130
LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay

LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

  • Upload
    others

  • View
    6

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

LUẬN VĂN:

Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp

luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại

Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay

Page 2: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và hội nhập quốc tế, vấn đề bảo hộ quyền sở

hữu trí tuệ (QSHTT) trở nên đặc biệt quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của các

quốc gia trong quan hệ kinh tế quốc tế. Trên thực tế, ở Việt Nam chưa bao giờ vấn đề bảo

hộ QSHTT lại được coi trọng như hiện nay. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa

(CNH, HĐH) đất nước với rất nhiều cơ hội và thách thức đòi hỏi chúng ta phải có cơ chế,

chính sách thúc đẩy hoạt động sáng tạo và bảo hộ QSHTT. Việc thể chế hoá các quan

điểm, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về sở hữu trí tuệ (SHTT), xây dựng cơ

chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu là những yếu tố quan trọng, mang tính quyết định đến sự

thành công của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi Việt Nam là thành viên

của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Theo tinh thần của Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02-01-2002 của Bộ Chính trị

"Về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị quyết số 48-

NQ/TW ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020", thì việc hoàn thiện pháp

luật bảo hộ QSHTT, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng

mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ QSHTT phù hợp yêu cầu của WTO và các

điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là việc làm cấp bách. Báo cáo của Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10-4-2006 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển

kinh tế - xó hội 5 năm 2006-2010 cũng khẳng định:

Thực hiện tốt Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ, đổi

mới quản lý nhà nước đối với thị trường khoa học, công nghệ; khuyến khích,

hỗ trợ các hoạt động khoa học và công nghệ theo cơ chế thị trường; bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ đối với các công trỡnh khoa học và hoạt động sáng tạo

[33].

Việc ban hành đồng bộ những văn bản quy phạm pháp luật về SHTT như Bộ luật

dân sự (BLDS), Luật SHTT, Luật chuyển giao công nghệ và các luật có liên quan như

Page 3: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Luật khoa học và công nghệ, Luật hải quan, Luật thương mại, Luật cạnh tranh, Bộ luật tố

tụng dân sự (BLTTDS)… để tham gia các điều ước quốc tế, thực hiện các yêu cầu gia

nhập WTO là những nỗ lực lớn lao của Chính phủ Việt Nam nhằm tạo hành lang pháp lý

cho việc bảo hộ QSHTT. Có thể nói rằng, chúng ta đã ban hành được một hệ thống văn

bản quy phạm pháp luật về nội dung điều chỉnh về lĩnh vực SHTT. Tuy nhiên, pháp luật về

thủ tục bảo vệ QSHTT cũng như thực tiễn giải quyết các xâm phạm về QSHTT tại Tòa án

nhân dân (TAND) còn nhiều bất cập. Trờn thực tế, tỡnh hỡnh vi phạm về QSHTT diễn ra

ngày càng phổ biến, trờn khắp đất nước, nhưng trái ngược với thực tiễn đó, các xâm phạm về

QSHTT lại ít được giải quyết bằng một phán quyết của Toà án. Theo thống kê của Tũa án

nhân dân tối cao (TANDTC) thỡ từ năm 2000 đến năm 2005, toàn ngành Toà án thụ lý để

giải quyết 93 vụ tranh chấp về QSHTT theo thủ tục tố tụng dân sự (bao gồm 32 vụ về

quyền tác giả (QTG), 18 vụ về quyền liên quan đến QTG, 43 vụ tranh chấp về quyền sở

hữu công nghiệp (QSHCN), trong đó: 11 vụ về QTG, 22 vụ về QSHCN, đây là điều bất

hợp lý, cần sớm tỡm ra nguyờn nhõn và lý giải nguyờn nhõn đó.

Trong thời gian qua đó cú một số cụng trỡnh nghiờn cứu liờn quan về QSHTT.

Tuy nhiờn, cỏc cụng trỡnh đó mới chỉ nghiên cứu ở cấp độ lý luận về nội dung QSHTT,

về hoạt động xét xử nói chung của TAND hoặc nghiờn cứu về nõng cao vai trũ và năng

lực của TAND trong việc thực thi QSHTT, các công trỡnh nghiờn cứu đó chưa chuyên

sâu vào hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Trước tình hình đó, tác

giả đó chọn đề tài: "Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay" để làm luận văn tốt

nghiệp cao học luật, chuyên ngành lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Trên thế giới, vấn đề bảo hộ QSHTT nói chung và thủ tục bảo hộ QSHTT tại

TAND nói riêng đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu. Tuy nhiên, ở Việt Nam, vấn đề

này còn khá mới mẻ cả về lý luận và thực tiễn, vì vậy, việc nghiên cứu về QSHTT đã và

đang được giới luật gia hết sức quan tâm. Trong những năm gần đây, đã có một số công

trình tiêu biểu như sau: "Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc tế" do

Tiến sĩ Đặng Quang Phương biên soạn, Nxb Tư pháp, Hà Nội, 2005; "Đổi mới và hoàn

thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ" do Tiến sĩ, Luật sư Lê Xuân Thảo biên soạn, Nxb Tư

Page 4: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

pháp, Hà Nội, 2005; "Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án trong việc thực thi quyền

sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp bộ, Viện Khoa học xét xử, TANDTC chủ trì, 1999; "Đổi mới và hoàn thiện cơ

chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở

Việt Nam", Luận án tiến sĩ luật học của Lê Xuân Thảo, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ

Chí Minh, 1996...

Bên cạnh đó còn có một số tài liệu hội thảo khoa học có liên quan như: Tài liệu

hội thảo về đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm cấp quốc gia về "Cơ chế thực thi pháp

luật về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam" (mã

số QGTĐ.03.05) do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện; Tài liệu hội thảo về thực thi

Luật SHTT do Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID), Dự án Hỗ trợ thúc đẩy

thương mại (STAR VIETNAM) và TANDTC tổ chức, tháng 8-2006…

Nhìn chung, các công trình nêu trên đã đề cập đến việc đổi mới và hoàn thiện cơ chế

điều chỉnh pháp luật về SHTT trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, trong đó có đề cập

đến việc nghiên cứu cơ chế quản lý và thực thi SHTT, nội dung quản lý nhà nước về SHTT

bằng pháp luật; về vị trí, vai trò của Toà án trong việc bảo vệ QSHTT… Các công trình

nghiên cứu khoa học nêu trên là cơ sở khoa học để tác giả kế thừa và phát triển trong đề

tài nghiên cứu của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Vấn đề về bảo hộ và thực thi QSHTT có đối tượng và phạm vi nghiên cứu rất

rộng, nội dung phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật như dân sự, thương mại,

hành chính, hình sự...; do đó, nếu muốn nghiên cứu một cách toàn diện thì đòi hỏi phải có

sự đầu tư nghiên cứu kiến thức liên quan đến nhiều ngành luật khác nhau. Tuy nhiên, với

một luận văn tốt nghiệp cao học luật, tác giả chỉ giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên

cứu ở cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND

Việt Nam hiện nay, trong đó tập trung làm rõ thực trạng và vai trò giải quyết tranh chấp

QSHTT của TAND theo thủ tục tố tụng dân sự, đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp

luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

4. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Page 5: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

* Mục đích:

Vấn đề bảo hộ, thực thi QSHTT có thể được nghiên cứu dưới nhiều góc độ, với

nhiều mục đích nhằm giải quyết các vấn đề trong mối quan hệ pháp luật giữa các cơ quan

quản lý nhà nước và cơ quan tư pháp về bảo hộ QSHTT. Bằng việc đề xuất những giải

pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, luận văn góp phần làm rõ

cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND Việt

Nam hiện nay.

* Nhiệm vụ:

Từ mục đích nêu trên, luận văn có nhiệm vụ sau:

- Làm rõ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ tục

bảo vệ QSHTT tại TAND;

- Phân tích thực trạng pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT và vai trò giải quyết

tranh chấp QSHTT tại TAND;

- Đề xuất một số giải pháp có cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về

thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, trên cơ sở lý luận của khoa học chuyên ngành về

SHTT, đồng thời vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về phát

triển khoa học - công nghệ và SHTT trong các văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chung của triết học duy vật biện chứng

và duy vật lịch sử như: phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp kết hợp giữa lý luận với

thực tiễn, phương pháp phân tích, tổng hợp và sử dụng số liệu thống kê, phương pháp so

sánh luật, trên cơ sở xem xét tính phổ biến của pháp luật trong khu vực cũng như pháp

luật trên thế giới về bảo vệ QSHTT tại hệ thống Toà án.

6. Những đóng góp mới của luận văn

Trong lĩnh vực bảo hộ QSHTT, việc bảo vệ QSHTT tại TAND bằng các hình

thức nào, trình tự thủ tục ra sao, thực tiễn như thế nào... chưa được nghiên cứu, đây là

Page 6: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

công trình nghiên cứu đầu tiên về cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về thủ

tục bảo vệ QSHTT tại TAND ở nước ta trong tình hình hiện nay. Luận văn góp phần

hoàn thiện cơ sở lý luận về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND; phân tích thực trạng pháp

luật về trình tự, thủ tục tố tụng (hành chính, hình sự, dân sự) và phân tích thực trạng giải

quyết các vụ án về QSHTT tại TAND, nêu ra những ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân

của chúng; từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ

QSHTT tại TAND.

7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là một công trình nghiên cứu có hệ thống về lý luận và thực tiễn hoàn

thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND Việt Nam. Luận văn có ý nghĩa góp

phần tăng cường pháp chế về lĩnh vực SHTT và đổi mới, hoàn thiện pháp luật về thủ tục

bảo vệ QSHTT tại TAND Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể làm tài liệu cho những

người quan tâm nghiên cứu về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Những đề xuất có thể

tham khảo trong việc hoàn thiện pháp luật, hướng dẫn thi hành pháp luật và nâng cao

hiệu quả bảo vệ QSHTT tại TAND.

8. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn

gồm 3 chương, 8 tiết.

Page 7: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Chương 1

những vấn đề lý luận

về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

1.1. những vấn đề lý luận chung về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

1.1.1. Khái niệm quyền sở hữu trí tuệ

Những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo được

thừa nhận là tài sản trí tuệ. Tài sản trí tuệ thường tồn tại dưới dạng những thông tin kết

hợp chặt chẽ với nhau, được thể hiện trong những vật thể hữu hình và bản thân vật mang

thông tin đó có khả năng xuất hiện trong cùng một thời điểm với số lượng bản sao không

giới hạn ở những địa điểm khác nhau trên thế giới. Quyền sở hữu trong trường hợp này

không phải là quyền sở hữu bản thân các bản sao hữu hình mà chính là quyền sở hữu

hình thức thể hiện những thông tin chứa đựng trong các bản sao đó [40].

Tài sản trí tuệ có khả năng chia sẻ và mang tính xã hội rất cao. Mỗi thành quả

được tạo ra từ hoạt động trí tuệ của con người sẽ đem đến cho toàn xã hội, toàn nhân loại

những giá trị mới về tinh thần, về tri thức. Thuộc tính vô hình của loại tài sản này khiến

cho việc sử dụng, khai thác sản phẩm trí tuệ từ người này không làm hao giảm hoặc ảnh

hưởng đến việc sử dụng của người khác cũng như của những người sáng tạo ra chúng. Vì

vậy, tài sản trí tuệ sẽ đem lại lợi ích hoặc về khía cạnh tinh thần và tri thức hoặc khía

cạnh kinh tế cho mọi người và toàn xã hội. Tuy nhiên, cũng xuất phát từ tính đặc biệt này

của tài sản trí tuệ nên nó không thể bị chiếm hữu về mặt thực tế, song khả năng lan

truyền sự chiếm hữu đó lại rất nhanh và rất khó kiểm soát. Mặt khác, khi đã được công

bố, nó cũng dễ dàng bị sao chép, sử dụng và khai thác một cách rộng rãi ở bất kỳ nơi nào

bởi bất kỳ ai... [50].

Tuy những thành quả do trí tuệ con người tạo ra thông qua hoạt động sáng tạo

mặc nhiên được thừa nhận là tài sản trí tuệ, nhưng cần phải phân biệt giữa QSHTT và

quyền sở hữu tài sản. Nếu như quyền sở hữu tài sản bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử

dụng, quyền định đoạt của chủ sở hữu, thì QSHTT có nội hàm rộng hơn. Theo khái niệm

Page 8: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chung nhất, trong Công ước thành lập Tổ chức Sở hữu trí tuệ Thế giới (WIPO) ký tại

Stockholm ngày 14-7-1967:

Quyền sở hữu trí tuệ bao gồm các quyền liên quan đến các tác phẩm

văn học, nghệ thuật và khoa học, các sáng chế trong các lĩnh vực hoạt động

của con người, các khám phá khoa học, các kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu

hàng hoá, nhãn hiệu dịch vụ, tên và chỉ dẫn thương mại, bảo hộ chống cạnh

tranh không lành mạnh cũng như tất cả các quyền khác bắt nguồn từ các hoạt

động trí tuệ trong các lĩnh vực công nghiệp, khoa học, văn học hay nghệ thuật

[18].

Theo đó, người ta phân biệt đối tượng QSHTT gồm: các tác phẩm văn học, nghệ

thuật và khoa học; các chương trình biểu diễn, phát thanh, ghi âm, truyền hình...; sáng

chế/giải pháp hữu ích; kiểu dáng công nghiệp; nhãn hiệu hàng hoá; tên thương mại; tên gọi

xuất xứ hàng hoá, chỉ dẫn địa lý; bí mật kinh doanh; thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn;

giống cây trồng mới; chống cạnh tranh bất hợp pháp. Hai nhóm phổ biến nhất của QSHTT

là QTG và quyền sở hữu công nghiệp (QSHCN). Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của

khoa học - kỹ thuật, thì các quyền mới như thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, các quyền

về giống cây trồng mới cũng được pháp luật bảo hộ như các tài sản trí tuệ.

Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam, chính sách SHTT ngày càng được củng cố và phát triển. Bên cạnh

đó, việc hoàn thiện về hệ thống, về tổ chức cũng như năng lực các cơ quan quản lý nhà

nước về SHTT là một trong những mục tiêu bước đầu đã đạt được. Nhà nước Việt Nam

công nhận quyền sở hữu tư nhân đối với các đối tượng QSHTT, coi trọng chính sách pháp

luật về bảo hộ QSHTT, coi đó là một chính sách quan trọng trong chiến lược phát triển

lâu dài. Với mục tiêu xây dựng một hệ thống bảo hộ QSHTT đầy đủ, hiện đại và có hiệu

quả nhằm thúc đẩy sáng tạo khoa học, công nghệ và kinh doanh của xã hội, thu hút đầu

tư nước ngoài, đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế nhằm thực hiện công cuộc CNH,

HĐH đất nước, Điều 60 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Công dân có quyền nghiên cứu

khoa học, kỹ thuật, phát minh, sáng chế, sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất,

sáng tác, phê bình văn học, nghệ thuật và tham gia các hoạt động văn hoá khác. Nhà nước

bảo hộ quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp" [34]. Việc "hoàn thiện pháp luật bảo hộ

Page 9: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng

mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu

của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên" [30] và việc "hoàn thiện

pháp luật về khoa học công nghệ... thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ" [30] là

một trong những định hướng được nêu tại mục 3 phần II của Nghị quyết số 48-NQ/TW

ngày 24-5-2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp

luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020.

Trên bình diện chung, thực chất của quá trình cải cách kinh tế của Việt Nam

nhằm hướng đến xây dựng hệ thống thị trường toàn diện theo nguyên lý của kinh tế thị

trường (điều kiện quan trọng để hội nhập kinh tế toàn cầu và gia nhập WTO). Có thể nói

rằng, từ năm 1986 đến nay, Chính phủ Việt Nam đã thể hiện sự quyết tâm "mở cửa" để

gia nhập WTO và việc gia nhập WTO đang được thực hiện theo đúng lộ trình.

Theo pháp luật Việt Nam, QSHTT là chế định pháp luật dân sự, thuộc quan hệ

pháp luật dân sự, trong đó các yếu tố cấu thành bao gồm chủ thể, khách thể và nội dung.

QSHTT là một phạm trù pháp lý trong quyền sở hữu dân sự nói chung, giống như các

quyền dân sự khác, các quy phạm pháp luật về QSHTT bao gồm những nhóm quy phạm

về: các hình thức sở hữu; căn cứ phát sinh, chấm dứt quyền sở hữu; cách thức, biện pháp

dịch chuyển quyền sở hữu và bảo vệ quyền sở hữu. Tuy nhiên, QSHTT là quyền sở hữu

đối với tài sản vô hình, là các sản phẩm sáng tạo của trí tuệ con người; do đó, nội dung

của QSHTT không hoàn toàn giống quyền sở hữu tài sản hữu hình khác do thuộc tính của

đối tượng sở hữu. Vì vậy, quyền năng quan trọng nhất của nội dung QSHTT là quyền sử

dụng các đối tượng SHTT. Theo cách hiểu tổng quát thì QSHTT là một phạm trù pháp lý,

là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ SHTT.

Trong Luật SHTT, "quyền sở hữu trí tuệ" được định nghĩa như sau: "Quyền sở

hữu trí tuệ là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tài sản trí tuệ, bao gồm quyền tác giả và

quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp và quyền đối với giống cây

trồng" (khoản 1 Điều 4) [64]. Trong Hiệp định TRIPs, thuật ngữ "quyền sở hữu trí tuệ"

đề cập đến tất cả các loại tài sản trí tuệ là đối tượng được ghi nhận từ Điều 1 đến Điều 7

của Phần 2: QTG và các quyền liên quan (Điều 1); nhãn hiệu hàng hoá (Điều 2); chỉ dẫn

địa lý (Điều 3); kiểu dáng công nghiệp (Điều 4); sáng chế (Điều 5); thiết kế bố trí mạch

Page 10: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

tích hợp (Điều 6); bảo hộ thông tin bí mật (Điều 7).

* Quyền tác giả:

Thuật ngữ "tác giả" có nguồn gốc Hán Việt, "tác" có nghĩa là "làm", cũng có

nghĩa là "sáng tác tác phẩm", "giả" có nghĩa là "kẻ, người", cho nên "tác giả" có nghĩa là

"người làm ra một tác phẩm, người tạo nên một tác phẩm". Như vậy, tác giả được hiểu là

người sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật của mình để trực tiếp sáng tạo

tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học hoặc tác phẩm phái sinh.

Theo quy định tại Điều 745 của BLDS năm 1995, "tác giả" là người trực tiếp

sáng tạo toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học. Người dịch tác

phẩm từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác là tác giả tác phẩm dịch đó; người phóng tác

từ tác phẩm đã có, người cải biên, chuyển thể tác phẩm từ loại hình này sang loại hình

khác, là tác giả của tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể đó; người biên soạn, chú

giải, tuyển chọn tác phẩm của người khác thành tác phẩm có tính sáng tạo, là tác giả của

tác phẩm biên soạn, chú giải, tuyển chọn đó cũng được công nhận là tác giả.

Có thể nói rằng, khái niệm này chưa có tính khái quát, mới mang tính thống kê

nhưng không đầy đủ. Khái niệm "tác giả" đã được hoàn thiện hơn tại Điều 736 của BLDS

năm 2005; theo đó, người sáng tạo tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học (sau đây gọi

chung là tác phẩm) là tác giả của tác phẩm đó; trong trường hợp có hai người hoặc nhiều

người cùng sáng tạo ra tác phẩm thì những người đó là các đồng tác giả; người sáng tạo

ra tác phẩm phái sinh từ tác phẩm của người khác, bao gồm tác phẩm được dịch từ ngôn

ngữ này sang ngôn ngữ khác, tác phẩm phóng tác, cải biên, chuyển thể, biên soạn, chú

giải, tuyển chọn là tác giả của tác phẩm phái sinh đó. Theo chúng tôi, việc đưa khái niệm

tác giả vào BLDS năm 2005 là hoàn toàn cần thiết và phù hợp với thông lệ quốc tế. Khi

được công nhận là tác giả thì sẽ có quyền tương ứng gọi là QTG. QTG là một trong

những quyền con người được quy định trong Tuyên ngôn chung về Nhân quyền và tại

các Thỏa ước quốc tế của Liên Hợp Quốc, đồng thời QTG cũng là một quyền pháp lý rất

quan trọng nhằm bảo hộ các tác phẩm văn học, nghệ thuật [66, tr. 10]. Tác phẩm văn học,

nghệ thuật là tất cả các sản phẩm sáng tạo của con người để làm giàu cho trí tuệ và tâm

hồn con người, bao gồm tất cả các loại hình văn học (như: tiểu thuyết, thơ, kịch bản...),

Page 11: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

các loại hình nghe nhìn (như: hội họa, âm nhạc, điện ảnh...) và các thành quả nghiên cứu

khoa học.

Luật SHTT định nghĩa: "Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác

phẩm do mỡnh sỏng tạo ra hoặc sở hữu" (khoản 2 Điều 4) [64]. QTG bao gồm quyền

nhân thân và quyền tài sản. Quyền nhân thân bao gồm các quyền: đặt tên cho tác phẩm;

đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm; được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm

được công bố, sử dụng; công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm;

bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc

tác phẩm dưới bất kỳ hỡnh thức nào gõy phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả

(Điều 19 của Luật SHTT). Quyền tài sản bao gồm các quyền: làm tác phẩm phái sinh;

biểu diễn tác phẩm trước công chúng; sao chép tác phẩm; phân phối, nhập khẩu bản gốc

hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến,

vô tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác; cho thuê bản

gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trỡnh mỏy tớnh. Các quyền quy định tại khoản

1 Điều 19 của Luật SHTT do tác giả, chủ sở hữu QTG độc quyền thực hiện hoặc cho

phép người khác thực hiện theo quy định của Luật này. Tổ chức, cá nhân khi khai thác,

sử dụng một, một số hoặc toàn bộ các quyền quy định tại khoản 1 và khoản 3 Điều 19

của Luật SHTT phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi vật chất khác

cho chủ sở hữu QTG.

Đối tượng QTG bao gồm mọi sản phẩm sáng tạo trong các lĩnh vực văn học,

nghệ thuật, khoa học được thể hiện dưới bất kỳ hình thức và bằng bất kỳ phương tiện

nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ thủ tục nào (Điều

737 của BLDS năm 2005). Đó là quyền đối với tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu;

đối với chương trỡnh mỏy tớnh, sưu tập dữ liệu; đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật

dân gian; đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học (các điều 21, 22, 23 và Điều

24 của Luật SHTT).

* Quyền liên quan đến quyền tác giả:

"Quyền liên quan đến quyền tác giả (sau đây gọi là quyền liên quan) là quyền của tổ

chức, cá nhân đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hỡnh, chương trỡnh phỏt súng, tớn

Page 12: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

hiệu vệ tinh mang chương trỡnh được mó húa" (khoản 3 Điều 4 của Luật SHTT) [64].

Đối tượng quyền liên quan bao gồm cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hỡnh,

chương trỡnh phỏt súng, tớn hiệu vệ tinh mang chương trỡnh được mó hoỏ. Quyền liờn

quan phỏt sinh kể từ khi cuộc biểu diễn, bản ghi õm, ghi hỡnh, chương trỡnh phát sóng,

tín hiệu vệ tinh mang chương trỡnh được mó hoỏ được định hỡnh hoặc thực hiện mà

khụng gõy phương hại đến QTG. Nếu như QTG bao gồm quyền nhõn thõn và quyền tài

sản thỡ quyền liờn quan tựy thuộc vào từng trường hợp cụ thể. Đối với cuộc biểu diễn

nếu người biểu diễn đồng thời là chủ đầu tư thỡ cỏc quyền nhõn thõn bao gồm các quyền:

được giới thiệu tên khi biểu diễn, khi phát hành bản ghi âm, ghi hỡnh, phỏt súng cuộc

biểu diễn; bảo vệ sự toàn vẹn hỡnh tượng biểu diễn, không cho người khác sửa chữa, cắt

xén hoặc xuyên tạc dưới bất kỳ hỡnh thức nào gõy phương hại đến danh dự và uy tín của

người biểu diễn. Về quyền tài sản bao gồm độc quyền thực hiện hoặc cho phép người

khác thực hiện các quyền: định hỡnh cuộc biểu diễn trực tiếp của mỡnh trờn bản ghi õm,

ghi hỡnh; sao chộp trực tiếp hoặc giỏn tiếp cuộc biểu diễn của mỡnh đó được định hỡnh

trờn bản ghi õm, ghi hỡnh; phỏt súng hoặc truyền theo cỏch khỏc đến công chúng cuộc

biểu diễn của mỡnh chưa được định hỡnh mà cụng chỳng cú thể tiếp cận được, trừ trường

hợp cuộc biểu diễn đó nhằm mục đích phát sóng; phân phối đến công chúng bản gốc và

bản sao cuộc biểu diễn của mỡnh thụng qua hỡnh thức bỏn, cho thuờ hoặc phõn phối

bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Trường hợp

người biểu diễn không đồng thời là chủ đầu tư, thỡ người biểu diễn có các quyền nhân

thân và chủ đầu tư có các quyền tài sản đối với cuộc biểu diễn. Đối với bản ghi âm, ghi

hỡnh cú độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các quyền sao chép

trực tiếp hoặc giỏn tiếp bản ghi õm, ghi hỡnh của mỡnh; phõn phối đến công chúng bản

gốc và bản sao bản ghi âm, ghi hỡnh của mỡnh thụng qua hỡnh thức bỏn, cho thuờ hoặc

phõn phối bằng bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được. Đối

với việc phát sóng có độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện các

quyền: phát sóng, tái phát sóng chương trỡnh phỏt súng của mỡnh; phõn phối đến công

chúng chương trỡnh phỏt súng của mỡnh; định hỡnh chương trỡnh phỏt súng của mỡnh;

sao chộp bản định hỡnh chương trỡnh phỏt súng của mỡnh.

* Quyền sở hữu công nghiệp:

Page 13: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

"Quyền sở hữu công nghiệp là quyền của tổ chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu

dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn, nhón hiệu, tờn thương mại, chỉ

dẫn địa lý, bớ mật kinh doanh do mỡnh sỏng tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh

tranh khụng lành mạnh" (khoản 4 Điều 4 của Luật SHTT) [64].

Đối tượng QSHCN bao gồm sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí

mạch tích hợp bán dẫn, bí mật kinh doanh, nhón hiệu, tờn thương mại và chỉ dẫn địa lý.

QSHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhón hiệu, chỉ dẫn địa

lý được xác lập trên cơ sở quyết định cấp văn bằng bảo hộ của cơ quan nhà nước có thẩm

quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật SHTT hoặc công nhận đăng ký quốc tế theo

quy định của điều ước quốc tế mà Cộng hoà xó hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.

Đối với nhón hiệu nổi tiếng, quyền sở hữu được xác lập trên cơ sở sử dụng, không phụ

thuộc vào thủ tục đăng ký. Đối với tên thương mại được xác lập trên cơ sở sử dụng hợp

pháp tên thương mại đó và đối với bí mật kinh doanh được xác lập trên cơ sở có được

một cách hợp pháp bí mật kinh doanh và thực hiện việc bảo mật bí mật kinh doanh đó.

* Quyền đối với giống cây trồng

Giống cây trồng là quần thể cây trồng thuộc cùng một cấp phân loại

thực vật thấp nhất, đồng nhất về hỡnh thỏi, ổn định qua các chu kỳ nhân

giống, có thể nhận biết được bằng sự biểu hiện các tính trạng do kiểu gen hoặc

sự phối hợp của các kiểu gen quy định và phân biệt được với bất kỳ quần thể

cây trồng nào khác bằng sự biểu hiện của ít nhất một tính trạng có khả năng di

truyền được (khoản 24 Điều 4 của Luật SHTT) [64].

Quyền đối với giống cây trồng là quyền của tổ chức, cá nhân đối với giống cây

trồng mới do mỡnh chọn tạo hoặc phỏt hiện và phát triển hoặc được hưởng quyền sở hữu.

Đối tượng quyền đối với giống cây trồng là giống cây trồng và vật liệu nhân giống.

Quyền đối với giống cây trồng được xác lập trên cơ sở quyết định cấp Bằng bảo hộ giống

cây trồng của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo thủ tục đăng ký quy định tại Luật

SHTT.

BLDS năm 2005 có bổ sung quyền đối với giống cây trồng và bảo hộ như các tài

sản trí tuệ khác. Giống cây trồng được bảo hộ độc lập, không nằm trong các đối tượng

Page 14: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

QSHCN, nó được bảo hộ nếu có tính khác biệt (mới), tính đồng nhất (tính trạng biểu hiện

như nhau của các cây cùng giống), tính ổn định (các tính trạng không thay đổi qua nhân

giống) và tính mới trong thương mại (vật liệu nhân hoặc sản phẩm thu hoạch chưa được

bán trước thời hạn quy định). Ngoài ra, giống cây trồng phải thuộc danh mục các chi, loài

được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố. Quyền sở hữu giống cây trồng thuộc

về doanh nghiệp đầu tư vật chất và nhân lực cho việc tạo ra giống mới. Tuy nhiên, quyền chỉ

được xác lập theo thủ tục đăng ký tại Văn phòng giống cây trồng thuộc Vụ Khoa học, Công

nghệ và Chất lượng sản phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn).

1.1.2. Khái niệm bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Có thể nói rằng, việc xâm phạm QSHTT chủ yếu vì mục đích kinh tế, mục tiêu

lợi nhuận. Bắt đầu từ việc tăng tỷ trọng trí tuệ trong sản xuất, dịch vụ và thương mại, giá

trị trí tuệ trong sản phẩm hàng hoá đã thúc đẩy các doanh nghiệp cạnh tranh, nhưng bên

cạnh lợi ích, hiệu quả của sự cạnh tranh đó đã làm phát sinh khuynh hướng cạnh tranh

không lành mạnh, sự chiếm đoạt thành quả lợi ích kinh tế của người khác đã gây hậu quả

xấu cho chủ sở hữu QSHTT, cho các nhà đầu tư và cho xã hội.

Để làm rõ khái niệm bảo vệ QSHTT trước hết cần làm rõ bảo hộ QSHTT. Theo Từ

điển tiếng Việt, thuật ngữ "bảo hộ" được hiểu theo nghĩa thông thường là "che chở, không để

bị hư hỏng, tổn thất" [77, tr. 39]. Việc bảo hộ luôn được gắn với sự quản lý của nhà nước.

Như vậy, trước tiên phải hiểu như thế nào là bảo hộ nhà nước. Theo nghĩa rộng, "bảo hộ nhà

nước" được hiểu là các giải pháp bảo vệ, giúp đỡ, hỗ trợ bằng chính sách, pháp luật mà mỗi

quốc gia dành cho công dân hoặc các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động cư trú ở nước

đó.

Trong Luật SHTT, các Phần thứ nhất, Phần thứ hai, Phần thứ ba và Phần thứ tư

đều mang nội dung bảo hộ nhà nước đối với QSHTT, cụ thể là các quy định về việc bảo

hộ QSHTT tại cơ quan quản lý nhà nước như: các điều kiện bảo hộ; nội dung quyền; giới

hạn quyền; thời hạn bảo hộ quyền, chuyển giao quyền, chứng nhận quyền… Do đó, bảo

hộ QSHTT được hiểu là việc nhà nước đảm bảo quyền sở hữu với các đối tượng SHTT

cho cá nhân, pháp nhân, các chủ thể khác đã được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy

chứng nhận đăng ký QTG (đối với QTG), Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan (đối

Page 15: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

với quyền liên quan), Văn bằng bảo hộ (đối với QSHCN), Bằng bảo hộ giống cây trồng

(đối với giống cây trồng). Hoạt động bảo hộ dưới góc độ quản lý nhà nước - đó chính là

việc xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHTT theo quy định của pháp luật. QSHTT

được Nhà nước bảo hộ bằng các chính sách về SHTT và hệ thống pháp luật về QSHTT.

Từ sự phân tích trên, ta có thể đưa ra định nghĩa: Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là

việc nhà nước - thông qua hệ thống pháp luật - xác lập quyền của chủ sở hữu quyền sở

hữu trí tuệ bao gồm quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp và quyền

đối với giống cây trồng.

Trong lĩnh vực SHTT, bảo hộ QSHTT bao gồm: bảo hộ QTG, quyền liên quan;

bảo hộ QSHCN và bảo hộ quyền đối với giống cây trồng. Trên thực tế không có quan

điểm cụ thể nào đưa ra khái niệm chung về bảo hộ QTG, quyền liên quan, bảo hộ

QSHCN và bảo hộ quyền đối với giống cây trồng. Chủ yếu và phổ biến nhất là nghiên

cứu khái niệm qua các công ước liên quan đến QSHTT (như Công ước PARIS, Công ước

BERNE…) và Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội.

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật Hà Nội thì:

Bảo hộ quyền tác giả là bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của tác giả,

chủ sở hữu tác phẩm đối với toàn bộ hoặc một phần tác phẩm văn học, nghệ

thuật, khoa học...

Bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp là bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền,

lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu công nghiệp như: tác giả, chủ

Văn bằng bảo hộ và người sử dụng hợp pháp đối tượng quyền sở hữu công

nghiệp [76, tr. 19].

Trong Công ước PARIS (Điều 6 bis), bảo hộ QSHCN bao gồm các đối tượng bảo

hộ là sáng chế, mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, nhãn hiệu dịch

vụ, tên thương mại, chỉ dẫn xuất xứ hoặc tên gọi xuất xứ hàng hoá, cũng như việc ngăn

chặn cạnh tranh không lành mạnh. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại

học Luật Hà Nội cũng chưa đưa ra khái niệm thuật ngữ "bảo hộ quyền liên quan đến

quyền tác giả" và khái niệm thuật ngữ "bảo hộ quyền đối với giống cây trồng".

Như vậy, qua phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm bảo hộ quyền liên quan đến

Page 16: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quyền tác giả là: Bảo hộ quyền đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình

phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa; và bảo hộ quyền đối với

giống cây trồng là: bảo hộ sản phẩm trí tuệ, quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể

quyền đối với giống cây trồng.

Theo Từ điển tiếng Việt, "bảo vệ" là "chống lại mọi sự xâm phạm để giữ cho

luôn luôn được nguyên vẹn" [77, tr. 40]. Trong Luật SHTT, "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ"

được quy định tại Phần thứ năm, nội dung của phần này bao gồm: quy định chung về bảo

vệ QSHTT; xử lý xõm phạm QSHTT bằng cỏc biện phỏp dõn sự; xử lý xõm phạm

QSHTT bằng cỏc biện phỏp hành chớnh và hỡnh sự; kiểm soát hàng hóa xuất khẩu, nhập

khẩu liên quan đến SHTT. Theo đó, bảo vệ QSHTT bao gồm quyền tự bảo vệ của chủ thể

QSHTT qua việc áp dụng các biện pháp như: áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn

ngừa hành vi xâm phạm QSHTT; yêu cầu tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT

phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu

cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý hành vi xõm phạm QSHTT theo quy định của

luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan; khởi kiện ra Tũa ỏn hoặc Trọng

tài để bảo vệ quyền, lợi ớch hợp phỏp của mỡnh. Từ đó có thể hiểu: Bảo vệ quyền sở hữu

trí tuệ là việc các cơ quan nhà nước có thẩm quyền - thông qua hệ thống chính sách và

pháp luật - bảo vệ các quyền và các lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu quyền sở hữu

trí tuệ nhằm chống lại bất kỳ sự vi phạm nào của phía thứ ba.

