Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
NCS HOÀNG TRỌNG HANH (báo cáo 3/ 2014)
BÀI THU HOẠCH HỌC PHẦN TỰ CHỌN 2
MỤC LỤC
Trang
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................... 1
I. ĐỊNH NGHĨA ............................................................................................ 1
II. PHÂN LOẠI ............................................................................................. 3
2.1. Suy tim cấp và mạn tính ................................................................. 3
2.2. Suy tim có cung lượng thấp và suy tim cung lượng cao ................. 4
2.3. Suy tim tâm thu và suy tim tâm trương ........................................... 4
2.4. Suy tim theo định khu: Suy tim phải, suy tim trái và suy tim toàn bộ ... 5
III. ĐIỀU TRỊ ................................................................................................. 6
A. ĐIỀU TRỊ SUY TIM TÂM THU ............................................................ 17
1. Mục tiêu điều trị ................................................................................. 17
2. Nguyên tắc chính điều trị ................................................................... 17
3. Những biện pháp điều trị chung ........................................................ 18
3.1. Các biện pháp không dùng thuốc:................................................. 18
3.2. Điều trị suy tim bằng thuốc .......................................................... 20
4. Điều trị nguyên nhân .......................................................................... 40
5. Một số biện pháp điều trị đặc biệt khác ............................................. 40
B. ĐIỀU TRỊ SUY TIM TÂM TRƯƠNG .................................................... 45
1. Mục tiêu điều trị ................................................................................. 45
2. Nguyên tắc chính trong điều trị .......................................................... 45
2.1. Điều trị nguyên nhân .................................................................... 45
2.2. Điều trị triệu chứng ...................................................................... 45
2.3. Nguyên tắc điều trị suy tim tâm trương theo khuyến cáo của
Trường môn Tim mạch và Hội Tim mạch Hoa Kỳ (ACC/AHA) ......... 46
3. Các biện pháp điều trị cụ thể .............................................................. 46
3.1. Điều trị các bệnh chính gây suy tim tâm trương ........................... 46
3.2. Điều trị triệu chứng ...................................................................... 49
KẾT LUẬN .................................................................................................. 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
ĐIỀU TRỊ SUY TIM MẠN TÍNH
THEO KHUYẾN CÁO CỦA ACCF/AHA 2013
ĐẶT VẤN ĐỀ
Suy tim là một hội chứng bệnh lý thường gặp trong nhiều bệnh về tim
mạch như các bệnh van tim, bệnh cơ tim, bệnh mạch vành, bệnh tim bẩm sinh
và một số bệnh khác có ảnh hưởng nhiều đến tim.
Gần đây, trên cơ sở những hiểu biết sâu sắc hơn về cơ chế bệnh sinh
của suy tim, về tính năng và tác dụng của một số loại thuốc mới trong điều trị
suy tim, người ta đã thu được những kết quả khả quan trong việc điều trị hội
chứng này. Suy tim là hội chứng lâm sàng thường gặp, là hậu quả cuối cùng
của các bệnh tim mạch. Bởi vậy trong điều trị suy tim, ngoài việc điều trị triệu
chứng cần tiến hành điều trị nguyên nhân[10].
Điều trị suy tim bao gồm: Những biện pháp điều trị chung cho tất cả
các loại nguyên nhân đã gây ra suy tim, nhằm giảm ứ trệ tuần hoàn và tăng
cường khả năng co bóp của cơ tim. Những biện pháp điều trị đặc biệt áp
dụng cho từng trường hợp cụ thể tùy theo nguyên nhân đã gây ra suy tim [10].
Ngày nay có nhiều tiến bộ trong điều trị suy tim, ngoài các biện pháp
điều trị kinh điển còn có các biện pháp hỗ trợ, điều trị ngoại khoa, can thiệp
tim mạch, ghép tim đã góp phần giảm tỷ lệ tử vong nâng cao chất lượng cuộc
sống, kéo dài tuổi thọ cho bệnh nhân.
Chính vì vậy, chúng tôi viết bài thu hoạch về điều trị suy tim mạn tính theo
khuyến cáo của ACCF/AHA năm 2013, với 2 mục tiêu:
1. Điều trị suy tim tâm trương
2. Điều trị suy tim tâm thu.
I. ĐỊNH NGHĨA
Suy tim là trạng thái bệnh lý trong đó cung lượng tim không đủ đáp
2
ứng với nhu cầu của cơ thể về mặt ôxy trong mọi tình huống sinh hoạt của
bệnh nhân[2],[3], [4], [5].
Theo khuyến cáo của Trường môn và Hội Tim mạch Hoa Kỳ
(ACC/AHA) [20],[24],[31] đã định nghĩa ''suy tim là một hội chứng lâm
sàng phức tạp xảy ra do bất kỳ rối loạn cấu trúc hay chức năng nào của tim
làm tổn hại đến khả năng đổ đầy máu và tống máu của thất''. Khuyến cáo
này cũng đưa ra các biểu hiện chính của suy tim là khó thở, mệt mỏi, hạn
chế khả năng dung nạp gắng sức, ứ nước trong cơ thể dẫn đến phù phổi và
phù ngoại biên.
Bảng1. Định nghĩa HFrEF (suy tim giảm phân suất tống máu) và HFpEF (suy
tim phân suất tống máu được bảo tồn) theo AHA 2013[31]
Phân loại EF (%) Mô tả
I. Suy tim với
phân suất tống
máu giảm
(HFrEF)
≤40% Còn được gọi là suy tim tâm thu. Các
thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên chủ
yếu nghiên cứu trên các bệnh nhân
HFrEF, và do đó các phác đồ điều trị
chứng minh được sự hiệu quả của nó
thì chỉ áp dụng trên đối tượng này
II. Suy tim với
phân suất tống
máu được bảo
tồn (HFpEF)
≥50% Còn được gọi là suy tim tâm
trương.Có một số các tiêu chuẩn khác
nhau được sử dụng để định nghĩa
HFpEF. Việc chẩn đoán HFpEF rất
khó bởi vì hầu như đây là một chẩn
đoán loại trừ các nguyên nhân ngoài
tim mạch gây ra các triệu chứng gợi ý
3
suy tim. Cho đến nay. Các liệu pháp
điều trị hiệu quả vẫn chưa được
nghiên cứu nhiều trên nhóm đối
tượng này
a. HFpEF, mức
ranh giới
41 – 49% Những bệnh nhân được xếp vào
nhóm mức ranh giới hoặc trung gian.
Các đặc trưng, vấn đề điều trị và dự
hậu của nhóm bệnh nhân này cũng
tương tự như những bệnh nhân
HFpEF
b. HFpEF, cải
thiện từ HFrEF
trước đó
(improved)
>40% Có một số dưới nhóm các bệnh nhân
HFpEF trước đó là HFrEF. Những
bệnh nhân này phục hồi về mặt lâm
sàng liên quan đến EF, nhưng cần
phân biệt rõ với những bệnh nhân EF
giảm hoặc bảo tồn trường diễn. Cần
có các nghiên cứu xa hơn liên quan
đến nhóm đối tượng này
II. PHÂN LOẠI
Có thể có nhiều cách phân loại suy tim khác nhau, tiến triển, lưu lượng
tim, chức năng, dựa trên hình thái định khu [5],[14].
2.1. Suy tim cấp và mạn tính
- Suy tim cấp: Quá trình suy tim xuất hiện ngay sau khi có nguyên nhân
gây suy tim, diễn biến nhanh trong những ngày đầu của bệnh, ví dụ suy tim
cấp tính trong giai đoạn đầu của nhồi máu cơ tim, nghẽn động mạch phổi,
viêm cơ tim cấp, đứt dây chằng với cơ nhú...Các thể suy tim cấp tính chính là
4
phù phổi cấp tính do tim và sốc tim. Khuyến cáo của Hội Tim châu Âu đã đưa
cả thể mất bù cấp tính của suy tim mạn tính vào diện này. Các thể suy tim này
rất nặng, có tử vong cao, các bệnh nhân cần được điều trị ở các trung tâm hồi
sức tích cực [2], [10], [13].
- Suy tim mạn tính: Tiến triển của suy tim diễn ra từ từ, có thể xẩy ra sau
suy tim cấp tính hoặc không, kéo dài nhiều tháng, nhiều năm ví dụ trong suy tim
mắc phải hay các bệnh tim bẩm sinh, suy tim sau nhồi máu cơ tim, trong bệnh cơ
tim, tăng huyết áp....Suy tim mạn có diễn biến lâu dài, nếu được điều trị tốt thì có
những thời gian bệnh ổn định; nhưng dễ xẩy ra những đợt tiến triển xấu (được gọi
là mất bù) làm cho tiên lượng xấu đi nhanh. Thể suy tim này thường thấy trong
các phòng khám bệnh, các bệnh viện [2], [10], [13].
2.2. Suy tim có cung lượng thấp và suy tim cung lượng cao
- Suy tim cung lượng thấp: Là thể suy tim thường gặp trong các bệnh
tim mắc phải hay các bệnh tim bẩm sinh, bệnh tim thiếu máu cục bộ nhất là
sau nhồi máu cơ tim, bệnh cơ tim giãn, tăng huyết áp, các bệnh màng tim [2],
[14], [15].
- Suy tim có cung lượng cao: gặp chủ yếu trong cường giáp, thiếu máu
mạn tính, bệnh tê phù, thông động-tĩnh mạch, bệnh đa hồng cầu, đa u tuỷ,
chứng tim phổi mạn tính...., còn gặp ở phụ nữ khi có thai [2], [14], [15].
Trong thể suy tim này, cung lượng tim thường ở mức cao hơn so với
người bình thường trước khi có suy tim, chính cung lượng cao thường xuyên
đã tạo điều kiện hình thành suy tim.
2.3. Suy tim tâm thu và suy tim tâm trương
- Suy tim tâm thu: Là suy tim do giảm chức năng co bóp cơ tim, đặc
trưng trên siêu âm tim là phân suất tống máu giảm, thất trái giãn, trên x quang
thấy tim to, khám thực thể thấy tim to có tiếng ngựa phi, tiếng tim mờ, gan to,
tĩnh mạch cổ nổi, phù; nguyên nhân chủ yếu do bệnh động mạch vành và
5
bệnh van tim [2], [14], [15].
- Suy tim tâm trương: Là suy tim do rối loạn chức năng tâm trương làm
giảm sự đổ đầy thất. Đặc trưng trên siêu âm tim là phân suất tống máu có thể
bình thường hoặc gần bình thường, phì đại thất trái mạnh cả trên siêu âm và
điện tâm đồ, nguyên nhân chủ yếu là do tăng huyết áp. Chẩn đoán suy tim tâm
trương chủ yếu dựa vào siêu âm tim [16]
2.4. Suy tim theo định khu: Suy tim phải, suy tim trái và suy tim toàn bộ
Ngoài ra người ta còn phân loại suy tim do tăng tiền gánh và suy tim do
tăng hậu gánh.
Tuy nhiên, để tiện lợi trong đánh giá triệu chứng và điều trị, trên lâm
sàng người ta thường hay chia ra ba loại: suy tim trái, suy tim phải và suy
tim toàn bộ, nguyên nhân suy tim cũng được chia ra như vậy để dễ đánh giá
và theo dõi [3],[5].
Bảng 2. Các giai đoạn của suy tim theo ACCF/AHA và NYHA [31]
Phân độ suy tim theo ACCF/AHA Phân độ chức năng theo NYHA
A Có nguy cơ cao bị suy tim nhưng
chưa có bệnh lý về cấu trúc tim
hoặc triệu chứng của suy tim
Không
B Có bệnh lý về cấu trúc của tim
nhưng chưa có dấu hiệu hoặc
triệu chứng của suy tim
I Không có giới hạn về hoạt
đông sinh lý. Các hoạt động
sinh lý bình thường không gây
ra các triệu chứng của suy tim
C Có bệnh lý về cấu trúc của tim đi
kèm với các triệu chứng trước
đây hoặc hiện tại của suy tim
I Không có giới hạn về hoạt
động sinh lý. Các hoạt động
sinh lý bình thường không
gây ra các triệu chứng của suy
tim
II Có giới hạn hoạt động sinh lý ở
mức độ nhẹ. Khi nghỉ ngơi thì
không sao, nhưng những hoạt
6
động sinh lý bình thường sẽ gây
ra các triệu chứng suy tim
III Giới hạn hoạt đông sinh lý rõ.
Lúc nghỉ ngơi thì không sao,
nhưng những hoạt đông sinh
lý mức độ nhẹ cũng có thể
gây ra triệu chứng của suy tim
D Suy tim kháng trị cần có những
biện pháp can thiệp đặc hiệu.
IV Không thể thực hiện được bất
cứ hoạt đông sinh lý nào vì
các triệu chứng của khó thở,
hoặc có triệu chứng của suy
tim ngay cả khi nghỉ ngơi
III. ĐIỀU TRỊ
Chiến lược điều trị suy tim. Đây là một chiến lược xử lý đơn giản để
điều trị suy tim. Nó bao gồm 3 phần quan trọng ngang nhau:[10]
- Giảm nhẹ gánh nặng và sự tiêu thụ oxy đối với tim.
- Khống chế sự ứ thừa natri và nước.
- Tăng cường chức năng tâm thu.
Ba chiến lược điều trị này đưa chúng ta trở về với 4 yếu tố quyết định
cung lượng tim.
- Nếu tần số tim quá thấp, thể tích nhát bóp sẽ không đủ lớn để bù trừ.
Nếu tần số quá nhanh, thì tâm trương sẽ quá ngắn và sẽ tăng tiền gánh đối với
thất trái.
- Tiền gánh là một phần của cơ chế Frank Starling, nó chỉ tốt chừng nào
bệnh nhân dưới giới hạn dự trữ tiền gánh. Quá giới hạn này thì ứ trệ tĩnh
mạch xảy ra.
