Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
BỘ GIÁO DỤC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ ĐÀO TẠO VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
Trần Thị Kim Anh
NGHIÊN CỨU VẬT LÝ LINH KIỆN VÀ THIẾT KẾ
TRANSISTOR HIỆU ỨNG TRƯỜNG XUYÊN HẦM CÓ CẤU
TRÚC PHA TẠP ĐỐI XỨNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ
Khánh Hòa – 2020
BỘ GIÁO DỤC VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC
VÀ ĐÀO TẠO VÀ CÔNG NGHỆ VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
-----------------------------
Trần Thị Kim Anh
NGHIÊN CỨU VẬT LÝ LINH KIỆN VÀ THIẾT KẾ
TRANSISTOR HIỆU ỨNG TRƯỜNG XUYÊN HẦM CÓ CẤU
TRÚC PHA TẠP ĐỐI XỨNG
Chuyên ngành: Vật Lý Kỹ Thuật
Mã số: 8520401
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : PGS.TS Nguyễn Đăng Chiến
Khánh Hòa – 2020
Lời cam đoan
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi dưới sự hướng dẫn
của PGS.TS Nguyễn Đăng Chiến.
Những kết quả nghiên cứu của người khác và các số liệu được trích dẫn
trong luận văn đều được chú thích đầy đủ.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Khánh Hòa, tháng 07 năm 2020
Học viên thực hiện
Trần Thị Kim Anh
Lời cảm ơn
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Đăng
Chiến. Thầy giáo không chỉ là người hướng dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn mà còn là người người cổ vũ, động viên tôi trong suốt thời gian làm luận
văn; giúp tôi vượt qua những lúc nản lòng vì những khó khăn trong công việc
và cuộc sống. Người đã truyền cho tôi sự lạc quan, lòng đam mê khoa học,
tinh thần học hỏi không ngừng.
Tôi xin cảm ơn tất cả các thầy giáo, cô giáo, cùng với tất cả các cô, chú,
anh, chị ở Viện Khoa Học Hàn Lâm Việt Nam – Học Viện Khoa Học và Công
Nghệ Hà Nội, Viện Nghiên Cứu và Ứng Dụng Công Nghệ Nha Trang, Trường
Đại Học Đà Lạt luôn giúp đỡ nhiệt tình và tạo mọi điều kiện tốt nhất để tôi
hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cảm ơn Sở Giáo dục – Đào tạo Khánh Hòa, Ban giám
hiệu và các thầy cô trong tổ Vật lý trường THPT Trần Cao Vân đã tạo điều
kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn các bạn học viên cùng nhóm nghiên cứu (Huỳnh Thị Hồng
Thắm và Nguyễn Văn Hào), cùng tất cả các anh, chị, em học viên cao học lớp
PHY18, khóa: 2018 – 2020 đã luôn đồng hành, giúp đỡ, động viên tôi trong
suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Và sau cùng, tôi xin dành những tình cảm đặc biệt và biết ơn của mình
đến những người thân trong gia đình. Bằng tình cảm thân thương với sự cảm
thông, sự quan tâm và chia sẻ, đã cho tôi nghị lực và tinh thần để hoàn thành
công việc nghiên cứu của mình. Đó là nguồn sức mạnh tinh thần giúp tôi
vươn lên trong cuộc sống.
Kính chúc tất cả quý thầy cô, gia đình, bạn bè sức khỏe và thành công!
Khánh Hòa, tháng 07 năm 2020
Học viên thực hiện
Trần Thị Kim Anh
Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
Chữ viết
tắt
Chữ viết đầy đủ bằng Tiếng
Anh
Chữ viết đầy đủ bằng Tiếng
Việt
BJT Bipolar Junction Transistor Transistor tiếp xúc lưỡng cực
BTBT Band-To-Band-Tunneling Xuyên hầm qua vùng cấm
DG-TFET Double – Gate TFET TFET lưỡng cổng
DIBL Drain Induced Barrier
Lowering
Hiệu ứng làm mỏng hàng rào
gây ra ở cực máng
EOT Equivalent Oxide Thickness Độ dày lớp oxit tương đương
HGD Hetero-Gate-Dielectric Điện môi cực cổng dị chất
IMOS Ionization Metal-Oxide-
Semiconductor
Trường kim loại-oxit-bán dẫn
ion hóa
Jave Current Density Mật độ dòng
MOS Complementary Metal-Oxide-
Semiconductor
Công nghệ kim loại oxit bán
dẫn
MOSFET Metal-Oxide-Semiconductor
Field Effect Transistor
Transistor trường kim loại-
oxit-bán dẫn
SOI Semiconductor-On-Insulator Chất bán dẫn trên một lớp
cách điện
SS Subthreshold Swing Độ dốc dưới ngưỡng
STFET Symmetric Tunnel Field-
Effect Transistor
Transistor trường xuyên hầm
đối xứng
STT Surface-Tunnel-Transistor Transistor xuyên hầm bề mặt
SUTFET Symmetric U-Shaped Gate
Tunnel Field-Effect Transistor
Transistor trường xuyên hầm
đối xứng cổng chữ U
TFET Tunnel Field-Effect Transistor Transistor hiệu ứng xuyên
hầm
TSi Silicon Thickness Độ dày lớp Silicon
Danh mục các hình vẽ
Hình 1.1. Phác họa cấu trúc của MOSFET (a) loại n và (b) loại p. ............... 08
Hình 1.2. Phác họa cấu trúc của TFET (a) loại n và (b) loại p. ..................... 11
Hình 1.3. Minh họa đặc tính dòng thế cho thấy độ dốc dưới ngưỡng của
TFET nhỏ hơn độ dốc dưới ngưỡng của MOSFET. ....................................... 13
Hình 1.4. Phác họa cấu trúc của TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng
(STFET)….. .................................................................................................... 16
Hình 2.1. Giản đồ năng lượng gần mức Fermi cho chất bán dẫn (a) có vùng
cấm trực tiếp và (b) có vùng cấm gián tiếp………………………………….20
Hình 2.2. Quá trình xuyên hầm của một electron qua hàng rào thế (a) hình
chữ nhật và (b) không phải hình chữ nhật. ..................................................... 22
Hình 3.1. Phác họa sơ đồ cấu trúc TFET (a) pha tạp không đối xứng và (b)
pha tạp đối xứng. ............................................................................................. 37
Hình 3.2. (a) Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của dòng mở (ION) và mật độ
dòng trung bình (Jave) vào độ dày của lớp Si và (b) ảnh hưởng của độ dày thân
đến hiệu ứng giam giữ lượng tử trong TFET thân mỏng. ............................... 39
Hình 3.3. Đặc tính dòng-thế của TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng và không
đối xứng sử dụng vật liệu Si (a) theo thang đo logaric và (b) theo thang đo
tuyến tính. ........................................................................................................ 40
Hình 3.4. Giản đồ năng lượng theo phương ngang ở trạng thái mở và trạng
thái tắt của TFET (a) pha tạp không đối xứng và (b) pha tạp đối xứng. ........ 42
Hình 3.5. Biểu diễn đặc tính dòng-thế của TFET dựa trên Ge có vùng cấm
thấp (Ge-TFET) có cấu trúc (a) pha tạp không đối xứng và (b) pha tạp đối
xứng… ............................................................................................................. 44
Hình 3.6. Giản đồ vùng năng lượng ở trạng thái tắt của TFET (a) pha tạp
không đối xứng và (b) pha tạp đối xứng. ........................................................ 46
Hình 3.7. (a) Biểu diễn các đường xuyên hầm trực tiếp và gián tiếp trong Ge-
TFET và (b) đặc tính dòng-thế của TFET pha tạp đối xứng dựa trên Ge với
khoảng cách cổng-máng khác nhau. ............................................................... 48
Hình 3.8. Giản đồ năng lượng của Ge-TFET đối xứng ở trạng thái tắt với
khoảng cách từ cực máng đến cực cổng khác nhau (a) Ldg=40 nm và (b)
Ldg=70 nm........................................................................................................ 50
Hình 3.9. (a) Biểu diễn đặc tính dòng-thế và (b) giản đồ năng lượng của
TFET pha tạp đối xứng với chiều rộng chuyển tiếp cực máng (Wd) khác nhau
.. ....................................................................................................................... 52
Hình 3.10. (a) Cấu hình điện trường và (b) giản đồ năng lượng trong TFET ở
trạng thái tắt khi chiều rộng chuyển tiếp cực máng khác nhau. ...................... 53
Hình 3.11. Hiển thị (a) đặc tính dòng-thế của TFET đối xứng và (b) độ dốc
dưới ngưỡng trung bình với khoảng cách theo phương ngang khác nhau từ 0
đến 40 nm ........................................................................................................ 55
Hình 3.12. Giản đồ năng lượng ở trạng thái dưới ngưỡng dọc theo đường
ngắn nhất từ nguồn đến máng và cách xa cổng nhất của TFET đối xứng với Lh
khác nhau. ........................................................................................................ 57
Hình 3.13. Đặc tính (a) dòng-thế và (b) giản đồ năng lượng của TFET đối
xứng với các chiều dài cổng khác nhau. ......................................................... 59
Hình 3.14. (a) Cấu trúc TFET chữ Y và (b) đặc tính dòng-thế trong TFET chữ
Y ...................................................................................................................... 61
Hình 3.15. Quy trình chế tạo TFET chữ Y ..................................................... 62
1
MỤC LỤC
MỤC LỤC ...................................................................................................... 01
MỞ ĐẦU ........................................................................................................ 03
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU...................................................... 05
1.1. GIỚI THIỆU VỀ LINH KIỆN ĐIỆN TỬ ................................................ 05
1.2. TRANSISTOR HIỆU ỨNG TRƯỜNG XUYÊN HẦM ......................... 10
1.3. TFET CÓ CẤU TRÚC PHA TẠP ĐỐI XỨNG ..................................... 16
CHƯƠNG 2. MÔ HÌNH VẬT LÝ VÀ PHẦN MỀN MÔ PHỎNG.......... 19
2.1 MÔ HÌNH XUYÊN HẦM QUA VÙNG CẤM CỦA KANE ................. 19
2.1.1 Cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm ................................................... 19
2.1.2 Mô hình Kane cho xuyên hầm qua vùng cấm ............................... 24
2.1.3 Thông lượng của electron ................................................................ 28
2.1.4 Tốc độ xuyên hầm ............................................................................ 29
2.2 PHẦN MỀN MÔ PHỎNG MEDICI ........................................................ 32
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN ............................................... 35
3.1. CẤU TRÚC LINH KIỆN VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG ......................... 36
3.2. NÂNG CAO ĐẶC TÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA TFET ĐỐI XỨNG ....... 43
3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ pha tạp máng ......................................... 43
3.2.2. Ảnh hưởng của khoảng cách từ cực máng đến lớp oxit cổng ..... 47
3.3. HIỆU ỨNG CHUYỂN TIẾP CỰC MÁNG HẸP .................................... 51
3.4. ẢNH HƯỞNG CỦA KHOẢNG CÁCH MÁNG-NGUỒN .................... 54
3.5. HIỆU ỨNG CỰC CỔNG NGẮN ............................................................ 57
3.6. CẤU TRÚC CHỮ Y ................................................................................ 60
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 64
CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ……….65
2
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 66
3
MỞ ĐẦU
Nhờ hoạt động dựa trên cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm chất bán dẫn,
đặc tính tắt-mở của transistor hiệu ứng trường xuyên hầm có độ dốc dưới
ngưỡng rất lớn mà có thể vượt qua giá trị giới hạn vật lý 60 mV/decade của
MOSFET truyền thống. Nhờ có độ dốc dưới ngưỡng nhỏ hơn 60 mV/decade
rất nhiều (ở nhiệt độ phòng), transistor hiệu ứng trường xuyên hầm có tiềm
năng lớn để được ứng dụng cho các vi mạch công suất thấp. Một trong các
hạn chế của TFET là nó có cấu trúc pha tạp bất đối xứng. Điều này có thể gây
ra một số vấn đề phức tạp hơn khi thiết kế và chế tạo so với MOSFET. Do đó,
việc đề xuất và nghiên cứu các TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng sao cho
vẫn duy trì hoặc thậm chí cải thiện thêm đặc tính hoạt động của chúng là rất
cần thiết.
Luận văn nhằm nghiên cứu vật lý linh kiện và khảo sát thiết kế các TFET
có cấu trúc pha tạp đối xứng. Cụ thể, đề tài đề xuất nghiên cứu chi tiết TFET
pha tạp đối xứng dựa trên xuyên hầm điểm, giải thích khả năng tăng dòng dẫn
và giảm dòng rò lưỡng cực của cấu trúc TFET được nghiên cứu. Nghiên cứu
cũng khảo sát các hiệu ứng mới chỉ có trong cấu trúc TFET pha tạp đối xứng
được đề xuất như hiệu ứng cực cổng ngắn, hiệu ứng chuyển tiếp cực máng
hẹp. Trên cơ sở đó, đề tài cũng đề xuất thiết kế tối ưu cho các tham số cấu
trúc linh kiện và mở rộng sang áp dụng cơ chế xuyên hầm đường cho TFET
pha tạp đối xứng.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các transistor hiệu ứng trường
xuyên hầm có cấu trúc pha tạp đối xứng. Vật liệu sử dụng gồm cả silicon và
germanium nhằm chứng minh tính khả thi của cấu trúc cho cả vật liệu vùng
cấm lớn (Si) và vật liệu vùng cấm nhỏ (Ge). Các nghiên cứu về vật lý, bao
gồm các cơ chế và hiệu ứng, và thiết kế linh kiện được thực hiện trong khuôn
khổ của TFET dựa trên xuyên hầm điểm đặc trưng. Các kết quả đó vẫn hoàn
toàn có thể áp dụng khi mở rộng ứng dụng xuyên hầm đường vào trong TFET
pha tạp đối xứng. Các nghiên cứu được dựa trên mô phỏng đặc tính điện cho
cấu trúc hai chiều của linh kiện TFET. Mô phỏng hai chiều được thực hiện
4
dựa trên phần mềm mô phỏng MEDICI đã được phát triển và thương mại hóa
bởi công ty Synopsys của Hoa Kỳ.
Đề tài giúp hiểu rõ cơ chế giúp nâng cao đặc tính điện của TFET nhờ cấu
trúc pha tạp đối xứng cũng như các hiệu ứng mới không có tương tự như
trong TFET bất đối xứng đặc trưng. Dựa trên các hiểu biết đó cho phép thiết
kế phù hợp các linh kiện có cấu trúc pha tạp đối xứng, gồm cả TFET dựa trên
xuyên hầm điểm và đường, nhằm cải thiện đặc tính tắt-mở của TFET một
cách tối ưu.
5
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
Trong một thời gian dài, MOSFET được xem là linh kiện quan trọng
trong các vi mạch điện tử vì kích thước nhỏ và tốc độ làm việc cao. Tuy
nhiên, kỹ thuật điện tử hiện đại ngày nay đòi hỏi cần có sự tích hợp và nâng
cao hiệu suất cho các vi mạch. Vậy nên, số lượng các transistor trong vi mạch
tăng lên rất nhiều và do đó kích thước của transistor phải được thu nhỏ.
MOSFET hoạt động dựa trên cơ chế phát xạ nhiệt truyền thống nên gặp phải
giới hạn về độ dốc dưới ngưỡng và chịu ảnh hưởng của hiệu ứng kênh ngắn.
Mặc dù đã được áp dụng nhiều kỹ thuật tiên tiến nhưng những khó khăn mà
MOSFET đang phải đối mặt vẫn không thể thay đổi. Với cơ chế xuyên hầm
qua vùng cấm, TFET đã khắc phục những hạn chế vật lý của MOSFET. Vì
vậy, TFET là linh kiện điện tử được xem là lựa chọn hoàn hảo thay thế cho
MOSFET. Tuy nhiên, cơ chế xuyên hầm cũng là lý do khiến dòng mở trong
TFET nhỏ hơn rất nhiều so với MOSFET truyền thống. Việc nâng cao dòng
mở cho TFET có thể được thực hiện bằng cách thay đổi cấu trúc cổng và thân
linh kiện. Vì vậy trong chương này, luận văn sẽ tìm hiểu về sự ra đời, hoạt
động cũng như ưu điểm và nhược điểm của MOSFET và TFET. Bên cạnh đó,
luận văn cũng đồng thời giới thiệu về cấu trúc TFET mới giúp cải thiện dòng
mở của linh kiện.
1.1. GIỚI THIỆU VỀ LINH KIỆN ĐIỆN TỬ
Sự phát triển của ngành linh kiện điện tử đóng vai trò rất quan trọng trong
sự phát triển của các ngành công nghiệp khác. Theo báo cáo chuyên sâu
ngành linh kiện điện tử Việt Nam trên các trang viracresearch.com,
vietnamnet.vn và investvietnam.gov.vn, từ năm 2010 đến nay ngành công
nghiệp sản xuất các linh kiện điện tử phát triển rất nhanh và chiếm tỷ trọng
cao trong toàn ngành công nghiệp. Giá trị sản xuất công nghiệp của ngành
linh kiện điện tử trong 9 tháng đầu năm 2018 ước đạt khoảng 113,115 tỷ đồng
tăng 1,7% so với cùng kỳ năm 2017 do doanh số bán ra các loại chip, linh
kiện điện tử vẫn tiếp tục tăng trưởng dẫn đến đẩy mạnh sản xuất linh kiện
điện tử ở Việt Nam để sản xuất các loại chip, chất bán dẫn và bộ xử lý di
6
động. Giá trị tiêu thụ của ngành linh kiện điện tử 9 tháng đầu năm 2018 đạt
329,447 tỷ VND tăng mạnh 28,4% so với cùng kỳ năm 2017 do nhu cầu linh
kiện điển tử ngày càng tăng cao của các tập đoàn đa quốc gia tại Việt Nam. Vì
thế Việt Nam đang dần trở thành công xưởng sản xuất và lắp ráp linh kiện
điện tử cung cấp các linh kiện điện tử và các thiết bị điện tử phục vụ trong
nước và xuất khẩu ra thế giới. Theo Quy hoạch công nghiệp Việt Nam đến
năm 2020 tầm nhìn 2030 đưa ra mục tiêu về tăng trưởng, giá trị sản xuất công
nghiệp ngành điện tử, công nghệ thông tin rất cao, giai đoạn đến năm 2020
đạt 17-18%/năm, giai đoạn đến năm 2030 đạt 19-21%. Do sự phát triển của
các ngành công nghiệp khác đòi hỏi ngành công nghiệp linh kiện điện tử ngày
càng được cải tiến, sử dụng các kỹ thuật, các linh kiện điện tử tinh vi hơn.
