Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
NGUYỄN THỊ HOA PHƯỢNG
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Mã số: 62 22 03 15
HÀ NỘI - 2018
Công trình được hoàn thành tại
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS.TS. Đoàn Ngọc Hải
2. TS. Trần Thị Vui
Phản biện 1:.........................................................
.........................................................
Phản biện 2:.........................................................
.........................................................
Phản biện 3:.........................................................
.........................................................
Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
họp tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Vào hồi...... giờ....... ngày...... tháng...... năm 2018
Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia
và Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài Việt Nam là quốc gia biển, do đó kinh tế biển đóng vai trò hết sức quan
trọng trong tổng thể nền kinh tế. Cùng với kinh tế các vùng đồng bằng, trung du, núi, rừng, kinh tế biển Việt Nam là một bộ phận hợp thành, góp phần phát triển đất nước trên nhiều phương diện, có ý nghĩa to lớn đối với phát triển quốc phòng, an ninh. Trong công cuộc đổi mới đất nước, Việt Nam đã từng bước có những chủ trương đúng đắn để phát triển kinh tế biển toàn diện. Đặc biệt, Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007 “về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”của BCHTW Đảng khóa X xác định rõ mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam phấn đấu trở thành một quốc gia “mạnh về biển và giàu lên từ biển”.
Trong hoạch định chủ trương, Đảng xác định, phát triển kinh tế biển là chiến lược lâu dài của Việt Nam, vì vậy cần huy động mọi nguồn lực để kinh tế biển thực sự trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, phát triển hiệu quả, bền vững. Tuy nhiên, đến nay, các ngành kinh tế biển của Việt Nam như: đánh bắt hải sản, khai thác dầu, khí, khoáng sản… vẫn nặng về khai thác, làm cạn kiệt nhanh nguồn tài nguyên của đất nước. Trước xu thế tiến ra biển, làm giàu từ biển của các quốc gia trên thế giới ngày càng mạnh mẽ, Đảng Cộng sản Việt Nam cần phải đầu tư nhiều hơn cho các ngành kinh tế biển; phấn đấu thực hiện mục tiêu: “Đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53 - 55% tổng GDP, 55 - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước”.
Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong 28 tỉnh, thành phố có biển của Việt Nam; là địa phương có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển. Phát huy thế mạnh của địa phương có biển, Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ V, nhiệm kỳ (2010-2015) đề ra mục tiêu phát triển kinh tế biển đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020:“Phấn đấu xây dựng, phát triển tỉnh trở thành tỉnh công nghiệp, mạnh về kinh tế biển, với hệ thống thương cảng quốc gia và quốc tế vào đầu thời kỳ 2010-2015”. Với chủ trương trên, Đảng bộ tỉnh đã đặt kinh tế biển đúng với vị thế của nó trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh và trong vùng kinh tế trọng điểm miền Đông Nam bộ.
Bên cạnh nhiều thành tựu to lớn trong lãnh đạo phát triển kinh tế biển, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, những lúng túng nhất định trong một số vấn đề như: công tác dự báo, định hướng chiến lược, liên kết giữa các địa phương, kết nối giữa các vùng, miền…Điều đó phần nào làm giảm tính hiệu quả của phát triển kinh tế, khiến kinh tế biển của tỉnh chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu mà thực tiễn đang đặt ra.
Để phát triển kinh tế biển hiệu quả, đúng hướng ở thời kỳ tới, cần tổng kết, phân tích, soi chiếu sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đối
2
với lĩnh vực này; từ đó rút ra những kinh nghiệm tham khảo hữu ích. Với ý nghĩa đó, tôi chọn đề tài “Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế biển từ năm 2000 đến năm 2015” làm luận án Tiến sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Nhằm làm rõ hoạt động lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015; đúc rút một số kinh nghiệm để vận dụng vào quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế biển trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Phân tích những yếu tố tác động đến quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế biển giai đoạn 2000-2015. Phân tích chủ trương và sự chỉ đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015. Nhận xét những ưu điểm, hạn chế, nguyên nhân của những ưu điểm, hạn
chế và đúc rút những kinh nghiệm qua thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế biển những năm 2000-2015.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Luận án nghiên cứu hoạt động lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Đảng
bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung nghiên cứu: Luận án tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh đối với các ngành kinh tế biển được coi là thế mạnh của tỉnh như: 1. Kinh tế hàng hải (chủ yếu là cảng biển); 2. Khai thác, nuôi trồng và chế biến hải sản; 3. Du lịch biển; 4. Kinh tế hải đảo.
- Về không gian: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. - Về thời gian: Luận án nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2015. 4. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận án nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước về kinh tế biển.
4.2. Nguồn tài liệu Các Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc từ năm 2000 đến năm 2015; một số
văn bản của Nhà nước có liên quan đến vấn đề nghiên cứu; Văn kiện, Nghị
3
quyết… của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các sở, ban, ngành liên quan đến phát triển kinh tế biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và các công trình nghiên cứu của các cá nhân, tập thể đã được công bố liên quan đến đề tài luận án.
4.3. Phương pháp nghiên cứu Chủ yếu sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp logíc, đồng thời, sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê. 5. Đóng góp mới của luận án - Làm rõ được những yếu tố tác động đến việc hoạch định chủ trương và
quá trình chỉ đạo triển khai phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015
- Khái quát được những chủ trương quan trọng và phục dựng khá cụ thể quá trình chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trên các lĩnh vực kinh tế biển do tỉnh đầu tư và quản lý: Hàng hải (chủ yếu là cảng biển); khai thác nuôi trồng và chế biến thủy, hải sản; du lịch biển và kinh tế hải đảo.
- Đánh giá khách quan các ưu điểm và hạn chế; làm rõ được một số nguyên nhân khách quan, chủ quan của ưu điểm, hạn chế trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến 2015. Từ đó, luận án đúc kết những kinh nghiệm, có thể tham khảo cho quá trình bổ sung, hoàn thiện chủ trương cũng như quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh cho hiện tại và tương lai.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa khoa học Thứ nhất, luận án hệ thống hóa chủ trương, sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế biển từ năm 2000 đến năm 2015. Thứ hai, rút ra những nhận xét về ưu điểm, hạn chế, đúc rút kinh nghiệm
từ quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế biển, góp phần tổng kết sự lãnh đạo của Đảng thực hiện chiến lược biển (trong đó có kinh tế biển) từ một Đảng bộ tỉnh.
Thứ ba, góp phần cung cấp những cơ sở khoa học, kinh nghiệm để Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu tiếp tục lãnh đạo phát triển kinh tế biển trong giai đoạn mới.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc hoạch định
chủ trương phát triển kinh tế biển của địa phương; nghiên cứu, giảng dạy lịch sử địa phương, lịch sử Đảng trong các nhà trường, Viện nghiên cứu.
7. Cấu trúc của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình của tác giả luận án,
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án được cấu trúc thành 4 chương, 10 tiết.
4
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
LUẬN ÁN
Khảo cứu những công trình khoa học liên quan đến đề tài luận án, nghiên
cứu sinh chia thành các nhóm:
Một là: Các công trình nghiên cứu chung về kinh tế biển
Hai là: Các công trình nghiên cứu về phát triển kinh tế biển của các tỉnh,
vùng miền trên cả nước
Ba là: Các công trình nghiên cứu về kinh tế biển của tỉnh và Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh đạo phát triển kinh tế biển.
Khảo cứu có hệ thống các công trình khoa học đã công bố liên quan đến
đề tài luận án cho thấy:
Thứ nhất, các công trình khoa học đã công bố liên quan đến đề tài luận án
nghiên cứu dưới nhiều góc độ, phạm vi khoa học khác nhau, nhưng đều đề cập
khá sâu sắc về vị trí, vai trò của biển, kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế -
xã hội, quốc phòng, an ninh.
Thứ hai, phần lớn các công trình khoa học đã công bố trên đều đề cập đến
thực trạng vấn đề biển, kinh tế biển nhưng chủ yếu ở góc độ kinh tế học.
Thứ ba, có một số công trình nghiên cứu đề xuất phương hướng cụ thể
và đề ra hệ thống các giải pháp nhằm phát triển kinh tế biển trong những năm
sắp tới.
Thứ tư, có một số công trình khoa học bước đầu nghiên cứu mang tính
tổng kết, đánh giá kết quả, đúc rút kinh nghiệm lịch sử.
