Upload
vohuong
View
224
Download
4
Embed Size (px)
Citation preview
NHỮNG TÌNH HUỐNG TRONG THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
NHỮNG TÌNH HUỐNGTRONG THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Tác giả: NSƯT. TS. Đặng Huỳnh Mai
LỜI GIỚI THIỆU
Nhà giáo ưu tú - Tiến sĩ Đặng Huỳnh Mai là nhà quản lý giáo dục có sự
trưởng thành khá hệ thống. Chị có nhiều năm tháng cọ xát với thực tiễn sư
phạm của nhà trường, của đời sống giáo dục cộng đồng. Với thái độ cầu thị
và chịu khó học hỏi, Đặng Huỳnh Mai luôn luôn có ý thức tổng kết thực tiễn,
lấy lí luận của giáo dục học, của quản lí giáo dục phân tích các hiện tượng
giáo dục để từ đó tổng kết thành sự kiện giáo dục, sự kiện quản lí giáo dục.
Khi còn là Giám đốc Sở Giáo dục và Đào tạo Vĩnh Long, mặc dù công
việc điều hành rất bận rộn, nhưng hằng năm chị vẫn dành thời gian nhất định
làm các cuộc "hành hương" về Trường Cán bộ Quản lí Giáo dục - Đào tạo
Trung ương I (nay là Học viện Quản lí Giáo dục) và đường Cán bộ Quản lí
Giáo dục - Đào tạo Trung ương II. Tại các ngôi trường này, chị thực hiện việc
"học" các tri thức mới, tiếp nhận thông tin mới từ thầy, từ bạn,… và trao đổi
các tình huống thực tiễn mà chị đã tổng kết nhằm hoàn thiện tư duy quản lí, kĩ
năng quản lí của mình.
Cuốn sách Những tình huống trong thực tiễn quản lí giáo dục là kết quả
của các cuộc "điền dã khoa học - thực tiễn", chủ yếu từ thời kì tác giả là cán
bộ quản lí giáo dục ở địa phương, trước khi đảm nhiệm cương vị Thứ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Các tình huống trong cuốn sách phản ánh một cách
chân thực những khía cạnh phong phú của đời sống giáo dục ở thời kì
chuyển đổi giữa thời bao cấp và khi giáo dục đã bước đầu bước vào công
cuộc đổi mới, thời kì mà Đặng Huỳnh Mai vừa là chứng nhân vừa là người
tham gia vào sự hoá giải trên cái chính tâm của một nhà giáo, một cán bộ
quản lí giáo dục.
Giá trị trước hết của cuốn sách là sự chân thực phản ánh và sự hướng
thiện trong hành động quản lí mà người viết sách như muốn giãi bày với bạn
đọc niềm tâm sự của mình. Từ những tình huống đa dạng trong quản lí giáo
dục được trình bày trong cuốn sách, bạn đọc, nhất là các nhà quản lí giáo
dục, có thể tìm thấy những bài học kinh nghiệm quản lí, có khi cả những triết
lí, những phương châm xử lí, xử thế để chia sẻ, suy ngẫm và tham khảo.
Cuốn sách chắc chắn là một tài liệu có ích cho cán bộ quản lí giáo dục
nói chung và cán bộ quản lí các nhà trường nói riêng. Nó cũng là sự đóng góp
vào nguồn tài liệu đào tạo bồi dường cán bộ quản lí giáo dục tại các học viện,
trường, khoa quản lí giáo dục ở nước ta, phục vụ cho các khoá huấn luyện
đang mỗi ngày được mở rộng…
Chúng tôi rất vinh dự được viết lời giới thiệu cho cuốn Những tình
huống trong thực tiễn quản lí giáo dục của TS. Đặng Huỳnh Mai. Xin chúc
mừng tác giả có một sản phẩm hữu ích cho "Tủ sách quản lí giáo dục" còn
khiêm tốn ở nước ta. Chúng tôi ước mong tác giả và các nhà quản lí giáo dục
khác trên cả hai mặt lí luận và thực tiễn tiếp tục đi theo hướng tổng kết các
tình huống quản lí giáo dục để có thêm các chuyên khảo mới phục vụ việc đổi
mới phương pháp đào tạo theo hướng từ bỏ lối thuyết trình kinh viện hàn lâm,
chuyển sang phương pháp giảng dạy gợi mở và tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn của người học.
PGS.TS. Đặng Quốc Bảo - NGUYÊN HIỆU TRƯỞNG
TRƯỜNG CÁN BỘ QUẢN LÍ GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TW1
LỜI NÓI ĐẦU
Chủ tịch Hồ Chí Mình đã viết: "Lí luận như cái kim chỉ nam, nó chỉ
phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế". Đồng thời Người cũng
chỉ rõ: "Thống nhất giữa lí luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin. Thực tiễn không có lí luận hướng dẫn thì thành thực
tiễn mù quáng. Lí luận mà không liên hệ với thực tiễn là lí luận suông".
Hệ thống quản lí giáo dục là đối tượng nghiên cứu của khoa học quản lí
giáo dục. Khoa học quản lí giáo dục có nhiệm vụ phát hiện những quy luật về
cấu trúc, vận hành và phát triển của hệ thống quản lí giáo dục, một bộ phận
chủ thể quản lí trong hệ thống giáo dục quốc dân, bộ phận này chiếm khoảng
8% trong tổng số gần một triệu cán bộ giáo viên của toàn ngành.
Bộ phận quản lí với tư cách là chủ thể tuy không phải là chiếm đa số
trong hệ thống giáo dục quốc dân nhưng lại giữ vai trò quan trọng. Lực lượng
này phải điều hành mọi hoạt động vì sự phát triển của cả hệ thống giáo dục,
tức là phải điều hành quá trình đào tạo con người, đào tạo thế hệ trẻ cùng lực
lượng lao động của một đất nước. Sự điều hành này cần phải phù hợp với
phương thức quản lí chung của xã hội. Điều này có nghĩa là chủ thể quản lí
luôn xác định mục tiêu, phương thức tổ chức, nội dung và phương pháp quản
lí sao cho đạt được mục tiêu, nguyên lí, nội dung và phương pháp giáo dục ở
mỗi cấp học. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn cũng đã nêu: "Sau khi đã xác định
đường lối, phương hướng phát triển thì việc xây dựng một chế độ quản lí
thích hợp có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định sự thành công hay thất
bại của bản thân đường lối đó.
Quản lí giáo dục chính là quá trình mà lí luận và thực hành phải gắn bó
với nhau, quá trình xây dựng cơ chế quản lí thích hợp như Bác Hồ và cố
Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chỉ ra. Quản lí giáo dục là sự tác động nhiều chiều,
biện chứng giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí. Yêu cầu của việc xây
dựng một môi trường quản lí dân chủ, thân thiện là điều hết sức cần thiết. Bởi
vì đối tượng quản lí trong hệ thống giáo dục quốc dân là rất đa dạng. Trong
đó cán bộ quản lí cấp dưới vừa là đối tượng quản lí của cấp trên, vừa là chủ
thể quản lí một đơn vị. Bản thân giáo viên cũng vừa là đối tượng quản lí trong
hệ thống quản lí giáo dục nhưng đồng thời cũng vừa là chủ thể quản lí trong
một lớp học. Do đó, có thể xem hệ thống quản lí giáo dục như là một hệ thống
điều hành, tức là trong quá trình quản lí cần sử dụng lí thuyết hệ thống, điều
khiển học, lí thuyết thông tin - vận trù học để thể hiện quan hệ chỉ huy và chấp
hành. Mối quan hệ này xem ra dường như không phức tạp lắm khi thực hiện
nhiệm vụ quản lí quá trình giáo dục nói chung, quản lí tất cả các điều kiện để
làm giáo dục. Nhưng xem ra không đơn giản chút nào đối với lĩnh vực quản lí
con người, quản lí đội ngũ nhà giáo, đội ngũ cán bộ quản lí giáo dục. Đây là
một lĩnh vực thuộc khoa học xã hội, mang đậm tính chất giai cấp, dân tộc, lịch
sử, tâm lí,… Có thể nói quản lí đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục là
một công việc khá phức tạp. Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của
chúng ta đã dạy rằng: Khi mà dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được.
Dân chúng không ủng hộ thì việc gì cũng không nên, và trong quản lí phải đi
sâu đi sát thực tế, gần gũi quần chúng, thật sự tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ tập thể của nhân dân. Tuy nhiên, Người cũng luôn nhắc nhở: "Học
hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng".
Trong quyển Sửa đổi lề lối làm việc mà Hồ Chí Minh viết vào tháng 10
năm 1947, khi đề cập đến "cách lãnh đạo", Người nhắc nhở đến đặc điểm tư
tưởng của dân chúng và cho là họ hay "so sánh": Họ so sánh bây giờ và so
sánh thời kì đã qua. Dân chúng sẽ không tin chúng ta nếu cán bộ không nhiệt
thành, khiêm tốn, không chịu khó học hỏi dân chúng. Nhiệm vụ của người làm
công tác giáo dục là giáo dục học sinh yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, đối xử tốt
đối với người thân, với bạn bè. Các em sẽ tin tưởng và sẵn sàng làm theo khi
có hình ảnh lí tưởng của mình từ những người thân yêu nhất trong gia đình
và nhất là từ các cô giáo, thầy giáo của các em. Với một đơn vị nhà trường
cũng thế, giáo viên cũng sẽ có niềm tin vào xã hội, vào đất nước khi mà họ có
niềm tin vào cán bộ quản lí của mình.
Vì vậy trong quá trình tổ chức và điều hành hệ thống quản lí giáo dục,
điều quan trọng nhất chính là sự tạo dựng niềm tin, sự gắn kết với thực tiễn
để thông qua việc quản lí đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lí giáo dục mà hoàn
thiện dần cơ chế trên cơ sở vận dụng, triển khai hệ thống văn bản chỉ đạo
một cách hợp lí nhất. Quá trình hoàn thiện cơ chế cũng có thể xem như là
một quá trình cải tiến và đổi mới công tác quản lí.
Với thực tế gần 20 năm tham gia chỉ đạo, điều hành quản lí giáo dục ở
địa phương, với tư cách là lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo giữa hai thời kì
bao cấp và đổi mới, chúng tôi đã được chứng kiến một số tình huống quản lí
giáo dục hoàn toàn có thực mà trong quá trình quản lí giáo dục, chúng tôi đã
tham gia xử lí. Chúng tôi mong muốn giới thiệu các tình huống này với các
nhà quản lí giáo dục, các giáo viên và tất cả những ai quan tâm, xin bạn đọc
xem đây như là một kênh thông tin quản lí về thực tiễn. Những việc làm của
chúng tôi có thể là đúng, có thể chưa hoàn toàn phù hợp trong giai đoạn hiện
nay. Chúng tôi xin sẵn sàng đón nhận sự chia sẻ và góp ý của bạn đọc. Nếu
được lực lượng cán bộ quản lí và người quan tâm xem đây là những kinh
nghiệm có thể góp phần rút ngắn con đường hoạch định để cải tiến công tác
chỉ đạo của một nhà quản lí giáo dục trong tương lai thì đó là hạnh phúc của
chúng tôi. Bởi vì xét cho cùng thì lí luận của khoa học quản lí giáo dục cũng
đã xác định việc cải tiến quản lí giáo dục là quá trình tiếp tục xây dựng, từng
bước hoàn thiện hệ thống quản lí giáo dục đang tồn tại trên cơ sở tuân thủ
quy luật của việc tổ chức, điều hành hệ thống quản lí giáo dục, đồng thời đảm
bảo quy luật của sự phát triển xã hội nói chung cũng như quy luật của quản lí
nói riêng.
Xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo, các đồng chí lãnh đạo, đồng
nghiệp, bạn bè và những người thân yêu đã quan tâm khích lệ tôi viết Những
tình huống trong thực tiễn quản lí giáo dục. Cuốn sách này chắc chắn không
thể tránh khỏi sự sơ sót. Rất mong nhận được sự thông cảm của bạn đọc
cùng sự góp ý để cuốn sách tiếp tục được hoàn thiện.
NGƯT. TS. Đặng Huỳnh Mai
1. VÌ CON MONG ƯỚC ĐƯỢC ĐẾN TRƯỜNGMột bà mẹ từ nông thôn đưa đến Sở Giáo dục và Đào tạo (Sở GD - ĐT)
một hồ sơ để xin cho con mình được tuyển vào lớp 6 năm học 1995 - 1996.
Đứa trẻ này sinh năm 1976, như vậy so với yêu cầu tuyển sinh là không chấp
nhận được vì một số đứa trẻ sinh 1976 đã học năm thứ nhất hoặc thứ hai ở
các trường đại học, số còn lại thì đang học ở các lớp cuối cấp THPT. Vì vậy
câu đầu tiên mà một Giám đốc Sở GD - ĐT có thể trả lời là: Con của bà
không đủ điều kiện để tuyển sinh. Nhìn bà mẹ buồn rầu ra về, tôi bỗng thấy có
gì se thắt trong lòng và tự trách mình sao không hỏi cho rõ lí do. Đêm về, tôi
chỉ mong trời sáng mau để nhờ Hội đồng nhà trường mời giúp bà lên Sở GD -
ĐT cho tôi gặp lại.
Bà mẹ đã tâm sự: Con tôi bị khuyết tật và chiều cao chỉ bằng một đứa
trẻ lớp 6 thôi. Cháu đã cố gắng rất nhiều và mơ ước được vào trường THCS
để học lớp 6, cháu đã khóc suốt ngày, tôi đành phải mượn tiền của bà con và
lần đầu tiên bạo dạn lên đến thị xã này và tìm đến Sở GD - ĐT.
Hôm sau, tôi lại nhờ trường đưa đứa trẻ đến Sở GD - ĐT để trực tiếp
tiếp xúc. Và đúng như bà mẹ đã giãi bày, đứa trẻ có một chút tật nhưng lại rất
hồn nhiên và mong mỏi được đi học. Thế là chúng tôi đã quyết định xét đặc
cách cho đứa trẻ khuyết tật này vào học lớp 6.
Người mẹ thiếu may mắn đã thực hiện được mong ước đơn giản của
con mình là được đến trường. Nhìn niềm vui ngời lên ánh mắt của hai mẹ
con, tất cả chúng tôi thấy lòng mình ấm lại.
2. KHÔNG CÓ NHÀ TRƯỜNG AI SẼ GIÚP TÔI GIÁO DỤC ĐỨA TRẺ THEO CON ĐƯỜNG CÁCH MẠNG?
Có một anh thương binh ngồi trước bàn Giám đốc hơn 1 giờ đồng hồ.
Mặc dù chưa đạt được nguyện vọng của mình nhưng anh vẫn kiên trì trình
bày. Ba mươi năm về trước, anh là bộ đội đặc công, hay nói một cách chính
xác hơn thì là bộ đội trẻ em, vì lúc đó anh mới 14 tuổi. Vậy mà chỉ với vũ khí
được trang bị, với tài trí thông minh và lòng dũng cảm, một mình anh đã phá
tan đồn giặc, góp phần mở rộng vùng giải phóng.
Bây giờ, anh chỉ có một đứa con trai duy nhất, đứa con trai đang thi vào
lớp 6 và đang thiếu điểm để đạt yêu cầu tuyển sinh. Anh cho rằng nếu đứa trẻ
này không được vào trường phổ thông công lập thì xem như cả cuộc đời anh
không còn gì nữa. Anh tha thiết nói: Không có nhà trường, ai sẽ giúp tôi giáo
dục đứa trẻ theo con đường cách mạng?
Điều này thì anh đã nghỉ đúng và anh cũng có quyền yêu cầu về sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với sự hi sinh của anh. Trước sự việc đặt
ra ở đây, người quản lí không thể thờ ơ. Nhưng làm cách nào để giải quyết
việc này cho vừa đúng với quy chế, vừa có thể đại diện cho Đảng, Nhà nước
thực hiện chính sách cho người có công với đất nước một cách cụ thể?
Chính sự trăn trở này đã đưa đến một quyết định quản lí về tuyển sinh là: Mỗi
đồng chí thương binh được đặc cách xét cho 1 đứa con được ưu tiên tuyển
vào lớp 6; con của bộ đội thương binh dự tuyển sinh vào lớp 10 có điểm
tuyển sinh thấp hơn từ 1 đến 2 điểm so với điểm chuẩn (điểm tuyển sinh là
điểm dựa trên kết quả thi tốt nghiệp 4 môn của THCS với Văn x 2 + Toán x 2
+ điểm 2 môn thi tốt nghiệp còn lại) được xét tuyển vào lớp 10. Chính quyết
định này đã làm mát lòng những chiến sĩ cách mạng vào những năm đầu sau
ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước.
3. CUỘC ĐỜI TÔI PHỤC THUỘC VÀO QUYẾT ĐỊNH ĐÚNG ĐẮN CỦA LÃNH ĐẠO
Trên bàn lãnh đạo là một tập hồ sơ kỉ luật giáo viên. Đây là một hồ sơ
rất lạ không phải vì hình thức kỉ luật mà sự khác lạ ở đây chính là tội danh
của một nhà giáo nữ.
Có lẽ không ai có thể tin vào mắt mình khi đọc lướt qua dòng chữ: "Gái
bán hoa". Tuy nhiên, chính dòng chữ này làm cho chúng tôi tò mò muốn hiểu
sâu hơn một chút trước khi quyết định kỉ luật với hình thức buộc thôi việc giáo
viên này. Khi được mời đến cơ quan, cô giáo chỉ nói: Tội tôi làm tôi xin gánh
chịu, đề nghị Ti (là Sở GD - ĐT sau này) hãy sớm ra quyết định và xin đừng
hỏi gì thêm.
Chúng tôi đến tìm hiểu ở một số gia đình nông dân xung quanh trường
và một số giáo viên nữ trong nhà trường này thì ai cũng nói: Đây là một cô
giáo sau ngày miền Nam giải phóng được điều về vùng khó khăn này. Với
đồng lương chỉ có 20 đồng, con ốm nặng, không có tiền điều trị cho con, cô
giáo phải đi vay tiền từ một vài người. Trong số đó, có một người đã tỏ ra có
tình cảm đặc biệt và ân cần chăm sóc cả hai mẹ con. Giữa họ xảy ra việc gì
chúng tôi không biết. Nhưng có điều chúng tôi khá rõ là với sắc đẹp của cô
giáo có một con đến từ thị xã thì có nhiều người đến thăm tại phòng ở tập thể.
Và cũng chính tại đây cô giáo bị lập biên bản. Hồ sơ kỉ luật được Nhà trường
lập với tội danh của cô giáo là “bán hoa” nên cô đã bị Hội đồng biểu quyết
mức kỉ luật là buộc thôi việc.
Cô giáo được mời trở lại Phòng Tổ chức cán bộ. Trước ý kiến của nhân
dân và đồng nghiệp, cô đã thừa nhận là chính trong quá trình cô được giúp
đỡ lúc khó khăn cực kì, giữa cô và người giúp cô đã nảy sinh tình cảm. Còn
việc cô bị lập biên bản "bán hoa" khi đang ngồi cùng với người ấy ở trong nhà
tập thể của trường thì cô không hiểu. Điều này quả thật cũng không thể làm
rõ vì "người đó" không thừa nhận gì hết, nhưng biên bản thì đã được lập.
Trước tình huống này, chúng tôi quyết định chuyển cô giáo về một vùng
kinh tế mới, nơi đang thiếu giáo viên một cách trầm trọng. Cô giáo đã vui vẻ
nhận lời và nói: Cuộc đời tôi bây giờ phụ thuộc vào quyết định đúng đắn của
lãnh đạo. Và cô hứa là sẽ làm việc thật tốt và sống đúng mực để khẳng định
bản thân.
Ba năm sau, cô giáo đã lập gia đình với một giáo viên ở vùng kinh tế
mới, có 1000m2 đất trồng ổi và có thêm một bé trai xinh xắn.
