Upload
phamlien
View
264
Download
16
Embed Size (px)
Citation preview
Một Thời Áo Trận 1
Một Thời Áo Trận 2
Một Thời Áo Trận
Hồi ký chiến trường
Đỗ Văn Phúc
______________________________
Bìa do chính tác giả trình bày
Hình bìa: Dừng quân bên Suối Tàu Ô
Do Hoạ Sĩ Nguyễn Thành Lâm chỉnh lại màu
Một Thời Áo Trận 3
Kính tặng tất cả các chiến sĩ
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
Những người từng cầm súng chiến đấu trong suốt cuộc chiến tranh chống Cộng
Sản xâm lược
Cám ơn hiền phụ Đặng Kim Hoa và gia đình,
đã tận tình nâng niu, chôn dấu tất cả nhiều
hình ảnh và kỷ vật đời lính của tôi trong
hoàn cảnh ngặt nghèo và rất nguy hiểm
sau ngày 30 tháng 4, 1975.
Một Thời Áo Trận 4
Đọc trong Hồi Ký này
♦ Đôi Lời Tâm Sự - 5 ♦ Dưới Bóng Quân Kỳ - 8 ♦ Sư Đoàn 5 Bộ Binh -15 ♦ Một Chiến Công Bị Quên Lãng – 19 ♦ Nhớ Về Người Tư Lệnh Cũ - 26 ♦ Quân Ðội và Chính Trị - 30 ♦ Vì Em, Anh Làm Lính Nhảy Dù - 36 ♦ Anh Đi Chiến Dịch Diên Hồng - 40 ♦ Tìm Lại Chính Mình - 46 ♦ Đêm Nay Mẹ Không Về - 52 ♦ Giác Ngộ Chiến Trường – 58 ♦ Đồng Xoài – Bù Na – 62 ♦ Minh Thạnh – 72 ♦ Một Ngày Trong Lòng Mật Khu Tam Giác Sắt – 77 ♦ Những Người Anh Em Của Tôi – 88 ♦ Chiến Thắng Ðầu Xuân 1971 – 94 ♦ Những Ngày Cuối Năm Không Vui ở Lộc Ninh – 102 ♦ Những Ngày Đầu Tiên của Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không quân - 109 ♦ Cải Lương và Tôi – 116 ♦ Ngày Xuân, Lại Tản Mạn Về Thành Phố Hoa Ðào – 120 ♦ Sống Lại Với Tình Chiến Hữu Trong Sáng – 125 ♦ Give Back Dignity to Our Soldiers Who Fought the Vietnam War – 132 ♦ Phục Hồi Phẩm Giá Cho Những Chiến Sĩ Ðã Chiến Ðấu Trong Chiến Tranh Việt Nam – 137 ♦ Polwar in The Republic of Vietnam Armed Forces – 142 ♦ Hoạt Ðộng Chiến Tranh Chính Trị Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà – 153 ♦ The Forgotten - 164 ♦ Những Người Bị Quên Lãng – 169 ♦ Chinh Phụ Ngâm, Một Bản Trường Ca Bi Hùng Thời Chinh Chiến – 173 ♦ Chiều Trên Phi Đạo – 179 ♦ Chính Phủ VNCH Chưa Hề Xử Dụng Đến Trẻ Em để Đánh Giặc – 185 ♦ Giới Thiệu của Giáo Sư Đàm Trung Pháp – 188 ♦ Phụ Bản: Hình Ảnh Chiến Trường 193 ♦
Một Thời Áo Trận 5
Đôi Lời Tâm Sự
Hồi ký là để ghi lại những câu chuyện xảy ra trong quá khứ đáng nhớ trong đời
mình. Có thể là những mẩu chuyện vụn hoặc một loạt các biến cố mà tác giả đã trải qua,
hay mục kích tận tường. Vì thế, đó là những chuyện thật với các dữ kiện, nhân vật, địa
danh, và thời gian chính xác. Người ta không hư cấu trong các hồi ký; nhưng có thể điểm
thêm vài nét đan thanh cho câu chuyện tăng phần hấp dẫn, đậm đà.
Vì người viết hoặc là nhân vật trung tâm, hoặc là chứng nhân của sự kiện, nên hồi
ký không thể tránh phần chủ quan của tác giả. Cũng như khi ngắm nhìn một cảnh quan,
mỗi người đứng ở các góc cạnh khác nhau sẽ có cái nhìn và nhận xét khác nhau. Người
đời thường nói: “Xấu che, tốt khoe.” Chỉ có những nhân vật thật đặc biệt mới đem cái
Một Thời Áo Trận 6
xấu của mình ra cho thiên hạ thấy. Tác giả tập hồi ký “Một Thời Áo Trận” cũng là một
người bình thường như muôn vạn người khác. Vì vậy, xin quý độc giả đọc sách với một
tấm lòng bao dung, thông cảm mà hiểu rằng tập hồi ký này chỉ để kể lại một phần rất nhỏ
mà tác giả đã tham dự vào trong lịch sử chiến tranh dài và đẫm máu để bảo vệ miền Nam
Tự Do và không cho rằng tác giả tự phô trương mình qua những trang giấy.
Đằng đẳng hơn hai mươi năm chiến tranh Việt Nam, người lính Việt Nam là
những người chịu nhiều thiệt thòi, đau khổ nhất. Miền Nam có một hậu phương bạc bẽo,
vô ơn, tranh sống trong sự hy sinh của người lính ngoài mặt trận. Những người lính chỉ
còn gia đình âu lo, chỉ còn bạn đồng ngũ bảo bọc trong những ngày tháng miệt mài lửa
đạn, sống chết gang tấc. Người lính Việt Nam không những bị hậu phương coi bạc mà
còn bị truyền thông của đồng minh nhục mạ bằng những tĩnh từ rất xót xa mà hậu quả
của nó là sự tráo trở của hành pháp và lập pháp Hoa Kỳ đưa đến sự thất bại của miền
Nam..
Nói đến gian khổ, hiểm nguy, thì bất cứ người lính chiến nào cũng chịu đựng như
nhau. Cường độ và trường độ có thể hơn lên ở các binh chủng tổng trừ bị ưu tú như Dù,
TQLC, Biệt Động, Lực Lương Đặc Biệt. Sự khác nhau về địa hình, khí hậu, thời tiết làm
cho mỗi vùng chiến thuật có những sắc thái khác nhau. Hàng chục năm qua, đã có rất
hàng trăm tựa sách viết về người lính. Đại đa số viết về các binh chủng tinh nhuệ; ít sách
viết về người lính bộ binh trong khi so với tỷ lệ, thì quân số bộ binh gấp mười lần quân
số các binh chủng Tổng trừ bị.
Những quân nhân - từ tân sĩ quan đến hạ sĩ quan, binh sĩ - khi ra trường sẽ nao nức
chọn các binh chủng tinh nhuệ nếu là dân tình nguyện; hoặc các đơn vị văn phòng nếu là
dân động viên. Bô binh chỉ là sự lựa chọn sau cùng. Nhưng không vì thế mà các đơn vị
bộ binh thiếu vắng những quân nhân quả cảm, tài ba. Sư Đoàn 1 Bộ Binh là đơn vị được
đánh giá thiện chiến không thua gì Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến.
Chúng ta nhớ một câu nói của một danh nhân: “Không có những người lính dở,
mà chỉ có những cấp chỉ huy tồi.”
Quân Lực VNCH từ những năm về sau đã có nhiều cấp chỉ huy rất xứng đáng. Họ
có kiến thức, có nhân cách, lòng can đảm và tinh thần phục vụ hy sinh rất cao. Nếu có
chăng vài cấp chỉ huy tồi, thì đó là một số ít ỏi ở thượng tầng mà vì lòng ích kỷ, tư lợi; họ
đã làm giảm tiềm năng chiến đấu của quân sĩ dưới quyền qua những hành vi cấu kết bè
đảng để tham nhũng.
Tác giả đã vinh dự được phục vụ dưới quyền những cấp chỉ huy lỗi lạc, và cũng
may mắn có được những quân nhân dưới quyền dũng cảm, kỷ luật và tận tâm. Do đó, tuy
ngắn ngủi, nhưng tác giả vẫn coi thời gian phục vụ ở Bộ Binh là nhiều kỷ niệm thân thiết
đáng nhớ nhất. Hấu hết các đồng đội của tác giả đã hy sinh trên chiến trường, hoặc bỏ
mình trong tù, trên biển, hoặc đã qua đời vì bệnh tật già yếu. Nhưng cũng còn lác đác vài
sĩ quan còn sống đang định cư tại Mỹ hay các nước tự do. Những năm qua, họ đã đọc
lần lượt các bài hồi ký và có góp ý để khích lệ và đính chính vài lầm lẫn về địa danh,
nhân vật trong tác phẩm.
Ngoài ra, trong thời gian phục vụ trong quân chủng Không Quân, làm chủ bút
Nguyệt San Gió Cát, tác giả cũng viết nhiều bài phóng sự về các cuộc hành quân của
Một Thời Áo Trận 7
Không Đoàn 92 Chiến Thuật. Nhưng rất tiếc, hiện nay thì không còn các bản lưu nên
đành thua.
Tác giả xin thành kính cảm tạ sự khen tặng khích lệ, góp ý, và giúp phổ biến qua
truyền thông của quý vị sau: cựu Trung Tướng Phạm Quốc Thuần (Tư Lệnh Quân Đoàn
3, cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB), Cựu Đại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh (Chỉ Huy Trưởng Đại
Học CTCT), Cựu Trung Tá Hoàng Minh Hoà (Văn Hoá Vụ Trưởng, Đại Học CTCT),
cựu Thiếu Tá Nguyễn Chí Hiền (Quận Trưởng Châu Thành, tỉnh Bình Dương, cựu Tiểu
Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/8), các cựu Đại Úy Mai Thanh Tòng (Trưởng Ban 5 Tiểu
Đoàn 4/8), Nguyễn Văn Mục (nguyên Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 3/8), Lê Xuân Mai
tức nhà báo Lê Tường Vũ (Tiểu đoàn 3/7, Nguyệt San KBC Hải Ngoại), Lê Đức Luận
(Tiểu Đoàn 1/8), Đoàn Trọng Hiếu (Tiểu Đoàn 52 BĐQ), Tiến Sĩ Nguyễn Đức Phương
(Khoá 27 VBQGVN), Tiến Sĩ Nguyễn Đình Thắng (Giám Đốc BPSOS), ông Nguyễn Tín
(Em trai cố Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu, nguyên Tư Lệnh Sư Đoàn 5 BB), các quý
nhà văn, nhà báo Huy Phương (SBTN), Hoàng Lan Chi, Hà Văn Sơn (Chính Nghĩa),
Tâm Vô Lệ (Thư Viện Toàn Cầu, TVVN.Org), Bùi Dương Liêm (Truyền Hình HTĐ),
Nguyễn Văn Thanh (Trách Nhiệm Online), Thục Đoan (Saigon Gate), Vũ Nga- Thái Sơn
(Con Kiến Nhỏ, Kansas), Nguyên Huy (Người Việt, SBTN), Phạm Kim (Người Việt Tây
Bắc), Nguyễn Quang (Vietluan.org), Đinh Lâm Thanh (Hội Văn Hoá Người Việt Tự Do),
Hải Triều (Hội Các Nhà Văn Quân Đội), Francis Khúc (Người Việt Illinois), Hứa Vạng
Thọ (Tin Paris.net), Phan Tấn Hải (Việt Báo), Trương Sĩ Lương (Thế Giới Mới), Vũ Lâm
(Con Ong Việt), Trần Việt Hải, Nguyễn Tiến Đức (Hungviet.com), toàn nhóm Vietland,
và một số quý niên trưởng Không Quân VN trong điện báo Cánh Thép. Đặc biệt cám ơn
Nguyệt San KBC Hải Ngoại và rất nhiều báo chí các thành phố lớn, các diễn đàn online
hải ngoại đã đăng tải giới thiệu các bài viết sớm đến tay độc giả. Cũng xin cám ơn rất
nhiều độc giả đã đóng góp ý kiến trên các diễn đàn hay qua email.
Cuốn hồi ký “Một Thời Áo Trận” này xin dành tặng cho tất cả các chiến sĩ anh
hùng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, là những người yêu nước quả cảm đã từng hy
sinh chiến đấu cho Tự Do Dân Chủ của miền Nam.
Một Thời Áo Trận 8
Dưới Bóng Quân Kỳ Si Vis Pacem, Para Bellum
1
Lịch sử Việt Nam là một lịch sử chiến đấu không ngừng nghỉ. Dân tộc Việt Nam
hiền hòa nhưng ở vào một tình thế bất khả kháng, đã trở thành một dân tộc thiện chiến
trong suốt quá trình lịch sử kể từ khi vua Hùng lập quốc cho đến nay. Có thế mới bảo lưu
được nòi giống và nền văn hóa độc đáo của mình qua bốn ngàn năm thăng trầm.
Nhìn vào bản đồ khu vực Nam Á Châu, Việt Nam ta ở vào một vị trí dặc biệt
thuận tiện vừa về mặt kinh tế, vừa về mặt chiến lược2. Theo quan điểm chiến lược cổ
điển, Việt Nam là cửa ngõ của vùng Ðông Nam Á, là ngả tư giao thương quốc tế. Trên
mảnh đất hình chữ S, có một dân tộc cần cù, thông minh, và một nguồn tài nguyên thiên
nhiên hiếm có. Việt Nam trở thành mục tiêu cho bao thế lực bành trướng đế quốc, thực
dân từ muôn đời nay. Lịch sử có lúc thăng, lúc trầm; dân tộc có lúc thành, lúc bại,.
Nhưng để giữ gìn một nòi giống với nền văn hóa cổ truyền độc đáo của mình, tổ tiên
1 Thành ngữ Latin, có nghĩa: Nếu muốn có hoà bình, phải chuẩn bị chiến tranh. Tương tự câu Cư An, Tư Nguy của
Trung Hoa. 2 Cách nhìn này không còn mấy quan trọng trong thời đại kỹ thuật tân tiến hiện nay.
Một Thời Áo Trận 9
chúng ta đã phải đổ bao nhiêu xương máu cho trang sử của chúng ta còn tiếp nối đến
ngày nay. Hình ảnh người Lính Việt Nam luôn sáng ngời trên từng trang, từng hàng chữ
của cuốn sử dày bốn ngàn năm, cũng như bàng bạc trong văn chương bình dân và văn
chương bác học.
Ði ngược dòng thời gian, từ khi vua Hoàng Đế chiến thắng các bộ lạc miền Hoa
Nam, thiết lập nên một nhà nước Trung Hoa đầu tiên ở địa bàn sông Dương Tử. Hai
trong số hàng trăm bộ lạc Việt: Âu-Việt và Lạc-Việt đã phải di cư xuống phương nam,
kết hợp và lập thành nước Âu-Lạc với triều đại Hồng Bàng kéo dài mười tám đời vua.
Trong suốt gần hai ngàn năm huyền sử3 này, dĩ nhiên tổ tiên ta phải cật lực chiến dấu để
sống còn trước cơn lốc chiến tranh của các bộ lạc trong giai đoạn tan và hợp để tạo nên
những quốc gia đầu tiên trong lịch sử loài người với những định chế chính trị xã hội văn
minh dần lên. Quân đội thời Hùng Vương đặt dưới quyền chỉ huy của vị Lạc Tướng (hay
còn gọi là Hùng Tướng). Lịch sử không để lại cho chúng ta điều gì cụ thể hơn, vì thời này
chúng ta chưa có sử ký. Mọi biến cố đều căn cứ trên sách sử Trung Hoa mà dĩ nhiên rất
sơ sài và hiếm hoi. Hàng ngàn năm các triều đại Trung Hoa bận rộn với các cuộc nội
chiến nên ít dòm ngó xuống phương nam xa lắc xa lơ. Mãi đến khi Tần Thủy Hoàng
thống nhất Trung Hoa, lập nên một nhà nước trung ương tập quyền hùng mạnh, Việt
Nam bắt đầu thấy hiểm họa Bắc phương. Lịch sử chiến tranh giữa Việt Nam và Trung
Hoa có thể coi như bắt đầu bằng cuộc chiến giữa Thục An Dương Vương và Triệu Ðà,
một tùy tướng của Ðồ Thư được lệnh nhà Tần chinh phục phương Nam. Chuyện chiếc nỏ
thần là bài học về tình báo đầu tiên lồng trong bối cảnh của một thiên tình sử lãng mạn
của đôi trai gái địch thù Trọng Thủy và Mỵ Châu.
Ðến đời nhà Hán, hai vị anh thư Trưng Trắc, Trưng Nhị đứng lên khởi nghĩa
chống sự đô hộ tàn bạo của Thái Thú Tô Ðịnh. Hai bà Trưng vốn dòng dõi nhà Lạc
Tướng, vì nợ nước, thù chồng dã hiên ngang quật khởi đánh đổ ách thống trị ngoại bang.
Hai bà đã lập nên vương quyền, tuyên xưng độc lập năm 43 trước Tây lịch. Kế đó là bà
Triệu Thị Trinh (Triệu Ẩu) nổi dậy chống lại nhà Ðông Ngô. Bà đã nói một câu đầy hùng
khí :”Ta thà cưỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển đông.... còn hơn
cúi đầu làm đầy tớ người ta...”
Liên tiếp trong gần một ngàn năm đô hộ của Trung Hoa, dân tộc ta đã sản sinh
nhiều vị anh hùng như Phùng Hưng, Mai Hắc Ðế, Dạ Trạch Vương... Năm 937, Tướng
Ngô Quyền dành lại độc lập toàn vẹn cho Tổ quốc, mở đầu một thời kỳ tự chủ lâu dài.
Việt Nam trở thành một quốc gia hùng cường, có uy tín trong vùng, bắt đầu thời kỳ xây
dựng một nền văn hóa riêng biệt. Ðinh Tiên Hoàng, Lý Công Uẩn xuất thân từ binh
nghiệp mà dựng vương quyền. Ðại Tướng Lý Thường Kiệt, nhân nội tình Trung Hoa
đang phân hoá vì áp dụng luật pháp khắt khe của Vương An Thạch, ngài đem quân đánh
sâu vào lãnh thổ hai tỉnh Quảng Ðông, Quảng Tây, gây áp lực với triều đình nhà Tống.
Quân Việt đánh đâu thắng đó, và được dân chúng địa phương hết lòng ủng hộ. Từ đó cho
đến cho cả trăm năm kế đó, Trung Hoa chẳng dám dòm ngó gì nữa. Những trang quân sử
chói lọi nhất vẫn là trang sử ba lần đánh thắng quân Nguyên. Gengis Khan (Thành Cát
Tư Hãn) vào thế kỷ 12, dấy lên từ thảo nguyên Mông cổ, đã chinh phục hầu hết đất đai
3 Thời kỳ huyền sử là thời chưa có sử ghi chép bằng văn tự mà chỉ do truyền tụng lại.
Một Thời Áo Trận 10
trên địa cầu, từ đông sang tây, Á sang Âu. Vó ngựa ông dẫm nát các thành trì đế quốc
Hồi Giáo khi đó rất hùng cường. Ðến Ba Lan, vua Ba Lan phải kéo quần thần ra trước
cổng thành quỳ xuống xin hàng. Đến Nga, san bằng Mạc Tư Khoa trong nháy mắt. Trước
khi qua đời, Gengis Khan dặn con cháu bành trướng thế lực cho đến tận nơi nào mà vó
ngựa quân Mông Cổ còn đến được. Gần như toàn thể thế giới đều chịu khuất phục trước
sức mạnh của họ. Con và cháu ông, Ogedai (Oa Khoát Ðài) và Mongke (Mông Kha) diệt
nhà Tống, chiếm được Trung Hoa, lập nên triều đại nhà Nguyên kéo dài hàng trăm năm.
Trước khi chiếm được Trung Nguyên, và cũng sau khi đã lập nên đế quốc Nguyên rộng
lớn, họ nhiều lần nhòm ngó và xâm lăng Việt Nam, nhưng đành dừng lại trước sức đề
kháng mãnh liệt của quân dân ta. Trong những trận đánh lớn nhỏ, dân tộc ta đã thách thức
sức mạnh Mông Cổ và đã chiến thắng oanh liệt. Thái tử nhà Nguyên là Thoát Hoan phải
chui vào trốn trong một ống đồng để thoát về Tàu. Toa đô, Ô Mã Nhi và nhiều tướng
Mông Cổ phơi thây trên các chiến trường đẫm máu Chương Dương, Kiếp Bạc, sông Hàm
Tử và nhất là sông Bạch Ðằng, nơi xóa tan giấc mộng xâm lăng của giặc Nguyên. Chúng
ta có một nhà quân sự lỗi lạc vừa là một nhà chiến tranh chính trị xuất chúng: Hưng Đạo
Ðại Vương Trần Quốc Tuấn (Hải Quân VN chọn ngài làm Thánh Tổ). Ngài để lại cho
hậu thế bộ Binh Thư Yếu Lược để huấn luyện tướng sĩ, bài Hịch Tướng Sĩ như một bản
tuyên cáo dõng dạc của tổ quốc hồi nguy biến, kêu gọi toàn dân, toàn quân đoàn kết hy
sinh dể chiến đấu bảo vệ giang sơn. Ngài đã viết :”Các người ngồi nhìn chủ nhục mà
không biết lo, thân chịu quốc sỉ mà không biết thẹn; làm tướng triều đình phải hầu quân
giặc mà không biết tức, nghe nhạc thái thường thiết yến sứ ngụy mà không biết căm...”
Lời khích quân của ngài có sức mạnh vĩ đại thôi thúc quân sĩ hết lòng chiến đấu. Quân ta
liên tiếp thắng lớn trên các chiến trường. Ðặc biệt, trận chiến sông Bạch Ðằng có thể so
với trận Xích Bích thời Tam Quốc -- nơi quân Ngô trói chặt chiến thuyền của quân Tào
mà đốt sạch. Trần Hưng Ðạo, không kém gì Khổng Minh, đã cho quân vót sẵn chông có
bọc sắt, cắm giữa dòng sông rồi dụ cho chiến thuyền quân Nguyên đến. Khi nước thủy
triều rút xuống, tàu giặc bị cọc sắt đâm thủng, quân ta dùng thuyền nhẹ mà tiêu diệt gọn.
Tướng tài của địch là Ô Mã Nhi bị giết trong trận này. Sau này trong dân gian có câu:
“Ðằng Giang tự cổ huyết do hồng” để luôn nhắc nhở chiến công hiển hách đó. Nhà Trần
ý thức tầm quan trọng của binh bị, nên đã lập ra Giảng Võ Đường, là trường đào tạo sĩ
quan đầu tiên của Quân Đội Việt Nam. Vua cho mở khoa thi tiến sĩ võ để chọn nhân tài
song song với khoa thi chọn văn quan. Anh hùng thời nhà Trần nhiều như sao trên bầu
trời đêm: người bán than Trần Khánh Dư, người đan sọt Phạm Ngũ Lão, cậu thiếu niên
Trần Quốc Toản, người nhái Yết Kiêu, Dã Tượng; can đảm tỉnh táo trên đất thù như Trần
Nhật Duật; bất khuất trong tay giặc như Trần Bình Trọng với câu nói để đời “Ta thà làm
quỷ nước Nam còn hơn làm vương đất Bắc.” Hàng trăm năm sau, dân tộc lại sinh sản anh
hùng áo vải đất Lam Sơn: Bình Ðịnh Vương Lê Lợi và nhà chính trị thiên tài Nguyễn
Trãi (Lê Lợi được chọn làm Thánh Tổ của Ðịa Phương Quân/ Nghĩa Quân, Nguyễn Trãi
của ngành Chiến Tranh Chính Trị). Nguyễn Trãi đã phò tá Lê Lợi trong mười năm gian
khổ, tiến hành chiến tranh du kích đến thắng lợi dành lại độc lập từ tay quân nhà Minh.
Cùng thời với nhà chinh phục lỗi lạc Napoleon bên Pháp, chúng ta có anh hùng thiên tài
Quang Trung Nguyễn Huệ, so sánh giữa hai người, có nhiều điểm tương đồng. Hoàng Đế
Quang Trung chỉ trong một thời gian ngắn, dẹp tan cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn, diệt
Một Thời Áo Trận 11
quân Xiêm ở Rạch Gầm, Xoài Mút, thần tốc tiến quân ra Bắc và trong ba ngày Tết Kỷ
Dậu, đã đánh tan tành hai chục vạn quân Thanh xâm lược. Ngài giữ đúng lời hứa với
quân sĩ là sẽ ăn Tết trong thành Thăng Long. Ngài là vị tướng luôn ở đầu lằn tên mũi đạn
trong cuộc xung phong phá thành lũy quân thù. Vua Quang Trung ôm ấp một hoài bão
lớn: đó là lấy lại đất cũ của tổ tiên. Nếu ngài không sớm qua đời, bản đồ Việt Nam ngày
nay đã kéo dài đến hai tỉnh Quảng Ðông Quảng Tây. Quân đội của Lê Lợi giỏi đánh du
kích, thì quân đội Tây Sơn thiện chiến về trận địa chiến, tốc chiến tốc thắng. Lần đầu tiên
trong quân sử, Nguyễn Huệ đã áp dụng tổ chức tam tam chế trong điều động binh sĩ, tổ
chức tiếp vận một cách khoa học, chu đáo và tinh vi để bảo đảm cho một đạo quân lớn
trên suốt hành trình dọc theo chiều dài đất nước.
Triều đại nhà Nguyễn không có võ công xuất sắc, trong khi nền văn minh các
nước phương Tây đã đạt đến trình độ cơ giới cao. Quân Nguyễn thiếu thực tế chiến
trường một thời gian dài, và trang bị quá thô sơ, nên đất nước lại lần nữa rơi vào vòng đô
hộ của ngoại bang. Hiệp ước Giáp Thân 1884 dánh dấu sự mất chủ quyền của dân tộc vào
tay thực dân Pháp. Nhưng không thời nào dân tộc ta không có những anh hùng hào kiệt.
Tướng Trương Minh Giảng bình định miền Nam, mở rộng bản đồ Việt Nam cho đến mũi
Cà Mâu, ảnh hưởng bao trùm lên cả Cao Miên. Thời Vua Minh Mạng, bản đồ Việt Nam
gồm cả toàn xứ Ðông Ðương. Ai Lao, Cao Miên trở thành chư hầu của ta, hàng năm triều
cống. Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta có Vua Hàm Nghi, Vua Duy Tân, cha con
Ðại Tướng Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Lâm, tướng Hoàng Diệu, Hoàng Hoa Thám,
Nguyễn Thái Học, Ðội Cấn, bà Ðặng thị Nhu, anh hùng Sa Ðiện Phạm Hồng Thái...
Nhân dân ta không hề có một ngày ngưng cuộc chiến đấu, từ Nam ra Bắc, miền cao
nguyên hay nơi đồng bằng. Và cuộc kháng chiến vĩ đại của toàn dân đánh đuổi thực dân
đã bị bọn Cộng sản Hồ chí Minh cướp công trên tay bao chiến sĩ Quốc Gia.
Cộng sản và Thực dân câu kết ký Hiệp định Geneve chia đôi đất nước, quân kháng
chiến miền Nam (chưa hề biết gì về Cộng sản) lầm lạc tập kết ra Bắc chịu sự chi phối của
bọn Cộng sản. Miền Nam xây dựng chế độ Dân chủ kiểu Tây phương. Ðiều không tránh
được là phải xây dựng Quân đội Quốc gia trên cơ sở Quân đội do Pháp và Triều đình Huế
để lại. Ðây là một yếu điểm, quân đội Việt Nam Cộng Hoà sơ khởi gồm nhiều thành phần
phức tạp: một phần là các đơn vị Việt Nam trong Quân đội Liên Hiệp Pháp có tính chất
chánh qui, một phần là các đơn vị Việt Binh Đoàn, Bảo Chính Đoàn của Triều đình Huế
ít khả năng chiến đấu. Tướng lãnh thì không có, phải dùng các sĩ quan cấp tá, úy của
quân đội liên hiệp Pháp, cho thăng vượt cấp để nắm các chức vụ then chốt. Ðầu tiên gọi
là Quân Ðội Quốc Gia Việt Nam, sau đổi thành Quân Ðội Việt nam Cộng Hòa, sau đó lần
nữa lại đổi thành Quân Lực VNCH. Ban sơ với vài đơn vị bộ binh cấp tiểu đoàn, liên
đoàn, quân đội ta tiến đến thành lập các sư đoàn khinh chiến, dã chiến, các đơn vị nhảy
dù, trọng pháo, các đơn vị hải quân, không quân với trang bị do Pháp để lại và viện trợ
quân sự Hoa Kỳ thông qua phái bộ MAC-V (Military Assistance Command- Vietnam).
Trường Võ Bị Liên Quân Ðà Lạt, Liên Trường Võ Khoa Thủ Ðức, nơi đào tạo sĩ quan có
đầy đủ kiến thức quân sự tài ba cho quân đội. Sau này hai trường trên đổi tên là Trường
Võ Bị Quốc Gia Việt Nam và Trường Bộ Binh. Quân đội ta đã dần dần trưởng thành
trong cuộc chiến đấu chống Cộng và trở thành hùng mạnh nhất vào thời kỳ những cuối
thập niên 60, 70. Mười một sư đoàn bộ binh, hai sư đoàn Nhảy Dù và Thủy Quân Lục
Một Thời Áo Trận 12
Chiến, hàng chục liên đoàn biệt động quân được trang bị hùng hậu là những mũi lao thép
trên 4 vùng chiến thuật. Lực Lượng Đặc Biệt, mà dân ta thường quen với tên gọi biệt kích
dù là quân chủng tinh nhuệ nhất, hoạt động âm thầm trong lòng địch. Những đơn vị Địa
Phương Quân, từ các tỉnh đoàn Bảo An bán chính quy, được sáp nhập vào quân lực đảm
trách an ninh diện địa. Hình ảnh người lính cộng hòa thân thương, gần gủi với đồng bào
qua những chiến dịch bình định nông thôn, là đề tài cho bao trang sách báo, phim ảnh, ca
nhạc. Lớp sĩ quan trẻ đào tạo trong thời cộng hoà có tư cách, bản lãnh, có tài ba dần dần
thay thế lớp người cũ ở các địa vị trung cấp. Cuộc chiến tranh mang màu sắc ý thức hệ
không thể thiếu bóng dáng người sĩ quan chính trị để động viên tinh thần chiến đấu anh
em quân nhân. Năm 1966, Trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị được thành lập để đào
tạo sĩ quan hiện dịch đảm trách công tác tư tưởng trong quân đội. Từ những toán nữ Trợ
Tá Xã Hội, đoàn Nữ Quân Nhân được thành lập, đảm trách các công vụ trong ngành Xã
Hội, Truyền Tin, Quân Y. Các Trường Không Quân, Hải Quân được cải tổ, trang bị lại
tối tân theo đà phát triển quân lực, huấn luyện những sĩ quan phi hành, hoa tiêu trên các
loại phi cơ tối tân hay trên những chiến hạm lớn. Hải quân ta có những khu trục hạm, hộ
tống hạm, hải vận hạm, có trọng tải lớn, đứng ở hàng thứ năm trên thế giới; Không quân
có những chiến đấu cơ siêu thanh, vận tải cơ khổng lồ, có lực lượng trực thăng hàng ngàn
chiếc cũng đứng vào hàng thứ sáu trên thế giới. Ðó là hai quân chủng hùng hậu yểm trợ
đắc lực cho các đơn vị bộ chiến. Trận phản công tết Mậu Thân trên toàn lãnh thổ Việt
Nam Cộng Hòa năm 1968 là một minh chứng cụ thể cho sự lớn mạnh và thiện chiến của
quân ta. Trong một thời gian ngắn, từ lúng túng - bất ngờ vì cộng quân vi phạm lệnh hưu
chiến ngày xuân - quân ta dần dần lấy lại thế chủ động, đẩy dồn Bắc quân vào những lò
sát sinh, diệt hàng ngàn tên phơi thây xung quanh cổ thành Quảng trị, cố đô Huế và hàng
chục thị xã miền Nam, cho chúng được thỏa mãn nguyện vọng “sinh Bắc tử Nam”. Toàn
bộ quân Việt cộng (cả điạ phương lẫn du kích) và hạ tầng cơ sở của bọn Mặt trận Giải
phóng bị lộ diện và tiêu diệt sạch4. Về sau Hà nội đưa cán bộ miền bắc và hàng sư đoàn
chính quy vào thay thế. Hình ảnh người lính chiến Cộng hoà vừa oai hùng, vừa hào hoa,
là lý tưởng thời đại của bao thanh niên mới lớn, là ước mơ thầm kín của các thiếu nữ
đang xuân. Từ đây, người anh hùng không phải chỉ là những vị tướng quân, mà là anh hạ
sĩ can trường trên đồi máu Charlie, người pháo thủ binh nhì nơi mặt trận An Lộc; hoặc
anh nghĩa quân âm thầm ngày đêm canh gác cho đồng bào nông thôn được yên ổn cấy
cày. Các thế hệ thanh niên ưu tú miền Nam nối nhau lên đường tòng quân làm nghĩa vụ
thiêng liêng đối với tổ quốc. Chiến trường càng khốc liệt càng thôi thúc bao tâm hồn đầy
nhiệt huyết lên đường diệt công giữ quê. Những khoá sĩ quan Ðà Lạt ra trường ai cũng nô
nức dành chọn những đơn vị chiến đấu : Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động, Lực
Lượng Ðặc Biệt. Lá cờ vàng ba sọc đỏ mà thanh niên miền Nam quyết tâm bảo vệ đã
tung bay ngạo nghễ trên cổ thành Quảng Trị, Huế, trên các đồi núi trùng điệp cao nguyên
Trung Phần, trên làng mạc thân yêu đồng bằng sông Cửu Long xác nhận uy quyền quốc
gia trên toàn lãnh thổ. Cũng lá cờ vàng đã gói trọn thân xác bao anh hùng để đưa vào
lòng đất mẹ. Nếu quốc kỳ Việt Cộng kêu gọi máu xương và thù hận :”đường vinh quang
xây xác quân thù... “, thì quốc kỳ VNCH kêu gọi “vì tương lai núi sông, cùng xông pha
4 Theo các báo cáo không đầy đủ, Việt Cộng tổn thất khoảng 85 ngàn quân sĩ trong các trận đánh Mậu Thân.
Một Thời Áo Trận 13
khói tên... Thù nuớc lấy máu đào đem báo...” Một bên kêu gào chém giết cho quyền lợi
riêng của giai cấp mình, một bên kêu gọi hy sinh cho tổ quốc, dân tộc, ai chính nghĩa hơn
ai?
Quân Lực VNCH không những anh hùng nơi trận tuyến, mà còn đảm đang nơi
hậu phương, đã đóng góp xây dựng nông thôn, đem ánh sáng tự do về tận miền xa xôi
của đất nước. Quân lực ta không chỉ anh hùng khi còn chiến đấu với vũ khí trong tay, mà
còn bất khuất can trường khi thất thế. Lê Văn Hưng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ,
Trần Văn Hai và hàng trăm chiến sĩ vô danh khác đã tìm cho mình cái chết vinh quang
không để lọt vào tay giặc. Ðại Tá Hồ Ngọc Cẩn khi bị cộng sản đưa ra pháp trường đã
yêu cầu: “Ðừng bịt mắt tôi, để tôi còn được thấy đồng bào tôi trước khi chết.” Trong các
trại tù cải tạo, anh em quân nhân VNCH các cấp đã ngoan cường, bất khuất, công khai
hoặc âm thầm chống đối cho dù có bị tra tấn, khủng bố triền miên. Thử nghĩ, bọn cán
binh Cộng sản bị ta bắt trong chiến tranh có bất khuất cũng chẳng có gì lạ, vì chúng được
bảo vệ bởi Công Ước Geneve về tù binh, và chúng biết VNCH tôn trọng luật pháp quốc
tế, bên cạnh còn có sự giám sát của các nước. Chúng lại có niềm hy vọng lớn lao vì cuộc
chiến còn tiếp diễn. Chúng còn hậu phương, còn miền Bắc và các nước phe cộng sản yểm
trợ. Ngược lại, anh em quân nhân VNCH có gì sau 1975? Không chính phủ lưu vong,
không phong trào kháng chiến bên ngoài để hậu thuẫn; Ðồng minh thì bỏ rơi, thế giới thì
quay lưng. Họ chỉ còn khí tiết của người chiến sĩ, còn lý tưởng tự do mà tự bảo vệ thanh
danh, còn gương Trần Bình Trọng phải noi theo mà thôi.
Cộng sản đã thất bại không tẩy não được các anh, không làm cho các anh khuất
phục dù đã ra sức đàn áp dã man. Năm năm, mười năm, càng lâu càng nuôi ý chí căm
thù. Không ngày nào trong các trại giam mà thiếu những hoạt động chống đối, khi âm
thầm, khi bùng nổ công khai. Anh em ta đã đoàn kết thương yêu, đùm bọc giúp nhau giữ
vững lập trường quốc gia.
Kỷ niệm ngày Quân Lực năm nay, nhớ lại 30 năm trước, sau khi quân đội làm
cách mạng lật đổ chế độ gia đình trị của cố Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, đất nuớc đã trải
qua một thời kỳ khủng hoảng trầm trọng. Cộng sản thì tăng cường quân đội, vũ khí đe
doạ an ninh lãnh thổ, bên trong các chính phủ dân sự nối tiếp nhau cầm quyền nhưng
không đáp ứng được nhu cầu tình thế phức tạp. Quân đội phải đứng ra đảm đương trọng
trách lèo lái con thuyền quốc gia.
Quân đội ta trưởng thành nhanh chóng trong giai đoạn này. Chỉ sau vài năm, quân
ta làm chủ các chiến trường đẩy cộng quân chạy qua bên kia biên giới Việt Miên để ẩn
náu. Ngoài Bắc, Hà Nội tưởng sắp treo cờ hàng vì không chịu nổi bom đạn của Hoa kỳ.
Thế nhưng, Hoa Kỳ, vì quyền lợi của mình trên chính trường thế giới đã ngầm
thỏa hiệp với Nga Sô (Hội nghị thượng đỉnh giữa Tổng Thống Mỹ Richard Nixon và
Lãnh Tụ Cộng Sản Liên Sô Leonid Brejnev tại Vladivostok cuối năm 1973), bán đứng
VNCH cho khối cộng để đổi lấy vùng dầu lửa Trung Ðông5. Bên trong, thì chính quyền
của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quay ra đàn áp đối lập và che chở cho một hệ thống
tham nhũng làm suy yếu tiềm năng chiến đấu của quân đội, mất niềm tin nơi dân chúng.
5 Trong cùng thời điểm này, có chuyến đi 14 nước Ả Rập của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger để thương
lượng. Sau đó, các nước Ả Rập đã yêu cầu Liên Sô rút quân và vũ khí ra khỏi vùng Trung đông, dọn đường cho Hoa
Kỳ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hoà.
Một Thời Áo Trận 14
Những quyết định quân sự sai lạc đã làm anh em chiến sĩ tức tưởi. Ðang tiến công vũ bão
thì bị gọi dừng quân (sông Thạch Hãn, Quảng Trị 1972), phi pháo Hoa Kỳ thì từ chối
yểm trợ khi một trung đoàn ta bị ba sư đoàn Việt Cộng bao vây (trận Snuol), tình báo Mỹ
cho tin sai lạc dẫn đến thất bại Hạ Lào, nghi vấn về cái chết tai nạn của Ðại Tướng Ðỗ
Cao Trí giữa lúc quân ta đang tiến công. Rất nhiều điều mà sử sách sau này sẽ phanh phui
về một sự phản bội của đồng minh
Tuy Quân Lực VNCH không chu toàn nhiệm vụ bảo vệ miền Nam thân yêu,
nhưng toàn dân miền Nam vẫn dành trọn vẹn lòng yêu thương, kính mến vô bờ với các
chiến sĩ. Cả đồng bào miền Bắc, sau một thời gian tiếp xúc, đã phủ nhận sự tuyên truyền
của Việt cộng về hình ảnh người chiến sĩ VNCH. Khi những đoàn tàu, xe chở anh em
quân nhân miền Nam ra Bắc giam giữ, đến đâu, đồng bào cũng ném lên những món quà
nhỏ và trao thầm những ánh mắt thương cảm chứ không biểu lộ hận thù như bọn Việt
cộng thường xúi dục.
Chúng ta vẫn tự hào là ngưới chiến sĩ VNCH, chiến đấu vì lý tưởng tự do, chúng
ta không chiến đấu cho một chế độ nào, cho một cá nhân, tập đoàn nào mà chiến đấu vì
dân tộc. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, dù ở phương trời nào, những người trai lính cộng
hoà vẫn giữ gìn phong cách, kiên định lập trường, nuôi dưỡng trong tim ý chí sắt đá, thề
nguyền diệt cộng, quang phục quê hương, đưa giống nòi qua cơn trầm luân, trả lại cho
nhân dân quyền sống làm người ấm no, hạnh phúc. Tuy không còn chiến đấu vũ lực,
chúng ta vẫn phải là ngọn đuốc tiền phong trong cuộc đấu tranh trên bình diện văn hoá,
tư tưởng cho đến ngày thắng lợi.
(Kỷ niệm Ngày Quân Lực 19-6-1993)
Một Thời Áo Trận 15
SƯ ĐOÀN 5 BỘ BINH
Hình Thành và Phát Triển
Trong 11 sư đoàn bộ binh Việt Nam, có 4 sư đoàn nổi danh ở bốn vùng chiến
thuật. Ở Vùng 1 là Sư Đoàn 1 BB, Vùng 2 là Sư Đoàn 23 BB, Vùng 4 có Sư Đoàn 21 BB
và Sư Đoàn 5 ở Vùng 3 Chiến Thuật. Đó là những sư đoàn gánh chịu trách nhiệm những
vùng chiến trận ác liệt nhất, chịu tồn thất nặng nề nhất và cũng tạo nhiều chiến công lẫm
liệt nhất.
Gốc gác của Sư Đoàn 5 Bộ Binh là từ vùng cực Bắc Việt Nam. Trong thời chiến
tranh Đông Dương, Pháp đã tuyển mộ dân gốc thiểu số Nùng để thành lập các đơn vị
tuần tiểu biên giới sát Trung Hoa. Người Nùng nói tiếng Quảng Đông với âm sắc hơi
khác chút đỉnh. Nhiều người trong số họ là dân Nùng bên Trung Hoa chạy qua Việt Nam
để lánh nạn Cộng Sản (Công Sản Trung Hoa chiếm lục địa từ tay Tưởng Giới Thạch và
lập chính quyền năm 1949). Vị chỉ huy các đơn vị Nùng đó là Đại Tá Vòng A Sáng (Sau
này là tư lệnh đầu tiên của Sư Đoàn 5 BB).
Sau khi Hiệp Định Geneve đuợc ký kết, chia đôi lãnh thổ Việt Nam ở Vỹ Tuyến
17, các tiểu đoàn Nùng mang số 32, 67, 71, 72 và 75 được chuyển vào Ba Ngòi (thuộc
tỉnh Khánh Hoà, phía Nam thành phố Nha Trang). Sau đó lại di chuyển vào Sông Mao
thuộc tỉnh Bình Thuận. Do Nghị Định số 040-QP/NĐ ký ngày 10 tháng 2 năm 1955, các
đơn vị Nùng này được phiên chế thành Sư Đoàn 6 Bộ Binh (chính thức thành lập trên
giấy tờ là ngày 1 tháng 2, 1955) dưới quyền chỉ huy của Đại Tá Vòng A Sáng.
Ngày 1 tháng 8, 1955, Sư Đoàn đổi tên thành Sư Đoàn 6 Dã Chiến. Tháng sau,
ngày 9 tháng 9, lại được bổ sung quân số và đổi tên thành Sư Đoàn 41 Dã Chiến. Ngày 1
Một Thời Áo Trận 16
tháng 11, 1955, lại đổi tên thành Sư Đoàn 3 Dã Chiến trước khi vĩnh viễn trở thành Sư
Đoàn 5 Bộ Binh vào tháng 1 năm 1959.
Từ đó về sau, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã ra lệnh bố trí các sĩ quan và binh
lính Việt vào Sư Đoàn. Lính Nùng không còn chiếm đa số nữa. Bộ Tư Lệnh Sư Đoàn 5
BB vẫn ở lại Sông Mao trong khi đa số các đơn vị của
Sư Đoàn đã chuyển về Biên Hoà, thay thế Sư Đoàn 7 BB
được đưa về Cần Thơ. Vào tháng 11 năm 1960, hai
Trung Đoàn 7 và 8 cùng Bộ Tư Lệnh Tiền Phương thì
đóng ở Vùng 3 Chiến Thuật (mà lúc đó là Quân Khu 1)
trong khi Trung Đoàn 9 và hậu cứ thì còn ở Vùng 2.
Khi xảy ra cuộc đảo chính lật đổ Tổng Thống Ngô
Đình Diệm (1-11-1963), quân sĩ Sư Đoàn 5 dưới quyền
Đại Tá Nguyễn Văn Thiệu đã tham chiến với trọng trách
tấn công vào Dinh Gia Long. Từ đó, cuộc đời binh
nghiệp của Đại Tá Thiệu chuyển hướng để sau này trở
thành Tổng Thống của nền Đệ Nhị Cộng Hoà.
Đến tháng 7 năm 1964, Sư Đoàn lại dời về Phú
Lợi, cách thị xã Bình Dương vài cây số về phía Đông.
Qua tháng 2 năm 1970, khi quân Mỹ bắt đầu rút, Sư
Đoàn 5 BB lại chuyển vào căn cứ Lai Khê là nơi đóng
quân của Sư Đoàn 1 BB Hoa Kỳ (The Big Red One). Các đơn vị của hai sư đoàn Việt Mỹ
tổ chức những cuộc hành quân phối hợp trong vùng lãnh thổ ba tỉnh Bình Dương, Bình
Long và Phước Long. Căn cứ Lai Khê cách Bình Dương 30 cây số trên đuờng Quốc lộ
13, trước đây là một đồn điền cao su, có Trung Tâm Nghiên Cứu về Cao Su.
Sư Đoàn 5 có ba Trung Đoàn trực thuộc, một Đại Đội Tổng Hành Dinh, và Đại
Đội 5 Trinh Sát. Các Trung Đoàn 7, 8, và 9, mỗi Trung Đoàn có 4 Tiểu Đoàn và 1 Đại
Đội Trinh Sát, 1 Đại Đội Chỉ Huy Công Vụ, quân số tổng cộng xấp xỉ 2500 người. Ngoài
ra, thống thuộc Sư Đoàn còn có Thiết Đoàn 1 Kỵ Binh, 3 Tiểu Đoàn Pháo Binh 51, 52,
và 53; Tiểu Đoàn 5 Tiếp Vận, Tiểu Đoàn 5 Truyền Tin, Tiểu
Đoàn 5 Quân Y, Tiểu Đoàn 5 Công Binh. Tổng quân số Sư
Đoàn lên đến hơn 10000 quân.
Vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5 toàn rừng rậm trải dài
đến biên giới Việt Miên, là con đường tiếp tế, chuyển quân của
Cộng Sản. Nơi đây có những mật khu nổi tiếng như Chiến Khu
D, Tam Giác Sắt, Hố Bò, Bời Lời… Lợi dụng chính sự miền
Nam nhiều rối rắm, Cộng Sản mở nhiểu trận đánh long trời mà
số thiệt hại nhân mạng mỗi bên lên đến hàng trăm mỗi trận.
Điển hình là trận Đồng Xoài mùa hè năm 1965, trận Làng 13
Bis Đồn Điền Michelin vào tháng 11 năm 1965. Qua chiến trận,
Sư Đoàn 5 thực sự lớn mạnh, thiện chiến từ năm 1969 khi dưới
quyền Thiếu Tướng Phạm Quốc Thuần. Khả năng chiến đấu và
tinh thần binh sĩ lên cao nhờ tài chỉ huy của các sĩ quan trẻ có
Tướng Phạm Quốc Thuần
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
Một Thời Áo Trận 17
Tướng Nguyễn Văn Hiếu
học của thế hệ mới từ các khoá về sau của quân trường Đà Lạt, Thủ Đức, cũng như sự
góp mặt lần đầu tiên của 39 sĩ quan Khoá 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị.
Năm 1969, Sư Đoàn 5 Bộ Binh là đơn vị bộ binh đầu tiên
được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần thứ 6, và các
quân nhân trực thuộc được vinh dự mang giây Biểu Chương
màu Đỏ (Bảo Quốc Huân Chương).
Trong hai năm 1970, 1971, Sư Đoàn đã tham gia các
cuộc hành quân Toàn Thắng đánh sâu vào lãnh thổ Kampuchea,
triệt hạ cơ sở hậu cần của Trung Ương Cục Miền Nam của Việt
Cộng. Trong trận Snuol đầu năm 1971, một tiểu đoàn của Sư
Đoàn 5 BB đã tấn công tràn ngập một căn cứ Cộng quân ngang
cấp, và sau đó đã đánh phản công một trận để đời, loại khỏi
vòng chiến một Trung Đoàn
địch, hạ sát toàn ban tham mưu
Trung Đoàn (xin xem bài Chiến Thắng Đầu Xuân trên
trang web
http://www.michaelpdo.com/ChienThangDauXuan.htm)
Đó là thời gian Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu -
vị tướng tài ba và thanh liêm số một của QLVNCH - làm
Tư Lệnh.
Tuyệt vời nhất là trận tử thủ An Lộc dưới quyền
Tư Lệnh Lê Văn Hưng năm 1972, khi ba sư đoàn thiện
chiến Cộng quân Bắc Việt với sự yểm trợ của chiến xa
và pháo 130 ly, hoả tiễn… đã mưu toan đánh chiếm An
Lộc để mở đuờng tiến công về Thủ Đô Sài Gòn. Tổng
Thống Nguyễn Văn Thiệu biết tầm quan trọng sinh tử
của trận đánh, đã ra lệnh phải giữ được An Lộc với “bất
cứ giá nào”. Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã thề nguyền
cùng quân sĩ rằng ông sẽ sẵn sàng hy sinh
mạng sống để bảo vệ An Lộc không rơi vào
tay Cộng Quân.
Chúng ta cũng ca ngơi tinh thần hy
sinh đồng cam cộng khổ của các Cố Vấn Hoa
Kỳ dưới quyền Tướng James F.
Hollingsworth, Tư Lệnh Quân Viện Vùng 3
CT. Chính sự có mặt của Đại Tá William
Miller cùng toàn toán Cố Vấn của Sư Đoàn 5
tại chiến trường đã làm cho binh sĩ vững tin
rằng họ sẽ không cô đơn và sẽ nhận được yểm
trợ phi pháo hữu hiệu. Chính Tướng
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng chụp chung với Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu và Đại Tướng Cao Văn Viên
khi chiến trường An Lộc vẫn chưa
hoàn toàn dứt tiếng súng.
Một chiếc T-54 bị bắn cháy tại chiến trường An Lộc
Một Thời Áo Trận 18
Hollingsworth đã chỉ thị cho các cố vấn: “Hãy kìm chúng (Cộng quân) lại, tôi sẽ cho
Không Quân tiêu diệt chúng. Hãy cho tôi những mục tiêu để đánh bom, và chúng ta sẽ
thắng.”
Sau gần ba tháng chịu trận trước nhiều đợt pháo kích bằng đủ loại pháo, hoả tiễn
mà chưa từng xảy ra ác liệt trên chiến trường Việt Nam, cùng nhiều đợt tấn công biển
người và xe thiết giáp T-54 tối tân, Sư Đoàn 5 BB và các đơn vị tăng phái đã giữ vững
được Thị Xã An Lộc. Cộng Quân đành thúc thủ trước sự chịu đựng và tinh thần chiến
đấu quả cảm của quân sĩ VNCH. Chiến thắng trong cuộc chiến bất cân xứng (1 chọi 6),
quân trú phòng ban đầu gồm vài tiểu đoàn của Sư Đoàn 5 BB, sau được tăng cường thêm
Lữ Đoàn 1 Dù, Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù, Liên Đoàn 3 BĐQ, cùng binh sĩ Tiểu Khu
Bình Long đã chứng minh sự trưởng thành vượt bực trong chiến đấu. Chiến thắng này
cũng có sự góp sức của các đơn vị thuộc Sư Đoàn 9, 18 và Sư Đoàn 21 BB tăng cường
hành quân quấy nhiễu và giữ an ninh trục lộ bên ngoài Lộc
Ninh.
Vào cuối tháng 4 năm 1975, khi Tổng Thống ba ngày
Dương Văn Minh ra lệnh buông súng để “bàn giao” cho Cộng
Quân, Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, vị Tư Lệnh cuối cùng
của Sư Đoàn đã tức tưởi cho binh sĩ giải tán và ông rút lui vào
phòng riêng, dùng súng tự kết liễu đời mình, chứng minh khí
phách của một người làm Tướng tận trung với Tổ Quốc.
Sư Đoàn 5 BB, với hơn 20 năm chiến đấu và trưởng
thành, đã góp một phần rất lớn vào sự nghiệp chiến đấu
chống sự xâm lăng của Cộng Sản Bắc Việt. Cùng chịu chung
một số phận đau thương của dân tộc, những quân nhân Sư
Đoàn đã phải ngậm ngùi buông súng. Tất cả Sĩ quan còn kẹt
lại thì bị lùa vào các trại tù mệnh danh là tập trung cải tạo chịu đọa đày khổ nhục hang
chục năm dài. Tham Mưu Trưởng cuối cùng là Đại Tá Từ Vấn và nhiều vị đã bỏ mình
trong lao tù Cộng Sản. An hem thương phế binh đã hy sinh một phần thân thể mình cho
Tổ Quốc thì bị đẩy ra bên lề xã hội. Mộ phần tử sĩ thì bị san bằng, cô nhi bị phân loại, bạc
đãi…
Nhưng trong lòng những người chiến sĩ từng mang phù hiệu số 5 đỏ trên vai áo,
thì niềm hãnh diện được là người lính Bộ Binh vẫn mãi mãi không phai mờ.
Texas ngày 10 tháng 8, 2013
Có sử dụng tài liệu từ trang web
http://www.globalsecurity.org/military/world/vietnam/rvn-arvn.htm
Tướng Lê Nguyên Vỹ
Một Thời Áo Trận 19
Trả lại sự thật cho chiến sử VNCH
Một Chiến Công Bị Quên Lãng Kỷ niệm 41 năm ngày Chiến Thắng An Lộc – Bình Long
Trận tử thủ An Lộc được xem là một trong ba trận đánh lừng danh nhất trong quân
sử Việt Nam Cộng Hoà vào mùa hè năm 1972, mà sau này được nhà văn Dù Phan Nhật
Nam đặt tên là “Mùa Hè Đỏ Lửa”
Bốn mươi mốt năm về trước, đúng vào 7 tháng 4, 1972, Cộng quân đã tung ba sư
đoàn bộ binh (5, 7, và 9) cùng thiết giáp ồ ạt tấn công vào thị trấn bé nhỏ An Lộc, nơi
đang là tỉnh lị của tỉnh Bình Long, chỉ cách thủ đô Sài Gòn khoảng một trăm cây số. Mục
tiêu tối hậu của Cộng Sản Hà Nội là chiếm bằng được An Lộc để làm thủ đô cho cái gọi
là “Chính Phủ Lâm Thời Cộng Hoà Miền Nam Việt Nam”, nhằm hỗ trợ cho mục tiêu
chính trị của Hà Nội là tạo một uy thế cho đám bù nhìn Mặt Trận Giải Phóng để có tiếng
nói tại Hội Nghị Paris.
Nhưng sau ba tháng bao vây tấn công một thị trấn nhỏ bé có diện tích chỉ khoảng
4 cây số vuông, sử dụng đến hàng chục ngàn binh sĩ, hàng trăm xe tăng tối tân, bắn hàng
trăm ngàn viên đại pháo, hoả tiễn, Cộng Quân đã chuốc lấy thảm bại và rút lui sau khi để
lại trên 10000 xác chết cộng với khoảng 25 ngàn khác bị thương.
Trận tử thủ được xem là chấm dứt vào ngày 7 tháng 7, 1972 khi các đơn vị tăng
viện của Quân Lực VNCH tiến vào An Lộc, bắt tay với các đơn vị phòng thủ và tiếng
súng địch đã ngưng hẳn.
Đã có nhiều bài viết về trận An Lộc với nhiều chi tiết và nêu danh các quân nhân
anh hùng đã tham gia trận đánh. Gần đây, Trung Tá Nguyễn Ngọc Ánh cho ra mắt cuốn
sách Chiến Thắng An Lộc 1972 dày 418 trang vớí nhiều sử liệu đáng giá.
Nhưng không rõ lý do gì, trong hơn 400 trang giấy, một trong những người anh
hùng có công đầu trong trận đánh đã bị bỏ quên, hoặc chỉ được nhắc qua một cách mờ
nhạt trong vài câu như chỉ là một trong những chiến binh có mặt, tham gia trận chiến.
Trong các trang 181-183, Phần 1, Chương 11 ghi công trận các vị chỉ huy từ các Tướng
Nguyễn Văn Minh, Lê Văn Hưng, đến các Đại Tá Lê Quang Lưỡng (Nhảy Dù), Trần
Văn Nhật (TQLC), Mạch Văn Trường (Trung Đoàn 8 BB), Lý Đức Quân (Trung Đoàn 7
BB), Nguyễn Văn Biếc (BĐQ), Phan Văn Huấn (Liên Đoàn 81 Biệt Cách Dù), tuyệt đối
không có một câu nào cho Đại Tá Lê Nguyên Vỹ. Chỉ đến gần cuối, ở trang 188, mới
thấy ghi qua loa như sau:
- Cố Chuẩn Tƣớng LÊ NGUYÊN VỸ, cựu Tƣ Lệnh Phó Sƣ Đoàn 5 Bộ Binh tại mặt
trận An Lộc năm 1972, nguyên Tƣ Lệnh Sƣ Đoàn 5 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hoà
Một Thời Áo Trận 20
năm 1975, đã tuẫn tiết tại Bộ Tƣ Lệnh Sƣ Đoàn 5 Bộ Binh (căn cứ Lai Khê, Tỉnh
Bình Dƣơng). Ông đã giữ tròn khí phách của Vị làm Tƣớng, “Thành còn thì
Tƣớng còn, Thành mất thì Tƣớng mất”, hay nói khác đi ”Đất nƣớc còn thì còn là
Tuớng Soái, đất nƣớc mất vào tay giặc Cộng thì Tƣớng phải chết theo vận mệnh
của Đất Nƣớc”, cho tròn cả NGHĨA ĐẠO LÀM NGƢỜI và mang NGHIỆP
TƢỚNG.
Có phải người ta có khuynh hướng nhắc đến cấp trưởng mà coi nhẹ vai trò của
những vị phó chăng?
Phàm khi viết những tài liệu mang tính lịch sử, người viết không được để thiên
kiến, tình cảm cá nhân của mình vào mà tâng bốc điều không đáng tâng bốc, và làm ngơ
những điều không được làm ngơ.
Chúng tôi muốn nói đến chiến công của cố Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, mà
trong trận An Lộc , là Đại Tá Tư Lệnh Phó Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Trước khi Chuẩn Tướng
Lê Văn Hưng (Tư Lệnh) đưa bộ Tham Mưu vào An Lộc, thì Tướng Vỹ chỉ huy Bộ Tư
Lệnh Hành Quân nhẹ ở đó.
Đó là một chiến công có tính cách quyết định vì khi Cộng quân tung xe thiết giáp
T-54 vào trận, quân sĩ VNCH rất bối rối - đây là lần đầu tiên trực chiến với chiến xa địch
có hoả lực còn hơn loại thiết giáp M-41 của VNCH. Dù bộ binh VNCH đã được trang bị
loại hoả tiễn cầm tay M-72 từ năm trước, nhưng chỉ được dùng để phá hầm chứ chưa bắn
xe thiết giáp bao giờ.
Sau vài loạt M-72 bắn không hiệu quả vì bắn hoặc quá xa, hoặc quá gần, hoặc
không trúng chỗ nhược, anh em binh sĩ đã tỏ ra vô cùng lo âu. Đại Tá Lê Nguyên Vỹ là
người đã can đảm nhảy ra khỏi chiến hào, tự tay bắn M-72 làm cháy chiếc chiến xa địch.
Chúng ta hãy đọc một đoạn trong bài Viết Về Cố Thiếu Tướng Lê Nguyên Vỹ
của tác giả Triệu Vũ đăng trên Tạp chí KBC:
Một chiếc T54 đang nghiến xích sắt trên mặt đƣờng sát bên hông BTL/Hành
Quân. Mọi ngƣời, từ binh sĩ tới Tƣ Lệnh chiến trƣờng, đều nín thở nhƣ chờ đợi
một thảm họa và hầu nhƣ phó mặc cho số phận. Bỗng Ðại Tá Vỹ lao khỏi hầm, với
nón sắt, áo giáp và đặc biệt khẩu súng chống chiến xa M72 trên tay, theo sau là
Trung úy sĩ quan tùy viên. Tới bờ tƣờng phòng thủ, vừa lúc chiến xa địch vƣợt qua
khỏi cổng chính khoảng 20 mé. Ông quỳ ngƣời, giữ tƣ thế tác xạ, đƣa M72 lên vai.
Ngƣời sĩ quan tùy viên kế bên, khom ngƣời quan sát. Mọi ngƣời trong hầm chỉ huy
hồi hộp phóng tầm nhìn qua lỗ châu mai. Một tiếng nổ. Và một luồng lửa đỏ tống
về phía sau. Chiến xa địch bị trúng hỏa tiễn, bốc khói nhƣng vẫn cố di động trƣớc
khi trở thành một khối sắt xám xịt vô dụng bên vệ đƣờng.
Quân sĩ từ trong hầm chỉ huy đổ ra ngoài reo hò mừng rỡ. Bây giờ ngƣời ta mới
thực sự tin M72 đã bắn hạ chiến xa địch mà suốt mấy năm qua, từ khi đƣợc trang
bị, chƣa có cơ hội tác xạ. Ai ngờ ngày hôm đó, trong cơn nguy khốn, vị Ðại Tá Tƣ
Lệnh Phó chiến trƣờng lại làm nhiệm vụ một khinh binh, đích thân sử dụng M72
Một Thời Áo Trận 21
triệt hạ T54 của Bắc Việt. Câu chuyện Ðại Tá Vỹ bắn hạ chiến xa địch lan truyền,
tinh thần quân sĩ trú phòng tại Bình Long - An Lộc lên cao. Ðó đây có những báo
cáo về Bộ Tƣ Lệnh, cho biết đã bắn hạ thêm nhiều chiếc khác.
Thật ra thì trong Phụ Lục, đăng các bài viết của nhiều tác giả từ trang 223 đến
trang cuối sách, ông Nguyễn Ngọc Ánh có trích đăng một bài của Người Lính Già
Phương Nam có viết một câu ngắn ở trang 364 xác nhận chiến công của Đại Tá Lê
Nguyên Vỹ như sau:
“Ngày 18-04-1972, Chuẩn Tƣớng Lê Văn Hƣng, Tƣ Lệnh Sƣ Ðoàn 5 Bộ Binh Việt
Nam Cộng Hoà, chỉ huy toàn thể lực lƣợng trú phòng, đã cam kết :”Ngày nào tôi
còn, An Lộc còn”. Vị tƣớng này, đầu đội nón sắt, tay cầm súng XM.16, mặc áo
thung, quần trận, vắt lựu đạn quanh mình, hoạt động liên tục. Hai tai Ông nghe
báo cáo và điều động các binh sĩ dƣới quyền khắp nơi. Thật sự An Lộc rất may
mắn có đƣợc vị sĩ quan tài đức chỉ huy chiến trƣờng này, và chính Ông là một
trong những yếu tố niềm tin quan trọng giữ vững An Lộc. Có thêm nhiều chiến xa
của Cộng quân bị bắn hạ gần Bộ Tƣ Lệnh”Tiền Phƣơng” của Chuẩn Tƣớng Lê
Văn Hƣng. Chiến xa địch đầu tiên bị bắn cháy tại đây là do hoả tiễn M.72 của
chính đích thân Ðại Tá Lê Nguyên Vỹ, Tƣ Lệnh Phó, khai hoả. Ông nói :”trúng
rồi, tôi đã diệt đƣợc nó …”
Nhờ chiến tích này mà
“Binh sĩ của Trung Đoàn 8 Bộ Binh lần lần đâm ra dạn dĩ, vác súng M.72
ra tác xạ, vài quả đầu có chút sai lệch, chiến xa địch “chƣa chết”, nhƣng càng
bắn càng có kinh nghiệm, bắn trúng vào chỗ “nhƣợc”. Chiến xa bốc cháy.
Các chiến sĩ reo hò “Anh Em ơi !! xe tăng địch bị M.72 bắn cháy rồì!!!”
Tiếng hô vang dậy, đƣợc chuyền nhau qua làn khói bốc ra từ chiến xa địch, cùng
các xác cháy của các xạ thủ hay tài xế lái tăng địch vừa nhảy ra khỏi xe, đã làm
nức lòng các chiến binh của Trung Đoàn 8 Bộ Binh. Giờ này họ không còn sợ
tăng của địch nữa, mà trái lại còn thích thú, vác M.72 đi lùng tăng địch mà bắn
hạ. (tiếng bình dân của Anh Em chiến binh Trung Đoàn 8 gọi là sơi tái).”
(Chiến Thắng An Lộc 1972. Trang57)
Đoạn văn trích dẫn bên trên do tác giả Nguyễn Ngọc Ánh ca ngợi chiến tích của quân sĩ
Trung Đoàn 8 BB, nhưng lại không hề nhắc đến Đại Tá Vỹ là người đã bắn phát M-72
hiệu quả đầu tiên, mà lại chỉ nhắc đến Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng
Trung Đoàn 8 BB là người có sáng kiến đem lên An Lộc mấy ngàn súng M-72 để trang
bị cho binh sĩ. Trong nhiều trang khác rải rác trong tác phẩm, ông không tiếc lời đề cao
Đại Tá Mạch Văn Trường, Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 BB như là một trong
những cấp chỉ huy có công lớn nhất tại An Lộc. Chúng tôi cũng từng phục vụ dưới quyền
Đại Tá Trường (vào năm 1971, ông Trường còn là Trung Tá, vừa rời chức Quận Trưởng
Thủ Đức về làm Phụ Tá Trung Đoàn Trưởng, rồi lên nắm Trung Đoàn thay thế Đại Tá
Bùi Trạch Dần). Vì thế, chúng tôi không muốn viết về những điều không tiện nơi đây.
Tất cả những sĩ quan Trung Đoàn 8 BB tham dự trận An Lộc đều biết rằng Đại Tá
Trường, trong khi lái xe Jeep ở An Lộc, đã cán phải một trái M79 và bị thương nhẹ ở cổ.
Một Thời Áo Trận 22
Theo một bài viết Trận Chiến An Lộc Hè 1972, Tướng Lê Văn Hưng và Những Điều
Chưa Nói Hết của Văn Nguyên Dưỡng (một sĩ quan cao cấp có mặt tại Bộ Tư Lệnh
Hành Quân Sư Đoàn 5 BB trong trận An Lộc) đăng trên tạp chí Chiến Sĩ Cộng Hoà số
34, tháng 4, 2012, khi trực thăng đáp xuống để tản thương các thương binh nặng, ông
Trường đã khập khểnh ra bãi đáp để được di tản. Nhưng Đại Tá Lê Quang Lưỡng (khi đó
là Tư Lệnh Lữ Đoàn 1 Nhảy Dù) đã cấp báo cho Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng, gọi ông trở
lại.
Trích một đoạn trong bài Trận Chiến An Lộc Hè 1972.
Sự Kiện Thứ Nhất: Vì bãi trực thăng tạm do Tiểu Đoàn 8 Nhảy Dù do Trung Tá
Văn Bá Ninh thiết lập và bảo vệ hữu hiệu, các đơn vị phòng thủ tản thƣơng đƣợc,
nhận thêm quân…. Thì một ngày vào khoảng cuối tháng 4, 1972, một cấp chỉ huy
mang cấp bậc Đại Tá băng bó vết thƣơng rất nhẹ đã đƣợc điều trị lành rồi, và một
Thiếu tá Pháo binh, cùng ra sân bay tạm và định leo lên một trực thăng tản
thƣơng để mong thoát ra khỏi An Lộc. Binh sĩ Dù của Trung Tá VBN giữ bãi trực
thăng thấy ông thƣơng binh này mang cấp bậc Đại Tá trên cổ áo, không dám cản,
nhƣng báo cáo cho Trung tá VBN. Ông này ra trực thăng yêu cầu phi công đợi
lệnh và báo cáo ngay cho Đại Tá Lê Quang Lƣỡng, Lữ Đoàn Trƣởng Nhảy Dù.
Đại Tá Lƣỡng ra tận nơi, nhìn dãi băng trên vai ông Đại Tá nọ và hỏi ông ta ở
đơn vị nào và bị thƣơng ra sao. Ông Đại tá xƣng tên là Mạch Văn Trƣờng, Trung
Đoàn Trƣởng Trung Đoàn 8, SĐ5BB. Đại Tá LQL chỉ nói một câu nhẹ nhàng:
“Thƣơng tích nhẹ mà muốn đƣợc tản thƣơng hay sao?”. Ông tức khắc gọi cho
Tƣớng Hƣng trình sự việc. Tôi (tác giả Văn Nguyên Dƣỡng) đƣợc Tƣớng Hƣng ra
lệnh đem xe Jeep ra gặp Đại Tá LQL để “nhận lại” ông Đại tá và ông Thiếu Tá
“thƣơng binh” trở về BTLHQ/SĐ.. Lẽ dĩ nhiên ông Đại Tá và ông Thiếu Tá này bị
Tƣớng Hƣng xát muối.. Thì ra ông Đại Tá này trƣớc đó một hôm bị Tƣớng Hƣng
ra lệnh cho về chỉ huy lại đơn vị của mình sau khi nằm hơn tuần lễ trong căn hầm
của Tƣ Lệnh chỉ với vết thƣơng nhẹ trên vai. Ai ngờ bị lạnh cẳng vì những trận
pháo dồn dập của quân CSBV khi trở lại đơn vị, ông ra sân trực thăng định chuồn
về hậu cứ…. Và vì việc phải làm này, Tƣớng Hƣng đã chạm vào con gà cƣng của
Tƣớng Tƣ Lệnh Quân Đoàn. Việc giả thƣơng binh định chuồn về hậu cứ này
chẳng những tôi biết mà còn nhiều ngƣời biết. Nhƣng ngƣời biết rõ nhất có lẽ là
Đại Tá VBN, Tiểu đoàn trƣởng TĐ 8 ND lúc đó, hiện nay đang sống tại Hoa Kỳ.
(trang 57, cột 2)
Hết trích.
Theo lời Thiếu Tá Nguyễn Chí Hiền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 2/8, sau vụ
này, ông vào ở hẳn trong hầm chỉ huy của Tướng Hưng; và người trực tiếp điều động
Trung Đoàn 8 chiến đấu là Thiếu Tá Trung Đoàn Phó Nguyễn Văn Tâm (Khoá 19
VBQGVN). Thiếu Tá Tâm sau này lên nắm Trung Đoàn 8BB và sau đó lên Trung tá, làm
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 31 thuộc Sư Đoàn 21 BB. Hiện ông cư ngụ tại thành
phố Milpitas, California. Thiếu Tá Hiền về sau được bổ nhậm làm Quận Trưởng Quận
Châu Thành, Tỉnh Bình Dương; hiện cư ngụ tại thành phố Thias, France.
Một Thời Áo Trận 23
Chuẩn Tướng Lê Văn Hưng đã biết trước rằng sự thắng bại của trận chiến sẽ phụ
thuộc vào sự yểm trợ phi pháo của Hoa Kỳ. Trong giai đoạn mà Mỹ đang muốn bỏ rơi
VNCH, họ không từ thủ đoạn để cho quân ta thảm bại để chính phủ VNCH phải chịu vào
bàn hội nghị ký những điều khoản vô cùng bất lợi; miễn là Hoa Kỳ có cơ hội rút ra khỏi
Việt Nam. Vì thế, khi Đại Tá Cố Vấn William Miller tỏ ý không muốn cùng toán cố vấn
ở lại cùng tử thủ cạnh quân ta, thì Tướng Hưng đã thuyết phục, và làm theo lời yêu cầu
của Đại Tá Miller là dời Trung Tâm Hành Quân vào một căn hầm vững chắc hơn. Để ăn
chắc rằng Đại Tá Miller không cùng các quân nhân Mỹ dùng trực thăng di tản, Tướng
Hưng đã dặn dò Đại Tá Lê Nguyên Vỹ phải bám sát Đại Tá Miller, theo dõi nhất cử nhất
động. Chính phủ Hoa Kỳ vốn tôn trọng sinh mạng quân nhân của họ. Vì thế sự hiện diện
của toán cố vấn Mỹ như là một con tin có giá để buộc Hoa Kỳ phải tích cực yểm trợ phi
pháo, góp phần vào chiến thắng của quân ta.
Khi An Lộc vừa được giải vây, vẫn còn nhiều bất trắc, tiếng súng chưa hoàn toàn
ngưng hẳn, Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã bay vào tận chiến trường còn nồng mùi
thuốc đạn để tưởng thưởng cho các quân nhân đã chiến đấu ca trường và chịu đựng hơn
ba tháng trời bị vây khổn. Mỗi quân nhân tham chiến đều được thăng lên một cấp - ngoại
trừ Đại Tá Lê Nguyên Vỹ, người đã mang cấp bậc này từ cuối năm 1968. Người anh
hung này chỉ nhận được một phần thưởng khiêm tốn là làm Trưởng đoàn Chiến Sĩ Xuất
Sắc đi du ngoạn Đài Loan! Ngược lại, người được nhiều ân thưởng nhất là ông Mạch Văn
Trường vừa lên Đại Tá nhiệm chức mới có vài tháng đã được thăng thực thụ, lại thêm Đệ
Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chương kém Anh Dũng Bội Tinh với Nhành Dương Liễu –
dù chưa có Đệ Tứ Đẳng!!!, và sau đó được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Long Khánh.
Xin đọc đoạn sau ở trang 101 của bài viết dài 138 trang “Tướng Lê Văn Hưng và
Những Sự Thực ở Chiến Trường An Lộc trong Muà Hè 1972” của cựu Trung Tá
Nguyễn Văn Dưỡng. (Văn Nguyên Dưỡng)
“Tƣớng Hƣng đứng đầu hàng đƣợc TT đọc lệnh thăng cấp Chuẩn tƣớng
thực thụ và đƣợc gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chƣơng k m Anh D ng Bội
Tinh với Nhành Dƣơng Liễu. Đại tá Trần văn Nhật thăng Đại tá thực thụ và đƣợc
gắn Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chƣơng k m ADBT với Nhành Dƣơng Liễu.
Đại tá Mạch văn Trƣờng thăng cấp Đại tá thực thụ, vừa đọc quyết định xong... TT
Thiệu định bƣớc sang gắn cấp bậc mới cho Trung tá L Đức Quân, Trung đoàn
trƣởng Trung đoàn 7 đứng kế tiếp... bỗng thấy Trung tƣớng Minh bƣớc tới… vừa
thƣa trình vừa dúi vào tay TT một cái huy chƣơng vàng nhạt lẫn màu xanh đọt
chuối, có vòng vải quốc kỳ (để đeo vào cổ) tức là Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân
Chƣơng và một cuống huy chƣơng khác là Anh D ng Bội Tinh với Nhành Dƣơng
Liễu... “Xin TT gắn cho Đại tá Trƣờng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc Huân Chƣơng
và...” TT Thiệu ngắt lời: -“Ông Trƣờng có Đệ Tứ Đẳng Bảo Quốc Huân Chƣơng
chƣa?” Trả lời: -“Dạ có... Tôi đã đề nghị rồi... Sắp đƣợc!” TT Thiệu ngần ngừ…
nhƣng bƣớc tới tròng chiếc huy chƣơng cao quí đó vào cổ cho MVT, rồi gắn thêm
cái ADBT với Nhành Dƣơng Liễu lên ngực ông này. Đẹp quá! Đẹp hết chỗ nào
chê.… Sau đó TT gắn lon Đại tá cho Trung tá L Đức Quân và Trung tá Trịnh
Một Thời Áo Trận 24
Đình Đăng, Trƣởng phòng 3 Sƣ đoàn. Kế tiếp gắn cấp bậc Trung tá cho tôi và
Thiếu tá Huỳnh văn Tâm (đúng ra là Nguyễn Văn Tâm), Trung đoàn phó Trung
đoàn 8 - ngƣời thực sự chỉ huy Trung đoàn này suốt trận An Lộc. Thêm vài SQ,
HSQ và BS nữa đƣợc mang cấp bậc mới.
….. Trong lần thăng thƣởng đó đã... thấy rõ sự bất công: Đại tá hiện dịch
thực thụ Lê Nguyên Vỹ không thấy hiện diện trong lễ tƣởng thƣởng này, không
thấy thăng chuẩn tƣớng, không biết sau đó có đƣợc tặng Đệ Tam Đẳng Bảo Quốc
huân Chƣơng hay không? Mãi đến gần hai năm sau khi Trung tƣớng Phạm Quốc
Thuần về làm Tƣ lệnh QĐIII V3CT, Đại tá LNV mới đƣợc đề bạt làm Tƣ lệnh
SĐ5BB thay thế Chuẩn tƣớng Trần Quốc Lịch. Một vị nữa, ngƣời có công trạng
nhiều nhất ở An Lộc là Đại tá thực thụ Bùi Đức Điềm, nhƣ tôi đã nói, bị bỏ quên
nhƣ một gốc cổ thụ già ở đâu đó trong các khu rừng Bình Long: không thăng cấp
tƣớng, không một chiếc huy chƣơng... mãi cho đến khi mất miền Nam.”
Chúng tôi biết Đại Tá Lê
Nguyên Vỹ lần đầu vào đầu năm
1969, khi vừa tốt nghiệp ra đáo nhậm
đơn vị là Trung Đoàn 8 BB mà Bộ
Chỉ Huy đóng gần chợ Bến Cát. Sau
khi được Đại Úy Nguyễn Văn Nết,
Trưởng Ban 1 hướng dẫn các thủ tục
hành chánh để chở bổ sung ra các tiểu
đoàn, chúng tôi vào Câu Lạc Bộ
Trung Đoàn để ăn trưa. Tại đây, tôi
đã thấy có vài vị sĩ quan mặc áo thun
màu ngụy trang và quần trận. Để ý
kỹ, chúng tôi thấy có một ông to lớn,
sắc mặt cứng cáp, nghiêm trang đang
đưa mắt theo dõi chúng tôi. Đó là Đại
Tá Vỹ người nổi tiếng là người trực
tính, nóng nảy, cũng song song với
tiếng tăm can trường, mưu lược trong trận mạc.
Ông là vị sĩ quan làm Trung Đoàn Trưởng lâu năm nhất. Từ Trung Đoàn 9 với
nhiều chiến công hiển hách, ông về Trung Đoàn 8, vực đơn vị này lên ngang tầm những
đơn vị xuất sắc. Nhờ các chiến công đó, mà năm 1969, dưới thời Thiếu Tướng Tư Lệnh
Phạm Quốc Thuần, Sư Đoàn 5 Bộ Binh được tuyên dương công trạng trước Quân Đội lần
thứ 6, tất cả quân nhân trong Sư Đoàn hãnh diện mang dây biểu chương màu Bảo Quốc
Huân Chương.
Có lẽ ông là vị chỉ huy tác chiến lên cấp khá chậm, chỉ vì ông không dính đến phe
đảng, chính trị. Ông thăng tiến trong binh nghiệp qua sự chiến đấu mà không hề dùng đến
các thủ thuật để lấy lòng cấp trên.
Là những sĩ quan cấp nhỏ, chúng tôi rất phục ông, nhưng cũng rất sợ phải chạm
mặt ông. Có lần, trên đường ra chợ Bến Cát chơi, chúng tôi thấy chiếc xe Jeep của ông
Đại Tá Lê Nguyên Vỹ bàn bạc cùng Thiếu Tá Châu Minh Kiến, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 1/8 BB ngay tại vùng hành quân
Một Thời Áo Trận 25
đang chạy từ hướng đối nghịch. Không chậm một phút, ba anh Thiếu Úy trẻ nhảy đại qua
một hàng rào nhà dân sát đó để chạy né ông.
Lần thứ hai mà tôi đã không né được, mà phải đứng cạnh ông trong gần một giờ,
vừa lo âu, vừa sợ sệt. Đó là dịp gần cuối năm 1969, khi Tiểu Đoàn tôi vừa qua phần huấn
luyện bổ túc tại Trung Tâm Huấn Luyện của Sư Đoàn; đang tập dượt lễ xuất quân. Là
một Đại Đội Phó, tôi có nhiệm vụ tập cho binh sĩ hát bài Xuất Quân. Nhưng vì ham chơi,
sau những tháng ngày hành quân miệt mài, nay có dịp về huấn luyện gần thị xã Bình
Dương, bọn sĩ quan trẻ chúng tôi thường giao việc cho anh Trung Sĩ Thường Vụ để dù ra
phố chơi. Vì thế, khi Trưởng Ban 5 Tiểu Đoàn bắt nhịp hát bài Xuất quân, binh sĩ người
thuộc, người không, hát lọng cọng không ra hồn. Tôi lại xui xẻo đứng gần bên Đại Tá
Trung Đoàn Trưởng. Mà càng xui hơn là đang mặc bộ quần áo trận màu hoa dù mà tôi
còn giữ sau khi rời đơn vị Biệt Kích để vào quân trường Sĩ Quan. Lại càng xui hơn nữa
khi phù hiệu Trung Đoàn 8 tôi đang mang trên túi áo là phù hiệu thêu hình đầu con cọp
cũng chế biến đi. Số là ngày đó, mỗi Trung Đoàn đều có phù hiệu riêng: Trung Đoàn 7
mang hình đầu con sư tử, Trung Đoàn 8 đầu cọp, Trung Đoàn 9 đầu voi. Chẳng rõ anh
hoạ sĩ nào đã không có sáng kiến riêng, mà cóp nguyên hình con cọp trên chai bia Lave
Larue vào cái nền hình thoi màu vàng trông thiếu thẩm mỹ vô cùng. Người ta thường chế
nhạo lính Trung Đoàn 8 là “Cọp La Ve”. Tôi bèn vẽ lại cái đầu cọp cho hùng hổ hơn, nhờ
cô em vợ thêu trên nền vải hoa dù rồi may vào túi áo. Sau này, khi về làm Đại Đội
Trưởng Đại Đội Chỉ Huy, tôi đã vẽ lại mẫu con cọp bay với ba tia chớp và được Trung
Đoàn chấp thuận cho thay thế mẫu cũ.
Đứng bên ông Trung Đoàn Trưởng nghiêm khắc, nóng tính, mà lại mặc quân
phục rằn ri, đeo phù hiệu tự chế, hỏi sao trong bụng tôi lại không thấy lo âu? Nhưng Đại
Tá Vỹ dường như không thắc mắc gì. Đứng lâu, cảm thấy nhột nhạt, tôi đánh bạo lên
tiếng: “Thưa Đại Tá, chúng tôi làm Đại Đội Phó đã mấy tháng mà chưa có lệnh bổ
nhiệm.” Ông nhìn qua tôi, nói như gầm gừ: “Hừ! Làm ăn có ra gì mới được bổ nhiệm
chứ!”
