Upload
others
View
6
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
TRONG MỐI QUAN HỆ VỚI LẠM PHÁT
- NGHIÊN CỨU THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM
Mã số:………...........
i
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
Lạm phát luôn được xem là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia bởi những ảnh
hưởng sâu rộng của nó đến sự tăng trưởng của nền kinh tế, gia tăng khoảng cách giàu
nghèo trong xã hội và làm tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn xã hội. Cùng với xu hướng hội
nhập toàn cầu là việc nền kinh tế Việt Nam phải chịu tác động nhiều hơn từ diễn biến
nền kinh tế thế giới, nguy cơ bất ổn gia tăng, từ đó dẫn đến diễn biến lạm phát phức
tạp hơn. Chính sách tiền tệ của NHNN Việt Nam lúc này dần bộc lộ một số hạn chế
mà xuất phát điểm là do những mâu thuẫn mục tiêu, độ trễ, cũng như sự không nhất
quán trong thực hiện chính sách. Từ đó hiệu quả thực thi chính sách sụt giảm, trong đó
có bình ổn mức giá (lạm phát). Bởi vậy, sự độc lập của NHNN Việt Nam trong việc
thực thi chính sách tiền tệ là một vấn đề cần được quan tâm.
Bài nghiên cứu trình bày tổng quan về tính độc lập của NHTW trong mối quan hệ với
lạm phát, nêu lên thực trạng cũng như chỉ số độc lập của NHNN Việt Nam. Kết quả từ
phương pháp định lượng sử dụng chỉ số độc lập NHTW pháp định (tính dựa trên luật
định), động (theo thời gian), trong mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là tỷ lệ lạm
phát động hàng quý của Việt Nam, đã xác nhận rằng tồn tại mối quan hệ ngược chiều
giữa tính độc lập của NHNN VN với tỷ lệ lạm phát. Bên cạnh đó, xuất phát từ thực
trạng về tính độc lập của NHNN VN cùng với việc tham khảo mô hình tổ chức các
NHTW trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã rút ra được bài học kinh nghiệm để từ đó đề
xuất những ý kiến về mức độc lập của NHNN Việt Nam thích hợp trong thời điểm
hiện tại, nhằm hướng đến bình ổn mức giá và phát triển kinh tế, bao gồm: độc lập
trong ngân sách, đi đôi với trách nhiệm giải trình và tách bạch chức năng điều hành và
quản trị.
ii
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT v
DANH SÁCH BẢNG, ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ vii
LỜI MỞ ĐẦU 1
Lý do chọn đề tài 1
Mục tiêu nghiên cứu 1
Phương pháp nghiên cứu 2
Nội dung nghiên cứu 2
Đóng góp của đề tài 2
Hướng phát triển của đề tài 3
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG VỚI LẠM PHÁT 4
1.1. Tổng quan về ngân hàng Trung ương 4
1.1.1. Lịch sử hình thành & khái niệm, bản chất của NHTW 4
1.1.2. Khái niệm, bản chất của NHTW 5
1.1.3. Mục tiêu, chức năng và công cụ của NHTW 6
1.1.4. Mô hình tổ chức 7
1.2. Tính độc lập của NHTW 9
1.2.1. Cơ sở lý thuyết về tính độc lập của NHTW 9
1.2.2. Đo lường tính độc lập của NHTW 12
1.3. Lạm phát 15
1.3.1. Khái niệm về lạm phát 15
1.3.2. Phân loại lạm phát 15
1.3.3. Nguyên nhân của lạm phát 16
1.3.4. Đo lường lạm phát 16
1.4. Tổng quan các nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa tính độc lập của
NHTW và lạm phát 17
1.4.1. Các nghiên cứu trong nước 17
1.4.2. Các nghiên cứu ngoài nước 18
KẾT LUẬN PHẦN 1 20
iii
2. THỰC TRẠNG VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM VÀ LẠM PHÁT QUA CÁC GIAI ĐOẠN 21
2.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 21
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển 21
2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam 23
2.2. Tính độc lập của NHNN Việt Nam 26
2.3. Thực trạng lạm phát của Việt Nam 28
2.3.1. Giai đoạn 1986-1999 28
2.3.2. Giai đoạn 2000-2007 31
2.3.3. Giai đoạn 2008-2013 34
2.3.4. Hiện nay 42
KẾT LUẬN PHẦN 2 43
3. PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH ĐỘC LẬP CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI LẠM PHÁT 45
3.1. Phương pháp nghiên cứu 45
3.2. Dữ liệu nghiên cứu 45
3.2.1. Chỉ số độc lập của NHTW 45
3.2.2. Dữ liệu khác 50
3.3. Mô hình nghiên cứu 51
3.3.1. Kiểm định nghiệm đơn vị với sự phá vỡ cấu trúc 51
3.3.2. Mô hình hồi quy 53
3.4. Kết quả thực nghiệm 55
3.4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị với những phá vỡ cấu trúc 55
3.4.2. Mô hình hồi quy 59
KẾT LUẬN PHẦN 3 60
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT 61
4.1. Mô hình tổ chức NHTW một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh nghiệm
cho Việt Nam 61
4.1.1. Cục dự trữ liên bang Mỹ 61
4.1.2. Ngân hàng trung ương châu Âu 65
4.1.3. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc 68
4.1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 69
iv
4.2. Ý kiến đề xuất 71
4.2.1. Góc nhìn tính độc lập NHNN Việt Nam của nhóm nghiên cứu 71
4.2.2. Ý kiến đề xuất 72
KẾT LUẬN PHẦN 4 73
KẾT LUẬN 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO i
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CBI Chỉ số độc lập của Ngân hàng Trung ương
CBIP Chỉ số độc lập chính trị
CBIE Chỉ số độc lập kinh tế
CPI Chỉ số giá tiêu dùng
CSTT Chính sách tiền tệ
CSTK Chính sách tài khóa
ECB European Central Bank, Ngân hàng Trung ương Châu Âu
FED Federal Reserve System, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ
FOMC Ủy ban thị trường mở liên bang
GDP Tổng sản phẩm quốc nội
GMT Chỉ số độc lập của NHTW tính theo phương pháp của Grilli,
Masciandaro, and Tabellini (1991)
HĐQT Hội đồng quản trị
IMF Quỹ tiền tệ quốc tế
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTW Ngân hàng Trung ương
NĐ Nghị định
OECD Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
OMO Nghiệp vụ thị trường mở
PCB Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
PTA Policy Targets Agreenebt, Cam kết mục tiêu chính sách
PPI Chỉ số giá hàng sản xuất
USD Đô la Mỹ
UNDP United Nations Development Programme, Chương trình Phát triển Liên
Hợp Quốc
TK Thế kỷ
TCTD Tổ chức tín dụng
TNCN Thu nhập cá nhân
TNDN Thu nhập doanh nghiệp
vi
TOR Chỉ số doanh thu của Thống đốc NHTW
VAT Thuế giá trị gia tăng
VND Việt Nam đồng
vii
DANH SÁCH BẢNG, ĐỒ THỊ, HÌNH VẼ
Hình 1: Mô hình NHTW thuộc chính phủ ...................................................................... 8
Hình 2: Mô hình NHTW thuộc Quốc hội ....................................................................... 8
Hình 3: Cơ cấu của NHNN Việt Nam .......................................................................... 25
Hình 4: Đồ thị tỷ lệ lạm phát bình quân (1986 -1999) ................................................. 31
Hình 5: Đồ thị tỷ lệ lạm phát bình quân(2000 – 2007) ................................................ 32
Hình 6: Đồ thị biến động tăng trưởng GDP, lạm phát, tín dụng 2008 -2013 .............. 35
Hình 7: Biểu đồ CPI năm 2008 .................................................................................... 36
Hình 9: Biểu đồ lãi suất năm 2008 ............................................................................... 37
Hình 10: Biểu đồ CPI năm 2011 .................................................................................. 39
Hình 11: Biểu đồ lạm phát Việt Nam 2011 .................................................................. 40
Hình 12: Biến động lãi suất trong giai đoạn 2010 - 2013 ............................................ 41
Hình 13: Bảng tính chỉ số độc lập chính trị của Việt Nam theo thang đo GMT .......... 47
Hình 14: Bảng tính chỉ số độc lập kinh tế của NHNN Việt Nam theo thang đo của
GMT ............................................................................................................................. 48
Hình 15: Đồ thị của kiểm định Zivot and Andrews(1992) .......................................... 56
Hình 16: Đồ thị của kiểm định Clemente et al. (1998) ................................................ 57
Hình 17: Đồ thị kiểm định Zivot and Andrews cho chuỗi lạm phát hạn chế 1996 -
2006 .............................................................................................................................. 58
Hình 18: Bảng kết quả mô hình hồi quy ....................................................................... 59
1
LỜI MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài
Lạm phát luôn được xem là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia bởi lẽ nó có
những tác động rất lớn không chỉ đến đời sống của người dân mà còn có ảnh hưởng
sâu rộng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bên cạnh đó lạm phát cao còn làm gia
tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và làm tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn xã hội.
Trải qua quá trình phát triển, vai trò quan trọng của NHNN Việt Nam trong việc điều
hành CSTT kiểm soát lạm phát ngày càng thể hiện rõ nét hơn, đưa Việt Nam vượt qua
được những giai đoạn vô cùng khó khăn, thử thách trong quá trình phát triển. Tuy
nhiên, đi cùng với sự hội nhập, mở cửa, đồng nghĩa với việc nền kinh tế Việt Nam
phải chịu tác động nhiều hơn từ diễn biến nền kinh tế thế giới, cũng như gia tăng nguy
cơ bất ổn, từ đó mà diễn biến lạm phát ngày càng phức tạp. Chính sách tiền tệ của
NHNN Việt Nam lúc này dần bộc lộ một số hạn chế mà xuất phát điểm là do những
mâu thuẫn mục tiêu, độ trễ, cũng như sự không nhất quán trong thực hiện chính sách.
Từ đó hiệu quả thực thi chính sách sụt giảm, trong đó có bình ổn mức giá (lạm phát).
Bởi vậy, sự độc lập của NHNN Việt Nam trong việc thực thi chính sách tiền tệ là một
vấn đề cần được quan tâm, đặc biệt trong bối cảnh đã có nhiều công trình nghiên cứu
cho thấy rằng những quốc gia có NHTW độc lập cao thì sẽ duy trì được mức lạm phát
ở mức hợp lý nhất thông qua việc điều hành các chính sách trở nên linh hoạt hơn, kịp
thời hơn, bám sát những diễn biến phức tạp của thị trường. Hơn thế nữa, theo tìm hiểu
của nhóm nghiên cứu, hiện nay chưa có nghiên cứu định lượng nào xác nhận sự tồn
tại mối quan hệ giữa mức độc lập của NHNN Việt Nam với lạm phát.
Chính bởi những lý do trên, nhóm nghiên cứu quyết định thực hiện đề tài: “Tính độc
lập của NHTW trong mối quan hệ với lạm phát – Nghiên cứu thực tế tại Việt
Nam”. Từ đó, nhóm nghiên cứu đưa ra những nhận định về mức độc lập của NHNN
Việt Nam với lạm phát trong hiện tại và gợi ý những đề xuất trong thời gian sắp tới.
Mục tiêu nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu có ba mục tiêu nghiên cứu cụ thể như sau:
(1) Tìm hiểu về tính độc lập của NHTW và mối quan hệ của tính độc lập của
NHTW với lạm phát.
2
(2) Kiểm tra xem liệu có tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa mức độc lập của
NHNN Việt Nam và tỷ lệ lạm phát.
(3) Đề xuất về tính độc lập của NHNN Việt Nam phù hợp thực tiễn hiện tại.
Phương pháp nghiên cứu
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa tính
độc lập của NHNN Việt Nam với tỷ lệ lạm phát. Công việc này được thực hiện qua
hai bước. Bước một, kiểm tra tác động của cải cách luật NHNN – những cải cách mà
có ảnh hưởng tới chỉ số độc lập của NHNN, tới tỷ lệ lạm phát thông qua nhận diện
những sự phá vỡ cấu trúc nội sinh trong chuỗi tỷ lệ lạm phát động1 bằng cách kiểm
định nghiệm đơn vị, và so sánh các ngày phá vỡ thu được với những năm mà thực
hiện cải cách. Bước hai, hồi quy2 tỷ lệ lạm phát động
3 theo chỉ số độc lập của NHNN
động để thấy được độ lớn của mối tương quan giữa chúng.
Sau đó, nhóm nghiên cứu thực hiện phân tích mô hình NHTW ở những quốc gia trên
thế giới nhằm rút ra được những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam. Từ đó kết hợp
với phương pháp suy luận để đề xuất những biện pháp nhằm tăng tính độc lập của
NHNN Việt Nam phù hợp với bối cảnh hiện tại.
Nội dung nghiên cứu
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, bài nghiên cứu bao gồm 4 phần chính:
Phần 1. Cở sở lý thuyết về tính độc lập ngân hàng trung ương và mối quan hệ của tính
độc lập của ngân hàng trung ương với lạm phát.
Phần 2. Thực trạng về tính độc lập của ngân hàng Nhà nước Việt Nam và lạm phát
qua các giai đoạn.
Phần 3. Phân tích thực nghiệm mối quan hệ giữa tính độc lập của ngân hàng Nhà nước
Việt Nam với lạm phát.
Phần 4. Bài học kinh nghiệm và ý kiến đề xuất
Đóng góp của đề tài
Cả về ý nghĩa khoa học lẫn thực tiễn ứng dụng
Ý nghĩa khoa học: Đề tài thực hiện nghiên cứu bằng phương pháp định lượng đầu tiên
trong kiểm tra mối quan hệ giữa tính độc lập của NHNN với lạm phát. Bên cạnh đó,
1 Chuỗi tỷ lệ lạm phát động từ năm 1996 – 2013.
2 Do hạn chế số liệu, các biến trong mô hình hồi quy được lấy từ năm 2000 – 2013.
3 Tỷ lệ lạm phát động là chuỗi tỷ lệ lạm phát theo thời gian.
3
bài nghiên cứu cũng sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị với phá vỡ cấu trúc để xác định
mối quan hệ này (từ đề tài của Arnone and Romelli, 2013 chỉ áp dụng trên các nước
OECD), áp dụng tại một quốc gia đang phát triển là Việt Nam.
Ý nghĩa thực tiễn: Bài nghiên cứu khẳng định mối quan hệ giữa lạm phát với sự độc
lập của NHNN Việt Nam, từ đó đưa ra những ý kiến đề xuất nhằm cải thiện mức độ
độc lập của NHNN hiện tại, hướng tới bình ổn giá cả, phát triển kinh tế.
Hướng phát triển của đề tài
Do hạn chế của việc thu thập số liệu, chỉ số độc lập mà nhóm sử dụng để đánh giá
mức độ độc lập của NHNN Việt Nam là chỉ số độc lập pháp định. Tuy nhiên, như lập
luận trong một số các nghiên cứu trước đây ủng hộ chỉ số độc lập thực tế, hạn chế
trong luật pháp cũng như thể chế ở các nước đang phát triển chính là nguyên nhân làm
chỉ số độc lập pháp định không diễn tả chính xác mức độ độc lập của NHTW. Bởi
vậy, khi giải quyết được vấn đề số liệu để đo lường chỉ số độc lập thực tế thì các
nghiên cứu tiếp theo nên sử dụng chỉ số độc lập thực tế để xác nhận lại xem liệu kết
quả về việc tồn tại mối quan hệ này là có còn đúng hay không.
Nghị định 156/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ tháng 12/2013, đã nới lỏng hơn trong việc
NHNN Việt Nam có quyền quyết định việc sử dụng các công cụ chính sách nào để
thực hiện mục tiêu của mình. Đây là một cải tiến hết sức rõ rệt trong mức độc lập của
NHNN Việt Nam và điều này gợi ý đến việc phát triển nghiên cứu sau vài năm nữa,
nhằm đánh giá sự thay đổi mức độ độc lập này có tác động tích cực đến công tác điều
hành chính sách tiền tệ và kiểm soát lạm phát của Việt Nam hay không?
4
1. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG TRUNG
ƯƠNG VỚI LẠM PHÁT
1.1. Tổng quan về ngân hàng Trung ương
1.1.1. Lịch sử hình thành & khái niệm, bản chất của NHTW
Thời kỳ thứ nhất: sơ khai hình thành nghề ngân hàng.
Khoảng 3500 trước Công nguyên, trên thế giới, các nền văn minh đã bắt đầu phát triển
rực rỡ. Con người bắt đầu sử dụng kim tệ (tiền kim loại đúc bằng đồng, bạc, vàng)
trong lưu thông. Tuy nhiên, các thương nhân thời bấy giờ lại gặp rắc rối với việc làm
sao để bảo vệ an toàn tiền bạc của mình trong khi cướp bóc và chiến tranh xảy ra
thường xuyên, rủi ro trong vận chuyển tiền trên những khoảng cách địa lý lớn, hay xử
lý thế nào với những đồng tiền bị hao mòn để có thể lưu thông bình thường... Để giải
quyết vấn đề này, họ đi tới những chùa chiền, nhà thờ, những người quyền quý trong
xã hội,… Nghề ngân hàng ra đời ban đầu với những nghiệp vụ hết sức đơn giản: nhận
bảo quản tiền và thu thù lao bảo quản, đổi chác tiền đúc và ăn hoa hồng,… Thuật ngữ
Ngân hàng bắt đầu xuất hiện (Bank) cùng với hình ảnh những chiếc bàn dài nhiều
ngăn để cất giữ tiền, sổ sách, giấy tờ… (theo tiếng Latin là Bancus). Nghề ngân hàng
sơ khai như vậy xuất hiện ở Hy Lạp và lan rộng ra những nước khác.
Thời kỳ thứ hai: Những nghiệp vụ ngân hàng cơ bản xuất hiện.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các nghiệp vụ ngân hàng cũng dần phát triển.
Các chủ ngân hàng đã bắt đầu biết sử dụng sử dụng số hiệu tài khoản để ghi chép. Từ
đó, nghiệp vụ bù trừ và chuyển ngân phục vụ cho thanh toán các giao dịch được diễn
ra một cách tiện lợi và nhanh chóng hơn. Các chứng thư do ngân hàng phát hành giúp
các thương nhân có thể dễ dàng nhận tiền ở một ngân hàng khác liên quan. Các hoạt
động trả tiền trước cho thương phiếu chưa đáo hạn theo cách chiết khấu tiền lãi (ngày
nay còn gọi là nghiệp vụ chiết khấu, nghiệp vụ bảo lãnh) bắt đầu xuất hiện.
Thời kỳ thứ ba: Định hình và phát triển hệ thống ngân hàng, hình thành
NHTW.
Từ thế kỷ XVI đến nay, cũng với những bước tiến vượt bậc trong nền văn minh nhân
loại, ngành ngân hàng cũng phát triển và đã, đang là một bộ phận có vai trò vô cùng
5
quan trọng trong nền kinh tế. Bắt đầu từ đây, hệ thống ngân hàng đã được định hình
qua 3 giai đoạn:
Từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVII, các ngân hàng thương mại đã bắt đầu sử dụng kỳ
phiếu và mỗi ngân hàng thương mại sẽ phát hành một loại kỳ phiếu riêng, gây ra tình
trạng khó khăn và cản trở lưu thông hàng hóa do một nước lại có quá nhiều kỳ phiếu
ngân hàng cùng được sử dụng. Sự cạnh tranh giữa các ngân hàng xảy ra, các kỳ phiếu
của những ngân hàng có quy mô lớn, uy tín ngày càng chiếm ưu thế và lưu thông rộng
rãi. Những ngân hàng vừa và nhỏ lúc này phải sử dụng các kỳ phiếu của các ngân
hàng lớn phát hành, dần dần xuất hiện sự phân hóa giữa các ngân hàng thương mại
phát hành kỳ phiếu (ngân hàng phát hành) và các ngân hàng thương mại không phát
hành kỳ phiếu.
Giai đoạn II (khoảng từ đầu TK XVIII đến đầu TK XX): lúc này quá trình cạnh tranh
giữa các ngân hàng ngày càng mạnh mẽ và gay gắt. Bên cạnh quy luật kẻ mạnh thắng
người yếu thì sự tác động, trợ giúp của chính quyền nhà nước cũng giữ vai trò rất quan
trọng. Thậm chí nhà nước còn can thiệp trực tiếp bằng các ra những sắc luật cho phép
ngân hàng nào được quyền phát hành, tạo nên ngân hàng phát hành độc quyền. Lúc
này hệ thống ngân hàng ở mỗi quốc gia phân hóa thành 2 cấp rõ rệt:
- Hệ thống ngân hành phát hành: chỉ giao dịch với các ngân hàng thương mại,
các tổ chức tín dụng.
- Hệ thống các ngân hàng trung gian (gồm các ngân hàng thương mại, các định
chế tài chính phi ngân hàng): giao dịch trực tiếp với khác hàng.
Giai đoạn III: Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, hầu hết các nước bắt đầu quốc hữu
hóa ngân hàng phát hành để hợp pháp vị trí độc tôn của ngân hàng phát hành, đồng
thời củng cố quyền lực và quyền lợi của nó trong xã hội. Theo đó, nhà nước sẽ mua lại
toàn bộ số cổ phần của ngân hàng phát hành, biến ngân hàng phát hành thuộc sở hữu
tư nhân thành ngân hàng phát hành thuộc sở hữu nhà nước (Ngân hàng công), và từ
đây, hình thành ngân hàng Trung ương.
1.1.2. Khái niệm, bản chất của NHTW
Sách Nghiệp vụ ngân hàng Trung ương trường ĐH Kinh tế TP.HCM đã đưa ra khái
niệm về NHTW như sau: “NHTW là ngân hàng phát hành tiền của một quốc gia, là cơ
quan quản lý và kiểm soát lĩnh vực tiền tệ ngân hàng trong phạm vi toàn quốc. NHTW
6
là bộ máy tài chính tổng hợp, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ và hoạt
động ngân hàng, đồng thời là ngân hàng của các ngân hàng và tổ chức tín dụng khác
trong nền kinh tế.”
Bản chất của NHTW thể hiện qua những nội dung sau:
- Là ngân hàng phát hành độc quyền của nhà nước.
- Là thể chế bậc cao của hệ thống ngân hàng thương mại và là nơi cho vay cuối
cùng của các ngân hàng thương mại.
- Là một bộ máy của nhà nước, thực hiện việc quản lý nhà nước trong lĩnh vực
tiền tệ - ngân hàng.
- Là cơ quan quản lý kinh tế tài chính tổng hợp, là trung tâm tiền tệ, trung tâm tín
dụng và trung tâm thanh toán của toàn bộ nền kinh tế.
1.1.3. Mục tiêu, chức năng và công cụ của NHTW
Mục tiêu của NHTW
Là cơ quan thực thi chính sách tiền tệ, NHTW cũng có 5 mục tiêu chính như các mục
tiêu chính của CSTT bao gồm:
(1) Ổn định giá cả.
(2) Ổn định tỷ giá.
(3) Ổn định hệ thống tài chính.
(4) Tăng trưởng kinh tế.
(5) Tỷ lệ việc làm cao.
Tuy nhiên, có nhiều lý do khiến một NHTW không thể cùng lúc theo đuổi tất cả các
mục tiêu trên, như vì:
- Một số mục tiêu là không tương thích với nhau.
Ví dụ như trong trường hợp “bộ ba bất khả thi”, cụ thể một quốc gia không thể cùng
lúc đạt được cả ba mục tiêu tự do hóa tài chính – Chính sách tiền tệ độc lập – Tỷ giá ổn
định.
- Việc theo đuổi nhiều mục tiêu cùng lúc trong một số trường hợp còn có thể là
không cần thiết.
Theo lý thuyết tăng trưởng kinh tế và việc làm có tương quan chặt chẽ với nhau, nghĩa
là một nền kinh tế tăng trưởng nhanh sẽ tạo ra được nhiều việc làm mới, nên NHTW
không cần phải theo đuổi cả hai mục tiêu trên.