Hiện nay các linh kiện điện tử được sử dụng rất phổ biến và là linh kiện quan
trọng được ứng dụng rất nhiều trong các ngành công nghiệp khác đặc biệt là
ngành công nghệ thông tin. Nếu không có sự xuất hiện của các linh kiện điện
tử thì xã hội sẽ không thể phát triển theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại
hóa. Vì thế linh kiện điện tử đóng vai trò rất quan trọng trong sự phát triển xã
hội.
Về lịch sử phát triển của linh kiện điện tử, trước năm 1945, trên thế giới
chỉ mới bắt đầu sử dụng những linh kiện điện tử thô sơ, cồng kềnh và rất đắt
tiền. Vì thế những máy móc, thiết bị sử dụng trong ngành công nghiệp đối với
các nước phát triển rất cồng kềnh và chiếm diện tích. Do linh kiện điện tử lúc
này rất ít phổ biến vì thế những nước chưa phát triển các thiết bị phục vụ cho
công nghiệp rất hạn chế và chủ yếu là phát triển theo hướng thủ công nghiệp.
Sự phát triển của ngành công nghiệp chế tạo linh kiện điện tử chỉ thực sự
được quan tâm từ ngày 16/12/1947, khi ba nhà khoa học thuộc phòng thí
nghiệm Bell Labs gồm John Bardeen, William Bradford Shockley và Walter
Houser Brattain tuyên bố sáng chế thành công linh kiện điện tử mang tên
“transistor”. Chiếc transistor đầu tiên được chế tạo bằng Gemanium có các
cực là những tiếp xúc điểm và được ứng dụng trong các đài bán dẫn. Sau phát
minh này, các nhà nghiên cứu đã phát minh ra các loại transistor với nhiều
tính năng hơn và tiên tiến hơn.
7
Năm 1950, Shockley đã phát minh ra transistor tiếp xúc lưỡng cực
(bipolar junction transistor (BJT)), đây là sự kết hợp của hai điôt tín hiệu
riêng lẻ ngược lại, điều này sẽ cho chúng ta hai lớp tiếp xúc PN được kết nối
với nhau theo chuỗi một đầu nối P hoặc N chung. Sự hợp nhất của hai điôt
này tạo ra ba lớp chuyển tiếp là cơ sở tạo nên BJT. BJT được làm từ các loại
bán dẫn khác nhau có thể làm việc như một chất cách điện hoặc dây dẫn bằng
cách cung cấp lên nó một điện áp. Khả năng thay đổi giữa hai trạng thái của
BJT làm cho nó có hai chức năng đó là “chuyển mạch” hoặc “khuếch đại”. Vì
thế BJT là transistor đầu tiên được ứng dụng cho các mạch khuếch đại dòng,
khuếch đại thế và khuếch đại tín hiệu công suất. Như vậy các nhà nghiên cứu
đã tạo ra các transistor với nhiều tính năng hơn, song các transistor vẫn chiếm
diện tích lớn nên các thiết bị bán dẫn vẫn có kích thước lớn, vì thế đòi hỏi cần
nghiên cứu tìm ra các transistor nhỏ hơn, tinh vi hơn hoặc tìm cách làm giảm
diện tích chiếm không gian của các linh kiện trong thiết bị để thiết bị được thu
nhỏ hơn, gọn hơn. Vào năm 1958, J. Kilby phát minh ra mạch tích hợp đầu
tiên với ý tưởng về việc tích hợp các linh kện điện tử như: điện trở, transistor,
condenser lại với nhau trên một bản mạch. Mạch tích hợp ra đời tạo tiền đề
cho việc nghiên cứu tạo ra các transistor nhiều hơn trên một không gian nhất
định, các transistor có thể được chế tạo dễ hơn, nhỏ hơn nhằm phát triển, nhân
rộng số lượng transistor để nó có thể phổ biến hơn trên thị trường thế giới,
đồng thời tiết kiệm nguyên vật liệu và thiết bị bán dẫn có kích thước nhỏ hơn.
Năm 1926 với ý tưởng về việc điều khiển dòng trong linh kiện điện tử bởi
điện trường vuông góc với dòng điện tích nhờ điện thế cổng đã được Juilius
Lilienfeld phát hiện ra nhưng trong thời gian này công nghệ để chế tạo nên
chiếc transistor như vậy là không thể. Đến năm 1960, D. Kang và M. Atalla
đã báo cáo về transistor trường kim loại-oxit-bán dẫn (metal-oxide-
semiconductor field effect transistor (MOSFET)) [1] và đến năm 1962 đã chế
tạo được MOSFETđầu tiên. Công nghệ MOSFET lúc này là trung tâm của
các vi mạch. MOSFET có những ưu điểm như: dễ chế tạo và được sử dụng
phổ biến trong các ứng dụng mạch tích hợp do kích thước tương đối nhỏ,
hàng triệu linh kiện điện tử có thể được tạo ra trên một vi mạch.
8
MOSFET là một linh kiện được tạo thành chủ yếu bởi phần kim loại–
oxit–chất bán dẫn và có cấu trúc đơn giản gồm ba điện cực như được phác
họa trong hình 1.1. Điện cực cổng nằm ở phía trên, bên dưới điện cực cổng có
lớp oxit; hai điện cực nguồn và máng nằm ở hai bên của cực cổng và được
pha tạp cùng loại; vùng kênh là vùng dưới lớp oxit giữa cực nguồn và cực
máng; phía dưới vùng kênh và hai điện cực nguồn và máng là thân của
MOSFET, thân được pha tạp với nồng độ nhỏ và khác loại với hai cực nguồn
(a)
(b)
Hình 1.1. Phác họa cấu trúc của MOSFET (a) loại n và (b) loại p.
9
và cực máng. Dựa vào loại pha tạp của hai điện cực nguồn và máng MOSFET
được chia ra làm hai loại là MOSFET kênh n và MOSFET kênh p. MOSFET
kênh n có cực nguồn và máng được pha tạp nồng độ cao với chất bán dẫn loại
n và thân được pha tạp loại p nồng độ thấp. Ngược lại, MOSFET kênh p có
cực nguồn và máng được pha tạp nồng độ cao với chất bán dẫn loại p và thân
được pha tạp loại n nồng độ thấp.
Đối với MOSFET kênh n, khi đặt điện thế dương vào điện cực cổng, trong
lớp oxit sẽ xuất hiện một điện trường thẳng đứng, điện trường này xuyên qua
lớp bán dẫn và nếu điện trường đủ lớn thì dưới lớp oxit sẽ xuất hiện một lớp
điện tử gọi là vùng kênh. Khi đặt điện áp giữa cực máng và cực nguồn thì lớp
điện tử sẽ chuyển động từ nguồn qua kênh đến máng. Đối với MOSFET kênh
p thì ngược lại, dòng dịch chuyển là lỗ trống. Vậy hoạt động của MOSFET cơ
bản là điện thế qua hai điện cực cổng và điện cực nguồn điều khiển dòng chạy
qua điện cực máng. MOSFET hoạt động dựa trên cơ chế khuếch tán nhiệt qua
hàng rào thế. Ở trạng thái tắt, rào thế nhiệt cao nên các điện tử không thể chảy
từ nguồn đến máng. Ở trạng thái mở, cực cổng điều khiển lên vùng kênh làm
hạ thấp rào thế nhiệt nên cho phép điện tử di chuyển tạo ra dòng điện.
MOSFET được chế tạo đơn giản. Vật liệu ban đầu tạo ra MOSFET kênh n
là một wafer được pha tạp nhẹ loại p. Màng điôxit silic được phát triển và
màng nitrit silic được lắng đọng trên bề mặt của thân MOSFET. Sau đó boron
được cấy qua màng điôxit silic và màng nitrit silic vào nền silic để tạo nên
mặt pha tạp loại p với nồng độ cao. Sau quá trình ăn mòn nitrit silic sẽ tạo ra
vùng kênh và lớp oxit. Loại bỏ lớp oxit và cấy lớp ôxit cổng trên bề mặt vùng
kênh (tùy theo linh kiện có thể cấy nguyên tử Boron hoặc nguyên tử Arsen
vào vùng kênh). Sau đó tạo một lớp polysilic pha tạp nồng độ cao nhờ khuếch
tán hoặc nuôi cấy ion. Tiếp theo, tạo khung cho cổng nhờ in quang và cấy các
nguyên tử Arsen để tạo thành vùng nguồn và máng. Và cuối cùng là kim loại
hóa, oxit được pha tạp photpho được lắng đọng trên toàn bộ wafer để bảo vệ
bề mặt linh kiện [2].
Công nghệ MOS (Complementary Metal-Oxide-Semiconductor (CMOS))
đã góp phần phát triển các ngành công nghệp khác trong đó đặc biệt là ngành
10
công nghệ thông tin. Với sự phát triển của ngành công nghệ thông tin hiện
nay đặc biệt là các thiết bị di động đòi hỏi ngày càng nhỏ, sự tiêu hao năng
lượng thấp, tốc độ xử lý ngày càng nhanh, thiết bị ngày càng nhiều chức năng,
độ bảo mật ngày càng cao… Vì thế yêu cầu đặt ra là cần tích hợp rất nhiều
linh kiện điện tử trên vi mạch nhất định. Sự thu nhỏ của các linh kiện điện tử
đạt được do sự giảm kích thước của các MOSFET. Do MOSFET hoạt động
dựa trên cơ chế khuếch tán nhiệt nên độ dốc dưới ngưỡng (subthreshold
swing (SS)) tối thiểu bị giới hạn ở mức 60 mV/decade ở nhiệt độ phòng [3].
Vậy nên, sự giảm kích thước của MOSFET càng nhỏ sẽ làm tăng dòng rò do
hiệu ứng kênh ngắn và giảm điện áp cung cấp sẽ hạn chế tốc độ làm việc của
mạch điện tử. Giới hạn vật lý của độ dốc dưới ngưỡng đối với MOSFET
truyền thống trở thành vấn đề hạn chế khi đáp ứng các yêu cầu của mạch tích
hợp trong tương lai.
Để giải quyết những vấn đề mà MOSFET truyền thống không thể giải
quyết được thì việc nghiên cứu các linh kiện mới với cơ chế hoạt động mới có
thể thay thế MOSFET ở những kích thước nhỏ hơn là việc cấp thiết. Các
nghiên cứu đã tiến hành trên các linh kiện với các pha tạp và vật liệu khác
nhau đã dẫn đến sự ra đời của các transistor hiệu ứng xuyên hầm (tunnel
field-effect transistor (TFET)).
1.2. TRANSISTOR HIỆU ỨNG TRƯỜNG XUYÊN HẦM
MOSFET truyền thống là nền tảng trong các mạch tích hợp nhờ khả năng
ngày càng thu nhỏ kích thước của nó. Vì vậy, số lượng các transistor ngày
càng nhiều được tích hợp trên một vi mạch nhất định. Tuy nhiên, MOSFET
chịu giới hạn vật lý của độ dốc dưới ngưỡng 60 mV/decade ở nhiệt độ phòng
do nó hoạt động dựa trên cơ chế khuếch tán nhiệt. Vậy nên MOSFET bị hạn
chế khả năng thu nhỏ đến một kích thước nhất định. Khi đến một kích thước
giới hạn, việc thu nhỏ sẽ không thể thực hiện được nữa, nên dẫn đến việc
giảm điện thế nguồn cung cấp không thể thực hiện và giới hạn khả năng giảm
công suất tiêu thụ của thiết bị. Việc ứng dụng của MOSFET trong các mạch
tích hợp trong ngày càng bị hạn chế. Các nghiên cứu về giảm độ dốc dưới
ngưỡng tối thiểu của MOSFET xuống dưới 60 mV/decade đã được các nhà
11
nghiên cứu quan tâm. Thiết kế transistor trường kim loại-oxit-bán dẫn va
chạm ion hóa (ionization metal-oxide-semiconductor field-effect transistor
(IMOS)) được đề xuất. IMOS đã cho thấy có thể giảm độ dốc dưới ngưỡng
xuống dưới 60 mV/decade ở nhiệt độ phòng nhưng nó gặp phải nhiều vấn đề
bất lợi về cơ chế hoạt động. Trong quá trình hoạt động của IMOS điện thế cực
máng phải giữ ở mức cao, dẫn đến dòng điện tử trong IMOS nóng lên làm
phá hủy cấu trúc cổng oxit [4]. Từ đó cho thấy độ tin cậy của IMOS không
cao nên không thể sử dụng rộng rãi ở các mạch tích hợp trong tương lai.
(a)
(b)
Hình 1.2. Phác họa cấu trúc của TFET (a) loại n và (b) loại p.
12
Trước tình hình đó, đòi hỏi cần có một thiết bị mới với cơ chế hoạt động mới
để đáp ứng sự phát triển của khoa học kỹ thuật trong giai đoạn này. Các nhà
nghiên cứu đã bắt đầu tìm ra các transistor hoạt động theo cơ chế khác với
MOSFET nhưng vẫn dựa trên nền cấu tạo của MOSFET để nghiên cứu nên
các transistor này.
Năm 1992 Tetsuya Baba giới thiệu về transistor xuyên hầm bề mặt
(surface-tunnel-transistor (STT)) đây là loại linh kiện điện tử xuyên hầm đầu
tiên, được chế tạo bằng cách sử dụng một lớp chuyển tiếp GaAs/AlGaAs để
nghiên cứu đặc điểm cơ bản của linh kiện mới này [5]. Về cơ bản cấu trúc và
cơ chế hoạt động của TFET gần giống như MOSFET. Cấu trúc của TFET
cũng có 3 điện cực như hình 1.2 gồm cực cổng (Gate-G); cực nguồn (Source-
S); cực máng (Drain-D). Điểm khác nhau trong cấu tạo TFET và MOSFET là
trong TFET cực nguồn và cực máng được pha tạp khác loại với nồng độ cao
và thân được pha tạp với nồng độ thấp hơn. TFET được chia làm hai loại là
TFET kênh n và TFET kênh p. TFET được gọi là kênh n hay kênh p là do hạt
tải điện đa số ở khu vực kênh. TFET kênh n có cực máng pha tạp loại n, cực
nguồn pha tạp loại p, hạt tải điện đa số trong kênh là electron. Với TFET kênh
p có cực máng pha tạp loại p, cực nguồn pha tạp loại n và hạt tải điện đa số
trong kênh là lỗ trống. Đồng thời, sự khác biệt lớn của TFET và MOSFET là
do cơ chế vận chuyển hạt dẫn cơ bản. MOSFET hoạt động theo cơ chế khuếch
tán nhiệt, còn TFET hoạt động dựa trên cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm để
tạo ra dòng tải điện. Trong TFET các electron từ vùng hóa trị thực hiện quá
trình xuyên hầm qua vùng cấm của chất bán dẫn để trở thành electron tự do
trong vùng dẫn. Ở trạng thái tắt, rào thế xuyên hầm giữa nguồn và kênh rất
lớn nên quá trình xuyên hầm không xảy ra. Ở trạng thái mở, khi điện thế cổng
vượt quá điện thế ngưỡng, rào thế giữa kênh và nguồn được thu hẹp lại cho
phép tạo ra một dòng xuyên hầm đáng kể [6].
TFET có thể thay thế MOSFET trong các mạch tích hợp công suất lớn vì
độ dốc dưới ngưỡng của nó nhỏ hơn nhiều so với giới hạn độ dốc dưới
ngưỡng 60 mV/decade ở nhiệt độ phòng của MOSFET được minh họa trong
hình
13
1.3 [7, 8], do TFET hoạt động theo cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm (band-
to-band-tunneling (BTBT)). Cơ chế này giúp cho TFET có dòng rò (leakage
current) thấp hơn MOSFET vì TFET hoạt động ở trạng thái phân cực ngược
với cổng điện môi điều khiển dòng xuyên hầm nằm trên vùng bán dẫn nội.
Nhưng nhược điểm lớn nhất của TFET là dòng mở trong nó lại thấp hơn
nhiều so với MOSFET. Do dòng mở thấp làm cho việc ứng dụng TFET vào
trong các mạch tích hợp thực tế trở nên khó khăn. Vì vậy, việc tăng dòng điện
mở trong TFET để đạt được dòng mở cao phù hợp với yêu cầu kỹ thuật của
từng giai đoạn phát triển công nghệ xã hội luôn là vấn đề hấp dẫn nhất từ các
thập kỷ qua. Với mục đích đó, nhiều kỹ thuật tiên tiến đã được đề xuất để
tăng dòng điện mở trong TFET. Do dòng xuyên hầm trong TFET được quyết
định bởi xác suất xuyên hầm và diện tích xuyên hầm nên các kỹ thuật phải
thay đổi ít nhất một trong ba tham số là độ cao, độ rộng hàng rào và diện tích
xuyên hầm. Các kỹ thuật tiên tiến đưa ra với mục đích làm giảm hàng rào
xuyên hầm hoặc tăng diện tích xuyên hầm, hay có thể thay đổi cả hai yếu tố
đó trong TFET được nghiên cứu dựa trên cả cấu trúc và vật liệu linh kiện.
Hình 1.3. Minh họa đặc tính dòng thế cho thấy độ dốc dưới ngưỡng của
TFET nhỏ hơn độ dốc dưới ngưỡng của MOSFET
14
Khi giảm độ rộng vùng cấm thì xác suất xuyên hầm được tăng theo cấp số
nhân bởi vì độ rộng vùng cấm được coi là chiều cao rào cản tại lớp chuyển
tiếp. Vậy nên, vật liệu vùng cấm thấp đã sớm được đề xuất để tăng dòng dẫn
của các TFET [9, 10]. Mặc dù việc sử dụng vật liệu có vùng cấm thấp được
biết đến như một trong những phương pháp hiệu quả nhất để tăng dòng điện
mở nhưng nó cũng đòi hỏi phải kết hợp với các kỹ thuật cấu trúc để tiếp tục
tối đa dòng mở.