Thứ năm, đã có các công trình khoa học nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng về phát triển kinh tế biển, nhưng ở các địa phương khác, ngành cụ thể của
kinh tế biển.
Thứ sáu, trong số các công trình liên quan đến tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, đã
có một số công trình nghiên cứu về kinh tế biển; sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
đối với một số ngành cụ thể của kinh tế biển, nhưng chưa có công trình nào
nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về quá trình lãnh đạo phát triển
kinh tế biển từ năm 2000 đến năm 2015 của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
nhất là dưới góc độ khoa học lịch sử Đảng. Đó là những tài liệu quý mà nghiên
cứu sinh có thể tham khảo, kế thừa về nội dung, phương pháp tiếp cận, trình
bày và khai thác tư liệu trong quá trình thực hiện luận án của mình.
5
1.2. NHỮNG NỘI DUNG LUẬN ÁN TẬP TRUNG NGHIÊN CỨU
Thứ nhất, luận án nghiên cứu, làm rõ những yếu tố tác động đến sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế biển giai đoạn
2000-2015 như: làm rõ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội; thực trạng kinh tế
biển của tỉnh trước năm 2000; quan điểm, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt
Nam về chiến lược biển và phát triển kinh tế biển (2000-2015).
Thứ hai, phân tích, luận giải chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển kinh tế biển bao gồm: mục tiêu, phương
hướng, nhiệm vụ, giải pháp (trên cơ sở các Văn kiện, nghị quyết… của Đảng bộ
tỉnh). Đồng thời, làm rõ quá trình chỉ đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ
tỉnh, tập trung vào các lĩnh vực: Cảng biển; khai thác, chế biến hải sản; du lịch
biển; kinh tế hải đảo.
Thứ ba, nhận xét, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm và nguyên nhân của
những ưu, khuyết điểm trong quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lãnh
đạo phát triển kinh tế biển trong những năm 2000-2015; đúc kết một số kinh
nghiệm để vận dụng vào phát triển kinh tế biển cho hiện tại và tương lai.
Chương 2
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN
CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU (2000-2010)
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
2.1.1. Khái niệm, vị trí, vai trò của kinh tế biển - Khái niệm kinh tế biển
Năm 2013, Luật biển Việt Nam được ban hành, tại Chương IV, Điều 43
quy định về phát triển các ngành kinh tế biển, Luật đề cập đến các ngành kinh
tế biển sau đây: 1. Tìm kiếm, thăm dò, khai thác, chế biến dầu, khí và các loại
tài nguyên, khoáng sản biển; 2. Vận tải biển, cảng biển, đóng mới và sửa chữa
tàu thuyền, phương tiện đi biển và các dịch vụ hàng hải khác; 3. Du lịch biển và
kinh tế đảo; 4. khai thác, nuôi trồng, chế biến hải sản; 5. Phát triển, nghiên cứu,
ứng dụng và chuyển giao khoa học, công nghệ về khai thác và phát triển kinh tế
biển; 6. Xây dựng và phát triển nguồn nhân lực biển.
Theo quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hội nghị lần thứ tư,
Ban Chấp hành Trung ương khóa X (2007), Nghị quyết số 09-NQ/TW chỉ rõ,
các ngành kinh tế biển ở Việt Nam được tập trung phát triển đến năm 2020 bao
gồm: 1. Khai thác, chế biến dầu, khí; 2. Kinh tế hàng hải (gồm có cảng biển,
6
dịch vụ cảng biển, vận tải biển, đóng tàu…); 3. Khai thác và chế biến hải sản;
4. Du lịch biển và kinh tế hải đảo; 5. Xây dựng các khu kinh tế, các khu công
nghiệp tập trung và khu chế xuất ven biển gắn với phát triển các khu đô thị
ven biển.
Mặc dù trên bình diện quốc tế và trong nước chưa có khái niệm thống
nhất về kinh tế biển. Tuy nhiên, các nhà khoa học nghiên cứu về biển cơ bản
thống nhất kinh tế biển là ngành kinh tế bao gồm các hoạt động kinh tế liên
quan trực tiếp với biển và diễn ra ở các địa bàn ven biển, trên biển và hải đảo.
Theo cách tiếp cận này thì kinh tế biển được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa rộng và
nghĩa hẹp.
Qua khảo cứu các quan niệm, khái niệm kinh tế biển nêu trên, theo tác giả
luận án: “Kinh tế biển là tất cả các hoạt động kinh tế liên quan đến biển, cho dù
các hoạt động ấy diễn ra ở trên biển hay trên đất liền”. Nghĩa là hiểu kinh tế
biển theo nghĩa rộng.
- Vị trí, vai trò của kinh tế biển
Biển đảo Việt Nam là phần lãnh thổ của đất nước Việt Nam. Từ lâu, biển
đã đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người. Biển không những
là nơi để một phần lớn loài người dựa vào khai thác để sinh tồn, mà biển còn có
vị trí chiến lược hết sức to lớn, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp bảo vệ nền
độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Là quốc gia có biển, đó là một
lợi thế lớn, Việt Nam cần tăng cường xây dựng ý thức vươn ra biển, làm chủ
biển, đảo, phát triển để làm giàu từ biển và quốc gia mạnh lên từ biển của các
tầng lớp nhân dân.
2.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
- Điều kiện tự nhiên
Luận án trình bày và phân tích những đặc trưng cơ bản của các yếu tố tự
nhiên của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, tác động trực tiếp đến các ngành kinh tế biển
và quá trình phát triển kinh tế biển của địa phương.
- Về kinh tế - xã hội
Luận án tập trung phân tích các ngành kinh tế biển có ý nghĩa thúc đẩy sự
phát triển kinh tế của tỉnh và cơ cấu dân số, việc làm, thu nhập của lao động
trong tỉnh.
2.1.3. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế
biển đến
Luận án tập trung trình bày chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế
biển trong giai đoạn 2000-2010.
7
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (2001) Đảng Cộng sản Việt Nam
khẳng định phải: “Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển”, “Phát huy thế
mạnh đặc thù của hơn một triệu km2 thềm lục địa. Tăng cường điều tra cơ bản
làm cơ sở cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế biển”. Những quan
điểm trên của Đảng đã đặt cơ sở cho sự ra đời của Chiến lược biển Việt Nam
đến năm 2020.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006) của Đảng tiếp tục phát triển
quan điểm của Đại hội lần thứ IX: “Xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển
kinh tế biển toàn diện, có trọng tâm, trọng điểm; sớm đưa nước ta trở thành
quốc gia mạnh về biển trong khu vực, gắn với bảo đảm quốc phòng, an ninh và
hội nhập quốc tế”.
Trên cơ sở nhận thức của Đảng tại Đại hội lần thứ IX, lần thứ X, Hội nghị
lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) ra Nghị quyết số 09-NQ/TW,
ngày 09-02-2007 “về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” với các quan
điểm chỉ đạo: Nước ta phải trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển,
trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng từ biển, phát triển toàn diện các ngành, nghề
biển với cơ cấu phong phú, hiện đại, tạo ra tốc độ phát triển nhanh, bền vững,
hiệu quả cao với tầm nhìn dài hạn...
Các quan điểm, chủ trương của Đảng có ý nghĩa quan trọng đối với quá
trình phát triển kinh tế biển Việt Nam; là cơ sở quan trọng để Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu đề ra chủ trương phát triển kinh tế biển, vừa gắn với quy hoạch,
phát triển chung của cả nước, vừa phát huy thế mạnh, lợi thế, đặc thù của tỉnh,
nhằm góp phần thực hiện thắng lợi Chiến lược biển Việt Nam.
