Upload
others
View
5
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quá trình dạy - học là một hoạt động phức tạp có sự tác động đa chiều, trong đó
chất lượng và hiệu quả của hoạt động dạy – học cơ bản phụ thuộc vào chủ thể nhận thức -
người học. Việc tiếp nhận và hình thành kiến thức kỹ năng lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố
chủ quan của người học như năng lực nhận thức, động cơ học tập, sự quyết tâm... tuy
nhiên các yếu tố khách quan cũng đóng vai trò rất quan trọng trong việc tác động để tạo
tâm lý sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ và hứng thú học tập của học sinh; quá trình hình
thành các yếu tố khách quan lại chủ yếu phụ thuộc vào tác động của người giáo viên
đứng lớp.
Trước tình hình thực tế hiện nay, đa số giáo viên đều có tinh thần tự đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh; tuy nhiên phần lớn
các thầy cô giáo đều hướng đến việc đổi mới trong hoạt động hình thành kiến thức là chủ
yếu, chưa quan tâm đúng mức tới hoạt động khởi động cũng như vai trò của khởi động
trong việc định hướng tiết dạy, tạo tâm lý tích cực cho học sinh để các em chủ động và
tích cực khai thác, khám phá kiến thức mới nhằm đạt được mục tiêu giáo dục đề ra về
kiến thức, kỹ năng và những năng lực cần hình thành cho học sinh sau mỗi tiết học.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, nhận thấy tầm quan trọng của hoạt động
Khởi động có ảnh hưởng lớn đến toàn bộ tiến trình tiết dạy, ảnh hưởng lớn đến việc chủ
động sẵn sàng tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ học tập của học sinh; Do đó năm học
2017 – 2018 tôi đã nghiên cứu và đưa ra đề tài “ Giải pháp phát huy tính tích cực của
học sinh qua hoạt động khởi động trong giờ học Địa Lý THPT” để chia sẻ với đồng
nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đổi mới trong dạy học Địa Lý theo hướng phát huy tính
tích cực và sáng tạo của học sinh.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ chức hoạt động khởi động trong
mỗi tiết học nói chung và tiết học Địa Lý nói riêng ở trường THPT làm cơ sở cho các giải
pháp đổi mới trong việc thực hiện hoạt động Khởi động của tiết học để phát huy tính tích
cực, chủ động và sáng tạo trong lĩnh hội kiến thức của học sinh.
2
- Đề xuất các giải pháp đổi mới trong tổ chức hoạt động Khởi động ở các tiết dạy
Địa Lý trong trường THPT nhằm nâng cao hiệu quả dạy học theo hướng tích cực và
hình thành năng lực cho học sinh.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về các phương pháp, kỹ thuật tổ chức hoạt động dạy học của
giáo viên THPT; hoạt động học tập tích cực và chủ động của học sinh THPT; lý luận về
vai trò của hoạt động Khởi động trong toàn bài học.
Nghiên cứu thực tiễn về các phương pháp, kỹ thuật dạy học mà giáo viên Địa Lý
trường THPT Thăng Long đã áp dụng để định hướng cho học sinh trong hoạt động khởi
động của tiết học.
Nghiên cứu thực tiễn về sự hứng thú, tích cực của học sinh trong hoạt động Khởi
động và ảnh hưởng của hoạt động Khởi động đến toàn bộ quá trình tiết học của bộ môn
Địa Lý.
Đề xuất những giải pháp đổi mới trong hoạt động Khởi động để phát huy tính tích
cực của học sinh, tạo tâm lý sẵn sàng thực hiện nhiệm vụ học tập một cách chủ động và
sáng tạo.
Thông qua những trải nghiệm thực tế rút ra được những bài học kinh nghiệm cho
bản thân để đổi mới có hiệu quả hoạt động dạy học, đặc biệt là xây dựng có hiệu quả các
tình huống khởi động nhằm mang lại hứng thú cho học sinh, kích thích các em tích cực
và chủ động trong việc lĩnh hội kiến thức một cách tự nhiên, không miễn cưỡng, gò bó.
Chia sẻ với đồng nghiệp những giải pháp mà bản thân tôi đã thực hiện trong quá
trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
4. Giới hạn nghiên cứu
4.1 Giới hạn về thời gian nghiên cứu
- Bắt đầu : 22/8 / 2017
- Kết thúc : 30 / 04 / 2018
4.2 Giới hạn về đối tượng nghiên cứu
- Học sinh của trường THPT Thăng Long năm học 2017 – 2018.
- Giáo viên giảng dạy bộ môn Địa Lý của trường THPT Thăng Long.
- GVCN của trường THPT Thăng Long năm học 2017 – 2018.
3
4.3 Giới hạn về phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu về giáo viên và học sinh trường THPT Thăng Long năm học 2017-2018.
4.4 Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực là phạm trù rất rộng, có thể áp dụng và
thực hiện trong tất cả các khâu, các bước của quá trình dạy học nói chung và dạy học
môn Địa Lý nói riêng. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, nội dung nghiên
cứu chỉ dừng lại ở các giải pháp phát huy tính tích cực của học sinh qua hoạt động Khởi
động của tiết học Địa Lý cấp THPT.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu lý luận
Nghiên cứu các sách về phương pháp dạy học; nghiên cứu các văn bản, quy định,
hướng dẫn… về đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học
sinh.
5.2 Nghiên cứu thực tiễn
Dùng phiếu điều tra, khảo sát; So sánh, phân tích thực trạng.
5.3 Phương pháp bổ trợ
Phương pháp toán thống kê toán học, xử lý số liệu.
4
PHẦN II. NỘI DUNG
1. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Giải thích một số khái niệm
- Học sinh: theo từ điển tiếng Việt, Học sinh được hiểu là “người theo học ở trường”.
Như vậy, ở nước ta Học sinh là những thiếu niên hoặc thiếu nhi trong độ tuổi đi học (6-
18 tuổi) đang học tại các trường tiểu học, trung học cơ sở hoặc trung học phổ thông. Học
sinh là đối tượng cần sự giáo dục của cả gia đình và nhà trường. Học sinh rất dễ bị tác
động bởi các hiện tượng xã hội, vì vậy rất cần thiết sự theo dõi, định hướng, giáo dục từ
gia đình và nhà trường.
