Upload
others
View
9
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ -----------------------------
VŨ THỊ NGUYỆT
NGHIÊN CƯU ƯNG DỤNG THỰC VẬT THỦY SINH
TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI CHĂN NUÔI LỢN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
HÀ NỘI – 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
……..….***…………
VŨ THỊ NGUYỆT
NGHIÊN CƯU ƯNG DỤNG THỰC VẬT THỦY SINH
TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI CHĂN NUÔI LỢN
LUẬN ÁN TIẾN SỸ KỸ THUẬT MÔI TRƯỜNG
Chuyên ngành: Kỹ thuật môi trường
Mã số: 62.52.03.20
Người hướng dẫn khoa học:
1. TS. Trần Văn Tựa
2. GS,TS. Đặng Đình Kim
HÀ NỘI – 2018
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS, NCVCC. Trần Văn Tựa và GS,TS.
Đặng Đình Kim vì đã có những chỉ dẫn quý báu về phương pháp luận, định hướng cho
tôi những hướng nghiên cứu khoa học quan trọng trong quá trình thực hiện luận án này
và tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp tôi hoàn thành bản luận án này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Bộ Khoa học & Công nghệ, Văn phòng các Chương
trình Khoa học Công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước, Chương trình KC.08/11-15, chủ
nhiệm đề tài KC08.05/11-15 đã hỗ trợ kinh phí thực hiện nghiên cứu này.
Tôi xin cảm ơn Lãnh đạo Viện Công nghệ môi trường và các bạn đồng nghiệp
phòng Thủy sinh học môi trường, Viện Công nghệ môi trường đã tạo điều kiện về mọi
mặt và đóng góp các ý kiến quý báu về chuyên môn trong suốt quá trình tôi thực hiện
và bảo vệ Luận án.
Tôi xin trân trọng cảm ơn Ban Lãnh đạo và bộ phận Đào tạo của Học viện khoa
học và Công nghệ đã giúp tôi hoàn thành các học phần của Luận án và mọi thủ tục cần
thiết.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc nhất đến gia đình, người thân đã
luôn chia sẻ, động viên tinh thần và là nguồn cổ vũ, giúp đỡ tôi vượt qua mọi khó khăn
trong suốt quá trình thực hiện Luận án.
NGHIÊN CỨU SINH
Vũ Thị Nguyệt
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU ......................................................................... 4
1.1. Tổng quan về nước thải chăn nuôi lợn ..................................................................... 4
1.1.1. Vài nét về tình hình chăn nuôi lợn trang trại ........................................................ 4
1.1.2. Ô nhiễm môi trường do chăn nuôi lợn gây ra tại Việt Nam .................................. 5
1.1.3. Hiện trạng công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi lợn ............................................ 9
1.2. Tổng quan về các phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi lợn ............................. 11
1.3. Công nghệ sinh thái trong xử lý nước thải chăn nuôi ............................................ 13
1.3.1. Khái niệm công nghệ sinh thái ............................................................................ 13
1.3.2. Các nhóm thực vật thủy sinh trong công nghệ sinh thái ..................................... 13
1.3.3. Vai trò của thực vật thuỷ sinh trong xử lý nước thải ........................................... 14
1.3.4. Các loại hình công nghệ sử dụng thực vật thủy sinh trong xử lý nước thải ....... 15
1.3.5. So sánh hệ thống công nghệ dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm ....................... 25
1.3.6. Sơ lược về một số loài thực vật thủy sinh nghiên cứu ......................................... 27
1.4. Ứng dụng thực vật thủy sinh trong xử lý nước thải và nước thải chăn nuôi lợn ........ 32
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới ...................................................................... 32
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước ........................................................................ 36
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................ 45
2.1. Đối tượng nghiên cứu ............................................................................................. 45
2.2. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 46
2.2.1. Đánh giá khả năng chống chịu và xử lý các tác nhân ô nhiễm ........................... 46
2.2.2. Đánh giá khả năng xử lý nước thải chăn nuôi lợn của các loại hình công nghệ ... 48
2.2.3. Đánh giá hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn của mô hình sinh thái ........... 53
2.2.4. Phương pháp phân tích ....................................................................................... 53
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu ................................................................................... 54
2.2.6. Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu ...................................................................... 55
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ................................................................ 56
3.1. Khả năng chống chịu và xử lý ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn sau giai đọan xử lý
vi sinh vật qui mô phòng thí nghiệm ............................................................................. 56
3.1.1. Khả năng chống chịu một số yếu tố môi trường của thực vật thủy sinh ............... 56
3.1.2. Hiệu quả xử lý ô nhiễm của các loài TVTS được lựa chọn ................................. 62
3.2. Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý vi sinh vật của một số loại công
nghệ sử dụng thực vật thủy sinh với lưu lượng nước thải khác nhau .......................... 81
3.2.1. Công nghệ sử dụng thực vật lá nổi Bèo tây ......................................................... 81
3.2.2. Công nghệ dòng chảy trên bề mặt ....................................................................... 85
3.2.3. Công nghệ dòng chảy ngầm ................................................................................ 91
3.2.4. Hệ thống phối hợp các thực vật thủy sinh ......................................................... 100
3.2.5. So sánh hiệu quả xử lý TN, TP và COD của các loại hình công nghệ .............. 108
3.3. Xây dựng, vận hành và đánh giá hiệu quả giảm thiểu COD, N và P trong mô hình
sinh thái ........................................................................................................................ 110
3.3.1. Xây dựng mô hình sinh thái ............................................................................... 110
3.3.2. Đánh giá hiệu quả xử lý của mô hình sinh thái ................................................. 113
3.3.2.1. Hiệu quả xử lý COD ........................................................................................ 113
3.3.2.2. Hiệu quả xử lý nitơ ......................................................................................... 116
3.3.2.3. Hiệu quả xử lý photpho .................................................................................. 120
3.3.2.4. Sự biến đổi các yếu tố thủy lý của mô hình sinh thái ..................................... 122
3.3.2.5. Bước đầu tính toán hiệu quả kinh tế .............................................................. 123
3.4. Đánh giá hiệu quả xử lý của mô hình sinh thái tích hợp trong mô hình tổng thể xử
lý nước thải chăn nuôi lợn tại Lương Sơn, Hòa Bình ................................................. 126
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 130
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 130
KIẾN NGHỊ ................................................................................................................. 131
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ .......................................................... 132
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................... 133
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu Ý nghĩa
BOD Biochemical oxygen demand (Nhu cầu oxy sinh hóa)
CNST Công nghệ sinh thái
COD Chemical Oxygen Demand (Nhu cầu ô xy hóa học)
ĐC Đối chứng
ĐNN Đất ngập nước
ĐNNNT Đất ngập nước nhân tạo
DO Dissolved Oxygen (ôxy hòa tan)
FAO Food and Agriculture Organization (Tổ chức nông lương thế
giới)
HN Hà Nội
HT Hệ thống
NT Ngổ Trâu
NN&PTNT Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
PTN Phòng thí nghiệm
QCVN Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
MHST Mô hình sinh thái
S Sậy
TB Thái Bình
TCN Tiêu chuẩn ngành
TKN Tổng nitơ Kjeldahl
TN Tổng nitơ
TNMT Tài nguyên Môi trường
TLTK Tài liệu tham khảo
TP Tổng phốt pho
TVTS Thực vật thủy sinh
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Phân bố số lợn và trang trại chăn nuôi theo vùng sinh thái ............................ 4
Bảng 1.2. Số lượng lợn cả nước (tính đến tháng 10/2016) ............................................. 5
Bảng 1.3. Số đầu lợn và lượng nước tiêu thu tại một số trang trại điển hình .................. 6
Bảng 1.4. Thành phần và mức độ ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn trang trại. .............. 7
Bảng 1.5. So sánh ưu nhược điểm hệ thống dòng chảy ngang và dòng chảy thẳng
đứng..22
Bảng 1.6. BOD bị loại bỏ trong một số hệ thống dòng ngầm ....................................... 23
Bảng 1.7. So sánh ưu điểm và nhược điểm của hệ thống dòng mặt và hệ thống dòng ngầm26
Bảng 1.8. Hiệu quả loại bỏ BOD5 và TSS tại một số kiểu hệ thống đất ngập nước nhân tạo27
Bảng 1.9. Tình hình nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải trên thế giới ... 32
Bảng 1.10. Tình hình nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải ở Việt Nam ... 41
Bảng 2.1. Thành phần cơ bản nước thải sau xử lý vi sinh vật tại Trung tâm nghiên cứu
lợn Thụy Phương (Viện Chăn nuôi) .............................................................................. 45
Bảng 2.2. Thành phần môi trường thủy canh cho cây .................................................. 46
Bảng 2.3. Các công thức thí nghiệm khả năng chống chịu ........................................... 47
Bảng 3.1. Khả năng chống chịu một số yếu tố môi trường của các thực vật thủy sinh 62
Bảng 3.2. Hiệu quả xử lý của hệ thống sử dụng Bèo tây .............................................. 81
Bảng 3.3. Hiệu quả xử lý của hệ thống Sậy theo công nghệ dòng mặt ......................... 85
Bảng 3.4. Hiệu quả xử lý của hệ Rau muống theo công nghệ dòng mặt ...................... 88
Bảng 3.5. Hiệu quả xử lý của hệ thống Sậy theo công nghệ dòng ngầm ...................... 92
Bảng 3.6. Hiệu quả xử lý của hệ thống cỏ Vetiver theo công nghệ dòng ngầm ........... 96
Bảng 3.7. Hiệu quả xử lý của hệ thống phối hợp Bèo tây và Sậy ............................... 100
Bảng 3.8. So sánh hiệu quả xử lý TN, TP và COD của các loại hình công nghệ ....... 109
Bảng 3.9. Các thông số thiết kế hệ thống .................................................................... 112
Bảng 3.10. Các thông số thủy lý của mô hình sinh thái .............................................. 122
Bảng 3.11. Chi phí xây dựng mô hình sinh thái với TVTS ......................................... 124
Bảng 3.12. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của mô hình xử lý nước thải ................. 128
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Sơ đồ các qui trình công nghệ xử lý nước thải đang áp dụng tại các trang trại
chăn nuôi lợn ................................................................................................................. 10
Hình 1.2. Các loại hình công nghệ sinh thái sử dụng TVTS trong xử lý nước thải ...... 16
Hình 1.3: Cơ chế loại bỏ nitrogen trong đất ngập nước ................................................ 18
Hình 1.4: Sơ đồ đất ngập nước dòng chảy ngầm theo chiều ngang .............................. 21
Hình 1.5: Sơ đồ đất ngập nước dòng chảy ngầm theo chiều đứng ................................ 21
Hình 1.6. Bèo tây (Eichhornia crassipes) ..................................................................... 27
Hình 1.7. Bèo cái (Pistia stratiotes) ............................................................................. 28
Hình 1.8. Rau muống (Ipomoea aquatica ) ................................................................... 28
Hình 1.9. Cây Ngổ trâu (Enydra fluctuans) .................................................................. 29
Hình 1.10. Cây Cải xoong (Rorippa nasturtium aquaticum) ........................................ 30
Hình 1.11. Cây sậy (Phragmites australis) ................................................................... 30
Hình 1.12. cỏ Vetiver (Vetiveria zizanioides) ............................................................... 31
Hình 1.13. Cây Thủy trúc (Cyperus alternifolius) ........................................................ 31
Hình 2.1. Sơ đồ thực nghiệm tại pilot với Bèo tây ........................................................ 48
Hình 2.2. Sơ đồ thực nghiệm hệ thống dòng mặt tại pilot ............................................ 49
Hình 2.3. Sơ đồ thực nghiệm hệ thống dòng ngầm tại pilôt ......................................... 50
Hình 2.4. Sơ đồ thực nghiệm hệ phối hợp Bèo tây và Sậy tại pilot ............................. 51
Hình 2.5. Sơ đồ hệ thống phối hợp Sậy, Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver tại pilot..... 52
Hình 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ COD khác nhau lên sinh trưởng của TVTS ........... 57
Hình 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ NH4+ khác nhau lên sinh trưởng của TVTS .......... 58
Hình 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ NO3- khác nhau lên sinh trưởng của TVTS .......... 60
Hình 3.4. Ảnh hưởng của pH khác nhau lên sinh trưởng của TVTS ............................ 61
Hình 3.5. Hiệu quả xử lý COD (%)-Thí nghiệm theo mẻ ............................................. 63
Hình 3.6. Hiệu quả xử lý TSS (%)-Thí nghiệm theo mẻ ............................................... 64
Hình 3.7. Hiệu quả xử lý NH4+ - thí nghiệm theo mẻ ................................................... 65
Hình 3.8. Hiệu quả xử lý TN- thí nghiệm theo mẻ........................................................ 67
Hình 3.9. Hiệu quả xử lý PO43- - Thí nghiệm theo mẻ .................................................. 68
Hình 3.10. Hiệu quả xử lý TP- thí nghiệm theo mẻ ...................................................... 70
Hình 3.11. Hiệu quả xử lý COD (%)- Thí nghiệm bán liên tục .................................... 71
Hình 3.12. Hiệu quả xử lý COD trung bình (%)- Thí nghiệm bán liên tục................... 72
Hình 3.13. Hiệu quả xử lý NH4+ (%)- Thí nghiệm bán liên tục .................................... 73
Hình 3.14. Hiệu quả xử lý NH4+ trung bình (%)- Thí nghiệm bán liên tục ................. 74
Hình 3.15. Hiệu quả xử lý TN (%)- Thí nghiệm bán liên tục ....................................... 75
Hình 3.16. Hiệu quả xử lý TN trung bình (%) - Thí nghiệm bán liên tục ..................... 75
Hình 3.17. Hiệu quả xử lý PO43- (%)- Thí nghiệm bán liên tục .................................... 76
Hình 3.18. Hiệu quả xử 3 lý PO4- trung bình (%)- Thí nghiệm bán liên tục ................. 77
Hình 3.19. Hiệu quả xử lý TP (%) - Thí nghiệm bán liên tục ....................................... 78
Hình 3.20. Hiệu quả xử lý TP trung bình (%) - Thí nghiệm bán liên tục ..................... 79
Hình 3.21. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của Bèo tây .............................................. 83
Hình 3.22. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của cây Sậy theo công nghệ dòng mặt .... 86
Hình 3.23. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của Rau muống theo công nghệ dòng mặt90
Hình 3.24. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống dòng ngầm trồng Sậy ......... 93
Hình 3.25. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống dòng ngầm trồng cỏ Vetiver98
Hình 3.26. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống phối hợp Bèo tây – Sậy .... 101
Hình 3.27. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống phối hợp Sậy – Bèo tây .... 103
Hình 3.28. Khả năng loại bỏ COD của hệ thống phối hợp ......................................... 104
Hình 3.29. Hiệu quả xử lý TN của hệ thống phối hợp ................................................ 105
Hình 3.30. Hiệu quả xử lý TP của HT phối hợp ......................................................... 107
Hình 3.31. Sơ đồ công nghệ sinh thái xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý bằng
công nghệ vi sinh vật ................................................................................................... 111
Hình 3.32. Sơ đồ hệ thống mô hình sinh thái tại hiện trường ..................................... 111
Hình 3.33. Hiệu quả loại bỏ COD của mô hình sinh thái tại Lương Sơn, Hòa Bình .. 114
Hình 3.34. Hiệu quả loại bỏ TN của mô hình sinh thái tại Lương Sơn, Hòa Bình ..... 118
Hình 3.35. Hiệu quả loại bỏ TP của mô hình sinh thái tại Lương Sơn, Hòa Bình ...... 120
Hình 3.36. Sơ đồ trang trại Hòa Bình Xanh và vị trí xây dựng mô hình xử lý chất thải .... 127
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời gian qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước, bộ mặt nông
thôn cũng có nhiều đổi mới. Kinh tế phát triển, đời sống của người nông dân đang
được nâng cao. Hoạt động chăn nuôi đã và đang tạo nguồn thu nhập chính cho nhiều
hộ nông dân. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng đàn vật nuôi thì tình trạng ô nhiễm môi
trường do chất thải chăn nuôi cũng đang gia tăng. Chất thải chăn nuôi bao gồm phân
và các chất độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc, gia cầm chết,... được phân thành 3
loại: Chất thải rắn (phân, thức ăn, xác gia súc, gia cầm chết); Chất thải lỏng (nước tiểu,
nước rửa chuồng, nước dùng để tắm gia súc); Chất thải khí (CO2, NH3...).
Cho đến nay, chưa có một báo cáo nào đánh giá chi tiết và đầy đủ về ô nhiễm
môi trường do ngành chăn nuôi gây ra. Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2014
trong tổng số 23.500 trang trại chăn nuôi, mới chỉ có khoảng 1.700 cơ sở có hệ thống
xử lý chất thải. Mặt khác, các trang trại chăn nuôi đa phần nằm xen kẽ trong các khu
dân cư, có quỹ đất nhỏ, hẹp, không đủ diện tích để xây dựng các hệ thống xử lý chất
thải đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn cho phép. Theo ước tính, có khoảng 40 - 50% lượng
chất thải chăn nuôi được xử lý, số còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch [1].
Để giải quyết vấn đề trên có rất nhiều công nghệ xử lý chất thải chăn nuôi như
xử lý bằng phương pháp vật lý để tách chất thải rắn – lỏng, xử lý bằng phương pháp
sinh học kỵ khí, xử lý bằng phương pháp sinh học hiếu khí,... các công nghệ này có thể
dùng riêng biệt hoặc kết hợp với nhau để cải thiện hiệu quả xử lý cũng như hiệu quả
kinh tế của quá trình xử lý. Hiện nay, công nghệ biogas đã được sử dụng khá rộng rãi.
Theo kết quả điều tra của Bộ NN&PTNT năm 2013 tại 54 tỉnh thành trên cả nước,
hiện có 3.950 trang trại trên tổng số 12.427 trang trại được điều tra có xây dựng hầm
biogas, chiếm 31,79%, trong đó có 196 trang trại xây dựng công trình có thể tích trên
300 m3, còn đa phần các hầm biogas được xây dựng với quy mô nhỏ [1]. Những hầm
biogas này đã bước đầu phát huy được tác dụng trong việc bảo vệ môi trường, tạo khí
đốt phục vụ đời sống. Tuy nhiên, công nghệ biogas cũng đã bộc lộ những nhược điểm,
nước thải sau khi xử lý không đạt tiêu chuẩn; Hầm biogas chủ yếu chỉ xử lý chất hữu
cơ, chưa xử lý được nitơ và photpho, là yếu tố gây hiện tượng phú dưỡng; Vi khuẩn
gây bệnh chưa được khống chế hiệu quả gây nguy cơ cao về bệnh truyền nhiễm, đặc
biệt là đối với chăn nuôi lợn. Vì vậy, nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý biogas cần phải
được xử lý tiếp trước khi thải ra môi trường.
Để xử lý bổ sung chất hữu cơ, nitơ và phôtpho trước khi thải vào nguồn tiếp
nhận, công nghệ sinh thái (CNST) sử dụng thực vật thuỷ sinh (TVTS) được cho là có
nhiều ưu điểm so với hệ thống xử lý nước thải thông thường. CNST, thân thiện với
môi trường, chi phí thấp, dễ vận hành, đồng thời cũng đạt hiệu quả xử lý cao và ổn
2
định. Nhiều nước trên thế giới đã nghiên cứu sử dụng phương pháp này như tại Mỹ,
Anh, Trung Quốc, Ấn Độ… Việt Nam được đánh giá là quốc gia rất thích hợp áp dụng
CNST vì điều kiện khí hậu của nước ta rất thích hợp cho sự phát triển quanh năm của
các loài TVTS sử dụng trong CNST. Vì vậy đề tài: “Nghiên cứu ứng dụng thực vật
thủy sinh trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn” được thực hiện nhằm góp phần tìm
kiếm phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi hiệu quả, phù hợp với điều kiện của Việt
Nam và giảm thiểu ô nhiễm môi trường xung quanh một cách hiệu quả. Đây là con
đường đi khả thi trong phát triển chăn nuôi bền vững gắn với bảo vệ môi trường và
nâng cao chất lượng sống của người dân.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng được CNST sử dụng TVTS để xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau
công đoạn xử lý vi sinh, nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Công nghệ có tính khả
thi khi ứng dụng vào thực tiễn.
3. Nội dung nghiên cứu
Để thực hiện được những mục tiêu đã đề ra, nội dung nghiên cứu của luận án
bao gồm:
Nội dung 1: Tổng quan về hiện trạng ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn, công nghệ xử
lý nước thải chăn nuôi lợn và CNST sử dụng TVTS trong xử lý nước thải nói chung,
bao gồm nước thải chăn nuôi lợn.
Nội dung 2: Đánh giá khả năng chống chịu (COD, NH4+, NO3
-, pH) và xử lý COD,
nitơ, photpho trong nước thải chăn nuôi lợn sau giai đoạn xử lý vi sinh vật qui mô
phòng thí nghiệm của một số TVTS tuyển chọn.
Nội dung 3: Đánh giá hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau giai đoạn xử lý vi
sinh vật của các loại hình công nghệ sử dụng TVTS với tải lượng nước thải khác nhau.
Nội dung 4: Xây dựng và đánh giá hiệu quả xử lý của mô hình sinh thái (MHST) sử
dụng TVTS để giảm thiểu nitơ (N), photpho (P) và chất hữu cơ từ nước thải chăn nuôi
lợn trang trại sau công đoạn xử lý vi sinh vật quy mô pilot.
4. Ý nghĩa khoa học của đề tài:
Việc ứng dụng TVTS trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn được nghiên cứu một
cách cơ bản, khoa học, tổng thể từ qui mô phòng thí nghiệm đến qui mô pilot và xây
dưng mô hình xử lý tại hiện trường trang trại. Nghiên cứu này vừa tạo cơ sở khoa học
tin cậy vừa chứng minh tính khả thi của công nghệ.
+ Lần đầu tiên tại Việt Nam, các loài thực vật thủy sinh lựa chọn để ứng dụng
trong công nghệ sinh thái xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau giai đoạn xử lý vi sinh vật
3
được đánh giá về khả năng chống chịu COD, amôni, nitrat và khả năng loại bỏ các
nhân tố này.
+ Công nghệ sinh thái ứng dụng TVTS do đề tài xây dựng là công đoạn cuối,
không thể thay thế, xử lý hiệu quả N và P,trong quy trình công nghệ xử lý nước thải
chăn nuôi lợn.
+ Công trình là cơ sở khoa học quan trọng góp phần triển khai hiệu quả việc
ứng dụng CNST xử lý nước thải chăn nuôi ở quy mô sản xuất.
5. Điểm mới của luận án
+ Lựa chọn được các loài TVTS thích hợp cho xử lý nước thải chăn nuôi lợn
sau công nghệ vi sinh vật trên cơ sở loại bỏ COD, N, P hiệu quả cao.
+ Lựa chọn được loại hình CNST sử dụng TVTS phù hợp ứng dụng trong xử lý
nước thải chăn nuôi lợn.
+ Tích hợp CNST đã lựa chọn vào hệ thống xử lý quy mô 30 m 3/ngày đêm, xử
lý bổ sung COD, N và P trong nước thải chăn nuôi lợn có hiệu quả với chí phí thấp,
vận hành đơn giản, có khả năng nhân rộng và thích ứng trong điều kiện chăn nuôi
trang trại tại Việt Nam.
6. Kết cấu của luận án
Luận án được bố cục thành 3 chương và các phần mở đầu; kết luận, kiến nghị
và tài liệu tham khảo.
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu;
Chương 2: Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu;
Chương 3: Kết quả nghiên cứu và thảo luận.
Luận án được trình bày trong 130 trang A4, 25 bảng biểu, 54 hình vẽ, danh mục
6 công trình khoa học của tác giả đã được công bố, 166 tài liệu tham khảo tiếng Việt
và tiếng Anh.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Tổng quan về nước thải chăn nuôi lợn
1.1.1. Vài nét về tình hình chăn nuôi lợn trang trại
Chăn nuôi trang trại là định hướng phát triển của ngành chăn nuôi. Nếu vào
năm 2011, số đầu lợn tại các trang trại ước tính chiếm 15 - 16% tổng đàn và sản lượng
thịt lợn xuất chuồng chiếm 28 - 30% tổng sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng trong cả
nước thì đến 2014, đàn lợn trong các trang trại chăn nuôi chiếm khoảng 35% tổng đàn,
40 - 45% về tổng sản lượng thịt lợn xuất chuồng [2 - 4]. Điều này cho thấy định hướng
phát triển chăn nuôi trang trại đang diễn ra trong thực tiễn nước ta.
Theo thống kê năm 2014, cả nước có 26,7 triệu con lợn. Về số trang trại chăn
nuôi nói chung cả nước có 10.044 trang trại. Theo vùng sinh thái, vùng Đồng bằng
sông Hồng có số trang trại nhiều nhất, chiếm tới 34,8%. Trong vùng này, Hà Nội đứng
đầu với 979 trang trại.
Bảng 1.1. Phân bố số lợn và trang trại chăn nuôi theo vùng sinh thái
TT Vùng
Năm 2014 Năm 2016
Số lợn Tỷ lệ %
Số trang
trại nói
chung
Số lợn Tỷ lệ %
1 Cả nước 26.761.577 100 10.044 29.075.315 100
2 Đồng bằng
Sông Hồng 6.824.759 25,5 3.444 7.414.398 25,5
Hà Nội 1.420.469 979 1.589.941
Vĩnh Phúc 509.520 297 574.324
Hưng Yên 589.191 565 625.425
Thái Bình 1.030.022 265 1.048.093
3 Miền núi và
trung du 6.626.398 24,8 1.299 7.175.528 24,7
Hòa Bình 393.899 51 381.900
4
Bắc Trung Bộ
& Duyên Hải
Miền Trung
5.207.484 19,5 1.108 5.420.643 18,6
5 Tây Nguyên 1.742.343 6,5 616 1.903.281 6,5
6 Đông Nam Bộ 2.890.167 10,8 2.522 3.358.493 11,6
7
Đồng Bằng
sông Cửu
Long
3.470.425 12,9 908 3.802.971 13,1
Nguồn: Thống kê chăn nuôi Việt Nam [3, 5]
5
Theo thống kê năm 2016, cả nước có 29 triệu lợn, trong đó vùng đồng bằng
sông Hồng có số lượng lợn lớn nhất là 7,4 triệu lợn (26%), tiếp đến là miền núi và
trung du 7,2 triệu lợn (25%), thấp nhất là Tây Nguyên có 1,9 triệu lợn (7%). Trong 29
triệu con lợn, tăng 4,5%, trong đó lợn thịt có 24,7 triệu con, tăng 4,6% so với cùng kỳ
2015 [5]. Như vậy, theo thời gian, mỗi năm đàn lợn lại tăng lên (bảng 1.2). Tuy nhiên,
cùng với sự gia tăng đàn vật nuôi thì tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải chăn
nuôi cũng đang gia tăng.
Bảng 1.2. Số lượng lợn cả nước (tính đến tháng 10/2016)
Đ.vị
tính 1/10/2014 1/10/2015 1/04/2016 1/10/2016
Tăng,
giảm
2016-2015
So sánh
(%) 2016/
2015
Tổng số Lợn Con 26.761.577 27.751.010 28.312.083 29.075.315 1.324.304 105
Trong đó: Nái Con 3.913.922 4.058.446 4.297.222 4.235.439 176.992 104
Lợn thịt Con 22.779.643 23.622.978 23.947.247 24.765.234 1.142.256 105
Lợn đực giống Con 68.013 69.586 67.614 74.642 5.056 107
Số con lợn thịt
xuất chuồng Con 47.202.407 50.960.488 27.853.436 51.115.510 155.022 100
Sản lượng thịt
xuất chuồng Tấn 3.351.075 3.491.634 2.150.515 3.664.556,9 172.922 105
Số con lợn sữa
xuất chuồng Con 3.232.410 3.070.527 2.831.933,2 -238.593 92
SL lợn sữa xuất
chuồng Tấn 25.713 27.842 24.224,5 -3.618 87
Nguồn: Thống kê chăn nuôi Việt Nam 01/10/2016, Chăn nuôi Việt Nam [5]
1.1.2. Ô nhiễm môi trường do chăn nuôi lợn gây ra tại Việt Nam
Theo khảo sát của nhóm nghiên cứu đề tài KC.08.04 của TS. Trần Văn Tựa
(2015), trong tổng số 20 trang trại chăn nuôi lợn đã được khảo sát tại 05 địa phương là
Hà Nội (HN), Vĩnh Phúc (VP), Hưng Yên (HY), Thái Bình (TB) và Hòa Bình (HB).
Các thông số khảo sát gồm:
- Diện tích trang trại, số chuồng, diện tích mỗi chuồng
- Số lượng vật nuôi
- Nguồn nước, lượng sử dụng (m3/ngày)
- Lượng thức ăn tiêu thụ (kg/ngày)
- Nước thải
- Biện pháp thu gom, xử lý chất thải
Về lượng nước tiêu thụ, kết quả khảo sát tại một số trang trại chăn nuôi lợn với
số lượng từ 1000 con trở lên (bao gồm lợn thịt, nái và hậu bị) cho thấy lượng nước tiêu
thụ có sự biến động lớn, dao động từ 15 đến 60 lít/đầu lợn/ngày đêm (bảng 1.3).
6
Lượng phân thải ra trong một ngày đêm tùy thuộc vào giống, loài, tuổi và khẩu phần
ăn. Lượng phân lợn thải ra mỗi ngày có thể ước tính 6 - 8% khối lượng của vật nuôi.
Bảng 1.3. Số đầu lợn và lượng nước tiêu thu tại một số trang trại điển hình
TT Trang trại Số đầu lợn nuôi Lượng nước tiêu thụ
(m3/ng.đêm)
1 VP1. 1000 70-80
2 VP3 1800 120
3 VP5 1600 100
4 VP8 1300 100
5 TB1 1320 90
6 TB2 6600 100
7 TB3 3320 100
8 TB4 1700 80
9 TB5 2750 60
10 TB6 4000 250
11 HY1 1040 40
12 HY2 1320 20-30
13 HY3 1380 60
14 HN1 590 20-30
15 HN2 690 40
16 HB1 1400 40
Ghi chú: VP: Vĩnh Phúc, TB: Thái Bình, HY: Hưng Yên, HN: Hà Nội và HB: Hòa Bình
Nguồn: Báo cáo tổng kết đề tài KC08.04/11-15 [6]
Khảo sát của tổ chức JICA và Viện CNMT trước đây tại 5 trang trại chăn nuôi
lợn điển hình cho thấy lượng nước tiêu thụ từ 10 - 40 lít/đầu lợn/ng.đêm, trong khi đó,
tại Nhật Bản con số này là 20 - 30 lit. Với 4293 trang trại chiếm 35% số đầu lợn trong
cả nước (9,345 triệu lợn), nếu trung bình lượng nước thải là 25 - 30 lít/con, lượng nước
thải ra một năm là con số đáng kể [7].
Về thành phần và mức độ ô nhiễm của nước thải chăn nuôi lợn trang trại, kết
quả khảo sát được tổng hợp ở bảng 1.4. Trước biogas, lượng COD, TN, TP trong nước
thải rất cao với các số liệu tương ứng là 3587 mg/L, 343 mg/L và 92 mg/L. Sau khi
được xử lý kỵ khí bằng hầm biogas các thông số trên giảm còn tương ứng 800 mg/L;
307mg/L và 62mg/L. Lượng ôxy hòa tan trong nước thải trước biogas hầu như không
còn sau xử lý biogas cũng không đáng kể.
Một trong các yếu tố gây ô nhiễm nghiêm trọng nước thải chăn nuôi lợn là
lượng coliform. Kết quả khảo sát của đề tài cho thấy rằng lượng coliform trong nước
thải vượt tiêu chuẩn cho phép nhiều lần. Điều này không chỉ đối với nước thải từ
chuồng trại mà cả nước sau biogas. Trong nước thải trước khi vào hầm biogas, lượng
7
coliform là 372.104MPN/100 ml, còn nước sau xử lý bằng biogas chứa 226.104
MPN/100 ml.
Bảng 1.4. Thành phần và mức độ ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn trang trại.
Thông số
Trước biogas Sau biogas
QCVN
62-MT:2016/
BTNMT
Trung
bình Min-Max
Trung
bình Min-Max Cột A Cột B
pH 7,56 7,30-7,87 7,76 7,19-7,90 6,0 – 9,0 5,5 – 9,0
T0 (0C) 30,35 29-32 30,35 28,2-32,6 - -
DO (mg/L) 0,00 0-0 0,08 0-0,60 - -
COD (mg/L) 3587 860-4590 800 391-1792 100 300
TN (mg/L) 343 167-907 307 115-531 50 150
N-NH+4
(mg/L) 315 130- 870 289 110-506 - -
TP (mg/L) 92,2 250-295 62,1 19-127
SS (mg/L) 2248 520-9520 1431 360-3280 50 150
Total
Coliform
(MPN/100ml)
372.104 226.104 3000 5000
E.coli
(MPN/100ml) 169.104 135.104 - -
Nguồn: Báo cáo tổng kết đề tài KC08.04/11-15 [6]
Qua bảng 1.4 có thể nhận thấy rằng nước thải sau quá trình xử lý bằng hầm
biogas chứa hàm lượng cao các chất gây ô nhiễm môi trường. Hàm lượng COD, tổng
N, tổng P, coliform,... vượt rất nhiều lần quy định theo loại B (QCVN40: 2011-
BTNMT). Vì vậy, nếu thải ra môi trường sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
ảnh hưởng đến sức khỏe con người và đời sống của sinh vật thủy sinh.
Nồng độ các chất ô nhiễm trong nước thải phụ thuộc vào thành phần của phân,
nước tiểu gia súc, lượng thức ăn rơi vãi, mức độ và phương thức thu gom phân như số
lần thu gom, phương pháp vệ sinh chuồng trại (có hót phân hay không hót phân, trước
khi rửa chuồng trại), lượng nước dùng tắm gia súc và vệ sinh chuồng trại [8, 9].
Phùng Đức Tiến và cs (2009) [10], Trịnh Quang Tuyên và cs (2010) [11] đánh
giá thực trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi nói chung cũng chỉ ra: Tình hình
xử lý chất thải còn chưa được quan tâm đúng mức. Tỷ lệ cơ sở chăn nuôi có khu xử lý
chất thải rất thấp. Phương thức xử lý còn rất thô sơ chủ yếu là ủ phân tươi và phân nhỏ
xử lý bằng biogas. Còn lại một tỷ lệ lớn chất thải đổ trực tiếp ra môi trường. Môi
trường chăn nuôi bị ô nhiễm nặng. Nước thải chăn nuôi không được xử lý gây ô nhiễm
nặng nề môi trường xung quanh, đặc biệt là các chỉ tiêu vi sinh vật. Đây là một nguồn
8
lây lan dịch bệnh. Hàm lượng Coliform cao hơn mức cho phép là 78,1 - 630,4 lần.
Mức độ ô nhiễm có xu hướng tăng theo quy mô chăn nuôi. Chăn nuôi trang trại với
mức tập trung cao, không có biện pháp xử lý chất thải có mức độ ô nhiễm cao hơn.
Trong ba đối tượng vật nuôi (lợn, bò và gia cầm), chăn nuôi lợn có mức độ ô nhiễm
cao nhất.
Trịnh Quang Tuyên (2010) [11] tiến hành khảo sát hiện trạng ô nhiễm nước thải
trong chăn nuôi lợn tập trung cho thấy COD trong nước thải trước biogas so với chỉ
tiêu nước thải cho phép loại B (QCVN 40:2011) đều vượt quá giới hạn 11,7 đến 15,6
lần. Nước thải sau biogas vẫn vượt 2,5 lần đến 3,3 lần, nước thải ra ngoài môi trường
còn vượt tiêu chuẩn 1,6 đến 2,0 lần. Chỉ tiêu BOD5 của nước thải trước biogas so với
chỉ tiêu nước thải cho phép loại B đều vượt quá giới hạn cho phép với vượt từ 6,9 đến
12,4 lần, sau biogas và sau ao chứa nước thải vượt 2,8 lần đến 3,5 lần, nước thải ra
ngoài đều vượt chuẩn cho phép từ 1,3 đến 2,2 lần. Các chỉ tiêu NO3-, tổng P, coliform
của nước thải tại các tỉnh điều tra đều vượt mức cho phép nhiều lần.
Vũ Thị Khánh Vân và cs (2013) [12], điều tra về thực trạng ô nhiễm nước thải
chăn nuôi được tiến hành trên 102 trang trại chăn nuôi lợn công nghiệp có quy mô từ
100 lợn thịt trở lên hoặc trên 20 lợn nái quy đổi tại 3 tỉnh/ thành phố trên cả nước bao
gồm Thái Bình (41 trang trại), Đà Nẵng (30 trang trại) và Đồng Nai (31 trang trại). Kết
quả nghiên cứu cho thấy, khoảng 30% số trang trại áp dụng hình thức thu gom chất
thải rắn và lỏng tách riêng và khoảng 60% số trang trại thu gom chất thải theo hướng
hỗn hợp. Trong đó, tỷ lệ trang trại xử lý chất thải bằng biogas là 53% ở miền Nam,
60% ở miền Bắc và 42% ở miền Trung. Tuy nhiên, trong các trang trại có xử lý
biogas, có đến 57%, 71% và 87% trang trại lần lượt ở 3 miền Bắc, Trung, Nam xả thải
biogas thừa trực tiếp ra môi trường. Hàm lượng Coliform tổng số của nước thải sau
biogas, nước rửa chuồng và nước ở hố tắm cho lợn đều vượt quá tiêu chuẩn cho phép
(theo QCVN 40:2011-BTNMT) 4 - 2.200 lần. Hàm lượng BOD5 và COD trong nước
thải sau biogas của các trang trại chăn nuôi ở miền Bắc vượt cao hơn 10 và 20 lần so
với ngưỡng cho phép.
Kết quả điều tra hiện trạng một số cơ sở chăn nuôi thuộc các tỉnh Hưng Yên,
Thái Bình, Vĩnh Phúc, Hòa Bình và Hà Nội trong khuôn khổ đề tài KC08.04/11-15 do
nhóm nghiên cứu thực hiện cũng cho thấy: Tại hầu hết các trang trại khảo sát, lượng
COD, TN và TP của nước thải sau khi xử lý bằng hầm biogas đều còn rất cao, dao
động từ 714 đến 4590 mg/L với COD, từ 531 - 1131 mg/L với TN và 127 - 146 mg/L
với TP. Mặc dù một số trang trại đã có hệ thống xử lý cấp 2 (xử lý hiếu khí hoặc ao
sinh học) nhưng lượng COD, TN và TP sau khi thải ra môi trường vẫn vượt tiêu chuẩn
thải loại B (QCVN40: 2011- BTNMT) nhiều lần (COD 117 - 1030 mg/L; TN: 2,5 -
270 mg/L). Đáng chú ý là lượng NH4+ sau xử lý bằng biogas còn tương đối lớn, trung
bình dao động trong khoảng 500 - 1000 mg/L. Đây là một trong những nhân tố chính
gây phú dưỡng cho môi trường tiếp nhận nếu không được xử lý tốt [6].
9
Như vậy, chăn nuôi lợn trang trại đang phát triển mạnh và cũng là định hướng
cho lĩnh vực này trong tương lai. Cùng với hiệu quả kinh tế mang lại, vấn đề ô nhiễm
môi trường nói chung và ô nhiễm nước thải từ chăn nuôi lợn trang trại là một thực tế
gây bức xúc trong xã hội.
1.1.3. Hiện trạng công nghệ xử lý nước thải chăn nuôi lợn
Theo kết quả khảo sát thì hiện có 4 loại hình công nghệ điển hình được các
trang trại áp dụng để xử lý nước thải chăn nuôi:
1 - Nước thải chăn nuôi (có thể lẫn phân hoặc đã được tách phân) được xử lý
bằng hồ kị khí có phủ bạt sau đó qua ao sinh thái rồi thải ra môi trường, có khoảng
8,3% trang trại sử dụng biện pháp này.
2 - Nước thải chăn nuôi được xử lý qua hầm biogas, sau đó được thải ra kênh
mương, chiếm 50% số trang trại khảo sát.
3 - Nước thải chăn nuôi (có thể lẫn phân hoặc đã được tách phân) được xử lý
bằng hầm biogas, sau đó được xử lý tiếp bằng ao/ hồ sinh học, chiếm 25% số trang trại
khảo sát.
4 - Nước thải chăn nuôi được xử lý bằng ổn định kỵ khí, sau đó bằng phương
pháp lọc sinh học kị khí hoặc aeroten, cuối cùng qua hồ thực vật thủy sinh rồi thải ra
ngoài, chiếm 8,3% số trang trại khảo sát.
Còn lại 8,4% trang trại không xử lý gì mà thải trực tiếp ra kênh mương hoạc ao
cá làm ô nhiễm môi trường xung quanh một cách nghiêm trọng.
Qua khảo sát điều tra cùng với kết quả khảo sát của tổ chức JICA kết hợp với
Viện Công nghệ môi trường trong khuôn khổ Dự án tăng cường năng lực Viện Khoa
học và Công nghệ Việt Nam trong lĩnh vực bảo vệ môi trường nước - Giai đoạn II giữa
Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam và tổ chức JICA, Nhật Bản, về công nghệ xử
lý nước thải chăn nuôi [13], có thể đưa ra các qui trình công nghệ xử lý nước thải đang
áp dụng phổ biến tại các trang trại chăn nuôi lợn của ta như hình 1.1.
Đối với nước thải chăn nuôi lợn, đặc tính nước thải thay đổi rất lớn do phương
pháp chăn nuôi, quản lý chuồng trại (như việc có tách lỏng rắn hay không), điều kiện
của từng địa phương. Những điều này ảnh hưởng lớn đến quy mô xử lý, duy trì hệ
thống xử lý khó khăn và tốn kém về kinh tế.
Mặc dù hầu hết các trang trại mà chúng tôi khảo sát đều đã có áp dụng một
hoặc một vài phương pháp kết hợp để xử lý nước thải nhưng chất lượng nước thải đầu
ra chưa đạt tiêu chuẩn xả thải, kể cả một vài trang trại áp dụng cả biện pháp hiếu khí
vào trong quy trình. Mặt khác, nguồn năng lượng là khí sinh học thu được từ hầm
biogas hầu như chưa được sử dụng triệt để, có trang trại thải thẳng khí ra môi trường,
10
có trang trại sử dụng vào mục đích đun nấu và thắp sáng, còn lại hầu như chưa sử dụng
để chạy máy phát điện.
Hình 1.1. Sơ đồ các qui trình công nghệ xử lý nước thải đang áp dụng tại các trang
trại chăn nuôi lợn [6]
Hiện nay có thể nói ở nước ta chưa có quy trình hoàn thiện nào được công bố
và ứng dụng thực tế để xử lý nước thải chăn nuôi đạt tiêu chuẩn thải. Báo cáo năm
2006 của nhóm tác giả Ngô Kế Sương và cs về “Mô hình xử lý nước thải chăn nuôi
heo tại xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao” được coi là đầy đủ và đại diện cho các nghiên cứu
xử lý nước thải chăn nuôi ở Việt Nam. Tuy nhiên đây chỉ là mô hình thử nghiệm có
công suất xử lý 30 m3/ngày trong số nước thải 935 m3/ngày của Xí nghiệp 12.000 đầu
lợn các loại với diện tích ao thực vật thủy sinh 720 m2. Nếu tính cho cả xí nghiệp sẽ
cần gần 2,5 ha, điều này sẽ khó khả thi nếu không tính tới phương án sử dụng mặt
nước hiệu quả hơn và sinh khối bèo dư [14].
Xử lý nước thải chăn nuôi lợn trang trại chủ yếu mới là xử lý bằng hầm biogas
và hồ sinh học. Hầm biogas chỉ xử lý được chất hữu cơ còn hồ sinh học có thể xử lý N
và P nhưng thời gian lưu lâu. Các phương pháp xử lý khác như phương pháp kỵ khí
UASB, kỵ khí tiếp xúc, lọc sinh học, xử lý hiếu khí Aeroten,... đã được một số tác giả
quan tâm nghiên cứu và tỏ ra có hiệu quả nhưng hầu hết mới chỉ dừng lại ở thực
nghiệm, đề xuất về lý thuyết hoặc ứng dụng nếu có chỉ ở quy mô nhỏ lẻ. Đặc biệt, việc
xử lý chất ô nhiễm N và P hầu như chưa được quan tâm, trong khi đây là yếu tố gây
phú dưỡng môi trường nước các thuỷ vực tiếp nhận dẫn đến “nở hoa nước” do vi tảo
8,4%
8,3%
50%
25%
8,3%
11
bao gồm vi khuẩn lam (VKL) độc phát triển mạnh, làm mất cân bằng sinh thái và suy
giảm chất lượng nước, ảnh hưởng xấu đến môi trường sống và sức khỏe cộng đồng
[15]. Chất thải rắn, bùn thải trong chăn nuôi chưa được xử lý triệt để, chưa tạo ra được
sản phẩm hữu ích cho thị trường.
Trong những năm gần đây, việc phát triển hệ thống nông nghiệp bền vững
đang được chú trọng trong đó chăn nuôi là một bộ phận cấu thành quan trọng của hệ
thống. Tuy nhiên, sự phát triển của ngành chăn nuôi đang phải đương đầu với những
khó khăn cả về kỹ thuật và những yếu tố kinh tế và xã hội. Việc chăn nuôi phát triển
theo quy mô trang trại tập trung nảy sinh vấn đề ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm
nước thải gây bức xúc cho cộng đồng dân cư và thu hút sự quan tâm sâu sắc của xã
hội.
1.2. Tổng quan về các phương pháp xử lý nước thải chăn nuôi lợn
Việc xử lý nước thải chăn nuôi lợn nhằm giảm nồng độ các chất ô nhiễm trong
nước thải đến một nồng độ cho phép có thể xả vào nguồn tiếp nhận. Đối với nước thải
chăn nuôi, có thể áp dụng các phương pháp xử lý sau:
- Phương pháp cơ học
- Phương pháp hóa lý
- Phương pháp sinh học
* Phương pháp xử lý cơ học
Mục đích là tách chất rắn, cặn, phân ra khỏi hỗn hợp nước thải bằng cách thu
gom, phân riêng. Có thể dùng song chắn rác, bể lắng sơ bộ để loại bỏ cặn thô, dễ
lắng tạo điều kiện thuận lợi và giảm khối tích các công trình xử lý tiếp theo. Ngoài
ra, có thể dùng phương pháp ly tâm hoặc lọc, hàm lượng cặn lơ lửng trong nước thải
chăn nuôi khá lớn khoảng vài ngàn mg/L và dễ lắng nên có thể lắng sơ bộ trước rồi
sau đó đưa sang các công trình phía sau. Sau khi tách nước thải được đưa ra các công
trình phía sau còn phần chất rắn được đem đi ủ làm phân bón.
* Phương pháp hóa lý: Nước thải chăn nuôi còn chứa nhiều chất hữu cơ, chất vô cơ
dạng hạt có kích thước nhỏ, khó lắng, khó có thể tách ra bằng phương pháp cơ học
thông thường vì tốn nhiều thời gian và hiệu quả không cao. Ta có thể áp dụng phương
pháp keo tụ để loại bỏ chúng. Các chất keo tụ thường sử dụng là phèn nhôm,
phèn sắt, phèn bùn kết hợp với polyme trợ keo tụ để tăng quá trình keo tụ. Theo
nghiên cứu của Trương Thanh Cảnh (2006) [8] tại trại chăn nuôi heo 2/9, phương pháp
keo tụ có thể tách được 80 - 90% hàm lượng chất lơ lửng có trong nước thải chăn nuôi
heo. Phương pháp này loại bỏ được hầu hết các chất bẩn có trong nước thải chăn nuôi,
tuy nhiên chi phí xử lý cao. Áp dụng phương pháp này để xử lý nước thải chăn nuôi là
không hiệu quả về mặt kinh tế. Ngoài ra tuyển nổi cũng là một phương pháp để tách
các hạt có khả năng lắng kém nhưng có thể kết dính vào các bọt khí nổi lên, tuy nhiên
12
chi phí đầu tư, vận hành cho phương pháp này cao cũng không hiệu quả về mặt kinh
tế.
* Phương pháp xử lý sinh học: Phương pháp này dựa trên sự hoạt động của các vi sinh
vật có khả năng phân hủy các chất hữu cơ. Các vi sinh vật sử dụng các chất hữu cơ và
các chất khoáng làm nguồn dinh dưỡng và tạo năng lượng. Tùy theo từng nhóm vi
khuẩn sử dụng là hiếu khí hay kỵ khí mà người ta thiết kế các công trình khác nhau và
phụ thuộc vào khả năng tài chính, diện tích đất mà người ta có thể sử dụng hồ sinh học
hay các bể nhân tạo để xử lý. Các hệ thống xử lý nhân tạo bằng phương pháp sinh học:
- Xử lý theo phương pháp hiếu khí:
+ Bể aeroten thông thường
+ Bể aeroten xáo trộn hoàn toàn
+ Bể aeroten mở rộng
+ Mương oxy hóa
+ Bể hoạt động gián đoạn (SBR)
+ Tháp lọc sinh học
+ Tháp lọc sinh học nhỏ giọt
+ Bể lọc sinh học tiếp xúc quay (RBC)
- Xử lý theo phương pháp kỵ khí:
+ Bể xử lý bằng lớp bùn kỵ khí với dòng nước từ dưới lên (UASB)
+ Bể phản ứng yếm khí tiếp xúc
+ Xử lý bằng công nghệ hầm biogas
+ Bể lọc kỵ khí
+ Bể phản ứng có dòng nước đi qua lớp cặn lơ lửng và lọc tiếp qua lớp vật
liệu lọc cố định.
* Các hệ thống xử lý tự nhiên bằng phương pháp sinh học (hồ sinh học):
+ Hồ hiếu khí
+ Hồ làm thoáng tự nhiên
+ Hồ hiếu khí làm thoáng nhân tạo: Hồ tùy nghi, hồ kỵ khí, hồ xử lý bổ sung
+ Cánh đồng tưới
+ Vùng đất ngập nước (bãi lọc trồng cây)
Theo Hoàng Kim Giao “Có 3 nhóm biện pháp cơ bản hạn chế ô nhiễm do chăn
nuôi. Thứ nhất cần quy hoạch lại, đưa chăn nuôi ra xa đô thị, khu dân cư, khu công
nghiệp và nhất thiết phải thực hiện quy định chăn nuôi an toàn gắn với bảo vệ môi
trường. Thứ hai sử dụng kỹ thuật cho vào thức ăn và chất thải chăn nuôi các enzym,
các chế phẩm sinh học nhằm hạn chế khí độc hại và vi sinh vật có hại. Thứ 3 ứng dụng
tiến bộ kỹ thuật thân thiện với môi trường. Tùy điều kiện cụ thể từng nơi để lựa chọn
một trong 3 quy trình xử lý chất thải như: Bể lắng - hầm biogas - ao sinh học, hầm
biogas - ao sinh học và hầm biogas - thùng sục khí - ao sinh học, trong đó trọng tâm
là chăn nuôi theo mô hình VAC và sử dụng hầm biogas” [16].
13
* Ngoài ra còn một số các giải pháp khác như: Ủ chất thải rắn bằng phương
pháp sinh học che phủ kín. Gần đây việc chăn nuôi trên đệm lót sinh thái được khuyến
khích.
1.3. Công nghệ sinh thái trong xử lý nước thải chăn nuôi
1.3.1. Khái niệm công nghệ sinh thái
Kỹ nghệ sinh thái nổi lên như là ý tưởng mới vào đầu những năm 1960 nhưng
định nghĩa của nó cần vài thập kỉ để hoàn chỉnh, việc thực hiện còn đang được điều
chỉnh và việc công nhận nó như một mô hình còn tương đối mới. Kỹ nghệ sinh thái
được H. Odum và cs, 1963, giới thiệu khi sử dụng các nguồn năng lượng tự nhiên như
là đầu vào chủ yếu để kiểm soát các hệ sinh thái [17]. Mitsch và Jorgensen 1989 [18],
lần đầu tiên định nghĩa: “Kỹ nghệ sinh thái (Ecological engineering) là sự kết hợp giữa
sinh thái học và kỹ nghệ liên quan với thiết kế, kiểm tra và xây dựng hệ sinh thái. Việc
thiết kế hệ sinh thái bền vững nhằm kết hợp xã hội con người với môi trường tự nhiên
vì lợi ích của cả hai”.
Barrett (1999) đưa ra định nghĩa sát nghĩa hơn về thuật ngữ: thiết kế, xây dựng,
hoạt động và quản lý (đó là kỹ nghệ) các công trình về nước/cảnh quan và liên kết
quần xã động vật và thực vật (đó là hệ sinh thái) để làm lợi cho nhân loại và tự nhiên.
Các thuật ngữ khác với nghĩa tương tự hay tương đương bao gồm công nghệ sinh thái
(ecotechnology) và hai thuật ngữ thường hay dùng nhất trong kiểm soát sự xói mòn:
kỹ nghệ sinh học đất (soil bioengineering) và kỹ thuật sinh học. Tuy nhiên, kỹ nghệ
sinh thái không nên nhầm lẫn với công nghệ sinh học (biotechnology) khi mô tả kỹ
thuật gen (genetic engineering) ở mức độ tế bào hoặc kỹ nghệ sinh học
(bioengineering) với nghĩa xây dựng các phần của cơ thể nhân tạo [19].
CNST trong đề tài này là CNST sử dụng TVTS trong xử lý ô nhiễm nước và
cũng được hiểu là công nghệ đất ngập nước nhân tạo (Constructed wetlands), bãi lọc
trồng cây,… Trong xử lý nước thải giầu nitơ và photpho. CNST sử dụng TVTS có
nhiều ưu điểm, rất thân thiện môi trường, được quan tâm ở nhiều nước trên thế giới.
1.3.2. Các nhóm thực vật thủy sinh trong công nghệ sinh thái
TVTS trong công nghệ này có thể được phân ra các nhóm chính sau [20]:
- TVTS nửa ngập nước: Đây là thực vật chủ yếu trong vùng đất ngập nước có
thân và lá nhô lên khỏi mặt nước và hệ rễ phát triển rộng. Thực vật thích nghi về hình
thái với việc mọc ở nơi ngập nước do có các khoang khí lớn bên trong thân để vận
chuyển oxy đến rễ. TVTS này bao gồm các loài như Sậy (Phragmites spp.), Cỏ nến
hay Đuôi mèo (Typha spp.), Cói (Cyperus spp.), Bấc (Juncus spp.), Cỏ năn (Scirpus
spp.), Lác (Carex spp.), Lưỡi đồng (Iris spp.).