7
- Đồng thời theo đuổi nhiều mục tiêu còn có thể làm hạn chế hiệu quả của chính
sách.
Hiện nay, trước tình hình kinh tế trong và ngoài nước, các biến vĩ mô ngày càng biến
động linh hoạt hơn. Do đó việc theo đuổi nhiều mục tiêu có thể khiến cho hiệu quả về
mặt chính sách bị sụt giảm.
Do những lý do này, các NHTW phải rất thận trọng trong việc lựa chọn mục tiêu cũng
như thứ tự ưu tiên của chúng.
Chức năng của NHTW
- Quản lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ - ngân hàng
- Phát hành tiền và điều tiết lưu thông tiền tệ.
- Thực hiện chức năng ngân hàng của các ngân hàng.
- Thực hiện chức năng ngân hàng của Chính phủ.
Công cụ
- Tỷ lệ dự trữ bắt buộc.
- Lãi suất tái chiết khấu.
- Hạn mức tín dụng.
- Nghiệp vụ thị trường mở.
1.1.4. Mô hình tổ chức
Tùy theo đặc điểm của từng nước, cũng như hệ thống pháp chế của các quốc gia,
NHTW được tổ chức theo một trong hai mô hình sau đây:
Mô hình NHTW trực thuộc Chính phủ
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ
BỘ VÀ CÁC CƠ QUAN NGANG
BỘ
(Tài chính, Kế hoạch Đầu tư,
Thương mại, Công nghiệp, Nông
nghiệp,…)
NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI
8
NHTW là một bộ máy của Chính phủ, là cơ quan ngang bộ, chịu sự chỉ đạo trực tiếp
của Chính phủ trong việc điều hành chính sách tiền tệ quốc gia
Ưu điểm: hoạt động của NHTW nằm trong sự kiểm tra và giám sát trực tiếp của Chính
phủ, vì vậy nó sẽ góp phần thực hiện các nhiệm vụ về kinh tế - xã hội mà Quốc hội đã
giao cho Chính phủ trong từng thời kỳ.
Nhược điểm: làm mất tính độc lập của NHTW trong việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ. NHTW có thể thành nơi phát hành tiền để bù đắp thiếu hụt trong ngân sách
nhà nước, khiến cho hoạt động phát hành tiền không tuân thủ nguyên tắc và có thể dẫn
tới lạm phát.
Phần lớn các quốc gia trên thế giới đang áp dụng mô hình này, trong có đó Việt Nam.
Mô hình NHTW trực thuộc quốc hội
NHTW có vị trí độc lập so với Chính phủ, được tổ chức và chỉ đạo trực tiếp từ Quốc
hội. Đây là mô hình tiên tiến, phù hợp với xu thế của thời đại, từng bước nâng cao vị
trí NHTW trong nền kinh tế thị trường.
QUỐC HỘI
CHÍNH PHỦ NGÂN HÀNG TRUNG ƯƠNG
BỘ VÀ CÁC CƠ QUAN NGANG BỘ
(Tài chính, Kế hoạch Đầu tư, Thương
mại, Công nghiệp, Nông nghiệp,…)
CÁC MỤC TIÊU KINH TẾ - XÃ HỘI
Hình 2: Mô hình NHTW thuộc Quốc hội
Hình 1: Mô hình NHTW thuộc chính phủ
9
Ưu điểm: NHTW thể hiện tính độc lập cao trong việc điều hành chính sách tiền tệ,
đồng thời có thể ngăn ngừa hiện tượng phát hành tiền do sự thiếu hụt của ngân sách
nhà nước. Nhược điểm: thiếu sự phối hợp giữa chính phủ và NHTW, khiến cho các
mục tiêu kinh tế - xã hội không được thực hiện một cách nhất quán.
Mô hình này hiện được áp dụng tại Mỹ, Anh, Đức, Canada, Nhật Bản…. và một số
nước khác.
1.2. Tính độc lập của NHTW
1.2.1. Cơ sở lý thuyết về tính độc lập của NHTW
Không có một khái niệm tuyệt đối nào khi nói về tính độc lập của NHTW. Theo Carl
E. Walsh, 2005, tính độc lập của NHTW liên quan đến sự tự do của chính sách tiền tệ
dưới những tác động trực tiếp từ chính trị hoặc chính phủ trong việc điều hành chính
sách.
Hầu hết những thảo luận về tính độc lập của NHTW tập trung vào hai phương diện
chính. Phương diện đầu tiên bao gồm những đặc điểm thể chế ngăn cách các NHTW
khỏi ảnh hưởng chính trị trong việc xác định các mục tiêu chính sách của mình.
Phương diện thứ hai bao gồm những vấn đề liên quan đến việc NHTW được phép tự
do thi hành các chính sách để theo đuổi các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Grilli,
Masciandaro and Tabellini (1991) gọi hai phương diện này là "sự độc lập chính trị" và
"sự độc lập kinh tế". Tuy nhiên một thuật ngữ phổ biến hơn theo cách gọi của Debelle
and Fischer (1994) là "sự độc lập trong mục tiêu" và "độc lập trong công cụ". Sự độc
lập mục tiêu đề cập đến khả năng NHTW có thể xác định các mục tiêu của chính sách
mà không bị tác động trực tiếp của cơ quan chính phủ.
Ví dụ, ở Vương quốc Anh, Ngân hàng Anh thiếu sự độc lập trong mục tiêu vì mục
tiêu lạm phát được thiết lập bởi Chính phủ. Tại Hoa Kỳ, mục tiêu của Cục dự trữ Liên
bang (FED) được thiết lập trong điều lệ pháp lý của nó, nhưng các mục tiêu được mô
tả bởi những điều khoản không cụ thể (ví dụ như tỷ lệ việc làm tối đa), từ đó FED có
thể đề ra các mục tiêu hoạt động. Bởi vậy FED có một mức độ độc lập mục tiêu cao.
Cũng như đối với Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB), ổn định giá cả là một mục
10
tiêu bắt buộc, nhưng ECB có thể lựa chọn cách giải thích mục tiêu này với việc tự
định nghĩa về ổn định giá cả và chỉ số giá cụ thể.
Sự độc lập trong công cụ chỉ đề cập đến khả năng của NHTW trong tự do thay đổi các
công cụ chính sách của mình để theo đuổi các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Ngân hàng Anh mặc dù thiếu sự độc lập trong mục tiêu nhưng lại có sự độc lập trong
công cụ. Cụ thể, việc thiết lập nhiệm vụ lạm phát là của Chính phủ, nhưng nó có thể
tự do quyết định công cụ sử dụng. Tương tự như vậy, phạm vi mục tiêu lạm phát của
Ngân hàng Dự trữ New Zealand được thiết lập trong Cam kết mục tiêu chính sách
(Policy Targets Agreement – PTA) với Chính phủ, nhưng theo PTA, nó có quyền sử
dụng công cụ mà không có sự can thiệp.
Theo cánh phân định các khía cạnh độc lập khác được trình bày trong những công
trình nghiên cứu của những tác giả Đặng Hữu Mẫn (2007), Vũ Thành Tự Anh
(2013)…, thì sự độc lập của NHTW được thể hiện trên những khía cạnh chính sau: (i)
độc lập về nhân sự, cơ cấu tổ chức và quản lý; (ii) độc lập về chính sách, và (iii) độc
lập về tài chính.
Độc lập về nhân sự, cơ cấu tổ chức, quản lý:
Khía cạnh đầu tiên của sự độc lập được thể hiện thông qua quyền hạn của Thống đốc
NHTW trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến nhân sự bên trong tổ chức của
mình như bổ nhiệm và miễn nhiệm nhân sự, phân công nhiệm vụ và quyền hạn, chế
độ lương bổng và trợ cấp...
Bên cạnh đó, nhiệm kỳ của thống đốc và các nhân sự chủ chốt của NHTW nếu lệch so
với nhiệm kỳ của Quốc hội và Chính phủ, thì mức độ lộc lập của NHTW cũng sẽ được
tăng cường. Đối với một số quốc gia, các vị trí chủ chốt khác của NHTW có chu kỳ
bầu/bổ nhiệm khác nhau, điều này vừa giúp cho công việc của NHTW được trôi chảy
và có tính kế thừa, vừa đảm bảo cho các thành viên được chỉ định bởi các nhiệm kỳ
Quốc hội hay Chính phủ khác nhau.
Độc lập về chính sách:
11
Khía cạnh độc lập về chính sách lại được chia ra làm hai mức cụ thể, bao gồm độc lập
trong việc quyết định các mục tiêu trung gian và độc lập trong việc lựa chọn các công
cụ chính sách. Lưu ý rằng ở hầu hết các quốc gia hiện nay, những mục tiêu cuối cùng
của chính sách tiền tệ hay NHTW như ổn định giá cả, ổn định hệ thống tài chính, ổn
định việc làm,… đều được quy định trong luật NHTW và do Quốc hội quyết định.
Việc quyết định mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ có sự khác biệt ở các quốc
gia khác nhau. Ví dụ như ở Úc và Anh thì mục tiêu này được quyết định do Bộ Tài
Chính cùng với NHTW, còn ở Mỹ hay EU thì mục tiêu này do NHTW quyết định
hoàn toàn. Cơ quan nào ra quyết định thì cơ quan đó phải chịu trách nhiệm giải trình
trước Quốc hội về chính sách và kết quả chính sách. Ví dụ nếu cả Bộ Tài chính và
NHTW cùng tham gia vào việc xác lập mục tiêu trung gian của chính sách tiền tệ thì
về nguyên tắc, hai tổ chức này phải cùng chịu trách nhiệm về việc giải trình này.
Sau khi đã xác định được mục tiêu trung gian thì ngay sau đó NHTW cần quyết định
các công cụ để thực hiện những mục tiêu đó. Các công cụ thường là lãi suất cơ bản
trên thị trường liên ngân hàng, mức tỷ giá trung bình (như Việt Nam là tỷ giá bình
quân liên ngân hàng) hay biên độ dao động tỷ giá.
Độc lập về tài chính
Khía cạnh thứ ba là khía cạnh độc lập về tài chính. Điều này được thể hiện đầu tiên ở
việc NHTW có quyền tự chủ quyết định phạm vi và mức độ tài trợ cho chi tiêu Chính
phủ trực tiếp hay gián tiếp bằng nguồn vốn tín dụng của mình hay không. Đây là một
cơ sở quan trọng cho việc thực hiện mục tiêu cuối cùng là ổn định giá cả.
Thứ hai, nó cũng thể hiện qua việc NHTW có nguồn tài chính đủ lớn để không phụ
thuộc vào sự cấp phát tài chính của Chính phủ, cụ thể là từ Bộ Tài chính. Lưu ý rằng
điều này không có nghĩa là NHTW có thể tùy tiện chi tiêu nhất là khi đa số các
NHTW đều có thặng dư từ hoạt động của mình. Trên thực tế ở nhiều quốc gia cũng
như Việt Nam, khoản thặng dư này thường phải chuyển vào ngân khố quốc gia.
Thứ ba, Thống đốc có quyền quyết định hầu hết các khoản chi tiêu của NHTW trong
khuôn khổ dự toán ngân sách đã được phê duyệt.
12
1.2.2. Đo lường tính độc lập của NHTW
Để đo lường mức độ độc lập của NHTW và tìm kiếm mối liên hệ của nó với các chỉ
số vĩ mô quan trọng như lạm phát, tăng trưởng GDP, đầu tư …các nhà nghiên cứu đã
đo lường mức độc lập của NHTW trên cả ba khía cạnh nhân sự, chính sách, và tài
chính như đã trình bày ở phần 1.2.1. Trên thực tế, vì khái niệm độc lập của NHTW chỉ
có tính tương đối và đa chiều nên nhiều khi không thể đo lường một cách trực tiếp. Do
đó, các khía cạnh độc lập của NHTW sẽ được đánh giá thông qua các chỉ tiêu gián
tiếp.
Có nhiều phương pháp đo lường mức độ độc lập của NHTW được sử dụng phổ biến.
Đầu tiên là thang đo của Bade và Parkin (1982) gồm 4 cấp độ đo lường cho 12 nước
dựa trên sự độc lập về mặt chính trị. Và sau đó vào năm 1988 Alesina đã bổ sung đo
lường thêm 4 nước khác dựa vào thang đo này. Độc lập về chính trị được định nghĩa
theo các tác giả này là liên quan đến mối quan hệ có tính thể chế giữa Chính phủ và
NHTW, về việc bổ nhiệm, miễn nhiệm của các nhân sự cấp cao của NHTW bởi Thủ
tướng, hay khả năng chi phối về các mục tiêu và công cụ chính sách của các thành
viên Chính phủ trong NHTW.
Hiện nay, hai phương pháp đo lường tính độc lập của NHTW phổ biến nhất là do
Grilli, Masciandaro, and Tabellini (GTM) xây dựng năm 1991và do Cukierman đề
xuất năm 1992. GMT phân biệt khía cạnh độc lập về chính trị (quyền hạn của NHTW
trong việc xây dựng mục tiêu của chính sách tiền tệ) và độc lập về kinh tế (quyền hạn
của NHTW trong việc lựa chọn công cụ để thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ).
Trong khi đó, Cukierman quan tâm về mức độ độc lập về việc bổ nhiệm thống đốc
NHTW, việc hình thành mục tiêu và chính sách của NHTW, và những giới hạn trong
việc NHTW cho chính phủ vay được quy định trong luật.
GMT – Grilli, Masciandaro, and Tabellini (1991) đánh giá mức độ độc lập của
NHTW trên hai phương diện: độc lập về chính trị và độc lập về kinh tế:
- Độc lập về chính trị là khả năng của NHTW trong việc lựa chọn mục tiêu cuối cùng
của chính sách tiền tệ. Sự độc lập về chính trị được đo lường theo tám chỉ tiêu bao
gồm:
13
1) Chính phủ không tham gia quá trình bổ nhiệm Thống đốc NHTW.
2) Chính phủ không tham gia quá trình bổ nhiệm thành viên của Hội đồng thống đốc.
3) Nhiệm kỳ của Thống đốc dài hơn 5 năm.
4) Nhiệm kỳ của các thành viên trong Hội đồng thống đốc dài hơn 5 năm.
5) Không bắt buộc có sự tham gia của đại diện Chính phủ trong Hội đồng thống đốc.
6) Chính sách tiền tệ không phải qua sự phê duyệt của Chính phủ.
7) NHTW được pháp luật cho phép coi ổn định tiền tệ là một mục tiêu cơ bản.
8) Tồn tại những quy định pháp luật tăng cường vị thế của NHTW trong trường hợp
có mâu thuẫn với Chính phủ.
- Độc lập về kinh tế đo lường sự tự chủ trong hoạt động của NHTW trên bảy chỉ tiêu
sau:
1) Không tồn tại thủ tục tự động cho phép Chính phủ vay tiền trực tiếp từ NHTW.
2) Tín dụng cho chính phủ (nếu có) phải theo lãi suất thị trường.
3) Tín dụng cho chính phủ (nếu có) phải có tính ngắn hạn.
4) Tín dụng cho chính phủ (nếu có) phải nằm trong hạn mức nhất định.
5) NHTW không tham gia thị trường sơ cấp đối với nợ của Chính phủ.
6) NHTW có trách nhiệm thiết lập lãi suất tái chiết khấu.
7) NHTW không có trách nhiệm giám sát ngành ngân hàng (hai điểm), hoặc chia sẻ
chức năng này với các cơ quan chức năng khác (một điểm).
Chỉ số CWN – Cukierman (1992) đề xuất phương pháp đo lường mức độ độc lập
của NHTW theo 16 chỉ tiêu như sau:
14
- Thống đốc NHTW: (i) Độ dài của nhiệm kỳ, (ii) Cơ quan được ủy quyền bổ nhiệm
thống đốc, (iii) Điều khoản bãi nhiệm thống đốc, và (iv) Khả năng giữ một vị trí khác
trong Chính phủ.
- Hình thành chính sách: (v) NHTW có chịu trách nhiệm xây dựng chính sách tiền tệ
hay không, (vi) Quy tắc liên quan đến việc giải quyết xung đột giữa NHTW và Chính
phủ, và (vii) Mức độ tham gia của NHTW trong việc xây dựng ngân sách của Chính
phủ.
- Mục tiêu của NHTW: (viii) Ổn định tiền tệ là một mục tiêu cơ bản của NHTW.
- Hạn chế đối với việc NHTW cho chính phủ vay: (ix) Tạm ứng trước và (x) Chứng
khoán hóa nợ của chính phủ, (xi) Chính phủ kiểm soát các điều khoản của khoản vay
(thời gian đáo hạn, lãi suất, và quy mô tín dụng), (xii) Độ rộng của những đối tượng
trong diện được phép vay từ NHTW, (xiii) Các loại ràng buộc (nếu có) đối với các
khoản vay từ NHTW, (xiv) Thời hạn của khoản vay từ NHTW, (xv) Những giới hạn
về lãi suất đối với các khoản vay từ NHTW, và (xvi) Việc ngăn cấm NHTW tham gia
thị trường nợ thứ cấp đối với các chứng khoán của Chính phủ.
IMF cũng đưa ra thang đo 4 mức độ về sự độc lập của NHTW ở các nước như sau:
Mức độ độc lập cao nhất là “Độc lập trong việc thiết lập mục tiêu”: ngân hàng trung
ương có quyền quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá nếu như nó không được
thả nổi (Ví dụ như Cục Dự trữ Liên bang Mỹ- FED được lựa chọn mục tiêu hoạt động
trong số các mục tiêu có thể xung đột với nhau là tuyển dụng nhân công và ổn định
giá cả).
Mức độ độc lập thứ hai là “Độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động”: NHTW
được quyền quyết định chính sách tiền tệ và chế độ tỷ giá. Tuy nhiên không giống với
kiểu độc lập về mục tiêu, độc lập trong việc xây dựng chỉ tiêu hoạt động là việc xây
dựng các chỉ tiêu của một mục tiêu chủ yếu đã được xác định rõ ràng trong Luật. Ví
dụ, Luật quy định mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định giá cả thì trong Điều lệ tổ
chức và hoạt động của ECB cũng quy định mục tiêu là ổn định giá cả và ECB được
quyết định chỉ tiêu hoạt động để hoàn thành mục tiêu đó.
15
Mức độ độc lập thứ ba là “Độc lập trong việc lựa chọn công cụ điều hành”: Chính phủ
hoặc Quốc hội quyết định mục tiêu và xây dựng chỉ tiêu chính sách tiền tệ, có sự bàn
bạc và thỏa thuận với NHTW. NHTW có trách nhiệm lựa chọn các công cụ chính sách
phù hợp ví dụ như hạn mức tín dụng, lãi suất chiết khấu, nghiệp vụ thị trường mở, chế
độ tỷ giá hối đoái,… để thực hiện mục tiêu đó.
Cuối cùng là “Mức độ độc lập bị hạn chế thậm chí không có”: Chính phủ sẽ quyết
định tất cả từ việc tạo ra chính sách (cả mục tiêu lẫn chỉ tiêu hoạt động) cũng như là
can thiệp vào việc lựa chọn các công cụ để thực thi chính sách.
1.3. Lạm phát
1.3.1. Khái niệm về lạm phát
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học: “Lạm phát là sự tăng lên theo thời gian của
mức giá chung của hầu hết các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế”.
Bên cạnh đó, giảm phát là khái niệm chỉ tình trạng mức giá chung của nền kinh tế
giảm xuống trong một thời gian nhất định. Khác với giảm lạm phát là tình trạng mức
giá chung của nền kinh tế tăng lên nhưng với tốc độ chậm hơn so với trước.
1.3.2. Phân loại lạm phát
Căn cứ vào tỷ lệ lạm phát, có thể chia lạm phát thành 3 loại:
Lạm phát vừa (còn gọi là lạm phát dưới 1 con số): khi mà giá cả hàng hóa dịch
vụ tăng chậm, dưới 10%/năm, đồng tiền tương đối ổn định, nền kinh tế ổn định.
Lạm phát phi mã (còn gọi là lạm phát 2 con số hay 3 con số): khi giá cả hàng
hóa dịch vụ tăng từ 10% đến 999%.
Nếu lạm phát phi mã xảy ra, đặc biệt ở mức 3 con số một năm, chẳng hạn 400%,
700%; đồng tiền sẽ mất giá nhanh chóng, thị trường tài chính bất ổn, nền kinh tế bất
ổn. Khi lạm phát càng cao, chi phí cơ hội của việc giữ tiền càng lớn. Người ta ví tiền
mặt trong thời kỳ này như những hòn than rực cháy, ai giữ tiền nhiều và càng lâu thì
càng bị thiệt hại.
Siêu lạm phát (lạm phát từ 4 con số trở lên): khi tỷ lệ lạm phát từ 1000%/năm
trở lên, đồng tiền mất giá nghiêm trọng, nền kinh tế bất ổn, cuộc sống ngày càng khó
khăn, mọi thứ đều trở nên khan hiếm trừ tiền giấy.
16
Sau chiến tranh thế giới thứ nhất, nền kinh tế Đức bị tàn phá nặng nề, sản lượng hàng
hóa sản xuất giảm sút nghiêm trọng, nguồn thu ngân sách giảm mạnh, lại phải bồi
thường chiến phí cho các nước đồng minh thắng trận, ngân khố quốc gia cạn kiệt. Để
có tiền chi tiêu duy trì bộ máy, chính phủ Đức đã phát hành một lượng tiền rất lớn, và
kết quả là giá cả hàng hóa tăng một cách chóng mặt. Ví dụ: Giá một tờ nhật báo vào
tháng 1 năm 1921 là 0,3 Mác, đến tháng 11 năm 1923 là 70 triệu Mác! Giá một ly bia
là bốn tỷ Mác, giá một ổ bánh mỳ là 3 tỷ Mác! Chính phủ phải mua thêm nhiều máy
in tiền, nhwng khối lượng tiền tăng lên vẫn chậm hơn tốc độ tăng giá. Đến mức vào
cuối giai đoạn siêu lạm phát, họ phải lấy những đồng tiền trong kho chưa phát hành
đóng thêm vào vài con số zero để phát hành. Tiền không còn thức hiện các chức năng
vốn có của nó. Thị trường tài chính gần như tê liệt. Để đảm bảo mức sống cho cán bộ
công nhân viên chức, chính phủ Đức đã phát lương 2 lần/ngày. Người dân chỉ giữ một
lượng tối thiểu để chi tiêu hằng ngày, mọi khoản tiền chưa tiêu dùng đều gửi hết vào
ngân hàng. Người dân đã mất rất nhiều thời gian để lui tới ngân hàng.
Như vậy, do tài trợ cho chi tiêu ngân sách bằng cách in tiền đã gây ra tình trạng siêu
lạm phát ở Đức giai đoạn 1921 – 1923.
1.3.3. Ngu ên nhân của lạm phát
Có 3 nguyên nhân chính gây ra lạm phát:
Lạm phát do cầu (còn gọi là lạm phát do cầu kéo): xuất phát từ gia tăng của
tổng cầu, có thể do khu vực tư nhân lạc quan về tình hình kinh tế, nên tiêu dùng và
đầu tư tăng lên, do chính phủ tăng chi tiêu, NHTW tăng cung tiền hay người nước
ngoài mua hàng hóa và dịch vụ trong nước.
Lạm phát do cung (còn gọi lạm phát do chi phí đẩy): xuất phát từ sự sụt giảm
của tổng cung, khi mà chi phí sản xuất của nền kinh tế tăng lên do tiền lương tăng
trong khi năng suất lao động không đổi, thuế tăng lãi suất tăng, thiên tai mất mùa
chiến tranh…, giá các nguyên vật liệu chính tăng cao.
