148
Mở Lời N guyễn Du là tác giả lớn nhất trong văn học Việt Nam. Truyện Kiều của ông không những chỉ là một thi phẩm được toàn thể người Việt Nam ưa chuộng mà còn là một tác phẩm được giới văn học đối chiếu đặc biệt nghiên cứu và đồng ý là tác phẩm này, trên mặt văn học, vượt xa nguyên tác Trung Quốc và nhiều tác phẩm phỏng tác cùng nguyên tác của Nhật bản 1 . Số đầu sách bàn về Nguyễn Du và Truyện Kiều ở Việt Nam, từ trước tới nay, nhiều đến mức khó có ai đọc hết xuể. Nhìn qua Truyện Kiều, nhiều tác giả đã bàn về tâm sự Nguyễn Du. Chủ đề Nguyễn Du dùng hình ảnh Thúy Kiều để giãi bày tâm sự đã đi sâu vào lòng người Viêt Nam sau gần một trăm năm qua, vì thi phẩm này đã được dùng làm sách giáo khoa tại các truờng trung học. Đàng khác, Nguyễn Du còn để lại cho người đời sau ngoài hai trăm bài thơ Việt Âm, chia làm ba cuốn: 1. Thanh Hiên Thi Tập, 2. Nam Trung Tạp Ngâm 3. Bắc Hành Thi Tập. Cho tới nay chỉ có năm tác phẩm dịch và bình chú về ba tập thơ nói trên. Đó là: 1. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Kỷ, Nguyễn Khắc Danh, Văn Hóa, Hà Nội 1959, gồm 102 bài; 2. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Lê Thước & Trường Chính, Văn Học, Hà Nội, 1965, 249 bài; 3. Tố Như Thi Trích Dịch, Quách Tấn, An Tiêm, Saigon 1973, 92 bài; 4. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Đào Duy Anh, Văn Học, Hà Nội 1988, 249 bài 5. Nguyễn Du Toàn Tập, tập 1, Mai Quốc Liên, và Al, Văn Học Hà Nội, 1996, 238 bài. Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim n rằng lấy truyện Kiều mà xét tâm sự Nguyễn Du thì không lầm được. Ông cho rằng vì chữ mệnh oái oăm như bắt Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ, bắt Nguyễn Du phải quên nhà Lê mà theo phù vua mới. Kiều vì gia biến phải bước chân ra đi, Nguyễn Du gặp khi nhà Lê bại vong phải ra làm quan với Nguyễn Triều, hai bên cũng một lòng cay đắng chua xót như nhau. Vì ý tưởng hoài Lê đó nên suốt đời làm quan Nguyễn Du buồn rầu, mà cũng không bàn bạc điều gì trước sân rồng. Người đọc ngày nay phân vân về lời bình trên đây của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim. Bởi qua 238 bài thơ Việt Âm, khó m ra được một câu chứng tỏ Nguyễn Du có ý tưởng hoài Lê. Trái lại, trong nhiều bài Nguyễn Du coi sự triều đại đổi thay như một lẽ tự nhiên của đại hóa, và việc ra làm quan là một việc trái với thiên nh của ông. Như vậy, nét buồn trong thơ Việt Âm của Nguyễn Du chưa có giải đáp. Tìm một câu trả lời cho câu hỏi trên là mục đích của cảo luận này. Khởi đầu là vắn tắt ểu sử của Nguyễn Du. Theo Dương Quảng Hàm 2 , Nguyễn Du (1765- 1820) Tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tổ ên nhiều đời làm quan với nhà Lê. Ông không ra làm quan với nhà Tây Sơn. Năm Gia Long nguyên niên ông được vua Gia Long vời ra làm quan. Năm 1813 thăng Cần Chánh điện học sĩ, sung làm chánh sứ sang cống Trung Quốc. Khi về được thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) lại có lệnh sang sứ Trung Quốc, nhưng chưa đi thì ông mất. Theo Chính Biên Liệt Truyện, cái chết của Nguyễn Du là một cái chết bình thản, từ chối không uống thuốc khi bệnh nặng, từ trần không một lòi dặn dò việc sau . Theo sách Chính Biên Liệt Truyện 3 , trong thời gian làm quan tại triều đình Huế, đối với nhà 1 Hatakéna Toshio (Hoàng Trung Mẫn Lang) On Kim Vân Kiều – China, Viêt Nam Japan, Tamkiang Review, vol #2, Teipei October 1971. 2. Dương quảng hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 356 3. Trích theo Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr.X Thơ Việt Âm của Nguyễn Du Lê Phụng 3

Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

  • Upload
    letu

  • View
    231

  • Download
    7

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Mở Lời

Nguyễn Du là tác giả lớn nhất trong văn học Việt Nam. Truyện Kiều của ông không những chỉ là một thi phẩm được toàn thể người Việt Nam ưa chuộng mà còn là một tác phẩm được giới văn học đối chiếu đặc biệt nghiên cứu và đồng ý là tác phẩm này, trên mặt

văn học, vượt xa nguyên tác Trung Quốc và nhiều tác phẩm phỏng tác cùng nguyên tác của Nhật bản 1. Số đầu sách bàn về Nguyễn Du và Truyện Kiều ở Việt Nam, từ trước tới nay, nhiều đến mức khó có ai đọc hết xuể.

Nhìn qua Truyện Kiều, nhiều tác giả đã bàn về tâm sự Nguyễn Du. Chủ đề Nguyễn Du dùng hình ảnh Thúy Kiều để giãi bày tâm sự đã đi sâu vào lòng người Viêt Nam sau gần một trăm năm qua, vì thi phẩm này đã được dùng làm sách giáo khoa tại các truờng trung học.

Đàng khác, Nguyễn Du còn để lại cho người đời sau ngoài hai trăm bài thơ Việt Âm, chia làm ba cuốn:

1. Thanh Hiên Thi Tập,2. Nam Trung Tạp Ngâm3. Bắc Hành Thi Tập. Cho tới nay chỉ có năm tác phẩm dịch và bình chú về ba tập thơ nói trên. Đó là:1. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du của Bùi Kỷ, Nguyễn Khắc Danh, Văn Hóa, Hà Nội 1959, gồm 102

bài;2. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Lê Thước & Trường Chính, Văn Học, Hà Nội, 1965, 249 bài;3. Tố Như Thi Trích Dịch, Quách Tấn, An Tiêm, Saigon 1973, 92 bài;4. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Đào Duy Anh, Văn Học, Hà Nội 1988, 249 bài5. Nguyễn Du Toàn Tập, tập 1, Mai Quốc Liên, và Al, Văn Học Hà Nội, 1996, 238 bài.Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim tin rằng lấy truyện Kiều mà xét tâm sự Nguyễn Du thì không lầm

được. Ông cho rằng vì chữ mệnh oái oăm như bắt Kiều phải bỏ Kim Trọng mà chịu bước giang hồ, bắt Nguyễn Du phải quên nhà Lê mà theo phù vua mới. Kiều vì gia biến phải bước chân ra đi, Nguyễn Du gặp khi nhà Lê bại vong phải ra làm quan với Nguyễn Triều, hai bên cũng một lòng cay đắng chua xót như nhau. Vì ý tưởng hoài Lê đó nên suốt đời làm quan Nguyễn Du buồn rầu, mà cũng không bàn bạc điều gì trước sân rồng.

Người đọc ngày nay phân vân về lời bình trên đây của Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim. Bởi qua 238 bài thơ Việt Âm, khó tìm ra được một câu chứng tỏ Nguyễn Du có ý tưởng hoài Lê. Trái lại, trong nhiều bài Nguyễn Du coi sự triều đại đổi thay như một lẽ tự nhiên của đại hóa, và việc ra làm quan là một việc trái với thiên tính của ông.

Như vậy, nét buồn trong thơ Việt Âm của Nguyễn Du chưa có giải đáp. Tìm một câu trả lời cho câu hỏi trên là mục đích của cảo luận này.Khởi đầu là vắn tắt tiểu sử của Nguyễn Du. Theo Dương Quảng Hàm 2, Nguyễn Du (1765-

1820) Tự Tố Như, hiệu Thanh Hiên, biệt hiệu Hồng Sơn Liệp Hộ, người xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Tổ tiên nhiều đời làm quan với nhà Lê. Ông không ra làm quan với nhà Tây Sơn. Năm Gia Long nguyên niên ông được vua Gia Long vời ra làm quan. Năm 1813 thăng Cần Chánh điện học sĩ, sung làm chánh sứ sang cống Trung Quốc. Khi về được thăng Lễ bộ hữu tham tri. Năm Minh Mệnh nguyên niên (1820) lại có lệnh sang sứ Trung Quốc, nhưng chưa đi thì ông mất.

Theo Chính Biên Liệt Truyện, cái chết của Nguyễn Du là một cái chết bình thản, từ chối không uống thuốc khi bệnh nặng, từ trần không một lòi dặn dò việc sau .

Theo sách Chính Biên Liệt Truyện 3, trong thời gian làm quan tại triều đình Huế, đối với nhà 1 Hatakéna Toshio (Hoàng Trung Mẫn Lang) On Kim Vân Kiều – China, Viêt Nam Japan, Tamkiang Review, vol #2, Teipei October 1971.2. Dương quảng hàm, Việt Nam Văn Học Sử Yếu, Xuân Thu tái bản tại Hoa Kỳ, tr. 3563. Trích theo Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Du Truyện Thúy Kiều, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tr.X

Thơ Việt Âm của Nguyễn Du Lê Phụng

3

Page 2: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

vua, ông chỉ giữ hết bổn phận, chứ không hay nói năng điều gì. Có khi vua đã quở rằng; “ Nhà nước dùng người, cứ ai hiền tài thì dùng, không phân biệt gì Nam với Bắc cả. Ngươi đã làm đến chức á khanh, biết việc gì phải nói rõ để tỏ cái chức trách của mình, có lẽ đâu cứ rụt rè, chỉ vâng vâng dạ dạ hay sao?”

Mấy lời trên cho thấy là, đúng với nhận xét của Trần trọng Kim, Nguyễn Du không tìm thấy niềm yên vui trên đường làm quan, để lập công danh.

Cảo luận này nhắm hai mục đích:1. trình bày toàn bộ thơ dịch sang vần lục bát 237 bài thơ Việt Âm của Nguyễn Du và 2. theo dõi nếp sống của Nguyễn Du gửi gắm trong số thơ này.Đã có nhiều người dịch và chú thích thơ việt Âm của Nguyễn Du. Hầu hết những bản dịch đều

giữ nguyên thể thơ Đường Luật, nhằm đưa người đọc tới nguyên bản. Cảo luận này dịch sang vần lục bát, toàn bộ 237 bài thơ Việt Âm của Nguyễn Du đã được giới văn bản học hiện thời coi là toàn tập với ước mong đưa nguyên bản tới người đọc.

Kết quả việc theo rõi nếp sống của Nguyễn Du phản ánh trong ba tập thơ Việt Âm, cho thấy cả ba tác phẩm Việt Âm của Nguyễn Dù có chung một đề tài với toàn thể văn học Việt Nam. Đề tài đó là đề tài của người lính thú than khổ trong bài ca dao Trấn Thủ Lưu Đồn qua bốn chữ hữu thân hữu khổ. Đề tài đó là đề tài của Cung Oán Ngâm Khúc với cái khổ làm người của nàng cung nữ. Đó cũng là đề tài của Chinh Phụ Ngâm với cái khổ làm người của người lính và người vợ lính và với Truyện Kiều với cái khổ làm người của tất cả mọi nhân vật trong truyện. Bỏ đề tài cái khổ làm người này có lẽ khó thấy một đề tài khác có tầm phổ quát tương tự trong toàn bộ văn học Việt Nam.

Do đó, người đọc cảm thấy là ba tâp thơ Việt Âm của Nguyễn Du dường như ba tập nhật ký sâu kín của một người tu thân, đối mặt với cái khổ làm người, trên đường tìm an lạc cho chính mình. Đồng thời ba tập thơ đó là ba tác phẩm lớn trong dòng văn học cổ điển Việt Nam mà từ hơn một thế kỷ qua chưa được phổ biến xứng đáng trong trường học cũng như ngoài đại chúng .

Ba tập thơ đó cho người đọc thấy là Nguyễn Du đã thành công trên mặt tu thân noi theo mức vô danh, vô kỷ, vô công của đạo Lão Trang. để khéo nuôi cái sống và cũng là để khéo liệu cái chết cho chính ông.

Ông còn sống theo nếp buông bỏ của một Phật tử Tịnh Tông nhưng không vụ vào kinh sách mà dường như chỉ bằng trên kinh nghiệm bản thân để giữ được niềm an lạc cho tâm thân.

Ông cũng vui sống theo hình ảnh của một Trung Ẩn Sĩ, theo kinh nghiệm của một nhà nho lạc thiên an đạo như Bạch Cư Dị.

Ông đã chọn con đường riêng của ông: buông bỏ danh lợi, sống gần với thiên nhiên, lấy việc săn bắn làm vui, lấy văn thơ làm sự nghiệp dầu biết rằng trời đất không chuộng khách văn thơ, và nhất là không cả màng tới truyện lưu danh hậu thế. Trong suốt ba tập thơ ông luôn luôn dùng hình ảnh những anh hùng liệt sĩ chết thảm vì danh thân nliệt vì lợi như để tự nhắc mình đừng quên việc buông danh bỏ lợi; cũng như ông đề cao ông hình ảnh những danh nho Trung Quốc, bỏ đường danh lợi theo đường thơ văn để lấy làm gương cho chính ông.

Điểm đặc biệt của Nguyễn Du là ông không nhất thiết là một nhà nho thuần túy, không phải là một Phật Tử chân tu hay một người học đạo Lão Trang chân truyền. Giữa ba đạo Nho Phật Lão có nhiều điểm chung cho cả ba đạo. Nguyễn Du đứng vững chắc tại những điểm đó.

Bắt đầu là nguyên bản Việt Âm và bản dịch sang vần lục bát của của 78 bài thơ trong :

青 軒 詩 集 Thanh Hiên Thi Tập

Giới nghiên cúu văn bản cho biết la Nguyễn Du vốn có hai tập Thanh Hiên Tiền Hậu Tập. Nhưng hiện nay chua tìm được đầy đủ, và chỉ tìm được 78 bài dưới 67 đề mục. gọi chung là Thanh Hiên Thi Tập.

Bắt đầu là bài:瓊 海 元 宵

Quỳnh Hải Nguyên Tiêu4

Page 3: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

元 夜 空 庭 月 滿 天Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên

依 依 不 改 舊 嬋 娟Y y bất cải cựu thiền quyên

一 天 春 興 誰 家 洛Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc

萬 里 瓊 洲 此 夜 圓Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên

鴻 嶺 無 家 兄 弟 散Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán

白 頭 多 恨 歲 時 遷Bạch đầu đa hận tuế thời thiên

窮 途 憐 汝 遙 相 見Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến

海 角 天 涯 三 十 年Hải giác thiên nhai tam thập niên.

dịch là:

Đêm Rằm Tháng Giêng Tại Quỳnh HảiTháng giêng vằng vặc trăng rằm

Y nguyên vẻ cũ gương hằng chẳng phaiHứng xuân lạc xuống nhà ai

Quỳnh Châu vạn dặm đêm này tròn trăngAnh em Hồng Lĩnh ly tan

Bạc đầu nặng hận năm tàn tháng trôiĐường cùng ta vẫn gặp ngươi

Chân trời góc biển ba mươi năm tròn.

Thanh Hiên Thi Tập mở đầu bằng bài Quỳnh Hải Nguyên Tiêu. Nguyễn Du ngắm trăng rằm tháng giêng, không có rượu trong tay như Lý Bạch, nhưng vui cùng trăng tròn như gặp lại người quen biết từ ba chục năm qua, trong cảnh anh em ông ly tán vì loạn lạc, bạn bè tri kỷ không có một ai ở gần, tóc trên đầu ông đã bạc, và năm tháng vội vã trôi qua. Bài thơ không chỉ ghi lại nỗi buồn của Nguyễn Du, mà còn cho người đọc thấy nỗi cô độc của tác giả cùng lòng yêu thiên nhiên của ông. Nỗi buồn của Nguyễn Du là nỗi buồn của một con người nghệ sĩ, thấy được cái đẹp, mặc dầu đang ở trong cảnh khó khăn của cuộc sống. Đúng như lời Julia Kristeva 4:

[...] la mélancholie, équilibrée par le génie, est coextensive à l’inquiétude de l’homme dans l’Être.

Thế thì, phải chăng nỗi buồn của Nguyễn Du là nỗi buồn cho thân phận con người?Cũng trong mùa xuân ở Quỳnh Hải đó, Nguyễn Du có bài:

春 日 偶 興Xuân Nhật Ngẫu Hứng

患 氣 經 時 戶 不 開Hoạn khí kinh thời hộ bất khai

逡 巡 寒 暑 故 相 催Thoan tuần hàn thử cố tương thôi

他 鄉 人 與 去 年 別Tha hương nhân dữ khứ niên biệt

瓊 海 春 從 何 處 來Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai

南 浦 傖 心 看 綠 草Nam phố thương tâm khan lục thảo

4. Julia Kristeva, Soleil noir: dépression et melancholie, Paris, Gallimard, 1987, p. 17.5

Page 4: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

東 皇 生 意 漏 寒 梅Đông hoàng sinh ý lậu hàn mai

鄰 翁 奔 走 村 前 廟Thôn ông bôn tẩu thôn tiền miếu

斗 酒 雙 柑 醉 不 回Đẩu tửu song cam túy bất hồi.

dịch là:

Ngày Xuân Ngẫu HứngTrời đông cửa đóng kín bưng

Rét qua nực tới ngập ngừng đổi thayQuê người năm trước chia tay

Chốn đây Quỳnh Hải xuân nay lại vềBến nam cỏ biếc não nề

Đón xuân mai nở e dè tường đôngQuẩn quanh dọn miếu đầu thôn

Rượu bầu cam ngọt lão ông quên về.

Trong hoàn cảnh tản cư về Quỳnh Hải, Nguyễn Du dường như mất nhậy cảm với thời gian. Ông chợt thấy tiết trời đổi từ rét sang nóng mới thấy như có sự đổi mùa sang xuân. Cảm tưởng đó dường như cảm tưởng một người đang sống trọng sự chờ đợi với một hy vọng mong manh. Cảnh chờ đợi kéo dài đã một năm kễ tù khi chia tay. Mùa xuân lại về hy vọng lại nhen nhóm, cái hiện tại như bãi cỏ biếc bên bờ nam, cái hy vọng mong manh như cánh hoa mai bên tường đông. Hai câu kết, khó biết nổi là câu ông tự trách, hay câu ông trách người mà ông đặt hy vọng, vẫn lần chần chưa tới, vì còn say rượu.

Tóm lại, bài Ngày Xuân Cảm Hứng trên đây cho thấy tâm trạng chờ đợi trong hy vọng lẫn thất vọng ngày Nguyễn Du sống trong cảnh tản cư thiếu thốn tại Quỳnh Hải.

Cũng trong hoàn cảnh tản cư về Quỳnh Hải, Nguyễn Du viết hai bài sau:

自 嘆二 首

Tự Thán

Nhị Thủ其 一

Bài I

生 未 成 名 身 已 衰Thân vị thành danh thân dĩ suy

蕭 蕭 白 髮 暮 風 吹Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy

性 成 鶴 脛 何 容 斷Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn

命 等 鴻 毛 不 自 知Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri

天 地 與 人 屯 骨 相Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng

春 秋 還 汝 老 鬚 眉Xuân thu hoàn nhữ lão tu mi

斷 蓬 一 片 西 風 急Đoạn bồng nhất phiến tay phong cấp

畢 竟 飄 零 何 處 歸6

Page 5: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Tất cánh phiêu linh hà xứ quy

其 二Kỳ nhị

三 十 行 庚 六 尺 身Tam thập hành canh lục xích thân

聰 明 穿 鑿 損 天 真Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân

本 無 文 字 能 憎 命Bản vô văn tự năng tăng mệnh

何 事 乾 坤 錯 妒 人Hà sự kiền khôn thác đố nhân

書 劍 無 成 生 計 促Thư kiếm vô thành sinh kế xúc

春 秋 代 序 白 頭 新Xuân thu đại tự bạch đầu tân

何 能 洛 髮 歸 林 去Hà năng lạc phát quy lâm khứ

臥 聽 松 風 響 半 雲Ngọa thính tùng phong hưởng bán vân

dịch là:

Tự Thán(Hai bài)

IThân suy danh vẫn chưa thành

Trời chiều tóc trắng dập dềnh gió bayCắt chân tính hạc chẳng thay

Lông hồng đầu gió nào hay mệnh trờiGian truân tùy cốt tướng người

Râu mày năm tháng sớm rồi bạc phơCánh bồng lìa gốc gió lùa

Rồi ra phiêu dạt đẩy đưa phương nào.

IIThân sáu thước tuổi ba mươi

Thông minh cho lắm tội trời càng tăngMệnh dường ghen với thơ văn

Kiền khôn sao khéo ghét lầm riêng aiKiếm thư dang dở sinh nhai

Bạc đầu cùng quẫn tháng ngày long đongVào rừng xuống tóc những mong

Nằm nhìn mây nổi nghe thông dạt dào.

Câu mở đầu bài Tụ Thán I cho biết hoàn cảnh của tác giả : chua thành danh và thân dã bắt đầu suy. Hình ảnh tấm thân suy nhược là mái tóc trắng bay trong gió chiều. Tác giả duòng như đứng trước một lựa chọn. Bài thơ không cho biết đối tượng của sự lựa chọn. Đó là điểm lôi kéo người đọc. Chỉ cho biết là sự lựa chọn này mang hình ảnh cắt chân hạc của sách Nam Hoa Kinh: đòi hòi một điều mang danh là tàn sinh tổn tính. Nguyễn Du đã không theo ngả lựa chọn đó mà kệ cho số mệnh an bài.

Sang bài Tự Thán II, tác giả cho biết rõ là đã đến tuổi nhi lập, nhưng vì trời sinh thông minh nên tội trời càng nặng. Chữ thiên chân tạm dịch là tội trời đây, làm người đọc nghĩ đến cái tội trời sinh khi mới lọt lòng mẹ là tội phải phò vua thờ cha như Nguyễn Công Trứ đã nói rõ.

7

Page 6: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Nguyễn Du tin là nếu không bởi thông minh mà bị số mệnh hành hạ, thì sao trời đất lại ghét lầm người làm thơ văn. Hoàn cảnh hiện tại của tác già là cả hai đường múa gươm đọc sách đều như vô vọng. Chỉ còn nẻo xuống tóc vào rừng, nằm nhìn mây bay, nghe thông reo.

Trong hoàn đó, Nguyễn Du đã có dịp đi qua trại quân Vị Hoàng và ghi lại cảm tưởng của ông như sau:

渭 潢 營 Vị Hoàng Doanh

渭 湟 江 上 渭 湟 營Vị Hoàng giang thượng Vị Hoàng doanh

樓 檜 參 差 接 太 清Lâu cối sâm si tiếp thái thanh

古 渡 斜 陽 看 飲 馬Cổ độ tà dương khan ẩm mã

荒 郊 靜 夜 亂 飛 螢Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh

古 今 未 見 千 年 國Cổ kim vị kiến thiên niên quốc

形 勢 空 留 百 戰 名Hình thế không lưu bách chiến danh

莫 向 清 華 村 口 望Mạc hướng Thanh Hoa thôn khẩu vọng

疊 山 不 改 舊 時 青Điệp Sơn bất cải cựu thòi thanh.

dịch là

Đồn Quân Vị HoàngVị Hoàng đầu bến quân doanh

Thấp cao sừng sững cây xanh bốn bềBến chiều ngựa uống thỏa thuê

Đồng hoang đom đóm lập loè âm uTriều nào đứng vững ngàn thu

Đất này chiến trân oán thù lưu danhVời trông theo ngả vào Thanh

Ngọn đèo Ba Dọi núi xanh trùng trùng.

Vị Hoàng là tên nhánh sông Nhị chẩy ngang thành Nam Định. Dưới triều nhà Lê, bên bờ sông có xây doanh trại lớn chống địch từ miền trong ra hay từ ngoài biển vào. Nam 1786 Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn quân Tây Sơn, đánh chiếm đồn Vị Hoàng, rồi tiến chiếm Phố Hiến, tức tỉnh lỵ Hưng Yên.

Nguyễn Du qua đây, nhìn cảnh cũ, nhớ lại chiến trận mấy năm trước, suy nghĩ về sự tồn vong của các triều đại, nhà Lê mất, chúa Trịnh cũng chấm dứt, Tây Sơn còn đang lùi bước trước quân nhà Nguyễn. Chẳng có triều đại nào đứng vững ngàn năm. Phải chăng, hưng vong là lẽ thường trong đại hóa, là điều ông nhìn thấy rõ trước cảnh hoang phế của doanh trại Vị Hoàng?

Hoàn cảnh khó khăn của Nguyễn Du khiến ông khó ngủ, như ông ghi rõ trong bài:

不 寐Bất Mị

不 寐 聽 寒 更Bất mị thính hàn canh

寒 更 不 肯 盡Hàn canh bất khẳng tận

8

Page 7: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

關 山 引 夢 長Quan sơn dẫn mộng trường

砧 杵 催 寒 近Châm chữ thôi hàn cận

廢 灶 聚 蝦 蟆Phế táo tụ hà mô

深 堂 出 蚯 蚓Thâm đường xuất khâu dẫn

暗 誦 問 文 章Ám tụng vấn văn chương

天 高 何 處 問Thiên cao hà xứ vấn.

dịch là: Mất ngủ

Canh khuya mất ngủ lạnh lùngĐêm dài chẳng hết thì thùng trống canh

Dặm trường dẫn giầc mộng xanhThì thùng chầy vải trạnh tình xa xôi

Bếp tàn cóc nhẩy vái trờiNhà xiêu nền mốc loi nhoi giun bò

Thân còn năng nghiệp văn thơ Trời cao ướm hỏi nơi mô gặp trời.

Bốn câu đầu dường như là bốn câu quen thuộc trong thơ Việt Âm để mô tả cảnh đêm mùa thu se sắt với tiếng trống canh xen tiếng chầy giặt vải. Bốn câu sau là sáng tác riêng của tác giả, mô tả cái chua chát trong hiện cảnh của ông. Bếp nguội lạnh lâu ngày không nhóm lửa khiến cóc vào làm tổ. Nhà ở nền mốc vách xiêu giun bò ra loi nhoi. Thế mà thân ông còn nặng nghiệp văn thơ là điều ông muốn hỏi trời. Nhưng trời cao chẳng ai biết trời ở nơi đâu mà hỏi.

Ngoài hiện cảnh thiếu thốn vật chất, Nguyễn Du còn thêm mối nhớ quê hương, còn bận tâm về mối an nguy của các anh chị em ông phân tán mỗi người một nơi, từ lâu biệt tin, những lá thư ông hằng ngày mong đợi vẫn không thấy tới. Nỗi khắc khoải đó ông ghi lại trong bài:

山 居 漫 興Sơn Cư Mạn Hứng

南 去 長 安 千 里 餘Nam khứ Trường An thiên lý dư

群 峰 深 處 野 人 居Quần phong thâm xứ dã nhân cư

柴 門 晝 靜 山 雲 閉Sài môn trú tĩnh sơn vân bế

藥 圃 春 寒 隴 竹 疏Được phố xuân hàn lũng trúc sơ

一 片 鄉 心 蟾 影 下Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ

經 年 別 戾 雁 聲 初Kinh niên biệt lệ nhạc thang sơ

故 鄉 弟 妹 音 耗 絕Cố hương đệ muội âm hao tuyệt

不 見 平 安 一 紙 書Nhất kiến bình an nhất chì thư.

dịch là:Ở Nứi Cảm Hứng

9

Page 8: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Đế đô ngàn dặm trời namMái quê giữa chốn non lam ẩn mình

Cửa sài mây núi vờn quanhRét xuân vườn thuốc dập dềnh trúc thưa

Nhớ quê trăng tỏ thẫn thờBiệt ly tiếng nhạn lệ mờ bao năm

Chị em làng cũ biệt tămVắng thư chẳng biết làm ăn thế nào.

Thi cảnh và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài Sơn Cư Cảm Hứng trên đây, gặp thời loạn lạc phải vào núi tạm ẩn, trong một đêm trăng sáng, chờ thư không đến, nhớ tới chị em nơi quê nhà nhắc người đọc nhớ tới bài ngụ ngôn của nhà thơ Đường Đỗ Phủ 5 với cùng một thi cảnh và cùng một tâm cảnh:

月 夜 憶 舍 第Nguyệt Dạ Ức Xá Đệ

戍 鼓 斷 人 行Thú cổ đoạn nhân hành

邊 秋 一 雁 聲Biên thu nhất nhạn thanh

露 從 今 夜 白Lộ tòng kim dạ bạch

月 是 故 薌 明Nguyệt thị cố hương minh

有 第 皆 分 散Hữu đệ giai phân tán

無 家 問 死 生Vô gia vấn tử sinh

寄 書 長 不 達Ký thư trường bất đạt

況 乃 未 休 兵Huống nãi vị bãi binh.

dịch làĐêm Trăng Nhớ Anh EmTrống trận thúc người điTiếng nhạn thu biên giớiĐêm nay sương trắng rơiQuê nhà trăng sáng rọiAnh em người mỗi nơi

Sống chết không nơi hỏiThư gửi lâu chẳng tới

Chinh chiến mãi không thôi.

Hoàn cảnh tản cư tạm trú còn là thi hứng của Nguyễn Du trong hai bài dưới đây:

幽 居二 首其 一

桃 花 桃 葉 落 分 分Đào hoa đào diệp lạc phân phân

門 掩 斜 扉 一 院 貧Môn yểm tà phi nhất viện bần

住 久 頓 忘 身 是 客5. 杜 甫 全 書, Kwong Chi book Co., Hong Kông, 張 132.10

Page 9: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Trú cửu đốn vong thân thị khách年 深 更 覺 老 隨 身

Niên thâm cánh giác lão tùy thân異 鄉 養 拙 初 防 俗

Di hương dưỡng chuyết sơ phòng tục亂 世 全 生 久 畏 人

Loạn thế toàn thân cửu úy nhân流 落 白 頭 成 底 事

Lưu lạc bạch đầu thành để sự西 風 吹 倒 小 烏 巾

Tây phong xuy đảo tiểu ô cân.

其 二

Bài II

十 載 風 塵 去 國 賒Thập tải phong trần khứ quốc xa

蕭 蕭 白 髮 寄 人 家Tiêu tiêu bạch phát ký nhân gia

長 途 日 暮 新 遊 少Trường đồ nhật mộ tân du thiểu

一 室 春 寒 舊 病 多Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa

壞 璧 月 明 蟠 蜥 蜴Hoại bích nguyệt minh bàn tích dịch

荒 池 水 涸 出 蝦 蟆Hoang trì thuỷ hạc xuất hà mô

行 人 莫 誦 登 樓 賦Hành nhân mạc tụng đăng lâu phú

強 半 惷 光 在 海 涯Cường bán xuân quang tại hải nhai.

dịch là:

Ở Chốn U TịchHai bài

ICây đào tơi tả lá hoa

Cổng xiêu cánh lệch căn nhà xác xơTrọ lâu quen phận ở nhờ

Năm dài chợt thấy bơ vơ thân giàDưỡng khờ thói lạ phòng xa

Giữ thân giữa buổi can qua né ngườiBạc đầu lưu lạc nổi trôi

Khăn đen gió mới thổi rơi mất rồi.

IIXa quê gió bụi mười năm

Bơ phờ tóc bạc cam tâm nương nhờĐường dài chiều xế bạn thưa

Rét đài nhà lạnh bệnh xưa lại hànhMối leo vách nát trăng thanh

Ao hoang ếch nhái nhẩy quanh đục ngầu11

Page 10: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Người đi quên phú Đăng LâuTuổi xuân góc biển bấy lâu phí hoài.

Câu thứ năm trong bài U Cư kỳ 1, Nguyễn Du viết:

Dị hương dưỡng chuyết sơ phòng tụcdịch xuôi là:

Quê người giả khờ phòng thói đời người đọc có thể hiểu là vì Nguyễn Du nghi ngại phong tục quê người mà giả khờ khạo để phòng thân. Nhưng dường như tại chốn u tịch đâu có cần phòng thân cẩn mật đến như vậy. Phải chăng Nguyễn Du tới chốn u tịch này, xử thế theo đúng lời Lão Tử dậy trong Chương XV 6:

若 畏 四 鄰nhược úy tứ lân

nghĩa là:như sợ láng giềng bốn bên

bước đầu tiến tới chỗ đạt đươc mức 7:

不 敢 為 天 下 先bất cảm vi thiên hạ tiên

nghĩa là :không dám đặt mình trên thiên hạ

để đạt tới mức vô danh, vô kỷ, vô công của một chân nhân như trong sách Trang Tử Nam Hoa Kinh 8.

Nguyễn Du ghi lại cảm nghĩ của ông trong những ngày tản cư, như thấy trong hai bài kế tiếp:

漫 興二 首

Mạn Hứngnhị thủ其 一

kỳ nhất

百 年 身 世 委 風 塵Bách niên thân thế ủy phong trần

旅 食 江 津 又 海 津Lữ thực giang tân hựu hải tân

高 興 久 無 黃 閣 夢Cao hứng cửu vô hoàng các mộng

虛 名 未 放 白 頭 人Hư danh vị phóng bạch đầu nhân

三 春 積 病 貧 無 藥Tam xuân tích bệnh bần vô được

卅 載 浮 生 患 有 身Táp tải phù sinh hoạn hũu thân

遙 憶 家 薌 千 里 外 Dao ước gia hương thiên lý ngoại

澤 車 段 馬 愧 東 鄰6 Lão Tử Đạo Đức Kinh, Bản dịch của Nghiêm Toản, Đại Nam tái bản tại Hoa Kỳ, tập 1, tr. 80-81.7. Lão Tử Đạo Đúc Kinh, sách đã dẫn, tập 2, tr. 290-291, 8. Trang Tử Nam Hoa Kinh, bản dịch của Nhượng Tống, 12

Page 11: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Trạch xa đoạn mã quí đông lân.

其 二kỳ nhị

行 腳 無 根 任 轉 蓬 Hành cước vô căn nhiệm chuyển bồng

江 南 江 北 一 囊 空Giang nam giang bắc nhất nang không

百 年 窮 死 文 章 裡Bách niên cùng tử văn chương lý

六 尺 浮 生 天 地 中Lục xích phù sinh thiên địa trung

萬 里 黃 冠 將 暮 景Vạn lý hoàng quang tương mộ cảnh

一 頭 白 髮 散 西 風Nhất đầu bạch phát tản tây phong

無 窮 今 古 傷 心 處Vô cùng kim cổ thương tâm xứ

依 舊 青 山 夕 照 紅Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng.

dịch là:Mạm Hứng

hai bài

ITrăm năm thân thế long đong

Ăn nhờ bãi biển bờ sông phong trầnGác vàng mộng cũ đà tàn

Bạc đầu chưa thoát nẻo đàng hư danhBa năm không thuốc bệnh lànhCó thân có khổ phù sinh nửa đời

Dăm ngàn quê cũ xa vờiNgựa gầy xe nhỏ thẹn người xóm đông.

IIChân không bén rễ bông lông

Bến nam bờ bắc tay không đi vềNghiệp văn sống chết chẳng nề

Tấm thân sáu thước mải mê vòng trờiMũ vàng muôn dặm chiều rơi

Trên đầu tóc trắng rối bời gió thuĐau lòng truyện cũ thật hư

Vừng hồng nắng tắt mịt mù non xanh.

Trong bài Mạn Hứng I, như ghi lại nỗi khó khăn của ông trong những năm tháng tản cư về miền bờ sông bãi biển. Giấc mộng gác vàng nay đã tàn, bệnh cũ ba năm không thuốc thang cũng lành, có thân có khổ ai chẳng vậy, xa quê nhớ nhà cũng nguôi ngoai, nhưng dầu nay tóc đã bạc ông còn thấy mình bị giàng buộc với chữ hư danh. Bốn chữ trạch xa đoạn mã trong câu chót, theo giới bình giảng thơ Nguyễn Du, thời ông đã trích lời Mã Thiếu Du, người em họ của Mã Viện, theo sách Hậu Hán Thư, nói với anh: “Kẻ sĩ sinh ra ở đời, chỉ cần đủ cơm ăn áo mặc, ngồi xe nhỏ cưởi ngụa còm, làm viên lại ở quận, giữ được mồ mả ở làng, đủ là người tốt được rồi”, trái với Mã Viện có chí lớn lập công to, dầu phải chết ở chiến trường lấy da ngựa bọc thây. Nguyễn Du thẹn với người bên xóm đông vui với cỗ xe nhỏ con ngựa gầy, phải chăng bởi chợt thấy mình chưa thoát khỏi chữ hư danh ?

13

Page 12: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Trong bài Mạn Hứng II, ông cũng ghi lại cảnh sống như cỏ bồng trốc rễ của ông, nhưng ông thấy mình hãy còn mê say với văn thơ. Ông thoáng thấy hình bóng mình với chiếc mũ vàng, tức trở thành một đạo sĩ, nhưng gió tây hiện còn thổi bù mái tóc trắng của ông. Những truyện đau lòng chỉ là những điều vô thường, cái thường hằng là núi xanh trong nắng nhạt chiều vàng trước mắt ông.

Tiếp theo là bài:

春 夜Xuân Dạ

黑 夜 韶 光 何 處 尋Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm

小 窗 開 處 柳 陰 陰Tiểu song khai xứ liễu âm âm

江 湖 病 到 經 時 久Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu

風 雨 春 隨 一 夜 深Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm

羈 旅 多 年 燈 下 淚Ky lữ đa niên đăng hạ lệ

家 鄉 千 里 月 中 心Gia hương vạn lý nguyệt trung tâm

南 臺 村 外 龍 江 水Nam Đài thôn ngoại Long giang thủy

一 片 寒 聲 送 古 今Nhất phiến hàn thanh tống cổ kim.

dịch là:Đêm Xuân

Đêm xuân đen tối mịt mùDập dờn bóng liễu âm u song ngoài

Giang hồ đau ốm bấy nay Xuân về mưa gió canh dài thâu canh

Xa quê năm tháng qua nhanhNhớ nhà nhớ ánh trăng thanh ngỡ ngàng

Xóm Nam Đài bến Long GiangTiễn đưa tiếng sóng giá băng tấc lòng.

Trong hiện cảnh một đêm xuân gió dập mưa vùi, trời tối đen như mực, lại thêm cảnh đau ốm kéo dài, Nguyễn Du nhỏ lệ nhớ lại những đêm sáng trăng nơi quê nhà, nhớ xóm Nam Đài, nhớ bến Long Giang, với tiếng sóng bên tai những buồi tiễn đưa, như ông ghi trong mấy bài sau đây:

留 別 阮 大 郎Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang

西 風 歸 袖 柳 高 林Tây phong quy tụ liễu cao lâm

傾 盡 離 杯 話 夜 深Khunynh ntận ly bôi thoại dạ thâm

亂 世 男 兒 羞 對 劍Loạn thế nam nhi tu đối kiếm

他 鄉 朋 友 重 分 襟Tha hương bằng hữu trọng phân khâm

高 山 流 水 無 人 識Cao sơn lưu thủy vô nhân thức

14

Page 13: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

海 角 天 涯 何 處 尋Hải giác thiên nhai hà xứ tầm

留 取 江 南 一 片 月Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt

夜 來 常 照 兩 人 心Dạ lai thường chiếu lưỡng nhân tâm.

dịch là:

Lưu Biệt Anh NguyễnGió về rừng liễu áo bay

Biệt ly chén cạn tình đầy thâu canhNgắm gươm thời loạn hổ mình

Bạn bè đất khách nặng tình chia phôiChân trời góc biển đôi nơi

Non cao nước chẩy ai người hiểu taTrời nam còn mảnh trăng ngà

Soi chung đôi ngả đôi ta đêm dài.

Giới nghiên cứu không rõ Nguyễn Đại Lang trong bài thơ này là ai. Câu thứ ba đặt ra câu hỏi là tại sao tác giả giữa thời loạn nhìn gươm lại thẹn cho mình? Trong cả tám câu không có chữ nào giúp người đọc hiểu rõ hơn. Phải chăng cần phải đối chiếu với một số bài khác trong toàn bộ thơ của tác giả?

Bài tiễn biệt thứ hai là bài:

送 阮 士 友 南 歸 Tống Nguyễn Sĩ Hữu Nam Quy

南 山 有 鳥 含 精 華Nam Sơn hữu điểu hàm tinh hoa

飛 去 飛 來 輕 網 羅Phi khứ phi lai khinh võng la

鴻 嶺 有 人 來 做 主Hồng Lĩnh hữu nhân lai tố chủ

白 頭 無 賴 不 還 家Bạch đầu vô lại bát hoàn gia

生 平 文 彩 殘 籠 鳳Sinh bình văn thái tàn lung phượng

浮 世 功 名 走 壑 蛇Phù thế công danh tẩu hắc xà

歸 去 故 鄉 好 風 月Quy khứ cố hương hảo phong nguyệt

午 窗 無 夢 到 天 涯Ngọ song vô mộng đáo thiên nhai.

dịch là:

Tiễn Nguyễn Sĩ Hữu Về NamNam Sơn có con chim khôn

Bay đi lượn lại coi nhờn lưới ngănNon Hồng rầy có chủ nhân

Bạc đầu đành vẫn gửi thân sống nhờVăn thơ lồng phượng nằm co

Công danh mây nổi rắn bò về hangQuay về trăng gió quê hương

Trưa hè đẫy giấc bên song quên đời.15

Page 14: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Giới nghiên cứu chưa tìm ra được Nguyễn Sĩ Hữu là nhân vật nào. Nhưng trong hai câu đầu, người đọc thấy như nhân vật này cũng là người đất Hồng Lĩnh như tác giả. Đất này đã có chủ mới, nhưng Nguyễn Du vẫn chưa quay về. Hai câu năm và sáu cho thấy tác giả coi việc nhập thế và truyện công danh đều không đáng trọng. Hai câu cuối cùng với hai chữ quy khứ khiến người đọc cảm thấy như tác giả muốn nhắc tới việc lui về đồng ruộng tựa Đào Tiềm.

Ngày thu chí nhắc Nguyễn Du truyện thời gian trôi qua, cuộc tản cư ở nhờ kéo dài, ông ghi lại những cảm tưởng thương thân trong hoàn cảnh đó như sau:

秋 至Thu Chí

四 時 好 景 無 多 日Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật

拋 擲 如 梭 喚 不 回Phao trịch như thoa hoán bất hồi

千 里 赤 身 為 客 久Thiên lý xích thân vi khách cửu

一 庭 萬 葉 送 秋 來Nhất đình vạn diệp tống thu lai

簾 垂 小 閣 西 風 動Liêm thùy tiểu các tây phong động

雪 暗 窮 村 曉 角 哀Tuyết ám cùng thôn hiểu giác mai

惆 悵 流 光 催 白 髮Trù trướng lưu quang thôi bạch phát

一 生 幽 思 未 曾 開Nhất sinh u tứ vị tằng khai.

dịch là: Thu Chí

Bốn mùa cảnh đep bao ngàyThoi đưa vùn vụt chẳng quay trỏ về

Thân già ngàn dặm xa quêVào thu vàng rụng não nề lá bay

Rèm nghiêng gác nhỏ gió tâyXóm nghèo tiếng ốc sớm mai não nùng

Ngày qua buồn tóc nhuốm sươngMột đời u uất không đường gỡ ra.

Cảnh thu còn gợi hứng cho Nguyễn Du viết hai bài dưới đây trong thi cảnh đêm vắng, tâm

cảnh chĩu buồn hơn nữa vì bệnh tật hành hạ và ở trong cảnh nhớ thương cách biệt, lại thêm nổi thiếu thốn vật chất.

秋 夜Thu Dạ二 首

Nhị Thủ

其 一

繁 星 歷 歷 露 如 銀Phồn tinh lịch lịch lô như ngân

東 壁 寒 虫 悲 更 辛Đông bích hàn trùng bi cánh tân

萬 里 秋 聲 催 落 葉Vạn lý thu thanh thôi lạc điệp

16

Page 15: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

一 天 寒 色 掃 浮 雲Nhất thiên hàn sắc tảo phù vân

老 來 白 髮 可 憐 汝Lạo lai bạch phát khả liên nhữ

住 久 青 山 未 厭 人Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân

最 是 天 涯 倦 遊 客Tối thị thiên nhai quyện du khách

窮 年 臥 病 劌 江 津Cùng niên ngọa bệnh Quế Giang tân.

其 二

白 露 為 霜 秋 氣 深Bạch lộ vi sương thu khí thâm

江 成 草 木 共 蕭 森Giang thành thảo mộc công tiêu sâm

剪 燈 獨 照 初 長 夜Tiễn đăng độc chiếu sơ trường dạ

握 髮 經 懷 末 日 心Ác phát kinh hoài mạt nhật tâm

千 里 江 山 頻 悵 望Thiên lý giang sơn tần trướng vọng

四 時 湮 景 獨 時 吟Tứ thời yên cảnh độc thời ngâm

早 寒 已 覺 無 衣 苦Tảo hàn dĩ giác vô y khổ

何 處 空 閨 催 暮 砧Hà xứ không khuê thôi mộ châm.

dịch là: Đêm ThuHai bài

IĐầy trời sao sáng bạc sương

Não nùng canh vắng ven tường dế thanTiếng thu ngàn dặm lá vàng

Mây quang lạnh giá ngút ngàn trời trongSóm già thương tóc điểm sương

Non xanh chưa chán ngạ ngùng tình thơBên trời mỏi mệt bơ phờ

Suốt năm nằm bệnh bên bờ Tuế Giang.II

Trời thu trắng móc nhòa sươngXác xơ cây cỏ bên sông đầu thành

Đêm dài khêu ngọn đèn xanhNgày tàn vắt tóc thương mình long dong

Non sông ngàn dặm ước mongBốn mùa mây phủ khói lồng âu lo

Lạnh về thiếu áo co roRộn ràng chầy vải lửng lơ bóng chiều.

Tạm bỏ bài Khất Thực, chỉ còn lại bốn câu, Thanh Hiên Tiền Hậu Tập chép tiếp bài:17

Page 16: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

雜 吟Tạp Ngâm

踏 遍 天 涯 又 海 涯Đạp biến thiên nha hựu hải nha

乾 坤 隨 在 即 為 家Càn khôn tùy tại tức vi gia

平 生 不 起 蒼 蠅 念Bình sinh bất khởi thương dăng niệm

今 古 誰 同 白 蟻 窩Kim cổ thùy đồng bạch nghĩ oa

寥 落 壯 心 虛 短 劍Liêu lạc tráng tâm hư đoản kiếm

蕭 倏 旅 悶 對 時 歌Tiêu điều lữ muộn đối thời ca

閉 門 不 識 春 深 淺Bế môn bất thức xuân thâm thiển

但 見 棠 蔾 落 盡 花Đãn kiến đường lê lạc tận hoa.

dich là:Tạp Ngâm

Gót mòn biển rộng trời caoDọc ngang tròi đất ngả đâu cũng nhà

Truyện ruồi xanh đà bỏ quaSống chung tổ kiến lòng ta ngại ngùng

Tráng tâm tàn lụi thẹn gươmThời ca xiết chặt mối buồn buồn thêm

Chẳng hay sớm muộn tiết xuânGốc lê hoa rụng trắng ngần tả tơi.

Nỗi buồn vì hoàn cảnh cá nhân thiếu thốn trong hai bài Thu Dạ trên đây, nhường chỗ chố mối buồn vì thời cuộc trong thi hứng của Nguyễn Du trong bài Tạp Ngâm. Hai câu đầu ông nhắc lại hiện cảnh tản cư phải ở đậu nơi quê người, Hai câu tiếp cho thấy ông muốn bỏ qua hay đúng là chán nản cố quên nhưng truyện nhỏ nhặt trong đời sống tạm bợ lúc này mà ông không thể bước ra khỏi đươc. Câu kế theo, ông nhìn thanh gươm ngắn mà thẹn, ý thơ này lạp lại ý thơ trong câu thứ ba bài Lưu Biệt Nguyễn Đại Lang. Lần này Nguyễn Du dường như nói rõ hơn đôi chút: bài thời ca làm tăng mối buồn của ông. Hai câu cuối cùng gợi cho người đọc hai câu 21-22 trong bài Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm9:

雖 無 紀 歷 志Tuy vô kỷ lịch chí

四 時 自 成 歲Tứ thì tự thành tuế

nghĩa là: tuy không dùng lịch, bốn mùa tự thành năm, tỏ ý người dân lánh nạn Tần Thủy Hoàng vào ẩn tại Nguồn Đào, không dùng lịch của vua, nhìn bốn mùa trôi qua tự ghi thành năm. Trở lại hai câu kết bài Tạp Ngâm của Nguyễn Du, cho thấy lòng căm giận của ông với triều Tây Sơn, đã đốt phá làng ông, làm tan nát đại gia dình ông, sau khi người anh thứ tư của ông tức Nguyễn Quýnh nổi lên chống Tây Sơn, chẳng kém gì lòng người Trung Quốc xưa kia căm giận Tần Thủy Hoàng.

Nguyễn Du cố gắng xưa đuổi mối buồn này, nhưng dương như ông không mấy thành công, như ghi trong bài kế tiếp:

撥 悶9. 掏 淵 明 詩 選 , 徐 巍 選 注 , Joint Publication, Hong Kong Co. 1982, p. 138.18

Page 17: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Bát Muộn

十 載 塵 埃 暗 玉 除Thập tải trần ai ám ngọc trừ

百 年 城 俯 半 荒 墟Bách niên thành phủ bán hoang khư

么 麼 虫 鳥 高 飛 盡Yêu ma trùng điểu cao phi tận

滓 穢 乾 坤 血 戰 餘Trỉ uế càn khôn huyết chiến dư

桑 梓 兵 前 千 里 淚Tang tử binh tiền thiên lý lệ

親 朋 燈 下 數 行 書Thân bằng đăng hạ sổ hàng thư

魚 龍 冷 落 閒 秋 夜Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ

白 種 幽 懷 未 一 攎Bạch chủng u hoài vị nhất sư

dịch là

Xua Nỗi BuồnMười năm thềm ngọc bụi dầy

Thành xưa phủ cũ giở đây hoang tànCôn trùng chim chóc tan đàn

Đất trời nhơ nhớp điêu tàn chiến chinhKhóc quê vạn dặm đao binh

Anh em bè bạn nghĩa tình trang thưCá rồng vắng lặng đêm thu

Đau buồn trăm mối hận thù khôn nguôi.

Bốn câu đầu của bài Bát Muộn trên đây, ghi lại cảnh tàn phế của dinh cơ họ Nguyễn Tiên Điền sau khi bị quân Tây Sơn triệt hạ, thêm vào cảnh buồn đó là nỗi xa vắng anh em bè bạn của tác giả. Câu thứ bẩy là một câu trong bài Thu Hứng, kỳ thất, của Đỗ Phủ, mà tác giả ngâm để xua đuổi nỗi buồn, nhưng hận thù còn mang nặng không nguôi.

Trong cảnh tản cư không có ngày mai này, những ước mong trong những đêm đau ốm khó ngủ, không có ai để tỏ bày, đó là thi cảnh và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài dưới đây:

滯 客Trệ Khách

滯 客 淹 留 南 海 中Trệ khách yêm lưu Nam Hải trung

寂 寥 良 夜 與 誰 同Tịch liêu lương dạ dữ thùy đồng

歸 鴻 悲 動 天 河 水Thiên hà bi động thiên hà thủy

戍 鼓 寒 侵 夏 夜 風Thú cổ hàn xâm hạ dạ phong

人 到 窮 途 無 好 夢Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng

天 回 苦 海 促 浮 蹤Thiên hồi khổ hải xúc phù tung

風 塵 隊 裡 留 皮 骨Phong trần đội lý lưu bì cốt

19

Page 18: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

客 枕 蕭 蕭 兩 鬢 蓬Khách chẩm tiêu tiêu lương mấn bồng.