14
- TVTS có lá nổi: Các thực vật này không đứng cao trên mặt nước. Chúng bao
gồm cả các loài có rễ bám đáy như cây Súng (Nymphaea spp.) và các loài sống nổi
trên mặt nước như Bèo tây (Eichhornia crassipes), Bèo cái (Pistia stratiotes) và Bèo
tấm (Lemna spp. và Spirodella spp.).
- TVTS sống chìm dưới mặt nước: Các TVTS này có các mô quang hợp hoàn
toàn ngập trong nước nhưng hoa lại thường phơi ra trên mặt nước. Thuộc nhóm thực
vật này có Rong đuôi chó (Myriophyllum spp), Rong đuôi chồn (Ceratophyllum spp)
(là cỏ mọc lơ lửng trong nước, không có rễ bám đáy đất).
1.3.3. Vai trò của thực vật thuỷ sinh trong xử lý nước thải
Hiệu quả xử lý ô nhiễm của một số loài TVTS và tảo đã được kiểm chứng trong
các điều kiện thí nghiệm và cho thấy rằng chúng có tiềm năng trong xử lý nước thải
[21]. Người ta đã biết đến khả năng của TVTS trong việc vận chuyển oxy từ không khí
vào trong nước nhờ bộ rễ, cho phép hình thành nhóm sinh vật hiếu khí quanh bộ rễ
thực vật. Các vi sinh vật hiếu khí thích hợp cho việc phân giải sinh học các hợp chất
hữu cơ phức tạp thành các chất đơn giản. Sản phẩm của quá trình phân giải này sẽ
được thực vật sử dụng cho quá trình sinh trưởng, phát triển. Khả năng loại bỏ các chất
ô nhiễm vô cơ và hữu cơ trong nước đã được chứng minh là có sự cộng sinh giữa
TVTS và các vi sinh vật sống trong và xung quanh rễ của chúng. Thực vật và các vi
sinh vật có thể đạt được hiệu quả xử lý cao khi chúng phối hợp với nhau trong một hệ
sinh thái cân bằng. Thân và lá của thực vật nửa ngập nước và rễ của thực vật nổi làm
giảm tốc độ dòng chảy, gây ra sự thay đổi của quá trình lọc và lắng của các hạt (cặn,
vụn hữu cơ) và là nơi sống bám của nhiều loài tảo và vi sinh vật. Oxy chuyển từ phần
thân và lá khí sinh xuống bộ rễ và giải phóng ra vùng rễ, tạo điều kiện thuận lợi cho
quá trình nitrat và phản nitrat hoá. Bởi vậy, TVTS đóng vai trò chủ yếu trong việc
giảm nồng độ NH4+, NO2
- , NO3-, PO4
3- cũng như TSS và COD [21].
Các vi sinh vật phân huỷ các chất hữu cơ và sản phẩm cuối cùng của quá trình
này là CO2, H2O, axít hữu cơ, ... Các hợp chất này cung cấp cho các TVTS, trước hết là
tảo. Các loài TVTS như tảo, rong Đuôi chó, rong Xương cá, lau Lác, các loại bèo,…
có rễ, thân tạo điều kiện cho vi sinh vật bám vào mà không bị chìm xuống đáy. Chúng
cung cấp oxy cho vi khuẩn hiếu khí, ngoài ra còn cung cấp cho vi sinh vật những hoạt
chất sinh học cần thiết. Ngược lại, vi khuẩn cung cấp ngay tại chỗ cho thực vật những
sản phẩm trao đổi chất của mình, đồng thời thực vật giúp cho vi sinh vật khỏi bị chết
dưới ánh nắng mặt trời. Tảo là nguồn thức ăn cho cá và các loài thuỷ sản khác, khi
chết sẽ là chất dinh dưỡng cho vi sinh vật. Vai trò chính của tảo và TVTS là khử
nguồn amôn hoặc nitrat và nguồn phốt pho có ở trong nước.
15
Vai trò chủ yếu của TVTS có thể kể đến như sau [23]:
- Làm giá thể cho vi sinh vật sinh sống
- Tạo điều kiện cho quá trình nitrat hoá và phản nitrat hoá
- Vận chuyển ôxy
- Vận chuyển nước và chất ô nhiễm
- Sử dụng chất dinh dưỡng
- Lắng, lọc
- Nguồn che sáng
- Cung cấp lớp đất và trầm tích mới
- Ảnh hưởng về vật lý
1.3.4. Các loại hình công nghệ sử dụng thực vật thủy sinh trong xử lý nước thải
Công nghệ sử dụng thực vật trong xử lý ô nhiễm nước thải thực chất là hệ thống
đất ngập nước nhân tạo trồng cây thuỷ sinh. Hệ thống còn được gọi là bãi lọc trồng
cây. Hệ thống đất ngập nước nhân tạo (ĐNNNT) được sử dụng cho xử lý nhiều loại
nước thải (công nghiệp, sinh hoạt, nước thải thành phố, khai mỏ....) từ hàng thập kỷ
nay. Đây là loại hình công nghệ tương đối mới và được ứng dụng ngày càng phổ biến
ở nhiều nước trên thế giới. Hệ thống gồm một hoặc một số đơn vị xử lý (ao hay
mương nông) trong đó trồng các thực vật phát triển mạnh ở vùng đất ngập nước hay
đất ẩm ướt. Căn cứ vào chức năng xử lý, đặc điểm dòng nước chảy trong hệ thống mà
chia ra các loại hình khác nhau. Thông thường có ba loại hình chính (hình 1.2).
Tại các nước phát triển như Đức, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc… các công
nghệ xử lý nước thải sử dụng TVTS đã được phát triển rất thành công. Bắt đầu từ
những năm 1980, rất nhiều cơ sở xử lí nước thải tại các bang nước Mỹ đã phát triển và
ứng dụng công nghệ xử lý ô nhiễm với việc sử dụng các loài thực vật nổi và hệ thống
hồ ổn định. Phương pháp xử lý ô nhiễm hữu cơ và vô cơ tại vùng rễ của một số TVTS
- còn gọi là “Phương pháp vùng rễ”, đã được các nhà khoa học Đức nghiên cứu và
triển khai có hiệu quả tại nhiều nơi [23].
Để xác định loài thực vật cho xử lý nước thải cần phải xem xét đến đặc điểm
sinh trưởng, khả năng chống chịu của thực vật, các nhân tố môi trường. Ngoài ra cũng
cần xem xét đến đặc điểm của nước thải, yêu cầu về chất lượng dòng thải, loại hệ thuỷ
sinh, cơ chế loại bỏ ô nhiễm, lựa chọn quy trình, thiết kế quy trình, độ tin cậy của quá
trình [20, 25 - 27].
16
Hình 1.2. Các loại hình công nghệ sinh thái sử dụng TVTS trong xử lý nước thải
1.3.4.1. Hệ thống dòng chảy trên bề mặt
Hệ thống dòng chảy trên bề mặt hay hệ thống bề mặt nước thoáng là các bể đất
nông trồng cây nửa nổi. Hệ thống này được xây dựng ở Mỹ để cải thiện chất lượng
nước từ đầu những năm 1970. Trong hệ thống, dòng nước chảy trên bề mặt đất từ
điểm vào đến điểm ra. Thiết kế hệ thống bắt chước chế độ thuỷ học (hydrologic) trong
đất ngập nước tự nhiên. Hoạt động của hệ thống xử lý nước thải này cần nhiều diện
tích đất [23].
Nước dòng vào hệ thống chứa các thể vẩn và chất ô nhiễm hoà tan chảy chậm
và trải ra trên vùng nước nông rộng và trồng cây nửa ngập nước. Các thể hạt rắn (điển
hình như TSS) bị giữ và lắng xuống do vận tốc dòng chảy thấp. Các thể rắn chứa chất
hữu cơ có thể phân huỷ sinh học (được xác định như BOD), tổng nitơ và tổng phốt
pho, rất ít kim loại và các chất hữu cơ khó phân huỷ khác. Các chất ô nhiễm không tan
này đi vào chu trình sinh địa hoá trong cột nước và đất trên mặt của vùng đất ngập
nước. Hệ thống dòng chảy trên bề mặt có một số đặc điểm chung với đầm phá tuỳ tiện
nhưng cũng có sự khác biệt quan trọng về cấu trúc và chức năng. Các quá trình xảy ra
trong cột nước ở vùng nước mở (không có cây và độ sâu lớn hơn) gần giống như các
vùng ở trong ao. Trên bề mặt là vùng tự dưỡng chủ yêu là tảo sợi và tảo trôi nổi hoặc
TVTS nổi hoặc nửa nổi hạn chế ánh sáng xuống vùng sâu. Sự thiếu ánh sáng dẫn đến
ở vùng sâu các quá trình vi sinh kỵ khí xảy ra chủ yếu [23].
Lớp nước nông
nnôcạn
Mực nước
Bề mặt giá thể
Bề mặt giá thể
Lớp đá nền
Mực nước
Lớp lót đáy
Mực nước
17
Hệ thống dòng chảy trên bề mặt thường thích hợp với các loại cây sinh trưởng ở
độ sâu dưới 0,4 m [36]. Hệ thống dòng chảy trên bề mặt sử dụng vỉa đất hoặc sỏi như
một chất nền cho các loại cây trồng mọc rễ và sinh trưởng. Chiều sâu lớp đất nền trong
đất ngập dòng chảy mặt thường vào khoảng 0,6 đến 1,0 m, đáy nền được thiết kế có độ
dốc để tối thiểu hóa dòng chảy tràn trên mặt. Khi thiết kế một khu đất ngập nước dòng
chảy mặt cần phải xem xét cách mô phỏng chế độ thủy văn trong một lưu vực cạn, có
quy mô nhỏ được xây dựng với loại đất và cây trồng thủy sinh với sự cân bằng nước
của hệ thống [23].
- Cơ chế loại bỏ các chất ô nhiễm
Theo Seabloom and Hanson (2003), có các cơ chế loại bỏ các chất ô nhiễm sau:
a- Loại bỏ BOD và TSS:
+ Lắng:
Kích thước các hạt, trọng lượng riêng, hình thể và độ nhớt của dịch ảnh hưởng
đến sự lắng. Các hạt riêng biệt lắng xuống một cách độc lập, không có sự thay đổi về
hình dạng và kích thước còn sự lắng kết bông do sự vận động và va chạm các hạt với
nhau dẫn đến sự tăng lên và thay đổi hình dạng hạt. Các hạt được loại bỏ khi vận tốc
lắng đủ lớn để lắng tới đáy trước khi chảy ra. Khả năng loại bỏ TSS và BOD của hệ
thống đất ngập nước là rõ ràng nhưng rất khó giải thích quá trình này chỉ bằng lý
thuyết lắng riêng rẽ [23].
+ Lọc:
Bề mặt thân, lá và rễ cây trong nước tạo thành lớp màng do các loại tảo bám.
Các chất dạng hạt bị chặn, dính bám và bị loại bỏ.
b- Cơ chế loại bỏ nitơ
Nitơ trong nước thải tồn tại dưới nhiều trạng thái hóa trị, các trạng thái này lại
có thể biến đổi do hoạt động của vi sinh vật. Trong nước thải, nitơ trước hết có mặt ở
dạng hữu cơ là protein và urê. Sau quá trình phân huỷ kị khí, chúng chuyển sang dạng
amoni (NH4+) qua quá trình amoni hoá. Amoni trải qua nhiều biến đổi. Nếu có mặt oxy
hoà tan, amoni có thể biến đổi thành nitrit (NO-2) sau đó thành nitrat (NO-
3), quá trình
nitrat hoá xảy ra 2 bước. Bước thứ nhất, NH4+ biến thành nitrit do vi khuẩn thuộc chi
Nitrosomonas như sau [15]:
NH4+ + 1,5 O2 —> 2H+ + H2O + NO2
-
Bước thứ hai, nitrit biến đổi thành nitrat do chi vi khuẩn Nitrobacter:
NO-2 + 0,5 O2 —> NO-
3
Qúa trình khử nitrat hoá đòi hỏi nguồn cacbon, xảy ra khi có mặt oxy và sinh ra
khí N2 và N2O. Phản ứng khử nitrat hoá lúc đầu chủ yếu xảy ra trong trầm tích của
vùng đất ngập nước và trong các màng sinh học tạo thành bởi các tảo bám trên các cây
18
sống chìm dưới nước. Khí N sau đó có thể được cố định, biến đổi thành nitơ hữu cơ do
vi sinh vật trong cột nước, trong trầm tích, trong vùng rễ cây và trên bề mặt thân cây
sống chìm.
Hình 1.3: Cơ chế loại bỏ nitơ trong đất ngập nước [28]
c. Cơ chế loại bỏ photpho
P là một trong các yếu tố quan trọng nhất trong hệ sinh thái tự nhiên và có mặt
trong nước thải chủ yếu ở dạng phosphat, điển hình là orthophôtphat. Phosphat là yếu
tố giới hạn sự phì dưỡng của hệ sinh thái nước ngọt. Về cơ bản, việc loại bỏ phosphat
trong ĐNNNT là sự tích tụ dần trong trầm tích đáy [23].
- Cơ chế hoá lý
Khi phốt pho không tồn tại ở dạng khí trong chu trình địa hoá sinh, sự lắng
đọng trầm tích là cơ chế chủ yếu cho sự loại bỏ P từ nước thải trong vùng đất ngập
nước (ĐNN). Sự hấp thu phosphat hoà tan của cây là một phần trong quá trình loại bỏ
nó. Ở giai đoạn khởi đầu, có thể có sự hút thấm bề mặt của lớp đất lót đáy với các hạt
phosphat tích điện âm. Cơ chế loại bỏ này có thể cao không bình thường trong thời
gian đầu nhưng sẽ giảm theo thời gian [15].
- Sự biến đổi sinh học phôtphat
Cả phôphat hữu cơ hoà tan và không hoà tan đều không dễ hấp thu đối với cây
trừ khi được chuyển thành dạng tan. Các vi sinh vật sống lơ lửng trong nước của dòng
chảy mặt có thể biến các dạng phôphat này thành dạng vô cơ hoà tan và được cây hấp
thu trong mùa sinh trưởng. Nhưng cây già đi vào mùa thu và sau đó vào mùa đông rồi
chết và bị phân huỷ. Vì thế sự loại bỏ phốt pho của ĐNN dòng chảy mặt sẽ không hiệu
quả. Thu sinh khối thực vật sẽ góp phần giải quyết vấn đề này [23].
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng photpho có thể bị loại bỏ từ 30 – 60%
trong đất ngập nước có trồng các loài cây Scirpus sp., Phragmites sp. và Typha sp
[12]. Một số ít photpho (dưới 20%) được các loài vi khuẩn, nấm và tảo hấp thụ (Moss,
1988). Phần phốt pho còn lại được giữ trong nền đất ngập nước và hệ thống rễ cây
19
theo hai cơ chế: Hấp thụ hóa học và kết tụ vật lý giữa các ion photpho và các ion
nhôm, sắt hoặc canxi. Sự kết hợp này hình thành các hợp chất dạng photphat-sắt (Fe-
P), photphat - nhôm (Al-P) hoặc photphat-canxi (Ca-P) [23].
d. Cơ chế loại bỏ S
Lưu huỳnh (S) là cấu thành quan trọng của cơ thể sống. S có ở dạng hữu cơ,
H2S, S nguyên tố và sulphat (SO4). Trong chu trình chuyển hóa, S được cây và các vi
sinh vật hấp thu. Sự khử sulphat chỉ thị cho điều kiện kị khí và oxy hoá sulfua là chỉ
thị cho điều kiện hiếu khí. Khi không có oxy, vi sinh vật kị khí biến đổi sulphat thành
sulfua và H2S theo phương trình sau:
SO42- + chất hữu cơ —> S2- + CO2 + H2O
S2- + 2 H+ —> H2S
Sulfua hyđrô là khí không màu, có mùi trứng thối đặc trưng và nếu trong điều
kiện hiếu khí, vi sinh vật sẽ oxy hoá H2S thành axit sulphuric:
H2S + 2 O2 —> H2SO4
Axit sulphuric là axit mạnh, sẽ ăn mòn các đường ống kim loại của hệ thống
công trình. Sự oxy hoá sulphit thành sulphat tiêu thụ nhiều oxy.
e- Loại bỏ nguồn gây bệnh
Nước thải sinh hoạt, nhất là nước thải từ bể tự hoại đưa vào ĐNNNT có thể có
các nguồn gây bệnh qua đường nước. Các nguồn bệnh đường ruột khi vào ĐNNNT
gặp môi trường không thuận lợi nên hầu hết không sống sót được lâu. Một số có thể
gắn với TSS và bị loại sau khi lắng. Các tia cực tím cũng làm giảm đáng kể số lượng
coliform ở vùng nước bề mặt. Nước sau khi qua hệ thống ĐNNNT có số lượng
coliform giảm đáng kể. Tuy nhiên, không thể đạt tiêu chuẩn thải vì vậy cần xử lý tiếp
bằng hệ thống dòng chảy ngầm hoặc khử trùng trước khi thải ra môi trường. Kadlec
và Knight (1996) còn chỉ ra rằng đất ngập nước có cây trồng tạo nên sự loại bỏ mầm
bệnh hữu hiệu hơn do cây trồng cho phép các loại vi sinh phát triển tạo nên các vật ăn
các mầm bệnh [23].
f- Loại bỏ kim loại
Kim loại cần thiết cho thực vật và động vật sinh trưởng và phát triển nhưng chỉ
với lượng rất nhỏ. Các kim loại này gồm: Ba, Cr, Co, Cu, I, Mn, Mg, Mo, Ni, Se, Zn
và S. Các kim loại độc ở nồng độ vết là As, Cd, Pb, Hg và Ag. Có 3 tiến trình chính
trong đất ngập nước để loại bỏ kim loại nặng là sự kết chặt trong đất tạo ra chất trầm
tích; Kết tủa giữa các muối không hòa tan và được hấp thu bởi vi khuẩn, tảo và cây
trồng (Kadlec và Knight, 1996). Tiến trình này rất hữu hiệu trong đất ngập nước, có
thể loại bỏ 99% kim loại nặng (Reed et al., 1995). ĐNN có thể chuyển một phần độc
20
chất từ kim loại nặng, cùng với các phức hợp vi khuẩn, chất vô cơ, chất hữu cơ thành
các chất nuôi sinh học. ĐNN được xem là vùng đệm làm giảm nồng độ cho các độc
chất ô nhiễm môi trường [23].
1.3.4.2. Hệ thống dòng chảy ngầm
Hệ thống dòng chảy ngầm hay “Phương pháp vùng rễ” là công nghệ xử lý nước
thải chảy qua vùng rễ của TVTS. Ở đây, TVTS thường là Lau, Sậy, cỏ Lác đâm rễ
chìm trong nền cát - sỏi với độ sâu khoảng 0,5 - 1 m. Nước thải chảy qua hệ thống lỗ
trong nền cát - sỏi và được khử độc nhờ hệ thống rễ cây và hệ vi sinh vật bám quanh
rễ. Khi chảy qua lớp vật liệu lọc, nước thải được lọc sạch nhờ tiếp xúc với bề mặt
của các hạt vật liệu lọc và vùng rễ của thực vật trồng trong đó. Vùng ngập nước
thường thiếu oxy, nhưng thực vật trong đó có thể vận chuyển một lượng oxy đáng kể
tới hệ thống rễ tạo nên tiểu vùng hiếu khí cạnh rễ và vùng rễ, cũng có một vùng hiếu
khí trong lớp lọc sát bề mặt tiếp giáp giữa đất và không khí. Phương pháp này có 2
dạng công nghệ là dòng chảy ngang và dòng thẳng đứng. Vật liệu trồng cây là đá cuội
hoặc cát [23, 29].
Hệ dòng ngầm có một số ưu việt hơn đất ngập nước dòng mặt là cần ít diện
tích, tránh được mùi và muỗi. Tuy nhiên, hệ thống lại có giá thành cao hơn do vật liệu
trồng là đá cuội và khả năng bị tắc. Xử lý sơ cấp là tiền xử lý đặc thù của hệ thống này.
Hệ thống dòng chảy ngầm ngang: Hệ thống này được gọi là dòng chảy ngang
vì nước thải được đưa vào và chảy chậm qua tầng lọc xốp dưới bề mặt của nền trên
một đường ngang cho tới khi nó tới được nơi dòng chảy ra. Trong suốt thời gian này,
nước thải sẽ tiếp xúc với một mạng lưới hoạt động của các đới hiếu khí, hiếm khí và kị
khí. Các đới hiếu khí ở xung quanh rễ và bầu rễ, nơi lọc O2 vào trong bề mặt. Khi
nước thải chảy qua đới rễ, nó được làm sạch bởi sự phân hủy sinh học của vi sinh vật
bởi các quá trình hóa sinh. Loại thực vật sử dụng phổ biến trong các hệ thống này là
cây Sậy [29].
Bãi lọc ngầm trồng cây dòng chảy ngang được xem là giải pháp xử lý rẻ tiền,
thích hợp với quy mô nhỏ, đặc biệt có hiệu quả trong vùng có khí hậu nóng ẩm. Hệ
thống này thường được sử dụng để xử lý nhiều loại nước thải ở dạng độc lập hoặc kết
hợp với các kiểu bãi lọc khác nhằm đạt được các mục tiêu xử lý. Các loại nước thải
thường được xử lý là nước thải sinh hoạt, nước sau bể phốt, nước thải chuồng trại,
nước rác, nước khai thác mỏ, nước thải thuộc da, chế biến sữa...[30].
21
Hình 1.4: Sơ đồ đất ngập nước dòng chảy ngầm theo chiều ngang
(vẽ lại theo Vymazal, 1997)[32]
Hệ thống dòng chảy ngầm thẳng đứng: Nước thải được đưa vào hệ thống qua
ống dẫn trên bề mặt. Nước sẽ chảy xuống dưới theo chiều thẳng đứng. Ở gần dưới đáy
có ống thu nước đã xử lý để đưa ra ngoài. Các hệ thống này thường xuyên được sử
dụng để xử lý lần 2 cho nước thải đã qua xử lý lần 1. Thực nghiệm đã chỉ ra là nó phụ
thuộc vào xử lý sơ bộ như bể lắng, bể tự hoại. Hệ thống đất ngập nước cũng có thể
được áp dụng như một giai đoạn của xử lý sinh học [29].
Hình 1.5: Sơ đồ đất ngập nước dòng chảy ngầm theo chiều đứng
(vẽ lại theo Cooper, 1996) [33]
22
Bảng 1.5. So sánh ưu nhược điểm hệ thống dòng chảy ngang và dòng chảy thẳng đứng
[34, 35]
Loại hệ thống Ưu điểm Nhược điểm
Hệ dòng chảy
thẳng đứng
- Yêu cầu diện tích nhỏ
- Cung cấp oxy tốt, quá trình nitrat
hóa tốt
- Thủy lực đơn giản
- Hiệu suất lọc cao ngay từ đầu.
- Khoảng cách dòng chảy
ngắn
- Hiệu quả khử nitrat không
cao
-Yêu cầu kỹ thuật cao
-Loại bỏ phốt pho kém.
Hệ dòng chảy
ngang
- Khoảng cách dòng chảy dài giúp
gradients dinh dưỡng có thể được
thiết lập
- Quá trình nitrat và phản nitrat
diễn ra đồng thời
- Hiệu quả loại bỏ kim loại nặng
cao
- Hình thành axit humic trong quá
trình loại bỏ nitơ và phốt pho
- Tính toán cẩn thận chế độ
thủy lực cần thiết cho việc
cung cấp oxy tối ưu - Cân
bằng nước thải đầu vào là
phức tạp.
- Cơ chế loại bỏ các chất ô nhiễm [23]
Cơ chế loại bỏ chính là biến đổi sinh học, lọc vật lý, lắng, tủa hoá học và hút
bám như mô tả ở phần ĐNN dòng mặt. Sự loại bỏ N, P, kim loại và chất hữu cơ vết
kém hơn BOD và TSS và phụ thuộc thời gian lưu, đặc điểm môi trường vật liệu, tải
lượng và thực hành quản lý.
Loại bỏ BOD bằng cơ chế sinh học và vật lý. Sự loại bỏ này xảy ra trước hết
dưới điều kiện kỵ khí, tuy nhiên một phần được biến đổi nhờ các thể sống tuỳ nghi.
Tốc độ loại bỏ liên quan đến thời gian lưu, và nhiệt độ. Cơ chế loại TSS cũng tương tự
như trong ĐNN dòng mặt. Do không có vùng mặt nước thoáng, ĐNN dòng ngầm
tránh được luồng gió và vẩn đục nên có khả năng cho dòng ra có hàm lượng TSS thấp.
Phần lớn chất rắn lơ lửng sẽ lắng hoặc bị giữ lại ở khoảng cách từ 10 đến 20% tính từ
đầu vào. Sự tắc nghẽn là do tải lượng hữu cơ và thể rắn cao xảy ra ở vùng chảy vào.
Hầu hết sự tắc nghẽn nghiêm trọng xảy ra khi khoảng hẹp kéo dài, lại nhận nước thải
có nhiều tảo từ các ao tuỳ ý. Tảo bị giữ ở gần chỗ chảy vào và sự phân huỷ tảo làm
tăng tải lượng hữu cơ.
Loại bỏ N được thực hiện bởi quá trình nitrat hoá và khử nitrat. Chế độ dòng
ngầm gần với điều kiên kỵ khí ngoại trừ lớp mỏng trên đỉnh và các điểm nhỏ gần rễ
cây. Nitrat hoá đòi hỏi cung cấp ôxy hoặc từ rễ cây, sự thông khí trở lại ở bề mặt, sự
quay vòng nước đầu ra hoặc nạp theo mẻ để tạo ra dòng oxy vào trong môi trường
23
giữa các lần nạp. Sự thông khí phụ dùng ống ngầm có thể sử dụng để cấp oxy ở một
điểm trong dòng chảy.
Cơ chế loại P về cơ bản là giống với ĐNN dòng mặt. Môi trường đặc biệt đòi
hỏi để loại P do hút bám thực sự hiệu quả.
Loại bỏ kim loại thông qua cơ chế hút bám, lắng, tủa hoá học và cây hấp thu.
Cơ chế loại bỏ chất hữu cơ nồng độ vết giống với cơ chế trong ĐNN dòng mặt ngoại
trừ sự bay hơi và phân huỷ quang hoá thường ở mức hạn chế.
Loại bỏ vi sinh vật và virus do hút bám, lọc, lắng hoặc do sinh vật khác tiêu
hóa.
Hiệu suất quá trình xử lý
Hiệu suất của hệ thống ĐNN dòng ngầm phụ thuộc vào các chỉ tiêu thiết kế,
đặc tính nước thải và hoạt động của hệ thống.
Loại BOD: Hiệu suất loại bỏ BOD của hệ thống ĐNN dòng ngầm được trình bày
trong bảng 1.6.
Bảng 1.6. BOD bị loại bỏ trong một số hệ thống dòng ngầm [23]
Địa điểm
Tiền xử lý
Nồng độ
(mg/L)
Loại bỏ
(%)
Thời gian lưu
(ngày) Đầu vào Đầu ra
Benton,
Kentucky Ao oxy hoá 23 8 65 5
Masquite,
Nevada Ao oxy hoá 78 25 68 3,3
Santee,
California Sơ cấp 118 1,7 88 6
Sydnye,
Australia Thứ cấp 33 4,6 86 7
Loại BOD: Loại BOD của ĐNN dòng ngầm nhanh hơn và có phần đáng tin cây hơn
dòng trên mặt phần vì sự thối rữa của cây không xảy ra trong nước, do đó sinh ít chất
hữu cơ trong dòng nước qua xử lý thải ra môi trường [23].
Loại TSS: ĐNN dòng ngầm có hiệu quả trong loại bỏ phần tử lơ lửng trong nước đến
mức dưới 10 mg/L trong dòng ra [23].
Loại bỏ N: Có hệ thống ĐNN dòng ngầm loại đến 86% N trong nước thải, các hệ
thống khác loại 20 đến 70%. Khi thời gian lưu vượt 6 - 7 ngày, với nồng độ N trong
nước thải dòng vào là 20 - 25 mg/L, có thể đạt nồng độ N ở dòng ra khoảng 10 mg/L.
Nếu nước thải đã được nitrat hoá (dùng thông khí mở rộng, chảy tràn hoặc lọc cát quay
vòng), loại bỏ nitrat thông qua quá trình khử nitrat có thể đạt được với thời gian lưu 2-
4 ngày [23].
24
Loại P: Loại bỏ P trong ĐNN dòng ngầm không hiệu quả vì sự tiếp xúc hạn chế giữa
các vị trí hút bám và nước thải. Phụ thuộc vào tải lượng, thời gian lưu, đặc điểm môi
trường, loại bỏ P có thể đạt 10 - 40% lượng P dòng vào (từ 7 - 10 mg/L) [23].
Loại bỏ kim loại: Dẫn liệu sẵn có về loại bỏ kim loại trong nước thải đô thị còn hạn
chế. Trong hệ thống thoát nước khai mỏ có tính axit, sự loại bỏ Fe và Mn là hiệu quả.
Tổng lượng Fe giảm từ 14,3 đến 0,8 mg/L và Mn từ 4,8 xuống 1,1 mg/L. Có hệ thống,
lượng Cu, Zn và Cd giảm tới 99%, 97% và 99% tương ứng khi thời gian lưu là 5,5
ngày [23].
Loại bỏ mầm bệnh: ĐNN dòng ngầm loại bỏ rất hiệu quả coliform, có hệ thống đạt tới
99% khi thời gian lưu là 6 ngày [23].
1.3.4.3. Hệ thống thực vật thuỷ sinh nổi
Đất ngập nước với thực vật nổi tự do bao gồm một hoặc nhiều ao nông có thực
vật trôi nổi trên bề mặt. Độ sâu của hệ thống nông hơn và có sự hiện diện của thực vật
thủy sinh cỡ lớn mà không phải tảo là điểm khác biệt lớn nhất giữa vùng đất ngập
nước nhân tạo với hệ thống thực vật thủy sinh trôi nổi tự do hoặc ao ổn định [36].
TVTS điển hình tham gia quy trình xử lý ô nhiễm là Bèo tây, Bèo cái, Bèo
tấm,… Ngoài việc tham gia loại bỏ các chất hữu cơ, chất thải rắn, nitơ, photpho, kim
loại nặng, các tác nhân gây bệnh… các loài TVTS này tham gia trực tiếp việc hạn chế
phát sinh hiện tượng nước nở hoa trong ao hồ do cạnh tranh ánh sáng với thực vật phù
du [23].
TVTS trôi nổi thu nhận các chất dinh dưỡng và các nguyên tố cần thiết qua bộ
rễ phát triển trong nước. Sinh khối của một số loại bèo như Bèo tây, Bèo cái, Bèo tấm,
Bèo hoa dâu,... và các loại thực vật trôi nổi khác phát triển rất mạnh trong môi trường
nước thải. Bộ rễ của bèo còn là nơi cư trú của vi khuẩn hấp thụ và phân hủy chất hữu
cơ. Trong các ao hồ nuôi thực vật thủy sinh trôi nổi bậc cao, hiệu quả khử BOD có thể
lên đến 95%, khử nitơ amoni và photpho lên đến 97%. Hiệu quả thu hồi chất dinh
dưỡng nitơ có thể đạt từ 200 – 1500 kg/ha.ngày. TVTS trôi nổi còn cung cấp oxy cho
vi khuẩn để phân hủy các chất hữu cơ. Tuy nhiên TVTS trôi nổi phát triển sinh khổi
khá nhanh. Trong điều kiện phát triển bình thường (sau khi nuôi cấy 1 tuẩn lễ), sinh
khối của chúng có thể đạt 250 kg chất khô/ha.ngày. Vì vậy cần có định kỳ thu hồi
TVTS trôi nổi ra khỏi hồ để chống hiện tượng tái ô nhiễm nước hồ [37].
Cơ chế loại bỏ các chất ô nhiễm
- Xử lý BOD và TSS:
Một phần BOD bị lắng cùng với TSS khi nước thải chảy vào trong hệ thống.
Phần khác sẽ bị loại do lọc qua hệ rễ bèo cùng với TSS. BOD dạng hoà tan sẽ được rễ
bèo hấp thu. Lưu ý quan trọng để thiết kế đối với việc loại bỏ BOD hoà tan trong hệ
25
thống sử dụng bèo là chuyển nước thải đến vùng rễ bèo. BOD hoà tan cũng được loại
bỏ do vi khuẩn trong cột nước. Cuối cùng, một phần BOD liên kết với các mảng vụn
hữu cơ trong TSS tích luỹ trong vùng rễ được hấp thu và biến đổi bởi các cơ thể sống
bám ở rễ, các cơ thể này sử dụng oxy do cây vận chuyển đến rễ. Rễ bèo già và rụng
xuống đáy ao hay mương mang theo SS và vi khuẩn. Các chất tích tụ ở đáy sẽ trải qua
sự phân huỷ kị khí lâu dài. Vì lọc sinh học là cơ chế quan trọng nên việc vận chuyển
nước thải tới vùng rễ bèo đòi hỏi phải có sự tính toán thiết kế chuẩn cho hệ thống sử
dụng bèo.
- Xử lý nitơ
Nitrat hoá và khử nitrat sinh học là 2 cơ chế chính của việc loại bỏ nitơ. Một
phần nitơ hữu cơ bị loại qua lắng. Nitơ cũng bị bèo hấp thu và bị loại khi thu hoạch
bèo nhưng không hiệu quả. Một phần nitơ cũng mất mát do bay hơi khi được cấp khí
oxy. Nitrat hoá và khử nitrat sinh học cơ bản xảy ra ở vùng rễ. Việc nước thải chảy
qua vùng rễ là rất quan trọng.
- Xử lý phốt pho
Phốt pho được loại ra khỏi nước thải chủ yếu qua việc hút bám của các chất rắn
trong nước thải, chất hữu cơ trong lớp bùn và hấp thu của bèo. Thu bèo chỉ loại được
phần hạn chế photpho. Ngay photpho hút bám vào các chất hữu cơ trong lớp bùn cũng
vẫn còn trong hệ thống. Vì vậy, phốt pho nên được loại bỏ trước hoặc sau khi xử lý
bằng hệ thống này.
- Loại kim loại nặng
Kim loại bị loại bỏ chủ yếu do hút bám vào các chất rắn trong nước thải hay các
vật chất do bèo sinh ra. Cây hấp thu kim loại nặng cũng loại bỏ phần nào khi thu bèo.
Phần kim loại hấp phụ trong chất hữu cơ lắng đọng xuống bùn đáy có thể giải phóng
trở lại.
- Loại các mầm bệnh
Các mầm bệnh bị loại bởi lắng và lọc như mô tả trên và sự phân rã tự nhiên
trong nước, trong đó phân huỷ sinh học tự nhiên là quá trình cho hiệu quả cao nhất.
1.3.5. So sánh hệ thống công nghệ dòng chảy mặt và dòng chảy ngầm
Bảng 1.7 liệt kê các ưu điểm và nhược điểm của hai kiểu hệ thống dòng chảy
mặt và dòng chảy ngầm. Với bảng so sánh này, có thể nói hệ dòng chảy ngầm có nhiều
ưu thế hơn hệ dòng chảy mặt. Do nước thải trong hệ dòng ngầm chảy qua các lớp nền
xốp như cát sỏi có thể tránh được sự bốc mùi hôi, sự phơi bày màu đen của nước, sự
phát triển của vi tảo và ảnh hưởng của các mầm bệnh do nước tù. Diện tích đất cần cho
hệ dòng ngầm nhỏ hơn cho hệ dòng chảy mặt nếu so sánh với cùng một điều kiện
lượng tải nạp nước thải. Nhiều nơi trên thế giới dùng đất ngập nước nhân tạo kiểu chảy
26
ngầm với chất nền là cát sỏi như một biện pháp tiền xử lý các nguồn đa tạp của nước
thải đô thị. Tuy vậy, cũng có nơi chọn phương án bố trí ĐNNNT ở cuối hệ thống xử lý
nước thải như biện pháp lọc qua đất cuối cùng trước khi thải ra môi trường [38].
Bảng 1.7. So sánh ưu điểm và nhược điểm của hệ thống dòng mặt và hệ thống dòng ngầm
Kiểu hệ
thống Ưu điểm Nhược điểm
Chảy mặt
▪ Chi phí xây dựng, vận hành và quản lý
thấp.
▪ Tối thiểu hóa thiết bị cơ khí, năng lượng
và kỹ năng quản lý.
▪ Ổn định nhiệt độ và ẩm độ cho khu vực
▪ Cần diện tích lớn
▪Kém loại bỏ nitơ, photpho và
vi khuẩn.
▪ Gây mùi hôi do sự phân hủy
các chất hữu cơ.
▪ Khó kiểm soát muỗi, côn
trùng và các mầm bệnh khác.
▪ Rủi ro cho trẻ em và gia súc
Chảy ngầm
▪ Loại bỏ hiệu quả nhu cầu oxy sinh hóa
(BOD), nhu cầu oxy hóa học (COD), tổng
các chất rắn lơ lửng (TSS), kim loại nặng.
▪ Cần diện tích nhỏ hơn
▪ Giảm thiểu mùi hôi, vi khuẩn
▪ Tối thiểu hóa thiết bị cơ khí, năng lượng
và kỹ năng quản lý.
▪ Vận hành quanh năm trong điều kiện nhiệt
đới.
▪ Tốn thêm chi phí cho vật
liệu cát, sỏi
▪ Tốc độ xử lý có thể chậm
▪ Nước thải chứa TSS cao có
thể gây bít tắc dẫn đến tình
trạng úng ngập.
(Davis, 1995)
Hầu hết các hệ thống ở Mỹ thường chọn kiểu đất ngập nước nhân tạo chảy
ngầm theo phương ngang trong khi ở châu Âu lại chuộng kiểu đất ngập nước nhân tạo
chảy ngầm theo phương đứng [65]. Lý giải sự lựa chọn này là do đất ở châu Âu có độ
dốc lớn, trong khi ở Mỹ, thế đất bằng phẳng chiếm ưu thế nhiều hơn. Ở Đồng bằng
sông Cửu Long, hệ thống đất ngập nước nhân tạo chảy ngầm theo phương ngang có vẻ
phù hợp hơn kiều chảy theo phương đứng do cao trình mực nước ngầm tầng trên khá
cao, chỉ cách mặt đất tự nhiên chừng vài chục cm.
Trong một báo cáo của một số nhà khoa học, hiệu quả xử lý chất ô nhiễm tại
nhiều hệ thống đất ngập nước nhân tạo khác nhau ở Mỹ đã được tổng kết như ở bảng
1.8 [39].
27
Bảng 1.8. Hiệu quả loại bỏ BOD5 và TSS tại một số kiểu hệ thống đất ngập nước nhân tạo
Địa điểm
Kiểu hệ thống
đất ngập nước nhân
tạo
Hiệu quả
loại bỏ BOD5
(%)
Hiệu quả
loại bỏ TSS
(%)
Listowel, Ontario Chảy mặt 72 76
Arcata, California Chảy mặt 53 85
Brookhaven, New York Chảy mặt 89 88
Santee, California Chảy ngầm 80 90
Iselin, Pennsylvania Chảy ngầm 82 92
Benton, Kentucky Kết hợp 58 77
Neshaminy, Pennsylvania Kết hợp 96 94
(Hammer et al., 1989)
1.3.6. Sơ lược về một số loài thực vật thủy sinh nghiên cứu
Cây trồng được sử dụng trong hệ thống xử lý là những cây dễ tìm kiếm, có khả
năng sinh trưởng tốt trong nước, thích nghi tốt với điều kiện môi trường và tạo
được vẻ đẹp cảnh quan.
a. Cây Bèo tây
Cây Bèo tây (Eichhornia crassipes) là cây sống trôi nổi trên mặt nước, rễ bèo
như lông vũ, màu đen ngập trong nước, lá hình tròn, màu xanh lục và nhẵn mặt, cuống
lá nở ra như bông xốp giúp cây bèo nổi trên mặt nước.
Bèo tây được thu tại ao tự nhiên ở Hải Bối (Sóc Sơn) và Cổ Nhuế (Bắc Từ
Liêm). Chọn cây khỏe, có kích thước trung bình, đều nhau, có hệ rễ phát triển tốt. Các
cây thu được đem về trại thực nghiệm lưu giống phục vụ cho các thí nghiệm sau này.
Hình 1.6. Bèo tây (Eichhornia crassipes)
28
b. Cây Bèo cái
Bèo cái (Pistia stratiotes) là một chi TVTS trong họ Ráy (Araceae), chỉ có một
loài duy nhất. Bèo cái là cây thân thảo, trôi nổi trên mặt nước trong khi rễ của nó chìm
dưới nước, lá dầy, mềm, có khả năng chịu được khí hậu lạnh rất tốt.
Bèo cái được thu tại ao tự nhiên ở Hải Bối (Sóc Sơn) và Cổ Nhuế (Bắc Từ
Liêm). Chọn cây khỏe, có hệ rễ phát triển, các cây có kích thước đều nhau. Bèo cái thu
về được lưu giống tại trại thực nghiệm để chuẩn bị cho các thí nghiệm sau này.
Hình 1.7. Bèo cái (Pistia stratiotes)
c. Cây Rau muống
Rau muống (Ipomoea aquatica) là một loài thực vật nhiệt đới bán thủy sinh
thuộc họ Bìm bìm (Convolvulaceae). Cây mọc bò, ở mặt nước hoặc trên cạn.
Hình 1.8. Rau muống (Ipomoea aquatica )
29
Cây Rau muống được thu tại ruộng ở Cổ Nhuế (Bắc từ Liêm) và Đại Mỗ (Nam
Từ Liêm). Chọn cây tươi non, sức sống khoẻ, có hệ rễ phát triển, không bị sâu bệnh.
Các cây được thu mang về trồng tại trại thực nghiệm để nhân giống chuẩn bị cho các
thí nghiệm sau này.
d. Ngổ trâu
Cây Ngổ trâu (Enydra fluctuans Lour) thuộc chi Enydra. Ngổ trâu là cây cỏ,
thân dài, mọc ở dưới nước, sống nổi trên mặt nước do thân xốp. Lá và thân non mầu
tím, ngọn non có thể ăn được.
Hình 1.9. Cây Ngổ trâu (Enydra fluctuans)
Ngổ trâu phổ biến ở Bắc bộ và Trung bộ nước ta, có thể phát triển mạnh trong
nước bẩn, chịu được khí hậu đa dạng. Ngổ trâu được lấy từ các ao tự nhiên khu vực Cổ
Nhuế (Bắc Từ Liêm) mang về trồng trong ruộng nước tại trại thực nghiệm để nhân
giống chuẩn bị cho các thí nghiệm sau này.
e. Cải Xoong
Cải xoong có tên khoa học là Rorippa nasturtium aquaticum thuộc họ cải
(Brassicaceae), là cây thuỷ sinh nhiều năm có lá kép lông chim sống ở rãnh nước, ao,
hồ, ruộng các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Cây Cải xoong được thu từ ruộng ở Cổ Nhuế (Bắc Từ Liêm). Cây thu mang về
trồng tại trại thực nghiệm để nhân giống chuẩn bị cho các thí nghiệm sau này.
30
Hình 1.10. Cây Cải xoong (Rorippa nasturtium aquaticum)
g. Cây Sậy
Cây Sậy (Phragmites australis), là một loài cây lớn thuộc họ Hòa thảo (Poaceae)
phân bố ở những vùng đất lầy ở cả khu vực nhiệt đới và ôn đới. Khi các điều kiện sinh
trưởng thích hợp, Sậy có thể tăng chiều cao tới 2 - 3 m hoặc hơn, có căn hành bò, thân
to 1 - 1,5 cm, lá có phiến rộng 1,5 - 2,5 cm, dài từ 20 - 30 cm. Sậy được thu từ ven
sông Hồng về trồng trong trại thực nghiệm. Cây khi sử dụng trong thí nghiệm đều
chọn loại bánh tẻ, sức sống tốt, không bị sâu bệnh.
Hình 1.11. Cây sậy ( Phragmites australis)
31
h. Cỏ Vetiver
Hình 1.12. Cỏ Vetiver (Vetiveria zizanioides )
Cỏ Vetiver (Vetiveria zizanioides) thuộc họ Graminae, là loài phân bố rộng ở
các vùng nhiệt đới. Cỏ Vetiver có thân đặc chắc và hóa gỗ. Thân mọc thẳng đứng cao
từ 1,5 - 2m. Lá hẹp dài, cánh lá thường gập đôi ở gân chính giữa, rễ chùm.
Cỏ Vetiver thích nghi rộng rãi trong điều kiện môi trường khác nhau. Ở Việt
Nam, Vetiver gọi là cỏ Hương Bài hoặc cỏ Hương Lau. Ngoài tác dụng chống xói lở
bở đất, Vetiver cũng dần được sử dụng trong xử lý ô nhiễm môi trường.
i. Thủy trúc
Cây Thủy trúc còn có tên là Lác dù, tên khoa học Cyperus alternifolius, thuộc
họ Cyperaceae (Cói). Cây có nguồn gốc xuất xứ từ Madagasca. Là cây thân thảo, mọc
thành cụm. Lá tiêu giảm thành bẹ ở các gốc, thay vào đó các lá bắc ở đỉnh lại lớn, xếp
thành vòng tròn, xoè rộng ra xung quanh. Cây ưa sống ở ven bờ nước, nơi đất ẩm.
Được nghiên cứu và sử dụng để làm sạch nước bị ô nhiễm.
Hình 1.13. Cây Thủy trúc (Cyperus alternifolius)
32
1.4. Ứng dụng thực vật thủy sinh trong xử lý nước thải và nước thải chăn nuôi lợn
1.4.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Các nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải và xử lý nước thải chăn
nuôi lợn trên thế giới được tổng hợp và trình bày ở bảng 1.9:
+ Nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải
Hệ thống đất ngập nước nhân tạo dòng chảy mặt, được xây dựng trên cơ sở sinh
thái đất ngập nước tự nhiên, cho mục tiêu chính là xử lý nước thải. Vào đầu những
năm 1950, ý định đầu tiên sử dụng thực vật đất ngập nước để loại bỏ các chất ô nhiễm
khác nhau từ nước thải là do K. Seidel ở Đức [32]. Sau đó, trong giai đoạn 1960 -
1980, Seidel và cs tại Viện Max Planck ở Đức sau nhiều nghiên cứu đã đề xuất kỹ
thuật đất ngập nước nhân tạo dòng chảy mặt [49].
32
Bảng 1.9. Tình hình nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải trên thế giới
TT Năm Tác giả Loại hình
công nghệ Đối tượng xử lý Quy mô công nghệ
TVTS sử
dụng
Hiệu quả xử lý (%) Quốc gia TLTK
TN TP COD
1 1995 Delgado CN dòng chảy
trên bề mặt
Nước thải chăn
nuôi lợn Bèo tây
75-88%
NH4-N; 60%
NO3-N
60 [40]
2 2002 Stone và cs CN dòng chảy
trên bề mặt
Nước thải chăn
nuôi lợn 4 (3,6x 33,5m)= 482
Cây Bấc, cây
Cói, Cỏ nến 85 25-38
North
Carolina,
USA
[41]
3 2003 Xindi và cs Nước thải chăn
nuôi lợn
Thí nghiệm mẻ
50x38.5x 23 cm (L-
W-H)
Cỏ Vetiver,
Thủy trúc 56,5 China
[42]
4 2004 Poacha Kiểu đầm lầy
kết hợp với ao
Nước thải chăn
nuôi lợn
2 cái (3,6x67m =
241,2 m2) Cỏ nến 37-51 13-26 30-50
North
Carolina,
USA
[43]
5 2008 Sohsalam và cs CN dòng chảy
trên bề mặt
Nước thải chế biến
thủy sản
0,6 m sâu, dài 2,0 m
và 0,5 m rộng
Cây cói,
Chuối hoa, Cỏ
nến, Thủy
trúc, Hương
bồ lá hẹp...
72-92 72-77
91–
99%
BOD5
Thailand [44]
6 2009 Harrington and
Mcinnes
Vùng đất ngập
nước
Nước thải chăn
nuôi lợn
12 vùng đất ngập
nước trong lưu vực
suối Annestown
(khoảng 15ha)
Vùng đất ngập
nước tự nhiên 98% NH4-N 95 Ireland
[45]
7 2014 Lee và cs Nước thải chăn
nuôi lợn
30.000 lợn, rộng
4492 m2 Sậy, Lau 20 Korea [46]
8 2015 Haque and Saleem
CN dòng chảy
ngầm ngang
và dòng chảy
bề mặt
Nước thải sinh hoạt
Xử lý nước sinh hoạt
làng Chattal có 400
hộ dân
Vùng đất ngập
nước tự nhiên 68,1 Pakistan [47]
9 2017 Zhang và cs
Công nghệ
dòng chảy
ngầm
Nước thải chăn
nuôi lợn 62 90 Nhật
[48]
33
Một công trình đất ngập nước nhân tạo dòng chảy mặt hoàn chỉnh đã được xây
dựng ở Hà Lan vào năm 1967 - 1969 để xử lý nước thải cho một vùng đất dùng để
cắm trại. Những năm sau đó, lần lượt có khoảng 20 khu đất ngập nước nhân tạo dòng
chảy mặt được xây dựng ở Hà Lan. Rất nhiều nghiên cứu khoa học về tác dụng của
cây cỏ ở vùng đất ngập nước trong việc xử lý nước thải đã được công bố từ năm 1955
đến cuối thập niên 1970. Năm 1974, vùng Othfresen ở Đức xây dựng hoàn chỉnh một
khu đất ngập nước chảy ngầm theo phương ngang. Trong thời kỳ ban đầu, ở Đức và
Đan Mạch, đất dùng là đất sét nặng. Hệ thống này cho kết quả nước đầu ra rất tốt
nhưng do độ dẫn thủy lực thấp nên về sau bị tình trạng úng nước cục bộ, vì vậy có lúc
hệ thống phải chỉnh sửa theo kiểu chảy mặt. Cuối thập niên 1980, ở Anh Quốc, đất
được thay bằng sạn sỏi đã sàng rửa và lần này cho kết quả khá thành công. Vào giữa
năm 1985, Trung tâm Nghiên cứu Nước Anh Quốc (the British Water Research
Centre) lần đầu tiên đã chứng minh tiềm năng cải thiện chất lượng nước của dòng
chảy ngang qua các hệ thống xử lý trồng Sậy. Vào khoảng giữa năm 1985 - 1990,
Công ty Weyerhaeuser bắt đầu nghiên cứu hai hệ thống đất ngập nước chảy mặt thí
điểm riêng biệt để xử lý nước thải của nhà máy giấy và bột giấy. Vùng lõm khu xử lý
được trồng các loại cây cỏ Giây (Spartina cynosuroides), cỏ Đuôi mèo (Typha
latifolia), Sậy (Phragmites australis). Từ năm 1985 đến nay, hàng trăm hệ thống đất
ngập nước đã được xây dựng khắp thế giới, đặc biệt ở các quốc gia châu Âu (Áo, Bỉ,
Đan Mạch, Pháp, Đức, Thụy Điển, Thụy Sĩ, Hà Lan, Anh Quốc), Bắc Mỹ, Úc và châu
Á (Trung Hoa và Ấn Độ). Tháng 9/1990, Hội nghị Quốc tế về Đất ngập nước Kiến tạo
đã họp tại Cambridge, Anh Quốc để giới thiệu một tài liệu hướng dẫn của Châu Âu về
thiết kế và vận hành các hệ thống xử lý cho nền đất trồng Sậy [51]. Đất ngập nước
kiến tạo chảy mặt dùng chất nền là sạn, sỏi thường được dùng rộng rãi ở Mỹ [52]. Một
nghiên cứu tại Tây Ban Nha đã kết luận đất ngập nước nhân tạo là một giải pháp bền
vững để xử lý nước thải các khu làng xã nhỏ [52].
Hơn 10 năm qua đến nay, nhiều nhà khoa học trên nhiều lãnh vực khác nhau đã
có những nghiên cứu sâu và rộng cho nhiều giải pháp liên quan đến hệ thống đất ngập
nước. Hiện nay, hệ thống đất ngập nước kiểu kết hợp giữa chảy mặt và chảy ngầm phổ
biến ở Châu Âu. Nhiều mô hình toán và vật lý mới cho dòng chảy nước thải qua đất
ngập nước kiến tạo đã được thành lập bên cạnh những thành tựu đo đạc tiến bộ trong
thủy văn, sinh thái học, hóa học, môi sinh học và quản lý tài nguyên thiên nhiên. Các
công bố quan trọng có thể kể: phương trình chuyển vận chất ô nhiễm hòa tan trong
nước ngầm [54]; Mô hình mô phỏng kín động lực học của đất ngập nước kiến tạo chảy
ngầm [55]; Ảnh hưởng của các đặc trưng ô nhiễm trong thiết kế đất ngập nước, gồm
cả ảnh hưởng các tiềm thế của sự phân bố thời gian tồn lưu và hằng số tốc độ loại bỏ
chất ô nhiễm bậc một [36]; Thử nghiệm thủy lực chất lưu vết tại các vùng đất ngập
34
nước Predo Riverside County, California, US và đánh giá so sánh đường cong xuyên
tuyến (breakthrough curve – BTC) của hai hóa chất Rhodamine WT® và Bromide lên
việc xác định đặc tính thủy lực của đất ngập nước nhân tạo [56].
Tại các nước phát triển như Đức, Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc,… công nghệ
xử lý nước thải sử dụng TVTS đã được phát triển rất thành công. Từ những năm 1980
rất nhiều cơ sở xử lí nước thải tại các bang nước Mỹ đã phát triển và ứng dụng công
nghệ xử lí ô nhiễm với việc sử dụng các loài thực vật nổi và hệ thống hồ ổn định.
Phương pháp xử lí ô nhiễm hữu cơ và vô cơ tại vùng rễ của một số TVTS - còn gọi là
“Phương pháp vùng rễ”, đã được các nhà khoa học Đức nghiên cứu và triển khai có
hiệu quả tại nhiều nơi. Các nhà khoa học Nhật Bản đã thiết kế những hệ thống làm
sạch nước ô nhiễm sử dụng hệ sinh thái TVTS dưới dạng Bio-park để giảm bớt ô
nhiễm các hồ lớn, thông qua đó kiểm soát hiện tượng nở hoa của nước do vi tảo phát
triển trong đó có tảo độc [57].
Sohsalam và cs (2008) [43], nghiên cứu khả năng xử lý nước thải chế biến thủy
sản theo công nghệ dòng chảy trên bề mặt sử dụng các cây cỏ như Cói, Chuối hoa, cỏ
Nến. Hệ thống được nạp nước thải pha loãng 2 lần. Hiệu suất xử lý cao ở thời gian lưu
5 ngày và loại bỏ trung bình 91 - 99% BOD5, 52 - 90% SS, 72 - 92% TN và 72 - 77%
TP.
