Upload
others
View
33
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
…………..o0o…………..
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN
QUỐC TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
1
Lời mở đầu 1. Tính cấp bách của đề tài:
Kể từ khi Pháp lệnh về Ngân hàng ra đời (năm 1990), hệ thống Ngân hàng
thương mại Việt nam đã đổi mới một cách căn bản về mô hình tổ chức và
hoạt động. Các nghiệp vụ và dịch vụ Ngân hàng thương mại hiện đại đã được
mở rộng và phát triển nhanh chóng, trong đó có nghiệp vụ Thanh toán quốc
tế.
Là một mắt xích không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
thương mại, hoạt động thanh toán quốc tế của các Ngân hàng ngày càng
chứng tỏ vị trí và vai trò quan trọng của mình. Hoạt động thanh toán quốc tế
không chỉ đơn giản là lựa chọn một phương thức thanh toán phù hợp hay sử
dụng một phương tiện thanh toán thông dụng nào đó. Yêu cầu đặt ra là hoạt
động thanh toán quốc tế phải được thực hiện nhanh chóng, an toàn, chính xác
và đạt hiệu quả đối với cả khách hàng và ngân hàng thương mại. Hoạt động
thanh toán quốc tế trực tiếp tác động vào việc rút ngắn thời gian chu chuyển
vốn, giảm thiểu rủi ro liên quan tới sự biến động tiền tệ, tới khả năng thanh
toán của khách hàng, tạo điều kiện cho việc mở rộng và phát triển hoạt động
ngoại thương của mỗi nước.
Phương thức tín dụng chứng từ là phương thức thanh toán quốc tế phổ biến
nhất. Đó là phương thức giải quyết tốt nhất việc đảm bảo quyền lợi của cả hai
bên người mua và người bán, nhưng đồng thời cũng lại là phương thức xảy ra
nhiều sự tranh chấp nhất do mức độ phức tạp của nó. Tại Việt Nam, ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam là ngân hàng đầu tiên thực hiện hoạt động thanh
toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng,
nhưng tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - một chi nhánh
2
cấp 1 hàng đầu trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cũng vẫn
không tránh khỏi nhiều hạn chế về cả số lượng và chất lượng khi áp dụng
phương thức này. Một mặt do tại bản thân ngân hàng chưa đáp ứng được
những đòi hỏi ngày càng phức tạp của thực tế giao dịch xuất nhập khẩu và sự
phát triển của nghiệp vụ, mặt khác cũng do những nguyên nhân từ phía khách
hàng và sự bất cập trong quản lý vĩ mô .
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài :“ Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc
tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch – Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam” là điều cần thiết để tìm ra những nguyên nhân cũng như
các giải pháp, kiến nghị khắc phục những hạn chế trên.
2. Mục đích nghiên cứu.
Trên cơ sở phân tích thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ qua các năm với những khó khăn, tồn tại riêng của Sở
Giao dịch, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện và phát triển hoạt động
thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam .
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ tại ngân hàng thương mại.
Phạm vi nghiên cứu: Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từ năm 2003
đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Luận văn dựa trên lý luận cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lê nin, của phép biện
chứng duy vật, đồng thời căn cứ vào đường lối chính sách phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nước ta.
Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích thông tin kinh tế theo chỉ tiêu,
phương pháp so sánh, tổng hợp,... trên cơ sở các số liệu thống kê của Sở giao
3
dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam qua các năm 2003-2005 để nghiên
cứu.
5. Kết cấu của luận văn.
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán quốc tế
của ngân hàng thương mại
Chương 2: Thực trạng áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong
thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương.
Chương 3: Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương.
CHƯƠNG 1: PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TRONG
THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA
CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại
a. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp được tổ chức, thành lập và hoạt
động dưới sự kiểm soát, quản lý, điều chỉnh của Ngân hàng Nhà nước, thực
hiện kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, với hoạt động chủ yếu và thường xuyên
là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả, sử dụng tiền gửi đó
để cho vay đầu tư và cung ứng các dịch vụ thanh toán khác nhằm thu lợi
nhuận trên cơ sở đảm bảo khả năng thanh khoản.
4
Ngân hàng thương mại là một tổ chức tài chính trung gian có vị trí quan trọng
nhất trong nền kinh tế, nó không trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất và
lưu thông hàng hóa như các doanh nghiệp thông thường khác, nhưng nó lại
tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình này được diễn ra một cách trôi chảy, liên
tục, góp phần phát triển kinh tế xã hội.
Hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thưong mại gắn với hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế. Thông qua các hoạt động của
mình, Ngân hàng thương mại thực hiện điều tiết vi mô đối với nền kinh tế
bằng cách tiếp nhận hoặc cung ứng tiền mặt cho nền kinh tế khi có nhu cầu,
đảm bảo cho nền kinh tế thường xuyên có một lượng tiền cung ứng hợp lý
đồng thời làm tăng khả năng thanh toán không dùng tiền mặt, giảm chi phí
lưu thông.
Ngày nay, hoạt động của Ngân hàng thương mại rất phong phú và đa dạng,
nền kinh tế càng hiện đại thì hoạt động của Ngân hàng thương mại càng phát
triển hơn. Bất cứ Ngân hàng thương mại nào cũng phải có đầy đủ ba nhóm
hoạt động chính: các hoạt động huy động vốn, các hoạt động sử dụng vốn và
các hoạt động trung gian thanh toán. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu ngày càng
phức tạp của khách hàng, các Ngân hàng thương mại còn có một số hoạt động
và dịch vụ khác nữa.
+ Các hoạt động huy động vốn.
Do kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên ngân hàng trước hết phải có vốn.
Khi mới thành lập, ngân hàng phải có một lượng vốn ban đầu tối thiểu bằng
vốn pháp định. Lượng vốn chủ sở hữu này hàng năm được bổ sung bằng lợi
nhuận giữ lại. Tuy nhiên trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thì lượng vốn
này ngày càng chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Để đáp ứng nhu cầu hoạt động của mình,
ngân hàng phải huy động thêm từ các nguồn sau:
Một là: Nhận tiền gửi.
5
Đây là hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại mà các tổ chức tài chính
phi ngân hàng không được thực hiện. “Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ
chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng dưới các hình thức tiền gửi không kỳ
hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác”.1
Hai là: Phát hành giấy tờ có giá.
Các giấy tờ này có thể là các trái phiếu của ngân hàng, các giấy chứng chỉ tiền
gửi với mệnh giá lớn (CDs)... Thông thường việc phát hành các trái phiếu, tín
phiếu phục vụ cho một mục đích sử dụng nhất định, ví dụ như đầu tư cho một
dự án hay một công trình.
Ba là: Vay vốn từ các tổ chức tín dụng khác.
Ngân hàng thương mại có thể đi vay các tổ chức tín dụng khác để đáp ứng
nhu cầu thanh khoản của mình. Họ có thể vay qua thị trường liên ngân hàng
hay bằng hình thức vay thương mại.
Bốn là: Vay vốn của Ngân hàng Nhà nước.
Cũng giống như trường hợp đi vay các tổ chức tín dụng khác, Ngân hàng
thương mại cũng chỉ vay Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh
khoản, để giải quyết những vấn đề cấp bách nảy sinh trong hoạt động ngân
hàng chứ không phải đi vay để cho vay. Vì vậy có thể nói “Ngân hàng Nhà
nước là cứu cánh của Ngân hàng thương mại”. Ngân hàng thương mại vay
Ngân hàng Nhà nước bằng cách chiết khấu hay tái chiết khấu thương phiếu,
quy mô vay bị tác động bởi lãi suất chiết khấu và lãi suất chiết khấu cao hay
thấp lại phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà Ngân hàng Nhà nước đang áp
dụng là thắt chặt hay nới lỏng.
Trên đây là các hình thức huy động vốn của Ngân hàng thương mại. Nếu như
các hoạt động huy động vốn làm ngân hàng phải mất chi phí thì các hoạt động
sử dụng vốn sau đây sẽ đem lại doanh thu cho Ngân hàng.
1 Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX
6
+ Các hoạt động sử dụng vốn.
Ngân hàng có các hình thức sử dụng vốn sau:
Một là: hoạt động ngân quỹ.
Hoạt động ngân quỹ là hoạt động liên quan đến chi trả hàng ngày cho khách
hàng. Ngân hàng luôn phải giữ lại một khoản tiền nhất định (gọi là tiền tại
quỹ) để chi trả, và ngân hàng cũng có thể thanh toán với khách hàng bằng tiền
gửi ở Ngân hàng Nhà nước là tiền dự trữ bắt buộc hay tiền gửi thanh toán.
Các khoản này kém sinh lời nhất, thậm chí không sinh lời, chỉ nhằm đáp ứng
tính thanh khoản mà thôi.
Hai là: hoạt động tín dụng.
Đây là một nghiệp vụ quan trọng của Ngân hàng thương mại. Hầu hết vốn của
ngân hàng đều được sử dụng vào hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng
ngoài hình thức cho vay còn có các hình thức khác như bảo lãnh hay chiết
khấu.
Ba là: hoạt động đầu tư.
Trong trường hợp cho vay không hết, ngân hàng có thể chủ động tìm nơi đầu
tư để thu lợi nhuận đồng thời giúp phân tán rủi ro. Ngân hàng có thể đầu tư
trực tiếp vào kinh doanh như đầu tư xây dựng dự án hoặc công trình. Ngoài ra
ngân hàng cũng có thể đầu tư gián tiếp thông qua thị trường chứng khoán
bằng cách mua tín phiếu, trái phiếu hay cổ phiếu của các công ty.
Trong ba hoạt động trên, hoạt động cho vay có độ rủi ro cao nhất nhưng lại là
nguồn thu nhập lớn của ngân hàng, còn hoạt động ngân quỹ an toàn nhất
nhưng hầu như không sinh lời. Vì vậy để vừa đảm bảo tính sinh lời lại vừa
đảm bảo tính thanh khoản, ngân hàng phải kết hợp ba hoạt động sử dụng vốn
trên một cách hợp lý.
+ Hoạt động trung gian thanh toán.
7
Đây là nghiệp vụ đặc trưng của Ngân hàng thương mại so với các trung gian
tài chính khác. Các trung gian tài chính khác như công ty tài chính, công ty
bảo hiểm… vẫn có thể cho vay, đầu tư hay nhận tiền gửi có kỳ hạn trên một
năm (có giới hạn về đối tượng) nhưng dịch vụ thanh toán thì chỉ có Ngân
hàng thương mại mới được thực hiện. “Ngân hàng được tổ chức hệ thống
thanh toán nội bộ và tham gia hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước.
Việc tham gia các hệ thống thanh toán quốc tế phải được Ngân hàng Nhà
nước cho phép”2
Ngân hàng thương mại làm theo lệnh của chủ tài khoản như tính tiền trên tài
khoản của người mua, chuyển sang tài khoản của người bán để thanh toán tiền
hàng hóa dịch vụ cho khách hàng. Ngân hàng còn cung cấp cho khách hàng
một hệ thống công cụ thanh toán thuận lợi như séc, ủy nhiệm thu, ủy nhiệm
chi, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… giúp cho khách hàng thuận tiện hơn rất
nhiều trong thanh toán, tiết kiệm được thời gian và chi phí, đồng thời đảm bảo
việc thanh toán được an toàn.
Bên cạnh thanh toán trong phạm vi quốc gia, việc thực hiện hoạt động thanh
toán quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong điều kiện nền kinh tế ngày
càng có xu thế mở cửa hội nhập, quá trình trao đổi lưu thông hàng hóa giữa
các đối tác ở các nước khác nhau ngày càng nhiều. Trong hoạt động xuất nhập
khẩu, ngoài việc hỗ trợ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp, ngân hàng còn
đứng ra làm trung gian thanh toán cho các doanh nghiệp. Việc thanh toán giữa
hai bên được thực hiện qua hệ thống ngân hàng bằng các phương thức được
thỏa thuận thuận tiện nhất cho khách hàng, đảm bảo quyền lợi của cả hai bên
xuất nhập khẩu, góp phần mở rộng quan hệ ngoại thương giữa các nước.
2 Luật các tổ chức tín dụng số 07/1997/QHX
8
Trên đây là ba hoạt động không thể thiếu của bất cứ một Ngân hàng thương
mại nào. Ngoài ra, để tăng tính cạnh tranh, Ngân hàng thương mại còn có một
số hoạt động khác.
+ Các hoạt động khác.
Hầu hết các Ngân hàng thương mại hiện nay đều thực hiện nghiệp vụ liên
quan tới chứng khoán như môi giới, tư vấn đầu tư, tự doanh, bảo lãnh cam kết
phát hành chứng khoán, lưu trữ, thanh toán chứng khoán… Ngoài ra, theo
Luật các tổ chức tín dụng, Ngân hàng thương mại còn được thực hiện một số
hoạt động như góp vốn mua cổ phần, cho thuê tài chính, kinh doanh ngoại
hối, vàng và các giấy tờ có giá, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực
liên quan đến hoạt động ngân hàng, cung cấp các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn,
bảo quản…
Các hoạt động của Ngân hàng thương mại có quan hệ bổ sung hỗ trợ lẫn
nhau, trong đó hoạt động huy động vốn là cơ sở để thực hiện hoạt động sử
dụng vốn. Hoạt động sử dụng vốn làm tăng khả năng sinh lời của Ngân hàng
thương mại. Trên cơ sở những hoạt động sử dụng vốn (như hoạt động tín
dụng), Ngân hàng thương mại có thể thực hiện được các hoạt động trung gian
thanh toán và tới lượt nó, hoạt động trung gian thanh toán sẽ làm tăng nguồn
vốn và mở rộng việc sử dụng vốn vì hoạt động trung gian thanh toán có thể
coi vừa là hoạt động huy động vốn vừa là hoạt động sử dụng vốn.
Trên đây là khái quát toàn bộ các hoạt động của một Ngân hàng thương mại.
Theo đối tượng và giới hạn được nghiên cứu trong luận văn này, hoạt động
thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại sẽ được đi sau hơn.
b. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế là việc chi trả các nghĩa vụ và các yêu cầu về tiền tệ phát
sinh từ các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức
kinh tế quốc tế, giữa các doanh nghiệp, các cá nhân của các quốc gia khác
9
nhau để kết thúc một chu trình hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại
bằng các hình thức chuyển tiền hay bù trừ trên tài khoản tại các ngân hàng.
Hay nói cách khác, thanh toán quốc tế là việc phản ánh sự vận động có tính
độc lập tương đối của giá trị trong quá trình chu chuyển tư bản và hàng hoá
giữa các quốc gia khác nhau, do không cân bằng giữa sản xuất và tiêu thụ của
các bên tại một thời điểm nhất định.
Khác với thanh toán trong phạm vi một nước, thanh toán quốc tế thường gắn
với việc trao đổi giữa đồng tiền của nước này sang đồng tiền của nước khác.
Đồng tiền nội địa với chức năng là phương tiện lưu thông, phương tiện thanh
toán trong phạm vi một quốc gia sẽ không vượt ra khỏi giới hạn của nó được
nếu như hai bên liên quan trong hợp đồng không có sự thoả thuận với nhau.
Bởi vì khi ký kết hợp đồng thương mại, tín dụng... các bên phải đàm phán
thống nhất đồng tiền nào được sử dụng để thanh toán giao dịch, nó có thể là
đồng tiền của nước người mua, tiền của nước người bán hoặc một đồng tiền
của một nước nào đó được chọn để giao dịch thanh toán.
Các đồng tiền được sử dụng trong thanh toán quốc tế thường là các loại ngoại
tệ mạnh có khả năng tự do chuyển đổi như đồng USD, đồng EUR, đồng GBP,
đồng FRF, đồng JPY, đồng DEM. Trong đó đồng USD và EUR vẫn giữ vai
trò chủ đạo trong thanh toán quốc tế bởi sự nhanh chóng và tiện lợi trong việc
thực hiện các giao dịch này.
Thanh toán quốc tế chủ yếu là thanh toán qua chứng từ, tách rời với sự di
chuyển của hàng hoá từ nước người bán đến nước người mua. Thanh toán
quốc tế có quan hệ trực tiếp đến cả bên mua lẫn bên bán. Nếu công tác thanh
toán quốc tế được làm tốt sẽ góp phần thúc đẩy hoạt động ngoại thương phát
triển, ngược lại sẽ kìm hãm sự phát triển của hoạt động ngoại thương.
Hiện nay phần lớn việc chi trả trong thanh toán quốc tế được thực hiện thông
qua hệ thống SWIFT (Hiệp hội viễn thông tài chính liên ngân hàng toàn cầu).
10
Theo thống kê của tổ chức này thì có tới 72% các giao dịch tài chính tiền tệ
quốc tế hàng ngày được thực hiện qua SWIFT. Phần còn lại được thực hiện
thông qua con đường điện tín, bưu điện dưới hình thức uỷ nhiệm thu, chi hộ
lẫn nhau giữa các ngân hàng. Tỉ lệ trả bằng tiền mặt trong thanh toán quốc tế
chiếm một phần không đáng kể.
Xuất phát từ nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển kinh tế, các doanh nghiệp
luôn luôn có xu hướng mở rộng thị trường của mình ra bên ngoài, từ đó hình
thành các quan hệ kinh tế đối ngoại giữa các nước khác nhau. Mỗi nước có sự
khác nhau về chế độ chính trị, môi trường pháp luật, phong tục tập quán cũng
như khoảng cách địa lý, bên cạnh đó còn có những bất đồng về ngôn ngữ,
tiềm lực tài chính của các đối tác và hệ thống tiền tệ khác nhau khiến cho
quan hệ mua bán thanh toán giữa các nước rất phức tạp và thường xuyên xảy
ra rủi ro bất trắc. Để giải quyết những vướng mắc này cần có một trung gian
tài chính đứng ra đảm bảo quyền lợi cho cả hai bên và Ngân hàng thương mại
với hoạt động thanh toán quốc tế của mình đã đáp ứng được đòi hỏi đó. Hoạt
động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại là một mắt xích không
thể thiếu được trong toàn bộ dây chuyền thực hiện một hợp đồng ngoại
thương. Thực hiện tốt vai trò trung gian thanh toán của mình trong hoạt động
thanh toán quốc tế, Ngân hàng thương mại đã đóng góp rất nhiều cho khách
hàng, cho nền kinh tế cũng như cho chính bản thân Ngân hàng thương mại.
+ Đối với khách hàng:
Vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân
hàng thương mại giúp cho quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng
được tiến hành nhanh chóng, chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa
chi phí.
Tham gia hoạt động thanh toán quốc tế, quyền lợi của khách hàng được đảm
bảo hơn, do khách hàng được ngân hàng tư vấn để lựa chọn các phương thức
11
thanh toán, kỹ thuật thanh toán cũng như đồng tiền thanh toán nhằm giảm
thiểu rủi ro, tạo ra sự an tâm cho khách hàng trong giao dịch mua bán với
nước ngoài.
Trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, nếu khách hàng không đủ khả
năng tài chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng sẽ cho vay để
thanh toán hàng nhập bằng cách bảo lãnh mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất
khẩu, đáp ứng nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Qua việc
thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng có thể giám sát được tình hình kinh
doanh của doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có những tư vấn cho khách hàng
và những điều chỉnh về chiến lược khách hàng.
+ Đối với nền kinh tế.
Thanh toán quốc tế là chiếc cầu nối liền giữa các quốc gia trong hoạt động
kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động ngoại
thương phát triển, đẩy mạnh quá trình sản xuất lưu thông hàng hoá, tăng
nhanh tốc độ chu chuyển của vốn, góp phần phát triển kinh tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế làm tăng khối lượng thanh toán không dùng tiền
mặt trong nền kinh tế, giảm bớt các chi phí trung gian, đồng thời hoạt động
thanh toán quốc tế đã thu hút một lượng ngoại tệ đáng kể vào Việt Nam bằng
các nghiệp vụ kiều hối, chuyển tiền đến và L/C xuất khẩu.
+ Đối với bản thân Ngân hàng thương mại.
Thanh toán quốc tế giúp ngân hàng thương mại đẩy mạnh hoạt động tín dụng
tài trợ xuất nhập khẩu, phát triển các nghiệp vụ liên quan như kinh doanh
ngoại tệ, bảo lãnh và các dịch vụ khác.
Thanh toán quốc tế đem lại khoản thu phí dịch vụ quan trọng: hoạt động
thanh toán quốc tế giúp cho ngân hàng thu hút thêm khách hàng về giao dịch,
từ đó tăng quy mô hoạt động và thị phần của mình trên thị trường.
12
Thanh toán quốc tế làm tăng tính thanh khoản của ngân hàng: trong quá trình
thực hiện các giao dịch thanh toán quốc tế cho khách hàng, ngân hàng thương
mại luôn có một nguồn tiền tập trung chờ thanh toán. Nguồn tiền này tương
đối ổn định và phát sinh thường xuyên, là một nguồn nâng cao khả năng
thanh khoản cho ngân hàng.
Thực hiện thanh toán quốc tế, ngân hàng thương mại có thể tạo ra được vòng
tròn dịch vụ khép kín, từ đó đảm bảo các nghiệp vụ ngân hàng có liên quan
đến nhau như tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ
được giám sát, theo dõi kỹ lưỡng bởi nhiều phòng ban khác nhau, hạn chế rủi
ro. Bên cạnh đó, Ngân hàng còn nắm được tình hình kinh doanh của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thực hiện quản lý có hiệu quả
hoạt động xuất nhập khẩu trong nước theo đúng chính sách kinh tế đối ngoại
mà Nhà nước đề ra.
Thanh toán quốc tế làm tăng cường quan hệ đối ngoại: thông qua việc bảo
lãnh cho khách hàng trong nước, thanh toán cho ngân hàng nước ngoài, ngân
hàng thương mại sẽ có quan hệ đại lý với ngân hàng và đối tác nước ngoài.
Mối quan hệ này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động
nghiệp vụ càng lâu, mối quan hệ ngày càng rộng mở.
Tóm lại, có thể khẳng định, hoạt động thanh toán quốc tế là một hoạt động
trung gian của Ngân hàng thương mại, có tác dụng mang lại thu nhập, hỗ trợ
các hoạt động khác của Ngân hàng thương mại, giúp cho quá trình thanh toán
của khách hàng được nhanh chóng, đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ hơn
khi nghiên cứu đến các phương thức thanh toán quốc tế.
1.1.2 Các phương thức thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại
a. Phương thức chuyển tiền
Phương thức chuyển tiền là một phương thức thanh toán trong đó khách hàng (người trả tiền, người mua, người nhập khẩu...) yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho người hưởng lợi (người bán,
13
người xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ...) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do khách hàng yêu cầu. Các bên tham gia:
Người trả tiền hay người chuyển tiền (người mua, người mắc nợ, người đầu tư, người chuyển kinh phí ra ngoài nước, kiều bào chuyển tiền về nước...): Là người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài.
Người hưởng lợi (người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư...) hoặc là người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
Ngân hàng chuyển tiền: Là ngân hàng thực hiện lệnh của người yêu cầu chuyển tiền, thường là ngân hàng ở nước người chuyển tiền.
Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền: Thường là ngân hàng ở nước người hưởng lợi.
Chi phí chuyển tiền do người chuyển tiền hoặc người trả tiền thanh toán. Ngân hàng chuyển tiền được hưởng các chi phí đó. Tiền chuyển có thể là đồng tiền của nước trả tiền, hoặc người hưởng lợi, hoặc một nước thứ ba.
* Trình tự tiến hành nghiệp vụ:
(1) Giao dịch thương mại (2) Viết đơn yêu cầu chuyển tiền (bằng thư hoặc bằng điện) cùng với
ủy nhiệm chi (nếu có tài khoản mở tại ngân hàng ) (3) Chuyển tiền ra nước ngoài qua ngân hàng. (4) Ngân hàng chuyển tiền cho người hưởng lợi
Ưu nhược điểm của phương thức này: - Ưu điểm: Thủ tục hết sức đơn giản, không có chứng từ phức tạp, rườm
rà, người mua và người bán không phải tiến hành thanh toán trực tiếp với nhau.
- Nhược điểm: Độ an toàn trong thanh toán không cao, không đảm bảo quyền lợi cho người bán, hàng đã chuyển nhưng việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua. Trong trường hợp người mua chuyển tiền trước khi giao hàng mà vì một lý do nào đấy, việc giao hàng của người bán chậm trễ, hoặc không đúng theo yêu cầu thì người mua sẽ ứ đọng vốn. Vì vậy, phương thức này chủ yếu áp dụng để thanh toán phi mậu dịch, các chi phí liên quan đến trả nợ, bồi thường, còn nếu áp dụng trong
NH chuyển tiền NH đại lý
Người chuyển tiền Người hưởng lợi
14
thanh toán xuất nhập khẩu thì chủ yếu đối với khách hàng quen biết, có tín nhiệm cao.
b. Phương thức nhờ thu
Phương thức nhờ thu là một phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng hay cung ứng dịch vụ cho khách hàng sẽ ủy thác cho ngân hàng của mình thu hộ số tiền ở người mua trên cơ sở hối phiếu của người bán lập ra. Các bên tham gia phương thức nhờ thu gồm có:
- Người bán tức là người hưởng lợi (Principal) - Ngân hàng bên bán là ngân hàng nhận sự uỷ thác của người bán
(Remitting Bank) - Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán là ngân hàng ở nước người
mua. (Collecting Bank and/or Presenting Bank). - Người mua tức là người trả tiền (Drawee)
Có hai loại nhờ thu là nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ. Một là: Nhờ thu phiếu trơn (Clean Collection). Nhờ thu phiếu trơn là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra còn chứng từ gửi hàng sẽ đưọc gửi thẳng cho người mua không qua ngân hàng. Trong phương thức này, ngân hàng chỉ đóng vai trò trung gian làm dịch vụ thu hộ tiền người mua, còn trách nhiệm trả tiền hay không là do người mua quyết định.
Các bên tham gia: + Người bán, người hưởng lợi: Là người ủy nhiệm cho ngân hàng thu
tiền người mua. + Người mua, người trả tiền: Là người có trách nhiệm thanh toán tiền
hàng mua của người bán khi ngân hàng đến yêu cầu đòi thanh toán. + Ngân hàng nhờ thu: Là ngân hàng thu tiền từ người mua, thường là
ngân hàng phục vụ bên mua đồng thời là ngân hàng đại lý của ngân hàng người bán.
Trình tự tiến hành:
NH Bên bán NH đại lý
Người bán Người mua gửi hàng và chứng từ
15
(1) Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, lập một hối phiếu đòi tiền người mua và ủy thác cho ngân hàng của mình đòi tiền hộ bằng chỉ thị nhờ thu.
(2) Ngân hàng phục vụ bên bán gửi thư ủy thác nhờ thu kèm hối phiếu cho ngân hàng đại lý của mình tại nước người mua nhờ thu tiền.
(3) Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu là trả tiền ngay) hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (nếu mua chịu).