Người Khách Bê TrệMiệt nam bê trệ năm dài

Đêm thanh vắng lặng chẳng ai bạn cùngSông ngân xao động tiếng hồng

Cuối hè gió lạnh thì thùng trống canhĐường cùng ước mộng chẳng thành

Trời hành bể khổ lênh đênh không nhàKiếp gió bụi xương bọc da

Bơ phờ gối khách loà xòa tóc mai.

Nguyễn Du chua chát thay người khác viết thành bài dường như để khuyến cao những kẻ gặp thời đua sống xa hoa:

代 人 戲 筆Đại Nhân Hý Bút

錯 落 人 家 珥 水 濱Thác lạc nhân gia nhĩ thũy tân

居 然 別 占 一 城 春Cư nhiên biệt chiếm nhất thành xuân

東 西 橋 閣 兼 天 起Đông tây kiều các kiêm thiên khởi

胡 漢 衣 冠 特 地 分Hồ Hán y quan đặc địa phân

苜 蓿 秋 驕 金 勒 馬Mục túc thu quan kim lặc mã

匍 萄 春 醉 玉 樓 人Bồ đào xuân túy ngọc lâu nhân

年 年 自 得 繁 華 勝Niên niên tự đắc phồn hoa thắng

不 筦 南 溟 幾 度 塵Bất quản nam minh kỷ độ trần.

dịch là:Thay Người Viết Đùa

Nhấp nhô bến Nhị nhà dânRiêng ông chiếm trọn vẻ xuân một thành

Đông tay lầu gác lênh khênhÁo quần Hô Hán kiệu kênh khác người

Đai vàng ngựa kén rau tươiRượu nho lầu ngọc buổi trời xuân sang

Phồn hoa hưởng thụ tháng nămQuản chi gió bụi bờ nam mịt mờ.

Tiếp theo bài Đại Nhân Hý Bút, Thanh Hiên Thi Tập chuyển sang dòng thơ đề vịnh những địa điểm Nguyễn Du từng đi qua.

Bắt đầu là bài:

黃 梅 橋 晚 眺Hoàng Mai Kiều Vãn Thiếu

黃 梅 橋 上 夕 陽 紅20

Page 19: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Hoàng Mai kiều thương tịch dương hồng黃 梅 橋 下 水 流 東

Hoàng Mai kiều hạ thủy lưu đông元 氣 浮 沉 滄 海 外

Nguyên khí phù trầm thương hải ngoại睛 嵐 吞 吐 亂 流 中

Tình lam thốn thổ loạn lưu trung短 蓑 漁 枕 孤 舟 月

Đoản thoa ngư chẩm co chu nguyệt長 笛 童 吹 古 徑 風

Trường địch đồng xuy cổ kính phong大 地 文 章 隨 處 見

Đại địa văn chương tuỳ xứ kiến君 心 何 事 太 匆 匆

Quân tâm hà sự thái mang mang.

dịch là:

Cảnh Chiều Trên Cầu Hoàng MaiCầu Hoàng Mai xế bóng hồng

Dưới cầu nước cuốn về đông dạt dàoBiển xanh nguyên khí dâng cao

Khói lam cuồn cuộn nao nao giữa dòngThuyền trăng gối áo thong dong

Lối xưa tiếng sáo mục đồng gió đưa Văn chương đất rộng tùy mơ

Vội vàng chi để tình thơ rộn ràng

Bài Hoàng Mai Kiều Vãn Thiếu trên đây dường như đánh dấu một khúc rẽ trong tâm cảnh và thi cảnh của Nguyễn Du trong Thanh Hiên Thi Tập. Không còn những hình ảnh chinh biến, những bực dọc của những ngày di cư, ở nhờ. Người thơ duờng như cởi mở chào đón cảnh vật trong một chiều ngắm cảnh trên cầu Hoàng Mai. Đặc biệt là hình ảnh ông câu gối áo ngủ vùi trên chiếc thuyền trăng. Hình ảnh này gợi cho người đọc bài Giang Thôn Tức Sự của nhà thơ Đuòng Tư Không Thư 10:

江 村 即 事Giang Thôn Tức Sự

罷 釣 歸 來 不 繫 船Bãi điếu quy lai bất hệ thuyền

江 村 月 落 正 堪 眠Giang thôn nguyệt lạc chính kham miên

縱 然 一 夜 風 吹 去Túng nhiên nhất dạ phong xuy khứ

只 在 蘆 花 淺 水 猵Chỉ tại lô hoa thiển thủy biên.

Ngư ông gối áo tơi ngủ vùi trên chiếc thuyền câu dưới cầu Hoàng Mai, dương như giống ngư ông trong bài tứ tuyệt Giang Thôn Túc Sự của Tư Không Thự, đã đồng nhất mình với dòng sông mà được thảnh thơi ngủ vùi không lo thuyền trôi.

Cũng trong cùng tâm cảnh đó, Nguyễn Du ghi lại cảm hứng lúc ông vời trông đền Càn như sau:

遙 望 乾 海 祠Dao Vọng Càn Hải Từ

10. Tư Không Thụ, Toàn Đường Thi, 21

Page 20: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

茫 茫 海 水 接 天 樞Mang mang hải thủy tiếp thiên xu

隱 約 孤 祠 出 小 洲Ẩn ước cô từ xuất tiểu châu

古 木 寒 連 鳧 渚 暮Cổ mộc hàn liên phù chữ mộ

晴 煙 清 引 海 門 秋Tình yên thanh dẫn hải môn thu

號 天 相 將 丹 心 盡Hào thiên tương tướng đan tâm tận

撫 地 瓊 崖 塊 肉 無Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô

笑 爾 明 妃 長 出 塞Tiếu nhĩ Minh Phi trường xuất tái

琵 琶 杯 酒 勸 單 于Tỳ bà bôi tửu khuyến Thiền Vu.

dịch là:

Vời Trông Đền CờnMênh mông biển tiếp với trời

Đền xưa thấp thoáng chơi vơi bên cồnCây cao bóng xế chim vờn

Khói thu se sắt chập chờn chiều rơiUổng công lưỡng tướng than trời

Quỳnh Nhai vỗ đất hết người khói hươngVề Hồ cười phi Chiêu Vương

Gẩy đàn chuốc rượu vui cùng Thiền Vu

Càn Hải Từ, tên nôm là đền Cờn là một ngôi đền nhỏ thuộc huyện Quỳnh Lưu, tình Nghệ An. Đền thờ bà Dương Thái Hậu, vợ vua Tống Đô Tông. Theo tục truyền, khi nhà Tống mất nước, Dương Thái Hậu, vợ vua Tống Đô Tông, do tướng võ Trương Thế Kiệt hộ tống, cùng các con chạy ra Quỳnh Nhai, thuộc tỉnh Quảng Đông lên thuyền ra biển lánh nạn. Khi đó quân nhà Nguyên đưổi sát tới nơi, chỉ có Thái Hậu và hai con gái lên đưọc thuyền. Hoàng tử Đế Bính được quan văn Lục Tú Phú cõng cùng nhẩy xuống biển chết. Nhận được hung tín, Dương Thái Hậu nói: sở dĩ bà chịu cảnh gian nan này chỉ cốt giữ khối thịt ấy cho dòng họ Triệu Tống, nay sống mà không còn mong gì nữa. Sau đó, thuyền đắm, xác Thái hậu giạt vào cửa Cờn, dân địa phương chôn cất và lập đền thờ.

Trước cảnh trời nước bao la, Nguyễn Du vời trông đền Cờn nhắc lại truyện Dương Thái Hậu, chết lưu danh trung tiết, rồi liên tưởng tới Minh Phi tức Vương Chiêu Quân, cung nữ của vua Hán Nguyên Đế, bị mang cống cho chúa Hồ, nàng vẫn đàn hát chuốc rượu cho chúa Hồ là Thiền Vu khiến người đời chê cười. Đối chiếu Dương Thái Hậu với Vương Chiêu Quân, phải chăng Nguyễn Du muốn ghi lại nhưng điều ông suy nghĩ về hai chữ trung trinh của đạo Khổng?

Bài thứ ba, trong Thanh Hiên Thi Tập, ghi lại cảm tưởng của Nguyễn Du trước những thắng cảnh của dất nước là bài:

再 踰 三 疊 山Tái Du Tam Điệp Sơn

雲 際 三 疊 山Vân tế Tam Điệp Sơn

天 涯 客 再 踰Thiên nhai khách tái du

眼 中 秋 大 地22

Page 21: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Nhãn trung thu đại địa海 外 見 魚 舟

Hải ngoại kiến ngư chu瘴 靜 峰 鸞 瘐

Chướng tĩnh phong loan sấu天 寒 草 木 秋

Thiên hàn thảo mộc thu行 人 回 首 處

Hành nhân hồi thủ xứ無 那 故 薌 心

Vô ná cồ hương tâm

dịch là:

Lại Qua Đèo Ba DộiĐèo Ba Dội ngất mây ngàn

Bên trời khách lại một lần trèo quaMắt nhìn mặt đất bao la

Thuyền câu mấy lá biển xa dập dềnhMù tan dáng núi chênh vênh

Cuói thu cây cỏ kém xanh dầu dầuNgoái nhìn lòng thách trạnh sầu

Quê hương vời vợi biết bao giờ về.

Bài thơ ghi lại cảnh trời nước, núi biển nhìn từ đèo Ba Dội, một cái đèo nổi danh trong văn học Việt Nam, mà tác giả lại có dịp đi qua, trong một buổi cuối thu. Tác giả không cho biết lý do khiến ông thêm một lần trèo qua đèo này. Riêng hai câu kết, không chỉ cho thấy tác giả trạnh nhớ quê hương, mà còn gây cho người đọc cảm tưởng là chuyến đi này không phải là một chuyến tiêu dao cùa Nguyễn Du.

Tiếp tới là bài:

渡 富 農 江 感 作Độ Phú Nông Giang Cảm Tác

農 水 東 流 去Nông thủy đông lưu khứ

滔 滔 更 不 回Thao thao cánh bất hồi

青 山 傷 往 事Thanh sơn thương vãng sự

白 髮 復 重 來Bạch phát phục trùng lai

春 日 商 船 合Xuân nhật thương thuyền hợp

西 風 古 壘 開Tây phong cổ lủy khai

遊 人 無 限 感Du nhân vô hạn cảm

芳 草 遍 天 涯Phương thảo biến thiên nhai.

dịch là:

Qua Sông Phú Nông Cảm TácMông mênh sông nước Phú Nông

23

Page 22: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Một dòng cuồn cuộn xuôi đông chẳng vềNon xanh việc cũ còn kia

Bạc đầu lần lữa lại về nơi đâyThuyền buôn xuân tới họp đầy

Cổng thành rộng mở gió tây đón mừngQua đò hoài cảm vô cùng

Cỏ xanh xanh mướt một vùng chân mây.

Giới nghiên cứu chưa rõ Phú Nông là khúc sông nào, nhưng qua bài trên đây, người đọc thấy Nguyễn Du qua sông này như về một chốn cũ, với một hoài cảm mang mầu xanh hy vọng như mầu xanh bãi cỏ chân mây.

Tiếp theo những bài ghi lại cảm tác trong những chuyến đi, Thanh Hiên Thi Tập chép hai bài thơ xướng họa giữa Nguyễn Du và anh vợ ông là Đoàn Nguyễn Tuấn như sau:

和 海 翁 段 阮 俊“甲 寅 奉 命 入 富 春 京登 程 留 垤 諸 友”之 作

Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn“Giáp Dần Phụng Mệnh Nhập Phú Xuân Kinh Đăng Trình Lưu Biệt

Chư Hữu” Chi Tác黃 山 山 外 嶺 南 程

Hoành Sơn sơn ngoại Lĩnh Nam Trình琴 劍 相 隨 上 玉 京

Đàn kiếm tương tùy thướng ngọc kinh兔 髓 未 完 新 大 藥

Thỏ tủy vị hoàn tân đại được豹 皮 仍 累 舊 浮 名

Báo bì nhưng lụy cựu phù danh滄 溟 水 引 杯 中 綠

Thương minh thủy dẫn bôi trung lục故 國 蟾 隨 馬 後 明

Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh此 去 家 兄 如 見 問

Thử khứ gia huynh như kiến vấn窮 途 白 髮 正 星 星

Cùng đồ bạch phát chính tinh tinh.

dịch là:

Họa Bài “Nam Giáp Dần Vâng Mệnh Vào Kinh Đô Phú XuânLên Đường Làm Thơ Chia Tay Cùng Các Bạn” Của Đoàn Nguyễn Tuấn

Từ Hoành Sơn vào Lĩnh Nam Dặm dài quảy gánh gươm đàn trẩy kinh

Thuốc tiên tủy thỏ chưa thànhVằn beo đà lụy phù danh mất rồiChén quỳnh gợn sóng biển khơi

Vó câu trăng giãi quê người nản bonNếu anh tôi có hỏi thăm

Rằng nay bạc tóc gian nan cùng đường.

Đoàn Nguyễn Tuấn, tức Hải Ông, con Đoàn Nguyễn Thục, từng làm quan với nhà Lê, ra giúp nhà Tây Sơn, làm quan tới chức tả thị lang bộ lại, tước Hải Phái Bá. Đi sứ Trung Quốc năm 1790, có Hải Ông Thi Tập để lại cho đời sau.

Giới nghiên cứu cho biết năm giáp dần là năm 1794, năm đó Nguyễn Du 39 tuổi. Bài họa trên đây cho thấy, qua câu ba và bốn, là Đoàn Nguyễn Tuấn, muốn tu tiên luyện thuốc 24

Page 23: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

trường sinh, nhưng vì tiếng tăm lừng lẫy mà mắc lưới phù danh, còn tác giả, vẫn còn gian nan vùng ven biển, với nỗi buồn xa quê, hai câu kết là lời ông nhắn gửi anh ông là Nguyễn Nễ, khi đó đã ra giúp triều Tây Sơn.

Các bản Thanh Hiên Thi Tập đều ghi thêm bài nguyên tác của Đoàn Nguyễn Tuấn như sau:

附 錄 原 作Phụ Lục Nguyên Tác

琴 書 走 遍 北 南 程Cầm thư tẩu biến Bắc Nam trình

又 附 公 車 上 帝 京Hựu phụ công xa thướng đề kinh

敢 向 畏 途 爭 捷 步Cảm hướng úy đồ tranh tiệp bộ

錯 將 小 藝 起 浮 名Thác tương tiểu nghệ tiệp phù danh

杯 中 天 地 奇 懷 闊Bôi trung thiên địa kỳ hoài khoát

馬 首 江 山 老 眼 明Mã thủ giang sơn lão nhãn minh

鄭 重 柳 亭 一 揮 手Trịnh trọng liễu đình nhất huy thủ

論 文 後 會 且 週 星Luận văn hậu hội thả chu tinh.

dịch là:

Phụ Chép Nguyên TácBắc Nam cặp sách túi đàn

Công xa rong ruổi dặm ngàn vào kinhDám đâu tranh lấy bước nhanh

Lầm khoe nghề mọn phù danh mắc rồiChén quỳnh rộng mở đất trời

Mắt già đầu ngựa rạng ngời nuớc nonChia tay sắc liễu héo hon

Thơ văn bàn luận vẫn còn năm sau.

Tiếp theo hai bài xướng họa trên đây, Thanh Hiên Thi Tập chép bài vịnh một cảnh đẹp trên bờ sông Lam gần làng Tiên Điền, quê hương của tác giả.

江 亭 有 感Giang Đình Hữu Cảm

憶 昔 吾 翁 謝 老 時Ức tích ngô ông tạ lão thì

飄 飄 蒲 駟 此 江 湄Phiêu phiêu bồ tứ thử giang mi

仙 舟 激 水 神 龍 鬥Tiên chu kích thủy thần long đấu

寶 蓋 浮 空 瑞 鶴 飛Bảo cái phù không thụy hạc phi

一 自 衣 裳 無 覓 處Nhất tự y thường vô mịch xứ

兩 堤 煙 草 不 勝 悲Lưỡng đê yên thảo bất thăng bi

25

Page 24: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

百 年 多 少 傷 心 事Bách niên đa thiểu thương tâm sự

近 日 長 安 大 已 非Cận nhật Trường An đại dĩ phi.

dịch là:Cảm Xúc Tại Bến Giang Đình

Cha xưa cáo lão từ quanXe bồ bốn ngựa thuyền sang bến này

Thuyền tiên rẽ sóng rồng bayTàn che phấp phới hạc quây đón chờ

Ấo xiêm từ độ phai mờBùi ngùi ngọn cỏ đôi bờ khói bayTrăm năm bao truyện đổi thay

Đế đô dâu biển thương thay kiếp người.

Bài Giang Đầu Hữu cảm trên đây là một bài Nguyễn Du ghi lại những cảnh huy hoàng của gia đình ông, trong ngày cha ông vể hưu. Cha ông, Nguyễn Nghiễm, đậu tiến sĩ, năm Tân Mão, 1771 về hưu, được thăng Đại Tư Đồ. Chúa Trịnh ban cho ba chiếc thuyền hải mã đưa về làng. Đó là cảnh Nguyễn Du ghi lại trong bốn câu đầu bài trên đây. Năm sau, Nguyễn Nghiễm lại đưọc chúa mời ra làm Tể Tướng. Năm Giáp Ngọ 1774 làm Tả Tướng Quân đem quân đánh chúa Nguyễn, trên đường hành quân, tuổi già mang bệnh và mất vào năm 1775. Trong câu thứ hai Nguyễn Du dùng chữ bồ tứ, 蒲 駟, tức xe bốn ngựa bánh bọc cỏ bồ, để nói lên ý chúa Trịnh vinh danh cha ông như một bậc lão thần. Bốn câu tiếp theo ghi lại những đổi thay mau chóng tại kinh đô, theo thời thế. Đó là ý chính của bài thơ: tác giả như nói với chính mình về cảnh đổi thay trong đại hóa, mọi sự: nhất là chữ danh, thẩy là vô thường.

Tiếp theo bài Giang Đình Hữu Cảm trên đây, là một số bài ghi lại mối thân tình của tác giả với anh ông, với bà vợ ông, mất sớm.

Bắt đầu là bài:

憶 家 兄Ức Gia Huynh

六 塔 城 南 繫 一 官Lục Tháp thành nam hệ nhất quan

海 雲 夜 度 石 岏 Hải Vân dạ độ thạch toàn ngoan

窮 陬 嵐 瘴 三 年 戍Cùng xu lam chướng tam niên thú

故 國 煙 花 二 月 寒Cố quốc yên hoa nhị nguyệt hàn

一 別 不 知 何 處 住Nhất biệt bất tri hà xứ trú

重 逢 當 作 再 生 看Trùng phùng đương tác tái sinh khan

海 天 芒 渺 千 餘 里Hải thiên mang diểu thiên dư lý

神 魄 相 求 夢 亦 難Hồn phách tương cầu mộng diệc nan.

dịch là:

Nhớ AnhBuộc ràng Lục Tháp việc quan

Hải Vân đá dựng gian nan vượt đèoBa năm đồn thú đuổi đeo

26

Page 25: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Tháng hai lạnh giá khói quê nghẹn ngàoChia tay chảng biết nơi nao

Gặp nhau dường tới kiếp sau không chừngMênh mông trời biển ngàn trùng

Gặp nhau trong mộng mọi đường khókhăn

Giới nghiên cứu cho hay trong bài này Nguyễn Du tưởng nhớ tới người anh cùng mẹ, tên là Nguyễn Nễ, hiệu Quế Hiên, sinh năm 1761. Khi vua Quang Trung ra bắc, ông đang giữ chức Hiệp Tán Quân Cơ đạo Tây Sơn. Năm 1787, vua Lê Chiêu Thống theo quân nhà Thanh rút về Trung Quốc, ông về trú tại quê mẹ ở huyện Đông Ngàn trấn Kinh Bắc. Sau đó được đề cử ra làm quan với nhà Tây Sơn, được bổ chức Hàn Lâm Thị Thư, làm phó sứ sang cống Trung Quốc. Trở về thăng Tả Nghị Lang, tước Nghi Thành Hầu. Năm 1793 được coi việc văn thư ở Viện Cơ Mật. Năm 1794 thăng Tả Phụng Nghị Bộ Binh, rồi làm Hiệp Tán Nhung Vụ thành Quy Nhơn. Năm sau ông làm Hành Khánh Sứ đi dự lễ nhường ngôi của vua Càn Long cho con là Gia Khánh, về nước lại được thăng thưởng. Sau khi vua Gia Long lên ngôi Hoàng Đế, ông ra trình diện, được bổ làm quan nhưng được vài năm rồi mất.

Lục Tháp là tên gọi thành Qui Nhơn, sau này là Bình Định, có sáu tháp Chàm. Trong bốn câu đầu, Nguyễn Du thương ghi lại mối thương nhớ người anh vất vả việc quan quân, trèo đèo vượt núi, trong chốn lam sơn chướng khí, trong khi ông được yên ổn nơi quê nhà. Bốn câu sau tác giả nói lên nỗi khó khăn được gặp lại anh, trong kiếp này, và cả ngay trong giấc mộng. Người đọc tự hỏi là nỗi khó khăn ấy là do tình hình nội chiến lúc đó, hay là do khác biệt chính kiến giữa Nguyễn Nễ ra làm quan giúp Tây Sơn và Nguyễn Du căm thù nhà Tây Sơn, dầu lòng ông vẫn thương nhớ người anh?

Nếu Nguyễn Du không gặp được anh ông trong mộng, thời trong mộng ông lại được gặp bà vợ chính vắn số của ông, như ông ghi lại trong bài:

記 夢 Ký Mộng

逝 水 日 夜 流Thệ thủy nhật dạ lưu

遊 子 行 未 歸Du tử hành vị quy

經 年 不 相 見Kinh niên bất tương kiến

何 以 慰 相 思Hà dĩ úy tương tư

夢 中 分 明 見Mộng trung phân minh kiến

尋 我 江 之 湄Tầm ngã giang chi mi

顏 色 是 疇 昔Nhan sắc thị trù tích

衣 飭 多 參 差Y sức đa sâm si始 言 苦 病 患

Thì ngôn khổ bệnh hoạn繼 言 久 別 離

Kế ngôn cửu biệt ly帶 泣 不 終 語

Đái khấp bất chung ngữ仿 彿 如 隔 帷

Phảng phất như cách duy平 生 不 識 路

Bình sinh bất thức lộ夢 魂 還 是 非

27

Page 26: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Mộng hồn hoàn thị phi疊 山 多 虎 虒

Điệp Sơn đa hổ ti藍 水 多 蛟 螭

Lam thủy đa giao ly道 路 險 且 惡

Đạo lộ hiểm thả ác弱 質 將 何 依

Nhược chất tương hà y夢 來 孤 燈 清

Mộng lai cô đăng thanh夢 去 寒 風 吹

Mộng khứ hàn phong xuy美 人 不 相 見

Mỹ nhân bất tương kiến柔 情 亂 如 絲

Nhu tình loạn như ti空 屋 漏 斜 月

Không ốc lậu tà nguyệt照 我 單 裳 衣

Chiếu ngã đan thường y.

Dịch là:Ghi Lại Giấc Mộng

Ngày đêm dòng nước chẩy xuôiNgười đi mãi xa xôi không về

Bao năm cách trở sơn khêChẳng gì khuây khỏa nhớ kia mong này

Rõ ràng trong mộng đêm nayBên sông lận đận thân gầy tìm taDung nhan dường vẫn như xưa

Áo quân xốc xếch gió mưa bạc mầuThoạt đầu kể chuyện ốm đau

Rồi than xa cách bấy lâu bên trờiSụt sùi nói chẳng hết lời

Màn đâu thấp thoáng ngăn đôi đôi mìnhSuốt đời đường lối chẳng rành

Thực hư chẳng rõ mộng xanh chập chờnHùm beo Ba Dội đầy đường

Sông Lam sóng cả thuồng luồng cách ngănDặm dài hiểm trở khó khăn

Tay mềm chân yếu xa gần cậy aiMộng về đèn lụi đêm dài

Mộng đi lạnh lẽo song ngoài gió đưaTỏ mờ bóng dáng người xưaRối bời một mớ tơ vò lòng taKhắp nhà vàng ánh trăng tà

Soi trên tấm áo xót xa nỗi mình.

Giới nghiên cứu đồng ý rằng người trong giấc mộng của Nguyễn Du trong bài thơ trên đây là bà vợ chính của ông, em gái của Đoàn Nguyễn Tuấn. Hai chữ mỹ nhân trong câu thứ 21, đã có nhà nghiên cứu bàn rằng người trong mộng này là vua Lê Chiêu Thống, và vì lòng hoài Lê, Nguyễn Du đã được gặp vua trong mộng, viện lẽ rằng hai chũ mỹ nhân trong văn học Trung Quốc đôi lúc có nghĩa là nhà vua. Sau đó nhiều năm, nhà nghiên cứu này tự sửa sai và đồng ý cùng giới nghiên cứu cho rằng người đó chính là bà Nguyễn Du. 28

Page 27: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Câu thứ 12: 彷 彿 如 隔 帷Phảng phất như cách duy

dịch là: Màn đâu phảng phất ngăn đôi đôi mình

cho người đọc thấy nỗi thương nhớ vợ của Nguyễn Du, chẳng kém nỗi thương nhớ Dương Quý Phi của vua Đường Minh Hoàng, như Bạch Cư Dị mô tả trong bài Trường Hận Ca, khiến vua phải sai phương sĩ Lâm Cùng Hồng Đô Khách cưỡi mây đè gió kiếm quý phi cho vua. Khi phương sĩ tìm gặp được quý phi, nhà vua chỉ đưọc nhìn thấy quý phi thấp thoáng sau một tấm màn.

Thi cảnh và tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài Ký Mộng này còn đưa người đọc tới một bài từ của Tô Đông Pha 11 cũng vì thương nhớ bà vợ chính, mang cùng một đầu đề như sau:

記 夢 Ký Mộng

江 城 子Giang Thành Tử

十 年 生 死 兩 茫 茫Thập niên sinh tử lưỡng mang mang

不 思 量Bất tư lượng

自 難 忘Tự nan vong千 里 孤 墳

Thiên lý cô phần旡 處 話 淒 涼

Vô xứ thoại thê lương從 使 相 逢 應 不 識

Tòng sứ tương phùng ứng bất thức塵 滿 面

Trần mãn diện鬢 如 霜

Mấn như sương夜 來 幽 夢 忽 還 鄉

Dạ lai u mộng hốt hoàn hương小 軒 窗

Tiểu hiên song正 梳 妝

Thượng sơ trang相 顧 旡 言

Tương cố vô ngôn唯 有 淚 千 行

Duy hũu lệ thiên hàng料 得 年 年 腸 斷 處

Liệu đắc niên niên trường đoạn xứ明 月 夜

Minh nguyệt dạ短 松 岡

Đoản tùng cang.

Dịch là:11. Tô Đông Pha

29

Page 28: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Ghi Lại Giấc MộngTô Thức

Điệu Gang Thành TửMười năm sống chết những mang mang

Chẳng tính lườngRiêng khó quên

Ngàn dặm mồ hoangKể sao hết thê lương

Bằng được gặp nhau e khó nhậnBụi in mặt

Tóc nhuốm sương.

Đêm qua trong mộng về cố hươngThấy qua song

Đang điểm trangNhìn nhau không lời

Mà lệ nhỏ muôn hàngThương cảm năm năm nỗi đoạn trường

Đêm trăng sángNgắn bóng thông.

Trở lại bài Ký Mộng của Nguyễn Du, hai câu 15 và 16 có hai địa danh: Điệp Sơn và Lam Thuỷ làm người đọc thấy là khi viết bài này Nguyễn Du đã trở vể quê nhà, bên đèo Ba Dội và trên bò sông Lam.

Tiếp theo bài Mộng Ký, Thanh Hiên Thi Tập chép bài dưới đây, ghi lại truyện Nguyễn Du bị hạ ngục. Giới nghiên cứu tham khảo gia phả họ Nguyễn ở Tiên Điền cho hay là mùa đông năm Bính Thìn, 1796, Nguyễn Du tìm đường vào Gia Định theo phò Nguyễn Ánh. Việc tiết lộ, ông bị tướng Tây Sơn là Quận Công Thận bắt giam. Quận Công Thận là bạn thân của Nguyễn Nễ, người anh cùng mẹ vói Nguyễn Du, vì vậy ông chỉ bị giam trong vòng mươi tuần thì đưọc tha.

糜 中 漫 興Mi Trung Mạn Hứng

鍾 子 援 琴 操 南 音Chung Tử viện cầm thao Nam âm

莊 舄 病 中 猶 越 吟Trang tích bệnh trung do Việt ngâm

四 海 風 塵 家 國 淚Tứ hải phong trần gia quốc lệ

十 旬 牢 獄 子 生 心Thập tuần lao ngục tử sinh tâm

平 章 遺 恨 何 時 了Bình Chương di hận hà thì liễu

孤 竹 高 風 不 可 尋Cô Trúc cao phong bất khả tầm

我 有 寸 心 無 與 語Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ

鴻 山 山 下 桂 江 深Hồng Sơn sơn hạ Quế Giang thâm.

dịch là:

Mạn Hứng Trong TùKhúc nam Chung Tử tấu đàn

Chàng Trang tiếng Việt ngâm tràn quên đau30

Page 29: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Non sông gió bụi lệ sầuMười tuần sống chết ngục lao hỏi lòng

Bao giờ tan hận Bình ChươngCao phong Cô Trúc noi gương mấy người

Tấc lòng không nói nên lờiNon Hồng sông Quế đời đời cao sâu.

Đọc bài Mi Trung Mạn Hứng trên đây, người đọc hiểu rõ thêm về hai chữ cùng đồ trong câu kết bài Nguyễn Du họa thơ Đoàn Nguyễn Tuấn. Nhà nho có bốn chữ: dĩ cùng tắc biến, Nguyễn Du đến bước cùng đã lựa chọn: ông tìm đường vào Nam theo chúa Nguyễn Ánh, đứng vào phe đối lập với Nguyễn Nễ anh ruột ông và Đoàn Nguyễn Tuấn anh vợ ông, cả hai cùng làm quan với nhà Tây Sơn. Nhưng thời của Nguyễn Du chưa tới ông bị bắt, bị hạ ngục. Trong mười tuần bị giam trong ngục ông đã suy nghĩ nhiều về cái nợ tang bồng. Yêu nước hay đúng hơn thờ một chúa là tình cảm tự nhiên của con nguời. Như truyện Chung Tử tức Chung Nghi, chép trong Tả Truyên, vốn người nước Sở thời Xuân Thu, bị quân nhà Tấn bắt làm tù binh. Chàng vẫn đội mũ người nước Sỏ lại tài đánh đàn. Quan nhà Tấn thấy vậy cho chàng mượn một cây đàn, chàng chỉ tấu những khúc nhạc phương Nam mà thôi. Lại có truyện Trang Tích, người nước Việt cũng thời Xuân Thu, làm quan ở nước Sở. Trong khi nằm bệnh, vua nuớc Sở hỏi: “Tích là người nước Việt, lại vốn nghèo hèn, nay làm quan nước Sở, không biết còn nhớ nước Việt không?” Vua cho người theo dò, thấy trong khi đau ốm Tích hát tiếng Việt, tỏ rằng Tích vẫn nhớ nước Việt. Nhưng nay nước nhà đang cơn nội chiến, gió bụi bốn phương, khiến Nguyễn Du Đau lòng, và trong mười tuần qua ở trong lao thất, ông có dịp hỏi ông về cái chết vì chữ Trung. Ông tự đặt câu hỏi về mối hận của Bình Chương tức Trương Thế Kiệt, tướng võ nhà Tống thời Tống mạt, cùng tướng văn Lục Tú Phu bảo vệ Dương Thái Hậu và hoàng tử Đế Bính chạy trốn quân Nguyên. Chẳng may Đế Bình không kịp lên thuyền; rồi thuyền tới chân núi Bình Chương thì gặp nạn đắm chết hết, mối hận này không biết đến bao giờ tan. Lại còn tấm gương của hai anh em Bá Di Thúc Tề, người nước Cô Trúc, chư hầu nhà Ân, bị mất nước về tay nhà Chu, lên ẩn tại núi Thú Dương, từ chối không ăn thóc nhà Chu mà chết đói. Tầm gương đó tìm đâu ra được người noi theo? Mối suy tư đó ông không biết giãi tỏ cùng ai. Ông đành quay về vui với cảnh thiên nhiên Núi Hồng sông Quế .

Mười tuần trong ngục này dường như một khúc rẽ quan trọng trong nếp sống của Nguyễn Du: ông chuyển từ một nhà nho hữu vi sang một chân nhân Lão Giáo pha mầu Thiền. Ông tự họa hình bóng mình trong bài:

村 夜Thôn Dạ

青 草 村 前 臥 老 翁Thanh Thảo thôn tiền ngoạ lão ông

江 南 夜 色 上 簾 櫳Giang Nam dạ sắc thướng liêm lung

滿 天 明 月 一 池 水Mãn thiên minh nguyệt nhất trì thủy

半 璧 寒 燈 萬 樹 風Bán bích hàn đăng vạn thụ phong

老 去 未 知 生 計 拙Lão khứ vị tri sinh kế chuyết

障 消 時 覺 夙 心 空Chướng tiêu thời giác túc tâm không

年 年 結 得 魚 樵 侶Niên niên kết đắc ngư tiều lữ

笑 傲 湖 煙 野 草 中Tiếu ngạo hồ yên dã thảo trung.

dịch là:31

Page 30: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Xóm ĐêmXóm Thanh Thảo có lão ông

Bờ nam đêm xuống đầu sông rèm ngoàiMột trời trăng sáng ao đầy

Ánh đèn leo lét ngọn cây gió đùaVụng lo sinh kế tuổi già

Nghiệp duyên âu cũng chỉ là chữ khôngNgư tiều đánh bạn năm ròng

Khói hồ cỏ nội thoả lòng cười vang.

Bài thơ có hai hình ảnh mới. Một là ba chữ chủ chốt của Phật Học: nghiệp, duyên và không trong câu thứ sáu và tiềng cười trong câu kết xuất hiện lần đầu tiên trong Thanh Hiên Thi Tập. Phải chăng vì qua bài thơ này, Nguyễn Du không bàn tới vọng tưởng của ông, và ngoài ra dường như ông thoáng có một chút yên vui dầu chưa thấy ông nói tới sự tiến triển trong hoàn cảnh thực tế của ông.

Tiếp tới là lá thư ông viết gửi bạn:

寄 友Ký Hữu

漠 漠 塵 埃 滿 太 空Mạc mạc trần ai mãn thái không

閉 門 高 枕 臥 其 中Bế môn cao chẩm ngoạ kỳ trung

一 天 明 月 交 情 在Nhất thiên minh nguyệt giao tình tại

百 里 鴻 山 正 氣 同Bách lý Hồng Sơn chính khí đồng

眼 底 孚 雲 看 世 事Mãn để phù vân khan thế sự

腰 間 長 劍 掛 秋 風Yêu gian trường kiếm quải thu phong

無 言 獨 對 庭 錢 竹Vô ngôn độc đối đình tiền trúc

霜 雪 消 時 合 化 龍Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long.

dịch là:Gửi Bạn

Bụi hồng mờ mịt trần gianGối cao cửa đóng nằm khan một mình

Đầy trời trăng tỏ giao tìnhNon Hồng trăm dặm anh linh một lòng

Việc đời mây nổi coi thườngGió thu lồng lộng bên lưng kiếm dài

Không lời ngắm trúc sân ngoàiTạnh sương tan tuyết bổng bay hoá rồng.

Giới nghiên cứu văn bản không rõ người nhận lá thư này là ai. Tác giả dùng ánh trăng, một hình ảnh quen thuộc trong thơ Đường, để mô tả mối giao tình của bạn với ông; lấy trăm dặm núi Hồng để so sánh với chính khi của bạn và ông. Câu thứ năm ông cho bạn hay là nay việc đòi ông xem nhu mây nổi. Bạn ông, trước ngọn gió thu, còn đeo thanh trường kiềm bên lưng. Ông đứng một mình ngắm trúc trước sân, ông mường tượng thấy đến khi tuyết tan sương tạnh cành trúc đó sẽ hoá rồng.

Chuỗi hình ảnh trên đây cho người đọc cảm tưỏng như dẫu tình bạn còn đấy, chính khí chung còn đấy, nhưng nay ông coi việc đởi như mây nổi, và bạn ông còn mang kiếm dài bên 32

Page 31: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

lưng. Dường như ông trả lời bạn về một truyện gì đó mà ông không cho biết, ông viết cho bạn hay là ông suy nghĩ về truyện ấy và tin rằng cứ để mặc đại hóa, vì đến thời thì cành trúc sẽ hóa thành rồng. Có một điều đáng chú ý khác là, từ đầu Thanh Hiên Thi Tập đến đây, lần này lần thứ tư Nguyễn Du dùng hình ảnh một thanh gươm làm thi liệu, ba lần trước thanh gươm của ông nắm trong trong tay, lần này thanh gươm bên lưng một người bạn của ông đang đứng trước đầu gió.

Tiếp theo lá thư trên là hai lá thư ông viết gửi bạn là Huyền Hư Tử. Giới nghiên cứu không tìm ra Huyền Hư Tử là ai, nhưng hai chữ Huyền và chư Hư cho thấy là nhân vật này thuộc giới tu hành, chẳng là Lão thì cũng là Thiền. Bài thứ nhất là:

寄 玄 虛 子Ký Huyền Hư Tử

天 台 山 前 獨 閉 門Thiên thai sơn tiền độc bế môn

西 風 塵 垢 滿 中 元Tây phong trần cấu mãn trung nguyên

田 家 不 治 南 山 荳Điền gia bất trị Nam Sơn đậu

貧 戶 常 空 北 海 樽Bần hộ thường không Bắc Hải tôn

野 鶴 浮 雲 時 一 見Bắc hạc phù vân thời nhất kiến

清 風 明 月 夜 無 言Thanh phong minh nguyệt dạ vô ngôn

遠 來 識 取 相 尋 路Viễn lai thức thủ tương tầm lộ

家 在 鴻 山 弟 一 村Gia tại Hồng Sơn đệ nhất thôn.

dịch là:

Gửi Huyền Hư TửNúi Thiên Thai đáng cửa sài

Trung nguyên cát bụi gió tây mịt mùngĐậu Nam Sơn người không trồng

Cảnh nghèo rượu Bắc vò không bao lầnHạc mây gặp gỡ khó khăn

Hỏi thăm trăng gió gió trăng kín lờiXa xôi mách lối nhắn người

Non Hồng xóm nhất nhà tôi dễ tìm

Mở đầu bức thư, tác giả cho bạn hay mình đang trong cảnh ở ần bên chân núi Hồng Sơn. Vùng trung nguyên còn chìm đắm trong cát bụi vì gió tây thổi mạnh. Chữ gió tây này, có nhà nghiên cúu cho rằng dù dể ngầm chỉ nhà Tây Sơn.Trong câu thứ ba, chũ Nam Sơn đâu, lấy từ diển người Dương Vận đời Hán Tuyên Đế thống trách triều đình không dùng mình, trong bài này nhiều nhà nghiên cúu cho là Nguyễn Du muốn nói tới việc ông không cộng tác với nhà Tây Sơn và trong câu thứ tư tác giả nói tới hiện cảnh thanh bạch của mình, nhưng vẫn muốn được dón tiếp bạn tại nhà vì chữ Bắc Hải tôn lấy điển người Khổng Dung làm thái thú Bắc Hải trong nhà lúc nào cũng có rượu đãi khách. Tiếp theo, ông cho hay là tuy bạn ông hiện thòi nay đây mai đó, việc gặp nhau rất khó, tin tức thăm hỏi củng không, nhưng ông vẫn mong bạn ông tới chơi và chỉ lối tới nhà ông.

Bài tiếp theo cũng là thư gửi Huyền Hư, ở phía Bắc sông Lam, nên có nhiều nhà nghiên cứu cho là Huyền Hư Tử lúc đó ở Bắc Hà.

寄 北 江 玄 虛 子Ký Bắc Giang Huyền Hư Tử

33

Page 32: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

長 安 去 不 息Trường An khứ bất tức

薌 思 在 天 涯Hương tứ tại thiên nhai

天 涯 不 可 見Thiên nhai bất khả kiến

但 見 塵 與 沙Đãn kiến trần dữ sa

西 風 脫 木 葉Tây phong thoát mộc diệp

白 露 損 黃 花Bạch lộ tổn hoàng hoa

珍 重 好 自 愛Trân trọng hảo tự ái

秋 高 霜 露 多Thu cao sương lộ đa.

dịch là:

Gừi Huyền Hư Tử Bên Bờ BắcDời kinh đi mãi chưa về

Xa xăm nhắn gửi tình quê bên trờiBên trời nào thấy bóng ngườiChỉ toàn cát bụi tơi bời đó đây

Gió tây thổi rụng lá câySương rơi trắng soá cúc gầy xác xơ

Giữ gìn xin chớ thờ ơMuộn thu sương móc gió mưa càng nhiều

Nhiều nhà nghiên cứu đoán hai chữ Bắc Giang là bên bờ Bắc sông Lam, nơi quê tác giả. Hai câu đầu cho người đọc thấy là kể từ ngày xa kinh đô chưa có dịp quay về, nay ở chốn quê nhà có thư này gửi bạn. Chốn quê nhà vắng nhớ bạn, chốn quê nhà khắp nơi chỉ có gió bụi. Gió tây, như hình ảnh chỉ nhà Tây Sơn, làm cây rụng lá, móc trắng làm lụi khóm cúc vàng. Cuối thư tác giả nhắc nhở bạn nên bảo trọng vì thời tiết cuối thu sương gió càng nhiều, có thể hiểu là tác giả nhắc bạn bảo trọng vì tình hình càng ngày càng thêm nguy hiểm.

Sau mấy bức thư gửi bạn, Thanh hiên Thi Tập ghi lại cảm hứng của tác giả ngày qua sông Long Vĩ.

渡 龍 尾 江Độ Long Vĩ Giang

故 國 回 頭 戾Cố quốc hồi đầu lệ

西 風 一 路 塵Tây phong nhất lộ trần

纔 過 龍 尾 水Tài qua Long Vĩ thủy

便 是 異 鄉 人Tiện thị dị hương nhân

白 髮 沙 中 見Bạch phát sa trung hiện

離 鴻 海 上 聞Ly hồng hải thượng văn

親 朋 津 口 望Tân bằng tân khẩu vọng

為 我 一 沾 巾34

Page 33: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Vị ngã nhất triêm cân.

dịch là:

Sang Sông Long VĩNgoảnh nhìn quê cũ lệ trào

Gió tây cuốn bụi nghẹn ngào đường xaBến sông Long Vĩ vùa qua

Đã là nước lã đã là người dưngBên cồn hiện rõ tóc sương

Tiếng hồng khắc khoải khơi trùng lẻ loi Bạn bè trên bến trông vời

Vì ta khăn ướt lệ rơi chân tình.

Giới nghiên cứu cho hay Long Vĩ là tên gọi khúc sông Lam gần ra tới biển, chẩy qua làng Tiên Điền. Nhưng không ai rõ là Nguyễn Du qua sông Long Vĩ để đi đâu và trong dịp nào. Qua những hình ảnh trong bài thơ, Nguyễn Du ra đi mà mới qua sông đã thấy mình tới nơi xa lạ, đã cảm thấy mình thêm già. Nhưng chuyến đi, có nhiều bạn bè bà con đưa tiễn đông đủ, hẳn là một chuyến đi xa và đã đưọc sửa soạn kỹ.

Nguyễn Du còn ghi lại hình ảnh chuyến sang sông này trong ba bài sau đây:

別 阮 大 郎Biệt Nguyễn Đại Lang

三 首Tam Thủ

其 一Kỳ Nhất

我 且 浮 江 去Ngã thả phù giang khứ

送 君 歸 故 丘Tống quân quy cố khâu

乾 坤 餘 草 屋Càn khôn dư thảo ốc

風 雨 宿 泒 舟Phong vũ túc cô chu

秋 夜 魚 龍 蟄Thu dạ ngư long trập

深 山 麋 鹿 遊Thâm sơn mi lộc du

休 期 不 甚 遠Hưu kỳ bất thậm viễn

相 見 在 中 洲Tương kiến tại trung châu.

其 二Kỳ Nhị

送 君 歸 故 丘Tống quân quy cố khâu

我 亦 浮 江 漢Ngã diệc phù Giang Hán

千 里 不 相 聞Thiên lý bất tương văn

35

Page 34: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

一 心 未 嘗 間Nhất tâm vị thường gian

夜 黑 豺 虎 驕Dạ hắc sài hổ kiêu

月 明 鴻 雁 散Nguyệt minh hồng nhạn tán

兩 地 各 相 望Lưỡng địa các tương vọng

浮 雲 應 不 斷Phù vân ưng bất đoạn.

其 三Kỳ Tam

君 歸 我 亦 去Quân quy ngã diệc khứ

各 在 亂 離 中Các tại loạn ly trung

生 死 交 情 在Sinh tử giao tình tại

存 亡 苦 節 同Tồn vong khổ tiết đồng

柴 門 開 夜 月Sài môn khai dạ nguyệt

殘 笠 走 秋 風Tàn lạp tẩu thu phong

千 里 不 相 見Thiên lý bất tương kiến

浮 雲 迷 太 空Phù vân mê thái không.

dịch là:

Từ Biệt Anh NguyễnBa Bài

Bài MộtThế nào tôi cũng ra đi

Anh về gò cũ ngập ngừng tiễn anhĐất trời còn mái nhà tranh

Gió mưa thuyền lẻ bập bềnh ruổi rongĐêm thu ẩn kín cá rồng

Rừng sâu chạy nhẩy thoả lòng hươu naiNgày vui sắp tới nay mai

Hẹn nhau gặp lại đàng ngoài trung châu.

Bài HaiAnh về gò cũ tiễn anh

Còn tôi tôi sẽ một mình sang sôngNgàn xa rồi bặt tin hồng

Nhớ nhau cách biệt bên lòng nào nguôiSói hùm tác quái đêm dài

Trăng trong tan tác cánh hồng lẻ đôiNhớ thương đôi ngả đôi người

Ngang trời bàng bạc mây trôi bềnh bồng.36

Page 35: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Bài baTiễn anh về tôi ra đi

Đôi ta loạn lạc chia ly âu đànhĐinh ninh sống thác vẹn tình

Mất còn còn mất đôi mình khổ chungCửa sài then ngỏ giãi trăng

Gió thu nón rách lang thang quê ngườiNgàn trùng ngăn cách xa xôi

Bầu trời mờ mịt mây trôi lững lờ.

Trong cả ba bài tiễn biệt trên, tác giả là người sẽ sang sông, giã biệt người anh lúc người anh tiễn ông sắp quay về. Bốn câu cuối bài thứ nhất, cho thấy người sang sông tin chắc ở tương lai sáng láng, và hẹn gặp lại người anh trong một ngày gần đó. Nhưng mối bịn rịn lúc chia tay, trong hai bài sau như thêm nồng nàn, người đi tiễn chưa muốn quay về, người sang sông chưa xuống thuyền. Hai người còn đứng bên nhau, nhưng dường cùng chia nhau nổi thương nhớ vì cảnh tương lai bất chắc.

Tiếp theo ba bài Biệt Nguyễn Đại Lang, Thanh Hiên Thi Tập chép liền ba bài mang đậm mầu Thiền, Lão. Bài thứ nhất là bài:

道 意Đạo Ý

明 月 照 古 井Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh

井 水 無 波 濤Tỉnh thủy vô ba đào

不 被 人 牽 扯Bất bị nhân khiên xả

此 心 終 不 搖Thử tâm trung bất dao

縱 被 人 牽 扯Túng bị nhân khiên xả

一 搖 還 復 止Nhất dao hoàn phục chỉ

湛 湛 一 片 心Trạm trạm nhất phiến tâm

明 月 照 古 井Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh.

dịch là:Giãi Ý

Giếng sâu giãi ánh trăng xuôngNước không gợnsóng như gương một làn

Không người khấy động tĩnh anTâm này tĩnh lặng bóng trăng in hình

Có người khuấy động thình lìnhThoáng qua dao động sóng dềnh lại yên

Giữ sao lòng tâm tĩnh một niềmĐể trăng lòng giếng vẹn tuyền như xưa.

Điểm đáng lưu ý là bài Đạo Ý này là bài thơ đầu tiên trong Thanh Hiên Thi Tập Nguyễn Du nói tới chữ tâm và sự tĩnh tâm, chữ chủ chốt của Thiền và Lão Học. Chủ ý của bài thơ rõ rệt là tác giả muốn giữ cho tâm của ông đưọc tĩnh, dầu có bị người khuấy động cũng chỉ giây lát lại trở lại tĩnh lặng.

Rồi tới hai bài:37

Page 36: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

行 樂 詞Hành Lạc Từ

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

俊 犬 黃 白 毛Tuấn khuyển hoàng bạch mao

金 鈴 繫 秀 頸Kim linh hệ tú cảnh

輕 衫 少 年 郎Khinh sam thiếu niên lang

牽 向 南 山 嶺Khiên hướng nam sơn lĩnh

南 山 多 香 糜Nam sơn đa hương mi

血 肉 甘 且 肥Huyết nhục cam thả phì

金 刀 切 玉 饌Kim đao thiết ngọc soạn

美 酒 累 百 卮Mỹ tửu lũy bách chi

人 生 無 百 載Nhân sinh vô bách tải

行 樂 當 及 期Hành lạc đương cập kỳ

無 為 守 貧 賤Vô vi thủ bần tiện

窮 年 不 開 眉Cùng niên bất khai mi

夷 齊 無 大 名Di Tề vô đại danh

蹠 蹻 無 大 利Chích Cược vô đại lợi

中 壽 只 八 十Trung thọ chỉ bát thập

何 事 千 年 計Hà sự thiên niên kế

有 犬 且 須 殺Hữu khuyển thả tu sát

有 酒 且 須 傾Hữu tửu thả tu khuynh

眼 前 得 喪 已 難 認Nhãn tiền đắc táng dĩ nan nhận

何 事 茫 茫 身 後 名Hà sự mang mang thân hậu danh.

其 二Kỳ Nhị

山 上 有 桃 花Sơn thượng hữu đào hoa

綽 約 如 紅 綺38

Page 37: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Xước ước như hồng ỷ清 晨 弄 春 妍

Thanh thần lộng xuân nghiên日 暮 著 泥 滓

Nhật mộ trước nê chỉ好 花 無 百 日

Hảo hoa vô bách nhật人 壽 無 百 歲

Nhân thọ vô bách tuế世 事 多 推 移

Thế sự đa suy di浮 生 行 樂 事

Phù sinh hành lạc sự席 上 有 妓 嬌 如 花

Tịch thượng hữu kỷ kiều như hoa壺 中 有 酒 如 金 波

Hồ trung hữu tửu như kim ba翠 管 玉 簫 緩 更 急

Thúy quản ngọc tiêu hoãn cánh cấp得 高 歌 處 且 高 歌

Đắc cao ca xứ thả cao ca

君 不 見Quân bất kiến:

王 戎 牙 籌 手 自 捉Vương Nhung nha trù thủ tự chóc

日 日 會 計 常 不 足Nhật nhật cối kế thường bất túc

三 公 臺 傾 好 李 死Tam công đài khuynh hảo lý tử

金 錢 散 作 他 人 福Kim tiền tán tác tha nhân phúc

又 不 見Hựu bất kiến:

馮 道 晚 年 稱 極 貴Phùng Đạo vãn niên xưng cực quý

歷 朝 不 離 卿 相 位Lịch triều bất ly khanh tướng vị

鍾 鳴 鼎 食 更 還 空Chung minh đỉnh thực cánh hoàn không

千 載 徒 留 長 樂 敘Thiên tải đồ lưu trường lạc tự

眼 前 富 貴 如 浮 雲Nhãn tiền phú quý như phù vân

浪 得 今 人 笑 古 人Lãng đắc kim nhân tiếu cổ nhân

古 人 墳 塋 已 纍 纍Cổ nhân phần doanh dĩ luy luy

今 人 奔 走 何 紛 紛Kim nhân bôn tẩu hà phân phân

古 今 賢 愚 一 邱 土39

Page 38: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ生 死 關 頭 莫 能 度

Sinh tử quan đầu mạc năng độ勸 君 飲 酒 且 為 歡

Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan西 窗 日 落 天 將 暮

Tây phong nhật lạc thiên tương mộ.

dịch là:Hành Lạc Từ

Hai bài

Bài ICầy tơ đốm trắng lông vàng

Cổ đeo một chiếc nhạc vàng thêm xinhChàng trai áo ngắn phong phanh

Núi Nam ngắm hướng tênh tênh bước vềNúi Nam có lắm nai quê

Tiết thơm thịt béo khó chê mọi đàngMón ngon bát ngọc dao vàng

Rượu tăm trăm chén nào màng tỉnh sayĐời người trăm tuổi mấy ai

Kíp thời hành lạc kẻo mai xuân tànGiữ chi nếp sống nghèo nàn

Quanh năm quần quật làm ăn ngập đầuDi Tề nào có danh cao

Lại coi Chích Cược có giầu hơn aiTám mươi tuổi đà sống dai

Ngàn năm lo chuyện đường dài uổng côngCòn cầy còn miếng dồi ngon

Còn be rượu trắng ta còn bữa sayMất còn trước mắt nào hay

Ngàn năm danh lợi lão đây cóc cần.

