Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
4
ĐỀ TÀI KHOA HỌC
SỐ: 2.1.1-TC 05-06
NGHIÊN CỨU ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM QUẢN LÝ VÀ
NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN THỐNG KÊ
1. Cấp đề tài : Tổng cục
2. Thời gian nghiên cứu : 2005-2006
3. Đơn vị chủ trì : Viện Khoa học Thống kê
4. Đơn vị quản lý : Viện Khoa học Thống kê
5. Chủ nhiệm đề tài : TS. Lê Mạnh Hùng
6. Những ngƣời phối hợp nghiên cứu:
ThS. Nguyễn Bích Lâm
CN. Nguyễn Văn Phái
CN. Đào Ngọc Lâm
CN. Nguyễn Thị Việt Hồng
CN. Vũ Văn Tuấn
CN. Hoàng Tất Thắng
CN. Nguyễn Thị Phƣợng
CN. Phạm Thành Đạo
7. Điểm đánh giá kết quả nghiệm thu: 9,1 / Xếp loại: Giỏi
5
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CHẤT LƢỢNG VÀ
QUẢN LÝ CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN THỐNG KÊ
I. Các tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê của các tổ chức
thống kê quốc tế và đề xuất cho thống kê Việt Nam
1. Khái niệm chất lượng thông tin thống kê
Quản lý chất lƣợng thông tin thống kê có vai trò quan trọng trong toàn
bộ hệ thống quản lý của ngành Thống kê. Vậy chất lƣợng thông tin thống kê
là gì? Những tiêu thức nào phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê?. Trong
lĩnh vực thống kê, khái niệm chất lƣợng là “sự phù hợp cho sử dụng” ngụ ý
hai nội dung: thứ nhất đó là sự phù hợp của thông tin thống kê đối với nhu
cầu của ngƣời sử dụng và đặc trƣng của thông tin thể hiện qua các tiêu thức
phản ánh chất lƣợng của nó.
Ban đầu các nhà thống kê hiểu và đồng nhất chất lƣợng thông tin thống
kê với tính chính xác của nó. Sau đó họ nhận thấy thậm chí thông tin chính
xác nhƣng đƣợc tính toán và công bố quá chậm, hoặc ngƣời sử dụng không
thể tiếp cận để có đƣợc thông tin thì cũng không thể nói thông tin thống kê đó
có chất lƣợng vì nó vô nghĩa dƣới góc độ ngƣời sử dụng. Vào giữa thập kỷ 80
của thế kỷ trƣớc, Thống kê Canađa đã đi đầu trong việc đƣa ra khái niệm và
cụ thể hóa các tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê. Thống kê
Canada định nghĩa: "Chất lượng của thông tin thống kê là sự phù hợp cho sử
dụng của khách hàng" (1)
.
Để đáp ứng nhu cầu của “khách hàng” đối với thông tin thống kê, cơ quan
thống kê phải xác định yêu cầu của ngƣời sử dụng là gì. Các nhà thống kê đã
xác định và đƣa ra những tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin. Dựa vào điều
kiện và hoàn cảnh thực tế của từng quốc gia, dựa vào ý thức phục vụ thông tin
cho ngƣời sử dụng, mỗi cơ quan thống kê có cách tiếp cận tới khái niệm chất
lƣợng thông tin thống kê và đƣa ra các tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin
thống kê khác nhau để hƣớng tới thực hiện. Qua nghiên cứu tài liệu về quản lý
chất lƣợng thông tin thống kê của các nƣớc, chúng tôi giới thiệu cách tiếp cận
của một số tổ chức quốc tế và cơ quan thống kê quốc gia nhƣ sau.
2. Các cách tiếp cận tới khái niệm chất lượng thông tin thống kê
2.1. Quỹ Tiền tệ quốc tế. Để đánh giá chất lƣợng thông tin thống kê,
Quỹ Tiền tệ quốc tế đã xây dựng một lƣợc đồ đánh giá chất lƣợng thông tin
của riêng Quỹ. Lƣợc đồ đƣợc xây dựng dƣới dạng phƣơng pháp luận và sắp
(1)
Statistics Canada's Quality Assurance Framework, 2002, trang 2.
6
xếp theo thứ bậc với năm cấp. Cấp trên cùng (cấp một) bao gồm năm tiêu
thức phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê và đƣợc hiểu đó là những điều
kiện tiên quyết của chất lƣợng, bao gồm: tính trung thực; tính tin cậy về
phương pháp luận; tính chính xác; khả năng tiếp cận và khả năng phục vụ.
Cấp hai và cấp ba của lƣợc đồ bao gồm các yếu tố và các chỉ tiêu của chất
lƣợng. Cấp bốn đề cập tới những vấn đề cần tập trung đặc biệt và cấp năm
liên quan tới những điểm cơ bản cần thực hiện để đảm bảo chất lƣợng thông
tin. Ba cấp trên cùng đƣợc coi là một lƣợc đồ chung áp dụng đánh giá chất
lƣợng của tất cả các loại thông tin.
2.2. Cơ quan Thống kê Châu Âu. Cơ quan Thống kê châu Âu đã dựa
vào các định mức của tiêu chuẩn ISO 8402 để đƣa ra các tiêu thức phản ánh
chất lƣợng thông tin thống kê và các tiêu thức này đƣợc dựa trên quan điểm
đặt ngƣời sử dụng và các yêu cầu của họ đối với số liệu thống kê vào trọng
tâm trong công tác của Tổ chức Thống kê này. Cơ quan Thống kê châu Âu
lựa chọn bảy tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê, bao gồm: tính
phù hợp; tính chính xác; khả năng tiếp cận; tính kịp thời; tính chặt chẽ; khả
năng so sánh và tính đầy đủ.
2.3. Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế. Ban điều hành thống kê của
OECD đã xây dựng lƣợc đồ chất lƣợng dựa trên kết quả của một số cơ quan
thống kê quốc gia và quốc tế. Đánh giá chất lƣợng thông tin của OECD dựa
trên bảy tiêu thức sau: tính phù hợp; tính chính xác; khả năng tiếp cận; tính
kịp thời; tính chặt chẽ; khả năng giải thích và tính tin cậy. Ngoài bảy tiêu
thức này, Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế rất quan tâm tới hiệu quả của
các chi phí để làm ra thông tin thống kê.
2.4. Cơ quan Thống kê của Liên hợp quốc (UNSD). Cơ quan Thống kê
Liên hợp quốc và một số tổ chức khác nhƣ Tổ chức Nông nghiệp và Lƣơng
thực quốc tế (FAO) đƣa ra ý tƣởng về chất lƣợng thông tin chỉ tập trung vào
một số yếu tố phản ánh về chất lƣợng. Cho đến nay UNSD có hai hoạt động
đƣợc cho là có ý nghĩa trong lĩnh vực đánh giá chất lƣợng thông tin thống kê:
- Năm 1996, UNSD đã công bố Quy tắc phổ biến áp dụng trong thực tế
thống kê. Bản quy tắc gồm hai phần, trong phần một đƣa ra các hƣớng dẫn về
trình bày thông tin thống kê trong các ấn phẩm, trong đó nhấn mạnh đến tính
rõ ràng, tính đầy đủ của bản siêu dữ liệu. Phần hai đề cập tới lập kế hoạch
cho từng giai đoạn của một cuộc điều tra thu thập thông tin.
- UNSD tiến hành rà soát trong nội bộ công tác thu thập số liệu, hiệu
chỉnh và công bố thông tin để tìm ra phƣơng pháp tốt nhất cho các hoạt động
thu thập, hiệu chỉnh, đánh giá và công bố các bản siêu dữ liệu.
7
2.5. Cơ quan Thống kê Canađa. Một trong những cơ quan thống kê quốc
gia đi đầu trên thế giới trong thực hiện quản lý chất lƣợng thông tin thống kê
và coi công tác này có vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình quản lý
chung của toàn bộ cơ quan. Cơ quan Thống kê Canađa xác định sáu tiêu thức
phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê, đó là: tính phù hợp, tính chính xác,
tính kịp thời, khả năng tiếp cận, tính chặt chẽ và khả năng giải thích.
2.6. Cơ quan Thống kê Thụy Điển. Thống kê Thụy Điển quan niệm
chất lƣợng sản phẩm thống kê là chất lƣợng của các thông tin đầu ra do ngƣời
sử dụng quyết định. Sản phẩm thống kê đƣợc coi là có chất lƣợng nếu hầu hết
ngƣời sử dụng tin tƣởng rằng sai số thống kê đƣợc kiềm chế và trong một
khoảng cho phép, độ lệch chuẩn và khoảng tin cậy phản ánh đúng thực tế.
Thống kê Thụy Điển có trách nhiệm bảo đảm số liệu thống kê phù hợp với
mục đích sử dụng của người dùng tin. Thống kê Thụy Điển chỉ lựa chọn năm
tiêu thức để phản ánh chất lƣợng thông tin, đó là: tính chính xác, khả năng
tiếp cận, tính kịp thời, tính chặt chẽ và khả năng so sánh.
2.7. Cơ quan Thống kê quốc gia Hàn Quốc (KNSO). KNSO đã nhận
thức đƣợc tầm quan trọng của chất lƣợng thông tin và công tác quản lý chất
lƣợng thống kê từ giữa thập kỷ 90 của thế kỷ XX. KNSO coi việc thỏa mãn
nhu cầu của ngƣời dùng tin là nhiệm vụ cơ bản trong quá trình quản lý chất
lƣợng thông tin thống kê và họ định nghĩa chất lƣợng thông tin thống kê nhƣ
sau (2)
: “Chất lƣợng thông tin thống kê là toàn bộ các đặc trƣng của thông tin
thống kê nhằm thỏa mãn cho ngƣời sử dụng dựa trên tính phù hợp cho sử
dụng”. KNSO đã lựa chọn bảy tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin, bao
gồm: tính phù hợp, tính chính xác, khả năng tiếp cận, tính kịp thời, khả năng
phục vụ, khả năng so sánh và tính hiệu quả.
2.8. Kiến nghị lựa chọn tiêu thức phản ánh chất lượng số liệu của
Tổng cục Thống kê. Qua nghiên cứu thực tế việc lựa chọn các tiêu thức phản
ánh chất lƣợng thông tin của cơ quan thống kê quốc gia các nƣớc và một số
tổ chức quốc tế chúng tôi thấy có bốn tiêu thức: tính phù hợp, tính chính xác,
khả năng tiếp cận và tính kịp thời đƣợc tất cả các tổ chức thống kê lựa chọn.
Tiêu thức “Tính chặt chẽ” đƣợc bốn tổ chức thống kê lựa chọn, gồm:
Thống kê Thụy Điển, Thống kê Canađa, Thống kê châu Âu và thống kê của
OECD. Tiêu thức “Khả năng so sánh” đƣợc ba tổ chức thống kê lựa chọn,
(2)
Quality management in Korean National Statistical System, Focused on Quality Assessment, Sung H.Park, Department of Statistics, Seoul national University, Seoul, Korea.
8
gồm: Thống kê Thụy Điển, Thống kê châu Âu và Thống kê Hàn Quốc. So
sánh giữa tính chặt chẽ và khả năng so sánh chúng tôi thấy khi đã thực hiện
tốt tiêu thức chặt chẽ sẽ đảm bảo số liệu thống kê có khả năng so sánh. Tính
chặt chẽ đòi hỏi cơ quan thống kê phải sử dụng thống nhất các khái niệm,
phân loại chuẩn và phƣơng pháp luận trong toàn bộ hệ thống thống kê, đây là
điều kiện cần và đủ để bảo đảm số liệu thống kê có khả năng so sánh. Vì vậy
giữa hai tiêu thức tính chặt chẽ và khả năng so sánh, theo chúng tôi chỉ nên
chọn tiêu thức tính chặt chẽ là đủ.
Tiêu thức “khả năng giải thích” có hai tổ chức thống kê lựa chọn, đó là:
Thống kê Canađa và Thống kê của OECD. Qua nội dung của tiêu thức, chúng
tôi thấy việc áp dụng tiêu thức này sẽ nâng cao tính minh bạch của số liệu
thống kê, tạo niềm tin của ngƣời sử dụng đối với thông tin thống kê và cơ
quan thống kê. Áp dụng tiêu thức này cũng đáp ứng yêu cầu thực hiện các
nguyên tắc của thống kê chính thức.
Tiêu thức về “tính đầy đủ” đƣợc lựa chọn duy nhất bởi cơ quan Thống
kê châu Âu. Tiêu thức tính đầy đủ rộng hơn tiêu thức tính phù hợp, nội dung
của tiêu thức tính đầy đủ không khác nhiều so với tính phù hợp, chỉ khác ở
cách hành văn và ngôn từ đƣợc sử dụng. Trong điều kiện thực tế của thống kê
nƣớc ta, theo chúng tôi nên chọn tiêu thức tính phù hợp và không cần chọn
tiêu thức tính đầy đủ.
Tiêu thức về “Tính hiệu quả” có hai tổ chức thống kê lựa chọn, đó là
Thống kê Hà Lan và Thống kê Hàn Quốc. Tiêu thức “Tính tin cậy” và
“Không nặng nề” mỗi tiêu thức có một tổ chức thống kê lựa chọn. Tính tin
cậy đề cập tới sự khác biệt số liệu giữa lần ƣớc tính và các lần tính toán sau
đó. Theo chúng tôi không cần đƣa tiêu thức này vào sự lựa chọn các tiêu thức
phản ánh chất lƣợng số liệu của Tổng cục Thống kê.
Trong điều kiện thực tế của Tổng cục Thống kê, qua thực tế lựa chọn
các tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin của tổ chức thống kê các nƣớc và
quốc tế, chúng tôi kiến nghị Tổng cục Thống kê nên lựa chọn sáu tiêu thức
sau đây: tính phù hợp, tính chính xác, tính kịp thời, khả năng tiếp cận, khả
năng giải thích và tính chặt chẽ. Việc lựa chọn tiêu thức nào nhằm phản ánh
chất lƣợng thông tin thống kê có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định
những giải pháp quản lý và nâng cao chất lƣợng số liệu thống kê. Sáu tiêu
thức chúng tôi lựa chọn phù hợp với xu thế lựa chọn chung của cơ quan
thống kê các nƣớc và các tổ chức quốc tế. Lựa chọn và đề xuất sáu tiêu thức
dựa trên những cơ sở chủ yếu sau đây:
9
a. Dựa vào các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê đƣợc chỉ rõ
trong Luật Thống kê, đó là: “Bảo đảm tính trung thực, khách quan, chính xác,
đầy đủ, kịp thời trong hoạt động thống kê”. Để đảm bảo nguyên tắc này của
Luật, thông tin thống kê phải đáp ứng các tiêu thức về tính phù hợp, tính
chính xác và tính kịp thời. Luật Thống kê cũng quy định: “Công khai về
phƣơng pháp thống kê, công bố thông tin thống kê” và “Bảo đảm quyền bình
đẳng trong tiếp cận và sử dụng thông tin thống kê nhà nƣớc phải đƣợc công
bố công khai”. Hai nguyên tắc này đòi hỏi thông tin thống kê phải đáp ứng
các tiêu thức về khả năng tiếp cận và khả năng giải thích.
b. Một trong những nguyên nhân ảnh hƣởng độ tin cậy của thông tin
thống kê đó là phƣơng pháp luận áp dụng trong thu thập, xử lý và tính toán
các chỉ tiêu thống kê chƣa đồng bộ và thống nhất. Tính chặt chẽ đòi hỏi cơ
quan thống kê phải sử dụng thống nhất các khái niệm, phân loại chuẩn và
phƣơng pháp luận trong toàn bộ hệ thống thống kê; vì vậy tiêu thức tính chặt
chẽ rất cần thiết và phù hợp với tình hình thực tiễn của Tổng cục Thống kê.
c. Áp dụng sáu tiêu thức là điều kiện cần để TCTK đáp ứng 10 nguyên
tắc cơ bản của thống kê nhà nƣớc do các tổ chức thống kê quốc tế nêu ra và
điều đó sẽ đảm bảo uy tín của cơ quan TCTK và đảm bảo chất lƣợng của
thông tin thống kê.
d. Lựa chọn sáu tiêu thức sẽ phù hợp với xu thế lựa chọn chung của cơ
quan thống kê các nƣớc và các tổ chức quốc tế, do vậy đảm bảo tính tƣơng
thích trong cách hiểu và phƣơng pháp tiếp cận đến quản lý chất lƣợng thông
tin thống kê và trong chừng mực nào đó đảm bảo khả năng so sánh giữa các
cơ quan thống kê quốc gia.