Lạm phát theo thuyết số lượng tiền tệ: những nhà kinh tế thuộc trường phái tiền
tệ cho rằng lạm phát là do lượng cung tiền thừa quá nhiều trong lưu thông gây ra.
1.3.4. Đo lường lạm phát
17
Mức độ lạm phát được đo lường bằng tỷ lệ lạm phát. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm
gia tăng trong mức giá chung của kỳ này so với kỳ trước.
Tỷ lệ lạm phát hàng năm được tính theo công thức:
Thông thường, có ba loại chỉ số giá được dùng để tính tỷ lệ lạm phát bao gồm: chỉ số
giá hàng tiêu dùng (CPI), chỉ số giá hàng sản xuất (PPI), chỉ số giảm phát theo GDP
(Id).
1.4. Tổng quan các nghiên cứu trước đâ về mối quan hệ giữa tính độc lập của
NHTW và lạm phát
1.4.1. Các nghiên cứu trong nước
Đã tồn tại nhiều những nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự độc lập NHNN Việt Nam
với tỷ lệ lạm phát. Bài viết của Lê Xuân Nghĩa (2006) cho thấy NHNN Việt Nam có
mức độ độc lập thấp và chịu sự can thiệp hành chính toàn diện của Chính Phủ. Đây là
nguyên nhân làm hạn chế tính hiệu quả hoạt động của NHNN, nhất là trong mục tiêu
ổn định giá trị đồng tiền. Vì vậy, nâng cao tính độc lập của NHNN là một trong những
điều kiện tiên quyết để nâng cao một cách căn bản hiệu quả hoạt động của NHTW.
Theo đó, luật NHNN và luật các tổ chức tín dụng cần phải sớm sửa đổi để thể chế hóa
tính độc lập của NHTW.
Bài nghiên cứu của Đặng Hữu Mẫn (2007) trình bày về mục tiêu hàng đầu của NHTW
là ổn định giá cả, ổn định sức mua của đồng tiền, duy trì mức lạm phát thấp và hợp lý
trong một khoảng thời gian dài là dấu hiệu cho sự hoạt động hiệu quả một NHTW.
Bài viết không xem xét toàn bộ những nội dung trong tính độc lập của NHTW, thay
vào đó, tác giả chỉ nghiên cứu để tiếp cận vấn đề này ở mức độ sơ lược và cơ bản nhất
với mục đích phát hiện ra những vấn đề chính trong tính độc lập của NHTW, từ đó
chứng minh được vai trò của nó đối với sự ổn định giá của một quốc gia thông qua
một minh chứng điển hình nhất. Tác giả cũng đưa ra một số đề xuất như là một tiếng
nói đóng góp thêm vào nhiệm vụ ổn định giá cả ở Việt Nam hiện nay.
Bài nghiên cứu của Vũ Thành Tự Anh (2013) nêu lên mối quan hệ giữa mức độ độc
lập của NHTW và một số chỉ số vĩ mô, đồng thời đưa ra một số mô hình NHTW ở các
18
nước như Trung Quốc, Mỹ, Châu Âu (ECB), Malaysia, đồng thời đánh giá mức độ
độc lập của NHTW hiện nay ở Việt Nam để đưa ra các khuyến nghị về vai trò cũng
như sự phân nhiệm của Quốc hội, Chính phủ, NHTW trong việc tổ chức và quyết định
các chính sách tiền tệ, hơn thế nữa, là các khuyến nghị tăng cường tính độc lập cho
NHTW Việt Nam.
1.4.2. Các nghiên cứu ngoài nước
Rogoff (1985) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giao phó chính sách tiền tệ cho một
NHTW mà nó đặt nặng việc ổn định tỷ lệ lạm phát hơn so với ổn định việc làm. Thật
vậy, sự độc lập giúp NHTW có thể thực thi những chính sách tiền tệ đáng tin cậy
nhằm đạt một tỷ lệ lạm phát thấp hơn, vì vậy loại bỏ vấn đề không nhất quán thời gian
trong các chính sách chính phủ (Kydland and Prescott, 1977). Bài nghiên cứu cơ sở
của Rogoff có tác động kép, vừa khuyến khích thực hiện cải cách ngân hàng trung
ương trên khía cạnh chính sách, và tạo hướng đi cho việc thiết kế các chỉ số phù hợp
để thể hiện mức độ độc lập của NHTW, trên khía cạnh nghiên cứu.
Sau đó, bắt đầu với Bade và Parkin (1998), nhiều nghiên cứu khác nhau đã phát triển
các chỉ số đại diện cho mức độ độc lập của NHTW, sau đây gọi tắt là CBI (ví dụ
Alesina, 1988; Grilli et al., 1991; Cukierman, 1992; Cukierman et al., 1992; Alesina
and Summers, 1993).
Theo sau sự ra đời của các chỉ số này, các lý thuyết thực nghiệm đã ra đời nghiên cứu
mối quan hệ giữa CBI với lạm phát, tăng trưởng kinh tế và các biến vĩ mô khác. Các
bài viết của Alesina (1988), Grilli et al. (1991), Cukierman et al. (1992), và Alesina
and Summers (1993) đều đưa ra một kết quả nổi bật là tồn tại mối tương quan nghịch
biến giữa mức độ độc lập của NHTW và mức lạm phát – tức là lạm phát có xu hướng
thấp ở các nước có mức độ độc lập của NHTW cao. Bên cạnh tác động tích cực tới
mức lạm phát, một số nghiên cứu còn chỉ ra rằng, tính độc lập của NHTW giúp giảm
mức độ biến thiên của lạm phát, ví dụ như trong nghiên cứu của Alesina and Summers
(1993), Catão và Terrones (2003). Điều này có ý nghĩa quan trọng vì nếu như mức độ
lạm phát cho thấy sự dâng lên của mặt bằng giá cả thì sự biến thiên của nó phản ánh
mức độ rủi ro của môi trường vĩ mô – và do vậy nếu như việc tăng tính độc lập của
19
NHTW giúp giảm tính biến thiên của lạm phát thì đây là một chính sách cần thiết nếu
một quốc gia muốn duy trì sự ổn định vĩ mô.
Mối quan hệ giữa tính độc lập của NHTW và lạm phát được phát hiện không chỉ ở các
nước đã phát triển mà còn ở một diện rất rộng các quốc gia đang phát triển hay các
nền kinh tế mới nổi. Jacome and Vazquez (2008) nghiên cứu tác động của CBI tới lạm
phát cho một mẫu gồm 24 quốc gia Mỹ Latinh và Caribean trong thời kỳ từ 1985 –
2002. Kết quả của họ xác nhận mối quan hệ ngược chiều giữa CBI và lạm phát.
Arnone et al. (2009) và Laurens et al. (2009), sử dụng chỉ số CBI của Grilli et al.
(1991) cho một nhóm những quốc gia đang phát triển và thị trường mới nổi cũng cho
thấy vai trò quan trọng của ngân hàng Trung ương trong việc giữ lạm phát ở mức
thấp. Acemoglu et al. (2008) phân tích những thay đổi trong luật ngân hàng Trung
ương của 52 quốc gia trong thời kỳ từ 1989 – 2003 và chứng thực rằng CBI có liên
quan đến một sự suy giảm đáng kể trong lạm phát ở những nước có mức ràng buộc
chính trị trung bình.
Lý thuyết thực nghiệm kiểm tra mối quan hệ giữa CBI và lạm phát đã sử dụng các chỉ
số tính dựa trên luật NHTW (pháp định), hay dựa trên chỉ số doanh thu của thống đốc
NHTW (thực tế). Hồi quy meta của Klomp and de Haan (2010) phân tích 57 nghiên
cứu thực nghiệm cho thấy rằng chỉ số CBI theo luật định có mối quan hệ ngược chiều
với lạm phát ở những quốc gia OECD, đặc biệt trong suốt những năm 1970. Bên cạnh
đó, các nghiên cứu dựa trên CBI thực tế lại cho thấy một mối quan hệ cùng chiều giữa
các chỉ số đó và lạm phát, dẫu cho quan hệ nhân quả giữa hai biến này là rất khó để
đánh giá.
Tuy nhiên, những phương pháp trên đây không cung cấp một đánh giá chi tiết về tác
động của những cải cách luật NHTW tới tỷ lệ lạm phát động của mỗi quốc gia. Vả lại,
các nghiên cứu chỉ tiến hành xem xét CBI hiện hành, có lẽ không thể nắm bắt được
ảnh hưởng của sự tiến triển chỉ số này. Bởi vậy gần đây nhất, Arnone and Romelli
(2013) đã thực hiện nghiên cứu trên 10 quốc gia OECD và cho thấy kết quả là chỉ số
độc lập NHTW động (chỉ số CBI theo thời gian) tính toán từ những cải cách luật
NHTW, có mối quan hệ ngược chiều với tỷ lệ lạm phát động ở những quốc gia đó.
20
KẾT LUẬN PHẦN 1
Lạm phát cao gây ra rất nhiều những hệ quả nghiêm trọng cho nền kinh tế. Bởi vậy,
một trong những mục tiêu hàng đầu của NHTW các quốc gia là giữ cho lạm phát ở
một mức thấp vừa phải.
Tuy nhiên một thực tế rằng, những nghiên cứu cả lý thuyết và thực nghiệm ở trong và
ngoài nước đã cho thấy: mức độ độc lập của NHTW là một trong những nhân tố tác
động tới lạm phát, và tồn tại một mối tương quan nghịch giữa chỉ số độc lập của
NHTW (CBI) và lạm phát ở nhiều quốc gia. Những giải thích được đưa ra chủ yếu
bao gồm, việc NHTW không được độc lập trong thực hiện chính sách tiền tệ có thể
gây ra những mâu thuẫn mục tiêu, độ trễ, cũng như sự không nhất quán trong thực
hiện chính sách, và từ đó giảm hiệu quả các chính sách tiền tệ, trong đó có mục tiêu
giữ cho lạm phát ở một mức vừa phải. Thêm vào đó, cũng có trường phái lập luận
rằng việc NHTW trực thuộc Chính phủ có thể dẫn tới khả năng NHTW cung thêm
tiền vào nền kinh tế nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách của Chính phủ.
Ở Việt Nam cho đến nay, những nghiên cứu cụ thể về mối quan hệ giữa mức độc lập
của NHNN Việt Nam và tỷ lệ lạm phát thì chủ yếu đều sử dụng phương pháp định
tính, chưa có những nghiên cứu định lượng.
Mặt khác, trong những bài nghiên cứu thực nghiệm trước đây tại các quốc gia đang
phát triển và mới nổi, các tác giả trước cũng chưa có những đánh giá chi tiết về tác
động của cải cách luật NHTW tới tỷ lệ lạm phát, cũng như các nghiên cứu đó chỉ tiến
hành xem xét CBI hiện hành, có thể sẽ không nắm bắt được ảnh hưởng của sự tiến
triển chỉ số này.
Bởi vậy trong Chương 3, phân tích thực nghiệm mối quan hệ giữa tính độc lập của
NHNN Việt Nam với tỷ lệ lạm phát, nhóm nghiên cứu sẽ tìm hiểu tác động của cải
cách luật NHTW (cái mà có tác động đến sự độc lập của NHNN Việt Nam) tới tỷ lệ
lạm phát, cũng như sử dụng chỉ số CBI động4 trong mô hình hồi quy của mình.
4 Từ đây về sau, chỉ số CBI trong bài viết được hiểu là chỉ số CBI động.
21
2. THỰC TRẠNG VỀ TÍNH ĐỘC LẬP CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT
NAM VÀ LẠM PHÁT QUA CÁC GIAI ĐOẠN
2.1. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
Trước Cách Mạng Tháng Tám, ở Việt Nam ta có Ngân hàng Đông Dương, vừa đóng
vai trò là ngân hàng phát hành (phát hành tiền trên toàn cõi Đông Dương), vừa thực
hiện các nghiệp vụ vốn có của ngân hàng thương mại.
Cho đến khi cách mạng Tháng Tám thành công, Chính phủ Việt nam Dân chủ Cộng
hòa ra đời, ngân hàng Đông Dương không còn tồn tại nữa. Chính phủ đương thời bắt
đầu xây dựng hệ thống tiền tệ - ngân hàng của một nước Việt Nam độc lập có chủ
quyền:
Năm 1948, Quốc hội ra đạo luật đình chỉ lưu hành tiền Đông Dương, và cho phép Bộ
tài chính phát hành giấy bạc Việt Nam.
Năm 1951, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra sắc lệnh số 15/SL/CT - Sát
nhập Cục ngân khố quốc gia và Nha tín dụng sản xuất, tách ra khỏi Bộ tài chính để
thành lập Ngân hàng quốc gia Việt Nam vào năm 1951.
Ta có thể thấy việc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam ra đời là kết quả nối tiếp của quá
trình đấu tranh xây dựng hệ thống tiền tệ - ngân hàng độc lập, tự chủ của nước
ta.Trong thời điểm này, nó đối mặt với 5 nhiệm vụ cấp bách: phát hành giấy bạc, quản
lý Kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu
dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với địch.
Năm 1961, Ngân hàng Quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam.
Đến năm 1975, sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Chính phủ Cách mạng
lâm thời Cộng hoà miền Nam xây dựng hệ thống ngân hàng mới của chính quyền cách
mạng, thiết lập hệ thống ngân hàng thống nhất trong cả nước và thanh lý hệ thống
ngân hàng của chế độ cũ ở miền Nam.
Năm 1976, hệ thống ngân hàng ở miền nam được hợp nhất với NHNN Việt Nam, từ
đó NHNN Việt Nam trở thành Ngân hàng trung ương của nước Việt Nam thống nhất.
Năm 1978, phát hành tiền mới , thu hồi tiền cũ ở cả 2 miền.
22
Như vậy, đến cuối những năm 80, hệ thống Ngân hàng Nhà nước về cơ bản vẫn hoạt
động như là một công cụ ngân sách, chưa thực hiện các hoạt động kinh doanh tiền tệ
theo nguyên tắc thị trường.
Ngày 26/03/1988, Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) ra Nghị định số 53/HĐBT
chuyển hệ thống ngân hàng Việt Nam ta từ một cấp trở thành hai cấp:
- Ngân hàng cấp I: là Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chức năng quản
lý nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ - tín dụng ngân hàng, phát hành tiền và các
chức năng ngân hàng của các ngân hàng.
- Ngân hàng cấp II: bao gồm các ngân hàng chuyên doanh (NHTM) và các tổ
chức tín dụng – NH cấp II thực hiện việc kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ ngân
hàng.
Năm 1990, Hội đồng Nhà nước ban hành Pháp lệnh NHNN, tuy nhiên vì ở giai đoạn
mới chuyển sang mô hình 2 cấp, chưa có được nhiều sự học hỏi từ các nước khác,
kinh nghiệm của bộ máy quản lý nhà nước chưa nhiều nên Pháp lệnh này quy định cơ
cấu và các chức năng của NHNN còn rất sơ khai, chưa đi vào cụ thể ở nhiều điều
điểm. Theo đó NHNN được điều hành bởi Hội đồng quản trị gồm 10 thành viên, trong
đó chủ tịch HĐQT là Thống đốc NHNN còn phó chủ tịch là Phó thống đốc thứ nhất,
ngoài ra còn có 1 giám sát viên từ Chính phủ do Chủ tịch Hội đồng bộ trưởng bổ
nhiệm. Năm 1990, pháp lệnh quy định NHNN chỉ có vai trò tư vấn các chính sách về
tiền tệ, kinh tế và tài chính cho chính phủ.
Nhưng sau một thời gian hoạt động và cùng với việc gia nhập tổ chức ASEAN vào
năm 1995, vào năm 1997, Quốc hội đã ban hành Luật NHNN, quy định chi tiết hơn về
hoạt động và cơ cấu của NHNN. Luật NHNN đã chính thức công nhận Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam (NHNN) là NHTW của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam.
Trong Luật NHNN này, Ngân hàng Nhà nước chính thức được công nhận là một pháp
nhân, có vốn pháp định thuộc sở hữu nhà nước, có trụ sở chính tại thủ đô Hà Nội, các
chi nhánh ở các tỉnh, thành phố và các văn phòng đại diện ở trong và ngoài nước.
NHNN được quyền xây dựng dự án chính sách tiền tệ quốc gia, mức lạm phát dự kiến
23
hàng năm rồi mới trình Chính phủ xem xét để nộp lên Quốc hội. Thống đốc ngân hàng
nhà nước lúc này là Uỷ viên thường trực cho hội đồng tư vấn chính sách tiền tệ quốc
gia. Bộ luật này được sửa đổi và bổ sung vào tháng 10/2003.
Năm 2008, chính phủ ra NĐ96 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ
chức của NHNN Việt Nam. Và đến tháng 06/2010, Quốc Hội khoá 12 đã ban hành
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các Tổ Chức Tín Dụng để phù hợp hơn
với thời cuộc.
Ngày 11/11/2013, Thủ tướng chính phủ ký nghị định số 156/2013/NĐ-CP quy định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam, được thi
hành từ ngày 26/12/2013, thay thế Nghị định 96/2008/NĐ-CP ngày 26/8/2008.
NĐ156 đã có những điểm mới như: NHNN có thêm nhiệm vụ xây dựng chỉ tiêu lạm
phát hàng năm để trình Chính phủ, được quyết định sử dụng các công cụ chính sách
tiền tệ quốc gia như tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc,… NĐ96 thì
việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ quốc gia NHNN cũng chỉ được đề xuất
trong đề án trình Chính phủ. Sự tiến bộ này đã cho thấy NHTW đã và đang từng bước
độc lập hơn.
2.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức của NHNN Việt Nam
Theo Nghị định 156/2013/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, ban hành ngày 11/11/2013:
Vị trí
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (gọi tắt là Ngân hàng Nhà nước) là cơ quan ngang Bộ
của Chính phủ, là Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam;
Chức năng và nhiệm vụ
- Thực hiện chức năng phát hành tiền và quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân
hàng và ngoại hối:
Thực hiện các nghiệp vụ NHTW như: in, đúc, phát hành tiền; tái cấp vốn; tố chức,
quản lý thị trường tiền tệ, thị trường nội tệ, thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
24
Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm và sử dụng các công cụ thực hiện chính sách
tiền tệ quốc gia.
Công bố, quyết định chế độ tỷ giá hối đoái, quản lý Dự trữ ngoại hối và mua bán
ngoại hối, quản lý hoạt động kinh doanh vàng.
- Thực hiện chức năng ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ
cho Chính phủ:
Cấp, sửa đổi, bổ sung, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt động của các tổ chức tín
dụng.
Can thiệp bằng những biện pháp xử lý đặc biệt khi các tổ chức tín dụng vi phạm hoặc
gặp khó khăn về tài chính.
- Xử lý các ngân hàng yếu kém trong trường hợp hệ thống ngân hàng gặp rủi ro.
Thực hiện chức năng ngân hàng của Chính phủ là quản lý nhà nước các dịch vụ công
thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước:
Chủ trì lập, theo dõi, dự báo và phân tích kết quả thực hiện cán cân thanh toán quốc tế,
cung cấp số liệu cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam cho các tổ chức trong và
ngoài nước.
Bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của hệ thống thanh toán quốc gia.
Thống kê thông tin về kinh tế, tiền tệ, ngân hàng và công khai thông tin theo quy định
của pháp luật.
Chủ trì, phối hợp thực hiện phòng chống rửa tiền.
Cơ cấu tổ chức
Trụ sở Trung ương của NHNN Việt Nam đặt tại thủ đô Hà Nội với bộ máy lãnh đạo
tập trung – gồm Thống đốc NHNN Việt Nam và các Phó Thống đốc.
25
Hình 3: Cơ cấu của NHNN Việt Nam
Thống đốc NHNN
Các phó thống đốc
Vụ Cục NHTW
Vụ chính sách tiền tệ
Vụ quản lý ngoại hối
Vụ thanh toán
Vụ Tín dụng các ngành kinh tế
Vụ Dự báo, thống kê
Vụ Hợp tác quốc tế
Vụ Ổn định tiền tệ - tài chính
Vụ Kiểm toán nội bộ
Vụ Pháp chế
Vụ Tài chính - Kế toán
Vụ Tổ chức cán bộ
Vụ Thi đua - Khen thưởng
Văn phòng
Cục Công nghệ tin học
Cục phát hành và kho quỹ
Cục quản trị
Sở Giao dịch
Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng.
Vp đại diện NHNN tại TPHCM
Các tổ chức sự nghiệp
Viện Chiến lược NH
Trung tâm Thông tin tín dụng Quốc gia Việt Nam
Thời báo Ngân hàng
Tạp chí Ngân hàng
Trường Bồi dưỡng cán bộ ngân hàng
Trường ĐH Ngân hàng TPHCM
Học viện Ngân hàng
63 chi nhánh NHNN Tỉnh, TP trực thuộc TW
26
2.2. Tính độc lập của NHNN Việt Nam
Từ cuối những năm 80 đến đầu những năm 90, hệ thống ngân hàng đã có sự thay đổi
lớn, chuyển từ mô hình một cấp sang mô hình hai cấp, kèm theo đó là sự ra đời của
Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước năm 1990 (có hiệu lực từ 1/10/1990), tạo cơ sở pháp
lý để củng cố và phát triển hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam. Theo mô hình một
cấp, tức là Ngân hàng Nhà nước vừa thực hiện chức năng quản lý nhà nước vừa thực
hiện chức năng kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Còn theo mô hình hai cấp thì NHNN thực
thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh tiền tệ, tín dụng, thanh toán,
ngoại hối và ngân hàng; thực thi nhiệm vụ ngân hàng của các ngân hàng, tổ chức việc
điều hành chính sách tiền tệ, lấy nhiệm vụ giữ ổn định giá trị đồng tiền làm mục tiêu
chủ yếu và chi phối căn bản các chính sách điều hành cụ thể đối với hệ thống các ngân
hàng cấp hai(các ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng); ngoài ra NHNN là ngân
hàng duy nhất được phát hành tiền. Trên cơ sở pháp lệnh tính độc lập của NHNN
bước đầu được thể hiện; NHNN đã được pháp luật cho phép coi ổn định tiền tệ là một
mục tiêu cơ bản, cốt lõi trong chức năng nhiệm vụ của mình, đây là điểm độc lập cơ
bản của các NHTW (Pháp lệnh năm 1990, điều 1: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, gọi
tắt và Ngân hàng Nhà nước, là cơ quan của Hội đồng bộ trưởng, có chức năng quản lý
Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trong cả nước, nhằm ổn định giá
trị đồng tiền; là cơ quan duy nhất phát hành tiền của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam.) và điểm thứ hai là không trực tiếp tham gia thị trường sơ cấp đối với nợ
của Chính phủ, chỉ tham gia với bộ tài chính làm đại lí phát hành công trái chính
phủ(Pháp lệnh năm 1990, điều 27: Ngân hàng Nhà nước có thể thoả thuận với Bộ tài
chính làm đại lý cho kho bạc Nhà nước về các hoạt động sau đây: 1- Phát hành công
trái ngắn hạn và dài hạn; 2- Trả vốn gốc và lãi đối với công trái.). Tuy vậy, do thực tế
Việt Nam chúng ta vừa đang trong quá trình thực hiện Đổi mới, hệ thống ngân hàng
vừa chuyển từ ngân hàng 1 cấp sang 2 cấp, chưa có được nhiều sự học hỏi từ các nước
khác, kinh nghiệm của bộ máy quản lý nhà nước chưa nhiều nên Pháp lệnh này quy
định cơ cấu và các chức năng của NHNN còn rất sơ khai, chưa đi vào cụ thể ở nhiều
điều điểm. Theo đó, NHNN chỉ có vai trò tư vấn các chính sách về tiền tệ, kinh tế và
tài chính cho chính phủ, mức độ độc lập của NHNN hầu như không có. Một phần
27
cũng do thực tế bản thân NHNN Việt Nam lúc bấy giờ chưa đủ khả năng cũng như
kinh nghiệm trong điều hành chính sách tiền tệ, quản lí hoạt động hệ thống ngân hàng.