Bài IINon xanh rực rỡ hoa đào

Lụa hồng một dải ngàn cao ngang trờiSớm mai giỡn cợt hoa tươi

Đầu hôm đã vội tả tơi khe lầyMùa hoa nào đủ trăm ngày

Sống lâu trăm tuổi đời nay mấy ngườiVần xoay thay đổi truyện đời

Phù sinh một kiếp chẳng chơi cũng giàTiệc hoa kỹ nữ như hoa

Rượu thơm lóng lánh sao sa sóng vàngNhặt khoan đàn sáo nhịp nhàng

Chung vui câu hát rộn ràng tiếng caAnh thấy chăng:

Vương Nhung tay bấm thẻ ngàLo quanh tínhquẩn chẳng qua tham nhiều

Quan hết thời gốc mận xiêuBao nhiêu vàng bạc bấy nhiêu trả người

Lại thấy chăng:Họ Phùng danh vọng cao vời

Bốn triều khanh tướng chẳng dời đỉnh chungDỉnh chung rốt cuộc bằng không

40

Page 39: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Ngàn năm Trường Lạc một chương để đờiGiầu sang mây nổi đầy vơi

Người nay ai lại dám cười người xưaNgười xưa đều chết yên mồ

Người nay sao vẫn hồ đồ bôn baHiền ngu chết cũng ra ma

Ai người thát cảnh khiêng ra ngoài đồngMời anh vui chén rưỡu nồng

Trời tây bóng xế ngoài song tối rồi.

Người đọc it ai không ngạc nhiên lần đầu đọc bài Hành Lạc Từ I. Thật vậy, người ta thường nói truyện ăn thịt chó, nhưng dường như không có một văn thi sĩ nào viềt về việc ăn thịt chó như Nguyễn Du.

Hình ảnh bữa thịt chó, có bát ngọc dao vàng, có rưọu tăm trăm chén, đặt trong mạch thơ con người đối mặt với cái chết, cần gấp gáp tìm vui, khiến người đọc, qua mười hai câu đầu, nhớ tới câu tục ngữ:

Sống ở đời ăn miếng dồi chóThế rồi trong mười câu sau, tác giả nói tới Di Tề, nói tới Chích Cược: Di Tề chết dói dưới Thú

Dương vì chữ danh, Chích Cược chết bên gò Đông Lăng vì lợi, là hai truyện Trang Tử nhiều lần bàn tới trong sách Nam Hoa Kinh. Đời người lại nggắn ngủi, chẳng mấy ai sống đủ trăm tuổi, vậy thời còn cầy còn miếng dồi ngon, còn rưỡu còn bữa say. Danh vọng ngàn sau đâu lão có cần.

Bài Hành Lạc Từ II cũng cùng một ý thơ: đời sống con người ngắn ngủi chẳng khác gì bông hoa đào sớm nỏ tối tàn. Không chơi cũng già, vậy thời sao không vui cùng cầm kỳ tửu sắc.

Tác giả lấy điển Vương Nhung, một trong Trúc Lâm Thất Hiền, suốt đời tính toán làm giầu lúc chết tiền bạc bao nhiêu cũng trả đủ bấy nhiêu cho người. Phùng Đạo, người Ngũ Đại, làm quan to suốt bốn triều Đường Tấn Hán Chu, nhưng rốt cuộc lúc chết để lại không có gì ngoài tự truyện Trường Lạc của ông.

Hiền ngu đều phải chết, vậy mời anh vui chén rượu này, trời tây xế bóng một ngày lại qua.Người đọc nhận ra rằng đây là lần thứ hai Nguyễn Du dùng hình ảnh cái chết trong thơ. Lần

thứ nhất là lần ông xét lại cái chết vì chữ trung của võ tướng Trương Thế Kiệt và văn quan Lục Tú Phú tại núi Bình Chương và của Bá Di Thúc Tề tại núi Thú Dương, trong mười ngày bị giam trong ngục, như ghi trong bài Mi Trung Mạn Hứng. Câu hỏi là những điều Nguyễn Du tự hỏi trong mười tuần đó có liên quan gì tới nếp sống coi thường danh lợi, vui cái vui của bữa tiệc hoa như trong hai bài từ trên đây?

Tiếp theo hai bài hành trên đây, Nguyển Du ghi trong một bài ngũ ngôn mười vần, cảm nghĩ của ông, hay đúng hơn cảm nghĩ của con người nhỏ bé đứng trước cảnh nước lớn bên dòng sông Lam, tiêu biểu cho sức mạnh thiên nhiên và cái bất nhân của con tạo :

藍 江Lam Giang

清 晨 望 藍 江Thanh thần vọng Lam Giang

藍 江 漲 秋 水Lam Giang trướng thu thủy

魚 鱉 遊 丘 陵Ngư miết du khâu lăng

魚 馬 迷 涯 涘Ngư mã mê nhai sĩ

圯 岸 崩 暴 雷Di ngạn băng bạo lôi

鴻 濤 見 奇 鬼Hồng đào kiến kỳ quỷ

危 險 勝 人 心Nguy hiểm thắng nhân tâm

41

Page 40: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

傾 覆 亦 天 意Khuynh phúc diệc thiên ý

我 望 藍 江 頭Ngã vọng Lam Giang đầu

寸 心 常 惴 惴Thốn tâm thường chúy chúy

常 恐 一 失 足Thường khủng nhất thất túc

汩 沒 無 底 止Cốt một vô để chỉ

如 何 世 間 人Như hà thế gian nhân

乘 險 不 知 畏Thừa hiểm bất tri úy

去 者 何 滔 滔Khứ giả hà thao thao

來 者 尚 未 已Lai giả thượng vị dĩ

帝 德 本 好 生Đế đức bản hảo sinh

那 得 長 如 是Na đắc trường như thị

擬 驅 千 仞 山Nghĩ khu Thiên Nhận Sơn

填 平 五 百 里Điền bình ngũ bách lý.

dịch là:

Sông LamSớm mai ra ngắm sông Lam

Mùa thu nước lớn dòng Lam đục ngầuNước dâng giải vượt cồn cao

Đồng sâu ngập trắng ngựa trâu lạc đườngẦm ầm đất lỡ bờ sông

Hiện hình qủy dữ sóng hồng nhấp nhôHiểm nguy dạ luống sững sờLong trời lở đất hẳn do ý trờiNhìn dòng Lam những bồi hồi

Mối lo ngơm ngớp phận người nhỏ thaySa chân sẩy bước nơi đây

Chìm sâu mất tích phút giây tức thìThế mà người thế coi khi

Liều thân xông xáo hiểm nguy chẳng sờnKẻ trước cuồn cuộn bước rồn

Người sau nối gót gian nan chẳng ngừngHiếu sinh trời đất lẽ thường

Cảnh này để vậy dửng dưng chẳng màngChẳng xẻ dẫy Thiên Nhận San

Lấp bằng trăm dặm Lam Giang giúp đời.

Tám câu đầu trong bài Lam Giang trên đây là tám câu tả cảnh nước lớn bên bờ sông Lam, với cảnh đồng lúa ngập trắng nước, đất bên bờ sông lở ầm ầm, mà tác giả cho đó là do ý trời tạo nên. Trước cảnh đó Nguyễn Du nhìn ra cái nhỏ bé của kiếp người so với sức mạnh của thiên nhiên. Nhưng dường như thế nhân không nhận ra điều đó, cứ theo nhau lao mình vào chốn nguy hiểm. Điều đó khiến tác giả tự hỏi về đức hiếu sinh của lòng Trời. Cớ sao thiên 42

Page 41: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

nhiên không san bằng núi Thiên Nhận lấp đầy năm trăm dặm sông Lam để cứu đời? Tự đăt câu hỏi đó phải chăng Nguyễn Du đã có câu trả lời: Thiên địa bất nhân trong

chương V sách Đạo Đức Kinh của Lão Tử? Theo một hướng khác, trước cảnh thế nhân nối gót nhau lao vào vòng nguy hiểm, bất

chấp cả mạng sống, người đọc dường như thấy Nguyễn Du thương cho thế nhân lấy cái hữu hạn của con người chạy theo cái vô hạn của thiên nhiên, mà thương cho nhưng nguòi liều chết chạy theo hai chữ lưu danh đời sau. Trong mạch thơ đó, Thanh Hiên Thi Tập chép tiếp bài:

寧 公 城,Ninh Công Thành,

獨 上 高 山 眼 界 新Độc thướng cao sơn nhãn giới tân

英 雄 往 事 掛 江 津Anh hùng vãng sự quải giang tân

一 城 上 下 盡 喬 木Nhất thành thượng hạ tậnn kiều mộc

十 里 威 風 見 古 人Thập lý uy phong kiến cổ nhân

此 地 北 南 歸 一 軸Thủ địa bắc nam quy nhất trục

當 時 井 灶 駐 三 軍Đương thì tỉnh táo trú tam quân

十 年 未 泄 男 兒 恨Thập niên vị tiết nam nhi hận

彈 劍 長 哥 對 白 雲Đàn kiếm trường ca đối bạch vân.

dịch là:Thành Ông Ninh

Lên cao cảnh mới như tranhBến sông truyện cũ lưu danh anh hào

Tường thành cây mọc thấp caoOai phong mười dặm thủa nào còn đây

Bắc nam một mối nơi nàyGiếng khô bếp cũ dấu ngày đóng quân

Lòng trai tiết hận mười xuânNhìn mây vỗ kiếm thành vần nghêu ngao

Ông Ninh là tên dân gian goi Tinh Ninh hay Trịnh Toàn, em chúa Trịnh Tráng, làm trấn thủ Nghệ An. Thời Trịnh Nguyễn chiến tranh, ông cho đắp nhiều lũy đất ở vùng núi Dũng Quyết, và ở trên bờ sông Lam, gần Bến thủy, nay vẫn còn di tích. Khi Trịnh Tạc nối ngôi Trịnh Tráng, có y nghi ngờ Trịnh Toàn, gọi về Thăng Long và giết chết trong ngục.

Nguyễn Du qua thành Ông Ninh, thấy thành xưa cây cỏ mọc dầy, tuy vết ngày oanh liệt ngày xưa còn đó, mà thương cảm cho Trịnh Toàn, chỉ vì chữ danh mà chết thảm trong ngục. Liên tưởng tới hiện cảnh của mình, ông vổ gươm ngâm vang vần thơ vừa viết xong.

Tiết tới là bài:

開 窗Khai Song

門 前 煙 景 近 如 何Môn tiền yên cảnh cận như hà

閒 日 開 窗 生 意 多Nhàn nhật khai song sinh ý đa

43

Page 42: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

六 月 培 風 鵬 徙 地Lục nguyệt bồi phong bằng tỉ địa

一 庭 積 雨 蟻 移 窩Nhất đình tích vũ nhĩ di oa

青 氈 舊 物 苦 珍 惜Thanh chiên cựu vật khổ trân tích

白 髮 雄 心 空 咄 嗟Bạch phát hùng tâm không đốt ta

再 病 尚 須 調 攝 力Tái bệnh thượng tu điều nhiếp lực

不 知 秋 思 到 誰 家Bất tri thu tứ đáo thùy gia.

dịch là:Mở Song

Khói mây trước cửa dâng caoMở song sinh ý dạt dào dạ trong

Nửa năm cỡi gió cánh bằngỨng mưa dời tổ kiến càng bò nhanh

Vật xưa gìn giữ chăn xanhHùng tâm đầu bạc cũng đành thở than

Dưỡng bồi bệnh cũ thuốc thangÝ thu chẳng biết ẩn tàng nhà ai.

Dường như khá lâu rồi tác giả chưa mở cửa sổ nhìn ra ngoài, bỗng hôm nay mở song ông thấy nẩy ra trong lòng nhiều sinh ý. Điểm đặc biệt là ông dùng hai chữ bằng tỷ của sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, chương tiêu Dao Du, để mô tả sụ đổi dời, trong sáu tháng qua. nhưng dương như với ông thì dường như cảnh kiến bị úng mưa dời tổ. Ông vẫn chưa quên được nếp xưa, như Vương Hiến Chi giữ chiếc chăn xanh, tiêu biểu cho cảnh nho sinh gìn giữ nề nếp nhà nho. Tóc ông đã bạc chẳng còn biết làm gì hơn thở than. Bệnh cũ tái phát ông phải lo lắng thuốc thang lấy lại sức. Chẳng biết ý thu, hay hứng thơ mùa thu ần náu tại nhà ai?

Nguyễn Du còn ghi lại tâm cảnh trên đây trong bài kế tiếp:

對 酒Đối Tủu

趺 坐 閒 窗 醉 眼 開Phù tọa nhàn song túy nhỡn khai

落 花 無 數 下 蒼 苔Lạc hoa vô số hạ thương đài

生 前 不 盡 樽 中 酒Sinh tiền bất tận tôn trung tửu

死 後 誰 澆 墓 上 杯Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi

春 色 漸 遷 黃 鳥 去Xuân sắc tiệm thiên hoàng diểu khứ

年 光 暗 逐 白 頭 來Niên quang ám trục bạch đầu lai

百 期 但 得 終 朝 醉Bách kỳ đãn đắc chung triêu túy

世 事 浮 雲 真 可 哀Thế sự phù vân chân khả ai.

dịch là:

Nhắp Rượu Một Mình44

Page 43: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Bên song vừa tỉnh hơi menTả tơi hoa rụng đầy thềm rêu xanh

Sống nay chẳng uống cạn bìnhChết mai rượu tưới mộ mình cậy ai

Mầu xuân biến đổi oanh bayNăm trôi tháng chẩy tóc mai bạc rồi

Say sưa mong được trọn đờiSự đời mây nổi thương người trần ai.

Cũng như trong bài Hành Lạc II, Nguyễn Du so sánh đòi người ngắn ngủi như kiếp hoa mau tàn. Thế nên, rượu phải uống tới cạn bầu bằng không cái chết ập đến khó tìm người tưới rượu lên mộ cho mình. Việc đời như mây nổi, thật đáng thương cho kiếp người.

Tiếp theo, Nguyễn Du ghi lại hình ảnh một Xóm Núi, trong đó người dân làng sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình, tựa như trong áng thơ Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm (365-427) đời Tấn, Trung Quốc:

山 村Sơn Thôn

萬 山 深 處 絕 風 塵Vạn sơn thâm xú tuyệt phong trần

錯 落 柴 門 閉 暮 雲Thác lạc sài môn bế mộ vân

長 者 衣 冠 蕕 是 漢Trưởng giả y quan do thị Hán

山 中 甲 子 迥 非 秦Sơn trung giáp tý quýnh phi Tần

牧 兒 角 搥 巟 郊 暮Mục nhi giác trủy hoang giao mộ

汲 女 筒 連 玉 井 春Cấp nữ đồng liên ngọc tỉnh xuân

那 得 跳 離 孚 世 外Na đắc khiêu ly phù thế ngoại

長 松 樹 下 最 宜 人Trường tùng thụ hạ tối nghi nhân.

dịch là:Xóm Núi

Ngàn cao xa lánh bụi trầnCủa sài lác đác mây vần chiểu buông

Ông già áo Hán còn dùngGhi năm lịch khác lịch chung đời Tần

Gõ sùng trẻ hát vang ngânNước trong giếng ngọcgái xuân kéo gầu

Ngoài vòng phù thế ước saoGốc tùng nằm khểnh thú nào thú hơn.

Người đọc tụ hỏi trong bài thơ trên đây, Nguyễn Du ghi lại hình ảnh một xóm núi mà ông đi qua và thấy muốn ở lại đó, hay đó là một ước ao một hy vọng của tác giả.

Xóm núi ở trong một vùng núi cao, dân cư thưa thớt, bô lão trong xóm còn mặc áo đội mũ kiểu đời Hán. Dân xóm ghi năm tháng theo một cuốn lịch khác với lịch nhà Tần, trai gái trẻ tuổi đều sống thoải mái sung sướng. Các nhà nghiên cứu chú thích về áo mũ kiểu Hán bằng điển Hán Quang Vũ khôi phục cơ nghiệp nhà Hán sau khi bị Vương Mãng cướp ngôi, ngày tiến quân vào Lạc Dương thấy phụ lão còn mang y phục kiểu người Hán, để tỏ lòng còn tưởng nhớ triều cũ. Về việc dùng lịch khác với lịch nhà Tần, là một điển rút từ bài Đào Nguyên Ký của Đào Tiềm, mô tả một số người lánh Tần di tản vào Nguồn Đào, sống cách biệt

45

Page 44: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

với đời sống bên ngoài, ăn mặc kiểu xưa, không biết đến mọi thay đổi thời thế ngoài đời.Đằng khác, hình ảnh xóm núi trong bài thơ trên đây gợi cho người đọc hình ảnh một tiểu

quốc, theo mẫu mực của Lão Tử, trong chương 80 sách Đạo Đức Kinh, chủ trương có bậc Thánh thực thi phép sửa trị không làm để săn sóc bao bọc trăm họ theo lối vô tri vô dục.

Tiếp theo, Thanh Hiên Thi Tập dẫn người đọc trở về đời sống thực của Nguyễn Du vói bài:

吊 羅 城 歌 者Điếu La Thành Ca Giả

一 枝 濃 艷 下 蓬 瀛Nhất chi nùng diễm hạ bồng doanh

春 色 嫣 然 動 六 城Xuân sắc yên nhiên động lục thành

天 下 何 人 憐 薄 命Thiên hạ hà nhân liên bạc mênh

塚 中 應 自 悔 浮 生Trủng trung ưng tự hối phù sinh

胭 脂 不 洗 生 前 障Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng

風 月 空 留 死 後 名Phong nguyệt không lưu tử hậu danh

想 是 人 間 無 識 趣Tưởng thị nhân gian vô thức thú

九 泉 去 伴 柳 耆 卿Cử tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Khanh.

dịch là:

Viếng Ca Nương Ở La ThànhBồng Doanh xa xuống một cành

Sắc xuân tươi thắm sáu thành chuyển rungThương người mệnh mỏng cánh chuồn

Đáy mồ hối đã lạc đường trầm luânSống chưa sạch nợ phấn son

Gió trăng đến chết vẫn còn lưu danhNgán đời chẳng hiểu nổi mình

Suối vàng tìm Liễu Kỳ Khanh bạn cùng.

Bài thơ viết ra để viếng ca nương tại Nghệ An.Nguyễn Du sánh nhan sắc ca nương với nhan sắc một tiên cô Bồng Đảo Doanh Châu giáng xuống trần. Ông sót thương nàng mệnh mỏng lạc đường trầm luân. Sống không sòng nợ phấn son, chết còn mang tiếng trăng gió. Ở đời không ai hiểu cho nàng, nên vội chết mà xuống chín suối làm bạn vói Liễu Kỳ Khanh, một ông tiến sĩ đời Tống, chuyên soạn ca phổ để chị em truyền tụng. Ngày ông chết, chị em xóm Bình Khang góp tiền mai táng lập ‘hội viếng Liễu’ hàng năm.

Tiếp theo là hai bài:

雜 詩Tạp Thi

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ nhất

壯 士 白 頭 悲 向 天46

Page 45: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên雄 心 生 計 兩 芒 然

Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên春 蘭 秋 菊 成 虛 事

Xuân lan thu cúc thành hư sự夏 暑 冬 寒 奪 少 年

Hạ thử đông hàn đoạt thiếu niên黃 犬 追 歡 鴻 嶺 下

Hoàng khuyển truy hoan Hồng Lĩnh hạ白 雲 臥 病 桂 江 邊

Bạch vân ngọa bệnh Quế Giang biên村 居 不 厭 頻 沽 酒

Thôn cư bất yếm tần cô tửu尚 有 囊 中 三 十 錢

Thượng hữu mang mang tam yhập tiền

其 二Kỳ Nhị

鴻 山 一 色 臨 平 渠Hồng sơn nhất sắc lâm bình cừ

清 寂 可 為 寒 士 居Thanh tịnh khả vi hàn sĩ cư

千 里 白 雲 生 几 席Thiên lý bạch vân sinh kỷ tịch

一 窗 明 月 上 琴 書Nhất song minh nguyệt thướng cầm thư

笑 啼 殉 俗 干 戈 際Tiếu đề tuẫn tục can qua tế

緘 默 藏 生 老 病 餘Giam mặc tàng sinh lão bệnh dư

葉 落 花 開 眼 前 事Nguyệt lạc hoa khai nhãn tiền sự

四 時 心 鏡 自 如 如Tứ thời tâm kính tữ như như.

dịch là:Tạp ThiHai bài

IBạc đầu tráng sĩ nhìn trời

Hùng tâm sinh kế cả đôi lỡ làngXuân lan thu cúc chẳng màng

Rét đông nực hạ bẽ bàng lòng traiNon Hồng đuổi chó nguôi ngoai

Quế Giang nằm bệnh nhìn mây trắng vềQuên buồn chẳng ngại rượu quêNửa quan tiền lẻ túi kia hãy còn.

IINước cừ in bóng non Hồng

Nho nghèo cảnh tĩnh yên lòng náu nươngNgàn trùng mây kéo quanh giườngTúi đàn kệ sách đầu tường trăng soi

Loạn ly tùy tục khóc cười47

Page 46: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Phòng hờ già bệnh kín lời giữ thânLá hoa trước mắt rụng dần

Lòng gương coi truyện xoay vần nhẹ tênh.

Trong bài tạp thi thứ nhất, suốt sáu câu đầu, Nguyễn Du mô tả hiện cảnh đã khiến ông như đứng trước cảnh cùng cực trên cả hai ngả hùng tâm và sinh kế. Truyện xuân lan thu cúc thành thơ bây giờ ông chẳng màng, nhưng đông qua hè tới làm ông buồn phải chăng vì thời gian trôi qua mà hiện cảnh của ông không đổi. Trong cảnh tuyệt vọng đó, ông vẫn còn hai điểm để vui, một là cái thú dắt chó vàng đi chơi, cái thú mà Lý Tư, lúc lâm hình tiếc nuối, nhớ lại ngày chưa bước vào vòng kiềm tỏa của công danh. Và hai là cái thú uống rượu quê, chẳng mấy đắt tiền và trong túi ông lúc này vẫn còn ba chục đồng tiền lẻ.

Sang bài thứ hai, trong hiện cảnh thiếu thốn đó, ông vẫn cảm thấy yên lòng vì hiện có nơi nương náu yên tịnh, ông vẫn còn túi đàn cặp sách, tuy phải giữ lời kín miệng, tuy còn đang dưỡng bệnh, tuy hoa lá truớc mắt ông đang rụng dần, nhưng ông coi tất cả mọi truyện đó là những truyện đổi thay của đại hóa. Tâm kính của ông soi mà không cầm giữ khiến mọi biến đổi đó nhẹ tênh.

Mạch thơ của hai bài tạp thi trên đây còn kéo dài sang bài dưới đây:

漫 興Mạn Hứng

龍 尾 洲 邊 有 白 鷗Long Vĩ châu biên hữu bạch âu

藍 江 堂 上 有 寒 儒Lam Giang đường thượng hữu hàn nho

一 生 詞 賦 知 無 益Nhất sinh từ phú tri vô ích

滿 架 琴 書 徒 自 愚Mãn giá cầm thư đồ tự ngu

百 歲 為 人 悲 瞬 息Bách tuế vi nhân bi thuấn tức

暮 年 行 樂 惜 須 臾Mộ niên hành lạc tích tu du

寧 知 異 日 西 陵 下Ninh tri dị nhật tây lăng hạ

能 飲 重 陽 一 滴 無Năng ẩm trùng dương nhất trích vô.

dịch là:Mạn Hứng

Bãi Long Vĩ có đàn còBến Lam có lão đồ nho thân vờ

Một đời vô dụng thi thưNgu ngu dại dại ngẩn ngơ sách đàn

Trăm năm ngắn chẳng tầy gangDối già hành lạc bẽ bàng tiếc xuân

Gò tây mai mốt gửi thânTrùng dương rượu tưới mộ phần há say.

Trong thời gian về sống tại quê nhà, bên bờ sông Lam, nhìn sang bãi Long Vĩ thấy đàn cò trắng, chợt nhớ hiện cảnh thiếu thốn của mình, Nguyễn Du thấy đàn sách là vô dụng, thi thư chỉ làm con người thành ngu dại. Thế rồi Nguyễn Du bứt ra khỏi hiện cảnh đó. Ông nhận ra là đời sống ngắn ngủi, để đến già mới đi tìm mua vui thì chỉ thấy tiếc nuối tuổi xuân. Biết được ngày nào mãn số, đáy mồ còn uống được giọt rượu nào nữa không.

Người đọc dường như thấy là Nguyễn Du đã dùng men say để xua đuổi mối buồn vì những 48

Page 47: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

mong ước chưa tới, mối buồn đó ngăn cách ông với niềm yên tịnh của ông. Thế nên vui cái vui nho nhỏ hiện tại là điều cần thiết để dập tắt mối buồn vì hy vọng chẳng thành, để lấy lại cân bằng cho niềm yên tịnh trong lòng.

Mạch thơ đó nối dài trong hai bài cùng một đề dưới đây:

臥 病Ngọa Bệnh

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

多 病 多 愁 氣 不 舒Đa bệnh đa sầu khí bất thư

十 旬 困 臥 桂 江 居Thập tuần khốn ngọa Quế Giang cư

癘 神 入 室 吞 人 魄Lệ thần nhập thất thôn nhân phách

饑 鼠 緣 床 喫 我 書Cơ thử duyên sàng khiết ngã thư

未 有 文 章 生 孽 障 Vị hữu văn chương sinh nghiệt chướng

不 容 塵 垢 雜 清 虛Bất dung trần cấu tạp thanh hư

三 蘭 窗 下 吟 聲 絕Tam lan song hạ ngâm thanh tuyệt

點 點 精 神 遊 太 初 Điểm điểm tinh thần du thái sơ.

其 二Kỳ Nhị

春 寒 夏 暑 故 相 侵Xuân hàn hạ thử cố tương xâm

一 臥 鴻 山 歲 月 深Nhất ngọa Hồng Sơn tuế nguyệt thâm

明 鏡 曉 寒 開 老 瘐Minh kính hiểu hàn khai lão sấu

柴 扉 夜 靜 閉 呻 吟Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm

十 年 夙 疾 無 人 問Thập niên túc tật vô nhân vấn

九 轉 還 丹 何 處 尋Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm

安 得 玄 關 明 月 見An đắc huyền quan minh nguyệt hiện

陽 光 下 照 破 群 陰Dương quang hạ chiếu phá quần âm.

dịch là:Nằm Bệnh

Hai Bài

IBệnh sầu sầu bệnh cả lo

49

Page 48: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Bên bờ sông Quế nằm co mười tuầnThần ôn tới bắt thần hồn

Leo giường gặm sách chuột con trêu ngườiVăn chương há hại nghiệp trời

Sạch trong chẳng lấm bụi đời nhớp nhơBên song ngâm trọn vần thơ

Tinh thần bay bổng thái hư nhẹ nhàng.II

Xuân sang hạ tới đổi thayNon Hồng một rặng ốm dài mấy năm

Soi gương thấy thẹn cho thânCửa cài đêm vắng nằm than chán chường

Mười năm bệnh cũ bi thươngChín lần thuốc luyện không đường kiếm ra

Cửa huyền đợi ánh trăng ngàPhá tan u ám gần xa cõi này.

Nằm dưỡng bệnh thường là hứng thơ của nhiều nhà thơ. Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du cho hay là ông nằm dưỡng bện bên bờ sông Quế đã nhiều tháng qua. Cũng có đôi lúc nguy kịch, khiến bệnh tật làm ông buồn. Sang câu thứ năm và thứ sáu, người dọc thấy như ông có phần phấn khỏi hơn: ông đoan quyết với ông là nghiệp văn không làm hại nghiệp trời. Ông giũ cho mình trong sạch không vẩn bụi đời. Nhìn qua song ông thấy mấy giò lan, và vần thơ ông ngâm cũng vừa dứt, ông thấy tnh thần nhẹ nhõm bổng bay tới cõi hư vô.

Sang bài thứ hai, Nguyễn Du cho hay là ông nằm dưỡng bệnh cả mùa xuân năm qua, nay mùa hè đã tới. Sáng dậy soi gương thấy mình gầy yếu mà thương thân, cửa ngoài đóng kín, ông nằm dưỡng bệnh cũ, chẳng biết than thân cùng ai. Thuốc thang tìm kiếm không ra đủ. Nhưng niềm lạc quan của ông không xút kém, ông chờ trăng lên phá tan cái u tối quanh ông.

Người đọc dường như thấy, dầu bị bệnh hành cả nhiều tháng trong cảnh thiếu thốn, Nguyễn Du vẫn lấy cái thú ngắm một giò lan, ngâm một câu thơ làm niềm vui để giữ được niềm bình thản trong tâm.

Thanh Hiên Thi Tập, không cho biết chi tiết về chuyến đi này của Nguyễn Du, nhưng ghi lại cảm xúc của tác giả như sau trong chuyến đi trong đêm tối đó như sau:

夜 行Đi Trong Đêm Tối

老 衲 安 眠 鴻 嶺 雲Lão nạp an miên Hồng Lĩnh vân

涪 鷗 靜 宿 煖 沙 津Phù âu tĩnh túc noãn sa tân

南 溟 殘 月 涪 千 里Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý

古 陌 寒 風 共 一 人Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân

黑 夜 何 其 迷 失 曉Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu

白 頭 無 賴 拙 藏 身Bạch đầu vô lại chuyết tàng thân

不 愁 久 露 霑 衣 袂Bất sầu cửu lộ triêm y duệ

且 喜 鬚 眉 不 染 塵Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần.

dịch là:

Chuyến đi đêm50

Page 49: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Non Hồng yên giấc sư giàCo chân cò trắng bãi xa ngủ vùi

Biển nam trăng lặn chân trờiĐường xưa gió lạnh ghẹo người quan san

Đêm dài dằng dặc chẳng tànBạc đầu vụng dại ẩn thân kiếm đường

Chẳng lo áo uớt gió sươngMày râu mừng nỗi bụi đường chẳng phai.

Tiếp nối ý thơ vui truyện hiện tại, dầu là nhò nhoi, để tạm quên những khó khăn trong viễn ành tương lai, trong bài Dạ Hành này, Nguyễn Du tạm quên nhưng khó nhọc trong chuyến đi này: chẳng lo sương sa ướt áo mà mừng vì râu mày chưa nhiễm bụi đường. Rồi tới ba bài cùng một đề:

雜 吟Tạp Ngâm

三 首Tam Thủ

其 一Kỳ Nhất

秋 聲 一 夜 渡 藍 河Thu thanh nhất da độ Lam Hà

無 影 無 形 入 我 家Vô ảnh vô hình nhập ngã gia

萬 里 西 風 來 白 髮Vạn lý tây phong lai bạch phát

一 窗 秋 色 在 黃 花Nhất song thu sắc tại hoàng hoa

百 年 哀 樂 何 時 了Bách niên ai lạc hà thời liễu

四 壁 圖 書 不 厭 多Tứ bích đồ thu bất yếm đa

庭 植 孤 松 高 百 尺Đình thực cô tùng cao bách xích

不 知 青 帝 柰 人 何Bất tri thanh đế nại nhân hà.

其 二Kỳ Nhị

龍 尾 江 頭 屋 一 間Long Vĩ giang đầu ốc nhất gian

幽 居 愁 極 忽 知 歡U cư sầu cực hốt tri hoan

達 人 心 境 光 如 月Đạt nhân tâm cảnh quang như nguyệt

處 士 門 前 青 者 山Xử sĩ môn tiền thanh giả san

枕 畔 束 書 扶 病 骨Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt

燈 前 斗 酒 起 衰 顏Đăng tiền đẩu tửu khởi suy nhan

51

Page 50: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

灶 頭 終 日 無 煙 火Táo đầu chung nhật vô yên hoả

窗 外 黃 花 秀 可 餐Song ngoại hoàng hoa tú khả xan.

其 三Kỳ Tam

漠 漠 秋 光 八 月 深Mạc mạc thu quang bát nguyệt thâm

茫 茫 天 氣 半 晴 陰Mang mang thiên khí bán thì âm

受 風 高 竹 鳴 天 籟Thụ phong cao trúc minh thiên lại

零 雨 黃 花 布 地 今Linh vũ hoàng hoa bố địa câm

遠 岫 寒 侵 遊 子 夢Viễn tụ hàn xâm du tử mộng

澄 潭 清 共 主 人 心Trùng đàm thanh cộng chủ nhân tâm

出 門 徐 步 看 秋 色Xuất môn từ bộ khán thu sắc

半 在 江 頭 楓 樹 林Khán tại phong đầu phong thụ lâm.

dịch là:

Tạp NgâmBa bài

ITiếng thu đêm vượt dòng Lam

Không hình không ảnh tới lầm nhà taGió tây nhuộm tóc trắng ra

Mầu thu khóm cúc nở hoa song ngoàiBuồn vui hết kiếp nào hay

Đồ thư bốn vách kệ đầy còn hamTrồng thông trăm thước trước sânChẳng hay trời sẽ xoay vần ra sao.

IIĐầu Long Vĩ nhà một buồng

Ẩn nơi u tịch đãi buồn làm vuiLòng người khoáng đạt trăng soiTrước nhà xử sĩ cao vời núi xanhGối đầu chồng sách bệnh hành

Rượu vào cặp má như hình đỡ nhănSuốt ngày bếp lạnh khói tàn

Muốn ăn cả đóa hoa vàng ngoài song.

IIIMênh mang tháng tám muộn thuNửa râm nửa nắng âm u cảnh trời

Gió đưa cành trúc sáo trờiĐược mưa khóm cúc rực tươi hoa vàng

Mộng du tử gửi non ngànĐầm sâu nước lặng như hồn người thơ

52

Page 51: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Của ngoài ngon mắt sắc thuRừng phong nửa rõ nửa mờ đầu sông.

Ba bài Tạp Ngâm trên đây, tuy cùng lấy mùa thu làm thi cảnh, nhưng ghi lại ba tâm cảnh khác biệt của tác giả. Bài thứ nhất qua bốn câu đầu cho thấy thi cảnh là một cảnh thu muộn, khiến người thơ dường như thấy mình già hơn tuổi. Ông đã chợt nhìn thấy cái chết luẩn quất đâu đó, tuy nhiên ông còn thấy ham sách, tuy sách đã chất đầy quanh bốn bức tường. Ông dường như còn muốn học hỏi xa hơn nữa, như lấy cái hữu hạn của cái hiểu biết của con người mà đo cái vô cùng của trời đất. Ông muốn trồng một cây thông cao trăm thước trước sân, chẳng cần biết trời xanh sẽ đối xử với ông ra sao. Người đọc chợt thấy hình ảnh Nguyễn Du tự họa tựa như hình ảnh André Compte-Sponville12 tự họa:

Je désire ce que je fais, ici et maintenant, je fais ce que je désire!để rồi đưa kết luận:C’est pourquoi nous pouvons être heureux, c’est pourquoi nous le sommes, parfois: parce

que nous faisons ce que nous désirons, parce que nous désirons ce que nous faisons!Bài thứ hai, qua câu thứ nhất Nguyễn Du cho thấy hiện cảnh thiếu thốn của ông, trong căn

nhà đầu bến Long Vĩ. Nhưng trong lòng ông thanh thản, sáng như ánh trăng, tuy ông còn đang dưỡng bệnh. Ông gối đầu lên chồng sách, mượn chút rượu làm hồng đôi má nhăn của ông. Câu thứ bẩy, một lần nữa cho thấy cảnh đói, thiếu thốn của gia đình ông, rồi sang câu thứ tám ông thấy muốn ăn cả cụm cúc vàng ngoài song. Một lần nữa thơ Nguyễn Du đưa người đọc về với André Comte-Sponville:

La faim est un manque, une souffrance, une faiblesse, un malheur; l’apétit, une puissance et un bonheur.

Sang bài thứ ba, cả tám câu đều tả cảnh thu trước mắt. Nguyễn Du, không có một lời về quá khứ, không một chữ về tương lai. Chỉ có cảnh thu hiện tại trước mắt, không có mảy may ước vọng, chỉ còn cái tĩnh lặng trong tâm tác giả. Nguời đọc nhớ tới một câu của Jules Renard 13:

Je ne désire rien du passé. Je ne compte plus sur l’avenir . Le présent me suffit. Je suis un homme heureux, car j’ai renoncé au bonheur.

Phải chăng trong bài Tạp Ngâm III này, Nguyễn Du đã buông bỏ việc chạy theo hạnh phúc. Phải chăng cách sống an lạc duy nhất là buông bỏ đến cả hy vọng? Phải chăng như vậy ba bài Tạp Ngâm trên đây là những kinh nghiêm thực tế của ông trên đường đi tìm an lạc, mà Nguyễn Du muốn trao lại cho người đọc ông ngày nay?

Tiếp theo ba bài Tạp Ngâm trên đây, Thanh Hiên Thi Tập chép hai bài thơ gửi Thực Đình. Ông này là ai, giới nghiên cứu chưa tìm rõ đưọc tung tích. Bài thứ nhất như sau:

贈 實 亭Tặng Thực Đình

天 鶴 潭 魚 何 處 尋Thiên hạc đàm ngư hà xứ tầm

羅 城 一 別 十 年 深La Thành nhất biệt thập niên thâm

同 年 對 面 隔 天 壤Đồng niên đối nghiệp cách thiên nhưỡng

往 事 回 頭 成 古 今Vãng sụ hồi đầu thành cổ kim

白 髮 消 磨 貧 士 氣Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí

綈 袍 珍 重 古 人 心Đề bào trân trọng cố nhân tâm

莫 愁 僻 地 無 佳 客Mạc sầu tịch địa vô giai khách

藍 水 鴻 山 足 詠 吟12. André Compte-Sponville, Le Bonheur, désespérément, Librio, Éditions Pleins Feux, Paris 2000, p.3413. Jule Renard, Journal,9 Avril 1895, in André Comte-Sponvil, ibid. p.49.

53

Page 52: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Lam thủy Hồng Sơn túc vị ngâm

dịch là:Tặng Thực Đình

Cá đầm chim hạc biệt tămLa Thành giã biệt mười năm qua rồi

Bạn bè đôi ngả đôi noiChuyện xưa nhìn lại xa vời cổ kim

Bạc đầu chí khí tan chìmÁo thêu người cũ còn tìm trọng ai

Chớ sầu hẻo lánh thôn ngoàiLam Giang Hồng Lĩnh còn dài vịnh ngâm.

Giới nghiên cứu chưa tìm ra đươc Thực Đình là nhân vật nào. Trong câu thứ ba có hai chữ đồng niên, nguòi đọc biết ông là bạn cùng khóa với Nguyễn Du. Hai người có thời quen biết nhau tại Nghệ An. Chữ đề bào, nghĩa là áo bào thêu, Nguyễn Du dùng trong câu thứ năm là điển lấy từ truyện Phạm Thư, Thái Trạch trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên 14, truyện của hai nhà du thuyết thời Xuần Thu. Phạm Thư là người nước Ngụy. Khởi nghiệp Thư phải giúp việc chu Tu Giả, đi sứ sang nước Tề. Dịp đó Phạm Thư được vua Tề cho vàng bạc và rượu thịt. Tu Giả, giận lắm, chỉ cho Pham thư nhận rưọu thịt và bắt trả lại vàng bạc. Về nước, Phạm Thư bị hạch tội, phạt đánh roi, gẫy xương rụng răng. Thư giả chết, trốn thoát cải tên đổi họ thành Trương Lộc tiếp tục làm nghề thuyết khách, sau làm tướng quốc nước Tần. Tu Giả đi sứ sang Tần. Phạm Thư giả làm thường dân tới thăm. Tu Giả nhận ra Phạm Thư, nhưng không biết Phạm Thư là tướng quốc nước Tần, ban cho Phạm Thư một tấm áo thêu. Sau đó Tu Giả biết Phạm Thư là tướng quốc nước Tần, sợ hãi xin tạ tội. Phạm Thư nói: ‘ban cho một tấm áo thêu đủ tỏ lòng ông còn quyến luyến nhớ tói bạn xưa, và bỏ qua hết truyện cũ’

Rồi tới lá thư thứ hai:

復 實 亭Phúc Thực Đình

冬 寒 夏 暑 故 侵 尋Đông hàn hạ thử cố xâm thầm

老 大 頭 顱 歲 月 深Lão đại đầu lô tuế nguyệt thâm

京 國 鶯 花 千 里 外Kinh quốc oanh hoa thiên lý ngoại

江 湖 蓑 笠 十 年 Giang hồ thoa lạp thập niên kim

聚 頭 難 得 常 青 目Tụ đầu nan đắc thường thanh mục

理 髮 當 知 未 白 心Lý phát đương tri vị bạch tâm

藍 水 鴻 山 無 限 勝Lam thủy Hồng Sơn vô hạn thắng

憑 君 收 拾 助 清 吟Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm.

Dịch là:

Trả Lời Thực ĐìnhHạ đông nóng lạnh đổi thay

Cái già chồng chất tháng ngày trôi qua Kinh kỳ ngàn dặm anh hoa

Áo tơi nón lá nay đà mười năm14. Tư Mã Thiên, Sử Ký, bản dịch của Nhữ Thành, nhà xuất bản Văn Hóa, Hà nội 1988,tr. 471 ff. 54

Page 53: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Mắt xanh gặp gỡ khó khănCảnh như tóc rối bạch tâm khó bầy

Lam Hồng sông núi chốn đâyChờ anh thâu lượm vơi đầy túi thơ.

Thanh Hiên Thi Tập không chép lá thư Thực Đình gừi Nguyễn Du. Tut nhiên nếu chỉ bằng vào lá thư trên đây, người đọc thấy qua câu thứ sáu, dường như trong hoàn cảnh đương thời, Nguyễn Du thấy gặp khó khăn nên không muốn trả lời trực tiếp trong thư, và chỉ có ý muốn mời Thức Đình về chơi Hồng Lĩnh ngâm vịnh.

Bài tiếp theo là bài cuối cùng Nguyễn Du viết trước khi ra làm quan với triều Nguyễn. Đó là bài:

獵Liệp

衣 冠 達 者 志 青 雲Y quan đạt giả chí thanh vân

吾 亦 樂 吾 糜 鹿 群Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần

解 釋 閒 情 安 在 獲Giải thích nhàn tình an tại hoạch

屏 除 異 類 不 妨 仁Bình trì dị loại bất phương nhân

麝 眠 淺 草 香 猶 Xạ miên thiển thảo hương do thấp

犬 渡 重 山 吠 不 聞Khuyển phệ trùng sơn hệ bất văn

浮 世 為 歡 各 有 道Phù thế vi hoan các hữu đạo

驅 車 擁 蓋 是 何 人Khu xa ủng cái thị hà nhân.

dịch là:

Đi SănThanh vân mũ áo cân đai

Ta vui với lũ hươu nai đủ rồiCốt khuây khỏa lợi kệ người

Giết loài khác giống chẳng dời chữ nhânXạ hương thơm mát cỏ non

Biệt tăm tiếng chó sau hòn núi xanhThú vui trần thế tùy mình

Xe đưa lọng đón dập dình mặc ai.

Bài thơ như biểu thị cùng một tâm cảnh của tác giả hệt như ba bài Tạp Ngâm trên đây. Thanh vân, nghĩa nôm là mây xanh, là hình ảnh chỉ những người hiển đạt có mũ áo cân đai. Nguyễn Du thích vui với bầy hươu nai, và đã chạy đuổi săn hươu nai, chẳng phải để kiếm lợi, cũng chẳng lo sát sinh hại đến chữ nhân. Ông hưởng mùi thơm bãi cỏ non, ông lắng chờ nghe tiếng chó sủa bên kia hòn núi. Ông tự nhủ là thú vui ở cõi trần thế này ai thích cái gì tùy người đó. Nhưng xe long đón đưa thì ông kệ người.

Thú săn hươu nai là cái thú ông nhắc nhỏ tới trong bài thơ gửi bạn sau khi ông đã ra Bắc Hà lam quan với triều nhà Nguyễn.

寄 友Kỳ Hữu

鴻 山 山 月 一 侖 明55

Page 54: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Hồng Sơn sơn nguyệt nhất luân minh千 里 長 安 此 夜 情

Thiên lý trường An thử dạ tình太 璞 不 全 真 面 目

Thái phác bất toàn chân diện mục一 州 何 事 小 功 名

Nhất châu hà sự tiểu công danh有 生 不 帶 公 侯 骨

Nhất sinh bất đái công hầu cốt無 死 終 尋 家 鹿 盟

Vô tử chung tầm gia lộc minh羨 殺 北 窗 高 臥 者

Tiển sát bắc song cao ngọa giả平 居 無 事 到 虛 靈

Bình cư vô sự đáo hư linh.

dịch là:Gửi Bạn

Nhớ non Hồng Lĩnh tròn trăngKinh kỳ ngàn dặm ngổn ngang dạ này

Chẳng còn thái phác từ nayCông danh chức nhỏ không ngoài một châu

Sinh không có tướng công hầuSống mơ cái thú bạn bầu hươu nai

Những mong song bắc nằm dàiHư linh tìm nẻo dở hay mặc người.

Qua câu thứ tư, giới nghiên cứu cho rằng Nguyễn Du viết lá thư này khi ra Bắc nhiệm chức Tri Huyện Phù Dung (Phủ Cừ) Hưng Yên. Điểm đáng để ý là từ nay ông tự coi mình, theo nhiều nhà nghiên cứu, như không còn nguyên vẹn tính thái phác. Hai chữ này Nguyễn Du trích Chiến Quốc Sách lấy từ lời Nhan Xúc từ chối lời mời của Tề Vương: “Ngọc sinh từ trong núi. Muốn lấy ngọc phải phá núi, không phải là không quý, nhưng không toàn vẹn tính thái phác” vì lẽ ông đã ra làm quan với triều nhà Nguyễn. Ông tự cho mình không có tướng công hầu, hay đúng hơn là ông không muốn ra làm quan, vẫn còn nhớ cái thú đi săn, ước mong đời sống ần dật như Đào Tiềm nằm bên song bắc, và tìm lối về hư linh, mọi thế sự bỏ ngoài tai.

Người đọc có thể coi thái độ trên đây là một thái độ thiếu thành tâm, nhưng nhìn chung trong văn học Đông Á, nhiều nhà nghiên cứu đã cho thái độ này là nếp sống của nhà nho đứng trước cái đối đãi giữa tính hữu vi của nho học và tính vô vi của Lão và Phật học. Đó là nếp sống của những nhà nho xử trong khi xuất, nói theo Bạch Cư Di, như sẽ trình bày trong đoạn sau.

Những ngày ông mới ra làm quan và sống bên sông La Phù, Nguyễn Du lấy niềm nhớ quê làm thi hứng, trong hai bài kế tiếp . Một là bài:

羅 浮 江 水 閣 獨 坐La Phù Giang Thủy Các Độc Tọa

水 閣 閣 下 江 水 深Thủy các các hạ giang thủy thâm

水 閣 閣 上 人 沉 吟Thủy các các thượng nhân trầm ngâm

悠 悠 雲 影 變 晨 夕Du du vân ảnh biến thần tịch

滾 滾 浪 花 浮 古 今Cổn cổn lãng hoa phù cổ kim

塵 世 百 年 開 眼 夢56

Page 55: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Trần thế bách niên khai nhãn mộng鴻 山 千 里 倚 欄 心

Hồng Sơn thiên lý ỷ lan tâm徘 徊 對 景 獨 無 語

Bồi hồi đối cảnh độc vô ngữ白 髮 數 莖 垂 我 襟

Bạch phát sổ hành thùy ngã khâm.dịch là:

Một Mình trên Thủ Các Sông La PhùDưới chân thủy các nước sâu

Đứng trên thủy các trĩu sầu lòng aiMây chiều nắng sớm đổi thay

Cổ kim sóng cuốn sông dài chẩy xuôiTrăm năm mắt mở mộng đời

Nhớ về Hồng Lĩnh xa xôi tựa cầuNín lời đối cảnh nao nao

Xổ tung tóc trắng trên đầu áo vương.

Hai là bài:

初 月Sơ nguyệt

吸 得 陽 光 纔 上 天Hấp đắc dương quang tài thướng thiên

初 三 初 四 未 團 園Sơ tam sơ tứ vị đoàn viên

嫦 娥 庄 鏡 微 開 匣Thường nga trang kính vi khai hạp

壯 士 彎 弓 不 上 弦Tráng sĩ loan cung bất thuớng huyền

千 里 關 山 無 改 數Thiên lý quan sơn vô cải sắc

一 庭 霜 露 共 愁 眠Nhất đình sương lộ cộng sầu miên

徘 徊 正 憶 鴻 山 夜Bồi hồi chính ức Hồng Sơn dạ

卻 在 羅 浮 江 水 邊Khước tại La Phù giang thủy biên.

dịch là:

Trăng NonLó chân trời ngậm ánh dương

Mùng ba mùng bốn nõn nường liềm trăngVành gương hé nắp chị Hằng

Dây cung chưa mắc há giăng anh hùngQuan san một vẻ dặm trường

Giấc sầu giục giấc móc sương đầy thềmĐêm nao Hồng Lĩnh trắng đêm

Mà nay nấn ná thủy biên La Phù.

Thi tứ trong cả hai bài trên đây đều giãi tỏ niểm nhớ quê hương, nhớ những ngày vui của tác giả tại Hồng Lĩnh, khiến ông thấy như mình già hơn, tóc rụng nhiều hơn, mà cơ hội ông

57

Page 56: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

chờ đợi dường như đang tới, nhưng chính trong thâm tâm ông chưa sẵn sàng, như người tráng sĩ có cung trong tay mà chưa mắc dây cung.

Tâm cảnh đó dường như đưa Nguyễn Du về với kinh sách Lão Học, như ông ghi lại trong bài sau đây:

偶 興Ngẫu Hứng

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

初 更 鼓 角 五 更 雞Sơ canh cổ giác ngũ canh kê

終 夜 徘 徊 思 轉 迷Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê

明 月 滿 天 何 故 故Minh nguyệt mãn thiên hà cố cố

西 風 吹 我 正 淒 淒Tây phong xuy ngã chính thê thê

傖 殘 物 性 悲 鳧 脛Thương tàn vật tính bi phù hĩnh

刻 雒 天 真 失 馬 蹄Khắc lạc thiên chân thất mã đề

若 遇 山 中 糜 鹿 友Nhược ngộ sơn trung mi lộc hữu

煙 霞 舊 話 不 堪 提Yên hà cựu thoại bất kham đề.

