55
NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 I. GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015 1. Sự cần thiết phải ban hành Bộ luật hình sự năm 2015 Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành được Quốc hội khóa X thông qua ngày 21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997). Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa 1

NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

  • Upload
    lythuan

  • View
    222

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

NHỮNG ĐIỂM  MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015 

 I. GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ BỘ LUẬT HÌNH SỰ NĂM 2015

1. Sự cần thiết phải ban hành Bộ luật hình sự năm 2015Bộ luật hình sự (BLHS) hiện hành được Quốc hội khóa X thông qua ngày

21/12/1999 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLHS năm 1985 (đã được sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997).

Sau hơn 14 năm thi hành, BLHS năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã có những tác động tích cực đối với công tác phòng, chống tội phạm, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân.

Tuy nhiên, kể từ sau khi BLHS năm 1999 được ban hành, tình hình đất nước ta đã có những thay đổi lớn về mọi mặt. Việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện các quyền con người, quyền cơ bản của công dân; chiến lược hoàn thiện hệ thống pháp luật, chiến lược cải cách tư pháp và chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam đã mang lại những chuyển biến lớn, tích cực về kinh tế - xã hội và đối ngoại của đất nước. Bên cạnh đó, tình hình tội phạm nhìn chung vẫn diễn biến hết sức phức tạp với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Số lượng tội phạm luôn có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường. Điều này đã làm cho BLHS hiện hành trở nên bất cập không đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặc dù, năm 2009, Quốc hội khoá XII đã sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS, nhưng do phạm vi sửa đổi chỉ giới hạn trong một số điều, nên chưa thể khắc phục được đầy đủ, toàn diện những bất cập của BLHS trong thực tiễn.

Ngoài ra, BLHS hiện hành cũng còn nhiều bất cập về mặt kỹ thuật lập pháp liên quan đến sự thống nhất giữa Phần chung và Phần các tội phạm; các dấu hiệu định tội, định khung của nhiều tội danh; các tội ghép; cách thiết kế khung hình phạt cũng như khoảng cách khung hình phạt của một số tội danh; chưa có sự nhất quán trong cách phân chia các chương tội phạm... Những bất cập này cũng ảnh hưởng lớn đến việc hướng dẫn thi hành và áp dụng các quy định của BLHS trên thực tế.

Theo Bộ Tư pháp, những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu lực và hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chưa thực sự tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất nước cũng như cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền của người dân. Do đó, việc xây dựng BLHS năm 2015 là hết sức cần thiết.

1

   

Page 2: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

2. Giới thiệu khái quát về Bộ luật hình sự năm 2015Bộ luật hình sự nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (viết tắt là

BLHS năm 2015) được Quốc hội khóa XIII kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 27/11/2015, được Chủ tịch nước công bố vào ngày 18/12/2015 và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/7/2016. BLHS năm 2015 ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong kỹ thuật lập pháp, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập cũng như phù hợp với giai đoạn phát triển mới của đất nước sau Hiến pháp năm 2013. Đồng thời, phát huy hơn nữa vai trò của BLHS với tư cách là công cụ pháp lý sắc bén, hữu hiệu trong đấu tranh phòng, chống tội phạm; góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh của đất nước, bảo vệ chế độ, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ và thúc đẩy nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa phát triển đúng hướng, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, tạo môi trường xã hội và môi trường sinh thái an toàn, lành mạnh cho mọi người dân, đồng thời đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế của nước ta. Phạm vi sửa đổi, bổ sung BLHS lần này được xác định là cơ bản và toàn diện. Trên cơ sở phạm vi sửa đổi như vậy, BLHS năm 2015 có 26 chương và được thiết kế thành 03 phần trên cơ sở kế thừa hai phần của BLHS năm 1999 và bổ sung thêm Phần thứ ba quy định về điều khoản thi hành. So với BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 (viết tắt là BLHS năm 1999) đã thêm 82 điều, 1 phần điều khoản thi hành và 2 chương (đó là chương IV: Những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự; chương XI: Những quy định đối với pháp nhân phạm tội); giữ nguyên 17 điều, bổ sung mới 49 điều, sửa đổi 362 điều và bãi bỏ 08 điều.

3. Những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015

PHẦN I - NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG:1. Bổ sung quy định về trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại

phạm các tội trong lĩnh vực kinh tế, môi trường.BLHS năm 1999 chỉ quy định trách nhiệm hình sự đối với cá nhân mà

không quy định trách nhiệm hình sự của các pháp nhân. Nay BLHS năm 2015 quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại phạm các tội trong lĩnh vực kinh tế, môi trường. Cụ thể là BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định trách nhiệm hình sự của các pháp nhân thương mại tại các điều: Điều 2, Điều 6, Điều 8, Điều 33 và các điều từ Điều 74 đến Điều 89; đồng thời xác định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về 31 tội phạm trong lĩnh vực kinh tế và môi trường được quy định cụ thể tại Điều 76 của BLHS năm 2015 như sau:

“Điều 76. Phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mạiPháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm

sau đây:1. Điều 188 (tội buôn lậu); Điều 189 (tội vận chuyển trái phép hàng hóa,

tiền tệ qua biên giới); Điều 190 (tội sản xuất, buôn bán hàng cấm); Điều 191 (tội tàng trữ, vận chuyển hàng cấm); Điều 192 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả); Điều 193 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực

2

Page 3: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

phẩm); Điều 194 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); Điều 195 (tội sản xuất, buôn bán hàng giả là thức ăn dùng để chăn nuôi, phân bón, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật, giống cây trồng, vật nuôi); Điều 196 (tội đầu cơ); Điều 200 (tội trốn thuế); Điều 203 (tội in, phát hành, mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ); Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao túng thị trường chứng khoán); Điều 213 (tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm); Điều 216 (tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động); Điều 217 (tội vi phạm quy định về cạnh tranh); Điều 225 (tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan); Điều 226 (tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp); Điều 227 (tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên); Điều 232 (tội vi phạm các quy định về khai thác và bảo vệ rừng); Điều 234 (Tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã);

2. Điều 235 (tội gây ô nhiễm môi trường); Điều 237 (tội vi phạm phòng ngừa, ứng phó, khắc phục sự cố môi trường); Điều 238 (tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông); Điều 239 (tội đưa chất thải vào lãnh thổ Việt Nam); Điều 242 (tội huỷ hoại nguồn lợi thuỷ sản); Điều 243 (tội huỷ hoại rừng); Điều 244 (tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm); Điều 245 (tội vi phạm các quy định về quản lý khu bảo tồn thiên nhiên); Điều 246 (tội nhập khẩu, phát tán các loài ngoại lai xâm hại).

Cũng cần lưu ý là đối với trường hợp pháp nhân thương mại phạm tội, điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại là:

“Điều 75. Điều kiện chịu trách nhiệm hình sự của pháp nhân thương mại1. Pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi có đủ các

điều kiện sau đây:a) Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân thương mại;b) Hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân thương mại;c) Hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp

thuận của pháp nhân thương mại;d) Chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2

và khoản 3 Điều 27 của Bộ luật này”Cũng cần lưu ý là việc pháp nhân thương mại chịu trách nhiệm hình sự

không loại trừ trách nhiệm hình sự của cá nhân (Khoản 2 Điều 75) và pháp nhân thương mại chỉ có thể bị áp dụng một hình phạt chính nhưng có thể bị áp dụng cùng lúc nhiều hình phạt bổ sung được quy định tại Điều 33 của BLHS năm 2015.

“Điều 33. Các hình phạt đối với pháp nhân thương mại phạm tội1. Hình phạt chính bao gồm:a) Phạt tiền;b) Đình chỉ hoạt động có thời hạn;c) Đình chỉ hoạt động vĩnh viễn.2. Hình phạt bổ sung bao gồm:

3

Page 4: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

a) Cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định;b) Cấm huy động vốn;c) Phạt tiền, khi không áp dụng là hình phạt chính.3. Đối với mỗi tội phạm, pháp nhân thương mại phạm tội chỉ bị áp dụng

một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung”2. Hoàn thiện chính sách xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi.Bổ sung nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội (Điều 91) (

Đã thay đổi cụm từ “người chưa thành niên” trong BLHS năm 1999 thành người “dưới 18 tuổi”).

Sửa đổi nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 69 BLHS năm 1999 “Khi xét xử, nếu thấy không cần thiết phải áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên phạm tội, thì tòa án áp dụng một trong các biện pháp tư pháp được quy định tại Điều 70 của Bộ luật này”. Theo đó tại khoản 4, Điều 91 BLHS năm 2015 quy định: “Khi xét xử, tòa án chỉ áp dụng hình phạt đối với người dưới 18 tuổi phạm tội nếu xét thấy việc miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng một trong các biện pháp quy định tại Mục 2 hoặc việc áp dụng biện pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng quy định tại Mục 3 Chương này không bảo đảm hiệu quả giáo dục, phòng ngừa”.

Nhằm tăng cường tính minh bạch của BLHS, qua đó nâng cao hiệu quả việc phòng ngừa tội phạm đối với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi, BLHS năm 2015 sửa đổi theo hướng xác định rõ hơn trách nhiệm hình sự người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi, cụ thể:

- Tại khoản 2, Điều 12 BLHS năm 2015 quy định người từ đủ 14 trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội giết người, tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác, tội hiếp dâm, tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi, tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi, tội cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản và tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm trọng (bao gồm 22 tội).

- Về nguyên tắc xử lý đối với người dưới 18 tuổi phạm tội, BLHS năm 2015 quy định: “Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải bảo đảm lợi ích tốt nhất của người dưới 18 tuổi và chủ yếu nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội. Việc xử lý người dưới 18 tuổi phạm tội phải căn cứ vào độ tuổi, khả năng nhận thức của họ về tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nguyên nhân và điều kiện gây ra tội phạm”.

- Tại khoản 2, khoản 3, Điều 91 BLHS năm 2015 quy định:“2. Người dưới 18 tuổi phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây

và có nhiều tình tiết giảm nhe, tự nguyện khắc phục phần lớn hậu quả, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 29 của Bộ luật này, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự và áp dụng các biện pháp quy định tại mục 2 Chương này:

a) Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, phạm tội nghiêm trọng, trừ trường hợp quy định tại Điều 134 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều

4

Page 5: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

b) Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi phạm tội rất nghiêm trọng do cố ý quy định tại khoản 2 Điều 12 của Bộ luật này, trừ trường hợp quy định tại Điều 123 (tội giết người); Điều 134, các khoản 4, 5 và khoản 6 (tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác); Điều 141 (tội hiếp dâm), Điều 142 (tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi); Điều 144 (tội cưỡng dâm người từ đủ 13 tuổi đến dưới 16 tuổi); Điều 150 (tội mua bán người); Điều 151 (tội mua bán người dưới 16 tuổi); Điều 168 (tội cướp tài sản); Điều 171 (tội cướp giật tài sản); Điều 248 (tội sản xuất trái phép chất ma túy); Điều 249 (tội tàng trữ trái phép chất ma túy); Điều 250 (tội vận chuyển trái phép chất ma túy); Điều 251 (tội mua bán trái phép chất ma túy); Điều 252 (tội chiếm đoạt chất ma túy) của Bộ luật này;

c) Người dưới 18 tuổi là người đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể trong vụ án”.

BLHS năm 2015 đã bổ sung thêm 02 biện pháp có tính chất giám sát, giáo dục người dưới 18 tuổi phạm tội khi họ thực hiện tội phạm mà cơ quan có thẩm quyền xét thấy không cần thiết phải áp dụng trách nhiệm hình sự đối với họ gồm: khiển trách (Điều 93), hòa giải tại cộng đồng (Điều 94), ngoài các biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn (Điều 95) và đưa vào giáo dục tại trường giáo dưỡng (Điều 96) như BLHS năm 1999. 