Haque and Saleem (2015) [47], xử lý nước thải bằng hệ thống đất ngập nước tại
làng Chattal, quận Chakwal (vùng đất khô cằn), hệ thống này duy trì hoạt động tốt từ
việc bán nước đã xử lý cho nông dân và thu hoạch TVTS. Kết quả nghiên cứu cho
thấy giảm đáng kể COD và BOD tương ứng 86,1% và 91,4% dưới giới hạn cho phép
của Pak-EPA. Nước sau xử lý được cải thiện đáng kể như độ đục giảm từ 15 NTU
xuống còn 2 NTU. Để xác định hiệu quả của hệ thống này, các khảo sát sức khỏe chi
tiết đã được thực hiện tại làng Chattal. Kết quả cho thấy bệnh tiêu chảy và viêm gan đã
giảm đáng kể từ 92,5% xuống còn 40%, môi trường kinh tế-xã hội, môi trường sinh
thái và sức khỏe của ngưởi dân nông thôn tại làng Chattal được cải thiện đáng kể. Mô
hình này chứng tỏ rất phù hợp với các vùng nông thôn ở các nước đang phát triển đặc
biệt là ở Nam Á và châu Phi.
Như vậy, công nghệ xử lý ô nhiễm nước có sử dụng loại TVTS đã được sử
dụng rộng rãi trên thế giới từ nhiều thập kỷ qua để xử lý nước thải công nghiệp và sinh
hoạt. Trong các năm gần đây, công nghệ này được sử dụng như là phương pháp hiệu
quả và được xã hội chấp nhận trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn với chi phí thấp và
vận hành đơn giản.
+ Nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn.
35
Delgado (1995) [40], nghiên cứu xác định khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng
hữu cơ và vô cơ từ nước phân lợn của cây Bèo tây. Kết quả cho thấy hệ thống xử lý
nước thải có sử dụng Bèo tây có khả năng giảm 100% hàm lượng COD (60% giảm do
Bèo tây nếu hàm lượng COD cao nhất trong nước thải là 1000 mg/L), cây Bèo tây có
thể hấp thụ 75 - 88% lượng NH4 – N, 60% lượng NO3-N. Tốc độ hấp thụ của Bèo tây
có mối liên hệ đáng kể đến các yếu tố thời tiết (nhiệt độ, cường độ ánh sang, độ
ẩm,…).
Đối với dòng chảy bề mặt, theo Stone và cs (2002) [40], hệ thống dòng mặt
trồng cây Bấc (Juncus effusus), Cói (Scirpus americanus, Scirpus cyperinus, và
Scirpus validus) và cỏ Nến (Typha angustifolia và T. latifolia) để xử lý nước thải chăn
nuôi lợn (đã qua xử lý bằng hồ sinh học) đã loại bỏ TN là 84%, NH4+ là 86% và TP từ
25% đến 38%.
Nghiên cứu của Xindi và cs (2003) [41], sử dụng cỏ Vetiver và Thủy trúc
(Cyperus alternifolius) trong điều kiện thí nghiệm theo mẻ với hàm lượng COD, BOD,
đầu vào tương ứng là 825mg/L, 500mg/L. Sau 8 ngày thí nghiệm hệ thống đã loại bỏ
được 56,5% với COD và 59,9% BOD. Ở quy mô lớn P.G. Hunt và cs (2002) [58] đã
sử dụng hệ thống này để xử lý nước thải sau công đoạn xử lý yếm khí ở trang trại chăn
nuôi quy mô hàng ngàn đầu lợn. Kết quả cho thấy, với tải lượng N đầu vào dao động
trong từ 3 - 25 kg/ha.ngày, tỉ lệ loại bỏ N của hệ thống đều đạt trên 80%. Theo Poach
và cs (2003) [58], hệ thống có khả năng chuyển hóa T-N khá cao, ngoài ra hệ thống
còn giảm khả năng bay hơi amoni. Sinh khối thực vật và khả năng tích lũy dinh dưỡng
trong hệ thống cũng tương đối lớn. Với tải lượng COD khoảng 590 kg/ha/.ngày, sản
lượng cỏ Tiflon (Cynodon dactylon) thu được đạt khoảng 68,3 tấn/ha, hàm lượng T-N
tích lũy trong cây khoảng 2043 kg/ha. Trong công bố khác của Hunt và cs (1999) [60]
với hệ thống trồng hỗn hợp Typha latifolia và Sparganium americanum, hàm lượng T-
N tích lũy là 428 kg/ha và 338 kg/ha.năm trong hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi
lợn.
Một nghiên cứu khác của Poacha (2004) [42] về hệ thống đất ngập nước trồng
cỏ Nến theo kiểu đầm lầy kết hợp với ao để xử lý nước thải chăn nuôi lợn trang trại
trong suốt 2 giai đoạn thí nghiệm mùa đông và mùa hè. Phân tích cho thấy hệ thống đã
loại trung bình 35 - 51% TSS, 30 - 50% COD, 37 - 51% TN và 13 - 26% TP; đặc biệt
hiệu quả xử lý với các thông số COD, N thay đổi đáng kể giữa mùa hè và mùa đông.
Hiệu quả loại bỏ có xu hướng giảm khi giảm nhiệt độ và tăng lượng mưa. Nghiên cứu
này cho thấy ngoài việc thiết kế hệ thống, quy trình vận hành… thì các yếu tố môi
trường cũng có những ảnh hưởng nhất định tới hiệu quả xử lý của hệ thống này.
Harrington and McInnes (2009) [45], sử dụng công nghệ sinh thái với cây thủy
sinh kết hợp với công nghệ khác trong quản lý nước thải chăn nuôi đạt được các mục
tiêu xã hội, kinh tế và môi trường. Kết quả hoạt động 8 năm của 12 hệ thống như vậy ở
36
Ireland đã chứng minh hiệu quả và tính bền vững của loại công nghệ này. Hiệu quả
loại tổng số phốtpho và amôni tương ứng là 95 và 98%.
Lee và cs (2014) [46], để đánh giá sự thay đổi và cân bằng N trong hệ thống đất
ngập nước tác giả đã nghiên cứu và đánh giá hệ thống đất ngập nước tại thành phố
Nonsan của Hàn Quốc trong 4 năm (từ năm 2008 đến năm 2012). Hệ thống đất ngập
nước này là khâu xử lý cuối cùng của hệ thống xử lý nước thải chăn nuôi lợn tại trang
trại 30.000 lợn. Hệ thống rộng 4492 m2, chia làm 6 ngăn, trồng 2 loại TVTS chính là
Sậy và Lau. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng hiệu quả xử lý TN đạt 20%, NH4+- N
đạt 27%, tải lượng nitơ trung bình ở dòng vào là 37.819 kg/năm và khoảng 45% trong
số đó đã thoát ra ngoài hệ thống cùng nước thải, các quá trình khử nitơ lên tới 34% của
nitơ đầu vào, 7% nitơ được tích lũy trong đất và trầm tích, chỉ có 1% nitơ đầu vào
được thực vật thủy sinh hấp thụ. Để nâng cao loại bỏ chất dinh dưỡng bởi sự hấp thu
của thực vật thì có thể tăng thêm các loài thưc vật trong hệ thống đất ngập nước.
Zhang và cs (2017) [48], sử dụng hệ thống đất ngập nước dòng chảy ngầm để
xử lý nước thải chăn nuôi lợn trong khí hậu lạnh ở Nhật Bản. Hệ thống đã loại bỏ
COD khoảng 90%, TN khoảng 62%. Nghiên cứu đã chứng minh rằng hệ thống xử lý
này có hiệu quả loại bỏ chất ô nhiễm tích cực và duy trì lâu dài, hiệu quả đạt được
ngay cả trong điều kiện khí hậu cực kỳ lạnh và nhiều năm sau khi xây dựng.
Như vậy, qua tổng hợp phân tích về tình hình nghiên cứu xử lý chất thải nói
chung và chất thải từ ngành chăn nuôi, nhất là chăn nuôi lợn quy mô trang trại (bảng
1.9), có thể thấy:
Những nước phát triển như Mỹ, Pháp, Nhật Bản, Đức, Hàn Quốc,... là những
nước khai thác sớm nhất và triệt để nhất ưu điểm của TVTS trong việc phát triển các
công nghệ xử lý nước thải nói chung và nước thải chặn nuôi lợn nói riêng.
Nghiên cứu ứng dụng các loại hình CNST với TVTS trong xử lý nước thải chăn
nuôi trên thế giới từ rất sớm và phát triển rất thành công. Nhiều nhà khoa học trên
nhiều lãnh vực khác nhau đã có những nghiên cứu sâu và rộng, không chỉ dừng lại ở
nghiên cứu thử nghiệm quy mô nhỏ mà có nhiều nghiên cứu về lựa chọn công nghệ và
xây dựng mô hình triển khai vào thực tế quy mô lớn (hệ thống xử lý dùng TVTS với
diện tích từ hơn 200 m2 đến 15 ha).
Các loại hình công nghệ phổ biến là công nghệ dòng chảy bề mặt và công nghệ
dòng chảy ngầm. Ở châu Âu phổ biến là kết hợp giữa chảy mặt và chảy ngầm.
Các loại TVTS được sử dụng phổ biên là: Sậy, Lau, cỏ Vetiver, Thủy trúc, Bèo
tây, cỏ Nến, Cói.
Ứng dụng CNST sử dụng TVTS để xử lý nước thải thân thiện với môi trường,
chi phí thấp, dễ vận hành, hiệu quả xử lý cao, ổn định (hiệu quả xử lý COD dao động
từ 30 - 68,1%, TN dao động từ 20 - 98%, TP dao động từ 13 - 95 %).
1.4.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
37
Các nghiên cứu sử dụng TVTS để xử lý nước thải và xử lý nước thải chăn nuôi
lợn trong nước được trình bày ở bảng 1.10.
Ở Việt Nam, các nghiên cứu về khả năng xử lý nước thải của một số loài TVTS
đã được tiến hành từ những năm 1985, Trần Hiếu Nhuệ và Trần Đức Hạ (1985) [61]
đã có một số nghiên cứu ban đầu về việc xử lý nước thải Hà Nội bằng phương pháp
lắng kết hợp với hồ sinh học. Lâm Minh Triết (1990) [62] nghiên cứu áp dụng hệ
thống hồ sinh học ba bậc với thực vật nước để xử lý bổ sung nước thải nhiễm dầu
trong điều kiện Việt Nam.
Nguyễn Việt Anh và cs (2005) [63], đã nghiên cứu xử lý nước thải sinh hoạt
(sau bể tự hoại) bằng bãi lọc ngầm trồng cây dòng chảy thẳng đứng với cây thử
nghiệm là cỏ Nến (Typha orientalis), Sậy (Phragmites communis), Thuỷ trúc (Cyberus
involucratus), Phát lộc (Dracaena fragrans). Hiệu quả xử lý nước của hệ thống khá tốt
và ổn định. Tác giả cho rằng công nghệ này phù hợp với qui mô hộ hay nhóm hộ gia
đình, điểm du lịch, dịch vụ, trang trại,... của nước ta.
Dương Đức Tiến và cs (2006) [64], nghiên cứu xây dựng mô hình hệ thống đất
ngập nước nhân tạo (kết hợp xử lý kị khí, ao thực vật nổi và mương trồng Sậy) để xử
lý nước thải sinh hoạt tại thành phố Việt Trì. Với thời gian lưu 7 ngày cho hiệu quả xử
lý tốt, nước sau xử lý có COD và BOD dưới ngưỡng cho phép, không còn mùi hôi
Trần Văn Tựa và cs (2008) [65], sử dụng Sậy và cỏ Vetiver trong xử lý nước
thải chứa Crôm và Niken theo phương pháp vùng rễ ở quy mô pilôt (73 lít/ ngày), thời
gian lưu 7 ngày cho hiệu suất xử lý đạt trên 70% với Ni và trên 90% với Cr6 và Cr3.
Nước sau xử lí đạt TC - B của TCVN 5945 - 2005 trở lên xét theo hàm lượng Ni, Cr3,
Cr6, TN, TP và COD.
Trần Văn Tựa và cs (2010) [66], sử dụng 4 loại TVTS Bèo tây, Rau muống,
Ngổ trâu, Cải xoong để xử lý nước hồ phú dưỡng tại khu thực nghiệm Cổ Nhuế. Hệ
thống xử lý là các mương dài nông (dài 4,6m, rộng 0,8m, sâu 0,2m) trồng cây cho
nước chảy qua. So với đối chứng, hiệu suất xử lý TN tăng từ 2,10 đến 3,19 lần. Với
các chỉ số: TSS, TP, COD và Chl.a, hiệu suất tăng tương ứng là 2,85 - 3,32; 1,87 -
2,14; 2,03 - 4,88 và 2,54 - 2,89 lần. Khi hệ thống hoạt động liên tục, hiệu suất loại bỏ
Chl.a, TSS, TN, TP, COD tương ứng là 64 - 91%, 53 - 83%, 20 - 32%, 42 - 67%, 49 -
64%. Nước đầu ra có lượng T.coliform giảm 6 - 10 lần và đạt mức A về chất lượng
nước mặt theo QCVN08 - 2008/BTNMT của Bộ Tài nguyên và môi trường. Dẫn liệu
trên đây là khả quan cho việc mở rộng thực nghiệm hiện trường nhằm ứng dụng hệ
thống TVTS trong xử lý nước ao hồ phú dưỡng trong điều kiện nước ta.
Trần Văn Tựa và cs (2011) [67], sử dụng Bèo tây và Bèo cái để xử lý nước thải
chế biến thủy sản. Ở quy mô pilot 200 lít/ngày, hiệu suất làm sạch của Bèo tây là
78,05% với COD, 33,43% với TN và 44,47% với TP, trong khi Bèo cái làm sạch được
68,03% COD, 26,76% TN và 20,61% TP. Quy trình xử lý nước thải chế biến thủy sản
38
bằng hệ thống thực vật nổi ở quy mô pilôt đã vận hành tốt và bước đầu thu được kết
quả khả quan. Sau khi được xử lý qua quy trình, lượng COD, TN và TP trong nước
thải bị loại bỏ với hiệu suất lần lượt là 93,14%, 50,53% và 55,92%. Nước thải sau xử
lý đạt tiêu chuẩn thải loại A theo TCVN 5945 - 2005 xét về hàm lượng COD, TN, TP
và Coliform.
Phạm Huy Khánh và cs (2012) [68], sử dụng Bèo tây để xử lý nước thải sinh
hoạt quy mô 30 và 50 lít/ngày (tương ứng 300 và 500 m3/ha ngày), hiệu quả xử lý như
sau: chất rắn lơ lửng đạt 90 - 95%, COD, BOD5 đạt 70%, TP giảm tới 75%, TN giảm
tới 88% và chất lượng nước sau xử lý đạt mức A theo QCVN 14: 2008/BTNMT và
QCVN 40: 2011/BTNMT.
Lê Tuấn Anh và cs (2013) [69], tại Công ty cổ phần xuất khẩu thủy sản Quảng
Ninh 2 đã xây dựng hệ thống xử lý nước thải với quy mô 20 m3/ngày bao gồm 02 bãi
lọc trồng cây dòng chảy thẳng đứng (trồng Sậy, Cói) kết hợp với 02 bãi lọc trồng cây
dòng chảy ngang (trồng Sậy, Cói) và có bể tiền xử lý vi sinh vật hiếu khí tạo thành hệ
thống bãi lọc tổ hợp. Nước thải sau toàn bộ hệ thống xử lý đạt tiêu chuẩn cột B –
QCVN 11:2008/BTNMT. Hiệu quả xử lý của hệ thống bãi lọc trồng cây như sau:
COD đạt 70,5%, BOD5 đạt 76 %, TN đạt 63,4%, TP đạt 30%.
Nguyễn Thành Lộc và cs (2015) [70], sử dụng ba loại TVTS được chọn là cây
Thủy trúc, Bèo tây và Bèo Tai tượng để xử lý nước thải sinh hoạt với tổng thể tích bể
120 lít. Kết quả nghiên cứu cho thấy cả ba loại TVTS đều xử lý tốt hầu hết các chất ô
nhiễm trong nước thải sinh hoạt thông qua các chỉ tiêu pH, EC, DO, độ đục, COD,
BOD5, TKN, TP và tổng Coliform. Hiệu suất xử lý của 3 TVTS ở ngày 30 rất cao
Thủy trúc đạt 98,88% với TP, 71,37% với TKN; Bèo tây đạt 97,75% với TP, 58,38%
với TKN và Bèo Tai Tượng đạt 95,81% với TP, 65,6% với TKN. Hiệu suất xử lý COD
của ba loại TVTS dao động trong khoảng 61,19 - 83,17%, hiệu suất xử lý tổng
Coliform của cả ba loại TVTS rất cao dao động từ 93,19 - 99,96%.
Nguyễn Hồng Sơn (2016) [71], nghiên cứu ứng dụng các loài TVTS để xử lý
nước nuôi trồng thủy sản (5 loại TVTS: Bèo tây, Thủy trúc, Sậy, cỏ Vetiver, Rong
biển). Sau 60 ngày thí nghiệm Bèo tây, Sậy xử lý các chất ô nhiễm đạt hiệu quả cao.
Với thí nghiệm sử dụng Bèo tây, hiệu quả xử lý TSS đạt 87,58 – 95,38%, COD đạt
61,76 – 85,53, TN đạt 72,43 – 97,4%, TP đạt 93,32 – 99,21%. Với thí nghiệm sử dụng
Sậy hiệu quả xử lý TSS đạt 99,56 – 99,96%, COD đạt 89,05 – 98,1%, TN đạt 97,4 –
99,32%, TP đạt 89,98 – 97,45%. Kết quả nghiên cứu cho thấy để xử lý các chỉ tiêu ô
nhiễm trên có thể sử dụng bèo non lượng 4,0 kg/m2, Sậy trưởng thành ở mật độ 25
cây/m2 sẽ cho hiệu quả xử lý cao nhất và tiết kiệm nhất.
Như vậy ở Việt Nam, các nghiên cứu về khả năng xử lý nước thải của một số
loài TVTS đã được tiến hành từ những năm 1985. Tuy nhiên, nghiên cứu công nghệ
liên quan đến xử lý nước thải chăn nuôi lợn mới được chú ý trong những năm gần đây.
39
Đặng Xuyến Như và cs (2005) [72], xử lý nước thải chăn nuôi lợn qui mô pilôt
bằng biện pháp kết hợp giữa hệ thống kỵ khí dòng chảy ngược (UASB) với máng
TVTS kích thước 5 x 0,6 x 0,45 m thả Bèo tây (hay chính là hệ đất ngập nước dòng
chảy mặt trồng Bèo tây) trong 8 tuần thí nghiệm cũng đạt được những kết quả khả
quan. Mặc dù độ pH của nước vào khá thay đổi nhưng nước sau khi xử lý qua UASB
và đặc biệt là đất ngập nước thả Bèo tây có độ pH ổn định tốt và đạt 6,8 - 6,9, không
phát hiện sự thay đổi đột ngột của pH trong suốt thời gian theo dõi. Khả năng loại bỏ
TSS, COD qua tháp UASB cao, đạt tương ứng 80%, 70 - 80% và sau khi qua xử lý với
Bèo tây hiệu quả loại bỏ của toàn hệ thống đạt trên 90% với cả hai thông số, khả năng
loại bỏ N, P đạt tương ứng 70% N- NH4+, 58 - 65% lượng PO4
3-. Với diện tích bề mặt
thả Bèo tây chỉ là 3 m2 trong khi lưu lượng nước qua máng là 700 L/ngày.đêm, tương
ứng với 230 L/m2.ngày có thể thấy ngay hiệu quả làm sạch thứ cấp của hệ đất ngập
nước nhân tạo dòng chảy bề mặt thả Bèo tây này.
Trương Thị Nga (2009) [73], nghiên cứu hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi
bằng Sậy (Phragmites spp.). Kết quả cho thấy hiệu suất xử lý nước thải của Sậy đối
với tổng lân là 93,78%, photpho là 93,57%, amonia là 64,08% và COD là 36,39%. Kết
thúc thí nghiệm, trọng lượng tươi trung bình của Sậy tăng 3 lần, chiều cao cây tăng 5
lần, chiều dài rễ tăng gần 4 lần. Sinh khối Sậy trung bình trên 1 m2 tăng 9 lần, mật độ
cây tăng 10 lần và số chồi tăng thêm 11 chồi/cây so với ban đầu. Ở thời điểm kết thúc
thí nghiệm (sau 182 ngày), khi thu hoạch sinh khối Sậy đã lấy đi 161,62 gN/m2, 13,42
gP/m2 và 317,03 gC/m2.
Trương Thị Nga và cs (2010) [74], nghiên cứu hiệu quả xử lý nước thải chăn
nuôi bằng cây Rau ngổ và cây Bèo tây. Hiệu suất xử lý nước thải của Rau ngổ đối với
độ đục là 96,94%; COD là 44,97%; TN là 53,60% và TP là 33,56%. Các số liệu tương
ứng thu được với Bèo tây là: 97,79%; 66,10%; 64,36% và 42,54%.
Trịnh Quang Tuyên và cs (2011) [75], nghiên cứu xử lý nước thải chăn nuôi lợn
thải bằng chế phẩm EM thứ cấp và Bèo tây làm giảm các chỉ số COD, BOD, P, NO3,
coliform đến mức cho phép của TCN 678 - 2006 (COD = 400 mg/L). Xét về hiệu suất
xử lý nước thải bằng Bèo tây cho thấy: NO2- có hiệu suất xử lý cao nhất (99,6%), thấp
nhất là NO3-(55,4%), COD, BOD và TP hiệu suất xử lý tương ứng 67,8%, 69,1% và
65,4%.Tuy nhiên, nước sau xử lý chỉ đáp ứng tiêu chuẩn ngành loại B cho nước thải
khi quy mô dưới 100 lợn. Mặt khác, với 2000 đầu lợn cần ao 16.000 m3 tức là thời
gian lưu quá dài đồng nghĩa với diện tích đất sử dụng lớn.
Dư Ngọc Thành (2013) [76], nghiên cứu khả năng xử lý nước thải chăn nuôi
bằng bãi lọc ngầm trồng cây. Sau khi xây dựng mô hình với công thức 6 vật liệu gồm:
Sỏi to + đá nhỏ + nền (nền = cát to + cát mịn + mùn bán phân hủy + sét hạt mịn), hệ
40
thực vật bao gồm 4 loại TVTS: Thủy trúc, Phát lộc, Mon nước, Chuối hoa. Nước sau
xử lý ở cả 3 tải trọng thủy lực 20 lít/ngày, 30 lít/ngày, 40 lít/ngày đều đạt QCVN
40:2011/BTNMT, cột B.
- Tải trọng 20 lít/ngày: Sau 7 ngày, hiệu suất xử lý COD đạt 85,08%, BOD đạt
94,12%, TN đạt 94,99%, TP đạt 95,76%, TSS đạt 90,12%.
- Tải trọng 30 lít/ngày: Sau 7 ngày, hiệu suất xử lý COD đạt 83,59%, BOD đạt
92,06%, TN đạt 93,09%, TP đạt 95,08%, TSS đạt 89,78%.
- Tải trọng 40 lít/ngày: Sau 7 ngày, hiệu suất xử lý COD đạt 81,15%, BOD đạt
91,91%, TN đạt 92,96%, TP đạt 95,02%, TSS đạt 89,65%.
Như vậy tải trọng 40 lít/ngày là tải trọng tối ưu trong các tải trọng nghiên cứu.
Trần Thị Kim Thúy và cs (2016) [77], đánh giá chất lượng nước thải từ các trại
nuôi bò qua hai hình thức xử lý bằng Bèo tây và ruộng cỏ Mồm, được tiến hành từ
tháng 09 đến tháng 12 năm 2015 trên hai trại bò ở thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng
Tháp. Các chỉ tiêu chất lượng nước được nghiên cứu bao gồm: Nhiệt độ, pH, EC, DO,
COD, BOD5, N-NH3, phốt pho. Kết quả phân tích mẫu nước tại các vị trí ngay điểm
thải, trong ao và sông nơi tiếp nhận nguồn nước thải như sau: Cả hai hình thức xử lý
nước thải bằng Bèo tây và ruộng cỏ Mồm đều cải thiện được chỉ tiêu nhiệt độ, pH, EC
và DO. Hiệu suất xử lý của ruộng cỏ Mồm đối với chỉ tiêu EC là 79,1% (đợt 1), 79,9%
(đợt 2), COD là 45,0% (đợt 1), 33,8% (đợt 2), BOD5 là 61,5% (đợt 1), 65,2% (đợt 2),
N-NH3 là 94,2% (đợt 1), 94,5% (đợt 2), phốt pho là 94,4% (đợt 1), 95,1% (đợt 2). Hiệu
suất xử lý của lục bình đối với chỉ tiêu EC là 65,3% (đợt 1), 65,9% (đợt 2), COD là
57,1% (đợt 1), 62,8% (đợt 2), BOD5 là 68,9% (đợt 1), 62,4% (đợt 2), N-NH3 là 99,7%
(đợt 1), 99,5% (đợt 2), phốt pho là 82,0% (đợt 1), 83,9% (đợt 2). Chất lượng nước thải
đầu ra của hai hình thức xử lý nước thải đều đạt tiêu chuẩn nước thải loại A theo tiêu
chuẩn nước thải QCVN 40:2011-BTNMT. Cả hai hình thức xử lý đều có hiệu quả cao
đối với các chỉ tiêu tiêu EC, N-NH3 và phốt pho. Nhưng hình thức xử lý nước thải
bằng ruộng cỏ Mồm tỏ ra thích hợp hơn đối với trại nuôi bò vì sinh khối có thể tận
dụng làm thức ăn.
41
Bảng 1.10. Tình hình nghiên cứu sử dụng TVTS trong xử lý nước thải ở Việt Nam
TT Năm Tác giả Loại hình công
nghệ Đối tượng xử lý
Quy mô công
nghệ TVTS sử dụng Hiệu quả Xử lý (%) TLTK
I Xử lý nước thải
1 2006 Nguyễn Việt Anh và cs
Bằng bãi lọc
ngầm trồng cây
dòng chảy thẳng
đứng
Nước thải sinh
hoạt (sau bể tự
hoại)
Sậy, Thủy trúc,
Cỏ nến, Pháp lộc
Hiệu quả xử lý nước của hệ thống
khá tốt và ổn định. công nghệ này
phù hợp với qui mộ hộ hay nhóm
hộ gia đình, diểm du lịch, dịch vụ,
trang tại.. của nước ta
[63]
2 2008 Trần Văn Tựa và cs Công nghệ dòng
chảy ngầm
Xử lý nước thải
chứa Crôm và
Niken
Quy mô pilôt 73
lít/ngày Sậy, cỏ Vetiver
Trên 70% với Ni và trên 90% với
Cr6 và Cr3
[65]
3 2010 Trần Văn Tựa và cs CN dòng chảy
trên bề mặt
Xử lý nước hồ
phú dưỡng
Mương dài: Dài x
rộng x sâu:4,6 x
0,8 x 0,2m
Bèo tây, Rau
muống, Ngổ trâu,
Cải xoong
Chl.a: 64-91%, TSS: 53-83%,
TN: 20-32%, TP: 42-67%, COD:
49-64%.
[66]
4 2011 Trần Văn Tưa và cs Hệ thống thực vật
nổi
Nước chế biến
thủy sản
Quy mô pilot 200
lít/ngày
Bèo tây và Bèo
cái
COD: 93,13%, TN: 50,52%và TP:
55,92%
[67]
5 2012 Phạm Huy Khánh và cs Hệ thống thực vật
nổi
Nước thải sinh
hoạt 30 và 50 lít/ngày Bèo tây
TSS: 90 ÷ 95%, COD: 70%, TP:
75%, TN: 88% [68]
6 2013 Lê Tuấn Anh
Bãi lọc dòng chảy
ngang kết hợp bãi
lọc dòng chảy
thẳng đứng
Nước thải chế
biến thủy sản 20 m3/ngày Sậy, Cói
COD: 70,5%, BOD5 t 76 %, TN:
63,4%, TP: 30%
[69]
42
7 2015 Nguyễn Thành Lộc và
cs
Hệ thống thực vật
nổi và dòng chảy
ngầm
Nước thải sinh
hoạt Bể 120 lít
Thủy trúc, Bèo
tây và Bèo Ta
tượng
COD: 61,19 - 83,17%, tổng
Coliform: 93,19 - 99,96%.
[70]
8 2016 Nguyễn Hồng Sơn -
Nước nuôi trồng
thủy sản (tôm,
ca tra)
Bể thí nghiệm (60
ngày)
Bèo tây, Thủy
trúc, Sậy, cỏ
Vetiver, Rong
biển
Bèo tây TSS: 87,58 – 95,38%,
COD: 61,76 – 85,53, TN: 72,43 –
97,4%, TP: 93,32 – 99,21%. Sậy
TSS: 99,56 – 99,96%, COD:
89,05 – 98,1%, TN: 97,4 –
99,32%, TP: 89,98 – 97,45%
[71]
II Xử lý nước thải chăn nuôi
1 2005 Đặng Xuyến Như và cs
Kết hợp giữa hệ
thống kỵ khí dòng
chảy ngược
(UASB) và hệ
thống TVTS dòng
chảy mặt
Nước thải chăn
nuôi lợn
Qui mô pilôt: 700
L/ngày.đêm Bèo tây
TSS: 90%, COD: 90%, N- NH4+:
70 %, PO43-: 58-65%
[72]
2 2009 Trương Thị Nga và cs Nước thải chăn
nuôi lợn Sậy
TN: 93,78%; TP: 93,57%;
amonia: 64,08%và COD: 36,39%. [73]
3 2010 Trương Thị Nga và cs Nước thải chăn
nuôi lợn Rau ngổ, Bèo tây
- Ngổ: Độ đục 96,94%; COD:
44,97%; TN: 53,60%, TP:
33,56%.
- Lục bình: Độ đục 97,79%;
COD: 66,10%; TN: 64,36%, TP:
42,54%
[74]
4 2011 Trịnh Quang Tuyên và
cs
Chế phẩm EM thứ
cấp và bèo lục
bình
Nước thải chăn
nuôi lợn
Qui mô dưới 100
lợn Bèo tây
NO2-: 99,6%, NO3: 55,4%, COD:
67,8%, BOD: 69,1% và P:
65,4%.
[75]
43
5 2013 Dư Ngọc Thành Công nghệ dòng
chảy ngầm
Nước thải chăn
nuôi lợn
20lít/ngày,
Thủy trúc, phát
lộc, mon nước,
chuối hoa
COD: 85,08%, BOD: 94,12%, TN:
94,99%, TP: 95,76%, TSS: 90,12%
[76] 30 lít/ngày
COD: 83,59%, BOD: 92,06%,
TN: 93,09%, TP: 95,08%, TSS:
89,78%
30 lít/ngày
COD: 81,15%, BOD: 91,91%,
TN: 92,96%, TP: 95,02%, TSS:
89,65%.
6 2016 Trần Thị Kim Thúy và
cs
Công nghệ dòng
chảy mặt
Nước thải chăn
nuôi bò
Bèo tây
EC: 65,3% (đợt 1), 65,9% (đợt 2);
COD: 57,1% (đợt 1), 62,8% (đợt
2); BOD5: 68,9% (đợt 1), 62,4%
(đợt 2); N-NH3:
99,7% (đợt 1), 99,5% (đợt 2);
phốt pho: 82,0% (đợt 1), 83,9%
(đợt 2)
[77]
Khoai môn
EC: 79,1%
(đợt 1), 79,9% (đợt 2); COD:
45,0% (đợt 1), 33,8% (đợt 2);
BOD5: 61,5% (đợt 1),
65,2% (đợt 2); N-NH3: 94,2%
(đợt 1), 94,5% (đợt 2); phốt pho:
94,4% (đợt 1), 95,1%
(đợt 2)
44
Nhìn chung, các nghiên cứu ứng dụng các loại hình CNST với TVTS trong xử
lý nước thải chăn nuôi ở Việt Nam còn rất ít ỏi, mới dừng lại ở nghiên cứu thử nghiệm
qui mô nhỏ từ vài chục lít đến dưới 1 m3. Các loại hình công nghệ áp dụng chủ yếu là
công nghệ dòng chảy mặt và công nghệ dòng chảy ngầm. Hiệu quả xử lý COD dao
động từ 36,4% đến 90%, TN dao động từ 53,6% đến 95%, TP dao động từ 33,6% đến
95%. Thời gian thử nghiệm mô hình xử lý ngắn, chưa có nghiên cứu về lựa chọn công
nghệ và xây dựng mô hình triển khai vào thực tiễn đủ độ tin cậy để đưa công nghệ vào
thực tế.
Nhu cầu xử lý nước thải chăn nuôi lợn ở Việt Nam hiện nay rất cao, tính đến
tháng 10/2016 đàn lợn cả nước có 29 triệu con tăng 4,5% so với năm 2015 [5]. Hiện
nay, hầu hết việc xử lý chất thải chăn nuôi ở các trang trại là thông qua hệ thống xử lý
biogas, nhưng hệ thống này hầu hết chưa đủ công suất đáp ứng nhu cầu xử lý toàn bộ
chất thải mà chỉ đạt được 50 - 70% lượng chất thải của trang trại [1]. Một số trang trại
đã có hầm biogas, có hệ thống xử lý chất thải nhưng hệ thống vận hành không hiệu
quả, chất thải chưa được xử lý triệt để. Theo Porphyre và cs (2006), việc sử dụng bể
biogas tại các trang trại chăn nuôi thuận tiện cho sử dụng chất thải và khai thác nguồn
năng lượng nhưng nước thải sau bể Biogas vẫn còn nhiều chất gây ô nhiễm môi trường
như N và P cần được xử lý trước khi thải vào môi trường [78].
Một trong các công nghệ ứng dụng để giải quyết vấn đề nêu trên là CNST sử
dụng TVTS. Việt Nam là quốc gia có triển vọng cho việc ứng dụng công nghệ sinh
thái sử dụng TVTS trong xử lý ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn do có điều kiện khí
hậu nhiệt đới cùng với hệ thực vật khá phong phú và đa dạng. CNST sử dụng TVTS để
xử lý nước thải chăn nuôi lợn có nhiều ưu điểm so với hệ thống xử lý nước thải thông
thường, trong đó có vấn đề giảm COD, nitơ và photpho đến mức chấp nhận được về
mặt môi trường. Phương pháp này rất thân thiện môi trường, tạo cảnh quan đẹp, rẻ
tiền, dễ vận hành, có thể thu sinh khối làm thức ăn cho chăn nuôi và phù hợp với điều
kiện thực tế của Việt Nam [20, 79].
Như vây luận án cần đặt ra những nghiên cứu ứng dụng CNST sử dụng TVTS
trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn ở mức độ cao hơn như:
- Đánh giá khả năng chống chịu và khả năng xử lý nước thải chăn nuôi lợn của
các loại TVTS (Bèo tây, Bèo cái, Sậy, cỏ Vetiver, Thủy trúc, Rau muống, Ngổ trâu) từ
đó tuyển chọn một số loại TVTS phù hợp để ứng dụng cho mô hình ở quy mô pilot.
- Lựa chọn các loại hình công nghệ (công nghệ dòng chảy mặt, công nghệ dòng
chảy ngầm, công nghệ phối hợp) phù hợp cho mô hình xử lý tại hiện trường của các
trang trại chăn nuôi lợn tại Việt Nam.
- Căn cứ vào điều kiện cụ thể của trang trại, tính toán thiết kế, đánh giá hiệu
quả xử lý của mô hình sinh thái sử dụng TVTS để giảm thiểu N, P và COD từ nước
thải chăn nuôi lợn trang trại sau công đoạn xử lý vi sinh vật quy mô pilot (30 m3/ngày)
tại trang trại Hòa Bình Xanh, Lương Sơn, Hòa Bình.
- Định hướng ứng dụng mô hình sinh thái ở quy mô lớn hơn và khả năng nhân
rộng mô hình trong thực tiễn.
45
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nước thải chăn nuôi lợn đã qua xử lý vi sinh vật.
Nguồn nước thải sử dụng trong nghiên cứu này được lấy từ nước thải sau quá
trình xử lý vi sinh vật tại Trung tâm nghiên cứu lợn Thụy Phương, Viện Chăn nuôi
quốc gia (Từ Liêm, Hà Nội), các thông số chính được trình bày trong bảng 2.1:
Bảng 2.1. Thành phần cơ bản nước thải sau xử lý vi sinh vật tại Trung tâm nghiên cứu
lợn Thụy Phương (Viện Chăn nuôi)
STT Chỉ tiêu
phân tích Đơn vị Giá trị
QCVN
62-MT:2016/BTNMT
Cột A Cột A
1 pH 7,83 – 8,20 6,0 – 9,0 5,5 – 9,0
2 TSS mg/L 5460 – 9450 50 150
3 COD mg/L 776 – 1986 100 300
4 NO3- mg/L 0,65 –1,68 - -
5 NH4+ mg/L 704 – 892 - -
6 PO43- mg/L 46 – 85 - -
7 N-tổng mg/L 745 – 1114 50 150
8 P-tổng mg/L 50 –115,2 - -
Trong các dạng N thì dạng NH4+ là chủ yếu (704 – 892 mg/L) còn dạng NO3
-
là không đáng kể (0,65 – 1,68 mg/L). Lượng NH4+ cao cho thấy cần lưu ý khi nghiên
cứu xử lý với cây thủy sinh vì NH4+ khá độc với sinh vật, với thực vật cũng chịu
được nồng độ nhất định. Dựa vào khả năng chống chịu của TVTS, nước thải đầu vào
được pha loãng và điều chỉnh các thành phần như COD, NO3-, PO4
3-… trước khi tiến
hành thực nghiệm.
Một số loại TVTS có khả năng xử lý nước thải chăn nuôi lợn: Bèo tây (Eichhornia
crassipes), Bèo cái (Pistia stratiotes), Rau muống (Ipomoea aquatica ), Ngổ trâu
(Enydra fluctuans), Cải xoong (Rorippa nasturtium aquaticum), Sậy (Phragmites
australis), Thủy trúc (Cyperus alternifolius) và cỏ Vetiver (Vetiveria zizanioides).
46
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Đánh giá khả năng chống chịu và xử lý các tác nhân ô nhiễm
a. Đánh giá khả năng chống chịu:
Trong nghiên cứu này, khả năng chống chịu của TVTS với các hàm lượng
COD, amoni, nitrat và độ pH khác nhau đã được tiến hành.
Thí nghiệm được đặt trong các chậu có dung tích 4 lít và chứa 3 lít môi trường
thuỷ canh. Cây trồng theo phương pháp thủy canh. Thành phần môi trường thủy canh
được trình bày trong bảng 2.2 dưới đây.
Bảng 2.2. Thành phần môi trường thủy canh cho cây
STT Tên hóa chất Khối lượng g/1000L nước pha môi trường
1 Ca(NO3)2,4H2O 118
2 KNO3 606
3 NH4H2PO4 47
4 MgSO4,7H2O 49,2
5 Ca(H2PO4)2,H2O 84
6 Fe,EDTA 20
7 H3PO4 3
8 MnCl2,4H2O 2
9 ZnSO4,7H2O 0,09
10 CuSO4,5H2O 0,04
11 Na2MoO4,2H2O 0,01
12 Ec(mS/cm) 1,4
13 pH 6
Mỗi công thức được lặp lại 3 lần. TVTS dùng cho thí nghiệm là cây sức sống
khoẻ, nhiều rễ, kích thước tương đối đồng đều nhau. Hàng ngày bổ sung lượng nước
bay hơi của các chậu thí nghiệm. Sau 2 tuần cân khối lượng cây để đánh giá sự sinh
trưởng của thực vật ở các hàm lượng COD, N-NH4+, N-NO3
-, và độ pH khác nhau.
Để tạo các hàm lượng COD, N-NH4+ và N-NO3
- khác nhau, sử dùng glucoza,
NH4Cl và KNO3 với các dung dịch mẹ tương ứng là 100 g/l, 10 g/l và 20 g/l và được
chuẩn bị như sau:
+ 1,07 g C6H12O6 = 1 g COD, do đó ta lấy 107 g C6H12O6 hòa vào nước cất sau
đó định mức lên thành 1 lít được dung dịch mẹ có COD = 100 g/l
+ Cân 38,207 g NH4Cl định mức lên 1 lít được dung dịch mẹ có nồng độ NH4+
là 10 g/l.
+ Cân 144,43 g KNO3 định mức lên 1 lít được dung dịch mẹ có nồng độ NO3-
là 20 g/l.
47
Để tạo độ pH khác nhau đã sử dụng NaOH 1N và H2SO4 1N
Các công thức thí nghiệm được trình bày trong bảng 2.3:
Bảng 2.3. Các công thức thí nghiệm khả năng chống chịu
Công thức
Thí nghiệm
Các điều kiện thí nghiệm
Thí nghiệm khả năng chống chịu
pH COD
(mg/L)
N-NH4+
(mg/L)
N-NO3-
(mg/L)
CT1 5 250 50 100
CT2 6 500 100 150
CT3 7 750 150 200
CT4 8 1000 200 250
CT5 9
250 300
b. Thí nghiệm đánh giá khả năng loại bỏ một số yếu tố ô nhiễm trong môi trường
nước thải chăn nuôi lợn
+ Thí nghiệm theo mẻ
Thí nghiệm được đặt trong các chậu có dung tích 6 lít và chứa 4 lít nước thải
chăn nuôi lợn có COD khoảng 250 mg/L. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần và có ĐC
không trồng cây. Chọn cây có sức sống khoẻ, nhiều rễ, kích thước tương đối đồng đều
nhau. Hàng ngày bổ sung lượng nước bay hơi bằng nước máy. Định kỳ 7 ngày lấy 100
ml mẫu nước một lần để phân tích sự thay đổi hàm lượng của N-NH4+, P-PO4
3- , T-N,
T-P, COD.
+ Thí nghiệm bán liên tục
Thí nghiệm được đặt trong các chậu có dung tích 6 lít và chứa 4 lít nước thải
chăn nuôi lợn có COD khoảng 250 mg/L. Thí nghiệm được lặp lại 3 lần và có ĐC
không trồng cây. Định kỳ mỗi ngày lấy ra 1 lit môi trường từ chậu thí nghiệm và bổ
sung 1lit môi trường mới với nồng độ tương tự như đầu vào. COD luôn được duy trì
khoảng 250mg/L bằng bổ sung đường glucose. Thời gian lấy mẫu phân tích là 3
ngày/lần, mỗi lần lấy 200 ml mẫu đi phân tích các chỉ tiêu. Các chỉ số phân tích: N-
NH4+, P-PO4
3- , TN, TP, COD trong dung dịch.
48
c. Đánh giá sinh trưởng của thực vật thủy sinh
Thông số đánh giá: Sinh khối tươi của cây trước và sau thí nghiệm. Cân sinh
khối bằng cân phân tích Sartorius (Đức). Để cân, cây được vớt ra khỏi môi trường, để
ráo nước.
2.2.2. Đánh giá khả năng xử lý nước thải chăn nuôi lợn của các loại hình công nghệ
Các loại hình công nghệ đưa vào đánh giá gồm hệ thống thực vật nổi, hệ thống
dòng mặt, hệ thống dòng ngầm và hệ thống dòng phối hợp.
a) Thực nghiệm với hệ thống thực vật lá nổi trồng Bèo tây
Thí nghiệm được tiến hành trong bể (hình 2.1) có kích thước:
CaoBể x DàiBể x RộngBể = 60 cm x 200 cm x 50 cm
Trong đó, ngăn phân phối nước có thể tích:
Caopp x Dàipp x Rộngpp = 10 cm x 20 cm x 50 cm, dung tích 10 lít
Mực nước sâu 40 cm, dung tích xử lý là:
CaoBèo x DàiBèo x RộngBèo = 40 cm x 180 cm x 50 cm, dung tích 360 lít.
Hình 2.1. Sơ đồ thực nghiệm với Bèo tây
Hoạt động của hệ thống: Nước thải được bơm bằng bơm định lượng từ thùng
chứa vào ngăn phân phối nước rồi chảy vào ngăn xử lý thả Bèo tây. Nước sau xử lý sẽ
chảy ra ngoài qua ống thoát theo cơ chế chảy tràn. Hệ hoạt động qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn đưa Bèo tây vào hệ thống: Bèo tây được thả chiếm 4/5 diện tích mặt
nước của bể. Sau khi thả, để bèo ổn định sinh trưởng trong khoảng 2 tuần. Thời gian
này, chỉ cung cấp một lượng nước thải nhỏ định kỳ 1 tuần 1 lần và duy trì mực nước
thấp.
49
- Giai đoạn khởi động: Kéo dài 3 tuần, lưu lượng nước thải đưa vào hệ thống là
50 lít/ngày. Tuần đầu hệ thống chạy với nước được phã loãng tỷ lệ 25% nước thải,
tuần thứ 2 hệ thống chạy với nước thải pha loãng tỷ lệ 50% nước thải, tuần thứ 3 hệ
thống chạy với nước thải pha loãng tỷ lệ 75% nước thải. Giai đoạn này để Bèo tây sinh
trưởng, phát triển bộ rễ, hình thành hệ vi sinh vật cộng sinh vùng rễ đảm bảo cho việc
xử lý hiệu quả.
- Giai đoạn xử lý: Đây là giai đoạn khi Bèo tây đã thích nghi và phát triển hoàn
chỉnh. Nước thải được đưa vào mô hình xử lý với lưu lượng nước thải là 50 lít/ngày và
100 lít/ngày. Định kỳ lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước 1 tuần một lần,
mỗi lần lấy 1 lít mẫu nước đầu vào, 1 lít mẫu đầu ra.
b) Thực nghiệm với hệ thống công nghệ dòng mặt
Hệ thống dòng mặt được thực nghiệm với hai loại TVTS là Sậy và Rau muống.
Hình 2.2. Sơ đồ thực nghiệm hệ thống dòng mặt
Hệ thống là bể có kích thước như hình 2.2 và có lớp đất trồng cây với độ dày 20
cm. Mực nước phía trên phụ thuộc loại cây thực nghiệm. Mực nước là 20 cm với cây
Sậy, 5 cm với Rau muống. Đây là mực nước tốt cho sinh trưởng của cây. Dung tích
chứa nước tương ứng là 180 lít và 45 lít.
Hoạt động của hệ thống: Nước thải được bơm bằng bơm định lượng từ thùng
chứa vào ngăn phân phối nước rồi chảy vào ngăn xử lý trồng cây. Nước sau xử lý sẽ
chảy ra ngoài qua ống thoát theo cơ chế chảy tràn. Hệ hoạt động qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trồng cây: Sậy trồng với mật độ 15 cm x 20 cm, Rau muống trồng
với mật độ 5 cm x 5 cm. Sau khi trồng cần khoảng 2 tuần với Rau muống và 1 tháng
với Sậy để cây bén rễ, ổn định sinh trưởng. Thời gian này, chỉ cung cấp một lượng
nước thải nhỏ định kỳ 1 tuần 1 lần và duy trì mực nước thấp.
50
- Giai đoạn khởi động: Kéo dài 3 tuần, lưu lượng nước thải đưa vào hệ thống là
50 lít/ngày với bể Sậy, 25 lít/ngày với bể Rau muống. Hệ thống chạy tượng tự như giai
đoạn khởi động của mô hình Bèo tây.
- Giai đoạn xử lý: Đây là giai đoạn khi cây đã thích nghi và phát triển hoàn
chỉnh. Nước thải được đưa vào mô hình xử lý với lưu lượng nước thải là 50 lít/ngày và
100 l/ngày với bể Sậy, bể Rau muống là 25 lít/ngày và 50 lít/ngày. Định kỳ lấy mẫu
phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước 1 tuần một lần, mỗi lần lấy 1 lít mẫu nước đầu
vào, 1 lít mẫu đầu ra của mỗi bể.
c) Thực nghiệm với hệ thống dòng ngầm
Hệ dòng chảy ngầm được thực nghiệm với hai loại thực vật là Sậy và cỏ
Vetiver.
Thí nghiệm được tiến hành trong bể có kích thước:
CaoBể x DàiBể x RộngBể = 60 cm x 200 cm x 50 cm. Dung tích chứa nước 160
lít. Vật liệu trồng cây là sỏi, đá có kích thước và chia lớp như trong hình 2.3.
Hình 2.3. Sơ đồ thực nghiệm hệ thống dòng ngầm tại pilôt
Hoạt động của hệ thống: Nước thải được bơm từ thùng chứa vào vùng đầu vào
bằng bơm định lượng rồi chảy vào ngăn xử lý trồng cây. Nước sau xử lý chảy ra ngoài
bằng ống thoát thu nước từ đáy. Hệ thống hoạt động qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trồng cây: Sậy và Vetiver được trồng với mật độ là 15 cm x 20 cm,
sau khi trồng cần khoảng 1 tháng để cây bén rễ, ổn định sinh trưởng. Thời gian này,
chỉ cung cấp một lượng nước thải nhỏ định kỳ 1 tuần 1 lần. Mực nước luôn duy trì
dưới lớp sỏi trên mặt.
51
- Giai đoạn khởi động: 3 tuần, lưu lượng nước thải đưa vào hệ thống là 25
lít/ngày. Hệ thống chạy tượng tự như giai đoạn khởi động của mô hình Bèo tây đã
trình bày ở trên.
- Giai đoạn xử lý: Đây là giai đoạn khi cây đã thích nghi và phát triển hoàn
chỉnh. Nước thải được đưa vào mô hình xử lý với lưu lượng 25 lít/ngày, 50 lít/ngày và
100 lít/ngày. Định kỳ lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước 1 tuần một lần,
mỗi lần lấy 1 lít mẫu nước đầu vào, 1 lít mẫu đầu ra của mỗi hệ.
d. Thực nghiệm với hệ thống công nghệ phối hợp
Hệ thống phối hợp được thưc nghiệm với hai dạng:
+ Hệ phối hợp Sậy – Bèo tây: Hệ thống thí nghiệm gồm 2 bể, một trồng Bèo tây (hệ
thống thực vật lá nổi), một trồng Sậy (hệ thống dòng mặt). Mỗi bể có kích thước như
sau:
- Thể tích ngăn phân phối: CpxDpxRp = 10 cm x 20 cm x 50 cm, ứng với 10 lít
- Thể tích ngăn trồng Bèo tây: CBxDBxRB= 40 cm x 180 cm x 50 cm, ứng với 360 lít.
- Thể tích ngăn trồng Sậy: CsxDsxRs = 40 cm x180 cm x 50 cm, ứng với 360 lít. Tại
ngăn trồng Sậy do cần đưa đất vào trồng với mức 20 cm nên thể tích nước còn lại chỉ
là 180 lít.
Hoạt động của hệ thống: Nước thải được bơm từ thùng chứa vào ngăn phân
phối rồi chảy vào bể xử lý trồng Bèo tây sau chảy sang bể trồng Sậy. Nước sau xử lý
chảy ra ngoài qua ống thoát theo cơ chế chảy tràn. Hệ hoạt động qua 3 giai đoạn:
- Giai đoạn trồng cây: Bèo tây được thả chiếm 4/5 diện tích mặt nước và Sậy
được trồng với mật độ là 15 cm x 20 cm. Sau khi trồng cần khoảng 2 tuần với Bèo tây
và 1 tháng với Sây để cây phục hồi, ổn định sinh trưởng. Thời gian này, chỉ cung cấp
một lượng nước thải nhỏ định kỳ 1 tuần 1 lần và duy trì mực nước thấp.
- Giai đoạn khởi động: Kéo dài 3 tuần, lưu lượng nước thải đưa vào hệ thống là
25 lít/ngày. Hệ thống chạy tượng tự như giai đoạn khởi động của mô hình Bèo tây đã
trình bày ở trên.
- Giai đoạn xử lý: Đây là giai đoạn khi cây đã thích nghi và phát triển hoàn
chỉnh. Nước thải được đưa vào mô hình xử lý với lưu lượng nước thải là 100 lít/ngày.
Bể 1: Bèo tây Bể 2: Sậy
Đầu vào Đầu ra
Hình 2.4. Sơ đồ thực nghiệm hệ phối hợp Bèo tây và Sậy
52
Thời gian lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu chất lượng nước là 1 tuần một lần, mỗi lần lấy
1 lít mẫu đầu vào và 1 lít mẫu đầu ra từ mỗi hệ.
+ Hệ phối hợp Sậy, Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver: Hệ thống thí nghiệm gồm 4
ngăn, một ngăn trồng Sậy (hệ thống dòng mặt), một ngăn trồng Thủy trúc, cỏ Vetiver
(hệ thống thực vật nổi trồng bè), một ngăn trồng Bèo tây (hệ thống thực vật lá nổi),
một ngăn trồng cỏ Vetiver (hệ thống dòng chảy ngầm). Mỗi ngăn có kích thước:
Cao x Dài x Rộng = 30 cm x 44 cm x 30 cm
Trong đó:
- Thể tích ngăn trồng Sậy: Cs x Ds x Rs = 28 cm x 44 cm x 30 cm, ứng với 36,96 lít.
Tại modun trồng Sậy cần đưa đất vào trồng với mức 15 cm nên thể tích nước còn lại
chỉ là 17,16 lít.
- Thể tích ngăn trồng Thủy trúc, cỏ Vetiver: C x D x R = 28 cm x 44 cm x 30 cm, ứng
với 36,96 lít.
- Thể tích ngăn trồng Bèo tây: C x D x R = 28 cm x 44 cm x 30 cm, ứng với 36,96lít.
- Thể tích ngăn trồng cỏ Vetiver (dòng ngầm): C x D x R = 28 cm x 44 cm x 30 cm,
ứng với 36,96 lít, tại modun này vật liệu trồng cây là sỏi đá nên thể tích nước còn lại là
10,3 lít.
Hình 2.5. Sơ đồ hệ thống phối hợp Sậy, Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver tại pilot
Hoạt động của hệ thống: Nước thải đầu vào được bơm từ thùng chứa vào ngăn
phân phối rồi chảy vào bể xử lý trồng Sậy, sang bể Thủy trúc, cỏ Vetiver, sang bể Bèo
tây và cuối cùng sang bể cỏ Vetiver rồi ra ngoài.
- Giai đoạn trồng cây: Cây được trồng trước, sau khi trồng cần khoảng 1 tháng
để cây bén rễ, ổn định sinh trưởng. Thời gian này, chỉ cung cấp một lượng nước thải
nhỏ định kỳ 1 tuần 1 lần và duy trì mực nước thấp.
- Giai đoạn khởi động: 3 tuần, lưu lượng nước thải đưa vào hệ thống là 25
lít/ngày. Hệ thống chạy tượng tự như giai đoạn khởi động của mô hình Bèo tây đã
trình bày ở trên.