(4) Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán, nếu chỉ là chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng sẽ giữ hối phiếu hoặc gửi lại cho người bán. Khi đến hạn thanh toán thì ngân hàng sẽ đòi tiền của người mua và thực hiện việc chuyển tiền như trên.
Ưu nhược điểm của phương pháp này: Phương pháp nhờ thu không kèm chứng từ tuy có ưu điểm là thanh toán tương đối nhanh, thực hiện đơn giản nhưng có nhược điểm là không đảm bảo quyền lợi cho người bán vì việc nhận hàng của người mua hoàn toàn tách rời khỏi khâu thanh toán, do đó người mua có thể nhận hàng mà không trả tiền hay trả tiền chậm. Đối với người mua áp dụng phương thức này cũng có bất lợi vì nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ thì người mua phải trả tiền ngay trong khi không biết việc giao hàng của người bán có đúng theo hợp đồng hay không. Như vậy, với phương pháp này, tính an toàn đối với cả người xuất khẩu và nhập khẩu đều thấp, tốc độ thanh toán chậm. Do vậy, nó ít được sự dụng trong thanh toán quốc tế, có chăng chỉ là thanh toán các chi phí vận tải, bảo hiểm, hoa hồng, lợi tức... hoặc khi hai bên mua và bán tin cậy lẫn nhau hoặc hai bên cùng nội bộ công ty với nhau (công ty mẹ và công ty con). Hai là: Nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection) Nhờ thu kèm chứng từ là phương thức trong đó người bán ủy thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ vào bộ chứng từ gửi hàng gửi kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hối phiếu thì ngân hàng mới trao bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng Trong phương thức này, điểm khác biệt cơ bản với nhờ thu phiếu trơn là người xuất khẩu uỷ thác cho ngân hàng ngoài việc thu hộ tiền còn khống chế bộ chứng từ hàng hoá đối với người nhập khẩu. Với cách khống chế chứng từ này, quyền lợi của người bán sẽ được đảm bảo hơn.
Trình tự tiến hành:
NH bên Bán NH bên Mua
Người Mua
16
Trình tự tiến hành nghiệp vụ nhờ thu kèm chứng từ cũng giống như nhờ thu phiếu trơn, chỉ khác ở khâu (1) là lập một bộ chứng từ nhờ ngân hàng thu hộ tiền. Bộ chứng từ gồm có hối phiếu và các chứng từ gửi hàng kèm theo, ở khâu (3) là ngân hàng đại lý chỉ trao chứng từ gửi hàng cho người mua nếu như người mua trả tiền hay chấp nhận trả tiền hối phiếu. Tuỳ theo thời hạn trả tiền, ta chia phương thức này thành hai loại: Nhờ thu trả tiền đổi chứng từ ( Documents Against Payment - D/P):
Được sử dụng trong trường hợp mua bán trả tiền ngay. Nhờ thu chấp nhận đổi chứng từ (Documents Against Acceptance -
D/A): Áp dụng trong trường hợp nhờ thu trả sau. So với hình thức nhờ thu phiếu trơn, phương thức D/A và D/P đảm bảo hơn vì ngân hàng thay mặt người bán khống chế chứng từ. Tuy nhiên, hai phương thức này còn có những hạn chế như: Đối với D/P thì người nhập khẩu phải trả tiền khi nhận được bộ chứng từ hàng hoá mà không được kiểm tra hàng hoá trước. Vì vậy, người mua gặp rủi ro trong trường hợp hàng hoá không giao đúng như mô tả chứng từ hoặc không đúng trong hợp đồng. Còn về phía nhà xuất khẩu thì phải rất tin tưởng vào khả năng và thiện chí thanh toán của bạn hàng nước ngoài vì các ngân hàng tham gia hoàn toàn không chịu trách nhiệm thanh toán. Nếu người mua từ chối bộ chứng từ thì người xuất khẩu phải chịu hết tất cả chi phí chuyên chở hàng hoá và cả mọi rủi ro trên đường vận chuyển . Đối với D/A thì người xuất khẩu chịu rủi ro nhiều hơn so với nhờ thu D/P vì khi đến hạn trả tiền của hối phiếu, người mua có thể không trả tiền vì một lý do nào đó trong khi đã nhận hàng. Thời gian thanh toán bị kéo dài do phải phụ thuộc vào thời gian chứng từ luân chuyển từ ngân hàng bên xuất khẩu đến ngân hàng bên nhập khẩu nên người xuất khẩu phải mất khá lâu mới thu được tiền còn người nhập khẩu thì có lợi hơn. Tóm lại, với phương thức này, việc ngân hàng khống chế các chứng từ hàng hoá khiến cho quyền lợi của người xuất khẩu cũng được bảo đảm hơn phương thức nhờ thu phiếu trơn và chuyển tiền, thời gian thanh toán thì ngắn hơn và chi phí ít hơn so với phương thức thanh toán bằng thư tín dụng. Do vậy, phương thức này được sử dụng trong phương thức xuất nhập khẩu với những hợp đồng có giá trị nhỏ và thanh toán dịch vụ đối với các khách hàng quen và tin cậy. c. Phương thức tín dụng chứng từ (L/C)
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận trong đó một ngân hàng
(ngân hàng mở thư tín dụng) theo yêu cầu của khách hàng (người yêu cầu mở
Người Bán gửi hàng
17
thư tín dụng) sẽ trả một số tiền nhất định cho một người khác (người hưởng
lợi của thư tín dụng) hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký phát trong
phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ
phù hợp với những quy định đề ra trong thư tín dụng. Một công cụ vô cùng
quan trọng không thể thiếu được trong phương thức tín dụng chứng từ là thư
tín dụng, nếu không mở được thư tín dụng thì phương thức thanh toán này
cũng không được xác lập.
Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C) là một bản cam kết dùng trong thanh
toán, trong đó một ngân hàng (ngân hàng phục vụ người nhập khẩu) theo yêu
cầu của người nhập khẩu tiến hành mở và chuyển đến cho ngân hàng ở nước
ngoài (ngân hàng phục vụ người xuất khẩu) một L/C cho người hưởng (người
xuất khẩu), cam kết sẽ thanh toán một số tiền nhất định trong phạm vi thời
hạn quy định, với điều kiện người hưởng phải xuất trình đầy đủ các chứng từ
phù hợp với những nội dung, điều kiện quy định như trong Thư tín dụng.
Trên đây là những nội dung cơ bản về các phương thức thanh toán quốc tế
hiện nay. Việc lựa chọn phương thức thanh toán nào là do hai bên xuất nhập
khẩu quyết định dựa trên các điều kiện cụ thể nhằm thoả mãn quyền lợi của
cả hai phía. Tuy nhiên, phương thức tín dụng chứng từ vẫn chiếm ưu thế, là
một phương thức thanh toán chủ yếu. Điều này sẽ được khẳng định khi đi sâu
nghiên cứu về phương thức này ở phần tiếp theo.
1.2 TÍN DỤNG CHỨNG TỪ - PHƯƠNG THỨC CHỦ YẾU TRONG
THANH TOÁN QUỐC TẾ CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.2.1 Cơ sở hình thành thư tín dụng
Ngày nay, việc mở rộng nền kinh tế và đa dạng hóa các mối quan hệ kinh tế
quốc tế đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương phát triển tại
các quốc gia. Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển xóa bỏ dần hàng
rào buôn bán giữa các quốc gia. Các giao dịch thương mại không chỉ diễn ra
18
giữa những khách hàng quen biết, có tín nhiệm cao. Trong khi người bán luôn
ngần ngại khi chuyển giao hàng hóa của họ trước khi nhận được tiền, còn
người mua lại muốn nắm được hàng hóa trước khi trả tiền thì phương thức
nhờ thu và chuyển tiền rõ ràng đã bộc lộ những hạn chế của nó. Vì rất khó có
thể làm cho việc trao đổi tiền và hàng được tiến hành đồng thời nên trên thực
tế các bên thường thỏa thuận với nhau một biện pháp thỏa hiệp: trả tiền khi
giao hàng tượng trưng, tức là giao chứng từ chuyển quyền sở hữu hay quyền
kiểm soát hàng hóa. Trên cơ sở đó phương thức tín dụng chứng từ ra đời và
nhanh chóng trở thành phương thức được sử dụng rộng rãi và phổ biến nhất
trong thanh toán xuất nhập khẩu. Trong phương thức này, các ngân hàng
không chỉ đóng vai trò là trung gian thu hộ mà được yêu cầu tham gia bằng
cách cam kết chắc chắn sẽ trả tiền cho người bán khi họ xuất trình đầy đủ bộ
chứng từ phù hợp với nội dung của thư tín dụng.
Các bên tham gia cơ bản trong phương thức tín dụng chứng từ gồm có:
- Người xin mở thư tín dụng là người mua, người nhập khẩu hàng hoá
hoặc là người mua ủy thác cho một người khác.
- Ngân hàng mở thư tín dụng là ngân hàng đại diện cho người nhập
khẩu, nó cấp tín dụng cho người nhập khẩu
- Người hưởng lợi thư tín dụng là người bán, người xuất khẩu hay bất
cứ người nào khác mà người hưởng lợi chỉ định.
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng là ngân hàng ở nước người hưởng
lợi.
1.2.2 Các hình thức thư tín dụng chủ yếu
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ có ưu việt hơn hẳn những phương
thức thanh toán quốc tế khác. Tuy vậy, hiệu quả của phương thức này sẽ được
thể hiện đầy đủ hơn khi ta biết lựa chọn loại Thư tín dụng phù hợp với yêu
19
cầu của từng tình huống cụ thể trong mối quan hệ thương mại quốc tế nảy
sinh giữa các bên.
Theo quy ước quốc tế, Thư tín dụng bao gồm nhiều loại. Có thể phân biệt
chúng dưới các giác độ khác nhau dưới đây:
Căn cứ vào tính chất: có các loại Thư tín dụng sau:
- Thư tín dụng có thể huỷ ngang (Revocable L/C): là thư tín dụng mà sau khi
L/C được mở thì người nhập khẩu có thể yêu cầu ngân hàng sửa đổi, bổ sung
hoặc huỷ bỏ bất cứ lúc nào mà không cần có sự đồng ý của người hưởng lợi
L/C.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang (Irrevocable L/C): là loại Thư tín dụng
mà sau khi được mở thì người yêu cầu mở Thư tín dụng sẽ không được tự ý
sửa đổi, bổ sung hay huỷ bỏ những nội dung của nó nếu không được sự đồng
ý của người hưởng Thư tín dụng . Để đảm bảo được tính chất và tác dụng của
Thư tín dụng , ngày nay hầu hết Thư tín dụng được mở theo hình thức không
huỷ ngang.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có xác nhận (Irrevocable confirmed
L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ ngang được một ngân hàng thứ ba
đứng ra đảm bảo thanh toán bên cạnh ngân hàng phát hành Thư tín dụng. Loại
Thư tín dụng này thường được dùng khi hai bên mua-bán chưa có quan hệ tín
nhiệm nhau, người bán chưa tin tưởng vào uy tín của người mua cũng như
chưa tin tưởng vào uy tín của ngân hàng phát hanh.
- Thư tín dụng không thể huỷ ngang có thể chuyển nhượng (irrevocable
transferable L/C): là loại Thư tín dụng không huỷ ngang trong đó quy định
quyền của người hưởng lợi thứ nhất có thể yêu cầu ngân hàng mở Thư tín
dụng hay ngân hàng chuyển nhượng Thư tín dụng do ngân hàng mở Thư tín
dụng uỷ quyền chuyển nhượng toàn bộ hay một phần quyền thực hiện Thư tín
dụng cho một hay nhiều người khác. Thư tín dụng chỉ được phép chuyển
20
nhượng một lần. Thư tín dụng chuyển nhượng thường được sử dụng trong
mua bán hàng hoá tay ba, khi người hưởng lợi thứ nhất là đại lý của người
bán cuối cùng. Tuy nhiên loại Thư tín dụng này cũng ít được sử dụng vì chứa
đựng nhiều rủi ro cho người mở Thư tín dụng cũng như người được chuyển
nhượng do không có sự hiểu biết lẫn nhau.
Căn cứ vào thời hạn thanh toán:
- Thư tín dụng trả ngay (L/C at sight): là loại Thư tín dụng trong đó người
xuất khẩu sẽ được thanh toán ngay khi xuất trình các chứng từ phù hợp với
điều khoản quy định trong Thư tín dụng tại ngân hàng chỉ thị thanh toán.
Trong trường hợp này người xuất khẩu sẽ ký phát hối phiếu trả ngay để yêu
cầu thanh toán.
- Thư tín dụng trả chậm (Deferred payment L/C): loại Thư tín dụng này quy
định việc thanh toán sẽ được tiến hành vào một thời điểm xác định trong
tương lai. Khi chỉ định một ngân hàng thanh toán trả chậm, ngân hàng phát
hành cho phép ngân hàng đó thực hiện thanh toán bộ chứng từ được xuất trình
phù hợp với quy định trong Thư tín dụng vào một thời điểm xác định trong
tương lai đã nêu trong Thư tín dụng. Đồng thời, ngân hàng phát hành cũng
cam kết bồi hoàn cho ngân hàng thanh toán đúng thời hạn.
Một số hình thức Thư tín dụng đặc biệt.
- Thư tín dụng giáp lưng (Back to back L/C): là loại Thư tín dụng do người
xuất khẩu yêu cầu ngân hàng phục vụ mình mở một Thư tín dụng khác cho
người khác hưởng căn cứ vào một Thư tín dụng đã được mở trước đó làm
đảm bảo. Nội dung của hai Thư tín dụng là gần giống nhau, tuy nhiên nó lại
hoàn toàn độc lập với nhau. Nghiệp vụ Thư tín dụng giáp lưng rất phức tạp,
đòi hỏi phải có sự kết hợp khéo léo và chính xác các điều kiện của Thư tín
dụng gốc và Thư tín dụng giáp lưng. Loại Thư tín dụng này thường được sử
21
dụng trong mua bán hàng hoá qua trung gian, khi người bán cuối cùng hoặc
người mua không chấp nhận một Thư tín dụng chuyển nhượng.
- Thư tín dụng đối ứng (Reciprocal L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ
ngang chỉ có hiệu lực khi có một Thư tín dụng đối ứng với nó cũng được mở.
Loại Thư tín dụng thường được sử dụng khi hai bên mua bán có quan hệ mua
bán hàng đổi hàng hoặc gia công hàng hoá.
- Thư tín dụng tuần hoàn (Revolving L/C): là loại Thư tín dụng không thể huỷ
ngang, sau khi sử dụng xong hoặc đã hết hiệu lực thì nó lại tự động có giá trị
như cũ và cứ như vậy nó tuần hoàn cho đến khi nào tổng giá trị được thực
hiện hoàn tất. Thư tín dụng tuần hoàn thường được sử dụng khi các bên tin
cậy lẫn nhau, mua hàng thường xuyên theo định kỳ.
- Thư tín dụng điều khoản đỏ (Red clause L/C): là loại Thư tín dụng có điều
khoản đặc biệt, trong đó người hưởng Thư tín dụng thông qua ngân hàng phát
hành đồng ý ứng trước một số tiền nhất định cho người hưởng trước khi họ
xuất trình đầy đủ chứng từ hợp lệ theo đúng thời gian quy định. Loại Thư tín
dụng này thường được sử dụng trong quan hệ mua bán giữa công ty mẹ-con,
tài trợ cho người bán để chuẩn bị hàng hoá.
- Thư tín dụng dự phòng (Standby L/C) là loại Thư tín dụng do ngân hàng của
người xuất khẩu phát hành trong đó cam kết với người nhập khẩu là sẽ thanh
toán cho họ trong trường hợp người xuất khẩu không hoàn thành nghĩa vụ
giao hàng theo như Thư tín dụng đã quy định.
1.2.3 Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
(2) Ngân hàng
phục vụ người nhập khẩu
Ngân hàng phục vụ người
xuất khẩu
Người nhập khẩu
Người xuất khẩu
(5)
(6)
(4)
(1) (7) (8) (3) (5) (6)
22
(1) Người nhập khẩu làm đơn xin mở thư tín dụng gửi đến ngân hàng của
mình yêu cầu mở một thư tín dụng cho người xuất khẩu hưởng.
(2) Căn cứ vào đơn xin mở thư tín dụng, ngân hàng mở thư tín dụng sẽ lập
một thư tín dụng và thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu thông
báo việc mở thư tín dụng và chuyển thư tín dụng đến người xuất khẩu .
(3) Khi nhận được thông báo này, ngân hàng phục vụ người xuất khẩu đóng
vai trò là ngân hàng thông báo sẽ thông báo cho người xuất khẩu toàn bộ
nội dung thông báo về việc mở thư tín dụng đó và khi nhận được bản gốc
của thư tín dụng thì chuyển ngay cho người xuất khẩu.
(4) Người xuất khẩu nếu chấp nhận thư tín dụng thì tiến hành giao hàng, nếu
không thì tiến hành đề nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi, bổ sung thư tín
dụng cho phù hợp với hợp đồng.
(5) Sau khi giao hàng, người xuất khẩu lập bộ chứng từ theo yêu cầu của thư
tín dụng xuất trình thông qua ngân hàng phục vụ mình (có thể là ngân
hàng thông báo hoặc ngân hàng khác) cho ngân hàng mở thư tín dụng xin
thanh toán
(6) Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ nếu thấy phù hợp với
thư tín dụng thì tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Nếu thấy không
phù hợp, ngân hàng từ chối thanh toán và gửi trả lại toàn bộ chứng từ cho
người xuất khẩu (nếu người nhập khẩu chấp nhận thanh toán thì ngân
hàng mở thư tín dụng vẫn thanh toán và trừ phí sai sót của bộ chứng từ)
23
(7) Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển bộ chứng
từ cho người nhập khẩu sau khi người nhập khẩu trả tiền hoặc chấp nhận
thanh toán
(8) Người nhập khẩu kiểm tra chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì
trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền, nếu không phù hợp thì có quyền từ chối
trả tiền.
NHỮNG CHỨNG TỪ CHỦ YẾU THEO THƯ TÍN DỤNG BAO GỒM:
(1) Hối phiếu (Draft): theo công ước quốc tế về Hối phiếu (Uniform Law for
Bills of Exchange – ULB) năm 1930, Hối phiếu được hiểu là một tờ lệnh trả
tiền vô điều kiện do một người ký phát cho người khác, yêu cầu người này
khi nhìn thấy hối phiếu, hoặc đến một ngày nhất định ghi trên hối phiếu phải
trả một số tiền nhất định cho một người nào đó, hoặc theo lệnh của người này
trả cho người khác hoặc trả cho người cầm hối phiếu.
(2) Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice): là chứng từ do người bán lập
để đòi tiền người mua, chứa đựng những thông tin quan trọng về chuyến hàng
như tên hàng, số lượng, đơn giá, giá trị thanh toán... Đây được coi là một
trong những chứng từ quan trọng nhất, không thể thiếu trong những chứng từ
xuất trình.
(3) Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin): là chứng từ chỉ rõ nguồn gốc,
xuất xứ của hàng hoá xuất khẩu. Chứng từ này thường do Phòng Thương mại
cấp trên cơ sở kê khai của người bán hoặc một bên trung gian nào đó.
(4) Chứng nhận bảo hiểm (Certificate of Insurance): Chứng từ này do công ty
Bảo hiểm hoặc đại lý của họ lập ra để bảo hiểm cho lô hàng xuất nhập khẩu
dựa trên hợp đồng bảo hiểm và tuỳ thuộc vào điều kiện giao hàng.
(5) Chứng từ vận tải:
Vận đơn đường biển (Bill of Lading), vận đơn hàng không (Airway Bill) hoặc
vận đơn đường sắt (Railway Bill): là chứng từ được hãng vận tải phát hành, là
24
bằng chứng về việc giao hàng của người bán. Đối với phương thức giao hàng
bằng đường biển thì vận đơn được xem là chứng từ quan trọng nhất, vừa là
bằng chứng xác nhận hợp đồng chuyên chở, vừa là biên lai của Người chuyên
chở xác nhận đã nhận hàng, vừa là chứng từ xác thực quyền sở hữu đối với
hàng hoá. Chứng từ vận tải thường có những nội dung như tên tàu, số vận
đơn, ngày phát hành vận đơn...
(6) Phiếu đóng gói (Packing list): nội dung của chứng từ này thường mô tả chi
tiết về chuyến hàng đã giao như số Container, trọng lượng tịnh, trọng lượng
cả bì, ...
(7) Các chứng từ khác: như phiếu khử trùng, kiểm định thực vật, giấy chứng
nhận chất lượng, số lượng...
Việc lập được một bộ chứng từ hoàn hảo (sạch) theo thư tín dụng phải theo
một chuẩn mực quốc tế và thực tiễn thực hành được các nước tham gia công
nhận. Phòng Thương mại quốc tế (International Charmber of Commerce –
ICC) đã xuất bản cuốn: “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng
từ” (Uniform Customs and Practice for Documentary Credits - UCP), ấn bản
đầu tiên năm 1933. Văn bản này mang tính chất pháp lý tuỳ ý, nghĩa là khi áp
dụng nó các bên đương sự phải thoả thuận ghi vào trong thư tín dụng, đồng
thời có thể thoả thuận khác miễn là có dẫn chiếu. Đến nay, trải qua quãng thời
gian dài áp dụng, những điều lệ trên đã nhiều lần được chỉnh sửa, bổ sung để
đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn và phù hợp với tiến bộ của khoa học kỹ
thuật và ấn phẩm hiện đang được sử dụng rộng rãi là UCP số xuất bản 500
bản sửa đổi năm 1993, và thường được viết tắt là UCP 500. Hiện nay ấn bản
này cũng lại đang được nghiên cứu sửa đổi và bản UCP600 sẽ được xuất bản
trong tương lai gần.
1.2.4 Đặc điểm của thư tín dụng và vai trò của Ngân hàng thương mại
trong quá trình thực hiện thanh toán theo thư tín dụng
25
a) Thư tín dụng có những đặc điểm sau:
Một là: thư tín dụng hình thành trên cơ sở hợp đồng mua bán, nhưng
sau khi ra đời lại hoàn toàn độc lập với hợp đồng mua bán. Người mua căn cứ
vào hợp đồng để làm đơn yêu cầu mở Thư tín dụng. Người bán căn cứ vào
các điều kiện của Thư tín dụng tiến hành giao hàng và nếu xuất trình được các
chứng từ có phù hợp với hợp đồng hay không không phải là trách nhiệm của
ngân hàng và không ảnh hưởng đến trách nhiệm thanh toán của ngân hàng.
Tính độc lập của Thư tín dụng không huỷ bỏ trách nhiệm của ngân hàng phát
hành khi hợp đồng mua bán đã được huỷ bỏ nhưng Thư tín dụng vẫn còn hiệu
lực. Do đó người bán khi nhận được Thư tín dụng phải kiểm tra kỹ các điều
khoản của Thư tín dụng, nếu có điều khoản nào chưa phù hợp phải yêu cầu
người mua tiến hành sửa đổi Thư tín dụng cho phù hợp trước khi thực hiện
giao hàng.
Hai là: trong nghiệp vụ tín dụng chứng từ, các ngân hàng chỉ giao dịch
căn cứ vào chứng từ, chứ không liên quan đến hàng hoá. Ngân hàng cam kết
thanh toán cho người hưởng khi họ xuất trình được bộ chứng từ mà thể hiện
trên bề mặt là phù hợp với các điều khoản của Thư tín dụng mà hoàn toàn
không phụ thuộc vào việc người mua đã nhận được hàng hoá hay chưa, hàng
hoá có đúng quy cách hay không. Do đó, quyền lợi của người bán sẽ được
đảm bảo nếu họ xuất trình được bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều
khoản, điều kiện của thư tín dụng.
b) Vai trò của ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng
chứng từ.
Đối với nhà nhập khẩu:
Khi nhà nhập khẩu chưa có uy tín với nhà xuất khẩu, nhà xuất khẩu chắc chắn
không muốn giao hàng trước khi nhận được tiền. Ngược lại, nhà nhập khẩu
khi chưa nhận được hàng cũng không hề muốn trả tiền trước, một mặt sẽ có
26
rủi ro nếu nhà xuất khẩu không giao được hàng, mặt khác vốn sẽ bị chiếm
dụng trong một thời gian dài, nhất là những hàng mà nhà xuất khẩu phải sản
xuất rồi mới giao được hàng. Sử dụng phương thức thanh toán quốc tế là tín
dụng chứng từ sẽ giải quyết được mâu thuẫn đó. Ngân hàng, bằng uy tín của
mình sẽ đứng ra cam kết thanh toán. Nhà nhập khẩu sẽ được tư vấn về những
điều khoản trong hợp đồng để xây dựng một Thư tín dụng chặt chẽ, có lợi cho
nhà nhập khẩu. Nhà nhập khẩu cũng kiểm soát được hàng hoá thông qua việc
nhà xuất khẩu sẽ phải xuất trình những chứng từ chứng nhận xuất xứ, kiểm
định chất lượng do những cơ quan kiểm định độc lập phát hành. Ngân hàng
sẽ kiểm tra bộ chứng từ đó có phù hợp với thông lệ quốc tế và luật pháp của
từng nước hay không, việc kiểm tra này đòi hỏi kinh nghiệm và sự chuyên
nghiệp cao. Ngoài ra, nếu nhà nhập khẩu đã có uy tín với ngân hàng thì
thường các ngân hàng sẽ cấp một hạn mức miễn ký quỹ mở Thư tín dụng cho
khách hàng. Đây là một trong những ưu việt chỉ có được khi áp dụng phương
thức tín dụng chứng từ. Nhà nhập khẩu bằng việc tận dụng uy tín của ngân
hàng đã tránh được việc ứ đọng vốn.
Đối với nhà xuất khẩu:
Chính từ đặc điểm của phương thức tín dụng chứng từ là ngân hàng chỉ làm
việc dựa trên chứng từ, nên khi nhà xuất khẩu đã giao hàng và tập hợp được
bộ chứng từ hoàn hảo, việc được thanh toán là chắc chắn. Dù trên đường hàng
hoá có gặp rủi ro thì việc hai bên giải quyết với bên bảo hiểm cũng không ảnh
hưởng tới việc ngân hàng phát hành phải thanh toán. Hoặc nhà nhập khẩu gặp
rủi ro, mất khả năng thanh toán, nhà xuất khẩu vẫn chắc chắn nhận được tiền
của ngân hàng. Như vậy tất cả chỉ phụ thuộc vào việc nhà xuất khẩu có xuất
trình được bộ chứng từ có hoàn hảo hay không, điều này nhà xuất khẩu sẽ
được ngân hàng phục vụ mình tư vấn. Ngoài ra, nhà xuất khẩu còn tránh được
rủi ro về quản lý ngoại hối của nước người nhập khẩu, vì khi Thư tín dụng đã
27
được mở thì người nhập khẩu đã phải có giấy phép chuyển ngoại tệ ra nước
ngoài của cơ quan quản lý ngoại hối. Đối với những phương thức khác như
chuyển tiền (sau khi nhận hàng) hay nhờ thu, tại thời điểm thanh toán nếu
nước người nhập khẩu có sự thay đổi về quản lý ngoại hối liên quan đến
ngoại tệ hai bên đã thoả thuận thì rủi ro này hoàn toàn thuộc về nhà xuất khẩu.