Trước đây, trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến lĩnh vực SHTT

cũng như trong hầu hết các công ước quốc tế về SHTT (như Công ước BERNE, Công

ước PARIS, Công ước GENEVA,…) đều sử dụng thuật ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí

tuệ". Có thể nói, thuật ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" được sử dụng hết sức thông

dụng, phổ biến, "bảo hộ" trong mọi hoạt động của lĩnh vực SHTT: từ hoạt động xây dựng

pháp luật, hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước về SHTT, đến các hoạt động thực thi

QSHTT… Tuy nhiên, trong Luật SHTT, bên cạnh việc quy định về "bảo hộ quyền sở hữu

trí tuệ" tại các Phần thứ nhất, Phần thứ hai, Phần thứ ba và Phần thứ tư, thì tại Phần thứ

năm của Luật SHTT còn quy định về "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ", qua nội dung của các

phần như nêu trên cho thấy: về mặt quản lý nhà nước về SHTT thì Luật SHTT dùng thuật

ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ", về mặt thực thi QSHTT thì Luật SHTT dùng thuật

Page 17: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

ngữ "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ".

Trong thời gian gần đây, thuật ngữ "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" bên cạnh thuật

ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" đã bắt đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp

luật khác. Nghiên cứu Dự thảo Hiệp định giữa chính phủ Liên bang Nga và Chính phủ

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam "về hợp tác trong lĩnh vực bảo hộ và bảo vệ quyền

sở hữu trí tuệ", cho thấy trong bản dự thảo của hiệp định này đó có sự phân biệt giữa "bảo

hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ". Trong khi đó, qua thực tiễn

nghiên cứu nhiều hiệp định, điều ước quốc tế liên quan đến QSHTT, chúng ta không thấy

có hiệp định nào phân biệt rạch ròi hai nội dung "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ" như tại bản dự thảo này. Qua phân tích hai khái niệm trên, có thể

thấy rằng giữa "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" có những ý

nghĩa riêng, đây là một sự phân biệt đáng quan tâm, lưu ý trong bối cảnh hiện nay. Sự

xuất hiện của hai thuật ngữ này cho thấy pháp luật đã có sự phân định cụ thể, khi nào thì

sử dụng thuật ngữ "bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ", khi nào thì sử dụng thuật ngữ "bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ". Mục đích của sự phân biệt hai thuật ngữ này là để hiểu và sử dụng

đúng với chức năng của chúng. Theo quy định của Luật SHTT, thì khi chủ thể QSHTT bị

vi phạm quyền có quyền áp dụng các biện pháp mà pháp luật cho phép để tự bảo vệ như:

áp dụng biện pháp công nghệ nhằm ngăn ngừa hành vi xâm phạm QSHTT; yêu cầu tổ

chức, cá nhân có hành vi phạm QSHTT phải chấm dứt hành vi xâm phạm, xin lỗi, cải

chính công khai, bồi thường thiệt hại; yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lý

hành vi xâm phạm; khởi kiện ra Tòa án hoặc Trọng tài để yêu cầu bảo vệ quyền, lợi ích

hợp pháp của mình (Điều 198). Như vậy, theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình,

đối với Toà án, sử dụng thuật ngữ "bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ" như trong Luật SHTT là

phù hợp và chính xác.

1.1.3. Khái niệm thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân

Theo nghĩa thông thường, "thủ tục là những việc cụ thể phải làm theo một trật tự quy

định, để tiến hành một công việc có tính chất chính thức" [77, tr. 960]. Xuất phát từ việc phân

biệt bảo hộ QSHTT và bảo vệ QSHTT được nghiên cứu tại tiểu mục 1.1.2, cũng cần phân

biệt hai khái niệm "thủ tục bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ" và "thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí

tuệ". Về mặt quản lý nhà nước, thủ tục bảo hộ QSHTT được hiểu là việc nhà nước ban

Page 18: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

hành các quy định pháp luật về SHTT nhằm xác lập quyền cho các chủ sở hữu QSHTT,

bảo vệ và thực thi quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu QSHTT. Như vậy, dưới góc

độ quản lý nhà nước, các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT có hai chức năng, đó là:

chức năng bảo hộ và chức năng bảo vệ. Còn thủ tục bảo vệ QSHTT với cách hiểu là việc

các cơ quan quản lý nhà nước, thông qua hệ thống chính sách và pháp luật đó, bảo vệ các

quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHTT để chống lại bất kỳ sự vi phạm nào

của phía thứ ba bằng một phương thức, trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật quy định

(thường gọi luật hình thức). Dưới góc độ thủ tục tố tụng, "thủ tục" được định nghĩa như

sau: "Thủ tục là một tiến trình được thực hiện theo tuần tự, bao gồm tất cả các hành vi và

sự kiện xảy ra trong khoảng từ thời điểm bắt đầu các hành vi tố tụng cho đến khi bản án,

quyết định của Tòa án được ban hành" [87, tr. 1221]. Về cơ bản tác giả đồng ý với quan

điểm trên, nhưng cần phải làm rừ hơn,"thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tũa án"

được hiểu là trình tự, thủ tục để cá nhân, tổ chức yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và các lợi

ích hợp pháp chống lại sự vi phạm đối với tài sản SHTT của phía thứ ba và trình tự, thủ

tục do Tòa án tiến hành giải quyết yêu cầu đó từ thời điểm bắt đầu thụ lý đơn yêu cầu

cho đến khi kết thúc bằng một bản án hoặc quyết định theo quy định của pháp luật tố

tụng.

1.2. Nội dung của pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

QSHTT là quyền sở hữu mang tính chất tư, song nó có tác động rất lớn đến lợi

ích chung của toàn xã hội và có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với kinh tế - thương mại, đặc

biệt là trong lĩnh vực thương mại quốc tế. Trong xu hướng toàn cầu hóa, QSHTT là phần

không thể thiếu trong chiến lược phát triển kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và chiến

lược phát triển kinh tế - xã hội ở mỗi quốc gia. Trong những năm gần đây việc bảo hộ

SHTT đã trở thành nội dung quan trọng trong thương mại quốc tế. Những hành vi xâm

phạm QSHTT đối với các chủ sở hữu các tài sản trí tuệ, những tranh chấp và mâu thuẫn

thương mại về QSHTT có yếu tố nước ngoài, mang tính đa quốc gia đã đặt ra yêu cầu cấp

bách về bảo hộ QSHTT. Tuy nhiên, các hệ thống luật pháp về QSHTT của các nước rất

khác nhau, tùy thuộc vào các chính sách văn hóa, công nghiệp và các yếu tố khác... Do

vậy, để tìm ra một giải pháp giải quyết các tranh chấp về QSHTT mang tính quốc tế, các

mạng lưới và các quy tắc khác nhau đã được thiết lập [66, tr. 64]. Xét ở bình diện quốc

Page 19: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

tế, bảo hộ QSHTT được nhìn nhận thông qua việc ban hành pháp luật điều chỉnh về

QSHTT bằng sự thỏa thuận bởi các điều ước về SHTT. Có thể bắt đầu từ việc các quốc gia

tham gia Hiệp định tổng quát về thương mại và thuế quan (GATT) với sự tham gia của

117 nước thành viên, các nước thành viên đã đạt được thỏa thuận với 10 nội dung cơ bản,

được gọi là Thoả thuận về các khía cạnh liên quan tới thương mại của QSHTT (gọi tắt là

Hiệp định TRIPs). TRIPs được ký kết vào ngày 15-4-1994, có hiệu lực từ ngày 01-01-

1995, đây cũng là ngày đánh dấu sự ra đời của WTO. Ngày 01-01-1996, Hội đồng TRIPs

đã ký với WIPO một thỏa thuận mang mục tiêu là thúc đẩy việc bảo hộ và thực thi

QSHTT. TRIPs là hiệp định đa phương, toàn diện nhất về SHTT. Mục tiêu của TRIPs là

sự thừa nhận sự cần thiết phải thúc đẩy bảo hộ đầy đủ và có hiệu quả các đối tượng

SHTT. Các quy định của TRIPs là một khung pháp lý ổn định, có giá trị cao làm cơ sở

vững chắc để bảo hộ QSHTT trên phạm vi của tất cả các nước thành viên của WTO. Bảo

hộ QSHTT theo các yêu cầu của TRIPs đã trở thành một điều kiện bắt buộc đối với các

quốc gia là thành viên của WTO. TRIPs quy định các tiêu chuẩn tối thiểu về bảo hộ

SHTT mà bất kỳ thành viên nào tham gia cũng phải đạt được (bao gồm các điều khoản về

patent, nhãn hiệu, tên thương mại, bản quyền…). TRIPs đòi hỏi các thành viên phải tuân

thủ các nguyên tắc của việc bảo hộ các tác phẩm văn học và khoa học (Công ước

BERNE), bảo hộ các tổ chức phát thanh (Công ước ROME) và bảo hộ SHCN (Công ước

PARIS)... Đây là lần đầu tiên việc bảo hộ SHTT trở thành điều kiện bắt buộc đối với các

quốc gia muốn tham gia vào hoạt động thương mại quốc tế, đây cũng là các tiêu chuẩn

đầu tiên và tối thiểu về bảo hộ SHTT mà bất kỳ thành viên nào muốn tham gia WTO

cũng phải đáp ứng được. Sự ra đời của TRIPs đã mang lại những thay đổi căn bản pháp

luật về SHTT của các nước thành viên WTO, ngoài việc đồng nhất hóa về pháp luật,

TRIPs còn tiến tới loại bỏ các quy định về thủ tục hành chính và các kỹ thuật bất lợi cho

hoạt động SHTT quốc tế.

Trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay, sự hợp tác có thể cả phụ thuộc lẫn nhau

trong quan hệ kinh tế ngày càng sâu sắc hơn; sự phân công công việc trên bình diện quốc

tế được coi là mục tiêu quan trọng trong hợp tác quốc tế, nhưng điều đó cũng đồng nghĩa

là sẽ có những tranh chấp về kinh tế quốc tế phát sinh. Về nguyên tắc, tất cả các hiệp định

thương mại đa phương được ký kết trong khuôn khổ của WTO đều được xác định là

Page 20: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

những văn bản luật về kinh doanh - thương mại có hiệu lực bắt buộc đối với tất cả các

quốc gia là thành viên của WTO. Trong trường hợp có bất cứ một sự khác biệt nào giữa

các quy định trong các hiệp định đó với luật lệ của các quốc gia thành viên, thì các quy

định trong các hiệp định đó sẽ được ưu tiên áp dụng. Do đó, các quốc gia cần phải có các

khung pháp lý nhất định đề ra các nguyên tắc pháp lý nhằm bảo đảm phù hợp với "luật

chung" của nền kinh tế thế giới đang trong xu hướng toàn cầu hóa [51, tr. 42].

ở Việt Nam, bảo hộ QSHTT được Hiến pháp năm 1992 quy định và được thể

hiện trong các nghị quyết của Bộ Chính trị. Chính sách bảo hộ SHTT là một bộ phận

quan trọng của hệ thống chính sách pháp luật. Trong Chiến lược xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 đã nhận định:

"Hoàn thiện pháp luật về khoa học công nghệ... thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí

tuệ" [30] là một nhiệm vụ trọng tâm (mục 3 phần II của Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24-5-

2005 của Bộ Chính trị).

- Về hình thức: Chính sách bảo hộ SHTT thể hiện được quan điểm, đường lối do

Đảng và Nhà nước đề ra để phát triển khoa học - công nghệ, phát triển nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa. ở mỗi giai đoạn khác nhau, chính sách bảo hộ SHTT

được hoạch định bằng những giải pháp cụ thể khác nhau, nhưng đều nhằm thực hiện

nhiệm vụ ổn định chính trị và phát triển nền kinh tế đất nước. Vì vậy, trên thực tế, trong

mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi điều kiện của nền kinh tế, thì chính sách bảo hộ QSHTT được

quy định khác nhau, như: đối với một số hành vi xâm phạm QSHTT nhưng không bị coi

là tội phạm, vì không được quy định ở BLHS năm 1985, nhưng đã được quy định bổ

sung trong BLHS năm 1999 (như tội xâm phạm QSHCN); Pháp lệnh thủ tục giải quyết

các vụ án hành chính năm 1996 không quy định thẩm quyền của TAND giải quyết các

khiếu kiện đối với các quyết định hành chính (QĐHC), hành vi hành chính (HVHC) vi

phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước về SHTT, nhưng thẩm quyền này đã được bổ

sung trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006. Trong quá trình

hơn 10 năm phấn đấu để gia nhập WTO, hệ thống pháp luật bảo hộ SHTT của Việt Nam

đã được xây dựng, phát triển và hoàn thiện nhằm đáp ứng các yêu cầu của WTO. Các quy

phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT do Nhà nước ban hành được thể hiện dưới

những hình thức văn bản quy phạm pháp luật cụ thể trong các bộ luật, các luật, pháp

Page 21: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

lệnh, nghị định, nghị quyết, thông tư…, điều đó đã phản ánh trực tiếp chính sách bảo hộ

QSHTT.

- Về nội dung: Để bảo vệ QSHTT, các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục

bảo vệ QSHTT nói chung và thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND nói riêng được quy định

bằng các biện pháp khác nhau. Pháp luật bảo hộ QSHTT quy định các biện phỏp xử lý

hành vi xõm phạm QSHTT như sau: Tổ chức, cỏ nhõn cú hành vi xõm phạm QSHTT của

tổ chức, cỏ nhõn khỏc thỡ tuỳ theo tớnh chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng

biện pháp dân sự, hành chớnh hoặc hỡnh sự. Trong trường hợp cần thiết, cơ quan nhà

nước có thẩm quyền có thể áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (BPKCTT), biện pháp

kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT, biện pháp ngăn chặn và

bảo đảm xử phạt hành chính theo quy định của luật này và các quy định khác của pháp

luật có liên quan. Như vậy, chủ thể QSHTT có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan nhà

nước cú thẩm quyền xử lý hành vi xõm phạm QSHTT theo quy định của pháp luật; khởi

kiện ra Tũa ỏn hoặc Trọng tài để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mỡnh. Tuy nhiên, ở

đây cần lưu ý phân biệt biện pháp hành chính quy định tại Luật SHTT với biện pháp hành

chính mà tác giả nêu trong luận văn (về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính tại

TAND theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính). Theo tinh

thần quy định tại điểm c khoản 1 Điều 198, các điều 200, 211, 214 và Điều 215 của Luật

SHTT, biện pháp hành chính được áp dụng trong trường hợp cá nhân, tổ chức có hành vi

xâm phạm QSHTT sẽ bị xử phạt hành chính theo quy định của pháp luật về xử lưý vi

phạm hành chính, các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, Ủy ban

nhõn dõn cỏc cấp cú thẩm quyền xử lý cỏc hành vi xõm phạm QSHTT đó. Đối với

TAND, Luật SHTT chỉ quy định: "Việc ỏp dụng biện phỏp dõn sự, hỡnh sự thuộc thẩm

quyền của Toà ỏn" (khoản 2 Điều 200) [64], nhưng căn cứ theo thẩm quyền của TAND

được quy định trong Luật tổ chức TAND, Luật khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải

quyết các vụ án hành chính và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác, thì

TAND có thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện của cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức

đối với các QĐHC, HVHC trái pháp luật mà cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền của

cơ quan nhà nước ban hành trong quá trình thực hiện chức năng quản lý nhà nước về

SHTT, về thẩm quyền, thủ tục giải quyết các khiếu nại QĐHC, HVHC đó được thực hiện

Page 22: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

theo quy định của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Như vậy, trong

phạm vi của luận văn, tác giả đề cập đến thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND bằng biện

pháp hành chính dưới góc độ thẩm quyền, thủ tục bảo vệ QSHTT theo quy định của Luật

tổ chức TAND, Luật khiếu nại tố cáo, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan khác (nội dung này được trình bày ở tiểu

mục 1.2.1.2. chương 1 và tiểu mục 2.1.1.1 chương 2 của luận văn). Căn cứ vào tính chất

của việc bảo vệ QSHTT và cơ quan có thẩm quyền trong việc bảo vệ QSHTT, có thể

phân chia các biện pháp bảo vệ QSHTT thành: bảo vệ QSHTT tại các cơ quan quản lý

nhà nước và bảo vệ QSHTT tại Tòa án.

1.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại cơ quan quản lý nhà nước

Chức năng bảo vệ QSHTT của các cơ quan quản lý nhà nước được thực hiện

qua biện pháp thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại tố cáo và

xử lý vi phạm pháp luật liên quan đến SHTT... Phạm vi bảo vệ QSHTT của các cơ quan

quản lý nhà nước là rất rộng, trong luận văn này tác giả chỉ xem xét bảo vệ QSHTT dưới

góc độ thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý

vi phạm pháp luật liên quan đến SHTT bằng biện pháp xử lý hành chính.

Với ý nghĩa để xử lý xâm phạm và ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHTT, biện

pháp xử lý hành chớnh là biện phỏp thực thi khỏ đặc thù tại Việt Nam. Theo quy định tại

Điều 211 của Luật SHTT, các hành vi xâm phạm QSHTT bị XPHC bao gồm: thực hiện

hành vi xâm phạm QSHTT gây thiệt hại cho người tiêu dùng hoặc cho xó hội; không

chấm dứt hành vi xâm phạm QSHTT mặc dù đó được chủ thể QSHTT thông báo bằng

văn bản yêu cầu chấm dứt hành vi đó; sản xuất, nhập khẩu, vận chuyển, buôn bán hàng

hoá giả mạo về SHTT hoặc giao cho người khác thực hiện hành vi này; sản xuất, nhập

khẩu, vận chuyển, buụn bỏn vật mang nhón hiệu hoặc chỉ dẫn địa lý trùng hoặc tương tự

đến mức gây nhầm lẫn với nhón hiệu, chỉ dẫn địa lý được bảo hộ hoặc giao cho người

khác thực hiện hành vi này; tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh tranh khụng lành

mạnh về SHTT thỡ bị xử phạt vi phạm hành chớnh theo quy định của pháp luật về cạnh

tranh.

Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, các cơ quan Thanh tra, Quản lý

Page 23: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

thị trường, Hải quan, Công an, ủy ban nhân dân các cấp có thẩm quyền xử lý hành vi xâm

phạm QSHTT. Theo đó, các cơ quan Thanh tra, Công an, Quản lý thị trường, Hải quan, ủy

ban nhân dân các cấp có thẩm quyền áp dụng biện pháp hành chính. Trong trường hợp

cần thiết, các cơ quan này có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn và bảo đảm xử phạt hành

chính theo quy định của pháp luật. Cơ quan Hải quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp

kiểm soát hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu liên quan đến SHTT.

1.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân

Theo quy định của pháp luật bảo hộ QSHTT, TAND có thẩm quyền giải quyết

các yêu cầu, khiếu nại về hành vi xâm phạm QSHTT theo thủ tục tố tụng hành chính;

phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử các tội xâm phạm QSHTT theo thủ tục tố tụng hình

sự và giải quyết các tranh chấp về QSHTT theo thủ tục tố tụng dân sự.

1.2.2.1. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng hành chính

Sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa

ra đời, một nền tư pháp kiểu mới - nền tư pháp nhân dân - đã từng bước được thành lập.

Trong giai đoạn đầu, hệ thống Tòa án còn rất đơn giản, chưa có Tòa án hành chính, chưa có

các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính. Trải qua các thời

kỳ lịch sử, cùng với sự nghiệp đổi mới và phát triển của đất nước, trước yêu cầu khách quan

đặt ra là phải cải cách bộ máy nhà nước, song song với việc cải cách bộ máy nhà nước thì

việc cải cách tư pháp được xác định là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và

Nhà nước ta phải thực hiện. Tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương

khóa VII về "Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, trung tâm là cải cách hành chính" đã chỉ rõ:

Về tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân trên cơ sở kiện toàn tổ

chức và cán bộ, nghiên cứu tăng thẩm quyền cho Tòa án cấp huyện, theo hướng

việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở Tòa án cấp này. Tòa án cấp tỉnh

chủ yếu xét xử phúc thẩm. Tòa án nhân dân tối cao chủ yếu xét xử giám đốc

thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn các Tòa án địa phương thực hiện

xét xử thống nhất theo pháp luật. Hạn chế việc xét xử sơ thẩm đồng thời chung

thẩm. Nghiên cứu thành lập các Tòa chuyên môn... [26].

Page 24: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã chỉ rõ: "Xúc tiến thành lập Tòa

hành chính trong Tòa án nhân dân, bổ sung thể chế làm căn cứ cho việc xét xử" [27, tr. 243].

Ngày 28-10-1995, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa IX, kỳ

họp thứ 8 đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật tổ chức TAND. Theo quy

định của luật này, kể từ ngày 01-7-1996 TAND các cấp được giao nhiệm vụ xét xử những vụ

án hành chính. Từ đó, trong cơ cấu tổ chức của TANDTC và TAND cấp tỉnh có thêm Toà

hành chính; ở TAND cấp huyện không thành lập Toà hành chính mà việc xét xử các vụ

án hành chính theo thẩm quyền do các thẩm phán của TAND cấp huyện đảm nhiệm.

Để bảo đảm việc giải quyết các vụ án hành chính được kịp thời, đúng pháp luật

nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức, góp phần nâng cao hiệu

lực quản lý nhà nước, ngày 21-5-1996, ủy ban thường vụ Quốc hội khóa IX thông qua Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-7-1996

(sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1996). Ngay từ khi Pháp lệnh được công bố thi hành đã

được dư luận xã hội quan tâm, coi đây là một bước phát triển của cải cách tư pháp.

TAND các cấp đã có nhiều cố gắng để giải quyết có hiệu quả, đúng pháp luật các vụ án

hành chính thuộc thẩm quyền. Tuy nhiên, trong khoảng thời gian hơn hai năm thi hành,

Pháp lệnh năm 1996 đã được ủy ban Thường vụ Quốc hội khoá X thông qua Pháp lệnh sửa

đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính ngày 25-12-

1998 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh năm 1998). Việc sửa đổi bổ sung Pháp lệnh này cho

thấy sự quyết tâm thực hiện cải cách hành chính và cải cách tư pháp của Đảng và Nhà

nước ta.

Thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện liên quan đến QSHTT không được quy

định cụ thể trong các Pháp lệnh năm 1996 và Pháp lệnh năm 1998, mà được quy định

trong rất nhiều nghị định do Chính phủ ban hành. Cho tới lần sửa đổi, bổ sung một số

điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 2006 (sau đây gọi tắt là

Pháp lệnh năm 2006) mới pháp điển hóa và quy định cụ thể là TAND có thẩm quyền giải

quyết khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công

nghệ.

Trong quá trình thực hiện chức năng điều hành và quản lý nhà nước về SHTT,

Page 25: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

các cơ quan hành chính nhà nước và cán bộ, công chức Nhà nước có những QĐHC,

HVHC như: cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan đến Giấy chứng nhận đăng ký

QTG, quyền liờn quan, Văn bằng bảo hộ các đối tượng sở hữu công nghiệp (SHCN),

Bằng bảo hộ giống cây trồng; thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về SHTT; giải

quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm phỏp luật về SHTT... Trong trường hợp những

QĐHC, HVHC đó là trái pháp luật, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân,

cơ quan, tổ chức, thì cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án hành chính tại TAND.

Thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND được thực hiện theo quy định của Pháp lệnh thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính.

Cho tới nay, trải qua 10 năm thi hành pháp luật về thủ tục tố tụng hành chính, cho

thấy hoạt động của Tòa hành chính được dư luận xã hội quan tâm, ủng hộ, là một bằng

chứng của cải cách tư pháp, phục vụ công cuộc đổi mới đất nước, tăng cường dân chủ, phát

huy tác dụng trong việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động quản lý Nhà nước nhà nước

trên các lĩnh vực của đời sống xã hội nói chung. TAND là cơ quan quan trọng nhất trong

việc thẩm định tính hợp pháp của các quyết định được ban hành bởi các cơ quan thực thi

QSHTT khác.

1.2.2.2. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng hình sự

Bộ luật hình sự (BLHS) đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam khoá X, kỳ họp thứ 6 thông qua ngày 21-12-1999 có hiệu lực từ ngày 01-7-2000, Bộ

luật này thay thế BLHS năm 1985 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm

1989, 1991, 1992 và năm 1997. Các quy định của BLHS năm 1999 thể hiện toàn diện chính

sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay, là công cụ sắc bén trong đấu

tranh phòng và chống tội phạm, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, hiệu lực quản lý của

nhà nước, góp phần thực hiện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.

Theo quy định của BLHS năm 1999 thì các tội phạm liên quan đến QSHTT bao

gồm: tội xâm phạm QTG (Điều 131); tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156); tội sản

xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh

(Điều 157); tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,

thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158); tội vi phạm

Page 26: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quy định về cấp bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170); tội xâm phạm QSHCN (Điều 171) và

tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh,

đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271).

Việc xử lý các hành vi xâm phạm QSHTT bằng biện pháp hình sự tại TAND là

hình thức xử lý nghiêm khắc nhất. Đối với các loại tội phạm này, pháp luật hình sự đã

quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với người chịu trách nhiệm

trước pháp luật (thủ trưởng) của tổ chức, cơ quan, đơn vị hoặc cá nhân có hành vi nguy

hiểm, có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự về SHTT theo quy định tại BLHS. BLHS

còn có quy định khung hình phạt khá rộng và nghiêm khắc, bao gồm hình phạt cao nhất

là tử hình. Điều đó cho thấy pháp luật không chỉ nhằm mục đích trừng trị kẻ phạm tội,

mà còn có tác dụng ngăn chặn xâm phạm QSHTT, góp phần bảo vệ quyền, lợi ích hợp

pháp của các chủ thể QSHTT, lợi ích của người tiêu dùng; góp phần làm lành mạnh,

minh bạch môi trường kinh doanh nhằm phát triển nền kinh tế quốc dân trong quá trình

hội nhập kinh tế quốc tế. Biện pháp bảo vệ QSHTT của pháp luật hình sự Việt Nam đã cơ

bản phù hợp với yêu cầu của Hiệp định TRIPs và Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa

Kỳ (BTA). Theo Hiệp định TRIPs thì luật pháp của các nước thành viên phải có các thủ

tục thực thi quyền về các thủ tục hình sự; các nước thành viên phải có đầy đủ quy định

pháp luật về thủ tục, hình phạt hình sự.

Pháp luật tố tụng hình sự đã quy định trình tự, thủ tục cần thiết trong việc phát

hiện, tố cáo, khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử các loại tội phạm nói chung, trong đó có

các tội xâm phạm QSHTT nói riêng.

1.2.2.3. Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ theo thủ tục tố tụng dân sự

Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng biện pháp dân sự là việc các đương sự yêu cầu

Tòa án giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích về QSHTT theo quy định của pháp luật

tố tụng dân sự. Bản chất của biện pháp dân sự là thông qua việc giải quyết các tranh chấp

liên quan đến QSHTT tại TAND, các chủ sở hữu QSHTT không chỉ được quyền yêu cầu

Toà án áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi xâm phạm QSHTT một cách có hiệu

quả mà còn buộc bên vi phạm bồi thường thiệt hại do hành vi đó gây ra (bao gồm thiệt

hại vật chất và thiệt hại tinh thần).

Page 27: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Giải quyết tranh chấp về QSHTT được hiểu là việc Tòa án giải quyết những

tranh chấp về quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể trong quan hệ pháp luật về

SHTT. Giải quyết tranh chấp về QSHTT tại Toà án là cơ chế bảo hộ QSHTT hữu hiệu

nhất trên thế giới hiện nay. Tranh chấp phát sinh từ QSHTT với bản chất là các tranh

chấp dân sự (theo nghĩa rộng) có những đặc thù cơ bản, đó là: tính phức tạp, tính đa quốc

gia, tính bảo mật cao... Bảo vệ QSHTT không chỉ bảo vệ quyền tài sản mà còn gắn liền

với ý nghĩa bảo vệ quyền nhân thân của chủ sở hữu QSHTT. Quyền nhân thân là quyền

thể hiện mối liên hệ không thể tách rời giữa tác giả với tác phẩm mà họ sáng tạo ra, về

bản chất quyền nhân thân luôn gắn liền với tác giả và không thể chuyển giao. Quyền tài

sản là quyền được hưởng những lợi ích vật chất từ việc cho phép người khác sử dụng tác

phẩm của mình trong mục đích thương mại.

Pháp luật của Việt Nam ngay từ đầu đã xác định được vị trí, vai trò của TAND

trong việc bảo hộ thực thi QSHTT, từ đó đặt ra nhiệm vụ xây dựng những quy trình pháp

lý, thủ tục tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ sở hữu QSHTT.

Trước khi BLTTDS ra đời, theo quy định của Luật tổ chức TAND và các Pháp lệnh thủ

tục giải quyết các vụ án dân sự, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Pháp lệnh

thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, thì không chỉ có TAND cấp huyện mới có

thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động mà TAND cấp tỉnh cũng

có thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, kinh tế, lao động. Việc phân định thẩm

quyền giữa TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh căn cứ vào nhiều tiêu chí khác nhau,

như: tính chất phức tạp của từng loại vụ án; giá trị (giá ngạch) của tranh chấp; năng lực,

trình độ của thẩm phán và cơ sở vật chất của Tòa án bảo đảm cho việc giải quyết các vụ

án đó.

Việc bảo vệ QSHTT được tiến hành dưới hình thức áp dụng những thủ tục, biện

pháp nhất định, trong đó biện pháp dân sự chiếm một vị trí quan trọng. Điều đó được lý giải

chủ yếu bởi tính dân chủ, khả năng duy trì và bảo đảm công bằng của các thiết chế của thủ

tục dân sự so với các thủ tục khác. áp dụng thủ tục dân sự là con đường duy nhất để giải

quyết thoả đáng vấn đề bồi thường thiệt hại đối với các hành vi xâm phạm. Thông thường,

khi bị xâm phạm QSHTT của mình, chủ sở hữu quyền bao giờ cũng muốn được bảo vệ bằng

cách làm sao để nhanh chóng nhất có thể chấm dứt sự xâm phạm quyền quyền tài sản và

Page 28: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quyền nhân thân của mình do bị đơn đang thực thiện. Hành vi xâm phạm QSHTT còn gây

ảnh hưởng đến tên tuổi, thương hiệu, gây hiểu lầm, nhận thức không đúng về chất lượng, giá

trị, uy tín về sản phẩm, hàng hóa của chủ sở hữu quyền, đây là những thiệt hại không thể tính

được bằng tiền, do vậy; chủ sở hữu quyền còn được pháp luật dân sự bảo vệ qua việc tính bồi

thường thiệt hại về tinh thần khi quyền nhân thân bị xâm phạm. Xét về mặt lý thuyết, thủ tục

tố tụng dân sự bảo vệ QSHTT như những quyền cá nhân hết sức thích hợp, có hiệu quả, do

đó, sự lựa chọn biện pháp dân sự sẽ là sự lựa chọn khôn ngoan để đảm bảo quyền của mình.

Biện pháp dân sự là biện pháp phòng ngừa có ý nghĩa lớn, là biện pháp cuối cùng nhưng là

biện pháp hiếm được sử dụng ở Việt Nam. So với biện pháp hành chính và biện pháp hình sự

nêu trên, thì biện pháp dân sự có những thế mạnh mà hai biện pháp đó không có. Có thể luận

chứng cho lợi thế của sự lựa chọn trên như sau:

- Đối với biện pháp hình sự: Nguyên đơn không có cơ hội yêu cầu áp dụng lệnh

BPKCTT để ngừng hành vi vi phạm trong thời gian xét xử vụ án, bên cạnh đó yêu cầu về

nghĩa vụ chứng minh hành vi vi phạm QSHTT trong vụ án hình sự là rất cao…;

- Đối với biện pháp hành chính: Đặc thù của biện pháp này là việc Tòa hành

chính trong hệ thống TAND chỉ thụ lý và giải quyết các khiếu kiện về các QĐHC,

HVHC trái pháp luật của các cán bộ, công chức và các cơ quan quản lý nhà nước về

SHTT;

- Cuối cùng, bởi một lý do đơn giản và hợp lý, việc thực hiện quyền yêu cầu

chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường thiệt hại vốn là các quyền dân sự. Khi yêu cầu

Toà án bảo vệ quyền bằng thủ tục tố tụng dân sự, sẽ hàm chứa cả việc bị đơn sẽ phải chấm

dứt hành vi vi phạm, bị đơn sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đã xảy ra, bao gồm cả bồi

thường thiệt hại về tinh thần.

Trên thế giới, thông thường chủ sở hữu QSHTT yêu cầu áp dụng biện pháp dân sự,

nhất là đối với các nước theo hệ thống luật Anh - Mỹ. Họ lý giải một phần là bởi "bầu không

khí" của thủ tục này phù hợp với việc bảo vệ các quyền tài sản của cá nhân trong giới kinh

doanh, một phần là bởi các biện pháp đền bù-đặc biệt là các loại lệnh áp dụng BPKCTT, đây

là biện pháp tiện lợi hơn so với việc trừng phạt khác [25, tr. 27]. Hành vi xâm phạm QSHTT

là hành vi trái pháp luật gây thiệt hại ngoài hợp đồng, do vậy phải nhận thức đây là trách

Page 29: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

nhiệm dân sự. Không phải "vô tình" mà trong các điều ước quốc tế, trong BTA và Luật

SHTT, phần lớn các điều khoản là các quy định về việc áp dụng biện pháp dân sự. Vì vậy,

biện pháp dân sự cần được coi trọng, phát huy và phải được đánh giá đúng với tầm quan

trọng của nó, theo quan điểm của tác giả, với những ưu điểm vốn có, biện pháp dân sự nên

được nhìn nhận như là một biện pháp chủ đạo và cần được áp dụng một cách thông dụng

trong việc bảo vệ QSHTT tại TAND.

1.3. Một số tiêu chí đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về thủ tục bảo vệ

quyền sở hữu trí tuệ

Nghị quyết số 48-NQ/TW của Bộ Chính trị ngày 24-5-2005 về "Chiến lược xây

dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm

2020" đó nhận định:

Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, thống nhất, khả

thi, công khai, minh bạch, trọng tâm là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

định hướng xó hội chủ nghĩa, xõy dựng Nhà nước pháp quyền xó hội chủ

nghĩa Việt Nam của nhõn dõn, do nhõn dõn và vỡ nhõn dõn; đổi mới căn bản

cơ chế xây dựng và thực hiện phỏp luật; phỏt huy vai trũ và hiệu lực của phỏp

luật để gúp phần quản lý xó hội, giữ vững ổn định chính trị (điểm 1 Mục I)

[30].