其 二Kỳ Nhị

一 淚 天 涯 洒 斷 蓬Nhất lệ thiên nhai sái đọan bồng

羅 浮 江 上 起 秋 風La Phù giang thượng khởi thu phong

黃 雲 白 水 兩 相 照Hoàng vân bạch thủy lương tương chiếu

急 管 悲 絲 萬 不 同Cấp quản bi ty vạn bất đồng

六 尺 拘 糜 長 役 役Lục xích câu mi trường dịch dịch

四 時 拋 躑 太 匆 匆Tứ thời phao trịch thái thông thông

征 鴻 影 裡 家 何 在Chinh hồng ảnh lý gia hà tại

隱 隱 瓊 雲 三 兩 風Ẩn ẩn quỳnh vân tam lưõng phong.

dịch là:Ngẫu Hứng

Bài IỐc vào canh gà tàn canh

58

Page 57: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Suốt đêm tính quẩn lo quanh bồi hồiTrăng ngà vằng vặc một trờiGió tây heo hút dạ tôi bộn bề

Hại tính vật nối chân leĐổi thiên chân sót mã đề đớn đau

Hươu nai bạn cũ non sâu Truyện xưa khói ráng từ lâu chẳng bàn.

Bài IILệ bên trời tưới cánh bồng

Gió thu chợt nổi bên sông La PhùMây vàng nước bạc mịt mù

Tơ trùng sáo gấp tiềng thu nghẹn ngàoTấm thân sáu thước dịch lao

Bốn mùa vùn vụt khác nào thoi đưaCánh hồng giục nhớ nhà xưa

Mây quỳnh cuồn cuộn tỏ mờ núi xa.

Hình ảnh nối chân le, gọt móng ngựa, lấy từ hai thiên Biền Ngẫu và Mã Đề sách Trang Tử Nam Hoa Kinh, dùng trong hai câu năm và sáu bài Ngẫu Hứng I, là những hình ảnh tác giả đã dùng trong bài Tự Thán I. Trong bài Ngẫu Hứng II, hình ảnh cỏ bồng lìa gốc, và tấm thân bẩy thước cũng là hình ảnh tác giả đã dùng để tự họa trong bài Tụ Thán II. Có điểm khác nhau là trong hai bài Tự Thán, trong những ngày tản cư, tác giả lo sợ cho tương lai, ước ao vào rừng xuống tóc ở ẩn, và trong hai bài Ngẫu Hứng trên đây tác giả chỉ giãi bầy tâm cảnh nhớ nhà của ông, nhớ những ngày sống trong cảnh đường cùng, mà bây giờ ông lại thấy là cảnh vui đáng sống lại. Phải chăng tâm cảnh đó là phản ảnh của đời sống lúc này, ông ra làm quan trái nược với bẩm tính của ông?

Tâm cảnh trên còn là hứng thơ của nguyễn Du trong hai bài kế tiếp đưới đây:

暮 春 漫 興Mộ Xuân Mạn Hứng

一 年 春 色 九 十 日Nhất niên xuân sắc cửu thập nhật

拋 擲 春 光 殊 可 憐Phao trịch xuân quang thù khả liên

浮 世 功 名 看 鳥 過Phù thế công danh khán điểu quá

閒 庭 節 序 帶 鶯 遷Nhàn đình tiết tự đái oanh thiên

側 身 不 出 有 影 外Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại

千 歲 長 憂 未 死 前Thiên tuế trường ưu vị tử tiền

浮 利 榮 名 終 一 散Phù lợi vinh danh chung nhất tán

何 如 及 早 學 神 仙Hà như cấp tảo học thần tiên.

dịch là:

Mạn Hứng Cuối XuânMột năm chín chục ngày xuân

Thương ai phung phí nắng xuân bấy chầyCông danh dường cánh chim bayTùy mùa thời tiết vần xoay đổi dờiHình ngoài ràng buộc thân người

Chết kề câu chuyện ngàn đời còn lo59

Page 58: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Lợi danh rồi cũng thành troThần tiên sao chẳng học cho kịp thời.

Đi tìm yên vui là truyện con người ai ai cũng đuổi đeo. Qua bài Mộ Xuân Mạn Hứng trên đây, Nguyễn Du thương những ai phung phí nắng xuân, đuổi đeo công danh, mà chẳng biết là cuộc đời ngắn ngủi, sắp kề miệng lỗ còn lo truyện ngàn năm. Lợi lớn danh cao, rồi cũng tan biến. Ý thơ này Nguyễn Du đã viết trong bài Hành lạc Từ I. Riêng ông không màng danh lợi. Trong bài này ông đặt câu hỏi là sao không kíp thời theo học đạo Lão Trang.

Rồi tới bài:

清 明 偶 興Thanh Minh Ngẫu Hứng

東 風 晝 夜 動 江 城Đông phong trú dạ động giang thành

人 自 悲 悽 草 自 青Nhân tự bi thê thảo tự thanh

春 日 有 身 非 少 壯Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng

天 涯 無 酒 對 清 明Thiên nhai vô tửu đối thanh minh

村 哥 初 學 桑 痲 語Thôn ca sơ học tang ma ngữ

野 哭 時 聞 戰 伐 聲Dã khốc thời văn chiến phạt thanh

客 舍 含 愁 已 無 限Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn

莫 教 茅 草 近 階 生Mạc giao mao thảo cận giai sinh.

dịch là:

Thanh Minh Mạn HứngĐêm qua gió động giang thành

Người buồn não nuột cỏ xanh ranh rờnNgày xuân quá lứa thương thân

Thanh minh không rượu ngày xuân bên trờiCâu ca học nói theo người

Đồng ngoài tiếng khóc oán thời đao binh Ngậm sầu quán khách nhủ mình

Cỏ săng chớ để mọc quanh bên thềm.

Tết thanh minh là ngày người Đông Á đi thăm mồ mả ông cha. Thanh Minh này, Nguyễn Du trú trong một khách xá, không ghi rõ ở đâu, nhưng chắc xa quê nhà. Ông thoáng buồn vì xuân về mà ông đã quá tuổi xuân, thêm nỗi xa nhà thiếu rượu. Tiếng nói địa phương ông còn học qua những câu đồng dao, đôi khi ông còn nghe thấy tiếng khóc than vì chiến binh ngoài đồng nội. Ông mang mối buốn đó và ông nhủ mình là chớ để mối buồn đó khuấy động niềm yên vui trong lòng.

Người đọc dường như thấy Nguyễn Du giữ được niềm yên vui trong tâm cảnh suốt mấy bài sau đây:

清 決 江 晚 眺Thanh Quyết Giang Vãn Diểu

浮 橋 盡 處 出 平 田60

Page 59: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Phù kiều tận xứ xuất đồng bằng歷 歷 青 山 在 眼 前

Lịch lịch thanh sơn tại nhãn tiền古 徑 樵 歸 明 月 擔

Tiểu kính tiều quy minh nguyệt đảm潮 門 漁 送 夕 陽 船

Triều môn dương tống tịch dương thuyền茫 茫 遠 水 三 春

Mang mang viễn thũy tam xuân thụ落 落 人 兩 岸 煙

Lạc lạc nhân gia lưỡng ngạn yên極 目 鄉 關 在 何 處

Cực mục hương quan tại hà xứ征 鴻 數 點 白 雲 邊

Chinh hồng sổ điểm bạch vân biên.dịch là:

Cảnh Chiều Bên Sông Thanh QuyếtQua cầu nổi tới đồng bằng

Chắn ngang tầm mắt núi dăng xanh rờnTiều về trăng giãi đường mòn

Thuyền câu tách bến chiềuhôm thẫm dầnCây xanh nước biếc mầu xuân

Nhá ai lác đác khói vần bến sôngQuê hương xa thẳm vời trông

Bên làn mây trắng cánh hồng nản bay.

Giới nghiên cứu cho biết là sông Thanh Quyết, còn gọi là sông Gián Khẩu, là một khúc sông Đáy, khoảng giữa đường từ Ninh Bình đi Phủ lý. Toàn thể bài thơ là một cảnh chiều bên sông, có hình ảnh chú tiều phu và chiếc thuyền câu, tiêu biểu cho nhưng nguời ở ngoài vòng cương tỏa. Hình ảnh cây xanh nước biếc trong mầu sắc mùa xuân và một xóm nhỏ xa xa gợi cho tác giã niềm nhớ nhà, trong hiện cảnh xa quê. Người đọc dường như được cùng tác giả chia xẻ niềm thanh thản trước cảnh đẹp bên sông.

Tiếp theo là cảnh:

同 籠 江Đồng Lung Giang

同 籠 江 水 去 悠 悠Đồng Lung giang thủy khứ du du

今 古 閒 愁 不 住 流Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu

沙 嘴 殘 蘆 飛 白 鷺Sa chủy tàn lô phi bạch lộ

隴 頭 落 月 臥 寒 牛Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu

亂 山 翠 接 泒 城 暮Lọan sơn thúy tiếp cô thành mộ

水 竹 寒 生 小 店 秋Thủy trúc hàn sinh tiểu điếm thu

羨 爾 野 鷗 隨 水 去Tiễn nhĩ dã âu thùy thũy khứ

浮 生 勞 碌 幾 時 休Phù sinh lao lực kỷ thời hưu?

dịch là:61

Page 60: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Sông Đồng LungĐồng Lung nước chẩy về đâu

Nước trôi trôi cà mối sầu ngày quaCồn lau cò trắng la đà

Đầu ghềnh trâu tắm trăng tà thảnh thơiThành liền núi biếc chiều rơi

Bờ tre quán gió chơi vơi thu tànNhìn âu bơi lượn một đàn

Bao giờ hết cảnh gian nan kiếp người.

Giới nghiên cứu hiện chưa biết sông Đồng Lung là khúc sông nào. Cho đến hết câu thứ bẩy, toàn thể là cảnh đẹp một buổi chiều bên sông. Trong cảnh đó tác giả, như quên được mối sầu đằng đẵng trong quá khứ. Cảnh hiện trước mắt ông là đàn cò trên cồn lau, là con trâu tắm đầu ghềnh, là liềm trăng tà, là bức thành cổ liền với trời, với quán gió với đàn âu tự do bơi lội. Tất cả đều tĩnh lặng, nhưng trong lòng ông dường như chưa thực tĩnh lặng: ông còn tự hỏi bao giờ thì kiếp người mới thoát cảnh gian nan. Rồi tới bài:

同 廬 路 上 遙 見 柴 山Đồng Lư Lộ Thượng Dao Kiến Sài Sơn

柴 山 山 上 多 浮 雲Sài Sơn sơn thượng đa phù vân

柴 山 山 下 石 磷 磷Sài Sơn sơn hạ thạch lân lân

同 廬 路 上 西 翹 首Đồng Lư lộ thượng tay kiều thủ

秀 色 蒼 然 來 照 人Tú sắc thương nhiên lai chiếu nhân

歷 歷 樓 臺 天 外 見Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiến

微 微 鍾 鼓 月 中 聞Vi vi chung cổ nguyệt trung văn

青 杉 走 遍 紅 塵 路Thanh lam tẩu biến hồng trần lộ

猿 鶴 何 從 認 舊 人Viện hạc hà tòng nhận cựu nhân.

dịch là:

Trên Đường Đồng Lư Ngoái Nhìn Núi Thầy

Núi Thầy mây quấn ngàn tầngĐá đây lởm chởm dọc ngang ai bầy

Đường Đồng Lư ngoảnh về tâyLong lanh đá biếc ngất ngây lòng người

Lâu đài sừng sững cuối trờiTrống chuông văng vẳng trăng soi một vừng

Áo xanh lạc lõng bụi hồngBạn xưa vượn hạc khó lòng nhận ra.

Núi Thầy tên chữ là Sài Sơn, thuộc huyện Quốc Oai, tỉnh Sơn Tây, có chùa thờ nhà sư Từ Đạo Hạnh. Tác giả ghi lại cảm hứng khi ngoái nhìn về núi Thầy, với phong cảnh lạ mắt, rồi chợt thấy thương thân mình đang trên đường ngàn dặm, dưới lớp áo xanh , tiêu biểu cho người đã ra làm quan, và e ngại vượn hạc, hay bạn bè xưa thời còn lả ẩn sĩ khó lòng nhận ra ông vốn là bạn cũ.

Tiếp theo, Thanh Hiên Thi Tập chép bài:62

Page 61: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

諒 山 道 中Lạng Sơn Đạo Trung

萬 木 山 前 可 卜 居Vạn mộc sơn tiền khả bốc cư

白 雲 在 岫 水 通 渠Bạch vân tự tại thủy thông cừ

山 僧 對 竹 兩 無 恙Sơn tăng đối trúc lưỡng vô dạng

牧 豎 騎 牛 一 不 如Mục thụ kỵ ngưu nhất bất như

影 裡 鬚 眉 看 老 矣Ảnh lý tu mi khan lão hỹ

夢 中 松 匊 憶 歸 與Mộng trung tùng cúc bất quy dư

坐 家 村 叟 多 閒 事Tọa gia thôn tẩu đa nhàn sụ

只 未 平 生 不 讀 書Chỉ thị bình sinh bất độc thư

dịch là:

Trên Đường Lạng SơnVen rừng chân núi ẩn cư

Có hang mây trắng có cừ nước trongSơn tăng cùng trúc chay lòng

Lưng trâu mục tử thong dong ai tầyCái già hiện rõ râu mày

Những mơ tùng cúc nào hay ngày vềSướng thay ông lão đống quê

Suốt đời sách vở không hề liếc qua.

Giới nghiên cứu, cho là Nguyễn Du viết bài thơ trên đây, trong dịp ông được cử lên Trấn Nam Quan nghênh tiếp sứ thần Trung Quốc, vào mùa đông năm 1803.

Lãnh việc quan trọng đại, nhưng qua bài thơ này, người đọc thấy dường như ông chỉ để tâm đến niềm an lạc của riêng ông. Nhìn cảnh hang mây, suối nước bên đường ông nghĩ đến truyện về đó ẩn cư. Nhìn thấy nhà sư bên giậu trúc ông nghĩ tới công quả chay lòng như thân trúc rỗng của nhà sư. Nhìn thấy trẻ chăn trâu ông thấy chúng được thong dong hơn ông hiện đang trên đường lo việc quan. Ông chợt thấy râu mày ông bày cái già của ông ra. Việc quay về cùng tùng cúc chỉ là giấc mơ không biết đến ngày nào mới thành sự thật. Ông chợt thấy làm ông lão đồng quê, không mắc nợ sách đèn, có lẽ được nhàn thân hơn ông.

Tiếp theo là ba bài Nguyễn Du ghi lại những thắng cảnh bên đường. Một là:

望 夫 石Vọng Phu Thạch

石 耶 人耶 彼 何 人Thạch gia nhân gia bỉ hà nhân

獨 立 山 頭 千 百 年Độc lập sơn đầu thiên bách niên

萬 劫 杳 無 雲 雨 夢Vạn kiếp yểu vô vân vũ mộng

一 貞 留 得 古 今 身Nhất trinh lưu đắc cổ kim thân

戾 痕 不 絕 三 秋 雨63

Page 62: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ苔 篆 長 銘 一 段 文

Đài triện trường minh nhất đoan văn四 望 連 山 渺 無 際

Tứ vọng liên sơn diểu vô tế獨 教 而 女 擅 彝 倫

Độc giao nhi nữ thiện di luândich là:

Hòn Vọng PhuAi đây là đá là người

Vạn năm đàu núi chơi vơi đúng chờSắt son đánh đổ mây mưa

Chữ trinh kim cổ chẳng mờ tấm thânMưa ngâu lệ ngấn sâu hằn

Rêu ghi chữ triện đọan văn muôn đờiNúi xanh lớp lớp chân trời

Luân thường gương tỏ người người soi chung

Việt Nam có ba hòn Vọng Phu: một ở Lạng Sơn, Một ở Bình Định và một ở vùng Thanh Hóa. Giới nghiên cứu cho rằng trong bài trên đây Nguyễn Du mô tả hòn Vọng Phu ở Lạng Sơn, nhân dịp ông đi đón tiếp sứ thần nhà Thanh vào năm Quí Hợi, 1804. Hòn Vọng Phu này đã bị quân Trung Quốc bắn xập, nhân vụ đụng độ tại biên giới năm cuối thế kỷ XX, vùng đất này nay cũng mất về tay Trung Quốc.

Hai là bài:

題 二 青 洞Đề Nhị Thanh Động

盤 古 初 分 不 記 年Bàn Cổ sơ phân bất ký niên

\山 中 生 窟 窟 生 泉Sơn trung sinh quật quật sinh tuyền

萬 般 水 石 擅 大 巧Vạn bàn thủy thạch thiện đại xảo

一 粒 乾 坤 開 小 天Nhất lạp càn khôn khai tiểu thiên

滿 埂 皆 空 何 有 相Mãn cảnh giai không hà hữu tướng

此 心 常 定 不 離 禪Thử tâm thiền định bất ly thiền

大 師 無 意 亦 無 盡Đại sư vô ý diệc vô tận

俯 嘆 城 中 多 變 遷Phủ thán thành trung đa biến thiên.

dịch là:

Đề Động Nhị ThanhTừ bàn cổ chẳng ghi năm

Tạo hang tạo núi tạo ngàn suối trongĐá khe khéo xếp hóa công

Càn khôn một hạt mở toang một vùngSắc không không sắc vô cùng

Lòng này thường định hằng nương về thiền64

Page 63: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Đại sư vô lượng diệu huyềnĐoái than chuyển biến triền miên trong thành

Động Nhị Thanh ở phía Bác thị xã Lạng Sơn, cùng hai động Nhất Thanh và Tam Thanh là ba thắng cảnh nổi tiếng ở vùng này. Ngô Thì Sĩ, khi làm quan ở vùng này có lập bàn thờ Tam Giáo trong động. Trong bốn câu đầu Nguyễn Du mô tả vẻ đẹp của động Nhị Thanh. Ba câu sau ông nhận định về Phật Pháp và tỏ ý muốn hướng về Thiền Học, ông nhìn lại trong thành thấy mọi biến chuyển mà than cho kiếp người.

Bài thứ ba là bài:

鬼 門 道 中Qủy môn Đạo Trung

鬼 門 石 徑 出 雲 根Quỷ Môn thạch kính xuất vân căn

征 客 南 歸 欲 斷 魂Cinh khách nam quy dục đoạn hồn

樹 樹 東 風 吹 送 馬Thụ thụ đông phong xuy tống mã

山 山 落 月 夜 啼 猿Sơn sơn lạc nguyệt dạ đề viên

中 旬 老 太 逢 人 懶Trung tuần lão thái phùng nhân lãn

一 路 寒 威 仗 酒 溫Nhất lộ hàn uy trượng tửu ôn

山 塢 何 家 大 貪 睡Sơn ổ hà gia đại tham thụy

日 高 猶 自 掩 柴 門Nhật cao do tự yểm sài môn.

dịch là:

Trên Đường Quỷ MônMây tuôn từ gốc Quỷ Môn

Xuôi nam đối cảnh dạ buồn xót xaGió bay bờm ngựa tiễn đưa

Vượn than đêm vắng trăng tà đầu nonSớm già thù tiếp lười quen

Đường dài rét mướt nhờ men sưởi lòngNhà ai xóm núi kín bưng

Mặt trời vòi vọi còn dường ngủ ngon.

Giới nghiên cúu cho biết Quỷ Môn Quan là ải Chi Lăng. Có người cho biết là Chữ Qủy Môn Quan của người Trung Quốc trong câu:

Quỷ Môn Quan. Qủy Môn Quan, Thập nhân khứ, nhất nhân hoàn

ghi lại những lần tàn quân Trung Quốc trở về nước sau những cuộc xâm lăng Việt Nam. Nguyễn Du viết bài thơ trên trên đường từ Ản Nam Quan trở về Nam. Người đọc cảm thấy nỗi mệt nhọc của tác giả sau chuyến việc quan. Ông cảm thấy thèm được ngủ một giấc như ai đó trong căn nhà trong xóm núi, lúc này mặt trời đã lên cao.

Theo Lê Thước & Trương Chính, Nguyễn Du ở Lạng Sơn từ mùa đông Giáp Tý 1804, đến mùa xuân Quý Hợi 1805, nên ông có bài sau đây ghi lại cảnh đêm xuân ở trong quán khách, tại nhà công quán Lạng Sơn, nhân ngày đầu năm, tưởng nhớ anh em nơi quê nhà, giãi bày

65

Page 64: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

tâm sự người ra làm quan không còn muốn rong ruổi, cùng cái cảnh cười ra nước mắt trên nẻo đường bon chen danh lợi:

春 宵 旅 次Xuân Tiêu Lữ Thứ

蕭 蕭 蓬 鬢 老 風 塵Tiêu tiêu bồng mấn lão phong trần

暗 裡 偏 驚 物 候 新Ám lý thiên kinh vật hậu tân

池 草 未 闌 千 里 夢Trì thảo vị lan thiên lý mộng

庭 梅 已 換 一 年 春Đình mai dĩ hoán nhất niên xuân

英 雄 心 事 荒 馳 騁Anh hùng tâm sự hoang trì sính

名 利 營 場 累 笑 顰Danh lợi doanh trường luỵ tiếu tần

人 自 蕭 倏 春 自 好Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo

團 城 城 下 一 沾 巾Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân.

dịch là:

Quán Khách Đêm XuânRối tung mái tóc phong trần

Đoái nhìn cảnh vật xoay vần sắt seMộng ao cỏ cách sơn khê

Đổi năm mai nở xuân về bên hiênAnh hùng nản bước bon chen

Lợi danh ghen ghét đòi phen khóc cườiNgười buồn cảnh vẫn xanh tươi

Tấm khăn đẫm lệ ven trời Lạng Sơn.

Giới nghiên cứu cho hay, hai chữ trì thảo, dịch là ao cỏ lấy từ truyện hai anh em Tạ Huệ Liên và Tạ Linh vận, người đời nhà Tấn. Huệ Liên mười tuổi đã biết làm thơ. Linh Vận thường nói : “Gặp Huệ Liên thường làm được câu thơ hay.” Một hôm Linh Vận ngồi bên bờ ao, không nghĩ ra được câu thơ nào, đến đêm mơ thấy Huệ Liên, làm được câu: ‘Trì đường sinh xuân thảo’ nghĩa là ‘bờ ao mọc cỏ xuân’. Nguyễn Du mượn điển này để nói chiêm bao thấy anh em nơi quê nhà.

Nguyễn Du mô tả cảnh bon chen trên dường danh lợi rõ rệt hơn trong bài ngũ ngôn dưới đây:

孔 雀 舞Khổng Tước Vũ

孔 雀 俯 懷 毒Khổng tước phủ hoài độc

誤 服 不 可 醫Ngộ phục bất khả y

外 露 文 章 體Ngoại lộ văn chương thể

中 藏 殺 伐 機Trung tàng sát phạt ky

人 侉 容 止 善66

Page 65: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Nhân khoa dung chỉ thiện我 惜 羽 毛 奇

Ngã tích vũ mao kỳ海 鶴 亦 會 舞

Hải hạc diệc hội vũ不 與 世 人 知

Bất dũ thế nhân tri.

dịch là:

Con Công MúaMật công độc chẳng gì bằng

Ăn lầm chạy chữa thuốc thang chẳng lànhMẽ ngoài văn vẻ tươi xinh

Giết người dấu độc trong mình nào hayNgười xem công múa khen tài

Riêng ta khen bộ mã ngoài của côngMúa hay hạc biển chẳng nhường

Người đời chẳng biết coi thường coi khinh.

Giới nghiên cứu rằng bốn câu đầu bàii ngũ ngôn trên đây ngầm chỉ người ham công danh ra làm quan, ngoài thì phô vẻ đẹp và tài khéo léo múa may để chiều đời, nhưng trong lòng thì vô cùng hiểm độc. Nguyễn Du chỉ riêng nói tới mã ngoài của công. Theo ông thì hạc biển múa cũng chẳng kém gì công, nhưng không được người đời biết đến mà còn bị người đời coi thuòng coi khinh. Có nguời cho rằng hình ảnh hạc biển trong bài thơ trên đây chỉ người có tài năng và đi ở ẩn.

Liền trong mấy bài trên đây, người đọc dương như thấy cảnh sống làm quan của Nguyễn Du, như ông đã nhìn thấy trong nhưng ngảy tản cư lận đận, chính là việc cắt chân hạc, gọt móng ngựa làm hại thiên chân của ông. Bản thân ông lúc nào cũng chỉ muốn vui cùng bầy hươu nai, hay chồng sách cổ của ông. Thú mê đọc sách này khởi hứng cho ông viết bài:

蝶 死 書 中Điệp Tử Thư Trung

芸 窗 曾 几 染 書 香Vân song tàng kỷ nhiễm thư hương

謝 卻 風 流 未 是 狂Tạ khước phong lưu vị thị cuồng

薄 命 有 緣 留 簡 籍Bạc mệnh hữu duyên lưu giản tịch

殘 魂 無 戾 哭 文 章Tàn hồn vô lệ khốc văn chương

蠹 魚 易 醒 蘩 花 夢Đố ngư dị tỉnh phồn hoa mộng

螢 火 難 灰 錦 繡 腸Huỳnh hỏa nan hôi cẩm tú trường

聞 道 也 應 甘 一 死Văn đạo dã ưng cam nhất tử

婬 書 蕕 勝 為 花 忙Dâm thư do thắng vị hoa mang.

dịch là:

Xác Bướm Ép SáchPhòng văn hương sách ngạt ngào

Phong lưu buông bỏ phải đâu ương gàn67

Page 66: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Mệnh duyên lòng sách gửi thânHồn tàn khô lệ khóc văn thơ rồi

Phồn hoa mọt sách xa dờiLửa huỳnh nào đốt nổi lời gấm thêu

Được nghe đạo chết cũng liềuMải mê mê sách tránh điều mê hoa.

Giới nghiên cứu cho hay chữ vân, viết bộ thảo đầu là một thứ cỏ thơm dùng để chống mọt sách. Thế nên vân song đồng nghĩa với thư song, là bức cửa sổ phòng văn thòi xua. Ngồi tại phòng văn, Nguyễn du nhận định ràng buông bỏ phong lưu chẳng phải là một hành động diên dại. Tất cả cũng đều do duyên mệnh đưa đẩy, như con bướm khô ép trong lòng sách. Hồn tàn, không còn nước mắt khóc thơ văn. Đời người ngắn ngủi, như bắt đom đóm đọc sách, làm sao đọc hết nổi lời lời châu ngọc hàng hàng gấm thêu. Ông kết luận bằng lời sách Luận Ngữ: Triêu văn dạo tịch tử khả hĩ nghĩa là sáng được nghe đạo, chiều chết được rồi, đê thấy là sách còn đáng mê hơn hoa. Bài cuối cùng chép trong Thanh Hiên Thi Tập là bài:

讀 小 青 記Độc Tiểu Thanh Ký

西 湖 花 苑 藎 成 墟Tây Hồ hoa uyển tận thành khư

獨 吊 窗 前 一 紙 書Độc điếu song tiền nhất chỉ thư

脂 粉 有 神 憐 死 後Chi phấn hữu thần liên từ hậu

文 章 無 命 累 焚 餘Văn chương vô mệnh lụy phần dư

古 今 恨 事 天 難 問Cổ kim hận sự thiên nan vấn

風 韻 奇 冤 我 自 居Phong vận kỳ oan ngã tự cư

不 知 三 百 餘 年 後Bất tri tam bách dư niên hậu

天 下 何 人 泣 素 如Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như

dịch là:

Đọc Truyện Nàng Tiểu ThanhVườn Tây Hồ hóa bãi hoang

Đọc trang sách cổ thương nàng xót xaHữu thần lắng đắng hồn ma

Văn thơ không mệnh nửa ra tro rồiHận muôn thủa khó hỏi trời

Riêng ta một hội kiếp người khổ đauBa trăm năm lẻ về sau

Khóc Tố Như biết còn bao nhiêu người.

Bài Độc Tiểu Thanh Ký này, là bài chót trong Thanh Hiên Thi Tập nhưng lại là bài được nhiều nhà nghiên cứu lưu ý đến nhất. Tiểu Thanh là một phụ nữ tài sắc thời nhà Minh, người quận Minh Giang, lấy lẽ một người họ Phùng. Phùng sinh người Hàng Châu, giỏi thơ phú. Vợ cả Phùng sinh ghen tuông rất mực, khiến Tiểu Thanh phải ra ở nhà riêng ở Côn Sơn trên tây Hồ, sau buồn bực mà chết năm nàng 18 tuổi. Tiểu Thanh để lại một tập thơ, người vợ cả lấy đốt đi. Chỉ còn sót mấy tờ nay gọi là Phần Dư Tập. Truyện nàng Tiểu Thanh còn chép trong sách 68

Page 67: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Tình Sử hay Nữ Liêu Trai Chí Dị. Hai chữ Hữu Thần, Nguyễn Du dùng trong câu thứ ba, lấy từ truyện của Tiểu Thanh. Truyện

rằng, trước khi chết, Tiểu Thanh cho người vẽ chân dung truyền thần của nàng. Xem bức thứ nhất nàng nói: “Hình thì giống, nhung chưa lột hết thần.” Xem bức thứ hai, nàng nói: “Thần thì được rồi, nhưng bóng thiếu linh động”. Đến bức thứ ba nàng khen “Được rồi đấy”. Rồi nàng để bức tranh ở dầu giường, đốt hương khấn: “Tiểu Thanh! Tiểu Thanh! Chốn này không phải duyên phận của mi đâu.” Nói xong nước mắt chan hòa nấc lên một tiếng rồi chết.

Bốn câu sau Nguyễn Du dường như tự nói với ông. Cái hận của nàng Tiểu Thanh phải mang hỏi trời mới ra, nhưng khó là làm sao hỏi nổi trời. Riêng lòng ông tri kỷ với Tiểu Thanh, và ông cho là nỗi khổ đau của Tiểu Thanh là nỗi khổ đau của con nguời. Rồi ông tự hỏi rồi đây tới ngoài ba trăm năm nữ, còn mấy ai khóc Tố Như, còn mấy ai tri kỷ với Tố Như trước nỗi khổ đau của con người.

Hai câu cuối bài thơ, thời đầu thập niên thứ hai thế kỷ trước, có nhiều nhà bình luận tên tuổi đã cho là lời khẩu chiếm của ông trước khi ông từ trần. Sau đó, nhiều người thắc mắc về luật niêm giũa chữ thứ nhì câu thứ sáu, (chữ vận) vần trắc và chữ thứ hai câu bẩy (chữ tri) vần bằng nên bài thơ thất niêm, khiến nên coi hai câu này là người đời sau tự ý thêm vào bài thơ sáu câu dở dang của Nguyễn Du.

南 中 雜 吟Nam Trung Tạp Ngâm

Nam Trung Tạp Ngâm gồm 40 bài thơ dưới 27 đề mục, Nguyễn Du sáng tác trong bẩy năm làm quan ở Huế và thời gian ông làm Cai Bạ ở Quảng Bình, và về làm quan tại Huế.

Bài đầu tiên là:

鳳 凰 路 上 早 行Phượng Hoàng Lộ Thượng Tảo Hành

征 夫 懷 往 路Chinh phu hoài vãng lộ

夜 色 尚 濛 濛Dạ sắc thượng mông mông

月 落 猿 聲 外Nguyệt lạc viên thanh ngoại

人 行 虎 跡 中Nhân hành hổ tích trung

力 衰 常 畏 露Lực suy thường úy lộ

髮 短 不 禁 風Phát đoản bất câm phong

野 宿 逢 樵 者 Dã túc phùng tiều giả

相 憐 不 在 同Tương liên bất tại đồng.

dịch là:

Sớm Mai Trên Đường Núi Phượng Hoàng

Người đi người biết dường dài69

Page 68: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Nửa đêm về sáng lòng ai lạnh lùngTrăng tà tiếng vượn não nùng

Đường đầy vết hổ ngập ngừng bước chânGió sương sức yếu ngại ngần

Gió vờn tóc ngắn thương thân tiêu điềuQuán quê trọ gặp bác tiều

Thương nhau chẳng được mọi điều cùng nhau.

Theo Lê Thước và Trương Chính, năm giáp tý 1804, Nguyên Du bị bệnh, từ chức tri phủ Thuờng Tín về quê; it lâu sau lại có chỉ triệu vào kinh. Có thể bài thơ này ông làm trên đường Phượng Hoàng, khoảng từ tỉnh lỵ Hà Tĩnh đi vào Trung và có quán Phương Hoàng. Hình ảnh người tiều phu thường là hình ảnh một ẩn sĩ. Hai câu kết cho thấy dường như nghỉ đêm tại quán quê, Nguyễn Du đã gặp được người bạn ẩn sĩ mà trong hoàn cảnh lúc đó, dầu hai người có thân thiết với nhau, cũng không được cùng ở một chốn với nhau.

Cuộc sống ở kinh đô, dường như lôi cuốn Nguyễn Du vào một lối sống mới, mà người đọc nhìn thấy qua năm bài dưới đây:

夢 得 採 連Mộng Đắc Thái Liên

五 首Năm Bài

其 一Kỳ Nhất

緊 束 蚨 蝶 裙Khẩn thúc phù điệp quần

採 蓮 棹 小 艇 Thái liên trạo tiểu đĩnh

湖 水 何 衝 融Hồ thuỷ hà xung dung

水 中 有 人 影Thuỷ trung hữu nhân ảnh

其 二Kỳ Nhị

採 採 西 湖 連Thái thái Tây Hồ liên

花 實 俱 上 船Hoa thực câu thướng thuyền

花 以 贈 所 畏Hoa dĩ tặng sở úy

實 以 贈 所 憐Thực dĩ tặng sở liên

其 三Kỳ Tam

今 晨 去 採 連Kim thần khứ thái liên

乃 約 東 鄰 女Nãi ước đông lân nữ

不 知 來 不 知Bất tri lai bất tri隔 花 聞 笑 語

Cách hoa văn tiếu nữ70

Page 69: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

其 四Kỳ Tứ

共 知 憐 蓮 花Cộng tri liên liên hoa

誰 者 憐 蓮 榦Thùy giả liên liên cán

其 中 有 真 絲Kỳ trung hữu chân ti

牽 連 不 可 斷Khiên liên bất khả đoạn.

其 五Kỳ Ngũ

蓮 葉 何 青 青Liên diệp hà thanh thanh

蓮 花 嬌 盈 盈Liên hoa kiều doanh doanh

採 之 勿 傷 藕Thái chi vật thương ngẫu

明 年 不 復 生Minh niên bất phục sinh.

dịch là:

Mộng Hái SenNăm bài

Bài IQuần nàng cánh bướm xắn cao

Hái sen thuyền nhỏ sóng chao dập dềnhNước hồ lai láng mông mênh

Gương soi mặt nước nàng xinh miệng cười

Bài IIHồ Tây thư thả hái sen

Gương hoa hái cả một thuyền đầy khoangHoa về tặng chốn nể nang

Còn gương để tặng cô nàng mười thương

Bài IIISớm nay hò hẹn hái sen

Cùng cô hàng xóm mới quen hôm rầyĐến không không đến nào hay

Cách hoa khúc khích tiếng ai đang cười.

Bài IVYêu sen người thế thường tình

Ai người yêu cuống mới tinh hơn đờiCuống sen trong có tơ trời

Tơ bền cuống gẫy chẳng dời còn vương.

Bài VLá sen mướt mát rờn xanh

71

Page 70: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Hoa sen mơn mởn dập dềnh tỏa hươngHái sen thương ngó sen cùng

Bằng không năm tới sen hồng còn đâu.

Hình ảnh những buổi đi hái sen len sâu vào giấc mộng của Nguyễn Du. qua năm bài Thái Liên trên đây, khiến người đọc nhớ lại hình ảnh Nguyễn Du trong những buổi hát phường vải, khi còn trai trẻ ở quê nhà.

Mùa hè qua, thu về trên đế đô, gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài dưới đây với những hình ảnh tiêu biểu cho đời làm quan trong triều:

秋 至Thu Chí

香 江 一 片 月Hương Giang nhất phiến nguyệt

今 古 許 多 愁Kim cổ hứa đa sầu

往 事 悲 青 塚Vãng sữ bi thanh chủng

新 秋 到 白 頭Tân thu đáo bạch đầu

有 形 徒 役 役Hữu hình đồ dịch dịch

無 病 故 拘 拘Vô bệnh cố câu câu

回 首 藍 江 浦Hồi thủ Lam Giang phố

閒 心 謝 白 鷗Nhàn tâm tạ bạch âu

dịch là:

Vào ThuSông Hương một mảnh trăng cao

Khơi trong lòng khách mối sầu cổ kimMồ xanh chuyện cũ lắng chìm

Chớm thu tóc bạc trạnh niềm quan sanCó thân vất vả lo thân

Bệnh không mà bắt gian truân lưng khòmNgoảnh đầu nhìn bến sông Lam

Tạ đàn âu trắng tâm nhàn bâng khuâng.

Người đọc lưu ý tới hình ảnh nấm mồ xanh mà tác giả coi là câu chuyện cũ đã lắng chìm, không thấy giới nghiên cứu nói là mộ của ai. Nhớ lại bài Ký Mộng trong Thanh HIên Thi Tập, Nguyễn Du ngủ mê thấy bà vợ chính lặn lội từ xa về trong mộng với ông, phải chăng người đọc có thể nghĩ rằng ông đã vợi quên được mối buồn này? Cái buồn trước mắt hiện tiền là mối lo thân hàng ngày, không phải còn là mối lo đói những ngày tản cư mà mối lo giữ gìn lời ăn tiếng nói, nhất là việc phải khom lưng quỳ gối tại sân rồng. Ông lại nhớ về sông Lam, thèm cái tâm nhàn của đàn âu trắng.

Nỗi cực nhọc trong cảnh làm quan triều, một hoạt động không thích hợp với ông, đã được ông ghi rõ bài trong bài ngũ ngôn sau đây:

悼 犬Điệu Khuyển

72

Page 71: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

駿 馬 不 老 死Tuấn mã bất lão tử

烈 女 無 善 終Thiện nữ vô thiện chung

凡 生 負 奇 氣Phàm sinh phụ kỳ khí

天 地 非 所 容Thiên địa phi sở dung

念 爾 屬 土 畜Nhiệm nhĩ thuộc thổ súc

與 人 毛 骨 同Dữ nhân mao cốt đồng

貪 進 不 知 止Tham chiến bất tri chỉ

隕 身 寒 山 中Vẫn thân hàn sơn trung

隕 身 勿 嘆 惋Vẫn thân vật thán uyển

數 試 無 全 功Sổ thí vô toàn công.

dịch là:

Thương Con Chó ChếtNgựa hay ngựa chẳng chết giàMấy ai liệt nữ tài hoa chết lànhPhàm người khí phách bẩm sinh

Đất trời ghen ghét thường tình chẳng thaThân ngươi làm chó giữ nhà

Xương lông chẳng khác làm ra khác thườngChỉ biết tiến chẳng biết ngừng

Hang sâu núi lạnh bỏ xương rối đờiBỏ xương chớ có trách trời

Uổng công thử thách thiệt thòi cho ngươi.

Không thể bảo bài trên đây là một bài ngụ ngôn, lấy chó để răn người, dầu ý chính nói về nếp sống tri túc tri chỉ, biết đủ biết ngừng. Nguyễn Du lấy tên hiệu là Hồng Sơn Liệp Hộ, tức người Hồng Sơn thích săn bắn, hẳn ông yêu bầy chó săn của ông. Truyện trò cùng chó nhiều khi có thể là lởi mình tự nhủ mình. Phải biết đủ phải biết ngừng là lời ông tụ nhủ trên bước đường làm quan, để tránh cái chết vô nghĩa bỏ xương thiệt thân trong núi lạnh.

Tâm cảnh của Nguyễn Du trong bài Điệu Khuyển trên đây còn là thi hứng của ông trong ba bài:

偶 書 公 館 璧Ngẫu Thư Công Quán Bích

三 首Tam Thủ

其 一Kỳ Nhất

朝 餐 一 盂 飯Triêu xan nhất vu phạn

募 浴 一 盆 水Mộ dục nhất bồn thuỷ

閉 門 謝 知 交73

Page 72: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Bế môn tạ tri giao開 窗 見 荊 杞

Khai song kiến kinh kỷ窗 外 荊 杞 蔓 且 長

Song ngoại kinh kỷ mạn thả trường美 人 悠 悠 隔 高 牆

Mỹ nhân du du cách cao tường杜 宇 聲 去 矣

Đỗ vũ thanh khứ hĩ魂 兮 歸 來 悲 故 鄉

Hồn hề quy lai bi cố hương.

其 二 Kỳ Nhị

閶 闔 門 前 春 色 闌Xương hạp môn tiền xuân sắc lan

隔 江 遙 對 御 屏 山Cách giang dao đối Ngự Bình san

春 從 江 上 來 何 處Xuân tòng giang thượng lai hà xứ

人 倚 天 涯 滯 一 官Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan

滿 地 繁 聲 聞 夜 雨Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ

一 床 泒 悶 敵 春 寒Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn

桃 花 莫 仗 東 君 意Đào hoa mạc tượng đông quân ý

傍 有 風 姨 性 最 酸Bằng hữu phong di tính tối toan.

其 三kỳ Tam

東 望 江 頭 望 故 郊Đông vọng giang đầu vọng cố giao

浮 雲 無 定 水 滔 滔Phù vân vô định thủy thao thao

風 吹 古 塚 浮 榮 盡Phong xuy cổ trủng phù vinh tận

日 落 平 沙 戰 骨 高Nhật lạc bình sa chiến cốt cao

山 月 江 風 如 有 待Sơn nguyệt giang phong như hữu đãi

岩 棲 谷 飲 不 辭 勞Nham thê cốc ẩm bất từ lao

平 生 已 絕 雲 霄 夢Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng

怕 見 傍 人 問 羽 毛Phạ kiến bàng nhân vấn vũ mao.

dịch là:

Ngẫu Nhiên Đề Thơ Trên Vách Công Quán

74

Page 73: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Ba Bài

ISớm mai ăn một lưng cơm

Chiều về tắm mát một bồn nước trongCổng cài tạm lánh bạn lòng

Cành kinh cây kỷ ngoài song vươn dàiNgoài song kinh kỷ vươn dài

Mỹ nhân đằng đẵng tường dầy vách caoXuân tàn tiếng cuốc khơi sầu

Ơi hồn nhớ nước ở đâu sớm về.

IITrước thềm xuân đã hồ tàn

Cách sông núi Ngự ngút ngàn mây caoCảnh xuân nước cuốn về đâu

Phận quan lần lữa buộc nhau bên trờiĐêm dài nghe tiếng mưa rơi

Lạnh lùng gối chiếc lẻ đôi sớm chiềuHoa đào chớ cậy xuân yêu

Cả ghen dì gió lắm điều kề bên

IIINgoái nhìn quê cũ đầu sông

Mây trôi nước cuốn bềnh bồng bao laVinh hoa hão nấm mồ xa

Đống xương tử sỉ chiều tà cồn hoangHẹn hò sông núi gió trăng

Gian lao uống suối ở hang chẳng sờnCông danh mộng cũ tiêu mòn

E người gạn hỏi mất còn cánh lông.

Giới nghiên cứu cho biết công quán là ngôi nhà công tại Huế, triều đình cấp cho các quan, có gia đình vẫn còn ở quê.

Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du cho thấy cảnh ở công quán ăn cơm trọ, tắm nước bồn, không có bè bạn, ngoài cửa sổ chỉ cây dại mọc dài, người đẹp kín cống cao tường, chỉ còn nghe tiếng cuốc kêu khêu nỗi nhớ nhà. Trong câu thứ sáu có hai chữ mỹ nhân đã gây tranh cãi trong giới nghiên cúu. Phe chủ trương Nguyễn Du có chí phò Lê, cho hai chữ này chỉ nhà vua; giới đối nghịch lại giảng hai chữ này là người đẹp. cả hai phe cùng không đưa ra một bằng chứng nào khác và để ngỏ để người đọc phán đoán.

Bài thứ hai tác giả tả cảnh một mình một bóng ở nhà công quán, thêm nỗi buồn vì phận làm quan bó buôc, khúm núm trước sân rồng, lại còn e sợ bị gièm pha.

Bài thứ ba, tác giả đón nhìn về quê nhà cách sông cách núi xa xăm, mộng vinh hoa ngày nay chôn xâu dưới nấm mồ, như đống xương vô định. Ngoài kia núi sông gió trăng vẫn còn chờ đợi. Giấc mộng bình sinh đã dứt, bay bổng tận mây xanh, mà truyện lông cánh ông vẫn còn e ngại người đời hỏi tới.

Bài thứ ba cho thấy rõ là giấc mộng vinh hoa của Nguyễn Du đã thật sự tàn. Nên khó bảo rằng ông còn ý chí phò Lê. Có chăng là ông còn giấc mộng vui cùng gió trăng sông núi. Thế nên, quyết đoán rằng Nguyễn Du thật thà theo nhà Nguyễn, e rằng không giả thích đưọctại sao Nguyễn Du không hăng say trên hoạn lộ. Bảo rằng vì bẩm tính Nguyễn Du tự do phóng khoáng không muốn ra làm quan thì dường như trái ngược với sự kiện ông ra làm quan, ngoài tỉnh trong triều, trước sau tròn mười chín năm.

Trả lời những thắc mắc này dường như không có cách nào khác hơn là đọc trọn vẹn ba tập thơ của Nguyễn Du.

Nam Trung Tạp Ngâp chép tiếp:75

Page 74: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

送 人Tống Nhân

香 芹 官 道 柳 青 青Hương Cần quan đạo liễu thanh thanh

江 北 江 南 無 限 情Giang bắc giang nam vô hạn tình

上 苑 鶯 嬌 多妒 色Thượng uyển oanh kiều đa đố sắc

故 鄉 蓴 老 尚 堪 羹Cố hương thuần lão thượng kham canh

朝 庭 有 道 成 君 孝Triều đình hữu đạo thành quân hiếu

竹 石 多 慚 負 爾 盟Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh

惆 悵 深 宵 孤 對 影Trù trướng thâm tiêu cô đối ảnh

滿 床 滯 雨 不 戡 聽Mãn sàng trệ vũ bất kham thinh.

dịch là:

Tiễn BạnHương Cần quan đạo liễu xanh

Đôi bờ nam bắc một tình chứa chanVườn vua ghen sắc oanh than

Tình quê đạm bạc canh thuần vẫn ngonVua thương chữ hiếu anh tròn

Lỗi thề trúc đá thẹn lòng phận tôiĐèn khuya đối bóng bồi hồi

Lắng nghe tí tách mưa rơi bên giường.

Giới nghiên cứu cho biết Hương Cần là một làng cách Huế chừng bốn cây số về phiá bắc, năm bên đường thiên lý. Có người cho rằng hình ảnh liễu xanh trong câu thứ nhất mô tả cảnh chia tay giũa tác giả và người về đường ngoài. Câu thứ ba với hình ảnh ghen sắc của bầy chim oanh trong vườn thượng uyển mô tả cảnh ghen đua tại sân rồng. Đối với cảnh ghen đua đó là bát canh ngó sen, tiếng chữ là canh thuần tương trưng cảnh yên vui ở nhà. Người bạn của tác giả giữ tròn chữ hiếu nhờ ơn triều đình trọng đạo, riêng ông lỗi thề mà thẹn với trúc đá. Đêm về khuya, một mình Nguyễn Du ngồi bên đèn nghe mưa Huế tí tách rơi.

Nam Trung Tạp Ngâm ghi thêm nỗi lòng của tác giả trong những năm tháng làm quan xa nhà ở Huế trong năm bài kế tiếp:

偶 興Ngẫu Hứng

五 首Ngũ Thủ

其 一Kỳ Nhất

三 月 春 時 長 豆 苗Tam nguyệt xuân thì trưởng đậu miêu

黃 狐 肥 滿 白 狐 驕Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu

主 人 在 旅 不 歸 去Chủ nhân tại lữ bất quy khứ

76

Page 75: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

可 惜 鴻 山 屬 晚 樵

其 二Kỳ Nhì

蘆 花 初 白 菊 初 黃Lô hoa sơ lục cúc sơ hoàng

千 里 鄉 心 夜 共 長Thiên lý hương tâm dạ cộng trường

彊 起 推 窗 望 明 月Cưỡng khởi thôi song vọng minh nguyệt

綠 陰 重 疊 不 遺 光Lục di trùng hợp bất di quang

其 三Kỳ Tam

一 帶 芭 焦 綠 覆 階Nhất đái ba tiêu lục phúc giai

半 間 煙 火 雜 塵 埃Bán gian yên hỏa tạp trần ai

可 憐 庭 草 芟 除 盡Khả liên đình thảo sam trù tận

他 日 春 風 何 處 來Tha nhật xuân phong hà xứ lai

其 四Kỳ Tứ

故 鄉 亢 旱 久 妨 農Cố hương kháng hạn cửu phương nông

十 口 孩 兒 采 色 同Thập khẩu hài nhi thái sắc đồng

譬 似 蓴 鱸 最 關 切Thí tự thuần lư tối quan thiết

懷 歸 原 不 待 秋 風Hoài quy nguyên bất đãi thu phong.

其 五Kỳ Ngũ

有 一 人 焉 良 可 哀Hữu nhất nhân yên lương khả ai

破 衣 殘 笠 色 如 灰Phá y tàn lạp sắc như hôi

避 人 但 覓 道 傍 走Tị nhân đãn mịch dạo bàng tẩu

知 是 昇 龍 城 裡 來Tri thị Thăng Long thành lý lai.

dịch là:Ngẫu Hứng

Năm bài

ITháng ba đậu lúa cỏn non

77

Page 76: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Cáo vàng hồ trắng béo tròn chạy chơiChủ nhân đất khách bên trời

Non Hồng để mặc tay người tiều phu.

IILau chớm bạc cúc chớm vàng

Đêm dài dằng dặc dặm ngàn nhớ quêBên song gượng đón trăng về

Cây xanh rậm rạp bốn bề vắng trăng.

IIIRợp hè tầu chuối xanh rờn

Mịt mù tro bụi khói vòn nửa gianRẫy vòm cỏ dại đầu sân

Xuân về chẳng biết gió xuân ngả nào.

IVQuê nhà hạn hán trời hành

Nhà mười miệng trẻ mặt xanh võ vàngUớc mong thuần vực từ quan

Sớm ra phải đợi thu sang mới về.

VCó người đói rét lang thang

Rách bươm áo nón vỏ vàng mầu daGặp người khép nép lánh xa

Từ Thăng Long đến mà ra cảnh này.

Năm bài Ngẫu Hứng trên đây ghi lại năm tâm cảnh của Nguyễn Du. Bài thứ nhất như một giấc mơ của Hồng Sơn Liệp Hộ: ông nhớ lại việc trồng lúa đậu, cùng những kinh nghiệm về loài hồ loài cáo vào dịp tháng hai. Ông tiếc cho ông đang sống tại nơi công quán xa quê, thú vui săn bắn ở cả trong tay người bạn tiều phu của ông.

Bài thứ hai cũng lại là tâm cảnh nhớ nhà một đêm thu ở nhà công quán. Ông chờ trăng lên một mình, nhưng cành lá cây kinh cây kỷ rậm rạp, như ông viết trong bài Ngẫu Thư Công Quán Bích kỳ nhất, ngoài song khiến ông không nhìn thấy trăng.

Bài thứ ba ông viết về tàu lá chuối bên thềm nhà và nửa gian nhà bụi bậm. Ông tiếc cho sân cỏ đã bị dẫy sạch mà lo cho mùa xuân tới không biết gió thổi từ phương nào về. Bài thứ hai, và bài thứ ba cùng cho người đọc không những thấy niềm nhậy cảm của Nguyễn Du với ngoại cảnh thiên nhiên liền vói ông, đồng thời lại thấy như ông muốn dùng cành lá cây kinh cây kỷ hay tàu lá chuối để mã hóa những truyện ông không tiện ghi rõ hơn.

Bài thứ tư ông ghi lại tin quê ông bị hạn hán. Mười miệng trẻ, con ông đã bị thiếu ăn. Giới nghiên cúu cho biết là Nguyễn Du có ba vợ. Bà cả họ Đoàn Nguyễn, sinh một con trai và mất sớm, bà kế họ Võ, cũng sinh một con trai. Bà thiếp sinh đưọc mười trai sáu gái ở lại quê nhà, không vào kinh theo ông. Với một gánh nặng gia đình như vậy dầu tha thiết muốn từ quan về hưu, nay lại gặp cảnh hạn hán, phải chăng dường như ông phải lui truyên xin nghỉ việc quan tới mùa thu?