Khi đã có được bộ chứng từ, nhà xuất khẩu còn có thể để nghị ngân hàng
phục vụ mình chiết khấu (đối với bộ chứng từ trả ngay) hay bán trước hạn các
hối phiếu đã được chấp nhận (đối với bộ chứng từ trả chậm), do đó có thể
nhanh chóng thu hồi vốn tái đầu tư.
Tóm lại, lợi ích lớn nhất của phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là
thông qua đó có thể đạt tới sự thoả thuận chấp nhận được giữa những lợi ích
đối kháng của nhà nhập khẩu và nhà xuất khẩu thông qua việc làm cho thời
gian trả tiền phù hợp với thời hạn giao hàng. Ta cũng đã biết dịch vụ này
mang lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng. Tuy nhiên ngân hàng cũng phải hết
sức thận trọng khi thực hiện phương thức thanh toán này do có rất nhiều nhân
tố ảnh hưởng tới nó, có thể tạo thuận lợi mà cũng có thể tiềm ẩn nhiều rủi ro
cho ngân hàng.
1.3 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN PHƯƠNG
THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.3.1 Các nhân tố bên trong ngân hàng
Đây là những nhân tố nội tại của mỗi ngân hàng thương mại, nó có ảnh hưởng
trực tiếp tới hiệu quả áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong thanh toán
quốc tế.
Nhân tố đầu tiên phải kể đến là mô hình tổ chức quản lý điều hành hoạt động
thanh toán quốc tế nói chung. Một hệ thống quản lý điều hành thống nhất từ
trung ương đến chi nhánh theo một quy trình cụ thể, gọn nhẹ, giao quyền chủ
động cho chi nhánh sẽ tiết kiện được chi phí, thời gian thanh toán nhanh
28
chóng và an toàn, đó là tác nhân thu hut khách hàng đến với ngân hàng nhiều
hơn vì quyền lợi của họ được đảm bảo.
Nhân tố thứ hai là uy tín và tiềm lực tài chính của Ngân hàng thương mại
trong nước và quốc tế. Lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh tiền tệ đặc
biệt và nhạy cảm, uy tín và tiềm lực tài chính sẽ tạo được lòng tin với khách
hàng, thu hút được khách hàng tới với ngân hàng, từ đó lại càng củng cố cho
uy tín và tiềm lực của ngân hàng. Đặc biệt với phương thức tín dụng chứng
từ, uy tín của ngân hàng càng đóng vai trò quan trọng. Thư tín dụng là một
cam kết của ngân hàng phát hành cung cấp cho người hưởng, do đó uy tín của
ngân hàng sẽ trực tiếp ảnh hưởng đến quá trình thực hiện của thư tín dụng.
Một thư tín dụng do một ngân hàng uy tín phát hành sẽ dễ dàng được người
hưởng chấp nhận, không đòi hỏi sự xác nhận của ngân hàng thứ hai, giảm các
chi phí không cần thiết cho người nhập khẩu và người xuất khẩu, gây lòng tin
cho khách hang, từ đó sẽ thu hút được nhiều hơn khách hàng đến với ngân
hàng, phát triển được các hoạt động của ngân hàng nói chung cũng như
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ nói riêng. Uy tín của ngân hàng
được đánh giá qua các chỉ tiêu như khả năng thanh toán, kỹ thuật xử lý nghiệp
vụ, quy mô của nguồn vốn huy động và cho vay, khả năng đáp ứng các
phương tiện thanh toán, sự đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, thái độ phục vụ
của đội ngũ cán bộ ngân hàng.
Mạng lưới ngân hàng đại lý cũng là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp tới nghiệp vụ
tín dụng chứng từ của ngân hàng thương mại. Các thư tín dụng mở ra được
truyền từ ngân hàng mở đến ngân hàng thông báo đều phải thông qua mạng
SWIFT và giữa hai ngân hàng phải có trao đổi mã khóa SWIFT để đảm bảo
tính chân thực của thư tín dụng. Nếu giữa hai ngân hàng không có trao đổi mã
khóa SWIFT thì sẽ phải thông qua ngân hàng trung gian. Như vậy rõ ràng với
những ngân hàng mở thư tín dụng có hệ thống ngân hàng đại lý rộng thì thư
29
tín dụng mở ra sẽ tới tay người hưởng nhanh hơn, giảm được chi phí trung
gian. Mặt khác khi thanh toán thư tín dụng, nếu ngân hàng chiết khấu có
mạng lưới ngân hàng đại lý rộng sẽ đảm bảo nhận được tiền từ ngân hàng mở
thư tín dụng mà không phải qua nhiều ngân hàng trung gian, vừa tiết kiệm phí
chuyển tiền, vừa tiết kiệm thời gian. Thông qua quan hệ với các ngân hàng
đại lý, ngân hàng có thể khai thác được các nguồn tài trợ không nhỏ, các hạn
mức tín dụng, tạo vốn đáp ứng nhu cầu cho khách hàng nhập khẩu. Cũng
thông qua hoạt động của các ngân hàng đại lý, ngân hàng còn có thể khai thác
thông tin liên quan đến tình hình tài chính của các đối tác nước ngoài, hỗ trợ
cho các khách hàng nội địa. Ngoài ra, mạng lưới ngân hàng đại lý rộng lớn sẽ
củng cố uy tín của ngân hàng đó trên thị trường trong nước và quốc tế, tạo
lòng tin cho khách hàng khi đến với ngân hàng.
Một nhân tố nữa cũng ảnh hưởng lớn tới nghiệp vụ thanh toán quốc tế nói
chung và nghiệp vụ tín dụng chứng từ nói riêng là công nghệ ngân hàng.
Ngày nay, hoạt động ngân hàng luôn đòi hỏi phải nhanh chóng, chính xác,
tiện lợi, vì vậy sự hỗ trợ của công nghệ thông tin là hết sức quan trọng. Công
nghệ ngân hàng liên quan đến toàn bộ cơ sở vật chất và mạng lưới truyền
thông, thanh toán. Hệ thống mạng máy tính và các chương trình ứng dụng của
nó có liên quan chặt chẽ đến chất lượng hoạt động thanh toán và phương thức
tín dụng chứng từ. Hệ thống công nghệ thanh toán hiện đại sẽ giúp cho việc
thanh toán qua ngân hàng được thực hiện trôi chảy và nhanh chóng, đảm bảo
an toàn và tiết kiệm chi phí. Việc nối mạng thông tin cũng giúp cho ngân
hàng quảng bá hoạt động và các sản phẩm dịch vụ của mình tới khách hàng,
thu hút thêm nhiều khách hàng đến với ngân hàng.
Nhân tố ảnh hưởng tiếp theo là chất lượng các hoạt động liên quan. Phương
thức thanh toán tín dụng chứng từ là một trong những phương thức thanh toán
quốc tế, là khâu cuối cùng của quá trình mua bán trong ngoại thương. Để
30
khâu cuối cùng này diễn ra được suôn sẻ thì các khâu đầu phải trôi chảy. Một
khách hàng muốn mở thư tín dụng nhập khẩu sẽ có thể được ngân hàng cấp
tín dụng, bán ngoại tệ để ký quỹ hay thanh toán và được ngân hàng đứng ra
bảo lãnh khi cần thiết. Ngược lại khách hàng xuất khẩu lại muốn được ngân
hàng tài trợ thông qua việc chiết khấu bộ chứng từ hoặc cho vay ứng trước,
nên một trong những khâu này ách tắc sẽ dẫn đến cả quá trình cùng ách tắc và
không thể thực hiện được việc thanh toán. Do vậy sự phối kết hợp đồng bộ
giữa các hoạt động liên quan là nhân tố quan trọng góp phần phát triển
phương thức thanh toán tín dụng chứng từ.
Nhân tố cuối cùng nhưng lại là nhân tố quyết định ảnh hưởng tới nghiệp vụ
tín dụng chứng từ là trình độ của cán bộ ngân hàng. Trình độ chuyên môn,
ngoại ngữ, những kinh nghiệm thực tiễn và thái độ tiếp khách của cán bộ
thanh toán quốc tế sẽ góp phần thu hút khách tới ngân hàng, nâng cao chất
lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro xảy ra. So với các phương thức thanh toán
quốc tế khác, phương thức tín dụng chứng từ phức tạp hơn, đòi hỏi cán bộ
nghiệp vụ phải có một trình độ nhất định. Do vậy, để phát triển phương thức
tín dụng chứng từ, trình độ cán bộ phải không ngừng được nâng cao về
chuyên môn, ngoại ngữ cũng như kiến thức về pháp luật, thông lệ quốc tế để
đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Khi khách hàng đã được phục vụ niềm
nở với trình độ chuyên môn cao, đáp ứng mọi nhu cầu phức tạp nhất, họ sẽ
cảm thấy hài lòng và chọn ngân hàng làm nơi giao dịch. Ngoài việc hướng
dẫn khách hàng mọi thủ tục, cách thức thanh toán, cán bộ thanh toán quốc tế
còn phải làm nhiệm vụ tư vấn hướng dẫn khách hàng ký kết hợp đồng có
được những điều khoản có lợi cho mình, lựa chọn các hình thức thanh toán
phù hợp, hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất, tạo cho khách hàng thực sự tin
tưởng, an tâm. Mặt khác trình độ cán bộ thanh toán quốc tế vững sẽ xử lý các
31
kỹ thuật nghiệp vụ một cách chính xác, hạn chế rủi ro cho ngân hàng, nâng
cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng chứng từ.
Trên đây là những nhân tố bên trong ngân hàng ảnh hưởng tới hoạt động
thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Ngân hàng thương
mại. Ngoài ra, các nhân tố bên ngoài ngân hàng cũng có ảnh hưởng không
nhỏ đòi hỏi ngân hàng phải nắm bắt, thích nghi và vận dụng linh hoạt.
1.3.2 Các nhân tố bên ngoài ngân hàng
Thứ nhất là các chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. Mặc dù toàn
cầu hoá đang làm cho các nền kinh tế trên thế giới xích lại gần nhau hơn,
nhưng giữa các quốc gia vẫn tồn tại những khác biệt. Môi trường kinh doanh
trong nước gồm tất cả các yếu tố như chính trị, văn hóa, luật pháp, sự phát
triển kinh tế, sự cạnh tranh... Những nhân tố này vừa có tác động tới các
doanh nghiệp – khách hàng của ngân hàng và tới cả bản thân ngân hàng. Phải
kể đến hàng đầu là chính sách kinh tế đối ngoại. Hoạt động thanh toán quốc tế
nói chung trong đó phương thức tín dụng chứng từ nói riêng sôi động hay
trầm lắng phụ thuộc nhiều vào chính sách đối ngoại của quốc gia. Việc đưa ra
các định hướng mang tính chiến lược là bảo hộ mậu dịch hay tự do hoá mậu
dịch có ảnh hưởng rất lớn tới hành vi của các doanh nghiệp. ở nước ta, việc
đổi mới tư duy về kinh tế đối ngoại, thực hiện nền kinh tế mở đã thúc đẩy
hoạt động xuất nhập khẩu đạt được những thành tựu to lớn. Kim ngạch xuất
nhập khẩu của Việt Nam tăng lên không ngừng, khuyến khích được các thành
phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh hàng xuất khẩu. Hoạt động xuất
nhập khẩu được mở rộng sang những thị trường mới như Mỹ, EU... Hoạt
động xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp phát triển đòi hỏi sự phát triển của
hoạt động thanh toán quốc tế của các ngân hàng mà trong đó có phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ là phương thức chủ yếu.
32
Ngày nay không ai phủ nhận tầm quan trọng của các quan hệ quốc tế trong
hoạt động kinh tế, việc sử dụng đồng tiền nước ngoài trong thanh toán quốc tế
là phổ biến, rộng khắp. Nhà nước thực hiện chính sách quản lý ngoại hối
thông qua việc đề ra các chính sách kiểm soát luồng vận động của ngoại hối
vào ra và các quy định về trạng thái ngoại tệ của các tổ chức tín dụng. Căn cứ
vào tình hình cụ thể và những biến động trên thị trường mà Nhà nước áp dụng
chính sách quản lý ngoại hối tự do hay thắt chặt nhằm hướng sự vận động của
hoạt động ngoại hối đi vào ổn định theo chủ trương của Nhà nước. Việc làm
này sẽ ảnh hưởng đến cung cầu ngoại hối trên thị trường và do đó ảnh hưởng
đến toàn bộ nền kinh tế của quốc gia, trước hết là ảnh hưởng đến ngoại
thương và khả năng thực hiện thanh toán quốc tế của ngân hàng. Chính
nguyên nhân kinh tế cũng làm thay đổi giá trị đồng tiền của mỗi nước và là
nguyên nhân chính dẫn đến tỷ giá giữa các đồng tiền bị thay đổi. Trên hết là
sự ảnh hưởng của tỷ giá tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng vì ngân hàng
là trung tâm thanh toán của nền kinh tế. Tỷ giá hối đoái cao hay thấp sẽ có tác
động trực tiếp đến các hoạt động xuất nhập khẩu và đến lượt mình, các hoạt
động xuất nhập khẩu lại ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động thanh toán quốc tế
của các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra, các chính sách lãi suất, thuế suất (đặc biệt là thuế suất áp dụng đối
với hàng hoá xuất nhập khẩu), chính sách tiền tệ, các chính sách khuyến khích
đầu tư nước ngoài hay những yếu tố thuộc về cạnh tranh cũng có những ảnh
hưởng lớn lao đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong đó có hoạt động
thanh toán quốc tế bằng phương thức tín dụng chứng từ.
Thứ hai là sự thay đổi kinh tế, chính trị của nước bạn hàng. Do liên
quan đến nhiều lĩnh vực, ngành nghề và đối tượng kinh tế của nhiều quốc gia
khác nhau, hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và phương thức tín dụng
chứng từ nói riêng chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tác động của môi trường
33
kinh tế, chính trị xã hội của các quốc gia. Một sự biến động về chế độ chính
trị của nước bạn hàng như thay đổi về quy định dự trữ ngoại hối, các quy định
về thuế, phí xuất nhập cảnh, sự thay đổi lãnh đạo hay quan điểm của các Đảng
phái sẽ ảnh hưởng đến khả năng và sự sẵn sàng đáp ứng các cam kết đã thỏa
thuận giữa các bên. Sự suy thoái kinh tế, biến động chính trị sẽ ảnh hưởng bất
lợi đến sự vận động của tự do thương mại, đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp và từ đó ảnh hưởng đến quá trình thanh toán, gây thiệt hạ
cho các bên tham gia trong đó có ngân hàng.
Thứ ba là các yếu tố từ phía khách hàng như tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh, khả năng tài chính, trình độ nghiệp vụ ngoại thương, hành vi
đạo đức của khách hàng. Như đã phân tích, so với các phương thức thanh toán
khác, phương thức tín dụng chứng từ phức tạp hơn, đòi hỏi cả khách hàng và
ngân hàng phải có một trình độ nhất định về ngoại thương, về thông lệ quốc
tế. Từ khi ký kết hợp đồng, kháhc hàng phải có sự hiểu biết nhất định để
không đưa vào hợp đồng các điều khoản trái với thông lệ quốc tế, tạo điều
kiện cho ngân hàng thực hiện trôi chảy quá trình thanh toán. Trong phương
thức thanh toán này, cam kết thanh toán của ngân hàng được đưa ra trên cơ sở
khách hàng xuất khẩu xuất trình được một bộ chứng từ phù hợp với các điều
khoản của thư tín dụng mà không có sự ràng buộc nào về hàng hoá. Việc
khách hàng giả mạo chứng từ đòi tiền là hoàn toàn có thể xảy ra. Do vậy yếu
tố hành vi đạo đức của khách hàng cũng ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát
triển của phương thức thanh toán này.
Như vậy việc áp dụng phương thức tín dụng chứng từ trong từ trong thanh
toán quốc tế của ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố.
Có những yếu tố thuộc về nội tại của mỗi ngân hàng như trình độ cán bộ ngân
hàng, công nghệ, quy trình làm việc... thì việc khắc phục sẽ có nhiều thuận
lợi. Còn các yếu tố bên ngoài như chính sách lãi suất, thuế, chế độ tỷ giá hối
34
đoái trong nước cũng như nước ngoài thì việc khắc phục sẽ rất khó, cần phải
có những tính toán để phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Do đó, việc nghiên cứu
nhằm phát triển phương thức này là rất cần thiết. Trên cơ sở những lý luận cơ
bản trên đây, thực trạng áp dụng phương thức này tại Sở Giao dịch – Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam sẽ được đề cập trong chương hai của Luận văn.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG
CHỨNG TỪ TRONG THANH TOÁN QUỐC TẾ TẠI SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT
NAM
2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển
Ngày 1-4-1963, ngân hàng Ngoại thương Việt nam với tên giao dịch quốc tế
là Bank for foreign trade of Việt Nam, tên viết tắt là Vietcombank, chính thức
đi vào hoạt động với tư cách là một pháp nhân Ngân hàng thương mại giao
dịch trên thương trường quốc tế và trong nước.
Trải qua hơn 40 năm xây dựng và phát triển, ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam hiện nay đã đóng một vai trò chủ lực trong hệ thống ngân hàng Việt
Nam, được nhà nước xếp hạng là một trong 23 doanh nghiệp đặc biệt, đồng
thời là thành viên của hiệp hội ngân hàng Việt nam và Thế giới
Trong những năm qua, Ngân hàng ngoại thương không ngừng khẳng định sự
lớn mạnh của mình qua việc liên tục mở rộng mạng lưới của mình ra hầu hết
các tính thành phố lớn trên cả nước. Tính đến nay ngân hàng ngoại thương đã
có 25 chi nhánh cấp I, 26 chi nhánh cấp hai và 35 phòng giao dịch trên toàn
quốc. Ngoài mạng lưới chi nhánh trên, Ngân hàng ngoại thương còn có 1
công ty tài chính , 3 văn phòng đại diện nước ngoài, 3 công ty trực thuộc.
35
Với truyền thống chuyên doanh đối ngoại, Ngân hàng Ngoại thương được
đánh giá là ngân hàng uy tín nhất Việt Nam trong các lĩnh vực kinh doanh
ngoại hối, thanh toán xuất nhập khẩu và các dịch vụ tài chính, ngân hàng quốc
tế khác. Tính đến nay Ngân hàng ngoại thương có quan hệ đại lý với hơn
1200 ngân hàng tại 85 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, đảm bảo phục vụ
tốt nhất các yêu cầu của khách hàng trên phạm vi toàn cầu. Ngoài vai trò là
ngân hàng đi đầu trong lĩnh vực tự động hoá hoạt động thanh toán sử dụng
mạng SWIFT, Ngân hàng Ngoại thương có hệ thống công nghệ thông tin hiện
đại nhất Việt Nam
Suốt từ năm 1996 đến 2004, Vietcombank đều được Ngân hàng JP
MORGAN CHASE (Mỹ) trao tặng danh hiệu "Ngân hàng chất lượng thanh
toán tốt nhất". Và cùng trong 5 năm liền từ 2000 đến 2004, tạp chí The
Banker (Anh quốc) đã bình chọn Vietcombank là ngân hàng tốt nhất. Những
danh hiệu này khẳng định vị trí của Vietcombank trong quá trình hội nhập
quốc tế.
2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương
trong những năm gần đây.
Trong giai đoạn 05 năm qua, Vietcombank đã tập trung thực hiện Đề án tái cơ
cấu đã được Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước phê duyệt cho triển khai từ
năm 2001. Các mục tiêu trọng tâm trong Đề án tái cơ cấu Vietcombank (Đề
án) được tập trung vào: nâng cao năng lực tài chính, mở rộng hoạt động kinh
doanh, hiện đại hoá công nghệ và phát triển sản phẩm mới trên nền tảng công
nghệ và xây dựng mô thức quản lý hiện đại trong Vietcombank, đặc biệt là
trong công tác quản trị rủi ro và kiểm tra/kiểm toán nội bộ. Cụ thể những kết
quả đạt được qua gần 5 năm thực hiện Đề án như sau:
+ Vốn chủ sở hữu
36
Trong những năm gần đây, Ngân hàng Ngoại thương liên tục tăng vốn chủ sở
hữu của mình. Từ năm 2002 ngân hàng Ngoại thương được chính phủ cấp
thêm 1.400tỷ vốn điều lệ dưới dạng trái phiếu. Ngoài vốn do chính phủ cấp,
Ngân hàng ngoại thương cũng có phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn lợi
nhuận tăng thêm. Phương án này đã được chính phủ đổng ý và bắt đầu thí
điểm vào năm 2003. Với hai nguồn vốn nêu trên , tính đến nay của Ngân hàng
Ngoại thương đã đạt gần 9000 tỷ đồng (theo chuẩn mực kế toán Việt Nam).
+ Hoạt động tín dụng
Hoạt động tín dụng luôn là hoạt động được ngân hàng Ngoại thương chú
trọng phát triển. Song song với việc tìm các giải pháp tăng trưởng tín dụng,
NHNT đã chú trọng áp dụng và hoàn thiện giải pháp nâng cao quản trị rủi ro
tín dụng như xác định giới hạn tín dụng, tăng cường kiểm tra kiểm soát tín
dụng.
Tỷ lệ vốn được dùng để cho vay nền kinh tế cũng tăng nhanh. So với năm
2000, dư nợ cho vay năm 2004 tăng 3,3 lần, đạt tốc độ tăng bình quân là
35,3%/năm và đưa tỷ lệ dư nợ so với tổng tài sản tăng từ 23% lên 41%. Do
đó, mặc dù trong điều kiện thị trường cạnh tranh ngày nay ngày càng gay gắt,
thị phần của Vietcombank trong hoạt động tín dụng toàn ngành ngân hàng
vẫn tăng được từ 8,3% lên khoảng 10% vào cuối năm 2004. Trong năm 2005,
hoạt động tín dụng của Vietcombank phát triển theo định hướng “Tăng trưởng
tín dụng trên cơ sở tập trung nâng cao chất lượng và hướng tới chuẩn mực
quốc tế”. Đến cuối tháng 6 năm 2005, tổng dư nợ tín dụng của Vietcombank
đạt 52,074 tỷ đồng, tăng lên 6,4% so với cùng kỳ năm trước. Xu hướng giảm
dần tốc độ tăng trưởng dư nợ nằm trong định hướng tăng cường kiểm soát rủi
ro và nâng cao chất lượng tín dụng của Vietcombank. Dư nợ cho vay tăng
trưởng nhanh nhưng chất lượng tín dụng vẫn được Vietcombank quan tâm
hàng đầu. Bằng việc áp dụng một số mô thức quản lý mới nhằm nâng cao chất
37
lượng tín dụng, số nợ xấu và tỷ lệ dư nợ xấu trong tổng dư nợ cho vay đã liên
tục giảm. Đến 30/06/05, tỷ lệ này còn 2,4%.
+ Thanh toán quốc tế
Thanh toán quốc tế vốn là một sản phẩm truyền thống và là thế mạnh của
Vietcombank, nhưng trong thời gian qua cũng phải chịu sức ép cạnh tranh gay
gắt, đặc biệt từ phía các ngân hàng nước ngoài – có ưu thế vượt trội về mạng
lưới quốc tế, về công nghệ và các sản phẩm tiên tiến. Tuy nhiên Vietcombank
vẫn tiếp tục duy trì được doanh số thanh toán quốc tế chiếm khoảng 29% tổng
doanh số thanh toán xuất nhập khẩu cả nước.
Về thanh toán xuất khẩu năm 2001 đạt 4340 triệu USD, năm 2002 tăng 7,7%
đạt 4675 triệu USD. Năm 2003 con số này tiếp tục tăng với tỷ lệ cao 21,8% .
Những mặt hàng chủ lực trong thanh toán xuất khẩu là dầu thô, thuỷ sản và
gạo. Về thanh toán nhập khẩu, năm 2001, doanh số thanh toán nhập khẩu chỉ
đạt 4447 triệu USD, sang đến năm 2002 con số này đã lên đến 5541 triệu
USD, tăng 24.6%. 6756 triệu USD là doanh số đạt được của năm 2003, tốc độ
tăng đạt 21,9%. Các mặt hàng chủ yếu trong thanh toán nhập khẩu là xăng
dầu (khoảng 25-30%), sắt thép (6-8%) và thiết bị máy móc (10-12%)
Tuy nhiên năm 2005 cả hoạt động thanh toán xuất và nhập khẩu lại có xu
hướng giảm sút.
+ Kết quả kinh doanh
Với những nỗ lực trong quản lý và kinh doanh, Vietcombank đã đạt được
những kết quả tài chính rất tốt trong giai đoạn vừa qua. Trong giai đoạn 2000-
2004 cả nguồn vốn và tỷ lệ lợi nhuận/vốn tự có của Vietcombank tăng trưởng
mạnh mẽ và ổn định, đó là chưa tính đến kết quả hàng năm Vietcombank vẫn
thực hiện trích lập dự phòng tương đối lớn, vừa để xử lý nợ tồn đọng, vừa để
đảm bảo an toàn tín dụng. Bắt đầu từ năm 2001, Vietcombank bắt đầu áp
dụng cơ chế tài chính mới “dự thu, dự chi” nên lợi nhuận của năm này có sự
38
tăng đột biến. Năm 2000, lợi nhuận mới chỉ đạt 500 tỷ, năm 2001 là 1250 tỷ,
năm 2002 là 800 tỷ, tăng đều trong các năm sau đó và đến năm 2005 là hơn
2500 tỷ. Cuối năm 2002, nguồn vốn tự có của Vietcombank tăng mạnh so với
năm 2001, thêm 1800 tỷ đồng từ nguồn cấp bổ sung vốn điều lệ của Chính
phủ và Bộ Tài chính, khiến cho tỷ lệ lợi nhuận/vốn tự có có sự biến động lớn
so với các năm trước đó, đạt 15,4%. Tỷ lệ này năm 2004 là 21,3% và năm
2005 là 20,3%.
2.1.3 Vài nét về Sở giao dịch ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Từ 01/01/2006, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương tách ra độc lập với Hội
sở chính, có vai trò như một chi nhánh cấp I trong hệ thống Ngân hàng Ngoại
thương. Sở giao dịch hiện nay là một trong những chi nhánh lớn nhất và tạo
ra nhiều lợi nhuận nhất cho toàn hệ thống NHNT. Sở giao dịch thực hiện tất
cả các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong nhiều năm qua, sở giao
dịch liên tục chiếm vị trí nhất nhì về hiệu quả kinh doanh trong 25 chi nhánh
của ngân hàng.