2.1.4. Thực trạng kinh tế biển của tỉnh trước năm 2000
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, các ngành kinh tế
biển giai đoạn 1991-2000 đã đạt được những kết quả quan trọng đối với tất cả
các ngành: Ngành thủy, hải sản; ngành du lịch; kinh tế hải đảo và kinh tế hàng
hải (chủ yếu là cảng biển). Như vậy, từ năm 1991 đến năm 2000 dưới sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, nhiệm vụ phát triển kinh tế biển trở
thành nhiệm vụ quan trọng, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần vào phát
triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Tuy nhiên, quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế
biển của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu 10 năm (1991-2000) còn một số hạn
chế: hải sản là một thế mạnh của tỉnh, nhưng chưa được coi trọng nên năng suất
thấp, sản lượng không cao, hoạt động đánh bắt chủ yếu gần bờ, diện tích nuôi
trồng tăng chậm, việc bảo quản sản phẩm sau khi đánh bắt chưa tốt nên ảnh
hưởng đến chất lượng chế biến, xuất khẩu…; tình trạng ô nhiễm môi trường …
8
chậm được khắc phục. Trên cơ sở phân tích những hạn chế, nghiên cứu sinh rút
ra những nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
2.2. CHỦ TRƯƠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
Chủ trương lớn nhất của Đảng bộ tỉnh trong giai đoạn này là Nghị quyết
Đại hội Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu lần thứ III (2000), đề ra mục tiêu
chung: “Phấn đấu đến năm 2010, Bà Rịa - Vũng Tàu cơ bản trở thành một
trong những trung tâm công nghiệp, du lịch và khai thác hải sản của khu vực và
cả nước, một thương cảng quốc gia và quốc tế”. Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
IV, đề ra mục tiêu: “Phấn đấu xây dựng, phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành
tỉnh công nghiệp, mạnh về kinh tế biển, với hệ thống thương cảng quốc gia và
quốc tế vào đầu thời kỳ 2010-2015. Nghị quyết tập trung vào các nhiệm vụ chủ
yếu: “Ưu tiên phát triển nhanh, mạnh, vững chắc các ngành kinh tế biển, công
nghiệp dầu khí, cảng biển, dịch vụ hàng hải, du lịch, hải sản” và Chương trình
hành động số 12-CTr/TU, ngày 16-11-2007 về việc thực hiện Nghị quyết số 09-
NQ/TW về “Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020”. Có thể coi Chương
trình hành động số 12-CTr/TU là Nghị quyết chuyên đề về phát triển kinh tế
biển toàn diện đầu tiên của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu.
Từ chủ trương chung của Đảng bộ đối với kinh tế biển, Đảng bộ tỉnh chủ
trương phát triển các ngành kinh tế biển cụ thể, như sau:
2.2.1. Đối với ngành du lịch Thực hiện chủ trương về phát triển kinh tế du lịch, ngày 27-5-2008, Ban
Thường vụ Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 05-NQ/TU Về phát triển kinh tế du
lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015, với mục
tiêu, đến năm 2015 “Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành một trong những trung tâm
du lịch nghỉ dưỡng và giải trí lớn của cả nước và du lịch trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn của tỉnh”.
Chủ trương phát triển du lịch (mà chủ yếu là du lịch biển) của Đảng bộ
tỉnh và Nghị quyết số 05-NQ/TU của Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu với việc đề ra
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp phù hợp để phát triển ngành du lịch của tỉnh
trong những năm trước mắt, đã bắt kịp xu hướng, tạo điều kiện cho du lịch phát
triển mạnh, đúng hướng.
2.2.2. Đối với ngành thủy, hải sản Tiếp tục phát huy lợi thế về lĩnh vực khai thác và chế biến hải sản, Đảng
bộ tỉnh xác định nhiệm vụ của ngành hải sản giai đoạn 2000-2005: Đẩy mạnh
đánh bắt xa bờ, mở rộng nuôi trồng thủy, hải sản có giá trị kinh tế cao theo
9
phương pháp công nghiệp; đầu tư mạnh công nghiệp chế biến, nhất là chế biến
hải sản xuất khẩu.
Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, nhiệm kỳ 2005-2010, trên cơ sở
những định hướng đúng đắn của nhiệm kỳ Đại hội lần thứ III, tiếp tục đề ra
mục tiêu phát triển kinh tế thủy, hải sản: “tăng cường năng lực và hiệu quả khai
thác xa bờ, đầu tư mới các cơ sở chế biến thủy, hải sản tại làng cá Gò Găng, đầu
tư phát triển các vùng nuôi trồng thủy sản.. Như vậy, chủ trương đẩy mạnh khai
thác xa bờ, khuyến khích, hỗ trợ ngư dân đóng tàu lớn và đầu tư cho các cơ sở
chế biến hải sản ngày một hiện đại… của Đảng bộ tỉnh là bước đột phá đối với
ngành hải sản, tạo cơ sở để ngành phát triển ngang tầm.
2.2.3. Đối với ngành hàng hải (chủ yếu là cảng biển) Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh nhiệm kỳ III xác định: “Hướng ưu tiên
phát triển hệ thống cảng của tỉnh là phải xây dựng các cảng hiện đại, cho tàu có
công suất lớn cập bến được, vừa có cảng tổng hợp, vừa có cảng chuyên dùng,
vừa có cảng nội địa, vừa có cảng trung chuyển”. Trong đó, các cảng chuyên
dùng phải phục vụ đắc lực cho các ngành công nghiệp của tỉnh phát triển. Tại
Đại hội lần thứ IV, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nhận định: để phát triển
công nghiệp, cảng biển là mấu chốt của vấn đề. Vì vậy, hàng hải được xác định
là ngành kinh tế trọng tâm cần được ưu tiên phát triển trong giai đoạn 2000-
2010; định hướng trở thành cụm cảng có quy mô công suất lớn nhất trong Vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam.
2.2.4. Đối với kinh tế hải đảo Trong 5 năm (2000-2005), Đảng bộ tỉnh chủ trương: Phát triển Côn Đảo
thành điểm du lịch, nghỉ dưỡng cao cấp, chủ yếu tập trung đầu tư cho du lịch
sinh thái; phát triển nghề thủy, hải sản…Tiếp đó, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ
IV (2005-2010) chủ trương: “xây dựng Côn Đảo thành Khu kinh tế - du lịch và
dịch vụ chất lượng cao gắn với bảo tồn, tôn tạo khu di tích cách mạng đặc biệt
của Việt Nam và phát triển nâng cao giá trị Vườn quốc gia Côn Đảo”. Đồng
thời, Đảng bộ tỉnh khẳng định: “Xương sống của kinh tế - xã hội huyện Côn
Đảo trong tương lai là du lịch và dịch vụ gắn với bảo tồn, tôn tạo khu di tích
cách mạng. Tất cả sự phát triển của Côn Đảo phải xoay quanh mục tiêu này”.
Với nhiều điểm bổ sung, phát triển so với Đại hội lần thứ III (2000-2005),
Đại hội lần thứ IV (2005-2010) của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cùng với
Chương trình hành động số 12-CTr/TU đã từng bước hoàn thiện chủ trương về
phát triển các ngành kinh tế biển của tỉnh. Nét nổi bật có tính sáng tạo của Đại
hội IV đó là: Định hướng, quy hoạch, phát triển mạnh về kinh tế biển, thông
qua chủ trương phát triển đồng bộ hệ thống cảng biển và hệ thống cảng Thị Vải
10
- Cái Mép. Chủ trương trên tiếp tục tạo cơ sở để ngành hàng hải đề ra mục tiêu,
nhiệm vụ phát triển đúng định hướng.
2.3. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU CHỈ ĐẠO PHÁT TRIỂN
KINH TẾ BIỂN
2.3.1. Chỉ đạo phát triển du lịch
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ III, ngày 03-9-2002,
UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ban hành Quyết định số 7573/QĐ-UB về việc
phê duyệt Đề án phát triển du lịch tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu giai đoạn 2001-
2005. Đề án xác định rõ mục tiêu: “Xây dựng du lịch thành ngành kinh tế quan
trọng vào năm 2005. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV về
phát triển du lịch, Nghị quyết số 05-NQ/TU về "Phát triển kinh tế du lịch Bà
Rịa - Vũng Tàu đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2015”. Ngày 20-02-2009,
UBND tỉnh ra Quyết định số 15/2009/QĐ-UBND ban hành Chương trình hành
động của UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU và
ngày 16-3-2009, UBND tỉnh ra Chỉ thị số 11/CT-UBND về việc Tăng cường
triển khai Chương trình hành động của UBND tỉnh.