Bài chót ông ghi hình ảnh một người gặp cảnh đói rét, áo nón xơ xác, mặt mày xanh xao, mà ông đoán là người Thăng Long mới đến kinh kỳ. Có nhà bình giải cho bài này là bài ông tự họa ngày mới tới Huế. Nhưng nhiều người khác bác bỏ ý kiến này.

Hình ảnh mười miệng con đói nơi quê nhà đang bị hạn hán còn đến với Nguyễn Du trong bài:

偶 題Ngẫu Đề

白 地 庭 墀 夜 色 空78

Page 77: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Bạch địa đình trì dạ sắc không深 堂 悄 悄 下 簾 櫳

Thâm đường tiễu tiễu hạ liêm lung丁 東 砧 杵 千 家 月

Đinh đông châm chữ thiên gia nguyệt 簫 索 芭 蕉 一 院 風

Tiêu tác ba tiêu nhất viện phong十 口 啼 饑 橫 嶺 北

Thạp khẩu đề cơ Hoành Lĩnh bắc一 身 臥 病 帝 城 東

Nhất thân ngoạ bệnh đế thành đông知 交 怪 我 愁 多 夢

Tri giao quái ngã sầu đa mộng天 下 何 人 不 夢 中

Thiên hạ hà nhân bất mộng trung.

dịch là:

Ngẫu ĐềThềm ngoài vắng lặng đêm trong

Gian nhà tĩnh mịch nửa song rủ mànhTrăng suông chầy vải thình thình

Tầu tiêu gió đập dập dềnh đầu sânQuê ngoài mười miệng thiếu ăn

Thành đông đau ốm một thân bên trờiNgười cười mơ mộng một đòi

Hỏi trong thiên hạ ai người không mơ.

Tác giả dẫn nguòi đọc từ ngoài thềm, trong đêm vắng vào trong nhà. Từ ngoài nhà tiếng chầy vải, từ xa, tới tiếng tàu lá chuối bên thềm lọt vào gian nhà. Rồi tác giả cho hay bày con nơi quê nhà còn đang đói ăn, riêng ông ở mé đông thành một mình vẫn đau yếu. Bạn bè chế cuời ông suốt đời mộng mơ. Ông hỏi ngược lại ai là nguời không bao giờ mơ trong thiên hạ này? Điểm đánh ghi nhận là câu chuyện nhà mười miệng thiếu ăn đeo đẳng ông từ bài Ngẫu Hứng IV, lại trở lại với ông trong bài Ngẫu Đề này. Hai câu kết cho biết là bạn bè cười ông suốt đời sầu mộng. Quay lại bài Ngẫu Hứng IV, dường như trước cành thiếu thốn vật chất của mười đứa con ông đã có hành động thích đáng: lui ngày ông xin từ quan tới sang thu.

Giấc mộng mà Nguyễn Du nói tới trong hai câu kết trên đây còn len vào giấc ngủ của ông như ghi trong bài:

水 連 道 中 早 行Thủy Liên Đạo Trung Tảo Hành

悲 莫 悲 兮 行 道 難Bi mạc bi hề hành đạo nan

草 頭 露 宿 犯 衰 顏Thảo đầu lộ túc phạm suy nhan

百 年 古 道 皆 成 壑Bách niên cổ đạo giai thành hác

一 帶 平 林 不 見 山Nhất giải bình lâm bất kiến san

多 病 一 身 供 道 路Đa bệnh nhất thân cung đạo lộ

五 更 殘 夢 續 鄉 關Ngũ canh tàn mộng tục hương quan

偶 逢 歸 客 向 余 話Ngẫu phùng quy khách hướng dư thoại

79

Page 78: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

昨 歲 朝 天 乍 放 還Tạc tuế triều thiên sạ phóng hoàn.

dịch là

Sớm Mai Trên Đường Thủy LiênBuồn cho đường lối gian nan

Màn sương nệm cỏ dung nhan thêm sầuTrăm năm đường lở thành hào

Rừng dầy che rặng núi cao cuối trờiĐường trường đau ốm quê người

Tàn năm canh mộng trông vời quê xaTình cờ gặp khách ngược ra

Vào chầu tròn một năm qua được về.

Giới nghiên cứu đoán chừng là Nguyên Du viết bài này trong chuyến di hành vào Quảng Bình nhận chức Cai Bạ. Dầu được ra làm quan tỉnh, nhẹ bớt cảnh khúm núm trước sân rồng, giấc mộng về cố hương vẫn không dời ông. Một tia hy vọng là ông gặp dưọc người khách đường xa cho hay là năm ngoái vào chầu vua, năm nay đã đưọc cho về.

Tiếp theo là bài:

新 秋 偶 興Tân Thu Ngẫu Hứng江 城 一 臥 閲 三 周

Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu北 望 家 鄉 天 盡 頭

Bắc vọng gia hương thiên tận đầu麗 水 錦 山 皆 是 客

Lệ Thủy Cẩm Sơn giai thị khách白 雲 紅 樹 不 勝 秋

Bạch vân hồng thụ bất thăng thu此 身 已 作 樊 籠 物

Thử thân dĩ tác phàn lung vật何 處 重 尋 汗 漫 遊

Hà xứ trùng tầm hãn mạn du莫 向 天 涯 嘆 淪 落

Mạc hướng thiên nhai thán luân lạc河 南 今 是 帝 王 州

Hà nam kim thĩ đế vương chu.

dịch là:

Ngẫu Hứng Đầu ThuBa năm nằm cõi Giang Thành

Vời trông trời bắc quê mình xa xôiCẩm Sơn Nhật Lệ đất người

Vào thu cây đỏ mây trôi bềnh bồngThân này chim nhốt trong lồng

Tìm đâu ra cảnh thong dong mà tìmChớ than lưu lạc nổi chìm

Bờ nam nay cũng là miền đất vua.

Giới nghiên cứu cho biết Giang Thành là thành Đông Hải, tức Đồng Hới, bên sông Nhật Lệ, tỉnh Quảng Bình. Câm Son là tên núi, Lệ Thủy là tên sông, hai địa danh thuộc Quảng Bình. Trời Quảng Bình đã vào thu, mây trắng cây đỏ, mà tác giả chỉ thấy mình như bị giam trong lồng, không biết tìm đâu ra thú giải trí. Nhưng rồi ông tụ an ủi, là nơi ông đang nhậm chúc 80

Page 79: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

chưa phải là chốn chân trời, vì đất bên bờ nam Nhật Lệ nay đã là đất của nhà vua rồi.Cái mơ ước từ quan cũa Nguyễn Du dương như luôn luôn đi đôi với cái nợ áo cơm. Cái

giàng co này dường như làm nhà thơ nhiều đêm thức trắng, như ông ghi trong bài:

夜 坐Dạ Tọa

四 壁 蛩 聲 鬧 夜 眠Tứ bích cùng thanh náo dạ miên

矮 床 移 向 曲 欄 邊Ải sàng di hướng khúc lan biên

微 風 不 動 霜 垂 地Vi phong bất động sương thùy địa

斜 月 無 光 星 滿 天Tà nguyệt vô quang tinh mãn thiên

今 古 閒 愁 來 醉 後Kim cổ nhàn sầu lai túy hậu

蓴 鱸 鄉 思 在 秋 先Thuần lô hương tứ tại thu tiên

白 頭 所 計 惟 衣 食Bạch đầu sở kế duy y thực

何 得 狂 歌 似 少 年Hà đắc cuồng ca tự thiếu niên.

dịch là:Ngồi Trắng Đêm

Dế than phá giấc bốn bênĐẩy giường ra tận đầu hiên ta nằm

Gió im sương đất giăng mànĐầy trời sao tỏ trăng tàn hết đêm

Hả say buồn truyện cổ kimĐầu thu thuần vược trạnh niềm phân vân

Bạc đầu nặng nợ áo cơmTiếc ngày niên thiếu thơ ngâm như cuồng.

Câu thứ bẩy trong bài trên đây, tác giả cho hay là ông đã bạc đầu rồi mà còn chỉ nghĩ đến truyện áo cơm. Chác hẳn không phải truyện áo cơm cho riêng chính ông, vì dầu lương một vị đường quan, cấp cai bạ, dầu có đạm bạc đến đâu chắc cũng dư cho việc cơm áo cho cá nhân người làm quan, vậy câu truyện áo cơm này hẳn là câu truyện áo cơm cho đàn con gần hai chục miệng ở quê nhà. Phải chăng vì vậy mà việc xin từ quan của ông làm ông phải suy đi tính lại.

Ý muốn từ quan Nguyễn Du thấy rõ trong bài ông viết tặng ông bạn đã ra ngoài vòng cương tỏa như sau:

贈 人Tặng Nhân

盈 盈 一 水 界 孤 村Doanh doanh nhất thủy giới cô thôn

中 有 高 人 不 出 門Trung hữu cao nhân bất xuất môn

蕉 鹿 夢 場 心 不 競Tiêu lộc mộng trường tâm bất cạnh

秦 隋 往 事 口 能 言Tần Tùy vãng sự khẩu năng ngôn

春 雲 滿 徑 群 糜 麓Xuân vân mãn kính quần mi lộc

81

Page 80: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

秋 稻 登 場 督 子 孫Thu đạo đăng trường đốc tử tôn

我 欲 掛 冠 從 此 逝Ngã dục quải quan tòng thử thệ

與 翁 壽 歲 樂 琴 樽Dữ ông thọ tuế lạc cầm tôn.

dịch là:

Tặng NgườiSông đầy nước bạc bên thôn

Không ra khỏi của cao nhân hơn đời Mộng tiêu lộc chẳng đua đòi

Tần Tùy việc cũ đôi lời đúng saiNgày xuân vui với hươu nai

Sang thu gặt hái đứng ngoài nhắc con Những mong treo mũ từ quan

Cùng ông năm tháng rượu đàn vui chung.

Giới nghiên cứu cho biết mộng tiêu lộc là chữ rút từ sách Liệt Tử, chép truyện người hái củi giết được con hươu, dấu xuống hốc, lấy là chuối phủ lên; sau đó không nhớ đã dấu con hươu ở đâu, ngờ là mình ngủ mơ bắt được hươu. Nghĩa rộng là những cái có ngoài thân như danh lợi, có đó mất đó, như thật như mơ. Đời sống của người bạn của Nguyễn Du dường như là đời sống ông thuờng mong ước mà chưa đạt được.

Cảnh sống của ông bạn ngoài vòng cương tỏa, như ghi lại trong bài trên đây dường như tô một nét đậm trên ước mong treo mũ từ quan, chưa đạt của Nguyễn Du, khiến ông viết lần thứ hai, giữ nguyên vận bài trên:

再 次 原 韻Tái Thứ Nguyên Vận

湛 源 流 水 發 山 村Trạm nguyên lưu thủy phát sơn thôn

陶日 麗 潮 頭 涌 海 門Nhật Lệ triều đầu dũng hải môn

清 渭 濁 涇 同 不 息Thanh Vị trọc Kinh đồng bất thức

黃 花 綠 竹 兩 忘 言Hoàng hoa lục trúc lưỡng vong ngôn

歲 收 秫 米 堪 供 客Tuế thu thuật mễ kham cung khách

天 假 松 年 及 抱 孫Thiên giả tùng niên cập bão tôn

浮 世 幾 經 桑 鹵 變Phù thế kỷ kinh tang lỗ biến

床 頭 依 舊 酒 盈 撙Sàng đầu y cựu tửu doanh tôn.

dịch là: Bài Thứ Hai Nguyên Vận

Nguồn sông Trạm từ non caoCửa sông Nhật Lệ dạt dào triều dâng

Vị trong Kinh đục đôi đàngQuên lời trúc biếc cúc vàng ung dung

Nếp thơm đãi khách đủ dùng82

Page 81: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Cháu bồng tuổi thọ bách tùng trời choDòng đời dâu biển chẳng lo

Đầu giuờng be rượu sẵn chờ đầy vơi.

Hai câu đầu Nguyễn Du, theo Đào Duy Anh, tả cảnh sông Trạm, hay sông Bình Giang, bắt nguồn từ núi Bang Môn, qua 18 thác và vực, rồi chẩy qua Hạt Hải đổ vào sông Nhật Lệ và tuôn ra biển ở phía đông thành Quảng Bình. Câu thứ ba ông gọi lai cảnh hai nhánh sông Kinh sông Vị, một đục một trong, đổ vào sông Hoàng Hà, Trung Quốc. Đó cũng là điển ngụ ý thói đời trong đục, đời nào nơi nào cũng có. Câu thứ tư là một câu thẫm mầu Thiền sắc Đạo. Trong ngôn ngữ Thiền, trúc xanh cúc vàng là bốn chữ chỉ Phật pháp và Phật thân. Hai chữ vong ngôn là hai chữ quan trọng trong thi ca Đông Á. Hai chữ đó là hai chữ ở trong câu kết bài thơ ngũ ngôn Ẩm Tửu Đệ Ngũ Thủ của Đào Tiềm, bài thơ được coi là tiêu biểu cho thi ca Đông Á. Hai câu đó như sau: 15:

此 中 有 真 意Thử trung hữu chân ý

欲 辨 已 忘 言Dục biện dĩ vong ngôn

dịch là:Cảnh này chân ý nẩy ra

Giãi bày muốn nói mà ta quên lời.Trong thi ca Việt Âm, Nguyễn Trải có bài Du Son Tự, với hai câu kết:

箇 中 真 有 意Cá trung chân hũu ý

欲 語 忽 還 忘Dục ngữ hốt hoàn vong

dịch là:

Lòng riêng ý thật sáng lòaKiếm lòi những muốn nói ra quên lời

Hai chữ vong ngôn, truyền từ Đào Tiềm, qua Nguyễn Trãi tới Nguyễn Du, vẫn giữ nguyên một ý. Ý đó nằm gọn trong hai chữ kiệm ngôn, duy trì ý của Đệ Nhất Tổ từ Tây Trúc sang Trung Hoa truyền đạo với chủ trương:

不 立 文 字bất lập văn tự.

Hai câu tiếp theo, tác giả mừng người bạn ông cao tuổi thọ, có cháu ãm trên tay. Trong cảnh đầm ấm đó, cuộc thế này chỉ là cõi phù sinh, mọi truyện dâu biển dường đều như không đáng để ý tới và nhất là be rượu luôn luôn đầy bên đầu giường.

Tiếp theo Nguyễn Du ghi lại cảnh chớm thu ở Lệ Thành:

雜 吟Tạp Ngâm

白 雲 初 起 麗 江 成Bạch vân sơ khỏi Lệ Giang thành

暑 氣 纔 秋 天 氣 清Thử khí tài thu thiên khí thanh

城 外 山 山 皆 暮 色

15. 陶 淵 明 詩 選 , ibid. 張 67.83

Page 82: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc江 頭 樹 樹 各 秋 聲

Giang đầu thụ thụ các thu thanh他 鄉 白 髮 老 不 死

Tha hương bạch phát lão bất tử咋 歲 黃 花 今 更 生

Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh為 我 鴻 山 謝 松 石

Vị ngã Hồng Sơn tạ tùng thạch再 [無]面 目 見 同 盟

Tái vô diện mục kiến đồng minh.

dịch là:

Tạp NgâmMây về phủ trắng Lệ Thành

Khí thu dịu nóng trong xanh vòm trờiThành ngoài sắc núi sẫm rồi

Xạc xào cây bến bồi hồi tiếng thuQuê người già chẳng chết cho

Cúc vàng năm ngoái còn chờ nở hoaThông núi Hồng tạ giùm ta

Tưởng ngày giáp mặt bạn xưa thẹn thùng.

Câu thứ tám chép trong nguyên bản chỉ có bẩy chữ, giới nghiên cứu đồng ý thêm vào chữ vô để giữ cùng ý thơ trong trọn bài. Người đọc thơ dường nhu thấy Nguyễn Du bắt đầu thấy cảnh vật Lệ Thành dễ chịu hơn: cái nóng gió Lào đã dịu bớt, nhưng trận mưa dường đã tạnh, ông đã lại nghe thấy tiếng th trong hàng cây đầu sông. tóc ông bạc hơn, nhưng dường sức khỏe lại khá hơn.

Đám cúc ông trồng lại năm ngoái lại sắp nở hoa. Ông gửi lời chào thông đá Hồng Lĩnh, tại quê nhà, và khác mọi bài thơ đã viết trước đây, trong bài này dường như ông không còn nôn nóng nghĩ đến chuyện từ quan, nhưng vẫn còn cảm thấy như mình lỗi hẹn với thông với đá Hồng Lĩnh.

Người đọc còn nhận ra ý thơ trên đây trong hai bài kế tiếp:

江 頭 散 步Giang Đầu Tản Bộ

二 首Hai Bài

其 一

散 髮 狂 歌 恣 所 之Tản phát cuồng ca tứ sở chi

綠 頻 風 起 夕 陽 微Lục tần phong khởi tịch dương vi

白 雲 流 水 同 無 盡Bạch vân lưu thủy đồng vô tận

漁 父 浮 鷗 兩 不 疑Ngư phủ phù vân lưõng bất nghi

無 累 未 應 招 鬼 責Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách

不 才 多 恐 速 官 非Bất tài đa khủng tốc quan phi

年 年 秋 色 渾 如 許84

Page 83: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Niên niên thu sắc hồn như hứa人 在 他 鄉 不 自 知

Nhân tại tha hương bất tự tri.

其 二Kỳ Nhị

促 歌 聲 短 漫 聲 長Xúc ca thanh đoản mạn thanh trường

白 髮 蕭 蕭 古 道 旁Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng

細 澗 水 聲 流 積 雨Tế giản thủy thanh lưu tích vũ

平 沙 人 影 在 斜 陽Bình sa nhân ảnh tại tà dương

涓 埃 莫 報 生 何 補Quyên ai mạc báo sinh hà bổ

兒 女 成 群 死 不 妨Nhi nữ thành quần tử bất phương

回 首 故 鄉 秋 色 遠Hồi thủ cố hương thu sắc viễn

橫 山 雲 樹 正 蒼 蒼Hoành sơn vân thụ chính thương thương.

dịch là:

Tản Bộ Đầu SôngHai Bài

IDạo chơi sổ tác nghêu ngao

Chiều tà gió thoảng nao nao bãi tầnBao la nước chẩy mây vần

Quen rồi chim biển kết thân ông chảiChẳng vương quỵ lụy trách ai

Việc quan e lẫn sợ sai e dèNăm năm vẻ cũ thu về

Lòng người lữ khách bộn bề nào hay.

IINghêu ngao nhặt ngắn khoan dàiLối mòn tóc trắng gió bay bơ phờ

Lòng khe róc rách tiếng mưaCồn xa trong nắng chiều mờ bóng ai

Ơn vua đền đáp bấy nayĐầy đàn con cái chết rày cũng yên

Quê nhà xa lắc đoái nhìnTrời thu cây cỏ đắm chìm hoàng sơn

Những lúc tản bộ thường là thời gian để người đi tản bộ suy nghĩ về những câu truyện thường ngày người ta không có nhiều thì giờ nghĩ tói. Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du dùng hình ảnh đàn chim trắng tới làm thân với lão chài dường như để mô tả việc cộng tác giữa ông và nha lại nơi ông làm việc dường như đã có phần nào thân thiện hơn. Đối với thưọng cấp của ông, vì không màng danh lợi, nên ông như người vô lụy không còn sợ ma chê quỷ trách. Đối với công việc hàng ngày, ông tự coi là mình bất tài nên phải cẩn trọng e dè. Năm này sang năm khác mùa thu lại về, nhưng lòng ông trăm mối bộn bề nên ông không biết đến.

85

Page 84: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thi cảnh trong bài thứ hai cũng là một cảnh chiều, nhưng ông sổ tóc nghêu ngao ngâm thơ, mặc cho gió thổi bù mái tóc, nghe tiếng nước chẩy trong lòng khe suối, nhìn bóng người xa ngoài cồn cát. Ông tin rằng công việc ông đang đảm nhiệm đã đủ đền đáp ơn vua, đàn con của ông cũng đã khôn lớn, cái chết có đến lúc này cũng tạm yên. Ông không còn ray rứt nhớ quê, quay đầu hướng vế quê ông chỉ thấy cây cối chìm trong bóng núi Hoành Sơn.

Niềm thanh thản của Nguyễn Du gửi gắm trong bài Giang Đầu tản Bộ II chợt tới rồi chợt đi như ông ghi trong bài dưới đây:

偶 得Ngẫu Đắc

孤 城 日 暮 起 音 雲Cô thành nhạt mộ khởi âm vân

青 草 漫 漫 到 海 瀕Thanh thảo man man đáo hải tần

曠 野 遍 埋 無 主 骨Khoáng dã biến mai vô chủ cốt

殊 方 獨 托 有 官 身Thù phương độc thác hữu quan thân

事 來 徒 隸 皆 驕 我Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã

老 去 文 章 亦 避 人Lạo khứ văn chương diệc tỵ nhân

妄 外 鴻 山 三 百 里Vọng ngoại Hồng Sơn tam bách lý

相 從 何 處 問 前 鄰Tương tòng hà xứ vấn tiền lân.

dịch là:

Ngẫu ĐắcChiều về mây phủ cô thành

Một mầu tới biển cỏ xanh xanh rờnVùi nông vô chủ nắm xương

Làm quan sống chết tha phương đành liềuSai nha tới việc làm kiêu

Về già chữ nghĩa nhiều điều nhớ quênNon Hồng cách biệt hai miền

Xóm giềng thăm hỏi bốn bên nhắn lời.

Cũng như trong bài Giang Đầu Tản Bộ II, hình ảnh cái chết tha phương lại về trong câu thứ ba và thứ tư trong bài Ngẫu Đắc trên đây. Nguyễn Du như cảm thấy nha lại dưới quyền ông lúc có việc làm kiêu vói ông, ông cảm thấy mình già đi, nhiều điều nhớ quên quên nhớ. Điểm đáng nói là ông lại nhớ về núi Hồng Lĩnh ờ miền ngoài, nhưng không nhớ tới gia đình, hay thú săn bắn như trong nhiều bài khác, mà ông muốn nhắn lời gởi thăm đôi bên hàng xóm cũ của ông.

Ý thơ trong hai bài tới, chép trong Nam Trung Tạp Ngâm, dường như đổi hướng. Không còn những nhớ tiếc thời xa xưa, mà trái lại là những ghi nhận về cảnh thái bình của đất nước sau mấy trăm năm nội chiến. Điều đáng để ý là Nguyễn Du không ca ngợi chiến thắng của nhà Nguyễn, nhưng ông mừng vì chiến tranh đã chấm dứt, chém giết không còn là một hành động đáng ghi công. Thanh bình đã trở về với đất nước.

Bắt đầu là bài:

炮 臺Pháo Đài

86

Page 85: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

南 北 車 書 慶 大 同Nam bắc xa thư kháng đại đồng

炮 臺 虛 設 土 成 東Pháo đài hư thiết thổ thành đông

山 崩 石 裂 城 猶 壯Sơn băng thạch liệt thành do tráng

漢 奪 秦 爭 事 已 空Hán đoạt Tần tranh sự dĩ không

昨 者 大 虧 生 物 德Tạc giả đại khuy sinh vật đức

邇 來 不 貴 殺 人 功Nhĩ lai bất quý sát nhân công

清 平 時 節 無 爭 戰Thanh bình thời tiết vô tranh chiến

牛 犢 耰 耡 正 重 農Ngưu độc ưu sừ chính trọng nông.

dịch là:

Pháo ĐàiMừng nay thống nhất bắc nam

Thành đông đài pháo bỏ hoang điêu tànThành còn vững núi đá tan

Hết rồi truyện cũ Hán Tần chiến chinhTránh hại vật trọng hiếu sinh

Giết người chẳng được tôn vinh hơn đờiThanh bình gặp hội vận trời

Trâu bò cầy cấy đến thời trọng nông.

Niềm vui dường như là một niềm vui chân thật của tác giả. Vui mừng vì nam bắc nay một nhà, Những thành trì pháo đài đều bỏ hoang điêu tàn. Truyện chiến chinh đã hết. Nêu cao đức hiếu sinh, tránh giết tróc. Coi trọng việc nông tang, tất cả đều là những hình ảnh mới mẻ không hề thấy trong Thanh Hiên Thi Tập và trong cả hai mươi tám bài trong Nam Trung Tạp Ngâm trên đây.

Tiếp theo là bài:

城 下 棄 馬Thành Hạ Khí Mã

誰 家 老 馬 棄 城 陰Thùy gia lão mã khí thành âm

毛 暗 皮 乾 瘐 不 禁Mao ám bì can sấu bất câm

石 壘 秋 寒 徑 草 短Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản

沙 場 日 暮 陣 雲 深Sa trường nhật mộ trận vân thâm

饑 來 不 作 求 人 態Cơ lai bất tác cầu nhân thái

老 去 終 懷 報 國 心Lão khứ chung hoài báo quốc tâm

耐 得 風 霜 全 爾 性Nại đắc phong sương toàn nhĩ tính

莫 教 羇 縶 再 相 侵Mạc giao ky trập tái tương xâm.

87

Page 86: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

dịch là:

Ngựa Hoang Chân ThànhNgựa già ai bỏ chân thành

Da khô lông trụi thân mình xác xơCỏ cằn lũy đá cuối thu

Cồn xa bảng lảng mây mờ chiều buôngĐói lòng chẳng cậy người thương

Về già nợ nước sắt son vẫn bềnGió sương giữ tính vẹn tuyền

Yên cương tránh chẳng đóng lên lưng gầy.

Hình ảnh con ngựa hoang dưới chân thành là hình ảnh Lão Tử dùng để mô tả cảnh cuộc chiến đã tàn, chiến mã thành vô dụng. Trong bốn câu đầu, hình ảnh con ngựa già gặm cỏ khô dưới chân thành một chiều thu, dương như là hình ảnh người lính già sau cuộc chiến, thiếu thốn mà không nhờ vả vào người khác, dầu nợ nước còn sắt son giữ bền, nhưng giờ đây dường muốn giữ vẹn tuyền bẩm tính, chẳng muốn bị đóng ngàm bịt móng tháng yên cương lên lưng một lần nữa.

Dường như Nguyễn Du đã thuyên chuyển về Huế, nên thi cảnh trong mười bài cuối Nam Trung Tạp Ngâm không còn là hình ảnh Quảng Bình.

Bắt đầu là bài:

望 天 台 寺Vọng Thiên Thai Tự天 台 山 在 帝 城 東

Thiên Thai sơn tại đế thành đông隔 一 絛 江 似 不 通

Cách nhất điều giang tự bất thông古 寺 秋 埋 黃 葉 裡

Cổ tự thu mai hoàng diệp lý先 朝 僧 老 白 雲 中

Tiên triều tăng lão bạch vân trung可 憐 白 髮 供 驅 役

Khả liên bạch phát cung khu dịch不 與 青 山 相 水 終

Bất dữ thanh sơn sơn thủy chung記 得 年 前 曾 一 到

Ký đắc niên tiền tằng nhất đáo景 興 猶 掛 舊 時 鐘

Cảnh Hưng do quải cựu thời chung

dịch là:

Ngắm Cảnh Chùa Thiên ThaiThành đông có núi Thiên Thai

Cách ngăn một nhánh sông dài khó sangVào thu chùa cổ lá vàng

Có sư triều trước có ngàn mây caoThương thân khu dịch bạc đầu

Thủy chung hẹn với non sâu lỡ làngNhớ hồi năm truớc ghé sang

Cảnh Hưng ngày đúc chuông vàng còn ghi.

Núi Thiên Thai là một trái núi nhỏ ở phía đông thành Huế.Trên núi có chùa gọi là chùa Thiên Thai. Câu năm câu sáu tác giả tỏ ý thương thân bề bộn việc quan, khiến lỗi hẹn cói núi 88

Page 87: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

xanh. Tác giả cũng còn nhớ tới quả chuông đúc từ đời Cảnh Hưng làn trước thăm chùa ông đã được xem.

Tiếp theo là hai bài Nguyễn Du viết gửi Ông Thiêm Sự bộ Công, người họ Trần.

柬 工 部 詹 事 陳Giản Công Bộ Thiêm Sự Trần

二 首Hai Bài

其 一Kỳ nhất

青 山 外 有 不 歸 人Thanh sơn ngoại hữu bất quy nhân

山 北 山 南 盡 白 雲Sơn bắc sơn nam tận bạch vân

七 月 又 逢 秋 到 眼Thất nguyệt hựu phùng thu đáo nhãn

天 涯 空 帶 老 隨 身Thiên nhai vô đái lão tùy thân

百 年 古 壘 煙 霞 合Bách niên cổ lũy yên hà hợp

一 帶 寒 沙 草 澍 分Nhất đái hàn sa thảo thụ phân

倚 遍 欄 干 無 與 語 Ỷ biến lan can vô dữ ngữ

幾 回 驚 坐 憶 陳 遵Kỷ hồi kinh tọa ức Trần Tuân

其 二Kỳ nhị

清 風 裊 裊 自 江 津Thanh phong niểu niểu tự giang tân

明 月 青 山 上 海 瀕Minh nguyệt thanh sơn thướng hải tần

難 得 相 逢 如 此 夜Nan đắc tương phùng như thử dạ

可 憐 同 是 未 歸 人Khả liên đồng thị vị quy nhân

陰 符 歲 晚 生 仙 蠹Âm phù tuế vãn sinh tiên đố

幽 室 秋 寒 現 鬼 憐U thất thu hàn hiện quỷ lân

夜 櫝 明 明 招 隱 賦Dạ độc minh minh Chiêu Ẩn phú

鴻 山 慚 負 一 山 雲Hồng Sơn tàm phụ nhất sơn vân.

dịch là:

Gửi Trần Thiêm Sự Bộ CôngHai Bài

INgoài non xanh người chưa về

89

Page 88: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Núi nam núi bắc đôi bề trắng mâyTiết thu tháng bẩy heo may

Cái già đeo đẳng bấy nay bên trờiLũy trăm năm ráng đầy vơi

Cồn dài cát trắng cắt dời rặng câyKhắp lan can không một ai

Bao lần kinh động nhớ hoài Trần Tuân.

IIGió hiu hắt nổi bên sông

Trăng lên núi biếc biển đông rõ dầnGặp được nhau bao gian truân

Đôi ta một cảnh khó khăn nẻo vềÂm Phù mọt nhấm long bìa

Căn nhà thu lạnh lập loè đóm bayPhú Chiêu Ẩn chẳng dời tay

Thẹn mình chót phụ làn mây non Hồng.

Căn cứ vào câu thú tám bài I, giới nghiên cứu đoán chừng ông Thiêm Sự Họ Trần này là ông Trần Văn Tuân tham tri bộ Lại dưới triều vua Gia Long, cùng thời vói nguyễn Du, dường như không để ý tới đầu đề bài thơ ghi rõ ông bạn Nguyễn Du là thiêm sự bộ Công. Theo câu thứ tư trong bài II thì rõ là Nguyễn Du và ông bạn cùng muốn về hưu mà chưa được như ý. Sách đọc của hai nguời là kinh Âm Phù của Đạo Giáo, và vì say mê bài phú Chiêu Ẩn Sĩ của Hoài Nam Tiểu Sơn, chép trong phần sau của Sỡ Từ, đại ý kêu goi cao ẩn sĩ ra giúp Hoài Nam Vương, theo Đào Duy Anh, Nguyễn Du đã ra giúp nhà Nguyễn, khiến ngày nay thẹn với mây núi Hồng Lĩnh.

Huế vào thu, gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

秋 日 寄 興Thu Nhật Ký Hứng

西 風 再 到 不 歸 人Tây phong tái đáo bất quy nhân

頓 覺 寒 威 已 十 分Đốn giác hàn uy dĩ thập phân

故 國 河 山 看 落 日Cố quốc hà sơn khan lạc nhật

他 鄉 身 世 托 浮 雲Tha hương thân thế thác phù vân

忽 驚 老 景 今 朝 是Hốt kinh lão cảnh kim triêu thị

何 處 秋 聲 昨 夜 聞Hà xứ thu thanh tạc dạ văn

自 哂 白 頭 欠 收 拾Tự thẩn bạch dầu khiếm thu thập

滿 庭 黃 葉 落 紛 紛Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân.

dịch là:

Ghi Hứng Ngày ThuGió thu tới chưa được về

Chợt nghe rét mướt sắt se gấp mườiChiều tà non nước trông vời

Quê người thân thế nổi trôi không nhàSáng nay chợt sợ cảnh già

90

Page 89: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Tiếng thu xào xạc đêm qua chốn nàoTrách mình vụng tính bạc đầuLá vàng lả tả xạc xào dầy sân.

Gió thu lại về, nhưng tác giả chưa được nghỉ hưu. Cái lạnh như lạnh thêm gấp mười. Niềm nhớ quê làm người xa quê thấy mình như mây nổi, thấy sợ cảnh già, chẳng còn biết tiếng thu ẩn náu nơi nào. Chỉ còn trách mình vụng tính. Đầy sân lá vàng rơi lả tả.

Tiếp tới, trong cùng một mạch thơ, là bài:

山 中 即 事Sơn Trung Tức Sự

疊 疊 層 巒 石 作 堆Điệp điệp tằng loan thạch tác đôi

煙 蘿 布 地 密 難 開Yên la bố địa mật nan khai

忽 逢 駭 獸 樹 間 出Hốt phùng giã thú thụ gian xuất

知 有 樵 夫 林 下 來Tri hữu tiều phu lâm hạ lai

燒 野 新 痕 青 草 盡Thiêu dã tân ngân thanh thảo tận

倚 山 舊 徑 白 雲 催Ỷ sơn cựu kính bạch vân thôi

山 靈 故 絕 輕 肥 路Sơn linh cố tuyệt khinh phì lộ

遍 列 危 岡 與 險 崖Biến liệt nguy cương dữ hiểm nhai.

dịch là:

Tức Sự Trong NúiNúi trùng điệp đá ngổn ngang

Cỏ lan mờ lối dọc ngang đặc dầyThú rùng sợ lủi lùm cây

Biết người hái củi đâu đây bên rừngĐốt nương cỏ cháy bừng bừng

Núi xa mây trắng từng từng dâng caoSơn linh phú quý cấm vào

Cách ngăn vách dốc vực sâu đặt bày.

Tác giả nhân dịp leo núi, ghi lại cảnh núi non trùng điệp, cỏ dại ngăn lối; thú rùng sợ hãi lùi trốn, khi có người hái củi tới gần; vết cỏ cháy vì đốt cỏ làm nương; ngọn núi xa nhả mây trắng. Thần núi dường như muốn ngăn lối kẻ giầu sang, áo lông ngựa béo, mà bầy dặt vách dốc vực sâu hiểm trở.

Trong tỉnh Quảng Bình, nơi Nguyễn Dugiữ chức Cai Bạ, có sông Gianh, một con sông đã từng là ranh giới hai miền Đàng Ngoài và

Đàng Trong suốt cuộc chiến tranh Nam Bắc. Dòng sông này đem lại cho Nguyễn Du thi hứng để viết bài sau đây:

渡 靈 江Độ Linh Giang

平 沙 藎 處 水 天 浮Bình sa tận xứ thủy thiên phù

浩 浩 湮 波 古 渡 秋91

Page 90: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Hạo hạo yên ba cổ độ thu一 望 津 涯 通 巨 海

Nhất vọng thiên nhai thông cự hải歷 朝 彊 界 在 中 流

Lịch triều cương giới tại trung lưu三 軍 舊 壁 飛 黃 葉

Tam quân cựu bích phi hoàng diệp百 戰 殘 骸 臥 綠 蕪

Bách chiến tàn hài tọa lục vu北 上 土 民 莫 相 避

Bắc thượng thổ dân mạc tương tỵ卅 年 前 是 我 同 州

Táp niên tiền thị ngã đồng châu.

dịch là:

Qua Sông DanhCồn xa nước tiếp với trời

Thu về bến cũ chiều rơi khói lồngBến sông ra biền mênh mông

Mấy triều cương giới giữa dòng chia đôiLá vàng lũy cổ rơi rơi

Cỏ xanh xương trắng chôn vùi vạn quânChớ nghi bờ bắc tình dân

Ba mươi năm trước người thân cùng làng.

Không những chỉ có sông Danh mà cả sông Di ở phiá bắc Quảng Bình, cũng là môt thắng cảnh gọi hứng cho Nguyễn Du, như ông ghi lại trong bài:

瀰 江 口 鄉 望Di Giang Khẩu Hương Vọng

望 望 家 鄉 似 日 遍Vọng vọng gia hương tự nhật biên

橫 山 只 隔 一 山 顛Hoành sơn chỉ cách nhất sơn điên

可 憐 歸 路 纔 三 日Khả lân quy lộ tài tam nhật

獨 抱 鄉 心 已 四 年Độc bão hương tâm dĩ tứ niên

燕 島 秋 寒 青 入 海Yến đảo thu hàn thanh nhập hải

瀰 江 潮 漲 白 函 天Nễ giang triều trướng bạch hàm thiên

外 州 今 與 吾 州 別Ngoại châu kim dữ ngô châu biệt

看 看 人 風 不 似 前Khán khán nhân phong bất tự tiền.

dịch là:

Từ Cửa Ròn Ngóng Về QuêBên trời quê cũ cách ngăn

Hoành Sơn một giải dặm ngàn xa xôiĐường về ba bửa tới nơi

Bốn năm đằng đãng đôi tròi nhó thương92

Page 91: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thu tàn Hòn Én mờ sươngChiều về sông Nễ sóng lồng bóng mây

Châu nhà khác với châu đâyThói xưa tục cũ đổi thay hết rồi.

Sông Di, còn tên là sông Nễ, đổ ra biển ỏ cửa Cảnh Dương hay còn gọi là cửa Ròn, nhìn ra Hòn Én. Nguyễn Du ngắm cảnh ở cửa Ròn mà nhớ về quê ông ỏ bên kia Đèo Ngang, đường đi thời đó chỉ mất ba ngày, mà thấy như xa xăm tự bên trời. Chỗ ông đang ở là Châu Ngoài, thói tục khác hẳn với thói tục nơi quê ông. Phải chăng vì vậy mà tình quê càng thêm nồng nàn?

Sau hai bài ghi lại thắng cảnh ở vùng Quảng Bình, Nam Trung Tạp Ngâm chép tiếp hai bài thơ thù tạc giữa Nguyễn Du và hai người bạn.

Một là bài:

依 元 韻 寄Y Nguyên Vận Ký

青 威 吳 四 元Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên

一 夜 西 風 到 海 湄Nhất dạ tây phong đáo hải my

童 年 交 誼 尚 依 偯Đồng niên giao nghị thượng y y

代 耕 有 舌 生 常 足Đại canh hữu thiệt sinh thường túc

去 國 何 心 老 不 歸Khứ quốc hà tâm lão bất quy

消 渴 日 增 司 馬 病Tiêu khát nhật tăng Tư Mã bệnh

夢 魂 夜 入 少 陵 詩Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi

臨 江 未 敢 題 鸚 鵡Lâm Giang vị cảm đề Anh Vũ

還 有 中 原 一 大 兒Hoàn hữu trung nguyên nhất đại nhi.

dịch là:

Y Theo Nguyên Vận GửiÔng Ngô Tứ Nguyên ở Thanh Oai

Gió tây đêm lộng biển đôngTình ta từ nhỏ vẫn không đổi dời

Lưỡi thay cầy đủ sống rồiGià về quê cũ ai người không mong

Bệnh Tư Mã ngày một tăngMộng hồn vẫn nhớ Thiếu Lăng đêm trường

Đề thơ Anh Vũ xin nhườngTrả người lão luyện nhất vùng trung nguyên.

Giới nghiên cứu không tìm ra Ngô Tứ Nguyên là ai. Có người cho là chữ Tứ Nguyên phải là người đỗ đầu bốn khoa: thi đầu xứ, thi hương, thi hội và thi đình. Có người tìm trong gia phả họ Ngô tại Thanh Oai, một người khoảng cùng tuổi với Nguyễn Du, thì chỉ thấy Ngô Thì Hoàng, em ruột Ngô Thì Nhậm và đoán rằng ông Ngô Thì Hoàng là người bạn xướng họa cùng Nguyễn Du. Nhưng ông Ngô Thì Hoàng chỉ đậu tú tài và ở nhà dậy học không ra làm quan. Thế nên câu hỏi Ngô Tứ Nguyên là ai vẫn bỏ ngỏ.

93

Page 92: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Đây là một bài thơ Nguyễn Du dùng nhiều điển tích cầu kỳ. Bệnh tiêu khát là bệnh tiểu đường và Tư Mã Tương Như mắc bệnh này cũng như Ngô Tứ Nguyên.

Thiếu Lăng tức Đỗ Phủ vốn là nhà thơ mà Nguyễn Du tâm phục. Thơ Anh Vũ trong câu thứ bẩy nhắc tới bài Hoàng Hạc Lâu nổi tiếng trong Tòan Đường Thi

của Thôi Hiệu và thoại Lý Bạch đọc thơ Thôi Hiệu đề trên vách Hoàng Hạc Lâu, thán phục Thôi Hiệu và không đề thơ ở đó nữa. Dùng điển này và câu thứ tám, Nguyễn Du khen ngợi thi tài của ông bạn.

Bài thơ thù tạc thứ hai chép trong Nam Trung Tạp Ngâm là bài:

送 吳 汝 山Tống Ngô Nhữ Sơn

公 出 鎮 乂 安Công Xuất Trấn Nghệ An

錦 羅 江 上 扣 征 鞍Cẩm La giang thượng khấu chinh an

拜 會 非 難 惜 別 難Bái hội phi nan tích biệt nan

八 大 奇 文 花 兩 國Bát đại kỳ văn hoa lưỡng quốc

一 車 膏 雨 潤 全 驩Nhất xa cao vũ nhuận toàn hoan

人 從 淡 泊 斯 為 正Nhân tòng đạm bạc tư vi chính

天 為 黔 犁 不 放 閒Thiên vị kiềm le bất phóng nhàn

北 望 鴻 山 開 德 耀Bắc vọng Hồng Sơn khai đức diệu

天 涯 舉 酒 慶 鄉 關Thiên nhai cử tửu khánh hương quan.

dịch là:

Tiễn Ngô Nhữ Sơn Ra LàmHiệp Trấn Nghệ An

Dừng cương bên bến Cẩm LaGặp nhau chẳng khó khó là xa nhau

Lừng danh hai nước văn hàoƠn vua reo rắc dân châu Hoan mừng

Lấy đạm bạc lo việc quanBởi trời việc nước muốn nhàn chẳng xong

Đức cao chùm cả núi HồngBên trời nâng chén tôi mừng quê tôi.

Ngô Nhữ Sơn, tên thật là Ngô Nhân Tỉnh, gốc người Minh Hương, cư ngụ tại Gia Định, thủa trẻ theo học Võ Trường Toản, nổi tiếng hay chữ. Làm quan với triề Nguyễn. Đi sứ sang Trung Quốc hai lần (1802 và 1807). Tháng giêng năm Gia Long thứ mười, ong thuyên chuyển làm Hiệp Trấn Nghệ An. Bài thơ trên đây, theo giới nghiên cứu, Nguyễn Du viết trong dịp này.

Theo Đào Duy Anh, trong câu thứ nhất, bến Cẩm La tức bến đò Hàn trên sông Nhật Lệ, ở phía nam thành Quảng Bình. Câu thứ hai dẫn người đọc về một câu thơ Đường nổi tiếng của Lý Thương Ẩn, mở đầu bài Vô Đề 16:

相 見 時 難 別 亦 難Tương kiến thì nan biệt diệc nan

16. 唐 詩 三 百 首. 退 士 編 訂. 新 生 出 版 社. 香 港. 章 二 二 二 94

Page 93: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Chữ bát đại trong nguyên bản chỉ tám nhà văn lón của Trung Quốc: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, Tô Thúc, Tô Triệt, Tăng Củng và Vương An Thạch. Nguyễn Du dùng hai chũ này để nhác lại truyện Ngô Nhân Tĩnh thủa đi học cùng Trịnh Hoài Đức, và Lê Quang Định cũng nổi tiếng là Gia Định Tam Gia. Câu thứ tư, theo Lê Thước và Trương Chính, Nguyễn Du nhắc tới việc Ngô Nhân Tĩnh xin vua hoãn thu thuế cho dân châu Hoan, tức Nghệ An vì năm đó vùng này bị nạn đói kém. Câu thứ năm tác giả ca tụng đức đạm bạc của Ngô Nhân Tĩnh trong việc làm quan. Nay Ngô Nhân Tĩnh ra nhậm chức tại Nghệ An nơi quê hương của Nguyễn Du, khiến ông mừng cho dân tỉnh ông.

Hai bài cuối chép trong Nam Trung Tạp Ngâm là hai bài Nguyễn Du viết thay người đi thú lâu năm mong được về quê quán, để giãy bày niềm mong ước của ông được về quê hương.

代 作 久 戌 思 歸Đại Tác Cửu Thú Tư Quy

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

關 外 秋 風 送 笛 吹Quan ngoại thu phong tống địch xuy

班 超 頭 白 未 成 歸Ban Siêu đầu bạch vị thành quy

十 年 許 國 君 恩 重Thập niên hứa quốc quân ân trọng

千 里 離 家 旅 夢 遲Thiên lý ly gia lữ mộng trì

夜 繡 榮 花 身 外 幻Dạ tú vinh hoa hân njgoại huyễn

朝 雲 名 利 眼 前 非Triêu vân danh lợi nhãn tiền phi

隴 阡 歲 歲 瓜 田 熟Lũng niên tuế tuế qua điền thục

苦 盡 甘 來 尚 有 期Khổ tận cam lai thượng hữu kỳ.

其 二Kỷ Nhị

千 仞 橫 山 一 帶 河Thiên nhẫn Hoành Sơn nhất đái hà

白 雲 回 扌 隔 天 涯Bạch vân hồi thủ cách thiên nhai

新 秋 氣 候 催 寒 杵Tân thu khí hậu thôi hàn chữ

故 國 關 山 寄 夜 笳Cố quốc giang sơn ký dạ già

天 地 一 身 忠 易 孝Thiên địa nhất thân trung dịch hiếu

風 塵 萬 里 國 忘 家Phong trần vạn lý quốc vong gia

月 中 橫 笛 太 無 賴Nguyệt trung hoành địch thái vô lại

半 夜 江 城 吹 落 花Bán dạ giang thành xuy lạc hoa.

dịch là:95

Page 94: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Viết Thay Người Đi Thú Lâu Năm Nhớ Nhà

Hai bài

IẢi xa tiếng sáo gió đưa

Chàng Siêu đầu bạc vẫn chưa được vềMười năm việc nước nặng nề

Đêm dài tàn mộng nhớ quê bàng hoàngHão huyền vinh hiển nào màng

Lợi danh trước mắt mây vàng sương maiBao năm dưa chín hẹn sai

Hạn qua rồi cũng tới ngày về quê.

IISông ngănThiên Nhẫn Hoành San

Chân trời trắng xóa mây ngàn bốn phươngThu về chẩy vải nện sương

Kèn đêm gợi mối đoạn trường nhớ quêLấy trung thay hiếu trọn bề

Quên nhà vì nước chẳng nề gió mưaDưới trăng tiếng sáo vẳng đưa

Lạc Hoa réo rắt canh khuya bên thành.

Thanh Hiên Thi Tập có chép bài Đại Nhân Hý Bút của Nguyễn Du, thay người viết đùa để mô tả cảnh sống sa sỉ của một người giầu có phung phí không nghĩ tói cảnh gió bụi ỏ biển Nam. Hai bài cuối Nam Trung Tạp Ngâm trên đây, Nguyễn Du cũng viết thay người lính thú xa nhà đã lâu, mơ về bản quán.

Hình ảnh tiêu biểu người lính thú xa nhà lâu năm trong bài thứ nhất là hình ảnh của Ban Siêu, quen thuộc trong văn học Việt Nam qua câu Chinh Phụ Ngâm:

Chàng Siêu tóc đã điểm sương chưa về.Ban Siêu là một ông Tướng đới Đông Hán đi chinh phục các nước vùng Tây Vực, hơn ba

chục năm, ngày về thì đã già.Người lính thú trong thơ xa nhà cũng đã mười năm. Trong mộng vẫn mo về bản quán.

Vinh hiển là hão huyền, danh lợi khác nào nắng chiều sương mai. Đã bao lần hẹn về mà chua được về. Nhưng chắc rồi một mai sẽ có ngày về.

Bài thứ hai ghi lại cảnh người lính thú đóng đồn ở miền Hoành Sơn và Thiên Nhẫn, hai địa điểm ở hai bên bờ sông Gianh. Thi cảnh là cảnh trời vào thu, khiến người lính thú nhớ nhà, nhưng tự nhủ lấy trung thay hiếu, vì nước chẳng ngại gió mưa, và bên tai còn nghe tiếng sáo não nuột tấu bài Lạc Hoa.

Người đọc, qua hai bài trên đây, dường như thấy Nguyễn Du không còn nôn nóng muốn về Hồng Lĩnh như trong nhiều bài khác. Trong những đêm nhớ nhà người tha hương không còn màng vinh hiển, không còn ước vọng lợi danh, nhưng vẫn đặt phép công trên niềm riêng, và vững tin là rồi ra sẽ đưọc về bản quán.

北 行 雜 錄Bắc Hành Tạp Lục

Tập Bắc Hành Tạp Lục gồm 120 bài dưới 110 đề mục, gồm những bài Nguyễn Du sáng tác trong chuyến đi sứ sang triều đình nhà Thanh (1813-1814).

Ông mở đầu tập thơ bằng một bài ca dài năm mươi câu, kèm theo một tiểu dẫn, ghi lại cuộc tái ngộ giữa ông và một tay đàn lão luyện trong đội nũ nhạc triếu nhà Lê mà ông đã được gặp, ngoài hai chục năm trước, tại nhà anh ông, lúc đó làm quan cho nhà Tây Sơn , và 96

Page 95: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

ông hãy còn là một thư sinh. Đó là bài:

Bài Ca Tay Đàn Long Thành17

Tiểu Dẫn:Tay đàn Long Thành ấy, không rõ tên họ là gì. Nghe nói thủa nhỏ nàng học đàn nguyệt

trong đội nữ nhạc ở cung vua Lê. Quân Tây Sơn kéo ra, các đội nhạc cổ kẻ chết, người bỏ đi. Nàng lưu lạc ở các chợ, ôm đàn hát rong. Nhưng bài nàng gẩy đều là những khúc cung phụng trong cung cấm, người thường không ai được nghe, khiến tài đàn của nàng nổi tiếng hay nhất một thời.

Hồi còn trẻ, đến kinh thành thăm anh tôi, ở gần hồ Giám. Cạnh đó các quan Tây Sơn mở cuộc hát lớn, con hát đẹp có tới vài chục người. Nàng sở trường đàn nguyệt, hát cũng hay và khéo nói khôi hài. Mọi người say mê, đua nhau ban thưởng từng chén rượu lớn, nàng cạn chén ngay, tiền và lụa thưởng nhiều vô kể, chống chất đẩy mặt đất. Lúc đó tôi nấp trong bóng tối, không được thấy rõ lắm. Sau được gặp ở nhà anh tôi. Nàng người thấp, má bầu trán gô, mặt gẫy, không đdẹp lắm, nhưng nước da trắng trẻo thân hình đẫy đà, khéo trang diểm, lông mày thanh, má đánh phấn, áo mầu hồng, quần lụa cánh trả, có vẻ phong nhã. Nàng hay uống rượu, hay nói pha trò, con mắt long lanh, không coi ai ra gì. Khi ở nhà anh tôi, mỗi lần uống rượu thì nàng uống say đến nỗi nôn bừa bải, nằm lăn ra đất, các bạn có chê trách cũng không để tâm. Sau đó vài năm tôi dời nhà về nam, mấy năm liền không trở lại Long Thành.