Sở giao dịch chịu sự điều hành của một ban giám đốc bao gồm một giám đốc
sở và ba phó giám đốc phụ trách các mảng kinh doanh khác nhau. Sở bao
gồm hơn 500 người chia thành các phòng ban như : Phòng Kế toán Tài chính,
Phòng Tổ chức cán bộ, Phòng đầu tư dự án; Phòng tín dụng ngắn hạn; Phòng
hối đoái; Phòng kế toán giao dịch; Phòng kiểm tra nội bộ; Phòng kinh doanh
ngoại tệ; Phòng ngân quỹ; Phòng quản lý và khai thác tài sản xiết nợ; Phòng
thanh toán các ngân hàng; Phòng thanh toán nhập khẩu; Phòng thanh toán
xuất khẩu; Phòng thanh toán thẻ; Phòng tiết kiệm; Phòng vay nợ viện trợ; và
13 phòng giao dịch được đặt trong thành phố Hà Nội.
Các hoạt động kinh doanh chính của Sở giao dịch
- Hoạt động huy động vốn:
39
Sở huy động vốn thông qua nhận tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và có kỳ
hạn bằng cả nội tệ và ngoại tệ của các tổ chức, cá nhân thuộc mọi thành phần
kinh tế trong và ngoài nước. Bên cạnh đó Sở còn phát hành chứng chỉ tiền
gửi, kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và thực hiện các hình thức huy động khác
theo quy định của NHNT.
Khi cần thiết, SGD còn có thể vay vốn của các tổ chức tài chính, tín dụng
trong nước theo quy định của NHNT
Ngoài ra, Sở còn tiếp nhận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của Chính phủ và
các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước.
- Hoạt động cho vay:
Sở thực hiện cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn bằng nội tệ và ngoại tệ
đối với khách hàng của thành phần kinh tế khác nhau. Sở cho vay hộ gia đình
nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, tiêu dùng... Sở tài trợ vốn cho các
doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp tư nhân kinh doanh xuất nhập
khẩu ...
Bên cạnh đó, Sở còn thẩm định, tái thẩm định các dự án tín dụng, trực tiếp
cho vay các dự án theo phân cấp uỷ quyền của Tổng giám đốc NHNT
- Hoạt động khác
Ngoài 2 hoạt động chính là huy động vốn và cho vay vốn, Sở còn có các
hoạt động khác như :
Kinh doanh ngoại hối: đây là hoạt động mua bán ngoại tệ mà chủ yếu
nhằm mục đích cho vay và phục vụ thanh toán quốc tế, những dịch vụ khác
về ngoại hối theo chính sách quản lý ngoại hối của chính phủ, NHNN và
NHNT
Thanh toán quốc tế: đây là dịch vụ mang lại nguồn thu lớn cho Sở, nó góp
phần giúp cho hoạt động tín dụng và hoạt động kinh doanh ngoại hối thêm
phần sôi nổi.
40
Dich vụ khác như dịch vụ thẻ, két sắt, dịch vụ chiết khấu các loại giấy tờ có
giá
2.2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ CỦA SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.2.1 Quy trình thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
a) Đối với thư tín dụng xuất khẩu
(1) Tiếp nhận và sửa đổi Thư tín dụng
Trước hết, người được phân công kiểm tra điện trước khi nhận. Điện Thư tín
dụng nhận được chủ yếu qua đường SWIFT, chỉ một lượng nhỏ là qua đường
công văn. Nếu điện không thuộc phạm vi phòng xử lý thì phải trả lại cho
Trung tâm thanh toán theo mạng. Nếu đúng thì người được phân công nhận
điện, giao hoặc đẩy điện cho các thành viên liên quan, in bảng kê điện đã
nhận hoặc ký nhận Thư tín dụng, sửa đổi Thư tín dụng do bộ phận văn thư
giao và giao lại cho thanh toán viên phụ trách.
Thanh toán viên nhận được bản Thư tín dụng hoặc sửa đổi Thư tín dụng phải
kiểm tra. Nếu Thư tín dụng mở bằng Telex/Swift phải có xác nhận mã đúng,
nếu mở bằng thư thì phải có xác nhận chữ ký đúng và hợp lệ. Thư tín dụng
phải có dẫn chiếu UCP 500 trừ khi có quy định khác. Thanh toán viên cũng
phải kiểm tra các thông tin khác như người hưởng lợi, ngân hàng phát hành,
ngân hàng thông báo, các chỉ dẫn thanh toán.
(2) Thông báo trực tiếp cho người hưởng lợi
Thanh toán viên vào hồ sơ và lập bản thông báo Thư tín dụng. Bản thông báo
Thư tín dụng (kèm theo bản gốc của Thư tín dụng), sửa đổi Thư tín dụng có
thể được giao trực tiếp cho khách hàng hoặc gửi qua đường Bưu điện. Thanh
41
toán viên phải theo dõi việc giao thông báo cho khách hàng, đồng thời làm
thông báo cho Ngân hàng thông báo về việc đã nhận được Thư tín dụng hoặc
sửa đổi Thư tín dụng.
(3) Thông báo qua ngân hàng thông báo khác
Đối với những Thư tín dụng mà ngân hàng phát hành yêu cầu Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương thông báo cho một ngân hàng khác, thì thanh toán
viên chuyển Thư tín dụng qua mạng điện SWIFT hoặc qua đường công văn
cho ngân hàng đó. Nếu ngân hàng phát hành yêu cầu Sở giao dịch Ngân hàng
Ngoại thương thông báo kèm xác nhận thì thanh toán viên phải kiểm tra uy
tín của ngân hàng phát hành thông qua lượng giao dịch, độ tin cậy trong thanh
toán với đơn vị thành viên, không xác nhận đối với những Thư tín dụng mà
ngân hàng phát hành không có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương,
nghiên cứu đề xuất mức ký quỹ hoặc miễn ký quỹ với ngân hàng phát hành.
Trong trường hợp không đồng ý xác nhận thì phải thông báo rõ “Chúng tôi
không đồng ý xác nhận Thư tín dụng này”
(4) Tiếp nhận, kiểm tra chứng từ.
Khi nhận chứng từ do khách hàng xuất trình kèm bản gốc Thư tín dụng và các
sửa đổi có liên quan, thanh toán viên phải kiểm tra loại chứng từ, số lượng
từng loại và mức độ phù hợp của chứng từ rồi chuyển cho phụ trách phòng.
Nếu chứng từ có sai sót thì thanh toán viên phải thông báo cho khách hàng để
có biện pháp xử lý kịp thời.
(5) Gửi chứng từ đòi tiền.
Thanh toán viên lập thư đòi tiền như trong chỉ thị thanh toán của Thư tín
dụng, kèm với bộ chứng từ để gửi cho ngân hàng phát hành Thư tín dụng.
Nếu là Thư tín dụng xác nhận thì Ngân hàng có quyền đòi tiền bằng điện qua
mạng SWIFT.
(6) Chiết khấu chứng từ.
42
Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương tiến hành chiết khấu chứng từ dưới hai
hình thức: chiết khấu miễn truy đòi (mua đứt bộ chứng từ) và chiết khấu truy
đòi.
Đồi với hình thức chiết khấu miễn truy đòi
Ngân hàng chiết khấu miễn truy đòi đối với bộ chứng từ sau khi kiểm tra các
điều kiện sau:
+ Bộ chứng từ của L/C trả tiền ngay và cho phép đòi tiền bằng điện.
+ L/C quy định: vận đơn lập theo lệnh của ngân hàng phát hành và toàn
bộ vận đơn gốc được xuất trình qua NHNT.
+ Chứng từ hoàn toàn phù hợp với các điều kiện, điều khoản L/C
+ Ngân hàng phát hành L/C phải là ngân hàng có uy tín trên thị trường
quốc tế.
+ Thị trường truyền thống
+ Một số thông tin khác liên quan đến giá cả của mặt hàng xuất khẩu
tại thời điểm chiết khấu
+ Thư yêu cầu bảo lãnh đề nghị chiết khấu miền truy đòi phải có đầy đủ
chữ ký của chủ tài khoản và kế toán trưởng.
Đối với hình thức chiết khấu truy đòi
Bộ chứng từ sẽ được ngân hàng chiết khấu truy đòi nếu có đủ những điều kiện
sau
+ Ngân hàng phát hành có uy tín lớn
+ Thị trường truyền thống
+ Khách hàng có tín nhiệm, có quan hệ thanh toán tốt, mở tài khoản và hoạt
động thường xuyên tai NHNT
+ Khách hàng cam kết hoạt trả số tiền ngân hàng đã chiết khấu trong trường
hợp ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán
43
+ Thư yêu cầu chiết khấu truy đòi phải có đầy đủ chữ ký của chủ tài khoản và
kế toán trưởng
Sau khi xem xét các điều kiện chiết khấu và tình trạng của bộ chứng từ, thanh
toán viên lập tờ trình đề xuất ý kiến chấp nhận hoặc từ chối chiết khấu, tỷ lệ
chiết khấu. Trên cơ sở đề xuất của thanh toán viên, tuỳ trường hợp, phụ trách
phòng xem xét và trình lãnh đạo quyết định việc chiết khấu.
Đối với chiết khấu truy đòi, nếu chứng từ phù hợp, phụ trách phong có quyền
quyết định chiết khấu đối với các bộ chứng từ có giá từ 100.000USD trở
xuống. Nếu vượt quá số tiền trên, phòng phải trình lãnh đạo Sở. Số tiền chiết
khấu luôn nhỏ hơn trị giá bộ chứng từ. Trong trường hợp bộ chứng từ không
phù hợp, lãnh đạo sở mới có quyền quyết định, số tiền chiết khấu không
vượt quá 90% giá trị bộ chứng từ
(7) Nếu chứng từ bị từ chối thanh toán
Thanh toán viên phải kiểm tra lý do từ chối thanh toán của ngân hàng nước
ngoài, thông báo cho khách hàng về việc từ chối thanh toán để khách hàng
định đoạt chứng từ, đồng thời điện ngay cho ngân hàng nước ngoài phản đối
nếu việc từ chối không xác đáng.
b) Đối với thư tín dụng nhập khẩu:
(1) Phát hành thư tín dụng
Khách hàng có yêu cầu phát hành thư tín dụng phải xuất trình đầy đủ các giấy
tờ như : Đơn xin mở thư tín dụng, Bản sao hợp đồng ngoại thương hoặc các
giấy tờ có giá trị tương đương (như đơn đặt hàng), Bản sao giấy đăng ký kinh
doanh và Giấy chứng nhận đăng ký mã số doanh nghiệp (đối với những khách
hàng giao dịch lần đầu), Văn bản cho phép nhập khẩu của Bộ thương mại
hoặc Bộ quản lý chuyên ngành (đối với những hàng nhập khẩu có điều kiện).
Sau khi tiếp nhận và kiểm tra đầy đủ sự hợp lệ của các chứng từ trên đây,
thanh toán viên sẽ tiến hành kiểm tra nội dung đơn xin mở thư tín dụng với
44
các điều kiện trong hợp đồng ngoại thương để đảm bảo không có sự mâu
thuẫn trong nội dung của thư tín dụng với các điều khoản của hợp đồng.
Đối với thư tín dụng trả ngay ký quỹ 100%, thanh toán viên phải kiểm tra số
tiền ký quỹ trước khi phát hành thư tín dụng. Trong trường hợp thư tín dụng
được phát hành bằng nguồn vốn vay Ngân hàng Ngoại thương, thanh toán
viên sẽ căn cứ vào phiếu duyệt mở thư tín dụng do bộ phận Tín dụng cung
cấp đã được Giám đốc ký duyệt cho vay.
Đối với thư tín dụng trả ngay miễn ký quỹ, việc xét duyệt mở thư tín dụng
được tiến hành ngay tại phòng thanh toán Nhập khẩu. Ngoài các chứng từ như
trên, khách hàng phải xuất trình thêm Giấy cam kết đảm bảo có đủ tiền thanh
toán khi thư tín dụng đến hạn . Thanh toán viên căn cứ vào hạn mức miễn ký
quỹ do hội đồng tín dụng đã duyệt (nếu có) lập tờ trình để lãnh đạo phòng
hoặc lãnh đạo Sở xét duyệt. Trường hợp chưa có hạn mức, có thể sẽ chuyển
hồ sơ sang cho bộ phận tín dụng tiến hành thẩm định. Hồ sơ sau khi đã được
duyệt, thanh toán viên sẽ tiến hành mở thư tín dụng. Khi đến hạn thanh toán,
nhà nhập khẩu có trách nhiệm chuyển đủ số tiền thanh toán vào tài khoản để
thanh toán viên trả tiền cho ngân hàng nước ngoài. Nếu khách hàng không
đảm bảo đủ tiền thanh toán khi đến hạn, ngân hàng sẽ tiến hành cho vay bắt
buộc với lãi suất 200% lãi suất cho vay hiện hành.
Đối với thư tín dụng trả chậm và bảo lãnh, thủ tục phát hành bảo lãnh và thẩm
định thư tín dụng trả chậm do phòng Bảo Lãnh thực hiện. Quy trình thẩm
định thư tín dụng trả chậm giống với thẩm định các loại bảo lãnh nước ngoài
khác, chỉ khác ở chỗ, sau khi thẩm định, hồ sơ sẽ được chuyển xuống phòng
thanh toán Nhập khẩu để mở thư tín dụng.
(2) Tiếp nhận chứng từ
Sau khi nhận được chứng từ do bộ phận văn thư giao, thanh toán viên tiến
hành đối chiếu chứng từ với hồ sơ gốc. Thanh toán viên kiểm tra các chứng từ
45
này trong vòng 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ trước khi
giao cho khách hàng. Nếu chứng từ phù hợp hoặc thông báo chứng từ có sai
sót nhưng khách hàng vẫn chấp nhận những sai sót đó thì thanh toán viên sẽ
giao chứng từ cho khách hàng. Việc giao chứng từ cho khách hàng chỉ được
thực hiện khi khách hàng có đủ tiền để thanh toán bộ chứng từ và các chi phí
liên quan.
Với chứng từ trả chậm, nếu chứng từ phù hợp thanh toán viên yêu cầu khách
hàng cam kết chấp nhận thanh toán vào ngày đáo hạn trước khi giao chứng từ
cho khách hàng, đồng thời xác nhận bằng điện ngày đáo hạn với ngân hàng
nước ngoài.
Trong trường hợp thanh toán bộ chứng từ hay từ chối bộ chứng từ không phù
hợp, thanh toán viên phải thực hiện trong vòng 07 ngày làm việc kể từ ngày
nhận được chứng từ.
(3) Đóng hồ sơ thư tín dụng nhập khẩu
Việc đóng hồ sơ thư tín dụng nhập khẩu được thực hiện khi thư tín dụng đã
được huỷ bỏ, đã thanh toán hết số dư hoặc không còn giá trị thanh toán,đã từ
chối thanh toán và bộ chứng từ đã gửi trả lại cho ngân hàng gửi chứng từ.
Ngoài ra, với thư tín dụng không còn hiệu lực sẽ được tự động đóng hồ sơ sau
2 tháng kể từ ngày hết hạn hiệu lực của thư tín dụng.
2.2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn được đánh giá là một
trong những ngân hàng chủ chốt trong hoạt động thanh toán quốc tế tại Việt
Nam. Với tuổi đời trên 40 năm hoạt động trong lĩnh vực đối ngoại không phải
là nhiều so với các ngân hàng trên thế giới, nhưng so với các ngân hàng
thương mại Việt Nam thì Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là một trong
những ngân hàng hoạt động lâu đời nhất trong lĩnh vực này. Tuy nhiên, những
46
năm gần đây, kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu nói chung và theo phương
thức tín dụng chứng từ nói riêng của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam giảm đi. Đây cũng là những năm khó khăn chung của thị trường
thanh toán xuất nhập khẩu của nước ta. Trong giai đoạn này đánh dấu sự phát
triển rất mạnh của các Ngân hàng thương mại cổ phần và sự hiện đại hóa của
các ngân hàng quốc doanh khác. Những mối quan hệ quốc tế của các ngân
hàng này trên thị trường được mở rộng, các giao dịch trực tiếp tăng mạnh
không cần Ngân hàng Ngoại thương đứng ra làm cầu trung gian. Ta sẽ đi vào
phân tích cụ thể tình hình từng mảng thanh toán xuất khẩu và nhập khẩu theo
phương thức tín dụng chứng từ.
a) Thực trạng thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng
từ.
Trong những năm trở lại đây, hoạt động thanh toán xuất khẩu có sự giảm sút
mặc dù Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã có nhiều cố gắng trong việc
lôi kéo các khách hàng có doanh số lớn, lượng hàng xuất nhiều và giữ chân
các khách hàng truyền thống.
Bảng 2.1 : Hoạt động thanh toán xuất khẩu
tại Sở giao dịch từ năm 2003-2005
Đơn vị : Triệu USD, món
Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005
Số thư tín dụng thông báo 6923 7290 5796
Số bộ chứng từ xuất trình 3430 3870 2763
Doanh số thanh toán 289 362 280
Doanh số chiết khấu 6,89 6, 14 1,58
(Nguồn : báo cáo kết quả kinh doanh Sở giao dịch năm 2003,2004,2005)
47
Nhìn vào bảng 2.1 ta thấy doanh số chiết khấu lại liên tục giảm , tỷ lệ bộ
chứng từ được chiết khấu cũng giảm dần. Điều này cho thấy hoạt động chiết
khấu của Sở có dấu hiệu thụt lùi nghiêm trọng. Chiết khấu chứng từ hàng xuất
là một trong những hình thức tính dụng xuất nhập khẩu khá an toàn, và tạo
nguồn thu đáng kể cho ngân hàng, hơn nữa ngân hàng Ngoại thương lại rất có
thế mạnh trong mảng thanh toán xuất khẩu, đó là lợi thế không nhỏ để phát
triển hình thức tín dụng xuất nhập khẩu này. Tuy nhiên Sở giao dịch vẫn chưa
tận dụng được lợi thế này. Nguyên nhân là ngân hàng còn quá cẩn trọng trong
hoạt động chiết khấu, chính vì vậy nhiều khách hàng muốn chiết khấu chứng
từ mà không được chấp nhận. Nhiều khách hàng đã chuyển sang xuất trình
chứng từ ở các ngân hàng khác. Trong những năm tới, Sở cần phải có biện
pháp thúc đẩy hoạt động chiết khấu chứng từ hàng xuất, bởi vì sự sụt giảm
này có thể dẫn tới sự sụt giảm trong thanh toán hàng xuất, mất dần vị trí của
ngân hàng trên thị trường.
Trong năm 2005, Trung Quốc là nước chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số
thanh toán với 56tr USD, tương đương 20,31%. Hàng xuất đi Trung Quốc
chủ yếu là than đá với số lượng chứng từ ổn định có giá trị khoảng
100.000USD-500.000USD/bộ chứng từ. Các khách hàng chủ yếu có hàng
xuất đi Trung Quốc là Coalimex, Vinacoal, Than Miền Bắc… CuBa cũng là
thị trường chiếm tỷ trọng lớn trong thanh toán xuất khẩu tại Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và chiếm 10.54%. Thông thường hàng
xuất đi CuBa chủ yếu là gạo của Vinafood I. Các thư tín dụng của thị trường
CuBa thường là các thư tín dụng trả chậm 300-600 ngày sau khi xuất hàng, do
vậy doanh số thanh toán của năm 2005 thực tế là của hàng xuất vào các năm
2002,2003. Do chiến tranh, giá xăng dầu tăng, cấm vận, khủng bố nên thị
trường Iraq không còn chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số thanh toán cua Sở
giao dịch như các năm trước. Trong năm 2005, Petrolimex đã giảm đáng kể
48
số lượng và giá trị bộ chứng từ xuất trình và thanh toán qua Sở giao dịch nên
tỷ trọng của thị trường Lào và Campuchia giảm sút nghiêm trọng và đạt tương
ứng là 6,2% và 13,12%. Các thị trường khác có doanh số thanh toán không
cao do mặt hàng trị giá nhỏ, các bộ chứng từ có giá trị không lớn như Nhật
Bản là 26,99 tr USD, Hồng Kông là 16,5 tr USD, Thái Lan là 11,71 tr USD,
Đài Loan là 5,54 tr USD.
Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là than đá chiếm tỷ trọng là 43,11% do Sở giao
dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã chủ động hơn trong việc
marketing các công ty xuất khẩu than như Coalimex, Tổng Cty than Việt
Nam, Cty than miền bắc. Mặt hàng xăng dầu của Petrolimex vẫn chiếm tỷ
trọng thứ hai là 17,88%. Điều này chứng tỏ tiềm năng xuất khẩu của các công
ty xăng dầu là rất lớn. Các mặt hàng tiếp theo là gạo (9,5%), may mặc
(6,61%), thủ công mỹ nghệ (2,88%).
b) Thực trạng thanh toán nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng
từ.
Bảng 2.2 : Tình hình mở L/C nhập khẩu giai đoạn 2003-2005
Đơn vị : Triệu USD
Năm Trị giá mở thư tín dụng Số lượng thư tín dụng mở
2003 1999 3817
2004 2110 3905
2005 2163 3405
(Nguồn : Báo cáo kết quả kinh doanh phòng Thanh toán Nhập Khẩu)
Trong năm 2005, số món giao dịch thanh toán nhập khẩu tại Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam giảm rõ rệt. Nhưng trị giá mở thư tín
49
dụng lại tăng nhiều với doanh số chủ yếu thuộc về Petrolimex – chiếm gần
2/3 doanh số mở thư tín dụng tại Sở giao dịch. Năm 2005 giá xăng dầu trên
thế giới tăng nên trị giá các lô hàng nhập khẩu của các công ty kinh doanh
mặt hàng này cũng phải tăng theo và hạn mức tín dụng của Sở giao dịch Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam dành cho các công ty này luôn được sử dụng
đến mức tối đa. Ngoài ra, các khách hàng truyền thống của Sở giao dịch Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam như PTSC, Coalimex, công ty than Miền Bắc,
công ty phát triển đầu tư công nghệ FPT, công ty cổ phần hoá dầu, CTCP Gas
Petrolimex cũng luôn đạt được doanh số cao. Hầu hết các công ty này là
khách hàng đặc biệt của Sở Giao dịch có hạn mức tín dụng lớn và được mở
thư tín dụng miễn ký quỹ 100% nên các công ty này luôn là những đơn vị có
doanh số giao dịch cao tại Sở giao dịch. Các công ty vừa và nhỏ trước đây là
khách hàng của Sở giao dịch nay có xu hướng chuyển sang giao dịch tại các
ngân hàng khác. Một số khách hàng đã không thực hiện giao dịch với Sở giao
dịch nữa. Lượng giao dịch của bộ phận khách hàng này trong năm 2005 đã bị
giảm rõ rệt, số món thanh toán thư tín dụng chỉ đạt 80% so với năm 2004.
Thông thường chỉ có khách hàng có quan hệ giao dịch, thanh toán thường
xuyên qua ngân hàng và được hội đồng tín dụng xét duyệt hạn mức mới được
mở thư tín dụng miễn ký quỹ. Chính vì vậy việc mở rộng hoạt động mở thư
tín dụng miễn ký quỹ cho thấy lượng khách hàng có quan hệ thanh toán
thường xuyên với ngân hàng đã có dấu hiệu nhiều lên. Hơn nữa trong những
năm gần đây hội đồng tín dụng đã mở rộng xét duyệt hạn mức cho nhiều
khách hàng mới, đặc biệt là mở rộng đến nhiều thành phần kinh tế khác ngoài
quốc doanh. Một số công ty không nằm trong danh sách được cấp hạn mức,
có hợp đồng nhập khẩu tốt cũng được Sở xem xét cho mở thư tín dụng miễn
ký quỹ. Nhìn chung hoạt động mở thư tín dụng nhập khẩu miễn ký quỹ tại Sở
trong những năm qua đã linh hoạt hơn.
50
Tóm lại, cùng với mạng lưới ngân hàng đại lý rộng khắp và bề dày kinh
nghiệm hơn 40 năm trong nghiệp vụ thanh toán quốc tế, cùng với việc thúc
đẩy mạnh mẽ tin học hóa lĩnh vực ngân hàng, thực hiện kết nối vào mạng
thanh toán quốc tế đã góp phần hoàn thiện hơn phương thức tín dụng chứng
từ nói riêng, hoạt động thanh toán quốc tế nói chung ở Sở Giao dịch ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam. Với việc tham gia mạng SWIFT làm cho tốc
độ xử lý các giao dịch trở nên nhanh chóng, thuận tiện, việc truyền tin, dữ liệu
nhờ vậy cũng chính xác hơn. Tất cả những ưu việt trên đây, cùng với mức phí
dịch vụ được coi là hấp dẫn nhất so với những Ngân hàng thương mại khác
trong nước đã làm nên một Sở Giao dịch ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
luôn đi đầu trong việc chiếm lĩnh thị phần xuất nhập khẩu của cả nước. Ví dụ
khi khách hàng mở thư tín dụng chỉ phải trả mức phí mở là 0,11% trị giá mở
và 0,22% cho phí thanh toán, và cả hai loại phí trên chỉ chịu mức tối đa là
330USD/giao dịch, trong khi ở các Ngân hàng thương mại khác mức tối đa
này là 500-1000USD/giao dịch.
Trong những năm qua, tỷ trọng thanh toán xuất nhập khẩu bằng phương thức
tín dụng chứng từ ngày càng tăng, thường xuyên chiếm tỷ trọng trên 60%
doanh số thanh toán quốc tế tại Sở Giao dịch ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam. Điều đó cũng khẳng định chắc chắn hơn nữa những ưu việt của phương
thức thanh toán này.
2.3 ĐÁNH GIÁ THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN QUỐC
TẾ THEO PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO
DỊCH NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
2.3.1 Kết quả đạt được
Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ đã mang lại
những kết quả nhất định cho bản thân ngân hàng, cho các khách hàng và cho
cả nền kinh tế.
51
a) Đối với bản thân ngân hàng.
Vốn đã có truyền thống trong thanh toán quốc tế, Sở Giao dịch ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam không ngừng tìm cách nâng cao chất lượng dịch vụ
của mình. Việc thanh toán thư tín dụng luôn được thực hiện đúng hạn, rất
hiếm khi xảy ra việc thanh toán chậm bộ chứng từ cho ngân hàng nước ngoài,
các rủi ro tác nghiệp hầu như không xảy ra, góp một phần đáng kể giúp cho
NHNT liên tục đạt được danh hiệu Ngân hàng có chất lượng dịch vu tốt nhất
do các ngân hàng và tổ chức quốc tế trao tặng.
Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở
Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã góp phần đa dạng hóa các
sản phẩm dịch vụ cung ứng cho khách hàng, tăng năng lực cạnh tranh của
Ngân hàng Ngoại thương trên thị trường. Phát triển hoạt động này là tiền đề
quan trọng tạo điều kiện hỗ trợ các hoạt động kinh doanh khác phát triển như
hoạt động kinh doanh ngoại tệ, hoạt động ngân hàng đại lý và nhất là nghiệp
vụ tín dụng, nghiệp vụ truyền thống của các ngân hàng thương mại. Hoạt
động này đã tạo thêm nguồn thu ngoại tệ và phí dịch vụ cho ngân hàng trong
khi chi cho hoạt động này là nhỏ, mức độ rủi ro không cao, góp phần tăng lợi
nhuận. Trong nhiều năm qua, uy tín của Ngân hàng Ngoại thương nói chung
và uy tín trong hoạt động thanh toán quốc tế nói riêng đã được công nhận toàn
cầu. Thực tế về tổng kết công tác thanh toán quốc tế của Sở Giao dịch, kể từ
khi áp dụng hình thức chiết khấu chứng từ đến nay phần lớn các trường hợp
Sở Giao dịch chiết khấu đều được ngân hàng nước ngoài thanh toán.
Ngoài ra, Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam luôn luôn thực
hiện đúng những nghĩa vụ mà mình cam kết, phù hợp với luật pháp Việt Nam
và các thông lệ quốc tế. Trình độ cán bộ được nâng lên rất nhiều cả về mặt
nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học, phong cách giao dịch, ý thức chấp hành pháp
luật và các thông lệ quốc tế, có khả năng xử lý các loại hình thư tín dụng đòi
52
hỏi trình độ cao như thư tín dụng dự phòng, thư tín dụng xác nhận, thư tín
dụng giáp lưng, thư tín dụng chuyển nhượng… Các cán bộ cũng đã có được
những bài học kinh nghiệm quý báu để xử lý những bộ chứng từ xuất khẩu
một cách hoàn hảo, trong đó có cả những bộ xuất trình đến những nước bị
cấm vận, có kinh nghiệm giải quyết những tranh chấp, khiếu kiện trong quá
trình thanh toán thư tín dụng với nước ngoài.
Thông qua phát triển phương thức thanh toán tín dụng chứng từ, trình độ quản
lý, điều hành cũng được nâng lên. Ngân hàng Ngoại thương đã ban hành, bổ
sung, chỉnh sửa cơ bản các cơ chế, quy chế, quy trình liên quan đến thanh
toán thư tín dụng xuất nhập khẩu để đảm bảo thực hiện nghiệp vụ chính xác,
bảo đảm quyền lợi cho khách hàng, hạn chế rủi ro cho ngân hàng, là nhân tố
quan trọng nâng cao uy tín của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam.
b) Đối với khách hàng và nền kinh tế.
Tài trợ thông qua các nghiệp vụ thanh toán thư tín dụng giúp cho quá trình
thực hiện thanh toán của khách hàng được thông suốt, trôi chảy. Hoạt động
thanh toán quốc tế của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam từng
bước chiếm lĩnh thị trường phục vụ cho các hoạt động kinh doanh xuất nhập
khẩu. Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam chú trọng tới công tác
tư vấn khách hàng trong các giao dịch mua bán quốc tế. Nhiều khách hàng
đến với Sở Giao dịch do tin tưởng sự phục vụ của ngân hàng, nhờ ngân hàng
tư vấn chọn phương thức thanh toán thích hợp. Ví dụ với những trường hợp
bắt buộc phải mở thư tín dụng xác nhận, Sở Giao dịch đã tư vấn cho khách
hàng các ngân hàng xác nhận với mức phí xác nhận thấp, giúp giảm chi phí
cho khách hàng.
Bên cạnh đó, để nâng cao chất lượng thanh toán xuất khẩu, tránh rủi ro cho
khách hàng, công tác kiểm tra chứng từ được thực hiện bắt buộc qua nhiều
53
người trước khi gửi đi nước ngoài. Phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn,
tranh thủ sự tín nhiệm của khách hàng, Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam còn thường xuyên tài trợ mức phí thấp cho các đơn vị thu
mua hàng xuất khẩu, đặc biệt là hàng nông sản như gạo, vừa đảm bảo chính
sách khuyến nông của Nhà nước, vừa tạo điều kiện để cạnh tranh trên thị
trường.
Tài trợ thương mại quốc tế của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam, trong đó có tài trợ theo hình thức thư tín dụng trả ngay, bảo lãnh mở thư
tín dụng trả chậm và chiết khấu chứng từ xuất khẩu đã góp phần giải quyết
những khó khăn về vốn cho doanh nghiệp, góp phần giúp các doanh nghiệp
theo đuổi các mục tiêu kinh doanh của mình, tạo thêm công ăn việc làm, tăng
thu nhập cho người lao động, giảm thất nghiệp, góp phần vào công cuộc công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt là
hình thức chiết khấu truy đòi chứng từ hàng xuất. Đây là hình thức tín dụng
của ngân hàng trên cơ sở chiết khấu bộ chứng từ trước khi đến hạn thanh
toán. Với nghiệp vụ này, Sở giao dịch đã tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu có
thể thu hồi vốn tiếp tục quay vòng sản xuất bằng khoản tín dụng mà ngân
hàng cung ứng. Và để theo kịp với các chuẩn mực trong thanh toán quốc tế,
hiện nay Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam còn tiến hành thực
hiện chiết khấu miễn truy đòi. Điều này đã tạo ra một phong cách làm việc
chuẩn mực giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu có thể yên tâm khi chứng từ
của họ đã được chiết khấu.
Hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ nói riêng tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam đang phát triển không ngừng, tạo điều kiện gia tăng cho
hoạt động thanh toán qua hệ thống ngân hàng, góp phần tăng cường sự quản
54
lý của Nhà nước đối với hoạt động của các doanh nghiệp, đặc biệt là hoạt
động xuất nhập khẩu.
Tóm lại, những kết quả đạt được trong hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam là đáng khích lệ, góp phần quan trọng vào công cuộc đổi mới ngành
ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung, phục vụ đắc lực cho chiến lược
phát triển kinh tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Đối với Sở Giao
dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, dịch vụ này góp phần tăng lợi
nhuận, tăng cường sức mạnh tài chính và tạo thêm thu nhập cho nhân viên
ngân hàng. Với thị phần thanh toán xuất nhập khẩu của cả hệ thống Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam khoảng gần 30% thị phần thanh toán xuất nhập
khẩu của cả nước là kết quả mà không một ngân hàng thương mại nào ở Việt
Nam có được.
Tuy vậy hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam vẫn không tránh khỏi
những hạn chế bất cập. Chính vì vậy mà mảng thanh toán quốc tế của Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam nói chung và của Sở Giao dịch nói riêng đang
bị chia xẻ thị phần.. Việc nghiên cứu chỉ ra những hạn chế đó và tìm ra
nguyên nhân là hết sức quan trọng để có thể hoàn thiện hoạt động thanh toán
quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao dịch.
2.3.2 Một số hạn chế và nguyên nhân
a) Một số hạn chế
Thứ nhất là: Cơ cấu khách hàng còn chưa hợp lý
Kể từ đầu năm 2006, những khách hàng là các Tổng Công ty đã được tách ra
do Hội Sở chính Ngân hàng Ngoại thương quản lý. Tuy nhiên tại Sở Giao
dịch vẫn có xu hướng chú trọng vào những khách hàng lớn như Cokyvina,
PTSC, Coalimex, Vietnam Airlines … Đặc thù của những khách hàng này là
55
giao dịch thanh toán quốc tế được tiến hành thường xuyên, quy mô giao dịch
lớn, trong cùng một giao dịch tín dụng chứng từ, giao hàng và thanh toán
được tiến hành làm nhiều lần, đem lại mức thu dịch vụ cao và ổn định cho Sở
giao dịch.
Song, chính những khách hàng lớn này thường xuyên đòi hỏi chính sách phí
và lãi suất ưu đãi, đồng thời cũng dễ dàng bị những ngân hàng bạn trên địa
bàn tìm cách lôi kéo, thu hút về hoạt động với họ.
Điều này thể hiện rõ nhất trong năm 2005, Sở Giao dịch đã phải chia sẻ hoạt
động của Vietnam Airlines với ngân hàng bạn, vì vậy, doanh số cũng như thu
phí dịch vụ của Vietnam Airlines giảm sút đáng kể, ảnh hưởng không nhỏ đến
kế hoạch kinh doanh của Sở Giao dịch. Đây chính là hạn chế lớn trong công
tác thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở Giao dịch,
đòi hỏi Sở Giao dịch phải tích cực hơn nữa trong việc mở rộng mạng lưới
khách hàng, tránh việc phụ thuộc quá nhiều vào một số ít khách hàng.
Hai là: Các hình thức thanh toán bằng thư tín dụng chưa đa dạng
Đối với hàng xuất, việc chiết khấu miễn truy đòi hầu như không thực hiện,
mặc dù có những bộ chứng từ bản thân ngân hàng cũng đánh giá là sạch và uy
tín của khách hàng là lớn. Điều này gây phiền hà, không hài lòng cho khách
hàng, giảm lòng tin của khách hàng đối với Sở Giao dịch.
Đối với hàng nhập, Sở Giao dịch chủ yếu mở thư tín dụng theo hình thức
không hủy ngang, có thể có thêm xác nhận hoặc có khả năng chuyển nhượng
hoặc thư tín dụng dự phòng Bên cạnh đó, có một số thư tín dụng giáp lưng
được mở nhưng số lượng rất hạn chế, mặc dù thư tín dụng xuất khẩu có thể
xuất trình ngay tại chính Sở Giao dịch.
Ngoài ra, nhu cầu khách hàng về thư tín dụng tuần hoàn là rất lớn do đặc thù
nhập hàng thường xuyên theo định kỳ. Tuy vậy ở Sở Giao dịch vẫn chưa triển
khai mở hình thức thư tín dụng này mà chủ yếu yêu cầu khách hàng mở thư
56
tín dụng thông thường, cho phép giao hàng từng phần và có quy định rõ về
thời hạn giao hàng. Điều này là tương đối bất tiện, nhất là với những khách
hàng phải ký quỹ mở thư tín dụng, vốn của họ sẽ bị ứ đọng khá lâu, còn nếu
mở từng thư tín dụng nhỏ thì lại mất thời gian và phí giao dịch.
Ba là: Tốc độ chu chuyển thanh toán còn chậm
Thời gian kiểm tra và xử lý chứng từ thanh toán tại Sở Giao dịch Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam còn chậm, qua nhiều khâu trung gian, mất thời gian
(như qua văn thư, qua phòng thanh toán quốc tế…). Để một thư tín dụng
chính thức được phát hành ra nước ngoài, cần phải qua các khâu như xem xét
cho vay (đối với thư tín dụng mở bằng vốn vay), mua ngoại tệ (đối với thư tín
dụng ký quỹ) hay trình duyệt mở miễn ký quỹ (đối với thư tín dụng miễn ký
quỹ), sau đó phòng thanh toán nhập khẩu mở thư tín dụng (thư tín dụng này
do kiểm soát viên mở, qua kiểm soát viên kiểm soát rồi chuyển lên phụ trách
phòng kiểm tra lại và duyệt điện), cuối cùng là lên trung tâm thanh toán để
đẩy điện ra nước ngoài. Chỉ cần một khâu ùn tắc là thư tín dụng của khách
hàng sẽ bị phát hành chậm.
Công tác theo dõi ngân hàng nước ngoài trả tiền chưa cập nhật và hạch toán
cũng còn chậm, qua nhiều phòng ban liên quan, điều đó làm cho tốc độ thanh
toán bị chậm lại, giảm hiệu quả kinh doanh của khách hàng và ngân hàng.
Bốn là: Mất cân đối trong thanh toán thư tín dụng xuất và nhập khẩu
Trong nhiều trường hợp, việc thiếu hụt ngoại tệ để thanh toán thư tín dụng
nhập khẩu có giá trị lớn, dẫn đến tình trạng một số thư tín dụng này bị thanh
toán chậm và bị nước ngoài đòi lãi phạt trả chậm. Hoặc cũng có tình trạng Sở
Giao dịch phải từ chối khách hàng mở thư tín dụng thanh toán cho nước ngoài
vì đơn giản thiếu ngoại tệ để thanh toán. Nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động huy
động và hàng xuất không đủ hoặc quá ít, không có khả năng đáp ứng được
nhu cầu ngoại tệ cho hàng nhập.
57
Năm là: Còn tiểm ẩn nhiều rủi ro trong hoạt động thanh toán quốc tế theo
hình thức tín dụng chứng từ.
Đối với người xuất khẩu: Trong thực tiễn thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất
khẩu bằng L/C, thanh toán viên ngân hàng đã gặp không ít trường hợp không
thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc phải từ chối không
thanh toán cho khách, lý do là người xuất khẩu tuy đã được nhắc nhở song
vẫn không nộp chứng từ kịp thời. Chứng từ khách hàng lập còn nhiều sai sót,
khả năng kiểm soát của Sở giao dịch chưa cao, không tuân thủ những điều
kiện và điều khoản quy định trong thư tín dụng.
Trong phương thức tín dụng chứng từ thì chứng từ phù hợp có ý nghĩa quyết
định. Điều đó liên quan đến trách nhiệm phải trả tiền của ngân hàng mở hoặc
miễn trách nếu chứng từ có sai sót. Thực tế cho thấy phần lớn các chứng từ
hàng xuất của các doanh nghiệp nước ta nói chung, doanh nghiệp xuất trình
qua Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam nói riêng đều có sai sót,
vì vậy khả năng bị ngân hàng nước ngoài từ chối còn cao.
Đối với hàng nhập khẩu còn thiếu ngoại tệ hay bị động về nguồn ngoại tệ
cung ứng cho khách hàng có nhu cầu mua ngoại tệ để thanh toán, nhất là khi
có sự biến động lớn về tỷ giá giữa VND và USD. Vì vậy có nhiều trường hợp
tuy không phát sinh nợ quá hạn với nước ngoài nhưng Sở Giao dịch chưa cân
đối kịp thời ngoại tệ để thanh toán nên dẫn đến thanh toán chậm, phải chịu lãi
phạt trả chậm (dù đây không phải là hiện tượng phổ biến), làm giảm lòng tin
nơi đối tác nước ngoài. Ngoài ra, cũng phải kể đến tình trạng khi chưa đến
hạn thanh toán với nước ngoài nhưng khách hàng vẫn phải nhận nợ ngoại tệ
hay đặt mua ngoại tệ kỳ hạn, thậm chí có những khoản thư tín dụng có giá trị
lớn phải nhận nợ làm nhiều lần để đề phòng thiếu ngoại tệ, gây ra lãng phí
vốn một cách vô lý đối với doanh nghiệp.
b) Nguyên nhân
58
Thứ nhất là nhóm nguyên nhân chủ quan
Văn bản quy định quy trình thực hiện nghiệp vụ còn bất cập. Hiện tại, mặc dù
Ngân hàng Ngoại thương đã ra văn bản “Quy trình nghiệp vụ thanh toán xuất
nhập khẩu và chuyển tiền”, song cũng chỉ là sự cụ thể hoá các thông lệ quốc
tế hiện đang áp dụng như UCP500, URR522, URC525 tại Ngân hàng Ngoại
thương. Nhiều quy định còn chung chung, không cụ thể nên nhiều trường
hợp, cán bộ thanh toán không có cơ sở để giải quyết công việc. Ví dụ về chiết
khấu chứng từ, quy trình nghiệp vụ chỉ quy định: “khi chứng từ phù hợp, ngân
hàng đại lý có uy tín, khách hàng có tín nhiệm cam kết hoàn trả…”. Những
quy định này rất trừu tượng, không có chỉ tiêu cụ thể nên để đáp ứng yêu cầu
của khách hàng, Sở Giao dịch phải chiết khấu bộ chứng từ cho họ nhưng rủi
ro gặp phải là rất lớn.
Bên cạnh đó, việc đúc kết kinh nghiệm là hết sức cần thiết. Mặc dù đã có
những thông lệ quốc tế nhưng thực tế giao dịch hàng ngày rất đa dạng, phát
sinh nhều trường hợp đặc biệt mà các thông lệ quốc tế không thể đề cập hết.
Tuy nhiên tại Sở Giao dịch chưa có sự ghi nhận lại những kinh nghiệm thực
tiễn đó bằng văn bản để làm tài liệu nội bộ, đào tạo nâng cao chuyên môn
nghiệp vụ cho cán bộ. Việc truyền kinh nghiệm chủ yếu là truyền miệng, cho
từng cán bộ riêng lẻ khi phát sinh nghiệp vụ liên quan, chính vì vậy vẫn có
trường hợp lặp lại những lỗi đã gặp phải.
Thực lực tài chính của ngân hàng là một trong những yếu tố tạo nên uy tín
của ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng Ngoại thương cuối năm 2005
là 7000 tỷ đồng, tổng tài sản là 135,000 tỷ đồng, khá nhỏ so với ba ngân hàng
quốc doanh còn lại. Đây là một hạn chế không nhỏ mà Ngân hàng Ngoại
thương đang từng bước khắc phục, tăng vốn trong quá trình cổ phần hóa
đang tiến hành.
59
Việc phối hợp giữa các phòng ban chưa nhịp nhàng cũng là một yếu tố gây
nên những hạn chế trong hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín
dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Việc tổ
chức các phòng ban dựa trên cơ sở nghiệp vụ cơ bản như thanh toán xuất
khẩu, thanh toán nhập khẩu, tín dụng… Giữa các phòng ban lại chưa có sự
liên kết và chỉ đạo thống nhất một cách chặt chẽ để trao đổi thông tin, đa dạng
hoá sản phẩm dịch vụ nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Do đó
có trường hợp khách hàng muốn mở thư tín dụng bằng vốn vay thì phải làm
thủ tục vay vốn tại phòng tín dụng, sau đó lại mua ngoại tệ tại phòng kinh
doanh ngoại tệ để ký quỹ mở thư tín dụng tại phòng thanh toán nhập khẩu.
Hay khách hàng thanh toán chứng từ hàng xuất qua phòng thanh toán xuất
khẩu song lại làm thủ tục vay vốn tại phòng tín dụng, sau đó khi nhận được
tiền hàng lại chuyển sang VND hoặc các loại ngoại tệ khác tại phòng kinh
doanh ngoại tệ. Như vậy họ phải làm việc với ít nhất ba phòng trong một lần
giao dịch, mất thời gian và tốn chi phí.
Phòng thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu cũng chưa có sự phối
hợp chặt chẽ mặc dù nghiệp vụ có liên quan mật thiết với nhau. Đặc biệt trong
trường hợp mở thư tín dụng đối khai hay thư tín dụng giáp lưng, sự hợp tác
chưa ăn khớp đôi khi gây ra những thiệt hại, gây khó khăn cho khách hàng
cũng như bản thân ngân hàng.
Mạng lưới ngân hàng đại lý của Ngân hàng Ngoại thương mặc dù đã mở
rộng hơn trong những năm qua – hiện nay khoảng 1250 ngân hàng trên toàn
thế giới, nhưng vẫn là nhỏ bé so với vị thế và tiềm năng của ngân hàng. Ngân
hàng Ngoại thương cũng chỉ có tài khoản tại gần 70 ngân hàng, chủ yếu là
đồng USD tại Mỹ và đồng EUR tại một số ngân hàng ở Châu Âu, nên việc
thanh toán cho ngân hàng nước ngoài hay nhận tiền về vẫn phải qua một, hai
ngân hàng trung gian, tốn thời gian và phí ngân hàng. Bên cạnh những ngân
60
hàng thanh toán nhanh, đúng hạn như các ngân hàng của Nhật, Đài Loan,
Singapore…, còn có một số ngân hàng chưa thiện chí trong việc hỗ trợ lẫn
nhau và thiên về bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong nước về mọi giá,
nhiều khi cố tình bắt lỗi để tránh rủi ro, do vậy ảnh hưởng tới thời gian thanh
toán cho khách hàng. Ngoài ra trong quá trình phát hành thư tín dụng, còn
nhiều ngân hàng nước ngoài mà Ngân hàng Ngoại thương chưa đặt quan hệ
trao đổi khoá SWIFT, dẫn đến việc phải thông báo thư tín dụng qua một ngân
hàng thứ ba, vừa chậm trễ, vừa tốn thời gian, ảnh hưởng tới uy tín của Ngân
hàng Ngoại thương.
Ngoài ra, Công tác thẩm định khi mở thư tín dụng cũng như khi quyết định
chiết khấu một bộ chứng từ chưa được tiến hành một cách khoa học và cẩn
thận. Trừ trường hợp khách hàng sử dụng vốn vay để mở thư tín dụng, còn lại
việc thẩm định đối với từng hợp đồng ngoại thương khi tiến hành mở thư tín
dụng hầu như không được thực hiện. Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương
chủ yếu thực hiện theo hình thức hàng năm cung cấp cho khách hàng một hạn
mức mở thư tín dụng miễn ký quỹ hoặc hạn mức chiết khấu truy đòi do hội
đồng tín dụng ra quyết định, dựa trên tình hình kinh doanh và uy tín thanh
toán của đơn vị. Chính vì vậy rất nhiều trường hợp có những hợp đồng ngoại
thương an toàn, có lợi nhưng chỉ vì vượt hạn mức cho phép mà Sở Giao dịch
từ chối mở thư tín dụng hay từ chối chiết khấu bộ chứng từ cho khách hàng
dù bộ chứng từ là sạch. Ngược lại, có trường hợp Ngân hàng mở thư tín dụng
miễn ký quỹ cho khách vẫn trong hạn mức cho phép, nhưng khi có biến động
về giá hàng hoá, khách hàng gây khó khăn, chậm trễ thanh toán khi bộ chứng
từ về, làm mất uy tín của Sở Giao dịch.
Đặc biệt đối với những thư tín dụng trả chậm nhập khẩu máy móc thiết bị,
dây chuyền sản xuất thì việc thẩm định là vô cùng quan trọng nhằm giảm
thiểu rủi ro cho ngân hàng. Thực tế trong thời gian qua tại Sở giao dịch Ngân
61
hàng Ngoại thương Việt Nam rất nhiều trường hợp thẩm định dự án còn sơ
sài, chỉ mang tính hình thức hoặc để đối phó, thẩm định dự án lại không chỉ rõ
được những rủi ro có thể xảy ra của dự án. Nguyên nhân có thể do thiếu thông
tin, thời gian thẩm định ngắn, nhưng nhiều khi vì muốn duy trì quan hệ với
khách hàng truyền thống mà Sở giao dịch bỏ qua những bước quan trọng
trong quá trình thẩm định. Có thể nói chất lượng thẩm định chưa cao là
nguyên nhân chính dẫn đến những rủi ro trong nghiệp vụ bảo lãnh phát hành
thư tín dụng trả chậm của Sở Giao dịch.
Với những khách hàng mới chưa có hạn mức miễn ký quỹ mở thư tín dụng
với Sở Giao dịch, Sở không có bước thẩm định khách hàng và giao dịch ngoại
thương của khách mà luôn yêu cầu khách phải ký quỹ 100% hoặc phải qua
phòng Tín dụng vay vốn . Điều này tạo không ít khó khăn cho những khách
hàng là những công ty nhỏ và cũng là một hạn chế khiến cho lượng khách
hàng này không đến với Sở Giao dịch. Trong cơ chế mở cửa khuyến khích
ngoại thương hiện nay, bộ phận khách hàng này là không nhỏ, với một cơ chế
cứng nhắc như vậy, Sở đã tự đánh mất lợi thế của mình, bỏ ngỏ một mảng thị
trường có thể mang lại lượng phí dịch vụ đang kể.
Một nguyên nhân nữa là trình độ cán bộ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam còn nhiều hạn chế. Nước ta đã mở cửa giao lưu kinh tế quốc
tế với rất nhiều nước trên thế giới, hơn ai hết ngân hàng cần phải đi trước một
bước để tiếp cận với những kiến thức kinh tế thị trường, trong đó thanh toán
quốc tế là một trong những lĩnh vực quan trọng. ở Sở giao dịch Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam, mặc dù đã có một đội ngũ cán bộ làm công tác thanh
toán quốc tế có thể nói là uy tín nhất trong hệ thống các ngân hàng thương
mại cả nước nhưng bên cạnh đó vẫn còn những cán bộ thiếu kiến thức cần
thiết để thực hiện công việc khó khăn này. Cán bộ thanh toán thư tín dụng còn
thiếu những hiểu biết về luật pháp và những thông lệ quốc tế cũng như trình
62
độ ngoại ngữ còn hạn chế. Vì thế, họ thiếu đi khả năng tư vấn cho khách
hàng, công tác tiếp thị thu hút khách hàng chưa được chú trọng. Nhận thức
của một số cán bộ nghiệp vụ khi thực hiện các nghiệp vụ thư tín dụng chỉ coi
đó như là một phương thức thanh toán nhằm thu phí mà chưa đánh giá đúng
mức tầm quan trọng của phương thức này với tư cách là công cụ quan trọng
để tài trợ thương mại. Vì là ngân hàng thương mại đầu tiên và độc quyền
trong một thời gian dài thực hiện nghiệp vụ thanh toán quốc tế, nên có những
cán bộ không tránh khỏi tính ỷ lại, chưa chịu khó tìm hiểu nghiệp vụ mới, đặc
biệt là các nghiệp vụ liên quan đến môi trường quốc tế, thiếu tự tin trong việc
tiếp xúc và tư vấn cho khách hàng. Khả năng giao dịch trực tiếp qua điện
thoại đối với đối tác nước ngoài thì không nhiều nhân viên có thể thực hiện
được.
Hơn nữa, khả năng thu thập thông tin, đánh giá tình hình hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp còn bất cập và chưa được chú trọng dẫn đến việc
phân loại khách hàng, xem xét phương án kinh doanh của khách hàng không
chính xác. Điều này đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp vi phạm các cam kết
trong thanh toán.
Những hạn chế này một phần là do Ngân hàng chạy theo nhiệm vụ kinh
doanh trước mắt, chưa có chính sách đào tạo cán bộ toàn diện và lâu dài. Đội
ngũ cán bộ chủ chốt bị hẫng hụt, cán bộ thâm niên có ý thức trách nhiệm cao
lại thiếu kiến thức thị trường, lớp cán bộ trẻ nhạy bén với những cái mới
nhưng trình độ chuyên môn còn chưa sâu.
Chương trình công nghệ là công cụ hỗ trợ đắc lực cho các nghiệp vụ của
Ngân hàng. Từ khi chương trình Trade Finance được chính thức đưa vào hoạt
động, bên cạnh những mặt tích cực cũng gây ra một số khó khăn như: tác
nghiệp của các thanh toán viên tăng lên nhiều so với chương trình cũ. Điều
này ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ phục vụ khách hàng của Sở Giao dịch.
63
Hơn nữa, việc thực hiện các tác nghiệp trong Trade Finance còn rất nhiều
phần phải thực hiện bằng tay, làm mất thời gian, trong khi chương trình hoàn
toàn có thể hỗ trợ. Việc thay đổi địa chỉ, mã SWIFT của các ngân hàng nước
ngoài không được cập nhật trên hệ thống khiến cho việc tra soát của thanh
toán viên gặp nhiều khó khăn. Về số liệu báo cáo, Adhoc Report ra đời đầu
năm 2006 là một bước ngoặt lớn của việc làm báo cáo, tuy nhiên chương trình
này sẽ tốt hơn nhiều nếu có thể tự động cập nhật số liệu.