2.3.2. Chỉ đạo phát triển ngành thủy, hải sản
Trong giai đoạn 2000-2010, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ III, IV
của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển hải sản, tỉnh tiếp tục xác
định: “thủy, hải sản là ngành kinh tế mũi nhọn”, cụ thể: Về khai thác: Nhằm
giúp ngư dân duy trì hoạt động khai thác xa bờ, thực hiện tốt Chương trình “tín
dụng đầu tư phát triển để đóng mới, cải hoán tàu khai thác hải sản xa bờ” của
Thủ tướng Chính phủ được áp dụng đối với các địa phương có biển trên toàn
quốc (Quyết định số 393/QĐ-TTg, ngày 09-6-1997); Về nuôi trồng: Thực hiện
chỉ đạo của Tỉnh ủy và Quyết định số 8241/QĐ-UB, ngày 04-10-2002 của
UBND tỉnh về phê duyệt Chương trình phát triển nuôi trồng thủy, hải sản đến
năm 2010; Về chế biến: Thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, hoạt động chế
biến hải sản trên địa bàn tỉnh tăng trưởng khá nhanh cả về số lượng và chất
lượng. Nhiều đơn vị chế biến hải sản chú trọng đầu tư công nghệ hiện đại, tích
cực tìm hiểu các thị trường giàu tiềm năng… Trong 10 năm (2000-2010), nghề
cá của tỉnh phát triển mạnh mẽ, đã góp phần đảm bảo an ninh thực phẩm; tăng
kim ngạch xuất khẩu; giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, cải thiện cuộc
sống của cộng đồng cư dân ven biển, đảo.
2.3.3. Chỉ đạo phát triển ngành hàng hải (chủ yếu là cảng biển)
Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV, nhiệm kỳ
2005-2010 và Chương trình hành động số 12/CTr-TU của Tỉnh ủy về xác định
11
phát triển cảng biển là nhiệm vụ hàng đầu của Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm
2010, Sở Giao thông vận tải tỉnh có Báo cáo số 901/BC-SGT, Báo cáo Đoàn
công tác Văn phòng Trung ương về tình hình phát triển kinh tế biển tỉnh Bà Rịa
- Vũng Tàu đến năm 2007. Theo đó, hệ thống cảng biển của tỉnh có 13 cảng
đang khai thác với chiều dài 5.214m, gồm 11 cảng chuyên dùng và 2 cảng tổng
hợp với công suất khoảng 14,474 triệu tấn/năm. Hệ thống cảng biển tuy còn
khiêm tốn so với nhu cầu và tiềm năng của tỉnh, song trước mắt đã phát huy
được thế mạnh, hỗ trợ rất lớn cho các ngành dầu, khí, điện, vận chuyển vật tư
thiết bị cho các nhà máy, khu công nghiệp trong tỉnh và trong khu vực.
2.3.4. Chỉ đạo phát triển kinh tế hải đảo
Nhiệm kỳ Đại hội lần thứ IV (2005-2010), Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu xác định: “xương sống của kinh tế - xã hội huyện Côn Đảo là du lịch và
dịch vụ gắn với bảo tồn, tôn tạo khu di tích cách mạng”. Thực hiện chủ trương
trên, Đảng bộ huyện Côn Đảo tập trung nâng cao năng lực phục vụ khách du
lịch thông qua xây mới, nâng cấp các cơ sở du lịch.
Nhằm phát triển Côn Đảo theo định hướng trở thành Trung tâm du lịch
của tỉnh và của cả nước, thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, UBND tỉnh xây dựng
“Đề án phát triển kinh tế - xã hội huyện Côn Đảo đến năm 2020” trình Thủ
tướng Chính phủ. Ngày 25-10-2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
264/2005/QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án phát triển kinh tế - xã hội huyện
Côn Đảo, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2020.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, sau 10 năm
(2000- 2010), huyện đảo Côn Đảo đã có sự chuyển biến tích cực: tốc độ tăng
trưởng GDP đạt khá cao, giai đoạn 2000-2005 tăng bình quân 14,5%/năm, giai
đoạn 2005-2010 tăng bình quân 17,5%/năm. Tuy nhiên, trong quá trình thực
hiện, huyện cũng nhận thấy còn một số hạn chế: các ngành kinh tế phát triển
với quy mô còn nhỏ, thiếu bền vững; còn thiếu các cơ chế, chính sách thu hút
đầu tư phát triển vào Côn Đảo; du lịch phát triển chậm…
Tiểu kết chương 2
Từ năm 2000 đến năm 2010, quán triệt quan điểm, chủ trương phát triển
kinh tế biển của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết số 09-NQ/TW về “Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020” của Ban Chấp hành Trung ương, Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương.
Từ đó, đề ra những chủ trương, nhiệm vụ và giải pháp về phát triển kinh tế biển
của tỉnh cơ bản toàn diện, sát với tình hình thực tiễn.
12
Tuy còn một số hạn chế, song trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế
biển, Đảng bộ tỉnh đã chủ trương phát triển đầy đủ và ngày càng hiện đại các
ngành kinh tế biển theo thứ tự ưu tiên ở mỗi giai đoạn khác nhau, thể hiện tầm
nhìn, tính chủ động trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện. Trên cơ sở chủ
trương đúng đắn, mục tiêu cụ thể đã được Đảng bộ tỉnh đề ra, các ngành kinh tế
biển ngày càng được hoàn thiện và phát triển đúng định hướng, là nền tảng
vững chắc để tiếp tục phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
Chương 3
QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU LÃNH ĐẠO
ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN (2010-2015)
3.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO
KINH TẾ BIỂN CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU (2010-2015)
3.1.1. Sự tác động của tình hình thế giới, trong nước và của tỉnh
Bước sang thập niên thứ hai của thế kỷ XXI, bối cảnh thế giới tiếp tục
thay đổi nhanh chóng, phức tạp và khó lường. Mặc dù xu thế hợp tác và phát
triển tiếp tục là xu thế lớn, nhưng xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh giành tài
nguyên, lãnh thổ, nạn khủng bố, các vấn đề đói nghèo, dịch bệnh, biến đổi khí
hậu… vẫn xảy ra cục bộ, buộc các quốc gia phải có chính sách đối phó và phối
hợp hành động. Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và
hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách
thức đan xen rất phức tạp. Từ cuối thế kỷ XX, các quốc gia hàng đầu về biển
trên thế giới và trong khu vực đã chú trọng xây dựng chiến lược biển, quan tâm
đặc biệt đối với biển. Từ đây cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề gây xung đột, tranh
chấp trên biển, tác động không nhỏ đến sự phát triển của thế giới nói chung và
khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Sau 25 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986-2010), dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đã đạt được những thành tựu to lớn, tạo
ra thế và lực mới cho sự phát triển. Việc mở rộng hợp tác quốc tế, chủ động và
tích cực hội nhập quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình… tạo thuận lợi cho đất
nước đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội với nhịp điệu nhanh hơn và bền
vững hơn. Thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, ngày 09-02-2007 của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020, cả nước, đặc biệt, 28 tỉnh, thành phố biển đã xây dựng Chương trình hành
động thực hiện Chiến lược biển. Các ngành nghề liên quan đến biển được chú
13
trọng đầu tư phát triển, vì thế kinh tế biển Việt Nam đã và đang phát triển theo
hướng hiện đại, toàn diện, từng bước tương xứng với vị thế và tiềm năng biển
của Việt Nam.
Là một tỉnh có biển, có nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển kinh tế biển,
sau 20 năm thành lập (1991-2010), Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh đã hoàn
thành phần lớn các chỉ tiêu các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh đề ra, góp phần làm
chuyển biến tích cực nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Các ngành kinh tế
biển phát triển đã và đang mở đường tạo sự chuyển biến các ngành, lĩnh vực
kinh tế khác đặc biệt là kinh tế nông thôn ven biển và hải đảo. Đó là những
thuận lợi, lợi thế rất quan trọng mà Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu cần khai
thác phát huy trong thời gian tiếp theo.
3.1.2. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh
tế biển
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09-02-2007 về “Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020”, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng (2011) xác định: “Đối với vùng biển, ven biển và hải đảo, phát triển mạnh
kinh tế biển tương xứng với vị thế và tiềm năng biển của nước ta, gắn phát triển
kinh tế biển với bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền vùng biển”.
Sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 09-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương (khóa X) năm 2007 “về Chiến lược biển Việt Nam đến năm
2020”, Bộ Chính trị (khóa XI) đã có Kết luận số 60-KL/TW, ngày 16-4-2013.