- Tính tích cực của học sinh: có nhiều cách hiểu khác nhau về tính tích cực của học
sinh; có thể là tích cực trong học tập, trong hoạt động trải nghiệm sáng tạo hay cả trong
các hoạt động vui chơi…. Với nội dung của đề tài, tôi xin được đề cập tới khái niệm tích
cực của học sinh trong nhận thức học tập. Theo G.S TSKH Thái Duy Tiên (Viện khoa
học giáo dục): “Tính tích cực nhận thức biểu hiện sự nỗ lực của chủ thể khi tương tác
với đối tượng trong quá trình học tập, nghiên cứu; thể hiện sự nỗ lực của hoạt động trí
tuệ, sự huy động ở mức độ cao các chức năng tâm lý (như hứng thú, chú ý, ý chí...) nhằm
đạt được mục đích đặt ra với mức độ cao.”
- Khởi động: theo từ điển tiếng Việt, Khởi động được hiểu là “thực hiện những động
tác nhẹ trước khi bắt đầu”. Như vậy hoạt động khởi động được hiểu là một hoạt động
nhằm thực hiện những thao tác cơ bản, nhẹ nhàng trước khi bắt đầu thực hiện một công
việc cụ thể nào đó.
1.2. Các văn bản chỉ đạo, hướng dẫn
Đất nước ta đang trong quá trình hội nhập và phát triển với nhiều thời cơ và thách
thức; để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước thì
nguồn lực con người đóng vai trò quan trọng hàng đầu. Do đó, Đảng và nhà nước ta luôn
quan tâm và ưu tiên hàng đầu cho vấn đề đổi mới trong giáo dục và đào tạo; Một trong
những định hướng cơ bản của việc đổi mới giáo dục là chuyển từ nền giáo dục mang tính
hàn lâm, kinh viện, xa rời thực tiễn sang một nền giáo dục chú trọng việc hình thành năng
lực hành động, phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học.
5
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục
và đào tạo nêu rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện
đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người
học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách
học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri
thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình
thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học”.
Để thực hiện tốt mục tiêu về đổi mới căn bản, toàn diện GD&ĐT, Nghị quyết số 29-
NQ/TW ngày 4/11/2013 nhấn mạnh “Đối với giáo dục phổ thông, tập trung phát triển trí
tuệ, thể chất, hình thành phẩm chất, năng lực công dân, phát hiện và bồi dưỡng năng
khiếu, định hướng nghề nghiệp cho học sinh. Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện,
chú trọng giáo dục lý tưởng, truyền thống, đạo đức, lối sống, ngoại ngữ, tin học, năng
lực và kỹ năng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Phát triển khả năng sáng
tạo, tự học, khuyến khích học tập suốt đời.” .
Đáp ứng yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện trong GD – ĐT, Bộ GD – ĐT có
công văn số 5555/BDGĐT-GDTrH ngày 8 tháng 10 năm 2014 hướng dẫn và cụ thể hóa
những yêu cầu trong đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của
học sinh: “hình thức giao nhiệm vụ sinh động, hấp dẫn, kích thích được hứng thú nhận
thức của học sinh” .
Ngoài ra, yêu cầu của việc đổi mới phương pháp dạy học còn được cụ thể hóa trong
các văn bản chỉ đạo về việc thực hiện nhiệm vụ năm học hàng năm của Bộ GD – ĐT;
hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của Sở GD – ĐT; kế hoạch năm học của nhà
trường và kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học của mỗi giáo viên.
1.3. Khởi động trong tiết học
Một tiết học được coi là một hoạt động tổng thể diễn ra trong thời gian 45 phút đối
với bậc THPT. Trong đó bao gồm các hoạt động của Thầy và hoạt động của Trò một
cách nhịp nhàng để hình thành được kiến thức – kỹ năng và các năng lực cần thiết.
Trước thực trạng đổi mới căn bản, toàn diện của ngành giáo dục, người giáo viên
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ giảng dạy cần có sự đổi mới trong phương pháp tổ
6
chức hoạt động để kích thích sự sáng tạo, khơi dậy nhu cầu khám phá, tìm hiểu kiến thức
của các em học sinh. Sự đổi mới đó không phải chỉ thể hiện trong đổi mới phương pháp
hướng dẫn học sinh khai thác kiến thức bài học mà còn thể hiện qua hoạt động khởi động
để các em có được điểm xuất phát tốt nhất trước khi tìm hiểu kiến thức mới.
2. Thực trạng tổ chức hoạt động Khởi động trong giờ học Địa Lý hiện nay
2.1 Thực trạng về phía giáo viên
Trước những định hướng đổi mới của Đảng, nhà nước và của ngành về dạy học phát
huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh; cơ bản giáo viên trường THPT Thăng Long
nói chung và GVBM Địa Lý nói riêng đã có tinh thần đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng lấy học sinh làm trung tâm, phát huy tính tích cực của các em. Tuy nhiên sự quan
tâm đổi mới chưa nhiều, chưa thực sự đi vào chiều sâu; đôi khi còn qua loa, hình thức.
Việc thực hiện tiết dạy của giáo viên vẫn còn theo hình thức cũ: nặng về lý thuyết, thiếu
đi tính hấp dẫn, lôi cuốn học sinh ngay từ hoạt động vào bài; giáo viên còn xem nhẹ việc
dẫn dắt vào bài mà chủ yếu dành thời gian cho việc tìm hiểu kiến thức mới dẫn đến tiết
học khô khan, học sinh thụ động trong việc tiếp thu kiến thức.
Một tiết dạy thu hút được sự chú ý, kích thích được sự tò mò tìm hiểu của học sinh
phải xuất phát ngay từ đầu tiết dạy để tạo nên hứng thú học tập cho học sinh trong suốt
quá trình diễn ra tiết học. Tuy nhiên trên thực tế, cá nhân tôi (ở các năm học trước) và
hầu hết giáo viên khi thiết kế kế hoạch dạy học thường chỉ làm theo hình thức giới thiệu
qua một chút để vào bài, như vậy sẽ tiết kiệm được nhiều thời gian dành cho hoạt động
khai thác kiến thức mới, không lo lắng nhiều về vấn đề thiếu thời gian, cháy giáo án… do
đó tiết học tương đối khô khan, thiên về lý thuyết và giảng giảng mà thiếu di sự hợp tác
tích cực của học sinh; ngay từ bước vào bài học sinh đã có tâm lý thụ động chờ giáo viên
dẫn dắt nội dung và truyền thụ một chiều, từ đó sẽ khó tạo tâm lý để các em sẵn sàng
thực hiện nhiệm vụ một cách tích cực ở các hoạt động tiếp theo của bài học.