Thứ hai là nhóm nguyên nhân khách quan.
Các văn bản, chính sách vĩ mô của Nhà nước còn thiếu ổn định, thường xuyên
bị điều chỉnh. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến các bên trong thanh toán
quốc tế bằng thư tín dụng. Như chính sách thương mại, Chính phủ và các bộ
ngành có liên quan thường xuyên có những thay đổi về danh mục các mặt
hàng được phép xuất nhập khẩu, biểu thuế áp dụng đối với từng mặt hàng,
điều kiện để doanh nghiệp đươc phép hoạt động xuất nhập khẩu, song thời
gian kể từ khi ra quyết định đến khi quyết định có hiệu lực thi hành thường là
ngắn, không đủ để các doanh nghiệp dự tính sắp xếp kế hoạch cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Có những mặt hàng trước kia cho phép nhập
khẩu, song do tình trạng hàng nhập về quá nhiều, ảnh hưởng đến sản xuất
trong nước nên Chính phủ lại cấm nhập khẩu làm cho các doanh nghiệp rất
khó khăn trong hướng giải quyết vì đã làm thủ tục mở thư tín dụng nhập khẩu,
có nghĩa vụ phải thanh toán khi người bán giao hàng và xuất trình bộ chứng
từ hoàn hảo.
Trong hoạt động xuất nhập khẩu các thủ tục hành chính còn rườm rà, chưa có
sự liên kết phối hợp giữa các ban ngành, các quy định còn chồng chéo gây
phiền toái cho khách hàng, tốn kém thời gian và chi phí. Chính phủ cũng chưa
xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi tham gia hoạt động
xuất nhập khẩu. Ngoài ra, quy định về mở thư tín dụng trả chậm chưa rõ ràng,
64
nhiều doanh nghiệp coi đây như là một hình thức tài trợ vốn vay dài hạn,
tranh thủ nguồn vay của nước ngoài mở thư tín dụng trả chậm tràn lan, tiền
hàng thu được lại quay vòng khiến cho đến khi thư tín dụng không thanh toán
được dẫn đến ngân hàng phải đứng ra trả thay.
Tỷ giá hối đoái không ổn định, thị trường ngoại hối chưa phát triển dẫn đến
những cơn sốt về ngoại tệ, khan hiếm nguồn ngoại tệ phục vụ thanh toán thư
tín dụng nhập khẩu, nhất là thư tín dụng trả chậm khiến doanh nghiệp thiệt
thòi, giảm hiệu quả kinh doanh và gây khó khăn cho ngân hàng trong việc
giục khách hàng thanh toán.
Thêm vào đó, môi trường pháp lý cho hoạt động thanh toán quốc tế còn thiếu
và chưa đồng bộ. Chính phủ chưa có văn bản pháp lý về hoạt động thanh toán
quốc tế, nhất là những quy định cụ thể về việc hướng dẫn áp dụng các thông
lệ quốc tế như UCP, INCOTERMS, hoạt động thanh toán quốc tế chưa thực
sự được bảo vệ bởi một hành lang pháp lý khi có tranh chấp xảy ra. Một số
văn bản của Ngân hàng Nhà nước quy định chưa cụ thể, gây ra sự hiểu biết
khác nhau giữa thực tế diễn ra tại các ngân hàng và thanh tra ngân hàng Nhà
nước dẫn đến áp dụng không thống nhất, gây ra sự cạnh tranh không lành
mạnh giữa các ngân hàng.
Tình trạng cán cân thanh toán Việt Nam luôn thâm hụt cũng làm ảnh hưởng
tới hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng
chứng từ nói riêng. Đây là nguyên nhân trực tiếp gây ra tình trạng mất cân đối
giữa thanh toán xuất khẩu và thanh toán nhập khẩu tại các ngân hàng. Cán cân
thanh toán quốc tế thâm hụt cũng dẫn đến mất cân đối giữa cung và cầu ngoại
tệ, ảnh hưởng tới khả năng chi trả ngoại hối của các ngân hàng thương mại,
do vậy ảnh hưởng tới việc đáp ứng nhu cầu về nguồn ngoại tệ phục vụ thanh
toán cho đối tác nước ngoài.
65
Sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng thương mại trong nước và các
ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng là một trong những yếu
tố chính làm cho thị phần thanh toán quốc tế nói riêng và theo phương thức
tín dụng chứng từ nói chung của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam bị chia xẻ. Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có tới gần 100 ngân hàng hoạt
động kinh doanh, mặt khác từ năm 1990 trở lại đây, Nhà nước đã cho phép
các ngân hàng đủ điều kiện có thể mở rộng hoạt động của mình sang lĩnh vực
hoạt động kinh doanh đối ngoại, Ngân hàng ngoại thương không còn giữ vị trí
độc quyền. Được phép hoạt động thanh toán quốc tế, nhận thấy những lợi ích
to lớn do hoạt động này mang lại, các ngân hàng mới bước vào lĩnh vực này
đã tìm mọi cách để kéo khách hàng về phía mình như áp dụng chế độ cho vay
tài trợ xuất nhập khẩu rất thoáng với thủ tục đơn giản, tốc độ giải ngân nhanh,
ưu tiên trong mua bán ngoại tệ, áp dụng tỉ lệ phí thấp. Họ đã thu hút được một
lượng lớn khách hàng truyền thống của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam.
Bên cạnh đó, một số doanh nghiệp hiện nay có cổ phần trong các ngân hàng
thương mại cổ phần nên họ chủ yếu hoạt động tại ngân hàng của mình, chỉ
giao dịch với Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam để duy trì
quan hệ.
Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam cũng đang nỗ lực
thiết lập quan hệ với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam, trong
đó có cả các doanh nghiệp lớn là khách hàng truyền thống của Sở Giao dịch
như Tổng Công ty than Việt Nam, Tổng công ty lương thực miền bắc…
Những ngân hàng này có nhiều ưu thế như có tiềm lực về vốn ngoại tệ, có
trình độ quản lý chuyên môn cao, có công nghệ hiện đại. Họ chủ động tìm
hiểu những nhu cầu lợi ích mà khách hàng trông đợi, giao thư tín dụng tận tay
khách hàng, thu hút khách hàng mới bằng việc hạ thấp phí dịch vụ, lãi suất
66
cho vay chiết khấu và mức ký quỹ mở thư tín dụng, sau một thời gian mới
nâng lên một cách hợp lý. Họ phối hợp tín dụng thanh toán trong một chu
trình khép kín, đơn giản hoá các thủ tục, cố gắng để khách hàng chỉ phải giao
dịch tại một phòng, thậm chí một nhân viên. Những yếu tố này đã thực sự thu
hút được khách hàng, làm thị phần của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam trong những năm qua bị giảm đáng kể.
Bất cập trong kiến thức ngoại thương, hành vi đạo đức của khách hàng
cũng là một trong những nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển phương thức
tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. Bước
ra từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, kinh nghiệm và sự am hiểu về
thông lệ và tập quán quốc tế trong kinh doanh còn hạn chế dẫn đến việc các
doanh nghiệp Việt Nam không tránh khỏi những sơ hở khi ký kết hợp đồng
ngoại thương, không đề phòng rủi ro để đến khi xảy ra vụ việc phải gánh chiụ
thiệt thòi. Trong khi đó, thực lực tài chính của các đơn vị còn quá yếu kém
nên hoạt động kinh doanh chủ yếu lại dựa vào vốn vay của ngân hàng. Do vậy
khi doanh nghiệp Việt Nam bị nước ngoài lừa đảo, thua lỗ sẽ liên quan trực
tiếp đến chất lượng hoạt động tín dụng và hoạt động thanh toán quốc tế của
ngân hàng.
Ngoài ra, cũng do các hợp đồng ngoại thương quy đinh thiếu chặt chẽ, khách
hàng phía VN thiếu thông tin thương mại, chưa nắm chắc đối tác kinh doanh
của mình trên thương trường quốc tế đồng thời, người nhập khẩu chưa coi
trọng vai trò tham mưu của ngân hàng trong việc ký kết hợp đồng. Tất cả
những điều này đã khiến cho ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc giao
dịch với đối tác nước ngoài của người nhập khẩu hoặc ngân hàng thông báo
theo hợp đồng quy định do có quan hệ đại lý, và việc sửa đổi, khắc phục hậu
quả sẽ gây nhiều phiền phức, tốn kém cả về thời gian và tiền bạc. Thiếu kiến
thức về ngoại thương cũng khiến các doanh nghiệp Việt Nam thường bị đối
67
tác nước ngoài đẩy vào những tình trạng bất lợi như phải mở Thư tín dụng
xác nhận, trong khi không yêu cầu đối tác phải có bảo lãnh thực hiện hợp
đồng, thoả thuận phía nước ngoài bao tiêu sản phẩm nhưng lại không yêu cầu
họ mở Thư tín dụng đối ứng, để nước ngoài lừa bán sản phẩm chất lượng
không cao...
Đối với khách hàng mới tham gia nghiệp vụ xuất khẩu, do những yêu cầu
nghiêm ngặt của chứng từ trong thanh toán mà đặc biệt là chứng từ thanh toán
theo phương thức Thư tín dụng rất khó khăn để lập được một bộ chứng từ
phù hợp với những điều kiện và điều khoản của Thư tín dụng khi mà bản thân
lại chưa hiểu gì về nó.Trong thực tiễn thực hiện nghiệp vụ thanh toán xuất
khẩu bằng Thư tín dụng, thanh toán viên ngân hàng đã gặp không ít trường
hợp không thực hiện đúng thời hạn kiểm tra chứng từ hoặc buộc phải từ chối
không thanh toán cho khách, lý do là người xuất khẩu tuy đã được nhắc nhở
song vẫn không nộp chứng từ kịp thời hay lập bộ chứng từ không khớp với
Thư tín dụng như mô tả sai hoặc không đầy đủ về hàng hoá.
Bên cạnh đó cũng phải đề cập tới sự cố tình và thiếu trung thực, vi phạm các
cam kết với ngân hàng của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
trong nước. Các tranh chấp phát sinh trong quá trình thanh toán hàng nhập
khẩu bằng thư tín dụng không chỉ bắt nguồn từ sự không trung thực của đối
tác nước ngoài mà nhiều trường hợp do các doanh nghiệp trong nước gây ra.
Ngoài việc thiếu hiểu biết, thiếu thông tin trong kinh doanh xuất nhập khẩu,
nhiều doanh nghiệp trong nước vì chỉ quan tâm đến lợi nhuận trước mắt mà vi
phạm những cam kết của mình với ngân hàng. Khách hàng được ngân hàng
phát hành bảo lãnh nhận hàng trước khi bộ chứng từ về và cam kết chấp nhận
thanh toán. Nhưng trên thực tế vẫn có trường hợp khách hàng chậm trễ không
chịu thanh toán do những nguyên nhân khách quan như có sự biến động giá
cả trên thị trường tiêu thụ, hàng nhập về không bán được hay có bán được
68
cũng bị lỗ, doanh nghiệp không có khả năng thanh toán cho ngân hàng. Tuy
nhiên cũng có trường hợp doanh nghiệp cố tình vi phạm, khi đã bán hết hàng
vẫn không chịu thanh toán cho ngân hàng mà đem tiền đó tiếp tục đầu tư kinh
doanh, thua lỗ và mất khả năng thanh toán.
Trên đây là những nét khái quát về hoạt động thanh toán quốc tế theo phương
thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
trong thời gian qua, cùng với những kết quả đã đạt được cũng như nhưng hạn
chế còn tồn tại và nguyên nhân. Phát triển hoạt động này được coi là một mặt
không thể thiếu được trong hoạt động kinh doanh của Sở Giao dịch, nó bổ
sung và hỗ trợ cho các mặt hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng như mở
rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, giúp đỡ các doanh nghiệp
nước ta trong vấn đề vốn, hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu để cuối cùng thu
được phí dịch vụ từ hoạt động thanh toán này ngày càng nhiều hơn. Chính vì
vậy việc nghiên cứu để đề ra những giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn hiện
hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao
dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam là điều cần thiết.
69
CHƯƠNG 3: HOÀN THIỆN HOẠT THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
3.1. CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2006-2010
3.1.1 Mục tiêu tổng quát
Trước những yêu cầu cấp bách của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Ngân
hàng Ngoại thương Việt Nam đã xác định một mục tiêu cụ thể hơn, với mục
đích trở thành “Tập đoàn tài chính đa năng có quy mô đứng trong số 70 tập
đoàn tài chính lớn nhất ở Châu á vào giai đoạn 2010-2020, có phạm vi hoạt
động không những trong nước mà cả tại thị trường tài chính thế giới”.
Mục tiêu trên là hoàn toàn có cơ sở dựa trên thành quả đã đạt được sau 5 năm
thực hiện Đề án tái cơ cấu cũng như các số liệu về tốc độ tăng trưởng và vị trí
hiện tại của Ngân hàng Ngoại thương: năm 2004 Ngân hàng Ngoại thương
xếp thư 748 trong số 1000 ngân hàng lớn nhất thế giới3, tăng 10 bậc so với
năm 2003. Trong khu vực châu á (không kể Nhật Bản), Ngân hàng Ngoại
thương hiện xếp thứ 127 về vốn chủ sở hữu và thứ 119 tính theo tổng tài sản.
Tốc độ tăng trưởng dự kiến của Ngân hàng Ngoại thương trong thời gian tới
là 15%/năm.
Tuy nhiên khoảng cách giữa Ngân hàng Ngoại thương và 50 ngân hàng lớn
nhất châu lục còn khá xa, ngân hàng lớn nhất châu á có quy mô vốn lớn gấp
70 lần so với Ngân hàng Ngoại thương, ngân hàng xếp thứ 50 có quy mô vốn
lớn hơn 4 lần. Điều này đòi hỏi Ngân hàng Ngoại thương phải có những giải
pháp mạnh hơn nữa trong thời gian tới.
3.1.2 Nhiệm vụ chiến lược
3 Nguồn các thông tin xếp hạng: Tạp chí The Banker (số tháng 7 & 10 năm 2004)
70
Cụ thể hoá mục tiêu trên của toàn hệ thống, dựa trên kết quả đạt được trong
những năm qua, kết hợp việc phân tích, đánh giá cũng như tìm hiểu dự báo
tình hình kinh tế thị trường trong thời gian tới, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương tập trung triển khai những nhiệm vụ chính sau:
Một là, chú trọng công tác huy động vốn, thu hút tiền gửi từ khách hàng, đặc
biệt quan tâm nhiều tới tiền gửi của các khách hàng truyền thống, làm ăn có
hiệu quả. Quán triệt công tác marketing khách hàng tới từng phòng nghiệp vụ,
từng cán bộ, mở rộng có lựa chọn việc cho vay khách hàng với lãi suất ưu đãi
và thường xuyên thanh toán qua Sở Giao dịch.
Hai là, tích cực thúc đẩy và nâng cao chất lượng công tác huy động tiền gửi
tiết kiệm cả ngoại tệ và VND, tập trung thu hút tiền gửi có kỳ hạn và kỳ hạn
dài (trên 6 tháng) nhằm ổn định nguồn vốn trong hoạt động kinh doanh. Rà
soát lại hoạt động của các Phòng Giao dịch, mở rộng có chọn lọc mạng lưới
các Phòng giao dịch tại các khu vực dân cư đông đúc và giao dịch thuận tiện.
Xem xét bổ sung chức năng, nhiệm vụ của từng phòng nghiệp vụ nhằm phục
vụ có hiệu quả cao tất cả các đối tượng khách hàng. Chú trọng các giải pháp
huy động vốn trung dài hạn nhằm cải thiện tính thanh khoản trong hoạt động
kinh doanh.
Ba là, tiếp tục mở rộng tín dụng đi đôi với an toàn, hiệu quả, kết hợp giữ
khách hàng truyền thống thuộc thành phần kinh tế quốc doanh và phát triển
khách hàng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ. Tăng tỷ trọng nợ vay của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các
khách hàng thể nhân bằng việc cho vay có tài sản đảm bảo.
Tập trung cao và quan tâm thích đáng đến việc giải quyết nợ quá hạn, không
để nợ quá hạn phát sinh từ các hợp đồng tín dụng mới, kết hợp giải quyết nợ
tồn đọng theo để án giải quyết nợ tồn đọng của Ngân hàng Ngoại thương.
71
Bốn là, triển khai thực hiện nghiêm túc các văn bản liên quan đến Quy trình,
quy định về nghiệp vụ, đặc biệt quan tâm đến công tác quản trị rủi ro kết hợp
hài hoà với quan hệ khách hàng. Chấn chỉnh và thực hiện tốt công tác ngân
quỹ, chủ động việc đào tạo và đào tạo lại cán bộ nghiệp vụ. Tăng cường công
tác đào tạo chuyên môn nghiệp vụ cho nhân viên để nâng cao chất lượng phục
vụ khách hàng và khai thác được thế mạnh về công nghệ của Ngân hàng
Ngoại thương.
Năm là, sử dụng linh hoạt đòn bảy kinh tế như lãi suất, tỷ giá, phí dịch vụ, phí
hoa hồng để thu hút khách hàng, kết hợp với việc cải thiện chất lượng dịch vụ
và quảng bá rộng rãi sản phẩm của Ngân hàng Ngoại thương.
Sáu là, tăng cường công tác quản trị điều hành của Ban Giám đốc Sở Giao
dịch, giữ vững và nâng cao kỷ luật, kỷ cương trong điều hành hoạt động, phát
huy tích cực tính năng động sáng tạo trong công việc, tính độc lập tự chủ tại
các phòng nghiệp vụ thuộc Sở giao dịch.
Bảy là, ổn định tổ chức và lao động của các phòng ban tại Sở Giao dịch, xây
dựng cơ cấu hợp lý phù hợp với tình hình hoạt động kinh doanh của Sở Giao
dịch trong thời gian tới.
Tám là, đổi mới và tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, tăng
cường số lượng và chất lượng cán bộ kiểm tra đảm bảo tính hệ thống thống
nhất trong kiểm tra.
Chín là, trang bị các trang thiết bị cần thiết cho các phòng nghiệp vụ để thuận
lợi trong tác nghiệp của các phòng.
3.1.3 Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Sở Giao
dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam
Hoạt động thanh toán quốc tế ngày càng trở nên quan trọng, gắn bó mật thiết
với các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng thương mại. Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam xác định mục tiêu phải giữ vững và tăng
72
cường uy tín trong hoạt động đối ngoại của Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam, nâng cao hiệu quả hoạt động thanh toán quốc tế. Mở rộng quan hệ đại
lý để tranh thủ vốn, kỹ thuật và đặc biệt là kinh nghiệm quản lý tiên tiến. Sở
Giao dịch cố gắng giữ vững vai trò là ngân hàng hàng đầu về thanh toán quốc
tế trong cả nước, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh và hội nhập quốc tế về
thanh toán quốc tế, xác lập điều kiện và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng để
hội nhập với cộng đồng tài chính quốc tế.
Để cụ thể hoá mục tiêu trên, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đã đề ra kế
hoạch triển khai bao gồm các nội dung chính sau:
(1) Cơ cấu lại các mảng hoạt động thanh toán quốc tế theo mô hình tiên tiến,
hiện đại gồm các khối tài trợ thương mại quốc tế, khối trung tâm chuyển tiền,
khối định chế tài chính, phù hợp với chiến lược và đề án tái cơ cấu của Ngân
hàng Ngoại thương.
(2) Từng bước mở rộng hoạt động ngân hàng kể cả hoạt động thanh toán quốc
tế tại một số vùng biên giới có tiềm năng về hàng mậu dịch cũng như tại một
số trung tâm tài chính quốc tế lớn. Hiện tại Ngân hàng Ngoại thương đã có
chi nhánh tại Hồng Kông và đang chuẩn bị thành lập một trung tâm chuyển
tiền tại Mỹ. Ngân hàng Ngoại thương cũng đạt ra mục tiêu thành lập chi
nhánh tại châu Âu, các chi nhánh này sẽ góp phần mở rộng kinh doanh quốc
tế, hỗ trợ kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư ra nước ngoài cũng như cung cấp
các thông tin quan trọng ở các thị trường này cho các doanh nghiệp trong
nước.
(3) Nâng cao trình độ về thanh toán quốc tế của Sở Giao dịch Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam bắt kịp với các chuẩn mực quốc tế và tập quán ngân
hàng quốc tế trong từng lĩnh vực. Định hướng cho việc tập trung phát triển
một số nghiệp vụ của ngân hàng quốc tế mà Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam đã có thế mạnh.
73
(4) Củng cố và không ngừng mở rộng quan hệ đối ngoại với các ngân hàng, tổ
chức tín dụng quốc tế kể cả việc mở rộng quan hệ đại lý với các ngân hàng
khắp các địa lục và vùng lãnh thổ, đặc biệt quan tâm đến khu vực châu Phi và
Nam Mỹ nhằm đáp ứng nhu cầu xúc tiến thương mại và đẩy mạnh xuất khẩu
hàng hoá dịch vụ của nước ta sang các nước thuộc khu vực này cũng như đáp
ứng nhu cầu mở rộng hoạt động đầu tư tài chính quốc tế của Ngân hàng Ngoại
thương.
Để thực hiện được những mục tiêu trên, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam cần hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và
theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng, đưa ra các giải pháp cụ thể,
khả thi, đồng thời có những kiến nghị lên Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
cũng như với khách hàng.
3.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT THANH TOÁN QUỐC TẾ THEO
PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ TẠI SỞ GIAO DỊCH
NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM
3.2.1 Hoàn thiện văn bản quy định cho việc thực hiện hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
Đây là cơ sở để thanh toán viên có thể thực hiện nghiệp vụ một cách thống
nhất và chính xác.
Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, Ngân hàng Ngoại thương cần bổ sung
quy trình thanh toán quốc tế bằng thư tín dụng theo phương thức chiết khấu
miễn truy đòi. Ngoài ra cũng cần phải xem xét trường hợp chiết khấu truy đòi
đối với thư tín dụng trả chậm cho khách hàng mà không cần chờ sự chấp nhận
của ngân hàng phát hành miễn là bộ chứng từ xuất trình phù hợp với các điều
khoản và quy định trong thư tín dụng. Quy trình cũng cần bổ sung trường hợp
chứng từ có sai sót và thanh toán, thanh toán viên gửi điện từ chối thanh toán
cho ngân hàng phát hành, trong nội dung điện nên ghi rõ “Chúng tôi đang giữ
74
bộ chứng từ chờ sự định đoạt và rủi ro thuộc về phía các ông. Chúng tôi sẽ
thanh toán cho các ông ngay khi người mua đồng ý mà không cần chỉ thị
thêm từ phía các ông”. Điều này để tránh trường hợp bộ chứng từ đã từ chối
nhưng sau đó người mua lại chấp nhận thanh toán để nhận bộ chứng từ, trong
khi bên người bán lại đã thu xếp để đưa lô hàng đi bán ở nơi khác, khi ấy sẽ
xảy ra tranh chấp.
Các quy định về điều kiện để xác nhận thư tín dụng cũng rất quan trọng, đó là
cơ sở để thanh toán viên quyết định có nên cộng thêm sự cam kết chắc chắn
của Sở Giao dịch vào cam kết chắc chắn của ngân hàng phát hành theo yêu
cầu và để thực hiện thanh toán trước cho doanh nghiệp xuất khẩu khi họ xuất
trình bộ chứng từ phù hợp với các quy định của thư tín dụng. Các điều kiện
này bao gồm: ngân hàng phát hành là ngân hàng có quan hệ đại lý với Ngân
hàng Ngoại thương, ngân hàng phát hành có uy tín cao, giao dịch thường
xuyên với Ngân hàng Ngoại thương và luôn thực hiện tốt các khoản thanh
toán, các điều kiện, điều khoản của thư tín dụng là rõ ràng, không có bất cứ
điểm nào gây bất lợi cho việc lập và xuất trình chứng từ (tức là khả năng thực
hiện thư tín dụng cao).
Việc thực hiện nhiều loại thư tín dụng như thư tín dụng chuyển nhượng, thư
tín dụng điều khoản đỏ, thư tín dụng tuần hoàn vẫn chưa được hướng dẫn,
quy định cụ thể bằng văn bản của Ngân hàng Ngoại thương. Hiện nay nhu cầu
của các doanh nghiệp về những loại thư tín dụng này đã phát sinh rất nhiều
nhưng trong quy định của Ngân hàng Ngoại thương vẫn chưa có, gây khó
khăn cho thanh toán viên khi thực hiện và họ chủ yếu phải dựa vào thông lệ
quốc tế cũng như tự đưa ra những phương thức thực hiện, những biện pháp
phòng ngừa rủi ro một cách chủ quan.
3.2.2 Thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ
Thứ nhất: Đối với thư tín dụng xuất khẩu
75
Đây là phương thức có tính an toàn cao đối với các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt Nam, tuy nhiên việc thực hiện theo phương thức này tương đối phức tạp.
Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam với vai trò là ngân hàng
phục vụ người xuất khẩu cần thiết phải phát triển nghiệp vụ này một cách an
toàn và thuận lợi cho khách hàng. Đối với các loại thư tín dụng đang thực
hiện thanh toán qua Sở Giao dịch, trong khâu kiểm tra thư tín dụng nhận
được, để tạo điều kiện cho việc theo dõi quản lý hoạt động thanh toán xuất
cũng như tư vấn cho khách hàng khi cần thiết, ngoài những nội dung Sở Giao
dịch bắt buộc phải kiểm tra theo quy định của thông lệ quốc tế, các thanh toán
viên nên kiểm tra thêm một số vấn đề thuộc về nội dung của thư tín dụng như:
số thư tín dụng, địa điểm mở thư tín dụng là nơi ngân hàng mở cam kết trả
tiền cho nhà xuất khẩu, ngày mở thư tín dụng là ngày ngân hàng mở chính
thức cam kết trả tiền cho nhà xuất khẩu đồng thời là ngày tính thời hạn hiệu
lực của thư tín dụng, từ đó có thể lưu ý khách hàng về sự phù hợp giữa ngày
mở thư tín dụng trên thư tín dụng và trên hợp đồng ngoại thương, giữa ngày
mở thư tín dụng và ngày giao hàng.
Sở Giao dịch cần đề cao vai trò tư vấn cho khách hàng về danh sách các ngân
hàng nước ngoài có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương. Nếu ngân
hàng mở không có quan hệ đại lý với Ngân hàng Ngoại thương thì lưu ý
khách hàng về uy tín và khả năng thanh toán của ngân hàng đó. Trong trường
hợp ngân hàng mở thư tín dụng chỉ định một ngân hàng khác trả tiền thư tín
dụng, néu cần thiết Sở Giao dịch tư vấn cho khách hàng có nên đổi ngân hàng
trả tiền hay không, hay yêu cầu xác nhận của ngân hàng có uy tín hơn nhất là
khi thư tín dụng được phát hành từ ngân hàng ở một quốc gia có nhiểu rủi ro.