Trên cơ sở đánh giá những thành tựu, hạn chế của 5 năm đầu thực hiện Chiến
lược biển; đồng thời quán triệt phương hướng hành động thực hiện Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020. Trong đó, chú trọng hơn đến vấn đề phát triển
kinh tế biển, đặc biệt là tập trung ưu tiên phát triển cảng biển, dịch vụ cảng và
vận tải biển. Đây là bước phát triển tư duy của Đảng về phát triển kinh tế hàng
hải - thế mạnh cần được khai thác của một số địa phương có biển, trong đó có
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu trong tương lai.
3.2. CHỦ TRƯƠNG ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU (2010-2015)
Giai đoạn 2010-2015, căn cứ nhiêm vụ và mục tiêu Nghị quyết Đại hội
lần thứ V của Đảng bộ tỉnh, ưu tiên phát triển cảng biển, coi đây là bước đột
phá trong thực hiện Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 tại địa phương.
3.2.1. Đối với ngành hàng hải (chủ yếu là cảng biển)
Trên cơ sở xác định phát triển cảng biển là nhiệm vụ trung tâm của giai
đoạn 2010-2015 và xa hơn, Nghị quyết Đảng bộ tỉnh khẳng định cần phải: Xây
14
dựng hệ thống cảng nước sâu Cái Mép - Thị Vải trở thành hệ thống cảng trung
chuyển của khu vực và quốc tế; chú trọng đầu tư, phát triển các loại hình dịch
vụ mới hiện đại, chất lượng cao; đồng thời, rà soát, điều chỉnh các quy hoạch
hiện có, lập mới một số quy hoạch để phát triển thành tỉnh công nghiệp và cảng
biển theo hướng hiện đại; tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
3.2.2. Đối với ngành du lịch
Mục tiêu tăng trưởng của ngành du lịch được nghị quyết Đảng bộ đề ra
trong giai đoạn 2010-2015 là 15,9%/năm. Để đạt được mục tiêu này, ngành du
lịch cần xây dựng các loại hình, các sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh so với
các địa phương ven biển khác. Để phát huy lợi thế, tỉnh cần tập trung phát triển
loại hình du lịch nghỉ dưỡng, chữa bệnh; du lịch sinh thái; du lịch MICE…
Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư các sản phẩm du lịch mới như: Lặn
biển, tàu ngầm, đua thuyền, nhảy dù..., đáp ứng nhu cầu du lịch mạo hiểm của
du khách, đặc biệt là khách quốc tế; phát triển các khu vực mua sắm, tạo sự
phong phú về sản phẩm hàng hóa, phục vụ du khách. Nâng cao chất lượng khai
thác các công trình du lịch đã hoàn thành và đưa vào sử dụng.
3.2.3. Đối với ngành thủy, hải sản
Trong chiến lược phát triển ngành thủy, hải sản đến năm 2015, Nghị
quyết Đại hội xác định: “kinh tế thủy sản là một trong những ngành đi đầu
trong việc phát triển kinh tế biển của địa phương có khả năng cạnh tranh, phát
triển ổn định, bền vững”. Căn cứ kết quả đạt được của nhiệm kỳ Đại hội Đảng
bộ tỉnh (2005-2010), Đảng bộ tỉnh chủ trương giai đoạn 2010-2015 tiếp tục
phát triển hải sản theo hướng: Đẩy mạnh việc nuôi trồng và khai thác biển khơi,
tăng cường chế biến xuất khẩu, đồng thời, chú trọng đến tiêu dùng nội địa; duy
trì khai thác hải sản ở quy mô hợp lý; khuyến khích ngư dân đầu tư vào tàu lớn,
trang thiết bị hiện đại cho khai thác xa bờ... Ngày 02-8-2010, Ban Thường vụ
Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TU về phát triển thủy sản tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đến năm 2015.
3.2.4. Đối với kinh tế hải đảo
Tiếp tục thực hiện Đề án phát triển Côn Đảo đến năm 2020, Văn kiện
Đảng bộ tỉnh lần thứ V (2010-2020) chủ trương; “tập trung nguồn lực cho Côn
Đảo theo hướng xây dựng thành khu kinh tế du lịch - dịch vụ chất lượng cao”.
Vì thế, cần tập trung mọi nỗ lực để Côn Đảo bứt phá mạnh mẽ, phát triển
nhanh, mạnh hơn cho yêu cầu phát triển du lịch, phát triển kinh tế của Côn Đảo;
khẩn trương hoàn thiện các quy hoạch của Côn Đảo phù hợp với yêu cầu phát
15
triển trong tình hình mới, theo hướng thành lập Khu kinh tế du lịch - dịch vụ
chất lượng cao. Bên cạnh đó, vấn đề bảo vệ môi trường; phát triển nguồn nhân
lực cho các ngành kinh tế biển; công tác tuyên truyền biển, đảo được đặc biệt
chú trọng, nhất là sau sự kiện Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trên vùng biển
của nước ta.
3.3. ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU CHỈ ĐẠO ĐẨY MẠNH
PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN (2010-2015)
3.3.1. Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển ngành hàng hải (chủ yếu là
cảng biển)
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ: “Kinh tế cảng biển phải là kinh
tế chủ đạo của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xây dựng thành thành phố cảng biển
trung tâm của cả nước, trong đó xác định trọng điểm đầu tư tập trung đầu tư
phát triển là hệ thống cảng chuyên dùng nước sâu Thị Vải - Cái Mép”. Thực
hiện chỉ đạo trên, ngày 26-8-2011, UBND tỉnh trình Viện Chiến lược phát triển
Danh mục chương trình dự án ưu tiên đầu tư các kết cấu hạ tầng của tỉnh.
Ngày 07-5-2014, Sở Giao thông vận tải có Báo cáo số 772/SGTVT-KHTC về
Kết quả thực hiện các giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác hệ thống cảng Cái
Mép - Thị Vải.
Từ năm 2010 đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh xác định, dịch vụ cảng biển và
logictics là nhóm dịch vụ có tiềm năng phát triển to lớn. Vì thế, tỉnh đã triển
khai nhiều giải pháp tạo điều kiện thúc đẩy phát triển như: Phê duyệt Đề án
phát triển dịch vụ logictics giai đoạn 2011-2020, Đề án phát triển hoạt động
cụm cảng trung chuyển quốc tế Cái Mép - Thị Vải giai đoạn 2013-2020, xây
dựng Quy hoạch tổng thể phát triển ngành logictics giai đoạn 2014-2020, định
hướng đến năm 2030…
Hệ thống cảng biển phát triển đã thúc đẩy sự phát triển du lịch tàu biển và
các dịch vụ khác, góp phần giải quyết, thúc đẩy phát triển toàn diện các lĩnh
vực, đặc biệt là vấn đề giao thương cho các doanh nghiệp trong các khu công
nghiệp tập trung của tỉnh. Từ đó, tạo cho Bà Rịa - Vũng Tàu một diện mạo mới,
một hướng đi vững chắc cho thế mạnh kinh tế cảng của địa phương.
3.3.2. Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển ngành du lịch
Triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V, UBND tỉnh đề ra
Kế hoạch hành động số 28/KH-UBND, ngày 24-4-2015 thực hiện Nghị quyết
số 92/NQ-CP, ngày 18-4-2014 của Chính phủ “Về một số giải pháp đẩy mạnh
phát triển du lịch Việt Nam trong thời kỳ mới”với quan điểm: Tập trung mọi
16
nguồn lực để phát triển ngành du lịch theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, phát
triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn; du lịch chiếm tỷ trọng ngày
càng cao trong cơ cấu GDP của tỉnh, tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế -
xã hội.
Qua 5 năm (2010-2015) ngành Du lịch của tỉnh đã đạt được kết qủa sau:
tiếp tục duy trì được sự tăng trưởng, chất lượng phục vụ được tăng lên. Các
dịch vụ du lịch được chú trọng khai thác theo hướng kết hợp phục vụ phát triển
du lịch với các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, di tích, thể dục, thể thao. Trong 5
năm đã phát triển nhiều tua, tuyến du lịch mới, đặc biệt là tuyến cho du khách
tàu biển.