- Hậu gánh là công mà tâm thất phải thực hiện để đẩy máu vào động
mạch chủ. Nếu như sức cản mạch hệ thống tăng thì công đó tăng lên.
- Lực co bóp là sức mạnh co bóp của cơ tim.
7
Như vậy, cách giải quyết thích hợp đối với bệnh nhân là đánh giá toàn
bộ các yếu tố này và thiết kế ra một chương trình điều trị để làm cho tất cả
các yếu tố đó tốt hơn.
- Giảm nhẹ công cho tim và giảm sự tiêu thụ Oxy cơ tim: có vai trò quan
trọng, cần phải: hạn chế hoạt động thể lực và nên nằm nghỉ tại giường trong
thời gian đầu. Nếu bệnh nhân có nguy cơ dễ bị tắc mạch cần dùng Heparin dự
phòng đến khi bệnh nhân đi lại. Hạn chế tối đa các chấn thương về tinh thần.
- Khống chế sự ứ thừa muối và nước: nhằm giảm tiền gánh.
+ Muốn đạt yêu cầu này bệnh nhân phải tuân theo chế độ ăn hạn chế muối.
+ Tiếp theo, phải làm giảm thể tích máu lưu thông bằng cách tăng lưu
lượng nước tiểu, khi đó các thuốc lợi tiểu thường rất có ích.
- Phương pháp không dùng thuốc: có tác dụng trong giai đoạn sớm của
suy tim mất bù.
- Giảm Natri là chính, bằng cách không nêm muối, không ăn các thực
phẩm có nhiều muối. Thường giới hạn ở mức 2g/ ngày.
- Hạn chế nước, khoảng 1,5lít nước/ ngày.
- Chọc tháo dịch màng bụng, màng phổi nếu không đáp ứng với lợi tiểu
và có dấu hiệu khó thở. Không nên hút nhiều và nhanh quá 1 lít vì dễ bị tụt
HA do sự thoát dịch nhanh từ lòng mạch vào khoang màng bụng hay màng
phổi. Nếu cần có thể chạy thận nếu có suy thận. [10]
8
Bảng 3. Các khuyến cáo điều trị các giai đoạn suy tim theo AHA 2013[31]
Giai đoạn A Nhóm Mức độ
chứng cứ
Tăng huyết áp và các rối loạn lipid máu nên
được kiểm soát theo các guideline hiện có để
giảm bớt nguy cơ suy tim
I A
Những rối loạn khác có thể dẫn đến hoặc góp
phần vào suy tim như béo phì, đái tháo đường,
hút thuốc lá, và sử dụng những chất độc cho
tim, nên được kiểm soát hoặc tránh sử dụng
I C
Giai đoạn B Nhóm Mức độ
chứng cứ
Ở những bệnh nhân có tiền sử nhồi máu cơ tim
hoặc giảm EF, thuốc ức chế men chuyển hoặc
ức chế thụ thể nên sử dụng để phòng ngừa suy
tim
I A
Ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim hoặc
giảm EF, thuốc chẹn beta nên được sử dụng để
giảm tỷ lệ tử vong.
I B
Ở những bệnh nhân bị nhồi máu cơ tim, statin
nên được sử dụng để ngăn ngừa suy tim và các
biến cố tim mạch
I A
9
Huyết áp nên được kiểm soát để ngăn ngừa suy
tim có triệu chứng
I A
Thuốc ức chế men chuyển nên được sử dụng ở
tất cả các bệnh nhân có giảm EF để ngăn ngừa
suy tim
I A
Thuốc chẹn beta nên được sử dụng ở tất cả các
bệnh nhân có giảm EF để ngăn ngừa suy tim
I C
Máy khử rung (ICD) là một sự lựa chọn hợp lý ở
những bệnh nhân mắc bệnh cơ tim thiếu máu
cục bộ không triệu chứng, ít nhất 40 ngày sau
khi bị nhồi máu, có phân suất tống máu thất trái
≤ 30%, và đang điều trị theo phác đồ
IIa B
Thuốc chẹn canxi nhóm nondihydropyrine
không nên sử dụng ở những bệnh nhân có phân
suất tống máu thất trái thấp
III C
Giai đoạn C HFrEF
Giai đoạn C Nhóm Mức độ
chứng cứ
Bệnh nhân bị suy tim nên được giáo dục để thích
nghi với bệnh lý của mình, cũng như để tự chăm
sóc bản thân
I B
Việc hạn chế muối là nên áp dụng ở những bệnh
nhân suy tim có triệu chứng để giảm bớt triệu
chứng xung huyết
IIa C
Thông khí áp lực dương liên tục (CPAP) có thể IIa B
10
có lợi để làm tăng phân suất tống máu thất trái
và cải thiện triệu chứng chức năng ở những bệnh
nhân bị suy tim và ngưng thở khi ngủ
Việc luyện tập thể dục (hoặc hoạt động sinh lý
đều đặn) được khuyến cáo ở những bệnh nhân bị
suy tim, trong khả năng cho phép, để cải thiện
triệu chứng cơ năng
I A
Phục hồi chức năng tim (cardiac rehabilitation)
có thể hữu ích ở những bệnh nhân lâm sàng ổn
định để cải thiện khả năng hoạt động, khả năng
gắng sức, và tử vong
IIa B
Thuốc lợi tiểu
Thuốc lợi tiểu được khuyến cáo sử dụng ở
những bệnh nhân HFrEF có dấu hiệu của tình
trạng ứ dịch, trừ khi có chống chỉ định, để cải
thiện triệu chứng suy tim
I C
Thuốc ức chế men chuyển
Thuốc ức chế men chuyển được khuyến cáo sử
dụng ở những bệnh nhân HFrEF có triệu chứng,
trừ khi có chống chỉ định, để giảm tỷ lệ bệnh tật
và tử vong
I A
Thuốc ức chế thụ thể
Thuốc ức chế thụ thể được khuyến cáo ở những
bệnh nhân HFrEF có triệu chứng, và không dung
nạp được với thuốc ức chế men chuyển, trừ khi
có chống chỉ định, để làm giảm tỷ lệ bệnh tật và
tử vong
I A
Thuốc ức chế thụ thể có thể sử dụng như liệu
pháp đầu tiên thay thế cho thuốc ức chế men
chuyển để làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong,
đặc biệt là ở những bệnh nhân hiện đang sử dụng
IIa A
11
thuốc ức chế thụ thể cho những chỉ định khác,
trừ khi có chống chỉ định
Việc bổ sung thuốc ức chế thụ thể có thể cân
nhắc ở những bệnh nhân HFeRF không cải thiện
triệu chứng mặc dù đang được điều trị với thuốc
ức chế men chuyển và một thuốc chẹn beta, trên
những bệnh nhân chống chỉ định với thuốc ức
chế aldosterone.
IIb A
Việc sử dụng kết hợp một cách thường xuyên
giữa thuốc ức chế men chuyển, ức chế thụ thể và
kháng aldosterone sẽ có hại cho bệnh nhân
HFrEF
III C
Thuốc chẹn beta
Việc sử dụng một trong 3 thuốc chẹn beta sau đã
được chứng minh có khả năng giảm được tỷ lệ
tử vong (bisoprolol, carvedilol và metoprolol
succinate phóng thích chậm) được khuyến cáo ở
tất cả các bệnh nhân suy tim có triệu chứng
HFrEF, trừ khi có chống chỉ định
I A
Thuốc kháng aldosterol
Thuốc kháng aldosterol (hoặc ức chế receptor
của hormone khoáng) được khuyến cáo ở tất cả
các bệnh nhân NYHA nhóm II – IV có phân suất
tống máu dưới 35%, trừ khi có chống chỉ định,
để cải thiện tỷ lệ bệnh tật và tử vong. Những
bệnh nhân NYHA nhóm II có tiền sử nhập viện
trước đó vì bệnh lý tim mạch hoặc năng nồng độ
BNP huyết tương thì nên cân nhắc việc sử dụng
thuốc kháng thụ thể aldosterol. Nồng độ
creatinin nên <2.5mg/dL ở nam giới hoặc
<2.0mg/dL ở nữ giới (hoặc độ thanh thải
I A
12
creatinine >30mL/phút/1.73m2), và nồng độ Kali
<5.0mEq/L. Khi sử dụng thuốc này, cần theo dõi
sát nồng độ kali, chức năng thận, và liều lượng
thuốc lợi tiểu, để hạn chế tối thiểu nguy cơ tăng
kali máu và suy thận
Thuốc kháng thụ thể aldosterol được khuyến cáo
để làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong sau nhồi
máu cơ tim cấp ở những bệnh nhân có phân suất
tống máu dưới 40% biểu hiện triệu chứng suy
tim hoặc những người có tiền sử đái tháo đường,
trừ khi có chống chỉ định
I B
Việc sử dụng không hợp lý thuốc kháng
aldosterol sẽ rất nguy hiểm vì nó có thể làm tăng
kali máu nguy hiểm đến tính mạng hoặc suy
thận, đặc biệt khi nồng độ creatinine huyết tương
dưới 2.5mg/dL ở nam hoặc dưới 2.0mg/dL ở nữ
(tức là độ thanh thải creatinine
<30mL/phút/1.73m2 cơ thể) và/hoặc nồng độ
Kali >5.0mEq/L
III B
Hydralazine và isosorbide dinitrate
Việc kết hợp giữa hydralazine và isosorbide
dinitrate được khuyến cáo có thể làm giảm được
tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở những bệnh nhân
người Mỹ gốc Phi NHYHA III – IV HFrEF đang
điều trị tối ưu với ức chế men chuyển và chẹn
beta, trừ khi có chống chỉ định
I A
Việc kết hợp giữa hydralazine và isosorbite
dinitrate có thể hữu ích để làm giảm tỷ lệ bệnh
tật và tử vong ở những bệnh nhân có triệu chứng
trước đó HFrEF không thể sử dụng thuốc ức chế
men chuyển hoặc ức chế thụ thể do không dung
IIa B
13
nạp, hạ huyết áp, suy thận, trừ khi có chống chỉ
định
Digoxin
Digoxin có thể có ích ở những bệnh nhân
HFrEF, trừ khi chống chỉ định, để làm giảm tỷ lệ
nhập viện do suy tim
IIa B
Thuốc chống đông
Bệnh nhân bị suy tim mãn tính có đi kèm rung
nhĩ và một yếu tố nguy cơ khác hình thành huyết
khối từ tim (tiền sử tăng huyết áp, đái tháo
đường, đột quỵ trước đó hoặc thiếu máu cơ tim
thoáng qua, hoặc ≥75 tuổi) nên sử dụng liệu
pháp chống đông
I A
Việc lựa chọn liệu pháp chống đông (warfarin,
dabigatran, apixaban, hoạc rivaroxaban) để điều
trị rung nhĩ nên được thực hiện một cách cá nhân
hóa
I C
Việc điều trị chống đông nên được cân nhắc chỉ
định ở những bệnh nhân suy tim, rung nhĩ nhưng
không đi kèm với một yếu tố nguy cơ hình thành
huyết khối nào khác.
IIa B
Thuốc chống đông không được khuyến cáo sử
dụng ở những bệnh nhân suy tim HFrEF mãn
tính mà không đi kèm rung nhĩ, hoặc một biến
cố về huyết áp trước đó, có nguồn gốc từ tim
III B
Statin
Statin không có ích lợi gì nên bệnh nhân suy tim,
trừ khi có các chỉ định khác
III A
Chẹn canxi
Thuốc chẹn canxi không được khuyến cáo điều
trị thường xuyên ở những bệnh nhân HFrEF
III A
14
Giai đoạn C HFpEF
Khuyến cáo Nhóm Mức độ
chứng cứ
Kiểm soát huyết áp tâm thu và huyết áp tâm
trương nên được thực hiện theo các guideline đã
được xuất bản
I B
Thuốc lợi tiểu nên sử dụng để giảm bớt các triệu
chứng do quá tải thể tích
I C
Tái thông mạch vành ở những bệnh nhân bị bệnh
lý mạch vành có cơn đau thắt ngực hoặc thiếu
máu cơ tim mặc dù đã điều trị theo phác đồ
khuyến cáo
IIa C
Điều trị rung nhĩ theo các phác đồ đã xuất bản ở
những bệnh nhân HFpEF để cải thiện triệu chứng
suy tim
IIa C
Sử dụng thuốc chẹn beta, ức chế men chuyển, và
ức chế thụ thể đề điều trị tăng huyết áp ở những
bệnh nhân HFpEF
IIa C
Thuốc ức chế thụ thể có thể cân nhắc sử dụng ở
những bệnh nhân HFrEF để giảm nguy cơ nhập
viện
IIb B
Việc sử dụng các chế phẩm dinh dưỡng không
được khuyến cáo ở những bệnh nhân HFrEF
III C
15
Các khuyến cáo giai đoạn D
Khuyến cáo Nhóm Mức độ
chứng cứ
Hỗ trợ tăng co bóp cơ tim
Điều trị theo hướng shock tim I C
Điều trị bảo tồn theo hướng chuẩn bị ghép tim
hoặc tuần hoàn cơ học ở những bệnh nhân
giai đoạn D kháng trị
IIa B
Điều trị hỗ trợ ngắn hạn cho những bệnh nhân
có nguy cơ suy chức năng cơ quan đích giai
đoạn D và HFrEF mức độ nặng
IIb B
Điều trị hỗ trợ dài hạn với liệu pháp hỗ trợ
với truyền tĩnh mạch liên tục ở một số bệnh
nhân giai đoạn D
IIb B
Việc điều trị bằng đường tĩnh mạch thường
xuyên, có thể ngắt quãng, hoặc liên tục, có hại
cho những bệnh nhân suy tim giai đoạn D
III B
Điều trị truyền tĩnh mạch ngắn hạn cho những
bệnh nhân nhập viện không có dấu hiệu của
shock hoặc suy chức năng cơ quan đích thì
cũng có hại
III B
16
Tuần hoàn ngoài cơ thể
Tuần hoàn ngoài cơ thể được chỉ định ở một
số bệnh nhân suy tim giai đoạn D, nếu họ đã
được lên lịch cho một phương pháp điều trị cụ
thể (ví dụ ghép tim)
IIa B
Ghép tim
Việc chỉ định ghép tim nên được chỉ định cẩn
thận ở những bệnh nhân suy tim giai đoạn D
mặc dù đã điều trị theo phác đồ, phụ thuộc
vào khả năng phẩu thuật, thiết bị của từng
trung tâm
I C
17
Sơ đồ 1. Phác đồ điều trị suy tim theo AHA 2013, giai đoạn C [31]
A. ĐIỀU TRỊ SUY TIM TÂM THU
1. Mục tiêu điều trị
Giảm các triệu chứng, làm cho suy tim tiến triển chậm lại, các biến
chứng nặng ít xuất hiện, cải thiện khả năng gắng sức cùng chất lượng sống
của bệnh nhân và cuối cùng là kéo dài đời sống cho bệnh nhân, giảm số lần
vào viện, giảm tỷ lệ tử vong [2].