3. Nội dung của các tiêu thức phản ánh chất lượng thông tin thống kê
3.1 Tính trung thực: đề cập tới giá trị của số liệu và các hoạt động
thống kê thực tế có liên quan để duy trì niềm tin đối với cơ quan thống kê của
ngƣời dùng tin và qua đó là niềm tin đối với sản phẩm thống kê. Để đảm bảo
tính trung thực, các nhà quản lý phải đƣa tính trung thực vào các mục tiêu của
hoạt động thống kê.
3.2. Tin cậy về phương pháp luận: tiêu thức đề cập tới việc xây dựng
và tuân thủ các nguyên tắc hạch toán, các khái niệm và định nghĩa, phạm vi
tính toán, phƣơng pháp tính, các phân loại áp dụng trong hoạt động thống kê,
quy tắc xác định giá trị và thời điểm hạch toán. Tất cả những nội dung này là
những yếu tố cơ bản quyết định chất lƣợng của các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô.
10
3.3. Tính phù hợp: tính phù hợp của số liệu thống kê đƣợc thể hiện qua
mức độ đáp ứng nhu cầu thông tin của ngƣời sử dụng. Đánh giá mức độ phù
hợp của số liệu thống kê phụ thuộc vào nhu cầu khác nhau và hay thay đổi của
ngƣời dùng tin. Với nguồn lực có hạn, cơ quan thống kê không thể đáp ứng tất
cả nhu cầu của ngƣời dùng tin. Cơ quan thống kê phải xác định những loại số
liệu cần biên soạn nhằm giải quyết bất cập giữa nhu cầu thông tin đa dạng với
nguồn lực có hạn để sao cho đáp ứng tối đa nhu cầu của ngƣời sử dụng.
3.4. Tính chính xác: tính chính xác của số liệu thể hiện qua mức độ
phản ánh sát thực các hiện tƣợng kinh tế, xã hội của các chỉ tiêu thống kê.
Không thể đòi hỏi số liệu thống kê phản ánh đúng hiện tƣợng vì thông tin
thống kê đầu vào dùng để tính toán luôn chứa đựng sai số hệ thống và sai số
ngẫu nhiên. Những sai số ảnh hƣởng đến tính chính xác của số liệu thống kê
diễn ra trong quá trình thu thập thông tin nhƣ: phạm vi thu thập, cách lấy
mẫu, v.v và trong quá trình tính toán.
3.5. Khả năng tiếp cận: khả năng tiếp cận của số liệu thống kê thể hiện
mức độ dễ dàng để có đƣợc số liệu từ các cơ quan thống kê. Khả năng tiếp
cận thể hiện ở hai khía cạnh: Mức độ dễ dàng để có thể xác minh số liệu
thống kê cần có và sự phù hợp của các phƣơng thức tiếp cận số liệu.
3.6. Tính kịp thời: tính kịp thời của số liệu thống kê biểu thị độ trễ về
thời gian giữa thời kỳ hay thời điểm số liệu thống kê phản ánh với thời điểm
công bố số liệu. Luôn có sự đánh đổi giữa tính chính xác và tính kịp thời của
số liệu thống kê, yêu cầu số liệu càng nhanh thì độ chính xác của số liệu càng
kém. Nói cách khác, tính kịp thời luôn ảnh hƣởng tới tính chính xác của số
liệu thống kê.
3.7. Khả năng phục vụ: tiêu thức phản ánh tính phù hợp, kịp thời và
nhất quán của số liệu thống kê. Tiêu thức này đƣợc tách thành ba tiêu thức:
phù hợp, kịp thời và nhất quán.
3.8. Tính chặt chẽ: Tính chặt chẽ của số liệu thống kê phản ánh mức độ
kết hợp số liệu từ các nguồn khác nhau để đƣa vào cùng một lƣợc đồ số liệu
rộng hơn theo thời gian. Vì vậy tính chặt chẽ đòi hỏi cơ quan thống kê phải
sử dụng thống nhất các khái niệm, phân loại chuẩn và phƣơng pháp luận
trong toàn bộ hệ thống thống kê.
3.9. Khả năng so sánh: số liệu thống kê có hiệu quả nhất khi số liệu có khả
năng so sánh một cách tin cậy theo thời gian và giữa các nƣớc hay các khu vực.
11
3.10. Khả năng giải thích: khả năng giải thích của số liệu thống kê phản
ánh mức độ sẵn có của những thông tin bổ sung và các bảng giải thích cần
thiết để giúp cho ngƣời dùng tin hiểu và sử dụng số liệu một cách chính xác và
hợp lý, bao gồm: khái niệm của chỉ tiêu, các phƣơng pháp phân loại đang áp
dụng, phƣơng pháp thu thập và xử lý thông tin, phƣơng pháp luận dùng trong
tính toán chỉ tiêu và chỉ rõ mức độ chính xác của số liệu và thông tin thống kê.
3.11. Tính đầy đủ: tiêu thức này biểu thị số liệu thống kê của các lĩnh
vực đáp ứng đƣợc nhu cầu và xác định đƣợc mức độ ƣu tiên của ngƣời sử
dụng. Thực chất tiêu thức này rộng hơn về phạm vi và ý nghĩa so với tiêu
thức “tính phù hợp” bởi vì tính đầy đủ không chỉ có nghĩa là phục vụ nhu cầu
của ngƣời dùng tin mà còn phục vụ ở mức độ tối đa trong khả năng cho phép
của cơ quan thống kê với các nguồn lực có hạn.
3.12. Tính hiệu quả: tiêu thức phản ánh hai nội dung: (i) Các số liệu
thống kê sản xuất ra phải thực sự theo nhu cầu của ngƣời sử dụng. Cơ quan
thống kê không nên thu thập và tính toán những số liệu họ có khả năng tính
toán nhƣng không cần thiết cho ngƣời sử dụng; (ii) Chi phí để sản xuất ra số
liệu phải phù hợp với điều kiện thực tế của cơ quan thống kê và của nền kinh
tế. Số liệu thống kê là một loại sản phẩm có chi phí lớn, đòi hỏi cơ quan thống
kê phải biết xác định các nguồn thông tin để tính toán với chi phí thấp nhất.
3.13. Tính tin cậy: tiêu thức phản ánh sự sát thực giữa giá trị số liệu tính
toán lần đầu với giá trị số liệu tính toán các lần tiếp theo của cùng một chỉ
tiêu. Đánh giá tiêu thức này sẽ liên quan tới việc so sánh các kết quả tính toán
của chỉ tiêu theo thời gian. Nói cách khác, đánh giá tính tin cậy của số liệu
thống kê thực chất là hoạt động rà soát lại số liệu.
3.14. Không nặng nề: tiêu thức phản ánh hệ thống thông tin và chỉ tiêu
thống kê đầu ra của cơ quan thống kê phải phù hợp với nguồn nhân lực và
nguồn tài chính hiện có. Với quỹ thời gian có hạn của đội ngũ cán bộ cố định
về mặt quân số không cho phép cơ quan thống kê triển khai thu thập thông tin
và tính toán quá nhiều chỉ tiêu.
II. Hệ thống đánh giá chất lƣợng thông tin thống kê
Để đánh giá về mặt định lƣợng chất lƣợng thông tin, một số cơ quan
thống kê quốc gia đã nghiên cứu và đƣa ra Hệ thống đánh giá chất lƣợng
thông tin thống kê. Hệ thống tập trung đánh giá trên sáu lĩnh vực và trong
mỗi lĩnh vực đều đánh giá theo các tiêu thức phản ánh chất lƣợng. Nội dung
tóm tắt cho từng lĩnh vực nhƣ sau.
12
1. Đánh giá môi trường làm ra thông tin thống kê
Môi trƣờng làm ra thông tin thống kê là một yếu tố quan trọng ảnh
hƣởng tới chất lƣợng thông tin. Trong lĩnh vực đánh giá này bao gồm ba yếu
tố chính: (i) Vai trò của ngƣời lãnh đạo cao nhất trong cơ quan thống kê; (ii)
Chất lƣợng và ý thức của đội ngũ cán bộ; (iii) Cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt
động của cơ quan thống kê. Nội dung một số công việc cần đánh giá nhƣ sau:
xây dựng kế hoạch đánh giá chi tiết, thu thập những ý kiến góp ý; tiến hành
phỏng vấn các cán bộ thống kê trực tiếp liên quan tới công tác tính toán và
biên soạn số liệu; biên soạn báo cáo đánh giá toàn bộ môi trƣờng làm thông
tin và phản hồi tới các bộ phận có liên quan.
2. Đánh giá tính phù hợp của quy trình làm thông tin thống kê
Quy trình làm thông tin thống kê bao gồm quy trình thu thập, xử lý và
tính toán các chỉ tiêu thống kê. Các cán bộ trực tiếp làm số liệu có thể tự đánh
giá những điểm mạnh và các tồn tại của quy trình này. Để cho khách quan, cần
có những đánh giá về quy trình này từ các chuyên gia ở bên ngoài. Các công
việc của hoạt động này bao gồm: xây dựng kế hoạch đánh giá chi tiết; thành
lập nhóm rà soát chất lƣợng số liệu để đánh giá quy trình làm số liệu; chuẩn bị
biểu mẫu và tiến hành đánh giá; phân tích, đánh giá kết quả; chuẩn bị và hoàn
thiện báo cáo, xây dựng kế hoạch hoàn thiện quy trình làm số liệu thống kê.
3. Đánh giá tính chính xác của hoạt động thu thập thông tin
Mức độ chính xác của thông tin đầu ra phụ thuộc vào số liệu thu thập
đƣợc ở nơi tiến hành điều tra phỏng vấn hay nơi làm báo cáo theo chế độ báo
cáo thống kê. Mục đích chính của hoạt động đánh giá này nhằm xác định các
sai số phi mẫu phát sinh trong quá trình điều tra để hoàn thiện chất lƣợng
điều tra. Các công việc trong hoạt động này bao gồm: xây dựng kế hoạch
đánh giá, chọn mẫu các đơn vị sẽ thực hiện phỏng vấn lại; chuẩn bị kịch bản
và tiến hành phỏng vấn lại; đánh giá kết quả phỏng vấn.
4. Đánh giá tính hoàn hảo của thông tin thống kê đã công bố
Chất lƣợng thông tin cũng phụ thuộc vào quá trình công bố cho ngƣời
dùng tin. Mục đích của hoạt động đánh giá tính hoàn hảo của thông tin thống
kê đã công bố nhằm: (i) Xác định các loại sai sót và tần suất của chúng nhằm
khắc phục không để tái diễn trong các lần công bố sau; (ii) Hoàn thiện hoạt
động cung cấp và công bố thông tin bằng cách kiểm tra xem những thông tin
thống kê cơ bản có phục vụ đúng đối tƣợng hay không. Các công việc trong
hoạt động này bao gồm: xây dựng kế hoạch đánh giá; lựa chọn cán bộ và
thực hiện việc đánh giá; tóm tắt kết quả đánh giá, viết báo cáo.
13
5. Đánh giá mức độ thỏa mãn nhu cầu của người sử dụng
Mức độ thỏa mãn nhu cầu của ngƣời sử dụng thông tin dựa trên sự phù
hợp cho sử dụng. Mục đích của hoạt động đánh giá mức độ thỏa mãn của
ngƣời sử dụng nhằm tìm ra các giải pháp để hoàn thiện và nâng cao tiêu thức
phù hợp của thông tin thống kê. Các công việc trong hoạt động này bao gồm:
xây dựng kế hoạch đánh giá; lập danh sách các đối tƣợng sử dụng thông tin
chủ yếu và chọn mẫu để tiến hành đánh giá; thiết kế bảng hỏi và tiến hành
điều tra phỏng vấn; đánh giá, tổng hợp và phân tích kết quả điều tra; viết báo
cáo và thông tin phản hồi.
6. Đánh giá nỗ lực hoàn thiện chất lượng thông tin
Quan điểm luôn luôn hoàn thiện chất lƣợng thông tin có ý nghĩa quan
trọng trong việc thực hiện Hệ thống đánh giá chất lƣợng thông tin thống kê.
Để không ngừng hoàn thiện chất lƣợng thông tin đòi hỏi ngƣời có trách
nhiệm phải chỉ ra đƣợc những vấn đề ảnh hƣởng tới chất lƣợng, đồng thời tìm
ra các giải pháp hoặc lập thành các dự án khắc phục những tồn tại. Các công
việc trong hoạt động đánh giá nỗ lực hoàn thiện đối với chất lƣợng thông tin
bao gồm: xây dựng kế hoạch đánh giá; thực hiện hoạt động đánh giá; viết báo
cáo và thông tin phản hồi.
7. Tổng hợp toàn bộ kết quả đánh giá
Để lƣợng hóa toàn bộ kết quả đánh giá theo Hệ thống đánh giá chất
lƣợng thông tin thống kê, mỗi hoạt động đánh giá ở trên có thể lƣợng hoá
bằng cách chấm điểm theo thang điểm 10, sau đó tính điểm bình quân cho
toàn bộ hệ thống.
PHẦN II
THỰC TRẠNG CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN THỐNG KÊ CỦA NƢỚC TA
I. Thực trạng chất lƣợng thông tin thống kê nƣớc ta
1. Tính phù hợp
Tính phù hợp của thông tin thống kê là một yêu cầu cao và rất khó đối
với ngành Thống kê vì yêu cầu của các đối tƣợng sử dụng thông tin thống kê
rất đa dạng và có tính phức tạp khác nhau. Chẳng hạn, cơ quan quản lý nhà
nƣớc cần nhiều thông tin mang tính tổng hợp, ngƣợc lại, yêu cầu thông tin
của các nhà đầu tƣ lại rất cụ thể về các yếu tố của sản xuất, kết quả sản xuất
và chi tiết đến từng ngành, nhóm ngành.
14
Do tính đa dạng và phức tạp về yêu cầu của các đối tƣợng sử dụng, vì
vậy ngành Thống kê không bao giờ đáp ứng đầy đủ mọi yêu cầu của tất cả
các đối tƣợng với nghĩa tuyệt đối của nó mà phải xem xét tất cả các loại đối
tƣợng sử dụng thông tin và tiến hành phân loại thành các đối tƣợng sử dụng
chủ yếu và các đối tƣợng khác. Nhìn chung số liệu cung cấp ngày càng đƣợc
mở rộng và đáp ứng đƣợc nhu cầu ngày càng tăng của các đối tƣợng dùng tin,
nhƣng mới đảm bảo một phần yêu cầu và còn thiếu nhiều chỉ tiêu cũng nhƣ
lĩnh vực thống kê chƣa có để cung cấp, cụ thể là:
- Thiếu một số chỉ tiêu phản ánh về các lĩnh vực tiến bộ kỹ thuật và áp
dụng công nghệ kỹ thuật mới, những chỉ tiêu phản ánh về năng lực sản xuất
và sử dụng năng lực của một số ngành sản phẩm quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, v.v. Mặt khác còn có sự trùng chéo về thông tin thống kê đầu ra
giữa Tổng cục và một số Bộ, ngành liên quan. Số liệu thống kê của các
chuyên ngành phân tổ theo vùng lãnh thổ và theo từng địa phƣơng còn nhiều
bất cập, chƣa phù hợp, chƣa đáp ứng nhu cầu sử dụng.