Như vậy, theo tinh thần của BLHS năm 2015, Tòa án cần hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng hình phạt tù đối người người chưa thành niên phạm tội như hiện nay, tăng cường áp dụng các biện pháp tư pháp nhằm mục đích giáo dục, giúp đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh, trở thành công dân có ích cho xã hội.

3. Mở rộng đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình và không thi hành án tử hình:

Bổ sung đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình là người từ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc người bị kết án tử hình về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ mà sau khi bị kết án đã chủ động nộp lại ít nhất ba phần tư tài sản tham ô, nhận hối lộ và hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm hoặc lập công lớn (Điều 40).

4. Bổ sung quy định đối với trường hợp Đồng phạm:Bổ sung quy định rõ đối với trường hợp đồng phạm thì người đồng phạm

không phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi vượt quá của người thực hành. (Khoản 4 Điều 17).

5. Cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự:

BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự theo hướng: Phân biệt rõ các trường hợp đương nhiên được miễn trách nhiệm hình sự và những trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự; sửa đổi và bổ sung một số trường hợp có thể được miễn trách nhiệm hình sự nhằm

5

Page 6: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

khắc phục những bất cập khi áp dụng biện pháp này trong thời gian vừa qua. Cụ thể như sau:

“Điều 29. Căn cứ miễn trách nhiệm hình sự1. Người phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong những

căn cứ sau đây:a) Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do có sự thay đổi chính

sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;b) Khi có quyết định đại xá.2. Người phạm tội có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi có một trong

các căn cứ sau đây:a) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử do chuyển biến của tình hình mà

người phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa;b) Khi tiến hành điều tra, truy tố, xét xử, người phạm tội mắc bệnh hiểm

nghèo dẫn đến không còn khả năng gây nguy hiểm cho xã hội nữa;c) Người phạm tội tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc

phát hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội phạm và lập công lớn hoặc có cống hiến đặc biệt, được Nhà nước và xã hội thừa nhận.

3. Người thực hiện tội phạm ít nghiêm trọng hoặc tội phạm nghiêm trọng do vô ý gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác và được người bị hại hoặc người đại diện của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự”.

BLHS năm 2015 đã bổ sung một chương riêng (chương IV) với 07 điều quy định về những trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự, trong đó, tiếp tục duy trì và cụ thể hóa 04 trường hợp như Bộ luật hiện hành (sự kiện bất ngờ, phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết và tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự), đồng thời, bổ sung thêm 03 trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự là: gây thiệt hại trong khi bắt giữ người phạm pháp; rủi ro trong nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ; thi hành mệnh lệnh của người chỉ huy hoặc của cấp trên (các điều 24, 25, 26) nhằm tạo hành lanh pháp lý an toàn để khuyến khích người dân an tâm, tích cực tham gia phòng chống tội phạm; tham gia các hoạt động sản xuất, nghiên cứu khoa học có tính chất “đột phá” vì lợi ích chung.

6. Sửa đổi, bổ sung về quyết định hình phạt; các tình tiết giảm nhe, tăng nặng trách nhiệm hình sự; quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng; về chuẩn bị phạm tội; miễn, giảm hình phạt:

BLHS năm 2015 đã bổ sung quy định căn cứ quyết định hình phạt (Điều 50): Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ đã quy định, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội.

 BLHS năm 2015 đã bổ sung các tình tiết giảm nhe trách nhiệm hình sự

sau (Khoản 1 Điều 51):+  Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;

6

Page 7: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

+  Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;

+ Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;+ Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;+  Người phạm tội là cha, me, vợ, chồng, con của liệt sĩ, người có công

với cách mạng.- Quy định rõ “Đầu thú” có thể được Tòa án coi là tình tiết giảm nhe

(khoản 2). BLHS năm 2015 đã làm rõ các tình tiết tăng nặng sau (Điều 52)+ Trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai và người già được

quy định lại: “Phạm tội đối với người dưới 16 tuổi, phụ nữ có thai, người đủ 70 tuổi trở lên”.

+ Trường hợp phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ có thai, người già, người ở trong tình trạng không thể tự vệ được hoặc đối với người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác được quy định lại: “Phạm tội đối với người ở trong tình trạng không thể tự vệ được, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng, người bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc người lệ thuộc mình về mặt vật chất, tinh thần, công tác hoặc các mặt khác”.

BLHS năm 2015 đã quy định lại nội dung về quyết định hình phạt nhe hơn thành “quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng” (Được quy định cụ thể tại Điều 54); đã làm rõ các trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng.

+ Theo Điều 54 BLHS năm 2015, Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhe hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhe tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật HS 2015.

+ Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhe hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

+ Nhưng nếu điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhe nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhe hơn.

Như vậy, theo quy định mới thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng mà không bị ràng buộc điều kiện phải trong khung liền kề nhe hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

Theo hướng thu hep phạm vi trách nhiệm hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc một tội đặc biệt nghiêm trọng. Theo đó, chỉ xử lý hình sự đối với hành vi chuẩn bị phạm 21 tội danh được liệt kê cụ thể trong Bộ luật; không xử lý hình sự đối với trẻ em từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có hành vi chuẩn bị phạm tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng quy

7

Page 8: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

định tại điểm a, d khoản 2 Điều 14. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung quy định của Bộ luật hình sự 1999 về che giấu tội phạm theo hướng người che giấu tội phạm là ông, bà, cha, me, con, cháu, anh chị em ruột, vợ hoặc chồng của người phạm tội chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự trong trường hợp che giấu các tội xâm phạm an ninh quốc gia và một số tội phạm đặc biệt nghiêm trọng khác được Bộ luật này quy định (khoản 2 Điều 18).

Bên cạnh đó, BLHS 2015 cũng sửa đổi, bổ sung quy định về án treo theo hướng quy định rõ các nghĩa vụ mà người được hưởng án treo phải thực hiện trong thời gian thử thách cũng như hậu quả của việc vi phạm các nghĩa vụ này (Điều 65). Đối với hình phạt tù, BLHS 2015 khẳng định nguyên tắc không áp dụng hình phạt tù đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng do vô ý (khoản 2 Điều 38). BLHS mới cũng bổ sung quy định về tha tù trước hạn có điều kiện với những điều kiện chặt chẽ nhằm một mặt tạo điều kiện cho phạm nhân chấp hành án tốt được sớm trở về với gia đình, mặt khác bảo đảm trật tự trị an xã hội (Điều 66).

7. Sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện và thủ tục xóa án tích:BLHS năm 2015 quy định về xóa án tích theo hướng thay đổi căn bản quy

định về xóa án tích đương nhiên nhằm đề cao trách nhiệm của cơ quan Nhà nước, tạo điều kiện thuận lợi cho người bị kết án sớm ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng (các Điều 69 - 73). Tại Điều 69 BLHS năm 2015 ghi như sau:

“Điều 69. Xóa án tích1. Người bị kết án được xóa án tích theo quy định tại các điều từ Điều 70

đến Điều 73 của Bộ luật này. Người được xóa án tích coi như chưa bị kết án.2. Người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm

nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích”.Như vậy những người bị kết án do lỗi vô ý về tội phạm ít nghiêm trọng,

tội phạm nghiêm trọng và người được miễn hình phạt không bị coi là có án tích. Đây là điểm mới có lợi cho người phạm tội cần được áp dụng ngay.

Đồng thời Bộ luật mới đã bãi bỏ quy định cấp Giấy chứng nhận khi được Tòa án xóa án tích; bổ sung quy định: “Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định đương nhiên được xóa án tích” (Khoản 4 Điều 70); sửa đổi quy định về thời hạn xóa án tích trong trường hợp chưa được xóa án tích mà phạm tội mới: “Người bị kết án chưa được xóa án tích mà thực hiện hành vi phạm tội mới và bị Tòa án kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật thì thời hạn để xóa án tích cũ được tính lại kể từ ngày chấp hành xong hình phạt chính hoặc thời gian thử thách án treo của bản án mới hoặc từ ngày bản án mới hết thời hiệu thi hành” (Khoản 2 Điều 73); bổ sung quy định sau: “Người bị kết án trong trường hợp phạm nhiều tội mà có tội thuộc trường hợp đương nhiên được xóa án tích, có tội thuộc trường hợp xóa án tích theo quyết định của Tòa án thì căn cứ vào thời hạn quy định tại Điều 71 của Bộ luật này Tòa án quyết định việc xóa án tích đối với người đó” (Khoản 3 Điều 73).

8

Page 9: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

PHẦN II - CÁC TỘI PHẠMA. Sơ lược về nội dung thay đổi, bổ sung:1. Bãi bỏ hình phạt tử hình đối với một số tội danh:Để thể chế hóa các quan điểm của Đảng về hạn chế áp dụng hình phạt tử

hình được thể hiện trong Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, cũng như quán triệt tinh thần Hiến pháp năm 2013 trong việc ghi nhận và bảo vệ quyền sống của con người, trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn áp dụng hình phạt tử hình và tình hình phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thời gian tới, BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung quy định về hình phạt tử hình theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình đối với những tội danh còn giữ lại hình phạt tử hình theo hướng quy định rõ ràng, chặt chẽ, cụ thể các điều kiện áp dụng để tòa án cân nhắc, áp dụng trong từng trường hợp cụ thể; mở rộng diện đối tượng không bị áp dụng hình phạt tử hình; mở rộng các trường hợp không thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân nhằm hạn chế việc thi hành án tử hình trên thực tế.

Cụ thể như sau:- BLHS năm 2015 đã bãi bỏ hình phạt tử hình đối với 07 tội gồm: Tội

cướp tài sản (Điều 168); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, phụ gia thực phẩm (Điều 193); Tội tàng trữ trái phép chất ma túy (Điều 249); Tội chiếm đoạt chất ma túy (Điều 252); Tội phá hủy công trình, cơ sở, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 303); Tội chống mệnh lệnh (Điều 394); Tội đầu hàng địch (Điều 399).

2. Những nội dung sửa đổi, bổ sung BLHS nhằm khắc phục những bất cập, hạn chế trong thực tiễn, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong tình hình mới.

- Những tội phạm mới:Những tội phạm mới được quy định trong BLHS 2015 bao gồm: Tội sử

dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147); tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154); tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân (Điều 167); tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187); tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán (Điều 212); tội gian lận trong kinh doanh bảo hiểm (Điều 213); tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp (Điều 214); tội gian lận bảo hiểm y tế (Điều 215); tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động (Điều 216); tội vi phạm quy định về cạnh tranh (Điều 217); tội vi phạm quy định về hoạt động bán đấu giá tài sản (Điều 218); Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219); tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220); tội vi phạm quy định của Nhà nước về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 221); tội vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); tội thông đồng, bao che cho người nộp thuế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 223); tội vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng (Điều

9

Page 10: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

224); tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230); tội vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ động vật hoang dã (Điều 234); tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238); tội sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng, cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285); Tội thu thập, tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291); tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 292); tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293); tội cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294); tội cưỡng bức lao động (Điều 297); tội bắt cóc con tin (Điều 301); tội cướp biển (Điều 302); tội đăng ký hộ tịch trái pháp luật (Điều 336); tội tổ chức, môi giới cho người khác xuất cảnh, nhập cảnh hoặc ở lại Việt Nam trái phép (Điều 348); tội vi phạm quy định về giam giữ (Điều 388); tội gây rối trật tự phiên tòa (Điều 391); tội ra mệnh lệnh trái pháp luật (Điều 393) và tội chiếm đoạt hoặc huỷ hoại di vật của tử sỹ (Điều 418).

- Những hành vi được coi là tội phạm nay đã được bãi bỏ:BLHS năm 2015 đã bãi bỏ bảy tội danh được quy định trong BLHS năm

1999 gồm: (1) tảo hôn; (2) kinh doanh trái phép; (3) báo cáo sai trong quản lý kinh tế; (4) vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp; (5) sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng; (6) không chấp hành các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về việc đưa vào cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh, quản chế hành chính; (7) tội hoạt động phỉ.