Các nhà nghiên cứu đã thay đổi cấu trúc cổng của TFET từ đơn cổng sang
lưỡng cổng và đa cổng. Khi tăng số lượng cổng thì vùng kênh sẽ được phát
triển mạnh hơn do đó dòng xuyên hầm sẽ tăng lên. Chẳng hạn như, khi
chuyển từ cấu trúc đơn cổng sang cấu trúc lưỡng cổng thì vùng kênh sẽ được
hình thành gấp đôi. Do đó diện tích tiếp xúc giữa cổng và kênh sẽ tăng lên,
nên chiều dài cổng tăng. Như vậy dòng xuyên hầm trong TFET được điều
khiển bởi điện áp cổng mạnh hơn khi tăng số lượng cổng trong TFET [11,
12]. Bên cạnh đó, cấu trúc hình học cực cổng của TFET thay đổi thì dòng mở
trong TFET cũng sẽ thay đổi. Nếu cực cổng của TFET có dạng hình chữ U,
chiều dài cổng sẽ tăng lên so với cấu trúc TFET đặc trưng, do đó diện tích
tiếp xúc giữa cực cổng và vùng kênh lớn hơn. Khi đó cổng sẽ điều khiển được
dòng chạy qua kênh [13]. Ngoài ra, cổng còn được thiết kết và khảo sát dưới
dạng chữ L [14], … Vậy việc kết hợp giữa hình dạng và cấu trúc cực cổng
của TFET đã làm tăng dòng mở trong TFET đáng kể. Vì cực cổng điều khiển
tính chất điện của vùng kênh gián tiếp thông qua lớp ô-xít cổng nên làm tăng
dòng mở cho TFET. Việc tăng cường dòng mở cho TFET không chỉ được
nghiên cứu cho cực cổng mà còn được nghiên cứu trong vùng kênh. Nếu hình
dạng kênh của TFET được thay đổi (TFET có kênh hình chữ U, TFET có
kênh hình chữ L, …) thì bề rộng vùng xuyên hầm được mở rộng hơn so với
cấu trúc TFET đặc trưng. Do đó, xác suất xuyên hầm qua vùng cấm sẽ tăng
dẫn đến tốc độ xuyên hầm xảy ra nhanh hơn và dòng mở trong TFET tăng
lên. Đồng thời, dòng rò trong TFET cũng được triệt tiêu do chiều dài kênh
tăng [15]. Mặc khác, dòng mở trong TFET là dòng xuyên hầm từ nguồn qua
kênh đến máng. Vì thế, người ta cũng đã nghiên cứu cấu trúc TFET với hai
khu vực nguồn nằm đối xứng qua cực cổng [16] và cũng đã nghiên cứu sự kết
15
hợp giữa hai vùng nguồn vào TFET có cổng chữ U [17]. Các cấu trúc này sẽ
cải thiện diện tích xuyên hầm và nó cũng làm gia tăng số lượng hạt dẫn trong
kênh do đó dòng chảy trong máng sẽ được tăng cường. Để tăng dòng mở
trong TFET, người ta cũng đã nghiên cứu TFET với cấu trúc dị chất. Với linh
kiện TFET, dòng xuyên hầm không chỉ xảy ra tại chuyển tiếp nguồn-kênh mà
còn xảy ra tại chuyển tiếp máng-kênh. Trong đó, dòng mở được xác định tại
chuyển tiếp nguồn-kênh còn dòng lưỡng cực được xác định tại chuyển tiếp
máng-kênh. Sử dụng vật liệu có hằng số điện môi cao ở cực cổng sẽ giúp tăng
cường sự điều khiển của cổng lên vùng kênh làm tăng dòng xuyên hầm. Vì
vậy, vật liệu điện môi cao giúp tăng dòng mở tại chuyển tiếp nguồn-kênh
nhưng đó cũng là lý do khiến dòng lưỡng cực tại chuyển tiếp máng-kênh tăng
theo. Do đó, muốn giảm dòng lưỡng cực ta buộc phải sử dụng vật liệu có
hằng số điện môi thấp ở cực cổng. Đây chính là ý tưởng dẫn đến sự ra đời của
linh kiện TFET dị cấu trúc. Trong đó, cực cổng sẽ được làm từ hai hoặc ba
vật liệu trở lên sao cho phía bên nguồn phải dùng vật liệu có điện môi cao và
phía bên máng dùng vật liệu có điện môi thấp (đối với TFET loại n) nhằm
giảm dòng rò và tăng dòng mở. Do đó tỷ số dòng mở/dòng tắt (ION/IOFF) cao
hơn. Đồng thời, khi sử dụng chất bán dẫn hỗn hợp giữa Silic và Germanium
với tỉ lệ thích hợp và các chất thuộc nhóm III-V trong khu vực nguồn hoặc
khu vực máng của TFET cũng có thể mang lại tỷ số ION/IOFF cao [18, 19].
Ngoài ra còn nhiều nghiên cứu khác liên quan đến cấu trúc đã được đề xuất để
tăng dòng mở như xuyên hầm đường [20, 21], thân mỏng [22], chồng
phủ/khoảng hụt ở cực nguồn máng [23, 24], … Một số nghiên cứu khác cũng
đã cho thấy khi thu nhỏ TFET xuống dưới 10 nm thì dòng mở của linh kiện
vẫn có thể được tăng cường và không chịu ảnh hưởng bởi hiệu ứng kênh ngắn
[25].
Tuy dòng mở của TFET đã được cải thiện đáng kể, nhưng sự phát triển
của khoa học kỹ thuật ngày càng tiên tiến. Các vi mạch điện tử ngày càng
nhỏ, vì thế các linh kiện điện tử cũng phải tinh vi hơn. Vấn đề đặt ra lúc này
là kích thước của các linh kiện phải được thu nhỏ nhưng hiệu suất phải cao.
16
1.3. TFET CÓ CẤU TRÚC PHA TẠP ĐỐI XỨNG
TFET hoạt động theo cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm nên trong TFET
tồn tại cả dòng từ nguồn đến kênh và dòng từ máng đến kênh. Dòng mở trong
TFET chỉ là dòng từ nguồn đến kênh còn dòng từ máng đến kênh là dòng rò
không mong muốn. Trong khi đó, dòng mở trong MOSFET được xác định
theo cả hai chiều. Vậy nên dòng mở trong TFET thấp hơn nhiều so với
MOSFET. Nhiều kỹ thuật đã được đề xuất để tăng dòng mở như kết hợp giữa
sử dụng vật liệu vùng cấm thấp và thay đổi cấu trúc như cấu trúc lưỡng cổng,
xuyên hầm đường, dị cấu trúc, thân mỏng, hình dạng chữ U và chữ L, chồng
phủ/khoảng hụt ở cực nguồn máng, …. (đã phân tích ở phần 1.2). Tuy nhiên,
tất cả các cấu trúc linh kiện trên đều dựa trên kỹ thuật pha tạp không đối
xứng, gây ra sự phức tạp trong thiết kế và chế tạo các linh kiện. Để không gặp
phải vấn đề về pha tạp bất đối xứng và độ dốc giữa các lớp chuyển tiếp, TFET
không có chuyển tiếp pha tạp được giới thiệu [26]. Trong TFET này toàn bộ
linh kiện sẽ được pha tạp cùng loại, tức là không có lớp chuyển tiếp khi pha
tạp. Tuy nhiên, một cấu trúc pha tạp không chuyển tiếp cần một cổng phụ để
chuyển đổi loại pha tạp trong cực nguồn. Hơn nữa, dòng điện của các TFET
không chuyển tiếp thấp hơn rất nhiều so với dòng điện của các TFET thông
thường. Vì sự tồn tại của một khoảng cách bắt buộc giữa cổng chính và cổng
phụ làm hạn chế việc thu hẹp chiều rộng xuyên hầm ở trạng thái mở. Gần đây,
p- Si-pad
Substrate
BOX
Source
p+ (Ge)
Drain
p+ (Ge)Channel
n+ (Si)
Gate
Hình 1.4. Phác họa cấu trúc của TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng (STFET).
17
TFET dựa trên kỹ thuật pha tạp đối xứng đã được đề xuất để đạt được dòng
mở giống như MOSFET [11]. Dòng xuyên hầm trong TFET pha tạp đối xứng
không di chuyển trực tiếp qua cực máng mà thông qua một miếng đệm pha
tạp nhẹ bên dưới và hoạt động như một vùng máng thực sự. Nói cách khác,
vùng máng giả trong TFET đối xứng đóng vai trò như nguồn thứ hai để tạo ra
TFET hai vùng nguồn và do đó dòng mở trong linh kiện này được cải thiện.
TFET hai vùng nguồn này có thể được phân loại thành cấu trúc chữ U và dựa
trên xuyên hầm đường.
Cấu trúc của TFET pha tạp đối xứng (Symmetric TFET (STFET)) giống
với cấu trúc của TFET thông thường như được phác họa trong hình 1.4. Cấu
trúc của TFET pha tạp đối xứng cũng gồm có 3 điện cực: Cực cổng (Gate-G);
cực nguồn (Source-S); cực máng (Drain-D). Trong đó, TFET có cấu trúc pha
tạp đối xứng có vùng kênh (Si) được pha tạp loại n. Vùng nguồn và máng
nằm đối xứng qua kênh và pha tạp cùng loại p với nồng độ cao. Vùng Si-pad
dày 5 nm được pha tạp loại p với nồng độ thấp. Do chiều cao rào cản của lớp
Si-pad mỏng nằm trên lớp BOX (buried oxide) ở phía máng thấp hơn so với
phía nguồn nên khi có dòng các electron chạy từ nguồn qua các vùng kênh về
phía Si-pad bên phía máng và không có dòng hướng về nguồn. Dòng điện
trong TFET được tạo ra từ điểm tiếp xúc giữa máng với lớp Si-pad đến điểm
tiếp xúc giữa nguồn với lớp Si-pad. Dòng điện chạy theo chiều nào là do cách
đặt điện áp tham chiếu và điện áp đầu ra đối với các cực của TFET. Vì TFET
có cấu trúc pha tạp đối xứng nên dòng có thể truyền theo hai chiều giống như
MOSFET. Điều này đem lại kết quả dòng mở trong TFET có cấu trúc pha tạp
đối xứng đã được cải thiện đáng kể. Đồng thời, TFET này cũng hoạt động
theo cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm nên độ dốc dưới ngưỡng của nó nhỏ
hơn 60 mV/decade [11]. Cũng giống như TFET thông thường, nhiều nghiên
cứu khác liên quan đến cấu trúc đã được đề xuất để tăng dòng mở như lưỡng
cổng [12], cấu trúc TFET đối xứng có cổng chữ U (Symmetric U-Shaped
Gate TFET (SUTFET)) [13].
Đối với SUTFET, cực nguồn và máng được pha tạp loại p với nồng độ
cao và đặt đối xứng về hai bên cực cổng. Hốc pha tạp (pocket) được pha tạp
18
loại n với nồng độ cao và được chèn dọc theo hai bên của cực cổng. Khi đó
hoạt động của kênh sẽ đạt hiệu quả hơn. Với cực cổng hình chữ U, độ dài
kênh của SUTFET lớn nên hiệu ứng kênh ngắn của nó có thể bị triệt tiêu. Do
đó việc thu nhỏ đối với SUTFET có thể thực hiện thuận lợi hơn và dòng mở
trong SUTFET được tăng cao hơn so với TFET thông thường. SUTFET đã
được thu nhỏ đến kích thước nano. Tuy nhiên, SUTFET có thể đáp ứng về
việc thu nhỏ kích thước linh kiện nhưng dòng rò cao trong SUTFET lại gây ra
sự tỏa nhiệt. Vì thế SUTFET bị hạn chế ứng dụng trong các mạch kỹ thuật số.
Trên nền tảng của SUTFET, người ta đã nghiên cứu cách làm giảm dòng rò
để SUTFET có thể ứng dụng tốt hơn trong các mạch kỹ thuật số. Do đó, muốn
giảm dòng rò người ta sử dụng kỹ thuật dị cấu trúc như được sử dụng trong
TFET thông thường. Kỹ thuật dị cấu trúc chính là sự kết hợp giữa các chất
điện môi cao và các chất điện môi thấp trong SUTFET để giảm dòng rò và
tăng dòng mở. Vì vậy, dị cấu trúc cổng hình chữ U trong TFET pha tạp đối
xứng (Hetero-Gate-Dielectric SUTFET (HGD-SUTFET)) đã được đề xuất.
HGD-SUTFET là cấu trúc hình thành dựa trên sự kết hợp giữa SUTFET và
các chất điện môi cổng. Trong cấu trúc của HGD-SUTFET, chất điện môi cao
TiO2 được đặt gần phía nguồn của cực cổng và chất điện môi thấp SiO2 được
đạt gần cực máng của cực cổng. Sự kết hợp này cho thấy độ rộng vùng cấm sẽ
bị giảm, khả năng xuyên hầm qua vùng cấm cao hơn. Do đó dòng mở cao hơn
và độ dốc dưới ngưỡng đạt giá trị thấp hơn [27].
Mặc dù các TFET pha tạp đối xứng đã được đề xuất có thể cải thiện được
dòng mở và kích thước linh kiện, nhưng cấu trúc TFET vẫn còn phức tạp
trong thiết kế và chế tạo linh kiện. Trong chương 3 của luận văn này, chúng ta
sẽ đi nghiên cứu vật lý linh kiện của TFET pha tạp đối xứng có cấu trúc đơn
giản hơn nhưng vẫn bảo tồn các ưu điểm của TFET pha tạp đối xứng trên.
19
CHƯƠNG 2. MÔ HÌNH VẬT LÝ VÀ PHẦN MỀM MÔ PHỎNG
Cơ chế phát xạ nhiệt ở MOSFET dẫn đến giới hạn tối thiểu về độ dốc
dưới ngưỡng 60 mV/decade ở nhiệt độ phòng. Trong khi đó, cơ chế xuyên
hầm qua vùng cấm được sử dụng trong cấu trúc p-i-n của TFET đã được
chứng minh cho độ dốc dưới ngưỡng thấp hơn 60 mV/decade. Nhưng phân
tích ở chương 1 cho thấy dòng mở trong TFET rất nhỏ. Trong khi đó, dòng
dẫn ở TFET phụ thuộc vào xác suất xuyên hầm của các electron qua vùng
cấm chất bán dẫn. Vậy nên, nghiên cứu về hiện tượng xuyên hầm sẽ giúp cho
việc nâng cao dòng mở cho TFET. Do đó, xuyên hầm qua vùng cấm là một cơ
chế đã được nhiều nhà khoa học quan tâm và nghiên cứu. Trong chương này,
luận văn sẽ tìm hiểu về cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm đồng thời giới thiệu
về mô hình hai vùng năng lượng của Kane trong việc tính xác suất xuyên
hầm. Ngoài ra, ở chương này luận văn cũng giới thiệu về phần mềm mô
phỏng hai chiều MEDICI được sử dụng để nghiên cứu các mẫu linh kiện
TFET được tìm hiểu trong luận văn.
2.1 MÔ HÌNH XUYÊN HẦM QUA VÙNG CẤM CỦA KANE
2.1.1 Cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm
Theo cơ học cổ điển, xuyên hầm là một hiện tượng cơ học lượng tử trong
đó một hạt có xác suất qua các hàng rào thế. Xuyên hầm bắt nguồn trực tiếp
từ lưỡng tính sóng hạt. Trong bức tranh cơ học lượng tử, các electron trong
vùng hóa trị thực hiện quá trình xuyên hầm qua vùng cấm để trở thành các
electron tự do trong vùng dẫn. Độ rộng vùng cấm giữa vùng hóa trị và vùng
dẫn đặc trưng cho thuộc tính của chất bán dẫn. Chất bán dẫn được chia làm
hai loại là chất bán dẫn có vùng cấm trực tiếp và chất bán dẫn có vùng cấm
gián tiếp.
Hình 2.1(a) phác họa giản đồ năng lượng gần mức Fermi đối với chất bán
dẫn có vùng cấm trực tiếp. Quan sát hình 2.1(a), ta thấy xung lượng và năng
lượng vuông góc với phương xuyên hầm của các electron sẽ được bảo toàn vì
không xảy ra quá trình phát xạ hay hấp thụ phonon trung gian. Tức là, xung
lượng và năng lượng của các electron ở trạng thái đầu cũng bằng xung lượng
20
và năng lượng của các electron ở trạng thái cuối. Hệ số truyền qua được định
nghĩa là số trạng thái vùng dẫn khả dĩ mà electron hóa trị truyền tới, với
xuyên hầm trực tiếp hệ số truyền qua ird
TF có giá trị bằng 1. Khi các electron
xuyên hầm qua chất bán dẫn có vùng cấm gián tiếp phải trải qua quá trình
phát xạ hay hấp thụ các phonon dao động mạng tinh thể trước khi hoàn thành
quá trình xuyên hầm qua vùng cấm. Do đó hình 2.1(b) hiển thị thành phần
(a)
(b)
Hình 2.1. Giản đồ năng lượng gần mức Fermi cho chất bán dẫn (a) có vùng
cấm trực tiếp và (b) có vùng cấm gián tiếp.
21
xung lượng vuông góc bị thay đổi so với trạng thái ban đầu trước khi thực
hiện quá trình xuyên hầm, hệ số truyền qua ird
TF luôn lớn hơn 1. Nếu với
cùng độ rộng vùng cấm, tốc độ xuyên hầm của electron trong quá trình xuyên
hầm trực tiếp sẽ lớn hơn nhiều so với quá trình xuyên hầm gián tiếp vì nó
không phải trải qua các quá trình tương tác với phonon.
Mô hình đơn giản giải thích quá trình xuyên hầm được tìm thấy bằng cách
giải phương trình Schrodinger cho một electron chuyển động theo một chiều
qua một hàng rào hình chữ nhật thể hiện trong hình 2.2(a)
2 2
2
0
( ) ( ) ( ) ( )2
dx V x x E x
m dx (2.1)
Với m0 là khối lượng hạt electron.
0
0 0
( ) 0
0
tun
tun
if x
V x V if x l
if l x
Các giải pháp cho phương trình Schrodinger cung cấp các hàm riêng và giá trị
riêng năng lượng cho điện thế đồng nhất là song phẳng có dạng exp( )ikx . Giải
pháp cho phương trình Schrodinger với rào thế hình chữ nhật được đưa ra
0
2
2m Ek và
0 0
2
2 ( )m V Ek
Xác suất xuyên hầm bằng tỉ lệ của dòng truyền qua và dòng tới
2
2
T
TT
II I
c vJP
J c v (2.2)
Với vT, vI là vận tốc sóng truyền đi và vận tốc sóng tới.