4. CHO HIỆU TRƯỞNG TỰ LỰA CHỌN QUYẾT ĐỊNH
Một trường Tiểu học ở vùng đồng bào dân tộc Khmer có tổng số học
sinh của hai lớp 5 là 65 em (một lớp 30 học sinh và một lớp 35 học sinh). Kết
quả thi tốt nghiệp công bố là 0% đã làm giật mình tất cả chính quyền địa
phương, từ tỉnh, huyện đến xã cũng như đối với cán bộ quản lí giáo dục. Kết
quả này đã có một sức hút ghê gớm đối với báo chí Trung ương và địa
phương.
Để có thể trả lời một cách chính xác câu hỏi vì sao, chúng tôi phải đến
tận nơi để khảo sát thực tế. Kết quả kiểm tra đã cho thấy nguyên nhân chính
ở đây là do đồng chí Hiệu trưởng, một người dân tộc Khmer, vợ mất để lại 5
con nhỏ và 5000m2 đất ruộng. Vừa buồn, vừa lo không đủ sức nuôi con,
đồng chí bám ruộng một cách quá chặt chẽ và đã buông lỏng hoàn toàn công
tác quản lí. Chính sự vắng mặt thường xuyên của Hiệu trưởng đã đưa đến sự
thiếu kỉ cương, dẫn đến tình trạng giảng dạy khá tuỳ tiện của giáo viên.
Kết quả thi tốt nghiệp của trường đã gây chấn động dư luận và cũng
làm ảnh hưởng phần nào đến vấn đề chính trị và xã hội của địa phương vùng
dân tộc. Nhưng điều quan trọng chính là vụ việc này đã làm xúc phạm đến
tình cảm của tất cả những nhà giáo dục cũng như đối với những ai tự thấy
mình có trách nhiệm đối với thế hệ trẻ.
Thế là chúng tôi phải khảo sát thực tế mảnh ruộng 5000m2 của Hiệu
trưởng, lập bài toán kinh tế, để đối chiếu thu nhập giữa tiền lương và phụ cấp
của một Hiệu trưởng với những gì thu hoạch được từ nguồn lao động anh đã
bỏ ra cho cánh đồng của mình.
Một điều hết sức bất ngờ đối với chúng tôi là sau khi khấu trừ chi phí
(chưa tính nhân công của chính anh và gia đình, chỉ tính phần thuê mướn) thì
thu nhập từ 5 công đất ruộng là hoàn toàn thấp hơn tổng tiền lương, phụ cấp
của anh ở nhà trường mà anh đã được lĩnh từ ngân sách Nhà nước.
Chúng tôi đặt bản phân tích lên bàn cho anh và ra về, để lại anh một sự
cân nhắc giữa hai lựa chọn: Một là nhà trường, là công việc, là sự nghiệp mà
anh đã theo đuổi trong nhiều năm qua; hai là về với mảnh đất của anh.
Sau một tuần, đồng chí Hiệu trưởng đến Sở GD - ĐT nộp bản tự kiểm
điểm, bản cam kết với lời hứa khắc phục hạn chế.
Với việc tạo điều kiện cho đồng chí Hiệu trưởng cân nhắc tự lựa chọn
quyết định như vậy, một năm sau trường Tiểu học này đỗ tốt nghiệp với tỉ lệ
là 90,5%. Tất nhiên là vẫn phải kèm một giải pháp quản lí là đưa một cán bộ
Phòng GD - ĐT về "nằm vùng" ở đây, điều một giáo viên dạy lớp 5 khác đến
thay và yêu cầu các giáo viên của trường phải dự giờ, rút kinh nghiệm hằng
tuần.
(Cũng phải nói thêm là ở đây khi thi tốt nghiệp Tiểu học, chúng tôi
chuyển đổi cán bộ coi thi 100%.)
Mặc dù vẫn phải nhận quyết định kỉ luật với hình thức cảnh cáo và
thông báo toàn ngành, nhưng đồng chí Hiệu trưởng đã tự rút ra cho mình một
bài học vô cùng sâu sắc.
5. MỘT QUYẾT ĐỊNH KỊP THỜI VÀ ĐÚNG LÚCCó một học sinh giỏi, vào giờ thi môn Sinh (môn sở trường của em),
sau khi làm bài được khoảng 15 phút thì em bị ngất. Hội đồng thi đã cho em
vào phòng cách li và nhờ bác sĩ chăm sóc dưới sự giám sát của giám thị. Còn
20 phút là đến giờ nộp bài thì học sinh này hồi phục và khóc xin được vào
phòng thi để làm bài tiếp tục. Hội đồng coi thi đã khuyên em không nên vào
phòng thi nữa để lập hồ sơ xin đặc cách theo quy chế. Em đã khóc và van xin
cho em được tiếp tục làm bài. Hội phụ huynh học sinh thì vô cùng lo lắng và
cũng tha thiết đề nghị Hội đồng cho em được làm bài tiếp tục, vì đây là hạt
nhân ưu tú của trường.
Trước tình thế này, Chủ tịch Hội đồng coi thi đã trực tiếp gọi điện thoại
cho Chủ tịch Hội đồng chỉ đạo các kì thi. Chúng tôi hiểu ngay, đây là một học
sinh xuất sắc của trường, nếu để xét đặc cách thì chỉ được xếp loại trung bình
và như vậy 12 năm phấn đấu, 12 năm học sinh giỏi liên tục của em sẽ trở
thành vô nghĩa.
Chúng tôi đã quyết định ngay là cho học sinh này được tiếp tục làm bài
thi ở phòng cách li, cho thêm 10% tổng số thời gian làm bài của thí sinh.
Hôm sau chúng tôi đến thăm và kiểm tra Hội đồng thi, điều làm tôi ngạc
nhiên là các đồng chí lãnh đạo chính quyền địa phương, phụ huynh học sinh
và ngay cả các giáo viên cũng nhìn chúng tôi với cặp mắt hơi khác lạ so với
những ngày bình thường.
Chỉ đến khi đồng chí Phó Chủ tịch phụ trách văn xã bắt tay, giới thiệu
chúng tôi với phụ huynh học sinh, nhìn nụ cười của mọi người và ánh mắt
rưng rưng của bố mẹ học sinh này thì chúng tôi mới hiểu rằng mình đã có một
quyết định đúng. Học sinh này đã không cần xin thêm 10% thời gian, chỉ với
20 phút còn lại của mình, em đã tiếp tục làm xong bài đủ để đạt được kết quả
chung cuộc là được xếp loại giỏi.
Một quyết định kịp thời và đúng lúc của người lãnh đạo sẽ góp phần
đưa cuộc đời của học sinh đến đúng nơi cần đến, bằng ngược lại, nỗi thất
vọng đôi khi sẽ làm hỏng đời một con người.
6. KHI CON ĐƯỜNG PHẤN ĐẤU CHO GIÁO VIÊN ĐƯỢC MỞ
Sau khi có kết quả chấm thi giáo viên giỏi cấp tỉnh, có ba trường hợp
của ba giáo viên làm chúng tôi băn khoăn: một giáo viên ở vùng sâu, một giáo
viên dân tộc và một giáo viên nữ ở một khu vực chưa từng có ai đăng kí thi
giáo viên giỏi bao giờ.
Nếu căn cứ theo quy định chung để công bố cả ba giáo viên này đều
không đạt thì vấn đề quá dễ dàng. Nhưng sau khi công bố kết quả, liệu có
giáo viên nào khác ở các vùng này dám phấn đấu và đăng kí thi giáo viên giỏi
nữa hay không mới là điều làm cho chúng tôi phải suy nghĩ và trăn trở. Như
vậy thì phong trào giáo viên tự học, tự rèn, tự phấn đấu của chúng tôi chỉ đạo
sẽ trở thành không có ý nghĩa đối với vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa và
nhất là vùng đồng bào dân tộc. Còn, nếu công nhận ba giáo viên này là giáo
viên giỏi thì chất lượng giáo viên giỏi sẽ bị giảm sút.
Vấn đề quan trọng đối với người quản lí chúng tôi là làm thế nào để giải
quyết đúng đắn và hài hoà mối quan hệ giữa chất lượng với việc bồi dưỡng
đội ngũ cốt cán ở vùng khó khăn. Nhiệm vụ của nhà quản lí là phải làm thế
nào để có thể vừa tôn trọng công sức của các nhà giáo đã bỏ ra vừa đảm bảo
được chuẩn, đồng thời tạo được sự ảnh hưởng của chính trị trong chuyên
môn.
Từ sự trăn trở đó, chúng tôi đã đi đến quyết định là Hội đồng sẽ trực
tiếp phúc khảo ba giáo viên này. Mỗi giáo viên phải dạy lại 1 tiết, dạy tại đơn
vị giáo viên đang làm việc và đúng với lịch giảng dạy, tức là giáo viên phải
dạy bài mới, không được dạy lại tiết cũ.
Hội đồng chúng tôi đã thẳng thắn góp ý cho giáo viên những điều tốt và
chưa tốt. Có thể nói qua việc phúc khảo, chúng tôi đã đạt được hai mục đích:
Một là đánh giá lại sự đúng đắn của hội đồng giám khảo; hai là mang lại cho
giáo viên những bài học thẳng thắn, bổ ích và thiết thực.
Tuy nhiên để giúp cho giáo viên vùng khó khăn tiếp tục phấn đấu, hoàn
thành nhiệm vụ chính trị, xã hội, chúng tôi đã thí điểm quyết định đặc cách
cho ba giáo viên này là giáo viên giỏi 1 năm học (thay vì tất cả các trường
hợp khác chúng tôi đều công nhận là 3 năm). Ngay cả số điểm mới của lần
khảo sát này vẫn phải được công bố công khai.
Điều quan trọng hơn cả và bài học kinh nghiệm mà chúng tôi đã rút ra
được là 1 năm sau khi được nhận danh hiệu giáo viên giỏi, niềm vui, hạnh
phúc đã đến với tập thể sư phạm của mỗi nhà trường, đã tạo nên một môi
trường sư phạm sôi nổi hẳn lên. Chính tập thể sư phạm ở đó đã cùng nhau
quyết tâm đầu tư xây dựng đội ngũ. Năm sau Hội đồng chấm thi giáo viên giỏi
cấp tỉnh đã không cần phải tổ chức phúc khảo mà ngay vòng đầu, cả ba giáo
viên này đã đủ điểm để xét và công nhận giáo viên giỏi cấp tỉnh. Ai cũng vui
mừng và ngạc nhiên vì sự tiến bộ của cả ba nhà giáo đó.
Có lẽ đối với công tác quản lí, việc nhìn đúng người, giao đúng việc và
bồi dưỡng thẳng thắn, và sự quan tâm động viên kịp thời là cực kì quan trọng.
Đặc biệt đối với giáo viên là người dân tộc, giáo viên công tác ở vùng sâu
vùng xa, nơi lần đầu tiên có giáo viên đăng kí dự thi, nếu được Hội đồng đánh
giá ở cấp tỉnh góp ý, hướng dẫn thì đó là một việc làm vô cùng có ý nghĩa.
Quyết định phúc khảo trong những trường hợp như đã trình bày chính là để
người quản lí trực tiếp đánh giá về khả năng và triển vọng phát triển của từng
người và để chỉ ra con đường cụ thể cho các nhà giáo rèn luyện và phấn đấu.
Nhiều giáo viên đã tâm sự là được lãnh đạo dự giờ, đánh giá thẳng thắn còn
quan trọng hơn cả việc được công nhận là giáo viên giỏi nữa, vì chúng tôi
được lãnh đạo quan tâm và mở ra con đường phấn đấu cụ thể ở phía trước.
7. SỰ THÀNH ĐẠT LUÔN GẮN LIỀN VỚI CÁI GIÁ PHẢI TRẢCó một trường THPT bán công ở huyện X, tỉ lệ học sinh tốt nghiệp chỉ
có 6%. Con số này đã làm xôn xao dư luận cả nước chứ không phải chỉ ở
một huyện hay trong tỉnh.
Khi báo chí vào cuộc và trước ống kính của Đài Truyền hình Việt Nam,
đồng chí Hiệu trưởng đã dõng dạc trả lời về nguyên nhân của tình trạng trên
là có hai lí do cơ bản: Một là do trường chưa được đầu tư xây dựng cơ sở vật
chất mới; hai là vì nhà trường thuộc vùng khó cho nên năm học vừa qua chưa
được Sở GD - ĐT bổ sung thêm giáo viên Toán.
Phát biểu của đồng chí Hiệu trưởng là hoàn toàn đúng sự thật. Trường
chưa xây dựng được là do vi phạm quy định về xây dựng cơ bản, vị trí nhà
trường nằm trong vùng bán kính của một chiếc cầu mà nhà trường phải chịu
sự giải toả. Còn địa phương lại chưa tìm được đất để xây dựng trường mới
mặc dù trường đang bị xuống cấp nặng. Mặt khác ở năm học này cả tỉnh chỉ
có hai giáo viên môn Toán lại là người địa phương thuộc một vùng khó khăn
khác cũng đang thiếu giáo viên, vì vậy hai giáo viên đó được phân công về
một vùng sâu hơn nữa.
Để tìm hiểu rõ ràng về nguyên nhân, quyết định của chúng tôi lúc bấy
giờ là mang tất cả bài thi của học sinh về trường và mời "bộ tứ" nhà trường
cùng các tổ chuyên môn có môn thi cùng ngồi với nhau và nghiên cứu từng
bài thi của học sinh.
Điều bất ngờ đối với tất cả mọi người là học sinh trường này có yếu về
môn Toán thật nhưng không phải là nguyên nhân chính để dẫn đến sự tốt
nghiệp chỉ có 6% mà lí do cơ bản lại chính là từ môn Lịch sử. Đa phần học
sinh bị điểm liệt (điểm dưới 2) ở môn học này. Thầy giáo dạy môn Lịch sử
đành phải đứng lên và thú nhận lỗi của mình: Do nóng lòng muốn tạo thành
tích cho cả thầy lẫn trò trong năm học này nên thầy phải đánh liều là "dạy tủ”.
Nhưng chẳng may cho cả thầy và trò là không có câu nào “trúng tủ”. Và vì
"trật tủ nên phải chấp nhận một kết quả thê thảm như thế. Có lẽ đây là bài
học đau đớn của một thầy giáo nhưng cũng sẽ là bài học chung cho tất cả
các nhà giáo khi muốn khẳng định chính mình. Sự thành đạt luôn gắn liền với
cái giá phải trả, đó là quá trình phấn đấu bằng mồ hôi, nước mắt và trí tuệ.
Sau đó, quyết định quản lí của chúng tôi là chi viện giáo viên Toán và
giáo viên Lịch sử về làm nòng cốt và dạy mẫu cho nhà trường. Mỗi giáo viên
chi viện 1 tháng và chỉ trong một học kì đầu thôi.
Thế là cuối cùng, cũng với điều kiện cơ sở vật chất như thế, cũng chính
đội ngũ giáo viên đó, năm học sau nhà trường đã tốt nghiệp với tỉ lệ 67,68%.
8. VIỆC ĐẦU TIÊN LÀ PHẢI BẢO VỆ QUYỀN LỢI CHO HỌC SINH
Tổ bộ môn Lịch sử ở một trường THCS sau khi nhận hướng dẫn ôn thi
tốt nghiệp từ Sở GD - ĐT gửi về đã vui mừng khôn xiết. Tổ đã phân công mỗi
giáo viên chịu trách nhiệm hai nội dung và luyện cho học sinh một cách nhuần
nhuyễn với hi vọng thành tích của tổ sẽ là không có học sinh nào thi tốt
nghiệp môn Lịch sử mà dưới điểm 6. Đồng chí tổ trưởng còn nói đùa với Hiệu
trưởng là thầy hãy dành tiền thưởng cho tổ này nhé.
Thế nhưng, kết quả lại hoàn toàn trái ngược, gần 50% học sinh bị điểm
liệt, hơn 50% còn lại không có học sinh nào trên điểm 6. Với kết quả này, việc
tuyển sinh vào lớp 10 công lập của học sinh xem ra không có hi vọng gì (điểm
tuyển sinh ở đây là Toán và Tiếng Việt hệ số 2, các môn còn lại hệ số 1).
Điều bất thường này xảy ra là do tổ bộ môn Lịch sử Khi nhận được
công văn hướng dẫn thi tốt nghiệp chỉ có 6 nội dung, tổ không những không
tìm hiểu tại sao lại có một sự không bình thường so với các năm học khác,
cũng như không bình thường so với các môn thi khác trong cùng một năm
học như vậy, mà lại âm thầm luyện tập cho học sinh một cách máy móc như
thế. Hiệu trưởng cũng không sâu sát, không kiểm tra chặt chẽ. Công văn
hướng dẫn ôn thi tốt nghiệp môn Lịch sử của Sở GD - ĐT có tất cả là 26 nội
dung, không biết là do lỗi của đơn vị phát hành làm thiếu mất 1 trang hay là
khi về trường bộ phận xử lí văn bản đã chuyển đến tổ Lịch sử thiếu hẳn một
tờ A4? Và hậu quả của nó đã làm xôn xao dư luận của một huyện.
Trong công văn gửi về Sở GD - ĐT, đồng chí Bí thư Đảng uỷ xã đã
nêu: Sự việc này quá nghiêm trọng, nhiều học sinh không tốt nghiệp oan,
nhiều gia đình chua xót khi con không được tuyển vào lớp 10 công lập mà đó
lại là những học sinh khá giỏi của trường trong nhiều năm qua. Đồng chí Hiệu
trưởng không phải là người của địa phương, không phải là người của mảnh
đất cù lao đã từng kiên cường chiến đấu và chịu nhiều gian khổ trong thời kì
chiến tranh nên đã không hết lòng vì con em chúng tôi. Chính sự vô trách
nhiệm của ban lãnh đạo nhà trường làm cho học sinh chúng tôi bị thiệt hại
đau đớn. Đề nghị Giám đốc kỉ luật, cách chức Hiệu trưởng và chuyển ra khỏi
địa bàn huyện này ngay, không để đồng chí Hiệu trưởng tiếp tục dạy học
trong huyện này nữa. Đây là một tội lỗi không thể tha thứ được.
Đọc đi đọc lại công văn này nhiều lần, thật sự chúng tôi cảm thấy quá
khó khăn để tìm ra giải pháp xử lí, để có thể ngăn được làn sóng phản đối
của chính quyền địa phương cũng như của bà con xứ cù lao này.
May quá, năm học này còn có kì thi tốt nghiệp lần thứ hai. Chúng tôi đã
đến làm việc với cấp uỷ, chính quyền địa phương, ban lãnh đạo nhà trường
và đại diện phụ huynh học sinh. Đề xuất đầu tiên là phải bảo vệ quyền lợi học
sinh, giao cho nhà trường tổ chức ôn tập thật tốt để học sinh thi lại, nhưng
cũng nói rõ quy chế của Bộ là kết quả thi lần hai môn Lịch sử không thể thay
đổi kết quả tức là không thể làm cho học sinh tốt nghiệp từ trung bình lên khá
hoặc giỏi được, nhưng sẽ được đưa ra để xét lại việc tuyển sinh vào lớp 10.
Việc xử lí kỉ luật Hiệu trưởng và giáo viên của nhà trường sẽ bàn sau khi thi
xong lần hai. Ý kiến được chấp nhận trong không khí phấn khởi và cởi mở.
Sau khi mọi việc hoàn tất, cấp uỷ và chính quyền địa phương lại có văn
bản mới đề nghị chỉ nên cảnh cáo Hiệu trưởng thôi, bởi vì đồng chí đã có
nhiều đóng góp với địa phương trong những năm qua.
Thế mới biết tấm lòng vị tha của bà con mình, sự thông cảm của cấp uỷ
và chính quyền địa phương đối với những người làm giáo dục. Nhưng đối với
người Hiệu trưởng nhà trường thì đây là một bài học khó quên, bài học không
thể tự tha thứ cho mình.
