Upload
others
View
7
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM HUỲNH MINH HÙNG
PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI – 2017
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
PHẠM HUỲNH MINH HÙNG
PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng
và Chủ nghĩa duy vật lịch sử
Mã số : 62 22 03 02
LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS NGUYỄN THỊ NGA
HÀ NỘI - 2017
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định.
Tác giả
Phạm Huỳnh Minh Hùng
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN NỘI DUNG ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ..................................... 6
1.1. Những công trình nghiên cứu đã công bố liên quan đến những
vấn đề lý luận chung về việc phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới ............................................. 6
1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng
sông Cửu Long .......................................................................... 20
1.3. Những công trình nghiên cứu về quan điểm, giải pháp phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở
Đồng bằng sông Cửu Long ....................................................... 23
Chƣơng 2: PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở NƢỚC TA
HIỆN NAY - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN ........................ 30
2.1. Chủ thể nông dân và tầm quan trọng của việc phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ........................ 30
2.2. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn
mới ở nước ta hiện nay - những nội dung cơ bản ....................... 52
2.3. Những nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong xây dựng nông thôn mới ........................... 60
Chƣơng 3: PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG - THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ........ 74
3.1. Khái lược về Đồng bằng sông Cửu Long và đặc điểm nông dân
Đồng bằng sông Cửu Long ....................................................... 74
3.2. Thực trạng phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng
nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long ........................... 83
3.3. Nguyên nhân của việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long
hiện nay ................................................................................... 111
Chƣơng 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ
BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA
NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY ................ 124
4.1. Một số quan điểm định hướng nhằm phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu
Long hiện nay ......................................................................... 124
4.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long
................................................................................................. 129
KẾT LUẬN .................................................................................................. 149
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ
CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .......................... 152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 153
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 168
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CT - XH : Chính trị - xã hội
ĐBSCL : Đồng bằng sông Cửu Long
ĐBSH : Đồng bằng sông Hồng
HĐND : Hội đồng nhân dân
HTCT : Hệ thống chính trị
HTX : Hợp tác xã
KCN : Khu công nghiệp
KT - XH : Kinh tế - xã hội
NTM : Nông thôn mới
NXB : Nhà xuất bản
TNXH : Tệ nạn xã hội
UBND : Uỷ ban nhân dân
XĐGN : Xóa đói giảm nghèo
XDNTM : Xây dựng nông thôn mới
XHCN : Xã hội chủ nghĩa
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xây dựng nông thôn mới (XDNTM) là chủ trương của Đảng ta, có ý
nghĩa to lớn và tác động toàn diện đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực với sự
tham gia của nhiều lực lượng khác nhau. Trong đó, nông dân được xác định
vừa là chủ thể trực tiếp tham gia vừa là chủ thể thụ hưởng những thành quả từ
phong trào này. Vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM là vô cùng to
lớn. Hiệu quả đạt được từ việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM đem lại lợi ích trên nhiều phương diện khác nhau. Với nông dân,
thông qua phong trào XDNTM là cơ hội để từng chủ thể nông dân khẳng định
quyền làm chủ, kiến tạo cuộc sống ngày càng ấm no, sung túc một cách bền
vững. Với xã hội, có phát huy tốt vai trò chủ thể của nông dân sẽ là nhân tố cơ
bản đem đến sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc
phòng an ninh trên địa bàn nông thôn.
Tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL), việc phát huy vai trò chủ thể
của nông dân gắn với Chương trình mục tiêu quốc gia về XDNTM đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Với truyền thống cách mạng, bằng sự năng động,
tích cực và sáng tạo đã giúp cho vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL được phát
huy mạnh mẽ trên tất cả các mặt, các tiêu chí trong phong trào XDNTM: từ việc
nhiệt tình, tích cực tham gia quy hoạch và thực hiện quy hoạch đến việc tự
nguyện, tự giác đóng góp tiền của, ngày công lao động xây dựng kết cấu hạ tầng
KT - XH; không những chủ động, sáng tạo trong tổ chức sản xuất, phát triển
kinh tế mà còn hăng hái tham gia các phong trào phát triển văn hóa, xã hội, giữ
gìn an ninh trật tự,… Việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong
XDNTM trên thực tế đang thực sự đem lại một diện mạo nông thôn không
ngừng đổi thay theo hướng văn minh, hiện đại nhưng giàu bản sắc của vùng
2
đồng bằng sông nước; đồng thời bản thân nông dân ĐBSCL cũng đang có sự
thay đổi đáng kể từ nhận thức đến hành động ngày một tiến bộ hơn.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở
ĐBSCL hiện tại vẫn còn gặp nhiều khó khăn, bất cập từ nhiều góc độ. Một mặt,
nông dân ĐBSCL luôn chống chọi với nhiều thách thức do tác động của các
nhân tố khách quan đó là thị trường đầu ra cho nông sản không ổn định, thường
gặp rủi ro; sự gắn kết, hỗ trợ, chia sẻ trong mối liên kết “Bốn nhà” chưa thực sự
bền chặt; tác động tiêu cực của các yếu tố tự nhiên là nỗi lo lớn cho nông dân
trong suốt quá trình sản xuất; điều quan trọng hơn là hiện nay đang có biểu hiện
nóng vội chạy theo thành tích, của sự lạm dụng việc XDNTM để ép buộc nông
dân đóng góp quá mức làm cho đời sống của nhiều nông dân đã khó khăn, vất vả
lại càng khốn khó hơn. Đây là những vấn đề lớn đang ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống sản xuất và sinh hoạt của người nông dân. Mặt khác, bản thân nông dân
ĐBSCL vẫn còn tồn tại những hạn chế nội sinh như trình độ học vấn, chuyên
môn, tay nghề thấp chưa được khắc phục; những nhược điểm trong tâm lý, tính
cách chưa được điều chỉnh, xóa bỏ. Những hạn chế này thực sự là rào cản,
“xiềng xích” mà các chủ thể nông dân đang tự trói buộc bản thân mình, làm cho
vai trò chủ thể ở từng nông dân chưa được phát huy tối đa, có hiệu quả.
Để quá trình XDNTM ở ĐBSCL đi vào chiều sâu, tiếp tục đạt được
những thành tựu to lớn, đòi hỏi vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL với
những ưu điểm vốn có như sự chủ động, tự giác, năng động, sáng tạo phải
tiếp tục phát huy lên một tầm cao mới; đồng thời các chủ thể nông dân
ĐBSCL cần phấn đấu khắc phục những hạn chế, nhược điểm để ngày càng
tiến bộ. Sức mạnh của nông dân chỉ có thể nhân đôi và phát huy mạnh mẽ một
khi nông dân có quyết tâm, nghị lực và khát vọng vượt lên chính mình. Cùng
với đó, để phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL có
hiệu quả rất cần có sự quan tâm sâu sát, sự hỗ trợ kịp thời và thường xuyên
của các nhân tố bên ngoài nông dân.
3
Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCLlà để
đem lại cho từng chủ thể nông dân có cuộc sống ngày càng tốt hơn, tiến bộ
hơn, nghĩa tình hơn đúng như mục đích, ý nghĩa, giá trị đích thực của một chủ
trương giàu tính nhân văn của Đảng và Nhà nước ta. Vì vậy, việc thống nhất
về quan điểm nhận thức, về việc xây dựng một hệ thống các giải pháp toàn
diện, đồng bộ, hiệu quả, khả thi để phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL là yêu cầu đang đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Từ những vấn đề trên cũng chính là lý do để nghiên cứu sinh chọn
hướng nghiên cứu "Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng
nông thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long hiện nay" làm đề tài luận án
tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích
Từ việc phân tích cơ sở lý luận và thực trạng phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL, luận án đề xuất một số quan điểm
định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận án tập trung vào các nhiệm vụ sau:
- Trình bày tổng quan về những công trình nghiên cứu có liên quan đến
vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM.
- Khái quát một số vấn đề lý luận về phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong XDNTM ở nước ta hiện nay và những nhân tố cơ bản ảnh hưởng
đến phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM.
- Phân tích thực trạng của việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
4
- Đề xuất một số quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản nhằm tiếp
tục phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu của luận án, tác giả xác định giới hạn đối
tượng nghiên cứu là vai trò chủ thể của bản thân người nông dân trong
XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án nghiên cứu về việc phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong XDNTM tại 13 tỉnh, thành phố khu vực ĐBSCL.
- Về thời gian: Nghiên cứu việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL với các thông tin khảo sát giới hạn từ năm 2009 đến
2016, các giải pháp từ nay đến 2020.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án nghiên cứu dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò quần chúng nhân dân nói chung, về vai trò chủ
thể của nông dân nói riêng; đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước về
XDNTM, cụ thể:
- Các văn kiện, nghị quyết của Đảng đặc biệt là Nghị quyết 26-NQ/TW
của Hội nghị Trung ương Bảy khóa X năm 2008 về nông nghiệp, nông thôn
và nông dân.