2. Nguyên tắc chính điều trị
- Điều trị nguyên nhân gây suy tim
- Loại bỏ các điều kiện thuận lợi cho suy tim tiến triển xấu
HFrEF giai đoạn C, NYHA nhóm I - IV
Nhóm 1, mức độ chứng cứ A
Thuốc ức chế men chuyển hoặc ức
chế thụ thể kết hợp với chẹn beta
Tất cả những bệnh nhân có
tình trạng ứ dịch,
NYHA II - IV
Nhóm 1, mức độ chứng cứ C
Thêm lợi tiểu quai
Nhóm I, mức độ chứng cứ A
Thêm Hydral - Nitrates
Triệu chứng trường diễn,
NYHA III - IV
Đối với NYHA II – IV, độ
thanh thải creatinine >
30mL/phút và K+ <
5.0mEq/dL
Thêm Hydral - Nitrates
Nhóm I, mức độ chứng cứ A
Thêm thuốc ức chế
Aldosterone.
18
- Điều trị triệu chứng suy tim bằng các biện pháp không dùng thuốc và
dùng thuốc [2].
3. Những biện pháp điều trị chung
3.1. Các biện pháp không dùng thuốc:
a. Chế độ nghỉ ngơi: Nghỉ ngơi là một việc khá quan trọng vì nó góp phần
làm giảm công của tim. Nói chung bệnh nhân cần giảm hoặc bỏ hẳn các hoạt
động gắng sức. Trong trường hợp suy tim nặng thì phải nghỉ tại giường theo
tư thế nửa nằm nửa ngồi. Tuy nhiên, trong trường hợp suy tim mà bệnh nhân
phải nằm điều trị lâu ngày thì khi hoàn cảnh cho phép, nên khuyến khích
bệnh nhân xoa bóp, lúc đầu là thụ động, sau đó là chủ động ở các chi, nhất là
hai chi dưới để làm cho máu tĩnh mạch trở về tim được dễ dàng hơn, giảm
bớt các nguy cơ huyết khối tĩnh mạch thường hay gặp ở những bệnh nhân
này[5], [6], [7].
b. Chế độ ăn giảm muối:
- Chế độ ăn giảm muối là cần thiết, vì muối ăn (NaCl) làm tăng áp lực
thẩm thấu trong máu, do đó làm tăng khối lượng tuần hoàn, từ đó gây tăng
gánh nặng cho tim.[31]
- Một người bình thường hấp thu khoảng 6 - 18g muối NaCl/ ngày, tức
là 2,4 - 7,2g (100 - 300mmol) Na+ / ngày. Đối với bệnh nhân suy tim, tùy
từng trường hợp cụ thể mà áp dụng chế độ ăn giảm muối hoặc chế độ ăn gần
như nhạt hoàn toàn.
- Chế độ ăn giảm muối: Bệnh nhân chỉ được dùng < 3g muối NaCl
/ngày, tức là < 1,2g (50 mmol) Na+ /ngày.
- Chế độ ăn gần như nhạt hoàn toàn: Bệnh nhân chỉ được ăn < 1,2g
muối NaCl /ngày tức là < 0,48g (20mmol) Na+ /ngày.
Liên quan đến phác đồ mới nhất của AHA 2013, có một khuyến cáo
nhóm IIa, mức độ chứng cứ C: “Việc hạn chế muối là hợp lý ở những bệnh
19
nhân suy tim có triệu chứng để giảm bớt các triệu chứng xung huyết”.
Khuyến cáo này chỉ ở nhóm IIa, mức độ C do chưa có đầy đủ các nghiên cứu
ngẫu nhiên, mù đôi có đối chứng, nhất là ở những bệnh nhân suy tim giai
đoạn C và D, và hiện tại chưa có đủ thông tin để có thể đưa ra mức Natri như
thế nào là hợp lý. Do lượng Natri tiêu thụ trong dân số nói chung bình thường
đã khá cao (>4g/ngày), do đó bác sĩ nên khuyên bệnh nhân có thể giảm xuống
một mức độ thấp hơn, chẳng hạn <3g/ngày ở những bệnh nhân suy tim giai
đoạn C và D để cải thiện triệu chứng [31].
c. Hạn chế lượng nước và dịch dùng cho bệnh nhân:
- Cần hạn chế lượng nước và dịch dùng cho bệnh nhân hàng ngày nhằm
giảm bớt khối lượng tuần hoàn và giảm gánh nặng với tim.
- Nói chung chỉ nên dùng cho bệnh nhân khoảng 500 - 1000ml lượng dịch
đưa vào cơ thể mỗi ngày[10].
d. Thở ôxy: là biện pháp cần thiết trong nhiều trường hợp suy tim vì nó tăng
cung cấp thêm ôxy cho các mô, giảm bớt mức độ khó thở của bệnh nhân,
đồng thời làm hạn chế sự co mạch phổi thường gặp ở những bệnh nhân
thiếu ôxy.
Khuyến cáo của AHA 2013 có đề cập đến thông khí áp lực dương liên tục
(CPAP), có thể hữu ích để làm tăng phân suất tống máu và cải thiện tình trạng
chức năng của những bệnh nhân bị suy tim và chứng ngưng thở lúc ngủ
(Nhóm IIa, mức độ chứng cứ B)[31].
e. Loại bỏ các yếu tố nguy cơ khác:
- Bỏ rượu, thuốc lá, cà phê...
- Giảm cân nặng ở những bệnh nhân béo phì.
- Tránh các xúc cảm mạnh (stress).
- Ngừng những thuốc làm giảm sức bóp của cơ tim nếu đang dùng, ví dụ: các
thuốc chẹn bêta giao cảm hoặc Verapamil hay Disopyramide, Flecainide...
20
- Điều trị những yếu tố làm nặng thêm tình trạng suy tim như nhiễm trùng,
rối loạn nhịp tim...
Ngoài ra, khuyến cáo mới nhất của AHA 2013 cũng khuyến khích việc tập thể
dục (hoặc thực hiện các công việc thường quy) trong mức độ an toàn cho
phép là rất tốt cho những bệnh nhân suy tim để có thể cải thiện tình trạng
chức năng của tim.(nhóm I, mức độ chứng cứ A). Ngoài ra, việc phục hồi
chức năng tim mạch có thể hữu ích ở những bệnh nhân có lâm sàng ổn định
có triệu chứng suy tim để cải thiện khả năng hoạt động, khả năng dung nạp
với gắng sức, chất lượng cuộc sống, và tỷ lệ tử vong (Nhóm IIa, mức độ
chứng cứ B) [31].
3.2. Điều trị suy tim bằng thuốc
3.2.1. Glucosid trợ tim:
a. Các dạng Glucosid trợ tim được dùng trên lâm sàng:
+ Digitalis với các dạng Digitalin hay Digitoxin lấy từ Digitalis
Purpurea; Digoxin và Isolanid lấy từ Digitalis Lanata.
+ Strophanthus với các dạng G Strophantin (tức Uabain) lấy từ
Strophantus Kombe.
+ Trong thực hành lâm sàng hiện nay DIGOXIN là loại thuốc trợ tim
tiêu biểu thường được các thầy thuốc hay sử dụng nhiều nhất[1].
b. Cơ chế tác dụng:
+ Digoxin làm tăng sức co bóp của cơ tim gián tiếp thông qua việc ức
chế men Natri-Kali-Adenosine Triphosphatase (Na+-K+-ATPase) của bơm
ion ở màng tế bào cơ tim, từ đó cản trở việc ion Na+ thoát ra ngoài màng tế
bào. Do sự ức chế này làm cho nồng độ Na+ trong tế bào tăng cao, vì vậy sự
vận chuyển Na+- Ca++ qua màng tế bào cũng bị rối loạn, làm tăng nồng độ
Ca++ trong tế bào cơ tim, từ đó thúc đẩy các sợi cơ tim tăng cường co bóp.
+ Mặt khác Digoxin còn tác động trên hệ thống thần kinh tự động của
21
tim, làm giảm nhịp tim và giảm tốc độ dẫn truyền nhĩ - thất.
+ Ngoài ra Digoxin còn làm tăng trương lực hệ phó giao cảm và làm
giảm hoạt tính của hệ giao cảm [7].
c. Dược động học:
+ Digoxin thường được dùng dưới dạng uống (viên nén, viên nang,
dạng cồn) hoặc tiêm.
+ Ở dạng uống, phần lớn Digoxin được hấp thu ở ruột non sau đó sẽ
được phân bố tiếp tại một số mô. Nồng độ Digoxin thường được tập trung
chủ yếu ở thận, tim, gan, tuyến thượng thận, ống tiêu hóa...
+ Digoxin được chuyển hóa chủ yếu tại gan. Phần lớn Digoxin được
thải trừ qua đường nước tiểu, chỉ có một phần nhỏ (khoảng 25%) được thải
trừ qua đường phân.
+ Ở người lớn, với chức năng gan, thận bình thường thì thời gian bán
hủy trung bình của Digoxin (theo đường uống) là 36 giờ.
+ Một số nghiên cứu đã cho thấy là nồng độ trung bình trong huyết
tương của Digoxin có tác dụng điều trị thường trong khoảng từ 0,5 hoặc 0,8
đến 2,0ng/ml. Tuy nhiên khoảng cách giữa nồng độ điều trị và nồng độ
ngộ độc là rất hẹp. Có bệnh nhân phải dùng trên 2,0 ng/ml mới có tác dụng
điều trị, ngược lại một số bệnh nhân khác ở nồng độ 0,8 - 1,5 ng/ml đã có
triệu chứng của ngộ độc Digoxin [1].
d. Liều lượng và cách dùng:
+ Trước đây người ta hay dùng bắt đầu bằng liều tấn công sau đó
chuyển sang liều duy trì.
+ Liều tấn công thường là 0,25 - 0,5mg, rồi cứ sau 6 giờ có thể cho
thêm 0,25mg để đạt tổng liều là 1 - 1,5 mg/ngày.
+ Khi đạt được hiệu quả, thường chuyển sang liều duy trì từ 0,125 -
0,375mg/ngày.
22
+ Ngày nay người ta thường không còn dùng liều tấn công với một
lượng thuốc lớn trong một thời gian ngắn như trên vì cách này rất dễ gây
nguy hiểm cho bệnh nhân. Trong đa số các trường hợp, các thầy thuốc
thường bắt đầu ngay bằng liều duy trì như đã trình bày ở trên để đạt dần tới
liều có hiệu lực điều trị.
Khuyến cáo của Hội Tim mạch châu Âu [22], Trường môn Tim mạch và Hội
tim mạch Hoa Kỳ [24],[30],[31] cũng dùng theo cách như trên
+ Việc theo dõi nồng độ Digoxin trong huyết tương sẽ giúp ta điều
chỉnh được tới liều điều trị tối ưu. Nồng độ Digoxin huyết tương trong
khoảng từ 1,8 - 2 ng/ml được coi là nồng độ có hiệu lực điều trị, quá nồng độ
đó thì dễ bị nhiễm độc Digoxin.
e. Tương tác thuốc:
+ Một số thuốc có thể làm giảm việc hấp thu Digoxin như:
Cholestyramine, Cholestipol, Kaolin-pectin, Sulfasalazine, Neomycine v.v...
Ngược lại, một số thuốc có thể làm tăng việc hấp thu Digoxin như:
Tetracycline hoặc Erythromycine. Một số thuốc khác có thể làm giảm đáng kể
độ thanh thải Digoxin, do đó có thể làm tăng nồng độ của Digoxin trong
máu như: Quinidine, Verapamil, Spironolactone, Amiodarone...
+ Cần đặc biệt chú ý không bao giờ được dùng phối hợp Digoxin với
các muối Canxi (đường tĩnh mạch) vì sự phối hợp này có thể gây nên những
rối loạn nhịp tim nặng nề, thậm chí có thể gây tử vong [7].
f. Chỉ định:
+ Suy tim với cung lượng tim thấp, đặc biệt khi có rung nhĩ nhanh.
+ Các rối loạn nhịp trên thất, đặc biệt trong rung nhĩ hay cuồng động nhĩ.
+ Chú ý: Những trường hợp suy tim với cung lượng tim cao (thiếu
máu, nhiễm độc giáp, dò động - tĩnh mạch, bệnh thiếu vitamin B1...) hoặc
suy tim có liên quan đến một tắc nghẽn cơ học hay suy tim trong tâm phế
mạn không phải là những chỉ định của Digoxin [19].