53
- Giai đoạn xử lý: Đây là giai đoạn khi cây đã thích nghi và phát triển hoàn
chỉnh. Nước thải được đưa vào mô hình xử lý với lưu lượng nước thải là 25 lít/ngày
(tương đương là 47,35 lít/m2.ngày). Thời gian lấy mẫu phân tích các chỉ tiêu chất
lượng nước là 1 tuần một lần, mỗi lần lấy 1 lít mẫu đầu vào, đầu ra các bể.
2.2.3. Đánh giá hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn của mô hình sinh thái
Từ kết quả nghiên cứu về hiệu quả xử lý của từng loại hình công nghệ ở quy
mô Pilôt, khí áp dụng vào thực tế mô hình sinh thải (MHST) là hệ thống phối hợp bố
trí như hình 2.5, MHST bao gồm:
- Dòng chảy bề mặt sử dụng thực vật có rễ bám đáy Sậy
- Hệ thống thực vật lá nổi gồm cỏ Vetiver, Thủy trúc và Bèo tây
- Dòng chảy ngầm trồng cỏ Vetiver
MHST có diện tích tổng cộng là 600 m2 chia thành 3 ngăn, xây trên nền đất
bằng phẳng. Sau khi san ủi, đầm nén tạo mặt bằng, các ngăn được xây tường bao bằng
gạch cao 70 cm, kín đáy, lót chống thấm. Để cho nước thoát, đáy cần hơi nghiêng
(khoảng 0,5°). Nước thải chảy vào ngăn 1, qua ngăn 2, ngăn 3 và ra ngoài ở cuối ngăn
3 sau khi qua dòng ngầm.
2.2.4. Phương pháp phân tích
Phân tích các chất ô nhiễm (NH4+, NO3
-, T-N, PO4-3, T-P, COD, TSS,
coliform...) xác định bằng các phương pháp theo ISO bao gồm:
- TCVN 6491: 1999 (ISO 6060:1989) xác định nhu cầu oxy hoá học (COD);
- TCVN 6625: 2000 (ISO 11923: 1997) xác định chất rắn lơ lửng (TSS) bằng
cách lọc qua cái lọc sợi thuỷ tinh;
- TCVN 6202: 2008 (ISO 6878: 2004) xác định phôt pho - Phương pháp đo phổ
dùng amoni molipdat;
- TCVN 6489: 1999 (ISO 11261: 1995) xác định Nitơ tổng - Phương pháp
Kendan (Kjeldahl) cải biên;
- TCVN 6180: 1996 (ISO 7890 -3: 1988 (E)) xác định Nitrat (N-NO3-) bằng
phương pháp trắc phổ dùng axit sunfosalixylic;
- TCVN 6178: 1996 (ISO 6777:1984 (E)) xác định Nitrit (N-NO2-) bằng phương
pháp trắc phổ hấp thụ phân tử;
- TCVN 5988: 1995 (ISO 5664: 1984) xác định Amoni (N-NH4+) bằng phương
pháp chưng cất và chuẩn độ;
- Các thông số pH, DO, TDS,… được đo trực tiếp tại hiện trường bằng máy đo
đa chỉ tiêu TOA - Nhật Bản.
54
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu phân tích môi trường sẽ được xử lý bằng phương pháp xác suất
thống kê để đảm bảo các số liệu được sàng lọc và đạt được độ tin cậy cao. Số liệu
được trình bày dưới dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Sử dụng thuật toán
ANOVA để kiểm tra sự khác biệt có ý nghĩa, mức khác biệt có ý nghĩa thống kê
đề nghị khi giá trị P < 0,05. Sử dụng phần mềm Origin Pro và phần mềm Excel để
vẽ đồ thị.
- Hiệu suất xử lý: Được tính theo công thức sau
C0 - C
H (%) = x 100
C
Trong đó:
C0: Nồng độ đầu vào
C : Nồng độ đầu ra
H: Hiệu suất xử lý
- Thời gian lưu của mỗi hệ thống:
t = (ngày)
Trong đó:
t: Thời gian lưu
V: Thể tích nước chứa trong mỗi hệ thống
Q: Lưu lượng vận hành hệ thống (lít/ngày hoặc m3/ngày)
- Tải trọng: Là đại lượng biểu thị năng lực tải của một đơn vị thể tích trong thời một
ngày, tính bằng công thức sau:
T = (g/m2.ngày)
Trong đó :
T : Tải trọng (g/m2.ngày)
C : Nông độ chất ô nhiễm (mg/L hoặc g/l)
Q : Lưu lượng (lít/ngày hoặc m3/ngày)
S : Diện tích (m2)
V
Q
C x Q
S
55
2.2.6. Thiết bị sử dụng trong nghiên cứu
Các thiết bị chính sử dụng trong nghiên cứu là: Bơm định lượng, bơm công suất
2,5 - 3 m3/h, máy cất nước, bộ cất đạm, cân kỹ thuật, máy cầm tay Oxi 330 WTW -
Đức, máy cầm tay pH 320 WTWW - Đức, máy COD Reactor của hãng HACH (Mỹ),
máy đo nhanh các chỉ tiêu thủy lý TOA (Nhật Bản), máy quang phổ
(Spectrophotometer) UV – Vis 2450 của hãng Shimadzu (Nhật Bản).
56
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Khả năng chống chịu và xử lý ô nhiễm nước thải chăn nuôi lợn sau giai đọan
xử lý vi sinh vật qui mô phòng thí nghiệm
3.1.1. Khả năng chống chịu một số yếu tố môi trường của thực vật thủy sinh
Sinh trưởng và phát triển của thực vật nói chung và TVTS nói riêng chịu ảnh
hưởng của nhiều yếu tố môi trường như: Điều kiện khí hậu, độ pH, hàm lượng các chất
hữu cơ, vô cơ,... Mỗi yếu tố môi trường lại tác động khác nhau đến thực vật ở những
nồng độ nhất định. Để sử dụng TVTS trong xử lý nước thải hiệu quả nhất, cần tìm hiểu
tác động của một số yếu tố môi trường đặc trưng đến sinh trưởng của cây.
Để có cơ sở cho việc tuyển chọn và ứng dụng TVTS trong xử lý nước thải chăn
nuôi lợn bằng CNST cần đánh giá khả năng chống chịu và xử lý các yếu tố môi trường
quan trọng. Trong nước thải chăn nuôi lợn trang trại hàm lượng chất hữu cơ và chất
dinh dưỡng rất cao trong khi thực vật nói chung và TVTS nói riêng chỉ chịu được đến
nồng độ nhất định. Chính vì vậy trong thí nghiệm này đã tiến hành đánh giá khả năng
chống chiu của TVTS tuyển chọn với nồng độ COD, NH4+ và NO3
-. Trong ba yếu tố
này, NH4+ và NO3
- cũng là chất dinh dưỡng cho TVTS. Ngoài ra, tác giả cũng nghiên
cứu ảnh hưởng của độ pH lên sinh trưởng của các loài lựa chọn vì pH môi trường nước
là nhân tố không chỉ liên quan đến trao đổi chất, hấp thu của TVTS mà còn liên quan
đến sự tồn tại của các ion hòa tan trong môi trường. Hầu hết chất dinh dưỡng thiết yếu
(cả đa và vi lượng) được cây trồng sử dụng dưới dạng ion.
Khả năng chống chịu của các TVTS được đánh giá thông qua sinh trưởng của
TVTS ở các nồng độ khác nhau của chất ô nhiễm trước và sau thí nghiệm.
3.1.1.1. Khả năng chống chịu COD
COD phản ánh mức độ ô nhiễm chất hữu cơ của nước thải. Trong nước thải
chăn nuôi lợn đây là chất ô nhiễm có nồng độ cao nhất. Việc xác định khả năng sinh
trưởng của TVTS trong môi trường có hàm lượng COD khác nhau là hết sức quan
trọng để có thể biết được khả năng chống chịu ô nhiễm của thực vật cũng như việc xây
dựng được quy trình xử lý một cách hiệu quả nhất khi sử dụng các loại thực vật này.
Kết quả đánh giá khả năng chống chịu COD của các thực vật nghiên cứu ở các nồng
độ COD khác nhau được trình bày trong hình 3.1.
Nhìn chung, khả năng chịu COD của thực vật nghiên cứu đều giảm khi tăng
nồng độ COD trong môi trường. Trong 8 loài nghiên cứu, Cải xoong chịu COD kém
nhất. Cải xoong chỉ tăng sinh khối ở CT 250 mg COD/L. Ở CT 500 và 750 mg
COD/L, Cải xoong giảm sinh khối so với ban đầu là 26,2% và 43,5% tương ứng. Cải
Xoong bị chết hoàn toàn ở CT 1000 mg COD/L. Chống chịu tốt là Bèo tây, Thủy trúc
và Ngổ trâu. Ngay ở CT 1000 mg COD/L, Bèo tây tăng 9,4%, Thủy trúc tăng 0,4%
còn Ngổ trâu tuy giảm 7,3% sinh khối nhưng là mức giảm ít nhất so với các cây còn
57
lại. Đứng thứ 4 là cỏ Vetiver, khi cỏ vẫn tăng trưởng ở CT 750 mg COD/L với 2,6%.
Khi tăng lên 1000 mg COD/L, cỏ Vetiver giảm sinh khối so với ban đầu là 9,2%. Các
cây còn lại như Sậy, Rau muống và Bèo cái chỉ tăng trưởng khi môi trường có lượng
COD đến 500 mg/L sau đó đều giảm sinh khối so với ban đầu.
Hình 3.1. Ảnh hưởng của nồng độ COD khác nhau lên sinh trưởng của TVTS
Qua kết quả thí nghiệm (hình 3.1) cho thấy Bèo tây chống chịu COD đến 1000
mg/L, Trần Văn Tựa và cs (2011) [67] cũng thu được kết quả tương tự khí đánh giá
khả năng chống chịu của Bèo tây trong xử lý nước thải hữu cơ giầu nitơ và photpho từ
ngành chế biến thủy sản. Từ hình 3.1 ta thấy Ngổ trâu, Thủy trúc chống chịu COD đến
750 mg/L; Sậy, cỏ Vetiver, Bèo cái chống chịu COD đến 500 mg/L; Rau muống, Cải
Xoong chống chịu COD < 500 mg/L. Liao. X (2000) [80], cũng chỉ ra rằng Vetiver,
Thủy trúc thích hợp cho xử lý nước thải chăn nuôi lợn, có thể chống chịu COD < 1000
mg/L. Xu. J và cs (2010) [81], cũng thu được kết quả tương tự khi đánh giá khả năng
chống chịu COD của Sậy, thí nghiệm được đặt 30 ngày trong xô tại 5 công thức COD:
0, 100, 200, 400 và 800 mg/L. Các công thức nồng độ COD thấp cây Sậy sinh trưởng
và phát triển bình thường, khi tăng nồng độ COD lên cao thì cây sinh trưởng và phát
triển kém hơn, với COD ≥ 400 mg/L đã làm thay đổi sinh lý rõ rệt trong cây Sậy.
Như vậy COD là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển
của cây, khi tăng nồng độ COD lên thì tốc độ sinh trưởng của cây chậm và giảm dần,
COD càng cao thì cây sinh trưởng và phát triển càng kém. Các nghiên cứu trong nước
và thế giới về khả năng chống chịu COD của các TVTS còn rất ít ỏi, kết quả nghiên
cứu của thí nghiệm này đã xác định được khả năng chống chịu COD của 8 loại TVTS
nghiên cứu (trình bày trong bảng 3.1).
58
Dựa trên số liệu về sinh trưởng có thể sắp xếp thứ tự chống chịu COD của 8
loài thực vật được nghiên cứu như sau:
Bèo tây, Ngổ trâu, Thủy trúc > cỏ Vetiver > Sậy, Rau muống, Bèo cái > Cải Xoong.
(Theo trật tự này, sự hơn kém là ở vị trí trước và sau trong đó dấu > chỉ sự hơn kém
nhiều, rõ ràng còn dấu “phẩy” chỉ sự hơn kém ít).
3.1.1.2. Khả năng chống chịu NH4+
Nitơ là chất dinh dưỡng quan trọng và cần thiết cho cơ thể thực vật sinh trưởng
và phát triển. Trong nước thải chăn nuôi lợn nhất là nước thải đã qua xử lý yếm khí,
nitơ ở dạng NH4+ có nồng độ rất cao. Mặc dù thực vật có thể đồng hóa NH4
+ nhưng
khi ở nồng độ cao, NH4+ gây độc cho thực vật do một phần NH4
+ sẽ chuyển sang dạng
NH3 rất độc. Dựa vào số liệu nồng độ NH4+ trong nước thải, đã tiến hành thí nghiệm
với 5 nồng độ NH4+ trong khoảng từ 50 – 250 mg/L. Kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng
của NH4+ đến sinh trưởng của TVTS được trình bày trong hình 3.2.
Từ hình 3.2 ta thấy khả năng chịu NH4+ của thực vật nghiên cứu cũng khác
nhau. Nếu như NH4+ ở nồng độ 250 mg/L, Bèo tây vẫn sinh trưởng khá tốt với tăng
trưởng đến 30,3% thì Cải xoong, Ngổ trâu, Rau muống và Bèo cái lại không thể tăng
trưởng ở nồng độ này. Số liệu sinh trưởng cho thấy sinh khối giảm đi so với ban đầu là
44,4%, 42,3%, 22,2% và 7,7% tương ứng. Ngay ở nồng độ 150 mg/L, Rau muống và
Ngổ trâu đã giảm sinh khối đến 7,6% và 10,2% tương ứng. Dựa trên số liệu về sinh
trưởng có thể sắp xếp thứ tự chống chịu NH4+ của 8 loài nghiên cứu như sau:
Bèo tây > Sậy, cỏ Vetiver, Thủy trúc > Bèo cái, Cải xoong > Ngổ trâu, Rau muống
Hình 3.2. Ảnh hưởng của nồng độ NH4+ khác nhau lên sinh trưởng của TVTS
59
Từ kết quả thí nghiệm này ta thấy Bèo tây chịu NH4+ trên 250 mg/L, Sậy,
Vetiver, Thủy trúc chống chịu được NH4+ đến 250 mg/L, Bèo cái, Cải xoong chống
chịu NH4+ đến150 mg/L, Rau muống, Ngổ trâu chống chịu NH4
+ đến 100 mg/L.
Nghiên cứu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường đến sinh trưởng của TVTS cũng đã
được một số tác giả quan tâm như: Silvana (1994) [82] thấy rằng khi tăng nồng độ nitơ
(sử dụng muối NH4NO3) thì gây ức chế sinh trưởng của Bèo cái, tuy nhiên sự ức chế
này chỉ thể hiện mạnh ở nồng độ NH4+ cao. Nghiên cứu ở Bèo tấm, một loài TVTS
khác, Korner (2001) [83] nhận thấy loại bèo này chịu được nồng độ NH4+ đến 300
mg/L. Tuy nhiên, khi pH tăng đến 9, sinh trưởng của bèo bị ức chế mạnh. Tương quan
pH, nhiệt độ và sự biến đổi giữa NH4+ và NH3 trong môi trường là rất quan trọng. Khi
pH tăng 1 đơn vị, lượng NH3 tăng 10 lần (Emerson 1975). Liao (2000) [80], đã đánh
giá toàn diện về khả năng thích nghi 12 loài TVTS với nước thải chăn nuôi lợn tại
Trung Quốc cũng thu được kết quả như sau: Các loài TVTS chống chịu tốt nhất là cỏ
Vetiver, Thủy trúc và Cói, đây là những loại thích hợp cho xử lý nước thải chăn nuôi
lợn. Cỏ Vetiver, Thủy trúc có thể phát triển được với NH4+ < 250 mg/L, có thể chống
chịu được NH4+ < 390 mg/L. Nghiên cứu của Gupta và cs (2012) [84], sử dụng Bèo
tây, rau Xà lách và cỏ Vetiver để xử lý nước thải cũng chỉ ra rằng Bèo tây, cỏ Vetiver
chống chịu được NH4+ < 250 mg/L.
Như vậy NH4+ là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển
của cây, nồng độ NH4+ càng cao thì cây sinh trưởng và phát triển càng kém. Thí
nghiệm này đã xác định được khả năng chống chịu và khoảng nồng độ NH4+ thích hợp
cho sinh trưởng và phát triển tốt của 8 loại TVTS trên (bảng 3.1).
3.1.1.3. Khả năng chống chịu NO3-
Nitrat (NO3-) là một hợp chất cần thiết cho sự sinh trưởng và phát triển của thực
vật. Khi có mặt với hàm lượng cao, NO3- cùng với PO4
-3 thúc đẩy sự phát triển mạnh
mẽ của các loài thực vật. So với amoni, nitrat được coi là ít độc hơn amoni nhưng
không có nghĩa là cây có thể chịu được bất kỳ nồng độ nào.
Kết quả đánh giá ảnh hưởng của NO3- lên sinh trưởng của TVTS ở hình 3.3 cho
thấy, khả năng chịu NO3- của các TVTS nghiên cứu đều cao hơn so với NH4
+.
Ở nồng độ 150 mg NO3-/L, tất cả 08 loài thử nghiệm đều tăng sinh khối so với
ban đầu. Đến 200 mg/L thì Rau muống và Bèo cái đã giảm sinh khối là 3,8% và 13,1%
tương ứng. Chống chịu tốt nhất vẫn là Bèo tây vì ở nồng độ NO3- 300 mg/L Bèo tây
vẫn tăng sinh khối đến 17,6% trong khi các cây: Bèo Cai, Rau muống, Cải xoong, cỏ
Vetiver, Thủy trúc và Sậy đều giảm sinh khối ở mức độ khác nhau. Giảm nhiều nhất là
Bèo cái với 87,2%. Dựa trên số liệu về sinh trưởng có thể sắp xếp thứ tự chống chịu
NO3- của 8 loài nghiên cứu như sau:
Bèo tây, Ngổ trâu, Thủy trúc > Sậy, Cải xoong, cỏ Vetiver > Bèo cái, Rau muống
60
Hình 3.3. Ảnh hưởng của nồng độ NO3- khác nhau lên sinh trưởng của TVTS
Từ hình 3.3 ta thấy Bèo tây, Ngổ trâu, Thủy trúc chống chịu được NO3- đến
300 mg/L; Sậy, Cải xoong, cỏ Vetiver chống chịu NO3- đến 250 mg/L; Bèo cái, Rau
muống chống chịu NO3- đến 200 mg/L. Ayyasamy và cs (2009) [85], cũng chỉ ra rằng
Bèo tây chống chịu được NO3- đến 300 mg/L. Gupta và cs (2012) [84], sử dụng Bèo
tây, rau Xà lách và cỏ Vetiver để xử lý nước thải cũng chỉ ra rằng Bèo tây chống chịu
được NO3- đến 300 mg/L, cỏ Vetiver chống chịu được NO3
- đến 250 mg/L. Liua
(2012) [86], nghiên cứu đặc tính tăng trưởng và khả năng loại bỏ chất dinh dưỡng của
cây trồng trong các vùng đất ngập nước ngầm cũng chỉ ra rằng Sậy phát triển với NO3-
< 250 mg/L.
Như vậy thí nghiệm này đã xác định được khả năng chống chịu và nồng độ
NO3- thích hợp cho cây sinh trưởng và phát triển tốt. Kết quả nghiên cứu này là cơ sở
để đề tài tiến hành nghiên cứu, ứng dụng TVTS trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn.
3.1.1.4. Khả năng chống chịu pH
Kết quả đánh giá khả năng chống chịu pH của TVTS được trình bày trong hình 3.4.
Trong khoảng pH nghiên cứu (từ 5 đến 9), kết quả nhận được cho thấy khả
năng chịu pH của các TVTS nghiên cứu rất khác nhau. Trong các thực vật này, khả
năng chống chịu tốt nhất là Bèo tây: Tăng sinh khối từ 11,9% ở pH 5 đến 21,1% ở pH
9, Bèo tây sinh trưởng tốt trong khoảng pH từ 6-8 với tăng trưởng từ 31,6% đến
36,4%. Ở pH 5, Bèo tây sinh trưởng kém nhất (với 11,9% tăng trưởng) sau đến pH 9
với tăng trưởng 21,1%. Cây chịu pH tốt thứ hai là Rau muống và Thủy trúc, khi tăng
61
trưởng ở pH từ 5 đến 9. Chống chịu kém nhất là Cải xoong và Bèo cái khi chỉ chịu
được pH từ 5-8. Ở pH 8, Cải xoong chỉ tăng 3,1% sinh khối, còn con số này ở Bèo cái là
14,0 %. Cả hai loại cây này bị chết ở pH 9.
Hình 3.4. Ảnh hưởng của pH khác nhau lên sinh trưởng của TVTS
Nhìn chung khoảng pH thích hợp cho sinh trưởng của các thực vật nghiên cứu
là pH từ 6 - 8. Có thể sắp xếp khả năng chống chịu pH của các thực vật nghiên cứu
như sau:
Bèo tây, Rau muống, Thủy trúc > cỏ Vetiver, Ngổ trâu > Sậy > Bèo cái, Cải xoong.
Như vây từ kết quả thí nghiệm ta thấy Bèo tây, Rau muống, Thủy trúc chống
chịu được pH từ 5 - 9, Sậy, cỏ Vetiver, Ngổ trâu, Bèo cái, Cải xoong chống chịu pH 5
- 8. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp với nghiên cứu của Lu, Q (2009) [21],
TVTS phát triển tốt nhất ở khoảng pH từ 5,5 - 8. El-Gendy và cs (2004) [25] cũng chỉ
ra rằng TVTS chống chịu được pH trong khoảng từ 5 -10. Gupta và cs (2012) [84], sử
dụng Bèo tây, rau Xà lách và cỏ Vetiver để xử lý nước thải cũng chỉ ra rằng Bèo tây
xử lý nước thải tốt trong pH từ 6,5 - 8,52. Trần Văn Tựa (2011) [88], nghiên cứu khả
năng chống chịu pH của 5 loại TVTS (Bèo tây, Bèo cái, Rau muống, Cải xoong, Ngổ
trâu cũng thu được kết quả tương tự như: Bèo tây, Rau muống chống chịu được pH từ
5 - 9; Ngổ trâu, Bèo cái, Cải xoong chống chịu pH từ 5 - 8; pH thích hợp cho sinh
trưởng của Bèo tây là pH từ 7-8; Rau muống là pH từ 6 - 8; Bèo cái, Cải xoong, Ngổ
trâu là pH từ 6 - 7.
Như vậy xét chung cả 4 yếu tố trên, Bèo tây là cây chống chịu tốt nhất vì luôn
đứng đầu, tiếp đến cỏ Vetiver, Ngổ trâu, Thủy trúc và Sậy. Đứng ở nhóm cuối là Bèo
62
cái, Rau muống và Cải xoong. Kết quả nghiên cứu khả năng chống chịu một số yếu tố
môi trường của 8 loại TVTS được trình bày trong bảng 3.1.
Bảng 3.1. Khả năng chống chịu một số yếu tố môi trường của các thực vật thủy sinh
STT TVTS pH COD
(mg/L) NH4
+
(mg/L) NO3
-
(mg/L)
1 Bèo tây 5-9 Đến 1000 Trên 250 Trên 300
2 Bèo cái 6-8 Đến 500 Đến 150 Đến 200
3 Sậy 5-8 Đến 750 Đến 250 Đến 250
4 Cải xoong 6-8 Dưới 500 Đến 150 Đến 250
5 Rau muống 5-9 Dưới 500 Đến 100 Đến 200
6 Ngổ trâu 5-8 Đến 750 Đến 100 Đến 300
7 Vetiver 5-8 Đến 750 Đến 250 Đến 250
8 Thủy trúc 5-9 Đến 500 Đến 250 Đến 300
Với khả năng chống chịu như trên, khó có thể sử dụng TVTS để xử lý trực tiếp
nước thải chăn nuôi lợn tập trung khi COD và NH4+ cao. Đây là minh chứng cho ý
tưởng về hệ thống xử lý tích hợp một số phương pháp trong áp dụng công nghệ sinh
học để xử lý nước thải chăn nuôi lợn trang trại qui mô lớn trong đó công nghệ sinh thái
sử dụng TVTS là công đoạn sau cùng.
3.1.2. Hiệu quả xử lý ô nhiễm của các loài TVTS được lựa chọn
Tiếp theo đánh giá về chống chịu, thí nghiệm này đánh giá khả năng xử lý hay
loại bỏ một số yếu tố ô nhiễm môi trường của các TVTS tuyển chọn. Các yếu tố gồm:
COD, Nitơ (NH4+, NO3
- và TN), phốt pho (PO43- và TP) và TSS. Việc đánh giá tiến
hành trong thí nghiệm theo mẻ và thí nghiệm bán liên tục.
3.1.2.1. Hiệu quả xử lý các chất ô nhiễm ở thí nghiệm theo mẻ
a. Hiệu quả xử lý COD ở thí nghiệm theo mẻ
Hiệu quả xử lý COD ở thí nghiệm theo mẻ của TVTS nghiên cứu được trình
bày ở hình 3.5.
Nhìn chung so với đối chứng (ĐC), khả năng xử lý của các thí nghiệm có cây
đều cao hơn, nồng độ COD giảm dần theo thời gian tương ứng với hiệu quả xử lý tăng
dần theo thời gian. Hàm lượng COD ban đầu của thí nghiệm khoảng 250 mg/L. Qua
hình 3.5 ta thấy hiệu quả xử lý COD khác nhau ở từng cây nhưng đều tăng theo thời
gian đồng nghĩa với sự giảm hàm lượng COD trong thí nghiệm. Hiệu quả xử lý cao
trong khoảng 7 và 14 ngày đầu và chậm lại ở những khoảng thời gian sau. Sau 7 ngày
63
thí nghiệm tỷ lệ % loại bỏ COD cao nhất là Bèo tây (73,8%), cao gấp 2,3 lần đối
chứng (31,6%), tiếp theo là Bèo cái (62,33%) còn thấp nhất là cỏ Vetiver (36,7%). Sau
14 ngày, Bèo tây và Bèo cái loại bỏ COD cao với 84,2% và 79,7% còn cỏ Vetiver vẫn
ở vị trí cuối với 52,5%. Sau 28 ngày, Bèo tây và Bèo cái loại bỏ COD cao với 95,4%
và 85,8% trong khi cỏ Vetiver vẫn ở vị trí cuối với 76,9%. Trần Văn Tựa (2007) [88],
nghiên cứu khả năng xử lý COD của Bèo tây và Bèo cái trong thí nghiệm theo mẻ, cho
thấy Bèo tây loại bỏ khá tốt lượng COD trong nước thải chế biến thủy sản với hiệu
suất 73,7% - 88,8% sau 7 ngày và 83,9% - 93,2% sau 14 ngày. Bèo cái cũng thể hiện
tiềm năng xử lý tốt lượng COD trong nước thải với hiệu suất 69,03% sau 7 ngày và
77,6% sau 14 ngày. Hồ Bích Liên (2014) [90], sử dụng cỏ Vetiver để xử lý nước rỉ rác,
sau 4 tuần thí nghiệm hiệu suất xử lý COD của cỏ Vetiver đạt 62,06%. Nghiên cứu
mới đây của Nguyễn Hồng Sơn (2016) [71], đánh giá hiệu quả xử lý nước nuôi tôm và
cá tra bằng Sậy ở thí nghiệm theo mẻ cũng thu được kết quả tương tự, sau 4 tuần thí
nghiệm hiệu quả xử lý COD của Sậy đạt 87,1%.
Hình 3.5. Hiệu quả xử lý COD (%)-Thí nghiệm theo mẻ
Mặt khác qua hình 3.5 ta thấy rằng tỷ lệ loại bỏ COD cao ở tuần đầu (loại bỏ từ
36,9% đến 73,8%), tuần thứ 2 COD loại bỏ dao động từ 9,4% đến 20%, tuần thứ 3
COD loại bỏ dao động từ 6,6% đến 15,9% và giảm xuống thấp nhất ở tuần thứ 4 (loại
bỏ từ 4,0% đến 10,5%). Lượng COD giảm mạnh trong những ngày đầu (sau 7, 14
ngày) và chậm lại ở những ngày sau.
Như vậy kết quả thí nghiệm theo mẻ cho thấy thời gian lưu nước thích hợp để
TVTS có thể xử lý được COD trong nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ xử lý vi
sinh vật lớn nhất mà phù hợp với tình hình thực tế trong các quy trình xử lý nước thải
64
chăn nuôi là 7 – 14 ngày. Dựa vào hiệu quả xử lý COD, có thể sắp xếp các TV nghiên
cứu theo trật tự sau:
Bèo tây, Bèo cái > Ngổ trâu, Sậy > Thủy trúc, Rau muống, Cải xoong > Vetiver
b. Hiệu quả xử lý TSS
Hiệu quả xử lý TSS trong thí nghiệm theo mẻ của TVTS nghiên cứu được trình
bầy ở hình 3.6.
Hình 3.6. Hiệu quả xử lý TSS (%)-Thí nghiệm theo mẻ
Hình 3.6 cho thấy Bèo tây và Bèo cái có khả năng loại bỏ TSS rõ hơn nhóm còn
lại. Cụ thể so sánh khả năng xử lý TSS của Bèo tây so với ĐC cho thấy, trong giai
đoạn 14 ngày đầu của thí nghiệm ĐC chỉ loại bỏ được hơn 30% TSS trong khí ở thí
nghiệm có cây, TSS đã loại bỏ được 50%. Ở giai đoạn sau, ưu thế của thí nghiệm có
cây rõ rệt hơn khi có tới 85% TSS bị loại bỏ, đối với ĐC con số này chỉ là 60%. Điều
này cho thấy vai trò của cây Bèo tây mà cụ thể là bộ rễ đã góp phần quan trọng trong
việc loại bỏ cặn lơ lửng giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Ở Bèo cái, trong giai đoạn 14 ngày đầu của thí nghiệm, ĐC chỉ loại bỏ được
hơn 30% TSS trong khí ở thí nghiệm có cây TSS đã loại bỏ được 48,1%. Ở giai đoạn
sau, ưu thế của thí nghiệm có cây rõ rệt hơn khi có tới 81,1% TSS bị loại bỏ trong khi
ở ĐC con số này chỉ là 60,8%. Trong nhóm 6 cây còn lại sự hơn kém nhau là không
nhiều.
Nếu lấy kết quả sau 28 ngày hoặc số liệu trung bình, có thể thấy trật tự về loại
bỏ TSS của các TVTS như sau:
Bèo tây, Bèo cái > Ngổ trâu, cỏ Vetiver, Sậy, Rau muống, Cải xoong, Thủy trúc.
65
c. Hiệu quả xử lý NH4+
Hiệu quả xử lý NH4+ trong thí nghiệm theo mẻ của TVTS nghiên cứu được trình
bày trên hình 3.7. Nhìn chung so với ĐC không cây khả năng xử lý của các thí nghiệm
có cây đều cao hơn, nồng độ NH4+ giảm dần theo thời gian tương ứng với hiệu quả xử
lý tăng dần theo thời gian.
Hình 3.7. Hiệu quả xử lý NH4+ - thí nghiệm theo mẻ
Qua hình 3.7 ta thấy với nồng độ NH4+ ban đầu khoảng 100 mg/L, thì nồng độ
N-NH4+ giảm mạnh trong khoảng 7 và 14 ngày đầu và chậm lại ở những ngày sau. Có
tới 40-60% NH4+ bị loại trong 7 ngày đầu trong đó Bèo tây loại nhiều nhất với 61,6%
NH4+, tiếp theo là Bèo cái và Ngổ trâu với 50,7% và 47,2% còn thấp nhất là Cải xoong
với 40,6%. Trong các khoảng thời gian sau, Bèo tây luôn ở vị trí dẫn đầu với 82,7%
sau 14 ngày, 97,2% sau 21 ngày và 97,7% sau 28 ngày. Cải xoong có hiệu suất xử lý
thấp nhất ở cả 7 và 14 ngày với 40,6% và 68,8%. Tuy nhiên, sự hơn kém so với các
cây còn lại cũng không quá nhiều, ví dụ ở ngày thứ 14, cỏ Vetiver loại được 72,3%
NH4+ tức là chỉ hơn Cải xoong 1,5%. Vì thế việc sắp xếp sẽ chỉ là tương đối, Số liệu
trung bình cũng cho thấy nhận định trên khi Bèo tây dẫn đầu với 84,8% sau là Bèo cái
và Rau muống 77,9% và 76,4%. Nhóm sau gồm Sậy, Ngổ trâu, Cỏ Vetiver, Thủy trúc
và Cải xoong.
Qua hình 3.7 ta thấy rằng tỷ lệ loại bỏ NH4+ cao ở tuần đầu (loại bỏ từ 41,0%
đến 61,6%), tuần thư 2 NH4+ loại bỏ dao động từ 28,2% đến 41,4%, tuần thứ 3 NH4
+
loại bỏ dao động từ 16% đến 34,8% và giảm xuống thấp nhất ở tuần thứ 4 (loại bỏ từ
66
4,5% đến 15,1%) ngày. Lượng NH4+ giảm mạnh trong những ngày đầu (sau 7, 14
ngày) và chậm lại ở những ngày sau.
Nghiên cứu về hiệu quả xử lý NH4+ của TVTS cũng đã được một số tác giả
quan tâm như: Sooknah và cs (2004) [91], đã nuôi Bèo tây trong thí nghiệm theo mẻ
31 ngày với nước thải phân chuồng nuôi bò sữa đã qua phân hủy yếm khí. Với nước
pha loãng 2 lần có TKN 164 mg/L và SS 487 mg/L, Bèo tây đã loại bỏ amoni 99,6%.
Trần Văn Tựa (2011) [88], đánh giá khả năng sinh trưởng và loại bỏ N của Bèo
tây, Bèo cái, Rau muống, Ngổ trâu và Cải xoong. Sau 8 ngày, Bèo tây loại bỏ NH4+
nhiều nhất trong khoảng 87,1 - 99,6%, tiếp đến là Bèo cái loại bỏ NH4+ trong khoảng
56,7 - 81,1%, Rau muống loại bỏ NH4+ trong khoảng 61,5% - 86,6%, Ngổ trâu loại bỏ
NH4+ trong khoảng 46,4 - 81,2%, thấp nhất là Cải xoong loại bỏ NH4
+ trong khoảng
48,4 - 67,5% sau 10 ngày. Sau 15 ngày Bèo tây, Bèo cái, Rau muống và Ngổ trâu đã
loại bỏ NH4+ rất tốt tương ứng là 97,7%, 94,7%, 93% và 94,6%. Kết quả nghiên cứu
này cao hơn do nồng độ NH4+ đầu vào thấp (dao động từ 10 – 25 mg/L) trong khí thí
nghiệm trên nồng độ NH4+ cao khoảng 100 mg/L.
Võ Trần Hoàng và cs (2014) [92], khảo sát hiệu quả xử lý nước thải sinh hoạt
của Bèo tây và Ngổ trâu, sau 4 tuần Bèo tây và Ngô trâu đã loại bỏ NH4+ tương ứng là
87,5% và 50%.
Như vậy qua kết quả nghiên cứu ta thấy thời gian lưu nước thích hợp để TVTS
có thể xử lý được NH4+ trong nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ xử lý vi sinh vật
lớn nhất mà phù hợp với tình hình thực tế trong các quy trình xử lý nước thải chăn
nuôi là 7 – 14 ngày. Có thể xếp trật tự về khả năng loại bỏ NH4+ như sau:
Bèo tây > Bèo cái, Rau muống> Sậy, Ngổ trâu > Cỏ Vetiver, Thủy trúc, Cải xoong
d. Hiệu quả xử lý tổng Nitơ
Kết quả về hiệu quả loại bỏ TN của TVTS được minh họa ở hình 3.8. Nhìn
chung so với ĐC khả năng xử lý của các thí nghiệm có cây đều cao hơn, TN giảm dần
theo thời gian tương ứng với hiệu quả xử lý tăng dần theo thời gian.
Từ hình 3.8 cho thấy hiệu quả xử lý TN có xu hướng như với loại bỏ NH4+.
Lượng TN loại bỏ khá lớn sau 7 và 14 ngày. Ở ngày thứ 7, có 40,9% (Cải xoong) đến
trên 53,7% (Bèo tây) TN bị loại. Khả năng loại bỏ mạnh nhất là Bèo tây, loại bỏ được
53,7%, cao gấp 2,24 lần đối chứng (23,9%). Ở ngày 14, 21 và 28, Bèo tây vẫn có kết
quả cao nhất. Sau 28 ngày Bèo tây loại bỏ được 92,2% cao gấp 2,02 lần đối chứng
(45,6%). Nghiên cứu trước đây của Sooknah và cs (2004) [91] cũng chỉ ra rằng Bèo
tây đã loại bỏ TKN 91,7% sau 31 ngày thí nghiệm.
67
Hình 3.8. Hiệu quả xử lý TN- thí nghiệm theo mẻ
Số liệu trung bình về loại bỏ TN cho thấy Bèo tây đứng thứ nhất với 79,8%,
tiếp theo là Bèo cái, Ngổ trâu và Rau muống với 73,7%, 73,6% và 72,9% tương ứng.
Nhóm cuối là cỏ Vetiver, Thủy trúc và Cải xoong với 65,5%, 65,1% và 64,4% TN bị
loại. Nghiên cứu của Châu Minh Khôi và cs (2012) [93] cũng chỉ ra rằng sau 4 tuần thí
nghiệm, Bèo tây đã loại bỏ đến 88% N hữu cơ, cỏ Vetiver đã loại bỏ đến 85% N hữu
cơ trong nước thải ao nuôi cả tra. Hồ Bích Liên (2014) [90], đánh giá khả năng xử lý
nước rỉ rác của cỏ Vetiver trong điều kiện bổ sung chế phẩm sinh học EM sau 4 tuần
thí nghiệm hiệu suất xử lý TN đạt 87,6%. Nghiên cứu mới đây của Nguyễn Hồng Sơn
(2016) [71], cũng chỉ ra rằng sau 4 tuần thí nghiệm, hiệu quả loại bỏ TN trong nước
nuôi tôm và cá tra của Bèo tây, cỏ Vetiver, Sậy và Thủy trúc tương ứng là 90,8%,
81,1%, 96,1% và 93,4%.
Trong 8 loại TVTS nghiên cứu, Cải xoong có khả năng loại bỏ TN thấp nhất,
sau 7 ngày Cải xoong loại bỏ được 40,9% TN, sau 14 ngày, 21 ngày và 28 ngày, các
số liệu nhận được tương ứng là 65,1%, 70,3% và 81,4%. Ở ĐC, ngày thứ 7 chỉ loại
được 15,1% TN (bằng hơn 1/3 của công thức Cải xoong cùng thời điểm). Tại 3 thời
điểm tiếp theo, con số phần trăm loại bỏ TN của ĐC lần lượt là 25,8%, 39,8% và
52,5%. Nhìn chung, khi có mặt Cải xoong hiệu quả loại bỏ TN luôn cao hơn ĐC từ 1,5
đến gần 3 lần.
Hình 3.8 cho thấy xu hướng loại bỏ TN cũng có chiều hướng như với amôn, với
tỷ lệ loại bỏ TN cao ở tuần đầu (loại bỏ từ 34,5% đến 53,7%), tuần thứ 2 TN loại bỏ
dao động từ 20,4% đến 25,5%, tuần thứ 3 TN loại bỏ dao động từ 10,8% đến 18,1% và
giảm xuống thấp nhất ở tuần thư 4 (loại bỏ từ 3,6% đến 12,3%) ngày. Lượng TN giảm
mạnh trong những ngày đầu (sau 7, 14 ngày) và chậm lại ở những ngày sau.
68
Như vậy thời gian lưu nước thích hợp để TVTS có thể xử lý được TN trong
nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ xử lý vi sinh vật lớn nhất mà phù hợp với tình
hình thực tế trong các quy trình xử lý nước thải chăn nuôi là 7 – 14 ngày. Trật tự tương
đối về khả năng loại bỏ TN của TVTS nghiên cứu như sau:
Bèo tây > Bèo cái, Ngô trâu, Rau muống, Sây > cỏ Vetiver, Thủy trúc, Cải xoong
e. Hiệu quả xử lý P-PO43-
P là những nguyên tố cần thiết cho quá trình tạo sinh khối của thực vật. Nồng
độ photphat trong nước không ô nhiễm thường nhỏ hơn 0,01 mgP-PO43-/l và photpho
tổng số thường nhỏ hơn 0,025mgP/l (Khan và Ansari, 2005). Nếu có mặt với hàm
lượng cao, PO43- gây ra hiện tượng phú dưỡng và dẫn đến hiện tượng nở hoa cho thủy
vực tiếp nhận nước thải. Người ta thường dùng chỉ tiêu này để đánh giá mức độ dinh
dưỡng và mức độ nhiễm bẩn của thủy vực.
Hình 3.9. Hiệu quả xử lý PO43- - Thí nghiệm theo mẻ
Hiệu quả loại bỏ PO43- của TVTS được minh họa ở hình 3.9. Giống như N, khả
năng loại bỏ photpho của các TVTS nghiên cứu xét về phần trăm cũng có xu hướng
chung là nhanh ở 2 tuần đầu và chậm lại ở các tuần sau. Ở ngày thứ 7 có từ 30% đến
trên 60% lượng photpho bị loại. Cây Bèo tây vẫn ở vị trí đầu về loại bỏ phốt pho. Sau
7 ngày, tỷ lệ % loại bỏ P- PO43- của Bèo tây là 64,5% và ĐC là 16,7 %. Như vậy sau 7
ngày đầu Bèo tây loại bỏ P-PO43- gấp 3,7 lần so với ĐC. Sau 14 ngày Bèo tây loại bỏ
được 85,9 % cao gấp 2,62 lần so với ĐC không cây (32,8%). Đến ngày thứ 28 hiệu
quả loại bỏ Bèo tây là 99,5 %, hàm lượng P-PO43 trong nước thải đã được loại bỏ gần
hết,gấp 2,1 lần ĐC(47,5%).
69
Khả năng loại bỏ P-PO43- thấp nhất là Cải xoong, so với đầu vào ở ngày thứ 7,
tỷ lệ % loại bỏ P- PO43- của Cải xoong là 47,7% và ĐC là 15,4%. Như vậy sau 7 ngày
đầu Cải xoong loại bỏ P-PO43- gấp 3 lần so với ĐC. Sau 14 ngày Cải xoong loại bỏ
được 58,8% cao gấp 2 lần so với ĐC (28,0%), đến ngày thứ 28 hiệu quả loại bỏ ở Cải
xoong là 73,3%, gấp 1,5 lần ĐC (50,9%).
Qua hình 3.9 ta thấy rằng xu hướng loại bỏ PO43- cũng có chiều hướng như với
N, với tỷ lệ loại bỏ P-PO43- cao ở tuần đầu (loại bỏ từ 27,1% đến 65,5%), tuần thứ 2 P-
PO43- loại bỏ dao động từ 9,5% đến 26,2%, tuần thứ 3 P-PO4
3- loại bỏ dao động từ
7,5% đến 17,9% và giảm xuống thấp nhất ở tuần thứ 4 (loại bỏ từ 4,4% đến 15,3%).
Như vậy thời gian lưu nước thích hợp để TVTS có thể xử lý được P-PO43- trong nước
thải chăn nuôi lợn sau công nghệ xử lý vi sinh lớn nhất mà phù hợp với tình hình thực
tế trong các quy trình xử lý nước thải chăn nuôi là 7 ngày.
Trần Văn Tựa (2011) [88], đánh giá khả năng loại bỏ PO43- của Bèo cái và Ngổ
trâu. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỷ lệ loại bỏ P-PO43- cao ở tuần đầu và chậm
lại ở các tuần sau, Bèo cái loại bỏ PO43- trong khoảng 51,5 - 58,8% sau 8 ngày và Ngổ
trâu loại bỏ PO43- là 47,8% sau 8 ngày. Võ Trần Hoàng và cs (2014) [92], khảo sát
hiệu quả xử lý nước thải sinh hoạt của Bèo tây và Ngổ trâu cho thấy sau 4 tuần Bèo tây
và Ngô trâu đã loại bỏ PO43- tương ứng là 98,98% và 93,2%.
Như vậy dựa trên tương quan về phần trăm loại bỏ P-PO43- có thể sắp xếp trật
tự các cây nghiên cứu như sau:
Bèo tây > Bèo cái, Ngổ trâu, Rau muống, Sậy, Thủy trúc > Cải xoong, cỏ Vetiver
f. Hiệu quả xử lý tổng phốt pho
Hiệu quả loại bỏ TP của TVTS được trình bày ở hình 3.11. Khả năng loại bỏ TP
của các TVTS nghiên cứu xét về phần trăm cũng có xu hướng chung là nhanh ở 2 tuần
đầu và chậm lại ở các tuần sau. Ở ngày thứ 7 có từ 30% đến 66,9% lượng TP bị loại
bỏ. Trong các loài TVTS nghiên cứu cây Bèo tây vẫn ở vị trí đầu về loại bỏ TP. Sau 7
ngày, tỷ lệ % loại bỏ TP của Bèo tây là 66,9% và ĐC là 18,1%. Như vậy sau 7 ngày
đầu Bèo tây loại bỏ TP gấp 3,69 lần so với ĐC. Sau 14 ngày Bèo tây loại bỏ được
81,9% cao gấp 2,3 lần so với ĐC (35,4%), đến ngày thứ 28 hiệu quả loại bỏ ở Bèo tây
là 98,5%, hàm lượng T-P trong nước thải đã được loại bỏ gần hết, gấp 2 lần ĐC
(49,3%).
Khả năng loại bỏ TP thấp nhất là Thủy trúc, so với đầu vào ở ngày thứ 7, Thủy
trúc loại bỏ TP là 19,8% và ĐC là 15,4%. Như vậy sau 7 ngày đầu Thủy trúc loại bỏ
TP gấp 1,28 lần so với ĐC. Sau 14 ngày Thủy trúc loại bỏ được 38% cao gấp 1,2 lần
so với ĐC, đến ngày thứ 28 hiệu quả loại bỏ của Thủy trúc là 69,6% cao gấp 1,5 lần so
với ĐC.
70
Hình 3.10. Hiệu quả xử lý TP- thí nghiệm theo mẻ
Trần Văn Tựa (2007) [88], nghiên cứu khả năng xử lý TP của Bèo tây và Bèo
cái trong thí nghiệm theo mẻ, chỉ ra rằng Bèo tây có khả năng loại bỏ TP cao hơn Bèo
cái. Sau 14 ngày, Bèo tây đã loại bỏ TP trong khoảng 82,6 - 92%, Bèo cái loại bỏ TP
76,6%. Nguyễn Hồng Sơn (2016) [71], đánh giá hiệu quả xử lý nước nuôi tôm và cá
tra bằng các loại TVTS ở thí nghiệm theo mẻ cũng thu được kết quả tương tự: Sau 4
tuần thí nghiệm, Bèo tây có khả năng loại bỏ TP cao nhất (92,2%), tiếp đến là Sậy
(84,4%) sau đó đến cỏ Vetiver (70,1%) và thấp nhất là Thủy trúc (68,8%).
Qua hình 3.10 ta thấy xu hướng loại bỏ TP cũng có chiều hướng như với N, với
tỷ lệ loại bỏ TP cao ở tuần đầu (loại bỏ từ 19,8% đến 66,9%), tuần thứ 2 TP loại bỏ
dao động từ 14,6% đến 30,8%, tuần thứ 3 TP loại bỏ dao động từ 7,2% đến 16,9% và
giảm xuống thấp nhất ở tuần thứ 4 (loại bỏ từ 2,5% đến 14,7%).
Như vậy, thời gian lưu nước thích hợp để TVTS có thể xử lý được TP trong
nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ biogas lớn nhất mà phù hợp với tình hình thực
tế trong các quy trình xử lý nước thải chăn nuôi là 7 ngày. Dựa trên tương quan về
phần trăm loại bỏ TP có thể sắp xếp trật tự các cây nghiên cứu như sau:
Bèo tây > Bèo cái, Ngổ trâu, Rau muống, Sậy > Cải xoong, cỏ Vetiver, Thủy trúc
3.1.2.2. Hiệu quả xử lý các chất ô nhiễm trong thí nghiệm bán liên tục
Trong thí nghiệm theo mẻ trên đây bước đầu cho phép đánh giá khả năng loại
bỏ các chất ô nhiễm của TVTS nghiên cứu. Tuy nhiên, do thí nghiệm theo mẻ nên
không bổ sung nước thải trong thời gian thí nghiệm. Điều đó có nghĩa là hàm lượng
các chất ô nhiễm giảm dần theo thời gian đồng thời áp lực ô nhiễm cũng giảm đi trong
khi nước thải thường xuyên được đưa vào hệ thống. Để có thông số sát thực hơn,
71
chúng tôi tiến hành đánh giá khả năng loại bỏ ô nhiễm của TVTS bằng thí nghiệm bán
liên tục.
a. Hiệu quả xử lý COD trong thí nghiệm bán liên tục
Hiệu quả loại bỏ chất hữu cơ thông qua chỉ số COD của các TVTS nghiên cứu
trong thí nghiệm bán liên tục được biểu diễn ở hình 3.11 và hình 3.12.
Hình 3.11. Hiệu quả xử lý COD (%)- Thí nghiệm bán liên tục
Với nồng độ COD đầu vào khoảng 250 mg/L, tỷ lệ % loại bỏ của TVTS ở ngày
thứ 3 dao động từ 26,6% với Rau muống đến 63,4% ở Bèo tây. Theo thời gian thí
nghiệm (từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 27) tỷ lệ phần trăm xử lý có xu hướng tăng lên
dao động từ 23,3% với Bèo cái đến 83,8% với Bèo tây. Thí dụ Bèo tây, ngày thứ 3,
loại bỏ 63,4% COD, đến ngày thứ 6 đạt 69,3%, ngày thứ 12 đạt 74,3%.... Tương tự,
với cỏ Vetiver, ngày thứ 3 loại bỏ 29,7% COD, ở ngày thứ 6 và 12 có các số liệu tương
ứng là 37,4% và 48,9%. Tuy nhiên, trường hợp Bèo cái và Cải xoong, hiệu quả loại bỏ
COD tăng trong thời gian đầu (từ đầu đến ngày 15) nhưng ở thời gian cuối (ngày 15
đến ngày 27) hiệu quả xử lý lại giảm. Thí dụ Bèo cái giảm từ 68,8% ở ngày 15 xuống
23,3% ở ngày 27. Nguyên nhân là do trong thí nghiệm bán liên tục, việc bổ sung
thường xuyên nước thải làm tăng áp lực ô nhiễm lên sức chống chịu của TVTS. Cải
xoong và Bèo cái là cây có khả năng chịu COD kém (như đã chỉ ra trong nghiên cứu
chống chịu) nên khả năng xử lý giảm dần với thời gian.
72
Hình 3.12. Hiệu quả xử lý COD trung bình (%) - Thí nghiệm bán liên tục
Hình 3.11 cho thấy hiệu suất xử lý COD của Bèo tây cao nhất, ngay từ ngày thứ
3 thì 63,4% COD được loại bỏ, cao gấp 4,74 lần đối chứng (13,4%), đến ngày thứ 9
trong khi hiệu quả loại bỏ của Bèo tây tăng lên đạt 71,59% thì đối chứng lại giảm
mạnh xuống còn 7,3%. Sau 27 ngày, 83,8% COD trong nước thải đã được loại bỏ.
Trong khi đó ở đối chứng ngày thứ 15 bắt đầu có sự xuất hiện của tảo, nồng độ COD
tăng cao hơn ban đầu làm cho hiệu quả xử lý chậm hơn (chỉ đạt 16,5%).
Trong 8 loại TVTS, Cải xoong có hiệu suất xử lý COD thấp nhất, dao động
trong khoảng 32,8% đến 55,9% trong khi ở ĐC, con số chỉ trong khoảng 4,4% đến
14,5%. Như vậy hiệu suất xử lý COD của cải Xoong vẫn cao hơn đối chứng từ 3,8 đến
7,5 lần.
Đánh giá hiệu quả xử lý COD của TVTS cũng được các tác giá trong và ngoài
nước quan tâm. Xia và cs (2001) [94], đánh giá khả năng xử lý nước rỉ rác của cỏ
Vetiver cho thấy cỏ Vetiver có thể loại bỏ 61,9 – 69% COD. Supradata (2005) [95] sử
dụng Thủy trúc để xử lý bùn nuôi trồng thủy sản. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Thủy
trúc có thể loại bỏ 48 -54% COD. Erkan Kalipci (2011) [96], sử dụng Sậy để xử lý
nước thải sinh hoạt, cho thấy Sậy có thể loại bỏ 64,5% BOD và 68% COD. Trần Văn
Tựa và cs (2011) [67], đánh giá khả năng xử lý COD trong nước thải chế biến thủy sản
của Bèo tây và Bèo cái ở thí nghiệm bán liên tục cũng thu được kết quả tương tự. Khả
năng chịu tải COD cũng như khả năng xử lý ổn định trong thời gian dài của Bèo tây là
tốt hơn so với Bèo cái. Hiệu suất xử lý COD trung bình của Bèo tây là 89,5%, Bèo cái
là 78,8%.
73
Như vậy dựa trên hiệu quả loại bỏ COD của thí nghiệm này, có thể sắp xếp trật
tự về khả năng loại bỏ COD các TVTS như sau:
Bèo tây > Ngổ trâu, Sậy > cỏ Vetiver, Rau muống, Bèo cái, Thủy trúc, Cải xoong
b. Hiệu quả xử lý NH4+
Hiệu quả loại bỏ NH4+ của các TVTS nghiên cứu trong thực nghiệm bán liên
tục được trình bày ở hình 3.13 và hình 3.14.
Với nồng độ NH4+ đầu vào dao động từ 30,67 đến 110,32 mg/L, tỷ lệ % loại bỏ
NH4+của TVTS ở ngày thứ 3 dao động từ 22,2% đến 38,4%, ở ngày thứ 27 dao động
từ 43,9% đến 94,5%.
Hình 3.13. Hiệu quả xử lý NH4+ (%)- Thí nghiệm bán liên tục
Từ hình 3.13 ta thấy, theo thời gian thí nghiệm (từ ngày thứ 3 đến ngày thứ 27)
tỷ lệ phần trăm xử lý có xu hướng tăng lên. Thí dụ Bèo tây, ngày thứ 3, loại bỏ 38,4%
NH4+, đến ngày thứ 9 đạt 48,4% ngày thứ 12 đạt 53,4%. Tương tự, với cỏ vetiver,
ngày thứ 3 loại bỏ 26,5% NH4+, ở ngày thứ 9 và 12 có các số liệu tương ứng là 34,5%
và 39,9%. Tuy nhiên, trường hợp Bèo cái, Thủy trúc và Cải xoong, hiệu quả loại bỏ
NH4+ lại biến động không nhiều. Thí dụ Cả xoong loại được 29,3% NH4
+ ở ngày thứ 3,
đạt 32,1% ở ngày thứ 6 và ngày thứ 18 là 30,7%. Trong các TVTS nghiên cứu, Bèo
tây có tỷ lệ loại bỏ nhiều nhất còn Cải xoong ở vị trí sau cùng.