2.2 Thực trạng về phía học sinh
Trong những năm gần đây, hầu hết các trường đại học, cao đẳng tóp trên thường xét
tuyển tổ hợp các môn KHTN; chính vì vậy lượng học sinh quan tâm học tổ hợp các môn
KHXH (trong đó có môn Địa Lý) không nhiều. Tâm lý các em coi đây là môn phụ, ít
7
dành sự quan tâm đến việc học Địa Lý cả trên lớp cũng như ở nhà. Một phần vì tâm lý
học sinh còn chủ quan do được mang Atlat vào phòng thi.
Tâm lý của học sinh nhìn chung không quan tâm và hứng thú nhiều với môn Địa Lý;
khi vào tiết học thì quá trình dẫn dắt và định hướng bài học của giáo viên còn khô khan,
chưa tạo được sự hứng thu để thu hút các em vào bài học; việc truyền thụ kiến thức của
giáo viên còn nặng về lý thuyết, nội dung thiếu sinh động, hấp dẫn nên càng làm cho các
em ít có sự quan tâm đối với bộ môn này hơn.
Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu, tôi nhận thấy vai trò của việc đổi mới phương
pháp dạy học theo hướng tích cực , phát huy tính sáng tạo của học sinh là rất quan trọng,
và việc đổi mới cần quan tâm, chú trọng thực hiện ngay từ khâu vào bài để bài học sinh
động, hấp dẫn và lôi cuốn hơn, Trên thực tế điều này chưa được quan tâm đúng mức; để
có minh chứng cụ thể về những thực trạng trên, khi thực hiện đề tài này tôi đã tiến hành
một số khảo sát đối với giáo viên và học sinh về việc thiết kế và việc thực hiện hoạt động
khởi động (còn gọi là định hướng, dẫn nhập, …) của năm học 2017-2018, kết quả khảo
sát như sau:
2.3 Kết quả khảo sát giáo viên
* Khảo sát GVBM về thiết kế kế hoạch dạy học:
Số giáo viên được khảo sát: 3 GVBM Địa Lý ở trường THPT Thăng Long (không
bao gồm tác giả đề tài).
Bảng 1: khảo sát hoạt động khởi động của GVBM
TT Nội dung khảo sát Số GV khảo sát Tỉ lệ %
1
Thực hiện khởi động 3 100
- Có 3 100
- Không 0 0
2
Cơ sở tiến hành khởi động 3 100
- Xuất phát từ nội dung bài học 0 0
- Từ nội dung liên quan đến nội dung bài 1 33.3
- Từ các nội dung liên quan đến tên bài 1 33.3
- Từ nguồn khác 1 33.4
3 Mục tiêu của khởi động 3 100
8
- Kiểm kê kiến thức của học sinh 0 0
- Tạo ra hứng thú cho học sinh 3 100
- Tạo ra “tình huống có vấn đề” để vào bài 0 0
4
Hình thức khởi động thường dùng 3 100
- Tổ chức thành hoạt động 0 0
- Dẫn dắt 2 66.7
- Khác 1 33.3
5
Người thực hiện Khởi động 3 100
- Giáo viên 3 100
- Học sinh 0 0
- Giáo viên và học sinh 0 0
6
Mức độ thu hút HS của khởi động 3 100
- Mức độ cao 0 0
- Mức độ TB 2 66.7
- Mức độ thấp 1 33.3
7
Hiệu quả của khởi động 3 100
- Hiệu quả cao 0 0
- Hiệu quả trung bình 2 66.7
- Hiệu quả thấp 1 33.3
Nhận xét: các GVBM Địa Lý trong trường có thực hiện việc khởi động trước khi hướng
dẫn học sinh tìm hiểu bài mới; hình thức thường là giáo viên dẫn dắt trực tiếp vào bài,
học sinh lắng nghe, không tham gia trực tiếp vào hoạt động Khởi động. Như vậy với hình
thức dẫn nhập vào bài mà học sinh thụ động hoàn toàn chờ giáo viên định hướng thì chưa
thể hiện rõ sự đổi mới; thông qua đánh giá của giáo viên thì với hình thức khởi động hiện
nay, lượng học sinh tích cực lắng nghe giáo viên định hướng cũng không nhiều. Hay nói
cách khác, với hình thức khởi động như trên thì người thầy đang là trung tâm, thầy khởi
động còn trò là người nghe và quan sát, chưa thực sự được khởi động trước khi tiến hành
công việc là khai thác kiến thức mới. Như vậy, ngay khi vào bài đã chưa có được sự lôi
cuốn, hấp dẫn thu hút học sinh chủ động lĩnh hội kiến thức nên dẫn đến khả năng học
sinh học thu động, không tích cực trong việc tìm hiểu và nắm kiến thức mới.
9
2.4 kết quả khảo sát học sinh
* Số học sinh được khảo sát: 684 học sinh ở cả 3 khối 10, 11, 12 của trường THPT
Thăng Long năm học 2017 – 2018 (7 lớp do tác giả đề tài thực hiện giảng dạy không
thực hiện khảo sát ở mục này).
* Hình thức khảo sát:
- Dùng phiếu điều tra.
- Số lượng HS được khảo sát: 684 HS (19 lớp).
* Kết quả khảo sát
Bảng 2: khảo sát học sinh
TT Nội dung khảo sát Số HS khảo sát Tỉ lệ %
1
Em có học bài và chuẩn bị bài trước khi
đến lớp không 684 100
- Thường xuyên 209 30.6
- Thỉnh thoảng 313 45.8
- không 162 23.6
2
Em có quan tâm đến khởi động tiết học
không? 684 100
- Mức độ cao 164 24
- Mức độ TB 234 34.2
- Mức độ thấp 286 41.8
3
Khởi động có giúp em định hướng được
kiến thức mới cần tìm hiểu không? 684 100
- Định hướng tốt 157 23.0
- chưa rõ ràng 338 49.4
- không định hướng được 27.6
4
Em có chủ động tìm hiểu kiến thức để
giải quyết vấn đề đặt ra trong Khởi
động không?
684 100
- Có 287 42.0
10
- Không 397 58.0
5
Nếu khởi động tạo cho em sự tò mò, em
có muốn tìm hiểu bài học để giải đáp
vấn đề không?
684 100
- Có 561 72.0
- Không 123 18.0
* Nhận xét: Qua khảo sát học sinh, đa số GVBM có thực hiện dẵn dắt trước khi vào tiết
học một cách thường xuyên hoặc không thường xuyên. Tuy nhiên việc khởi động mà
GVBM áp dụng mới chủ yếu dừng lại ở việc dẫn dắt của giáo viên, học sinh chưa được
tham gia vào hoạt động cụ thể. Qua khảo sát cho thấy đa số học sinh đều có nhu cầu có
được tiết học sinh động, hấp dẫn để kích thích tư duy của các em chủ động khám phá
kiến thức mới. Tuy nhiên thực tế các em lại ít có sự chuẩn bị bài trước ở nhà, vào đầu tiết
học GVBM thực hiện truyền thụ một chiều như vậy dễ gây nhàm chán và chưa đáp ứng
được nhu cầu tìm tòi, khám phá của học sinh. Từ đó chưa phát huy hết tính tích cực cũng
như sự sáng tạo của các em trong học tập bộ môn.