23
Khuyến cáo sử dụng digoxin trong Guideline mới nhất 2013, ở nhóm
IIa, mức độ chứng cứ B: “Digoxin có thể hữu ích ở những bệnh nhân HFrEF,
trừ khi có chống chỉ định, để làm giảm tỷ lệ nhập viện do suy tim”. Khuyến
cáo này dựa trên một vài các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng cho thấy
việc điều trị với digoxin trong thời gian từ 1 – 3 tháng có thể cải thiện các
triệu chứng, chất lượng cuộc sống, và khả năng dung nạp gắng sức ở những
bệnh nhân suy tim mức độ nhẹ đến trung bình, cho dù nhịp tim bên dưới của
bệnh nhân là gì (nhịp xoang bình thường hay rung nhĩ), nguyên nhân gây suy
tim (thiếu máu hay không thiếu máu), và các thuốc sử dụng kèm theo (có
hoặc không kèm theo ức chế men chuyển). Trong một thử nghiệm dài hạn cho
thấy, những bệnh nhân NYHA độ II hoặc III, được điều trị trong thời gian từ
2 – 5 năm thì không giúp cải thiện được tỷ lệ tử vong nhưng làm giảm được
nguy cơ kết hợp giữa tử vong và nhập viện [31].
g. Chống chỉ định:
+ Nhịp tim chậm.
+ Bloc nhĩ - thất cấp II, cấp III chưa được đặt máy tạo nhịp.
+ Ngoại tâm thu thất.
+ Nhịp nhanh thất và rung thất.
+ Hội chứng Wolff - Parkinson - White.
+ Bệnh cơ tim tắc nghẽn.
+ Cần thận trọng trong trường hợp: Nhồi máu cơ tim cấp (vì Digoxin
làm tăng nhu cầu ôxy của cơ tim) và các rối loạn điện giải, đặc biệt là hạ K+
máu và / hoặc hạ Mg ++ máu[10].
h. Nhiễm độc Digoxin: một số thống kê đã cho thấy số bệnh nhân dùng
Digoxin bị nhiễm độc chiếm khoảng 5 - 15% tổng số bệnh nhân dùng thuốc.
+ Yếu tố thuận lợi cho nhiễm độc Digoxin là :
* Rối loạn điện giải: hạ K+ máu, hạ Mg++ máu, tăng Ca++ máu.
24
* Tuổi cao: làm tăng độ nhạy cảm với Digoxin do giảm độ lọc của
thận, từ đó dễ làm ứ đọng thuốc.
* Nhiễm kiềm chuyển hóa.
* Giảm ôxy máu.
* Suy thận, suy gan...
+ Biểu hiện lâm sàng của nhiễm độc Digoxin: khi bệnh nhân đang
dùng Digoxin, tự nhiên thấy một số biểu hiện sau :
* Rối loạn tiêu hóa: chán ăn, buồn nôn, nôn mửa, ỉa chảy.
* Rối loạn thần kinh: có thể chỉ là đau đầu, chóng mặt nhưng có thể
nặng hơn như ảo giác, mất phương hướng, mê sảng...
* Rối loạn tim mạch: do tăng tính kích thích, tăng tính tự động và
giảm tính dẫn truyền của tế bào cơ tim:
Ngoại tâm thu nhĩ và thất, hay gặp là ngoại tâm thu thất nhịp đôi,
ngoại tâm thu thất đa dạng hoặc từng chùm.
Nhịp nhanh bộ nối, nhịp nhanh thất.
Bloc xoang - nhĩ.
Bloc nhĩ - thất các loại.
Xoắn đỉnh, rung thất.
+ Xử trí nhiễm độc Digoxin:
* Ngừng ngay việc điều trị bằng Digoxin.
* Theo dõi chặt chẽ những diễn biến trên điện tâm đồ.
* Điều chỉnh kịp thời các rối loạn về điện giải và thăng bằng toan
kiềm, trong đó cần đặc biệt lưu ý có tình trạng hạ K+ máu không? Nếu có
hạ K+ máu cần cho bệnh nhân uống khoảng 20 - 50 ml dung dịch
Kalichlorua 10%. Trường hợp cần thiết có thể truyền nhỏ giọt Kalichlorua
vào tĩnh mạch sau khi đã pha thuốc trong dung dịch đẳng trương, nhưng với
điều kiện đậm độ K+ truyền tĩnh mạch không được vượt quá 13 -
25
15mmol/giờ.
Có thể dùng Atropin tiêm tĩnh mạch với liều từ 0,5 - 1mg khi có nhịp
chậm xoang hoặc nhịp chậm do Bloc nhĩ - thất.
Với các loại rối loạn nhịp thất, đặc biệt là ngoại tâm thu thất, ta có
thể điều trị bằng cách truyền Lidocaine với đậm độ 2mg/phút.
Gần đây người ta còn dùng một phương pháp khá mới nữa để điều trị
những trường hợp nhiễm độc Digoxin. Đó là dùng kháng thể đặc hiệu của
Digoxin (Fab fragments, Digibind) và thường được viết tắt là Fab. Thường
Fab được dùng theo đường truyền tĩnh mạch.
Cơ chế: Phức hợp Digoxin kết hợp với Fab sẽ được đào thải qua thận,
làm mất tác dụng của Digoxin. Một ống Fab 40mg trung hòa 0,6mg Digoxin.
Với ngộ độc mạn Digoxin: Số ống Fab cần dùng = [nồng độ Digoxin
máu (ng/ml) x cân nặng cơ thể (kg)] / 100.
Với ngộ độc cấp Digoxin: Số ống Fab cần dùng = [liều lượng Digoxin đã
dùng cho bệnh nhân (mg) x 0,8] / 0,6.[1]
3.2.2. Lợi tiểu
Thuốc lợi tiểu làm tăng đào thải nước tiểu, qua đó làm giảm khối
lượng nước trong cơ thể, giảm khối lượng máu lưu hành, làm bớt lượng
máu trở về tim và làm giảm thể tích cũng như áp lực cuối tâm trương của
tâm thất, làm giảm tiền gánh, tạo điều kiện cho cơ tim đã bị suy yếu hoạt
động được tốt hơn.
AHA 2013 khuyến cáo việc sử dụng lợi tiểu ở những bệnh nhân HFrEF
có dấu chứng của tình trạng ứ đọng dịch, trừ khi có chống chỉ định, để cải
thiện các triệu chứng (Nhóm I, mức độ chứng cứ C)[31].
26
Bảng 6. Các thuốc lợi tiểu được khuyến cáo sử dụng trong điều trị suy
tim cấp hoặc mạn tính (AHA 2013)[31]
Thuốc Liều khởi đầu Tổng liều tối
đa sử dụng
trong ngày
Thời gian
tác dụng
Các thuốc lợi tiểu
quai
Bumetanide 0.5 đến 1.0 mg một hoặc
hai lần
10 mg 4 đến 6 giờ
Furosemide 20 đến 40 mg một hoặc hai
lần
600 mg 6 đến 8 giờ
Torsemide 10 đến 20 mg một lần 200 mg 12 đến 16 giờ
Thiazide
Chlorothiazide 250 đến 500 mg một hoặc
hai lần
1,000 mg 6 đến 12 giờ
Chlorthalidone 12.5 đến 25.0 mg một lần 100 mg 24 đến 72 giờ
Hydrochlorothiazide
25 mg một hoặc hai lần 200 mg 6 đến 12 giờ
Indapamide 2.5 mg một lần 5 mg 36 giờ
Međến lazone 2.5 mg một lần 20 mg 12 đến 24 giờ
Lợi tiểu giữ Kali
Amiloride 5 mg một lần 20 mg 24 giờ
Spironolactone 12.5 đến 25.0 mg một lần 50 mg 1 đến 3 giờ
Triamterene 200 mg 7 đến 9 giờ
Các thuốc khác
Metolazone 2.5 đến 10.0 mg một lần
plus loop diuretic
Chưa có
thông tin
Chưa có
thông tin
Hydrochlorothiazide 25 đến 100 mg một hoặc
hai lần plus loop diuretic
Chưa có
thông tin
Chưa có
thông tin
Chlorothiazide (TM) 500 đến 1,000 mg một lần
plus loop diuretic
Chưa có
thông tin
Chưa có
thông tin
27
Biến chứng có thể gặp khi dùng các thuốc lợi tiểu là hạ K+ máu, hạ
Na+ máu, làm giảm thể tích và kiềm hóa máu. Hạ K+ máu là một biến
chứng quan trọng, có thể đe doạ tính mạng của bệnh nhân, nhất là khi dùng
cùng với Digoxin. Do đó khi điều trị bằng thuốc lợi tiểu, cần phải theo dõi
chặt chẽ điện giải máu. Việc bù muối Kali hoặc phối hợp với lợi tiểu giữ Kali
là vấn đề luôn luôn phải nhớ đến [28].
a. Nhóm thuốc lợi tiểu Thiazide (Chlorothiazide, Hydrochlothiazide,
Metolazone, Indapamide):
+ Thường được dùng một cách khá phổ biến trong điều trị suy tim ở
những bệnh nhân mà chức năng thận còn bình thường.
+ Vị trí tác động của thuốc là ở ống lượn xa (riêng Metolazone còn
tác động trên cả ống lượn gần), với cơ chế làm tăng bài tiết muối, do đó sẽ
làm tăng thải nước. Hydrochlothiazide còn được dùng nhiều vì giá khá rẻ.
+ Biến chứng có thể gặp khi dùng Thiazide là hạ K+, Na+, Ca++ máu.
Thuốc cũng có thể làm tăng urê, creatimin máu, có khi gây viêm tụy, viêm
mạch. Gần đây người ta đề cập đến tác dụng phụ làm tăng LDL-cholesterol
khi dùng thiazid dài ngày (trong nhóm này Indapamide ít ảnh hưởng đến
chuyển hóa lipoprotein)[10].
b. Nhóm thuốc lợi tiểu tác dụng lên quai Henle (Furosemid, Bumetanide,
Acid Ethacrynic...):
+ Vị trí tác động chủ yếu của thuốc là ở nhánh lên của quai Henle. Lợi
tiểu nhóm này làm tăng thải Natri lên đến 25%, ngoài ra chúng còn có tác
dụng làm tăng dòng máu đến thận do làm tăng hoạt hóa Prostaglandin PGE có
tác dụng giãn mạch thận. Vì có tác dụng lợi tiểu mạnh và không làm giảm
chức năng thận nên lợi tiểu nhóm này được chỉ định ở bệnh nhân suy tim
mà đòi hỏi phải giảm thể tích tuần hoàn nhanh hoặc ở bệnh nhân suy thận.
+ Furosemide ngoài khả năng làm giảm tiền gánh nhanh, khi dùng
28
tiêm tĩnh mạch nó còn có tác dụng gây giãn mạch trực tiếp. Vì vậy,
Furosemide đặc biệt có hiệu quả trong điều trị bệnh nhân suy tim nặng
hoặc bị phù phổi cấp.
+ Lợi tiểu nhóm này có thể gây hạ K+, Na+, Ca++, Mg++ máu. Ngoài ra
một số bệnh nhân đôi khi có thể có biểu hiện nổi ban, viêm mạch [7].
c. Nhóm thuốc lợi tiểu giữ Kali (Spironolactone,Triamterene, Amiloride):
+ Lợi tiểu nhóm này tác động trên đoạn cuối của ống lượn xa.
Spironolactone tác động thông qua vùng nhạy cảm aldosterone;
Triamterene và Amiloride cũng tác động ở vùng cuối của ống lượn xa
nhưng không chịu sự kiểm soát của aldosterone.
+ Tác dụng lợi tiểu của các thuốc thuộc nhóm này yếu nếu chỉ dùng
một mình. Nhưng vì lợi ích giữ Kali nên chúng thường được phối hợp với lợi
tiểu Thiazide hoặc lợi tiểu quai Henle. Lợi tiểu giữ Kali thường tác dụng
chậm và kéo dài. Nói chung với loại lợi tiểu giữ Kali này, khi dùng cũng phải
theo dõi Kali máu, đặc biệt chú ý khi dùng cùng với thuốc ức chế men
chuyển, hoặc thuốc giảm viêm không Steroide. Ngoài ra nhóm lợi tiểu giữ
Kali này cũng đôi khi cũng có thể gây ra tăng urê máu, sỏi thận (với
Triamterene) hoặc chứng vú to ở nam giới (với Spironolactone).
+ Trong chiến lược điều trị suy tim nặng hiện nay, vai trò của thuốc
kháng aldosteron đã được chứng minh rõ. Thuốc kháng aldosteron không chỉ
có tác dụng lợi tiểu mà nó đặc biệt có lợi ích làm giảm các quá trình bù trừ
thái quá của tăng aldosteron trong suy tim nặng, do đó làm giảm sự co mạch,
giữ muối và nước, sự phì đại cơ tim, suy thận, rối loạn chức năng nội mạch.
Do vậy, thuốc lợi tiểu kháng aldosteron đã làm giảm tỷ lệ tử vong và nhập
viện ở những bệnh nhân suy tim nặng.
AHA 2013 khuyến cáo việc sử dụng thuốc kháng aldosterone (hoặc ức chế
thụ thể hormone khoáng) ở những bệnh nhân NYHA mức độ II – IV có phân
29
suất tống máu thất trái dưới 35%, trừ khi có chống chỉ định, để làm giảm tỷ lệ
bệnh tật và tử vong. Những bệnh nhân NYHA mức độ II có tiền sử nhập viện
trước đó vì bệnh lý tim mạch hoặc tăng nồng độ peptide lợi niệu nhĩ trong
huyết tương thì mới được cân nhắc sử dụng thuốc kháng aldosterone. Nồng
độ creatinine của bệnh nhân phải < 2.5mg/dL ở nam giới hoặc <2.0mg/dL ở
nữ giới (tốc độ lọc cầu thận ước tính >30mL/phút/1.73m2 da), và nồng độ
Kali phải dưới 5.0mEq/L thì mới được sử dụng thuốc này. Cần thiết phải theo
dõi sát nồng độ Kali máu, chức năng thận, và liều lượng của thuốc lợi tiểu khi
sử dụng thuốc để tránh nguy cơ tăng kali máu và suy thận ở bệnh nhân (nhóm
I, mức độ chứng cứ A). Các thuốc kháng aldosterol cũng được khuyến cáo để
làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong sau nhồi máu cơ tim cấp ở những bệnh
nhân có phân suất tống máu thất trái dưới 40% biểu hiện triệu chứng của suy
tim hoặc những người có tiền sử đái tháo đường, trừ khi có chống chỉ định
(nhóm I, mức độ B). Tuy nhiên, việc sử dụng không hợp lý thuốc kháng
aldosterone có thể có hại cho bệnh nhân vì có thể dẫn đến tăng kali máu nguy
hiểm đến tính mạng hoặc suy thận nếu như nồng độ creatinine >2.5mg/dL ở
nam giới hoặc >2.0mg/dL ở nữ giới (tốc độ lọc cầu thận ước tính
3.0mL/phút/1.73m2 da cơ thể),và/hoặc nồng độ Kali huyết tương >5.0mEq/L
(nhóm III, mức độ B) [31].