3.3.3. Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển ngành thủy, hải sản
Để chỉ đạo phát triển ngành thủy, hải sản trong giai đoạn 2010-2015,
Đảng bộ tỉnh thống nhất từ chủ trương đến chỉ đạo là: “Toàn ngành phải dựa
trên những tiềm năng lợi thế sẵn có để đặt mục tiêu phát triển kinh tế thủy sản
là một trong những ngành đi đầu trong phát triển kinh tế biển của địa phương,
góp phần đảm bảo an ninh thực phẩm, tăng kim ngạch xuất khẩu, giải quyết
việc làm, xóa đói giảm nghèo”. Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, ngày 05-12-
2012, UBND tỉnh ra Quyết định số 2640 QĐ/UBND, về việc phê duyệt Quy
hoạch tổng thể phát triển thủy sản tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2020, với
quan điểm phát triển: Tiếp tục phát huy tiềm năng và các nguồn lực của tỉnh để
phát triển ngành thủy sản theo hướng ổn định, hiệu quả, bền vững. Thực hiện
chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh, các khâu của ngành thủy, hải sản được triển khai
đồng bộ, năng suất tăng hằng năm, chất lượng sản phẩm được bảo quản tốt hơn,
giá trị hàng hóa tăng lên đáng kể.
3.3.4. Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế hải đảo
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V, quán triệt Nghị
quyết Trung ương 8 (khóa IX) của Đảng “Về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong
tình hình mới”. Tỉnh ủy Bà Rịa - Vũng Tàu và Huyện ủy Côn Đảo đã có nhiều
chủ trương, biện pháp lãnh đạo xây dựng thế trận quốc phòng và khu vực
phòng thủ vững chắc; đồng thời, kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường quốc phòng, an ninh. Vì vậy, kinh tế có bước phát triển khá, an
ninh chính trị được giữ vững, ổn định.
Mặc dù còn khó khăn, hạn chế, nhưng những kết quả phát triển Côn Đảo
trong 5 năm (2010-2015) về mọi mặt, đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Những kết quả trên đang tiếp tục tạo ra những
17
tiền đề mới để Côn Đảo vững bước phát triển, xứng đáng với vị trí tiền tiêu, góp
phần củng cố vững chắc vùng biển phía Đông Nam của Tổ quốc.
Thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh về nhiệm vụ phát triển kinh tế biển
trong giai đoạn mới, đặc biệt là hoàn thiện cơ quan quản lý nhà nước về biển,
đảo. Ngày 19-10-2011, UBND tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu ra Quyết định số
2339/QĐ-UBND, về việc thành lập Chi cục biển và Hải đảo tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu. Theo Quyết định, Chi cục Biển và Hải đảo có vị trí, chức năng: Là cơ
quan hành chính trực thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, giúp giám đốc Sở
tham mưu UBND tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước tổng hợp và thống
nhất quản lý các vấn đề về biển, đảo trên địa bàn tỉnh.
Giai đoạn 2010-2015, với mục tiêu phát triển công nghiệp, cảng biển.
Đảng bộ tỉnh chú trọng chỉ đạo công tác quy hoạch, phát triển nguồn nhân lực,
đặc biệt là nguồn nhân lực cho các ngành kinh tế biển và công tác tuyên truyền
biển, đảo trong tình hình mới. Đảng bộ tỉnh coi đây là hai trong số các khâu
quyết định mục tiêu phát triển Bà Rịa - Vũng Tàu thành tỉnh mạnh về kinh tế
biển đến năm 2015.
Tiểu kết chương 3
Từ năm 2010 đến năm 2015, do tác động của tình hình thế giới, khu vực
và trong nước, sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về phát triển
kinh tế biển tuy có nhiều thuận lợi, song cũng gặp không ít khó khăn đan xen.
Mặc dù phải đối mặt với nhiều thách thức, nhưng Đảng bộ tỉnh đã tập trung
lãnh đạo toàn diện, trong đó có lãnh đạo phát triển kinh tế biển. Vì thế, kinh tế
cảng biển và du lịch, hải sản, kinh tế hải đảo… tiếp tục có sự tăng trưởng
cao.Bên cạnh những thành tựu, thuận lợi, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển
kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh trong thời gian này cũng còn một số hạn chế: Một
số chỉ tiêu kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng chưa đạt mục tiêu đề ra; quá trình
hình thành và phát triển các ngành công nghiệp hỗ trợ và dịch vụ logictics còn
chậm; tiềm năng, công suất cảng biển còn lãng phí, chưa sử dụng hiệu qủa; du
lịch phát huy hiệu quả chưa cao… Mặc dù còn một số hạn chế nêu trên, nhưng
từ năm 2010 đến năm 2015, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã rất thành công
trong lãnh đạo phát triển kinh tế biển, đặc biệt là định hướng phát triển cảng
biển nhằm đưa Bà Rịa - Vũng Tàu trở thành trung tâm trung chuyển quốc tế,
góp phần khẳng định thế mạnh kinh tế biển của tỉnh đối với khu vực, cả nước
và quốc tế.
18
Chương 4
NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1. NHẬN XÉT QUÁ TRÌNH ĐẢNG BỘ TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ BIỂN TỪ NĂM 2000 ĐẾN NĂM 2015
4.1.1. Ưu điểm và nguyên nhân
4.1.1.1. Ưu điểm
- Trong hoạch định chủ trương
Trên cơ sở đánh giá đúng tiềm năng, lợi thế của địa phương, Đảng bộ
tỉnh hoạch định chủ trương phát triển toàn diện các ngành kinh tế biển
Tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu là một trong số ít địa phương của cả nước có
được những lợi thế về vị trí địa lý, nguồn tài nguyên khoáng sản biển dồi dào,
tiềm năng kinh tế biển lớn. Nhận thức được lợi thế trên, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu đã sớm đề ra chủ trương phát triển các ngành kinh tế biển, xác định
nhiệm vụ phát triển kinh tế biển là trọng tâm và không ngừng hoàn thiện nhận
thức. Trong 15 năm (2000-2015), Đảng bộ tỉnh đã tập trung lãnh đạo phát triển
các ngành kinh tế biển là thế mạnh của tỉnh như: Hàng hải (chủ yếu là cảng
biển), du lịch và khai thác, chế biến hải sản.
Sự sáng tạo trong chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu về
phát triển kinh tế biển được thể hiện rõ tại Đại hội đại biểu lần thứ IV (2005),
đó là: Xác định rõ định hướng, quy hoạch, phát triển mạnh về kinh tế biển,
thông qua chủ trương phát triển đồng bộ hệ thống cảng biển và hệ thống cảng
Cái Mép - Thị Vải. Đây chính là cơ sở quan trọng để kinh tế của tỉnh và các
huyện thị, thành phố phát triển đúng hướng; đồng thời, cũng là cơ sở bảo đảm
yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của tỉnh.
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm
túc chủ trương của Trung ương về phát triển kinh tế biển
Từ năm 2000 đến năm 2015, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn
bản chỉ đạo phát triển kinh tế biển nói chung và các ngành kinh tế biển nói
riêng, được thể hiện trong nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ, Nghị
quyết Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Đây là những cơ sở quan trọng
định hướng cho toàn bộ hoạt động của kinh tế biển Việt Nam nói chung và các
địa phương ven biển nói riêng, trong đó có tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu.
Quán triệt quan điểm, chủ trương của Đảng về chiến lược biển, phát
triển kinh tế biển, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã vận dụng một cách sáng
tạo vào thực tiễn địa phương. Đảng bộ tỉnh chủ trương phát huy nội lực, thu
19
hút ngoại lực, kết hợp phát triển kinh tế Trung ương với kinh tế địa phương,
phát triển ngành nghề gắn với các lợi thế của tỉnh, nhất là lợi thế về tài nguyên
biển, đảo.
- Trong chỉ đạo thực hiện:
Trong quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế biển từ năm 2000 đến năm
2015, Đảng bộ tỉnh luôn chú trọng công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn; từ đó, kịp
thời bổ sung, điều chỉnh chủ trương, chỉ đạo phát triển kinh tế biển đối với các
ngành, các cấp trong mỗi giai đoạn nhất định để nâng cao hiệu quả các ngành
kinh tế biển.
Bên cạnh đó, công tác nghiên cứu khoa học, khảo sát, điều tra cơ bản về
tiềm năng, nguồn lợi biển của tỉnh cũng được đầu tư, xúc tiến. Từ đó, cung cấp
cơ sở dữ liệu, khoa học cho việc hoạch định chủ trương quản lý các nguồn tài
nguyên cũng như khai thác một cách hợp lý, khoa học hơn.