- Cụ thể hóa các tình tiết có tính chất định tính:BLHS năm 2015 đã cụ thể hóa các tình tiết có tính chất định tính, vốn là

một trong những bất cập của BLHS năm 1999 như: “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”; “số lượng lớn”, “số lượng rất lớn”, “số lượng đặc biệt lớn”; “thu lợi bất chính lớn”, “thu lợi bất chính rất lớn”, “thu lợi bất chính đặc biệt lớn”; “đất có diện tích lớn”, “đất có diện tích rất lớn”, “đất có diện tích đặc biệt lớn”; “giá trị lớn”, “giá trị rất lớn”, “giá trị đặc biệt lớn”; “quy mô lớn” là các tình tiết định tội, định khung tăng nặng hình phạt của các điều luật có quy định các tình tiết này, nhằm đảm bảo tính minh bạch. Điều này làm cho BLHS năm 2015 có thể áp dụng được ngay mà không phải chờ văn bản hướng dẫn như chúng ta đã từng làm trước đây.

3. Nội luật hóa các quy định có liên quan của điều ước quốc tế mà nước ta là thành viên, góp phần tăng cường hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung quy định về chuẩn bị phạm tội theo hướng bên cạnh các hành vi chuẩn bị phạm tội đã được quy định trước đây (như: tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện hoặc tạo ra những điều kiện khác để thực hiện tội phạm), còn bổ sung thêm hành vi thành lập, tham gia nhóm tội phạm để thực hiện một tội phạm cụ thể (Điều 14). Quy định này tạo cơ sở pháp lý để chủ động ngăn chặn sớm tội phạm xảy ra, góp phần nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm,

10

Page 11: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

đồng thời phù hợp với tinh thần của Công ước chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia.

Thứ hai, sửa đổi, bổ sung cơ bản cấu thành của tội mua bán người và tội mua bán người dưới 16 tuổi trên tinh thần Nghị định thư về phòng, chống buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em (Điều 150 và Điều 151).

Thứ ba, bổ sung tội bắt cóc con tin (Điều 301) và tội cướp biển (Điều 302) trên tinh thần các quy định của Công ước chống bắt cóc con tin năm 1979 và Công ước quốc tế về Luật biển năm 1982.

Thứ tư, bổ sung tội cưỡng bức lao động (Điều 297) trên tinh thần Công ước số 29 của ILO về lao động cưỡng bức (năm 1930).

Thứ năm, sửa đổi, bổ sung tội rửa tiền nhằm đáp ứng đầy đủ yêu cầu của các khuyến nghị của Lực lượng đặc nhiệm tài chính về phòng, chống rửa tiền (Điều 324).

Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung các tội: bắt, giữ hoặc giam người trái pháp luật; dùng nhục hình và bức cung (các điều 157, 373, 374) trên tinh thần Công ước chống tra tấn và các hình thức trừng phạt hay đối xử tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ nhục.

Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung vào cấu thành của một số tội phạm về chức vụ hành vi tham nhũng trong khu vực tư nhằm xử lý hành vi tham nhũng trong khu vực này; bổ sung hành vi đưa hối lộ cho công chức nước ngoài hoặc công chức đang làm việc trong các tố chức quốc tế công nhằm đáp ứng yêu cầu thực thi Công ước của Liên hợp quốc về chống tham nhũng.

B. Một số sửa đổi, bổ sung cụ thể theo các nhóm tội- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe,

nhân phẩm, danh dự của con người (Chương XIV):Bổ sung thêm trường hợp chuẩn bị phạm tội giết người với khung hình

phạt từ 1 – 5 năm tù (khoản 3 Điều 123); tội sử dụng người dưới 16 tuổi vào mục đích khiêu dâm (Điều 147) và tội mua bán, chiếm đoạt mô hoặc bộ phận cơ thể người (Điều 154). Tăng nặng hình phạt đối với trường hợp phạm tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng dẫn đến chết nhiều người (khoản 3 Điều 132). Bổ sung thêm tình tiết định khung là “Dùng a-xít sunfuric (H2SO4) hoặc hóa chất nguy hiểm khác gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” cho tội Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác tại (Điều 134).

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do dân chủ của công dân (Chương XV):

Bổ sung thêm một tội danh mới, tội xâm phạm quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tiếp cận thông tin, quyền biểu tình của công dân (Điều 167). Đồng thời, bổ sung thêm hành vi phạm tội đối với hai tội danh khác là hành vi xâm phạm quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân (Điều 160) và hành vi làm sai lệch kết quả trưng cầu ý dân (Điều 161). Tăng nặng hình phạt đối với 6 tội thuộc nhóm này (các điều 158, 159, 162, 163, 164, 166).

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu (Chương XVI):

11

Page 12: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm sở hữu theo hướng bảo đảm đối xử bình đẳng giữa chính sách xử lý hành vi xâm phạm tài sản của Nhà nước với hành vi xâm phạm tài sản của cá nhân theo tinh thần của Hiến pháp 2013; tăng mức phạt tiền bổ sung đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu; đồng thời, cụ thể hóa hành vi phạm tội, bổ sung tình tiết định khung tăng nặng đối với các tội phạm thuộc nhóm này, nhất là cụ thể hóa trường hợp xử lý hình sự đối với hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới mức định lượng tối thiểu 02 triệu đồng nhằm góp phần bảo vệ tài sản của nhân dân, nhất là người nghèo (khoản 1 Điều 173).

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (Chương XVII):

Để thể hiện tinh thần Hiến pháp năm 2013 về bảo vệ quyền con người trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình cũng như đảm bảo tính thống nhất và phù hợp với Luật Hôn nhân và gia đình, BLHS năm 2015 đã hình sự hóa 03 hành vi sau: 1) cưỡng ép ly hôn; 2) cản trở ly hôn (Điều 181); 3) tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại (Điều 187).

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII):

BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (Chương XVIII) theo hướng:

+ Không hình sự hóa đối với các tội: kinh doanh trái phép (Điều 159 BLHS năm 1999); báo cáo sai trong quản lý kinh tế (Điều 167 BLHS năm 1999); vi phạm quy định về cấp văn bằng bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp (Điều 170 BLHS năm 1999); sử dụng trái phép quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ của tổ chức tín dụng (Điều 178 BLHS năm 1999);

+ Đã thay thế tội Cố ý làm trái các quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 165 BLHS năm 1999) bằng những tội danh cụ thể trong các lĩnh vực quản lý kinh tế như: Tội vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát, lãng phí (Điều 219); Tội vi phạm quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng vốn đầu tư công gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 220); Tội vi phạm về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng (Điều 222); Tội vi phạm các quy định về quản lý đất đai (Điều 229); Tội vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất (Điều 230)... Quy định này nhằm tăng cường tính minh bạch, tạo hành lang pháp lý an toàn để các doanh nghiệp thực hiện quyền tự do kinh doanh trong các lĩnh vực mà pháp luật không cấm. Tuy nhiên, đối với những người làm công tác truy tố, xét xử, cần phải đặc biệt chú ý đến sự khác biệt về cấu thành tội phạm giữa các tội danh nhằm tránh áp dụng sai điều luật.

+ Bổ sung một số tội mới trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm, cạnh tranh: Điều 212. Tội làm giả tài liệu trong hồ sơ chào bán, niêm yết chứng khoán; Điều 216. Tội trốn đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động;..

+ Tăng hình phạt tiền với tính chất là hình phạt chính đối với các tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế.

12

Page 13: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về môi trường (Chương XIX):

BLHS năm 2015 đã sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về môi trường (Chương XIX) theo hướng:

+ Cụ thể hóa các hành vi phạm tội gây ô nhiễm môi trường, tội vi phạm quy định về xử lý chất thải nguy hại (Điều 227. Tội vi phạm các quy định về nghiên cứu, thăm dò, khai thác tài nguyên; Điều 228. Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai);

+ Tăng mức phạt tiền (cả phạt chính và phạt bổ sung) đối với các tội phạm về môi trường.

Đồng thời, bổ sung tội vi phạm quy định về bảo vệ an toàn công trình thủy lợi, đê điều và phòng, chống thiên tai; vi phạm quy định về bảo vệ bờ, bãi sông (Điều 238). Đặc biệt, Bộ luật quy định pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 09 tội danh trong chương này. Đó là những tội phạm gây ô nhiễm cho môi trường, hủy hoại các loài động vật, thực vật, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự đa dạng sinh học và cân bằng sinh thái.

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về ma túy (Chương XX):BLHS hiện hành quy định một số tội phạm ghép thuộc chương các tội

phạm về ma túy. Với những quy định này thì những hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm khác nhau nhưng lại có chung chính sách xử lý hình sự. Do vậy, để đảm bảo việc phân hóa trách nhiệm hình sự, Chương XX BLHS năm 2015 đã tách 04 tội ghép trong chương các tội phạm về ma túy (các Điều 194, 195, 196, 200 BLHS năm 1999) thành 14 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa các hành vi phạm tội. Đó là các tội liên quan đến tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy; tàng trữ, vận chuyển, mua bán hoặc chiếm đoạt tiền chất dùng vào việc sản xuất trái phép chất ma túy; sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán các phương tiện, dụng cụ dùng vào việc sản xuất hoặc sử dụng trái phép chất ma túy; cưỡng bức, lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy (các điều từ 250 đến 261 và các điều 264, 265) với chính sách xử lý khác nhau, đảm bảo phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội đồng thời điều chỉnh lại các mức định lượng cho phù hợp với tình hình mới. Ví dụ: Điều 247. Tội trồng cây thuốc phiện, cây côca, cây cần sa hoặc các loại cây khác có chứa chất ma túy; Điều 248. Tội sản xuất trái phép chất ma túy; Điều 249. Tội tàng trữ trái phép chất ma túy; Điều 250. Tội vận chuyển trái phép chất ma túy; Điều 251. Tội mua bán trái phép chất ma túy; Điều 252. Tội chiếm đoạt chất ma túy…

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XXI):

Đối với nhóm các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng (Chương XXI), BLHS năm 2015 quy định phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với trường hợp phạm tội nghiêm trọng thuộc các tội: vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ; cản trở giao thông đường bộ; tổ chức đua xe trái phép; đua xe trái phép (các Điều 260, 261, 265, 266). Đồng thời, bổ sung 8 tội danh mới trong lĩnh vực này gồm: sản xuất, mua bán, trao đổi hoặc tặng cho công cụ, thiết bị, phần mềm để sử dụng vào mục đích trái pháp luật (Điều 285); Tội thu thập,

13

Page 14: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

tàng trữ, trao đổi, mua bán, công khai hóa trái phép thông tin về tài khoản ngân hàng (Điều 291); Tội cung cấp dịch vụ trái phép trên mạng máy tính, mạng viễn thông (Điều 292); Tội sử dụng trái phép tần số vô tuyến điện dành riêng cho mục đích cấp cứu, an toàn, tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn, quốc phòng, an ninh (Điều 293); cố ý gây nhiễu có hại (Điều 294); cưỡng bức lao động (Điều 297); bắt cóc con tin (Điều 301); cướp biển (Điều 302).

Cần lưu tâm là BLHS năm 2015 đã tăng mức tối thiểu truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội Đánh bạc (Điều 321), Tổ chức đánh bạc hoặc gá bạc (Điều 322) lên 5.000.000 đồng.

