trong sốnhiềucôngtycủaTrầnlà buôn bán công khaikhiếnngườitaxếpôngvàonhómhoạtđộngbímật như Henry Hoắc.
Nhân viên và các bênđốilậpđềubiếtTancótước vị là “Đại úy”.Các công ty lớn củaông bao gồm Công tyThuốc lá Fortune,HãngbiaAsiaBreweryInc.,HãnghàngkhôngPAL và Ngân hàng
LiênMinh.Năm2000,ông trở thành cổ đônglớn nhất của Ngânhàng Quốc giaPhilippines (PNB) –không biết bao nhiêulần đã ở trong tìnhtrạng cực kỳ khó khăn– dưới thời ông bạn
thân thiết là JosephEstrada cầm quyền.Nhữngnăm1990,Trầnmở rộng đầu tư sangTrung Quốc, HồngKôngvàcácnướckháctrongkhuvực.Cherry,con gái của ông kếthôn với con trai của
George Ty, một ôngtrùm ngân hàng (Tậpđoàn Metrobank)người Philippinesnhưng sinh ở TrungQuốc.
Dòng họ Tan (TậpđoànAsiaworld)
Tộc trưởng đã quá cốTanYu(TrầnVũ)sinhtrong một gia đìnhngười Trung Quốcbuôn bán cùi dừa khôtại Luzon vào năm1935. Cùng với ngườianh trai là Jesus, ôngmởrộngkinhdoanhvà
xây dựng nên mộtdoanh nghiệp sản xuấthàng dệt sau Chiếntranh thế giới thứ hai,trướckhi thiết lậpmộtcông ty tài chính,AICDevelopment, hậuthuẫn chomột công tytài chính địa phương
khác là Bancom, vàđầu tư vào bất độngsản ở khắp khu vực,đặc biệt là Đài Loan.Trần Vũ đã tạo đượcmối quan hệ thân thiếtvới giới quyền lực ởĐài Loan, và doanhnghiệpđịaphươngcủa
ông được chính phủĐàiLoangiảicứunăm1982. Doanh nghiệpbất động sản chủ yếucủa ông ở Philippinesđược mua sau khiMarcos bỏ trốn, gồm200héctađấtđẹpxungquanh vịnh Manila, ở
đỉnhcaocủathịtrườngnhữngnăm1990nótrịgiá7tỉđôla.Ôngcũngđầu tư vào các bấtđộng sản lớn tạiVancouver và Texas.Không có công ty nàocủa Trần Vũ đượcniêm yết. Tan qua đời
vào năm 2002, để lại14 người con.Con gáiEmilia “Bienbien”Roxas Yang được yêumến hơn con trai cảElton, hiện đang điềuhành tập đoànAsiaworld.
GiađìnhYuchengco
Enrique Yuchengco làmột thương gia buôngỗxẻgiàucó,làngườiTrung Quốc nhập cưthuộcthếhệthứhai,đãthành lập nên công tybảo hiểm ChinaInsurance and Suretynăm1930, saunàyđổi
tên thànhCông tyBảohiểmMãLai(MalayanInsuranceCo.)ContraiAlfonso, sinh năm1923vàtốtnghiệpmộttrường Đại họcColumbia,chuyểnsangngành ngân hàng, gópphần làm cho Ngân
hàng thươngmạiRizaltrở thành một ngânhànglớn.Ôngcũngđãtrở thành cổ đôngchính và đến giữanhững năm 1990 trởthành Chủ tịch – củaCông ty điện thoạiđường dài Philippines
Long DistanceTelephone (PLDT),đầu tư mở rộng ranhiềulĩnhvực,từcơsởhạ tầng cho đến dượcphẩm. Alfonso là mộtngườicựckỳnhãnhặn,đãhợptácvớicáccôngty Nhật Bản trong
nhiềuliêndoanh.DướithờiCoryAquino, ônglà đại sứ tại TrungQuốc và là đại sứ tạiNhậtBảntừnăm1995.Một số người con củaônglàmviệc trongcácdoanhnghiệpgiađình.Alfonso “Tito”
Yuchengco III, là conút, nhưng là người nổibậtnhất.
DònghọZobelAyala
Triều đại bố già lớnnày một triều đại lâuđờinhấtvềquymôtạiPhilippines bắt nguồn
từ sựphốihợpcủahaigia đình: Zobel ngườiTâyBanNhavàAyala– một gia đình ngườiĐức gốcDoThái.Giađình này cũng liênquan đến Roxases vàSorianos. Nhà Ayalakhởi đầu bằng làm
nôngnghiệpđiềntrangvà bất động sản trongnửa đầu thế kỷ XIX;còn nhà Zobel nổi bậtlên trong lĩnh vực bảohiểm đầu thế kỷ XX.Gia đình Zobel deAyalas điều hành cảCông ty Ayala, được
sápnhậptừnăm1914.
Sau Chiến tranh thếgiớithứhai,nhàZobelde Ayala có cơ hộichuyển điền trangMakati vào khu tàichính của Manila, vàđadạnghóađầutưvàongân hàng, khách sạn,
viễnthông,sảnxuấtvànhiều lĩnh vực khác.Giađìnhnàykiểmsoáthãng bia San Migueltrước khi bán nó choCojuangco năm 1983.Ngân hàng Quần đảoPhilippines của họ làmột trong những ngân
hàng lớn nhất nước(gồm nhiều ngân hàngnhỏ).
Nhà Zobel de Ayalatheochủnghĩaquốc tếđiển hình, cũng nhưnhiều thế hệ các giađình các bố già khác.Đó là người con rể có
quốc tịch Scotland,Joseph McMicking,người đã thúc đẩy sựphát triển của điềntrangMakati.Một conrể người Mỹ Latin làAntonioMelianđãđưagia đình Zobel thamgia vào ngành bảo
hiểm.
Jaime Zobel de Ayala,sinhnăm1934,hiệnlàtộc trưởng của dònghọ, mặc dù việc kinhdoanh hàng ngày docon trai ông là JaimeAugusto và Fernandocaiquản.
HỒNGKÔNG
Ronnie Chan (RonnieTrần, hay Trần TửThông)
Sinh năm 1950. Ôngđược thừa hưởngnhững tài sản đầu tưđángkểởHồngKông.
Những doanh nghiệpđược niêm yết hàngđầu của ông là HangLung Development(HồngLong)vàAmoyProperties, nhưngRonnieTrầndànhphầnlớn thời gian cho côngty tưnhâncủamình là
MorningsideSpringfield. Ông cũnglà Giám đốc Ủy banChứng khoán HồngKông (cũng nhưEnron) và nổi tiếng vìrấtnhiệt tâmvớichínhphủ Trung Quốc nhưnô lệ. Trần là người
nhỏ nhắn – chỉ caokhoảng 1,65mét và làmộttínđồCơđốcPhúcâm.
DònghọCheng(Trịnh)
Sinh tại Quảng Đôngnăm 1925, tộc trưởngCheng Yutung (Trịnh
Dụ Đồng) chuyển đếnMa Cao hồi đầu Thếchiến thứ hai, khi cònlàmộtthiếuniênvàbắtđầulàmmộtnhânviênbán hàng tại công tykinh doanh đồ trangsức Chow Tai Fook(Chu Đại Phúc), của
ngườisaunàylàbốvợmìnhlàChowChiyuan(Chu Chí Nguyên),cũng làmộtngườibạncủa cha Trịnh. TrịnhkếthônvớicongáicủaChu năm 1943, và saukhi kết thúc chiếntranh, chuyển đến
HồngKôngđểgiúpmởrộng việc kinh doanhcủaChuĐạiPhúc, lúcđầu là nữ trang bằngvàngvàsaunàylàkimcương.Saucáichếtcủabố vợ, Chu Đại PhúctrởthànhcôngtytrọngđiểmcủaTrịnhvàông
đã đa dạng hóa đầu tưnhiều hơn vào nữtrang. Trong thập niên1960, Cheng đã mualại một công ty độcquyềnvề tổchứcđánhbạcnhỏnhưngsinhlợiởMaCao của StanleyHà vàHenryHoắc, và
tỏralàmộtnhàđầucơbất động sản hiểu biếttại Hồng Kông. Côngty bất động sản Thếgiớimớicủaôngđãtrởthànhmột đấu thủ lớntrong thị trường bấtđộngsảnthuộcđịacủaAnh. Tuy nhiên, từ
cuối những năm 1980,Trịnh Dụ Đồng dầndầntraoquyềnquảnlýdoanh nghiệp cho contrai là Henry Trịnh.Điều này là không tốtcho việc kinh doanhcủa công ty, và họ đãphải vật lộn để phục
hồi nó sau cuộckhủnghoảng tài chính châuÁ. Tuy nhiên, nhữngtàisảnlớnnhấtcủagiađình được lưu giữtrong các công ty tưnhâncủahọ.
GiađìnhFok(Hoắc)
Sinh năm 1922 tạiHồngKông,làcontraicủamộtcôngnhânbốcvác,HenryHoắc(HoắcAnhĐông)giànhđượcmộthọcbổngvàomộttrường học thuộc địadànhchogiớitinhhoa.ĐếncuốiThếchiếnthứ
hai, ông đã hoạt độngtrong kinh doanh,mualại hàng hóa quân sựdư thừa tại các phiênđấu giá. Trong và saucuộcChiếntranhTriềuTiên 19501953, ôngtham gia buôn lậuthuốc men, các sản
phẩmdầumỏvàvũkhívào Trung Quốc bấtchấplệnhcấmvậncủaLiênHiệpQuốc,tạorađược mối quan hệ tốtđẹp và vô giá với giớiquân sự vàĐảng cộngsản Trung Quốc màông sẽ phục vụ trong
quãng đời còn lại củamình. Trong nhữngnăm 1950, ông đượcban thưởng bằng độcquyềnnhậpkhẩucáttừTrungQuốc vàoHồngKông, và chuyển sangpháttriểncácdựánbấtđộngsảnkhidânsốtại
thuộc địa này tăngnhanh.
Năm1962,Hoắclànhàcung cấp tài chính chủyếu cho cuộc đấu giáthànhcôngcủaStanleyHà để dành được độcquyền kinh doanh giảitrí ởMaCao, và là cổ
đông lớn nhất trongcôngtycủahọ.Nhữngnămsauđó,giữaHoắcvàHà có cãi cọquanhviệcphânchialợilộcởMa Cao vì Hà mộtmìnhquảnlýcôngviệckinhdoanhhàngngày.Sau khi cải cách ở
Trung Quốc bắt đầuvào năm 1979, Hoắctiếnhànhmộtsốdựánxây dựng nổi tiếng ởlụcđịa,baogồmkháchsạnThiênngatrắngtạiQuảng Châu và kháchsạn Bắc Kinh tại thủđô.Năm1985,Hoắctổ
chứcmộtcuộcgiảicứutrị giá 120 triệu đôlacho doanh nghiệp vậntải biển của gia đìnhĐổng, trongđócómộtkhoản vay từ Ngânhàng Trung Quốc, vàsau đó hậu thuẫn choĐổng Kiến Hoa trở
thành Đặc khu trưởngđầu tiên của HồngKông.
HoắcđãđượcmờilàmPhóChủ tịchHội nghịtư vấn chính trị nhândân Trung Quốc vàonăm 1993. Ông có haibà vợ chính thức và
mộtvàingườicontrai.Con cả Timothy, đãđượcchọnquảnlýviệckinh doanh của Hoắckhi ông qua đời vàonăm 2006. ThomasHoắc, từ lâu được cholàcontraidongườivợthứ hai của Henry
Hoắc sinh ra, bị bắtgiamnămthángtạiMỹvàonăm1991vì đồnglõa trong vụ vậnchuyển trái phép15.000 khẩu súng vàoCroatia.Khibiếtvềvụbê bối này, HenryHoắc đã nói Thomas
trênthựctếkhôngphảilàcontraicủaông.
Kai Hokai (Khai HàKhải)
KhaiHàKhảisinhnăm1859, là cháu trai củamột viên chức chínhquyền Singapore thời
đầu thực dân, và contrai của Hà Phúc(người đã thành côngtrong việc đầu cơ bấtđộng sản ở HồngKông). Khai đã trởthànhmộtôngtrùmlớnvà làmột trong nhữngngườiTrungQuốcđầu
tiênđượcbổnhiệmvàoHội đồng Lập phápHồngKôngnăm1890.(Anh rể của ông, NgChoy – Hoàng NgũTài,làngườiđầutiên.)Ông là một đối táctrongkhaikhẩnđấtđaiđểlàmđườngbăngcho
sân bay đầu tiên củaHồngKông là sânbayKai Tak – Khải Đức(một phần mang tênông). Khai Hà Khảihọc y khoa và luật tạimộttrườngđạihọccủaAnh và là người lãnhđạo chủ chốt của cộng
đồng người TrungQuốc tại Anh, mặc dùkỹnăng tiếngAnhcủaông kém xa nhữngngười khác. Ông mấtnăm1914.
Gia đình họ Hà / HoTung(HàKhảiĐông)
Ông trùm sòng bạcStanley Hà Hồng Tânlà cháu gọi bằng báccủa bố già ngườiÁÂugốc Hồng Kông,Robert Hà Dông (HàKhải Đông, có cha làngườiHàLantheođạoDo Thái, mẹ là người
Trung Quốc). StanleyHàsinhtạiHồngKôngnăm 1921 và theo họctrường Cao đẳng Nữhoàng dành cho giớitinh hoa. Cha củaStanley bị mất phầnlớn số tiền vào chứngkhoán khi ông còn
đang đi học và ông đãphải rất tích cực mớigiành được một họcbổng vào học tạiTrường Đại học HồngKông. Giống như ôngbác Robert, StanleysangMaCaotrunglậptrong suốt Thế chiến
thứhaivàthửvậnmaycủa mình bằng buônlậu hàng tiêu dùng vàhàng xa xỉ qua biêngiới Trung Quốc đồngthờiđiềuhànhmộtnhàmáy sản xuất dầu hỏa.Ôngđã tiếnhànhbuônbánquabiêngiớitrong
cuộc chiến tranh TriềuTiên,mởrộngsangbấtđộng sản và các lĩnhvực kinh doanh khác,và vào năm 1962 đãgộp vào mộtconsortium (tập đoàntàichínhquốctế),gồmcảHenryHoắc,bấtngờ
thắng thầu giành đượcđộc quyền tổ chức cáctròcờbạc,giảitríởMaCao.