Năm 1997, để hình thành nên một khung pháp lí làm nền tảng cho hoạt động của
NHNN, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ra đời (có hiệu lực từ 1/10/1998). Với sự
ra đời của luật này thì vai trò là Ngân hàng Trung ương của Việt Nam đã được xác
định (Điều 1 – khoản 1: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (sau đây gọi là Ngân hàng
Nhà nước) là cơ quan của Chính phủ và là ngân hàng trung ương của nước Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam.), cũng như nhiệm vụ, quyền hạn, nghĩa vụ, hoạt động của
NHNN đã được cụ thể hóa, đặc biệt là đã chính thức được thừa nhận là Ngân hàng
Trung ương của Việt Nam. Theo khuôn khổ của luật này, tính độc lập của NHNN tiếp
tục được tăng lên, cụ thể là tăng điểm trong việc chịu trách nhiệm xác định lãi suất
chính sách làm cơ sở định hướng cho các hoạt dộng kinh tế (Điều 18: Ngân hàng Nhà
nước xác định và công bố lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp vốn.) và một điểm nữa là
không còn sự ràng buộc chặt chẽ của việc tham gia của chính phủ trong quá trình bổ
nhiệm thành viên của hội đồng thống đốc.
Đến năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước(có
hiệu lực từ 1/8/2003) được ban hành, để hoàn thiện, phù hợp cho thời kì phát triển
mới, nó đã góp phần tăng tính độc lập của NHNN lên một bậc, ở chỗ tạm ứng cho
chính phủ có tính ngắn hạn (Luật sửa đổi, bổ sung năm 2003 - Điều 32: Tạm ứng cho
ngân sách nhà nước Ngân hàng Nhà nước tạm ứng cho ngân sách trung ương để xử lý
thiếu hụt tạm thời quỹ ngân sách nhà nước theo quyết đinh của Thủ tướng Chính phủ.
Khoản tạm ứng này phải được hoàn trả trong nămngân sách, trừ trường hợp đặc biệt
do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quyết định.).
Và theo hướng hoàn thiện hơn hoạt động của NHNN, năm 2008 Chính phủ đã ban
hành Nghị định 96/2008/NĐ-CP về Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ
cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam; đặc biệt 2010, chính phủ đã ban hành
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thay cho Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
năm 1997; tuy vậy, mới chỉ hoàn thiện hơn cơ cấu tổ chức, chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn, hoạt động của NHNN, mà chưa có tác động đáng kể trong việc nâng cao
tính độc lập, tự chủ của NHNN. Và gần đây nhất, chính phủ đã ban hành nghị định
28
156/2013/NĐ-CP về Quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đã nới lỏng hơn trong kiểm soát của Chính phủ về
việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền tệ quốc gia của NHNN (Điều 2 –
khoản 4: Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ; sử dụng các công
cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm: Tái cấp vốn, lãi suất, tỷ giá hối
đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác để thực
hiện chính sách tiền tệ quốc gia).
2.3. Thực trạng lạm phát của Việt Nam
Lạm phát luôn được xem là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia bởi lẽ nó có
những tác động rất lớn không chỉ đến đời sống của người dân mà còn có ảnh hưởng
sâu rộng đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Bên cạnh đó lạm phát cao còn làm gia
tăng khoảng cách giàu nghèo trong xã hội và làm tiềm ẩn các nguy cơ bất ổn xã hội.
Trải qua quá trình phát triển, vai trò quan trọng của NHNN trong việc điều hành
CSTT nhằm kiểm soát lạm phát ngày càng thể hiện rõ nét hơn. Có thể thấy, từ năm
1986 đến nay, Việt nam đã trải qua rất nhiều khó khăn thách thức trong quá trình phát
triển và hội nhập toàn cầu. Đặc biệt phải kể đến là những giai đoạn đầu trong quá trình
phát triển , khi mà nền kinh tế luôn nằm trong trạng thái bất ổn định, lạm phát đạt kỷ
lục ba con số. Nhưng nhờ có sự điều phối, dẫn dắt hợp lý của NHNN thông qua các
công cụ CSTT đã đưa Việt Nam vượt qua những giai đoạn khó khăn và thúc đẩy nền
kinh tế phát triển ngày càng bền vững như hiện nay. Để thấy rõ vai trò quan trọng của
NHNN trong việc điều hành CSTT và tình trạng lạm phát của Việt Nam trong thời
gian vừa qua, nhóm nghiên cứu trình bày vài nét chính về thực trạng lạm phát và
CSTT của Việt Nam qua các giai đoạn từ năm 1986 đến nay.
2.3.1. Giai đoạn 1986-1999
Trước thời kỳ đổi mới 1986, kinh tế nước ta bắt đầu xuất hiện lạm phát 2 chữ số trong
một thời gian dài tuy nhiên không được sự quan tâm giải quyết đúng mức chính là
nguyên nhân tiềm ẩn dẫn đến siêu lạm phát năm 1986 đồng thời kéo theo một chuỗi
những biến động phức tạp trong những giai đoạn đầu phát triển của nền kinh tế Việt
Nam.
29
Mở đầu cho thời kỳ khủng hoảng này là giai đoạn 1986-1988: Đây là giai đoạn đặc
trưng của nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Nhà nước phải phát hành tiền liên tục
nhằm đáp ứng nhu cầu thiếu hụt ngân sách khiến cho nền kinh tế luôn nằm trong trạng
thái bất ổn định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số ( siêu lạm phát) , năm 1986 là 774,7%;
năm 1987 là 323,1%, năm 1988 là 393%. Nguyên nhân chủ yếu là do trong giai đoạn
này, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô của nền kinh tế bị mất cân đối nghiêm trọng, chính sách
nhà nước chưa phù hợp dẫn đến sản xuất tăng trưởng thấp, mất cân bằng cung cầu
hàng hóa trên thị trường .Từ đó cho thấy, tỷ lệ lạm phát cao trong giai đoạn chủ yếu là
lạm phát chi phí đẩy và lạm phát cầu kéo do sự mất cân đối tiền hàng và một số tác
động ngoại sinh: thiên tai, tâm lý đầu cơ do lo sợ sự mất giá của nội tệ…. Từ thực
trạng đó, mục tiêu chống lạm phát được đặt lên hàng đầu, điều này đã đưa đến 2 thay
đổi lớn trong chính sách tiền tệ:
Tỷ giá hối đoái được đưa lên ngang mức giá thị trường. Việc áp dụng tỷ giá hối đoái
thực tế nhằm ổn định tâm lý người dân , giảm việc tích lũy hàng hóa, vàng USD và
chuyển hướng sang tích lũy đồng nội tệ.
Chế đô lãi suất thực dương . Tức là nâng lãi suất tích kiệm lớn hơn tỷ lệ lạm
phát nhằm thu hồi lượng tiền trong lưu thông. NHTW từng bước cắt giảm lãi suất cho
vay thông qua giảm dần lãi huy động từ 12% xuống 9% rồi 6% năm.
Những thay đổi trên trong chính sách tiền tệ bước đầu đã góp phần đẩy lùi
khủng hoảng và lạm phát, khôi phục lòng tin của người dân vào đồng nội tệ, các quan
hệ thị trường dần dần được hình thành và cải thiện, tạo cơ sở vững chắc cho xu hướng
đổi mới về sau.
Đến giai đoạn 1989 – 1991 tình hình lạm phát được cải thiện nhưng vẫn còn ở mức
tăng khá cao, trung bình khoảng 67% trong năm 1990 và 1991. Nguyên nhân là do
nguồn lực cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi, thích nghi với hệ thống
kinh tế thị trường. Để khắc phục tình trạng này, NHTW đã đưa ra các biện pháp như:
thắt chặt chi tiêu, tăng cường hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo nguồn vốn
cần thiết cho tăng trưởng. Chính sách tiền tệ của NHTW được đưa ra trong giai đoạn
30
này có tác động đáng kể đến lạm phát, tuy nhiên vẫn chưa thể đưa lạm phát Việt Nam
về mức một con số.
Từ năm 1992 trở đi, nền kinh tế Việt Nam chuyển dần sang giai đoạn chuyển đổi ,
tình hình lạm phát bắt đầu lắng dịu và tạm ổn định trong giai đoạn này . Việc chấm
dứt cung ứng tiền cho bội chi ngân sách thông qua các chính sách cải cách về hành
chính cũng như các chính sách kinh tế mang tính tích cực của nhà nước đã góp phần
giảm đáng kể tỷ lệ lạm phát so với các giai đoạn trước đó. Tuy nhiên, việc điều hành
quản lý kinh tế vẫn ở dạng thô, do vậy nền kinh tế vẫn không thể tránh khỏi những
giao động về lạm phát, đặc biệt là năm 1995 khi lạm phát quay lại ở mức 2 con số
(16.9%). Đến năm 1997, khủng hoảng tài chính Châu Á nổ ra khiến cho nền kinh tế
Việt Nam tăng trưởng chậm lại nhưng lạm phát vẫn được kiểm soát ở mức thấp
(3.1%) , đây được xem là một thành tựu đáng kể của CSTT trong giai đoạn này.
Bên cạnh những thành công đạt được trong việc kiềm chế lạm phát, quản lý ngoại hối,
chính sách lãi suất…việc điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn 1992-1999 cũng
bộc lộ nhiều mặt hạn chế: sự phối hợp giữa CSTT và CSTK chưa thật sự ăn khớp, trên
thực tế vẫn xảy ra hiện tượng phát hành để bù đắp chi tiêu gây ra lạm phát ngoài dự
kiến, các công cụ của CSTT chưa được hoàn thiện theo cơ chế thị trường gây khó
khăn trong việc điều hành những công cụ này…
31
Hình 4: Đồ thị tỷ lệ lạm phát bình quân (1986 -1999)
Nguồn: www.tradingeconomics.com
2.3.2. Giai đoạn 2000-2007
Giai đoạn 2000-2007, tỷ lệ lạm phát có những diễn biến phức tạp , xuất hiện cả giảm
phát lẫn lạm phát trong cùng một thời kỳ. Mặc dù lạm phát đã được kiểm soát đáng kể
từ năm 1997,nhưng hậu quả của nó vẫn kéo dài đến tận năm 2000 thể hiện qua sự trì
trệ của nền kinh tế trong suốt giai đoạn 1997-2000 như: thị trường xuất khẩu bị thu
hẹp, tốc độ gia tăng nguồn vốn đầu tư nước ngoài có phần giảm sút, sản xuất một số
ngành cũng thu hẹp đáng kể… Kết quả là nền kinh tế rơi vào tình trạng thiểu phát
trong năm 2000. Thực trạng trên đã tác động đến CSTT của NHNN thông qua quyết
định thay đổi cơ chế điều hành lãi suất từ trần lãi suất sang cơ chế điều hành lãi suất
cơ bản đối với VND và cơ chế lãi suất thị trường có quản lý đối với ngoại tệ. Sự
chuyển đổi trong cơ chế điều hành lãi suất linh hoạt này là một bước tiến mới trong
tiến trình tự do hóa lãi suất của CSTT với điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển
còn yếu kém của Việt Nam. Ngoài ra, ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do
NHNN chủ trì mở phiên giao dịch đầu tiên cũng là cột mốc quan trọng trong điều
hành CSTT từ việc sử dụng những công cụ cứng nhắc mang tính hành chính sang
0.00%
50.00%
100.00%
150.00%
200.00%
250.00%
300.00%
350.00%
400.00%
450.00%
500.00%
1986 1987 1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
Tỷ lệ lạm phát BQ
32
công cụ linh hoạt hiệu quả hơn, góp phần cải thiện tỷ lệ lạm phát trong các năm sau
đó.
Sang năm 2001, Việt Nam tiếp tục thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế trong bối
cảnh kinh tế trong nước rơi vào tình trạng lạm phát, hoạt động của hệ thống ngân hàng
thương mại vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, CSTT được Ngân hàng Nhà nước đề
ra là chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng để vừa đảm bảo mục tiêu ổn định giá trị
đồng tiền, kiểm soát lạm phát ở mức không quá 5%, góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, đồng thời thực hiện chủ trương kích cầu của Chính phủ, tiếp tục ổn định hệ
thống ngân hàng.
Hình 5: Đồ thị tỷ lệ lạm phát bình quân (2000 – 2007)
Nguồn: www.tradingeconomics.com
Từ năm 2002 Việt Nam chuyển từ giảm phát sang lạm phát 1 con số. Các diễn biến
kinh tế, tiền tệ trong nước và quốc tế diễn ra không mấy phức tạp, kinh tế tăng trưởng
dần qua các năm. Chính phủ đặt ra mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao nhằm hoàn thành
mục tiêu phát triển kinh tế xã hội 5 năm 2000-2005 (bình quân 7-7.5%/năm); năm
2005 mục tiêu tăng trưởng đặt ra là 8-8,5% và chỉ số lạm phát định hướng dưới 6.5%.
Cần chú ý giai đoạn 2004-2007 khi mà lạm phát có xu hướng tăng cao trở lại và gần
-1.58%
-0.34%
4.00% 3.24%
7.76% 8.29%
7.41%
8.42%
-4.00%
-2.00%
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Tỷ lệ lạm phát giai đoạn 2000-2007
33
như lặp đi lặp lại, cứ 2 năm tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng
9.5%, năm 2005 tăng 8.4%, thì năm 2006 chỉ tăng 6.6%; năm 2007 tăng 12.63%. Tình
trạng lạm phát gia tăng một cách đột biến vào năm 2004 được giải thích chủ yếu thông
qua hai nguyên nhân chính là chi phí đẩy và sự mất cân đối của nền kinh tế vĩ mô.
Việc Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh giảm giá VND so với USD đã hỗ trợ cho hoạt
động xuất khẩu và giúp ổn định nền kinh tế vĩ mô, mặt khác giúp thu hẹp chênh lệch
giữa tỷ giá niêm yết và tỷ giá ngoài thị trường tự do. Nhưng với việc đồng USD mất
giá so với các đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới trong khi VND lại gắn chặt với
USD đã làm cho giá cả các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu (sắt thép, phân bón,…) tăng
lên, cộng thêm việc xuất hiện dịch cúm gia cầm và sự biến đổi khí hậu làm giảm
nguồn cung khiến giá thực phẩm gia tăng. Tổng hợp những điều này đã làm gia tăng
lạm phát. Thêm vào đó, nền kinh tế Việt Nam vẫn tồn tại một sự mất cân đối lớn trong
nguyên vật liệu nông sản, khoáng sản và xăng, hàng công nghiệp là một trong những
nguyên nhân khiến lạm phát gia tăng. Có thể nói, CSTT với những thay đổi trong giai
đoạn này mang lại tác động tích cực cho mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhưng đồng thời
nó cũng chính là nguyên nhân tiềm ẩn gây ra sự gia tăng trở lại của lạm phát.
Nhìn chung, trong giai đoạn 2000-2005, CSTT của NHNN có một số thay đổi chính.
Để chống lại tình trạng giảm phát của nền kinh tế (năm 2000), NHNN tiến hành nới
lỏng tiền tệ thông qua việc giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc của ngoại tệ từ 15% xuống còn
4% vào năm 2003. Điều này giúp lãi suất ngoại tệ giảm một cách nhanh chóng, hoạt
động tín dụng ở các ngân hàng thương mại gia tăng và làm giảm chi phí huy động vốn
của các cơ sở kinh doanh cũng như các tổ chức tín dụng. Song mặt trái của chính sách
được đưa ra trong giai đoạn này là khiến lạm phát trở lại đạt mức 0.79% vào năm
2001; 4.04% vào năm 2002; 3.01% vào năm 2003 và đỉnh điểm là 9.67% vào năm
2004.
Ngoài ra, NHNN còn sử dụng nghiệp vụ thị trường mở (OMO) như một công cụ chủ
yếu nhằm ổn định lãi suất, ổn định tiền tệ, hỗ trợ tích cực cho việc thực hiện mục tiêu
tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát theo mục tiêu Quốc hội đề ra… Tăng
trưởng tín dụng bình quân giai đoạn này khoảng 30% mỗi năm dẫn đến việc NHNN
34
tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc như một hệ quả tất yếu, giúp tỷ lệ lạm phát của năm 2005
giảm xuống chỉ còn 8.71%.
Tỷ lệ lạm phát tuy có sự sụt giảm nhẹ trong năm 2006, nhưng ngay sau đó đến năm
2007, khi Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO), thu hút mạnh các nguồn vốn từ bên ngoài, khiến cho nền kinh tế tăng trưởng
quá nóng, đồng nội tệ tăng giá mạnh. Những yếu tố này trực tiếp tác động làm cho
lạm phát năm 2007 tăng gần gấp đôi so với năm 2006. Từ 2007-2010, tăng trưởng hầu
như hoàn toàn là dựa vào tích lũy vốn. Cơ sở của sự tích lũy vốn này là tăng trưởng tín
dụng. Đây là một nguyên nhân giúp cho Việt Nam giữ được mức tăng trưởng GDP và
lạm phát thấp như đã nói ở trên.Tuy nhiên, sự lệ thuộc thái quá vào vốn hay các yếu tố
đầu vào sẽ tạo nên sự tăng trưởng không bền vững, lạm phát có xu hướng quay trở lại.
Trước bối cảnh này, NHNN thực hiện thắt chặt tiền tệ, nghiệp vụ thị trường mở
(OMO) điều hành linh hoạt bám sát mục tiêu. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước giữ
các mức lãi suất (lãi suất cơ bản 8.25%/năm, tái cấp vốn 6.5%/năm, chiết khấu
4.5%/năm v.v...) và tỷ lệ dự trữ bắt buộc nhằm ổn định lãi suất thị trường. Bên cạnh
đó, Ngân hàng Nhà nước chủ động can thiệp mua - bán ngoại tệ và thực hiện cơ chế tỷ
giá thả nổi có kiểm soát để tránh việc tăng giá VND và làm cho tỷ giá VND so với
USD trên thị trường biến động tăng ở mức độ thấp
Mặc dù lạm phát bắt đầu gia tăng trong giai đoạn 2001 – 2007 nhưng CSTT trong giai
đoạn này cũng mang lại một số thành tựu, như Hạn mức tín dụng, Dự trữ bắt buộc và
Tái cấp vốn được điều chỉnh tăng giảm phù hợp với mục tiêu điều tiết lượng vốn huy
động và cho vay tín dụng hàng năm . Chính sách lãi suất có sự thay đổi căn bản trong
việc điều hành , thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế. Điều này góp phần giữ vững
tốc độ tăng trưởng giữ ở mức khá, xấp xỉ 7%/năm.
2.3.3. Giai đoạn 2008-2013
35
Tình hình biến động của tốc độ tăng GDP, tăng trưởng tín dụng, lạm phát
giai đoạn 2008 - 2013
Hình 6: Đồ thị biến động tăng trưởng GDP, lạm phát, tín dụng 2008 – 2013
Nguồn: www.vneconomy.vn ; www.gso.gov.vn ; www.vietstock.vn
Mở đầu giai đoạn này là năm 2008 với nhiều biến động lớn trong nền kinh tế. Lạm
phát và giảm phát trong cùng một năm. Đây cũng là một năm ghi nhận những biến
động chưa từng có về lãi suất và tỷ giá trên thị trường ngân hàng. Nguyên nhân là do
sự chủ quan trong 3 tháng đầu năm khi nền kinh tế đang trên đà phát triển mà ẩn sau
đó là những dấu hiệu của một cuộc khủng hoảng. Sự gia tăng chóng mặt của bong
bóng bất động sản cũng như thị trường chứng khoán ,tình trạng đầu cơ và kinh doanh
theo “bầy đàn” cùng với lượng tiền cung ứng và dư nợ tín dụng tăng mạnh từ cuối
năm 2007 kéo theo tỷ lệ lạm phát trở lại mức cao đột biến 19.87%. Bên cạnh đó, nền
kinh tế thế giới nói chung và nền kinh tế Mỹ nói riêng cũng gặp nhiều khó khăn khiến
cho giá cả các nguyên vật liệu như xăng ,dầu, sắt, thép…cũng gia tăng ở mức cao.
6.31
5.32
6.78
5.89
5.03
5.421 30
37.73
27.65
10.9 8.91
12.51
19.87
6.52
11.75
18.13
6.81 6.04
0
1
2
3
4
5
6
7
8
0
5
10
15
20
25
30
35
40
2008 2009 2010 2011 2012 2013
Tốc độ tăng GDP (%) Tăng trưởng tín dụng (%) Lạm phát (%)
36
Hình 7: Biểu đồ CPI năm 2008
Nguồn: www.tradingeconomics.com
Đây là một năm áp lực đối với hệ thống ngân hàng, nhất là NHTW trong việc điều
hành CSTT. Trong những tháng đầu năm, NHTW thực hiện chính sách tiền tệ thắt
chặt thông qua việc tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, mở rộng nghiệp vụ thị trường mở thông
qua phát hành tín phiếu bắt buộc đồng thời điều chỉnh lãi suất liên tục. Do Chính phủ
không dự đoán được tình hình khủng hoảng xảy ra nên dưới sự chỉ đạo nóng vội trong
giai đoạn này, CSTT thực hiện một cách bị động khiến cho tình hình trở nên căng
thẳng. Việc thắt chặt CSTT đột ngột trong giai đoạn đầu tạo ra cú sốc lớn và gây ra
các phản ứng tiêu cực tức thời tới thị trường tiền tệ và NHTM. Bên cạnh đó, sự mâu
thuẫn giữa các mục tiêu trong ngắn hạn khiến cho nền kinh tế trong ngắn hạn không
thể thực hiện được tất cả các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Đến cuối năm, CSTT
được nới lỏng thận trọng linh hoạt và hợp lý hơn trong cả bốn công cụ.
Tháng1
Tháng2
Tháng3
Tháng4
Tháng5
Tháng6
Tháng7
Tháng8
Tháng9
Tháng10
Tháng11
Tháng12
Năm 2008 2.38 3.56 2.99 2.2 3.91 2.14 1.13 1.56 0.18 -0.19 -0.76 -0.68
-1
0
1
2
3
4
5
Biểu đồ CPI năm 2008
37
Hình 9: Biểu đồ lãi suất năm 2008
Nguồn: http://www.sbv.gov.vn
Nhìn chung, CSTT năm 2008 của NHTW dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã giúp cho
nền kinh tế vượt qua thời kỳ khủng hoảng và kiềm chế lạm phát về mức một con số.
Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế như việc định hướng thực hiện
các giải pháp chưa đúng mức độ, thời gian tiến hành chưa thích hợp, dồn dập cùng
một lúc trong điều kiện thanh khoản của các ngân hàng ở mức thấp. Ngoài ra, chính
sách phát triển kinh tế nóng của Chính phủ đã gây ra hoàn cảnh khó khăn cho nền
kinh tế cũng như việc thực thi các công cụ trong CSTT.
Năm 2009 CSTT vẫn tiếp tục đối mặt với những khó khăn phát sinh từ bất cập của
nền kinh tế và tác động bất lợi của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế dẫn
tới lạm phát vẫn ở mức cao và sự đảo chiều của dòng vốn. Trước những tác động bất
lợi trên, CSTT được NHNN thực thi linh hoạt và có sự phối hợp với các giải pháp
kích cầu của Chính phủ thông qua hạ lãi suất, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, quy định biên độ
tỷ giá mua bán USD/VND….