Trường hợp hàng rào thế hình chữ nhật, vận tốc sống truyền đi và sóng tới
như nhau 0
I T
kv v
m . Hệ số truyền đi được tính bởi:
22
2 210
0
sinh( )(1 )
4 ( )tunV kl
PE V E
(2.3)
ltun
Uo
U(eV)
0
TR
x
(a)
U(eV)
0
TR
x
(b)
Hình 2.2. Quá trình xuyên hầm của một electron qua hàng rào thế (a) hình
chữ nhật và (b) không phải hình chữ nhật.
23
Khi ltun rất lớn và E<<V0, ta có công thức gần đúng:
20
2
0
4 ( )( ) tunklE V E
P eV
(2.4)
Khi E = V0/2, xác suất xuyên hầm đạt giá trị 2 tunklP e
Phương trình (2.4) cho thấy, trong cơ học lượng tử có một xác suất nhỏ nhưng
hữu hạn để truyền qua rào chắn ngay cả khi năng lượng của dòng truyền tới
không thể vượt quá chiều cao của hàng rào cản. Quá trình xuyên hầm không
làm thay đổi rào cản và việc xuyên hầm không gây ra bất kỳ thiệt hại nào.
Electron thứ 2 sẽ có xác suất xuyên hầm giống như electron thứ nhất.
Trong thực tế, rào chắn xuyên hầm không phải là hình chữ nhật như được
phác họa trong hình 2.2(b). Để tính xác suất xuyên hầm một cách gần đúng
người ta dùng phép tính xấp xỉ Wentzel-Kramer-Brillouin (WKB). Trong
phép tính gần đúng WKB, xác suất xuyên hầm được xác định bởi:
exp( 2 ( ) )b
a
P K x dx (2.5)
Ở đây vecto sóng cho bởi:
*
2
2( ) ( ) ( ( ) )
mK x ik x V x E
*
2
2( ) ( ( ))
mk x E V x
(2.6)
Trong đó: là hằng số Planck rút gọn; m* là khối lượng hiệu dụng. Trong
phép tính gần đúng WKB, hàm sóng được xác định bởi:
0
( ) exp( ' ( '))x
x dx k x (2.7)
Thay vào phương trình Schrodinger ta được:
24
2 2 2
0 0
( ) ( ) ( )( )
2 2
k x k x dk xV x E
m m dx (2.8)
Bằng cách sử dụng công thức kết nối và biểu diễn dạng hàm thế dưới
dạng parabol cho phép ta tính xác suất xuyên hầm qua biểu thức sau:
*1/2 3/2
3/2
2exp exp
2
Em EP
q E
(2.9)
Trong đó:
2 2 2
*
( )
2
y zk kE
m
;
1/2
*1/2 1/2
2
g
qE
m E
(2.10)
Với Eg là độ rộng vùng cấm bán dẫn; là điện trường của chuyển tiếp; q là
điện tích nguyên tố; E là năng lượng electron; E là năng lượng vuông góc; ky,
kz là các thành phần của vecto sóng theo hướng y, z.
Các quá trình trên chỉ đúng cho quá trình xuyên hầm trực tiếp từ vùng hóa
trị sang vùng dẫn. Mẫu WKB không thể áp dụng cho các bán dẫn xuyên hầm
gián tiếp nhưng đóng vai trò quan trọng như silic, gemanium và các hợp chất
của chúng.
2.1.2. Mô hình Kane cho xuyên hầm qua vùng cấm
Năm 1959 E. O. Kane phát triển mô hình cho xuyên hầm qua vùng cấm
[28], đây là một trong những mô hình được sử dụng phổ biến và lâu đời nhất
để tính tốc độ xuyên hầm cho các TFET.
Vì chất bán dẫn là một chất rắn tinh thể tuần hoàn nên các nguyên tử của
tinh thể tạo ra thế tuần hoàn Vlat với chu kỳ giống như chu kỳ tuần hoàn của
tinh thể. Thay Vlat vào phương trình Schrodinger độc lập thời gian ta được:
2 2
22lat nV E
m x
(2.11)
25
Lưu ý rằng trong phương trình đã thêm chỉ số n vào năng lượng bởi vì các
vùng năng lượng khác nhau trong tinh thể tương ứng với các mức năng lượng
khác nhau. Trong vật lý chất rắn, nghiệm của phương trình trên được gọi là
hàm Bloch ( )nk x có dạng:
( ) ( )ikx
nk nkx e u x (2.12)
Trong đó ( )nku x là hàm tuần hoàn Bloch. Chỉ số dưới n trong hàm Bloch cho
biết vùng năng lượng thứ n, nghĩa là năng lượng của nó là En và k là vectơ
sóng. Tổng quát một hàm sóng được viết dưới dạng:
( ) ( )n nka k x (2.13)
Trong đó ( )na k là hệ số biểu diễn trạng thái của các vùng năng lượng trong
tinh thể.
Đầu tiên hàm thế V(x) trong phương trình Schrodinger sẽ được biểu diễn
là tổng của thế tuần hoàn trong tinh thể Vlat và điện thế phân cực áp vào Vext.
Giả thiết rằng điện thế phân cực tạo ra điện trường đều trong tinh thể. Vì
điện thế phân cực là hầm của điện trường ( extV q x ), ta có thể viết phương
trình độc lập thời gian như sau:
2 2
2( )
2lat nV q x E
m x
(2.14)
Chuyển phương trình Schrodinger từ dạng không gian sang biểu diễn dưới
dạng xung lượng tinh thể bằng cách sử dụng các hàm Bloch. Sự biểu diễn
xung lượng tinh thể chỉ đơn giản là một dạng của phương trình Schrodinger
mà không có sự phụ thuộc không gian. Trong biểu diễn này, mọi toán tử và
hàm sóng trong phương trình của Schrodinger được viết như một sự kết hợp
của hàm Bloch. Thay phương trình (2.13) vào phương trình Schrodinger
(2.14) ta được:
26
2 2
,
, , ,2( ) ( ) ( )
2
n k
n lat n k n n k n n n ka k V a k q x a k Em x
(2.15)
Bằng cách so sánh phương trình (2.15) với phương trình (2.11) ta có thể quan
sát thấy thành phần trong dấu ngoặc của phương trình trên là năng lượng của
vùng thứ n. Thay phương trình (2.11) vào phương trình trên (2.15) ta được:
( ) ( ) ( )n n n na k E a k q x a k E (2.16)
Lưu ý rằng trong phương trình trên: En tương ứng với năng lượng của tinh thể
và E tương ứng với tổng năng lượng của electron. Sau đó, Kane đã viết
phương trình Schrodinger độc lập thời gian trong khuôn khổ mô hình hai
vùng năng lượng với điện trường đều như sau:
' '( ) ( ) ( ) 0n n nn n
x
E k iq E a k q X a kk
(2.17)
Trong đó n và n’ là chỉ số các vùng năng lượng khác nhau, yếu tố ma trận liên
vùng:
*
' 'nn nk n k
x
X i u u drk
(2.18)
Xác suất cho mỗi đơn vị thời gian dịch chuyển từ vùng n đến vùng n’ cho bởi
biểu thức:
2
' ' '
2( ) ( ) ( ) ( )n n n nn n ea k q X k a k E
(2.19)
Trong đó:
( )2
Eq
(2.20)
Với là độ rộng của vùng Brillouin theo hướng x
27
Bỏ qua các số hạng liên vùng trong công thức (2.17) thì có thể giải ra hàm
sóng không nhiễu loạn trong không gian xung lượng tinh thể như sau:
(1)
1/2
0
1( ) exp ( ') ' ( ) ( )
xk
n n y yo z zo
ia k E E k dk k k k k
F
(2.21)
Bằng cách áp dụng kỹ thuật tương tự như phương pháp pha tĩnh trong mặt
phẳng phức, lời giải của Kane cho các yếu tố ma trận chuyển dịch được viết
như sau:
21/2 1/2 1/22
' ' ex ' 1/2( ) ( ) ( ) exp
3 4
r g g
nn n t nn n
r
q m E EM a k qE X k a k
q m
(2.22)
Ở đây 24 ir
g
mE E
h ; iE
là năng lượng vuông góc tại trạng thái đầu
tiên, do năng lượng vuông góc tại trạng thái đầu tiên và trạng thái cuối cùng là
bằng nhau (i fE E E ) khi đó năng lượng vuông góc là bảo toàn; mr là
khối lượng rút gọn được xác định bởi công thức:
1 1 1
rm m m
Với m+ và m- là khối lượng hiệu dụng ở vùng dẫn và vùng hóa trị
Để tính toán xác suất xuyên hầm, chú ý rằng trong điện trường đồng nhất
các electron luân chuyển xung quanh qua vùng Brillouin với thời gian t0:
0tq
(2.23)
Các kết quả trên dành cho xuyên hầm trực tiếp, trong đó electron chuyển từ
vùng hóa trị tới vùng dẫn mà không bất kỳ sự thay đổi nào về xung lượng. Sử
dụng các phương trình (2.19) - (2.23) thì xác suất xuyên hầm trực tiếp cho
bởi:
28
1/2 3/22
ir ' 0 ir
2exp exp
9 2
ir g
d n n d
m E EP t
q E
(2.24)
Trong đó:
2 2 2( )
4
y zi
r
k kE
m
,
ir
1/2 1/2
d
r g
qE
m E
(2.25)
Nếu khối lượng hiệu dụng của vùng hóa trị và vùng dẫn bằng nhau: m+ = m- =
m* thì xác suất xuyên hầm trong mô hình Kane được chấp nhận trong phép
tính gần đúng WKB với hệ số 2
9
. Với xuyên hầm gián tiếp, một phương
pháp tương tự được thực hiện bởi Kane và Keldysh để cho ra kết quả sau:
5/2 1/2 3/21/2 1/2 3/2 2
15/4 1/2 9/4 3/4 1/2
2( ) (1 2 )exp exp
2 3
i fr gc v TA TA
ind ind
r TA g
m Em m N D E EP
q m E q E
(2.26)
Với mc/mv là mật độ trạng thái khối lượng hiệu dụng vùng dẫn/vùng hóa trị;
là mật độ khối lượng; DTA là hàm thế biến thiên của phonon âm học ngang;
1
exp 1TA
TA
N
kT
là số chiếm của phonon âm học ngang và indE cho bởi:
3/2 1/2 1/22
ind
r g
qE
m E
(2.27)
2.1.3. Thông lượng của electron
Thông lượng của electron qua vòng kín có momen xung lượng vuông góc
giữa k và k dk là tích của vận tốc electron trong không gian vecto sóng
vk, diện tích vòng kín, mật độ trạng thái trong không gian vecto sóng ( )k , và
số trạng thái bị chiếm:
2 ( ) ( )F k v cdN v k dk k F F k dk (2.28)
29
Khi đó vận tốc của electron trong không gian vector sóng k có thể biểu diễn
qua biểu thức:
k
dk qv
dt
(2.29)
Và mật độ trạng thái trong không gian vector sóng:
3( )
8
gk
(2.30)
Với g là hệ số suy biến có giá trị bằng 2.
Thông lượng của electron tới có thể được xác định như sau:
22 ( ) ( )
4F k v c v c
gqdN v k dk k F F F F k dk
(2.31)
Sử dụng mối quan hệ giữa năng lượng vuông góc và vector sóng thì:
2 32
irF v c
gqmdN F F dE
(2.32)
Trong đó Fv và Fc là hàm phân bố Fermi-Dirac trong vùng hóa trị và vùng dẫn
2.1.4. Tốc độ xuyên hầm
Tốc độ xuyên hầm qua vùng cấm (G) được xác định bằng tích phân của
thông lượng electron xuyên hầm dNF nhân với xác suất xuyên hầm P và hệ số
truyền qua chính là số trạng thái trống tại vùng dẫn mà electron có thể lấp đầy
từ vùng hóa trị:
F TG dN P F (2.33)
Thay phương trình tính xác suất xuyên hầm, hệ số truyền qua và thông
lượng của electron tới vào phương trình (2.33) ta thu được biểu thức tính tốc
độ xuyên hầm trực tiếp:
30
1/2 3/2
ir
3 ir
2exp exp
18 2
ir gd ir
BTBT v cd
m Egqm EG F F dE
q E
(2.34)
Mặt khác hàm phân bố Fermi-Dirac được cho bằng:
1
1 exp F
FE E
kT
(2.35)
Xét trường hợp hiệu điện thế nguồn cấp lớn hơn 6kT/q thì hàm phân bố
Fermi-Dirac có thể xem là hàm bước Fv-Fc=1 và do đó biểu thức tính tốc độ
xuyên hầm trực tiếp và gián tiếp được biểu diễn lần lượt như sau:
1/2 3/22 1/2 2ir
2 1/2 ir
2exp 1 exp
36 2
r gd erBTBT d
g
m E Egq mG
E q E
(2.36)
5/2 1/2 3/25/2 3/2 2 5/2ind
31/4 5/2 5/2 5/4 7/4
2( ) (1 2 )exp
2 3
1 exp 1 exp
r gc v TA TABTBT
r TA g
fi
ind ind
m Egq m m N DG
m E q
EE
E E
(2.37)
Nếu bỏ qua số hạng hàng mũ rất nhỏ trong dấu ngoặc của biểu thức (2.36) và
(2.37) thì biểu thức tính tốc độ xuyên hầm trong mô hình Kane có thể viết lại
như sau:
3/2
1/2exp
g
BTBT
g
EG A B
E
(2.38)
Eg là vùng cấm của vật liệu, là điện trường phi định xứ dọc theo vùng xuyên
hầm ở các lớp chuyển tiếp
Đối với xuyên hầm trực tiếp 2 và đối với xuyên hầm gián tiếp 2.5 .
Các tham số vật liệu A và B phụ thuộc khối lượng hiệu dụng của electron và
lỗ trống trong chất bán dẫn.
31
Ứng với xuyên hầm trực tiếp các tham số vật liệu được xác định bởi:
2 1/2
ir 236r
d
gq mA
1/2
ir2
rd
mB
q
(2.39)
Ứng với xuyên hầm gián tiếp các tham số vật liệu được xác định bởi:
5/2 3/2 2
31/4 5/2 5/2 5/4
( ) (1 2 )
2c v TA TA
ind
TA g
gq m m N DA
E
5/2 1/2
ind
2
36rm
Bq
(2.38)
Trong luận văn, vật liệu sử dụng gồm cả silicon (Si) và germanium (Ge)
nhằm chứng minh tính khả thi của cấu trúc cho cả vật liệu vùng cấm lớn (Si)
và vật liệu vùng cấm nhỏ (Ge). Từ các công thức (2.39), (2.40) trên và dựa
vào các tham số vật liệu Si và Ge [29, 30], người ta đã tính các tham số vật
liệu Si và Ge đối với xuyên hầm trực tiếp và xuyên hầm gián tiếp cho các giá
trị tương ứng. Các tham số A và B đối với xuyên hầm gián tiếp trong Si lần
lượt là 1,5x1015 eV1/2/cm1/2.s.V5/2; 22,5x106 V/cm.eV3/2. Các tham số A và B
đối với xuyên hầm gián tiếp trong Ge lần lượt là 6,6x1015 eV1/2/cm1/2.s.V5/2;
11,5x106 V/cm.eV3/2. Các tham số A và B đối với xuyên hầm trực tiếp trong
Ge lần lượt là 1,6x1020 eV2/cm.s.V5/2, 9,5x106 V/cm.eV3/2. Tham số B thường
được sử dụng để hiệu chỉnh với dữ liệu thực nghiệm [31] do tốc độ xuyên
hầm nhạy với tham số B nhiều hơn với tham số A, các tính toán giá trị của
tham số B cho xuyên hầm gián tiếp trong Si, Ge và xuyên hầm trực tiếp trong
Ge phù hợp với các giá trị thực nghiệm, các giá trị thực nghiệm của tham số B
lần lượt là 19-35x106 V/cm.eV3/2 [31, 32], 9,0-9,8 x106 V/cm.eV3/2 [33] và
9,0x106 V/cm.eV3/2 [34].
32
2.2 PHẦN MỀM MÔ PHỎNG MEDICI
MEDICI là một phần mềm mô phỏng hai chiều được phát triển bởi
Synopsys, Inc [35]. Đây là một trong những phần mềm cho phép mô phỏng
trạng thái điện của các linh kiện điện tử bán dẫn như MOS, transistor lưỡng
cực, … tốt nhất và phổ biến nhất hiện nay. Phần mềm mô phỏng MEDICI là
chuỗi chương trình tiến hành giải tự hợp các phương trình Poison, phương
trình liên tục, phương trình Boltzman để phân tích linh kiện điện tử và các
hiệu ứng điện xảy ra trong các linh kiện. Phần mềm mô phỏng đưa ra các đặc
tính điện của các linh kiện TFET gồm: mật độ hạt dẫn, dòng điện, thế năng,
năng lượng, ... Các mẫu và tham số vật lý thích hợp cho từng vật liệu sẽ được
phân tích bằng phần mềm mô phỏng hai chiều MEDICI.
Việc giải phương trình Poisson sau đây có thể xác định được sự phân bố thế
năng ở linh kiện tranzito:
2 ( )D A Sq p n N N (2.41)
Với là hằng số điện môi tĩnh trong chất bán dẫn, là toán tử Plapce, S là
mật độ điện tích bề mặt, p và n lần lượt là mật độ lỗ trống và điện tử, ,D AN N là
nồng độ tạp chất bị ion hóa.
Mật độ hạt dẫn (điện tử và lỗ trống) ở trong công thức (2.41) được xác định
bằng việc giải phương trình liên tục sau:
1. ( ) ( , , )n n n n
nJ U G F n p
t q
(2.42)
1. ( ) ( , , )p p p p
pJ U G F n p
t q
(2.43)
Với là thế Fermi nội ( int ), Un và Up lần lượt là tốc độ tái tổ hợp của
mật độ điện tử và lôc trống, Gn và Gp lần lượt là tốc độ phát sinh của mật độ
điện tử và lỗ trống, ,n pJ J lần lượt là mật độ dòng trôi của điện tử và lỗ trống.