Sau đó, ông hiện đạihóa và mở rộng kinhdoanhsòngbạcvàxâydựngmộttậpđoàntheochiều dọc bao gồm
kinh doanh khách sạn,vận tải biển và hàngkhông thống trị nềnkinh tế Ma Cao, đónggóp vào một phần bađến một nửa số thungân sách của chínhquyền địa phương.Năm 2001, Hà và
doanh nghiệpSociedade de TurismoeDiversõesdeMaCao(STDM) của Hoắc bịmất độc quyền vì giấyphép kinh doanh sòngbạc được cấp lại trêncơ sở cạnh tranh. Tuynhiên, sự bùng nổ
trongnềnkinhtếTrungQuốc từ năm 2003 trởđi làm cho Ma CaovượtmặtLasVegasđểtrở thành trung tâmcờbạc lớn nhất thế giớivàonăm2006.
Người vợ đầu tiên củaHà là Clementina
Leitao (LêUyểnHoa),đã qua đời, là con gáicủamộtdoanhnhânBồĐào Nha giàu có,ngườiđãtạorađầuvàovề chính trị để Hà gianhậpvàogiới tinhhoathựcdânBồĐàoNhaởxứ thuộc địa Ma Cao
đầy rẫy tham nhũng.Sau đó ông đã lấy bangười vợ nữa, và chora đời ít nhất là 17người con. Stanley Hàthamgiavàoviệckiệntụng kéo dài với mộttrong các chị em củamình làWinnie, người
đã đóng góp tích cựcvào sự phát triển củaSTDM và tuyên bốrằng bà đã bị lừa lấymất cổphầnkiểm soátdoanhnghiệpnày.
NgânhàngHồngKông/HSBC
Ngân hàng HồngKông, hay Tổng côngty Ngân hàng HồngKông và Thượng Hải,là chi nhánh ở HồngKông và thành viênsáng lập củaTập đoànHSBC, hiện là mộttrong những doanh
nghiệp ngân hàng lớnnhấtthếgiới.Đượccácthương gia người Anhtại Hồng Kông thànhlập năm 1865, “ngânhàng” này như ngườidânđịaphươngthườnggọi đã luôn luôn đượcsở hữu rộng rãi. Nó
được hưởng nhiều đặcquyền đặc biệt tạiHồng Kông, làm chonógầnnhưlàmộtngânhàng trungương, cũngnhư ngân hàng thươngmại,vàđãthốngtrịđờisống tài chính củathuộc địa Anh trước
đây. Những nhà quảnlý chủ chốt trong quátrình mở rộng củaNgânhàngHồngKôngsau Chiến tranh thếgiới thứ hai là: ArthurMorse, người đã tạodựng sự nghiệp kinhdoanh tại Hồng Kông
sau khi Trung Quốcgiànhđượcđộclậpvàonăm 1949; JakeSaunders, người đãphát triểnmối quanhệsớm với các ông trùmngười gốc Hoa nhưBao Ngọc Cương vàtiếp quản Ngân hàng
Hang Seng (HằngSinh); MichaelSandberg,mộtnhânvậtgâynhiềutranhcãivớiđám bạn bè cũng gâytranh cãi, và WilliamPurves, người đãchuyển trụ sở chínhcủangânhàngtừHồng
Kông đến London vàonăm 1993 sau khi tiếpquản Ngân hàngMidland của Vươngquốc Anh. Giống nhưngười tiền nhiệm củaông, Purves có nhữngquyền lực chính trịđáng kể tại Hồng
Kông,vàcóchântrongHội đồngđiềuhành từnăm19871993.
DònghọKadoorie
Gia đình Kadoorie làngườiIraqtheođạoDoThái, định cư tạiThượngHảitrongthập
niên 1880 và đã pháttriển quan hệ gần gũivới chính quyền thuộcđịa Anh. Tộc trưởngđầu tiên là EllyKadoorie (được phongtướchiệpsĩnăm1926),tiếptheolàcontraiônglàLawrencevàHorace
Kadoorie, và tộctrưởng hiện nay làMichael Kadoorie. Giađình đã tham gia rấtmạnh vào ngành dệtmay,thànhlậpcôngtyphátđiệnởHồngKônglà Chian Light &Power vào năm 1901;
cómột tậpđoànkháchsạn, nổi tiếng nhất làkhách sạn PeninsulatrênbờsôngCửuLongcủaHồngKông.
DònghọKeswick
Làngườibàconxavàkế vị bác sĩ William
Jardine (17841843), từbác sĩ phẫu thuật trêntàu trở thành kẻ buônlậu thuốc phiện, ngườiđã cùng với JamesMatheson thành lậpJardine, Mathesontrong thập niên 1820.William Jardine, một
cửnhân, đượcmột vàingười cháu kế vị, mộtngười trong số đó làWilliam Keswick(18341912). Gia đìnhKeswick đã mua hếtquyền lợi của gia đìnhMatheson trong doanhnghiệp này năm 1912,
nhưng cái tên Jardine,Mathesonvẫnđượcgiữlại. Gia đình Keswick,và những người họhàng khác, đã quản lýdoanhnghiệptừđó.
Jardine, Matheson đãđược đại chúng hóanăm 1961, nhưng sau
hơn 40 năm, các nhàđầutưthiểusốvẫnchỉnhận được những lợitức cực kỳ bèo bọt.Mặc dù công ty cónhiềucartelhấpdẫntạiHồng Kông, gia đìnhKeswick, vẫn có thểkiểm soát việcquản lý
vớidưới10%cổphần,tiếnhànhrấtítcáchoạtđộng để tối đa hóa lợinhuận. Các ông trùmgốc Trung Quốc đangnổi,trongđócóLýGiaThành, lập kế hoạchtiếpquảndoanhnghiệpnày vào những năm
1980, nhưng khôngthành. Sau đó, nhàKeswick thiết lập mộthệ thống cổphần chéotrongcáccôngtyniêmyết khác nhau để bảovệquyềnkiểmsoátcủahọđólàmộtnghệthuậtquản trị bậc thầy của
các bố già. Anh emHenry và SimonKeswick, không đượcnhững người anh em,họ hàng khác thíchlắm,nhưnghiệnvẫnlànhữngngười đứngđầucủadònghọ.
GiađìnhQuách
KwokTakseng(QuáchĐắc Thắng) là mộttrong những đối tácđầutiêncủaliêndoanhbấtđộngsảnTânHồngCơ những năm 1960,cùng với Lý Triệu Cơvà Fung Kinghey(Phùng Cảnh Hải),
được gọi là “ba ngườilínhngự lâm".Saukhiba người đã đi đườngriêng của họ, Quáchgiữ lại công ty kinhdoanh bất động sảnTânHồngCơ.Ôngquađờinăm1990.Sauđó,Tân Hồng Cơ được
điều hành bởi ngườicon trai cả là Walterđược giáo dục ở Anh,và Raymond vàThomas, mặc dù mẹcủa họ, Quảng TriệuHưng(giớikinhdoanhthường gọi là MadamQuách), vẫn còn ảnh
hưởngmạnhmẽ. Năm1997 Walter bị “BigSpender” của nhómTrương Tử Cường bắtcóc (chính là băngđảngđãtổchứcbắtcóccon trai của Lý GiaThành là Victor), vàđượcchuộcvớisố tiền
77triệuđôlasaukhibịgiam giữ vài ngày;những gia đình nàykhông bao giờ thừanhận vụ bắt cóc.Raymond và Thomaslà tín đồ Thiên chúaPhúcâm.
Dòng họ Lý (của
Henderson)
Tộc trưởng Lý TriệuCơ(LeeShaukee)sinhnăm 1928 tại tỉnhQuảng Đông TrungQuốc, là con trai củamột chủ ngân hànggiàucóvàcũnglàmộtthương nhân chuyên
buôn bán vàng. Giađìnhnàyđãthuxếpđểđưa ranướcngoàimộtsốtiềntrướckhinhữngngười cộng sản TrungQuốc tiếp quản chínhquyềnnăm1949.Năm1963,LýTriệuCơ lậpnên công ty bất động
sảnTânHồngCơcùngvới Quách Đắc Thắngvà Phùng Cảnh Hải.Năm1976,ôngđãtáchriêng, lập nênHenderson Land, vàhiện nắm giữ 68% cổphần. Ông kiểm soátcác công ty bất động
sản nhỏ hơn và đượcniêm yết, cũng nhưcông ty cung cấp khíđốt chính của HồngKông và khách sạnMiramar,vàvẫncócổphần quan trọng trongcông tyTânHồngCơ.Con trai của Quách
Đắc Thắng đã quá cốthường gọi ông là“chú”. Lý có nămngườicon.
Dòng họ Lý (củaHysanDevelopment)
DònghọLýlàmộtgiađình ông trùm bốn thế
hệ,cómốiquanhệgầngũi với chính quyềnAnhthànhlậpcuốithờithuộcđịa,vàsựgiàucócủa họ dựa vào bấtđộng sản. Tộc trưởnghiện nay là LeeHonchiu (Lý HánChiêu), sinhnăm1929
và đã tốt nghiệp haitrường đại học là Họcviện Công nghệMassachusetts và Đạihọc Stanford. NgườiHồng Kông đồn rằnggia đình này chuyênbuôn lậu trong và sauChiến tranh thế giới
thứ hai Lý Hy Thậnnguyên là thư ký ngânhàng Hồng Kông, đãtrở thành kẻ buôn lậuthuốc phiện và bị ámsáttạimiềnTrungnăm1928 – nhưng nhữngtài liệuvềsựthànhlậpngân hàng này những
năm1990đềughi ôngta đảm nhận chứcGiám đốc tại các ngânhàngHangSeng(HằngSinh) và Hồng Kông,tại Ủy ban Chứngkhoán Hồng Kông,cũng như trong rấtnhiều liên doanh với
tập đoàn Swire trongnhữngnămqua.
Lý Gia Thành (LiKashinghayK.S.Li)
Sinhnăm1928,Lýbắtđầulàmviệcchongườibốvợgiàucócủamìnhvàxâydựngmộtdoanh
nghiệp nhựa thànhcôngtrướckhiđadạnghoá đầu tư vào bấtđộng sản với công tyriêngcủamình,côngtyCheungKong (TrườngGiang).Lýđãphất lênthành ông trùm đầubảng của Hồng Kông
sau khi mua lại Ngânhàng Hồng Kông màkhông cần qua đấuthầu,vớicổphầnkiểmsoát mà nó chiếm giữtrước đây trong hãngbuôn HutchisonWhampoacủaAnh.LýGiaThànhvẫncòngắn
bó với Ngân hàngHồng Kông và trởthànhPhóChủtịchcủanó.
Trongnhữngnăm1980và 1990, Lý gây dựngvị trí thống trị củaHutchison trong việcnắmgiữcáccảngởđịa
phương và nhữngcartel bán lẻ, và cóđược HongkongElectric, một nửa độcquyền song mại trongcung cấp điện. Năm1999, Lý đạt được 15tỷ đôla lợi nhuận khibándoanhnghiệpđiện
thoạidiđộngcủamìnhcho Mannesmann củaĐức gần thời kỳ đỉnhđiểm của cơn bùng nổcôngnghệcủathậpkỷ.Tuy nhiên, sau đó ôngđãđầutưrấtnhiềutiềncho mạng thông tin diđộng thế hệ thứ ba
(3G), một động tháikhiếnôngđếnnayvẫnchưa trả hết nợ nần.Ôngtựhàovềbảnthânchỉ nhận lương danhnghĩa từ các doanhnghiệp của mình,nhưng theo luật HồngKông, thu được hàng
trăm triệu đôla cổ tứcmỗi năm mà khôngphảiđóngthuế.
Đế chế của Lý GiaThànhsẽđượcthừakếtheo ba phần, ông vàhai người con trai làVictor và Richard.Quanhệvớingườicon
thứhaikhácăngthẳng.Richard điều hành tậpđoàn Pacific Century,được trao cho dự ánpháttriểncổngInternetở Hồng Kông màkhông qua đấu thầuvàonăm1999nêngâytranh cãi; và các cổ
đông phải hứng chịuthua lỗ rất lớn khi thịtrường chứng khoánsụp đổ năm 2001.Victor lànạnnhâncủavụ bắt cóc do băngnhóm Trương TửCườngcủaTrungQuốcthực hiện vào năm
1996. Nhưng gia đìnhnàykhôngbaogiờthừanhậncóvụbắt cóc,vàVictorđãđược thả saukhi gia đình phải trả 1tỷđôlaHồngKôngtiềnchuộc.
DònghọLý(củaNgânhàngĐôngÁ)
Cólẽđâylà“triềuđại”ngườigốcHoaởHồngKôngdámđốiđịchvớigia đình Swire vàKeswick của Anh mộtthời gian dài mà vẫngiàu có. Gia đình nhàLý,vốnđãphátđạt,rờitỉnh Quảng Đông của
Trung Quốc để sangHồngKông trong thậpniên1850.Giađìnhđãxây dựng được cácdoanh nghiệp vậnchuyểnvà thươngmại,trở thành nhà tư sảnmại bản cho các côngtychâuÂu.KhiChiến
tranh thế giới thứ nhấtkết thúc, họ thiết lậpNgân hàng Đông Á.Trong thế kỷ XX, giađìnhLýđã sản sinh racác quan chức chínhphủ và công chức dânsựhàngđầu–baogồmỦyviênchấphànhF.S.