2.5 Phân tích số liệu khảo sát
2.5.1 Ưu điểm
Đa số các GVBM trong quá trình thiết kế các hoạt động dạy học đều có phần định
hướng/dẫn nhập (thực chất là một hình thức khởi động) để dẫn dắt học sinh vào nội
dung bài học, thời gian dành cho phần này không nhiều nên thời gian dành cho hoạt
động khai thác kiến thức mới được nhiều hơn.
Đa số học sinh có sự chuẩn bị bài trước ở nhà và có nhu cầu được tham gia hoạt
động học tập tích cực hơn thông qua nhiều hình thức học tập phong phú. Đa số các em
đều muốn có được tình huống gợi sự tò mò kích thích được nhu cầu học tập của các em
để có được kết quả học tập tốt hơn.
2.5.2 Hạn chế
Từ những kết quả khảo sát thực tế đã nêu trên, cá nhân tôi xin mạnh dạn nêu ra
những hạn chế trong quá trình tiến hành hoạt động khởi động/định hướng mà hiện nay
các đồng nghiệp đã và đang thực hiện như sau:
11
Về phía giáo viên: việc định hướng vào bài học chỉ sơ qua bằng một vài câu dẫn dắt
có liên quan, mang tính chất giới thiệu bài học; tình huống khởi động chưa thực sự xuất
phát từ bài học để tạo hứng thú, tạo ra tình huống có vấn đề kích thích sự sáng tạo và học
tập chủ động của học sinh. Hoạt động khởi động/dẫn nhập còn mang tính hình thức, chưa
tạo được liên kết thực sự với bài học, chưa xuất phát từ bài học. Do đó khi GVBM dẫn
dắt, thực chất là truyền thụ một chiều, các em thụ động lắng nghe mà không được trực
tiếp khởi động. Thực chất việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực là
chuyển từ việc lấy thầy làm trung tâm, truyền thụ kiến thức một chiều sang lấy hoạt động
học của trò làm trung tâm, thầy cần định hướng để trò thực hiện được hoạt động học một
cách tích cực. Tuy nhiên với phương pháp khởi động như GVBM đang thực hiện như
khảo sát trên thì chưa đáp ứng được yêu cầu đổi mới dạy học hiện nay.
Về phía học sinh: Việc chuẩn bị bài trước ở nhà còn hạn chế, chưa có sự hứng thú với
bài học; chưa tạo ra được sự yêu thích và động lực để tự tìm hiểu, tự học tập một cách
tích cực. Tuy nhiên tất cả trong số các em học sinh được khảo sát đều có nhu cầu, mong
muốn có được tiết học sôi nổi, tạo hứng thú và hấp dẫn ngay từ hoạt động khởi động để
kích thích nhu cầu tự tìm hiểu, khám phá và chiếm lĩnh kiến thức mới một cách tích cực.
Từ những hạn chế trên dẫn đến hiệu quả hoạt động Khởi động của tiết học không cao,
chỉ mang tính dẫn dắt mà không tạo được hứng thú và tư duy tích cực cho học sinh, qua
đó không chỉ hoạt động Khởi động không đạt được như mong muốn là khởi động để tạo
hứng thú, tạo đà cho việc học tích cực ở các hoạt động tiếp theo trong bài học.
2.6 Nguyên nhân
2.6.1 Nguyên nhân về phía giáo viên giảng dạy
Nguyên nhân khách quan:
Chương trình môn Địa Lý THPT hiện tại ở các môn học còn tương đối dài, giáo viên
còn gặp khó khăn trong việc xây dựng phân phối chưng trình, phân phối thời gian cho
phù hợp để dành nhiều thời gian cho hoạt động Khởi động.
Chương trình kiểm tra, thi hiện nay còn phân bổ số điểm tương đối nhiều cho việc ghi
nhớ, do đó giáo viên khi dạy còn áp lực nhiều về việc cung cấp đủ kiến thức cho học
sinh, để học sinh có đủ kiến thức cơ bản đáp ứng cho việc kiểm tra kiến thức thường
xuyên và định kì.
12
Dạy học phát huy tính tích cực của học sinh là phương pháp dạy học đã được nói đến
nhiều trong vài năm trở lại đây, tuy nhiên hiện nay để có được những tiết học thực sự đổi
mới theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh để giáo viên có thể tham khảo và học
hỏi còn hạn chế; giáo viên chủ yếu dựa vào kiến thức và kỹ năng vốn có của bản thân kết
hợp với nghiên cứu lý thuyết, dự giờ đồng nghiệp… nên việc đổi mới của giáo viên trong
hoạt động dạy học, đặc biệt là trong việc xây dựng các tình huống khởi động còn hạn chế.
Nguyên nhân chủ quan:
Lực lượng giáo viên bộ môn Địa Lý ở trường còn trẻ, kinh nghiệm giảng dạy chưa
nhiều nên việc đầu tư đổi mới phương pháp còn hạn chế.
Một số GVBM chưa chủ động trong việc học hỏi, tiếp thu phương pháp và kỹ năng
dạy học tích cực để vận dụng trong quá trình dạy học.
Tâm lý giáo viên còn nặng về truyền thụ kiến thức bài học mới, còn sợ dành nhiều
thời gian cho hoạt động khởi động có thể bị “cháy giáo án” hoặc không đủ thời gian dành
cho việc khai thác kiến thức mới.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin của giáo viên trong một số tình huống chưa tốt
nên còn ngại trong việc đổi mới phương pháp dạy học và thiết kế giáo án theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh trong hoạt động khởi động.
2.6.2 Nguyên nhân về phía học sinh
Nhiều học sinh có tâm lý học lệch, thiên về một số môn KHTN nên ở các môn
KHXH còn lại chưa có sự đầu tư, chưa quan tâm chuẩn bị bài chưa chu đáo, dẫn đến tiết
học còn thụ động.
Áp lực học tập từ nhiều bộ môn khác nhau trong cùng một buổi học nên khả năng tập
trung tư duy, tích cực và sáng tạo dành cho môn Địa Lý còn ít.