Như vậy, việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT đầy đủ, có

khả năng bảo đảm cho các hoạt động thương mại quốc tế, phù hợp với yêu cầu của WTO

về nội dung bảo hộ (tính đầy đủ) và hiệu lực thực thi pháp luật (tính hiệu quả) là một tất

yếu khách quan của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Hoàn thiện pháp luật là một quá trình liên tục, có nhiều khó khăn phức tạp, đòi

hỏi có sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức và cá nhân có nhiệm vụ soạn thảo,

ban hành, hướng dẫn các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan trong lĩnh vực

QSHTT. Do vậy, việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về QSHTT ở Việt

Nam trong những năm tới cần định hướng tập trung mọi nguồn lực, đề cao trách nhiệm

của các ngành, các cấp, phấn đấu xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT đủ về số lượng,

nâng cao về chất lượng, phấn đấu đến năm 2010 hệ thống pháp luật SHTT về cơ bản đạt

Page 30: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

đến trỡnh độ tương đối đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, phát

huy mạnh mẽ vai trũ là phương tiện đầy hiệu lực và hiệu quả trong quản lý nhà nước,

quản lý xó hội. Đây chính là các tiêu chí, các yêu cầu của Chương trỡnh đổi mới công tác

xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật (ban hành kèm

theo Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14-8-2003 của Thủ tướng Chính phủ). Ngoài các

tiêu chí trên, thực tiễn hoàn thiện pháp luật trong giai đoạn hiện nay cũn được nhỡn nhận,

đánh giá ở khả năng dự báo của pháp luật. Mặc dù đó đạt được những thành tựu đáng ghi

nhận trong việc xây dựng pháp luật nội dung về bảo hộ QSHTT nói chung và thủ tục bảo

vệ QSHTT tại TAND nói riêng, nhưng việc thực thi pháp luật về bảo vệ QSHTT ở Việt

Nam chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Do đó, vẫn còn nhiều vấn đề cần nghiên

cứu để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

1.3.1. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải toàn diện

Tính toàn diện của pháp luật thể hiện ở khả năng đáp ứng cao nhất nhu cầu điều

chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật. Nhà nước - với chức năng quản lý xã hội thông

qua bộ máy các cơ quan quản lý nhà nước - cần thiết chế một hệ thống pháp luật có tính

toàn diện để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Trong lĩnh vực SHTT, tính toàn diện của

pháp luật cần được xem xét, đánh giá trên các bình diện: các quy phạm pháp luật đã thể

chế hóa đầy đủ những quan điểm, đường lối, chính sách của Nhà nước về bảo hộ

QSHTT; các quy phạm pháp luật thực định đã có đầy đủ, để điều chỉnh mọi quan hệ xã

hội giữa Nhà nước với cá nhân, tổ chức trong hoạt động SHTT; các quy phạm pháp luật

đó đủ để xử lý các hành vi xâm phạm về QSHTT; các quy phạm pháp luật đó đã tạo ra cơ

sở pháp lý để phòng, chống, đấu tranh có hiệu quả đối với các tội phạm SHTT và các quy

phạm pháp luật thực định đó đã được tổ chức thực thi trong thực tế. Ngoài ra, do thuộc

tính của đối tượng sở hữu QSHTT, các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT phải được

phân biệt với quyền sở hữu tài sản hữu hình khác, tức là các quy phạm pháp luật bảo hộ

QSHTT phải thể hiện được tính đặc thù.

1.3.2. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải đồng bộ và thống

nhất

Tính đồng bộ của pháp luật được thể hiện ở khía cạnh các yếu tố tạo nên pháp

Page 31: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

luật phải được xây dựng và phát triển trong một quy trình với một tốc độ, một thời gian

chung; tính đồng bộ đó phải tạo ra sự phù hợp, mềm dẻo, linh hoạt trong một chỉnh thể.

Trong giai đoạn hiện nay, việc bảo đảm tính đồng bộ đối với hệ thống pháp luật về SHTT

là điều vô cùng cần thiết, đó là sự đồng bộ giữa: các chủ trương, chính sách bảo hộ và

thực thi QSHTT; tổng thể hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về SHTT phải chứa đựng

đầy đủ các quy phạm pháp luật về nội dung và hình thức; ban hành kịp thời các văn bản

hướng dẫn áp dụng, đảm bảo cho các quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT sớm được

áp dụng và thực thi trong đời sống xã hội.

Các quan hệ xã hội là một chỉnh thể thống nhất, do đó các quan hệ pháp luật dùng

để điều chỉnh các quan hệ xã hội đó cũng phải được xây dựng phù hợp với chỉnh thể thống

nhất đó. Tính thống nhất của pháp luật thể hiện ở chỗ các quy phạm pháp luật phù hợp với

nhau, không mâu thuẫn, xung đột lẫn nhau trong một ngành luật cụ thể, tuy việc xác định

ranh giới này là rất khó. Trong lĩnh vực SHTT, với sự tham gia của hệ thống cơ quan quản lý

nhà nước về SHTT, hệ thống cơ quan thực thi bảo vệ QSHTT và bên cạnh đó, QSHTT còn

được bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau, thì việc bảo đảm được tính thống nhất là điều

quan trọng. Tính thống nhất của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi: các quy định

của thủ tục bảo vệ QSHTT phải có sự liên kết, phối hợp tác động điều chỉnh theo một chiều,

hướng nhất định; phải có sự thống nhất nội tại giữa các quy phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ

QSHTT với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, sự thống nhất đó không chỉ

trong phạm vi quốc gia mà còn ở phạm vi quốc tế; tuân thủ nguyên tắc pháp chế trong việc

xây dựng và bảo đảm quy phạm pháp luật về bảo vệ QSHTT thống nhất với các quy phạm

pháp luật tương ứng nói chung; thống nhất giữa các quy phạm pháp luật trong các văn bản

có hiệu lực pháp lý cao với các văn bản có hiệu lực pháp lý thấp hơn, cụ thể là sự thống nhất

giữa các quy định của BLDS, BLHS với Luật SHTT, Luật chuyển giao công nghệ, Luật

cạnh tranh, Luật thương mại, của BLTTDS, Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) với các Nghị

quyết, các Thông tư liên tịch hướng dẫn thi hành pháp luật; của Luật khiếu nại, tố cáo với

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính…; Tính thống nhất của pháp luật còn thể

hiện ở sự thống nhất của quy phạm pháp luật với tập quán, truyền thống đạo đức, văn hóa

của dân tộc.

1.3.3. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải phù hợp với thực

Page 32: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

tiễn và có tính khả thi cao

Pháp luật được hình thành để điều chỉnh các quan hệ xã hội, hướng chúng phát

triển theo một trật tự mà Nhà nước mong muốn thiết lập; do đó, pháp luật phải đủ sức

mạnh để điều chỉnh các quan hệ xã hội theo hướng thiết lập một hệ thống pháp luật phù

hợp với thực tiễn và có tính khả thi cao. Chức năng điều chỉnh của pháp luật chỉ có thể

được thực hiện khi nó được xây dựng phù hợp với những điều kiện cụ thể của xã hội

trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, vì vậy pháp luật không thể cao hơn hoặc thấp hơn

trình độ phát triển của kinh tế - xã hội; nếu không bảo đảm tiêu chí này thì pháp luật

không những không thể phát huy tác dụng mà còn kìm hãm sự phát triển của xã hội. Tính

phù hợp với thực tiễn và có khả thi của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT thể hiện trên

nhiều mặt: phải phù hợp với quan điểm, đường lối xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội

của Đảng và Nhà nước đề ra trong từng thời kỳ; phải được áp dụng và tác dụng trở lại đời

sống xã hội; phải bảo đảm pháp luật được thi hành và có hiệu quả; phải phù hợp với hệ

thống pháp luật trong nước và phù hợp với các các điều ước quốc tế về SHTT mà Việt

Nam là thành viên.

1.3.4. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải minh bạch và khoa

học

Pháp luật về bảo vệ QSHTT minh bạch và khoa học khi các quan điểm, nguyên tắc

do Nhà nước đề ra để bảo hộ và bảo vệ QSHTT phải được thể chế hóa đầy đủ trong các

quy phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật đó phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ pháp

lý chính xác và khoa học, trong đó phải chỉ rõ phạm vi điều chỉnh, giới hạn của việc áp

dụng quy phạm pháp luật trong bảo vệ QSHTT. Các quy phạm pháp luật trong thủ tục

bảo vệ QSHTT phải xác định rõ ràng mức độ điều chỉnh của pháp luật đối với từng

nhóm, từng quan hệ pháp luật cụ thể, phải xác định rõ hành vi xâm phạm QSHTT trong

trường trường hợp nào, ở mức độ nào thì áp dụng biện pháp hành chính, biện pháp hình

sự, biện pháp dân sự hay chỉ xử lý vi phạm hành chính… Ngoài ra, pháp luật thủ tục bảo

vệ QSHTT phải cá thể hóa từng hành vi vi phạm này với hành vi vi phạm khác, trên cơ

sở đó cá thể hóa chế tài xử phạt.

1.3.5. Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ phải có tính dự báo

Page 33: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Để hoàn thiện hệ thống pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi hỏi phải tiến

hành theo hai hướng: một mặt phải khái quát các quan hệ xã hội có liên quan đến tình

hình vi phạm QSHTT để thể chế hóa vào pháp luật, mặt khác phải dựa trên thực tiễn đó,

kịp thời có những phát hiện mang tính dự báo những quan hệ pháp luật tất yếu sẽ phát

sinh, để từ đó có những định hướng, giải pháp điều chỉnh quan hệ pháp luật sẽ phát sinh

đó. Đây là hai quá trình được diễn ra đồng thời và có quan hệ mật thiết với nhau, do vậy

cần xác định đây là một tiêu chí trong xây dựng, hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ

QSHTT. Tính dự báo của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT còn dựa trên chiều hướng

phát triển của việc bảo hộ quốc tế về QSHTT, trên mối quan hệ của WTO/TRIPs với

WIPO và các điều ước có liên quan do WIPO quản lý. Việt Nam sẽ chính thức trở thành

thành viên thứ 150 của WTO trong tương lai gần, vì vậy Việt Nam đang tổ chức thực

hiện các cam kết quốc tế một cách đồng bộ và sâu rộng đối với mọi mặt kinh tế - xã hội

của đất nước. Trong điều kiện đó, tính dự báo của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT đòi

hỏi cần giải quyết được khả năng đáp ứng với các quan hệ pháp luật về thủ tục bảo vệ

QSHTT phát sinh trong thời gian tới.

Kết luận chương 1

Bảo vệ quyền sở hữu là khái niệm cơ bản trong khoa học pháp lý nói chung,

chuyên ngành lý luận lịch sử nhà nước pháp quyền nói riêng. Tuy nhiên, khái niệm bảo

vệ QSHTT, đặc biệt là khái niệm thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND lại chưa được đề cập

một cách thỏa đáng và thuyết phục. Do vậy, cần thiết phải phân tích khái niệm bảo vệ

QSHTT và khái niệm thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, kết hợp với phân tích đặc điểm,

nội dung của thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Với những nội dung được trình bày trong

chương 1 của luận văn, chúng tôi đã phân tích và đưa ra khái niệm chung nhất về thủ tục

bảo vệ QSHTT tại TAND. Đây cũng là những vấn đề chung phản ánh cơ sở lý luận cho

việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

Page 34: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Chương 2

Pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay

2.1. Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về quyền sở hữu trí

tuệ

2.1.1. Quyền khởi kiện vụ án hành chính để bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

Thực tiễn cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thi hành các quy định của

pháp luật về bảo hộ QSHTT, xử phạt vi phạm hành chính (VPHC) các hành vi xâm phạm

QSHTT không phải bao giờ cũng bảo đảm đúng pháp luật. Có những QĐHC, HVHC của

cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền trong việc bảo hộ QSHTT là trái pháp luật, xâm

phạm QSHTT của chủ thể QSHTT. Đối với những trường hợp đó, theo quy định tại Điều

1 của Pháp lệnh năm 2006 thì "cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức theo thủ tục do pháp

luật quy định có quyền khởi kiện vụ án hành chính để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi

ích hợp pháp của mình" [85]. Theo Điều 2 của Pháp lệnh năm 2006, thì cá nhân, cơ quan,

tổ chức có quyền khởi kiện để Tòa án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện QĐHC,

HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công nghệ khi thuộc một trong

các trường hợp sau đây:

- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết

thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không

được giải quyết và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại

lần hai;

- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu theo quy

định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết

khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu

nại lần hai;

- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng hết

thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được

giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại

Page 35: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định không được quyền khiếu nại đến người có thẩm

quyền giải quyết khiếu nại lần hai;

- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng hết

thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không

được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với quyết định giải quyết

khiếu nại lần hai.

Trong các nội dung quản lý nhà nước về SHTT có việc xây dựng, chỉ đạo thực

hiện chiến lược, chính sách bảo hộ QSHTT; cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan

đến Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Văn

bằng bảo hộ các đối tượng SHCN, Bằng bảo hộ giống cõy trồng; trong việc thanh tra,

kiểm tra việc chấp hành phỏp luật về SHTT, giải quyết khiếu nại, tố cỏo và xử lý vi phạm

phỏp luật về SHTT. Trong Luật SHTT, Chương V quy định về chứng nhận đăng ký

QTG, quyền liờn quan; Chương VI quy định về xác lập QSHCN đối với sáng chế, kiểu

dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhón hiệu, chỉ dẫn địa lý; Chương VIII quy định về xác

lập quyền đối với giống cây trồng. Ngoài ra, Điều 211 của Luật SHTT quy định hành vi

xâm phạm QSHTT bị xử phạt hành chính và giao cho Chính phủ quy định cụ thể về hành

vi xâm phạm QSHTT bị xử phạt hành chính, hỡnh thức, mức phạt và thủ tục xử phạt cỏc

hành vi đó.

Khi thực hiện cỏc nội dung quản lý nhà nước trên đây, nếu có QĐHC, HVHC mà

chủ thể QSHTT cho rằng đó xõm phạm QSHTT của mỡnh, thỡ họ có quyền khởi kiện vụ

án hành chính để yêu cầu Tũa án giải quyết nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của

mỡnh về QSHTT.

2.1.2. Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về quyền sở hữu trí tuệ

Thủ tục giải quyết các vụ án hành chính về QSHTT cũng phải tuân thủ thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính nói chung được quy định trong Pháp lệnh năm 2006. Tuy

nhiên, nó có những đặc thù riêng được quy định trong Luật SHTT.

* Khởi kiện, thụ lý vụ án

Khi nhận thấy có QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT xâm phạm

Page 36: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quyền, lợi ích hợp pháp của mình, nếu cá nhân, cơ quan, tổ chức có yêu cầu Toà án bảo

vệ thì phải làm đơn khởi kiện trong thời hạn do pháp luật quy định. Do Luật SHTT không

quy định cụ thể thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính, cho nên thời hiệu khởi kiện vụ án

hành chính về SHTT được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 30 Pháp lệnh năm

2006; cụ thể như sau:

Thứ nhất, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT là ba mươi ngày, kể từ

ngày hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần đầu mà khiếu nại không được giải quyết hoặc

kể từ ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng không đồng ý với

quyết định giải quyết đó trong các trường hợp:

- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu trong lĩnh

vực quản lý nhà nước về SHTT, nhưng hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp

luật về khiếu nại, tố cáo mà khiếu nại không được giải quyết và không tiếp tục khiếu nại

đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về

SHTT;

- Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu trong lĩnh

vực quản lý nhà nước về SHTT theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, nhưng

không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu và không tiếp tục khiếu nại đến

người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về

SHTT.

Thứ hai, thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính về SHTT là ba mươi ngày, kể từ ngày

hết thời hạn giải quyết khiếu nại lần hai mà khiếu nại không được giải quyết hoặc kể từ

ngày nhận được quyết định giải quyết khiếu nại lần hai, nhưng không đồng ý với quyết

định giải quyết đó trong trường hợp đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết

khiếu nại lần hai trong lĩnh vực quản lý nhà nước về SHTT.

Đơn khởi kiện là cơ sở pháp lý đầu tiên làm phát sinh việc bảo vệ QSHTT tại

TAND bằng việc giải quyết vụ án hành chính. Đơn khởi kiện phải có các nội dung chính

quy định tại khoản 5 Điều 30 của Pháp lệnh năm 2006, trong đó bắt buộc phải có nội

dung QĐHC hay tóm tắt diễn biến của HVHC; nội dung quyết định giải quyết khiếu nại

(nếu có); các yêu cầu Toà án giải quyết. Kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu,

Page 37: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của người khởi kiện là có căn cứ và hợp pháp. Theo

quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật SHTT thì nguyên đơn chứng minh mình là chủ

thể QSHTT bằng một trong các chứng cứ: bản sao Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy

chứng nhận đăng ký quyền liên quan, văn bằng bảo hộ; bản trích lục Sổ đăng kưý quốc

gia về QTG, quyền liờn quan, Sổ đăng ký quốc gia về SHCN, Sổ đăng kưý quốc gia về

giống cây trồng được bảo hộ; chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh QTG,

quyền liên quan trong trường hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng

nhận đăng ký quyền liên quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật

kinh doanh, tên thương mại, nhón hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng

SHTT trong trường hợp quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng.

Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh năm 1998 như sau: Sau khi

nhận được đơn khởi kiện vụ án hành chính và các tài liệu, chứng cứ kèm theo, Chánh án

hoặc Phó Chánh án được Chánh án ủy nhiệm, Chánh toà hoặc Phó Chánh tòa được

Chánh án ủy quyền phân công một Thẩm phán xem xét đơn khởi kiện. Trong thời hạn

năm ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đơn khởi kiện, Thẩm phán phải xem xét đối

chiếu với điều kiện khởi kiện vụ án hành chính để tiến hành thụ lý vụ án theo thủ tục chung,

nếu đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính hoặc trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện

và nêu rõ lý do trả lại đơn khởi kiện, nếu không đủ điều kiện khởi kiện vụ án hành chính.

Toà án thụ lý vụ án vào ngày người khởi kiện xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí.

Trong trường hợp người khởi kiện được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, thì Toà án thụ lý vụ

án vào ngày nhận được đơn khởi kiện.

* áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời

Theo quy định tại Điều 206 của Luật SHTT thì khi khởi kiện hoặc sau khi khởi

kiện, chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp:

đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng

hoá bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm

QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời.

Yêu cầu áp dụng BPKCTT sau khi Toà án đã thụ lý vụ án phải được Toà án xem

Page 38: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

xét trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu; nếu có đủ căn cứ pháp luật và

xét thấy cần thiết chấp nhận yêu cầu thì Toà án ra ngay quyết định áp dụng BPKCTT.

Yêu cầu áp dụng BPKCTT cùng với việc nộp đơn khởi kiện sẽ được Chánh án

Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn yêu cầu. Nếu nhận được đơn

ngoài giờ làm việc (kể cả trong ngày nghỉ), thì người tiếp nhận đơn phải báo cáo ngay với

Chánh án Toà án. Chánh án Toà án chỉ định ngay một Thẩm phán thụ lý giải quyết đơn.

Trong thời hạn 48 giờ, kể từ thời điểm nhận được đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT, Thẩm

phán phải xem xét đơn khởi kiện và chứng cứ kèm theo để xác định đơn khởi kiện có

thuộc thẩm quyền thụ lý giải quyết của Toà án mà họ yêu cầu áp dụng BPKCTT hay

không. Nếu không thuộc thẩm quyền thì trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu áp dụng

BPKCTT và các chứng cứ kèm theo cho họ. Nếu thuộc thẩm quyền thì tiếp tục xem xét

giải quyết đơn yêu cầu áp dụng BPKCTT theo thủ tục chung.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 206 của Luật SHTT thì Toà án quyết định áp

dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể QSHTT trước khi nghe ý kiến của bên bị áp

dụng biện pháp đó. Đây là quy định rất đặc thù mà thẩm phán phải tuyệt đối tuân thủ; nếu

để bên bị áp dụng BPKCTT biết trước có yêu cầu áp dụng BPKCTT của chủ thể QSHTT

thì họ có thể tẩu tán, huỷ bỏ hoặc xoá các dấu vết vi phạm.

Các BPKCTT được áp dụng trong việc giải quyết vụ án hành chính về QSHTT

bao gồm: tạm đình chỉ việc thi hành quyết định hành chính bị khiếu kiện; cấm hoặc buộc

đương sự, tổ chức, cá nhân khác thực hiện những hành vi nhất định nếu xét thấy cần thiết

cho việc giải quyết vụ án hành chính hoặc để bảo đảm cho việc thi hành án.

Quyết định áp dụng BPKCTT được thi hành ngay mặc dù có khiếu nại hoặc kiến

nghị. Các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát (VKS) có quyền kiến nghị với

Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án hành chính về quyết định áp dụng BPKCTT. Nếu

có khiếu nại hoặc kiến nghị, thì trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại,

kiến nghị, Chánh án Toà án đang giải quyết vụ án phải xem xét và trả lời.

* Chuẩn bị xét xử vụ án

Việc chuẩn bị xét xử vụ án hành chính về QSHTT cũng phải tuân thủ các quy

định về chuẩn bị xét xử các vụ án hành chính nói chung quy định tại Chương VII của

Page 39: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Pháp lệnh năm 2006. Theo quy định tại khoản 1 Điều 37 của Pháp lệnh năm 2006 thì

trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng

văn bản cho người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ

án và VKS cùng cấp về việc Toà án đã thụ lý vụ án. Văn bản thông báo phải có những

nội dung chính quy định tại khoản 2 Điều 37 của Pháp lệnh năm 2006, đặc biệt phải nêu

những vấn đề cụ thể người khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết; hậu quả pháp lý của việc

người được thông báo không nộp cho Toà án văn bản ý kiến của mình đối với yêu cầu

của người khởi kiện. Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày thụ lý vụ án, Thẩm phán được

phân công làm chủ toạ phiên toà phải ra một trong các quyết định: đưa vụ án ra xét xử;

tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án; đình chỉ việc giải quyết vụ án. Đối với các vụ án phức

tạp hoặc do trở ngại khách quan thì thời hạn nói trên không quá ba tháng. Trong thời hạn

hai mươi ngày, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà;

trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn đó cũng không được quá ba mươi ngày.

* Xét xử sơ thẩm vụ án

Theo quy định tại Điều 43 của Pháp lệnh năm 2006 thì kiểm sát viên VKS cùng cấp

phải tham gia phiên toà sơ thẩm. Người khởi kiện; người bị kiện; người có quyền lợi, nghĩa

vụ liên quan; người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự; người làm chứng; người

giám định; người phiên dịch phải tham gia hoặc phải có mặt tại phiên toà sơ thẩm theo giấy

triệu tập của Toà án. Tại phiên tòa sơ thẩm, Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định đầy đủ các

tình tiết của vụ án bằng cách nghe ý kiến của người khởi kiện, người bị kiện, người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan hoặc người đại diện của đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, đối chiếu các ý kiến này với các tài

liệu, chứng cứ đã thu thập được. Ngay sau khi phiên toà kết thúc, các đương sự được Toà án

cấp trích lục bản án hoặc quyết định về vụ án. Chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày ra bản án,

quyết định, Toà án phải cấp cho đương sự bản sao bản án hoặc quyết định theo yêu cầu của

họ, đồng thời gửi cho VKS cùng cấp.

* Xét xử phúc thẩm vụ án

Theo quy định tại Điều 11 của Luật tổ chức TAND thì Toà án thực hiện chế độ

hai cấp xét xử. Bản án, quyết định sơ thẩm của Toà án có thể bị kháng cáo, kháng nghị

Page 40: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

theo quy định của pháp luật tố tụng. Theo quy định tại Điều 55 của Pháp lệnh năm 2006

thì đương sự hoặc người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo, VKS cùng cấp hoặc

trên một cấp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải

quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án trên một cấp xét xử phúc thẩm.

Người kháng cáo phải làm đơn kháng cáo; VKS kháng nghị bằng văn bản. Trong đơn

kháng cáo, bản kháng nghị phải nêu rõ: nội dung phần quyết định của bản án, quyết định

của Toà án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; lý do kháng cáo, kháng nghị; yêu cầu

của người kháng cáo, kháng nghị.

Kháng cáo, kháng nghị được gửi đến Toà án cấp sơ thẩm đã giải quyết vụ án. Trong

thời hạn bảy ngày, kể từ ngày nhận được kháng cáo, kháng nghị hoặc kể từ ngày người

kháng cáo xuất trình biên lai nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm (nếu người đó phải nộp

khoản tiền đó), Toà án cấp sơ thẩm phải gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ

vụ án cho Toà án cấp phúc thẩm. Khi gửi kháng cáo, kháng nghị kèm theo toàn bộ hồ sơ vụ

án cho Toà án cấp phúc thẩm, Toà án cấp sơ thẩm phải thông báo việc kháng cáo cho Viện

kiểm sát cùng cấp, đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, VKS

phải gửi bản sao bản kháng nghị cho đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến

kháng nghị. Đương sự và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị

phải gửi cho Toà án cấp phúc thẩm ý kiến của mình về kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn

bảy ngày, kể từ ngày nhận được thông báo.

Toà án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị và phần bản án,

quyết định có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị. Trong thời hạn sáu mươi ngày,

kể từ ngày nhận đủ hồ sơ do Toà án cấp sơ thẩm gửi đến, Toà án cấp phúc thẩm phải mở

phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp vụ án có nhiều tình tiết phức tạp, thì thời hạn đó

không được quá chín mươi ngày. Trước khi xét xử phúc thẩm, Toà án có quyền áp dụng

BPKCTT, tạm đình chỉ hoặc đình chỉ việc giải quyết vụ án theo các quy định của Pháp lệnh

năm 2006.

Kiểm sát viên VKS cùng cấp phải tham gia phiên toà phúc thẩm; nếu vắng mặt thì

phải hoãn phiên toà. Toà án phải gửi hồ sơ vụ án cho VKS nghiên cứu. Trong thời hạn mười

ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, VKS phải nghiên cứu và trả lại hồ sơ vụ án cho Toà

án. Đương sự kháng cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến kháng cáo, kháng nghị

Page 41: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

được triệu tập tham gia phiên toà; nếu có người vắng mặt thì Toà án vẫn có thể tiến hành xét

xử. Toà án chỉ triệu tập người giám định, người phiên dịch, người làm chứng khi có yêu cầu

của đương sự và khi xét thấy cần thiết cho việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị; nếu có người

vắng mặt thì tuỳ từng trường hợp mà Toà án quyết định tiến hành xét xử hoặc hoãn phiên

toà. Đối với các vụ án khi xét xử sơ thẩm không cần sự có mặt của người tham gia tố tụng

hoặc người tham gia tố tụng không có yêu cầu tham gia phiên toà phúc thẩm thì Toà án tiến

hành phiên toà phúc thẩm không cần sự có mặt của họ.

Phiên toà phúc thẩm được tiến hành theo các thủ tục như phiên toà sơ thẩm.

Trước khi xem xét kháng cáo, kháng nghị, một thành viên HĐXX trình bày nội dung vụ

án, quyết định của bản án sơ thẩm và nội dung kháng cáo, kháng nghị. Toà án cấp phúc

thẩm có quyền: bác kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên các quyết định của bản án,

quyết định sơ thẩm; sửa một phần hoặc toàn bộ phần quyết định của bản án, quyết định

sơ thẩm; huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm

xét xử lại trong trường hợp có vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng hoặc việc xác

minh, thu thập chứng cứ không đầy đủ mà Toà án cấp phúc thẩm không thể bổ sung

được; tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại

Điều 40 của Pháp lệnh năm 2006; huỷ bản án, quyết định sơ thẩm và đình chỉ việc giải

quyết vụ án khi có một trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh năm

2006; đình chỉ việc giải quyết vụ án theo trình tự phúc thẩm, nếu việc xét xử phúc thẩm

vụ án cần phải có mặt người kháng cáo và họ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà

vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng. Trong trường hợp này bản án sơ thẩm có hiệu

lực pháp luật.

* Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm

Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ

tục giám đốc thẩm khi thuộc một trong các trường hợp: có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố

tụng; phần quyết định trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết khách

quan của vụ án; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ

tục tái thẩm khi thuộc một trong các trường hợp: mới phát hiện được tình tiết quan trọng

Page 42: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

của vụ án mà đương sự đã không thể biết được khi giải quyết vụ án; đã xác định được lời

khai của người làm chứng, kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch rõ

ràng không đúng sự thật hoặc có giả mạo bằng chứng; thẩm phán, hội thẩm, kiểm sát viên,

thư ký Toà án cố tình làm sai lệch hồ sơ vụ án; bản án, quyết định của Toà án hoặc quyết

định của cơ quan nhà nước mà Toà án dựa vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ bỏ.

Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà

án các cấp, trừ quyết định giám đốc thẩm hoặc tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán

TANDTC. Chánh án Toà án cấp tỉnh, Viện trưởng VKS cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

Toà án cấp huyện.

Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái thẩm chỉ có quyền xem xét phần nội dung của vụ

án liên quan đến quyết định bị kháng nghị. ủy ban Thẩm phán Toà án cấp tỉnh giám đốc

thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp huyện

bị kháng nghị. Toà hành chính TANDTC giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp tỉnh bị kháng nghị. Hội đồng Thẩm phán

TANDTC giám đốc thẩm hoặc tái thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật

của các Toà phúc thẩm, Toà hành chính TANDTC bị kháng nghị. Đối với những bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án hành chính thuộc thẩm quyền của các

cấp Toà án khác nhau thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm hoặc tái thẩm toàn

bộ vụ án. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án,

Toà án phải mở phiên toà giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Hội đồng giám đốc thẩm hoặc tái

thẩm có quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật; giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị huỷ hoặc

bị sửa; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm lại;

huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ việc giải quyết vụ án khi có một

trong các trường hợp quy định tại Điều 41 của Pháp lệnh năm 2006.

Sơ đồ 2.1: Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

Đơn khởi kiện đối với

QĐHC, HVHC

Page 43: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Toà án nhận đơn

Trả lại đơn (nếu không đủ điều kiện khởi kiện)

Thụ lý vụ án (nếu đủ điều kiện khởi

kiện)

Chuẩn bị xét xử vụ án

Tạm đình chỉ

đình chỉ

Đưa vụ án ra xét xử

xét xử sơ thẩm

Bản án sơ thẩm có hiệu lực

(Không có k/C, k/N)

Bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực (Có K/C hoặc K/N)

xét xử phúc thẩm

Giữ nguyên B/án-QĐ sơ thẩm

Sửa B/án-QĐ sơ thẩm

hủy b/án-QĐ Sơ thẩm

Tạm đình chỉ

Đình chỉ Huỷ b/án-QĐ và đình chỉ

Page 44: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

2.2. Pháp luật thủ tục truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội xâm phạm

quyền sở hữu trí tuệ

2.2.1. Các tội xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ

Theo quy định tại Điều 212 của Luật SHTT về hành vi xõm phạm QSHTT bị xử

lý hỡnh sự, thỡ "cỏ nhõn thực hiện hành vi xõm phạm QSHTT cú yếu tố cấu thành tội

phạm thỡ bị truy cứu trỏch nhiệm hỡnh sự theo quy định của pháp luật hỡnh sự". Nghiên

cứu BLHS năm 1999 cho thấy các tội phạm xâm phạm QSHTT bao gồm:

Một là, tội xâm phạm QTG (Điều 131 của BLHS năm 1999).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS năm 1999 thì người nào thực hiện

một trong các hành vi sau đây gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về

một trong các hành vi quy định tại điều này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án

tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải

tạo không giam giữ đến hai năm:

- Chiếm đoạt QTG đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương

trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

- Mạo danh tác giả trên tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí, chương

trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

- Sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo

chí, chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình;

Có khiếu nại

Không chấp nhận

Kháng nghị giám đốc thẩm (nếu chấp nhận)

Page 45: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

- Công bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, báo chí,

chương trình băng âm thanh, đĩa âm thanh, băng hình, đĩa hình.

Khoản 2 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và khoản 3 của

điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.

Hai là, tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 của BLHS năm 1999)

Theo quy định tại khoản 1 Điều 156 của BLHS năm 1999 thì người nào sản xuất,

buôn bán hàng giả tương đương với số lượng của hàng thật có giá trị từ ba mươi triệu đồng

đến dưới một trăm năm mươi triệu đồng hoặc dưới ba mươi triệu đồng nhưng gây hậu quả

nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi quy định tại điều này hoặc tại một

trong các điều 153, 154, 155, 157, 158, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một

trong các tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến năm

năm.

Khoản 2 và 3 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và khoản

4 của điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.

Theo hướng dẫn tại điểm 1 mục III của Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-

BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ

Khoa học công nghệ và Môi trường "hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày

27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả" thì

hàng giả được hiểu như sau:

- Hàng giả chất lượng hoặc công dụng là: hàng giả không có giá trị sử dụng hoặc

giá trị sử dụng không đúng như bản chất tự nhiên, tên gọi và công dụng của nó; hàng hoá

đưa thêm tạp chất, chất phụ gia không được phép sử dụng làm thay đổi chất lượng; không

có hoặc ít dược chất, có chứa dược chất khác với tên dược chất được ghi trên nhãn hoặc

bao bì; không có hoặc không đủ hoạt chất, chất hữu hiệu không đủ gây nên công dụng; có

hoạt chất, chất hữu hiệu khác với tên hoạt chất, chất hữu hiệu ghi trên bao bì; hàng hoá

không đủ thành phần nguyên liệu hoặc bị thay thế bằng những nguyên liệu, phụ tùng

khác không đảm bảo chất lượng so với tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá đã công bố, gây

hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi

trường; hàng hoá thuộc danh mục tiêu chuẩn bắt buộc áp dụng mà không thực hiện gây

Page 46: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

hậu quả xấu đối với sản xuất, sức khoẻ người, động vật, thực vật hoặc môi sinh, môi

trường; hàng hoá chưa được chứng nhận phù hợp tiêu chuẩn mà sử dụng giấy chứng nhận

hoặc dấu phù hợp tiêu chuẩn (đối với danh mục hàng hoá bắt buộc).

- Giả về nhãn hiệu hàng hoá, kiểu dáng công nghiệp, nguồn gốc, xuất xứ hàng

hoá là: hàng hoá có nhãn hiệu hàng hoá trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với nhãn hiệu

hàng hoá của người khác đang được bảo hộ cho cùng loại hàng hoá kể cả nhãn hiệu hàng

hoá đang được bảo hộ theo các Điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, mà không được

phép của chủ nhãn hiệu; hàng hoá có dấu hiệu hoặc có bao bì mang dấu hiệu trùng hoặc

tương tự gây nhầm lẫn với tên thương mại được bảo hộ hoặc với tên gọi xuất xứ hàng

hoá được bảo hộ; hàng hoá, bộ phận của hàng hoá có hình dáng bên ngoài trùng với kiểu

dáng công nghiệp đang được bảo hộ mà không được phép của chủ kiểu dáng công

nghiệp; hàng hoá có dấu hiệu giả mạo về chỉ dẫn nguồn gốc, xuất xứ hàng hoá gây hiểu

sai lệch về nguồn gốc, nơi sản xuất, nơi đóng gói, lắp ráp hàng hoá.

- Giả về nhãn hàng hoá là: hàng hoá có nhãn hàng hoá giống hệt hoặc tương tự

với nhãn hàng hoá của cơ sở khác đã công bố; những chỉ tiêu ghi trên nhãn hàng hoá

không phù hợp với chất lượng hàng hoá nhằm lừa dối người tiêu dùng; nội dung ghi trên

nhãn bị cạo, tẩy xoá, sửa đổi, ghi không đúng thời hạn sử dụng để lừa dối khách hàng.

Ba là, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,

thuốc phòng bệnh (Điều 157 của BLHS năm 1999).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 157 của BLHS năm 1999 thì người nào sản xuất,

buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh, thì bị phạt

tù từ hai năm đến bảy năm. Các khoản 2, 3 và 4 của điều luật này quy định các tình tiết định

khung tăng nặng và khoản 5 của Điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.

Bốn là, tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,

thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158 của BLHS năm

1999).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 158 của BLHS năm 1999 thì người nào sản xuất,

buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực

vật, giống cây trồng, vật nuôi với số lượng lớn hoặc gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị

Page 47: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

xử phạt hành chính về hành vi quy định tại Điều này hoặc tại một trong các điều 153, 154,

155, 156, 157, 159 và 161 của Bộ luật này hoặc đã bị kết án về một trong các tội này, chưa

được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu

đồng hoặc phạt tù từ một năm đến năm năm. Các khoản 2 và 3 của điều luật này quy định

các tình tiết định khung tăng nặng và khoản 4 của điều luật này quy định về hình phạt bổ

sung.