Li, Aubrey Lý và PhóChủ tịch của Tòa áncấp phúc thẩm SimonLý cũng như các ôngtrùm. Gia đình họ cónhững“conchiênghẻ”,baogồmcảcựutỷphúchứng khoán RonaldLý,ngườiđãbị tùbốn
năm vì tham nhũngtrong năm 1990.Dickson Poon, chủ sởhữu của HarveyNichols ở Anh bị chỉtrích là lạm dụng cáccổ đông thiểu số, conrể của tộc trưởng hiệnnay là David Lý. Gia
đìnhLýlàmộtgiađìnhđã Anh hóa. Mặc dùvậy, những ưu đãi củachính phủ dành choNgânhàngHồngKôngdo người Anh điềuhành từ lâu đã làm họbựcmình.
GiađìnhLo(họLa)
Lo Yingshek (La ỨngThạch)từQuảngĐôngđến Hồng Kông trongnhững năm 1930 vàkhởi tạo đế chế bấtđộng sản của gia đìnhmang tên Great Eagle.Con trai cả của ông làLo Kashui (thường
được gọi là K. S. Lo,hayLaGiaThủy),sinhnăm 1947, được đàotạo thành một bác sĩtimmạchởCanadavàHoaKỳ, nhưng lại trởvề quản lý doanhnghiệp vào năm 1980.Công ty mở rộng đầu
tư sang khách sạn, cơsởhạ tầng,vàmuabấtđộngsảnởnướcngoài.Những bằng cấp vềkinhtếcủaK.S.Lođãđược chứng minh,giống như Bao NgọcCương, Lý Gia Thànhvà các ông trùm cấp
caokhác, ôngđãđượcđưa vào Hội đồngQuản trị của Ngânhàng Hồng Kông. EmtraicủaônglàVincentLa đã xây dựng thànhcôngdoanhnghiệpbấtđộng sản Shui On(Thụy An) của riêng
mình tại Trung Quốcđạilục.
GiađìnhPao(họBao)
Pao Yuekong (BaoNgọc Cương), cũngđượcgọi làY.K.Pao,sinhtrongmộtgiađìnhthịnh vượng tại Ninh
Ba (Chiết Giang) năm1918.Cùng với nhữnglợi ích khác, cha ôngđã có một doanhnghiệp sản xuất giàydép. Bao vào ngànhbảohiểmvàngânhàngtại Trung Quốc trướckhi chuyển đến Hồng
Kôngvới gia đìnhvàonăm 1949, thu xếp đểchuyểnphầnlớntàisảncủamìnhrakhỏiTrungQuốc. Ở Hồng Kông,Bao Ngọc Cương bắtđầu một công ty kinhdoanh nhỏ, đã tăngtrưởng nhanh chóng
trong thời gian cuộcchiến tranh Triều Tiênbùng nổ. Năm 1955,ông mua con tàu chởhàngđầu tiên,vàngaysau đó, những ngườiquản lýngườiAnhmàôngchơithântạiNgânhàng Hồng Kông đã
đồngýhỗtrợtàichínhđể ông mua chiếc thứhai. Trong thập niên1960, Bao áp dụng tưduy của một ông chủngânhàngkhiđặtmuamột xưởng đóng tàu ởNhật Bản, phát triểnmột hệ thống gần như
không có rủi ro, theođónguồnvốn tíndụngcầnthiếtđượcđảmbảovới những điều kiệndài hạnđược cácngânhàng Nhật Bản bảolãnh.Ngân hàngHồngKông trở thành nhàđồng đầu tư của ông,
và năm 1979, BaoNgọcCương là chủ sởhữu đội tàu lớn nhấtthế giới. Trong nhữngnăm1980,ôngđãmualạiquyềnkiểmsoáthaicông tycủangoạikiềungườiAnh(haicôngtythươngmại) làcôngty
cầu tàu và kho bãiHồng Kông và CửuLong, nay được gọi làWharf, và công tyWheelockMarden(naygọi làWheelock). BaoNgọc Cương qua đờinăm 1991, để lại bốncongái;cácconrểcủa
ông đã tiếp quản cácphần khác nhau trongđếchếcủaông.
GiađìnhShaw(Thiệu)
Runme Shaw (tênTrung Quốc là ThiệuNhân Mai,) sinh năm1901),em traicủaông
là Run Run (sinh năm1907) và năm ngườiem khác sinh ra trongmộtgia đình làmnghềdệtmaygiàucóở tỉnhChiết Giang, gầnThượngHải,đượcgiáodục ở nước ngoài. Họxây dựng một đế chế
giảitríchâuÁ,bắtđầuở Singapore vào cuốithậpniên1920vớimộtloạtcácrạpchiếuphimvà chuyển sang sảnxuất phim tiếng TrungQuốc. Họ đã tạo lậpmối quan hệ gần gũivới người Anh ở
Singapore, và sau đóvới Harry Lý QuangDiệu, cũng như chínhquyền thực dân tạiHồngKông,nơihọmởrộng sang cuối nhữngnăm 1950. Tại HồngKông, gia đình Thiệuđược phép phát triển
đài truyền hình chínhcủađịaphươnglàTVBtừnăm1972vàvẫn làcổ đông kiểm soát củanó.RunRunquenthânvớigiớiquanchứcAnhvàđãđượcphongtướchiệp sĩ năm 1977. Từđiệnảnhvàgiảitrí,anh
emhọđadạnghóađầutư vào ngân hàng,khách sạn và bất độngsản. Runme qua đờinăm1985;dođódoanhnghiệp của ông tạiSingapore vàMalaysiađược người em làMeng Vee Shaw
(Thiệu Minh Vỹ) điềuhành.
HelmutSohmen
Sinh năm 1939,Sohmen làmột luật sưngườiÁo làmviệcvớitưcáchlàmộtôngchủngân hàng ở Bắc Mỹ
khiônggặpcongáicảcủa Bao Ngọc Cươnglà Anna. Họ lấy nhau,và thực tế là lúc đầuviệc này khiến cho cảhaigiađình lúng túng.Tuy nhiên, Bao đãkhích lệ Sohmen, vàvào năm 1970 thuyết
phụcôngbỏngânhàngvà thamgiavàodoanhnghiệp của gia đình.Ônglàmviệctạidoanhnghiệp vận tải WorldWide Shipping củaBao,trởthànhchủtịchtậpđoànnàynăm1988và tham gia quản lý
kinh doanh sau khi bốvợ chết. Trong nhữngnăm1990,WorldWideShipping mua doanhnghiệp vận tải biểnBergesen của Na Uy,và ngày nay đã trởthành doanh nghiệpvậntảitưnhânlớnnhất
thế giới. Trong nhữngnăm1990,Sohmenlênán các động thái dânchủ hóa Hồng Kông,nhưng kể từ đó chấpnhậncảicáchchínhtrị.Ông vẫn tâm sự vớibạnbèrằngkhôngbaogiờ ông có thể đứng
đầugiađìnhBaođượcvì ông không phải làngườiTrungQuốc.
GiađìnhSwire
JohnSwire(17931847)là một thương nhân ởLiverpool, nước Anh,và những người kế vị
của ông khởi đầu mộtliên doanh, Butterfieldvà Swire, để buôn bánvới người TrungQuốctrong thập niên 1860.Tập đoàn này, lấy lạitên là John Swire &Sons năm 1974, luôndongườitronggiađình
Swire điều hành. LợiíchcủanóbaogồmcácdoanhnghiệpbấtđộngsảnlớntạiHồngKông,các hãng hàng khôngCathay Pacific vàDragonAir, doanhnghiệp vận chuyển vàdịch vụ hàng hải, các
nhàmáy đóng chai tạiHồng Kông và TrungQuốc.Cũnggiốngnhưgia đình Keswick tạiJardines, gia đìnhSwirequanhệchặtchẽvới chính quyền thuộcđịa Hồng Kông và cóthể dựa vào sự bảo vệ
quyền lợi độc quyềncủa họ, đặc biệt làCathay Pacific. Khôngchỉ vậy, kể từ sauChiến tranh thế giớithứhai,giađìnhSwiređã điều hành doanhnghiệp của mình vớimối quan tâm lớn hơn
dành cho các nhà đầutưcủamìnhchứkhôngnhưJardine,Matheson.TộctrưởnghiệnnaylàAdrianSwire,sinhnăm1932.
DònghọĐổng
Tộc trưởng Cheng
Yutung (C. Y. Tung,Trịnh Dụ Đồng) xuấtthân từ một gia đìnhgiàucóởNinhBa,gầnThượng Hải, và kếthôn với con gái dònghọ Khâu còn khá giảhơn. Từ những năm1940, ông củng cố
những lợi ích củadoanh nghiệp vậnchuyển đằng nhà vợ,xâydựngnênmộthạmđộivậntảibiểnđóngởThượng Hải và HồngKông, và sau 1949đóng cả ở Đài Loan.Trịnh Dụ Đồng nghỉ
hưu vào năm 1979 đểlại doanh nghiệp lớnchoconcáikế tục.Vàgiữa thập niên 1980,con trai cả là ĐổngKiếnHoađãđưadoanhnghiệpOrientOverseascủa gia đình vào nợnần, một phần do
chuyển các khoản vaylớn từ những doanhnghiệp được niêm yếtchủchốtsangcáccôngty riêng của gia đình.HenryHoắcđãtổchứcmộtcuộcgiảicứubằngcáchróttiềnmặttừcácngân hàng nhà nước
củaTrungQuốc.Trongnhữngnăm1990,Hoắcvà Lý Gia Thành hậuthuẫn cho Đổng KiếnHoatrởthànhĐặckhutrưởng đầu tiên củaHồngKông, đượcBắcKinh chấp thuận. Tuynhiên, Đổng nhanh
chóngtrởnênxalạvớicôngchúng,đặcbiệtlàtrong cuộc khủnghoảng tài chính châuÁ,vàđãtừchứcsớmởnhiệm kỳ thứ hai củamình,trongnăm2005.
Patrick Wang (PatrickVương)
Sinhnăm1951,Vươnglà nhà công nghiệpgiàu nhất Hồng Kông.Công ty của ông,Johnson ElectricHoldings, là do chaông thành lập năm1959 chuyên sản xuấtđộngcơsiêunhỏđược
sử dụng trong tất cảmọi thứ, từxehơiđếnmáy ảnh. Tạp chíForbes chobiết tài sảncủa ông là 2,1 tỉ đôlavào năm 2006, khôngcách xa giá trị tài sảncủa các bố già khôngtham gia sản xuất là
bao.
PeterWoo (PeterNgô,hay Ngô QuangChánh)
Sinh năm 1946 trongmộtgiađìnhgiàucóởThượng Hải, Ngô kếthônvớicongáithứhai
của Bao Ngọc Cươnglà Bessie. Trước khikết hôn, ông là Giámđốc ngân hàng củamình ở Hoa Kỳ. Saucái chết củaBaoNgọcCương, ông đã tiếpnhận công ty bất độngsản Wheelock & Co,
và do đó điều hành cảcông tyWharf chuyênkinh doanh bất độngsản, và các công tykhác trong lĩnh vựcviễn thông, cơ sở hạtầng và các cảngcontainer. Ngô đã cốgắng dùng nhiều thủ
đoạncôngkhaiđểđưaWharfvàocáclĩnhvựckinh doanh mới, baogồm truyền thông vàmộtloạtdựánởthànhphốVũHáncủaTrungQuốc, nhưng hầu hếtkhông thành công.Năm 1996, ông vận
động chống lại ĐổngKiến Hoa trong cuộcbầucửĐặckhutrưởngHồng Kông do TrungQuốcdànxếpvàđãbịđánhbạihoàntoàn.
MACAO
DònghọHà/HàKhải
Đông
Xem phần: HồngKông.
Ho Yin (Chung HạoHiền)
Hạo Hiền là một ôngtrùm gốc Quảng Đông
nổibậttrongsốcácbốgià thời hậu chiếnhướng về Trung QuốctạiMaCao,đượcxưngtụng là một “nhà tàiphiệt kếch xù”. Ôngcũngnổitiếngvìănnóitục tĩu đếnmứckhôngkiểm soát được. Hạo
Hiền thiết lập Ngânhàng Thái Phong vàonăm 1941, ngân hànghợpnhấtđầutiênởMaCao. (Một người anhcủa ông tham gia vàoviệc thành lập Ngânhàng Hằng Sinh ởHồngKông.)Dòngtiền
mặt chủ yếu của ôngđến từ độc quyền kinhdoanh vàng, đượcPedro Lobo điều hànhdưới sự bảo trợ củachính quyền thuộc địaBồ Đào Nha thamnhũng.Trongthậpniên1960, khi Hạo Hiền
thay thế Pedro Lobovới tư cách là doanhnhânhàngđầucủaMaCao, StanleyHà đã cốgắng để có được độcquyềnkinhdoanhvàngbằng cách cắt chongườiBồĐàoNhacáckhoản lợi lộc lớn hơn,
nhưng họ đã gắn nhưkeo với HạoHiền, lúcnàyđã trở thànhngườichắpmối chính trị chocuộc đối thoại giữathực dân Bồ Đào Nhavà các nhà lãnh đạoTrungQuốcđạilục.BồĐàoNhacũngdựavào
Hạo Hiền để giữ chohội Tam hoàng khỏiquấy nhiễu trên đườngphố. Hạo Hiền đã liênkếtkinhdoanhvớicácbốgiàởHồngKônglàHenry Hoắc và TrịnhDụĐồng.Ôngquađờinăm 1983. Sự nghiệp
kinhdoanhcủaôngđãđượcngườicontraithứnăm là Edmund HoHauwah kế tục. KhiMa Cao được trao trảcho Trung Quốc vàonăm 1999, không bấtngờgìkhiEdmundHođượcbầulàmĐặckhu
trưởng đầu tiên củavùnglãnhthổnày.