Hình 3.14 cho thấy Bèo tây có tỷ lệ loại bỏ NH4+ nhiều nhất còn Cải xoong ở vị
trí sau cùng. Hiệu xuất xử lý NH4+ của Bèo tây dao động từ 37,1% đến 94,5%, trung
bình đạt 62,5%. Khả năng loại bỏ NH4+ của Bèo tây trong những ngày đầu cao hơn rất
nhiều so với đối chứng sau 3 ngày đạt 38,4% gấp 10,1 lần đối chứng (3,8%). Hiệu quả
xử lý NH4+ của Cải xoong dao động từ 26 % đến 39%, trung bình đạt 32,4%. Khả năng
loại bỏ NH4+ của Cải xoong trong những ngày đầu cao hơn rất nhiều so với đối chứng
74
sau 3 ngày đạt 29,3% gấp 6 lần đối chứng (5,5%). Ngày thứ 9, đối chứng đạt 9,1% còn
thí nghiệm là 35,1%. Ở giai đoạn cuối, sự chênh lệch giữa thí nghiệm và ĐC có giảm
đi, tuy nhiên, vai trò của Cải xoong về cơ bản vẫn được khẳng định trong việc tham
gia tích cực vào loại bỏ amoni. Nghiên cứu trước đây của Trần Văn Tựa và cs (2011)
[67], đánh giá khả năng xử lý NH4+ trong nước thải chế biến thủy sản của Bèo tây và
Bèo cái ở thí nghiệm bán liên tục cũng thu được kết quả tương tự. Khả năng chịu tải
NH4+ cũng như khả năng xử lý ổn định trong thời gian dài của Bèo tây là tốt hơn so
với Bèo cái. Hiệu suất xử lý NH4+ trung bình của Bèo tây là 54,9%, Bèo cái là 40,8%.
Hình 3.14. Hiệu quả xử lý NH4+ trung bình (%)- Thí nghiệm bán liên tục
Dựa trên tương quan về phần trăm loại bỏ NH4+, có thể sắp xếp trật tự loại bỏ
NH4+ của các TVTS như sau:
Bèo tây > Rau muống, Ngổ trâu, Sậy, cỏ Vetiver > Bèo cái, Thủy trúc, Cải xoong
c. Hiệu quả xử lý tổng nitơ
Hiệu quả loại bỏ TN của các TVTS nghiên cứu trong thực nghiệm bán liên tục
được minh họa ở hình 3.15 và hình 3.16.
Nhìn chung, ở phần lớn các TVTS thí nghiệm, tỷ lệ phần trăm xử lý có xu
hướng tăng lên theo thời gian thí nghiệm. Đó là trường hợp của Bèo tây, Rau muống,
Ngổ trâu, Sậy và cỏ Vetiver. Thí dụ Bèo tây, ngày thứ 3, loại bỏ 40,2% TN, đến ngày
thứ 9 đạt 47,3% ngày thứ 15 đạt 62,2%. Tương tự, với cỏ Vetiver, ngày thứ 3 loại bỏ
24,1% TN, ở ngày thứ 9 và 15 có các số liệu tương ứng là 29,2% và 44,6% tương ứng.
Tuy nhiên, trường hợp Bèo cái hiệu quả loại bỏ TN lại biến động không nhiều còn Cải
xoong có xu hướng giảm vào giai đoạn cuối.
75
Hình 3.15. Hiệu quả xử lý TN (%)- Thí nghiệm bán liên tục
Trong các TVTS nghiên cứu, Bèo tây có tỷ lệ loại bỏ nhiều nhất còn Cải xoong
ở vị trí sau cùng. Hiệu quả loại bỏ của Bèo tây đạt từ 42,2% đến 91,1%, trung bình đạt
62,4% trong khi đối chứng chỉ đạt từ 15,1% đến 52,2%. Trong 12 ngày đầu hiệu quả
loại bỏ TN của Bèo tây cao hơn rất nhiều đối chứng, sau 3 ngày Bèo tây loại bỏ được
50,2% cao gấp 3,32 lần đối chứng loại bỏ được 15,1%, tỷ lệ % loại bỏ của cả cây và
đối chứng thay đổi không nhiều trong những ngày này, dao động trong khoảng từ 15,1
- 19,1% với đối chứng, từ 47,2 - 50,2% với thí nghiệm có Bèo tây. Từ ngày thứ 15 trở
đi hiệu quả loại bỏ TN của Bèo tây tăng mạnh cao nhất ở ngày 28 đạt 91,1% gấp 1,75
lần đối chứng (52,2%).
Hiệu quả loại bỏ TN của Cải xoong thấp, đạt từ 16,8% đến 37,5%, trung bình
đạt 27% trong khi đối chứng chỉ đạt từ 7,9% đến 14,8%. Nhìn chung hiệu quả loại bỏ
TN của Cải xoong luôn cao hơn ĐC từ 1,5 đến 3,6 lần.
Hình 3.16. Hiệu quả xử lý TN trung bình (%) - Thí nghiệm bán liên tục
76
Nghiên cứu hiệu quả loại bỏ TN của các TVTS đã được các tác giả trong và
ngoài nước quan tâm. Xia và cs (2001) [94], đánh giá khả năng xử lý nước rỉ rác của
cỏ Vetiver. Kết quả nghiên cứu cho thấy với TN đầu vào dao động trong khoảng 232 –
255 mg/L, cỏ Vetiver có thể loại bỏ TN trong khoảng 43,1 – 69,4%. Supradata (2005)
[95], sử dụng Thủy trúc để xử lý bùn nuôi trồng thủy sản. Kết quả nghiên cứu cho
thấy, Thủy trúc có thể loại bỏ 41 - 44,5% TN. Nghiên cứu mới đây của Kalipci (2011)
[96], sử dụng Sậy để xử lý nước thải sinh hoạt, kết quả nghiên cứu cho thấy Sậy có thể
loại bỏ 40,7% TN. Trần Văn Tựa và cs (2011) [67], đánh giá khả năng xử lý TN trong
nước thải chế biến thủy sản của Bèo tây và Bèo cái ở thí nghiệm bán liên tục cũng thu
được kết quả tương tự. Khả năng xử lý TN ổn định trong thời gian dài của Bèo tây là
tốt hơn so với Bèo cái. Hiệu suất xử lý TN trung bình của Bèo tây là 53,4%, Bèo cái là
37,7%.
Từ kết quả nghiên cứu hiệu quả loại bỏ TN, có thể sắp xếp trật tự loại bỏ TN
của các TVTS như sau:
Bèo tây > Rau muống, Ngổ trâu, Sậy, cỏ Vetiver, Thủy trúc > Bèo cái, Cải xoong
d. Hiệu quả xử lý PO43-
Hiệu quả loại bỏ PO43- của các TVTS nghiên cứu trong thực nghiệm bán liên
tục được minh họa trong hình 3.17 và hình 3.18.
Hình 3.17. Hiệu quả xử lý PO43- (%)- Thí nghiệm bán liên tục
Nhìn chung, tỷ lệ phần trăm xử lý PO43- có xu hướng tăng lên theo thời gian thí
nghiệm như trường hợp của Bèo tây, Rau muống, Ngổ trâu, Sậy và cỏ Vetiver. Sau 3
ngày, Bèo tây loại bỏ 56,1% PO43-, đến ngày thứ 15 đạt 78,1%, ngày thứ 27 đạt 89,3%.
Tương tự, với Sậy ngày thứ 3 loại bỏ 21,8% PO43-, ở ngày thứ 15 và 27 có các số liệu
tương ứng là 55,0% và 61,8% tương ứng. Trường hợp Bèo cái và Cải xoong, hiệu quả
xử lý không chỉ kém hơn mà không có xu hướng tăng lên theo thời gian thí nghiệm.
77
Giống như N, thực vật xử lý PO43- mạnh nhất vẫn là Bèo tây. Khả năng loại bỏ
P-PO43- của Bèo tây cao đạt từ 46,9% đến 89,8%, trung bình đạt 69,7%, đối chứng chỉ
đạt từ 18,3% đến 40,4%, trong 3 ngày đầu Bèo tây loại bỏ được 56,1% gấp 3,05 lần
đối chứng chỉ đạt 18,3%, sau 9 ngày hiệu quả loại bỏ thấp hơn so với ban đầu nhưng
vẫn cao hơn 1,8 lần so với đối chứng và tăng dần những ngày sau, Bèo tây loại bỏ tốt
nhất ở ngày thứ 24 đạt 89,8% cao gấp 2,47 lần đối chứng (36,4%), đối chứng loại bỏ
tốt trong 18 ngày đầu, cao nhất ở ngày thứ 18 đạt 40,4%, những ngày sau hiệu quả xử
lý thay đổi không nhiều biến động trong khoảng từ 36,4% - 40,4%. Trần Văn Tựa và
cs (2011) [67], đánh giá khả năng xử lý P-PO43- trong nước thải chế biến thủy sản của
Bèo tây và Bèo cái ở thí nghiệm bán liên tục cũng thu được kết quả tương tự. Khả
năng xử lý P-PO43- ổn định trong thời gian dài của Bèo tây là tốt hơn so với Bèo cái.
Hiệu suất xử lý P-PO43- trung bình của Bèo tây là 62,04%, Bèo cái là 37,7%.
Hình 3.18. Hiệu quả xử 3 lý PO4- trung bình (%)- Thí nghiệm bán liên tục
Từ hình 3.17, 3.18 ta thấy trong 8 loại TVTS, Cải xoong có hiệu quả xử lý
PO43- thấp nhất. Mặc dù vậy nhưng khả năng loại bỏ P-PO4
3- của cây Cải xoong vẫn
cao hơn đối chứng, khả năng loại bỏ P-PO43- của Cải xoong đạt từ 22,5% đến 33,2%,
đối chứng chỉ đạt 10,8% đến 17,1%. Trong 3 ngày đầu Cải xoong loại bỏ được 30,6%
P-PO43 gấp hơn 2 lần đối chứng chỉ đạt 14,1%, sau 9 ngày hiệu quả loại bỏ của thí
nghiệm là 30,8% trong khi ĐC là 10,1%. Nhìn chung, khi có mặt Cải xoong, khả năng
loại bỏ P-PO43 tăng lên khoảng 1,5 đến 3 lần.
Dựa trên hiệu quả loại bỏ P-PO43-, có thể sắp xếp trật tự các cây nghiên cứu như
sau:
Bèo tây > Ngổ trâu, Sậy, Rau muống, cỏ Vetiver, Thủy trúc > Bèo cái, Cải xoong
78
e. Hiệu quả xử lý tổng phốt pho
Sau thời gian thí nghiệm thu được kết quả đánh giá khả năng loại bỏ TP, được
minh họa trong hình 3.19 và hình 3.20.
Nhìn chung, tỷ lệ phần trăm xử lý TP có xu hướng tăng lên theo thời gian thí
nghiệm như trường hợp của Bèo tây, Rau muống, Ngổ trâu, Sậy và Cỏ vetiver. Sau 3
ngày, Bèo tây loại bỏ 42,5% TP, đến ngày thứ 15 đạt 46,9%, ngày thứ 27 đạt 61,8%.
Tương tự, với cỏ Vetiver, ngày thứ 3 loại bỏ 23,1% TP, ở ngày thứ 15 và 27 có các số
liệu tương ứng là 40% và 57,7% tương ứng. Trường hợp Bèo cái và Cải xoong, hiệu
quả xử lý không chỉ kém hơn mà không có xu hướng tăng lên theo thời gian thí
nghiệm.
Hình 3.19. Hiệu quả xử lý TP (%) - Thí nghiệm bán liên tục
Từ hình 3.19 và hình 3.20, ta thấy Bèo tây xử lý TP đạt hiệu quả cao nhất, tỷ lệ
% loại bỏ thay đổi không đều theo thời gian, Bèo tây loại bỏ tốt hơn dao động trong
khoảng 32,7 - 54,9%, đối chứng từ 17 - 30,2%, so với các chỉ tiêu khác thì cả thí
nghiệm có cây và đối chứng đều loại bỏ TP kém hơn. Khả năng loại bỏ TP của Bèo
tây trong 3 ngày đầu loại bỏ được 42,5% gấp 2,18 lần đối chứng chỉ (19,5%), từ ngày
thứ 9-15 tỷ lệ % loại bỏ của cây thấp hơn ban đầu nhưng vẫn cao hơn 1,4 - 2,1 lần so
với đối chứng, từ ngày 18 trở % loại bỏ thay đổi không đáng kể, đến ngày 27 Bèo tây
loại bỏ được 51,8% cao gấp 1,7 lần đối chứng (20,4 %).
79
Hình 3.20. Hiệu quả xử lý TP trung bình (%) - Thí nghiệm bán liên tục
Giống như N, trong các loại TVTS nghiên cứu Cải xoong xử lý TP đạt hiệu quả
thấp nhất. Tỷ lệ % loại bỏ TP của thí nghiệm với Cải xoong loại bỏ tốt hơn ĐC không
cây dao động trong khoảng 18,3% đến 28,1%, trong khi ĐC không cây chỉ dao động
từ 7,5% đến 16,1%. Trong 3 ngày đầu Cải xoong loại bỏ được 26,4% TP và gấp hơn 3
lần đối chứng (chỉ 8%), đến ngày 27 Cải xoong loại bỏ được 21,2% TP trong khi ĐC
chỉ đạt 12%.
Dựa trên tương quan về phần trăm loại bỏ TP, có thể sắp xếp trật tự các cây
nghiên cứu như sau:
Bèo tây > Ngổ trâu, Sậy, Rau muống, cỏ Vetiver, Thủy trúc > Bèo cái, Cải xoong
Như vậy vai trò của TVTS được khẳng định khi hiệu quả xử lý các yếu tố ô
nhiễm của thí nghiệm có cây luôn cao hơn thí nghiệm ĐC không có cây (phụ lục). Mặt
khác, ở thí nghiệm có TVTS, chúng tôi không thấy xuất hiện vi tảo trong khi ở ĐC
hiện tượng này hay xảy ra, cho thấy vai trò của TVTS trong việc kìm hãm sự sinh
trưởng của vi tảo trong môi trường nước thải và rất quan trọng khi ứng dụng TVTS xử
lý tại hiện trường.
Nghiên cứu trước đây của Xia và cs (2001) [94], cũng chỉ ra rằng cỏ Vetiver có
khả năng loại bỏ TP trong nước rỉ rác với hiệu suất xử lý dao động trong khoảng 35 –
60%. Supradata (2005) [95], sử dụng Thủy trúc để xử lý bùn nuôi trồng thủy sản. Kết
quả nghiên cứu cho thấy, Thủy trúc có thể loại bỏ 38 -54% TP. Kalipci (2011) [96], sử
dụng Sậy để xử lý nước thải sinh hoạt, cho thấy Sậy có thể loại bỏ 41,1% TP. Trần
Văn Tựa và cs (2011) [67], đánh giá khả năng xử lý TP trong nước thải chế biến thủy
sản của Bèo tây và Bèo cái ở thí nghiệm bán liên tục cũng thu được kết quả tương tự.
Khả năng xử lý TP ổn định trong thời gian dài của Bèo tây là tốt hơn so với Bèo cái.
Hiệu suất xử lý TP trung bình của Bèo tây là 52,2%, Bèo cái là 37,7%.
80
Sau đây là tổng hợp so sánh khả năng loại bỏ COD, N và P của TVTS nghiên
cứu sau các thí nghiệm theo mẻ và bán liên tục được thể hiện như sau:
Xử lý theo mẻ
- COD: Bèo tây, Bèo cái > Ngổ trâu, Sậy > Thủy trúc, Rau muống, Cải xoong > cỏ
Vetiver
- TSS: Bèo tây, Bèo cái > Ngổ trâu, cỏ Vetiver, Sậy, Rau muống, Cải xoong, Thủy trúc
- NH4: Bèo tây > Bèo cái, Rau muống > Sậy, Ngổ trâu > cỏ Vetiver, Thủy trúc, Cải
xoong
- TN: Bèo tây > Bèo cái, Ngổ trâu, Rau muống, Sậy > cỏ Vetiver, Thủy trúc, Cải
xoong.
- TP: Bèo tây > Bèo cái, Ngổ trâu, Rau muống, Sậy > Cải xoong, cỏ Vetiver, Thủy trúc
Xử lý bán liên tục
- COD: Bèo tây > Ngổ trâu, Sậy> cỏ Vetiver, Rau muống, Bèo cái, Thủy trúc, Cải
xoong
- NH4: Bèo tây >Ngổ trâu, Sậy> cỏ Vetiver, Rau muống, Bèo cái, Thủy trúc, Cải
xoong
- TN: Bèo tây > Rau muống, Ngổ trâu, Sậy, cỏ Vetiver, Thủy trúc> Bèo cái, Cải xoong
- TP: Bèo tây >Ngổ trâu, Sậy, Rau muống, cỏ Vetiver, Thủy trúc> Beo cái, Cải xoong
Chú thích: Trong sự sắp xếp trên, dấu “ >”chỉ ra sự hơn kém rõ rệt còn dấu “, ” chỉ ra
sự hơn kém không nhiều.
Như vậy khả năng loại bỏ COD, TN và TP cho thấy TVTS trong điều kiện thí
nghiệm theo mẻ và thí nghiệm bán liên tục không phải là hoàn toàn như nhau. Nếu
như Bèo tây luôn đứng đầu ở cả thí nghiệm theo mẻ và thí nghiệm bán liên tục thì Bèo
cái lại có sự thay đổi đáng kể. Ở thí nghiệm theo mẻ, Bèo cái luôn đứng thứ 2 sau Bèo
tây về khả năng loại bỏ COD, N và P trong khi ở thí nghiệm bán liên tục Bèo cái tụt
xuống thứ 7 và chỉ hơn Cải xoong. Trong cả hai điều kiện, Cải xoong thường đứng ở
vị trí sau cùng. Khả năng chống chịu là nguyên nhân của kết quả này khi Cải xoong và
Bèo cái tỏ ra chống chịu kém với COD, N và pH trong môi trường.
Dẫn liệu về khả năng loại bỏ các yếu tố ô nhiễm nhận được từ nghiên cứu này
là tham khảo tốt cho việc sử dụng TVTS trong xử lý khi tiến hành theo mẻ, bán liên
tục hay liên tục.
Từ kết quả đánh giá khả năng chống chịu và xử lý các tác nhân ô nhiễm (COD,
N, P) trong nước thải chăn nuôi lợn sau giai đoạn xử lý vi sinh vật của 8 loại TVTS, 5
loại TVTS là Bèo tây, Rau muống, Sậy, Thủy trúc và Cỏ vetiver đã được chọn nhằm
đánh giá khả năng xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau giai đoạn xử lý bằng vi sinh vật
của các loại hình công nghệ với tải lượng nước thải khác nhau.
81
3.2. Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý vi sinh vật của một số loại
công nghệ sử dụng thực vật thủy sinh với lưu lượng nước thải khác nhau
TVTS trong tự nhiên bao gồm nhiều giống, loài và sinh lý cây trồng cũng khác
nhau. Với mục đích xử lý nước thải chăn nuôi lợn, TVTS lựa chọn là những cây có
sức sống mãnh liệt, có bộ rễ nhiều và khỏe, có khả năng hấp thụ dinh dưỡng đa dạng
và hấp thụ nhiều với nồng độ cao [97- 100]. Ngoài ra nếu sinh khối của TVTS có thể
sử dụng vào mục đích dân sinh thì lại càng được quan tâm hơn [98 - 101]. Từ những
tiêu chí trên và dựa vào kết quả nghiên cứu khả năng chống chịu của 8 loại TVTS ở
phần trên, chọn ra 5 loại TVTS là Bèo tây, Rau muống, Sậy, Thủy trúc và cỏ Vetiver
để nghiên cứu ở thí nghiệm này. Trong 5 loài TVTS, Bèo tây và Rau muống, ngoài
mục đích xử lý nước thải chăn nuôi, sinh khối thu được có thể được sử dụng làm thức
ăn cho vật nuôi tại trang trại để tích kiệm chi phí.
3.2.1. Công nghệ sử dụng thực vật là nổi Bèo tây
Trong số loài thực vật sống trôi nổi tự do, Bèo tây dường như là một ứng cử
viên đầy hứa hẹn để loại bỏ chất ô nhiễm do tốc độ tăng trưởng nhanh chóng của nó và
hệ thống rễ sâu rộng [101 - 104]. Bèo tây có khả năng chống chịu ô nhiễm, các kim
loại nặng cao và khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng tốt, có đủ điều kiện để sử dụng
trong ao xử lý nước thải [105].
Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn của hệ thống sử dụng Bèo tây với lưu
lượng nước thải đưa vào xử lý là 50 lít/ngày và 100 lít/ngày được trình bày ở bảng 3.2
và hình 3.21:
Bảng 3.2. Hiệu quả xử lý của hệ thống sử dụng Bèo tây
Chỉ số
(mg/L)
Lưu lượng – 50 L/ngày Lưu lượng – 100 L/ngày
Đầu vào Đầu ra H% Đầu vào Đầu ra H%
NO3- 41,19 ± 4,67 10,92 ± 3,76 73,5 47,89 ± 3,90 13,86 ±3,73 71,1
NH4+ 10,52 ± 2,01 2,24 ± 1,09 78,7 32,67 ± 4,12 14,78 ±3,76 54,8
TN 89,79 ± 11,17 30,71 ± 4,15 65,8 100,3 ± 7,86 60,53 ±8,04 41,0
PO43- 13,08 ± 3,24 6,19± 0,63 52,7 9,08 ± 3,92 5,59 ± 0,71 38,4
TP 15,69 ± 1,13 7,03 ±0,71 55,2 12,52 ± 1,05 7,10 ± 1,57 43,3
COD 102,5± 8,42 15,51 ± 2,00 84,9 115,7± 22,27 44,5± 10,60 61,5
TSS 316,7± 61,86 88,33 ± 29,26 71,2 338,3± 57,76 133,3± 0,65 60,6
pH 7,26 ± 0,67 7,37 ± 0,46 7,17 ± 0,28 7,58 ± 0,34
DO 3,96 ± 0,39 2,96 ± 0,29 4,07 ± 0,30 3,40 ± 0,15
Ở lưu lượng nước thải 50 lít/ngày: Với TN đầu vào trung bình là 89,79 mg/L
(dao động từ 77,16 mg/L đến 106 mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng TN còn 30,71
82
mg/L (dao động từ 26,36 mg/L đến 37,44 mg/L), như vậy hiệu suất xử lý đạt 65,79%.
Với N dạng Nitrat và amôn, khi đầu vào trung bình là 41,19 mg/L và 10,52 mg/L
tương ứng, ở đầu ra lượng NO3- trung bình còn 10,92 mg/L và lượng NH4
+ còn 2,24
mg/L. Tính ra có 73,5% nitrat và 78,7% lượng NH4+ được loại bỏ. Với lưu lượng nước
thải này, tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào hệ thống là 4,49 g
TN/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 65,79% ứng với 2,95 g TN/ m2.ngày.
Có thể thấy rằng, mặc dù tải trọng đầu vào của TN là khá cao, hệ thống đã loại
bỏ hiệu quả cả TN và nitơ dạng nitrat và amôn.
Hiệu quả xử lý tổng P và PO43- lần lượt là 55,2% và 52,7% khi giá trị đầu vào
của hệ thống là 15,69 mg P/lít và 13,08 mg P/lít tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm
lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 7,03 mg/L và 6,19 mg/L. Tính trên đơn vị
diện tích, tải lượng TP đưa vào hệ thống là 0,78 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ theo
hiệu suất 55,19 % ứng với 0,43 g TP/m2.ngày.
Lượng COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 102,5 mg/L (dao động trong
khoảng 90,9 mg/L đến 111,9 mg/L) và đầu ra trung bình là 15,5 (dao động từ 13,5 đến
18,9 mg/L). Như vậy tính ra hiệu suất xử lý đặt 84,9%. Tính trên đơn vị diện tích, tải
lượng COD đưa vào hệ thống là 5,13 g COD/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất
84,9% tương ứng với 4,35 g COD/m2.ngày.
Lượng TSS trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 316,7 mg/L và đầu ra trung
bình là 88,3 mg/L. Tính ra hiệu suất xử lý đặt 71,2%.
Ở lưu lượng nước thải 100 lít/ngày: TN đầu vào trung bình là 100,4 mg/L (dao
động từ 89,7 mg/L đến 110,2 mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng TN trung bình còn
60,5 mg/L (dao động trong khoảng 50 mg/L và 70,2 mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý
TN đạt trung bình 41%. N dạng Nitrat và amôn, lượng đầu vào là 47,9 mg/L và 32,7
mg/L tương ứng. Ở đầu ra lượng NO3- còn 13,9 mg/L và lượng NH4
+ còn 14,8 mg/L.
Hiệu suất xử lý NO3- đạt 71,1% và NH4
+ đạt 54,8%.
Tính trên đơn vị diện tích, tải lượng TN đưa vào hệ thống là 10,03 g
TN/m2.ngày và lượng loại bỏ tương ứng là 4,11 g TN/m2.ngày. Có thể thấy rằng, mặc
dù tải lượng đầu vào của TN tăng cao (gấp 2 lần về lưu lượng nước và 2,25 lần về
TN), hệ thống đã loại bỏ khá hiệu quả cả TN, nitơ dạng nitrat và amôn.
Hiệu quả xử lý TP và PO43- lần lượt là 42,3% và 38,4% khi giá trị đầu vào của
hệ thống là 12,5 mg P/l và 9,08 mg P/l tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP
và PO43- còn lại trong nước là 7,1 mg/L và 5,6 mg/L. Tính trên đơn vị diện tích, tải
lượng TP đưa vào hệ thống là 1,25 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất
43,3% ứng với 0,54 g TP/m2.ngày.
Lượng COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 115,7 mg/L (dao động trong
khoảng 92,8 mg/L đến 150,2 mg/L) và đầu ra trung bình là 44,5 mg/L (dao động từ
83
32,2 đến 59,6 mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý đặt 61,5%. Tính trên đơn vị diện tích, tải
lượng COD đưa vào hệ thống là 11,6 g COD/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất
61,5% tương ứng với 7,13 g COD/m2.ngày.
Lượng TSS trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 338,3 mg/L (dao động trong
khoảng 260 mg/L đến 410 mg/L) và đầu ra trung bình là 133,3 mg/L (dao động từ 110
đến 160 mg/L). Tính ra hiệu suất xử lý TSS của hệ Bèo tây đạt 60,6%.
Hình 3.21. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của Bèo tây
Nói chung với hai lưu lượng nước thải thực nghiệm, hệ thống xử lý với cây Bèo
tây đã loại bỏ hiệu quả COD, N và P. Tải trọng loại bỏ COD, TN và TP của hệ thống
lần tượt là 4,35 – 7,13 g COD/m2.ngày, 2,95 - 4,11 g TN/m2.ngày và 0,43 – 0,54 g
TP/m2.ngày.
Các kết quả nghiên cứu thu được phù hợp với các kết quả nghiên cứu của các
tác giả trong và ngoài nước: Valipour và cs (2015) [105], xử lý nước thải sinh hoạt
bằng Bèo tây trong bể 0,47 m × 0,31 m × 0,18 m và tăng cường hệ vi sinh vật (màng
vi sinh đạt tới 54 m2/m3) bằng cách đặt dọc trong bể các vách ngăn nhựa cao 0,15 m,
mỗi vách ngăn này cách nhau 5,5 cm. Các vách ngăn nhựa chính là chỗ bám của vi
sinh vật. Thí nghiệm trong 01 năm và 23 chủng vi sinh vật được ghi nhận. Đặc điểm
của hệ thống là bể chỉ nông 0,15 m, mật độ Bèo tây rất cao và các tấm nhựa (rào sinh
học) là chỗ thích hợp cho vi sinh vật bám và tạo màng. Tải trọng loại bỏ COD, TN và
TP của hệ thống lần lượt là 5,14 – 14,3 g COD/m2.ngày, 2,37 – 3,9 g TN/m2.ngày và
0,32 – 0,51 g TP/m2.ngày.
Nghiên cứu trước đây của Trần Văn Tựa và cs (2010) [105] cho thấy hệ thống
Bèo tây có khả năng loại bỏ khá tốt chất hữu cơ, N và P từ nước phú dưỡng. Trong thí
84
nghiệm qui mô pilôt, hệ thống Bèo tây loại bỏ 30,4 - 32,6% TN, 57,3 - 67,4% TP. Tuy
nhiên hàm lượng chất dinh dưỡng trong nước phú dưỡng nghiên cứu không cao so với
nước thải chăn nuôi lợn. Với nước thải chế biến thủy sản, hệ thống Bèo tây đã loại bỏ
33,9% TN; 38,9% NH4+ và 47,3% TP từ nước thải chứa TN, NH4
+ và TP, tương ứng là
45,6 mg/L; 40,19 mg/L và 7,69 mg/L [107].
Trương Thị Nga và cs (2010) [74] đã nghiên cứu xử lý nước thải chăn nuôi
bằng rau Ngổ và Bèo tây tại Hậu Giang. Kết quả cho thấy rau Ngổ xử lý được 53,6%
TN, 33,6% TP trong khi Bèo tây giảm được 64,4% TN và 42,5% TP. Tác giả cho rằng
rau Ngổ và Bèo tây có khả năng thích nghi và phát triển tốt trong môi trường nước
thải.
Cơ chế của việc loại bỏ chất ô nhiễm trong hệ thống đất ngập nước nhân tạo
liên quan đến sự tương tác giữa các quá trình chuyển hóa của vi khuẩn, sự hấp thu thực
vật và tích lũy [108]. Bèo tây trong hệ thống đất ngập nước như một bộ lọc nhỏ giọt
ngang, nơi mà rễ cung cấp giá thể cho các vi sinh vật tăng trưởng [108]. Tuy nhiên,
trên thế giới các hệ thống xử lý nước thải bằng Bèo tây không được phổ biến nhiều do
yêu cầu diện tích lớn và tính mùa vụ ảnh hưởng đến sinh trưởng của Bèo tây kéo theo
ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý của hệ thống [110]. Bởi vậy trong thực tế khi ứng dụng
Bèo tây vào xử lý nước thải chăn nuôi lợn nên kết hợp với các loại TVTS khác để đảm
bảo tính ổn định của hệ thống xử lý.
Bèo tây có chức năng quan trọng trong lọc nước thải khi bộ rễ của nó là nơi gắn
với vi sinh vật, sự hấp thu chất ô nhiễm, tăng cường lọc và giải phóng oxy [111]. Oxy
khuếch tán từ không khí qua bề mặt nước nhỏ hơn nhiều ở ao Bèo tây vì thảm thực vật
dày đặc làm giảm bề mặt trao đổi khí. Ngược lại, thảm thực vật đóng một vai trò quan
trọng trong việc chuyển oxy trong khí quyển xuống rễ (30 - 40%) cho hoạt động của vi
sinh vật hiếu khí [112, 113]. Thực vật nổi tự do có thể cung cấp tới 0,25-9,6 g
O2/m2/ngày [114].
Ngoài ra nghiên cứu của Kalubowila (2015) chỉ ra rằng các chất ô nhiễm được
loại bỏ trong hệ thống xử lý Bèo tây thông qua lọc và lắng [115]. Tuy nhiên, theo Kim
(2003) [116] và Valipour (2015) [105], hiệu suất khử chủ yếu phụ thuộc vào thời gian
lưu giữ trong hệ thống đất ngập nước. Các nghiên cứu khác về hình thái của Bèo tây
chỉ ra rằng trong hệ thống xử lý nước thải mặc dù Bèo tây hấp thụ các chất dinh
dưỡng, năng suất xử lý của hệ thống tăng nhưng không có ảnh hưởng bất lợi về hình
thái học thực vật [10, 70].
Như vậy việc sử dụng hệ thống thực vật nổi với cây Bèo tây để xử lý nước thải
chăn nuôi lợn sau xử lý vi sinh vật cho hiệu quả xử lý nitơ và photpho cao. Công nghệ
này nếu được hoàn thiện sẽ góp phần tích cực vào phát triển hệ thống nông nghiệp
bền vững trong đó chăn nuôi là một bộ phận cấu thành quan trọng trong hệ thống.
85
3.2.2. Công nghệ dòng chảy trên bề mặt
Trong loại hình công nghệ dòng chảy trên bề mặt hai loại TVTS là cây Sậy và Rau
muống đã được đưa vào thử nghiệm.
3.2.2.1. Công nghệ dòng chảy trên bề mặt trồng Sậy
Sậy là loại TVTS được sử dụng phổ biến trong các hệ thống xử lý nước thải,
đặc biệt tại các nước Châu Âu. Sậy với ưu điểm có thể thích nghi với những thay đổi
đáng kể của môi trường như pH, độ mặn, nhiệt độ, sức sản xuất cao và khả năng loại
bỏ các chất ô nhiễm cao [100].
Số liệu thu được về hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn của hệ thống công
nghệ dòng chảy trên bề mặt trồng Sậy được trình bày ở bảng 3.3 và hình 3.22:
Bảng 3.3. Hiệu quả xử lý của hệ thống Sậy theo công nghệ dòng mặt
Chỉ số
(mg/L)
Lưu lượng – 50 L/ngày Lưu lượng – 100 L/ngày
Đầu vào Đầu ra H% Đầu vào Đầu ra H%
NO3- 41,2 ± 4,67 14,4 ± 3,73 65 47,9 ±3,90 19,1 ±3,07 60,0
NH4+ 10,5 ± 2,01 4,04 ± 1,12 61,6 32,7 ±4,12 16,5 ±3,76 49,4
TN 89,8 ± 11,17 41,7 ± 2,99 53,5 100,3±7,86 65,2 ±12,8 35,0
PO43- 13,1 ±3,24 7,56 ±0,56 42,2 8,58 ±3,26 6,17 ±1,34 28,0
TP 15,7 ±2,13 8,97 ±1,69 42,8 12,5 ±1,05 8,35 ±2,56 33,0
COD 102,5±8,42 21,7±3,19 72,9 115,6±22,2 50,0±13,3 56,8
TSS 316,7±61,9 121,7±33,1 61,6 338,3±57,8 163,3±21,6 51,7
pH 7,26±0,67 7,28±0,58 7,17±0,27 7,47±0,34
DO 3,96±0,39 3,06±0,24 4,02±0,34 3,05±0,11
Hiệu quả xử lý nitơ:
Ở lưu lượng 50 lít/ngày, với TN đầu vào trung bình là 89,8 mg/L và đầu ra
trung bình là 41,7 mg/L, hiệu suất xử lý đạt 53,5%. Với N dạng Nitrat và amôn, lượng
đầu vào trung bình là 41,2 mg/L và 10,5 mg/L tương ứng. Ở đầu ra lượng NO3- trung
bình còn 14,4 mg/L và lượng NH4+ còn 4,04 mg/L. Tính ra có 64,7% nitrat và 61,7%
lượng NH4+ được loại bỏ. Có thể thấy rằng, hệ thống đã loại bỏ khá hiệu quả cả TN,
nitrat và amôn. Khí nâng lưu lượng dòng vào lên 100 lít/ngày, hệ thống đã loại bỏ khá
hiệu quả cả TN và nitơ dạng nitrat và amôn. TN đầu vào trung bình là 100,4 mg/L khi
ra khỏi hệ thống lượng TN trung bình còn 65,2 mg/L, hiệu suất xử lý TN đạt trung
bình đạt 35%. Với N dạng nitrat và amôn, khi đầu vào là 47,9 mg/L và 32,7 mg/L
tương ứng và đầu ra lượng NO3- còn 19,1 mg/L và lượng NH4
+ còn 16,5 mg/L. Tính ra
có 60% nitrat và 49,4% lượng NH4+ được bị loại bỏ.
86
Như vậy hệ thống Sậy đã loại bỏ khá hiệu quả cả TN và nitơ dạng nitrat và
amôn, hiệu suất xử lý TN đạt 35 - 53,5%. Trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào
hệ thống là 4,49 - 5,0 g TN/m2.ngày và lượng loại bỏ tương ứng là 2,4 - 3,5 g
TN/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu Rai và cs (2015) [117],
sử dụng công nghệ dòng chảy mặt để xử lý nước thải đô thị đã loại bỏ được 1,9 – 7,5 g
TN/m2.ngày. Rodríguez và Brisson (2016) [118] cũng chỉ ra rằng tải trọng loại bỏ TN
của Sậy là 1,1 - 2,9 g TN/m2.ngày. Trái lại nghiên cứu của Vymazal (2007) [23] và
López (2016) [119] lại cho rằng tải trọng loại bỏ TN của hệ Sậy thấp hơn, 1,7 g
TN/m2.ngày và 0,38 - 1,2 g TN/m2.ngày tương ứng. Nguyên nhân chính là do nồng độ
DO trong hệ thống thấp, nhỏ hơn 0,7 mg/L [120]. Bởi vậy, thiếu oxy làm cho việc loại
bỏ TN của hệ thống thấp do hạn chế quá trình nitrat hóa amoni [121].
Để đạt được hiệu quả xử lý TN, cây Sậy hấp thu các chất dinh dưỡng có vai
trò quan trọng trong việc loại bỏ các chất dinh dưỡng trong hệ thống [122]. Ngoài ra,
cộng đồng vi sinh vật xung quanh vùng rễ và rễ cây Sậy rất đa dạng và cao hơn so với
các nơi khác trong vùng đất ngập nước [123]. Mặt khác Sậy chuyển oxy nhiều hơn đến
rễ [118, 124, 125], làm tăng cường quá trình nitrat hóa - khử nitrat xung quanh vùng rễ
cây dẫn đến N được loại bỏ cao hơn [123, 126].
Hình 3.22. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của cây Sậy theo công nghệ dòng mặt
Hiệu quả xử lý photpho:
Ở lưu lượng 50 lít/ngày, hiệu quả xử lý TP và PO43- lần lượt là 42,8% và 42,2%
khi giá trị đầu vào của hệ thống là 15,7 mg P/lít và 13,08 mg P/lít tương ứng. Khi ra
khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 8,97 mg/L và 7,56 mg/L.
Khi tăng lưu lượng đầu vào lên 100 lít/ngày, hiệu quả xử lý TP và PO43- lần lượt là
33% và 28,1% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 12,5 mg P/lít và 8,58 mg P/lít tương
87
ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 8,35 mg/L và
6,17 mg/L.
Giống như N, hệ Sậy đã loại bỏ TP ở cả 2 lưu lượng khá hiệu quả, hiệu xuất xử
lý TP đạt 33 – 42,8%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 0,79
- 1,25 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ tương ứng là 0,34 - 0,4 g TP/m2.ngày. Các
nghiên cứu của Rodríguez và Brisson (2016) [118] chỉ ra rằng cây Sậy loại bỏ được
0,2 - 0,6 g TP/m2.ngày. Stone và cs (2002) [40] cho thấy hiệu suất xử lý TP của hệ
thống công nghệ dòng chảy mặt là 25 - 38%. Hiệu quả xử lý P của các loại TVTS khác
nhau, Sậy có khả năng loại bỏ TP cao hơn khoảng 4,6 lần so với Cói (loại bỏ 0,03 -
0,13 g TP/m2.ngày) và cao hơn khoảng 3,2 lần so với Cỏ nến (loại bỏ 0,04 – 0,19 g
TP/m2.ngày). Mỗi loại thực vật có khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng khác nhau,
phụ thuộc vào khả năng sinh trưởng, phát triển và đồng hóa các chất dinh dưỡng [118].
Hiệu quả xử lý của hệ thống được xác định bởi các quá trình sinh học và hóa lý diễn ra
giữa nước thải và các thành phần chính của hệ thống (TVTS và cộng đồng vi sinh vật),
đặc biệt TVTS có vai trò quan trọng trong hoạt động của hệ thống [127]. TVTS hấp
thu, lưu trữ các chất dinh dưỡng và tăng cường các quá trình trung gian bằng cách tăng
bề mặt giá thể để vi sinh vật bám vào, sinh trưởng, phát triển tạo màng sinh học, cung
cấp oxy cho các vùng rễ, vận chuyển nước và chất ô nhiễm [100, 101, 128]. Ngoài ra,
nghiên cứu của Vymazal và Kröpfelova (2008) chỉ ra rằng cây Sậy có lợi thế trong
viêc loai bỏ TP do các điều kiện môi trường của Sậy giúp tăng cường các quá trình hấp
thụ hóa học và kết tụ vật lý giữa các ion phophat và các ion nhôm, sắt hoặc canxi
[129]. Sự kết hợp này hình thành các hợp chất dạng photphat-sắt (Fe-P), photphat-
nhôm (Al-P) hoặc photphat-canxi (Ca-P) [23].
Hiệu quả xử lý COD:
Ở lưu lượng 50 lít/ngày, với lượng COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là
102,5 mg/L (dao động trong khoảng 90,9 mg/L đến 111,9 mg/L) và đầu ra trung bình
là 21,7 mg/L (dao động từ 17,3 mg/L đến 26,6 mg/L), hiệu xuất xử lý COD đat 72,9%.
Khi tăng lưu lượng lên 100 lít/ngày, lượng COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là
115,6 mg/L (dao động trong khoảng 92,8 mg/L đến 150,2 mg/L) và đầu ra trung bình
là 50 mg/L (dao động từ 37,2 đến 69,6 mg/L), hiệu xuất xử lý COD đạt 56,8%.
Bảng 3.3 và hình 3.22 cho thấy hệ Sậy xử lý hiệu quả COD ở cả 2 lưu lượng
nghiên cứu, hiệu suất xử lý COD đạt 56,8 - 72,9%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng
COD đưa vào hệ thống là 5,1 - 11,6 g COD/m2.ngày, lượng COD loại bỏ khỏi hệ
thống là 3,7 - 6,6 g COD/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu này tương đồng với nghiên cứu
trước đây của Poach và cs, 2004 [42], tải trọng loại bỏ COD của hệ thống là 2,5 - 7,8 g
COD/m2.ngày. Vymazal và Kröpfelová (2011) [121], chỉ ra hiệu quả xử lý COD của
hệ thống dòng chảy mặt đạt 67 - 84%, tải lượng loại bỏ của hệ thống là 3,5 - 63 g
COD/m2.ngày. Mới đây López (2016) [119], khi đánh giá hiệu quả xử lý nước thải
88
sinh hoạt của hệ thống Sậy cũng thu được kết quả tương tự, với hiệu quả xử lý COD
đạt 55 - 63%.
Như vậy hệ Sậy đã loại bỏ hiệu quả TN, TP và COD. Hiệu quả xử lý đạt vậy là
do hệ thống dòng chảy mặt tạo điều kiện hiếu khí để các chất hữu cơ phân hủy sinh
học nhanh hơn [130]. Mặt khác việc loại bỏ các chất hữu cơ trong hệ thống cũng đã
được chứng minh là nhờ các quá trình lắng và lọc (bề mặt thân, lá và rễ cây trong nước
tạo thành các lớp màng, các chất dạng hạt bị chặn, dính bám và bị loại bỏ) [131].
3.2.2.2. Công nghệ dòng chảy trên bề mặt trồng Rau muống
Trong số các loài cây có tính năng làm sạch nước thì Rau muống là cây bản địa
phát triển rất nhanh nhưng dễ kiểm soát vì hạt không thể tự mọc trong nước. Đây lại là
nguồn thực phẩm có nhu cầu lớn nên không phải xử lý lượng sinh khối lớn sau một
chu kỳ sử dụng. Một nghiên cứu công bố trên báo Agricultural Water Management số
95 (2008) cho biết Rau muống hấp thụ các chất có chọn lọc, còn các chất độc hại, hàm
lượng kim loại nặng chủ yếu tập trung trong bùn rễ và rồi lắng xuống đáy nước, trong
khi sản phẩm Rau muống vẫn bảo đảm mức độ an toàn thực phẩm theo các yêu cầu
của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) và Cơ quan Lương Nông Liên hợp quốc (FAO).
Bởi vậy việc sử dụng Rau muống để xử lý nước thải chăn nuôi lợn rổi sử dụng sinh
khối này làm thức ăn cho lợn sẽ giảm chi phí và mang lại hiệu quả kinh tế cho các
trang trại [132].
Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi lợn của hệ thống công nghệ dòng chảy trên
bề mặt trồng Rau muống được trình bày ở bảng 3.4 và hình 3.23.
Ở lưu lượng 25 lít/ngày: Với TN đầu vào trung bình là 100,3 mg/L, khi ra khỏi
hệ thống lượng TN còn 63,3 mg/L tương ứng với hiệu suất xử lý 36,8%. Cùng với TN,
các dạng nitơ như nitrat và amôn cũng được xem xét. Lượng NH4+ và NO3
- đầu vào
trung bình là 47,9 mg/L và 32,7 mg/L tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, lượng NO3-
trung bình còn 11,3 mg/L và lượng NH4+ còn 15,9 mg/L. Như vậy, có 76,4% nitrat và
51,5% lượng NH4+ bị loại bỏ.
Bảng 3.4. Hiệu quả xử lý của hệ Rau muống theo công nghệ dòng mặt
Chỉ số
(mg/L)
Lưu lượng – 25 L/ngày Lưu lượng – 50 L/ngày
Đầu Vào Đầu Ra H% Đầu Vào Đầu Ra H%
NO3- 47,9 ±3,90 11,3 ±1,88 76,4 41,2 ±3,75 22,1 ±3,47 46,4
NH4+ 32,7 ±4,12 15,9 ±2,94 51,5 10,5 ±2,01 5,4 ±1,20 49,2
TN 100,3 ±8,26 63,3 ±15,50 36,8 89,8 ±11,17 66,7 ±3,90 25,7
PO43- 8,58 ±3,26 5,03 ±0,56 41,4 13,1 ±3,24 8,1 ±0,44 38,1
TP 12,52 ±1,05 7,24 ±1,84 42,2 15,7 ±2,13 11,2 ±2,22 28,6
COD 115,7 ±22,3 52,9 ±16,7 54,3 102,5 ±8,42 66,2 ±6,56 35,5
89
TSS 338,3±57,8 151,7 ±29,3 55,2 316,7 ±61,9 198,3 ±33,1 37,4
pH 7,17±0,29 7,83 ±0,22 7,26 ±0,67 7,01 ±0,33
DO 4,07±0,30 2,87 ±0,24 3,96 ±0,39 2,85 ±0,36
Tải trọng TN đưa vào hệ thống tính trên đơn vị diện tích là 2,51 g TN/m2.ngày
và hiệu suất loại bỏ 36,8% ứng với 0,92 g TN/m2.ngày. Có thể thấy rằng, hệ Rau
muống đã loại bỏ một phần TN và nitơ dạng nitrat và amôn từ nước thải. Tuy nhiên
hiệu quả này kém hơn so với hệ Bèo tây và Sậy.
Hiệu quả xử lý photpho: Hiệu quả xử lý TP và PO43- lần lượt là 42,2% và
41,2% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 12,5 mg P/lít và 8,58 mg P/lít tương ứng.
Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 7,24 mg/L và 5,03
mg/L. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 0,31 g TP/m2.ngày
và lượng loại bỏ theo hiệu suất 42,2% ứng với 0,13 g TP/m2.ngày.
Hiệu quả xử lý COD: Với lượng COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là
115,7 mg/L (dao động trong khoảng 92,8 mg/L đến 150,2 mg/L) và đầu ra trung bình
là 52,9 mg/L (dao động từ 34,8 mg/L đến 77,2 mg/L), hiệu suất xử lý COD đặt 54,3%.
Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng COD đưa vào hệ thống trung bình là 2,9 g
COD/m2.ngày, lượng loại bỏ tương ứng là 1,6 g COD/m2.ngày.
Hình 3.23. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ Rau muống theo công nghệ dòng mặt
Ở lưu lượng 50 lít/ngày: TN đầu vào trung bình là 89,8 mg/L khi ra khỏi hệ
thống còn 66,7 mg/L. Như vậy hiệu suất xử lý TN đạt trung bình 25,7%.
90
N dạng nitrat và amôn với lương đầu vào là 41,2 mg/l và 10,5 mg/l tương ứng.
Ở đầu ra lượng NO3- còn 22,1 mg/l và lượng NH4
+ còn 5,4 mg/l. Tính ra có 46,4%
nitrat và 49,2% lượng NH4+ được bị loại bỏ. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN
đưa vào hệ thống là 4,5 g TN/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 25,7% tương
ứng với 1,15 g TN/m2.ngày. Có thể thấy rằng, khi tăng lưu lượng đầu vào (gấp 2 lần
lưu lượng nước và 1,79 lần TN), lượng nitơ loại bỏ về số lượng có tăng lên nhưng hiệu
quả loại bỏ tính theo tỷ lệ % TN, nitơ dạng nitrat và amôn đều giảm.
Hình 3.23. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ Rau muống theo công nghệ dòng
mặt
Hiệu quả xử lý TP và PO43- lần lượt là 28,5% và 38,1% khi giá trị đầu vào của
hệ thống là 15,7 mg P/lít và 13,1 mg P/lít tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng
TP và PO43- còn lại trong nước là 11,2 mg P/lít và 8,1 mg P/lít. Tính trên đơn vị diện
tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 0,75 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu
suất 28,6% ứng với 0,22 g TP/m2.ngày.
Hiệu quả xử lý COD: Lượng COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 102,5
mg/L (dao động trong khoảng 90,9 mg/L đến 111,9 mg/L) và đầu ra trung bình là 66,2
mg/L (dao động từ 58,7 mg/L đến 75,9 mg/L). Như vây hiệu suất xử lý COD đạt
35,5%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng COD đưa vào hệ thống trung bình là 5,1 g
COD/m2.ngày, lượng loại bỏ tương ứng là 1,8 g COD/m2.ngày.
Nhìn chung với hai tải lượng nước thải đã thử nghiệm, hệ Rau muống đã loại
bỏ tương đối hiệu quả N, COD và P. Tải trọng loại bỏ COD, TN và TP của hệ thống
lần lượt là 1,6 – 1,8 g COD/m2.ngày, 0,92 -1,15 g TN/m2.ngày và 0,13 – 0,22 g
TP/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của Hu (2008) [133], khi
91
sử dụng dòng chảy ngang và dòng chảy sâu trồng Rau muống, sau 48 giờ tải trọng loại
bỏ COD, TN và TP của hệ thống lần tượt là 1,7 – 2,8 g COD/m2.ngày, 0,9 – 1,36 g
TN/m2.ngày và 0,14 – 0,35 g TP/m2.ngày. Li và cs (2007) [134] chỉ ra rằng Rau
muống trồng trên bè nổi đã cho hiệu quả loại bỏ nhanh N từ nước phú dưỡng. Ở nồng
độ TN 4,62 mg/L, Rau muống đã xử lý loại NH4+ trong khoảng từ 81 – 86% trong 6
ngày xử lý, và N-NO3+ trong khoảng 79 - 81% trong 8 ngày. Ở độ TN thấp 1,59mg/L,
hiệu quả loại bỏ tương ứng là 88 - 99% đối với N - NH4+ và 84 - 92% cho N-NO3
+
trong 4 ngày. Khả năng xử lý nước thải chăn nuôi lợn của cây Ngổ trâu và Rau muống
được Nguyen Thiet và cs (2007) [135], thuộc Đại học Cần Thơ quan tâm. Nước thải
thí nghiệm chứa 57,5 mg/L BOD, 36,9 mg/L NH4+và 50,4 mg/L PO4
3-. Tác giả thấy
rằng cả hai loại cây đều sống được trong nước thải tuy nhiên sinh khối giảm khi tăng
nồng độ nước thải. Chất lượng nước được cải thiện nhất là ở nồng độ nước thải cao.
Lượng BOD, NH4+ bị loại gần hết vào cuối thí nghiệm 30 ngày và chưa thấy sự khác
nhau giữa hai cây.
So với hệ thống Bèo tây và Sậy, khả năng loại bỏ COD, TN và TP của hệ
thống Rau muống kém hơn. So với Rau muống, tải trọng loại bỏ các chất ô nhiễm của
Sậy cao hơn khoảng 1,8 - 3,7 lần (Sậy loại bỏ 3,7 - 6,6 g COD/m2.ngày, 2,4 - 3,5 g
TN/ m2.ngày, 0,34 - 0,4 g TP/m2.ngày), tải trọng loại bỏ các chất ô nhiễm của Bèo tây
cao hơn Rau muống khoảng 1,5 - 4 lần (Bèo tây loại bỏ 4,35 - 7,13 g COD/m2.ngày,
2,95 - 4,11 g TN/m2.ngày, 0,43 - 0,54 g TP/m2.ngày). Nguyên nhân chính là do ở hệ
thống xử lý bằng Rau muống, việc loại bỏ N, P do Rau muống chịu trách nhiệm chính
trực tiếp, còn lại một phần nhỏ của việc loại bỏ chất dinh dưỡng là do các thành phần
không liên quan đến thực vật: nitrat hóa / khử nitơ bằng tảo và vi khuẩn và lắng trong
trầm tích. Khác với các loại TVTS khác các quá trình như sự bay hơi NH3, sự cố định
N và chất dinh dưỡng hấp thụ cũng như nitrat hoá/khử nitơ bằng các vi sinh vật lơ
lửng trong hệ Rau muống không đóng vai trò quan trọng trong việc loại bỏ chất dinh
dưỡng trong hệ thống [133].
3.2.3. Công nghệ dòng chảy ngầm
Công nghệ dòng chảy ngầm sử dụng TVTS để xử lý nước thải là một công
nghệ chi phí thấp và thân thiện môi trường, đã được áp dụng rộng rãi để xử lý nhiều
loại nước thải, cũng như ô nhiễm nước sông và nước hồ [117, 122, 129]. Sậy và cỏ
Vetiver có khả năng xử lý nước ô nhiễm cao được đưa vào thực nghiệm với loại hình
công nghệ này.
3.2.3.1. Công nghệ dòng ngầm trồng Sậy
Hệ thống công nghệ dòng chảy ngầm trồng Sậy được thử nghiệm với 3 lưu
lượng nước 25 lít/ngày, 50 lít/ngày, 100 lít/ngày. Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi
lợn của hệ thống này được trình bày ở bảng 3.5 và hình 3.24.
92
- Hiệu quả xử lý nitơ:
Lưu lượng 25 lít/ngày: TN đầu vào trung bình là 92,6 mg/L, khi ra khỏi hệ
thống lượng TN còn 15,1 mg/L. Tính ra hiệu suất xử lý TN 83,7%. Xét về nitrat và
amôn, lượng NH4+ và NO3
- đầu vào trung bình là 43,7 mg/L và 39,5 mg/L tương ứng.