Năm là, tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170 của BLHS

năm 1999).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 170 của BLHS năm 1999 thì người nào có thẩm

quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ mà vi phạm quy định của pháp luật về cấp văn bằng

bảo hộ QSHCN, đã bị xử lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm

gây hậu quả nghiêm trọng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu

tháng đến ba năm. Khoản 2 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và

khoản 3 của Điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.

Sáu là, tội xâm phạm QSHCN (Điều 171 của BLHS năm 1999).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 171 của BLHS năm 1999 thì người nào vì mục đích

kinh doanh mà chiếm đoạt, sử dụng bất hợp pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng

công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi, xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác

đang được bảo hộ tại Việt Nam gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về

hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt

tiền từ hai mươi triệu đồng đến hai trăm triệu đồng hoặc cải tạo không giam giữ đến hai năm.

Khoản 2 của điều luật này quy định các tình tiết định khung tăng nặng và khoản 3 của điều

luật này quy định về hình phạt bổ sung.

Bảy là, tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh,

băng âm thanh, đĩa hĩnh, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271 của BLHS năm 1999).

Theo quy định tại khoản 1 Điều 271 của BLHS năm 1999 thì người nào vi phạm các

quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng

hình hoặc các ấn phẩm khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm

triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.

Page 48: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Khoản 2 của điều luật này quy định về hình phạt bổ sung.

2.2.2. Thủ tục xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm phạm quyền sở hữu

trí tuệ

Theo quy định tại Điều 105 của BLTTHS thì đối với tội xâm phạm QTG và tội

xâm phạm QSHCN chỉ được khởi tố khi có yêu cầu của người bị hại. Để Tòa án xét xử

một vụ án hình sự nói chung cũng như xét xử một vụ án hình sự về tội xâm phạm SHTT

nói riêng thì phải có quyết định truy tố bằng bản cáo trạng của Viện kiểm sát. Hồ sơ vụ

án và bản cáo trạng phải được gửi đến Tòa án có thẩm quyền xét xử vụ án đó.

* Chuẩn bị xét xử:

Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa có

nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham

gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên tòa. Thời hạn chuẩn

bị xét xử là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với

tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội

phạm đặc biệt nghiêm trọng. Kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công

chủ tọa phiên tòa phải ra một trong những quyết định: đưa vụ án ra xét xử (nội dung của

quyết định đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 178 của BLTTHS); trả hồ sơ để

điều tra bổ sung; đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Thẩm phán được phân công chủ toạ

phiên toà có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn.

Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải được giao cho bị cáo, người đại diện hợp pháp của

họ và người bào chữa, chậm nhất là mười ngày trước khi mở phiên tòa. Trong trường hợp

xét xử vắng mặt bị cáo thì quyết định đưa vụ án ra xét xử và bản cáo trạng được giao cho

người bào chữa hoặc người đại diện hợp pháp của bị cáo; quyết định đưa vụ án ra xét xử

còn phải được niêm yết tại trụ sở chính quyền xã, phường, thị trấn nơi cư trú hoặc nơi

làm việc cuối cùng của bị cáo.

* Xét xử sơ thẩm vụ án:

Đối với thủ tục tố tụng tại phiên tòa về xét xử các tội xâm phạm QSHTT được

thực hiện theo quy định chung về thủ tục tố tụng tại phiên tòa, tức là xét xử trực tiếp,

bằng lời nói và liên tục. Thành phần HĐXX sơ thẩm gồm một Thẩm phán và hai Hội

Page 49: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

thẩm. Trong trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp, thì HĐXX có thể gồm

hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Thông thường, để xét xử các tội xâm phạm QSHTT thì

cần có ít nhất là một Hội thẩm có kiến thức chuyên môn về SHTT. Đối với vụ án mà bị

cáo bị đưa ra xét xử về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình thì HĐXX

gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm. Các thành viên của HĐXX phải xét xử vụ án từ khi

bắt đầu cho đến khi kết thúc và chỉ thay thế thành viên của HĐXX trong trường hợp đặc

biệt theo quy định tại Điều 186 của BLTTHS.

Bị cáo phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt

không có lý do chính đáng thì bị áp giải theo thủ tục quy định tại Điều 130 của BLTTHS;

nếu bị cáo vắng mặt có lý do chính đáng thì phải hoãn phiên tòa. Ngoài ra, phải có mặt

của kiểm sát viên; của người bị hại; nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự; người có quyền

lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp của họ; người bào chữa;

người làm chứng; người giám định (theo quy định tại các điều 189, 190, 191, 192 và 193

của BLTTHS). Thủ tục bắt đầu phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Chương XIX;

thủ tục xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Chương XX; tranh luận tại

phiên tòa được thực hiện theo quy định tại Chương XXI; việc nghị án và tuyên án được

thực hiện theo quy định tại Chương XXII của BLTTHS.

* Xét xử phúc thẩm vụ án:

Xét xử phúc thẩm là việc Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại

quyết định sơ thẩm mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực

pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị.

Thời hạn kháng cáo là mười lăm ngày, kể từ ngày tuyên án, đối với bị cáo, đương

sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao cho họ

hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp là mười lăm ngày, của VKS

cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án. Nếu đơn kháng cáo gửi qua bưu

điện thì ngày kháng cáo được tính căn cứ vào ngày bưu điện nơi gửi đóng dấu ở phong

bì. Trong trường hợp đơn kháng cáo gửi qua Ban giám thị trại tạm giam, thì ngày kháng

cáo được tính căn cứ vào ngày Ban giám thị trại tạm giam nhận được đơn. Việc kháng

cáo quá hạn có thể được chấp nhận, nếu có lý do chính đáng.

Page 50: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Tòa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng nghị. Nếu xét thấy cần

thiết thì Tòa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần khác không bị kháng cáo, kháng

nghị của bản án.

HĐXX phúc thẩm gồm ba Thẩm phán và trong trường hợp cần thiết có thể có

thêm hai Hội thẩm. Trước khi xét xử hoặc trong khi xét hỏi tại phiên tòa, VKS có thể tự

mình hoặc theo yêu cầu của Tòa án bổ sung chứng cứ mới; người đã kháng cáo và người

có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng cáo, kháng nghị, người bào chữa, người

bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng có quyền bổ sung tài liệu, đồ vật. Chứng cứ cũ,

chứng cứ mới, tài liệu, đồ vật mới bổ sung đều phải được xem xét tại phiên tòa. Bản án

của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ vào cả chứng cứ cũ và mới. Phiên tòa phúc thẩm

cũng tiến hành như phiên tòa sơ thẩm.

Toà án cấp phúc thẩm có quyền quyết định: không chấp nhận kháng cáo, kháng

nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; hủy bản án sơ thẩm và chuyển

hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét xử lại; hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ vụ án. bản án

phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

* Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật:

Giám đốc thẩm là xét lại bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng

bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án. Bản

án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo thủ tục giám

đốc thẩm, khi có một trong những căn cứ: việc điều tra xét hỏi tại phiên tòa phiến diện

hoặc không đầy đủ; kết luận trong bản án hoặc quyết định không phù hợp với những tình

tiết khách quan của vụ án; có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong khi điều tra,

truy tố hoặc xét xử; có những sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng BLHS.

Bản kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm phải nêu rõ lý do và được gửi cho:

Tòa án đã ra bản án hoặc quyết định bị kháng nghị; Tòa án sẽ xét xử giám đốc thẩm;

người bị kết án và những người có quyền và lợi ích liên quan đến việc kháng nghị. Nếu

không có căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, thì trước khi hết thời hạn

kháng nghị quy định tại Điều 278 của BLTTHS, người có quyền kháng nghị phải trả lời

cho người hoặc cơ quan, tổ chức đã phát hiện biết rõ lý do của việc không kháng nghị.

Page 51: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Trước khi bắt đầu phiên tòa giám đốc thẩm, người đã kháng nghị có quyền bổ sung

kháng nghị nếu chưa hết thời hạn kháng nghị quy định tại Điều 278 của BLTTHS hoặc

rút kháng nghị.

ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự

cấp quân khu giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

Tòa án quân sự khu vực. Tòa hình sự TANDTC giám đốc thẩm những bản án hoặc

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương

giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân

sự cấp quân khu. Hội đồng Thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm những bản án hoặc

quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự trung ương, của Toà hình sự,

các Toà phúc thẩm TANDTC bị kháng nghị. Những bản án hoặc quyết định đã có hiệu

lực pháp luật về cùng một vụ án hình sự thuộc thẩm quyền giám đốc thẩm của các cấp

khác nhau thì cấp có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án.

Phiên tòa giám đốc thẩm phải được tiến hành trong thời hạn bốn tháng, kể từ

ngày nhận được kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm phải xem xét toàn bộ vụ án mà

không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị. Hội đồng giám đốc thẩm có quyền ra

một trong các quyết định: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết

định đã có hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật và

đình chỉ vụ án; hủy bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật để điều tra lại hoặc

xét xử lại.

- Thủ tục tái thẩm được áp dụng đối với bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực

pháp luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay

đổi cơ bản nội dung của bản án hoặc quyết định mà Tòa án không biết được khi ra bản án

hoặc quyết định đó.

Những tình tiết được dùng làm căn cứ để kháng nghị tái thẩm là: lời khai của

người làm chứng, kết luận giám định, lời dịch của người phiên dịch có những điểm quan

trọng được phát hiện là không đúng sự thật; Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,

Hội thẩm đã có kết luận không đúng làm cho vụ án bị xét xử sai; vật chứng, biên bản

Page 52: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

điều tra, biên bản các hoạt động tố tụng khác hoặc những tài liệu khác trong vụ án bị giả

mạo hoặc không đúng sự thật; những tình tiết khác làm cho việc giải quyết vụ án không

đúng sự thật.

Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với

những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp, trừ quyết định

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự Trung ương có

quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp dưới. Viện trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền

kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của TAND cấp huyện. Viện trưởng Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu có

quyền kháng nghị theo thủ tục tái thẩm đối với những bản án hoặc quyết định đã có hiệu

lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực; bản kháng nghị của những người quy định tại

Điều này phải được gửi cho người bị kết án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên

quan đến việc kháng nghị.

ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã

có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện. ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự cấp

quân khu tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự

khu vực. Tòa hình sự TANDTC tái thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực

pháp luật của TAND cấp tỉnh. Tòa án quân sự trung ương tái thẩm bản án hoặc quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu. Hội đồng Thẩm phán

TANDTC tái thẩm bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án quân sự

trung ương, Toà hình sự, các Toà phúc thẩm TANDTC. Hội đồng tái thẩm có quyền ra

quyết định: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án hoặc quyết định đã có

hiệu lực pháp luật; hủy bản án hoặc quyết định bị kháng nghị để điều tra lại hoặc xét xử

lại; huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng nghị và đình chỉ vụ án.

Sơ đồ 2.2: Bảo vệ QSHTT tại TAND bằng thủ tục xét xử các vụ án hình sự

Phát hiện, tố cáo

Cảnh sát điều tra khởi tố, điều tra

Trả hồ sơ điều tra bổ sung

Viện K.S truy tố

Trả H.S Điều tra bổ sung

- Xử lý hành chính - Xử ký kỷ luật - Không có căn cứ giải quyết

Page 53: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

2.3. Pháp luật thủ tục giải quyết các vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ

2.3.1. Các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền giải quyết của

Toà án nhân dân

Theo quy định tại khoản 4 Điều 25, khoản 2 Điều 29 của BLTTDS và các quy

định của Luật SHTT, thì các tranh chấp về QSHTT thuộc thẩm quyền giải quyết của

TAND bao gồm:

- Các tranh chấp về QTG đối với tác phẩm (quy định tại Điều 19 và Điều 20 của

Luật SHTT) bao gồm: các tranh chấp về quyền nhân thân và quyền tài sản (đối với: tác

phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu; chương trình máy tính, sưu tập dữ liệu; tác phẩm văn

học, nghệ thuật dân gian; tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học); các tranh chấp về hợp

đồng chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng, hợp đồng dịch vụ; các tranh chấp về thừa

kế, kế thừa QTG.

- Các tranh chấp về quyền liên quan (quy định tại Điều 29 của Luật SHTT) bao

gồm: các tranh chấp về quyền nhân thân và quyền tài sản (đối với: cuộc biểu diễn; bản

ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã

hoá); các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng, hợp đồng dịch

vụ; các tranh chấp về thừa kế, kế thừa quyền liên quan…

- Các tranh chấp về QSHCN (quy định tại Điều 122 của Luật SHTT) là các

tranh chấp về quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích

hợp bán dẫn, nhãn hiệu, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh và quyền

chống cạnh tranh không lành mạnh, bao gồm: các tranh chấp về quyền đăng ký, quyền ưu

tiên đối với đơn đăng ký; các tranh chấp về quyền của tác giả; các tranh chấp về quyền

nhân thân và quyền tài sản; các tranh chấp về quyền tạm thời; các tranh chấp về quyền

sử dụng trước; các tranh chấp về khoản tiền đền bù giữa chủ Văn bằng bảo hộ với người

sử dụng trong khoảng thời gian từ ngày công bố đơn yêu cầu cấp Văn bằng bảo hộ trên

Công báo sở hữu công nghiệp đến ngày cấp Văn bằng bảo hộ; các tranh chấp về xâm

phạm quyền của chủ Văn bằng bảo hộ; các tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng,

chuyển quyền sử dụng đối tượng SHCN, hợp đồng dịch vụ đại diện SHCN; các tranh chấp

về thừa kế, kế thừa QSHCN, QTG; các hành vi cạnh tranh không lành mạnh…

Page 54: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

- Các tranh chấp về quyền đối với giống cây trồng (quy định tại Điều 164 của

Luật SHTT) bao gồm: các tranh chấp về quyền nộp đơn đăng ký cấp Bằng bảo hộ; quyền

ưu tiên đối với đơn yêu cầu đăng ký cấp Bằng bảo hộ; các tranh chấp về QTG (tranh chấp

ai là người chọn tạo hoặc phát hiện và phát triển giống cây trồng hoặc vật liệu nhân giống

cây trồng...); các tranh chấp về sử dụng giống cây trồng và vật liệu nhân giống cây trồng

giữa người có quyền sử dụng trước và người được cấp đơn đăng ký bảo hộ các đối tượng

đó; các tranh chấp về khoản tiền đền bù giữa người đăng ký với người sử dụng giống cây

trồng và vật liệu nhân giống cây trồng của người đăng ký trong khoảng thời gian từ ngày

công bố đơn yêu cầu đăng ký cấp Bằng bảo hộ trên Công báo sở hữu công nghiệp đến

ngày cấp Bằng bảo hộ; các tranh chấp về xâm phạm quyền của chủ Bằng bảo hộ; các

tranh chấp về hợp đồng chuyển giao, chuyển nhượng, dịch vụ đại diện quyền; các tranh

chấp về thừa kế, kế thừa quyền; các hành vi cạnh tranh không lành mạnh…

2.3.2. Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự về quyền sở hữu trí tuệ

Theo quy định tại Điều 202 của Luật SHTT, để xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi

xâm phạm QSHTT, Toà án có quyền áp dụng các biện pháp dân sự như: buộc chấm dứt

hành vi xâm phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự;

buộc bồi thường thiệt hại; buộc tiêu huỷ hoặc buộc phân phối hoặc đưa vào sử dụng

không nhằm mục đích thương mại đối với hàng hoá, nguyên liệu, vật liệu và phương tiện

được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng hoá xâm phạm QSHTT với điều kiện

không làm ảnh hưởng đến khả năng khai thác quyền của chủ thể QSHTT.

Thẩm quyền giải quyết tranh chấp về QSHTT của TAND được quy định tại

BLTTDS năm 2004 như sau:

- TAND cấp huyện giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp dân sự về

QSHTT, chuyển giao công nghệ (khoản 4 Điều 25 và Điều 33 của BLTTDS).

- TAND cấp tỉnh giải quyết theo thủ tục sơ thẩm những tranh chấp về QSHTT,

chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận

(khoản 2 Điều 29 và Điều 33 của BLTTDS).

Theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Hội đồng Thẩm phán TANDTC

đã ban hành các nghị quyết hướng dẫn các quy định của BLTTDS năm 2004. Liên quan

Page 55: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

tới thủ tục tố tụng giải quyết các tranh chấp dân sự nói chung và các tranh chấp về

QSHTT nói riêng tại TAND có bốn nghị quyết: Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày

31-3-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định

chung" của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 01/2005); Nghị quyết số

02/2005/NQ-HĐTP ngày 27-4-2005 hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương

VIII "Các biện pháp khẩn cấp tạm thời" của BLTTDS năm 2004 (sau đây viết tắt là Nghị

quyết số 02/2005); Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17-9-2005 hướng dẫn thi hành

một số quy định của BLTTDS năm 2004 về "Chứng minh và chứng cứ" (sau đây viết tắt là

Nghị quyết số 04/2005); Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 hướng dẫn thi

hành một số quy định trong Phần thứ ba "Thủ tục giải quyết các vụ án tại Tòa án cấp

phúc thẩm" của BLTTDS (sau đây viết tắt là Nghị quyết số 05/2005).

Theo quy định của BLTTDS, Luật SHTT thì thủ tục bảo vệ QSHTT theo tố tụng

dân sự như sau:

* Khởi kiện, thụ lý vụ án:

Khi cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, thì cá nhân, cơ

quan, tổ chức (chủ sở hữu QSHTT) có quyền làm đơn khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu

Toà án bảo vệ. Theo tinh thần quy định tại khoản 3 Điều 162 của BLTTDS thì Cục SHTT

(Bộ Khoa học và Công nghệ), Cục bản quyền tác giả (Bộ Văn hóa - Thông tin), Vụ khoa

học, công nghệ và chất lượng sản phẩm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) trong

phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà

án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ trách liên

quan đến SHTT. Đơn khởi kiện phải có nội dung quy định tại Điều 164 của BLTTDS.

Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho

những yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.

Toà án nhận đơn khởi kiện do đương sự nộp trực tiếp tại Toà án hoặc gửi qua

bưu điện và phải ghi vào Sổ nhận đơn. Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày

nhận được đơn khởi kiện, Toà án phải xem xét và có một trong các quyết định sau đây: tiến

hành thủ tục thụ lý vụ án nếu vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của mình; chuyển đơn

khởi kiện cho Toà án có thẩm quyền và báo cho người khởi kiện, nếu vụ án thuộc thẩm

Page 56: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quyền giải quyết của Toà án khác; trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện, nếu việc đó

không thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án. Trong trường hợp xét thấy vụ án thuộc

thẩm quyền giải quyết của Toà án thì Toà án phải thông báo ngay cho người khởi kiện

biết để họ đến Toà án làm thủ tục nộp tiền tạm ứng án phí trong trường hợp họ phải nộp

tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể từ ngày thụ lý vụ án, Chánh án

Toà án phân công một Thẩm phán giải quyết vụ án. Trong thời hạn ba ngày làm việc kể

từ ngày thụ lý vụ án, Toà án phải thông báo bằng văn bản cho bị đơn, cá nhân, cơ quan,

tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc giải quyết vụ án, cho VKS cùng cấp về

việc Toà án đã thụ lý vụ án.

Trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người được

thông báo phải nộp cho Toà án văn bản ghi ý kiến của mình đối với yêu cầu của người khởi

kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có. Trong trường hợp cần gia hạn thì người được

thông báo phải có đơn xin gia hạn gửi cho Toà án nêu rõ lý do; nếu việc xin gia hạn là có căn

cứ thì Toà án phải gia hạn, nhưng không quá mười lăm ngày; người được thông báo có

quyền yêu cầu Toà án cho xem, ghi chép, sao chụp đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm

theo đơn khởi kiện. Đối với việc nộp tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện, Tòa án cần

lưu ý: một trong những quyền và nghĩa vụ đầu tiên của chủ sở hữu quyền và của người vi

phạm quyền là quyền và nghĩa vụ chứng minh được quy định tại Điều 203 (khoản 1) của

Luật SHTT: "Nguyên đơn và bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ có quyền

và nghĩa vụ chứng minh theo quy định tại Điều 79 của BLTTDS và theo quy định tại điều

này" [64]. Quy định này là cụ thể hóa quy định chung về nghĩa vụ chứng minh tại khoản 1

Điều 79 của BLTTDS, theo đó, "đương sự có yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ớch hợp

phỏp của mỡnh phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp

pháp" [61].

- Đối với nguyên đơn: theo quy định tại khoản 2 Điều 203 của Luật SHTT, để

chứng minh mỡnh là chủ thể QSHTT, nguyờn đơn phải đưa ra một trong các chứng cứ

sau đây: Bản sao Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên

quan, Văn bằng bảo hộ; bản trích lục Sổ đăng kưý quốc gia về QTG, quyền liờn quan, Sổ

đăng ký quốc gia về SHCN, Sổ đăng kưý quốc gia về giống cây trồng được bảo hộ;

chứng cứ cần thiết để chứng minh căn cứ phát sinh QTG, quyền liên quan trong trường

Page 57: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

hợp không có Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên

quan; chứng cứ cần thiết để chứng minh quyền đối với bí mật kinh doanh, tên thương

mại, nhón hiệu nổi tiếng; bản sao hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong trường hợp

quyền sử dụng được chuyển giao theo hợp đồng. Ngoài ra, nguyên đơn phải cung cấp các

chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHTT hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh

(khoản 3 Điều 203 của Luật SHTT).

- Đối với bị đơn: Khoản 2 Điều 79 của BLTTDS quy định: "Đương sự phản đối

yêu cầu của người khác đối với mỡnh phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và

phải đưa ra chứng cứ để chứng minh" [53]. Phù hợp với yêu cầu này, khoản 4 Điều 203

của Luật SHTT quy định: Trong vụ kiện về xâm phạm quyền đối với sáng chế là một quy

trỡnh sản xuất sản phẩm, bị đơn phải chứng minh sản phẩm của mỡnh được sản xuất theo

một quy trỡnh khỏc với quy trỡnh được bảo hộ trong các trường hợp sau đây: sản phẩm

được sản xuất theo quy trỡnh được bảo hộ là sản phẩm mới; sản phẩm được sản xuất theo

quy trỡnh được bảo hộ không phải là sản phẩm mới nhưng chủ sở hữu sáng chế cho rằng

sản phẩm do bị đơn sản xuất là theo quy trỡnh được bảo hộ và mặc dù đó sử dụng cỏc

biện phỏp thớch hợp nhưng vẫn không thể xác định được quy trỡnh do bị đơn sử dụng.

Tại khoản 5 Điều 203 của Luật SHTT quy định: "Trong trường hợp một bên

trong vụ kiện xâm phạm QSHTT chứng minh được chứng cứ thích hợp để chứng minh

cho yêu cầu của mỡnh bị bờn kia kiểm soỏt do đó không thể tiếp cận được thỡ cú quyền

yờn cầu Toà ỏn buộc bờn kiểm soỏt chứng cứ phải đưa ra chứng cứ đó" [64]. Có thể nói,

quy định này là sự "nội luật hoá" quy định của khoản 1 Điều 43 của Hiệp định TRIPs:

Cách thu thập chứng cứ đang nằm trong sự kiểm soát của phía bên kia

rằng khi một bên trong vụ kiện đó đưa ra những chứng cứ có thể có được một

cách hợp lý đủ để làm căn cứ cho yêu cầu của mỡnh đang do phía bên kia

kiểm soát, thỡ cơ quan xét xử phải có quyền bắt buộc phía bên kia đưa ra

những chứng cứ đó [35].

Ngoài ra, một trong cỏc quyền và nghĩa vụ quan trọng của chủ sở hữu quyền cũn

là: "Trong trường hợp có yêu cầu bồi thường thiệt hại thỡ nguyờn đơn phải chứng minh

thiệt hại thực tế đó xảy ra và nờu căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại theo quy định

Page 58: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

tại Điều 205 của luật này (khoản 6 Điều 203 của Luật SHTT) [64].

Về nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT: Hiệp định TRIPs yêu

cầu các cơ quan xét xử phải có quyền ra lệnh cho bên vi phạm đền bù cho chủ thể quyền

một cách thích đáng, đủ bù lại những thiệt hại mà chủ thể quyền đó phải chịu (khoản 1

Điều 45), ngoài ra bắt buộc người vi phạm quyền phải trả cho chủ thể quyền các chi phí

cuả chủ thể quyền, và trong các trường hợp thích hợp, các nước thành viên có thể cho

phép các cơ quan xét xử được quyền ra lệnh thu hồi các khoản lợi nhuận và/ hoặc trả các

khoản đền bù thiệt hại ấn định trước, kể cả trong trường hợp người xâm phạm không biết

hoặc không có căn cứ để biết hành vi xâm phạm (khoản 2 Điều 45).

Việc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT được quy định tại Điều 204 của Luật

SHTT gồm có: thiệt hại về vật chất bao gồm các tổn thất về tài sản, mức giảm sút về thu

nhập, lợi nhuận, tổn thất về cơ hội kinh doanh, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục

thiệt hại; thiệt hại về tinh thần bao gồm các tổn thất về danh dự, nhân phẩm, uy tín, danh

tiếng và những tổn thất khác về tinh thần gây ra cho tác giả của tác phẩm văn học, nghệ

thuật, khoa học; người biểu diễn; tác giả của sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố

trí, giống cây trồng. Mức độ thiệt hại được xác định trên cơ sở các tổn thất thực tế mà chủ

thể QSHTT phải chịu do hành vi xâm phạm QSHTT gây ra.

Trên tinh thần các nguyên tắc chung về bồi thường thiệt hại của BLDS, các căn cứ

để xác định mức bồi thường thiệt hại do xâm phạm QSHTT được Luật SHTT quy định là

trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi xâm phạm QSHTT đó gõy thiệt

hại về vật chất cho mỡnh thỡ cú quyền yờu cầu Toà ỏn quyết định mức bồi thường, theo

một trong các căn cứ: tổng thiệt hại vật chất tính bằng tiền cộng với khoản lợi nhuận mà

bị đơn đó thu được do thực hiện hành vi xâm phạm QSHTT, nếu khoản lợi nhuận bị giảm

sút của nguyên đơn chưa được tính vào tổng thiệt hại vật chất; giá chuyển giao quyền sử

dụng đối tượng SHTT với giả định bị đơn được nguyên đơn chuyển giao quyền sử dụng

đối tượng đó theo hợp đồng sử dụng đối tượng SHTT trong phạm vi tương ứng với hành

vi xâm phạm đó thực hiện; trong trường hợp không thể xác định được mức bồi thường

thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm a và điểm b khoản này thỡ mức bồi

thường thiệt hại về vật chất do Toà án ấn định, tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại, nhưng

không quá năm trăm triệu đồng. Trong trường hợp nguyên đơn chứng minh được hành vi

Page 59: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

xâm phạm QSHTT đó gõy thiệt hại về tinh thần cho mỡnh thỡ cú quyền yêu cầu Toà án

quyết định mức bồi thường trong giới hạn từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng,

tuỳ thuộc vào mức độ thiệt hại. Ngoài bồi thường thiệt hại, chủ thể QSHTT có quyền yêu

cầu Toà án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm QSHTT phải thanh toán chi phí

hợp lý để thuê luật sư" (Điều 205).

* áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời:

Thông thường khi phát hiện vi phạm, chủ sở hữu QSHTT thường muốn có ngay

được những biện pháp hữu hiệu cần thiết, nhanh chóng nhất để ngăn chặn một cách kịp thời,

có hiệu quả các hành vi vi phạm quyền, lợi ích chính đáng của mình, tức là phải có hành

động nhằm chấm dứt ngay lập tức hành vi vi phạm quyền. Hiệp định TRIPs đặt nghĩa vụ cho

các nước thành viên phải ngăn chặn hành vi xâm phạm bất kỳ QSHTT nào và lưu giữ những

chứng cứ có liên quan đến hành vi bị coi là vi phạm; trong trường hợp mà bất kỳ có sự chậm

trễ nào cũng có thể gây ra những thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể quyền, hoặc

khi có những nguy cơ rõ ràng rằng các chứng cứ đang bị phá huỷ (khoản 2 Điều 50). Tại

Điều 13 chương II Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ yêu cầu Toà án phải được

phép ra "lệnh áp dụng các BPKCTT một cách có hiệu quả và ngay lập tức" để ngăn chặn

nguy cơ xâm phạm các QSHTT và bảo vệ chứng cứ liên quan. Đáp ứng yêu cầu này, Điều

206 của Luật SHTT quy định khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, chủ thể QSHTT có

quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp: đang có nguy cơ xảy ra thiệt

hại không thể khắc phục được cho chủ thể QSHTT; hàng hoá bị nghi ngờ xâm phạm

QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc

bị tiêu huỷ nếu không được bảo vệ kịp thời. Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu

cầu của chủ thể QSHTT trước khi nghe ý kiến của bờn bị ỏp dụng biện phỏp đó. Điều 207

của Luật SHTT quy định các BPKCTT, bao gồm: thu giữ; kê biên; niêm phong; cấm thay

đổi hiện trạng; cấm di chuyển; cấm chuyển dịch quyền sở hữu. Như vậy, theo quy định tại

BLTTDS năm 2004 và Luật SHTT, thì chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng

BPKCTT khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện. Tuy nhiên, cần lưu ý quy định tại khoản 2

Điều 206 của Luật SHTT: "Toà án quyết định áp dụng BPKCTT theo yêu cầu của chủ thể

QSHTT quy định tại khoản 1 Điều này trước khi nghe ý kiến của bờn bị ỏp dụng biện phỏp

đó" [64]. Đây là quy định được đánh giá mang rừ tớnh chất đặc thù của việc áp dụng

Page 60: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

BPKCTT trong vụ án liên quan đến QSHTT.

Trong trường hợp yêu cầu áp dụng lệnh BPKCTT đó là không đúng, gây thiệt hại

cho bên bị yêu cầu áp dụng lệnh, thỡ người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại, Hiệp định

TRIPs gọi đó là "bồi thường cho bị đơn". Hiệp định TRIPs quy định rằng các cơ quan xét

xử phải có quyền ra lệnh cho bên đó lạm dụng cỏc thủ tục thực thi quyền phải bồi thường

thoả đáng cho bên bị thiệt hại (khoản 1 Điều 48). Tại đoạn 2 Điều 13 chương II của BTA

quy định: "Mỗi bên cho phép các cơ quan xét xử của mỡnh được yêu cầu người nộp đơn

phải nộp một khoản bảo chứng hoặc bảo đảm tương đương đủ để bảo vệ lợi ích của bị

đơn và ngăn ngừa sự lạm dụng" [39], phù hợp yêu cầu này, theo khoản 4 Điều 117 của

BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 của Nghị quyết số 02/2005, thỡ chỉ được phong toả tài

khoản, tài sản có giá trị tương đương với nghĩa vụ tài sản mà người bị áp dụng BPKCTT

có nghĩa vụ phải thực hiện... Tại Điều 208 của Luật SHTT quy định về nghĩa vụ của

người yêu cầu áp dụng BPKCTT như sau: người yêu cầu áp dụng BPKCTT có nghĩa vụ

chứng minh quyền yêu cầu theo quy định tại khoản 1 Điều 206 của luật này bằng các tài

liệu, chứng cứ quy định tại khoản 2 Điều 203 của luật này; người yêu cầu áp dụng

BPKCTT có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại gây ra cho người bị áp dụng biện pháp đó

trong trường hợp người đó không xâm phạm QSHTT. Để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

này, người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp khoản bảo đảm bằng một trong các hỡnh

thức: khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT hoặc tối thiểu hai mươi

triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó; chứng từ bảo lónh của ngõn

hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác. Việc bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm

QSHTT gây ra được thực hiện theo nguyên tắc chung của BLDS, tức là phải có thiệt hại

xảy ra, bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về tinh thần...

Theo quy định tại Điều 209 của Luật SHTT thỡ Toà án ra quyết định huỷ bỏ

BPKCTT đó được áp dụng trong các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 122 của

BLTTDS (đó là các trường hợp: người yêu cầu áp dụng BPKCTT đề nghị hủy bỏ; người

phải thi hành quyết định áp dụng BPKCTT nộp tài sản hoặc có người khác thực hiện biện

pháp bảo đảm thi hành nghĩa vụ đối với bên có yêu cầu; nghĩa vụ dân sự của có nghĩa vụ

chấm dứt theo quy định của BLDS) và trong trường hợp người bị áp dụng BPKCTT

chứng minh được việc áp dụng BPKCTT là không có căn cứ xác đáng. Trong trường hợp

Page 61: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

huỷ bỏ BPKCTT, Toà án phải xem xét để trả lại cho người yêu cầu áp dụng BPKCTT

khoản bảo đảm quy định tại khoản 2 Điều 208 của luật này. Trong trường hợp yêu cầu áp

dụng BPKCTT không có căn cứ xác đáng và gây thiệt hại cho người bị áp dụng BPKCTT

thỡ Toà ỏn buộc người yêu cầu phải bồi thường thiệt hại. Về thẩm quyền, thủ tục áp dụng

BPKCTT thực hiện như đó trỡnh bày ở tiết b tiểu mục 2.1.1.2 chương 2 của luận văn.

* Hũa giải:

Khác với thủ tục giải quyết các vụ án hành chính, xét xử các vụ án hỡnh sự là

Tũa án không tiến hành hũa giải, thỡ trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự hũa giải là

một nguyên tắc bắt buộc. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tũa án tiến hành

hũa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những trường

hợp không được hũa giải hoặc không thể tiến hành hũa giải được. Có thể nói, trong quá

trỡnh giải quyết các tranh chấp về SHTT, hũa giải để các bên thỏa thuận được với nhau

sẽ đem lại được những lợi ích to lớn. Khi các bên tranh chấp thỏa thuận được với nhau về

các vấn đề phải giải quyết trong vụ án, Tũa án sẽ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận

của đương sự và quyết định này sẽ có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành; do

đó, các bên không phải mất nhiều thời gian, tiền bạc cho công việc tố tụng. Trong một

chừng mực nào đó, QSHTT được bảo đảm bí mật, những xâm phạm SHTT được ngăn

chặn kịp thời và hậu quả của việc xâm phạm được khắc phục.

* Chuẩn bị xét xử vụ án:

Điều 179 của BLTTDS quy định thời hạn chuẩn bị xét xử là bốn tháng, kể từ

ngày thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì

Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không quá

hai tháng. Trong thời hạn chuẩn bị xét xử, tuỳ từng trường hợp, Toà án ra một trong các

quyết định: công nhận sự thoả thuận của các đương sự; tạm đình chỉ giải quyết vụ án;

đình chỉ giải quyết vụ án; đưa vụ án ra xét xử. Trong thời hạn một tháng kể từ ngày có

quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà; trong trường hợp có lý do

chính đáng thì thời hạn này là hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phải có các nội

dung chính quy định tại Điều 195 của BLTTDS.