- Vì các lý do khách quan và chủ quan, dãy số liệu theo thời gian của
nhiều chỉ tiêu bị hạn chế về mặt so sánh qua các năm và do phân công tổng
hợp số liệu theo nhiều cấp, nên số liệu gốc của nhiều chỉ tiêu không đƣợc
quản lý tập trung, chƣa có một cơ sở dữ liệu về thông tin ban đầu một cách
đầy đủ và hoàn hảo. Chƣa có hệ thống chỉ tiêu thống kê đáp ứng yêu cầu của
các nhà sản xuất kinh doanh và các nhà đầu tƣ.
- Số liệu của các ngành kinh tế hoạt động trong khu vực có vốn đầu tƣ
nƣớc ngoài, kinh tế tƣ nhân hầu nhƣ chƣa thu thập đƣợc đầy đủ số liệu, đặc
biệt là các ngành dịch vụ nhƣ: vận tải, bƣu chính viễn thông, tài chính, ngân
hàng, v.v. Riêng phần xuất khẩu dịch vụ còn là một lĩnh vực mới, chƣa có số
liệu phục vụ nhu cầu dùng tin của các đối tƣợng sử dụng.
- Hiện nay, TCTK đã cung cấp số liệu hàng năm cho một số tổ chức
thống kê quốc tế nhƣ: Ngân hàng Thế giới, Quỹ Tiền tệ quốc tế, Cơ quan
Thống kê Liên hợp quốc, v.v, nhƣng không đầy đủ chỉ tiêu. Trang số liệu của
Việt Nam còn để trống nhiều dòng.
2. Tính chính xác
2.1. Tính chính xác theo mức độ tiệm cận giữa số liệu tính toán và thực tế
của các hiện tượng kinh tế, xã hội
Hiện nay, ngành Thống kê chƣa lƣợng hoá đƣợc các sai số, đồng thời
mức độ chính xác của số liệu mới chỉ đƣợc đánh giá thông qua định tính và
15
theo kinh nghiệm của các chuyên gia. Nhìn chung, số liệu thống kê đƣợc
công bố ở phạm vi toàn quốc đã phản ánh đúng bản chất và xu hƣớng của các
hiện tƣợng kinh tế, xã hội phát sinh nhƣ: tốc độ tăng trƣởng của sản xuất, cơ
cấu kinh tế và một số thông tin về chất lƣợng và hiệu quả của sản xuất. Tuy
vậy mức độ tiệm cận của xu hƣớng đó so với thực tế vẫn còn những tồn tại,
chủ yếu là:
- Số liệu thống kê còn chứa đựng các sai số không chỉ do chủ quan của
cán bộ thống kê, mà còn bị ảnh hƣởng của tƣ tƣởng thành tích cục bộ, áp đặt
số liệu theo định tính duy ý chí của lãnh đạo các cấp, làm cho số liệu phản
ánh đúng xu hƣớng nhƣng phổ biến là xu hƣớng cao hơn thực tế.
- Số liệu của trung ƣơng tính cho toàn nền kinh tế ngày càng thiếu thống
nhất với số liệu của các địa phƣơng và các cơ quan chủ quản. Đối với các
thống kê chuyên ngành, thông thƣờng số liệu của trung ƣơng thấp hơn so với
số liệu của các địa phƣơng và các cơ quan chủ quản cộng lại vì số liệu của
trung ƣơng tính cho phạm vi toàn quốc không bị yếu tố tính trùng, tính sai
còn số liệu các địa phƣơng có sự tính trùng giữa các địa phƣơng.
- Số liệu tính đƣợc giữa kết quả điều tra thƣờng xuyên và tổng điều tra
còn có sự chênh lệch đáng kể tại một số chuyên ngành, thể hiện khá rõ ở số
liệu về chăn nuôi.
- Đối với một số chỉ tiêu do phƣơng pháp tính quá lạc hậu, không còn
phù hợp với nền kinh tế thị trƣờng hoặc chƣa có phƣơng pháp tính riêng của
thống kê mà dựa hoàn toàn vào phƣơng pháp kế toán để tạo ra số liệu.
- Các chỉ tiêu thống kê mức sống đã phản ánh đúng xu hƣớng cải thiện
mức sống trong mối quan hệ với thành tựu đạt đƣợc trong phát triển kinh tế
xã hội qua dãy số thời gian. Tuy nhiên, số liệu thu nhập còn thấp so với thực
tế đối với một số đối tƣợng nhƣ ngƣời giàu, ngƣời sống ở thành thị hoặc
ngƣời có trình độ giáo dục cao.
- Số liệu thống kê giáo dục, y tế, văn hóa còn có sự khác biệt đối với
một số chỉ tiêu giữa hai kênh: thu thập của TCTK và từ Bộ, ngành, đặc biệt
đối với chỉ tiêu tỷ lệ nhập học khi so sánh kết quả tính từ số liệu điều tra mức
sống với kết quả tính từ số liệu báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
2.2. Đánh giá tính chính xác qua mức độ chênh lệch của số liệu ước tính với
số liệu chính thức
Tính chính xác của số liệu thống kê còn đƣợc đánh giá thông qua mức
độ chênh lệch của những số liệu ƣớc tính, số liệu sơ bộ với số liệu chính thức.
16
Qua tìm hiểu một số chuyên ngành, chúng tôi thấy thông tin thống kê về cơ
bản đã phản ánh đƣợc xu hƣớng, diễn biến tình hình thực tế. Tuy nhiên, tính
chính xác của số liệu thống kê hiện nay vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh
luận, chủ yếu nhƣ sau:
- Hiện tƣợng chênh lệch giữa số liệu ƣớc tính với số liệu sơ bộ và số liệu
chính thức là khá phổ biến. Hiện tƣợng này phát sinh ở hầu hết các chuyên
ngành, đặc biệt là số liệu về sản xuất của một số cây công nghiệp lâu năm
nhƣ: cà phê, hồ tiêu, cao su,... thƣờng xuyên thấp hơn do với sản lƣợng xuất
khẩu. Những chênh lệch này phát sinh cả ở Tổng cục và các Cục Thống kê.
- Độ tin cậy một số chỉ tiêu, nhất là các chỉ tiêu về dịch vụ nông, lâm
nghiệp và thủy sản còn thấp. Thông tin để phân tích ảnh hƣởng của các hoạt
động dịch vụ đến kết quả sản xuất hầu nhƣ chƣa đƣợc chính thức hoá một
cách có hệ thống thông qua hệ thống biểu mẫu của chế độ báo cáo.
3. Tính kịp thời
Tính kịp thời của thông tin thống kê phản ánh độ trễ về thời gian giữa
thời kỳ hay thời điểm thông tin thống kê phản ánh với thời điểm công bố
thông tin. Để kịp thời cung cấp thông tin cho các đối tƣợng sử dụng, ngành
Thống kê đã thu thập, tổng hợp và công bố số liệu vào những thời điểm khác
nhau: số liệu ƣớc tính, số liệu sơ bộ, số liệu chính thức. Hiện nay, trong chế
độ báo cáo thống kê định kỳ áp dụng đối với các Cục Thống kê nhiều chỉ tiêu
đã đƣợc bổ sung thêm so với trƣớc và điểm đáng chú ý là các biểu báo cáo đã
có thay đổi về thời gian báo cáo để có đƣợc thông tin kịp thời, phù hợp với
tình hình thực tế của từng vùng, miền. Ngoài ra, nhiều chỉ tiêu ƣớc tính đã
đƣợc bổ sung và tăng số kỳ báo cáo, nên tính kịp thời trong cung cấp thông
tin đã có nhiều tiến bộ so với trƣớc.
Trong thực tế tính kịp thời của số liệu chính thức đƣợc thực hiện ngày
càng tốt hơn do áp dụng các biện pháp về nghiệp vụ, nâng cao ý thức trách
nhiệm của cán bộ thống kê và nhất là việc ứng dụng công nghệ thông tin vào
khâu kiểm tra, truyền dữ liệu và xử lý tổng hợp. Tuy nhiên, nếu xem xét một
cách chi tiết và đầy đủ tất cả các khía cạnh đáp ứng tính kịp thời của số liệu
thống kê, chúng tôi thấy có một số nét sau:
- Tính kịp thời của thông tin thống kê thể hiện chƣa đều giữa các ngành,
các nhóm chỉ tiêu. Loại thông tin nhanh có dự tính trong số liệu thì tính kịp
thời đƣợc đáp ứng tốt, thỏa mãn đƣợc ngƣời sử dụng về mặt thời gian nhƣ:
17
thông tin về tốc độ tăng trƣởng; chỉ số giá tiêu dùng, v.v. Song nhiều chỉ tiêu,
đặc biệt là các chỉ tiêu báo cáo năm (sơ bộ và chính thức), số liệu của nhiều
cuộc điều tra, thời điểm công bố số liệu còn chậm, do vậy nhiều chỉ tiêu thiếu
thông tin để đánh giá về tình hình hàng tháng, quí và 6 tháng đầu năm.
- Công tác công bố thông tin của một số chuyên ngành còn chậm, nhất là
các thông tin phản ánh về giáo dục; ngành xây dựng; kết quả Tổng điều tra sơ
sở kinh tế; Tổng điều tra nông thôn, nông nghiệp và thủy sản; điều tra vốn
đầu tƣ, v.v, do vậy đã làm giảm giá trị của thông tin đối với nhu cầu dùng tin
và khi đó chỉ phục vụ chủ yếu cho nghiên cứu chuyên sâu.
4. Khả năng tiếp cận
Khả năng tiếp cận thông tin thống kê phản ánh cách thức sắp xếp và
cách tiếp cận đƣợc thông tin một cách dễ dàng. Khả năng tiếp cận thông tin
thống kê thể hiện ở nhiều mặt: mức độ công bố rộng rãi của thông tin thống
kê, tính sẵn có của các cơ sở dữ liệu và các dịch vụ hỗ trợ ngƣời sử dụng
thông tin, sự phù hợp về hình thức thể hiện của thông tin.
Trong thời gian gần đây, số liệu thống kê đƣợc sản xuất ra đã nhằm mục
đích hƣớng tới nhu cầu của ngƣời dùng tin, phổ biến thông tin rộng rãi dƣới
nhiều hình thức. Thông tin thống kê tăng lên cả về số lƣợng chỉ tiêu công bố
và hình thức phổ biến thông tin để ngƣời sử dụng có thể dễ dàng tiếp cận
đƣợc các thông tin cần thiết.
Phổ biến thông tin qua trang Web của Tổng cục là hình thức đang đƣợc
nhiều ngƣời sử dụng thông tin đánh giá cao và ngày càng đƣợc quan tâm.
Bên cạnh những thông tin thống kê đầu ra, trang Web của Tổng cục đã cung
cấp cả những thông tin liên quan đến phƣơng pháp thu thập số liệu và thông
tin khá đa dạng.
Bên cạnh những nỗ lực để tạo điều kiện thuận lợi cho mọi đối tƣợng sử
dụng có thể tiếp cận với các nguồn thông tin sẵn có, việc cung cấp thông tin
thống kê vẫn còn những hạn chế cần đƣợc khắc phục trong thời gian tới nhƣ:
- Một số thông tin ƣớc tính chƣa đƣợc công bố rộng rãi và chỉ thƣờng
tập trung công bố một số chỉ tiêu quan trọng nhất, cho một số đối tƣợng sử
dụng chủ yếu nhƣ: Chính phủ, các Bộ, ngành liên quan trực tiếp. Ngoài
những chỉ tiêu tổng hợp chung toàn ngành, nhiều thông tin chỉ đƣợc công bố
hạn chế ở một số sản phẩm quan trọng và chủ yếu mới dừng lại ở số ƣớc tính
cho phạm vi cả nƣớc.
18
- Mặc dù đã có nhiều cố gắng về các ấn phẩm thống kê, song số lƣợng
và chủng loại các ấn phẩm vẫn còn ở mức khiêm tốn, chƣa đa dạng, chậm cải
tiến cả hình thức và nội dung thông tin. Các thông tin tổng hợp còn ít các
phân tổ chi tiết, nhiều ấn phẩm thống kê còn thiếu phần giải thích nội dung,
khái niệm và phƣơng pháp tính toán từng chỉ tiêu;
- Thông tin để ngƣời sử dụng có thể khai thác qua mạng chƣa nhiều và
thƣờng chƣa đƣợc cập nhật kịp thời. Chƣa thƣờng xuyên và định kỳ công bố
số liệu các cuộc điều tra. Một số thông tin đƣợc thu thập, tổng hợp nhƣng chỉ
cung cấp cho một số đối tƣợng sử dụng chủ yếu, chƣa đƣợc công bố rộng rãi
trên trang Web, hoặc trong Niên giám hàng năm.
- Công tác tuyên truyền, quảng bá về thống kê còn ít, nhiều ngƣời còn
có định kiến với thông tin thống kê. Chƣa có cơ chế rõ ràng về cung cấp các
thông tin chuyên sâu, chi tiết, các cơ sở dữ liệu vi mô. Do vậy, việc cung cấp
các loại thông tin còn mang tính tự phát, tùy tiện và nhiều khi không thống
nhất giữa các đối tƣợng khác nhau.
5. Khả năng giải thích
Khả năng giải thích của số liệu thống kê thể hiện trên nhiều nội dung:
công khai các số liệu sẵn có, công khai các khái niệm, nội dung chỉ tiêu,
phƣơng pháp tính toán và phƣơng pháp thu thập thông tin. Công khai, minh
bạch các sản phẩm số liệu giúp cho những ngƣời sử dụng tin có thể hiểu, sử
dụng và phân tích số liệu một cách đúng đắn.
Các thông tin thống kê gồm một hệ thống các chỉ tiêu có nội dung phức
tạp, chủ yếu đƣợc thu thập và tổng hợp theo các phƣơng pháp thống kê phổ
biến trên thế giới. Trong thời gian qua, ngành Thống kê đã quan tâm nhiều
đến khả năng giải thích của số liệu và trên thực tế đã cơ bản đáp ứng đƣợc
yêu cầu của các đối tƣợng sử dụng thể hiện qua các nội dung sau:
- Công khai, minh bạch về phƣơng pháp thu thập thông tin và chế độ
báo cáo. Phƣơng án của các cuộc tổng điều tra đƣợc đăng tải công khai trên
trang Web của Tổng cục để mọi đối tƣợng có thể truy cập tìm hiểu. Phổ biến
các thông tin thống kê đã có kèm theo giải thích, số lƣợng các chỉ tiêu thống
kê công bố có kèm giải thích khái niệm, nội dung, phƣơng pháp tính tăng lên
đáng kể, Tổng cục đã thƣờng xuyên bổ sung các bản giải thích trong các ấn
phẩm, đặc biệt là trong “Niên giám Thống kê”.
19
- Tổng cục đã thƣờng xuyên trƣng cầu ý kiến của các Bộ, ngành liên
quan trực tiếp trong quá trình xây dựng, cải tiến các phƣơng án điều tra và
chế độ báo cáo.
- Tuy nhiên vẫn còn những tồn tại cần khắc phục để nâng cao hơn nữa
khả năng giải thích của số liệu thống kê trong thời gian tới do nhiều đối
tƣợng sử dụng tin không nắm đƣợc những thông tin nào hiện đang đƣợc thu
thập, phƣơng pháp thu thập và tính toán các chỉ tiêu cũng nhƣ kỳ cung cấp số
liệu. Điều này dẫn đến việc thu thập thông tin trùng, chéo và kết quả thông
tin không thống nhất với nhau.
- Các ấn phẩm nhƣ: Niên giám thống kê hoặc các cuốn số liệu chuyên
ngành mới nêu khái niệm, nội dung một số chỉ tiêu chủ yếu, quan trọng nhất,
còn nhiều chỉ tiêu chƣa đƣợc giải thích rõ ràng về nội dung, nguồn thông tin
và phƣơng pháp tính.
- Phần lớn phƣơng án của các cuộc điều tra chƣa đƣợc giới thiệu đến đa
số ngƣời sử dụng thông tin. Đến nay, việc công khai phƣơng án điều tra trên
trang Web của Tổng cục mới thực hiện đƣợc với các cuộc tổng điều tra.