Bảng 7. Liều lượng của thuốc kháng aldosterone[31]
Eplerenone Spironolactone
eGFR
(mL/phút/1.73 m2)
≥50 30 đến --
49
≥50 30 đến 49
Liều khởi đầu (chỉ
khi K+ ≤5 mEq/L)
25 mg x 1
lần/ngày
25 mg 2
ngày uống
12.5 đến 25.0
mg x 1
12.5 mg x 1
lần/ngày
30
1 lần lần/ngày hoặc 1 lần
mỗi 2 ngày
Liều duy trì
(sau 4 tuần nếu
K+ ≤5 mEq/L)
50 mg x 1
lần/ngày
25 mg x 1
lần/ngày
25 mg x 1 – 2
lần/ngày
12.5 đến
25.0 mg x 1
lần/ngày
Bảng 8. Tổng hợp các thuốc thường được sử dụng điều trị suy tim giai đoạn
C HFrEF theo AHA 2013 [31].
Thuốc Liều khởi đầu Liều tối đa Liều trung bình
trong các thử
nghiệm lâm sàng
Thuốc ức chế
men chuyển
Captopril 6.25mg x 3 lần 50mg x 3 lần 122.7mg/ngày
Enalapril 2.5mg x 2 lần 10 – 20mg x 2 lần 16.6mg/ngày
Fosinopril 2.5 – 5mg x 1 lần 20 – 40mg x 1 lần Không có thông
tin
Lisinopril 2.5 – 5mg x 1 lần 20 – 40mg x 1 lần 32.5 – 35mg/ngày
Perindopril 2mg x 1 lần 8 – 16mg x 1 lần Không có thông
tin
Quanipril 5mg x 2 lần 20mg x 2 lần Không có thông
tin
Ramipril 1.25 – 2.5mg x 1
lần
10mg x 1 lần Không có thông
tin
Trandolapril 1mg x 1 lần 4mg x 1 lần Không có thông
tin
Thuốc ức chế
thụ thể
Candesartan 4 – 8mg x 1 lần 32mg x 1 lần 24mg/ngày
Losartan 25 – 50mg x 1 lần 50 – 150mg x 1 129mg/ngày
31
lần
Valsartan 20 – 40mg x 2 lần 160mg x 2 lần 254mg/ngày
Thuốc kháng
aldosterone
Spironolactone 12.5 – 25.0mg x 1
lần
25mg x 1 – 2 lần 26mg/ngày
Eplerenone 25mg x 1 lần 50mg x 1 lần 42.6mg/ngày
Chẹn beta
Bisoprolol 1.25mg x 1 lần 10mg x 1 lần 8.6mg/ngày
Carvedilol 3.125mg x 2 lần 50mg x 2 lần 37mg/ngày
Metoprolol
succinate phóng
thích chậm
12.5 – 25mg x 1
lần
200mg x 1 lần 159mg/ngày
Hydralazine và
isosorbide
dinitrate
Kết hợp cố định
liều
37.5mg
hydralazine/20mg
isosorbide
dinitrate x 3
lần/ngày
75mg
hydralazine/40mg
isosorbide
dinitrate x 3
lần/ngày
~175mg
hydralazine/90mg
isosorbide
dinitrate/ngày
Hydralazine và
isosorbide
dinitrate
Hydralazine: 25 –
50mg x 3 – 4
lần/ngày và
isosorbide
dinitrate: 20 –
30mg x 3 – 4
lần/ngày
Hydralazine:
300mg/ngày chia
nhỏ nhiều và
isosorbide
dinitrate
120mg/ngày chia
nhỏ liều
Không có thông
tin
32
3.2.3. Các thuốc giãn mạch trong điều trị suy tim:
Như chúng ta đã rõ, cơ chế bù trừ ở bệnh nhân suy tim bao gồm cả sự co
thắt ở hệ động mạch và tĩnh mạch. Sự co thắt hệ động mạch làm tăng hậu gánh và
sự co hệ tĩnh mạch làm tăng tiền gánh. Hơn nữa trong suy tim, sự co thắt hệ mạch
phổi còn là hậu quả của thiếu ôxy máu, hoặc sự đáp ứng lâu dài với việc tăng
dòng máu qua phổi (ví dụ khi có Shunt trái phải trong tim) hoặc đáp ứng lâu
dài với việc tăng áp lực nhĩ trái (Ví dụ: Hẹp hai lá, suy tim trái...) [19].
Các thuốc giãn mạch có thể ưu tiên tác dụng giảm hậu gánh, tiền gánh
hoặc cả hai. Những thuốc làm giãn tĩnh mạch nhiều hơn sẽ làm giảm tiền
gánh và áp lực đổ đầy thất. Còn các thuốc làm giãn động mạch sẽ làm giảm
hậu gánh. Vì vậy, nói chung các thuốc giãn mạch sẽ cải thiện được cung
lượng tim, giảm áp lực đổ đầy tim và giảm sức ép lên thành tim. ở những
bệnh nhân hở van tim, suy tim nặng hoặc có tăng trở kháng mạch, hoặc suy
tim có tăng huyết áp thì dùng các thuốc giãn động mạch rất có hiệu quả.
Tác dụng phụ nói chung của các thuốc giãn mạch trong điều trị suy
tim thường là: Hạ huyết áp (nhất là hạ huyết áp trong tư thế đứng), tăng
nhẹ urê máu... Dùng thuốc giãn mạch cần hết sức thận trọng ở những bệnh
nhân có hạn chế cung lượng tim (Ví dụ: Hẹp van động mạch chủ, bệnh cơ tim
phì đại tắc nghẽn) hoặc ở những bệnh nhân có rối loạn chức năng tâm trương
(Bệnh cơ tim hạn chế)[9], [17].
a. Thuốc ức chế men chuyển dạng angiotensin:
+ Các thuốc thuộc nhóm này có tác dụng ức chế men có nhiệm vụ
chuyển từ Angiotensin I thành Angiotensin II từ đó ức chế sự tổng hợp
Angiotensin II, là một chất gây co mạch, đồng thời lại làm tăng
Bradykinin, là một chất gây giãn mạch. Kết quả chung là các thuốc ức chế
men chuyển này sẽ làm giãn mạch nhiều, làm giảm hậu gánh, từ đó góp phần
cải thiện tình trạng suy tim.
+ Thuốc ức chế men chuyển được coi là lựa chọn hàng đầu trong điều
trị suy tim. Các nghiên cứu đã chứng minh rõ vai trò của thuốc ƯCMC trong
33
điều trị suy tim, không chỉ làm giảm triệu chứng mà còn cải thiện được tiên
lượng bệnh rất đáng kể.
+ Chống chỉ định dùng khi: Hẹp động mạch thận hai bên, phụ nữ có thai.
+ Những tác dụng phụ có thể gặp là: ho, nổi ban, tụt huyết áp, loạn vị
giác, tăng creatinin máu, tăng kali máu.
+ Thận trọng khi dùng thuốc ức chế men chuyển cùng với loại lợi
tiểu giữ kali hoặc dùng thuốc cho bệnh nhân có huyết áp thấp[7].
b. Nhóm thuốc ức chế trực tiếp thụ thể AT1 của angiotensin II:
+ Các thuốc nhóm này khá mới và cơ chế là ức chế trực tiếp thụ thể
AT1. Khác với thuốc ức chế men chuyển, các thuốc ức chế thụ thể AT2
không làm tăng bradykinin nên có thể không gây ra các triệu chứng phụ
như là ho khan (một tác dụng phụ rất phổ biến khi dùng
+ Các thuốc này được dùng chủ yếu để điều trị bệnh nhân THA
nhưng các nghiên cứu mới đây cũng chứng minh vai trò tốt trong điều trị
suy tim và là thuốc có thể thay thế hoặc phối hợp với UCMC.
Trong guideline năm 2013 cũng khẳng định (khuyến cáo nhóm I, mức độ
chứng cứ A): “Các thuốc ức chế men chuyển được khuyến cáo sử dụng ở
những bệnh nhân HFrEF và có các triệu chứng của suy tim, trừ khi có chống
chỉ định, để làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong”. Các thuốc ức chế men
chuyển có thể làm giảm được nguy cơ tử vong và giảm được nguy cơ nhập
viện do HFrEF. Lợi ích của thuốc ức chế men chuyển thấy rõ ở những bệnh
nhân có triệu chứng suy tim mức độ nhẹ, vừa, hoặc nặng, có hoặc không kèm
bệnh lý mạch vành. Các thuốc ức chế men chuyển nên được kê cho tất cả
những bệnh nhân HFrEF. Trừ khi có chống chỉ định, các thuốc ức chế en
chuyển được sử dụng kèm với một thuốc chẹn beta [31].
Đối với các thuốc thuộc nhóm ức chế thụ thể AT, các thuốc này được
khuyến cáo sử dụng ở những bệnh nhân HFrEF có các triệu chứng hiện tại
hoặc trước đó của suy tim, không dung nạp được với thuốc ức chế men
chuyển, trừ khi có chống chỉ định, để làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong
34
(Nhóm I, mức độ chứng cứ: A). Thuốc ức chế thụ thể AT cũng có thể sử dụng
như thuốc đầu tay để thay thế cho thuốc ức chế men chuyển ở những bệnh
nhân HFrEF, đặc biệt ở những bệnh nhân hiện tại đã sử dụng thuốc chẹn thụ
thể AT cho những mục đích khác, trừ khi có chống chỉ định (nhóm IIa, mức
độ A). Việc bổ sung một thuốc ức chế thụ thể cũng có thể cân nhắc ở những
bệnh nhân đã được sử dụng một thuốc ức chế men chuyên và một thuốc ức
chế thụ thể nhưng các triệu chứng của suy tim vẫn còn trường diễn, và họ
không có chỉ định hoặc không dung nạp được với thuốc kháng aldosterone.
(nhóm IIb, mức độ A). Việc sử dụng kết hợp thường quy ức chế men chuyển,
ức chế thụ thể AT, kháng aldosterone có thể gây hại cho các bệnh nhân
HFrEF (mức độ C, nhóm III)[31].
c. Nhóm Nitrates:
+ Nhóm Nitrat chủ yếu làm giãn hệ tĩnh mạch, từ đó làm giảm tiền
gánh. Nhóm này còn làm giảm bớt tình trạng thiếu máu cơ tim do làm giảm
áp lực đổ đầy tim, ngoài ra chúng còn làm giãn trực tiếp động mạch vành.[7]
Bảng 9. Một số Nitrat thường dùng.
Dạng thuốc Liều (mg) Bắt đầu(phút) Kéo dài
Nitroglycerin (ngậm)
Dinitrat Isosorbide (ngậm)
0,3 - 0,6
2,5 - 10
2 - 5
10- 30
10-30ph
1 - 2 h
Dinitrat Isosorbide (uống) 5 - 20 30- 60 4 - 8 h
Mononitrat Isosorbide
(uống)
10 - 20 30- 60 6 - 8h
Nitroglycerin (cao dán) 5 - 15 > 30 12 - 14h
+ Tác dụng phụ có thể gặp của thuốc là: nhức đầu, hạ huyết áp, nổi ban.
+ Nitrat có thể được dùng dưới dạng uống, mỡ bôi da, cao dán, ngậm
dưới lưỡi hoặc tiêm truyền tĩnh mạch.
d. Hydralazine:
+ Làm giãn hệ động mạch do tác dụng làm giãn trực tiếp cơ trơn của
35
thành mạch máu, từ đó làm giảm hậu gánh. Vì vậy, Hydralazine rất có ích
trong điều trị suy tim và thường phối hợp với nitrat.
+ Chú ý: thuốc có thể gây tăng nhịp tim phản xạ, đau đầu, nôn, làm
xuất hiện cơn đau thắt ngực. Liều dùng trung bình là uống 20-100mg, chia
thành 2 - 3 lần trong ngày. Thuốc này không phải là lựa chọn ưu tiên trong
điều trị suy tim[6].
e. Một số thuốc giãn mạch dùng đường tiêm truyền:
Các thuốc này thường được chỉ định cho những bệnh nhân suy tim
nặng hoặc bệnh nhân suy tim mà không thể uống được thuốc. Khi dùng,
cần bắt đầu bằng liều nhỏ và theo dõi chặt diễn biến về huyết động. Khi
ngừng thuốc, cần giảm liều dần dần để tránh các phản xạ co mạch đột
ngột[19].
+ Nitroglycerin: làm giãn hệ thống tĩnh mạch và có tác dụng giãn trực
tiếp mạch vành.
* Nitroglycerin được đề nghị trong điều trị suy tim ở những bệnh
nhân bị nhồi máu cơ tim cấp hoặc bệnh nhân đau ngực không ổn định.
* Thời gian bắt đầu tác dụng của thuốc rất nhanh; bán hủy thường từ 1
- 3 phút.
* Liều dùng ban đầu thường là 10mcg/phút (dùng bơm tiêm điện).