Tâm lý sợ không có nội dung để về nhà học nên nhiều học sinh trong giờ học chưa
thực sự tích cực và chủ động dành thời gian tìm hiểu, khai thác kiến thức mà còn nặng về
việc ghi chép nội dung bài học.
3. Giải pháp phát huy tính tích cực của học sinh qua hoạt động Khởi động trong các
giờ học Địa Lý
Năm học 2016 – 2017 và 2017 – 2018 cùng với các văn bản hướng dẫn, triển khai
về đổi mới dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, Bộ GD – ĐT, Sở GD
13
– ĐT cũng đã mở các đợt tập huấn hướng dẫn giáo viên về tăng cường đổi mới phương
pháp dạy học, hướng dẫn học sinh tự học theo hướng phát huy tính tích cực, sáng tạo của
học sinh. Bước đầu GVBM Địa Lý trường THPT Thăng Long đã có sự tiếp cận, học hỏi
để đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng hình thành năng lực của người học.
Tuy nhiên việc áp dụng chưa sâu, chưa thực hiện đại trà mà cơ bản mới chỉ dùng lại ở
công tác thử nghiệm ở một số tiết học, một vài chủ đề.
Để việc áp dụng đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, phát huy tính
chủ động sáng tạo của học sinh ngay trong từng tiết học mà quan trọng nhất là tạo cho
các em hứng thú với bài học ngay từ những phút đầu tiên là điều rất quan trọng; cần có
sự quan tâm đầu tư hợp lý để mang lại hiệu quả giáo dục cao về kiến thức – kỹ năng và
hình thành năng lực cho học sinh trong mỗi tiết học.
Trước yêu cầu chung của ngành về công tác đổi mới dạy học, bản thân tôi đã tiến
hành đổi mới dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh; cùng với việc đổi
mới phương pháp trong từng hoạt động hình thành kiến thức thì tôi quan tâm nhiều đến
những đổi mới trong hoạt động khởi động góp phần định hướng và tạo cho học sinh tích
cực, chủ động trong việc khai thác, khám phá tri thức mới .
Để hoạt động khởi động diễn ra một cách nhẹ nhàng theo đúng nghĩa là “ khởi
động” , thu hút được sự quan tâm chú ý của học sinh, tạo động lực cho học sinh tích cực
khám phá kiến thức của bài học mới và không gây áp lực về mặt thời gian cho các hoạt
đông hình thành kiến thức tiếp theo thì khi thiết kế hoạt động Khởi động cần chú ý các
vấn đề sau:
3.1 Xác định mục tiêu khởi động
Việc thay đổi hình thức khởi động từ việc chỉ dùng một vài câu để dẫn dắt vào bài
thay bằng việc tổ chức khởi động thành một hoạt động để học sinh được tham gia trực
tiếp gải quyết vấn đề khởi động; Hoạt động khởi động phải xác định rõ mục tiêu cần đạt,
phương pháp và kỹ thuật tổ chức, phương tiện cần dùng; chuyển giao nhiệm vụ cho học
sinh một cách rõ ràng. Nhiệm vụ khi chuyển giao cho học sinh trong hoạt động khởi
động cần kiểm kê lại kiến thức của học sinh (xem học sinh đã có được kiến thức gì liên
quan đến bài học), tạo hứng thú cho học sinh, tạo ra tình huống có vấn đề để dẫn dắt HS
vào phần hình thành kiến thức mới.
14
3.2 Kỹ thuật cơ bản khi xây dựng hoạt động Khởi động
Với phương pháp dạy học truyền thống, khởi động chỉ bằng một vài câu dẫn nhập
nên không mất nhiều thời gian. Với hình thức đổi mới phương pháp dạy học theo hướng
phát huy tính tích cực của học sinh ngay từ hoạt động khởi động, đo đó khởi động cần tổ
chức thành hoạt động để học sinh trực tiếp tham gia nên sẽ cần lượng thời gian nhiều
hơn. Do đó khi xây dựng kịch bản cho hoạt động khởi động giáo viên cần lưu ý không
lấy những nội dung không thiết thực với bài học, tránh lấy những nội dung mang tính
chất minh họa mà cần cụ thể: sử dụng nội dung bài học để khởi động, sao cho trong khởi
động sẽ bao quát được nội dung bài học, qua đó giúp GV biết được học sinh đã có kiến
thức gì trong bài mới và chưa biết gì để khai thác sâu vào những nội dung học sinh chưa
biết (điều này có thể sẽ khác nhau ở từng lớp nên giáo viên cần có sự điều chỉnh kịp thời
để phù hợp với đối tượng học sinh ở các lớp).
Hoạt động khởi động là bước “ thực hiện các động tác nhẹ trước khi thực hiện
công việc” nên việc khởi động cũng cần nhẹ và sinh động để tạo sự hấp dẫn cho học sinh.
Việc đặt câu hỏi hay tình huống khởi động cần chú ý tạo được hứng thú cho học sinh: để
học sinh được thực hiện nhiệm vụ, được tham gia trả lời câu hỏi hoặc tham gia vào các
tình huống khởi động. Câu hỏi/tình huống đưa ra ở phần này cũng cần có nhiều mức độ
trong đó nhất thiết phải có câu dễ học sinh nào cũng có thể trả lời được. khi các em trả lời
được sẽ phần nào sẽ cảm thấy vui vẻ, thích thú để tạo tâm lý tốt khi vào bài học.
Ở mỗi hoạt động khởi động đều xuất phát từ nội dung bài học, nhưng nếu tình
huống nào đưa ra học sinh cũng giải quyết được thì các em sẽ không có hứng thú tìm
hiểu kiến thức mới, không kích thích được trí tò mò và nhu cầu học tập một cách chủ
động và tích cực của các em. Do đó bên cạnh câu hỏi dễ cần có một lượng nhất định các
câu hỏi khó liên quan đến nội dung bài học, đòi hỏi học sinh phải tư duy, phải chủ động
khai thác kiến thức mới thì mới trả lời được. Do đó, trong hoạt động khởi động nếu giáo
viên tìm ra được tình huống khó nhưng lại hấp dẫn, kích thích trí tò mò của các em thì dù
là học sinh khá giỏi hay học sinh trung bình, học sinh yếu cũng sẽ có nhu cầu tìm hiểu đẻ
trả lời. Từ đó dẫn các em vào bài học một cách tư nhiên, không gò bó mà các em tự giác,
tích cực học tập để giải quyết cái khúc mắc đã được đưa ra từ tình huống ban đầu.