Trong một vài năm trở lại đây, một số ngân hàng nước ngoài thường mở thư
tín dụng trong đó họ dựa vào những điều khoản, mà những điều khoản này
tạo cho họ khả năng trốn tránh một phần hoặc toàn bộ trách nhiệm của những
76
lời cam kết mà đáng lý ra họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm. Nếu những
điều khoản của thư tín dụng để cập việc trả tiền phụ thuộc vào thiện chí cảu
một số yếu tố can thiệp khác hay của bản thân người ra lệnh đều dẫn đến
những cam kết thanh toán của ngân hàng phát hành thư tín dụng trở nên vô
hiệu như phải có sự đồng ý của người ra lệnh, hoặc cảu chính quyền nước
nhập khẩu, phải có sự đồng ý trước của Ngân hàng Trung ương về việc cấp
ngoại tệ hay việc trả tiền được thực hiện sau khi nhận được tiền từ bên thứ ba
nào đó.
Thời gian hiệu lực và nơi hêt hạn hiệu lực của thư tín dụng là một trong các
yếu tố quan trọng để lưu ý khách hàng xem có thể giao hàng và lập bộ chứng
từ kịp thời hạn hay không hoặc để có cơ sở yêu cầu sửa đổi thư tín dụng. Thời
gian hiệu lực của thư tín dụng phải đủ để thực hiện các công việc cần thiết
liên quan đến quốc tế thanh toán như: thông báo thư tín dụng, giao hàng và
lập chứng từ, xuất trình tại ngân hàng nơi hết hạn thư tín dụng. Thanh toán
viên cũng cần kiểm tra các quy định về chứng từ cần xuất trình, kiểm tra xem
có điều khoản nào gây khó khăn cho người xuất khẩu trong quá trình lập
chứng từ hay không.
Khi kiểm tra bộ chứng từ hàng xuất, thanh toán viên cần nghiên cứu kỹ các
yêu cầu trong thư tín dụng để chỉ dẫn cho khách hàng cách sửa bộ chứng từ
cho phù hợp, tránh những trường hợp bị ngân hàng trả tiền từ chối thanh toán
với những lý do hoàn toàn có thể khắc phục được trước khi gửi đi ngân hàng
nước ngoài.
Thứ hai: đối với thư tín dụng nhập khẩu
Khi phát hành thư tín dụng loại này, Sở Giao dịch cần đảm bảo các điều kiện,
điều khoản chặt chẽ, tránh những điểu khoản gây bất lợi cho ngân hàng và
khách hàng hoặc những điều khoản mơ hồ, khó hiểu, dễ gây ra những tranh
chấp hoặc dễ bị đối tác nước ngoài lợi dụng. Nếu là thư tín dụng đòi tiền bằng
77
điện thì phải xem xét kỹ lưỡng uy tín của ngân hàng người hưởng vì lúc này
chỉ cần nhận được điện xác nhận của ngân hàng người hưởng rằng bộ chứng
từ hoàn hảo là ngân hàng đã phải trả tiền trong vòng ba ngày làm việc.
Trường hợp nhà nhập khẩu mua hàng theo giá FOB thì Sở Giao dịch nên yêu
cầu nhà nhập khẩu cam kết mua bảo hiểm cho lô hàng trước khi tiến hành mở
thư tín dụng, đặc biệt là những thư tín dụng mở bằng vốn vay ngân hàng.
Một điều quan trọng nữa là Sở Giao dịch luôn phải tuân thủ đúng những quy
định của UCP đã dẫn chiếu trong thư tín dụng. Trách nhiệm thanh toán của
ngân hàng là rất lớn và rủi ro cao nên khi nhận được bộ chứng từ xuất trình
thì nhất thiết Sở Giao dịch phải nhanh chóng kiểm tra chứng từ một cách cẩn
thận. Ngoài ra, để đảm bảo quyền lợi chính đáng cho cả nhà nhập khẩu và
ngân hàng, Sở Giao dịch cũng phải luôn giữ mối liên hệ chặt chẽ với người
yêu cầu mở thư tín dụng để hạn chế những tranh chấp thương mại. Đây là
điều rất cần thiết đối với nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ. Ngân hàng có bảy ngày làm việc kể từ ngày nhận được chứng từ để
xử lý cũng như xem xét chứng từ. Trong thời gian này ngân hàng phải kiểm
tra chứng từ, nếu chứng từ phù hợp với các điều khoản, điều kiện trong thư tín
dụng thì phải yêu cầu khách hàng thanh toán ngay. Nếu bộ chứng từ có sai
sót, ngân hàng phải thông báo cho nhà nhập khẩu về tình trạng bộ chứng từ để
từ đó có thể ra quyết định từ chối hay chấp nhận thanh toán. Trong trường
hợp từ chối, ngân hàng phải làm điện từ chối gửi ngân hàng nước ngoài và
thông báo một lần toàn bộ lỗi của bộ chứng từ. Điều này là vô cùng quan
trọng vì nếu hàng hoá có vấn đề thì có thể trì hoãn thanh toán hoặc buộc
người bán phải chịu một phần rủi ro mà không vi phạm UCP.
3.2.3 Kết hợp hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu với hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ .
78
Hoạt động ngoại thương ngày càng phát triển do nhu cầu hội nhập với
khu vực và trên thế giới dẫn đến hình thức thanh toán quốc tế được mở rộng
và đa dạng hơn. Môĩ một hình thức thanh toán đòi hỏi có một hình thức tài trợ
về tài chính tương ứng, phục vụ và đảm bảo cho nó. Hoạt động tín dụng xuất
nhập thuận lợi bao nhiêu thì quan hệ thương mại được mở rộng và phát triển
bấy nhiêu. Chất lượng hoạt động tín dụng mà tốt đẹp sẽ tạo điều kiện thuận
lợi cho quá trình lưu thông hàng hóa, tăng thêm sức mạnh cạnh tranh của
doanh nghiệp, đồng thời nâng cao uy tín và vị thế của ngân hàng trên trường
trong nước và trường quốc tế.
Ở các nước phát triển, tín dụng ngân hàng được thực hiện chủ yếu bởi
các ngân hàng thương mại tư nhân lớn, dưới các hình thức như: cầm cố hàng
hoá,cần cố chứng từ hàng hoá, hối phiếu và cho vay thấu chi..... và hầu hết tín
dụng ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là tín dụng ngắn
hạn. Tín dụng ngân hàng cấp cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu là tín
dụng ngắn hạn. Tín dụng ngân hàng có tín ưu việt hơn tín dụng thương mại
(là loại tín dụng giữa các doanh nghiệp cấp lẫn nhau cho vay, không có sự
tham gia của ngân hàng) bởi vì không có quan hệ với hợp đồng mua bán và
do đó, nó tạo khả năng cho người đi vay sử dụng tín dụng để mua bất cứ loại
hàng hoá nào. Tín dụng ngân hàng cho hoạt động xuất khẩu gồm 2 loại: tín
dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất khẩu và tín dụng ngân hàng cấp cho nhà
nhập khẩu. Đẩy mạnh hoạt động tín dụng ngân hàng cho xuất khẩu là một
trong những giải pháp quan trọng nhằm phát triển hoạt động thanh toán quốc
tế nói chung và chủ yếu là đối với phương thức tín dụng chứng từ tại Sở Giao
dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam.
Thứ nhất là tài trợ cho nhà xuất khẩu
Trong mấy năm qua, hoạt động xuất nhập của Việt nam mặc dù đã đổi mới và
đạt được những thành tựu to lớn thể hiện là kim ngạch xuất khẩu của Việt
79
nam qua các năm tăng nhanh, song mức độ nhập siêu ngày càng lớn, gây bất
lợi cho nền kinh tế. Vì vậy, mục tiêu của Đảng và nhà nước trong chiến lược
phát triển kinh tế đến năm 2010 là phải mọi điều kiện thúc đẩy hoạt động xuất
khẩu. Giải pháp này cũng góp phần gián tiếp giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động, lại vừa tăng được nguồn ngoại tệ nhằm cải thiện cán cân
thương mại. Do đó, hoạt động tín dụng ngân hàng cấp cho nhà xuất là giải
pháp có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong tình hình hiện nay.
Sở Giao dịch nên mở rộng cho vay thu mua và cho vay để sản xuất các mặt
hàng xuất khẩu. Dựa trên hợp đồng ngoại thương đã ký với khách hàng nước
ngoài và căn cứ vào thư tín dụng sẽ được thông báo, Sở Giao dịch sẽ cấp tín
dụng để giúp cho doanh nghiệp thuê mua hoặc sản xuất hàng xuất khẩu.
Trường hợp mà doanh nghiệp xuất khẩu cam kết thông báo thông báo thư tín
dụng xuất và gửi bộ chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì sẽ được áp dụng
mức lãi suất thấp hơn so với các doanh nghiệp khác.
Sở Giao dịch cũng có thể nhận chiết khấu chứng từ với điều kiện là thư tín
dụng trả ngay, bộ chứng từ phải hoàn toàn phù hợp với thư tín dụng, khách
hàng hoạt động có uy tín, vay trả sòng phẳng, ngoài ra ngân hàng phát hành
thư tín dụng cũng là ngân hàng có uy tín, hoạt động tốt, có vị trí nhất định
trong giao dịch quốc tế thì ngân hàng có thể mua lại bộ chứng từ đó để giải
phóng vốn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có điều kiện quay vòng vốn
nhanh.
Thứ hai là tài trợ cho nhà nhập khẩu
Trong điều kiện nền kinh tế của ta còn chậm phát triển, điều kiện về cơ sở
trang thiết bị máy móc còn nghèo nàn, lạc hậu, để có thể tăng trưởng nhanh,
việc vay vốn để nhập khẩu máy móc, thiết bị của nước ngoài là điều kiện cần
thiết.
80
Sở Giao dịch nên đẩy mạnh việc cấp tín dụng cho khách hàng mở thư tín
dụng hàng nhập khẩu qua Sở Giao dịch. Bởi vì mọi thư tín dụng do ngân hàng
mở đều theo đề nghị của nhà nhập khẩu. Tuy nhiên, nhà nhập khẩu không
phải lúc nào cũng có đủ số dư trên tài khoản để đảm bảo cho thư tín dụng.
Bên cạnh đó, khoảng cách giữa thời gian mở thư tín dụng và thời gian thanh
toán là một khoảng thời gian khá dài, nếu ngân hàng phong toả số dư tài
khoản của nhà nhập khẩu thì điều này sẽ ảnh hưởng đến khả năng kinh doanh
của họ cũng như ảnh hưởng tới quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy, doanh
nghiệp cần có sự đảm bảo thanh toán của ngân hàng khi mở thư tín dụng .
Trong trường hợp này, ngân hàng mở thư tín dụng phải gánh chịu mọi rủi ro
khi nhà nhập khẩu không có khả năng thanh toán hoặc không muốn thanh
toán khi thư tín dụng đến hạn trả. Như vậy, để tránh những cản trở ảnh hưởng
đến hoạt động kinh doanh của nhà nhập khẩu, đảm bảo uy tín của Sở Giao
dịch và tránh được rủi ro mà Sở Giao dịch phải gắng chịu thì giải pháp hữu
hiệu nhất là Sở Giao dịch mở ra loại hình thức cấp tín dụng cho nhà nhập
khẩu theo hạn mức tín dụng. Do đó, trước khi mở thư tín dụng theo đề nghị
của nhà nhập khẩu, Sở Giao dịch phải hiểu rõ được mục đích của việc nhập
khẩu tức là tính đúng đắn của nó. Sở Giao dịch phải kiểm tra đối tượng nhập
khẩu, tính hiệu quả, tính kinh tế của hợp đồng, xem xét khả năng hoạt động và
cạnh tranh của nhà nhập khẩu hiện tại và trong tương lai.... Đây là cơ sở để
đảm bảo cho việc doanh nghiệp có được vay vốn của ngân hàng hay không.
3.2.4 Phát triển hệ thống các Ngân hàng đại lý
Việc thiết lập và mở rộng quan hệ đại lý với ngân hàng các nước có ý nghĩa
chiến lược trong phát triển nghiệp vụ thanh toán quốc tế ở bất cứ ngân hàng
thương mại nào. Đối với những ngân hàng có quan hệ truyền thống với Ngân
hàng Ngoại thương, Sở Giao dịch cần củng cố mối quan hệ chặt chẽ, phát
triển cùng có lợi thông qua việc tăng cường các cuộc tiếp xúc, trao đổi kinh
81
nghiệm, tổ chức hội thảo chuyên đề vừa để học hỏi các kỹ thuật, công nghệ,
kinh nghiệm quản lý tiên tiến, vừa là tạo điều kiện để các ngân hàng đại lý
hiểu và đẩy mạnh hợp tác với Ngân hàng Ngoại thương.
Ngân hàng Ngoại thương cũng cần rà soát lại các ngân hàng đại lý thông qua
việc xây dựng tiêu thức phân loại, đánh giá tín nhiệm ngân hàng đại lý để lựa
chọn ra các ngân hàng có uy tín, phục vụ thanh toán an toàn và nhanh chóng,
từ đó có chính sách đối ngoại phù hợp, đồng thời tạo cơ sở để tư vấn cho
khách hàng. Ngân hàng cũng nên tổ chức mạng lưới thông tin về các ngân
hàng đại lý nhanh nhạy thông suốt trong hệ thống Ngân hàng Ngoại thương,
thường xuyên tổ chức đúc rút kinh nghiệm trong quan hệ đối ngoại để hạn chế
rủi ro trong thanh toán quốc tế.
Ngoài ra, Ngân hàng Ngoại thương cũng cần mở rộng quan hệ song phương,
đa phương với các ngân hàng, các tổ chức tài chính quốc tế, áp dụng các loại
hình kinh doanh mới trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế, nâng cao vai trò
hoạt động của các công ty tài chính và văn phòng đại diện, xúc tiến thành lập
chi nhánh ở nước ngoài, phấn đấu đưa Ngân hàng Ngoại thương lên ngang
tầm một ngân hàng tiên tiến trong khu vực, tiến tới hội nhập vào cộng đồng
tài chính quốc tế.
3.2.5 Khai thác tốt các nguồn ngoại tệ
Để đảm bảo nguồn ngoại tệ để thanh toán, Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương Việt Nam cần đẩy mạnh huy động vốn ngoại tệ, khai thác tốt các
nguồn tài trợ, nâng cao chất lượng tín dụng ngoại tệ. Để chủ động được nguồn
ngoại tệ phục vụ cho thanh toán thư tín dụng trong điều kiện cung cầu ngoại
tệ chưa ổn định, Sở Giao dịch cần đẩy mạnh hơn nữa các hình thức kinh
doanh ngoại tệ với các ngân hàng thương mại khác kể cả mua bán giao ngay
và mua bán kỳ hạn, tạo mối quan hệ để khi có nhu cầu cấp bách về nguồn
thanh toán thư tín dụng thì có thể mua được từ những ngân hàng này.
82
Sở Giao dịch cũng nên đẩy mạnh thu hút vốn ngoại tệ qua các kênh như kiều
hối, đại lý thu đổi ngoại tệ, thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh quốc tế cho các
nhà thầu xây dựng các công trình có vốn tài trợ hoặc có sự tham gia của các
đối tác nước ngoài vì tiềm lực ngoại tệ của các đối tác này rất lớn, đây là
nguồn lực để Sở Giao dịch đảm bảo cân đối ngoại tệ.
Một nguồn ngoại tệ có tính ổn định và chủ động có thể khai thác là từ hoạt
động thư tín dụng xuất khẩu. Để có thể phát triển nghiệp vụ này, giảm sự mất
cân đối giữa nhập khẩu và xuất khẩu và tạo nguồn ngoại tệ, Sở Giao dịch cần
chủ động mở rộng các hình thức cho vay thu mua và sản xuất hàng xuất khẩu.
Đối với những đơn vị có thư tín dụng xuất khẩu thông báo qua Sở và cam kết
xuất trình chứng từ qua Sở thì có thể xem xét áp dụng lãi suất ưu đãi. Sở cũng
cần đẩy mạnh nghiệp vụ chiết khấu miễn truy đòi đối với những bộ chứng từ
hoàn hảo và có ngân hàng phát hành là ngân hàng đáng tin cậy, có như vậy
mới đảm bảo khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác về nghiệp vụ thanh
toán thư tín dụng xuất khẩu.
3.2.6 Tăng cường thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế.
Ngân hàng chỉ có thể tồn tại nếu có khách hàng giao dịch và chỉ có thể phát
triển các hoạt động của mình nếu có lực lượng khách hàng vững chắc. Lượng
và loại hình doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua Sở giao dịch Ngân hàng
Ngoại thương là một trong những mặt dùng để đánh giá quy mô hoạt động
của ngân hàng. Vì vậy để tăng lượng và đa dạng hoá đối tượng khách hàng
thực hiện thanh toán qua Sở Giao dịch, Sở cần phải thực hiện tốt chính sách
khách hàng.
Đối với khách hàng thường xuyên thực hiện thanh toán Thư tín dụng qua Sở
Giao dịch, Sở phải thường xuyên tiếp xúc khách hàng để tìm hiểu các yêu cầu
của họ đối với ngân hàng. Việc này được tiến hành thông qua tổ chức hội nghị
khách hàng hàng năm, định kỳ hàng tháng, hàng quý để thu thập ý kiến của
83
khách hàng. Hàng năm, Sở cũng cần thực hiện nghiêm túc việc đánh giá hoạt
động giao dịch của khách hàng tại Sở, nội dung đánh giá bao gồm: kinh ngạch
thanh toán Thư tín dụng qua Sở, mặt hàng, thị trường thanh toán, tình hình
xin vay tài trợ và việc thực hiện các nghĩa vụ, các thiếu sót chủ yếu trong quá
trình thanh toán. Bên cạnh đó Sở cũng có thể đánh giá thêm về tình hình sản
xuất kinh doanh hiện tại và hướng phát triển trong tương lai để dự đoán nhu
cầu của doanh nghiệp trong lĩnh vực thanh toán.
Sở cũng nên phân loại khách hàng thành các đối tượng khác nhau. Với những
khách hàng lớn là những doanh nghiệp thường xuyên thanh toán qua Sở Giao
dịch với tổng kim ngạch cao cần có những ưu tiên trong việc thanh toán như
coi họ là đối tượng đầu tiên để cung cấp các dịch vụ thanh toán mới (như
ngân hàng điện tử, quản lý tài khoản qua mạng...), ưu tiên việc kiểm tra chứng
từ, tư vấn thương mại miễn phí. Đối với những khách hàng thường xuyên
thực hiện giao dịch qua Sở Giao dịch nhưng kim ngạch thấp hơn nhóm khách
hàng lớn thì cần cũng có những ưu tiên nhất định trong thực hiện thanh toán.
Còn với những doanh nghiệp không thường xuyên giao dịch qua Sở và kim
ngạch cũng không lớn thì có thể áp dụng những chế độ ưu đãi một cách linh
hoạt, phục vụ tốt nhất các yêu cầu của họ, đồng thời chỉ rõ lợi ích mà họ sẽ
nhận được khi thực hiện thanh toán với Sở Giao dịch so với thực hiện ở các
ngân hàng khác.
Sở Giao dịch cũng có thể ban hành và đưa đến tận tay các doanh nghiệp các
tài liệu hướng dẫn về nghiệp vụ cũng như các thủ tục cần thiết khi thực hiện
giao dịch Thư tín dụng, giúp doanh nghiệp có được hiểu biết sâu hơn về hoạt
động này, cung cấp cho họ thông tin về thị trường, vè ngân hàng nước ngoài
và nếu có thể cả về khách hàng của họ, đặc biệt là các doanh nghiệp có quan
hệ làm ăn với Việt Nam.
84
Sở cũng cần chú trọng hơn việc giúp đỡ khách hàng nhập khẩu trong việc sửa
đổi hợp đồng, soạn thảo thư tín dụng, giúp đỡ khách hàng xuất khẩu trong
việc kiểm tra các điều khoản của Thư tín dụng nhận được, kiểm tra và lập bộ
chứng từ hoàn chỉnh trước khi gửi đi nước ngoài để đòi thanh toán.
Đối với những doanh nghiệp chưa thực hiện thanh toán hoặc đã thôi không
thực hiện giao dịch với Sở Giao dịch, Sở cần áp dụng các hình thức quảng cáo
thu hút các doanh nghiệp xuất nhập khẩu thuộc mọi thành phần kinh tế thông
qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc gặp trực tiếp để giới thiệu các
dịch vụ thanh toán của ngân hàng hoặc mời họ đến dự hội nghị khách hàng
hàng năm. Sở có thể tìm hiểu thông tin về ngân hàng mà khách hàng cũ của
Sở Giao dịch hiện đang thực hiện thanh toán Thư tín dụng, tìm hiểu các loại
hình dịch vụ thanh toán mà họ cung cấp, cách thức cung cấp chế độ phí, hoạt
động tài trợ xuất nhập khẩu, tiềm lực tài chính và uy tín..., để từ đó tìm ra
những nguyên nhân dẫn đến việc doanh nghiệp ngừng giao dịch với Sở giao
dịch Ngân hàng Ngoại thương.
Trong khi giao dịch với khách hàng, các thanh toán viên cần giữ thái độ cởi
mở, nhiệt tình, tận tình hướng dẫn, có tinh thần trách nhiệm khi phục vụ và
giao tiếp với khách hàng, từ đó nâng cao hình ảnh của Sở Giao dịch trong
lòng khách hàng, tạo sự trung thành của doanh nghiệp với Sở Giao dịch.
3.2.7 Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán.
Trình độ của đội ngũ cán bộ thanh toán quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả của công tác thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng
chứng từ nói riêng. Tuy nhiên trên thực tế trình độ của cán bộ thanh toán quốc
tế của các ngân hàng thương mại Việt Nam nói chung còn nhiều bất cập, chưa
đáp ứng được đòi hỏi của hoạt động thương mại quốc tế trong điều kiện cạnh
tranh gay gắt. Muốn thực hiện được nghiệp vụ thanh toán quốc tế, các ngân
85
hàng phải có đội ngũ cán bộ được đào tạo tốt về nghiệp vụ, sử dụng thành
thạo ngoại ngữ, am hiểu luật cũng như các tập quán quốc tế.
Do vậy, trước hết Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam cần chú
trọng công tác tuyển dụng những người có trình độ chuyên môn,, ngoại ngữ,
vi tính, những người có khả năng, năng động, nhiệt tình. Tuy nhiên năng lực
của đội ngũ cán bộ thanh toán sẽ không thể được phát huy nếu không gắn kết
quả đào tạo và tuyển dụng với việc bố trí, sử dụng cán bộ đúng người, đúng
việc, mạnh dạn phân công những vị trí lãnh đạo cho những người trẻ tuổi và
có tài năng.
Sở cũng cần thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo nghiệp vụ để bổ sung
kiến thức về thương mại quốc tế như về rủi ro mà các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu Việt Nam thường gặp phải, tình hình thị trường thế giới và triển vọng
của các doanh nghiệp Việt Nam, phổ biến các kỹ thuật thanh toán thư tín
dụng mới áp dụng trên thế giới. Về lâu dài, Sở có thể phối hợp với các trường
và các trung tâm đào tạo trong và ngoài nước để gửi cán bộ đi học về chuyên
môn, ngoại ngữ và các nghiệp vụ chuyên sâu khác. Sở Giao dịch nên chú
trọng đổi mới nhận thức của đội ngũ cán bộ thanh toán về chính sách khách
hàng, khuyến khích họ tăng cường tìm hiểu các khách hàng mà họ phục vụ về
tình hình tài chính, uy tín cũng như các nhu cầu của khách hàng khi giao dịch
với Sở.
Một điểm quan trọng nữa là Sở Giao dịch phải có chính sách đãi ngộ thỏa
đáng đối với những cán bộ giỏi về chuyên môn nghiệp vụ, hoàn thành tốt
công việc được giao, có nhiều sáng tạo, tích cực xông xáo thu hút nhiều khách
hàng mới về giao dịch, đồng thời có chế độ kỷ luật, chuyển công tác với
những cán bộ ý thức kỷ luật kém, có hành vi vi phạm đạo đức, chưa hoàn
thành nhiệm vụ được giao, gây ra sai sót làm ảnh hưởng đến hoạt động của
86
Sở. Những giải pháp đó sẽ góp phần động viên và phát huy hết khả năng làm
việc của những cán bộ có năng lực.
3.2.8 Hoàn thiện và đổi mới công nghệ thanh toán.
Cải thiện và nâng cao trình độ tự động hoá trong quy trình công nghệ ngân
hàng là một trong những điều kiện tốt để quản lý vốn tập trung, tăng cường
hơn nữa sự hoà nhập của hệ thống ngân hàng Việt Nam vào thị trường tài
chính tiền tệ thế giới.
Để đáp ứng được yêu cầu công nghệ, trước hết Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương cần tận dụng tối đa công suất của hệ thống máy móc hiện có, tiến tới
giảm bớt các công việc giấy tờ bằng cách chuyển toàn bộ việc nhận, lập, phân
loại, chuyển và quản lý các loại điện, thư sử dụng trong quá trình thanh toán
sang thực hiện trên hệ thống máy vi tính và thông qua mạng máy tính. Sở có
thể chỉnh sửa và hoàn thiện các chương trình phần mềm phục vụ công tác
thanh toán quốc tế nói chung và theo hình thức tín dụng chứng từ nói riêng
bằng cách chuyển các chương trình thanh toán được viết bằng ngôn ngữ
FOXPRO sang loại ngôn ngữ lập trình mạnh hơn như VISUAL BASIC hoặc
sử dụng hệ quản trị cơ sở dữ liệu Access trong Microsoft Office. Các chương
trình này tạo ra được các mẫu điện chuẩn phù hợp với mỗi phương thức thanh
toán và với thông lệ quốc tế, phải có tính kết nối lẫn nhau và kết nối với các
chi nhánh khác trong nước, với Hội sở chính và các ngân hàng đại lý trên thế
giới, trên cơ sở đó cho phép xây dựng, chuẩn hoá và phát triển hệ thống thông
tin khách hàng tập trung trong toàn hệ thống, hệ thống quản lý mối quan hệ
ngân hàng – khách hàng, tạo khả năng giao diện kết nối với các thị trường tài
chính trong và ngoài nước.