33
Mật độ dòng điện tử và mật độ dòng lỗ trống trong công thức (2.42) và (2.43)
được xác định theo nguyên lý vận chuyển Boltzmann. Phương trình
Boltzmann xác định mật độ dòng:
n n nJ q n (2.44)
p p pJ q p
(2.45)
Với ,n p là thế giả Fermi của điện tử và lỗ trống
Ngoài ra, mật độ dòng điện tử và mật độ dòng lỗ trống còn được xác định bởi:
n n n nJ q E n qD n (2.46)
p p p pJ q E p qD p
(2.47)
Với ,n p là độ linh động của điện tử và lỗ trống; Dn và Dp là hiệu suất
khuếch tán của điện tử và lỗ trống.
Thực hiện chương trình mô phỏng hai chiều đặc tính điện của TFET với
mục đích so sánh sự khác biệt về cơ chế hoạt động của TFET pha tạp bất đối
xứng và TFET pha tạp đối xứng. Chúng tôi tiến hành viết chương trình mô
phỏng cho mỗi cấu trúc linh kiện sau khi đã phác họa cấu trúc linh kiện cần
mô phỏng. Đầu tiên, chúng tôi tạo khung cho cấu trúc để xác định rõ chiều
dài, chiều rộng, chiều sâu của cấu trúc linh kiện. Tiếp theo, chúng tôi xác định
các vùng vật liệu gồm vùng kim loại, oxit, chất bán dẫn và xác định các điện
cực gồm các khu vực cực nguồn, cực máng và cực cổng trong linh kiện. Đồng
thời, chúng tôi thực hiện khai báo nồng độ pha tạp cho từng miền. Sau đó,
chúng ta thực hiện khai báo mẫu vật lý để đảm bảo tính chính xác khi mô
phỏng đặc tính điện của tranzito trường xuyên hầm. Cuối cùng, tùy vào mục
đích khảo sát linh kiện chúng tôi sẽ khai báo khoảng điện thế cổng, điện thế
máng thích hợp. Chúng tôi thực hiện xuất file và lưu file trong thư mục thích
hợp. Sau khi viết xong chương trình mô phỏng, chúng tôi thực hiện chạy
chương trình để thu được kết quả như phác họa cấu trúc linh kiện, đặc tính
34
dòng- thế, giản đồ năng lượng, … và sử dụng phần mềm thích hợp để biểu
diễn kết quả thu được. Từ các kết quả đó chúng tôi có thể phân tích, đánh giá
và so sánh các đặc tính điện của các TFET pha tạp bất đối xứng và đối xứng.
Cần chú ý, để tạo một cấu trúc mô phỏng ban đầu yêu cầu các câu lệnh trong
viết chương trình phải đúng thứ tự. Nếu thay đổi thứ tự câu lệnh sẽ dẫn đến
thay đổi kết quả. Điều đó yêu cầu người viết chương trình phải hiểu các đặc
điểm kỹ thuật cấu trúc linh kiện tương ứng với các câu lệnh trong chương
trình mô phỏng.
35
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
Do hoạt động theo cơ chế xuyên hầm qua vùng cấm nên độ dốc dưới
ngưỡng của TFET nhỏ hơn rất nhiều so với giới hạn độ dốc dưới ngưỡng của
MOSFET (60mV/decade). Ngoài ra, một trong những vấn đề khác được quan
tâm là việc thu nhỏ kích thước TFET xuống dưới 10nm mà không bị ảnh
hưởng bởi hiệu ứng kênh ngắn đã được nghiên cứu bởi nhiều nhà khoa học.
Vậy nên, TFET là linh kiện thích hợp để thay thế MOSFET trong các mạch
tích hợp công suất thấp. Tuy nhiên, dòng xuyên hầm trong TFET xảy ra tại cả
chuyển tiếp nguồn-kênh và chuyển tiếp máng-kênh, nên cấu trúc TFET p-i-n
đặc trưng luôn tồn tại dòng lưỡng cực không mong muốn. Dòng lưỡng cực là
bất lợi vì nó dẫn đến dòng xuyên hầm ở trạng thái tắt cao, ảnh hưởng không
tốt đến đặc tính tắt-mở của linh kiện. Bên cạnh đó, cơ chế xuyên hầm qua
vùng cấm khiến dòng mở của TFET thấp hơn nhiều so với MOSFET do xác
suất xuyên hầm là tương đối nhỏ. Dòng mở thấp làm cho việc ứng dụng
TFET vào trong các mạch tích hợp thực tế trở nên khó khăn hơn. Vì vậy, việc
nghiên cứu giảm kích thước linh kiện TFET nhưng vẫn đảm bảo nâng cao
dòng mở và triệt tiêu dòng lưỡng cực là một lĩnh vực thu hút nhiều sự quan
tâm. Do đó, người ta đã đề xuất nhiều kỹ thuật khác nhau liên quan đến cả cấu
trúc và vật liệu. Vì dòng xuyên hầm trong TFET được quyết định bởi xác suất
xuyên hầm và diện tích xuyên hầm nên các kỹ thuật đưa ra phải liên quan đến
ít nhất một trong ba tham số: độ cao, độ rộng và diện tích rào xuyên hầm. Mặt
khác, dòng mở là dòng xảy ra tại chuyển tiếp nguồn-kênh, trong khi đó dòng
rò xảy ra tại chuyển tiếp máng-kênh. Vậy nên, đây là ý tưởng ra đời của
TFET pha tạp đối xứng được phác họa như hình 3.1.
Trong mục này, luận văn sẽ tìm hiểu về cấu trúc tổng thể của TFET pha
tạp đối xứng. Đồng thời nghiên cứu sự ảnh hưởng của nồng độ pha tạp và các
thông số về cấu trúc linh kiện đến hiệu suất của TFET pha tạp đối xứng. Từ
đó, dựa trên kết quả nghiên cứu, luận văn giới thiệu về TFET có cấu trúc chữ
Y, một loại linh kiện có khả năng thu nhỏ kích thước trong khi vẫn giữ được
các ưu điểm của cấu trúc pha tạp đối xứng. Các kết quả nghiên cứu trong
36
phần này có được bằng cách sử dụng phần mềm mô phỏng linh kiện hai chiều
đã được giới thiệu ở chương 2.
3.1. CẤU TRÚC LINH KIỆN VÀ CƠ CHẾ HOẠT ĐỘNG
Như đã phân tích ở trên, nhiệm vụ quan trọng nhất của các nghiên cứu về
TFET là phải nâng cao dòng mở nhưng vẫn duy trì dòng rò lưỡng cực và độ
dốc dưới ngưỡng hợp lý. Trong mục này, luận văn sẽ tìm hiểu về cấu trúc
TFET pha tạp đối xứng được sử dụng để cải thiện dòng mở và triệt tiêu dòng
lưỡng cực. Để chứng minh cho vấn đề này, trong luận văn đã so sánh các đặc
tính điện của cấu trúc này với cấu trúc pha tạp không đối xứng đặc trưng.
Hình 3.1 phác họa sơ đồ cấu trúc TFET (a) pha tạp bất đối xứng và (b)
pha tạp đối xứng. Cả hai linh kiện đều có cấu trúc tương đồng và dựa trên cơ
chế xuyên hầm điểm đặc trưng để thuận lợi cho việc làm rõ bản chất vật lý và
thiết kế cấu trúc linh kiện. Bởi vì Silicon (Si) và Gemani (Ge) có quy trình sản
xuất tương đồng nhau, nên trong nghiên cứu, đầu tiên Si được áp dụng ở cấu
trúc TFET pha tạp đối xứng. Sau đó, Si được thay thế bằng chất bán dẫn Ge
có vùng cấm thấp để nâng cao dòng mở cho linh kiện.
Với cả hai linh kiện ở hình 3.1, cực nguồn được pha tạp nặng với nồng độ
cố định 1020 cm-3, còn cực máng có nồng độ thay đổi phù hợp với từng mục
đích nghiên cứu sẽ được trình bày trong phần 3.2. Biên dạng pha tạp Gausian
với độ dốc thực tế 2 nm/decade đã được sử dụng và các lớp chuyển tiếp giữa
cực nguồn và cực máng được giả định là gián đoạn. Khu vực kênh được pha
tạp thấp có nồng độ 1017 cm-3. Trừ phần 3.5 nghiên cứu về hiệu ứng cổng
ngắn, chiều dài của cực cổng được thay đổi để phù hợp với mục đích nghiên
cứu, trong các nghiên cứu khác của luận văn này, cực cổng có chiều 120 nm
được chọn để loại trừ các hiệu ứng cổng ngắn có thể gây khó khăn trong việc
nghiên cứu đặc tính vật lý và thiết kế các thông số khác của linh kiện. Lớp
oxit cổng sử dụng vật liệu có hằng số điện môi cao là HfO2 và có bề dày vật lý
3 nm. Sở dĩ phải chọn bề dày lớp oxit cổng như vậy nhằm đảm bảo dòng
xuyên hầm ở cực cổng nhỏ hơn dòng rò nhiệt của linh kiện [36]. Bên cạnh đó,
độ dày lớp oxit tương đương (Equivalent oxide thickness (EOT)) mỏng là
0.56 nm để cải thiện dòng xuyên hầm [37]. Bề dày lớp EOT chỉ mỏng hơn
37
một ít so với bề dày lớp EOT được sử dụng cho các công nghệ FinFET dưới
10 nm trong công nghiệp (Bề dày EOT khoảng 0.6 – 0.7 nm). Tất cả các mô
(a) Conventional Asymmetrically Doped TFET
Source Drain
Gate
n p i
Buried Oxide
Semiconductor
(b) Proposed Symmetrically Doped TFET
Source
Gate
Source
Drain
n
p p i
Buried Oxide Buried Oxide
Semiconductor
Hình 3.1. phác họa sơ đồ cấu trúc TFET (a) pha tạp bất đối xứng
và (b) pha tạp đối xứng.
38
phỏng trong luận văn này, hàm công của cổng có giá trị 4.3 eV. Đặc biệt, cấu
trúc linh kiện gồm chất bán dẫn trên một lớp cách điện (semiconductor-on-
insulator (SOI)) trong đó độ dày lớp chất bán dẫn bằng 20 nm sẽ cho dòng mở
tối đa [38] và giảm thiểu các ảnh hưởng của sự uốn cong bởi dải hóa trị và dải
dẫn gây ra bởi hiệu ứng giam giữ lượng tử làm suy giảm dòng xuyên hầm
trong TFET [39]. Để hiểu hơn về ảnh hưởng của độ dày thân đến đặc tính
điện của linh kiện, ta tìm hiểu về sự thay đổi của dòng mở và mật độ dòng
trung bình khi thay đổi độ dày lớp Si. Đồng thời tìm hiểu ảnh hưởng của hiệu
ứng giam giữ lượng tử khi thay đổi độ dày thân linh kiện được thể hiện trong
hình 3.2.
Hình 3.2(a) cho thấy, khi độ dày lớp bán dẫn Si (TSi) rất mỏng thì dòng
mở của DG-TFET rất thấp (khoảng 160 /A m tại TSi=5 nm). Dòng mở thấp
là do giới hạn của thể tích Si tại nơi xảy ra xuyên hầm. Bên cạnh đó, khi độ
dày lớp bán dẫn Si tăng, thể tích vùng xuyên hầm tăng, dẫn đến dòng mở gần
như tăng tuyến tính với độ dày lớp bán dẫn Si cho đến khi TSi đạt 10 nm. Bởi
vì, khi độ dày lớp bán dẫn nhỏ hơn 10 nm thì hai cực cổng liên kết mạnh và
cực cổng điều khiển hiệu quả lên vùng trung tâm của thân Si (tức là TSi/2).
Ngoài ra khi độ dày lớp bán dẫn Si tăng hơn 10nm, dòng mở vẫn tăng nhưng
với tốc độ chậm hơn nhiều. Điều này thể hiện sự liên kết giữa cổng và kênh
mạnh khi TSi nhỏ hơn 10 nm và yếu hơn khi TSi lớn hơn 10 nm. Bên cạnh đó,
khi độ dày lớp bán dẫn Si bằng 20 nm thì dòng mở đạt cực đại chứng tỏ cực
cổng điều khiển mạnh lên vùng trung tâm của lớp bán dẫn Si. Tuy nhiên, khi
độ dày lớp bán dẫn Si lớn hơn 20 nm thì dòng mở bắt đầu giảm xuống nếu độ
dày lớp bán dẫn tiếp tục tăng do sự liên kết giữa cổng và kênh yếu hơn nhiều.
Hình 3.2(a) cũng thể hiện, mật độ dòng trung bình Jave tăng khi độ dày lớp bán
dẫn Si tăng và đạt cực đại tại TSi=10 nm. Như vậy, dòng mở cực đại và mật
độ dòng trung bình cực đại không xảy ra cùng một giá trị của độ dày thân Si
[38]. Đồng thời quan sát hình 3.2(b) ta thấy, ảnh hưởng của hiệu ứng giam
giữ lượng tử giảm khi độ dày thân tăng. Đặc biệt tại độ dày thân bằng 20 nm
thì độ lệch các năng lượng vùng cấm của vật liệu (band offset) trong linh
39
kiện gần như bằng không do đó tối ưu hóa dòng xuyên hầm [39]. Như vậy độ
dày thân tối ưu trong nghiên cứu này được chọn là 20 nm như đã nói ở trên.
(a)
0 4 8 12 16 200.0
0.2
0.4
0.6
0.8
1.0
Ba
nd
Off
set
(eV
)
Body Thickness (nm)
(b)
Quantum Confinement
Effect in Thin Body TFET
Material: SiGe
Hình 3.2. (a) Đồ thị biểu diễn sự phụ thuộc của dòng mở (ION) và mật độ dòng
trung bình (Jave) vào độ dày của lớp Si [38] và (b) ảnh hưởng của độ dày thân
đến hiệu ứng giam giữ lượng tử trong TFET thân mỏng [39].
40
Để khảo sát dòng dẫn trong linh kiện TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng,
ta so sánh đặc tính dòng thế của linh kiện này với TFET có cấu trúc pha tạp
không đối xứng được hiển thị trong hình 3.3. Ở đây cả hai linh kiện ta khảo
0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-18
10-16
10-14
10-12
10-10
10-8
10-6
Gate-to-Source Voltage (V)
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Si-TFETs
Vds = 1 V
Open : Asymmetric
Solid : Symmetric
(a)
0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.20
1
2
3
4
5
6
7
Gate-to-Source Voltage (V)
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Si-TFETs
Vds = 1 V
Open : Asymmetric
Solid : Symmetric
(b)
Hình 3.3. Đặc tính dòng-thế của TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng và bất
đối xứng sử dụng vật liệu Si (a) theo thang đo logaric và (b) theo thang đo
tuyến tính.
41
sát đều sử dụng Si vì Si là chất bán dẫn truyền thống, thông dụng nhất và có
độ rộng vùng cấm lớn. Trong nghiên cứu này, để triệt tiêu dòng lưỡng cực,
cực máng ở cả hai linh kiện được pha tạp với nồng độ trung bình 1019 cm-3.
Quan sát hình 3.3(a) ta thấy, dòng mở ở cả hai linh kiện đều tăng tuyến tính.
Bên cạnh đó, hình 3.3(b) thể hiện dòng mở của TFET pha tạp đối xứng gấp
đôi dòng mở trong TFET pha tạp không đối xứng. Dòng mở của TFET pha
tạp đối xứng được tăng cường là do trong TFET pha tạp đối xứng có thêm
một nguồn bổ sung tạo ra từ tính đối xứng của nó. Để hiểu hơn về sự gia tăng
của dòng mở trong TFET pha tạp đối xứng, quan sát giản đồ năng lượng theo
phương ngang ở trạng thái tắt và trạng thái mở của hai linh kiện được thể hiện
như hình 3.4.
Đối với TFET có cấu trúc pha tạp bất đối xứng, khi đặt điện áp cổng-
nguồn cao để thiết lập trạng thái mở cho linh kiện thì giản đồ vùng năng
lượng bị uốn cong và hạ thấp xuống. Do đó, rào cản xuyên hầm tại lớp
chuyển tiếp nguồn kênh ở phía bên trái bị thu hẹp lại như hình 3.4(a), dẫn đến
xuất hiện dòng xuyên hầm trong TFET. Cơ chế này xảy ra tương tự đối với
TFET pha tạp đối xứng được thể hiện ở hình 3.4(b). Tuy nhiên, ở TFET pha
tạp đối xứng có hai khu vực chuyển tiếp xuyên hầm giống hệt nhau phía bên
trái và bên phải. Tại mỗi khu vực chuyển tiếp xuyên hầm trong TFET pha tạp
đối xứng đều được điều khiển bởi điện áp cổng tương tự như khu vực chuyển
tiếp xuyên hầm ở TFET pha tạp bất đối xứng. Mặc dù hướng xuyên hầm tại
các rào cản ở các lớp chuyển tiếp bên trái và bên phải ngược nhau, nhưng các
electron tự do được tạo ra ở hai chuyển tiếp đều di chuyển vào vùng kênh đến
vùng máng. Do đó số lượng các electron tự do được hình thành trong vùng
kênh đối với TFET đối xứng tăng gấp hai lần so với trong TFET bất đối xứng.
Do đó dòng mở tăng gấp đôi khi chuyển từ cấu trúc pha tạp bất đối xứng sang
cấu trúc pha tạp đối xứng. Ngoài ra cần lưu ý rằng, TFET pha tạp đối xứng có
hai phân cực ngược nên tương tự như cơ chế tăng của dòng mở thì ở trạng
thái tắt, dòng lưỡng cực của TFET pha tạp đối xứng cũng sẽ lớn gấp đôi so
với dòng lưỡng cực của TFET pha tạp không đối xứng. Mặc dù tỷ lệ dòng mở
và dòng rò ở cả hai linh kiện không thay đổi, nhưng ở TFET pha tạp đối xứng
sự tăng cường của dòng mở là rất đáng kể, trong khi sự gia tăng của
42
dòng rò là vô hại do nó vẫn nhỏ hơn nhiều so với dòng rò ở các transistor
công suất thấp.