15
Khi áp dụng tổ chức hoạt động Khởi động cho tất cả các tiết học ở các lớp thì
GVBM nên lưu ý: Kế hoạch hoạt động đã xây dựng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp
với đặc điểm học sinh của từng lớp; tránh việc xây dựng 1 tình huống cố định dùng
chung cho tất cả các lớp trong cùng một khối. Phương án xây dựng tình huống khởi động
giữa các tiết, các bài học nên có sự đổi mới về hình thức, phương pháp; tránh sự nhàm
chán cho học sinh khi tiết học nào cũng tổ chức hoạt động khởi động theo kiểu “đến hẹn
lại lên” với các bước tuần tự như nhau.
3.3 Quy định chung về phương pháp học tập bộ môn tại lớp
Để thực hiện được các giải pháp đổi mới trong hoạt động Khởi động, với mục tiêu
tất cả học sinh đều được tham gia và thực hiện thì GVBM cần có quy định chung với tất
cả các tiết học; quy định này GVBM nên xây dựng và đưa ra thống nhất với học sinh
ngay từ đầu quá trình dạy học (đầu năm học) và qui ước học sinh sẽ áp dụng quy tắc này
cho tất cả các tiết học để hình thành được kỹ năng tiếp nhận và thực hiện nhiệm vụ một
cách tích cực của học sinh:
Mỗi học sinh cần chủ động trong học tập. Tất cả nhiệm vụ khi giáo viên chuyển
giao xuống cho HS thực hiện thì mỗi cá nhân phải chủ động để hoàn thành nội dung được
giao.
Đối với các hoạt động cá nhân: mỗi cá nhân cần thực hiện và thể hiện kết quả ra
phiếu học tập (hoặc sổ tay học tập của cá nhân).
Đối với các hoạt động nhóm: cần có tổ chức nhóm một cách cụ thể, bầu nhóm
trưởng, thư ký. Quá trình làm việc nhóm (đội) thì cá nhân mỗi học sinh được dành một
phần thời gian hoạt động nhóm để tự làm những việc mà giáo viên giao. Hết một phần
thời gian thì các nhóm tiến hành trao đổi và thảo luận, bàn bạc về kết quả công việc đã
làm; quá trình thảo luận nhóm trưởng cử một thành viên bất kỳ đọc nội dung làm việc
của mình, các thành viên khác trong nhóm so sánh nội dung, tiến hành trao đổi , bàn bạc
và thống nhất nội dung chung của nhóm.
Đối với các hoạt động cả lớp (khi GV nhận xét nội dung, chốt vấn đề và liên hệ để
dẫn dắt vào bài): thì mỗi cá nhân cần chủ động tiếp nhận thông tin để chuẩn bị cho các
hoạt động học tập tiếp theo.
16
3.4 Ví dụ minh họa cho giải pháp phát huy tính tích cực của học sinh qua hoạt động
Khởi động trong giờ học Địa Lý
3.4.1 Ví dụ 1
Bài 3: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TRONG HỌC TẬP VÀ ĐỜI SỐNG
(Chương trình Địa Lý 10 ban cơ bản)
* Hình thức khởi động cũ:
Sau khi ổn định lớp học, kiểm tra bài cũ xong, giáo viên định hướng bài học mới:
Trong học tập và cuộc sống hàng ngày, bản đồ ngày càng trở nên thông dụng và cần
thiết hơn; vậy quá trình sử dụng bản đồ cần chú ý những gì, giữa các loại bản đồ chỉ
các thuộc tính khác nhau của cùng một đối tượng có mối liên hệ tác động lẫn nhau như
thế nào thì chúng ta sẽ cùng tìm hiểu trong nội dung bài học hôm nay
* Giải pháp đổi mới :
Tổ chức khởi động thành một hoạt động dạy học, có xác định rõ các mục tiêu cần đạt
được về kiến thức, kỹ năng, các phương pháp và phương tiện để tổ chức hoạt động:
1. Khởi động
a. Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã có về bản đồ và bước đầu biết vận
dụng bản đồ để khai thác kiến thức; Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung
kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: nhóm.
c. Phương tiện:
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1: Giao nhiệm vụ:
- Vận dụng kiến thức đã học về bản đồ và kiến thức của bản thân, trao đổi và thảo luận
nhanh theo từng nhóm nhỏ trong thời gian 4 phút để trả lời các câu hỏi sau:
- Câu hỏi:
+ C1: Em đã sử dụng bản đồ vào những tình huống cụ thể nào?(Dự đoán HS sẽ trả lời:
dùng để học, để tìm đường,…-> Tất cả HS có thể trả lời được).
+ C2*: Nếu em là một chủ đầu tư và xây dựng, trước khi tiến hành thi công xây dựng
cây cầu bắc qua suối Thác Voi thì em cần nghiên cứu những loại bản đồ nào? Vì sao?
17
(Dự đoán học sinh khá giỏi chỉ trả lời được một vài tên bản đồ, không giải thích được
vì sao).
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ: Học sinh trao đổi nhanh với bạn trong nhóm để trả
lời câu hỏi dưới sự quan sát, định hướng của giáo viên.
* Bước 3. Báo cáo kết quả: GV chia bảng làm 6 phần, mời đại diện của các nhóm ở
mỗi dãy lên ghi trên bảng.
- Mời đại diện các nhóm giải thích vì sao lựa chọn như vậy.
- Các nhóm khác nhận xét và phản biện.
* Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức:
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh để dẫn dắt tạo
nên tình huống có vấn đề để định hướng vào bài. (quá trình GV đánh giá hoạt động, HS
chủ động hoàn thành kiến thức vào phiếu học tập cá nhân (vở ghi).
3.4.2 Ví dụ 2
Bài 1: SỰ TƯƠNG PHẢN VỀ TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA CÁC NHÓM NƯỚC.
CUỘC CÁCH MẠNG KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HIỆN ĐẠI
(chương trình Địa Lý 11 ban cơ bản)
* Hình thức khởi động cũ:
Sau khi ổn định lớp học, giáo viên định hướng bài học mới: Trong chương trình
địa lý lớp 10, các em dã tìm hiểu những vấn đề chung về tự nhiên – KTXH thế giới,
trong chương trình lớp 11 chúng ta sẽ tiếp tục đi sâu và làm rõ hơn ở từng khu vực,
quốc gia cụ thể. Mở đầu chương trình sẽ là tìm hiểu về sự khác biệt giữa các nước –
nhóm nước trên thế giới.