* Xét xử sơ thẩm vụ án:

Page 62: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Phiên toà sơ thẩm phải được tiến hành đúng thời gian, địa điểm đã được ghi trong

quyết định đưa vụ án ra xét xử hoặc trong giấy báo mở lại phiên toà (trong trường hợp phải

hoãn phiên toà). Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách hỏi và

nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án,

người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những

người tham gia tố tụng khác; xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được; nghe

Kiểm sát viên phát biểu ý kiến của VKS về việc giải quyết vụ án (trong trường hợp có Kiểm

sát viên tham gia phiên toà). Bản án chỉ được căn cứ vào kết quả tranh tụng, việc hỏi tại

phiên toà và các chứng cứ đã được xem xét, kiểm tra tại phiên toà. Thủ tục hỏi tại phiên

toà, tranh luận tại phiên toà, nghị án và tuyên án được thực hiện theo quy định tại các

mục 3, 4 và mục 5 chương XIV Phần thứ hai của BLTTDS. Bản án phải được Hội đồng

xét xử thảo luận và thông qua tại phòng nghị án. Bản án gồm có phần mở đầu, phần nội

dung vụ án và nhận định của Toà án, phần quyết định. Nội dung bản án được thực hiện

theo quy định tại các khoản 3, 4 và khoản 5 Điều 238 của BLTTDS.

* Xét xử phúc thẩm đối với vụ án:

Xét xử phúc thẩm là việc Toà án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án,

quyết định của Toà án cấp sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng

nghị. Đương sự, người đại diện của đương sự, cơ quan, tổ chức khởi kiện có quyền làm

đơn kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp

sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Đơn

kháng cáo phải có các nội dung chính theo quy định tại Điều 244 của BLTTDS.

- Thời hạn kháng cáo đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm là mười lăm ngày,

kể từ ngày tuyên án; đối với đương sự không có mặt tại phiên toà thì thời hạn kháng cáo

tính từ ngày bản án được giao cho họ hoặc được niêm yết. Thời hạn kháng cáo đối với

quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy ngày, kể

từ ngày người có quyền kháng cáo nhận được quyết định. Viện trưởng VKS cùng cấp và

cấp trên trực tiếp có quyền kháng nghị bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết

vụ án của Toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu Toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo thủ

tục phúc thẩm. Quyết định kháng nghị của VKS phải bằng văn bản và có các nội dung

chính theo quy định tại Điều 251của BLTTDS.

Page 63: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

- Thời hạn kháng nghị đối với bản án của Toà án cấp sơ thẩm của VKS cùng

cấp là mười lăm ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là ba mươi ngày, kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp Kiểm sát viên không tham gia phiên toà thì thời hạn kháng nghị tính từ

ngày Viện kiểm sát cùng cấp nhận được bản án. Thời hạn kháng nghị của VKS cùng cấp

đối với quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết vụ án của Toà án cấp sơ thẩm là bảy

ngày, của VKS cấp trên trực tiếp là mười ngày, kể từ ngày VKS cùng cấp nhận được

quyết định. Toà án cấp sơ thẩm phải gửi hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu,

chứng cứ kèm theo cho Toà án cấp phúc thẩm trong thời hạn năm ngày làm việc. Ngay

sau khi nhận được hồ sơ vụ án, kháng cáo, kháng nghị và tài liệu, chứng cứ kèm theo,

Toà án cấp phúc thẩm phải vào sổ thụ lý. Chánh án Toà án cấp phúc thẩm hoặc Chánh

toà Toà phúc thẩm TANDTC thành lập Hội đồng xét xử phúc thẩm và phân công một

Thẩm phán làm chủ tọa phiên toà.

- Thời hạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm là hai tháng kể từ ngày thụ lý vụ án. Tuỳ

từng trường hợp, Toà án cấp phúc thẩm ra một trong các quyết định sau đây: tạm đình chỉ

xét xử phúc thẩm vụ án; đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án; đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm.

Đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì Chánh án Toà án cấp

phúc thẩm có thể quyết định kéo dài thời hạn chuẩn bị xét xử, nhưng không được quá

một tháng. Trong thời hạn một tháng, kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà

án phải mở phiên toà phúc thẩm; trong trường hợp có lý do chính đáng thì thời hạn này là

hai tháng. Quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm phải được gửi cho VKS cùng cấp và

những người có liên quan đến kháng cáo, kháng nghị.

Toà án cấp phúc thẩm chỉ xem xét lại phần của bản án, quyết định sơ thẩm có

kháng cáo, kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng cáo, kháng

nghị. HĐXX phúc thẩm có quyền: giữ nguyên bản án sơ thẩm; sửa bản án sơ thẩm; huỷ bản

án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án; huỷ bản án sơ

thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.

* Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật:

- Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật

nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải

Page 64: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quyết vụ án. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo

thủ tục giám đốc thẩm khi có một trong những căn cứ sau đây: kết luận trong bản án,

quyết định không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; có vi phạm nghiêm

trọng thủ tục tố tụng; có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục

giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết

định giám đốc thẩm của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện

trưởng VKSND cấp tỉnh có quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện.

ủy ban Thẩm phán TAND cấp tỉnh giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật của TAND cấp huyện bị kháng nghị; Toà dân sự, Toà kinh tế, Toà

lao động của TANDTC giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của TAND cấp tỉnh bị kháng nghị; Hội đồng Thẩm phán TANDTC giám đốc thẩm

những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của các Toà phúc thẩm, Toà dân sự,

Toà kinh tế, Toà lao động của TANDTC bị kháng nghị; đối với những bản án, quyết

định đã có hiệu lực pháp luật về cùng một vụ án dân sự thuộc thẩm quyền của các cấp

Toà án khác nhau thì Toà án có thẩm quyền cấp trên giám đốc thẩm toàn bộ vụ án. Hội

đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại phần quyết định của bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật bị kháng nghị hoặc có liên quan đến việc xem xét nội dung kháng nghị.

Hội đồng giám đốc thẩm có quyền xem xét phần quyết định của bản án, quyết định đã

có hiệu lực pháp luật không bị kháng nghị hoặc không có liên quan đến việc xem xét

nội dung kháng nghị, nếu phần quyết định đó xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi

ích của người thứ ba không phải là đương sự trong vụ án. Hội đồng giám đốc thẩm có

quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án, quyết định đã có hiệu lực

pháp luật; giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Toà án cấp dưới đã bị

huỷ hoặc bị sửa; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để xét xử sơ thẩm lại

hoặc xét xử phúc thẩm lại; huỷ bản án, quyết định của Toà án đã xét xử vụ án và đình

chỉ giải quyết vụ án. Quyết định giám đốc thẩm phải có các nội dung được quy định tại

Điều 301 của BLTTDS.

- Thủ tục tái thẩm là xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị

Page 65: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi cơ bản nội dung

của bản án, quyết định mà Toà án, các đương sự không biết được khi Toà án ra bản án,

quyết định đó. Bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị theo

thủ tục tái thẩm khi có một trong những căn cứ: mới phát hiện được tình tiết quan trọng

của vụ án mà đương sự đã không thể biết được trong quá trình giải quyết vụ án; có cơ sở

chứng minh kết luận của người giám định, lời dịch của người phiên dịch không đúng sự

thật hoặc có giả mạo chứng cứ; Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Kiểm sát viên cố ý làm

sai lệch hồ sơ vụ án hoặc cố ý kết luận trái pháp luật; Bản án, quyết định hình sự, hành

chính, dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của Toà án hoặc

quyết định của cơ quan nhà nước mà Toà án căn cứ vào đó để giải quyết vụ án đã bị huỷ

bỏ.

Chánh án TANDTC, Viện trưởng VKSNDTC có quyền kháng nghị theo thủ tục

tái thẩm bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án các cấp, trừ quyết định

của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Chánh án TAND cấp tỉnh, Viện trưởng VKSND cấp

tỉnh có quyền kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của TAND cấp

huyện. Hội đồng tái thẩm có quyền: không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án,

quyết định đã có hiệu lực pháp luật; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để

xét xử sơ thẩm lại theo thủ tục do BLTTDS quy định; huỷ bản án, quyết định đã có hiệu

lực pháp luật và đình chỉ giải quyết vụ án.

Page 66: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Sơ đồ 2.3: Bảo vệ QSHTT tại TAND

bằng thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

Người khởi Kiện

Nộp đơn cho T.A

Thụ lý vụ án

Đình chỉ Hoà giải tạm Đình chỉ

Toà án ra QĐ công nhận

Bản án, QĐ có HL

Thành

Đưa ra xét xử

xét xử sơ thẩm

K.Nghị K.Cáo?

xét xử Phúc thẩm

Chấp nhận

Không chấp nhận và trả lại đơn

Không

Không

Page 67: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Kết luận chương 2

Pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND được hình thành và phát triển

song song với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, cho nên các quy phạm pháp luật về

thủ tục bảo vệ QSHTT được xây dựng và bổ sung theo hướng ngày càng toàn diện, bao

quát hơn. Tuy nhiên, cho đến nay, thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND vẫn còn bộc lộ nhiều

tồn tại, điều này được thể hiện ở tính toàn diện, tính đồng bộ, tính minh bạch của pháp

luật còn chưa cao, làm cho tính khả thi bị hạn chế, gây ảnh hưởng đến hiệu quả bảo vệ

QSHTT của Tòa án. Như đã trình bày, toàn bộ nội dung của chương 2 cho thấy "bức

tranh toàn cảnh" của pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Đây là cơ sở thực tiễn

để làm căn cứ cho việc đề ra và luận chứng những giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ

tục bảo vệ QSHTT tại TAND ở nước ta trong thời gian tới.

K. Nại, K.Nghị?

CQ Thi hành án dân sự

KN GĐ Thẩm, Tái thẩm

Không chấp nhận

Có chấp nhận

Page 68: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Chương 3

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ

tại Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay

3.1. Thực tiễn thi hành pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ tại

Tòa án nhân dân Việt Nam hiện nay

Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX ngày 10-4-2006 về Phương

hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xó hội 5 năm 2006 - 2010 đó nhận định "... quyền sở

hữu trí tuệ chưa được coi trọng đóng mức và cũn bị xõm phạm" (mục 7 Phần II) [33].

Trên thực tế, Việt Nam đang bị coi là một trong các quốc gia có tỷ lệ vi phạm QSHTT

lớn trên thế giới, nhất là trong lĩnh vực vi phạm bản quyền về nghe nhìn và phần mềm

máy tính. Các hành vi xâm phạm QSHTT đồng thời diễn ra ở tất cả các lĩnh vực như sản

xuất, chế biến, lưu thông, xuất nhập khẩu và liên quan tới nhiều thành phần kinh tế như

tư nhân, nhà nước, liên doanh và thậm chí là thành phần 100% vốn đầu tư nước ngoài.

Bên cạnh đú, cỏc hành vi xõm phạm QSHTT cũn diễn ra ở hầu hết cỏc đối tượng SHTT,

trên thị trường, hàng giả, hàng xâm phạm QSHTT ngày càng khó phân biệt, nhiều mặt

hàng rơi vào tỡnh trạng thật - giả lẫn lộn, rất khú nhận biết. Đặc biệt, việc xâm phạm

QSHTT đó xuất hiện ở nhúm hàng hoỏ cú khả năng gây hậu quả nghiêm trọng đối với

người tiêu dùng và xó hội như thuốc chữa bệnh, thuốc bảo vệ thực vật, sắt thép xây

dựng… Trong khi các cơ quan chức năng đang cố gắng hoàn thiện hệ thống pháp luật về

bảo hộ SHTT thỡ tớnh chất vi phạm QSHTT ngày càng diễn ra nghiờm trọng và phức

tạp. Cú thể thấy điều đó qua số lượng vi phạm bị phát hiện tăng lên nhanh chóng qua các

năm. Theo số liệu thống kê của Chi cục quản lý thị trường thành phố Hà Nội cho thấy

trên địa bàn thành phố Hà Nội, trong những năm gần đây số lượng các vụ vi phạm

QSHTT đó chiếm tới 70% trờn tổng số cỏc vụ vi phạm mà cơ quan này đó xử lý. Nếu

như năm 1997 mới phát hiện 15 vụ vi phạm QSHTT, thỡ tới năm 2000 đó lờn tới 101 vụ,

trong đó có 02 vụ phải chuyển sang xử lý hỡnh sự; năm 2001, số vụ vi phạm bị phát hiện

là 144; năm 2002 là 145 vụ; trong năm 2005 có trên 3000 vụ bị xử lý vi phạm hành

Page 69: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chính, hơn 100 vụ bị xử lý hỡnh sự. Những hạn chế về hiểu biết và ý thức chấp hành

phỏp luật bảo hộ SHTT của người tiêu dùng cũn thấp và xu hướng thích dùng hàng giá rẻ

cũng đang là những động lực để nạn sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng vi phạm QSHTT

phát triển nhưng lại ít bị tố cáo, phát hiện. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến

việc đấu tranh chống hàng giả, hàng vi phạm SHTT càng trở nên khó khăn. Để giải quyết

vấn đề này, cần phải nâng cao nhận thức của người tiêu dùng, ngày nay người ta đó đề

cập tới khái niệm "văn hóa sở hữu trí tuệ", tức là tạo ra cách sống và quan niệm đúng, đủ

về SHTT của toàn xó hội.

Cho tới thời điểm hiện nay, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục

bảo vệ QSHTT tại TAND đang được hoàn thiện để bảo đảm tính đầy đủ, đồng bộ và phù

hợp với yêu cầu của pháp luật quốc tế về SHTT. Tuy nhiên, với tình trạng vi phạm pháp

luật về SHTT như nêu trên, thì việc bảo vệ QSHTT tại TAND lại trái ngược với thực tiễn

đó. Điều đó khiến chúng ta cần lý giải tình hình để tìm ra những nguyên nhân và giải

pháp khắc phục. Trước hết, chúng ta cần có cái nhìn toàn diện "bức tranh" về thủ tục bảo

vệ QSHTT tại TAND để đánh giá được những ưu điểm, khuyết điểm của hệ thống các

văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

Trước khi BLTTDS năm 2004, BLDS năm 2005, Pháp lệnh năm 2006 và Luật

SHTT ra đời, hệ thống pháp luật về bảo hộ SHTT chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu

thống nhất. Theo thống kê sơ bộ, các quy định liên quan đến lĩnh vực SHTT nằm rải rác

tại khoảng 40 văn bản pháp luật khác nhau, hầu hết là các văn bản dưới luật nên hiệu lực

thi hành thấp, gây khó khăn cho người thi hành. Nhiều quy định cũn chưa tương thích với

các điều ước quốc tế, ví dụ như các nghị định về tên thương mại, xuất xứ địa lý, bảo hộ

bớ mật thương mại, sáng chế... không quy định biện pháp chế tài nên các vi phạm tuy

được nêu tên nhưng lại không được xử lý. Thậm chớ trong cỏc lĩnh vực như chương trỡnh

mỏy tớnh, truyền hỡnh phỏt thanh, kịch... cũn chưa được quy định.

3.1.1. Thực tiễn giải quyết các vụ án hành chính

Chỉ đến khi Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính được sửa đổi, bổ

sung năm 2006, thì thẩm quyền giải quyết các khiếu kiện QĐHC, HVHC về SHTT của

TAND mới được quy định cụ thể trong Pháp lệnh. Cho tới nay, chưa có số liệu thống kê

Page 70: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chính thức về tình hình giải quyết các khiếu kiện QĐHC, HVHC liên quan đến SHTT tại

Tòa hành chính của các TAND trong thời gian qua. Tuy nhiên, theo báo cáo chuyên đề

ngày 15-9-2006 của Tòa hành chính TANDTC, thì kể từ ngày thành lập Tòa hành chính

đến nay, số lượng các vụ án hành chính liên quan đến QSHTT mà Tòa án đã thụ lý, giải

quyết chiếm tỷ lệ từ 3-5% trong tổng số các vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa hành chính.

Đối tượng khởi kiện chủ yếu tập trung ở các QĐHC của các cơ quan quản lý nhà nước về

SHTT như Cục Bản quyền tác giả, Cục SHTT về hủy bỏ Văn bằng bảo hộ QTG, QSHCN

hoặc trong xử lý VPHC do vi phạm pháp luật về QSHTT. Trong thực tiễn giải quyết các

vụ án hành chính cho thấy còn có nhiều vướng mắc.

Thứ nhất, tuy Pháp lệnh năm 2006 quy định khiếu kiện QĐHC, HVHC trong

quản lý nhà nước về SHTT và chuyển giao công nghệ là thẩm quyền giải quyết của Tòa

án (khoản 12 Điều 11). Tuy nhiên, quy định này chưa được cụ thể hóa và cũng chưa được

cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn. Theo quy định tại Điều 10 của Luật SHTT thì nội

dung quản lý nhà nước về SHTT gồm có

10 lĩnh vực; do đó, trong thực tiễn thi hành còn có nhiều vướng mắc là QĐHC, HVHC

nào về SHTT là đối tượng khởi kiện vụ án hành chính tại TAND. Đây cũng là một trong

những lý do mà số lượng khởi kiện vụ án hành chính tại TAND không nhiều so với tình

hình thực tế. Mặt khác, đây cũng là một trong những lý do mà TAND do không xác định

được thẩm quyền của mình nên hoặc thụ lý vụ án khi việc đó không thuộc thẩm quyền

giải quyết của mình hoặc trả lại đơn khởi kiện khi việc đó thuộc thẩm quyền giải quyết

của mình.

Thứ hai, việc giải quyết các vụ án hành chính nói chung, đặc biệt là giải quyết các

vụ án hành chính về SHTT nói riêng còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Có thể nói rất nhiều

khái niệm, nhiều quy định còn mang tính trừu tượng, song việc giải thích chưa được

nghiên cứu làm rõ hoặc quy định chi tiết cụ thể ở văn bản dưới luật. Vì vậy, đã gây không

ít khó khăn không chỉ cho người dân, mà kể cả người thực thi pháp luật, trong đó có cả

Thẩm phán Tòa án.

Thứ ba, cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về SHTT cũng không nắm chắc quy

định của pháp luật, cho nên dẫn đến thực hiện công vụ không đúng. Vụ án sau đây là một

ví dụ.

Page 71: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Cơ sở sản xuất mỹ phẩm Thanh Hương vi phạm QSHCN về nhãn hiệu hàng hóa

và kiểu dáng công nghiệp trong sản xuất nước hoa của Công ty mỹ phẩm Miss Sài Gòn.

Sau khi có khiếu nại của Công ty mỹ phẩm Miss Sài Gòn, Chủ tịch ủy ban nhân dân

Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quyết định số 3271/QĐ-UB ngày 11-8-2003 xử

phạt VPHC đối với cơ sở sản xuất mỹ phẩm Thanh Hương, hình thức xử phạt chính bằng

tiền và hình thức phạt bổ sung là tước Giấy đăng ký kinh doanh, tịch thu, tiêu hủy sản

phẩm nước hoa có vi phạm QSHCN, loại bỏ yếu tố vi phạm nhãn hiệu hàng hóa (chữ

"Miss") trên các sản phẩm. Cơ sở sản xuất mỹ phẩm Thanh Hương đã khởi kiện QĐHC

nêu trên, yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa hành chính TAND Thành phố Hồ Chí Minh đã

xét xử tuyên hủy phần quyết định xử phạt bằng tiền do vi phạm thời hiệu xử phạt, giữ

nguyên phần quyết định xử phạt bổ sung.

Thứ tư, thực trạng xâm phạm QSHTT ở nước ta cũn khá phổ biến, thế nhưng

nhận thức của người dân chưa cao; do đó, dẫn đến những khiếu kiện không đúng làm ảnh

hưởng đến cơ quan quản lý nhà nước. Vụ án sau đây là một ví dụ.

Ngày 2-3-2006, Tòa hành chính TAND thành phố Hà Nội tiến hành xét xử vụ

kiện giữa nguyên đơn là Cụng ty cổ phần Hải Bỡnh (sau đõy viết tắt là CTCP Hải Bỡnh)

khởi kiện Cục SHTT về việc Cục SHTT đã hủy Giấy chứng nhận nhón hiệu hàng hoỏ.

Túm tắt vụ kiện như sau: Năm 1999, CTCP Hải Bỡnh ký hợp đồng với Công ty Korea

EnE của Hàn Quốc về việc CTCP Hải Bỡnh là nhà phõn phối, bảo hành và bảo dưỡng

độc quyền trên toàn lónh thổ Việt Nam sản phẩm bơm xăng điện tử mang nhón hiệu

Korea EnE do cụng ty của Hàn Quốc sản xuất. Logo sản phẩm là chữ EnE lồng trong

hỡnh oval cú màu nền là hỡnh xanh lỏ cõy. Việc nhập khẩu thiết bị bơm xăng dầu điện tử

EnE cùng nhón hiệu hàng hoỏ của cụng ty Korea EnE đó được CTCP Hải Bỡnh đăng ký

kiểm định tại Tổng cục đo lường chất lượng. Đến tháng 1/2002, CTCP Hải Bỡnh cú đơn

gửi Cục SHTT xin đăng ký nhón hiệu " EnE và hỡnh oval", hỡnh chữ H và Habico, đến

tháng 6/2003 đó được cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ. Tuy nhiờn, về

phớa cụng ty Korea EnE, sau khi biết nhà phõn phối sản phẩm độc quyền của mỡnh tại

Việt Nam lại đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ logo giống với mẫu của Korea EnE, đó uỷ

quyền cho Cụng ty tư vấn Sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ (Công ty

P&TB) đề nghị huỷ Giấy chứng nhận đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ đối với sản phẩm bơm

Page 72: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

xăng điện tử mà CTCP Hải Bỡnh đó được đăng ký bởi cơ quan có thẩm quyền. Với các

chứng minh hợp lệ phía đại điện công ty Korea EnE, nên Cục SHTT đó cú Quyết định số

24 về việc huỷ Giấy chứng nhận đăng ký nhón hiệu hàng hoỏ của CTCP Hải Bỡnh.

Khụng đồng tỡnh với quyết định này, CTCP Hải Bỡnh đó có đơn kiện tại Toà hành chính

TANDTP Hà Nội về Quyết định số 24 của Cục SHTT. Ông Vũ Hữu Dũng, Giám đốc

CTCP Hải Bỡnh cho biết CTCP Hải Bỡnh thành lập trước Công ty "mẹ" Korea EnE và

ngày 19-5-1998, Công ty đó cú hợp đồng thuê thiết kế logo thương hiệu này cho mỡnh để

chứng minh logo thương hiệu của mỡnh là độc lập so với công ty Hàn Quốc. Nhưng đại

diện Cục SHTT lại đưa ra bằng chứng cho rằng hợp đồng này không đáng tin cậy vỡ vào

thời điểm ngày 13-7-1998 CTCP Hải Bỡnh mới nhận được con dấu từ cơ quan Công an,

như vậy CTCP Hải Bỡnh khụng thể cú con dấu để ký hợp đồng thiết kế logo công ty của

mỡnh vào thời điểm ngày 15-8-1998. Hội đồng xét xử đó đánh giá: logo sản phẩm của

CTCP Hải Bỡnh gần như trùng khớp với logo của Korea EnE, người tiêu dùng bỡnh

thường khó có thể phân biệt được. Bên cạnh đú, CTCP Hải Bỡnh lại khụng chứng minh

được quyền sở hữu chính đáng của mỡnh với nhón hiệu sản phẩm này. Do đó, những lập

luận, chứng cứ của Cục SHTT về việc ra Quyết định số 24 huỷ Giấy chứng nhận nhón hiệu

hàng hoỏ của CTCP Hải Bỡnh là đúng pháp luật, hợp lý. Vỡ vậy, Toà ỏn đó bỏc đơn kiện

của CTCP Hải Bỡnh.

3.1.2. Thực tiễn xét xử các vụ án hình sự

Mặc dù BLHS được ban hành năm 1999, BLTTHS được ban hành năm 2003

nhưng cho đến nay, ngoài Thông tư liên tịch số 10/1999/TTLT-BKHCN-BTM-BTC-

BCA ngày 27-4-2000 của Bộ Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học

Công nghệ và Môi trường hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-

1999 của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả, thì

chưa có văn bản nào hướng dẫn các quy định của BLHS về các tội xâm phạm QSHTT;

đối với thủ tục điều tra, truy tố, xét xử tội phạm về SHTT theo quy định của BLTTHS

cũng chưa được hướng dẫn cụ thể. Điều này gây khó khăn, vướng mắc cho các TAND

trong việc xét xử đối với loại tội phạm này. Theo số liệu thống kê của TANDTC, từ

năm 2000 đến năm 2005 thì tổng số vụ vi phạm là 446 vụ với 773 bị cáo; trong đó đã

xét xử 419 vụ với 693 bị cáo. Phân tích số bị cáo đã xét xử theo quyết định của Tòa án

Page 73: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

cho thấy: 209 bị cáo được hưởng án treo; 350 bị cáo ở mức án từ 7 năm tù trở xuống; 20

bị cáo từ 7 đến 10 năm tù; 12 bị cáo từ 10 đến 15 năm tù; 02 bị cáo mức án 15 đến 20

năm tù; 1 bị cáo mức án tù chung thân; 05 người được tuyên là không có tội và 01 bị

cáo được miễn trách nhiệm hình sự (hoặc hình phạt). Phân tích tội danh cho thấy hầu

hết số vụ vi phạm tội sản xuất hàng giả, buôn bán hàng giả, chỉ có 01 vụ xâm phạm

QSHCN (Điều 171) với 01 bị cáo và 04 vụ xâm phạm QTG (Điều 131) với 04 bị cáo.

3.1.3. Thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự

So với biện pháp bảo vệ QSHTT bằng thủ tục tố tụng hành chính và thủ tục tố

tụng hình sự, thì biện pháp bảo vệ QSHTT bằng thủ tục tố tụng dân sự được đánh giá là

có nhiều ưu điểm hơn. Với tư cách là một công cụ pháp lý để cá nhân, tổ chức bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp của mình, pháp luật về thủ tục tố tụng dân sự đã phần nào bảo

đảm được trình tự, thủ tục công khai, công bằng để người tham gia tố tụng dân sự thực

hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình tại TAND; bảo đảm các nguyên tắc,

thủ tục tố tụng đầy đủ, có hệ thống, xác định rõ chức năng, thẩm quyền của cơ quan và

người tiến hành tố tụng, thẩm quyền của mỗi cấp Tòa án trong việc giải quyết các vụ việc

dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn giải quyết các tranh chấp QSHTT tại TAND lại không đem

lại hiệu quả như mong muốn. Qua số liệu thống kê của TANDTC, việc giải quyết các

tranh chấp về QSHTT từ năm 2000 đến năm 2005 của toàn ngành Tòa án như sau: thụ lý

93 vụ án về SHTT, đã giải quyết 61 vụ, trong đó: đình chỉ, tạm đình chỉ, rút đơn khởi kiện

là 16 vụ; hòa giải thành 12 vụ; đưa vụ án ra xét xử 33 vụ (bao gồm 11 vụ tranh chấp QTG

và quyền liên quan, 22 vụ tranh chấp về SHCN).

Tình trạng vụ án giải quyết tranh chấp về QSHTT tại TAND thường bị kéo dài,

phải xét xử nhiều lần, nhiều cấp, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của đương sự và của

Nhà nước là một trong những nguyên nhân chính. Theo quy định tại Điều 179 của

BLTTDS, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm đối với vụ án dân sự là 4 tháng, kể từ ngày

Tòa án thụ lý vụ án; đối với vụ án có tính chất phức tạp hoặc do trở ngại khách quan thì

có thể gia hạn nhưng không quá hai tháng. Tuy nhiên, do tính đặc thù của các tranh chấp

về QSHTT, thì đây là loại việc khó đối với Tòa án. Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa

án thường phải trưng cầu ý kiến của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT và các cơ

Page 74: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quan chức năng có liên quan để có kết luận đối với hành vi xâm phạm nên trong nhiều

trường hợp Tòa án phải gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Bên cạnh đó, việc nhìn nhận,

đánh giá về các hành vi xâm phạm QSHTT của các cơ quan chức năng nhiều khi không

thống nhất được quan điểm. Về phía Tòa án chưa đủ khả năng trong việc đưa ra nhận

định về hành vi xâm phạm do hầu hết các Thẩm phán chưa có kiến thức sâu về SHTT, do

đó thường còn bị phụ thuộc vào kết luận các yếu tố vi phạm của cơ quan quản lý nhà

nước về SHTT về việc có hay không có hành vi xâm phạm quyền QSHTT. Về phía chủ

sở hữu thì không đưa ra chứng cứ chứng minh được hành vi xâm phạm của bị đơn hoặc

không chứng minh được thiệt hại của mình, mặc dù hành vi xâm phạm và thiệt hại thực

tế đã xảy ra… Theo quy định của pháp luật, về nguyên tắc, nguyên đơn có nghĩa vụ

chứng minh thiệt hại thực tế đã xảy ra và thiệt hại tiềm ẩn (nếu có) do bị xâm phạm

quyền, nhưng nhiều trường hợp nguyên đơn không chứng minh được thiệt hại vì không

có đủ sổ sách kế toán để chứng minh cho việc bị giảm doanh thu, lợi nhuận của mình do

bị xâm phạm quyền... Các bên tranh chấp thường có tâm lý cạnh tranh gay gắt, quyết liệt

nên thường kháng cáo bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm để yêu cầu Tòa án cấp

phúc thẩm giải quyết. Có trường hợp, sau khi có bản án của Tòa án cấp phúc thẩm,

nguyên đơn vẫn cho rằng phán quyết Tòa án cấp phúc thẩm không đúng nên đã khiếu nại

tới Chính phủ, tới các cơ quan lãnh đạo của Đảng, tới báo chí… Có thể nói, phần nào của

nguyên nhân của tình trạng khiếu nại kéo dài này là do các cơ quan chức năng về SHTT đã

không thống nhất được quan điểm khi kết luận hành vi xâm phạm. Có trường hợp cơ

quan chức năng còn đề nghị Chính phủ can thiệp vào quá trình giải quyết vụ án của Tòa

án… Vụ kiện giữa nguyên đơn là Công ty Foremost Việt Nam (sau đây viết tắt là Công

ty Foremost) và bị đơn là Công ty TNHH công nghiệp Trường Sinh (sau đây viết tắt là

Công ty Trường Sinh) là một ví dụ.

Công ty Foremost là công ty chuyên sản xuất các loại sữa, trong đó có sản phẩm

sữa đặc có đường mang nhãn hiệu "Trường Sinh". Ngày 11-12-1996 Công ty Foremost

đó đăng ký nhãn hiệu "Trường Sinh" tại Cục SHTT và tháng 6-1998 đã được Cục SHTT

cấp Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu hàng hóa bảo hộ cho nhãn hiệu "Trường Sinh".

Cuối năm 1998, Công ty Foremost phát hiện trên thị trường có sản phẩm sữa đậu nành do

xưởng Trung Thực (nay là công ty TNHH công nghiệp Trường Sinh) sản xuất cũng mang

Page 75: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

nhãn hiệu "Trường Sinh". Công ty Foremost cho rằng, sự xuất hiện của sản phẩm sữa đậu

nành "Trường Sinh" trên thị trường đã làm giảm uy tín, giảm doanh thu sản phẩm bán ra

trên thị trường vì đã gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Công ty Foremost đã tiến hành

khởi kiện Công ty Trường Sinh ra Tòa dân sự TAND thành phố Hà Nội yêu cầu Công ty

Trường Sinh chấm dứt ngay hành vi xâm phạm QSHCN đối với nhãn hiệu hàng hóa

"Trường Sinh" và bồi thường thiệt hại do bị xâm phạm quyền. Công ty Trường Sinh đã

đưa ra các lý lẽ phản đối và khẳng định đây là hai sản phẩm không cùng nhóm, cho nên

không thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Sự trùng hợp về tên gọi "Trường Sinh" chỉ

là sự trùng hợp ngẫu nhiên, không thể làm phương hại đến Công ty Foremost, và không thể

gây thiệt hại. Tòa án đã lấy ý kiến của Bộ Thương mại, Bộ Y tế và Cục SHTT. Theo quan

điểm của Bộ Thương mại thì đối chiếu với danh mục của Bộ Thương mại, sản phẩm sữa đặc

có đường của Foremost thuộc nhóm 29, còn sản phẩm sữa đậu nành Trường Sinh thuộc

nhóm 32, do đó, đây là hai sản phẩm không cùng nhóm và không có sự xâm phạm (Công

văn số 2275/BTM-QLCL ngày 13-6-2002 của Bộ Thương mại). Theo quan điểm của Bộ

Y tế thì đây là hai sản phẩm có chất lượng dinh dưỡng khác nhau, tuy nhiên có vi phạm

hay không thì thuộc thẩm quyền kết luận của Cục SHTT. Còn Cục SHTT cho biết đã từ

chối cấp Giấy chứng nhận nhãn hiệu hàng hóa đối với nhãn hiệu "Sữa đậu nành cao cấp

Trường Sinh" của Công ty Trường Sinh ở thời điểm năm 1998, và sau khi Công ty

Foremost có đơn gửi Cục SHTT về việc Công ty Trường Sinh đã xâm phạm quyền được

bảo hộ của mình, Cục SHTT đã hai lần gửi văn bản yêu cầu Công ty Trường Sinh chấm

dứt ngay việc sử dụng nhãn hiệu "Trường Sinh" cho sản phẩm sữa đậu nành. Cục SHTT

cũng đã gửi công văn số 27 ngày 13-01-2000 cho Tòa án để khẳng định rõ về hành vi

xâm phạm quyền được bảo hộ của Công ty Foremost.

Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định: nhãn hiệu "Trường Sinh" của Công ty

Foremost đã được Cục SHTT cấp Giấy chứng nhận đăng ký bảo hộ số 27280 ngày 15-6-

1998. Theo Giấy chứng nhận này, nhãn hiệu "Trường Sinh" được bảo hộ đối với các sản

phẩm sữa đặc có đường và sữa bột thuộc nhóm 29 trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Công ty

Foremost đã xây dựng uy tín cho sản phẩm của mình bằng nhãn hiệu "Trường Sinh" và

nhãn hiệu này đã được Nhà nước bảo hộ, theo đó Công ty Foremost được độc quyền sử

dụng nhãn hiệu "Trường Sinh" cho các sản phẩm sữa đặc có đường, sữa bột thuộc nhóm

Page 76: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

29. Do đó, việc Công ty Trường Sinh dùng nhãn hiệu "Trường Sinh" để gắn vào sản

phẩm "sữa đậu nành cao cấp Trường Sinh" thuộc nhóm 32 là sự trùng lặp về tính tương

tự tới mức gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nhà sản xuất của sản phẩm. Bên cạnh đó,

Hội đồng xét xử còn nhận định về việc Cục SHTT đã có công văn gửi Tòa án và khẳng

định hành vi vi phạm của Công ty Trường Sinh. Với các nhận định nêu trên, căn cứ theo

các quy định tại các điều 785, 788 và điểm a khoản 3 Điều 805 của BLDS năm 1995,

điểm b khoản 1 và điểm c khoản 2 Điều 6 của Nghị định số 63/CP ngày 24-10-1996 của

Chính phủ quy định chi tiết về SHCN, Hội đồng xét xử kết luận: chấp nhận yêu cầu khởi

kiện của Công ty Foremost; đối với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của Công ty

Foremost, do Công ty Foremost không đưa ra được chứng cứ để chứng minh được thiệt

hại cụ thể, do đó, Hội đồng xét xử không có cơ sở để xem xét yêu cầu bồi thường thiệt

hại.