6. Tính chặt chẽ
Tính chặt chẽ và logic của số liệu phản ánh mức độ mà các số liệu có thể
liên kết đƣợc với nhau một cách lô gíc và nhất quán. Tính chặt chẽ có nghĩa là
nếu cùng một thuật ngữ sẽ không dùng nhiều khái niệm hoặc số liệu khác nhau.
Tính chặt chẽ theo nghĩa chung nhất đƣợc hiểu là số liệu không có mâu thuẫn.
Qua tìm hiểu các nguồn số liệu thống kê, chúng tôi thấy về cơ bản số
liệu thống kê đã bảo đảm đƣợc tính chặt chẽ và lôgic cả về không gian và
thời gian. Số liệu sơ cấp đƣợc thu thập, tính toán dựa trên các khái niệm, định
nghĩa và phân tổ tƣơng thích và có thể dùng để tổng hợp và liên kết đƣợc
giữa các chỉ tiêu có liên quan. Đồng thời số liệu tổng hợp cũng đƣợc sắp xếp
theo trình tự khoa học, thống nhất về phạm vi và các phân tổ.
Quá trình thiết kế các loại phiếu điều tra đƣợc thực hiện một cách đồng
bộ ở các khâu công việc từ xác định nhu cầu, nội dung điều tra đến xây dựng
phƣơng án, thiết kế mẫu, phiếu điều tra, tài liệu hƣớng dẫn cũng nhƣ các qui
trình bắt buộc trong điều tra. Chế độ báo cáo thống kê thƣờng xuyên đƣợc
nghiên cứu, bổ sung và sửa đổi cho phù hợp với nhu cầu thông tin từng thời
kỳ và đặc điểm tổ chức sản xuất của các đơn vị để đề xuất những nội dung và
hình thức báo cáo phù hợp.
20
Tuy nhiên, nếu đi sâu tìm hiểu số liệu chi tiết của các ngành còn có
nhiều bất hợp lý, phần lớn số liệu chỉ sử dụng đƣợc ở cấp toàn quốc, phân tổ
đối với ngành cấp I và cấp II. Nếu sử dụng số liệu với phân tổ chi tiết đến
ngành cấp III có nhiều mâu thuẫn giữa các bộ số liệu. Đồng thời khi nghiên
cứu mối liên hệ giữa các chỉ tiêu với nhau đôi khi cũng có những mâu thuẫn
nhất định, không phù hợp với xu hƣớng chung của quốc tế.
Tính chặt chẽ của dãy số liệu theo thời gian: phần lớn các chỉ tiêu thống
kê đã đảm bảo đƣợc sự thống nhất về khái niệm, phƣơng pháp tính, đơn vị
tính giữa các năm cũng nhƣ giữa các thời kỳ. Một số chỉ tiêu khi có sự thay
đổi về phạm vi hoặc thời điểm tính đã có giải thích cụ thể và đã tính lại cho
những năm trƣớc để đảm bảo sự thống nhất và so sánh đƣợc.
Tuy nhiên, tính chặt chẽ lôgic của số liệu thống kê còn có những tồn tại sau:
- Giữa Tổng cục với các Cục Thống kê và giữa các Cục Thống kê
với nhau chƣa có sự thống nhất về nội dung, phƣơng pháp điều tra thu
thập số liệu, tổng hợp, tính toán và suy rộng trên địa bàn lãnh thổ. Đối
với nhiều chỉ tiêu, số liệu thu thập và tính toán của các Cục Thống kê
cũng chỉ là tài liệu tham khảo cho các vụ nghiệp vụ của Tổng cục.
- Chƣa đảm bảo tính hệ thống và thiếu sự chỉ đạo thống nhất mặc dù nội
dung, nguồn thông tin và phƣơng pháp tính của nhiều chỉ tiêu đã đƣợc xây
dựng theo những quy trình chặt chẽ và khoa học nhƣng trên thực tế việc tổ
chức thực hiện chƣa nghiêm túc.
- Đối với một số chuyên ngành, chẳng hạn nhƣ nông nghiệp, lâm gnhiệp
và thủy sản, còn có hiện tƣợng nội dung, phạm vi thu thập thông tin của cùng
một chỉ tiêu nhƣng không thống nhất với nhau giữa điều tra mẫu thƣờng
xuyên và tổng điều tra, thậm chí giữa hai lần tổng điều tra.
- Một số chỉ tiêu khi so sánh quốc tế còn khác nhau về khái niệm, phạm
vi tính toán nhƣ các chỉ tiêu thất nghiệp, cán bộ khoa học kỹ thuật, số cơ sở
kinh tế, các chỉ tiêu về sản lƣợng sản phẩm chăn nuôi và thủy sản, v.v. Ngoài
ra, sự khác nhau về phân tổ các loại cây trồng trong nông nghiệp của Việt
Nam với các nƣớc khác và các tổ chức quốc tế cũng gây khó khăn cho việc
biên soạn và so sánh quốc tế.
II. Các nguyên nhân ảnh hƣởng tới chất lƣợng thông tin thống kê
1. Phương pháp thống kê
Phƣơng pháp thống kê có vai trò quan trọng, không những quyết định
đến phƣơng pháp tính toán các chỉ tiêu thống kê cụ thể mà còn quyết định cả
21
các hoạt động thống kê có liên quan. Với thực tế hiện nay về phƣơng pháp
thống kê của Ngành, Tổng cục cần rà soát và hoàn thiện phƣơng pháp thống
kê thuộc tất cả các lĩnh vực. Đây là một nội dung lớn, cần đưa ra thành một
chương trình công tác trọng tâm của Ngành, hay dưới giác độ nghiên cứu
khoa học, nội dung này nên bố trí thành một đề tài độc lập cấp Tổng cục. Vì
vậy trong khuôn khổ đề tài này, chúng tôi chỉ đề cập tới một số bất cập về
phƣơng pháp thống kê thuộc lĩnh vực tài khoản quốc gia nhƣ một ví dụ minh
họa và ngay cả trong lĩnh vực này, chúng tôi cũng chỉ tập trung vào phƣơng
pháp luận tính chỉ tiêu GDP theo phƣơng pháp sản xuất và theo hai loại giá.
1.1. Phạm vi tính toán. Phạm vi tính toán chỉ tiêu GDP của Tổng cục
Thống kê chƣa đầy đủ, vẫn còn những hoạt động sản xuất chƣa đƣợc đăng ký
và ngành Thống kê chƣa quan sát và thu thập đầy đủ nhƣ: Kinh tế chƣa định
hình, kinh tế ngầm, v.v.
1.2. Đơn vị thống kê. TCTK đang dùng doanh nghiệp làm đơn vị thống
kê để thu thập thông tin tính toán GDP theo phƣơng pháp sản xuất. Dùng
doanh nghiệp làm đơn vị thống kê dẫn tới trƣờng hợp vừa thừa vừa thiếu
trong tính toán GDP của các tỉnh và thành phố.
1.3. Khái niệm sản xuất. Hiện nay TCTK áp dụng khái niệm sản xuất
có một điểm không giống với khái niệm sản xuất của thống kê Liên hợp
quốc. Tổng cục quy định khái niệm sản xuất không bao gồm các hoạt động
bất hợp pháp bị cấm trong Hiến pháp và các bộ luật hiện hành nhƣ: buôn lậu
ma túy, hoạt động mại dâm, hoạt động mê tín dị đoan, v.v. Quy định nhƣ vậy
là không hợp lý vì đã phủ nhận thực tế tồn tại của hoạt động bất hợp pháp
trong nền kinh tế và gây bất cập, không thống nhất về phạm vi tính của cùng
một chỉ tiêu GDP theo hai cách tiếp cận.
1.4. Phương pháp tính
a. Theo giá thực tế: chỉ tiêu GDP theo giá thực tế đƣợc tính đồng thời
theo hai phƣơng pháp. Nhìn chung phƣơng pháp tính đã tuân thủ phƣơng
pháp luận của thống kê quốc tế.
b. Theo giá so sánh: thực tế áp dụng phƣơng pháp giảm phát để tính
GDP theo giá so sánh còn nhiều điểm chƣa chính xác: (i) Đối với một số
ngành kinh tế, tính trực tiếp chỉ tiêu giá trị tăng thêm từ giá thực tế về giá so
sánh bằng cách loại trừ biến động giá bằng chỉ số CPI là không chính xác; (ii)
Công cụ tính theo giá so sánh không đồng bộ; (iii) Không thể dùng chỉ số
CPI để tính chuyển chỉ tiêu giá trị sản xuất.
22
1.5. Quy trình tính. Chỉ tiêu GDP đƣợc tính theo quy trình từ dƣới lên
và có một số bất cập: (i) Không kiểm soát đƣợc phạm vi thu thập thông tin
của các Cục Thống kê; (ii) Không kiểm soát đƣợc thực tế tính toán các chỉ
tiêu giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm và khó kiểm soát đƣợc việc áp dụng
thống nhất phƣơng pháp tính; không thể loại trừ đƣợc bệnh thành tích muốn
có tốc độ tăng trƣởng cao của các tỉnh, thành phố; không thực hiện đúng quy
định của Luật Thống kê: “Thủ trƣởng cơ quan thống kê trung ƣơng công bố
thông tin thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia” (3)
.
2. Tính đồng bộ của số liệu thống kê
2.1. Đồng bộ giữa chỉ tiêu đầu vào và chỉ tiêu đầu ra
a. Số liệu giữa trung ương và số liệu địa phương còn có sự khác nhau
về khá nhiều chỉ tiêu. Chẳng hạn có sự khác biệt khá lớn về quy mô và tốc độ
tăng của chỉ tiêu GDP. Quy mô của chỉ tiêu GDP của các tỉnh và thành phố
cộng lại đều nhỏ hơn chỉ tiêu GDP do Tổng cục tính toán. Tốc độ tăng GDP
của hầu hết các tỉnh đều cao hơn tốc độ tăng của cả nền kinh tế do Tổng cục
tính. Chỉ tiêu về dân số của các tỉnh, thành phố với dân số của cả nƣớc là một
ví dụ khác về sự khác biệt số liệu giữa trung ƣơng và địa phƣơng.
b. Số liệu giữa Tổng cục Thống kê và các Bộ, ngành nhìn chung khá
thống nhất. Nhiều thông tin từ các Bộ, ngành là thông tin đầu vào quan trọng
để TCTK tính các số liệu và chỉ tiêu thống kê đầu ra. Tuy vậy, số liệu về lao
động - việc làm do Bộ Lao động-TBXH chủ trì thực hiện trong thời kỳ 1996-
2005 cao hơn đáng kể so với số liệu ghi trong Niên giám của TCTK. Tình
trạng tƣơng tự còn diễn ra đối với số liệu về tỷ lệ hộ nghèo; tỷ lệ sử dụng thời
gian của lao động trong độ tuổi ở khu vực nông thôn; tỷ lệ lao động đã qua
đào tạo và số lao động đƣợc đào tạo trong năm.
c. Giữa chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu chuyên ngành nhìn chung đã có
sự đối chiếu với nhau nên sự khác biệt bƣớc đầu đã đƣợc quan tâm xử lý. Các
chỉ tiêu tổng hợp thƣờng đƣợc đánh giá, phân tích từ các chỉ tiêu chuyên
ngành. Tuy nhiên sự khác biệt giữa chỉ tiêu tổng hợp và chỉ tiêu chuyên
ngành còn khá lớn và biểu hiện ở nhiều chỉ tiêu. Còn có sự khác biệt giữa số
hộ trong điều tra dân số với số hộ trong điều tra mức sống dân cƣ, còn có sự
khác biệt giữa tổng số lao động đang làm việc của toàn bộ nền kinh tế với số
lao động đang làm việc cộng từ các ngành.
(3)
Mục 1, điều 25 của Luật Thống kê
23
d. Giữa số liệu dự báo và số liệu chính thức: để phục vụ kịp thời yêu
cầu quản lý, điều hành nền kinh tế của Đảng và Nhà nƣớc các cấp, một số chỉ
tiêu thống kê kinh tế - xã hội chủ yếu cần đƣợc dự báo sớm. Để số liệu dự
báo đáp ứng đƣợc yêu cầu quản lý, đòi hỏi số liệu dự báo và số liệu chính
thức phải đồng bộ theo nghĩa cùng chiều hƣớng, cùng xu thế, sát với thực tế
và không khác biệt nhiều về độ lớn. Trong thực tế thời gian qua, giữa số liệu
dự báo và số liệu chính thức có hai nét đặc trƣng sau:
i. Số liệu dự báo khớp hoàn toàn với số liệu chính thức, hoặc có khác
biệt nhƣng không đáng kể. Trong nhiều trƣờng hợp TCTK không công bố sự
khác biệt giữa số liệu dự báo và số liệu chính thức.
ii. Giữa số liệu dự báo và số liệu chính thức có sự khác biệt lớn, thậm
chí không cùng chiều hƣớng. Chẳng hạn số liệu ƣớc tính lần thứ nhất vào thời
điểm cuối năm 2003 về tốc độ tăng dân số của năm 2003 là 1,18%, thấp hơn
nhiều so với tốc độ tăng chính thức của năm 2002 là 1,32%. Khi công bố số
liệu chính thức tốc độ tăng dân số của năm 2003 là 1,47% vƣợt xa số liệu ƣớc
tính và cao hơn cả tốc độ tăng của năm 2002.
2.2. Đồng bộ về phương pháp và công cụ tính toán
a. Đồng bộ giữa thống kê chuyên ngành và thống kê tổng hợp: nhìn
chung phƣơng pháp luận áp dụng tính toán các chỉ tiêu của thống kê chuyên
ngành đã theo chuẩn mực quốc tế và vì vậy cũng phù hợp với thống kê tổng
hợp. Trong thực tế vẫn có trƣờng hợp các đơn vị của Tổng cục không áp
dụng thống nhất các bảng phân loại. Chẳng hạn trong danh mục sản phẩm lập
bảng cân đối liên ngành của năm 1996 và 2000, thống kê tài khoản quốc gia
không áp dụng bảng phân loại sản phẩm chủ yếu do TCTK ban hành và đã
dùng danh mục ngành sản phẩm do các chuyên viên của Vụ đƣa ra.
Công cụ tính toán của thống kê TKQG ở trong tình trạng vừa thừa vừa
thiếu và điều này xảy ra vì sự phối hợp chƣa đồng bộ giữa thống kê chuyên
ngành và thống kê TKQG. Hiện nay, Vụ Thống kê thƣơng mại, dịch vụ và
giá cả mới chỉ thống kê chỉ tiêu doanh số bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội
theo các nhóm hàng và không thống kê chỉ tiêu trị giá vốn hàng hóa và dịch
vụ bán ra theo các nhóm hàng tƣơng ứng, điều này gây bất cập khi tính chỉ
tiêu giá trị sản xuất theo giá so sánh của hoạt động thƣơng nghiệp.
b. Đồng bộ giữa thống kê tài khoản quốc gia thuộc TCTK với các Cục
Thống kê: hiện nay Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia có chế độ báo cáo thống
kê định kỳ về Tài khoản quốc gia (Quyết định số 75/2003/QĐ-TCTK ngày 15
24
tháng 01 năm 2003 của Tổng cục trƣởng Tổng cục Thống kê), tuy vậy phƣơng
pháp hƣớng dẫn trong chế độ này còn rất chung chung và tính khả thi không
cao, dẫn tới việc áp dụng tùy tiện phƣơng pháp tính tại các Cục Thống kê.