- Quyết định số 491/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ năm 2009 về việc
ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
- Quyết định số 800/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ năm 2010 về việc
phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 - 2020.
5
- Quyết định số 340/QĐ-TTg Thủ tường Chính phủ năm 2013 về việc
Sửa đổi một số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
- Quyết định số 1980/QĐ-TTg Thủ tướng Chính phủ năm 2016 về
việc Ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 -
2020 (gọi tắt là Bộ tiêu chí xã).
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử -
lôgíc; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê trên cơ sở sử dụng tư liệu
thực tế của các công trình nghiên cứu đã có nhất là của các cơ quan ban ngành
các tỉnh, thành phố trong khu vực.
5. Những đóng góp mới của luận án
- Phân tích làm rõ, có hệ thống về vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL
trong XDNTM.
- Phân tích thực trạng và nguyên nhân thành tựu, hạn chế trong việc
phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL.
- Đề xuất những quan điểm và giải pháp cơ bản để tiếp tục phát huy tốt
hơn vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL.
6. Ý nghĩa của luận án
- Công trình nghiên cứu góp phần khẳng định sự cần thiết, tính đúng
đắn về chủ trương XDNTM của Đảng và Nhà nước ta; chỉ rõ vai trò, sức
mạnh của quần chúng nhân dân, đặc biệt là nông dân, là chủ thể quyết định sự
thành công của quá trình XDNTM.
- Công trình nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo để vận dụng vào
thực tế việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM tại các tỉnh
thành vùng ĐBSCL.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án
được kết cấu thành 4 chương, 11 tiết.
6
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
NỘI DUNG ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
ĐẾN NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ
THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Vai trò chủ thể của nông dân Việt Nam luôn được khẳng định qua mọi
giai đoạn lịch sử thăng trầm của dân tộc. Đặc biệt, vai trò chủ thể của nông
dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắc đến từ rất sớm thông qua các tác
phẩm, bài viết, bài nói chuyện của mình. Chẳng hạn, ngay từ những ngày đầu
lãnh đạo chính quyền cách mạng non trẻ, trong thư gửi điền chủ, nông gia
Việt Nam ngày 11/4/1946, Người viết: “Việt Nam là một nước sống về nông
nghiệp. Nền kinh tế nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây
dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông
nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh
thì nước ta thịnh” [70, tr.215]. Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao sức mạnh to
lớn, toàn diện của nông dân. Người cho rằng: “Nông dân ta chí khí rất anh
dũng, kinh nghiệm rất nhiều, lực lượng rất to. Điều đó đã tỏ rõ trong thời kỳ
cách mạng và kháng chiến. Nếu lãnh đạo tốt, thì khó khăn gì họ cũng khắc
phục được, việc gì to lớn mấy họ cũng làm được” [68, tr.196].
Vai trò, sức mạnh của nông dân không chỉ được phát huy trong cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, mà ngày nay sức mạnh ấy một lần nữa được
Đảng ta tiếp tục khẳng định tại Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung
ương khóa X năm 2008 với Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông
thôn và nông dân khi cho rằng “Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông
nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển”
[30, tr.124].
7
Trong những năm qua, vấn đề nông dân, nông nghiệp và nông thôn
gắn với CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và XDNTM luôn tạo được sự
quan tâm, chú ý của nhiều cấp, bộ ngành và các nhà khoa học. Đến nay, đã có
nhiều công trình nghiên cứu của tập thể, của các nhà khoa học về nông
nghiệp, nông thôn và nông dân ở những góc độ khác nhau.
Cuốn sách Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới
đất nước. Vấn đề và kinh nghiệm của các tác giả Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân
Sầm và Lê Doãn Tá (đồng chủ biên) khẳng định rằng việc Đảng ta quan tâm
đến nông dân luôn là bài học kinh nghiệm không hề cũ đối với sự nghiệp cách
mạng “Hướng về nông thôn, nông nghiệp để nghiên cứu tìm cách nhân sức
mạnh của một lực lượng nông dân to lớn là một vấn đề có tầm chiến lược bao
quát và hết sức căn bản [87, tr.67].