Vụ án Nhạc sĩ Lê Vinh kiện hãng phim Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh và Nhà xuất

bản âm nhạc Việt Nam về QTG bài hát "Hà Nội và Tôi" là cũng một ví dụ. Vụ án kéo dài từ

năm 1997 đến năm 2000, trải qua hai lần xét xử, bị đơn mới chấm dứt việc sử dụng bài hát

và công khai xin lỗi tác giả trên các phương tiện thông tin đại chúng, đồng thời bồi

thường cho tác giả 28.802.378 đồng…

Một nguyên nhân khác dẫn đến các tranh chấp về QSHTT thì nhiều, nhưng lại ít

được giải quyết bằng phán quyết của Tòa án là do tâm lý chung của người dân Việt Nam

vẫn còn e ngại khi "phải ra Tòa", người dân coi việc ra Tòa là một sự phiền hà, ảnh

hưởng đến uy tín, danh dự cá nhân. ở khía cạnh khác, SHTT là lĩnh vực nhạy cảm, liên

quan đến kinh tế, thương mại, liên quan đến kết quả kinh doanh, bí mật kinh doanh… các

lý do này đã trở thành rào cản khiến các chủ sở hữu quyền mặc dù bị vi phạm nhưng

không muốn giải quyết tranh chấp tại Tòa án, mà thường chọn biện pháp xử lý vi phạm

hành chính để giải quyết. Trên thực tế hầu hết các vi phạm QSHTT được giải quyết theo

biện pháp xử phạt hành chính, theo đánh giá tại Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm

cấp quốc gia về SHTT do Đại học Quốc gia Hà Nội thực hiện, có đến 90% số vụ việc vi

phạm được giải quyết theo biện pháp xử phạt hành chính. Như vậy, các quan hệ dân sự,

các tranh chấp dân sự lại bị hành chính hoá một cách quá mức, điều đó rõ ràng là không

bảo vệ được quyền và lợi ích của chủ sở hữu QSHTT, mặt khác của vấn đề là vô hình

Page 77: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chung tạo điều kiện cho hành vi vi phạm tiếp tục tái phạm với quy mô lớn hơn, thủ đoạn

tinh vi hơn, gây giảm thiểu lòng tin vào sự bảo vệ của pháp luật. QSHTT được pháp luật

bảo vệ nhưng nếu thiếu các nguyên tắc và phương thức thực thi thì việc bảo vệ, thực thi

quyền đó chỉ còn trên danh nghĩa về mặt lý thuyết, hay nói cách khác đó chỉ còn là "hư

quyền". Những năm gần đây, nhận thức về SHTT của các cơ quan quản lý nhà nước,

doanh nghiệp và người tiêu dùng ngày càng được nâng cao. Hệ thống pháp luật về SHTT

đang được xây dựng, các hoạt động bảo vệ QSHTT cũng được nỗ lực triển khai trên diện

rộng.

3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ quyền sở

hữu trí tuệ tại Tòa án nhân dân

Việc hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT là một quá trình liên tục, có

nhiều khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự quan tâm, nỗ lực của từng cơ quan, tổ chức, cá nhân có

nhiệm vụ soạn thảo, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ

pháp luật liên quan đến bảo hộ và bảo vệ QSHTT. Trong những năm gần đây, Nhà nước ta

đã nỗ lực triển khai xây dựng hệ thống pháp luật về SHTT, về cơ bản hệ thống pháp luật này

đã được xây dựng trên nguyên tắc phù hợp với các chuẩn mực quốc tế về SHTT và đáp ứng

được yêu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong điều kiện hội nhập nền kinh tế quốc tế.

Tuy nhiên, do việc ban hành trong các thời điểm khác nhau, cho nên hệ thống pháp luật này

chưa được đồng bộ, cần phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Mặt khác, việc thực thi pháp luật

về bảo vệ QSHTT của chúng ta chưa được như mong muốn do rất nhiều nguyên nhân, trong

đó có nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan, đòi hỏi chúng ta cần sớm có

những giải pháp khắc phục.

Nước ta đã là thành viên của nhiều công ước quốc tế về bảo hộ QSHTT và Việt

Nam là thành viên thứ 150 của WTO. Có thể nói, với hệ thống pháp luật cũng như thực tiễn

thi hành pháp luật về thủ tục bảo hộ, bảo vệ QSHTT nói chung, tại TAND nói riêng là chưa

đáp ứng, đòi hỏi chúng ta phải có các giải pháp đồng bộ. Trên cơ sở lý luận và thực tiễn được

nghiên cứu tại chương 1, chương 2 và tại mục 3.1 chương 3 của luận văn, tác giả đưa ra một

số nhóm giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

3.2.1. Nhóm giải pháp về hoàn thiện pháp luật

Page 78: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Khi đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND,

tác giả cho rằng cần được hiểu theo nghĩa rộng của nó, bao gồm pháp luật về thủ tục tố

tụng và pháp luật nhằm bảo đảm cho pháp luật về thủ tục tố tụng được thực thi có hiệu

quả, trong đó có pháp luật về nội dung (pháp luật hình sự, pháp luật dân sự, pháp luật

chuyên ngành về SHTT) và pháp luật về tổ chức (pháp luật về tổ chức TAND).

3.2.1.1. Hoàn thiện pháp luật về thủ tục tố tụng

Để giải quyết một vụ án được đúng pháp luật, thì việc quy định những nguyên

tắc cơ bản; trình tự, thủ tục yêu cầu Tòa án giải quyết; trình tự, thủ tục Tòa án giải quyết

vụ án đòi hỏi phải cụ thể, đầy đủ. Việc quy định những vấn đề này phải được thể hiện

trong các văn bản quy phạm pháp luật về thủ tục tố tụng. Kết quả nghiên cứu tại chương

2 và trong mục 3.1 của chương 3 cho thấy pháp luật về thủ tục tố tụng của chúng ta chưa

được hoàn chỉnh, cần phải tiếp tục hoàn thiện.

* Hoàn thiện pháp luật về thủ tục giải quyết các vụ án hành chính:

Thứ nhất, cần sớm ban hành Luật tố tụng hành chính.

Một trong các tiêu chí về mặt lý luận đánh giá tính hoàn thiện của pháp luật về thủ

tục bảo vệ QSHTT đó là tính đồng bộ. Tính đồng bộ không chỉ được biểu hiện ở nội

dung mà cần được biểu hiện ở cách trình bày, hình thức và thẩm quyền ban hành văn bản

pháp luật. Nghiên cứu Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính hiện hành cho

thấy các nguyên tắc cơ bản của thủ tục giải quyết các vụ án hành chính chưa được quy

định trong Pháp lệnh. Đồng thời, trong Pháp lệnh nhiều vấn đề mới chỉ được quy định ở

dạng khung mà chưa được quy định cụ thể. Mặt khác, để bảo đảm tính đồng bộ, hiệu lực

pháp lý của văn bản pháp luật thì thủ tục giải quyết các vụ án hành chính cần phải được

luật hóa do Quốc hội ban hành. Với những lý do trên, chúng tôi kiến nghị sớm xây dựng

Luật tố tụng hành chính.

Thứ hai, các khiếu kiện nói chung thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án còn quy

định quá chung chung, đặc biệt là các khiếu kiện trong lĩnh vực SHTT. Xuất phát từ Điều 10

của Luật SHTT quy định nội dung quản lý nhà nước về SHTT, chúng tôi kiến nghị cần quy

định cụ thể các khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT và chuyển

giao công nghệ. Cụ thể kiến nghị khoản 12 Điều 11 của Pháp lệnh năm 2006 được sửa

Page 79: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

đổi, bổ sung như sau:

Điều 11:...

12. Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong quản lý nhà nước về SHTT, chuyển giao công

nghệ bao gồm:

a) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc cấp và thực hiện các thủ tục khác liên quan

đến Giấy chứng nhận đăng ký QTG, Giấy chứng nhận đăng ký quyền liên quan, Văn bằng

bảo hộ các đối tượng SHCN, Bằng bảo hộ giống cây trồng;

b) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật

về SHTT;

c) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và vi phạm

pháp luật về SHTT;

d) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện giám định về SHTT;

đ) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện thủ tục hải quan liên quan đến

SHTT;

e) Khiếu kiện QĐHC, HVHC trong việc thực hiện quản lý nhà nước về SHTT mà

pháp luật quy định.

* Hoàn thiện pháp luật trong tố tụng hình sự:

Để điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự nói chung và các vụ án hình sự về

các tội xâm phạm QSHTT nói riêng thì BLTTHS của nước ta cần được sửa đổi, bổ sung

cho phù hợp với điều kiện phát triển của đất nước, của cuộc sống xã hội. BLTTHS năm

1999 là một bước tiến dài trong công tác lập pháp so với BLTTHS năm 1988. Tuy nhiên,

những vấn đề tranh tụng vẫn chưa được quy định cụ thể, những vấn đề liên quan đến

chuyên ngành chưa có quy định những nguyên tắc chung. Liên quan đến thủ tục bảo vệ

QSHTT tại TAND bằng biện pháp hình sự, chúng tôi kiến nghị cần có những quy định

đặc thù, như quyền và nghĩa vụ của cơ quan quản lý nhà nước về SHTT trong điều tra,

truy tố và xét xử, đặc biệt là trong việc chứng minh hành vi xâm phạm QSHTT đó là tội

phạm phải truy cứu trách nhiệm hình sự.

* Hoàn thiện pháp luật về tố tụng dân sự:

Page 80: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

BLTTDS năm 2004 là công cụ pháp lý quan trọng của Tòa án trong việc giải

quyết các vụ việc dân sự nói chung và các vụ việc dân sự về SHTT nói riêng. Qua gần

hai năm thực hiện cho thấy có nhiều vấn đề chưa được quy định hoặc quy định chưa được

cụ thể, cho nên Tòa án gặp không ít khó khăn trong việc giải quyết các vụ việc dân sự.

Sau khi Quốc hội ban hành Luật SHTT (ngày 29-11-2005) và kể từ ngày luật này có hiệu

lực thi hành (ngày 01-7-2006) cho thấy giữa BLTTDS và Luật SHTT có những quy định

chưa được thống nhất với nhau nếu không muốn nói là xung đột. Do đó, chúng tôi kiến

nghị cần phải rà soát các quy định của luật về nội dung, trong đó có Luật SHTT để có sự

sửa đổi, bổ sung một số quy định của BLTTDS. Liên quan đến việc giải quyết các vụ án

dân sự về SHTT, chúng tôi kiến nghị cần có sự sửa đổi, bổ sung một số quy định của

BLTTDS về các BPKCTT, về sự tham gia của các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT

trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án; cụ thể như sau:

- Bổ sung khoản 2a mới vào Điều 99 của BLTTDS có nội dung:

Điều 99: Quyền yêu cầu áp dụng BPKCTT

1...

2...

2a. Khi khởi kiện hoặc sau khi khởi kiện, nguyên đơn là chủ thể QSHTT có quyền

yêu cầu Tòa án áp dụng BPKCTT trong các trường hợp sau đây:

a) Đang có nguy cơ xảy ra thiệt hại không thể khắc phục được cho chủ thể

QSHTT;

b) Hàng hóa bị nghi ngờ xâm phạm QSHTT hoặc chứng cứ liên quan đến hành vi

xâm phạm QSHTT có nguy cơ bị tẩu tán hoặc bị tiêu hủy nếu không được bảo vệ kịp thời.

- Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 120 của BLTTDS như sau:

"Điều 120: Buộc thực hiện biện pháp bảo đảm

1. Người yêu cầu Tòa án áp dụng một trong các BPKCTT do Luật SHTT quy

định phải nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hóa cần áp dụng BPKCTT hoặc tối thiểu

20 triệu đồng nếu không thể xác định được giá trị hàng hóa đó hoặc phải có chứng từ bảo

lãnh của ngân hàng hoặc của tổ chức tín dụng khác... Trong trường hợp yêu cầu Tòa án áp

Page 81: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

dụng một trong các BPKCTT quy định tại các khoản 6, 7, 8 và 10 của Điều 102 của Bộ

luật này phải...".

- Sửa đổi, bổ sung Điều 23 của BLTTDS như sau:

Điều 23. Việc tham gia tố tụng dân sự của cá nhân, cơ quan, tổ chức

Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền và nghĩa vụ tham gia tố tụng dân sự theo

quy định của Bộ luật này, góp phần vào việc giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án kịp

thời, đúng pháp luật.

Các cơ quan quản lý nhà nước về SHTT có trách nhiệm tham gia tố tụng dân sự

đối với các vụ án về bảo vệ QSHTT khi có yêu cầu của Tòa án.

3.2.1.2. Hoàn thiện pháp luật về nội dung

* Hoàn thiện pháp luật hình sự:

Nghiên cứu BLHS năm 1999 quy định về các tội xâm phạm QSHTT ch thấy quy

định này chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa đúng với đối tượng khách thể cần được

bảo vệ. Trong 7 tội phạm xâm phạm QSHTT có 1 tội quy định trong Chương VIII (Các

tội xâm phạm quyền tự do, dân chủ của công dân) (Điều 131); có 5 tội quy định tại

Chương XVI (Các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế) (Điều 156, 157, 158, 170 và

Điều 171); có 1 tội quy định tại Chương XX (Các tội xâm phạm trật tự quản lý hành

chính) (Điều 271).

Theo quy định tại Điều 61 của Hiệp định TRIPs thì:

Các thành viên phải quy định việc áp dụng các thủ tục hình sự và các

hình phạt để áp dụng ít nhất đối với các trường hợp cố tình giả mạo nhãn hiệu

hàng hóa hoặc xâm phạm bản quyền với quy mô thương mại. Các biện pháp

chế tài theo quy định phải bao gồm cả phạt tù và/ hoặc phạt tiền đủ để ngăn

ngừa xâm phạm, tương ứng với mức phạt được áp dụng cho các tội phạm có

mức độ nghiêm trọng tương đương trong những trường hợp thích hợp, các

biện pháp chế tài cũng phải bao gồm cả việc bắt giữ, tịch thu và tiêu hủy hàng

hóa xâm phạm và bất cứ vật liệu và các phương tiện nào khác được sử dụng

chủ yếu để thực hiện tội phạm. Các thành viên có thể quy định các thủ tục hình

Page 82: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

sự và các hình phạt áp dụng cho các trường hợp khác xâm phạm quyền sở hữu

trí tuệ, đặc biệt là trường hợp cố ý xâm phạm và xâm phạm với quy mô thương

mại [35].

Từ các lý do trên đây, chúng tôi kiến nghị cần có một chương riêng trong Phần

các tội phạm của BLHS quy định các tội xâm phạm QSHTT.

- Đối với các tội đã được quy định trong BLHS cần phải hoàn thiện hơn về cấu

thành tội phạm, đặc biệt là các hành vi xâm phạm.

- Cần quy định bổ sung một số hành vi xâm phạm QSHTT là nguy hiểm cho xã

hội và phải coi là tội phạm như: nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc

truyền đạt tác phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số

mà không được phép của chủ sở hữu QTG; sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu,

xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu

các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu QTG thực hiện để bảo vệ QTG đối với tác phẩm

của mình; phát sóng, phân phối, nhập khẩu để phân phối đến công chúng cuộc biểu diễn,

bản sao cuộc biểu diễn đã được định hình...; sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập

khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó giải

mã trái pháp luật một tín hiệu vệ tinh mang chương trình đã được mã hóa...

Những hành vi trên đây cần phải quy định là tội phạm khi gây hậu quả nghiêm

trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính hoặc được thực hiện với quy mô thương mại.

* Hoàn thiện pháp luật chuyên ngành về SHTT:

Luật SHTT mới có hiệu lực thi hành từ ngày 01-7-2006. Tuy nhiên, qua quá trình

đàm phán Việt Nam gia nhập WTO cũng như qua nghiên cứu để ban hành các văn bản

hướng dẫn thi hành, cho thấy sau khi nước ta gia nhập WTO chắc chắn chúng ta phải sửa

đổi, bổ sung Luật SHTT. Chúng tôi kiến nghị ngay từ bây giờ chúng ta phải nghiên cứu

các điều ước quốc tế về SHTT mà nước ta là thành viên và sẽ là thành viên để có sự sửa

đổi, bổ sung Luật SHTT cho phù hợp. Đặc biệt cần phân biệt cụ thể ranh giới giữa xử lý

hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự. Cần bổ sung vào Luật SHTT những quy

định thông dụng của pháp luật quốc tế như quy mô thương mại, thực hiện hành vi xâm

phạm QSHTT một cách cố ý.

Page 83: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

3.2.1.3. Hoàn thiện pháp luật về tổ chức

Tính đặc thù của tranh tụng về thủ tục bảo vệ QSHTT tại Tòa án là cơ sở để các

quốc gia hình thành hệ thống Tòa án chuyên biệt về SHTT. Trong vụ án về SHTT phải có sự

tham gia của các chuyên gia kỹ thuật về SHTT nên đòi hỏi Thẩm phán vừa có kiến thức

chuyên môn kỹ thuật về SHTT, vừa giàu kinh nghiệm pháp lý. Tuy nhiên, do có sự khác biệt

về lịch sử, văn hóa pháp lý cũng như nguồn nhân lực, mà mô hình Tòa án và thủ tục bảo vệ

QSHTT ở mỗi hệ thống pháp luật có những đặc thù khác nhau. Mặc dù, ở hầu hết các nước

các loại việc về QSHTT bao gồm loại việc dân sự, hình sự và hành chính, nhưng một số

nước như Cộng hòa Liên bang Đức, Thái Lan… thành lập Toà án chuyên biệt xét xử các vụ

xâm phạm về SHTT; một số nước lại có các Toà chuyên xét xử các vụ xâm phạm về SHTT

nằm trong hệ thống Toà án. ở Hàn Quốc, Nhật Bản, Mỹ, Anh và Xứ Uên chỉ có Tòa SHTT

giải quyết các vụ án dân sự về SHTT mà không có Tòa chuyên trách để giải quyết các vụ án

hình sự về SHTT, các vụ án hình sự về SHTT được giải quyết theo thủ tục thông thường.

Các nước này đều có Tòa án về Văn bằng sáng chế, Tòa này có thẩm quyền đối với các vụ

việc dân sự, phúc thẩm các quyết định của Văn phòng về Văn bằng sáng chế; đối với hệ

thống giải quyết các vụ việc hành chính của các nước này có sự tương đồng, một vụ việc

hành chính là: xem xét lại các quyết định của cơ quan cấp bản quyền (Văn phòng về Văn

bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa); làm mất hiệu lực hoặc hủy bỏ QSHTT... Thông

thường vụ việc khiếu nại từ Văn phòng về Văn bằng sáng chế và nhãn hiệu hàng hóa được

gửi lên Tòa án về Văn bằng sáng chế, sau đó nếu tiếp tục kháng cáo thì do Tòa cấp trên xét

xử phúc thẩm… (xem phụ lục số 2).

Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, với sự tham gia các

điều ước quốc tế, pháp luật của mỗi hệ thống, mỗi quốc gia đã và đang có sự giao thoa và

xích lại gần nhau, những điểm khác biệt của các hệ thống pháp luật ngày càng thu hẹp lại

và thay vào đó là những điểm tương đồng. Việc thành lập Tòa chuyên biệt về SHTT như

Thái Lan, Đức… đã tỏ ra rất hiệu quả đối với sự phát triển thương mại và đầu tư quốc tế.

ở Thái Lan, trong những năm nửa cuối của thập niên 90, trong điều kiện sụp đổ gần như

phá sản của nhiều khu vực kinh doanh và tài chính quan trọng, Thái Lan đã quyết tâm

thành lập Tòa án Trung ương về Sở hữu trí tuệ và Thương mại quốc tế (viết tắt là Tòa

IP&IT), trong bài viết của mình, ông Vichai Ariyanuntaka (Thẩm phán Tòa IP&IP Trung

Page 84: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

ương, Bangkok, Thái Lan) đã viết:

Đây là thời điểm để suy nghĩ lại, lập lại kế hoạch và cấu trúc lại cơ sở

hạ tầng pháp lý của chúng ta để tạo nên một môi trường luật pháp thân thiện

hơn cho thương mại và đầu tư quốc tế. Một môi trường pháp lý mà tại đó các

quyền pháp lý, công dân và người nước ngoài phải được bảo vệ và thi hành

theo luật pháp và bởi hệ thống tư pháp của chúng ta. Môi trường pháp lý sẽ

đem lại cho chúng ta danh tiếng trong thương mại và đầu tư quốc tế và phục

hồi toàn bộ nền kinh tế của chúng ta. Tại Thái Lan, trong lĩnh vực thi hành

công lý, việc thành lập Tòa IP&IT là một yếu tố duy nhất quan trọng nhằm đạt

được mục tiêu này [74].

ở Việt Nam, trong điều kiện thực hiện cải cách tư pháp, việc kiện toàn cơ cấu tổ

chức của các TAND là tất yếu và không phải là ngoại lệ. Tại Nghị quyết số 49-NQ/TW

ngày 02-6-2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020" có

nhận định:

Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn thiện tổ chức,

bộ máy các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và

hoạt động của Tòa án nhân dân. Tổ chức hệ thống tòa án theo thẩm quyền xét

xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: tòa án sơ thẩm khu vực

được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; tòa phúc thẩm

có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án; tòa

thượng thẩm được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Tòa án

nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng

thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Việc

thành lập tòa chuyên trách phải căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp tòa án,

từng khu vực. Đổi mới tổ chức Tòa án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn

với đội ngũ Thẩm phán là những chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh

nghiệm trong ngành (điểm 2.2, mục 2, Phần II) [31].

Nghiên cứu mô hình Tòa SHTT theo kinh nghiệm của Thái Lan (xem phụ lục số

1) để khi có đủ điều kiện đề nghị Nhà nước cho phép thành lập Toà SHTT. Trước mắt,

Page 85: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

cần đào tạo nguồn nhân lực và chuẩn bị cơ sở lý luận cho việc thành lập các Toà chuyên

trách về SHTT trong hệ thống TAND.

3.2.2. Nhóm giải pháp về hướng dẫn thi hành pháp luật

Pháp luật được ban hành, tuy nhiên một trong những hạn chế của hệ thống pháp

luật nước ta là còn một số quy định mang tính quy định khung, quy định nguyên tắc. Để

thi hành đúng và thống nhất cần thiết phải có các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật,

pháp lệnh của các cơ quan có thẩm quyền hướng dẫn thi hành một số quy định của luật,

pháp lệnh.

3.2.2.1. Hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng

thủ tục giải quyết các vụ án hành chính

Ngay sau khi Pháp lệnh năm 2006 có hiệu lực (ngày 01-6-2006), Hội đồng Thẩm

phán TANDTC đã ban hành Nghị quyết số 04/2006/NQ-HĐTP ngày 04-8-2006 hướng

dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh năm 2006, nhưng đây chỉ là hướng dẫn

chung cho thủ tục tố tụng hành chính. Trong bảo vệ QSHTT do có những đặc thù nên đòi

hỏi các hướng dẫn về thủ tục tố tụng hành chính cần phải có văn bản hướng dẫn riêng.

Như chúng ta đã biết, các quy định về áp dụng BPKCTT của thủ tục tố tụng hành chính

đã phù hợp với BLTTDS (khoản 2 Điều 99), Hịêp định TRIPs và BTA. Trong tố tụng

hành chính, nếu không kịp thời áp dụng một số BPKCTT trước khi Toà án thụ lý vụ án

hành chính thì có thể dẫn đến hậu quả khó khắc phục, nếu QĐHC, HVHC được thi hành.

Do đặc điểm của đối tượng khiếu kiện là các QĐHC, HVHC của cơ quan hành chính nhà

nước hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước nên đối tượng áp

dụng các BPKCTT cũng có đặc thù của nó, vì vậy văn bản hướng dẫn cần thể hiện được

tính đặc thù trong tố tụng hành chính. Về hành vi cạnh tranh không lành mạnh về SHTT

quy định tại khoản 3 Điều 211 của Luật SHTT ("tổ chức, cá nhân thực hiện hành vi cạnh

tranh không lành mạnh về SHTT thì bị xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của

pháp luật về cạnh tranh") cũng là một vấn đề khó xác định. Trước đây, tại Nghị định số

54/NĐ-CP (Điều 25, Điều 27) cũng có quy định tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc có khả

năng bị thiệt hại do hành vi cạnh tranh không lành mạnh thuộc lĩnh vực SHCN có quyền

yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền "buộc người có hành vi cạnh tranh không lành

Page 86: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

mạnh phải chấm dứt hành vi đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại; xử lý hành chính hoặc truy

cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi cạnh tranh không lành mạnh"… Mặc

dù pháp luật đã quy định như vậy nhưng trên thực tế để tiến hành xử lý hành chính đối

với các hành vi này là vô cùng khó khăn, chủ sở hữu QSHTT phải yêu cầu Cục SHTT

giám định, kết luận về việc sử dụng đối tượng QSHTT của mình là có hành vi cạnh tranh

không lành mạnh. Đây là một vấn đề khó xác định trên thực tế, hơn nữa cơ sở pháp lý cho

việc kết luận hoặc áp dụng các chế tài chưa được hướng dẫn cụ thể, nên cơ quan có thẩm

quyền rất thận trọng trong việc đưa ra các kết luận về có hay không có hành vi vi phạm.

3.2.2.2. Hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng

biện pháp hình sự

* Đối với tội xâm phạm quyền tác giả (Điều 131 của BLHS):

Nghiên cứu quy định tại Điều 131 của BLHS, chúng tôi kiến nghị hướng dẫn một

số quy định tại điều này như sau:

- Các hành vi xâm phạm QTG, bao gồm: chiếm đoạt QTG đối với tác phẩm là

hành vi dùng bất cứ thủ đoạn nào nhằm biến quyền nhân thân và quyền tài sản của tác giả

đối với tác phẩm thành quyền của mình, như: mạo nhận là tác giả của tác phẩm để xuất

bản, công bố nhằm mục đích để được hưởng các quyền về mặt tinh thần và vật chất mà

QTG mang lại hoặc lấy tác phẩm của tập thể làm công trình của cá nhân…; mạo danh tác

giả trên tác phẩm được hiểu là hành vi gian dối, lợi dụng uy tín, tên tuổi của tác giả để

đứng tên cho tác phẩm của mình; sửa đổi bất hợp pháp nội dung của tác phẩm được hiểu

là hành vi sửa đổi nội dung của tác phẩm mà không được sự đồng ý của tác giả đó; công

bố, phổ biến bất hợp pháp tác phẩm được hiểu là hành công bố, phổ biến tác phẩm, tái

bản tác phẩm mà không được sự đồng ý của tác giả hoặc công bố, phổ biến quá thời hạn

đã thoả thuận với tác giả.

- Các tình tiết quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS "gây hậu quả nghiêm

trọng" cần được hiểu là một trong những trường hợp: làm ảnh hưởng đến uy tín nghề

nghiệp của tác giả dẫn đến sự giảm sút niềm tin của độc giả, người hâm mộ đối với tác

phẩm của họ; gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu

đồng từ việc xuất bản, bán tác phẩm, tiền nhuận bút, giải thưởng...

Page 87: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

- Tình tiết "đã bị xử phạt hành chính…" được hiểu là trước đó một người đã bị

xử phạt hành chính về một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS

bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành

chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại

thực hiện một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS.

- Tình tiết "đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm" được

hiểu là trước đó một người đã bị kết án về tội xâm phạm QTG, chưa được xoá án tích mà

lại thực hiện một trong những hành vi quy định tại khoản 1 Điều 131 của BLHS.

- Tình tiết "gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng" quy định

tại điểm c khoản 2 Điều 131 của BLHS được hiểu là một trong những trường hợp sau

đây: "Gây hậu quả rất nghiêm trọng" được hiểu là một trong những trường hợp: làm ảnh

hưởng đến uy tín nghề nghiệp của tác giả dẫn đến sự giảm sút niềm tin của độc giả, người

hâm mộ đối với tác phẩm của họ và gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 50 triệu đồng

đến dưới 200 triệu đồng; gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 200 triệu đồng đến dưới

500 triệu đồng; "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng" được hiểu là một trong những

trường hợp: làm ảnh hưởng đến uy tín nghề nghiệp của tác giả dẫn đến sự giảm sút niềm

tin của độc giả, người hâm mộ đối với tác phẩm của họ và làm cho tác giả phải bỏ nghề;

gây thiệt hại về vật chất cho tác giả từ 500 triệu đồng trở lên.

* Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả (Điều 156 của BLHS):

- Đối với khái niệm "sản xuất hàng giả" cần được hiểu là việc làm ra sản phẩm,

hàng hoá mang nhãn hiệu hàng hoá giống hệ hoặc tương tự có khả năng làm cho người

tiêu dùng nhầm lẫn với nhãn hiệu hàng hoá của cơ sở sản xuất, buôn bán khác đã đăng ký

với cơ quan bảo hộ QSHCN hoặc đã được bảo hộ theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là thành viên với nhiều hình thức khác nhau như: chế tạo, chế biến, nhân

giống, sao chép, sáng tác, dịch thuật...; khái niệm "buôn bán hàng giả" là mua, xin, tàng trữ,

vận chuyển hàng giả nhằm bán lại cho người khác; dùng hàng giả để trao đổi, thanh toán;

dùng tài sản đem trao đổi, thanh toán... lấy hàng giả để bán lại cho người khác. Cần phải

hướng dẫn việc xác định thế nào là "hàng giả" được thực hiện theo hướng dẫn tại Phần II

Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT- BTM-BTC-BCA-BKHCNMT ngày 27-4-2000 của Bộ

Page 88: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Thương mại, Bộ Tài chính, Bộ Công an, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường hướng

dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-10-1999 của Thủ tướng Chính phủ về

đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả.

- Về các tình tiết "thu lợi bất chính lớn", "thu lợi bất chính rất lớn", "thu lợi bất chính

đặc biệt lớn" cũng cần có cách hiểu thống nhất. Thu lợi bất chính là số tiền lời mà người

phạm tội thu được do hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả. Số tiền thu lợi bất chính là giá trị

thu được sau khi trừ đi giá trị nguyên liệu làm nên hàng giả hoặc số vốn mà người phạm

tội bỏ ra để mua hàng giả, ví dụ: A mua 50.000 bao thuốc lá Vinataba giả với số tiền là

200.000.000 đồng đem bán thu được 300.000.000 đồng, thì số tiền thu lợi bất chính là

100.000.000 đồng (300.000.000 đồng - 200.000.000 đồng = 100.000.000 đồng);

- Ngoài ra, cũng cần xác định về các tình tiết "gây hậu quả nghiêm trọng", "gây

hậu quả rất nghiêm trọng", "gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng". Để xem xét trong

trường hợp nào hành vi phạm tội gây hậu quả nghiêm trọng, trong trường hợp nào hành

vi phạm tội gây hậu quả rất nghiêm trọng và trong trường hợp nào hành vi phạm tội gây

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng về nguyên tắc chung phải đánh giá một cách toàn diện, đầy

đủ các hậu quả (thiệt hại về tài sản, thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và các thiệt hại phi vật

chất). Ví dụ: Nếu gây thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản thì được xác định như sau:

Nếu thuộc một trong các trường hợp làm chết một người; gây thương tích hoặc gây

tổn hại cho sức khoẻ của một đến hai người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở

lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn người với tỷ lệ thương tật

của mỗi người từ 31% đến 60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều

người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 61% đến 100%, nếu không

thuộc các trường hợp được hướng dẫn tại các trên đây; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60% và còn gây thiệt hại về

tài sản có giá trị từ 30 triệu đồng đến dưới 50 triệu đồng; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ

50 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng bị coi là gây hậu quả nghiêm trọng.

Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là gây hậu quả rất nghiêm

trọng: làm chết hai người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của ba đến bốn

người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại

Page 89: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

cho sức khoẻ của năm đến bảy người với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến

60%; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ

thương tật của tất cả những người này từ 101% đến 200%, nếu không thuộc một trong

các trường hợp được hướng dẫn tại các điểm trên đây; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ

500 triệu đồng đến dưới một tỷ năm trăm triệu đồng;

Nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là gây hậu quả đặc biệt nghiêm

trọng: làm chết ba người trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của năm người

trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 61% trở lên; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho

sức khoẻ của tám người trở lên với tỷ lệ thương tật của mỗi người từ 31% đến 60%; gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của nhiều người với tổng tỷ lệ thương tật của tất cả

những người này từ 201% trở lên, nếu không thuộc một trong các trường hợp được hướng

dẫn tại các điểm trên đây; gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ một tỷ năm trăm triệu đồng trở

lên...

Ngoài các thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ và tài sản, thì thực tiễn cho thấy có

thể còn có hậu quả phi vật chất, như ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của

Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng về an ninh, trật tự, an toàn xã hội...

Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của

hậu quả do tội phạm gây ra là nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm

trọng.

* Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa

bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157 của BLHS):

Sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc

phòng bệnh là hành vi làm ra, mua bán lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc

phòng bệnh không phải là thật. Việc xác định lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh,

thuốc phòng bệnh giả tương tự như xác định hàng giả.

* Đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón,

thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi (Điều 158 của BLHS):

Sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y,

thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi là hành vi làm ra, mua bán thức ăn dùng để

Page 90: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi giả. Cũng

như tại hai điều luật nêu trên, hàng giả theo quy định tại điều này là chỉ giả về nội dung, tức

là hàng hóa có mức chất lượng thấp hơn mức tối thiểu cho phép theo tiêu chuẩn Việt Nam

hoặc sản phẩm có giá trị sử dụng không đúng với, nguồn gốc, bản chất tự nhiên, tên gọi và

công dụng của nó. Điều luật quy định chỉ trong trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng người

phạm tội mới phải chịu trách nhiệm hình sự; trong trường hợp chưa gây ra hậu quả nghiêm

trọng chỉ bị xử phạt hành chính, tuy nhiên, trong trường hợp đã bị xử lý hành chính mà còn

vi phạm (mặc dù chưa gây hậu quả nghiêm trọng), thì cũng phải chịu trách nhiệm hình sự.

* Đối với tội vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN (Điều 170 của

BLHS):

Cần hướng dẫn vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ QSHCN là hành vi của

người có thẩm quyền trong việc cấp văn bằng bảo hộ đã vi phạm quy định của pháp luật về

cấp văn bằng bảo hộ QSHCN.

* Đối với tội xâm phạm QSHCN (Điều 171 của BLHS):

Cần phải hướng dẫn xâm phạm QSHCN là hành vi chiếm đoạt, sử dụng bất hợp

pháp sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, nhãn hiệu hàng hoá, tên gọi,

xuất xứ hàng hoá hoặc các đối tượng SHCN khác đang được bảo hộ tại Việt Nam.