9. NÓI VẬY MÀ KHÔNG PHẢI VẬYĐặt lên bàn một đơn xin thôi làm Phó Hiệu trưởng của một nữ nhà giáo
với nhiều lí do khác nhau như là vợ của một nhà giáo luôn bận bịu với nhiều
công việc, cần có thời gian để giúp chồng hoàn thành tất nhiệm vụ, phải chăm
sóc bố mẹ già, phải dành cho con nhiều hơn nữa với vai trò làm mẹ v.v… Tất
cả lí do nêu ra đều chính đáng. Là lãnh đạo, ai cũng thấy mình cần phải có
trách nhiệm để giải quyết việc này. Để thận trọng hơn, chúng tôi cho mời
đồng chí Phó Hiệu trưởng đến gặp lãnh đạo Sở GD - ĐT cùng lãnh đạo Công
đoàn ngành. Nói chung, chúng tôi vừa lắng nghe, vừa khuyên giải, vừa tìm
giải pháp để hỗ trợ. Nhưng cô giáo nhất quyết một mực xin được làm một
giáo viên bình thường. Thế là chúng tôi đành phải chấp nhận và ra quyết định
cho cô giáo thôi làm Phó Hiệu trưởng sau khi dành cho hai tháng để chờ đợi
ý kiến cuối cùng của cô giáo.
Nhưng chỉ một tuần sau khi ra quyết định, chúng tôi nhận được đơn đề
nghị của Chủ tịch Công đoàn nhà trường xin lãnh đạo Sở GD - ĐT xem xét lại
quyết định đề việc cho nữ nhà giáo thôi làm Phó Hiệu trưởng, bởi vì đây là
một nhà giáo tâm huyết với sự nghiệp giáo dục, nột người rất cần được Sở
GD - ĐT quan tâm tạo điều kiện làm việc tốt để có lợi cho ngành, kèm theo đó
là chữ kí của hầu hết giáo viên và bút phê của một đồng chí lãnh đạo địa
phương.
Đọc đi đọc lại văn bản đề nghị, chúng tôi thấy hình như quyết định của
Sở GD - ĐT vừa qua là chưa chuẩn. Tại sao lại tin vào những giọt nước mắt
của cô giáo mà không biết rằng tập thể nữ giáo viên nơi đây cần một đồng chí
lãnh đạo nhà trường như thế? Xử lí bằng cách nào bây giờ? Sau vài ngày
đắn đo suy nghĩ, chúng tôi cho mời lãnh đạo Phòng GD - ĐT, lãnh đạo nhà
trường nên để tìm cách khắc phục. Nhìn chung, ai cũng cho rằng sự việc đã
rồi thì thôi không bàn đến nữa, vả lại đây là nguyện vọng tha thiết của cô giáo
thể hiện trên đơn xin thì không nên giải quyết lại, theo một đề nghị không phải
của cô giáo. Tuy nhiên ở góc độ nhà quản lí, chúng tôi cho rằng với một cô
giáo mà cả tập thể đang ăn, lại cho thôi không làm quản lí như vậy có phải là
đã cố lỗi với nhà trường hay không, có khi lại phải xin lỗi và bổ nhiệm lại.
Nhưng bổ nhiệm bằng cách nào đây?
Thế là chúng tôi đã quyết định cùng lãnh đạo phòng GD - ĐT về
trường. Đứng trước tập thể sư phạm, chúng tôi đã thành thật nêu lại suy nghĩ
của mình và đề nghị tập thể sư phạm biểu thị lòng mong muốn của họ bằng ý
kiến góp ý thẳng thắn về cách xử lí của Sở GD - ĐT, về nguyện vọng của tập
thể hoặc cá nhân.
Mấy phút im lặng trôi qua, vài cánh tay giơ lên nhưng lại không phát
biểu mà chỉ xin được thể hiện bằng lá phiếu.
Điều quá bất ngờ đối với tất cả chúng tôi là với gần 100 cán bộ giáo
viên, tổng số phiếu tín nhiệm nữ nhà giáo đó chưa được 10%. Lúc bấy giờ tất
cả đại biểu nhìn nhau và không còn biết làm gì và nói gì nữa.
Giờ phút đấy, chúng tôi chỉ biết thương cho nữ nhà giáo của mình khi
để xảy ra cơ sự này. Đúng là "nói vậy mà không phải vậy".
10. CẦN THỰC SỰ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY VÀ PHƯƠNG PHÁP HỌC
Có một năm học, để có thể vừa đánh giá chất lượng giáo dục thực ở cơ
sở, vừa kiểm tra sự chỉ đạo ở các cấp quản lí và nhà trường, khi duyệt đề thi
tốt nghiệp Tiểu học, Hội đồng Sở GD - ĐT đã "bí mật" chuyển đổi hai nội dung
so với đề thi được giới thiệu như sau:
1. Đối với môn Toán: Hằng năm gần như 100% học sinh làm đúng câu
hỏi tìm x với một dạng khá phức tạp. Sự thay đổi của chúng tôi là cho câu này
đơn giản hơn.
2. Đối với môn Tiếng Việt: Thay vì làm theo đề thi được giới thiệu là
"Hãy tả buổi lễ chào cờ đầu tuần ở trường em" thì đề thi mới là: "Hãy kể lại
cảnh gia đình em lúc treo cờ Tổ quốc nhân ngày Quốc khánh mồng 2 tháng
9".
Đề thi đưa ra gần như đã gặp phải sự phản ứng của toàn thể giáo viên
và cán bộ chỉ đạo giáo dục Tiểu học trong tỉnh. Về lí do để cơ sở phản đối đề
thi môn Tiếng Việt là dễ hiểu vì đây là một dạng đề mới, không có trong các
bài tập làm văn mẫu. Còn đề thi môn Toán mà bị phản đối thì là một điều khó
hiểu với người ngoài cuộc, nhưng lại là một điều cần suy nghĩ đối với người
trong cuộc là những cán bộ quản lí giáo dục nói chung và giáo dục Tiểu học
nói riêng.
Kết quả chấm thi đã để lại cho chúng tôi hai câu hỏi:
- Một là: Tại sao câu hỏi tìm x khó và phức tạp thì học sinh lại làm đúng
mà câu hỏi tìm x với một phép tính đơn giản thì học sinh lại không làm được
(kể cả đó là học sinh thủ khoa của tỉnh)?
- Hai là: Tại sao bài tập làm văn mà tất cả giáo viên đều lo sợ thì học
sinh làm được?
Câu trả lời từ những nhà giáo trực tiếp giảng dạy gần như tập trung:
- Chúng tôi cần phải dạy cho học sinh đạt điểm trung bình ở các môn
thi, chúng tôi đã dạy cho học sinh một số bài tập làm văn mẫu, không đúng
mẫu thì phải sợ.
- Đề thi ra kiểu nào thì chúng tôi tập trung dạy theo kiểu ấy. Chẳng hạn
lâu nay câu tìm x ở đề thi môn Toán sở dĩ đa số học sinh làm được là do
chúng tôi tập trung vào luyện học sinh một cách máy móc theo hình thức của
đề thi chứ không dạy cho học sinh nắm các nguyên tắc cơ bản.
Để tránh những phản ứng không cần thiết từ nội bộ ngành, giải pháp
tình thế của chúng tôi lúc đó là bổ sung ở đề thi thêm một câu về tính dãy số
(như một câu hỏi bắt buộc). Chỉ có trong đáp án thì mới yêu cầu giáo viên
chọn câu đúng của học sinh để chấm điểm. Nhờ vậy mới phát hiện được là
không có học sinh làm đúng câu tìm x. Đối với đề thi môn Tiếng Việt thì thời
gian chấm thi tăng gấp đôi hằng năm vì giáo viên phải đọc bài làm của học
sinh chứ không phải đọc lại bài của chính mình. Điều bất ngờ là đối với kết
quả thi môn Tiếng Việt, phần lớn học sinh viết bài rất thật, bằng chính ngôn
ngữ của trẻ. Trong tổng số học sinh giỏi thì 40% học sinh giỏi vẫn là giỏi, 60%
còn lại là "sao đổi ngôi".
Bài học rút ra cho người quản lí chính là cần thực sự đổi mới về
phương pháp dạy và phương pháp học.
11. SUỐT ĐỜI EM SẼ PHẤN ĐẤU VÌ NGHỀ DẠY HỌCTrong tập hồ sơ đề nghị kỉ luật với hình thức buộc thôi việc một giáo
viên, điều làm chúng tôi quan tâm là ở câu chốt của kỉ luật: Đây là một giáo
viên đã từng có học sinh giỏi, nhưng ngày nay đã sa sút về năng lực giảng
dạy, kể cả phẩm chất đạo đức, không chấp hành sự phân công của tổ chức.
Hồ sơ gần như đã hợp lệ, Hội đồng kỉ luật đã thông qua, chỉ còn kí nữa là
xong.
Thế nhưng có một câu hỏi thắc mắc luôn bám theo chúng tôi: Vì sao
một người đã từng năng nổ, tháo vát lại có thể thay đổi một cách nhanh
chóng như vậy? Chúng tôi yêu cầu được trực tiếp phỏng vấn nhà giáo này.
Tuy nhiên cũng phải đến 4, 5 lần thì giáo viên này mới trình bày thật hoàn
cảnh của mình: Anh là một thanh niên, một nhà giáo đầy nhiệt huyết, đã có
gia đình riêng và sắp sửa có đứa con thứ hai. Nhà của đôi vợ chồng trẻ được
che bằng những tấm ni lông giữa khoảng cách của hai căn nhà hai bên. Khi
con ốm, anh vay của dân 3,5 triệu đồng, lãi suất 1 tháng là 10%. Như vậy,
tiền lương của thầy giáo chỉ đủ để trả tiền lãi vay, anh đã phải chấp nhận làm
bất cứ hình thức thuê mướn nào ngoài dân để nuôi vợ con. Do làm ở bên
ngoài nhiều nên công việc giảng dạy của anh không đảm bảo kế hoạch, chất
lượng thấp. Từ đó anh không được đứng lớp, không đứng lớp, không có phụ
cấp ưu đãi thì lại phải tăng cường làm thuê. Phòng GD - ĐT đã điều anh đến
một điểm khác sâu hơn điểm cũ chỉ có 2 km, nhưng anh đã phản đối không
chấp hành. Thực ra, từ nhà anh đến điểm đang dạy đã là 4 km rồi, bây giờ
phải di chuyển thêm 2 km nữa là 6 km, trong hoàn cảnh như thế giáo viên này
không thể nào khắc phục được.
Trước tình thế này, trước khi kỉ luật giáo viên chúng tôi phải giải quyết
một số việc như sau:
- Vận động quỹ tình thương trợ cấp cho thầy giáo 3,5 triệu đồng để có
thể dựng được một ngôi nhà tạm bằng tre lá để ở.
- Đề nghị bà con cho thầy giáo này khoảnh đất đang ở để làm nhà.
- Yêu cầu thầy giáo chấp hành sự điều động của tổ chức là về dạy ở
điểm sâu hơn để được đứng lớp.
Sau khi xử lí xong mọi việc thì Giám đốc mới kí quyết định kỉ luật với
hình thức cảnh cáo và thông báo toàn ngành.
Khi nhận quyết định kỉ luật, hai vợ chồng thầy giáo đã vô cùng xúc
động. Người vợ nói: Chúng em đã mang ơn nghĩa của ngành quá nhiều. Còn
người chồng thì mấp máy: Em xin hứa sẽ phấn đấu suốt đời cho nghề dạy
học của mình.
12. CHÍNH SÁCH PHẢI LUÔN ĐƯỢC ĐIỀU CHỈNH ĐỂ TẠO HIỆU QUẢ
Khi bắt đầu tổ chức phong trào thi giáo viên giỏi năm đầu tiên, nhiều
nhà giáo và cán bộ quản lí đã không ngớt lời khen ngợi về sự thành công của
nó. Năm thứ hai tiếp theo, khi tổ chức khen thưởng lại thấy quá nhiều khuôn
mặt quen thuộc và khí thế có vẻ không còn như năm đầu tiên. Chúng tôi phải
tìm hiểu và kết quả là:
- Thi giáo viên giỏi gần như mang tính hình thức, nặng về biểu diễn hơn
là thực chất. Đồ dùng dạy học chỉ để phục vụ kì thi chứ không phải dùng để
giảng dạy ở nhà trường như giáo viên đã thể hiện lúc thi.
- Các nhà trường đã chọn ra một đội gọi là "thợ đi thi" để đỡ phải mất
công xây dựng, mất thời gian giảng dạy của giáo viên.
Nhờ sự thẳng thắn của các nhà giáo và cán bộ quản lí, chúng tôi đã
mạnh dạn điều chỉnh quy chế như sau: Trước hết mỗi giáo viên giỏi được
công nhận có giá trị 3 năm chứ không phải là 1 năm như trước và gọi là giáo
viên giỏi chu kì I. Thế là đến năm sau bắt buộc phải xuất hiện các nhân vật
mới tham dự kì thi giáo viên giỏi, "thợ thi" tự động tan rã. Mặt khác, chúng tôi
quy định thêm là: Mỗi giáo viên giỏi được một lần đi tham quan học tập và dự
giờ rút kinh nghiệm của giáo viên giỏi thuộc một tỉnh trong nước. Thế là số
giáo viên đăng kí thi lần đầu ngày càng tăng.
Nhưng làm cách nào để giáo viên có thể tham gia thi ở chu kì II? Câu
trả lời là: Cần phải có một chính sách "mạnh" hơn. Thế là chúng tôi quy định
giáo viên giỏi 2 chu kì được ứng cử vào danh sách giáo viên đạt danh hiệu
Viên phấn vàng. Giáo viên đạt danh hiệu Viên phấn vàng được nhận một
phần thưởng trị giá 1 chỉ vàng. Điều quan trọng là mỗi nhà giáo đạt danh hiệu
được tặng một biểu tượng Viên phấn vàng, được ứng cử vào danh sách đề
nghị công nhận Nhà giáo ưu tú và được tham quan học tập và dự giờ ở Nam
Ninh - Trung Quốc (chi phí cho tham quan học tập là 180 USD/ người). Chính
điều này đã động viên nhiều giáo viên giỏi đăng kí dự thi ở chu kì II.
Một vấn đề khác lại nảy sinh là làm thế nào để có quy chế công nhận
vĩnh viễn, không lẽ bắt giáo viên đi thi mãi hay sao? Thế là chúng tôi quyết
định với 3 chu kì, tức là sau 9 năm với 3 lần thi, giáo viên được công nhận là
giáo viên giỏi vĩnh viễn, không cần phải thi lại nữa. Tuy nhiên, thực tế lại
không đơn giản một chút nào, là vì sau khi được công nhận giáo viên giỏi
vĩnh viễn, một số nhà giáo đã có thái độ tự mãn, không đầu tư không nghiên
cứu, thiếu cập nhật thông tin, đôi khi còn thể hiện sức ỳ, là lực cản của tập
thể; không có thái độ cầu thị, chịu khó học hỏi và chăm chút bồi dưỡng tiếp
cho lớp trẻ.
Trước tình hình đó, chúng tôi lại phải ra quyết định điều chỉnh là:
Những nhà giáo được công nhận là giáo viên giỏi sau 3 vòng (tức là giáo viên
giỏi vĩnh viễn) chỉ có giá trị từng năm, với điều kiện giáo viên có ít nhất 2 tiết
dạy thao giảng phục vụ cho việc đổi mới phương pháp giảng dạy hoặc phổ
biến sáng kiến kinh nghiệm mà giáo viên đã thu thập được trong quá trình
giảng dạy ở nhà trường. Cho dù chỉ là một sự điều chỉnh nhỏ trong 1 tiết dạy
để học sinh học tốt hơn vẫn được xem là một sáng kiến hoặc một kinh
nghiệm tốt. Khi thao giảng, chỉ cần giáo viên thông báo cho các giáo viên
khác đến dự tại lớp.
Quyết định này làm thoả mãn các giáo viên và các nhà trường.
13. CÓ NHỮNG VIỆC TÒA ÁN CŨNG PHẢI ĐẦU HÀNGHai cô giáo cùng dạy một trường đã từng là đôi bạn thân thiết với nhau,
sau nhiều lần hoà giải ở các cấp không thành công đã đưa ra toà án huyện.
Toà tuyên án: Cô giáo Bền phải hoàn trả cho cô giáo Ân một chiếc xe máy
mới hoàn toàn. Cô giáo Bền quyết kháng án lên trên, mặc dù biết rằng sẽ thất
bại một lần nữa. Đồng chí Hiệu trưởng cho biết nhà trường bây giờ buồn lắm,
không còn cách gì để giải quyết vì cô Bền đâu có tiền mà thi hành án. Tất cả
bằng chứng đều chống lại cô. Trong khi đó có một bằng chứng rất thật thì cô
lại không thể nộp cho toà án. Nhưng với đồng lương ít ỏi, cô làm sao có khả
năng để thi hành án. Thế là cô quyết định xin gặp riêng Giám đốc Sở GD - ĐT
để trình bày sự thật với hi vọng tìm được một lời khuyên thoả đáng.
Sau khi tiếp xúc cô giáo Bền, chúng tôi cho mời đồng chí Trưởng
Phòng GD - ĐT cũng là một phụ nữ cùng cô giáo Ân đến Sở GD - ĐT làm
việc và yêu cầu mang theo một bản giáo án.
Chúng tôi đã có một phỏng vấn nhỏ như sau:
- Giáo án này do chính tay cô soạn phải không?
- Vâng ạ.
- Vậy lá thư này cũng do chính tay cô viết?
Sau khi cầm, lá thư run run trong một khoảnh khắc trên đôi bàn tay, Ân
gật đầu thú nhận:
- Vâng ạ!
- Trong thư cô đã viết: Chị yêu em như là người em ruột của chị hay
đúng hơn như chính bản thân chị vậy, chị tặng chiếc xe Honda này cho em
sử dụng như là một món quà cho người mà chị yêu nhất trên đời. Như vậy xe
này là quà tặng chứ đâu phải là sự chiếm đoạt tài sản công dân như toà án
đã kết luận.
- Vậy tại sao Bền không gửi lá thư này cho toà án?
- Dạ, em không thể vì đây là tình cảm của Ân đã dành cho em, em
không thể đánh canh bạc cuối cùng ạ.
- Có phải hai người đã có một thời quý nhau tưởng chừng như không
thể thiếu nhau, và tình cảm này mất đi từ khi Bền có người yêu và lấy chồng
phải không?
- ???
- Có phải sau khi Bền lấy chồng, Ân định lấy lại chiếc xe này nhưng
Bền không muốn trả vì chưa có phương tiện để hai vợ chồng đi lại với nhau,
đúng không?
- Vâng ạ.
- Thế là Ân đã tố cáo Bền mượn xe mà không trả, cố ý chiếm đoạt tài
sản công dân đúng không?
- Dạ!
- Thế khi em yêu cầu Bền trả bằng một chiếc xe mới hoàn toàn, em vẫn
biết rằng là Bền không có khả năng thực hiện, đúng không?
- …
- Không phải em muốn lấy lại xe mà chính là em muốn Bền không thi
hành án được, bị buộc thôi việc để em thoả mãn sự ghen tức có đúng như
vậy không? Còn Bền, em có thấy mình thiếu sự tự trọng không? Lẽ ra em
phải trả ngay xe khi lần đầu tiên bạn mình yêu cầu chứ. Hai cô không gửi thư
này cho toà án thì tôi giữ vậy. Sau khi toà tuyên án thì đến lượt tôi xử nhé.
- Xin chị thông cảm (cả hai cùng nói).
- Vậy các cô tự xử lí đi
- Em xin nhận lại chiếc xe với điều kiện Bền sửa chữa lại cho em.
- Vậy mà em đã van xin chị hàng trăm lần mà chị vẫn không đồng ý.
- Hai cô kí vào biên bản chứ?
- Thưa vâng ạ!
- Có cần tôi cho vay tiền để sửa chữa xe không?
- Dạ không ạ, hai chúng em cám ơn Ban Giám đốc và không dám làm
phiền hơn nữa ạ.
Khi chia tay, cô Trưởng Phòng GD - ĐT đã nói:
- Nếu không có buổi hôm nay có lẽ toà án cũng phải đầu hàng ạ.
14. RÀO CẢN VÔ HÌNH
Có một trường THCS thường xuyên thiếu giáo viên một cách trầm trọng
trong nhiều năm, tỉ lệ bình quân chỉ đạt 0,8 giáo viên/ lớp, mặc dù trường này
chỉ có tổng số 10 lớp mà thôi.