Cố Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ, một cấp chỉ huy nhiệt thành, đảm lược, nhiều
kinh nghiệm trận mạc; suốt đời binh nghiệp lăn lộn ngoài chiến trường. Ông đã góp nhiều
công lao xây dựng các đơn vị bộ binh hùng mạnh, biết quan tâm đến sự sinh tồn của đơn
vị, đúng nghĩa cùng nằm gai nếm mật với binh sĩ thuộc quyền. Trong thời gian tôi còn ở
Trung Đoàn, không hề nghe những điều tai tiếng về ông ngoại trừ tính nóng nẩy. Khi
miền Nam mất vào tay giặc Cộng, ông đã chọn cái chết để bảo toàn khí tiết của người
Tướng Lãnh. Không viết cho hết về ông cũng chỉ vì chúng tôi có ít tài liệu. Nhưng không
nói đến những công trận của ông mà người ta cố tình làm ngơ, chúng tôi thấy mình có tội
với ông rất nhiều, cũng như có tội với tất cả những anh em chiến hữu khác đã từng đổ
xương máu để chiến đấu bảo vệ miền Nam nói chung, và trong trận An Lộc nói riêng.
Tôi mong những cựu chiến sĩ Trung Đoàn 8 BB từng có mặt ở An Lộc vào Muà Hè Đỏ
Lửa – mà hiện nay nhiều anh em định cư tại Hoa Kỳ - sẽ xác nhận những điều tôi vừa
nêu trong bài này.
Một Thời Áo Trận 26
Nhớ về người Tư Lệnh cũ Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu
(April 5, 1923 – September 29, 2001)
Trong các đơn vị thuộc vùng 3 Chiến thuật, Sư đoàn 5 Bộ binh là đại đơn vị trấn
nhậm một trọng điểm có tầm sinh tử đối với thủ đô Sài Gòn nhất. Do đó, các cuộc binh
biến không thể thiếu sự đóng góp của Sư đoàn 5 BB. Đại tá Nguyễn Văn Thiệu nhờ vào
chức vụ Tư lệnh SĐ5BB mà đã được mời tham gia vào cuộc đảo chánh lật đổ cố Tổng
thống Ngô Đình Diệm vào ngày 1 tháng 11 năm 1963.
Từ các căn cứ ở Bình Dương, chỉ cách Sài Gòn không đầy 30 ki lô mét, các đơn vị
mang số 5 đỏ giữa ngôi sao trắng đã được nhanh chóng điều động về thủ đô chiếm cứ các
cơ quan trọng yếu của chế độ. Trong tấm ảnh chụp chung của các Tướng lãnh tham gia
đảo chính, Đại Tá Thiệu lúc đó còn ngồi một cách khiêm tốn ở hàng sau giữa những ông
tướng có vẻ hùng hổ, tự đắc. Khuôn mặt ông Thiệu ngày đó còn gầy guộc, nhưng đã thấy
trong đôi mắt nét sắc sảo, hứa hẹn một bước tiến chính trị rộng mở trong tương lai.
Một Thời Áo Trận 27
Là một sĩ quan cấp úy nhỏ nhoi trong đội quân cả triệu người, thì hiểu biết được
bao nhiêu mà dám viết về một Tổng thống, một Tổng Tư Lệnh Quân đội! Nhất là về cố
Tổng thống Thiệu, người đã được công chúng và nhiều sử gia nhận xét thiếu công minh
cho đến khi các tài liệu dần dần được giải mật và công bố để trả lại cho ông phần nào sự
công bằng.
Lần đầu tiên tôi được gần ông nhất là ngày lễ mãn khoá của Khoá 1 Sĩ quan hiện
dịch Chiến Tranh Chính Trị vào đầu tháng 5 năm 1969. Sau đại lễ huy hoàng tại vũ đình
trường, các tân thiếu úy được đưa vào hội trường mới xây phía sau lưng toà nhà Bộ Chỉ
Huy. Nơi đây, chúng tôi sắp hàng một để lần lược bước đến nhận quà do Tổng thống trao
tận tay. Đó là một cây bút bi hiệu Parker, trên đó có in huy hiệu của Tổng Thống bằng
kim nhũ và một cửa sổ nhỏ để mỗi lần bấm thì hiện ra theo thứ tự các dòng chữ biểu hiện
ba mục tiêu mà chính phủ của ông đã đề ra: xây dựng dân chủ, giải quyết chiến tranh, và
cải tạo xã hội.
Nhận xét đầu tiên khi đối mặt vị Tổng thống là ông có khuôn mặt nhỏ nhưng rất
thông minh, đôi mắt sáng sắc sảo, và nụ cười rất thân tình, cởi mở. Nhờ đó, những tân
thiếu úy đã không cảm thấy khoảng cách quá xa đối với người lãnh đạo cao nhất của
quốc gia và quân đội. Ông đã dùng cơm với chúng tôi sau khi ban một huấn thị ngắn và
đầy ý nghĩa của một người anh đối với các em vừa chuẩn bị bước vào cuộc chiến gian
nguy.
Vì đường công danh chính trị của ông phát xuất từ Sư Đoàn 5 Bộ binh, nên mối
quan tâm của ông đối với sư đoàn này cũng có phần đặc biệt ưu đãi. Các tư lịnh sư đoàn
thường là những vị thân tín của Tổng thống Thiệu và rất có tương lai trong binh nghiệp.
Sau khi ra trường tôi may mắn phục vụ sư đoàn này, và đã từng hãnh diện khi nhìn thấy
tấm hình của vị cựu Tư lịnh Nguyễn Văn Thiệu treo trong các phòng họp cấp Sư đoàn và
Trung đoàn. Ngoài cái biệt danh “Sư Đoàn Nùng” (vì là hậu thân của một đơn vị toàn
người Nùng từ miền Thượng Du Bắc Việt chuyển vào sau hiệp định Geneve), người ta
còn gọi chúng tôi là “lính ông Thiệu”.
Thuyên chuyển qua Không Quân cuối năm 1971, tôi không được vinh dự tham
chiến trận An Lộc vào Mùa Hè Đỏ Lửa năm 1972, nên không được có mặt công kênh
Tổng thống khi ông đến chiến trường ủy lạo binh sĩ giữa lúc tiếng súng còn chưa dứt ở
các đồn diền cao su quanh thị trấn An Lộc đổ nát. Chúng tôi quý ông ở điểm này. Là một
nguyên thủ quốc gia, ông có quyền hưởng những ngày tết an toàn ở thủ đô trong không
khí hạnh phúc của gia đình. Nhưng không có Tết nào mà ông không tìm đến với các đơn
vị tiền đồn hẻo lánh. Trong bộ ka ki bốn túi bình dị, chiếc nón jockey đen có phù hiệu hai
con rồng, Tổng thống Thiệu đã mang lại cho những người lính chiến chúng tôi niềm an ủi
sâu xa thể hiện một mối quan tâm mà hiếm khi thấy được ở những vị lãnh đạo khác.
Tính bình dị của ông, lần nữa tôi được thấy khi ông đến thăm Căn Cứ 20 Chiến
Thuật Không Quân ở Phan Rang. Hồi đó là gần cuối năm 1972, sau khi chúng tôi hoàn
tất việc tiếp nhận căn cứ từ Không Lực Hoa Kỳ. Một đại đơn vị tân lập của Không Quân
Một Thời Áo Trận 28
Việt Nam đang thành hình, đi vào ổn định để tích cực tham gia chiến đấu ở Vùng 2 Chiến
thuật.
Tổng thống đã đến với chúng tôi, ăn tối với các sĩ quan tại Câu Lạc Bộ trên ngọn
đồi nhìn ra hướng bờ biển Ninh Chữ. Không một chút quan cách, lễ nghi, ông đã tươi
cười trò chuyện cùng chúng tôi trong hơn hai tiếng đồng hồ. Ông đã trao cho Căn cứ một
món tiền nhỏ và dí dỏm: “Thường là cấp nhỏ hối lộ cấp trên! Bây giờ thì tôi hối lộ các
anh.” Số là Tổng thống còn bà mẹ già đang ở trong căn nhà gần bờ biển. Hàng ngày, các
phản lực cơ của Không đoàn 92 Chiến Thuật cất cánh thường bay qua phía làng của Tổng
Thống. Tiếng gầm rú của động cơ quấy nhiễu không khí yên bình của bà cụ, làm bà sợ
hãi. Ông Tổng Tư Lệnh phải hối lộ cho thuộc cấp để yêu cầu bay chệch một chút, né cái
làng Ninh Chữ kia ra.
Miền Nam mất!
Người ta đổ lỗi cho nhau. Người chịu nhiều tai tiếng là Tổng thống Thiệu.
Dĩ nhiên, ông không thể tránh phần trách nhiệm nặng nề đã làm mất miền Nam mà
hậu quả là Cộng sản đã đưa đẩy mười lăm triệu đồng bào vào hỏa ngục, gần ba trăm ngàn
đồng đội vào các trại tù khắc nghiệt mà hậu quả có hàng chục ngàn đã chết cách này hay
cách khác, cùng với cả triệu người liều thân vượt biển mà con số bỏ thây làm mồi cho cá
lên đến hơn một nửa.
Ông cũng bị tai tiếng về tài sản miền Nam, điển hình là 16 tấn vàng mà thực tế là
đã do tên phản bội Nguyễn Văn Hảo trao lại cho bọn Việt Cộng. Lưu vong ra nước ngoài,
ông đã sống ẩn dật, không ồn ào phô trương mà âm thầm chịu đựng búa rìu dư luận. Có
thể ông có tài sản lên đến bạc triệu đô la. Nhưng nó đáng kể vào đâu nếu so sánh với con
số hàng tỷ đô là mà bọn Việt Cộng thủ đắc hiện nay?
Tôi cầu xin vong linh cố Tổng Thống tha thứ vì chính tôi cũng đã có lần viết thiếu
công bằng về ông khi nhìn sự thất bại của miền Nam theo cách nhìn hạn hẹp của mình.
Làm lãnh tụ một nước nhỏ, hoàn toàn lệ thuộc về kinh viện và quân viện của ngoại bang,
thì việc quyết định không thể nào tự chủ được. Tổng thống Diệm cũng vì yêu nước, kiên
cường trước áp lực Mỹ mà bị thảm sát. Tổng thống Thiệu đã vẫy vùng mà không thoát
được. Ông cũng đã từng chứng tỏ sự can đảm, cứng rắn đến độ căng thẳng với Mỹ trong
thời gian chuẩn bị Hoà Đàm Paris. Ông cũng từng đối đầu với tên cáo già Henry
Kissinger và đã bị tên Do Thái này gán cho những từ ngữ không đẹp. Tựu trung, ông đã
chứng minh bản lãnh, lòng yêu nước, trí thông minh đáng để chúng ta khâm phục hơn là
trách cứ. Sự thành bại của miền Nam hoàn toàn nằm ngoài tầm tay của chúng ta.
Duy chỉ có một điều chúng tôi trách ông. Đó là việc dùng người của ông thiên về
cảm tình, sự trung thành hơn là dựa trên khả năng. Tiếc thay cho những anh tài không
được trọng dụng, mà thay vào đó là những tướng lãnh thiếu kinh nghiệm chiến đấu, một
số thì đầy lòng tham. Hậu quả là nạn tham nhũng đã làm suy giảm tinh thần chiến đấu
của quân dân miền Nam. Quân Lực VNCH có hơn trăm vị tướng mà con số vị trong sạch
tài đức chỉ đếm trên đầu ngón tay. Mà ngay họ cũng chẳng ngồi lâu hay được trọng dụng
đúng với khả năng. Khi thành lập đảng Dân Chủ, Tổng Thống Thiệu đã vì an toàn chính
trị của mình mà làm tan vỡ khối đại đoàn kết quốc gia giữa các đảng phái chính trị và tôn
giáo. Những năm đấu thập niên 1970, khi tình hình quân sự rất khả quan, phải chi ông
Một Thời Áo Trận 29
chú tâm vào cuộc chiến bài trừ tham nhũng, nâng đỡ đối lập, phát huy thêm tự do để tăng
cường sức mạnh quần chúng thì có hy vọng cải thiện phần nào cách nhìn của người Mỹ
và cuộc chiến đã không kết thúc theo chiều hướng bi đát như đã xảy ra năm 1975.
Nói gì đi nữa thì công và tội của một vị Tổng thống phải chờ thêm thời gian để
phán đoán. Những cuốn sách do các chính khách, báo giới cả Mỹ lẫn Việt viết ra sau này,
những tài liệu được giải mật đã đem lại phần nào sự xét đoán công minh về vị Tổng
thống thứ hai của chế độ Cộng Hoà Việt Nam.
Hôm nay, nhân ngày giỗ lần thứ 8 của cố Tổng Thống, tôi mua chai Chivas Regal
(loại rượu mà ông thường dùng), rót ra một chung để kính mời người cựu Tư Lệnh Sư
Đoàn. Tôi vẫn quý ông về lòng ái quốc và những đức tính hiếm hoi trong vai trò người
lãnh đạo quốc gia và nhất là người Tổng Tư Lệnh Tối Cao của Quân Lực VNCH.
Chúng ta sẽ nhớ mãi câu nói của ông: ”Sống mà không có Tự do, thì coi nhƣ đã
chết” (To live without freedom is to have already died.)
Kỷ niệm ngày giỗ lần thứ 8 của Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu (29/9/2001 –
29/9/2009)
Một Thời Áo Trận 30
Quân Ðội và Chính Trị
Ðể trả lời câu hỏi: các hội Cựu Quân Nhân có nên tham gia hoạt động chính trị
không?
Không riêng cựu quân nhân, mà bất kỳ một đoàn thể nào sinh hoạt trong xã hội
cũng đều có quyền và có nghĩa vụ tham gia vào các hoạt động chính trị địa phương hay
cao hơn vào hoạt động chính trị của quốc gia. Danh từ Chính Trị từ lâu đã bị hiểu bó hẹp
trong phạm vi tranh chấp quyền lực trong chính quyền và mang ý nghĩa không hay về
những màn ma nớp do những nhà chính trị chuyên nghiệp tạo ra. Thực ra chính trị có tính
cách tổng quát và ảnh hưởng sâu rộng đến mọi khía cạnh sinh hoạt chung.
Chính Trị Là Gì?
Theo quan niệm triết học Ðông Phương có từ ngàn xưa, Chính 政 là ngay thẳng,
Trị 治 là sửa đổi. Chính trị là sửa đổi, làm cho ngay thẳng. Các nhà Nho học xưa tâm
niệm về con đường hoạt động của kẻ sĩ: “Cách vật, Trí tri, Tu thân, Tề gia, Trị quốc ,
Bình thiên hạ.” Từ thấp lên cao, kẻ sĩ phải học hỏi để hiểu biết về khoa học tự nhiên, rèn
luyện tư duy (Cách vật, Trí tri), tu sửa bản thân, học hỏi điều đạo đức, chỉnh đốn gia đình
nề nếp (Tu thân, Tề gia), sau đó đem sở học ra giúp đời, phục vụ đất nước, bình định cả
thiên hạ (Trị quốc, Bình thiên hạ). Chính trị không gói gọn trong công việc nhà nước đơn
thuần về hành chánh, mà bao gồm nhiều lãnh vực: kinh tế, văn hoá, xã hội... ; là đóng
góp làm cho xã hội ngày một tốt đẹp hơn dù đang ở trong địa vị xã hội nào. Một vị thức
giả mở trường dạy học là đào tạo nhân tài trong tương lai; một nhà nông có sáng kiến
trong việc canh tân, phát triển nông nghiệp; một tu sĩ rao giảng điều lành, một hiệp sĩ
đứng ra bảo vệ kẻ yếu trước cường hào: tất cả đều là công việc chính trị. Xưa, vua Vũ
bên Tàu đắp đê ngăn nước lụt sông Hoàng Hà cũng là công việc chính trị (Trị Thủy). Vậy
chính trị là công việc chung của mọi tầng lớp trong xã hội để làm cho xã hội tốt đẹp hơn.
Một Thời Áo Trận 31
Quan niệm của Tây phương cũng không khác là bao. Chữ Chính Trị (Politics) do
từ chữ POLIS của Hy Lạp, nghĩa là “đô thị”. Hàng ngàn năm trước đây, khi toàn thế giới
còn ở trong tình trạng hoang dã, thì trên mảnh đất Hy Lạp (Greece) ngày nay, có những
tổ chức quốc gia nhỏ bé tầm cở những đô thị. Họ gọi là Quốc gia Ðô thị (City-States), với
dân số chừng vài ngàn người. Quốc gia đô thị theo chế độ Cộng hoà (Republic) mà theo
sự phân loại của Plato (428 BC – 348 BC) là chế độ tốt đẹp nhất, vì mọi người cùng tham
gia thảo luận quyết định trên cơ sở quyền lợi chung của tất cả công dân. Do tính chất nhỏ
bé của Quốc gia đô thị, chế độ cộng hoà đã được thực thi nghiêm chỉnh bảo đảm cho mọi
công dân hành sử quyền mình. Từ đó, chữ chính trị được quan niệm là công việc điều
hành chung của tập thể xã hội. Tại Hoa Kỳ, chính trị là công việc điều hành từ Hạt
(county), thị xã (city), lên đến Tiểu bang, Liên bang. Cũng là công việc điều hành trong
các tổ chức, hội đoàn nhằm cải thiện sinh hoạt, đòi hỏi chính đáng cho những nguyện
vọng cá nhân, tập thể. Người cầm quyền làm chính trị là thi hành chức năng hiến định
của mình đem lại an cư, bảo đảm dân sinh. Ngược lại người công dân làm chính trị là
đóng góp ý kiến qua báo chí, thỉnh nguyện, qua hình thức lobby, qua bầu cử, ứng cử. Họ
tổ chức meeting, biểu tình, tham gia những cuộc chạy bộ, đua xe để biểu lộ ý kiến về bất
cứ đề tài gì trong cuộc sống: Phá thai hay bảo vệ hài nhi, ủng hộ hay chống sự đồng tính
luyến ái, bảo vệ môi sinh chống ô nhiễm, đòi hỏi một tỉ lệ nhập học cho thành phần giới
tính, chủng tộc mình.... Nói chung là tất cả, tất cả những gì liên quan trong đời sống đều
là đề tài cho sinh hoạt chính trị.
Con Người và Chính Trị
Là một phần tử căn bản của xã hội, ngay khi sinh ra, lớn lên, con người dù muốn
dù không đã là một chủ thể, vừa là một đối tượng của sinh hoạt chính trị. Dù sống giữa
đô thị lớn ồn ào chen chúc, hay lánh mình về một thôn xóm hẻo lánh, con người, với tư
cách công dân, không thể thoát ra khỏi tầm ảnh hưởng của mọi sinh hoạt chính trị trong
nuớc, cũng như những biến chuyển trọng đại của thế giới Có những phạm trù về chính trị
diễn biến theo thứ tự như sau:
Ý thức Chính trị (Consciousness):
Khi biết phân biệt cái đẹp, cái xấu; biết điều này là thiện, điều kia là ác; biết điều
đúng, điều sai; con người đã có một ý thức chính rị. Ða số con người có tư tưởng hướng
thượng, mưu cầu điều tốt đẹp cho bản thân và tha nhân. Nhờ nhận thức, con người nhìn
vào chính quyền, vào xã hội mà phán xét đúng sai dựa trên trình độ và quan điểm của
mình. Ý thức chính trị do tự bản năng cảm nhận và được bồi dưỡng thông qua sự giáo
dục của hệ thống xã hội. Vì thế, nó không thể nào không bị uốn nắn theo chiều hướng
chung của xã hội qua tập đoàn cầm quyền thống trị. Hàng chục năm cầm quyền ở miền
Bắc, bọn Cộng sản đã nhào nặn ra những thế hệ có những ý thức chính trị sai lạc, mù
quáng để dễ bề sai khiến. Cái ý thức này ăn sâu đến nỗi sau 1975, nhiều người miền Bắc
vào Nam, nhìn thấy rõ mặt thật của hai chế độ, mà vẫn khăng khăng bào chữa cho Cộng
Một Thời Áo Trận 32
sản, vì quả thực thì phân tích, nhận thức cái đúng cái sai cũng chờ một quá trình chuyển
hướng và cọ xát với sự thực.
Lập trường Chính trị (Standpoint):
Sau khi có ý thức, con người sẽ phải lựa chọn cho mình một cách dứt khoát giữa
những khuynh hướng khác nhau, xác định lập trường (standpoint) là đứng hẳn về một
phía mà mình cho là hay nhất (take side). Anh có thể cho điều không tốt đối với tôi là hay
tốt đối với anh. Ðược thôi, đó là sự lựa chọn cá nhân của anh (personal choice), điều căn
bản của chế độ dân chủ. Vì anh là một chủ thể, anh có quyền lựa chọn riêng dựa trên hiểu
biết và suy luận của anh. Có nhiều trường hợp, anh có thể đứng trung lập (neutral), nhưng
cũng trong nhiều trường hợp khác, anh phải chọn một, chỉ một mà thôi; ví dụ giữa Cộng
sản và Tự do, không có con đường trung dung.
Thái độ Chính trị (Behaviour):
Sự ra đi của một triệu đồng bào miền Bắc vào Nam năm 1954, sự vượt thoát của
hàng triệu đồng bào miền Nam sau 1975 dù qua bao hiểm nguy trên biển cả, trăm phần
chỉ có một phần sống, là biểu hiện thái độ chính trị với chính quyền Cộng sản. Trong các
trại giam, anh em ta làm việc cầm chừng, miễn cưỡng hay phá hoại ngầm cũng là biểu
hiện thái độ chính trị. Nói chung, đã có ý thức và lập trường là phải có thái độ. Thái độ có
khi cần biểu lộ tích cực, có khi tiềm ẩn qua sự chịu đựng nhưng bất phục mà Cộng sản
thường gọi là “nín thở qua sông.”
Nhiệm vụ Chính trị và Hoạt động Chính trị (Obligation and Activities):
Ðây là điểm then chốt gây nhiều tranh cải nhất. Thông thường, người ta hiểu hoạt
động chính trị là tham gia các đoàn thể. đảng phái, đấu tranh vào chính quyền dành cho
mình quyền lực. Nhu cầu quyền lực (Need for Power) là tất yếu cũng như nhu cầu hiển
đạt của cá nhân (Need for Achievement). Trong sinh hoạt tại các quốc gia dân chủ, luôn
luôn có những Chính đảng (Political Parties) và những Ðoàn thể áp lực (Pressure Groups/
Interest groups). Chính đảng có tính cách toàn dân, là tập hợp những người có chung
khuynh hướng chính trị nhằm thực hiện ba chức năng chính: Giáo dục quần chúng, đấu
tranh dành quyền lực, và thực thi chương trình hành động của mình. Ðoàn thể áp lực hay
còn gọi là đoàn thể quyền lợi, đại diện cho quyền lợi nhóm, thành phần xã hội, không có
mục tiêu dành chính quyền, mà chỉ áp lực tranh đấu cho quyền lợi cá biệt của tập thể
mình. Tại Mỹ, ta thấy có những đoàn thể lớn như các Công đoàn đại diện cho quyền lợi
từng loại công nhân, đến các hội nhỏ như hội săn bắn, câu cá... Họ vận động (lobby) với
lập pháp tại các cấp để đòi hỏi cho mình những quyền lợi. Có khi quyền lợi đó chỉ là sự
thoải mái trong vấn đề giải trí thôi. Nhưng dù ít dù nhiều, các hội đoàn cũng rất có ảnh
hưởng trong các cuộc tranh cử hành pháp, lập pháp các cấp.
Ngay cả khi không đứng trong một đoàn thể nào, cũng là một sự biểu hiện thái độ
chính trị; và khi đã lên tiếng về một vấn đề nào, thì đó là một hành động chính trị. Chính
Một Thời Áo Trận 33
đảng hoạt động qua việc tuyển mộ, tổ chức, giáo dục chính trị cho đảng viên và quần
chúng. Vì thế phải có cương lĩnh sắc bén, có kỷ luật cao độ. Ðoàn thể thì tập họp trên cơ
sở nội quy, có chương trình gọn nhẹ và hạn chế.
Cựu Quân Nhân và Chính Trị
Khi còn trong
quân ngũ, chúng ta
thường nghe kêu gọi
rằng quân đội không
làm chính trị. Ðiều đó
có nghĩa rằng tập thể
quân đội không phải
là một chính đảng để
ra tranh quyền, ứng
cử vào các chức vụ
hành pháp, lập pháp.
Vì quân đội là công
cụ của quốc gia để
bảo vệ lãnh thổ, giữ
gìn an ninh cho dân
chúng. Quân đội hoàn
toàn đứng ngoài, hay đứng trên hết thảy mọi đảng phái. Dù đảng nào cầm quyền, Ðại
Việt, Cần Lao, Dân Chủ, quân đội vẫn tuân hành mệnh lệnh của nguyên thủ quốc gia mà
theo hiến pháp là Tổng Tư Lệnh Quân Đội. Quân đội không làm chính trị là không một ai
có thể nhân danh quân đội ra tranh cử, cũng như quân dội không đề cử ai đại diện mình
trong các cuộc bầu cử. Quân đội đứng ngoài mọi tranh chấp quyền lực với các đoàn thể,
đảng phái. Quân đội không theo thuyết Tam Dân của Quốc Dân Đảng, chẳng theo thuyết
Dân Tộc Sinh Tồn của Đại Việt, mà chỉ có một lý tưởng chung là phục vụ Tổ quốc và
Dân tộc. Bất cứ quân đội nào cũng phải có một ý thức chính trị rõ rệt. Ðó là ý thức dân
tộc; và phải thi hành một nhiệm vụ chính trị, đó là bảo quốc an dân. Trong thế tranh chấp
Quốc Cộng, quân đội khẳng định lập trường chính trị của mình là đứng về phía dân tộc
chống chủ nghĩa quốc tế, đứng về hữu thần chống vô thần, đứng về đạo lý truyền thống
chống lại lý thuyết phi nhân. Ngoài việc dũng cảm chiến đấu nơi chiến trường, quân đội
phải lo thu phục nhân tâm, đấu tranh địch vận kêu gọi cán binh cộng sản quay về với
chính nghĩa quốc gia; tự củng cố để chống lại binh vận cộng sản vốn dùng mọi thủ đoạn
vừa khủng bố, vừa mua chuộc, gài bẫy để ép buộc quân sĩ ta theo chúng.
Trong những quốc gia đang phát triển, quân đội đảm nhiệm vai trò quan trọng hơn
hết các thành phần khác; vì quân đội là một tập hợp có tổ chức, có kỷ luật, bao gồm
những thành viên ưu tú, trẻ trung. Quân đội thu nhận được trình độ kỹ thuật cao, nắm giữ
chìa khoá của khoa học kỹ thuật tân tiến. Hơn nữa quân nhân là những người đầy nhiệt
huyết, biết hy sinh, có lòng dũng cảm, có tinh thần cách mạng cao độ. Vì thế, khi tình thế
đòi hỏi quân đội phải đứng ra lãnh nhiệm vụ lãnh đạo đất nước. Ðiều này đã xảy ra tại
Một Thời Áo Trận 34
Ðại Hàn, Thái Lan, Hồi quốc, Việt Nam... Tự quân đội như thế đã mang bản chất chính
trị. Vì vậy, quân đội ta mới thành lập Tổng Cục Chiến Tranh Chính Trị với các sĩ quan có
trình độ văn hoá, xã hội cao để nắm vai trò tác động tinh thần trong các đơn vị, đối phó
với cộng sản trong cuộc chiến tranh mang màu sắc ý thức hệ. Không may ta bị thua ván
cờ do sự tráo trở của đồng minh, để đất nước lọt vào tay bọn quỷ đỏ. Nhiệm vụ chúng ta
không thể dừng lại. Trong trại tù, hay khi ra ngoài xã hội đầy rẫy xấu xa của Cộng sản,
anh em quân nhân vẫn không ngừng đấu tranh. Tự bản thân là nung rèn ý chí bất khuất,
đấu tranh chống lại cái lạnh, cái đói, thèm khát để không đầu hàng giặc. Xa hơn là động
viên nhau, thương yêu đùm bọc, chia xẻ cho nhau để cùng nhau chống chỏi qua ngày
tháng dài khổ đau, tủi nhục. Xa hơn nữa là khi tiếp xúc với quần chúng, giữ gìn tư cách,
lập trường, làm sánh tỏ chính nghĩa quốc gia, vạch trần thủ đoạn bỉ ổi của cộng sản.
Ngày nay, định cư trên đất tạm dung khắp nơi trên thế giới, chúng ta khẳng định
mình không phải là loại di dân kinh tế, tha phương cầu thực. Chúng ta vì hoàn cảnh đất
nước phải tị nạn tại hải ngoại, lúc nào cũng ngóng về quê hương, góp phần gián tiếp hay
trực tiếp cho phong trào đấu tranh dành lại chủ quyền. Ðiều này không những đúng cho
cựu quân nhân, mà còn đúng cho tất cả những ai bỏ nước ra đi từ sau ngày quốc hận 30-
4-1975. Chúng ta không những còn nhiệm vụ với tổ quốc dân tộc, mà còn nhiệm vụ với
đất nước tạm dung, nơi mà một phần chúng ta, hay con cháu chúng ta sẽ nhận làm quê
hương mới. Ðối với tổ quốc Việt Nam, chúng ta - ngày nay có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc - lẽ nào lại làm ngơ trước cảnh cùng cực của nhân ta ta còn ở lại bên kia bờ đại
Một Thời Áo Trận 35
dương đang từng ngày quằn quại trong đau thương tủi nhục. Chúng ta lẽ nào quên hình
ảnh những bà mẹ tuổi đã già mà hàng ngày phải làm quần quật kiếm miếng ăn. Chúng ta
lẽ nào quên được hàng triệu trẻ em không được đến trường, phải lang thang đầu đường xó
chợ lượm phế phẩm từ các đống rác để nuôi thân. Bao em đã phải sa vào giới lưu manh
cướp giật. Chúng ta lẽ nào quên các thiếu nữ Việt Nam xinh tươi không có tương lai mà
phải bán mình cho bọn nhà giàu mới, bọn ngoại nhân, bọn Việt kiều phản động. Ai dửng
dưng trước cảnh khổ đau của đồng bào, chiến hữu, bạn bè, thân nhân thì không xứng
đáng làm người. Chúng ta không còn đủ sức lực đóng góp vào các phong trào phục quốc,
thì hãy góp phần đấu tranh cho nhân quyền, hay ít ra không làm gì để nuôi sống thêm cái
chế độ phi nhân tàn bạo Cộng sản. Nhiệm vụ chúng ta còn là giáo dục con cái hướng về
quê hương, mong có ngày đem sở học về xây dựng lại quê hương quá điêu tàn... Biết bao
điều mà chúng ta không cần phải tham gia đoàn thể nào cũng có thể làm được cho một
Việt Nam trong tương lai. “Ðừng chê việc nhỏ mà không làm.” Ðối với Hoa Kỳ, nơi đã
rộng lòng cưu mang cả triệu dân Việt; thì đối lại ta phải làm việc. đóng thuế. Ðã đóng
thuế, chúng ta lại có quyền hưởng phúc lợi khi khó khăn và quyền góp ý kiến cho chính
quyền tốt hơn lên. Muốn thực hiện hai thứ quyền nói trên, ta phải tham gia vào sinh hoạt
chính trị địa phương. Chỉ vài chục năm trước đây thôi, người da đen và Latino còn bị kỳ
thị bởi luật pháp của người da trắng. Do sự đấu tranh bền bỉ, mà ngày nay họ được bình
đẳng. Xã hội Hoa Kỳ dân chủ thật đấy, tự do thật đấy, nhưng cái guồng máy thư lại
khổng lồ khó bảo đảm được mọi sự hoàn chỉnh. Chúng ta không những đấu tranh để “có
được” mà còn đấu tranh để “duy trì” điều có được. Tại sao các trường học có chương
trình song ngữ cho học sinh Latino, tại sao có tỷ lệ cho dân da đen vào đại học, mà dân ta
với số lương gần 15000 người tại Austin, với tỷ lệ từ 15% đến 30% tại một số trường
trung học, tiểu học, lại không đòi cho được chương trình song ngữ? Tại sao chúng ta
không có nhân viên cảnh sát Việt Nam để bảo vệ an sinh của người Việt, tạo nhịp cầu
giữa cư dân và chính quyền? Ðó là những vấn đề chính trị địa phương mà dân ta hầu như
ít quan tâm đến. Luật chơi dân chủ Hoa kỳ là “Cho và Lấy” (give and take), muốn có
quyền lợi, phải đóng góp, phải lên tiếng. Ði bầu là một sự “cho” có hiệu quả lớn, chúng
ta nhớ rằng đôi khi cử tri phải quyên góp tiền để ủng hộ cho ứng cử viên mình chọn. Có
thế, khi họ đắc cử, mình mới yêu cầu họ giải quyết vấn đề của mình nêu ra. Hãy nhớ
chính cựu tổng thống George Bush đã nói rằng cộng đồng Việt Nam không đủ mạnh để
áp lực chính quyền Mỹ về các vấn đề Việt Nam. Một sự kết hợp, một thư thỉnh nguyện,
một giờ đi bầu, một dollar đóng góp là những hành vi chính trị cần thiết để tự bảo vệ lấy
quyền lợi chính đáng của mình. Ðó, làm chính trị là như thế, anh em cựu quân nhân
không nhất thiết phải nắm vai trò tiên phong trong sự nghiệp quang phục quê hương, mà
có thể góp phần nhỏ nhoi của mình qua việc tương trợ anh em mới qua, anh em có khó
khăn trong đời sống. Ðoàn kết nhất trí là hai điều kiện lớn nhất hiện nay của những người
từng chiến đấu chung chiến hào, tạo được tiếng nói có trọng lượng để hổ trợ cho các
phong trào đòi Cộng sản Hà Nội trả lại quyền sống cho dân tộc Việt Nam
Austin 1993
Một Thời Áo Trận 36
Vì em, anh làm lính Nhảy Dù
Từ sân trường Ðại học CTCT nơi ngọn đồi thấp cuối dường Võ Tánh, nhìn qua
bên kia đồi là trường nữ trung học Bùi thị Xuân. Mỗi sáng thứ hai, liên đoàn sinh viên sĩ
quan chỉnh tề trong quân phục tiểu lễ, cờ kiếm lấp lánh trong ánh nắng mai, nối hàng tiến
ra vũ đình trường làm lễ chào cờ. Thì phía bên kia đồi, cũng lũ lượt từng đoàn các cô nữ
sinh tha thướt trong những chiếc áo dài màu tím đang líu lo trò chuyện trên đường vào
lớp học.
Có lẽ vì những bông hồng tươi tắn bên kia mà bao chàng trai CTCT trước khi trở
thành tân sĩ quan, đã tự thao dượt những màn “nhảy dù” ngoạn mục mà sau những phút
hân hoan gặp gỡ người đẹp, thường kết thúc bằng những màn phạt dã chiến hay những
ngày lạnh lẽo trong phòng giam khinh cấm. Các đội viên của đơn vị Dù này đặc biệt là
hoạt động riêng lẽ, không ai biết ai trong cùng đơn vị, cũng chẳng có người chỉ huy!!!
Tôi cũng là một trong những SVSQ thuộc tiểu đội (hay trung đội?) “Nhảy dù” nổi
tiếng ở trường. Nhưng may mắn ít khi để dù sa vào tay kẻ địch là các “hung thần” cán bộ.
Một phần là do lối đánh du kích rất táo bạo, vào những giờ giấc bất ngờ nhất, hoặc xuất
Một Thời Áo Trận 37
quân từ những vị trí rất hở mà lại kín đáo vô cùng. Nhưng phải ghi công các bạn cùng
trung đội đã bao che trong những lần điểm danh cuối ngày trước khi tiếng kèn buồn ngân
nga đưa các sinh viên vào giấc ngủ sau những giờ học tập căng thẳng.
Cuối tháng 4 năm 1967, anh em khoá 1 Sĩ Quan Hiện Dịch Chiến Tranh Chính Trị
được chuyển về trường sau 5 tháng học căn bản bộ binh tại Thủ Ðức. Ngôi trường sơ sài
những căn nhà gỗ mái tôn. Những con đường rải đá dăm gập ghềnh nắng bụi mưa bùn.
Chỉ có độc một bin đing hai tầng làm Bộ Chỉ Huy của trường là nguy nga đồ sộ mà thôi.
Hình như lúc đó chưa có hàng rào kẽm gai phòng thủ. Phía sau trường, gần dãy nhà gỗ
của Trung đội 6 là một dãy nhà của các quân nhân cơ hữu có gia đình, nơi tối tối, chúng
tôi kéo xuống thưởng thức tô bún bò cay nóng hoâc những cuốn chả giò dòn tan. Từ đây,
các chàng nhảy dù tập sự xuất phát sau giờ cơm chiều. Rẻ phía trái dọc theo chân đồi
4648 là con đường dẫn ra chùa Linh Sơn. Các chàng thường đón xe lam hay đi bộ ra phố;
hay dừng lại quán Tuổi Ngọc uống cà phê, nghe nhạc. Từ Công Cẩn là người nhảy
“saut” đầu tiên ngay tuần đầu tiên sau khi nhập trường. Có lần dù không bọc gió, Cẩn đã
được Chuẩn Úy Trần Đình Thản “ưu ái” hộ tống về trường. Anh Thản, lúc đó là cán bộ
Ðại đội A, chạy Honda có Cẩn chạy bộ theo sau rất nhịp nhàng. Sau đó dĩ nhiên là những
màn dã chiến ngoạn mục trước ông cán bộ “Du Thản Chi” mặt sắt lạnh lùng.
Khi những vọng gác với những cái tên rất nên thơ mọc lên quanh trường cùng
những lớp hàng rào kẽm gai dày đặc được giăng ra, thì việc trốn ra phố có phần khó khăn
hơn nhiều. Nhất là khi việc điểm danh đêm lúc 10 giờ trở thành thông lệ.
Tôi thường trốn ra đi từ chiều thứ sáu sau cuộc thanh tra doanh trại của cán bộ đại
đội. Gói gọn bộ quân phục dạo phố, nón két, đôi giày da thấp cổ vào trong chiếc túi vải;
tôi khoác lên người bộ chiến phục hoa rừng, nón bê rê xanh màu lá rừng, và phủ bên
ngoài là chiếc áo lạnh dã chiến. Làm bộ đi tha thẩn dạo chơi, tôi lần đến phía bên sau căn
nhà làm văn phòng Khối CTCT ở gần cổng chính. Nơi đây có một đoạn hàng rào khuất
kín mà tôi đã cắt một lổ vừa đủ chui người ra. Ðậy phần cửa sổ kẽm gai này xong, tôi lăn
người xuống chân đồi. Thế là ung dung đi ra đến đầu đường đón xe lam về nhà bạn gái
tôi gần nhà thờ chính toà Dalat.
Ðêm Dalat, dù rằng vào mùa hè, cũng se se lạnh. Còn gì thú vị hơn là cùng người
yêu, tay choàng tay, thả bộ trên con đường dọc theo bờ hồ Xuân Hương, nhìn sương mờ
giăng giăng trên mặt hồ. Từ sân cù cỏ xanh non mơn mỡn đến những con đường viền
những bông hoa rực rỡ sắc màu. Ai đã khéo đặt những mỹ danh rừng Ái Ân, hồ Than
Thở, thung lũng Tình Yêu... mà mỗi nơi không thể không ghi dấu nhiều mối tình lãng
mạn, thành đạt trong hạnh phúc hay tan vỡ trong đau đớn muôn vàn. Ngày xưa Từ Thức
phải đi vạn dặm mới đến cõi Thiên thai “nơi hoa xuân không hề tàn, nơi bướm xuân
không hề ngại, nơi tình xuân không hề nhạt phai”. Ngày nay, chàng trai Võ bị hay Chiến
tranh Chính trị chỉ cần liều mạng một chút đã đã có thể vi vút đến non Bồng để được
“chốn đây em xin dâng chàng trái đào thơm.”
Tối khuya, trở về từ quán phở Tùng nổi tiếng hay nhà hàng Thủy Tạ cất trên hồ
Xuân Hương, chui vào trong lớp chăn ấm trong vòng tay người tình, đôi lúc cũng thấy âu
lo. Chẳng biết giờ này trong trường, có ai phát hiện sự vắng mặt của mình hay không.
Ðiểm danh tối do các cán bộ Ðại đội đảm trách. Họ không đếm đầu người, mà chỉ kêu tên
Một Thời Áo Trận 38
tuần tự từng người, từng tiểu đội. Tôi đã có Nguyễn Mạnh Vỹ sẵn sàng hô “có” giùm. Và
dưới ánh đèn 60 watts mờ mờ bên hông nhà ngủ, trước một đám lố nhố những SVSQ co
ro trong bộ áo nhái, thì đố ai mà nhìn cho rõ được cái anh chàng hô “có” kia có phải đúng
là cái người đang được gọi tên không.
Sáng thứ bảy, nếu không có lệnh phạt tập thể, thì sẽ có một nửa quân số được xuất
trại đi phố chơi cho đến chiều. Nửa còn lại sẽ đi vào ngày chủ nhật. Tôi thường chờ ngày
đại đội mình đi phép mới chường mặt ra phố. Thế là an toàn một trăm phần trăm. Lỡ xui
gặp phải cuối tuần cả tiểu đoàn bị phạt cấm trại, thì mình cứ như ngồi trên lò lửa. Thầm
đoán chuyện gì đang xảy ra trong khuôn viên nhỏ bé của ngọn đồi 4648. Thôi thì cứ mặc.
Dù hình phạt có ghê gớm đến đâu cũng chỉ thoáng qua trong ưu tư của những kẻ đang
say đắm hưởng thụ hạnh phúc ái tình. Như anh chàng hoàng tử si tình trong câu chuyện
Vườn Ðịa Ðàng của Hans Christian Andersen dám đánh đổi ngàn năm cuộc sống cho một
giây phút thần tiên này “If it were to be everlasting night to me, a moment like this were
worth it.”
Từ khi có khoá 2 vào trường chia sẻ những phiên gác đêm, các anh lính dù khoá
một nay đường hoàng đi ra cổng chính mà không lo đàn em làm khó dễ. Những đêm ứng
chiến tại trường Bùi Thị Xuân hay chùa Linh Sơn, đài phát tuyến đã tạo cơ hội tốt cho
những tân binh gia nhập vào binh chủng Dù ngày càng đông đảo. Vã lại sắp đến ngày tốt
nghiệp nên các cán bộ cũng tỏ ra dễ dãi hơn. Gần như quán Tuổi Ngọc đêm nào cũng tràn
ngập các anh chàng CTCT. Anh Thản, Tịnh, Quý có đi qua trông thấy thì cũng giả bộ tai
ngơ mắt nhắm thôi.
Thế là tôi cứ mỗi tuần ra đi từ chiều thứ sáu và chỉ trở về trường vào sáng sớm
tinh mơ ngày thứ hai, ngồi thu mình giữa những cần xé bánh mì sau thùng xe GMC hoả
thực. Một lần, tôi về trường lúc tiểu đoàn bất ngờ có lệnh đi học chiến thuật bên trường
Võ Bị. Xe bánh mì vừa dừng trước nhà phạn xá, đã thấy các anh em lỉnh kỉnh ba lô súng
đạn leo lên đoàn quân xa chờ lãnh phần ăn sáng là chuẩn bị khởi hành. Tôi ba chân bốn
cẳng nhảy vội xuống xe bất kể có sĩ quan hay SVSQ cán bộ nào trông thấy hay không.
Quơ vội các thứ nào dây nịt đạn, áo quần trận, giày vải đi rừng, nón sắt súng đạn cho vào
tấm Poncho và leo thoắt lên xe của trung đội mình. Thu mình trong một góc xe, tôi bắt
đầu thay áo quần giày vớ, bọc lưới nguỵ trang vào nón sắt và thở một hơi dài khoan khoái
thấy mình thoát được đại nạn.
Còn chừng vài tuần nữa là đến ngày mãn khóa; tôi đang bị nhốt trong cái toa lét
bên hông nhà bếp. Án phạt 15 ngày cho tội dù không bọc. Ðỗ Minh Hưng lúc này làm
SVSQ an ninh, ngày hai bữa đem dĩa cơm muối vào cho tù ăn. Nhưng khi nào tôi cũng
khám phá phần cá thịt dấu bên dưới do một chú khoá hai liều lĩnh nào đó. Tôi không còn
nhớ đã quen với Hoàng Hưng Nam (khoá đàn em) trong trường hợp nào. Nam hằng đêm
đã ném vào phòng giam một sợi dây chão lớn cho tôi leo ra; bởi vì cái toa lét không có
trần nhà. Thế là trong lúc cán bộ đinh ninh anh tù đang nằm co ro dưới sàn nhà vệ sinh,
thì anh ta đang đường hoàng ấm êm trong căn phòng hủ hỉ với người đẹp mà anh ta sẽ
mang theo về Sư đoàn 5 Bộ binh nửa tháng sau đó.
Một Thời Áo Trận 39
Tôi không biết chính xác có bao nhiêu chàng CTCT làm rể Bùi Thị Xuân. Nhưng
chỉ riêng tại địa bàn Houston, mỗi lần có đại hội các “em” Bùi Thị Xuân, là thấy có ít
nhất một bàn đầy các chàng rể CTCT. Vui thay, cái duyên này tương đối bền vững dù sau
bao nhiêu năm chinh phụ mỏi mòn chờ chồng đang chiến đấu cam go ngoài biên ải, hay
đến cả thập niên lao nhọc trong các trại tù Cộng sản sau năm bảy lăm. Năm ngoái, nhân
ngày đại hội Bùi Thị Xuân 2001 tại Houston, trong vòng quen biết đã nhận mặt được
năm anh. Bốn thuộc khoá một, một người khoá hai. Dù tuổi đã xế chiều, các anh trai
CTCT vẫn hào hoa, lịch lãm cử người trao tặng các em những bó hoa hồng rực rỡ. Thậm
chí có anh còn cả gan lên cất giọng oanh già để hát những bài tình ca. Cứ như sống lại
thời hoa mộng 33 năm về trước trên đất Ðà Lạt sương mù.
Mà cũng vui thay, các “em” dù phận gái chuyên chuyện bếp núc trong nhà, vẫn luôn bày
tỏ cái lập trường chống Cộng rất tích cực mà các em đã bị lây từ bên ngọn đồi đối diện.
Một Thời Áo Trận 40
Anh Đi Chiến Dịch Diên Hồng
Ba Tháng Với Những Chiến Sĩ Nông Thôn
Khoảng ba chục tân sĩ quan vừa tốt nghiệp khoá 3/68 trường Bộ Binh Thủ Đức và
sáu sinh viên sĩ quan khoá 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị đang tập họp đông đủ tại
hội trường Tiểu Khu Quảng Trị chờ nhận Sự Vụ Lệnh để đến các chi khu công tác trong
ba tháng với các quân nhân Địa Phương Quân và Nghĩa Quân vùng Hoả Tuyến.
Từ trường Mẹ ở Đà Lạt, chúng tôi được C-130 chở về Thủ Đô và sau đó đến
trường Bộ Binh nhằm lúc khoá 3/68 vừa mãn khoá. Gần như tất cả Sinh Viên Sĩ Quan
khoá 1 tham dự Chiến Dịch Diên Hồng, ngoại trừ một số nhỏ ở lại trường để làm cán bộ
huần nhẫn khoá 2 mới từ các Trung Tâm Huấn Luyện đưa về.
Hơn hai năm văn ôn võ luyện ở thành phố sương mù, chúng tôi háo hức chờ đợi
một ngày nắng đẹp đầu năm để quỳ xuống sân Vũ Đình Trường nhận lãnh bông mai vàng
trên cầu vai và trách nhiệm thử thách lớn lao của những sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị
đầu tiên trong Quân Lực được đào tạo một cách quy củ cũng như được trang bị khá đủ
những kiến thức về chính trị xã hội cấp đại học.
Năm 1968, đánh dấu bằng chiến thắng cuộc Tổng Công Kích Mậu Thân do Cộng
quân phát khởi trên toàn quốc. Quân lực ta đã loại khỏi chiến trường miền Nam hơn 80%
Một Thời Áo Trận 41
quân số chủ lực và địa phương địch. Cả một hệ thống hạ tầng cơ sở địch bị tiêu hủy vì lộ
diện trong trận Mậu Thân. Quân Lực VNCH đang trên đà thắng lợi, làm chủ hầu hết các
chiến trường và có khả năng thay thế Quân Lực Hoa Kỳ trên các chiến trường 4 Vùng
Chiến Thuật.6
Nhưng thay vì loan những tin tức chiến thắng của Đồng Minh, bọn truyền thông
phản chiến Hoa Kỳ chỉ khai thác các điểm thất lợi và xuyên tạc rằng Quân Lực Mỹ Việt
đã bất lực về phòng thủ, để cho địch tấn công đồng loạt trên toàn lãnh thổ. Thế là chiến
thắng quân sự của chúng ta, trước mắt công luận Hoa Kỳ, trở thành sự thất bại, yếu kém.
Tổng Thống Hoa Kỳ Lyndon B. Johnson đã phải điên đầu trước những làn sóng phản đối
của quần chúng và áp lực của Quốc Hội đòi hỏi Hoa Kỳ sớm chấm dứt sự can thiệp vào
chiến cuộc Việt Nam, đem con em của mình ra khỏi cái vùng đất xa xôi bên kia bờ đại
dương đầy rẩy những kinh hoàng chết chóc. Cả hai phía Hoa Kỳ và Bắc Việt đều ở thế
phải thương thảo để giải quyết cuộc chiến, mà các nỗ lực đã bắt đầu từ tháng 5 năm 1968.
Chính Phủ Hoa Kỳ đè nặng áp lực trên Chính Phủ VNCH yêu cầu chúng ta phải tham dự
hoà đàm như là một trong 4 thành viên tham chiến. Trong lúc đó, Việt Nam Cộng Hoà
không thừa nhận Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam như một thực thể chính trị, mà coi
Cộng Sản Hà Nội mới là một đối thủ. Do đó, rất nhiều lần Thống Nguyễn Văn Thiệu đã
tuyên bố chỉ nói chuyện với Hà Nội mà thôi. Điều này đã đưa đến sự bế tắc của Hoà Đàm
Paris. Về sau, qua nhiều lần thương thảo, đã có sự nhượng bộ cho 4 thành phần tham dự
Hội Nghị Paris gồm có Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hoà, Bắc Việt và bọn Giải Phóng.
Nhưng lần này lại nảy sinh ra một vấn đề khác: 4 phái đoàn sẽ ngồi như thế nào, trong tư
cách 4 phe hay là hai phe?
Người Mỹ, dường như đã quên kinh nghiệm về mưu toan thủ đoạn của Cộng Sản
trong Hội Nghị Bàn Môn Điếm (1953-1954) giải quyết chiến tranh Triều Tiên, họ không
xem việc sắp xếp chỗ ngồi như là một ẩn ý gì quan trọng. Ngoài việc sử dụng ngôn từ trí
trá để có thể giải thích tùy hoàn cảnh, Cộng Sản còn quan tâm đến những hình thức tưởng
không mấy quan trọng; nhưng đối với chúng, có thể là công cụ tuyên truyền lừa bịp dân
chúng. Việc chúng ta quan tâm đến sự lựa chọn hình dạng chiếc bàn bị phía Mỹ coi là
gây phiền nhiễu. Phiá VNCH chọn chiếc bàn dài để hai phe tham chiến – VNCH và Bắc
Việt - ngồi hai bên, trong lúc các phái đoàn Mỹ và Mặt Trận ngồi chung với đồng minh
của họ. Phe Bắc Việt thì muốn loại VNCH như thành viên chính thức, mà cho rằng phe
Giải Phóng là đại diện nhân dân miền Nam, đối đầu với Hoa Kỳ.
Tuy thua đậm về quân sự, nhưng bọn Cộng Sản Bắc Việt và bọn côn đồ Giải
Phóng Miền Nam chắc chắn sẽ lợi dụng nội tình rối ren của Hoa Kỳ để mặc cả trong các
phiên họp tại hoà đàm Paris. Để chuẩn bị tinh thần và tranh thủ sự đồng tình ủng hộ của
quân nhân và quần chúng trong việc VNCH chấp thuận tham gia đàm phán, Tổng Thống
Nguyễn Văn Thiệu đã tái khẳng định lập trường Bốn Không7, dứt khoát phải đàm phán
6 Tổn thất của Cộng quân: 85000 bị giết hoặc bị loại hẳn ra khỏi vòng chiến trong hai chiến dịch Xuân Hè. Riêng tại
Huế có 2500 Cộng quân bị giết và khoảng 2500 khác chết khi triệt thoái khỏi thành ph Huế. 7 Không liên hiệp với CS. Không hoà giải, hoà hợp với CS. Không nhượng đất cho CS.Không trung lập.
Một Thời Áo Trận 42
trong thế mạnh, không nhân nhượng chút nào cho bọn Cộng Sản xâm lươc. Do đó, song
song với các hoạt động dân vận thông tin dân sự, Tổng Thống ra lệnh cho Bộ Tổng Tham
Mưu đưa các toán công tác chính trị về tận vùng nông thôn hoạt động “ba cùng”8 với
binh sĩ Địa Phương và Nghĩa Quân cũng như thực hiện dân vận trong các cấp xã ấp, quần
chúng nông thôn.
Mục tiêu của Chiến Dịch Diên Hồng là giải thích lập trường dứt khoát của chính
phủ và tác động tinh thần quân sĩ địa phương để họ vừa chiến đấu bảo vệ thôn làng một
cách hữu hiệu vừa thu phục nhân tâm không cho kẻ địch xâm nhập lôi cuốn.
Đích thân Tổng Thống VNCH đã đến hội trường của Trường Bộ Binh chủ tọa lễ
xuất quân rầm rộ chưa từng có trong các lần chiến dịch. Chúng tôi thấy tầm quan trọng
được đắt ở một mức độ rất cao, và thâm tâm rất hãnh diện được góp mặt trong một chiến
dịch lịch sử.
Các sĩ quan tham gia chiến địch được chia thành khoảng 45 đoàn. Mỗi đoàn do
một sĩ quan kỳ cựu hướng dẫn chịu trách nhiệm một Tiểu Khu hay Đặc Khu. Mỗi đoàn sẽ
có một số toán tuỳ theo con số chi khu trực thuộc tiểu khu. Toán có 4 người, do một
SVSQ/CTCT làm trưởng toán và 3 tân sĩ quan khoá 3/68. Họ sẽ phối hợp với các Chi
Khu để được đưa đến tận các đại đội Địa Phương Quân và các Trung Đội Nghĩa Quân
hoạt động.
Các quan lớn trong Bộ Tổng Tham Mưu quên mất một điều rất tế nhị là: trong lúc
các toán viên là sĩ quan (tuy mới mang cấp Chuẩn Úy), thì người trưởng toán chỉ là
SVSQ (dù sắp ra trường mang cấp Thiếu Úy). Không có một huấn thị nào về việc chúng
tôi sẽ mang cấp hiệu gì để chỉ huy mấy ông sĩ quan; chúng tôi đã tự giải quyết lấy. Có
anh khiêm tốn mua hai cái Omega9 gắn lên cổ áo; có anh bạo hơn, đeo một bông mai; vài
anh cứ giữ nguyên cấp hiệu alpha của SVSQ.
Tôi bắt thăm trúng một chi khu nào đó tận miệt Sa Đéc; nhưng may mắn hoán
chuyển cho một người bạn để về Chi Khu Đông Hà là quê nhà của tôi. Dù ở vùng tuyến
lửa đầu của Tổ Quốc, Chi Khu Đông Hà may mắn ít chiến sự, vì đó là một thị xã phồn
thịnh, lại được đặt bản doanh của Sư Đoàn 3 Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và Trung
Đoàn 2 thiện chiến nhất của Sư Đoàn 1 Bộ Binh. Nơi đây có một phi trường dã chiến
nhưng bận rộn không thua gì phi trường Đà Nẳng. Nếu trí nhớ của tôi không đến nỗi tồi,
thì Chi Khu Đông Hà chỉ có một Đại Đội ĐPQ đóng ngay tại bờ Bắc của Cầu Đông Hà,
trên đường Quốc Lộ 1 đi ra khu Phi Quân Sự ở Bến Hải. Tôi không nhớ rõ con số các
Trung Đội Nghĩa Quân ở các xã là bao nhiêu.
Trước năm 1964, tổ chức quân sự của tỉnh đặt dước quyền một Phó Tỉnh Trưởng
Nội An vừa kiêm luôn chức Tỉnh Đoàn Trưởng Bảo An. Các vị này thường là cấp Đại Úy
chính quy được biệt phái. Chủ lực của tỉnh là Bảo An Đoàn, và Dân Vệ Đoàn thoát thai
các lực lượng Bảo Chính Đoàn (Bắc Việt), Nghĩa Dũng Đoàn (Nam Việt) và Việt Binh
Đoàn (Trung Việt), và trực thuộc Bộ Nội Vụ. Tiêu chuẩn theo học Sĩ Quan Bảo An thấp
8 Ba Cùng: Cùng ăn, cùng ở, cùng làm việc
9 Cấp hiệu Chuẩn Úy là Omega (Ω), thường gọi đùa lá cái quai chảo
Một Thời Áo Trận 43
hơn tiêu chuẩn của Sĩ Quan Trừ Bị. Tuy cùng học một học trình và thời lượng như nhau,
nhưng tân sĩ quan Bảo An ra trường mang cấp Thiếu Úy trong khi sĩ quan Trừ bị ra cấp
Chuẩn Úy. Họ mang một hoa thị 8 cánh màu bạc trên nền xanh lá cây. Trang bị từ quân
phục đến vũ khí, lương bổng đều kém xa quân chính quy. Bù lại thì các chiến sĩ Bảo An
phục vụ tại quê nhà, không phải chịu chiến trận như các đơn vị Bộ Binh.
Ngày 7-5-1964 Bảo An Đoàn được chuyển thành Địa Phương Quân, thuộc Bộ
Quốc Phòng. Ngày 12-5-1965, Dân Vệ Đoàn thành Nghĩa Quân, cũng thuộc Bộ Quốc
Phòng. Sắc lệnh số 161/SL/CT ngày 22-5-1964 chính thức sáp nhập Địa Phương Quân
và Nghĩa Quân vào Quân Lực VNCH. Chính Phủ VNCH thành lập các Vùng, Khu Chiến
Thuật,Tiểu Khu, ặc Khu, Chi Khu. Từ đó, các vị Tỉnh Trưởng là quân nhân, cấp Trung
Tá hay Đại Tá và kiêm luôn chức vụ Tiểu Khu Trưởng. Cấp số Tiểu khu tương đương
cấp Lữ Đoàn. Tổ chức, phiên chế của ĐPQ không khác mấy các đơn vị chính quy; chỉ có
Nghĩa quân là còn mang sắc thái cũ.
Tâm lý dân chúng thường coi nhẹ binh chủng Địa Phương Quân, do họ thoát thai
từ Bảo An Đoàn vốn kém cỏi về nhiều phương diện. Nhưng những năm dài chiến cuộc đã
chứng minh sự sai lầm này. Đã có nhiều đơn vị Địa Phương Quân sát cánh chiến đấu
cùng Chủ Lực Quân, tạo nên nhiều chiến tích vang dội. Họ là những người canh giữ phố
phường, làng mạc để cho chủ lực rảnh tay hành quân diệt địch trong các vùng núi non,
rừng rậm.
Những năm 1965-1966, khi tôi còn làm việc cho Cố Vấn Foster của Cơ quan
Chống Khủng Bố tại Quảng Trị, chúng tôi đã nhiều lần đi thăm các đơn vị địa phương,
gặp nhiều cấp chỉ huy Nghĩa Quân rất xuất sắc, táo bạo. Họ rành rọt từng đường đi nước
bước của du kích Cộng Sản; họ biết hết những bí ẩn lý lịch của từng người trong xã. Và
đặc biệt, tinh thần chiến đấu của họ rất vững vàng. Thiếu Tá Vũ Đức Vọng, xuất thân từ
hàng Hạ Sĩ Quan Bảo An, theo học khoá sĩ quan đặc biệt. Năm 1965, khi còn Thiếu Úy,
ông làm Chỉ Huy Trưởng Trung Tâm Huấn Luyện Lê Văn Vu của Lực Lượng Biệt
Chính. Chúng tôi gặp ông nhiều lần, biết ông bản lãnh và có tài chỉ huy, óc tổ chức. Cố
Vấn Foster nói với tôi rằng ông Vọng rất có tương lai trong binh nghiệp. Quả thế, cuối
năm 1968 khi tôi trở lại Quảng Trị trong Chiến Dịch Diên Hồng, ông đã là Đại Úy
Trưởng Khối Chiến Tranh Chính Trị Tiểu Khu. Ông đã làm các toán viên Diên Hồng
thán phục ngay trong cuộc tiếp xúc đầu tiên với giọng nói hùng hồn, đầy sức thuyết phục
và một kiến thức về chính trị vững vàng.
Tôi có duyên với ông, trong gần 4 năm cuối cùng ở trại tù khổ sai Xuân Phước A-
20, tôi lại gặp ông. Anh em chia sẻ nhau từng miếng đường, hại muối. Gia đình ông
nghèo, ở xa, không thăm nuôi tiếp tế. Nhưng ông vẫn giữ tư cách, khí phách hơn người,
luôn luôn đứng thẳng trước cường quyền. Ông là một tấm gương rất tốt để chúng tôi học
hỏi, sống xứng đáng là một quân nhân QLVNCH giữa vòng lao lý, cùm kẹp, khủng bố
của địch. Chúng tôi thật lòng kính phục và yêu mến ông.
Toán của tôi có ba anh Chuẩn Úy: Võ Trung, Lê Văn Nở, và Nguyễn Vâng.
Trung và tôi là bạn thưở thiếu thời, đều có nhà ngay ở thị xã Đông Hà. Vâng thì có nhà ở
Quảng Trị; chỉ có Nở người miền Nam. Tôi đưa Nở về ở nhà mình, có Mẹ tôi lo cơm
Một Thời Áo Trận 44
nước. Địa bàn Chi Khu Đông Hà không rộng, các xã chỉ quanh quẩn chừng năm mười
cây số quanh thị xã. Do đó, chúng tôi thường đi đi về về trong ngày đèo nhau trên hai cái
xe Honda. Đầu tiên là Đại Đội Địa Phương đóng ngay cầu Đông Hà do một Thiếu Úy
người Nam chỉ huy. Sau đó là lịch hoạt động đến từng trung đội Nghĩa Quân. Chúng tôi ở
với mỗi trung đội vài ba ngày. Binh sĩ của chi khu có một số biết tôi. Vì thế, việc “ba
cùng” với họ rất dễ dàng. Họ mời luôn cả dân làng đến cùng tham dự rất đông và hào
hứng. Sau những buổi sinh hoạt học tập, họ mạnh dạn nêu lên câu hỏi rất mộc mạc, đơn
giản; có lẫn cả những chuyện tâm tình riêng tư. Và chắc chắn thế nào cũng có những bữa
cơm đạm bạc mang màu sắc địa phương cùng chai rượu trắng thật nồng. Người dân vùng
Quảng Trị thường có ý thức chính trị khá cao, và có lòng trung thành với lập trường của
mình; dù họ theo bên nào.
Tuần lễ thứ ba, chúng tôi được Chi Khu yêu cầu tham dự một cuộc hành quân
thanh lọc kéo dài hơn mười ngày ở một xã xôi đậu phiá tây bắc thị trấn. Trong khi các
đơn vị của Trung Đoàn 2 BB của Trung Tá Vũ Văn Giai bất ngờ bao vây và hành quân
vòng ngoài để giữ an ninh để nội bất xuất ngoại bất nhập; Chi Khu chịu trách nhiệm tập
trung dân xã lại để ban 2 kín đáo thanh lọc, ban 5 lo sinh hoạt dân vận, chính trị. Đại khái
công việc thanh lọc gồm có kiểm soát đối chiếu tờ khai gia đình, thẻ kiểm tra, thẻ cử tri
để tìm những kẻ khả nghi. Đối với thanh niên và trung niên thì có điềm chỉ viên che mặt
để nhận dạng ai là du kích hay là người có liên hệ với du kích. Dân xã phải đem mùng
mền chiếu gối vào ở trong khu thanh lọc trong suốt cuộc hành quân. Ban 4 Chi khu lo
lắng việc ăn ở chu đáo cho họ, trong khi ban 5 đưa đoàn văn nghệ vào giúp vui mỗi đêm.
Chuẩn Úy Lâm Điểni, trưởng ban 5, vừa ăn nói nhỏ nhẹ, vừa ca hay, là cái đinh của
những đêm vui đó. Điển và tôi là bạn học cùng lớp hồi Tiểu Học. Anh trắng trẻo, hiền
lành thường bị bọn học trò ba gai ăn hiếp. Tôi đã có lần đánh lộn với anh Phước để bênh
bạn khi Phước cầm ngược cây bút để anh Điển vừa ngồi xuống thì bị đâm vào mông đến
chảy máu. Phước sau này cũng đi lính thứ dữ và đã hy sinh đâu đó khoảng 1970.
Thoạt đầu, những ngày chúng tôi mới đến trình Sự Vụ Lệnh, Thiếu Tá Chi Khu
Trưởng Đông Hà có vẻ e ngại chúng tôi như là những tai mắt của Trung Ương về dòm
ngó tình hình địa phương. Vì thế, ông tiếp đón rất trịnh trọng nhưng dè dặt. Thật sự,
chúng tôi chỉ có nhiệm vụ báo cáo hàng tháng trong cuộc họp ở Tiểu Khu, và báo cáo về
trung ương các hoạt động và thành quả tạm thời của toán cũng như báo cáo về tinh thần
binh sĩ. Hoàn toàn không có chuyện xen vào nội bộ các chi khu, khác với chiến dịch Kiện
Toàn Đơn Vị của khoá 4/CTCT tại vùng 4 Chiến Thuật. Sau này thì quan hệ của chúng
tôi thật tốt đẹp và cởi mở.
Những ngày sinh hoạt với anh em Nghĩa Quân, tôi được về những vùng quê xa;
học hỏi thêm nhiều nếp sinh hoạt văn hoá của đồng bào mình, biết thêm nhiều cảnh sắc
mà thiếu thời không có dịp khám phá. Xin nhắc lại trong biến cố Tết Mậu Thân, Đông Hà
và các vùng quê lân cận đã được hoàn toàn yên ổn, trong khi Thị Xã Quảng Trị bị hang
ngàn Cộng Quân xâm nhập đánh tận vào Cổ Thành nơi có Bộ Chỉ Huy của Tiểu Khu.
Những trận đánh lớn giữa Cộng quân và các chiến sĩ Trung Đoàn 1 Bộ Binh đã xảy ra
Một Thời Áo Trận 45
kéo dài nhiều ngày. Cộng quân đã gánh chịu tổn thất rất cao vì không nắm được địa thế,
đi lạc vào các ổ phòng ngự kiên cố của ta.
Cũng như hầu hết các chiến dịch, chương trình của chính phủ, khi phát pháo ra
quân thì rầm rầm rộ rộ, cờ xí rợp trời, nhạc trống vang lừng. Nhưng khi kết thúc thì âm
thầm, lặng lẽ.
Đâu đó khoảng tháng 3, 1969, chúng tôi kết thúc chiến dịch Diên Hồng. Các
trưởng toán ghé qua Tiểu Khu nhận mỗi người một bằng Tưởng Lệ cấp Lữ Đoàn rồi lên
xe về Huế chờ chuyến bay trở về đơn vị. Không một lễ bế mạc cho ra hồn, tương xứng
với lúc xuất phát có cả Nguyên Thủ quốc gia chủ tọa. Không rõ các báo cáo của chúng
tôi có được đem ra một ủy ban nào đó trong Bộ Quốc Phòng (hay chí ít tại Tổng Cục
Chiến Tranh Chính Trị) nghiên cứu để tìm phương lược cải thiện hay bị xem như đống
giấy vụn đi vào quên lãng.
Dù sao, qua ba tháng sinh hoạt với các chiến sĩ Địa Phương Quân, Nghĩa Quân,
cũng cho chúng tôi một cách nhìn lạc quan, thiện cảm với những người lính vốn bị nhiều
thiệt thòi trong toàn bộ Quân Lực VNCH.,
Cuối năm Canh Dần, Feb-2011
Một Thời Áo Trận 46
Tìm Lại Chính Mình
Tôi là người lính bộ binh. Người lính với đầy đủ tư chất và tác phong của một
người cầm súng chiến đấu nơi những tuyến lửa đầu gian khổ và hiểm nguy. Bởi yêu đời
lính nên tôi đã rời ghế nhà trường tòng quân khi tuổi thanh xuân chưa hưởng được một
ngày trọn vui cho đúng ý nghĩa của nó. Mà trong hàng triệu thanh niên thời bấy giờ có
mấy ai vui trọn vẹn khi đất nước đang chịu cảnh khói lửa lầm than; khi đồng bào từ thành
thị đến thôn quê miền Nam hàng ngày đêm đối diện với bom rơi đạn lạc, với khủng bố
điên cuồng của bọn cộng quân. Mười tám tuổi, tôi trốn mẹ tìm cách tham gia quân ngũ.
Cơm sấy nhà binh khô sặc quanh năm thay cho những thức ăn ngon ngọt mẹ tự tay đi chợ
mua nấu cho vừa ý con. Giường nhà binh võng đu đưa giữa rừng mưa dầm nắng cháy
thay cho chiếc giường êm đêm đêm mẹ kê gối giăng mùng. Ra đi bỏ mẹ già nơi một thị
xã nhỏ miền Trung để tìm an bình cho mẹ quê hương. Tôi đã quá mê những bài thơ đầy
hùng khí của Nguyễn Công Trứ, khích động chí trai tang bồng hồ thỉ. Tôi cũng tâm đắc
bài Tống Biệt Hành của Thâm Tâm mà lời thơ vừa bi hùng, vừa tráng lệ.
“Ly khách, ly khách con đƣờng nhỏ,
Chí lớn chƣa về bàn tay không.
Thì không bao giờ nói trở lại,
Ba năm mẹ già c ng đừng trông.”
Một Thời Áo Trận 47
Ấy thế là chàng trai hai mươi tuổi tròn vừa mới giã từ quân trường Ðà Lạt sương
mờ để nhập mình vào cuộc chiến mà ngày về thì mong manh cũng như sương khói miền
cao. Một sáng tháng năm ba mươi năm10
về trước, tôi thấy mình cùng hai bạn đồng khoá
lắc lư trên chiếc xe GMC tiếp tế từ hậu cứ Trung đoàn 8 Bộ binh ra đáo nhận đơn vị. Ba
chàng tân sĩ quan áo quần còn thẳng nếp, giày saut11
bóng loáng bám chặt vào thành xe
nhìn ra xa hai bên con đường bụi mù đất đỏ miền Ðông. Con đường thì gập gềnh, lỗ chổ
những hố bom. Hàng chục năm hình như chỉ có xe nhà binh qua lại. Hai bên, thuốc khai
quang đã mở rừng ra một khoảng trống dễ đến trăm mét. Cây chồi đã mọc lên chen chúc
với các cành cây gẩy gục do bom đạn chém nát. Nơi đây những năm giữa thập niên 60,
Cộng quân đã mở những trận đánh đẫm máu; để lại trong quân sử những địa danh Hố Bò,
Bời Lời, Chánh Lưu, Nhà Ðỏ. Ði xa thêm về hướng Bắc là Ðồng Xoài, Bù Na, Bù Ðốp..
Cứ nghe đến là đã rợn người. Thảo nào thanh niên Sài Gòn đi lính xa đâu thì xa, chứ về
Sư Ðoàn 5 là ngại lắm. Chẳng phải họ nhát sợ cái chết binh đao. Vì quân nhân thì dù đơn
vị tác chiến nào cũng ngày đêm đối diện với hiểm nguy. Chẳng qua cái đơn vị mang phù
hiệu ngôi sao trắng trên nền xanh lá cây rừng gánh chịu một chiến trường nặng nề nhất
miền Nam, chỉ sau Trị Thiên của sư đoàn 1 bộ binh mà thôi. Chiến Khu D chạy xuyên
qua gần hết lãnh thổ sư đoàn là con đường chiến lược của Cộng quân, là sào huyệt của
bọn côn đồ Mặt trận Giải phóng Miền Nam. Vì thế, người lính sư đoàn 5 chạm địch gần
như thường ngày; mà toàn là những trận long trời lỡ đất; những trận mà tổn thất lên đến
hàng trăm người một lúc.
Năm tôi về Sư đoàn, là lúc đơn vị đang được vực lên nhờ những cấp chỉ huy can
trường và đảm lược. Sư đoàn đã được 6 lần tuyên dương công trạng trước quân đội.
Người lính hãnh diện mang trên vai dây biểu chương màu Bảo Quốc Huân Chương (màu
đỏ) thấm bao máu đồng đội anh hùng.
Ða số các cấp tiểu đoàn trưởng ngày đó thuộc các khoá 18, 19 Võ Bị Đà Lạt. Vũ
Huy Thiều lên Ðại úy sau chiến thắng Phước Quả, nắm tiểu đoàn 4 nơi tôi bắt đầu thực
hành chiến sự. Tiểu đoàn đang dừng quân ở Chánh Lưu. Tôi được phân bổ về Ðại đội 16
đi cà nhỏng theo các trung đội một thời gian cho quen mặt lính. Mấy tay chuẩn uý trung
đội trưởng cùng lưá tuổi tôi nên chúng tôi mau chóng thân thiết. Ngày đó các đại đội đã
có sẵn các đại đội phó. Chúng tôi trở thành dư thừa trong đơn vị. Chẳng có quân, thì
chẳng có quyền, chẳng thể có uy. Nhưng chiến trường không để cho chúng tôi thất vọng
lâu. Sau trận ác chiến giải vây cho đơn vị bạn bị phục kích trên chặng đường từ Bù Na đi
Phước Bình, Ðại Uý Thiều12
đã gửi gấm chúng tôi lại cho hai vị Tiểu đoàn trưởng mới
(Thiếu Tá Nguyễn Nhơn, Đại Úy Trần Quốc Dõng) với nhiều lời khích lệ. Khi tôi từ
Tổng Y viện Cộng Hoà trở về tái nhậm, Tiểu đoàn đang do Đại Úy Nguyễn Chí Hiền13
chỉ huy. Dương Quang Bồi14
đã coi Đại Đội 16. Tôi theo Trung Uý Nguyễn Hữu Ðát học
nghề một vài tháng sau cũng nắm luôn Đại Đội 15. Nhơn được cho về coi Đại Đội Chỉ
Huy. Chỉ còn 14 dành cho Ðèo Chính Tường khoá 24 Thủ Ðức. Bốn chúng tôi thân
10
Bài này viết vào năm 1999. 11
Combat boots (giày da), để phân biệt với jungle boots là giày vải đi rừng. 12
Đại Úy Thiều hiện ở Dallas (không rõ cấp bậc cuối cùng của ông) 13
Thiếu Tá Hiền hiện ở Pháp 14
Dương Quang Bồi hiện ở Sài Gòn
Một Thời Áo Trận 48
thương nhau như anh em ruột thịt. Ba đưá kia chưa vợ con, bồ bịch rãi rác khắp hang
cùng ngõ hẹp từ Bến Cát, An Lộc, Lộc Ninh, Bình Dương, Sài Gòn. Nhưng hành quân về
là dồn nhau lên một chiếc xe jeep kiếm chỗ nhậu nhẹt một chầu lúy tuý mới chịu cho tách
riêng hú hí với tình nhân. Ngày đó có chị Hai chủ một tiệm cà phê lịch sự ở ngay sát chợ
Bình Dương rất thương chúng tôi. Lần nào kéo nhau về chị cũng đãi cho một bữa ăn
ngon. Chúng tôi coi chị như chị ruột, và cư xử tự nhiên như các em út trong gia đình.
Ngày đó có quán Tam Nương gồm ba chị em xinh xắn mà biết làm đồ nhậu trứ danh. Ðến
đó lúc nào cũng gặp đủ giang hồ hào kiệt của Sư đoàn; từ các quan to ở Bộ Tư Lệnh
xuống đến các anh em Trinh Sát ngang tàng. Ðời lính bộ binh tuy vậy không thiếu chất
thơ. Những chiều dừng quân góc rừng xa vắng, vặn nhỏ chiếc radio bỏ túi nghe nhạc hậu
phương, thứ nhạc nào cũng hay, ca sĩ nào cũng mến. Dù rằng khi còn thời học sinh, rất
kén nhạc, kén ca sĩ; chỉ mê được giọng ca Thái Thanh, Châu Hà, Kim Tước, Quỳnh
Dao... Rừng miền Ðông không có hoa cài thép súng thi vị như lời nhạc của Lam Phương,
mà chỉ có chập chùng bóng đêm đe dọa; chỉ có mìn bẫy giăng đầy, hố bom sâu hun hút
với những xác thú vật, xác người đã thối rữa. Ôi những con người “Sinh Bắc Tử Nam”,
những người cũng trẻ tuổi như chúng tôi, cũng để lại trên miền Bắc nghèo nàn người mẹ
già, đàn em nhỏ hay người vợ trẻ quê mùa để ra đi và bỏ xác trên chiến trường miền Nam
xa xôi. Chắc chắn họ gian khổ hơn chúng tôi; và cũng chắc chắn họ chết uất ức và đau
đớn hơn chúng tôi, vì họ đã chết cho những tham vọng ngông cuồng của những người lừa
bịp họ.
Ðã nói đến bộ binh, thì không phải
anh hùng chỉ là những anh sĩ quan chỉ huy.
Tôi thương những lính khinh binh. Họ là
những người luôn luôn đi đầu trong hành
quân. Họ là người đầu tiên đón nhận viên
đạn rình mò từ góc bụi nào đó, hay cũng là
người đầu tiên đạp lên chiếc mìn để rồi
tung xác lên và chỉ còn nắm thịt vụn. Họ là
những người mỗi đêm phải mở mắt, chong
súng canh gác hàng giờ cho đồng đội. Họ
chỉ ăn cơm sấy và khô sặc ngày hai lần,
hoặc nướng hoặc xé ra nấu canh chua lá
vang. Họ là những người chia nhau từng
ngụm nước lấy từ hố bom còn tanh mùi
thịt rữa. Họ mang nặng trên lưng hành
trang, vũ khí hàng chục kí lô, lặn lội mỗi
ngày hàng chục cây số đường rừng, để khi
dừng quân là khom lưng đào hào, đắp hố.
Tôi có những người lính nông dân miền
Tây chân chất và ít học. Có anh em cả năm
chưa gặp gia đình một lần, có anh chết
chưa hề thấy mặt đứa con mới đầu mới
sanh, có anh vợ cưới chưa nồng hương lửa
Một Thời Áo Trận 49
đã vĩnh viễn ra đi. Nhiều anh trở về với tấm thân tàn phế, được sống là điều may mắn
nhưng chưa hẳn hạnh phúc. Nếu may ra gặp người vợ thủy chung nuôi nấng thì cũng suốt
đời mang mặc cảm phế nhân làm gánh nặng cho gia đình.
Chúng tôi đánh nhau quanh năm. Trận này chưa hồi sức thì lại tham gia vào trận
mới. Tuy tổn thất coi là nhẹ so với tổn thất của địch, nhưng mỗi cái chết đều mang lại
những cảm xúc khó lường. Lính cũ một ngày một vơi, những khuôn mặt mới xuất hiện,
lại phải hướng dẫn, kềm cặp cho dạn chiến trường.
Trận Trapeang Lak bên xứ Chùa Tháp xa xôi nuốt trọn quân số gần trăm người
của Tiểu đoàn sau hơn một tuần giao tranh khốc liệt. Tiểu đoàn bị đánh bất ngờ, không
kịp trở tay; phải tan tác sau hơn một giờ cầm cự. Trong vòng vây kín của quân thù,
Tường, Nhơn, Tòng, Mâu cùng vài quân sĩ nằm trong hố chiến đấu kẹt lại giữa hàng hàng
lũ lũ của bọn lính trung đoàn 174, Công trường 7. Bọn quạ đỏ đi lùng xục khắp chiến địa
còn ngổn ngang xác chết, súng đạn để kết liễu cuộc sống của những người lính miền Nam
bị thương không thoát ra kịp. Chúng tôi đã tập hợp lại hàng ngũ. Sống chết cũng trở lại
giải vây cho các bạn. Bồi bị thương, giải ngũ. Tòng về vùng 4. Tôi về Không quân. Mâu
bỏ xác đất Snuol.
Hai năm sau, có dịp từ căn cứ Không Quân Phan Rang về Sai Gòn công tác, tôi
mua mấy chai rượu quá giang trực thăng tải thương ra tận chiến trường thăm các bạn.
Tường, Nhơn đều làm Tiểu đoàn trưởng. Uống với nhau hàn huyên trọn một đêm giữa
rừng; xung quanh là quân thù dày đặc. Thế mà chỉ vài tháng sau, lần lượt nghe tin Tường,
rồi Nhơn đều hy sinh. Ðúng là cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi. Ngay cả dàn đại đội phó,
trung đội trưởng của chúng tôi ngày trước, cũng chẳng mấy ai còn sống sót.
Tôi kể chuyện bộ binh, mà không quên rằng những anh em đồng đội các binh
chủng khác cũng chiến đấu hào hùng gian nan có khi còn gấp bội. Họ là những người
lính Dù, Biệt Ðộng, Thủy Quân Lục Chiến hay Lực Lượng Ðặc biệt, mà binh nghiệp đã
là sự lựa chọn dứt khoát. Họ quả cảm và thiện chiến hơn người lính bộ binh. Tôi cũng
không quên những người lính Ðiạ Phương, Nghĩa Quân âm thầm nơi các làng mạc xa. Họ
cũng chết cái chết anh dũng, họ cũng nhận lãnh những vết thương cắt đứt phần thân thể
dấu yêu. Nói chung người lính miền Nam đã rất anh hùng và rất xứng đáng với các tượng
đài ghi công; xứng đáng với tất cả những lời khen tặng của hậu phương. Dù cuộc chiến
đã kết thúc mà phần thua thiệt về phía chúng ta, ngày nay không ai có thể phủ nhận cái lý
tưởng mà chúng ta đã hy sinh là cao quý. Lý tưởng đó đã thắng thế trên gần nữa địa cầu
chôn vùi chủ nghĩa Cộng sản phi nhân. Lý tưởng đó cũng đang được thắp sáng tại đất
nước thân yêu, chờ ngày chôn vùi bọn cầm quyền ngoan cố.
May mắn sống còn qua cuộc chiến, mỗi lần đi qua nghĩa trang quân đội trên
đường Sài Gòn Biên Hoà, nhìn bức tượng Tiếc Thương mà lòng se lại. Hình ảnh ngườI
lính ngồi, cây súng kê ngang đùi, khuôn mặt trầm buồn, u uẩn. Như phảng phất đâu đây
hương hồn của các anh em chúng ta, những chàng trai tuổi đời vừa chớm đã hy sinh cả
cuộc sống cho sự tồn vong của miền Nam tự do. Cả thế hệ thanh niên chúng tôi dã lên
đường, chiến đấu hào hùng như thế đó. Ðã gian khổ, hy sinh như thế đó. Ðã để cho
những kẻ hèn nhát trốn tránh hưởng lợi và bán rẻ miền Nam qua các hành vi lũng đoạn,
tham nhũng, đấu tranh nối giáo cho giặc. Rồi cũng chúng tôi lũ lượt kéo nhau vào các trại
Một Thời Áo Trận 50
tù cải tạo chịu thêm hàng chục năm khổ nhục đọa đày. Ngày ra tù, mấy ai còn giữ lại
được phong thái hào hùng, lanh lẹ ngày xưa!
Cộng sản đã kéo đổ bức tượng Tiếc Thương. Cộng sản đã san bằng khu mộ chiến
sĩ anh hùng. Cộng sản đã lùa hàng trăm ngàn thương phế binh miền Nam ra đường. Anh
em ta phải lê tấm thân tàn phế đi xin ăn, mong chờ lòng thương xót của đồng bào mà
ngày xưa họ đã đổ máu để bảo vệ.