* Đối với tội vi phạm các quy định về xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm

thanh, băng âm thanh, đĩa hĩnh, băng hình hoặc các ấn phẩm khác (Điều 271 của

BLHS):

Cần hướng dẫn vi phạm các quy định về xuất bản và phát hành sách, báo, đĩa âm

thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn phẩm khác" là hành vi vi phạm

các quy định của pháp luật về xuất bản, như: xuất bản, in, nhân bản, phát hành xuất bản

phẩm đã có quyết định thu hồi, tịch thu, cấm lưu hành hoặc phải tiêu huỷ; xuất bản phẩm

có nội dung tuyên truyền bạo lực, ca ngợi tội ác, phá hoại thuần phong mỹ tục...; xuất

bản, in, nhân bản, phát hành xuất bản phẩm không có giấy phép, chuyển nhượng giấy

phép, thực hiện không đúng nội dung trong giấy phép, sửa chữa, tẩy xoá giấy phép; cản

trở việc xuất bản, in, nhân bản, phát hành xuất bản phẩm hợp pháp... Cần lưu ý là trường

hợp xuất bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình

Page 91: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

hoặc các ấn phẩm khác có nội dung chống Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, thì người vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tuyên truyền chống

Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo Điều 88 của BLHS; trường hợp xuất

bản, phát hành sách, báo, đĩa âm thanh, băng âm thanh, đĩa hình, băng hình hoặc các ấn

phẩm khác có tính chất đồi trụy, thì người vi phạm phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự

về tội truyền bá văn hoá phẩm đồi trụy theo Điều 153 của BLHS.

h) Thực tế hiện nay cho thấy pháp luật chưa phân định rõ ràng được đối tượng

hàng giả và xâm phạm QSHCN; do đớ, cần thiết phải hướng dẫn việc phân biệt giữa hai

tội phạm này: nếu xác định người phạm tội thực hiện hành vi sản xuất, buôn bán hàng giả

thì về nguyên tắc, cơ quan chức năng có quyền tiến hành khởi tố vụ án hình sự ngay sau

khi phát hiện hành vi phạm tội và yêu cầu chủ sở hữu quyền tham gia tố tụng với tư cách

là người bị hại; nếu xác định đó là hành vi xâm phạm QSHCN thì các cơ quan chức năng

chỉ có thể khởi tố vụ án khi có yêu cầu từ phía chủ sở hữu quyền. Như vậy, việc lựa chọn

áp dụng điều luật sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu

quyền, của cả người phạm tội… Việc truy tố hai tội danh khác nhau dẫn đến hậu quả của

việc áp dụng các chế tài cũng khác nhau: nếu người phạm tội bị xử lý theo Điều 156 thì

hình phạt cao nhất có thể bị áp dụng là 15 năm tù giam (khoản 3); nếu bị xử lý theo Điều

171 thì mức hình phạt cao nhất đến 3 năm tù giam.

3.3.2.3. Hướng dẫn thi hành các quy định về bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bằng

biện pháp dân sự

* Hướng dẫn cụ thể về điều kiện khởi kiện vụ án dân sự về SHTT:

- Đối với QTG, quyền liên quan: cá nhân, tổ chức có quyền khởi kiện vụ án dân

sự về QTG, quyền liên quan. Theo quy định tại Điều 27, Điều 34 của Luật SHTT và Điều 26

của Nghị định số 100, kể từ thời điểm QTG, quyền liên quan bắt đầu phát sinh, nếu có

tranh chấp thì cá nhân, tổ chức có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền khởi

kiện vụ án dân sự để yêu cầu Toà án giải quyết. Cá nhân, tổ chức (chủ thể quyền) chỉ có

quyền khởi kiện vụ án dân sự về QTG, quyền liên quan để yêu cầu Toà án giải quyết, nếu

thời hạn bảo hộ QTG, thời hạn bảo hộ quyền liên quan vẫn còn; chỉ có tác giả (các đồng

tác giả), chủ sở hữu QTG, quyền liên quan, người thừa kế hợp pháp của tác giả, chủ sở

Page 92: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

hữu QTG, quyền liên quan hoặc người được uỷ quyền hợp pháp mới có quyền yêu cầu

Toà án bảo vệ khi các quyền này bị xâm phạm. Trong trường hợp tác giả (đồng tác giả),

chủ sở hữu QTG, quyền liên quan chết mà các quyền này thuộc về Nhà nước theo quy

định tại Điều 42 của Luật SHTT, thì Nhà nước là chủ sở hữu các quyền đó. Nếu Nhà

nước có văn bản uỷ quyền cho một cơ quan, tổ chức cụ thể nhân danh Nhà nước bảo vệ

lợi ích của Nhà nước khi các quyền này bị xâm phạm thì cơ quan, tổ chức được uỷ quyền

có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ lợi ích của Nhà nước.

- Đối với QSHCN: Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự về QSHCN là QSHCN

phải được xác lập hợp pháp trên cơ sở quyết định của cơ quan quản lý nhà nước về

SHCN cấp Văn bằng bảo hộ cho người nộp đơn đăng ký đối tượng đó theo quy định của

Luật SHTT. QSHCN đối với nhãn hiệu đăng ký quốc tế theo Thoả ước MADRID và

Nghị định thư MADRID được xác lập trên cơ sở công nhận của cơ quan quản lý nhà

nước đối với đăng ký quốc tế đó; QSHCN đang còn trong thời hạn bảo hộ hoặc đáp ứng đầy

đủ các tiêu chuẩn bảo hộ. QSHCN đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí,

nhãn hiệu được bảo hộ trong thời hạn văn bằng bảo hộ có hiệu lực theo quy định tại Điều

93 của Luật SHTT. QSHCN đối với bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương mại chỉ

được bảo hộ khi còn đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn bảo hộ. Quá thời hạn bảo hộ nói trên

hoặc các đối tượng không còn đáp ứng tiêu chuẩn bảo hộ, các chủ thể quyền không còn

được Nhà nước và pháp luật bảo hộ nữa. Do đó, Toà án chỉ thụ lý đơn khởi kiện để giải

quyết tranh chấp nếu tại thời điểm xảy ra tranh chấp quyền của người khởi kiện vẫn còn

trong thời hạn bảo hộ hoặc đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn bảo hộ theo quy định của Luật

SHTT.

* Hướng dẫn về xác định đối tượng bị xâm phạm:

- Đối với QTG, quyền liên quan: Khi giải quyết các vụ án dân sự về QTG, quyền

liên quan, Toà án phải xác định đối tượng bị xâm phạm có phải là đối tượng được bảo hộ

hay không. Việc xác định đối tượng được bảo hộ cần căn cứ vào quy định tại Điều 6 của

Nghị định số 105; cụ thể là: xác định đối tượng được bảo hộ được thực hiện bằng cách

xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát sinh, xác lập QTG, quyền liên

quan theo quy định tại khoản 1 Điều 6 của Luật SHTT, khoản 2 Điều 6 của Luật SHTT;

đối với quyền QTG, quyền liên quan đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối

Page 93: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

tượng được bảo hộ được xác định theo giấy chứng nhận đăng ký và các tài liệu kèm theo

giấy chứng nhận đăng ký đó; trong trường hợp không đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền

thì các quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm, bản định hình đầu tiên của

các đối tượng quyền liên quan (nếu có). Trong trường hợp bản gốc và các tài liệu liên

quan không còn tồn tại, QTG, quyền liên quan được xem là có thực trên cơ sở các thông

tin về tác giả, người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, ghi hình, tổ chức phát sóng và về

đối tượng QTG, quyền liên quan tương ứng, được thể hiện thông thường trên các bản sao

được công bố hợp pháp.

- Đối với QSHCN: Việc xác định đối tượng được bảo hộ QSHCN cần căn cứ vào

quy định tại Điều 6 của Nghị định số 105, bao gồm: xem xét tài liệu, chứng cứ chứng

minh căn cứ phát sinh, xác lập quyền theo quy định tại khoản 3 Điều 6 của Luật SHTT;

đối với QSHCN đã được đăng ký tại cơ quan có thẩm quyền, đối tượng được bảo hộ

được xác định theo Văn bằng bảo hộ và các tài liệu kèm theo Văn bằng bảo hộ đó; đối

với tên thương mại, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở quá trình sử dụng,

lĩnh vực và lãnh thổ sử dụng tên thương mại đó; đối với bí mật kinh doanh, đối tượng

được bảo hộ được xác định trên cơ sở các tài liệu thể hiện nội dung, bản chất của bí mật

kinh doanh và thuyết minh, mô tả về biện pháp bảo mật tương ứng; đối với nhãn hiệu nổi

tiếng, đối tượng được bảo hộ được xác định trên cơ sở các tài liệu, chứng cứ thể hiện sự

nổi tiếng của nhãn hiệu theo các tiêu chí quy định tại Điều 75 của Luật SHTT.

* Hướng dẫn về hành vi xâm phạm:

- Đối với QTG, quyền liên quan: Căn cứ vào quy định tại Điều 7 của Nghị định

số 105, yếu tố xâm phạm QTG có thể thuộc một trong các dạng sau đây: bản sao tác

phẩm được tạo ra một cách trái phép, trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác

phẩm, bản sao chụp tác phẩm cũng là bản sao tác phẩm. Các bản sao này được tạo ra mà

không được phép của tác giả, chủ sở hữu QTG; tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách

trái phép; tác phẩm giả mạo tên, chữ ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt QTG;

phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép; căn cứ xác định yếu tố xâm

phạm QTG là phạm vi bảo hộ QTG được xác định theo hình thức thể hiện bản gốc tác phẩm;

theo nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác

phẩm gốc trong trường hợp xác định yếu tố xâm phạm đối với tác phẩm phái sinh. Căn cứ

Page 94: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

xác định yếu tố xâm phạm quyền liên quan là phạm vi bảo hộ quyền liên quan đã được xác

định theo hình thức thể hiện bản định hình đầu tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình,

chương trình phát sóng. Để xác định có yếu tố xâm phạm QTG, quyền liên quan hay

không, cần so sánh bản sao hoặc tác phẩm đó với bản gốc tác phẩm (bản định hình đầu

tiên cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình, chương trình phát sóng) hoặc tác phẩm gốc.

- Đối với QSHCN: Để xác định hành vi xâm phạm QSHCN, cần phải xác định

yếu tố xâm phạm QSHCN đối với đối tượng SHCN tương ứng. Yếu tố xâm phạm là sự

thể hiện cụ thể kết quả của các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng

công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, bí mật kinh doanh, chỉ dẫn địa lý, tên thương

mại hoặc hành vi cạnh tranh không lành mạnh và là căn cứ quan trọng nhất để khẳng

định hành vi đó là hành vi xâm phạm QSHCN. Cá nhân, tổ chức không phải là chủ sở

hữu đối tượng SHCN theo quy định tại các điều 121 và 123 của Luật SHTT thực hiện

một trong các hành vi sử dụng đối tượng SHCN đang trong thời hạn bảo hộ quy định tại

Điều 124 của Luật SHTT mà không được phép của chủ sở hữu đối tượng SHCN đó,

đồng thời người thực hiện hành vi đó không phải là người có quyền sử dụng trước quy

định tại Điều 134 của Luật SHTT và các hành vi sử dụng nói trên không thuộc các

trường hợp quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 125 của Luật SHTT, thì bị coi là xâm

phạm QSHCN; các hành vi xâm phạm quyền đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp,

thiết kế bố trí là các hành vi được quy định tại Điều 126 của Luật SHTT; các hành vi

xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh là các hành vi được quy định tại Điều 127

của Luật SHTT; các hành vi xâm phạm quyền đối với nhãn hiệu, tên thương mại và chỉ

dẫn địa lý là các hành vi được quy định tại Điều 129 của Luật SHTT; các hành vi cạnh

tranh không lành mạnh là các hành vi được quy định tại Điều 130 của Luật SHTT.

Khi xác định hành vi xâm phạm QSHCN, phải chú ý phân biệt hành vi không bị

coi là xâm phạm QSHCN theo quy định tại khoản 1 Điều 125 của Luật SHTT. Do đó, cá

nhân, tổ chức thực hiện một trong các hành vi quy định tại các khoản 2 và 3 Điều 125 của

Luật SHTT, thì không bị coi là xâm phạm QSHCN. Khi có đơn khởi kiện đối với các

hành vi xâm phạm QSHCN, cần xem xét kỹ nội dung đơn của người khởi kiện để xác

định hành vi đó có thuộc một trong các trường hợp nêu trên hay không, nếu có thì Toà án

giải thích cho người khởi kiện biết, trả lại đơn cho họ và không thụ lý để giải quyết.

Page 95: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Trong trường hợp đã thụ lý rồi mới phát hiện thấy các hành vi này không phải là hành vi

xâm phạm QSHCN, thì Toà án phải ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án căn cứ

vào điểm c khoản 1 Điều 192 của BLTTDS.

Việc xác định một hành vi là hành vi xâm phạm QSHCN quy định tại các

điều 126, 127 và 129 của Luật SHTT được thực hiện theo quy định tại Điều 5 của Nghị

định số 105. Theo đó, bị coi là hành vi xâm phạm QSHCN khi có đầy đủ các căn cứ sau

đây: đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ QSHCN theo quy định

của Luật SHTT và Nghị định số 103; có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét; người

thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể QSHCN và không phải là người được

pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép theo quy định tại các khoản 2 và 3 Điều

125, các điều 133, 134, khoản 2 Điều 137 và Điều 145 của Luật SHTT; hành vi bị xem

xét xảy ra tại Việt Nam. Hành vi bị xem xét cũng được coi là xảy ra tại Việt Nam nếu

hành vi đó xảy ra trên mạng Internet nhưng nhằm vào người tiêu dùng hoặc dùng tin tại

Việt Nam.

* Hướng dẫn về một số quy định khác:

Ngoài ra, trên cơ sở các mối quan hệ pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục

của TAND trong việc giải quyết các tranh chấp về QSHTT theo quy định của BLTTDS

và các quy định tương ứng của Luật SHTT, cần lưu ý hướng dẫn kết hợp một số vấn đề

sau đây:

Thứ nhất, về chứng cứ.

Người khởi kiện phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm theo quy định

của các điều 28, 35, 126, 127, 129 và Điều 188 của Luật SHTT. Theo quy định tại Điều 81

của BLTTDS, thì một trong những điều kiện của chứng cứ là phải được đương sự và cá

nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập theo trình tự, thủ

tục do BLTTDS quy định. Trong vụ án về SHTT, cần phải xác định quan hệ pháp luật và đối

tượng tranh chấp trên cơ sở đơn khởi kiện và yêu cầu của đương sự, từ đó mới có định

hướng về việc thu thập chứng cứ có liên quan, nếu thu thập chứng cứ không đúng trọng

tâm sẽ gây mất thời gian, công sức và gây phiền phức cho đương sự và Tòa án.

Trong vụ án cụ thể về giải quyết tranh chấp QTG đối với một tác phẩm văn học,

Page 96: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

cần xem xét nguồn gốc, cơ sở hình thành tác phẩm, tác phẩm được hình thành trong hòan

cảnh nào, lý do sáng tạo, ai sáng tạo, có việc vi phạm QTG, sao chép, cắt xén, xuyên

tạc… hay không. Tức là việc đánh giá chứng cứ phải dựa trên nguyên tắc có hành vi xâm

phạm QTG đó theo quy định của Điều 28 của Luật SHTT. Đối với trường hợp này, cần

lưu ý căn cứ phát sinh, xác lập QTG, các tiêu chí về căn cứ phát sinh QTG phải theo

đúng quy định của Luật SHTT, nhưng trên thực tế đây là điều hết sức phức tạp và khó

khăn. Thông thường trong trường hợp này các bên đều đưa ra những chứng cứ để chứng

minh quyền của họ, nên việc xem xét đánh giá chứng cứ còn phải kết hợp từ nhiều tài

liệu và từ nhiều nguồn chứng cứ có liên quan như các bản thảo, bản nháp, hòan cảnh, sự

kiện cụ thể và những căn cứ hình thành tác phẩm… để xác định được ai là chủ sở hữu

quyền.

Đối với vụ kiện xâm phạm QSHCN, tương tự như cách đánh giá chứng cứ nêu

trên, thì ngoài việc áp dụng các quy định của Luật SHTT, cần lưu ý các quy định tại các

điều tương ứng của BLDS. Trong đó lưu ý dấu hiệu vi phạm, dấu hiệu vi phạm (hay còn

gọi là "yếu tố vi phạm") là sự thể hiện cụ thể kết quả các hành vi xâm phạm quyền. Khi

xem xét đánh giá chứng cứ trên một vật cụ thể là hàng hóa cần kết hợp với Văn bằng bảo

hộ đã được cấp; cần đánh giá bằng sự hiểu biết chuyên sâu của Thẩm phán về hàng hóa

và kết hợp với ý kiến, kết luận của cơ quan chức năng có liên quan. Đây là yêu cầu vô

cùng khó khăn đối với Thẩm phán, họ phải nắm được đặc điểm của từng loại chứng cứ,

xác định đó là chứng cứ trực tiếp hay gián tiếp trên cơ sở logíc, phân tích, so sánh chúng

trong mối quan hệ tổng thể, toàn diện, biện chứng mới có thể có được kết luận chính xác.

Quyết định về việc có hay không hành vi xâm phạm là quyết định của Tòa án chứ không

phải dựa theo ý kiến của cơ quan chuyên môn… Theo quy định tại Nghị định số 105, đối

với người khởi kiện chứng minh tư cách chủ thể QSHCN bằng các chứng cứ: đối với

sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý là bản gốc Văn

bằng bảo hộ (bản gốc Bằng độc quyền sáng chế, Bằng độc quyền giải pháp hữu ích, Bằng

độc quyền kiểu dáng công nghiệp, (Giấy chứng nhận kiểu dáng công nghiệp được cấp

theo quy định của Pháp lệnh bảo hộ QSHCN năm 1989); Giấy chứng nhận đăng ký thiết

kế bố trí mạch tích hợp bán dẫn; Giấy chứng nhận đăng ký nhãn hiệu, Giấy chứng nhận

đăng ký chỉ dẫn địa lý); bản sao Văn bằng bảo hộ có công chứng hoặc xác nhận của cơ

Page 97: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

quan đã cấp các Văn bằng đó; bản trích lục Sổ đăng ký quốc gia về SHCN do cơ quan có

thẩm quyền đăng ký các đối tượng SHCN đó cấp. Đối với nhãn hiệu được đăng ký quốc

tế: bản gốc Giấy chứng nhận nhãn hiệu đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam do cơ

quan quản lý nhà nước về SHCN cấp; bản sao Công báo nhãn hiệu quốc tế của WIPO có

xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước về SHCN; bản sao Giấy chứng nhận nhãn hiệu

đăng ký quốc tế được bảo hộ tại Việt Nam, bản sao Công báo SHCN có công chứng hoặc

xác nhận của cơ quan quản lý nhà nước về SHCN. Đối với bí mật kinh doanh là bản mô

tả nội dung, hình thức lưu giữ, cách thức bảo vệ và phương thức có được bí mật kinh

doanh. Đối với tên thương mại là bản mô tả nội dung, hình thức sử dụng và quá trình sử

dụng tên thương mại; đối với nhãn hiệu nổi tiếng là tài liệu thể hiện các tiêu chí đánh giá

nhãn hiệu nổi tiếng theo quy định tại Điều 75 của Luật SHTT và giải trình về quá trình sử

dụng để nhãn hiệu trở thành nổi tiếng.

Trong trường hợp người khởi kiện là người được chuyển nhượng quyền sở hữu đối

tượng QSHCN, chuyển quyền sử dụng đối tượng QSHCN, được thừa kế hoặc kế thừa

đối tượng QSHCN phải xuất trình bản gốc hoặc bản sao hợp pháp hợp đồng chuyển

nhượng quyền sở hữu đối tượng QSHCN, hợp đồng sử dụng đối tượng QSHCN hoặc văn

bản xác nhận quyền thừa kế, quyền kế thừa đối tượng QSHCN. Trong trường hợp việc

chuyển giao đã được ghi nhận trong Văn bằng bảo hộ hoặc Giấy chứng nhận đăng ký hợp

đồng chuyển nhượng quyền sở hữu đối tượng QSHCN, Giấy chứng nhận đăng ký hợp

đồng sử dụng đối tượng QSHCN, thì các tài liệu này cũng được coi là chứng cứ chứng

minh tư cách chủ thể quyền.

Người khởi kiện phải cung cấp các chứng cứ về hành vi xâm phạm QSHCN theo

quy định tại Điều 25 của Nghị định số 105. Theo đó: bản gốc hoặc bản sao hợp pháp tài

liệu mô tả, vật mẫu, hiện vật có liên quan thể hiện đối tượng bảo hộ QSHCN; vật mẫu,

hiện vật có liên quan, ảnh chụp, bản ghi hình sản phẩm bị xem xét xâm phạm QSHCN;

bản giải trình, so sánh giữa sản phẩm bị xem xét với đối tượng được bảo hộ QSHCN;

biên bản, lời khai nhằm chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN; vật mẫu, hiện vật, tài

liệu khác… được coi là chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm QSHCN. Tài liệu, hiện

vật nêu trên phải được lập thành danh mục, có chữ ký xác nhận của người yêu cầu xử lý

xâm phạm khi nộp (gửi) cho TAND có thẩm quyền.

Page 98: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Chủ thể QSHTT yêu cầu Toà án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp

của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho yêu cầu đó là có căn cứ và hợp pháp

(Điều 79 của BLTTDS, Điều 203 của Luật SHTT). Cần lưu ý, nếu người khởi kiện là tác

giả, chủ sở hữu quyền hoặc người được chuyển giao, được thừa kế, kế thừa quyền, thì

kèm theo đơn khởi kiện phải có các tài liệu, chứng cứ, hiện vật chứng minh là chủ thể

quyền; chứng cứ chứng minh hành vi xâm phạm quyền đã xảy ra; bản sao thông báo của

chủ thể quyền gửi cho người xâm phạm, trong đó đã ấn định thời hạn hợp lý để người

xâm phạm chấm dứt hành vi xâm phạm và chứng cứ chứng minh người xâm phạm không

chấm dứt hành vi xâm phạm; chứng cứ và hiện vật, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện

được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh, tài liệu chứng minh hành vi giao việc, đặt

hàng, sản xuất, kinh doanh, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện để sản xuất, kinh doanh

hàng hoá đó; chứng cứ chứng minh yêu cầu áp dụng BPKCTT. Việc cung cấp, giao nhận

chứng cứ được thực hiện theo hướng dẫn tại các Phần I và II của Nghị quyết số 04/2005.

Thứ hai, về áp dụng BPKCTT.

Các quy định của BLTTDS và Luật SHTT về áp dụng BPKCTT là bước tiến rất

dài so với thủ tục tố tụng dân sự trước đó, đã đáp ứng được yêu cầu của các điều ước quốc

tế. Tuy nhiên, cần lưu ý Hiệp định TRIPs và BTA đều bao gồm rất nhiều cam kết liên

quan đến vấn đề áp dụng BPKCTT đối với các vụ án về SHTT. Chủ thể QSHTT khi khởi

kiện hoặc sau khi khởi kiện vụ án dân sự về QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng

BPKCTT theo quy định tại các điều từ Điều 206 đến Điều 210 của Luật SHTT hoặc theo

quy định tại Chương VIII của BLTTDS. Do đó, tuỳ từng trường hợp cụ thể mà Toà án phân

biệt như sau: Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT theo quy định của Luật SHTT, thì Toà án áp

dụng các quy định tương ứng của Luật SHTT. Đối với yêu cầu áp dụng BPKCTT mà trong

Luật SHTT không có quy định hoặc yêu cầu áp dụng BPKCTT theo quy định của BLTTDS,

thì Toà án áp dụng các quy định của BLTTDS.

Chủ thể QSHTT có quyền yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT trong các trường

hợp quy định tại khoản 1 Điều 206 của Luật SHTT. áp dụng BPKCTT có ý nghĩa đặc

biệt trong trường hợp nhằm thu giữ chứng cứ, bởi vì để nhằm mục đích thu giữ chứng cứ,

có một thực tế sẽ xảy ra là nếu thông báo cho bên bị yêu cầu áp dụng lệnh biết, thì có thể

sẽ làm cho việc áp dụng đó trở nên không còn ý nghĩa. Tác giả cho rằng, quy định áp

Page 99: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

dụng BPKCTT tại Luật SHTT cụ thể hơn quy định về áp dụng BPKCTT tại BLTTDS ở

chỗ BLTTDS không quy định bên bị yêu cầu phải được thông báo về việc nộp đơn của

bên yêu cầu và phải có cơ hội giải trình trước khi Tòa án ra lệnh áp dụng lệnh. Nghị

quyết số 02/2005 hướng dẫn:

Trong trường hợp có thể hỏi được ý kiến của người bị áp dụng biện

pháp khẩn cấp tạm thời và việc hỏi ý kiến đó không làm ảnh hưởng đến việc

thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhưng lại bảo đảm

cho việc ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đúng đắn, thì

Thẩm phán phải hỏi ý kiến của người bị áp dụng trước khi ra quyết định áp

dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (tiểu mục 5.2 Mục 5) [48].

Tuy nhiên cần lưu ý, Điều 11.3 (yêu cầu 40) của BTA có yêu cầu cụ thể về việc

các quyết định thực thi tư pháp phải dựa trên các chứng cứ mà bên kia đã "có cơ hội giải

trình" về các chứng cứ đó; Điều 13.5B (yêu cầu 77) cũng đòi hỏi bên bị yêu cầu phải có

quyền xem xét lại thủ tục nói trên, trong đó có quyền được giải trình với Tòa án. Đây là

những vấn đề tưởng như có vẻ trái ngược, nhưng thực ra lại hết sức hợp lý, vì bản chất

của nó là để bảo đảm quyền "được biết" của đương sự. Vì vậy, khi hướng dẫn các quy

định về thủ tục áp dụng BPKCTT phải làm sao quy định trách nhiệm của bên nộp đơn

yêu cầu là phải thuyết phục được Tòa án về tình huống gay cấn để Tòa phải ra quyết định

mà không thông báo cho bên bị áp dụng lệnh biết; nếu việc lấy ý kiến của bên bị áp dụng

BPKCTT làm ảnh hưởng đến mục đích áp dụng BPKCTT thì không nên hỏi ý kiến của

bên đó; đồng thời văn bản hướng dẫn cũng phải bảo đảm được việc ngay sau khi lệnh của

Tòa được thực hiện, phải tổ chức ngay một phiên họp để bên bị yêu cầu áp dụng lệnh đó

có cơ hội được giải trình… Về vấn đề này có thể tham khảo Các nguyên tắc của Thủ tục

tố tụng dân sự xuyên quốc gia UNIDROIT (nguyên tắc thứ 5) như sau:

Một lệnh của Tòa án có ảnh hưởng đến lợi ích của một bên đương sự

có thể được ban hành và thực thi mà không cần thiết phải thông báo trước cho

bên đương sự đó, với điều kiện là có bằng chứng về sự cần thiết và sự cân nhắc

đầy đủ đến yêu cầu khách quan trước khi ra lệnh đó. Một lệnh Ex parte phải

phù hợp với lợi ích mà người nộp đơn tìm cách bảo vệ. Ngay khi điều kiện cho

phép, đương sự bị ảnh hưởng bởi việc ban hành lệnh của Tòa án phải được

Page 100: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

thông báo về lệnh đó và những cơ sở của việc ban hành lệnh đó. Ngoài ra bên

này phải có quyền yêu cầu Tòa án xem xét lại một cách đầy đủ và ngay lập tức

tính hợp lý, hợp pháp của việc ban hành lệnh đó [86].

Thứ ba, về biện pháp bảo đảm.

Người yêu cầu Toà án áp dụng BPKCTT không phân biệt theo quy định của Luật

SHTT hay quy định của BLTTDS, phải thực hiện biện pháp bảo đảm. Tuỳ từng trường

hợp cụ thể, Toà án buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT thực hiện biện pháp bảo đảm,

bao gồm: thực hiện biện pháp bảo đảm trong trường hợp áp dụng BPKCTT quy định tại

khoản 1 Điều 207 của Luật SHTT. Người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải nộp khoản bảo

đảm bằng một trong các hình thức quy định tại khoản 2 Điều 208 của Luật SHTT; cụ thể

như sau: nộp khoản tiền bằng 20% giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT. Để xác định

giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT, Toà án yêu cầu người yêu cầu áp dụng BPKCTT

phải nêu rõ số lượng, chủng loại hàng hoá cần áp dụng BPKCTT, dự kiến và ước tính giá

trị hàng hoá đó làm cơ sở cho việc ấn định khoản tiền bảo đảm. Trong trường hợp người

yêu cầu áp dụng BPKCTT ước tính giá trị hàng hoá thấp nhằm mục đích hạ thấp mức

tiền bảo đảm phải nộp hoặc các bên có tranh chấp về giá trị hàng hoá cần áp dụng

BPKCTT và có yêu cầu định giá hàng hoá đó, thì Toà án quyết định tiến hành việc định

giá theo quy định tại Điều 92 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 7 Phần thứ IV của

Nghị quyết số 04/2005. Việc xác định giá trị hàng hoá cần áp dụng BPKCTT được thực

hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 28 của Nghị định số 105. Thực hiện biện pháp bảo

đảm trong trường hợp áp dụng BPKCTT quy định tại khoản 2 Điều 207 của Luật SHTT

(Toà án có thể áp dụng BPKCTT khác theo quy định của BLTTDS). Do đó, khi quyết định

áp dụng một trong các BPKCTT quy định tại Điều 102 của BLTTDS, thì Toà án căn cứ vào

quy định tại Điều 120 của BLTTDS và hướng dẫn tại mục 8 của Nghị quyết số 02/2005

để buộc người yêu cầu áp dụng BPKCTT phải thực hiện biện pháp bảo đảm.

Theo quy định tại Điều 210 của Luật SHTT, thẩm quyền, thủ tục áp dụng BPKCTT

thực hiện theo quy định tại Chương VIII, Phần thứ nhất của BLTTDS. Các quy định tại

Chương VIII, Phần thứ nhất của BLTTDS đã được hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2005.

Do đó, Toà án cần thi hành đúng hướng dẫn tại Nghị quyết này của Hội đồng thẩm phán

TANDTC. Đối với trường hợp huỷ bỏ việc áp dụng BPKCTT, Toà án áp dụng quy định tại

Page 101: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Điều 209 của Luật SHTT và các quy định tương ứng của BLTTDS và hướng dẫn tại Nghị

quyết số 02/2005.

Thứ tư, về bồi thường thiệt hại.

Việc giải quyết bồi thường thiệt hại do xâm phạm quyền tuân theo nguyên tắc chung

về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng quy định tại Điều 604 của BLDS năm 2005 và hướng

dẫn tại mục 1 Phần I của Nghị quyết số 03/2006. Tuy nhiên, trong trường hợp Luật SHTT có

quy định các nguyên tắc, căn cứ bồi thường thiệt hại khác với quy định của BLDS, thì áp

dụng các quy định đó của Luật SHTT.

Nguyên tắc xác định thiệt hại do xâm phạm QSHTT được quy định tại Điều 204

của Luật SHTT và Điều 16 của Nghị định số 105. Thiệt hại do xâm phạm QSHTT là sự

tổn thất thực tế về vật chất và tinh thần do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra cho chủ thể

quyền. Chỉ được coi là có tổn thất thực tế khi có đầy đủ các căn cứ quy định tại khoản 2

Điều 16 của Nghị định số 105. Tổn thất về tài sản được xác định theo quy định tại Điều

17 của Nghị định số 105. Giảm sút về thu nhập, lợi nhuận được xác định theo quy định

tại Điều 18 của Nghị định số 105. Tổn thất về cơ hội kinh doanh được xác định theo quy

định tại Điều 19 của Nghị định số 105. Khi xác định tổn thất về cơ hội kinh doanh cần

lưu ý như sau:

- Phải xác định rõ cơ hội kinh doanh của người bị thiệt hại dựa trên các tiêu chí

sau đây: khả năng thực tế sử dụng, khai thác trực tiếp đối tượng QSHTT trong kinh

doanh; cụ thể là: khả năng là cái có thể xuất hiện, có thể xảy ra trong điều kiện nhất định

đối với chủ thể quyền để sử dụng, khai thác trực tiếp QSHTT trong việc thực hiện liên

tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ

sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi; khả năng thực

tế cho người khác thuê đối tượng QSHTT, cụ thể là chủ thể quyền và đối tác đã có liên

hệ, thoả thuận về việc thuê đối tượng quyền và việc cho thuê đó sẽ được thực hiện trong

điều kiện không có sự xâm phạm từ phía người thứ ba; khả năng thực tế chuyển giao

quyền sử dụng, chuyển nhượng đối tương quyền cho người khác; cụ thể là chủ thể quyền

đã đàm phán, thoả thuận với đối tác về những nội dung cơ bản của hợp đồng và hợp đồng

sẽ được ký kết và được thực hiện trong điều kiện không có sự xâm phạm từ phía người

Page 102: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

thứ ba; cơ hội kinh doanh khác bị mất do hành vi xâm phạm trực tiếp gây ra. Trường hợp

này có thể bao gồm việc mất cơ hội đàm phán với đối tác, mất cơ hội kinh doanh, liên kết

trong đầu tư, trong tiếp thị, quảng cáo, xúc tiến thương mại thông qua các cuộc triển lãm,

trưng bày quốc tế… do bị chiếm đoạt đối tượng quyền.

- Tổn thất về cơ hội kinh doanh là thiệt hại về giá trị tính được thành tiền khoản thu

nhập đáng nhẽ người bị thiệt hại có thể có được khi thực hiện các khả năng nêu trên nhưng

thực tế không có được khoản thu nhập đó do hành vi xâm phạm gây ra. Khi xem xét yêu

cầu bồi thường về tổn thất cơ hội kinh doanh, Toà án yêu cầu người bị thiệt hại phải nêu

rõ và chứng minh cơ hội kinh doanh bị mất là gì, thuộc trường hợp nào nêu tại điểm a

tiểu mục này và giá trị tính được thành tiến đối với trường hợp đó để Toà án xem xét

quyết định.

Thứ năm, về căn cứ xác định mức bồi thường thiệt hại.

Khi đương sự yêu cầu Tòa án bảo vệ QSHTT của họ bằng biện pháp dân sự, thì

một trong các mục tiêu của họ là được bồi thường thỏa đáng và kịp thời. Do đó, nếu phán

quyết của Tòa án về mức bồi thường không hợp lý thì lợi ích của đương sự không được

bảo vệ đúng mức, như vậy, mục đích của việc xét xử không đạt được. Để xác định mức

bồi thường thiệt hại, Toà án cần phân biệt như sau: Toà án quyết định bồi thường thiệt

hại trong trường hợp quy định tại điểm c khoản 1 Điều 205 của Luật SHTT chỉ khi không

thể xác định được mức bồi thường thiệt hại về vật chất theo các căn cứ quy định tại điểm

a và điểm b khoản 1 Điều 205. Để đảm bảo quyết định mức bồi thường hợp lý, phù hợp

bảo vệ được quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại, Toà án phải căn cứ vào tính

chất của hành vi xâm phạm, hậu quả, mức độ thiệt hại, thời gian và phạm vi xảy ra hành

vi xâm phạm… Mức bồi thường do Toà án quyết định nhưng không quá năm trăm triệu

đồng.

Thiệt hại danh dự, uy tín, nhân phẩm do bị xâm phạm mang biểu hiện là trạng

thái tinh thần bất ổn, buồn bực, đau khổ, tình cảm gia đình bất hòa, bạn bè đồng nghiệp

hiểu lầm xa lánh. Căn cứ đánh giá thông qua chứng minh của đương sự, qua tài liệu cung

cấp của cơ quan, nơi cư trú của đương sự… Bồi thường chi phí khác là các chi phí cần

thiết, chi phí đó phải liên quan đến hành vi xâm phạm nhằm ngăn chặn, hạn chế thiệt hại

Page 103: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

của hành vi xâm hại như: chi phí lưu kho lưu bãi, lưu bến bảo quản hàng hóa, tang vật

chứng; chi phí yêu cầu cơ quan chức năng xác minh sự vi phạm, cải chính trên phương

tiện thông tin đại chúng; các chi phí áp dụng BPKCTT.

Thanh toán chi phí để thuê Luật sư là các khoản chi cụ thể cho việc ăn, ở, đi lại,

làm việc… các khoản chi phí này phải là chi phí hợp lý thể hiện ở giá cả trung bình để

hòan thành công việc theo thực tế tại địa phương và cùng thời gian đó; căn cứ là hóa đơn,

chứng từ do đương sự cung cấp.