GiađìnhLobo
Pedro Jose Lobo códòng dõi pha trộnTrung Quốc Bồ ĐàoNha Hà Lan Mã Lai,sinh trong thập niên
1890, tại xứ ĐôngTimor thuộcBồ, từđógia đình ông chuyểnsang Ma Cao. Ông làbốgiànổibậtthờiThếchiến thứhaivàChiếntranh Triều Tiên. Làmộtchú“tắckèhoavềvănhóa”tuyệtvời,ông
đãcóhainhiệmkỳlàmBộ trưởngKinh tế củaMaCao.NhiềucủacảimàLobocóđượclàdovịtríhàngđầucủaôngtrong độc quyền kinhdoanh vàng tại địaphương. Điều này đặcbiệt có giá trị vì Ma
Cao không tham giaHiệp ước BrettonWoods năm 1944 cốđịnh tỷ giá hối đoáitrongbuônbánvàngởphạmviquốc tế.Bằngcáchnàođó,vùnglãnhthổ này đã không cótêntrongdanhsáchcác
vùng lãnh thổ thuộcchínhphủBồĐàoNha.Do đó,MaCao đã trởthành trung tâm kinhdoanh vàng của châuÁ,vàlàđịađiểmmàtừđócácthứkimloạiquýnàyđượcnhậplậuvàoẤn Độ, Trung Quốc,
Hồng Kông và cácnước Đông Nam Ákhác. Vàng chủ yếuđượcnhậpkhẩu từcácnước Châu Âu tàn tạsau chiến tranh. Chođếnkhi cácđiều chỉnhbất thường được thựchiện dưới áp lực quốc
tế trong những năm1970, ngành cờ bạc,giải trí làm lu mờ vaitrò kinh doanh vànghàngđầu củaMaCao.Trong số các đối táckinh doanh vàng củaPedro Lobo, có HạoHiền, người đã kế vị
ông trong những năm1960với tưcách làbốgià đầu bảng của MaCao. Con trai RogeriocủaLobo tiếp quản đếchế doanh nghiệp giađình, nhưng vận maycủaanhtadầndầnmấtđi do không duy trì
được các mối quan hệcủaPedro.
SINGAPORE
GiađìnhnhàAw(Hồ)
Hồ Văn Hổ sinh năm1882 tại Rangoon,Miến Điện, là con trai
củamột dược sĩ ngườiHakka (Quảng Đông).Hồ cùng với em traicủaônglàHồVănBáoxây dựng nên cácdoanh nghiệp gia đìnhởMiếnĐiệnvàtrởnênnổi tiếng với thươnghiệu “Dầu cao Con
hổ”,mộtloạihàngbánchạy nhất trên toànchâu Á. Giữa nhữngnăm 1920, họ di dờiđến Singapore và bắtđầu đầu tư vào ngànhbáo chí ở Trung Quốcvà Đông Nam Á. HồVănHổcũngthànhlập
ngânhàngđầutiêncủangười Hakka là NgânhàngChungKhiawvàonăm1950.Ôngquađờinăm 1954. Hầu hếtviệc kinh doanh lớnđều không thành côngởcácthếhệsau.Côngty Haw Par
International đã đượcbánchoCôngtyđầutưSlater, Walker củaAnh, sau này đã bị lôikéo vào một vụ gianlận nổi tiếng ởSingapore.
DònghọKhâu
Khâu Đức Bạt (KhooTeck Puat), sinh năm1917, là con trai củamộtgiađìnhSingaporegiàu có, kinh doanhgạo và ngân hàng.Khâu khởi nghiệp tạiOCBC, nơi gia đìnhông là một cổ đông
lớn, rồi trở thành PhóTổng Giám đốc. Năm1960, ông quyết địnhthành lập ngân hàngcủa riêng mình, Ngânhàng Mã Lai, ởMalaysia. Nó đã tăngtrưởng rất nhanh, chođếnnăm1966,khimột
tinđồnlan truyềnrằngKhâu đã tuồn tiền từngânhàngnàyvàocáccôngtyriêngcủamình,vì vậy ông đã bị mấtquyền kiểm soát ngânhàng. Sau đó, Khâuthành lập Ngân hàngQuốcgiaBruneivớisự
tham gia của gia đìnhhoàng gia, và được sửdụngngânhàngnàyđểcấpvốnchocácdoanhnghiệp của mình, chủyếu về bất động sản.Năm1986,một vị vuamớipháthiệnracácvụcho vay có tay trong
lớn tại ngân hàng, vìthế chiếm quyền kiểmsoátnó.Khâuchếtnăm2004, khi vẫn rất giàu.Ông đã thực hiện mộtsố dự án đầu tư lớn,mộttrongnhữngdựánlớnnhấtlàchiếmđược13,5% cổ phần của
Ngân hàng StandardChartered của nướcAnh.
Gia đình nhà Kwek(Quách)
Kwek Hong Png, mộtngười có nguồn gốcHakka, sinh tại Trung
Quốc vào đầu nhữngnăm 1910, mất năm1994.Ôngđãgâydựngnêntàisảncủagiađìnhthôngquabuônbánvậtliệu xây dựng từ đầuChiến tranh Thế giớithứhai.Ôngvàanhemcủa ông cũng đã tham
gia buôn lậu hàng hóanhư cao su từIndonesia và làm ănvới người Nhật. Giađình Quách thành lậpđược một ngân hàngđịa ốc đáng nể ởSingaporetrongthờikỳchiến tranh và chuyển
sang kinh doanh bấtđộngsản trướckhimởrộng sang các dịch vụtài chính vào nhữngnăm 1960. Các doanhnghiệpởSingaporecủagiađìnhhiệndongườicon trai của KwekHong Png là Quách
Lệnh Minh (QuekLengBeng)điềuhành,trong khi các doanhnghiệp ở Malaysiađược cháu trai củaKwek Hong Png làQuách Lệnh Xán(Quek Leng Chan, vàhai người anh em họ
của ông) quản lý. Haingườianhemhọđềulàluật sưđượcđào tạoởLondon. Các công tynổi tiếng nhất của giađình là: Công ty PháttriểnđôthịvàXimăngSingaporeởSingapore,hệthốngcáckháchsạn
Millennium &Copthornecó tài sảnởLondon, New York,Hồng Kông và nhiềunơi khác; vàTập đoànHồng Long và HumeIndustries ở Malaysia.Các chi nhánh ởSingapore và Kuala
Lumpur của gia đìnhkhông phải luôn luônsuônsẻ,nhưnghọquảnlý nhiều doanh nghiệpkhácnhau.
DònghọLý(Lee)
Tộc trưởng Lee KongChian (Lý Quang
Tiền),một ngườiPhúcKiến sinh tại TrungQuốc vào năm 1894trongmộtgiađìnhgiàucó,đượcđàotạo thànhmột kỹ sư xây dựng.Ông trở thành mộttrongnhữngcấpphócónăng lực củaTrầnGia
Canh (Tan Kah Kee),kếthônvớicongáicủaTrần rồi làm thủ quỹchobốvợmình.Lýđãxây dựng được mộtdoanh nghiệp cao sucựckỳ thành công củariêng mình, mua đượcnhiều đồn điền trong
suốtthậpniên1930vớigiá rẻ, và sau này làmcho công ty LeeRubber trở thành côngty cao su lớn nhấtĐông Nam Á. Lý đãgiúpđàmphánviệcsápnhậpđểthànhlậpNgânhàng OCBC và trở
thànhPhóChủtịchđầutiên,sauđólàchủtịch.Sau Chiến tranh thếgiới thứ hai, ông trởthànhcổđônglớnnhấtcủa OCBC. Lý QuangTiền qua đời năm1967, người kế vị làcontraiútcủaông,Lý
Thành Vỹ (Lee SengWee). Em trai Lý làchủ tịch hiện thời củaOCBC (ngân hàngđứng thứ hai ởSingapore, chỉ sauNgân hàng nhà nướcDBS mà gia đình Lýnắm giữ khoảng 15%
cổphần)vàcũngquảnlý các doanh nghiệpcủa gia đình trong cáclĩnh vực chế biến thựcphẩm, đồn điền, bảohiểm, sản xuất bia....CôngtyLeeRubbercómối quan hệ thân thiếtvớiLýQuangDiệu.
DònghọNg(Hoàng)
Tộc trưởng Ng TengFong (Hoàng ĐìnhPhương), sinh năm1928, làchủsởhữu tưnhân lớn nhất về bấtđộng sản ở Singapore.Những tài sản lớn củaông được nhiều người
biết đến gồm có cáckhách sạnFullertonvàOrchard Parade. Contrai Robert NgCheeSiong(HoàngChíTường), sinh năm1953, lập nên doanhnghiệp bất động sản ởHồng Kông dưới sự
định hướng của cha.Hoàng Chí Tườngthườnglàngườitrảgiácao nhất trong cácphiên đấu giá đất tạiHồng Kông trongnhữngnăm1990.Năm1987,ôngđãthoátkhỏibịtruytốsaukhithanh
toán đầy đủ các khoảnnợ do mắc những sailầm lớn và đặt cượcbừa bãi tại thị trườngbất động sản HồngKôngmàcảnhsátnghingờlàđượctổchứcbấthợppháp.Con trai thứhai của Hoàng Đình
Phương là Philip, làmviệc với cha mình tạiSingapore. Các doanhnghiệp đầu tầu đượcniêm yết của gia đìnhlà Orchard ParadeHoldings và DươngHiệp Thành (mộtdoanh nghiệp thực
phẩm và nước giảikhát) ở Singapore, vàSino Land ở HồngKông. Gia đìnhNg cómốiquanhệrấtgầngũivới Harry Lý QuangDiệu.
George Tan (GeorgeTrần)
Khôngcógìrõràngvềnguồn gốc xuất thâncủaTrần.Ông sinh tạiMalaysia,cóthểlàtỉnhSarawak, khoảng năm1933, và chuyển đếnSingapore ở tuổi 20.Đầu thập niên 1970,ông chuyển đến Hồng
Kông, và với ủng hộcủacácôngtrùmĐôngNam Á, trong đó cóTrương Minh Thiên,ông tham gia vàongành bất động sản.Cuốinhữngnăm1970,ôngcóđượcnguồn tíndụng lớn từ chi nhánh
tại Hồng Kông củaNgân hàng BumiputracủaMalaysia, sử dụngnóđểbơmvốnchomộtloạtcácdựánbấtđộngsản lớn. Những ngânhàng cho vay quốc tếnhư Ngân hàng HồngKông, dưới thời chủ
tịchMichaelSandberg,cũng bắt đầu cho ôngvayvốn.Năm1982,thịtrường bất động sảnHồngKôngđivàosuythoái do các cuộc đàmphán căng thẳng trongviệc trao trả HồngKông về Trung Quốc
vào năm 1997. Tậpđoàn Carrian củaGeorge Trần phá sảnvào năm 1983, và sựsụpđổcủanólàmlộramột đường dây thamnhũngvàhốilộlớn.
TanKahKee(TrầnGiaCanh)
Một người Phúc Kiến,sinhnăm1874.Trầnđãxây dựng nên doanhnghiệpđịa phương lớnnhất ở Malaysia vàSingapore trước Chiếntranh thế giới thứ hai.Chaônglàmộtthươngnhânđãđồnghóa,kinh
doanh trong lĩnh vựcchế biến lúa gạo vàdứa. Ông đã được cấpquốc tịch Anh, vàngười con trai chuyểnsangkinhdoanhcaosumộtcách tìnhcờ.TrầnGia Canh là ngườikhông bình thường
trong một vài khíacạnh.Ôngđã tìmcáchxây dựng một doanhnghiệpsảnxuấtlốpxe,giàydépvàđồchơitrẻem. Và sau việc kinhdoanh hàng hóa, ôngcũng tìm cách cạnhtranh trực tiếp với các
nhàsảnxuấtNhậtBản,châu Âu và Mỹ. Tuykhôngphảinộpthuếtạicác thị trường địaphương, nhưng đây làmột thách thức lớnkhiến Trần có thể gặpnguy hiểm trong cơnsuy thoái kinh tế toàn
cầu đầu thập niên1930. Hầu hết cácdoanh nghiệp của ôngđã được thanh lý vàonăm1934.
Trần giữ được một sốtài sản cá nhân đángkể.Một lầnnữa lại rấtbất thường, ông trở
thành một người duytâm về chính trị cũngnhưmộtôngtrùm(mặcdù sinh trưởng trongmột gia đình ủng hộchínhquyền).Saunăm1949, ông chấp nhậnlời đề nghị hồi hươngvềTrungQuốcvàqua
đời ở đó năm 1961.Nhữngnhânviênquantrọng của Trần GiaCanh, những ngườicũng đã trở thành ôngtrùm theo cách củariêng họ, gồm có LýQuang Tiền (người đãkếthônvớicongáicủa
Trần) và Trần Lục Sử(TanLarkSye).
DònghọWee(Hoàng)
Tộc trưởng Wee ChoYaw(HoàngTổDiệu),sinh năm 1929, đượcđào tạo tại SingaporevàAnhQuốc.Chacủa
Wee, Wee KhengChiang, buôn bán hạttiêu và cao su từSarawakđếnSingaporevàcũngđiềuhànhmộtngânhàngkhôngchínhthức tạiKuching.Năm1935, Wee KhengChiang lập Ngân hàng
Trung Hoa ởSingapore, ông đã đưacon trai của mình vàobanquản lý trong thậpniên 1950. Và HoàngTổ Diệu nhanh chóngchiếm được vị trí caonhất trong việc điềuhành hoạt động hàng
ngày. Ngân hàng pháttriển nhanh chóngtrongnhữngnăm1960và 1970, và đổi tênthành United OverseasBank (UOB) vào năm1965. Hoàng Tổ Diệucòn mở rộng sangngành bảo hiểm, bất
độngsảnvàkháchsạn,và chiếm được Ngânhàng Chung Khiaw,vốn do Hồ Văn Hổthiết lập, cũng nhưNgân hàng Côngthương. Gia đìnhHoàng hiện đang sởhữu khoảng 20% cổ
phần của UOB, và cómối quan hệ thân mậtvớiLýQuangDiệu,vàHoàng Tổ Diệu cũngphục vụ trong các bankhác nhau của chínhphủ.UOBlàngânhànglớnthứbaởSingaporevàmuađượcmộtngân
hàng của Thái Lantrong cuộc khủnghoảng tài chính châuÁ.
II) CÁC CHÍNH TRỊGIA
THÁILAN
Giữa năm 1932, mộtcuộc cáchmạng đã lậtđổ chế độ quân chủchuyên chế; và đếnnăm2007,TháiLanđãcó 33 đời thủ tướng.Chỉ một vài ngườitrong số này, và mộtvài người khác ít tỏ ra
lànhàchínhtrị,làthựcsự quan trọng. Danhsách sau đây nêu bậtnhữngnhânvậtchính.