-40 0 40 80 120 160-2.5
-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Source (nm)
Tunneling
: On-State
: Off-State
Asymmetric
Vds = 1 V
So
urc
e
(a)
Si-TFET
Dra
in
-40 0 40 80 120 160-2.5
-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
1.0
1.5
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Left Source (nm)
Tunneling
: On-State
: Off-State
Symmetric
Vds = 1 V
So
urc
e
(b) Si-TFET
So
urc
e
Hình 3.4. Giản đồ năng lượng theo phương ngang ở trạng thái mở và trạng
thái tắt của TFET (a) pha tạp bất đối xứng và (b) pha tạp đối xứng.
43
3.2. NÂNG CAO ĐẶC TÍNH HOẠT ĐỘNG CỦA TFET ĐỐI XỨNG
Ở trạng thái mở, điện áp máng-nguồn VDS = VON - VONSET = 1 V thì các Si-
TFET được trình bày ở trên có dòng mở rất thấp (dưới 100 /nA m ). Trong đó,
VON là điện áp mở, VONSET là điện áp khởi động, VONSET được định nghĩa là
điện áp cổng mà dòng xuyên hầm bắt đầu cao hơn so với dòng rò được tạo ra
bởi các dòng trôi của các hạt tải điện thiểu số. Như đã phân tích trước đó, việc
tăng dòng mở và giảm dòng rò là vấn đề quan trọng khi ứng dụng linh kiện
TFET vào các mạch điện trong thực tế. Khi độ rộng vùng cấm giảm thì xác
suất xuyên hầm tăng lên theo cấp số nhân. Vậy nên, sử dụng vật liệu có vùng
cấm thấp được xem là một trong những phương pháp hiệu quả để tăng cường
dòng mở của TFET. Vật liệu vùng cấm thấp giúp mở rộng cửa sổ xuyên hầm
phía cực nguồn hai trạng thái mở, đồng thời cũng mở rộng cửa sổ xuyên hầm
phía cực máng ở trạng thái tắt. Vậy nên, vật liệu vùng cấm thấp là nguyên
nhân làm cho dòng lưỡng cực tăng đáng kể [40]. Tuy nhiên vấn đề về dòng
lưỡng cực khi sử dụng vật liệu có vùng cấm thấp đã được khắc phục bằng
nhiều kỹ thuật đã được nghiên cứu. Do đó, hiện nay vật liệu có vùng cấm thấp
đã được sử dụng rộng rãi trong TFET. Bên cạnh đó, sử dụng vật liệu có vùng
cấm thấp cũng dẫn đến những bất lợi khác về cấu trúc và hoạt động của linh
kiện [23, 40, 41]. Trong mục này, luận văn sẽ nghiên cứu ảnh hưởng của nồng
độ pha tạp máng và các thông số về cấu trúc linh kiện đến đặc tính điện của
TFET pha tạp đối xứng sử dụng vật liệu có vùng cấm thấp. Vật liệu có vùng
cấm thấp được sử dụng trong nghiên cứu này là Ge, vì Ge cũng là một chất
bán dẫn phổ biến. Ngoài ra công nghệ chế tạo Ge-TFET cũng tương đồng với
công nghệ chế tạo Si-TFET.
3.2.1. Ảnh hưởng của nồng độ pha tạp máng
Vì dòng mở và dòng rò phụ thuộc rất nhiều vào nồng độ pha tạp của cực
máng, nên sử dụng các giá trị pha tạp của nồng độ cực máng phù hợp sẽ mang
lại kết quả cải thiện được cả dòng mở và dòng rò. Nồng độ pha tạp cực máng
phù hợp với mục đích như trên được chứng minh nằm trong khoảng 5x1018
cm-3 đến 5x1019 cm-3, nếu nồng độ pha tạp cao hơn có thể gây ra dòng rò
lưỡng cực (ambipolar current) nghiêm trọng, trong khi đó nồng độ pha tạp
44
thấp hơn có thể làm suy giảm dòng mở [42]. Trong mô phỏng ở hình 3.5, cực
máng được pha tạp với nồng độ 5x1019 cm-3, 1x1019 cm-3, 0.5x1019 cm-3 để thu
được các kết quả thích hợp mà không ảnh hưởng bởi các nguyên nhân trên.
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Ge-TFETs
Vds = 1 V
Asymmetric
Drain Concentration:
5, 1, 0.5 × 1019 cm-3
(a)
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Ge-TFETs
Vds = 1 V
Symmetric
Drain Concentration:
5, 1, 0.5 × 1019 cm-3
(b)
Hình 3.5. Biểu diễn đặc tính dòng-thế của TFET dựa trên Ge có vùng cấm
thấp (Ge-TFET) có cấu trúc (a) pha tạp bất đối xứng và (b) pha tạp đối xứng.
45
Quan sát hình 3.5, chúng ta thấy khi nồng độ pha tạp cực máng tăng, dòng rò
tăng vì nồng độ pha tạp cực máng cao sẽ làm cho rào cản xuyên hầm hẹp hơn.
Tuy nhiên, dòng rò lưỡng cực trong TFET pha tạp đối xứng vẫn nhỏ hơn
nhiều so với dòng rò trong TFET pha tạp không đối xứng ở cùng mức pha tạp
cực máng. Đồng thời, dòng mở không thay đổi khi nồng độ pha tạp cực máng
tăng và ở mức 410 /A m . Mặc khác, dòng mở trong Ge-TFET lại tăng ba
bậc độ lớn so với dòng mở trong Si-TFET được hiển thị trên hình 3.3 đã khảo
sát ở phần trên (đối với Si-TFET dòng điện mở đạt giá trị 710 /A m , còn đối
với Ge-TFET dòng điện mở đạt giá trị 410 /A m ). Bên cạnh đó, độ dốc dưới
ngưỡng trong Ge-TFET cũng giảm 7 mV/decade so với Si-TFET (đối với Si-
TFET độ dốc dưới ngưỡng đạt giá trị 63 mV/decade, còn đối với Ge-TFET độ
dốc dưới ngưỡng đạt giá trị 56 mV/decade). Tuy nhiên, độ dốc dưới ngưỡng
của Ge-TFET được xác định tại vùng có dòng xuyên hầm cao nằm trong
khoảng từ 10-12 đến 710 /A m còn độ dốc dưới ngưỡng của Si-TFET được
xác định tại vùng dòng xuyên hầm thấp nằm trong khoảng từ 10-15 đến
1010 /A m . Vì dòng mở cao trong Ge-TFET sẽ cho phép xác định điện áp
ngưỡng bằng phương pháp dòng không đổi ở mức 710 /A m , tương tự như
điện áp ngưỡng được xác định trong MOSFET [43]. Bên cạnh đó hình 3.5
cũng cho thấy, điện áp ngưỡng của Ge-TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng là
0.34 eV, còn đối với Ge-TFET có cấu trúc pha tạp bất đối xứng là 0.36 eV.
Như vậy điện áp ngưỡng của cả hai cấu trúc gần bằng nhau. Trong hình 3.5(b)
thể hiện sự thay đổi phía âm rất nhỏ của điện áp ngưỡng đơn giản là do dòng
xuyên hầm tăng. Nếu không muốn điện áp ngưỡng thay đổi âm chúng ta có
thể dựa vào hàm công của cực cổng để điều khiển độ lớn của nó. Điều chúng
ta cần chú ý không phải điện áp ngưỡng âm hay dương mà quan trọng là dòng
mở của Ge-TFET đối xứng. Quan sát hình 3.5, dòng mở của Ge-TFET pha
tạp đối xứng vẫn lớn hơn hai lần so với dòng mở của Ge-TFET pha tạp bất
đối xứng. Điều này cho thấy có thể kết hợp giữa cấu trúc pha tạp đối xứng và
vật liệu có vùng cấm thấp để cải thiện cả dòng mở, dòng rò và độ dốc dưới
ngưỡng của linh kiện.
46
Như đã đề cập ở trên, dòng lưỡng cực ở trạng thái tắt trong mỗi cấu trúc
TFET đều tăng lên khi tăng nồng độ pha tạp cực máng. Để giải thích rõ hơn
-40 -30 -20 -10 0 10 20-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Drain (nm)
Asymmetric
Vgs = -0.2 V
Tunneling
Drain
(a)
Ge-TFETs
-50 -40 -30 -20 -10 0 10-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Drain (nm)
Symmetric
Vgs = -0.2 V
Tunneling
Drain
(b)
Ge-TFETs
Ga
te-O
xid
e
Hình 3.6. Giản đồ vùng năng lượng ở trạng thái tắt của TFET (a) pha tạp bất
đối xứng và (b) pha tạp đối xứng.
47
cho vấn đề này ta quan sát giản đồ năng lượng ở trạng thái tắt của các TFET
được thể hiện trong hình 3.6.
Để giải thích cho sự khác nhau của dòng xuyên hầm ở trạng thái tắt trong hai
cấu trúc TFET pha tạp đối xứng và pha tạp bất đối xứng, chúng ta khảo sát
giản đồ năng lượng của chúng khi mức pha tạp cực máng bằng 1019 cm-3.
Hình 3.6(a) cho thấy, khoảng cách xuyên hầm từ vị trí chuyển tiếp cực máng
đến lớp oxit cổng của TFET pha tạp bất đối xứng gần do đó điện trường do
cực cổng tạo ra tác động lên lớp chuyển tiếp mạnh, điều này gây ra sự bẻ cong
của dải năng lượng tại vùng chuyển tiếp và do đó bề rộng rào xuyên hầm hẹp
lại. Còn đối với TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng được hiển thị trong hình
3.6(b), khoảng cách từ vị trí chuyển tiếp cực máng đến lớp oxit cổng xa hơn,
nên sự bẻ cong giản đồ năng lượng ít dốc hơn, do đó bề rộng rào xuyên hầm
rộng hơn. Do đó dòng rò trong TFET pha tạp bất đối xứng lớn hơn so với
dòng rò trong TFET pha tạp đối xứng. Như vậy, bằng cách thiết kế cực máng
xa cực cổng sẽ triệt tiêu được dòng lưỡng cực không mong muốn trong TFET.
3.2.2. Ảnh hưởng của khoảng cách từ cực máng đến cực cổng
Do xác suất xuyên hầm tăng theo cấp số nhân khi giảm bề rộng vùng cấm
(được coi là chiều cao rào cản tại lớp chuyển tiếp), nên vật liệu vùng cấm thấp
đã sớm được đề xuất để tăng dòng dẫn của các TFET. Như đã khảo sát ở trên,
khi sử dụng vật liệu vùng cấm thấp Ge thay thế cho vật liệu vùng cấm cao Si
trong các TFET thì dòng mở tăng ba bậc độ lớn. Dòng xuyên hầm trong
TFET được đóng góp bởi quá trình xuyên hầm trực tiếp và cả quá trình xuyên
hầm gián tiếp của chất bán dẫn, cả Si và Ge đều là các chất bán dẫn có vùng
cấm gián tiếp vậy tại sao dòng xuyên hầm trong TFET khi sử dụng lần lượt
hai vật liệu này lại có sự khác nhau. Để hiểu rõ hơn về điều này chúng ta dựa
vào cơ chế tạo ra dòng xuyên hầm trong TFET của Si và Ge. Đối với Si, dòng
xuyên hầm trong TFET hầu như chỉ được đóng góp bởi dòng xuyên hầm gián
tiếp vì vùng cấm trực tiếp (3.4 eV) rất lớn so với vùng cấm gián tiếp (1.12
eV). Quan sát hình 3.7(a), xác suất của xuyên hầm trực tiếp lại lớn hơn nhiều
so với xuyên hầm gián tiếp, trong Ge-TFET dòng xuyên hầm được ra bởi quá
trình xuyên hầm trực tiếp vì sự chênh lệch giữa vùng cấm trực tiếp
48
(0.8 eV) và vùng cấm gián tiếp (0.66 eV) là khá nhỏ. Bên cạnh đó hình 3.7(a)
còn cho thấy, sự xuyên hầm gián tiếp xảy ra trước sự xuyên hầm trực tiếp.
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Ge-TFET
Vds = 1 V
(a)
Solid Line: Direct Tunneling
Dash Line: Indirect Tunneling
Circle: Total (Direct + Indirect)
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urren
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Symmetric Ge-TFETs
Increase Distance from
Drain to Gate-Oxide:
Ldg = 40, 50, 60, 70 nm
(a)
Drain Concentration: 5×1019 cm-3
Hình 3.7. (a) Biểu diễn các đường xuyên hầm trực tiếp và gián tiếp trong Ge-
TFET và (b) đặc tính dòng-thế của TFET pha tạp đối xứng dựa trên Ge với
khoảng cách cổng-máng khác nhau.
49
Điều này trực tiếp tác động đến độ dốc dưới ngưỡng và gián tiếp tác động đến
dòng điện mở của Ge- TFET.
Như chúng ta đã phân tích ở trên, khi ở trạng thái tắt, điện trường do cực
cổng tạo ra tác động mạnh lên lớp chuyển tiếp máng-kênh gây ra sự bẻ cong
của dải năng lượng, dẫn đến sự thu hẹp của bề rộng rào xuyên hầm, do đó
dòng lưỡng cực tăng. Vậy muốn giảm dòng lưỡng cực chúng ra phải tìm cách
làm giảm sự bẻ cong của dải năng lượng ở trạng thái tắt hay nói cách khác là
làm cho điện trường tác động lên lớp chuyển tiếp tại cực máng yếu đi. Vì
dòng rò lưỡng cực là dòng di chuyển từ cực máng qua vùng kênh nên dòng rò
lưỡng cực có thể được giảm bằng cách thiết kế phù hợp khoảng cách từ cực
máng đến cực cổng. Vậy khoảng cách giữa cực máng và cực cổng như thế
nào là phù hợp chúng ta tìm hiểu về đặc tính dòng-thế của hai linh kiện được
thể hiện trong hình 3.7(b).
Trong mô phỏng để loại bỏ sự suy giảm của dòng mở do pha tạp cực
máng thấp, thì nồng độ pha tạp cực máng của TFET pha tạp đối xứng được
chọn ở mức 5x1019 cm-3 (giá trị pha tạp này được sử dụng cho các nghiên cứu
ở các phần tiếp theo trong luận văn này). Quan sát hình 3.7(b) ta thấy, dòng rò
lưỡng cực có thể giảm đáng kể khi tăng khoảng cách từ cực máng đến cực
cổng, trong khi đó dòng mở hầu như không thay đổi. Điều này được làm rõ
trong giản đồ năng lượng hình 3.8. Quan sát hình 3.8, bề rộng xuyên hầm khi
khoảng cách giữa cực máng và cực cổng Ldg=70 nm lớn hơn nhiều so với khi
Ldg=40 nm. Vì khi khoảng cách giữa cực máng và cực cổng tăng, điện trường
theo phương thẳng đứng giảm dần, nghĩa là điện thế tại cực máng yếu. Điều
này dẫn đến sự bẻ cong dải năng lượng giảm nên giản đồ năng lượng khi
khoảng cách giữa cực máng và cực cổng Ldg=70 nm ít dốc hơn so với khoảng
cách giữa cực máng và cực cổng Ldg=40 nm. Vì thế, dòng lưỡng cực trong
TFET pha tạp đối xứng có khoảng cách từ cực máng đến cổng bằng 70 nm
(Ldg=70 nm) nhỏ hơn rất nhiều so với TFET có khoảng cách từ cực máng đến
cổng bằng 40 nm (Ldg=40 nm). Từ kết quả này cho thấy, dòng rò lưỡng cực
được triệt tiêu bằng cách tăng khoảng cách từ cực máng đến cực cổng. Và khi
50
khoảng cách này tăng lên ít nhất đến 70 nm thì đặc tính dòng lưỡng cực vẫn
được chấp nhận để tạo thuận lợi cho việc thiết lập trạng thái mở của linh kiện.
0 20 40 60 80-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Gate-Oxide (nm)
Vgs = -0.2V
Drain
(a) Symmetric Ge-TFET
Ga
te-O
xid
e
Tunnel
Width
Ldg = 40 nm
0 20 40 60 80-2.0
-1.5
-1.0
-0.5
0.0
0.5
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Gate-Oxide (nm)
Vgs = -0.2V
(b)
Symmetric Ge-TFET
Ga
te-O
xid
e
Ldg = 70 nm
Tunnel
Width
Dra
in
Hình 3.8. Giản đồ năng lượng của Ge-TFET đối xứng ở trạng thái tắt
với khoảng cách từ cực máng đến cực cổng khác nhau (a) Ldg=40 nm
và (b) Ldg=70 nm.
51
Mặc dù hiệu suất của TFET pha tạp đối xứng đã được cải thiện rất nhiều
bằng cách thiết kế phù hợp một số yếu tố của linh kiện như được trình bày ở
trên. Nhưng các nghiên cứu chi tiết hơn về thiết kế linh kiện nên được thực
hiện vì cả dòng mở và dòng rò của nó đều được nghiên cứu theo các cách
khác nhau so với TFET có cấu trúc pha tạp không đối xứng thông thường. Sự
ảnh hưởng của các tham số cấu trúc đến hiệu suất linh kiện sẽ được nghiên
cứu cẩn thận để đưa ra các hướng dẫn đầy đủ cho việc thiết kế TFET pha tạp
đối xứng. Trong tất cả các nghiên cứu của các phần sau đều sử dụng Ge có
vùng cấm thấp và khoảng cách từ cực máng đến cực cổng được đặt ở 70 nm
để triệt tiêu tối đa dòng lưỡng cực như đã tìm hiểu ở trên.