Ngoài ra, một yếu tố căn bản nữa là khi ấn định mức bồi thường cụ thể cần căn

cứ vào tính chất nghiêm trọng của vụ việc, thể hịên ở đối tượng SHTT bị xâm phạm, quy

mô và mức độ xâm phạm, đây cũng được coi là căn cứ để đánh giá tính chất nghiêm

trọng để ấn định mức bồi thường thiệt hại về tài sản trong trường hợp không xác định

được thiệt hại thực tế.

Thứ sáu, về xử lý hàng hoá xâm phạm QSHTT.

Không phụ thuộc vào việc chủ thể quyền có yêu cầu hay không có yêu cầu, việc xử

lý hàng hoá xâm phạm phải theo đúng các nguyên tắc quy định tại khoản 5 Điều 202 của

Luật SHTT và Điều 29 của Nghị định số 105. Để bảo đảm cho việc xử lý đúng với quy định

về các điều kiện buộc phân phối, đưa vào sử dụng không nhằm mục đích thương mại, buộc

tiêu huỷ, tịch thu hàng hoá xâm phạm, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện, Toà án phải căn cứ

vào quy định tại các điều 30, 31 và 32 của Nghị định số 105. Trong trường hợp cần thiết phải

áp dụng các biện pháp như xem xét thẩm định tại chỗ, giám định, định giá hàng hoá xâm

phạm, nguyên liệu, vật liệu, phương tiện được sử dụng chủ yếu để sản xuất, kinh doanh hàng

hoá đó… thì Toà án quyết định xem xét thẩm định tại chỗ theo quy định tại Điều 89 của

BLTTDS, Điều 90 của BLTTDS, Điều 201 của Luật SHTT, Điều 39 của Nghị định số 105,

Điều 92 của BLTTDS để xác định yếu tố xâm phạm, sản phẩm xâm phạm, tính năng, công

dụng, giá trị… của hàng hoá xâm phạm, làm cơ sở cho việc quyết định buộc tiêu huỷ hay

không tiêu huỷ.

Thứ bảy, về sự phối hợp giữa Tòa án và các cơ quan chức năng về SHTT.

Trong quá trình giải quyết các tranh chấp về QSHTT cần có sự phối hợp chặt chẽ

giữa Toà án, VKS với Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Văn hóa - Thông tin, Bộ Nông

Page 104: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

nghiệp và Phát triển nông thôn để thực hiện các việc sau đây: khi có vấn đề chuyên môn

trong lĩnh vực QTG, quyền liên quan, QSHCN, quyền đối với giống cây trồng mà Toà án

đã có văn bản yêu cầu cho ý kiến, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà các cơ quan chức

năng có trách nhiệm trả lời về các vấn đề mà Toà án yêu cầu hoặc thành lập Hội đồng

giám định để thực hiện yêu cầu của Toà án theo quy định của pháp luật; khi tiến hành

việc truy tố, xét xử các vụ án hình sự mà thấy có hành vi xâm phạm QSHTT, VKS, Toà

án cần thông báo để các cơ quan này có thể tham gia tố tụng hoặc theo dõi kết quả bảo vệ

QSHTT trong phạm vi chức năng của mình; trong quá trình xử lý xâm phạm, giải quyết

tranh chấp, nếu thấy hành vi xâm phạm QSHTT đủ yếu tố cấu thành tội phạm theo quy

định của BLHS, thì các cơ quan chức năng thông báo và chuyển tài liệu có liên quan cho

Viện VKS có thẩm quyền xem xét, quyết định việc xử lý về hình sự.

Thứ tám, về vấn đề thời hạn trong tố tụng dân sự.

Thủ tục tố tụng dân sự được tiến hành theo trình tự chung là khá phức tạp, kéo

dài thời gian, thông thường một vụ kiện dân sự từ khi nộp đơn khởi kiện cho đến khi

được đưa ra xét xử phải mất bốn đến sáu tháng, có trường hợp kéo dài cả năm, qua nhiều

cấp xét xử… do đó, đối với các vụ án về SHTT cần có hướng dẫn hợp lý các trường hợp

như tạm hoãn, tạm đình chỉ… để tránh kéo dài thời gian giải quyết của Tòa án.

Thứ chín, về định giá tài sản SHTT.

Có thể khẳng định rằng, đây là vấn đề hoàn toàn mới và chưa hề có ở Việt Nam.

Khái niệm về việc định giá tài sản SHTT hoàn toàn là mới mẻ. Hiện nay trong lĩnh vực

SHTT chưa có cơ quan định giá chuyên trách, vì vậy kết quả của Hội đồng định giá chỉ

được Tòa án chấp nhận khi Hội đồng định giá đó được thành lập theo quy định của pháp

luật hiện hành…

Thứ mười, xây dựng các phiên toà mẫu về xét xử các vụ án về SHTT (gồm cả

lĩnh vực hành chính, hình sự và dân sự); tổ chức tổng kết thực tiễn, rút kinh nghiệm trong

tiến hành phiên toà, trong tổ chức hoà giải…

Thứ mười một, về công bố các quyết định, bản án của Tòa án về SHTT.

Theo quy định của WTO, việc công bố bản án là yêu cầu bắt buộc đối với các

nước thành viên ("các bản án của Tòa án cấp cao nhất phải được công bố hoặc có sẵn cho

Page 105: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

công chúng..."). Tại Báo cáo tổng quan về đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện pháp luật

của Việt Nam đến năm 2010 cũng đã phân tích tính cấp thiết của việc nghiên cứu về khả

năng áp dụng án lệ đối với Tòa án như là một nguồn quy phạm bổ sung cho pháp luật

(Phần III. 3.5). Việc công bố các quyết định, bản án của Tòa án sẽ tăng cường tính minh

bạch và có tác dụng trong việc: giúp cho Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật trong công

tác xét xử, nâng cao chất lượng của việc ra bản án; giúp cho các Thẩm phán học hỏi được

kỹ năng viết bản án, kinh nghiệm khai thác và đánh giá chứng cứ…; giúp cho người dân

thấy được kết quả giải quyết vụ án của Tòa án, từ đó sẽ tự mình giải quyết những vụ việc

tương tự mà không cần phải khởi kiện tại Tòa án (trong tranh chấp thương mại quốc tế,

yếu tố này được đánh giá là một trong những điều kiện để thu hút đầu tư); giúp cho cho

cá nhân, tổ chức dễ dàng tiếp cận với công lý, với các cơ quan tư pháp; hỗ trợ công tác

đào tạo, giáo dục, phổ biến và tuyên truyền pháp luật… Năm 2004, TANDTC đã xuất

bản hai tập Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC (2003-2004).

Đây mới chỉ là tuyển tập các quyết định giám đốc thẩm các vụ án Hình sự, Hành chính,

Dân sự; Kinh doanh, thương mại; Lao động… nói chung (trong quyển tập 1, phần thứ

nhất có đăng Quyết định số 08/2003/HĐTP-DS ngày 26-02-2003 về vụ án tranh chấp

quyền sở hữu nhãn hiệu hàng hóa). Theo quan điểm của Tác giả, căn cứ vào tính đặc thù,

tính phức tạp của thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND, thì việc xây dựng án lệ về SHTT là

một trong những yêu cầu cần thiết trong tình hình hiện nay. Trước mắt, tuy thực tiễn giải

quyết các vụ án về QSHTT tại TAND chưa nhiều, nhưng chúng ta có thể có giải pháp lựa

chọn một số vụ án về SHTT đã xét xử, kết hợp với việc hệ thống hóa các văn bản quy

phạm pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT để xuất bản dưới hình thức Sổ tay Thẩm phán

hoặc Cẩm nang về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ

Trong hoạt động xột xử của TAND thỡ yếu tố con người đóng vai trũ quyết định.

Trong đú Thẩm phỏn là chủ thể trực tiếp và những cỏn bộ Toà ỏn cú vai trũ hỗ trợ cho

hoạt động xét xử. Theo Chương trỡnh đổi mới công tác, xây dựng, ban hành và nâng cao

chất lượng văn bản quy phạm pháp luật Hiện nay, cán bộ, Thẩm phán của các TAND còn

thiếu kiến thức chuyên sâu về SHTT. Trên thực tế, số cán bộ, Thẩm phán được đào tạo về

SHTT quá ít ỏi. Hầu hết Thẩm phán đương nhiệm của các TAND được đào tạo trong cơ

Page 106: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chế bao cấp do vậy kiến thức của họ hiện nay khụng cũn phự hợp. Hệ thống phỏp luật

Việt Nam đó cú sự thay đổi căn bản, bên cạnh đó là những thay đổi kinh tế, xó hội theo

cơ chế thị trường đũi hỏi cỏc Thẩm phỏn phải cập nhật và đổi mới tư duy. Tại TANDTC,

theo chương trình hợp tác quốc tế giữa Chính phủ Việt Nam với một số tổ chức thuộc

Chính phủ Hoa Kỳ (STAR-VIETNAM), Chính phủ Nhật Bản (JICA), Chính phủ Đan Mạch

(DANIDA) và Chính phủ Thụy Điển (SIDA)… đã tổ chức một số khóa đào tạo dành cho

các Thẩm phán, cán bộ Toà án. Tuy nhiên, đây cũng chỉ là những đợt đào tạo ngắn hạn,

học viên là một số cán bộ Thẩm phán từ Toà án tỉnh, thành phố và tại các Toà chuyên

trách TANDTC đang làm nhiệm vụ chung, được tham dự lớp bồi dưỡng với thời gian

nhiều nhất chưa tới một tháng cho nên việc tiếp cận với kiến thức, pháp luật về SHTT

chưa sâu, chưa có tính hệ thống. Do vậy, cần đưa ra mục tiêu và chương trình hành động

thiết thực về đào tạo có hệ thống để chuyên môn hoá đội ngũ cán bộ, Thẩm phán ở các

TAND hiện nay, tiến tới mô hình có các Thẩm phán chuyên xét xử về SHTT. Cần chỳ

trọng hỡnh thức bồi dưỡng, tập huấn ngắn ngày để bổ túc kiến thức nghiệp vụ; bồi dưỡng

theo chuyên đề kết hợp với hội thảo tổng kết công tác thực tiễn thường xuyên và liên tục;

xây dựng giáo trình, cẩm nang chuyên về giải quyết tranh chấp SHTT để nâng cao kỹ

năng, năng lực thực hành; đào tạo về ngoại ngữ, tin học cho cán bộ, thẩm phán; thiết lập

mạng lưới thông tin về SHTT giữa các cơ quan, tổ chức hữu quan và Toà án…

Việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trỡnh độ, năng lực của cán bộ, Thẩm phán phải

đi đôi với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Hoạt động xét xử của TAND không chỉ

mang tính khoa học pháp lý đơn thuần mà cũn thể hiện tớnh Đảng, tính nghệ thuật và tính

nhân văn sâu sắc, do vậy làm tốt công tác giáo dục chính trị, tư tưởng sẽ góp phần nâng

cao hiệu quả, chất lượng cho hoạt động xét xử của các TAND.

Kết luận chương 3

Các giải pháp nêu trên là các giải pháp cơ bản cho việc hoàn thiện pháp luật về

thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND. Các giải pháp mang tính tổng thể từ việc hướng dẫn thi

hành các quy định về bảo vệ QSHTT bằng biện pháp hành chính, biện pháp hình sự, biện

pháp dân sự với các trình tự, thủ tục tố tụng hành chính, trình tự, thủ tục tố tụng hình sự,

trình tự, thủ tục tố tụng dân sự. Bên cạnh đó đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật về tổ

Page 107: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

chức TAND, qua việc đào tạo cán bộ, Thẩm phán, thành lập Toà chuyên biệt về SHTT

trong hệ thống TAND. Thực hiện tốt các giải pháp đó sẽ nâng cao hiệu quả áp dụng pháp

luật về thủ tục bảo vệ QSHTT và hoạt động xét xử của TAND

Page 108: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Kết luận

Như chúng ta đã biết, pháp luật về bảo hộ QSHTT ra đời, hình thành và phát

triển gắn liền với sự phát triển khoa học, kỹ thuật, công nghệ của nền kinh tế tri thức. Do

vậy, chúng ta phải nhận thức việc hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QSHTT phải dựa trên

quan điểm thực tiễn và phát triển, dựa vào đường lối phát triển kinh tế của Đảng Cộng

sản Việt Nam, đặc biệt là chính sách phát triển khoa học - công nghệ. Từ đó, chúng ta coi

hoạt động về hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QSHTT là một quá trình liên tục, để có định

hướng và giải pháp về hoàn thiện pháp luật nhằm bảo đảm tính đầy đủ và tính hiệu quả

của việc thực thi pháp luật về thủ tục bảo vệ QSHTT tại TAND.

Ngày nay, trong điều kiện toàn cầu hóa, những biến đổi cơ bản trong lĩnh vực

SHTT của thế giới sẽ có tác động mạnh mẽ tới Việt Nam. Nhất là Việt Nam đang trong

giai đoạn cuối cùng của quá trình đàm phán để gia nhập WTO. Trong phiên họp chính thức

cuối cùng vào ngày 26-10-2006, Ban công tác của Chính phủ Việt Nam đã đàm phán với

WTO về ba Văn kiện quan trọng nhất trong toàn bộ Dự thảo Hiệp định gia nhập WTO của

Việt Nam. Một trong ba Văn kiện quan trọng đó là Văn kiện về thể chế và pháp luật Việt

Nam. Trong phần nội dung pháp luật đó, pháp luật về SHTT được coi là một trong bốn

"cột trụ" của các vấn đề được đưa ra trên bàn đàm phán. Việt Nam đã được kết nạp vào

WTO tại Hội nghị đặc biệt của Đại hội đồng WTO vào ngày 07-11-2006. Vì vậy, có thể

nói hoàn thiện pháp luật về bảo hộ QSHTT đang trở thành một thực tiễn hết sức sinh động.

danh mục tài liệu tham khảo

1. Bộ Thương mại - Bộ Tài chính - Bộ Công an - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi

trrường (2000), Thông tư liên tịch số 10/2000/TTLT-BTM-BTC-BCA-

Page 109: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

BKHCNMT hướng dẫn thực hiện Chỉ thị số 31/1999/CT-TTg ngày 27-9-1999

của Thủ tướng Chính phủ về đấu tranh chống sản xuất và buôn bán hàng giả,

Hà Nội.

2. Chính phủ (1996), Nghị định số 63/CP ngày 24/10-1996 quy định chi tiết về sở hữu

công nghiệp (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 06/2001/NĐ-CP ngày

01-02-2001), Hà Nội.

3. Chính phủ (1996), Nghị định số 76/CP ngày 29/11 hướng dẫn thi hành một số quy định

về quyền tác giả trong Bộ luật dân sự năm 1995, Hà Nội.

4. Chính phủ (1998), Nghị định số 45/1998/NĐ-CP ngày 01/7 quy định chi tiết về

chuyển giao công nghệ, Hà Nội.

5. Chính phủ (1999), Nghị định số 12/1999/NĐ-CP ngày 06/3 về xử phạt vi phạm hành

chính trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

6. Chính phủ (2000), Nghị định số 54/2000/NĐ-CP ngày 03/10 quy định chi tiết đối với

bí mật kinh doanh, tên thương mại, chỉ dẫn địa lý và bảo hộ cạnh tranh không

lành mạnh liên quan đến sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

7. Chính phủ (2000), Nghị định số 72/2000/NĐ-CP ngày 05/12 về công bố, phổ biến tác

phẩm ra nước ngoài, Hà Nội.

8. Chính phủ (2001), Nghị định số 13/2001/NĐ-CP ngày 20/4 về bảo hộ giống cây trồng

mới, Hà Nội.

9. Chính phủ (2001), Nghị định số 31/2001/NĐ-CP ngày 26/6 về sửa đổi, bổ sung Nghị

định số 57/CP ngày 31/5/1997 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực

văn hoá - thông tin, Hà Nội.

10. Chính phủ (2001), Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg ngày 19/7 của Thủ tướng Chính

phủ về Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2002 -

2010, Hà Nội.

11. Chính phủ (2001), Nghị định số 101/2001/NĐ/CP ngày 31/12 quy định chi tiết thi

hành một số điều của Luật Hải quan về thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra, giám

Page 110: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

sát hải quan, Hà Nội.

12. Chính phủ (2003), Quyết định số 909/QĐ-TTg ngày 14/8 của Thủ tướng Chính phủ

về Chương trình đổi mới công tác xây dựng, ban hành và nâng cao chất lượng

văn bản quy phạm pháp luật, Hà Nội.

13. Chính phủ (2006), Nghị định số 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9 về quyền tác giả và

quyền liên quan đến quyền tác giả, Hà Nội.

14. Chính phủ (2006), Nghị định số 103/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về sở hữu công nghiệp, Hà

Nội.

15. Chính phủ (2006), Nghị định số 104/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về quyền đối với giống

cây trồng, Hà Nội.

16. Chính phủ (2006), Nghị định số 105/2006/NĐ-CP ngày 22/9 về bảo vệ quyền sở hữu

trí tuệ và quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

17. Công ước quốc tế về bảo hộ người biểu diễn, nhà sản xuất bản ghi âm, tổ chức phát

sóng (Công ước ROME) (1961).

18. Công ước thành lập Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) (Công ước

STOCKHOLM) (1967).

19. Công ước quốc tế về bảo hộ các tác phẩm văn học và nghệ thuật (Công ước BERNE)

(1971).

20. Công ước toàn cầu về quyền tác giả (Công ước UCC) (1971).

21. Công ước về bảo hộ người sản xuất bản ghi âm chống việc sao chép trái phép (Công

ước GENEVA) (1971).

22. Công ước liên quan đến việc phân phối các tín hiệu mang chương trình truyền qua vệ

tinh (có hiệu lực tại Việt Nam từ ngày 12-01-2006) (Công ước BRUSSELS)

(1974).

23. Công ước quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp (Công ước Paris) (1979).

24. Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng mới (Công ước UPOV) (1991).

Page 111: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

25. Đại học Quốc gia Hà Nội (2005), Cơ chế thực thi pháp luật về bảo hộ quyền sở hữu trí

tuệ trong tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học

trọng điểm cấp quốc gia, Mã số QGTĐ.03.05, Hà Nội.

26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1995), Nghị quyết của Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01 của Bộ

Chính trị (khóa IX) về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời

gian tới, Hà Nội.

30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5 của Bộ Chính

trị (khóa IX) về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam

đến năm 2010, định hướng đến năm 2020, Hà Nội.

31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6 của Bộ Chính

trị (khóa IX) về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.

32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương (khóa

IX) ngày 10/4 về phương hướng, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm

2006 - 2010, Hà Nội.

34. Hiến pháp Việt Nam (1946, 1959, 1980, 1992) (1995), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

35. Hiệp định về các khía cạnh liên quan tới thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (Hiệp

định TRIPs) (1994).

36. Hiệp định tổng quát về thương mại và thuế quan (Hiệp định GATT) (1994).

Page 112: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

37. Hiệp định giữa Chính phủ Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ Liên

bang Thụy Sĩ về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ và hợp tác trong lĩnh vực sở hữu

trí tuệ (2000).

38. Hiệp định hợp tác khoa học về công nghệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ (2000).

39. Hiệp định giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ về

thương mại và sở hữu trí tuệ (Hiệp định BTA) (2001).

40. Hiệp hội Sở hữu trí tuệ châu á (1995), "Giới thiệu về quyền sở hữu trí tuệ", APA

NEWS, Tokyo.

41. Hiệp ước về sự công nhận quốc tế đối với việc nộp lưu chủng vi sinh nhằm tiến hành

các thủ tục về Patent (Hiệp ước BUĐAPEST) (1977).

42. Hiệp ước về sở hữu trí tuệ đối với mạch tích hợp (Hiệp ước WASHINHTON) (1989).

43. Hiệp ước của WIPO về quyền tác giả (Hiệp ước WCT) (1996).

44. Hiệp ước của WIPO về biểu diễn và bản ghi âm (Hiệp ước WPPT) (1996).

45. Hiệp ước Luật nhãn hiệu hàng hóa (Hiệp ước GENEVA) (1996).

46. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2003), Nghị quyết số 03/2003/NQ-

HĐTP ngày 18/4 hướng dẫn thi hành một số quy định của Pháp lệnh Thủ tục

giải quyết các vụ án hành chính, Hà Nội.

47. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 01/2005/NQ-

HĐTP ngày 31/3 hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất

"Những quy định chung" của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.

48. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 02/2005/NQ-

HĐTP ngày 27/4 hướng dẫn thi hành một số quy định tại Chương VIII "Các

biện pháp khẩn cấp tạm thời" của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.

49. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (2005), Nghị quyết số 04/2005/NQ-

HĐTP ngày 17/9 hướng dẫn thi hành một số quy định về "Chứng minh và chứng cứ"

của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Hà Nội.

Page 113: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

50. Nguyễn Thị Minh Nguyệt (Chủ biên) (2000), Cẩm nang pháp luật về sở hữu trí tuệ và

chuyển giao công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. Đặng Quang Phương (2005), Những vấn đề pháp lý cơ bản về hội nhập kinh tế quốc

tế, Nxb Tư pháp, Hà Nội.

52. Quốc hội (1985), Bộ luật hình sự, Hà Nội.

53. Quốc hội (1988), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

54. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

55. Quốc hội (1997), Luật thương mại, Hà Nội.

56. Quốc hội (1999), Bộ luật hình sự, Hà Nội

57. Quốc hội (2000), Luật khoa học và công nghệ, Hà Nội.

58. Quốc hội (2000), Luật hải quan, Hà Nội.

59. Quốc hội (2002), Luật tổ chức Toà án nhân dân, Hà Nội.

60. Quốc hội (2003), Bộ luật tố tụng hình sự, Hà Nội.

61. Quốc hội (2004), Bộ luật tố tụng dân sự, Hà Nội.

62. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự, Hà Nội.

63. Quốc hội (2005), Luật cạnh tranh, Hà Nội.

64. Quốc hội (2005), Luật sở hữu trí tuệ, Hà Nội.

65. Quốc hội (2005), Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo, Hà Nội.

66. Tamotsu Hozumi (2005), Cẩm nang quyền tác giả khu vực châu á, Nxb Kim Đồng, Hà

Nội.

67. Lê Xuân Thảo (1996), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế điều chỉnh pháp luật về bảo hộ

quyền sở hữu trí tuệ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, Luận án phó tiến

sĩ luật học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

68. Lê Xuân Thảo (2005), Đổi mới và hoàn thiện pháp luật về sở hữu trí tuệ, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

Page 114: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

69. Thỏa ước MADRID về Đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa (1995) và Nghị định thư

liên quan đến Thỏa ước MADRID về đăng ký quốc tế nhãn hiệu hàng hóa

(1989) (có hiệu lực ở Việt Nam từ ngày 10-7-2006).

70. Thoả ước về đăng ký quốc tế kiểu dáng công nghiệp (Thoả ước LA HAY) (1960).

71. Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) (2000), Cẩm nang Sở hữu trí tuệ.

72. Tòa án nhân dân tối cao (1989), Thông tư số 03/NCPL ngày 22/7 hướng dẫn xét xử

các tranh chấp về quyền sở hữu công nghiệp, Hà Nội.

73. Tòa án nhân dân tối cao (1999), Nâng cao vai trò và năng lực của Toà án trong việc

thực thi quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn,

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Hà Nội.

74. Tòa án nhân dân tối cao (2005), Tài liệu tập huấn về sở hữu trí tuệ cho các Thẩm

phán Việt Nam tại Tòa Trung tâm Thương mại và Sở hữu trí tuệ Thái Lan, Hà

Nội.

75. Tòa án nhân dân tối cao - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Bộ Văn hóa Thông tin

(2001), Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT- TANDTC-VKSNDTC-BVHTT

ngày 05/12 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự trong việc

giải quyết các tranh chấp liên quan đến quyền tác giả tại Tòa án nhân dân, Hà

Nội.

76. Trường Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

77. Từ điển tiếng Việt (2003), Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng.

78. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp,

Hà Nội.

79. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1989), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,

Hà Nội.

80. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1996), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành

chính, Hà Nội.

Page 115: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

81. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1994), Pháp lệnh bảo hộ quyền tác giả, Hà Nội.

82. ủy ban Thường vụ Quốc hội (1998), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp

lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1996, Hà Nội.

83. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2002), Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, Hà Nội.

84. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2004), Pháp lệnh giống cây trồng, Hà Nội.

85. ủy ban Thường vụ Quốc hội (2006), Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính năm 1998, Hà Nội.

86. Viện thống nhất tư pháp quốc tế (2004), Các nguyên tắc của Thủ tục tố tụng dân sự

xuyên quốc gia (UNIDROIT).

Tiếng Anh

87. Bryan A.Garner (1999), Blacks law dictionary, WEST GROUP.

88. Carlos M.Corrrea, Abdulqawi A. Yusuf (1988), "Intellectual property and

international trade: The TRIPs agreement/editors", Kluwer Law International.

89. Jayashree Watal (2001), "Intellectual property right in the WTO and deleloping

countries" Kluwer Law International.

trang web

90. http://www.noip.gov.vn (trang web của Cục Sở hữu trí tuệ).

91. http://www.lele.com.vn (trang web của Công ty Tư vấn luật sở hữu trí tuệ LÊ&LÊ).

Page 116: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

phụ lục

Phụ lục 1

Hệ thống tòa án tại thái lan

sơ đồ tòa iP&iT - thái lan

Toà án tối cao

Toà Phúc thẩm và các Toà phúc thẩm cấp

khu vực

Các Toà Sơ thẩm

Chánh án

Phó Chánh án

Phó Chánh án

Thư ký Toà án

Vụ Tài chính

Kế toán

Vụ Hành chính Tổng hợp

Vụ Dịch vụ và

Quan hệ công

Vụ Hỗ trợ xét xử

Bộ phận Quản lý án

Page 117: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Thẩm phán đọc cáo trạng và hỏi bị cáo

Hệ thống giải quyết các vụ án hình sự và dân sự

về quyền sở hữu trí tuệ

Quá trình tố tụng hình sự tại Toà IP&IT

Bộ phận nhận

cáo trạng

Công tố viên

đưa cáo

Bị cáo nhận tội

Xem xét chứng cứ

Phán

* Phạt tiền * Phạt tù/án treo

Kháng cáo tới Toà

Bị cáo nhận tội

Toà IP&IT Central Intellectual property &

Toà án tối cao Supreme Court

Page 118: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Quá trình tố tụng dân sự tại Toà IP&IT

Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính

Bộ phận nhận đơn

Đơn kiện

Thẩm Đình chỉ vụ Thụ lý vụ

Vào sổ & phán Triệu tập để

Không trả

Xem xét chứng cứ

Bị cáo nộp trả

Thảo luận giải quyết vấn đề

trước phiên toà

Xem xét chứng cứ

Hoà

Phán

Kháng cáo tới Toà

Nộp

Kháng cáo tới Toà án tối cao

Thành Thất bại

Văn phòng về sở hữu trí tuệ Department of Intellectual Property

Toà án tối cao

Page 119: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

một số thông tin về tòa IP&IT

Trên cơ sở Luật thành lập Toà án Sở hữu trí tuệ và Thương mại quốc tế được

Quốc hội thông qua ngày 25-12-1996, ngày 01-12-1997 Toà án Trung ương về Sở hữu trí

tuệ và Thương mại quốc tế (tiếng Anh là: "Central Intellectual Property and International

Trade Court" - viết tắt là Tòa IT&IP) đã chính thức đi vào hoạt động. Tòa IT&IP ra đời

với mục đích làm cho việc thi hành QSHTT trở nên hiệu quả hơn; thực hiện nghĩa vụ của

Thái Lan theo Hiệp định TRIPs; tạo ra một diễn đàn thuận tiện để giải quyết tranh chấp

trong thương mại quốc tế. Với mô hình cao nhất là Tòa án tối cao, bên dưới là Tòa phúc

thẩm và các Tòa phúc thẩm cấp khu vực, thấp nhất là hệ thống Tòa sơ thẩm (bao gồm các

Tòa sơ thẩm tại các tỉnh và các tòa sơ thẩm tại thủ đô Bangkok). Tòa IT&IP thuộc cấp

Tòa sơ thẩm, nằm tại thủ đô BangKok (bên cạnh các Tòa dân sự, Tòa hình sự, Tòa án vị

thành niên trung ương, Tòa án lao động trung ương, Tòa án thuế trung ương…).

Khác với các Tòa án khác, Toà án IT&IP có các Thẩm phán chuyên nghiệp về

SHTT và thương mại quốc tế. Bên cạnh việc áp dụng pháp luật như Luật nhãn hiệu

thương mại (năm 1991), Luật sáng chế (năm 1992), Luật về QTG (năm 1994)..., với sự

phê chuẩn của Chánh án Toà án tối cao đã ban hành Các nguyên tắc của Toà án IT&IP,

theo đó, Toà án IT&IP được sử dụng độc lập các quy định để bảo đảm tính hiệu quả của

Toà án. Toà án IT&IP có thẩm quyền chuyên biệt về các loại việc dân sự và hình sự và

phúc thẩm các quyết định của văn phòng về SHTT trong phạm vi toàn quốc; về những

vấn đề liên quan đến thương mại quốc tế (bao gồm: buôn bán, dịch vụ, vận chuyển; thanh

toán, chứng khóan tài chính, các vụ liên quan tới thư tín dụng, biên lai tín thác; bảo hiểm

quốc tế và những hành vi pháp lý liên quan…); về bắt giữ tàu biển; về chống bán phá giá

và trợ giá; về thi hành quyết định trọng tài về các vấn đề SHTT và thương mại quốc tế.

Toà án về thương mại quốc tế và sở hữu trí tuệ

Page 120: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Hiện nay, bằng cách tiếp tục sửa đổi pháp luật, Thái Lan đang mở rộng thẩm quyền của

Toà án đối với các vụ việc khác. Sau đây là một số thủ tục đặc biệt:

- Người có quyền có thể yêu cầu Toà án ban hành lệnh ngăn chặn theo pháp luật

về SHTT trước khi nộp đơn khiếu nại hoặc trước khi khởi tố. ("Trong trường hợp có

chứng cứ rõ ràng rằng một người thực hiện, đang thực hiện hoặc chuẩn bị thực hiện một

hành vi vi phạm QSHTT, chủ thể quyền có thể nộp đơn yêu cầu lên Toà án để ra lệnh

ngăn chặn người đó thực hiện việc vi phạm").

- Biện pháp bảo vệ tạm thời trước khi khởi kiện (là lệnh cấm tạm thời, trong đó

nghĩa vụ của người yêu cầu phải nộp tiền bảo đảm, bồi thường thiệt hại do yêu cầu áp

dụng biện pháp bảo vệ tạm thời không có căn cứ…).

- áp dụng cho việc xem xét trước chứng cứ (tịch thu hoặc kê biên tài liệu hoặc vật

dụng). Đây là lần đầu tiên trong các luật về thủ tục tố tụng tại Thái Lan có quy định loại

thủ tục tố tụng theo kiểu "Lệnh Anton-Piller". Trong trường hợp khẩn cấp, người yêu cầu

có thể đồng thời nộp một đề nghị với nội dung là Toà án có thể ra lệnh hoặc ra lệnh bảo

đảm không chậm trễ. Khi cần thiết, người yêu cầu cũng có thể yêu cầu Toà án bắt giữ

hoặc tịch thu tài liệu hoặc giấy tờ có thể được viện dẫn đến như là chứng cứ dưới bất kỳ

điều kiện nào mà Toà án thấy thích hợp.

- Hội đồng xét xử gồm ba Thẩm phán. Hai trong số này phải là các Thẩm phán

chuyên nghiệp có kiến thức về các vấn đề SHTT hoặc thương mại quốc tế. Thành viên

thứ ba là một Thẩm phán bổ trợ không chuyên (có thể là một giáo sư, quan chức chính

phủ…), nhưng có kiến thức về SHTT hoặc thương mại quốc tế. Đây là sự bảo đảm kép

cho kiến thức chuyên môn hoá.

- Sử dụng các hội nghị trước phiên toà để tạo điều kiện thuận lợi cho một phiên

toà nhanh chóng, hiệu quả và công bằng. Xét xử bằng phương pháp hội nghị (qua video

để kiểm tra nhân chứng ở ngoài Toà án, bao gồm cả ở nước ngoài; chấp nhận thông tin

lưu trong máy tính). Phiên xét xử được tiến hành liên tục, cả ngày để tránh sự chậm trễ. Khả

năng tranh tụng kín cũng được áp dụng trong những vụ án thích hợp để bảo vệ thông tin bí

mật QSHTT hoặc tránh thiệt hại trong thương mại quốc tế cho các bên…

- Sử dụng lời khai viết và lời khai có tuyên thệ cùng với các chứng cứ bằng miệng,

Page 121: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

nhanh chóng thẩm vấn và ban hành các lệnh tạm thời.

- Khả năng chỉ định các giám định viên với tư cách amicus curiae (tức là "nguời

bạn của Toà án").

- Chấp nhận kháng cáo trực tiếp lên Toà IP&IT thuộc Toà án tối cao (còn gọi là

thủ tục "nhảy cóc").

- Được sự đồng ý của các bên, các chứng cứ văn bản bằng tiếng Anh không liên

quan đến những vấn đề chính trong tranh chấp không buộc phải dịch sang tiếng Thái Lan.

- Người xâm phạm QSHTT là người chưa thành niên, thì sẽ bị xét xử tại Toà án

gia đình và vị thành niên chứ không phải tại Toà án IP & IT.

Nguồn: [74].

Page 122: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

Phụ lục 2

mô hình Tòa án và Sơ đồ thủ tục tố tụng của một số nước

1. ở Anh và Xứ Uên

- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:

- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:

Toà án về văn bằng sáng chế Patents Court hoặc Patents

Toà phúc thẩm Court of appeals

Toà án tối cao House of Lords

Văn phòng về văn bằng sáng chế

Toà án về văn bằng sáng chế Patents Court hoặc Patents

Toà phúc thẩm Court of appeals

Toà án tối cao House of Lords

Page 123: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật
Page 124: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

2. ở Đức

- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:

- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:

Toà án cấp quận District Court

Toà án cấp cao High Court

Toà án liên bang Federal Ordinary

Văn phòng về sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá

Toà án liên bang về văn bằng sáng chế

Toà án liên bang Federal Ordinary Court

Page 125: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật
Page 126: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

3. ở Mỹ

- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:

- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:

Toà án quận cấp liên bang Federal District Court

Toà phúc thẩm Court of Appeals for the

Toà án tối cao Supreme Court

Văn phòng về sáng chế và nhãn hiệu hàng hoá

Toà phúc thẩm Court of Appeals for the

Toà án tối cao Supreme Court

Toà án quận Washington DC Washington DC District

Page 127: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật
Page 128: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

4. ở Hàn Quốc

- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:

- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:

Toà án quận District Court

Toà án cấp cao High Court

Toà án tối cao Supreme Court

Văn phòng về quyền sở hữu trí tuệ

Toà án về văn bằng sáng chế Patent Court

Toà án tối cao Supreme Court

Page 129: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật
Page 130: LUẬN VĂN - i.vietnamdoc.neti.vietnamdoc.net/data/file/2015/Thang04/24/thu-tuc-bao-ve-quyen-so-huu...LUẬN VĂN: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật

5. ở Nhật Bản

- Hệ thống giải quyết các vụ việc dân sự:

- Hệ thống giải quyết các vụ việc hành chính:

Nguồn: [74].

Toà về sở hữu công nghiệp của Toà án cấp quận của Tokyo hoặc Osaka

Toà án cấp cao về sở hữu trí tuệ

Toà án tối cao Supreme Court

Văn phòng về văn bằng sáng chế Patent Office

Toà án cấp cao về sở hữu trí tuệ

Toà án tối cao Supreme Court