Khi ra khỏi hệ thống, lượng NO3- trung bình còn 5,67 mg/L và lượng NH4
+ còn 5,55
mg/L ứng với 85,7% nitrat và 88,1% NH4+ bị loại bỏ. Tải trọng TN đưa vào hệ thống
là 2,3 g TN/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 83,7% ứng với 1,9 g TN/m2.ngày.
Ở lưu lượng 25 lít/ngày, hệ thống Sậy dòng ngầm đã loại bỏ phần lớn TN, nitơ dạng
nitrat và amôn từ nước thải.
Bảng 3.5. Hiệu quả xử lý của hệ thống Sậy theo công nghệ dòng ngầm
Chỉ số Lưu lượng
25 L/ngày
Lưu lượng
50 L/ngày
Lưu lượng
100 L/ngày
(mg/L) Đầu vào Đầu ra H% Đầu vào Đầu ra H% Đầu vào Đầu ra H%
NO3-
39,5
±3,37
5,67
±4,05 85,7
41,5
±3,11
18,8
±4,31 54,6
65,0
±21,1
33,85
±3,08 47,9
NH4+
43,7
±3,53
5,55
±2,66 88,1
44,7
±4,03
19,8
±3,95 55,6
30,1
±11,7
25,65
±3,83 14,8
TN 92,6
±6,33
15,1
±7,51 83,7
102,0
±3,63
44,9
±10,1 56
107
±7,39
77,31
±7,85 27,8
PO43-
9,22
± 0,97
2,40
±0,78 74
8,76
± 0,57
5,15
± 0,72 41,2
9,18
±0,73
6,74
±0,80 26,6
TP 11,04
±1,00
3,72
±1,47 66,3
10,7
±1,06
6,12
±1,15 42,6
12,0
±0,89
8,98
±0,65 25
COD 108,2
±12,61
22,3
±6,55 79,4
113,9
±10,47
61
±12,49 46,5
120,5
±14,27
84,1
± 3,79 30,2
TSS 355,8
±90,6
31,8
±10,87 91,1
399,3
±105,3
40
±14,5 90
356,3
±41,1
56,25
±8,54 84,2
pH 8,11
±0,23
7,39
±0,24
8,15
±0,21
7,50
±0,26
8,13
±0,3
7,38
±0,1
DO 2,61
±0,5
2,11
±0,18
4,26
±0,37
2,58
±0,44
4,22
±0,2
2,84
±0,23
Lưu lượng 50 lít/ngày: Với TN đầu vào trung bình là 102 mg/l khi ra khỏi hệ
thống lượng TN trung bình còn 44,9 mg/l. Như vậy hiệu suất xử lý TN đạt trung bình
56%. Lượng đầu vào của N dạng Nitrat và amôn là 41,5 mg/l và 44,7 mg/l tương ứng.
Ở đầu ra lượng NO3- còn 18,8 mg/l và NH4
+ còn 19,8 mg/l. Tính ra có 54,6% nitrat và
55,6% NH4+ được loại bỏ. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào hệ thống là
5,1 g TN/m2.ngày và hiệu suất loại bỏ 56% tương ứng với 2,9 g TN/m2.ngày. Như vậy,
93
khi tăng lưu lượng đầu vào gấp 2 lần tải trọng nước và 2,2 lần TN, hiệu suất loại bỏ
TN tuy giảm nhưng tải trọng loại bỏ TN vẫn tăng 1,5 lần.
Lưu lượng 100 lít/ngày: TN đầu vào trung bình là 107 mg/l, khi ra khỏi hệ
thống lượng TN trung bình còn 77,3 mg/L. Như vậy hiệu suất xử lý TN trung bình đạt
27,8%. N dạng nitrat và amôn có lượng đầu vào là 65 mg/L và 30,1 mg/L tương ứng.
Ở đầu ra lượng NO3- còn 33,9 mg/L và NH4
+ còn 25,7 mg/L. Như vậy có 47,9% nitrat
và 14,8% NH4+ được loại bỏ. Tải trọng TN đưa vào hệ thống là 10,7 g TN/m2.ngày và
lượng loại bỏ tương ứng là 3,0 g TN/m2.ngày. Mặc dù lưu lượng đầu vào của TN tiếp
tục tăng gấp 2 lần tải lượng nước và 2,1 lần TN, hệ thống đã loại bỏ lượng khá lớn cả
TN, nitơ dạng nitrat và amôn.
Hình 3.24. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống dòng ngầm trồng Sậy
Bảng 3.5 và hình 3.24 cho thấy hệ thống đã xử lý hiệu quả TN ở cả 3 lưu lượng
đã thử nghiệm. Hiệu suất xử lý TN của hệ thống dao động từ 27,8 – 83,7%, tải trọng
loại bỏ TN của hệ thống dao động khoảng 1,9 – 3,0 g TN/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu
của chúng tôi phù hợp với các nghiên cứu mới đây của các tác giả trong và ngoài nước
như: Zheng (2016) [126], cho thấy tải trọng loại bỏ TN của hệ thống dòng ngầm trồng
Sậy và Cỏ nến dao động khoảng 1,7 – 2,8 g TN/ m2.ngày. Theo Rodríguez và cs
(2016) [119], tải trọng loại bỏ TN của Sậy dao động trong khoảng 1,3 – 2,9
TN/m2.ngày. Ngô Thùy Diễm Trang và cs (2012) [136], đã sử dụng bể cát trồng Sậy
có diện tích 19,2 m2 để xử lý nước thải sinh hoạt. Hệ thống hoạt động với 2 lưu lượng
là 600 lít/ngày và 1200 lít/ngày, tải trọng loại bỏ TN của hệ thống dao động trong
khoảng 1,4 – 4,0 g TN/m2.ngày. Để đạt được hiệu quả như trên việc loại bỏ N được
thực hiện bởi quá trình nitrat hóa và khử nitrat, chế độ dòng chảy ngầm gần với điều
94
kiện kỵ khí ngoại trừ lớp mỏng trên đỉnh và các điểm nhỏ gần rễ cây [118, 119, 126,
137]. Theo thời gian, Sậy ngày càng sinh trưởng và phát triển trong hệ thống, đóng vai
trò trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan để quá trình hấp thụ và đồng hóa các chất dinh
dưỡng, cung cấp chất nền cho sự tăng trưởng của vi khuẩn đồng thời cung cấp oxy cho
các quá trình nitrat hóa [122].
- Hiệu quả xử lý photpho:
Lưu lượng nước thải 25 lít/ngày: Hiệu quả xử lý Tổng P và PO43- lần lượt là
66,3% và 74% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 11,04 mg P/L và 9,22 mg P/L tương
ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 3,72 mg/L và
2,40 mg/L. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 0,28 g
TP/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 66,3% ứng với 0,18 g TP/m2.ngày.
Lưu lượng nước thải 50 lít/ngày: Hiệu quả xử lý TP và PO43-lần lượt là 42,6%
và 41,2% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 10,7 mg/L và 8,8 mg/Lít tương ứng. Khi
ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 6,12 mg/L và 5,15
mg/L. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 0,53 g TP/m2.ngày
và lượng loại bỏ theo hiệu suất 42,6% ứng với 0,23 g TP/m2.ngày, cao hơn gấp 1,28
lần khi chạy hệ thống ở lưu lượng 25 lít/ngày.
Lưu lượng 100 lít/ngày: Hiệu quả xử lý TP và PO43- lần lượt là 25% và 26,6%
khi giá trị đầu vào của hệ thống là 12 mg/L và 9,2 mg/L tương ứng. Khi ra khỏi hệ
thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 8,98 mg/L và 6,74 mg/L. Tính trên
đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 1,2 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ
theo hiệu suất 25% ứng với 0,3 g TP/m2.ngày. Như vậy khi tiếp tục tăng lưu lượng đầu
vào gấp đôi thì hệ thống đã loại bỏ hiệu quả TP, tải trong loại bỏ TP tăng 1,3 lần.
Như vậy hệ thống Sậy dòng ngầm đã xử lý TP đạt hiệu suất trong khoảng từ 25
– 66,3%, tải trọng loại bỏ TP của hệ thống dao động trong khoảng từ 0,18 - 0,3 g
TP/m2.ngày. Nghiên cứu của Vymazal (2007) [23], cũng chỉ ra rằng tải trọng loại bỏ
TP của hệ thống dòng chảy ngầm là 0,2 g TP/m2.ngày. Theo Hossein Rezaie (2014),
tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý nước thải đô thị bằng công nghệ ngầm trồng
Sậy là 0,27 g TP/m2.ngày. Nghiên cứu mới đây của Zheng (2016) [126], cũng thu
được kết quả tương tự, tải trọng loại bỏ TP của hệ thống dòng ngầm trồng Sậy và Cỏ
nến là 0,24 g TP/m2.ngày.
Từ kết quả nghiên cứu ta thấy hệ thống Sậy dòng ngầm loại bỏ P thấp hơn hệ
thống Sậy dòng mặt (tải trọng loại bỏ P dòng mặt cao hơn dòng ngầm 1,48 lần ở lưu
lượng 50 lít/ngày, cao hơn 1,33 lần ở lưu lượng 100 lít/ngày). Loại bỏ P hệ thống dòng
ngầm về cơ bản là giống với hệ thống dòng mặt. Môi trường đặc biệt đòi hỏi để loại P
do hút bám thực sự hiệu quả. Tuy nhiên việc loại bỏ P trong hệ thống dòng ngầm
95
không hiệu quả vì sự tiếp xúc hạn chế giữa các vị trí hút bám và nước thải, phụ thuộc
vào lưu lượng, thời gian lưu, đặc điểm môi trường [ 118, 119, 126, 137].
- Hiệu quả xử lý COD:
- Lưu lượng nước thải 25 lít/ngày: Lượng COD trung bình đưa vào hệ thống là
108,2 mg/L. Khi ra khỏi hệ thống lượng COD còn trung bình là 22,3 mg/L. Tính ra
hiệu suất xử lý COD đạt 79,4%, tải trọng đưa vào hệ thống là 2,7 g COD/ m2.ngày, đã
loại bỏ được 2,1 g COD/ m2.ngày.
- Lưu lượng nước thải 50 lít/ngày: Hàm lượng COD trung bình đưa vào hệ
thống là 113,9 mg/L. Khi ra khỏi hệ thống lượng COD còn trung bình là 61 mg/L.
Tính ra hiệu suất xử lý COD đạt 46,5%, tải trọng đưa vào hệ thống là 5,6 g COD/
m2.ngày, đã loại bỏ được 2,6 g COD/ m2.ngày. Như vậy mặc dù tăng lưu lượng lên gấp
2 lần nhưng tải trọng loại bỏ COD của hệ thống vẫn cao hơn 1,24 lần.
- Lưu lượng 100 lít/ngày: Hàm lượng COD trung bình đưa vào hệ thống là
120,5 mg/L. Khi ra khỏi hệ thống lượng COD còn trung bình là 84,1 mg/L. Tính ra
hiệu suất xử lý COD đạt 30,2%, tải trọng đưa vào hệ thống là 12,1 g COD/m2.ngày, đã
loại bỏ được 3,7 g COD/m2.ngày. Mặc dù tăng lưu lượng lên gấp 2 lần nhưng tải trọng
loại bỏ COD của hệ thống vẫn cao hơn 1,4 lần.
Như vậy hiệu suất xử lý COD của hệ Sậy dòng ngầm dao động trong khoảng
30,2 -79,4%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng loại bỏ COD của hệ thống dao động
trong khoản 2,1 – 3,7 g COD/m2.ngày. Nghiên cứu của Shahi và cs (2013) [137] cũng
chỉ ra rằng hiệu suất xử lý COD của Sậy dòng chảy ngầm là 59%, tải trọng loại bỏ
COD của hệ thống dao động trong khoản 1,6 – 3,4 g COD/m2.ngày. Haque và cs
(2015) [47] cũng thu được kết quả tương đồng, tải trọng loại bỏ COD của hệ thống 2,4
g COD/m2.ngày. Lê Tuấn Anh (2013) [69], hiệu suất xử lý COD của mô hình công
nghệ dòng chảy ngầm trồng Sậy, Cói là 76%. Nguyễn Thành Lộc và cs (2015) [70],
hiệu quả xử lý COD của hệ thống dòng chảy ngầm là 61,2 – 83,2%.
Nói chung với 3 lưu lượng nước thải đã thử nghiệm, hệ thống dòng ngầm trồng
Sậy đã loại bỏ tương đối hiệu quả COD. Có được kết quả như trên hệ thống dòng chảy
ngầm trồng Sậy đã loại bỏ COD bằng cơ chế sinh học và vật lý [119, 126]. Sự loại bỏ
này xảy ra trước hết dưới điều kiện kỵ khí, tuy nhiên một phần được biến đổi nhờ các
thể sống tuỳ nghi, tốc độ loại bỏ liên quan đến thời gian lưu và nhiệt độ [126, 138].
Các nghiên cứu mới đây cũng chỉ ra rằng COD được loại bỏ chủ yếu là do cơ chế lắng
và lọc, hệ thống dòng chảy ngầm do không có vùng mặt nước thoáng, đã tránh được
luồng gió và vẩn đục phần lớn các chất hữu cơ sẽ lắng hoặc bị giữ lại ở khoảng cách từ
10 đến 20% tính từ đầu vào [119, 126].
96
3.2.3.2. Công nghệ dòng chảy ngầm trồng Vetiver
Cỏ Vetiver hiện đang được sử dụng tại hơn 40 quốc gia có khí hậu nhiệt đới và
cận nhiệt đới cho mục đích bảo vệ môi trường khác nhau [139]. Với tiềm năng loại bỏ
một số lượng rất cao N, P và tăng trưởng rất nhanh chóng, cỏ Vetiver có thể được sử
dụng để giảm khối lượng và loại bỏ các chất dinh dưỡng trong nước thải từ nước thải
lò mổ, trại chăn nuôi, trại lợn và các ngành công nghiệp chăn nuôi thâm canh khác
[143]. Bởi vậy chúng tôi tiến hành thí nghiệm ứng dụng công nghệ dòng chảy
ngầm sử dụng cỏ Vetiver để xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau giai đoạn xử lý vi sinh
vật. Thí nghiệm được chạy với 3 lưu lượng là 25 lít/ngày, 50 lít/ngày và 100 lít/ngày.
Kết quả thu được về hiệu quả xử lý thải chăn nuôi lợn của hệ thống công nghệ dòng
chảy ngầm trồng cỏ Vetiver trình bày ở bảng 3.6 và hình 3.25.
Bảng 3.6. Hiệu quả xử lý của hệ thống cỏ Vetiver theo công nghệ dòng ngầm
Chỉ số
(mg/L)
Lưu lượng 25 l/ngày Lưu lượng 50 l/ngày Lưu lượng 100 l/ngày
Đầu vào Đầu ra H% Đầu vào Đầu ra H% Đầu vào Đầu ra H%
NO3-
39,5
±3,37
2,95
±2,01 92,5
41,5
±3,11
15,14
±4,97 63,5
65,0
±21,1
31,75
±3,96 51,1
NH4+
43,7
±3,53
4,29
±3,44 90,2
44,7
±4.03
16,92
±2,88 62,1
30,09
±11,68
25,85
±1,45 14,1
TN 92,6
±6,33
10,42
±6,59 88,7
102,0
±3,63
37,21
±8,57 63,5
107
±7,39
65,69
±6,67 38,6
PO43-
9,22
±0,97
2,65
±0,79 71,3
8,76
±0,57
4,97
±0,72 43,3
9,18
±0,73
6,26
±0,43 31,8
TP 11,05
±1,00
3,82
±1,51 65,4
10,67
±1,06
6,45
±0,62 39,6
11,97
±0,89
8,67
±0,65 27,6
COD 108,2
±12,6
20,08
±5,80 81,5
113,9
±10,47
56,55
±13,74 50,4
120,5
±14,27
73,8
± 2,67 38,7
TSS 355,8
±90,60
33,33
±10,8 90,6
399,3
±105,3
60
±10,48 85,0
356,3
±41,1
70,0
± 9,13 80,4
pH 8,11
±0,23
7,65
±0,20
8,15
±0,21
7,64
±0,25
8,13
±0,30
7,91
±0,22
DO 2,61
±0,50
3,11
±0,30
4,26
±0,37
3,33
±0,27
4,22
±0,20
3,40
±0,19
- Hiệu quả xử lý nitơ: Ở lưu lượng nước thải 25 lít/ngày, TN đầu vào trung
bình là 92,6 mg/L, hiệu suất xử lý TN 88,7%. Lượng NH4+ và NO3
- đầu vào trung bình
là 43,7 mg/L và 39,5 mg/L tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, lượng NO3- trung bình
còn 2,95 mg/L và lượng NH4+ còn 4,29 mg/L. Như vậy, có 92,5% nitrat và 90,2%
lượng NH4+ bị loại bỏ. Tải trọng TN đưa vào hệ thống tính trên đơn vị diện tích là 2,3
97
g TN/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 88,7% ứng với 2,05 g TN /m2.ngày. Ở
lưu lượng 25 lít/ngày, hệ thống cỏ Vetiver dòng ngầm đã loại bỏ gần hết TN và nitơ
dạng nitrat và amôn từ nước thải.
Khi tăng lưu lượng lên 50 lít/ngày, với TN đầu vào trung bình là 102 mg/L khi
ra khỏi hệ thống lượng TN trung bình còn 37,2 mg/L, hiệu suất xử lý TN đạt 63,5%.
Với nitơ nitrat và amôn, lượng đầu vào là 41,49 mg/L và 44,65 mg/L và đầu ra còn
15,14 mg/L và 16,92 mg/L. Tính ra có 63,5% nitrat và 62,1% lượng NH4+ được loại
bỏ. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào hệ thống là 5,1 g TN/m2.ngày và
lượng loại bỏ tương ứng với 3,24 g TN/m2.ngày (hiệu suất 63,5%). So với lưu lượng
nước 25 lít/ngày, ở lưu lượng 50 lít/ngày, hiệu quả loại bỏ TN của hệ thống dòng chảy
ngầm trồng cỏ Vetiver về % có giảm nhưng lượng TN loại bỏ về số lượng vẫn tăng.
Ở lưu lượng 100 lít/ngày, TN đầu vào trung bình là 107 mg/L, khi ra khỏi hệ
thống lượng TN trung bình còn 65,7 mg/L, hiệu suất xử lý TN đạt trung bình 38,6%.
Với nitrat và amôn, lượng đầu vào là 65 mg/L và 30,1 mg/L tương ứng. Ở đầu ra
lượng NO3- còn 31,8 mg/L và lượng NH4
+ còn 25,9 mg/L. Hiệu suất xử lý NO3- đạt
51,1%, NH4+ đạt 14,1%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào hệ thống là
10,7 g TN/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 38,6% tương ứng với 4,13 g
TN/m2.ngày. Mặc dù tải lượng đầu vào của TN tiếp tục tăng gấp 2 lần về tải lượng
nước và 2,1 lần về TN, hệ thống vẫn loại bỏ cả TN, nitơ dạng nitrat và amôn với lượng
khá lớn.
Như vậy hệ thống công nghệ dòng chảy ngầm trồng cỏ Vetiver đã loại bỏ hiệu
quả TN, tải trọng loại bỏ TN dao động trong khoảng 2,05 - 4,13 g TN/m2.ngày.
Nghiên cứu trước đây ở Úc, Ash & Truong (2004) [139], sử dụng cỏ Vetiver để xử lý
nước thải cũng thu được kết quả tượng tự, tải trọng loại bỏ TN của hệ thống xử lý dao
động trong khoảng 2,1 - 5,2 g TN/m2.ngày. Nghiên cứu của Akbarzadeh và cs (2015)
[141], cũng thu được kết quả tương tự, tải trọng loại bỏ TN của hệ thống sử dụng cỏ
Vetiver để xử lý nước sinh hoạt và nước thải kênh mương thủy lợi dao động trong
khoảng 2,5 - 4,7 g TN/m2.ngày. Trong cùng điều kiện thí nghiệm so với hệ thống Sậy
ngầm thì tải trọng loại bỏ TN của cỏ Vetiver cao hơn khoảng 1,08 - 1,38 lần (tải trọng
loại bỏ TN của hệ thống Sậy ngầm dao động khoảng 1,9 - 3,0 g TN/m2.ngày). Cỏ
Vetiver có hệ thống rễ có thể phát triển sâu 5 m và dày đặc của nó giúp cải thiện sự ổn
định, tăng cường hấp thu chất dinh dưỡng và cung cấp một môi trường thích hợp cho
quá trình vi sinh vật trong vùng rễ, tăng cường quá trình nitrat hoá và khử nitrat giúp
tăng hiệu quả loại bỏ N của hệ thống [139, 142]. Hệ thống đất ngập nước dòng ngầm
loại đến 86% N trong nước thải, trong khi các hệ thống xử lý khác loại 20 - 70% [23].
- Hiệu quả xử lý photpho: Ở lưu lượng nước thải 25 lít/ngày, hiệu quả xử lý TP
và PO43- lần lượt là 65,4% và 71,3% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 11,05 mg P/lít
và 9,22 mg P/lít tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong
nước là 3,82 mg/L và 2,65 mg/L. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ
98
thống là 0,28 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 65,4% ứng với 0,18 g
TP/m2.ngày.
Khi tăng lưu lượng lên gấp đôi 50 lít/m2.ngày, hiệu quả xử lý TP và PO43- lần
lượt là 39,6% và 43,3% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 10,67 mg P/lít và 8,76 mg
P/lít tương ứng. Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP còn lại trong nước là 6,45 mg/L.
Tính trên đơn vị diện tích, tải lượng TP đưa vào hệ thống là 0,53 g/m2.ngày và lượng
loại bỏ theo hiệu suất 39,6% ứng với 0,21 g TP/m2.ngày. Như vậy khi tăng lưu lượng
lên gấp đôi, hiệu suất xử lý giảm nhưng tải trọng loại bỏ TP của hệ thống cao hơn 1,17
lần so với khi chạy ở lưu lượng 25 lít/ngày.
Hiệu quả xử lý TP và PO43- khí chạy ở lưu lượng 100 lít/ngày lần lượt là 27,6%
và 31,8% khi giá trị đầu vào của hệ thống là 11,97 mg P/lít và 9,18 mg P/lít tương ứng.
Khi ra khỏi hệ thống, hàm lượng TP và PO43- còn lại trong nước là 8,67 mg/L và 6,26
mg/L. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 1,2 g TP/m2.ngày và
lượng loại bỏ theo hiệu suất 27,6% ứng với 0,33 g TP/m2.ngày.
Hình 3.25. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống dòng ngầm trồng cỏ Vetiver
Nói chung với 3 tải lượng nước thải đã thử nghiệm, hệ thống dòng ngầm trồng
cỏ Vetiver đã loại bỏ TP với hiệu suất 27,6% - 65,4%, tải trọng loại bỏ TP của hệ
thống dao động trong khoảng 0,18 - 0,33 g TP/m2.ngày. Năm 2008, Boonsong và cs
cũng thu được kết quả tương tự khi sử dụng cỏ Vetiver để xử lý nước thải sinh hoạt, tải
trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý dao động trong khoản 0,12 – 0,31 g TP/m2.ngày
[143]. Rezaie và cs (2014) [104], tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý nước thải đô
thị bằng công nghệ ngầm trồng cỏ Nến là 0,22 g TP/m2.ngày. Nghiên cứu mới đây của
Akbarzadeh và cs (2015) [141] cũng thu được kết quả tương tự, tải trọng loại bỏ TP
99
của hệ thống sử dụng cỏ Vetiver để xử lý nước sinh hoạt và nước thải kênh mương
thủy lợi dao động trong khoảng 0,21 - 0,42 g TP/m2.ngày. Trong hệ thống dòng ngầm,
photpho được loại bỏ chủ yếu do sự hấp thụ của thực vật, các quá trình đồng hoá của
vi khuẩn, sự hấp phụ lên đất, vật liệu lọc (chủ yếu là lên đất sét) và các chất hữu cơ,
kết tủa và lắng. So với dòng chảy mặt, việc loại bỏ P trong dòng ngầm không hiệu quả
vì sự tiếp xúc hạn chế giữa các vị trí hút bám và nước thải. Phụ thuộc vào lưu lượng,
thời gian lưu, đặc điểm môi trường, loại bỏ P có thể đạt 10 - 40% lượng P dòng vào
trong khi dòng mặt có thể loại bỏ P đạt từ 30 - 60% [23, 141, 143].
- Hiệu quả xử lý COD: Ở lưu lượng nước thải 25 lít/ngày, COD đầu vào trung
bình là 108,2 mg/L, khi ra khỏi hệ thống, COD trung bình còn 20,1 mg/L, hiệu suất xử
lý COD đạt 81,5%. Tải trọng COD đưa vào hệ thống tính trên đơn vị diện tích là 2,7 g
COD/m2.ngày và lượng loại bỏ COD khỏi hệ thống tương ứng là 2,2 g COD /m2.ngày.
Khi tăng lưu lượng lên 50 lít/ngày, với COD đầu vào trung bình là 113,9 mg/L
khi ra khỏi hệ thống lượng COD trung bình còn 56,6 mg/L, hiệu suất xử lý COD đạt
50,4%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào hệ thống là 5,7 g
COD/m2.ngày và lượng loại bỏ tương ứng với 2,87 g COD/m2.ngày. So với lưu lượng
nước 25 l/ngày, ở lưu lượng 50 lít/m2.ngày, hiệu quả loại bỏ COD của hệ thống dòng
chảy ngầm trồng cỏ Vetiver về phần trăm có giảm nhưng lượng COD loại bỏ về số
lượng vẫn tăng.
Hệ thống tiếp tục chạy với lưu lượng tăng gấp đôi (100 lít/ngày), COD đầu vào
trung bình là 120,5 mg/L, khi ra khỏi hệ thống lượng COD trung bình còn 73,8 mg/L,
hiệu suất xử lý COD đạt trung bình 38,7%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng COD
đưa vào hệ thống là 12,1 g COD/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 38,7% tương
ứng với 4,68 g COD/m2.ngày. Mặc dù lưu lượng đầu vào COD tiếp tục tăng gấp 2 lần,
hệ thống vẫn loại COD với lượng khá lớn.
Như vậy với 3 lưu lương đã nghiên cứu hệ thống cỏ Vetiver ngầm đã xử lý
COD với hiệu suất dao động trong khoảng 38,7 - 81,5%, tải trọng loại bỏ COD của hệ
thống dao động trong khoản 2,2 – 4,68 g COD/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu của chúng
tôi cũng phù hợp với các kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước
Boonsong và cs (2008) [143], sử dụng cỏ Vetiver để xử lý nước thải sinh hoạt, tải
trọng loại bỏ COD của hệ thống xử lý dao động trong khoản 3,12 - 4,9 g
COD/m2.ngày. Tương tự González và cs (2009) [138], sử dụng công nghệ dòng chảy
ngầm xử lý nước thải chăn nuôi lợn đã thu được hiệu suất xử lý COD là 52 – 78%;
Trần Văn Tựa và cs (2008) [65], tải trọng loại bỏ COD của cỏ Vetiver là 3,16 g
COD/m2.ngày; Nguyễn Thành Lộc và cs (2015) [70] hiệu quả xử lý COD của hệ thống
dòng chảy ngầm là 61,2 - 83,2%.
Với đặc tính chịu được điều kiện khí hậu bất lợi như sương giá, hạn hán, lũ
lụt và ngập úng, chống chịu tốt với điều kiện thổ nhưỡng bất lợi như đất chua cao và
100
kiềm, muối natri và magiê, độc tính nhôm và mangan, khả năng loại bỏ các chất ô
nhiễm cao [139]. Cỏ Vetiver đã được chứng minh là có khả năng hấp thụ nitơ rất cao
(lên đến 10.000 kg N/ha/năm) và photpho (lên đến 1.000 kg/ha/năm) [144]. Bởi vậy sử
dụng Cỏ Vetiver để xử lý nước thải chăn nuôi lợn đã loại bỏ COD, TN, TP hiệu quả.
Mặt khác thân Cỏ dày, cứng, mọc thẳng đứng có thể làm giảm vận tốc dòng chảy, tăng
thời gian bị giam giữ và tăng cường lắng đọng trầm tích và trầm tích bị ràng buộc chất
gây ô nhiễm. Hệ thống rễ có thể phát triển sâu 5 m và dày đặc của nó giúp cải thiện sự
ổn định, tăng cường hấp thu chất dinh dưỡng và cung cấp một môi trường thích hợp
cho quá trình vi sinh vật trong vùng rễ [139, 142]. Ngoài ra, rễ cỏ Vetiver phát triển rất
dày và có đường kính rễ trung bình giữa 0,5 và 1 mm. Với đặc điểm này hệ thống rễ
cỏ Vetiver ngang bằng với hệ thống lọc nhanh (kích thước hạt 5mm) [145].
3.2.4. Hệ thống phối hợp các thực vật thủy sinh
3.2.4.1 Hệ thống phối hợp Bèo tây và Sậy
Trong 03 hệ thống nghiên cứu trên, hiệu quả cao nhận được ở hệ thống thực vật
lá nổi trồng Bèo tây và hệ thống dòng mặt trồng Sậy. Tiếp theo chúng tôi thực nghiệm
hệ thống phối hợp giữa Bèo tây và Sậy nhằm đánh giá hiệu quả xử lý khi phối hợp hai
hệ với nhau. Trong hệ thống này, chúng tôi chọn lưu lượng 100 lít/ngày (tính theo đơn
vị diện tích là 50 lít/m2.ngày) là tải lượng hiệu quả nhất xét về cả hiệu quả xử lý, tính
kinh tế và khả năng ứng dụng. Kết quả thu được về hiệu quả xử lý COD, N và P từ
nước thải chăn nuôi lợn của hệ phối hợp với lưu lượng nước thải 100 lít/ngày trình bày
ở bảng 3.7 và hình 3.26.
Bảng 3.7. Hiệu quả xử lý của hệ thống phối hợp Bèo tây và Sậy
Chỉ số
(mg/L)
Lưu lượng 100 L/ngày
Đầu vào ĐR-B1 HB1% ĐR-B2 HB2 % H%
NO3- 79,5 ± 3,54 30,6 ± 8,50 61,6 12,2± 7,44 60,2 84,9
NH4+ 20,81 ± 2,71 11,6 ± 5,10 44,5 7,22 ± 4,37 37,5 65,3
TN 107,4 ± 3,66 52,5 ±15,8 51,2 24,9 ± 11,98 52,6 76,8
PO43- 9,84 ± 0,75 4,47 ± 1,11 54,6 2,81 ± 1,46 37,1 71,4
TP 12,14 ± 0,97 5,78 ± 1,76 57,8 3,79 ± 1,71 43,4 68,8
COD 155,9 ± 11,13 72,4 ± 11,4 53,5 47,1 ± 9,66 35 69,8
TSS 320,1 ± 93,7 136,6 ± 56,9 57,3 55,9 ± 26,04 59,1 82,6
pH 6,98 ± 0,79 7,61 ± 0,38 7,68 ± 0,18
DO 3,77 ± 0,49 2,49 ± 0,39 3,49 ± 0,27
Ghi chú: ĐR-B1: đầu ra bể Bèo tây; HB1: hiệu suất xử lý bể Bèo tây; ĐR–B2: đầu ra
bể Sậy; HB2: hiệu suất xử lý bể Sậy; H: hiệu suất xử lý của hệ thống Bèo tây – Sậy.
- Hiệu quả xử lý nitơ: Với TN đầu vào trung bình là 107,4 mg/L, khi ra khỏi
bể bèo lượng TN còn 52,45 mg/L, ứng với hiệu suất xử lý TN đạt 51,2%. Sau khi chảy
101
tiếp qua bể trồng Sậy rồi ra ngoài, lượng TN còn trung bình 24,9 mg/L và hiệu suất xử
lý đạt 52,6%. Tính chung toàn bộ hệ thống phối hợp loại được 76,8% TN. Với N dạng
Nitrat và amôn, lượng đầu vào trung bình là 79,5 mg/L và 20,8 mg/L tương ứng. Ở
đầu ra của cả hệ thống phối hợp, lượng NO3- trung bình còn 12,17 mg/L và lượng
NH4+ còn 7,22 mg/L. Tính ra có 84,7% nitrat và 65,3% lượng NH4
+ được loại bỏ. Mặc
dù tải lượng đầu vào của TN là khá cao, hệ thống đã loại bỏ hiệu quả cả TN và nitơ
dạng nitrat và amôn.
Hình 3.26. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống phối hợp Bèo tây – Sậy
Ghi chú: ĐV-B1 là đầu vào bể Bèo tây, ĐR – B1 là đầu ra bể Bèo tây,
ĐR -B2 là đầu ra bể trồng Sậy
Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TN đưa vào hệ thống là 5,37 g/m2.ngày và
lượng loại bỏ theo hiệu suất 76,8% ứng với 4,12 g TN/m2.ngày. Kết quả nghiện cứu
này cao hơn so với các hệ thống xử lý chỉ sử dụng 1 loại TVTS như:
Tính trung bình tải trọng loại bỏ TN của hệ thống phối hợp cao hơn cao hơn
khoảng 12,1 lần so với nghiên cứu của Erkan Kalipci (2011) [96] (tải trọng loại bỏ TN
của hệ thống sử dụng công nghệ dòng chảy ngầm ngang trồng Sậy là 0,34 g
TN/m2.ngày). Hiệu quả loại bỏ TN của hệ thống phối hợp cao hơn khoảng 3,4 - 10,8
lần so với nghiên cứu của López và cs (2016) [119] (tải trọng loại bỏ TN của hệ thống
sử dụng công nghệ dòng chảy ngầm trồng Sậy là 0,38 – 1,2 g TN/m2.ngày).
So với một số nghiên cứu trong nước cũng thu được kết quả tương tự, Phạm
Huy Khánh (2012) [68], sử dụng Bèo tây để xử lý nước thải sinh hoạt, tải trọng loại bỏ
TN của hệ thống dao động trong khoảng 0,82 – 1,02 g TN/m2.ngày. Lưu Huy Mạnh và
cs (2014) [146], tải trọng loại bỏ TN của hệ thống trồng cỏ Vetiver xử lý nước thải giết
mổ lợn là 1,08 TN/m2.ngày. Để thu được kết quả như trên nguyên nhân chính là do
102
nồng độ DO dòng chảy mặt cao hơn, giúp tăng cường quá trình nitrat hóa làm tăng
hiệu suất xử lý TN trong hệ thống.
- Hiệu quả xử lý TP: Với TP đầu vào của hệ thống là 12,14 mg P/lít, khi ra
khỏi hệ thống, hàm lượng TP còn lại trong nước là 3,79 mg/L. Như vậy Hiệu suất xử
lý TP của hệ thống là 68,8%. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống
là 0,61 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ theo hiệu suất 68,8% ứng với 0,42 g
TP/m2.ngày. Ở Thái Lan, Sohsalam và cs (2008) [43], sử dụng Cói, Chuối hoa, Thủy
trúc, Hương bồ lá hẹp để xử lý nước thải chế biến thủy sản cũng thu được kết quả
tương tự, tải trọng loại bỏ TP của hệ thống dao động trong khoảng 0,17 – 0,49 g
TP/m2.ngày. Nghiên cứu mới đây của Valipour và cs (2015) [105], sử dụng hệ thống
thực vật nổi kết hợp với màng vi sinh vật để xử lý nước thải cũng thu được kết quả
tương tự, tải trọng TP loại bỏ khỏi hệ thống dao động trong khoảng 0,32 – 0,51 g
TP/m2.ngày.
Giống như N, hiệu quả xử lý TP của hệ thống phối hợp Bèo tây, Sậy cao hơn so
với các hệ thống xử lý chỉ sử dụng 1 loại TVTS. Tải trọng loại bỏ TP của hệ thống
phối hợp cao hơn khoản từ 2,2 lần so với nghiên cứu của Zheng và cs (2016) [126], sử
dụng công nghệ dòng chảy mặt trồng Sậy (tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý 0,19
g TP/m2.ngày), cao hơn khoảng từ 1,75 lần so với hệ thống xử lý dòng chảy ngầm
trồng Sậy (tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý Sậy ngầm 0,24 g TP/m2.ngày). Mặt
khác so với các nghiên cứu trong nước cũng thu được kết quả tương tự, cao hơn
khoảng từ 1,75 – 5,3 lần so với kết quả nghiên cứu của Trần Văn Tựa và cs (2011)
[67], sử dụng Bèo cái để xử lý nước thải chế biến thủy sản với tải trọng loại bỏ TP của
hệ thống xử lý dao động trong khoản 0,08 – 0,24 g TP/m2.ngày, cao hơn khoảng 3 –
5,3 lần so với kết quả nghiên cứu của Phạm Khánh Huy (2012) [68], sử dụng Bèo tây
để xử lý nước thải với tải trọng loại bỏ TP của hệ thống là 0,08 – 0,14 g TP/m2.ngày.
Nguyên nhân chính là do hệ phối hợp đã tận dụng được các ưu điểm của hệ thống xử
lý sử dụng Bèo tây và Sậy.
Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng photpho có thể bị loại bỏ từ 30 – 60%
trong đất ngập nước có trồng các loài cây Scirpus sp., Phragmites sp. và Typha sp.
(Billore et al., 1999; Brix, 1997; Reed et al., 1995; US-EPA, 1988). Một số ít phospho
(dưới 20%) được các loài vi khuẩn, nấm và tảo hấp thụ (Moss 1988). Phần photpho
còn lại được giữ trong nền đất ngập nước và hệ thống rễ cây theo hai cơ chế: Hấp thụ
hóa học và kết tụ vật lý giữa các ion photphat và các ion nhôm, sắt hoặc canxi. Sự kết
hợp này hình thành các hợp chất dạng photphat-sắt (Fe-P), photphat-nhôm (Al-P) hoặc
phophat-canxi (Ca-P) (Fried và Dean, 1955) [23].
Dong và cs, năm 2010, thực nghiệm xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau hồ kỵ
khí theo công nghệ đất ngập nước dòng mặt cho hiệu quả xử lý TKN, NH4+, PO4
3- và
COD là đáng kể. Tác giả còn cho thấy quần xã vi khuẩn trong hệ thống xử lý có sự đa
dạng rất cao, thành phần quần xã thay đổi dần dần theo quá trình xử lý nước thải. Kết
103
quả nghiên cứu còn khẳng định rằng sự phân bổ các loài vi khuẩn liên quan mạnh với
nồng độ COD, PO43- và TKN [147].
Hình 3.27. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của hệ thống phối hợp Sậy – Bèo tây
Ghi chú: Hiệu suất ĐR –BT là hiệu suất bể Bèo tây
- Hiệu quả xử lý COD: Lượng COD trung bình đưa vào hệ thống phối hợp xử
lý là 155,9 mg/L. Khi ra khỏi bể Bèo tây lượng COD còn trung bình là 72,42 mg/L.
Tính ra hiệu suất xử lý COD của bể Bèo tây đặt 53,5%. Nước thải sau bể Bèo tây được
chảy tiếp qua bể trồng Sậy. Khi ra khỏi bể Sậy (tức ra khỏi hệ thống phối hợp) lượng
COD trung bình còn 47,1 mg/L. Như vậy riêng bể Sậy loại tiếp được 35% COD và
tính chung cả hệ thống phối hợp đã loại được 69,8% lượng COD.
Tính trên đơn vị diện tích tải trọng COD đưa vào hệ thống là 7,8 g
COD/m2.ngày, lượng loại bỏ tương ứng là 5,4 g COD/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu
này phù hợp với các nghiên cứu trước đó như Poach và cs (2004) [42], sử dụng 3 loại
TVTS là Cói, Bấc và Cỏ nến để xử lý nước thải chăn nuôi lợn. Tải trọng COD đưa vào
hệ thống là 6,1 – 19 g COD/m2.ngày và lượng COD loại bỏ tương ứng là 2,5 – 7,8 g
COD/m2.ngày. Nghiên cứu mới của López và cs (2016) [119] cũng thu được kết quả
tương tự như sử dụng hệ thống bể có diện tích 4,5 m2 trồng Sậy và Cói, hệ thống loại
bỏ COD dao động trong khoảng từ 3,1 - 12,3 g COD/m2.ngày. Một số nghiên cứu
trong nước cũng thu được kết quả tương tự như: Trần Văn Tựa và cs, 2010, sử dụng
Bèo tây, Rau muống, Ngổ, Cải xoong để xử lý nước thải phú dưỡng cũng thu được
hiệu suất xử lý COD trong khoảng 49 – 64%; Trịnh Lê Hùng và cs, 2012, sử dụng hệ
thống công nghệ dòng chảy ngầm đứng để xử lý nước thải thủy chế biến thủy sản, tải
trọng loại bỏ COD của hệ thống dao động trong khoảng 3,4 - 10,5 g COD/m2.ngày
[148].
Về TSS, nồng độ trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 320,1 mg/L và đầu ra
của bể Bèo tây trung bình là 136,6 mg/L. Tính ra hiệu suất xử lý của bể Bèo tây đặt
104
57,4%. Khi qua tiếp bể Sậy, lượng TSS còn trung bình 55,86 mg/L. Tính chung cả hệ
thống đã loại được 82,6% lượng TSS.
3.2.4.2. Hệ phối hợp Sậy, Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver
Hệ phối hợp tiếp theo là sự phối hợp giữa công nghệ dòng chảy mặt, hệ thực vật
nổi và công nghệ dòng chảy ngầm trong đó hệ dòng mặt trồng Sậy, hệ dòng ngầm
trồng Vetiver còn hệ thực vật nổi trồng Bèo tây cộng với bè trồng Thủy trúc và
Vetiver. Lưu lượng nước thải vào hệ là 25 lít tương ứng với 47,4 l/m2.ngày. Việc áp
dụng đồng thời các loại hình công nghệ cho phép tận dụng được các ưu điểm của
từng loại hình, nâng cao hiệu quả loại bỏ chất ô nhiễm cũng như giảm diện tích xử
lý. Sử dụng đa dạng các loài TVTS trong xử lý làm hạn chế tác động của yếu tố
mùa vụ và sâu bệnh vốn ảnh hưởng tới năng suất và hiệu quả xử lý của hệ thống , do
đó đảm bảo cho hệ thống hoạt động ổn định lâu dài.
a. Hiệu quả xử lý COD
Hiệu quả xử lý COD từ nước thải chăn nuôi lợn của hệ thống phối hợp Sậy,
Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver được trình bày ở hình 3.28.
Hình 3.28. Khả năng loại bỏ COD của hệ phối hợp
Từ hình 3.28 ta thấy nồng độ COD trung bình đưa vào hệ thống xử lý là 203,2
mg/L (dao động trong khoảng 175,1 mg/L đến 228,6 mg/L), khi ra khỏi ngăn Sậy
lượng COD còn trung bình là 140,4 mg/L. Tính ra hiệu suất xử lý COD của ngăn Sậy
đạt 30,9 %. Khi chảy qua ngăn bè nổi, lượng COD trung bình còn 104,1 mg/L, khi qua
bể Bèo tây lượng COD còn trung bình là 78,4 mg/L và cuối cùng lượng COD còn
trung bình là 57,6 mg/L. Như vậy riêng ngăn bè nổi loại tiếp được 25,9% COD, ngăn
Bèo tây loại bỏ tiếp được 24,7% và tính chung cả hệ thống phối hợp đã loại được
71,7% COD (dao động từ 65,8% đến 76,2%). Như vậy khi ra khỏi hệ xử lý phối hợp
lượng COD còn trung bình là 57,6 mg/L (dao động từ 46,7 đến 70,3 mg/L).
105
Từ kết quả nghiên cứu, tải lượng COD đưa vào hệ thống trung bình là 9,6 g
COD/m2.ngày, lượng loại bỏ khỏi hệ thống xử lý tương ứng là 6,9 g COD/m2.ngày.
Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cưu trước đó như Poach (2004) [42]
sử dụng 3 loại TVTS là Cói, Bấc và Cỏ nến để xử lý nước thải chăn nuôi lợn. Tải
trọng COD đưa vào hệ thống là 6,1 – 19 g COD/m2.ngày và lượng COD loại bỏ tương
ứng là 2,5 – 7,8 g COD/m2.ngày. Vymazal và Kröpfelová (2011) [121], xây dựng hệ
thống đất ngập nước 3 giai đoạn bao gồm công nghệ dòng chảy đứng và dòng chảy
ngang để xử lý nước thải đô thị cũng thu được tải lượng loại bỏ COD của hệ thống là
2,2 – 12,2 g COD/m2.ngày. López và cs (2016) [119] cũng thu được kết quả tương tự
khi sử dụng hệ thống bể có diện tích 4,5 m2 trồng Sậy và Cói, hệ thống loại bỏ COD
dao động trong khoảng từ 3,1 – 12,3 g COD/m2.ngày. Một số nghiên cứu trong nước
cũng thu được kết quả tương tự như: Trịnh Lê Hùng và cs (2012) [148], sử dụng hệ
thống công nghệ dòng chảy ngầm đứng để xử lý nước thải chế biến thủy sản, tải trọng
loại bỏ COD của hệ thống dao động trong khoảng 3,4 – 10,5 g COD/m2.ngày. Nguyễn
Thành Lộc và cs (2015) [70], sử dụng hệ thống thực vật nổi kết hợp với dòng chảy
ngầm với 3 loại TVTS (Thủy trúc, Bèo tây, Bèo tai tượng) để xử lý nước thải sinh
hoạt, tải trọng loại bỏ COD của hệ thống dao động trong khoản 6,4 – 8,7 g
COD/m2.ngày.
b. Hiệu quả xử lý nitơ
Hiệu quả xử lý nitơ từ nước thải chăn nuôi lợn của hệ thống phối hợp Sậy,
Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver được trình bày trên hình 3.29.
Hình 3.29. Hiệu quả xử lý TN của hệ thống phối hợp
Từ hình 3.29 ta thấy TN đầu vào trung bình là 111,9 mg/L (dao động từ 107,6
mg/L đến 116,2 mg/L), khi ra khỏi ngăn Sậy lượng TN còn 72,76 mg/L, ứng với hiệu
suất xử lý TN đạt 35,1%. Khí chảy qua ngăn bè nổi lượng TN còn 52,41, ứng với hiệu
suất xử lý TN đạt 27,9%. Tiếp theo chảy qua ngăn Bèo tây, lượng TN còn trung bình
106
35,12 mg/L và hiệu suất xử lý đạt 33%, khi ra khỏi hệ thống xử lý phối hợp lượng TN
còn 23,21 mg/L (dao động từ 21,09 mg/L đến 24,82 mg/L). Hiệu suất xử lý TN trung
bình của cả hệ thống phối hợp đạt 79,3% (dao động từ 77,3% đến 80,3%).
Tải trọng TN đưa vào hệ thống trung bình là 5,3 g TN/m2.ngày, lượng loại bỏ
khỏi hệ thống xử lý tương ứng là 4,2 g TN/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi
tương tự với một số công bố trong và ngoài nước như: Vymazal và Kröpfelová (2011)
[121], xây dựng hệ thống đất ngập nước 3 giai đoạn bao gồm công nghệ dòng chảy
đứng và dòng chảy ngang để xử lý nước thải đô thị cũng thu được tải trọng loại bỏ TN
của hệ thống là 2,3 – 6,6 g TN/m2.ngày.
Tính trung bình hiệu quả loại bỏ TN của hệ phối hợp cao hơn khoảng 2,6 - 10
lần so với nghiên cứu của Stone và cs (2002) [40], khi sử dụng cây Cói để xử lý nước
thải chăn nuôi lợn, loại bỏ TN ra khỏi hệ thống với tải trọng dao động trong khoảng
0,42 - 1,56 g TN/m2.ngày. Hiệu quả loại bỏ TN của hệ phối hợp cao hơn khoảng 12,4
lần so với nghiên cứu của Kalipci (2011) [96] (tải trọng loại bỏ TN của hệ thống sử
dụng công nghệ dòng chảy ngầm ngang trồng Sậy là 0,34 g TN/m2.ngày).
So với một số nghiên cứu trong nước cũng thu được kết quả tương tự, Trần Văn
Tựa và cs (2011) [67], sử dụng Bèo cái xử lý nước thải chế biến thủy sản, tải trọng loại
bỏ TN dao động trong khoảng 0,8 - 1,7 g TN/m2.ngày. Phạm Khánh Huy (2012) [68],
sử dụng Bèo tây để xử lý nước thải sinh hoạt, tải trọng loại bỏ TN của hệ dao động
trong khoảng 0,82 - 1,02 g TN/m2.ngày. Kết quả thu được như trên là do trong hệ xử
lý việc kết hợp các loại TVTS khác làm tăng cường hiệu quả loại bỏ các chất ô nhiễm
hơn hệ thống xử lý chỉ sử dụng 1 loại TVTS [118, 128, 149 - 152]. Đặc biệt mỗi loài
TVTS có các nhóm vi sinh vật khác và có khả năng chuyền oxy xuống rễ khác nhau.
Bởi vậy da dạng TVTS giúp cho tăng số lượng các loài vi sinh vật dưới rễ cũng như đa
dạng về thành phần loài vi sinh vật, tăng cường oxy vùng rễ. Nhờ có oxy, các vi sinh
vật hiếu khí trong vùng rễ phân hủy chất hữu cơ và các quá trình nitrat hóa diễn ra
giúp cho quá trình chuyển hóa N diễn ra nhanh hơn, tăng hiệu quả hấp thụ và xử lý
chất ô nhiễm của hệ thống [118, 124, 128, 151, 153]. Mặt khác, Zhu và cs (2010)
[152] và Zhang và cs (2010) [151] tìm thấy mối tương quan tích cực giữa nitơ bị loại
bỏ và số lượng của các loài thực vật trong hệ thống xử lý. Bên cạnh đó các muối
khoáng hòa tan có sẵn trong nước hoặc sinh ra trong quá trình phân hủy các chất hữu
cơ là nguồn dinh dưỡng của TVTS, được cây hấp thụ qua hệ rễ, nên nước cũng sẽ
được làm sạch.
c. Hiệu quả xử lý tổng photpho
Hiệu quả xử lý TP từ nước thải chăn nuôi lợn của hệ thống phối hợp Sậy, Thủy
trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver được trình bày ở hình 3.30. Hàm lượng TP đầu vào hệ
thống là trung bình là 13,61 mg/L (dao động từ 11,54 mg/L đến 15,83 mg/L), khi ra
khỏi ngăn Sậy, lượng TP còn 9,53 mg/L, ứng với hiệu suất xử lý TP đạt 30%. Khí
107
chảy qua ngăn bè nổi lượng TP còn 7,18 mg/L, ứng với hiệu suất xử lý TP đạt 24,6%.
Tiếp theo chảy quả ngăn Bèo tây, lượng TP còn trung bình 5,36 mg/L và hiệu suất xử
lý đạt 25,3%, khi ra khỏi hệ thống phối hợp TP còn 4,13 mg/L (dao động từ 3,7 mg/L
đến 4,58 mg/L. Hiệu quả xử lý TP của toàn bộ hệ thống phối hợp loại bỏ được 69,7%
(dao động từ 67,9% đến 72,6%).
Hình 3.30. Hiệu quả xử lý TP của HT phối hợp
Như vậy tính trên đơn vị diện tích TP đưa vào hệ thống dao động trong khoảng
0,55 - 0,75 g TP/m2.ngày, lượng loại bỏ tương ứng khỏi hệ thống dao động trong
khoảng 0,38 - 0,52 g TP/m2.ngày. Ở Thái Lan, Sohsalam và cs (2008) [43], sử dụng
Cói, Chuối hoa, Thủy trúc, Hương bồ lá hẹp để xử lý nước thải chế biến thủy sản cũng
thu được kết quả tương tự, tải trọng loại bỏ TP của hệ thống dao động trong khoảng
0,17 - 0,49 g TP/m2.ngày. Poach và cs (2004) [42], sử dụng Cói, Cỏ nến, Bấc xử lý
nước thải chăn nuôi lợn, tải trọng loại bỏ TP của hệ thống dao động trong khoảng 0,26
- 0,45 g TP/m2.ngày. Valipour và cs (2015) [105], sử dụng hệ thống thực vật nổi kết
hợp với màng vi sinh vật để xử lý nước thải cũng thu được kết quả tương tự khi tải
trọng TP loại bỏ khỏi hệ thống dao động trong khoảng 0,32 - 0,51 g TP/m2.ngày.
Giống như N, hiệu quả xử lý TP của hệ thống phối hợp cao hơn so với các hệ
thống xử lý chỉ sử dụng 1 loại TVTS. Tải trọng loại bỏ TP của hệ thống phối hợp cao
hơn khoảng từ 2,0 - 2,7 lần so với nghiên cứu của Zheng và cs (2016) [126], sử dụng
công nghệ dòng chảy mặt trồng Sậy (tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý 0,19 g
TP/m2.ngày), cao hơn khoảng từ 1,5 - 2,3 lần so với hệ thống xử lý dòng chảy ngầm
trồng Sậy (tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý Sậy ngầm 0,24 g TP/m2.ngày. Mặt
khác so với các nghiên cứu trong nước cũng thu được kết quả tương tự, cao hơn
khoảng từ 2,1 - 4,8 lần so với kết quả nghiên cứu của Trần Văn Tựa và cs (2011) [67],
sử dụng Bèo cái để xử lý nước thải chế biến thủy sản với tải trọng loại bỏ TP của hệ
thống xử lý dao động trong khoảng 0,08 - 0,24 g TP/m2.ngày, cao hơn khoảng 3,7 –
108
4,8 lần, so với kết quả nghiên cứu của Phạm Khánh Huy (2012) [68], sử dụng Bèo tây
để xử lý nước thải với tải trọng loại bỏ TP của hệ thống là 0,08 - 0,14 g TP/m2.ngày.
Nguyên nhân chính là do hệ phối hợp sử dụng nhiều loại TVTS với các loại công nghệ
khác nhau tận dụng được các ưu điểm. Măt khác TVTS, là một trong những thành
phần chính có thể ảnh hưởng đến hiệu quả xử lý của hệ thống [154]. Thứ nhất, TVTS
trong hệ thống xử lý làm tăng cường sự phong phú và đa dạng của các vi sinh vật
trong vùng rễ cũng như tăng cường diện tích bề mặt có sẵn để vi khuẩn sống và tăng
trưởng [155]. Thứ hai, các rễ cây vùng đất ngập nước tiết ra một loạt các hợp chất hữu
cơ phân hủy (bao gồm các loại đường, axit hữu cơ, và các acid amin), mà đặc biệt là
có thể cung cấp một nguồn liên tục cacbon cho vi khuẩn khử nitơ trong hệ thống đất
ngập nước. Thứ ba, TVTS hấp thụ chất dinh dưỡng vào các mô của cây trực tiếp [156],
và các chất ô nhiễm khác như kim loại nặng và các chất gây ô nhiễm [157]. Thứ tư, sự
tồn tại của thực vật làm tăng và ổn định độ dẫn thủy lực trong hệ thống [159]. Cuối
cùng, rễ cây cải thiện điều kiện oxy, qua đó hỗ trợ các quá trình hiếu khí trong hệ
thống xử lý [154]. Ngoài ra, thực vật đất ngập nước đóng vai trò cung cấp môi trường
sống cho vi sinh vật và động vật, tạo cảnh quan trong các hệ sinh thái đất ngập nước
[160].