Đầu năm 2009, Chính Phủ đã đưa ra gói kích cầu bao gồm các nhóm giải pháp cơ bản:
Với doanh nghiệp: giảm, giãn thuế TNDN, hỗ trợ lãi suất ở mức 4%; Với dân cư: trợ
0.00%
2.00%
4.00%
6.00%
8.00%
10.00%
12.00%
14.00%
16.00%
1/1
/20
08
1/2
/20
08
1/3
/20
08
1/4
/20
08
1/5
/20
08
19
/5/2
00
8
1/6
/20
08
11
/6/2
00
8
1/7
/20
08
1/9
/20
08
1/1
0/2
00
8
21
/10
/20
08
5/1
1/2
00
8
21
/11
/20
08
5/1
2/2
00
8
22
/12
/20
08
Biểu đồ lãi suất năm 2008
Lãi suất CB
Lãi suất tái chiết khấu
Lãi suất tái cấp vốn
38
cấp người nghèo, giãn/miễn thuế TNCN, giảm VAT, đào tạo lao động; Về phía Chính
Phủ: tăng đầu tư cơ sở hạ tầng, tăng chi tiêu công, đẩy mạnh xúc tiến thương mại để
tăng xuất khẩu. Nổi bật và có tác động rõ rệt nhất là chính sách hỗ trợ lãi suất.Tuy
nhiên, sự thâm hụt ngân sách tăng cao (2009 – 6.5% GDP ) buộc ngân sách vay nợ
nhiều, gây áp lực giảm giá VND. Thị trường tiền tệ xuất hiện nhiều mâu thuẫn, bất
cập : Tốc đô tăng trưởng tín dụng cao nhưng chưa đủ đáp ứng nhu cầu vốn vay cho
doanh nghiệp, VND khan hiếm biểu hiện ở áp lực tăng lãi suất nhưng chính sách điều
tiết vĩ mô thì lãi suất lại thấp . Việc tiếp tục duy trì hỗ trợ lãi suất không chỉ làm gia
tăng sức ép lạm phát, ngoài ra có thể dẫn đến việc sử dụng vốn thiếu hiệu quả gây tác
động không tốt cho nền kinh tế mặc dù vẫn có một số tác động tích cực từ chính sách.
Năm 2010 , Kinh tế thế giới dần phục hồi sau khủng hoảng tài chính từ đó góp phần
thúc đẩy thị trường tiền tệ, tín dụng Việt Nam tăng trưởng ổn định và phù hợp với
diễn biến, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Tăng trưởng tín dụng đạt 29.81%, tổng
dư nợ tăng 27.6%, tổng phương tiện thanh toán tăng 25.3% so với cuối năm 2009,….
Thị trường vàng và ngoại tệ cũng dần ổn định, tỷ giá diễn biến phù hợp góp phần cải
thiện cán cân thanh toán quốc tế. Sự chuyển biến này là do có sự chủ động và linh
hoạt hơn trong CSTT, phù hợp với Nghị quyết Quốc hội, Chỉ đạo của Chính phủ và
bám sát với tình hình thực tế trong việc điều hành ổn định lãi suất cơ bản và lãi suất
tái cấp vốn ở mức 8%, giảm lãi suất cho vay, tăng cường hoạt động thị trường mở,
điều chỉnh tỷ giá mua bán phù hợp….
Từ năm 2011-2013, nền kinh tế Việt Nam được cải thiện tương đối. Lạm phát có xu
hướng giảm từ mức 2 con số năm 2011 (18.13%) xuống mức 1 con số (6.81% năm
2012 và 5.92% trong 10 tháng đầu năm 2013). Nguyên nhân lạm phát cao trong năm
2011 là do giá cả nguyên liệu đầu vào như xăng, dầu (tăng 20%), điện (tăng 15.28% ),
tỷ giá USD/VND (tăng 9.3%) tăng cao khiến cho chỉ số CPI tăng cao.
39
Hình 10: Biểu đồ CPI năm 2011
Nguồn: Tổng cục thống kê
Năm 2011, kinh tế toàn cầu bắt đầu le lói phục hồi nhưng còn nhiều khó khăn, tác
động tiêu cực đến tình hình kinh tế trong nước. Trong 6 tháng đầu năm, lạm phát tăng
13,29% so với đầu năm và tăng 20% so cùng kỳ năm trước, gây khó khăn cho nỗ lực
kiềm chế lạm phát dưới 15% theo mục tiêu đề ra, thị trường bất động sản và chứng
khoán sụt giảm mạnh.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều hành chính sách tiền tệ chặt chẽ, thận trọng để
kiểm soát lạm phát và hỗ trợ ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an toàn hệ thống, thực
hiện mạnh mẽ các biện pháp điều hành nhằm kiểm soát tốc độ tăng trưởng tín dụng
dưới 20% và điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung vốn cho sản xuất, giảm
tỉ trọng dư nợ cho vay lĩnh vực phi sản xuất. Nhờ đó, đến cuối năm 2011, tổng
phương tiện thanh toán và tín dụng lần lượt tăng khoảng 10% và 12%, các mức lãi
suất trên thị trường đã được điều chỉnh phù hợp với diễn biến kinh tế vĩ mô và chỉ đạo
của Chính phủ. Việc tăng cường thanh tra, giám sát và xử lý nghiêm những trường
hợp vi phạm trần lãi suất huy động đã tạo điều kiện cho việc giảm dần mặt bằng lãi
suất huy động và cho vay trong những tháng cuối năm. Từ đó, tình hình kinh tế những
tháng cuối năm đã có dấu hiệu cải thiện, GDP năm 2011 tăng 5.89%, lạm phát so cùng
0
5
10
15
20
25
T1 T2 T3 T4 T5 T6 T7 T8 T9 T10 T11 T12
CPI năm 2011 (So với cùng kỳ năm trước )
CPI (So với cùng kỳ năm trước )
40
kỳ năm trước bắt đầu có dấu hiệu chững lại và giảm dần từ mức 22% trong tháng
10/2011 xuống 20% trong tháng 11 và 18,13% trong tháng 12.
Lạm phát Việt Nam năm 2011
Hình 11: Biểu đồ lạm phát Việt Nam 2011
Nguồn: www.gso.gov.vn
Năm 2012 là một trong những năm khó khăn nhất của kinh tế Việt Nam kể từ khi Đổi
mới. Khi mà kinh tế thế giới dần thoát khỏi giai đoạn khủng hoảng trầm trọng nhất, để
chuẩn bị bước vào giai đoạn phục hồi, thì kinh tế Việt Nam mới “ngấm” tác dụng của
chính sách thắt chặt. Đến tháng 3/2012, Chính phủ buộc phải can thiệp, khi Thủ tướng
Chính phủ lệnh cho Ngân hàng Nhà nước phải hạ dần trần lãi suất huy động, từ đó hạ
lãi suất cho vay. Trần lãi suất huy động bắt đầu giảm từ 14%/năm xuống 13%/năm
(13/3), rồi 12%/năm (11/4), 11% (28/5), 9% (11/6) và từ thời điểm này các ngân hàng
thương mại được tự quyết định mức huy động lãi suất kỳ hạn trên 12 tháng. Đến ngày
24/12, trần lãi suất huy động chỉ còn 8%/năm. Như vậy, sau 5 lần hạ lãi suất trong
năm, trần lãi suất đã giảm gần một nửa, từ 14%/năm xuống còn 8%/năm. Một phần do
những chính sách điều hành, một phần nhờ giá cả thế giới không tăng mà còn có xu
hướng giảm, nên mức lạm phát năm 2012 được kiềm ở mức một con số (6,81%). Kết
thúc năm 2012, tăng trưởng tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng chỉ ở mức 8,91%,
con số thấp kỷ lục. Có thể thấy từ năm 2012, chính sách tiền tệ đã được điều hành linh
hoạt hơn để góp phần hỗ trợ sản xuất kinh doanh và thị trường theo những chỉ đạo của
Chính phủ, tuy nhiên NHNN vẫn luôn thận trọng với rủi ro lạm phát.
12.17 12.31 13.89
17.51
19.78 20.82
22.16 23.02
22.42 21.59
19.83
18.13
10
12
14
16
18
20
22
24
1-Jan 1-Feb 1-Mar 1-Apr 1-May 1-Jun 1-Jul 1-Aug 1-Sep 1-Oct 1-Nov 1-Dec
So với cùng kỳ năm trước (%)
41
0
2
4
6
8
10
12
14
16
Lãi suất cơ bản Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất tái cấp vốn
Cho đến năm 2013, chính sách tiền tệ thắt chặt của năm 2011 đã phát huy tác dụng,
làm cho tỷ lệ lạm phát ở mức thấp 2 năm liên tiếp 2012 và 2013, tỷ lệ lạm phát chỉ
6,81% và 6,04% so với mức 18,13% năm 2011. Tỷ lệ lạm phát thấp trong hai năm
2012 và 2013 là một thành công lớn của chính sách tiền tệ trong việc kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô của CSTT.
Từ năm 2011 đến nay, tín dụng tuy tăng chậm hơn so với giai đoạn trước đây, nhưng
chất lượng tín dụng ngày càng được nâng cao, góp phần hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở
mức hợp lý. NHTW đã điều hành lãi suất theo định hướng đúng đắn nhằm dẫn dắt thị
trường. Bên cạnh đó ,điều chỉnh lãi suất linh hoạt, phù hợp với những diễn biến kinh
tế vĩ mô và tiền tệ góp phần làm cho mặt bằng lãi suất cho vay và huy động trong giai
đoạn gần đây giảm mạnh so với cuối năm 2011. Điều này cho thấy, điều hành chính
sách tiền tệ và tín dụng giai đoạn này có những chuyển biến tích cực thông qua việc
gắn chuyển đổi mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả của
nền kinh tế, phù hợp với chủ trương giảm dần tỉ trọng cung cấp vốn cho đầu tư phát
triển từ hệ thống các TCTD, tập trung vốn tín dụng ngân hàng cho lĩnh vực sản xuất,
kinh doanh.
Biến động lãi suất trong giai đoạn 2010 - 2013 (Đơn vị tính: %)
Hình 12: Biến động lãi suất trong giai đoạn 2010 - 2013
Nguồn: www.sbv.gov.vn
42
Tuy nhiên, còn một số vấn đề đáng lưu ý trong CSTT ở giai đoạn này như: (i) CSTT
mặc dù đã điều hành nới lỏng đáng kể từ năm 2012 nhưng đến giữa năm 2013, tín
dụng tăng thấp so với định hướng. (ii) Mặc dù mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền
tệ đã được xác định khá rõ trong Luật NHNN 2010 nhưng thực tế điều hành đã cho
thấy chính sách tiền tệ vẫn chịu ảnh hưởng của những mục tiêu khác như bảo đảm an
toàn hệ thống, tăng trưởng kinh tế, chống đô la hóa. Điều này làm phức tạp quá trình
điều hành chính sách tiền tệ.
2.3.4. Hiện nay
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao hơn so với năm 2013, tăng trưởng dự kiến đưa ra
cho năm 2014 là khoảng 5.8%, Chính phủ nới lỏng bội chi ngân sách lên 5.3% GDP,
cùng với phát hành bổ sung trái phiếu Chính phủ nhằm đạt mục tiêu kiểm soát lạm
phát khoảng 7% do Chính phủ đề ra tạo ra đang tạo áp lực khá lớn cho chính sách tiền
tệ.
Đầu năm 2014, kinh tế Việt Nam bước đầu có những chuyển biến bất ngờ, nhất là
trong hai tháng đầu năm. Chỉ số lạm phát toàn phần của Việt Nam trong tháng 2/2014
giảm xuống rõ rệt và đạt mức thấp nhất kể từ năm 2009 đến nay. Cụ thể, lạm phát toàn
phần đã chậm lại ở mức 4.6% trong tháng 2/2014 so với năm ngoái. Bên cạnh đó, giá
cả thực phẩm cũng đã chậm lại từ mức 4.5% trong tháng 1/2014 xuống còn 3.3%
trong tháng 2/2014 so với cùng kỳ năm 2013. Nhìn chung, lạm phát thực phẩm vẫn là
yếu tố chính dẫn dắt lạm phát Việt Nam trong năm 2014.
Lạm phát toàn phần chỉ tăng nhẹ trong quý II/2014 nhờ giá gạo được giữ ổn định cùng
với nhu cầu tiêu dùng yếu hơn giúp giữ mức lạm phát đầu năm 2014 giảm còn 7.3%.
Tuy nhiên, giá các mặt hàng thực phẩm, chi phí vận chuyển cùng áp lực chi phí từ
tăng giá xăng dầu vừa được Bộ Tài chính cho phép điều chỉnh lên tối đa 307 đồng/lít
(ngày 21/2/2014 ) có khả năng sẽ đẩy lạm phát toàn phần lên cao trong thời gian tới.
Bên cạnh đó , mặc dù có những chuyển biến tốt trong một số lĩnh vực đầu tư mới như
ngành điện tử và sản xuất nhưng dòng vốn FDI vẫn không đủ lớn để vực dậy nền
kinh tế nội địa đang trì trệ. Nguyên nhân là do đầu tư nội địa vẫn gặp nhiều khó khăn
từ ảnh hưởng bởi các khoản nợ lớn và tốc độ cải thiện lĩnh vực dịch vụ còn chậm.
43
Trước tình hình đó, NHNN chủ chương giữ lãi suất OMO ổn định ở mức 5,5%, giảm
lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu góp phần duy trì sự tăng tưởng và kích
thích sản xuất trong nước. Sức ép đối với lạm phát năm 2014 có thể mạnh hơn năm
2013 bởi tổng cầu đang tiếp tục từng bước được cải thiện. Trong đó, việc tăng phát
hành trái phiếu của CSTT có thể gián tiếp ảnh hưởng đến lạm phát. Bên cạnh đó,
những thay đổi trong CSTT đưa ra trong thời gian sắp tới cần thận trọng để bảo đảm
lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế ở mức hợp lý nhằm kiểm soát mục tiêu lạm phát
đề ra.
KẾT LUẬN PHẦN 2
Ở Việt Nam ta, sau khi chuyển đổi mô hình hệ thống ngân hàng từ 1 cấp 2 cấp, kèm
theo đó là Pháp lệnh Ngân hàng Nhà nước năm 1990, tính độc lập của NHNN Việt
Nam bắt đầu xuất hiện. Mặc dù ban đầu mới chỉ là độc lập trong mục tiêu hoạt động
căn bản là ổn định tiền tệ và tách biệt ra khỏi thị trường nợ sơ cấp của chính phủ. Tiếp
theo đó là sự ra đời của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997, trải qua nhiều lần sửa
đổi, bổ sung, thay đổi từ Luật sửa đổi - bổ sung của Luật NHNN năm 1997, Luật
NHNN năm 2010; tính độc lập của NHNN ngày càng được khẳng định. Cho đến nay
NHNN đã độc lập hơn trong tạm ứng ngân sách chính phủ, chịu trách nhiệm trong
việc xác định lãi suất chính sách, không còn bị ràng buộc chặt chẽ trong cơ cấu tổ
chức. Gần đây nhất, Nghị định 156/2013/NĐ-CP Quy định chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đã nới lỏng hơn
trong kiểm soát của chính phủ về việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách tiền
tệ quốc gia của NHNN. Tuy nhiên, mức độ độc lập của NHNN Việt Nam vẫn còn thấp
so với thế giới; về tự chủ chính trị, vẫn bị ràng buộc trong khuôn khổ pháp luật của
chính phủ; về tự chủ kinh tế, mới bước đầu được nới lỏng trong việc sử dụng công cụ
điều hành chính sách tiền tệ, chứ chưa thực sự độc lập, và chưa được độc lập trong
việc được đưa ra các chính sách tiền tệ quốc gia.
Bên cạnh đó, trong quá trình hình thành và phát triển, nền kinh tế Việt Nam đã trải
qua 3 lần lạm phát lớn: mất cân đối tiền hàng năm 1986-1991, khủng hoảng tài chính
khu vực 1997-2000, lạm phát do tác động của kinh tế thế giới năm 2008. Và những
hậu quả của chúng là vô cùng nặng nề, tác động sâu rộng tới mọi phương diện của đời
44
sống kinh tế xã hội, đặc biệt trong cuộc khủng hoảng toàn cầu gần đây. Một phần
nguyên nhân được cho là do việc thực hiện kiểm soát lạm phát của NHTW chưa hiệu
quả, cũng như do những mâu thuẫn mục tiêu chính sách qua từng thời kỳ,…
Bởi vậy, tiếp bước những nghiên cứu trước đó, việc thực hiện kiểm tra bằng phương
pháp định lượng xem liệu có mối tương quan giữa mức độc lập của NHNN Việt Nam
với tỷ lệ lạm phát hay không là một điều cần thiết, từ đó xác nhận lại những lý thuyết
ủng hộ nâng cao tính độc lập của NHNN Việt Nam cũng như cơ sở để đề xuất những
công việc cần thực hiện để góp phần thực hiện mục tiêu ổn định lạm phát, cho phát
triển bền vững.
45
3. PHÂN TÍCH THỰC NGHIỆM MỐI QUAN HỆ GIỮA TÍNH ĐỘC LẬP CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỚI LẠM PHÁT
3.1. Phương pháp nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu tiến hành nghiên cứu thực nghiệm mối quan hệ giữa tính độc lập
của NHNN Việt Nam với tỷ lệ lạm phát bằng cách sử dụng chỉ số độc lập của NHTW
động5 nhằm thấy được những tác động cũng như độ lớn của nó tới lạm phát. Đầu tiên,
nhóm nghiên cứu kiểm tra tác động của cải cách luật NHNN – những cải cách mà có
ảnh hưởng chỉ số CBI, tới tỷ lệ lạm phát. Nhóm nghiên cứu nhận diện những sự phá
vỡ cấu trúc nội sinh trong tỷ lệ lạm phát thông qua kiểm định nghiệm đơn vị, và so
sánh các ngày phá vỡ thu được với những năm mà thực hiện cải cách luật NHTW.
Thứ hai, nhóm nghiên cứu hồi quy tỷ lệ lạm phát động theo chỉ số độc lập của NHTW
động thay vì một biến giả mà nó sẽ nhận giá trị bằng 1 trong các năm sau cuộc cải
cách quan trọng dẫn đến tăng tính độc lập (như Polillo and Guillén, 2005; Acemoglu
et al.2008), để thấy được độ lớn của mối tương quan giữa chúng. Thực vậy, mặc dù
phương pháp biến giả có thể giảm nhẹ một phần sự yếu kém của các chỉ số CBI bất
biến, song sự ra đời các chỉ số CBI động có thể khắc phục vấn đề này tốt hơn nữa. Vì
do thực tế là tỷ lệ lạm phát động không chỉ chịu ảnh hưởng bởi mức CBI hiện hành,
mà còn bởi độ lớn của sự cải cách và độ dài thời gian mà cải cách có hiệu lực.
3.2. Dữ liệu nghiên cứu
3.2.1. Chỉ số độc lập của NHTW
Bài nghiên cứu của nhóm nghiên cứu sử dụng chỉ số CBI pháp định6 để nghiên cứu
mối quan hệ của nó với lạm phát. Có 3 lý do chính để nhóm nghiên cứu sử dụng chỉ
số CBI pháp định để đo lường CBI, đó là:
Thứ nhất, nhiều nhà kinh tế đã lập luận và đưa ra bằng chứng thực nghiệm chứng
minh rằng chỉ cần thông qua một đạo luật đảm bảo cho sự độc lập của NHTW thì có
thể làm suy giảm kỳ vọng lạm phát trong nền kinh tế (Polillo and Guillén, 2005).
5 Chỉ số độc lập của NHTW động (CBI động): là chuỗi các chỉ số CBI theo thời gian, do đó CBI động sẽ thể
hiện được sự thay đổi của CBI cũng như độ dài thời gian của thay đổi đó. 6 Chỉ số CBI pháp định là chỉ số CBI được đo lường căn cứ trên Luật NHTW. Khác với chỉ số CBI thực tế được
đo lường dựa trên doanh thu của Thống đốc NHTW – TOR.
46
Thứ hai, CBI pháp định được tính dựa trên những căn cứ cụ thể có trong các đạo luật
NHTW, và bởi vậy chúng không bị sai lệch do những đánh giá chủ quan có thể có.
Lý do thứ ba cho việc ủng hộ sử dụng chỉ số CBI pháp định là bởi vì, chỉ số CBI thực
tế (được tính dựa trên chỉ số doanh thu của Thống đốc NHTW – TOR) thể hiện được
một phần sự độc lập NHTW và quyền tự chủ của thống đốc. Tuy nhiên, do bởi không
tính đến sự độc lập của các thành viên khác trong hội đồng quản trị, chỉ số này có thể
đánh giá cao hơn hay thấp hơn mức độ CBI. Hơn nữa, để tính được chỉ số TOR chính
xác thì rất là phức tạp.
Chỉ số CBI pháp định được sử dụng trong bài nghiên cứu của nhóm nghiên cứu là chỉ
số GMT, bao gồm chỉ số CMT độc lập chính trị và kinh tế. Cụ thể, chỉ số độc lập
chính trị (CBIP ) được tính dựa trên 8 đặc điểm khác nhau mà qua đó cho thấy được
khả năng của cơ quan tiền tệ trong việc đạt được các mục tiêu chính sách cuối cùng
một cách độc lập. Chỉ số này nắm bắt ba khía cạnh chính của các chế độ tiền tệ: thủ
tục bổ nhiệm các thành viên của bộ máy quản trị NHTW, mối quan hệ giữa bộ máy
này với Chính phủ, và trách nhiệm chính thức của NHTW. Bắt đầu từ ba khía cạnh đó,
mỗi một điểm sẽ được gán cho mỗi tiêu chuẩn sau nếu thỏa mãn: (1) Chính phủ không
tham gia quá trình bổ nhiệm Thống đốc NHTW; (2) Nhiệm kỳ của Thống đốc dài hơn
5 năm; (3) Chính phủ không tham gia quá trình bổ nhiệm thành viên của Hội đồng
thống đốc; (4) Nhiệm kỳ của các thành viên trong Hội đồng thống đốc dài hơn 5 năm;
(5) Không bắt buộc có sự tham gia của đại diện Chính phủ trong Hội đồng thống đốc;
(6) Chính sách tiền tệ không phải qua sự phê duyệt của Chính phủ; (7) NHTW được
pháp luật cho phép coi ổn định tiền tệ là một mục tiêu cơ bản; (8) và tồn tại những quy
định pháp luật tăng cường vị thế của NHTW trong trường hợp có mâu thuẫn với
Chính phủ.
47
Bảng tính chỉ số độc lập chính trị của NHNN Việt Nam theo thang đo GMT
Năm (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) CBIP
1990 Q1 - - - - - - - 0
1990 Q2 - - - - - - - 0
1990 Q3 - - - - - * - 1
1998 Q4 * - - - - * - 2
Hình 13: Bảng tính chỉ số độc lập chính trị của Việt Nam theo thang đo GMT
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán
(1) Chính phủ không tham gia quá trình bổ nhiệm thống đốc NHTW
(2) Chính phủ không tham gia quá trình bổ nhiệm thành viên của Hội đồng thống đốc
(3) Nhiệm kỳ của Thống đốc dài hơn 5 năm
(4) Nhiệm kỳ của các thành viên trong Hội đồng thống đốc dài hơn 5 năm
(5) Không bắt buộc có sự tham gia của đại diện Chính phủ trong Hội đồng thống đốc
(6) Chính sách tiền tệ không phải qua sự phê duyệt của Chính phủ
(7) NHTW được pháp luật cho phép coi ổn định tiền tệ là một mục tiêu cơ bản
(8) Khuôn khổ pháp lý tăng cường vị thế của NHTW khi có mâu thuẫn với chính phủ
Trước Pháp lệnh NHNN năm 1990 NHNN hoạt động chỉ với vai trò chủ yếu là tư vấn
chính sách tiền tệ nên mức độ độc lập hoàn toàn không có. Sau khi Pháp lệnh này ra
đời, NHNN mới chính thức trở thành NHTW của Việt Nam, tính độc lập của NHNN
mới dần xuất hiện, cụ thể NHNN đã được pháp luật cho phép coi ổn định tiền tệ là
một mục tiêu cơ bản (Điều 1 – Pháp lệnh Năm 1990), đánh dấu sự khởi đầu cho sự tự
chủ chính trị. Đến năm 1998, Luật Ngân hàng Nhà nước được ban hành, sự độc lập
của NHNN càng được khẳng định hơn trong việc chính phủ đã nới lỏng hơn trong
việc tham gia vào việc bổ nhiệm vào hội đồng điều hành của NHNN, nếu như theo
Pháp lệnh năm 1990, thì điều này quy định vô cùng chặt chẽ, với một máy điều hành
được chính phủ giâm sát vô cùng khắt khe.