Biến chứng nguy hiểm có thể gặp là tụt huyết áp.
+ Natri Nitroprusside: gây giãn trực tiếp động mạch làm giảm hậu
gánh, còn tác dụng giãn hệ tĩnh mạch thường không nhiều.
* Thuốc được chỉ định ở những bệnh nhân suy tim cấp, nặng do tăng
huyết áp hoặc hở van tim nặng.
* Liều ban đầu thường là 10 mcg/phút (tối đa 300 - 400 mcg/phút).
Thời gian bán hủy của thuốc là 1-3 phút.
* Tụt huyết áp cũng là biến chứng quan trọng cần theo dõi. Vì thuốc
được chuyển hóa dưới dạng Cyanide, nên có thể gây ngộ độc với nồng độ
36
Thiocyanate trên 10 ng/dl, do đó cần thận trọng ở bệnh nhân suy thận.
+ Enalaprilat:
* Là dạng hoạt hóa mất este của Enalapril ở dạng tiêm tĩnh mạch. Thời
gian bắt đầu tác dụng nhanh, thời gian bán hủy ngắn.
* Liều ban đầu thường là 1,25mg tiêm tĩnh mạch cho mỗi 6 giờ. Ở
những bệnh nhân có dùng kèm lợi tiểu hoặc suy thận nên giảm liều
(0,025mg tiêm TM/6giờ).
AHA 2013 khuyến cáo việc kết hợp giữa hydralazine và isosorbide
dinitrate để làm giảm tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở những bệnh nhân người Mỹ
gốc Phi NYHA nhóm III – IV HFrEF đang được điều trị tối ưu với thuốc ức
chế men chuyển và thuốc chẹn beta, trừ khi có chống chỉ định (nhóm I, mức
độ A). Việc kết hợp giữa hydralazine và isosorbide dinitrate cũng có thể hữu
ích để làm giảm tỷ lệ bệnh tật hoặc tử vong ở những bệnh nhân HFrEF hiện
hoặc trước đó có triệu chứng của suy tim không thể sử dụng thuốc ức chế men
chuyển hoặc ức chế thụ thể vì sự không dung nạp thuốc, hạ huyết áp, hoặc
suy thận, trừ khi có chống chỉ định (nhóm IIa, mức độ chứng cứ B) [31].
3.2.4. Thuốc chẹn bêta giao cảm:
- Trong những năm gần đây, vai trò của thuốc chẹn bêta giao cảm
trong điều trị suy tim ngày càng được nhấn mạnh. Cơ chế là ngăn chặn tác
dụng kích thích thái quá của hệ thần kinh giao cảm trong suy tim ứ huyết
mạn tính.
- Các thuốc chẹn bêta giao cảm được chỉ định trong điều trị suy tim
mạn, nặng khi đã dùng đầy đủ các thuốc khác, nhưng cũng không nên dùng
khi suy tim đã quá nặng mất bù.
- Khi dùng thuốc chẹn bêta giao cảm trong điều trị suy tim nên bắt
đầu bằng liều rất thấp, theo dõi chặt chẽ và tăng dần liều chậm. Lợi ích thực
tế của khi dùng chẹn bêta giao cảm chỉ xuất hiện chậm và lâu dài.
- Hiện nay, AHA 2013 chỉ khuyến cáo 1 trong 3 loại thuốc chẹn beta
37
sau có khả năng làm giảm được tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở các bệnh nhân
HFrEF có triệu chứng hiện tại hoặc trước đó, trừ khi có chống chỉ định, đó là
bisoprolol, carvedilol, và metoprolol succinate phóng thích chậm (sustained –
release metoprolol succinate) (Nhóm I, mức độ chứng cứ A), trong đó
bisoprolol và metoprolol succinate phóng thích chậm là thuốc ức chế chọn lọc
beta – 1, còn carvedilol thì ức chế cả alpha – 1, beta 1, và beta 2.[31]
3.2.5. Các thuốc chẹn kênh canxi:
- Tuy là các thuốc giãn mạch nhưng các thuốc chẹn kênh canxi không
được dùng để điều trị suy tim vì nó có thể ảnh hưởng sức co cơ tim, nhất là
các thuốc thế hệ thứ nhất.
- Một số thuốc thế hệ thứ hai (Amlodipine) không ảnh hưởng đến sức
co cơ tim nhưng cũng không cải thiện được suy tim.[3]
3.2.6. Các thuốc làm tăng sức co bóp cơ tim khác:
a. Các thuốc giống giao cảm: thường được dùng để điều trị trong các trường
hợp suy tim nặng mà các thuốc thông thường không có hiệu quả. Một số tác
dụng phụ của thuốc có thể gặp là: làm tăng thiếu máu cơ tim, nhịp tim nhanh,
rối loạn nhịp thất, co mạch ngoại biên. Khi điều trị ta cần phải theo dõi chặt
chẽ tình trạng huyết động và điện tim của bệnh nhân.
+ Dopamine:[2]
* Liều 1- 3 μg/kg/phút có tác dụng làm giãn mạch thận và mạc treo,
thông qua kích thích thụ thể Dopamine, kết quả làm tăng dòng máu đến thận
và số lượng nước tiểu.
* Liều 2-5 μg /kg/phút làm tăng sức co bóp của cơ tim do kích thích
thụ thể bêta.
* Liều cao hơn 5-10 μg /kg/phút thì thuốc sẽ kích thích thụ thể alpha
giao cảm gây co mạch ngoại biên, tăng trở kháng hệ mạch ảnh hưởng xấu
đến cung lượng tim.
38
* Dopamine rất có ý nghĩa khi ta dùng cho bệnh nhân suy tim có hạ
huyết áp. Một nhược điểm của thuốc là hay làm cho nhịp tim nhanh nhiều.
+ Dobutamine:[10], [13]
* Chủ yếu kích thích chọn lọc beta 1-giao cảm, tác dụng trên beta 2 và α -
giao cảm yếu hơn nhiều. Thuốc có tác dụng cải thiện tình trạng huyết động,
thông qua việc kích thích trực tiếp tác dụng co cơ tim và làm giãn hệ động mạch
phản xạ, từ đó làm giảm hậu gánh và tăng cường cải thiện cung lượng tim. Khi
dùng thuốc này thường huyết áp và nhịp tim thay đổi không quá nhiều. Tuy
nhiên nhịp tim nhanh vẫn có thể xảy ra khi dùng liều cao.
* Liều dùng ban đầu, bằng đường truyền tĩnh mạch hằng định từ 1-2
mcg/kg/phút và điều chỉnh cho đến khi đạt được hiệu quả huyết động cần thiết.
* Những bệnh nhân suy tim nặng, mạn tính, có thể dùng từng đợt
Dobutamine trong 2-4 ngày, để giảm một cách đáng kể các triệu chứng của
suy tim. Những bệnh nhân phải dùng Dobutamine kéo dài, cần theo dõi chặt
chẽ và không nên vượt quá liều 10 mcg/kg/phút.
* Không nên chỉ định thuốc này trong điều trị suy tim ở những bệnh
nhân có rối loạn chức năng tâm trương (ví dụ: bệnh cơ tim phì đại) hoặc ở
bệnh nhân suy tim có tăng cung lượng.
b. Các thuốc ức chế men Phosphodiesterase:
+ Làm tăng sức co bóp của cơ tim và giãn mạch do làm tăng adenosin
mono phosphate vòng (AMPc).
+ Hai loại thuốc đã được sử dụng trong lâm sàng là Amrinone và
Milrinone. Chúng được chỉ định trong những đợt điều trị ngắn ngày ở bệnh
nhân suy tim dai dẳng, khó điều trị. Amrinone có tác dụng cải thiện huyết
động như Dobutamin, nhưng làm giãn mạch mạnh hơn. Vì vậy, hạ huyết áp
có thể xảy ra ở những bệnh nhân có dùng thuốc này cùng với một thuốc
giãn mạch khác[8].
+ Liều lượng :
39
* Amrinone tiêm tĩnh mạch 750 mcg/kg trong 2 - 3 phút sau đó
truyên tĩnh mạch với liều 2,5 - 10,0 mcg/kg/phút.
* Milrinone: liều ban đầu là 50 mcg /kg, tiêm tĩnh mạch trong 10 phút
sau đó truyền TM với liều 0,375-0,750 mcg/kg/phút.
*Tác dụng phụ của các thuốc ức chế men phosphodiesterse: có thể
gây loạn nhịp nhĩ hay thất và đôi khi gây tắc mạch.
+ Vesnarinone:
Là một dẫn xuất của Quinoline, thuốc có tác dụng làm tăng co bóp cơ
tim. Khi kết hợp với Digoxin và thuốc ức chế men chuyển trong điều trị
suy tim, thuốc có thể cải thiện được tốt hơn tình trạng suy tim. Liều trung
bình là 60mg/ngày, dùng kéo dài. Tác dụng phụ có thể gặp là giảm bạch cầu
hạt. Lợi ích của thuốc này còn chưa được rõ.
Có 2 thử nghiệm lâm sàng là nghiên cứu PROMISE (prospective
Randomized Milrinon Survival Evaluation Study, 1991) và nghiên cứu
OPTIME-CHF (Outcomes of a Prospective Trial of Intravenous Milrinon for
Exacerbations of Chronic Heart Failure, 2000) nhưng cũng chưa chứng minh
được hiệu lực của thuốc[1].
3.2.7. Vấn đề thuốc chống đông trong suy tim
- Trong suy tim, máu thường ứ lại ở các cơ quan ngoại biên nên rất dễ
tạo thành các cục máu đông trong hệ thống tuần hoàn và từ đó gây ra những
tai biến tắc nghẽn mạch máu. Vì vậy, người ta phải dùng thuốc chống đông
không những trong những trường hợp cấp tính như tắc động mạch phổi,
não, chi... mà còn phải điều trị dự phòng trong các trường hợp suy tim có
tim to, nhất là trong các trường hợp có thêm rung nhĩ.
- Heparin và heparin trọng lượng phân tử thấp được sử dụng trong các
trường hợp tắc mạch cấp.
- Các thuốc chống đông thuộc nhóm kháng vitamin K được chỉ định ở
bệnh nhân suy tim có nhiều nguy cơ tắc mạch, các buồng tim quá giãn hoặc
có bằng chứng của huyết khối tuần hoàn [20], [24]
40
4. Điều trị nguyên nhân
- Trong mọi trường hợp, cần phải đánh giá và tìm nguyên nhân gây
bệnh để có thể điều trị một cách triệt để nếu có thể:
- Suy tim do cường giáp: Phải điều trị bằng kháng giáp trạng tổng hợp
hoặc phương pháp phóng xạ hay phẫu thuật.
- Suy tim do thiếu vitamin B1: cần dùng vitamin B1 liều cao.
- Suy tim do rối loạn nhịp tim kéo dài thì phải có biện pháp điều trị các rối
loạn nhịp tim một cách hợp lý: dùng thuốc, sốc điện hay đặt máy tạo nhịp.
- Suy tim do nhồi máu cơ tim : người ta có thể can thiệp trực tiếp vào
chỗ tắc của động mạch vành bằng thuốc tiêu sợi huyết, nong và đặt Stent
động mạch vành hoặc mổ bắc cầu nối chủ vành...
- Suy tim do một số bệnh van tim hoặc dị tật bẩm sinh: nếu có thể, cần
xem xét sớm chỉ định can thiệp qua da (nong van bằng bóng, đóng các lỗ
thông bằng dù..) hoặc phẫu thuật sửa chữa các dị tật, thay van tim...[5],[10]
5. Một số biện pháp điều trị đặc biệt khác
a. Biện pháp tái đồng bộ cơ tim bằng máy tạo nhịp tim hai buồng[2],[11],[12]
Phương pháp điều trị mới này có thể được coi là một lựa chọn tốt cho các
bệnh nhân suy tim nặng, nhất là do bệnh cơ tim giãn có rối loạn tính đồng bộ
trong hoạt động co bóp của tim, đã được điều trị nội khoa tích cực nhưng không
có kết quả hoặc với kết quả có thể kéo dài và cải thiện chất lượng cuộc sống.
- Cơ chế: máy tạo nhịp tim hai buồng với lập trình để cho thời gian tâm
trương và tâm thu hợp lý tạo ra sự co bóp của tim hiệu quả hơn trong hoàn
cảnh cho phép.
- Chỉ định: Khuyến cáo của Hội Tim mạch Quốc gia Việt Nam năm
2010 như sau: [9]
+ Loại I:
Bệnh nhân có chức năng tâm thu thất trái (LVEF) giảm ≤ 35%, thời
gian phức bộ QRS kéo dài ≥ 120 ms và nhịp xoang với triệu chứng ở mức độ
NYHA III hoặc IV ngay cả khi điều trị nội khoa tối ưu (CRT-P hoặc CRT-
41
D)(mức chứng cứ A).
+ Loại IIa:
1. Bệnh nhân có chức năng tâm thu thất trái LVEF) giảm ≤ 35%, thời
gian phức bộ QRS kéo dài ≥ 120 ms nhưng có rung nhĩ với triệu chứng ở mức
độ NYHA III hoặc IV ngay cả khi điều trị nội khoa tối ưu (CRT-P hoặc CRT-
D)(mức chứng cứ B)
2. Bệnh nhân đang được điều trị tạo nhịp thất với chức năng tâm thu
thất trái (LVEF) giảm ≤ 35%, mức độ triệu chứng NYHA III hoặc IV ngay cả
với điều trị nội khoa tối ưu (CRT-P)( mức chứng cứ C).
+ Loại IIb: Bệnh nhân có chức năng tâm thu thất trái giảm ≤ 35%, với
mức độ triệu chứng NYHA I hoặc II sau khi điều trị nội hoa tối ưu nhưng
đang có chỉ định cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn hoặc ICD với khả năng tạo nhịp
thất thường xuyên (mức chứng cứ C).