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (Chương XXII):

BLHS năm 2015 đã tách 03 tội ghép trong chương các tội xâm phạm trật tự quản lý hành chính (các Điều 263, 270, 275 BLHS năm 1999) thành 07 tội danh khác nhau, đồng thời cụ thể hóa hành vi phạm tội cũng như các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt. Đó là các tội: cố ý làm lộ bí mật nhà nước; mua bán bí mật nhà nước; chiếm đoạt, tiêu hủy bí mật nhà nước; vi phạm các quy định về quản lý nhà ở; xây dựng, sửa chữa công trình xây dựng trái phép; xây dựng trên đất cấm xây dựng; tổ chức người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép; cưỡng ép người khác trốn đi nước ngoài hoặc ở lại nước ngoài trái phép (các điều 348, 349, 355, 356, 357, 362, 363)

- Những nội dung sửa đổi, bổ sung nhóm các tội phạm về chức vụ (Chương XXIII):

BLHS năm 2015 có những nội dung sửa đổi, bổ sung góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta thể hiện ở hai điểm cơ bản: một là Điều 28 đã bổ sung quy định không áp dụng thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự đối với tội tham ô, tội nhận hối lộ thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng (khoản 3 và khoản 4 của các điều 353, 354 BLHS) nhằm truy đến cùng những tội phạm tham nhũng lớn, góp phần tăng cường công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng; hai là, BLHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi một số tội tham nhũng cũng như một số tội thuộc Chương XXIII - Các tội phạm về chức vụ ra cả khu vực tư (ngoài Nhà nước), theo đó, người có chức vụ, quyền hạn trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước mà thực hiện hành vi tham ô tài sản, nhận hối lộ thì cũng bị xử lý về tội tham ô tài sản, tội nhận hối lộ theo quy định tại các điều 353, 354 của BLHS. Ngoài ra, người có hành vi đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ cho công chức nước ngoài, công chức của tổ chức quốc tế công, người có chức vụ trong các doanh nghiệp, tổ chức ngoài Nhà nước thì cũng bị xử lý về tội đưa hối lộ hoặc tội môi giới hối lộ theo quy định tại các điều 364, 365 của BLHS. Quy định này nhằm góp phần tăng cường đấu tranh phòng, chống tham nhũng. 

- Những sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXIV):

BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung nhóm các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (Chương XXIV) theo hướng: bổ sung tình tiết tăng nặng định khung đối với 6 tội danh trong chương này (các Điều 368, 369, 370, 371, 373, 374). Bên cạnh đó, Bộ luật này còn sửa đổi, bổ sung tội dùng nhục hình (Điều 373) và tội bức cung

14

Page 15: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

(Điều 374) trên tinh thần cập nhật nội dung Công ước chống tra tấn mà nước ta là thành viên; sửa đổi, bổ sung tội làm sai lệch hồ sơ vụ án, vụ việc (Điều 375) theo hướng mở rộng chủ thể tội này. Theo đó, ngoài Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự thì những người khác có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp cũng có thể trở thành chủ thể của tội này vì họ có cơ hội tiếp xúc với hồ sơ vụ án, vụ việc. Bổ sung 3 tội danh: cản trở việc thi hành án (Điều 381); vi phạm quy định về giam giữ (Điều 388) và gây rối trật tự phiên toàn (Điều 391).

II. GIỚI THIỆU SƠ BỘ VỀ BỘ LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ NĂM 2015

1. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) hiện hành được Quốc hội khóa XI, kỳ

họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003 trên cơ sở kế thừa truyền thống của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, phát huy thành tựu của BLTTHS năm 1988 và các luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTHS được Quốc hội thông qua năm 1990, năm 1992 và năm 2000.

Sau hơn 11 năm thi hành, BLTTHS năm 2003 đã khẳng định vai trò quan trọng của trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, góp phần giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên của nhân dân, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Mặc dù vậy, thực tiễn thi hành BLTTHS năm 2003 cũng bộc lộ những vướng mắc, bất cập, chủ yếu là: (1) Quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố tụng có những nội dung chưa phù hợp nên ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả hoạt động; điều tra viên, kiểm sát viên, thẩm phán là những người trực tiếp giải quyết vụ án nhưng chỉ được giao những thẩm quyền rất hạn chế nên đã ảnh hưởng đến chất lượng và tiến độ giải quyết vụ án; (2) Còn thiếu một số quyền quan trọng bảo đảm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội; (3) Quy định về căn cứ tạm giam còn định tính đang là nguyên nhân dẫn đến việc lạm dụng tạm giam trong thực tiễn; quy định về một số biện pháp cưỡng chế tố tụng còn chưa đầy đủ và cụ thể, thiếu cơ chế ràng buộc trách nhiệm trong trường hợp người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; (4) Quy định về chứng cứ còn bất cập, chưa phù hợp với diễn biến tình hình tội phạm, chưa thể hiện được yêu cầu tranh tụng đã trở thành nguyên tắc Hiến định và chưa theo kịp sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại, chủ yếu vẫn chỉ ghi nhận những nguồn chứng cứ truyền thống, chưa công nhận là chứng cứ đối với các dữ liệu điện tử được thu thập từ mạng in-tơ-nét, từ các thiết bị điện tử; (5) Chế định thời hạn tố tụng chưa thật hợp lý, vẫn còn những hoạt động tố tụng chưa bị ràng buộc bởi thời hạn; thời hạn tạm giam còn dài; một số thời hạn quá chặt chẽ nên thiếu tính khả thi; (6) Bộ luật hiện hành mới chỉ quy định thủ tục áp dụng cho người chưa thành niên phạm tội, chưa quy định thủ tục cho người chưa thành niên là bị hại, người làm chứng; thiếu các biện pháp bảo vệ

15

Page 16: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác; (7) Căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm thiếu chặt chẽ đang là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến kháng nghị giám đốc thẩm còn nhiều như hiện nay; (8) Nhiều quy định của BLTTHS hiện hành mới dừng ở những quy định chung; chưa quy định rõ về giá trị của các nguồn tư liệu có được thông qua hoạt động tương trợ tư pháp hình sự; thiếu các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng nhằm thực hiện tốt các cam kết quốc tế.

Để xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương cải cách tư pháp như: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 26/5/2005, Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005, Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010, Kết luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bộ Chính trị; Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần X, XI của Đảng. Các nghị quyết của Đảng đều nhấn mạnh yêu cầu cải cách mạnh mẽ thủ tục tố tụng tư pháp theo hướng dân chủ, bình đẳng, công khai, minh bạch, chặt chẽ nhưng thuận tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp; bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, lấy kết quả tranh tụng tại tòa làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp. Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ họp thứ 6 một lần nữa đã thể hiện sâu sắc quan điểm của Đảng ta về tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, bổ sung nhiều nguyên tắc tư pháp tiến bộ, bổ sung và làm rõ hơn nhiệm vụ của Tòa án và Viện kiểm sát khi thực hiện chức năng Hiến định. Thêm vào đó, thời gian qua, Quốc hội đã ban hành nhiều đạo luật liên quan đến tố tụng hình sự như: Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Luật sư, Luật Trợ giúp pháp lý, Luật thi hành án hình sự v.v… nên BLTTHS hiện hành cũng cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật.

2. Giới thiệu khái quát về Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015BLTTHS năm 2015 gồm có 510 điều, được bố cục thành 9 phần, 36

chương. So với BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 tăng thêm 154 điều. Trong đó, bổ sung 176 điều mới, sửa đổi 317 điều, giữ nguyên 17 điều, bãi bỏ 26 điều. Về bố cục, tách chương quyết định việc truy tố khỏi phần khởi tố, điều tra vụ án hình sự để xây dựng thành một phần độc lập (Phần thứ ba: Truy tố); ghép phần xét xử sơ thẩm và phần xét xử phúc thẩm điều chỉnh trong một phần (Phần thứ tư: xét xử vụ án hình sự). Cụ thể như sau:

- Phần thứ nhất: Những quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 142).- Phần thứ hai: Khởi tố, điều tra vụ án hình sự (từ Điều 143 đến Điều

235).- Phần thứ ba: Truy tố (từ Điều 236 đến Điều 249).- Phần thứ tư: Xét xử vụ án hình sự (từ Điều 250 đến Điều 362).- Phần thứ năm: Một số quy định về thi hành bản án, quyết định của Tòa

án (từ Điều 363 đến Điều 369).- Phần thứ sáu: Xét lại bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật (từ

Điều 370 đến Điều 412).

16

Page 17: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

- Phần thứ bảy: Thủ tục đặc biệt (từ Điều 413 đến Điều 490).- Phần thứ tám: Hợp tác quốc tế (từ Điều 491 đến Điều 508).- Phần thứ chín: Điều khoản thi hành (Điều 509 và Điều 510).3. Những điểm mới của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015So với quy định của BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 có những

sửa đổi, bổ sung quan trọng sau đây:A. Một số nội dung thay đổi chính- Phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp; tăng quyền, trách

nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.- Mở rộng diện người tham gia tố tụng; bổ sung diện người tham gia tố

tụng, một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; quy định rõ quyền hạn, nhiệm vụ của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra.

- Bổ sung quyền của những người tham gia tố tụng theo hướng mở rộng hơn diện người tham gia tố tụng.

- Điều chỉnh khái niệm chứng cứ, nguồn, thu thập chứng cứ; xử lý chặt chẽ hơn về vật chứng.

- Quy định về rút ngắn thời hạn tạm giam, việc gia hạn tạm giam cùng nhiều bổ sung về hoạt động điều tra, truy tố, xét xử trong vụ án hình sự...

B. Một số sửa đổi, bổ sung cụ thể theo từng phần, từng chương:

PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG1. Về những nguyên tắc cơ bản (Chương II)Nhằm bảo đảm các quy định về nguyên tắc cơ bản đúng nghĩa là những tư

tưởng chỉ đạo đối với việc xây dựng và thực hiện BLTTHS, tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về cách ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, từ 30 nguyên tắc hiện hành, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung một số nguyên tắc mới nhằm phù hợp với Hiến pháp năm 2013, đồng thời, loại bỏ những quy định không mang tính nguyên tắc, cụ thể như sau:

Thứ nhất, điều chỉnh nội dung của 25 nguyên tắc hiện hành nhằm khắc phục những hạn chế thời gian qua, đồng thời bảo đảm phù hợp với yêu cầu mới của Hiến pháp năm 2013.

Thứ hai, bổ sung 05 nguyên tắc mới nhằm bảo đảm tốt hơn quyền con người, quyền công dân theo quy định của Hiến pháp năm 2013, gồm: Công dân Việt Nam không thể bị trục xuất, giao nộp cho nhà nước khác (Điều 11); suy đoán vô tội (Điều 13); không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm (Điều 14); tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26); bảo đảm sự kiểm tra, giám sát trong hệ thống từng cơ quan tố tụng và kiểm soát lẫn nhau giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 33).

Thứ ba, đưa một số quy định không mang tính nguyên tắc mà chỉ có tính chất là thủ tục hoặc là trách nhiệm của các cơ quan để quy định trong các chương khác tương ứng của BLTTHS nhằm bảo đảm tính khoa học, chặt chẽ của hệ thống các nguyên tắc cơ bản. Ví dụ: giám đốc việc xét xử; trách nhiệm của các tổ

17

Page 18: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

chức và công dân trong đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm; sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với các cơ quan tiến hành tố tụng…

2. Về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng (Chương III)2.1. Về phạm vi điều chỉnh và tên chươngBLTTHS năm 2015 đã mở rộng phạm vi điều chỉnh của chương này theo

hướng không chỉ điều chỉnh đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, mà còn điều chỉnh cả cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Trên cơ sở đó, điều chỉnh tên chương thành: “Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng”.