Những người may mắn ra đi, vượt thoát qua bên này bờ đại dương còn lại bao
nhiêu người đang tiếp tục chiến đấu? Bao nhiêu người nhìn nhận chính mình, chứ không
phải bọn Bắc Bộ Phủ, là kẻ chiến thắng trong cuộc chiến tranh vĩ đại mang màu sắc ý
thức hệ của thế kỷ 20. Một ngày không xa, chỉ trong thế hệ chúng ta, những bức tượng
anh hùng Cộng sản sẽ bị kéo xuống, xẻ nát ra lấy đồng đúc làm công cụ phục vụ sản xuất.
Và sẽ thế vào đó những bức tượng người lính Cộng Hoà đã oan ức bị khai tử bởi quyền
lợi của siêu cường.
Dù phải chờ đợi thời gian để tái dựng bức tượng Tiếc Thương, thì tôi cũng không
thể nào quên một bức tượng vô hình mà trong tận cùng trái tim người miền Nam luôn
luôn nuôi dưỡng. Ðó là một tình cảm gắn bó, cảm phục, tiếc thương đối với chúng ta.
Bức tượng đó cũng chính là cái nhìn đã thay đổi của nhiều cán bộ và nhân dân miền Bắc
đối với chúng ta sau những năm dài chiêm nghiệm sự bất lực, ngu dốt của bọn lãnh đạo
Cộng sản.
Hơn 70 năm sau, người Nga lưu vong đã trở về quê hương mình, làm sống lại lá
cờ15
tưởng đã bị chôn vùi vĩnh viễn. Con đại bàng16
lại hiên ngang ngự trị trên tháp khải
hoàn thành phố Berlin. Tại sao không phải là hình ảnh Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên
Vỹ trên thành phố Sài Gòn sau năm 2000 nhỉ?
Nhưng trước hết sẽ là bức tượng được dựng lên tại thủ đô tị nạn quận Cam mà các
giới chức Hoa Kỳ đã chấp thuận dự án với kinh phí lớn lao hơn năm trăm ngàn Mỹ kim.
Chúng ta chắc rất muốn nhìn lại hình ảnh chính mình bên cạnh người lính đồng minh, mà
lịch sử Hoa Kỳ cũng đã có thời quay lưng đem lại cho họ nhiều tủi nhục. Họ đang được
phục hồi trong con mắt, tầm suy nghĩ của quần chúng. Tuy muộn còn hơn không. Chúng
ta cũng có quyền lên tiếng đòi hỏi được trả lại vị trí xứng đáng khỏi những thiên kiến do
chính cơ quan truyền thông Hoa Kỳ đã tạo ra những năm chiến tranh.
Chúng ta hãy nhìn lại chính mình, không mặc cảm tự ti hay tự tôn. Hãy ôn lại quá
khứ anh hùng để đứng vững trong giây phút cuối của cuộc chiến cho nhân quyền, tự do.
Hãy hãnh diện đã là người lính Cộng hoà dù ở phương vị nào, dù ở chiến trường nào hay
dù đã từng phục vụ trong các nghành hậu cứ. Bởi vì chúng ta đứng trong hàng ngũ những
người chân chính đối diện với đoàn quân hung ác mà ngày nay đã hoàn toàn lộ diện chân
tướng.
Rồi có ngày ta về lại đường phố Sài Gòn, đắp lại nắm đất nơi phần mộ các đồng
đội ngày xưa. Rồi có ngày ta bù đắp cho anh em thương phế binh một cuộc sống có nhân
phẩm trong những ngày cuối đời của họ. Rồi sẽ có ngày chúng ta hân hoan gắn lên các
15
Cờ nước Nga có ba sọc ngang đều nhau màu Trắng, Xanh và Đỏ 16
Con Đại Bàng là biểu tượng của nước Đức.
Một Thời Áo Trận 51
góc đường phố thành thị miền Nam tên các anh hùng nghĩa sĩ từ Châu Minh Kiến,
Nguyễn Văn Ðương, Phạm Phú Quốc, đến Lê Văn Hưng,Nguyễn Huy Ánh, Truơng Bá
Ân, Phạm Văn Phú...
Một Thời Áo Trận 52
Đêm Nay Mẹ Không Về
Tiểu đoàn vừa hấp17
xong ở Trung Tâm Huấn Luyện Huỳnh Văn Lương thì có
lệnh hành quân ngay. Lần này thì tăng cường, phối hợp với một Thiết Đoàn của Kỵ Binh
Cơ Giới thuộc Sư Đoàn 1 Bộ Binh Hoa Kỳ (Big Red One). Từ Trung Tâm Huấn Luyện
ở Bình Dương, đơn vị được đoàn xe vận tải GMC đưa thẳng đến quận Trị Tâm (Dầu
Tiếng) và đổ quân ở làng Bến Tranh ở gần khu đồn điền Michelin. Tại đây một đoàn xe
cơ giới bọc thép hàng chục chiếc đã chờ sẵn.
Chúng tôi chia nhau, mỗi Đại đội theo một Chi đoàn. Vì là chỉ huy Trung đội trực,
Chuẩn Úy Phương đắt lính tìm đến đoàn xe đầu tiên và sắp xếp cho mội tiểu đội leo lên
một chiếc M-113. Loại M-11318
là xe chạy xích có bọc thép dày dùng chuyên chở quân,
có thể chạy trên bộ và lội dưới nuớc. Nhưng vì tình hình chiến trường, tất cả quân nhân
đều ngồi trên nóc xe thay vì trên hai dãy ghế trong lòng xe như đã được thiết kế. Trên sàn
17
Tiếng lóng, có nghĩa huấn luyện bổ túc sau một thời gian dài hành quân. 18
Armored Personnel Carrier, được trang bị cho QLVNCH từ tháng 3 năm 1962
Một Thời Áo Trận 53
xe trống rỗng là hai lớp bao cát đầy. Người lái xe cũng ngồi trên mui xe, hai tay cầm hai
cần lái đã được nối dài bằng hai thanh gỗ tròn. Lý do đơn giản là nếu xe chạm phải mìn
chống chiến xa, thì sẽ giảm sự thiệt hại nhân mạng.
Xe chạy qua làng 13 Bis, nơi mà năm 1965, một Trung Đoàn của Sư Đoàn 5 Bộ
Binh bị đánh tan tác do sự lơ là, chủ quan khinh địch của các vị chỉ huy. Trận cường tập
ở đồn điền Michelin được coi là một trong những trận đẫm máu nhất, và là cái cớ để Hoa
Kỳ đưa quân vào miền Nam trực tiếp chiến dấu. Mới tháng 2 đầu năm nay (1969), bọn
Việt Cộng táo bạo đột nhập căn cứ của Lữ đoàn 3, Sư Đoàn 25 Bộ Binh Mỹ lúc nửa đêm,
và đã bị đánh bật ra sau khi để lại hơn hai trăm xác chết.
Hình bên” Bản đồ quân
sự vùng Đồn điền
Michelin (Dầu Tiếng)
Khi xe chạy
ngang qua làng 13 Bis,
nhìn cảnh vật tiêu điều
có vẻ như còn mang dấu
vết kinh hoàng của trận
đánh năm xưa, Phúc chợt
rùng mình nghĩ đến oan
hồn hàng trăm chiến hữu
đã hy sinh. Dù mới ra
trường, chưa một lần cận
chiến, nhưng qua nhiều
phim về chiến tranh, anh
cũng hình dung được sự
tàn khốc của trận đánh.
Những nhát mã tấu vung lên, chém phập xuống ngọt xớt vào các thân người, với tiếng
thét đầy thú tinh rợn người của bầy quỹ dữ và hành động anh dũng cuối cùng của những
chiến binh bị vây kín giữa trùng điệp quân thù. Ngày nay, Sư Đoàn 5 đã lấy lại phong độ
với những cấp chỉ huy trẻ tuổi, có kiến thức, bản lĩnh và gan dạ. Họ đang chủ động trên
chiến trường và quyết tâm trả mối hận năm xưa.
Khi đến làng13, gần suối Cầu Trắc, đơn vị được lệnh dừng quân bố trí và lục soát.
Ấp này có lèo tèo chừng vài chục nóc nhà mái tranh vách đất nghèo nàn. Không
bóng dáng một người đàn ông. Trong khi các xe thiết giáp và bộ binh chia nhau trấn giữ
ở bìa làng và lục soát tìm nơi ẩn náu của du kích, cán bộ Việt Cộng nằm vùng; các quân
nhân Địa Phương Quân của Chi Khu Trị Tâm được lệnh tập trung dân lại để hoạt động
dân vận.
Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Vũ Huy Thiều luôn gọi máy căn dặn các đại đội rất cẩn
thận. Vì trong vùng mà ảnh hưởng địch rất sâu đậm hàng chục năm qua, gia đình nào
cũng có ít nhất một vài người trong hàng ngũ địch. Trong làng không có đàn ông con trai,
mà đàn bà thì cứ mỗi năm một mang bầu. Những đứa trẻ lớn lên đã được cấy lòng căm
Một Thời Áo Trận 54
thù đối với chính quyền miền Nam rất sâu săc. Vì thế, không thể tin một ai từ đứa bé 5
tuổi cho đến bà già đã 80. Hể ai cầm nổi trái lựu đạn hay có khả năng bóp cò đều là một
chiến binh của địch. Phúc đi ra bìa làng, xem xét các trung đội phòng thủ và dặn dò. Khi
đến Trung đội 3 của Chuẩn Úy Phương, gần một căn nhà tương đối khá, thì một cô gái
chừng 17, 18, cao ráo, trắng trẻo và tròn trịa tìm đến lân la trò chuyện.
- Giờ này dân làng đang tập họp trên kia. Sao cô không lên đó?
- Em ở nhà coi mấy con trâu, sợ nó chạy sổng ra rừng.
- Nhà có trâu là khá lắm, có đóng thuế cho du kích không?
- Vùng này yên, có du kích gì đâu anh.
- Vậy chớ mấy anh đàn ông con trai đi dâu hết vậy?
- Mấy ảnh xuống Sài Gòn làm việc hết chọi.
Vừa đi vừa trò chuyện thì đã đến nơi binh sĩ Trung 3 đang lục soát bên trong bên
ngoài một căn nhà tương đối khang trang. Những người lính dùng cây nhọn, xăm xăm
dưới gậm giường trong hai phòng ngủ nhỏ xíu được che ngăn với phòng khách bằng một
tấm màn bông. Sau khi không tìm thấy gì khả nghi, những người lính quay ra đi về phía
vườn nơi có một chuồng trâu lớn. Cô gái bổng tỏ ra luống cuống. Đôi mắt cô cứ nhìn len
lén về phía chuồng, sắc thái bồn chồn thấy rõ.
Cô gái đột nhiên lên tiếng:
- Thiếu Úy nói anh em vào nhà uống chút nước. Để em ra vườn hái mấy trái
đu đủ cắt cho các anh ăn
- Thôi đừng bày vẽ.
- Thiệt mà, em mời mà.
Trung sĩ Khiết theo dõi từ lâu, bỗng nháy mắt ra hiệu cho Phúc
- Ông coi chừng con nhỏ này. Tui thấy nó khả nghi lắm. Đu đủ đâu không
thấy mà toàn trái lựu đạn đó ông!
- Ừ, thấy nó cứ đeo theo tôi. Chắc có gì trong vườn nó.
- Ông để nó tui lo cho.
- Anh làm gì thì làm. Nó còn nhỏ, đừng mạnh tay tội nghiệp. Hù nó chút chút
cho nó khai thôi.
- Ông Thầy yên trí, mười lăm phút là phun ra thôi.
- Anh mà đánh đập nó là tôi cho anh đi luôn đó.
Phúc bảo cô gái đi theo Trung Sĩ Khiết. Cô gái có vẻ sợ hãi, chùn chân lại. Phúc
hỏi khẻ:
- Hỏi thiệt nhen. Có hầm hố gì quanh đây không? Có du kích núp đâu gần
đây không?
- Hổng có đâu Thiếu Úy. Nhà em làm ăn đàng hwàng mà.
- Tôi mà giao cô cho ông Trung Sĩ này thì mệt cô lắm. Cô chịu hổng nổi đâu!
- Em lạy Thiếu Úy. Đừng! Đừng! Em hổng dám giấu gì hết chọi.
- Có hầm dấu du kích ở vườn hay chuồng trâu này không?
- Không! Không đâu mà ông Thiếu Úy!
Cô gái nói, nhưng đôi mắt không hề rời cái chuồng trâu. Cô dõi theo từng cử động
của các anh lính đang xăm hầm, có lúc mặt cô thấy tái nhợt đi. Không còn nghi ngờ gì
nữa, tôi giao cô gái cho Trung Sĩ Nhất Khiết và ở lại cùng đám lính.
Một Thời Áo Trận 55
Trong cái chuồng đang có ba con trâu, vì sợ, đứng tụm lại với nhau ở một góc.
Phân trâu và rơm rạ tạo thành một lớp dày dễ đến cả tấc. Mấy anh lính ngần ngại bước
vào trong chuồng. Họ chăm chỉ, cẩn mật xục xạo từng thước vuông bên trong bên ngoài.
Chỗ nào có dấu vết đào xới khả nghi đều bị chiếu cố tận tình.
Chừng mười lăm phút sau, không thấy gì, Phúc đang tính cho binh sĩ chuyển qua
nơi khác thì thấy Trung Sĩ Khiết dẫn cô gái trở lại.
Lần này, vẻ tươi mát đã biến mất mà chỉ còn một cô gái rủ rượi. Mái tóc và chiếc
áo ướt sủng nước. Khuôn mặt ràn rụa nước mắt. Tay cô cầm chiếc bừa có dãy răng bén
nhọn, hai chân đi xiêu vẹo giữa hai anh lính kẹp hai bên.
Trung Sĩ Khiết tỏ ra khoái chí la lên:
- Chạy đâu cho thoát! Nó khai rồi ông ơi.
- Anh làm gì nó vậy?
- Chút chút thôi mà! Nó nhát lắm, mới hù đã phun ra hết.
Phúc tránh đường cho cô gái đi vào trong chuồng. Cô ngần ngừ vài giây rồi vừa
khóc vừa cào lớp phân trâu ở khoảng góc chuồng. Vừa vặn lòi ra một cái nắp hầm có
khoen móc bên trên.
Một anh lính gạt cô qua một bên rồi rút trái lựu đạn cài bên hông, rút chốt.
Cô gái la lên:
- Đừng ném trái, đừng ném để em kêu họ lên. Anh Bảy ơi, lộ rồi, anh lên đi
không thì họ ném trái nổ đó.
Không có tiếng trả lời.
Phúc đẩy cô gái gần miệng hầm ra lệnh.
- Mở nắp ra.
- Em mở, em mở. Đừng ném trái. Anh Bẩy ơi, em lạy anh, anh lên đi.
- Có mấy người dưới đó ? Hả ?
Cô gái chỉ càng khóc to hơn mà không nói gì. Nhưng khi người lính vừa hé nắp
hầm lên thì có tiếng nói từ bên dưới la to :
- Tui lên đây. Đừng bắn.
- Đưa súng lên trước, trở báng lên trời. Coi chừng, một hành động nhỏ là tao
thả lựu đạn xuống.
Phúc và những người lính khác lùi ra sau, đề phòng ở dưới có thể ném lựu đạn lên.
Giây sau thì thấy một cái báng AK-47 nhô lên, rồi bàn tay sần sùi nắm phần gỗ che nòng,
rồi xuất hiện một khuôn mặt trắng bạch của một người trẻ chừng 25 tuổi. Anh ta leo lên
và đưa tay chịu trói. Phúc để ý thấy anh ta nhìn len lén cô gái ngầm trách cứ. Nhưng cô
né cái nhìn của anh mà rơm rớm nước mắt. Phúc nghĩ bụng : « Chắc vợ chồng bồ bịch gì
đây »
- Còn ai không ?
- Dạ, còn anh Tư nữa.
Người có tên Tư leo lên cùng với một cây AK-47 khác. Cả hai tên đều đeo bên
hông chiếc máy thu thanh nhỏ 4 băng có bọc vải ni lông.
- Ai nữa ?
- Nguời tên Tư liếc qua nhìn cô gái như trao một ám hiệu :
Một Thời Áo Trận 56
- Hết rồi. Chỉ có hai đứa tui.
- Ném lựu đạn xuống. Phúc ra lệnh.
Hạ sĩ Sang ném trái lựu đạn đã mở chốt cầm sẵn trong tay. Một tiếng nổ dữ dội
vang lên. Chờ cho khói tan, Sang leo xuống hầm trong khi hai binh sĩ cầm súng thủ thế
bên miệng hầm.
Bổng từ phía bià làng có một tràng đạn vang lên dòn tan. Trung Sĩ Khiết chạy ra
và trở lại sau chừng vài phút.
- Tụi nó bắn được hai thằng từ bụi cây chạy ra rừng.
- Phải hai thằng này nằm chung hầm với anh không ?
Tên Tư cúi gầm mặt xuống không nói gì. Phúc thuận chân đạp cho tên Tư một cái
vào bụng. Té ra cái hầm có địa đạo thông ra bụi cây gần bìa rừng. Hai đứa chắc phải quan
trọng lắm nên không để bị bắt mà cố chạy trốn.
- Hai thằng đó cấp gì, chức gì ? Địt mẹ mày câm hả ?
- Dạ, bác Sáu Bí Thư và bác Năm Xã Ủy.
- A ! Trúng mánh rồi. Trung sĩ Khiết kêu ông Phương vào đây giùm tui.
Phúc chụp ống liên hợp máy C-25 báo cáo ngay về cho Trung Úy Lộc. Xong đem
cô gái và hai tên tù binh ra chỗ Tiểu đoàn bộ. Nơi đây đã có các sĩ quan ban 2 Chi Khu
đang làm việc thanh lọc. Trung Úy Lộc cũng vừa tới.
- Tiếc quá, hai thằng cao cấp kia chết thẳng cẳng rồi. Lấy được hai K-54.
Nhìn qua hai tên tù binh đang ngồi ủ rủ. Cô gái cũng ngồi cách đó mấy bước,
khuôn mặt mếu máo và tránh nhìn hai tên Việt Cộng. Phúc động lòng lục túi lấy ra mấy
tờ giấy bạc 100 đồng dúi cho cô gái.
- Cô cầm theo mà chi dùng. Chút nữa Ban Hai Chi Khu hỏi cung, cứ thành
thật trả lời vài bữa họ tha về. Không sao đâu mà lo.
- Em có đưá con nhỏ, Thiếu Úy ơi. Cô oà lên khóc.
- Con của ai ?
- Dạ, cha nó không có ở đây. Đi làm ăn xa
Phúc nghĩ thầm : « Lại làm ăn xa. Chắc chồng nó là một trong hai thằng tù này. »
- Thế đứa nhỏ ai giữ ?
- Dạ, má em. Bả ở đàng kia. Chỗ thanh lọc đó.
- Cô muốn tôi kêu bả lại cho không ? Bả tên gì ?
- Dạ, cho em thấy con một chút và nhắn má em vài câu.
Không muốn chứng kiến cảnh tượng thương tâm sắp diễn ra, Phúc giao cho Trung
Sĩ Hùng mọi chuyện rồi chạy ra xem xác hai tên Việt Cộng gộc.
Chuẩn Úy Phương đã cho lính lục soát hai tử thi, trên tay anh đang cầm một xấp
những giấy tờ lấy từ túi áo của địch. Bên cạnh hai xác chết do nhiều vết đạn là một cái ba
lô con cóc bằng vải kaki màu nâu đựng một số tiền chưa đếm được, nhưng cũng phỏng
đoán chừng cả trăm ngàn. Thằng mang ba lô chắc là kinh tài về thu thuế trong ấp. Anh
Thiếu Úy ban 2 Chi Khu cũng vừa ra tới, ghi ghi chép chép. Anh ta đang muốn nhấc cái
ba lô lên thì Phúc giằng lại.
- Anh không đụng tay vào cái gì ở đây được. Chiến lợi phẩm của tui tôi.
- Các anh chỉ lo hành quân bảo vệ thôi. Tụi tôi làm thanh lọc mà!
Một Thời Áo Trận 57
- Đem lính ra đây mà đánh nhau với chúng nó thì lấy gì cũng được. Anh về
đi, tụi tôi lo ở đây. Anh lo trong kia kìa.
Trung Úy Lộc gọi máy cho Phúc gom hết các chiến lợi phẩm đem về giao cho
Tiểu đoàn.
Khi về dến chỗ Tiểu đoàn đóng quân, Phúc thoáng thấy cô gái đang theo gót hai tù
binh bước lên chiếc xe M113 để được giải giao về Chi Khu. Hai tay cô bị trói quặt ra sau.
Cô đưa đôi mắt buồn nhìn ngoái lui phía bà mẹ đang bế một đứa bé chừng một tuổi. Cả
hai bà cháu đều khóc rống lên.
Đôi mắt Phúc chạm vào đôi mắt cô gái. Cô gái mím môi, biểu lộ chút oán hờn.
Lòng Phúc chùng lại. Người lính miền Nam phải đối đầu với một địch thủ vừa quỷ quyệt
vừa độc ác trong hoàn cảnh chiến tranh khắc nghiệt ; vì sự lựa chọn giữa sống và chết
phải có những quyết định trái với bản chất của mình, nhưng tấm lòng của họ vẫn không
thể giữ sắt đá vô cảm được. Phúc tự trấn an mình khi nhớ đến hình ảnh hàng ngàn người
bị giặc chôn sống ngoài Huế hồi Tết Mậu Thân. Lại nhớ những hình ảnh bọn Việt Cộng
giết hàng trăm đàn bà trẻ con ở Dak Sun vì họ bỏ chạy không theo chúng.
Thế là chiều nay, bên mâm cơm đạm bạc trong căn nhà có cái chuồng trâu tai ác
kia, sẽ có một đứa bé thiếu bàn tay mẹ đút cơm cho và chẳng biết bao nhiêu tháng nữa bé
sẽ không dựa được hơi ấm từ lòng mẹ trong những đêm đông lạnh buốt như đêm nay.
Cuối năm Kỷ Sửu
January 2010.
Đại đội 15 hành quân trong mật khu Long Nguyên 1970
Một Thời Áo Trận 58
Giác Ngộ Chiến Trường
Chuẩn Úy Tân chụp tay Phúc, kéo giằng xuống, la lớn:
- Nằm sát xuống đi ông nội! Nó pháo vào đấy.
Anh chàng Thiếu Úy mới ra trường còn lính quýnh chưa phân biệt được tiếng đạn
đề pa từ xa. Vừa nằm xuống là Oành! Oành! Oàng!, một loạt cả chục trái đạn cối nổ vang
lên quanh đó. Tiếng miểng đạn rít lên nghe rơn người. Những miểng bằng gang bể ra từ
trái đạn nó lởm chởm sắc bén, dư sức cắt ngang thân người hay chém đứt cổ ngọt xớt.
Việt Cộng bắn trúng vào đội hình quân ta. Tiếng đạn khi sắp đến nghe xình xịt là chắc
chắn nổ ngay mình. Chẳng còn thì giờ mà cầu nguyện nữa đâu. Nhưng khi nào nghe tiếng
rít thì biết đạn sẽ bay qua đầu mình, chỉ lo bị trúng miểng.
Chỉ tay vào cái xóm có lác đác mấy căn nhà tranh trước mặt, Tân nói:
- Bọn tiền sát chúng nó ở trong đó. Dân ở đây không tin được.
- Thấy có mấy thằng đàn ông trong đó?
- Đàn bà con nít gì cũng làm du kích hết, ông chớ coi thường tụi nó mà chết
không kịp trối.
Một Thời Áo Trận 59
Trung Úy Lộc cho lệnh kiểm soát tổn thất rồi di chuyển tiếp. May mà không binh
sĩ nào bị trúng đạn. Anh em lại lục tục lên đường. Các đại đội bạn di chuyển song song
cách đó không xa. Bên này vẫn có thể nghe tiếng lịch bịch của bên kia với những bước
chân nặng nề.
Ấp Nhà Việt này nằm không xa con lộ chính từ Bến Cát chay lên Phú Hoà, rồi đi
vào điạ giới tỉnh Tây Ninh. Nơi đây, bề ngoài vẫn còn vẻ an bình với những chuyến xe đò
chở khách và hàng hoá qua lại. Có những quán hàng nằm ngay mặt lộ, những tiệm may
với các cô thiếu nữ có khuôn mặt xinh tươi khả ái nhưng trong lòng nhiểu màu đỏ hơn
màu vàng. Từ xế chiều trở đi, các viên chức làng xã bắt đầu đạp xe về đồn Địa Phương
Quân của Quận để trú đêm, thì bọn du kích từ dưới hầm hố bí mật bên bờ sông Thị Tính
bắt đầu xuất hiện thu thuế, tuyên truyền, đe doạ những gia đình lưng chừng không theo
chúng triệt để. Có lúc nửa đêm chúng nó bắt dân ra đường đào hố chôn mìn để sáng hôm
sau, thế nào cũng có vài đàn bà trẻ con chết nằm vương vãi trên mặt lộ.
Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng Vũ Huy Thiều cùng đám lòng thòng vừa di chuyển
qua. Ngày hôm qua, sau khi đoàn thiết vận xa đổ quân ngoài lộ chờ lệnh trên, Đại Úy
Thiều vì có gia đình ở tỉnh lỵ Bình Dương không xa, nên ông giao quyền cho Tiểu Đoàn
Phó Văn Bá Sen rồi leo lên xe jeep dọt về thăm vợ. Xe ông vừa khuất bóng thì cả đám
Đại Đội Trưởng cũng ngứa chân, rủ nhau lên cái jeep của ban 3 và dông theo.
Nào ngờ cái thị xã Bình Dương nó nhỏ quá, nên loanh quanh một hồi, các ông bị
Đại Úy Thiều phát giác. Trung Úy Hoà hoảng hồn, kêu cả bọn lên xe phóng bạt mạng về
đơn vị. Khi các ông đến làng, thì chẳng thấy đoàn xe thiết giáp và binh sĩ đâu cả. Lần
theo vết xích chạy sâu thêm chừng hai cây số mới nhìn thấy cả tiểu đoàn đang tập họp
với thiết giáp bọc quanh để bảo vệ. Đại Úy Thiều đứng trước hàng quân, đôi mắt quắc lên
trên khuôn mặt gầm gừ:
- Mạnh quan đi đàng quan, mạnh lính đi đàng lính. Mấy ông lộng quá rồi.
Đám sĩ quan len lén đi về đơn vị mình, cúi đầu nghe la mắng. Phúc cười thầm
trong bụng: mạnh ông, ông đi, mạnh bà, bà chạy.
Đại Úy Thiều và Trung Úy Sen cùng khoá 19 Võ Bị Đà Lạt. Nhờ chiến công trận
Phước Quả, ông Thiều thăng cấp đặc cách lên Đại Úy làm trưởng, ông Sen làm phó.
Trong giàn đại đội trưởng, có Trung Úy Trần Ngọc Hoà tốt nghiệp khoá 20 Võ Bị, coi
Đại Đội 15, Thiếu Úy Lê Văn Bôn (Thủ Đức) coi Đại Đội 14, Trung Úy Nguyễn Quang
Lộc (Thủ Đức) coi Đại Đội 16, Thiếu Úy Quang coi Đại Đội Chỉ Huy.
Các trung đội chia nhau lục soát một hồi, không tìm thấy gì nên được lệnh rút
quân về một điểm xa làng để bố trí trú phòng qua đêm.
Khi mặt trời tắt hẳn, bóng đêm bắt đầu lan dần xuống. Trung đội 1 chuẩn bị đi
ngược lại để phục kích ở bìa làng, gần những căn nhà mà sáng nay Chuẩn Úy Tân cho
rằng có tiền sát Việt Cộng ẩn náu. Trung Úy Lộc bảo Phúc đi theo cho quen việc.
Đối diện xóm nhà có một con lạch cạn, trên bờ nhiều cây cao che chở. Tân chia
lính ra nằm dọc theo bờ lạch, còn anh và Phúc thì bò lên một bờ đất nhìn thẳng vào căn
nhà. Dưới ánh sáng heo hút của ngọn đèn dầu đặt trên bàn giữa phòng chính, Phúc thấy
hai người đàn ông đang ngồi trò chuyện. Một chị đàn bà bế đứa con trên tay đi lui đi tới.
Một Thời Áo Trận 60
Có một nhà sư mặc áo nâu cũng tham gia trò chuyện. Không thấy triệu chứng gì khả nghi
cả.
Nhìn qua ống nhòm riết cũng mỏi mắt, Phúc lăn ngửa ra gối đầu trên cánh tay,
ngước nhìn bầu trời cao đầy sao. Có những ngọn gió hiu hiu mát dễ gây buồn ngủ. Phúc
tự nhủ thầm: “Phải canh thức, không được ngủ.” Nhưng vẫn không chống chỏi được,
Phúc thiếp đi một lúc cho đến khi bàn tay Tân níu vào vai anh lắc nhẹ. Tân thì thào:
- Nó chớp đèn làm hiệu! Quan sát kỹ nhé!
Đúng thế, ngọn đèn giữa nhà sáng lên rồi mờ đi vài lần rồi tắt hẳn.
Lúc đó đã quá nửa đêm. Chiếc kim ngắn trên đồng hồ dạ quang chỉ quá con số 12.
Chừng vài phút sau, bỗng nghe tiếng xào xạc từ hướng đông của điểm kích. Chú mục vào
màn đêm, nhờ chút ánh sáng mờ ảo của các vì sao, Phúc thấy mờ mờ bóng hai người
đang di chuyển về căn nhà. Tân thì thầm vào tay Hạ Sĩ Nghĩa:
- Chuyền tai bọn em út chuẩn bị. Bảo thằng Sang đại liên sẵn sàng.
- 61 đây 11, nghe rõ trả lời?
- 61 nghe. Có gì nói!
- Hai con vịt19
bò về mục tiêu, xin cho lệnh!
- Coi chừng nó là tiền tiêu, còn đơn vị theo sau? Có cần lồng đèn20
không?
- Khi nào cần sẽ báo ngay.
Phúc quơ cây M16 chĩa nòng về mục tiêu. Khi bóng hai tên địch đã lọt vào tầm
đạn, Tân cho lệnh khai hoả. Cả chục cây súng cùng nổ một loạt vào hai tên Việt Cộng.
Từ trong căn nhà, nghe nhiều tiếng động và có tiếng súng bắn trả. Những tràng đạn AK
réo bên tai “chóc chóc” đẩy Phúc nằm mẹp xuống. Tân muốn rót M-79 vào nhà. Phúc
cản
- Trong nhà có đàn bà con nít ông Tân ơi.
- Để bắn hoả châu lên rồi tỉa chúng nó.
- Còn ông thầy chùa?
- Thầy bà gì! Việt Cộng đó. Cho nó đi theo bác Hồ luôn.
Tân báo về Đại Đội xin thêm quân chặn phiá sau xóm nhà, nơi bãi tha ma mà sáng
nay đơn vị bị pháo. Dưới hoả lực rời rạc của địch, lính Trung đội 1 bò lên từng bước.
Phúc cũng dò dẫm men theo những hàng cây cho đến khi chỉ cách căn nhà chừng 30 mét.
Hỏa châu được bắn lên. Ánh sáng tỏa ra cả một vùng trời. Phúc nhìn rõ từng chi tiết trong
căn nhà giờ đã trống vắng. Bọn chúng đã rút đi, hay chui xuống một hầm hố bí mật nào.
Trên mặt đất gần đó, hai xác Việt Cộng nằm cách nhau vài mét. Một tên còn cầm chặt
cây AK; tên kia đeo súng lục K54 có vẻ là tên chỉ huy.
Khi những binh sĩ đầu tiên đã đến sát vách nhà, Tân không ngần ngại cho quét một
tràng đại liên vào nhà qua khung của sổ. Không có phản ứng gì ngoài tiếng rên la của
người phụ nữ và tiếng khóc ré của đứa nhỏ.
- Lính cộng hoà bắn dân. Trời ơi, chết tui rồi.
- Câm mồm lại. Nhà chứa du kích còn than van nỗi gì?
19
Ám chỉ Việt Cộng 20
Hoả châu
Một Thời Áo Trận 61
- Du kích đâu mà du kích ? Nhà có giỗ mời thầy về tụng kinh.
- Thầy chạy đâu rồi ?
- Ổng sợ quá chạy mất rồi ! Ai biết ổng chạy đi đâu. Mấy ông bắn vào nhà
tan hoang hết thế này.
- Mụ này già mồm. Này, vỏ đạn AK còn rải rác ngoài sân nhà đây. Chối
đàng nào ?
Trong lúc đó, có tiếng nói của Tiểu Đoàn Trưởng vang lên trong ống nghe
- Để sổng mất mấy thằng rồi. Cho lục soát kỹ xung quanh coi.
- Phải chi không có đàn bà con nít, tôi đã bắn M-79 vào nhà thì xong rồi.
Bỗng nghe nhiều tiếng súng rộ lên từ hướng Đại Đội 14. Tân và Phúc chụp ống
nghe cùng theo dõi.
- Trình Đại Bàng, thịt được ba đứa có cả gậy21
.
- Nó từ bên thằng 16 chạy qua. Còn sót đứa nào không ?
- Chỉ có ba thằng, mà ủa ! có một anh thầy chùa. Em út đang khám xét tử thi.
Không có giấy tờ gì trong người cả.
Các máy truyền tin hoạt động liên tục. Những tiếng bíp bíp, xè xè làm cho không
khí sôi động hẳn lên. Tân khoan khoái thở phào. Trong khi Tân đi lui đi tới quan sát từng
góc nhà, Phúc kiếm một góc nhà ngồi bệt xuống, nhắp ngụm nước cho đỡ khát. Vài
người lính đang canh giữ người đàn bà chờ Ban 2 đến giải quyết. Đứa nhỏ nằm gọn trong
lòng mẹ nó, thỉnh thoảng ré lên khóc.
Đã gần hai giờ sáng, cơn buồn ngủ tan biến đi hồi nào không hay. Muôn trờ tới
hỏi :
- Thiếu Úy có đói không? Ăn tạm chút mì hai tôm nghe?
- Mì đâu sẵn thế?
- Mì tịch thu của Việt Cộng mà!
- Thôi mày ơi. Ăn vậy mang tiếng chết. Không được đâu.
- Ông thầy hiền dữ a! Nó bắn mình từ nhà này, thì cái gì trong này cũng là
chiến lợi phẩm cả!
- Ai dạy mày thế? Đụng đến của dân là mất lòng dân
- Hề hề! Ông bài bản quá ông Thầy ơi. Dân đây là dân ác ôn không hà. Thầy
tin họ có ngày Thầy chết.
Phúc không thèm cãi nữa. Lính tráng dày dạn chiến trường, họ cũng có cái lý của
họ. Anh móc trong túi ra khói Capstan rồi châm lửa đốt một điếu. Hơi thuốc làm anh tỉnh
hẳn lại. Anh mơ màng nhìn theo khói thuốc lơ lững bay lên trần nhà. Phút chốc thằng
Muôn mang đến một tô mì gói nóng hổi.
- Ông Thầy ăn đi cho lại sức.
- Mày hỏi ông Tân có đói, làm cho ổng một tô nữa.
- À! Ông Thầy giác ngộ rồi hén.
Phúc đưa mắt lườm chú lính thân cận:
- Cha mày! Thì đã sao?
21
Súng dài
Một Thời Áo Trận 62
Nhớ Lại Chiến Trường Xưa
Đồng Xoài – Bù Na
Quốc lộ 13 từ Sài Gòn qua Bình Dương, An Lộc, đến Lộc Ninh. Đến căn cứ Alfa
là tiền đồn cuối cùng của Sư Đoàn 5 BB thì vượt biên giới Việt Miên đến thị xã Snuol
thuộc tỉnh Kratie. Qua khỏi thị xã Bình Dương chừng cây số, đường 13 tách một nhánh
tại Ngả Tư Sở Sao để thành Liên Tỉnh Lộ 1322
. Từ đây đi qua các quận Phú Giáo, Đồng
Xoài đến ngả ba Bù Noi thì rẽ làm hai. Qua tây thì đến Phước Bình, tỉnh lị của Phước
Long; sang đông thì chạy lên Ban Mê Thuột.
Đồng Xoài, quận lỵ của Đôn Luân, chỉ cách Sài Gòn 88 cây số. Nơi đây có một
trại Dân Sự Chiến Đấu với một toán Lực Lương Đặc Biệt Việt Nam và nhóm Cố vấn Mỹ.
Quân số chừng một tiểu đoàn. Ngày 9 tháng 6, 1965, đã khởi sự một trận chiến đẫm máu
khi hai Trung Đoàn VC 292 và 293 và một đơn vị thuộc Công Trường 9 Cộng quân đánh
bất ngờ vào quân lỵ và vây khổn quân tiếp viện gồm một tiểu đoàn của Trung Đoàn 7, Sư
Đoàn 5 Bộ Binh23
, Tiểu Đoàn 7 Dù và Tiều Đoàn 52 Biệt Động Quân. Sau mười ngày ác
22
Có một khúc rẽ chuyển thành Quốc Lộ 14 23
Đồng Xoài nằm trong vùng trách nhiệm của Sư Đoàn 5 BB. Nhưng sách báo Hoa Kỳ nêu ra tin tức khác nhau về
đơn vị Bộ Binh; khi thì Sư Đoàn 7, khi thì Sư Đoàn 5.
Một Thời Áo Trận 63
chiến trong thế cài răng lược, quân địch mới rút khỏi quận lị để lại 350 xác chết. Mức tổn
của ta tương đối cao. Lần đầu tiên kể từ khi đổ quân tham chiến, quân Mỹ chịu tổn thất
cao nhất với 7 tử trận, 12 mất tích và 15 bị thương.
Hình trên: Bản đồ quân sự khu vực
Bunard. Trận phục kích diễn ra ở
cao độ 312, phía bắc địa điểm dinh
điền Bunard.
Trên con đường huyết mạch
đi Phước Long xuyên qua khu rừng
nguyên sinh, chỉ có lác đác vài sóc
Thượng. Đường thì không được sử
dụng thường xuyên. Đoạn đường đi
Ban Mê Thuột thì coi như bỏ phế
luôn. Bom đạn cày nát mặt đường nhưng không hề được tu sửa. Cây cỏ từ hai bên đã mọc
lan qua mặt đường lởm chởm những đất đá và miểng đạn. Chỉ có xe làm be và lâu lâu có
xe đò tháp tùng sau những chuyến mở đường của Bộ Binh để cho đoàn công voa chở tiếp
tế cho Phước Long. Thời gian này, Hoa Kỳ bắt đầu xử dụng thuốc khai quang mở rộng
khoảng trống từ con lộ vào thêm chừng 50 mét mỗi bên. Cây be được thợ rừng đốn ngã
để nằm rải rác ở bìa rừng đã được Việt Cộng lợi dụng làm công sự để phục kích các đoàn
xe của ta. Nằm an toàn dưói những súc gỗ có đường kính cả mét, thì chẳng có loại đạn
thẳng hay vòng cầu nào tiêu diệt được chúng.
Gần cuối năm 1969, Tiểu Đoàn 4/8 được lệnh tăng phái cho Thiết Đoàn 1 Ky Binh
để hành quân mở đường từ Đồng Xoài đến Phước Bình, trên một quảng đường dài chừng
hơn 50 cây số. Mỗi đại đội bộ binh cùng một chi đoàn thiết giáp chịu trách nhiệm hơn 15
cây số. Đại đội 16 do Trung Úy Nguyễn Quang Lộc chỉ huy và Chi Đoàn 1 Chiến Xa
chịu trách nhiệm khúc giữa, từ Bunard trở lên hướng Bắc đến gần ngả ba Bù Noi. Đặc
biệt tại Sư Đoàn 5, vào đầu tháng 5, 1969, được bổ sung 39 tân sĩ quan mới ra trường từ
Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt; mỗi đại đội có 2 Đại đội phó: một hành quân và
một CTCT. Anh hành quân thì được ấn định trong bảng cấp số đàng hoàng; còn anh lo về
CTCT thì Bộ Tổng Tham Mưu chưa ghi vào cấp số. Phúc lúc đó là Thiếu Úy Đại đội Phó
CTCT bên cạnh Thiếu Úy Hoàng Ngọc Việt đang thụ huấn gì đó ở Sài Gòn. Các Trung
Đội Trưởng 1, 2, 3, và 4 (vũ khí nặng) tuần tự là các Chuẩn Úy Nguyễn Văn Mâu, Lô
Đức Tân, Nguyễn Văn (?) Phương, và Trung sĩ Nhất người Nùng Vòng A Pẩu. Cũng thời
điểm này, Mỹ còn duy trì ban Cố vấn ở cấp Tiểu đoàn, các cố vấn có khi lặn lội theo đại
đội hành quân để liên lạc xin phi pháo yểm trợ khi cần. Đi theo Đại đội 16 là một Đại Úy
Mỹ còn trẻ, xuất thân trường Sĩ Quan Trừ Bị Fort Benning, có quân vụ chưa tới 4 năm.
Người phụ tá mang máy PRC-25 là Trung sĩ nhất Davidson, người da đen cao lớn vui
tính. Anh Đại Úy Mỹ sặc mùi kỳ thị, tự cao. Khi nói đến chương trình học 4 năm của
trường Võ bị Đà Lạt mà sau khi tốt nghiệp, phải mất thêm hơn ba năm mới lên Đại Úy;
anh ta chỉ vào cái đầu nói rằng vì người Việt Nam có cái óc nhỏ, nên học hiểu chậm. Các
Một Thời Áo Trận 64
sĩ quan trong Tiểu đoàn ghét anh này, nên mỗi khi anh ta theo đại đội nào, thì các Đại
Đội Trưởng làm ngơ, chẳng cung cấp người phụ mang đồ, bắt anh ta tự đào hố cá nhân,
tự làm lều mà ngủ. Khi di hành, dù anh ta than mệt, đuối sức, đại đội vẫn không cho lệnh
nghỉ mà bắt anh ta phải rán lết theo. Sau này, thấm biết điều đó, anh ta có vẻ dịu giọng
lại.
Chúng tôi đóng quân trên ngọn đồi 289 gần một sóc Thượng ở Bù Nard nơi đã có
trại A-344 Lực Lượng Đặc Biệt từ lâu. Ngọn đồi nhìn xuống một con suối nhỏ, nơi các
cô gái Thượng chiều chiều ra tắm giặt. Hình như dân Thượng ở đây thuộc sắc tộc Stieng
mà người Việt ta gọi hỗn là “mọi cà răng căng tai”. Tất cả dân Stieng, từ nhỏ đã dùng đá
để mài hai hàm răng cho đến tận lợi; và xỏ lỗ hai giái tai rồi dùng những miếng gỗ tròn
xuyên qua cho đến lúc nó rộng ra toang hoác. Trong cuốn phim “King Salomon’s Mines”
do nữ tài từ Deborah Kerr và Steward Granger đóng cách đây hơn 60 năm, chúng ta thấy
người dẫn đường da đen đã lôi ra từ cái lỗ khoét rộng ở dái tai một cái hộp tròn, trong đó
đựng kim chỉ. Đủ biết cái lỗ này nó rộng ra sao. Đặc biệt, các cô gái Stieng đều để trần.
Lính tráng chúng tôi rất khoái vào sóc để nhìn lúc các cô đứng giã gạo, hai bầu ngực săn
chắc rung lên rung xuống nhịp nhàng hấp dẫn.
Lúc đầu, các cô chưa biết đến đôi kính mát. Thấy ai đeo kính mát, thì tưởng họ
không thấy gì. Vì thế, khi xuống suối tắm, các cô cởi tuốt tuồn tuột và nô đùa tự nhiên
trong khi đám lính đeo kính cứ ngồi thoải mái dựa gốc cây mà ngắm một cách thích thú.
Sau này, thì các cô kéo nhau đi xa hơn trên thượng nguồn. Chúng tôi phải cấm lính ra
suối vì sợ du kích Việt Cộng mon men bắn sẻ.
Cạnh bên sóc Thượng là một điểm dinh điền lập ra từ thời cố Tổng Thống Ngô
Đình Diệm quy tụ chừng trăm dân gốc đâu đó từ các tỉnh miền Trung. Những gia đình
này không uống nước suối, có lẽ sợ bị bệnh sốt rét. Mỗi gia đình chứa nước mưa trong
hàng chục cái chum lớn xếp thành hàng phía vách sau nhà. Về mặt tình báo, thì chúng tôi
cũng có sự nghi ngờ đám dân dinh diền này có quan hệ với du kích, hoặc do huyết thống,
hoặc vì bị khủng bố. Vì thế, Thiếu Úy Phúc luôn luôn nhắc nhở, ngăn ngừa binh sĩ vào
xóm tán tỉnh các cô gái trẻ. Việc một vài quân nhân quen biết với các cô thợ may, ra xóm
chơi rồi chiều tối không thấy về đơn vị thường xảy ra khi chúng tôi đóng quân ở các khu
An Điền, Mỹ Thạnh, Ấp Nhà Việt dưới Bình Dương. Hôm sau, những chàng trai đa tình
này chỉ còn là cái xác không hồn bị treo ngược đầu hay bằm nát phơi ngoài lộ.
Dù có đoàn công voa hay không, thì mỗi ngày các đơn vị phải đi mở đường từ tờ
mờ sáng và chỉ trở về lúc trời chập choạng tối. Khi mặt trời còn ẩn nấp đâu đó cuối chân
rừng, các xe thiết giáp đã gầm rú lên rồi chuyển bánh ra con lộ. Bộ binh đi theo đội hình
hàng dọc trước và sau xe. Những ngày đầu thì còn dùng máy dò mìn rà theo mép lộ. Đi
như thế thì cả ngày trời chưa hết khoảng đường trách nhiệm. Vì thế, chỉ rà những nơi nào
có dấu hiệu khả nghi; còn ra thì leo lên xe chạy chầm chậm vừa quan sát mặt đường vừa
chĩa súng vào ven rừng phòng vệ. Cứ cách 4, 5 cây số, để lại một trung đội giữ đường.
Phúc luân phiên đi theo các trung đội để làm quen với lính.
Lúc này đang cuối thu, trời vào đông se lạnh. Một ca nhôm cà phê nấu vội bên
đường chia nhau mấy thầy trò. Binh Nhất Nguyễn Văn Muôn, theo làm tà lọt cho Phúc từ
mấy tháng nay có tài vừa di hành vừa nấu nước. Chỉ cần một cục C-4 bằng ngón tay út là
đủ nấu sôi một lon gô nước. Ngoài Binh 1 Muôn, Phúc còn được thêm một Lao công Đào
Một Thời Áo Trận 65
binh để mang đồ ngủ cho anh. Ông này tên Nguyên, cũng khá lớn tuổi, trước thuộc Điạ
Phương Quân. Nguyên người gốc Bùi Chu, nên nói rất ngọng. “Để tôi rọn rường cho
thiếu úy. Để tôi da nấy con rao …” Lao công đào binh là một hình thức tù khổ sai, phải
mang vác đạn dược, làm các việc rất nặng nhọc ngoài chiến trường. Đến tối, phải ngủ
quân quần trong hàng rào concertina có lính gác. Có người trước đây là Hạ sĩ quan, thậm
chí có cả sĩ quan. Họ phải mặc áo quần nhà binh cũ, xé mất cổ áo, và trên lưng, trước
ngực có viết nghệch ngoạc 4 chữ tắt LCĐB bằng sơn đỏ. Tội nghiệp, không may trúng
đạn chết hay bị thương, họ chẳng hưởng được chút phúc lợi nào.
Phúc có xin phép Trung Úy Lộc để chọn được một toán gồm 6 Lao Công Đào
Binh gốc các binh chủng Dù, Biệt Động và giao cho Trung Sĩ 1 Khai làm Trưởng Toán.
Họ được trang bị AK-47 lấy được của địch và được huấn luyện để thành toán xung kích
của đại đội với lời hứa hẹn sẽ giảm thời gian thụ án cho họ. Toán này đi theo Phúc lúc
hành quân như một toán cận vệ. Trung Úy Lộc nghe đâu sắp được thuyên chuyển về Tiểu
Khu Gia Định, nên cũng có phần thiếu tích cực trong đơn vị. Mọi sự đều giao cho Phúc
lo liệu. Nhiều lần giữa trưa, ông giao quyền cho Phúc rồi kéo tên tà lọt đi bộ về Bù Nard
chờ xe tiếp tế lên bày bàn nhậu nhẹt. Tuy nhiên, Trung Úy Lộc đối với Phúc khá tốt dù
mới làm việc với nhau mấy tháng từ ngày Phúc về đơn vị. Không hiểu tại sao các sĩ quan
dưới quyền không ưa ông ta. Đặc biệt là Chuẩn Úy Lô Đức Tân. Mỗi lần Lộc nói chuyện
trước hàng quân, thế nào Tân cũng nháy mắt cho Phúc ngầm ra dấu. Hồi tháng bảy, hành
quân Phú Hoà Đông, ông Tân làm sao đó, bị Lộc mắng: ”ông chỉ huy như con C.!”. Tân
cười nhạt, ghé tai Phúc thì thầm: “Đ.M., Con C. làm sao biết chỉ huy nhỉ?”. Tân người
Nùng, đi từ Hạ sĩ quan lên, có nhiều kinh nghiệm chiến đấu và rất gan dạ. Sau này, Tân
về làm Trưởng ban 1 Trung đoàn thời Đại Tá Bùi Trạch Dần, đã giúp xoá cho Phúc lệnh
phạt trọng cấm do Đại Tá Lưu Yểm, Tỉnh Trưởng Phước Long ký vì tính bướng bỉnh khi
hành quân tăng phái cho Tiểu Khu.
Đến trưa, xé túi cơm sấy ra, lấy nước đổ vào ngang lằn đỏ. Anh nào siêng thì nấu
chút nước nóng, luời thì cứ nước bi đông cho vào. Bóp bóp chừng năm phút là ăn được.
Ngày hai túi cơm sấy ăn với 2 hộp thịt heo ba lát của Mỹ. Đó là tiêu chuẩn hành quân của
nhiều đơn vị bộ binh hồi đó. Tuy nhiên, lính vẫn quen mùi vị quê hương là con khô sặc
hơn. Sau này, khoảng giữa năm 1970, Cục Quân Tiếp Vụ có sản xuất thí nghiệm hai loại
đồ hộp cho hành quân. Một là thịt heo kho; hai là gà kho. Ăn rất hợp khẩu vị, nhờ vị mặn
của nước mắm và trái ớt khô kèm theo.
Phúc ăn cơm chung với Chuẩn Úy Mâu xong thì Muôn đã giăng cái võng dười
một gốc cây cao; ông Nguyên thì ngồi dưới chân võng kể chuyện đời mình. Trung Sĩ
Khai thì dẫn toán lao công vào sâu trong rừng, chia nhau canh gác. Các chiến xa thì trấn
giữ ở hai đầu, cũng chỉa nòng đại bác và đại liên 50 chênh chếch vào bìa rừng.
- Thiếu Úy biết, tôi đi lính từ hồi 17 tuổi, theo Bảo Chính Đoàn. Cũng đánh
nhau với Việt Minh mấy năm trời chứ kém ai. Sau 54, vào Nam, họ chuyển qua Bảo An
rồi thành Địa Phương Quân.
- Địa Phương Quân thì tương đối an toàn, gần nhà. Đào ngũ làm chi mà ra
nông nỗi này?
Một Thời Áo Trận 66
- Tôi có mấy thằng con trai bỏ học đi lang thang theo bạn bè. Lần về phép, lo
tìm cách giải quyết việc nhà, ở thêm mươi, mười lăm ngày. Thế là đơn vị báo cáo đào
ngũ. Chứ già như tôi, chỉ rán thêm vài năm là về. Ai ngu gì mà đào ngũ cho khổ thân.
- Rán chịu đựng thôi. Nếu có dịp, tôi sẽ xin giảm án cho ông.
Chuyện hai bên tao ngộ chiến xảy ra vài lần. Thường buổi chiều, sau khi rút quân,
đại đội để lại một Tiểu đội nằm lại ở gần căn cứ để làm an ninh xa cho đơn vị.
Một khuya nọ, từ cái loa của máy PRC-25 nội bộ có tiếng thì thầm
- 61, đây 11. Nghe rõ trả lời?
- 11, 61 nghe 5/5.
- 11 xin zulu, nghe nhiều tiếng động, rất nhiều, rất gần.
Trung Úy Lộc cho lệnh rút và báo cáo lên Tiểu Đoàn cũng như gọi các Trung Đội
ứng chiến.
Chừng hơn nửa giờ sau, từ phía Bắc căn cứ có nhiều tiếng súng dòn dã, chốc chốc
nghe tiếng nổ lớn của lựu đạn.
- 61, 11 gọi
- Nghe
- Đụng rồi, đêm tối quá, không thấy gì, không biết ai bạn, ai thù.
- Romeo về ngay. Cho biết sơ khởi?
Tiếng máy nghe không rõ, vì giọng nói vừa thì thầm vừa đứt quảng. Nhưng qua
ống nghe, có nhều tiếng la hét, tiếng đạn liên hồi. Toán kích đã về đến ngoài hàng rào
phòng thủ. Trung Úy Lộc và Phúc cùng chạy ra.
- Thẩm quyền, chúng nó đông lắm.
- Đông là bao nhiêu?
- Chắc cả trăm đứa. Tụi nó rượt theo, vừa ngáng chân, vừa vật lộn. Loạn cả
lên nên tụi tôi chẳng kiểm soát gì được.
- Bây giờ điểm quân số xem thiếu thằng nào?
Lộc gọi Trung Úy Chi Đoàn Trưởng Chiến Xa xin cho vài xe để đi tìm binh sĩ thất
lạc. Hai chiếc M-113 nổ máy di chuyển ra cổng. Phúc chỉ huy Trung đội 1 tháp tùng. Vừa
ra khỏi căn cứ chừng trăm thước, đã tìm thấy lác đác các binh sĩ đang hớt ha hớt hãi chạy
về. Quân sĩ phóng lên trái sáng, soi rọi cả một khoảng trống. Đó là một khoanh rẫy khô
của người Thượng vừa cắt hái xong. Các cây con bị chặt chừa khoảng 5 tấc cách mặt đất
là nguyên nhân mà lính vấp té và báo cáo rằng họ bị địch ngáng chân. Tìm một lúc thì
gom đủ quân số, và thấy một xác địch nằm co quắp trên mặt đất cạnh cây súng AK-47.
Anh ta mặc quân phục chính quy miền Bắc, áo quần xanh màu lá mạ. Phúc lục trong túi
áo trên và tìm thấy một căn cước mang tên Đoàn Văn Son, quê Bắc Ninh. Không thấy
Trung Úy Lộc nói gì để giải quyết cái xác tên Việt Cộng, vì sau các cuộc chạm súng
trong rừng thì phe ta chỉ lo tải chuyển thi hài chiến hữu mình; còn với xác địch thì chẳng
ai lo chôn cất, để lại giữa rừng phó mặc cho trời đất.
Hôm sau, khi đoàn xe tăng mở đường đi được chừng 200 mét, binh sĩ phát giác ra
cái xác Đoàn Văn Son đã được dân Thượng đem ra bỏ bên ven đường vẫn trong tư thế
như đêm qua: hai cánh tay giơ cao trên đầu, hai chân co quắp. Nhưng lần này thì xác đã
cứng đơ và tái trắng, khác hẳn cái xác còn mềm và chút hồng hào đêm qua.
Một Thời Áo Trận 67
Đoàn quân qua lại mỗi ngày trên đường, quan sát sự thay đổi của một xác người từ
lúc mới chết cho đến khi căng mọng lên, da thịt tái bầm, đôi mắt lồi ra, hai môi căng lên
đen bóng; rồi nước vàng bắt đầu chảy ra, phần thì thấm vào áo quần tạo thành những
vùng thẩm đen, khô cứng, phần thì loang ra ngoài mặt đất. Nhờ ánh nắng nên phần thân
thể lộ ra bên ngoài áo quần khô lại, lớp da trở nên cứng và bên trong thì rỗng vì thịt đã rã
tan thành nước và bị giòi bọ đục khoét. Phần bên trong lớp áo quần thì chỉ còn xương,
khô dần theo ngày tháng. Mùi xác chết là một mùi kinh khủng nhất. Cách xa cả cây số,
mùi này theo hướng gió bay vào mũi thì dù có xoa loại dầu gì cũng chỉ làm tăng thêm
nồng độ của sự kinh hoàng. Các xe thiết giáp phải xẻ đường trong rừng để tránh đi gần
xác chết. Nhìn thân xác con người tiêu hủy như thế, mới thấy thấm thía cái mong manh
phi lý của đời người: Các người là cát bụi, rồi sẽ trở về với cát bụi.
Cho đến khoảng 20 ngày sau, thì chẳng còn mùi hôi thối nữa, mà chỉ là một bộ
xương được bọc trong bộ áo quần thùng thình từ màu xanh là mạ, nay đã trở nên nâu đen.
Đại đội cho lính gom chút thi hài còn lại đem vào chôn bên ven rừng, chẳng bia mộ gì cả.
Hành quân trong rừng, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn thấy những bộ xương đã khô
trắng hoặc bên đường, hoặc nằm sâu dưới đáy các hố bom B-52. Những cán binh “Sinh
Bắc Tử Nam” khi ra đi vào Nam có ngờ đâu phơi xác trong vùng rừng sâu mà gia đình
chắc chẳng bao giờ có thể tìm ra. Ai lo cho họ đây? Đồng chí của họ không lo được thì
mong chi đối phương?
Phúc cũng có lần cưa một miếng xương ống tay nhặt đâu đó, xỏ vào dây thẻ bài
đeo trước ngực. Đêm về, nhìn khúc xương trắng mà thấy bất nhẫn, tự hỏi: “Mình làm
điều này có đúng không?”
Những người lính cấp nhỏ miền Nam khi ra đi chiến đấu không biết đến lòng căm
thù. Họ thi hành một nghĩa vụ. Họ chưa phân biệt được cái chính nghĩa tự do và cái phi
nghĩa của bạo tàn. Trước mắt họ là một chế độ, một hạnh phúc gia đình nhỏ nhoi cần bảo
vệ. Vì vậy, họ cư xử với kẻ thù sa cơ rất nhân đạo. Nhưng dần dà, nhìn những cái chết
của đồng đội sau khi lọt vào tay kẻ thù, thì họ trở nên dứt khoát hơn, nhưng vẫn chưa đến
độ tàn nhẫn như kẻ thù. Một lý do đơn giản là vì họ có tín ngưỡng, tin vào luật đạo, luật
nhân quả và nền đạo đức ngàn năm thấm sâu trong dòng máu Việt Nam. Phúc thì hiểu về
Cộng Sản nhiều qua hai năm được dạy về chính trị ở quân trường, và mối oan cừu của
người con mất cha mà anh chưa hề thấy mặt. Tuy nhiên, anh vẫn không xem người lính
Việt Cộng là đối tượng để anh trả mối thù nhà.
Trận tao ngộ chiến vừa qua tuy ở mức độ quá nhỏ để phải quan tâm. Nhưng nó
như một dấu hiệu báo trước những sóng gió tàn bạo sắp xảy ra. Chiến trường vẫn có
những hiện tượng như thế. Rừng Phước Long bạt ngàn là nơi ẩn núp lý tưởng cho các đại
đơn vị Cộng quân. Họ có thể bôn tập cấp trung đoàn một cách lẹ làng để mở cuộc tấn
công chớp nhoáng vào các căn cứ, tiền đồn, điểm đóng quân của ta rồi rút an toàn vào
rừng sâu trước khi quân tăng viện đến kịp.
Một ngày như mọi ngày.
Xe đò từ Sài Gòn đi Phước Long vẫn thỉnh thoảng đi qua vào lúc xế trưa, lúc mà
quân mở đường đã yên vị. Phúc thường cho lính ra đón xe đò xin báo mới để biết tin tức
Một Thời Áo Trận 68
hậu phương và đọc truyện giải trí. Hành khách cũng thương lính, luôn luôn cho những ổ
bánh mì thịt thơm dòn, hoặc những chai nước ngọt. Đám dân làm be thì lâu lâu tặng cho
các sĩ quan chai rượu với một lời yêu cầu là không xin bắn pháo binh bừa bãi vào khu
khai thác gỗ. Thực ra, các sĩ quan ai cũng biết các xưởng mộc ở Đồng Xoài là cơ sở làm
ăn của các quan to súng ngắn chóp bu ở Quân Đoàn 3 và ngay cả Bộ Tổng Tham Mưu,
Phủ Thủ Tướng. Bố anh nào dám gây rắc rối. Biết điều thì thỉnh thoảng dân be cho một
khúc cẩm lai thật đẹp. Xưởng mộc cưa thành các lát mỏng rồi dùng xe GMC tiếp tế chở
về Sài Gòn làm các bộ sa lông tủ bàn gia dụng … Loạng quạng thì …. Đi đâu nữa? ở đơn
vị bộ binh là đã ra đến tận hết gian nan rồi! Nhưng dù sao đối với người lính hiện dịch thì
vẫn còn con đường tiến thân binh nghiệp chứ.
Gần 10 giờ sáng, khi chiếc xe M-41 chở toán lính của Trung Độí 1 vừa chạy qua
một khúc quẹo gắt, thì hai tiếng nổ vang lên dữ dội
Oành! Oàng!
Chiếc chiến xa M-41 trúng đạn. Một trái B-41 bắn vào xích phía trái; quả đạn thứ
hai trúng ngay pháo tháp làm những người lính văng bắn ra ven đường. Cũng may là
quanh pháo tháp lúc đó chỉ có bốn người bám vào. Người Trung Sĩ thiết giáp, Trưởng xa,
và một lính bộ binh chết ngay tại chỗ, những anh khác thì bị thương đang cố nhịn đau lết
vào ẩn cạnh các bờ đất để dược y tá băng bó.
Tiếng súng AK và trọng liên thi nhau nổ dòn. Đạn cày tung toé khắp nơi trong lúc
chiếc xe thứ hai vừa trờ tới. Quân sĩ nhảy nhanh xuống xe tìm nơi bố trí để kháng cự.
Cùng một lúc thì có tiếng súng phía sau. Thế là cả đội hình lọt vào ổ phục kích trên một
tuyến dài chứng nửa cây số.
Phúc và toán cận vệ LCĐB nhảy kịp, nấp sau một mô đất cách Trung Úy Lộc
chừng 20 thước. Nhưng thế đất phía trước là một gờ cao hơn mặt đường hai mét. Cách đó
không xa là các súc gỗ be lớn mà Việt Cộng khoét hố bên dưới chong súng ra bắn vào
quân ta. Súng địch bắn rát áp đảo một lúc thì có vẻ rời rạc, chờ xem động tịnh của ta.
Thiết giáp xoay nòng bắn vừa đại bác vửa đại liên 50 vào các điểm khả nghi để lính bộ
binh mò mẫm bò lên. Họ không tiến xa được vì trống trãi quá. Cứ dợm đứng lên là đạn
bên trong vãi ra. Thêm vài anh bị thương nhưng không nặng lắm.
Cố vấn Mỹ đang bò lên bên cạnh. Lộc quay qua hỏi:
- Cho phi yểm ngay được không?
- Ông muốn ưu tiên vào đâu?
Lộc lật bản đồ, chấm vài toạ độ dọc theo mé rừng
- Bắn vào đây trước. Tôi cho quân lui ra rồi bắn theo hướng này, kéo dài trên
cả tuyến.
- Tôi gọi pháo tầm xa của Big Red One24
đây.
Không đến mười lăm phút sau, hàng trăm quả đạn bắt đầu dội xối xả vào đội hình
địch. Đây phải là pháo 155 ly, vì bắn từ một căn cứ hoả lực Mỹ ở Phú Giáo. Đạn nổ từ xa
rút lại gần. Từ trong rừng rải dài ra đến bìa rừng và sau cùng là dọc theo con lộ; chỉ cách
bộ binh chúng tôi chừng 50 mét. Nắm mọp dưới lòng đường mà vẫn thấy toàn thân như
bật lên mỗi lần có tiếng nổ. Khi cố vấn Mỹ loan báo dứt pháo yểm. Trung Úy Lộc ra
24
Biệt danh của Sư Đoàn 1 BB Hoa Kỳ.
Một Thời Áo Trận 69
hiệu cho Chuẩn Úy Mâu dẫn trung đội tiến lên. Người khinh binh đầu tiên vừa nhổm dậy
thì một tràng AK bắn dòn dã quật anh ta ngã ngửa ra sau. Phúc bò lên vạch một lỗ trống
ngay bụi cây, cố quan sát về phía súng nổ. Mâu lanh trí, cho một người lính máng chiếc
nón sắt lên một khúc củi, nhô lên nhô xuống vài lần. Một loạt đạn lại vang lên. Chốt địch
không xa mặt đường. Chúng nó nằm dưới một súc be lớn nơi mà các trái đạn pháo đã
không bắn vào vì sợ quá gần quân bạn. Phúc chạy lom khom trởi lại, leo lên một chiếc
chiến xa:
- Ông nhắm vào cây gỗ kia, chừng 2/3 từ bên trái, bắn cho một phát sát đất
giùm.
- Miểng đạn có thể văng ngược lại trúng bộ binh đấy.
- Không sao. Một hai trái càng tốt.
Trong khi xạ thủ đại liên bắn xối xả vào để ngăn địch ngóc đầu dậy, anh pháo thủ
xoay nòng, nhắm vào đúng điểm vửa chỉ.
Ấm!
Cả súc be rung lên, đất đá miểng đạn tung toé bay rào rào qua đầu. Phúc thẩy thêm
một quả lựu đạn rồi vẫy tay cho toàn cảm tử cùng nhào lên.
Xoay ngang cây M-16, một tay nắm chắc “gỗ”25
che nòng, tay kia bấm cò; Phúc
chạy ào vào ngay chốt địch. Ba tên vừa đứng dậy, đưa hai tay lên trời, nhưng đạn đã ra
khỏi nòng bắn văng phần sọ phía trên của một tên địch. Hai tên còn lại chưa kịp nhảy lên
tẩu thoát cũng hứng nguyên những loạt đạn của đám cảm từ LCĐB. Bên sườn phải,
Trung Đội 1 cũng đã xung phong cố chiếm lĩnh trận địa nhưng bị khựng lại vì còn một số
địch cố thủ dưới các gốc be mà đạn pháo chỉ đủ sức làm trầy trụa một phần bên trên. Vài
binh sĩ ngã xuống, những người còn lại phải bò từng mét theo các thân cây la liệt trên đất;
dò dẫm quan sát từng chút một để định vị trí ẩn núp của địch. Phúc trườn nhanh vào một
gốc be và may mắn không dính đạn.
Sau cả tiếng đồng hồ mà không tiến thêm được bao nhiêu; Trung Úy Lộc quyết
định cho lui lại để xin phi yểm.
- Ông Phúc nói thằng Mũi dài26
cho Cobra lên bắn rốc két mới ăn chắc. Nếu
cần cho bom napalm bắn cháy gỗ mới hun hết mấy con chuột này. Cứ giằng co thế này
đến chiều chưa giải toả được đâu.
- Sao ông không kêu mấy con cua sắt lên? Mấy chả cứ rập rình sau lưng
mình không hà.
- Cua mình chịu B-4127
không nỗi đâu.
- Nó mình đồng da sắt mà chịu không nỗi; còn xương thịt lính mình chắc
cứng hơn?
Những đức tính cần thiết của người chỉ huy ngoài mặt trận là bản lĩnh, dứt khoát
và can trường. Khi lâm trận, những người lính nhìn vào cấp chỉ huy của mình để có được
lòng tin trước hiểm nguy rằng mọi việc sẽ tốt đẹp. Họ gửi gắm sinh mạng của mình vào
chỉ huy và nghĩ rằng nơi nào gần người chỉ huy là an toàn nhất. Vì thế, dù phân vân, chưa
25
Phần che nòng và báng súng của M-16 làm bằng hợp chất nhựa. 26
Ám chỉ mấy anh cố vấn Mỹ. 27
Súng phóng hoả tiễn RPG-7, dùng loại đạn B-41 nổ toả nhiệt độ cao đủ làm chảy lớp thép của xe thiết giáp để một
ngòi nổ phụ xuyên vào trong gây sát thương, trong khi B-40 chỉ làm trầy trụa bên ngoài.
Một Thời Áo Trận 70
biết phải làm gì; người chỉ huy cũng phải biểu lộ một thái độ dứt khoát; không bao giờ
được phép nói rằng: “tôi không biết” trước mặt binh sĩ. Có ai trên đời mà không cảm thấy
run sợ trước cái chết? Nhưng người can đảm là người biết che đậy, chế ngự sự sợ hãi.
Trong thực tế, khói đạn, mùi thuốc súng cũng góp phần làm cho người ta hăng lên mà
quên đi trong phút chốc sự sợ hãi. Đây là trận đánh có tầm vóc đầu tiên mà Phúc phải
đương đầu kể từ ngày ra đơn vị. Phút giây này, không còn thì giờ nghĩ ngợi cho cá nhân,
gia đình; mà trước mắt là những người lính đang nhìn vào, chờ đợi những quyết định dứt
khoát của mình như một tấm gương để họ vững tin mà tiến lên.
Phúc nói với cố vấn Mỹ đề nghị của Đại Đội Trưởng, xin trực thăng Cobra bắn
vào các chốt địch cũng như phản lực ném bom vào rừng đề phòng địch tập trung quân để
tấn công.
Hai phi tuần Cobra thay nhau bắn rất chính xác theo hướng dẫn của bộ binh. Từng
súc gỗ bật tung lên để lộ những toán địch cho bộ binh tưới đủ các loại đạn vào.
Khi phi cơ rời vùng, quân sĩ hai Trung Đội 1 và 2 xung phong lên với sự yểm trợ
của thiết giáp. Một số địch sống sót vọt ra khỏi hố tháo chạy vào phiá rừng chỉ để hứng
bom từ các phản lực cơ F-4 của Hạm đội 7. Phúc đứng trên một cây be lớn, nhìn xuống
bên này thì thấy mấy đôi chân lòi ra và còn giật giật trong khi phiá bên kia của cây be thì
những chiếc đầu chỉ còn loang lỗ óc và máu. Lôi xác chúng ra thì thấy những thân hình
tương đối tròn trịa, trắng trẻo. Chúng mặc quân phục chính quy Bắc Việt; Có đứa nón tai
bèo, có đứa nón cối. Trong túi áo có người còn sót lại lá thư tình của bạn gái hay vợ từ
một địa danh miền Bắc kèm theo một tấm ảnh nhỏ chừng hai lóng tay của một cô gái quê
mộc mạc nào đó. Phúc cho thu hết tất cả những tài liệu cá nhân này để chuyển về ban 2
Trung Đoàn khai thác.
Lúc đó đã quá trưa, nhưng không ai thấy đói. Lính tráng đang hăm hở đi thu nhặt
chiến lợi phẩm và đếm xác địch.
Trung Úy Lộc ra lệnh cho Trung Đội 2 tản sâu vào trong rừng làm an ninh xa.
Những thân cây đang cháy đổ nhựa khét lẹt cùng mùi thịt nướng. Toán quân y lo băng bó
cho thương binh, chờ trực thăng đến bốc đi. Trung đội 3 không chạm súng thì được lệnh
di chuyển đến thay thế cho Trung 1 rút ra nghỉ ngơi ngoài mặt lộ.
Vài chiếc xe đò đã liều mạng chạy qua khoảng đường vừa có chiến cuộc. Tài xế
dừng nhanh trong chốc lát để trên xe ném xuống cho binh sĩ những thức ăn có sẵn trong
tay. Muôn đem đến cho Phúc một khúc bánh mì kẹp chả và chai xá xị. Với hai bàn tay
đầy bụi đất và dính cả máu thù, Phúc cầm lấy miếng bánh mì nhai ngon lành. Anh Cố vấn
Mỹ cũng lết đến bên cạnh, nói những lời khen ngợi.
Trung sĩ Khai đưa bốn ngón tay ra dấu:
- He kills four VC; I kill two. (Ông ấy giết 4 tên Việt Cộng, tôi giết 2 tên)
- You are number One! How many VC killed in total? (Các anh ngon lành
nhất. Có bao nhiên VC bị giết?)
- We are counting. Don’t know yet. Must be hundreds. (Đang đếm, chưa rõ.
Nhưng có thể cả trăm)
- Including VC killed by artillery and air strike? (Tính luôn bọn bị phi pháo
bắn chết?)
- Sure. (Chứ sao)
Một Thời Áo Trận 71
Chưa tới hai tuần sau, Đại Đội 14 do Trung Úy Lê Văn Bôn chỉ huy cũng bị phục
kích gần Bù Noi trên một tuyến dài hơn và quân địch đông đảo hơn gấp bội. Cả Thiết
đoàn và Tiểu đoàn trừ phải tăng viện giải cứu. Phi pháo được xử dụng cật lực từ mờ sáng
cho đến trưa, thiêu cháy cả khu rừng để đánh bật quân địch.
Ba tuần trước Tết Âm Lịch, Phúc bị trúng thương cũng trong một trận phục kích.
Đạn xuyên qua giây nịt đạn, nịt quần và khoét một lỗ gọn gàng bằng đầu đũa ở bụng.
Nhanh đến độ Phúc không hề cảm nhận rằng mình bị bắn cho đến khi nằm sấp xuống
tránh loạt pháo thì mới thấy lành lạnh. Kéo trật chiếc quần trận xuống, Phúc chỉ thấy màu
xám của lớp ruột bên trong đang đùn ra, không một giọt máu. Muôn thấy vậy hoảng hốt
la lên:
- Thẩm quyền bị rắn cắn. Y tá đâu, tải thương ngay.
Muôn cứ loanh quanh, mếu máo:
- Ông Thầy ơi. Ông đừng đi nghe
- Đi đâu mà đi, mày? Chỉ mới gãi ngứa thôi.
Kinh nghiệm ngoài chiến trường cho thấy những người bị thương tuy máu me dầm
dề mà lại không nguy hiểm tính mạng. Còn những người bị các vết thương không thấy
máu, tỉnh táo như không có gì, lại rất dễ ra đi. Y tá Đại đội xem vết thương rồi trấn an:
- Thẩm quyền an tâm, nhờ cái dây TAB28
nó cản bớt, nên đạn không vào sâu.
Trúng bụng thường xuất huyết nội, nhưng không nguy hiểm nếu tải thương nhanh.
Nghĩa, hiệu thính viên Đại Đội nhanh nhẩu báo về Tiểu Đoàn và cùng lúc kêu Cố
Vấn Mỹ xin trực thăng.
Mười phút sau, Phúc đã nằm trên băng ca do hai người lính Mỹ lúp xúp chuyển từ
Trực thăng vào phòng mổ của Bệnh viện 3 Dã Chiến giữa lúc Việt Cộng đang nả hàng
loạt đạn hoả tiễn 122 ly pháo kích vào các dãy nhà tiền chế của Bệnh Viện.
Trong giây phút mơ màng giữa chết và sống, đôi mắt mệt mỏi của Phúc nhìn thấy
lờ mờ hàng chục khuôn mặt các bác sĩ và y tá vớí các đôi mắt xanh đang cúi xuống và
những mũi kim lụi vào mạch máu cườm tay. Rồi Phúc thiếp đi vào hôn mê để hôm sau,
khi tỉnh dậy thấy mình nằm trong một căn phòng mát lạnh, cả hai tay, hai chân bị cột vào
thành chiếc giuờng nệm trắng toát; trên bụng dày cộm lên một đống gạc và đặc biệt, bên
cạnh là một cô ý tá Mỹ xinh đẹp đang ngồi thấm nước chiếc khăn cũng trắng tinh để lau
mặt mũi và cả thân thể tồng ngồng của anh.
28
Giây nịt lớn, dùng đeo các bao đựng đạn, bi đông, dao găm, súng lục. Thường gọi là Pistol Belt.
Một Thời Áo Trận 72
Minh Thạnh
Trung đội 2 do Chuẩn Úy Chiêu chỉ huy đã nhảy xuống và bung ra ngay làm an
ninh cho các đợt đổ quân sau của cả đại đội. Bãi đáp không phải là một khoảng trống
hiếm hoi giữa rừng mà là ngay trên con đường do xe công binh Hoa Kỳ đã cày trước đây
vài năm.
Vì rừng Long Nguyên bạt ngàn, quân Cộng Sản di chuyển ngày đêm nườm nượp
như đi chợ. Công binh Hoa Kỳ đã dùng xe cày cực mạnh ủi thành những đường ngang
dọc, chia khu rừng thành từng ô như bàn cờ. Mỗi ô vuông vức 100 x 100 mét vuông. Sau
đó, họ dùng phi cơ nhỏ hay các toán Thám Báo của bộ binh rải la liệt những máy ghi
tiếng động, máy dò hơi người vào các ô. Các sensors trong chiếc máy chỉ nhỏ bằng bao
thuốc lá sẽ chuyển tín hiệu về Trung Tâm Tác Chiến Điện Tử đặt trong Bộ Tư Lệnh Sư
Đoàn ở Lai Khê một khi có người di chuyển qua. Từ đây, chỉ một cú điện thoại là cả
hàng trăm trái đạn pháo sẽ rót vào đó. Vừa nhanh, vừa gọn, đỡ hao xương máu quân bạn.
Các đơn vị hành quân, từ cấp Trung Đội Trưởng trở lên đều phải có bản đồ, địa
bàn để định hướng. Khi xuất phát, đơn vị trưởng đo phương giác từ điểm xuất phát đến
Một Thời Áo Trận 73
mục tiêu đã chấm sẵn trên bản đồ. Tiểu đội trưởng tiểu dội đi đầu sẽ hướng dẫn lính mình
cứ thế mà xẻ rừng đi, cố gắng giữ đúng hướng. Vì theo như ông bà nói :”Sai một li, đi
một dặm.” Dĩ nhiên, có nhiều chướng ngại làm cho hướng đi bị lệch. Vì thế, cấp chỉ huy
cao hơn phải thường xuyên theo dõi và điều chỉnh bằng cách so sánh thưc địa với bản đồ,
hoặc nếu ước lương mức sai lệnh xa, thì phải xin bắn trái khói để xác định nơi mình đang
đứng.
Cũng thế, khi dừng và đóng quân, việc đầu tiên là xác định điểm đứng. Việc xác
định này cần ít lắm là hai điểm chuẩn trên bản đồ và ngoài thực điạ. Có thể là một đỉnh
núi, một ngả ba sông, ngả ba đường … Trong trường hợp hành quân sâu trong rừng mà
không có điểm chuẩn, đơn vị trưởng sẽ phải chọn hai điểm trên bản đồ và kêu pháo binh
bắn cho hai trái đạn khói nổ vừa đủ cao để dễ thấy và dễ đo phương giác. Điểm đứng của
đơn vị là giao điểm của hai đường thẳng nối từ người đo đến hai điểm chuẩn.
Các đơn vị hành quân cấp Tiểu Đoàn trở xuống dùng bản đồ tiêu chuẩn là
1/50000. Trên bản đồ có những đường ngang, dọc cách nhau từng 2 cm một. Khoảng
cách 2 cm tương ứng với một cây số trong thực địa. Như thế, mỗi ô trên bản đồ vuông
vức 2 x 2 cm, thì ngoài thực điạ là một cây số vuông. Ở các Phòng 3, Ban 3 còn thêm bản
đồ 1/100000 để theo dõi một vùng hành quân rộng lớn hơn. Tỷ lệ bản đồ càng cao (mẫu
số càng nhỏ) thì bản đồ càng bao trùm khu vực lớn, càng ít chi tiết. Thỉnh thoảng, chúng
tôi cũng kiếm được bản đồ tỷ lệ 1/25000 từ các bạn Mỹ, thì việc chấm tọa độ chính xác
hơn. Đường ngang dọc trên bản đồ (grids) cũng như hai trục x và y trong toán học. Việc
đọc điểm đứng là theo thứ tự x rồi đến y. Đơn vị là hàng trăm mét với sai số hàng chục
mét. Khi chạm súng cần xin pháo yểm, thì thường bắn từ xa rồi điều chỉnh lại gần cho an
toàn. Tuy nhiên việc pháo lầm vào quân bạn đôi lúc cũng xảy ra, do ảnh hưởng của gió,
do sức giật hậu của súng, hoặc do thiếu thừa một chút thuốc bồi.
Qua giữa ngày N+1, sau khi di hành qua hai mục tiêu thì đã xế trưa. Đại đội dừng
quân. Vẫn giữ đội hình hành quân, quân sĩ chia nhau ra bố trí tạm để nghỉ và chờ lệnh.
Trung sĩ Minh bỗng chỉ tay lên trời nói: “B-52 trải bom anh em ơi!”
Nhiều cặp mắt hướng lên trời quan sát. Những vệt khói trắng dài hàng cây số từ
những chiếc B-52 gần như vô hình vì bay quá cao trên nền trời xanh lơ mà mắt thường
không thể thấy được.
Trong lúc đó, Thiếu Úy Thủy cầm tấm bản đồ xoay lui xoay tới để cho các đường
kinh độ trùng hợp với kim la bàn để xác định lại mục tiêu và hướng tiến quân của đại đội.
Từ rất xa, những tiếng bom nổ vang rền rung chuyển cả một khu rừng. Người ta kháo
nhau rằng sức chấn động của những trái bom B-52 có khả năng sát thương cho những cán
binh địch núp dưới các hầm hố trong một phạm vi khoảng 1 cây số đường kính. Từ trên
trực thăng quan sát trận địa, có thể thấy các hố bom B-52 cách khoảng đều đặn như
những vết lở loét màu vàng nâu giữa nền màu xanh thẩm của rừng già.
Các hố bom B-52 này có miệng hố rộng cả 10, 15, mét, và độ sâu cũng chừng 5, 7
mét. Giữa khu rừng mênh mông ít suối hiếm song này, đó là nguồn cung cấp nước cho
binh sĩ dùng để nấu ăn. Dù rằng nước hố bom đục ngầu, đầy rẩy cây lá mục, xác thú rừng
và có khi cả xác Việt Cộng đã tan rữa. Phúc nhớ có lần đã uống phải một thứ nước rất
trong và sánh do binh sĩ hứng được. Vị nước lợ lợ, tanh tanh. Sau một hồi mới phát giác
Một Thời Áo Trận 74
ra xác một tên Việt Cộng nằm ở trên nguồn lạch và chất nước vàng từ cái xác đang rữa
hoà lẫn vào nguồn nước.
Đại đội đang di chuyển sâu vào vùng Minh Thạnh29
, phía tây Quốc lộ 13. Nơi đây,
những năm trước chiến tranh là khu vực dân cư trù phú. Nay chỉ còn một quân lỵ nhỏ trơ
trọi chừng vài chục nóc gia với một ngôi trường tiểu học nghèo nàn xác xơ. Có hai cô
giáo nhỏ nhắn xinh xinh từ Bình Dương lên đây dạy học. Ở cái xóm nhỏ khỉ ho cò gáy
này, các cô chắc cô đơn và buồn lằm. Nên mỗi khi lính hành quân ghé qua, mắt các cô
sáng lên hướng về những chàng trai trẻ chờ đợi những lời tán tỉnh.
Qua khỏi Minh Thạnh, từ đây đi lên theo hướng Tây Bắc là cả khu rừng già bạt
ngàn kéo dài đến biên giới Việt Miên, nơi nhiều đại đơn vị Cộng quân đang ẩn náu. Tuy
hoạt động chiến sự có vẻ giảm đi so với những năm trước, nhưng các cuộc pháo kích vào
căn cứ Lai Khê và quận lỵ Bến Cát vẫn diễn ra hàng ngày. Mỗi tuần vài ba đợt ngắn
chừng chục trái hoả tiễn 107, 122 ly. Sư đoàn đã cho các đơn vị tuần tiểu lục soát nhưng
vẫn chưa tìm ra được các vị trí đặt pháo của địch.