Tướng Phraya PhaholPholphayuhasena(1933-8)
Đã lật đổ người tiền
nhiệm của ông làPhraya ManopakornNititada, nhưng đờiThủ tướng của ôngcũng chỉ kéo dàiđược7tháng.
Thống chế PlaekPhibunsongkhram(1938-44và1948-57)
Thuộc phái quân sựcủa đảng Nhân dân,đảngđãkếtthúcchếđộquân chủ chuyên chếvàonăm1932.LàThủtướng, ông theo đuổicác chính sáchdân tộcchủnghĩavàtạoramộtnhà nước nửa phátxít,
lập pháp chống lạingườiTháigốcHoavàtrở thành đồng minhcủa Nhật trong Chiếntranh thế giới thứ hai.Ông đổi tên nước từXiêm thành Thái Lannăm 1939. Sau chiếntranh,
Phibunsongkhramthoátkhỏitruytốvềtộiác chiến tranh, và saucuộc đảo chính 1947,trong đó ông rất nổitiếng, trở lạivị tríThủtướng năm 1948. Việcdính líu với chủ nghĩaphát xít của
Phibunsongkhram đãnhanh chóng đượcquên đi khi ông đưaThái Lan vào cuộcChiếntranhTriềuTiên,đứng về phía Mỹ, vàtiền viện trợ của Mỹbắt đầu đổ vào quốcgianàynhưlàmộtbức
tường chống cộng ởkhu vực; và ông tiếptục các chính sáchchống người TrungQuốccủamình.
Năm 1951,Phibunsongkhram lànạnnhâncủamộttrongnhữngnỗlựcđảochính
ở Thái Lan, do Thốngchế Phin Choonhavancầm đầu. Khi đangtham dự một buổi lễtrên chiến hạm SriAyutthaya, ông đã bịmột nhóm sĩ quan hảiquânbắtlàmcontinđểđưa ra yêu sách với
chính phủ ở Bangkok.Tuy nhiên, việc đàmphán đổ bể, và khôngquân Thái Lan, cùngvới với phe quân độicầm quyền, đã némbom đánh chìm chiếnhạm. Ông sống sót dobơiđượcvàobờvàtiếp
tụcnhiệmkỳthủtướngcủa mình. Cuối cùng,vào năm 1957,Phibunsongkhram bịlật đổ trong một cuộcđảo chính do cấp phó“trung thànhnhất” củamình là Thống chếSarit Thanarat lãnh
đạo. Ông sống lưuvong tại Nhật Bản vàchếtởđónăm1964.
Thống chế SaritThanarat(1958-63)
Tổ chức cuộc đảochínhnăm1957,nhưngkhông chiếm ghế Thủ
tướng cho mình, chođếncuốinăm1958,sauhaiđờiThủtướngngắnngủi, tạm thời. Sarittăng cườngvai trò củachế độ quân chủ Tháisau cuộc trấn áp năm1932vàôngđềcaosựkỹ trị trong kinh tế,
hoan nghênh đầu tưnướcngoài,đầutưvàopháttriểnnôngthônvàchấm dứt việc đàn ápnhững người Thái gốcHoa. Sarit chết trongvăn phòng năm 1963,nhưng các chính sáchcủa ông đã được cộng
sự của ông là TướngThanom Kittikachorn(Thủ tướng, 196373)và PraphasCharusathian(PhóThủtướng của Thanom)duy trì. Thanom bị lậtđổ bởi một cuộc nổidậychốngquânđộicủa
dânchúnghồitháng10năm1973.Banămsau,quân đội (chính thức)xử tử 46 người trongvụ thảm sát ởĐại họcThammasat tháng 10năm 1976, và chínhquyềnquânsựquaytrởlại.
Tướng PremTinsulanonda (1980-88)
Là một nhân vật quantrọng trong số các nhàlãnh đạo quân sự cuốithập niên 1970 và1980,Premđã lênđếnvị trí Cố vấn trưởng
choNhà vuaThái Lanvà nổi lên trong cuộcđảo chính lật đổThaksinShinawatrahồitháng 9 năm 2006.Premlàngườiđãdựngcựu sĩ quan cấp dướicủa ông là SurayudChulanont lên thay thế
Thaksin.LàThủtướngtrongnhữngnăm1980,Prem đã kế vị TướngKriangsak Chomanan,người lên nắm quyềntrong một cuộc đảochính và cai trị đấtnước trong ba năm, từ1977.Premthắngcử3
lần, điển hình là cuộcbầu cử củangườiTháivới rất nhiều phiếumua và ép buộc – vớitư cách là thành viêncủa liênminh cải cáchchính trị. Ông đượcChatichaiChoonhavan,con trai duy nhất của
Nguyên soái PhinChoonhavan, thay thếvàonăm1988.Thươnghiệu Chatichai củachính quyền tài tử nàyđã không bị giảm sútlắmtronggiớiquânsự,và ông đã bị lật đổtrong một cuộc đảo
chính tháng 2 năm1991 do TướngSunthornKongsompong vàSuchinda Kraprayooncầm đầu. SuchindaKraprayoon làm Thủtướng một thời gianngắn, và tháng 5 năm
1992,khiquânđộigiếtkhoảng250ngườibiểutình tại Bangkok, ôngnàyđãtừchức.
ChuanLeekpai, (1992-1995và1997-2001)
Lên nắm quyền saucuộc đảo chính chết
yểu của TướngSuchinda Kraprayoontháng 5 năm 1992, vàlà Thủ tướng đầu tiêncủa Thái Lan khôngxuất thân từ giới quýtộchoặcphái quân sự.Đượcmột số người cangợilàmộtngườicông
minh, Chuan có mộtngười em trai đã bỏchạy khỏi đất nước vìbị cáobuộc thamô tạiNgân hàng Nôngnghiệp Thái Lan, nơianh ta làm việc, vàchínhphủđầu tiêncủaChuanbịđổ trongmột
vụbêbốiliênquanđếnviệc phân phối đất đaiở Phuket. Chuan bịthaythếbởicácchếđộkhác tham nhũng hơnnhiều của BanharnSilpaArcha và TướngChavalitYongchaiyudh từ1995
đến 1997, trước khiquay trở lại ghế Thủtướnggiữacuộckhủnghoảng tài chính, tháng11 năm 1997. Ônggiám sát một chươngtrình tiết kiệm về kinhtế; nhưng chính phủthứ hai của ông mắc
bệnh dịch qua một vụtham nhũng trước khinó sụp đổ vào năm2001, do có sự ra đờicủa đảng Thai RakThai của ThaksinShinawatra.
Thaksin Shinawatra,(2001-2006)
Xem mục: Các doanhnhân/bốgià.
Surayud Chulanont(2006)
Được quân đội bổnhiệm làm Thủ tướngsau cuộc đảo chính lậtđổ Thaksin
Shinawatra.
NHỮNG NGƯỜIKHÁC
Thống chế PhinChoonhavan
Mộtnhàlãnhđạoquânsựchủchốt,đứngđằng
sau một số cuộc đảochính,baogồmcảmộtcuộcđảochínhđãđánhchìm chiến hạm cùngvới Thủ tướngPhibunsongkhram năm1951 (các cuộc đảochính đã đặt con traicủaPhinvàomộtvịtrí
trong nội các). TrongChiến tranh thế giớithứ hai, ông làm chỉhuytrưởngquânsựcủatiểubangShanmàTháiLan (một đồng minhcủa Nhật Bản) đãchiếmđóngtrongcuộcchiến với Miến Điện.
Sự kiện này đã khởiđầumộthiệphộicólợiíchgắnvớisảnxuấtmatúy. ChatichaiChoonhavan, con traicủa ông. là Thủ tướngThái Lan cuối nhữngnăm 1980 cho đến khichínhôngtacũngbịlật
đổ trongmột cuộcđảochính.
PhaoSriyanonda
KếthônvớiKhunYingUdomlak, con gái củaThống chế PhinChoonhavan. Phao trởthành Phó Tổng Giám
đốc cảnh sát sau cuộcđảochínhquânsựnăm1947,vàlàTổngGiámđốc vào năm 1951.Ông đã sử dụng cácthiết bị quân sựdoCơquan Tình báo Trungương Mỹ (CIA) cungcấp để thành lập một
lực lượng không quânvà hải quân của cảnhsát và các đơn vị thiếtgiáp trong những năm1950, và trở thànhnhóm buôn lậu thuốcphiện lớn nhất trongnước.PhaovàPhin cómối quan hệ rất mật
thiết với ChinSophonpanich, ngườisáng lập Ngân hàngBangkok
MALAYSIA
CácThủtướngsauđộclập năm 1957 (tất cảđều xuất phát từ Tổ
chức Quốc gia ThốngnhấtMãLaiUMNO)
TunkuAbdulRahman,thường gọi là “Hoàngtử Tunku” (1957-1970)
Abdul Rahman sinhnăm 1903, là con trai
của Sultan Kedah, họctạiĐại họcCambridgetrướckhi theohọcluậttại Inner Temple ởLondon. Năm 1951ông kế nhiệm DatukOnnJaafar,ngườisánglập UMNO, làm Chủtịch; năm 1955 trở
thành Thủ tướng đầutiên của chính phủMalaya thuộc Anh.Tunku có ít nhất bốnlầnkếthônhai lầnvớiphụ nữ Mã Lai gốcTrungHoa,mộtlầnvớimột phụ nữ nguyên làngườiAnh.Trong thời
gian nghỉ hưu, ông đãkhông có quan hệ tốtvới Mahathir; và quađờinăm1990.
Tun Abdul Razak(1970-6)
Sinh năm 1922,AbdulRazak là một quý tộc
người Mã Lai, trởthành Phó Thủ tướngcho Tunku AbdulRahman,ngườimàôngkếvịsaunày.Razaklàbạn học với Harry LýQuangDiệu vàRobertQuách tại Trường Caođẳng Raffles ở
Singapore,trướckhiđủđiểmđi học luật ở InnLincoln tại London.ÔngđãbuộcTunkurờikhỏi vị trí Thủ tướngsau cuộc bạo độngxung đột chủng tộcnăm 1969 và đưa rachương trình hành
động kiên quyết đượcgọilà“chínhsáchkinhtế mới”. Tun Razakchết vì ung thư năm1976.Người kế nhiệmông là Tun HusseinOnn,cũnglàanhrểcủaông.GiađìnhRazaklàhậu duệ của Bugis.
Con trai cả của ông làNajibRazakhiệnđangtheo Phó Thủ tướngcủa Abdullah Badawi.Con trai thứhai,NazirRazak, đangđiềuhànhngânhàngđầutưhàngđầu của Malaysia làCIMB.
Tun Hussein Onn(1976-81)
Sinhnăm1922, là contrai của một trongnhững người sáng lậpUMNO,thuộcdònghọquýtộcởJohore,DatoOnn Jaafar, HusseinOnn, người mang một
phầntưdòngmáuThổNhĩ Kỳ, học luật tạiLincoln Inn. Ông làmột công chức dân sựcủa Malaya trước khiđivàoconđườngchínhtrị,vàkếnhiệmAbdulRazakkhiôngnàyquađời.HusseinOnntựtừ
chức vào năm 1981,viện dẫn lý do sứckhỏe, và sau này bấthòa với người kếnhiệm mình làMahathir.Contraiông,Hishammuddin BinTunHussein,hiệnđanglàBộ trưởngGiáodục
dưới chế độ AbdullahBadawi. Hussein Onnquađờinăm1990.
Tun Dr MahathirMohamad (1981-2003)
MộtnửadòngmáuẤnĐộ (xét về phía cha),
MahathirsinhởKedahnăm1925,vàđượcđàotạo thành bác sĩ ởSingapore. Ông gianhậpUMNOngay saukhi đảng này ra đờinăm 1946 và lần đầutiên được bầu vàoQuốc hội năm 1964.
Tuynhiên,ôngbịkhaitrừ khỏi đảng năm1969 saukhi phêphánTunku Abdul Rahmantrong một bức thư mởvà đã viết tác phẩmTình thế tiến thoáilưỡng nan củaMalaysia (Maly
Dilemma) vào năm1970, đưa ra nhữngquanđiểmkhábảothủvề chủng tộc; cuốnsách đã bị cấm ởMalaysia. Sau khiTunkubịtrụcxuất,ôngtái gia nhập UMNOnăm1972,trởthànhBộ
trưởng Giáo dục năm1974, rồi Phó Thủtướng năm 1978.Mahathir đã kế vịHussein Onn làm Thủtướngvàonăm1981vàduy trì được vị trí nàycho đến tháng 10 năm2003.
Nhiệm kỳ Thủ tướngcủa Mahathir gắn liềnvới tăng trưởng cao,mởrộngcácchínhsáchhành động kiên quyết,cácdựáncơsởhạtầnghoành tráng và tìnhhuynhđệphổbiếnrộngrãi. Mahathir là một
ông chủ tàn tàn nhẫntrong cuộc đấu tranhchính trị của UMNO.Ông ta đã dập tắtnhững nỗ lực củaTengku RazaleighHamzah trong việctranhgiànhquyềnlãnhđạo tổ chức này vào
năm1987,vàtốngkhứcấpphócókhảnăngkếvị mình là AnwarIbrahim vào tù.Mahathircãicọvớithủtướng tiền nhiệm, vớicác đồng liêu chính trịcủa ông, và bây giờđang xỉ vả người kế
nhiệm mà ông đã lựachọn là AbdullahBadawivìôngnàyphêbình ông đã biếnMalaysia thành một“nhà nước cảnh sát”,cắt bớt quyền tự dongônluận.