* Giải pháp đổi mới :
Tổ chức khởi động thành một hoạt động dạy học, có xác định rõ các mục tiêu cần đạt
được về kiến thức, kỹ năng, các phương pháp và phương tiện để tổ chức hoạt động:
1. Khởi động
a. Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã có về các quốc gia, châu lục trên
thế giới; Rèn kỹ năng sáng tạo và tư duy tổng hợp theo lãnh thổ; Tìm ra những nội dung
18
chưa biết để từ đó bổ sung kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học
sinh với bài học mới.
b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: - Đàm thoại, thực hiện cá nhân
c. Phương tiện
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1: Giao nhiệm vụ:
- Trong thời gian 1 phút, dựa vào kiến thức vốn có của bản thân, em hãy liệt kê nhanh
tên các quốc gia mà em biết lên bảng, mỗi học sinh chỉ được ghi tên 1 quốc gia; các HS
lần lượt lên ghi đến hết 1 phút.
- Học sinh làm việc cá nhân.
- Câu hỏi:
+ Viết tên quốc gia mà em biết? Lưu ý không trùng với bạn đã viết trước. (Dự đoán
HS làm được).
+ * Nếu phải chia các quốc gia đã viết tên ở trên thành 2 nhóm, em sẽ chia thế nào?
Dựa vào tiêu chí nào để chia? (Dự đoán HS chia nhóm được nhưng không chính xác, vế
sau trả lời được nhưng chưa đầy đủ.)
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ: Học sinh viết lên bảng và trả lời câu hỏi dưới sự điều
khiển của giáo viên.
* Bước 3. Báo cáo kết quả: giáo viên linh hoạt điều khiển, tổ chức cho HS trả lời các
câu hỏi và giải thích các tiêu chí phân loại .
* Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức:
- Giáo viên đánh giá hoạt động của học sinh; từ phần trả lời của học sinh ở câu hỏi *
để dẫn dắt vào bài.
3.4.3 Ví dụ 3
Bài 7: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA HÌNH (tiết 2)
(chương trình Địa Lý 12 ban cơ bản)
* Hình thức khởi động cũ:
Sau khi ổn định lớp học, kiểm tra bài cũ xong, giáo viên định hướng bài học mới:
VN nằm ở đâu trên bản đồ thế giới và khu vực? Phạm vi lãnh thổ của nước ta bao gồm
những bộ phận cơ bản nào? Vị trí và lãnh thổ như vậy có ý nghĩa như thế nào trong
19
quá trình phát triển KT-XH của đất nước? Qua nội dung bài học hôm nay chúng ta sẽ
cùng tìm hiểu.
* Giải pháp đổi mới :
Tổ chức khởi động thành một hoạt động dạy học, có xác định rõ các mục tiêu cần đạt
được về kiến thức, kỹ năng, các phương pháp và phương tiện để tổ chức hoạt động:
1. Khởi động
a. Mục tiêu: Giúp học sinh nhớ lại các kiến thức đã có về đặc điểm khu vực đồng
bằng đã học trong chương trình Địa Lý lớp 9. Rèn kỹ năng tư duy, phân tích tài liệu để
tổng hợp kiến thức (HS khá giỏi); Tìm ra những nội dung chưa biết để từ đó bổ sung
kiến thức bài học mới cho học sinh; tạo hứng thú cho học sinh với bài học mới.
b. Phương pháp/kỹ thuật dạy học: - Tổ chức dạy học cả lớp, nhóm
c. Phương tiện:
d. Tiến trình hoạt động
* Bước 1: Giao nhiệm vụ:
GV tổ chức cho HS chơi trò chơi: chia lớp thành 2 dãy, gọi là 2 đội và đặt tên (Đội 1:
Khu vực đồi núi; đội 2: Khu vực đồng Bằng). mỗi đội chia thành 3 nhóm nhỏ, tiến hành
thảo luận trong thời gian 5 phút để giới thiệu về những thế mạnh và hạn chế của khu vực
địa hình mà nhóm mình phụ trách để thu hút khách tham quan và nhà đầu tư. Đồng thời
chỉ ra những khó khăn về khu vực địa hình của đội bạn.
(HS yếu và TB chỉ tìm được những thế mạnh và hạn chế cơ bản trong sách đã nêu. HS
khá giỏi phân tích được mối quan hệ giữa các yếu tố để rút ra thuận lợi khó khăn và bổ
sung cho đội bạn
* Bước 2. Thực hiện nhiệm vụ: HS tiến hành thảo luận tìm nội dung để trình bày.
* Bước 3. Báo cáo kết quả:
- Đại diện của 2 đội trình bày, góp ý và phản biện nội dung của đội bạn.
* Bước 4. Đánh giá, chốt kiến thức:
Qua phần trình bày của HS, GV nhận xét chỗ đúng và chưa đúng, từ đó GV dẫn dắt
vào nội dung của các khu vực đồng bằng.
20
4. Kết quả khảo sát
Để khảo nghiệm tính khả thi của đề tài, tác giả đã phối hợp cùng với tổ chuyên
môn tiến hành lấy phiếu điều tra về hiệu quả thực tế đối với học sinh khi tác giả thực hiện
các biện pháp đổi mới hình thức tổ chức hoạt động Khởi động theo hướng phát huy tính
tích cực của học sinh.
Phương pháp tiến hành lấy phiếu điều tra: Phiếu điều tra giống mẫu điều tra ở các
lớp GVBM không thực hiện giải pháp đổi mới. Để việc điều tra được khách quan, tác giả
đề tài đã trình bày kế hoạch điều tra trước tổ và tổ trưởng chuyên môn tiến hành phát
phiếu điều tra.
4.1 Kết quả khảo sát giáo viên
- Khảo sát giáo viên đi dự giờ (Các tiết dự giờ là tiết dạy do tác giả đề tài thực hiện): 10
GVBM trong tổ chuyên môn ( tổ ghép) đi dự giờ.
Bảng 3: khảo sát GV dự giờ tiết dạy của tác giả đề tài
TT Nội dung khảo sát Kết quả khảo sát Tỉ lệ % GV
đánh giá
1
Thực hiện khởi động
- Có x 100
- Không
2
Cơ sở tiến hành khởi động
- Xuất phát từ nội dung bài học x 100
- Từ nội dung liên quan đến nội dung bài
- Từ các nội dung liên quan đến tên bài
- Từ nguồn khác
3
Mục tiêu của khởi động
- Kiểm kê kiến thức của học sinh x 100
- Tạo ra hứng thú cho học sinh x 100
- Tạo ra “tình huống có vấn đề” để vào bài x 100
4 Hình thức khởi động thường dùng
- Tổ chức thành hoạt động x 100
21
- Dẫn dắt
- Khác
5
Người thực hiện Khởi động
- Giáo viên
- Học sinh x 60
- Giáo viên và học sinh x 40
6
Mức độ thu hút HS của khởi động
- Mức độ cao x 80
- Mức độ TB x 20
- Mức độ thấp
7
Hiệu quả của khởi động
- Hiệu quả cao x 80
- Hiệu quả trung bình x 20
- Hiệu quả thấp
4.2 Kết quả khảo sát học sinh
Số lớp được khảo sát: 254 học sinh thuộc 7 lớp (những lớp do tác giả đề tài giảng
dạy). bao gồm các lớp 12B3, B4; 11B1, 3; 10B1, 2, 3 của trường THPT Thăng Long
năm học 2017 - 2018.