Sau ba lần tái khám và được phân loại 1 do vết thương không làm ảnh hưởng đến
khả năng chiến đấu, Phúc được Quân Y Viện trả về đơn vị gốc. Đại Úy Hiền không biết
đặt anh vào chỗ nào nên cho ở Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn. Mỗi khi có Đại Đội Trưởng nào
đi phép hay đi học, thì cho Phúc ra xử lý. Lần này, Phúc ra Đại Đội 15 tạm thay thế
Trung Úy Nguyễn Hữu Đát trong hai tuần. Quách Kế Nhơn đang làm phó cho anh Đát,
thấy Phúc về thì rất mừng dù phải chịu lép vế chút đỉnh. Trước khi xuất quân, Đại Úy
Hiền gọi Phúc ra dặn nhỏ:
- Chú cư xử khôn khéo kẻo thằng Nhơn nó buồn. Rán kiếm ra vị trí đặt pháo lập
công thì anh Tư lăng xê cho.
Di chuyển đã gần nửa ngày. Mặt trời lên cao trên đỉnh đầu. Cơn nắng mùa hè tuy
gay gắt, nhưng nhờ các cây cao lá cành xum xuê nên binh sĩ ít thấy mệt. Phúc cho dừng
quân ăn trưa ở một góc rừng cạnh con suối Tàu Ô. Tại một nơi cạnh bờ suối, binh sĩ báo
cáo thậy có nhiều dấu vế khả nghi. Trong khi Hạ Sĩ Nhàn chuẩn bị cơm nước, Phúc kéo
Nhơn đi một vòng quan sát. Quả thật có nhiều vết dép râu qua lại gần đó. Càng xa bờ
suối, dấu dép càng mờ dần và biến mất. Phúc báo cáo về Tiểu đoàn xin dừng lâu nơi đây
để lục soát kỹ hơn, rồi cho hai trung đội bung thật rộng ra. Một hồi không lâu, binh nhất
Phước chạy lại báo cáo:
- Thẩm quyền, có mấy cái nắp nhựa vung vải đàng kia. Tôi lượm một cái cho
Thẩm quyền xem thử.
Phúc đón lấy cái nắp nhựa màu nâu. Nó lớn gần bằng cái nắp hộp bơ margarine do
Quân Tiếp Vụ cung cấp. Anh xòe gang tay ra đo và bỗng phát giác đường kính của nó
chừng gần một tấc rưởi. Anh mừng rỡ la lên:
- Hoả tiễn 12230
ly chứ không chạy vào đâu khác. Lục soát kỹ quanh đây.
Thế nào cũng tìm ra dàn phóng.
Thủy dẫn Trung Đội 1 đi một hồi rồi báo về:
29
Quận Minh Thạnh là một quận nhỏ ở phía Đông Bắc quận Bến Cát, nam của quận Chơn Thành 30
Hoả tiễn 122 và 107 có sức công phá rất mạnh nếu chạm phải vật cứng.
Một Thời Áo Trận 75
- Mời Thẩm quyền ra đây xem ngay.
- Bảo anh em giữ nguyên các thứ. Đừng xê dịch. Chờ tôi.
Phúc kéo Nhơn cùng vài binh sĩ bươn đi ngay về hướng Trung Đội 1. Chỉ một
khoảng chừng hơn vài phút là gặp một trảng trống rộng bằng cái sân đá banh. Vài người
lính đang đứng quan sát những cái nạng làm bằng cây rừng ghép lại, cột chéo cũng bằng
dây rừng. Có 4 cái như thế ở mé rừng chỗ tiếp giáp với trảng trống. Đó là những cái giá
tự chế để đặt các ống hoả tiễn 122 ly hướng về căn cứ Lai Khê và quận lỵ Bến Cát. Rải
rác trên mặt đất là những nắp nhựa như đã mô tả. Từ các giá phóng, có những sợi dây
điện dẫn vào một căn hầm cách đó chừng 10 mét. Trong cái hầm chìm sâu dưới lòng đất
và được che phủ bằng cây lá, anh em binh sĩ phát giác những cái thùng nhựa chứa nước
và có vòi khoá ở mé đáy thùng. Thì ra đây là sự ứng dụng của nước để dẫn điện. Khi mở
khoá vòi, nước sẽ giọt xuống một cái chậu bên dưới có nối với sợi dây điện. Đến một
vạch nào đó cũng có một đầu dây điện được tính toán sẵn, thì mạch điện được chập lại,
và hoả tiễn bên ngoài được kích hoả, phóng đi. Trong lúc Lai Khê, Bến Cát ăn đạn pháo,
thì bọn cán binh Việt Cộng đã cao bay xa chạy hàng cây số nên không lo sợ bị phản pháo
hay phi cơ oanh tạc trong trường hợp quân ta dò ra được trận địa pháo. Bắn hoả tiễn theo
phương cách đơn giản này, nên dĩ nhiên không thể nào chính xác được. Do đó, phần lớn
các trại đạn rơi vô tội vạ ngoài hàng rào, vào chợ, khu nhà dân, vào rừng cao su nên ít
gây tổn thất nhân mạng binh lính và làm hư hại doanh trại của Sư Đoàn.
Thu góp hết các dữ kiện xong, Phúc báo cáo về Tiểu Đoàn
- Trình Đại Bàng, chúng tôi tìm ra đúng vị trí đặt pháo của VC.
- Có thu được trái đạn nào không?
- Thưa không có, nhưng có các giàn phóng và nắp đạn.
- Cho an ninh bãi đáp, có Mặt Trời xuống quan sát.
Phúc gọi các Trung Đội cho bung rộng ra, đặt tiền tiêu. Những năm gần đây, sự
hoạt động của Cộng Quân chỉ còn ở mức độ quấy nhiễu của du kích lẻ tẻ. Vì thế, các bãi
đáp được coí là tương đối an toàn; chỉ lo bắn sẻ chứ không lo bị cường tập.
Khi Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu từ Sư Đoàn 22 Bộ Binh về nắm Sư Đoàn 5
thay thế Thiếu Tướng Phạm Quốc Thuần, ông đã bổ nhiệm Trung Tá Bùi Trạch Dần làm
Trung Đoàn Trưởng Trung Đoàn 8 thay thế Đại Tá Lê Nguyên Vỹ. Trong khi Đại Tá Vỹ
được đánh giá là một sĩ quan đảm lược, thì Trung Tá Bùi Trạch Dần từng nổi tiếng là con
mãnh hổ miền Trung. Chúng tôi không mong gì hơn được phục vụ dưới quyền những
cấp chỉ huy giỏi. Đối với Đại Tá Vỹ, chúng tôi mến mộ ông nhưng không dám đến gần,
vì ông nóng tính và nghiêm khắc quá mức. Còn Trung Tá Dần thì vui vẻ, cởi mở. Mỗi lần
về Trung Đoàn Bộ để họp, ông thường tìm đến trò chuyện với các sĩ quan cấp nhỏ rất
thân tình. Thiếu Tướng Hiếu thì khỏi nói. Chúng tôi thường gặp ông ra ăn cơm tại câu lạc
bộ Sư Đoàn như bất cứ sĩ quan nào khác. Ông giản dị và hiền lành. Tuy ông cao lớn,
cường tráng, nhưng lúc nào cũng nói năng nhỏ nhẹ. Có lần đang chạm súng, vừa lo điều
quân vừa lo chấm tọa độ cho phi pháo; người âm thoại viên đưa ống liên hợp vào tai tôi
mà nói tiếng được tiếng mất:
- Thẩm quyền liên lạc với 54.
- Đ. M. 54, 55 là cái anh nào? Đang rối cả lên đây.
Một Thời Áo Trận 76
Người lính truyền tin hoảng hồn, vội bịt ống nói, hét vào tai tôi:
- 54 là ám hiệu của Tư Lệnh Sư Đoàn đó Thẩm Quyền.
- Chết cha, chắc ổng nghe hết rồi. Kỳ này hết sống.
Cấp Đại Đội mấy khi liên lạc truyền tin tới tầm cỡ Sư Đoàn mà biết hết các ám
hiệu truyền tin của các vị trên đó. Thông thường, các ông Tư Lệnh sử dụng danh hiệu:
Mặt Trời, Thái Dương, Sao Mai … Và các ám hiệu này cũng thay đổi luôn.
Ấy vậy mà cả tháng lơ lửng như ngồi trên lửa, nghe ngóng khắp nơi; nhưng tôi
chẳng nghe, chẳng thấy gì xảy ra cho thân phận bé nhỏ của mình. Có lẽ Tư Lệnh có nghe
thật, nhưng ông thông cảm hoàn cảnh chiến trận mà bỏ qua chăng? Dù sao, tôi vẫn tự coi
mình mang một cái tội bất kính mà chỉ có ra sức chiến đấu phục vụ để báo đáp lại sự
khoan thứ của ông.
Trong khi hai trực thăng võ trang bay quần trên vùng trời, thì hai chiếc trực thăng
trong đó có một chiếc có gắn phù hiệu Sư Đoàn và cấp hiệu hai ngôi sao trắng bên hông
cửa nhẹ nhàng đáp xuống. Thiếu Tướng Hiếu và nhiều sĩ quan cao cấp nhanh nhẹn đến
quan sát nơi đặt pháo. Xoay qua tôi, ông hỏi:
- Thiếu Úy Phúc phải không? Có bao nhiêu nắp hoả tiễn?
- Thưa Thiếu Tướng, có chừng hơn hai mươi lăm cái. Có cả nắp hoả tiễn 107
ly nữa.
- Có lục soát xa hơn để tìm thêm vị trí nào khác không?
- Thưa, chúng tôi vừa phát hiện ra chỗ này thì báo cáo ngay. Chưa có thì giờ
đi xa hơn.
- Nhìn cách đặt các giá này thì biết chắc chúng nhắm vào Lai Khê. Trung Tá
Dần góp ý.
- Nói Đại Úy Hiền làm danh sách đề nghị tưởng thưởng xứng đáng cho anh
em nhé. Tuy không có chạm súng, nhưng việc khám phá này cũng giúp cho Lai Khê yên
ổn một thời gian.
Chúng tôi cho phá hết các “giàn phóng” và đặt mìn giật sập cái hầm rồi di chuyển
tiếp về mục tiêu mới.
Chiều tối, Đại Úy Hiền gọi ra bảo đưa tên vài binh sĩ có công trong việc khám phá
giàn phóng. Anh nói
- Thằng Nhơn từ ngày ra trường chưa có cái Anh Dũng Bội Tinh nào, chú đề
nghị cho nó cái ngôi sao bạc nhé. Sư đoàn cho hai cái đồng nữa cho anh em binh sĩ, hạ sĩ
quan. Còn phần chú, còn nhiều dịp, anh Tư lo cho. Đừng buồn.
- Buồn gì anh Tư, Còn ở Tiểu Đoàn là còn khối dịp.
Đại đội còn hành quân thêm cả tuần mới bắt đầu nhận các mục tiêu trở ngược về
hướng căn cứ. Đi hành quân mà không chạm súng chẳng khác nào đi trại bay thời còn ở
Tráng Đoàn Hướng Đạo. Ngoài những phút gian nguy giữa rừng già, vẫn kiếm được chỗ
đóng quân với cảnh sắc nên thơ để thể tìm ra những lúc tạm an bình để thả hồn về với gia
đình, nhớ đến người vợ hiền và đàn con bé bỏng.
Chiến tranh sẽ kéo dài đến bao lâu?
Nào ai biết!
Một Thời Áo Trận 77
Một Ngày Trong Lòng
Mật Khu Tam Giác Sắt
Căn cứ Kiến31
nằm ngay trong lòng mật khu Tam Giác Sắt, giữa ngả ba sông Thị
Tính và sông Sài Gòn, chỉ cách quận lỵ Bến Cát vài cây số đường chim bay. Những năm
đầu cuộc chiến, đây là căn cứ địa bí mật của Cộng Sản, là trục giao thông của chúng từ
các mật khu Long Nguyên, Hố Bò, Bời Lời đổ về Bến Cát để tiếp nhận, di chuyển tiếp tế
và bổ sung quân. Khoảng năm 1967, một trận long trời lở đất giữa chính quy Việt Cộng
và Sư Đoàn Không Kỵ Hoa Kỳ xảy ra nơi đây. Tại một giao lộ của 5 con đường mòn mà
chúng tôi đặt hỗn danh là Ngả Năm Chuồng Chó, vẫn còn xác ba chiếc thiết giáp vừa M-
41 vừa M-113 bị cháy banh xích nằm ngổn ngang, xung quanh còn vương vãi các mảnh
quân trang, quân dụng, và vỏ đạn các loại.
Cái rẻo đất cỏn con hình tam giác này chỉ chừng vài cây số vuông. Nhưng mìn bẫy
thì dày đặc, hỗn loạn đến nỗi quân du kích Việt Cộng cũng thường vướng phải. Sau hàng
năm bỏ mặc cho chúng tung hoành, Sư Đoàn 5 Bộ Binh quyết định phải bình định mật
31
Đặt theo tên cố Trung tá Châu Minh Kiến (khoá 19 VBQG), Tiểu đoàn trưởng TĐ 1/8, tử trận năm 1970.
Một Thời Áo Trận 78
khu này vì sau thảm bại Tết Mậu Thân của Cộng quân, tình hình quân sự đã tạm lắng dịu
trên toàn Khu 32 Chiến thuật.
Tháng 6 năm 1970, Tiểu đoàn 4/8 nhận lệnh hành quân tảo thanh và thiết lập một
căn cứ nhỏ để chế ngự con đường tiếp liệu của địch. Dù không còn các đơn vị chủ lực lớn
của địch, nhưng đám du kích lẻ tẻ vẫn có khả năng quấy nhiểu như đặt mìn, bắn sẻ hay
pháo kích vào đội hình quân bạn. Từ địa điểm đổ quân trên con đường đất đỏ từ chơ Bến
Cát dẫn đến đồn điền cao su Michelin, những người khinh binh đã đi theo chiếc xe ủi đất
D-10 khổng lồ của Tiểu đoàn 5 Công Binh trên một khoảng đường chỉ dài hơn cây số mà
cũng mất hơn hai ngày trời mới đến được Ngả Năm Chuồng Chó. Xe ủi đất cày sâu
chừng hai tấc đủ để hủy diệt các loại mìn chống người và chống chiến xa. Bộ binh thì dò
dẫm từng tấc đất để phá gỡ các loại mìn bẫy nội hoá.
Rừng Long Nguyên dày đặc, cây lớn thì cao ngút ngàn. Bên dưới là cây chồi với
dây rừng, gai nhọn đan chi chit. Người đi sau đặt phải bàn chân đúng lên dấu giày người
đi trước. Thận trọng từng giây phút một. Mìn bẫy ở đây thì vô số. Cộng quân gài mìn
không theo quy cách lớp lang như quân ta. Vì thế, sau một thời gian, trên những con
đường mòn không ai qua lại, cây cỏ mọc che kín, thì ngay chính họ cũng chẳng biết
đường né tránh.
Ngày hành quân đầu tiên không có thiệt hại gì. Binh sĩ tháo gỡ hàng trăm mìn nội
hoá mà du kích Việt Cộng chế bằng cách trộn đinh, sỏi với chất nổ dẻo rồi nhồi cứng vào
những chiếc lon đủ cỡ. Tuy không có sức công phá mạnh, nhưng loại mìn này cũng có
khả năng sát thương tròng vòng 5 mét. Loại đáng sợ nhất là các trái đạn pháo binh của
chúng ta bị lép; Việt Cộng chế lại thành mìn bẫy. Tiếng nổ của nó rất khủng khiếp.
Người bị mìn khó còn được chút da thịt nào lớn hơn bàn tay.
Đêm đến, bố quân trên vòng đai do xe ủi tạo ra quanh ba chiếc thiết giáp cháy,
binh sĩ không đào công sự, mà chỉ nằm tựa các gốc cây lớn để phòng thủ. Quân sĩ thức
trắng một đêm canh chừng vì không thể bung ra gài mìn giăng bẫy như thường lệ. Du
kích Việt Cộng thỉnh thoảng xuất hiện bắn quấy phá nhiều đợt. Hoả châu từ căn cứ Lai
Khê bắn yểm trợ suốt đêm. Cả một vùng sáng như ban ngày. Trung Úy Nguyễn Hữu Đát,
Đại đội trưởng 15, trong lúc di chuyển điều quân, đã bị đạn AK bắn sẻ xuyên qua lớp nón
sắt gây thương tích ở đầu phải tải thương ngay. Đại đội phó là Thiếu Úy Phúc lên thay
thế.
Phúc là một trong bốn sĩ quan tốt nghiệp khoá 1 trường Đại Học Chiến Tranh
Chính Trị cùng ở trong một tiểu đoàn. Dương Quang Bồi32
thì đã nắm đại đội từ đầu năm
1970, Mai Thanh Tòng33
làm đúng chức năng của mình là Trưởng ban 5 tiểu đoàn, chỉ
còn Quách Kế Nhơn34
và Phúc vẫn học nghề đánh đấm ở các đại đội. Nhờ những công
trận xuất sắc ở Bù Na, Đồng Xoài, Phúc đã được Đại Úy Vũ Huy Thiều35
(Khoá 19 Võ
Bị, người hùng trận Phước Quả) ngắm nghé cho nắm đại đội từ những ngày cuối năm 69.
32
Dương Quang Bồi bị thương ở Snuol năm 1971, giải ngũ, hiện ở Sài Gòn 33
Cựu Đại Úy Mai Thanh Tòng hiện ở New Jersey 34
Cố Thiếu Tá Quách Kế Nhơn hy sinh năm 1973 ở Bàu Bàng 35
Cựu Thiếu Tá Vũ Huy Thiều Hiện ở Dallas, Texas
Một Thời Áo Trận 79
Hai tuần trước Tết Canh Tuất 1970, trong một trận phản phục kích ở ngả ba Bù Noi,
Phước Long, Phúc bị thương nặng phải chuyển về Bệnh Viện 3 Dã Chiến. Khi trở về đơn
vị thì các cấp chỉ huy đã thay đổi. Tiểu đoàn nay dưới quyền Đại Úy Nguyễn Chí Hiền,
người hùng một thời của Đại đội Trinh sát 5.
Tiểu đoàn bung hai Đại đội hành quân xa về hướng Tây Bắc, chỉ để lại Đại đội 15
bảo vệ an ninh cho Đại đội Chỉ Huy và Công binh lập căn cứ. Công binh Hoa Kỳ tăng
cường thêm mấy chiếc xe ủi đất hạng nặng để phá rừng, cày thành một khoảnh đất có
đường kính khoảng 100 mét. Ở trung tâm, họ xây ba hầm kiên cố sâu dưới lòng đất,
chống đỡ bằng những khúc gỗ lớn. Nắp hầm là một lớp PSP36
bên trên có 5 lớp bao cát
đủ để chịu đựng sức công phá của bíck kích pháo 82 ly. Ba hầm này dùng làm hầm Chỉ
huy, Truyền tin và Tiếp liệu. Một vòng đai bên ngoài có tám hầm nhỏ hơn dùng cho binh
sĩ trú phòng. Các hầm được cách ly bằng các lớp hàng rào concertina để chống đặc công.
Từ chu vi hầm ra đến bìa rừng là khoảng trống có các lớp hàng rào gài mìn bẫy và trái
sáng dày đặc.
Đại đội 15, trong khi hành quân lục soát dọc bờ sông Thị Tính, đã phát hiện nhiều
khu hầm kiên cố nhưng để trống. Binh sĩ tìm thấy thực phẩm, áo quần cả đàn ông lẫn đồ
lót phụ nữ cho thấy nhiều dấu hiệu hầm đang được sử dụng bởi các toán du kích. Thường
họ sinh hoạt và di chuyển theo tổ tam tam chế, hai nam một nữ. Các hầm này được xem
như các nơi tạm trú cho du kích hoặc cán bộ về hoạt động lén lút ngoài quận lỵ và các xã
chung quanh. Cách thiết lập hầm ngầm rất khó phát hiện. Hầm đào sâu dưới đất, nắp hầm
ngang bằng mặt đất. Có 4 lỗ châu mai ở bốn phiá được các bụi cây bên ngoài che khuất.
Trong nhìn thấy ngoài rất rõ, nhưng ngoài thì không thể nào thấy dấu hiệu gì. Nếu phỏng
đoán được sự hiện diện của hầm, thì cũng khó xác định chính xác vị trí. Đạn bắn thẳng
không có xác suất cao trúng vào lỗ châu mai. Trong hầm chỉ cần một hay hai tay súng
cũng đủ cầm chân cả trung đội quân ta. Dĩ nhiên không phải không thể diệt được hầm.
Nhưng cái giá phải trả cũng có thể rất cao.
Các chiến sĩ Trung đoàn 8 BB trong những năm này đã tìm ra biện pháp diệt chốt
bằng các tổ hai,
ba binh sĩ với sự
yểm trợ hoả lực
cộng đồng. Tuy
chậm, nhưng biện
pháp này rất hiệu
quả mà ít hao sinh
mạng.
Lúc xế
chiều, khi Đại đội
thu quân về, trung
đội 3 của Thiếu
Úy Nguyễn Trọng
36
PSP: Tấm vỉ nhôm pha magnesium, rất cứng, thường được dùng lót làm phi đạo dã chiến.
Một Thời Áo Trận 80
Thủy37
báo cáo thiếu một binh sĩ. Vì không có chạm súng trong ngày, cũng không nghe
tiếng nổ của mìn bẫy ; nên Phúc ước đoán Hạ sĩ Nghĩa chỉ đi lạc đâu đây thôi. Quả thế,
chỉ chừng mười phút sau, từ bìa rừng anh lính nhà bếp trẻ này hớt hãi chạy ra, mặt xanh
như tàu lá. Cái soong và cái xẻng sau lưng va chạm nhau kêu lách cách. Anh vừa thở vừa
lắp bắp : «Em thấy hai đứa nó chơi nhau, Thiếu úy ơi ! ». Phúc nạt đùa : « Mày sợ quá,
thần hồn nát thần tính mà nói bậy. Chứ ai mà chơi nhau trong này ? » Nghĩa nhất quyết :
« Thiệt mà, Thẩm quyền38
, em thấy rõ ràng, hai đứa chơi nhau trong kia. » « Sao mày
không bắn chết chúng nó ? » « Chời ơi ! em vừa kéo cây súng thì nó nghe động, nó kéo
quần lên và lủi mất tiêu, ông thầy ơi. Mà em cũng sợ quá chừng. »
Phúc báo chuyện này cho Tiểu đoàn trưởng biết. Đại Úy Hiền cười xác nhận :
« Nó không nói láo đâu. Tụi du kích nó đi ba đứa, hai trai một gái. Lúc nào hứng tình thì
đè ra chơi. Có gì lạ đâu chú mày. »
Việc xây căn cứ cũng nhanh. Xe công binh đã được trả về cho Sư đoàn. Tiểu đoàn
cũng chuẩn bị rút về Lai Khê, để lại đại đội của Phúc trấn ngự căn cứ. Nhiệm vụ rất đơn
giản. Ngoài một trung đội nằm tiền đồn chỗ ngả ba đường từ Bến Cát đi đồn điền
Michelin và con đường mới mở dẫn vào căn cứ ; hai trung đội khác phải bung ra hành
quân trong ngày để lục soát và an ninh xa. Chỉ còn trung đội vũ khí nặng và ban Chỉ Huy
nằm lại trong căn cứ.
Ngày ở đây rất dài. Binh sĩ chẳng biết làm gì trong phạm vi chưa tới trăm mét
vuông. Chui vào hầm, chui ra, lên mặt đất ngó trời ngó mây một đỗi rồi lại chui xuống.
Chiều chiều có vẻ rộn lên đôi chút nếu mấy đứa du kích liều lĩnh mò về bên ngoài hàng
rào, chõ loa vào tuyên truyền, kêu gọi đầu hàng : « Nghe đây, nghe đây, quân giải phóng
đã bao vây đồn sẽ tiêu diệt đồn nay mai. Hãy buông súng đầu hàng sẽ được khoan hồng
tha mạng sống… »
Thỉnh thoảng, chúng cũng bắn súng cối vào căn cứ. Mỗi lần chừng chục trái. Với
hầm kiên cố, thì đạn cối chẳng làm suy suyển gì. Nhưng cũng có lúc nó pháo vào thời
điểm bất ngờ, anh em binh sĩ đang nấu ăn, tắm giặt bên giếng. Vì các hàng rào concertina
bao kín các hầm, thế nào cũng có vài chú lính nhảy xuống giếng né đạn.
Thời này súng đạn dồi dào. Phúc cho bố trí ba cây đại liên M60 tại ba điểm quanh
đồn. Anh tập cho binh sĩ bắn đại liên từng phát một ; và cứ thế rải đạn vào bìa rừng hay
nhắm vào các ngọn cây quanh đồn để ngăn ngừa bọn tiền sát viên. Anh cũng cắt cử các
toàn nhỏ phục kích cách đồn chừng vài trăm mét. Có lần đã bắn hụt hai tên du kích. Từ
đó, không nghe tiếng loa gọi hàng nữa. Nhưng cối 61 và 82 ly thì cũng cứ lai rai rót vào ;
nhất là những lúc có trực thăng tiếp tế.
Đại đội đã đóng tại căn cứ này hơn tháng nay. Lính tác chiến mà nằm đồn thì thật
tệ hại. Cái chán nãn và bực bội kéo về mỗi ngày cứ nhìn ra khoảnh rừng xanh tù túng.
Phúc đã ngấu nghiến hết mấy bộ truyện chưởng Kim Dung ; đã nghe đến thuộc lòng mấy
trăm bản nhạc của bất cứ chương trình nào trên đài Sài Gòn và đài Quân Đội. Đủ thứ, đủ
37
Trung Uý Thủy sau này kế nhiệm Đại Đội Trưởng 15, hy sinh năm 1973 tại Bầu Bàng. 38
Thẩm quyền là danh xưng dành cho các Đại đội trưởng; trong khi Đại Bàng là danh xưng của Tiểu đoàn trưởng
Một Thời Áo Trận 81
loại, từ nhạc thính phòng cho đến nhạc bình dân; từ ca sĩ lừng danh cho đến ca sĩ nửa
muà.
Mỗi ngày một chầu cà phê sáng và hai lần cơm nóng có canh chua là dang nấu khô
sặc hay khô sặc chiên, nướng. Đang là thời điểm các đơn vị hành quân xây dựng nông
thôn. Vì thế, thực phẩm đóng hộp của Mỹ được cấp phát rộng rải. Đó là một ngày hai
bữa, mỗi bữa một túi cơm sấy hơn 500 gram, một hộp thịt bò ba lát và một hộp trái cây.
Bếp đại đội là Hạ sĩ Nhàn, năm nay đã hơn 60 tuổi. Chẳng rõ khai sanh lộn xộn sao đó,
mà ông bị bắt đi quân dịch. Trung Úy Đát thương tình cho ông làm bếp của Ban Chỉ Huy.
Bảy ngày một lần có trực thăng tiếp tế; là có một thùng riêng cho Phúc. Có đủ báo,
truyện mướn ngoài Bến Cát. Có một chai đế Bà Quẹo thật nồng; có một lon gô thức ăn
mặn. Đặc biệt mong đợi là những lá thư từ gia đình gửi đến gói ghém bao nhiêu tình cảm,
nhớ nhung.
Những đêm trước ngày tiếp tế, Phúc túc trực sẵn bên máy C-25 chờ nghe lệnh từ
Tiểu đoàn cho rút quân. Nhưng lần lửa, chỉ thấy tái tiếp tế. Đám lính tiền đồn chừng cũng
đâm liều. Họ lén mò ra Bến Cát chơi từ sáng sớm, đến chiều mới lội về. Có tên buồn
chán, giải trí bằng cách bắn phóng lựu vào bìa rừng khơi khơi.
Đến lần tái tiếp tế thứ năm, thì Phúc nổi cơn điên thật sự. Trong lúc Trưởng ban 3,
Trung úy Nguyễn Văn Quốc39
, đang gọi ban lệnh, Phúc đã cùng đám lính ban Chỉ Huy
bắt đầu chương trình phát thanh đặc biệt :
« Đây là tiếng nói Đại Đội 15, Tiểu đoàn 4/8. Mở đầu là bài hát Đƣờng Trƣờng
Xa để kính tặng Tiểu Đoàn. Hai, ba, Đƣờng trƣờng xa, Đại Úy hổng cho tui dề…. »
Nửa đêm, Phúc bị giật dậy để nghe tiếng Quốc chuyển lệnh của Đại Bàng : « Tụi
mày chớ có làm loạn. Anh Tƣ kêu về cho 30 củ rồi tống đi Phƣớc Long. Biết chƣa ? Sáng
ngày mai lo an ninh bãi đáp thật cẩn thận, có quà đặc biệt cho mày. Thật đặc biệt»
Quốc cúp máy, không cho Phúc kịp hỏi thêm điều gì.
Thế là suốt đêm, Phúc không tài nào chợp mắt. Quà gì mà đặc biệt. Có phải Tiểu
đoàn sẽ cho cái ống kính hồng ngoại tuyến mà nghe đâu Sư đoàn vừa được cấp phát để
trang bị cho các pháo đài vòng đai căn cứ Lai Khê ? Hay là cái lệnh đóng đồn vĩnh viễn
thì bỏ bu. Lúc này mà được đi hành quân trong rừng thì thật thú vị. Mỗi lần hành quân
thường kéo dài cả tuần lễ hay nửa tháng trong một khu vực trách nhiệm cả gần trăm cây
số vuông. Các mục tiêu hoặc được chỉ định, hoặc do đại đội trưởng chọn với sự chấp
thuận của Tiểu đoàn. Ngày đi lùng sục, đêm đóng quân phục kích. Coi như những chuyến
picnic dài ngày. Có chạm súng thì cũng chỉ mấy tên địa phương, du kích lẻ tẻ. Phúc thích
những chiều dừng quân trong những khu rừng thưa. Nằm đu đưa trên chiếc võng mắc
dưới tàn cây cao. Nhắp ngụm cà phê nóng và thưởng thức âm nhạc từ chiếc radio bỏ túi.
Tối, giăng mìn bẫy các điểm nghi ngờ địch di chuyển. Có lúc kiếm được con mễn, con kỳ
đà là thầy trò bày bàn chén chú chén anh rất tâm đắc. Người sành ăn bảo rằng thịt kỳ đà
là ngon nhất. Nó lại là thứ động vật rất dễ bắt. Thông thường kỳ đà năm đeo trên cành
cây, thấy người chúng không hể bỏ chạy trốn. Vì thế, chỉ cần đủ mạnh để nắm đuôi nó
kéo xuống. Con trút cũng thế. Đụng vào nó, nó cuốn tròn người lại như trái banh. Thầy
39
Cố Đại Úy Quốc đã hy sinh tại Lộc Ninh cuối năm 1971 khi đó là Trưởng ban 3 Trung Đoàn 8 BB
Một Thời Áo Trận 82
thuốc bắc nói vẫy trút nướng cháy, tán thành bột cho các sản phụ uống sẽ tăng nguồn sữa.
Thịt rừng thì chỉ có cách nướng trên lửa là ngon tuyệt. Mà giữa hành quân thì cũng chẳng
còn cách chế biến nào khác.
Đêm xuống đã lâu. Rừng im lắng, không một tiếng động nhỏ của thú rừng hay lá
cây xào xạc. Bom đạn chiến tranh hơn chục năm đã xua đuổi hầu hết các loại thú chạy
vào rừng sâu bên kia biên giới Việt Miên. Chim rừng cũng vắng. Cái im lắng của rừng
sao mang đầy vẻ ghê rợn đe doạ của chết chóc hơn là sự thanh vắng đêm hè.
Phúc không ngủ nhiều. Thỉnh thoảnh, anh trổi dậy gọi các tiền đồn để theo dõi
động tịnh. Tội nghiệp những người khinh binh. Ngày hành quân, đêm phải thay nhau
chong mắt ra canh gác ít lắm ba tiếng đồng hồ. Người chỉ huy tuy không canh gác, nhưng
cũng khó có được giấc ngủ ngon lành, thẳng giấc. Đóng tiền đồn, được ngủ trong hầm thế
này là hạnh phúc gấp mấy lần ngủ trên võng đu đưa giữa rừng, dưới tấm lều bằng áo đi
mưa. Ngay từ ngày đầu vào lính, mỗi quân nhân được cấp một tấm poncho bằng nhựa
dày, khá nặng. Đó là vật thiết thân gắn bó với suốt cuộc đời của lính. Poncho khi có mưa
thì dùng làm áo mưa. Khi đóng quân thì căng ra giữa hai thân cây để làm lều. Khi vượt
sông thì gói hết vũ khí, quân trang, túm hai đầu để làm phao. Cuối cùng, khi tử trận thì
thân xác tử sĩ được bó trong poncho như bó chả để chờ chuyển về hậu phương. Vì nó khá
nặng, nên dù lính, dù quan, mỗi người cũng chỉ có thể mang theo một poncho ngoài hàng
chục ký quân dụng, vũ khí đạn dược, và lương thực. Lưng người lính bộ binh lúc nào
cũng oằn xuống vì gánh nặng này. Dĩ nhiên, nó cũng ảnh hưởng nhiều đến khả năng di
động của anh em binh sĩ so với bọn lính Việt Cộng. Người lính đối phương khi hành
quân, đã biết rõ mục tiêu ; họ chỉ cần bôn tập nhanh đến mục tiêu, đánh thí mạng qua
đêm rồi tờ mờ sáng hôm sau là rút. Vì thế, trong tay họ chỉ một cây súng ; quanh lưng vài
băng đạn, lựu đạn. Có thêm chăng nữa là một bọc cơm vắt điểm vài hột muối. Trong khi
người lính miền Nam thường hành quân dài ngày trong một khu vực rộng lớn để tìm
địch. Nếu có điều kiện tiếp tế, thì chí ít cũng mang theo hai cấp số đạn, bốn ngày lương
khô, vài bi đông nước, xẽng, mìn claymore ; có khi còn mang theo ống phóng M-72 để
phá hầm. Áo quần, giày vớ luôn dính trên người cho dù mưa, dù nắng, dù lội sình, băng
suối. Các sĩ quan cỡ trung đội trưởng cũng mang nặng không thua gì các anh em binh sĩ.
Chỉ có đại đội trưởng trở lên thì mới có một hai anh binh sĩ phụ mang giùm bớt đồ để ông
ta còn rảnh tay mà điều động.
Phúc trở người trên chiếc võng nylon. Đất ẩm hai bên vách hầm rơi lộp bộp.
Trong căn hầm chỉ có Phúc và người lính truyền tin. Chiếc máy C-25 ở góc hầm lâu lâu
phát ra các tín hiệu báo cáo từ các vọng tiền tiêu. Những giờ phút thế này giúp cho người
lính có dịp nghĩ về gia đình. Phúc lấy vợ vừa hơn một năm rưởi ; đã có một cháu trai đầu
lòng. Lộc sẽ đầy năm vào tháng 9 năm nay, tức là chỉ còn một vài tháng nữa thôi. Đã hơn
một năm kể từ ngày ra đơn vị. Cuối năm ngoái, Phúc rủi ro bị thương nặng ở Bu-Nard ;
nhưng đó lại là cái may mắn được về với gia đình sau khi mổ vết thương chờ tái khám
đến 3 lần. Chàng đã tận hưởng hơn ba tháng bên vợ con và mẹ già. Mỗi ngày săn sóc con,
thay tả cho con, nhìn con một lớn lên. Cái hạnh phúc hiếm hoi chỉ chấm dứt khi Phúc
được xếp loại 1 do vết thương bụng đã lành hẳn và không ảnh hưởng gì đến khả năng
chiến đấu. Phúc được trả về đơn vị cũ tiếp tục hành quân.
Một Thời Áo Trận 83
Tuy thế, nhờ địa bàn hành quân của đơn vị tương đối gần Sài Gòn, thỉnh thoảng,
Trung Úy Đát làm ngơ cho Phúc dọt về Vũng Tàu một hai hôm thăm nhà. Ở đơn vị chiến
đấu, chỉ có cấp trưởng là kẹt khó thể rời đơn vị. Và bây giờ thì Phúc đang ở trong tình thế
đó. Do đó, chẳng biết lúc nào mới có hy vọng gặp lại vợ con.
Lại một đêm vô sự dù rằng ở đâu đó xa xa, tiếng đại bác thỉnh thoảng vọng về.
Bên kia sông Thị Tính, giờ này chắc dân chúng đang lũ lượt kéo nhau ra chuẩn bị một
ngày chợ mới. Cô A Múi chắc đang dọn các khúc vải ra sạp ; cô Út Trơn chắc cũng đang
đẩy những chiếc máy may Sinco vào vị trí thường lệ. Chao ôi, Phúc tưởng như ngửi được
hương vị tô phở béo ngậy ở quán phở cuối thị xã Bến Cát, trên đường dẫn vào căn cứ Lai
Khê.
Những tia nắng đầu tiên đã xuyên qua lớp bao cát mỏng che lỗ châu mai để rọi vào
những sợi vàng mong manh. Đệ, người lính truyền tin mở to volume để báo cáo tình hình
về Tiểu Đoàn và nhận lệnh mới.
- Thẩm quyền, Bác Ba (Sĩ quan Trưởng Ban Ba) nói an ninh bãi đáp thật kỹ.
Hôm nay tiếp tế đặc biệt.
- Thì cũng thêm 7 ngày lương khô chứ có quái gì mà đặc biệt.
- Bác Ba dặn kỹ lắm. Hay là Thẩm quyền nói chuyện với Bác Ba đi.
- 33 đây 51, nghe rõ?
- 33 đây. Có Bắc Bình Xung Phong 40
mày lên hôm qua. Năn nỉ mãi, Đại
Bàng cho theo chuyến Tư Tưởng41
vào thăm mày đó. Liệu mà bung con cái ra xa cho kỹ
kẻo nó pháo.
Thật bất ngờ. Nhưng không làm Phúc quá ngạc nhiên. Vì Tiểu đoàn cũng thường
dễ dãi với gia đình binh sĩ mỗi khi đóng đồn. Ngày mới về đơn vị ở Chánh Lưu, Phúc đã
ngạc nhiên thấy sự hiện diện của các chị, các cháu trong căn cứ. Sau này mới được giải
thích rằng đa số vợ con binh sĩ nhà cửa ở miền quê xa, hoặc đã bị tiêu hủy vì chiến cuộc.
Họ cư trú ngay trong hậu cứ đơn vị ở Lai Khê. Mỗi khi đơn vị về dưỡng quân là họ kéo
đến. Ngay cả khi đóng các căn cứ mà có đường bộ đi được, các chị cũng liều lĩnh mò
vào. Cũng may là chưa bao giờ các căn cứ này bị địch tấn công, nên chưa thấy gì trở ngại
và tổn thất về phía các chị. Tại các đơn vị Địa Phương Quân, thì các chị các cháu
“thường trú” luôn, và đã trở thành các tay trợ đắc lực thủ khi có chạm địch.
Phúc gọi ngay Thiếu Úy Thủy, lệnh tung các trung đội ra xa quanh căn cứ để an
toàn bãi đáp. Du kích vùng này chỉ có các loại súng cối 61 ly mà tầm hiệu quả xa nhất là
một ngàn sáu trăm mét (trên lý thuyết là 1800 mét). Tiểu đoàn Phú Lợi của Việt Cộng có
cối 82 ly, nhưng đơn vị này đã tan hàng từ lâu, chỉ còn lẻ tẻ dăm bảy tên trở thành du
kích địa phương. Những cây cối này chúng chôn ngập dưới đất, chỉ chừa cái nòng ló ra
để lâu lâu một tên du kích nào đó đi qua, thụt vài quả vào chợ Bến Cát quấy phá.
Đến hơn bảy giờ, Phúc cho lính Trung đội Vũ Khí Nặng ra tuyến ứng chiến và bảo
Hạ Sĩ Quý42
lấy hai cái áo giáp và nón sắt mang chờ sẵn ở bài đáp trực thăng. Các máy
truyền tin làm việc dồn dập giữa ban Ba và Đại Đội. Trung Sĩ 1 Hùng, Thường Vụ Đại
Đội tung trái khói màu ra để phi công canh hướng gió và xác định bãi đáp. Tiếng phành
40
Ngụy hoá hai chữ Bà Xã (vợ) 41
Ngụy hoá hai chữ Tiếp Tế 42
Hạ Sĩ Qúy sau 1975 bán phụ tùng xe đạp trên đường Trần Quang Khài, Sài Gòn.
Một Thời Áo Trận 84
phạch từ hướng Bắc vọng đến chừng vài giây sau là đã thấy hình dáng chiếc trực thăng
UH-1B Huey. Chiếc trực thăng của Sư Đoàn 1 Bộ Binh Mỹ chuyển hướng và hạ dần cao
độ để đáp. Phúc là người đầu tiên chạy đến cửa hông phi cơ. Nơi đây, Hoa đã dợm đứng
dậy để nhảy xuống. Phúc khoác chiếc áo giáp và đội nón sắt cho vợ. Không kịp nói với
vợ một câu, Phúc thúc Hạ sĩ Quý bọc bé Lộc vào chiếc áo giáp kia rồi bế cháu và dẫn
Hoa chạy nhanh vào trong hầm. Trung Sĩ Thành, Tiếp Liệu, đi theo chuyến bay điều
động các binh sĩ xuống hàng tiếp tế xong, trao cho Phúc ít văn thư quan trọng để xin chữ
ký. Mọi việc xảy ra nhanh như chớp, chỉ trong vòng khoảng 3 phút là xong. Khi phi cơ
vừa bay lên thì có mấy tiếng đề pa từ hướng Tây vọng sang. Phúc và đám linh chạy thật
nhanh vào căn hầm gần nhất bên trong.
- Yên tâm, không sao đâu. Em đi làm chi mà liều lỉnh thế này?
- Thì nghe anh đóng đồn lâu, nên đem con lên thăm.
- Thôi, nép vào góc hầm. Nghe đạn nổ cho quen.
Ầm! Ầm! Ầm!
Một loạt tiếng nổ cắt ngang lời Phúc. Phúc nhìn ra thấy những chùm khói và đất
tung toé bên ngài sát hàng rào. Không có trái nào lọt vào vòng trong.
- Ê! Thoại, kêu thằng 2 lục soát nhanh ở hướng 10 giờ của nó. Bung rộng ra
tìm cho được cây cối.
- Có gọi con cái khác về không? Thẩm quyền?
- Thôi chiều rồi cho rút. Cứ bảo các Trung đội “Lam Sơn”43
thật kỹ, may ra
tó được vài thằng du kích.
Bây giờ, Phúc mới có thì giờ cho vợ con. Nhìn Hoa gọn gàng trong bộ quân phục,
áo giáp nón sắt vẫn còn mang. Chẳng gì nàng cũng từng là nữ quân nhân kia mà. Chàng
quay qua ôm Lộc vào lòng hỏi nựng:
- Lên Lai Khê hồi nào? Chà! thằng Cu. Ngon hé. Dám ra hành quân chớ thua
ai đâu! Sợ không con?
- Em lên đến trưa hôm qua. Tính về lại nhà, nhưng Đại Úy Hiền nói có trực
thăng sẽ cho vào thăm. Ông ấy gửi biếu anh chai Hennessy trong thùng tiếp tế. Má thì gửi
cho anh hộp thịt gà kho sả ớt dành ăn dần.
- Ăn dần cái gì. Ở đây anh em ăn chung, một bữa hôm nay cho gọn. Ngày
mai lại tiếp tục cá khô.
Thằng cu Lộc cứ ngây người ra nhìn ba nó, hai bàn tay bé nhỏ sờ vào mặt ba,
miệng bập bẹ mấy tiếng. Hôn con lần nữa, Phúc để con lên chiếc ghế bố rồi kêu Trung sĩ
Hùng vào
- Coi tiếp tế chia cho các trung đội. Đạn dược, lương thực theo nhu cầu. Bữa
nay, ngoài đó gửi vào thứ gì?
- Trình Thẩm quyền, có thêm đạn cối, đạn đại liên như mình xin. Lương khô
thì có cơm sấy thịt hộp ba khoanh. Riêng Thẩm quyền có thùng báo và ít hộp trái cây.
- Hôm này bảo ông Nhàn nấu luôn cho Ban Chỉ Huy. Mình ăn chung. Chiều
kêu mấy ông Thiếu Úy về nhậu chơi.
43
Ám ngữ, có nghĩa là lục soát
Một Thời Áo Trận 85
Gần trưa, Thủy cùng
Chuẩn Úy Nhơn dẫn Trung
2 kéo về. Chỉ còn Trung Sĩ
1 Tiết và Trung 1 được
lệnh ở lại tiếp tục hành
quân và sẽ phục kích đêm
bên ngoài căn cứ. Trung 3
thì vẫn nằm tiền đồn trên
giao lộ đất đỏ đi Bến Cát.
Thiếu Úy Nguyễn Trọng
Thủy tốt nghiệp khoá 27
Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Thấp, đậm người, da ngăm
đen. Anh là một trong
những sĩ quan giỏi của
Tiểu đoàn; do đó, Phúc đề
nghị lên làm Đại Đội Phó.
Trần Nhơn44
thì từ hạ sĩ
quan được gửi học ra
trường Thủ Đức đâu mới
mấy tháng nay. Nhơn coi
Trung đội 2 tạm vững. Còn
hai trung đội 1 và 3 thì do
hai Trung Sĩ 1 Tiết và Trí
coi. Hầu như các đơn vị bộ
binh đều ở trong tình trạng
thiếu hụt sĩ quan; và ngay
quân số cũng ít khi đạt đến
mức 80% đầy đủ theo cấp
số. Lúc cao nhất cũng chỉ lên đến khoảng trên dưới 120 người; nhưng khả dụng hành
quân thì chỉ khoảng 100. Lý do chính là một số bất khiển dụng do thương tích, nhưng lại
không được phân loại 2 hay 3 để chuyển về các đơn vị văn phòng hay cho giải ngũ. Đơn
vị phải gánh lấy con số người này và thu xếp cho họ làm ở hậu cứ, hậu trạm. Ngoài ra, có
một tỷ lệ nhỏ quân số đi phép hoặc vắng mặt bất hợp pháp. Tỷ lệ quân nhân đào ngũ ở Sư
Đoàn 5 rất cao, do đa số lính tuyển mộ từ Sài Gòn mà đơn vị thì ở quá gần thủ đô. Chỉ
cần lọt ra khỏi cổng, leo lên xe lam ba bánh là mất dạng.
Tiểu đoàn 4/8 từ khi giao cho Đại Úy Hiền45
có khá hơn nhiều. Ông chủ trưởng
giữ người ở lại chứ không giữ người đi. Vì thế, ông cho phép quân nhân được đi phép
thường niên dễ dàng mỗi khi có gia đình lên lãnh về. Ông nghiêm nhặt với các Đại Đội
Trưởng về các vấn đề quyền lợi binh sĩ, tiếp liệu, lương bổng và quân tiếp vụ. Điều đáng
44
Nhơn hình như đang ở một Tiểu Bang phía Bắc, có lần đã gọi điện thoại về thăm rồi sau đó bặt tin. 45
Cựu Thiếu Tá Nguyễn Chí Hiền ở tù chung với Phúc trại A-20, hiện ở Pháp
Một Thời Áo Trận 86
nói là binh sĩ rất phấn chấn khi nghe tiếng tăm của Đại Úy Hiền từ khi ông làm Đại Đội
Trưởng Trinh Sát Sư Đoàn. Vào thời điểm này, Trung đoàn vừa tổn thất một sĩ quan xuất
sắc. Đó là Thiếu Tá Châu Minh Kiến, Tiểu Đoàn Trưởng 1/8. Ông ra trường khoá 19 Võ
Bị Đà Lạt và có nhiều triển vọng lên Trung Đoàn Phó vào cuối năm nay. Nhưng không
may, trong một trận tương đối nhỏ ở Ấp Nhà Việt, ông quá hăng kéo cả Ban Chỉ Huy
chạy lên tuyến đầu và bị lọt ổ phục kích của địch. Tiểu Đoàn Trưởng tử trận, ông phó Đại
Úy Trần Kiến Tường, bị thương nặng.
Trưởng ban 3 Tiều Đoàn 1/8 là Đại Úy Trung. Ông Trung như có một giác quan
thứ sáu rất linh nghiệm. Có lần, một binh sĩ về ghé qua Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn lãnh
lương, gặp Đại Úy Trung, chào hỏi trò chuyện. Trung buột miệng: “Mày vào lãnh thêm
một tháng lương nữa nhé!”. Chỉ trong vòng một tháng sau, người binh sĩ này tử trận, gia
đình lãnh thêm tháng lương thứ 13 của anh ta. Trường hợp Thiếu Tá Kiến như cũng được
Trung dự báo. Trong một bữa cơm chiều ở Ban Chỉ Huy Tiểu Đoàn 1/8, Trung bỗng nói:
“Nè, kiến mà bò trên tường; có ngày tường sập đè kiến chết.”
Thiếu Tá Kiến phì cười: “Đ.M. tao còn sống dai lắm để lên làm trung đoàn trường
nay mai nghe mày!” Không ngờ chỉ một tuần sau, ông Kiến tử trận, ông Tường bị
thương. Quả thật linh nghiệm. Từ đó, mọi người như né, không mấy ai dám gặp trò
chuyện cùng Trung, sợ phải nghe điều bất tường.
Xế chiều, Phúc cho gọi các Trung Đội Trưởng về căn cứ. Hạ Sĩ Nhàn đã dọn bàn
ăn ở căn lều nhà bếp. Gọi là bếp cho oai, nhưng thực ra chỉ có một ông Táo đơn sơ bên
cái giếng cạn gần sát bờ rào căn cứ. Bàn ăn thì kê mấy thùng gỗ đựng lựu đạn; và ghế thì
đương nhiên “à la terre”. Cũng hay, nếu đang ăn cơm mà bị pháo thì chỉ cần nhảy một
phát là xuống giếng. Do việc xử dụng các vòng rào concertina để cô lập các hầm bên
trong, chỉ chừa một lối ra vào nhỏ; nên việc di chuyển không dễ dàng. Việc này có lợi là
nếu bị đặc công xâm nhập trong đêm, thì chúng khó xoay sở trong căn cứ. Quân ta chỉ có
việc cố thủ dưới hầm và bắn ngang mặt đất để tiêu diệt chúng.
Phúc nhớ lại hồi mới ra đời, làm Thông Dịch Viên cho Cơ Quan Đại Diện Mỹ46
ở
Quảng Trị. Một đêm, đặc công Việt Cộng xâm nhập đánh phá Trung Tâm Huấn Luyện
Biệt Chính ở cuối Thị Xã, trên đường về Chợ Sãi. Mờ sáng, khi Phúc tháp tùng Đại Tá
Nguyễn Ấm - Tiểu Khu Trưởng Tiểu Khu Quảng Trị- và Cố Vấn Mỹ Kenwood Foster47
đến Trung Tâm thì chỉ thấy những hoang tàn và cảnh thương tâm. Tất cả các lô cốt bằng
bê tông cốt sắt xây từ thời Pháp mà vách và trần dày đến ba tấc đều bị chất nổ đánh sập.
Hàng chục học viên chết thê thảm, banh xác trong những căn hầm mà thời điểm đó
(1965) tưởng là rất kiên cố. Có những anh chỉ còn những đống thịt vụn, nửa tái nửa chín.
Có anh bị nắp hầm đè hết một nửa thân người từ thắt lưng trở xuống. Khi chúng tôi đến,
anh giương đôi mắt hấp hối mà thều thào những gì không nghe được. Nhưng không có
phương tiện gì để nâng nắp hầm lôi anh ra. Vả lại có làm được thì cũng khó cứu mạng
sống. Sức công phá của chất plastic C-4 thật vô cùng khủng khiếp. Chỉ cần một khối nhỏ
bằng bao thuốc lá cũng đủ đánh sập cả căn hầm bê tông. Hình như đó là lần đầu tiên mà
46
Cơ quan này bao trùm tất cả cố vấn các lãnh vực chính trị, tình báo, quân sự địa phương. 47
Kenwood Foster hiện ở New London, Tiểu Bang New Hamshire. Sau hơn 40 năm, đã liên lạc được.
Một Thời Áo Trận 87
Việt Cộng xử dụng chất nổ dẻo để đánh đặc công. Vì thế, đã tạo ra sự bất ngờ cho quân ta
và gây tổn thất quá nặng nề.
Bữa cơm chiều được coi là sang ở giữa chiến trường. Có rượu, có thịt so với
những ngày dài cơm sấy, cá khô. Chai rượu vừa đủ cho mỗi người một ly xây chừng nhỏ.
Nhưng giữa hành quân thì uống vậy là đủ vì còn nhiệm vụ canh thức tối nay nữa.
- Tối nay, Thiếu Úy Thủy dọn qua hầm truyền tin. Quý căng giùm anh thêm
cái võng nhé.
- Em tưởng anh chị ngủ một võng cho vui chứ? Quý hóm hỉnh.
- Thì đương nhiên rồi. Mà phải ngược đầu ngược đuôi đó nghe Thẩm Quyền!
- Mày con nít mới lớn biết gì mà xía vô!
- Nó xếp sòng khu chợ Trương Minh Giảng đó, ông chớ có coi thường nó.
Trong bàn ăn, Chuẩn Úy Nhơn là người ít nói nhất. Có lẽ mới ra đơn vị nên còn dè
dặt. Anh cũng mới cưới vợ không lâu và có đưa lên giới thiệu với Phúc khi Tiểu Đoàn
còn đóng vòng đai phía Bắc căn cứ Lai Khê. Thiếu Úy Thủy thì quá thân. Những ngày
còn lêu bêu ngoài hậu cứ, Phúc và Thủy thường chở nhau trên chiếc Honda 67 đi nhậu
nhẹt, tán gái khắp Bình Dương. Trông Thủy đen vậy chứ nhiều cô mết hắn.
- Tối nay ngoài pháo, trong pháo bố ai chịu nổi. Thủy vừa nhấp rượu vừa
đuà.
- Xài chị Năm tạm đi em ơi!
- Kỳ này hết hành quân, Thẩm quyền cho tui về nhà vài hôm. Hơn nửa năm
trời không thấy mặt vợ con, thẩm quyền à. Trung Sĩ 1 Hùng lợi dụng lúc vui, lên tiếng
- Từ từ tính. Lính đánh giặc biết hôm nay, ngày mai que sera! sera!
Hùng xụ mặt xuống.
- Thì Thẩm quyền hứa cho một lời đi.
- Ô Kê ! Uống cho hết ly rượu đi. Nào, dzô, dzô !!!
Những tiếng cười khoái trá, vui nhộn lại nổi lên trong buổi chiều đang tàn nơi góc
rừng thâm u. Những người lính bộ binh còn quá trẻ, nhưng chiến trường làm cho họ dày
dạn và quên đi những lo âu toan tính để chỉ biết vui lúc này để lát sau đây lại đối diện tử
thần đang từng giây, từng phút rình rập từ mọi hướng ngoài kia.
Một Thời Áo Trận 88
Những Người Anh Em của Tôi
Từ dưới hầm Đại Đội Trưởng buớc lên, Chuẩn Úy Tĩnh vừa đi vừa văng tục lẩm
bẩm:
- Đ.M. phách lối còn hơn cả mấy ông tướng, ông tá!
Thiếu Úy Phúc đang ngồi trong lều bạt nhìn ra, nghe được, đón lại hỏi:
- Ai làm gì phách lối vậy hả ông Chuẩn Úy?
- Cha Đại Đội Trưởng chứ ai! Cứ làm như ông Tư Lệnh!
Cả đám quân nhân đang nhậu nhẹt trong lều đề bật lên cười hô hố.
- Ông Đại Đội Trưởng ngồi đây chứ đâu trong hầm!
- Vậy chứ ông nào trong đó? Ông ta nằm trên giuờng, có cái nón sắt treo đầu
giường có may bông mai đen mà!
- À! Thằng Vinh Lao Công. Nó làm tà lọt cho Đại Đội Trưởng. Gặp ma nào
mới nó cũng hù. Trung Sĩ Hùng đâu, lôi cổ thằng Vinh lên tẩn cho nó một trận coi.
- Vậy chứ ông Thiếu Úy Đại Đội Trưởng đâu?
- Đây nè, ổng đang hỏi Chuẩn Úy đó.
Một Thời Áo Trận 89
Chuẩn Uý Tĩnh cuống lên, ấp a ấp úng:
- Chết, xin lỗi Thiếu Úy. Tại Thiếu Úy đeo lon đen, tôi không thấy.
Anh đứng nghiêm lại, đập hai gót giày vào nhau và xoè bàn tay đưa lên vành nón:
- Chuẩn Uý Nguyễn Văn Tĩnh, số quân ….., Trình diện Thiếu Úy.
Phúc sửa lại tư thế, đẩy chiếc ghế ra:
- Ngồi xuống đi ông Tĩnh. Mới ra trường hả? Sao lại chọn đơn vị này?
- Dạ! Khoá x/69. Trên chỉ đâu thì về đó.
- Vợ con gì chưa? Có biết nhậu không?
- Dạ thưa có. Nhậu thì sơ sơ thôi.
- Thằng Quý lấy chai rượu coi. Thêm vài cái ly nữa, gọi ông Thủy ra đây nhậu
chút. Ông Ca cho ít mồi đi.
Tiểu đoàn đang dưỡng quân ở hậu cứ sau những tháng hành quân vùng Hố Bò.
Gọi là dưỡng quân, nhưng Trung đoàn cho bố trí canh gác các pháo đài trên một phần ba
chu vi vòng đai căn cứ Lai Khê48
là nơi Bộ Tư Lịnh Sư Đoàn và Bộ Chỉ Huy Trung Đòan
8 đặt bản doanh. Đại đội 15 gần như luôn luôn được chia phần là các pháo đài ở phía
Đông Bắc, kể cả cái cổng Bắc trên đường Quốc Lộ 13 đi Bầu Bàng, Chơn Thành qua An
Lộc đến Lộc Ninh. Từ các pháo đài đi vào làng Lai Khê chừng 2 cây số, nên binh sĩ hay
trốn đi chơi. Phúc phải đóng Ban Chỉ Huy ngay pháo đài 21 ở cổng Bắc để kiểm soát
binh sĩ.
Thời gian này quân số các đại đội ít khi đầy đủ49
. Lúc cao nhất cũng chỉ trên dưới
120 quân nhân, nhưng số bất khiển dụng mất đi khoảng 15 anh. Đa số là các thương binh
loại 1 được cấp trên trả về đơn vị, khuyến cáo đơn vị trưởng tạm cho làm các việc nhẹ ở
hậu cứ, dù rằng mức độ thương tích đáng được phân loại 250
. Ngoài ra còn có chừng 5, 7
anh trễ phép hay trốn nhưng đơn vị chưa dám báo cáo đào ngũ vì còn một ân hạn để chờ
họ trở về. Sư Đoàn 5 là đơn vị có tỷ lệ đào ngũ khá cao, do địa bàn ở gần thủ đô Sài Gòn.
Do đó, cấp trên rất nghiêm nhặt, thường ấn định một tỉ lệ đào ngũ trong tháng cho các
Tiểu Đoàn, Đại Đội. Nếu trong tháng mà số lính đào ngũ cao, chắc chắn các đơn vị
trưởng bị khiển trách nặng nề, có thể bị ký củ51
.
Sau một hồi trò chuyện, Phúc coi giò coi cẳng anh tân Chuẩn Úy này thật kỹ rồi
đủng đỉnh nói:
- Bây giờ anh ra Trung 1 đi với Trung sĩ nhất Tiết một thời gian rồi tôi sẽ
liệu. Tôi cho anh một ngày mai để làm giùm 3 điều này: ra làng Lai Khê, hớt tóc cao ba
phân như các người lính khác trong Đại Đội, mua lon vải ngụy trang may vào cổ áo thay
cái lon kẽm, và gặp Trung Sĩ Thành - Tiếp Liệu- nhân khẩu M-16. Anh muốn đeo thêm
súng colt thì tùy anh. Nhưng ở đây từ Đại đội Phó trở xuống ai cũng mang súng dài cả.
Nếu anh cần về thăm nhà thêm vài hôm, tôi sẽ cho đi. Nhưng tuyệt đối không nhảy dù.
Anh phải làm gương cho lính. Sĩ quan ở đây hiếm, anh em thương nhau. Rồi anh sẽ thấy.
48
Căn cứ này do Sư Đoàn 1 Bộ Binh Mỹ bàn giao năm 1970. Trước chiến tranh, đó là một đồn điền cao su, có cả
một làng gồm dân phu cạo mủ khoảng trăm nóc gia. 49
Quân số một đại đội bộ binh, theo cấp số khoảng 160 quân nhân. 50
Thương binh khi ra Hội Đồng Y Khoa, tuỳ thương tích nặng nhẹ, có thể phân loại 1 (trở về đơn vị chiến đấu), loại
2 (yếu sức, làm việc nhẹ), và loại 3 (tàn tật, cho giải ngũ) 51
Ký củ, tức là bị phạt hoặc khinh cấm, hoặc trọng cấm (thường chỉ phạt bằng giấy tờ chứ không bị giam)
Một Thời Áo Trận 90
Phúc dẫn Chuẩn Úy Tĩnh ra hướng pháo đài 28, nơi Trung Đội 1 đang phòng thủ.
Trung Sĩ Nhất Tiết đã tập họp binh sĩ Trung 1 chờ sẵn. Chuẩn Úy Tĩnh quay qua hỏi
Phúc
- Thưa Thiếu Úy, sao chỉ có 20 người. Còn hai Tiểu Đội nữa phải không?
- Trung Đội Bộ Binh đi bộ từ Thủ Đức ra tới Lai Khê rơi rớt dọc đường, còn
lại chừng này đó ông ạ!
Phúc giới thiệu Chuẩn Úy Tĩnh với Trung đội và nói riêng với TS1 Tiết:
- Tôi giao ông Chuẩn Úy cho anh kèm cặp. Anh vẫn là tạm quyền Trung Đội
Trưởng cho đến khi nào có lệnh mới của tôi.
- Có kẹt cho ổng không?
- Kẹt gì đâu. Mới ra trường thì ai cũng phải đi theo đơn vị một thời gian học
kinh nghiệm chứ! Bản thân tôi cũng vậy thôi.
Đại đội đang có 4 sĩ quan. Ngoài Phúc và Thiếu Úy Nguyễn Trọng Thủy (Đại
Đội Phó), còn Chuẩn Úy Chiêu, Trung 2; Chuẩn Úy Nhơn, Trung 3. Trung Đội 1 do
Trung sĩ 1 Tiết coi; Trung Đội 4 do Trung Sĩ 1 Khai làm Trung Đội Trưởng. Trung Sĩ 1
Hùng là Thường Vụ; Trung Sĩ 1 Tư Chỉ Huy Hậu Cứ, Trung Sĩ 1 Thành Tiếp Liệu;
Trung Sĩ Minh coi Quân Số. Hơn một năm trước, 39 anh em tốt nghiệp khoá 1 Đại Học
Chiến Tranh Chính Trị được bổ nhiệm về Sư Đoàn làm Đại Đội Phó/CTCT tại 39 đại đội
trong khi đã có sẵn các ông Đại Đội Phó được ấn định trong bảng cấp số. Sau một thời
gian đi theo đại đội mà chẳng biết làm gì – vì không có trong cấp số đơn vị, thì chẳng biết
Một Thời Áo Trận 91
quyền hạn và nhiệm vụ được ấn định ra sao - một số anh em đã chuyển nghành, lấy chỉ
số 240 là sĩ quan chỉ huy, để thực sự làm Đại Đội Phó, và sau đó là Đại Đội Trưởng. Các
anh khác thì về làm ban 5 Tiểu Đoàn hay Trung Đoàn. Thiếu Úy Thủy và Chuẩn Úy
Chiêu đã có mặt trong Đại Đội từ trước khi Phúc về coi đơn vị. Chuẩn Úy Nhơn là Hạ Sĩ
Quan tốt nghiệp khoá Sĩ Quan Đặc biệt, mới ra đơn vị được mấy tháng nay. Trung Sĩ Tiết
và Trí đều là quân nhân kỳ cựu, gan dạ, nhiều kinh nghiệm chiến trường. Do đó, thực
lòng Phúc muốn giữ họ ở chức vụ Trung Đội Trưởng hơn là các anh Chuẩn Uý mới ra
trường.
Những ngày đầu dẫn Đại Đội hành quân, Phúc đã nhìn thấy một quân nhân thuộc
Trung đội 4 không mang súng dài mà thay vào đó là hai thùng đạn đại liên có dây cột
choàng qua cổ. Dáng đi coi bộ khật khùng.
- Sao cái ông này đi ra trận mà không có súng?
- Trình Thẩm Quyền, thằng Nghĩa Sứa này nó hay quên, đi đâu bỏ súng đó
nên Trung Uý Đát cho nó mang đạn. Mà phải cột vào cổ nó, không thì nó bỏ lại khi dừng
quân dọc đường.
- Chắc hay say xỉn phải không?
Đúng rồi, Phúc còn nhớ có lần sai Nghĩa vào hầm lấy chai rượu ra nhậu. Khi
Nghĩa đi từ trong hầm ra, hai chân xiêu vẹo, đi cứ như là người ở cõi trên. Phúc đã la anh
ta:
- Bộ mày uống trộm rượu hả, mấy ngụm mà say xỉn vậy?
- Thưa Thẩm Quyền, em đâu có uống trộm rượu của ông.
Nhìn chai rượu còn nguyên, Phúc lấy làm lạ hỏi Trung Sĩ Hùng và được giải thích:
- Thẩm quyền biết không? Nó không uống rượu, nhưng hể nghe chữ rượu
hay nhìn thấy chai rượu là nó xỉn ngay.
- Tụi nó đăt cho nó tên Nghĩa Sứa đó, Thẩm Quyền. Hạ Sĩ Quý nói thêm vào.
Có lúc rảnh rổi, lướt qua danh sách quân nhân trong đơn vị, Phúc đã phải bật cười,
nói đùa với Thường Vụ:
- Bộ cái Đại Đội này là sở thú hay sao mà đủ mặt hết thế này: Nguyễn Văn
Hổ, Nguyễn văn Chó, Trần Văn Chuột, Nguyễn văn Cu … ?
- Dân miệt vườn mà Thẩm Quyền. Họ đặt tên kỳ lắm chứ không văn hoa như
dân phố. Đại đội có hai chú dân Miên, Hạ Sĩ 1 Châu Phôl và Hạ Sĩ Lai Bel. Thằng Phol ở
Trung đội 1, nó khoe nó có bùa, ra trận đạn bắn không trúng. Còn thằng Bel thì ở Trung
4, hay đi chung với y tá Sáu. Dân gốc Nùng thì chỉ còn một ông. Hai năm trước thì nhiều
lắm. Nhưng mấy ổng già hoặc lên Thượng Sĩ đi về Trung Đoàn hoặc về hưu hết cả. Tàu
Chợ Lớn cũng nhiều. Bọn này hay trốn lắm.
- Có thằng nào chích choác không?
- Dạ, chỉ có thằng Vinh Lao công. Nó viết chữ đẹp nên cho làm phụ tá Trung
Sĩ Minh, Quân số. Thằng Vinh hớt tóc đẹp lắm. Nhưng nó lắm mồm và hay nói khoác.
- Nó ở binh chủng nào mà đào ngũ?
- Dạ, nghe nó ba hoa khoe đủ, nên tôi cũng không biết đâu là thật. Khi thi nó
khoe từng làm Trưởng CIA ở Biên Hoà, có văn phòng cả chục nhân viên. Khi thì nó nói
nó làm Đại Đội Trưởng Biệt Kích ngoài Huế …
Một Thời Áo Trận 92
Vì làm phụ tá cho Trung Sĩ Minh thuộc Ban Chỉ Huy Đại Đội, nên Vinh căng lều
ngủ gần hầm của Thiếu Úy Phúc. Một hôm, Vinh mon men vào hầm Phúc gợi chuyện.
- Khi nào Thẩm quyền hớt tóc, nói em hớt cho. Bảo đảm không thợ nào ở Sài
Gòn qua em đâu!
Phúc nhìn cánh tay của Vinh, thấy lốm đốm những dấu kim màu xanh bầm ở các
tĩnh mạch. Mặt Vinh cũng sần sùi, nhưng đầy vẻ lém lĩnh của những tay giang hồ bịp
bợm có nòi. Phúc đe nó:
- Mày mà còn chích choác, có ngày đi hành quân tao thả một mình giữa
rừng. Tao nói là làm chứ không thèm dọa mày đâu!
Cái giọng Huế rặt của Vinh lèm bèm:
- Thầy ơi, em có nghiện(g) ngập chi mô! Chẳng qua con bồ em nó lâu lâu
cho vài go(á)i chơi vui thôi.
- Bồ mày ở đâu đây?
- Dạ, nó là giáo sư trung học dưới Biên Hoà. Hôm nào ông Thầy đi Biên
Hoà, cho em theo. Em sẽ giới thiệu với ông Thầy. Nó đẹp nhất xứ đó Thầy.
- Mèng ơi! Chích choác như mày mà em nào theo?
- Ông Thầy không biế(c) đó. Ngày xưa em cũng ngon(g) lành lắm, Có cả
chục nhân(g) viên(g) dưới quyền, có cả xe hơi. Em út theo hàng bầy đuổi đi không hết.
Phúc chợt nhớ đến câu chuyện “Anh Thợ Cạo Thành Bát Đa” trong tập truyện Cổ
Ả Rập “1001 Đêm”. Anh chàng thợ cạo Abdul Hassan, vì lắm mồm đã làm hư bột hư
đường cuộc tình của anh chàng Nureddin với nàng Margiana. Sau những diễn biến đầy bi
hài, anh chàng Nureddin bị gãy chân và rất oán hận anh thợ cạo. Dường như anh thợ hớt
tóc nào cũng lắm chuyện. Có lẽ do công việc làm; đứng cắt tóc cho khách hàng nửa giờ
đồng hồ, phải vẽ ra chuyện nói để lấp khoảng trống. Nhưng phần lớn các anh đều lém
lĩnh và ưa nổ. Sau này, trước ngày đi hành quân vượt biên, Phúc nhận thêm một đợt lính
mới. Có Binh 2 Nguyễn Văn Nơ là thợ hớt tóc ở một tiệm nổi tiếng đường Trần Hưng
Đạo Sài Gòn. Ba của Binh 2 Nơ đã lên tận Đại Đội, khẩn khoản xin Phúc cho Nơ được ở
Ban Chỉ Huy, làm thợ hớt tóc cho Đại Đội Trưởng. Nhưng con người có số! Nơ và Y tá
Sáu là hai quân nhân duy nhất đã hy sinh khi Đại Đội tấn công làng ThPong Vietnam52
dù họ đã bám gót theo sau lưng Đại Đội Trưởng. Họ đã bị trúng đạn thượng liên từ vọng
gác góc làng bắn xéo qua các hàng cao su. Hạ Sĩ Nhất Châu Phol, chắc gặp ngày bùa
không linh, nên đã bị banh xác khi đi gở trài mìn bẫy do chính anh ta gài lúc đóng quân ở
vòng đai Lai Khê. Nghĩa Sứa và Lai Bel thì bị bắn sẻ chết ngay ngày đầu tiên đóng quân
gần một làng nhỏ phía Đông Nam quận lỵ quận Snuol. Chuẩn Úy Tĩnh ở Đại Đội không
lâu thì đào ngũ sau trận Snuol. Khi Phúc về nắm Đại Đội Chỉ Huy Trung Đoàn gần cuối
1971, Thủy lên thay và cũng tử trận khoảng vài năm sau. Sau Chuẩn Úy Tĩnh vài tháng,
Đại Đội được bổ sung thêm hai Chuẩn Úy Mai Văn Hiệp và Lê Văn Khánh. Hiệp là Hạ
Sĩ Quan thuộc Truờng Truyền Tin Vũng Tàu học khoá đặc biệt ra. Khánh thì xuất thân từ
Trường Bộ Binh Thủ Đức. Khánh và Hiệp như hai thái cực. Trong khi Hiệp hăng hái,
nhanh nhẹn và chịu đánh; thì Khánh mềm yếu, chậm chạp và không thích hợp với chiến
trường. Vì thế, Phúc cho Hiệp nắm Trung Đội 3 thay Chuẩn Úy Nhơn đã thuyên chuyển
52
Xin xem bài “Chiến Thắng Đầu Xuân”
Một Thời Áo Trận 93
qua đơn vị khác, còn Khánh thì đi cà nhỏng theo Trung Đội 2 của Chiêu. Trong khi đó,
Chuẩn Úy Tĩnh vẫn là “phụ tá” cho Trung Sĩ 1 Tiết. Hiệp đã tỏ ra xuất sắc trong trận
Snuol, nên được Phúc đề nghị thưởng ngôi sao bạc dù mới thử lửa lần đầu tiên sau chưa
đầy một tháng ở đơn vị tác chiến.
Tình trạng vài sĩ quan không được giao nhiệm vụ gì không phải là hiếm tại các
đơn vị Bộ Binh. Giữa năm 1971, có Đại Úy Cao Hữu Đ. từng là Quận Trưởng/Chi Khu
Trưởng; nhưng vì lý do nào đó, được giao cho Tiểu Đoàn 4/8 quản lý với lời dặn “không
cho nắm chức vụ gì cả”. Ông Đại Úy đi theo các đại đội như một khinh binh, phải mang
súng M-16, tự mang đủ ba lô đạn dược, tự đào hố cá nhân, làm lều căng võng khi dừng
quân. Hành quân xong, về hậu cứ, ông lên Tiểu đoàn xin đi vài ngày phép. Tiểu Đoàn
Trưởng bảo xuống xin Đại Đội Trưởng. Đại Đội Trưởng từ chối vì cấp nhỏ không thể ký
phép cho cấp cao hơn mình. Trường hợp này đã xảy ra với một vị Thủ Khoa Khoá X (Đại
Úy VTT) của Trường Võ Bị Quốc Gia. Do ở lại trường phục vụ lâu năm, nên cấp bậc bị
dậm chân. Khi bị đưa ra Sư Đoàn 5 BB, ông phải theo hành quân dưới quyền các học trò,
đàn em rất xa của mình. Nhưng nhờ tình Võ Bị với nhau, ông ta cũng được vài sự ưu ái
chứ không đến nỗi bẻ bàng như trường hợp ông Đại Úy CHĐ.
Các đơn vị bộ binh ít khi có những khuôn mặt kỳ cựu. So hai lần điểm danh đầu
năm và cuối năm, thì có ít nhất 60 phần trăm là các khuôn mặt mới. Những người vắng
mặt là các quân nhân đã hy sinh, bị thương giải ngũ, hoặc đã đào ngũ. Một số rất ít
người, may mắn được chuyển về các đơn vị chuyên môn, hậu cứ. Đã ra tác chiến cấp
trung đoàn trở xuống, thì xác xuất cao nhất là trở về với thi hài gói chặt trong tấm
poncho, hay mình mẩy băng bó trắng xoá nằm trên băng ca. Vì thế, tình cảm đối với nhau
phải như anh em ruột thịt. Cha mẹ, vợ con dù là những người thương yêu mình nhất đời;
cũng không thể có mặt bên cạnh trong những giờ phút thập tử nhất sinh. Người chiến hữu
sẽ nắm đầu anh kéo xuống kịp trước khi quả đạn thù bay réo qua hay nổ gần bên. Khi anh
bị thương, chỉ có bạn chiến đấu đến ngay săn sóc vết thương, di tản anh ra chỗ tương đối
an toàn. Khi xác anh bị để lại trận địa lâu ngày mới lấy được, chỉ có chiến hữu mới chịu
đựng nỗi mùi thối rửa và sức nặng gia tăng để khiêng anh về qua hàng cây số đường rừng
gai góc trong lúc đạn thù đuổi riết phía sau.
Chịu đựng một cuộc chiến gian khổ, hiểm nguy và dai dẳng như thế mới thấy hết
cái hào hùng của người lính Việt Nam Cộng Hoà.
Và đủ thấy thấm thía câu thơ cổ:
Bồ Đào, mỹ tửu dạ quang bôi
Dục ẩm tỳ bà mã thƣợng thôi
Túy ngoạ sa trƣờng quân mạc tiếu
Cổ lai chinh chiến kỷ nhân hồi!53
Tháng 2, 2010
53
Bài thơ tứ tuyệt “Lương Châu Từ” của nhà thơ Vương Hàn (đời Đường). Dịch: Rượu ngon trong chén ngọc dạ
quang. Chưa kịp uống thì tiếng đàn đã thôi thúc lên ngựa. Xin đừng cười nếu ta say nằm ngoài chiến địa, vì xưa nay
đi chinh chiến có mấy ai trở về.
Một Thời Áo Trận 94
Chiến Thắng Ðầu Xuân 1971
Phải cắm cờ Việt Nam trên làng ThPong VIETNAM trước lúc hừng sáng
Ƣu ái tặng tất cả chiến sĩ Sƣ đoàn 5 Bộ binh
Trên các tờ báo lớn Saigon vào một ngày đầu xuân Tân Hợi (1971), người ta đọc
một giòng chữ lớn đậm nét chạy 6 cột: “Một quyết định táo bạo tại chiến trường ngoại
biên: Phải cắm cờ Việt Nam trên làng ThPong Vietnam trước lúc hừng sáng” ca tụng
chiến thắng lẫy lừng đầu xuân của các chiến sĩ Tiểu đoàn 4/8, Sư đoàn 5 Bộ binh trên mặt
trận Snuol, Kampuchea. Các ông nhà báo quen nghề thi vị hoá; chứ thực sự thì trận đánh
bắt đầu lúc hừng đông và kết thúc nhanh gọn vào lúc xế trưa. Tuy ngắn ngủi, nhưng đây
là một trận đánh lớn và ngoạn mục, có ý nghĩa lớn vì đó là chiến thắng mở đầu của cuộc
hành quân Toàn thắng 71 NB do Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3 tổ chức đánh thọc sâu vào lãnh
thổ Kampuchea trên địa bàn tỉnh Kratie nhằm phá nốt căn cứ hậu cần của cái gọi là Mặt
trận Giải phóng Miền Nam, con đẻ của ngụy quyền Hà Nội nhằm xâm lược và xích hóa
miền Nam ta.
Sau chiến thắng Mậu thân 1968, tiêu diệt toàn bộ hạ tầng cơ sở của Việt cộng tại
các tỉnh thành đô thị miền nam, cho bọn con cháu bác Hồ toại nguyện “sinh bắc tử nam”,
Một Thời Áo Trận 95
quân ta hoàn toàn làm chủ chiến trường trên khắp 4 vùng chiến thuật, mở rộng thêm các
khu bình định, đẩy bọn cộng quân còn sống sót chạy qua bên kia biên giới Việt Miên. Sư
đoàn tôi trấn giữ ba tỉnh phía Bắc Sài gòn: Bình Dương, Bình Long và Phuớc Long.
Những địa danh nổi tiếng như Bời Lời, Hố Bò, Tam Giác Sắt, Long Nguyên, Bù Na... nơi
mới đây thôi, từng diễn ra bao trận chiến kinh hoàng, chôn thây hàng ngàn quân sĩ đôi
bên. Ngày nay chỉ còn là những vùng đất đầy hố bom. Cây chồi đã mọc lên chằng chịt,
thay thế cho những cây già bị bom và pháo ta đốn gục. Quân ta hành quân hàng tháng
trời không gặp địch. Hoạ chăng vài ba đứa du kích còn sót lại trốn chui trốn nhũi dưới
những căn hầm ẩm mốc, chờ đêm đêm mò ra ven đường xe bò nhận chút lương thực do
thân nhân từ các làng cạnh lén lút tiếp tế cho để sống cầm hơi. Lính tác chiến lâu ngày
không đánh nhau cũng chán. Nhất là lúc tuổi trai đang hăng, đang mơ ước chiến công để
có thêm vài tấm huy chương cài đỏ ngực hoặc nở thêm một bông mai vàng trên ve áo
trận, để thấy đường binh nghiệp thênh thang hơn. Tôi xuất thân khoá đầu tiên của trường
Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị Ðà Lạt, ra trường nhằm lúc chiến dịch Chân Trời Mới
được phát động trong toàn quân mà sư đoàn 5 là thí điểm. Anh em chúng tôi có 39 tân sĩ
quan chia nhau về 39 đại đội tác chiến của sư đoàn. Lẽ ra chấp nhận làm đại đội phó rồi
lên trưởng ban 5 tiểu đoàn, trung đoàn, đa số anh em chúng tôi tình nguyện xuất nghành
CTCT để nắm các chức vụ chỉ huy chiến đấu. Người đầu tiên làm đại đội trưởng là
Dương Quang Bồi rất được tín nhiệm. Tiểu đoàn tôi có 4 đại đội, thì dân CTCT nắm hết
ba: Bồi, đại đội 16, Nhơn, đại đội Chỉ huy và tôi, đại đội 15. Tiểu đoàn trưởng lúc đó là
Ðại úy Nguyễn Chí Hiền, khoá 17 Thủ Ðức, dân nhà giáo động viên, nhưng chịu đánh
đấm và đã chuyển qua hiện dịch. Tất cả cấp bậc của anh Hiến từ Chuẩn Úy lên Thiếu Tá
đều lên tại mặt trận. Anh Hiền từ đại đội Trinh sát Sư đoàn về, là con chủ bài của Sư
đoàn trong nhiều năm qua lối đánh táo báo, mưu trí và óc tổ chức tuyệt vời. Ðại uý Hiền
đưa tiểu đoàn 4/8 từ hỗn danh “anh Tám né” lên hàng đơn vị thiện chiến nhất sư đoàn.
Nhưng cũng vì thế mà chúng tôi khổ cực hơn hết, vì được Sư đoàn sử dụng tận tình, giao
cho những nhiệm vụ hóc búa nhất, chịu trách nhiệm những vùng căng thẳng nhất. Ðặc
biệt, năm 1970, tiểu đoàn đã đặt chân vào trung tâm mật khu Long Nguyên, xuyên qua
một khu rừng đầy rẫy mìn bẫy, bình định một yếu điểm mà từ hàng chục năm trước chưa
có đơn vị nào dù Việt hay Mỹ trấn ngự được.
Chiến trường lắng dần trong năm 1970. Cuối năm, tiểu đoàn được lệnh về trấn
đóng ven đô giữ an ninh cho đồng bào Saigon ăn tết. Ðêm đêm ngủ đứng trên bờ mương
vùng sông lạch sình lầy Giồng Ông Tố, nhìn qua đô thành với hàng ngàn ánh đèn màu lấp
lánh, với tiếng nhạc xuân văng vẳng, lòng chợt rộn lên ước mơ một hạnh phúc sum vầy
ngắn ngủi bên bếp lửa nồng ngày xuân. Gần mà rất xa, chỉ vài cây số đường chim bay
thôi, nhưng nhiệm vụ và hiểm nguy từng giây ngăn trở, người lính trấn ven đô đành chế
ngự ước muốn để tỉnh táo lắng nghe ngóng trong từng bụi dừa nước kia có động tịnh gì
của bọn du kích ranh mãnh không. Trước chúng tôi, Tiểu Đoàn 38 Biệt Động Quân đã
mất vài sĩ quan chỉ vì ngứa chân, đêm mò về Saigon nhảy nhót; khi trở ra bằng xuồng, bị
Việt cộng phục kích bắn sẻ. Tết ven đô xong, trên đường về hậu cứ ở Lai Khê, tưởng sẽ
có dăm ba ngày nghỉ dưỡng quân, tôi viết thư về nhắn vợ con lên ở chơi, ra lệnh cho
thường vụ mua sắm cho anh em binh sĩ ăn tết. Tới Lai Khê chưa kịp thở, áo quần vừa cởi
Một Thời Áo Trận 96
ra, sửa soạn đi tắm đã nghe lệnh từ ban 3 gọi về Trung Đoàn Bộ họp gấp. Tôi chỉ cằn
nhằn vài tiếng rồi lái xe đi.