Trong nhiệm kỳ
Mahathir làm Thủtướng,concáinhàôngcũng đi vào kinhdoanh. Con trai cảMirzan thành lập mộttập đoàn, đã nợ nầnchồng chất trong thờigian có cuộc khủnghoảng tài chính. Việc
Anwar Ibrahim phảnđối gói giải cứu củanhà nước cho mộttrong những công tycủa Mirzan đã châmngòi nổ cho mối bấthòa với Thủ tướng.Con trai thứ haiMokhzani lập ra tập
đoàn TongkahHoldings, với cácdoanhnghiệpbấtđộngsản, cao su, môi giớichứng khoán và sảnxuất; có được nhữngnhượng bộ của nhànướcnhưhợpđồngxửlý chất thải chính và
giặt ủi cho các bệnhviện.Mukhriz,con traithứ ba cũng có nhữnglợiíchkinhdoanhđángkể.
Dato Seri AbdullahAhmadBadawi(2003)
Sinh năm 1939 trong
mộtgiađìnhhoạtđộngchính trị rất tích cựccủa UMNO ở Penang,Badawi đã đượcMahathir lựa chọn đểthay thế AnwarIbrahim làm Phó Thủtướng vào năm 1998,vàngườikếnhiệmông
ta năm2003.Banđầu,Badawi tiến hànhnhững cuộc điều tracông khai về chốngthamnhũng,vàôngđãđặt Mahathir ra ngoài,nhưng khi giành đượcchiến thắng áp đảotrongcuộcbầucửnăm
2004,ôngtalạihếtsứcnhẹnhàngtrênmặttrậnchống tham nhũng.Trongkhiđó,Mahathirđãtấncôngôngtamộtcách công khai là đãlàm quá ít để bảo vệcácdựányêuthíchcủamình chẳng hạn như
chương trình xe hơiProton – khỏi cạnhtranhquốctế.
NHỮNG NGƯỜIKHÁC
Tan Sri TengkuRazaleighHamzah
Sinh năm 1937 tronggia đình hoàng gia ởKelantan, Razaleighleo lên đến nấc thangquyền lực cao trongUMNO và được bổnhiệm làm Bộ trưởngTài chính trong nhiệmkỳ Thủ tướng của của
Hussein Onn. Ôngđược giữ ở dướiMahathir từ năm 1981và tiếp tụcbảo trợchomột lũ các ông trùmđang lên không phảingười bản xứ nhưKhâu Gia Bành. Tuyvậy, năm 1987,
Razaleightháchthứcvịtrí lãnh đạo củaMahathir trongUMNO, châm ngòi nổcho cuộc bầu cử sắptới, một cuộc bầu cửbẩnthỉunhấttronglịchsử của đảng này.UMNOphânrãsaukhi
Mahathir suýt khônggiữ được địa vị củamình. Razaleigh từchức, rời khỏi chínhphủ và doanh nghiệpcủa mình, và nhữngđảng viên đã bị thanhlọc.
Tun Tan Siew Sin
(TrầnTuTín)
Sinh năm 1916 trongmột gia đình từ TrungQuốc nhập cư vàoMalacca cuối thế kỷXVIII,đãcónhiều thếhệ mang quốc tịchMalaysia và tham giachínhtrịcũngnhưkinh
doanh.Trầnlàcontraicủa ông trùm đầu thếkỷXXTrầnTrinhLộc,và là cháu nội của bốgià thế kỷXIX là TanChoon Bock. Ông làBộ trưởng Tài chínhthời kỳ 19591969 vàđứng đầu Hiệp hội
Malaysia Trung Quốc(MCA) thời kỳ19611974.Lợiíchkinhdoanhcủagiađìnhbaogồmvậntảibiểnvàbấtđộng sản nông nghiệp.Trần Tu Tín qua đờinăm1988.
INDONESIA
CÁC NHÀ LÃNHĐẠO THỜI KỲ ĐỘCLẬP
Sukarno(1945-67)
Sinhnăm1901, là contraicủamộtgiáoviênởSurabaya, Sukarnođượcđàotạotạitrường
Hà Lan dành cho giớitinhhoa.ÔngtrởthànhđảngviêncủaNasionalPartai Indonesia (PNI)khi nó được thành lậpnăm1927, bị thựcdânHà Lan bắt và bỏ tùnhiềulần.SukarnohợptácvớiquânNhậttrong
Thế chiến thứ hai nhưlà một phương tiện đểlật đổ Hà Lan, vàIndonesiatuyênbốđộclập ngày 17 tháng 8năm 1945. Sau đó làmộtcuộcxungđộtvớiquân độiHàLan đangcố gắng tái chiếm
Indonesia, kéo dài chođếnnăm1950.Sukarnolàmộtnhàdântộcchủnghĩa rất thạo họcthuyếtMarx trongviệcđiều hành một nhànước lớn, vừa giànhđược độc lập và vốnkhông ổn định. Ông
ngày càng trở nên độcđoán, đứng giữa quânđội vàĐảngCộng sảnIndonesia(PKI).
Năm 1957 Sukarnoquốchữuhóa246côngtyHàLanvàngaysauđó thông qua đạo luậtchốngphânbiệtđốixử
với những người gốcHoa. CIA thực hiệnmộtsốnỗlựcđểlậtđổSukarno,vàônglànạnnhân của rất nhiều vụám sát hụt. Sự sụp đổchínhtrịcủaôngxảyravào năm 1965, trongnhững hoàn cảnh chưa
bao giờ được giảithích.Ngày30tháng9,sáu vị tướng chốngcộngbịtửhình.Mộtsốngười đổ lỗi cho PKIvà một số người khácđổlỗirằngSukarnođãủng hộ việc này. Kếtquả là một cuộc hành
quyết những ngườichống PKI, trong đó500.000người đã thiệtmạng (có sự giúp đỡcủaĐạisứquánMỹđểxác định một số mụctiêu),vàquyềnlựccủaSuharto càng tăng lên.Sukarno qua đời năm
1970.Ôngcónhữngsởthích tốn kém và chínbàvợ.
Suharto(1967-98)
Xuất thân và thời thơấu của Suharto vẫnchìm trong bí ẩn, mộthoàn cảnh mà vị cựu
Tổng thống này chẳngmuốn công khai. Chỉbiết rằng Suharto sinhnăm 1921, là con củamột người nông dânkhông có ruộng đất,nhưng có nhiều khảnănggiađìnhôngtừnglà quý tộc Java nhưng
sasútdogặpkhókhăn.Tuynhiên, khôngnghingờ gì là gia đìnhSuharto có sự bấtthường (cha mẹ đã lydị ngay saukhi ông rađời), là ông đã đượcnhiều người họ hàngthay nhau nuôi dưỡng,
và rằng nền giáo dụcban đầu mà ông đượchưởng chỉ quanh quẩnởđịaphươngnày.
Năm1940,Suhartogianhập quân đội thuộcđịa Hà Lan rồi đượcđào tạo ở học việnquân sự. Khi kết thúc
chiến tranh, ông đã cóđóng góp không đángkể trong kháng chiếnchống quân Nhật vàquân Hà Lan ởIndonesia và đã cóđượcvịtríchỉhuymộttrungđoàncủaSưđoànDiponegoro đóng ở
Yogyakarta, khu vựcgần quê ông. Năm1946, lần đầu tiên ôngbị tố cáo là tham giavàocáchoạtđộngbuônlậuđểhỗ trợchođồnglương quân đội củamình, đặc biệt là cấukếtvớinhữngkẻbuôn
lậu thuốc phiện. Ôngkết hôn với SitiHartinah, xuất thân từmột gia đình quý tộcnhưng có sự sa sút vềtài chính trong thờigiannày, vàhọ cóvớinhausáuđứacon.
Vào thời gian sự thù
địchvớingườiHàLankếtthúcvàonăm1949,Suharto đã chứng tỏđượckhảnăngquânsựcủa mình và trở thànhchỉ huy Sư đoànDiponegoro, đóng tạiSemarang,ánngữmiềnTrungJava.Trongthời
kỳ này, việc kinhdoanh độc quyền vàcáchoạtđộngbuônlậucủa ông, có sự liênminh với các bố giàtương lai như BobHasan và Lâm ThiệuLương, đượcmở rộng.Suharto phải đối mặt
vớimộtphiêntòavìtộibuôn lậu vào năm1959, nhưng thay vàođó với sự hỗ trợ củangười cha nuôi củaBob Hasan, TướngGatot Subroto – đượcchuyển về trường Caođẳng Quân sự ở
Bandung, miền TâyJava. Ông được xácđịnh là thuộc phechốngcộngtrongquânđội và giữa các năm1965 và 1967, leo lênđến vị trí thống trịtrong nhóm giành lạiquyền lực từ Sukarno.
Trong ba thập kỷ tiếpđó, ôngđiềuhànhmộtnhà nước độc tài thânphương Tây, tạo ramứctăngtrưởngcaovàcũng tạo ra nhiềukhoản nợ nần và thamnhũng.
Buộc phải từ rời khỏi
vị trí cao nhất vàotháng 5 năm 1998,Suhartođãkhaivớicơquantưpháphồitháng12làtàisảncủaôngcókhoảng3triệuđôlatiềnmặt trong ngân hàng,nhà riêng của ông ởJakarta, một bất động
sản thứ hai cũng ởJakarta, một trang trại750héctavà“vài trămnghìn” hécta đất tạiKalimantan. MichaelBackman, một chuyêngia Indonesia, đã xuấtbản một nghiên cứucho thấy gia đình
Suharto có cổ phầntrong ít nhất 1.247côngtyởIndonesia,vàcó lẽ cả những tài sảnkếch xù ở nước ngoài.Nhiều tiền mặt tronggia đình Suharto đượcthuthậpthôngquabảycơ sở từ thiện, hay
yayasan, mà các cánbộ, công chức và cácdoanh nghiệp đã đónggóp. Chính phủ thờisau Suharto đã tiếpquảncáccơsởnàyvàotháng 11 năm 1998.Một điều tra của tạpchíTimenăm1999đã
xácđịnhtàisảncủagiađình Suharto ở Mỹ cógiá trị 15 tỷ đôla.Suharto bị quản thúctại gia một thời gianngắn vào năm 2000,nhưng tất cảnỗ lựcđểtruytốôngvềtộithamnhũng đã bị chặn lại
với tuyên bố rằng ôngcóvấnđềvề sứckhỏenênkhôngthíchhợpđểxét xử.Mọi thủ tục tốtụng chống lại ông đãđượcchínhthứcxóabỏtháng5năm2006.
Bacharudin JusufHabibie, còn gọi là
Rudy hoặc‘BJ’(5/1998–10/1999)
Gia đình Habibie làbạn bè của Suharto kểtừ khi con trai của họcòn nhỏ tuổi. Từ năm1953, gia đình này đãsangĐức, nơiHabibie(sinh năm 1936) đang
học ngành kỹ thuật vàlàm việc choMesserschmitt. Năm1974, Suharto đưaHabibie về Indonesiađể làm Bộ trưởng BộCôngnghiệp,phụtráchnhữngdựánđầu tưđểcó những bước nhảy
vọt về công nghệ cao.Giữa cuộc khủnghoảng tài chính châuÁ, Suharto đã phongHabibie là Phó Tổngthốngvàôngtađãtiếpnhận chức Tổng thốngkhiSuhartođãbịlậtđổtháng5năm1998.Ông
hyvọnggiữđượcvịtríTổngthốngnày,nhưngphải rời khỏi chínhtrường năm 1999 vìkhông được đảngGolkarủnghộ.
Abdurrahman Wahid,còn gọi là Gus Dur(1999–2001)
Cháu nội của ngườisáng lập tổ chức Hồigiáo lớn nhất Java,NahdlatulUlama(NU),và con trai của Bộtrưởng Nội vụ. Wahidsinh năm 1940, trởthànhChủtịchcủaNUgiữa thập niên 1980.
Ôngđãtăngcườngliênkết với những nhàchính trị Hồi giáo vàtạolậpmốiquanhệvớiSuharto. Trong nhữngnăm 1990, Wahid xâydựngmộtliênminhvớicongáicủaSukarnolàMegawatiSukarnoputri
trước khi tiến đếnmốiquan hệ với Suharto.Khi cuộckhủnghoảngtài chính châu Á xảyra, một lần nữa ôngnghiêng về phíaMegawati, sau đógiành được hỗ trợ từđảng Golkar của
Suharto để tranh cửTổng thống thànhcông. Tóm lại, Wahidlà người suynghĩ thấuđáo, nhưng theo chủnghĩa cơ hội và luônthèm khát quyền lực;ôngđãchọnMegawatilàm Phó Tổng thống.
Nhiệm kỳ Tổng thốngngắnngủi củaôngđặcđánh dấu bằng cácchuyến ra nước ngoàivànhiềuvụbêbốigợitrítòmò.
MegawatiSukarnoputri(July2001–2004)
Con gái cả củaSukarno, người kếnhiệm AbdurrahmanWahid để làm Tổngthống mà không phảitrải qua một cuộc bầucửnào.MegawatiđượcSuhartochophépbướcvào chính trị trong
những năm 1980 nhưmột phần của thửnghiệmnềndânchủđađảng.Bàkhôngphảilàtríthứcnêngiữanhữngnăm1990đã trở thànhtâm điểm cho sự chỉtrích của phe đối lậpvới Suharto. Là Tổng
thống, bà trực tiếpgiám sát việc sửa đổiHiến pháp cho phépcác cuộc bầu cử Tổngthống trực tiếp, nếukhông thì sẽ thất bạitrong việc ngăn chặnnạn tham nhũng hoặccung cấp định hướng
chochínhsáchkinhtế.Người chồng (thứ ba)của bà, doanh nhânTaufikKiemas,luônbịcáo buộc hưởng nhiềulợilộctừvịtrícủavợ.Megawati thất bạitrong cuộc tranh cửTổngthốngnăm2004.