Lúc đầu thì sinh viên không dám nhận nhiệm sở vì sợ khó khăn do đi
lại, do không có chỗ ở tập thể. Việc khắc phục khó khăn về đất để làm nhà
tập thể ở một vùng đồng bào dân tộc cũng không phải dễ, nhưng sau vài năm
kết hợp giữa ngành và chính quyền địa phương là triển khai được. Nhưng
việc điều động giáo viên sau nhiều năm vẫn không thấy có sự tiến triển. Nhiều
sinh viên nhận quyết định xong thì trả ngay, một số về công tác từ 3 tuần đến
khoảng 2 tháng cũng bỏ việc.
Khi hỏi vì sao thì hầu như lúc nào cũng nhận được câu trả lời rất quen
thuộc: Vì đây là trường học ở vùng sâu đa số dân nghèo, lực lượng trẻ bây
giờ rất ngại khó nên không về đây để giảng dạy.
Câu trả lời được lặp đi lặp lại trong nhiều năm đã buộc chúng tôi phải
suy nghĩ về hiện tượng này. Có nhiều vùng còn khó khăn hơn tại sao vẫn
phân công được giáo viên, còn ở đây tại sao lại không?
Chúng tôi tổ chức họp với toàn thể hội đồng sư phạm vài lần sau mỗi
cuối năm học, vẫn chưa tìm ra được nguyên nhân đích thực và chưa có giải
pháp khắc phục. Một sáng kiến được nảy sinh là cần phải gặp mặt tất cả các
sinh viên đã được phân công về đây công tác cho dù là chỉ một vài ngày hoặc
một vài tháng. Kế hoạch làm việc là đối thoại với từng giáo viên trẻ để nghe
họ nói thẳng, nói thật.
Kết quả mà chúng tôi thu được là hết sức bất ngờ. Không phải lực
lượng trẻ sợ khó, sợ khổ mà chính là vấn đề đời sống. Trung bình mỗi giáo
viên ở đây dạy thêm giờ từ 20 - 25 tiết/ tuần, người dạy cao nhất là 45 tiết/
tuần. Chính điều này đã dẫn đến việc hình thành một rào cản vô hình, những
nhà giáo đi trước không muốn cho lớp trẻ bước vào căn nhà của mình để
chia xẻ miếng cơm, manh áo.
Toa thuốc để điều trị ở đây trước hết là cần có một Hiệu trưởng đầy
bản lĩnh, biết vì sự nghiệp giáo dục con em nhân dân địa phương chứ không
phải chỉ vì đời sống cục bộ của một số nhà giáo. Hai là khi phân công sinh
viên về trường này, cần có sự trợ đỡ về tinh thần, sự theo dõi để giải quyết
những trở ngại một cách kịp thời. Ba là quy định thanh toán tiền dạy thêm giờ
phải được điều chỉnh ngay theo đúng tinh thần Quyết định 243 của Thủ tướng
Chính phủ là chỉ được thanh toán không quá 30% giờ chuẩn, trong trường
hợp đặc biệt có thể được thanh toán ở mức 50% dành cho những giáo viên
đạt danh hiệu Giáo viên giỏi.
Thế là bài toán đã được giải quyết. Điều quan trọng là đã giải oan cho
các nhà giáo trẻ. Họ không phải là người sợ khó, sợ khổ, chỉ sợ tập thể sư
phạm thiếu sự động viên tinh thần, thiếu quan tâm chia sẻ kinh nghiệm giảng
dạy cũng như thiếu sự tạo điều kiện để họ làm tốt nhiệm vụ được phân công.
Và có thể xem đó là rào cản vô hình.
15. DÙ LÀ VIỆC NHỎ CŨNG PHẢI SUY NGHĨTheo dõi việc học sinh đến chúc mừng các ngày lễ lớn, chúc mừng các
đại hội Đảng cũng như các đại hội từ các đoàn thể chính trị - xã hội cho đến
doanh nghiệp, dễ dàng thấy rằng trong một thị xã thì hầu như chỉ có hai
trường trọng điểm của Tiểu học và THCS là đảm nhận nhiệm vụ này. Mỗi đội
chỉ có một em học sinh phát ngôn. Nhiều người đã cho rằng lời lẽ trong bài
chào mừng là khuôn sáo do người lớn áp đặt chứ không phải xuất phát từ
tình cảm của đứa trẻ. Điều quan trọng nhất là, hầu như trẻ chỉ biết làm theo
lệnh của giáo viên một cách máy móc mà thiếu hẳn sự nhạy bén linh hoạt.
Chẳng hạn, khi hàng ghế đầu chỉ có hai đại biểu, đa số đại biểu ở hàng ghế
thứ hai, nhưng khi khẩu lệnh dâng hoa được phát ra, những chỗ không có đại
biểu học sinh đặt hoa lên bàn mà không hề biết chuyển hoa về cho đại biểu ở
hàng ghế thứ hai trước mặt các em.
Tuy đây là một việc nhỏ, nhưng cũng phải quan tâm chỉ đạo. Chúng tôi
đã phải đưa ra một chương trình bồi dưỡng cho công tác đoàn đội về lĩnh vực
này. Mỗi trường THCS, mỗi trường Tiểu học cần có một đội chào mừng, nên
có nhiều học sinh được tham gia bồi dưỡng, đội nào cũng có nhiều em phát
ngôn nhưng để các em tự viết và đọc theo sự gợi ý của giáo viên. Khó mấy
cũng phải làm để có nhiều học sinh được hoạt động.
Chào mừng là một hoạt động không lớn lắm so với nhiều hoạt động
của trường, việc trang bị mỗi nhà trường một đội kèn thì lại phải đầu tư khá
nhiều tiền. Nhưng đây lại là một hoạt động mà học sinh được tham gia, được
giáo dục tính tập thể, tính năng động, linh hoạt phù hợp với hoàn cảnh thực
tế. Bởi vậy rất cần sự đầu tư để có một giáo trình tập huấn cụ thể cho công
tác đoàn đội ở các nhà trường. Một chương trình trang bị trống, kèn, quần áo
cho đội học sinh chào mừng mang tính "chuyên nghiệp" cũng là một việc làm
phục vụ nhiệm vụ giáo dục trẻ.
16. TRONG KIỂM ĐIỂM – XÉT KỶ LUẬT CẦN TẠO ĐƯỢC KHÔNG KHÍ THÀNH KHẨN, CHÂN TÌNH
Khi được yêu cầu đi dự buổi công bố quyết định kỉ luật tập thể giáo viên
ở một trường THPT, đồng chí Chánh Thanh tra và đồng chí Trưởng Phòng Tổ
chức cán bộ hết sức băn khoăn. Đồng chí Chánh Thanh tra nói:
- Xưa nay người ta đi công bố quyết định khen thưởng, quyết định bổ
nhiệm chứ có ai lại đi công bố quyết định kỉ luật bao giờ.
Đồng chí Trưởng Phòng Tổ chức cán bộ hỏi đùa:
- Có cần báo cho lực lượng công an đi cùng để phòng ngừa rắc rối xảy
ra hay không nhỉ?
- Chỉ có chúng ta thôi.
Sở dĩ chúng tôi phải xử lí kỉ luật tập thể sư phạm vì họ đã vi phạm quy
chế là đã nâng điểm kiểm tra học kì để điều chỉnh nhiều học sinh được xếp
loại khá thành giỏi. Trong quá trình kiểm tra hồ sơ và thanh tra công tác
chuẩn bị thi tốt nghiệp THPT, điều này đã bị phát hiện.
Không khí cuộc họp hội đồng sư phạm thật sự căng thẳng. Đồng chí
Hiệu trưởng đã tự đánh giá sai lầm:
- Bình thường trường chúng tôi đánh giá học sinh rất nghiêm khắc, tỉ lệ
học sinh khá, giỏi chưa bao giờ vượt quá 15%, trong đó học sinh giỏi chỉ dao
động từ 3% đến 5%. Năm học này trong các môn thi tốt nghiệp có môn Vật lí
và môn Lịch sử là hai môn chủ lực của trường. Vì thương học sinh, các tổ
trưởng bộ môn đã đề nghị sửa điểm kiểm tra học kì vào học bạ cho học sinh.
Mục đích của việc sửa điểm học bạ là để có sự đón đầu về kết quả tốt nghiệp.
Điều này có nghĩa là vì có hai môn thi Lịch sử và Vật lí thì chắc chắn chúng tôi
sẽ có nhiều học sinh đạt điểm giỏi ở kì thi tốt nghiệp, nhưng vì học bạ xếp loại
khá thì kết quả tốt cũng chỉ là khá. Đó sẽ là điều rất đáng tiếc (theo quy chế
học sinh được xếp loại giỏi thi tốt nghiệp thì học bạ phải xếp loại giỏi).
Trong quá trình kiểm điểm, mỗi giáo viên tham gia dạy học sinh lớp 12
ở đây đều đã nhận được quy định về việc xử lí giáo viên khi vi phạm quy chế
chuyên môn để từng người đối chiếu, tự đánh giá và tự nhận mức độ kỉ luật
cho mình. Theo quy định thì loại vi phạm quy chế là phải chịu hình thức kỉ luật
nặng nhất và Hội đồng kỉ luật nhà trường cũng đồng ý với mức cách chức cán
bộ quản lí và đình chỉ công tác giảng dạy của giáo viên. Tuy nhiên, lần này
sau phần tự thú, ý kiến đóng góp của chúng tôi chỉ tập trung phân tích hai vấn
đề cơ bản:
- Một là sự thiếu trung thực của giáo viên dễ làm hư hỏng học sinh
đồng thời cũng làm cho học sinh thiếu kính trọng.
- Hai là sự nghiêm khắc hay là sự đánh giá chưa đúng với thực chất kết
quả học tập của học sinh (thấp hơn kết quả thật). Việc đánh giá không đúng
thực chất núp dưới danh nghĩa nghiêm khắc cũng dễ làm cho học sinh nghĩ
không tốt về thầy cô của mình. Đánh giá không đúng khả năng học sinh để
chờ đợi sự xin điểm, điều này còn tồi tệ hơn là việc dạy học thiếu trách nhiệm
của giáo viên.
Điều đáng nói ở đây là không khí chân tình cùng thái độ nghiêm khắc
của lãnh đạo khi phân tích, đánh giá khuyết điểm của giáo viên. Chính nhờ sự
thành khẩn của từng người, mức kỉ luật đã được giảm nhẹ so với dự kiến ban
đầu khi giáo viên tự đề xuất. Phần lớn là kỉ luật với hình thức cảnh cáo toàn
ngành hoặc cảnh cáo trong phạm vi nhà trường. Điều đáng nói ở đây chính là
việc kiểm tra, thanh tra đã kịp thời và việc xử lí kỉ luật hoàn toàn đúng lúc.
Và khi quyết định chính thức được công bố, niềm vui đã rạng ngời trên
khuôn mặt các giáo viên, những giọt nước mắt ân hận lăn dài sau đó. Kịp thời
phát hiện thì mới kịp thời ngăn chặn sai lầm.
Những ai đã có mặt trong buổi kiểm điểm và kỉ luật tập thể này sẽ có
một kỉ niệm đáng nhớ trong đời. Chúng tôi, những người đi công bố quyết
định kỉ luật, cũng đã hạnh phúc khi nhìn các cô giáo ôm nhau khóc, khi các
thầy giáo của trường bắt tay chúng tôi đầy sự tôn trọng và thân thiện.
17. ĐỂ MỘT CHỦ TRƯƠNG THÀNH HIỆN THỰCNhiều người khi đánh giá về chất lượng giáo dục đều cho rằng tổ chức
học sinh học trường nào thi ở trường ấy là không nghiêm, kết quả không
phản ánh đúng thực tế. Một số các nhà giáo đã đề xuất chúng tôi nên tập
trung học sinh về thị xã để tham gia kì thi tốt nghiệp THPT. Để có được việc
này nói thì dễ, nhưng làm thì không đơn giản chút nào.
Nhằm nâng cao chất lượng giáo dục với hình thức thi tập trung, lộ trình
chúng tôi xây dựng là dành 3 năm để chuẩn bị và triển khai:
- Năm thứ nhất: tạo sự thống nhất của phụ huynh học sinh và ban lãnh
đạo các trường THPT, lấy lực lượng Đoàn TNCS Hồ Chí Minh làm nòng cốt.
- Năm thứ hai: tiếp tục làm việc với các đơn vị còn băn khoăn và các
UBND, HĐND huyện.
- Năm thứ ba: tập hợp và báo cáo xin ý kiến của UBND và HĐND tỉnh
để tiến hành triển khai.
Vậy mà, khi tập trung gần 10.000 "sĩ tử" về thị xã để dự thi thì một vài
bác lão thành cách mạng đã giật mình hỏi: Chủ trương này có được phụ
huynh đồng tình không, coi chừng rắc rối to đấy. Khi biết chúng tôi đã chuẩn
bị trước đó xong rồi thì các đồng chí lãnh đạo mới yên tâm.
Từ điều này, chúng tôi đã rút ra được các kinh nghiệm:
1. Khi một chủ trương được sự đồng thuận và có sự chuẩn bị chu đáo
thì đạt kết quả cao. Điều đặc biệt là năm đó không có một học sinh nào bỏ thi
(hằng năm thi tại chỗ phải có đến trên 100 học sinh bỏ thi).
Thị xã tưng bừng với một khí thế mới.
2. Do chưa có kinh nghiệm nên việc xếp phòng thi bằng cách trộn tên
học sinh theo thứ tự A, B, C trên toàn tỉnh làm cho các trường không quản lí
được học sinh của mình. Việc công bố kết quả theo sĩ số học sinh ở mỗi
trường phải chờ đợi và chậm hơn vài ngày so với các năm trước.
3. Sau 2 năm thực hiện đã phải điều chỉnh là: Chỉ nơi nào tổ chức kì thi
tốt nghiệp THPT chưa đảm bảo tính nghiêm túc và độ an toàn thì phải đưa
học sinh về thị xã thi. Tuy nhiên, nơi nào mà cấp uỷ và UBND huyện có cam
kết chỉ đạo kì thi an toàn, nghiêm túc thì được chấp nhận cho tổ chức thi tại
địa phương với phương thức đổi giám thị 100%.
Có thể nói, đối với giáo dục, một chủ trương mới cho dù rất đúng đắn
thì cũng phải vận động để phụ huynh học sinh, cấp uỷ, UBND địa phương
ủng hộ mới có thể biến thành hiên thực.
18. SỰ QUAN TÂM KHÔNG ĐÚNG LÚC VÀ ĐÚNG CHỖ CỦA GIÁM THỊ
Nhận đơn trình bày của một thí sinh sau khi ngành vừa hoàn tất công
việc chấm thi và công bố kết quả tốt nghiệp THPT, tất cả chúng tôi đều phải
giật mình nhìn lại các khâu chỉ đạo của mình.
Nội dung đơn kiến nghị của học sinh là:… Vì quá tin vào cô giáo bạn
của mẹ nên con đã chép phần bài giải của cô giám thị và kết quả là con đã
làm sai một câu mà lẽ ra con làm đúng…
Có thể nói, đây là một tình huống chưa từng xảy ra trong lịch sử quản lí
của chúng tôi. Việc học sinh mang tài liệu vào phòng thi bị lập biên bản, giám
thị lơ là bị nhắc nhở là lẽ thường tình, thường xuyên được rút kinh nghiệm
sau mỗi kì thi. Việc xảy ra lần này làm chúng tôi phải suy nghĩ rất nhiều vì hai
lẽ:
1. Hội đồng coi thi làm gì mà sự việc này xảy ra lại không biết?
2. Liệu học sinh có phản ánh đúng sự thật không hay là có lí do gì khác
hơn nữa?
Tuy nhiên, khi xử lí thì chúng tôi đã thực hiện quy trình như sau:
- Trước hết, cử cán bộ chuyên môn đến trường không báo trước, yêu
cầu học sinh giải lại đề thi, phần mà thí sinh đó đã trình bày.
- Gặp cô giáo và yêu cầu cô tường trình sự việc khi cô làm giám thị 1.
- Yêu cầu giám thị 2 viết báo cáo.
Kết quả thu được là:
- Học sinh làm đúng được câu hỏi đó.
- Mặc dù giám thị được đổi 100%, cô giáo giám thị 1 là giáo viên ở một
trường khác được điều đến, gặp con của bạn, biết cháu học không phải tốt
lắm, tuy chỉ dạy chủ yếu ở khối 10 và 11, chưa dạy ở khối 12 nhưng vì quá tự
tin nên cô đã cố gắng giúp cháu một chút, không ngờ lại xảy ra sự việc như
thế.
- Giám thị 2 trình bày là có thấy giám thị 1 ngồi viết và đã nhắc nhở,
giám thị 1 nói là làm thơ. Vì phải ngồi đúng vị trí là từ cuối phòng thi nhìn lên
để quan sát học sinh nên cô đã không phát hiện được việc này. Giám thị 1
xác nhận điều này là đúng.
Kết quả xử lí và quyết định quản lí của chúng tôi như sau:
1. Học sinh đã vi phạm quy chế, nếu tự làm bài thi sẽ tốt nghiệp thừa 1
điểm so với điểm chuẩn. Nhưng vì học sinh đã không đỗ nên thôi không xét kỉ
luật nữa. Chỉ nhắc nhở học sinh về sự tự tin vào chính bản thân mình để vừa
có kết quả tốt vừa không vi phạm quy chế.
2. Giám thị 1 nhận quyết định kỉ luật không được coi thi 3 năm và đình
chỉ công tác giảng dạy 1 năm, chuyển làm nhân viên và thông báo cho toàn
ngành rút kinh nghiệm.
3. Bắt đầu từ năm sau đó, các giám thị chỉ được nhận bút đỏ, không
được phát bút màu xanh nữa.
Qua sự việc này, có lẽ nỗi đau đã để lại quá lớn trong lòng hai người
bạn, hai người phụ nữ và điều vô cùng đáng tiếc là đã đem lại sự thất bại cho
đứa trẻ vô tội. Một bài học nhớ đời cho cô giáo - giám thị khi không chấp hành
nội quy. Lỗi lầm ở đây chính là sự quan tâm không đúng chỗ và đúng lúc.
19. CHỖ ĐỨNG CỦA EM LÀ TRƯỚC TRẺ THƠĐứng trước mặt chúng tôi là một cô giáo mầm non khá xinh đẹp. Cô
đang thuyết phục để được chuyển về Sở Văn hoá - Thông tin và công tác ở
đoàn ca múa của tỉnh. Sở dĩ cô cố gắng nài nỉ là vì cô vừa đạt Huy chương
Bạc trong kì Hội diễn văn nghệ năm vừa qua.
Chúng tôi đã dành cho cô giáo một tuần lễ để suy nghĩ cân nhắc giữa
hai nghề. Nếu sau khi cân nhắc và quyết định con đường khác cho tương lai
của mình thì cô trở lại Sở GD - ĐT và chúng tôi sẽ hoàn thành thủ tục để cô
ra đi.
Đúng một tuần sau, cô giáo trở lại để nhận quyết định thuyên chuyển
cùng hồ sơ cần thiết. Không hiểu sao lúc đó chúng tôi đã nhìn thẳng vào mắt
cô và nói:
- Thật ra em là một cô giáo xinh đẹp nhưng chưa đủ độ để trở thành
diễn viên chính của đoàn ca múa. Một khi không là diễn viên chính thì chắc
chắn những người như em sẽ gặp phải nhiều sự đố kị dẫn đến việc em không
được xuất hiện hoặc ít được xuất hiện trên sàn diễn.
- Nếu ở mãi sau cánh gà em sẽ nhớ lại một thời đứng lớp.
- Em là một giáo viên giỏi, do đó đặc ân đối với em là sau 3 năm, nếu
em thấy không ổn định trong công việc mới, thấy vẫn yêu nghề dạy học thì
hãy quay về đây, ngành Giáo dục sẽ luôn đón nhận lại em bằng tình cảm
chân thành.