2.2. Về phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp với trách nhiệm, quyền hạn tư pháp; tăng quyền, tăng trách nhiệm cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (các điều 36, 37, 41, 42, 44, 45)

* BLTTHS năm 2015 quy định:(1) Trong lĩnh vực được phân công phụ trách, cấp phó không chỉ được

giao thẩm quyền tiến hành tố tụng như hiện hành, mà còn được giao thẩm quyền quản lý hành chính tư pháp;

(2) Phân định thẩm quyền giữa Thủ trưởng cơ quan tiến hành tố tụng với người trực tiếp tiến hành tố tụng theo hướng những thẩm quyền có tính chất quyết định việc “đóng, mở” một giai đoạn tố tụng, những thẩm quyền liên quan đến việc hạn chế quyền con người, quyền công dân giao cho Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát quyết định; hầu hết những thẩm quyền có tính chất phát hiện hoặc làm sáng tỏ sự thật vụ án giao cho Điều tra viên, Kiểm sát viên trực tiếp quyết định. Tăng cơ bản thẩm quyền cho Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa.

Trên cơ sở đó, việc tăng thẩm quyền cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán được quy định cụ thể như sau:

- Tăng cho Điều tra viên các thẩm quyền: (1) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Quyết định áp giải người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, bị tạm giữ; quyết định dẫn giải người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (4) Quyết định giao người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm giám sát; (5) Quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (6) Thi hành lệnh phong tỏa tài khoản.

- Tăng cho Kiểm sát viên các thẩm quyền: (1) Trực tiếp giải quyết và lập hồ sơ giải quyết nguồn tin về tội phạm; (2) Triệu tập và lấy lời khai người tố giác, báo tin về tội phạm, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người đại diện theo pháp luật của pháp nhân; (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; yêu cầu cử, đề nghị thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (4) Bắt buộc có mặt khi Cơ quan điều tra tiến hành đối chất, nhận dạng, nhận biết giọng nói, thực nghiệm điều tra, khám xét; (5) Yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã, đình nã bị can; (6) Quyết định áp giải người bị bắt, bị can; quyết định dẫn giải người làm chứng, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố, bị hại; (7) Quyết định giao

18

Page 19: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

người dưới 18 tuổi cho cơ quan, tổ chức, cá nhân để giám sát; quyết định thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội.

- Tăng cho Thẩm phán các thẩm quyền: (1) Quyết định áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện biện pháp cưỡng chế; (2) Quyết định trưng cầu giám định, giám định bổ sung hoặc giám định lại, thực nghiệm điều tra; thay đổi hoặc yêu cầu thay đổi người giám định; yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu thay đổi người định giá tài sản;  (3) Yêu cầu hoặc đề nghị cử, thay đổi người bào chữa; thay đổi người giám sát người dưới 18 tuổi phạm tội; (4) Yêu cầu cử, thay đổi người phiên dịch, người dịch thuật; (5) Quyết định việc thu thập, bổ sung chứng cứ trong giai đoạn chuẩn bị xét xử.

2.3. Mở rộng diện người tiến hành tố tụng (các điều 38, 43, 48)Để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, Luật tổ chức TAND

năm 2014 và thực tiễn giải quyết vụ án hình sự thời gian qua, BLTTHS năm 2015 bổ sung diện người tiến hành tố tụng gồm: Cán bộ điều tra, Kiểm tra viên, Thẩm tra viên và quy định cụ thể nhiệm vụ của họ khi được phân công giúp việc cho Điều tra viên, kiểm sát viên, Chánh án Tòa án.

2.4. Bổ sung cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 35)

BLTTHS năm 2015 bổ sung cơ quan Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Đồng thời, quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó, Cán bộ điều tra của lực lượng Kiểm ngư được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

2.5. Quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (Điều 39, 40)

BLTTHS năm 2015 bổ sung hai điều luật mới nhằm quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của cấp trưởng, cấp phó các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra.

3. Về người tham gia tố tụng (Chương IV)3.1. Bổ sung diện người tham gia tố tụngBLTTHS năm 2015 bổ sung 09 diện người tham gia tố tụng, gồm: (1)

Người tố giác, báo tin về tội phạm, kiến nghị khởi tố; (2) Người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố; (3) Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp; (4) Người bị bắt; (5) Người chứng kiến; (6) Người định giá tài sản; (7) Người dịch thuật; (8) Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố; (9) Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân phạm tội. Đồng thời, Bộ luật quy định cụ thể quyền và nghĩa vụ của họ khi tham gia tố tụng.

3.2. Bổ sung một số quyền của người bị buộc tội (các điều 58, 59, 60, 61)Nhằm bảo đảm cho người bị buộc tội thực hiện tốt quyền bào chữa và bảo

vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, BLTTHS năm 2015 bổ sung cho người bị bắt, bị tạm giữ, bị can, bị cáo một số quyền sau đây: (1) Được nhận các quyết định tố tụng liên quan đến mình; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Có quyền trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội;

19

Page 20: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

(5) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (6) Bị can có quyền đọc, ghi chép bản sao hoặc tài liệu đã được số hóa liên quan đến việc buộc tội họ trong hồ sơ vụ án sau khi kết thúc điều tra theo quy định của Bộ luật này khi có yêu cầu; (7) Bị cáo có quyền trực tiếp hỏi những người tham gia tố tụng nếu được Chủ tọa phiên tòa đồng ý; (8) Một số quyền khác.

Cùng với việc bổ sung quyền, BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của người bị buộc tội phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.

3.3. Xác định đầy đủ diện của bị hại và bổ sung một số quyền của họ (Điều 62)

BLTTHS năm 2015:- Quy định diện người bị hại không chỉ gồm cá nhân bị thiệt hại như hiện

hành mà còn bao gồm tổ chức bị thiệt hại.- Để bị hại bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, BLTTHS năm

2015 bổ sung cho bị hại và người đại diện theo pháp luật của họ các quyền: (1) Được cơ quan tố tụng thông báo, giải thích quyền và nghĩa vụ của họ; (2) Đưa ra chứng cứ; (3) Trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá, người dịch thuật; (5) Đề nghị chủ tọa phiên tòa hỏi bị cáo và người tham gia phiên tòa và một số quyền khác.

- Quy định rõ hơn nghĩa vụ và trách nhiệm của người bị hại nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong việc phối hợp với cơ quan có thẩm quyền tố tụng trong việc phát hiện, xử lý tội phạm: (1) Nghĩa vụ chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền; (2) Trường hợp cố ý vắng mặt hoặc có hành vi gây khó khăn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bị dẫn giải.

3.4. Bổ sung một số quyền của nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án (các điều 63, 64, 65)

- Để bảo đảm cho những chủ thể này bảo vệ tốt hơn quyền và nghĩa vụ của mình khi tham gia tố tụng, phù hợp với Luật giám định tư pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của họ như: (1) Quyền đưa ra chứng cứ; (2) Quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; đề nghị thay đổi người định giá tài sản, người dịch thuật; (4) Quyền được thông báo kết quả giải quyết vụ án; (5) Quyền đề nghị chủ tọa hỏi những người tham gia phiên tòa; (6) Tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình; Và một số quyền khác.

BLTTHS năm 2015 quy định rõ hơn nghĩa vụ của những chủ thể này phải chấp hành các quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền nhằm tăng cường trách nhiệm của họ trong quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm việc giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật.

3.5. Sửa đổi các quy định liên quan đến người làm chứng (Điều 66)* BLTTHS năm 2015 quy định thời điểm người làm chứng tham gia tố

tụng sớm hơn, kể từ khi cơ quan có thẩm quyền xác minh các nguồn tin về tội

20

Page 21: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

phạm. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức nơi người làm chứng làm việc hoặc học tập phải tạo điều kiện để họ tham gia tố tụng.

4. Về bào chữa và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự (Chương V)

BLTTHS năm 2015 xây dựng một chương mới để điều chỉnh vấn đề này với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:

4.1. Mở rộng diện người được bảm đảm quyền bào chữa (Điều 58)Để phù hợp với Hiến pháp năm 2013, ngoài 03 đối tượng được bảo đảm

quyền bào chữa như hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung “người bị bắt” được bảo đảm quyền bào chữa.

4.2. Mở rộng diện người bào chữa (Điều 72)Để bảo đảm tốt hơn quyền của người bị buộc tội, phù hợp với Luật trợ

giúp pháp lý, BLTTHS năm 2015 bổ sung diện người bào chữa là Trợ giúp viên pháp lý để bào chữa miễn phí cho các đối tượng thuộc diện chính sách.

4.3. Đổi mới quy định về cấp đăng ký bào chữa (Điều 78)Nhằm bảo đảm người bào chữa nhanh chóng tham gia tố tụng, BLTTHS

năm 2015 đã thay quy định cấp giấy chứng nhận người bào chữa bằng thủ tục đăng ký bào chữa. Theo đó, trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ theo luật định, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng có trách nhiệm: kiểm tra giấy tờ do người bào chữa cung cấp, nếu thấy đủ điều kiện luật định thì vào sổ đăng ký bào chữa và gửi ngay văn bản thông báo người bào chữa cho người đăng ký và cơ sở giam giữ. Văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tố tụng.

4.4. Bổ sung một số quyền và cơ chế bảo đảm người bào chữa thực hiện tốt các quyền luật định (Điều 73, các điều 79-82)

Để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa, gỡ tội, BLTTHS năm 2015 bổ sung một số quyền của người bào chữa, gồm: (1) Quyền có mặt khi lấy lời khai của người bị bắt; Sau mỗi lần lấy lời khai, hỏi cung của người có thẩm quyền kết thúc thì người bào chữa có thể hỏi người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thay vì chỉ được hỏi khi cơ quan tiến hành tố tụng đồng ý như hiện nay; (2) Được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng báo trước về thời gian, địa điểm lấy lời khai, hỏi cung và thời gian, địa điểm tiến hành hoạt động điều tra khác theo quy định của Bộ luật này; (3) Thu thập chứng cứ; kiểm tra, đánh giá và trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (4) Đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, giám định bổ sung, giám định lại, định giá lại tài sản; (5) Đề nghị thay đổi, huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế.

BLTTHS năm 2015 bổ sung các cơ chế để người bào chữa thực hiện tốt việc bào chữa như: Quy định trách nhiệm của các cơ quan tố tụng phải thông báo trước cho người bào chữa thời gian và địa điểm tiến hành các hoạt động tố tụng mà họ có quyền tham gia; Quy định cụ thể thủ tục gặp người bị buộc tội đang bị bắt, tạm giữ, tạm giam, thủ tục giao nộp chứng cứ, thủ tục đọc, ghi chép, sao chụp tài liệu trong hồ sơ vụ án.

21

Page 22: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Đồng thời với việc bổ sung quyền của người bào chữa, nhằm tăng cường trách nhiệm của người bào chữa, BLTTHS năm 2015 bổ sung nghĩa vụ của người bào chữa phải có mặt theo yêu cầu của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát; không được tiết lộ thông tin mà mình biết được khi tham gia các hoạt động tố tụng liên quan đến vụ án hoặc liên quan đến người mà mình bào chữa cho những người không có trách nhiệm giải quyết vụ án.

4.5. Quy định cụ thể thủ tục mời, cử người bào chữa (Điều 75)Để bảo đảm quyền của người bị buộc tội, nhất là người bị buộc tội đang

bị bắt, tạm giữ, tạm giam, BLTTHS năm 2015 quy định: (1) Bổ sung người thân thích của người bị buộc tội có quyền mời người bào chữa; (2) Quy định cụ thể thủ tục và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan quản lý người bị tạm giữ, tạm giam khi tiếp nhận được yêu cầu nhờ người bào từ người buộc tội phải chuyển yêu cầu này hoặc thông báo cho người bào chữa được họ nhờ biết; có trách nhiệm tạo điều kiện cho người bào chữa liên hệ với người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam để thỏa thuận về việc nhờ bào chữa.

4.6. Mở rộng các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa (Điều 76)Để thể chế hóa chính sách nhân đạo của Đảng, Nhà nước và phù hợp với

điều kiện cụ thể nước ta, BLTTHS năm 2015 mở rộng trường hợp bắt buộc mời người bào chữa cho bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là 20 năm, tù chung thân, tử hình.