Mùa xuân năm nay, tôi phụng mệnh sang sứ Trung Quốc, trên đường đi qua Long Thành. các quan mỏ tiệc tiễn tôi ở dinh Tuyên Phủ, gọi tất cả vài chục nữ nhạc, tôi đều không biết mặt biết tên. Chị em thay nhau múa hát. Rồi nghe một khúc đàn nguyệt trong trẻo nổi lên, khác hẳn nhũng khúc thường nghe, tôi lấy làm lạ, nhìn người gẩy đànthì thấy một chị gầy gò, vẻ tiểu tụy, sắc mặt đen sạm, xấu như qủy, áo quần mặc toàn vải thô bạc thếch, vá nhiều miếng trắng, ngồi im ở cuối chiếu, chẳng hề nói cười, hình dung thật khó coi. Tôi không biết nàng là ai, nhưng nghe tiếng đàn thì dường như đã từng quen biết, nên động lòng thương. Tiệc xong, hỏi thì chính là người trước kia đã gặp.

Than ôi! người ấy sao đến nỗi thế! Tôi bồi hồi, không yên, ngửng lên cúi xuống, ngậm ngùi cho cảnh xưa và nay. Người ta trong cõi trăm năm, nhưng sự vinh nhục buồn vui thật không lường được. Sau khi từ biệt, trên đường đi, cảm thương vô hạn nên làm bài ca sau để ghi lại mối cảm hứng.

龍 城 琴 者 歌Long Thành Cầm Giả Ca

龍 城 佳人Long Thành giai nhân姓 氏 不 記 清Tính thị bất ký thanh獨 擅 阮 琴Độc thiện Nguyễn cầm舉 城 之 人 以 琴 名Cử thành chi nhân dĩ cầm danh學 得 先 朝 宮 中 供 奉 曲5Học đắc tiên triều trung cung phụng khúc自 是 天 上 人 間 第 一 名Tự thị thiên thượng nhân gian đệ nhất danh余 憶 少 時 曾 一 見Dư ức thiếu thời tằng nhất kiến鑑 湖 湖 遍 夜 開 宴Giám hồ hồ biên dạ khai yến其 時 三 七 正 芳 年Kỳ thời tam thất chính phương niên

17. Theo bản dịch của Đào Duy Anh. Thơ Chữ Hán Nguyễn Du, Văn Học, Hà Nội 1988, tr.189.97

Page 96: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

紅 妝 奄 曖 桃 花 面10Hồng trang yểm ái đào hoa diện酡 顏 憨 態 最 宜 Đà nhan hám thái tối nghi nhân歷 亂 五 聲 隨 手 變Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến緩 如 疏 風 渡 松 林Hoãn như sơ phong độ tùng lâm清 如 雙 鶴 鳴 在 陰Thanh như song hạc minh tại âm烈 如 薦 福 碑 頭 碎 霹 靂15Liệt như Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch哀 如 莊 舄 病 中 為 越 吟Ai như Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm聽 者 靡 靡 不 知 倦Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện便 是 中 和 大 內 音Tiện thi Trung Hòa đại nội âm西 山 諸 臣 滿 座 盡 傾 捯Tây Sơn chư thần mãn tọa tận khuynh đảo徹 夜 追 歡 不 知 飽20Triệt dạ truy hoan bất tri bão左 拋 友 擲 爭 纏 頭Tả phao hữu trịch tranh triền đầu泥 土 金 錢 殊 草 草Nê thổ kim tiền thù thảo thảo豪 花 意 氣 凌 王 候Hào hoa ý khí lăng vương hầu五 陵 少 年 不 足 道Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo并 將 三 十 六 宮 春25Tinh tương tam thập lục cung xuân活 做 長 安 無 價 寶Hoạt tố Trường An vô giá bảo此 席 回 頭 二 十 年Thử tịch hồi đầu nhị thập niên西 山 敗 後 余 南 遷Tây Sơn bại hậu dư nam thiên咫 尺 龍 城 不 復 見Chỉ xích Long Thành bất phục kiến何 況 城 中 歌 舞 筳30Hà huống thành trung ca vũ diên宣 撫 使 君 為 余 重 買 笑Tuyên phủ sú quân vị dư trùng mãi tiếu席 中 歌 妓 皆 年 少Tịch trung ca kỷ giai niên thiếu席 末 一 人 髮 半 花Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa顏 瘦 神 枯 形 略 小Nhan sấu thần khô hình lược tiểu狼 射 殘 眉 不 飾 妝Lang tạ tàn my bất sức trang誰 知 就 是 當 時 成 中 第 一 妙35Thùy tri tựu thị đương thời thành trung đệ nhất diệu 舊 曲 聲 聲 暗 淚 垂Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy

98

Page 97: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

耳 中 靜 聽 心 中 悲Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi猛 然 憶 起 二 十 年 前 事Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự鑑 湖 席 中 曾 見 之40Giám hồ tịch trung tằng kiến chi城 郭 推 移 人 事 改Thành quách suy di nhân sự cải幾 處 桑 田 變 滄 海Kỷ xứ tang điền biến thương hải西 山 基 業 盡 消 亡Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong歌 舞 空 遺 一 人 在Ca vũ không di nhất nhân tại瞬 息 百 年 能 幾 時45Thuấn tức bách niên năng kỷ thì傖 心 往 事 淚 沾 衣Thương tâm vãng sự lệ triêm y南 河 歸 來 頭 盡 白Nam hà quy lai đầu tận bạch怪 底 佳 人 顏 色 衰Quái để giai nhân nhan sắc suy雙 眼 瞪 瞪 空 想 像Song nhãn trừng trừng không tưởng tượng可 憐 對 面 不 相 知50Khả liện đối diện bất tương tri.

dịch là

Bài Ca “Tay Đàn Long Thành”

Có người đẹp đất Long ThànhChẳng ai biết rõ tính danh là gìNguyễn cầm nổi tiếng một thìThiên tài đàn nguyệt kinh kỳ gọi tên5Học đàn triều trước chân truyền Một chương Cung Phụng tài riêng hơn đờiNhớ ngày trai trẻ xa vờiTiệc bên hồ Giám gặp người tài danhTuổi vừa hăm mốt xuân xanh10Áo hồng ghen thắm nét thanh hoa đàoMen tô cặp má đỏ auNăm cung réo rắt năm đầu ngón tayKhoan như gió thoảng thông gầy Trong như tiếng hạc ngang mây gọi đàn15Mạnh như sét đánh bia tànBuồn như tiếng mẹ mớ tràn trong mơNgười nghe sửng sốt sững sờRõ là tiếng nhạc điện vua Trung HòaQuan Tây Sơn chiếu tiệc hoa20Mải vui quên cả canh gà tàn đêmTranh nhau gieo thưởng say mèmCoi như bùn đất bạc tiền vãi vungHào hoa nào kèm đế vươngKể chi bọn trẻ ngông cuồng Ngũ Lăng25Dường ba mươi sáu cung xuân

99

Page 98: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Đúc nên vật báu Trường An đêm nàyHai mươi năm ấy đến nayTây Sơn suy xụp ta rày về NamLong Thành gang tấc cách ngăn30Huống chi câu hát tiếng đàn năm xưaNặng tình sứ bộ tiễn đưaTiệc hoa kỹ nữ tuổi vừa tròn trăngTóc sương cuối chiếu một nàngThân hình nhỏ bé khô khan bơ phờ35Mày thô lâu chẳng điểm tôThiên tài đàn nguyệt ai ngờ nổi trôiKhúc xưa từng tiếng nhạc trờiTai nghe ruột xót lệ rơi ròng ròngTruyện xưa hai chục năm tròn40Tiệc bên hồ Gián riêng lòng chưa quênCảnh đời dâu biển nào bềnThành xiêu quách đổ mấy phen đổi dờiTây Sơn nghiệp cả đâu rồiMà làng ca vũ còn người ngồi đây45Trăm năm chớp mắt chưa đầyCảm thương truyện cũ đắng cay lệ tràoVào nam ra bắc bạc đầuTrách gì nhan sắc pha mầu gió sươngNgỡ ngàng đôi mắt trừng trừngQuen mà hóa lạ xót thương nên lòi.

Đọc hết Long Thành Cầm Giả Ca người đọc thơ chợt liên tưởng tới bài Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, dài tám mươi tám câu. Cả hai bài cùng dùng tiếng đàn nối kết cầm giả với người thơ. Nhưng dường như sự tương đồng giữa hai áng thơ ngừng tại đây. Tỳ Bà Hành ghi lại cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa tay đàn và người thơ. Tay đàn đã về già, rơi vào cảnh cùng khốn, tiếc nuối lại thời son trẻ của mình. Người thơ đang bị biếm đi vùng đất nghèo khổ, bởi đó có sự thông cảm qua tiếng đàn, giữa người đàn và người thơ, và người thơ vì nguời đàn viết thành bài thơ dài. Long Thành Cầm Giả Cả kể lại cuộc tái ngộ giữa tay đàn và người thơ, nhân dịp quan tổng trấn Bắc Thành mở tiệc tiếp đón sứ bộ, do người thơ hướng dẫn, dừng chân tại Thăng Long. Tiếng đàn khiến người thơ nhớ lại cuộc hội ngộ đầu tiên giữa ông và cầm giả hai chục năm về trước tại một bữa tiệc của các quan Tây Sơn, mà ông không được dự, bên hồ Giám. Hai chục năm đó là thời gian diễn tiến của một cuộc đại hóa. Mọi sự đều vô thường: thành xiêu quách đổ, triều chính thay đổi vài ba lần. Trong đại hóa đó, thời gian đã làm cả cẩm giả và nhà thơ cùng già đi, nhưng cả hai vẫn còn sống nổi qua cuộc đại hóa. Cuộc đại hóa như một ngọn sóng, đưa cầm giả từ đỉnh sóng xuống sâu lòng sóng, và ngược lại đưa người thơ từ lòng sóng lên ngọn sóng. Lên hay xuống âu là mệnh trời. Người thơ và cầm giả cùng nhận ra nhau, nhưng không một lời trao đổi. Nhà thơ vì cầm giả và cũng vì đại hóa viết thành áng thơ dài.

Nhân vụ sứ bộ tạm nghỉ tại Thăng Long, Nguyễn Du viết ba bài dưới đây. Một là:

昇 龍Thăng Long

二 首Nhị Thủ

傘 嶺 瀘 江 歲 歲 同Tản lỉnh Lô giang tuế tuế đồng

白 頭 猶 得 見 昇 龍Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long

千 年 巨 室 成 官 道100

Page 99: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thiên niên cự thất thành quan đạo一 片 新 城 沒 故 宮

Nhất phiến tân thành một cố cung相 識 美 人 看 抱 子

Tương thức mỹ nhân khán bão tủ同 遊 俠 少 盡 成 翁

Đồng du hiệp thiếu tận thành ông關 心 一 夜 苦 無 睡

Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy短 笛 聲 聲 明 月 中

Đoản địch thanh thanh minh nguyệt trung

二 首Nhị Thủ

古 時 明 月 照 新 成Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành

猶 是 昇 龍 舊 帝 京Do thị Thăng Long cựu đế kinh

衢 巷 四 開 迷 舊 跡Cù hạng tứ khai mê cựu tích

管 弦 一 變 雜 新 聲Quản huyền nhất biến tạp tân thanh

千 年 富 貴 供 爭 奪Thiên niên phú quý cung tranh đoạt

早 歲 親 朋 半 死 生Tảo tuế thân bàng bán tủ sinh

世 事 浮 沉 休 嘆 息Thế sụ phù trầm hưu thán tức

自 家 頭 白 亦 星 星Tự gia dầu bạch diệc tinh tinh.

dịch là:

Thăng LongHai Bài

ILô chưa cạn Tản chưa mòn

Bạc đầu lại thấy Thăng Long tủi mừngNhà xưa nay phá làm đường

Thành đây xóa cảnh cổ cung huy hoàngGiai nhân con bế con bồng

Bạn chơi ngày trước nên ông cả rồiSuốt đêm thao thức không thôi

Vẳng nghe tiếng sáo khắp trời sáng trăng

I ITrăng soi thành mới lung linh

Thăng Long đất cũ đế kinh bao đờiDọc ngang đường mới đổi dời

Sáo đàn nhịp điệu khác thời trước xaNgàn năm phú quý tranh đua

Bạn bè quá nửa thân sơ mất rồiHá than chìm nổi việc đời

Trên đầu mái tóc rối bời trắng tinh.101

Page 100: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Giới nghiên cứu tính ra là Nguyễn Du trở lại Thăng Long sau khoảng muòi năm. Làn sóng đại hóa, mà ông ghi lại trong bài Long Thành Cầm Giả Ca, cũng thấy rõ tại cảnh Thăng Long: nhà xưa phá mở đường, thành mới xóa cảnh cung điện cũ, người đẹp nay con bế con dắt, bạn chơi thành ông già. Suốt đêm người thơ không ngủ, nằm nghe tiếng sáo nhìn trăng sáng.

Sang bài thứ hai, ông cũng ghi lại những chuyển biến tại Thăng Long: sau cả ngàn năm là đất đế kinh, nay triều đình đã dời vào Huế. Đường phố khác xưa, cả nhịp đàn tiếng sáo, tượng trưng cho hoạt động văn hóa, cũng thay đổi khác trước. Bạn bè nửa mất nửa còn. Ông tụ nhủ chẳng nên than thở vì thế sự. Trên đầu ông mái tóc cũng trắng hết rồi.

Bài thứ hai là bài Nguyễn Du ghi lại tình người trong chuyển biến của đại hóa:

遇 家 弟 舊 歌 姬Ngộ Gia Đệ Cựu Ca Cơ

繁 華 人 物 亂 來 非Phồn hoa nhân vật loạn lai phi

玄 鶴 歸 來 幾 個 知Huyền hạc quy lai kỷ cá tri

紅 袖 曾 聞 歌 宛 轉Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển

白 頭 相 見 哭 流 離Bạch đầu tương kiến khốc lưu ly

覆 盆 已 矣 難 收 水Phúc bồn dĩ hĩ nam thu thuỷ

斷 藕 傷 哉 未 絕 絲Đoạn ngẫu thương tai vị tuyệt ti

見 說 嫁 人 已 三 子Kiến thuyết giá nhân dĩ tam tử

可 憐 猶 著 去 時 衣Khả liên do trước khứ thời y.

dịch là:Gặp Nàng Hầu Cũ Của Em

Tình người loạn lạc khác xưaHạc đen trở lại trước giờ nhớ quên

Áo hồng tiếng hát nghe quenBạc đầu gặp gỡ khóc niềm nổi trôi

Bồn nghiêng nước đổ đành thôiCuống sen dầu gẫu tơ trời còn vương

Lấy chồng nay đã ba conThương cho áo cũ hãy còn mầu xưa.

Giới nghiên cứu cho rằng người em Nguyễn Du trong bài trên đây là Nguyễn Ức, em cùng mẹ với ông. Nguyễn Ức tập ấm làm quan võ trong cung vua Lê Chiêu Thống. Dưới triều vua Gia Long được triệu vào Huế làm thiêm sự bộ Công, phụ trách việc xây dựng miếu điện.

Loạn lạc, lòng nguời đổi khác, nay Nguyễn Du như cánh hạc đen, trở lại chốn cũ, kẻ nhớ người quên. Ông nghe tiếng hát quen mà nhận ra người ca từng là nàng hầu của em ông, gặp nhau mà rớt nước mắt vì thời thế. Bồn nghiêng nước đổ làm sao vớt lại được. Cuống sen dầu gẫy nhưng tơ mành còn vương. Giờ nàng lấy chồng đã có ba con. Tấm áo mặc trên người vẫn là tấm áo năm xưa. Phải chăng đó là hình ảnh của tình người trong đại hóa?

Trên đường ngược Bắc sang Trung Quốc, năm nay (1813) Nguyễn Du lại đi qua Ải Chi Lăng và thành Lạng Sơn, những địa điểm ông đã qua nhân dịp đi đón sứ bộ nhà Thanh sang phong vương cho vua Gia Long (1802) mười một năm về trước.

Trước khi tới Ải Chi Lăng, ông đi qua Miếu Mã Viện và đề lại bài:

夾 城 馬 伏 波 廟Giáp Thành Mã Phục Ba Miếu

102

Page 101: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

六 十 老 人 筋 力 衰Lục thập lão nhân cân lực suy

據 鞍 被 甲 疾 如 飛Cứ yên bị giáp tật như phi

殿 庭 只 博 君 王 笑Điện đình chỉ bác quân vương tiếu

鄉 里 寧 知 兄 弟 悲Hương lý ninh tri huynh đệ bi

銅 柱 槿 能 欺 越 女Đồng trụ cẩn năng khi Việt nữ

珠 車 畢 竟 累 家 兒Châu xa tất cánh lụy gia nhi

姓 名 合 上 雲 薹 畫Tính danh hợp thưọng Vân Đài họa

猶 向 南 中 索 歲 時Do hướng Nam trung sách tuế thì.

dịch là:

Miếu Phục Ba Ở Giáp ThànhSáu mươi suy yếu chuyện thường

Riêng ông binh giáp yên cương hơn đờiSân rồng mong đưọc vua cười

Anh em thương sót tình người dửng dưng Gái Nam nạt nộ cột đồng

Xe châu để lụy cả dòng gia nhiVân Đài tên họ chẳng ghi

Hướng Nam sách nhiễu đòi gì nữa đây.

Theo giới nghiên cứu, Giáp Thành, ở phía nam ải Chi Lăng. Phục Ba Miếu là miếu thờ tướng nhà Hán Mã Viện đã mang quân sang đánh Hai Bà Trưng. Theo Hậu Hán Thư, khi ngoài sáu chục tuổi còn xin vua cho đi đánh dẹp ở Man Động Ngũ Khê, trong tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Vua Hán không cho, Mã Viện mặc áo giáp, nhẩy lên lưng ngựa tỏ sức mạnh của mình. Vua cười và phán rằng: ‘Ông còn quắc thước lắm’. Em họ Mã Viện là Thiếu Du lo cho Mã Viện mà nói rằng: “Kẻ sĩ chỉ cần lo đủ cơm áo, làm nguời dân lành trong làng, đi xe nhỏ cưỡi ngựa gầu, lo giữ mồ mả tổ tiên, cần chi phải khổ thân đi kiếm công danh.” Câu thứ năm Nguyễn Du nhắc tới truyền thuyết về câu đồng trụ triết Giao Chỉ diệt, của Mã Viện sau khi thắng quân Hai Bà Trưng. Tiếp theo là tích Mã Viện quen ăn ý dĩ để chống chướng khí ở miền Nam, khi trở về nước cũng tải về một xe. Rồi đến chuyện vua Hán cho tạc tượng hai mươi tám công thần ở Vân Đài mà không cho tạc tưọng Mã Viện. Khi Mã Viện chết, có người tâu vua là Mã Viện chở về một xe hạt trai, làm vua Hán nổi giận, vợ con không dám mang xác về quê, vả phải chôn ở phía tây thành Hồ Nam.

Ba chữ Hương lý ninh trong câu thứ năm bài Giáp Thành Mã Phục Ba Miếu gợi cho người đọc bốn chữ trạch xa đoạn mã trong câu kết bài Mạn Hứng I, Thanh Hiên Thi Tập. Cả hai cùng trích dẫn lời Thiếu Du, em họ của Mã Viện bàn về lòng ham danh vọng của Mã Viện. Điểm đáng chú ý khác là Nguyễn Du viết bài Mạn Hứng I trong thòi gian tản cư ăn nhờ ở đậu thiếu thốn vật chất, và lần thứ hai lúc đang hướng dẫn sứ bộ sang triều đình nhà Thanh. Người đọc không khỏi tự hỏi là phải chăng hình ảnh Thiếu Du trong bài Mạn Hứng giúp Nguyễn Du yên lòng trong cảnh khó khăn; trái lại hình ảnh Thiếu Du trong bài Giáp Thành Mã Phục Ba Miếu nói lên cái vô nghĩa của hai chữ danh vọng. Hai chữ này trói buộc ông gần hai chục năm qua mà ông cố gỡ không ra.

Qua ải Chi Lăng, Nguyễn Du viết bài:

鬼 門 關Quỷ Môn Quan

103

Page 102: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

連 峰 高 插 入 青 雲Liên phong cao sáp nhập thanh vân

南 北 關 頭 就 此 分Nam bắc quan đầu tựu thử phân

如 此 有 名 生 死 地Như thử hữu danh sinh tử địa

可 憐 無 數 去 來 人Khả liên vô số khú lai nhân

塞 途 叢 莽 藏 蛇 虎Tắc đồ tùng mãng tàng xà hổ

布 野 煙 嵐 聚 鬼 神Bố dã yên lam tụ qủy thần

終 古 寒 風 吹 白 骨Chung cổ hàn phong xuy bạch cốt

奇 功 何 取 漢 將 軍Kỳ công hà thủ Hán tướng quân.

dịch là:Ải Quỷ Môn

Núi non vòi vọn mây xanhĐôi bờ Nam Bắc phân ranh chốn này

Hiểm nghèo sống chết nơi đâyĐi mười về một bỏ thây thương người

Hang hùm tổ rắn khắp nơiMa thiêng khí độc đầy trời chướng lam

Gió đùa xương trắng ngàn nămKỳ công tướng Hán hỏi làm sao khen.

Đối chiếu bài Quỷ môn Quan trên đây với bài Quỷ Môn Đạo Trung, chép trong Thanh Hiên Thi Tập, mà tác giả làm ngoài mười năm trước, người đọc thấy rõ là lần qua ải Chi Lăng này Nguyễn Du không còn bận tâm vì nỗi nhớ nhà, không thèm một giấc ngủ yên ổn trong một buổi sáng lạnh trời; trái lại ông ông ghi lại chi tiết cảnh bên đường, bình tĩnh bàn về cái chết phi lý của hàng vạn quân, để một ông tướng lập được kỳ công, danh ghi sử xanh.

Tiếp theo là bài:

諒 城 道 中Lạng Thành Đạo Trung

群 峰 湧 浪 石 鳴 濤Quần phong dũng lãng thạch ming đào

蛟 有 幽 宮 鵑 有 巢Giao hữu u cung quyên hữu sào

泉 水 合 流 江 水 闊Tuyền thuỷ hợp lưu giang thuỷ khoát

子 山 不 及 母 山 高Tử sơn bất cập mẫu sơn cao

團 城 雲 石 夕 相 候Đoàn thành vân thạch tịch tương hậu

鴻 嶺 親 朋 日 漸 遙Hồng lĩnh thân bằng nhật tịiệm dao

怪 得 柔 情 輕 割 斷Quái đắc nhu tình khinh cát đoạn

筐 中 攜 有 筆 如 刀Khuông trung huề hữu bút như đao.

dịch là:104

Page 103: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Trên Đường Lạng SơnGió dường sóng vỗ núi cao

Ầm ầm hang giải xạc xào tổ quyênSông sâu hòa nước trăm nguồn

Ngọn con ngọn mẹ trùng trùng núi xanhĐá mây hò hẹn Đoàn Thành

Bạn bè Hồng Lĩnh ngày xanh xa dầnTình riêng đứt đoạn nhẹ thân

Tháp còn bút sắc chẳng cần đến dao.

Đối chiếu bài Lạng Thành Đạo Trung trên đây với bài Lạng Sơn Đạo Trung trong Thanh Hiên Thi Tập, người đọc không khỏi ngạc nhiên trước sự thay đổi giũa hai hình ảnh của tâm cảnh Nguyễn Du . Trong bài Lạng Sơn Đạo Trung, tâm cảnh Nguyễn Du nghiên về lẽ vô vi: trước cảnh đẹp bên đường, Nguyễn Du ước về đó tìm chỗ ẩn cư, vui với cảnh thiền, thấy mình không được bằng một chú bé chăn trâu, thấy mình già nua, ước mơ từ quan, chán cả việc đọc sách. Trái lại, trong bài Lạng Thành Đạo Trung, trên cùng một khúc đường, trước cùng một cảnh đẹp,ông chợt thấy như tình cảm với bạn bè nơi quê nhà như dần dần lắng xuống, đến mức dường như đã bị cắt đứt khiến ông như thấy nhẹ mình. Trong tráp ông còn nhiều ngọn bút sắc chẳng cần đến dao, là câu kết của bài thơ. Ông chưa cho biết ông dùng cái sắc của ngọn bút làm gì. Người đọc không có cách nào hơn là đọc tiếp tập Bắc Hành Tạp Ngâm của ông để tìm câu trả lời cho câu hỏi này.

Bắc Hành Tạp Ngâm chép tiếp bài thù tạc sau đây:

溜 別 舊 契 黃Lưu Biệt Cựu Khế Hoàng

卅 年 故 友 重 逢 日Táp niên cố hữu trùng phùng nhật

萬 里 前 途 一 蹴 初Vạn lý tiền đồ nhát xúc sơ

道 路 日 來 情 未 竟Đạo lộ nhật lai tình vị cánh

雲 山 別 後 意 何 如Vân sơn biệt hậu ý hà như

悵 然 分 手 重 關 外Trướng nhiên phân thủ trùng quan ngoại

老 矣 全 身 百 戰 餘Lão hĩ toàn thân bách chiến dư

他 日 南 歸 相 會 訪Tha nhật nam quy tương hội phỏng

六 頭 江 上 有 樵 漁Lục Đầu giang thượng hữu tiều ngư.

dịch là:

Từ Biệt Bạn Cũ Họ HoàngBa mươi năm gặp lại nhau

Chuyến đi vạn dặm khởi đầu từ nayTruyện qua ngày ngắn tình dài

Truyện sau mây núi chia tay khó lườngẢi ngoài tiễn biệt buồn vương

Toàn thân trăm trận xin mừng cho anhVề Nam nối lại thân tình

Lục Đầu bến nước đôi mình hẹn nhau.

Giới nghiên cứu không tìm ra ông bạn họ Hoàng này của Nguyễn Du là ai. Qua thơ, rõ là 105

Page 104: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

hai người quen biết nhau đã ba mươi năm. Gặp lại nhau truyện ngày qua nói không bao giờ hết. Truyện ngày sau chuyến chia tay này khó biết trước được. Giờ đây dạ buồn vì chia ly, nhưng mừng vì bạn từng xông pha trăm trận mà còn toàn thân. Hẹn chuyến về gặp nhau ở bến Lục Đầu nối lại thân tình.

Điểm người đọc lưu ý là tâm trạng tác giả không muốn dài lời về quá khứ, cùng nói lên nỗi bất trắc của tương lai. Vui buồn là niềm vui buồn hiện tiền. Đó là tâm cảnh khác hẳn tâm cảnh trong những bài đặt trước bài này trong cả ba tập thơ Việt Âm của Nguyễn Du.

Nguyễn Du cùng sứ bộ vào Trung Quốc qua:

鎮 南 關Trấn Nam Quan

李 陳 舊 事 杳 難 尋Lý Trần cựu sự yểu nan tầm

三 百 年 來 直 到 今Tam bách niên lai trực dáo kim

兩 國 平 分 孤 壘 面Lưỡng quốc bình phân cô lũy diện

一 關 雄 鎮 萬 山 心Nhất quan hùng trấn vạn sơn tâm

地 偏 每 為 傳 聞 誤Địa thiên mỗi vị truyền văn ngộ

天 近 纔 知 降 澤 深Thiên cận tài tri giáng trạch thâm

帝 闕 回 頭 碧 雲 表Đế quốc hồi đầu bích vân biểu

鈞 韶 耳 畔 有 餘 音Quân thiều nhĩ bạn hữu dư âm.

dịch là:

Ải Trấn NamLý Trần vết tích khó tìm

Truyện qua rầy đã ba trăm năm dàiMột thành đôi nước ngăn hai

Giữa muôn ngọn núi ải đây vẫn cònCõi xa lầm hiểu lẫn đồn

Gần trời mưa móc đội ơn sâu dầyNgoái nhìn cửa khuyết biếc mây

Quân thiều nghe vằng bên tai oai hùng.

Ải Trấn Nam là tên người Trung Quốc gọi Ải Nam Quan. Có nghĩa là cửa ải trấn giữ phía Nam. Trong hai câu đầu, qua ải Nam Quan, Nguyễn Du nhắc tới truyện thời nhà Lý nhà Trần, phải chăng là muốn nói tới truyện Lý Thường Kiệt đánh quân nhà Tống, truyện Hưng Đạo Vương thắng quân Nguyên, và truyện gần hơn nữa, mới trải ba trăm năm là truyện Lê Lợi đuổi quân nhà Minh? Giữa vạn ngọn núi, cửa quan hùng vĩ chia đôi hai nước. Bốn câu sau dường như phản ảnh ngôn ngữ ngoại giao của triều vua Gia Long với triều đình nhà Thanh.

Qua ải Trấn Nam, sứ bộ vào đường:

南 關 道 中Nam Quan Đạo Trung

玉 書 捧 下 五 雲 端Ngọc thư phủng hạ ngũ vân đoan

萬 里 單 車 渡 漢 關Vạn lý đan xa độ Hán Quan

一 路 偕 來 惟 白 髮106

Page 105: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Nhất lộ giai lai duy bạch phát二 旬 初 見 但 青 山

Nhị tuần sơ kiến đãn thanh san君 恩 似 海 毫 無 報

Quân ân tự hải hào vô báo春 雨 如 膏 骨 自 寒

Xuân vũ như cao cốt tự hàn王 道 蕩 平 休 問 訊

Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn明 江 北 上 是 長 安

Minh Giang bắc thướng thị Trường An.

dịch là:

Trên Đường Nam QuanMây năm sắc chiếu vua ban

Một xe vượt ải Hán Quan dặm trườngRối bươm tóc trắng dọc đường

Hai tuần điệp điệp trùng trùng núi xanhƠn vua báo đáp chưa thành

Mưa xuân như mỡ rét hành buốt xươngĐường vua thẳng khỏi hỏi đường

Qua Minh Giang là đến Trường An rồi.

Sứ bộ đã vào đất Trung Quốc, bài thơ này của Nguyễn Du bỗng có nhiều chữ mang mầu sắc Trung Hoa. Trong hai câu đầu, chữ ngọc thư dùng để chỉ chiếu vua ban; chữ ngũ vân nghĩa là mây năm sắc chỉ triều đình, Hán Quan là ải Nam Quan gọi theo người Trung Quốc.

Câu thử ba mang hình ảnh Nguyễn Du với mái tóc trắng. Đối với cảnh núi xanh, xuốt hai tuần du hành qua, trong câu thứ tư. Câu thứ năm cho thấy mối lo đền đáp ơn vua của tác giả trong khi mưa xuân rét mướt thấu xương hành hạ thân ông. Có một điều phấn khỏi là đã tới đường cái quan bằng phẳng khỏi phải hỏi thăm đường lối: đến sông Minh Giang rồi thẳng đường tới kinh đô Bắc Kinh.

Tiếp tới là bài:

幕 府 即 事Mạc Phủ Tức Sự

徹 夜 鑼 聲 不 暫 停Triệt da la thanh bất tạm đình

孤 燈 相 對 到 天 明Cô đăng tương đối đáo thiên minh

經 旬 去 國 心 如 死Kinh tuần khứ quốc tâm như tử

一 路 逢 人 面 賮 生Nhất lộ phùng nhân diện tẫn sinh

山 麓 積 泥 深 沒 馬Sơn mộc tích nê thâm một mã

谿 泉 伏 怪 老 成 精Khê tuyền phục quái lão thành tinh

客 情 至 此 已 無 限Khách tình dĩ thử dĩ vô hạn

又 是 燕 山 萬 里 行Hựu thị Yên Sơn vạn lý hành.

dịch là:107

Page 106: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Mạc Phủ Tức SựInh tai tiếng kẻng suốt đêm

Một thân chờ sáng bên đèn nhớ mongNước xa chết lặng tấc lòng

Gặp toàn người lạ bên đường quan sanBùn sâu ngựa nản chân bon

Bê khe yêu qiái chập chờn thành tinhNơi đây đằng dẵng mối tình

Yên Sơn thăm thẳm hành trình còn xa.

Mạc phủ đồng nghĩa vói tướng phủ là nơi làm việc tạm thời của quan võ. Nguyễn Du ghi lại trong bài này nhưng điều tai nghe mắt thấy trong mấy tuần qua. Ông không còn nhớ quê mà ông nhớ nước. Không còn gặp được những khuôn mặt quen thuộc của người đồng hương, đường xá lại khó đi, và đích tới là Yên Kinh thì còn xa vạn dặm.

Rồi sứ bộ lên thuyền tại bến Minh Giang, như dự trù.

明 江 舟 發Minh Giang Chu Phát

簫 鼓 鼕 鼕 初 出 門Tiêu cổ đông dông sơ xuất môn

萬 山 中 斷 一 槎 奔Vạn sơn trung đoạn nhất tra bôn

浮 雲 乍 散 石 容 瘐Phù vân sạ tán thạch dung sấu

新 潦 初 生 江 水 渾Tân lạo sơ sinh giang thủy hồn

別 後 關 山 思 弟 妹Biệt hậu quan san tư đệ muội

望 中 岩 袖 見 兒 孫Vọng tung nham tụ kiến nhi tôn

日 斜 莫 向 華 山 過Nhật tà mặc hướng hoa sơn quá

怕 有 聲 聲 腸 斷 猿 Phạ hữu thanh thanh trường đoạn viên

Dời Bến Minh GiangTrống kèn dời bến thì thùng

Thuyền đi núi dựng trùng trùng bên sôngTan mây trơ đá trời trong

Đục ngầu nước lũ một dòng cuốn trôiAnh em cách biệt xa xôi

Nhìn non lởm chởm bồi hồi nhớ conChiều tà ngại vượt Hoa San

Than van tiếng vượn quan san não lòng.

Sứ bộ lên thuyền ngược bắc, dời bến trong tiếng trống tiếng sáo tiễn đưa. Trên trời mây quang, dưới sông nước lũ, hai bên bờ núi dựng trùng trùng điệp điệp. Nhìn cảnh sông núi Minh Giang, Nguyễn Du lại thấy nhớ anh em nơi quê nhà và nhớ cả đàn con nhỏ của ông, với tiếng vượn than van trên bờ, trong cảnh chiều rơi.

Dưới chân núi Hoa San, bên bờ sông Minh Giang có di tích một chỗ đóng quân của Hoàng Sào. Nơi đó gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

黃 巢 兵 馬Hoàng Sào Binh Mã

108

Page 107: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

大 小 花 山 數 里 分Đại tiểu Hoa Sơn sổ lý phân

黃 巢 遺 蹟 在 江 津Hoàng Sào di tích tại giang tân

豈 知 金 統 秦 中 帝Khởi tri Kim Thống Tần Trung Đế

乃 出 孫 山 榜 外 人Nãi xuất Tôn Sơn bảng ngoại nhân

誤 國 每 因 拘 限 量Ngộ quốc mỗi nhân câu hạn lượng

窮 時 自 可 變 風 雲Cùng thời tự khả biến phong vân

遠 來 擬 問 天 然 事Viễn lai nghĩ vấn thiên nhiên sự

舡 戶 搖 頭 若 不 聞Hang hộ dao đầu nhược bất văn.

dịch là:

Binh Mã Hoàng SàoHoa San lớn nhỏ gần nhau

Bên sông còn dấu Hoàng Sào đóng quânKhi nên Kim Thống Trung Tần

Dẫu là ngoài bảng Tôn Sơn một ngườiTuyển người giúp nước hẹp hòiLúc cùng có thể đổi dời gió mâyKhách xa ướm hỏi chuyện này

Nhà thuyền giả điếc giả ngây lắc đầu.

Hoàng Sào là người đời Đường, quê ở Tào Châu, tỉnh Sơn Đông. Vào thi đình, tuy văn thơ hơn đời, nhưng ttướng mạo xấu xí, nên không đậu. Sau đó Hoàng Sào dấy loạn, từ Sơn Đông, tiến chiếm Hà Nam, Giang Tây, Phúc Kến, Triết Giang và cả vùng Kinh Tương Lưỡng Quảng, rồi chiếm cả Trường An. Vua Đường Huy Tông bỏ chạy vào đất Thục. Hoàng Sào tự xưng Hoàng Đế, đặt quốc hiệu là Đại Tề, trị vì trong mười năm (875-884), sau bị quân Lý Quốc Dung đánh bại và bị giết.

Trên bờ sông Minh Giang, trong huyện Minh Ninh, tỉnh Quảng Tây, có di tích chỗ Hoàng Sào đóng quân.

Trong câu thứ ba, Nguyễn Du dùng chữ Kim Thống Tần Trung để chỉ việc Hoàng Sào tự xưng hoàng đế,vì lẻ Thiểm Tây xưa là đất của nhà Tần. Trong câu sau ông dùng chữ Tôn Sơn bảng ngoại, để tóm tắt truyện hoàng Sào thi trượt vì người Tôn Sơn đời Tống, đi thi đỗ cuối bảng, bạn bè hòi thăm thì tự an ủi là sau mình còn nhiều tên ở ngoài bảng. Giới phê bình có người cho rằng Nguyễn Du muốn phê bình vì chính sách tuyển người của triều đình nhà Đường hẹp hòi, đã đẩy Hoàng Sào vào đường cùng đi làm loạn. Ông gợi truyện cùng nhà thuyền về việc này, nhưng nhà thuyền không hưởng ứng.

Tiếp theo Nguyễn Du viết một bài thơ dài dưới đề tựa:

寧 明 江 舟 行Ninh Minh Giang Chu Hành

粵 西 山 中 多 澗 泉Việt tay sơn trung đa giản tuyền

千 年 合 注 成 一 川Thiên niên hợp chú thành nhất xuyên

自 高 而 下 如 潑 天Tự cao nhi hạ như phát thiên

灘 上 何 所 聞109

Page 108: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Than thượng hà sở văn應 龍 激 怒 雷 田 田

5Ứng long kích nộ lôi điền điền灘 下 何 所 見

Than hạ hà sở kiến弩 機 劇 發 水 離 絃

Nỗ cơ kịch phát thủy ly huyền一 瀉 萬 里 無 停 堙

Nhất tả vạn lý vô đình nhân高 山 夾 岸 如 牆 垣

Cao sơn giáp ngạn như tường viên中 有 怪 石 森 森 然

10Trung hữu quái thạch sâm sâm nhiên有 如 龍 蛇 虎 豹 牛 馬 羅 其 前

Hữu như long xà hổ báo ngưu mã la kỳ tiền大 者 如 屋 小 如 拳

Đại giả như ốc tiểu như quyền高 者 如 立 低 如 眠

Cao giả như lập đê như miên直 者 如 走 曲 如 旋

Trực giả như tẩu khúc như tuyền千 形 萬 狀 難 盡 言

15Thiên hình vạn trạng nan tận ngôn蛟 螭 出 沒 成 重 淵

Giao ly xuất một thành trùng uyên湧 濤 噴 沫 日 夜 爭 豗 喧

Dũng đào phún mạt nhật dạ tranh hôi huyên夏 潦 初 漲 沸 如 煎

Hạ lạo sơ trướng phí như tiên一 行 三 日 心 懸 懸

Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền心 懸 懸 多 所 畏

20Tâm huyền huyền đa sở uý危 乎 殆 哉 汩 沒 無 底

Nguy hồ đãi tai cốt một vô để共 道 中 華 路 坦 平

Cộng đạo Trung Hoa lộ thản bình中 華 道 中 夫 如 是

Trung Hoa đạo trung phù như thị窩 盤 屈 曲 似 人 心

Oa bàn khuất khúc tự nhân tâm危 亡 傾 覆 皆 天 意

25Nguy vong khuynh phúc giai thiên ý高 才 每 被 文 章 妒

Cao tài mỗi hộ văn chương đố人 肉 最 為 魑 魅 喜

Nhân nhục tối vi ly mỵ hỷ風 波 那 得 盡 能 平

Phong ba na đắc tận năng bình忠 信 到 頭 無 足 恃

Trung tín đắc đầu vô túc thị不 信 出 門 皆 畏 途

30Bất tín xuất môn giai ý đồ試 望 滔 滔 此 江 水

Thí vọng thao thao thử giang thủy.110

Page 109: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

dịch là:

Thuyền Đi Trên Sông Ninh BìnhViệt Tây muôn suối ngàn khe

Nghìn năm cuồn cuộn dồn vể một sôngTừ cao nuớc đổ mênh mông

Nghe thấy chăng5Đầu ghềnh sấm động phi long chuyển mình

Thấy chăng mờ mịt cuối ghềnhÀo ào nỏ máy vô hình nhả tên

Dặm ngàn nước cuốn triền miênĐôi bờ vách đá thành liền ngút cao

10Đá nhô chi chít chen nhauDường như rồng rắn ngựa trâu một bày

Lớn tầy nhà nhỏ nắm tayCao sừng sững thấp nằm đầy ngổn ngang

Thẳng như chạy cong xoáy vòng15Ngàn hình muôn vẻ nói không hết lời

Giảo ly vùng vẫy vực khơiNgày đêm sóng vỗ chẳng nguôi ầm ầm

Mùa hè nước lụt sôi trànThuyền đi ba bữa muôn vàn sợ lo

20Muôn bề nan hiểm khôn dòChìm sâu đáy vực khốn to không chừng

Đồn đường Trung Quốc phẳng bằngNào ngờ hiểm trở gian nan hại đời

Hiểm nguy nào khác lòng người25 Nguy vong nghiêng đổ ý trời sui nên

Tài cao chữ nghĩa ganh ghenThịt người ma quỷ vẫn thèm xưa nay

Thoát cơn sóng gió sao đâyTín trung giữ đủ lúc này vẫn lo

30 Xểnh nhà đường lối khó đoChẳng tin gió cả sóng to thử nhìn.

Cảnh thuyền vượt ghềnh thác trên sông Ninh Minh trong ba ngày hè nước lũ làm Nguyễn Du suy nghĩ. Ông cho rằng cái hiểm nguy của con đường đi sứ không đáng sợ bằng cái hiểm nguy khôn dò của lòng người. Ý trời gây nghiêng đổ, lòng ghanh ghen của con người trong rừng văn trận bút chẳng khác gì ma quỷ thèm thịt người. Làm sao ra thoát khỏi cơn sóng gió này. Trung tín cũng không đử giữ cho con người an lòng. Hai câu kết ông nói ngược ý của Đường Giới, người đời Tống:

Bình sinh thuọng trung tínKim nhật nhiệm phong ba.

nghĩa là:

Suốt đời trọng trung tínNgày may mặc sóng gió

Thuyền sứ qua khúc sông Ninh Minh hiểm nghèo, Nguyễn Du lấy lại được mối bình tâm như ông ghi trong bài kế tiếp:

望 觀 音 廟Vọng Quan Âm Miếu

伊 誰 絕 境 構 亭 薹111

Page 110: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Y thùy tuyệt cảnh cấu đình đài伐 盡 松 枝 墜 鶴 胎

Phạt tận tùng chi trũy hạc thai石 穴 何 年 初 鑿 破

Thạch huyệt hà niên sơ tạc phá金 身 前 夜 卻 飛 來

Kim thân tiền dạ khước phi lai停 雲 處 處 僧 眠 定

Đình vân xứ xứ tăng miên định落 日 山 山 猿 叫 哀

Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai一 炷 檀 香 消 慧 業

Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp回 頭 已 隔 萬 重 涯

Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai.

dịch là:

Ngắm Miếu Quan ÂmXây đài chọn cảnh ai người

Đốn cành thông trứng hạc rơi nơi nàoCửa hang đục tự năm nao

Phật vàng đêm trước từ đâu bay vềSư già yên giấc mây che

Bóng chiều tiếng vượn bốn bề than vanKhói hương tuệ nghiệp tiêu tan

Ngoái trông ngăn cách muôn vàn núi cao.

Trong câu thứ tư, Nguyễn Du dùng tích cổ, tóm tắt trong ba chữ phi lai thạch, về cùa tương Sơ, có hòn đá từ Quảng chau bay về, được dùng tạc thành tượng Phật. Điều đáng ghi nhận là thi cảnh tịnh lặng trong bài thơ, cũng như trong cảnh miếu Quan Âm dương như phản ảnh niềm tĩnh lặng trong tâm cảnh Nguyễn Du sau mấy ngày liền dao động khi thuyền sứ bộ vưọt khúc sông Ninh Minh dưới chân núi Hoa San.

Niềm tĩnh lặng trong tâm cảnh Nguyễn Du còn thấy trong mấy bài tiếp theo. Bắt đầu là bài:

三 江 口 塘 夜 泊Tam Giang Khẩu Đường Dạ Bạc

西 粵 重 山 一 水 分Tây Việt trùng sơn nhất thủy phân

兩 山 相 對 石 磷 峋Lưỡng sơn tương đối thạch lân phân

猿 啼 樹 杪 若 無 路Viện đề thụ diểu nhược vô lộ

犬 吠 林 中 知 有 人Khuyển phệ lâm trung tri hữu nhân

四 妄 雲 山 人 獨 老Tứ vọng vân sơn nhân độc lão

同 舟 胡 越 各 相 親Đồng chu Hồ Việt các tương thân

十 年 已 失 還 鄉 路Thập niên dĩ thất hoàn hương lộ

那 得 家 鄉 入 夢 頻Na đắc tha hương nhập mộng tần.

dịch là:112

Page 111: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Đêm Đậu ThuyềnTại Cửa Sông Tam Giang

Núi Việt Tây nước chia haiNgọn cao đối mặt đá bày chon von

Vượn than cây lấp lối mònRừng sâu chó sủa biết còn người qua

Núi mây chợt thấy mình giàCùng thuyền Hồ Việt dần dà nên quen

Đường vê quê cũ ngỡ quênVẫn còn trong mộng đêm đêm bồi hồi.

Cảnh bên sông vẫn là cảnh núi cao sông rộng, vẫn còn nghe thấy tiếng vượn kêu tiếng chó sủa. Nhưng dường như tác bỗng cảm thấy mìnhn già hơn, dẫu trên thuyền người Hồ nguòi Việt như dần dà thân thiên với nhau. Nguyễn Du ngỡ là đã dẹp được nỗi nhớ quê, nhưng ông tụ thú là hình ảnh quê hương vẫn còn hiện ra trong giấn mơ đêm đêm, làm dao đông niềm tĩnh lặng trong tâm cảnh của ông.

Cảnh nhớ nhà trong chuyến đi sứ không phải là tâm cảnh riêng của Nguyễn Du mà là tâm cảnh của cả hai mươi bẩy người trong sứ bộ lúc nghe thấy tiếng sáo gợi tình nhớ quê, như ông ghi trong bài:

太 平 城 下 聞 吹 笛Thái Bình Thành Hạ Văn Xuy Địch

太 平 城 外 西 風 起Thái Bình thành ngoại tây phong khởi

吹 皺 寧 明 一 江 水Xuy trứu Ninh Minh nhất giang thủy

江 水 皺 兮 江 水 寒Giang thủy trứu hề giang thủy hàn

誰 家 橫 笛 憑 欄 杆Thùy gia hoành địch bằng lan can

二 十 七 人 共 回 首Nhị thập thất nhân cộng hồi thủ

故 鄉 已 隔 萬 重 山Cố hương dĩ cách vạn trùng san.

dịch là:

Nghe Tiếng Sáo Dưới Thành Thái BìnhGió thu lộng bến Thái Bình

Hắt hiu gợn sóng Ninh Minh một dòngLung linh mặt sóng trăng trong

Nhà ai tiếng sáo não lòng chơi vơiQuay đầu hăm bẩy con người

Ngàn non cách trở xa vời quê hương.

Tiếp theo là bài:

舟 行 即 事Chu Hành Tức Sự

西 粵 山 川 多 險 巇Tây Việt sơn xuyên đa hiểm hi

行 行 從 此 向 天 涯Hành hành tòng thử hướng thiên nhai

崩 崖 怪 石 怒 相 向Băng nhai quái thạch nộ tương hướng

水 鳥 沙 禽 狎 不 飛113

Page 112: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thủy điểu sa cầm hiệp bất phi天 地 扁 舟 浮 似 葉

Thiên địa biên chu phù tự diệp文 章 殘 息 弱 如 絲

Văn chương tàn tức nhưọc như ti為 憐 上 國 風 光 好

Vị liên thương quốc phong quang hảo關 鎖 鄉 情 未 放 歸

Khai tỏa hương tình vị phóng quy.

dịch là:

Đi Thuyền Tức CảnhNúi sông Tây Việt hiểm nghèo

Thuyền đi đi mãi gieo neo cuối trờiĐá trồng vách lở khắp nơi

Chim trời chim bãi dạn người không bay Thuyền như chiếc lá chân mây

Thơ văn cạn sức tựa dây tơ mànhTrung Hoa cảnh đẹp sinh tình

Mộng về quê đáy lòng thành tạm quên.

Cảnh trời cao sông rộng đất Quảng Tây dần dần quến rũ con người nghệ sĩ của Nguyễn Du, giống như đàn chim trời chim bãi dạn người không vội bay trốn. Ông say sưa với cảnh đẹp trước mắt, tạm quên cả ước muốn về quê cũ ấp ủ suốt cả chục năm.

Cảnh thiên nhiên hùng vĩ lôi cuốn Nguyễn Du, thì thực cảnh con người Trung Quốc làm ông xúc động như ghi trong áng thơ dài:

太 平 賣 歌 者Thái Bình Mại Ca Giả

太 平 瞽 師 粗 佈 衣Thái bình cổ sư thô bố y

小 兒 牽 晚 行 江 湄Tiểu nhi khiên vãn hành giang mi

云 是 城 外 老 乞 子Vân thị thành ngoại lão khất tử

賣 歌 乞 錢 供 晨 炊Mại ca khất tiền cung thần xuy

鄰 舟 時 有 好 音 者5Lân chu thì hữu hiếu âm giả

牽 手 引 上 船 窗 下Khiên thủ dẫn thướng thuyền song hạ

此 時 船 中 暗 無 燈Thử thì thuyền trung ám vô đăng

棄 飯 潑 水 殊 狼 藉Khí phạn bát thủy thù lang tạ

摸 索 引 身 向 坐 隅Mô sách dẫn thân huớng tọa ngung

再 三 舉 手 稱 多 謝10Tái tam cử thủ xưng đa tạ

手 挽 弦 索 口 作 聲Thủ vãn huyền sách khẩu tác thanh

且 彈 且 歌 無 暫 停Thả đàn thả ca vô tạm đình

聲 音 殊 異 不 得 辨114

Page 113: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thanh âm thù dị bất đắc biện但 覺 嘹 喨 殊 可 聽

Đãn giác liêu lượng thù khả thính舟 子 寫 字 為 余 道

15Chu tử tả tự vi dư đạo此 曲 世 民 與 建 成

Thử khúc Thế Dân dữ Kiến Thành觀 者 十 數 並 無 語

Quan giả thập số tịnh vô ngữ但 見 江 風 蕭 蕭 江 月 明

Đãn kiến giang phong tiêu tiêu giang nguyệt minh口 噴 白 沫 手 酸 縮

Khẩu phún bạch mạt thủ toan súc卻 坐 斂 弦 告 終 曲

20Khước tọa liễm huyền cáo chung khúc 彈 盡 心 力 幾 一 更

Đàn tận tâm lực cơ nhất canh所 得 銅 錢 僅 五 六

Sở đắc đồng tiền cận ngũ lục小 兒 引 得 下 船 來

Tiểu nhi dẫn đắc hạ thuyền lai猶 且 回 顧 禱 多 福

Do thả hồi cố đảo đa phúc我 乍 見 之 悲 且 辛

Ngã sả kiến chi bi thả tân凡 人 愿 死 不 愿 貧

Phàm nhân nguyện tữ bất nguyện bần只 道 中 華 盡 溫 飽

Chỉ đạo Trung Hoa tận ôn bão中 華 亦 有 如 此 人

Trung Hoa diệc hữu như thử nhân君 不 見

Quân bất kiến使 船 朝 來 供 頓 例

Sứ thuyền triều lai cung đốn lệ一 船 一 船 盈 肉 米

Nhất thuyền nhất thyền doanh nhục mễ行 人 飽 食 便 棄 餘

Hành nhân bão thực tiện khí dư殘 肴 冷 飯 沉 江 底

Tàn hào lãnh phạn trầm giang để.

dịch là:

Người Hát Rong Bến Thái BìnhCó lão mù bến Thái Bình

Cha già con cọc ngoài thành dắt nhauTrắng tay mà tuổ đã cao

Bên sông hát dạo cháo rau lần hồiThích nghe hát có mấy người

Thuyền bên dắt lão cho ngồi bên songKhông đèn tối mịt trong khoang

Cơm thừa canh dở ngổn ngang sạp thuyềnLảo ngồi khép nép một bên

Chắp tay kính cẩn tạ ơn mấy lầnMiệng ca tay nắn cung đàn

115

Page 114: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Điệu đàn tiếng hát nhịp nhàng chơi vơiThổ âm lạ chẳng hiểu lời

Êm tai réo rắt bổng thôi lại trầmChủ thuyền viết thảo bảo rằng

Đây là tích cổ Thế Dân Kiến ThànhNgười nghe chú ý lặng thinh

Mặt sông trăng tỏ bồng bềnh trôi xuôiMiệng khô tay mỏi dã dời

Cất đàn khúm núm xin lui cúi chàoCố công suốt trống canh đầu

Tiền người gieo thưởng được đâu sáu tiềnTheo con dò buóc xuống thuyềnLão còn ngoái lại cám ơn hết lời

Trạnh lòng cám cảnh thương ngườiSống nghèo thì chết cho rồi còn hơn

Trung Hoa no ấm hằng đồnNào ngờ cùng khó hãy còn nơi đây

Lại thấy chăng Sứ đoàn cung ứng bấy nay

Thuyền này thuyền khác cơm đầy thịt dưMột ăn còn đến hai thừa

Cơm lành canh ngọt đổ bừa xuống sông.