Với tác giả Hoàng Ngọc Hòa trong sách Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta cũng
đã chỉ rõ:
Nông dân vừa là chủ thể, vừa là động lực của phát triển nông
nghiệp. Do đó, đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật, chính
sách của Nhà nước về nông nghiệp phải đặt nông dân vào đúng vị
trí chủ thể của sản xuất nông nghiệp và phát triển kinh tế xã hội
nông thôn, phải làm sao khơi dậy, phát huy được sự cố gắng, nhiệt
tình, tích cực, năng động sáng tạo và các nguồn lực của nông dân
đầu tư vào phát triển sản xuất nông nghiệp, kinh tế - xã hội nông
thôn” [42, tr.46-47].
Vai trò, sức mạnh của nông dân trong mọi giai đoạn lịch sử luôn được
thực tiễn khẳng định. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, vì nhiều lý do khác
nhau, vai trò của nông dân chưa được phát huy đúng mức, đời sống của người
nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, vấn đề nông nghiệp và nông thôn vẫn còn
nhiều bất cập. Điều này được thể hiện trong sách Nông dân, Nông thôn và
8
Nông nghiệp: Những vấn đề đang đặt ra của các học giả nổi tiếng như giáo sư
Tương Lai, giáo sư Đào Thế Tuấn, nhà nghiên cứu Nguyên Ngọc,... Các tác
giả có điểm giống nhau đó là gắn bó, thiết tha với lĩnh vực nông nghiệp và địa
bàn nông thôn; xót xa với tình cảnh khó khăn, vất vả, thua thiệt của người
nông dân. Điều này được thể hiện qua việc các tác giả chỉ ra những hạn chế,
khiếm khuyết từ các chủ trương, chính sách vĩ mô và cho rằng đó là một trong
những nguyên nhân làm cho nông nghiệp, nông thôn và nông dân trong tương
lai vận động theo hướng “Diện mạo nông thôn trong mươi, hai mươi năm tới
thật là ảm đạm: Nông thôn sẽ là nơi không ai muốn ở, nông nghiệp sẽ là
ngành không ai muốn đầu tư, nông dân muốn thoát khỏi nông thôn, nông
nghiệp!” [81, tr.110] là điều rất cần được suy ngẫm và kiểm chứng trong thực
tiễn. Từ đó, các học giả bằng sự tâm huyết của mình đề xuất một số quan
điểm, giải pháp theo góc nhìn tiếp cận cá nhân.
Cùng chung quan điểm trên, tác giả Đặng Kim Sơn và các cộng sự,
trong cuốn sách Đổi mới chính sách nông nghiệp Việt Nam: Bối cảnh, nhu
cầu và triển vọng cho rằng việc ban hành chính sách về nông nghiệp, nông
thôn trong thời gian qua là cần thiết và tạo cú hích quan trọng tạo đà cho nông
nghiệp Việt Nam cất cánh. Tuy nhiên, quá trình ban hành và thực hiện chính
sách còn có những bất cập, trong đó đáng chú ý là sự tham gia của chủ thể
nông dân chưa cao “Sự tham gia ý kiến của người dân trong công tác xây
dựng chính sách và phối hợp thực hiện chính sách còn rất hạn chế. Nông dân
nói chung không có tiếng nói, hầu như không tham gia vào công tác này, do
đó sự phản hồi chính sách rất yếu, thậm chí không có” [88, tr.132].
Cũng theo Đặng Kim Sơn, trong sách Kinh nghiệm quốc tế về nông
nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, từ việc nêu lên
hàng loạt những câu hỏi lớn, đáng chú ý như nông nghiệp, nông thôn, nông
dân ngày mai sẽ ra sao, tác giả dự đoán sẽ có sự biến đổi mạnh trong nông
dân với màu sắc khá ảm đạm:
9
Phần lớn cư dân nông thôn sẽ chuyển về đô thị vì thị trường
không hoàn chỉnh, đa số lao động không có tay nghề, quá trình di
cư diễn ra không suông sẻ. Hàng chục triệu người sẽ xung vào
đội quân “lao động không chính thức” thu nhập thấp, cuộc sống
bấp bênh, làm việc khó khăn, không được luật lệ và tổ chức
nghiệp đoàn bảo vệ. Số dân còn lại ở nông thôn còn rất đông, chủ
yếu là hộ tiểu nông sản xuất nhỏ, vừa sản xuất nông nghiệp, vừa
tìm việc làm thêm [142, tr.176].