Nhìn chung, sự phối hợp giữa hệ dòng mặt (Sậy), hệ thực vật nổi (Thủy trúc, cỏ
Vetiver và Bèo tây), hệ dòng chảy ngẩm (cỏ Vetiver) hoạt động với hiệu quả khá tốt.
Để đạt được hiệu quả xử lý như trên, các chất ô nhiễm được xử lý theo cơ chế loại bỏ
chất ô nhiễm theo công nghệ dòng chảy mặt, thực vật nổi và dòng chảy ngầm đã trình
bầy ở trên. Ngoài ra do sự kết hợp dòng chảy mặt với dòng chảy ngầm có thể cho quá
trình nitrit hóa hiếu khí trước sau đó tiếp theo là quá trình khử nitrat hóa yếm khí làm
tăng hiệu quả xử lý N hơn [118, 126]. Vì vậy hiệu quả xử lý các chất ô nhiễm của hệ
phối hợp cao hơn hệ thống thực vật nổi, hệ thống dòng chảy mặt và hệ thống dòng
chảy ngầm khi hoạt động riêng rẽ.
Kết quả nghiên cứu sử dụng hệ thống phối hợp thực vật nổi với cây Sậy, Thủy
trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver để xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý vi sinh vật cho
hiệu quả xử lý COD, TN và TP cao. Công nghệ này nếu được hoàn thiện sẽ góp phần
tích cực vào phát triển hệ thống nông nghiệp bền vững trong đó chăn nuôi là một bộ
phận cấu thành quan trọng trong hệ thống.
3.2.5. So sánh hiệu quả xử lý TN, TP và COD của các loại hình công nghệ
Khi nghiên cứu với từng loại hình công nghệ riêng biệt, các tải lượng và nhiều
thông số chất lượng nước được sử dụng. Tuy nhiên, khi so sánh hiệu quả xử lý của các
109
loại hình công nghệ, chúng tôi chỉ sử dụng một tải lượng nước thải đưa vào xử lý là 50
lít/m2.ngày và 3 thông số chính của nước thải cần xử lý là TN, TP và COD.
Từ số liệu về hiệu quả loại bỏ 3 chỉ tiêu chất lượng nước là TN, TP và COD thu
được ở bảng 3.8, có thể sắp xếp trình tự các loại hình như sau:
Về loại bỏ TN
+ Theo %: Hệ thống phối hợp > Hệ thống thực vật lá nổi - Bèo tây ≥ Dòng
ngầm - cỏ Vetiver > Dòng ngầm - Sậy ≥ Dòng mặt - Sậy > Dòng mặt - Rau muống.
+ Về số lượng: Hệ thống phối hợp > Dòng ngầm - cỏ Vetiver > Hệ thống thực vật
lá nổi - Bèo tây ≥ Dòng ngầm - cỏ Vetiver > Dòng mặt - Sậy > Dòng mặt - Rau muống.
Về loại bỏ TP
+ Theo %: Hệ thống phối hợp > Hệ thống thực vật lá nổi - Bèo tây > Dòng mặt
- Sậy ≥ Dòng ngầm - Sậy ≥ Dòng ngầm - cỏ Vetiver > Dòng mặt - Rau muống.
+ Về số lượng: Hệ thống phối hợp Sậy - Thủy trúc - Bèo tây - cỏ Vetiver > Hệ
thống thực vật nổi - Bèo tây > Hệ thống phối hợp Bèo tây - Sậy > Dòng mặt - Sậy >
Dòng ngầm - Sậy ≥ Dòng mặt - Rau muống ≥ Dòng ngầm - cỏ Vetiver.
Bảng 3.8. So sánh hiệu quả xử lý TN, TP và COD của các loại hình công nghệ
Loại hình
công nghệ
TVTS
Hiệu quả xử lý
TN TP COD
% g/m2.ngày % g/m2.ngày % g/m2.ngày
Dòng mặt
Rau muống 25,7 1,15 28,6 0,22 35,5 1,8
Sậy 53,5 2,40 42,8 0,34 72,9 3,7
Thực vật nổi Bèo tây 65,8 2,95 55,2 0,43 84,9 4,4
Phối hợp
Bèo tây-Sậy 76,8 4,13 68,8 0,42 69,8 5,4
Sậy-Thủy
trúc-Bèo tây-
cỏ Vetiver
79,3 4,20 69,7 0,45 71,7 6,9
Dòng ngầm
cỏ Vetiver 63,5 3,24 39,6 0,21 64,8 6,8
Sậy 56,0 2,85 42,6 0,23 62,2 6,6
Về loại bỏ COD
+ Theo %: Hệ thống thực vật nổi – Bèo tây > Dòng mặt – Sậy > Hệ thống phối
hợp > Dòng ngầm-cỏ Vetiver ≥ Dòng ngầm – Sậy > Dòng mặt – Rau muống.
110
+ Về số lượng: Hệ thống phối hợp Sậy – Thủy trúc – Bèo tây – cỏ
Vetiver>Dòng ngầm-cỏ Vetiver > Dòng ngầm – Sậy > Hệ thống phối hợp Bèo tây –
Sậy > Hệ thống thực vật nổi – Bèo tây > Dòng mặt – Sậy > Dòng mặt – Rau muống.
So sánh các loại hình cả về tỷ lệ phần trăm và số lượng loại bỏ được có thể
nhận xét như sau:
+ Ba loại hình có ưu thế rõ nhất trong loại bỏ TN, TP và COD trong nước thải
là hệ thống phối hợp, hệ thống thực vật nổi – Bèo tây và hệ thống dòng ngầm trồng
cỏ Vetiver.
+ Hệ thống dòng mặt sử dụng Rau muống tỏ ra kém hiệu quả khi ứng dụng
trong xử lý nước thải ô nhiễm cao về TN và TP.
+ Với mục tiêu xử lý bổ sung TN, TP và COD trong nước thải chăn nuôi lợn
sau công đoạn xử lý vi sinh vật một cách hiệu quả và kinh tế nhất tác giả đề xuất ứng
dụng một hệ phối hợp giữa công nghệ dòng mặt, hệ thực vật nổi và hệ dòng ngầm
với Sậy, Thủy trúc, Bèo tây và cỏ Vetiver.
3.3. Xây dựng, vận hành và đánh giá hiệu quả giảm thiểu COD, N và P trong mô
hình sinh thái
Mô hình sinh thái xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau công đoạn xử lý hiếu khí –
thiếu khí được xây dựng tại trang trại Hòa Bình Xanh, huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa
Bình với công suất 30 m3/ngày đêm. Thời gian thử nghiệm, thu mẫu phân tích các chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả xử lý của MHST từ tháng 8/2014 đến tháng 5/2015.
3.3.1. Xây dựng mô hình sinh thái
- Thiết kế hệ thống
Kết quả nghiên cứu về hiệu quả xử lý của từng loại hình công nghệ ở quy mô
Pilot đã cho thấy: Ba loại hình có ưu thế rõ nhất trong loại bỏ TN, TP và COD trong
nước thải là hệ thống phối hợp, hệ thống dòng mặt trồng Bèo tây và hệ thống dòng
ngầm trồng cỏ Vetiver. Trong đó hệ phối hợp dòng mặt trồng Sậy, hệ thực vật nổi
(gồm bè nổi trồng Thủy trúc và cỏ Vetiver và thực vật nổi Bèo tây) và dòng ngầm
trồng cỏ Vetiver có hiệu quả cao nhất.
111
Hình 3.31. Sơ đồ công nghệ sinh thái xử lý nước thải chăn nuôi lợn sau xử lý bằng
công nghệ vi sinh vật
Tuy nhiên khi tính đến xây dựng và vận hành chúng tôi tăng diện tích ngăn
trồng Sậy và Bèo tây đồng thời giảm diện tích bè nổi và dòng ngầm trong tương quan
của các phần trong mô hình. Sơ đồ công nghệ như hình 3.31 và hình 3.32
Hình 3.32. Sơ đồ hệ thống mô hình sinh thái tại hiện trường
Việc áp dụng đồng thời các loại hình công nghệ cho phép tận dụng được các
ưu điểm của từng loại hình, nâng cao hiệu quả loại bỏ chất ô nhiễm cũng như giảm
diện tích xử lý. Các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra rằng những cải tiến trong lựa
chọn các loại hình công nghệ trong hệ thống đất ngập nước đóng một vai trò quan
trọng trong việc loại bỏ các chất ô nhiễm của hệ thống [101, 121]. Mỗi loại TVTS có
khả năng hấp thụ các chất dinh dưỡng khác nhau, nó phụ thuộc vào khả năng sinh
trưởng, phát triển, khả năng tăng sinh khối nhanh và khả năng đồng hóa các chất dinh
112
dưỡng của các loài thực vật [118]. Bởi vậy sử dụng đa dạng các loài TVTS trong hệ
thống xử lý làm hạn chế tác động của yếu tố mùa vụ và sâu bệnh vốn ảnh hưởng tới
năng suất và hiệu quả xử lý của hệ thống do đó đảm bảm cho hệ thống hoạt động
ổn định lâu dài và hiệu quả xử lý. Các loài TVTS được lựa chọn trong MHST là
những loài thực vật điển hình phù hợp với điều kiện tự nhiên và khí hậu của Việt
Nam có sức sống và khả năng xử lý cao bao gồm Sậy (Phragmites australis), Bèo
tây (Eichhornia crassipes) cỏ Vetiver (Vetiveria zizanioides) và Thủy trúc (Cyperus
alternifolius Linn).
Bảng 3.9. Các thông số thiết kế hệ thống
TT Chỉ số Tiêu chuẩn thiết kế
1 Tiền xử lý Xử lý kỵ khí (biogas), xử lý hiếu khí , Ao sinh học
2 Tải lượng COD ≤ 450 mg/L - 4500 kg/ha/ngày
3
Tải lượng TN
Trong đó tải lượng N-
NH4
≤ 200 mg/L – 2000 kg/ha/ ngày
≤150 mg/L - 1500 kg/ha/ngày -
4 Công suất xử lý 30 m3/ngày
5 Thời gian lưu nươc 9 ngày
6 Số ngăn 3
7 Thực vật Sậy, Bèo tây ,cỏ Vetiver, Thủy trúc,
8
Độ sâu cột nước
- Vùng trồng Sậy
- Vùng thực vật nổi
- Vùng dòng ngầm
0,35 m
0,60 m
0,60 m
9 Đầu vào Phân phối toàn vùng đầu vào
10 Đầu ra Phân phối toàn vùng đầu ra
11
Chỉ số cảnh quan
- Cho toàn mô hình
- Cho từng ngăn
- 13.5/1
- 4.5/1
- Mô tả hệ thống
Hệ thống xử lý có diện tích tổng cộng là 600 m2 chia thành 3 ngăn, xây trên nền
đất bằng phẳng. Sau khi san ủi, đầm nén tạo mặt bằng, các ngăn được xây tường bao
bằng gạch cao 70 cm, kín đáy, lót chống thấm. Để cho nước thoát, đáy cần hơi
nghiêng (khoảng 0,5°). Nước thải chảy vào ngăn 1, qua ngăn 2, ngăn 3 và ra ngoài ở
cuối ngăn 3 sau khi qua dòng ngầm (hình 3.31, hình 3.32).
Để nước được phân phối đều, hệ thống ống phân phối nước đặt ở đầu vào mỗi
ngăn với các vòi chạy dọc chiều rộng thành bể. Ở đầu dòng chảy ngầm sử dụng ống
113
gom nước chảy tràn và dẫn nước thải sang ống phân phối đặt ngầm trong bể xử lý.
Đầu ra tại dòng ngầm đặt ống thu nước sát đáy, dọc chiều ngang của ngăn.
Ngăn 1 là dòng mặt trồng Sậy. Trong ngăn có lớp đất trồng cây dày 25 cm. Sậy
được trồng với mật độ khóm 40 x40cm. Mực nước xử lý duy trì 35 cm.
Ngăn 2 chia 2 phần, phần đầu trồng Sậy như ở ngăn 1, nửa còn lại là thực vật
nổi (TVN) trồng bè. Mỗi bè có kích thước 1 x 2 m có thể dùng ống nhựa PVC hoặc tre
làm phao nổi trồng cây. Mực nước ở phần TVN là 60 cm.
Ngăn 3 chia 2 phần: Phần chính (160 m2) trồng Thực vật lá nổi (Bèo tây) có độ
sâu 60 cm. Trong phần này, Bèo tây được chia ra các ô, mỗi ô cách nhau khoảng 1 m
để đảm bảo mặt thoáng cho hệ thống. Dòng ngầm chảy ngang diện tích 40 m2 trồng cỏ
Vetiver. Vật liệu trồng cây trong dòng ngầm gồm 3 lớp: Lớp dưới (25cm) là lớp đá
cuội Ø5÷7cm, lớp giữa (25cm) là sỏi Ø2÷3cm, lớp trên cùng là đá dăm (Ø 0,5-1 cm).
Mực nước duy trì là 60 cm, mật độ trồng khóm là 40 x 40 cm.
- Vận hành mô hình
+ Trồng cây: Cây giống được chuẩn bị trước, trồng vào mùa xuân. Sau khi trồng cần
khoảng 1 tháng để cây bén rễ, ổn định sinh trưởng. Thời gian này, chỉ cung cấp một
lượng nước thải nhỏ định kỳ 1 tuần 1 lần và duy trì mực nước thấp.
+ Giai đoạn khởi động: 2 - 3 tháng.
- Tải lượng nước tăng dần sau mỗi 2 tuần: 0,3 - 0,6 - 0,9 m3/giờ.
- Để cây sinh trưởng, phát triển bộ rễ, hình thành hệ vi sinh vật cộng sinh vùng rễ
đảm bảo cho việc xử lý hiệu quả.
+ Giai đoạn xử lý: Đây là giai đoạn khi cây đã thích nghi và phát triển hoàn chỉnh.
- Nước thải được đưa vào mô hình xử lý với lưu lượng 1,3 m3/giờ (30m3/ngày, đêm).
- Thu tỉa cây: 1-2 tuần/lần với Bèo tây, 1- 2 năm/lần với cỏ Vetiver, Sậy và Thủy trúc.
+ Kiểm soát mô hình: Kiểm tra phân phối nước, bờ bao hang tuần.
3.3.2. Đánh giá hiệu quả xử lý của mô hình sinh thái
3.3.2.1. Hiệu quả xử lý COD
Sau thời gian khởi động hệ thống khoảng 2 tháng, mô hình sinh thái được vận
hành nâng công suất từ 0,6 m3/giờ lên 0,9 – 1,3 m3/giờ để đánh giá hiệu quả xử lý, tính
ổn định và hiệu quả kinh tế mô hình.
Số liệu thu được về khả năng loại bỏ COD từ nước thải chăn nuôi lợn quy mô
trang trại của MHST ở lưu lượng 0,6 m3/giờ, 0,9 m3/giờ, 1,3 m3/giờ được trình bày ở
hình 3.33.
114
- Tải lượng 0,6 m3/giờ:
Nồng độ COD đầu vào trung bình là 230 mg/L (dao động từ 133 mg/L đến 334
mg/L), khi ra khỏi hệ thống nồng độ COD đầu ra trung bình 108,7 mg/L (dao động từ
67,4 mg/L đến 150 mg/L). Hiệu xuất xử lý COD của MHST trong giai đoạn này chưa
ổn định, trung bình đạt 52,1% (dao động từ 42,7% đến 58,5%). Tính trên đơn vị diện
tích trung bình tải trọng COD đưa vào hệ thống là 5,5 g/m2.ngày và lượng loại bỏ
tương ứng là 2,87 g/m2.ngày.
- Tải lượng 0,9 m3/giờ:
Nồng độ COD đầu vào trung bình là 175,3 mg/L (dao động từ 157,2 mg/L đến
281 mg/L), khi ra khỏi hệ thống nồng độ COD đầu ra trung bình 77,7 mg/L (dao động
từ 58,2 mg/L đến 89,4 mg/L). Như vậy khả năng loại bỏ COD của MHST đạt hiệu suất
trung bình 55,8% (dao động từ 49,34 % đến 68,2 %). Tính trên đơn vị diện tích trung
bình tải trọng COD đưa vào hệ thống là 6,3 g/m2.ngày và lượng loại bỏ tương ứng là
3,5 g/m2.ngày.
Hình 3.33. Hiệu quả loại bỏ COD của mô hình sinh thái tại Lương Sơn, Hòa Bình
-Tải lượng 1,3 m3/giờ:
Nồng độ COD đầu vào trung bình là 282,6 mg/L (dao động từ 133,3 mg/L đến
458 mg/L), khi ra khỏi hệ thống nồng độ COD đầu ra trung bình 116,3 mg/L (dao
động từ 51,9 mg/L đến 191,4 mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý COD của MHST giai
đoạn này trung bình đạt 59,3% (dao động từ 53,6% đến 65,7%). Tính trên đơn vị diện
115
tích trung bình tải trọng COD đưa vào hệ thống là 14,3 g/m2.ngày và lượng loại bỏ
tương ứng là 8,46 g/m2.ngày.
Như vậy qua hình 3.33 ta thấy, sau thời gian chạy khởi động, ở giai đoạn chạy
với lưu lượng 1,3 m3/giờ, hiệu suất xử lý COD của MHST tương đối ổn định, ổn định
hơn giai đoạn chạy khởi động. Mặt khác kết quả này cho thấy mặc dù COD đầu vào
dao động rất lớn (từ 133,3 mg/L đến 458 mg/L) nhưng COD ra vẫn ổn định hầu như
không phụ thuộc nhiều vào sự biến động của COD vào. Điều này chứng tỏ MHST hoạt
động tương đối ổn định và hiệu quả. Vymazal (2011) [121] cũng thu được kết quả
tương tự với hệ thống đất ngập nước xử lý nước thải tại một số quốc gia (Thụy Điển,
Na Uy, Mỹ và Cộng hòa Séc). Vymazal xác định rằng hoạt động của vi khuẩn là
không thay đổi với nhiệt độ thấp. Thay vào đó, nguồn cung cấp cacbon và các chất
dinh dưỡng là những yếu tố chính ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống xử lý. Đây là
lý do tại sao hiệu quả khử COD cải thiện hơn theo thời gian, với hiệu suất loại bỏ tốt ở
giai đoạn chạy ổn định là 65,7% [100, 101, 121]. Ngoài ra sự gia tăng này nhấn mạnh
vai trò quan trọng của các TVTS trong hệ thống xử lý để loại bỏ các chất dinh dưỡng.
Đặc biệt hơn, theo thời gian khi sinh khối của thực vật tăng lên, các vi sinh vật hoạt
động trong hệ thống sẽ phát triển về số lượng và đa dạng thành phần loài, kết quả là
các chất dinh dưỡng được loại bỏ cao hơn [161].
Tính trên đơn vị diện tích ta thấy khi tăng tải lượng thì tải trọng loại bỏ COD
của MHST cũng tăng, MHST đã loại bỏ COD trong khoảng từ 2,8 – 8,46 g
COD/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với các nghiên cứu trước đó như
Poach (2004) [42], sử dụng 3 loại TVTS là Cói, Bấc và Cỏ nến để xử lý nước thải
chăn nuôi lợn. Tải trọng COD đưa vào hệ thống là 6,1 – 19 g COD/m2.ngày và lượng
COD loại bỏ tương ứng là 2,5 – 7,8 g COD/m2.ngày. Kalipci (2011) [96], đã xây dựng
hệ thống xử lý gồm 3 bể mỗi bể có diện tích 50 m2, sử dụng công nghệ dòng chảy
ngầm ngang trồng Sậy cũng thu được tải lượng loại bỏ COD của hệ thống là 4,0 - 6,03
g COD/m2.ngày. Vymazal và Kröpfelová (2011) [121], xây dựng hệ thống đất ngập
nước 3 giai đoạn bao gồm công nghệ dòng chảy đứng và dòng chảy ngang để xử lý
nước thải đô thị cũng thu được tải lượng loại bỏ COD của hệ thống là 2,2 – 12,2 g
COD/m2.ngày. Lưu Huy Mạnh và cs (2014) [146], xử lý nước thải giết mổ lợn sau
biogas tại tỉnh Hậu Giang, với khoảng 30 m3 nước thải/ngày dùng ao trồng Cỏ Vetiver
rộng 330 m2, nước thải sau xử lý đạt tiêu chuẩn thải theo QCVN 24: 2009/BTNMT, tải
trọng loại bỏ COD của hệ thống là 6,4 g COD/m2.ngày. Nguyễn Thành Lộc và cs
(2015) [70], sử dụng hệ thống thực vật nổi kết hợp với dòng chảy ngầm với Thủy trúc,
Bèo tây, Bèo tai tượng để xử lý nước thải sinh hoạt, tải trọng loại bỏ COD của hệ
thống dao động trong khoảng 6,4 – 8,7 g COD/m2.ngày.
Như vậy để có được kết quả xử lý COD như trên là do cơ chế sinh học và vất
lý, quá trình chuyển hóa COD trong MHST được thực hiện bởi đồng hóa của thực
vật và quá trình chuyển hóa yếm khí, thiếu khí và hiếu khí của hệ vi sinh vật xung
116
quanh vùng rễ. Mặt khác do MHST áp dụng đồng thời các loại hình công nghệ cho
phép tận dụng được các ưu điểm của từng loại hình, nâng cao hiệu quả loại bỏ chất
ô nhiễm cũng như giảm diện tích xử lý. Sử dụng đa dạng các loài TVTS trong xử lý
làm hạn chế tác động của yếu tố mùa vụ và sâu bệnh vốn ảnh hưởng tới năng suất
và hiệu quả xử lý của hệ thống do đó đảm bảm cho hệ thống hoạt động ổn định lâu
dài [130, 150 - 152].
3.3.2.2. Hiệu quả xử lý nitơ
N là nguyên tố cần thiết cho quá trình tạo sinh khối của thực vật. Trong nước
tự nhiên, những vùng không bị ô nhiễm nồng độ nitơ vô cơ thường rất thấp. Nitrat và
amoni trong nước có nồng độ thích hợp, được sinh vật sử dụng làm nguồn dinh
dưỡng rất tốt. Tuy nhiên hàm lượng N trong nước cao sẽ gây phú dưỡng nguồn nước,
ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của các sinh vật. Bởi vậy nước thải chăn nuôi lợn
giầu N và P trước khi thải ra cần phải xử lý đến mức chấp nhận về môi trường.
Số liệu thu được về hiệu quả xử lý nitơ từ nước thải chăn nuôi lợn quy mô trang
trại của mô hình sinh thái được minh họa trên hình 3.34.
- Lưu lượng 0,6 m3/giờ:
Với TN đầu vào trung bình là 170,4 mg/L (dao động từ 116,6 mg/L đến 222
mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng TN còn 45,1 mg/L (dao động từ 20,6 mg/L đến 88,8
mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý đạt 73,8% (dao động từ 59,7% đến 84,2%). Tính trên
đơn vị diện tích, tải trọng trung bình TN đưa vào hệ thống là 4,1 g TN/m2.ngày và tại
trọng TN loại bỏ tương ứng của MHST là 3,02 g TN/m2.ngày.
Với N dạng nitrat và amôn, lượng đầu vào trung bình là 7,49 mg/L và 108,5
mg/L tương ứng. Ở đầu ra lượng NO3- trung bình còn 3,52 mg/L và lượng NH4
+ còn
28,7 mg/L. Tính ra có 73,8% nitrat và 44,6% lượng NH4+ được loại bỏ. Có thể thấy
rằng, mặc dù lưu lượng đầu vào của TN là khá cao, hệ thống đã loại bỏ khá hiệu quả
cả TN và nitơ dạng nitrat và amôn. Đây là giai đoạn khởi động ban đầu nên hiệu quả
xử lý N chưa ổn định, khi MHST hoạt động ổn định thi hiệu quả xử lý N cao hơn.
Nitơ dạng nitrit (NO2-) là sản phẩm trung gian của quá trình nitrit hóa amôn
thành nitrat cũng như quá trình phản nitrat hóa. Trong nước, hàm lượng đầu vào của
nó trung bình 17,4 mg/l (dao động từ 4,3 mg/l đến 43,7 mg/l). Đây là điều dễ hiểu vì
nước thải đầu vào của MHST là nước sau xử lý hiếu khí, trong phân hủy hiếu khí, quá
trình nitrat hóa xảy ra nên còn lượng nhất định NO2-. Ở đầu ra, lượng NO2
- giảm dần
đến 5,3 mg/L (dao động từ 0,05 mg/L đến 8,0 mg/L) thể hiện quá trình nitrat hóa đã
xảy ra trong hệ thống, nhưng còn lượng nhất định NO2- chưa chuyển kịp sang dạng
nitrat. Tuy nhiên lượng NO2- này sẽ giảm xuống nhanh chóng khi vào nguồn tiếp nhân
117
và cũng sẽ bị chuyển tiếp sang dạng NO3-. Như vậy hiệu suất xử lý NO2
- đạt 65,9%.
Đây có lẽ là ưu điểm của MHST trong vấn đề xử lý nước thải chăn nuôi lợn.
- Tải lượng 0,9 m3/giờ:
Với TN đầu vào trung bình là 66,2 mg/L (dao động từ 46,3 mg/L đến 88,6
mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng TN còn 21,7 mg/L (dao động từ 13,4 mg/L đến 35,5
mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý trung bình đạt 67,8%. Sau một thời gian chạy khởi
động giai đoạn này hệ thống xử lý ở các cộng đoạn trước hoạt động ổn định nên lượng
đầu vào hệ thống ổn định hơn giai đoạn khởi động, hiệu quả xử lý TN của MHST cũng
ổn định hơn. Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng trung bình TN đưa vào hệ thống là
2,4 g TN/m2.ngày và tải trọng TN loại bỏ tương ứng của MHST là 1,62 g TN/m2.ngày.
Với N dạng Nitrat lượng đầu vào trung bình là 24,8 mg/L (dao động từ 8,1
mg/L đến 36,7 mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng NO3- trung bình còn 5,3 mg/L (dao
động từ 3,2 mg/L đến 7,5 mg/L). Với N ở dạng NH4+ lượng đầu vào trung bình 31,4
(dao động từ 15,6 mg/L đến 54,9mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng NH4+ còn 12,9
mg/L (dao động từ 5,5 mg/L đến 24,0 mg/L). Tính ra có 74,1% nitrat và 59,2% lượng
NH4+ được loại bỏ. Có thể thấy rằng, hệ thống đã loại bỏ khá hiệu quả cả TN và nitơ
dạng nitrat và amôn. So với giai đoạn khởi động thì lượng TN đầu ra giai đoạn này
thấp hơn (21,7 mg/L).
Nitơ dạng nitrit (NO2-), trong nước hàm lượng đầu vào trung bình 19,1 mg/l
(dao động từ 2,6 mg/l đến 36,4 mg/l). Ở đầu ra, lượng NO2- giảm dần đến 3,8 mg/l
(dao động từ 0,58 mg/l đến 7,3 mg/l). Như vậy hiệu suất xử lý NO2- đạt 77,1%.
- Tải lượng 1,3 m3/giờ:
Từ hình trên ta thấy với TN đầu vào trung bình là 106,7 mg/L (dao động từ 34,3
mg/L đến 169,4 mg/L), khi ra khỏi hệ thống lượng TN còn 35,9 mg/L (dao động từ
13,4 mg/L đến 53,9 mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý trung bình đạt 66,2% (dao động từ
60,1% đến 70%). Tính trên đơn vị diện tích, tải trọng trung bình TN đưa vào hệ thống
là 5,5 g TN/m2.ngày và tại trọng TN loại bỏ tương ứng của MHST là 3,6 g
TN/m2.ngày. Ở giai đoạn này, khi vận hành mô hình pilot tuy có biến động lớn về TN
đầu vào nhưng hiệu quả xử lý và tính ổn định của hệ thống vẫn đạt rất cao. Điều này
chứng tỏ rằng hệ thống trong nghiên cứu này có khả năng đáp ứng rất tốt với sự thay
đổi lớn về tải lượng và hàm lượng đầu vào. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong vận
hành và kiểm soát hệ thống, đặc biệt là trong điều kiện Việt Nam đòi hỏi hệ thống phải
đơn giản, vận hành và kiểm soát hệ thống dễ dàng.
118
Hình 3.34. Hiệu quả loại bỏ TN của mô hình sinh thái tại Lương Sơn, Hòa Bình
Với N dạng nitrat và amôn, lương đầu vào trung bình là 9,8 mg/L (dao động từ
0,62 mg/L đến 36,7 mg/L) và 55,5 (dao động từ 4,7 mg/L đến 136,4 mg/L) mg/L
tương ứng. Ở đầu ra lượng NO3- trung bình còn 2,4 mg/L (dao động từ 0,14 mg/L đến
9,6 mg/L) và NH4+ còn 23,5 mg/L (dao động từ 3,4 mg/L đến 74,4 mg/L). Tính ra có
68,5% nitrat và 51,8% lượng NH4+ được loại bỏ. Có thể thấy rằng, mặc dù tải lượng
đầu vào của TN là khá cao, hệ thống đã loại bỏ khá hiệu quả cả TN, nitơ dạng nitrat và
N amôn. So với giai đoạn khởi động ban đầu khi hệ thống hoạt động ổn định, hiệu quả
xử lý N ổn định, đạt chuẩn thải loại B cho nước thải chăn nuôi (QCVN 62-MT:
2016/BTNMT) xét theo nồng độ TN.
Trong giai đoạn này hàm lượng NO2- đầu vào trung bình 2,2 mg/L (dao động từ
0,08 mg/L đến 4,52 mg/L). Ở đầu ra, lượng NO2- giảm dần đến 0,08 mg/L (dao động
từ 0,003 mg/L đến 0,23 mg/L). Như vậy hiệu suất xử lý NO2- của MHST cao đạt 86%.
Đây có lẽ là ưu điểm của MHST trong vấn đề xử lý nước thải chăn nuôi lợn.
Như vậy qua hình 3.34 ta thấy, sau thời gian chạy khởi động, ở giai đoạn chạy
với lưu lượng 1,3 m3/giờ, hiệu suất xử lý TN của MHST tương đối ổn định, ổn định
hơn giai đoạn chạy khởi động. Tính trên đơn vị diện tích tải trọng TN đưa vào hệ
thống là 2,4 - 5,5 g TN/m2.ngày và lượng TN loại bỏ khỏi MHST tương ứng là 1,6 -
3,6 g TN/m2.ngày. Ở Thái Lan, Sohsalam và cs (2008) [43], sử dụng Cói, Chuối hoa,
Thủy trúc, Hương bồ lá hẹp để xử lý nước thải chế biến thủy sản cũng thu được kết
119
quả tương tự, tải trọng loại bỏ TN của hệ thống dao động trong khoảng 1,43 – 3,6 g
TN/m2.ngày. Nghiên cứu mới đây của Zhang (2016) [162], sử dụng kết hợp 4 hệ thống
công nghệ ngầm đứng kết hợp với 1 hệ thống ngầm ngang để xử lý nước thải chăn
nuôi lợn, sau thời gian hoạt động hơn 3 năm hệ thống xử lý hiệu quả các chỉ ô nhiễm,
tải trọng TN loại bỏ khỏi hệ thống dao động trong khoảng 2 - 8 g TN/m2.ngày. Lê
Tuấn Anh (2013) [69], xây dựng hệ thống xử lý nước thải quy mô 20 m3/ngày bao
gồm 02 bãi lọc trồng Sậy và Cói dòng chảy thẳng đứng, 02 bãi lọc trồng Sậy và Cói
dòng chảy ngang và có bể tiền xử lý vi sinh vật hiếu khí tạo thành hệ thống bãi lọc tổ
hợp. Nước thải sau toàn bộ hệ thống xử lý đạt tiêu chuẩn cột B - QCVN 11:
2008/BTNMT. Hiệu quả xử lý TN của hệ thống bãi lọc trồng cây TN đạt 63,4%, tải
trọng loại bỏ TN của hệ thống dao động trong khoảng 1,8 - 7,4 g TN/m2.ngày.
Tính trung bình hiệu quả loại bỏ TN của mô hình sinh thái cao hơn khoảng 3,3
lần so với nghiên cứu của López và cs (2016) [119] (khi tải trọng loại bỏ TN của hệ
thống sử dụng công nghệ dòng chảy ngầm trồng Sậy của tác giả là 0,38 - 1,2 g
TN/m2.ngày), cao hơn khoảng 1,48 - 3,33 lần so với nghiên cứu của Lưu Huy Mạnh và
cs (2014) [146] (tải trọng loại bỏ TN của hệ thống trồng cỏ Vetiver xử lý nước thải
giết mổ lợn là 1,08 TN/m2.ngày).
Để thu được kết quả như trên nguyên nhân chính là do trong hệ xử lý việc kết
hợp các loại TVTS khác làm tăng cường hiệu quả loại bỏ các chất ô nhiễm hơn hệ
thống xử lý chỉ sử dụng độc canh 1 loại TVTS [105, 124, 149 - 153]. Đa dạng thực vật
trong hệ thống có thể làm tăng khả năng chịu đựng các điều kiện thay đổi cũng như sự
ổn định trong quá trình sinh hóa. Hơn nữa, đa dạng các loài TVTS hạn chế tác động
của yếu tố mùa vụ, sâu bệnh, đặc biệt mỗi loài TVTS có các nhóm vi sinh vật khác và
có khả năng chuyền oxy xuống rễ khác nhau. Bởi vậy da dạng TVTS giúp cho tăng số
lượng các loài vi sinh vật dưới rễ cũng như đa dạng về thành phần loài vi sinh vật, tăng
cường oxy vùng rễ giúp cho quả trình chuyển hóa N diễn ra nhanh hơn, tăng hiệu quả
hấp thụ và xử lý chất ô nhiễm của hệ thống [119, 124, 128, 151, 153]. Mặt khác, Zhu
và cs (2010) [152] và Zhang và cs (2010) [151], tìm thấy một mối tương quan tích cực
giữa nitơ loại bỏ và số lượng của các loài thực vật trong hệ thống xử lý.
Ngoài ra sự chuyển hóa nitơ đạt hiệu quả cao trong bãi lọc nhờ quá trình tổng
hợp sinh khối của của thực vật và một số quá trình chuyển hóa thiếu khí và khử nitơ
nhờ vi sinh vật. Các vi sinh vật này gồm: Nitrosomonas, Nitropira, Nitrococcus và
Nitrobacter. Đây được xem là quá trình khử nitơ hiệu quả và kinh tế. Tuy nhiên để
thực hiện được quá trình này đòi hỏi một lượng cacbon nhất định. Theo số liệu nghiên
cứu của Lee và cộng sự (2009) [46] trong bãi lọc trồng cây nhân tạo, nitơ có thể được
120
loại bỏ từ 25-85% trong đó 60-70% được khử và 20-30% được thực vật hấp thụ cho
tạo sinh khối và sẽ được loại bỏ khi thu hoạch.
3.3.2.3. Hiệu quả xử lý photpho
P là một trong các yếu tố quan trọng nhất trong hệ sinh thái tự nhiên và có mặt
trong nước thải chủ yếu ở dạng phosphat, điển hình là orthophôtphat. Phốt pho là yếu
tố giới hạn sự phì dưỡng của hệ sinh thái nước ngọt bởi vậy cần phải xử lý photpho
trước khi thải ra môi trường.
Hiệu quả xử lý TP từ nước thải chăn nuôi lợn quy mô trang trại của MHST ở tải
lượng 0,6 m3/giờ, 0,9 m3/giờ, 1,3 m3/giờ được trình bày ở hình 3.35.
- Lưu lượng 0,6 m3/giờ:
Hàm lượng TP trong nước vào mô hình trung bình là 33,3 mg/L (dao động từ
22,1 mg/L đến 49,1 mg/L) và đầu ra còn lại là 16,4 mg/L (dao động từ 10,9 mg/L đến
25,2 mg/L). Như vậy hiệu quả xử lý TP đạt 50,7% (dao động từ 47,9% đến 54,4%). Từ
hình 3.35 ta thấy hiệu quả xử lý TP của MHST tương đối ổn định. Tính trên đơn vị
diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 0,8 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ tương
ứng là 0,41 g TP/m2.ngày.
Hình 3.35. Hiệu quả loại bỏ TP của mô hình sinh thái tại Lương Sơn, Hòa Bình
121
- Lưu lượng 0,9 m3/giờ:
Hàm lượng TP trong nước vào MHST trung bình là 38,5 mg/L (dao động từ
19,1 mg/L đến 67,9 mg/L) và đầu ra còn lại là 19,7 mg/L (dao động từ 10,0 mg/L đến
34,2 mg/L). Như vậy hiệu quả xử lý TP đạt 48,8% (dao động từ 47,4% đến 51,7%). Từ
hình 3.42 ta thấy hiệu quả xử lý TP của MHST tương đối ổn định. Tính trên đơn vị
diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 1,4 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ tương
ứng là 0,68 g TP/m2.ngày.
- Lưu lượng 1,3 m3/giờ:
Hàm lượng TP trong nước vào mô hình trung bình là 37,7 mg/L (dao động từ
14 mg/L đến 58 mg/L) và đầu ra còn lại là 20,7 mg/L (dao động từ 7,7 mg/L đến 33,5
mg/L). Như vậy hiệu quả xử lý TP đạt 45,3% (dao động từ 41,9% đến 48,8%). Từ hình
3.35 ta thấy hiệu quả xử lý TP ở tải lượng này của MHST tương đối ổn định. Tính trên
đơn vị diện tích, tải trọng TP đưa vào hệ thống là 1,9 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ
tương ứng là 0,86 g TP/m2.ngày.
Như vậy qua hình 3.35 ta thấy, hiệu suất xử lý TP của MHST ở lưu lượng 0,6
m3/giờ, 0,9 m3/giờ, 1,3 m3/giờ tương đối ổn định. Mặt khác kết quả này cho thấy TP
đầu vào dao động rất lớn (từ 14 mg/L đến 67,9 mg/L), hiệu suất xử lý TP thì vẫn ổn
định nên TP đầu ra cũng dao động lớn (từ 7,7 mg/L đến 33,5 mg/L), phụ thuộc nhiều
vào sự biến động của TP đầu vào. Tải trọng TP đưa vào hệ thống dao động trong
khoảng 0,8 - 1,9 g TP/m2.ngày và lượng loại bỏ khỏi hệ thống dao động trong khoảng
0,41 - 0,86 g TP/m2.ngày. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với nghiên cứu của
González (2009) [138], khi xây dựng hệ thống xử lý nước thải với 6 bể trồng TVTS
tại trang trại chăn nuôi lợn (quy mô 3.000 lợn, lưu lượng nước thải 90 m3/ngày) ở
Mexico, tải trọng loại bỏ TP của hệ thống dao động trong khoảng 0,45 - 1,2 g
TP/m2.ngày. Nghiên cứu mới đây của Zhang (2016) [162], sử dụng kết hợp 4 hệ thống
công nghệ ngầm đứng kết hợp với 1 hệ thống ngầm ngang để xử lý nước thải chăn
nuôi lợn, sau thời gian hoạt động hơn 3 năm hệ thống xử lý hiệu quả các chỉ ô nhiễm,
tải trọng TP loại bỏ khỏi hệ thống dao động trong khoảng 0,5 - 1,5 g TP/m2.ngày.
Giống như N, hiệu quả xử lý TP của MHST cao hơn so với các hệ thống xử lý
chỉ sử dụng 1 loại TVTS. Tải trọng loại bỏ TP của MHST cao hơn khoảng từ 2,2 - 4,5
lần so với kết quả của Zheng và cs (2016) [126], sử dụng công nghệ dòng chảy mặt
trồng Sậy (tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý 0,19 g TP/m2.ngày), cao hơn khoảng
từ 1,5 – 4,5 lần so với hệ thống xử lý dòng chảy ngầm trồng Sậy (tải trọng loại bỏ TP
của hệ thống xử lý 0,09 – 0,59 g TP/m2.ngày. So với hệ thống xử lý nước thải sử dụng
Bèo tây tác giả cũng thu được kết quả cao hơn khoản từ 1,3 - 2,2 lần so với nghiên cứu
của Valipour và cs (2015) [105]. Mặt khác so với các nghiên cứu trong nước cũng thu
được kết quả tương tự, cao hơn khoảng từ 3,5 - 5,1 lần so với kết quả nghiên cứu của
Trần Văn Tựa và cs (2011) [67], sử dụng Bèo cái để xử lý nước thải chăn chế biến
122
thủy sản với tải trọng loại bỏ TP của hệ thống xử lý dao động trong khoảng 0,08 - 0,24
g TP/m2.ngày, cao hơn khoảng 2,9 - 5,1 lần so với kết quả nghiên cứu của Phạm
Khánh Huy (2012) [68], sử dụng Bèo tây để xử lý nước thải với tải trọng loại bỏ TP
của hệ thống là 0,08 - 0,14 g TP/m2.ngày.
Nói chung, khi MHST hoạt động đủ công suất thiết kế (1,3 m3/giờ hay 30
m3/ngày), với giá trị đầu vào của COD, TN và TP là 323,7 mg/L; 102,7 mg/L và 31,5
mg/L tương ứng, nước thải sau xử lý chứa 116,3 mg/L COD; 35,9 mg/L TN và 20,7
mg/L TP), hiệu suất xử lý COD, TN và TP là 59,3%; 66,2% và 45,3% tương ứng. Với
hiệu suất xử lý này, hệ thống đã loại bỏ lượng đáng kể COD, TN và TP. Chúng ta biết
rằng N và P là nguyên nhân chính gây phú dưỡng môi trường nước nhưng chưa được
quan tâm thích đáng trong xử lý nước thải.
Trước năm 2016, nước thải chăn nuôi lợn phải tuân thủ QCVN 40 -
2011/BTNMT là qui định cho nước thải công nghiệp. Đối chiếu với tiêu chuẩn thải
này, nước qua xử lý của mô hình đạt TC B về COD và TN nhưng chưa đạt về TP. Từ
2016 với qui định riêng cho nước thải chăn nuôi (QCVN 62-MT: 2016/BTNMT),
nước sau xử lý của mô hình sinh thái đạt TC thải loại A về hàm lượng COD và TN.
3.3.2.4. Sự biến đổi các yếu tố thủy lý của mô hình sinh thái
Cùng với các thông số quan trọng của mô hình như COD, N và P chúng tôi cũng
xác định một số thông số thủy lý. Các thông số này của MHST được xác định tại đầu
vào, tại bè nổi và ở đầu ra được trình bày trong bảng 3.10.
Bảng 3.10. Các thông số thủy lý của mô hình sinh thái
Các thông số Đầu vào Sậy Bè nổi Đầu ra P-value
EC (mS/cm) 3,47±1,94 2,79±1,57 2,11±1,07 1,77±0,99 0,03
S (‰) 1,83±1,09 1,51±0,96 1,19±0,83 0,94±0,59 0,09
TDS (m/L) 2,16±1,17 1,78±0,99 1,38±0,75 1,14±0,62 0,98
pH 8,42±0,31 8,31±0,3 8,10±0,36 7,96±0,52 0,04
Nhiệt độ 23,4±3,93 23,2±4,2 22,8±3,89 22,9±3,78 0,02
DO (mg/L) 2,99±1,29 2,1±0,93 2,70±0,91 2,40±0,68 0,14
Độ đục (NTU) 109±112 99±90 94±142 57±112 0,75
Nhìn chung, các thông số thủy lý của nước thải ít có sự khác biệt giữa 4 điểm
đầu vào, Sậy, Bè nổi và đầu ra, ngoại trừ nhân tố EC, pH và nhiệt độ. Ở thông số DO
do nước thải đã qua công đoạn xử lý sục khí gián đoạn nên nồng độ oxy hòa tan đạt ở
mức trung bình trong khoảng 2,99 ± 1,29, khi qua ngăn trồng sậy, bè nổi đạt ở mức
123
trung bình trong khoảng 2,10 ± 0,93, 2,70 ± 0,91. Oxy hòa tan thấp có thể làm ảnh
hưởng đến các quá trình tự phân giải của nước như quá trình nitrite, nitrate hóa…
Biến động pH của mô hình sinh thái (MHST) được trình bày trong bảng 3.10.
Giá trị pH tại các điểm nghiên cứu của mô hình sinh thái có sự khác biệt (P< 0,05).
Tại điểm đầu vào pH kiềm, cao trung bình khoảng 8,42 ± 0,31, sau đo giảm dần khi đi
qua hệ thống trồng Sậy (8,31 ± 0.3), hệ thống bề nổi (8,10 ± 0,36) và giảm xuống còn
7,96 ± 0,52 ở đầu ra. Như vậy pH của nước sau quá trình xử lý của hệ thống gần như
trung tính. pH trong nước thải đầu ra khá phù hợp cho các quá trình xử lý sinh học và
phù hợp với sự sống của hầu hết các loài sinh vật khi thải ra môi trường. Trong thời
gian nghiên cứu, ta thấy không có sự khác biệt về giá trị pH (7,44 - 8,73) theo thời
gian, kết quả này phù hợp với kết quả của Vymazal (2011), García và cs (2004) và
López và cs (2016) [ 119, 120, 121]. Trong MHST quá trình nitrat hóa bị ảnh hưởng
bởi pH. Các nghiên cứu khác nhau đã phát hiện ra rằng các dải pH thích hợp cho quá
trình chuyển NH4+ thành nitrit và nitrit chuyển thành nitrat xấp xỉ 7,5 - 8,6 và 7,5 - 8,3,
tương ứng [133, 163]. Do đó, giá trị pH của MHST thích hợp cho quá trình nitrat hóa,
giúp tăng khả năng xử lý N trong MHST.
Độ dẫn điện của nước thải liên quan đến sự có mặt của các ion trong nước,
thường là muối của kim loại như NaCl, KCl, SO2, SO4, NO3, PO4... Nước có độ dẫn
điện cao thường liên quan đến tính độc hại của các ion tan trong nước. Độ dẫn điện
(EC) tại các điểm nghiên cứu của mô hình sinh thái có sự khác biệt (P< 0,05). Tại
điểm đầu vào EC trung bình khoảng 3,47 ± 1,94 mS/cm), sau đo giảm dần khi đi qua
hệ thống trồng Sậy (2,79 ± 1,57 mS/cm), hệ thống bề nổi (2,11 ± 1,07 mS/cm) và giảm
xuống còn (1,77 ± 0,99 mS/cm) ở đầu ra. Như vậy sau khi qua hệ thống xử lý nước thải
bằng TVTS giá trị EC giảm và có sự khác biệt có ý nghĩa giữa nước thải đầu vào và
nước thải đầu ra.
Nhiệt độ có sự thay đổi trong nước thải đầu vào và đầu ra (p<0,05). Tại điểm
đầu vào nhiệt độ trung bình khoảng 23,41oC ± 3,93oC, sau đó giảm dần khi đi qua hệ
thống trồng Sậy (23,21oC ± 4,2 oC), hệ thống bè nổi (22,84oC ± 3,89oC) và giảm xuống
còn (22,93oC ± 3,78oC) ở đầu ra. Như vậy sau khi qua hệ thống xử lý nước thải bằng
TVTS nhiệt độ giảm giữa nước thải đầu vào và nước thải đầu ra. Tuy nhiên sự giảm
này không nhiều, chỉ 0,48oC.
Cùng với sự giảm EC, độ muối (S‰) cũng giảm trong quá trình xử lý. Nhìn
chung các thông số thủy lý cũng cho thấy chất lượng nước đã được cải thiện.
3.3.2.5. Bước đầu tính toán hiệu quả kinh tế
124
Công nghệ sinh thái sử dụng TVTS là công nghệ có chi phí thấp, công nghệ
đơn giản, dễ vận hành và có thể sử dụng các nguồn tài nguyên ở địa phương.
Chi phí xây dựng chủ yếu bao gồm: Đất, san nền, làm bờ và chống thấm, trồng
cây, vật liệu trồng cây, kiểm soát thủy lực (phân phối và thu nước) và các chi phí khác.
Chi phí đầu tư bao gồm chi phí thiết kế, xây dựng và mua nguyên vật liệu phục
vụ cho việc xây dựng mô hình.
Chi phí ban đầu cho mô hình sinh thái (qui mô 600 m2 để xử lý 30 m3 nước thải
chăn nuôi lợn mỗi ngày) là 201,5 tr đ (bảng 3.11). Với chi phí trên, suất đầu tư là 6,7
tr.đ/m3 nước thải. Cần nói thêm rằng, đầu tư sẽ giảm nếu không phải san nền (do địa
hình bằng phẳng), đắp bờ bằng đất thay cho xây gạch và sử dụng đất trồng cây tại
chỗ….
Bảng 3.11. Chi phí xây dựng mô hình sinh thái với TVTS
(600 m2, 30 m3 ngày đêm)
TT Hạng mục Chi phí
(triệu đồng)
1 Thiết kế 10
2 San nền 20
3 Xây bờ bao tường gạch 80
4 Xây dòng ngầm 20
5 Bạt chống thấm 40
6 Đất trồng cây 15
7 Đường ống công nghệ (van chia, ống, phân phối nước…) 10
8 Trồng cây trong mô hình 6,5
Tổng cộng 201,50
Chi phí vận hành, quản lý
Chi phí vận hành bao gồm chi phí kiểm soát chất lượng dòng chảy, bảo dưỡng
hệ thống, làm cỏ, thu cây,.... Với mô hình tổng thế xử lý nước thải, mô hình sinh thái
là công đoạn cuối đặt vị trí thấp nên không cần vận hành bơm nước vào hệ thống.
Dòng chảy giữa các ngăn trong hệ thống cũng tự chảy do có độ chênh lệch nhất định.
125
Vì thế chí phí điện năng bằng không. Hệ thống cũng không cần thiết bị nào khác trong
các khâu vận hành.
Vận hành cả mô hình tổng thể xử lý nước thải chỉ cần 1 nhân công, trong đó
chủ yếu để vận hành các công đoạn liên quan đến xử lý vi sinh yếm khí và hiếu khí-
thiếu khí. Riêng cho mô hình sinh thái bình quân mỗi ngày cần 1 giờ công lao động
cho việc kiểm tra, điều chỉnh dòng, chăn sóc và thu hoạch sinh khối. Tính ra, chi phí
vận hành cho xử lý 1 m3 nước thải là:
150.000 đ (ngày công): 8 giờ (ngày): 30 m3 = 625 đ/m3
Hiệu quả kinh tế
Đề tính toán hiệu quả kinh tế của mô hình cần so sánh với các công trình tương
đương về công nghệ áp dụng cũng như mục đích như để xử lý ô nhiễm N và P đến
mức chấp nhận về môi trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam, hầu hết các trang trại chăn
nuôi chưa quan tâm đến khâu xử lý chất dinh dưỡng N và P hoặc có quan tâm nhưng
cũng chỉ ở mức để giảm thiểu chất dinh dưỡng ra môi trường mà không đặt ra phải đạt
đến mức độ nào, tiêu chuẩn nào. Đây là khó khăn cho việc so sánh. Báo cáo năm 2006
của nhóm tác giả Ngô Kế Sương và cs về “Mô hình xử lý nước thải chăn nuôi heo tại
xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao” được coi là đầy đủ và đại diện cho các nghiên cứu xử lý
nước thải chăn nuôi [14]. Mô hình thử nghiệm có công suất xử lý 30 m3/ngày trong số
nước thải 935 m3/ngày của Xí nghiệp 12.000 đầu lợn các loại. Với thể tích ao thực vật
thủy sinh (Bèo tây) 720 m2, nếu tính cho cả xí nghiệp sẽ cần gần 2,5 ha và 1 đầu lợn
cần khoảng 2 m2, điều này sẽ khó khả thi nếu không tính tới phương án sử dụng mặt
nước hiệu quả hơn và sinh khối bèo dư.
Về chất dinh dưỡng N và P, tác giả công trình chỉ tính toán về lượng NH3, cụ
thể đầu vào chứa 447,8 mg N-NH4+/L, sau khi qua ao thủy sinh còn 2,3 mg/L tức là
giảm 99,5%. Tuy nhiên, số liệu về TN trong nước sau xử lý còn chưa rõ. Chúng ta biết
rằng, trong xử lý nước thải chăn nuôi lợn, N tồn tại và chuyển hóa dưới các dạng
NH4+, NO3
- và NO2- khi qua các công đoạn xử lý. Vì thế, việc giảm NH3 chưa phản rõ
hiệu quả xử lý TN của hệ thống.
Theo tính toán của chương trình hành động của các nước vùng Baltic (BSAP),
để giảm 1 tấn chất dinh dưỡng (N, P) vào môi trường cần chi phí 24 ngàn ER (24 ER/
kg) trong đó chi phí cho giải pháp công nghệ xử lý chiếm phần đáng kể. Tỷ lệ lợi
ích/chi phí (Benefits/Costs) là 1,4 [164].
Meers và cs (2008), ứng dụng hệ thống đất ngập nước nhân tạo trong xử lý
nước thải chăn nuôi lợn đã qua tiền xử lý cho thấy về chi phí: Giá đầu tư hệ thống là
0,9 - 1,6 EU/m3 nước thải. Chi phí vận hành hệ thống xử lý là 1 - 1,5 EU/ m3, nên tổng
126
giá lên 3 - 4 EU/m3 nước thải. Tổng chi phí cho xử lý cấp 3 này thấp hơn đáng kể so
với sử dụng công nghệ màng (trên 10 ER) cho cùng mục đích [165, 166].
Với mô hình sinh thái nêu trên, thời gian hoạt động không dưới 360 ngày/năm
và mô hình có thể hoạt động trong 10 năm. Giá đầu tư cho 1m3 nước thải xử lý là 2035
đ/m3. Nếu tính cả giá vận hành, tổng chi phí là 2660 đ/m3. Khi chỉ xử lý chất hữu cơ,
nồng độ đầu vào TN và TP có thể cao, nếu tính với TN 500 mg/L, TP 80 mg/L và hiệu
suất xử lý đạt 50% với TN và 40% với TP, Tổng lượng TN và TP loại bỏ là 24750 kg
và 3168 kg tương ứng. Chi phí xử lý 1 kg (N, P) hết 9.436 đ/kg.
Như vậy với chi phí trên, mô hình công nghệ sinh thái rẻ hơn rất nhiều xét về
đầu tư, phí hoạt động.
Ngoài vấn đề kinh tế, mô hình công nghệ sinh thái còn có các lợi ích khác:
- Về mặt xã hội, sẽ góp phần nâng cao sức khỏe của cộng đồng thông qua việc
làm sạch nguồn nước và tạo cảnh quan sạch đẹp.