Không phải là 3 năm mà chỉ sau 2 năm, cô giáo đã tìm đến tôi và nói
trong nước mắt:
- Tất cả những gì lãnh đạo Sở GD - ĐT nói trước khi em xin chuyển đều
đã xảy ra đúng như thế. Cho đến bây giờ em mới biết rằng chỗ đứng của em
không phải là dưới ánh đèn sân khấu mà chính là đứng trước những ánh mắt
ngây thơ, trong sáng của trẻ thơ.
20. QUYẾT ĐỊNH PHẢI PHÙ HỢP QUY CHẾ NHƯNG CŨNG CẦN VẬN DỤNG THÍCH HỢP
Trong quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc công nhận trường
mầm non đạt chuẩn quốc gia, có một yêu cầu là đồng chí Hiệu trưởng phải
đạt trình độ cao đẳng, đại học hoặc ít nhất phải là trình độ sư phạm 12+2.
Khi áp dụng vào thực tế cuộc sống, ở năm đầu tiên đã xảy ra những
tình huống khó xử:
- Có Hiệu trưởng không đạt trình độ theo quy định.
- Mặc dù chưa có bằng tốt nghiệp theo hệ đào tạo chuẩn nhưng đó là
những đồng chí Hiệu trưởng đã lăn lộn với ngành bằng cả trái tim, lòng nhiệt
huyết cũng như tình yêu thương chân thành đối với trẻ và gắn bó với nhà
trường trong hơn 20 năm qua.
Cô Hiệu trưởng ấy cũng chưa đạt trình độ theo quy định. Điều khắc
nghiệt và nghịch lí ở đây là nếu muốn công nhận trường mầm non đạt chuẩn
quốc gia thì phải chuyển đồng chí Hiệu trưởng này đi công tác nơi khác hoặc
cho thôi làm Hiệu trưởng. Mà giải quyết điều này thì rõ ràng là khá tàn nhẫn,
mặt khác nó còn làm tổn thương tâm tư tình cảm đội ngũ giáo viên của nhà
trường.
Nhiều giáo viên đề xuất là không cần sự công nhận đạt chuẩn quốc gia
nữa bởi vì người lãnh đạo như là linh hồn của tập thể. Về phần mình, cô Hiệu
trưởng lại nói rằng sẵn sàng ra đi để nhà trường được công nhận đạt chuẩn
quốc gia, đã hi sinh hơn 20 năm qua rồi thì cố gắng hi sinh thêm một chút nữa
cũng không có vấn đề gì.
Chính điều này đã làm cho chúng tôi phải suy nghĩ rất nhiều để đưa
đến quyết định là tăng cường thêm cho nhà trường một đồng chí lãnh đạo có
trình độ đại học, có kinh nghiệm để phù hợp với quy chế và để có thể ra được
quyết định công nhận trường đạt chuẩn quốc gia.
Lễ công nhận diễn ra trong niềm vui của tất cả mọi người dân cùng
chính quyền địa phương, đặc biệt là đội ngũ giáo viên của nhà trường. Các cô
giáo đã nói khẽ vào tai chúng tôi:
- Quyết định như thế này mới làm vừa lòng đội ngũ giáo viên nhà
trường, nó vừa mang tính nhân văn, vừa mang tính giáo dục và tính khoa
học.
21. TRAO ĐỔI, NHẮC NHỞ SỚM LÀ MỘT BIỆN PHÁP BẢO VỆ CÁN BỘ HIỆU QUẢ
Hiệu trưởng của một trường THPT là một thầy giáo đã có gia đình, Phó
Hiệu trưởng là một cô giáo xinh đẹp, sống độc thân. Nhiều năm họ làm việc
với nhau rất tốt. Ngoài việc kiểm tra, thanh tra và đánh giá định kì để góp ý
cho công việc quản lí ngày càng tốt hơn thì chúng tôi không thấy có điều gì
phải phàn nàn. Bỗng nhiên vào giữa một năm học, có dư luận rất mạnh về
mối quan hệ nam nữ của Ban Giám hiệu. Thật ra thì không có một đơn tố cáo
nào, chỉ là những tiếng nói phía sau lưng mọi người, nhưng càng lúc càng
nhiều hơn.
Ban đầu thì chúng tôi cũng chưa biết xử lí cách nào bởi vẫn chưa có
đơn thư hoặc tố cáo. Tuy nhiên, dù chỉ là những lời nói bóng gió nhưng một
khi đã thành dư luận mà không kịp thời ngăn chặn sẽ dễ trở thành một vấn đề
lớn mà người quản lí đôi khi trở thành người ngồi chờ để phải tổ chức kiểm
điểm. Nhưng nếu để chờ xử lí kỉ luật cán bộ sẽ dễ đưa đến kết quả làm đau
lòng cả hai phía - cán bộ quản lí và giáo viên. Từ đó đương nhiên ảnh hưởng
tiêu cực đến công việc của nhà trường.
Để dập tắt dư luận, chúng tôi quyết định mời từng đồng chí lãnh đạo
của nhà trường về Sở GD - ĐT. Việc đầu tiên là lãnh đạo lắng nghe từng
người giãi bày tâm tư nêu thực trạng và nguyên nhân dẫn đến tình hình để dư
luận xảy ra. Cả hai đều khẳng định là không hề làm bất cứ điều gì để ảnh
hưởng đến danh dự và uy tín của mình. Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng sẵn
sàng viết cam kết trước lãnh đạo Sở GD - ĐT. Bản cam kết được lưu trữ ở
Phòng Tổ chức cán bộ. Điều quan trọng mà chúng tôi yêu cầu là trong bản
cam kết phải có câu: "Nếu như sau này dư luận trở thành sự thật thì sẽ phải
xử lí ở mức độ kỉ luật nghiêm khắc nhất".
Thế là từ đó dư luận đã không còn nữa. Công việc nhà trường vẫn tiếp
tục được thực hiện tốt. Như vậy ở đây, việc trao đổi, nhắc nhở sớm là một
biện pháp bảo vệ cán bộ hiệu quả.
22. ĐỂ GIẢI QUYẾT MỘT SỰ VIỆC PHỨC TẠP, CẦN VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH MỘT CÁCH HỢP LÍ NHẤT
Có lẽ ai cũng biết là việc giải phóng mặt bằng để xây dựng ngôi trường
là một vấn đề không đơn giản chút nào. Có một mái trường đã xây dựng
xong, học sinh đã vào học được rồi mà sự tranh chấp vẫn xảy ra hằng ngày,
thậm chí Ban Giám hiệu cũng không dám đi qua khu dân cư đang chờ nhận
tiền bồi hoàn. Điểm bất đồng ở đây là do có một số hộ chờ nhận tiền bồi
hoàn, trong lúc chưa nhận được thì một bên đưa ra khẩu hiệu: "Nhà trường
cướp đất của dân". Một số gia đình bên khác thì lại nói rằng: "Nếu các hộ kia
mà nhận tiền bồi hoàn đất của gia đình chúng tôi thì chúng tôi sẽ liều chết".
Nguyên nhân dẫn đến sự rắc rối, phức tạp như sau: Số là có một gia
đình mặc dù các con trai đều là bộ đội tham gia kháng chiến nhưng gia đình
lại thuộc thành phần khá giả. Sau ngày miền Nam giải phóng, chính quyền địa
phương quy thành phần là địa chủ nên bị tịch thu đất và cấp lại cho 4 gia đình
chính sách. Khi đất nước bước vào giai đoạn đổi mới, gia đình bị quy là địa
chủ khiếu nại và đã được Thủ tướng Chính phủ kí cho phép cải chính lại
thành phần gia đình. Sự cải chính thành phần không kèm theo quyết định
giao trả lại quyền sử dụng đất. Gia đình này lại tiếp tục khiếu nại với UBND
tỉnh để tranh chấp quyền sử dụng đất.
Mâu thuẫn kéo dài hơn 3 năm, cấp uỷ, UBND mỗi lần thấy có hai bên
kéo lên Văn phòng thì bỏ ra ngoài, cả UBND huyện cũng thế. UBND tỉnh đã
cử các đoàn thanh tra về địa phương nhưng các cuộc tranh chấp và ẩu đả
vẫn xảy ra nên cũng không giải quyết được, trong khi tiền bồi hoàn đã có sẵn
trong tài khoản.
Trước tình hình đó, UBND tỉnh đã quyết định phân cấp việc giải quyết
này cho Sở GD - ĐT với lí do đây là vấn đề xây dựng trường học cho ngành,
trường đã xây xong, học sinh vào học rồi thì ngành phải tự xử lí.
Nhận trách nhiệm này chúng tôi rất lo. Thanh tra Nhà nước, UBND tỉnh
giải quyết mà còn bị trở ngại thì sức chúng tôi làm sao mà giải quyết cho
được.
Tuy nhiên, việc đã được UBND tỉnh giao thì ngành phải chấp hành.
Việc đầu tiên mà chúng tôi xác định phải bắt tay vào làm là nghiên cứu hồ sơ
của vụ tranh chấp tiền bồi hoàn đất rất lạ này (do trước kia chúng tôi nghĩ vấn
đề liên quan đến tranh chấp tài chính là của thanh tra chứ không phải là của
ngành).
Điều may mắn và gần như kì diệu đối với chúng tôi khi giải quyết vấn
đề này là 4 gia đình chờ nhận tiền bồi hoàn đất lại là 4 gia đình chính sách:
một bà mẹ anh hùng, một gia đình liệt sĩ, một thương binh và một đồng chí
nguyên là xã đội trưởng. Thế là chỉ sau một tuần khi được giao trách nhiệm,
khi yêu cầu đồng chí Chánh Văn phòng sắp xếp một cuộc họp ở UBND huyện
để Sở GD - ĐT làm việc với UBND xã và 4 gia đình thì tất cả các trưởng
phòng của chúng tôi đều lo lắng. UBND huyện cũng băn khoăn không kém, vì
đây là một cách làm đầu tiên mà địa phương chưa được chứng kiến bao giờ
và sau một thời gian dài đã phải chịu quá nhiều áp lực. Do việc khiếu kiện kéo
dài nên cả hai phía đã dùng quá nhiều từ ngữ không hay để xúc phạm lẫn
nhau. Dường như tính nhân văn và lòng nhân hậu, kể cả truyền thống hi sinh
cho cách mạng, cũng gần như biến vào đâu đó mất rồi khi đối mặt nhau.
Điều mà chúng tôi tập trung động viên là sự hi sinh của chính các gia
đình này, sự hi sinh của biết bao đồng đội và đồng nghiệp trong thời kì chiến
tranh với mong ước là chỉ cần độc lập ăn cơm với muối cũng được.
Bây giờ có nhà, có đất rồi, nhường lại một phần cho chủ cũ có gì là ghê
gớm. Thế là các gia đình chính sách đồng ý nhận 50% tổng số tiền bồi hoàn
phần đất của mình, 50% còn lại thì trao cho chủ đất, tức là phía hộ gia đình
bộ đội. Và, điều quan trọng mà mọi người muốn biết là tại sao họ lại đồng tình
với phương án đưa ra nhanh như thế. Câu trả lời là bởi vì chúng tôi đã chọn
được nòng cốt. Đồng chí nguyên xã đội trưởng xung phong đồng ý nhận 50%
trước tiên, đồng chí này đã được "giác ngộ" là có một chỗ ở từ trên mảnh đất
cũng là quá tốt rồi. Riêng các gia đình còn lại thì đời nào lại chấp nhận dễ
dàng. Cách giải quyết của chúng tôi là giao cho nhà trường nhận chăm sóc
bà mẹ anh hùng cho đến suốt đời, cấp nhà tình thương cho bác thương binh
tương đương với 50% số tiền mà bác phải chuyển cho chủ cũ, gia đình liệt sĩ
thì được cấp một nhà tình nghĩa cũng bằng đúng 50% số tiền bồi hoàn đã
được Sở Tài chính quy định. Như vậy các gia đình chính sách thì không bị
thiệt. Gia đình đồng chí xã đội trưởng thì mất đi 50% tiền bồi hoàn nhưng bù
lại là có nhà có đất được cấp sổ đỏ
Thế mới biết để có một cách giải quyết hợp lí và mọi người hài lòng thì
cần phải vận dụng tất cả các văn bản mang tính pháp lí cùng với những chính
sách có thể giải quyết được. Điều hạnh phúc nhất của chúng tôi là nhìn thấy
nụ cười của tất cả các thành viên từ hai phía. Các đồng chí lãnh đạo huyện
và xã thì hỏi chúng tôi có bí quyết gì mà giải quyết nhanh thế trong khi sự việc
này đã đứng lại hơn 3 năm qua. Còn gia đình liệt sĩ và bà mẹ anh hùng thì
nói: Các con là vốn quý của đất nước!
23. KHÔNG THỂ KÉO DÀI MỘT ĐỘNG THÁI NẾU KHÔNG SỨC Ỳ MỚI SẼ NẢY SINH
Khi bắt đầu triển khai cuộc vận động kỉ cương tình thương trách nhiệm
trong toàn ngành cũng là khi GD - ĐT cả nước còn rất nhiều khó khăn như cơ
sở vật chất thiếu thốn, việc nợ lương, nợ tiền dạy thêm giờ thường xuyên xảy
ra. Cùng thời điểm này, Chính phủ cũng chỉ đạo chấn chỉnh trang phục công
sở.
Một hội thảo về đề tài này được Công đoàn ngành phối hợp với Sở GD
- ĐT tổ chức. Nhiều ý kiến đã yêu cầu nào là tăng lương, tăng các khoản phụ
cấp, nào là tăng cường đầu tư cơ sở vật chất để trường ra trường, lớp ra lớp,
để người giáo viên được làm việc trong môi trường tốt thì mới chấn chỉnh kỉ
cương nền nếp được. Trong số các ý kiến thảo luận, chúng tôi chú ý đến phát
biểu của một số giáo viên vùng khó khăn như sau:
- Về tiền lương và các chế độ phụ cấp thì phải chờ Chính phủ chỉ đạo
chung. Về xây dựng trường học mới thì do ngân sách còn khó khăn, chắc
chắn việc đầu tư không thể đòi hỏi cùng một lúc mà xây dựng được. Vì vậy
nơi nào được đầu tư thì mừng cho nơi đó. Có một điều tác động đến tất cả
các nhà giáo là trang phục. Tại sao ngành Y tế được trang bị đồng phục còn
ngành Giáo dục lại không? ăn mặc nghiêm túc và đẹp trước mặt học sinh
cũng là một yêu cầu của kỉ cương trách nhiệm và cũng là yêu cầu của giáo
dục trẻ. Trong lúc tiền lương còn thấp, chưa đủ trang trải cho cuộc sống bình
thường của một nhà giáo, đề nghị hãy nghiên cứu cấp cho giáo viên một bộ
trang phục xem như bắt đầu của cuộc vận động kỉ cương tình thương trách
nhiệm. Với sự quan tâm của cấp trên, chúng tôi xin hứa sẽ tự chấn chỉnh kỉ
cương và trách nhiệm.
Thế là UBND tỉnh đi đến quyết định cấp 2 năm liên tiếp mỗi nhà giáo
được 1 bộ quần áo nhân Ngày Nhà giáo Việt Nam và 2 năm sau đó mỗi năm
được trợ cấp 50%. Cuộc vận động kỉ cương tình thương trách nhiệm được
bắt đầu đồng thời với sự thể hiện quan tâm của chính quyền địa phương như
thế nên đã đạt được hiệu quả lúc đầu rất tốt. Tuy nhiên sau đó tiền lương có
nhiều thay đổi, việc tiếp tục cấp 50.000đ/ giáo viên vào đầu năm học không
còn mang một ý nghĩa quá lớn như trước và cũng không còn làm xúc động
các giáo viên như là một động lực động viên tinh thần để củng cố tình thương
và trách nhiệm.
Do vậy, không thể kéo dài một động thái mà phải chuyển sang hình thái
khác để tiếp tục động viên, nếu không sức ỳ mới sẽ được nảy sinh.
24. TÌNH THƯƠNG, TRÁCH NHIỆM PHẢI GẮN VỚI TUÂN THỦ QUY CHẾ
Trong quá trình triển khai cải cách giáo dục ở những năm đầu của thập
kỉ 80 thì việc xét lên lớp của học sinh Tiểu học có một yêu cầu là nếu học sinh
nghỉ học từ 45 ngày trở lên thì phải chịu lưu ban.
Năm ấy có một học sinh của một trường Tiểu học đã học rất giỏi nhưng
ốm và phải nghỉ học 50 ngày. Rất thương học sinh, cùng sự tha thiết đề nghị
của gia đình cũng như để củng cố niềm tin của học sinh, nhà trường đã đồng
ý xét cho học sinh lên lớp và đã sửa lại trong học bạ của học sinh với số ngày
nghỉ chỉ là 44 ngày mà thôi.
Mọi việc tưởng chừng như đơn giản, suôn sẻ cho đến khi mâu thuẫn
giữa Hiệu trưởng và giáo viên chủ nhiệm nảy sinh trong quá trình công tác.
Đơn thư và tố cáo của giáo viên gửi về Sở GD - ĐT kết tội Hiệu trưởng vi
phạm quy chế. Phạm quy chế thì là một tội nặng và Hiệu trưởng phải chịu một
trong các hình thức kỉ luật.
Trong khi tiến hành kiểm điểm, ai cũng thấy thương Hiệu trưởng vì đã
quý học trò, ai cũng trách giáo viên chủ nhiệm vì đã quá nhẫn tâm. Nhưng
điều quan trọng là ai cũng thừa nhận Hiệu trưởng đã vi phạm quy chế khi cho
phép điều chỉnh lại số ngày nghỉ của học sinh trong học bạ.
Rõ ràng tình thương, trách nhiệm và tuân thủ quy chế là các yêu cầu cơ
bản của một nhà quản lí giáo dục, các yêu cầu này liên kết với nhau một cách
chặt chẽ, khoa học và rất biện chứng. Thiếu một trong các yếu tố này, công
tác quản lí dễ vấp phải sự thất bại. Muốn có sự kết hợp hài hoà giữa ba yếu
tố trên, nhà quản lí cấp cao hơn phải bổ sung định nghĩa để cấp dưới dễ thực
hiện. Vậy định nghĩa đó là gì? Mục tiêu xuyên suốt và nhất quán của ngành
Giáo dục là giảng dạy và giáo dục trẻ cho thật tốt, như vậy ngày nghỉ của học
sinh phải được xem là ngày đứa trẻ chưa được hoặc không được học. Với
định nghĩa này thì những ngày nghỉ học của học sinh không còn là ngày vật
chất mà là ngày chưa được học. Như vậy đối với học sinh mất 45 ngày học,
Hiệu trưởng quy định cho trẻ có ít nhất 10 ngày học lại kiến thức đã bị mất.
Những ngày giáo viên dạy bù cần được ghi sổ đầu bài cẩn thận thì việc xét
lên lớp sẽ công khai, công bằng, đầy tính nhân văn và đúng với mục đích,
mục tiêu giáo dục trẻ.
Thế đấy, phải có một Hiệu trưởng bị kỉ luật khiển trách thì mới tạo được
lối thoát cho những cán bộ quản lí khác.
25. BÀI TOÁN KHÓ TRONG QUẢN LÍ CHỈ CÓ THỂ GIẢI ĐƯỢC BẰNG CHÍNH NHỮNG QUY ĐỊNH MANG TÍNH PHÁP LÍ
Trong lớp bồi dưỡng Hiệu trưởng các trường THCS và THPT có bài
giảng về xã hội hoá giáo dục với phạm vi là công tác huy động cộng đồng
tham gia hỗ trợ phát triển giáo dục ở cơ sở. Đây là một bài học khá hấp dẫn
trong modun bồi dưỡng cán bộ quản lí do Dự án Phát triển Giáo dục Việt
Nam phối hợp với Ngân hàng Thế giới đã triển khai vào năm 2000. Trong đó
có hai con đường hoặc hai cách để thực hiện huy động cộng đồng tham gia
và quá trình giáo dục: Con đường thứ nhất (cách thứ nhất) là xác định đối
tượng huy động trước rồi mới xác định mục tiêu và phương thức thực hiện.