Đồng thời, BLTTHS năm 2015 quy định chặt chẽ về người có nhược điểm về thể chất theo hướng nhược điểm về thể chất đó phải làm cho người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo không thể tự mình thực hiện được quyền bào chữa.

4.7. Về những trường hợp không được làm người bào chữa (Điều 72)Để phù hợp với Luật Luật sư và thực tiễn giải quyết vụ án thời gian qua,

BLTTHS năm 2015 bổ sung những đối tượng không được làm người bào chữa, gồm: (1) Nếu đã tham gia vụ án đó với tư cách là người dịch thuật; (2) Là người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự; đã bị kết án mà chưa được xoá án tích; đang bị áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc.

4.8. Về thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng (Điều 74)Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, BLTTHS năm 2015 quy

định thời điểm người bào chữa tham gia tố tụng kể từ khi có người bị bắt.4.9. Về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị

kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sựNhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị

kiến nghị khởi tố, BLTTHS năm 2015 xây dựng hai điều luật (Điều 83 và Điều 84) quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này với những bổ sung quan trọng như: (1) Quy định ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, người bị tố giác, bị kiến nghị khởi tố đã có quyền có người bảo vệ quyền lợi; (2) Quyền đưa ra chứng cứ, tài liệu, đồ vật, yêu cầu; trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; (3) Yêu cầu giám định, định giá tài sản; (4) Quyền tham

22

Page 23: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

gia các hoạt động tố tụng để bảo vệ người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, bị hại, đương sự và một số quyền khác.

5. Về chứng cứ và chứng minh (Chương VI)5.1. Điều chỉnh khái niệm về chứng cứ (Điều 86)Để phù hợp với yêu cầu của cải cách tư pháp và Hiến pháp năm 2013 về

tăng cường tranh tụng, bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội, BLTTHS năm 2015 điều chỉnh khái niệm về chứng cứ theo hướng không chỉ cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng mới được quyền thu thập chứng cứ; người bị buộc tội, người bào chữa và một số người tham gia tố tụng khác cũng có quyền thu thập hoặc cung cấp chứng cứ.

5.3. Bổ sung một số nguồn chứng cứ và quy định về loại trừ chứng cứ (Điều 87)

Để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp, tháo gỡ những vướng mắc đặt ra trong thực tiễn, phù hợp với sự phát triển của khoa học công nghệ hiện đại và yêu cầu hội nhập quốc tế, BLTTHS năm 2015 bổ sung vào hệ thống nguồn chứng cứ gồm: (1) Dữ liệu điện tử; (2) Kết luận định giá tài sản; (3) Kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế khác trong đấu tranh chống tội phạm.

Nhằm đáp ứng các yêu cầu của chứng cứ về tính khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về loại trừ chứng cứ, theo đó: “Những gì có thật nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự”.

5.4. Quy định cụ thể về nguồn chứng cứ là dữ liệu điện tử và việc thu thập dữ liệu điện tử (các điều 99, 107)

Nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm sử dụng công nghệ cao, BLTTHS năm 2015 quy định cụ thể về dữ liệu điện tử với tính cách là một loại nguồn chứng cứ như: khái niệm về dữ liệu điện tử; các nguồn chứa dữ liệu điện tử; yêu cầu về giá trị chứng cứ của dữ liệu điện tử; trình tự, thủ tục thu thập, phục hồi dữ liệu điện tử nhằm bảo đảm tính khách quan, tính nguyên trạng và tính có thể kiểm chứng của loại chứng cứ này.

5.5. Về phương thức người bào chữa thu thập chứng cứ (Điều 88)Để phù hợp với yêu cầu tăng cường tranh tụng, BLTTHS năm 2015 quy

định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa và cách thức người bào chữa thu thập chứng cứ, gồm: gặp thân chủ, bị hại, người làm chứng, những người biết về vụ án để hỏi và nghe họ trình bày về những vấn đề liên quan đến vụ án; đề nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử và các tình tiết liên quan đến việc bào chữa.

5.6. Quy định chặt chẽ và chi tiết việc xử lý vật chứng (Điều 106)Nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết vụ án hình sự, BLTTHS năm 2015 đã

sửa đổi, bổ sung chi tiết việc xử lý vật chứng theo từng trường hợp: vật chứng là công cụ, phương tiện phạm tội, vật cấm lưu hành; vật chứng là tiền bạc hoặc tài sản do phạm tội mà có; vật chứng là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được; vật chứng thuộc loại mau hỏng hoặc khó bảo quản; vật chứng là động vật

23

Page 24: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

hoang dã và thực vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quy hiếm, động vật, thực vật ngoại lai và một số trường hợp khác.

PHẦN THỨ HAI: KHỞI TỐ, ĐIỀU TRA VỤ ÁN HÌNH SỰ1. Về khởi tố vụ án hình sự (Chương IX)Nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn do tính thiếu cụ thể của

BLTTHS năm 2003, BLTTHS năm 2015 quy định 20 điều luật về thủ tục tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm. Cụ thể như sau:

1.1. Bổ sung và quy định rõ các khái niệm về tố giác tội phạm; tin báo về tội phạm; kiến nghị khởi tố nhằm khắc phục những bất cập trong quy định của Thông tư liên tịch số 06/2013/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNNPTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2015. Theo đó: Tố giác về tội phạm là việc cá nhân phát hiện và tố cáo hành vi có dấu hiệu tội phạm với cơ quan có thẩm quyền;  Tin báo về tội phạm là thông tin về vụ việc có dấu hiệu tội phạm do cơ quan, tổ chức, cá nhân thông báo với cơ quan có thẩm quyền hoặc thông tin về tội phạm trên phương tiện thông tin đại chúng; Kiến nghị khởi tố là việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền kiến nghị Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát có thẩm quyền tiến hành tố tụng xem xét, xử lý vụ việc có dấu hiệu tội phạm; cơ quan kiến nghị khởi tố phải gửi kèm theo tài liệu, chứng cứ liên quan.

1.2. Quy định cụ thể trách nhiệm và thủ tục tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố (Điều 145, Điều 146).

1.3. Sửa thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa là 04 tháng thay vì 02 tháng như hiện hành; việc gia hạn thời hạn giải quyết phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp quyết định; bổ sung thời hạn phục hồi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố tối đa không quá 01 tháng (Điều 147, Điều 149).

1.4. Kết thúc việc kiểm tra, xác minh, ngoài việc ban hành quyết định khởi tố vụ án hoặc không khởi tố vụ án như hiện hành, bổ sung quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố để tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua có trường hợp đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp… nhưng hết thời hạn luật định mà chưa có kết quả (Điều 148).

1.5. Để phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, tăng cường trách nhiệm của Viện kiểm sát nhằm chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô tội, BLTTHS năm 2015 bổ sung 03 điều luật (Điều 159, 160, 161) để quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và kiểm sát việc khởi tố; quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát phải giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố trong trường hợp phát hiện Cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong hoạt động kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố hoặc có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm mà Viện kiểm sát đã yêu cầu nhưng không được khắc phục.

2. Về điều tra vụ án hình sự (từ Chương X đến Chương XVII)2.1. BLTTHS năm 2015 sửa theo hướng quy định chặt chẽ và cụ thể

những vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra cấp trung ương để 24

Page 25: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

một mặt tháo gỡ vướng mắc của thực tiễn, mặt khác, phù hợp với chủ trương tăng thẩm quyền cho cấp cơ sở. Theo đó, Cơ quan điều tra cấp trung ương điều tra những vụ án sau:

- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hủy để điều tra lại;

- Vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; vụ án hình sự về tội phạm đặc biệt nghiêm trọng, phức tạp liên quan đến nhiều quốc gia nếu xét thấy cần trực tiếp điều tra.

2.2. Bổ sung và quy định cụ thể một số biện pháp điều tra (như: nhận biết giọng nói, định giá tài sản) để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn (Điều 191, các điều 215 - 222).

2.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong công tác giám định hiện nay như: giám định chậm trễ; giám định không chính xác; xung đột giữa các kết luận giám định, BLTTHS năm 2015 bổ sung các quy định như: phân nhóm các vấn đề cần trưng cầu giám định; quy định thời hạn giám định phù hợp với từng nhóm; xác định giá trị của kết luận giám định đối với việc giải quyết vụ án; giải quyết xung đột giữa các kết quả giám định. Đồng thời, bổ sung mới 8 điều luật để quy định các vấn đề cụ thể liên quan đến định giá tài sản trong tố tụng hình sự (Chương XV).

2.4. Lượng hóa cụ thể một số thời hạn tố tụng, thay cho các thời hạn quy định có tính định tính trong Bộ luật hiện hành (Ví dụ: phải gửi hoặc gửi ngay…).

2.5. Bổ sung một số trường hợp tạm đình chỉ điều tra nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn thời gian qua như: khi yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả mà đã hết thời hạn điều tra (Điều 229).

2.6. Luật hóa các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt trong BLTTHS để cụ thể hóa yêu cầu của Hiến pháp năm 2013 “Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy

định của luật…”, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn đấu tranh chống tội phạm hiện nay, mở rộng nguồn chứng cứ có giá trị trực tiếp chứng minh hành vi phạm tội. Cụ thể như sau:

- Về các biện pháp điều tra tố tụng đặc biệt được quy định gồm: (1) Ghi âm, ghi hình bí mật; (2) Nghe điện thoại bí mật; (3) Thu thập bí mật dữ liệu điện tử (Điều 223).

- Về các trường hợp được phép áp dụng: (1) Các tội xâm phạm an ninh quốc gia, tội phạm về ma túy, tội phạm về tham nhũng, tội khủng bố, tội rửa tiền; (2) Các tội phạm khác có tổ chức thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng (Điều 224).

- Về thẩm quyền áp dụng: xuất phát từ tính chất đặc biệt quan trọng của các biện pháp này, BLTTHS năm 2015 quy định thẩm quyền áp dụng phải do Thủ trưởng Cơ quan điều tra cấp tỉnh trở lên ra quyết định và phải được Viện trưởng Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước khi thi hành. Quy định trách

25

Page 26: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

nhiệm của Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Viện trưởng Viện kiểm sát phải kiểm tra, giám sát quá trình áp dụng các biện pháp này (Điều 225).

- Về thời hạn áp dụng: nhằm bảo đảm tính chặt chẽ trong việc quy định thời hạn áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, quyền công dân, đồng thời, phù hợp với đặc điểm của từng biện pháp, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn áp dụng không quá hai tháng kể từ ngày phê chuẩn; trường hợp phức tạp có thể gia hạn nhưng không quá thời hạn điều tra (Điều 226).

- Quy định công nhận là chứng cứ đối với các thông tin, tài liệu thu được nếu quá trình áp dụng các biện pháp này tuân thủ nghiêm ngặt quy định của luật. Đồng thời, quy định rõ, các thông tin thu được chỉ sử dụng vào mục đích chống tội phạm, nghiêm cấm làm ảnh hưởng đến cá nhân, công dân (Điều 227).

 PHẦN THỨ BA: TRUY TỐNhằm khắc phục những vướng mắc trong thực tiễn do cách quy định khái

quát của Bộ luật hiện hành và bảo đảm phù hợp với Luật tổ chức VKSND năm 2014, trên cơ sở kế thừa các quy định về quyết định truy tố trong Phần thứ hai của BLTTHS hiện hành, BLTTHS năm 2015 xây dựng Phần thứ ba về truy tố, gồm 02 chương: Chương XVIII: Những quy định chung; Chương XIX: Quyết định việc truy tố bị can. Với những nội dung sửa đổi, bổ sung chủ yếu sau đây:

1.1. Nhằm bảo đảm tính rành mạch về kỹ thuật lập pháp, BLTTHS năm 2015 tách các quy định có tính chất chung cho toàn bộ giai đoạn truy tố để quy định trong Chương XVIII “Những quy định chung” với các nội dung như: (1) Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn truy tố; (2) Thủ tục tiếp nhận hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra chuyển; (3) Xác định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố; (4) Thời hạn quyết định việc truy tố; (5) Việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; (6) Những trường hợp tách, nhập vụ án.