Trong khi đó tình hình rủi ro của các hộ nông dân không những không
giảm đi mà còn có khuynh hướng gia tăng cũng được tác giả trình bày trong
cuốn sách Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam - Hôm nay và mai
sau. Nguyên nhân của các rủi ro có nhiều, chủ yếu là do ốm đau bệnh tật,
thiên tai thường xảy ra, dịch bệnh trên cây trồng vật nuôi, tác động tiêu cực từ
các yếu tố của thị trường,… [141, tr.145-149].
Mai Ngọc Anh trong sách Tách biệt xã hội về kinh tế đối với nông
dân Việt Nam cũng đã khẳng định: tình trạng tách biệt về kinh tế đối với
nông dân phụ thuộc vào tình trạng việc làm. Tuy nhiên, tình trạng việc làm
của nông dân đến lượt nó lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố nội sinh của nông
dân. Đó là tình trạng sức khỏe không tốt, khả năng và mức độ chăm sóc y
tế không cao; mặt bằng dân trí và trình độ học vấn thấp, thiếu chuyên môn
và tay nghề;… [1, tr.154-158] là nguyên nhân làm cho đời sống kinh tế của
nông dân ngày càng có sự cách biệt so với mặt bằng chung của xã hội.
Cùng chung quan điểm trên, trong bài viết “Cơ cấu giai cấp nông dân -
một số biến đổi (chủ yếu từ năm 1996 đến nay)” của tác giả Mạch Quang Thắng
đã nêu lên thực trạng biến đổi cơ cấu giai cấp nông dân nước ta như: cơ cấu dân
cư nông thôn có sự chuyển dịch nơi cư trú và thay đổi môi trường làm việc,
chuyển dịch lao động từ nông thôn ra thành thị đặc biệt là đối tượng thanh niên
nông thôn; sự biến đổi cơ cấu kinh tế tác động mạnh mẽ tới sự biến đổi cơ cấu xã
10
hội - nghề nghiệp của nông dân kể cả chiều rộng và chiều sâu, từ đó dẫn đến sự
biến đổi về điều kiện sản xuất, mức thu nhập, điều kiện sống,... Theo tác giả, sự
biến đổi tất yếu cơ cấu giai cấp nông dân có hai mặt: tích cực và không tích cực,
đáng chú ý “Chất lượng nguồn nhân lực ở nông thôn thấp, điều này ảnh hưởng
không tốt đến sự biến đổi giai cấp nông dân Việt Nam trong khoảng hơn 10 năm
trở lại đây. Trình độ học vấn và trình độ về mọi mặt của người lao động nông
thôn thấp làm cản trở đến việc tiếp thu trình độ khoa học kỹ thuật, khoa học và
công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất” [94, tr.73].
Có thể nhận thấy, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
thì nông dân vẫn luôn là lực lượng yếu thế. Sự hỗ trợ, giúp sức của các chủ
thể khác trên thực tế không nhiều, thậm chí có cả xung đột về lợi ích. Trong
sách Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Vấn đề và giải
pháp do Lê Quốc Lý (Chủ biên), từ việc phân tích toàn diện các vấn đề có
liên quan đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và những vấn đề đặt ra qua
khảo sát thực tiễn tại các tỉnh chủ yếu tập trung ở khu vực phía Bắc, quyển
sách cho rằng xung đột lợi ích giữa các chủ thể ngày càng nhiều bao gồm: 1)
Nông dân xung đột với các cơ quan công quyền; 2) Nông dân xung đột với
doanh nghiệp. Tác giả nhận định, mức độ xung đột lợi ích giữa nông dân với
các cơ quan công quyền, với doanh nghiệp có xu hướng tăng và diễn tiến theo
xu hướng mới, thậm chí có nguy cơ hình thành các điểm nóng, bất ổn chính
trị ở khu vực nông thôn [58, tr. 128-131].