Kết quả khảo sát như sau:
Bảng 2: khảo sát học sinh
TT Nội dung khảo sát Số HS khảo sát Tỉ lệ %
1
Em có học bài và chuẩn bị bài trước khi
đến lớp không 254 100
- Thường xuyên 176 69.3
- Thỉnh thoảng 57 22.4
- không 162 8.3
2
Em có quan tâm đến khởi động tiết học
không? 254 100
- Mức độ cao 153 60.2
22
- Mức độ TB 60 23.6
- Mức độ thấp 41 16.2
3
Khởi động có giúp em định hướng được
kiến thức mới cần tìm hiểu không? 254 100
- Định hướng tốt 199 78.3
- chưa rõ ràng 55 21.7
- không định hướng được
4
Em có chủ động tìm hiểu kiến thức để giải
quyết vấn đề đặt ra trong Khởi động
không?
254 100
- Có 207 81.5
- Không 47 18.5
5
Nếu khởi động tạo cho em sự tò mò, em có
muốn tìm hiểu bài học để giải đáp vấn đề
không?
254 100
- Có 249 98.0
- Không 5 2.0
4.3 Phân tích số liệu khảo sát
4.3.1 Ưu điểm
Hình thức khởi động: Tổ chức thành các hoạt động, đa dạng về hình thức tổ chức;
thu hút được sự chú ý và tham gia của học sinh; thông qua việc các em được tham gia
trực tiếp vào hoạt động, được học tập tích cực và kích thích sự sáng tạo bằng các tình
huống “có vấn đề” giúp các em chú ý hơn vào bài học, học tập một cách chủ động và
tích cực hơn trong tiết học.
4.3.2 Hạn chế
Trong số các hoạt động Khởi động đã xây dựng, dù ít nhưng vẫn có hoạt động học
sinh ít tích cực trong tiết học, quá trình thực hiện cần tiếp tục điều chỉnh hoạt động đa
dạng và hấp dẫn hơn để phát huy tối đa tính tích cực của học sinh.
23
5. Bài học kinh nghiệm
Quá trình nghiên cứu đề tài bản thân tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm như
sau:
Để tiết học mang lại hiệu quả cao, phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh, giúp
các em chủ động lĩnh hội kiến thức thì việc đổi mới phương pháp của người giáo viên
đứng lớp có vai trò quan trọng hàng đầu.
Mỗi giáo viên trong quá trình giảng dạy cần tự học hỏi, tự tìm tòi và sáng tạo để đa
dạng hóa các hình thức tổ chức học tập cho học sinh.
Một tiết học có thực sự tích cực và thu hút sự quan tâm chú ý củ học sinh hay không
thì phải bắt đầu ngay từ hoạt động đầu tiên: Hoạt động Khởi động. Nếu ngay từ Khởi
động mà không thu hút được sự quan tâm và không phát huy được tính tích cực của học
sinh thì ở các hoạt động sau sẽ rất khó đê đưa các em vào guồng của một thiết học phát
huy tính tích cực của học sinh.
Quá trình đổi mới phương pháp dạy học cần có sự hỗ trợ nhiều của các phương tiện
học tập trực quan, với điều kiện cơ sở vật chất của trường THPT Thăng Long tương đối
đầy đủ đáp ứng cho việc đổi mới các tiết học. Do đó GVBM cần bồi dưỡng khả năng sử
dụng công nghệ thông tin, sử dụng các thiết bị dạy học mới để tiết học có hiệu quả tốt
nhất.
24
PHẦN III: KẾT LUẬN
Đổi mới phương pháp dạy học nhằm góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục về kiến thức – kỹ năng và hình thành những năng lực cần thiết cho học sinh trong
thời đại mới; để thực hiện được điều đó thì vai trò của người giáo viên cần tiên phong đi
đầu trong công tác đổi mới. Việc đổi mới không phải bắt đầu từ hoạt động học mà cần
bắt đầu từ hoạt động dạy của người thầy. Hoạt động dạy- học lúc này chuyển từ việc lấy
giáo viên hay học sinh làm trung tâm sang lấy hoạt động học của học sinh làm trung
tâm; tất cả các hoạt động tiến hành trong tiết học đều hướng tới mục tiêu là hoạt động
học của học sinh, thông qua hoạt động học để học sinh tích cực và chủ động tiếp thu
kiến thức – kỹ năng và hình thành năng lực. Để định hướng và tạo đà cho các hoạt động
học tập, hình thành kiến thức trong mỗi tiết học thì việc khởi động là cần thiết, do đó đổi
mới cần thiến hành trước tiên từ hoạt động khởi động. Qua quá trình nghiên cứu, tìm
hiểu và vận dụng các giải pháp đổi mới nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong
các tiết học, tôi nhận thấy việc đổi mới hoạt động dạy học là cần thiết. trong đó hoạt
động khởi động cần được quan tâm đầu tư đỏi mới đúng mức để tiết học sôi nổi, hứng
thú và tạo tâm lý tích cực cho học sinh ngay từ đầu mỗi tiết học.
Với việc vận dụng các giải pháp nhằm phát huy tính tích cực của học sinh qua hoạt
động Khởi động trong giờ học Địa Lý THPT cùng với quá trình khảo nghiệm và thu
thập kết quả, tôi nhận thấy đề tài có hiệu quả thiết thực vào việc đổi mới phương pháp
giảng dạy môn Địa Lý; Từ kết quả và ý nghĩa của đề tài, tôi nhận thấy giải pháp đưa ra
không những vận dụng tốt ở các lớp cá nhân tôi thực hiện giảng dạy mà có thể nhân
rộng mô hình này đến tất cả các GVBM bộ môn Địa lý cũng như các GVBM khác trong
nhà trường THPT nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong các môn học; góp
phần nâng cao chất lượng giảng dạy của mỗi giáo viên cũng như của nhà trường đồng
thời cũng giúp học sinh chủ động hơn trong học tập, trong việc tìm hiểu kiến thức, và đó
cũng là tiền đề cần thiết để hình thành các kỹ năng sống tích cực cho học sinh THPT.