+ Loại III: (không chỉ định)
1. Bệnh nhân giảm chức năng thất trái nhưng chưa gây triệu chứng và
không kèm theo các chỉ định tạo nhịp tim khác (mức chứng cứ B)
2. Bệnh nhân có kỳ vọng sống hạn chế bởi các bệnh lý mạn tính khác
không do tim (mức chứng cứ: C)
Khuyến cáo của Hội tim mạch Canada [27]: Áp dụng tái đồng bộ tim
phối hợp với cấy máy khử rung cho bệnh nhân suy tim đang điều trị nội khoa
với triệu chứng NYHA II, EF thất trái < 30% và QRS >150 ms.
- Chống chỉ định:
+ Có rung nhĩ kéo dài
+ Có nhồi máu cơ tim hoặc TBMMN trong vòng 3 tháng
+ Huyết áp tâm thu thấp ≤ 80 mmHg
+ Có suy thận hoặc suy gan nặng
+ Có bệnh phổi mạn tính
+ Bệnh nhân nữ đang có thai
42
Hình 1: Tái đồng bộ bằng máy tạo nhịp 2 buồng
b. Máy chuyển nhịp phá rung cấy được (Implantable CardioverterDefibrillators
ICD)
Máy ICD cấu tạo bởi một cáu trúcvòng điện tử, một nguồn năng lượng
và một bộ nhớ. Có một microprocessor sẽ giúp phối hợp các cấu trúc trên.
Khả năng của máy bao gồm tạo nhịp chống nhịp nhanh, tạo nhịp thất khi
chậm, tạo nhịp 2 buồng khi có thay đổi tần số. Một vài loại còn có chức năng
phá rung nhĩ và tái đồng bộ tim. Đời sống của máy ICD tuỳ thuộc vào số lần
sốc phá rung, trung bình từ 5-9 năm. Hiện nay các máy ICD đều tạo sóng sốc
điện 2 pha[15]
Các chỉ định chính của ICD như sau:[15], [21]
- Bệnh nhân rối loạn chức năng thất trái sống sót sau đột tử
- Nhịp nhanh thất kéo dài có triệu chứng cơ năng
- Nhịp nhanh thất không kéo dài, không có triệu chứng cơ năng nhưng
kích hoạt được.
- Bệnh cơ tim thiếu máu cục bộ có EF < 30%
- Bệnh cơ tim không thiếu máu cục bộ có EF < 35% (đặt ICD có thêm
chức năng tạo nhịp 2 buồng thất)
43
Hình 2: Máy chuyển nhịp phá rung cấy được
c. Đặt bóng trong động mạch chủ: Bằng phương pháp thông tim, người ta
đưa một ống thông có gắn một quả bóng đặc biệt, từ động mạch đùi, ống
thông được đẩy lên tới động mạch chủ. Bóng sẽ được đặt ở vị trí trong
lòng động mạch chủ dưới chỗ phân nhánh ra động mạch dưới đòn trái. Bóng
sẽ được bơm căng ra một cách đồng bộ vào thời kỳ tâm trương của chu
chuyển tim. Nó làm giảm đáng kể hậu gánh, cải thiện một cách rõ rệt cung
lượng tim cho bệnh nhân. Nó còn làm tăng lượng máu đến tưới cho động
mạch vành và làm giảm nhu cầu oxy của cơ tim.[11], [21].
Hình 3: Đặt bóng trong động mạch chủ
e. Thiết bị hỗ trợ thất: Là thiết bị phải mổ để cấy ghép giúp các bệnh nhân
44
suy tim quá nặng để kéo dài thêm thời gian chờ thay tim.[21]
Hình 4,5: Thiết bị hỗ trợ tâm thất (Abiomed biventricular system)
g. Ghép tim:
Là biện pháp hữu hiệu cuối cùng cho những bệnh nhân suy tim giai
đoạn cuối, đã kháng lại với tất cả các biện pháp điều trị nội, ngoại khoa
thông thường. Đó thường là những trường hợp có tổn thương cơ tim rất
rộng và nặng nề.
Ở nước ta, tại bệnh viện Trung ương Huế, các bác sỹ Việt Nam đã tiến
hành thành công cas ghép tim đầu tiên vào đầu tháng 3 năm 2011 đem lại
triển vọng cho bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối.
h. Điều trị bằng tế bào gốc
Ở Hoa Kỳ trong một thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên ở trường Y Đại
học Harvart trên 23 bệnh nhân trong đó 16 bệnh nhân suy tim có bắc cầu nối
chủ vành EF thất trái < 40% và được điều trị bằng tế bào gốc còn lại 7 bệnh
nhân làm nhóm chứng. Sau 1 năm điều trị, có 8 bệnh nhân EF tăng lên từ
30,2% lên đến 43,5%.[29]
Ở Việt Nam, đề tài nhánh cấp nhà nước tại Viện Tim mạch quốc gia đã
tiến hành ứng dụng tế bào gốc trong điều trị suy tim không hồi phục bằng tế
bào gốc lấy từ tuỷ xương với kỹ thuật là: lấy khoảng 200 ml dịch tủy xương,
tách lấy còn 10ml dung dịch chứa những tế bào gốc không chọn lọc, dùng ống
45
thông như thủ thuật của tim mạch can thiệp bơm dung dịch tế bào gốc vào tận
vùng cơ tim bị tổn thương. Bóng nong động mạch vành được bơm căng để
gây tắc tạm thời động mạch vành - thủ phạm gây nhồi máu cơ tim, sau đó
truyền tế bào gốc qua nòng của quả bóng nong nhằm kéo dài tối đa thời gian
tiếp xúc giữa các tế bào gốc và mạng lưới vi mạch của động mạch vành bị
nhồi máu. Ðánh giá tình trạng hoạt động của tim sau một năm điều trị bằng tế
bào gốc, các tế bào cơ tim bị nhồi máu của người bệnh được hồi phục, các chỉ
số hoạt động của tim trở lại bình thường. Người bệnh có thể thực hiện các
hoạt động cần tới sức lực như đi bộ, leo cầu thang, chạy bước nhỏ, mà không
bị khó thở.
B. ĐIỀU TRỊ SUY TIM TÂM TRƯƠNG
1. Mục tiêu điều trị
Giảm các triệu chứng, làm cho suy tim tâm trương tiến triển chậm lại
và không phát triển thành suy tim tâm thu, cải thiện chất lượng cuộc sống của
bệnh nhân [2], [18].
2. Nguyên tắc chính trong điều trị
2.1. Điều trị nguyên nhân
Rất quan trọng để cho cơ tim nhất là thất trái bớt phì đại, xơ hoá, thâm
nhiễm... hạn chế được tổn thương quá trình thư giãn của thất. Cần phải điều
trị tốt bệnh THA, bệnh mạch vành bằng cách làm tăng tưới máu cơ tim và
giảm nhu cầu ôxy cơ tim, điều trị các bệnh cơ tim, đái tháo đường..., đồng
thời phải tích cực can thiệp vào các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng không tốt tới
quá trình phát triển các bệnh đó như rối loạn nhịp tim, rối loạn lipid máu, tình
trạng béo phì thừa cân, hút thuốc lá, uống nhiều rượu....[2],[24]
2.2. Điều trị triệu chứng
Chủ yếu là làm giảm áp lực tuần hoàn phổi. Chẳng hạn như:
Giảm khối lượng dịch lưu hành dư thừa, hạn chế quá trình phì đại và xơ
46
hoá thất trái, cải thiện tình trạng thư giãn của thất, duy trì khả năng co bóp của
nhĩ trái và kiểm soát tần số tim.
Các biện pháp không dùng thuốc như suy tim tâm thu: Chế độ ăn giảm
muối, hạn chế dịch đưa vào cơ thể, chế độ vận động thể lực nhẹ nhàng đều
đặn hàng ngày, tránh gắng sức thể lực và stress [18], [23]
2.3. Nguyên tắc điều trị suy tim tâm trương theo khuyến cáo của Trường
môn Tim mạch và Hội Tim mạch Hoa Kỳ (ACC/AHA)
- Kiểm soát huyết áp tâm thu và tâm trương
- Kiểm soát nhịp thất ở bệnh nhân rung nhĩ
- Kiểm soát ứ huyết phổi và phù ngoại biên bằng lợi tiểu và nitrat
- Tái tưới máu động mạch vành ở bệnh nhân bị bệnh mạch vành mà
thiếu máu cục bộ gây hậu quả xấu đến chức năng tâm trương [20], [24], [25],
[31]
3. Các biện pháp điều trị cụ thể
3.1. Điều trị các bệnh chính gây suy tim tâm trương
- Bệnh THA: các thuốc điều trị THA được dùng ngay từ khi phát bệnh
sẽ làm giảm kịp thời tình trạng tăng gánh áp lực, làm thất trái chậm bị phì đại,
nếu dùng muộn hơn cũng vẫn có tác dụng hạn chế được sự tiến triển thậm chí
vẫn làm giảm được tình trạng phì đại thất trái, qua đó cải thiện được chức
năng tâm trương thất trái và tuần hoàn vành.
Phải kiểm soát tốt HA, đưa mức HA trở về các trị số đã được khuyến
cáo như mức HA bình thường < 130/80 mmHg hoặc tối ưu < 120/80 mmHg
đối với người trẻ, trung niên hoặc có bệnh đái tháo đường, suy thận và mức
HA bình thường cao < 140/90 đối với người lớn tuổi.
+ Có nhiều thuốc điều trị THA, nhưng nên chọn thuốc nào có khả năng
và duy trì kết quả lâu dài làm giảm phì đậi thất trái. Thuốc ức chế men chuyển
là thuốc ưu tiện được lựa chọn.
Có nhiều nghiên cứu đã chứng minh hiệu quả của nhóm thuốc này
47
trong việc làm giảm HA và duy trì kết quả lâu dài đồng thời làm giảm phì đại
thất trái. Riêng về phì đại thất trái có liên quan đến chức năng tâm trương
Dahlof và Cs (1992) phân tích 109 nghiên cứu trong THA đã được công bố
cho thấy nhóm thuốc này làm giảm phì đại thất trái nhiều hơn so với các
thuốc khác.
+ Thuốc lợi tiểu: là loại thuốc hay được dùng trong THA, nếu đào thải
lượng nước quá nhiều thì không có lợi vì các bệnh nhân có rối loạn chức
năng tâm trương vẫn cần có có áp lực đổ đầy máu vào thất trái đủ để giữ được
cung lượng tim đầy đủ. Dùng các thuốc lợi tiểu thải kali như furosemid,
thiazid lâu dài còn có nguy cơ kích hoạt hệ renin-angiotensin-aldosteron, ảnh
hưởng không tốt đến chức năng tâm trương của thất vì vậy cần phối hợp với
các chất ức chế men chuyển.
- Bệnh động mạch vành:
Làm giảm quá trình hình thành sẹo, xơ và tái cấu trúc thất trái trong
bệnh mạch vành là mục tiêu điều trị để hạn chế tổn thương cấu trúc thất trái
trong bệnh mạch vành
+ Tái tưới máu vùng cơ tim bị thiếu máu cục bộ thông qua can thiệp
động mạch vành qua da để nong và đặt stent động mạch vành hoặc phẫu thuật
làm cầu nối chủ vành khi có chỉ định. Trong các trường hợp khác phải dùng
các thuốc làm giảm mức tiêu thụ oxy của cơ tim như các nitrat, molsidomin,
các chất ức chế calci, các chất ức chế thụ thể bêta, amiodaron...làm tăng cung
cấp máu cho cơ tim do tác dụng phân bố lại máu có lợi cho các vùng bị thiếu
máu như các nitrat và chất ức chế thụ thể bêta khi dùng lâu dài, các thuốc
chống co thắt mạch như nitrat và các chất ức chế calci, các thuốc bảo vệ cơ
tim giúp cho chuyển hoá thích hợp trong điều kiện cơ tim bị thiếu máu do bị
giảm tưới máu như trimetazidin.
+ Khi bị nhồi máu cơ tim cấp tính cần sớm phục hối dòng chảy trong
động mạch vành bằng can thiệp qua da thì đầu như nong động mạch vành và
48
đặt stent, hoặc dùng các thuốc tiêu huyết khối. Nếu không còn chỉ định và
bệnh nhân đến muộn, phải dùng các thuốc để cố gắng thu hẹp diện hoại tử
như các nitrat, các chất ức chế thụ thể bêta, các thuốc chống đông... Sau giai
đoạn cấp tính cần dùng các thuốc dự phòng tái phát [25].
Cần lưu ý khi dùng các nitrat: nhóm thuốc này làm giãn tĩnh mạch là
chính nên làm giảm lượng máu trở về tim, nếu giảm quá nhiều thì không có
lợi cho chức năng tâm trương vì làm giảm lượng máu đổ đầy vào thất.
- Bệnh đái tháo đường:
Phải dùng chế độ ăn bệnh lý và các thuốc để kiểm soát tốt glucose máu,
cố gắng đưa nồng độ xuống các trị số bình thường (<6,1 mmol/l), HbA1c <
7% để làm chậm sự hình thành bệnh cơ tim do đái tháo đường.
- Các bệnh cơ tim nguyên phát:
Thuốc sử dụng hàng đầu cải thiện chức năng tâm trương trong nhóm
bệnh này là các chất ức chế calci nhất là verapamil. Nghiêncứu của Schulman
và Cs (1990) cho thấy verapamil làm giảm phì đại thất trái nhiều, cải thiện
quá trình đổ đầy máu vào thất trái nhiều hơn hẳn atenolol là một chất ức chế
thụ thể giao cảm bêta, làm tăng khả năng vận động gắng sức, đặc biệt ở bệnh
nhân có bệnh cơ tim phì đại. Bonow và Cs (1985) cũng có nhận xét tương tự,
verapamil đã làm cải thiện cân bằng cung cầu oxy dưới nội tâm mạc do làm
kéo dài thời gian tâm trương và làm giãn mạch vành [23].