Ðến nơi, vào thẳng văn phòng Trung Đoàn Trưởng, đã thấy đủ mặt sĩ quan tiểu
đoàn và các ban của Trung Đoàn. Ðại tá Bùi Trạch Dần khui hai chai Hennessy rót ra
mời tận tay từng anh em chúng tôi. trong khi ban 2 phân phát những tấm bản đồ với
những địa danh lạ, viết bằng thứ chữ Miên ngoằng nghèo như những con giun. Vượt
biên! Thế là vượt biên rồi. Ðiều này chúng tôi đã nghe đồn từ lâu. Tiểu đoàn cũng đã
từng được lệnh hành quân thực tập trong các rừng cao su Lộc Ninh từ mấy tháng trước.
Nhưng giây phút này thì quá bất ngờ. Ðơn vị đã hành quân liên tục hàng nửa năm, chưa
được nghỉ dưỡng quân một ngày. Ðại tá Dần tận tay mời từng người cốc rượu và nói:
“Quân Đoàn mở cuộc hành quân Toàn Thắng, trong đó Trung Đoàn 9 làm nỗ lực chính.
Tiểu Đoàn 4 được chọn tăng phái để bảo đảm thắng lợi cho trung đoàn ta. Sau giai đoạn 1
hoàn tất, toàn bộ trung đoàn ta sẽ thay thế họ. Ngay đêm nay các anh lên đường, chúc các
anh chiến thắng lớn, đem vinh quang về cho đơn vị.”
Chúng tôi lục tục ra về. Chưa đến nơi đã nghe tiếng gầm rú của đoàn chiến xa đủ
loại của Thiết Đoàn 1. Quân sĩ thì theo điều động của thường vụ, đang tập họp lãnh thêm
đạn dược, lương thực, sửa soạn lên đường.
Giã nhà đeo bức chiến bào,
Thét roi cầu Vị, ào ào gió thu.
Ngày nay, người chiến sĩ ra đi không kịp từ giã gia đình, khoác lên người áo giáp,
nón sắt, súng đạn và ba lô hành trang nặng hàng chục ký, giữa tiếng gầm của những chiến
xa khổng lồ thay con chiến mã; lại chẳng có gió thu ào ào mà là hơi lạnh se người của
một đêm đầu xuân. Lạnh ở ngoài trời và lạnh tận đáy tâm hồn. Ðoàn xe chuyển bánh lúc
nửa đêm về sáng, mang theo đoàn trai trẻ trực chỉ hướng Bắc dọc theo quốc lộ 13, tiến về
biên giới Việt Miên.
Ðến trưa hôm sau, đoàn xe dừng ở Lộc Ninh, quận lỵ địa đầu của tổ quốc ở phía
Bắc Nam phần. Quân sĩ tấp nập bày binh bố trận; mũ nâu Biệt Động, mũ đen Thiết Giáp,
mũ xanh Lực Lượng Ðặc Biệt và mũ sắt bọc vải ngụy trang hoa rừng của Bộ Binh.
Chúng tôi trao nhau những ánh mắt cảm thông và lời thầm chúc an bình. Tư Lệnh Quân
Đoàn 3, Trung Tướng Ðỗ Cao Trí, chắc nịch trong bộ chiến phục Dù đang cùng các chỉ
huy cao cấp bàn bạc, tấm bản đồ trải rộng trên mui xe Jeep. Tôi được lệnh, cho quân
chuyển sâu về phía trái quốc lộ đến nơi sẽ là vị trí xuất phát. Qua máy truyền tin, hậu
trạm báo tin vợ con tôi đang có mặt tại Lai Khê, xin ý kiến. Tôi bồi hồi gửi lời chào và
bảo quay về, hẹn sau hành quân sẽ gặp lại.
Rừng biên giới cây cao và thưa thớt. Trên đất cỏ mọc xanh rì, điểm những cụm
hoa cúc vàng rải rác. Quân đi sâu vào lòng đất khách đầy trắc trở. Con sông Chlong uốn
mình giữa hai hàng cây bằng lăng đang ra hoa màu tím nhạt. Phía bên kia sông, chiến
đoàn 333 Biệt Động của Ðại Tá Nguyễn Văn Phúc cũng đang di chuyển. Tiếng người nói
cười xen lẫn tiếng khô khan của vũ khí va chạm nhau. Trời cao, nắng vàng ấm áp. Trên
vai là chiếc ba lô đựng 25 kí quân dụng: bảy ngày lương khô, ba cấp số hỏa lực, một mìn
claymore, một chiếc xẻng, năm quả lựu đạn M26... Mìn claymore bấy giờ là vũ khí đắc
Một Thời Áo Trận 97
dụng để chống tấn công biển người. Mỗi người binh sĩ còn mang theo năm bao cát không
để phòng thủ dã ngoại tránh mưa pháo. Ðạn pháo, hoả tiễn thường chạm nổ từ những
ngọn cây trong rừng, toả hàng trăm miểng đạn sắc bén xuống như pháo hoa. Ðơn vị tôi ít
thương vong nhất vì tiểu đoàn trưởng đã dự trù đầy đủ phương tiện phòng thủ.
Những ngày đầu vô sự. Chỉ chạm địch lẻ tẻ khi bắt đầu vào sâu đất khách, đến gần
quận lỵ Snuol. Ðọc trong nhật ký hành quân:
Ngày 4 tháng 2: đã bắt đầu tiến vào lãnh thổ Kampuchea. Trung đội 3 đi tiền
phong. Hạ Sĩ Nguyễn Văn Bô bắn chết một giao liên, thu một xe đạp, một AK-47 và
nhiều tài liệu quan trọng chuyển cho ban 2 khai thác.
Ngày 6 tháng 2: đánh chiếm một căn nhà do địch đang chuẩn bị ăn liên hoan. Giết
hai tên tại trận. Thu 1 K54, 1 AK và hai dãy bàn ê hề đầy thức ăn, rượu đế....
Ngày 8 tháng 2: Trong lúc đóng quân ở khu nhà phía nam quận lỵ Snuol, địch từ
trong khu nhà dân bắn sẻ gây tử thương Hạ Sĩ Nghĩa và Hạ Sĩ Rô. Trung đội 2 truy kích
tận làng Miên, bắt giữ tất cả thanh niên gom về cho Trung đoàn khai thác.
Ngày 9 tháng 2: đại quân vào chiếm quận lỵ Snuol, lập căn cứ yểm trợ hỏa lực.
Tiểu đoàn được lệnh tiến về Tây Bắc, vượt qua đồn điền cao su bạt ngàn. Bảy giờ
sáng, có một tiếng đạn AK vọng ra từ hướng trước mặt. Có lẽ địch bắn báo động. Tám
giờ, tiến sát mục tiêu. Ðây là hai khu nhà trong đồn điền, ngăn cách bởi một con đường
đất đỏ. Khu bên trái là làng Thpong Cham gồm hàng chục nhà sàn bằng gạch; khu bên
phải là Thpong Vietnam, đơn sơ nhà tranh vách đất. Tên làng nói lên sự phân biệt cư dân
Chàm và Việt Nam làm phu đồn điền tại đây. Tin tình báo cho hay địch đang đóng quân
cấp trung đoàn thuộc công trường (Sư đoàn) 5 Cộng sản Bắc Việt. Ðại đội tôi chịu mặt
phải, Ðại đội 16 của Bồi mặt trái, cùng tiến song song. Khi vừa nhìn thấy những mái nhà
ngói đỏ làng Cham, địch khai hỏa bằng trọng liên và AK. Tiếng đạn chát chúa vang dội
như uy hiếp tinh thần và làm cho ta khó phân biệt được nơi xuất phát. Quân ta đã chiếm
hàng cây cao su trước mặt làng, bên kia con đường là hầm hố giao thông hào địch. Ở hai
góc làng, hai lô cốt kiên cố có những cây đại liên bắn không ngừng vào đội hình quân ta.
Lá cao su rụng từ mùa thu năm trước nay đã khô dòn, trải một lớp dày trên mặt đất. Ðịch
nắm được điều này nên dùng kế hỏa công, bắn trái sáng đốt rừng. Lửa bắt cháy dữ dội,
nhất là nương theo cơn gió thổi mạnh làm cả khu rừng ngập trong bão lửa. Quân ta núng
thế phải rút chạy để tránh bị thiêu sống. Nhưng chẳng lẽ chạy hoài sao? Vì rừng thì bạt
ngàn. Thế là lệnh ban ra: “Phải nhảy qua màn lửa tiếp tục tiến quân bao vây địch.” Chúng
tôi trở lại chiến tuyến khi mặt đất còn rát bỏng, những chiếc lá còn chút than hồng thỉnh
thoảng cháy bùng lên sau mỗi cơn gió. Ðến gần trưa, tình hình như dậm chân tại chỗ.
Hoả lực địch càng ráo riết. Quân ta chẳng nhúc nhích bước nào. Trung tướng Trí nóng
ruột, bay trực thăng lên trực tiếp chỉ huy. Chúng tôi mở thêm tần số để nghe đích thân
ông ra lệnh. Giọng nói uy quyền của ông vang lên trong ống nghe: “Tôi cho lệnh phải
chiếm mục tiêu trước khi trời tối; liệu không làm được thì rút ra, cho đơn vị khác thay
thế. Ðơn vị nào vào trước, cắm cờ, tôi cho chỉ huy thăng một cấp.”
Hai giờ chiều, Bồi bị thương cánh tay phải, được băng bó và tải thương ngay.
Hùng Ðầu lâu lên thay, nghe tiếng y oang oang vọng đến. Tôi bổng nghĩ ra một biện pháp
táo bạo và trình ngay lên Tiểu Đoàn. Ðó là việc xin pháo binh yểm trợ tiếp cận, bắn từng
tràng 10 trái từ phía cuối làng, kéo ngắn lại cho đến hệ thống giao thông hào trước mặt
Một Thời Áo Trận 98
chúng tôi; quân sĩ ta sẽ xung phong ngay khi trái đạn chót vừa nổ. Pháo binh chiến đoàn
từ chối, vì vấn đề an ninh cho đơn vị bạn. Thông thường, pháo chỉ bắn khi quân ta rút ra
khỏi một tầm an toàn tối thiểu, vì pháo không hoàn toàn chính xác đến phạm vi từng
thước trong khi quân ta chỉ cách địch chừng mươi thuớc là cùng. Lại xin ý kiến Tư Lệnh;
Tướng Trí O.K. với điều kiện quân ta phải tận dụng các đường thoát nước để ẩn mình.
Thế là lệnh ban ra. Các trung đôi nằm dán mình xuống, nón sắt, áo giáp phủ kín những
điểm trọng yếu trên thân thể; lưỡi lê cắm lên đầu súng trong vị thế sẵn sàng xung phong.
Ðạn bắt đầu ra khỏi nòng từ căn cứ hoả lực. Từng tràng mười trái. Tiếng nổ nghe gần lại
dần dần cho đến tràng cuối cùng nổ ngay trên hầm hố địch đối diện chúng tôi. Mặt đất
rung chuyển dữ dội, tưởng chừng thân thể bị bật tung lên, lục phủ ngũ tạng bị sức ép như
vỡ ra, hai tai ù điếc. Nhưng vẫn cố gắng tỉnh táo đếm chính xác từng trái đạn ra khỏi
nòng và nổ tung trên chiến hào địch. 96, 97, 98, 99 và ...100, ầm, ầm. Trái thứ 100 vừa
nổ, nhào lên các bạn, chĩa mũi súng căm thù vào giặc..
X U N G P H O O O N G...
Bất kể bất trắc là pháo binh có thể bắn nhầm thêm trái nữa hay không, cả trăm
binh sĩ vùng lên, chạy vượt qua con đường đất đỏ, nhảy thẳng vào tuyến địch. Chúng tôi
đứng trên những miệng hầm khi bọn cộng quân còn che tai cúi đầu chờ những trái đạn
tưởng sẽ nổ sau đó. Bắn, đâm, lựu đạn tung xuống. Xương thịt người nhầy nhụa từng
đống trong các giao thông hào. Phiá bên trong, bọn còn sống sót tháo chạy về hướng bắc.
Bên làng Thpong Cham, đại đội 16 cũng làm chủ trận địa. Phải treo cờ lên ngay, xác
nhận chiến tích. Lấy đâu có cờ? quân ta đi hành quân cấp tiểu đoàn chẳng bao giờ mang
theo quốc kỳ, quân kỳ; chẳng có kèn đồng dù trong cấp số, mỗi đại đội có một lính kèn.
Một Thời Áo Trận 99
Tôi tháo chiếc khăn quàng cổ nửa đỏ nửa tím trao cho Hạ sĩ Quí: “Kiếm cái gì treo lên
cho ông tướng thấy.”
Xác cộng quân nằm la liệt khắp nơi. Những đứa trong hầm thì thịt xương trộn lẫn,
máu
óc văng tung toé, khó đếm được bao nhiêu. Những đứa nằm phơi trên đất thì mình găm
đầy lỗ đạn. Chúng nó là bộ đội chính quy miền Bắc, trắng trẻo, mập mạp trong bộ áo
quần màu xanh lá mạ còn mới nguyên, rộng thùng thình. Những cây súng tiểu liên AK
47 còn mới, báng gỗ bóng loáng đỏ tươi chưa kịp gây tội ác với đồng bào miền Nam.
Thương thay, cũng con em đồng bào miền Bắc bị phỉnh phờ đem thây làm bia đở đạn cho
giấc mộng xâm lược của bọn bạo quyền. Chín mươi bảy xác để lại trên chiến trường.
Khai thác tài liệu tịch thu, chúng tôi nhận diện đây là Trung đoàn 174 và một đơn vị đặc
công Z27. Về sau, khi ở tù trại cải tạo Suối Máu, tôi gặp một thiếu úy cộng sản từng có
mặt và sống sót trong trận này. Lúc tham chiến tại Snuol, anh ta chỉ là một hạ sĩ. Anh ta
thú nhận quân ta đánh quá ác liệt và mưu trí.
Năm giờ chiều cùng ngày, thiết giáp chở Tiểu Đoàn 2/9 vào tiếp tế thêm đạn dược
và tải thương binh. Tôi gặp lại Nguyễn Văn Duyến bạn cùng khoá, đang làm đại đội
trưởng. Anh em gặp nhau vài phút ngắn ngủi, trao đổi tin tức bạn bè rồi đường ai nấy đi.
Chúng tôi trú phòng qua đêm. Mỗi đại đội cho một trung đội ra nằm tuyến cách đó chừng
cây số. Bốn giờ sáng, Ðại Úy Hiền cho lệnh thực tập báo động. Nhưng chưa kịp nhảy
xuống hố cá nhân thì pháo địch đã nhả tới tấp. Ðịch tung đợt tấn công đầu tiên vào tuyến
của Quân báo tiểu đoàn. Cả tiểu đội chín người hy sinh tại chỗ nhưng địch cũng khựng
lại vì hàng rào mìn claymore. Phiá sườn đại đội tôi, địch cũng tấn công mạnh. Một số
binh sĩ vì quá mệt mỏi lúc ban ngày nên không đào kịp hầm hố. Họ cứ chạy quanh gốc
cao su nép mình chống trả. Thế mà không ai bị thương hay bỏ mạng. Tiểu doàn bị tấn
công cả thảy năm đợt, có lúc tưởng bị tràn ngập. Tôi phải nhảy ra khỏi hố, trực tiếp bắn
súng cối 81 ly yểm trợ cho bạn. Hết đạn, quăng súng vào hồ nước rồi nhảy ra phụ trợ cho
Trung Đội 2 đang chịu áp lực nặng nề nhất. Nhờ có 3 cấp số đạn, nhờ có mìn claymore,
chúng tôi cầm cự cho đến khi trời lờ mờ sáng thì địch bắt đầu rút. Qua làn sương mỏng,
chúng tôi thấy chúng dùng móc câu kéo xác đồng bọn và vũ khí. Lại có màn thi nhau bắn
bia như lúc tập ở quân trường. Lệnh truy kích được ban ra. Tôi lầu bầu: “đạn còn đâu nữa
mà truy với kích.” Mặc, cứ tiến lên, địch đang rối trí bỏ chạy thì chúng có hơi đâu mà
chống trả. Tiến về phía cuối rừng cao su, cách đó chừng trăm mét, binh sĩ phát hiện được
vị trí chỉ huy hành quân của địch với hệ thống tổng đài và dây điện thoại chằng chịt tỏa ra
như lưới nhện xung quanh trận liệt. Thì ra huyền thoại Ðiện Biên là đây, binh sĩ Bắc việt,
quân đội nhân dân anh hùng, con cháu Hồ Chí Minh vĩ đại dùng mười đánh một mà cũng
phải chém vè. Cả trung đoàn quân Bắc không đánh nổi một tiểu đoàn quân Nam.
Tướng Trí và bộ Chỉ huy hành quân đón chúng tôi ở chợ Snuol điêu tàn. Ông bắt
tay tôi khen ngợi và lệnh cho sĩ quan tùy viên lấy tên tuổi, số quân tôi và các chiến sĩ do
tôi đề nghị. Chiếc bông mai đặc cách tại mặt trận đem cho tôi vinh dự, nhưng không mấy
hài lòng, vì tôi chỉ con hơn một tháng nữa là đến ngày thăng cấp đương nhiên theo quy
chế hiện dịch. Sau này, để khỏi thiệt thòi, Bộ Tổng Tham Mưu ân thưởng cho tôi tấm
Anh dũng Bội tinh với nhành Dương liễu.
Một Thời Áo Trận 100
Nghỉ ngơi vài hôm, chúng tôi lên đường hành quân sâu về hướng Bắc, đánh thêm
vài trận cũng kinh hồn không kém. Có lần, chúng tôi vào tận nơi gọi là khu Huấn Luyện
của cục R, tứ bề thọ địch, trên vai còn cõng theo thương binh và một số vũ khí tịch thu
chưa có phương tiện chuyển vận về Chiến đoàn. Nơi đây, chúng tôi phát giác ra những
nấm mộ còn mới toanh có lẽ chôn các chiến binh Viêt Cộng bị chúng tôi hạ sát trong trận
ThpongVietnam. Nhờ phi cơ yểm trợ đắc lực, chúng tôi đã giết hết bọn lính hậu cần và
đốt cháy rụi toàn bộ cơ sở địch trước khi rút lui an toàn về hướng Nam.
Trận đánh ngày 27 tháng 2
là trận đại phục thù. Chúng cho
trinh sát theo dõi đường tiến quân
của ta từ cả tuần lễ, và chờ khi tiểu
đoàn đi vào địa điểm bất lợi do
chúng dự liệu trước. Mỗi đêm,
chúng đều cho đặc công bò vào
tuyến phòng thủ quấy nhiễu. Sáng
ra, sau khi Tiểu đoàn đã di chuyển,
thì bọn đặc công này ùa vào quan
sát cách bố phòng, đếm các hố
phòng thủ để nắm them về quân
tình. Mở đầu trận phục thù, Trung
Đoàn 174 được tăng cường thêm
đơn vị của Trung Đoàn 165, pháo
lớn và đặc công từ mạn rừng tấn
công ồ ạt ngay khi quân ta vừa dừng bên suối nước tạm nghỉ quân chuẩn bị ăn uống. Ðại
Đội Chỉ Huy đóng trong làng Trapeang Lak bị tràn ngập ngay. Binh sĩ tan tác chạy về
chiến đoàn, nhưng tổn thất nhẹ. Hùng Ðầu lâu đang cởi trần tắm rửa, không kịp mặc áo,
ôm bản đồn dọt về phía tôi. Nhìn lui thấy cả một rừng nón cối và áo quần xanh lá mạ, ôi
người đâu là người. Chúng vừa chạy vừa hô to đòi bắt sống chúng tôi: “Cái thằng cao
cao, cầm bản đồ kia, chỉ huy đấy, bắt sống nó.” Ðạn cối và pháo binh địch bắn chặn
đường phía nam. Một đơn vị phía Tây án ngữ lối ra. Tiểu Đoàn Trưởng Nguyễn Chí Hiền
vừa thoát ra cùng anh hiệu thính viên, kêu gọi ở lại cầm cự. Có một điều là đêm trước,
Chiến đoàn đã bị pháo kích trúng kho đạn, Ban 3 thông báo đến các đơn vị nếu có chạm
địch sẽ không có pháo yểm trợ. Nhờ những gốc cao su lớn, chúng tôi có điểm tựa, cầm cự
đến trưa và mở được đường máu rút về phía nam, tập trung quân số phản công trở lại.
Thiếu tá Nguyễn Ða dẫn tiểu đoàn 2/9 lên tiếp trợ chiếm lại mục tiêu, thu nhặt chiến
trường. Tiểu đoàn tổn thất ở mức trung bình. Riêng đại đội tôi chỉ có thương binh mà
không có tử sĩ. Ai cũng bảo tôi cầm quân mát tay.
Tướng Trí tử nạn phi cơ một tháng sau đó. Tướng Minh từ vùng 4 về thế, không
có những phương lược chính xác và táo bạo, đưa Chiến Đoàn54
8 (thay thế Chiến đoàn 9
54
Chiến đoàn dược tổ chức theo nhu cầu hành quân, quân số thường là một Trung đoàn cộng thêm các đơn vị tăng
phái.
Hình trên: Bản đồ quân sự vùng Snuol. Làng Thpong
Vietnam ở phía Tây Bắc quận lỵ Snuol.
Một Thời Áo Trận 101
về nước vào giữa tháng 3-71) vào thế nan giải, một mình chịu áp lực 3 công trường55
(sư
đoàn 5, 7, và 9) của địch. Và thảm họa Snuol đã xảy ra. Sư Đoàn 5 của ta phải mất một
thời gian dài mới khôi phục lại khí thế. Trận Bình Long mùa hè đỏ lửa 1972, với Lê Văn
Hưng, Lê Nguyên Vỹ anh hùng, với hàng ngàn chiến sĩ quả cảm, Sư Đoàn đã ghi một
chiến tích lẫy lừng vào quân sử. Giờ đây Tướng Hưng, Tướng Vỹ đã lấy cái chết dũng
liệt để đền nợ nước, bảo toàn khí tiết, chiếm một chỗ đứng cao quý trong lòng tiếc thương
của đồng bào, chiến sĩ. Quách Kế Nhơn, Ðèo Chính Tường, Nguyễn Trọng Thủy,
Nguyễn Văn Mâu và bao người đã về lòng đất mẹ. Bồi trở về nếp sống dân thường sau
chuyến du ngoạn Ðài Loan do được chọn là chiến sĩ xuất sắc nhất Quân Đoàn 3. Anh
may mắn không đi tù “cải tạo”, nhưng lại rủi không đủ điều kiện xuất cảnh HO. Mai
Thanh Tòng (ban 5) nay ở New Jersey. Nhớ lúc đem quân trở lại cứu anh từ cái hố cá
nhân đã lọt hang mấy tiếng đồng hồ trong sự kiểm soát của địch, anh méo cả mặt: “Trời
ơi, thấy cái ống quần của nó lất phất ngay trên miệng hố!” Cựu Thiếu Tá Nguyễn Chí
Hiền thì ở Pháp, lâu lâu thư từ thăm nhau gắn bó như ngày xưa. Còn Hùng Ðầu lâu, còn
bao nhiêu anh em khác, như bầy nghé tan đàn, kẻ tha phương, người ở lại âm thầm chịu
cảnh sống đắng cay tủi nhục; có còn nhớ đến nhau không, có còn ngồi bên tách cà phê ôn
lại quá khứ anh hùng, những ngày cơm sấy cá khô, chia sẻ gian lao sinh tử... và tình đồng
đội thắm thiết... và niềm tự hào của người chiến binh.
55
Công trường, hay Nông trường là các đơn vị Cộng quân, thường có cấp số một sư đoàn.
Một Thời Áo Trận 102
Những Ngày Cuối Năm Không Vui ở Lộc Ninh
Để tưởng niệm linh hồn các chiến sĩ hy sinh tại Lộc Ninh cuối năm 1971
Trưởng Ban 3 Trung Đoàn, Trung Úy Nguyễn Văn Quốc vén tấm poncho che nắp
hầm, nhìn ra. Sương mù đang xuống, mỗi lúc mỗi dày hơn dù đã gần trưa rồi. Thấy anh
Trưởng Ban 2 cũng đang ló đầu ra, anh quay sang, lầu bầu: “Thế này thì đánh đấm gì
được. Không biết cái bọn Việt Cộng có ngọ ngậy gì không?” “Chúng nó mà khôn thì ôm
mấy con hộ lý ngủ cho đả cái đời rồi Sinh Bắc Tử Nam” Dù sao, hai anh ban 2 và ban 3
này cũng phải rán mò vào phòng Hành Quân xem thử tình hình ra sao.
Hơn một tuần nay rồi, bầu trời từ màu xám xịt nay phủ một lớp sương mù dày đến
nỗi đứng cách nhau vài thước mà không thấy được nhau. Không gian như ngưng đọng, và
hoạt động của đơn vị cũng như bị khựng lại. Máy bay không lên vùng, các đơn vị không
di chuyển, xe cộ không qua lại. Đường trong căn cứ trơn như bôi mỡ. Vốn là những con
đường đất đỏ hẹp và gồ ghề xuyên qua các lô trong rừng cao su Lộc Ninh, sau những trận
mưa lớn, đất bột đã nhào với nước trở nên bùn lầy dẻo quẹo. Không ngày nào mà không
có vài chiếc xe trợt xuống ven đường do tài xế chẳng thể nào điều khiển được tay lái.
Một Thời Áo Trận 103
Trung Đoàn 8 hành quân Lộc Ninh từ đầu tháng 10, 1971. Các tiểu đoàn được
tung ra cả một vùng rộng lớn kéo dài về phía Bắc cho đến biên giới Việt Miên. Bộ Chỉ
Huy Hành Quân Trung Đoàn đóng trong một khu đất gần nhà cũ của giám đốc đồn điền.
Trung Úy Phúc, Đại Đội Trưởng Đại Đội Chỉ Huy cho lao công đào binh cất ba căn hầm
lớn bằng gỗ vuông 20x20, thùng phuy và bao cát. Hầm sâu ngập ba phần tư dưới mặt đất.
Bên trên có hai tầng vừa PSP vừa bao cát 5 lớp để đủ sức chống nổi loại đại pháo và hoả
tiễn 122 ly. Trong ba hầm này, cái lớn nhất làm hầm chỉ huy, kế đến là phòng họp vừa là
phòng ăn cho các sĩ quan. Cái nhỏ nhất là hầm của Trung Đoàn Trưởng. Đại đôi Chỉ Huy
và một Pháo đội 105 li đóng sát đó ở vòng thứ hai với những căn lều dã chiến. Đại Đội
Trưởng ĐĐ Chỉ Huy nhờ có nhân lực dồi dào, nên cũng được một cái hầm nhỏ nhắn
tương đối ấm cúng. Thiếu Tá Nguyễn Văn Tâm56
, Trung Đoàn Phó thì ở chung hầm với
Phúc. Bên ngoài là vòng đai phòng thủ chính do Đại Đội Trinh Sát và một tiểu đoàn trừ
đảm trách. Phúc trực tiếp chỉ huy bốn trung đội súng nặng trang bị các loại Đại liên, cối
81 ly, đại bác không giật 75 ly, 106 ly. Ngoài ra còn chỉ huy về hành quân và phòng thủ
các quân nhân cơ hữu của Trung Đoàn Bộ.
Phúc rời Tiểu Đoàn 4/8 về coi Đại Đội Chỉ Huy đã 5 tháng nay và đang chờ về
Không Quân mà theo Ban 1 thì chậm lắm là đầu năm tới là có lệnh thuyên chuyển. Sau
trận Snuol khốc liệt mà tinh thần sắt đá đến đâu cũng có ít nhiều giao động; Phúc làm đơn
xin về Lực Lượng Đặc Biệt vì nghĩ rằng tác chiến đâu cũng hiểm nguy, chi bằng xin ra
LLĐB là binh chủng chỉ toàn anh em tình nguyện mà anh đã có một thời phục vụ với tư
cách thông dịch viên. Nhưng cũng duyên may gặp lúc các quân chủng Hải và Không
Quân đang cần các sĩ quan tốt nghiệp từ trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị, Bộ
Tổng Tham Mưu gửi văn thư hỏi ý kiến và Phúc đã chốp ngay cơ hội, xin về Không
Quân. Ông Tâm thương Phúc, cứ tỉ tê dụ dỗ: “Mày về Không Quân không có tương lai
đâu. Ở lại đi, chờ tao lên Trung Đoàn Trưởng, tao lăng xê cho coi Tiểu Đoàn mà lên lon
vù vù.” “Thôi ông ơi, có mà lên bàn thờ sớm.” Phúc đùa.
Hình bên: Bản đồ quân sự vùng
Lộc Ninh
Nhờ có sương mù nên các sĩ quan
được kéo dài giấc ngủ thêm một ít
thời gian; vì giờ họp tham mưu
được trễ đi một tiếng đồng hồ. Ở
hành quân, chỉ có Ban 3 và Đại
Đội Chỉ Huy là cực. Trung Úy
Nguyễn Văn Quốc57
, Trưởng Ban
3, phải thức gần như thâu đêm bên
dàn máy truyền tin để theo dõi từng
56
Thiếu Tá Nguyễn Văn Tâm, khoá 19 Trường Võ Bị Đà Lạt, sau làm Trung Đoàn Trưởng TĐ31, SĐ 21 Bộ Binh,
và Quận Trưởng ở Vùng 4. 57
Cố Đại Uý Quốc tốt nghiệp khoá 23 Trường Bộ Binh Thủ Đức.
Một Thời Áo Trận 104
động tịnh của các đơn vị bên ngoài. Trung Úy Phúc coi Đại Đội Chỉ Huy thì chịu trách
nhiệm đôn dốc phòng thủ, tiếp vận, an ninh và tất cả mọi việc tạp dịch của căn cứ.
Lộc Ninh mùa đông buồn da diết. Ban ngày, ai không có việc gì làm thì thả bộ ra
chợ, kéo nhau vào các quán sinh tố tán tỉnh các cô gái da trắng má hồng. Phúc thì lúc nào
có dịp là mò ra nơi đóng quân của đơn vị cũ thăm bạn bè. Sau bữa cơm tối, các sĩ quan
thường tụ tập một hầm nào đó chuyện vãn và có khi bày ra một chầu tứ sắc mà mỗi lệnh
chỉ 1 đồng gọi là giải trí giết thì giờ.
Sáng thứ Ba, không rõ từ đâu, một con chó hoang chạy lọt vào căn cứ. Nó đứng
trước hầm Hành Quân, chỉa mõm vào trong mà hú lên từng hồi nghe rất rợn người. Nhìn
cách đứng của nó, hai chân trước chùn lại như trong tư thế phòng thủ; cái đuôi quặp lại
giữa hai chân sau. Con chó tỏ ra sợ sệt như nó đang đối diện một cái gì đó mơ hồ trước
mặt nó mà những đôi mắt người không thấy được. Nó tru lên từng hồi dài nghe dựng cả
tóc gáy. Sĩ quan An Ninh, Chuẩn Úy Sung58
, biệt danh Sung Lựu Đạn, chụp cái chổi chạy
ra đuổi. Chó chạy vòng vòng một hồi rồi cũng quay về chỗ cũ mà tru. Vài người đã bắt
đầu bàn tán về một điểm gở sắp xảy ra. Phúc chẳng nói chẳng rằng, rút súng lục ra bắn
vào đầu con chó hai phát rồi kêu lao công đào binh xách đi chôn. “Đ.M. chỉ tin dị đoan.
Chó tru mùa đông là chuyện thường. Lính ra trận chứ có phải đi picnic đâu? Khi nào mà
không có đánh nhau, không có chết chóc!”
Nói
cứng miệng
như thế,
nhưng trong
lòng, Phúc
vẫn liên
tưởng đến
những điều
không lành
bất thường
sắp xảy ra.
Chuyện cột
cờ gãy
không thể
đơn giản
giải thích lý
do về kỹ
thuật, gió
bão … Nó thường là một điềm rất xấu cho đơn vị. Cột cờ tại toà nhà Chỉ Huy Trường Đại
Học Chiến Tranh Chính Trị bị gãy thì theo sau là một loạt các biến cố làm chết và bị
thương cả chục sinh viên sĩ quan. Trước hết là các đợt Việt Cộng tấn công vào trường
làm chết sinh viên và hàng chục tu sĩ đang theo học căn bản, theo đó là vụ nổ lựu đạn
cướp mất mạng sống vài sinh viên khác mà cho đến về sau, không ai điều tra cho hết
58
Thiếu Úy Sung sau này ở tù chung nhà với Đại Úy Phúc tại Hàm Tân Z-30C.
Một Thời Áo Trận 105
ngọn nguồn. Chuyện những câu nói buột miệng của Đại Úy Trung, Trưởng Ban 3 Tiểu
Đoàn 1/8, mà theo đó là cái chết của Cố Trung Tá Tiểu Đoàn Trưởng Châu Minh Kiến59
… Trong mỗi con người, có một giác quan thứ sáu mà cường độ mạnh yếu tùy từng
người, từng hoàn cảnh mà đột phát. Khi người anh rể của Phúc tử trận tại một chiến
trường vùng 4 Chiến Thuật, nơi quê nhà ở miền Trung cách xa hàng ngàn cây số, Phúc đã
cảm nhận khi bất ngờ có một luồng điện chay qua tim đau nhói và bồi hồi.
Vài hôm sau, mưa đã dứt hẳn. Con đường nhầy nhụa hôm trước nay đất khô cứng.
Xe cộ đã lưu thông trở lại bình thường. Các đoàn xe tiếp tế, xe pháo binh chở đạn liên tục
ra vào căn cứ. Sương mù cũng tan hẳn. Hoạt động hành quân rộn lên. Dàn máy trong hầm
chỉ huy suốt ngày vang lên những ám thoại, lệnh lạc, báo cáo. Tiếng phi cơ thám thính
OV-10 Bronco lại vo ve trên bầu trời. Hàng loạt đạn 155 ly từ căn cứ yểm trợ hoả lực bắn
qua đầu có đủ sức mạnh ném tung người lính ra khỏi chiếc võng ni lông. Quốc ngày nào
cũng phải bay C-n-C60
ít nhất vài tiếng đồng hồ để quan sát và yểm trợ quân bạn. Từ
Trưởng Ban 3 Tiểu Đoàn 4/8, Quốc được điều động về làm Trưởng Ban 3 Trung Đoàn
mà không qua các giai đoạn làm Tiểu Đoàn Phó, Tiểu Đoàn Trưỏng như truyền thống các
binh chủng Dù, Thủy Quân Lục Chiến61
. Tuy vậy, Quốc đã chứng tỏ khả năng học hỏi và
thích ứng nhanh chóng nên rất được tin cậy. Dáng người nhỏ nhắn, cách đi ngiêng
nghiêng lệch về một bên, khuôn mặt nhiều nhăn nhó hơn tươi vui; nhưng anh em sĩ quan
trong đơn vị ai cũng mến Quốc. Trong 5 ban, chỉ có ban Hai, ban Ba, và ban Tư là luôn
luôn có mặt ở chiến trường. Trưởng ban 1 là Thiếu Úy Lô Đức Tân thì trụ trì ở Căn Cứ
Lai Khê. Ban 5 thì ở đơn vị tác chiến cũng chẳng giúp được việc gì. Ngoại trừ hai cô
Thiếu Úy Thảo và Trung Sĩ Hoa, Trợ Tá Xã Hội đang săn sóc khu gia đình binh sĩ ở Phú
Lợi, và một anh Đại Đức Tuyên Úy Thích Minh Phương (mà anh em đặt tên là Thích
Muôn Phương) cứ nhởn nhơ trong căn nhà một goá phụ có hai cô con gái xinh xinh làm
thợ may ở trong làng Lai Khê – là một khu dân cư nằm lọt trong căn cứ vốn trước đây là
một đồn điền cao su.
Quá khuya, đang ngon giấc thì có ai đó nắm vai lắc lắc. Phúc bật dậy.
- Gì thế?
- Thằng 1/8 chạm. Toán tiền đồn bị đặc công xâm nhập. Đang đánh loạn xà
ngầu, chưa biết ra sao.
- Ở đâu?
- Gần căn cứ Alfa.
Căn cứ Alfa gần Quốc lộ 13 nơi biên giới Việt Miên, trở thành tiền đồn của Việt
Nam. Nơi đây thường có một đơn vị cấp Tiểu đoàn trú phòng, không xa trại A-341 Lực
Lượng Đặc Biệt ở Bù Đốp. Từ sau khi Sư Đoàn 5 rút quân khỏi Snuol hồi giữa năm
1971, các sư đoàn 7, 9 chính quy Cộng Sản được bổ sung, trang bị lại và hành hoành bên
kia biên giới, trên lãnh thổ tỉnh Kratie của Cộng Hòa Khmer. Họ tạo những áp lực nặng
nề lên Sư Đoàn 5 Bộ Binh vốn cũng chưa hồi phục sau tổn thất nặng nề chưa từng có
trong quân sử đơn vị. Thời điểm này, quân bộ chiến Mỹ đã hoàn toàn rút khỏi miền Nam.
Một sư đoàn Việt Nam nay phải phân tán thật mỏng trên một khu vực hành quân rộng lớn
59
Mời đọc bài Một Ngày Trong Mật Khu Tam Giác Sắt. 60
Command and Control. Thuật ngữ quân sự. 61
Thường các Trưởng ban 3 phải được chọn từ các vị chỉ huy cấp dưới xuất sắc nhất trong đơn vị.
Một Thời Áo Trận 106
mà trước đây có hai sư đoàn Mỹ, một sư đoàn VN cùng gánh vác, thì phải thấy hết cái
hiểm nghèo như thế nào.
Tuy không có nhiệm vụ gì về hành quân, Phúc vẫn mặc vội áo quần, khoác thêm
cái field jacket và chạy vào hầm chỉ huy để nghe ngóng. Anh ngồi xuống gần Thiếu Tá
Tâm, hỏi nhỏ:
- Đến đâu rồi, Thiếu Tá?
- Mất cả trung đội tiền đồn, Tiểu đoàn báo cáo mất liên lạc vô tuyến từ hơn
một giờ nay.
Hàng chục đôi mắt đổ dồn vào chiếc loa nhỏ cạnh bàn truyền tin, nơi Trưởng Ban
3 đang gào lên từng hồi cố gắng liên lạc với Ban 3 Tiểu đoàn 1/8. Trung Tá Trung Đoàn
Trưởng Mạch Văn Trưòng không dấu nỗi nét lo âu, bồn chồn. Ông quay qua, quay về
trên chiếc ghế bành làm bằng gỗ thùng đạn pháo binh. Hết hỏi ban Ba lại thúc ban Hai.
- Chúng nó ngủ quên hay sao mà bọn Việt Cộng vào hốt trọn thế?
- Tôi đã nhắc chúng nó gài mìn Claymore dày đặc vào.
- Bọn đặc công bây giờ chúng nó tinh ma lắm. Mìn bẫy thế nào chúng cũng
chui qua tuốt.
Quả thế, chiến trường là nơi hai đối thủ thi thố vũ khí và khả năng nhậy bén và
nhanh chóng nhất. Đó là vì sự sống còn của cả hai bên. Mỗi thứ vũ khí, mỗi chiến thuật
mới thường chỉ có tác dụng tối đa một thời gian, rồi đối phương cũng tìm ra được phương
cách hoá giải hay làm giảm hiệu quả. Mìn Claymore là loại mìn chống biển người được
trang bị cho QLVNCH vào giữa thập niên 1960. Nó vưà gọn, nhẹ (trọng lương 3.5 cân
Anh), vừa an toàn cho quân bạn. Nó được cấu trúc theo hình trăng lưỡi liềm mà phần
cong hướng về phía địch là một lớp gồm 700 viên bi thép có đường kính 1/8 inch. Sau
lớp bi này là 1.5 cân Anh chất nổ C-4. Claymore được kích hoả bằng một ngòi nổ (fuse)
nối liền với một con cóc bấm (detonator) bằng hàng chục thước dây điện. Tầm sát thương
là 250 mét, tầm hiệu quả cao nhất là 50 mét. Quân bạn phía sau tuy an toàn, nhưng phải
được che chở vì sức nổ cũng có khả năng gây thương tích.
Ban đầu, quân ta xử dụng mìn Claymore đúng như đã được hướng dẫn trong sách
vở. Họ gài mìn quanh phòng tuyến, hay tại các giao lộ tình nghi có sự di chuyển của địch.
Khi có sự phát hiện địch quân thì bấm cóc cho nổ mìn. Dần dần, khi bị đặc công Việt
Cộng biết cách bò vào, quay ngược hướng mìn vào phía quân bạn; quân ta lại sáng chế
thêm dây bẫy, hoặc kết hợp thêm bẫy bằng lựu đạn M-26. Dây bẫy rất nhỏ, căng ra ở vị
trí thấp cách mặt đất chừng 1 mét. Một đầu dây cột vào gốc cây nào đó, đầu kia có miếng
cách điện, kẹp giữa hai càng có bọc miếng đồng để dẫn điện của một cái kẹp phơi áo
quần bằng gỗ. Cách gài bẫy là làm cho đối phương dù cắt dây, làm cho dây chùng lại
hay căng thêm cũng kích hoả. Thế nhưng đã có lần chúng tôi được tận mắt xem các cách
gỡ mìn bẫy do một đặc công Việt Cộng chiêu hồi biểu diễn. Anh ta chỉ dùng một cọng
cỏ lau, rất nhẹ và nhỏ để tìm ra các dây bẫy; dù rằng trong rừng rậm rất vướng víu. Rồi từ
đó, anh ta vuốt nhẹ theo chiều dài hai bên dây bẫy lần đến trái nổ để vô hiệu hoá nó. Một
đặc công thuần thục có thể gỡ một trái mìn trong vòng vài phút ngay trước mũi súng đối
phương, nhẹ nhàng, im lặng không một tiếng động.
Chuyện mất đứt một trung đội tiền đồn còn nóng hổi, thì trưa hôm sau, trên bầu
trời Lộc Ninh, hai chiếc F-5 từ Căn Cứ Không Quân Biên Hoà lên yểm trợ quân bạn lại
Một Thời Áo Trận 107
gặp tai nạn. Các quân nhân đứng xem từ căn cứ Lộc Ninh có thể chứng kiến rất rõ ràng
cảnh một chiếc phản lực bay sau quẹt cánh vào chiếc bay phía trước. Một chiếc cháy, một
chiếc đâm đầu xuống một khoảnh rừng xa xa nào đó. Cả một khối cầu lửa bùng lên giữa
không trung. Chúng tôi chỉ thấy độc nhất một chiếc dù bung ra. Qua liên lạc với Sĩ Quan
Không Yểm, Trung đoàn nhanh chóng cho lệnh đơn vị bộ binh gần đó nhất đến ngay lục
soát để hòng cứu kịp phi công vừa nhảy dù ra.
Trung Úy Quốc bần thần thấy rõ. Không khí trong các bữa cơm nặng nề, chỉ nghe
tiếng chén bát, lùa cơm. Ăn xong, ai về hầm nấy lặng yên chẳng thì thào bàn tán sau bữa
ăn như thường nhật. Tối hôm đó, trong khi các sĩ quan ngồi trò chuyện trong hầm của
Phúc, thì Quốc ghé qua nhưng không vào. Anh thò khuôn mặt hốc hác mà nói:
- Nè Phúc, mai mốt mày về Sài Gòn, nhờ mày đem cái đàn về cho má tao
nghe.
- Đã có lệnh lạc gì đâu. Chắc phải chờ hết hành quân.
- Mày nhớ đó. Đem đàn về nhà cho tao.
Quốc đi. Ai cũng lạ về thái độ của Quốc. Người này nhìn người kia như muốn nói
điều gì đó mà không ai dám phát ra.
Không đến 10 phút sau, lại thấy khuôn mặt Quốc thò vào.
- Mày chớ quên. Cây đàn tao để góc phòng hành quân. Thằng Hải đang
mượn chơi.
- Nhắc hoài hả mầy, làm như mày muốn trối chắc?
Phúc bổng ân hận vì buột miệng nói một điều không hay.
- Về ngủ đi cho lại sức. Mấy hôm nay thấy mày rả rượi rồi đó. Chừng hành
quân về con Nhàn nó không nhìn ra đâu.
- Tụi mày sướng quá, chẳng có gì lo nghĩ. Tao cả trăm mối, nhắm mắt mà
tâm trí để đâu đâu.
- Thôi, ngủ ngon.
Đám sĩ quan giải tán, chẳng có gì thú vị trong khung cảnh như thế này.
Từ khi Sư Đoàn 1 Không Kỵ Hoa Kỳ rút về nước, việc yểm trợ trực thăng bốc
quân, đổ quân, bay C-n-C hoàn toàn do các phi đoàn của Không Quân Việt Nam từ Biên
Hoà đảm trách. Một toán sĩ quan liên lạc có mặt 24/24 tại Trung đoàn bộ. Mỗi ngày
thường xuyên có vài ba chiếc trực thăng bay C-n-C cho các đơn vị trưởng của Trung
đoàn. Những ngày còn ở đại đội tác chiến, Phúc cũng bay C-n-C nhiều, mà do các phi
công Hoa Kỳ cấp cao hơn lái. Họ rất lịch sự. Tuy đa số là Đại Úy, nhưng lễ độ nghe một
anh Trung Úy Việt Nam “ra lệnh” mà không tỏ ý khó chịu. Một tiếng “yes, Sir” hai tiếng
“yes, Sir”. Có lúc bay gần hết giờ tăng phái, nhưng nếu anh sĩ quan Việt yêu cầu bay
thêm một vòng sà xuống thấp hơn, các anh cũng vui vẻ mà không cằn nhằn. Phúc chưa
bay với các phi công Việt Nam, nhưng cũng biết các anh rất can đảm và hết lòng với
chiến hữu.
Đại đội 8 Trinh Sát được lệnh an ninh bãi đáp cho trực thăng đáp bất ngờ để thả
xuống một sĩ quan tiền sát pháo binh. Lệnh lạc rắc rối sao đó, mà nghe như có lúc xác
định, có lúc hủy bỏ. Trung Úy Hùng - tự Hùng Đầu Lâu, vì trên ngực anh có xăm một cái
đầu lâu to tướng - chỉ huy Trinh Sát cũng từ Tiểu Đoàn 4/8 về. Các đại đội trinh sát bộ
binh, từ cấp trung đoàn cho đến cấp sư đoàn, là các đơn vị xuất sắc nhất; nơi tập trung
Một Thời Áo Trận 108
những chiến binh can trường, thiện chiến được chọn từ các đơn vị khác. Nhưng chức
năng chính yếu – như tên gọi của nó – là hành quân thám sát theo từng toán nhỏ để theo
dõi địch tình cung cấp tin tức cho phòng 2; trong khi các chỉ huy lại có khuynh hướng xử
dụng như những đơn vị xung kích, tăng cường cho những mặt trận nóng bỏng. Do đó, có
rất nhiều bất lợi dẫn đến tổn thất đáng tiếc.
Chiếc trực thăng UH1-B đảo qua đảo lại vài vòng để chờ nghe Đại Bàng Trinh Sát
báo cáo về an ninh bãi đáp. Đó là một khoảng trống rất hiếm hoi giữa rừng già Bình
Long. Vì thế, địch quân thường chấm sẵn các toạ độ này để hể nghe tiếng trực thăng đáp
là sẵn sàng pháo kích vào. Trung Úy Hùng đã báo về Trung Đoàn tình hình an ninh bãi
đáp từ hơn một giờ qua. Rồi lại có lệnh hủy bỏ việc thả sĩ quan tiền sát. Hùng đã cho rút
quân và di chuyển về mục tiêu mới. Giờ này, lại có lệnh từ Trung Úy Quốc kéo trở lại
LZ. Cái giọng Bắc Kỳ khàn khàn của Hùng lầu bầu: “Đ.M. đi rồi đứng, Đứng rồi đi.
Lệnh với chả lạc. Ai mà xoay sở cho kịp. A lê hấp, chúng mày kéo trở lại giùm tao.
Nhanh lên, chim sắp hạ cánh rồi. Mau! Mau!”
Trực thăng giảm dần cao độ và đáp xuống. Quốc có thể nhìn thấy những người
lính bộ binh đang chạy lúp xúp vào các hướng quanh khoảng trống để bố trí. Người Sĩ
quan tiền sát pháo binh và người mang máy vừa đặt chân xuống đất thì:
Oành!
Một tiếng nổ chát chúa vang lên ngay lườn chiếc phi cơ. Có lẽ do một vài tên Việt
Cộng ẩn núp rất gần bắn vào. Hai người vừa xuống bị bắn ra xa cả chục mét, nằm bất
động. Phi cơ bốc cháy vì có lẽ trúng bình xăng. Hai phi công và một vài quân nhân nhảy
ra kịp chạy nhanh vào bìa rừng. Anh xạ thủ đại liên chết ngay tại chỗ. Riêng Quốc, bị
trúng nhiều mảnh đạn vào thân thể. Anh cố xoay sở tháo chiếc đai nịt an toàn. Lửa cháy
bùng lên nhanh, hắt từng cơn nóng vào người. Quốc ngạt thở và tuyệt vọng, dẫy dụa cho
đến khi ngọn lửa trùm hết cơ thể anh.
Chiếc trực thăng nổ thêm nhiều tiếng nổ phụ rồi cứ thế, như một ngọn đuốc giữa
cái nhìn bất lực đau xót, bàng hoàng của trăm binh sĩ xung quanh.
Năm ngày sau biến cố đó, Trung Úy Phúc nhận điện thoại từ Lai Khê của Thiếu
Úy Tân báo tin lệnh thuyên chuyển đã về tới. Tân đang làm Công Vụ Lệnh gửi lên cho
Trung Đoàn Trưởng ký để Phúc về trình diện Bộ Tư Lệnh Không Quân vào cuối năm sau
15 ngày phép thưởng.
Phúc đã tháp tùng trên chuyến xe tang chở thi hài người Trưởng ban Ba về với gia
đình lần chót. Anh đã làm đúng như lời dặn của Quốc, đem chiếc đàn Guitar về cho mẹ
Quốc làm kỷ vật cuối cùng,
Một Thời Áo Trận 109
Phi tuần A-37 cất cánh từ Căn cứ Không Quân Phan Rang
Những ngày đầu tiên của
Căn cứ 20 Chiến Thuật Không quân
Khi cái ramp của chiếc C-7 hạ xuống, tôi tháo giây nịt an toàn đứng dậy nhìn ra
phi đạo. Một cơn gió nóng hắt vào theo những luồng nắng màu vàng sậm. Phan Rang
đây rồi. Tôi xách túi hành lý, bước chân xuống ngơ ngác nhìn quanh. Chỉ toàn là quân
nhân Mỹ. Một sĩ quan không quân tốt bụng cho đi nhờ chiếc xe pick up về nơi tạm đặt
văn phòng của toán Không quân Việt Nam đang tiến hành nhiệm vụ tiếp thu căn cứ.
Đó là những ngày cuối năm 1971 khi các đơn vị của Không Lực 7 (Không đoàn
Yểm cứ 312 và Không đoàn Chiến thuật 312) chuẩn bị để rời Phan Rang trong chương
trình Việt Nam hoá chiến tranh và bàn giao căn cứ lại cho Sư đoàn 2 Không quân.Việt
Nam.
Một Thời Áo Trận 110
Tôi là một sĩ quan bộ binh được chuyển về Không quân do nhu cầu phát triển quân
chủng. Rời chiến trường Lộc Ninh còn đang diễn ra ác liệt, tôi vui sướng hưởng được
mười lăm ngày phép hiếm hoi với gia đình rồi trình diện Bộ Tư Lệnh Không quân để sau
đó, được đưa ra Phan Rang ngay. Là một trong khoảng hơn ba chục quân nhân VN đầu
tiên có mặt ở Phan Rang, chúng tôi đã bắt đầu công việc một cách khó khăn vì thiếu
phương tiện, nhân sự, mà căn cứ lại quá lớn, quá nhiều tiếp liệu, nhiều cơ sở kỹ thuật tân
tiến mà chúng tôi còn rất bở ngỡ.
Người anh cả ngày đó là Đại tá Nguyễn Đình Giao, hiền lành và cởi mở. Đại tá
Giao là Chủ tịch Úy ban Tiếp thu Căn cứ Phan Rang, mà trong những tháng đầu, nghe
đâu đơn vị mới này được đề nghị đặt tên là Lữ đoàn 21 KQ (nhưng bảng cấp số chưa
được Bộ Tổng Tham Mưu chấp thuận). Dưới ông là Trung tá Võ Văn Ân, về sau là
Không đoàn phó KĐ 92/CT, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệt, (sau là Liên đoàn trưởng Phòng
Thủ) một hoạ sĩ biếm họa tài ba, mà sau này đã giúp tôi rất nhiều trong việc ấn hành bản
tin hàng tháng “Gió Cát”. Đúng là chúng tôi đã hình thành một cái khung chỉ huy cấp
Không đoàn, Liên Đoàn, Đoàn, Khối, Phòng, Ban trở lên cho căn cứ trong tương lai. Tôi
còn nhớ nhiều tên các sĩ quan như sau: Đại Úy Trương Khương (Phòng Vệ), Thiếu Uý
Lương Văn Cón (Quân Cảnh), Trung úy Vũ Văn Phán (Chuyển Vận), Trung úy Nguyễn
Thành Lân (Truyền Tin), Đại úy Long (Yểm trợ Hành Quân), Đại Uý Trần Phước Hội
(Bảo Trì), Trung úy Phạm Thế Dân (Tiếp Liệu), Trung úy Nguyễn Văn Ngà (Cư Xá),
Trung Úy Nguyễn Văn Phước (Ẩm Thực), Y sĩ Trung úy Nguyễn Dương, Dược sĩ Thoại,
Nha sĩ Sanh, Nha Sĩ Huỳnh Thanh Xuân (Khối Quân Y), Trung Úy Lý Phước Lộc (Nhân
Viên), Đại Uý Nguyễn Minh Tâm (Huấn Luyện), Trung úy Phạm Phú Vinh (Tài chánh),
Đại uý Nguyễn Tấn Mỹ (An ninh KQ). (Cấp bậc trong bài viết này là cấp bậc của thời
điểm đầu năm 1972).
Trong khi các anh em khác đều là quân nhân KQ từ Sư đoàn 2 chuyển vào, có
nhiều hiểu biết về tổ chức quân chủng, thì tôi là “em mới” ngơ ngác, quân phục tuy đã
thay phù hiệu, nhưng vẫn còn còn vương hơi thuốc súng và dấu vết đất đỏ miền Đông
Nam phần. Ấy thế mà tôi lại là một trong những người được đi nhận nhiều cơ sở và trang
bị nhất trong căn cứ. Vì là một quân đội nhà giàu, quân nhân Mỹ được hưởng nhiều tiện
nghi vật chất, nên đơn vị Tổng vụ của Hoa Kỳ quản lý gần như một phần tư tài sản của
căn cứ gồm các hội quán, PX, rạp chiếu bóng, hồ bơi, du thuyền, câu lạc bộ… mà lẽ ra,
đoàn Tổng vụ KQVN phải ký nhận. Nhưng mấy ông Tổng vụ Không quân quá rành sáu
câu, nên đã biết không dại gì vơ vào để sau này có thể mang hoạ. Thế là anh sĩ quan
CTCT mới gia nhập gia đình quân chủng bèn được ưu ái cho lãnh nhiệm vụ này. Lúc còn
ở Bộ binh, tôi làm đơn vị trưởng chiến đấu, tiếp liệu đã có người lo, nên không hề thấy
hết cái phức tạp của ngành này. Vì thế, tôi cứ ngày ngày tà tà đi theo các sĩ quan Mỹ đến
hết kho này đến kho kia, từ bên này qua bên kia phi đạo xa lắc, để ký nhận hàng ngàn
món vật dụng mà sau này, cho đến khi rời Phan Rang về nằm Tổng Y viện Cộng Hoà, tôi
không có một dịp thứ hai để kiểm kê lại mất còn ra sao.
Một Thời Áo Trận 111
Cuộc sống ở Căn cứ
Phan Rang những ngày đầu
tiên rất đơn điệu. Ngày ngày
đi ký nhận cơ sở, vật liệu.
Đến chiều, anh em chúng tôi
leo lên mấy cái pick-up về
phòng ngủ, tắm rửa rồi kéo
nhau lên Câu lạc bộ Sĩ quan
nằm trên một ngọn đồi nhỏ
để ăn tối. Trong thời gian
này, quân nhân VN được
chiêu đãi miễn phí cả ba bữa
ăn: sáng, trưa, chiều. Thức
ăn dồi dào thừa mứa, như
bên này chúng ta ăn ở các
nhà hàng “all you can eat”.
Thửa đó, chúng tôi chẳng biết tên món nào vào món nào, nên phải chỉ cho anh đầu bếp
Mỹ múc vào cho mình, giống như kiểu ăn “cơm chỉ” ở quán ăn bên hông rạp cine góc
đường Lê Lợi và Công Lý ở Sài gòn ngày xưa vậy.
Lính Không quân là sướng nhất trong quân đội VNCH, thứ nhất ở các thành phố
lớn, thứ hai là tiện nghi rất cao. Phan Rang là một trong hai căn cứ sau cùng do Hoa Kỳ
chuyển giao, nên tất cả tiện nghi kiểu Mỹ còn như nguyên vẹn. Chúng tôi được chia cho
các căn phòng mà trước đó dành cho sĩ quân độc thân, nên cò đủ giường, nệm, tủ áo hai
cánh, tủ nhỏ 6 ngăn, bàn viết, ghế nệm. Duy chỉ có cái máy lạnh là bị gở đi mất. Có lẽ các
bạn Mỹ cho rằng dân Việt miền nhiệt đới thì đã chịu quen cái nóng nên không cần máy
lạnh chăng?
Buổi tối, những anh có xe pick up thì rủ nhau ra phố cách phi trường chừng 5 cây
số để vui chơi. Vài anh em còn lại quây quần trong cái lounge đánh cờ tướng, trò chuyện
gẫu. Tôi chưa quen ai, nên còn e dè chưa biết phải hội nhập ra sao với các anh sĩ quan
Không quân vốn hào hoa phong nhã. Vì thế, tôi thả bộ qua Câu Lạc Bộ gần đó để uống
bia, nghe nhạc với Thượng Sĩ Jansen, là người cùng làm việc với tôi trong suốt thời gian
tiếp nhận căn cứ. Những năm đầu thập niên 70, nhạc Rock-n-Roll rất thịnh hành. Câu lạc
bộ tràn ngập trong khói thuốc, hơi rượu và ầm ỉ tiếng la hét của ca sĩ Hard Rock. Thỉnh
thoảng cũng có những ban nhạc sống Đại Hàn, Phi, hoặc từ Mỹ đến. Những đêm đó, thật
đông và nhộn vì chắc chắn có các cảnh tươi mát.
Ngoài việc hàng ngày đi ký nhận cơ sở, vật liệu; tôi bắt đầu thực hiện một bản tin
lấy tên là “Gió Cát”.Bản tin chừng 6 trang, gồm tin tức tiến hành công việc, vài bài thơ
của các anh trong ban tiếp thu, vài tranh hí hoạ của Thiếu Tá Thiệt. Trên trang bià, tôi vẽ
lại hình chụp từ cockpit môt chiếc A-37, với người hoa tiêu nhìn từ sau nên chỉ thấy chiếc
nón và một phần mặt nạ của ống dưỡng khí. Việc in ấn rất dơn giản bằng stencil là
chính. Thế là mãi bốn năm sau ngày ra trường Đại học Chiến Tranh Chính Trị, tôi mới
chính thức làm công tác CTCT.
Một Thời Áo Trận 112
Phan Rang là một địa điểm thích hợp cho việc bay bổng. Đứng trên đỉnh đèo
Ngoạn Mục cách phi trường chừng 50 cây số nhìn ra hướng biển, là cả một vùng đất bằng
phẳng. Thời tiết quanh năm khô ráo. Hình như chẳng có trận mưa nào suốt năm. Bầu trời
thì luôn luôn quang đảng, không một gợn mây. Duy chỉ có gió và lại là gió cát. Vì thế
người dân Phan Rang thường có đôi mắt không đẹp, do phải thường nhắm nghiền lại để
khỏi bị bụi cát.
Cuối tuần, đa số các
anh có nhà ở Nha Trang đã
đánh bài chuồn từ chiều thứ
sáu. Còn lại một đám “mồ
côi” như tôi chẳng biết làm
gì cho hết hai ngày nghỉ.
Phương tiện thì không có.
Chúng tôi dùng chiếc Step
Van - chỉ được phép sử dụng
trên phi đạo để đưa đón phi
hành đoàn mà thôi – ra phố
chơi. Step van chỉ có ba số:
Tới, lui và parking. Ngoài tài
xế là được ngồi trên ghế, anh
em còn lại phải ngồi bệt
xuống sàn nếu không muốn đứng lắc lư con tàu đi suốt khoảng đường 5 cây số.
Phan Rang là một thị trấn nhỏ, hiền lành. Có một con phố chính, là đường quốc lộ
1, đoạn đi qua thị xã chừng dưới một cây số. Các đường phụ đa số chạy qua khu dân cư,
khu hành chánh. Tiệm ăn không nhiều. Nhưng đặc sắc là có tiệm bán chim sẻ nướng.
Những con chim nhỏ vừa chín tới, thơm ngon. Mỗi con luôn đầu mình (chân tay) vừa
một miếng. Thêm một vài tiệm bán đồ nhắm thủy sản mà ngon nhất là con hào, móng
tay, ăn nướng vĩ than hay xào, nấu cháo đều ngon. Phan Rang có hai chị em cô Phụng,
Hoàng là các đấu thủ bóng bàn cấp quốc gia; sau này căn cứ có thêm Thiếu tá Tạ Duy
Quý cũng là một tay vợt nổi tiếng. Anh Quý thường đi săn chim mỏ nhác đem về. Tôi
mua rượu chát đỏ trong bình 5 lít cùng anh em thân thiết ngồi quây quần nhậu nhẹt suốt
đêm.
Từ cổng phi trường đi ra chừng vài trăm thước là thị xã Tháp Chàm. Gọi là thị xã,
nhưng đó chỉ là một điểm dân cư nhỏ quanh ga xe lửa Tháp Chàm. Tại đây, có vài cơ sở
dịch vụ vui tươi như quán "bà Tô" mà anh em độc thân xa nhà thường ra "thử súng". Vài
quán ăn lèo tèo. Chỉ một nồi súp mà chủ quán có thể gia giảm để khi thì bún bò, khi thì
phở, hủ tíu, và canh các loại. Tuy nhiên chúng tôi cũng dễ dải chấp nhận sau những ngày
dài ăn toàn gà chiên, hamburger trong căn cứ.
Căn cứ Phan Rang nổi tiếng là nhiều rắn. Đủ loại, đủ cỡ. Khi đã thành đơn vị, gia
đình chúng tôi được phát những căn nhà nhỏ xinh xắn ở khu Bánh ú (cấp trưởng phòng)
hay khu Red Horse. Từ cấp Liên đoàn trưởng trở lên thì được ở trong những trailer đẹp
dựng ở các sườn đồi. Gần như ngày nào chúng tôi cũng thấy rắn bò lổm ngổm. Có lần rắn
nằm chực ngay chỗ vòi nước sau nhà, nơi vợ tôi thường hay ra giặt giủ. Một lần, chị
Một Thời Áo Trận 113
Phạm Bính (Trung tá Bính là Liên đoàn trưởng LĐ 92 CT) đứng trước nhà nói chuyện
với vợ tôi. Tôi vừa mặc áo quần sửa soạn lên Bộ Chỉ Huy Căn cứ họp thường lệ. Vừa ra
khỏi cửa, đã nhìn thấy môt chú rắn hổ đang ngóc đầu ngay bậc thềm nhà anh Bính, chỉ
cách chỗ chị Bính chừng một mét thôi. May mà chị Bính đẹp và duyên dàng, nên chú rắn
cứ mãi nhìn say đắm mà không tác hại. Phải có hàng trăm con rắn đang sinh sống trong
những nơi mà trước đó là các căn nhà trailer đã bị Không quân Mỹ tháo đi, chỉ còn
những đám cỏ cao đến tận đầu gối không ai phát quang, dọn dẹp. Chúng thường bò đến
các căn nhà chúng tôi để kiếm nước, để lại những dấu vết trên mặt đất khô.
Dần dà, quân nhân
Việt Nam đến càng đông.
Các đơn vị bắt đầu hình
thành với tạm đủ sĩ quan,
hạ sĩ quan và binh lính.
Nhưng cho đến khi tôi
rời đơn vị vào giữa năm
1973, bảng cấp số vẫn
chưa được chính thức
thừa nhận. Vì thế, các
anh gốc Sư đoàn 2 KQ
vẫn mang chức vụ cũ,
trong khi chỉ có tôi và
vài anh là mang chức vụ
"Lèo" Do đó, sau này
chúng tôi có nhiều thiệt
thòi trong việc thăng
thưởng. Đến giữa năm 1972, chúng tôi vẫn chưa biết đơn vị mình sẽ là Lữ đoàn 21 hay
Căn cứ 20 Chiến Thuật. Sự phiên chế vẫn chưa rõ ràng. Khối Chiến tranh Chính trị là
một thí dụ. Khi thì nghe rằng khối CTCT trực thuộc bộ Chỉ Huy căn cứ, có lúc lại nói
rằng trực thuộc Không đoàn Yểm Cứ Phan Rang.
Sau khi Đại tá Nguyễn Đình Giao hoàn tất việc tiếp nhận, một lễ bàn giao trong
thể được tổ chức ngay tại sân lớn phiá sau toà nhà Bộ Chỉ Huy. Tôi được vinh dự làm
MC, Thiếu tá Nguyễn Văn Tâm (trưởng phòng Huấn Luyện) làm sĩ quan Quân lễ. (hình
đính kèm). Đại Tá Giao đi làm Tham Mưu Trưởng Sư đoàn 6 KQ tân lập, Đại Tá Nguyễn
Văn Bá về thay làm Chỉ Huy Trưởng Căn cứ. Không doàn Yểm cứ do Trung tá Trần
Đình Giao đảm nhiệm, Thiếu tá Nguyễn Văn Thiệt, Không đoàn phó kiêm Liên đoàn
trưởng LĐ Phòng Thủ.. Không đoàn 92 Chiến Thuật do Trung Tá Lê Văn Thảo nắm,
Trung tá Võ Văn Ân làm Không đoàn phó, Trung tá Phạm Bính là Liên đoàn trưởng LĐ
92 CT, Thiếu tá Ấn (Hành Quân), Thiếu tá Tạ Duy Quý (An Phi). Phi đoàn Kim Ngưu
534 ra đời, là đơn vị Phản lực A-37 đầu tiên của Phan Rang, dưới quyền Thiếu tá Nguyễn
Văn Thi. Sau đó tăng cường Phi đoàn 524 của Thiếu tá Sử Ngọc Cả từ Nha Trang vào, và
phi đoàn tân lập 548 của Thiếu tá Trần Mạnh Khôi. Không đoàn 92 CT có thêm một phi
đội trực thăng 215 do Đại uý Tạ Thành Nhân làm Phi đội trưởng. Ông Nhân họ Tạ này,
hợp cùng hai ông Tạ Hoà Hưởng và Tạ Thượng Tứ của Phi đoàn 534, Tạ Duy Quý (An
Một Thời Áo Trận 114
Phi) làm thành bốn sao quả tạ của Căn cứ!! Liên đoàn Bảo trì Tiếp liệu do Thiếu tá Trần
Phước Hội chỉ huy gồm có Đoàn Bảo trì (Thiếu úy Xuyến); Chuyển vận (Đại úy Phán),
Truyền Tin (Đại uý Lân), Tiếp liệu (Đại úy Dân), Vũ khí (Thiếu úy Đức).
Căn cứ Phan Rang rất rộng, chu vi phòng thủ dễ đến khoảng 30 cây số, do một
tiểu đoàn Địa Phương quân đảm trách phối hợp cùng Liên đoàn Phòng Thủ. Sĩ quan
Tham mưu lâu lâu trực căn cứ một lần hai giờ; vừa đủ đi một chuyến vòng đai. Tôi ở
Phan Rang hai năm hình như chỉ có một vài lần bị pháo kích. Đa số các quả đạn lọt vào
phía bên kia phi đạo.
Đơn vị có một rạp hát rất rộng và đẹp. Nhưng máy móc thì bị Không quân Mỹ gở
đi hết, chỉ còn một nền nhà trống trơn mà suốt mấy năm trời, chúng tôi chỉ sử dụng một
lần cho chương trình văn nghệ học tập. Đa số các buổi học tập cấp căn cứ và các buổi
diễn văn nghệ khác đều được tổ chức ở sân khấu lộ thiên, có các băng ghế gỗ đủ cho
3000 khán giả. Sân khấu lộ thiên này nằm cạnh một câu lạc bộ rất đẹp (cũng bị bỏ trống
nhiều năm), trên con đường ngoằn nghèo dẫn lên Câu lạc bộ Hạ Sĩ Quan nằm trên đồi có
giàn rada của căn cứ.
Sau khi quân nhân Hoa Kỳ đã hoàn toàn ra đi, các nhà ăn cũng bị Việt Nam hoá.
Từ hamburger, khoai tây chiên, nay chỉ ngửi thấy mùi đậu xào, canh cải. Các "câu lạc bộ"
do các quân nhân Việt trúng thầu mọc lên, cung cấp các bữa ăn vừa túi tiền cho quân
nhân trong đơn vị. Rồi bắt đầu mọc lên những quán cà phê nhạc, mà đông khách nhất là
quán của phu nhân Đại Uý Lân (Truyền Tin).
Khối CTCT cũng sử dụng một dãy nhà đặt 4 bàn bi da cho quân nhân giải trí.
Nhưng vì không ai chăm sóc nên rồi cũng dẹp tiệm sớm để thay vào đó là võ đường Thái
Một Thời Áo Trận 115
Cực Đạo. Phía sau phòng Chính huấn của tôi có một hồ bơi rất tiện nghi, nhưng chưa hề
thấy ai ra tắm. Hồi đó, Thiếu tá Võ Văn Thi làm Trưởng khối CTCT, Trung úy Trần
Thanh Tịnh (Tâm Lý Chiến), Thượng sĩ Nguyễn Đình Thiều làm báo chí, tôi làm Trưởng
phòng Chính huấn, thường tổ chức các buổi học tập từ cấp đoàn đến cấp căn cứ. Căn cứ
đã có lần đoạt giải nhất toàn quân chủng trong đợt học tập về Hoà đàm Paris. Tôi nhớ
một lần, học tập cấp căn cứ rất trọng thể tại sân khấu lộ thiên. Có Chuẩn tướng Nguyễn
Văn Lương, Sư đoàn trưởng và các sĩ quan cao cấp từ Nha Trang vào tham dự. Tôi là
thuyết trình viên. Trưa đó, tôi có việc ra phố Phan Rang liên lạc với khối CTCT Tiểu khu.
Gặp một đám bạn quen mời nhậu cho đến chiều, quên mất việc mình sẽ lên thuyết trình
vào lúc 7 giờ tối hôm đó. Sau khi quân nhân đã tập họp đông đủ tại sân khấu lộ thiên, ông
Thi (khi đó còn là Đại uý) tìm tôi không ra. Hỏi qua nhà, nghe vợ tôi nói đã đi ra phố
chưa về. Thế là căn cứ cho một xe Quân cảnh đi tìm. Họ gặp tôi ở quán ăn, chở về vừa
kịp trước giờ khai mạc. Ông Thi đứng ngay bậc thềm bước lên sân khấu hỏi: "Anh xỉn
rồi, có nói được không?" Tôi tự tin: "Đại Úy đừng lo." Có lẽ nhờ hơi ngà ngà, đêm đó tôi
đã nói một cách hết sức hùng biện và được Sư trưởng khen ngợi. Chỉ có vài anh biết
chuyện, đùa rằng: "Nhờ rượu nói đó." Làm CTCT chưa đủ, tôi thường nổi máu giang hồ
mạo hiểm, nên hay đến với phi đoàn 534 xin đi theo các chuyến bay hành quân. Tôi bay
nhiều lần với Đại úy Dương Thiệu Chí, Thiếu tá Võ Phi Hổ. Thiếu tá Thi (Phi đoàn
trưởng) cho phép tôi sử dụng dù và nón bay của Thiếu úy Xuân, ưu ái cấp cho tôi một sổ
Không vụ bạ ghi giờ bay, coi tôi gần như một thành viên của phi đoàn. Thiếu úy Xuân
(hy sinh năm 1974), Thiếu úy Đạo kiếm cho tôi ba bộ áo bay ba màu khác nhau (đen,
xám và nomex) có đủ phù hiệu của Phi đoàn. Thường sau các chuyến bay yểm trợ cho Sư
đoàn 23 BB ở Buôn Hồ, Đại uý Chí thế nào cũng tách hợp đoàn, bay qua thành phố Đà
Lạt cho tôi nhìn lại căn nhà vợ tôi nấp dưới những tàng cây xanh mướt. Anh cũng liều
mạng tập cho tôi cầm "stick" bay về căn cứ nhiều lần. Tôi cũng học cách sử dụng Tacan,
Beacon để định hướng, biết thế nào là Final Approach. Thế là tôi cũng phần nào thỏa
mãn mộng bay bổng đã một lần không thành sau khi khám xong sức khoẻ để nhập khoá
65A mà phải bỏ cuộc.
Giữa năm 1973, tôi bị nhiễm chứng bệnh Thyroid mà lúc đó Y sĩ Đại úy Vĩnh
Phương chưa tìm ra bệnh. Ông gửi tôi ra Quân Y Viện Nguyễn Huệ, sau đó chuyển về
Tổng Y Viện Cộng Hoà. Nằm được mấy tháng, biết căn bệnh không thể trị được, TYV
Cộng Hoà đưa tôi ra Hội Đồng Miễn Dịch để giải ngũ với cấp độ tàn phế 70%. Tôi trở về
đời sống dân sự cho đến ngày quốc nạn để được nhà cầm quyền CS "khoan hồng nhân
đạo" cho "học tập cải tạo" tròn mười năm.
Những ngày cuối cùng của miền Nam, tôi còn gặp Trung tá Trần Đình Giao một
lần tại quán Gà, Xôi nướng nổi tiếng trên đường Hàng Xanh. Sau đó, những ngày cuối
tháng 4 hỗn loạn, lại nhìn thấy các anh em Kim Ngưu không di tản kịp đang chen chúc
nhau trên một chiếc xe jeep qua đường Trương Minh Ký.
Rồi thôi. Bẳng đi hơn ba mươi năm nay mới có dịp ngồi ôn lại.
Một Thời Áo Trận 116
Cải Lương và Tôi
Sau ba tiếng gõ mạnh trên sàn, tấm màn nhung màu xanh biển được kéo lên, sân
khấu hiện ra trong một ánh sáng mờ mờ chiếu lên một bộ ván ngựa, một bàn thờ có đủ
khói hương. Màn phông là cảnh trí một đồng quê xa nhìn từ khung cửa sổ của một vách
nhà bằng đất. Hàng trăm khán giả ngồi im phăng phắc, chờ đợi sự xuất hiện của các nghệ
sĩ tài danh Việt Hùng, Kiều Phượng Loan mà trong chốc lát sẽ diễn vở tuồng Tấm Lòng
Của Biển, từng làm rơi lệ hàng ngàn khách mộ điệu từ Nam ra Trung.
Ðó là một buổi diễn tại Căn cứ 20 Chiến thuật Không quân Phan Rang mà chúng
tôi đã tổ chức vào khoảng giữa năm 1972 để phục vụ 3000 quân nhân đồn trú tại đây. Sân
khấu lộ thiên của căn cứ rất rộng lớn, nằm ở chân núi phía tây căn cứ, nơi có con đường
quanh co leo lên Câu lạc bộ Hạ sĩ quan. Trên đỉnh núi là dàn radar vĩ đại mà Công binh
Hoa Kỳ đã thiết lập để phục vụ truyền tin và không lưu của các tình Ninh Thuận, Bình
Thuận.
Là sĩ quan Chiến tranh Chính trị của căn cứ, ngoài việc tổ chức học tập chính trị,
chúng tôi còn phải lo lắng đến các phương tiện giải trí cho càc anh em quân nhân mà đa
số từ miền Nam ra trú đóng. Lính xa nhà, ở trong một căn cứ cách thị xã khoảng 10 cây
số, lại vừa bị cấm quân, vừa không có phương tiện di chuyển; các chương trình văn nghệ
thường được anh em tiếp nhận một cách nồng nhiệt. Những đoàn văn nghệ Bộ Tư Lịnh
Một Thời Áo Trận 117
Không quân, Cục Chính Huấn, Biệt đoàn Văn nghệ Trung Ương của Tổng cục CTCT là
các đoàn thường xuyên lưu diễn tại căn cứ. Lần này, chúng tôi thay đổi món ăn tinh thần,
mời nguyên một đoàn cải lương chuyên nghiệp đến. Thú thực, đã hơn 35 năm trôi qua,
tôi không còn nhớ tên của đoàn, chỉ nhớ đến tên vài nghệ sĩ và tên vở tuồng đã diễn. Thời
gian này, miền Nam có các đại ban như Dạ Lý Hương, Hương Mùa Thu, Kim Chung với
các nghệ sĩ tài danh như Việt Hùng, Hữu Phước, Hùng Cường, Ngọc Giàu, Thanh Nga,
Bạch Tuyết, Mộng Tuyền, Ngọc Hương, Kim Chung, Thành Ðược, Út Bạch Lan vân
vân.
Tuy sinh trưởng tại miền Trung, tôi lớn lên và hoạt động tại miền Nam nên tâm
hồn cũng rất nhạy cảm với các điệu lý, câu hò miền Nam. Các loại hình văn nghệ truyền
thống miền Trung là Hát bội và hò mái nhì thì không còn sức lôi cuốn lớp thanh thiếu
niên; gần như hầu hết thanh niên miền trung ưa tân nhạc và lại rất chọn lọc trong sở thích
từ điệu nhạc cho đến ca sĩ và lời ca.
Tôi còn nhớ vở tuồng cải lương đầu tiên tôi được xem ở rạp Ðại Chúng, thị xã
Quảng Trị, là một thiên tình ca bẻ bàng, ai oán đầy nước mắt. Tôi đã thấy các bà các cô
cứ sụt sùi khóc khi cô đào chánh ca những lời trăn trối về một mối tình dang dở. Ðó là
một vở tuồng xưa, y trang lộng lẫy, khung cảnh huy hoàng. Lại có đủ các màn đấu kiếm,
phóng dao rất hấp dẫn. Sau đó, tôi được xem thêm nhiều tuồng xã hội rất ý nghĩa và cảm
động như Ðời Cô Lựu, Nửa Ðời Hương Phấn. Nhờ có người anh là ca sĩ Duy Khánh, tôi
có nhiều dịp đứng từ hậu trường sân khấu để nhìn thấy hết những sinh hoạt của các nghệ
sĩ tân cũng như cổ nhạc. Những sáng chủ nhật tại rạp Quốc Thanh, Hưng Ðạo; khi các
nghệ sĩ tân nhạc tấp nập chuẩn bị sân khấu cho chương trình nhạc hội; cũng là lúc mà các
nghệ sĩ cải lương còn mơ màng trong giấc điệp sau một đêm đem tiếng hát dâng đời. Phiá
sau sân khấu, hòm xiểng ngổn ngang; những bộ quần áo chưa kịp thu dọn, vắt la liệt trên
những chiếc ghế. Những vua quan, hoàng hậu, công chúa đang say ngủ trong những bộ y
phục tầm thường, mà trên khuôn mặt vẫn còn dấu vết phấn son chưa rửa sạch. Ngoài
những nghệ sĩ lớn trở về nhà sau vở diễn, hầu hết các nghệ sĩ khác đều ở lại rạp. Có
người ở cả gia đình, vợ chồng con cái nheo nhóc. Mãi đến khi tiếng ồn ào của khán giả
tân nhạc tràn ngập vào hí trường, các nghệ sĩ cải lương mới chịu thức dậy. Hàng quán
bên hông rạp lại tấp nập những nghệ sĩ, mà lúc này giản dị trong bộ bà ba vừa ăn vừa trò
chuyện rôm rã. Vua quan, tướng tá, binh sĩ, chủ tớ lúc này gọi nhau bằng mày tao bình
đẳng ra phết. Tuy nhiên cũng không ít anh chị vẫn còn những cử chỉ đỉnh đạc, đài các
như các nhân vật mà họ đã thể hiện qua nhiều năm trên sân khấu.
Tôi thương cuộc đời của các nghệ sĩ. Mang tiếng hát lời ca cống hiến làm đẹp cho
đời; nhưng họ lại không được người đời xem trọng. Cũng như nghiệp lính chúng tôi, đem
cả tuổi xuân, mạng sống và hạnh phúc gia đình chiến đấu cho tổ quốc và dân tộc; nhưng
khi về phố phường bị cái nhìn lạnh nhạt của người thị dân.
Rời Saigon, tôi dấn thân vào cuộc đời chinh chiến; lê đôi giày trận trên khắp chiến
trường ba tỉnh miền Ðông, tôi không quên mang theo mình một chiếc radio nhỏ xíu.
Những chiều dừng quân giữa rừng sâu hay ven đường quốc lộ 13 ngập máu, sau khi ổn
định nơi đóng quân, tôi thường nằm đu đưa trên chiếc võng nylon, mở đài Saigon để
nghe ca nhạc. Lúc này tâm hồn mở rộng, nghe tất cả các bài hát nào có được trên làn
sóng mà không hề phân biệt giọng ca. Những bản nhạc khi còn ở hậu phương chẳng bao
Một Thời Áo Trận 118
giờ chịu nghe, nay cũng trở thành thân thương, quyến rũ. Ðêm rừng âm u, lạnh lẻo. Có
khi mưa rơi bồm bộp trên mái poncho; có khi nóng oi bức sau một ngày nắng gắt. Chúng
tôi cần một chút gì đó rất quê hương để thấy ấm lại. Tiếng đàn guitar, đàn kìm réo rắt dẫn
đưa giọng ca ngọt ngào của Bạch Tuyết, Mộng Tuyền làm cho lòng mình se lại. Buồn da
diết, nhớ nhà và nhớ quê; thêm yêu từng con đường phố ngập nắng vàng hay những cánh
đồng lúa rì rào chiều quê.
Cổ nhạc Việt Nam sao buồn quá, nghe nhiều thãm thiết hơn sống động vui tươi.
Có lẽ do một quá trình lịch sử đau thương, bị ngoại xâm chém giết, bị thiên tai làm cho
đói nghèo mà tiếng nhạc trở nên buồn bả, ai oán? Phải có một tâm hồn mới nghe hết
trong câu hò mái nhì của Huế tiếng than vãn não ruột của người dân nghèo bất hạnh. Ôi
cái tiếng ngân dài hò ơ trong đêm thanh vắng như tiếng vọng của bao oan hồn uổng tử
vọng lên từ cõi âm u nào đó; hay tiếng than vãn của một nàng cung nữ đang cô đơn trong
một góc phòng lạnh lẽo của cấm thành rêu phong chờ hoài mà chẳng được ơn mưa móc
của quân vương.