Susilo BambangYudhoyono,còngọi làSBY(2004–)
Sinh năm 1949, vịTổng thống được bầutrực tiếp đầu tiên củaIndonesialàmộtngườilính đã thăng tiến đếncấp tướng dưới thời
Suharto. Do trước đâygần gũi chỉ huy quânđội Wiranto;Yudhoyonođãphụcvụmột số tour du lịch tạiĐông Timor và, cũngnhưWiranto,đãbịcáobuộc vi phạm nhânquyền, mặc dù ở quy
mônhỏ.Ôngbướcvàochínhtrườngnăm2000với tư cách làmột Bộtrưởng dưới thờiWahid. Dưới thờiMegawati,ôngtổchứccác danh mục đầu tưchứng khoán và làmhàilòngchínhphủHoa
Kỳvớilậptrườngcứngrắn của ông về “cuộcchiến chống khủngbố”. Năm 2004,Yudhoyono chạy đuagiành ghế cho Tổngthống. Trội hơn rấtnhiềusovớiMegawati,ông đã đề xuất các
chính sách rõ ràng vàdo đó giành chiếnthắng một cách dễdàng. Nền kinh tế cótăng trưởng kể từnhiệm kỳ tổng thốngcủa Yudhoyono, vàôngvẫncònđượcmếnmộ, nhưng ông không
thể hiện được một sựđộtphácănbảnchothểchế chính trị ởIndonesia.
NHỮNG NGƯỜIKHÁC
CON CÁI CỦASUHARTO
SigitHarjojudanto
Sigitlàcontraicả,sinhnăm1951.Ôngtahamcờ bạc đến mứcnghiêmtrọngvàchẳnghề để mắt đến việckinh doanh và thườngxuyên cãi lộn vớiSuharto. Ông thường
khởi tạo doanh nghiệpdựa trêncácgiấyphépđộc quyền cùng vớiđám bạn nối khố củaSuharto như LâmThiệu Lương và BobHasan (ví dụ, với haingười này, ông đã cóđộcquyềnvềviệcnhập
khẩu thiếc tấm). Sigitcũng có cổ phần trongTậpđoànHumpusscủaTommy Suharto và có17,5% cổ phần tạiNgânhàngTrungÁdoLâmThiệuLươngđiềuhành cho đến khi nósụp đổ vào năm 1998.
Năm 1996, Sigit đượcthuê làm tư vấn choCông ty khai thác mỏCanada BreX, trongkhi người chị SitiHardijanti Rukmana(còn được gọi là“Tutut”) hợp tác vớiBarrick Gold trong vụ
lừa đảo khét tiếng vềmỏvàngởBusang.
BambangTrihatmodjo
ContraigiữaBambangsinh năm 1953, thànhlập Tập đoànBimantara năm 1981cùng với anh rể của
mìnhlàIndraRukmana(chồng của Tutut) vàcác bạn bè khác.Bimantara đi vào kinhdoanhvậntải(baogồmcả độc quyền về hóadầu, (với phân bổ từcông ty dầu Pertaminacủa nhà nước), phát
thanhtruyềnhình,viễnthông và vệ tinh, ô tô(lắp ráp xe ôtôHyundai), điện vànhiều thứ nữa.Bambang bị mất mộtsố tài sản trong cuộckhủng hoảng tài chínhchâu Á và bán được
quyền lợi của mình ởBimantara cho HarryTanoesoedibjo. Ôngđược cho là có tài sảntrị giá hàng trăm triệuđôla.
Hutomo MandalaPutra, thường gọi làTommy
Con trai út Tommy,sinhnăm1962,chỉmớibướcvàokinhdoanhtừgiữa thập niên 1980với Tập đoàn Humpuscủa mình, trong đó cóđộc quyền về phânphối axit terephthalic(được sử dụng để làm
sợi polyester) vàmethanoldoPertaminasảnxuất.Sauđóanhtathu thập các hợp đồnglớn khác từ Pertaminavà đa dạng hóa đầu tưvào bất cứ cái gì màanh ta thích (bao gồmcả một đường đua
Công thức1ởngoạiôJakarta và tiếp quảnhãng sản xuất xe hơiLamborghini của Ý).Anh ta đã thành lậpmột liên doanh vớihãng KIA của HànQuốcđểlắprápxehơi(nhãn hiệu “Timor”).
Sau cuộckhủnghoảngtài chính châu Á, CơquanTáicấutrúcngânhàngcủaIndonesiachobiết các công ty củaTommycònnợhọ1tỷđôla. Anh ta là thànhviên duy nhất của giađình Suharto bị kết án
vìthamnhũng,lúcđầubị kết án 18 tháng tùhồi tháng 9 năm 2000vì có liên quan đếngian lận, và sau đó là15nămtùđốivớihànhvi phạm tội, bao gồmcả tổ chức ám sát cácthẩm phán, những
người đãkết án anh tatrong phiên tòa trướcđó.Tuynhiên,tộidanhgiết người đã đượcgiảmdoTommykhángcáo, và anh ta được ratùtháng10năm2006.
Siti HardijantiRukmana, được gọi là
Tutut
Con gái cả củaSuharto,vàcũnglàconlớnnhấttronggiađình,sinhnăm1949.BàkếthônvớiIndraRukmanavà cùng chồng gâydựng nhiều doanhnghiệp khác nhau, bao
gồmquảnlýđườngbộcó thu lệ phí, dầu, hóadầu, dịch vụ tài chính,nông nghiệp và truyềnhình, dựa trên cácnhượng bộ nhà nước.Bốchồngcủabà,EddiKowara, cũng pháttriểnPTTeknikUmum
thànhmột trongnhữngcông ty lớn nhất ởIndonesia dưới thờiSuharto, tham gia vàoxây dựng, kỹ thuật vàkinh doanh nói chung.Tutut mua 17,5% cổphần trong Ngân hàngTrung Á của Lâm
ThiệuLương.Bàđãcómột vị trí trong HộiđồngQuảntrịcủacôngtytaxiSteadySafenăm1998,khinókhôngtrảđược một khoản vayngắn hạn của Ngânhàng đầu tư PeregrineởHồngKông,dẫnđến
sự sụp đổ của nó saunày.TututlàBộtrưởngcông tác xã hội trongNội các lần cuối cùngcủachamình, từ tháng3 đến tháng 5 năm1998. Sau cuộc khủnghoảng tài chính châuÁ,bàvàchồngthuxếp
để giữ tài sản trị giáhàng trăm triệu đô laMỹ, bao gồm cả cácdoanh nghiệp ở nướcngoài. Hai người emgái làTitiekvàMamieđều có cổ phần ở cácdoanh nghiệp củaTutuk.
Siti Hedijanti Harijadi,thườnggọilàTitiek
Con gái thứ hai củaSuharto là Titiek, sinhnăm1959, kết hônvớiPrabowoSubianto,cựuchỉ huy lực lượng đặcbiệt và dự trữ chiếnlược, bị miễn nhiệm
saukhiSuhartosụpđổvìđãbắtcócvàtratấncác nhà hoạt độngchínhtrị.Titiekhợptácvới Tutut trong cácdoanh nghiệp khácnhau vào những năm1990,cũngnhưhợptácvới anh trai của
Prabowo là HashimDjojohadikusumo.
Siti Hutami EndangAdiningsih, còn đượcgọi là Mamie hoặcMimiek
Mamie,congáiút,sinhnăm 1964, có nhiều
công ty khác nhautrong các lĩnhvựcđồnđiền,vậntải,v.v...
PHILIPPINES
LịchsửchínhthứccủaPhilippinesghinhận14đời Tổng thống tínhđến năm 2007, Tổng
thống đầu tiên làEmilio Aguinaldo,ngườiđãlãnhđạocuộcnổi loạn chống lạiTâyBan Nha trước khichấpnhậnsựcaitrịcủangười Mỹ vào năm1901. Ông không baogiờđượccácchínhphủ
nướcngoài côngnhận.Các đời Tổng thốngkhácgồm:
Manuel L. Quezon(1935-44)
Huyết thốngpha trộn :Philippines Tây BanNhaTrungQuốc.Tổng
thống trong giai đoạncai trị cuối cùng củangườiMỹ.Ôngquađờitại HoaKỳ năm 1944,trong khi đang điềuhành một chính phủlưu vong. Đã tốtnghiệpđạihọcluật,đủđiều kiện là một luật
sư.
JoseLaurel(1943-5)
Được Tổng thốngQuezonchỉđịnhđểgiữManila trong suốt Thếchiến thứ hai, Laureltrở thành Tổng thốngtrongthờigianrấtngắn
của nước Cộng hòaPhilippines do NhậtBản bảo trợ cho đếnnăm1945.Sauđóôngthamgia tranhcử tổngthống năm 1949 trongđó thiết lập một tiêuchuẩnmớiđểđánhgiásựhối lộnhưngkhông
thành. Đủ điều kiện làmộtluậtsư.
Sergio Osmeña (1944-6)
Phó Tổng thống củachính phủ Quezo lưuvong, là Tổng thốngmột thờigianngắnkhi
trởvềPhilippinestrướckhi thất bại trong cuộcbầu cử Tổng thốngnăm 1946. Là ngườiPhilippines gốc Hoa,ông sinh ra trong mộtgiađìnhbốgiàcựckỳhùng mạnh ở Cebu.Con trai và cháu trai
của ông đã trở thànhThượng nghị sĩ vàThốngđốc,vàgiađìnhnàyhiệncóảnhhưởngđến họ hàng và lánggiềng tại quê nhà hơnbao giờ hết. Đủ điềukiệnlàmộtluậtsư.
Manuel Roxas (1946-
8)
Tổng thống đầu tiêncủanướccộnghòathờiđộc lập, chết khi đanglàm việc ở văn phòng.Đủ điều kiện là mộtluậtsư.
ElpidioQuirino (1948-
53)
LàPhóTổng thốngvàngười kế vị Roxas,chiến thắng trongcuộcbầu cử vào năm 1949.Nhiệm kỳ Tổng thốngcủaôngđặctrưngbằngsựtăngtrưởngkinhtế,tham nhũng và các
cuộc nổi dậy củanhữngngườicộngsản.Đủ điều kiện là mộtluậtsư.
Ramon Magsaysay(1953-7)
TổngthốngPhilippinesđầu tiên có nguồn gốc
bình dân, và cũng làTổng thống đầu tiênkhông đủ điều kiện làmột luật sư (mặc dùông cũng đã học luật).Ông đã tiến hành mộtchiến dịch thành côngchống lại sự nổi dậycủa những người cộng
sản, và qua đời trongmộttainạnmáybay.
CarlosP.Garcia(1957-61)
Phó Tổng thống củaMagsaysay, kế vịMagsaysaykhiôngquađời. Garcia điều hành
một chương trình nghịsự về dân tộc và tôngiáo, rútngắn thờihạncho Mỹ thuê căn cứquânsự,vàlậpphápđểbuộc những ngườiPhilippines gốc Hoakhông có quốc tịchphải ra khỏi thương
mại bán lẻ. Đủ điềukiệnlàmộtluậtsư.
Diosdado Macapagal(1961-5)
Phó Tổng thống củaGarcia, Macapagal đãđược bầu vào ủy banphòng chống tham
nhũng.Năm1961,ôngđãchophépđồngpesođược giao dịch tự dođốivớicác loại tiền tệkhác, dẫn đến sự mấtgiá lớn và thúc đẩyxuấtkhẩu.Hầuhếtcácbiệnphápcảicáchkinhtế của ông đã bị quốc
hội ngăn cản. Ông làcha của tổng thốngPhilippines hiện nay,Gloria MacapagalArroyo. Đủ điều kiệnlàmộtluậtsư.
Ferdinand Marcos(1965-86)
Sinh năm 1917 trongmột gia đình chính trịtại Ilocos Norte, cónguồn gốc tổ tiên phatrộn giữa Trung Quốc,Nhật Bản vàPhilippines. Ông từngbị kết tội trong vụ sáthại một trong những
đối thủ chính trị củacha mình vào năm1939,nhưngkhángcáothànhcôngtrướctòaántối cao và đã được thabổng. Năm 1954, ôngkết hôn với ImeldaMarcos Romualdez,xuất thân từ một gia
đình bố già tầm trung.Họsinhđượcbaconvànhận một con nuôi.Marcos có liên quanvớiítnhấtmườibảytrẻem bị cáo buộc là conbấthợppháp.
Ông tuyên bố đã từnglà một người lãnh đạo
kháng chiến chốngNhật chủ chốt và liênminh với Mỹ trongChiến tranh thế giớithứhai,cánhânđãgiếtđược nhiều quân Nhậtvà đã từng bị tra tấnmột thời gian dài.CáctàiliệumậtcủaMỹsau
đó đã chỉ ra rằng hầuhết các tuyên bố củaông là tưởng tượng.Marcos luôn khoekhoang thành tíchtrong chiến tranh củamình trong suốt cuộctranh cử Tổng thốngthành công năm 1965.
Lúc tại vị, ông đề caotăngtrưởngnhờđầutư,hứa sẽ trừng trị nhữngkẻ đầu sỏ chính trịtrong khu vực, và trởthành một đồng minhtrung thành của HoaKỳ (bằng cách gửiquân sang Việt Nam);
và ông tái đắc cử năm1969. Tuy nhiên, vàođầu nhiệm kỳ thứ haicủamình,cáccuộcnổidậy của những ngườicộng sản bùng lên vànền kinh tế suy yếu.Tháng 9 năm 1972,Marcos tuyên bố thiết
quân luật và ép mọingườitừbỏcáimàônggọi là“mộtphong tràoxãhộimới” (nóđã trởthành tên đảng củaông). Điều này làmngườitanhớlạichếđộ“Trật tự mới” củaSuharto ở Indonesia
(vàphong trào “xãhộimới” củaTrươngKhảiSiêu ở Trung Quốctrước năm 1949).Trong thực tế, Marcosđã tước quyền sở hữucủa một số đầu sỏchínhtrịmàôngkhôngưavàphânphối lại tài
sảncủahọchocácbạnnốikhốcủamình.
Năm 1981,Marcos dỡbỏlệnhthiếtquânluật,chạy đua trong cuộcbầucử,trongđókhôngcó chính đảng nào trừđảngcủaônglàứngcửviên, và tái đắc cửvới
91% số phiếu. Tuynhiên, nền kinh tế đãbắt đầu suy sụp. Nợnướcngoàitănggầnbamươi lần dưới thờiMarcos, và đất nướclâm vào một cuộc suythoái nghiêm trọngnăm1984.Cácnhàđầu
tư nướcngoài đãhoãnlạicácdựánbởivụámsátđốithủchínhtrịcủaMarcos là BenignoAquino.ChínhphủMỹbắt đầu rút hỗ trợ choMarcos và quân độichống lại ông. Năm1986,ôngđãchạytrốn
sang Mỹ và sống lưuvong. Di sản màMarcos để lại là hàngtrăm vụ giết ngườingoài vòng pháp luật,hàng tỷ đôla bị cướpđoạtkhỏicôngquỹ,vànhiều bố già đã làmnên vận may từ sự
nhượng bộ ông traochohọ.Marcosđủđiềukiệnlàmộtluậtsư.