Bài thơ dài ba mươi câu là một bức tranh hiện thực, tác giả ghi lại với nhiều chi tiết về cảnh cùng khốn của người hát dạo mù lòa, rất lễ phép, trình diễn bản hát kể lại cuộc tranh chấp giữa anh em Nguyên Cát và Thế Dân, để lên ngôi vua, dười triều nhà Đường. Người hát dạo cố gắng sống bằng tiền thưởng cũa người nghe hát, dầu tiền thưởng chẳng được bao nhiêu.

Tác giả như tụ hỏi mình: sống nghèo thì chết cho rảnh thân thỉ hơn. Đồng thời ông ngạc nhiên là điều ông nhìn thấy khác vói lời đồn đại là Trung Quốc không còn nghèo khổ. Ông còn thấy bất mãn trước sự phí phạm thứ ăn trên các thuyền sứ bộ.

Sau bến Thái Bình, thuyền sứ bộ ghé bến Sơn Đường. Giới nghiên cứu không chắc bến Sơn Đường thực có ở trên lộ trình sứ bộ hay không.

Nguyễn Du ghi lại cảm hứng đêm neo thuyền tại bến Sơn Đường chép trong Bắc Hành Tạp Lục như sau:

山 塘 夜 泊Sơn Đường Dạ Bạc

午 夢 醒 來 晚Ngọ mộng tỉnh lai vãn

斜 日 掩 窗 扉Tà nhật yểm song phi

風 勁 維 船 早Phong kinh duy thuyền tảo

山 高 得 月 遲Sơn cao đắc nguyệt trì

倚 篷 千 里 望Ỷ bồng thiên lý vọng

合 眼 隔 年 思Hợp nhãn cách niên tư

莫 近 蒼 崖 宿Mạc cân thương nhai túc

啼 猿 澈 夜 悲Đề viên triệt dạ bi.

dịch là:116

Page 115: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Đêm Neo Thuyền Bến Sơn ĐườngGiấc trưa tỉnh dậy bóng tà

Trời tây nắng quái chói lòa khép songThuyền neo sớm tránh cơn giông

Núi cao chậm thấy mây lồng ánh trăngDựa mui bồng ngóng dặm ngàn

Nhẩm ra chớp mắt một năm đăng trìnhSao neo gần vách núi xanh

Đêm nay tiếng vượn thâu canh gợi buồn.

Năm câu đầu, Nguyễn Du tà tỷ mỉ một buổi xế chiều ông chợt tỉnh sau một giấc ngũ trưa đẫ mắt. Ánh mằt trời chiều thấp gần tới chân trời, lọt qua của sổ thuyền vào trong khoang, khiến ông phải khép cánh của sổ. Ông ghi lại chi tiết thuyền neo sớm tránh cơn giông, ông thấy núi cao khiến thấy như trăng mọc trễ. Ra tựa mui thuyền nhìn ra xa, cái quá khứ gần trong một năm qua lóe hiện, dường như muốn xua đuổi những hình ảnh đó, ông lưu tâm đến con thuyền neo gần vách núi, và e tiếng vưọn sẽ phá giấc ngủ của ông xuốt đêm nay.

Rồi tới thuyền sứ đi qua Đại Than, và Nguyễn Du viết bài:

題 大 灘 馬 伏 波 廟Đề Đại Than Mã Phục Ba Miếu

鑿 通 嶺 道 定 炎 墟Tạc thông lĩnh đạo định Viêm khư

蓋 世 功 名 在 史 書Cái thế công danh tại sử thư

向 老 大 年 矜 钁 鑠Hướng lão đại niên căng quắc thước

除 衣 食 外 盡 贏 餘Trừ y thực ngoại tẫn doanh dư

大 灘 風 浪 留 前 烈Đại Than phong lãng lưu tiền liệt

古 廟 松 杉 隔 故 閭Cổ miếu tùng sam cách cố lư

日 暮 城 西 勁 棘 下Nhật mộ thành tây kinh cức hạ

淫 潭 遺 悔 更 何 如Dâm đàm di hối cánh hà như

dịch là:

Đề Miếu Phục Ba Tại Đại ThanMở đường núi đánh Viêm bang

Hơn đòi sự nghiệp sử vàng còn ghiTuổi cao quắc thuóc ra uy

Ngoại trừ cơm áo điều chi cũng thừaĐại Than lưu dấu công to

Tùng sam miếu cổ quê cha xa vờiThành tây gai cỏ nơi nơi

Dâm Đàm hối lại chậm rồi biết sao.

Đây là lần thú ba Nguyễn Du dùng truyện Mã Viện cùng nguời em họ tên là Thiếu Du làm thi liệu. Hai câu đầu ông nhắc lại quân công của Mã Viện mở đường núi tràn xuống miền Nam đánh quân Hai Bà Trưng. Câu thứ ba kể lại lời vua Hán khen Mã Viện ngày ông mặc áo giáo nhẩy lên mình ngựa, năm tuổi ngoài sáu chục, tại sân rồng. Câu thứ tư là lời lập luận của Thiếu Du: “Kẻ sĩ ngoài cơm áo, thì ở quê hương, trông nom mồ mả ruộng vườn, chứ đâu cần đi kiếm công danh cho nhọc thân.” để chối bỏ ý nghĩ lo công danh của Mã Viện. Câu năm

117

Page 116: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

và sáu mô tả cảnh miếu thờ Mã Viện tại Đại Than, ngày Nguyễn Du qua đó, nhưng khi Mã Viện lìa đời sác không được mang về quê hương an táng. Câu kết nhắc lại truyện Mã Viện trong cuộc chinh chiến với Hai Bà Trưng, đóng quân tại Hồ Dâm Đàm, gặp kỳ nóng nực, quân tướng mỏi mệt, hối đã không nghe lời Thiếu Du.

Người đọc dường như thoáng thấy Nguyễn Du muốn tự hỏi ông về truyện lập danh và nếp sống thanh thản của con người. Hăng hái lập danh rồi thành đạt vẻ vang, để lúc chết sác không được mang về chôn cất tại quê nhà, như Mã Viện phải chăng cũng là truyện chẳng nên. Ngược lại, hỏi có nên sống theo nếp sống của Thiếu Du để đạt được niềm yên vui cho con người hay không.

Tục truyền rằng, trong chuyến mang quân tràn xuống Giao Chỉ, Mã Viện xẻ núi mở sông để chuyển quân. Vì vậy dân chúng có đường sông đường bộ lưu thông. Thế nên, tại những khúc sông khúc đèo hiểm trở, ngay cả tại thượng du Bác Việt Nam, dân chúng thường lập đền miếu thờ Mã Viện.

Tiếp theo, Bắc Hành Tạp Lục, chép bài:

晚 下 大 灘Vãn Hạ Đại Than

新 潦 暴 漲Tân Lạo Đại Trướng

諸 險 俱 失Chư Hiểm Câu Thất

銀 河 昨 夜 自 天 傾Ngân Hà tạc dạ tụ thiên khuynh

江 水 茫 茫 江 岸 平Giang thủy mang mang giang ngạn bình

未 信 鬼 神 能 相 佑Vị tướng qủy thần năng tướng hựu

盡 教 龍 虎 失 精 靈Tẫn giao long hổ thất tinh linh

平 居 不 會 講 中 信Bình sinh bất hội giảng trung tín

到 處 無 妨 齊 死 生Đáo xứ vô phương tề tử sinh

更 有 險 巇 饒 十 倍Cánh hữu hiểm hy nhiêu thập bội

吾 將 何 以 叩 神 明Ngô tương hà dĩ khấu thần minh.

dịch là:

Chiều Tối Tại Đại ThanNước Lũ Mới Về

Ngập Mọi Khúc Hiểm

Ngân Hàm trời đổ đêm quaMênh mông nước lũ tràn qua đôi bờ

Qủy thần chưa giúp bao giờCọp rồng linh ứng vẩn vơ hoang đương

Tín trung tích cũ coi thườngTử sinh hạn đến không đường tới lui

Hiểm nguy còn chỗ gấp mườiThần minh thầm khấn tỏ lời sao đây.

Suốt đêm qua mưa nhu trút, nước lũ đổ vể tràn bờ, nhưng khúc nguy hiễm nước ngập 118

Page 117: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

mênh mông. Vốn không tin ỏ truyện qủy thần phù hộ, truyện rồng cộp ra oai là hoang đường, chẳng như người Đường Giới tin tưởng ở chữ trung tín, không sợ phong ba, nên lúc này gặp hạn nạn chẳng còn biết lo truyện sống chết ra sao. Sông còn nhiều khúc nguy hiểm gấp mười, biết khấn khứa ra sao với thần minh bây giờ.

Thế rồi thuyền sứ cũng bình an xuống hết ghềnh. Nguyễn Du ghi lại niềm vui mừng này trong bài:

下 灘 喜 賦Hạ Than Hỷ Phú

心 香 拜 禱 將 君 祠Tâm hương bái đảo tướng quân tỳ

一 棹 中 流 肆 所 之Nhất trạo trung lưu tứ sở chi

到 處 江 山 如 識 趣Đáo xứ giang sơn như thức thú

喜 人 蛇 虎 不 施 威Hỷ nhân xà hổ bất thi uy

萬 珠 松 樹 僧 人 屋Vạn châu tùng thụ tăng nhân ốc

一 帶 寒 煙 燕 子 磯Nhất đái hàn yên yến tử ky

寂 寂 船 窗 無 箇 事Tịch tịch thuyền song vô cá sự

漁 歌 江 上 裉 斜 暉Ngư ca giang thưọng khấn tà huy.

dịch là:

Mừng Xuống Hết GhềnhLòng thành thầm khấn qua đền

Thuyền đi một mái lênh đênh giữa dòngCảnh quen mắt núi cùng sông

Mừng sao hổ rắn thoát vòng tác oaiNhà sư vạn gốc thông gầy

Xa xa Hòn Én khói bay một lànCửa bồng ngồi tựa thư nhàn

Tiếng hò mái đẩy chiều tàn trên sông.

Ngôi đền thuyền sứ đi qua này là ngôi đền thờ Mã Viện như Nguyễn Du đã viết trong bài Đề Đâi Than Mã Phục Ba Miếu trên đây. Xuống hết ghềnh là thoát nỗi nguy hiểm. Cảnh sông núi hùng vỹ không còn là cảnh lạ mắt với tác giả. Lòng ông mừng vì thoát hiểm. Gần đó là một ngôi chùa nhỏ thoáng hiện sau rừng thông. Xa hơn là Hòn Én khói phủ. Ngồi bên của bồng, không có việc gì làm. Bên tai chỉ có tiếng hát của người ngư phủ. Đó là nhũng hình ảnh mô tả niềm thanh thản đang tái hiện trong tâm cảnh Nguyễn Du, sau những ngày giờ lo sợ vì nỗi nguy hiểm trong cuộc hành trình lên thác xuống ghềnh.

Thuyền sứ bình yên vào tới Thương Ngô thuộc tỉnh Hồ Nam ngày nay. Cảnh bên đường gọi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

蒼 梧 即 事Thương Ngô Tức Sự

虞 帝 南 巡 更 不 還 Ngu Đế nam tuần cánh bất hoàn

二 妃 洒 淚 竹 成 班Nhị phi sái lệ trúc thành ban

119

Page 118: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

悠 悠 陳 跡 千 年 上Du du trần tích thiên niên thượng

歷 歷 群 書 一 望 間Lịch lịch quần thư nhất vọng gian

新 潦 初 添 三 尺 水Tân lạo sơ thiêm tam xích thủy

浮 雲 不 辦 九 疑 山Phù vân bất biện Cửu Nghi san

尋 聲 遙 謝 琵 琶 敔Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ

千 里 青 衫 不 耐 旋Thiên lý thanh sam bất nại toàn.

dịch là:

Thương Ngô Túc SựTuần Nam vua Thuấn không vềHai bà rơi lệ vỏ tre đốm mầu

Ngàn năm tích cũ in sâuTruyện xưa thanh sử ngàn sau lưu truyền

Lụt sâu ba thước khắp miềnCửu Nghi mây phủ non tiên mịt mờ

Tỳ bà văng vẳng tạ từÁo xanh ngàn dặm còn chưa được về.

Vào đất Thương Ngô, Nguyễn Du nhớ đến tích vua Thuấn xa xưa đi tuần thú phương Nam băng hà tại Thương Ngô. Hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh nghe tin, tìm đến nơi, thương khóc, nước mắt rỏ vào những cây trúc bên sông Tương, nơi cả hai bà nhẩy xuống tự trầm, vỏ trúc lốm đốm, thành một loại trúc gọi là ban trúc, còn đến ngảy nay.

Trở lại với hiện cảnh Nguyễn Du chỉ thấy nước lụt sâu tới ba thước khắp miền. núi Cửu Nghi chín ngọn xa mờ trong mây. Bên tai ông nghe thấy tiếng tỳ bà, lại thương mình làm quan đi sứ xa xôi vất vả, chưa biết ngày nào mới được về hưu.

Cảnh chiều đất Thương Ngô còn tạo nên thi hứng cho Nguyễn Du trong bài kế tiếp:

蒼 梧 暮 雨Thương Ngô Mộ Vũ

雨 滯 潯 江 曉 發 遲Vũ trệ Tầm Giang hiểu phát trì

梧 城 薄 暮 尚 霏 霏Ngô thành bạc mộ thượng phi phi

一 江 新 潦 平 三 楚Nhất giang tân lạo bình tam Sở

大 半 夫 雲 駐 九 疑Đại bán phù vân trú Cửu Nghi

窄 窄 小 舟 難 過 夏Trách trách tiểu chu nan quá hạ

參 參 長 髮 自 知 夷Sam sam trường phát tự tri di

平 波 日 暮 湘 潭 遠Bình ba nhật mộ Tương Đàm viễn

杯 酒 憑 欄 吊 二 妃Bôi tửu bàng lan điếu nhị phi.

dịch là:120

Page 119: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Chiều Mưa Thương NgôSớm mưa chậm tách bến Tầm

Thương Ngô chiều tối lâm dâm mưa hoàiLụt tràn Tam Sở trong ngoài

Cửu Nghi mù mịt mây bay la đàThuyền này Hoa Hạ khó qua Tóc dài búi lớn rõ là người Di

Tương Đàm xa thẳm thuyền đi Bên thuyền điếu viếng Nhị Phi nghiêng bình

Giới nghiên cứu cho hay Tầm Dương là khúc sông chẩy qua đất Thương Ngô tỉnh Quảng Đông. Mưa trên Thương Ngô buổi sáng đã làm thuyền sứ chậm tách bến. Cho đến chiều tối mưa vẫn chưa tạnh. Nước ngập khắp vùng đất Tam Sở, Chín ngọn Cửu Nghi mờ trong mây. Con thuyền sứ này quá nhỏ vào Hoa Hạ sẽ khó khăn. Búi tóc người thơ lớn hơn tóc đuôi sam người Thanh nên dễ nhận ra là người Di, tên người Trung Quốc gọi người Việt Nam. Từ Tầm Dương đến Tương Đàm đường còn xa, nhà thơ nâng chén điếu viếng Nhị Phi của vua Thuấn.

Dọc sông trên đất Thương Ngô, cảnh sinh hoạt tấp nập trên bến dưới thuyền tạo hứng cho Nguyễn Du viết mười bài theo điệu Trúc Chi, đặt dưới cùng một đầu đề:

蒼 梧 竹 枝 歌Thương Ngô Trúc Chi Ca

十 五 章Thập Ngũ Chương

其 一Kỳ Nhất

桂 林 新 潦 涌 長 川Quế Lâm tân lạo dũng trường xuyên

水 屋 憑 高 浴 上 天Thủy ốc bàng cao dục thướng thiên

午 後 東 風 吹 更 急Ngọ hậu đông phong xuy cánh cấp

往 來 無 數 廣 東 船Vãng lai vô số Quảng Đông thuyền.

其 二Kỳ Nhị

文 昌 閣 上 夜 燈 明Văn Xương các thượng dạ đăng minh

一 片 寒 光 射 水 晶Nhất phiến hàn quang xạ thủy tinh

來 往 悠 船 不 知 數Lai vãng du thuyền bất tri số

滿 江 齊 發 棹 歌 聲Mãn giang tề phát trạo ca thanh

其 三Kỳ Tam

雨 自 滂 沱 雲 自 癡Vũ tự bàng đà vân tự si

九 疑 山 色 妄 中 疑Cửu Nghi sơn sắc vọng trung nghi

虞 王 葬 處 無 丘 墓Ngu vương táng xứ vô khâu mộ

121

Page 120: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

水 面 絃 聲 似 二 妃Thủy diện huyền thanh tự nhi phi.

其 四Kỳ Tứ

青 山 樓 閣 一 層 層Thanh sơn lâu các nhất tằng tằng

晝 見 煙 霞 夜 見 燈Trú kiến yên hà dạ kiến đăng

古 寺 無 名 難 問 訊Cổ tự vô danh nan vấn tấn

白 雲 深 處 臥 山 僧Bạch vân thâm xứ ngọa sơn tăng.

其 五Kỳ Ngũ

浪 花 雙 棹 疾 如 飛Lãng hoa song trạo tật như phi

看 罷 龍 舟 抵 暮 歸Khán đãi long chu để mộ quy

生 面 相 逢 無 畏 避 Sinh diện tương phùng vô úy tị

瓠 犀 微 露 笑 南 夷Hồ tê vi lộ tiếu nam di.

其 六Kỳ Lục

一 聲 裂 竹 散 硫 磺Nhất thanh liệt trúc tán lưu hoàng

驚 起 沙 汀 鴈 數 行Kinh khởi sa đinh nhạn sổ hàng

天 際 遙 占 歸 去 處Thiên tế dao chiêm qui khứ xứ

倉 梧 北 上 定 蘅 陽Thương Ngô bắc thướng định Hành Dương

其 七Kỳ Thất

長 江 破 浪 渺 無 涯Trường giang phá lãng diểu vô nhai

三 五 遊 船 趁 夜 開Tam ngũ du thuyền sấn dạ khai

無 月 無 燈 看 不 見Vô nguyệt vô đăng khán bất kiến

琵 琶 聲 自 水 中 來Tỳ bà thanh tự thủy trung lai.

其 八Kỳ Bát

雞 籠 山 在 水 中 央Kê Lung sơn tại thủy trung ương

萬 頃 湮 波 共 渺 茫Vạn khoảnh yên ba cộng diểu mang

122

Page 121: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

相 約 東 家 具 舟 楫Tương ước đông gia cụ chu tiếp

天 妃 閣 上 共 焚 香Thiên phi các thưọng cộng phần hương.

其 九Kỳ Cửu

城 北 山 榴 紅 更 紅Thành bắc sơn lưu hồng cánh hồng

城 南 垂 柳 不 禁 風Thành nam thủy liễu bất câm phong

絮 飛 花 落 無 人 筦Nhứ phi hoa lạc vô nhân quản

一 夜 隨 流 到 廣 東Nhất dạ tùy lưu đáo quảng đông.

其 十Kỳ Thập

斑 竹 湮 筒 尺 二 長Ban xích yên đồng xích nhị trường

茶 甌 浮 動 雨 前 香Trà âu phù động vũ trà hương

一 來 一 往 人 無 問Nhất lai nhất vãng nhân vô vấn

獨 倚 船 窗 正 恨 郎Độc ỷ thuyền song chính hận lang.

其 十 一

Kỳ Mười Một十 隻 龍 舟 一 字 陳

Thập chích long chu nhất tự trần敲 鑼 撾 鼓 吊 靈 圴

Xao la qua cổ điếu linh quân黃 花 閨 女 貪 行 樂

Hoàng hoa thôn nữ tham hành lạc跳 出 船 頭 不 避 人

Khiêu xuất thuyền đầu bất tị nhân

其 十 二Kỳ Thập Nhị

棠 舟 闌 楫 日 繽 紛Đường chu lan tiếp nhật tân phân

往 往 來 來 不 厭 頻Vãng vãng lai lai bất yếm tần

記 取 畫 船 三 五 隻Ký thủ ngọa thuyền tam ngũ chích

最 風 流 是 布 衣 人Tối phong lưu thị bố y nhân.

其 十 三Kỳ Mười Ba

沿 城 楊 柳 不 勝 柔Duyên thành dương liễu bất thăng nhu

123

Page 122: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

葉 葉 絲 絲 未 及 秋Diệp diệp ti ti vị cập thu

好 向 風 前 看 搖 曳Hảo hướng phong tiền khán dao duệ

最 顛 狂 處 最 風 流Tối điên cuồng xú tối phong lưu.

其 十 四Kỳ Mười Bốn

長 裙 褶 褶 曳 輕 綃Trường quần tập tập duệ khinh tiêu

雲 髻 峨 峨 擁 翠 翹Vân thúy nga nga ủng thúy kiều

嬴 得 鬼 頭 滿 曩 口Doanh đắc qủy đầu mãn nẵng khẩu

憑 君 無 福 也 能 消Bằng quân vô phúc dã năng tiêu.

其 十 五Kỳ Thập Ngũ

船 尾 燈 籠 四 尺 竿Thuyền vĩ dăng lung tứ xích can

船 頭 畫 虎 黑 斑 斑Thuyền đầu họa hổ hắc ban ban

布 旂 上 寫 巡 河 字Bố kỳ thuong tả tuần hà tụ

只 詰 花 船 不 詰 奸Chỉ cật hoa thuyền bất cật gian.

dịch là:

Cảnh Thương NgôTheo Điệu Ca Trúc Chi

Mười Lăm Khúc

IQuế Lâm nước lũ mông mênh

Nhà bè theo sóng dập dềnh thấp caoXế trưa gió động ào ào

Trên sông thuyền Quảng ra vào như nêm.

IIVăn Xương sáng rực đêm đêm

Lung linh mặt nước ánh đèn long lanhThuyền chơi qua lại bồng bềnh

Đầy sông tiếng hát lênh đênh khoan hò.

IIIMưa tầm tã mây lũng lờ

Cửu Nghi sác núi mịt mờ ngất caoMồ vua Ngu đặt noi nao

Tiếng đàn mặt nước đưỏng dâu hai bà.

IVThanh Sơn lầu gác như nêm

124

Page 123: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Ngày ngày mờ khói đêm đêm đõ đènChừa xua chưa hỏi được tên

Sư già ngon giấc ngủ bên mây mù.

VChèo hoa quẫy sóng như bay

Cuộc đua thuyền mãn trời tây chiều vềGặp người Nam chăảng e dẻ

Hạt bầu trắng nhở hề hề nhăn răng.

VIĐì đùng pháo nổ khói xanh

Bãi xa đàn nhạn giật mình bay caoLưng trời tìm hướng xứ nào

Thương Ngô ngược bắc thẳng vào Hành Dương

VIITrường Giang sóng gợn không bờ

Thuyền choi dăm lá mịt mờ bóng đêmVắng trăng không cả ánh đèn

Tỳ bà văng vẳng bên thuyền thoáng nghe.

VIIIHòn Kê Lung nổi giữa sông

Lòng tròi ngàn lớp khói vương la đàHẹn chủ thuyển sẵn chèo hoa

Lên Thiền Phi miếu hai Bà thắp hương.

IXBắc thành lựu đỏ đỏ thêm

Cửa nam gió thoảng liễu mềm khoe xinhLựu tàn liễu rối mặc tình

Một đêm thuận gió tới thành Quảng Đông

XThước hai ống điếu trúc hoa

Vũ Tiền thoang thoảng hương trà thanh taoNgưọc xuôi giáp mặn chẳng chảo

Cửa bồng ngồi tựa nôn nao giận chồng.

XIThuyền rồng chữ nhất hàng mười

Khua chiêng góng trống tế người Linh QuânHoa vàng cài tóc gái xuân

Mải vui ra tận mũi thuyền lấn chen.

XIIChèo lan thuyền quế rộn ràng

Lượn đi lượn lại dọc ngang lững lờNăm ba thuyền khéo điểm tô

Khách phong lưu nhất vải thô trên người.

XIIIThướt tha dáng liễu bên thành

Mùa thu chưa tới lá xanh khoe mềm125

Page 124: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Lắng nhìn trước gió làm duyênCàng điên cuồng lắm càng thêm mặn mà.

XIVThướt tha lụa mỏng quần dài

Búi cao lông thúy trâm cài tóc tiênNếu may được bạc sẵn tiền

Cho bằng vô phúc tình duyên vẫn nồng.

XVCột dèn bốn thước đuôi thuyền

Mũi thuyền vẽ hổ vằn đen vằn vàngTuần Hà đề chữ rõ ràng

Thuyền hoa xét hỏi thuyền gian tảng lờ

Đọc mười lăm bài Thương Ngô Trúc Chi Ca trên đây, người đọc có cảm tưỏng như xem một cuộn tranh lụa Trung Quốc. Tưởng như chính mình ngồi trên thuyền trên sông Thương, ngắm cảnh sinh hoạt trên bến dưới thuyền và hai bên bờ.

Bài thứ nhất là cảnh mở đầu cho thấy hình ảnh nước lũ ngập vùng Quế Lâm, thủ phủ tỉnh Quảng Tây. Nhà bè bên sông nhấp nhô theo sóng, thuyền xuôi ngược giữa hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây. Bài thứ hai cho thấy đền thờ Văn Xương Đế Quân, một vị thần Đạo Giáo ban ngày mây che ban đêm đèn sáng, trước đền thuyền chơi qua lại, đầy sông vang tiếng hát. Bài thứ ba trở lại cảnh mưa trên Thương Ngô, mờ núi Cửu Nghi, truyện vua Thuấn đi tuần thú rồi băng hà ở Thương Ngô mà nay không rõ mả ở đâu. Tiếng đàn ai oán trên sông làm tác giả trạnh thương hai bà phi của vua đã tự trầm. Bài thứ tư, ghi lại cảnh lầu gác Thanh Sơn, ban ngày khói phủ ban dêm tỏ đèn. Gần đó có ngôi chùa nhỏ ẩn sau mây, mà tác giả chưa hỏi ra được tên. Bài thứ năm ghi lại cảnh tàn cuộc đua thuyền, có người địa phương nhăn răng cười làm tác giả như bất mãn. Bài thứ sáu là cảnh đốt pháo làm đàn chim nhạn bên cồn cát sợ hại tản bay. Tác giả nhìn xa tới cuối chân trời thấy đường sông ngược lên phía Bắc để tới Hành Dương. Bài thứ bẩy là cảnh đêm trên sông, tròi không trăng, có nhiều chiếc thuyền không treo đèn, chỉ nghe văng vẳng thấy tiến tỳ bà. Sang bài thứ tám, thuyền tói ngang hòn Kê Lung, trời không mưa nhưng sương la đà mặt sông, tác giả hẹn chủ thuền cho thyền nhỏ đưa đi thắp hương tại miếu hai bà phi. Bài thứ chín, là cảnh cuối mùa hè ở Thương Ngô, liễu xanh hoa lựu đỏ, nhưng mọi người dường vô tình vì nơi đây chỉ cách Quảng Đông có một đêm đi thuyền. Bài thứ mười là một hoạt cảnh tác giả nhìn thấy trên một con thuyền đi ngưọc đường với thuyền sứ. Đó là hình ảnh một thiếu phụ, ngồi bên cửa sổ thuyền, hút thuốc, uống trà bên, không chào hỏi ai, khiến tác giả nghĩ là nàng nàng đang cơn giận chồng. Bài mười một là cảnh đua thuyền rồng chiêng khua trống gióng nhân ngày điếu Linh Quân, tức Khuất Nguyên. Tác giả chỉ ghi lại hình ảnh một cô gái tóc cài hoa vàng, chen lấn mọi người ra đầu thuyền xem đua thuyền. Bài mười hai, cho thấy cảnh những thuyền chơi lượn đi lượn lại trên sông, ông để ý riêng tới một chiếc tô điểm bằng hình vẽ, có một khách rất phong lưu mặc áo vải thô. Bài mười ba ghi lại cảnh rặng liễu ở bên thành, trời chưa sang thu, khoe lá xanh khoe tơ mềm, ông lặng nhìn hàng liễu nhận ra rằng trước gió nững chiếc là nào càng quay cuồng mạnh, dáng càng thêm mặn mà. Bài thứ mười bốn tác giả ghi lại hình ảnh những cô gái trên những chiếc thuyền chơi, từ quần áo tới cách chải chuốt. Bài cuối cùng vẽ lại cảnh đi tuần khám các thuyền chơi trên sông.

Nguyễn Du lấy cảnh đua thuyền rồng nhân ngày giỗ Khuất Nguyên, trong bài thứ mười một trêm đây, làm thi hứng viết thành bài luật thi, và đồng thời gửi gắm ý nghĩ của ông về cái chết của Bội Lan, người đeo hoa lan nước Sở, một chủ đề mà ông còn dùng trong nhiều bài khác.

五 月 觀 競 渡Ngũ Nguyệt Quan Cạnh Độ

懷 王 歸 葬 張 儀 死Hoài Vương quy táng Trương Nghi tử

126

Page 125: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

楚 國 詞 人 記 佩 蘭Sở quốc từ nhân ký bội lan

千 古 招 呼 終 不 返Thiên cổ chiêu hô chung bất phản

滿 江 爭 競 太 無 端Mãn giang tranh cạnh thái vô đoan

煙 波 渺 渺 空 悲 怨Yên ba diểu diểu không bi oán

鑼 鼓 年 年 自 笑 歡La cổ niên niên tụ tiếu hoan

魂 若 歸 來 也 無 扥Hồn nhược qui lai dã vô thác

龍 蛇 鬼 蜮 遍 人 間Long xà quỷ vực biến nhân gian.

dịch là:

Tháng NămXem Đua ThuyềnChết rồi Vua Sở Trương Nghi

Bội lan người Sở nhớ ghi vẫn cònChiêu hồn nào thấy đâu hồn

Đua thuyền tranh giải đầy sông đặt bàyOán hờ thương hão khói mây

Năm năm chiêng trống hội nay coi thườngHồn về không chốn tựa nương

Rắn rồng quỷ quái vẫn đương hoành hành.

Hoài Vương là vua nước Sỏ, khoông nghe lời can ngăn của Khuất Nguyên, sang nước Tần gặp vua Tần, bị vua Tần lập kế bắt giũ, sau khi chết mói, xác mói được đưa về Sở chôn cất. Trương Nghi là một nhà thuyết khách, chủ trương thuyết liên hoành, họp sáu nước Tề, Sở Yên Hàn Ngụy để phò Tần, chống lại thuyết hợp tung, sàu nước họp làm một dể đánh Tần của Tô Tần. Trương Nghi từng làm tướng quốc nhiều nước, từng vào nước Sở, mua chuộc được các đại thần và cả ái phi Trịnh Tụ của Hoài Vương, dèm Khuất Nguyên khiến ông bị vua đưa đi đầy, và đặt Trương Nghi lên làm tướng quốc. Sau bị lộ mưu, Trương Nghi chạy về Tần, sang Ngụy, rồi chết ở Ngụy.

Khuất Nguyên tên thục là Bình (–340 – - 278) làm chức Tà Đồ, của Sở Hoài Vương. Vua bị trúng kế ly gián của Trương Nghi, Trình Tụ cách chức Khuất Nguyên đầy về Giang Nam. Ông sáng tác nhiều thi phẩm đến nay còn được hâm mộ, như Ly Tao, Cửu Ca, Thiên Vấn, v.v... Trong văn học Trung Quốc Khuất Nguyên là biểu tượng lòng trung thành với vua, cùng chí bất khuất của nhà nho. Trong thời gian đi đầy, ông yêu thích hoa lan, thường đeo hoa lan trên người, nên có biệt hiệu la bội lan. Cuối cùng nước Sở mất vào tay nước Tần, Khuất Nguyên nhẩy xuống sông Mịch La tự trầm.

Khi Khuất Nguyên mất rồi, Tống Ngọc làm một bài Chiêu Hồn để gọi hồn ông. Tác phẩm này cũng trở rhành một tác phẩm quan trọng trong lịch sử văn học Trung Quốc.

Tục truyền Khuất Nguyên chết vào ngày 5 tháng 5. Hàng năm người Trung Quốc có lệ tổ chức thi bơi thuyền để kỷ niệm việc đi tìn thi thể Khuất Nguyên.

Trở lại bài Ngũ Nguyệt Quan Cạnh Độ, người đọc thấy Nguyên Du nhắc lại mối tương quan giũa Hoài Vương, Trương Nghi và Khuất Nguyên vắn tắt trong hai câu đầu. Ông không tin việc Tống Ngọc gọi hồn Khuất Nguyên, cùng tục lệ kỷ niệm cái chết của Khuất Nguyên bằng những cuộc thi đua thuyền. Hai câu cuối cùng ông nói ngược lời Tống Ngọc, cho rằng hồn Khuất Nguyên không nên về, vì những lời dèm pha nơi triều chính qủy quái như nọc rắn. Điểm này người đọc thường thấy trong thơ Nguyễn Du, tỷ như trong bài Khổng Tước Vũ trong Thanh Hiên Thi tập.

Tiếp tới là bài:127

Page 126: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

楊 妃 故 里Dương Phi Cố Lý

山 雲 削 略 岸 花 明Sơn vân tước lưọc ngạn hoa minh

見 說 楊 妃 此 地 生Kiến thuyết Dương Phi thử địa sinh

自 是 舉 朝 空 立 仗Tự thị cử triều không lập trượng

枉 交 千 古 罪 傾 城Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành

簫 簫 南 內 蓬 蒿 遍Tiêu tiêu Nam Nội bồng cao biến

寞 寞 西 交 丘 隴 平Mịch mịch Tây Giao khâu lũng bình

狼 藉 殘 紅 無 覓 處Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ

東 風 城 下 不 勝 情Đông phong thành hạ bất thắng tình.

dịch là:

Quê Cũ Dương PhiRộ hoa bến thưa mây ngàn

Nơi đây quê cũ của nàng Dương PhiCả triều phỗng đá làm vì

Nghiêng thành lệch nước tội ghi riêng nàngCỏ gai Nam Nội tan hoang

Vắng tanh gò đống san bằng Tây GiaoCánh hồng tàn tạ tìm đâu

Chân thành lộng gió ruột đau trạnh tình.

Dương Phi tức Dương Qúy Phi, tục danh là Dương Ngọc Hoan, người đất Hoằng Nông, Hoa Âm, tỉnh Thiểm Tây. Thủa nhỏ mồ côi, sống vói chú là Dương Huyền Yêu, sau được tuyển vào cung làm cung phi vua Đường Huyền Tông. Nàng được vua yêu mến vô cùng. Anh họ nàng là Dương Quốc Trung cũng được phong quyền cao chức trọng và làm nhiều điều lộng quyền trong triều.

Khi có giặc An Lộc Sơn, vua Đường Huyền Tông chạy vào đất Thục. Đến Mã Ngôi, quân lính nổi loạn đòi giết Dương Quốc Trung và Dương Qúy Phi. Vua Đường Huyền Tông không sao che chở cho Dương Quý Phi nổi. Dương Qúy Phi bị thắt cổ chết.

Trong câu thứ ba, Nguyễn Du dùng ba chữ không lập trượng, nghĩa đen là đứng yên trong hàng gậy. Do phép thiết triều nhà Đường, có tám con ngựa được dẫn ra đứng chầu sau hàng gậy. Con nào động đậy hay hý lên đều bị thay thế. Người đời sau dùng ba chữ này chỉ nhưng vị triều quan, chức cao mà không thiết thực làm việc nước. Cùng với câu thứ tư, tác giả đưa ra lập luận làm nhẹ tội Dương Phi: trách nhiệm về việc làm nghiêng thành lệch nước là trách nhiệm của cả triều đình đau có phải tại một mình Dương Quý Phi.

Cung Nam Nội là cung Hưng Khánh, ở phía Đông Nội. Vua Dường và Dương Qúy Phi thường ra chơi tại đó. Ngày nay Nam Nội hoang phế. Tây Giao ở phía Đông Trường An, chỉ cánh đồng chỗ Dương Qúy Phi bị bức tử, gò dống nay đã bị san bằng. Dưới chân thành, Nguyễn Du cảm thương cho Dương Qúy Phi.

Đoàn sứ đi qua đất cũ của Triệu Đà, gây hứng cho Nguyễn viết bài:

趙 武 帝 故 境Triệu Vũ Đế Cố Cảnh

128

Page 127: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

暴 楚 強 秦 相 繼 誅Bạo Sở cường Tần tương kế tru

雍 容 揖 遜 霸 南 陬Ung dung ấp tốn bá nam tưu

自 娛 儘 可 稱 皇 帝Tự ngu tận khả xung hoàng đế

樂 善 還 能 屈 豎 儒Lạc thiện hoàn năng khuất thụ nhu

百 尺 高 臺 傾 嶺 表Bách xích cao đài khuynh Lĩnh Biểu

千 年 古 墓 沒 番 禺Thiên niên cổ mộ một Phiên Ngu

可 憐 世 代 相 更 迭Khả liên thế đại tương canh điệt

不 及 蠻 夷 一 老 夫Bất cập man di nhất lão phu.

dịch là:

Đất Cũ Của Triệu Vũ ĐếDiệt vong Sở bạo Tần Cường

Trời nam nghiệp bá ung dung ông ngồiTự xưng hoàng đế một thời

Nhún nhường phục thiện nghe lời bàn sâuĐài cao Lĩnh Biểu còn đâu

Phiên Ngung mộ cổ từ lâu mất rồiKế nhau triều đại đổi dời

Ai bằng ông lão tinh đời man di.

Triệu Vũ Đế, tức Triệu Đà, sinh năm 258 trước công nguyên, làm huyện lệnh Đông Xuyên, dưới quyền Nhâm Ngao, quan úy huyện Nam Hải. Lúc đó vào cuối đời nhà Tần, triều chính suy xụp, đại loạn, chinh chiến liên miên với nước Sở. Nhâm Ngao muốn nhân cơ hội đánh lấy Âu Lạc, lập một nước tự chủ ở phương Nam. Chưa thực hiện được kế hoạch thi ốm nặng, Nhâm Ngao trao binh quyền cho Triệu Đà. Triệu Đà theo kế hoạch thành công, lập raq nước Nam Việt, lên làm vua tức là Vũ Vương, đóng đô ở Phiên Ngung, gần thành Quiảng Châu ngày nay. Nhà tần tàn, nhà Hán lên trị vì Trung Quốc. Vua Hán sai lục Giả, một nhà nho, sang Nam Việt dụ hàng Triệu Đà, hứa tôn trọng chủ quyền của Nam Việt, gác bỏ việc chiến chinh. Triệu Đà đã nghe theo.

Trở lại bài Triệu Vũ Đế Cô Cảnh, Ngày nay mọi xây cất tại Lĩnh Biểu không còn. Mồ chôn Triệu Đà ở Phiên Ngung cũng không tìm ra dấu vết. Có khác gì triều đại kế tiếp nhau dời đổi, chinh chiến không ngừng, cả Sở cả Tần nay chẳng nước nào còn. Người đọc dường như cảm thấy là, với Nguyễn Du chẳng ai khôn ngoan bằng ông lão man di, (lời triệu Đà tự xưng trong sớ tâu lên vua Hán Vũ Đế), bbởi đã biết tránh cho dân nạn chiến chinh giữa Nam Việt và nhà Hán.

Cái khó khăn trong cuộc di hành của thuyền sứ lại trở lại trong Bắc Hành Tạp Thi với bài:

不 進 行Bất Tiến Hành

雨 師 涕 泣 馮 夷 怒Vũ sư thế khấp Bằng Di nộ

五 指 山 前 水 暴 注Ngũ chỉ sơn tiền thủy bạo chú

白 波 終 日 走 蛇 龍Bạch ba hàn nhật tẩu xà long

129

Page 128: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

青 山 兩 岸 皆 豺 虎Thanh sơn lưỡng ngạn giai sài hổ

舟 楫 紛 紛 同 一 流Chu tiếp phân phân đồng nhất lưu

下 灘 人 喜 上 灘 愁Hạ than nhân hỷ thuớng than sầu

百 丈 長 繩 挽 不 進Bách trượng trường thằng vãn bất tiến

舟 中 年 少 皆 白 頭Chu trung niên thiếu giai bạch đầu.

dịch là:

Bài Hành Thuyền Không TiếnThần mưa khóc thần sông gào

Dưới chân Ngũ Chỉ nước trào mênh môngSóng lùa lớp rắn lóp rồng

Hòn hùm hòn báo trời trồng non xanhThuyền xuôi thuyền ngược dập dềnh

Xuôi ghềnh khấp khỏi ngưọc gềnh sợ loKéo dây thuyền chẳng chuyển choBạc đầu mấy gã nhà đò trẻ măng.

Thời tiết khắt khe, mưa to gió lón, thuyền sứ ngược ghềnh, chèo không chuyển, kéo dây không đi, nhưng duờng như không quá nguy hiển trong nhưng khúc sông trước.

Rồi thuyền sứ đi qua:

三 烈 廟Tam Liệt Miếu

蔡 女 生 雛 卓 女 奔Thái nữ sinh sồ Trác nữ bôn

落 花 飛 絮 不 勝 言Lạc hoa phi nhứ bất thăng ngôn

千 秋 碑 碣 顯 三 烈Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt

萬 古 綱 常 屬 一 門Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn

地 下 相 看 無 鬼 色Địa hạ tương khan vô quý sắc

江 邊 何 處 吊 貞 魂Giang biên hà xứ điếu trinh hồn

清 時 多 少 須 如 戟Thanh thời đa thiểu tu như kích

說 孝 談 忠 各 自 尊Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn.

dịch là:

Miếu Tam LiệtThái sinh con Trác theo trai

Chuyện đòi hoa rụng tơ bay khôn lườngNgàn thu tam liệt nêu gương

Một nhà vạn cổ cương thường ghi sâuSuối vàng chẳng thẹn găp nhau

130

Page 129: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Viếng hồn trinh phụ nơi nào ven sôngThanh bình râu mác nói ngông

Bàn trung thuyết hiếu một phường tự tôn.

Bài thơ có lời chú thích của tác giả như sau: “Khoảng niên hiệu Chính Đức nhà Minh (1506-1521), Lưu Thời Cử đi nhập chức. Thuyền tới dây (nơi lập miếu) bị bọn cướp giết. Vợ là Trương Thị, thiếp là Quách Thị, con gái là Lưu Thị, nhẩy xuống sông chết. Năm Gia Tĩnh (1522-1526) được phong thần và lập miếu thờ.”

Trong câu thứ nhất, tác giả nhắc tới tên hai phụ nữ nổi tiếng trong văn học Trung Quốc. Một là Thái Diễm, tự là Văn Cơ, con gái Thái Ung cuối đời Đông Hán, lấy chồng là Vệ Trọng Đạo, chưa có con thì chồng chêt, trờ về nhà cha mẹ ruọt. Sau đó quân Hung Nô vào chiếm đất Hán, bắt được nàng, mang về nước gả cho người Hung Nô. Hai mươi năm sau, sinh được hai đầu con. Tào Tháo, bạn thân của Thái Ung, sai ssú đem vàng bạc chuộc nàng về, gả cho Đổng Tự. Người thứ hai là Trác Nữ, tức Trác Văn Quân, con gái Trác Vương Tôn đời nhà Hán, góa chồng về ỏ nhà cha mẹ ruột. Tư Mã Tương Như đến dự tiệc, thoáng thấy nàng, gẩy khúc Phượng Cầu Hoàng tỏ tình. Nàng hiểu ý bỏ nha đi theo Tương Như. Nguyễn Du đối chiếu ba tiết nữ, chết theo chồng theo cha, với hai góa phụ, Thái Nữ và Trác Nữ, để thấy câu truyện rạng danh tam liệt và truyện gìn giữ cương thường tùy thuộc vào từng gia đình. Hai góa phụ này nếu gặp ba tam liệt nữ kia chắc không thẹn mặt. Bên sông này chẳng biết viếng hồn trinh nơi đâu. Rồi ông kết luận là lúc bình thường vểnh râu bàn luận về hai chữ hiếu trung, con người thường hay có thói đề cao mình. Người đọc tụ hỏi phải chăng qua bài trên đây, Nguyễn Du kín đáo bày tò ý riêng về hai chữ hiếu trung?

Cùng dòng thơ này, Bắc Hành Tạp Lục chép tiếp bài:

桂 林 瞿 閣 部Quế Lâm Cù Các Bộ

中 原 大 勢 已 頹 唐Trung nguyên đại thế dĩ dồi đường

竭 力 孤 城 控 一 方Kiệt lực cô thành khống nhất phương

終 日 死 生 心 不 動Chung nhật tử sinh tâm bất động

千 秋 地 下 髮 猶 長Thiên thu địa hạ phát do trường

殘 明 廟 社 多 秋 草Tàn Minh miéu xã đa thu thảo

全 越 山 河 盡 夕 陽Toàn Việt sơn hà tận tịch dương

共 道 中 華 尚 節 義Cộng đạo Trung Hoa thượng tiêt nghĩa

如 何 香 火 太 淒 涼Như hà hương hỏa thái thê lương.

dịch là:

Các Bộ Họ Cù Đất Quế LâmTrung nguyên đại thế đổ rồi

Giữ thành dốc hết sức người riêng mangNgày đêm sống chết chẳng màng

Tóc dài chẳng đổi suối vàng có nhau Tàn Minh cỏ miếu rầu rầu

Non sông đât Việt uá mầu tà dươngTrung hoa vốn trọng kẻ trung

Mà sao hương khói thê lương thế này.131

Page 130: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Các Bộ họ Cù tức Cù Thức Trĩ, tự Khởi Điền, người đời nhà Minh, giữ chức tuần phủ Quảng Tây, sau thăng Đông Các Đại Học Sĩ, Các Bọ là danh hiệu gọi tắt chức vụ này. Khi quân Thanh chiếm Trung Quốc, vua nhà Minh thua chạy lên Vân Nam, ông cố giữ thành Quế Lâm và tuẫn tiết khi thành thất thủ. Câu thứ tư, Nguyễn Du nhắc lại truyện Cù Thừc Trĩ không cxhịu hàng nhà Thanh, cát tóc bện đuôi sam. Câu thứ năm, chữ toàn việt chỉ vùng đất Phúc Kiến, Chiết Giang, tức Mân Việt, và vùng Quảng Đông Quảng Tây gọi là Lưởng Việt.

Hai câu kết rất đặc biệt đáng lưu ý: Trung Quốc vốn trọng chũ trung của nhà nho, mà sao đền thờ một trung thần thì hương khói vắng tanh như vậy. Người đọc tự hỏi phải chăng là Nguyễn Du muốn dùng hình ảnh hương tàn khói lạnh này để nói lên niềm lãnh đạm của dân Trung Quốc với những danh thần cô trung như Cù Các Bộ? Chữ danh như vậy phải chăng là cái danh hão? Phải chăng cái lãnh đạm này đã giết chết Cù Các Bộ lần thú hai?

Tới Quế Lâm, dừng chân tại một công quán, gợi hứng cho Nguyễn Du viết bài:

桂 林 公 館Quế Lâm Công Quán

荒 草 惹 流 螢Hoang thảo nhạ lưu huỳnh

閒 階 夜 氣 清Nhàn giai dạ khí thanh

寒 燈 留 鬼 影Hàn đăng lưu quỷ ảnh

虛 幛 聚 蚊 聲Hư trướng tụ văn thanh

牢 落 春 無 分Lao lạc xuân vô phận

蹉 跎 老 自 驚Tha đà lão tự kinh

城 頭 聞 畫 角Thành đầu văn họa giác

自 語 到 天 明Tự ngữ đáo thiên minh

dịch là:

Công Quán Quế LâmCỏ hoang đom đóm lập loè

Trời đêm trong sáng vắng hoe quanh thềmMa chơi leo lét ánh đèn

Vo ve tiếng muỗi màn bên xa gầnLo buồn nào biét đến xuân

Cái gìa xộc tới mòn thân trạnh tìnhĐầu thành tiếng ốc tàn canh

Một mình tâm sự với mình sáng đêm.

Thi cảnh của Nguyễn Du trong bài này trải dài từ xa về tới phòng ông trong công quán: với ánh sáng lập lòe của đàn đom đóm, trong đêm thanh vắng quanh công quán. Vào tới phòng ông là tiếng muỗi vo ve quanh màn. Nhà thơ chợt thấy mùa xuân đã qua, cái già dường như ập tới ông. Rồi nghe thấy tiếng trống tàn canh đầu thành. Thế là trắng một đêm mình tâm sự với mình.

Rồi tới bài:

題 韋 盧 集 後Đề Vi Lư Tập Hậu

132

Page 131: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

詩 人 不 得 見Thi nhân bất đắc kiến

見 詩 如 見 人Kiến thi như kiến nhân

大 山 興 寶 藏Đại sơn hưng bảo tạng

獨 鶴 出 風 塵Độc hạc xuất phong trần

針 芥 易 相 感Châm giới vị tương cảm

越 胡 難 自 親Việt Hồ nan tự thân

三 唐 千 載 後Tam Đường thiên tải hậu

寂 寞 久 無 聞Tịch mịch cửu vô văn.

dịch là:

Đề Cuối Tập Thơ Của Vi LưNgười thơ chưa gặp bao giờ

Thấy thơ như thấy người thơ thủa nàoNon xanh kho báu chôn sâu

Phong trần hạc lẻ ngàn cao vẫy vùngCây kim hạt cải cảm thông

Kẻ Hồ người Việt đôi đường khó thânSau Tam Đường cả ngàn năm

Tiếng thơ im bặt tao đàn vắng tanh.

Giới nghiên cứu đồng ý rằng Vi tức Vi Ứng Vật là một nhà thơ nổi tiếng đời Đường, khi gặp loạn An Lôc Sơn, đã bỏ đi tu đạo Phật, nên dường như hợp với hình ảnh một cánh hạc lẻ vẫy vùng trên ngàn cao trong câu bốn. Đằng khác, trong Đường Thi có nhiều nhà thơ cùng họ Lư nên không đóan chắc ra là ai. Có người cho đó là Lư Chiến Lân, một trong Sơ Đường Tứ Kiệt, nhưng không có bằng chứng đáng tin, ngược lại trong câu thứ ba nếu tác giả nói về nhà thơ họ Lư thì ông này là một nhà thơ lớn nhưng ẩn danh.

Trong hai câu thứ năm và thứ sáu, Nguyễn Du dùng hình ảnh nam châm hút kim, hổ phách hút hạt cải để mô tả niềm cảm thông giũa hai người thơ. Nhưng trong trường hợp kẻ Hồ nguời Việt niềm thông cảm dường có phần khó khăn. Người đọc tự hỏi phải chăng Nguyễn Du muốn bàn tới giới hạn truyền cảm của thơ văn?