Chỉ số độc lập kinh tế thể hiện mức độc lập của NHTW trong việc lựa chọn công cụ
chính sách tiền tệ của nó. Hai khía cạnh chính của chỉ số này liên quan tới tầm ảnh
hưởng của Chính phủ trong việc xác định số tiền có thể vay từ NHTW và bản chất các
48
công cụ tiền tệ dưới sự kiểm soát của NHTW. Tương tự như phía trên, một điểm được
gán khi thỏa mãn mỗi chỉ tiêu sau đây: (1) Không tồn tại thủ tục tự động cho phép
Chính phủ vay tiền trực tiếp từ NHTW; (2) Tín dụng cho Chính phủ nếu có thì theo lãi
suất thị trường; (3) Tín dụng cho Chính phủ nếu có thì trên cơ sở tạm thời; (4) Tín
dụng cho Chính phủ nếu có thì thuộc một hạn mức nhất định; (5) NHTW không được
tham gia thị trường sơ cấp cho nợ công; (6) NHTW có trách nhiệm thiết lập lãi suất
chiết khấu; (7) NHTW không có trách nhiệm giám sát ngành ngân hàng (hai điểm),
hoặc chia sẻ chức năng này với các cơ quan chức năng khác (một điểm).
Với các nguyên tắc này, một NHTW sẽ được xem là độc lập hơn khi giá trị của các
chỉ số này cao hơn.
Bảng tính chỉ số độc lập kinh tế của NHNN Việt Nam theo thang đo GMT
Năm (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) CBIE
1990 Q2 - - - - - - - 0
1990 Q3 - - - - - - - 0
1990 Q4 - - - - * - - 1
1998 Q4 - - - - * * - 2
2003 Q3 - * - - * * - 3
Hình 14: Bảng tính chỉ số độc lập kinh tế của NHNN Việt Nam theo thang đo của
GMT
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán
1) Không tồn tại cơ chế tự động cho phép chính phủ vay tiền trực tiếp từ NHTW
2) Tín dụng cho chính phủ (nếu có) theo lãi suất thị trường
3) Tín dụng cho chính phủ (nếu có) có tính ngắn hạn
4) Tín dụng cho chính phủ (nếu có) nằm trong hạn mức nhất định
5) NHTW không tham gia thị trường sơ cấp đối với nợ của chính phủ
6) NHTW chịu trách nhiệm xác định lãi suất chính sách
7) NHTW không có trách nhiệm hay cùng chia sẻ trách nhiệm giám sát khu vực ngân hàng
Sự ra đời của Pháp lệnh NHNN năm 1990, đã mở đầu cho sự phát triển của tính độc
lập kinh tế của NHNN Việt Nam. NHNN không phải chịu trách nhiệm với thị trường
sơ cấp đối với nợ của chính phủ, mà chỉ tham gia như một đại lí phối hợp với bộ tài
chính trong việc phát hành công trái chính phủ (Điều 27 – Pháp lệnh NHNN năm
49
1990). Và khi Luật NHNN năm 1997 được ban hành, kéo theo sự phát triển của tính
độc lập kinh tế, với luật này NHNN đã được quyền xác định lãi suất chính sách, chứ
không phải chỉ là lãi suất chiết khấu, tái cấp vốn như trong Pháp lệnh NHNN năm
1990 đã ban hành (Điều 18 – Luật NHNN năm 1997). Và tính độc lập tiếp tục tăng
khi năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN năm 1997 ban
hành, theo đó NHNN tạm ứng cho ngân sách Chính phủ có tính ngắn hạn, không còn
chịu sự chi phối của Chính phủ như Luật 1997, bởi quyền quyết định được giao cho
thường vụ Quốc hội (Điều 32 - Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật NHNN
1997).
Mặc dù thực tế rằng loại chỉ số CBI pháp lý được sử dụng rộng rãi nhất là chỉ số theo
Cukierman et al. (1992) (CWN), song nhóm nghiên cứu quyết định sử dụng phương
pháp GMT để đánh giá mức độ CBI là vì các lý do chính dưới đây:
Thứ nhất, chỉ số GMT còn có thể nắm bắt thông tin liên quan đến nhiệm kỳ và
mức độ tham gia của Chính phủ trong bổ nhiệm các thành viên của Hội đồng Thống
đốc ngoài Thống đốc. Tầm quan trọng của thông tin này đã phát triển trong hai thập
kỷ qua, kể từ khi xu hướng về việc quyết định chính sách tiền tệ phải do một ủy ban
thực hiện (Blinder, 2004). Thật vậy, ngày nay chỉ có một vài thống đốc NHTW ví dụ
như Ngân hàng dự trữ Newzealand là tự chịu trách nhiệm thiết lập chính sách tiền tệ
mà thôi. Bởi thế, chỉ số GMT với khả năng nắm bắt mức độc lập của thành viên khác
trong Hội đồng Thống đốc sẽ cải thiện được tính chính xác của chỉ số CBI.
Thứ hai, sự tham gia của NHTW trong việc giám sát ngành ngân hàng có thể
làm cho NHTW tăng khả năng "bắt ngân hàng" (Boyer và Ponce, 2012), theo đó sự
tách biệt trong quyền hạn giám sát giữa nhiều người giám sát khác nhau sẽ tốt hơn
trong việc phân chia phúc lợi xã hội cũng như hiệu quả chính sách tiền tệ. Bởi vậy,
việc xem xét thông tin liên quan đến sự tham gia của NHTW trong giám sát ngành
ngân hàng (có trong chỉ tiêu của chỉ số GMT) sẽ là thích hợp, đặc biệt khi nhiệm vụ
này cùng với nhiệm vụ ổn định tài chính đang ngày càng quan trọng và giành được sự
quan tâm nhiều hơn trên toàn thế giới (De Haan et al., 2008).
50
Thêm vào đó, thực tế là một số nhà kinh tế khác như Jacome and Vazquez
(2008) đã mở rộng chỉ số CWN bằng kết hợp thêm các khía cạnh về quyền tự chủ của
NHTW như trình bày trong chỉ số GMT. Cụ thể là đánh giá quy định về việc bổ
nhiệm và miễn nhiệm toàn bộ ban quản trị NHTW và các quy định pháp lý để xây
dựng chính sách, bao gồm cả khả năng NHTW cho vay đối với khu vực công.
Thực tế có nhiều cải cách luật nhưng chỉ có một số ít là có tác động tới mức độc lập
của NHNN Việt Nam như là Pháp lệnh NHNN năm 1990, làm tăng điểm về việc
“NHTW được pháp luật cho phép coi ổn định tiền tệ là một mục tiêu cơ bản” và
“NHTW không tham gia thị trường sơ cấp đối với nợ của Chính phủ; hay Luật NHNN
năm 1997, làm tăng điểm về việc “Không bắt buộc có sự tham gia của đại diện Chính
phủ trong hội đồng thống đốc” và “NHTW chịu trách nhiệm xác định lãi suất chính
sách (còn gọi là lãi suất định hướng hay mục tiêu)”; hay Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật NHNN năm 2003, đã làm tăng tính độc lập trong vấn đề “Tín dụng cho
chính phủ (nếu có) phải có tính ngắn hạn”. Bởi vì thực tế là thay đổi tính độc lập của
NHTW là một vấn đề rất cần sự cẩn trọng và có một kế hoạch lâu dài, cũng như cần
phải phù hợp với tình hình thực tiễn về nền kinh tế, thể chế của từng quốc gia.
3.2.2. Dữ liệu khác
Một biến quan trọng nữa trong phân tích của nhóm nghiên cứu là tỷ lệ lạm phát hàng
quý của Việt Nam , được lấy trên dữ liệu hàng quý về lạm phát từ International
Financial Statistics (IFS) của IMF, đơn vị là phần trăm thay đổi so với cùng kỳ năm
trước, cho thời kỳ 1996 – 2013. Và nhóm nghiên cứu có được một chuỗi 72 quan sát
về tỷ lệ lạm phát, được sử dụng toàn bộ để kiểm định nghiệm đơn vị với sự phá vỡ cấu
trúc, và sử dụng chuỗi trong thời kỳ 2000 – 2013 cho biến phụ thuộc trong mô hình
hồi quy7.
Những biến độc lập khác được xem xét trong mô hình hồi quy bao gồm: độ mở
thương mại (được tính toán từ số liệu xuất nhập khẩu và GDP hàng quý của
7 Nhóm nghiên cứu không thực hiện hồi quy cho thời kỳ dài hơn (từ 1996 – 2013) bởi vì sự hạn chế trong dữ
liệu về các biến trong mô hình hồi quy. Bởi vậy trong thời gian 1996 – 2000, nhóm nghiên cứu chỉ thực hiện
kiểm định nghiệm đơn vị với sự phá vỡ cấu trúc để tìm hiểu xem liệu có mối liên quan giữa hai biến này hay
không.
51
Việt Nam lấy từ Tổng cục thống kê); lỗ hổng sản lượng opgapq (Output gap) (được
tính toán từ chuỗi số liệu GDP quý của Việt Nam); lãi suất chính sách thực (Real
Monetary Policy-Related Interest Rate được lấy từ cơ sở dữ liệu International
Financial Statistics (IFS) của IMF).
3.3. Mô hình nghiên cứu
3.3.1. Kiểm định nghiệm đơn vị với sự phá vỡ cấu trúc
Để kiểm tra xem những cải cách luật NHTW có thể có liên quan đến sự phá vỡ cấu
trúc tỷ lệ lạm phát động hay không. Giả thuyết này được kiểm tra bằng cách kiểm
định nghiệm đơn vị với những thay đổi cấu trúc.
Một phương pháp được sử dụng phổ biến để kiểm định nghiệm đơn vị trong chuỗi
thời gian là kiểm định ADF (Augmented Dickey – Fuller) được phát triển bởi Dickey
and Fuller (1979). Đối với chuỗi được đặc trưng bởi hằng số và xu hướng, như tỷ lệ
lạm phát, phương trình kiểm định như sau:
∑
trong đó nhóm nghiên cứu kiểm định giả thuyết không: , nghĩa là không dừng,
ngược lại với giả thuyết đối: ; và Δ có nghĩa là sai phân bậc 1, là tỷ lệ lạm
phát mà ta kiểm định, t là biến xu hướng thời gian và k là độ trễ được thêm vào mô
hình để bảo đảm phần dư là nhiễu trắng (white noise).
Tuy nhiên, với mục đích phát hiện những thay đổi trong mức CBI có liên quan với sự
phá vỡ cấu trúc của dynamic của tỷ lệ lạm phát, nhóm nghiên cứu tập trung vào lý
thuyết phát triển gần đây về kiểm định nghiệm đơn vị. Perron (1989) giới thiệu một
khái niệm về sự phá vỡ cấu trúc, chỉ ra rằng kiểm định ADF là chệnh về hướng không
bác bỏ giả thuyết không trong trường hợp phá vỡ cấu trúc. Ông ấy đề nghị sử dụng
kiểm định nghiệm đơn vị Dickey – Fuller mở rộng (modified) bao gồm cả những biến
giả để có thể tính được cái đã biết hay sự phá vỡ cấu trúc nội sinh.
Phương pháp này, tuy nhiên giả định phải lựa chọn một phá vỡ cấu trúc trước đó dựa
trên một tính toán trước đó hay hiểu biết về dữ liệu mà có thể dẫn tới một bác bỏ của
giả thuyết nghiệm đơn vị. Để khắc phục những hạn chế, nhiều nghiên cứu (thí dụ
52
Banerjee et al., 1992; Zivot and Andrews, 1992; Perron and Vogelsang, 1992) chỉ ra
rằng độ lệch của những kiểm định nghiệm đơn vị thông thường có thể giảm bằng việc
xem xét một sự phá vỡ cấu trúc nội sinh. Giữa những kiểm định thay thế này, cái được
dùng phổ biến nhất trong nghiên cứu thực nghiệm là kiểm định của Zivot and
Andrews (1992) và Perron and Vogelsang (1992).
Kiểm định Zivot and Andrews (1992) phân tích giả thuyết không của kiểm định
nghiệm đơn vị trên một chuỗi với không có sự phá vỡ, ngược lại với giả thuyết đối là
một quá trình dừng xu hướng với kết hợp những thay đổi một lần trong mức và độ dốc
cả hàm xu hướng của chuỗi. Trong kiểm định này ngày phá vỡ được lựa chọn từ điểm
mà thống kê t kiểm định giả thuyết không của nghiệm đơn vị là bé nhất. Phương trình
của Zivot and Andrews như sau:
∑
trong đó DUt là biến giả cho thay đổi trung bình xảy ra tại mỗi lần phá vỡ cấu trúc, và
DTt là biến thay đổi xu hướng.
Perron và Vogelsang (1992) đề xuất kiểm định nghiệm đơn vị với sự phá vỡ trong hai
tình huống khác nhau, xem xét sự có mặt của một additive outlier (AO) hay một
innovational outlier (IO). Mô hình AO cho phép một sự thay đổi bất ngờ trong giá trị
trung bình (cú sốc), trong khi mô hình IO cho phép nhiều thay đổi từ từ. Cả 2 kiểm
định này đều dựa trên giá trị tối thiểu của thống kê t về tổng của các hệ số hồi quy của
tất cả những điểm phá vỡ có thể trong hồi quy thích hợp. Vì một sự biến đổi trong
mức độ CBI có thể tạo ra một sự thay đổi đột ngột trong tỷ lệ làm phát trung bình, nên
chúng ta sẽ trình bày những kết quả liên quan đến mô hình additive outlier (AO). Mô
hình này được đặc trưng bởi 1 quá trình 2 bước, trong đó bước đầu tiên là loại bỏ phần
xác định trong chuỗi, thông qua việc ước lượng của hàm hồi quy sau:
Πt = µ + δDUt + εt ,
trong đó biến giả DUt = 1 khi t > TB (time break) và ngược lại bằng 0 với t = 1, …, T.
Phần dư thu được từ những hồi quy trước sau đó được kiểm định về sự hiện diện của
nghiệm đơn vị:
53
t =∑ ∑
trong đó, biến giả DTBt = 1 nếu t > TB + 1, và ngược lại bằng 0, với t = k + 2…..,T.
Trong trường hợp này, biến giả DTBt-1 xuất hiện để đảm bảo rằng thống kê T có là
bất biến với độ trễ tham số k.
Xa hơn nữa, nhìu nghiên cứu gần đây (Clemente et al., 1998) chứng minh rằng nhiều
chuỗi thời gian kinh tế có thể có nhiều hơn một phá vỡ cấu trúc. Tình huống này có
thể là phù hợp trong tình huống của chuỗi tỷ lệ lạm phát của nhóm nghiên cứu, bởi vì:
trong thời gian từ năm 1996 đến 2013, có thể nhận thấy rằng có nhiều khả năng xảy ra
nhiều hơn một phá vỡ cấu trúc, do các cải cách luật NHTW trong giai đoạn này – cái
mà có tác động đến CBI, và do sự phá vỡ cấu trúc xảy ra do cuộc khủng hoảng toàn
cầu năm 2008.
Với khả năng xảy ra nhiều phá vỡ cấu trúc trong chuỗi thời gian tỷ lệ lạm phát, nhóm
nghiên cứu đã mở rộng phân tích của mình bằng kiểm định Clemente et al. (1998),
cho phép xác định hai phá vỡ cấu trúc. Bằng cách này, những thay đổi được miêu tả
tốt hơn nhờ additive outliers (mô hình AO), kiểm định giả thuyết không về nghiệm
đơn vị thông qua một tiến trình gồm 2 bước. Đầu tiên, loại bỏ những phần xác định
của các giá trị ước lượng bởi mô hình sau:
Yt = µ + d1DU1t + d2DU2t + Ўt
Sau đó, thực hiện kiểm định bằng cách tìm tỷ lệ t tối thiểu cho giả thiết trong
mô hình sau:
= ∑ ∑
∑
3.3.2. Mô hình hồi quy
Tương tự rất nhiều nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa sự độc lập của NHTW
với tỷ lệ lạm phát, biến phụ thuộc chính của mô hình hồi quy của nhóm nghiên cứu là
tỷ lệ lạm phát động hàng quý của Việt Nam. Với được lấy trên dữ liệu hàng
quý về lạm phát từ International Financial Statistics (IFS) của IMF, đơn vị là phần
54
trăm thay đổi so với cùng kỳ năm trước, cho thời kỳ 1996 – 2013. Vậy nhóm nghiên
cứu có được một chuỗi 72 quan sát về tỷ lệ lạm phát động.
Một nhược điểm nghiêm trọng của nhiều nghiên cứu trước đây về mối quan hệ giữa
lạm phát và CBI là thường thiếu biến kiểm soát. Từ sau Campillo và Miron (1997),
hàng loạt các nghiên cứu khác về vấn đề này đã thêm vào mô hình nhiều biến kiểm
soát khác ngoài CBI nhằm tăng tính vững của mô hình. Tương tự như vậy, trong
trường hợp của Việt Nam, nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy đa biến như
sau:
Bởi vì do chỉ số độc lập chính trị CBIP là không có thay đổi trong khoảng thời gian
2000 – 2010, cho nên nhóm nghiên cứu chỉ đưa chỉ số độc lập kinh tế CBIE vào mô
hình hồi quy.
Những biến độc lập khác được xem xét trong mô hình hồi quy bao gồm: lỗ hổng sản
lượng (Output gap), độ mở thương mại và lãi suất chính sách thực
(Real Monetary Policy-Related Interest Rate) được tính toán cụ thể như sau.
Biến độ mở thương mại (được xác định bằng tổng xuất nhập chia cho GDP)
được tính toán từ số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO) trong thời kỳ từ
2000 – 2010.
Biến lỗ hổng sản lượng opgap (output gap) là độ chênh lệch giữa sản lượng thực tế
và sản lượng tiềm năng của một nền kinh tế (sản lượng tiềm năng – potential output
hoặc natural GDP là mức sản lượng mà nền kinh tế đạt mức toàn dụng và có thể phát
triển bền vững trong dài hạn). Lỗ hổng sản lượng lớn hơn thông thường được coi là
dấu hiệu của dư cầu, gây áp lực tăng giá, do đó sẽ phải tăng lãi suất nhằm tránh cho
nền kinh tế phát triển quá nóng cũng như kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên lỗ hổng sản
lượng nhỏ hơn không được coi là dấu hiệu lạm phát sẽ giảm. Cụ thể, opgap được tính
như sau:
55
Về mặt lý thuyết, lỗ hổng sản lượng hiện tại cung cấp thông tin về lạm phát trong
tương lai. Việc xây dựng lỗ hổng sản lượng là khó khăn bởi vì sản lượng tiềm năng là
một biến không quan sát được. Vì vậy, chúng ta phải ước tính sản lượng tiềm năng
trước khi tính output gap. Có nhiều cách khác nhau để ước tính sản lượng tiền năng.
Một trong những phương pháp này là phương pháp bộ lọc Hodrick – Prescott (1997).
Bộ lọc HP filter phân tách một chuỗi thời gian (ví dụ như chuỗi GDP) thành tổng của
một xu hướng phát triển cố định và một sai khác tạm thời khỏi xu hướng đó gọi là
“chu kỳ”:
, là log tự nhiên của GDP, và và
là thành phần xu
hướng và thành phần chu kỳ tương ứng. Bộ lọc HP filter phân tách xu hướng bằng
cách giải bài toán cơ bản sau:
∑
∑ (
) (
)
trong đó là hệ số làm trơn quyết định mức độ làm trơn của chuỗi số liệu xu hướng
được điều chỉnh. Nhìn chung, giá trị bằng 1600 được áp dụng cho các chuỗi số liệu
theo quý và từ 10 tới 100 thường được áp dụng cho các số liệu thống kê theo năm.
Trong bài nghiên cứu này, nhóm nghiên cứu sử dụng dữ liệu của GDP hàng quý theo
giá so sánh 1994 được lấy từ số liệu của Tổng cục thống kê Việt Nam (GSO) cho thời
kỳ từ 2000 – 2013. Sau đó sử dụng HP filter để ước tính được chuỗi GDP tiềm năng,
và sau đó áp dụng công thức phía trên để tính được chuỗi Output gap.
Biến lãi suất chính sách thực hàng quý được tính toán từ công thức sau:
trong đó, là lãi suất chính sách quý q được lấy từ International Financial Statistics
(IFS) của IMF cho thời kỳ 2000 – 2013, và là tỷ lệ lạm phát tương ứng.
3.4. Kết quả thực nghiệm
3.4.1. Kiểm định nghiệm đơn vị với những phá vỡ cấu trúc
56
Nhóm nghiên cứu thực hiện kiểm định nghiệm đơn vị với những phá vỡ cấu trúc cho
chuỗi dữ liệu lạm phát hàng quý của Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2013 bằng kiểm
định của Zivot and Andrews (1992) để tìm ra được một điểm phá vỡ cấu trúc; và sau
đó là bằng kiểm định Clemente et al. (1998) với mô hình AO để xác định hai điểm phá
vỡ cấu trúc. Kết quả kiểm định như sau:
Hình 15: Đồ thị của kiểm định Zivot and Andrews(1992)
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán
Đầu tiên, với kiểm định của Zivot and Andrews (1992), kết quả cho thấy rằng chuỗi
dữ liệu lạm phát là dừng. Mặt khác, một điểm phá vỡ cấu trúc tìm được qua kiểm định
là vào quý 1 năm 2004, trong khi quý 3 năm 2003, Quốc hội Việt Nam đã ban hành
Critical values: 1%: -5.34 5%: -4.80 10%: -4.58
Minimum t-statistic -3.948 at 2004q1 (obs 33)
Lag selection via TTest: lags of D.inf included = 2
Allowing for break in intercept
Zivot-Andrews unit root test for inf
-4
-3.5
-3
-2.5
Bre
akpo
int t-
sta
tistics
1995q1 2000q1 2005q1 2010q1 2015q1quy
Min breakpoint at 2004q1
Zivot-Andrews test for inf, 1999q2-2011q1
57
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997, và làm
tăng điểm GMT kinh tế (CBIE) của Việt Nam ta từ 2 lên 3 điểm.
Hình 16: Đồ thị của kiểm định Clemente et al. (1998)
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán
Kết quả từ kiểm định của Clemente et al. (1998) với mô hình AO cũng cho thấy chuỗi
dữ liệu lạm phát quý của chúng ta là dừng (p_value < 0.05) với hai điểm phá vỡ cấu
trúc. Điểm phá vỡ cấu trúc đầu tiên là vào quý 4 năm 2004, gần với điểm phá vỡ cấu
trúc tìm được theo kiểm định của Zivot and Andrews (1992). Trong khi đó, điểm phá
vỡ cấu trúc thứ hai được tìm thấy là vào quý 4 năm 2007, phù hợp với thời gian xảy ra
cuộc khủng hoảng toàn cầu 2008.