Sở Giao dịch cũng nên đa dạng hoá các kênh phân phối dịch vụ như bổ sung
các dịch vụ thanh toán trên trang Web của Ngân hàng Ngoại thương như:
thông báo Thư tín dụng, báo có, gửi yêu cầu mở thư tín dụng, chấp nhận
87
thanh toán, quản lý tài khoản của doanh nghiệp, tiến tới giao dịch với các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong cả nước thông qua mạng Internet. Sở cần
nâng cao khả năng quản lý rủi ro thanh toán quốc tế thông qua xây dựng các
Modul quản lý rủi ro trên cơ sở phân loại các rủi ro theo thứ tự ưu tiên khác
nhau như: rủi ro bất khả kháng, rủi ro quốc gia người phát hành Thư tín dụng,
rủi ro về hoạt động lừa đảo, giả mạo chứng từ...
Sở nên thường xuyên nâng cấp và mua mới các trang thiết bị phục vụ thực
hiện công tác thanh toán (chủ yếu là máy vi tính hiện đại có tốc độ xử lý công
việc nhanh), xây dựng hệ thống mạng diện rộng và mạng cục bộ, phát triển
các hình thức và phương tiện an toàn bảo mật cơ sở dữ liệu, xây dựng kho dữ
liệu đa chiều nhằm hỗ trợ cho ứng dụng quản lý thông tin và ra các quyết định
điều hành kinh doanh một cách chính xác, nhanh chóng.
Trên đây là những giải pháp mà Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương trong
chiến lược tăng trưởng và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ của mình phải hết sức quan tâm. Tuy nhiên,
để hoàn thiện và phát triển hoạt động đó, Sở Giao dịch không thể chỉ thực
hiện một số giải pháp nhất định mà phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đó,
có như vậy mới đưa ngân hàng đi lên và hội nhập cùng với sự phát triển của
đất nước. Bên cạnh đó, Sở cũng cần có những đề xuất kiến nghị lên các cơ
quan quản lý Nhà nước, lên Ngân hàng Nhà nước cũng như tới khách hàng để
được tạo điều kiện, có được sự hỗ trợ kịp thời trong hoạt động của mình.
3.3. ĐỀ XUẤT KIẾN NGHỊ
3.3.1 Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước.
Sự đổi mới hoạt động của ngân hàng nói chung và lĩnh vực thanh toán nói
riêng không thể tách rời cơ chế, chính sách của Đảng và nhà nước. Trong thời
gian qua, nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật tạo môi trường thuận
lợi cho sản xuất kinh doanh trong cơ chế thị trường như: luật thương mại, luật
88
đầu tư nước ngoài, luật dân sự, luật các tổ chức tín dụng... Tuy nhiên, còn
nhiều lĩnh vực chưa có văn bản hoặc đã ban hành từ lâu đến nay không còn
phù hợp, nhiều văn bản được bổ xung và sửa đổi nhiều lần nên việc thực thi
và áp dụng rất khó, đặc biệt là chưa có văn bản pháp luật nào liên quan đến
hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy, để tạo môi trường pháp lý cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán quốc tế nói
riêng, Nhà nước cần phải:
Thứ nhất: tiếp tục bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp luật:
Chính sách ngoại hối là một công cụ đắc lực cho việc thực hiện chính sách
tiền tệ. Bởi vì, thông qua các chính sách quản lý ngoại tệ, quản lý tiền bạc,
tiền hối điều hành tỷ giá..... chính sách quản lý ngoại hối tác động đến chính
sách huy động vốn trong nước và nước ngoài, đến hoạt động xuất nhập khẩu
của nền kinh tế, vì vậy nó ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thanh toán quốc
tế.
Năm 1998, Nhà nước đã ban hành điều lệ quản lý ngoại hối song đến nay còn
có nhiều điểm chưa phù hợp mặc dù nó đã được sửa đổi và bổ sung nhiều lần.
Đồng thời do nhiều cấp, nhiều ngành cùng quy định một lĩnh vực nên không
tránh khỏi sự chồng chéo, mâu thuẫn và việc áp dụng nhiều khi phải dẫn
chiếu từ nhiều nguồn. Vì vậy, việc ban hành luật ngoại hối là việc làm rất cần
thiết, có như vậy mới tạo lập được môi trường pháp lý đầy đủ, làm cơ sở cho
hoạt động kinh doanh ngoại tệ và thanh toán quốc tế.
Hiện nay, các văn bản mang tính chất thông lệ quốc tế rất nhiều như: quy tắc
và thực hành thống nhất về thư tín dụng do văn phòng thương mại quốc tế ban
hành năm 1933, 1962, 1974, 1983...và văn bản mới nhất là bản sửa đổi ban
hành năm 1993, gọi tắt là UCP500.
Về lý thuyết, việc vận dụng UCP500 tại nước ta gần như tuyệt đối mà không
bị bất cứ sự điều chỉnh nào, đây là nét đặc thù của Việt nam. Trong khi đó
89
mọi quốc gia khác đều có những luật hoặc các văn bản dưới luật quy định về
giao dịch tín dụng chứng từ trên cơ sở thông lệ quốc tế có tính đến đặc thù
của sự phát triển kinh tế và tập quán của nước họ. Các văn bản như vậy là rất
cần thiết không chỉ đối với ngành ngân hàng mà còn là cơ sở để toà án trọng
tài áp dụng khi xét xử các vụ tranh chấp giữa các đối tác trong giao dịch tín
dụng. Hơn nữa UCP500 còn có những hạn chế nhất định bởi vì nó không thể
bao quát tất cả các giao dịch vô cùng phong phú của thực tiễn, không thể thay
thế luật của một quốc gia. Chính vì thế, các ngân hàng tại Việt nam đã vận
dụng tốt đẹp UCP500 và các thông lệ quốc tế khác vào giao dịch thanh toán
xuất nhập khẩu nhưng kết quả thực tế lại không như họ mong muốn. Vì vậy,
để giải quyết những bất đồng giữa thông lệ quốc tế và tập quán quốc gia,
tránh được những tranh chấp rủi ro phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt
động thanh toán quốc tế nhằm tạo hành lang pháp lý cho mọi hoạt động, nhà
nước ta cần nghiên cứu và sớm ban hành các văn bản pháp luật có liên quan
đến hoạt động thanh toán quốc tế của ngân hàng. Trong những văn bản này
cần quy định rõ ràng quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như
quyền lợi và trách nhiệm giữa các chủ thể tham gia như quyền được nhận
hàng của ngân hàng phát hành thư tín dụng khi người nhập khẩu vay vốn của
ngân hàng để nhập lô hàng đó bị phá sản, quyền được miễn trừ trách nhiệm
thanh toán của ngân hàng phát hành khi có dấu hiệu tranh chấp thương mại và
đã được toà án hay trọng tài tuyên bố ngừng thanh toán. Điều này là cần thiết
để bảo vệ ngân hàng và là điều mà các toà án nhiều nước trên thế giới thường
làm.
Về bản chất thư tín dụng là những giao dịch riêng biệt với hợp đồng thương
mại và các hợp đồng khác, các hợp đồng này có thể làm cơ sở để hình thành
thư tín dụng nhưng các ngân hàng bất luận trong trường hợp nào cũng không
liên quan đến hoặc không hề bị ràng buộc bởi hợp đồng. Do vậy, Chính phủ
90
cần sớm ban hành văn bản pháp lý cho giao dịch thanh toán xuất nhập khẩu
theo phương thức tín dụng chứng từ. Có thể là một Nghị định về thanh toán
quốc tế đề cập đến mối quan hệ pháp lý giữa giao dịch hợp đồng ngoại
thương giữa người mua, người bán với giao dịch chứng từ giữa các ngân
hàng.
Việt Nam đã có quy chế về chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu, tín
phiếu… nhưng chưa có quy định về chiết khấu hối phiếu kèm chứng từ theo
thư tín dụng. Do đó trong thời gian tới cần thiết phải có những văn bản pháp
luật phân định rõ quyền lợi, nghĩa vụ của ngân hàng chiết khấu cũng như
người hưởng lợi.
Thứ hai: Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thích ứng với thời cuộc.
Để giành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát
triển cần tạo ra lợi thế so sánh bằng một trường đầu tư hấp dẫn hơn các nước
khác. Đây phải là công việc thường xuyên của hoạt động quản lý nhà nước,
chứ không phải chỉ là một vài sửa đổi nhất thời.
Do vậy, mặc dù luật đầu tư mới sửa đổi vào năm 1996, nhưng trên cơ sở tổng
kết 10 năm hoạt động đầu tư nước ngoài ở nước ta, đồng thời tham khảo thêm
những thay đổi luật của các nước xung quanh, ta nên tính đến việc sửa đổi và
bổ sung luật đầu tư nước ngoài, đưa thêm các hình thức đầu tư mà ta chưa áp
dụng như: cho lập công ty trước khi lập dự án, cho người nước ngoài mua cổ
phần của các doanh nghiệp Việt nam với một mức độ giới hạn, cho xí nghiệp
nước ngoài được phát hành cổ phiếu..... cũng như điều chỉnh một số sắc thuế
và bổ sung một số ưu đãi để khuyến khích đầu tư.
Bên cạnh việc ban hành pháp luật, cần phải nâng cao hiệu lực thi hành pháp
luật trong kinh tế và xã hội, đặc biệt là kiện toàn hệ thống cơ quan bảo vệ
pháp luật, xử lý nghiêm minh các hành động vi phạm vi phạm pháp luật, tạo
91
ra bước tiến rõ rệt trong xây dựng một nhà nước pháp quyền và một nền kinh
tế thị trường hoạt động theo pháp luật.
Thứ ba: Thực hiện cải cách các chính sách kinh tế đối ngoại nhằm mở cửa
và hợp tác kinh tế với nước ngoài.
Trong thời gian qua, cán cân thương mại quốc tế ở Việt nam luôn trong tình
trạng thâm thụt, mức độ thâm thụt ngày càng lớn mặc dù một phần là do đầu
tư nước ngoài. Để cải thiện cán cân thương mại quốc tế thì giải pháp là đẩy
mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, quản lý chặt chẽ hoạt động nhập khẩu phục
vụ cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, sản phẩm xuất khẩu của
chúng ta còn nghèo nàn lại chủ yếu là sản phẩm chưa qua chế biến, muốn đẩy
mạnh hoạt động xuất nhập khẩu ta phải đẩy mạnh hoạt động thương mại với
những thị trường lớn như: Mỹ, Tây âu, Nhật bản, Trung quốc, ASEAN....từng
bước tham gia vào tổ chức kinh tế thương mại Châu á Thái bình dương và tổ
chức thương mại thế giới. Bên cạnh đó, nước ta cần khai thác có hiệu quả
tiềm năng về tài nguyên, sức lao động để cải tiến cơ cấu hàng xuất khẩu cho
phù hợp với nhu cầu thế giới, tăng số lượng các mặt hàng gia công chế biến,
giảm tỷ trọng sản phẩm thô, mở rộng thêm nhiều mặt hàng, đầu tư thích đáng
vào những mặt hàng ta có ưu thế như: gạo, cao su, cà phê, dầu mỏ...
Ngoài ra, ta cần chú trọng công tác điều tra, nghiên cứu nhu cầu thị trường
của các nước để có những cải tiến các mặt hàng xuất khẩu phù hợp với từng
thị trường cụ thể, mở rộng các hình thức gia công sản phẩm cho nước ngoài
bằng nguyên liệu của chính mình và có chính sách bảo hộ sản xuất trong nước
thông qua việc cấp giấy phép hàng nhập khẩu, quản lý bằng hạn ngạch, bằng
công cụ thuế quan, tăng cường biện pháp chống buôn lậu nhằm bảo hộ lợi ích
cho các nhà buôn sản xuất thực hiện cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Bên cạnh cải cách chính sách chế độ về xuất nhập khẩu, nhà nước cần có biện
pháp đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là đầu tư nước ngoài và quản lý
92
chặt chẽ vay nợ nước ngoài. Bởi vì, với điều kiện nền kinh tế nước ta còn
nghèo, tích luỹ nội bộ trong nước thấp nên cần phải thúc đẩy thu hút vốn đầu
tư nước ngoài mới thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước. Song song với việc đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài thì
việc quản lý nợ vay cũng cần phải được quan tâm một cách thích hợp; Một là
để nâng cao hiệu quả vốn vay; Hai là, giữ được nợ nước ngoài trong một tỷ lệ
tương ứng với năng lực trả nợ của đất nước. Vì thế, cần phải có sự kết hợp
đồng bộ giữa các ngành, các cấp trong việc thu hút vốn đầu tư và sử dụng nó
một cách có hiệu quả nhất.
3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước
Ngân hàng nhà nước nên nghiên cứu việc định tỷ giá mua bán ngoại tệ cho
phù hợp với thị trường, tránh tình trạng đồng Việt nam được đánh giá cao hơn
giá trị của nó; loại trừ các yếu tố đầu cơ nâng giá, ép giá làm tỷ giá biến động
sai với thực tế của nó; tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động kinh doanh ngoại tệ
của các tổ chức tín dụng và khuyến khích việc xuất khẩu hàng hoá của các
doanh nghiệp xuất khẩu.
Trong khi dự trữ ngoại tệ còn ít ỏi thì Ngân hàng nhà nước phải tăng cường
dự trữ ngoại tệ, đảm bảo điều tiết được quan hệ cung cầu ngoại tệ trên thị
trường, ổn định được đồng Việt nam, thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ.
Ngân hàng Nhà nước nên mở rộng đối tượng tham gia thị trường ngoại tệ liên
ngân hàng như Ngân hàng Trung ương, các ngân hàng thương mại, những
người môi giới… nhằm tạo cho thị trường hoạt động với tỉ giá chuẩn hơn, sát
thực tế hơn, đồng thời phát triển các nghiệp vụ trên thị trường như vay mượn
qua đêm, mua bán ngoại tệ kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ, quyền mua, quyền bán.
Chỉ khi thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường hối đoái phát triển mới
đảm bảo có được một tỉ giá linh hoạt hợp lý, góp phần kích thích kinh tế thị
93
trường phát triển, khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, góp phần
mở rộng sản xuất trong nước.
Để thực thi có hiệu quả quy chế hiện hành về quản lý ngoại hối, Ngân hàng
Nhà nước cần có những văn bản quy định trách nhiệm, kiểm tra tính pháp lý
của các chứng từ trước khi chuyển tiền ra nước ngoài thanh toán cho bên xuất
khẩu. Vì hiện nay trong thanh toán xuất nhập khẩu, các ngân hàng không
được hướng dẫn cụ thể việc kiểm tra giấy tờ pháp lý như Quyết định thành lập
doanh nghiệp, Đăng ký kinh doanh, Quyết định bố nhiệm giám đốc của khách
hàng khi phát hành thư tín dụng dẫn tới việc chấp hành quy định này của các
ngân hàng thương mại là khác nhau, vì vậy hậu quả tất yếu là sẽ bị khách
hàng lợi dụng để sử dụng một giấy phép nhập khẩu hoặc một hợp đồng
thương mại nhưng mang tới nhiều ngân hàng khác nhau mở thư tín dụng với
những mục đích thiếu trung thực trong kinh doanh.
Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng cần rà soát lại các văn bản, xoá bỏ tình
trạng văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không phù hợp với thực tế, nâng
cao hoạt động thanh tra và công tác quản lý của ngân hàng nhà nước, kiên
quyết sử lý những sai phạm, phối hợp với các ban ngành có liên quan và có
giải pháp đồng bộ, đặc biệt khi luật ngân hàng ra đời rồi thì cần sớm ban hành
đẩy đủ các văn bản hướng dẫn thi hành luật Ngân hàng.
3.3.3 Đối với khách hàng
Các doanh nghiệp cần củng cố, nâng cao trình độ nghiệp vụ ngoại thương và
thanh toán quốc tế. Doanh nghiệp nên bố trí đội ngũ cán bộ thông thạo nghiệp
vụ ngoại thương, trình độ pháp lý trong thương mại quốc tế làm công tác xuất
nhập khẩu. Cụ thể, phải nắm vững nội dung chủ yếu của UCP và các thông lệ
quốc tế khác để hiểu rằng hợp đồng ngoại thương và Thư tín dụng, chứng từ
và hàng hoá là độc lập với nhau. Việc nâng cao kỹ năng trong việc lập chứng
từ và kiểm tra nội dung Thư tín dụng là hết sức quan trọng. Các doanh nghiệp
94
nên chủ động nắm bắt thời cơ, thận trọng khi đàm phán ký kết hợp đồng sao
cho hợp đồng phải cụ thể, chính xác, rõ ràng, đầy đủ các điều khoản, nêu rõ
quyền lợi và nghĩa vụ của mỗi bên, phạm vi và đối tượng xử lý khi có tranh
chấp xảy ra, tránh những từ ngữ mập mờ, khó hiểu, gây bất lợi sau này. Để
làm được điều này, các doanh nghiệp nên thường xuyên cử cán bộ tham gia
các lớp huấn luyện về xuất nhập khẩu và thanh toán quốc tế do các trường Đại
học, các ngân hàng thương mại tổ chức. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp nên có
một bộ phận pháp chế hoặc sử dụng tư vấn pháp lý để tránh được các bất
đồng hoặc tranh chấp có thể xảy ra trong kinh doanh và trong thanh toán.
Nghiên cứu tìm hiểu kỹ thị trường để lựa chọn đúng bạn hàng. Trong xu thế
mở rộng giao lưu, buôn bán với nước ngoài, doanh nghiệp không chỉ bó hẹp
trong phạm vi mối quan hệ với những bạn hàng truyền thống mà phải mở
rộng quan hệ ra bên ngoài. Tự bản thân doanh nghiệp không thể nắm vững
được khả năng tài chính cũng như tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác,
thậm chí nhiều khi hợp đồng được ký kết thông qua các hoạt động quảng cáo
hoặc do khách hàng khách giới thiệu nên dễ xảy ra rủi ro. Doanh nghiệp có
thể thông qua Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Trung tâm thông
tin tín dụng thuộc Ngân hàng Nhà nước, các ngân hàng phục vụ mình, các tổ
chức của Việt Nam ở nước ngoài để nắm bắt thông tin, tìm hiểu đối tác.
Các doanh nghiệp cũng cần trung thực trong các mối quan hệ làm ăn với bạn
hàng và với ngân hàng, tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng. Trong quan hệ với
đối tác nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam cần tuân thủ theo đúng các thông
lệ quốc tế, không nên vì mối quan hệ trước mắt mà đánh mất uy tín của bản
thân doanh nghiệp và của các ngân hàng Việt Nam, luôn có thái độ hợp tác
với ngân hàng trong việc tìm ra các biện pháp tháo gỡ khi có rủi ro xảy ra,
không nên đặt hết trách nhiệm cho ngân hàng. Từ khi ký kết hợp đồng đến khi
thanh toán cần tranh thủ sự tư vấn của ngân hàng để nắm bắt thông tin và có
95
lựa chọn đúng đắn về thời gian thanh toán, tránh điều khoản bất lợi, qua đó
còn tranh thủ được sự hỗ trợ về vốn của ngân hàng.
Kết luận Trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự
cạnh tranh diễn ra gay gắt giữa các ngân hàng thương mại Việt Nam, giữa
ngân hàng Việt Nam và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, Sở giao dịch
Ngân hàng Ngoại thương đã tìm ra cho mình một số giải pháp, hướng đi mới
để thu hút khách hàng, mở rộng các loại hình hoạt động thanh toán quốc tế,
khẳng định vị thế là một chi nhánh ngân hàng thương mại quốc doanh đứng
hàng đầu trong lĩnh vực thanh toán quốc tế, trên cơ sở đó, mở rộng các loại
hình nghiệp vụ liên quan như tài trợ xuất nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ....
96
Trong khuôn khổ của một luận văn, tác giả đã tập trung vào một số vấn đề
chủ yếu sau:
1- Hệ thống hoá những lý luận cơ bản như: cơ sở hình thành, đặc điểm
cơ bản của hoạt động thanh toán quốc tế nói chung và theo phương thức tín
dụng chứng từ nói riêng của một ngân hàng thương mại. Đồng thời, luận văn
cũng chú ý tới bối cảnh thực tiễn của nền kinh tế và những tác động tích cực,
tiêu cực của nó tới hoạt động trên của ngân hàng.
2- Phân tích và đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương
Việt Nam, trên cơ sở những đánh giá, phân tích, tác giả đã chỉ ra được những
nguyên nhân khách quan, chủ quan giải thích cho những mặt tích cực hay
những hạn chế còn tồn tại trong hoạt động này.
Trên cơ sở những nguyên nhân hạn chế hoạt động thanh toán quốc tế theo
phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương ,
đồng thời có xem xét đến định hướng phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại
chung của Việt Nam, định hướng phát triển hoạt động kinh doanh chung của
Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương , tác giả đã mạnh dạn đề xuất một số
giải pháp đối với hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng
chứng từ như các giải pháp về nghiệp vụ, đẩy mạnh hoạt động tài trợ thương
mại, chú trọng công tác khách hàng, phát triển quan hệ ngân hàng đại lý...
Ngoài ra, trên cơ sở nghiên cứu học tập và thực tiễn công tác, tác giả cũng
mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước, Ngân
hàng Nhà nước và với các khách hàng của Sở Giao dịch nhằm tạo điều kiện
cho các ngân hàng thương mại nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán
quốc tế nói chung và theo phương thức tín dụng chứng từ nói riêng. Một số
những kiến nghị quan trọng nhất là hoàn thiện cơ chế chính sách đồng bộ về
97
hoạt động ngân hàng, thường xuyên điều chỉnh kịp thời quy trình thanh toán
quốc tế vì đây là nền tảng pháp lý cho hoạt động của ngân hàng.
Hoàn thiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ
tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương đã trở thành một yêu cầu khách
quan, đòi hỏi từng cán bộ giao dịch cũng như ban lãnh đạo ngân hàng phải
thường xuyên tìm kiếm giải pháp, nghiên cứu. Tác giả mong rằng, trong
khuôn khổ nhất định của luận văn, dù thời gian nghiên cứu bị hạn chế, những
suy nghĩ, giải pháp của mình sẽ góp phần đưa Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại
thương đạt được những thành tựu mới, hoạt động ngày một hiệu quả hơn, xây
dựng được thương hiệu riêng trên địa bàn với những diễn biến kinh tế sôi
động như thủ đô Hà Nội.
98
Lời mở đầu.................................................................................................... 1 CHƯƠNG 1: PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ TRONG THANH TOáN QUốC Tế CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI ................. 3 1.1 TổNG QUAN Về HOạT ĐộNG THANH TOáN QUốC Tế CủA CáC NGÂN HàNG THƯƠNG MạI........................................................................ 3 1.1.1 Khái quát về ngân hàng thương mại .............................................. 3 a. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại ................................ 3 b. Hoạt động thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại. ................. 8 1.1.2 Các phương thức thanh toán quốc tế của Ngân hàng thương mại 12 a. Phương thức chuyển tiền .................................................................... 12 b. Phương thức nhờ thu ........................................................................... 14 c. Phương thức tín dụng chứng từ (L/C) ................................................. 16 1.2 TíN DụNG CHứNG Từ - PHƯƠNG THứC CHủ YếU TRONG THANH TOáN QUốC Tế CủA NGÂN HàNG THƯƠNG MạI .................... 17 1.2.1 Cơ sở hình thành thư tín dụng ..................................................... 17 1.2.2 Các hình thức thư tín dụng chủ yếu ............................................. 18 1.2.3 Quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ ....... 21 1.2.4 Đặc điểm của thư tín dụng và vai trò của Ngân hàng thương mại trong quá trình thực hiện thanh toán theo thư tín dụng .......................... 24 a) Thư tín dụng có những đặc điểm sau: .................................................. 25 b) Vai trò của ngân hàng trong quá trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng chứng từ. ..................................................................................................... 25 1.3 CáC NHÂN Tố ảNH HƯởNG ĐếN Sự PHáT TRIểN PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ ................................................................................ 27 1.3.1 Các nhân tố bên trong ngân hàng ................................................ 27 1.3.2 Các nhân tố bên ngoài ngân hàng ................................................ 31 CHƯƠNG 2: THựC TRạNG áP DụNG PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ TRONG THANH TOáN QUốC Tế TạI Sở GIAO DịCH NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM .......................................... 34 2.1 KHáI QUáT CHUNG Về NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM 34 2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển .................................................. 34 2.1.2 Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Ngoại thương trong những năm gần đây. ......................................................................... 35 2.1.3 Vài nét về Sở giao dịch ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ........... 38 2.2 Thực trạng HOạT ĐộNG THANH TOáN QUốC Tế THEO PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ CủA Sở GIAO DịCH NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM ................................................................................. 40
99
2.2.1 Quy trình thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam .......................... 40 a) Đối với thư tín dụng xuất khẩu ............................................................... 40 b) Đối với thư tín dụng nhập khẩu: ............................................................ 43 2.2.2 Thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ...... 45 a) Thực trạng thanh toán xuất khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. 46 b) Thực trạng thanh toán nhập khẩu theo phương thức tín dụng chứng từ. 48 2.3 Đánh giá thực trạng hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ tại Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ........... 50 2.3.1 Kết quả đạt được ........................................................................... 50 a) Đối với bản thân ngân hàng. ................................................................ 51 b) Đối với khách hàng và nền kinh tế. ...................................................... 52 2.3.2 Một số hạn chế và nguyên nhân ................................................... 54 a) Một số hạn chế .................................................................................. 54 b) Nguyên nhân ..................................................................................... 57 CHƯƠNG 3: HOàN THIệN HOạT THANH TOáN QUốC Tế THEO PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ TạI Sở GIAO DịCH NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM ...................................................... 69 3.1. CHIếN LƯợC PHáT TRIểN CủA Sở GIAO DịCH NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM GIAI ĐOạN 2006-2010 ............................... 69 3.1.1 Mục tiêu tổng quát ........................................................................ 69 3.1.2 Nhiệm vụ chiến lược ..................................................................... 69 3.1.3 Định hướng phát triển hoạt động thanh toán quốc tế của Sở Giao dịch Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam .................................................. 71 3.2. GIảI PHáP HOàN THIệN HOạT THANH TOáN QUốC Tế THEO PHƯƠNG THứC TíN DụNG CHứNG Từ TạI Sở GIAO DịCH NGÂN HàNG NGOạI THƯƠNG VIệT NAM.......................................................... 73 3.2.1 Hoàn thiện văn bản quy định cho việc thực hiện hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ. .................................. 73 3.2.2 Thực hiện tốt các biện pháp nghiệp vụ ........................................ 74 3.2.3 Kết hợp hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu với hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ . ................................. 77 3.2.4 Phát triển hệ thống các Ngân hàng đại lý .................................... 80 3.2.5 Khai thác tốt các nguồn ngoại tệ .................................................. 81 3.2.6 Tăng cường thu hút khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. 82 3.2.7 Nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thanh toán. ..................... 84 3.2.8 Hoàn thiện và đổi mới công nghệ thanh toán. ............................. 86
100
3.3. Đề XUấT KIếN NGHị ........................................................................ 87 3.3.1 Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước. ...................... 87 3.3.2 Đối với Ngân hàng Nhà nước ........................................................... 92 3.3.3 Đối với khách hàng ....................................................................... 93 Kết luận ....................................................................................................... 95