Hiện nay thống kê TKQG yêu cầu các Cục Thống kê lập bảng cân đối
sản phẩm nông nghiệp để tính đơn giá bình quân trong tính toán giá trị sản
xuất và một số chỉ tiêu khác. Trong thực tế, các Cục Thống kê không thể lập
bảng cân đối này với chất lƣợng đảm bảo để có thể sử dụng và nhiều Cục
Thống kê lập chỉ để hoàn thành công việc Tổng cục giao.
c. Đồng bộ của thống kê chuyên ngành giữa Tổng cục Thống kê với
các Cục Thống kê: nhìn chung các Cục Thống kê tuân thủ đầy đủ hƣớng dẫn
về phƣơng pháp tính của các Vụ thống kê chuyên ngành. Tuy vậy quá trình
này diễn ra chƣa đều và còn chậm. Công cục tính toán còn bất cập. Chẳng
hạn, TCTK hƣớng dẫn các Cục Thống kê tính chỉ tiêu giá trị sản xuất của các
ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản, ngành công nghiệp theo giá so sánh
bằng bảng giá cố định. Bảng giá cố định không đầy đủ và chƣa hƣớng dẫn
kịp thời phƣơng pháp tính toán và điều chỉnh đối với nhóm sản phẩm không
có giá trong bảng giá cố định cho phù hợp với diễn biến của nền kinh tế.
PHẦN III
CÁC GIẢI PHÁP NHẰM QUẢN LÝ VÀ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG
THÔNG TIN THỐNG KÊ
I. Hoàn thiện phƣơng pháp luận thống kê
Phƣơng pháp luận thống kê có tầm quan trọng đặc biệt vì nó sẽ quyết
định tới loại thông tin thống kê đầu vào, tới đối tƣợng thu thập thông tin,
phƣơng pháp và công cụ dùng trong tính toán các chỉ tiêu thống kê đầu ra.
Trong mục này, chúng tôi trao đổi và đề xuất một số nội dung cơ bản nhất về
vấn đề phƣơng pháp luận thống kê trong tổng thể các giải pháp nhằm nâng
cao chất lƣợng thông tin thống kê.
Mỗi lĩnh vực thống kê đều liên quan tới việc thu thập, xử lý và tính toán
các chỉ tiêu thống kê của lĩnh vực đó và không thể phủ nhận vai trò quan trọng
của từng thống kê chuyên ngành. Tuy vậy, với chức năng tính toán và phân
tích các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế, thống kê tài khoản
quốc gia đã chiếm vị trí trung tâm trong toàn bộ hệ thống thống kê kinh tế, xã
hội. Trong khuôn khổ của đề tài, chúng tôi đƣa ra một số kiến nghị phần nào
mang tính giải pháp nhằm hoàn thiện một bƣớc phƣơng pháp luận của thống
kê tài khoản quốc gia trong việc tính toán chỉ tiêu GDP theo giá so sánh.
25
1. Đơn vị thống kê
Thống kê Liên hợp quốc khuyến nghị trong trƣờng hợp các nƣớc áp
dụng phƣơng pháp sản xuất để tính chỉ tiêu GDP, khi đó đơn vị thống kê
dùng để thu thập số liệu về sản xuất phải là đơn vị cơ sở. Áp dụng đơn vị cơ
sở làm đơn vị thống kê sẽ thu đƣợc thông tin về hoạt động sản xuất thuần
nhất theo ngành kinh tế và thuần nhất theo địa bàn và sẽ khắc phục đƣợc tình
trạng tính vừa thừa vừa thiếu chỉ tiêu GDP của địa phƣơng. Để khắc phục bất
cập này, chúng tôi đề nghị Tổng cục giao cho Vụ Thống kê thƣơng mại, dịch
vụ và giá cả chủ trì cùng với Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia và Vụ Phƣơng
pháp chế độ thống kê thực hiện các công việc sau:
- Nghiên cứu, xác định các tiêu thức nhận dạng cụ thể đơn vị cơ sở trong
từng ngành và từng loại hình kinh tế ở Việt Nam để dùng làm đơn vị thống
kê cho thu thập thông tin về kết quả sản xuất của các ngành kinh tế trong thời
gian tới.
- Nghiên cứu phƣơng pháp thu thập thông tin từ các đơn vị cơ sở từ đó
xây dựng phƣơng án khả thi áp dụng từ năm 2008 trở đi.
2. Xây dựng và áp dụng các bảng phân loại
Bên cạnh việc rà soát, sửa đổi và hoàn thiện các bảng danh mục hiện có
nhƣ: Bảng phân ngành kinh tế quốc dân, bảng phân loại sản phẩm, danh mục
các đơn vị hành chính, danh mục giáo dục và đào tạo, Tổng cục tiếp tục nghiên
cứu và trình Thủ tƣớng Chính phủ ban hành một số bảng phân loại mới:
- Bảng phân loại tiêu dùng theo mục đích của cá nhân dân cƣ (COICOP);
- Bảng phân loại chi tiêu theo chức năng của chính phủ (COFOG);
- Bảng phân loại chi tiêu theo mục đích của các đơn vị không vì lợi phục
vụ hộ gia đình (COPNI);
- Danh mục hàng hóa thƣơng mại quốc tế tiêu chuẩn (SITC);
Khi đã xây dựng và ban hành các bảng phân loại và danh mục, Tổng cục
phải có biện pháp áp dụng các bảng phân loại và danh mục vào từng lĩnh vực
thống kê phù hợp. Việc áp dụng phải đáp ứng các yêu cầu sau:
- Áp dụng ở mức độ chi tiết để đảm bảo yêu cầu tính toán chi tiết của
các lĩnh vực thống kê và đáp ứng khả năng so sánh;
- Áp dụng thống nhất cho tất cả các lĩnh vực thống kê có liên quan.
26
3. Xác định phương pháp và quy trình tính
3.1. Sự nhất quán và thống nhất về phương pháp thống kê. Phƣơng
pháp thống kê có vai trò quan trọng và quyết định tới tất cả các hoạt động
thống kê. Vì vậy trong kế hoạch công tác của giai đoạn 2007 - 2010 Tổng cục
nên dành nguồn lực và thời gian thỏa đáng để xác định các phƣơng pháp thống
kê phải áp dụng trong thống kê tổng hợp và thống kê chuyên ngành. Tổng cục
nên chọn năm 2008 là “Năm phương pháp thống kê” của Ngành, đặt dƣới sự
chỉ đạo trực tiếp của Tổng cục trƣởng, Vụ Phƣơng pháp chế độ thống kê chịu
trách nhiệm chính với sự tham gia của các Vụ thống kê tổng hợp, thống kê
chuyên ngành và Viện Khoa học Thống kê. Trong năm phƣơng pháp thống kê,
dựa trên phƣơng pháp mang tính chuẩn mực và hƣớng phát triển của thống kê
quốc tế, tất cả các đơn vị thống kê chuyên ngành và thống kê tài khoản quốc
gia phải xác định rõ phƣơng pháp thống kê của từng lĩnh vực sẽ áp dụng trong
thời gian tới (10 năm) đồng thời đƣa ra lộ trình thực hiện.
Việc thực hiện phƣơng pháp thống kê có liên quan tới tất cả các nghiệp
vụ chuyên môn, liên quan giữa Tổng cục và các Cục Thống kê, giữa Tổng
cục với các Bộ, ngành. Để đảm bảo chất lƣợng thông tin thống kê nói chung,
đảm bảo khả năng so sánh và tính tin cậy về phƣơng pháp áp dụng để biên
soạn số liệu đòi hỏi các đơn vị trong Tổng cục phải tuân thủ và áp dụng thống
nhất phƣơng pháp thống kê. Để đảm bảo yêu cầu này, Tổng cục có thể áp
dụng một số giải pháp sau:
a. Sự nhất quán và thống nhất giữa các đơn vị trong Tổng cục. Vụ
Phƣơng pháp chế độ thống kê chủ trì, phối hợp với Ban Thanh tra Tổng cục
thực hiện việc kiểm tra hàng năm tính nhất quán và thống nhất trong việc áp
dụng phƣơng pháp thống kê của các Vụ thống kê chuyên ngành và thống kê
tổng hợp.
b. Sự nhất quán và thống nhất giữa các đơn vị trong Tổng cục và các
Cục Thống kê. Thanh tra Tổng cục chủ trì, phối hợp với các đơn vị có liên
quan trong Tổng cục kiểm tra việc áp dụng phƣơng pháp thống kê do Tổng
cục quy định tại các Cục Thống kê. Hàng năm, Thanh tra Tổng cục phải có
báo cáo về tình hình thực hiện phƣơng pháp thống kê ở địa phƣơng.
c. Sự nhất quán và thống nhất giữa Tổng cục Thống kê và các Bộ,
ngành. TCTK cần khẩn trƣơng hoàn thành các định nghĩa, hƣớng dẫn nội
dung, nguồn thông tin và phƣơng pháp tính của các chỉ tiêu trong hệ thống
27
chỉ tiêu thống kê quốc gia đã phân công cho các Bộ, ngành có liên quan. Tổ
chức các lớp đào tạo hƣớng dẫn nghiệp vụ chuyên môn cho những cán bộ
trực tiếp thu thập thông tin và tính toán những chỉ tiêu này tại các Bộ, ngành
và thƣờng xuyên mời đội ngũ cán bộ này tham gia các lớp đào tạo của các
đơn vị cho các cán bộ của Tổng cục.
3.2. Phương pháp và công cụ tính. TCTK cần triển khai nghiêm túc
chủ trƣơng áp dụng chỉ số giá thay cho bảng giá cố định, trong tính toán chỉ
tiêu GDP theo giá so sánh. Cùng với củng cố và nâng cao chất lƣợng tính chỉ
tiêu GDP theo giá thực tế và giá so sánh bằng phƣơng pháp sản xuất, Tổng
cục cũng nên phát triển và coi phƣơng pháp sử dụng cũng là phƣơng pháp
chủ yếu đặt vị trí ngang bằng với phƣơng pháp sản xuất.
Tính GDP theo giá so sánh: để áp dụng phƣơng pháp giảm phát trong
tính toán chỉ tiêu GDP theo giá so sánh đảm bảo chất lƣợng và không vi
phạm nguyên tắc về mức độ gộp ngành tối đa, Tổng cục cần thực hiện các
công việc sau:
- Xác định danh mục ngành kinh tế/ngành sản phẩm cấp II dùng trong
tính toán chỉ tiêu giá trị sản xuất, chi phí trung gian và giá trị tăng thêm theo
giá thực tế;
- Xác định nguồn thông tin chi tiết để tính toán chỉ tiêu giá trị sản xuất,
chi phí trung gian và giá trị tăng thêm theo giá thực tế theo danh mục ngành
kinh tế chi tiết đến cấp II, đồng thời biên soạn chỉ số giá sản xuất, chỉ số giá
vật tƣ theo nhóm ngành kinh tế cấp II đã lựa chọn ở trên.
Để nâng cao chất lƣợng tính chỉ tiêu giá trị sản xuất theo giá thực tế và
giá so sánh, với các ƣu điểm của bảng nguồn và sử dụng (SUT), Tổng cục
nên cập Nhật Bảng SUT hàng năm và dùng bảng này làm công cụ tính chỉ
tiêu GDP theo giá thực tế và giá so sánh.
3.3. Quy trình tính toán. Tổng cục nên áp dụng quy trình tính từ trên
xuống đối với chỉ tiêu GDP theo giá thực tế và giá so sánh. Áp dụng quy
trình này có các ƣu điểm sau:
- Tổng cục kiểm soát đƣợc phạm vi thu thập thông tin của các Cục
Thống kê;
- Tổng cục không mất thời gian và lực lƣợng cán bộ để kiểm soát việc
tính toán các chỉ tiêu giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm các ngành kinh tế và
28
không phải kiểm soát việc áp dụng thống nhất phƣơng pháp tính của các Cục
Thống kê;
- Tổng cục sẽ loại trừ đƣợc bệnh thành tích muốn có tốc độ tăng trƣởng
cao của các tỉnh, thành phố;
- Cùng với việc áp dụng đơn vị cơ sở làm đơn vị thống kê, Tổng cục sẽ loại
trừ đƣợc hiện tƣợng chênh lệch giữa số liệu của trung ƣơng và địa phƣơng;
- Thực hiện đúng Luật Thống kê quy định: “Thủ trƣởng cơ quan thống
kê trung ƣơng công bố thông tin thống kê thuộc hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia”.
- Với sự hỗ trợ của công nghệ tin học, Tổng cục có thể sắp xếp lại đội
ngũ cán bộ làm tài khoản quốc gia giữa trung ƣơng và địa phƣơng.
II. Các giải pháp quản lý và nâng cao chất lƣợng số liệu thống kê theo
sáu tiêu thức
1. Quản lý tính phù hợp
Để quản lý tính phù hợp của thông tin thống kê Tổng cục cần có kế
hoạch rà soát định kỳ nhu cầu của ngƣời sử dụng. Quá trình rà soát có thể
thực hiện theo ba hoạt động sau.
a. Cơ chế phản hồi của người dùng tin. Thực hiện Cơ chế phản hồi của
ngƣời dùng tin nhằm duy trì mối quan tâm đến số liệu thống kê của ngƣời sử
dụng. Chúng tôi cho rằng nên thành lập một vài loại cơ chế phản hồi sau đây:
- Thành lập Hội đồng Thống kê quốc gia, Hội đồng này đƣa ra khuyến
nghị về các chính sách và các chƣơng trình thống kê cần thực hiện, dựa vào
đó Tổng cục Thống kê sẽ xác định những số liệu cần thiết nhƣng còn thiếu để
phục vụ cho việc đánh giá quá trình thực hiện chính sách. Hội đồng này do
một Phó thủ tƣớng Chính phủ làm chủ tịch, Tổng cục trƣởng Tổng cục Thống
kê làm Tổng thƣ ký;
- Thành lập Hội đồng tƣ vấn chuyên môn cho các lĩnh vực thống kê chủ
yếu của TCTK. Hội đồng này rà soát và đánh giá đều đặn những mặt đƣợc và
các tồn tại của các hoạt động làm ra số liệu thống kê, từ đó kiến nghị những
giải pháp sửa đổi. Hội đồng do một lãnh đạo Tổng cục làm chủ tịch, thành
viên là đại diện của Vụ Phƣơng pháp chế độ thống kê, các Vụ thống kê tổng
hợp và thống kê chuyên ngành;
29
- Tổ chức các cuộc họp định kỳ, trao đổi ý kiến trực tiếp giữa TCTK với
các Bộ, ngành sử dụng thƣờng xuyên số liệu thống kê nhƣ: Bộ Tài chính,
Ngân hàng Nhà nƣớc, Bộ Kế hoạch và Đầu tƣ, v.v, để tìm hiểu yêu cầu mới
của họ về số liệu thống kê;
- Đại diện của TCTK chủ động tham gia vào các cuộc họp của Chính
phủ và các Bộ, ngành, nghe họ thảo luận về chƣơng trình kinh tế xã hội để
tìm hiểu nhu cầu mới về thông tin thống kê;
- Trao đổi định kỳ với Phòng Thƣơng mại và Công nghiệp Việt Nam để
tìm hiểu nhu cầu thông tin của giới doanh nghiệp và thông báo cho họ chính
sách phục vụ và phổ biến thông tin của Tổng cục Thống kê. Hàng năm tổ
chức toạ đàm trực tiếp, rộng rãi với các đối tƣợng sử dụng thông tin thống kê
để tìm hiểu những điểm mạnh và những hạn chế của hệ thống thông tin thống
kê hiện hành;
- Trao đổi định kỳ với các cơ quan thống kê nƣớc ngoài và các tổ chức
quốc tế để tìm hiểu nhu cầu mới về thông tin thống kê của họ;
- Đối với nhu cầu thông tin phục vụ cho công tác chỉ đạo, quản lý và
điều hành hoạt động kinh tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ƣơng,
Tổng cục nên tổ chức điều tra xác định nhu cầu thông tin và phân loại theo
các nhóm và phân loại theo khả năng sẵn có trong Hệ thống chỉ tiêu thống kê
quốc gia. Giải pháp này nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về số liệu thống kê
cấp tỉnh, thành phố và giảm thiểu chi phí lao động và thời gian của các Cục
Thống kê để thu thập thông tin phục vụ các công việc bên ngoài ngành.
b. Rà soát lại các chương trình công tác thống kê nghiệp vụ và thống kê
tổng hợp. Tổng cục nên rà soát định kỳ các chƣơng trình công tác thống kê
của các Vụ thống kê chuyên ngành và thống kê tổng hợp nhằm đánh giá mức
độ thỏa mãn nhu cầu của ngƣời sử dụng. Định kỳ hai năm một lần, tất cả các
đơn vị trong Tổng cục phải làm báo cáo đề cập rõ việc thực hiện chƣơng trình
công tác và xác định phƣơng hƣớng cũng nhƣ đề xuất những thay đổi trong
thời gian tới. Bốn năm một lần, từng Vụ thống kê chuyên ngành và thống kê
tổng hợp phải báo cáo bổ sung vào báo cáo hai năm những thông tin về kết
quả rà soát lại tiêu thức tính phù hợp và định hƣớng trong thời gian tới. Báo
cáo bốn năm sẽ đƣợc trình bày và thảo luận tại Hội đồng tƣ vấn chuyên môn
cho các lĩnh vực thống kê của TCTK. Tất cả những đề xuất trong báo cáo sẽ
đƣợc cân nhắc trong quá trình lập kế hoạch công tác thống kê cho giai đoạn
tiếp theo.