P-values: 0.011 0.017 -5.490 (5% crit. value)t-statistics: 2.632 2.470 -4.704Coefficients: 4.31550 4.29650 -0.39816 3.67417 AR( 5) du1 du2 (rho - 1) const
inf T = 64 optimal breakpoints : 2004q4 , 2007q4
Clemente-Montañés-Reyes unit-root test with double mean shifts, AO model
. clemao2 inf, graph
010
20
30
inf
1997q1 2001q1 2005q1 2009q1 2013q1quy
Test on inf: breaks at 2004q4,2007q4
-10
-50
510
D.inf
1997q1 2001q1 2005q1 2009q1 2013q1quy
D.inf
Clemente-Montañés-Reyes double AO test for unit root
58
Để xem liệu có một mối tương quan nào giữa việc thay đổi chỉ số GMT chính trị
(CBIP) của Việt Nam vào quý 4 năm 1998 (Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 có
hiệu lực) với lạm phát giai đoạn này hay không, nhóm nghiên cứu thực hiệm thêm
một kiểm định nghiệm đơn vị với phá vỡ cấu trúc Zivot and Andrews (1992) cho
chuỗi dữ liệu lạm phát hạn chế từ năm 1996 – 2006. Kết quả như sau:
Hình 17: Đồ thị kiểm định Zivot and Andrews cho chuỗi lạm phát hạn
chế 1996 - 2006
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán
Và kết quả cho thấy tồn tại một phá vỡ cấu trúc của chuỗi lạm phát vào quý 2 năm
1999, cho thấy là tồn tại mối tương quan nào giữa việc thay đổi chỉ số GMT chính trị
Critical values: 1%: -5.34 5%: -4.80 10%: -4.58
Minimum t-statistic -5.110 at 1999q2 (obs 14)
Lag selection via TTest: lags of D.inf included = 1
Allowing for break in intercept
Zivot-Andrews unit root test for inf
. zandrews inf, graph
-5
-4
-3
-2
Bre
akpo
int t-
sta
tistics
1996q1 1998q1 2000q1 2002q1 2004q1 2006q1quy
Min breakpoint at 1999q2
Zivot-Andrews test for inf, 1998q1-2005q1
59
(CBIP) của Việt Nam (Luật Ngân hàng Nhà nước năm 1997 có hiệu lực vào quý 4
năm 1998) với lạm phát.
Các kết quả kiểm định nghiệm đơn vị cho thấy cải cách luật NHNN – những cải cách
mà có ảnh hưởng chỉ số CBI, là có tác động tới tỷ lê lạm phát. Để đo lường tác động
này, nhóm nghiên cứu phân tích mô hình hồi quy ở phần tiếp theo.
3.4.2. Mô hình hồi quy
(1) (2)
inf inf
CBIE -9.149** -6.287**
(-5.36) (-3.54)
openk 0.0245
(0.77)
opgap -1.435
(-0.29)
rrp -1.556**
-7.19
_cons -17.28** -17.61**
(-3.64) (-5.44)
N 56 56
--------------------------------------------
t statistics in parentheses
* p<0.1, ** p<0.05, *** p<0.01
Hình 18: Bảng kết quả mô hình hồi quy
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tính toán
60
Đầu tiên, nhóm nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy hai biến (1), chỉ bao gồm biến
phụ thuộc là biến lạm phát và một biến độc lập là biến chỉ số độc lập kinh tế CBIE.
Kết quả hồi quy cho thấy biến CBIE là thực sự có ý nghĩa trong việc giải thích cho tỷ
lệ lạm phát.
Bên cạnh đó, nhằm tăng tính chính xác cho mô hình hồi quy, nhóm nghiên cứu thêm
vào mô hình các biến độc lập khác. Hồi quy mô hình đa biến (2) cũng đưa ra kết quả
là tồn tại mối quan hệ ngược chiều giữa chỉ số độc lập kinh tế CBIE và tỷ lệ lạm phát
với mức ý nghĩa 5%.
KẾT LUẬN PHẦN 3
Qua phân tích thực nghiệm mối quan hệ giữa tính độc lập của NHNN Việt Nam với tỷ
lệ lạm phát, nhóm nghiên cứu tìm thấy rằng: Đầu tiên, có những phá vỡ cấu trúc nội
sinh trong tỷ lệ lạm phát thông qua kiểm định nghiệm đơn vị, và những ngày phá vỡ
thu được là gần với thời điểm mà thực hiện cải cách luật NHTW. Từ đó cho thấy rằng
những cải cách luật NHTW mà làm thay đổi chỉ số CBI là có tác động tới lạm phát.
Thứ hai, từ việc thực hiện hồi quy tỷ lệ lạm phát theo chỉ số độc lập của NHTW, có
thể nhận ra rằng tồn tại một mối tương quan ngược chiều giữa chỉ số độc lập kinh tế
(chỉ số CBIE) với lạm phát Việt Nam.
Từ đó, nhóm nghiên cứu kết luận rằng nhằm giữ cho lạm phát thấp thì việc gia tăng
mức độc lập của NHNN Việt Nam là một trong những biện pháp khả thi và quan
trọng.
61
4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT
4.1. Mô hình tổ chức NHTW một số quốc gia trên thế giới và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam
4.1.1. Cục dự trữ liên bang Mỹ
4.1.1.1. Mô hình tổ chức của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
NHTW của Mỹ, được biết đến với tên gọi Hệ thống Dự trữ Liên bang (FED –
FEDeral Reserve System), ra đời tương đối muộn (1913) so với các NHTW khác
nhưng đã nhanh chóng trở thành NHTW quan trọng nhất trên thế giới. Nguyên nhân
chính giải thích tại sao FED ra đời tương đối muộn là vì người Mỹ nói chung phản đối
tập trung quyền lực quá mức trong một thể chế “phi dân chủ” như NHTW. Chính vì lý
do này, những nỗ lực xây dựng NHTW từ thế kỷ 19 trở về trước đều thất bại. Cụ thể
là mô hình NHTW đầu tiên First Bank of the United States, đóng vai trò là người cho
vay cứu cánh cuối cùng, đã bị giải thể vào năm 1811; và sau đó điều lệ của Second
Bank of the United States cũng bị Tổng thống Andrew Jackson phủ quyết vào năm
1832.
Để hóa giải sự chống đối của công chúng và của hệ thống chính trị đối với mô hình
NHTW, những nhà sáng lập nên FED đã tổ chức FED thành một hệ thống bao gồm 12
Ngân hàng Dự trữ Liên bang đại diện cho 12 vùng để đảm bảo rằng quyền lực không
bị tập trung vào và chi phối bởi những thế lực chính trị và tài phiệt ở Washington hay
New York. Không những thế, những người sáng lập nên FED còn thiết kế mỗi một
Ngân hàng Dự trữ Liên bang như một thể chế tựa tư nhân (quasi-private), được giám
sát không chỉ bởi đại diện của các NHTM trong vùng mà còn bởi đại diện của khu vực
công và khu vực dân sự. Cụ thể là mỗi Ngân hàng Dự trữ liên bang có 9 thống đốc,
được chia làm ba nhóm A, B, và C. Nhóm A bao gồm 3 thống đốc, là những nhà
chuyên môn trong lĩnh vực ngân hàng, do các ngân hàng tư nhân trong vùng bầu ra.
Nhóm B gồm 3 thống đốc, là những nhà lãnh đạo xuất chúng đại diện cho khu vực
công nghiệp, nông nghiệp, lao động, người tiêu dùng, cũng do các ngân hàng tư nhân
trong vùng bầu ra. Cuối cùng, nhóm C gồm 3 thống đốc, đại diện cho lợi ích cộng
đồng, do Hội đồng Thống đốc của FED cử, và những người này không được là quan
62
chức, nhân viên, hay cổ đông của ngân hàng. Hội đồng gồm 9 thống đốc này sau đó
bầu ra chủ tịch với sự phê chuẩn của Hội đồng Thống đốc của FED.
Hội đồng thống đốc của FED
Hội đồng Thống đốc của FED bao gồm 7 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm và
Thượng viện phê chuẩn. Mỗi thành viên có nhiệm kỳ cố định 14 năm – tức là dài gần
gấp đôi so với nhiệm kỳ tối đa 8 năm của Tổng thống – và trên thực tế là không được
gia hạn. Để đảm bảo tính đại diện, không có hai thành viên nào được phép đến từ cùng
một vùng. Chủ tịch FED có nhiệm kỳ 4 năm và có thể được gia hạn. Trên thực tế,
nhiệm kỳ của chủ tịch FED rất dài, chẳng hạn như nhiệm kỳ của hai vị thống đốc tiền
nhiệm của Benjamin Bernake là Paul Volcker và Alan Greenspan lần lượt là 8 năm
(1979-1987) và 19 năm (1987 – 2006). Thêm vào đó, để đảm bảo tính độc lập cho
cương vị chủ tịch FED, khi chủ tịch FED mới nhậm chức thì thì chủ tịch cũ tự rút ra
khỏi Hội đồng ngay cả khi chưa hết nhiệm kỳ thành viên 14 năm.
Hội đồng thống đốc chủ động đề ra các quyết định liên quan đến việc thực thi các
chính sách tiền tệ. Tất cả 7 thống đốc đều là thành viên của FOMC và có quyền bỏ
phiếu cho việc thực thi nghiệp vụ thị trường mở. Do chỉ có 12 thành viên được quyền
bỏ phiếu trong ủy ban này (7 thống đốc và 5 thống đốc ngân hàng khu vực), nên Hội
đồng thống đốc có đa số phiếu. Hội đồng cũng đặt ra tỷ lệ dự trữ bắt buộc (trong phạm
vi mà pháp luật quy định) và kiểm soát trực tiếp lãi suất chiết khấu thông qua quá
trình “xem xét và quyết định”, trong đó nó có quyền phê chuẩn hoặc bãi bỏ lãi suất
chiết khấu mà các ngân hàng dự trữ liên bang “thiết lập”. Chủ tịch của Hội đồng tư
vấn cho tổng thống Mỹ về chính sách kinh tế, điều trần trước Quốc hội và là người
phát ngôn của Cục dự trữ liên bang trước công chúng. Chủ tịch và các thống đốc khác
cũng có thể đại diện cho nước Mỹ trong các cuộc thương lượng cấp chính phủ về các
vấn đề kinh tế. Hội đồng có đội ngũ các nhà kinh tế chuyên nghiệp (với quy mô lớn
hơn so với các ngân hàng dự trữ liên bang) có nhiệm vụ tiến hành các phân tích kinh
tế mà Hội đồng sử dụng để đưa ra các quyết định của mình.
Ủy ban thị trường mở liên bang
63
Ủy ban thị trường mở liên bang (FOMC – FEDeral Open Market Committee) thực sự
là cơ quan điều hành FED và chính sách tiền tệ của Mỹ. FOMC bao gồm 12 thành
viên, trong đó bao gồm 7 thành viên của Hội đồng Thống đốc, chủ tịch Ngân hàng Dự
trữ Liên bang của New York, và 4 chủ tịch luân phiên của 11 Ngân hàng Dự trữ Liên
bang còn lại Chủ tịch FED đồng thời là chủ tịch FOMC.
Theo quy định, nếu không có tình trạng bất thường thì mỗi năm FOMC họp 8 lần để
quyết định về hoạt động của thị trường mở. Mặc dù chỉ có 4 chủ tịch luân phiên được
phép bỏ phiếu nhưng tất cả các chủ tịch của các Ngân hàng Dự trữ thành viên đều phải
có mặt trong các cuộc họp này. Trên thực tế, cả ba quyết định quan trọng của FED
liên quan đến nghiệp vụ thị trường mở, dự trữ bắt buộc, và lãi suất chiết khấu đều
được quyết định ở cuộc họp của FOMC.
4.1.1.2 . Mức độ độc lập của Cục dự trữ liên bang Mỹ (FED)
Từ phân tích ở trên, có thể thấy rằng FED có tính độc lập rất cao về nhân sự và chính
sách. Về mặt tài chính, FED cũng có tính độc lập rất cao. Cụ thể là lợi nhuận tài chính
của FED trong những năm bình thường lên tới hàng chục tỷ đô-la. Tất nhiên là FED
không trở nên giàu vì khoản lợi nhuận này sau đó sẽ phải chuyển sang cho Ngân khố,
nhưng khoản lợi nhuận này cũng đủ để FED có vị thế thuận lợi hơn hẳn so với các cơ
quan của chính phủ do ngân sách của FED không phải đi qua một trình tự phức tạp,
mang nặng tính chính trị do Quốc hội kiểm soát. Sự độc lập về tài chính này, theo
Mishkin, là nhân tố quan trọng nhất đảm bảo cho tính độc lập của FED đối với Chính
phủ và Quốc hội.
Tính độc lập rất cao của FED không có nghĩa là FED có thể tùy nghi làm mọi thứ.
Trái lại, FED phải đảm bảo một mức độ minh bạch nhất định trong chính sách cộng
với trách nhiệm giải trình rất cao. Về tính minh bạch, bên cạnh hệ thống thông tin
chính sách trên trang web của mình, Quốc hội còn yêu cầu FED phải công bố tốc độ
tăng trưởng các số đo cung tiền, đồng thời giải thích tính tương thích của những mục
tiêu này với các mục tiêu kinh tế của chính phủ.
FED còn phát hành ba tài liệu (với mức độ phổ biến khác nhau) liên quan đến quá
trình hình thành chính sách tiền tệ và hoạt động của Ủy ban thị trường mở liên bang.
64
Ba tài liệu này thường được biết đến với tên gọi “green book”, “blue book”, và “beige
book” tương ứng với màu bìa của mỗi tài liệu. Trong đó, “green book” là tài liệu do
Phòng Nghiên cứu và Thống kê của Hội đồng Thống đốc Liên bang trong đó đưa ra
dự báo cho nền kinh tế trong hai năm kế tiếp. “Blue book” là tài liệu do Phòng Chính
sách tiền tệ (Monetary Affairs Division) của Hội đồng Thống đốc Liên bang chuẩn bị,
trong đó trình bày các số liệu tổng hợp về tiền tệ, đồng thời đưa ra ba phương án chính
sách, được gọi tên là phương án A, B, và C. Cuối cùng là “beige book” do các Ngân
hàng Dự trữ Liên bang xuất bản, trong đó bao gồm các số liệu thống kê và thông tin
thu được từ các cuộc điều tra hay từ những đối thoại với khu vực doanh nghiệp. Trong
ba tài liệu ày, hai tài liệu đầu chỉ được cung cấp cho những người dự họp Ủy ban Thị
trường mở Liên bang, còn tài liệu thứ ba được công bố rộng rãi.
Bên cạnh yêu cầu về tính minh bạch thì FED còn chịu trách nhiệm giải trình trước
Quốc hội. Cơ chế quan trọng nhất để thực thi trách nhiệm giải trình này là thông qua
các phiên điều trần định kỳ và bất thường tại các ủy ban có liên quan của Quốc hội.
Chẳng hạn như chỉ riêng trong năm 2009, trong bối cảnh khủng hoảng tài chính ở Mỹ,
thống đốc Ben Bernanke đã phải tham dự tới 11 phiên điều trần trước các ủy ban khác
nhau của thượng viện và hạ viện.5 Không chỉ thống đốc Ben Bernanke mà một số
quan chức của FED cũng phải thực hiện rất nhiều phiên điều trần trước các ủy ban của
Quốc hội Mỹ.
Cuối cùng, tính độc lập của FED được xây dựng và bảo vệ nhờ vào niềm tin của thị
trường đối với FED. Các nhà kinh tế thường nói đùa rằng người có quyền lực nhất ở
Mỹ nhiều khi không phải là Tổng thống mà là thống đốc Hệ thống Dự trữ Liên bang,
và trong lời nói đùa này có một phần sự thật. Cùng với thời gian, FED đã tích lũy
được một tài sản vô giá đối với việc điều hành kinh tế vĩ mô, đó là niềm tin của thị
trường. Vì vậy mỗi lời phát biểu của FED đều có tác động to lớn tới kinh tế vĩ mô và
thị trường tài chính, và thông qua đó, tới gần như mọi mặt của đời sống kinh tế của
nước Mỹ.
Tuy nhiên, mặc dù tính độc lập rất cao nhưng FED phải đảm bảo mức độ minh bạch
của mình trong các báo cáo và có trách nhiệm giải trình với chính phủ và quốc hội.
65
4.1.2. Ngân hàng trung ương châu Âu
Hiệp ước Maastricht đã tạo ra Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB) và hệ thống các
ngân hàng Trung ương châu Âu (ESCB). Hệ thống này bắt đầu hoạt động từ tháng
giêng 1999. Cơ cấu ngân hàng trung ương ECB giống hệ thống Dự trữ Liên bang Mỹ
ở chỗ ngân hàng trung ương ở mỗi nước đóng vai trò tương tự như ngân hàng Dự trữ
Liên bang (khu vực). Hội đồng điều hành của ECB gồm chủ tịch, phó chủ tịch và bốn
thành viên khác, được bổ nhiệm cho nhiệm kì 8 năm. Cơ quan hoạch định của chính
sách tiền tệ của Ngân hàng bao gồm sáu các thành viên thuộc hội đồng điều hành và
các thống đốc ngân hàng trung ương của tất cả các nước châu Âu. Tất cả những người
này đều phải có nhiệm kỳ ít nhất là 5 năm.
4.1.2.1. Mô hình tổ chức của Ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB)
Hội đồng thống đốc là cơ quan quyết định tối cao của ECB, bao gồm 6 thành viên Ban
giám đốc và thống đốc của 12 NHTW quốc gia sử dụng đồng tiền chung Euro. Mỗi
thành viên đều có quyền biểu quyết như nhau. Hội đồng thống đốc là cơ quan xác
định chính sách tiền tệ của khu vực đồng Euro thông qua việc ấn định lãi suất cho vay
đối với các NHTM, qua đó tác động gián tiếp đến lãi suất ở toàn bộ các nền kinh tế
của khu vực đồng tiền chung Châu Âu.
Ban giám đốc gồm 6 thành viên: chủ tịch và phó chủ tịch của ECB, và 4 thành viên
khác. Các thành viên này đều được bổ nhiệm bởi một hiệp ước chung giữa những
người đứng đầu nhà nước hay chính phủ của các nước tham gia khu vực đồng Euro.
Ban giám đốc thực thi chính sách tiền tệ đã được Hội đồng thống đốc đề ra thông qua
việc đưa ra những hướng dẫn cần thiết cho các NHTW quốc gia. Ngoài ra, Ban giám
đốc còn chuẩn bị các cuộc họp của Hội đồng thống đốc và chịu trách nhiệm về việc
quản lý hoạt động của ECB.
Hội đồng cố vấn là cơ quan quyết định thứ ba của ECB, gồm có chủ tịch, phó chủ
tịch ECB và các thống đốc NHTW quốc gia của toàn bộ các thành viên Liên minh (cả
các nước trong khối đồng tiên chung lẫn các nước chưa chấp nhận đồng tiền chung).
Chủ tịch của Hội đồng Liên minh Châu Âu (Council of European Union) và 1 thành
66
viên của Uỷ ban châu âu (European Commission) có thể tham dự các cuộc họp của
hội đồng cố vấn của ECB, nhưng không có quyền biểu quyết. Trách nhiệm của Hội
đồng cố vấn được quy định cụ thể trong điều 47 của nghị định thư, chủ yếu là thực thi
các nhiệm vụ tạm thời của ECB, đóng góp vào chức năng tham vấn, góp phần thu thập
thông tin thống kê, và báo cáo các hoạt động của ECB.
4.1.2.2. Mức độ độc lập của ngân hàng Trung ương Châu Âu (ECB)
Ngân hàng Trung ương Châu Âu là ngân hàng trung ương độc lập nhất trên thế giới
hơn cả ngân hàng trung ương Đức (Bundesbank-Ngân Hàng Liên Bang). Trước khi
ECB được thành lập, Ngân hang Liên Bang Đức và Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ
được coi là những ngân hàng trung ương độc lập trên thế giới . ECB độc lập cả về
công cụ và mục tiêu đối với cả Liên Minh Châu Âu và chính phủ các nước. ECB có
toàn quyền kiểm soát chính sách tiền tệ nhằm đạt mục tiêu tối cao là ổn định của giá
cả. ECB không phụ thuộc vào luật của từng nước mà quy chế của nó chỉ có thể thay
đổi bằng cách sửa đổi hiệp ước Maastricht và điều này gặp khó khăn vì đòi hỏi sự nhất
trí của tất cả các nước ký kết Hiệp ước này. Các khía cạnh độc lập của ngân hàng
trung ương Châu Âu
Độc lập về nhân sự
Việc quyết định ban giám đốc của ECB luôn xảy ra mâu thuẫn giữa các nước. Dưới áp
lực của một số quốc gia, 3 trong số 6 ghế của Ban giám đốc được dành cho các nước
lớn trong liên minh bao gồm Pháp, Đức, Ý, và Tây Ban Nha. Mặc dù quá trình bổ
nhiệm nhân sự của Ban giám đốc chịu nhiều sức ép chính trị, nhưng sau khi vấn đề
nhân sự đã được giải quyết xong thì Ban giám đốc có một sự độc lập rất cao trong
việc quyết định chính sách.
Ban giám đốc của ECB gồm có chủ tịch, phó chủ tịch và bốn thành viên khác do Hội
đồng thống đốc đề cử và Hội đồng Châu Âu phê chuẩn theo nguyên tắc đa số. Thành
viên của Ban giám đốc là những người có thẩm quyền và giàu kinh nghiệm trong lĩnh
vực tiền tệ hay ngân hàng. Chế độ nhân sự của ECB được ban thống đốc đề ra và phải
được Hội đồng thống đốc thông. Nhiệm kỳ của thành viên Ban giám đốc là 8 năm dài
67
hơn so với nhiệm kỳ của Nghị viện Châu Âu là 5 năm và không được tái bổ nhiệm.
Chủ tịch ECB cũng vừa là chủ tịch Ban giám đốc và chủ tịch Hội đồng cố vấn.
Độc lập về tài chính
Vốn của ECB là 5 tỷ Euro và chỉ có thể được tăng theo quyết định của Hội đồng thống
đốc trong giới hạn và theo một số điều kiện do Hội đồng Châu Âu quy định. Chỉ các
NHTW thành viên được phép góp vốn vào ECB theo một tỷ lệ nhất định chứ không
có sự can thiệp của Chính phủ hay Quốc hội của bất kì nước nào và tỷ lệ này căn cứ
vào quy mô dân số và tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của mỗi quốc gia. Tỷ lệ này
được cũng điều chỉnh 5 năm một lần và được áp dụng kể từ năm kế tiếp. Trừ trường
hợp đặc biệt, phần góp vốn của các NHTW thành viên không được chuyển nhượng,
cầm cố hay tịch thu. Nếu tỷ lệ phân bổ vốn thay đổi, các NHTW thành viên sẽ chuyển
nhượng với nhau phần vốn liên quan sao cho việc phân bổ các phần vốn này phù hợp
với tỷ lệ mới. Hội đồng thống đốc sẽ ấn định thể thức của việc chuyển nhượng này.
Một phần lợi nhuận hoạt động ròng (nếu có) của ECB được chuyển vào quỹ dự trữ
chung. Tỷ lệ này do Hội đồng thống đốc quyết định nhưng không quá 20% tổng lợi
nhuận ròng. Phần lợi nhuận còn lại được chia cho cac NHTW thành viên theo tỷ lệ
vốn góp tương ứng. Trong trường hợp ECB bị lỗ thì khoản lỗ này được bù từ quỹ dự
trữ chung của ECB và được trang trải bởi thu nhập trong kỳ tài chính liên quan (tính
theo tỷ lệ) cho tới khi bằng với khoản tiền chia cho các NHTW
Chế độ lương bổng và bảo hiểm xã hội của nhân viên ECB được quy định cụ thể
trong hợp đồng làm việc. Những chế độ này do Hội đồng thống đốc ấn định dựa trên
đề nghị của một uỷ ban bao gồm ba thành viên được Hội đồng thống đốc chỉ định và
ba thành viên do Uỷ ban Châu Âu chỉ định. Các thành viên Ban giám đốc không được
tham gia biểu quyết về vấn đề lương bổng và bảo hiểm xã hội này.