Trong chỉ đạo thực hiện, Đảng bộ tỉnh đã có sự điều chỉnh, sáng tạo nhất
định, dẫn đến hiệu quả cao cho ngành kinh tế biển. Có thể nói, trong lãnh đạo
phát triển kinh tế biển, một mặt Đảng bộ tỉnh quán triệt nghiêm túc, kịp thời chủ
trương của Trung ương, mặt khác bám sát thực tiễn địa phương, từ đó chỉ đạo
sâu sát, kịp thời. Do đó, kinh tế biển của tỉnh không ngừng phát triển, đạt nhiều
kết quả trong thực tiễn.
- Kết quả trong thực tiễn
Luận án trình bày khái quát kết quả phát triển các ngành kinh tế biển,
đồng thời, so sánh kết quả đạt được giữa 2 giai đoạn 2000 - 2010 và 2010 -
2015. Đồng thời so sánh một số ngành kinh tế biển của tỉnh với các ngành kinh
tế biển của các địa phương khác trong cả nước.
4.1.1.2. Nguyên nhân của ưu điểm
Thứ nhất, Đảng bộ tỉnh luôn bám sát chủ trương và chỉ đạo của Trung
ương Đảng về phát triển kinh tế biển, chủ động và vận dụng sáng tạo vào
điều kiện thực tiễn địa phương trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế biển
của tỉnh.
Thứ hai, Đảng bộ tỉnh luôn chú trọng, làm tốt công tác thông tin, tuyên
truyền về biển, đảo, nhằm phát huy và nâng cao ý thức, vai trò của cán bộ, đảng
viên, quần chúng nhân dân, ngư dân trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo và phát
triển kinh tế biển.
20
Thứ ba, Đảng bộ tỉnh quan tâm chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu
khoa học, thăm dò, điều tra cơ bản về biển, làm cơ sở khoa học để hoạch định
chủ trương phát triển kinh tế biển.
Thứ tư, Đảng bộ tỉnh thường xuyên rà soát, sơ kết, tổng kết thực tiễn phát
triển kinh tế biển của tỉnh, từ đó, kịp thời đánh giá, bổ sung cả lý luận và thực
tiễn trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các ngành kinh tế biển, đúc rút kinh
nghiệm, đề xuất định hướng, giải pháp khả thi.
4.1.2. Hạn chế và nguyên nhân
4.1.2.1. Hạn chế
- Trong hoạch định chủ trương
Còn một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa
nhận thức đúng về vị trí, vai trò của biển, đảo
Nhận thức về vị trí, vai trò biển, đảo trong cuộc sống, trong công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên
và nhân dân còn chưa sâu sắc và chưa đúng tầm. Tuy là tỉnh giáp biển, nhưng
Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn chỉ chủ yếu dựa vào tài nguyên có sẵn của biển để sinh
tồn, chưa biết phát huy tối đa giá trị của biển để làm giàu, nâng cao vị thế của
tỉnh; chưa đầu tư xứng đáng cho nghiên cứu về biển, đảo...; chưa thường xuyên
đề ra nghị quyết chuyên đề cho các ngành kinh tế biển. Việc triển khai các Nghị
quyết của Trung ương và sự vận dụng vào điều kiện địa phương đôi lúc chưa
kịp thời, thiếu các chương trình hành động của các cấp, các ngành. Trình độ dân
trí, đời sống về mọi mặt của ngư dân và dân cư sinh sống ven biển còn thấp.
Công tác quy hoạch, đầu tư và công tác quản lý còn có biểu hiện rời rạc,
lỏng lẻo, thiếu đồng bộ
Thực hiện chủ trương phát triển kinh tế biển, trong 15 năm qua, Đảng bộ
tỉnh đã quan tâm chỉ đạo công tác quy hoạch, đầu tư, quản lý các lĩnh vực liên
quan đến. Tuy nhiên, đến năm 2015, công tác quy hoạch vẫn chưa hoàn thiện,
còn thiếu tính đồng bộ: Việc quy hoạch các khu công nghiệp, cảng biển, dịch
vụ logictics, khu chế biến thủy, hải sản và khu du lịch… còn chung chung,
chưa công khai, minh bạch… dẫn đến khó khăn cho nhân dân và các nhà đầu
tư. Nhiều công trình sử dụng ngân sách nhà nước để xây dựng nhưng còn
chậm tiến độ hoặc bị bỏ hoang… gây thất thoát và lãng phí lớn. Là trung tâm
cảng biển lớn của cả nước, đồng thời là trung tâm trung chuyển hàng hải quốc
tế, nhưng việc quy hoạch hệ thống cảng vẫn còn thiếu tính hệ thống, thiếu
21
đồng bộ; việc thu phí, thuế còn tùy tiện dẫn đến bức xúc cho người dân và
doanh nghiệp.
- Trong chỉ đạo thực hiện
Chưa phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế của địa phương vào phát triển
kinh tế biển
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế biển, một số lĩnh vực đầu tư chưa đúng
mức, dẫn đến mục tiêu đề ra chưa hoàn thành
4.1.2.2. Nguyên nhân của hạn chế
Luận án phân tích một số nguyên nhân khách quan và nguyên nhân
chủ quan
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM
Thực tiễn quá trình Đảng bộ tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu lãnh đạo phát triển
kinh tế biển để lại một số kinh nghiệm quý:
Một là: Nhận thức đúng vị trí, vai trò kinh tế biển trong phát triển kinh tế
- xã hội của tỉnh
Để hướng tới xây dựng một tỉnh mạnh về biển, giàu lên lên từ biển, đòi
hỏi các cấp lãnh đạo phải có tư duy đầy đủ về biển, nhận thức, đánh giá đúng vị
trí, vai trò của kinh tế biển đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, của đất
nước. Từ năm 2000 đến năm 2007, mặc dù tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã có nhận
thức đúng đắn về vị trí, vai trò kinh tế biển, đã đề ra một số chủ trương và chỉ
đạo phát triển kinh tế biển, nhưng còn mang tính phân tán, nhỏ lẻ… nên chưa
đồng bộ, hiệu quả kinh tế biển còn chưa ngang tầm. Từ năm 2007 đến năm
2015, thông qua việc quán triệt thực hiện Nghị quyết 09/NQ-TW về “Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020” và đề ra Chương trình hành động số
12/CTr-TU năm 2007, các nghị quyết chuyên đề về kinh tế biển và các vấn đề
liên quan; tăng cường công tác nghiên cứu về biển, kinh tế biển…, nhận thức
của Đảng bộ tỉnh về các lĩnh vực kinh tế biển, phát triển kinh tế biển ngày càng
hoàn thiện.
Hai là: Lãnh đạo phát triển kinh tế biển toàn diện nhưng tập trung, ưu
tiên phát triển các ngành trọng tâm, có trọng điểm, lợi thế; kết hợp kinh tế địa
phương với kinh tế Trung ương
Để phát triển các ngành kinh tế biển đúng hướng, hiệu quả, đòi hỏi Đảng
bộ tỉnh phải xác định đúng đắn các lĩnh vực trọng tâm, mũi nhọn cho mỗi giai
đoạn phát triển. Những lĩnh vực kinh tế đó vừa đáp ứng yêu cầu phát triển, đáp
ứng đòi hỏi của thực tiễn, vừa là thế mạnh, lợi thế của tỉnh.
22
Trong quá trình thực hiện đầu tư phát triển từng dự án và tổng thể, luôn
quan tâm gắn với đảm bảo củng cố quốc phòng, an ninh biển, đảo.
Một điểm cần chú ý đối với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, là phải kết hợp chặt
chẽ kinh tế địa phương với các ngành kinh tế của Trung ương đóng trên địa
bàn tỉnh. Đây là những đầu tư cần thiết, sự chuẩn bị cần thiết để tỉnh có thể kế
thừa, phát huy nhằm phát triển các lĩnh vực kinh tế biển khác như: Cảng biển,
du lịch…
Ba là: Phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ môi trường sinh thái,
tài nguyên; kết hợp chặt chẽ với việc củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh
Vấn đề có tầm chiến lược là phát triển kinh tế biển phải gắn với bảo vệ
môi trường sinh thái, tài nguyên biển. Mục tiêu phát triển kinh tế biển bền vững
của cả nước nói chung và của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu nói riêng đã nói lên chủ
trương nhất quán của Đảng và của Đảng bộ tỉnh là phải gắn nhiệm vụ phát triển
kinh tế biển với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo vệ tài nguyên biển.