Việc sử dụng máy tạo nhịp để tái đồng bộ tim nhằm làm giảm rối loạn
dẫn truyền nhĩ-thất đã được thực hiện ở một số bệnh nhân có chênh áp buồng
tống máu. Hiệu quả có lợi của cách điều trị này là thông qua kết quả từ hoạt
động sớm của mỏm thất, máu được tống đi từ mỏm thất trước khi xẩy ra cản
trở của buồng tống máu. Dùng lâu dài (6 tháng hoặc hơn), loại máy tạo nhịp
này đã được chứng minh làm giảm phì đại thất và làm giảm chênh áp ở buồng
tống máu ngay cả khi máy không hoạt động nữa, điều này khẳng định rằng,
49
với thời gian can thiệp này làm thay đổi quá trình sinh lý bệnh có liên quan
đến việc tạo thành chênh áp. Khi mọi biện pháp đều thất bại, phẫu thuật cắt cơ
tim vùng vách liên thất sẽ được sử dụng cho một số bệnh nhân.[8], [25].
- Các bệnh cơ tim do các nguyên nhân khác như bệnh thoái hoá dạng
tinh bột (amylose), sarcoidose... điều trị đặc hiệu có hiệu quả thì chức năng
tâm trương sẽ được cải thiện.
- Các rối loạn nhịp tim:
Các rối loạn nhịp tim ảnh hưởng không tốt đến chức năng tâm trương
vì pha nhĩ thu là đặc biệt quan trong trong việc đảm bảo thì đổ đầy máu vào
thất; trên bệnh nhân có rối loạn quá trình thư giãn thất thì việc duy trì nhịp
xoang là hết sức cần thiết và mọi cố gắng đều phải tái tạo nhịp xoang nếu
nhịp xoang bị mất.
+ Với nhịp nhanh xoang: Phải làm cho tần số tim chậm lại bằng các
chất ức chế thụ thể giao cảm bêta, amiodaron và các chất ức chế calci
+ Rung nhĩ, cuồng nhĩ: Phải cố gắng đưa về nhịp xoang bằng
amiodron, cân nhắc khi sử dụng digoxin, nếu xoá rung nhĩ không đượcthì
phải dùng sốc điện.
+ Nhịp chậm: phải dùng thuốc đưa tần số tim lên nếu quá chậm như bloc nhĩ
thất độ III thì phải xem xét việc đặt máy tạo nhịp tạm thời hoặc vĩnh viễn
+ Ngoại tâm thu các loại: Phải dùng các thuốc chống loạn nhịp hoặc
các biện pháp can thiệp thích hợp[13], [15].
3.2. Điều trị triệu chứng
3.2.1. Giảm áp lực mao mạch phổi: Áp dụng các biện pháp sau đây:
- Giảm thể tích thất trái: làm giảm tình trạng ứ nước và natri bằng chế
độ ăn giảm muối, hạn chế dịch vào và dùng các thuốc lợi tiểu, các thuốc giãn
mạch như nitrat, molsidomin, nitroprussiat. Thuốc lợi tiểu làm tăng đào thải
nước tiểu và giảm tiền gánh, các thuốc giãn mạch nhất là các thuốc giãn tĩnh
50
mạch như nitrat làm giảm lượng máu trở về tim, giảm áp lực tiểu tuần hoàn và
giảm thể tích cuối tâm trương thất trái.
Trong điều trị rối loạn chức năng tâm trương, phải bắt đầu dùng thuốc
bằng liều thấp để tránh hạ HA. Hạ HA là một vấn dề cần lưu ý vì những bệnh
nhân suy tim tâm trương có đường cong áp lực- thể tích rất dốc nên bất kỳ
một sự thay đổi nhỏ nào về thể tích cũng gây giảm rất nhiều áp lực đổ dầy
tâm trương của thất trái và cung lượng tim. Cần thăm dò liều duy trì sau khi
đã đạt kết quả. Thuốc lợi tiểu spironolacton lúc này có tác dụng tốt do hiệu
quả giữ kali và ngăn chặn tác động của aldosteron, đồng thời dự phòng được
tình trạng xơ cơ tim do aldosteron gây nên. Các chất ức chế men chuyển, các
chất ức chế thụ thể AT1 của angiotensin II cũng có thể dùng để hạn chế việc
giữ nước do hoạt hoá hệ thần kinh thể dịch [23].
- Duy trì khả năng co bóp của nhĩ trái
Duy trì khả năng co bóp của nhĩ trái là để duy trì cung lượng tim và
giữ áp lực tâm trương của thất trái thấp. Rung nhĩ làm giảm sức co bóp của
nhĩ trái, làm tăng áp lực tâm trương và dẫn đến ứ trệ ở phổi, làm hạ HA gây
rối loạn chức năng tâm trương vì vậy phục hồi nhịp xoang là rất cần thiết; nếu
loạn nhịp nhĩ kéo dài hay tái diễn và bệnh nhân không thể duy trì được nhịp
xoang thì có thể làm giảm áp lực tâm trương thất trái bằng cách giảm tần số
thất để kéo dài thời gian tâm trương; với một số bệnh nhân cần thiết thì phải
đặt máy tạo nhịp đồng bộ nhĩ thất [12].
- Kéo dài thời gian tâm trương khi nhịp tim nhanh:
Nếu nhịp tim nhanh, phải làm giảm tần số tim để kéo dài thời gian tâm
trương. Cơn nhịp nhanh có tác động xấu đến bệnh nhân suy tim tâm trương vì
nhịp nhanh sẽ làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim, giảm thời gian máu tới động
mạch vành, làm tăng thêm tình trạng rối loạn chức năng tâm trương do thiếu
51
máu kể cả khi bệnh nhân không có bệnh mạch vành; nhịp nhanh sẽ làm giảm
quá trình thư giãn không hoàn toàn dẫn đến tăng mối tương quan giữa áp lực
và thể tích của thất trái trong thì tâm trương, giảm khả năng giãn có hiệu quả
để nhận máu của thất trái; nhịp nhanh còn làm giảm thời gian đổ đầy tâm
trương; như vậy, nhịp nhanh sẽ làm thư giãn chậm và không hoàn toàn, tăng
áp lực tâm trương đặc biệt là giai đoạn đầu tâm trương. Các chất ức chế thụ
thể giao cảm bêta và các chất ức chế calci ngăn ngừa được cơn nhịp nhanh
quá mức do làm cho tần số tim chậm lại, qua đó làm tăng thời gian tâm
trương nên được chỉ định dùng; tuy nhiên cần phải theo dõi trong khi dùng
thuốc nếu làm nhịp tim quá chậm thì lại có thể là giảm cung lượng tim mặc dù
các thuốc đó làm tăng khả năng đổ đầy máu vào thất trái. Mặt trái của thuốc
này là trực tiếp làm giảm tốc độ thư giãn do tác động lên quá trình hoạt động
trong tế bào cơ tim, nhưng do cũng làm bình thường hoá tiền gánh và hậu
gánh, làm giảm tần số tim, ngăn chặn được thiếu máu cơ tim và làm hạn chế
phì đại thất trái nên thuốc này vẫn được sử dụng để cải thiện triệu chứng cho
suy tim tâm trương[10], [26].
3.2.2. Cải thiện khả năng gắng sức
Gắng sức ở người bình thường kèm theo tăng tốc độ thư giãn của cơ
tim, tăng tốc độ của việc giảm áp lực thất trái, giảm áp lực tối thiểu của thất
trái bằng độ chênh áp qua van hai lá đầu tâm trương, những biến đổi trên làm
tăng tốc độ đổ đầy máu vào thất trái; thêm vào đó, thể tích cuối tâm trương
của thất trái cho phép thất trái sử dụng cơ chế Frank- Starling để làm tăng
cung lượng tim và phân số tống máu. Ở bệnh nhân suy tim tâm trương, khả
năng sử dụng cơ chế Frank- Starling bị hạn chế mặc dù áp lực đổ đầy máu
tăng, do tính cứng cơ tim tâm trương tăng làm cho thể tích thất trái không
tăng được theo nhu cầu của gắng sức; kết quả là cung lượng tim và phân số
tống máu không tăng lên được theo nhu cầu găng sức và bệnh nhân cảm thấy
52
khó thở, mệt; ở các bệnh nhân này thường còn có đáp ứng tăng HAvà tần số
tim quá mức khi gắng sức; việc tăng HA này lại làm tăng gánh nặng cho thất
trái và như vậy làm tổn thương thư giãn cơ tim, đổ đầy tâm trương và cả tống
máu của thất trái; tăng tần số tim khi gắng sức lại càng làm giảm thêm tốc độ
thư giãn của cơ tim. Những biến đổi trên sẽ làm cho áp lực đổ đầy tâm trương
tăng lên dẫn đến giảm độ chun giãn của phổi, tăng hoạt động hô hấp và gây ra
các triệu chứng khó thở. Tăng áp lực tâm trương thất trái khi găng sức cũng
gây cản trở việc nuôi dưỡng vùng cơ tim dưới thượng tâm mạc trong khi gắng
sức lại làm tăng nhu cầu oxy cơ tim, như vậy sẽ làm rối loạn thêm chức năng
tâm trương. Cung lượng tim không đáp ứng đủ cho gắng sức sẽ gây chuyển
hoá yếm khí, tích tụ lactat và gây yếu các chi và cơ hô hấp [25].
Các chất ức chế thụ thể giao cảm β, các chất ức chế calci và các chất chẹn
thụ thể AT1 của angiotensin II có lợi cho việc làm tăng khả năng gắng sức cho
bệnh nhân suy tim tâm trương. Tuy nhiên tác dụng có lợi này không phải lúc nào
cũng đi đôi với việc cải thiện chức năng tâm trương hoặc tăng tốc độ thư giãn của
cơ tim; một số thử nghiệm lâm sàng quy mô nhỏ đã chứng minh rằng việc sử
dụng những thuốc này đã đem lại những cải thiện cả tức thời và lâu dài khả năng
gắng sức ở những bệnh nhân suy tim tâm trương [10], [12].
3.2.3. Một số lưu ý khi sử dụng thuốc
- Thuốc trợ tim: Nói chung không chỉ định nhóm thuôc này trong suy
tim tâm trương vài không có giảm sức co bóp cơ tim, phân suất tống máu vẫn
duy trì tốt.
+ Digitalis: Do ức chế men ATPase của bơm Na+/K+ ở màng tế bào cơ
tim làm tăng Ca++ nội bào làm tăng cơ bóp cơ tim, qua đó làm tăng nhu cầu
năng lượng trong thì tâm thu; ở thì tâm trương do làm tăng nồng độ Ca++ ,
digitalis cũng làm giảm quá trình thư giãn của thất trái làm rối loạn chức năng
tâm trương càng xấu đi. Tác động này có thể không rõ ràng trong một số
53
trường hợp, nhưng khi cơ tim bị thiếu máu, digitalis có thể gây rối loạn chức
năng tâm trương. Vì vậy, ngoại trừ trường hợp bệnh nhân có rung nhĩ mạn
tính hoặc phù phổi cấp tính có liên quan đến suy timtâm trương và tâm thu,
các bằng chứng hiện có chưa đầy đủ để ủng hộ việc sử dụng digitalis trong
điều trị suy tim tâm trương [18].
+ Các thuốc trợ tim mới: Các chất kích thích thụ thể giao cảm β và các
chất ức chế men phosphodiesterase có thể làm tăng cường chức năng của lưới
cơ tương, thúc đẩy quá trình thư giãn nhanh hơn và trọn vẹn hơn, làm tăng
dòng máu ở các tạng, tăng khả năng chứa máu ở tĩnh mạch và làm tăng lợi
tiểu. Tuy nhiên, các nghiên cứu cho thấy ngay cả khi điều trị ngắn ngày, các
thuốc này làm tăng nhu cầu oxy của cơ tim nên có thể gây thiếu máu cơ tim,
tăng tần số tim và gây rối loạn nhịp tim. Do vậy, cần cân nhắc khi phải dùng
các thuốc tăng cường co bóp cơ tim này [23].
+ Các chất ức chế thụ thể giao cảm β: các thuốc này làm giảm tần số
tim nên làm kéo dài thì tâm trương; tuy nhiên cần lưu ý trong suy tim tâm
trương, các chất ức chế thụ thể β có thể làm chậm quá trình thư giãn và đổ
đầy máu của thất trái. Do vậy, việc dùng nhóm thuốc này phải cân nhắc tuỳ
trường hợp. Seiler và Cs (1991) trên các bệnh nhân bệnh cơ tim phì đại, chưa
thấy lợi ích của propranolol trên các bệnh nhân sống sót sau 5-10 năm, khác
với kết quả tốt thấy trên các bệnh nhân bị bệnh cơ tim giãn [6], [7].
Như vậy, điều trị suy tim tâm trương không chỉ tập trung giải quyết
triệu chứng mà phải điều trị các bệnh tim mạch gây rối loạn chức năng tâm
trương như làm giảm phì đại cơ tim, phục hồi việc tưới máu cơ tim, hạn chế
quá trình thâm nhiễm và xơ hoá cơ tim, duy trì nhịp xoang...
54
KẾT LUẬN
Suy tim là một biến chứng thường gặp và là hậu quả cuối cùng của
nhiều bệnh lý tim mạch và một số bệnh ngoài tim như nội tiết chuyển hoá, hô
hấp và cột sống. Chẩn đoán xác định, phân loại, mức độ và nguyên nhân suy
tim cần dựa vào các dấu hiệu lâm sàng và cận lâm sàng. Điều trị suy tim là
chiến lược điều trị lâu dài cần phối hợp điều trị triệu chứng suy tim và giải
quyết nguyên nhân. Cần lưu ý là điều trị suy tim tâm thu và suy tim tâm
trương có một số điểm khác nhau.