- Về mặt kinh tế: Mô hình xử lý nước thải theo nguyên lý xử lý sinh học không
cần sử dụng đến năng lượng, sẽ rất tiết kiệm và đem lại hiệu quả kinh tế cao khi được
áp dụng qui mô lớn. Ngoài ra sinh khối các cây trồng trong mô hình có thể sử dụng
làm phân bón sau khi ủ với phân lợn. Nước sau xử lý có thể tuần hoàn để sử dụng như
rửa chuồng trại hay tưới cho cây trồng rất tốt.
- Về mặt bảo tồn đa dạng sinh học: Mô hình tạo cảnh quan sạch đẹp, góp phần tăng
tính đa dạng sinh học trong khu vực với các dạng cây trồng phong phú trong mô hình.
Như vậy việc áp dụng công nghệ sinh thái để xử lý bổ sung nước thải chăn
nuôi sau quá trình xử lý vi sinh là phù hợp với điều kiện kinh tế, trình độ ở hầu hết
các trang trại chăn nuôi hiện nay. Thực tế mô hình xử lý 600 m2 tại trang trại Hòa
Bình Xanh đã chứng minh hiệu quả xử lý của công nghệ khi loại bỏ được khoảng
66,2% TN; 45,3% TP và 59,3% COD trong nước thải đầu vào.
3.4. Đánh giá hiệu quả xử lý của mô hình sinh thái tích hợp trong mô hình tổng
thể xử lý nước thải chăn nuôi lợn tại Lương Sơn, Hòa Bình
Mô hình tổng thể xử lý chất thải chăn nuôi lợn trang trại được xây dựng tại
trang trại Hòa Bình Xanh (huyện Lương Sơn, tỉnh Hòa Bình).
Trang trại Hòa Bình Xanh là trang trại chăn nuôi lợn khép kín với 8 chuồng
nuôi nằm ven núi. Nguồn nước sử dụng là nước mặt, vào đầu năm 2012, trang trại có
1450 đầu lợn (1200 lợn thịt, 250 nái), nước thải khoảng 40 m3 ngày đêm. Trại có hầm
biogas phủ bạt 1000 m3 và ao sinh học (hình 3.36). Khi xây dựng mô hình, số đầu lợn
tăng đến khoảng 3000 lợn.
127
Hệ thống
yếm khí
Hình 3.36. Sơ đồ trang trại Hòa Bình Xanh và vị trí xây dựng mô hình xử lý chất thải
Về xử lý chất thải của trang trại: Nước thải thu gom, xử lý qua hầm biogas sau qua ao
sinh học rồi ra ngoài. Phân lợn nái được thu gom, mang bán (không qua ủ). Phân lợn
thịt theo nước rửa chuồng vào biogas. Mùi chuồng nuôi được xử lý bằng thông gió.
Mô hình tổng thể xử lý chất thải chăn nuôi lợn (nước thải, chất thải rắn và mùi)
xây dựng trên diện tích diện tích 1.300 m2 nằm ngoài khu chăn nuôi. Mô hình (hình
3.36) gồm:
a. Nhà điều hành
b. Xử lý nước thải công suất 30 m3/ngày đêm bao gồm:
+ Bể điều hòa
+ Hệ xử lý yếm khi cao tải với công nghệ ABR.
+ Hệ xử lý lọc sinh học hiếu khí- thiếu khí
+ Công nghệ sinh thái sử dụng TVTS.
- Nhà xử lý chất thải rắn (phân, bùn thải, sinh khối thực vật) bằng ủ chế
phẩm vi sinh ưa nhiệt do đề tài tạo ra.
128
- Xử lý mùi: Bố trí trong khu chuồng nuôi sử dụng dung dịch SOS
Mô hình xử lý nước thải: Với đặc thù nước thải chăn nuôi lợn trang trại có mức
độ ô nhiễm rất cao về chất hữu cơ và chất dinh dưỡng N và P. Nước thải được xử lý
qua 3 bước là xử lý yếm khí với kỹ thuật ABR để loại phần lớn chất hữu cơ (COD),
tiếp theo là xử lý bằng kỹ thuật lọc sinh học hiếu khí - thiếu khí nhằm loại bỏ tiếp
COD và phần lớn N và P và cuối cùng là xử lý bằng CNST sử dụng TVTS để xử lý bổ
sung COD, N và P đến mức chấp nhận về mặt môi trường. Các bước xử lý nhiệm vụ
riêng không thay thế nhưng hỗ trợ lẫn nhau. Dưới đây trình bày vai trò của MHST
trong mô hình tổng thể.
Về hiệu quả xử lý
Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của mô hình tổng thể xử lý nước thải trình bày
ở bảng 3.12.
Bảng 3.12. Hiệu quả xử lý COD, TN và TP của mô hình xử lý nước thải
STT Chỉ số Đầu vào Ra yếm
khí
Ra hiếu khí,
thiếu khí
Ra toàn hệ
thống
(MHST)
Hiệu suất
chung
(%)
1
COD (mg/L) 6339 1958 316 119 98,1
± 1309 1359 82 23 0,34
Hiệu suất của từng
công đoạn (%) 69,1 83,9 62,3
2
TN (mg/L) 1042 875 99,3 33 96,8
± 129,3 102,3 52,47 14,4 1,36
Hiệu suất của từng
công đoạn (%) 16,03 88,7 66,8
3
TP (mg/L) 149,2 67,4 31,4 16,6 88,9
± 27,8 27,0 5,71 5,6 3,03
Hiệu suất của từng
công đoạn (%) 54,8 53,4 47,0
Hiệu quả xử lý COD đạt rất cao, trung bình hiệu suất xử lý COD đạt 98,1%.
Công đoạn sinh thái đã có hiệu suất xử lý COD là 62,3% với nước thải đầu vào có
lượng COD là 316 mg/L và đầu ra còn 119 mg/L, đạt tiêu chuẩn thải loại B cho nước
thải chăn nuôi của QCVN 62-MT: 2016/BTNMT xét theo nồng độ COD.
129
Về xử lý TN, mặc dù TN trong nước thải đầu vào rất cao đến 1041,7 mg/L, hệ
thống chung đã loại bỏ trung bình 96,8% TN. Riêng MHST đã xử lý TN đạt hiệu suất
66,8%, nước thải ra khỏi hệ thống còn 33 mg TN/l, thấp hơn tiêu chuẩn thải loại A (50
mgTN/l) cho nước thải chăn nuôi của QCVN 62-MT: 2016/BTNMT xét theo nồng độ
TN.
TP trung bình đầu vào hệ thống chung là 149,2 mg TP/l, hệ thống chung đã loại
bỏ đến 88,9% TP. Riêng công đoạn sinh thái, với đầu vào là 31,40 mg TP/l và đầu ra
là 16,6 mg TP/l, MHST đạt hiệu suất loại bỏ TP là 47%.
Cần thấy rằng, khi tải lượng COD, TN và TP đã thấp nhưng chưa đạt tiêu chuẩn
thải, nếu sử dụng công nghệ hóa lý hay công nghệ vi sinh sẽ đòi hỏi đầu tư cao, vận
hành phức tạp. Công nghệ sinh thái sử dụng TVTS ở đây đã chứng minh tính khả thi
cả về kinh tế và kỹ thuật.
Một số đóng góp mang ý nghĩa khoa học công nghệ nữa là chi phí cho mô hình
sinh thái thấp, vận hành không phức tạp đối với trình độ của người chăn nuôi. Vì vậy
công nghệ mang tính lan tỏa và bền vững, đây là con đường đi khả thi trong phát triển
chăn nuôi bền vững gắn với bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống của người
dân.
130
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
KẾT LUẬN
1. Khả năng chống chịu COD, NH4+, NO3
- và pH của 8 loại TVTS tuyển chọn
cho thấy Bèo tây là cây chống chịu tốt nhất, tiếp đến là cỏ Vetiver, Ngổ trâu, Sậy và
Thủy trúc, nhóm kém nhất là Bèo cái, Rau muống và Cải xoong. Bèo tây chống chịu
COD đến 1000 mg/l; Ngổ trâu, Sậy, Vetiver chống chịu COD đến 750 mg/l; Bèo cái,
Thủy trúc, Rau muống chống chịu COD đến 500 mg/l; Cải xoong chống chịu COD <
500 mg/l; Bèo tây chống chịu NH4+ trên 250 mg/l, Sậy, cỏ Vetiver, Thủy trúc chống
chịu được NH4+ đến 250 mg/l; Bèo cái, Cải xoong chống chịu NH4
+ đến 150 mg/l; Rau
muống, Ngổ trâu chống chịu NH4+ đến 100 mg/l; Bèo tây chống chịu được NO3
- trên
300 mg/l, Ngổ trâu, Thủy trúc chống chịu được NO3- đến 300 mg/l, Sậy, Cải xoong, cỏ
Vetiver chống chịu NO3- đến 250 mg/l, Bèo cái, Rau muống chống chịu NO3
- đến 200
mg/l; Bèo tây, Rau muống, Thủy trúc chống chịu được pH từ 5 – 9, Sậy, cỏ Vetiver,
Ngổ trâu chống chịu pH 5 - 8, Sậy, Bèo cái, Cải xoong chống chịu pH < 8.
2. Khả năng loại bỏ COD, TN và TP của 8 loại TVTS trong thí nghiệm theo mẻ
và thí nghiệm bán liên tục không hoàn toàn như nhau. Nếu như Bèo tây luôn đứng đầu
ở cả thí nghiệm theo mẻ và thí nghiệm bán liên tục thì Bèo cái lại có sự thay đổi đáng
kể. Trong cả hai điều kiện, Cải xoong thường đứng ở vị trí sau cùng. Khả năng chống
chịu cũng là nguyên nhân của kết quả này khi Cải xoong và Bèo cái tỏ ra chống chịu
kém với COD, N và pH trong môi trường.
3. Trong 4 loại hình công nghệ thử nghiệm (với 2 lưu lượng 50 l/m2.ngày và
100 l/m2.ngày) thì 3 loại hình có ưu thế rõ nhất loại bỏ TN, TP và COD trong nước
thải chăn nuôi lợn là hệ thống phối hợp, hệ thống thực vật nổi - Bèo tây và hệ thống
dòng ngầm trồng cỏ Vetiver trong khi hệ thống dòng mặt sử dụng Rau muống tỏ ra
kém hiệu quả nhất khi xử lý nước thải ô nhiễm cao về TN và TP.
4. Ứng dụng và đưa vào vận hành mô hình công nghệ sinh thái (sau công đoạn
hiếu khí) quy mô 600 m2, công suất xử lý 30 m3/ngày.đêm (tương đương 1.000 đầu
lợn) tại Lương Sơn – Hòa Bình. Mô hình là hệ phối hợp bao gồm dòng chảy bề mặt sử
dụng cây Sậy, hệ thực vật nổi (Bèo tây và bè nổi trồng cỏ Vetiver và Thủy trúc) và
dòng chảy ngầm trồng Vetiver. Mô hình sinh thái đã xử lý hiệu quả N, P và COD. Ở
giai đoạn vận hành ổn định với lưu lượng 30 m3/ngày, hiệu suất xử lý các chất ô nhiễm
TN, TP và COD lần lượt là 66,2%; 45,3% và 59,3%. Tải lượng TN, TP và COD đưa
vào hệ thống là 5,5 gN/m2.ngày, 1,9 gP/m2.ngày và 14,3 gCOD/m2.ngày và lượng
được loại bỏ tương ứng là 3,6 gN/m2.ngày, 0,86 gP/m2.ngày và 8,46 gCOD/ m2.ngày.
Nước sau xử lý đạt tiêu chuẩn thải loại A cho nước thải chăn nuôi theo QCVN 62-MT:
131
2016-BTNMT về TN và loại B về COD. Mô hình có chi phí thấp, không đòi hỏi thiết
bị đắt tiền, dễ vận hành và quản lý, hiệu quả xử lý cao và ổn định.
KIẾN NGHỊ
Tiếp tục nghiên cứu ứng dụng thực vật thuy sinh trong xử lý nước thải chế
biến thủy sản, nước thải giết mổ động vật giàu N, P.
132
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
1. Giải pháp hữu ích: Trần Văn Tựa, Nguyễn Trung Kiên, Vũ Thị Nguyệt, Quy trình
xử lý hợp chất Nitơ và phospho trong nước thải chăn nuôi lợn thu được từ quá trình
xử lý vi sinh yếm khí bằng cách sử dụng thực vật thủy sinh, số 1451 do Cục sở hữu trí
tuệ cấp ngày 31/10/2016.
2. Trần Văn Tựa, Nguyễn Trung Kiên, Lê Thị Thu Thủy, Vũ Thị Nguyệt (2013), Xử lý
nitơ và phôtpho từ nước thải chăn nuôi lợn bằng công nghệ dòng chảy trên mặt sử
dụng cây sậy, Báo cáo khoa học, Hội nghị Công nghệ sinh học toàn quốc 2013, Quyển
2, tr: 1122-1127.
3. Vũ Thị Nguyệt, Nguyễn Trung Kiên, Trần Văn Tựa, Lê Thị Thu Thủy, Nguyễn
Triều Dương (2014), The use of subsurface constructed wetland grown Vetiver grass
for removal of Nitrogen and phosphorus from swine wastewater, Tạp chí Khoa học và
Công nghệ, số 52, 3A, tr: 74-80.
4. Vũ Thị Nguyệt, Trần Văn Tựa, Nguyễn Trung Kiên, Đặng Đình Kim (2014),
Nghiên cứu sử dụng Bèo tây Eichhornia crassipes (Mart.) Solms để xử lý nitơ và
phôtpho trong nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ Biogas, Tạp chí sinh học, số 37
(1), tr: 53-59.
5. Vũ Thị Nguyệt, Trần Văn Tựa, Đặng Đình Kim, Nguyễn Trung Kiên, Bùi Thị Kim
Anh (2015), Nghiên cứu phối hợp sử dụng Bèo tây và sậy để xử lý COD, nitơ và
phốtpho trong nước thải chăn nuôi lợn sau công nghệ biogas, Báo cáo khoa học về
Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Hội nghị khoa học toàn quốc lần thứ 6, tr: 1540-
1545.
6. Vu Thi Nguyet, Tran Van Tua, Dang Dinh Kim, Bui Thi Kim Anh, Vu Hai Yen
(2016), Application of ecological technology for removal of COD, Nitrogen and
Phosphorus from piggery wastewater after biogas production technology, Journal of
Vietnamese environment, số 8(5), tr: 252-256.
133
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tổng cục môi trường, Môi trường nông thôn. Báo cáo môi trường quốc gia 2014,
2014, tr. 34, 1-162.
2. Cục chăn nuôi, Hiện trạng chăn nuôi lợn tại Việt Nam và kế hoạch phát triển đến
năm 2020.
3. Thống kê chăn nuôi Việt Nam, 2014, http://channuoivietnam.com/thong-ke-chan-
nuoi/.
4. Trang xúc tiến thương mại, Bộ Nông nghiệp và PTNT. Bản tin lãnh đạo, Số
10/2014. Thực trạng chăn nuôi. http://xttm.mard.gov.vn/Site/vi-
vn/76/tapchi/69/462/Default.aspx.
5. Thống kê chăn nuôi Việt Nam, 2016, http://channuoivietnam.com/thong-ke-chan-
nuoi/
6. Trần Văn Tựa, Nghiên cứu và ứng dụng công nghệ tiên tiến phù hợp với điều kiện
Việt Nam để xử lý ô nhiễm môi trường kết hợp với tận dụng chất thải của các trang
trại chăn nuôi lợn. Báo cáo tổng hợp kết quả khoa học công nghệ đề tài, chương
trình KHCN cấp Nhà nước KC08.04, 2014, 1 – 417.
7. Viện Công nghệ môi trường và Dự án WEP-JICA Nhật Bản biên soạn, Sổ tay CNXL
nước thải công nghiệp (dự thảo), 2009.
8. Trương Thanh Cảnh, Nghiên cứu tình hình ô nhiễm môi trường của ngành chăn nuôi
TP Hồ Chí Minh và xây dựng các giải pháp tích cực nhằm hạn chế ô nhiễm môi
trường. Báo cáo khoa học, Sở khoa học và công nghệ TP Hồ Chí Minh, 2006.
9. Nguyễn Minh Trí, Nguyễn Bá Lộc, Lê Thị Lệ Thúy, Tìm hiểu khả năng xử lý nước
thải chăn nuôi lợn bằng cỏ Vetiver, Tuyển tập Báo cáo Hội nghị khoa học toàn quốc
- Những vấn đề nghiên cứu cơ bản trong Khoa học Sự sống, 2007, Tr: 607-610.
10. Phùng Đức Tiến, Nguyễn Duy Điều, Hoàng Văn Lộc, Bạch Thị Thanh Dân, Đánh
giá thực trạng ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi, Tạp chí Chăn nuôi, 2009, số 4:
10-16.
11. Trịnh Quang Tuyên, Nguyễn Quế Côi, Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Tiến Thông, Đàm
Tuấn Tú, Thực trạng ô nhiễm môi trường và xử lý nước thải trong chăn nuôi lợn
trang trại tập trung. Khoa học và Công nghệ chăn nuôi, 2010, số 23, 193-203.
12. Vũ Thị Khánh Vân, Lê Đình Phùng, Vũ Dương Quỳnh, Nguyễn Kim Chiến và
Nguyễn Hữu Cường, Hiện trạng quản lý chất thải và ô nhiễm môi trường chăn nuôi
lợn trang trại ở Việt Nam, Báo Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2013, kỳ
1/tháng 7, 67-73.
13. Viện Kỹ thuật nước và Công nghệ môi trường, Báo cáo khảo sát thuộc dự án JICA
ngành chăn nuôi, 2009.
134
14. Ngô Kế Sương, Nguyễn Hữu Phúc, Phạm Ngọc Liên, Võ Thị Kiều Thanh, Mô hình
xử lý nước thải chăn nuôi heo tại xí nghiệp chăn nuôi Gò Sao, Ấn phầm điện tử,
nông thôn đổi mới, 2006, số 14 (3).(vista.gov.vn).
15. Đặng Đình Kim, Đặng Hoàng Phước Hiền, Nguyễn Sỹ Nguyên, Đặng Thị Thơm,
Dương Thị Thuỷ, Dương Đức Tiến, Nghiên cứu tảo độc nước ngọt ở Việt Nam, Báo
cáo Hội nghị toàn quốc về nuôi trồng thuỷ sản, Hải Phòng, tháng 1, 2005.
16. Lưu Anh Đoàn, Báo kinh tế nông thôn, 2011.
17. Odum H.T, Experiments with Engineering of Marine Ecosystems. in: Publication of the
Institute of Marine Science of the University of Texas, 1963, 9, 374-403.
18. Mitsch W. J and Jorgensen. S.E, Introduction to Ecological Engineering, In: W.J.
Mitsch and S. E, Jorgensen (Editors), Ecological Engineering: An Introduction to
Ecotechnology, John Wiley & Sons, New York, 1989, 3-12.
19. Barrett K. R, Ecological engineering in water resources: The benefits of
collaborating with nature, Water International, Journal of the International Water
Resources Association, 1999, 24:182-188.
20. Brix H, Functions of macrophytes in constructed wetlands, Wat. Sci. Tech, 1994,
29: 71-78.
21. Tripahi. B. D, Suresh. C, Shukla, Biological Treatment of wastewater by selected
aquatic plant, Environmental Pollution, 1991, Volume 69, 69 - 78.
22. Lu Q, Evaluation of aquatic plants for phytoremediation of eutrophic stormwaters.
Ph.D Thesis, University of Florida, Florida, 2009.
23. Đặng Đình Kim, Lê Đức, Trần Văn Tựa, Bùi Thị Kim Anh, Đặng Thị An, Xử lý ô
nhiễm môi trường bằng thực vật (phytoremediation), Nhà xuất bản Nông nghiệp,
2011, 135 - 174.
24. Vymazal J, Removal of nutrients in various types of constructed wetlands, Science
of the Total Environment, 2007, 380, 48–65.
25. Greenway M, Sustainability of macrophytes for nutrient removal from surface flow
constructed wetlands receiving secondary treated sewage effluent in Queensland,
Australia, Water Science and Technology, 2003, Volume 48: 121 – 128.
26. United States Department of Agriculture, Part 637: Environmental Engineering,
Chapter 3: Constructed Wettlands, National Engineering Handbook, 2002.
27. Vymazal J, Constructed Wetlands for Wastewater Treatment- Review, Water, 2010,
2(3), 530-549.
28. Metcalf and Eddy, Wastewater Engineering Treatment, Disposal and Reuse,
McGraw-Hill, Singapore, 1991.
29. Trịnh Xuân Lai, Tính toán thiết kế các công trình xử lý nước thải. Nhà xuất bản Xây
dựng Hà Nội, 2000.
30. Griffin P, Ten years experience of treating all flows from sewerage systemsusing
package plant and constructed wetland combination, Wat. Sci. Technol, 2003, Vol.
48, No. 11 - 12, pp93 – 99.
135
31. Obarska H. P, Tuszynska A, “Polish experience with sewage sludge dewatering in
reed systems, Wat. Sci. Technol, 2003, Vol. 48, No. 5, 111 – 117.
32. Vymazal J, Horizontal subsurface flow and hybrid constructed wetlands systems for
wastewater treatment, Ecol. Eng, 2005, volume 25, p. 478-490.
33. Cooper P. F and Findlater B.C, Constructed wetlands in water pollution control,
International Conference on the Use of Constructed Wetlands in Water Pollutant
Control, Cambridge, UK, 1996, 605.
34. Dupoldt C, Edwards R, Garber L, A handbook of Constructed wetland, 1995, Vol 1,
U.S. Goverment Printing Office.
35. Kamarudzaman A. N, Aziz R. A, and Jalil M. F, Removal of Heavy Metals from
Landfill Leachate Using Horizontal and Vertical Subsurface Flow Constructed
Wetland Planted with Limnocharis flava, International Journal of Civil &
Environmental Engineering IJCEE-IJENS, 2011, Vol: 11 No 5, 85-91.
36. Kadlec R. H, Knight R. L, Vymazal J, Brix H, Cooper P and Haberl R, Constructed
wetlands for pollution control. IWA Publishing, London, 2000.
37. Tăng Thị Chính, Giáo trình công nghệ xử lý nước thải, Nhà xuất bản khoa học tự
nhiên và công nghệ, 2015, tr 167: 1- 235.
38. Davis L, A handbook of constructed wetlands, Volumn 1: General considerations,
USDA-NRCS, EPA Region III, 1995.
39. Lê Tuấn Anh, Lê Hoàng Việt, Guido wyseure, Đất ngập nước kiến tạo, Nhà xuất
bản Nông nghiệp, 2009, tr. 1-98.
40. Delgado M, Guardiola E, Bigeriego M (1995), Organic and inorganic nutrients
removal from pig slurry by water hyacinth, 1995, http://cat.inist.fr.
41. Stone K.C, Hunt P.G, Szögi A.A, Humenik F.J. and Rice J.M, Constructed wetland
design and performance for swine lagoon wastewater treatment, Trans. ASAE,
2002, 45 (3), 723-730.
42. Xindi L, Luo S, Wu Y and Wang Z, Studies on the Abilities of Vetiveria zizanioides
and Cyperus alternifolius for Pig Farm Wastewater Treatment, Proc. Third
International Vetiver Conference, Guangzhou, China, 2003.
43. Poacha, M. E, Hunt P.G, Reddy G.B, Stone K.C, Johnson M.H and Grubbs A,
Swine wastewater treatment by marsh–pond–marsh constructed wetlands under
varying nitrogen loads, Ecological Engineering, 2004, 23, 165-175.
44. Sohsalam P, Englande A. J, Sirianuntapiboon S, Seafood wastewater treatment in
constructed wetland: Tropical case, Bioresource Technology, 2008, 99, 1218-1224.
45. Harrington R, McInnes R, Integrated Constructed Wetlands (ICW) for livestock
wastewater management, Bioresource Technology 99, 2009, volume 100 (22),
5498-5505.
46. Lee S, Marla C, Maniquiz-Redillas, Choi J, Kim L. H, Nitrogen mass balance in a
constructed wetland treating piggery wastewater effluent, Journal of Environmental
Sciences, 2014.
136
47. Islam-ul-Haque C and Saleem A, Community based sewage treatment through
hybrid constructed wetlands ystem for improved heath & hygiene and for enhanced
agriculture productivity / livelihood generation in rural water scarce
environmentsPakistan, American Journal of Environmental Protection, 2015, 45-54.
48. Zhang X, Inoue T, Kato K, Izumoto H, Harada J, Wu D, show all, Multi-stage
hybrid subsurface flow constructed wetlands for treating piggery and dairy
wastewater in cold climate, Environmental Technology, 2017, 38.
49. Kickuth R, Degradation and incorporation of nutrients from rural wastewaters by
plant rhizosphere under limnic conditions, the International Conference on
Utilization of Manure by Land Spreading, London, U.K, 1977, 335-343.
50. Seidel K, Macrophytes and water purification, In: Biological Control of Water
Pollution, University of Pennsylvania Press, 1967.
51. Cooper P. F and Findlater B. C, Constructed wetlands in water pollution control,
International Conference on the Use of Constructed Wetlands in Water Pollutant
Control, Cambridge, UK, 1990, 605.
52. Reed S. C, Crites R. W, Middlelebrooks E. J, Natural systems for waste
management and treatment. McGraw-Hill: New York, 1995.
53. Solano M. L, Soriano P and Ciria M. P, Constructed wetlands as a sustainable
solution for wastewater treatment in small villages, Biosystem Engineering, 2003,
volumr 87(1), 109-118.
54. Schnoor J. L, Environmental modeling: Fate and transport of pollutants in water,
air, and soil, John Wiley & Sons, New York, 1996.
55. Wynn T. M and Liehr S. K, Development of a constructed subsurface-flow wetland
simulation model in Ecological Engineering, 2000, 519-536.
56. Lin A. Y. C, Debroux J. F, Cunningham J. A and Reinhard M, Comparison of
rhodamine WT and bromide in the determination of hydraulic characteristics of
constructed wetlands, Ecololgical Engineering, 2003, 20(1), tr. 75-88.
57. Seabloom R.W.et al, Constructed Wetlands. University of Washington, 2003, 1-31.
58. Hunt P.G, Szögi A. A, Humenik F. J, Rice J. M, Matheny T.A, Stone K.C,
Constructed wetlands for treatment of swine wastewater from an anaerobic lagoon,
American Society of Agricultural Engineers, 2002, 45(3), 639-647.
59. Poach M.E, Hunt P.G, Vanotti M.B, Stone K.C, Matheny T.A, Johnson M.H, Sadler
E.J, Improved nitrogen treatment by constructed wetlands receiving partially
nitrified liquid swine manure, Ecological Engineering, 2003, 20, 183-197.
60. Hunt P. G, Szögi A. A, Humenik F. J, Rice J. M, Treatment of animal wastewater in
constructed wetlands, In: 8th International Conference on Network of Recycling of
Agricultural, Municipal and Industrial Residues in Agriculture, Rennes, 1998,
Proceedings, Rennes: FAO ESCORENA, 1999, 305-313.
61. Trần Hiếu Nhuệ, Trần Đức Hạ, Xử lý nước thải Hà Nội theo mô hình lắng và hồ sinh
học, 1985.
137
62. Lâm Minh Triết, Nghiên cứu áp dụng hệ thống hồ sinh vật ba bậc với thực vật nước
để xử lý bổ sung nước thải nhiễm dầu trong điều kiện Việt Nam, Tuyển tập báo cáo
khoa học: Nước thải và môi trường: Trung tâm nước và môi trường, Đại học Bách
khoa TP HCM, 1990, 160-168.
63. Nguyễn Việt Anh, Phạm Thuý Nga, Lê Hiền Thảo, Karin Tonderski, Andrzej
Tonderski và CTV, Xử lý nước thải bằng bãi lọc ngầm trồng cây dòng chảy thẳng
đứng áp dụng trong điều kiện Việt Nam, Tuyển tập báo cáo báo cáo khoa học, Hội
nghị môi trường toàn quốc 2005, 2005, 877-881.
64. Dương Đức Tiến, Đào Đức Cương, Nguyễn Minh Giản, Vũ Thanh Lâm, Trần Hải
Linh, Xây dựng mô hình hệ thống đất ngập nước nhân tạo để xử lý nước thải sinh
hoạt tại các xã Minh Nông, Bến Gót, Thành phố Việt Trì, Hội thảo khoa học về Bãi
lọc trồng cây xử lý nước thải, Đại học Xây dựng 11/2006, 2006, 39-43.
65. Trần Văn Tựa, Nguyễn Đức Thọ, Đỗ Tuấn Anh, Nguyễn Trung Kiên và Đặng Đình
Kim, Sử dụng cây Sậy và Cỏ vetiver trong xử lý nước thải chứa crôm và Niken theo
phương pháp vùng rễ, Tạp chí khoa học và công nghệ, 2008, 46 (3), 5-23.
66. Trần Văn Tựa, Nguyễn Trung Kiên, Đỗ Tuấn Anh, Vũ Thị Nguyệt, Hoàng Trung
Kiên, Lê Thị Thu Thuỷ và Đặng Đình Kim, Công nghệ sinh thái sử dụng thực vật
thủy sinh trong xử lý nước phú dưỡng, Hội nghị Khoa học kỷ niệm 35 năm Viện
Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 2010.
67. Trần Văn Tựa, Phạm Văn Đức, Đỗ Tuấn Anh, Lê Thị Thu Thuỷ, Đặng Đình Kim,
Sử dụng hệ thống thực vật nổi trong xử lý nước thải hữu cơ giầu nitơ và photpho từ
ngành chế biến thuỷ sản, Tạp chí xây dựng T7/2011, 2011, 51-54.
68. Phạm Huy Khánh và cs, Nghiên cứu xử lý nước thải sinh hoạt bằng mô hình thủy
sinh nuôi bèo lục bình, Tạp chí KTKT Mỏ - Địa chất, 2012, 16-22.
69. Lê Tuấn Anh, Nghiên cứu phát triển công nghệ bãi lọc trồng cây ứng dụng vào xử lý
nước thải từ chế biến thủy sản xuất khẩu, Báo cáo tổng kết đề tài, 2013, 1- 105.
70. Nguyễn Thành Lộc, Võ Thị Cẩm Thu, Nguyễn Trúc Linh, Đặng Cường Thịnh,
Phùng Thị Hằng và Nguyễn Võ Châu Ngân, Đánh giá hiệu quả xử lý nước thải sinh
hoạt của một số thực vật thủy sinh, Tạp chí khoa học trường đại học Cần Thơ, 2015,
119-128.
71. Nguyễn Hồng Sơn, Giải pháp khoa học và công nghệ trong việc xử lý nước thải
nuôi tôm vùng ven biển bắc bộ và nuôi cá tra đồng bắng sông cửu long, Báo cáo sản
phẩm 2 của đề tài, 2016, 1-33.
72. Đặng Xuyến Như, Phạm Hương Sơn, Nguyễn Phú Cường, Dương Hồng Dinh, Xử lý
nước thải chăn nuôi lợn bằng tháp UASB và máng thực vật thủy sinh, Tạp chí Sinh
học, 2005, 27-32
73. Trương Thị Nga, Hồ Liên Huê, Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi bằng sậy
(Phragmites spp), Tạp chí Khoa học trường đại học Cần Thơ, 2009, 32.
74. Trương Thị Nga và Võ Thị Kim Hằng, Hiệu quả xử lý nước thải chăn nuôi bằng cây
rau Ngổ (Enydra fluctuans. Lour) và cây lục bình (Eichhoria crassipes), Tạp chí
138
Khoa học Đất số 34/2010, 2010, http://www.thiennhien.net/2010/11/10/xu-ly-nuoc-
thai-bang-rau-ngo-va-luc-binh/.
75. Trịnh Quang Tuyên, Nguyễn Quế Côi, Đàm Tuấn Tú, Nguyễn Tiến Thông, Lê văn
Sáng và Nguyễn Duy Phương, Một số giải pháp xử lý phân và nước thải nhằm giảm
ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi lợn trang trại tập trung, KH&CN chăn nuôi,
2011, 28, 55-70.
76. Dư Ngọc Thành, Nghiên cứu Công nghệ bãi lọc ngầm trồng cây để xử lý nước thải
chăn nuôi trong điều kiện tỉnh Thái Nguyên, Việt Nam, Báo cáo tổng kết đề tài cấp
đại học, 2013, 1-167.
77. Trần Thị Kim Thủy, Nguyễn Lý Hải, Đánh giá chất lượng nước thải từ trang trại bò
qua các hình thực xử lý bằng Lục bình (Eichhornia crassipes) và ruộng cỏ Môn
(Hymenachyne acutigluma) tại thành phố Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp, Tạp chí Nông
nghiệp & Phát triển nông thôn số 3+4/2016, 2016, 162 -168
78. Vincen Porphyre, Cirad, Nguyễn Thế Côi, NIHA, Thâm canh chăn nuôi lợn, quản lý
chất thải và bảo vệ môi trường, Nhà xuất bản Prise, 2006.
79. Sim C.H, The use of constructed wetlands for wastewater treatment, Water
International - Malaysia Office, 2003, 24.
80. Liao X, Studies on plant ecology and system mechanisms of constructed wetland for
pig farm in South China, Ph.D Thesis, South China Agricultural University,
Guangzhou, Guangdong, China, 2000.
81. Xu J, Zhang J, Xie H, Li C, Bao N, Zhang C, Shi Q, Physiological responses of
Phragmites australis to wastewater with different chemical oxygen demands,
Ecological Engineering, 2010, 36, 1341–1347.
82. Silvana D. P, Wastewater treatment with Pistia Stratiotes L, master’s thesis,
OSAKA University, 1994.
83. Körner, S. Sanjeev K, Das, Veenstra S, Jan E. V, The effect of pH variation at the
ammonium/ammonia equilibrium in wastewater and its toxicity toLemna gibba,
Aquatic Botany, 2001, 71, 71-78.
84. Gupta P, Roy S, Amit B. M, Treatment of Water Using Water Hyacinth, Water Lettuce
and Vetiver Grass - A Review, Resources and Environment, 2012, 2(5), 202-215.
85. Ayyasamy, Rajakumar P.M, Sathishkumar S, Swaminathan M, Shanthi K,
Lakshmanaperumalsamy K, Lee S. P, Nitrate removal from synthetic medium and
groundwater with aquatic macrophytes, Desalination, 2009, 242, 286-296.
86. Liua, X., Huanga S, Tanga T, Liub X, Scholzc M, Growth characteristics and
nutrient removal capability of plants in subsurface vertical flow constructed
wetlands, Ecological Engineering, 2012, 44, 189–198.
87. El-Gendy N, Biswas A.S, Bewtra J.K, Growth of water hyacinth in municipal
landfill leachate with differentp, Environ, Technol, 2004, 25, 833-840.
139
88. Trần Văn Tựa, Nghiên cứu đánh giá hiện trạng ô nhiễm môi trường nước và tảo độc
tại hồ Núi Cốc (Thái Nguyên); đề xuất các giải pháp quản lý tổ hợp hồ Núi Cốc.
Báo cáo tổng hợp kết quả đề tài độc lập cấp nhà nước, 2010, 1 – 345.
89. Trần Văn Tựa, Nghiên cứu sử dụng các loại thực vật thủy sinh điển hình cho xử lý
nước thải công nghiệp chứa kim loại nặng và nước thải công nghiệp chế biến thực
phẩm. Báo cáo tổng kết đề tài cấp Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam,
2007, 1-134.
90. Hồ Bích Liên, Đánh giá khả năng xử lý nước rỉ rác của cỏ Vetiver trong điều kiện
bổ sung chế phẩm sinh học EM, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 2014, 5 (18), 76-81.
91. Sooknah R. D, Ann C. W, Nutrient removal by floating aquatic macrophytes
cultured in anaerobically digested flushed dairy manure wastewater, Ecological
Engineering, 2004, 22, 27-42.
92. Võ Trần Hoàng, Trương Phạm Khánh Duy, Trần Phạm Khánh Minh, Lê Hoàng
Trung, Nguyễn Minh Trung, Phạm Thị Mỹ Trâm, Khảo sát hiệu quả xử lý nước
thải sinh hoạt của Lục bình và Ngổ trâu, Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, 2014, 1
(14), 25-30.
93. Châu Minh Khôi, Nguyễn Văn Chí Dũng và Châu Thị Nhiên, Đánh giá khả năng xử
lý N, P hữu cơ hòa tan trong nước thải ao nuôi cả tra của Bèo tây và cỏ Vetiver,
Trường Đại học Cần Thơ, Tạp chí Khoa học, 2012, 21b, 151-160.
94. Xia H.P, Shu W.S, Resistance to and uptake of heavy metals by Vetiveria
zizanioides and Paspalum notatum from lead/zinc mine tailings, Acta Ecol. Sin.,
2001, 21, 1121-1129.
95. Supradata, Domectic Waste Water Treatment by using Cyperus
alternifolius, L. with Sub Surface Flow Wetland System (SSF-Wetlands),
Master Progam of Environmental Science, Diponegoro University,
Semarang, 2005.
96. Kalipci E, Investigation of decontamination effect of Phragmites australis for Konya
domestic wastewater treatment, Journal of Medicinal Plants Research, 2011, 5(29),
pp 6571 – 6577.
97. Kadlec R.H, Wallace S.D, Treatment Wetlands, 2nd Edn. Taylor and Francis
Group, Boca Raton, USA, 2009, ISBN 978-1-56670-526-4.
98. Leto C, Tuttolomondo T, La Bella S, Leone R, Licata M, Effects of plant species in
a horizontal subsurface flow constructed wetland –phytoremediation of treated
urban wastewater with Cyperus alternifolius L. and Typha latifolia L. in the West of
Sicily (Italy), Ecol. Eng, 2013, 61, 282–291.
99. Rodríguez M, Brisson J, Pollutant removal efficiency of native versus exotic
common reed (Phragmites australis) in North American treatment wetlands, Ecol.
Eng, 2015, 74, 364-370.
100. Vymazal J, Plants used in constructed wetlands with horizontal subsurface flow: a
review, Hydrobiologia, 2011, 674, 133–156.
140
101. Vymazal J, Long-term performance of constructed wetlands with horizontal sub-
surface flow: Ten case studies from the Czech Republic, Ecol, Eng, 2011, 37, 54-63.
102. Kumari M, Tripathi B. D, Effect of aeration and mixed culture of Eichhornia
crassipes and Salvinia natans on removal of wastewater pollutants, Ecol, Eng,
2014, 62, 48–53.
103. Olukanni D.O, Kokumo K.O, Efficiency assessment of a constructed wetland using
Eichhornia crassipes for wastewater treatment, Am. J. Eng. Res, 2013, 2, 450–454.
104. Rezania S, Din M. F. M, Ponraj M, Sairan F.M, Kamaruddin S.F. B, Nutrient uptake
and wastewater purification with water hyacinth and its effect on plant growth in
batch system, Environ, Treat, Tech, 2013, 1, 81–85.
105. Valipour A, Raman V, Ahn Y, Effectiveness of Domestic Wastewater Treatment
Using a Bio-Hedge Water Hyacinth Wetland System, Water, 2015, 7, 329-347.
106. Trần Văn Tựa, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Thị Ngát, Nguyễn Trung Kiên, Khả năng
loại bỏ một số yếu tố phú dưỡng môi trường nước của cây Bèo tây, Tạp chí
KH&CN, 2010, 48 (4A), 408-415.
107. Tua T. V, Duc P. V, Anh B. K, Thuy L. T, Anh D. T, Kim D. D, The Use of
constructed wetland system for treatment of fish processing wastewater Vietnamese,
condition: 10th Intern, Conference on Wetland Systems for Water Pollution Control.
Sept. 23-29, Lisbon-Portugal V1, 2006, 69-78.
108. Osem Y, Chen Y, Levinson D, Hadar Y, The effects of plant roots on microbial
community structure in aerated wastewater-treatment reactors, Ecol. Eng. 2007, 29,
133–142.
109. Dhote S, Dixit S, Water quality improvement through macrophytes - A review
Environ, Monit. Assess, 2009, 152, 149–153.
110. Chang J. J, Wu S. Q, Dai Y. R, Liang W, Wu Z. B, Treatment performance of
integrated vertical-flow constructed wetland plots for domestic wastewater, Ecol.
Eng, 2012, 44, 152–159
111. Zhang D, Gersberg R. M, Keat T. S, Constructed wetlands in China”. Ecol. Eng,
2009, 35, 1367–1378.
112. Chunkao K, Nimpee C, Duangmal K, The King’s initiatives using water hyacinth to
remove heavy metals and plant nutrients from wastewater through Bueng Makkasan
in Bangkok, Thailand, Ecol. Eng. 2012, 39, 40–52.
113. Wiessner A, Kuschk P, Kappelmeyer U, Bederski O, Müller R. A, Kästner M,
Influence of helophytes on redox reactions in their rhizosphere. In Phytoremediation
and Rhizoremediation, Mackova M, Dowling D. N, Macek T, Eds, Springer,
Dordrecht, The Netherlands, 2006, 9A, 69–82.
114. Brix H, Plants used in constructed wetlands and their functions. In Proceedings of
the 1st International Seminar on the Use of Aquatic Macrophytes for Wastewater
Treatment in Constructed Wetlands, Lisboa, Portugal, 2003, 81–109.
141
115. Kalubowila S, Jayaweera M, Nanayakkara C. M, Gunatilleke D. N. D. S. Floating
wetlands for management of algal washout from waste stabilization pond effluent:
Case study at hikkaduwa waste stabilization ponds, Eng. J. Inst. Eng. Sri Lanka,
2014, 46, 63–74.
116. Kim Y, Giokas D. L, Chung P. G, Lee, D R, Design of water hyacinth ponds for
removing algal particles from waste stabilization ponds, Water Sci. Technol. 2003,
48, 115–123.
117. Rai U, Upadhyay A, Singh N, Dwivedi S, Tripathi R, Seasonal applicability of
horizontal sub-surface flow constructed wetland for trace elements and nutrient
removal from urban wastes to conserve Ganga River water quality at Haridwar,
India, Ecol. Eng, 2015, 81, 115-122.
118. Rodriguez M, Brisson J, Does the combination of two plant species improve removal
efficiency in treatment wetland, Ecological Engineering, 2016 91: 302–309.
119. López D, Sepúlveda M, Vidal G, Phragmites australis and Schoenoplectus
californicus in constructed wetlands: Development and nutrient uptake, Journal of
Soil Science and Plant Nutrition, 2016, 16 (3), 763-777
120. García J, Aguirre P, Mujeriego R, Huang Y, Ortiz L, Bayona J, Initial contaminant
removal performance factors in horizontal flow reed beds used for treating urban
wastewater, Water Res, 2004, 38, 1669-1678.
121. Vymazal J, Kröpfelová L, A three-stage experimental constructed wetland for
treatment of domestic sewage: first 2 years of operation, Ecol. Eng, 2011, 37, 90-98.
122. Vymazal J, Plants in constructed, restored and created wetlands, Ecol. Eng, 2013,
61, 501–504.
123. Hallin S, Hellman M, Choudhury M. I, Ecke F, Relative importance of plant uptake
and plant associated denitrification for removal of nitrogen from mine drainage in
sub-arctic wetlands, Water Res. 2015, 85, 377-383.
124. Allen W. C, Hook P. B, Biederman J A, Stein O, Temperature and wetland plant
species effects on wastewater treatment and root-zone oxidation, J. Environ. Qual,
2002, 31 (3), 1011–1016.
125. Edwards K. R, Cizková H, Zemanová K, Santrucková H, Plant growth and
microbial processes in a constructed wetland planted with Phalaris arundinacea,
Ecol. Eng, 2006, 27, 153–165.
126. Zheng Y, Wang X, Dzakpasu M, Zhao Y, Ngo Huu Hao, Guo W, Ge Y, Xiong J,
Effects of interspecific competition on the growth of macrophytes and nutrient
removal in constructed wetlands: A comparative assessment of free water surface
and horizontal subsurface flow systems, Bioresource Technolog, 2016, 207, 134–
141.
127. Brix H, Dyhr-Jensen K, Lorenzen B, Root-zone acidity and nitrogen source affects
Typha latifolia L. growth and uptake kinetics of ammonium and nitrate, J. Exp. Bot,
2002, 53 (379), 2441–2450.
142
128. Coleman J, Hench K, Garbutt K, Sexstone A, Bissonnette G, Skousen J, Treatment
of domestic water by three plant species in constructed wetlands, Water Air Soil
Pollut, 2001, 128, 283–295.
129. Vymazal J, Kröpfelova J, Nitrogen and phosphorus standing stock in Phalaris
arundinacea and Phragmites australis in a constructed treatmentwetland: 3-year
study. Arch. Agron, Soil Sci, 2008, 54, 297–308.
130. Li F, Lu L, Zheng X, Ngo H. H, Liang S, Guo W, Zhang X, Enhanced nitrogen
removal in constructed wetlands: effects of dissolved oxygen and stepfeeding,
Bioresour, Technol, 2014, 169, 395–402.
131. Wang X, Tian Y, Zhao X, Peng S, Wu Q, Yan L, Effects of aeration position on
organics, nitrogen and phosphorus removal in combined oxidation pondconstructed
wetland systems, Bioresour. Technol, 2015, 198, 7–15.
132. http://greenhouses.com.vn/tin-tuc/rau-muong-xu-ly-nguon-nuoc-o-nhiem-nhu-nao/
133. Hu M. H, Ao Y. S, Yang X. E, Li T. Q, Treating eutrophic water for nutrient
reduction using an aquatic macrophyte (Ipomoea aquatica Forsskal) in a deep flow
technique system, Agricultural water management, 2008, 95, 607–615.
134. Wu M. Y. J, Yu Z. L, Sheng G. P, Yu H. Q, Nitrogen removal from eutrophic water
by floating-bed- grown water spinach (Ipomoea aquatica Forsk.) with ion
Implantation, Water Researh, 2007, 41, 3152– 3158.
135. Nguyen Thi Hong Nhan and T R Preston Nguyen Thiet, Enydra fluctuans and water
spinach (Ipomoea aquatica) as agents to reduce pollution in pig waste water,
MEKARN Regional Conference 2007: Matching Livestock Systems with Available
Resources, 2007, http://mekarn.org/workshops/prohan/thiet_ctu.htm.
136. Ngô Thụy Diễm Trang và Brix H, Hiệu suất xử lý nước thải sinh hoạt của hệ thống
đất ngập nước kiến tạo nền cát vận hành với mức tải nạp thủy lực cao, Tạp chí Khoa
học 2012:21b, 161-171, Đại học Cần thơ.
137. Shahi D. H, Eslami H, Hasan M, ComparingtheEfficiency of Cyperus alternifolius and
Phragmites australis in Municipal Wastewater Treatmentby Subsurface Constructed
Wetland, Pakistan Journalof Biological Sciences, 2013, 16(8), 379-384.
138. González F. T, Vallejos G. G, Silveira J. H, Franco C. Q, García J. and Puigagut J.
Treatment of swine wastewater with subsurface-flow constructed wetlands in
Yucatán, Mexico: Influence of plant species and contact time, Available on website
http://www.wrc.org.za, Water SA, 2009, 35, 335-342.
139. Truong P, Hart B, Vetiver System For Wastewater Treatment”. Pacific Rim Vetiver
Network Technical Bulletin, 2001, 200(2).
140. Ash R, Truong P, The Use of Vetiver Grass for Sewerage Treatment, Presented at
the Sewage Management QEPA Conference, Cairns, Australia, 2004.
141. Akbarzadeh A, Jamshidi S, Vakhshouri M, Nutrient uptake rate and removal
efficiency of Vetiveria zizanioides in contaminated waters, Pollution, 2015, 1(1), 1-8.
143
142. Akpah Y, Moe A. N, Emmanuel B, Purification of industrial Wastewater with
Vetiver ghasses (Vetiveria Zizanioides): The case of food and beverages wastewater
in Ghana, Asian Journal of basic and Applied sciences, 2015, 2(2), 1-14.
143. Boonsong K, Chansiri M, Domestic Wastewater Treatment using Vetiver Grass
Cultivated with Floating Platform Technique, AU J.T, 2008, 12(2), 73-80.
144. Wagner S, Truong P, Vieritz A, Smeal C, Response of vetiver grass to extreme
nitrogen and phosphorus supply, Proceedings of the Third International Conference
on Vetiver and Exhibition, Guangzhou, China October 2003, 2003.
145. Stensel D, 2013, Filtration. Retreived from https://catalyst.uw.edu/workspace/stensel
146. Luu H. M, Nguyen N. X. D, Le V. A, Bui T. L. M, Treatment of wastewater from
slaughterhouse by biodigester and Vetiveria zizanioides L. Livestock, Research for
Rural Development, 2014, 26 (4).
147. Dong, X, Gudigopuram B, Reddy, Ammonia-oxidizing bacterial community and
nitrification rates in constructed wetlands treating swine wastewater,
Ecological Engineering, 2012, 40, 189-197.
148. Trịnh Lê Hùng, Vũ Đình Phương, Lê Tuấn Anh, Hoàng Văn Hà, Nghiên cứu sự
chuyển hóa các chất dinh dưỡng trong bãi lọc trồng cây ngập nước, Tạp chí phân
tích Lý, Hóa, Sinh học, 2012, 1 (17), 25-28.
149. Fraser L, Spring M, Steer D, A test of four plant species to reduce total nitrogen and
total phosphorus from soil leachate in subsurface wetland microcosms, Bioresour,
Technol, 2004, 94, 185–192.
150. Picard C, Fraser L, Steer D, The interacting effects of temperature and plant
community type on nutrient removal in wetland microcosms”, Bioresour, Technol,
2005, 96, 1039–1047.
151. Zhang C. B, Wang J, Liu W.L, Zhu S. X, Liu D, Chang S. X, Chang J, Ge Y, Effects
of plant diversity on nutrient retention and enzyme activities in a full-scale
constructed wetland, Bioresour. Technol, 2010, 101, 1686-1692.
152. Zhu S. X, Ge Y, Cao H.Q, Liu D, Chang S. X, Zhang C.B, Chang S, Effects of plant
diversity on biomass production and substrate nitrogen in a subsurface vertical flow
constructed wetland, Ecol. Eng, 2010, 36, 1307–1313.
153. Liang M, Zhang C, Peng C. L, Lai Z. L, Chen L, Chen Z. H, Plant growth,
community structure, and nutrient removal in monoculture and mixed constructed
wetlands, Ecol. Eng, 2011, 37, 309-316.
154. Wang Q, Xie H. J, Ngo H. H, Guo W. S, Zhang J, Liu C, Liang S, Hu Z, Yang Z. C,
Zhao C. C, Microbial abundance and community in subsurface flow constructed
wetland microcosms: role of plant presence, Environ, Sci, Pollut, Res, 2015, 1.
155. Menon R, Jackson C. R, Holland M. M, (2013). “The Influence of Vegetation on
Microbial Enzyme Activity and Bacterial Community Structure in Freshwater
Constructed Wetland Sediments”. Wetlands, 2013, 33, 365, 2013.
144
156. Liu J. G, Zhang W, Qu P, Wang M. X, Cadmium tolerance and accumulation in
fifteen wetland plant species from cadmium-polluted water in constructed wetlands,
Front, Environ, Sci, Eng, 2014, 1.
157. Huang J. C, Passeport E, Terry N, Development of a constructed wetland water
treatment system for selenium removal: use of mesocosms to evaluate design
parameters, Environ, Sci, Technol, 2012, 46, 12021.
158. Teuchies J. D. E, Meire J. M. P, Blust R, Bervoets L, Can acid volatile sulfides
(AVS) influence metal concentrations in the macrophyte Myriophyllum aquaticum,
Environ, Sci, Technol, 2012, 46, 9129, 2012.
159. Zhang J, Wu H. M, Hu Z, Liang S, Fan J. L, Examination of oxygen release from
plants in constructed wetlands in different stages of wetland plant life cycle,
Environ, Sci, Pollut, Res, 2014, 21, 9709.
160. Hong M. G, Son C. Y, Kim J. G, Effects of interspecific competition on the growth
and competitiveness of five emergent macrophytes in a constructed lentic wetland,
Paddy Water Environ, 2014, 12, 193.
161. Korboulewsky N, Wang R, Baldy V, Purification processes involved in sludge
treatment by a vertical flow wetland system: focus on the role of the substrate and
plants on N and P removal, Bioresour. Technol, 2012, 105, 9-14.
162. Zhang X, Inoue T, Kato K, Harada J, Izumoto H, Wu D, Sakuragi H, Ietsugu
H, Sugawara Y, Performance of hybrid subsurface constructed wetland system for
piggery wastewater treatment, Water Sci Technol, 2016, 73(1), 13-20.
163. Im J. H, Woo H. J, Choi M. W, Hi K. B, Kim C.W, Simultaneous organic and
nitrogen removal from municipal landfill leachate using an anerobic-aerobicsystem,
Water Res, 2001, 35, 2403-2410.
164. Hytiäinen K, Blyh K, Hasler B, Ahlvik L, Ahtiainen H, Artell J and Ericsdotter S,
Environmental economic research as a tool in the protection of the Baltic Sea –
Costs and benefits of reducing eutrophication, Nordic Council of Ministers, 2014.
165. Feyaerts T, Huybrechts D, Dijkmans R, Best available techniques (BAT) for animal
manure processing (2nd ed. ) (p.363), Flemish Institut e for Technolo gy
Development, (Translated from Dutch), 2002.
166. McGinley C. M, McGinley M. A, McGinley D. L, Odour basics understanding and
using odour testing, The 22nd Annual Hawaii Water Environment Association
Conference, Honolulu, HI, 2000.
PHỤ LỤC 1
Một số hình ảnh thí nghiệm
1.Thí nghiệm chống chịu pH Rau muống
2. Thí nghiệm chống chịu COD Thủy trúc
3. Thí nghiệm theo mẻ Rau muống
ĐC
TN chống chịu COD 750
ĐC
TN chống chịu pH 7
4. Thí nghiệm bán liên tục Bèo tây
5. Thí nghiệm bán liên tục Bèo cái
6. Thí nghiệm bán liên tục Ngổ Trâu
7. Ảnh thực nghiệm ở quy mô pilot tại trại thực nghiệm Cổ Nhuế
8. Nước ra sau xử lý của mô hình hiện trường
công suất 30 m3/ngày đêm
9. Nước thải trước và sau xử lý của mô
hình hiện trường công suất 30 m3/ngày
đêm
10. San nền mô hình 11. Xây dựng hệ thống xử lý bằng CNST
12. Hệ thống tổng thể xử lý nước thải giầu N, P công suất 30 m3/ngày đêm
13. Ảnh mô hình sinh thái tại trang trại chăn nuôi lợn (Lương Sơn, Hòa Bình)