Bên cạnh đó, phát triển kinh tế biển phải kết hợp chặt chẽ với củng cố,
tăng cường quốc phòng, an ninh. Kết hợp phát triển kinh tế biển gắn với bảo
đảm giữ vững quốc phòng, an ninh, chủ quyền biển đảo không chỉ là bài học
kinh nghiệm mà còn là quan điểm, giải pháp của Đảng trong lãnh đạo phát triển
kinh tế biển.
Bốn là: Tăng cường liên kết vùng và mở rộng hợp tác quốc tế phục vụ
phát triển kinh tế biển
Nhìn nhận thực trạng vấn đề liên kết vùng của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu,
Nghị quyết Đại hội lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 thẳng thắn nhận xét: Liên
kết vùng có giá trị khi thúc đẩy được phát triển lợi thế so sánh của mỗi tỉnh.
Nhưng hiện nay, lợi thế so sánh của Bà Rịa - Vũng Tàu chưa được phát triển
mạnh nên liên kết vùng hiện chưa hiệu quả. Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn còn chậm
trễ và hết sức ì ạch trong liên kết vùng. Trên cơ sở đó, Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ tỉnh lần thứ VI, nhiệm kỳ 2015-2020 xác định: “Hợp tác chặt chẽ với các
tỉnh, thành phố trong vùng kinh tế trọng điểm…, phát huy tiềm năng, lợi thế so
sánh của từng địa phương; phát triển các ngành kinh tế, đặc biệt là phát triển
cảng, dịch vụ hậu cần cảng, du lịch vì mục tiêu phát triển bền vững của vùng và
lợi ích quốc gia”.
Bên cạnh đó, đối với tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, mở rộng hợp tác quốc tế
phục vụ phát triển kinh tế biển là vấn đề mang tầm chiến lược, được tỉnh hết
sức chú trọng.
23
Tiểu kết chương 4
Từ chủ trương khai thác những tiềm năng có sẵn để phát triển các ngành
du lịch biển, khai thác hải sản giai đoạn trước năm 2000, Đảng bộ tỉnh đã
chuyển sang chủ trương tận dụng lợi thế của tỉnh để đầu tư, phát triển các lĩnh
vực như xây dựng khu công nghiệp ven biển, xây dựng cảng biển và phát triển
dịch vụ cảng biển để phát triển kinh tế hàng hải. Đây là những nhận thức đúng
đắn, phù hợp thực tiễn của tỉnh, hướng đến mục tiêu, đến năm 2015, Bà Rịa -
Vũng Tàu trở thành một trong những trung tâm cảng biển lớn nhất cả nước, đẩy
mạnh phát triển kinh tế hàng hải. Bà Rịa - Vũng Tàu cùng cả nước thực hiện
thành công chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 và mục tiêu sau năm 2020,
kinh tế hàng hải trở thành ngành kinh tế phát triển hàng đầu của kinh tế biển
Việt Nam.
Tuy nhiên, quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015 vẫn còn một số hạn chế như: Còn
một số cấp ủy và nhân dân chưa nhận thức đúng vị trí, vai trò của biển, đảo
trong phát triển kinh tế - xã hội của địa phương… Thực tiễn lãnh đạo phát triển
kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015,
để lại một số kinh nghiệm quý, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Đó là cơ
sở, nền tảng để Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu vận dụng vào quá trình lãnh
đạo phát triển kinh tế biển của tỉnh trong giai đoạn tiếp theo.
KẾT LUẬN
1. Phát triển kinh tế biển là chủ trương lớn của Đảng trong các thời kỳ
lịch sử, đặc biệt là thời kỳ đổi mới. Quán triệt và vận dụng đúng đắn, sáng tạo
quan điểm, đường lối của Đảng về chiến lược biển nói chung, phát triển kinh tế
biển nói riêng; căn cứ vào tiềm năng, thế mạnh của địa phương, Đảng bộ tỉnh
Bà Rịa - Vũng Tàu xác định: Phát triển kinh tế biển không chỉ là xu thế, mà còn
là nhiệm vụ trọng tâm, yêu cầu cấp bách để phát triển toàn diện địa phương,
Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và cả nước. Phát triển kinh tế biển trở thành
nội dung quan trọng trong chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng bộ tỉnh. Qua các kỳ Đại hội Đảng bộ tỉnh, chủ trương về phát triển kinh tế
biển không ngừng hoàn thiện, với việc đề ra định hướng, mục tiêu, nhiệm vụ,
giải pháp để phát triển kinh tế biển. Đảng bộ tỉnh chủ trương phát triển đồng bộ
24
các ngành kinh tế biển: Hàng hải (chủ yếu là cảng biển); du lịch biển và kinh tế
hải đảo; phát triển ngành thủy, hải sản…
2. Trong quá trình chỉ đạo phát triển các ngành kinh tế biển, trên cơ sở
bám sát xu hướng chung của các nước trên thế giới, khu vực và thực tiễn phát
triển các ngành kinh tế biển trên địa bàn của tỉnh cũng như yêu cầu của thị
trường, Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đã chỉ đạo sâu sát, kịp thời nhằm đảm
bảo cho các ngành kinh tế biển phát triển cân đối, hài hòa, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội của địa phương, của Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và
của cả nước. Kinh tế biển phát triển mạnh mẽ, kéo theo nhiều ngành công
nghiệp phụ trợ, dịch vụ phát triển; giải quyết việc làm cho lao động trong tỉnh
và ngoài tỉnh, góp phần tăng tỷ trọng ngành công nghiệp, thương mại - dịch vụ;
đồng thời, giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế của tỉnh. Vì
thế, kinh tế biển trở thành động lực thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế của tỉnh.
3. Quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Bà Rịa -
Vũng Tàu (2000-2015) đã đạt được những thành tựu quan trọng xuất phát từ
tinh thần đoàn kết trong nội bộ Ban Chấp hành Đảng bộ, sự chấp hành thực
hiện nghiêm túc của các sở, ban, ngành… và sự ủng hộ của nhân dân, của ngư
dân. Vì thế, đến năm 2015, các ngành kinh tế biển của tỉnh đã có sự phát triển
vượt trội, đặc biệt là lĩnh vực cảng biển. Những thành tựu đó, góp phần quan
trọng thúc đẩy kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. Bên cạnh những kết quả đạt
được, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế biển của Đảng bộ tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu từ năm 2000 đến năm 2015 còn một số hạn chế: Một số cấp ủy,
chính quyền và cán bộ, đảng viên, nhân dân còn chưa nhận thức đúng về vị trí,
vai trò của kinh tế biển… Vì thế, tỉnh vẫn chưa phát huy triệt để tiềm năng, lợi
thế để phát triển kinh tế biển.
4. Thực tiễn 15 năm lãnh đạo phát triển kinh tế biển (2000-2015) của
Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để lại kinh nghiệm quý báu. Những kinh
nghiệm đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc, góp phần quan trọng vào
việc tổng kết quá trình Đảng bộ tỉnh lãnh đạo phát triển kinh tế nói chung,
kinh tế biển nói riêng. Đồng thời, là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chủ trương, chính sách và nâng cao chất lượng,
hiệu quả lãnh đạo phát triển kinh tế biển trong thời kỳ mới theo hướng hiệu
quả, bền vững.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Hoa Phượng (2014), "Phát triển kinh tế biển, đảo gắn với
bảo đảm quốc phòng, an ninh ở các địa phương vùng ven biển Tây
Nam Bộ", Tạp chí Khoa học chính trị, (3), tr.59-64.
2. Nguyễn Thị Hoa Phượng (2016), "Tiềm năng và định hướng phát triển
kinh tế biển tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu đến năm 2020", Tạp chí Khoa
học chính trị, (1+2), tr.146-151.
3. Nguyễn Thị Hoa Phượng (2016), "Đảng bộ tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu
lãnh đạo phát triển kinh tế biển giai đoạn 2000-2010", Tạp chí
Lịch sử Đảng, (6), tr.86-89.
4. Nguyễn Thị Hoa Phượng (2017), "Phát triển du lịch biển, đảo của Nam
Bộ theo hướng bền vững - tiềm năng và định hướng", Tạp chí
Khoa học chính trị, (4), tr.32-36.
5. Nguyễn Thị Hoa Phượng (2017), "Công tác tuyên truyền biển, đảo của
tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (2011-2015)", Tạp chí Lịch sử Đảng, (6),
tr.103-106.