30
c. Phân tích số liệu. Phân tích số liệu phục vụ cho một số mục đích
trong quản lý chất lƣợng, đặc biệt khi phân tích ngƣời sử dụng sẽ hiểu và phát
hiện ra bản chất bên trong của số liệu hiện có, sẽ biết đƣợc số liệu có đầy đủ
và phù hợp cho phân tích hay không. Chúng tôi đề nghị sử dụng các tài
khoản, các bảng cân đối nhƣ bảng SUT, ma trận hạch toán xã hội, …, trong
hệ thống tài khoản quốc gia làm công cụ phân tích.
Hoạt động phân tích số liệu nên giao thành nhiệm vụ công tác cho một số
Vụ thống kê có liên quan, hoặc có thể thành lập các Tổ nghiên cứu, phân tích
với cơ chế linh hoạt, có động viên tài chính từ kinh phí hoạt động khoa học của
TCTK. Tổng cục có thể ký hợp đồng phân tích với bên ngoài để làm các báo
cáo phân tích, hoặc qua chƣơng trình cấp học bổng cho các nghiên cứu sinh
của ngành Thống kê cùng tham gia phân tích với các chuyên gia bên ngoài.
d. Lập kế hoạch phát triển công tác số liệu. Lập kế hoạch phát triển
công tác số liệu của ngành Thống kê trung và dài cung cấp cho lãnh đạo
Tổng cục một lƣợc đồ và chiến lƣợc phát triển một cách bài bản và làm cơ sở
để đƣa ra những thay đổi trong chƣơng trình công tác của Ngành trong từng
năm tiếp theo. Một số giải pháp nên áp dụng nhƣ sau:
- Tổ chức hội nghị lập kế hoạch chiến lƣợc phát triển hàng năm của
ngành Thống kê. Nếu không tổ chức riêng hội nghị này, chủ đề lập kế hoạch
phát triển công tác thông tin nên trở thành một chƣơng trình nghị sự quan
trọng trong Hội nghị Tổng kết công tác thống kê hàng năm của Ngành. Lập
kế hoạch phát triển công tác số liệu cần thực hiện đồng thời với kế hoạch
kinh phí;
- Đề nghị các đồng chí lãnh đạo các cấp trong Ngành xác định những
công việc nào chƣa thực sự cần phải thực hiện trong năm tới và vài năm tiếp
theo, đồng thời khuyến khích mọi ý kiến đề xuất những công việc cần làm
nhằm đáp ứng nhu cầu của ngƣời dùng tin.
2. Quản lý tính chính xác
Chất lƣợng thông tin đầu vào quyết định tính chính xác của số liệu thống
kê. Hiện nay, điều tra và chế độ báo cáo thống kê là hai kênh thông tin chủ
yếu. Đối với thông tin từ chế độ báo cáo thống kê, chất lƣợng của số liệu báo
cáo phụ thuộc vào biểu mẫu báo cáo thống kê và chất lƣợng của đơn vị lập
báo cáo. Hiện nay, thông tin thống kê đầu vào chủ yếu dựa vào các cuộc điều
tra, vì vậy chúng tôi tập trung kiến nghị các giải pháp nâng cao chất lƣợng
thông tin của các cuộc điều tra:
31
a. Thiết kế chương trình điều tra. Tính chính xác của số liệu điều tra
cũng nhƣ tính kịp thời và tính chặt chẽ phụ thuộc vào phƣơng pháp điều tra
áp dụng trong thực tế và các quy trình đảm bảo giám sát và quản lý đƣợc các
sai số phát sinh trong các giai đoạn điều tra. Để nâng cao chất lƣợng thông tin
thu thập qua điều tra, khi thiết kế chƣơng trình điều tra cần thực hiện các giải
pháp sau:
- Cân nhắc một cách nghiêm túc giữa sự chính xác của số liệu điều tra với
chi phí của cuộc điều tra, với thời gian nhanh hay chậm để thu đƣợc số liệu và
gánh nặng cho đối tƣợng điều tra. Các yếu tố này có tác động qua lại với nhau
và sẽ quyết định tới mục tiêu của ngƣời thiết kế chƣơng trình điều tra.
- Phải cân nhắc tới các nguồn số liệu hiện có. Những ngƣời có trách
nhiệm thiết kế điều tra phải tự đặt câu hỏi nếu không tổ chức điều tra thì số
liệu này có thể thu đƣợc ở đâu, bằng cách nào khác? Các cuộc điều tra khác
đã có số liệu này chƣa? Có thể khai thác từ hồ sơ hành chính hay không?.
Giải pháp này sẽ giảm gánh nặng cho các đối tƣợng điều tra và tránh việc thu
thập những số liệu không cần thiết.
- Phải đảm bảo từng câu hỏi trong phiếu điều tra là đúng và phù hợp.
Từng câu hỏi và toàn bộ phiếu điều tra phải đƣợc áp dụng thí điểm để đánh
giá tính khả thi trƣớc khi áp dụng vào điều tra chính thức.
- Đối với điều tra chọn mẫu, khi đƣa ra quyết định về phƣơng án chọn
mẫu và suy rộng luôn phải tính đến những phƣơng án này ảnh hƣởng thế nào
tới chất lƣợng số liệu điều tra, tới thời gian thu thập số liệu, tới chi phí điều
tra và gánh nặng của đối tƣợng điều tra.
- Khi thiết kế chƣơng trình điều tra cần xác định các biện pháp đảm bảo
giám sát và quản lý đƣợc chất lƣợng của tất cả các khâu trong quá trình thu
thập và xử lý thông tin. Xây dựng quy trình kiểm tra tính hợp lý của số liệu
điều tra, đồng thời xây dựng kế hoạch chỉnh lý số liệu.
b. Thực hiện điều tra. Thiết kế chƣơng trình điều tra tốt đến đâu sẽ trở
nên vô nghĩa nếu thực hiện điều tra không tốt và tất yếu dẫn tới chất lƣợng số
liệu thấp. Chất lƣợng số liệu điều tra không chỉ phụ thuộc vào giai đoạn thiết
kế chƣơng trình điều tra mà còn phụ thuộc vào kinh phí của cuộc điều tra,
đào tạo điều tra viên, chất lƣợng điều tra viên, cơ chế giám sát, kế hoạch điều
tra và phúc tra, v.v…
32
Có thể nói yếu tố quan trọng nhất quyết định đến chất lƣợng của số liệu
điều tra đó là chất lƣợng của đội ngũ điều tra viên. Hiện nay, mỗi năm TCTK
thực hiện khá nhiều cuộc điều tra và tất cả đều đƣợc thực hiện qua các Cục
Thống kê. Lực lƣợng điều tra viên hiện nay chủ yếu là cán bộ trong ngành
Thống kê. Tuy vậy, nhiệm vụ của các cán bộ thuộc các Cục Thống kê và các
Phòng Thống kê quận, huyện, thị xã không phải chỉ đi thu thập số liệu và làm
điều tra, họ còn có nhiệm vụ tính toán các chỉ tiêu kinh tế, xã hội của quận,
huyện, tỉnh, thành phố. Nhiều cuộc điều tra lớn và các cuộc tổng điều tra đòi
hỏi Tổng cục phải thuê điều tra viên bên ngoài. Khi đó chất lƣợng của các
điều tra viên trở thành vấn đề đáng quan tâm. Với thực tế của ngành Thống
kê, tham khảo kinh nghiệm của Thống kê Trung Quốc và Thống kê
Indonesia, đối với đội ngũ điều tra viên, Tổng cục Thống kê nên nghiên cứu,
thực hiện giải pháp sau:
- Xây dựng đội ngũ điều tra viên và đội ngũ cộng tác viên điều tra
chuyên nghiệp. Thành phần của đội ngũ điều tra viên chuyên nghiệp cơ bản
từ các Phòng Thống kê quận, huyện, thị xã và một số ở các Cục Thống kê.
Thành phần của đội ngũ cộng tác viên điều tra có thể tuyển từ các phƣờng,
xã, sinh viên các trƣờng đại học, v.v…;
- Xây dựng quy chế điều tra viên và quy chế cộng tác viên điều tra
chuyên nghiệp, trong đó quy định rõ quyền lợi và trách nhiệm của đội ngũ
điều tra viên và cộng tác viên;
- Xây dựng chƣơng trình và kế hoạch đào tạo những kiến thức cơ bản áp
dụng chung đối với tất cả các cuộc điều tra cho đội ngũ cộng tác viên;
- Xây dựng chƣơng trình đào tạo và kế hoạch cập nhật kiến thức và kỹ
năng điều tra cho đội ngũ điều tra viên chuyên nghiệp.
Những ngƣời chịu trách nhiệm chỉ đạo điều tra cần phải có thông tin kịp
thời về cuộc điều tra để điều chỉnh và khắc phục những sai sót phát sinh trong
quá trình thực hiện và cần có những thông tin để đánh giá phƣơng án điều tra
có đƣợc thực hiện nghiêm túc hay không. Chúng tôi đề nghị phải xây dựng
một hệ thống thông tin quản lý điều tra để phục vụ kịp thời cho quá trình điều
hành hoạt động thu thập thông tin điều tra. Để nâng cao chất lƣợng quản lý và
giám sát quá trình thực hiện điều tra, cần thực hiện các giải pháp sau:
- Thực hiện việc báo cáo và phân tích đều đặn tỷ lệ trả lời và tỷ lệ hoàn
thành phiếu điều tra của giai đoạn thu thập số liệu; Báo cáo đều đặn tỷ lệ từ
chối trả lời và phân tích nguyên nhân để kịp thời có giải pháp khắc phục;
33
- Giám sát thực tế hoạt động của điều tra viên, đảm bảo các điều tra viên
thực hiện đúng nhiệm vụ đƣợc giao. Kịp thời nắm bắt những ý kiến phản hồi
của đối tƣợng điều tra; Giám sát chi tiêu điều tra theo tiến độ, tránh tình trạng
vì lý do tài chính ảnh hƣởng đến tâm lý và lòng nhiệt tình của điều tra viên.
Đồng thời phải xây dựng, thực hiện và giám sát các kế hoạch dự phòng liên
quan tới quá trình thực hiện điều tra.
c. Đánh giá chất lượng của số liệu điều tra. Lãnh đạo Tổng cục luôn đặt
câu hỏi cho những ngƣời chịu trách nhiệm chỉ đạo điều tra đó là độ chính xác
của số liệu điều tra đạt đƣợc ở mức nào. Mỗi cuộc điều tra có nhiều cách
đánh giá khác nhau và có thể đƣa ra nhiều chỉ tiêu khác nhau để đánh giá, tùy
thuộc vào lĩnh vực và nội dung điều tra. Tuy vậy có bốn nội dung có thể áp
dụng để đánh giá chất lƣợng của mọi cuộc điều tra, đó là:
- Đánh giá phạm vi của cuộc điều tra so với tổng thể mục tiêu;
- Đánh giá sai số mẫu nếu cuộc điều tra là điều tra chọn mẫu. Sai số chuẩn
hay hệ số biến thiên phải đƣợc tính toán và dùng làm chỉ tiêu đánh giá chủ yếu;
- Đánh giá tỷ lệ không trả lời;
- Các yếu tố khác ảnh hƣởng tới chất lƣợng, tính phù hợp của kết quả điều tra.
d. Đánh giá việc tuân thủ phương án điều tra của các đơn vị liên quan.
Trong chỉ đạo điều tra, Tổng cục nên đƣa ra nội dung và phƣơng pháp nhằm
đánh giá việc tuân thủ phƣơng án điều tra để loại bỏ việc thực hiện không
thống nhất phƣơng án điều tra giữa các Cục Thống kê, các Vụ và đơn vị có
liên quan thuộc Tổng cục. Thực hiện thống nhất phƣơng án điều tra và tuân
thủ những nội dung có liên quan khác trong điều tra đảm bảo tính thống nhất
của số liệu thu thập, đảm bảo đúng tiến độ và thực hiện tốt chế độ chi tiêu tài
chính của các cuộc điều tra. Cần có quy định thƣởng, phạt công minh đối với
các đơn vị thực hiện tốt hay vi phạm phƣơng án điều tra.
3. Quản lý tính kịp thời
Để quản lý tính kịp thời, chúng tôi kiến nghị Tổng cục nghiên cứu, áp
dụng một số giải pháp sau:
- Tìm hiểu nhu cầu của các đối tƣợng sử dụng khác nhau xem họ muốn
có từng loại số liệu đƣợc công bố vào thời điểm nào, từ đó phân loại số liệu
và xác định thời điểm công bố đối với từng loại số liệu. Giải pháp này cần
thiết bởi vì có những loại số liệu thống kê nếu công bố chậm sẽ không còn
giá trị sử dụng.
34
- Rà soát và hoàn thiện chính sách phổ biến thông tin đối với từng chỉ
tiêu thống kê theo quy trình ba giai đoạn: (i) Công bố số liệu sơ bộ; (ii) Công
bố số liệu đã chỉnh lý sau khi có thêm thông tin dùng để rà soát và chỉnh lý số
liệu sơ bộ; (iii) Công bố số liệu chính thức khi đã có đầy đủ thông tin chính
thức để tính toán. Không phải tất cả các loại số liệu thống kê đều cần áp dụng
quy trình ba giai đoạn nêu trên.
- Tổng cục Thống kê thông báo trƣớc kế hoạch, trong đó nêu rõ thời
điểm công bố các loại số liệu. Bằng cách này, ngƣời dùng tin sẽ chủ động
đƣợc kế hoạch của họ và cũng ngầm đƣa ra một cam kết trong nội bộ cơ quan
Tổng cục phải thực hiện theo kế hoạch đã thông báo.
- Xây dựng kế hoạch và xác định thời gian hoàn thành cho từng hoạt
động thống kê của từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời xây dựng chƣơng trình
giám sát việc thực hiện kế hoạch này.
- Nghiên cứu và tiến tới áp dụng toàn diện công nghệ thông tin vào mọi
khâu và mọi quá trình hoạt động thống kê để nâng cao năng lực, giảm thời
gian xử lý và truyền đƣa thông tin.
4. Quản lý khả năng tiếp cận
Tổng cục nên đƣa ra các giải pháp và hệ thống phù hợp để phổ biến
thông tin, đồng thời đảm bảo tất cả các loại thông tin thống kê phải có trong
hệ thống danh mục sản phẩm của Ngành. Tổng cục cũng nên xác định và chỉ
rõ những loại thông tin gì cung cấp miễn phí cho ngƣời sử dụng qua các
phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ: Trang Web, họp báo, internet, hệ thống
thƣ viện, v.v. Theo chúng tôi, những thông tin thống kê phục vụ cho các cơ
quan của Đảng và Nhà nƣớc các cấp và cho đông đảo nhân dân sẽ đƣợc cấp
miễn phí. Ngƣợc lại, những thông tin phục vụ cho một số ít ngƣời sử dụng
nên thu phí.