Tính độc lập về chính sách
ECB có tính độc lập rất cao về chính sách, bao gồm tính độc lập về mục tiêu và các
công cụ chính sách. Tuy nhiên, có thể thấy ngay là luôn tồn tại nhiều sức ép từ một số
quốc gia thành viên (như Pháp chẳng hạn) nhằm giảm tính độc lập của ECB. Về
phương diện mục tiêu chính sách, ngoài nhiệm vụ thực hiện mục tiêu ổn định giá cả,
68
ECB còn phải thực hiện mục tiêu tạo việc làm và tăng trưởng kinh tế.
Về phương diện công cụ chính sách, ECB cũng có tính độc lập rất cao thể hiện ở việc
ECB được giao thẩm quyền xác định và thực hiện chính sách tiền tệ của khu vực đồng
Euro, điều khiển hoạt động ngoại hối, quản lý dự trữ chính thức ngoại hối của các
nước trong khu vực và khuyến khích việc vận hành tốt hệ thống thanh toán của các
quốc gia thành viên.
4.1.3. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC) được thành lập vào ngày 1/12/1948, là ngân
hàng một cấp và trực thuộc Bộ Tài chính. Và 35 năm sau, đến tháng 9/1983, Quốc vụ
viện Trung Quốc quyết định cho PBC đóng vai trò như một NHTW. Tuy nhiên, địa vị
pháp lý của PBC như một NHTW chỉ chính thức được công nhận vào kỳ họp thứ 3,
Quốc hội khóa 8 (18/3/1995).
Trong các NHTW trên thế giới thì PBC có nhiều nét tương đồng nhất so với NHNN
Việt Nam về địa vị pháp lý và mức độ độc lập. Theo Luật Ngân hàng Nhân dân Trung
Quốc sửa đổi tháng 12/2003, PBC trực thuộc Quốc vụ viện. Về mặt nhân sự, thống
đốc PBC có vị thế như một bộ trưởng, do Thủ tướng Quốc vụ viện đề cử, được Quốc
hội phê chuẩn và Chủ tịch nước bổ nhiệm. Thủ tướng Quốc vụ viện có thẩm quyền bổ
nhiệm bổ nhiệm hay phế chuất các phó thống đốc. Về mặt chính sách, theo luật thì
PBC được quyền tự chủ trong việc thực hiện các chức năng của nó bao gồm điều hành
chính sách tiền tệ, ngăn ngừa và xử lý các rủi ro tài chính, và đảm bảo ổn định cho
khu vực tài chính. Tuy nhiên trên thực tế, quyền tự chủ này hết sức hạn chế. PBC phải
báo cáo các quyết định liên quan đến lượng cung tiền, lãi suất, tỷ giá và một số vấn đề
quan trọng khác do Quốc vụ viện xác định để lên Quốc vụ viện phê chuẩn trước khi
các quyết định này có hiệu lực. PBC cũng có trách nhiệm đệ trình báo cáo cho Ủy ban
Thường vụ của Quốc hội về các hoạt động điều hành chính sách tiền tệ và hoạt động
của khu vực tài chính. Về mặt tài chính, toàn bộ vốn của PBC do nhà nước đầu tư và
sở hữu.
Đến thời điểm này, bên cạnh các công cụ chính sách tiền tệ như thông lệ quốc tế (bao
gồm dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở, lãi suất chiết khấu v.v.) thì PBC vẫn sử
69
dụng nhiều biện pháp áp chế có tính hành chính. Tuy nhiên, hiệu quả và hiệu lực của
các công cụ chính sách hiện nay đang có xu hướng giảm dần vì một số nguyên nhân.
Thứ nhất, nền kinh tế Trung Quốc ngày càng mở và trở nên phức tạp. Giao dịch qua
hệ thống tài chính chính thức đang nhanh chóng thay thế các giao dịch bằng tiền mặt.
Các sản phẩm tài chính mới xuất hiện ngày càng nhiều, trong đó có nhiều sản phẩm
được du nhập từ các nền tài chính hiện đại cùng với quá trình hội nhập của Trung
Quốc. Thứ hai, sự phát triển còn hạn chế của thị trường tiền tệ ở Trung Quốc ngăn
khiến các cơ chế dẫn truyền của chính sách tiền tệ trở nên kém hiệu lực. Thứ ba, PBC
vẫn phải chịu áp lực thực hiện nhiều mục tiêu cùng một lúc trong khi mức độ tự chủ
lại rất hạn chế.
Đứng trước một bên là nhiệm vụ ngày càng trở nên khó khăn và phức tạp, trong khi
hiệu lực của công cụ chính sách thì hạn chế và bản thân không được tự chủ, chiến
lược thích hợp gần như duy nhất của PBC là cố gắng tăng cường năng lực kỹ trị của
mình. Trong nỗ lực này, Trung Quốc đã vượt qua nhiều “cấm kỵ” truyền thống để đề
bạt một số người Trung Quốc được đào tạo và thành danh tại Mỹ, thậm chí một số
người trước đây bị coi là “có vấn đề” vào những vị trí chủ chốt trong hệ thống. Trên
thực tế, hai trong số mười phó thống đốc của PBC có học vị tiến sỹ ở các trường đại
học hàng đầu của Mỹ và đã từng có kinh nghiệm làm việc hay giảng dạy quốc tế trước
khi trở về Trung Quốc. Người thứ nhất là Yi Gang, Phó thống đốc, phụ trách Ủy ban
Quản lý Ngoại hối Nhà nước (SAFE – State Administration of Foreign Exchange) có
bằng tiến sỹ kinh tế học của Đại học Illinois và sau đó trở thành Phó giáo sư của Đại
học Indiana. Người thứ hai – Zhu Min – cũng là một phó thống đốc có bằng tiến sỹ
kinh tế tại Đại học Johns Hopkins và có hơn 10 năm kinh nghiệm làm việc với các tổ
chức quốc tế như UNDP và Ngân hàng Thế giới.
4.1.4. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Từ nghiên cứu NHTW của những quốc gia khác trên thế giới, nhóm nghiên cứu rút ra
những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam như sau:
Về mặt tài chính: Từ mô hình tổ chức NHTW của Mỹ, Châu Âu, Trung Quốc có thể
thấy rằng NHTW của các quốc gia này đều có nguồn vốn lớn mạnh và không phụ
thuộc vào Chính Phủ. Trong khi ở Việt Nam, bản thân tên gọi Ngân hàng Nhà nước
70
đã ngụ ý rằng NHNN Việt Nam trực thuộc chính phủ. Điều này cũng có nghĩa là nhà
nước có khả năng, và trên thực tế đã sử dụng NHNN để tài trợ cho các khoản tài trợ
và chi tiêu của mình. Đồng thời, việc NHNN trực thuộc chính phủ cũng có nghĩa là
chính sách tiền tệ sẽ không những không độc lập, mà ngược lại, còn phải chạy theo
chính sách tài khóa của chính phủ.
Về mặt nhân sự: Thống đốc NHTW của các nước phát triển như Mỹ và Châu Âu đều
có nhiệm kì dài hơn so với nhiệm kì của tổng thống đương thời và không được tái bổ
nhiệm cũng như không do Chính Phủ bổ nhiệm, do đó không có sự liên quan nào đến
Chính Phủ. Hiện nay, ở Việt Nam nhiệm kỳ của Thống đốc là 5 năm, trùng với nhiệm
kỳ của chính phủ, do vậy khó có thể nói tới tính độc lập về nhân sự của NHNN. Hơn
thế, việc tuyển dụng, điều chuyển, và sa thải nhân viên chịu sự tác động của nhiều mối
quan hệ phức tạp (cả về mặt tổ chức và cá nhân), và trong một chừng mực đáng kể,
nằm ngoài khả năng kiểm soát của bộ máy quản lý của NHNN. Vì vậy, cần thiết lập
nhiệm kì của Thống đốc lệch pha so với Chính Phủ đương thời để có thể tăng cường
tính độc lập cho NHNN.
Về mặt chính sách: ở Mỹ và Châu Âu, Hội đồng thống đốc là cơ quan quyết định các
chính sách tiền tệ và hội đồng này được chọn ra từ các thống đốc của các ngân hàng
thành viên mà không phải do Chính phủ hay Quốc hội bầu, do đó, có thể thấy các
chính sách tiền tệ ở các quốc gia này không bị ảnh hưởng bởi chính sách tài khóa và
không phục vụ cho Chính Phủ. Còn ở Việt Nam, theo quy định của Luật NHNN thì
NHNN có trách nhiệm xây dựng chính sách tiền tệ quốc gia để chính phủ xem xét và
trình Quốc hội quyết định. Sau đó NHNN chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện chính
sách đã được phê duyệt này. Như vậy, NHNN không phải là người có thể có ý kiến
quyết định cuối cùng về chính sách tiền tệ. Không những thế, trên thực tế, chính sách
tiền tệ còn chịu sự ảnh hưởng rất mạnh mẽ từ ý kiến của Hội đồng tư vấn chính sách
tài chính – tiền tệ quốc gia, mặc dù theo thiết kế, Hội đồng này chỉ có trách nhiệm cho
ý kiến tư vấn về chính sách chứ không phải là một cơ chế ra quyết định. Chính sách
tiền tệ do NHNN đề nghị cũng có thể bị chính phủ điều chỉnh, độc lập với ý chí của
NHNN, và có thể bị quốc hội phủ quyết. Tất cả những điều này có nghĩa là tính độc
lập của NHNN về mặt chính sách là rất hạn chế. Chính vì lý do đó, để tách biệt trong
71
việc quyết định và thực thi các chính sách một cách hiệu quả, NHNN Việt Nam nên
có toàn quyền quyết định các chính sách của mình dưới sự chấp thuận của Quốc Hội
và không phụ thuộc vào các chính sách tài khóa của Chính phủ.
4.2. Ý kiến đề xuất
4.2.1. Góc nhìn tính độc lập NHNN Việt Nam của nhóm nghiên cứu
Hiện nay, NHNN là một cơ quan nhà nước trực thuộc Chính phủ, do vậy NHNN thiếu
tính độc lập trong thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mình. Do đó, tăng cường
tính độc lập cho NHNN là mục tiêu cần hướng tới nhằm đạt được hiệu quả trong thực
thi CSTT và ổn định thị trường tài chính tiền tệ. Vấn đề đặt ra là NHNN cần độc lập
như thế nào, mức độ ra sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn về thể chế chính trị,
kinh tế - xã hội của Việt Nam. Từ bài học của mô hình tổ chức NHTW các nước Mỹ,
Châu Âu và Trung Quốc, có thể thấy rõ rằng:
- Thứ nhất, sự độc lập này không thể đến từ một quyết định thuần tuý, từ văn bản
giấy tờ mà phải đến từ việc thiết kế hệ thống, thể chế, nội dung của NHNN, cấu
trúc lại bộ máy của NHNN.
- Thứ hai, sự độc lập này chỉ có tính chất tương đối. Nói “tương đối” là bởi vì
trong hệ thống quản lý kinh tế của chúng ta, có những chỉ tiêu kinh tế đan xen
nhau. Do đó, những chỉ tiêu kinh tế của NHNN còn phải phụ thuộc vào cả nền
kinh tế. Thế nên điều quan trọng là tạo điều kiện cho NHNN độc lập để nó điều
hành tốt, thực hiện đúng chức năng của nó. Còn những công việc, vấn đề đòi
hỏi có sự phối hợp thì cũng không nên đòi hỏi sự độc lập ở đây.
- Thứ ba, vấn đề của NHNN Việt Nam ta không nằm ở chỗ lựa chọn mô hình
NHTW nào mà lựa chọn cấp độ độc lập tự chủ nào cho phù hợp với NHNN
trong bối cảnh hiện nay.
- Thứ tư, những kinh nghiệm học được từ mô hình NHTW ở các quốc gia trên thế
giới chưa hẳn là thích hợp để áp dụng cho thực trạng Việt Nam hiện nay.
Gần đây, Chính phủ đã ban hành nghị định 156/2013/NĐ-CP về Quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, nới lỏng
hơn trong kiểm soát của chính phủ về việc sử dụng các công cụ điều hành chính sách
72
tiền tệ quốc gia của NHNN (Điều 2 – khoản 4: Xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm
để trình Chính phủ; sử dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao
gồm: Tái cấp vốn,lãi suất, tỷ giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và
các công cụ, biện pháp khác để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia).
Xét tính độc lập của NHNN VN theo thang đo của IMF, sau nghị định 156/2013/NĐ-
CP có hiệu lực từ tháng 12 năm 2013, NHNN Việt Nam đã tăng mức độc lập lên mức
3 từ mức độ độc lập thấp nhất (mức 4). Theo đánh giá của nhóm nghiên cứu, mức độ
này là phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội hiện nay của Việt Nam vì:
- Cấp độ độc lập thứ nhất “độc lập chủ trong thiết lập mục tiêu hoạt động”. Ngoài
các lý do về trình độ phát kinh tế và đặc thù về thể chế chính trị, hệ thống pháp
luật, thì trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống tài chính
nói riêng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ, thì việc dự báo dựa trên các
biến số kinh tế - tài chính là rất khó khăn. Bên cạnh đó, năng lực thống kê và dự
báo của chúng ta hiện vẫn còn rất hạn chế. Vì vậy, mức độ độc lập này không
phù hợp với NHNN Việt Nam ít nhất là trong thời gian trung hạn.
- Với cấp độ độc lập thứ hai, “độc lập tự chủ trong thiết lập chỉ tiêu hoạt động”,
tương tự như lý do vừa nêu ở trên, cấp độ độc lập tự chủ này cũng tỏ ra không
phù hợp với NHNN Việt Nam trong giai đoạn trước mắt. Tuy nhiên, trong
tương lai, cấp độ độc lập này có thể được cân nhắc, xem xét khi điều kiện cho
phép (các biến số kinh tế - tài chính đã trở nên ổn định hơn; năng lực thống kê,
dự báo được cải thiện).
4.2.2. Ý kiến đề xuất
Tuy nhiên, xét theo một số khía cạnh khác nhỏ hơn so với thang đo của IMF, nhóm
nghiên cứu đề xuất một số biện pháp nhằm tăng tính độc lập của NHNN VN trong
thời gian trước mắt như sau:
Thứ nhất, NHNN cần độc lập hơn trong quan hệ với ngân sách. Để đảm bảo hiệu
quả của CSTT, những nhiệm vụ khác như tạm ứng chi ngân sách hay tài trợ trực tiếp
cho thâm hụt ngân sách của Chính phủ cũng nên được quy định lại để Thống đốc có
quyền từ chối theo đúng mục tiêu thâm hụt ngân sách được Quốc hội phê duyệt hàng
73
năm và chủ động trong việc điều hành cung, cầu tiền trên thị trường. Hơn nữa, cần có
quy định cụ thể về chức năng “Là ngân hàng của Chính phủ” của NHNN theo hướng
NHNN sẽ không cho ngân sách vay trực tiếp. NHNN chỉ cấp tín dụng gián tiếp cho
Chính phủ thông qua việc cho ngân sách vay trên thị trường thứ cấp có hạn mức và
lấy trái phiếu Chính phủ làm tài sản đảm bảo khi cho các NHTM vay.
Ngoài ra, về trách nhiệm giải trình: Nâng cao tính độc lập và tự chủ của NHNN đối
với các mục tiêu và quyết định chính sách phải đi kèm với trách nhiệm giải trình đầy
đủ và minh bạch. Thống đốc NHNN theo định kỳ hoặc theo đề nghị của Quốc hội phải
có trách nhiệm giải trình trước Quốc hội về các quyết định chính sách trong giới hạn
chức năng và thẩm quyền được giao.
Cuối cùng, tách bạch chức năng điều hành và quản trị. Điều hành NHNN được
thực hiện bởi Ban điều hành, còn quản trị nên được thực hiện bởi Hội đồng quản trị
(hoặc Hội đồng quản lý) NHNN. Hội đồng quản trị là cơ quan hoạch định chính sách
trong lĩnh vực tiền tệ, làm việc theo nguyên tắc tập thể, còn Ban điều hành có trách
nhiệm đưa các chính sách đó vào cuộc sống. Nếu NHNN được thiết kế theo mô hình
quản trị này sẽ tạo ra được phương thức quản trị ngân hàng mang tính tổng thể, định
hướng chiến lược lâu dài, tránh được hiện tượng thụ động, mang nặng tính hành chính
và mệnh lệnh trong điều hành. Bên cạnh đó, hoạt động của Ban điều hành cũng phải
bảo đảm tính minh bạch thông qua các hoạt động kiểm toán, kiểm soát nội bộ của
NHNN.
KẾT LUẬN PHẦN 4
Qua phân tích thực nghiệm tại Việt Nam, mối quan hệ ngược chiều giữa tỷ lệ lạm phát
và mức độc lập của NHNN VN đã được khẳng định lại bằng những con số cụ thể. Tuy
nhiên, không phải là NHNN cứ càng độc lập, thì lạm phát càng giảm. Tính độc lập của
một NHTW ở mức độ nào, về mặt nào là phù hợp thì còn tùy thuộc và thể chế, tình
hình kinh tế - xã hội riêng của từng quốc gia. Mới đây ở Việt Nam, có hiệu lực từ
tháng 12/2013, nghị định 156 đã vừa nới lỏng hơn trong việc NHNN VN đã có quyền
quyết định sử dụng các công cụ chính sách để đạt được mục tiêu. Và sự thay đổi này
là hết sức phù hợp với tình hình Việt Nam hiện tại. Tuy nhiên, nhóm nghiên cứu cũng
đề xuất những khía cạnh khác thích hợp để gia tăng mức độc lập của NHNN VN, cũng
74
như hướng tới những lợi ích tổng thể của cả nền kinh tế Việt Nam trong thời điểm
hiện tại.
75
KẾT LUẬN
Bài nghiên cứu đã trình bày tổng quan về tính độc lập của NHTW trong mối quan hệ
với lạm phát, nêu lên thực trạng cũng như chỉ số độc lập của NHNN Việt Nam. Kết
quả từ phương pháp định lượng sử dụng chỉ số độc lập NHTW pháp định (tính dựa
trên luật định), động (theo thời gian), trong mô hình hồi quy với biến phụ thuộc là tỷ
lệ lạm phát động hàng quý của Việt Nam, đã xác nhận rằng tồn tại mối quan hệ ngược
chiều giữa tính độc lập của NHNN Việt Nam với tỷ lệ lạm phát.
Bên cạnh đó, xuất phát từ thực trạng về tính độc lập của NHNN Việt Nam cùng với
việc tham khảo mô hình tổ chức các NHTW trên thế giới, nhóm nghiên cứu đã rút ra
được bài học kinh nghiệm để từ đó đề xuất những ý kiến về mức độc lập của NHNN
Việt Nam thích hợp trong thời điểm hiện tại, nhằm hướng đến bình ổn mức giá và
phát triển kinh tế, bao gồm: độc lập trong ngân sách, đi đôi với trách nhiệm giải trình
và tách bạch chức năng điều hành và quản trị.
Do hạn chế của việc thu thập số liệu, chỉ số độc lập mà nhóm sử dụng để đánh giá
mức độ độc lập của NHNN Việt Nam là chỉ số độc lập pháp định. Tuy nhiên, như lập
luận trong một số các nghiên cứu trước đây ủng hộ chỉ số độc lập thực tế, thì hạn chế
trong luật pháp cũng như thể chế ở các nước đang phát triển chính là nguyên nhân làm
chỉ số độc lập pháp địnhkhông diễn tả chính xác mức độ độc lập của NHTW. Bởi vậy,
khi giải quyết được vấn đề số liệu để đo lường chỉ số độc lập thực tế, thì các nghiên
cứu tiếp theo nên sử dụng chỉ số độc lập thực tế để xác nhận lại xem liệu kết quả về
việc tồn tại mối quan hệ này là có còn đúng hay không.
Hơn nữa, Nghị định 156/2013/NĐ-CP có hiệu lực từ tháng 12/2013, đã vừa nới lỏng
hơn trong việc NHNN VN có quyền quyết định việc sử dụng các công cụ chính sách
nào để thực hiện mục tiêu của mình. Đây là một cải tiến hết sức rõ rệt trong mức độc
lập của NHNN Việt Nam và điều này gợi ý đến việc phát triển nghiên cứu sau vài
năm nữa, nhằm đánh giá sự thay đổi mức độ độc lập này có tác động tích cực đến tỷ lệ
lạm phát của Việt Nam hay không.
i
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Danh mục tài liệu Tiếng Việt
1. Nghiệp vụ Ngân hàng Trung Ương (2011), Trường Đại học kinh tế TP. HCM,
NXB Phương Đông.
2. Frederic S. Miskin (1994), Tiền tệ, Ngân hàng và thị trường tài chính, NXB Khoa
học Kỹ thuật, Hà Nội.
3. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1996 đến 2011), Báo cáo thường niên.
4. Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính (2011), Nguyễn Văn Ngọc, Đại học Kinh
tế quốc dân Hà Nội.
5. Lê Xuân Nghĩa (2006), “Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương – một nền tạng
quan trọng cho hoạt động Ngân hàng Trung ương hiện đại”, Tạp chí Ngân hàng, số
Chuyên đề năm 2006, truy cập tại http://m.doko.vn/tai-lieu/tinh-doc-lap-cua-ngan-
hang-trung-uong-mot-nen-tang-quan-trong-cho-hoat-dong-ngan-hang-trung-uong-
hien-dai-163079, ngày truy cập 20/3/2014
6. Đặng Hữu Mẫn (2007), “Tính độc lập của Ngân hàng Trung ương – Kinh nghiệm
của NewZealand và một số giải pháp đối với Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ - Đại học Đà Nẵng, số 19 năm 2007, truy cập tại www.kh-
sdh.udn.vn/zipfiles/So19/11_man_danghuu.doc , ngày truy cập 21/3/2014
7. Lê Thị Thu Thủy (23/11/2009), “Tính độc lập của ngân hàng trung ương ở Việt
Nam”, Chính sách công, Pháp luật về Tổ chức tín dụng,
http://luattaichinh.wordpress.com/2009/11/23/tnh-d%E1%BB%99c-
l%E1%BA%ADp-c%E1%BB%A7a-ngn-hng-trung-%C6%B0%C6%A1ng-
%E1%BB%9F-vi%E1%BB%87t-nam/ truy cập ngày 20/3/2014.
8. Vũ Thành Tự Anh (2013), “Xây dựng ngân hàng trung ương hiện đại”, truy cập tại
www.fetp.edu.vn/attachment.aspx?ID=3423, ngày truy cập 20/3/1013.
ii
Danh mục tài liệu Tiếng Anh
1. Cukierman, A., 1992. “Central Bank Strategy, Credibility, and Independence:
Theory and Evidence”. The MIT Press, Cambridge, MA.
2. Cukierman, A., 2008. “Central bank independence and monetary policymaking
institutions – past, present and future”. European Journal of Political Economy
24 (4), 722–736.
3. Cukierman, A., 2011. “Reflections on the crisis and on its lessons for
regulatory reform and for central bank policies”. Journal of Financial Stability
7 (1), 26–37.
4. Cukierman, A., Miller, G.P., Neyapti, B., 2002. “Central bank reform,
liberalization and inflation in transition economies – an international
perspective”. Journal of Monetary Economics 49 (2), 237–264.
5. Cukierman, A., Webb, S.B., Neyapti, B., 1992. “Measuring the independence
of central banks and its effect on policy outcomes”. The World Bank Economic
Review 6 (3), 353–398.
6. de Haan, J., Masciandaro, D., Quintyn, M., 2008. “Does central bank
independence still matter?” European Journal of Political Economy 24 (4),
717–721.
7. Roger, S., 2009. “Inflation targeting at 20: achievements and challenges”. IMF
Working Papers 09/236. International Monetary Fund.
8. Zivot, E., Andrews, D.W.K., 1992. “Further evidence on the great crash, the
oil-price shock, and the unit-root hypothesis”. Journal of Business & Economic
Statistics10 (3), 251–270.
9. Marco Arnone and Davide Romelli, 2013. “Dynamic central bank
independence indices and inflation rate: A new empirical exploration”.