Trong các làn điệu miền Nam, tôi thích nhất là Phụng Hoàng, vừa mùi mẫn vừa
trong sáng. Nam Ai và Nam Bình thì buồn quá. Các điệu rộn ràng và tương đối vui tai là
Xuân tình và lý Con sáo.
Trong thời gian đầu sau khi mất miền Nam, chiều nào, trại cải tạo K5 Long Khánh
cũng cho phát đi bản vọng cổ ca tụng Hồ Chí Minh do Thanh Nga ca. Giọng ca Thanh
Nga thì tuyệt rồi, nhưng nội dung bản vọng cổ tuyên truyền cho Cộng sản làm chúng tôi
ghét cay ghét đắng. Thanh Nga mở đầu bài vọng cổ bằng hai câu thơ :”Tháp Mƣời đẹp
nhất bông sen, Việt Nam đẹp nhất tên vàng HCM.” Chúng tôi sửa lại và ngâm nga như
sau: “Trong hầm thối nhất cứt khô, Việt Nam tởm nhất tên HCM.” Những năm ở tù trong
các trại cải tạo, gần gủi với những anh từng có duyên nợ với cải lương, tôi đã học được
những bài ca ngắn nhưng vẫn không thể nào sửa được giọng ca cho đúng giọng Nam kỳ.
Thanh Nga và nhiều nghệ sĩ đã phản bội nhân dân miền Nam, những người đã ái
mộ và đưa họ lên đài vinh quang, đem lại đời sống sung túc hạnh phúc cho họ. Cũng như
ngày nay, nhiều người tị nạn đã phản bội lý tưởng của mình, đón tiếp các văn công Cộng
sản qua trình diễn. Họ có thể không hiểu biết về các kế hoạch văn hoá vận tinh vi của
Cộng sản, hoặc tham lợi mà đứng ra tổ chức cổ vũ cho các nghệ sĩ văn công này. Bọn văn
công và người tổ chức không quan tâm đến số khán giả đến dự nhiều hay ít, vì đã có tài
trợ của chính phủ Việt Cộng. Họ đã lợi dụng không khí sinh hoạt chính trị tự do dân chủ
tại Hoa Kỳ để làm công cụ cho cộng sản thực hiện mục tiêu là gầy được cơ sở bước đầu
để sau này chúng sẽ đưa ồ ạt các đoàn văn công lớn. Những người quốc gia phải đối phó
với một tình huống khó xử. Là những chiến sĩ tự do, chúng ta không thể ngăn cấm các
buổi văn nghệ của các nghệ sĩ từ Việt Nam do Cộng sản đưa qua, cũng không thể ngăn
cản những người tham dự; dù trong đó có những anh em tị nạn, cựu tù nhân chính trị của
chúng ta. Chúng ta phải tôn trọng quyền lựa chọn của họ trong lãnh vực văn nghệ khi
chúng ta chưa đáp ứng được đúng đòi hỏi của quần chúng.
Vì thế, khi nhóm Thân Hữu Cổ Nhạc của nghệ sĩ Viễn Phương ra đời tại Houston,
quy tụ các tài năng cổ nhạc để thành lập các chương trình ca diễn phục vụ đồng bào tha
hương, chúng tôi rất phấn chấn. Phải nhận rằng đây là một sự hy sinh lớn lao của những
người tổ chức và các nghệ sĩ. Tiền mua sắm cho dàn dựng, y trang, dụng cụ di chuyển
Một Thời Áo Trận 119
cồng kềnh, vé máy bay từ các tiểu bang để tập hợp lại một thành phố lạ. Tiền thu do bán
vé không mong trang trải đủ cho sở phí. Thế mà họ vẫn vui vẻ, một phần nhờ tình yêu
nghệ thuật, một phần lớn là do tình thần quốc gia, ý chí chiến đấu trên mặt trận văn hoá
để đánh bại âm mưu thâm độc của Cộng sản. Hai lần, tôi được xem hai vở tuồng, một tại
Houston, một tại Austin. Tôi đã vô cùng ngạc nhiên mà thấy rằng, dù phương tiện eo hẹp,
khó khăn về tập dượt, các đêm diễn đã thành công rực rỡ, vừa về mặt ca diễn vừa về bài
trí, tổ chức. Tôi đã có dịp nói chuyện với anh Viễn Phương và các nghệ sĩ và tìm thấy
trong họ, những tấm lòng tha thiết yêu nghề, nhiệt tình đóng góp vì lý tưởng rất cao; cao
hơn nhiều những người mang tiếng tị nạn, HO mà lại đi mua băng nhạc Việt Cộng, đi
xem bọn văn công Cộng sản.
Dù rằng tại hải ngoại những người Việt Nam lớn tuổi rồi sẽ bớt dần đi, giới trẻ lớn
lên tại không biết gì về cổ nhạc, chúng ta vẫn phải cố gắng để khơi dậy ý thức về dân tộc
của họ qua việc giới thiệu những tinh túy văn hoá qua những chương trình cổ nhạc đặc
trưng của dân tộc. Không những thế, phải nhắm vào đối tượng là công chúng Hoa Kỳ, vì
xã hội Hoa Kỳ là một xã hội đa dạng, sẵn sàng dung nạp văn hoá các nơi như họ từng
chấp nhận nhạc Jazz, Soul, Rap của người da đen, nhạc Rumba hấp dẫn của người Nam
Mỹ, hay các điệu nhạc réo rắt của người Ả Rập.
Một Thời Áo Trận 120
Ngày Xuân, Lại Tản Mạn Về
Thành phố Hoa Ðào
Con đường này tôi đã qua lại hàng chục lần, nhưng mỗi khi trở lại, vẫn thấy lòng
gợn lên nhiều bâng khuâng khó tả. Tôi luôn mang nỗi nôn nao của một người tha phương
lâu năm nay trở về quê hương cũ, nơi chôn dấu bao nhiêu kỷ niệm êm đềm của một thời
hoa bướm.
Từ chân đèo ở quận lỵ Sông Pha, leo hết khoảng 30 km đường đèo ngoằn nghèo,
qua nhiều khúc quẹo gắt như cùi chỏ tay, xe đến Ðơn Dương vừa kịp giờ ăn trưa. Từ độ
cao gần ngang với mặt biển ở đồng bằng khô cháy của tỉnh Ninh Thuận lên tới độ cao
gần 1500 mét, khí hậu thay đổi một cách bất ngờ và dễ chịu. Ðứng trong cái không khí
mát lạnh của cao nguyên Lang Biang, nhìn về phía Ðông để thấy cả một vùng bình
nguyên ngập trong nắng, chạy dài ra tới bờ biển Ninh Chữ. Những ngày nắng tốt, mắt
thường cũng có thể nhìn thấy thị xã Phan Rang và một vùng biển Thái Bình Dương.
Chiếc xe Dodge pick up 6 chỗ ngồi màu xanh của tôi mang biển số và phù hiệu của
Không Quân Phan Rang quá rộng cho cả gia đình gồm hai vợ chồng và 3 đưá con nhỏ.
Thời đó tuy chiến cuộc gia tăng nghiêm trọng ở các vùng khác, nhưng tại Ninh Thuận thì
rất an toàn. Trên con đường Phan Rang Ðà Lạt, nhiều xe nhà binh qua lại mà không cần
Một Thời Áo Trận 121
hộ tống. Tôi cũng chỉ mang theo trong người cây súng Smith Wesson 5 viên để làm cảnh
thì nhiều hơn là để chiến đấu tự vệ. Chỉ còn khoảng nửa giờ xe là chúng tôi đã trở về
thành phố sương mù: quê ngoại của các con tôi.
Tôi biết Ðà Lạt trễ tràng. Suốt cả thời thiếu niên đi học, là những tấm bưu ảnh thác
Cam Ly, hồ Than Thở, những đồi thông xanh, những con đường viền hoa đủ màu sắc; tôi
hình dung Ðà Lạt như một thành phố của những câu chuyện cổ tích êm đềm, như một
Thiên Thai của Lưu Thần, Nguyễn Triệu; một nơi nào đó rất xa cõi trần ô trọc này. Khi
những chiếc phi cơ vận tải C-123 đáp xuống phi trường Cam Ly vào tháng 5 năm 1967
chở gần hai trăm anh em chúng tôi về nhập trường Ðại học Chiến Tranh Chính Trị, hình
ảnh thực đầu tiên của Ðà Lạt trong tôi là căn nhà sàn bằng gỗ xinh xắn lẫn giữa những
hàng thông xanh - là nơi chúng tôi nghỉ ngơi chờ điểm danh và lên xe về trường. Hai
trăm anh chàng sinh viên sĩ quan mà 4 tháng quân trường Thủ Ðức đã làm cho đen đúa,
ồn ào chúng tôi bổng dưng thấy lạc lỏng giữa những người Ðà Lạt da dẻ hồng hào, ăn nói
nhỏ nhẹ và cử chỉ khoan thai. Ðà Lạt đây rồi, nơi chúng tôi sẽ văn ôn võ luyện trong hai
năm tới, đã đón chúng tôi bằng những sợi nắng vàng tơ đậu trên cầu vai alpha bóng
loáng, bằng hơi sương lành lạnh luồn nhẹ vào ngực áo treilli đã sờn bạc nhiều nơi. Cô gái
Ðà Lạt chúng tôi gặp đầu tiên trong quầy bán cà phê tại phi trường quả là một thiên thần,
một nàng tiên cá.
Chỉ một tuần sau, Ðà Lạt đã thấy xuất hiện những chú lính mới không giống ai. Cô
đơn giữa phố phường xa lạ, các anh chàng CTCT trong bộ quân phục kaki vàng, nón
beret không phù hiệu ngơ ngác từng tụm năm tụm ba ở các góc đường hay ngồi yên lặng
trong các quán phở, cà phê, nhìn người qua kẻ lại cho hết một ngày rồi lặng lẽ về trường.
Trong khi đó, các anh chàng Võ Bị đẹp mã trong bộ worsted 4 túi, alpha, nón két viền
màu đỏ tươi, hãnh diện đi bên cạnh các cô gái xinh tuơi, má đỏ môi hồng. Ôi, cái thân
hình đen đúa Trương Chi này biết bao giờ mới được cái diễm phúc kia!!! Cho dù chỉ
cách một ngọn đồi đối diện là ngôi trường nữ trung học Bùi Thị Xuân với hàng trăm em
gái nõn nà, thơm phưng phức, những hình ảnh tha thướt áo dài xanh kia cũng chỉ là một
giấc mơ thôi.
Cà phê Tùng, Mê Kông, Tuổi Ngọc dần dần trở thành tụ điểm của anh em chúng
tôi. Rồi cũng đến lúc chúng tôi ra phố với đầy đủ quân phục đạo phố muà hè, phù hiệu,
cấp hiệu chỉnh tề. Rồi cũng đã thấy nhiều anh đã có người đẹp tháp tùng. Nhưng tội
nghiệp cái túi tiền nhỏ bé của anh chàng SVSQ chỉ cho phép đôi bạn dạo lên xuống,
quanh quẩn bờ hồ rồi dừng chân bên nhà Thủy Tạ hưởng chút hương vị ấm áp của ly cà
phê đậm đắng. Tôi chẳng có bạn gái, nên cuối tuần ra nhà người chú ở ngoại ô, trên con
đường mà nay đã quên tên, vui đùa cùng một tá những đưá em tuổi từ đôi mươi xuống
đến tuổi mặc quần thủng đáy. Sáng chủ nhật của tôi là ngồi uống cà phê, hút thuốc một
cách yên lặng trên hành lang căn biệt thự cổ, nhìn xuống chân đồi, nơi những bóng người
qua lại trong sương. Cứ như thế này dễ trở thành triết gia hay thi sĩ hơn là một quân nhân
lắm. Chỗ này đây, gần trường trung học Trần Hưng Ðạo, nơi đầu thập niên 60 đã xảy ra
một mối tình lãng mạn tai tiếng làm nòng cốt cho cuốn tiểu thuyết nổi tiếng “Vòng Tay
Học Trò” của nhà văn Nguyễn Thị Hoàng mà tôi cũng có đôi chút quan hệ gia đình.
Cô giáo Trâm, nhân vật chính của truyện cũng như nhiều nhân vật phụ khác là có
thực. Dì Trâm (tạm gọi như thế) và tôi ở cùng nhà trước đây vào năm 1964 tại Nha
Một Thời Áo Trận 122
Trang. Dì là một phụ nữ đẹp, nở nang, duyên dáng và lịch thiệp. Dì có đôi má rất hồng;
hồng một cách tự nhiên; lại có đôi mắt rất đen đượm nét đa tình mà lúc nào cũng long
lanh như khuyến khích, mời gọi. Khách đa tình mà lại ở một nơi hữu tình như Ðà lạt thì
chẳng có bờ đê nào có thể ngăn được những cơn sóng tình dạt dào chực tuôn vỡ khỏi con
tim tràn đày nhựa sống của lứa tuổi thanh xuân.
Muà này Ðà Lạt đang nắng ấm. Nắng chiếu những tia vàng trong xuyên qua kẻ lá.
Những cơn mưa hè rất nhẹ và ngắn thỉnh thoảng đổ xuống để lại những hạt kim cương
đọng trên những cánh hoa như trang điểm. Hoa Ðà Lạt thì muôn màu, muôn hương, có
đủ các loài hoa cho từng mùa. Hoa trồng tỉa khéo léo trong vườn nhà; vươn mạnh từ các
bụi cây hai bên đường, hay trải rộng một vùng trên hai tầng chợ Hoà Bình. Ðẹp nhất là
vào mùa xuân, khi hoa đào nở rộ trên những con đường. Ðâu đâu cũng thấy màu hồng
tươi mát, mơn mỡn như má các cô nàng nữ sinh BTX. Chả thế mà ông Hoàng Thi Thơ đã
cảm tác nên bản nhạc “Mối Tình Màu Hoa Ðào” nói lên mối duyên bẻ bàng của một cô
gái Ðà Lạt với một người khách phương xa mà khi hai người đang ước mơ một hạnh
phúc lâu bền, thì chàng hy sinh ngoài chiến địa (thực ra tôi không đồng ý với chữ bẽ bàng
của HTT; vì không phải do nghịch cảnh làm hai người yêu nhau phải đành đoạn lìa
nhau). Tôi lại chợt nghĩ đến chút duyên nào đó, mà trong số ít ỏi những bài hát hay và nổi
tiếng về Ðà Lạt, có đến bốn bài do các nhạc sĩ người Quảng Trị sáng tác. Ngoài bài Mối
Tình Màu Hoa Ðào nói trên, là bài “Giã Từ Ðà Lạt” của Duy Khánh, “Ai Lên Xứ Hoa
Ðào” và “Bài Thơ Hoa Ðào” của Hoàng Nguyên. Ôi, còn gì thơ hơn là “Ðà Lạt là ...giấc
mơ tiên nữ giáng xuống trần; tóc mây buông lơi tha thướt bên hồ. Ðợi tình quân đến
trong giấc mơ..”(BTHÐ) Tôi cũng ngờ ngợ rằng, bản nhạc tuyệt vời “Ðường Nào Lên
Thiên Thai” đã được Hoàng Nguyên sáng tác khi anh dạy Việt văn tại trường Tuệ Quang
khu phố 4, Ðà Lạt. Anh đã từ bỏ Việt Minh, rời chiến khu trở về thành năm 1952 (Hoàng
Thi Thơ cũng về thành trong năm này). Bị công an đệ nhất cộng hoà bắt vào tù 2 lần vì
những hoài niệm về kháng chiến còn phản ánh trong vài bài hát của anh (Anh Ði Mai Về,
Lời Người Ở Lại, Hoà Bình, vân vân). Khi ra khỏi tù, anh chuyển hướng hẳn vừa về
khuynh hướng chính trị lẫn về thể tài văn nghệ. Bài Bao Giờ Anh Trở Lại nhắn nhủ
những người “lạc bước khi qua cầu” hoặc Anh Ði Về Ðâu, ca ngợi những quân nhân
chiến đấu bảo vệ miền Nam. Bản thân anh cũng gia nhập quân đôi, lên đến cấp Ðại úy thì
bị tử nạn ngày 21 tháng 8 năm 1973 tại Saigon.
Hai năm ở Ðà Lạt của tôi là hai năm thần tiên. Hàng rào kẽm gai, kỷ luật gắt gao
quân trường không ngăn nổi Từ Thức đi tìm đào tiên của tiên nữ. Tôi cũng đã tìm được
Ðường Lên Thiên Thai từ cổng trường CTCT nơi cuối đường Võ Tánh, đi dọc bờ hồ
Xuân Hương, lên dốc nhà thờ Chính Tòa và dừng ở cư xá Bưu điện Ðà Lạt. Tôi đã
chuyển cõi Thiên Thai nhỏ bé của tôi đó bằng đủ phương tiện, từ xe honda, xe jeep,
GMC, trực thăng, C130... đến khắp các xó xỉnh vùng 3 Chiến Thuật và bây giờ neo lại ở
thủ phủ tiểu bang Texas, cùng với 4 tiên đồng ngọc nữ.
Ðiều chắc chắn là những kỷ niệm xứ hoa đào này đã là chất keo hàn gắn mối tình
lâu bền dù trải qua bao lần thăng trầm đắng cay của cuộc sống lưá đôi. Những lần có
chuyện không vui xảy ra, tôi cứ ngồi ôn lại những ngày êm đềm để thấy càng yêu, càng
thêm trách nhiệm với người bạn đời.
Một Thời Áo Trận 123
Ða số các cô gái Ðà Lạt lấy chồng Võ Bị hoặc CTCT. Vì thế số phận hồng nhan
các cô rất đa truân. Một tỷ lệ không nhỏ các bà đã trở thành goá phụ sau thời gian ngắn
ngủi mà hương lửa ái ân chưa kịp mặn nồng. Những bà may mắn thì cũng vò vỏ đêm
thâu làm thân thiếu phụ Nam Xương, giật mình theo từng tiếng đại bác từ chiến trường
vang vọng về thành phố, hay hồi hộp theo dõi bản tin mới nhất trên đài phát thanh, báo
chí về một trận đánh đẫm máu nơi nào đó đêm qua. Khi tôi còn chiến đấu ở bộ binh,
người đẹp của tôi đã nhiều lần theo tôi đi khắp khu 32 CT, từ chiến khu D đến Tam Giác
Sắt, từ Lai Khê cho đến An Lộc, Lộc Ninh. Có khi vào tận căn cứ đại đội đóng quân
trong rừng Long Nguyên giữa tiếng nổ chát chúa của đạn cối, hỏa tiễn địch chào đón
chiếc trực thăng vừa đáp xuống. Nàng cũng ăn cơm sấy pha nước hố bom, cá khô nướng
vội như những người lính chúng tôi. Tối, hai đứa nắm xoay hai hướng chia nhau một
chiếc võng nylon nghe từng giọt mưa buồn tí tách trên poncho. Cũng có lần phải nhào
xuống lòng giếng cạn vì trái đạn nổ rất gần.
Tôi về Ðà Lạt rất thường xuyên khi phục vụ tại Căn cứ 20 Chiến Thuật Không
Quân (Phan Rang). Có khi theo phi tuần A-37 đi đánh bom ở cao nguyên vùng 2 chiến
thuật; khi về, thế nào cũng năn nỉ phi tuần trường (Dương Thiệu Chí, Võ Phi Hổ) tách
hợp đoàn, bay tạt qua Ðà Lạt. Sà xuống thấp trên thành phố, tôi chỉ vào khu nhà nằm lẫn
trong vườn mận Trại Hầm khoe với Chí, “Kia là nhà vợ tôi”; “đó, đó là con đường tình
yêu”. “đây, trường CTCT; kià, xuống thấp chút nữa để xem mấy cô Bùi Thị Xuân tan học
về.”
Dường như chí ít, Không quân Việt Nam cũng đã làm quà cho Ðà lạt mỗi loại phi
cơ một chiếc; chiếc thì đâm nhào xuống hồ Xuân Hương, chiếc thì gãy cánh trên sân cù
do các anh phi công đa tình, liều mạng biểu diễn cho người đẹp xứ hoa đào thưởng
ngoạn. Có cô vợ anh chàng F-5 đem con cái cùng gia đình đứng chờ xem chồng để rồi
thấy chiếc phản lực vì bay quá thấp đã vướng dây điện đâm xuống đất nổ tung.
Rồi đau thương ập đến sau 30-4 bảy lăm. Bao cô gái xinh đẹp ngày nào lại quần
ống cao ống thấp, lem luốc trên đường vật vả kiếm sống, nuôi chồng tù tội trước sự dụ
dỗ, hăm dọa của bọn cán bộ Cộng sản. Cô gái Ðà Lạt mủm mĩm của tôi ngày nào nay lại
phải thức hàng đêm muối cá làm mắm hay đong từng lon gạo đi bán kiếm vài ba xu một
ngày. Rồi một thân một mình vượt hàng chục cây số đường rừng, gánh hàng chục ký quà,
lặn lội thăm chồng tận các trại tù “cải tạo” miền Trung, miền Bắc xa xôi hẻo lánh. Con
cháu nữ tướng Bùi Thị Xuân đã sống, đã chiến đấu can trường không thua kém các anh
đang chịu cảnh tủi nhục gông cùm nhà giam.
Năm 1986, sau một năm ra trại và hết sự quản chế của công an địa phương Vũng
Tàu, tôi về thăm lại Ðà Lạt. Cũng vẫn cảm giác bồn chồn xưa, nhưng niềm vui đã tan mất
khi nhìn một bầu trời xám xịt bao phủ trên một thành phố tiêu điều. Những con đường
đẹp đẻ ngày xưa, giờ loang lỗ những ổ gà, bùn đất. Quanh hồ Xuân Hương chỉ thấy rác
ruởi. Những lượt là nhung gấm ngày xưa giờ đã biến mất, thay vào đó là màu áo quần
vàng úa của bọn công an xen lẫn trong các bộ áo quần rách rưới của đám quần chúng lam
lũ. Những đôi dép râu dẵm lên những vỉa hè mà ngày xưa dành cho những gót chân ngà
ngọc. Chỉ thấy nón cối. Chỉ thấy những bộ áo quần bộ đội nửa muà. Chỉ thấy màu đỏ
máu thay cho các màu sắc tươi sáng ngày xưa. Ðà Lạt như chết thật rồi. Hồ Xuân Hương
giờ khô cạn cũng chết rồi. Người Ðà Lạt thanh lịch đã đi bớt, nhường chỗ cho đám con
Một Thời Áo Trận 124
dân “bác Hồ” vừa phét lác vừa ngốc nghếch làm bẩn cả thành phố dấu yêu. Những người
anh em bạn bè cũ của tôi nay có người đạp xe thồ, bán bong bóng, hay dọn về làm rẫy ở
một vùng sâu trong rừng Tà In, Di Linh an phận với cuộc đổi đời hiếm có. Các cháu lớn
lên sau này, nhìn thấy chiếc xe Honda hai bánh như là một vật từ cung trăng rơi xuống;
chạy theo cố sờ thử một lần cho biết mùi văn minh!!!
Ðà Lạt bấy giờ là cà phê bằng bột bắp, dù hàng ngàn mẫu đất quanh đó cho một
sản lượng đáng kể. Ðà Lạt bấy giờ là tô phở lỏng bỏng nước được nêm bằng một muỗng
bột ngọt. Ðà Lạt bấy giờ là các cô bán hàng quốc doanh trọ trẹ giọng Nghệ An xấc láo
ném hàng vào mặt khách. Ðà Lạt bấy giờ với chính tôi lẻ loi, gầy còm, ngơ ngác lê đôi
dép nhựa trên con đường Minh Mạng, Phan Ðình Phùng, cố tìm chút dấu vết xưa. Chỉ
còn những người thân, mà chính họ cũng phải đổi thay theo cơn lốc phủ phàng của giòng
đời. Còn đâu những lần “dừng chân bên hồ nghe chiều rơi,..chiều xuân mây êm trôi..” rồi
để lòng mình “dạt dào vương ý thơ...và ... lạc bước trong lãng quên”
Hai mươi năm ở Hoa Kỳ, tôi chưa về lại VN. Nghe đâu Ðà Lạt đã sáng sủa hơn
nhờ kỹ nghệ du lịch để moi tiền du khách và Việt kiều. Tôi vẫn không tin rằng Ðà Lạt sẽ
được phục hồi như ngày xưa. Cảnh sắc có thể đẹp lại, có thể hơn xưa nhưng tâm hồn con
người Việt Nam nói chung, Ðà Lạt nói riêng chỉ thực sự phục hồi trong một môi trường
văn hoá tự do mà thôi.
Ở Mỹ đây, tuy không có cảnh nên thơ của Ðà Lạt sương mù; nhưng những con
người Ðà Lạt thanh lịch ngày nào ngồi lại với nhau cũng đủ tạo một không khí ấm cúng
sưởi ấm tâm hồn những người hoài niệm về quê hương đã mất.
Một Thời Áo Trận 125
Sống Lại Với
Tình Chiến Hữu Trong Sáng
Kể về chuyến đi tham dự hai kỳ Ðại hội Counterparts và Tổng hội Ái Hữu cựu
SVSQ/CTCT kỳ 8 tại Orange County, California
Chúng tôi đến Los Angeles lúc xế chiều. Từ I-10 đi thẳng là vào L.A., rẽ vào
đường 57 là đi xuống Orange County. Ðường 57 rồi đường 22, exit đường Bolsa là bắt
đầu thấy lạc vào thành phố Saigon vì nơi đâu cũng là người đồng hương. Những dãy phố
lớn đầy dẫy những bảng hiệu Việt Nam: tiệm phở 54 danh bất hư truyền, Hủ tiếu Thanh
Xuân, khu Phước Lộc Thọ... Cali độ này nắng dữ. Tại biên giới Arizona và California,
nhiệt kế chỉ 105 độ F. Giờ này đã gần tối mà còn nóng gắt không thua gì ở Texas mình.
Sau khi ghé thăm một người bạn, ngồi nhâm nhi chút khô cá thiều, bàn chuyện những
ngày sắp tới, chuyện hội họp, chuyện giới thiệu sách, chúng tôi vội tìm đến khách sạn
Hilton ở phi trường John Wayne, thành phố Irvine phía Nam của Orange County. Người
bạn cho hay cứ vào 405, chạy chừng 5 miles thì exit đường Mac Arthur, quẹo phải đến
góc Douglas là thấy khách sạn. Theo dõi kim đồng hồ đã chạy đến 7 miles vẫn chưa thấy
exit. Bảng chỉ dẫn lại chỉ đi về San Diego. Tôi sợ càng đi xa càng khó kiếm đường về bèn
Một Thời Áo Trận 126
exit đại ra một con đường dẫn đến một highway khác, vòng vo một hồi mới thấy một cây
xăng để hỏi thăm. Hoá ra mình đã đến cận khách sạn lúc nào không hay.
Tôi là người đầu tiên trong thành phần tham dự đại hội Counterparts đến check in.
Như thế, tôi có đến hai ngày rảnh rang để đi thăm bạn bè, lo việc riêng tư trước khi đi vào
ngày đại hội chính thức. Tiền phòng khách sạn rất cao, nhưng Counterparts đã đặt phòng
sẵn, nên chỉ trả $60 một ngày. Bù lại ăn uống ở đây quá tốn kém. Chúng tôi phải đi xa
khoảng 2 miles mới thấy một cái restaurant để ăn tối.
Ngày thứ Hai, thứ Ba, đưa gia đình đi khắp vùng Garden Grove, Santa Ana,
Anaheim thăm bạn bè cũ. Có người dễ đến hơn ba mươi năm mới gặp lại. Tôi gặp anh
Viễn Bổn, người trưởng Hướng Ðạo từ thời tôi còn ở Thiếu đoàn Lam Sơn ngoài Quảng
Trị năm 1960. Anh đã đến tuổi về hưu, nhưng thân thể còn tráng kiện. Giọng nói ấm áp
chân tình của người đầu đàn năm xưa dẫn dắt tôi về lại những chiều trại bay La Vang,
đêm tuyên hưá ngoài Ái Tử. Rồi cùng anh Bổn và Trưởng Tôn Thất Hy đi tìm mua phù
hiệu Hướng Ðạo ở Scout Shop trên đường Talbort. Thấy thứ gì cũng thích, cũng muốn
có. Chọn mãi mới mua được ba chiếc hoa huệ đeo áo cùng ít stickers, mugs về làm quà
cho bạn. “Một ngày là Hướng Ðạo, thì trọn đời là Hướng Ðạo.” Vì thế tình anh em
Hướng Ðạo gắn bó như tình anh em ruột thịt. Trưởng Hy nhắc tôi đóng góp bài cho tờ
Bạch Mã, tôi biếu anh cuốn Quê Hương Và Hoài Vọng và nói, “anh xem có bài nào hợp
thì anh cứ trích đăng, chứ em quá bận e không viết được.” Tuy QHVHV bao gồm những
bài tham luận chính trị, nhưng cũng có nhiều bài thích hợp cho Hướng Ðạo, như các bài
về Mẹ cho ngày Vu Lan. Trưởng Hy trước khi chia tay có hứa sẽ giúp tài liệu để lập
phong trào Hướng Đạo ở Austin.
Tôi không kiên nhẫn chờ đến ngày mai để gặp bạn cũ
Ben Meyer, với chiếc mũ beret đen có phù hiệu binh chủng Thiết giáp Việt Nam,
ngồi ở quầy rượu cho đến khuya, trò chuyện cùng tôi. Với mái tóc đã điểm bạc, bộ râu
mép dài vuốt thành hai mũi nhọn chĩa ra hai bên, ông nói: “Tôi không có kiên nhẫn chờ
đến ngày mai mới được gặp bạn bè cũ.” Năm nào Ben cũng về dự Ðại hội Counterparts.
Ông là người giữ trách nhiệm tìm kiếm giùm bạn bè hai phía Việt Mỹ dựa trên những bản
danh sách dày cộm của các hội đoàn, đơn vị... J.C. Fischer từ Temple, Texas đến nhập
bọn ngay trong đêm thứ Hai. Ngày thứ Ba, đã có rất đông người, từ các tiểu bang xa xôi
trên toàn nước Mỹ. Các bạn từng là cố vấn quân sự cạnh các đơn vị QLVNCH đã về đây,
trên đầu là những chiếc nón beret đủ màu sắc các binh chủng, những chiếc áo gắn đầy
phù hiệu, huy chương của quân lực Hoa Kỳ lẫn VNCH. Các bạn thuộc Vietnam War
Historical Society & Traveling Museum đang chuẩn bị trưng bày các quân trang, quân
dụng, hình ảnh về chiến tranh VN tại phòng hội lớn nhất của khách sạn. Nơi đây, bạn có
thể thấy đủ màu áo trận, từ loại áo saut nhảy dù thời Pháp, cho đến bộ da beo của Biệt
kích, từ cây súng Mas-36 cho đến cây M-18 có gắn phóng lựu; những chiếc nón nâu, nón
đỏ; những túi C-ration có năm điếu thuốc Pall Mall; những tờ truyền đơn thông hành
dành cho cán binh Cộng sản hồi chánh; những lá thư, hình ảnh lấy từ các tử thi các cán
binh Cộng sản bị giết trên chiến trường; còn cả hàng trăm loại vật dụng khác. Tôi dọ ý
Một Thời Áo Trận 127
Paul Miraldi, người quản lý Bảo tàng Chiến tranh VN, về một chuyến đi Austin để trưng
bày trong một dịp nào đó. Anh ta vui lòng nhận lời và hứa không lấy thù lao. Tuy nhiên,
phải nghĩ cách nào để có thể chia sẻ với anh về phí tổn vận chuyển và ăn ở.
Ðêm nay, chúng tôi thức đến 2 giờ sang. Bia ở khách sạn là $3, thêm tiền tip,
nhưng chúng tôi cứ uống cho thoả. Lại chơi theo lối Việt Nam, anh nào cũng dành trả
tiền. Ben nói: “Tôi ở Việt Nam quá lâu, nên Việt Nam hoá rồi.” Tôi có mang theo chú
nhóc tì 8 tuổi. Chú cũng ham vui chạy xuống tham gia, lại đòi ăn kem. Tôi cho chú $10,
bảo trả tiền ly kem xong, để lại $1 tip. Khi cô chiêu đãi trả lại tiền thối, chú lưỡng lự một
hồi rồi vơ cả cho vào túi quần. Cả bàn cười oà lên. Cô tiếp viên người Mỹ gốc Ý phải giải
thích cho chú thế nào để trở thành một gentleman như bố (sic).
Ngày thứ Tư, nhiều cựu quân nhân Việt Nam đến, có cựu Tướng Thủy Quân Lục
Chiến Trần Văn Nhựt (Tư lệnh SÐ 2/BB), cựu Tướng Nguyễn Văn Toàn (Tư lệnh QÐ3),
vài vị Ðại tá cựu tỉnh trưởng (tôi chỉ nhớ tên đại tá Lê Khắc Lý). Ða số là dân mũ đen; vì
sau Counterparts là đại hội Thiết giáp cũng tổ chức tại đây ngày thứ Sáu, thứ Bảy. Có thể
nói ngày July 4 là dịp các hội đoàn tổ chức gặp gỡ, Hội Võ bị Quốc gia, Hội CTCT, các
hội tương tế đồng hương....
Trong dịp này, các bạn Counterparts và tôi cùng trao đổi danh sách các bạn muốn
truy tìm bạn bè cũ. J.C. khoe mãi rằng nhờ báo Lửa Việt mà anh tìm lại được Ðại uý
Tường. Mike Little thì về tận bên Việt Nam dưới danh nghĩa đại diện Coca Cola, tìm
được những đưá “con” và “cháu nội” sau hai mươi năm xa cách. Anh đưa ra những tấm
hình hai vợ chồng trong tấm saron miền thượng Pleiku bên cạnh những đưá con, cháu
Rhade trong căn nhà sàn mái tranh, cùng uống rượu cần vui cười hạnh phúc. Nhờ nhật
báo Los Angeles Times, nhiều người biết đến đại hội đã tìm đến thăm hỏi. Trên dãy bàn
kê ngoài hành lang phòng họp, tôi cũng chiếm cho Hội CQN/QLVNCH Austin một góc,
trưng bày hình ảnh sinh hoạt, báo Lửa Việt. Nhiều bạn, tuy không đọc được tiếng Việt
cũng đã mua tập truyện Vườn Ðịa Ðàng hay xin tờ báo số tháng 7 có đăng nhiều hình ảnh
Quân Lực VNCH.
Counterparts bầu nhiệm kỳ mới
Ngày chính thức Ðại hội là thứ Năm, 4 tháng 7. Phía sau bàn chủ tọa đoàn là dãy
quốc kỳ những nước đồng minh từng tham chiến ở Việt Nam (Hoa Kỳ, Úc, Tân Tây Lan,
Ðại Hàn, Trung Hoa Quốc gia, Phi Luật Tân, Thái Lan, Malaysia (Malaysia tuy không
trực tiếp tham chiến nhưng có nhiều đóng góp trong việc huấn luyện du kích chiến)). Sau
các tường trình ngắn gọn về hoạt động một năm qua, các bạn đã đi vào chương trình sắp
tới mà mở đầu là cuộc bầu cử ban Chấp hành mới. Ed Abraham tiếp tục làm thủ lĩnh, Bob
Sterling được bầu làm ủy viên điều hợp. Hội nghị biểu quyết địa điểm đại hội 97 sẽ được
tổ chức tại Fort Benning (Georgia), đại hội 98 tại Austin (Texas). Mike Little tường trình
các chuyến đi về Việt Nam và đời sống người Thượng du Trung phần. Robert Donohue
phát ra tập báo cáo chuyến đi Khe sanh. Ðại tá Lý và các thành viên Việt Nam luôn nhắc
các bạn Mỹ rằng những thay đổi mà họ thấy tại VN chỉ là thay đổi bộ mặt bên ngoài có
tính phô trương, còn thực chất vẫn là chế độ độc tài toàn trị mà hậu quả là làm cho đời
Một Thời Áo Trận 128
sống càng ngày càng cách biệt giữa lớp giàu mới gồm cán bộ đảng viên và lớp dân nghèo
là đại đa số quần chúng.
Thế hệ con em chúng tôi trả nợ xương máu cho nhân dân Hoa Kỳ
Ðêm dạ tiệc thật đầm ấm. Ðặc biệt bà Mike Little đã mặc bộ áo dài Việt Nam
bằng lụa đen trông rất duyên dáng. Chúng tôi được đãi một tô phở không phải tô xe lửa
mà là tô “hàng không mẫu hạm” . Phở rất ngon, chỉ một tô là quá no. Tôi thay mặt Ban
Chấp hành Hội CQN/QLVNCH/Austin trao tặng thủ lĩnh Ed Abraham tấm giấy biểu
dương về sự đóng góp của Counterparts trong sự duy trì, phát triển mối quan hệ tương
thân giữa những chiến hữu Việt Mỹ, kèm phù hiệu QLVNCH. Ðặc biệt và cảm động nhất
trong đêm dạ tiệc là chương trình của chiến hữu Lê Quang Anh tức Andy. Ông đã trình
chiếu bộ video gồm hình ảnh Quân lực Hoa kỳ từ khi bắt đầu tham chiến tại Việt Nam,
kèm hình ảnh trưởng thành của QLVNCH: những gian khổ, hy sinh mà lớp thanh niên
Hoa Kỳ phải chịu đựng trong cuộc chiến đẫm máu dai dẳng, đương đầu với một kẻ thù
ranh ma. Kế đó là thảm kịch 30 tháng 4, với làn sóng người di dân ồ ạt đến bờ vịnh San
Diego với những Tent Cities, thảm kịch thuyền nhân... Rồi một thế hệ Việt Nam mới lớn
lên trong lòng Hoa Kỳ. Theo ông Lê, người Việt Nam chịu một ơn nặng của máu xương
57000 quân nhân Mỹ tử trận, của hàng chục ngàn chiến binh khác đã hy sinh một phần
thân thể, tuổi thanh xuân, của hàng ngàn chiến binh còn mất tích. Vì thế, thanh niên Việt
Nam đã góp mặt trong đại gia đình Quân đội Hoa Kỳ như một sự đền đáp lại ơn cưu
mang lúc nguy khốn.
Tất cả cử tọa nín lặng vì xúc động, nhiều bà đã không ngăn được dòng lệ khi nghe
những lời dẫn giải của Lê Quang Anh. Ông cũng cho phát lại hát hai bài ca do chính ông
viết được các ban nhạc trứ danh hoà âm, ca tụng những anh hùng vô danh đã âm thầm
chiến đấu và hy sinh cho Tự do Dân chủ bên kia bờ Thái Bình Dương xa xôi.
Qua ngày sau, một số ở lại dự Ðại hội binh chủng Thiết Giáp VNCH, một số
chuẩn bị trở về địa phương. Ðêm cuối cùng không muốn đi ngủ. Ben Meyer, Joe West,
John Frost, J.C., Mike và tôi ngồi uống cho đến say mèm. Lại chuyện xưa tích cũ, kể hoài
không chán. Bàn đến cuộc bầu cử Tổng thống cuối năm nay, chúng tôi cùng đồng ý một
acronym ABC (Anybody But Clinton).
Tình chiến hữu, nghĩa đồng môn
Ðại hội kỷ niệm 30 năm thành lập trường Ðại Học CTCT
Từ Irvine, chúng tôi dời xuống Garden Grove cho gần gủi bạn bè, tiện việc đi lại.
Ở Cali, xứ lạ quê người, mỗi lần đi lạc là mất ít lắm 30 phút vòng vòng mới tìm thấy lối.
Các motels ở trung tâm thành phố đa số do người Hoa, người Mễ quản lý, nên dơ dáy, tối
tăm. Ðành vậy, vì còn phải chi nhiều thứ tiền khác, nên chúng tôi phải tiết kiệm không
dám ở khách sạn sang trọng.
Ðêm thứ Sáu, các khoá họp mặt riêng rẽ. Khoá Nguyễn Trãi 1 chúng tôi quy tụ tại
nhà Nguyễn Gia Bình, đứa em út của khoá. Bình nhỏ tuổi và nhỏ con nhất khoá, ra
trường đi Sư đoàn 18. Qua Mỹ sớm, Bình cố gắng học hành lấy được bằng Kỹ sư Ðiện
Một Thời Áo Trận 129
toán. Nhưng tai biến đột xảy đến, bạn bị liệt một nửa phần thân thể. Tuổi đời còn nhiều
hứa hẹn, đành cam kiếp phế nhân. Chúng tôi ai cũng thương Bình nên kỳ nào họp mặt
cũng kéo đến nhà Bình. Ðêm nay có mặt Phó Đề Đốc nguyên Tư lịnh Hải quân VN Lâm
Ngươn Tánh, vị chỉ huy trưởng đầu tiên của trường Mẹ, Trung tá Hoàng Minh Hoà, Văn
Hoá Vụ Trưởng (người không bao giờ vắng mặt trong các đại hội). Kể về những thãm
cảnh của những người còn ở lại quê nhà, về gia đình các bạn đã hy sinh trên chiến
trường, trong các lao tù Cộng sản, ai nấy đều bùi ngùi. Chúng tôi tổ chức quyên góp tại
chỗ được hơn $600, dành cứu trợ những bạn hay gia đình gặp khó khăn bên Việt Nam.
Gặp lại nhau, tóc đã điểm hai màu sương tuyết, có anh đã có cháu nội, cháu ngoại, mà cứ
thân mật gọi nhau tao mày, có khi còn kêu cả hỗn danh như khi còn ở quân trường. Có
anh không còn nhìn ra nhau vì quá thay đổi, nhưng ngược lại, nhiều anh tưởng như còn
quá trẻ. Vẫn dáng dấp hiên ngang, vẫn tiếng cười sảng khoái, các anh như sống lại một
thời chinh chiến oai hùng, một thời sinh viên đầy hoa mộng trên ngọn đồi 4648, ngóng
qua trường nữ Trung Học Bùi Thị Xuân tìm bóng dáng tha thướt tà áo dài người dấu yêu.
Ngày thứ Bảy, đêm Tâm giao toàn trường, gần hai trăm người chiếm trọn hội quán
Lạc Hồng đường Westminster. Từ 10 tiểu bang xa xôi, từ Canada, từ Bắc, Nam Cali, các
anh đã về đây, từ khoá 1 đến khoá 6, cả “khoá 7” (Ðào Hồng giới thiệu phu nhân mình là
SVSQ khoá 7 (sic)). Ngoài Phó Đề Đốc Tánh, còn có Ðại Tá Nguyễn Quốc Quỳnh (Chỉ
huy trưởng kế vị), các Ðại Tá Ðỗ Văn Sáu (Chỉ Huy phó), Hoàng Ðạo Thế Kiệt (Tham
Mưu trưởng), và nhiều vị sĩ quan tham mưu, giảng huấn nhà trường. Hội trưởng hoặc đại
diện các hội từ các tiểu bang lần lượt trình diện, sau cùng là ban chấp hành Tổng Hội rồi
thứ tự từng dãy bàn, các anh đứng dậy dõng dạc: “SVSQ Nguyễn văn X., khoá Y, thuộc
Tiểu bang Z, trình diện Chỉ Huy trưởng.” Hai vị Chỉ huy trưởng mở đầu bẳng lễ chuyền
ngọn lửa thiêng đến từng bàn, nhắc nhở trách nhiệm đối với quê hương. Sau đó là những
tâm tình cởi mở, kể cho hết chuyện bao thăng trầm, biến đổi, nhưng tấm lòng người cán
bộ CTCT vẫn đầy nhiệt huyết như xưa. Cảm động nhất là một Nguyễn Trãi 2 đã phát
biểu: “Chúng tôi được học ở cả hai thầy, tình nghiêm khắc, cương trực của Phó Đề Đốc
Tánh, tính nhân từ, mềm mỏng của Ðại Tá Quỳnh.” NT1 Nguyễn Ðức Luận, hiện là Phó
Chủ tịch Cộng đồng VN tại Nam Cali nói: “dù bất cứ nơi đâu, trong hoàn cảnh nào,
chúng tôi vẫn nghĩ đến danh dự của trường Mẹ nên hành xử đúng đắn, chính trực để nêu
cao uy tín của trường.” Anh Luận nói đúng, cả trong hoàn cảnh tù đày nhục nhằn, đày ải,
anh em cựu SVSQ/CTCT đã không hề quỵ gục, luôn bảo vệ được phẩm cách chính trị
của người chiến sĩ Quốc gia.
Trong phần huấn từ, hai vị Chỉ huy trường đều ân cần nhắc nhở các học trò về
nghĩa vụ thiêng liêng đối với Tổ Quốc, Dân Tộc, về một lập trường dứt khoát đối với
Cộng sản.
Ðêm nay, lại họp nhau riêng rẽ từng khoá chuẩn bị cho cuộc bầu Ban Chấp hành
Tổng hội nhiệm kỳ 8 (1996-1998). Anh em NT1 cùng thỏa thuận để cho các khoá đàn em
đảm đương trách nhiệm. Chúng tôi nêu ra tên hai người thuộc khoá 2 mà chúng tôi sẽ
yểm trợ đắc lực. Trong cuộc bầu sáng Chủ Nhật, NT2 Trần Gia Hiếu được gần tuyệt đại
đa số phiếu, từ nay là Chủ tịch BCH Tổng Hội. Anh trình diện một tân BCH hùng hậu
gồm những thành viên từng hoạt động đắc lực nhất trong các năm qua. Chủ tịch nhiệm kỳ
Một Thời Áo Trận 130
7 Trịnh Tùng vì gia cảnh không ra tái cử. Trong nhiệm kỳ 7, anh đã đóng góp rất nhiều
công sức, và kỳ Ðại hội này chứng minh sự thành công của anh cùng BCH nhiệm kỳ 7.
Ðêm nay, lại một kỷ niệm mà trọn đời không thể nào quên.
Bộ quân phục tiểu lễ mùa hè trên người các anh trong tân ban Chấp hành do chị
Trịnh Tùng bỏ công thực hiện lại gợi nhớ hình ảnh năm nào trên đường phố Duy Tân, Ðà
Lạt. Cũng chiếc alpha kim tuyến trên nền nhung đen, phù hiệu quân trường, phù hiệu cán
bộ hệ thống tự chỉ huy... Chúng tôi không đếm nổi, nhưng tính ra có khoảng hơn 500
người, ngồi chật cả nhà hàng seafood đường Brookhurst. Trên sân khấu, toán thủ kỳ
trong quân phục olive, đai nịt trắng, cờ kiếm sáng ngời lấp lánh. Dàn nhạc do NT1 Phạm
Ðức Vượng điều khiển bắt đầu trổi lên những khúc quân hành. Lễ chào cờ nghiêm trang,
hội trường vang lên lời quốc ca hùng hồn kêu gọi dấn thân. Lễ mặc niệm chiến sĩ trận
vong, tưởng niệm các đưá con của trường Mẹ hy sinh trên chiến trường, trong các trại tù,
trên biển khơi, hay đã ra đi nơi đât khách quê người. Lần lượt tên tuổi các anh được
xuớng lên giữa tiếng sáo buồn, lời văn tế trầm ấm đầy xúc động. Nơi đây không có ánh
đuốc chập chờn của một đêm mùa đông lạnh lẽo trên ngọn đồi Ðà Lạt, không có tiếng gió
vi vu hoà theo như réo gọi linh hồn tử sĩ, không có tiếng báng súng garant M-1 đồng nhịp
gõ xuống nền Vũ đình trường những âm thanh sắc gọn. Mà sao lòng chúng tôi lắng đọng,
từ trong tận đáy con tim, như có ai bóp mạnh làm dâng trào lên những giòng nước mắt
xúc cảm. Ôi Lê Minh Châu, Nguyễn Ngọc Quang, Dương Phước Duy, Quách Kế Nhơn...
ngày nào dòng màu nóng từ lồng ngực thanh xuân chảy ra thấm ướt chiếc áo trận; ôi
Quách Dược Thanh, Nguyễn Văn Sang vẫn dõng dạc lời kết án chế độ Cộng sản cho đến
khi nhắm mắt lìa đời trong tra tấn cực hình của bọn cai tù Cộng sản. Trường Mẹ đã dâng
cho tổ quốc Việt Nam những đưá con thân yêu ngay cả khi đang còn thới gian thụ huấn,
nhờ đó trên quân kỳ của trường, đã hãnh diện quàng lên dây biểu chương màu Quân công
Bội tinh.
Chúng tôi diễn lại đúng nghi thức SVSQ trong giờ ăn, SVSQ trực đọc thực đơn
đầy dí dõm, cả hội trường đáp lời chúc ăn ngon của Chỉ Huy Trưởng, rồi thì râm ran
những lời trò chuyện. Ðêm nay là đêm cuối, ngày mai phải chia tay ai về nhà nấy, lo cuộc
mưu sinh.
Các bài hát quân hành lần lượt được các khoá đồng ca. Tiếng đếm nhịp một, hai,
ba, bốn, xem vào lời ca hùng tráng như thuở nào dẫn dắt bước quân đi ra chiến trường.
Chúng tôi vừa hát vừa chấm nước mắt. Ôi sao nhớ quá, nhớ sân trường xưa ngợp ánh
nắng vàng, cờ xí rộn ràng tung bay; nhớ đêm di hành trời lấp lánh trăng sao; nhớ đêm
nằm tiền đồn ngóng về ánh đèn đô thị; cũng nhớ luôn những đêm chui rào trốn ra với
người yêu; nhớ vọng gác Bạch Cúc, Hướng Dương co ro trong tấm áo field jacket chờ
nghe ngóng địch tình những đêm Mậu Thân; nhớ đại giảng đường vừa ngồi vừa ngủ gật
vì những môn học kéo dài cả tuần lễ. Trăm ngàn nỗi nhớ, trăm ngàn niềm thương, biết kể
sao cho xiết. Quý phu nhân lại đóng góp thêm những bài tình ca hướng về Ðà Lạt sương
mù, nơi hoa đào trải lối đưa những chàng trai CTCT đến với các cô gái má hồng hây hây.
Biết bao cuộc tình đã diễn ra bên bờ hồ Xuân Hương trong mát, trên đồi cù cỏ mượt mà
Một Thời Áo Trận 131
xanh mướt, hay trên con đường Thung lũng tình yêu có bóng tối đồng lõa. Ðà Lạt, CTCT,
Võ bị.... một thời để yêu, một thời để nhớ; đối với tôi là để nhớ muôn đời.
Hợp rồi phải tan, gặp nhau rồi cũng đến lúc chia tay. Những bạn bè, anh em bùi
ngùi nắm tay nhau lần cuối, trao nhau những tấm danh thiếp, những lời hưá hẹn giữ chặt
mối thâm tình. Có thể nói, trong đời tôi, chưa thấy mối chân tình nào nồng nàn bằng tình
đồng môn CTCT; chưa thấy sự tương kính nào vượt qua được sự thương kính mà môn
sinh, đàn em dành cho quý thầy, các niên trưởng từ mái trường ÐH/CTCT.
Rời Cali một sớm mai, hướng về phương đông rực nắng, vượt qua hai tiểu bang
Arizona, New Mexico, một chặng đường dài gần 1300 miles. Tôi cứ ôn lại kỷ niệm đêm
tao ngộ, ghi nhớ lại từng hình ảnh thân thương mà tưởng trọn đời sẽ không bao giờ phai
nhạt.
Một Thời Áo Trận 132
Give back dignity to our soldiers
who fought the Vietnam War
Hàng năm, Trung tâm Việt Nam thuộc trƣờng Ðại Học Texas Tech tại Lubbock
thƣờng tổ chức Hội thảo về Việt Nam. Trƣờng thƣờng mời các vị chỉ huy quân sự hay các
nhà hoạt động ngoại giao, các giáo sƣ đại học đến tham gia về các đề tài liên quan đến
Việt Nam. Cuộc hội thảo năm 2001 đƣợc tổ chức trong ba ngày 19 đến 21 tháng 4 tại
Trung tâm Văn hoá Quốc tế thuộc trƣờng Texas Tech, nằm tại góc đƣờng số 9 và đại lộ
Indiana. Ðề tài chính năm nay là “Vai trò của Cố vấn quân sự Hoa Kỳ và Quân Đội Việt
Nam Cộng Hoà.” Tôi đƣợc giáo sƣ James Reckner, Giám đốc Trung tâm Việt Nam, mời
làm diễn giả chính thức (Lunch Speaker) trong ngày thứ Bảy 20 tháng 4. Sau đây là bài
nói chuyện của tôi trƣớc hơn 300 cử tọa.
Một Thời Áo Trận 133
Ladies and Gentlemen,
I am so glad and pleased to have this opportunity to speak out the voice of the
Vietnamese Veterans before the selected audience of scholars and graduate students of
the Texas Tech University and our American comrades-in-arm.
Thank Dr. Reckner for sending a heartfelt message to encourage me and set up the
time for me to speak in this seminar.
I am a US citizen. But today, I will speak in the name of a soldier of the Republic
of Vietnam Armed Forces.
The war in Vietnam that ended in 1975, seen by American as Vietnam War and by
North Vietnam as Anti-American War, is to us, Anti-Communism War. For years, it has
been discussed in the United States from different viewpoints other than ours.
Though a strong and well-equipped army in the War, the Republic of Vietnam
Armed Forces (RVNAF) was not visible to the eyes of American public. Or worse, it was
portrayed as a corrupted and incompetent army that became a burden to American policy.
We were soldiers who responded to the call of duty to defend our motherland from
the Communist aggression. We were bound to the decision makers. Any mistake made by
the politicians would cause us the disaster as this happened in Vietnam during the last
several years of the war. We were ordered to retreat from Quang Tri, Banmethuot in 1974
while we were able to defend those provinces. We dropped our weapons on April 30,
1975 in confusion and anger, not knowing why big Minh could do such stupid thing as to
surrender to the Communists. Minh is the last South Vietnam president who was in office
only 3 days.
I wish I had a whole day long to tell you all what I learnt and experienced from the
war. But within the limited time allowed for each speaker, I'd like to sketch some relevant
factors to shed a new light and help you to understand more about our role in the war.
Who Were Our Enemies?
Let's refresh our memory and recall the time after the end of Indochina War and
the Geneva Agreement was signed in 1954.
According to the agreement,
(1) A cease-fire was in effect from July 20, 1954;
(2) Vietnam was temporarily divided into two parts with two opposing political
systems;
(3) Communist troops was to withdraw to the North and Nationalist to the
South, and
(4) A general election under supervision of the International Committee for
Control and Supervision (ICCS) was to be held for the people to choose their favorite
regime. In the North, the Communists began to establish a Stalinist dictatorship
commandeered by the Soviet Union and Red China. In the South, the Nationalists planted
the seed of Western style democracy with the assistance of the United States and other
countries of the Free World. The temporary division became permanent because North
Vietnam continuously violated the agreement and the South rejected the election.
Một Thời Áo Trận 134
If Ho Chi Minh minded his own business building socialism in North Vietnam,
there would not have been the war that lasted 21 years and killed millions of innocent
people.
Some of you may ask why South Vietnam rejected a general election that was to
follow the cease-fire. Here is the answer: Ho Chi Minh and his followers at that time had
strict control over the North, while there was no ground in the South for the concept of
Democracy to grow yet. Besides, thousands of Communist cadres left behind in rural
regions became the clear danger to our political stability.
The Communist Party 3rd National Congress passed the resolution to create the
National Liberation Front in South Vietnam (NLF) and started the war against the young
Republic of Vietnam. NLF initially consisted of Communist left behind cadres and
militiamen and later was reinforced by North Vietnamese Army (NVA). It was directly
controlled by members of the Communist Party Politburo. Until their victory in 1975,
Hanoi had always denied its involvement in South Vietnam although after 1965,
hundreds of thousands of North Vietnamese regular army troops and millions of tons of
supplies were flooded to the South via Ho Chi Minh trail.
This war was falsely understood as the struggle of South Vietnamese people
against the intervention of the Americans who at that time only provided a limited
assistance to help South Vietnam to develop its economy.
Thanks to the victory over the French in 1954, Ho Chi Minh was looked as a
liberator. He insisted that he fought for independence and created a false impression that
the Communist aggression in South Vietnam was a rebellion against the established
government. Part of the world and, sadly to say, the American public were likely to be
convinced and gave him support during the 21 year war.
The truth is that he skillfully disguised himself as a nationalist to mobilize
resources during the war against French domination. But right after he gained control
from the French in 1954, he revealed himself as a loyal servant of the Soviet Union and
China. And then, in Vietnam War, he wanted to kick out the Americans just to welcome
the Russians. Communists made a false statement that they fought for independence. We
really don't welcome that kind of independence. It was merely a deceitful banner.
Moreover, independence is nonsense if the people are stripped of all freedom and human
rights.
Why We Fought the War?
It is half the truth if saying US troops were fighting for Vietnam. They were
indeed fighting to prevent the expansion of Communism into the Free World led by the
U.S.
The expansion of the Soviet Union and its Eastern Europe satellites, plus the rise
of Red China, posed a clear and direct danger to the rest of the world. As the leader of the
Free World, the United States must have perceived the threat to its interests and security
when one third of world population and territory fell into Communism. That's why the
Một Thời Áo Trận 135
Domino theory was approved resulting in the organization of NATO, SEATO, ANZUS
etc. Vietnam unfortunately became the battlefield of an ideological war.
Vietnamese are peace-loving people. We just wanted to rebuild our motherland to
catch up with our neighboring countries. But we had no other choice than to hold
weapons to fight against Communist aggression and terrorism. We had to defend what we
had achieved. We had to protect our beloved ones. We fought for what we believed in.
That is freedom. That is the worthy life any human deserves.
Only after the communist brutal campaign of terror and armed attack became
serious, the first US troops were sent to Vietnam in March 1965. Alongside with our
army, the US soldiers took the major role in some tactical zones. They gave their youth,
part of their bodies, and even their lives for our people and to the ideology pursued by the
United States as the leader of the Free World.
Were We Wrong?
During the war, American mass media intentionally distorted the situation.
Correspondents sent to Vietnam portrayed the GI's as murderers and rapists.
Consequently, they were treated as criminals back home. It was worse for our South
Vietnamese soldiers. We were looked down upon as cowards. They put on the cover page
the picture of rare wrongdoing of some individuals but covered up the numerous crimes
committed by the Communists. Anything can happen in war. The army is not a perfect
unit of all good men. Lieutenant Calley killed innocent people, and he was to pay. Looks
like the media were so noisy around the My Lai massacre, and covered up the mass
killing of more than 3000 civilians in Hue during Tet 1968. This killing is no doubt an act
ordered by Hanoi to terrorize the people as the Communists occupied the old capital
those days. Everyday throughout 21 years of war, Communists carried out terrorist acts
aiming at innocent people such as shelling schools, markets, hospitals and residential
areas. They kidnapped, murdered those who did not support them. They barbarously
tortured and killed South Vietnamese soldiers and civil servants whom they captured.
American GI's served a 2-year tour in Vietnam. They came and left. The War took
the lives of 58000 American men and women plus about 2000 more missing. South
Vietnamese soldiers were drafted at the age of 18, and only left the service as corpses
wrapped in ponchos, or after being seriously wounded. We faced the death, day and
night, for 21 years. An unofficial statistic reveals that more than a quarter of million
South Vietnam soldiers were KIA and hundreds of thousands handicapped.
A Vietnamese Ranger battalion (the 37th) was defending Khe Sanh with US
Marines (Jan - April, 1968). Vietnamese Marines took the major part in retaking Hue
after Tet 68. Thousands of marines and paratroopers fell in the battle to retake Quang Tri
old citadel (1972). Vietnamese infantrymen steadily defended An Loc during 3 months of
siege and heavy attack by 3 North Vietnam divisions (1972). Nevertheless, the heroism
of our soldiers had not been mentioned anywhere - in any paper or any movie - until
recent disclosure by our American counterparts in some magazines.
Một Thời Áo Trận 136
Did We Lose the War?
The US didn't win the war. I agree, because she didn’t want to win.
The US gave up the war when it became the source of unrest in domestic politics.
Washington underestimated the strength of Hanoi and mistakenly predicted the
intervention of China and Russia. Washington didn't have a consistent policy due to the
changes of its administration. While our enemy had a strong determination to win, we
were reluctant in every step. Washington had pressure from all directions to end the war
no matter what outcome. And this led to the fall of South Vietnam in 1975.
The Communists won the war; the US didn't lose the war. Only our Vietnamese
people lost. Millions lost their lives during the war, in concentration camps, on the sea or
in the jungle attempting to flee the brutal Communism. Oversea Vietnamese lost their
homeland. The Vietnamese who stay lost their freedom, their future, and most important:
their hope and belief.
Our Causes Are Righteous
Had the facts of the Vietnam War been truthfully reported to the American public
thirty years ago; had President Kennedy not been assassinated; had President Johnson not
ordered to stop bombing Hanoi in late 1972 when the communists were on the verge of
surrender; had the Watergate scandal not occurred, I would not be here today to talk
about whether we were right or wrong.
The fact that we lost the war doesn't prove we're wrong. It's unquestionable that
the South Vietnamese government had violated some civil rights and was committed to
corruption. But despite the war, South Vietnam had established a foundation of
democracy and maintained the culture that is based on traditional values. Those things do
not exist in Communism. The one party political system kills opposing forces and hence
tightens the grips to control every movement of the people. Communism uprooted our
society.
Today in Vietnam, except for a thin layer of powerful Communist party members
who are extremely wealthy, the majority of our people are living in conditions far below
the poverty level. There are not enough schools for children. There are not enough jobs
for adults. Even having a job, one cannot feed himself through the days. The only thing
Communists could do is to exploit for their own privileges.
I strongly believe that we - both American and Vietnamese soldiers - were fighting
for the righteous causes. If American GI's returned from Korea, Serbia, or Saudi Arabia,
they were welcomed as heroes. Why were not those from Vietnam? Did they fight for
different or opposing values to the ones that our people pursue?
Vietnam veterans had suffered too long the ill treatment until early 80's when the
American public changed its perspective and when the memorial to all Vietnams veterans
was built in Washington DC in 1982 to honor 58 thousand KIA. The up coming
Westminster Vietnam Memorial is another step to honor the South Vietnamese soldiers.
Một Thời Áo Trận 137
Vietnamese people are always thankful to the sacrifice of American soldiers. Our
hearts are with the families whose sons and daughters gave their lives to our freedom.
Vietnamese veterans deserve recognition because we served our country, defended
our values, and protected our people. Yes, we did fulfill our obligation to our motherland
in whatever capacity.
The truth must be respected. Our children must be proud of their parents who have
been fighting for freedom and human rights.
Please, accept my deepest respect and appreciation to our American counterparts.
Thank you so much. May God bless you all.
Phục Hồi Phẩm Giá Cho Những Chiến Sĩ Ðã Chiến Ðấu
Trong Chiến Tranh Việt Nam
(Dịch lại bài nói chuyện tại Hội thảo vế Việt Nam tại Trung tâm Văn Hoá Quốc Tế
(Lubbock), do trƣờng Ðại Học Texas Tech tổ chức, tháng 4, 2001)
Kính thưa quý vị,
Tôi rất hân hạnh và sung sướng có dịp được nói lên tiếng nói đại diện cho những
cựu quân nhân Việt Nam trước một cử toạ gồm những học giả, các sinh viên Cao học tại
Ðại học Texas Tech, và các chiến hữu Hoa kỳ của chúng tôi.
Xin cám ơn Tiến sĩ Reckner đã tận tình khích lệ và sắp xếp thì giờ cho phần nói
chuyện của tôi trong buổi hội thảo này.
Tuy là một công dân Hoa Kỳ, hôm nay tôi sẽ nói lên tiếng nói của người lính của
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Một Thời Áo Trận 138
Cuộc chiến tại Việt Nam, kết thúc năm 1975, được phiá Mỹ gọi là “Chiến tranh
Việt Nam”, Cộng sản gọi là “Chiến tranh chống Mỹ”; Ðối với chúng tôi, đó là “cuộc
chiến tranh chống Cộng”. Từ nhiều năm nay, nó đã được bàn đến dưới nhiều cách nhìn
khác nhau mà quên lãng quan điểm của phiá chúng tôi.
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, dù hùng mạnh và trang bị tối tân, đã không được
công luận Mỹ biết đến. Hay tồi tệ hơn, chỉ được nói đến với tình trạng tham nhũng, bất
lực và là một gánh nặng cho chính sách của Hoa Kỳ.
Chúng tôi là những người lính thi hành nghĩa vụ bảo vệ tổ quốc chống cuộc xâm
lăng của Cộng sản. Chúng tôi bị bó buộc bởi các quyết định chính trị mà sự sai lầm đã
mang đến thảm họa trong những năm cuối cuộc chiến. Năm 1974, chúng tôi bị buộc rút
khỏi Quảng Trị và Ban Mê Thuột trong khi có dư khả năng phòng thủ các tỉnh đó. Chúng
tôi đã buông súng trong uất nghẹn không hiểu tại sao ông Minh lại có thể ra một cái lệnh
đầu hàng Cộng sản một cách ngu xuẫn như thế. (Dương văn Minh là Tổng thống cuối
cùng ở chức vị được 3 ngày)
Phải chi tôi có trọn một ngày để kể cho quý vị nghe đủ những kinh nghiệm học hỏi
trong chiến tranh. Nhưng vì thời gian hạn chế, tôi xin nêu lên những điểm quan yếu để
giúp quý vị hiểu thêm về vai trò của chúng tôi trong chiến tranh.
Ðiểm Mặt Kẻ Thù Của Chúng Ta
Thử gợi lại hồi ức về thời điểm chấm dứt chiến tranh Ðông Dương và Hiệp đinh
Geneve năm 1954 với các điều quy định như sau:
1.- Ngưng chiến từ 20 tháng 7, năm 1954
2.- Chia đôi lãnh thổ VN thành 2 miền với hai chế độ chính trị đối nghịch
3.- Quân đội hai phe rút về hai bên vỹ tuyến 17
4.- Tổ chức tổng tuyển cử để dân chúng quyết định chế độ thích hợp dưới sự giám
sát của Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát.
Tại miền Bắc, Cộng sản bắt đầu xây dựng một chế độ độc tài kiểu Stalinist dưới sự
kiểm soát của Nga Sô và Trung Cộng. Tại miền Nam, những người Quốc gia xây dựng
thể chế dân chủ kiểu tây phương với sự viện trợ của Hoa Kỳ và các nước trong khối Thế
Giới Tự Do. Sự chia cắt tạm thời trở thành vĩnh viễn do phiá Cộng sản luôn luôn vi phạm
hiệp định và do đó miền Nam từ chối tổ chức tổng tuyển cử.
Nếu Hồ Chí Minh chỉ lo công việc của ông ta ở miền Bắc, đừng quấy phá miền
Nam, thì đã không xảy ra cuộc chiến kéo dài 21 năm làm chết hàng triệu người dân vô
tội.
Trong quý vị có người sẽ hỏi tại sao miền Nam từ chối tổng tuyển cử tiếp theo sự
ngưng bắn mà hiệp định Geneve đã quy định? Hồ và bè lũ của ông ta đã hoàn toàn kiểm
soát chặt chẻ miền Bác; trong khi tại miền Nam chúng tôi, quan niệm về dân chủ chưa
chín mùi. Ngoài ra, hàng ngàn cán binh Cộng sản nằm vùng đang trở thành mối đe dọa
cho sự ổn định chính trị miền Nam.
Ðại hội thứ 3 của đảng CS ra quyết nghị thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng
Miền Nam và khởi động chiến tranh chống lại nước Việt Nam Cộng Hoà non trẻ của
chúng tôi. Mặt trận này ban đầu gồm những cán binh Việt Cộng, sau đó được tăng cường
Một Thời Áo Trận 139
quân đội miền Bắc. Nó chịu sự kiểm soát chặt chẻ của các ủy viên trong bộ Chính trị
đảng Cộng sản. Mãi cho đến năm 1975 khi họ chiến thắng, Hà Nội luôn luôn chối cãi về
sự tham dự của họ tại miền Nam; dù rằng từ năm 1965, họ chuyển hàng ngàn binh sĩ
chính quy và cơ man đồ chiến cụ vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh.
Người ta đã hiểu lầm rằng cuộc chiến là sự đấu tranh của dân chúng miền Nam
chống lại sự can thiệp của Mỹ mà vào lúc đó đang gửi những viện trợ hạn chế để giúp
miền Nam phát triển kinh tế.
Nhờ vào sự chiến thắng quân Pháp năm 1954, Hồ Chí Minh được coi như một
người giải phóng. Ông ta luôn nhấn mạnh rằng ông chiến đấu cho nền độc lập và đã che
dấu cuộc xâm lăng của Cộng sản bằng hình ảnh dân miền Nam nổi dậy chống chính
quyền. Nhiều quốc gia trên thế giới, và buồn thay, cả chính công luận Mỹ, đã lầm lẫn và
ủng hộ ông ta trong suốt 21 năm chiến sự.
Sự thực là Hồ đã nguỵ trang thành một nhà ái quốc để vận động toàn nhân vật lực
vào cuộc chiến chống Pháp. Nhưng ngay sau khi cầm quyền tại miền Bắc sau 1954, ông
ta đã lộ nguyên hình là tay sai đắc lực của Nga sô và Trung Cộng. Trong chiến tranh Việt
Nam, ông ta muốn đánh đuổi người Mỹ để đón nhận người Nga. Những người Cộng sản
ngụy biện rằng họ đấu tranh cho độc lập. Ðó đơn giản chỉ là một chiêu bài lừa bịp. Chúng
tôi không mong nền độc lập như thế. Ðộc lập chẳng có nghĩa lý gì khi người dân bị tước
đoạt hết nhân quyền và dân quyền.
Tại sao chúng tôi chiến đấu?
Nếu cho rằng người Mỹ chiến đấu cho Việt Nam, đó chỉ mới là một nửa sự thực.
Ðúng ra, Hoa Kỳ đã chiến đấu để ngăn chận sự bành trướng của chủ nghĩa Cộng sản vào
Thế giới Tự do mà Hoa Kỳ đang lãnh đạo.
Sự bành trướng của Liên bang Sô viết và các chư hầu Ðông Âu cộng thêm sự xuất
hiện của Trung Hoa đỏ là một mối hiểm họa thường trực đối với thế giới. Là quốc gia
lãnh đạo thế giới tự do, Hoa kỳ đã ý thức sự đe doạ đến an ninh và quyền lợi của mình
khi một phần ba nhân loại đã bị nhuộm đỏ. Do đó học thuyết Domino ra đời với sự thành
lập các liên minh NATO, SEATO, ANZUS, vân vân. Việt Nam, bất hạnh thay, trở thành
chiến trường cho cuộc chiến tranh ý thức hệ.
Người Việt chúng tôi yêu chuộng hoà bình. Chúng tôi chỉ muốn tái xây dựng quê
hương để bắt kịp các quốc gia láng giềng. Nhưng chúng tôi không còn sự lựa chọn nào
khác ngoài việc cầm súng chống lại khủng bố và xâm lược của Cộng sản.
Chúng tôi phải bảo vệ các thành quả xây dựng của mình, bảo vệ những người thân
yêu, chiến đấu cho niềm tin mà chúng tôi ấp ủ. Ðó là Tự do. Ðó là cuộc sống xứng đáng
của những con người.
Hoa Kỳ chỉ đổ quân tham chiến vào tháng Ba năm 1965 sau khi Cộng sản gia tăng
khủng bố và tấn công võ lực nghiêm trọng. Cùng với Quân lực VNCH, quân đội Mỹ đã
đảm trách vai trò chủ lực tại vài vùng chiến thuật. Họ đã cống hiến tuổI thanh xuân, một
phần thân thể, và ngay cả hy sinh mạng sống cho dân tộc chúng tôi và cho lý tưởng tự do
mà Hoa Kỳ từng theo đuổi.
Một Thời Áo Trận 140
Chúng Ta Sai Hay Ðúng?
Công luận Hoa Kỳ trong suốt thời gian chiến tranh đã bóp méo sự thực. Các thông
tín viên miêu tả người lính Mỹ như những kẻ hiếp dâm và giết người. Nên khi trở về Mỹ,
họ bị coi như những tên tội phạm. Tồi tệ hơn, những người lính Việt Nam Cộng Hoà bị
coi là những kẻ hèn mạt. Báo chí đã đưa lên trang đầu hình ảnh sai phạm hiếm hoi của
vài cá nhân trong chúng ta, nhưng lại che đậy những tội ác của Cộng sản. Trong chiến
tranh, mọi điều đều có thể xảy ra! Quân đội không phải gồm toàn người tốt. Trung úy
Calley đã bị trừng phạt về hành vi giết người của ông ta. Báo chí đã làm ồn ào về vụ Mỹ
Lai, mà bỏ qua vụ Cộng sản thảm sát 3000 thường dân trong cuộc tấn công Tết Mậu
Thân tại Huế. Vụ thảm sát này là do lệnh của Hà Nội để khủng bố dân chúng miền Nam
trong 21 ngày chúng chiếm cứ cố đô. Suốt 21 năm chiến tranh, không ngày nào không có
những hành vi khủng bố mà Việt Cộng nhắm vào thường dân vô tội: pháo kích vào
trường học, chợ búa, bệnh viện và khu dân cư. Chúng bắt cóc, ám sát những ai không
theo chúng. Chúng tra tấn dã man và thảm sát quân cán chính miền Nam chẳng may rơi
vào tay chúng.
Người lính Mỹ phục vụ tại VN trong thời hạn 2 năm; họ đến và đi. Chiến tranh đã
cướp mất 58000 sinh mạng, và thêm khoảng 2000 mất tích. Về phần người lính Việt
Nam, thi hành quân dịch từ năm 18 tuổi, họ chỉ rời quân ngũ khi thân xác gói gọn trong
tấm poncho hay bị tàn tật. Họ đối diện với tử thần ngày đêm trong suốt 21 năm. Có
khoảng hơn hai trăm ngàn quân nhân miền Nam tử trận và hàng trăm ngàn khác bị vĩnh
viễn tàn phế.
Trong trận Khe Sanh năm 1968, Tiểu đoàn 37 Biệt Ðộng Quân VN đã chiến đấu
dũng mãnh bên cạnh TQLC Mỹ. TQLC Việt Nam đã nắm vai trò then chốt trong việc tái
chiếm cố đô Huế. Hàng ngàn binh sĩ Dù và TQLC đã ngã xuống khi tái chiếm cổ thành
Quảng Trị năm 1972. Bộ binh VN đã kiên cường phòng thủ An Lộc trong 3 tháng bị bao
vây tấn công bởi hàng sư đoàn Cộng quân năm 1972. Tuy nhiên, cuộc chiến đấu dũng
cảm của chúng tôi bị bỏ quên mãi cho tới gần đây khi vài cố vấn Mỹ bắt đầu nhắc đến
trên vài tờ báo Hoa Kỳ.
Có Phải Chúng Ta Thua Trận Không?
Tôi không nghĩ như thế. Tuy nhiên tôi đồng ý rằng Hoa Kỳ đã không thắng ở Việt
Nam. Hoa Kỳ đã bỏ cuộc khi tình hình chính trị nội bộ bị xáo động. Hoa Kỳ đã đánh giá
sai khả năng của Hà Nội và lầm lẫn trong khi tiên đoán sự can thiệp của Trung Cộng và
Nga sô. Hoa Kỳ không có một chính sách chung nhất vì sự thay đổi các vị Tổng thống.
Trong khi kẻ thù chúng ta quyết tâm dành thắng lợi, chúng ta lại ngập ngừng trong từng
bước. Hoa Kỳ đã bị áp lực phải chấm dứt chiến tranh bằng bất cứ giá nào. Các điều trên
đã dẫn đến sự sụp đổ của miền Nam năm 1975.
Cộng sản thắng cuộc chiến, nhưng Hoa Kỳ không thua. Chỉ có người dân Việt
Nam là thua thiệt. Hàng triệu người chết trong chiến tranh, trong các trại cải tạo, trên biển
Ðông hay trong rừng sâu khi trốn tránh nạn Cộng sản. Người Việt hải ngoại mất quê
Một Thời Áo Trận 141
hương. Những người còn ở lại mất tự do, mất tương lai, và quan trọng nhất là mất hy
vọng và niềm tin.
Chính Nghĩa Về Tay Chúng Ta.
Ba mươi năm trước đây, nếu như các sự kiện về Việt Nam được báo giới trình bày
trung thực cho công luận Hoa Kỳ; nếu Tổng thống Kennedy đừng bị ám sát; nếu Tổng
thống Johnson đừng ra lệnh ngưng ném bom Hà Nội vào cuốI năm 1972 khi Cộng sản
đang đến hồi kiệt quệ và chuẩn bị đầu hàng; nếu vụ Watergate dừng xảy ra; có lẽ tôi đã
không đứng đây ngày hôm nay để bàn cãi ai đúng ai sai.
Thất bại trong chiến tranh không chứng minh rằng chúng ta sai. Chính phủ miền
Nam đã có vi phạm dân quyền và rơi vào tình trạng tham những. Nhưng mặc dù chiến
tranh, VNCH đã xây dựng một nền móng dân chủ và bảo lưu nền văn hoá dân tộc dựa
trên các giá trị cổ truyền. Những thành tựu đó không thể có được trong chế độ Cộng sản.
Hệ thống chuyên chính vô sản giết chết mọi đối lực và xiết chặt gọng kềm để kiểm soát
nhất cử nhất động của người dân. Cộng sản làm băng hoại xã hội.
Ngày nay tại Việt Nam, ngoại trừ một thiểu số đảng viên CS có quyền lực và giàu
có vô hạn, đại đa số dân chúng đang sống một cuộc sống dưới cả mức nghèo đói. Không
có đủ trường học cho các em. Không có đủ việc làm cho người lớn. Dù có được một công
việc, người ta cũng không đủ nuôi thân. Cộng sản chỉ làm được một việc là bóc lột dân
chúng làm giàu cho bản thân chúng.
Tôi tin rằng chúng ta - các chiến sĩ Hoa Kỳ và Việt Nam - đã chiến đấu cho chính
nghĩa. Tại sao những người lính Hoa Kỳ từ Việt Nam trở về không được tiếp đón như
những anh hùng như những chiến binh về từ Korea, Serbia, Kuwait? Họ đã chiến đấu cho
những giá trị mà dân tộc chúng ta từng đeo đuổi cơ mà.
Các cựu chiến binh Mỹ trong chiến tranh Việt Nam đã chịu đựng sự ngược đãi quá
lâu cho đến đầu thập niên 1980 khi công luận có cái nhìn thay đổi về cuộc chiến và khi
bức tường tưởng niệm được dựng lên tại Hoa Thịnh Ðốn để vinh danh 58000 tử sĩ. Một
đài tưởng niệm sắp được xây cất tại Westminster là một bước mới để vinh danh người
lính VNCH.
Nhân dân Việt Nam luôn biết ơn đối với sự hy sinh cao quý của các quân nhân
Mỹ. Tấm lòng chúng tôi xin hướng về các gia đình có thân nhân hy sinh trong cuộc chiến
bảo vệ tự do cho Việt Nam.
Các cựu chiến sĩ VNCH cũng xứng đáng được thừa nhận vì họ đã chiến đấu cho tổ
quốc, bảo vệ nhân dân và các giá trị dân tộc. Chúng tôi đã hoàn thành nghĩa vụ thiêng
liêng với đất mẹ dù trong hoàn cảnh nào. Sự thực phải được tôn trọng. Con cháu chúng ta
sẽ rất hãnh diện vì cha mẹ chúng đã chiến đấu cho Tự do và Nhân quyền.
Xin tỏ lòng cám ơn chân thành và sự kính phục đến các chiến hữu Hoa Kỳ.
Cám ơn tất cả quý vị.
Một Thời Áo Trận 142
Polwar in the
Republic of Vietnam Armed Forces
Paper presented to the 4th Triennial Symposium on Vietnam. Texas Tech University,
Lubbock, April 11-13, 2002
A. Introduction
The rise of Communism marked a great turning point of human kind. The Russian
October Revolution in 1917 and later the creation of the Soviet Union opened a new “Sad
and Bizarre Chapter of World History”, as described by President Ronald Reagan.
Thanked to the victory over the Nazi in 1945 and the occupation of Soviet army in
Eastern Europe, half a dozen new Communist countries formed a bloc that challenged the
Western democracies led by the United States. In their relentless efforts to conquer the
world, the Soviets poured in military and economic assistance to other continents to help
in their ideological war against the Free World. Later, in 1949, Mao Tse Tung, the
Chinese Communist Party, and the People's Army defeated the Nationalist Chinese and
gave birth to the People's Republic of China. With nearly one billion people, red China
posed a clear and great threat to the security of all other Asian nations.
In 1923, a young ambitious Ho Chi Minh traveled to Moscow and was assigned
the work in the Far East Bureau (Byuro Denego Vostoka, or Dalburo in short) at
Một Thời Áo Trận 143
Communist International (Comintern) headquarters. He became a leading Vietnamese
Communist and a founding member of the Indochinese Communist Party (ICP) in 1930.
Subsequently, Ho and his comrades unleashed the long lasting and bloody Indochina War
-under the banner of patriotism- to end French colonial rule in 1954 and later defeated
South Vietnam in 1975; and established a communist totalitarian government fulfilling
his task of expanding Communism to Southeast Asia.
B. Vietnam War: An Ideological War
B.1. Prior 1954: How was the nation divided? The war in Vietnam, no matter how it was named by historians and the parties
involved, was unquestionably an ideological war between North Vietnamese Communists
and South Vietnamese Nationalists. During the anti-colonialism war, knowing that the
Allied nations and the people would not support Communism, Ho Chi Minh dissolved his
Indochinese Communist Party and later renamed it Worker's Party. He also founded the
Vietnam Independence League in 1941 (Viet Minh) to include all nationalist factions in
the struggle against French domination. At the end of World War II, when Japan
surrendered in September 1945, Ho took advantage to proclaim independence, creating
the Democratic Republic of Vietnam. No sooner than he had power, Ho carried out series
of terrorist acts, even collaborated with the French and Chinese to eliminate all nationalist
elements in his front. The mass assassinations were carried out while HCM was
conducting negotiations with the French government, represented by Jean Sainteny, in
Paris and Fontainbleau. At the same time in South Vietnam, existed the State of Vietnam
under ex-king Bao Dai. With enormous military assistance from the new Communist
China, Ho Chi Minh finally defeated the French at Dien Bien Phu in May 1954.
Vietnam was then temporarily divided into two parts according to the Geneva
Accords signed in July 1954; Communists troops were to retreat to North of 17th parallel
and the French to the South where they later rendered the power to the newly established
Republic of Vietnam.
B.2. Post 1954: How was the Vietnam War started?
At the 25th
hour of the Indochina War, Ho left behind thousands of cadres in South
Vietnam countryside. Many infiltrated into South Vietnam governmental structures and
military. They married local women to build the strong familial bond and political
infrastructure at village level for future uprising. In late 1950s, they surfaced in remote
countryside to start the guerrilla war against the existing government. On order from
Hanoi, in October 1957, thirty-seven armed companies were organized. In December
1960, the 3rd Communist Party Congress in Hanoi passed a resolution focusing on three
strategic tasks: (1) to establish Socialism in the North, (2) to start the liberation war in the
South, and (3) to reunite the nation. This resulted in the creation of the National Front for
the Liberation of South Vietnam (NFL). This puppet front consisted of three bodies: (1)
the People's Liberation Armed Forces (PLAF), commonly known as Viet Cong (2) the
People's Revolutionary Party, and (3) the Provisional Revolutionary Government of the
Republic of South Vietnam (PRG). Leaders of those organizations were chosen from
Một Thời Áo Trận 144
South Vietnamese dissidents to bear the mask of a movement of South Vietnamese
people who revolted against the government and American imperialism. The real and
absolute power lied in the Central Office for South Vietnam (COSVN). The COSVN was
directly subordinated to the Central Committee of the Vietnamese Worker's Party. It was
led by members of Worker's Party Politburo (such as Le Duan, Pham Hung, and Nguyen
Chi Thanh); its members were also Worker's Party Central Committee members. After
1960, Hanoi sent regular army troops to South Vietnam via Ho chi Minh trail at the rate
of thousands per month, along with unlimited supply of weapons, ammunition and other
military equipment.