Con đường thứ hai (cách thứ hai) là xác định mục tiêu huy động trước rồi mới
chỉ ra đối tượng và phương thức triển khai.
Chẳng hạn như khi nhà trường muốn xây dựng một thư viện. Sơ đồ
công tác huy động cộng đồng như sau:
- Mục tiêu: Xây dựng thư viện.
- Đối tượng: Ở đây cần phân biệt giữa trường công lập và ngoài công
lập.
+ Với trường công lập thì đối tượng huy động phải là cấp trên hoặc
chính quyền địa phương.
+ Với trường ngoài công lập thì đối tượng huy động phải là người đóng
góp tài chính (Hội đồng quản trị) và người đóng góp học phí tức là phụ huynh
học sinh.
- Phương thức:
+ Với trường công lập, phương thức triển khai phải bắt đầu từ bản đề
nghị, lập báo cáo dự án, dự toán ngân sách, dự kiến nguồn thu ngoài ngân
sách (nếu có). Khi dự án được phê duyệt thì nhà trường mới được triển khai.
+ Với trường ngoài công lập thì lập báo cáo dự án theo đúng trình tự
xây dựng cơ bản. Một khi thủ tục được hoàn tất thì phân công người phụ
trách dự án và triển khai.
Một bài tập khác là: Xác định mục tiêu đối tượng và phương thức huy
động cộng đồng để nâng cao chất lượng ở một nhà trường. Với bài tập này,
cần xác định như sau:
- Mục tiêu: Thay đổi kết quả dạy và học của nhà trường.
- Đối tượng huy động:
+ Trong nhà trường thì chính là lực lượng giáo viên. Điều quan trọng là
phải hiểu được điểm mạnh điểm yếu của từng người để phân công người giỏi
hướng dẫn người chưa giỏi và người mới vào nghề; người mạnh giúp người
yếu; Hiệu trưởng bồi dưỡng người kế cận mình…
+ Ngoài nhà trường thì có hai phần:
* Huy động phi vật chất bao gồm những người có khả năng tư vấn, có
kinh nghiệm quản lí cũng như kinh nghiệm dạy tốt…
* Huy động vật chất để hỗ trợ tinh thần cho đội ngũ hăng say làm việc.
- Phương thức huy động: Phương thức chính ở đây là sự phân công,
giao việc, thử thách, rút kinh nghiệm, giúp đỡ, hỗ trợ để từng cá nhân đứng
vào đúng vai và đúng chỗ của mình.
Ngoài ra còn phải biết ai có khả năng ngoại giao, ai làm tốt công tác
quần chúng, ai có khả năng trình bày báo cáo trước cấp trên để những vấn
đề của trường đạt hiệu quả tốt với phương án tối ưu nhất.
Điều bất ngờ đối với chúng tôi là trong quá trình thảo luận, học viên
không hỏi vào bài tập mà hỏi chúng tôi là: "Bây giờ Chính phủ đã không cho
dùng ngân sách mua xe máy công, xin cho chúng tôi biết chúng tôi huy động
ai và với phương thức nào để Hiệu trưởng các trường vùng sâu có phương
tiện đi công tác?". Có thể nói đây là một bài toán quá khó. Chúng tôi phải mất
gần một tuần vắt óc suy nghĩ mới tìm ra đáp án như sau:
- Mục tiêu huy động là: Xe máy công cho nhà trường hoạt động.
- Đối tượng huy động: Có hai đối tượng chính là: Ngân hàng hoặc nhà
tài trợ. (Ngân sách thì không thể), nhà tài trợ thì khó mà tìm được. Vậy chỉ
còn một đối tượng có thể chính là ngân hàng.
- Phương thức:
+ Đề nghị ngân hàng đồng ý cho vay ưu đãi và bằng tín chấp. Sau 3
tháng chưa thanh toán tiền lãi thì ngành sẽ phải trích lương để trả cho ngân
hàng theo hợp đồng. Công đoàn ngành cũng tham gia vào cuộc.
Sau khi mua xe bằng vốn vay, mỗi lần xe lăn bánh là mỗi lần được lập
bảng kê khai chi phí bằng với tiền "xe ôm" đúng giá quy định ở địa phương,
cứ sau 3 tháng là nhà trường dùng công tác phí để thanh toán với ngân hàng.
Bằng cách này, ở những vùng khó, chỉ cần sau 3 năm là nhà trường có
thể trả cả vốn lẫn lãi cho ngân hàng để sở hữu 1 chiếc xe máy sản xuất trong
nước.
Một bài toán khó cho nhà quản lí như thế chỉ có thể giải được bằng
chính những quy định mang tính pháp lí. Điều thật sự khó khăn ở đây là phải
vận dụng sao cho phù hợp vào đời sống thực tế và không trái luật.
26. GIẢI QUYẾT CHÍNH SÁCH, TẠO NIỀM TIN CHO GIÁO VIÊN VÙNG KHÓ KHĂN
Một trong những nguyên tắc trong phân công sinh viên mới ra trường
của chúng tôi là không đưa nữ sinh về các vùng quá sâu hoặc vùng nước
mặn xâm nhập. Có một lần, sau khi phân công xong, có hai sinh viên nam nữ
gặp chúng tôi để xin được hoán đổi:
- Thưa cô, em xin được tình nguyện về vùng nước mặn và cũng là
vùng dân tộc thay cho bạn nam bởi vì bạn nam mồ côi cha mẹ, sống với bà,
nay bà già yếu, bạn cần dạy gần nhà để chăm sóc bà.
- Thưa cô, bạn nữ còn độc thân và tình nguyện giúp em, mong cô quan
tâm để em được vừa dạy học vừa chăm sóc bà em. Em xin hứa sẽ làm thật
tốt nhiệm vụ để không phụ lòng tốt của cô.
Lí do đưa ra quá chính đáng, chúng tôi đã dễ dàng chấp nhận và cho
thêm một lời hứa là sau 3 năm, nếu cô giáo làm tốt nhiệm vụ sẽ được sớm
xem xét thuyên chuyển về quê nhà (thay vì theo quy chế là phải có ít nhất 5
năm công tác mới được xem xét nguyện vọng).
Thế nhưng, sau 3 năm khi chúng tôi chưa kịp xét thuyên chuyển thì
việc chia tách địa giới hành chính của tỉnh đã xảy ra trước. Thế là chúng tôi
không thể giữ được lời hứa với giáo viên của mình.
Quy định của UBND tỉnh mới tái lập là giáo viên sau khi có 5 năm làm
việc tại tỉnh mới được xét thuyên chuyển. Bởi vậy lời hứa đã không thực hiện
được không phải do chủ quan mà hoàn toàn do khách quan.
5 năm sau, cô giáo lại tiếp tục xin chuyển về quê nhà. Nhưng điều đáng
nói ở đây là vì cô giáo này dạy ở một vùng dân tộc, nước mặn, rất khó khăn
nên việc tìm người mới thay thế là không đơn giản chút nào. Tỉnh mới lại tiếp
tục động viên cô giáo ở lại.
Vì tình cảm với vùng sâu, chúng tôi cùng động viên cô giáo hi sinh thêm
2 năm nữa. 2 năm sau cô giáo lại tiếp tục yêu cầu xin chuyển về tỉnh nhà với
vẻ quyết liệt hơn. Nhìn khuôn mặt cô giáo, lòng chúng tôi se thắt lại. Cô nữ
sinh ngày nào hồn nhiên tươi trẻ nay đã bị rám nắng và nét phong trần hiện
lên trên khuôn mặt bầu bĩnh.
Điều khó khăn nhất của chúng tôi là UBND tỉnh mới lại ra văn bản là tất
cả giáo viên sau 10 năm đóng góp mới được giải quyết thuyên chuyển theo
nguyện vọng.
Nhận thấy trách nhiệm của mình đối với giáo viên đã tình nguyện về
vùng sâu vùng xa 8 năm qua, chúng tôi đã gửi công văn và thẳng thắn yêu
cầu giải quyết đặc cách cho giáo viên này được thuyên chuyển vào dịp đầu
năm học đó. Và chỉ có làm được điều này thì mới tạo niềm tin cho những nhà
giáo đã chấp nhận gian khổ, hi sinh vì sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ ở vùng
thật sự khó khăn.
Cuối cùng thì cô giáo cũng đã được thuyên chuyển về quê nhà và
chúng tôi đã hỗ trợ cho cô 500.000 đồng để điều trị bệnh rám da trên đôi má
bầu bĩnh năm nào.
27. MỞ ĐƯỜNG CHO HỌC SINH SAI PHẠM CÓ THỂ TRƯỞNG THÀNH
Vào năm học 1999 - 2000, trong khi Hội đồng chấm thi đang làm việc
thì cô thư kí hội đồng đề nghị họp lãnh đạo để giải quyết một trường hợp vi
phạm nghiêm trọng quy chế.
Sự vi phạm chính là thí sinh đã không làm bài thi môn Lịch sử, chỉ viết
vỏn vẹn 2 câu trên tờ giấy thi: "Học hành ba chữ lem nhem - Thấy rượu thì
thèm, ra khỏi lớp thì vui".
Hội đồng đề nghị xử lí thật nghiêm khắc để làm gương cho học sinh
toàn tỉnh và cấm thi 3 năm đối với học sinh này.
Việc xử lí kỉ luật học sinh thì không có gì khó khăn và nằm trong tầm tay
của các nhà quản lí, nhưng để cho đứa trẻ này trưởng thành lại là một vấn đề
thực sự khó khăn.
Trước tình thế này, chúng tôi đã quyết định phải gặp gỡ giáo viên dạy
học sinh môn Lịch sử, cha mẹ và bản thân học sinh. Ban đầu giáo viên dạy
Lịch sử lo sợ việc gánh trách nhiệm nên đã tìm cách lẩn tránh. Phụ huynh thì
cũng lo sợ, nhưng sau đó vì trách nhiệm đối với con nên đã cùng giáo viên
dạy bộ môn và con đến Sở GD - ĐT. Cuộc đối thoại của chúng tôi đã diễn ra
như sau:
- Anh là bố của cháu, xin anh cho chúng tôi biết gia đình sống bằng
nghề gì.
- Chúng tôi sống bằng nghề buôn bán trên sông.
- Anh có thể trả lời chúng tôi 2 câu hỏi được không?
- Vâng ạ.
- Câu thứ nhất là sau năm 1945, đất nước ta phải đương đầu với điều
gì? Câu thứ hai là vì sao nước Nhật phát triển như hiện nay?
Người nông dân trả lời như sau:
- Sau năm 1945, đất nước ta phải đối đầu với giặc dốt, giặc đói và giặc
ngoại xâm. Còn nước Nhật trở thành nước tiên tiến là bởi vì khoa học kĩ thuật
của họ tiên tiến ở tầm cao.
- Vậy là anh có thể đạt điểm tối thiểu của môn Lịch sử kì thi tốt nghiệp
THPT và thoát khỏi điểm loại (2 điểm), vậy mà "quý tử" của anh đã làm một
bài thi chỉ với một câu vu vơ như anh thấy đó.
Sau khi đọc xong bài làm của con, vị phụ huynh đã tái mặt và nói:
- Xin các đồng chí lãnh đạo thông cảm, chúng tôi là nông dân nghèo,
chỉ biết lam lũ lao động để có tiền nuôi con ăn học. Trăm sự nhờ các thầy cô
giúp cho.
- Hội đồng quyết định đuổi học và cấm 3 năm cháu không được thi. Anh
mang cháu về để theo anh buôn bán trên sông nước vậy.
Lúc bấy giờ cả hai bố con đều khóc và xin tha thứ. Bố thì xin hứa sẽ
quan tâm dạy con để cháu tốt hơn. Con thì hứa là nếu được học lại sẽ tốt
nghiệp vào năm sau.
Có lẽ đối với nhà quản lí giáo dục thì chỉ cần bấy nhiêu đó thôi. Chúng
tôi đã yêu cầu hai bố con viết cam kết, công bố tha thứ học sinh và chỉ đạo
cho nhà trường phân công giáo viên chủ nhiệm có nhiều kinh nghiệm quản lí
và giáo dục học sinh này.
Và 1 năm sau học sinh đó đã đỗ tốt nghiệp, “băng quậy”, gồm 11 em do
em này cầm đầu cũng lần lượt vào trường học tập ngoan ngoãn hơn trước.
28. SỰ CẦN THIẾT VỚI TUỔI TRẺ LÀ NIỀM TIN
Trong lịch sử giáo dục Thành phố Hồ Chí Minh có một thời kì sinh viên
tốt nghiệp Trường Đại học Sư phạm và Trường Cao đẳng Sư phạm không có
việc làm. Sở GD - ĐT không thể phân công, còn các trường thì biên chế
không có. Khả năng tiếp nhận giáo viên mới ở các trường cũng không còn.
Từ sự lo lắng của phụ huynh, nỗi niềm của sinh viên, các báo, nhất là
báo Tuổi trẻ, đã đưa điều này trên trang đầu tiên. Tuy nhiên, ở những năm
đầu của thời kì đổi mới, chưa có nhiều người đọc báo như bây giờ. Mặt khác,
việc đi lại giữa Thành phố Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây Nam Bộ cũng
không phải là dễ dàng. Trong thâm tâm người dân Thành phố Hồ Chí Minh thì
khu vực miền Tây thuộc vùng sâu vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.
Mặc dù ở tỉnh chúng tôi đang thiếu giáo viên trầm trọng nhưng khi đưa
việc này ra bàn thì nhiều cơ quan có liên quan cũng như chính trong ngành
Giáo dục cho rằng không nên tiếp nhận sinh viên từ Thành phố Hồ Chí Minh
về với hai lí do: Một là chắc gì các em sẽ ở lại với địa phương, không khéo thì
vừa mất công vừa tốn của vô ích; hai là địa phương mình sẽ biến thành nơi
thực tập và rèn luyện tay nghề cho thành phố lớn. Về lí thuyết là như thế,
nhưng thực tiễn là trên hết. Một bên đang cần giáo viên để giảng dạy, một
bên cần giải quyết công ăn việc làm cho một lớp thanh niên mới. Chính điều
này đã giúp cho hai Sở GD - ĐT và hai UBND tỉnh, thành gặp nhau và thống
nhất cao về quan điểm phối hợp. Việc còn lại là sinh viên nghĩ gì và làm gì về
chủ trương này mới là điều quan trọng.
UBND và Sở GD - ĐT Thành phố Hồ Chí Minh đã dành cho chúng tôi
hai buổi tiếp xúc với sinh viên. Một buổi dành cho Trường Đại học Sư phạm
và một buổi dành cho Trường Cao đẳng Sư phạm. Thực chất buổi gặp gỡ
này chính là cuộc giao lưu đối thoại mà ngày nay nhiều đơn vị, nhiều nơi đã
và đang làm.
Qua trao đổi, chúng tôi hiểu tâm tư và nguyện vọng của sinh viên tập
trung vào ba yêu cầu chính là nơi công tác, chỗ ở và điều quan trọng là sau
khi hoàn thành nghĩa vụ "chi viện" trở về, các em có được đón nhận như lúc
tiễn đưa không? Có thể nói, yêu cầu thứ ba là yêu cầu mà chúng tôi trăn trở
nhiều nhất. Nhưng chưa hết, yêu cầu của Sở GD - ĐT Thành phố Hồ Chí
Minh đối với chúng tôi cũng là một khó khăn đáng kể. Đó là, chúng tôi phải
nhận cả sinh viên Tiếng Nga - môn học mà ở chỗ chúng tôi chưa từng dạy
bao giờ và Tiếng Pháp - từ lâu rồi không còn dạy nữa.
- Việc sắp xếp chỗ ở thì không khó, giáo viên mới có thể ở nhà tập thể
hoặc gửi vào nhà dân gần trường. Cái khó chính là điều kiện sẽ phải vất vả
hơn nhiều so với thành phố. Khi đưa ra vấn đề này thì sinh viên có vẻ thích
thú và muốn khám phá.
- Việc phân công giáo viên thì phải đầu tư khá nhiều thời gian:
+ Với giáo viên các bộ môn khác thì dễ dàng phân công trong 5 năm
liên tiếp.
+ Với giáo viên dạy Tiếng Pháp và Tiếng Nga cũng phải nhận liên tiếp
trong 5 năm thì chỉ có 4 khoá thôi (vì từ khi chúng tôi bắt đầu nhận sinh viên,
thành phố cũng nhận ra việc thừa trong đào tạo và đã tạm dừng việc tuyển
sinh môn học này). Thật tình, ban đầu chúng tôi không biết phân công vào
đâu và để các em làm gì. Thế nhưng, sau một thời gian "vắt óc" suy nghĩ,
phối hợp với các ngành có liên quan thì cách giải quyết trở nên như một sáng
kiến mới: Đối với sinh viên Tiếng Nga, đưa một số về dạy cho cán bộ theo
chương trình của tỉnh do Ban Tổ chức chính quyền đang triển khai, còn một
số về Trung tâm Ngoại ngữ và Trường Bổ túc văn hoá tỉnh để dạy cho giáo
viên. Số còn lại cùng với sinh viên Tiếng Pháp được phân công dạy ở các
trường trung học với hai phương án: một là dạy môn tự chọn (sinh ngữ 2) cho
học sinh giỏi; hai là sau khi thi tuyển lớp 10 thì xin tăng thêm chỉ tiêu cho một
lớp tiếng Pháp và tiếng Nga ở các trường trọng điểm. Làm được điều này, bà
con hân hoan lắm vì đã mở ra cho con em một cơ hội được vào trường công
lập, điều tưởng chừng như một giấc mơ khó thành hiện thực. (Cũng phải nói
thật là bà con vẫn phải âm thầm cho con mình học thêm Anh văn ở bên
ngoài).
+ Với số sinh viên còn lại, lẽ ra có thể phân công tất cả vào nơi mình
đang thiếu. Nhưng đối với một số sinh viên giỏi, chúng tôi phải tìm cách sử
dụng cho hợp lí. Các em phải được đưa về một số trường tốt, nơi mà các em
có thể phát huy tốt vai trò của mình, không lãng phí chất xám và có thể bổ
sung thêm nguồn lực cho đội ngũ đang vận hành nơi đó.
- Vấn đề duy nhất khó khăn chính là xác định con đường trở lại của các
em. Làm thế nào để các em có thể yên tâm ra đi mà không phải bận lòng, kể
cả đấng sinh thành? Điều này lại chưa có tiền lệ! Sau khi giải xong bài toán
phân công, chúng tôi trình lên UBND tỉnh và UBND thành phố kế hoạch triển
khai, trong 5 năm và kèm theo một kiến nghị đối với bên nhận là sau 5 năm
cần tổ chức đưa các em trở về thành phố (trừ số tình nguyện ở lại hoặc lập
gia đình riêng), với bên cho đi cần phải có một lời hứa sẽ tiếp nhận trở lại.
Thật ra lúc bấy giờ, chúng tôi phân công được số sinh viên này là một giải
pháp tình thế cứu nguy cho tình trạng sinh viên ra trường mà không được
phân công. Vì thế UBND thành phố (thông qua Ban Tổ chức chính quyền
thành phô) đã vui vẻ nhận lời và kí văn bản là sẽ tiếp nhận theo nguyên tắc
bước 1 về ngoại thành và bước 2 sẽ thu xếp cho về nội thành (nếu giáo viên
có yêu cầu).
Thế là buổi lễ đưa tiễn đã diễn ra tưng bừng, Trưởng ban Tổ chức
chính quyền và Ban Giám đốc Sở GD - ĐT thành phố đã tiễn các em về tận
miền Tây Nam Bộ trong sự tiếp đón nồng hậu của UBND tỉnh, lãnh đạo Ban
Tổ chức chính quyền và Ban Giám đốc Sở GD - ĐT.
Chính việc tạo được niềm tin của sinh viên năm đầu tiên mà kế hoạch
đã thực hiện một cách trọn vẹn, liên tiếp trong 5 năm. Đa số các em đều công
tác tốt ở địa phương và ngày nay có một số đã trưởng thành và đang là cán
bộ quản lí giáo dục của Thành phố Hồ Chí Minh.