MariaCojuangcoCorazonAquino(1986-92)
CũngđượcgọilàCoryAquino, là vợ của nhà
lãnh đạo đối lậpBenigno “NinoyAquino”, người bị ámsát tại sân bay Manilavàonăm1983khi ôngtrởvềtừcuộcsốnglưuvongtạiHoaKỳ.CoryAquinoxuấtthântừgiađình Cojuangco lai
Trung Quốc ở Tarlac,có một phái liên minhvớiMarcos.Nhiệm kỳTổngthốngcủabàphảiđối mặt với bảy âmmưu đảo chính và bàđã quyết định khôngchạy đua để được táiđắc cử năm 1992.
Aquino có học luậtnhưng bỏ dở nênkhông đủ điều kiện làmộtluậtsư.
Fidel V. Ramos (199-28)
Người phụ trách côngtácnhânsựcủaMarcos
vàlàngườiđãtuyênbốthiết quân luật năm1972.Việclykhaikhỏiđảng của ông rất quantrọng đối với việc lậtđổ chế độ độc tài.Ramos từng làm Bộtrưởng Quốc phòngcho Cory Aquino và
được bà ủng hộ tranhcử tổng thống.Vợôngxuất thân từ gia đìnhbố già ở Cebu làEmilioMarioOsmeña,thấtbạitrongcuộcbầucử của JosephEstrada,người trở thành PhóTổng thống của
Ramos. Không phảiluật sư cũng khôngphải là người cônggiáo, Ramos đã theođuổibinhnghiệp trướckhi bước vào chính trịvànhiệmkỳtổngthốngcủa ông đã phục hồiđượcsựmấtổnđịnhở
Philippines. Được gọilà “Eddie kiên định”,ông đã thực hiện mộtsố bãi bỏ quy định vàbiện pháp chống độcquyềnmàCoryAquinođãlẩntránh.
Joseph Estrada (1998-2001)
Làcontraicủamộtnhàthầu của chính phủ vàđồng thời là chính trịgia ở địa phương.Estradađãtừngbịđuổikhỏi trườngđạihọcvàtrởthànhmộtdiễnviênđiện ảnhhạngB thànhcông. Năm 1992, ông
làứngcửviênphụchongười bạn thân củaMarcos (và liên quanvới Cory Aquino) làEduardo 'Danding'Cojuangco trong cuộcđua giành vị trí TổngthốngvớiFidelRamos;Dandingbịthua,nhưng
Estrada thắng cử.Nhiệm kỳ Phó tổngthống này tạo tiền đềcho ông đạt tới đỉnhcaoquyềnlựcvàonăm1998, khi ông thựchiện một chiến dịchtruyền hình phổ biếnkiến thức dựa trên
những câu chuyện hưcấu của mình, là mộtcậubénghèotrởthànhngười thành công.Những người hậuthuẫnchoôngbaogồmcácbốgià kỳ cựunhưLucioTrầnvàDandingCojuangco.Cuộc tranh
cử của Estrada đã thấtbại và GloriaMacapagal Arroyogiành được ghế phótổng thống. Estradathường bị cáo buộctham nhũng chủ yếuliênquanđếncáobuộcthamgiavàocácdoanh
nghiệp cờ bạc bất hợppháp từ ngày đầu tiêncủa mình trong vănphòng, và trở thànhtổngthốngđầutiênđốimặtvớithủtụctốtụngnăm 2000. Phiên tòaxử một tổng thốngkhông bao giờ được
mở nhưng ông cũngbuộc phải rời vănphòng bởi có sự kếthợpgiữahuyđộngcáclực lượng chính trị vàcáccuộcbiểu tình trênđườngphố.
Gloria MacapagalArroyo(2001)
Là con gái của Tổngthốngnhữngnăm1960là DiosdadoMacapagal, MacapagalArroyo đã kế nhiệmJoseph Estrada vàonăm 2001, và tái đắccửnăm2004.Bàđượcđào tạo thànhmột nhà
kinh tế và làm giảngviên đại học trước khibước vào vào chínhtrường trong thập niên1990. MacapagalArroyo đã có một sốthành công trong việctăng doanh thu thuế,nhưng các phong trào
nổi dậy và các vụ giếtngườingoàivòngphápluật của các lực lượngnhà nước đã tăng lêntrongthờigianbànắmquyền (cá nhân bàkhôngcóliênquanđếnnhữngvụviệcnày).
HỒNGKÔNG
Từ18431997,phầnlớnthời gian Hồng Kôngđược cai trị bởi 28Thống đốc người Anhkế tiếp nhau. Hầu hếtcácThốngđốcgầnđâylà các nhà ngoại giaochuyên nghiệp của BộngoạigiaoAnh,vàcác
quan điểm của đảngBảothủđượcvậndụngđểthiếtlậpcơsởchínhtrịvàkinhtếchoHồngKông. Thống đốc gầnđây nhất, chính trị giaChris Patten, có hơikhác. Đến Hồng Kôngnăm 1992, Patten đưa
ra những cải cáchchính cho Hội đồngLập pháp thông quamởrộngnhượngquyềnkinh doanh ở các đơnvị bầu cử “chứcnăng”trong đó doanh nghiệpchiếm ưu thế. Kết quảlà, những cuộc bầu cử
trongnăm1995đã tạođiềukiệnchocácthànhviên Hội đồng Lậppháp đại diện chonguyện vọng của dânchúng Hồng Kông tốthơn trước.Patten cũngđã tạo ra một số thayđổi về chính sách xã
hội quan trọng và bãibỏquyđịnhtrongviễnthông. Năm 1997,Trung Quốc đã ngaylập tức đảo ngượcnhữngcảicáchdânchủcủa Patten, nhưngkhông thể đảo ngượcđượcviệcchínhtrịhóa
HồngKôngnóichung.
ĐổngKiếnHoa (TungChihwa)
Người được TrungQuốc chọn làm Đặckhu trưởng đầu tiêncủaHồngKông,nhưngĐổng Kiến Hoa, có
nguồngốcxuấtthântừmộtgiađìnhôngtrùm,hình như ngày càngkhông được côngchúngưa chuộng.Ôngbị cáo buộc tạo điềukiệnthuậnlợichotầnglớp bố già với các dựán công trình công
cộng lớn. Năm 2003,một sựkiện chưa từngcóđãxảy ra,nửa triệungười đãxuốngđườngbiểutìnhkhichínhphủcủaĐổngđangcốgắngthông quamột dự luậtchống lật đổ theo yêucầu của Bắc Kinh.
Đổng đã từ chức năm2005, lấy lý do sứckhỏe.
Donald Tsang (TằngẤmQuyền)
Là người kế nhiệm bốgià Đặc khu trưởngĐổngKiếnHoađầytai
tiếng. Tằng là mộtcôngchứcdânsựđượcchính quyền Anh nuôidưỡng. Ông được Ủyban bầu cử do BắcKinh kiểm soát “bầura” hồi tháng 3 năm2007. Tằng hứa sẽ đốiđầu với hai vấn đề
chính trị chủ yếu củaHồngKông làdânchủhóavàbãibỏquyđịnhđối với nền kinh tếtrong nước. Nhưngngười ta vẫn còn chờxemliệuôngcóđủbảnlĩnh chính trị để đápứng nguyện vọng của
ngườidânhaykhông.
MACAO
Sau khi được trao trảchủ quyền cho TrungQuốc vào năm 1999,Đặc khu trưởng đầutiên của Ma Cao làEdmund Ho Hauwah
(HàHậuHòa),contraicủaHàHạoHiền.
SINGAPORE
Gia đình Lý QuangDiệu(LeeKuanYew)
Harry Lý Quang Diệulà ngườiSingapore thế
hệ thứ tư, sinh năm1923,đãđượcgiađìnhgiáodục cẩn thận theotiêu chuẩn Anh. ÔngđãhọcởtrườngRaffles(phổ thông), Trườngcao đẳng Raffles vàcũng tốt nghiệp ngànhluật tại Đại học
Cambridge. TrongChiến tranh thế giớithứ hai, ông bắt đầuhọc tiếng Trung vàtiếng Nhật, làm phiêndịchchoquânđộiNhậtBản. Kinh nghiệmchínhtrịsớmcócủaLýlà làm cố vấn pháp lý
cho sinh viên và cácnghiệp đoàn. Năm1954,LývàbạnbèlậpraĐảngNhândânhànhđộng (PAP) một cuộchôn phối giữa lợi íchvàcácnghiệpđoànủnghộ phong trào cộngsản.LýlàTổngthưký,
được bầu vào uốc hộinăm 1955. Ông đượcban thưởng khi Thốngđốc thuộc địa cuốicùnglàLâmHữuPhúcbắtgiữđượcnhiềulãnhtụcộngsảntrongđảngcủaông.
Đảng Nhân dân hành
động thắng lợi trongcác cuộc bầu cử năm1959 và Lý trở thànhThủtướng.Ôngđãvậnđộng liên minh vớiMalaya,đànáppheđốilậpủnghộcộngsản,vàđưaSingaporegianhậpLiên bang Malaysia
vàotháng9năm1963.Mongmuốncủaônglàtrở thànhmột bộ phậncủamộttổngthểchínhtrị lớnhơn, có lẽ phảnánhviệcôngđãkhôngam hiểu nền kinh tếđặcbiệtcủaSingapore,cũng như Hồng Kông,
sẽluônluôntựtrởnêngiàu có nhờ buôn bántrong khu vực và cácdòng tiền hợp phápcũngnhưbấthợppháp.Cái tôi bản ngã và lợiích của PAP và Tổchức Quốc gia Malaythống nhất không bao
giờcóthểdunghòa,vàsau các cuộc bạo loạnchủng tộc đẫm máuvào năm 1964,Singapore đã ra khỏiliên bang vào năm1965.
Với tư cách là Thủtướng, nhưngLý được
cho là người quản lýquáchi tiết,cảvềkinhtế và dân số. Ông đãphát động các chiếndịch học tiếng Anh,tiếng Quan Thoại, kếhoạch hóa gia đình đểcóconíthơn.Sauđólàrấtnhiềuvănbảndưới
luật về xịt rửa nhà vệsinh, buông rèm cửa;và thành lập Cơ quanphát triển xã hội đểgiúp các trí thức tìmbạnđời.Quanđiểmvềchủng tộc của Lýtương tự như của mộtbộphậntầnglớptrênở
nước Anh cuối thờiVictoria và Edward,những người đã gianhập các tổ chức nhưLeague Primrose (HộiHoan lạc) và EugenicsSociety (Hội ưu sinh).Logo của đảng Nhândân hành động có nét
hao hao kỳ lạ như củaLiên đoàn phátxítAnhcủaOswaldMosley,vàcó lẽ chịu ảnh hưởngcủa tổ chức này. Năm1990,saubảylầnthắngcử, Lý đã rời khỏichiếcghếThủtướngvàđược mời làm “Bộ
trưởngcaocấp”.
Tháng8năm2004,LýHiển Long, người contrai lớn của Lý QuangDiệu, trở thành thủtướng thứ ba củaSingapore,vàHarryLýđược tôn lên là Bộtrưởng Cố vấn. Hành
động đáng chú ý nhấtcủa Lý Hiển Long làhợppháphóangànhcờbạc – từ lâu đã bịnhữngngườiSingaporecó lương tri phản đốivà cấp giấy phép chohai khu nghỉ dưỡngkiêm sòng bạc rất lớn.
Ông ta nói rằng, nhànướccầntiền.
Vợ của Hiển Long làHàTinh,mộtnữkỹsưđiện đã tốt nghiệpĐạihọc Quốc gia và ĐạihọcStanford.Đầutiên,bà làm việc tại BộQuốcphòngSingapore,
và sau đó là Tập đoànSingaporeTechnologies do nhànướcsởhữu, trở thànhGiám đốc điều hànhnăm 1995; và hiệnđang đứng đầu Cơquan đầu tư của nhànước là Temasek. Hà
Tinh đã phục vụ trongnhiều ban, ngành củachínhphủ,baogồmỦyban Phát triển kinh tế,Hội đồng sản xuất vàHội đồng khoa học vàcông nghệ củaSingapore.
Lý Hiển Dương, con
trai thứ của Lý QuangDiệu là một kỹ sư đãtốt nghiệp Đại học kỹthuật Cambridge, thamgia doanh nghiệp nhànước là SingaporeTelecom(SingTel)vàonăm 1994, và nhanhchóng trở thành Giám
đốcđiềuhànhởđộtuổikhoảng30.Giữanhữngnăm 1990, SingTelchiếmkhoảngmộtnửavốn chứng khoán củaSingapore. Lý bắt đầumột chương trình muacác doanh nghiệp ởphạm vi quốc tế, gần
đây nhất là doanhnghiệp viễn thông củabố già Thái Lan đã bịlật đổ ThaksinShinawatra,một doanhnghiệp được cho làthualỗrấtlớntrêngiấytờvàocuốinăm2006.
CongáicủaLýQuang
Diệu là Lý Vi Linhhiện đang điều hànhViện Khoa học thầnkinh quốc giaSingapore.GiađìnhLýgiữ gìn danh tiếng củahọ rất cẩn thận, và họkhông bao giờ thuatrong bất kỳ phiên tòa
xét xử về tội phỉ bángnào ở các tòa ánSingapore.
PHỤLỤC
Ebookmiễnphítại:
www.Sachvui.Com
Tạo ebook: Tô HảiTriều
Ebook thực hiện dànhchonhữngbạnchưacóđiềukiệnmuasách.
Nếubạn cókhảnăng
hãymua sách gốc đểủnghộ tácgiả,ngườidịchvàNhàXuấtBản