1.2. Để nhận thức và thực hiện thống nhất pháp luật, BLTTHS năm 2015 quy định Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố là Viện kiểm sát đã thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra. Đồng thời, để xác định thẩm quyền truy tố đối với vụ án do Viện kiểm sát cấp trên thực hành quyền công tố và kiểm sát trong giai đoạn điều tra, Bộ luật quy định: Viện kiểm sát cấp trên quyết định việc truy tố. Chậm nhất là 02 tháng trước khi kết thúc điều tra, Viện kiểm sát cấp trên phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới cùng cấp với Tòa án có thẩm quyền xét xử sơ thẩm vụ án để cử Kiểm sát viên tham gia nghiên cứu hồ sơ vụ án. Ngay sau khi quyết định truy tố, Viện kiểm sát cấp trên ra quyết định phân công cho Viện kiểm sát cấp dưới thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử; sau khi nhận được hồ sơ vụ án kèm theo bản cáo trạng, Viện kiểm sát cấp dưới có thẩm quyền thực hành.

1.3. Nhằm tháo gỡ những vướng mắc của thực tiễn, tránh áp lực đối với các cơ quan tố tụng, trên cơ sở tiếp tục kế thừa các quy định hiện hành về thời hạn giao, gửi các quyết định tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung trường hợp đặc biệt, vì lý do khách quan thì thời hạn giao bản cáo trạng, quyết định đình chỉ vụ án hoặc quyết định tạm đình chỉ vụ án cho bị can, người đại diện theo pháp luật của bị can có thể kéo dài nhưng không quá 10 ngày.

26

Page 27: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

1.4. Về thời hạn tạm giam bị cáo trong giai đoạn truy tố, thực hiện chủ trương chung về rút ngắn thời hạn áp dụng các biện pháp ngăn chặn nói chung và thời hạn tạm giam nói riêng, BLTTHS năm 2015 chỉ cho phép áp dụng biện pháp ngăn chặn trong thời hạn quyết định việc truy tố (không quá 30 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 45 ngày đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 60 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng); rút ngắn 03 ngày so với BLTTHS năm 2003.

1.5. Nhằm tăng cường kiểm tra, kiểm soát trong nội bộ, BLTTHS năm 2015 quy định trách nhiệm của Viện kiểm sát cấp dưới phải gửi các quyết định tố tụng đến Viện kiểm sát cấp trên; quy định Viện trưởng Viện kiểm sát cấp trên có quyền rút, đình chỉ, hủy bỏ các quyết định này nếu thấy không có căn cứ hoặc trái pháp luật (Điều 240).

1.6. Để bảo đảm việc tách, nhập vụ án được tiến hành chặt chẽ, tránh tùy nghi làm ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan, toàn diện của vụ án, BLTTHS năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các trường hợp tách, nhập vụ án. Theo đó, bên cạnh việc bảo đảm các yêu cầu chung thì việc tách vụ án chỉ được tiến hành trong 3 trường hợp (Bị can bỏ trốn; Bị can mắc bệnh hiểm nghèo; Bị can bị áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh); đồng thời, quy định 3 trường hợp có thể nhập vụ án (Bị can phạm nhiều tội; Bị can phạm tội nhiều lần; Nhiều bị can cùng tham gia một tội phạm hoặc cùng với bị can còn có những người khác che giấu tội phạm hoặc không tố giác tội phạm, tiêu thụ tài sản do bị can phạm tội mà có (Điều 242).

1.7. Nhằm bảo đảm việc trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung được tiến hành chặt chẽ, tránh lạm dụng kéo dài thời gian tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung điều luật để quy định cụ thể các căn cứ trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung; trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu của Viện kiểm sát nêu trong quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung (Điều 245). Đồng thời, nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ án được khẩn trương, BLTTHS quy định trường hợp Tòa án trả hồ sơ yêu cầu điều tra bổ sung, nếu xét thấy có thể bổ sung chứng cứ, tài liệu thì Viện kiểm sát trực tiếp bổ sung mà không nhất thiết phải trả cho Cơ quan điều tra (Điều 246).

1.8. Để thuận lợi cho thực tiễn áp dụng, BLTTHS năm 2015 xây dựng 03 điều luật để quy định rõ hơn căn cứ Viện kiểm sát ra quyết định tạm đình chỉ, quyết định đình chỉ vụ án và quyết định phục hồi vụ án; xác định cụ thể trách nhiệm, thủ tục và thời hạn khi thực hiện các thẩm quyền này (các điều 247, 248, 249).

PHẦN THỨ TƯ: XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰBLTTHS năm 2015 xây dựng Phần thứ tư gồm có 03 chương (chương

những quy định chung; chương xét xử sơ thẩm; chương xét xử phúc thẩm). Phần nay liên quan trực tiếp đến hoạt động của Tòa án, Tôi xin được đi cụ thể hơn:

1. Về những quy định chung (Chương XX)1.1. Về bổ sung Chương mới quy định chung về xét xử (Chương XX)BLTTHS năm 2015 xây dựng Chương những quy định chung, nhằm tạo

điều kiện tách các quy định có tính chất chung cho cả xét xử sơ thẩm và xét xử 27

Page 28: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

phúc thẩm để điều chỉnh chung trong chương này, tránh trùng lặp. Cụ thể gồm các quy định: Thành phần Hội đồng xét xử; Quyết định đưa vụ án ra xét xử; Biên bản phiên tòa; Biên bản nghị án; Bản án; Giao, gửi bản án. Trong đó, quy định cụ thể nội dung của bản án, quyết định, các văn bản tố tụng và trách nhiệm của Tòa án trong việc giao, gửi bản án, quyết định, các văn bản tố tụng cho những người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Đồng thời, mở rộng diện chủ thể được nhận các bản án, quyết định của Tòa án gồm cả bị hại, cơ quan điều tra, cơ quan thi hành án dân sự, trại tạm giam, trại giam nơi đang giam giữ bị cáo.

1.2. Về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục và quy định về tạm ngừng phiên tòa (Điều 250, Điều 251)

BLTTHS năm 2015 tiếp tục khẳng định nguyên tắc xét xử liên tục, đồng thời, bổ sung quy định về tạm ngừng phiên tòa trong trường hợp (cần phải xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ, tài liệu, đồ vật mà không thể thực hiện ngay tại phiên tòa; do tình trạng sức khỏe, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan khác mà người tiến hành tố tụng hoặc người tham gia tố tụng không thể tiếp tục tham gia phiên tòa) để phù hợp với thực tiễn, bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính. Về thời hạn tạm ngừng phiên tòa được quy định không quá 05 ngày.

1.3. Về các biện pháp Tòa án xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ (Điều 252)

BLTTHS năm 2015 quy định Tòa án tiến hành việc xác minh, thu thập, bổ sung chứng cứ thông qua 05 hoạt động:  (1) Tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án do cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp; (2) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật liên quan đến vụ án; (3) Xem xét tại chỗ vật chứng không thể đưa đến phiên tòa; (4) Xem xét tại chỗ nơi đã xảy ra tội phạm hoặc địa điểm khác có liên quan đến vụ án; (5) Trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản ngoài những trường hợp bắt buộc phải trưng cầu giám định, định giá tài sản quy định tại Điều 206 và Điều 221 của Bộ luật này; trưng cầu giám định bổ sung, giám định lại; yêu cầu định giá lại tài sản.

1.4. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử (Điều 266, Điều 267)

Trên cơ sở quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014, Bộ luật bổ sung 2 điều luật quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành quyền công tố và khi kiểm sát xét xử.

2. Về xét xử sơ thẩm (Chương XXI)2.1. Thẩm quyền xét xử của Tòa án (Điều 268)Để phù hợp với thực tiễn và trên cơ sở pháp điển hóa các văn bản hướng

dẫn hiện hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa án quân sự cấp quân khu đối với các vụ án: (1) Vụ án hình sự có bị cáo, bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến vụ án ở nước ngoài hoặc tài sản có liên quan đến vụ án ở nước ngoài; (2) Những vụ án tuy thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân cấp huyện và Tòa án quân sự khu vực nhưng có nhiều tình tiết phức tạp khó

28

Page 29: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

đánh giá, thống nhất về tính chất vụ án hoặc liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành; những vụ án mà bị cáo là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên, cán bộ lãnh đạo chủ chốt ở cấp huyện, người có chức sắc trong tôn giáo hoặc có uy tín cao trong dân tộc ít người.

2.2. Về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự và việc xét xử bị cáo phạm nhiều tội thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân và Tòa án quân sự (Điều 272, Điều 273)

Thực hiện nghị quyết của Quốc hội triển khai thi hành Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 bổ sung quy định về thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự gồm: (1) Vụ án mà bị cáo là quân nhân tại ngũ, công chức, công nhân, viên chức quốc phòng, quân nhân dự bị trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc kiểm tra tình trạng sẵn sàng chiến đấu; dân quân, tự vệ trong thời gian tập trung huấn luyện hoặc phối thuộc với Quân đội trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu; công dân được điều động, trưng tập hoặc hợp đồng vào phục vụ trong Quân đội; (2) Vụ án có liên quan đến bí mật quân sự hoặc gây thiệt hại đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự, nhân phẩm của những người nêu trên hoặc gây thiệt hại đến tài sản được Quân đội cấp cho những người này để thực hiện nhiệm vụ quân sự hoặc gây thiệt hại đến tài sản, danh dự, uy tín của Quân đội hoặc phạm tội trong doanh trại quân đội hoặc khu vực quân sự do Quân đội quản lý, bảo vệ.

BLTTHS năm 2015 phân định rõ thẩm quyền xét xử của Tòa án trong trường hợp bị cáo vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân, vừa phạm tội thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự. Theo đó, trường hợp có thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự; Tòa án nhân dân xét xử những bị cáo và tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án nhân dân; trường hợp không thể tách vụ án thì Tòa án quân sự xét xử toàn bộ vụ án.

2.3. Về chuyển vụ án (Điều 274)Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng thời gian

qua, BLTTHS năm 2015 sửa đổi quy định về trình tự, thủ tục chuyển vụ án khi thấy vụ án không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì Tòa án trả hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát đã truy tố để Viện kiểm sát này hủy bỏ quyết định truy tố và chuyển vụ án đến Viện kiểm sát có thẩm quyền truy tố.

Trường hợp thấy vụ án vẫn thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án đã trả hồ sơ thì Viện kiểm sát chuyển lại hồ sơ vụ án đến Tòa án kèm theo văn bản nêu rõ lý do. Nếu Tòa án xét thấy vụ án vẫn không thuộc thẩm quyền xét xử của mình thì tiến hành giải quyết tranh chấp theo Điều 275.

2.4. Về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; yêu cầu Viện kiểm sát bổ sung tài liệu, chứng cứ; và Tòa án xác minh, thu thập bổ sung chứng cứ (Điều 280)

Nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn, bảo đảm tính cụ thể của BLTTHS, BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa các căn cứ Tòa án trả hồ sơ yêu cầu Viện kiểm sát điều tra bổ sung trên cơ sở pháp điển hóa quy định của Thông tư liên tịch số 01/TTLT ngày 27/8/2010 đã được thực tiễn kiểm nghiệm là phù hợp.