B.3. Who stole the noble causes?
Despite the war was initiated by the Communists to serve their goal to redden the
southeastern part of the globe, it was hidden under the banner of patriotic war against
Western invasion.
The common people did not know about Communism or Capitalism. To them, the
departed French expeditionary troops and the arriving American advisors looked alike.
Although the government of the Republic of Vietnam had tried so hard to lay out a new
foundation of democracy; although the 1956 constitution paved the road to freedom and
great opportunities to the people to start new life in happiness and prosperity, we could
not make the guerillas understand the real nature of the war, and could not convince the
countrymen to stop supporting the Vietcong. Besides, the non-catholic peasants who
made up 80% of the population would not support President Diem who is Catholic.
Eighty years under French colonialism resulted in division of the people in regard of
religions, localities, and ethnic and social groups. This is why President Diem rejected the
general election in 1956 as stipulated in Geneva Accords.
The Mao-authored “People's War” involved the regular armies, militiamen, and
the whole population. Communists mobilized all human and national resources to serve
the war that occurred in all aspects of life; whereas, South Vietnamese troops, trained to
fight a conventional warfare, were unable to approach the people in the enemy-controlled
territories. Even the people in the government-controlled were indifferent to the common
cause.
In many of his publications, Ho Chi Minh stated that the Vietnam War “is an
inseparable part of the world proletarian revolution.” Until their victory in 1975, North
Vietnamese Communists always denied their presence in South Vietnam. The Provisional
Revolutionary Government of Republic of South Vietnam survived only 14 months
before it was dismissed by Hanoi when the Socialist Republic of Vietnam was
proclaimed on July 2, 1976. In its fourth National Congress in December 1976, the party
renamed itself Vietnamese Communist Party (VCP) and decided to develop socialism
throughout the country. A long and gloomy night fell upon the lives of tens of millions of
South Vietnamese people. For those who had ever questioned about the noble causes, it
was too late.
Soon after the fall of Saigon in May 1975, not only the common people, but those
who had supported the Viet Cong began to realize that they were losing the most precious
Một Thời Áo Trận 145
thing: freedom. With hundreds of thousands of North Vietnamese troops deployed
throughout South Vietnam territory, the Provisional Revolutionary Government could
foresee the end of their days. The final objective of the 21-year long anti-American war
was nothing more than to establish a socialist state under the dictatorship of the
Communist party. Except for some Viet Cong who were party members, others were very
disappointed and thought they had been cheated and betrayed.
C. Polwar Activities in Vietnam War
Realizing the weakness, in 1965, South Vietnam Armed Forced adopted the
Polwar concept and structure from Republic of China Army. But this was not enough
when in the international communities and even the American public, there were lots of
misinformation and misinterpretation on what had been going on in Vietnam. The lack of
an efficient and thorough propaganda machine was one of the main causes that led to the
fall of Saigon in 1975. The Communists were much more successful than South Vietnam
in claiming the patriot flag thanks to the experienced political system in their government
and the Armed Forces. As stated by the Communist leaders after their victory in 1975:
“We did not win the war on the battlefields, but in Washington D.C.”
C.1. Role of Polwar in Communist Armed Forces
From a small insurgent group of 40 men that was named Armed Propaganda Team
in 1944, incorporated with various nationalist military units during the anti-colonialism
war, the People's Army of Vietnam (PAVN) became one of the largest armies in the
world in the last third of the 20th century. Since it was the armed tool of the party, it has
undergone consolidation to ensure its absolute loyalty to the Party. Prior to Dien Bien
Phu campaign and parallel to the land reform program in the North Vietnam countryside,
the party carried out political indoctrination to remove from the army the officers who
were from social classes other than landless peasants and laborers. Ironically, most (if not
all) of the party politburo members were from bourgeoisies and landowner classes.
Head of PAVN was a Commander-in-Chief who must be one of the top five in the
Communist Party Politburo. The Joint General Staff consisted of three general
departments: Staff, Logistics, and Politic. Beside the C-in-C, the Central Military
Commissariat was the party body in the armed forces. While the Political General
Department was in charge of administration, this Central Commissariat was in charge of
insuring the armed forces to comply with the party policy. Below it, the party was
organized into commissariats from Regional/Corps level to district/battalion level, and
cells at village militia/company levels. The secretaries of the cells and the commissars
were also political officers of the units who were responsible for the troops' morality.
Party commissars at any level had the absolute power over all military commanders. It
was they who made decisions in the units. They gave extensive motivation training,
presided over the criticism and self-criticism sessions, and conducted propaganda
programs toward the enemies and the people. The social and military activities resulted in
a tightly knit, intensely cohesive force. There was no separation between military and
political objectives in Communist army. According to Douglas Pike, most of NVA and
Một Thời Áo Trận 146
Vietcong were not Communists; and they didn't have any knowledge of Marxism. The
Political officers taught them the history of people's struggles against foreign invasions to
boost their patriotism. They believed they were fighting for independence of the
motherland and freedom of the people. Prior to any attack, they were very much well
prepared. They were motivated with heroism and examples of their comrades who had
fought bravely although seriously wounded. They were taught that they would be tortured
and brutally killed if captured. They all knew that their families back in North Vietnam
would be in big trouble if they deserted or defected to the South government. Suffering
years hiding in the jungles and swamps with primitive living standards, they had nothing
save some rice, salt, and rare fried fish. They faced everyday poisonous snakes,
mosquitoes. Terror from the skies could come at any moment unannounced and with
ferocious violence. They had no hope to return home and see their loved ones. To them,
if they won, they would have everything; but if they died, they would only lose their
miserable life. In other word, there was only one choice for the NVA troops: death or
victory.
The South Vietnam People's Liberation Army organization was similar to PAVN
except for the names and titles since the Communist party members hid their identities.
Those poor soldiers did not like Communists, but they did not know they were fighting
for Communism. In rare cases, some leaders in National Liberation Front mixed up
Nationalism with Communism. They had dreamed of an independent South Vietnam with
a much better society until they woke up after 1975.
C.2. The US Army's Psychological Operation
In early 1956, the United States began a training program to build South
Vietnamese Armed Force as a copy of its own military, mainly to prepare this young
army to fight a mid-intensity conventional war instead of a counterinsurgency war as
later occurred. The Military Advisory Group (MAG-V) or later the Military Advisory and
Assistance Group (MAAG) was the only American military presence until the first
combat troops landed in 1965. The number of US advisors increased from hundreds at
the beginning to 23500 by the end of 1964; and combat troops grew to 525000 by the end
of 1968.
Although the Vietnam War was the longest and most controversial in U.S. history,
there were not appropriate political activities targeting the American soldiers as they were
removed from their comfortable life and thrown into the bloodiest and messiest war zone.
The troops, though well motivated before departing to Vietnam, at times wondered
whether or not, their country was involved in the just cause. Trained to fight the war that
there was line between friends and enemies, they had to face the real people's war where
their enemy might be the man they just gave medicine, or the girl they slept with, or even
the little boy who asked them for candies. A peasant who just waved hand to greet them
would send a bullet to their chest from their back. The cold war they vaguely knew did
not make sense as they were sent thousands of miles away from their home to fight
against the people who they thought were doing no harm to them.
Một Thời Áo Trận 147
In addition, the American mass purposely presented the war information with bias
to favor the public that became more and more impatient and anti-war movement that
was poisoned by Communist propaganda. They exaggerated our allied forces mistakes
while covering up the enemies' wrong doings. They altered the result of some decisive
battles. Our great victory in Communist “Tet Mau Than General Offensive” was reported
as the failure in prevention of the enemy's attack.
Back to Vietnam, well aware of the important role of propaganda to “win the
hearts and minds of the people” in the war, U.S. commanders strongly supported
Psychological Operations (PSYOP) that were first co-operated with Joint U.S. Public
Affairs Organization (JUSPAO). The two missions of PSYOP were to bolster the image
of South Vietnam government and to carry out the Chieu Hoi (Open Arms) program.
Basically, PSYOP targeted (1) the Vietcong in the South, (2) North Vietnamese
regular troops, (3) civilians of North Vietnam, and (4) civilians of South Vietnam.
In 1967, the 4th PSYOP group became active with four battalions directly
supporting U.S. and Allied forces in each of four tactical zones. These units got involved
in pacification and stability operations by providing the people with medical assistance,
distributing leaflets and posters, showing movies, conducting public opinion polls and
gathering information on enemy weapons, food caches and intelligence on the local
Vietcong infrastructure. The U.S. Special Forces played an important role in PSYOP
among the indigenous Montagnard tribes of Central Highlands.
In “Cease Resistance: It's Good for You,” Stanley Sandler pointed out weaknesses
in U.S. PSYOP. Less than 40% of PSYOP personnel were PSYOP trained; U.S. soldiers
served a one-year tour and returned to the States just as they began to understand how
things worked in Vietnam; and the combat commanders were often unaware of the
mission or value of PSYOP. He concludes, “The U.S. PSYOP effort in Vietnam can be
termed a substantial, albeit temporary, success.”
C.3. Polwar in South Vietnamese Armed Force
From 1949 to 1955 (Vietnam National Army)
Vietnam National Army (VNA) was established in 1949 to fight against the
Communist-controlled Vietminh. The army of 150000 men initially was controlled by the
French and equipped with obsolete weapons. Despite the history of a thousand years of
fighting the Chinese to survive, a military career in Vietnam was ranked at the bottom
layer of the five social classes (scholars, farmers, workers, merchants, and soldiers).
Those who served the VNA neither liked the French, nor the puppet chief of state Bao
Dai. During this period, the only PSYOP was Action Morale conducted by French Army
J5.
From 1955 to 1965 (The Republic of Vietnam Armed Forces)
In 1955, Ngo Dinh Diem ousted Bao Dai after a referendum and proclaimed the
Republic of Vietnam. Vietnam National Army was transformed and renamed the
Republic of Vietnam Armed Forces. When the French left, this army had to rebuild from
only four indifferently trained divisions and a small group of inexperienced officers and
Một Thời Áo Trận 148
NCOs. The Americans took over the training programs and provided generous military
assistance to model Vietnamese Armed Forces after the U.S. Army.
The French army's J-5 (Action Morale) was the only body responsible for
psychological activities. In 1954, Lt Colonel Edward Lansdale, well known for his
success in resisting “People's War” in the Philippines, was accepted by Vietnam as
principal advisor. Lansdale defined civic action as “essentially the brotherly behavior of
troops along lines taught by Mao and Giap to their troops.” (232) He also “stressed the
fundamental importance of constructing 'a sound political basis first' to give meaning to
the other required actions.” (Spector, 356) Lansdale suggested extra and special efforts
from the U.S. and Vietnam in psychological warfare in order to win the war. He later
became an advisor to and friend of President Diem.
One of Lansdale works was the establishment of the Psychological Warfare
Directorate under South Vietnamese Department of National Defense.
The Joint General Staff (JGS) was the highest body that carried out administration
and planning functions of the ARVN. At all levels of the ARVN hierarchy, there were
Psywar offices (J-5) and sections (S-5) to carry out the psychological operations. But
those activities were limited to news broadcasting, publication, movie showing, and
cultural performance. The Psywar officers were selected from the disfavored and
incompetent from the commanders' viewpoint.
From 1965 to 1975 (The Republic of Vietnam Armed Forces) Since 1965, the armed forces were reorganized. The Joint General Staff (JGS) still
consisted of five functional elements. But they were now each headed by a deputy Chief
of JGS: Operations, Personnel, Logistics, Training, and Political Warfare. The last three
elements were organized into General Departments and had their own staffs and sub-
organizations.
Based on the concept of Political Warfare that consisted of six formats of war:
Ideological warfare, Organizational warfare, Psychological warfare, Intelligence warfare,
Stratagem warfare, and Masses Motivation warfare, Political Warfare General
Department (PWGD) was organized with its five departments, a Polwar College each
functioning as follow:
1.- Political Indoctrination Department took charge of boosting morale and
patriotism of the troops. It oversaw a Polwar cadre training center and a dozen of action
teams that provided the troops with political education incorporated in short
entertainment programs.
2.- Psywar Department focused on the enemy propaganda and civic actions. Its
activities also included news and entertainment programs for the military. It had a Central
Cultural Group with about one hundred men and women, many of them were famous
singers, actors, actresses, dancers drafted into the armed forced.
3.- Social Service Department was responsible for housing, school, and medical
programs for the troop families. It had a Women Social Service Assistant School with
both officer and NCO programs. At the family quarters, these women assistants took
good care of the wives and children of the soldiers. They frequently visited the wounded
Một Thời Áo Trận 149
soldiers at hospitals and helped the families of the KIA's. This department oversaw three
Chaplaincies (Catholic, Buddhist, and Protestant)
4.- Military Security Department supervised all counterintelligence and security
activities. Although it was under the Polwar General Department, it acted independently
and was the most powerful body in military community. It focused more on domestic
security to prevent the infiltration of the enemies into the armed forces and failed its
mission to an appalling degree.
5.- Army Post Exchange and Commissary provided the troops with tax-free
necessary goods. Servicemen and women, depending on his/her family status, could buy
food, cigarettes, and household utensils at prices from 30 to 50% lower than the market
prices.
6.- The Polwar College, established in late 1966 when the leadership realized the
urgent need for a young generation of polwar cadres who would handle effectively the
political activities in the armed forces. Prior to the Polwar College, there was a Polwar
Training Center for existing soldiers who had been or would be polwar cadres.
The Polwar College recruited young men who had High School Diploma through
an entry examination. It conducted a two-year program and awarded graduates a regular
commission and the rank of second lieutenant. The curriculum heavily focused on social
and political sciences. The cadets were trained at National Military Academy with
platoon leader program and some company level tactical training. They studied Marxism,
Communism, contemporary history of conflicts and Polwar techniques. After graduation,
the young lieutenants were assigned double tasks as vice-commander and Polwar officer
at combat companies, or chief of Polwar section at district level military sub-sector. The
first class graduated in May 1969 followed by 5 more classes before the war ended in
1975. Polwar College produced about 200 officers per class every other year.
The Polwar College also provided with different levels of training sessions from
basic to advanced to existing Polwar officers.
D. Advantages and Disadvantages
D.1. Advantages The Polwar organization was reformed thanks to assistance of advisors from
Chinese Nationalist Army. The defeat in 1949 taught the Chinese bitter lessons on how to
deal with Communism and they were eager to pass them down to Vietnam, their closest
ally. Also, thanks to Chieu Hoi (Open Arms) program, we could learn valuable lessons
from defectors who had been high-ranking officers in Communist army intelligence and
political services.
There were notable progresses after Polwar activities were initiated. Regional and
Popular forces became more active and efficient in pacification campaigns to uproot the
Vietcong infrastructure. Prior to the beginning of Paris Peace Talks, the first class cadets
were sent to work with all four tactical zones regional forces to boost their morality to
back the government stand point.
South Vietnam infantry, being free from territorial defense, could take part in big
offensive operations with the air support from U.S forces. Fifth Infantry was a proof of
Một Thời Áo Trận 150
the change. The “Chan Troi Moi” (New Horizon) campaign starting 1968 reversed this
weakest division into the second strongest one thanks to the talented commanding
officers and the first wave of Polwar College graduates. Graduates from Polwar College
were well trained and motivated. They were capable both in military and Polwar careers.
Many of them became successful combat unit commanders.
D.2. Disadvantages
Lack of support from the U.S.
Since Polwar had no equivalent in U.S. Armed Forces structure, there was little
money allocated to Vietnamese Polwar General Department from U.S. military assistance
budgets for Psyop. That was why Vietnam army incorporated PX and Commissary into
Polwar in order to get more financial support. The differences in cultures prevented the
U.S. advisors from understanding what were going on out there in the so-called people's
war invented by Mao and Giap. Lacking financial and advisory support from the big ally
made Polwar inferior to other branches in the armed forces and also prevented it from
implementing many important projects.
Responsibilities vs. authorities
For nearly half of a century, the South Vietnamese soldiers had been at war. They
fought the French, Japanese, Viet Minh, and then the Viet Cong and North Vietnamese.
Though they were drafted for a three-year term, they kept fighting long after their
American counterparts had gone home after a one-year tour in Vietnam. Tim Page was
right when he described in The Vietnam Experience: “Conditions of service were poor.
Their diet consisted of rice, dried fish and vegetable soup. For amusement, there was
once in a while some rice brandy, playing the lottery, the occasional movies etc” (99) The
soldiers were underpaid and had burden of their families that totally depended on this
small amount of money. There was little thing that the Polwar officers could do. The
housing and schooling programs could help only a very small percent of the needy.
Beside 15 days of annual leave, the soldiers were entitled to occasional leave for
family problems. But in reality, these privileges were restricted due to the need of
strength for operation or fear of desertion. In 1966 the desertion rate was the highest
(20%). A South Vietnamese infantry company, at its peak, had about 100 men, of them a
dozen had not been recovered from wounds or serious illness. Thus it had to perform the
task of a unit with full strength.
Unlike in North Vietnamese army where the political officers were Communist
party members and had power that superseded the authority of the unit commanders,
South Vietnam army Polwar officers did not affiliate to any party and hence had no
authority. At company level, they were second to the commanders; but at higher levels,
their voice was the weakest one in the staff. The majority of the commanding officers
were not aware of the importance of Polwar activities. Besides, the old Polwar officers
who had little knowledge of political problems were another obstruction to the new
officers' innovative and proactive projects. Polwar officers also were very anxious about
their promotion and advancement compared to officers of other branches.
Political disorder - Corruption -Leadership Incompetence
Một Thời Áo Trận 151
Although in the wartime and facing the dangerous enemies, the South Vietnamese
leaders were unable to establish stability in domestic politics. They fought each other for
power, and put in high positions those who they favored instead of those who were
competent. Thieu, right after ARVN victories in summer 1972, headed the spear against
his political opponents. He founded Vietnamese Democratic Party as the ruling party
although it had no foundation and supports. Corruption was so serious in all levels of the
armed forces. Good and safe positions could be bought with money. Consequently, those
people would abuse power to take back money, or worse, to make their own fortune. The
phenomenon of “ghost soldiers” was not uncommon in infantry and regional forces. The
graduating cadets of 4th Polwar class who were sent to 4th Corps tactical zone did an
excellent job to audit and investigate throughout the regional force that resulted in
removal of the corps commander and his accomplices. In these situations of corruption
and power dispute, it was difficult to convince the soldiers that they were fighting for the
country and the people.
E. Conclusions
Compared to the experienced political system in North Vietnamese army, the
Polwar organization in ARVN was loose and inefficient. The cadres were powerless and
were not supported by the leadership. Even with the superior military and efficient
Polwar action, we could hardly win the war if the inner enemies gained ground from our
mistakes. Polwar must go along with a strong and stable political system.
For both America and Vietnam, misinformation was the serious problem that
caused the governments to lose the support of the people. Communists took advantage of
our freedom of speech to launch psywar campaign right on our soil while their society
was inaccessible to our polwar activities.
The Republic of Vietnam government information system and the armed forces
Polwar failed to unmask Ho Chi Minh and his followers. More seriously, we made a lot
of mistakes that altered the situation. After the Tet Mau Than general offensive,
especially the early years of 1970s, the South Vietnam Armed Forces was in its maturity.
Eighty to ninety percent of Vietcong infrastructure was exposed and destroyed; tens of
thousands of North Vietnamese troops killed in the bloodiest battles throughout the
country. The survivors were pushed back to their secret zones in Cambodia. If the
government took advantages of the victory to consolidate, improve the social security
system to serve the people better, improve the living standard of the soldiers and their
families, treat the “Hoi Chanh Vien” (Vietcong defectors) nicely, Communist troops
would have had no place to set their feet.
In his 1973 report, Professor Nguyen Van Canh - one of the highest Dai-Viet party
members - gave an urgent warning to the government that the Vietcong in 4th tactical
zone had regrouped. Their units, not heard for years after 1968, now reinforced by
hundreds of “Hoi Chanh Vien” and South Vietnamese infrastructure agents who had
become victims of the unjust treatment by the local authority. His warning fell on the
deaf
Một Thời Áo Trận 152
ears of President Nguyen Van Thieu who was more interested in defending his
own political image and influence instead of defending the nation toward a more serious
threat. Thieu ignored the warning because he was dealing with anti-corruption
movements led by the press and his rivals in the congress.
Corruption was another reason that weakened the armed forces. The North
Vietnamese had their own problems that were not less serious; but they could cover up
these thanks to the state-controlled information system.
In late 1972, Hanoi almost collapsed after the intense Linebacker bombing.
Nixon's decision to stop bombing and resume peace talks gave North Vietnam a golden
chance to rebuild its forces and reverse the situation. Honestly speaking, the U.S. and
South Vietnam did not know the enemy enough to have the timely decisive action to win
the war.
However, political warfare is always an essential factor in wars that involve
ideologies. It is an issue that must be addressed and strongly supported by the leadership.
((
Acknowledgements
I would like to thank ex-Colonel Hoang Minh Hoa, Christopher Jenner, and my
former Polwar schoolmates for their advice and support. Special thanks to Dr. James
Reckner and his staff at Vietnam Center, Texas Tech University, who provide good
opportunities for South Vietnamese to present their perspective on the Second Indochina
War.
Bibliography
Bullard, Monte R., Political cadre System in the Military. Student paper. Fort
Leavenworth, KS: U.S. Army Command and Staff College, June 1970.
Clark, Jeffrey J. Advice and Support: The Final Year, The U.S. in Vietnam.
Washington, DC: U.S. Government Printing Office, 1988.
Lansdale, Edward G., In the Midst of the War: An American's Mission to
Southeast Asia, NY: Harper & Row, 1972.
Page, Tim and John Pimlott, eds. The Vietnam Experience 1965-1975, NY:
Barnes & Noble Inc., 1995.
Pike, Douglas E., PAVN: People's Army of Vietnam, CA: Presidio Press, 1986.
Sandler, Stanley. 'Cease Resistance: It's Good for You.' A History of U.S. Combat
Psychological Operations. Fort Bragg, NC: U.S. Army Special Operation Command, n.d.
Shaplen, Robert. The Lost Revolution: The U.S. in Vietnam, 1946-1966. NY:
Harper and Row, 1966
Spector, Ronald H. Advice and Support: The Early Years, The U.S. Army in
Vietnam. Washington, DC: U.S. Army Center of Military History, 1983.
Tucker, Spencer, ed. The Encyclopedia of the Vietnam War. NY: Oxford
University Press, 1998.
Một Thời Áo Trận 153
Phái đoàn VN (phe Quốc Gia) chụp chung với ông Lưu Văn Lợi đại diện CSVN (hàng ngồi bên
phải). Cựu Đại Tướng Nguyễn Khánh ngồi giữa cô gái và vị Đại Đức.
Hoạt Ðộng Chiến Tranh Chính Trị Trong
Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
(Dịch lại bài thuyết trình tại Hội luận về Việt Nam lần thứ 4, Ðại học Texas Tech,
Lubbock, tháng 4, 2002)
A.- Dẫn Nhập
Sự ra đời của chủ nghĩa Cộng sản đánh dấu một khúc quanh lớn của lịch sử nhân
loại. Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 và theo sau đó, sự thành lập Liên Bang Sô
Viết mở ra một “chương buồn thãm và kỳ quái trong lịch sử thế giới,” theo lời của Tổng
thống Ronald Reagan.
Nhờ vào sự chiến thắng đối với Ðức Quốc Xã năm 1945 và sự chiếm đóng của
quân đội Sô viết trên các nước Ðông Âu, nửa tá quốc gia Cộng Sản mới ra đời đã hình
thành một khối liên kết để thách thức nền dân chủ Tây phương mà Hoa Kỳ là quốc gia
lãnh đạo. Với những nỗ lực kiên trì nhằm chinh phục thế giới, Liên Sô đã tuôn đổ viện
trợ quân sự và kinh tế vào các nước trên năm châu để thúc đẩy cuộc chiến tranh ý thức hệ
chống lại thế giới tự do. Năm 1949, Mao Trạch Ðông lãnh đạo đảng Cộng sản Trung Hoa
và Quân Ðội Giải Phóng đánh bại Quốc Dân Ðảng, khai sinh nuớc Cộng Hoà Nhân dân
Trung Hoa. Với gần môt tỷ dân số, nước Trung hoa đỏ trở thành một mối đe dọa rõ ràng
và nghiêm trọng đối với nền an ninh của các nước Á Châu.
Năm 1923, Hồ Chí Minh, một thanh niên đầy tham vọng, đến Moscow và được
chọn vào làm việc tại Văn phòng Viễn Ðông trực thuộc hành dinh của Quốc tế Cộng sản.
Ông ta sau này trở thành nhân vật lãnh đạo và thành lập Ðảng Cộng sản Ðông Dương
năm 1930. Hậu quả là Hồ và các đồng chí đã phát động những cuộc chiến tranh Ðông
Một Thời Áo Trận 154
Dương đẫm máu trong nhiều thập niên - dưới chiêu bài ái quốc- lật đổ chế độ thực dân
Pháp năm 1954 và thôn tính Miền Nam năm 1975; xây dựng một nhà nuớc chuyên chính
Cộng sản để hoàn thành sứ mạng bành trướng chủ nghĩa Cộng sản tại Ðông Nam Á.
B.- Chiến Tranh Việt Nam Là Một Cuộc Chiến Tranh Ý Thức Hệ.
B1. Giai đoạn trước năm 1954: Ðất nước đã bị chia đôi như thế nào. Cuộc chiến tại Việt Nam - bất luận nó được các sử gia và các bên tham chiến gọi
tên như thế nào - là một cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa những người Cộng sản miền Bắc
Cộng sản và những người Quốc gia miền Nam. Trong suốt giai đoạn chiến đãu chống
thực dân, Hồ Chí Minh đã tuyên bố giải tán đảng Cộng sản Ðông Dương vì ông biết rằng
các nước đồng minh và nhân dân ta không hề ủng hộ Cộng sản. Sau đó ông cải danh cho
nó là Ðảng Lao Ðộng. Hồ cũng thành lập Việt Nam Ðộc Lập Ðồng Minh Hội (gọi tắt là
Mặt trận Việt Minh) năm 1941, trong đó quy tụ các thành phần quốc gia yêu nước để
chiến đấu chống lại nền đô hộ của Pháp. Khi Ðệ Nhị Thế Chiến chấm dứt với sự đầu
hàng của Nhật bản vào tháng 9 năm 1945, Hồ chớp lấy cơ hội để tuyên bố độc lập và
thiết lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà. Lập tức ngay sau khi cầm quyền, Hồ cho
tiến hành hàng loạt các hoạt dộng khủng bố - không từ thủ đoạn cấu kết với Pháp và
Trung Hoa - nhằm tiêu diệt các phần tử Quốc gia trong Mặt trận. Những cuộc ám sát tập
thể diễn ra ngay khi Hồ đang thương lượng với Cao ủy Pháp Jean Sainteny tại Paris và
Fontainebleau. Cũng trong thời điểmđó, tại miềm Nam có sự hiện hữu của Quốc gia Việt
Nam dưới quyền của cựu hoàng Bảo Ðại. Với sự viện trợ quân sự dồi dào của Trung
Cộng, Hồ Chí Minh sau cùng đã đánh thắng quân Pháp tại Ðiện Biên Phủ vào tháng 5
năm 1954. hội ệp định Geneve tháng 7, 1954 chia cắt lãnh thổ Việt Nam làm hai quốc gia
có hai thể chế đối nghịch. Nó cũng quy định việc rút quân đội Cộng sản về phiá Bắc Vĩ
tuyến 17, và quân đội Pháp vào Nam để sau đó Pháp trao quyền lại cho một nước Cộng
Hoà Việt Nam tân lập.
B2. Thời kỳ sau 1954: Chiến tranh đã phát khởi từ đâu?
Thay vì rút hết quân ra Bắc, Hồ Chí Minh đã để lại hàng ngàn cán bộ nằm vùng tại
các thôn xóm miền Nam. Nhiều người còn thâm nhập vào guồng máy chính quyền và
quân sự. Những cán bộ nằm vùng lấy vợ miền Nam để tạo mối quan hệ gia đình và cơ sở
chính trị chuẩn bị trước cho các cuộc nổi dậy về sau này. Cuối thập niên 1950, họ lác đác
xuất hiện tại các vùng hẻo lánh và khởi động chiến tranh du kích chống lại chính quyền
đương kim. Tháng 10 năm 1957, theo lệnh của Hà Nội, họ tổ chức 37 đại đội quân có vũ
trang. Vào tháng 12 năm 1960, Ðại hội toàn quốc lần thứ Ba đảng Lao Ðộng họp tại Hà
Nội ban hành nghị quyết nhắm vào ba mục tiêu chiến lược: (1) Xây dựng chủ nghĩa xã
hội tại miền Bắc, (2) Tiến hành chiến tranh giải phóng miền Nam, và (3) tiến tới thống
nhất đất nước. Nghị quyết này đưa đến sự thành lập Mặt trận Giải phóng Miền Nam Việt
Nam. Mặt trận bù nhìn này có ba cơ quan (1) Giải phóng quân miền Nam, (2) Ðảng Nhân
dân Cách mạng, và (3) Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà Miền Nam Việt Nam.
Những người cầm đầu các tổ chức này được lựa chọn từ các nhân vật bất mãn tại miền
Nam để chúng có thể mang một mặt nạ kháng chiến của dân chúng miền Nam nổi lên
chống lại chính quyền và xâm lược Mỹ. Trên thực tế, quyền hành tối cao nằm trong tay
Một Thời Áo Trận 155
Trung Ương Cục miền Nam, là một cơ quan lệ thuộc Trung ương đảng Lao động Việt
Nam. Nó được lãnh đạo bởi các ủy viên cao cấp trong bộ Chính trị đảng như Lê Duẫn,
Phạm Hùng, Nguyễn Chí Thanh, vân vân. Các thành viên Trung Ương Cục cũng là các
uỷ viên ban Chấp hành Trung Ương đảng. Sau 1960, Hà Nội chuyển quân chính quy vào
miền theo đường mòn Hồ Chí Minh với mức độ hàng ngàn quân trong một tháng, cùng
với cơ man nào là vũ khí, đạn dược, và các quân dụng khác.
B3. Ai đã đánh cắp Chính nghĩa Dân tộc?
Mặc dù cuộc chiến tranh do những người Cộng sản khởi động để phục vụ cho mục
tiêu nhuộm đỏ phần đất Ðông Nam Á Châu, nó đã đươc ngụy trang bằng chiêu bài chiến
tranh ái quốc chống lại xâm lăng từ phương Tây. Người dân Việt Nam hoàn toàn xa lạ
với chủ nghĩa Cộng sản hoặc Tư bản. Ðối với họ, những người Pháp đã ra đi và những
người Mỹ mới đến cũng giống nhau. Mặc dù chính phủ Việt Nam Cộng Hoà đã hết sức
cố gắng để xây dựng một nền móng dân chủ; mặc dù hội ến pháp năm 1956 đã dọn con
đường đi đến tự do, và tạo mọi cơ hội cho người dân để bắt đầu một cuộc sống mới hạnh
phúc và đầy đủ; chính phủ miền Nam vẫn không thể nào làm cho những người du kích
hội ểu được bản chất cuộc chiến, và cũng không thuyết phục được người dân quê để họ
ngừng yểm trợ cho Việt Cộng. Ngoài ra, một tỷ lệ dân số 80% không theo đạo Thiên
chúa không sẵn lòng ủng hộ Tổng thống Diệm vì ông là người theo Thiên chúa giáo. Tám
mươi năm triền miên dưới chế độ thực dân Pháp đã đưa đến sự phân hoá trong các tầng
lớp dân chúng trên cơ sở tôn giáo, địa phương, chủng tộc, và giai tầng xã hội. Chính vì lý
do này, mà Tổng thống Diệm đã từ chối không tiến hành tổng tuyển cử năm 1956 theo
quy định của hội ệp dịnh Geneve.
Hình thái Chiến tranh Nhân dân do Mao Trạch Ðông đẻ ra bao gồm cả quân đội,
dân binh và toàn thể các tầng lớp dân chúng. Cộng sản huy động tất cả tài nguyên nhân
vật lực để phục vụ cho cuộc chiến bao trùm lên mọi lãnh vực của cuộc sống. Trong khi
đó, Quân lực Việt Nam Cộng Hoà, được huấn luyện để chiến đãu trong cuộc chiến tranh
quy ước, đã khó tiếp cận được với dân chúng trong vùng địch kiểm soát. Ngay cả dân
chúng trong vùng quốc gia cũng thờ ơ với cuộc chiến.
Hồ Chí Minh, trong nhiều bài viết đã khẳng định chiến tranh Việt Nam “là một bộ
phận không thể tách rời được của cuộc cách mạng vô sản thế giới.” Thế nhưng Cộng sản
luôn luôn chối cãi về sự hiện diện của họ tại miền Nam cho tới sau khi họ đã chiếm được
miền Nam năm 1975. Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hòa miền Nam chỉ sống
thêm được 14 tháng trước khi bị Hà Nội khai tử bằng sự khai sinh nước Cộng hoà Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam ngày 2 tháng 7 năm 1976. Trong Ðại hội toàn quốc lần thứ 4 vào
tháng 12 năm 1976, đảng đã lấy lại danh xưng Ðảng Cộng sản Việt Nam và quyết định
xây dựng “Chủ nghĩa Xã hội” trên toàn quốc. Thế là một màn đêm ảm đạm vô tận đã
trùm lên cuộc sống và tương lai hàng chục triệu dân miền Nam. Ðối với những ai còn
hoài nghi về chính nghĩa, thì đã quá muộn màng.
Không lâu sau ngày miền Nam thất thủ, không chỉ quần chúng bình thường, mà
ngay cả những người từng ủng hộ Việt Cộng đã bắt đầu nhận thức rằng họ đang mất một
điều quý giá nhất trong đời. Ðó là Tự Do. Với hàng trăm ngàn quân chính quy Bắc Việt
chiếm đóng trên toàn lãnh thổ miền Nam, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã thấy trước
Một Thời Áo Trận 156
được ngày cuối cùng của họ. Mục tiêu cuối cùng của cuộc chiến kéo dài 21 năm chỉ là để
hình thành một nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự độc tài toàn trị của đảng Cộng sản.
Ngoại trừ vài thành viên mặt trận là đảng viên Cộng sản, những người còn lại đã thất
vọng thấy mình bị lừa bịp và phản bội.
C.- Hoạt Ðộng Chiến Tranh Chính Trị Trong Chiến Cuộc Việt Nam
Nhận
rõ yếu điểm
của mình,
năm 1965,
Quân Lực
Việt Nam
Cộng Hoà thu
nhận khái
niệm và cơ
cấu Chiến
Tranh Chính
Trị (CTCT)
trong Quân
đội Trung
Hoa Quốc
Gia. Nhưng như thế vẫn chưa đủ, vì trong công luận của cộng đồng thế giới và ngay cả
Hoa Kỳ, đã có sự thông tin bị bóp méo theo thiên kiến về diễn tiến tại Việt Nam. Sự thiếu
sót một guồng máy tuyên truyền hữu hiệu và quán triệt là một trong những nguyên nhân
chính dẫn dến sự thất bại của Việt Nam Cộng Hoà. Phiá Cộng sản thành công hơn trong
việc cướp lấy chính nghĩa nhờ hệ thống hoạt động chính trị đầy kinh nghiệm trong chính
phủ và quân đội của họ. Theo lời những nhà lãnh đạo Cộng sản sau chìến thắng 1975:
“Chúng tôi không thắng ở chiến trường, mà thắng ngay tại Washington D.C.”
C1. Vai Trò Chính Trị Trong Quân Ðội Cộng Sản.
Từ một nhóm nhỏ nhoi gồm 40 người trong Ðội Tuyên truyền Giải phóng quân
thành lập năm 1944, với sự sáp nhập của các đơn vị kháng chiến quốc gia khác trong quá
trình chống Pháp, Quân đội Nhân dân Việt Nam (QÐND) đã trở thành một trong những
đội quân lớn trên thế giới vào cuối thế kỷ 20. Là một công cụ bạo lực của đảng Cộng sản,
nó luôn được củng cố để bảo đảm sự tuyệt đối trung thành đối với đảng. Trước khi khởi
sự chiến dịch Ðiện Biên Phủ, và song song với chiến dịch cải cách ruộng đất tại miền quê
Bắc Việt, đảng đã phát động chương trình chỉnh huấn để loại bỏ các sĩ quan không thuộc
thành phần bần nông vô sản và lao động. Oái oăm thay, hầu hết (nếu không là tất cả) các
lãnh tụ trong BộChính trị Cộng sản đều thuộc các giai cấp tư sản và địa chủ!
Tổng tư lệnh Quân đội Nhân dân thường là một trong 5 người cao cấp nhất trong
Bộ Chính trị. Bộ Tổng tham mưu QÐND có ba Tổng cục: Tham mưu, Hậu cần, và Chính
Một Thời Áo Trận 157
trị. Bên cạnh bộ Tổng tư lệnh có Ban Bí thư Quân ủy Trung ương là cơ quan đảng. Tổng
cục Chính trị chỉ là cơ quan có tính chất hành chánh. Quân ủy Trung ương mới là cơ quan
lãnh đạo để bảo đảm quân đội theo đúng chính sách do đảng ban hành. Theo hệ thống
hàng dọc, bên dưới là các đảng ủy quân đoàn/ quân khu, sư đoàn, trung đoàn/tỉnh đội,
vân vân. Cấp nhỏ nhất là các chi bộ đảng, tổ đảng cấp đại đội/xã đội. Các bí thư chi bộ,
đảng bộ thường kiêm luôn sĩ quan chính trị (chính ủy hay chính trị viên) của đơn vị. Họ
chịu trách nhiệm về tinh thần binh sĩ trong đơn vị. Các bí thư đảng ủy luôn luôn có quyền
hành tuyệt đối, cao hơn các trưởng đơn vị. Họ là những người quyết định công việc của
đơn vị. Họ tổ chức các chương trình chính huấn, động viên tinh thần; chủ trì các buổi phê
bình và tự phê bình; phát động tuyên truyền nhắm về địch và quần chúng. Các hoạt động
quân sự và xã hội tạo thành một mối liên quan chặt chẽ. Trong quân đội Cộng sản,
không có sự cách biệt giữa các mục tiêu chính trị và quân sự. Theo Giáo sư Douglas Pike,
hầu hết binh sĩ trong quân đội nhân dân miền Bắc và Giải phóng quân miền Nam không
phải là Cộng sản. Họ không biết gì về chủ nghĩa Mác Xít. Các chính trị viên dạy họ về
lịch sử đãu tranh của dân tộc chống ngoại xâm để khích động tinh thần ái quốc. Cho nên
những người lính này tin rằng họ đang chiến đấu cho độc lập của tổ quốc và tự do của
người dân. Họ được chuẩn bị rất kỹ càng trước khi tham gia các cuộc tấn công. Họ được
khích động bởi chủ nghĩa anh hùng qua các tấm gương của những đồng chí đã chiến đấu
dũng cảm dù bị thương tích trầm trọng. Người ta dạy cho họ biết nếu để bị bắt, họ sẽ bị
địch tra tấn và giết chết một cách dã man. Họ cũng biết rằng gia đình thân quyến của họ
sẽ gặp sự phiền lụy nếu họ đào ngũ hay chạy về với chính phủ miền Nam. Họ chịu đựng
những năm dài trốn tránh trong các rừng rậm hay khu sình lầy với mức sống rất sơ khai.
Thức ăn chỉ toàn gạo muối, lâu lâu có chút cá khô. Họ đối diện ngày đêm với rắn độc,
muỗi mòng, và sự kinh hoàng của bom đạn từ trên trời cao có thể rơi xuống bất cứ lúc
nào và gieo sự hủy diệt. Họ chẳng có chút hy vọng nào trở về với những người thân yêu.
Ðối với họ, sự thắng trận đem lại tất cả; bằng ngược lại, cái chết chỉ là sự giải thoát khỏi
một cuộc sống khốn khổ. Nói cách khác, họ chỉ có một sự lựa chọn độc nhất: Thắng trận
hay là chết.
Tổ chức của quân giải phóng miền Nam cũng tương tự như quân đội nhân dân
miền Bắc ngoại trừ sự sử dụng các danh xưng, vì các đảng viên Cộng sản dấu nhẹm lai
lịch đảng của họ. Những người giải phóng quân này chẳng ưa gì Cộng sản, và họ không
hay biết rằng họ đang chiến đấu cho chủ nghĩa Cộng sản. Trong nhiều trường hợp, các
lãnh tụ mặt trận Giải phóng lẫn lộn giữa Quốc gia và Cộng sản. Họ mơ ước đến một miền
Nam độc lập với một chế độ xã hội tốt đẹp cho đến khi bừng tỉnh sau năm 1975.
C2. Hoạt Ðộng Tâm Lý Chiến Trong Quân Ðội Hoa Kỳ
Vào đầu năm 1956, Hoa Kỳ bắt đầu huấn luyện cho Quân đội Việt Nam Cộng hoà
theo khuôn mẫu của họ; mà chủ yếu là chuẩn bị cho đội quân non trẻ này để đương đầu
với một cuộc chiến quy ước ở tầm vóc trung bình, thay vì cho cuộc chiến chống nổi loạn
mà sau này đã xảy ra. Phái bộ Cố vấn Hoa Kỳ (MAG-V) sau này là Bộ Tư lệnh Viện trợ
và Cố vấn (MAAG) là cơ quan độc nhất của quân đội Mỹ hiện diện ở miền Nam trước
khi có cuộc đổ quân chiến đấu vào năm 1965. Từ con số vài trăm lúc ban đầu, nhân viên
Một Thời Áo Trận 158
cố vấn Mỹ gia tăng lên 23500 vào cuối năm 1964; và quân chiến đấu gia tăng lên mức
cao nhất là 525000 vào cuối năm 1968.
Mặc dù chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến lâu dài nhất và cũng mang lại
nhiều tranh luận nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, quân đội Mỹ không có các hoạt động chiến
tranh chính trị tác động vào binh sĩ của họ -là những thanh niên đang từ giã cuộc sống
tiện nghi để lao vào một chiến trường đẫm máu và phức tạp nhất. Dù họ ý thức được
nhiệm vụ mình, nhưng đôi lúc cũng băn khoăn không rõ về chính nghĩa của cuộc chiến.
Họ được huấn luyện để đánh trong trận chiến có ranh giới bạn, địch rõ rệt; nay lại phải
đương đầu với thứ chiến tranh nhân dân khi mà một người dân bình thường mới vẫy tay
chào trước mặt đây, nhưng vừa quay đi đã bắn phát súng vào lưng mình. Kẻ thù của anh
có thể là cô gái mới ngủ với anh đêm qua, có thể là em bé mà anh vui vẻ phân phát những
viên kẹo. Anh mơ hồ về cuộc chiến tranh lạnh mà anh phải rời xa gia đình êm ấm hàng
ngàn dặm để đánh nhau với những người mà anh tưởng là vô hại đối với anh.
Thêm vào đó, các cơ quan truyền thông đại chúng tại Mỹ đã loan những tin tức sai
lạc có dụng ý nhằm lôi cuốn thính giả là những ngườì càng lúc càng tỏ ra thiếu kiên nhẫn
với cuộc chiến lâu dài, những phong trào phản chiến. Lại thêm tuyên truyền xuyên tạc
của phía Cộng sản.
Báo chí Mỹ đã phóng đại những sai sót của quân đội đồng minh trong khi che đậy
những tội ác của Cộng sản. Họ sưả đổi kết quả các trận đánh lớn. Chiến thắng rực rỡ của
chúng ta trong trận Mậu thân đã bị xuyên tạc thành sự thất bại vì bị xem là không tiên
đoán được cuộc tấn công của Cộng quân.
Trở lại Việt Nam, các cấp chỉ huy trong quân đội Mỹ ý thức được vai trò quan
trọng cuả tuyên truyền nhằm thu phục nhân tâm. Họ hết lòng ủng hộ các hoạt động chiến
tranh tâm lý (PSYOP) mà quân đội phối hợp với sở Thông tin Hoa Kỳ (JUSPAO). Hai
mục tiêu chính của Psyop là nhằm giới thiệu các mặt mạnh của chính phủ Việt Nam
Cộng Hòa, và chương trình Chiêu hồi nhắm kêu gọi cán binh Cộng sản về với Quốc gia.
Psyop, về căn bản, nhắm vào các đối tượng là binh lính Việt Cộng, bộ đội Bắc Việt, và
thường dân ở cả hai miền.
Năm 1967, Liên đoàn 4 Tâm lý chiến có 4 tiểu đoàn bắt đầu hoạt động yểm trợ
trực tiếp quân đội Hoa Kỳ và Ðồng minh tại 4 vùng chiến thuật. Họ tham gia vào các
cuộc hành quân bình định bằng các dịch vụ y tế, phân phát truyền đơn, bích chương,
chiếu bóng, tham khảo dư luận, và thu lượm tin tức về vũ khí, nơi cất dấu lương thực, hạ
tầng cơ sở cuả địch quân. Các đơn vị Lực lượng Ðặc biệt Mỹ hoạt động tâm lý chiến
nhắm vào các người thiểu số cao nguyên Trung phần.
Trong cuốn sách “Cease Resistance: It's Good for You,” Stanley Sandler vạch ra
yếu điểm của Tâm lý chiến Hoa Kỳ. Theo ông, chỉ có không đến 40% nhân viên Tâm lý
chiến được huấn luyện về nghành của mình; quân nhân Mỹ chỉ phục vụ 1 năm tại Việt
Nam, như thế chưa đủ thì giờ cho họ hiểu biết tình hình; các sĩ quan chỉ huy chiến đấu
Mỹ không thông hiểu về nhiệm vụ và giá trị của Tâm lý chiến. Ông kết luận: “Hoạt động
Tâm lý chiến của quân đội Hoa Kỳ có thể gọi là thành công cục bộ, tạm thời mà thôi.”
C3. Chiến Tranh Chính Trị Trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà.
Giai đoạn từ 1949 đến 1955 - Quân đội Quốc gia Việt Nam
Một Thời Áo Trận 159
Quân đội Quốc gia Việt Nam được thành lập năm 1949 để đánh lại quân Việt
Minh do Cộng sản chỉ huy. Sơ khởi có 150000 quân nhân dưới sự chỉ huy của sĩ quan
Pháp và trang bị cổ lổ. Dù Việt Nam có hàng ngàn năm lịch sử chiến đấu với Trung Hoa
để sống còn, người ta vẫn coi binh nghiệp là thấp kém nhất trong các giai tầng xã hội (Sĩ,
Nông, Công, Thương, Binh). Những người lính trong quân đội Quốc gia không ưa Pháp,
cũng chẳng ưa Quốc trưởng bù nhìn Bảo Ðại. Trong thời này, hoạt động tâm lý chiến độc
nhất là “Tác Ðộng Tinh Thần” do phòng 5 đảm trách.
Giai đoạn từ 1955 đến 1965 - Quân Ðội Việt Nam Cộng Hoà.
Năm 1955, ông Ngô Ðình Diệm truất phế Bảo Ðại qua một cuộc trưng cầu dân ý
và thiết lập nền Cộng Hoà Việt Nam. Quân đội Quốc gia VN được cải biến và đổi tên là
Quân đội Việt Nam Cộng hoà. Khi người Pháp rút đi, đội quân Cộng hoà này chỉ có 4 sư
đoàn được huấn luyện không đồng bộ, chỉ huy bởi một nhóm nhỏ gồm sĩ quan và hạ sĩ
quan thiếu kinh nghiệm. Người Mỹ đã đảm nhận việc huấn luyện và viện trợ rộng rãi để
quân đội VNCH theo khuôn mẫu quân đội Hoa Kỳ.
Khi còn theo khuôn mẫu quân đội Pháp, phòng 5 là cơ quan duy nhất lo về chiến
tranh tâm lý. Năm 1954, Trung tá Mỹ Edward Lansdale, người nổi tiếng nhờ những thành
công của ông chống lại 'chiến tranh nhân dân' tại Philippines, được Việt Nam Cộng Hoà
mời làm cố vấn chính thức. Lansdale định nghĩa dân vận là: “cách hành xử trong tình anh
em của những quân nhân trên các mặt trận, mà Mao Trạch Ðông và Võ Nguyên Giáp đã
dạy cho binh sĩ của họ.” Ông cũng nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc xây dựng một
căn bản chính trị làm nền tảng cho các hoạt động khác. Lansdale đề nghị thêm những nỗ
lực đặc biệt từ quân đội Mỹ và Việt Nam trong lãnh vực tâm lý chiến ngõ hầu chiến
thắng Cộng sản. Sau này ông trở thành cố vấn và là bạn của Tổng thống Diệm. Theo đề
nghị của ông, Nha Chiến Tranh Tâm Lý đã được thành lập, trực thuộc Bộ Quốc Phòng.
Bộ
Tổng tham
mưu là cơ quan
chỉ huy cao
nhất của quân
đội Việt Nam
Cộng Hoà. Tại
mỗi cấp của
quân đội, từ
trên xuống, có
phòng 5, ban 5
chuyên lo hoạt
động chiến tranh tâm lý. Nhưng các hoạt động này chỉ giới hạn trong việc truyền thanh,
ấn loát, chiếu bóng, và trình diễn văn nghệ. Các cán bộ tâm lý chiến thường được chọn từ
những sĩ quan bị thất sũng và thiếu năng lực theo cách nhìn của các cấp chỉ huy.
Giai đoạn từ 1965 đến 1975 - Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà
Một Thời Áo Trận 160
Từ 1965, quân đội được cải tổ lại. Bộ Tổng tham mưu vẫn có 5 cơ quan trực
thuộc; mỗi cơ quan đặt dưới quyền của một Tổng tham mưu phó: Hành quân, Nhân viên,
Tiếp vận, Huấn luyện, và Chiến tranh Chính trị. Ba cơ quan sau được tổ chức thành 3
tổng cục với các cục trực thuộc (xem sơ đồ)
Dựa trên khái niệm Chiến tranh Chính trị bao gồm 6 hình thái chiến tranh: Tư
tưởng chiến, Tổ chức chiến, Tâm lý chiến, Tình báo chiến, Mưu lược chiến và Quần
chúng chiến; Tổng cục CTCT được tổ chức thành 5 cục và một trường Ðại học CTCT với
chức năng như sau:
1.- Cục Chính huấn để tác động tinh thần và khơi dậy lòng yêu nước của binh sĩ.
Cục có một trung tâm huấn luyện cán bộ CTCT và hàng chục toán Công tác Chính huấn
giáo dục binh sĩ qua các chương trình sinh hoạt vừa học tập vừa văn nghệ gọn nhẹ.
2.- Cục Tâm lý chiến đảm trách tuyên truyền hướng về địch và công tác dân vận.
Ngoài ra còn những công tác bao gồm báo chi, giải trí cho quân nhân. Cục có một Biệt
đoàn Văn nghệ Trung ương hùng hậu với hàng trăm nghệ sĩ nổi tiếng đang động viên
trong quân ngũ.
3.- Cục Xã hội trách nhiệm săn sóc gia đình binh sĩ qua vấn đề gia cư, trường học,
và y tế. Cục có một trường Nữ trợ tá Xã hội đào tạo sĩ quan và hạ sĩ quan. Tại các khu
gia binh, các nữ sĩ quan xã hội chăm lo đời sống gia đình binh sĩ. Họ cũng thăm viếng ủy
lạo thương bệnh binh tại các quân y viện và chăm lo gia đình tử sĩ. Cục Xã hội quản lý
các nha Tuyên úy Công giáo, Phật giáo và Tin lành.
4.- Cục An ninh Quân đội lo phần phản gián và an ninh nội bộ các đơn vị. Dù trực
thuộc tổng cục CTCT, cục ANQÐ hoạt động độc lập và là cơ quan có quyền lực nhất
trong quân đội. Cục có nhiệm vụ ngăn ngừa sự xâm nhập của địch vào hàng ngũ mình.
Tuy nhiên thành quả của cục chỉ đạt được một mức độ hạn chế.
5.- Cục Quân tiếp vụ cung cấp cho quân nhân hàng hoá nhu yếu miễn thuế. Tuỳ
theo gia cảnh, mỗi quân nhân hàng tháng mua số lượng thuốc lá, sữa, đường, vật dụng gia
đình, vân vân với giá thường chỉ bằng 30 đến 50% giá thị trường.
6.- Trường Ðại học Chiến tranh Chính trị, thành lập năm 1966 khi các cấp lãnh
đạo nhận thức sự cấp bách phải đào tạo một lớp sĩ quan trẻ để đảm trách hữu hiệu các
hoạt động CTCT tại các đơn vị. Trước đó đã có Trung tâm Huấn luyện Cán bộCTCT đào
tạo cán bộ từ các quân nhân tại ngũ.
Một Thời Áo Trận 161
Trường ÐH/CTCT tuyển thanh niên có bằng Tú tài qua một kỳ thi tuyển. Những
thanh niên này phải qua một chương trình huấn luyện 2 năm để trỏ thành Thiếu úy hiện
dịch trong quân lực. Chương trình học nhấn mạnh về khoa học xã hội và chính trị. Sinh
viên theo học quân sự hàng năm tại trường Võ bị Quốc gia Việt Nam để có thể trở thành
một trung đội trưởng bộ binh và ít nhiều về chiến thuật cấp đại đội. Họ nghiên cứu học
thuyết Mác xít, chủ nghĩa Cộng sản, lịch sử chiến tranh cận đại và các kỹ thuật CTCT.
Sau khi tốt nghiệp, các tân sĩ quan được bổ nhiệm làm đại đội phó các đơn vị
chiến đãu, hay trưởng ban CTCT tại các chi khu. Khoá đầu tiên tốt nghiệp vào tháng 5
năm 1969, theo sau là 5 khóa nữa cho đến ngày thất thủ năm 1975. Trường đào tạo
khoảng 200 sĩ quan mỗi khoá. Ngoài ra trường còn cung cấp các chương trình căn bản,
trung cấp, cao cấp cho các sĩ quan đang làm công tác CTCT.
D.- Các Thuận Lợi Và Bất Thuận Lợi
D1.- Thuận Lợi Ngành CTCT của Quân lực VNCH được tái tổ chức nhờ sự giúp đỡ và cố vấn của
Quân đội Trung Hoa Dân quốc. Sau lần thất bại năm 1949, họ đã học bài học cay đắng
trong việc đối phó với Cộng sản, và họ rất sốt sắng truyền lại kinh nghiệm cho Việt Nam,
một đồng minh thân cận nhất. Cũng nhờ có chương trình Chiêu hồi, quân đội VNCH đã
học thêm nhiều từ các hồi chánh viên mà nhiều người từng là cán bộ tình báo và chính trị
cao cấp trong quân đội Cộng sản.
Có nhiều thành tựu đáng kể từ khi thành lập Tổng cục CTCT. Các đơn vị Ðịa
phương quân và Nghĩa quân trở nên hữu hiệu hơn trong các chiến dịch bình định nhằm
quét sạch hạ tầng cơ sở cuả Cộng sản. Trước khi tham dự Hoà đàm Paris năm 1968, các
sinh viên sĩ quan khoá 1 được gửi đội hoạt động tại các chi khu để củng cố tinh thần binh
sĩ và hậu thuẫn cho lập trường của chính phủ.
Các đơn vị bộ binh, rãnh tay trong công tác lãnh thổ, đã tham dự vaò các chiến
dịch tấn công lớn với sự yểm trợ của Không quân Mỹ. Sư đoàn 5 Bộ binh là một thí dụ.
Từ một đơn vị yếu kém nhất, sau chiến dịch Chân trời mới khởi sự năm 1968, đã trở
thành đơn vị giỏi thứ hai trong mười một sư đoàn. Ðó là nhờ công sức của các sĩ quan chỉ
huy và 39 tân sĩ quan khoá 1 CTCT. Các sĩ quan xuất thân từ trường Ðại học CTCT được
huấn luyện thuần thục và có tinh thần. Họ có khả năng cả về quân sự lẫn CTCT. Rất
nhiều người sau đó đã trở thành những cấp chỉ huy chiến đấu giỏi.
D2.- Bất lợi
Thiếu sự yểm trợ của Hoa Kỳ. Vì không có cơ quan tương đương trong quân lực Hoa Kỳ, nghành CTCT Việt
Nam đã không có đủ tài khoản để điều hành. Tổng cục phải dùng tiền viện trợ dành cho
Cục Tâm lý chiến để trang trải hoạt động cho toàn tổng cục. Ðó cũng là lý do giải thích
tại sao tổng cục CTCT sáp nhập cục Quân tiếp vụ vào cơ cấu tổ chức của mình: để lấy
thêm ngân sách. Sự khác biệt về văn hoá đã làm cho các cố vấn Hoa Kỳ không hiểu rõ
Một Thời Áo Trận 162
thực trạng của cuộc chiến tranh nhân dân do Mao và Giáp đề xướng. Sự thiếu thốn tài
chánh và yểm trợ từ phía Hoa Kỳ làm cho nghành CTCT trở nên yếu kém so với các
nghành khác, và cản trở họ thực thi những dự án quan trọng.
Trách nhiệm và quyền hạn
Người lính miền Nam Việt Nam, trong gần 50 năm đã chiến đấu liên tục, chống
Pháp, chống Nhật, chống Việt Minh, rồi lại chống Việt Cộng và quân Bắc Việt. Dù trên
nguyên tắc, họ phải thi hành nghĩa vụ quân dịch trong ba năm, họ đã chiến đấu lâu dài
sau khi người bạn đồng minh Hoa Kỳ đã ra về sau một năm phục vụ tại Việt Nam. Trong
cuốn The Vietnam Experience, Tim Page đã miêu tả: 'Ðiều kiện sống của họ rất kém. Họ
ăn cơm với cá khô và ít canh rau. Ðể vui chơi, họ chỉ có chút rượu đế, đánh bài, và lâu
lâu có xi nê.' Người lính lãnh đồng lương nhỏ nhoi để nuôi cả gia đình hoàn toàn lệ thuộc
vào họ. Người cán bộ Chiến tranh Chính trị chẳng thể làm gì nhiều để giúp đỡ họ.
Chương trình cung cấp nhà ở và học đường chỉ giúp được một tỷ lệ nhỏ các gia đình
thiếu thốn.
Người lính được quy định 15 ngày phép hàng năm và phép đặc biệt cho các vấn đề
hệ trọng của gia đình. Nhưng trên thực tế, do nhu cầu hành quân và sự ngăn ngừa nạn đào
ngũ, việc đi phép bị hạn chế rất nhiều. Quân số một đại đội bộ binh khi cao nhất chỉ
khoảng 100 người (160 theo cấp số), trong đó có cả chục người thuộc thành phần bất
khiển dụng do bệnh tật hay các vết thương chưa lành hẳn. Tuy nhiên, họ phải thực hiện
nhiệm vụ như một đơn vị đầy đủ quân số.
Trong khi các sĩ quan chính trị trong quân đội Bắc Việt là các đảng viên Cộng sản
và có quyền vượt hẳn các đơn vị trưởng, sĩ quan CTCT trong quân đội miền Nam không
theo một đảng nào. Vì thế họ không có quyền lực. Ở cấp đại đội, họ là người thứ hai
trong đơn vị; nhưng càng lên cấp cao hơn, họ là người lép vế nhất trong các sĩ quan tham
mưu. Ðại đa số các sĩ quan chỉ huy lại không thấy tầm quan trọng của hoạt động CTCT.
Ngoài ra, các sĩ quan CTCT thế hệ cũ lại có ít kiến thức về CTCT và là một trở lực lớn
cho những dự án sáng tạo và năng động. Những sĩ quan trẻ trong nghành CTCT thường
ưu tư về sự thăng tiến so với các sĩ quan các nghành khác.
Bất ổn chính trị, nạn tham nhũng, và lãnh đạo bất năng.
Dù trong hoàn cảnh chiến tranh và phải đương đầu với kẻ thù nguy hiểm, các nhà
lãnh đạo VNCH không có khả năng thiết lập một sự ổn định về chính trị nội bộ. Họ tranh
chấp nhau vì quyền lực, bổ nhiệm vào vị trí then chốt những người họ sũng ái thay vì
những người tài ba. Sau chiến thắng của quân lực VNCH muà hè năm 1972, Tổng thống
Thiệu đã quay mũi dùi hướng về các thành phần đối lập. Ông thành lập đảng Dân chủ
như một đảng cầm quyền dù rằng nó thiếu nền móng và không được ai ủng hộ. Nạn tham
nhũng trở nên nghiêm trọng trong mọi cấp. Các chức vụ ngon lành phải mua bằng tiền.
Hậu quả là những người này lạm dụng quyền hạn để lấy lại sở hụi, hay tệ hơn, làm giàu
cho chính mình. hiện tượng lính ma là phổ biến trong các đơn vị bộ binh và địa phương
quân. Các sinh viên khoá 4 CTCT khi về hoạt động tại quân khu 4 đã phanh phui nạn
tham nhũng, đưa đến sự cách chức vị tư lệnh quân khu và càc đồng loã của ông. Trong
hoàn cảnh tham nhũng và tranh chấp quyền lực như thế, khó lòng mà thuyết phục quân
lính rằng họ đang chiến đãu cho quê hương và dân tộc.
Một Thời Áo Trận 163
E.- Kết Luận
Nếu so với hệ thống chính trị đầy kinh nghiệm của quân đội Bắc Việt, nghành
CTCT trong Quân lực VNCH là một tổ chức lỏng lẻo và ít hiệu năng. Các cán bộ CTCT
không có quyền hành và không được sự hỗ trợ của chỉ huy. Cho dù với uy thế quân sự và
hoạt động CTCT hữu hội ệu, chúng ta cũng khó thắng cuộc chiến nếu những kẻ thù bên
trong phát triển từ những sai lầm của chúng ta. Chiến tranh chính trị phải đi đôi với một
hệ thống chính trị mạnh và ổn định.
Ðối vớì Hoa Kỳ và Việt Nam, thông tin sai lạc là một vấn đề nghiêm trọng làm
cho hai chính phủ mất sự hậu thuẫn của dân chúng. Cộng sản đã lợi dụng tự do ngôn luận
của chúng ta để phát động chiến tranh tâm lý ngay trên đất chúng ta, trong lúc tâm lý
chiến của chúng ta không thể xâm nhập được vào xã hội của họ.
Hệ thống thông tin của chính phủ và quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã không gở
được mặt nạ Hồ Chí Minh và đồng bọn. Nghiêm trọng hơn, chúng ta đã có nhiều sai lầm
làm thay đổi tình thế. Sau trận Tết Mậu Thân, đặc biệt là những năm đầu thập niên 1970,
quân lực VNCH đã trưởng thành. Từ 80 đến 90% cơ sở hạ tầng của Việt Cộng bị lộ diện
và tiêu diệt. Hàng chục ngàn cán binh Việt cộng bị giết trong các trận đánh đẫm máu trên
khắp lãnh thổ. Những người may mắn sống sót phải chạy trốn vào những mật khu bên kia
biên giới Việt-Kampuchea. Nếu chính phủ VNCH biết lợi dụng những chiến thắng đó để
củng cố, nâng cao an sinh xã hội để phục vụ người dân tốt hơn, nâng cao đời sống binh sĩ
và gia đình, đối xử tử tế với các Hồi chánh viên; chắc chắn Cộng sản không có cơ hội đặt
chân trở lại miền Nam nữa.
Giáo sư Nguyễn Văn Canh, một nhân vật lãnh đạo đảng Ðại Việt, trong bản báo
cáo năm 1973, đã báo động với chính quyền về việc Việt Cộng tại vùng 4 đang tái tổ
chức và trang bị. Các đơn vì nay, từ năm 1968, đã không còn ai nghe đến, nay đang được
tăng cường bởi hàng trăm hồi chánh viên và các cán bộ VNCH cấp xã ấp là những nạn
nhân của sự ngược đãi bất công. Lời cảnh cáo của giáo sư Canh bị Nguyễn Văn Thiệu
che tai vì ông ta lưu tâm đến các quyền lợi riêng hơn là quyền lợi của tổ quốc đang lâm
nguy. Ông ta đang phải đối phó với phong trào chống tham nhũng do báo giới và các dân
biểu, nghị sĩ đối lập chủ xướng.
Nạn tham nhũng cũng là một nguyên nhân làm suy yếu quân đội. Quân Cộng sản
hẳn cũng có những vấn đề tương tự của họ, nhưng họ che đậy được nhờ hệ thống truyền
thông nhà nước một chiều.
Vào cuối năm 1972, khi Hà Nội gần như suy sụp sau các trận bom tơi bời, Tổng
thống Nixon lại ra lệnh ngưng ném bom và tái tục hoà đàm Paris. Việc này giúp cho cộng
sản cơ hội ngàn vàng để tái lập lực lượng và làm thay đổi tình thế. Thẳng thắn mà nói,
Hoa Kỳ và Việt Nam Cộng Hoà đã không biết rõ về địch để có thể có những hành động
dứt điểm và hợp lúc để chiến thắng.
Tuy nhiên, công tác Chiến tranh Chính trị vẫn luôn là một yếu tố cần thiết trong
bất cứ chiến tranh nào mang màu sắc ý thức hệ. Ðó là một trọng đề mà các cấp lãnh đạo
phải quan tâm và hổ trợ.
Một Thời Áo Trận 164
The Forgotten
Bà Barbara Sonneborn, góa phụ một quân nhân Hoa Kỳ tử trận tại Việt Nam năm
1972, đã đến VN để quay cuốn phim Regret to Inform. Sau khi trình chiếu tại Hoa Kỳ,
cuốn phim đã tạo nên làn sóng phản đối dữ dội trong các cựu chiến binh Hoa Kỳ và cộng
đồng ngƣời Việt. Ðài truyền hình KLRU (PBS) tại Austin đã mời 4 cựu chiến binh trong
đó có ông Ðỗ Văn Phúc đại diện cựu quân nhân Việt Nam, tham dự một buổi thảo luận
truyền hình dài 30 phút để nói lên phản ứng của mình. Ðây là lá thƣ gửi bà Sonneborn.
Dear Mrs. Barbara Sonneborn,
I have viewed the film Regret to Inform introduced by Karen Quebe of Austin
KLRU and am asked to give comments.
It touches my heart so much when I saw an American widow who had been
traveling ten thousand miles to a remote jungle at the other end of the globe to visit the
old battlefield where her loving man gave up his life for freedom of an allied country. It's
so sad seeing the old women who survived My Lai massacre. You are doing the right
thing to record and bring up the images as a strong message to the humankind: Stop the
War, Resolve Peacefully the Conflicts!
I would be glad to give my hands to your righteous cause, as I am myself a war
victim.
Một Thời Áo Trận 165
But the more I have sympathy with you, the more my anger grows in my heart
when I realize that the film involuntarily carries a deceptive propaganda for the
communist Vietnam. You may not perceive that they are taking advantage to pass the
blame of making war on our American and to convince that they are innocent in all what
happened during 21 years of Vietnam War.
Please, be calm and read my own story that is not less pitiful than the stories of the
subjects in the film.
My name is Michael Do, former Republic of Vietnam Air Force officer, former
detainee in the so-called re-education camp in Vietnam from 1975-1985. I'm now elected
President of the Vietnamese Veterans Association at Austin, Texas.
I grew up without knowing anything about my father. He was kidnapped by the
Communist when I was one, and was imprisoned in Thanh Hoa “Ly Ba So” camp until
the Geneva Agreement was implemented in 1954. According to the agreement signed by
French and Communist Vietnam, the country is divided into two parts with opposing
regimes, French and Communist withdraw their troops to the South and North of 17th
parallel respectively, and all prisoners must be released. My mother and I were waiting
for the beloved one to return. But he never made it. He was ambushed and murdered on
the way back home after 8 years of hard labor and torturing in the camp. Poor daddy, his
only crime is being born in a wealthy family; one of the four categories Communists
hates most: well-educated, wealthy, landowner, and government officials. To these
persons, their policy is to “Dao Tan Goc, Troc Tan Ngon”. That means “dig them up to
the root; chop them down from the tip”
My childhood is not a happy one, although my mom devotes her life to bring me
up in the best conditions she could afford. One night when I was 5, Communist shelled
the district market. Two mortars hit my home killing one and wounded two. We were
luckily unharmed as we were sleeping in the basement.
The years after 1954, South Vietnam was gradually establishing its democracy
with American assistance. It was a short peaceful time, and people were building their
new life. There were no foreign troops except for some American personnel worked in
the assistance group. It is OK when a big country helps allied countries in the Free World
to develop; it's OK too as the Russia and China help to build communism in North
Vietnam provided that each side minds its own business.
Of course, we don't expect South Vietnamese government to be perfect in its
transition from feudalism to republic. It must have weaknesses to be corrected through
democratic processes. North Vietnam did not let us be safe. Thousands of communist
cadres left behind after 1954 began to emerge in remote countryside where secret guerilla
bases formerly built. They planted the seed of hate in the heart of villagers. Whoever can
carry weapon is armed. Supply from the North began to pour into South via Ho Chi Minh
trail. In December 1960, the 3rd Communist Party congress formed the so-called “South
Vietnam National Liberation Front” and started the war.
Terrorism spread out all over the country. At night, they kidnapped and
assassinated; in daytime, they shelled school, market. Not a single day did we not hear
the killing. Hundreds of school children at Song Phu and Cai Lay were killed in 1964
Một Thời Áo Trận 166
when the schools were targeted by cannon balls. Three thousand civilians buried alive in
old capital Hue in 1968. They beheaded, peeled off the face skin, drowned alive in rice
bag; they used whatever means to scare people to not cooperate with the government.
There are many more that can be written in thousands of pages.
We have no choice but bearing arm to fight against them.
Given the mask “anti-American” by Communists, such war is truly between the
Communists and the freedom lovers. We understand freedom, democracy, and human
rights only exist in a non-communist regime. We, not the Communists, are peace loving
because we were working hard for development; we did not want the war to destroy our
achievement.
In 1965, American and six other allied nations sent troops to help us as the war
was escalating. Divisions of North Vietnamese regular troops with unlimited supplies
from Soviet Union and China were outnumbered our army, forcing us back to defensive.
That's why your husband, as other hundreds of thousands American young men
and women, get involved in a bloody, long lasting war that they were not prepared for.
My story is more distressed as the war ended in 1975. I don't think you are patient
enough to listen me telling what happened to hundreds of thousands of South Vietnam
officers and civilian officials. Let's go back to the contents of the film.
There are some critical points need to make clear:
1.- An American widow in the film poses a question: Did those people
(Communist Vietnam) do any threat to our country? Did they (American troops) murder
them?
I would ask her back. Why did we get involved in Korean War, WW1, WW2,
Gulf War, Somalia, Yugoslavia war? Did those Korean, German, Iraqi, Somalian,
Serbian do any harm to the United Stated?
The killing of innocent people is totally wrong, but inevitable in any war. Trapped
in the battlefield, people are victimized by both sides. There are crazy people who kill for
no reason in any society, civilized or uncivilized. They are criminals and must be brought
to justice. The facts that Lieutenant William Calley who massacred villagers in My Lai,
the killing of hundreds of Koreans recently uncovered, and many more I can not locate,
are unforgivable. They spoil our right cause, but can not be assimilated to the whole
policy. In contrary, the murder committed by the communists is not only individual act
but also systematically organized by the party. That is the different between the two
ideologies. The reason we don't carry out the killing because we don't hate; we just fight
for our freedom. We believe in God and respect human life. The reason communists kill
because they advocate “the cause justifies the means”.
2.- The North Vietnamese widow, Dr. Nguyen Thi My Hien, as well as about two
hundred thousand South Vietnamese mothers and wives, are victims of the war that
initiated by the communists, not by our side. The other woman in the film (the skinny
who is introduced Vietcong leader) should not complain because she herself had chosen
to fight as a Vietcong guerilla. Indeed, she was a spy, a terrorist, and she must accept
what happened to her in the war. Nguyen Xuan Ngoc, your companion, grows up in the
Một Thời Áo Trận 167
communist controlled area, eye witnessed the burning, killing. Her voice transports peak
of hate. I have sympathy for her. But that selfish whore does not represent widows of
South Vietnam KIA's.
3.- That American failed the war after 21 years of involvement doesn't mean we
did wrong. Mass media in the 60's, with support from traitors Jane Fonda, Angela David,
Ted Turner ... spoiled the information, misled the public opinion that resulted the
withdrawal of American troops. While WW2 veterans returned home as heroes, Vietnam
veterans as murderers!!!???
They should be given back dignity they deserve. The dead must be honored. The
KIA and MIA's families must be remembered.
4. Do you believe that we are justified when leading the free world fighting
against Soviet Union and its satellites: China, Cuba, and Eastern Europe? Why not
justified when fighting against Communist Vietnam? Is Vietnam an exception in the
ideological war? Do our people not deserve the freedom that American is enjoying?
5. It is a very good idea to heal the wound many American families have been
suffering. Fifty eight thousand American young men and women were killed in Vietnam
while fighting for FREEDOM not only to my Vietnamese people, but also to noble cause
saving the humankind from the horrific Communism. As we have played the vanguard
role in preaching freedom and democracy, we should be very proud of what we did in
Vietnam.
6. When you traveled to Vietnam to make the film, do you realize that the only
persons you can talk with, and who can speak out are those selected by he authorities?
Indeed, most of them are party members. If you have time to study the annual report on
human rights violation in Vietnam by the Department of State and dozens of Human
rights advocate organizations, please, do so. In such regime where there is no freedom of
speech, the mass media is in the hand of authorities. People are to speak in one voice to
promote the party's resolution.
7.- Why the words American Pirates are removed when translating a woman
saying: “The cruelty by American pirates (Toi ac cua Giac My, sic) is longer than a river,
higher than a mountain, and deeper than a sea”? Are you not ashamed hearing that
accusation? If your purpose is to heal the wound, the film doesn't. It points a sharp knife
into the wound of our veterans and makes it more painful.
8. When you consider two sides of the conflict, I'm wondering why the South
Vietnam side is not in your concern. Millions of South Vietnamese people were killed
during the bloodiest, long lasting war mostly by the acts of North Vietnam army. More
than two hundred thousand South Vietnamese troops killed in action while serving side-
by-side American soldiers. Hundreds of thousands risk their lives fleeing Vietnam after
1975 to seek for freedom, of which tens of thousands drowned in the sea or raped killed
by pirates. We are victimized twice by the Communists.
We, of course, feel sorry for the families of North Vietnam soldiers who died in
the war; because themselves, are also victims of the ambitious Communist party
members. South Vietnamese women have heart and soul too. They do suffer not only the
Một Thời Áo Trận 168
loss of their husbands and sons, but discrimination under communist regime as well.
They need to speak out their own voice.
We are asking for justice and humanity.
Dear Mrs. Sonneborn,
The Vietnamese American community though powerless in this new land, but is
positively contributing to the diversity of American society. More than one million of us
here in this country strongly suggest that the mass media should reflect the truth about
Vietnam War. The loosing side is not always the wrong. Seventy years after the October
Revolution, the Russian nationalist flag is flying back on Kremlin. Please, wait and see
what happens next in Saigon.
I'd be very glad to cooperate in your project if you consider my comment
seriously.
Our hearts are with you and other widows.
Sincerely,
Một Thời Áo Trận 169
Những Người Bị Quên Lãng
Thưa bà Sonneborn,
Tôi đã xem qua cuốn phim Regret to Inform do bà Karen Quebe của đài truyền
hình KLRU, Austin giới thiệu và cũng được bà Quebe yêu cầu cho biết ý kiến về phim
này.
Tôi rất xúc động khi thấy một goá phụ Mỹ đã lặn lội hàng vạn dặm để đến một
vùng rừng núi hẻo lánh cách nửa vòng địa cầu để thăm lại chiến trường xưa, nơi người
chồng yêu quý của bà đã để lại thân xác cho nền tự do dân chủ của một nước đồng minh.
Tôi cũng buồn khi thấy hình ảnh của những bà cụ già sống sót sau vụ thảm sát Mỹ Lai.
Bà đã làm một điều rất đúng khi ghi lại và chuyển ra một thông điệp hung hồn đến
với nhân loại. Đó là: Hãy chấm dứt chiến tranh; hãy giải quyết trong ôn hoà những tranh
chấp.
Vì cũng là một nạn nhân của chiến tranh, tôi sẽ rất vui lòng góp một bàn tay vào
chính nghĩa hoà bình đó.
Nhưng qua cuốn phim, càng cảm thông với nỗi đau đớn của bà bao nhiêu thì tôi
càng uất hận bấy nhiêu vì chính nội dung phim đã giúp tuyên truyền lừa bịp cho bọn
Cộng Sản Việt Nam. Chắc hẳn bà không thể ngờ rằng, Cộng sản đã lợi dụng cuốn phim
để gán cái tội gây chiến cho phía Hoa Kỳ cũng như thuyết phục rằng chúng vô can về tất
cả những đau thương từng xảy ra trong 21 năm chiến tranh Việt Nam.
Xin bà hãy bình tâm, đọc kỹ chuyện đời của tôi vì nó cũng không kém bi thương
hơn những câu chuyện bà đã nêu ra trong phim.
Tôi là một cựu sĩ quan trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà, từng bị cầm tù trong
các trại tập trung của Cộng Sản từ 1975 đến 1985. Hiện tôi là Chủ tịch Hội Cựu Chiến Sĩ
VNCH tại Austin, Texas.
Tôi đã lớn lên trong sự thiếu vắng một người cha. Cụ thân sinh của tôi bị Cộng
Sản bắt cóc và giam giữ tại trại tù Lý Bá Sơ ở Thanh Hoá cho đến ngày ký kết Hiệp Định
Geneve năm 1954. Theo Hiệp Định này được ký kết bời Pháp và Việt Cộng, thì nước
Việt Nam bị chia thành hai miền với hai chế độ đối nghịch. Quân đội Pháp phải rút khỏi
miền Bắc; và ngược lại, quân Cộng Sản phải rút khỏi miền Nam. Một trong các điều kiện
là việc trao trả các tù nhân. Mẹ tôi và tôi đã mong chờ sự trở về của người thân yêu.
Nhưng thân sinh tôi đã không về được. Cộng Sản đã phục kích và ám sát ông trên đường
về quê sau hơn 8 năm tù khổ sai. Tội nghiệp cha tôi, ông chỉ bị gán cho cái tội là con nhà
giàu có. Cộng Sản đã liệt kê ra bốn thành phần mà họ phải tiêu diệt tận gốc: những người
có học, những người giàu có, những người có đất đai ruộng vườn, và các hào mục.
Dù mẹ tôi hết lòng chăm sóc bằng hết khả năng của người, tuổi thơ của tôi cũng
không mấy hạnh phúc. Khi lên 5, một đêm, Cộng quân bắn súng cối vào quận lỵ. Hai trái
rơi vào nhà chúng tôi; giết chết một người quen tạm trú và làm bị thương hai người khác.
Chúng tôi may mắn thoát nạn nhờ ngủ dưới hầm sâu.
Thời gian sau 1954, miền Nam đã từng bước xây dựng một chế độ dân chủ với sự
giúp đỡ của Hoa Kỳ. Đó là thời gian hoà bình ngắn ngủi để nhân dân chúng tôi bắt đầu
Một Thời Áo Trận 170
cuộc sống mới. Trên đất nước không có bóng dáng quân đội ngoại quốc, trừ vài nhân
viên Hoa Kỳ trong các đoàn viện trợ. Sự việc một nước lớn giúp đỡ các nước nhỏ là
thông thường; cũng như Nga sô và Trung Cộng giúp đỡ miền Bắc vậy.
Dĩ nhiên, chúng tôi không mong chờ rằng chính phủ miền Nam sẽ toàn thiện trên
bước đường chuyển hoá từ chế độ phong kiến sang chế độ cộng hoà. Chắc chắn là phải
có các nhược điểm mà chúng tôi có thể khắc phục dần dần. Nhưng Cộng Sản Bắc Việt
không để chúng tôi yên. Hàng ngàn cán bộ mà họ để lại sau ngày ký Hiệp Định 1954 đã
bắt đầu quậy phá; xây dựng những mật khu du kích. Cộng Sản đã gieo hạt giống căm thù
trong nông dân. Những người nào cầm súng được đều được võ trang. Tiếp liệu từ miền
Bắc bắt đầu ồ ạt đổ vào Nam qua đường mòn Hồ Chí Minh. Vào tháng 12 năm 1960, Đại
hội đảng Cộng Sản lần thứ 3 chính thức cho ra đời cái gọi là “Mặt Trận Dân Tộc Giải
Phóng Miền Nam Việt Nam’ để phát khởi cuộc chiến tại miền Nam.
Thế là chiến dịch khủng bố diễn ra khắp nơi. Về đêm, chúng bắt cóc và ám sát.
Ban ngày, chúng pháo kích vào chợ buá, trường học. Không có ngày nào không có chết
chóc. Năm 1964, chúng pháo kích vào trường Tiểu Học Song Phú và Cai Lậy, giết hàng
trăm học sinh ngây thơ. Năm 1968, chúng thảm sát hơn ba ngàn thường dân tại Huế62
.
Chúng chặt đầu, mổ bụng, lột da, bỏ bao thả trôi sông và bất cứ hành vi dã man nào đối
với những người hợp tác với chính quyền miền Nam. Tội ác của Cộng Sản viết ngàn
trang chưa hết.
Những người miền Nam không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cầm súng chống
lại bọn chúng.
Núp dưới danh nghĩa “Chống Mỹ Cứu Nước” thực ra đó là cuộc chiến của những
người miền Bắc xâm lăng và người miền Nam bảo vệ tự do. Chúng tôi học và hiểu rằng
Tự do, dân chủ không thể có được trong một chế độ Cộng Sản. Chính chúng tôi, chứ
không phải những người Cộng Sản, mới là những người yêu chuộng hoà bình; bởi vì
chúng tôi đã cật lực để phát triển. Chúng tôi không muốn chiến tranh làm hủy hoại thành
quả của chúng tôi.
Năm 1965, Hoa Kỳ và sáu nước đồng minh khác đã gửi quân đội giúp chúng tôi
khi chiến cuộc leo thang. Nhiều sư đoàn quân chính quy miền Bắc và hàng trăm tấn vũ
khí, tiếp liệu từ các nước Cộng Sản Nga và Trung Hoa đã lấn lướt, đẩy chúng tôi vào thế
phòng thủ nghiêm trọng.
Đó cũng là lý do mà người chồng yêu quý của bà cùng hàng trăm ngàn thanh niên
Hoa Kỳ đã tham gia vào một cuộc chiến đẫm máu, lâu dài trên đất nước chúng tôi.
Chuyện đời của tôi còn bi thảm hơn khi chiến tranh kết thúc naăm 1975. Chúng tôi
đã bị Cộng Sản lừa gạt đưa vào các trại tù khổ sai. Chuyện còn dài lắm, nhưng có lẽ bà sẽ
không còn kiên nhẫn để nghe. Thôi thì chúng ta trở lại chủ đề chính là cuốn phim Regret
to Inform.
Có nhiều điểm trong phim mà tôi cần đặt vấn đề để làm sáng tỏ:
1.- Một goá phụ Mỹ trong phim đã đặt câu hỏi: ”Những người Việt Cộng kia đã
làm gì đe doạ đến Hoa Kỳ, mà quân đội Mỹ ta phải giết họ?”