29. CHỈ CẦN MỘT ĐÊM LÀ BẰNG MỘT THÁNG KHI CÓ SỰ ĐỒNG TÂM HIỆP LỰC
Ban chỉ đạo Hội khoẻ Phù Đổng của Sở GD - ĐT đã dành gần một
tháng để chuẩn bị hoàn tất mọi công việc cho ngày khai mạc.
Thời điểm tổng duyệt là 14 giờ trước buổi sáng khai mạc 1 ngày. Sau 2
giờ trình diễn thử, tất cả mọi người đều im lặng và cùng cho rằng không thể tổ
chức trong khu vực nhà đa năng được, với lí do là với số học sinh gần 1000
mà diện tích quá chật chội, từ đó mọi sự biểu diễn gần như chỉ tạo cho người
ngồi xem một cảm giác khó chịu mà thôi.
Khoảng 16 giờ, chúng tôi họp Ban tổ chức để rút kinh nghiệm. Nhiều lí
lẽ đã được đưa ra như:
- Vì sân vận động đang nâng cấp và chưa khánh thành nên không
được tổ chức ở đó.
- Vì đã chuẩn bị cả tháng nay và đã tổng duyệt rồi, xin được tiếp tục tổ
chức.
- Chỉ còn một đêm nữa thôi, không thể làm gì được và cũng không thể
chuyển đến đâu được, không còn cách nào để khắc phục.
Chúng tôi đã hỏi Ban tổ chức như sau:
- Các đồng chí có thấy hài lòng với những gì mình đã làm không?
- Không ạ!
- Ngày mai khi các đại biểu đến tham dự lễ khai mạc, chúng ta dự kiến
họ sẽ phát biểu gì về buổi lễ này?
- Dạ, tổ chức kém quá.
- Chúng ta có thể chuyển ra sân vận động được không?
- Không ạ!
- Vì sao?
- Việc sửa chữa vừa mới hoàn thành, Sở Thể dục Thể thao không đồng
ý cho tổ chức ngoài sân ạ.
- Thế chúng ta xin tổ chức ở sau lưng khán đài nhìn ra quốc lộ có được
không? Nơi đó phù hợp với số lượng của chúng ta mà cũng không phải là
trong sân vận động thì sao?
- Dạ, chúng ta chưa có giấy phép ạ.
- Giấy phép thì xin ở đâu?
- Dạ, Sở Thể dục Thể thao.
- Thế thì chúng ta xin phép vậy.
- Làm sao mà kịp thời gian ạ?
- Lãnh đạo Sở GD - ĐT sẽ trực tiếp làm việc này.
17 giờ, chúng tôi họp toàn thể cán bộ cơ quan Sở GD - ĐT. Khi nghe
chúng tôi quyết tâm thay đổi địa điểm tổ chức khai mạc vào sáng hôm sau,
mọt số người tỏ ra lo ngại và cùng đưa ra nhiều lí do để bác bỏ ý kiến này.
Chúng tôi lại tiếp tục hỏi:
- Mấy năm chúng ta mới tổ chức một lần Hội khoẻ Phù Đổng cấp tỉnh?
- 5 năm
- 5 năm mới có một lần, mọi người có dự định để lời chê bai theo suốt
một đời không?
- Dạ, không ạ.
- Kinh phí tổ chức lấy từ đâu?
- Từ ngân sách giáo dục do tỉnh cấp.
- Chúng ta dự định "đốt tiền" phải không?
- Dạ, không ạ.
- Vậy đề nghị tất cả chúng ta cùng lao động một đêm để bảo tồn danh
dự nhé.
- (Im lặng).
- Ai cùng làm với chúng tôi thì xin giơ tay lên. Vắng một người thì Văn
phòng hãy đi thuê lực lượng lao động bên ngoài ngay nhé.
Thế là tất cả các cánh tay lần lượt giơ lên và tất cả cùng vào cuộc.
Chúng tôi đã không phải lao động đến 4 giờ sáng như dự kiến mà chỉ cần đến
11 giờ 30 tối là mọi việc đã hoàn tất.
Buổi lễ khai mạc Hội khoẻ Phù Đổng cấp tỉnh lần đó đã diễn ra thật tốt
đẹp. Các cán bộ, nhân viên cơ quan Sở GD - ĐT đều cảm thấy vô cùng hạnh
phúc và luôn nhắc về điều này như một dấu ấn của tình đoàn kết, sự quyết
tâm và tinh thần tất cả vì công việc của cơ quan như việc của chính gia đình
mình.
Thế mới biết, một khi đã có sự đồng tâm hiệp lực thì chỉ cần lao động
một tối thôi là bằng một tháng làm việc trong điều kiện đơn lẻ.
30. TRƯỜNG BÁN CÔNG CŨNG CÓ HỌC SINH GIỎI CẤP QUỐC GIA
Nhiều trường bán công THPT thường than phiền về học sinh của mình
rằng, chúng tôi không được chọn học sinh, rằng sau khi tuyển vào trường
chuyên, trường trọng điểm, rồi trường công lập thì số còn lại mới đến lượt
chúng tôi.
Xét từ góc độ lí thuyết thì là như thế, nhưng xét trên bình diện sự phát
triển con người trong môi trường giáo dục lành mạnh thì hoàn toàn không
phải là như vậy
Nếu lí thuyết trên là đúng thì hễ có 1 học sinh của trường chuyên,
trường trọng điểm mà không đỗ tốt nghiệp thì tất cả học sinh trường công lập
cũng sẽ không đỗ. Tương tự như thế, nếu có 1 học sinh công lập thi rớt thì tất
cả học sinh bán công đều hỏng cả. Thực tế giáo dục lại khác, và cũng chính
do có điều kì diệu này mà chúng ta mới có nhiều nhà giáo dạy tốt và nhiều
học sinh không giỏi khi còn đi học nhưng lại thành đạt lúc vào đời.
Cũng phải thừa nhận rằng với một trường bán công, để có học sinh giỏi
môn tự nhiên sẽ không dễ dàng chút nào. Nhưng một trường bán công có thể
đặt ra cho mình hai mục tiêu chính: Một là tạo điều kiện cho nhiều học sinh tốt
nghiệp loại trung bình, hai là có học sinh giỏi ở các môn xã hội. Muốn đạt
được điều này thì trường bán công phải làm gì? Chúng tôi đã chỉ đạo như
sau:
- Trước hết là đội ngũ nhà giáo cần nhìn vào trường chuyên và trường
trọng điểm để tìm hiểu tại sao nơi đó lại có học sinh chưa tốt nghiệp. Có lẽ
điều quan trọng chính là trong một tập thể học sinh giỏi vào một lớp, một
trường thì nhất định sẽ có một tập hợp nhỏ được nhìn nhận là kém trong số
giỏi. Ban đầu thì cho là "kém trong số học sinh giỏi", nhưng dần dà cụm từ
"trong số giỏi" sẽ bị quên lãng và chỉ còn lại một từ là "kém". Dần dà các em
học sinh này rất dễ trở thành kém thật.
- Từ đó, việc xác định quy trình giáo dục của trường bán công là phải
tìm "đầu đàn" trong một lớp, một môn học. Tập hợp đầu đàn để làm nòng cốt
tác động đến đối tượng còn lại và xem đó chính là những hạt ngọc của
trường. Mà như chúng ta đã biết thì ngọc càng mài sẽ càng sáng. Đồng thời
việc mài ngọc cần phải chọn thợ lành nghề, cũng có nghĩa là phải chọn giáo
viên có khả năng dạy tốt đối tượng này để phân công phụ trách.
- Việc chuẩn bị cho học sinh thi tốt nghiệp là phải bắt đầu từ năm học
đầu tiên của THPT. Trên một bức tranh bao giờ cũng có những nét đậm, nhạt
khác nhau thì việc trang bị kiến thức cho học sinh cũng như thế. Có nghĩa là
trên đường dẫn dắt học sinh đến với kiến thức, phải đồng thời nhằm vào ba
mục đích: Học để có hiểu biết (khi nào cần thì nghiên cứu tài liệu) và học để
biết cách tư duy (dành cho đối tượng thi vào đại học) và học để thi tốt nghiệp.
Trường bán công cần lựa chọn nội dung và phương pháp trong chiến lược
dạy học của mình cho số học sinh học vừa đủ để thi tốt nghiệp.
Với phương thức triển khai và cách làm như trên, các trường bán công
của chúng tôi đã có số học sinh tốt nghiệp THPT hằng năm luôn cao hơn dự
kiến ban đầu và điều quan trọng là trường bán công vẫn có học sinh đạt danh
hiệu Học sinh Giỏi cấp quốc gia môn Văn, Lịch sử và Địa lí, đôi khi cũng có
học sinh đạt giải ở môn tự nhiên. Có thể nói đây là niềm tự hào và hãnh diện
của các nhà giáo cũng như những học sinh được mệnh danh là "không được
chọn" đầu vào. Đồng thời đó cũng là một sự khích lệ đối với học sinh cũng
như giáo viên trong toàn ngành chứ không phải chỉ đối với hệ thống trường
bán công.
31. CÓ PHẢI “COPY” LÚC NÀO CŨNG LÀ XẤU ĐỐI VỚI HỌC SINH?Có một nhà trường ở vùng sâu, cơ sở vật chất vẫn còn phòng tạm khá
nhiều. Cô giáo lớp 4 đứng trên bục giảng bài Công dụng của nước. Cô giáo
vừa hỏi, vừa đập thước kẻ vào bảng, vừa tự trả lời và tự viết. Trong khi đó,
học sinh được yêu cầu ngồi im lặng, hai tay khoanh để trên bàn.
Quan sát hoạt động của thầy - trò, chúng ta sẽ thấy một bức tranh như
sau:
Cô giáo hỏi: Nước dùng để làm gì?
(Rầm… rầm… rầm)
Học sinh: Im lặng.
Cô giáo trả lời: Nước dùng để… để uống.
Sau đó cô giáo quay lưng về phía học sinh và viết lên bảng.
Hỏi tiếp: Nước còn dùng để làm gì nữa?
(Rầm… rầm… rầm)
………
Học sinh tiếp tục im lặng
Nếu công tác quản lí chỉ đạo không thay đổi, chấp nhận cách dạy như
thế thì quá trình dạy và học chỉ còn lại có một vế là Dạy, thiếu hẳn phần còn
lại là quá trình Học. Mà như chúng ta biết Dạy là để học sinh Được Học và
Học Được và nếu như không đạt được mục tiêu này thì việc Dạy Học trở
thành vô nghĩa, hay nói cách khác là chưa chỉ đạo dạy thật và học thật cho
con em nhân dân chúng ta.
Nhiều người đã cho rằng vì giáo viên trình độ 9+3 nên không thể thực
hiện được việc đổi mới phương pháp giáo dục, chỉ có thể dạy theo phương
pháp cổ điển. Có thể biện bạch như thế đối với một số nhà giáo nhưng với
công tác quản lí có lẽ cần phải quyết liệt hơn trong chỉ đạo. Chẳng hạn, cũng
với tiết dạy ấy, cũng với giáo viên này, nhưng với cách dạy khác như sau:
Giáo viên không cần yêu cầu học sinh khoanh tay lắng nghe mà cho
phép học sinh tham gia vào bài giảng.
Giáo viên: Cô đố các con nước dùng để làm gì?
(Chỉ có 1 cánh tay rụt rè giơ lên)
Học sinh: Thưa cô nước dùng để uống.
Giáo viên: Thế ai cho cô biết thêm ý khác nào?
(Vài cánh tay giơ lên)
Học sinh: Thưa cô, nước còn dùng để tắm, giặt nữa ạ.
Giáo viên: Còn gì nữa nào?
(Tất cả các cánh tay giơ lên)
Thế là lần lượt học sinh đã tự xây dựng bài học với các câu trả lời rất
dễ thương như:
- Trâu bò cũng uống nước.
- Trồng cây cũng cần nước.
- Làm ruộng cũng cần nước.
- Nhà máy thuỷ điện cũng cần nước, thưa cô.
Giáo viên hỏi tiếp: Các con uống nước gì nào?
Cả lớp vui mừng, từng em, từng em một lấy từ trong cặp ra chai nước
màu đỏ.
Giáo viên: Tại sao nước lại có màu đỏ?
Học sinh: Thưa cô vì nước bẩn, mẹ con nấu với lá cây để không bị đau
bụng.
Giáo viên: Vì nước bẩn bố mẹ phải nấu lá cây. Vậy thì các con có biết
tại sao nước bẩn không?
(Tất cả các cánh tay giơ lên)
Học sinh lần lượt "kể tội" vi phạm môi trường mà các em đã chứng
kiến. Lớp học thật sự sôi nổi.
Giáo viên hỏi tiếp: Thế con nào không có nước uống?
(3 cánh tay giơ lên)
Các em đã cho rằng vì nhà nghèo, bố mẹ ra đồng sớm không nấu
được nước để các con mang theo. Và giáo viên hiểu ngay có 3 gia đình
nghèo cần được giúp đỡ.
Tất cả thời gian để tổ chức hoạt động dạy và học như trên chỉ xảy ra
trong 10 phút. Thế thì 25 phút còn lại giáo viên sẽ làm gì? Rất đơn giản, giáo
viên dành cho học sinh làm việc bằng cách yêu cầu các em viết lại thành một
bài với tất cả những ý tưởng mà các em đã trình bày. Giáo viên dạy Tập làm
văn ngay trong tiết Tự nhiên - Xã hội.
Trong khi học sinh viết, giáo viên có thể ngồi nghiên cứu cho tiết dạy kế
tiếp hoặc lên văn phòng đọc sách, học sinh tự quản, tự viết bài. Lúc bấy giờ
sẽ xuất hiện một số học sinh bắt chước (copy) bài viết của bạn. Sự copy (bắt
chước) trong những điều kiện như thế này là sự copy tích cực. Bởi vì nhìn,
chép, đọc,… dần dần sẽ giúp cho các em nâng cao khả năng viết của mình
một cách tiềm ẩn để đến khi kiểm tra và thi thì phải tự mình làm bài.
Rõ ràng không phải lúc nào copy cũng là xấu. Sự học phần lớn là sự
bắt chước, còn xấu hay tốt là phụ thuộc vào sự hướng dẫn và dạy dỗ của các
nhà giáo. Đây cũng là yêu cầu đổi mới chỉ đạo của chính các cán bộ quản lí.
Copy để học thì không phải là hành động xấu; copy trong quá trình kiểm tra,
đánh giá mới là điều không được làm trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ.
32. ĐÀO TẠO TRUNG HỌC CHUYÊN NGHIỆP CHO HỌC SINH TRONG TRƯỜNG THPT
Thời điểm khó khăn nhất của giáo dục trong những năm 80 chính là sự
thiếu hụt trầm trọng đội ngũ giáo viên, đặc biệt là giáo viên trung học. Ở nông
thôn cũng thiếu lực lượng y sĩ và kĩ thuật viên nông nghiệp trung cấp đáng kể.
Nhân dịp hội nghị đánh giá về công tác đào tạo trong 5 năm, nhiều địa
phương, nhiều Hiệu trưởng đã phê phán gay gắt tình trạng thiếu giáo viên ở
vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn. Nhiều người còn nặng lời, cho rằng đó là
biểu hiện của sự vô trách nhiệm đối với vùng căn cứ cách mạng, nơi mà
người dân đã chịu đựng không biết bao nhiêu bom đạn, nuôi chứa không biết
bao nhiêu cán bộ để rồi ngày hoà bình lập lại vẫn phải tiếp tục chịu sự thiếu
thầy, thiếu lớp học. Lúc bấy giờ có một ý kiến của một Hiệu trưởng có thể nói
là rất hay vì đã đề xuất là Trường Trung học Sư phạm nên chăng phối hợp
với trường THPT để đào tạo giáo viên, thay vì đào tạo tập trung ở Trường
Trung học Sư phạm thì số lượng ít quá, không đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt
ra.
Ở Hội nghị nghe ý kiến đề xuất thấy cũng hợp lí, nhưng với người cán
bộ quản lí thì việc biến những sáng kiến từ cơ sở thành chủ trương, thành nội
dung chỉ đạo thực hiện không dễ dàng chút nào.
Việc chúng tôi bắt tay vào làm đầu tiên là nghiên cứu: Nghiên cứu
chương trình 9+3 của Trung học Sư phạm và chương trình THPT xem có
những phần nào chung. Thực chất của 9+3 là tương đương 12+1, tức là có 2
năm học kiến thức phổ thông và 1 năm thuộc về nghiệp vụ sư phạm (kể cả
kiến tập và thực tập). Như vậy phần kiến thức phổ thông sau 3 năm ở trung
học là xem như được giải quyết xong, phần kiến thức sư phạm (kể cả kiến
tập và thực tập) là 10 tháng. Cách giải quyết của chúng tôi là:
- Sử dụng 3 tháng hè của lớp 10 cùng 2 tháng hè của lớp 11 (để các
em 1 tháng ôn tập chuẩn bị cho lớp 12) là được 5 tháng học.
- Đưa vào buổi thứ hai của lớp 10, 11 và lớp 12 phần nội dung của 3
tháng còn lại.
- Riêng 2 tháng thực tập thì dành cho các em sau khi tốt nghiệp THPT
vào đầu năm học đi thực tập 4 tháng, sau đó về Trường Trung học Sư phạm
ôn tập và thi tốt nghiệp với học sinh của trường.
Về chế độ chính sách:
- Đối với học sinh: Học phổ thông thì không có học bổng, thời gian học
nghiệp vụ sư phạm được cấp học bổng bằng 50% học bổng của học viên sư
phạm, thời gian đi thực tập thì học bổng bằng 100%.
- Đối với giảng viên sư phạm: Nếu dạy trong năm học mà chưa đủ giờ
thì việc đi dạy ở địa phương 1 tiết tính thành 1,5 tiết nếu trong năm học và
tính thành 2 tiết nếu dạy trong hè. Sau khi tính đủ giờ chuẩn thì thừa giờ
được tính tiền phụ trội.
Xét về góc độ kinh tế thì học sinh chọn vào sư phạm cũng phấn khởi vì
ở nông thôn lúc bấy giờ có được học bổng là gia đình mừng lắm. Trường
Trung học Sư phạm được tuyển thêm lao động, giáo viên đi dạy ở địa
phương cũng thích. Tổng chi phí để đào tạo giáo viên hệ 9+3 ở tại Trường
Trung học Sư phạm tiết kiệm được khoảng 50%. Nhưng việc tiết kiệm tiền
không phải là quan trọng mà việc có giáo viên đầu tư cho vùng khó khăn mới
là yêu cầu bức xúc.
Sự thành công ở đây là đã đào tạo được một lực lượng giáo viên
nguồn tại chỗ, các em tự nguyện chọn nghề sư phạm, được cấp học bổng,
được về Trường Trung học Sư phạm để sống, ôn tập và thi tốt nghiệp. Trong
lúc mọi nơi kêu là thiếu giáo viên vào thời điểm khó khăn thì chúng tôi đã tự
đào tạo và cung cấp đủ giáo viên cho mình.
Từ chính kết quả này, chúng tôi đã đào tạo tiếp lực lượng y tá và kỹ
thuật viên trung cấp nông nghiệp, với phương thức là Trường Trung học Y tế
và Trường Trung cấp Nông nghiệp tham gia đào tạo học sinh từ trường phổ
thông như Trường Trung học Sư phạm đã làm.
Trong số lực lượng đã được đào tạo, ngày nay nhiều người đã tốt
nghiệp Đại học Sư phạm, số còn lại được chuẩn hoá theo hệ 12+2, một số
khác đã trở thành bác sĩ, kĩ sư nông nghiệp. Ở thời điểm khó khăn nhất, các
trường THPT đã tham gia vào quá trình đào tạo hệ trung học chuyên nghiệp
với tư cách là vệ tinh cũng như một sự mở rộng mạng lưới dạy nghề ở vùng
khó khăn.