2.5. Về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử

29

Page 30: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử công bằng, BLTTHS năm 2015 quy định: Ngoài cơ quan tố tụng có quyền thu thập chứng cứ như hiện nay, bổ sung người bị buộc tội và người bào chữa có quyền thu thập, cung cấp chứng cứ (các điều 58, 59, 60, 61, 73); Quy định người bị buộc tội, người bào chữa có quyền trình bày ý kiến về chứng cứ, tài liệu, đồ vật liên quan và yêu cầu người có thẩm quyền tiến hành tố tụng kiểm tra, đánh giá; Bổ sung quy định về trách nhiệm của Tòa án trong việc giải quyết yêu cầu, đề nghị của Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng trước khi mở phiên tòa như: yêu cầu cung cấp, bổ sung chứng cứ; yêu cầu triệu tập người làm chứng và những người tham gia tố tụng khác đến phiên tòa (Điều 279); Bổ sung quy định khi phát hiện quá trình khởi tố, điều tra, truy tố không bảo đảm quyền bào chữa của người bị bắt, bị tạm giữ, bị can thì Tòa án không mở phiên tòa, trả hồ sơ để Viện kiểm sát khắc phục vi phạm (Điều 280); Quy định chặt chẽ sự có mặt của bị cáo, người bào chữa tại phiên tòa (Điều 290, 291); Đổi mới trình tự và trách nhiệm xét hỏi theo hướng việc xét hỏi trước tiên phải thuộc về chủ tòa phiên tòa, sau đó chủ tọa quyết định ai hỏi trước, ai hỏi sau mà không tuân theo trình tự xét hỏi như Bộ luật hiện hành (Điều 307); bị cáo có quyền trực tiếp đặt câu hỏi với các bị cáo khác nếu được Chủ tọa đồng ý thay vì chỉ có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi như hiện nay (Điều 309); Khẳng định rõ nguyên tắc bản án, quyết định của Tòa án chỉ được căn cứ trên cơ sở kết quả thẩm vấn, tranh tụng và những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa (Điều 26).

2.6. Về giới hạn xét xử (Điều 298)Để bảo đảm sự độc lập của Tòa án trong xét xử, bảo đảm phán quyết của

Tòa án phải trên cơ sở kết quả xét hỏi, tranh tụng và những chứng cứ đã được kiểm tra công khai tại phiên tòa, BLTTHS năm 2015 đã bổ sung quy định: Trường hợp thấy cần xử bị cáo về tội danh nặng hơn tội danh Viện kiểm sát truy tố thì Tòa án trả hồ sơ để Viện kiểm sát truy tố lại và thông báo rõ lý do cho bị cáo hoặc người đại diện của bị cáo, người bào chữa biết; nếu Viện kiểm sát vẫn giữ tội danh đã truy tố thì Tòa án có quyền xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn đó.

2.7. Về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định

Cụ thể hóa quy định của Hiến pháp về bảo đảm quyền của người bị buộc tội phải được Tòa án xét xử kịp thời trong thời hạn luật định, BLTTHS năm 2015 quy định thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ vụ án thay vì từ ngày phân công Thẩm phán chủ tọa phiên tòa như hiện nay (Điều 277). Bổ sung một số thời hạn nhằm bảo đảm mọi hoạt động tố tụng phải bị ràng buộc về thời hạn như thời hạn nghị án là 07 ngày, kể từ ngày kết thúc tranh luận tại phiên tòa (Điều 326). Cụ thể hóa một số thời hạn có tính định tính trong Bộ luật hiện hành bằng các thời hạn cụ thể (là 24 giờ hoặc 03 ngày kể từ khi ra quyết định), tùy thuộc vào loại quyết định và đối tượng được nhận quyết định như: Tòa án gửi quyết định phân công thẩm phán làm chủ tọa phiên tòa, quyết định đưa vụ án ra xét xử cho Viện kiểm sát trong thời hạn 24 giờ kể từ khi ra quyết định.

30

Page 31: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

3. Về xét xử phúc thẩm (Chương XXII)3.1. Về người có quyền kháng cáo và thủ tục kháng cáo, nhận và xử lý

đơn kháng cáo (các điều 27, 331, 332)Để bảo đảm nguyên tắc hai cấp xét xử, bảo đảm quyền và lợi ích hợp

pháp của người tham gia tố tụng, BLTTHS năm 2015 bổ sung người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án là người dưới 18 tuổi có quyền kháng cáo phần bản án hoặc quyết định có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của người mà mình bảo vệ (Điều 331). Đồng thời, quy định rõ trách nhiệm, thủ tục của Ban giám thị trại tạm giam nơi đang giam giữ bị cáo và Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm trong việc nhận, xử lý đơn kháng cáo của bị cáo, bị hại, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác (Điều 332).

3.2. Về kháng cáo quá hạn (Điều 335)Để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp người tham gia tố tụng, phù hợp

với các quy định của luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, BLTTHS năm 2015 sửa đổi quy định về xử lý đơn kháng cáo quá hạn, cụ thể: trong thời hạn ba ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo quá hạn, Tòa án cấp sơ thẩm phải gửi đơn kháng cáo, bản tường trình của người kháng cáo về lý do kháng cáo quá hạn và chứng cứ, tài liệu, đồ vật (nếu có) cho Tòa án cấp phúc thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm phải mở phiên họp để xem xét kháng cáo quá hạn với Hội đồng gồm ba Thẩm phán và phải có sự tham gia của Kiểm sát viên Viện kiểm sát cùng cấp.

3.3. Về Tòa án có thẩm quyền xét xử phúc thẩm (Điều 344)Trên cơ sở quy định về thẩm quyền của 04 cấp Tòa án trong Luật tổ chức

Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 quy định Toà án nhân dân cấp tỉnh có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp huyện; Toà án nhân dân cấp cao có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án nhân dân cấp tỉnh thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ; Toà án quân sự quân khu và tương đương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự khu vực; Toà án quân sự trung ương có thẩm quyền xét xử phúc thẩm những bản án, quyết định của Toà án quân sự quân khu và tương đương.

3.4. Về thụ lý, chuẩn bị xét xử phúc thẩm (các điều 340, 341, 346, 348, 349, 350, 351)

Để phúc đáp yêu cầu của thực tiễn, BLTTHS năm 2015 bổ sung các điều luật quy định về thụ lý vụ án để xét xử phúc thẩm; chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để nghiên cứu; Quy định rõ các quyết định của Tòa án được ban hành trong giai đoạn chuẩn bị xét xử phúc thẩm như quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm, quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm cũng như căn cứ, trình tự, thủ tục, thời hạn ra các quyết định này; Bổ sung quy định về sự có mặt của thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án, Kiểm sát viên, những người tham gia tố tụng tại phiên tòa phúc thẩm.

3.5. Về thủ tục phiên tòa, phiên họp phúc thẩm (Điều 354, Điều 362)BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung thủ tục phiên tòa phúc thẩm và

phiên họp đối với quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm theo hướng cụ thể, đảm bảo

31

Page 32: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

nguyên tắc hai cấp xét xử và thống nhất với cách xử lý trong Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.

3.6. Về thẩm quyền của Tòa án cấp phúc thẩm (các điều 356 - 359)BLTTHS năm 2015 bổ sung một số thẩm quyền của Tòa án cấp phúc

thẩm nhằm khắc phục vướng mắc hiện nay do Tòa án cấp phúc thẩm không có đầy đủ thẩm quyền trong việc hủy, sửa bản án sơ thẩm nên phải kiến nghị Tòa án cấp trên kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, làm kéo dài vụ án không cần thiết.

PHẦN THỨ SÁU: XÉT LẠI BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNHĐÃ CÓ HIỆU LỰC PHÁP LUẬT1. Về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm (Chương XXV, XXVI)1.1. Về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm (Điều 371, Điều 372)Thể chế hóa các nghị quyết của Đảng, BLTTHS năm 2015 quy định chặt

chẽ căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm, theo đó, chỉ kháng nghị giám đốc thẩm khi thuộc một trong ba trường hợp sau đây: (1) Kết luận trong bản án, quyết định của Tòa án không phù hợp với những tình tiết khách quan của vụ án; (2) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố hoặc xét xử dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án; (3) Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.

Thực tế thời gian qua, việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm với căn cứ “Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử” thường gắn thêm hậu quả “mà vi phạm này dẫn đến sai lầm nghiêm trọng trong việc xử lý vụ án”. Nếu có vi phạm thủ tục tố tụng nhưng bản án vẫn bảo đảm có căn cứ và đúng pháp luật thì việc kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm cũng không cần thiết. Ngoài ra, trong thực tiễn khi có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật khác (ngoài Bộ luật hình sự) dẫn đến việc ra bản án sai cũng là căn cứ để kháng nghị theo thủ tục này.

BLTTHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung các quy định nhằm làm rõ trách nhiệm của Tòa án, Viện kiểm sát trong công tác giám đốc, kiểm sát việc xét xử, theo đó khi Tòa án thực hiện công tác giám đốc việc xét xử, Viện kiểm sát kiểm sát việc xét xử hoặc qua các nguồn thông tin khác mà phát hiện thấy những vi phạm pháp luật trong bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì thông báo ngay bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm.

1.2. Về thẩm quyền giám đốc thẩm và thành phần Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 373, Điều 382)

Để thống nhất với quy định của Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, BLTTHS năm 2015 quy định Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp cao, Toà án quân sự trung ương bị kháng nghị; Ủy ban Thẩm phán Tòa án quân sự trung ương giám đốc thẩm những bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự cấp quân khu, Tòa án quân sự khu vực; Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao giám đốc thẩm những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân cấp huyện

32

Page 33: NHỮNG ĐIỂM MỚI CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ 2015

thuộc phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ. Quy định thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Ủy ban Thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao (Hội đồng gồm 03 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể); thành phần Hội đồng giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Hội đồng gồm 05 Thẩm phán và Hội đồng toàn thể). Đồng thời, quy định cụ thể phạm vi, thẩm quyền xét xử của các Hội đồng này.

1.3. Về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm (Điều 388)Ngoài ba thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm trong Bộ luật hiện

hành, BLTTHS năm 2015 bổ sung: (1) Thẩm quyền hủy bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật và giữ nguyên bản án, quyết định đúng pháp luật của Tòa án cấp cấp dưới đã bị hủy hoặc bị sửa cho đồng bộ với thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm dân sự, hành chính; (2) Thẩm quyền sửa bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật để phù hợp với thực tiễn giám đốc thẩm thời gian qua, có những trường hợp chứng cứ đã rõ ràng, có thể khắc phục ngay mà không nhất thiết hủy án để điều tra lại, làm kéo dài thời hạn tố tụng.

2. Về thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao (Chương XXVII)

BLTTHS năm 2015 bổ sung thủ tục xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bởi vì trên thực tế, qua hoạt động giám sát của Quốc hội đã phát hiện có trường hợp quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân, cần phải được xem xét lại. Trong Chương này của Bộ luật quy định rõ về những người có thẩm quyền yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thành phần tham dự phiên họp để xem xét kiến nghị, đề nghị; thủ tục, thời hạn mở phiên họp và thẩm quyền xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao; thông báo kết quả phiên họp xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bổ sung thủ tục này cũng bảo đảm đồng bộ với Bộ luật tố tụng dân sự, Luật tố tụng hành chính.

PHẦN THỨ BẢY: THỦ TỤC ĐẶC BIỆTNgoài 04 thủ tục đặc biệt trong Bộ luật hiện hành (thủ tục tố tụng đối với

người chưa thành niên; thủ tục áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh; thủ tục rút gọn; khiếu nại, tố cáo trong tố tụng hình sự), BLTTHS năm 2015 bổ sung 03 thủ tục đặc biệt: (1) Thủ tục bảo vệ người tố giác tội phạm, người làm chứng, bị hại và những người tham gia tố tụng khác để kịp thời bảo vệ họ khi có nguy cơ bị đe dọa tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản; (2) Thủ tục tố tụng truy cứu trách nhiệm hình sự pháp nhân để đồng bộ với Bộ luật hình sự (sửa đổi); (3) Thủ tục xử lý các hành vi cản trở hoạt động tố tụng hình sự.

Đội Pháp chế PV11 Công an tỉnh

33