3.3. HIỆU ỨNG CHUYỂN TIẾP CỰC MÁNG HẸP
Ở phần cấu trúc linh kiện, độ dày thân của TFET pha tạp đối xứng được
chọn bằng 20 nm để tối ưu dòng mở như đã trình bày ở phần 3.1. Trong khi
đó, khoảng cách từ cực máng đến cực cổng là 70 nm để triệt tiêu dòng lưỡng
cực. Cho nên để thiết kế hợp lý cấu trúc linh kiện thì một trụ lớp chuyển tiếp
máng-kênh được phát triển ở trung tâm của linh kiện. Đương nhiên, một câu
hỏi được đặt ra là chiều rộng của trụ đó có ảnh hưởng đến đặc tính điện của
TFET hay không. Để trả lời cho câu hỏi này, chúng ta sẽ tìm hiểu đặc tính
dòng-thế của TFET pha tạp đối xứng với chiều rộng chuyển tiếp cực máng
(Wd) khác nhau được thể hiện trên hình 3.9(a). Quan sát hình 3.9(a), khi chiều
rộng chuyển tiếp cực máng giảm, dòng rò tăng và dòng mở giảm nghĩa là
chuyển tiếp cực máng hẹp sẽ làm suy giảm cả dòng mở và dòng rò. Bên cạnh
đó, hình 3.9(b) cho thấy giản đồ năng lượng của TFET có chiều rộng chuyển
tiếp cực máng Wd=5 nm bị uốn cong ít hơn so với TFET có Wd=40 nm nên
chiều cao của cửa sổ xuyên hầm tại lớp chuyển tiếp nguồn-kênh trong TFET
có Wd=5 nm nhỏ hơn nhiều so với TFET có Wd=40 nm. Khi xảy ra hiệu ứng
cực máng hẹp, các electron di chuyển từ nguồn qua kênh đến điện cực máng
gặp khó khăn hơn do sự cản trở ở chuyển tiếp cực máng tăng lên. Trong
trường hợp này, có nhiều electron bị cản trở trong vùng kênh dẫn đến kết quả
xác xuất xuyên hầm nhỏ hơn nên dòng mở bị suy giảm. Và đặc biệt là khi
chiều rộng chuyển tiếp cực máng giảm xuống dưới 20 nm thì sự cản trở tại
52
chuyển tiếp cực máng tăng lên đáng kể nên dòng mở giảm đáng kể. Mặc dù,
sự cản trở ở chuyển tiếp cực máng ảnh hưởng đáng kể đến dòng mở nhưng nó
không ảnh hưởng đến vùng dưới ngưỡng tức là khi dòng xuyên hầm nhỏ. Do
đó, hiệu ứng chuyển tiếp cực máng hẹp không làm thay đổi độ dốc dưới
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Symmetric TFETs
(a)
Decrease Drain
Junction Width:
Wd = 40, 20, 10, 5 nm
-40 0 40 80 120 160-1.6
-1.2
-0.8
-0.4
0.0
0.4
0.8
1.2
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Left Source (nm)
Tunneling Windows
Symmetric TFETs
On-State
Sou
rce
(b)
Sou
rce : Wd = 40 nm
: Wd = 5 nm
Hình 3.9. (a) Biểu diễn đặc tính dòng-thế và (b) giản đồ năng lượng của
TFET pha tạp đối xứng với chiều rộng chuyển tiếp cực máng (Wd) khác nhau.
53
ngưỡng của TFET đối xứng (56 mV/decade). Như vậy để tránh sự suy giảm
đáng kể của dòng mở, các nghiên cứu sau chiều rộng chuyển tiếp cực máng
được chọn bằng độ dày thân của linh kiện 20 nm.
Như đã trình bày trong hình 3.9 không chỉ dòng mở mà dòng rò lưỡng cực
cũng bị suy giảm khi xảy ra chuyển tiếp cực máng hẹp. Để hiểu rõ hơn về đặc
(a)
Distance to Left Source (nm)
0
10
20
30
0.500
0.375
0.250
0.125
0.000
Ele
ctri
c F
ield
(M
V/c
m)
Dis
tan
ce t
o G
ate
-Oxid
e (n
m)
40 50 60
Symmetric TFETs Gate-Oxide Gate-Oxide
Wd = 40 nm Wd = 5 nm
Drain Drain
30
40
50
60
70
80
90
70 80 90 30 40 50 60 70 80 90
Vgs =
- 0.2 V
0 20 40 60 80-2.0
-1.6
-1.2
-0.8
-0.4
0.0
0.4
0.8
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Gate-Oxide (nm)
Vgs = - 0.2 V
Dra
in
(b)
Symmetric TFETs
Gate
-Oxid
e
Tunnel
Widths
: Wd = 40 nm
: Wd = 5 nm
Hình 3.10. (a) Cấu hình điện trường và (b) giản đồ năng lượng trong TFET ở
trạng thái tắt khi chiều rộng chuyển tiếp cực máng khác nhau.
54
tính dòng xuyên hầm và giải thích tại sao dòng lưỡng cực tăng khi giảm chiều
rộng chuyển tiếp cực máng, chúng ta sẽ phân tích sự phân bố điện trường và
giản đồ năng lượng trong TFET ở trạng thái tắt khi chiều rộng chuyển tiếp
cực máng khác nhau được thể hiện trong hình 3.10.
Quan sát hình 3.10(a), đối với TFET pha tạp đối xứng có chiều rộng lớn
hơn (chiều rộng Wd=40 nm), bên trong vùng chuyển tiếp của cực máng và
cực nguồn có hai vùng điện trường cao nằm tách biệt ở hai bên và gần các cực
nguồn hơn. Còn đối với TFET pha tạp đối xứng có chiều rộng nhỏ hơn (chiều
rộng Wd=5 nm), các vùng điện trường hợp nhất lại với nhau, do đó làm tăng
điện trường tại vùng chuyển tiếp máng-nguồn. Vì thế điện trường trong vùng
chuyển tiếp máng-nguồn của TFET pha tạp đối xứng có chiều rộng chuyển
tiếp cực máng hẹp hơn sẽ có điện trường cao hơn. Để minh họa thêm cho các
phân tích ở trên, hình 3.10(b) có thể giúp chúng ta giải thích sự khác nhau của
dòng lưỡng cực ở trạng thái tắt khi chiều rộng chuyển tiếp cực máng giảm từ
40 nm xuống đến 5 nm. Khi chiều rộng chuyển tiếp cực máng giảm, sự liên
kết giữa các vùng có điện trường cao mạnh lên nên biên dạng thế năng được
điều chỉnh làm tăng điện trường trong vùng chuyển tiếp máng-nguồn. Điều
này dẫn đến giản đồ năng lượng bị uốn cong lên làm cho độ rộng rào xuyên
hầm bị thu hẹp lại do đó dòng lưỡng cực tăng lên. Vậy, chiều rộng của chuyển
tiếp cực máng càng nhỏ thì dòng lưỡng cực càng lớn. Do đó, khi thiết kế cấu
trúc linh kiện thì chiều rộng của chuyển tiếp cực máng trong TFET phải ít
nhất 20 nm để tránh sự suy giảm của dòng mở và sự gia tăng bất lợi của dòng
rò lưỡng cực.
3.4. ẢNH HƯỞNG CỦA KHOẢNG CÁCH MÁNG-NGUỒN
Ở phần 3.3 chúng ta đã nghiên cứu sự ảnh hưởng của chiều rộng chuyển
tiếp cực máng đến hiệu suất của TFET pha tạp đối xứng và cũng đưa ra được
kết quả là chiều rộng của chuyển tiếp cực máng không nên dưới 20 nm để hạn
chế sự suy giảm nghiêm trọng của dòng mở. Nhưng nó không có nghĩa là
chiều rộng chuyển tiếp cực máng có thể mở rộng tùy ý. Vì TFET có hai
nguồn đối xứng nhau nên việc tăng chiều rộng chuyển tiếp cực máng sẽ dẫn
đến khoảng cách từ cực máng đến nguồn bị rút ngắn lại. Khác với cách tính
55
khoảng cách từ cực máng đến cực cổng cũng như bề dày thân, khoảng cách từ
cực máng đến cực nguồn được tính bằng tổng của khoảng cách theo phương
ngang (Lh) và khoảng cách theo phương thẳng đứng. Như thế khoảng cách
máng-nguồn phụ thuộc theo hai phương, để đơn giản trong nghiên cứu thì
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urren
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Symmetric TFETs
Decrease Horizontal
Drain-to-Source Distance:
Lh = 40, 20, 5, 0 nm
(a)
0 5 10 15 20 25 30 35 4040
60
80
100
120
140
160
Lh (nm)
Su
bth
resh
old
Sw
ing
(m
V/D
eca
de)
Symmetric TFETs
(a)
Subthreshold swing is averaged
from 10-12 to 10-7 A/m
Hình 3.11.Hiển thị (a) đặc tính dòng-thế của TFET đối xứng và (b) độ dốc
dưới ngưỡng trung bình với khoảng cách theo phương ngang khác nhau từ 0
đến 40 nm.
56
khoảng cách theo phương thẳng đứng được chọn cố định và bằng 50 nm vì
khoảng cách từ máng đến cổng được chọn ở mức 70 nm để tối ưu hóa dòng
xuyên hầm. Và như thế để nghiên cứu sự ảnh hưởng của khoảng cách máng-
nguồn đến hiệu suất linh kiện ta sẽ khảo sát đặc tính dòng-thế của TFET pha
tạp đối xứng khi khoảng cách máng-nguồn thay đổi theo phương ngang thể
hiện trong hình 3.11(a). Vì TFET có cấu trúc pha tạp đối xứng nên trong
TFET sẽ hình thành hai khoảng cách máng- nguồn giống nhau nằm đối xứng
nhau. Xét chiều dài cấu trúc linh kiện theo phương ngang ta có: Lg=2xLh+Wd
(trong đó: Lg là chiều dài cổng và được lấy bằng Lg=120 nm, Wd là chiều rộng
chuyển tiếp cực máng, Lh là khoảng cách máng-nguồn theo phương ngang).
Vì chiều dài cổng cố định nên khoảng cách máng-nguồn được điều chỉnh
bằng cách thay đổi chiều rộng chuyển tiếp cực máng. Từ công thức trên, nếu
thay đổi chiều rộng chuyển tiếp cực máng Wd từ 40 nm đến 120 nm thì giá trị
của khoảng cách máng-nguồn theo phương ngang Lh giảm từ 40 xuống đến 0
nm. Sở dĩ chiều rộng chuyển tiếp cực máng thấp nhất được giới hạn ở mức 40
nm để tránh hiệu ứng chuyển tiếp cực máng hẹp có thể gây ra những khó
khăn trong việc xem xét ảnh hưởng của khoảng cách máng-nguồn theo
phương ngang đến hiệu suất của linh kiện. Quan sát hình 3.11 (a), khi khoảng
cách máng-nguồn theo phương ngang Lh giảm dần, dòng rò lưỡng cực tăng
nhẹ. Đồng thời trong hình 3.11(b) cho thấy, khi khoảng cách máng-nguồn
theo phương ngang Lh giảm dần, độ dốc dưới ngưỡng tăng đột ngột. Như vậy,
với cùng khoảng cách máng-nguồn theo phương ngang thì dòng lưỡng cực và
độ dốc dưới ngưỡng ở khoảng cách này thay đổi khác nhau vì dòng lưỡng cực
tạo ra bởi xuyên hầm tại chuyển tiếp máng-kênh, trong khi đó độ dốc dưới
ngưỡng được xác định theo dòng dưới ngưỡng mà dòng dưới ngưỡng phụ
thuộc vào xuyên hầm tại chuyển tiếp nguồn-kênh. Để diễn tả đặc tính dòng
dưới ngưỡng, hình 3.12 vẽ giản đồ năng lượng ở trạng thái dưới ngưỡng dọc
theo đường ngắn nhất từ nguồn đến máng và cách xa cổng nhất của TFET đối
xứng với Lh khác nhau.
Điện áp giữa máng và nguồn là không đổi, quan sát hình 3.12 ta có kết
quả là, giản đồ năng lượng trong TFET có Lh=5 nm có độ dốc lớn hơn so với
TFET có Lh=40 nm nên bề rộng xuyên hầm trong TFET có Lh=5 nm nhỏ hơn
57
so với TFET có Lh=40 nm và do đó dòng dưới ngưỡng trong TFET có Lh=5
nm cao hơn so với TFET có Lh=40 nm. Khi cực máng gần nguồn hơn, biên
dạng thế năng tại chuyển tiếp nguồn-kênh được tạo ra mạnh hơn bởi điện
trường tại vùng máng- kênh. Vì thế, chức năng điều khiển của điện áp cổng
yếu hơn. Do đó, độ dốc dưới ngưỡng cao hơn.
3.5. HIỆU ỨNG CỰC CỔNG NGẮN
Ngoài việc tăng dòng mở, việc thu nhỏ kích thước của TFET cũng rất
quan trọng để áp dụng chúng trong các mạch tích hợp thu nhỏ. Trong TFET
p-i-n pha tạp không đối xứng, electron xuyên hầm di chuyển từ nguồn đến
máng thông qua kênh phía bên dưới cổng và có biên dạng thế năng trong
vùng chuyển tiếp được điều khiển bởi điện áp cổng. Ảnh hưởng của chiều dài
cổng và kênh bởi các hiệu ứng kênh ngắn/cổng ngắn đến hiệu suất của TFET
này đã được nghiên cứu trước đây. Khác với TFET p-i-n pha tạp không đối
xứng, trong cấu trúc pha tạp đối xứng mới này dòng dẫn không di chuyển
trong đường ngay bên dưới cổng oxit mà di chuyển trong đường xiên cách xa
-40 -20 0 20 40 60 80 100-2.0
-1.6
-1.2
-0.8
-0.4
0.0
0.4
0.8
1.2
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV
)
Distance to Source (nm)
Vgs = 0 V
Drain
(a)
Symmetric TFETs
Source
Tunnel Widths
: Lh = 40 nm
: Lh = 5 nm
Hình 3.12. Giản đồ năng lượng ở trạng thái dưới ngưỡng dọc theo đường
ngắn nhất từ nguồn đến máng và cách xa cổng nhất của TFET đối xứng với
Lh khác nhau.
58
lớp oxit cổng. Trong phần này ta sẽ nghiên cứu sự ảnh hưởng của hiệu ứng
cổng ngắn trong TFET đối xứng có ảnh hưởng đến hiệu suất của linh kiện này
hay không và nếu có thì sự ảnh hưởng này có giống với sự ảnh hưởng trong
TFET p-i-n bất đối xứng không. Để làm rõ vấn đề này, chúng ta sẽ khảo sát
đặc tính dòng-thế của TFET pha tạp đối xứng khi chiều dài cổng khác nhau
được thể hiện trong hình 3.13.
Để quan sát sự ảnh hưởng của hiệu ứng cổng ngắn đến hiệu suất điện, các
đặc tính dòng-thế của TFET đối xứng với các chiều dài cổng khác nhau được
hiển thị trong hình 3.13(a). Chiều rộng chuyển tiếp cực máng được chọn là 20
nm để nghiên cứu đưa ra chiều dài cổng tối đa để không bị ảnh hưởng bởi
hiệu ứng cổng ngắn. Quan sát hình 3.13(a), việc giảm chiều dài cổng từ 120
xuống đến 40 nm làm cho dòng rò lưỡng cực tăng lên. Bởi vì chiều dài cổng
phụ thuộc vào khoảng cách máng-nguồn theo phương ngang và được xác định
bởi công thức Lg=2xLh+Wd, mà chiều dài cổng giảm từ 120 nm xuống đến 40
nm thì khoảng cách máng-nguồn theo phương ngang sẽ giảm từ 50 nm xuống
đến 10nm, nên dòng rò tăng lên. Ngoài ra hình 3.13(a) cũng cho thấy, dòng
mở bị suy giảm với tốc độ nhanh khi giảm chiều dài cổng xuống dưới 80 nm.
Trong khi đó dòng mở của TFET p-i-n thông thường hầu như không thay đổi
khi thay đổi chiều dài cổng [42]. Vậy, dòng mở của TFET pha tạp đối xứng
và TFET pha tạp không đối xứng khi chiều dài cổng thay đổi có xu hướng
ngược nhau, vì về cơ bản cấu trúc linh kiện của chúng là khác nhau.
Để giải thích cho sự tăng của dòng rò khi chiều dài cổng giảm hình
3.13(b) hiển thị giản đồ năng lượng ở trạng thái mở của TFET đối xứng với
chiều dài cổng bằng 120 và 40 nm. Trong hình 3.13(b) TFET có cổng dài
Lg=120 nm, điện áp cổng điều khiển hai vùng chuyển tiếp nguồn riêng biệt
nên điện trường trong vùng chuyển tiếp xuyên hầm tách biệt nhau. Đối với
TFET pha tạp đối xứng có chiều dài cực cổng ngắn hơn (Lg=40 nm), hai vùng
chuyển tiếp nguồn-kênh được hợp nhất một phần. Ở vùng này, các điện
trường có hướng ngược nhau triệt tiêu lẫn nhau, làm giảm điện trường tại
vùng chuyển tiếp xuyên hầm. Tức là, biên dạng thế năng gần lớp oxit cổng
không chỉ được điều khiển bởi điện áp cổng mà còn bị hạn chế bởi điện
59
trường tại vùng chuyển tiếp. Do đó, cửa sổ xuyên hầm trong TFET có chiều
dài cổng 40 nm nhỏ hơn nhiều so với TFET có chiều dài cổng 120 nm nên
dòng mở giảm càng nhanh khi chiều dài cổng càng giảm. Bên cạnh đó hình
3.13 cũng cho thấy, dòng mở bị suy giảm nghiêm trọng nhưng độ dốc dưới
ngưỡng hầu như vẫn giữ không đổi ở mức 56 mV/decade. Do ảnh hưởng của
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Symmetric TFETs
Scaling Gate Length :
Lg = 120, 80, 60, 40 nm
(a)
-40 0 40 80 120 160-1.6
-1.2
-0.8
-0.4
0.0
0.4
0.8
1.2
Ele
ctr
on
En
erg
y (
eV)
Distance to Left Source (nm)
Tunneling
Windows
Symmetric TFETs
On-State
Sou
rce
(b)
Sou
rce
: Lg = 120 nm
: Lg = 40 nm
Hình 3.13. Đặc tính (a) dòng-thế và (b) giản đồ năng lượng của TFET đối
xứng với các chiều dài cổng khác nhau.
60
trường tại vùng chuyển tiếp đến biên dạng thế năng là không đáng kể vì điện
trường tại vùng chuyển tiếp ở trạng thái dưới ngưỡng nhỏ; đồng thời cũng do
không có hiệu ứng làm mỏng hàng rào xuyên hầm gây ra tại cực máng (Drain
Induced Barrier Lowering (DIBT)). Vì chiều dài cổng và chiều dài kênh trong
TFET đối xứng là khác nhau cho nên việc giảm chiều dài cổng không dẫn đến
chiều dài kênh bị thu hẹp [44]. Do đó, hiệu ứng cổng ngắn của TFET đối
xứng không liên quan đến hiệu ứng DIBT.