Hai câu chót tác giả đưa ra nhận xét về thi ca Trung Quốc: sau Tam Đường, tức Thịnh Đường, Trung Đường và Vãn Đường, không còn nhà thơ lớn nào khác nữa.

Tiếp tục cuộc hành trình, thuyền sứ đi qua Thiên Bình và Nguyễn Du viết bài:

過 天 平Quá Thiên Bình

分 水 山 前 二 水 分Phân Thủy sơn tiền nhị thủy phân

天 平 水 面 自 嶙 峋Thiên Bình thủy diện tự lân tuân

一 杯 空 奠 臨 江 廟Nhất bôi không điện lâm giang miếu

千 古 誰 為 砌 石 人Thiên cổ thùy vi thế thạch nhân

半 嶺 溪 泉 皆 入 楚Bán lĩnh khê tuyền giai nhập Sở

133

Page 132: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

滿 洲 碑 碣 已 非 秦Mãn châu bi kiệt dĩ phi Tần

舟 人 爭 指 家 鄉 近Chu nhân tranh chỉ gia hương cận

惱 殺 殊 方 老 使 臣Não sát thù phương lão sứ thần.

dịch là:

Qua Thiên BìnhNgang Phân Thủy nước chia đôi

Thiên Bình mặt nước sóng nhồi mênh môngMìếu sông dâng chén rượu suông

Ai nguời khuân đá chất chồng khéo saoCửa non suối Sở dạt dào

Bia Tấn nghiêng đồ thấp cao đầy đồngSắp tới làng khách vui mùng

Sứ già buồn nỗi đường trường còn xa.

Giới nhiên cứu cho rằng núi Phân Thủy là rặng núi ở huyện Nam Chiếu tỉnh Hồ Nam, và sông Thiên bình là một con sông chẩy dưới chân núi này.

Tác giả dường như thoải mái trước cảnh trời nước, núi sông. Cảnh thiên nhiên nước Sở vẫn còn đó, bia nước Tần nay sụp đổ đầy đồng. Người đọc thơ không khỏi thấy cái phi lý của kiếp người vô thưởng trước cái hằng thường của tạo hóa, và nhất là cái phi lý của cuộc tranh hùng triền miên giữa Sở và Tần.

Trở lại với chiếc thuyền sứ bộ, trên sông Thiên Bình. Khách đi thuyền vui mừng chỉ trỏ làng quê họ gần tới. Riêng sứ thần già buồn vì nỗi đường còn xa.

Tiếp tới là bài:

望 湘 山 寺Vọng Tương Sơn Tự

古 佛 無 量 唐 世 人Cổ Phật Vô Lường Đuờng thế nhân

湘 山 寺 裡 有 真 身Tương Sơn tự lý hữu chân thân

真 身 一 夜 燼 炎 火Chân thân nhất dạ tẫnviêm hỏa

古 寺 千 年 空 暮 雲Cổ tự thiên niên không mộ vân

五 嶺 峰 巒 多 氣 色Ngũ Lĩnh phong loan đa khí sắc

全 州 城 郭 在 風 塵Toàn Châu thành quách tại phong trần

孤 舟 江 上 憑 欄 處Cô chu giang thượng bằng lan xứ

一 帶 松 杉 半 夕 曛Nhất đái tùng sam bán tịch huân.

dịch là:

Vọng Chùa Tương SơnĐời Đường Phật cổ Vô Lường

Chân thân truyền tụng lưu tàng Tương SơnMột đêm lửa cháy chân thân

Ngàn năm chùa cổ mây vần tầng cao134

Page 133: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Núi non Ngũ Lĩnh muôn mầuMịt mò thành quách Toàn Châu bụi hồng

Thân đơn ngắm cành song bồngTrời chiều từng dải sam thông mờ dần.

Vô Lường Phật là Phật danh của Đường Huyền Trang, người đã sang Tây Trúc thỉnh kinh. Nguyễn Du kể lại truyên chân thân của Phật Vô Lường tàng tại chùa Tương Sơn bỗng một đêm bốc cháy, ngày nay chỉ còn ngôi chùa cổ phủ mây chiều, trong cảnh núi Ngũ Lỉnh muôn mầu, ngoài thành Toàn Châu chìm trong bụi hồng. Đứng một mình trên thuyền, người thơ thấy từng rặng thông chìm dần trong bóng chiều. Nguời đọc thấy tác giả có một buổi chiều êm ả thư thái, không một mảy may buồn khổ nhớ nước nhớ nhà.

Thuyền sứ vào đất Vĩnh Châu mang lại cho Nguyễn Du thi hứng viết bài:

永 州 柳 子 厚 故 宅Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu Cố Trạch

蘅 嶺 浮 雲 瀟 水 波Hành Lĩnh phù vân Tiêu Thủy ba

柳 州 故 宅 此 非 耶Liễu Châu cố trạch thử phi da

一 身 斥 逐 六 千 里Nhất thân xích trục lục thiên lý

千 古 文 章 八 大 家Thiên cổ văn chương bát đại gia

血 指 汗 顏 誠 苦 矣Huyết chỉ hãn nhan thành khổ hỹ

清 溪 嘉 木 奈 禺 何Thanh khê gia mộc nại ngu hà

壯 年 我 亦 為 材 者Tráng niên ngã diệc vi tài giả

白 髮 秋 風 空 自 嗟Bạch phát thu phong không tụ ta.

dịch là:

Nhà Cũ Vĩnh Châu Liên Tử HậuMây non Hành sóng dòng Tiêu

Liễu Châu nhà cũ tieu điều đâu đâySáu ngàn dặm thằm thân đầy

Một trong tám đại danh tài lưu danhMồ hôi nước mắt trạnh tình

Há sao suối mát cây xinh ngu đầnTài hoa gỗ qúi tuổi xuân

Gió thu tóc bạc thương thân than sầu.

Liễu Tử Hậu là Liễu Tông Nguyên (773-819) người Hà Đông, nen còn gọi là Liễu Hà Đông. Ông còn tùng làm thứ sử Liễu Châu, nay là Quảng Tây, nen còn tênlà Liễu Liễu Châu, tên chũ là Tủ Hậu. Ông đậu tiến sĩ năm 21 tuổi, nổi tiếng tài hoa, hoạn lộ thăng trầm bị đầy đi xa giữ chú Tư Mã Vĩnh Châu rồi chết tại đó. Chỗ này là nơi thuyền sứ đi qua và gây hứng cho Nguyễn Du viết bài thơ này.

Hành Lĩnh là dẫy Hành Sơn thuộc tỉnh Hồ Nam; Tiêu Thủy là khúc sông Tương, trong tỉnh Hồ Nam và đổ vào sông Tiêu.

Liễu Tử Hậu là một trong tám nhà văn nội danh trong hai triều nhà Đường và nhà Tống gồm có: Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên, Âu Dương Tu, Tô Tuân, To Thức, Tô Triệt, Tăng Củng và Vương An Thạch.

Câu thứ năm, Nguyễn Du nhắc lại lời văn tế Liễu Tôn Nguyên của Hàn Dũ, giới nghiên cứu 135

Page 134: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

dịch xuôi là: ‘Ví như người thọ vụng, tay đổ máu, mặt đổ mồ hôi, còn người thọ khéo thì đứng khoanh tay. Văn chương như ông Liễu thì không được dùng, còn bọn nịnh bợ thì ngồi thảo chiếu cho vua.’

Câu thứ sáu, Nguyễn Du trích bài tựa của tập thơ Ngu Khê của Liễu Tông Nguyên; ‘Cây cối đẹp dẽ, đất đá kỳ lạ chồng chất phô bà, vì tangu mà phải mang tiếng ngu. nước là thứ kẻ trí ưa thích. Nay cái khe ấy vì ta mà lại bị nhục vì ngu, là tại sao?’

Rổi kết thúc bằng hai câu: tuổi trẻ ta cũng có tài ví như cây gỗ tốt, nay đầu bạc ngồi than thân vói gió thu.

Người đọc thơ dường như thấy rõ là Nguyễn Du tâm đầu ý hiệp với Liễu Tông Nguyên. Có điều người đọc thắc mắc là vì sao Liễu Tông Nguyên tự cho mình là ngu? Phải chăng ông tự trách vì mình ngu mà bị biếm, làm khổ lây suối rừng cây cỏ? Phải chăng, đàng khác là tại ông ngu nên đã giã biệt suối rùng cây cỏ mà ra làm quan, đề nay bị biếm vạ lây tới cỏ cây rừng suối?

Không biết giữa hai ngả đó Nguyễn Du song hành cùng Liễu Tông Nguyên theo ngả nào? Rồi tới đêm thuyền sứ đậu bến sông tương, Nguyên Du viết bài:

湘 江 夜 泊Tương Giang Dạ Bạc

一 去 六 十 里Nhất khứ lục thập lý

悠 悠 江 水 長Du du giang thủy trường

浮 雲 連 五 嶺Phù vân liên Ngũ Lĩnh

明 月 會 三 湘Minh nguyệt hội Tam Tương

別 浦 分 新 色Biệt phố phân tân sắc

遙 空 失 故 鄉Dao không thất cố hương

鶴 來 人 不 見Hạc lai nhân bất kiến

晚 樹 鬱 蒼 蒼Vãn thụ uất thương thương

dịch là:

Đêm Đậu Bến Sông TươngMột thôi sáu chục dặm trường

Đường sông dằng dặc thuận buồm ruổi rongĐầu non Ngũ Lĩnh mây giăng

Tam Tương trải rộng dưới trăng một vùngBến sông tiễn biệt ngại ngùng

Ngoái nhìn chẳng thấy cố hương nẻo nàoHạc về chẳng thấy người đâu

Xẫm xanh cây lá nao nao bóng chiều.

Trong bốn câu đầu, Nguyên Du ghi lại hình ảnh chặng đường thuyền sứ vừa vượt qua để tới Tam Tương. Nơi đó là chỗ ba dòng sông Tương: Tiêu Tương, Chung Tương và Nguyên Tương gặp nhau.

Bốn câu sau làm người đọc thấy dường như tác giả, dùng cùng một bút pháp vói bài Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu Có Trạch: đưa thi liệu lấy từ văn học Trung Quốc vào thơ Việt Âm. Qua bốn câu này người đọc nhớ tới bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, một bài thơ Đường rất được nhà nho ta ngày xưa và giới hâm mộ thơ Đường hiện nay ưa chuộng. 136

Page 135: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thi tài của Nguyễn Du đã xáo trộn thứ tự bốn câu trong bài Hoàng Hạc Lâu, bớt chữ chỉ địa danh: như Hán Dương, Anh Vũ, rồi đổi từ nguyên thể bẩy chữ sang thể năm chữ trong bài Tương Giang Dạ Bạc, và liên tục diễn tả tâm cảnh của ông hiện đang ở trên quê người, không còn biết quê hương ở về phía nào.

Phải chăng cái thú chơi chữ này đã giúp cho Nguyễn Du nguôi nguôi nỗi nhớ nhà, lấy lại dần dần đưọc niềm thanh thản?

Thuyền sứ vào sông Nguyên Tương, thuộc dịa phận huyện Tương Đàm, gần với khúc sông Mịch La, nợi Khuất Nguyên tự trầm mình. Hình ảnh Khuất Nguyên gợi hứng cho Nguyễn Du viết hai bài:

湘 潭 吊 三 閭 大 夫Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

好 修 人 去 二 千 載Hiếu tu nhân khứ nhị thiên tải

此 地 猶 聞 蘭 芷 香Thử địa do văn lan chỉ hương

宗 國 三 年 悲 放 逐Tông quốc tam niên bi phóng trục

楚 辭 萬 古 擅 文 章Sở từ vạn cổ thiện văn chương

魚 龍 江 上 無 殘 骨Ngư long giang thượng vô tàn cốt

杜 若 洲 邊 有 眾 香Đỗ nhưọc châu biên hữu chúng phương

極 目 傷 心 何 處 是Cực mục thương tâm hà xứ thị

秋 風 落 木 過 沅 湘Thu phong lạc mộc quá Nguyên Tương.

其 二Kỳ Nhị

楚 國 冤 魂 葬 此 中Sở quốc oan hồn táng thử trung

煙 波 一 望 渺 何 窮Yên ba nhất vọng diểu hà cùng

直 教 憲 令 行 天 下Trực giao hiến lệnh hành thiên hạ

何 有 離 騷 繼 國 風Hà hữu Ly Tao kế Quốc Phong

千 古 誰 人 憐 獨 醒Thiên cổ thùy nhân liên độc tỉnh

四 方 何 處 托 孤 忠Tứ phương hà xứ thác cô trung

近 時 每 好 為 奇 服Cận thòi mỗi hiếu vi kỳ phục

所 佩 椒 蘭 更 不 同Sở bội tiêu lan cánh bất đồng.

dịch là:137

Page 136: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Qua Tương Đàm Viềng Tam Lư Đại PhuHai Bài

IHai ngàn năm trước Nguời đi

Đất này lan vẫn nở ghi dấu NgườiBa năm đầy ải bên trời

Sở Từ còn đó ngàn đời chi hơnĐáy sông nào thấy nắm xương

Bên bờ đỗ nhược toả hương ngạt ngàoĐau lòng mỏi mắt phương nao

Nguyên Tương lá rụng rì rào gió thu.

IIOan hồn Người Sở đáy sông

Mịt mù khói sóng mênh mông một vùngNếu hiến lệnh đưọc vua dùng

Thì Ly Tao chẳng nối dòng Quốc PhongMột mình tỉnh ai nào thương

Bốn phương há gửi cô trung trọn đờiGần đây mũ áo đổi rồi

Tiêu lan đeo chẳng giống người thời xưa.

Hai bài Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu này là hai bài trong ba tập thơ Việt Am của Nguyễn Du mà giới nghiên cứu đặc biệt chú ý, vì được coi là bằng chúng của lòng hoài Lê của Nguyễn Du.

Tương Đàm là một huyện trong tỉnh Hồ Nam. Thị trấn Tương Đàm nằm trên sông Tương. Tam Lư Đại Phu là chức quan của Khuất Nguyên có nhiệm vụ chưởng quản các quan thuộc vương tộc nước Sở, tựa như chức quan đứng đầu Tôn Nhân Phủ triều nhà Nguyễn tại Việt Nam.

Khuất Nguyên được Sở Hoài Vương tin dùng, thăng chức Tả Đồ, tựa như phó thủ tướng. Ông giúp vua thảo hiến lệnh, nhưng triều đình không nghe, có người dèm Khuất Nguyên, vua tin nghe đầy Khuất Nguyên đến vùng Giang Nam. Sau đó nước Sở bị quân nhà Tần đánh bại, ông nhẩy xuống sông Mịch La tự trầm. Ông đưọc nhà nho coi như biểu tượng lòng trung với vua. Đàng khác ông để lại cho hậu thế nhiều tác phẩm lớn, sáng tác trong thời gian ông bị biếm, như Ly Tao, Cửu Ca, Thiên Vấn, Cửu Chương v.v...

Trở lại hai bài Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu, tác giả mở đầu bàng ba chữ Hiếu Tu Nhân, chhữ trích từ Sở Từ, nghĩa là người ham sửa sang đức tốt. Hai chữ lan chỉ cũng là chữ trích từ thơ Khuất Nguyên, vốn là tên gọi hai loại hoa tượng trưng cho đức tính cao khiết. Hai câu ba và bốn tóm tắt truyện Khuất Nguyên bị dèm rồi bị đi đầy, và nhân đó sáng tác được Sở Từ lưu danh ngàn đòi. Câu năm và sáu ghi lại hình ảnh Khuất Nguyên trầm mình trên sông Mịch La, không tìm thấy hài cốt, nhưng bên bờ sông cỏ đỗ nhược vẫn tỏa hương thơm. Hai câu chót, tác giả cho biết ông không nhìn thấy dấu vết cũ của Khuất Nguyên, chỉ nghe thấy tiếng gió rì rào thổi lá bay trên sông Nguyên Tương.

Sang bài thứ hai, Nguyên Du mở đầu bằng truyện Khâu Nguyên chết oan ở dòng sông này, không còn nhìn thấy dấu vết, chỉ thấy khói sông mông mênh. Hai câu tiếp là hai câu Nguyễn Du tụ hỏi, nều hiến lệnh đươc vua Sở Hoài Vương áp dụng, thời làm gì có Ly Tao mỏ đường cho dòng thơ nối theo dòng thơ Kinh Thi. Hai câu sau, ông nhắc lời Khuất Nguyên trong thiên Ngư Phủ, trong Sở Từ: Người đời say cả riêng mình ông tỉnh, thế nên, khắp bốn phương không có nơi nào gửi tấm lòng cô trung. Hai câu chót, là hai câu Nguyễn Du dường như tự nói với chính mình: ‘người đơi nay thay đổi thói tục rồi, chẳng còn ai sống theo nề nếp Khuất Nguyên nữa.’

Người đọc thơ Nguyễn Du tự hỏi, phải chăng là củ ý ông muốn trình bày, trong hai bài Tương Đàm Điếu Tam Lư Đại Phu trên đây, là việc Khuất Nguyên bị đi đầy là một cái may mắn cho Khuất Nguyên, ra khỏi triều đình vua Sở Hoài Vương đẻ có dịp sáng tác những áng văn thơ mở đường khai lối cho văn học Trung Quốc ra khỏi dòng văn học trong Kinh Thi? 138

Page 137: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Ngoài ra, phải chăng ý nghĩ : ‘chúng nhân sau cả, riêng mình ông tỉnh’ đã tách Khuất Nguyên ra khỏi cuộc sống của chúng nhân, việc ông nhẩy xuống sông Mịch La tất không sao tránh khỏi?

Mạch thơ của Nguyễn Du, trong thi cảnh hai bài Tương Đàm viếng Tam Lư Đại Phu trên đây còn nối dài sang bài:

反 招 魂Phản Chiêu Hồn

魂 兮 魂 兮 招 不 歸Hồn hề hồn hề chiêu bất quy

東 西 南 北 無 所 依Đông tây nam bắc vô sở y

上 天 下 地 皆 不 可Thướng thiên hạ địa giai bất khả

鄢 郢 城 中 來 何 為Yên Dĩnh thành trung lai hà vi

城 郭 猶 是 人 民 非Thành quách do thị nhân dân phi

塵 埃 滾 滾 污 人 衣Trần ai cổn cổn ô nhân y

出 者 驅 車 入 踞 坐Xuất giả khu xa nhập cứ tọa

坐 談 立 議 皆 皋 夔Tọa đàm lập nghị giai Cao Quỳ

不 露 爪 牙 與 角 毒Bất lộ trảo nha dữ giác độc

咬 嚼 人 肉 甘 如 飴Giảo tước nhân nhục cam như di

君 不 見 湖 南 數 百 州Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu

只 有 瘦 瘠 無 充 肥Chỉ hữu sấu tích vô nhân phì

魂 兮 魂 兮 率 此 道Hồn hề hồn hề suất thử đạo

三 皇 之 後 非 其 時Tam hoàng chi hậu phi kỳ thì

早 斂 精 神 返 太 極Tảo liễm tinh thần phản thái cực

慎 勿 再 返 令 人 嗤Thận vật tái phản linh nhân xi

後 世 人 人 皆 上 官Hậu thế nhân nhân giai Thượng quan

大 地 處 處 皆 汨 羅Đại địa xứ xứ giai Mịch La

魚 龍 不 食 豺 虎 食Ngư long bất thực sài hổ thực

魂 兮 魂 兮 奈 魂 何Hồn hê hồn hề nại hồn hà.

dịch là:

Phản Chiêu HồnHú hồn hồn hỡi chớ về

Đông Tây Nam Bắc không bề cậy trôngThăng thiên độn thổ đều không

Đất Yên đất Dĩnh đôi đường chớ ham139

Page 138: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thành quách còn khác tình dânMịt mờ bẩn áo lấm quần bụi bay

Đi xe lớn ở điện đàiCao Quỳ miệng lưỡi vắn dài ngông nghênh

Mặt ngoài chẳng lộ sừng nanhLòng trong uống máu không tanh một tuồng

Hồn thấy chăng:

Trăm châu một cõi Hồ NamChằng ai no đủ trơ xương dân gầy

Hồn ơi bằng cứ nẻo nàySau Tam Hoàng khắp đó đây đổi dời

Tỉnh tu sớm liệu về trờiĐừng về đây nữa người đời mỉa mai

Thượng quan nhan nhản trần aiĐâu đâu cũng thấy sông dài Mịch La

Cá không rỉa hùm chẳng thaHồn ơi hồn hỡi biết là làm sao.

Nguyễn Du viết bài thơ dài này phản bác bài Chiêu Hồn của Tống Ngọc làm để gọi hồn Khuất Nguyên. Ông khuyên hồn Khuất Nguyên chớ nên trở lại cõi trần đầy bọn gian ác. Cũng không nên trở về thành Yên Thành Dĩnh nước Sở, bởi lẽ thành quách tuy vẫn không đổi nhưng lòng dân thay đổi rồi: ra đường thời xe to ngựa lớn, về nhà thì chễm trệ vênh vang. Nói toàn truyện yên dân trị nước chẳng khác gì ông Cao ông Qùy thời vua Nghiêu vua Thuấn, lại khéo dấu nanh dấu vuốt ngoài mặt, tuy trong lòng thì ăn thịt uống máu người không tanh. Hồn thấy không mấy trăm châu đất Hồ Nam đó, chẳng thấy ai có da có thịt chỉ thấy nguời gầy dơ xương. Hồn ơi! Hồn ơi! Giữ đường ấy, thì từ Tam Hoàng về sau chẳng còn hợp thời. Sớm lo mà về với thái cực. Đừng trỏ lại đất này cho người đời mỉa mai. Người người đều là Thương quan, đâu đâu cũng là dòng Mịch La. Rồng cá không nuốt thì hùm sói chẳng tha. Hồn ơi! Hồn ơi! Biết là làm sao!

Những hình ảnh cõi trần thế, Nguyễn Du đưa ra để khuyên hồn Khuất Nguyên sớm về với thái cực, đừng trở trần gian dường như là những hình ảnh tiêu biểu cho sự độc ác của cảnh ganh ghen trên hoạn lộ, thời nào cũng có, ở đâu cũng có không riêng gì thời Khuất Nguyên, không riêng gì tại triều đình Sở Hoài Vương. Người đọc thấy dường như Nguyễn Du không chỉ riêng nói với hồn Khuất Nguyên mà dường như ông nói với chính ông, sao không sớm rút chân ra khỏi vòng cương tỏa mà về vui thú yên hà.

Mạch thơ Nguyễn Du, bàn về cái chết cô trung của Khuất Nguyên, còn có những hình ảnh mới, như ông dùng trong hai bài kế tiếp bàn về Giả Nghị, một danh tài đời Hán, cũng gặp cảnh khó khăn trên hoạn lộ như Khuất Nguyên, nhưng có một phản ứng đối ngưọc với cái chết cô trung của Khuất Nguyên.

Bài thứ nhất là bài:

辯 賈Biện Giả

不 涉 湖 南 道Bất thiệp Hồ Nam đạo

安 知 湘 水 深An tri Tương Thủy thâm

不 讀 懷 沙 賦Bất độc Hoài Sa phú

安 識 屈 原 心An thức Khuất Nguyên tâm

屈 原 心 湘 江 水140

Page 139: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Khuất Nguyên tâm Tương Giang thủy千 秋 萬 秋 清 見 底

Thiên thu vạn thu thanh kiến để古 今 安 得 同 心 人

Cổ kim an đắc đồng tâm nhân賈 生 一 賦 徒 為 耳

Giả sinh nhất phú đồ vi nhĩ烈 女 從 來 不 二 夫

Liệt nữ tòng lai bất nhị phu何 得 栖 栖 相 九 州

Hà đắc thê thê tướng cửu châu未 必 古 人 知 有 我

Vị tất cổ nhân tri hữu ngã眼 中 湘 水 空 悠 悠

Nhãn trung Tương Thủy không du du.

dịch là:

Bác Giả NghịHồ Nam chưa tỏ nẻo vào

Tương Giang sao biết khúc nào sâu nôngHoài sa phú chữa làu thông

Làm sao hiểu nổi tấc lòng Khuất NguyênNước sông Tương lòng Khuất Nguyên

Một làn trong suốt một niềm thanh taoLấy ai ý hợp tâm đầu

Lời văn Giả Nghị khó vào lọt taiHai chồng liệt nữ chẳng ai

Thì sao đi chín châu ngoài tìm vua Nguời xưa nào biết có ta

Tương Giang trước mắt bóng tà nước trôi.

Giả Nghị, người đất Lạc Dương, ngoài hai mươi tuổi đã là một Bác Sĩ nổi tiếng, giữ chức Thái Trung Đại Phu trong triều Hán Văn Đế. Bị gièm đầy ra làm thái phó cho Trường Sa Vương. Khi đi qua sông Tương ông có làm một bài phú viếng Khuất Nguyên để nói tâm sự mình.

Bốn câu dầu Nguyễn Du tỏ ý nghi ngờ mối đồng diệu giữa Giả Nghị vả Khuất Nguyên.Theo Nguyễn Du, từ ngàn xưa lòng Khuất Nguyên trong suốt như dòng sông Tương nhìn

thấu đáy. Xưa nay khó tìm đưọc người đồng tâm. Lời Phú Giả Nghị có câu mà giới nghiên cứu dịch là: ‘đi chín châu mà tìm vua. Hà tất phải bám lấy cố đô ấy’. Nguyễn Du không đồng ý với Giả Nghị về điểm này, ông cho rằng liệt nữ không ai lấy hai chồng, thì sao nam tử lại đi chín châu tìm vua mới? Ông kết luận rằng chưa chắc người xưa biết có ông, trước mắt ông là dòng Sông Tương nước chẩy lững lờ

Rồi tới bài:

長 沙 賈 太 傅Trường Sa Giả Thái Phó

絳 灌 武 人 何 所 知Giáng Quán vũ nhân hà sở tri

孝 文 澹 泊 憚 更 為Hiếu Văn đạm bạc đạn canh vi

立 談 不 展 平 生 學Lập đàm bất triển bình sinh học

事 職 何 妨 去 死 悲141

Page 140: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Sự chức hà phương chí tử bi天 降 其 才 無 用 處

Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ日 斜 異 物 有 來 時

Nhật tà dị vật hữu lai thì湘 潭 咫 尺 相 鄰 近

Tương Đàm chỉ xích tương lân cận千 古 相 逢 兩 不 違

Thiên cổ tương phùng lưỡng bất vi. dịch là:

Thái Phó Họ Giả Đất Trường SaVõ biền Giáng Quán biết chi

Hiếu Văn chính sự dễ gì đổi thayViệc bàn sơ khó rõ tài

Chết vì việc nước miệt mài đáng thươngTài cao chẳng có đất dùng

Chẳng màng cú báo điềm hung chiều tànXa gần gang tấc Tương Đàm

Tương phùng dầu cách ngàn năm chẳng vì

Thái Phó họ Giả đất Trường Sa là tên gọi Giả Nghị, khi bị đi đầy làm thái phó cho Lương Hoài Vương ở đất Trường Sa.

Giáng, Quán là Chu Bột và Quán Anh, cả hai là võ tướng, và đều được Hán Văn Đế trọng dụng. Vì Hiếu Văn nghe hai người này không thay đổi việc triếu chính theo lời Giả Nghị mà còn đầy Giả Nghị ra Trường Sa làm thái phó cho Lương Hoài Vương.

Hai câu thứ ba và thứ tư ghi tại truyện gặp khó khăn khi làm Thái Phó cho Lương Hoài Vương, Đó là truyện Hoài Vương ngã ngựa chết, khiến ông tự buộc tội mình không can ngăn được Hoài Vương để xẩy ra tai nạn, vì thế buồn bực mà chết, khi mới ba mươi ba tuổi.

Câu năm và sáu Nguyễn Du tiếc cho Giả Nghị có tài cao mà không có vua giỏi dùng và buổi chiều có con cú bay vào trong nhà báo điềm hung cho Giả Nghị.

Hai câu kết, Nguyễn Du dùng hình ảnh khúc sông Tương Đàm, nơi Giả Nghị từ trần gần với khúc sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tự trầm để cho thấy Giả Nghị cũng có điểm giống với Khuất Nguyên.

Qua hai bài thơ cùng khởi hứng bằng hình ảnh Giả Nghị, Nguyễn Du nhìn thấy hai mặt khác nhau của Giả Nghị. Trong bài thứ nhất, Nguyễn Du cho rằng lập luận rằng phải đi chín nước để tìm vua giỏi mà thờ là bổn phận của nam nhi tài cao là điều Giả Nghị không hiểu Khuất Nguyên. Sang bài thứ hai, nghĩ mình can vua không nổi mà chết thì Giả Nghị lại giống hệt Khuất Nguyên.

Người đọc còn thấy dường như, qua thơ Nguyễn Du, cả Giả Nghị và Khuất Nguyên cùng đáng thương. Cả hai cùng tự buôc mình vào chữ danh trên hoạn lộ, khiến cả hai cùng phải chết tha phương vì lời gièm pha.

Sứ bộ tiếp tục cuộc hành trình. Trởi đổi mùa sang thu, tạo hứng cho Nguyễn Du viết hai bài dưới cùng một đề:

初 秋 感 興Sơ Thu Cảm Hứng

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

蕭 蕭 木 落 楚 江 空142

Page 141: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Tiêu tiêu mọc lạc Sở giang không無 限 傖 心 一 夜 空

Vô hạn thương tâm nhất dạ không白 髮 生 僧 班 定 遠

Bạch phát sinh tăng Ban Định Viễn玉 門 關 外 老 秋 風

Ngọc môn quan ngoại lão thu phong.

其 二Kỳ Nhị

江 上 西 風 木 葉 稀Giang thượng tây phong mộc diệp hy

寒 蟬 終 日 噪 高 枝Hàn thiền chung nhật táo cao chi

其 中 自 有 清 商 調Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu

不 是 愁 人 不 許 知Bất thị sầu nhân bất hứa tri.

dịch là:

Cảm Hứng Đầu ThuHai Bài

IĐìu hiu sông Sở lá bay

Lòng đau vô hạn đêm dài nhớ thươngChàng Siêu tóc trắng như sương

Gió thu ngoài Ngọc Môn Quan dạt dào.

IIGió thu đầu bến lá bay

Cành cao ra rả suốt ngày ve thanTiếng ve lẫn điệu Thanh Thương

Chưa qua cầu nỗi đoạn trường nào hay.

Sau năm bài liền ghi đậm nét tư duy, hai bài cảm hứng đầu thu trên đây như đưa người thơ về với thực cảnh. Điều bất ngờ là nỗi nhớ nhà dường như chợt trở lại với tác giả. Ông ví cảnh đi sứ của ông với cảnh của Ban Siêu, em của sử gia Ban Cố, người mang quân đi chinh phục mấy nước vùng Tây vực, miệt ngoài ải Ngọc Môn Quan, suốt ba mươi năm mới được về. Nỗi đoạn trường này ai có qua cầu mới hay.

Sự bộ vào tới vùng Trung Nguyên Trung Quốc, đem thi hứng mới tới cho Nguyễn Du viết một loạt bài liên quan tới Sử cổ Trung Quốc. Bắt đầu là bài:

楚 望Sở Vọng

荊 襄 千 里 古 名 都Kinh Tương thiên lý cổ danh đô

一 半 襟 江 一 帶 湖Nhất bán khâm giang nhất đái hồ

天 假 富 強 供 百 戰Thiên giả phú cường cung bách chiến

地 留 缺 陷 限 三 吳Địa lưu khuyết hãm hạn Tam Ngô

143

Page 142: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

秋 風 落 日 皆 鄉 望Thu phong lạc nhật giai hương vọng

流 水 浮 雲 失 霸 圖Lưu thuỷ phù vân thất bá đồ

孫 索 劉 分 何 處 在Tôn sách Lưu phân hà xứ tại

蒼 然 一 望 盡 平 蕪Thương nhiên nhất vọng tẫn bình vu.

dịch là:

Ngoái Nhìn Đất SởKinh Tương ngàn dặm danh đô

Nửa sông soi bóng nửa hồ bao quanhCho giầu mạnh nuôi chiến tranh

Tam Ngô sông nước phân ranh hận thùNhớ quê gió đổ chiều thu

Bá đồ mây nôi mịt mù nước trôiTôn đòi Lưu cắt đâu nơi

Một vùng cỏ biếc một trời mây xanh.

Cũng như trong nhiều bài truóc, Nguyễn Du dùng địa danh thời chiến Quốc. Nước Sở mà ông nói đây gồm vùng đất Hồ Nam ngưọc lên tới Hồ Bắc ngày nay. Kinh Tương là tên hai châu lớn của nuớc Sở.

Tam Ngô là vùng đất nhiều sông hồ gồm Ngô Hưng, Ngô Quận và Cối Kê, thuộc đất Ngô, thời Tam Quốc. Cảnh sông hồ dùng làm ranh giới này dục Nguyễn Du nhớ quê. Phải chăng ông liên tưỏng tới dòng sông Gianh phân chia Đàng Trong với Đàng Ngoài thời Trịnh Nguyễn tranh hùng?

Rồi ông tự hỏi truyện Ngô Thục tranh dành đất đai nay còn dấu vết ở đâu? Trước mắt, ông chỉ thấy trời xanh cỏ biếc.

Tiếp theo là hai bài ông viết về Đỗ Phủ, một nhà thơ Trung Quốc mà ông tâm phục:

耒 陽 杜 少 陵 墓Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng Mộ

二 首Nhị Thủ

其 一Kỳ Nhất

千 古 文 章 千 古 師Thiên cổ văn chương thiên cổ sư

平 生 佩 服 未 常 離Bình sinh bội phục vị thường ly

耒 陽 松 柏 不 知 處Lỗi Dương tùng bách bất tri sứ

秋 浦 魚 龍 有 所 思Thu phố ngư long hữu sở tư

異 代 相 憐 空 灑 淚Dị đại tương liên không sái lệ

一 窮 至 此 豈 工 詩Nhất cùng chí thử khởi công thi

掉 頭 舊 症 醫 痊 未Trạo đầu cựu chúng y thuyên vị

地 下 無 令 鬼 輩 嗤144

Page 143: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Địa hạ vô linh quỷ bối xi

其 二Kỳ Nhị

每 讀 儒 冠 多 誤 身Mỗi độc nho quan đa ngộ thân

千 年 一 哭 杜 陵 人Thiên niên nhất khốc Đỗ Lăng nhân

文 章 光 燄 成 何 用Văn chương quang diệm thành hà dụng

南 女 呻 吟 不 可 聞Nam nữ thân ngâm bất khả văn

共 羨 詩 名 師 百 世Cộng tiễn thi danh sư bách thế

獨 悲 異 域 寄 孤 墳Độc bi dị vực ký cô phần

扁 舟 江 上 多 秋 思Biên chu giang thượng đa thu tứ

悵 望 耒 陽 日 暮 雲Trướng vọng Lỗi Dương nhật mộ vân.

dịch là:

Mộ Đỗ Thiếu Lăng Tại Lỗi Dương

Hai bàiI

Văn chương vạn cổ bậc thầyTrọn đời khâm phục bấy nay chẳng dời

Lỗi Dương thông bách đâu rồiBến thu rồng cá nhớ người thơ xưa

Thương nhau lệ rỏ như mưaCảnh cùng khổ há vì thơ ghẹo người

Bệnh trạo đầu còn hay thôiSuối vàng chớ để quỷ cười ma chê.

IIĐọc câu mũ mãng lụy thân

Người xưa Đỗ Phủ một lần xót thươngÍch gì cái nghiệp văn chương

Đàn con nheo nhóc coi thường được chăngThầy thơ muôn thủa ai bằng

Thân tàn đất khách bên đàng vùi nôngÝ thu dào dạt thuyền buông

Lỗi Dương xa thẳm buồn trông mây chiều.

Giới nghiên cứu cho biết là Đỗ Thiếu Lăng là Đỗ Phủ (712-770) nhà thơ tiếng tăm nhất nhì đời Đường. Vì có nhà đất tại Thiếu Lăng, ở phía nam Trường An, nên lấy biệt hiệu là Thiếu Lăng.

Theo tiểu sử, thì Đỗ Phủ từ trần trên một con thuyền ở phía thương nguồn sông Tương. Lúc đó gia dình ông sống trong cảnh nghèo nàn, không mang thi hài về quê an táng được, nên chôn tạm tại Nhạc Châu. Hơn bốn chục năm sau (813) cháu ông là Đỗ Tụ Nghiệp mới dời mộ về Yên Sư, táng dưới chân núi Thú Dương, tỉnh Hà Nam, gần bên mộ tổ tiên. Tuy vậy tại Lỗi Dương cũng có một ngôi mộ giả, do huyện ệnh Lỗi Dương, người họ Nhiếp, xây để kỷ niệm nhà thơ.

145

Page 144: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Cũng như đối với nàng Tiểu Thanh, qua bài Tiểu Thanh Ký, trong Thanh Hiên Thi Tập, Nguyễn Du cảm thấy như Đỗ Phủ là một người tri kỷ với ông, vì cùng gặp cảnh cùng quẫn như nhau, khiến ông tự hỏi phải chăng vì cả hai cùng là nhà thơ mà gặp khó như nhau? Ông hỏi thăm chứng bệnh trạo đầu của Đỗ Phủ đã giảm chưa, vì e xuống suối vàng làm trò cười cho ma quỷ.

Trong bài thứ hai, Nguyễn Du cho biết là mỗi lần ông đọc tới câu nho quan đa ngộ thân, dịch nôm là cái mũ nhà nho làm lụy thân, của Đỗ Phủ, ông lại thấy thương Đỗ Phủ, tuy rằng hai người sống ở hai thời đại cách nhau cả ngàn năm. Hai câu ba và bốn, ông nhắc tới cảnh cùng quẫn của Đỗ Phủ, mà cũng là cảnh thiếu thốn của chính ông ngày tản cư về Quỳnh Côi, con cái nheo nhóc, văn thơ không biết dùng làm gì.

Ai cũng khen thi tài của Đỗ Phủ, riêng ông thương Đỗ Phủ chết nơi đất khách quê người, xác vùi nông bên đường. Ý thu về với con thuyền thu của Nguyễn Du, vời trông về Lạc Dương chỉ thấy mây chiều.

Thế rồi sứ bộ tới Tương Âm, một huyện lỵ nhỏ thuộc tỉnh Hồ Nam. Khúc sông Tương này, gần với nơi Khuất Nguyên đi đầy, gần với khúc sông Mịch La nơi Khuất Nguyên tụ trầm. Nguyễn Du khởi hứng viết một bài thơ, bài này là bài thứ sáu và là bài cuối cùng bàn tới cái chết của tác giả Ly Tao. Đó là bài:

湘 陰 夜Đêm Tương Âm

滿 目 皆 秋 色Mãn mục giai thu sắc

滿 江 皆 月 明Mãn giang giai nguyệt minh

寂 寥 今 夜 望Tịch liêu kim dạ vọng

遷 謫 故 人 情Thiên trích cố nhân tình

秋 水 從 西 來Thu thuỷ tòng tây lai

茫 然 通 洞 庭Mang nhiên thông Động Đình

靜 夜 息 吟 嘯Tức dạ tức ngâm khiếu

毌 使 蛟 龍 驚Vô sử giao long kinh.

dịch là:

Đêm Tương ÂmSắc thu lồng lộng đầy trời

Trăng soi vàng vặc nước trôi một dòngCanh trường vắng lặng vời trông

Tình người thiên trích bên lòng sắt seTừ miệt tây nước đổ về

Động Đình nước trắng bốn bề mông mênhThơ ngâm e rộn đêm thanh

E làm kinh động long kình đáy sông.

Nguyễn Du dùng hình ảnh người thiên trích, tức người đi đầy để gợi lên hình ảnh Khuất Nguyên, giữa cảnh trời nước mênh mông đêm Tương Âm. Ông ngưng cả ngâm thơ sợ làm kinh động đêm thanh e làm rộn đến Khuất Nguyên yên nghỉ dưới đáy sông đâu đây. Người đọc thơ tự hỏi là phải chăng cái đẹp cụa thiên nhiên trong Tương Âm nas2y đã làn Nguyễn Du, dầu nhớ tới Khuất Nguyên cũng không muốn bàn tói hai chữ cô trung, của người xưa.

Đến huyện lỵ Nhạc Dương, Nguyễn Du có dịp lên lầu Nhạc Dương và viết bài:146

Page 145: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

登 岳 陽 樓Đăng Nhạc Dương Lâu

危 樓 峙 高 岸Nguy lâu trĩ cao ngạn

登 臨 何 壯 哉Đăng lâm hà tráng tai

浮 雲 三 楚 盡Phù văn Tam Sở tận

秋 水 九 江 來Thu thủy Cửu Giang lai

往 事 傳 三 醉Vãng sự truyền tam túy

故 鄉 空 一 涯Cố hương không nhất nhai

西 風 倚 孤 檻 Tây phong ỷ cô hạm

鴻 雁 有 餘 哀Hồng nhạn hữu dư ai.

dịch là:

Lên Lầu Nhạc DươngLầu cao sừng sững bên bờ

Lên cao nhìn xuống cảnh thơ bốn bềMịt mờ Tam Sở mây che

Cữu Giang nước lũ đổ về hồ thuTỉnh say ba bận truyện xưa

Quê nhà khoảng trống mịt mù chân mâySong bồng hiu hắt gió tây

Vẳng nghe tiếng nhạn vơi đầy sầu vương.

Lầu Nhạc Dương do Trương Tuyệt người đời Đường xây bên bờ hồ Động Đình, trên đất huyện Nhạc Dương. Tam Sở là tên gọi ba phần dất nước Sở: Tây Sở, Đông Sở và Nam Sở, nay thuộc ba tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc và Triết Giang.

Từ trên lầu nhìn ra xa Tam Sở chìm trong mây, trước mặt là cảnh chín dòng sông đổ vào hồ Động Đình. Truóc cảnh thiên nhiên hùng vỹ này,ông nhớ tới Lữ Nham tức Lã Đồng Tân, người Đời Dường,một trong bát tiên quá hải, tám người tu Đạo Giáo thành tiên, ba lần bay ngang hồ Động Đình trong cơn say, đồng thòi quay nhìn về phía quê nhà chỉ thấy một khoảng trống trên chân trời. Đứng bên cửa`sồ thuyền chì thấy gió tây thôi, nghe ngang trời có tiếng nhạn gây buồn.

Tiếp tới là cảnh và tình bên lầu Hoàng Hạc, Nguyễn Du ghi lại trong bài:

黃 鶴 樓Hoàng Hạc Lâu

何 處 神 仙 經 幾 時Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì

猶 留 仙 跡 此 江 湄Do lưu tiên tích thử giang mi

今 來 古 往 盧 生 夢Kim lai cổ vãng Lư Sinh mộng

鶴 去 樓 空 崔 顥 詩Hạc khứ lâu không Thôi Hiệu thi

檻 外 湮 波 終 渺 渺147

Page 146: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu眼 中 草 澍 尚 依 依

Nhãn trung thảo thụ thưọng y y衷 情 無 限 憑 誰 訴

Trung tình vô hạn bằng thùy tố明 月 清 風 也 不 知

Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.

dịch là:

Lầu Hoàng HạcThần tiên giáng xuống thủa nào

Dấu tiên còn đó dạt dào sông trôiMộng Lư sinh đã bao đời

Hạc bay lầu trống họ Thôi thơ đềSong ngoài khói sóng sắt se

Cỏ cây trước mắt bốn bề như xưaChẳng ai giãi tỏ tình ta

Gió đưa hờ hững trăng ngà thờ ơ.

Theo dòng thơ của nhà thơ Đường Thôi Hiệu, trong hai câu kết bài Tương Giang Dạ Bạc, Nguyễn Du đã dùng hình ảnh Hoàng Hạc Lâu, để gợi tình nhớ quê.

Cổ tích người tiên Tử An cỡi hạc vàng ghé chơi lầu thành tên Hoàng Hạc Lâu, là truyện không rõ thật hư. Nhưng Lầu vẫn còn mang nét bút Thôi Hiệu đề thơ. Khói sóng trên mặt sông, cây cỏ bên bờ sông vẫn như xưa. Nỗi nhớ nhà Thôi Hiệu giãi tỏ trong hai câu kết cũng là niềm nhớ quê hương của Nguyễn Du, khiến lúc này ông thấy như Thôi Hiệu là người tri kỷ với ông, ngoài ra không còn biết ai để giãi tỏ tâm sụ, trăng thanh gió mát cũng không làm ông nguôi.

Nguời đọc thơ Nguyễn Du như thấy nỗi nhớ nhà trở lại vớì ông, nhưng không còn là nỗi nhớ nhà sôi bỏng ước mong được về quê cũ như trong những bài ông viết trong Thanh Hiên Thi Tập hay Nam Trung Tạp Ngâm. Nỗi nhớ nhà ông nói trong bài này như pha lẫn với cảnh thiếu bạn hiện thời của ông. Ông mong có bạn để giãi tỏ tâm sự hơn là muốn về quê.

Nguyễn Du dùng hình ảnh lầu Hoàng Hạc làm thi liệu,lần thứ ba, trong bài:

漢 陽 晚 眺Hán Dương Vãn Diểu

霸 王 陳 跡 屬 悠 悠Bá vương trần tích thuộc du du

漢 水 滔 滔 晝 夜 流Hán thủy thao thao trú dạ lưu

歸 鶴 兩 山 相 對 岸Quy hạc lưỡng sơn tương đối ngạn

神 仙 一 去 只 空 樓Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu

詩 成 草 樹 皆 千 古Thi thành thảo thụ giai thiên cổ

日 暮 鄉 關 共 一 愁Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu

想 像 當 年 吹 笛 夜Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ

白 蘋 紅 蓼 滿 汀 洲Bạch tần hồng liệu mãn đinh châu.

dịch là:148

Page 147: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Cảnh Chiều Hán DươngBá vương dấu tích phai rồi

Ngày đêm dòng Hán nước trôi chẳng ngừngĐôi bờ Quy Hạc trùng trùng

Thần tiên bay khuất lầu không đứng chờNgàn năm cây cỏ thành thơ

Sầu chung một mối tơ vò nhớ quêCanh dài tiếng sáo tỉnh mê

Liệu hồng tần trắng nhớ vê bến sông.

Giới nghiên cứu cho biết là thành Hán Dương, đối diện vói Vũ Xương nơi có lầu Hoàng Hạc. Thành này ỏ ngay chỗ dòng Hán Thủy và dòng Trường Giang hợp lưu. Hai rặng núi Quy Sơn và Hạc Sơn ở hai bên bờ sông Dương Tử đối diện nhau. Câu thứ tư Nguyễn Du lấy ý tứ câu đầu bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu 18, một trong nhũng bài thơ Đường quen biết nhất của người Việt Nam, nguyên văn như sau:

黃 鶴 樓Hoàng Hạc Lâu

昔 人 已 乘 潢 鶴 去Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

此 地 空 餘 黃 鶴 樓Thử địa không dư hoàng hạc lâu

黃 鶴 一 去 不 復 返Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản

白 雲 千 載 空 悠 悠Bạch vân thiên tải không du du

晴 川 歷 歷 漢 陽 樹Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ

芳 草 萋 萋 鸚 鵡 洲Phương thảo thê thê anh vũ châu

日 暮 鄉 關 何 處 是Nhật mộ hương quan hà xứ thị

湮 波 江 上 使 人 愁Yên ba giang thưọng sứ nhân sầu.

dịch là:

Hoàng Hạc LâuHạc vàng người cỡi đi đâu

Để trời đất Hoàng Hạc Lâu não nềHạc vàng bay vút không về

Ngàn năm mây trắng bộn bề nhớ thươngMướt xanh cây bến Hán Dương

Cỏ bờ anh vũ đưa hương ngạt ngàoChiều tà quê cũ nơi nao

Lòng sông khói sóng đớn đau dạ người.

Trở lại bài Hán Dương Vãn Diểu của Nguyễn Du, người đọc nhận thấy trong ba câu đầu, Nguyễn Du mô tả địa thế quanh Hán Dương, với dòng Hán Thủy, với những rặng núi Quy, núi Hạc. Câu thứ tư tóm tắt thoại hạc vàng ghé lầu Hoàng Hạc. Câu thứ năm của Nguyễn Du cô đọng hai câu bốn và năm trong bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu, đống thời ngợi khen thi tài của nhà tho đời Đường đã làm cho cây bến Hán Hương và cỏ bò Anh Vũ ngàn năm còn xanh tươi thơm ngát trong thơ.

Hai câu chót của Thôi Hiệu gợi lên nỗi nhớ nhà, đã khiến Nguyễn Du tìm thấy trong thơ 18. Đường Thi Tam Bách Thủ, sách đã dẫn, tr.182.

149

Page 148: Mở Lời Thơ Việt Âm của Nguyễn Du

Thôi Hiệu một người tri kỷ.Hai câu kết của Nguyễn Du gợi cho người nghe một tiếng sáo và giấc mơ được từ quan về

nghỉ hưu vui cùng liệu hồng tần trắng. Có người cho rằng tiếng sáo trong mơ của Nguyễn Du là tiếng sáo trong lầu Hoàng Hạc theo câu tho của Ly Bạch:

黃 鶴 樓 中 吹 玉 笛Hoàng Hạc lâu trung xuy ngọc địch

nghĩa là:

Lầu Hoàng Hạc sáo thoảng đưa khiến Nguyễn Du muờng tượng đến ngày được về quê xưa.

Rồi sứ bộ lại lên đường đi Nhiếp Khẩu, và Nguyên Du ghi cảnh bên đường trong bài:

灄 口 道 中Nhiếp Khẩu Đạo Trung

秋 滿 楓 林 霜 葉 紅Thu mãn phong lâm thu diệp hồng

小 猾19 嗥 出 短 籬 東Tiểu oa hào xuất đoản ly đông

數 畦 秫 20 稻 雞 豚 外Sổ huề canh đạo kê đồn ngoại

一 帶 茅 茨 楊 柳 中Nhất đái mao từ dương liễu trung

鴻 嶺 隔 年 虛 宿 夢Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng

白 頭 千 里 起 秋 風Bạch đầu thiên lý khỏi thu phong

茫 然 不 辨 還 鄉 路Mang nhiên bất khởi hoàn hương lộ

觸 目 浮 雲 處 處 同Xúc mục phù vân xứ xứ đồng

dịch là:

Trên Đường Nhiếp KhẩuRừng phong nhuộm đỏ sương thu

Thoáng nghe chó nhỏ gầm gừ rào đôngMai tranh ẩn bóng thùy dương

Đồng ngoài cấy nếp chuồng trong lợn gàMộng về Hồng Lĩnh thu qua

Bạc dầu lận đận ngàn xa thu nàyQuê hương ở nẻo nào đây

Ngoái nhìn nẻo nẻo khuất sau mây mịt mù.

Nhìn rộng trước mặt, Nguyển D thấy cả một cánh rù đỏ lá mùa hu. Bên đường con chó nhò gầm gừ sau hàng rào. Mái tranh núp bóng thùy dương, với thủa ruộng cấy nếp ngoài rào, chuồng nuôi gà lọn trong rào. Ông nhó lại mùa thu qua đã xin về hưu, mùa thu này ông còn lận đận ngàn xa với mái đầu bạc tráng. Hai câu kết dường như gợi lại hai câu kết bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: Ông không còn biết quê hương ờ nẻo nào, khắp chân trời mây phủ kín.

Tiếp theo, sứ bộ dường như nghỉ chân đêm qua tại trang trại một ông họ Lý, sáng nay lại 19. chữ 猾 mọi tự diển thông dụng đọc là hoạt,nghĩa là gian xảo. Mai Quốc Liên và Đào Duy Anh đọc là oa, tuy nhiên trong tự điẻn của ông vẫn đọc là hoạt. Chờ giới nghiên cứu giải đáp.20. chữ 秫 tự điển thông dụng đọc là thuật. tạm đọc theo mai Quốc Liên là canh. Chờ giải đáp.150