Tổng cục Thống kê cần dành một khoản kinh phí cho hoạt động phổ
biến thông tin để đông đảo công chúng biết đƣợc Tổng cục có những loại
thông tin gì. Tuy vậy cần đảm bảo việc dành kinh phí cho hoạt động phổ biến
không ảnh hƣởng tới khả năng thu thập và xử lý thông tin của Ngành.
Để tăng khả năng tiếp cận của ngƣời dùng tin và nâng cao hiệu quả của
số liệu thống kê, Tổng cục cần thực hiện một số giải pháp sau:
- Tìm hiểu sở thích của ngƣời dùng tin xem họ muốn có thông tin thống
kê dƣới hình thức nào. Tổng Cục nên thành lập Tổ nghiên cứu thị trƣờng và
trao đổi với các đối tƣợng dùng tin khác nhau nhằm thu thập ý kiến đánh giá
và đề xuất của họ về sản phẩm thống kê và phƣơng thức phổ biến số liệu.
35
- Tiến hành lập hồ sơ của các đối tƣợng sử dụng thông tin thống kê khác
nhau để phân loại và xác định mức độ thỏa mãn của họ đối với thông tin
thống kê. Có thể lập chuyên mục trên trang Web của Tổng cục để thu thập ý
kiến của ngƣời sử dụng.
- Xây dựng trang Web trở thành phƣơng thức phổ biến số liệu chủ yếu
của Tổng cục và biến trang Web trở thành một thƣ viện thực sự bao gồm tất
cả những thông tin Tổng cục muốn cung cấp cho đông đảo ngƣời sử dụng.
Đối với thông tin chuyên ngành và có tính chuyên sâu phục vụ cho số ít
ngƣời sử dụng, Tổng cục vẫn đƣa lên trang Web nhƣng sẽ có mã mật khẩu
riêng để những ai cần những loại thông tin này phải đƣợc phép của Tổng cục
và phải trả một khoản kinh phí nào đó.
- Tổng cục Thống kê cần xây dựng mối liên hệ và phổ biến thông tin thống
kê qua hệ thống thƣ viện quốc gia, hệ thống thƣ viện của Trung tâm thông tin
quốc gia của Bộ Khoa học và Công nghệ, hệ thống thƣ viện của các Trƣờng đại
học, v.v.., để dùng hệ thống này làm mạng lƣới phổ biến số liệu thống kê.
- Tổng cục cần quản lý tập trung và thống nhất hoạt động công bố và
phổ biến số liệu qua một “Quy chế công bố thông tin thống kê”. Tất cả số
liệu và dịch vụ thống kê trƣớc khi công bố và phục vụ cho bên ngoài phải
đăng ký và đƣợc phép của Tổng cục, đồng thời đƣợc lƣu trữ dƣới dạng cơ sở
dữ liệu siêu văn bản tại Trung tâm tƣ liệu thống kê.
- Để đẩy mạnh hoạt động dịch vụ thống kê (cung cấp số liệu chuyên sâu,
thực hiện điều tra, …), Tổng cục Thống kê nên thành lập một bộ phận “khách
hàng” thực hiện các công việc sau: Xác định nhu cầu thông tin của khách
hàng; quảng cáo các loại sản phẩm và dịch vụ thống kê; phát triển các
chƣơng trình dịch vụ hƣớng tới khách hàng. Bộ phận khách hàng có nhiệm
vụ trả lời tất cả những câu hỏi của khách hàng liên quan tới số liệu và dịch vụ
thống kê qua điện thoại, thƣ và thƣ điện tử.
5. Quản lý khả năng giải thích
Tổng cục Thống kê có trách nhiệm giải thích cho ngƣời sử dụng hiểu rõ
các loại số liệu thống kê hiện có. Khi công bố bất kỳ một chỉ tiêu hay một
loại số liệu thống kê nào, Tổng cục phải cung cấp các thông tin có liên quan
sau đây: Các khái niệm, phân loại hiện đang áp dụng để biên soạn số liệu;
phƣơng pháp thu thập số liệu và phƣơng pháp tính các chỉ tiêu; đánh giá tính
chính xác của số liệu.
36
- Khi công bố thông tin, Vụ Thống kê tổng hợp cần đƣa ra danh mục
những chỉ tiêu gì đã đƣợc tính toán, đồng thời phối hợp với các Vụ thống kê
chuyên ngành và Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia giải thích kỹ phƣơng pháp
tính các chỉ tiêu, chỉ ra những tồn tại của phƣơng pháp và đánh giá cách tính
toán tốt đến mức nào. Tiêu thức phản ánh mức độ chính xác của số liệu thống
kê bao gồm nhiều nội dung, việc mô tả rõ ràng và chi tiết phƣơng pháp luận
dùng trong tính toán các chỉ tiêu có thể đƣợc coi là “chỉ tiêu thay thế” của
tiêu thức chính xác.
- Giao cho Vụ Phƣơng pháp chế độ thống kê chủ trì, phối hợp với các
Vụ Thống kê chuyên ngành, Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia, Vụ Thống kê
tổng hợp và Viện Khoa học Thống kê biên soạn các bản siêu dữ liệu của hệ
thống chỉ tiêu thống kê quốc gia và các chỉ tiêu thống kê khác. Tổng cục nên
có kế hoạch liên lạc định kỳ với ngƣời sử dụng để nghe họ đánh giá và góp ý
về sự tiện lợi và tính phù hợp của các bản siêu dữ liệu và cập nhật thƣờng
xuyên các bản siêu dữ liệu này.
- Tổng cục cần xây dựng và thực hiện chính sách phổ biến kiến thức cho
những ngƣời dùng tin. Giao cho Viện Khoa học Thống kê chủ trì và phối hợp
với các đơn vị có liên quan trong Tổng cục thực hiện chính sách phổ biến
kiến thức. Tùy từng đối tƣợng để có phƣơng thức và nội dung phổ biến kiến
thức thích hợp, chẳng hạn: (i) Đối với các đại biểu quốc hội, Tổng cục nên có
những buổi báo cáo khái niệm, nội dung chủ yếu của một số chỉ tiêu thống kê
kinh tế - xã hội quan trọng; (ii) Đối với ngƣời sử dụng thông tin của các Bộ,
ngành, Tổng cục có thể tổ chức các buổi tập huấn chuyên đề về khái niệm,
nội dung và phƣơng pháp tính một số chỉ tiêu thống kê kinh tế - xã hội; (iii)
Đối với đông đảo công chúng, Tổng cục có thể thực hiện chƣơng trình này
qua các phƣơng tiện thông tin đại chúng nhƣ đài phát thanh và truyền hình.
6. Quản lý tính chặt chẽ
6.1. Xây dựng và áp dụng thống nhất khái niệm, phân loại: Xây dựng
và sử dụng các lƣợc đồ, khái niệm, phân loại chuẩn cho tất cả các thống kê
chuyên ngành. Điều này đảm bảo tính thống nhất trong tính toán của toàn bộ
hệ thống thống kê. Vụ Phƣơng pháp chế độ thống kê phải rà soát và đi đến áp
dụng thống nhất cùng một khái niệm, phân loại trong các lĩnh vực thống kê
khác nhau của Tổng cục. Chẳng hạn, khái niệm “hộ gia đình” phải đƣợc xây
dựng và áp dụng thống nhất trong thống kê Dân số lao động và thống kê Xã
hội môi trƣờng. Các bảng phân loại phải đảm bảo tính tƣơng thích với các
bảng phân loại chuẩn quốc tế.
37
Vụ Phƣơng pháp chế độ thống kê phải giám sát và đảm bảo việc áp
dụng thống nhất các bảng phân loại của tất cả các đơn vị trong Tổng cục. Tất
cả các phƣơng án điều tra, biểu mẫu báo cáo thống kê, các bảng cân đối, v.v,
có sử dụng đến các bảng phân loại đều phải chuyển cho Vụ Phƣơng pháp chế
độ thống kê thẩm định.
6.2. Thống nhất các quy trình tính toán: Để thực hiện thống nhất các
quy trình tính toán, Tổng cục cần áp dụng những giải pháp sau:
- Sử dụng danh mục đăng ký kinh doanh làm dàn thống nhất cho tất cả
các cuộc điều tra sản xuất kinh doanh. Nếu cùng một loại thông tin thu thập
từ các cuộc điều tra khác nhau phải dùng cùng một câu hỏi giống nhau. Vụ
Phƣơng pháp chế độ thống kê giúp Tổng cục thực hiện giải pháp này.
- Soạn thảo tài liệu hƣớng dẫn chất lƣợng đảm bảo tính phù hợp khi thiết
kế nội dung trong các cuộc điều tra khác nhau. Đồng thời ứng dụng tin học
vào tất cả các khâu trong quá trình điều tra (chọn mẫu, hiệu đính số liệu, v.v)
trên cơ sở của phƣơng pháp luận điều tra thống nhất. Viện Khoa học Thống
kê thực hiện giải pháp này.
- Xây dựng cơ chế trao đổi kinh nghiệm về phƣơng pháp luận và công
nghệ thông tin giữa các chuyên viên có kiến thức chuyên sâu và kinh nghiệm
thực tế nhằm tìm ra những giải pháp có tính khả thi tốt nhất để xây dựng
thành quy trình chuẩn áp dụng thống nhất trong các cuộc điều tra. Viện Khoa
học Thống kê thực hiện giải pháp này.
Thực hiện hai nhóm giải pháp (6.1) và (6.2) nhằm giảm thiểu sự bất hợp
lý khi Tổng cục thiết kế và thực hiện các chƣơng trình điều tra thu thập số
liệu và tính toán các chỉ tiêu thống kê.
6.3. Phân tích, so sánh và tổng hợp số liệu: Phân tích ở đây nhằm tìm
ra các sai lệch và sự bất hợp lý của những số liệu thống kê. Một trong những
phƣơng pháp để phân tích và so sánh số liệu đó là dùng các bảng cân đối, các
mô hình kinh tế hay các lƣợc đồ khái niệm của thống kê tài khoản quốc gia
để thực hiện.
- Để thực hiện giải pháp này, chúng tôi kiến nghị Vụ Hệ thống tài khoản
quốc gia nghiên cứu và đề xuất mô hình hay phƣơng pháp dùng trong phân
tích và so sánh. Nên dùng bảng nguồn và sử dụng làm công cụ chủ yếu để
phân tích và so sánh số liệu hàng năm của nền kinh tế.
38
- Đẩy mạnh công tác phân tích và dự báo bằng các phƣơng pháp và công
cụ thống kê nhƣ dùng phƣơng pháp hồi quy, dùng chƣơng trình phân tích
phần mềm phân tích thống kê, v.v. Qua hoạt động phân tích và dự báo, Tổng
cục sẽ phát hiện ra những hạn chế về chất lƣợng của những số liệu hiện có,
những loại số liệu còn thiếu.
- Tổng cục cũng nên động viên những ngƣời sử dụng số liệu và các nhà
phân tích ngoài ngành Thống kê, qua công việc của họ gửi những ý kiến đánh
giá hay chỉ ra những bất hợp lý của số liệu thống kê. Tổng cục có thể mở
chuyên mục ý kiến của ngƣời dùng tin trên trang Web, hoặc tổ chức cuộc họp
định kỳ hàng năm. Trung tâm tƣ liệu thống kê phụ trách công việc này.
7. Thực hiện các nguyên tắc của thống kê nhà nước
Thực hiện đầy đủ 10 nguyên tắc của thống kê nhà nƣớc là cơ sở nâng
cao vị trí, vai trò và uy tín của Tổng cục Thống kê, đồng thời cũng góp phần
nâng cao chất lƣợng của thông tin thống kê. Tổng cục cần đƣa ra những giải
pháp để cụ thể hóa 10 nguyên tắc thành những hành động nhằm thực hiện
trong thực tế công tác của Ngành đối với tất cả các lĩnh vực có liên quan.
Giao cho Vụ Phƣơng pháp chế độ thống kê nghiên cứu, đề xuất các giải pháp
thực hiện 10 nguyên tắc cơ bản của thống kê nhà nƣớc.
8. Xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng thông tin thống kê
Tổng cục nên xây dựng Hệ thống đánh giá chất lƣợng thông tin thống kê
cho trƣờng hợp của nƣớc ta theo sáu lĩnh vực trong hệ thống đánh giá chất
lƣợng và cần thực hiện một số công việc theo các bƣớc sau:
Bƣớc 1. Thành lập Nhóm chuyên trách đánh giá và quản lý chất lƣợng
số liệu thống kê, đặt dƣới sự quản lý và điều hành trực tiếp về hoạt động
chuyên môn của Lãnh đạo Tổng cục.
Bƣớc 2. Nghiên cứu và đề xuất các lĩnh vực cần đánh giá chất lƣợng sao
cho phù hợp với tình hình thực tế của ngành Thống kê nƣớc ta hiện nay. Đối
với Tổng cục Thống kê, chúng tôi cho rằng cần ƣu tiên đánh giá chất lƣợng
của các lĩnh vực sau: (i) Phƣơng pháp luận thống kê; (ii) Thực tế áp dụng
phƣơng pháp trong tính toán các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp hiện nay; (iii) Chất
lƣợng và phạm vi thu thập số liệu; (iv) Tính trung thực của số liệu thống kê;
(v) Khả năng cải tiến và nâng cao chất lƣợng số liệu.
Bƣớc 3. Nghiên cứu xây dựng hệ thống chỉ tiêu dùng để đánh giá chất
lƣợng số liệu của từng lĩnh vực trong năm lĩnh vực đã đề xuất ở bƣớc 2.
39
Bƣớc 4. Triển khai đánh giá chất lƣợng tại Tổng cục cho các lĩnh vực đã
lựa chọn ở bƣớc 2 cho thời kỳ 2008-2009. Tổng kết, rút kinh nghiệm cho giai
đoạn sau.
III. Nhóm giải pháp về môi trƣờng thống kê
1. Môi trường pháp lý
Môi trƣờng pháp lý tốt sẽ tạo dựng đƣợc mối quan hệ công tác thông
suốt và lành mạnh hơn giữa ngƣời làm thống kê, ngƣời cung cấp thông tin và
các đối tƣợng sử dụng. Môi trƣờng pháp lý là điều kiện cần đảm bảo cho
ngành Thống kê tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của hoạt động thống kê về
tính trung thực, khách quan, chính xác đầy đủ, đảm bảo tính độc lập về
chuyên môn.
Môi trƣờng pháp lý cho công tác thống kê đã đƣợc tăng cƣờng và hoàn
thiện một cách cơ bản. Luật Thống kê và một loạt các Nghị định liên quan đã
đƣợc ban hành và có hiệu lực. Tuy nhiên để Luật Thống kê và các nghị định
có liên quan phát huy đƣợc hiệu quả, Tổng cục Thống kê cần đẩy mạnh hoạt
động tuyên truyền, giáo dục Luật Thống kê, thƣờng xuyên tiến hành thanh
tra, kiểm tra và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm Luật. Tổng cục nên
trình với Chính phủ dành một khoản kinh phí thỏa đáng cho hoạt động tuyên
truyền và phổ biến Luật Thống kê và thành lập các đoàn công tác để kiểm tra
việc thi hành Luật.
2. Mối quan hệ với đối tượng cung cấp số liệu
Các đối tƣợng cung cấp thông tin cho ngành Thống kê có vai trò quan
trọng và quyết định đến tính chính xác của số liệu thống kê. Tổng cục phải
xây dựng đƣợc sự hợp tác và tạo bầu không khí tin cậy lẫn nhau giữa các đối
tƣợng cung cấp thông tin với Ngành. Tổng cục phải tuyệt đối chấp hành Luật
Thống kê quy định về công bố thông tin thống kê (điều 19). Để xây dựng
đƣợc sự hợp tác giữa ngành Thống kê với các đối tƣợng cung cấp thông tin,
Tổng cục Thống kê nên thực hiện một số giải pháp sau:
- Nghiên cứu và xây dựng chƣơng trình quan hệ công tác với các đối
tƣợng cung cấp thông tin cho ngành Thống kê. Chƣơng trình quan hệ công
tác cần lƣu ý tới những đặc trƣng về kinh tế xã hội và tránh gây nên gánh
nặng cho các nhóm đối tƣợng cung cấp thông tin. Cần tránh việc dùng Luật
để yêu cầu các đối tƣợng cung cấp thông tin vào bất kể thời điểm nào và bất
kể bao nhiêu lần.