3.6. CẤU TRÚC CHỮ Y
Mặc dù TFET được nghiên cứu với cấu hình pha tạp đối xứng có thể cải
thiện dòng mở và dòng rò cho cả vật liệu có vùng cấm cao và cả vật liệu có
vùng cấm thấp, nhưng vẫn còn tồn tại hạn chế trong việc thu nhỏ kích thước
linh kiện do hiệu ứng cổng ngắn gây ra. Như đã phân tích ở trên, nguồn gốc
của hiệu ứng cổng ngắn ảnh hưởng đến dòng mở là do sự hợp nhất của hai
điện trường có xu hướng ngược nhau tại vùng chuyển tiếp. Từ vấn đề này, ý
tưởng thiết kế TFET dựa trên nguyên tắc làm sao cho điện trường không bị
triệt tiêu nhau trong vùng chuyển tiếp, nghĩa là làm sao loại bỏ được hiệu ứng
cổng ngắn. Để khắc phục vấn đề trên, TFET thu nhỏ với cấu trúc chữ Y như
hình 3.14(a) được đề xuất.
Trong TFET chữ Y, cấu hình pha tạp vẫn là đối xứng và cũng dựa trên cơ
chế xuyên hầm điểm. Các thông số về cấu trúc linh kiện được thu nhỏ này vẫn
tương đồng với các thông số của TFET có cấu trúc thông thường như trong
hình 3.1(b). Độ dày thân của TFET chữ Y là 20 nm; độ dày lớp oxit cổng
HfO2 là 3 nm; nồng độ pha tạp nguồn bằng 1020 cm-3 và nồng độ pha tạp
máng là 5x1019 cm-3. Độ dày cổng là 20 nm trong khi chiều dài cổng được
thay đổi để xem xét hiệu ứng cổng ngắn.
Để phân tích vật lý và thiết kế linh kiện, ta khảo sát đặc tính dòng-thế của
TFET chữ Y với chiều dài cổng khác nhau được biểu diễn trong hình 3.14(b).
Đồng thời đặc tính dòng-thế của TFET đối xứng thông thường với chiều dài
cổng 40nm cũng được vẽ lại trên hình 4.24(b) để dễ so sánh. Quan
61
sát hình 3.14(b) ta thấy, dòng rò lưỡng cực trong TFET chữ Y rất thấp so với
TFET pha tạp đối xứng thông thường. Do khoảng cách từ cực máng đến cực
nguồn của TFET chữ Y dài hơn 90 nm. Bên cạnh đó, chuyển tiếp máng-
nguồn ở bên trái và bên phải trong cấu trúc chữ Y song song nhau thay vì ở vị
Source
p
i
Gate
Y-Shaped TFET
Source
n
Drain
Oxide Oxide
p
(a)
-0.6 -0.4 -0.2 0.0 0.2 0.4 0.6 0.8 1.0 1.210
-14
10-13
10-12
10-11
10-10
10-9
10-8
10-7
10-6
10-5
10-4
10-3
Dra
in C
urr
en
t (A
/m
)
Gate-to-Source Voltage (V)
Symmetric TFETs
Basic Structure
(Lg = 40 nm)
(b)
Y-shaped Structure
(Lg = 40, 20, 10 nm)
Hình 3.14. (a) Cấu trúc TFET chữ Y và (b) đặc tính dòng-thế trong TFET
chữ Y
62
trí đối diện nhau như trong TFET có cấu trúc thông thường, nên vùng điện
trường cao tại hai vùng chuyển tiếp không hợp nhất với nhau nghĩa là không
có sự triệt tiêu lẫn nhau của các điện trường ngược nhau trong vùng chuyển
tiếp khi giảm chiều dài cực cổng. Không chỉ hiệu ứng cổng ngắn bị triệt tiêu
trong TFET được thu nhỏ với cấu trúc chữ Y, mà chiều dài cổng cũng được
giảm xuống đến 10nm. Đặc biệt là, cả dòng mở và dòng rò lưỡng cực của
TFET chữ Y cổng ngắn đều giống với TFET đối xứng cổng dài. Bên cạnh
Hard mask
Substrate
Substrate
n
Substrate
n
Substrate
n
p p
Substrate
n
p p
Substrate
Ge
(a) (b)
(c) (d)
(e) (f)
Hình 3.15. Quy trình chế tạo TFET chữ Y.
63
diện tích mặt phẳng được thu hẹp, chiều dài cực cổng được rút ngắn lại, điện
dung cực cổng của TFET cũng được giảm [45] để bù cho sự gia tăng của nó
do sử dụng cấu trúc chữ Y.
Quy trình chế tạo TFET chữ Y cũng giống như quy trình chế tạo TFET
thông thường. Quá trình chế tạo TFET dựa trên kiến trúc dọc [46] có thể được
áp dụng để chế tạo TFET chữ Y với các sửa đổi phù hợp được thể hiện trong
hình 3.15. Vật liệu ban đầu là một wafer được pha tạp nhẹ và được phát triển
một lớp epitaxy Ge mỏng, trên lớp epitaxy Ge phủ một lớp cách điện oxit như
hình 3.15(a). Tiếp theo, dùng phương pháp quang khắc khử lớp oxit ở trung
tâm wafer để hình thành cột máng như được mô phỏng trong hình 3.15(b).
Sau khi hình thành cột, khu vực máng được xác định bằng cách cấy vào cột
máng chất bán dẫn loại n được thể hiện trong hình 3.15(c). Hình 3.15(d) mô
tả vùng kênh được phát triển đối xứng ở cả hai bên của cực máng thông qua
lớp epitaxy Ge bằng phương pháp quang khắc. Đồng thời, hai cột nguồn cũng
được hình thành bằng phương pháp quang trắc như hình 3.15(e), hai nguồn
được xác định bằng cách cấy vào cột nguồn chất bán dẫn loại p. Bước cuối
cùng là kim loại hóa, điện cực cổng được hình thành bằng cách lắng đọng oxit
được thể hiện trong hình 3.15(f).
64
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Luận văn đã nghiên cứu cấu trúc linh kiện và cơ chế hoạt động của TFET
có cấu trúc pha tạp đối xứng. Bên cạnh đó, đề tài cũng khảo sát các hiệu ứng
mới chỉ có trong cấu trúc TFET pha tạp đối xứng được đề xuất như hiệu ứng
cực cổng ngắn và hiệu ứng chuyển tiếp cực máng hẹp. Đồng thời, ảnh hưởng
của các thông số như nồng độ pha tạp máng, khoảng cách từ cực máng đến
cực cổng và khoảng cách máng-nguồn đến hiệu suất của linh kiện cũng đã
được nghiên cứu.
Luận văn sử dụng phương pháp mô phỏng linh kiện hai chiều thực hiện
dựa trên phần mềm MEDICI để đưa ra các đặc tính điện và giản đồ năng
lượng ở các trạng thái tắt-mở của các TFET. Với mỗi nghiên cứu, đề tài đã so
sánh các đặc tính điện của TFET đối xứng và bất đối xứng hay của TFET có
thông số linh kiện khác nhau để từ đó đề xuất thiết kế tối ưu cho các tham số
cấu trúc linh kiện áp dụng cơ chế xuyên hầm điểm cho TFET pha tạp đối
xứng. Kết quả cho thấy, TFET pha tạp đối xứng giúp nâng cao dòng mở và
giảm dòng rò lưỡng cực tốt hơn so với TFET pha tạp bất đối xứng. Mặt khác,
đề tài cũng chứng minh được tính khả thi của TFET pha tạp đối xứng cho cả
vật liệu bán dẫn có vùng cấm lớn (Si) và vật liệu vùng cấm nhỏ (Ge). Bên
cạnh đó, các nghiên cứu về sự ảnh hưởng của các thông số linh kiện đến hiệu
suất của TFET cũng đã thu được một số kết quả như dòng lưỡng cực được
triệt tiêu hiệu quả khi khoảng cách máng-cổng là 70 nm và khoảng cách
máng-nguồn càng lớn. Ngoài ra, luận văn cũng khẳng định để tránh sự suy
giảm của dòng mở và sự gia tăng bất lợi của dòng rò lưỡng cực thì chiều rộng
của chuyển tiếp cực máng trong TFET phải ít nhất 20 nm và chiều dài cổng
phải trên 80 nm. Từ kết quả trên, TFET chữ Y đã được đề xuất hoàn toàn phù
hợp với ứng dụng trong các mạch điện tử công suất thấp. Ngoài ra, thiết kế tối
ưu cho các tham số cấu trúc linh kiện trên có thể mở rộng sang áp dụng cơ
chế xuyên hầm đường cho TFET pha tạp đối xứng.
65
CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN
Nguyen Dang Chien, Tran Thi Kim Anh, Yu-Hsuan Chen, Chun-Hsing
Shih, Device physics and design of symmetrically doped tunnel field-effect
transistors, Microelectronic Engineering, vol. 216, p. 111061, 2019. (ISI)
66
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Kang D., 1976, A historical perspective on the development of MOS
transistors and related devices, IEEE Trans. Electron Devices ED, vol.
23, pp. 655-657.
[2] Đinh Sỹ Hiền, 2007, Linh kiện bán dẫn, NXB Đại học Quốc Gia TP Hồ
Chí Minh.
[3] Sze S. M., 1981, Physics of Semiconductor Devices 2nd edition, Wiley,
New York.
[4] Chan B. S., Mohd Z. H. and Ismail S., 2012, Low power high
performances analysis of impact ionization MOSFET (IMOS) device,
Proceeding of the 10th Seminar of Science & Technology 1(2), pp. 71-
77.
[5] Baba T., 1992, Proposal for Surface Tunnel Transistors, Jpn. J.
Appl.Phys. 31(4B), L455-L457.
[6] Koswatta S. O., Lundstrom M.S. and Nikonov D.E., 2009, Performance
comparison between p-i-n tunneling transistors and conventional
MOSFETs, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 56, pp. 456–465.
[7] Zhang Q., Zhao W. and Seabaugh A., 2006, Low-Subthreshold-Swing
Tunnel Transistors, IEEE Electron Device Letters, vol. 27, pp. 297-300.
[8] Choi W. Y., Park B. G., Lee J. D. and Liu T. J. K., 2007, Tunneling
field-effect transistors (TFETs) with subthreshold swing (SS) less than
60 mV/dec, IEEE Electron Device Lett., vol. 28, pp. 743–745.
[9] Nayfeh O. M., Hoyt J. L. and Antoniadis D. A., 2009, Strained-Si1-
xGex/Si band-to-band tunneling transistors: impact of tunnel junction
germanium composition and doping concentration on switching
behavior, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 56, pp. 2264–2269.
[10] Han R., Zhang H. and Wang D., 2018, Inverted π-shaped Si/Ge
Tunneling Field Effect Transistor, 978-1-5386-4441 IEEE.
67
[11] Nam H., Cho M. H. and Shin C., 2015, Symmetric tunnel field-effect
transistor (S-TFET), Curr.Appl. Phys., vol. 15, pp. 71–77.
[12] Ramaswamy S. and Kumar M. J., Double gate symmetric tunnel FET:
investigation and analysis, IET Circuits, Devices & Systems, vol. 11, pp.
365-370.
[13] Chen S., Wang S., Liu H., Li W., Wang Q. and Wang X., 2017,
Symmetric U-Shaped Gate Tunnel Field-Effect Transistor, IEEE
Transactions On Electron Devices, vol. 64, pp. 1343-1349.
[14] Kim S. W., Choi W. Y., Sun M. C., Kim H.W. and Park B. G, 2012,
Design Guideline of Si-Based L-Shaped Tunneling Field-Effect
Transistors, Japanese Journal of Applied Physics, 51, 06FE09.
[15] Wang W., Wang P.-F., Zhang C.-M., Lin X., Liu X.-Y., Sun Q.-Q., Zhou
P. and Zhang D.W., 2014, Design of U-shape channel tunnel FETs with
SiGe source regions, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 61, pp. 193–
197.
[16] Bagga A., Kumar A., Dasgupta S., 2017, Demonstration of a novel two
source region tunnel FET, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 64, pp.
5256–5262.
[17] Jiang Z., Zhuang Y., Li C. and Wang P., 2016, Dual Sources U-shape
Gate Tunnel FETs with High On-current and Steep SS, 978-1-4673-9965
IEEE.
[18] Dubey P.K., and Kaushik B.K., T-Shaped III-V Heterojunction
Tunneling Field-Effect Transistor, IEEE Transactions On Electron
Devices, vol. 64, pp. 3120-3125.
[19] Chinni V. K., Zaknoune M., Coinon C., Morgenroth L., Troadec D.,
Wallart X. and Desplanque L., 2017, V-Shaped InAs/Al0.5Ga0.5Sb
Vertical Tunnel FET on GaAs(001) Substrate With ION =433 µA.µm−1 at
VDS =0.5 V, Journal Of The Electron Society, vol. 5, pp. 53-58.
68
[20] Kao K.-H., Verhulst A.S., Vandenberghe W. G., Soree B., Groeseneken
G. and Meyer K.D., 2012, Direct and indirect band-to-band tunneling in
germanium-based TFETs, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 59, pp.
292–301.
[21] Shih C.-H. and Chien N. D., 2014, Design and Modeling of Line-
Tunneling Field-Effect Transistors Using Low-Bandgap
Semiconductors, IEEE Transactions On Electron Devices, vol. 61, pp.
1907-1913.
[22] Ford A. C., Yeung C. W., Chuang S., Kim H. S., Plis E., Krishna S., Hu
C. and Javey A., 2011, Ultrathin body InAs tunneling field-effect
transistors on Si substrates, Appl. Phys. Lett., 98(11), pp. 113105.
[23] Verhulst A. S., Vandenberghe W. G., Maex K. and Groeseneken G.,
2007, Tunnel fieldeffect transistor without gate-drain overlap, Appl.
Phys. Lett., 91(5), pp. 053-102.
[24] Chattopadhyay A. and Mallik A., 2011, Impact of a spacer dielectric and
a gate overlap/underlap on the device performance of a tunnel field-
effect transistor, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 58, pp. 677-683.
[25] Shih C.-H. and Kien N. V., 2014, Sub-10-nm asymmetric junctionless
tunnel field-effect transistors, IEEE J. Electron Devices Soc., 2, pp. 128–
132.
[26] Ghosh B. and Akram M. W., 2013, Junctionless tunnel field effect
transistor, IEEE Electron Device Lett., 34, pp. 584–586.
[27] Tajally M. B. and Karami M. A., 2017, Hetero – gate – dielectric
symmetric U-shaped gate tunnel FET, Superlattices and Microtructures,
110, pp. 139-145.
[28] Kane E. O., 1961, Theory of tunneling, J. Appl. Phys., 31, pp. 83–91.
[29] Fischetti M. V. and Laux S. E., 1996, Band structure, deformation
potentials, and carrier mobility in strained Si, Ge, and SiGe alloys, J.
Appl. Phys., 80, pp. 2234–2252.
69
[30] Kim D., Krishnamohan T., Smith L., Philip Wong H.-S.and Saraswat
K.C., 2007, Band to band tunneling study in high mobility materials: III-
V, Si, Ge and strained SiGe, Device Res. Conf., pp. 57–58.
[31] Tyagi M.S., 1968, Zener and avalanche breakdown in silicon alloyed p-
n junctions – I: analysis of reverse characteristics, Solid State Electron.,
11, pp. 99–115.
[32] Hurkx G.A.M., 1989, On the modelling of tunnelling currents in reverse-
biased p-n junctions, Solid State Electron., 32, pp. 665–668.
[33] Butcher P. N., Hulme K. F. and Morgan J. R., 1962, Dependence of peak
current density on acceptor concentration in germanium tunnel diodes,
Solid State Electron., 5, pp. 358–360.
[34] Tyagi M. S., 1973, Determination of effective mass and the pair
production energy for electrons in germanium from Zener diode
characteristics, Japanese Journal of Applied Physics, 12, pp. 106–108.
[35] Synopsys Inc., 2010, Synopsys MEDICI User's Manual, California.
[36] Chaturvedi P. and Goyal N., 2012, Effect of gate dielectric thickness on
gate leakage in tunnel field effect transistor, Proc. Inter. Carib. Conf.
Devices Circuts Syst., pp. 1–4.
[37] Boucart K. and Ionescu A.M., 2007, Double-gate tunnel FET with high-
κ gate dielectric, IEEE Trans. Electron Devices, vol. 54, pp. 1725–1733.
[38] Toh E.-H., Wang G. H., Chan L., Samudra G. and Yeo Y.-C., 2007,
Device physics and design of double-gate tunneling field-effect transistor
by silicon film thickness optimization, Appl. Phys. Lett., 90, pp. 263-507.
[39] Chien N. D., Shih C.-H., Vinh L. T. and Kien N. V., 2013, Quantum
confinement effect in strained-Si1-xGex double-gate tunnel field-effect
transistors, Proc. Int. Conf. IC Design Tech., pp. 73–76.
[40] Chien N. D., Shih C.-H., Chen Y.-H. and Thu N. T., 2016, Increasing
drain voltage of lowbandgap tunnel field-effect transistors by drain
engineering, Proc. Int. Conf. Electron. Inf. Commun., pp. 1–4.
70
[41] Garg S. and Saurabh S., 2017, Suppression of ambipolar current in
tunnel FETs using drainpocket: proposal and analysis, Superlattice.
Microst., 113, pp. 261–270.
[42] Chien N. D. and Shih C.-H., 2015, Short-channel effect and device
design of extremely scaled tunnel field-effect transistors, Microelectron.
Reliab., 55, pp. 31–37.
[43] Terada K., Nishiyama K. and Hatanaka K.-I., 2001, Comparison of
MOSFET-threshold-voltage extraction methods, Solid State Electron.,
45, pp. 35–40.
[44] Liu L., Mohata D. and Datta S., 2012, Scaling length theory of double-
gate interband tunnel field-effect transistors, IEEE Trans. Electron
Devices, vol. 59, pp. 902–908.
[45] Yang Y., Tong X., Yang L.-T., Guo P.-F., Fan L. and Yeo Y.-C., 2010,
Tunneling field-effect transistor: capacitance components and modeling,
IEEE Electron Device Lett., 31, pp. 752–754.
[46] Vandooren A., Leonelli D., Rooyackers R., Arstila K., Groeseneken G.
and Huyghebaert C., 2012, Impact of process and geometrical
parameters on characteristics of vertical nanowire silicon n-TFETs, Solid
State Electron., 72, pp. 82–87.