33. ĐỔI MỚI “ĂN THEO” SỰ ĐỔI MỚIVào những năm đầu thập kỉ 80, chúng tôi đã phát hiện ra rằng đề thi
của hai lần thi tốt nghiệp và tuyển sinh không ăn khớp nhau. Người ra đề thi
tốt nghiệp Tiểu học và THCS thì bám sát chương trình và sách giáo khoa, đôi
lúc còn bám đúng với nghĩa đen của nó. Có nghĩa là đề thi không dám thay
đổi số, thay đổi từ ngữ trong sách giáo khoa. Trong khi đó người ra đề tuyển
sinh vào lớp 6 và lớp 10 thì lại thoát li sách giáo khoa và chương trình khá xa
với lí lẽ là chỉ xét chọn từ cao xuống thấp cho đủ số lượng tuyển sinh mà thôi.
Tuy nhiên, xét về góc độ tổng thể quản lí giáo dục thì xuất hiện một bức
tranh hoàn toàn không tốt đẹp và có nhiều dấu chấm hỏi. Thi tốt nghiệp thì rất
nhiều điểm 9, 10 nhưng điểm tuyển sinh thì đôi khi phải tuyển đến 0,5 điểm/
môn. Xã hội thì không thể hiểu được vì sao lại có kết quả như thế (trừ những
người ra đề và cán bộ chỉ đạo chuyên môn). Mặt khác, phụ huynh còn phải bỏ
tiền để con em mình học luyện thi để rồi đổi lấy một kết quả bao giờ cũng
thấp hơn điểm tốt nghiệp khá xa. Tổng số tiền người dân bỏ ra ôn luyện và
nộp lệ phí thi tuyển sinh cùng với ngân sách chúng ta dùng để chi phí coi thi,
chấm thi cho hai kì tuyển sinh bình quân khoảng vài tỉ/ năm. Nhưng điều quan
trọng đối với các nhà quản lí là phải tìm cho được câu trả lời đâu là kết quả
thật.
Trước tình hình đổi mới của đất nước, chứng tôi quyết định “ăn theo”
sự đổi mới này bằng cách đề nghị UBND tỉnh cho phép tổ chức một kì thi tốt
nghiệp thật nghiêm túc và dùng kết quả tốt nghiệp để tuyển sinh. Với cán bộ
ra đề thi, chúng tôi yêu cầu đáp án phải có độ phân biệt thật cao để đảm bảo
sự công bằng. Chẳng hạn 1 điểm dành cho học sinh đạt điểm 10 đôi khi phả
là cả 1 bài toán chứ không phải chỉ là 1 phép toán. Dự kiến ban đầu khi xét
tuyển vào lớp 10 chỉ bằng kết quả của 2 môn Toán và Tiếng Việt (Văn) thì cán
bộ, giáo viên và phụ huynh đã phản đối vì cho là thi tốt nghiệt 4 môn, học sinh
có điểm 2 môn còn lại rất cao mà không được xét là không công bằng. Thế là
chúng tôi điều chỉnh tuyển sinh bằng cách lấy điểm của cả 4 môn cùng hệ số
1. Nhưng xem ra cũng chưa thực sự ổn lắm, gần như cả giáo viên và nhân
dân đều đề nghị là lấy điểm Toán và Tiếng Việt (Văn) hệ số 2, các môn còn lại
hệ số 1. Thế là mọi việc cải tiến không còn điều gì kiến nghị nữa, các năm
sau cứ như thế mà tuần tự triển khai. Riêng học sinh lớp 5 còn được thi trắc
nghiệm với nội dung của môn Lịch sử, Địa lí và Tự nhiên - Xã hội để được xét
làm điểm thưởng khi tuyển sinh vào lớp 6. Nhiều phụ huynh có con được
tuyển thẳng lớp 6 vẫn xin cho con được tham dự kì thi vì có nhiều kiến thức
xã hội và địa lí rất tốt.
Sự đổi mới "ăn theo" đổi mới có thể nói là một quyết định quản lí đúng
thời điểm, đáp ứng yêu cầu của nhân dân và phần lớn đội ngũ giáo viên nên
dễ dàng được các cấp lãnh đạo thông qua. Thật ra thì cũng có một số giáo
viên có tham gia luyện thi vào lớp 10 và lớp 6 phản đối ở những năm đầu,
nhưng thấy quyền lợi của mình nhỏ bé so với tất cả những gì mà xã hội phải
chi phí thì lực lượng này cũng sẵn sàng ủng hộ. Nhưng điều quan trọng hơn
là đội ngũ giáo viên khá giỏi, giáo viên tốt sau khi tuyển sinh, phụ huynh vẫn
gửi con đến nhờ ôn tập và kèm cặp. Như vậy từ sự dạy thêm đang bị lên án
bỗng trở thành sự dạy thêm mang tính chất hỗ trợ và được xã hội đón nhận.
Chính điều này mới là niềm hạnh phúc thật sự của các nhà giáo, nhất là đối
với những nhà giáo đã từng có lần phản đối chủ trương này.
34. ĐỀ ÁN “KHOÁN LƯƠNG” KHÔNG “TRỤ” ĐƯỢC
Vào những năm 90, khi mới bắt đầu hình thành hệ thống trường bán
công trung học ở các thị xã, thị trấn thì loại hình này có sức hút mạnh mẽ hơn
hệ thống công lập. Bởi vì, lúc đó công lập chỉ tuyển có 30% học sinh lớp 9
vào lớp 10, số còn lại được xét tuyển tiếp vào bán công. Học phí công lập thì
không đáng kể, học phí bán công cao hơn, lương giáo viên của hai loại
trường này đều được trả từ ngân sách giáo dục, 70% học phí dành chi cho
con người thì tất nhiên thu nhập của giáo viên bán công là cao hơn nhiều so
với công lập. (Với trường bán công thì 30% học phí còn lại để chi cho hoạt
động thường xuyên).
Khuynh hướng chung của các trường là chia đều cho giáo viên và Ban
Giám hiệu nguồn học phí dành cho con người. Nhưng lại xem ra bất hợp lí
bởi vì số tiết của giáo viên dạy trong 1 tuần hoàn toàn không thể nào như
nhau được, đa số giáo viên dạy các môn Tự nhiên và Tiếng Việt thì vượt giờ,
một số giáo viên dạy các môn Lịch sử, Địa lí thì lại quá thấp, đôi khi chỉ được
phân công khoảng 2 hoặc 3 lớp, như vậy chỉ có thể dạy từ 6 đến 9 tiết/ tuần.
Thế là một đề án khoán lương được ra đời. Nguyên tắc của đề án này
đối với các trường bán công là:
Giả sử tổng số tiền lương do ngân sách cấp trong 1 tháng cho nhà
trường là A.
Tổng số 70% học phí của 1 tháng là B.
Tổng số tiền để chi tiền lương là A + B.
Giả sử tổng số tiết của tất cả giáo viên giảng dạy là m.
Số tiết được tính cho 1 lãnh đạo nhà trường bằng số tiết giảng dạy cao
nhất của một giáo viên trong nhà trường là n.
Ban Giám hiệu có 3 người, số tiết được tính là 3 x n.
Số tiết dự phòng là 5% tức là 5%. (m + 3n).
Tiền lương 1 tiết là: (A + B) / (5%(m + 3n) + m + 3n)
Đề án này vừa đưa ra là bị phản đối ngay bởi vì số giáo viên dạy dưới
7 tiết/ tuần thu nhập mới thấp hơn tiền lương chính thức mà giáo viên được
hưởng, số giáo viên dạy nhiều tiết/ tuần cũng bị tố cáo là phân công không
công bằng.
Thế là đề án được điều chỉnh như sau:
- Vẫn giữ nguyên tắc chung.
- Mức tối thiểu thu nhập của giáo viên phải bằng mức lương Nhà nước
quy định + 10% số tiết được phân công.
- Giáo viên giỏi được phân công dạy nhiều giờ phải được tập thể sư
phạm đánh giá và bình chọn.
- Số giờ lao động của Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng chuyên môn
bằng số giờ của người lao động cao nhất, Phó Hiệu trưởng hành chính số tiết
lao động được tính bằng số tiết lao động của nhóm giáo viên đứng hàng thứ
hai của trường.
Đề án được hoan nghênh, xem như một cuộc cách mạng mạnh mẽ
trong quá trình quản lí lao động của giáo viên. Tuy nhiên do nhiều biến động
về tiền lương cũng như các quy định về học phí, đề án này đã không "trụ"
được lâu dài.
35. HỌC SINH CÔNG LẬP TRONG TRƯỜNG BÁN CÔNGTheo quan niệm của nhiều người, từ những năm cuối thập kỉ 80 thì
trường công lập và trường bán công cần phải độc lập với nhau. Thế là trường
THCS phường trung tâm biến thành trường trọng điểm chất lượng cao,
trường THCS phường bên cạnh trở thành trường bán công, tức là khi học
sinh thi và không được tuyển vào trường trọng điểm thì sẽ được xét tuyển
vào trường bán công. Mọi việc cứ như thế trôi qua trong nhiều năm cho đến
khi kế hoạch phổ cập THCS ra đời thì nhân dân phường bên cạnh yêu cầu
phải có 1 trường THCS công lập cho học sinh của phường mình. Việc xây
dựng trường học thì không phải ngày một ngày hai mà có được, nhưng đây
lại là yêu cầu chính đáng.
Giải pháp của chúng tôi là cho trường bán công được tuyển học sinh
công lập của phường vào lớp 6. Nguyên tắc thi tuyển vẫn phải đảm bảo tỉ lệ
quy định chung lúc bấy giờ là 70% công lập và 30% bán công. Vì vậy giả sử
khi trường bán công THCS đóng trên một xã hoặc một phường không có
trường công lập thì phải được tuyển 70% học sinh vào lớp 6 với tiêu chuẩn
công lập Ngân sách đầu tư trường bán công có học sinh công lập cũng được
cấp dựa trên tổng số học sinh công lập được tuyển vào nhà trường như các
trường công lập khác.
Không ngờ quyết định này đã đem đến cho nhân dân và chính quyền
địa phương nơi chưa có trường THCS công lập một niềm vui, một sự xúc
động thực sự. Nhưng niềm hạnh phúc lớn lao lại đến với nhà trường và đội
ngũ giáo viên. Bởi vì ở thời điểm này, nhiều người cho rằng trường bán công
là đầu vào thấp, học sinh đa phần là không tốt, giáo viên bán công không
được hãnh diện như giáo viên công lập và luôn chịu nhiều áp lực.
Nhờ có quyết định này mà sự điều hoà chất lượng thuận lợi hơn cho
các nhà trường bán công. Và đặc biệt là phụ huynh học sinh của học sinh hệ
bán công cảm thấy mất đi mặc cảm mà các gia đình đã phải mang trong một
thời gian dài.
Có lẽ bản chất của giáo dục là như thế, tạo được một môi trường giáo
dục đúng đắn sẽ là một động lực mới để mọi người cùng phấn đấu.
36. KHI MỘT CHỦ TRƯƠNG CÓ YÊU CẦU CỤ THỂ VÀ CÔNG KHAI THÌ DỄ DÀNG ĐƯỢC ỦNG HỘ
Có đồng chí Hiệu trưởng một trường Tiểu học (trọng điểm đã trên 60
tuổi nhưng làm việc rất tốt. Anh được đồng nghiệp yêu, cán bộ giáo viên trong
tỉnh kính nể, nhất là trong lĩnh vực quản lí nền nếp chất lượng giảng dạy cũng
như việc xây dựng tập thể sư phạm mà trong đó anh luôn đóng vai trò hạt
nhân đoàn kết. Mọi người đề nghị chúng tôi bổ nhiệm anh thêm một nhiệm kì
nữa để có thể giữ vững chất lượng của trường trọng điểm của tỉnh.
Nói thì dễ, nhưng để làm được điều này, nhà quản lí phải có lí lẽ thuyết
phục, hay nói đúng hơn là phải tìm ra cơ sở pháp lí khi vận dụng xử lí một vấn
đề mới được phát sinh trong thực tiễn điều hành và quản lí. Những cơ sở mà
chúng tôi đưa ra để xem xét là:
- Hiệu trưởng là một nhà giáo chân chính, nhà giáo ưu tú thực thụ.
- Người Hiệu trưởng thuộc nhóm đầu đàn của tỉnh.
- Hiệu trưởng được tập thể sư phạm, phụ huynh học sinh và nhân dân
yêu quý.
Việc bổ nhiệm lại Hiệu trưởng phải dựa trên các văn bản quy định cũng
như cần phải có một số động tác kỹ thuật để đảm bảo đúng luật lao động.
Điều này không phức tạp lắm. Nhưng làm cách nào để đảm bảo sự công
bằng trong cả một hệ thống (ở mức độ tương đối) cũng như chọn được nhân
sự tương đương để thay thế thì mới là điều cần phải nghiên cứu nhiều.
- Để đầu tư cho lực lượng kế cận, ban lãnh đạo chúng tôi quyết định
điều động lực lượng kế cận ở nơi khó khăn, nơi có nguy cơ không tìm được
Hiệu trưởng và hai đương sự tại chỗ giao cho đồng chí Hiệu trưởng này huấn
luyện để sớm nhất là sau 3 năm, chậm nhất là sau 5 năm đồng chí cán bộ
quản lí "bố già" phải có một Hiệu trưởng tương đương thay thế, 4 người còn
lại phải làm được Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng ở nơi được điều đến hoặc
một nơi khác đang có nhu cầu bức xúc.
- Để cho công bằng trong lĩnh vực quản lí, chúng tôi phải thống nhất
trong lãnh đạo công khai chủ trương này cho toàn ngành với những quy định
như sau:
+ Nhà giáo ưu tú được kéo dài tối đa là 5 năm.
+ Giáo viên đạt danh hiệu Viên phấn vàng, 3 năm.
+ Giáo viên giỏi cấp tỉnh, 2 năm.
+ Giáo viên giỏi cấp huyện, 1 năm.
+ Các nhà giáo nữ được cộng thêm một năm so với các nhà giáo nam.
Nhiệm vụ của các nhà giáo trong thời gian kéo dài là phải bồi dưỡng,
đào tạo ít nhất 3 nhà giáo "cùng tiến" với mình và tăng cường hỗ trợ cho vùng
sâu, vùng khó khăn những kinh nghiệm quý báu đã tích luỹ trong quá trình lao
động và cống hiến. Nguyên tắc chúng tôi thực hiện là: Nếu nơi nào thiếu giáo
viên thì giữ nguyên biên chế; nơi nào đủ giáo viên theo quy định sau khi giải
quyết chế độ chính sách cho giáo viên xong thì tổ chức hợp đồng. Làm được
điều này, nhiều nhà giáo và cán bộ quản lí đã thể hiện rõ sự quyết tâm phấn
đấu để được tập thể sư phạm và nhân dân nhìn nhận đánh giá đúng mức đức
độ cùng sự tận tuỵ với ngành, từ đó có cơ hội đóng góp nhiều hơn cho sự
nghiệp "trồng người". Các nhà giáo được trực tiếp đào tạo như trên ngày nay
hầu hết đã trở thành Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng vững vàng.
Chủ trương với yêu cầu cụ thể và công khai như thế đã dễ dàng được
toàn ngành ủng hộ đồng thời cũng đảm bảo được sự công bằng tương đối
hợp lí và ai cũng thấy có thể chấp nhận được.
TÀI LIỆU THAM KHẢO1. Một số văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác giáo dục
đào tạo. Ban Khoa giáo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2005.
2. Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị Quốc gia, tập 5, 6, 7, Hà Nội,
1995, 1996.
3. Hồ Chí Minh về giáo dục, NXB Từ điển Bách khoa, Hà Nội, 2007.
4. Lê Duẩn, Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Sự thật, Hà
Nội, 1976.
5. Võ Nguyên Giáp, Mấy vấn đề về khoa học giáo dục, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1986.
6. Tâm lí học, tập 1, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1970.
7. Về vấn đề giáo dục đào tạo, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999.
8. Cẩm nang nâng cao năng lực quản lí nhà trường, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2007.
9. Hà thế Ngữ, Giáo dục học, một số vấn đề lí luận và thực tiễn, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001.
10. Đinh Xuân Dũng (Chủ biên), Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức,
NXB Giáo dục, Hà Nội, 2006.
MỤC LỤCLời giới thiệu
Lời nói đầu
1. Vì con mong ước được đến trường
2. Không có nhà trường, ai sẽ giúp tôi giáo dục đứa trẻ theo con đường
cách mạng?
3. Cuộc đời tôi phụ thuộc vào quyết định đúng đắn của lãnh đạo
4. Cho Hiệu trưởng tự lựa chọn quyết định
5. Một quyết định kịp thời và đúng lúc
6. Khi con đường phấn đấu cho giáo viên được mở
7. Sự thành đạt luôn gắn liền với cái giá phải trả
8. Việc đầu tiên là phải bảo vệ quyền lợi cho học sinh
9. Nói vậy mà không phải vậy
10. Cần thực sự đổi mới phương pháp dạy và phương pháp học
11. Suốt đời em sẽ phấn đấu vì nghề dạy học
12. Chính sách phải luôn được điều chỉnh để tạo hiệu quả
13. Có những việc toà án cũng phải đầu hàng
14. Rào cản vô hình
15. Dù là việc nhỏ cũng phải suy nghĩ
16. Trong kiểm điểm - xét kỉ luật cần tạo được không khí thành khẩn,
chân tình
17. Để một chủ trương thành hiện thực
18. Sự quan tâm không đúng lúc và đúng chỗ của giám thị
19. Chỗ đứng của em là trước trẻ thơ
20. Quyết định phải phù hợp quy chế nhưng cũng cần vận dụng thích
hợp
21. Trao đổi, nhắc nhở sớm là một biện pháp bảo vệ cán bộ hiệu quả
22. Để giải quyết một sự việc phức tạp, cần vận dụng chính sách một
cách hợp lí nhất
23. Không thể kéo dài một động thái nếu không sức ỳ mới sẽ nảy sinh
24. Tình thương, trách nhiệm phải gắn với tuân thủ quy chế
25. Bài toán khó trong quản lí chỉ có thể giải được bằng chính những
quy định mang tính pháp lí
26. Giải quyết chính sách, tạo niềm tin cho giáo viên vùng khó khăn
27. Mở đường cho học sinh sai phạm có thể trưởng thành
28. Sự cần thiết với tuổi trẻ là niềm tin
29. Chỉ cần một đêm là bằng một tháng khi có sự đồng tâm hiệp lực
30. Trường bán công cũng có học sinh giỏi cấp quốc gia
31. Có phải "copy" lúc nào cũng là xấu đối với học sinh?
32. Đào tạo trung học chuyên nghiệp cho học sinh trong trường THPT
33. Đổi mới "ăn theo" sự đổi mới
34. Đề án "khoán lương" không “trụ” được
35. Học sinh công lập trong trường bán công
36. Khi một chủ trương có yêu cầu cụ thể và công khai thì dễ dàng
được ủng hộ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
---//---
NHỮNG TÌNH HUỐNGTRONG THỰC TIỄN QUẢN LÝ GIÁO DỤC
Tác giả: NSƯT. TS. Đặng Huỳnh Mai
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản:
Chủ tịch HĐQT kiêm Tổng Giám đốc: NGÔ TRẦN ÁI
Phó Tổng Giám đốc kiêm Tổng biên tập: NGUYỄN QUÝ THAO
Chịu trách nhiệm nội dung:
Phó Tổng Giám đốc kiêm Giám đốc NXBGD tại Hà Nội: NGUYỄN XUÂN HÒA
Biên tập nội dung: NGUYỄN HIỀN TRANG
Trình bày bìa và thiết kế sách: NGUYỄN BÍCH LA
Chế bản và sửa bản in: NGUYỄN HIỀN TRANG
Mã số: 8G918M7-CPD
In 3000 bản (QĐ in số: 121), khổ 14,5 x 20,5 cm, tại Công ty Cổ phần In và
Dịch vụ Quảng Nam – 260 Hùng Vương, Tp. Tam Kỳ. Số đăng ký KHXB: 809-
2007/CXB/2-1789/GD. In xong và nộp lưu chiểu tháng 01 năm 2008.