40
- Bên cạnh chế độ báo cáo thống kê, Tổng cục có thể thực hiện những
cam kết song phƣơng trong việc thu thập thông tin đầu vào và cung cấp trở
lại số liệu thống kê đầu ra cho các đối tƣợng cần thông tin phục vụ cho công
tác quản lý và kinh doanh của họ. Tổng cục Thống kê cũng có thể cam kết
với cộng đồng kinh doanh vừa và nhỏ, với các hiệp hội để thu thập thông tin
qua điều tra hoặc chế độ báo cáo.
- Tổng cục nên nghiên cứu và áp dụng phƣơng thức thu thập thông tin qua
báo cáo điện tử cho các đối tƣợng cung cấp thông tin. Phiếu điều tra hay biểu
báo cáo cần thiết kế để thu những thông tin sẵn có của đơn vị, càng giảm bớt
thời gian xử lý số liệu trƣớc khi cung cấp thông tin cho ngành Thống kê càng
khuyến khích đƣợc tinh thần hợp tác của các đối tƣợng cung cấp thông tin.
3. Tuyển dụng và đào tạo cán bộ của ngành Thống kê
Đội ngũ cán bộ công chức là yếu tố quan trọng nhất quyết định tới chất
lƣợng số liệu thống kê. Để có đƣợc số liệu thống kê với chất lƣợng cao, đội
ngũ cán bộ phải có kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm thực tế, phải có
nhiệt huyết và tận tâm với công việc đƣợc giao. Tổng cục cần xây dựng đội
ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn, có khả năng xây dựng các chƣơng trình
công việc qua một chiến lƣợc đào tạo và đào tạo lại định kỳ cho đội ngũ cán
bộ công chức của Ngành.
Công tác đào tạo nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ thống kê cần
thực hiện đồng thời theo nhiều hình thức đa dạng, với các mục tiêu khác
nhau. Chẳng hạn tạo điều kiện về tài chính và thời gian để động viên các cán
bộ trẻ học các chƣơng trình sau đại học. Cử các cán bộ đã có trình độ và kinh
nghiệm chuyên môn tham gia các khóa đào tạo, hội thảo, khảo sát nhằm trao
đổi và học tập kinh nghiệm của các tổ chức thống kê quốc tế.
Một trong những giải pháp đào tạo rất hiệu quả kiến thức thực tế về
thống kê đó là biệt phái các cán bộ của một Vụ đến công tác tại các Vụ có
liên quan tới nghiệp vụ của Vụ mình và thực hiện luân chuyển cán bộ giữa
các đơn vị trong Tổng cục.
4. Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành Thống kê
Xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại là một trong những giải pháp
không thể thiếu nhằm nâng cao chất lƣợng thông tin thống kê. Chẳng hạn tin
học hóa và áp dụng công nghệ thông tin vào các khâu trong toàn bộ quy trình
hoạt động thống kê sẽ nâng cao tính kịp thời của thông tin thống kê. Tổng
41
cục cần đƣa ra kế hoạch xây dựng và nâng cấp cơ sở vật chất kỹ thuật của
Ngành trên tất cả các lĩnh vực. Từ trang bị máy tính, mua sắm phần mềm,
đến đào tạo và ứng dụng công nghệ tin học vào các công việc chuyên môn.
Từ việc lắp đặt, duy tu đến việc nâng cấp và tăng cƣờng năng lực hệ thống
mạng và đƣờng truyền của Tổng cục. Từ việc sửa sang, duy tu đến việc xây
dựng kế hoạch nâng cấp và hiện đại hóa công sở. Để thực hiện các công việc
này, Tổng cục nên giao nhiệm vụ cho những đơn vị có liên quan xây dựng kế
hoạch phát triển và đầu tƣ cho từng giai đoạn của quá trình xây dựng và hiện
đại hóa cơ sở vật chất kỹ thuật của Ngành.
5. Hợp tác quốc tế
Nguyên tắc 10 của thống kê nhà nƣớc đã khẳng đinh: “Hợp tác song
phương và đa phương trong thống kê góp phần hoàn thiện hệ thống thống kê
nhà nước ở tất cả các quốc gia”. Vì vậy Tổng cục cần tạo dựng môi trƣờng
quan hệ quốc tế giữa Tổng cục Thống kê với cơ quan thống kê các nƣớc và
các tổ chức quốc tế, đồng thời cần xây dựng chiến lƣợc và cụ thể hóa thành
kế hoạch hợp tác song phƣơng và đa phƣơng cho từng thời kỳ phù hợp với kế
hoạch phát triển của Ngành. Mỗi một cơ quan thống kê và mỗi tổ chức quốc
tế có những thế mạnh riêng. Tổng cục nên nghiên cứu, tìm hiểu cụ thể để có
kế hoạch hợp tác cho thiết thực và hiệu quả. Tổng cục giao cho Vụ Hợp tác
quốc tế xây dựng chiến lƣợc và kế hoạch hợp tác của Ngành trong giai đoạn
2007-2010.
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Để từng bƣớc nâng cao năng lực và chất lƣợng hoạt động của ngành
Thống kê nhằm phục vụ ngày càng hiệu quả cho các nhà quản lý và hoạch
định chính sách của Đảng và Nhà nƣớc và đông đảo các đối tƣợng sử dụng
thông tin thống kê. Tổng cục Thống kê đã và đang đổi mới mạnh mẽ công tác
trên tất cả các lĩnh vực, từ xây dựng và hoàn thiện môi trƣờng pháp lý, đến
đổi mới và cải tiến phƣơng pháp luận thống kê, sắp xếp lại chƣơng trình điều
tra, xử lý và phổ biến thông tin nhằm tạo nên một quy trình đồng bộ, thống
nhất của hoạt động thống kê. Tất cả những hoạt động đổi mới, cải tiến và
hoàn thiện công tác thống kê nhằm mục tiêu không ngừng nâng cao chất
lƣợng của số liệu thống kê đã đặt ra cho lãnh đạo Tổng cục cần nghiên cứu để
đƣa ra những giải pháp cụ thể cho từng lĩnh vực nhằm quản lý và nâng cao
chất lƣợng thông tin thống kê.
42
Chất lƣợng thông tin thống kê đƣợc hiểu là sự phù hợp cho các đối
tƣợng sử dụng số liệu thống kê khác nhau và đƣợc phản ánh qua nhiều tiêu
thức. Qua nghiên cứu và tổng hợp thực tế áp dụng của các cơ quan thống kê
quốc gia và các tổ chức quốc tế, theo quy định của Luật Thống kê, đồng thời
cân nhắc tới thực tiễn hoạt động của ngành Thống kê nƣớc ta, đề tài: “Nghiên
cứu đề xuất các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao chất lƣợng thông tin
thống kê” đã đề xuất sáu tiêu thức phản ánh chất lƣợng thông tin thống kê
nên áp dụng vào công tác quản lý của Tổng cục Thống kê trong thời gian tới,
bao gồm: tính phù hợp, tính chính xác, tính kịp thời, khả năng tiếp cận, khả
năng giải thích và tính chặt chẽ.
Trong những năm qua, ngành Thống kê đã đạt đƣợc những thành tích đáng
khích lệ, nhiệm vụ chính trị chủ yếu của ngành là đảm bảo thông tin đƣợc thực
hiện tốt với nhiều cố gắng. Thông tin thống kê cung cấp cho đối tƣợng sử dụng
khác nhau trong và ngoài nƣớc tăng cả về số lƣợng, rút ngắn thời gian cung cấp,
những số liệu cung cấp đã kèm theo các bảng giải thích tóm tắt khái niệm, nội
dung, nguồn thông tin, làm tăng chất lƣợng số liệu. Tuy vậy, trƣớc nhu cầu sử
dụng số liệu thống kê ngày càng nhiều, không chỉ từ các cơ quan Đảng, Nhà
nƣớc, các Bộ, ngành mà còn từ nhiều đối tƣợng dùng tin khác trong và ngoài
nƣớc, mức độ đáp ứng của ngành Thống kê chƣa thật đầy đủ, kịp thời. Nhiều
ngƣời sử dụng còn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm, khai thác số liệu thống kê.
Phạm vi thống kê chƣa bắt kịp sự phát triển nhanh của một số lĩnh vực hoạt
động kinh tế, xã hội. Phƣơng pháp thống kê một số chuyên ngành còn chậm cải
tiến dẫn tới việc thiếu chỉ tiêu hoặc thiếu số liệu thống kê một số lĩnh vực.
Để từng bƣớc hoàn thiện và nâng cao hơn nữa chất lƣợng thông tin thống
kê, trƣớc hết Tổng cục nên rà soát và xác định nhu cầu sử dụng thông tin thống
kê của cơ quan Đảng và Nhà nƣớc các cấp nói riêng và của đông đảo các đối
tƣợng sử dụng nói chung, đồng thời cũng đặt thành nhiệm vụ trọng tâm đối với
việc đổi mới về phƣơng pháp luận thống kê. Các Vụ thống kê chuyên ngành và
đặc biệt là Vụ Hệ thống tài khoản quốc gia phải xác định phƣơng pháp luận
thống kê theo chuẩn mực quốc tế và phù hợp với thực tiễn nƣớc ta sẽ áp dụng
trong những năm tới để từ đó xác định nhu cầu thông tin đầu vào của Ngành.
Hiện nay hoạt động của Tổng cục Thống kê đang vận hành theo “quy
trình công nghệ” với việc gắn trách nhiệm của thủ trƣởng đơn vị với chức
năng và nhiệm vụ đƣợc giao là điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng các giải
pháp nhằm quản lý và nâng cao chất lƣợng thông tin thống kê theo sáu tiêu
thức phản ánh chất lƣợng. Các giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin đề cập
trong đề tài có những giải pháp mang tính định hƣớng nhƣng cũng có giải
pháp khá cụ thể và chi tiết, có nhiều giải pháp có thể thực hiện ngay. Tuy vậy
43
việc thực hiện những giải pháp này đòi hỏi Tổng cục Thống kê phải có quyết
tâm và kế hoạch thực hiện cụ thể.
2. Kiến nghị
Để áp dụng các giải pháp nhằm quản lý và nâng cao chất lƣợng thông
tin thống kê, phục vụ ngày càng tốt hơn cho Đảng và Nhà nƣớc các cấp và
đông đảo các đối tƣợng sử dụng thông tin thống kê, Tổng cục nên thực hiện
một số công việc sau:
a. Nhƣ đã đề cập trong mục 3/I của phần III, một trong những nội dung
đầu tiên cần thực hiện để nâng cao chất lƣợng thông tin thống kê đó là Tổng
cục phải phát triển và hoàn thiện phƣơng pháp thống kê. Xác định và hoàn
thiện phƣơng pháp thống kê là cái gốc, có tính cấp bách nhất hiện nay đối với
ngành. Ngay trong năm 2007, Tổng cục bắt đầu “khởi động” để đến năm 2008
sẽ là “Năm phương pháp thống kê” của Ngành. Với tình hình thực tế hiện nay
của Ngành, nếu không giải quyết thấu đáo vấn đề về phƣơng pháp thống kê,
khi đó nói đến nâng cao chất lƣợng thông tin thống chỉ là khẩu hiệu.
b. Tăng cƣờng hiệu lực của Luật Thống kê qua việc tuyên truyền, giáo
dục ý thức thực hiện Luật, đồng thời tăng cƣờng công tác kiểm tra và xử lý
các hành vi vi phạm Luật Thống kê. Tạo dựng môi trƣờng pháp lý lành mạnh
cho hoạt động thống kê.
c. Xây dựng chiến lƣợc và kế hoạch cụ thể cho từng giai đoạn để từng
bƣớc hiện đại hóa ngành Thống kê theo hƣớng nhanh, vững chắc và phù hợp
với thực tế của đất nƣớc.
d. Tổng cục cần xây dựng một chƣơng trình kế hoạch cụ thể về quản lý
chất lƣợng thông tin thống kê. Để thực hiện thành công, đội ngũ lãnh đạo cốt
cán của Ngành phải có quyết tâm và đồng lòng thực hiện các giải pháp đƣa ra
trong chƣơng trình kế hoạch. Để có thể triển khai thực hiện công tác quản lý
nâng cao chất lƣợng thông tin thống kê, trong thời gian tới, đồng thời với các
kiến nghị nêu trên, Tổng cục có thể thực hiện một số công việc cụ thể sau:
- Thành lập Nhóm chuyên trách đánh giá và quản lý chất lƣợng số liệu
thống kê, đặt dƣới sự quản lý và điều hành trực tiếp về hoạt động chuyên
môn của Tổng cục trƣởng.
- Đào tạo quy trình và phƣơng pháp đánh giá chất lƣợng số liệu thống kê
cho các thành viên của Nhóm chuyên trách đánh giá và quản lý chất lƣợng số
liệu thống kê. Cử các thành viên của Nhóm sang học tập quy trình và phƣơng
pháp đánh giá chất lƣợng số liệu tại một số cơ quan Thống kê quốc gia và các
tổ chức quốc tế.
44
- Trên cơ sở kiến thức và kinh nghiệm đã đƣợc đào tạo, Nhóm chuyên
trách đánh giá và quản lý số liệu thống kê đề xuất các lĩnh vực cần đánh giá
chất lƣợng sao cho phù hợp với tình hình thực tế của Tổng cục Thống kê.
- Xây dựng kế hoạch tài chính cho hoạt động đánh giá và quản lý chất
lƣợng số liệu thống kê cho thời kỳ 2008-2009.
- Thực hiện hoạt động đánh giá theo Hệ thống đánh giá chất lƣợng số
liệu thống kê trong hai năm 2008-2009.
- Viết báo cáo tổng kết, biên soạn tài liệu, tổ chức các lớp tập huấn về
quản lý nâng cao chất lƣợng số liệu thống kê và chuẩn bị cho kế hoạch đánh
giá giai đoạn tiếp theo.
- Bên cạnh hoạt động đánh giá chất lƣợng số liệu của Nhóm chuyên
trách đánh giá và quản lý chất lƣợng số liệu thống kê, Tổng cục nên nghiên
cứu các giải pháp quản lý và nâng cao chất lƣợng số liệu thống kê theo sáu
tiêu thức để lựa chọn các giải pháp phù hợp với từng đơn vị có liên quan
trong Tổng cục đƣa vào áp dụng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật Thống kê;
2. Tổng cục Thống kê: Định hƣớng phát triển ngành Thống kê Việt Nam đến năm 2010;
3. Tổng cục Thống kê: Báo cáo Tổng kết công tác 5 năm 2001-2005 và
phƣơng hƣớng nhiệm vụ công tác thống kê giai đoạn 2006-2010;
4. Tạp chí Con số & Sự kiện, số 5 năm 2006;
5. Thông tin Khoa học thống kê, số 1 năm 2006;
6. TS. Trần Kim Đồng: Xây dựng chính sách phổ biến thông tin thống kê
hƣớng về ngƣời dùng tin. Tham luận tại hội thảo “Mối quan hệ giữa ngƣời dùng tin
và ngƣời sản xuất thông tin thống kê dân số và phát triển”. TCTK, 10/2003.
7. Statistics Canada‟s Quality Assurance Framework 2002;
8. Statistics Canada: Quatity Guideline, fourth Edition - Ocotber 2003;
9. Sung H. Park: Quality management in Korean National Statistical Systems,
Focused on Quality Assessment;
10. European Commission, Eurostat: Quality measures for economic indicators;
11. Jocelyn Tourigny, Stuart Pursey and Patricia Whitridge: The unified
Enterprise survey its Approach to quality;
12. Willem de Vries, UNSD: Dimensions of Statistical Quality.