Câu hỏi ngược lại của tôi là :
62
Con số chính thức hiện nay là khoảng 7600 người
Một Thời Áo Trận 171
Tại sao chúng ta tham gia Thế chiến thứ Nhất, thứ Hai ? Tại sao chúng ta tham gia
chiến tranh vùng Vịnh, chiến tranh Cao Ly, Somalia, Nam Tư ? Bà ấy có hỏi rằng những
người Đức, Nhật, Hàn, Iraq … có làm gì nguy hại cho Mỹ không ?
Biết rằng giết người dân thường là sai hoàn toàn. Nhưng điều đó khó tránh khỏi
trong chiến tranh. Bị kẹt giữa hai lằn đạn, dân thường là nạn nhân của cả đôi bên tham
chiến. Xã hội nào cũng có những kẻ điên loạn giết người làm vui. Họ là những tội phạm
mà toà án sẽ xử đích đáng. Sự kiện Trung Úy William Calley thảm sát dân làng Mỹ Lai
là một tội ác cũng như các vụ quân Mỹ thảm sát dân Cao Ly mà công luận mới phát giác
ra gần đây. Đúng, những vụ thảm sát như thế làm hoen ố chính nghĩa của chúng ta .
Nhưng không vì thế mà coi đó là chính sách của các chính phủ. Trong lúc ngược lại,
Cộng Sản giết người có tính toán, có hệ thống chứ không phải là hành vi cá nhân. Đó là
sự đối nghịch giữa hai chế độ chính trị Tự Do và Cộng Sản. Chúng tôi chiến đấu là để tự
vệ, không phải xuất phát từ lòng thù hận. Chúng tôi tin tưởng vào đấng Tối Cao và tôn
trọng sinh mạng; trong khi đối với Cộng Sản : Bất cứ việc gì cũng làm, miễn họ đạt được
mục đích.
2.- Một goá phụ của Cộng sản Bắc Việt trong phim, Bác Sĩ Nguyễn Thị Mỹ Hiền,
cũng như hàng trăm ngàn bà mẹ, bà vợ miền Nam, đều là nạn nhân của chiến tranh mà
Cộng Sản gây ra. Họ không thể đổ tội cho chính quyền miền Nam. Cũng trong phim,
người phụ nữ gầy nhom tự nhận mình là lãnh đạo phía Việt Cộng đã phàn nàn, lên án gắt
gao về những bất hạnh của bà; trong khi bà quên rằng chính bà đã tự nguyện tham gia
vào hàng ngũ du kích chống phá miền Nam. Đúng ra, chính bà là một điệp viên, một kẻ
khủng bố. Bà phải chấp nhận hậu quả do việc bà gây ra.
Người bạn đồng hành của bà trong phim, bà Nguyễn Xuân Ngọc, đã lớn lên trong
vùng du kích Cộng Sản, đã chứng kiến các cảnh chết chóc, đốt phá. Trong giọng nói của
bà ta, chất chứa bao căm thù có thể thông cảm được. Nhưng bà ta không thể đại diện cho
goá phụ của quân nhân miền Nam như được giới thiệu trong phim !
3.- Việc Hoa Kỳ thất bại trong chiến tranh không chứng minh rằng chúng ta sai.
Những năm 1960, với sự chống đối của phản chiến, trợ lực bởi truyền thông vô lương
tâm, bọn Jane Fonda, Angela David, Ted Turner… tình hình chính trị quân sự miền Nam
đã bị xuyên tạc, bôi đen để thúc đẩy việc rút quân. Trong khi các chiến sĩ trở về từ Thế
Chiến được coi là anh hùng, thì quân nhân về từ Việt Nam bị coi như những kẻ tội
phạm ?
Đáng ra, họ phải được hưởng phẩm cách như họ xứng đáng, ngay cả những quân
nhân tử trận cũng thế. Gia đình các tử sĩ, người mất tích phải được nhớ đến.
4.- Thưa bà, bà có tin rằng việc Hoa Kỳ lãnh đạo thế giới tự do chống lại khối Nga
Sô và chư hầu là chính đáng không ? Nếu bà tin thế, thì thại sao bà còn nghi vấn việc Hoa
Kỳ tham chiến tại Việt Nam ? Hay bà cho rằng trường hợp Việt Nam không nằm trong
khuôn khổ cuộc chiến tranh ý thức hệ ? Hay bà cho rằng nhân dân chúng tôi không xứng
đáng được hưởng tự do như dân Mỹ của bà ?
5.- Chúng ta cần hàn gắn lại những vết thương chiến tranh cho các gia đình người
Mỹ. Năm mươi tám ngàn quân nhân Mỹ hy sinh tại Việt Nam không phải chỉ để dành tự
do cho chúng tôi, mà là chiến đấu cho nhân loại chống lại chủ nghĩa Cộng Sản. Vì Hoa
Một Thời Áo Trận 172
Kỳ là quốc gia cổ vũ và tiên phong cho dân chủ tự do, thiển nghĩ chúng ta nên lấy việc
chiến đấu tại Việt Nam là điều vinh dự.
6.- Khi bà đến Việt Nam để thực hiện cuốn phim, bà có biết rằng bà chỉ được phép
tiếp xúc, hợp tác với những người mà Cộng Sản sắp xếp không ? Thực ra, đa số họ là
đảng viên Cộng Sản. Nếu bà có thì giờ và chịu khó theo dõi các báo cáo hàng năm về vi
phạm nhân quyền tại Việt Nam do bộ Ngoại giao Hoa Kỳ và các cơ quan đấu tranh Nhân
quyền thực hiện, chắc bà phải biết rằng tại Việt Nam Cộng Sản, không hề có quyền tự do
ngôn luận, Mọi phương tiện thông tin dều do nhà nước nắm giữ và kiểm soát. Người dân
chỉ có thể nói những điều mà nhà nước cho phép nói.
7.- Trong phim, bà đã cho phép một nữ Việt Cộng xử dụng chữ “bọn cướp » để
nói về những người lính Mỹ đồng hương của bà. Bà không thấy xấu hổ sao ? Nếu mục
đích của bà là hàn gắn vết thương, thì trái lại cuốn phim của bà càng làm cho vết thương
đau lở loét thêm. Nó đã cắm một con dao bén vào vết thương của những người cựu chiến
binh để làm họ đau đớn hơn lên.
8.- Khi bà coi hai bên tham chiến là Mỹ và Việt Cộng; thưa bà bà đã bỏ quên phe
Việt Nam Cộng Hoà chúng tôi. Hàng triệu người dân miền Nam đã chết vì bom đạn do
miền Bắc gây ra. Hơn hai trăm ngàn anh em chiến binh miền Nam đã hy sinh trong khi
chiến đấu bên cạnh người bạn Mỹ. Hàng triệu đồng bào đã đổi mạng để quyết ra đi thoát
khỏi chế độ Cộng Sản sau năm 1975 mà gần một nữa chết trên biển Đông. Chúng tôi đã
hai lần là nạn nhân của Cộng Sản.
Tất nhiên, chúng tôi thông hiểu nỗi đau đớn của những gia đình miền Bắc có con
em chết trong chiến tranh, vì chính họ, họ cũng là nạn nhân của đảng Cộng Sản nhiều
tham vọng. Quý phụ nữ miền Nam cũng có linh hồn và con tim biết đau khổ chứ ? Họ
không những chịu sự mất mát người cha, người chồng, mà chính họ cũng là nạn nhân của
chế độ Cộng Sản sau năm 1975 nữa. Họ cũng phải được lên tiếng chứ ?
Chúng tôi đòi hỏi sự công bằng và nhân đạo
Thưa bà Sonneborn,
Tuy cộng đồng Người Mỹ gốc Việt tại Hoa Kỳ chưa đủ mạnh trên quê hương mới
này, nhưng chúng tôi đã góp phần tích cực vào sinh hoạt chính trị xã hội và kinh tế của
Hoa Kỳ. Chúng tôi đòi hỏi công luận và truyền thông Hoa Kỳ phải phản ảnh trung thực
về cuộc chiến Việt Nam. Kẻ thắng không hẳn là có chính nghĩa. Bảy mươi năm sau Cách
Mạng Tháng 10, người Nga tự do đã cắm lại lá cờ ba màu trên điện Cẩm Linh. Việt Nam
rồi cũng thế, sớm hay muộn.
Xin bà đọc kỹ và suy xét về các điểm tôi vừa nêu trên.Chúng tôi luôn hướng lòng
về quý bà và các goá phụ Hoa Kỳ.
Kính chào bà.
Một Thời Áo Trận 173
Chinh Phụ Ngâm
Một Bản Trường Ca Bi Hùng Thời Chinh Chiến, Một Khuôn Mẫu
Tiêu Biểu của Người Phụ Nữ Việt Nam
Ðể vinh danh qu chị, dâu hiền của Quân Lực VNCH
Các học giả thường đề cao Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du như là một tác phẩm
tiêu biểu cho nền văn hoá Việt Nam. “Truyện Kiều còn, nước ta còn.” Ðiều này đúng một
phần, vì truyện Kiều là một áng thơ Nôm đầu tiên có một tầm cỡ xứng đáng với hàng
trăm câu thơ tuyệt vời tả tình, tả cảnh: phác họa nhân diện và tính cách của từng nhân vật
rất rõ nét và tinh tế, miêu tả cảnh vật khít khao với hoàn cảnh và tâm tư; khi hạnh phúc,
khi đau đớn tuyệt vọng, ghen tuông, nhung nhớ... Ðọc Kiều, chúng ta như cùng chia xẻ
nỗi đau thương xé lòng của nàng Kiều nữ bạc phận. Truyện Kiều hay, giá trị của nó
không còn ai hoài nghi. Nhưng đưa Kiều lên điạ vị độc tôn trong làng văn học nước nhà
thì cũng hơi quá cường điệu; vì ngoài Kiều, còn vài tác phẩm lừng danh khác mà giá trị
về nội dung và lịch sử cũng tương đương.
Chúng tôi muốn giới thiệu một bản trường ca về tiếng than thở của người vợ
chiến sĩ trong thời gian chiến chinh: Chinh Phụ Ngâm Khúc của Ðặng Trần Côn, mà nữ
sĩ tài hoa Ðoàn Thị Ðiểm đã dùng hết tinh hoa của tiếng Việt để dịch ra. Ðây là một tác
phẩm ưu tú được phổ biến sâu rộng từ 250 năm qua, phản ảnh tâm tư thống thiết cùa
người vợ nơi hậu phương, hàng ngày ngóng trông người chồng đang chinh chiến nơi
tuyến đầu binh lửa. Nó phản ảnh nguyện vọng sâu kín cùa dân tộc về một nền hòa bình,
hạnh phúc, nhưng vừa thể hiện niềm tự hào, tin yêu và hy vọng vào tiền đồ Tổ quốc, tin
Một Thời Áo Trận 174
tưởng vào chính nghĩa, cổ suý cho đức hạnh của người phụ nữ và tính anh hùng của bậc
nam nhi.
Ðời vua Cảnh Hưng nhà Lê, chiến tranh khởi phát, thanh niên phải lên đường, từ
giã vợ con để tham gia vào trận chiến. Thời này là giai đoạn rối ren trong lịch sử Hậu Lê,
khi hai thế lực phong kiến Trịnh Nguyễn ở hai miền Bắc, Nam cùng tranh chấp và gây
nên cảnh nồi da xáo thịt tương tàn kéo dài hàng trăm năm cho đến khi giang san thống
nhất bởi người anh hùng áo vải Quang Trung. Cảm thông nổi thống khổ của nhân dân,
niềm đau thương của những người chinh phụ, Ðặng Trần Côn đã sáng tác Chinh Phụ
Ngâm vào khoảng năm 1740-1742. Nguyên tác viết bằng chữ Hán, được nữ sĩ Ðoàn thị
Ðiểm dịch ra bằng những âm sắc tuyệt vời của Việt ngữ. Cái hay của Chinh Phụ so với
Truyện Kiều là sự sáng tác, (trong khi truyện Kiều thì dựa hẳn vào cốt truyện Kim Vân
Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân bên Tàu), tuy rằng Ðặng Trần Côn cũng như các danh sĩ
Việt Nam thời trước, vẫn phải xử dụng điễn cố Trung Hoa, hoặc vài đoạn Ðường Thi,
Nhạc Phủ làm chất liệu sinh động cho tác phẩm của mình. Bản dịch của bà Ðiểm theo thể
thơ song thất lục bát, ngắn hơn nguyên tác 62 câu (bản Hán gồm 470 câu theo thể tự do).
Bà loại bớt những đoạn cầu kỳ, nhưng vẫn phô diễn được một cách thành công ý thơ qua
một thể thơ nhẹ nhàng, uyển chuyển giàu âm thanh tiết tấu.
Cũng như Nguyễn Du, Ðặng Trần Côn mở đầu bằng sự nói lên kiếp bẻ bàng, đau
khổ của giới hồng nhan, và thống trách ai đã gây ra cảnh chiến chinh:
Thiên điạ phong trần, Hồng nhan đa truân.
Du du bỉ thƣơng hề, thuỳ tạo nhân.
Dịch
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi,
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên.
Xanh kia thăm thẳm từng trên,
Vì ai gây dựng cho nên nỗi này?
Chiến chinh là phận sự nam nhi. Các chàng trai phải từ giã thê nhi, mái ấm hạnh
phúc gia đình để lên đường ra trận tuyến. Tiếng trống trận, cờ xí rợp trời tung bay không
lấp nổi sầu oán của sự phân ly. Nhưng chàng trai anh hùng, vì nghĩa lớn hăng hái ra đi,
coi gian khổ, tử sinh nhẹ như lông hồng.
Chàng trẻ tuổi vốn giòng hào kiệt,
Xếp bút nghiên theo việc đao cung.
Thành liền mong tiến bệ rồng,
Thƣớc gƣơm đã quyết chẳng dung giặc trời.
Chí làm trai dặm nghìn da ngựa,
Gieo Thái sơn nhẹ tựa hồng mao.
Giã nhà đeo bức chiến bào
Thét roi cầu Vị ào ào gió thu
Một Thời Áo Trận 175
Phút chia ly sao buồn vời vợi. Cảnh sắc chung quanh như cùng chia xẻ nỗi niềm
với người thiếu phụ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng nhưng man mác, đầy âm sắc, hình ảnh chia
ly:
Nƣớc trong chảy lòng phiền khôn rửa,
Cỏ xanh thơm dạ nhớ khó khuây.
Nhủ rồi tay lại cầm tay,
Bƣớc đi một bƣớc dây dây lại dừng.
Trong bản Hán văn, Ðặng Trần Côn đã xử dụng tài tình âm thanh và tiết điệu bi
hùng:
Kiêu mã hề loan linh,
Chinh cổ hề nhân hành
Tu du hề đối diện,
Khoảnh khắc hề phân trình.
(Tiếng nhạc ngựa lần chen tiếng trống,
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay...)
Mà hay nhất có lẽ là bốn câu sau:
Tƣơng cố bất tƣơng kiến,
Thanh thanh mạch thƣợng tang,
Mạch thƣợng tang, mạch thƣợng tang.
Thiếp quân tâm thùy đoạn tràng.
Ai là người mà không xao xuyến khi nghe:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy,
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu.
Ngàn dâu xanh ngắt một màu,
Lòng chàng thiếp, ai sầu hơn ai?
Lối điệp ngữ của Ðặng tiên sinh cho thấy sự trùng điệp của những vườn dâu, vườn
dâu xanh nối tiếp vườn dâu xanh, ôi cảnh buồn sao man mác. Người ra đi cõi xa mưa gió,
kẻ trở về buồng cũ, chiếu chăn, hai bên sắp bị ngăn cách bởi:
Tuôn màu mây biếc, trải ngần núi xanh.
Làm ta nhớ:
Quân tại Tƣơng Giang đầu,
Thiếp tại Tƣơng Giang vĩ,
Ðồng ẩm Tƣơng Giang thuỷ,
Một Thời Áo Trận 176
Tƣơng tƣ bất tƣơng kiến.
(Chàng ở đầu sông Tương, thiếp ở cuối sông Tương, hai ta cùng uống chung giòng
nước sông Tương, cùng nhớ nhau nhưng không cùng thấy mặt nhau).
Kiếp trai chinh chiến trăm ngàn gian khổ, khi thì “nằm vùng cát trắng”, khi thì
“ngủ cồn rêu xanh”.
Ðã trắc trở đôi ngàn xà hổ,
Lại lạnh lùng những chỗ phong sƣơng.
Lên cao trông thức mây lồng,
Lòng nào là chẳng động lòng bi thƣơng.
Người thiếu phụ hàng ngày theo dõi từng bước chinh nhân. Hình dung nỗi niềm cơ
cực hiểm nguy của chàng, giữa cái chết, cái sống mà biên giới chỉ là tích tắc:
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi,
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi.
Chinh phu tử sĩ mấy ngƣời,
Nào ai mạc mặt, nào ai gọi hồn.
Chàng theo đuổi sự nghiệp, say sưa với công danh, yên ngựa, thanh gươm nhọc
nhằn không ngơi nghỉ để thiếp đây:
Nỗi lòng biết tỏ cùng ai,
Thiếp trong cánh cửa, chàng ngoài chân mây.
Thôi đành trở về với kỷ niệm, ước mơ của thời gối chăn êm ái. Nhớ lúc ra đi,
chàng đã hẹn ngày về:
Ức tích dử quân tƣơng biệt thì,
Liễu điều do vị chuyển hoàng ly.
Vấn quân hà nhật qui?
Quân ƣớc đỗ quyên đề.
Ðỗ quyên dĩ trục hoàng ly lão.
Thanh liễu lâu tiền ngữ nhi!
Ức tích dử quân tƣơng biệt trung,
Tuyết mai do vị thức đông phong.
Vấn quân hà nhật qui?
Quân chì đào hoa hồng.
Ðào hoa dĩ trục đông phong khứ.
Lão mai giang thƣợng, hựu phù dung.
Dịch:
Thuở lâm hoành oanh chƣa bén liễu,
Hỏi ngày về? ƣớc nẻo quyên ca
Nay quyên đã dục oanh già
Một Thời Áo Trận 177
Ý nhi lại hót trƣớc nhà líu lo.
Thƣỏ đăng đồ mai chƣa dạn gió,
Hỏi ngày về? chỉ độ đào bông.
Nay đào đã quyến gió đông,
Phù dung lại nở bên sông bơ phờ.
Trách người đi sao lần lữa, hẹn mà không thấy về. Nơi đâu bước chân nàng dạo
qua cũng tràn đầy kỷ niệm. Mấy độ hoa dương tàn đã trải rêu xanh, chỉ nghe tin mà
không hề thấy mặt. Thử tính lại đã ba mùa sen nở, thương người ở chốn ải xa, xót kẻ
khuê phòng ngày đêm ôm con thơ, săn sóc mẹ già một lòng trung trinh chờ đợi, thiếp
đảm đang thay chàng:
Nay một thân nuôi già dạy trẻ,
Nỗi quan hoài mang mẻ biết bao.
Nhớ chàng trải mấy sƣơng sao,
Xuân từng đổi mới, Ðông nào còn dƣ.
Gợi ta nhớ lại những câu hát của Phạm Duy:
Ai có nghe khúc hát hành quân xa, mà không nhớ thƣơng ngƣồi vợ trẻ, chồng đi
lính biên khu, ngồi may áo cho con còn nhỏ...
Tấm lòng tương tư của nàng, những kỷ vật dấu yêu, biết làm sao gửi đến tay chàng
để chàng thấy được tấm lòng? Những đêm đông trường lạnh buốt, em sửa soạn áo bông,
nghĩ đến người ngoài ngàn dặm quan san, phơi mình trong màn sương tuyết. Mình em cô
đơn với bóng đèn, kìa phấn son, kìa gương lược, vắng chàng em lười trang điểm, vì em
chỉ đẹp cho chàng, cho một mình chàng thôi:
Mặt biếng tô, miệng càng biếng nói,
Sớm lại chiều dòi dõi nƣơng song.
Nƣơng song luống ngẫn ngơ lòng,
Vắng chàng điểm phấn trang hồng với ai.
Ðôi lúc yếu lòng, người thiếu phụ hối tỉếc đã để cho chồng theo đường công danh,
để hạnh phúc lứa đôi chia lìa. Tuổi xuân nào có bao nhiêu, thà cùng ở bên nhau, hàn vi
nhưng có nhau. Cùng chia xẽ ngọt bùi, cùng thưởng ngoạn hương vị bốn mùa, khi xem
hoa rụng, khi chờ trăng lên. Nhan sắc ai cũng chỉ có một thời, biết khi chàng trở lại, hoa
đã xế tàn, liệu chàng còn yêu dấu chăng? Nhưng thiếp vẫn hy vọng, vì kìa đôi chim:
Bạc đầu không nỡ đôi đƣờng rẽ nhau.
Hay:
Liễu sen là thức cỏ cây,
Ðôi hoa cùng sánh, đôi dây cùng liền.
Nàng không phải là người phụ nữ tầm thường. Nàng biết tự thắng, nàng biết nghĩ
đến quyền lợi Tổ quốc và đặt nó lên trên tình cảm riêng tư, thường tình. Cho nên nàng
hằng cầu nguyện cho chàng, và ước mong chàng lập nhiều công trận, chỉ xin chàng đừng
Một Thời Áo Trận 178
phụ bạc, cũng như thiếp đây chẳng dám cư xử như nàng Tô Phụ ruồng rẫy chồng khi
chồng sa cơ. Ngày tái ngộ, chàng đi trong tiếng nhạc khải hoàn, cho thiếp được dự phần
vinh hiển, bỏ công lao năm tháng đợi chờ:
Nền huân tƣớng đai cân rạng vẻ,
Chữ đồng hƣu bia để nghìn cân.
Ơn trên tử ấm thê phong,
Hiển vinh thiếp c ng đƣợm chung hƣơng trời.
Chàng về, ngày đoàn viên ôi xiết bao hạnh phúc. Thiếp sẽ khoe với chàng bao
nhiêu nước mắt, nhớ nhung ấp ủ bao năm trong tấm khăn lệ, hay những câu thơ sầu:
Vì chàng tay chuốc chén vàng,
Vì chàng điểm phấn đeo hƣơng não nùng
Giở khăn lệ, chàng trông từng tấm,
Ðọc thơ sầu chàng thấm từng câu.
Câu vui đổi với câu sầu,
Rƣợu khà cùng kể trƣớc sau mọi lời.
Nhiều người khi phê bình Chinh Phụ Ngâm, đã cho rằng người chinh phu, chinh
phụ, nhân vật chính trong tác phẩm chỉ tiêu biểu cho thành phần trung lưu mà thôi. Ðiều
này đúng. Nhưng ta phải nhận rằng, dù ở giai cấp nào, thiếu phụ vẫn tượng trưng cho
người phụ nữ Việt Nam: trung hậu, đảm đang và tiết nghĩa. Thấm nhuần luân lý Khổng
Mạnh, người phụ nữ Việt Nam khi xuất giá, chỉ biết thờ chồng, một lòng chung thủy, dù
trong hoàn cảnh bẻ bàng, đau khổ. Lịch sử bao lần thay đổi, nếu thanh niên Việt Nam
từng chứng tỏ sự can trường, hy sinh nơi trận tuyến, thì phụ nữ Việt Nam đã chứng tỏ
lòng trung trinh, nghị lực vượt thắng mọi gian khó, cám dỗ để xứng đáng là con cháu
Trưng Vương, Triệu Ẩu. Có giai đoạn đau thương nào cho bằng thời kỳ Cộng sản, chồng
con bị đẩy vào tù đăng đẵng hàng chục năm, xã hội thay đổi xáo trộn tận gốc rễ, bao đe
dọa, bao cám đỗ... chúng ta vẫn thấy hàng chục ngàn người vợ can đảm chống chọi với
bạo quyền, tần tảo ngược xuôi nuôi dạy con cái, thăm viếng chồng tận những nơi thâm
sơn cùng cốc, vượt hàng ngàn cây số đường cheo leo để mang đến cho người tù chút tình
ấm áp.
Tôi viết bài này, tưởng nhớ vong linh Mẹ tôi, chồng bị Cộng sản bắt giam và thủ
tiêu khi bà ở độ tuổi ba mươi, bao nhiêu ong bướm chập chờn, nhưng Bà vẫn trung trinh
ở vậy thờ chồng nuôi con, lấy đó làm hạnh phúc riêng. Cũng nhân đây, cám ơn người vợ
chung tình mười năm trọn vẹn nghĩa tình với chồng dù rằng vào lúc đó (sau 1975), chẳng
có chút hy vọng nào về ngày tái hợp. Vinh danh phụ nữ Việt Nam, những bà mẹ, những
người vợ lính, vợ tù nhân trong các trại khổ sai của Cộng sản, tin tưởng mãnh liệt rằng
không một bạo quyền nào thắng nỗi một dân tộc mà tình yêu, đạo lý là nền tảng đã hun
đúc ra những người phụ nữ tuyệt vời.
Một Thời Áo Trận 179
Chiều Trên Phi Đạo Đức với tay lấy túi đồ nghề rồi nhanh nhẹn nhảy phóc lên chiếc van đậu sẵn. Trên
xe, bác Mười Ngàn đã ngồi chểm chệ ở ghế cạnh tài xế. Ông quay lui điểm danh toán của
mình và nói với trưởng toán người Mỹ đang làm tài xế: “Thằng Minh, thằng Côn, thằng
Đức, đủ rồi. Let’s go, Mr. Dunaway.”
Xe chạy qua dãy hangar bảo trì trung cấp rồi thẳng về cuối phi đạo, nơi có các
hangar lộ thiên dành cho các phi cơ vận tải khổng lồ C-130 của hai phi đoàn 435 và 437,
Sư Đoàn 5 Không Quân.
Chiều đã xuống thấp nhưng ánh nắng vẫn còn gay gắt . Hơi nóng bốc lên từ nền xi
măng hừng hực. Từ trên xe, có thể nhìn thấy qua lớp không khí đặc quánh mờ ảo như
những lớp sóng. Xe thả các toán viên mỗi người tại một ụ cách nhau chừng 30 mét. Ở
đấy đã có các quân nhân thuộc đơn vị Bảo Trì luôn túc trực sẵn. Toán nhân viên dân sự
sẽ cùng làm việc với các quân nhân này, nhưng lại chịu trách nhiệm chính về việc bảo trì.
Một Thời Áo Trận 180
Hãng LSI63
nhận thầu bảo trì các loại phi cơ của Không Lực Việt Nam. Nhân viên
cơ khí của hãng LSI là các cựu quân nhân Không Quân. Đa số là các quân nhân bảo trì
đã đáo hạn tuổi về hưu, một số khác là các sĩ quan phi hành giải ngũ vì chiến thương.
Côn và Minh đều là hoa tiêu trực thăng gãy cánh; chỉ có Đức là thành viên đặc biệt ngoại
lệ, vì là cựu sĩ quan Chiến Tranh Chính Trị giải ngũ do nội thương, và không hề có chút
kinh nghiệm nào về bay bổng cũng như cơ khí hàng không. Ở đây, ngôi vị đã đảo lộn.
Các cựu hạ sĩ quan cơ khí, do có nhiều kinh nghiệm, nên được bậc lương cao, và được
đặt làm sếp các cựu sĩ quan. Ngày xưa thì xưng hô trang nghiêm bằng cấp bậc, nay thì
mày tao, dựa trên tuổi đời. Đối với cựu Thượng Sĩ Nguyễn Văn Ngàn, thì tất cả mọi
người đều kính mến và gọi thân mật là bố, bố Mười Ngàn. Có lẽ ông là chuyên viên cơ
khí kỳ cựu nhất của Không Lực Việt Nam. Ông cùng thời với các cựu Tư Lệnh như Đại
Tá Nguyễn Xuân Vinh, Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Ông từng đi học nghề ở Pháp,
Mỹ; lấy vợ Lào, và đang sống một cách phong lưu trong một căn nhà được bao quanh
bằng một vườn trái cây rộng lớn ở Gò Vấp. Ông làm Trưởng Toán của ca chiều chúng
tôi.
Giờ đổi ca hàng ngày là 6 giờ sáng và 6 giờ chiều. Ngay từ lúc còn hưởng 4 tháng
phép trước khi chính thức giải ngũ, Đức đã may mắn được nhận vào làm cơ khí viên cho
hãng LSI. Học một tháng căn bản về động cơ là được lãnh lương AGM-364
, mức thấp
nhất trong thang lương của cơ khí. Chỉ sau một năm, anh leo vượt lên bậc SM-165
và còn
có hy vọng được thi vào bậc AT66
. Trong lúc này, Đức còn đang học tiếp năm chót tại
Đại Học Vạn Hạnh. Anh thuê một căn phòng sâu trong hẻm 220 Trương Minh Giảng,
cạnh trường. Sau khi vợ anh từ Vũng Tàu đem ba đứa con lên Sài Gòn, anh dời về một
căn phòng của căn nhà cho mướn sau lưng nhà thờ Tân Sa Châu. Mỗi ngày, sau giờ học
buổi chiều, anh vội chạy về nhà nhận hai lon guigoz cơm và thức ăn do vợ bới sẵn rồi vào
phi trường cho kịp đổi ca. Làm ca đêm lương cao hơn ca ngày, lại nhàn hạ hơn. Vì sau
khi làm hậu phi một vòng cho các phi cơ bay về ban chiều, các anh cơ khí kéo nhau về
văn phòng. Chẳng có gì làm, nên ai nấy đều rất buồn ngủ. Lẽ ra thì phải lấy TO, TM67
ra
học để trau dồi nghề nghiệp, nhưng nhiều anh cứ ngủ gà ngủ gật ngay bàn làm việc. Tên
Mỹ phì lũ chơi ác, hắn nâng cả cuốn TO bìa cứng, dày cả ngàn trang, rồi thả đánh cái rầm
trước mặt anh chàng ngủ gật; “God damn it! You get pay to work or to nap?”. Nhưng rồi
sau một thời gian, ngay cả mấy anh Mẽo cũng không chịu đựng nổi cơn buồn ngủ. Ông
giám thị Wilson đành cho phép vào bên trong nhà kho và :”See you at 5”
Đức là người xuống xe sau cùng. Anh đến nhập bọn với các anh em quân nhân
đang chuẩn bị dụng cụ chờ các chuyến bay C-130 trở về vào cuối ngày. Công việc của
anh là kiểm soát hậu phi cho phi cơ vừa trở về, và làm tiền phi cho phi cơ sắp cất
cánh.Ngoài ra còn phải sửa chửa động cơ, và các hệ thống điện, thủy điều, khung phòng,
bảo đảm phi cơ khả dụng hành quân tối đa. Việc bảo trì định kỳ, đại tu thì do các cơ
63
LSI viết tắt tên hãng Lear Siegles, Inc. 64
AGM: Aircraft General Mechanics 65
SM: Senior Mechanics 66
AT: Air Technician 67
TO (Technical Orders), TM (Technical Manuals) là các tài liệu kỹ thuật. Mỗi thứ có khoảng 10 cuốn. Mỗi cuốn
chuyên về một cơ phận của Phi cơ
Một Thời Áo Trận 181
xưởng khác lo. Thỉnh thoảng, C-130 được gửi qua Thái Lan hay Hồng Kông để đại tu bổ.
Vào thời điểm Hoa Kỳ đã sử dụng C-130 G, C-130 H68
thì phi cơ C-130 A của Việt Nam
thuộc thế hệ già nhất, xuất xưởng vào những năm giữa thập niên 195069
. Chiếc già nhất
còn bay mang số đuôi 002. Tuy thế, C-130 là loại phi cơ vận tải an toàn nhất ví việc vận
hành do 3 hệ thống điện, cơ, và thủy điều, có thể thay thế nhau khi một hệ thống nào đó
bị trục trặc. Bốn động cơ Alison T-56 khổng lồ cũng bảo đảm cho việc bay. Nếu lỡ bị
hỏng hóc 3 trong 4 động cơ, phi cơ cũng có thể lết về đáp an toàn với động cơ còn lại; dĩ
nhiên trong điều kiện không chở quá năng. Vì chứa xăng trong cánh, nên phi cơ C-130
được liệt vào loại cánh ướt (wet wing). Hai cánh phi cơ vừa chứa mức tối đa 28000
gallons xăng JP-4, vừa treo lủng lẳng 4 động cơ cộng thêm 2 bình xăng phụ (pylon tank);
nên sau nhiều năm bay, do sức nhún mỗi lần đáp, phi cơ thường có hiện tượng nứt cánh.
Chiềc phi cơ mang số đuôi 465 đang chầm chậm lăn bánh vào ụ. Một binh sĩ đang
dùng hai cánh tay làm dấu cho hoa tiêu lái chính xác vào chỗ đậu; một anh khác đã thủ
sẵn hai cục gỗ chêm bánh đáp. Đức đứng lùi vào phía góc hangar chờ đợi.
Từ hướng doanh trại của Đoàn Chuyển Vận, một chiếc xe kéo trờ tới, phía sau
móc thêm ba rờ mọc dài; một xe forklift theo sau. Từ những tháng cuối năm 1974, tình
hình chiến sự bùng nổ trầm trọng khắp nơi. Hai Sư Đoàn Dù và Thủy Quân Lục Chiến
tăng phái hẳn ra miền Trung. Mức độ tổn thất ngày càng cao. Những chuyến bay C-130
buổi sáng chở quân ra bổ sung cho các đơn vị, buổi chiều trở về chỉ thấy thương binh và
tử sĩ.
Khi các động cơ vừa ngừng hẳn, cánh cửa hông của phi hành đoàn vừa hạ xuống,
từ trên máy bay, cả chục người đang chen nhau hấp tấp nhảy xuống. Một mùi hôi thối
nồng nặc toát ra. Theo phản xạ tự nhiên, những người lính cũng chạy tản ra xa chiếc phi
cơ. Nhưng cái mùi này nó theo gió, bay rất nhanh và rất xa. Đức vội cởi chiếc áo, xếp
làm ba, buộc che ngang mũi mà vẫn không thể tránh được. Phi hành đoàn cũng nhảy
xuống, chạy nhanh về phía Đức.
- Ê! Hoà, ông từ Đà Nằng về phải không? Nhảy Dù hay Thủy Quân Lục Chiến?
- Phú Bài, Đức ạ! Nhưng làm sao tui biết lính gì. Họ nằm trong hòm kẽm cả.
Còn mấy chuyến sắp tới nữa ông ạ! Mấy ông liệu mà vất vả đêm nay.
- Ngày mai ông có phi vụ không? Lại bay chiếc này hả?
- Chưa biết được. Nhưng bay lại chiếc này thì ngán quá. Bạn có thể làm sao khử
hết mùi không?
- Khó chi. Cứ mua đây vài chai cognac là hết mùi ngay.
Đại Úy Hoà xuất thân khoá 65-A, vào khám sức khoẻ cùng lúc với Đức. Đức, sau
khi qua được đợt khám tổng quát, thì bị trả về vì lý do thiếu một tuổi mà không có giấy
ưng thuận của cha mẹ. Khi Khoá 65A thụ huấn ở Trung Tâm Huấn Luyện Không Quân
Nha Trang thì Đức cũng vào làm thông dịch viên cho Liên Đoàn 5 Lực Lượng Đặc Biệt
Hoa Kỳ. Đức thường nhập bọn với các sinh viên 65-A vào mỗi cuối tuần, la cà hết các
68
Hiện nay Hoa Kỳ đang sử dụng C-130 biến cải với nhiều danh số khác nhau 69
Chiếc phi cơ thử nghiệm YC-130 xuất xưởng vào tháng 8 năm 1954 mang số đuôi 53-3397. Chiếc của KQVN
mang số đuôi 54-002, như thế có thể cũng được xuất xưởng năm 1954?
Một Thời Áo Trận 182
quán Bar ngoài bãi biển. Hoà là phi công lão luyện trên loại C-130. Anh có thể đáp xuống
êm đến độ hành khách không hề biết rằng phi cơ đã chạm đất.
Từ cửa đưôi phi cơ, đã thấy xuất hiện những palettes trên mỗi cái là 3 chiếc quan
tài có phủ kín bời là cớ Vàng. Mặc dù được bọc bằng kẽm và hàn rất kín khi ở dưới đất,
nhưng do áp suất không khí thay đổi khi phi cơ bay lên cao, các mối hàn cũng bị hở ra,
và mùi tử thi được thể, thoát ra tràn ngập lòng phi cơ. Cái mùi tử thần này lại rất dễ bám
vào các loại vải bạt, ghế ngồi, giây nịt an toàn trên phi cơ. Có đổ cả hàng chục lít dầu hôi
cũng không thể nào xoá sạch được mùi hôi; mà có khi làm cho mùi càng ghê rợn thêm.
Đức cũng chẳng lạ gì mùi tử thi. Ngày trước hành quân chiến đấu ở Bộ Binh, Đức đã
từng gối ngủ cạnh xác chết; có khi phải đi lấy xác đồng đội đã thối rửa. Cũng vài lần tại
mặt trận, Đức phải dí súng vào người lính khiêng xác để anh ta không dám vứt xác bên
đường hoặc cứ càm ràm vì mùi thối. Đức quen lắm rồi, cái mùi tử thi của bạn lẫn thù.
Nhưng những lần trong đêm khuya khoắt thanh vắng, phải đơn độc leo lên phi cơ làm
tiền phi cho phi cơ bay sớm ngày mai, Đức cũng thấy chột dạ. Ngồi trên ghế trái của hoa
tiêu chính, đeo ống nghe để liên lạc với đài kiểm báo và nhân viên dưới đất, Đức cố gắng
tập trung vào công việc để tạm quên cái mùi kia, và chế ngự một nỗi sơ âm thầm. Thì xác
của đồng đội mình chứ có phải của ai? Chả lẽ ma chiến hữu mình lại hiện về nhát mình?
Trời tối rất nhanh. Các dãy đèn trên phi đạo đã được bật lên. Trong ánh sáng chói
loà của hai ngọn đèn flood light, chiếc xe fork lift chỉa hai càng nâng chiếc palette bên
ngoài cùng, kéo ra và đem đến cái rờ mọc đầu tiên. Đức đứng chụm hai chân lại, bàn tay
trái vẫn còn giữ chiếc áo che mũi, bàn tay phải đưa lên ngang mày, kính cẩn chào những
Một Thời Áo Trận 183
đồng đội xấu số vừa hy sinh trên chiến trường đâu đó ngoài Trị Thiên. Nếu không may
mắn về Không Quân cuối năm 1971, thì biết đâu mình cũng đã nằm trong một cái quan
tài bọc kẽm kia sau trận An Lộc Muà Hè Đỏ Lửa 1972? Hoặc bao nhiêu trận ác chiến về
sau đó?
Đức nghĩ cám cảnh cho những người trai khôi ngô tuấn tú miền Nam. Họ biết vào
chiến trận là một đi khó trở về. Nhất là các binh chủng Tổng Trừ Bị, nơi mà xác suất tử
vong rất cao. Còn gì hào hùng và bi tráng cho bằng sự dấn thân của các anh. Các anh vừa
tuổi đôi mươi, giả từ mái nhà nơi có bậc song thân già yếu; chia tay người yêu bé bỏng
mà dứt khoát ra đi. Các anh đi vào cõi chết một cách nhẹ nhàng để cho một hậu phương
bát nháo với những gian thương làm giàu trên xương máu các anh, với những thanh niên
cùng trang lứa không chịu an tâm học hành mà gây rối mọi nơi; với những viên chức,
tướng tá tham nhũng, buôn quan bán tước; có người còn phản bội bán súng đạn thuốc
men cho địch quân. Các anh đã ngang tàng bỏ qua bên chuyện hậu phương để dành hết
tâm trí chiến đấu nơi sa trường. Giờ này đây, thi hài các anh nằm yên giấc trong quan tài
kia, biết có toàn vẹn thân thể hay chỉ là một nắm thịt xương vụn nát? Linh hồn các anh
chắc còn lẩn quất đâu đây, chưa chịu rời bỏ cõi đời ô trọc; hay đã bay về miền vĩnh phúc,
nơi không còn tranh giành, bon chen, hận thù, dối trá?
Xem qua bản Discrepancy Form70
do Trưởng Phi cơ ghi nhận những trục trặc
trong chuyến bay, thấy không có gì đặc biệt, Đức leo lên phòng lái, ngồi vào ghế hoa tiêu
chính, đưa tay rà và kiểm soát hết các cầu chì bên hộp trái, phải và trên đầu. Anh đặt
cuốn sổ Check list71
dày 28 trang lên đùi, đeo ống nghe vào tai rồi gọi xin Tổng Đài cho
phép nổ máy. Người cơ khí dưới đất đã nối dây từ máy phát điện vào ổ cắm bên hông trái
phi cơ. Sau khi check hết các cầu chì bên phải, trái, trên đầu, Đức xướng lên từng câu
trong khi bàn tay phải với lên overhead panel để tìm nút bấm khởi động GTC. Anh đọc to
lên và nhận sự trả lời xác định của nhân viên dưới đất.
- Start GTC 72
- Clear.
- Start engine number 373
- Clear.
- Start engine 2, 4, 1
- Clear
- Check maximum power
Đức đẩy nhẹ từng cần số của động cơ về phía trước. Toàn thân phi cơ rung từ nhẹ
đến mạnh. Anh kiểm soát độ synchoronize trên 32 cái đồng hồ74
về động cơ ngay trước
70
Bản ghi các trục trặc xảy ra trong chuyến bay, cần cơ khí viên sửa chửa hay điều chỉnh. 71
Check List để hướng dẫn từng động tác một trong khi làm Tiền Phi, hay Hậu Phi. Người hoa tiêu hay cơ khí viên
phải để check list trên đùi, vừa đọc lên từng câu vừa làm động tác tương ứng. 72
GTC (Gas Turbine Compressor) gắn bên hông trái (nhìn từ đuôi phi cơ) để cung cấp hơi ép áp suất cao cho việc
nổ máy các động cơ. 73
Đứng từ phía đuôi phi cơ, các động cơ được đánh số 1, 2, 3, 4 từ trái sang phải. Động cơ số ba có chức năng cung
cấp điện AC và DC để tiếp tục nổ máy các động cơ còn lại. 74
Bốn động cơ, mỗi động cơ có 8 đồng hồ, sắp theo chiều dọc.
Một Thời Áo Trận 184
mặt, nằm giữa vị trí của 2 phi công. Hai tay vừa hoạt động, hai chân đạp cần thắng,
miệng đọc check list, tai cố nghe ngóng trong tiếng động cơ có gì khác lạ không; trong
giây phút đó, anh quên bẳng đi những gì đang xảy ra, quên luôn cái mùi tử khí còn quyện
đặc trong không gian. Ngồi trên ghế hoa tiêu chính, anh say sưa hưởng thụ cái giây phút
mà hơn mười năm trước anh từng mơ ước nhưng không thành.
Khi làm xong công việc, Đức nhẹ nhàng bước xuống khỏi phòng lái. Hiện thực trở
lại. Qua bóng đèn mờ mờ, anh thấy lòng phi cơ trống trải kia như có một cái gì đó làm
cho anh chợt rùng mình. Những sợi dây nịt lủng lẳng in bóng trên vách như những bàn
tay đang chới với vẫy gọi. Tóc gáy anh dựng lên. Anh rung mình tưởng như đang nghe
tiếng rền rỉ của những oan hồn đang lẩn khuất đâu đây. Đức bật chiếc đèn pin quét qua
quét lại trên sàn phi cơ. Vài nơi còn loang lỗ màu nâu sẫm của chất nước vàng chảy từ
các quan tài chưa rửa sạch. Đức thầm van vái: “Máu thịt các anh em tôi. Sống khôn thác
thiêng, xin hãy siêu thăng và phù hộ cho đất nước chóng thanh bình.”
Người cơ khí đang chờ bên dưới thấy Đức chưa ra khỏi phi cơ, bèn cất tiếng gọi:
- Ông thầy đâu rồi, bộ ma bắt rồi sao?
- Ma nào mà bắt được tao mậy? Tao đứng lại nói chuyện với anh em mà.
- Bộ ông điên hả? Cái mùi thối rữa thế mà ông chịu khó đứng ngửi cả 5, 10
phút thì tui chịu thua ông rồi đó!
Ghi đậm hai chữ OR75
vào bản check list và ký tên xong, Đức nhảy xuống sân phi
đạo kéo anh lính ra xa rồi đốt một điếu thuốc trong lúc chờ đợi xe đón về phòng. Từ xa,
rất xa, ở về hướng bắc, những ánh đèn hoả châu đang treo lơ lửng trên nền trời đen nghịt.
Tiếng đạn đại liên từ các phi cơ Hoả long AC-119 rền vang một góc trời. Đang có đụng
lớn đâu đây miệt Bình Dương76
. Đức chép miệng: “Các bạn ta trên đó đêm nay lại không
yên. Đến bao giờ mới thôi chết chóc điêu linh?””
75
OR: Operation Ready, khả dụng hành quân. 76
Vào thời điểm này, Cộng Quân đã chiếm Lộc Ninh và kéo về sát Lai Khê, cắt đường Quốc Lộ 13 đi Chơn Thành.
Một Thời Áo Trận 185
Chính Phủ VNCH Chưa Hề Xử Dụng Đến Trẻ Em để Đánh Giặc.
Ký Giả Hà Giang, báo Người Việt với câu nói của BS Phan Quang Đán do bà
Betty Tisdale thuật “Chúng tôi sẽ cố thủ, chúng tôi không thể bỏ cuộc. Chúng tôi
không thể để cho Việt Cộng tiến chiếm. Chúng tôi cần tất cả các em trên mười tuổi ở
lại để giúp đánh trận.Tôi rất tiếc là không thể để cho các em đi được. Đó là quyết định
của chính phủ tôi.”
Ba mươi năm trước đây, nước Việt Nam Cộng Hòa bị bức tử do sự tráo trở thất
hứa của người bạn đồng minh Hoa Kỳ. Một trong nhiều nguyên nhân chính là ác ý của
bọn nhà báo vô lương tâm đã xuyên tạc, bôi đen tình hình chính trị và quân sự tại miền
Nam để làm cho dư luận phản chiến Hoa Kỳ rầm rộ phản đối và mạt sát chính quyền Việt
Nam Cộng Hòa, dẫn đến sự biểu quyết của lưỡng viện Quốc Hội Hoa Kỳ đi từ cắt giảm
viện trợ cho đến khi chém nhát dao cuối cùng chí tử vào chính phủ và nhân dân miền
Nam.
Một Thời Áo Trận 186
Người còn sống mà còn bị bôi nhọ và vô phương chống đỡ. Nói chi đến người đã
chết thì không còn cơ hội nào để biện minh. May mà những thập niên vừa qua, nhiều nỗ
lực đã được thực hiện do các cựu tướng lãnh và các chính khách Hoa Kỳ vì bị thôi thúc
bởi lương tâm mà đã lên tiếng để trả lại sự thật cho lịch sử; trong đó có vấn đề vãn hồi
danh dự cho chính phủ và quân lực VNCH. Nhiều chính khách, quân nhân, nhà báo Việt
Nam cũng hết lòng đóng góp vào nỗ lực trên qua hàng trăm bài báo, tài liệu, sách vở, và
những bài tham luận đọc trước các hội nghị quốc tế về Viêt Nam. Tuy quá muộn màng,
nhưng ít ra cũng giúp cho công luận thế giới thấy được chính nghĩa của miền Nam và sự
man trá hung tàn của chế độ Cộng Sản để góp phần nào vào cuộc đấu tranh cho Tự do
dân chủ tại Việt Nam hiện nay.
Mới đây, nhân nhớ lại ngày tang thương 30-4, nhiều người đã luôn dịp nhắc nhở
đến kỷ niệm 35 năm ngày di tản hàng trăm trẻ em mồ côi do Hoa Kỳ tổ chức trong chiến
dịch Baby Lift vào những ngày rối ren đen tối cuối cùng trước khi mất miền Nam. Trên
tờ báo Người Việt Tây Bắc ngày 13 tháng 4, 2010 có đăng một bài của ký giả Hà Giang
phỏng vấn bà Betty Tisdale về cuộc di tản nhân đạo này (Hà Giang là phóng viên báo
Người Việt tại Nam Cali, nên có lẽ bài viết này đã được đăng trên Người Việt).
Bà Tisdale năm nay 87 tuổi, là phụ nữ can đảm và nhân ái đã đóng vai trò rất quan
trọng trong kế hoạch di tản được 216 trong số khoảng 400 trẻ em của Viện Mồ Côi An
Lạc vào ngày 12 tháng 4, năm 1975.
Tất cả những chi tiết trong đời bà Tisdale đều nói lên tấm lòng nhân ái bao la của
người phụ nữ Mỹ Betty Tisdale đã có mặt ở Sài Gòn trong những ngày nguy hiểm nhất
để thực hiện một việc mà phóng viên Hà Giang gọi là vô tiền khoáng hậu vì bà cho
rằng:”Chỉ biết là tôi không thể để cho các em sống trong thế giới vô thần của chủ nghĩa
Cộng Sản!”.
Tuy nhiên, khi nói về việc xin phép cho các em mồ côi được di tản, bà Tisdale đã
kể lại rằng bà đem danh sách các em lên trình Bộ Xã Hội VNCH để xin phép. Tại đây,
theo lời bà thì Bác Sĩ Phan Quang Đán, Thứ Trưởng Bộ Xã Hội đã nói:
“Chúng tôi sẽ cố thủ, chúng tôi không thể bỏ cuộc. Chúng tôi không thể để cho
Việt Cộng tiến chiếm. Chúng tôi cần tất cả các em trên mƣời tuổi ở lại để giúp đánh
trận.Tôi rất tiếc là không thể để cho các em đi đƣợc. Đó là quyết định của chính phủ tôi.”
(trích nguyên văn theo bài viết của Hà Giang)
Gần cuối bài phỏng vấn, bà lại nhắc câu nói của Bác Sĩ Phan Quang Đán một lần
nữa:
“Tôi đã ra đi, bỏ lại gần hai trăm đứa con mình đã săn sóc cả mƣời bốn năm
trời.Và lời nói của Thứ Trƣởng Phan Quang Đán mãi cứ vang trong tai tôi. „Chúng tôi sẽ
Một Thời Áo Trận 187
cố thủ. Chúng tôi không thể bỏ cuộc.Chúng tôi không thể để cho Việt Cộng tiến chiếm.
Chúng tôi cần tất cả các em trên mƣời tuổi ở lại để giúp đánh trận.’”
Điều này làm chúng tôi vô cùng ngỡ ngàng. Hơn hai mươi năm chiến tranh, có
những giai đoạn thật tàn khốc, và khó khăn về tài nguyên nhân lực, chính phủ miền Nam
chưa hề phải xử dụng đến các thiếu niên để cầm súng; trong khi đối phương chúng ta là
phe Cộng Sản đã phải tuyển mộ nhiều thiếu niên mười lăm mười sáu. Hoặc trong các khu
Việt Cộng kiểm soát, ngay các em bé 7, 8 tuổi và các cụ già gần đất xa trời cũng được
huấn luyện để ném lựu đạn hay bắn súng. Sự khác biệt giữa chúng ta và đối phương là
một bên là một xã hội văn minh, thượng tôn pháp luật, biết tôn trọng luân thường đạo lý,
và một bên kia là xã hội man rợ, chỉ biết dùng bất cứ phương tiện nào cho mục đích của
họ mà thôi. Chính sách của các chính phủ miền Nam rất rõ ràng, chỉ động viên thanh niên
trên 18 tuổi mà thôi. Trong thực tế, có nhiều trường hợp các em 16, 17 vì ham đời binh
nghiệp, đã làm giấy khai sinh giả để đầu quân. Nhưng nếu quân đội phát giác ra hay do
cha mẹ khiếu nại, các em đều được trả về với gia đình.
Để tìm hiểu sự thực về câu nói trên của cố BS Phan Quang Đán, ký giả LC của
báo Chính Nghĩa (Atlanta) cùng chúng tôi gọi điện thoại đến bà Tisdale để tìm hiểu cho
rõ vấn đề, thì được bà hứa sẽ trả lời nếu gửi bằng email cho bà. Bà đã cho chúng tôi địa
chỉ email. Qua ngày thứ Ba 20-4-2010, chúng tôi không nhận hồi đáp, nên đã gọi điện
thoại lần nữa. Lần này, bà đã than rằng bà quá già nên không nhớ hết mọi chuyện. Bà nói
với chúng tôi “Nếu thấy sai gì thì xin cứ sửa!”
Thật khó xử cho chúng tôi. Làm sao chúng tôi có quyền sửa lại những điều do
chính bà đã nói ra?
Vì thế, chúng tôi cũng có thể đặt vài giả thuyết. Hoặc bà đã không nhớ rõ, nên nói
những điều không chính xác. Hoặc ký giả Hà Giang đã nghe lầm hay dịch từ lời của bà
Tisdale qua Việt ngữ thiếu chính xác.
Chúng ta kính phục và biết ơn nghĩa cử của bà Tisdale. Nhưng chúng ta khó chấp
nhận được một lời nói xúc phạm đến danh dự của một chính phủ, một chế độ Cộng Hòa,
dù nó không còn hiện hữu. Chúng ta đã từng tả xung hữu đột để xoá tan những dư luận
độc ác của truyền thông và phản chiến Hoa Kỳ; dĩ nhiên chúng ta sẽ rất đau lòng khi thấy
sự ngộ nhận từ một phụ nữ mà nhiều người trong chúng ta khâm phục và biết ơn.
Chúng tôi mong rằng các tổ chức Cộng Đồng, các đoàn thể Quốc gia nên tìm hiểu
thật kỹ và cùng lên tiếng về sự việc này. Chúng tôi không rõ cụ Phan Quang Đán hiện
còn sống hay đã qua đời. Vì cụ là người đầu tiên có thể minh chính lời nói trên để gỡ oan
cho chính phủ VNCH. Nếu chẳng may, cụ không còn trên thế gian này, thì chúng ta sẽ
xin bà Tisdale vì lương tâm trong sáng mà có lời đính chính vậy. Chúng tôi trân trọng đề
nghị ký giả Hà Giang của báo Người Việt nên tiếp xúc với Bà Betty Tisdale và cho cộng
đồng người Việt tị nạn cộng sản được rõ thực chất của vấn đề.
Một Thời Áo Trận 188
Phát biểu của Giáo Sư Đàm Trung Pháp
trong buổi ra mắt tác phẩm
MỘT THỜI ÁO TRẬN
của nhà văn quân đội Đỗ Văn Phúc
tại trụ sở Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại Dallas, ngày 9 tháng 1
năm 2011
Tôi là người thích đọc hồi ký người khác để cùng với họ đi tìm lại những thời gian
đã mất. Qua những hồi ký đó, như của các tác giả Trần Trọng Kim, Nguyễn Hiến Lê,
Đinh Hùng, Nguyên Sa, Nguyễn Đình Hòa, vân vân, tôi đã biết thêm được nhiều điều lý
thú và bổ ích trong các lãnh vực xã hội, văn học và giáo dục của người dân Việt chúng
ta. MỘT THỜI ÁO TRẬN của tác giả Đỗ Văn Phúc là cuốn hồi ký về chiến trường đầu
tiên tôi vừa đọc xong.
Một Thời Áo Trận 189
Trước hết, tôi mến sự thành thật mà tác giả đã tâm sự trong những trang đầu tiên của
cuốn sách: “Hồi k là để ghi lại những câu chuyện xảy ra trong quá khứ đáng nhớ trong
đời mình … Ngƣời ta không hƣ cấu trong các hồi k , nhƣng có thể điểm thêm vài nét đan
thanh cho câu chuyện tăng phần hấp dẫn đậm đà … Ngƣời đời thƣờng nói xấu che, tốt
khoe. Chỉ có những nhân vật thật đặc biệt mới đem cái xấu của mình ra cho thiên hạ
thấy. Tác giả tập hồi k Một Thời Áo Trận c ng là một ngƣời bình thƣờng nhƣ muôn vạn
ngƣời khác. Vì vậy xin qu độc giả đọc sách với một tấm lòng bao dung … và không cho
rằng tác giả tự phô trƣơng mình qua những trang giấy.” Đọc xong cuốn sách, tôi thấy
những lời tâm sự của ông hoàn toàn khả tín. Tôi cũng thấy như thể ông đã nói dùm tôi
với các độc giả tương lai của tôi, vì tôi đang viết một hồi ký để ghi lại kinh nghiệm làm
giáo dục của tôi tại quê nhà cũng như ở hải ngoại trong hơn 40 năm qua.
Có thêm một lý do nữa, đầy cảm tính, để tôi chuộng tập hồi ký chiến trường này: tôi cũng
là một chiến sĩ Bộ Binh trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, tốt nghiệp khóa 24 Trường
Bộ Binh Thủ Đức năm 1967. Tôi thường nghe người ta nói Bộ Binh là hoàng tử chiến
trường, vậy mà theo lời tác giả “ít sách viết về ngƣời lính bộ binh trong khi so với tỷ lệ
thì quân số bộ binh gấp 10 lần quân số các binh chủng tổng trừ bị.” Và không sót
thương sao được khi nghe ông tâm sự tiếp “Hầu hết các đồng đội của tác giả đã hy sinh
trên chiến trƣờng, hoặc bỏ mình trong tù, trên biển, hoặc đã qua đời vì bệnh tật già
yếu”? Qua những trang sống động ông viết về chiến trận, tôi đã được biết thêm về cuộc
đời gian khổ đích thực của các chiến hữu anh dũng cùng màu cờ sắc áo của tôi tại chiến
trường đẫm máu thời điểm ấy. Thú thực, cho tới nay, tuy có phục vụ tại Bộ Tư Lệnh
Quân Đoàn II và tại Bộ Tổng Tham Mưu QLVNCH một thời gian trước khi được biệt
phái trở về dạy Anh văn tại Đại Học Sư Phạm Saigon vào cuối năm 1968, tôi vẫn mang
mặc cảm của một người “lính văn phòng” chẳng biết gì về chiến trận mà số phận lại may
mắn hơn quá nhiều người đồng trang lứa tuổi. Chính những gian khổ, những hy sinh của
các chiến hữu của tôi ngoài chiến trường đã giữ được bình yên hậu phương để tôi ngày
ngày đi dạy học cho đến tận quốc nạn 30-4-1975!
Phần chính của cuốn sách được xây dựng trên các mục hồi ký chiến trường ở
những thời điểm khác nhau, khởi đi từ khoảng 1969, tức là lúc tác giả vừa tốt nghiệp
Khóa 1 Đại Học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt và được điều động ra phục vụ tại Sư
Đoàn 5 Bộ Binh. Ngoài ra cũng có các mục liên hệ đến thời gian sau cuộc chiến mà tác
giả viết với nhiều nhiệt huyết. Các đề mục đều được viết như các chuyện ngắn, mạch lạc,
và hấp dẫn. Trong tâm tình đã thổ lộ ở trên, tôi xin được chia xẻ cùng độc giả những cảm
nghĩ thành thực nhất của tôi về một vài đề mục trong hồi ký MỘT THỜI ÁO TRẬN của
chiến hữu Đỗ Văn Phúc.
Dưới Bóng Quân Kỳ là đề mục để vinh danh một cách xứng đáng người chiến sĩ
Việt Nam suốt từ thời lập quốc đến nay. Với một niềm hãnh diện hiển nhiên, tác giả nhắc
đến những vị anh thư Trưng Trắc, Trưng Nhị, những vị anh hùng Phùng Hưng, Ngô
Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lý Thường Kiệt. Ông cũng nói đến “một nhà quân sự lỗi lạc
Một Thời Áo Trận 190
vừa là một nhà chiến tranh chính trị xuất chúng” Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc
Tuấn, cũng như anh hùng áo vải đất Lam Sơn Bình Định Vương Lê Lợi và “anh hùng
thiên tài” Quang Trung Nguyễn Huệ. Trong thế hệ chúng ta, tác giả viết “Quân lực ta
không chỉ anh hùng khi còn chiến đấu với v khí trong tay, mà còn bất khuất can trƣờng
khi thất thế. Lê văn Hƣng, Nguyễn Khoa Nam, Lê Nguyên Vỹ, Trần Văn Hai và hàng
trăm chiến sĩ vô danh khác đã tìm cho mình cái chết vinh quang không để lọt vào tay
giặc.”
Nhớ Về Người Tư Lệnh Cũ: Cố Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là đề mục
trong đó tác giả dành cho vị tổng tư lệnh cũ này nhiều thịnh tình, mặc dù tác giả có trách
ông một điều: “Đó là việc dùng ngƣời của ông thiên về cảm tình, sự trung thành hơn là
dựa trên khả năng.” Qua đoạn hồi ký này, tác giả cho biết ông Thiệu là một người con
chí hiếu với mẹ già. Khi thăm Căn Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân ở Phan Rang cuối
năm 1972, ông Thiệu “trao cho căn cứ một món tiền nhỏ và dí dỏm: Thƣờng là cấp nhỏ
hối lộ cấp trên. Bây giờ thì tôi hối lộ các anh. Số là Tổng Thống còn bà mẹ già đang ở
trong căn nhà gần bờ biển. Hàng ngày các phản lực cơ của Không Đoàn 92 Chiến Thuật
cất cánh thƣờng bay qua phía làng của Tổng Thống. Tiếng gầm rú của động cơ quấy
nhiễu không khí yên bình của bà cụ, làm bà sợ hãi. Ông Tổng Tƣ Lệnh phải hối lộ cho
thuộc cấp để yêu cầu bay chệch một chút, né cái làng Ninh Chữ kia ra.”
Quân Đội Và Chính Trị là bài tham luận để trả lời câu hỏi: Các hội cựu quân
nhân có nên tham gia hoạt động chính trị không? Sau khi phân tích ý niệm chính trị từ
trước tới nay tại đông phương và tây phương, tác giả đã trả lời dứt khoát “Không riêng
cựu quân nhân, mà bất kỳ một đoàn thể nào sinh hoạt trong xã hội c ng đều có quyền và
có nghĩa vụ tham gia vào các hoạt động chính trị địa phƣơng hay cao hơn vào hoạt động
chính trị của quốc gia.” Tôi tin chắc là chúng ta, những cựu quân nhân của Việt Nam
Cộng Hòa, đều tâm đắc điều xác quyết này của chiến hữu Đỗ văn Phúc: “Đoàn kết, nhất
trí là hai điều kiện lớn nhất hiện nay của những ngƣời từng chiến đấu chung chiến hào,
tạo đƣợc tiếng nói có trọng lƣợng để hỗ trợ cho các phong trào đòi Cộng Sản Hà Nội trả
lại quyền sống cho dân tộc Việt Nam.”
Vì Em, Anh Làm Lính Nhảy Dù là một đoạn hồi ký vui nhộn. “Em” ở đây là các
nữ sinh Trung Học Bùi Thị Xuân, và “anh” là các sinh viên sĩ quan Đại Học Chiến Tranh
Chính Trị ở thành phố Đà Lạt thơ mộng, và “nhảy dù” chỉ có nghĩa là trốn trại đi chơi với
người đẹp mà hậu quả thường là “những màn phạt dã chiến hay những ngày lạnh lẽo
trong phòng giam khinh cấm.” Những màn nhảy dù ấy được tác giả thi vị hóa qua vài nét
đan thanh, chắc chắn sẽ được các đồng môn quân trường ấy tán thưởng: “Đêm Đà Lạt,
dù rằng vào mùa h , c ng se se lạnh. Còn gì thú vị hơn là cùng ngƣời yêu, tay choàng
tay, thả bộ trên con đƣờng dọc theo bờ hồ Xuân Hƣơng, nhìn sƣơng mờ giăng giăng trên
mặt hồ. Từ sân cù cỏ xanh mơn mởn đến những con đƣờng viền những bông hoa rực rỡ
sắc màu. Ai đã khéo đặt những mỹ danh rừng Ái Ân, hồ Than Thở, thung l ng Tình Yêu
…”
Tìm Lại Chính Mình là đoạn hồi ký tôi thích nhất mặc dù nó cũng làm lòng tôi
chùng xuống với những hy sinh quá cao cả của những người lính bộ binh, trong đó tác
giả “vừa mới giã từ quân trƣờng Đà Lạt sƣơng mờ để nhập mình vào cuộc chiến mà
ngày về thì mong manh c ng nhƣ sƣơng khói miền cao.” Đơn vị phục vụ của tác giả là
Một Thời Áo Trận 191
Tiểu Đoàn 4/8, Sư Đoàn 5 Bộ Binh. Vì Chiến Khu D của địch, sào huyệt của Mặt Trận
Giải Phóng Miền Nam, chạy xuyên qua lãnh thổ Sư Đoàn 5 Bộ Binh nên người lính sư
đoàn này chạm địch mỗi ngày, “mà toàn là những trận long trời lở đất, những trận mà
tổn thất lên đến hàng trăm ngƣời một lúc.” Tác giả đã cụ thể hóa được ý nghĩ trừu tượng
về sự hiểm nguy của người lính chiến qua những chi tiết tả chân rùng rợn của ông: “Tôi
thƣơng những lính khinh binh. Họ là những ngƣời luôn luôn đi đầu trong hành quân. Họ
là ngƣời đầu tiên đón nhận viên đạn rình mò từ góc bụi nào đó, hay c ng là ngƣời đầu
tiên đạp lên chiếc mìn để rồi tung xác lên và chỉ còn nắm thịt vụn … Họ chỉ ăn cơm sấy
và khô sặc ngày hai lần, hoặc nƣớng hoặc xé ra nấu canh chua lá vang. Họ là những
ngƣời chia nhau từng ngụm nƣớc lấy từ hố bom còn tanh mùi thịt rữa …” Cuộc chiến
từng được lãng mạn hóa trong thơ và nhạc, nhưng tác giả nói lên sự thực khắc nghiệt thế
này: “Rừng miền Đông không có hoa cài thép súng thi vị nhƣ lời nhạc của Lam Phƣơng,
mà chỉ có chập chùng bóng đêm đe dọa, chỉ có mìn bẫy giăng đầy, hố bom sâu hun hút
với những xác thú vật, xác ngƣời đã thối rữa.” Phần kết tích cực của đoạn hồi ký này
khiến tôi nghĩ đến câu cách ngôn “Old soldiers never die” (“Những người lính già không
bao giờ chết”) của người Mỹ: “Chúng ta hãy nhìn lại chính mình, không mặc cảm tự ti
hay tự tôn. Hãy ôn lại quá khứ anh hùng để đứng vững trong giây phút cuối của cuộc
chiến cho nhân quyền, tự do.” Chúng ta đều mong sao sẽ là những người thắng cuộc
chiến cho nhân quyền và tự do đó cho mọi người dân Việt tại quê nhà.
Nhớ Lại Chiến Trường Xưa: Đồng Xoài – Bù Na nhắc đến các địa danh lừng
lẫy trong cuộc chiến như Snuol, Đồng Xoài, Bù Na với sự giải thích rõ rệt về vị trí của
chúng. Đoạn hồi ký này cung cấp cho người đọc một số điều có lẽ ít người biết đến.
Chẳng hạn, dân Thượng ở Bù Na thuộc sắc tộc Stieng (thường bị gọi là dân cà-răng căng-
tai), với phụ nữ để ngực trần khiến “lính tráng chúng tôi rất khoái vào sóc để nhìn lúc
các cô đứng giã gạo, hai bầu ngực săn chắc rung lên rung xuống nhịp nhàng hấp dẫn.”
Chuyện vui ấy so với những chuyện buồn thì chẳng thấm vào đâu. Như chuyện sử dụng
các lao công đào binh như các người tù khổ sai “phải mang vác đạn dƣợc, làm các việc
nặng nhọc ngoài chiến trƣờng. Có ngƣời trƣớc đây là hạ sĩ quan, thậm chí có cả sĩ quan.
Họ phải mặc áo quần nhà binh c , xé mất cổ áo, và trên lƣng, trƣớc ngực có viết nguệch
ngoạc 4 chữ tắt LCĐB bằng son đỏ.” Hoặc như sự thực ghê gớm này: “Mùi xác chết là
một mùi kinh khủng nhất. Cách xa cả cây số, mùi này theo hƣớng gió bay vào m i thì dù
có xoa loại dầu gì c ng chỉ làm tăng thêm nồng độ của sự kinh hoàng.” Tác giả cũng ghi
lại sự kiện ông bị thương nặng trong một trận phục kích, khi một viên đạn địch xuyên qua
giây nịt đạn và khoét một lỗ bằng đầu đũa ở bụng. Ông mô tả giây phút bên bờ tử sinh ấy:
“Khi nằm sấp xuống tránh loạt pháo thì mới thấy lành lạnh. Kéo trật chiếc quần trận
xuống, Phúc chỉ thấy màu xám của lớp ruột bên trong đang đùn ra, không một giọt
máu.”
Những Ngày Cuối Năm Không Vui ở Lộc Ninh được tác giả ghi lại để tưởng niệm linh
hồn các chiến sĩ hy sinh tại Lộc Ninh cuối năm 1971. Tác giả nhắc đến vài điềm gở tại
mặt trận Lộc Ninh trong mùa đông buồn thảm năm ấy. Bắt đầu là chuyện một con chó
hoang chạy lọt vào căn cứ, đứng trước hầm Hành Quân, chĩa mõm vào trong mà hú lên
từng hồi nghe rợn người. Nó tỏ ra sợ sệt như đang đối diện một cái gì đó mơ hồ trước mặt
mà những đôi mắt người không thấy được. Phúc bắn chết con chó ấy, và tuy không dị
Một Thời Áo Trận 192
đoan, trong lòng chàng vẫn nghĩ đến những điều chẳng lành sắp xảy ra. Chàng liên tưởng
đến chuyện cột cờ tại Bộ Chỉ Huy Trường Đại Học Chiến Tranh Chính Trị bị gãy và theo
sau là một loạt các biến cố làm thương vong cho cả chục sinh viên sĩ quan. Rồi đến
chuyện Trung Úy Quốc yêu cầu Phúc “mai mốt mày về Saigon, nhờ mày đem cái đàn về
cho má tao nghe” như một lời trăn trối. Cái chết bi hùng ngay sau đó của người trung úy
trưởng ban ba trung đoàn này ngay khi trực thăng của ông đáp xuống thì bị Việt Cộng
bắn vào lườn được tác giả ghi lại như sau: “Anh xạ thủ đại liên chết ngay tại chỗ. Riêng
Quốc bị trúng nhiều mảnh đạn vào thân thể. Anh cố xoay sở tháo chiếc đai nịt an toàn.
Lửa cháy bùng lên nhanh, hắt từng cơn nóng vào ngƣời. Quốc ngạt thở và tuyệt vọng,
dẫy dụa cho đến khi ngọn lửa trùm hết cơ thể anh. Chiếc trực thăng nổ thêm nhiều tiếng
nổ phụ rồi cứ thế, nhƣ một ngọn đuốc giữa cái nhìn bất lực đau xót, bàng hoàng của
trăm binh sĩ xung quanh.” Nghĩa tử là nghĩa tận, Phúc đã đi theo chuyến xe chở thi hài
Quốc về với gia đình lần chót, mang theo chiếc đàn guitar cho mẹ Quốc làm kỷ vật cuối
cùng.
MỘT THỜI ÁO TRẬN là một hồi ký sống động về những người trai anh dũng
thời loạn gần kề với cái chết trong gang tấc. Lối viết trong sáng, mạch lạc, đầy hào khí
của tác giả khiến người đọc sảng khoái và hãnh diện. Đấy là chưa nói đến cái khía cạnh
rất “người” của ông đối với đồng đội và ngay cả đối với địch quân. Đối với đồng đội, ông
đã viết những điều ý nghĩa nhất để cụ thể hóa ý niệm “huynh đệ chi binh” mà chúng ta
thường chỉ hiểu một cách mơ hồ: “Đã ra tác chiến cấp trung đoàn trở xuống thì xác xuất
cao nhất là trở về với thi hài gói chặt trong tấm poncho, hay mình mẩy băng bó trắng
xóa nằm trên băng ca. Vì thế, tình cảm đối với nhau phải nhƣ anh em ruột thịt. Cha mẹ,
vợ con dù là những ngƣời thƣơng yêu mình nhất đời, c ng không thể có mặt bên cạnh
trong những giờ phút thập tử nhất sinh. Ngƣời chiến hữu sẽ nắm đầu anh kéo xuống kịp
trƣớc khi quả đạn thù bay réo qua hay nổ gần bên. Khi anh bị thƣơng, chỉ có bạn chiến
đấu đến ngay săn sóc vết thƣơng, di tản anh ra chỗ tƣơng đối an toàn. Khi xác anh bị để
lại trận địa lâu ngày mới lấy đƣợc, chỉ có chiến hữu mới chịu đựng nổi mùi thối rữa và
sức nặng gia tăng để khiêng anh về qua hàng cây số đƣờng rừng gai góc trong lúc đạn
thù đuổi riết phía sau.” Đối với quân địch, tác giả cũng có lúc mềm lòng, ngay cả ân hận,
như khi ông tâm sự: “Hành quân trong rừng, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn thấy những bộ
xƣơng đã khô trắng hoặc bên đƣờng, hoặc nằm sâu dƣới đáy các hố bom B-52. Những
cán binh sinh bắc tử nam khi ra đi vào nam có ngờ đâu phơi xác trong rừng sâu mà gia
đình chắc chẳng bao giờ có thể tìm ra. Ai lo cho họ đây? Đồng chí của họ không lo đƣợc
thì mong chi đối phƣơng? Phúc c ng có lần cƣa một miếng xƣơng ống tay nhặt đâu đó,
xỏ vào dây thẻ bài đeo trƣớc ngực. Đêm về, nhìn khúc xƣơng trắng mà thấy bất nhẫn, tự
hỏi: Mình làm điều này có đúng không?”
Đây là một cuốn hồi ký chiến trường mà chúng ta, những chiến sĩ trong mọi binh
chủng của Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa thuở ấy, sẽ đọc với một niềm hãnh diện vô
biên.
Một Thời Áo Trận 193
Phụ Bản
Những hình ảnh của một thời chinh chiến
Các vị cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 5 Bộ Binh
Từ trái sang phải trên xuống dƣới:5 vị cưu Tư Lệnh:
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu - Trung Tướng Phạm Quốc Thuần (Tư Lệnh Quân Đoàn
3) - Thiếu Tướng Nguyễn Văn Hiếu (Tư Lệnh Phó QĐ 3) ,Thiếu Tướng Lê Văn Hưng
(Tư Lệnh Phó QĐ 4), Chuẩn Tướng Lê Nguyên Vỹ,Tư Lệnh cuối cùng của SĐ 5.
Góc phải bên dưới: Thiếu Tá Nguyễn Chí Hiền, Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 4/8
Một Thời Áo Trận 194
Thiếu Tá Châu Minh Kiến, Tiểu Đoàn Trưởng 1/8 (bên phải) bàn thảo với Đại Tá Lê
Nguyên Vỹ, Trung Đoàn Trưởng Tr/Đ8BB (ngồi, bên trái) và các Cố Vấn Hoa Kỳ
Căn cứ Hoả lực Gela, nơi Tiểu đoàn 4/8 SĐ5BB và
Tiểu đoàn 2/28 Sƣ Đoàn 1 BB Hoa Kỳ trú đóng
Một Thời Áo Trận 195
Chiến lợi phẩm do Tiểu đoàn 4/8 tịch thu trong cuộc hành quân gần cuối năm 1969
Hình phải: Căn cứ Gela nhìn từ trực thăng tiếp tế
Xác xe thiết giáp M-41 tại “Ngả Ba
Chuồng Chó”, mật khu Tam Giác
Sắt hàng tên: Binh 1 ?, Hạ Sĩ Bô,
Chuẩn Úy Nhơn. Hàng dƣới: Th/Úy
Phúc, Tr/Sĩ 1 Tiết)
Đại đội 15 hành quân trong Mật khu
Long Nguyên (1971) (Hàng đứng:
Nghĩa Sứa, ?, HS Sáu Y Tá, ?, Phúc,
Đệ, Phấn, Tr/S 1 Hùng, H/s Bô. Hàng
ngồi: Tr/S Thành, Thƣơng, Muôn, Lai
Bel)
Một Thời Áo Trận 196
Trận phản phục kích tại Bù Na,
Đồng Xoài (12-1969)
(Nghĩa Sún, Phúc, ?)
Hình dƣới: Pháo Đài 21, cổng Bắc
Lai Khê .
( Trên cùng ba âm thoại viên: Đệ, ?,
Phấn. Giữa: Ch/U Tĩnh, Thƣơng,
Tr/S Ca. Hàng dƣới: Tr/S Khai, H/S
Ba Râu, Th/U Thủy, Tr/U Phúc)
Chia xẻ gian nguy.Căn Cứ Bi 1970
Tù binh chính quy Cộng Sản Bắc
Việt tại Bù Đốp
Một Thời Áo Trận 197
Hành quân vùng Bến Tranh gần Đồn điền
Michelin
Hình phải: Trƣớc giờ tấn công vào Ph Sanghiek (Snuol 1971) (Đệ, Thủy, Phúc, Thoại)
Chuẩn bị xung phong (Snuol 1971)- Bên phải:Ban Chỉ Huy Đại Độ 15 sau khi chiếm
xong mục tiêu (Phúc, Hiệp, Lợi,
Phấn, Khai, Qu , Muôn, Thủy)
Chợ Snuol hoang vắng (Th/Úy Thủy, Tr/Úy Đôn
Ban 5 Trung Đoàn 9, T/S Khiết, Tr/U Phúc)
Một Thời Áo Trận 198
Hình phải:Hành quân ấp Nhà Việt (Phú Hoà) 1969 Hình do phóng viên báo Stars and
Stripes chụp và đăng trên số báo tháng 7-1969
Tiểu đoàn 4/8 ăn Tết trƣớc khi hành quân vƣợt biên đầu năm 1971. Đại Úy Tiểu Đoàn
Trƣởng Nguyễn Chí Hiền nói chuyện với binh sĩ Đại đội 15, bên phải là Th/Úy Phúc.
Tiểu Đoàn Trƣởng Nguyễn Chí Hiền dẫn đầu đoàn quân chiến thắng trở về từ Snuol, với
sự đón tiếp của Trung Tá Đinh Văn Tọa, Trung Đoàn Phó Trung Đoàn 8 BB, sau này hy
sinh trong cuộc lui binh từ Snuol tháng 5/1971
Mặc áo rằn ri từ năm 18 tuổi. Cùng với Trung Đội Thám Báo Chống Khủng Bố (1965)
Một Thời Áo Trận 199
Trong Mật Khu Tam Giác Sắt, trƣớc giờ hành quân trực thăng vận.
Ban Chỉ Huy Đại Đội 16, tại Trung Tâm Huấn Luyện Huỳnh Văn Lƣơng, Bình Dƣơng
(1969) (Lộc,Phúc,Mâu,Phƣơng, ?, Việt, Khiết)
.
Ban Chỉ Huy Đại Đội 15, Pháo đài 21,
cổng bắc căn cứ Lai Khê (1971)
Một Thời Áo Trận 200
Ba sĩ quan từ khoá 1 CTCT tại Tiểu đoàn 4/8
Dƣơng Quang Bồi (ĐĐT/ĐĐ 16), Phúc (ĐĐT/ĐĐ 15) và Mai Thanh Tòng (Trƣởng Ban
5). Phiá sau: Binh 1 Hùng đang chờ tải thƣơng
Văn phòng Đại ĐộiChỉ Huy Trung oàn 8 BB
Chợ Snuol hoang vắng
Một Thời Áo Trận 201
Lội qua các sông rạch sình lầy Giồng Ông Tố, Cát Lái. Hành quân an ninh Thủ đô Sài
Gòn, Tết đầu năm 1971.
Bên phải: Trƣớc Bộ Chỉ Huy Trung Đoàn 8 BB, Lai Khê, 1969
MC trong buổi lễ bàn giao Căn
Cứ 20 Chiến Thuật Không Quân –
Phan Rang 1972
Một Thời Áo Trận 202
Hƣớng dẫn phái đoàn sinh viên Sài Gòn thăm căn cứ
Ngồi ghế Co-Pilot A-37 (Phi Đoàn 534)
không yểm cho Sƣ Đoàn 23 BB ở mặt
trận Buôn Hô.
Hình dƣới: Trong một lớp học Chính Trị
tại Căn Cứ 20 CT/KQ
Một Thời Áo Trận 203
Đôi dòng về Tác giả:
Đỗ Văn Phúc sinh năm 1946 tại Quảng Trị.
Thông Dịch Viên Phái Bộ Cố Vấn đặc trách Chống Khủng Bố tại Quảng Trị (1965-
1966); Tốt nghiệp khoá 1, Đại học Chiến Tranh Chính Trị Đà Lạt (1966-1969); Cử nhân
Chính trị học, Đại học Vạn Hạnh (1975); Kỹ sư Điện Tử, Đại học Texas tại Austin
(1998); Cao Học Quản Trị Công nghiệp, Đại học Kỹ Thuật Quốc Gia, Colorado, (2001).
Phục vụ tại Tiểu Đoàn 4/8, Sư Đoàn 5 Bộ Binh (1969-1971), và Căn Cứ 20 Chiến Thuật,
Sư Đoàn 2 Không Quân (1972-1974). Giải ngũ tháng 4-1974. Làm việc cho Hãng LSI,
Bảo Trì Phi Cơ C-130 của Không Lực VNCH và làm Kiểm Phẩm cho Hãng Sữa Dielac ở
Biên Hoà. Sau tháng 4, 1975, bị Cộng Sản bắt cầm tù trong 10 năm qua các trại Long
Khánh, Suối Máu, Hàm Tân và Xuân Phước.
Đến Hoa Kỳ ngày 9-3-1990 trong danh sách đầu tiên của Chương Trình Định Cư Cựu Tù
Nhân Chính Trị Việt Nam.
Hoạt động Chính trị, Văn hoá
Chủ bút Nguyệt San Gió Cát, Căn cứ 20 CTKQ (Phan Rang). Chủ nhiệm nguyệt san Lửa
Việt (Austin), Trách Nhiệm (Austin) từ 1992. Chủ bút Tạp chí Thạch Hãn. Có bài đăng
thường xuyên trên các nhật báo Tiền Tuyến, Chính Luận (Sài Gòn, trước 1975) ; hiện có
tên trong Ban Biên tập và cộng tác với hàng chục nhật báo, tuần san, nguyệt san, và đặc
san trên toàn quốc Hoa Kỳ; và các báo điện tử, và các đài phát thanh tại Hoa Kỳ, Úc, và
Âu Châu.
Được giới thiệu trên các đài Truyền hình Mỹ và Việt: ACTV, PBS, Fox, News 8 Austin,
SBTN.
Được báo Người Việt giới thiệu trong loạt bài Chân Dung Một HO do Huy Phương viết.
Hai lần được báo Austin American Statesman giới thiệu trên trang 1, section B về hoạt
động chính trị xã hội tại địa phương.
Diễn giả chính trong bữa tiệc trưa tại Hội Nghị Quốc Tế vê Việt Nam tại Texas Tech
University năm 2001. Tham luận viên trong Hội Luận Quốc Tế vê Việt Nam lần thứ 3
năm 2002 và lần thứ 5, năm 2008 tại Đại học Texas Tech, Lubbock,
Thường xuyên nói chuyện với Thanh niên, Sinh viên trong Tiểu bang Texas trong các
ngày lễ lớn và các trại hè.
Tác Phẩm
Đã xuất bản: Vườn Địa Đàng(1992), Bà Chúa Tuyết, Quê Hương và Hoài Vọng, 2 tập
(1995), Cuối Tầng Địa Ngục (2008), Nanh Hùm Nọc Rắn (2009), Một Thời Áo Trận
(2010) Quê Mẹ Mùa Xuân Chưa Về (2012).
Một Thời Áo Trận 204
Một Thời Áo Trận
Hồi ký chiến trường
Tác giả giữ bản quyền
Copyright©2010 Michael Do. All rights reserved
Liên lạc với tác giả:
Michael Do
Website: www.michaelpdo.com
Điện thoại (512) 800-7227
Giá bán: US$18.00
Thêm $3.00 bƣu phí