Hiện nay, cuộc sống của đại bộ phận nông dân nước ta còn gặp nhiều
khó khăn, trong đó có một phần là từ những hạn chế của bản thân người nông
dân. Điều này được thể hiện rõ trong các sách như: Nông nghiệp, nông dân,
nông thôn trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020 do
Nguyễn Thị Tố Quyên (Chủ biên) [144, tr.207-212]; sách Tác động của hội
nhập kinh tế quốc tế đối với phát triển nông nghiệp Việt Nam do Nguyễn Từ
(Chủ biên) [123, tr.219-222]. Nhìn chung, cả hai cuốn sách đi tìm nguyên
11
nhân từ chính những hạn chế của bản thân người nông dân. Cho đến nay, đa
số nông dân vẫn mang lối sống và nếp nghĩ cũ của người tiểu nông: tư duy
manh mún, tầm nhìn hạn hẹp; tính thụ động, yên phận; không dám mạo hiểm,
sợ rủi ro; tác phong làm ăn tùy tiện, ý thức kỷ luật kém, ít sống theo luật pháp
mà chủ yếu theo văn hóa cộng đồng làng xã; tư tưởng bình quân chủ nghĩa;…
Tất cả những nhược điểm, hạn chế trên làm cho nông dân ngày càng thua thiệt
trong quá trình CNH, HĐH. Có thể khẳng định, những vấn đề các sách phân
tích là rất sâu sắc, làm tiền đề để tác giả nghiên cứu sâu hơn trong phạm vi
hẹp về nông dân ở ĐBSCL.
Khi nghiên cứu về nông dân ở phạm vi khu vực, đáng chú ý có các
công trình như:
Sách Việc làm của nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2020 do Trần Thị Minh
Ngọc chủ biên [143]. Cuốn sách nêu lên thực trạng việc làm của nông dân
vùng ĐBSH dưới tác động của CNH, HĐH giai đoạn 2000 - 2007. Mặt
tích cực của CNH, HĐH đối với nông dân vùng ĐBSH tạo ra nhiều cơ hội
việc làm, thu hút lao động nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Mặt
tiêu cực là nông dân bị thu hồi đất phải từ bỏ nghề nông trong khi chưa
được trang bị các điều kiện cần thiết để chuyển sang làm các nghề khác
dẫn đến gia tăng tình trạng thiếu việc làm do tác động của CNH và đô thị
hóa. Đây là một mâu thuẫn, nghịch lý của vùng ĐBSH. Điều này làm cho
mối quan hệ cung - cầu trong thị trường lao động ở ĐBSH có nhiều bất
cập: thừa lao động phổ thông, thiếu lao động qua đào tạo có trình độ
chuyên môn tay nghề cao. Quá trình CNH, HĐH đã tác động trực tiếp đến
thu nhập của nông dân vùng ĐBSH. Số liệu trong cuốn sách cho thấy thu
nhập của nông dân có được nâng lên, tỷ lệ hộ nghèo từng bước giảm theo
tiến trình của sự phát triển. Tuy nhiên, thu nhập của nông dân khu vực
này nhìn chung vẫn còn thấp chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của
12
vùng. Mặc dù cuốn sách chỉ đề cập đến đời sống của nông dân vùng
ĐBSH và giới hạn ở vấn đề việc làm, nhưng đây là tài liệu quan trọng làm
hệ quy chiếu trong so sánh khi nghiên cứu về vấn đề nông dân ở ĐBSCL.
Luận án tiến sĩ triết học của Đỗ Thị Thanh Mai nghiên cứu về vấn đề
“Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường - Đặc
trưng và xu hướng biến đổi” [63]. Luận án đi sâu nghiên cứu về đặc điểm tâm
lý của nông dân Đồng bằng Bắc bộ trong lịch sử và hiện tại. Đồng thời, tác
giả đưa ra những dự báo về sự biến đổi tâm lý của nông dân Đồng bằng Bắc
bộ trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực trong những năm tiếp theo khi đất nước
chuyển sang nền kinh tế thị trường sâu rộng. Tuy nhiên, do giới hạn về phạm
vi và nội dung nghiên cứu, nên luận án không đi sâu tìm hiểu về tâm lý nông
dân ở các khu vực khác, nhưng đây là tài liệu khoa học quan trọng trong việc
so sánh đối chiếu với tâm lý nông dân ở các vùng miền khác nhất là tâm lý,
tính cách nông dân vùng ĐBSCL.
Luận án tiến sĩ triết học của Nguyễn Ngọc Sơn “Nguồn nhân lực nông
thôn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và
xu hướng phát triển” [89]. Luận án đi sâu nghiên cứu về chất lượng nguồn
nhân lực ở địa bàn nông thôn (thực chất là nông dân, đặc biệt là thanh niên)
của cả nước với những thuận lợi và khó khăn trong quá trình CNH, HĐH đất
nước. Qua đó, tác giả đề xuất các nhóm giải pháp như về giáo dục và đào tạo,
KT - XH, chính trị, văn hóa nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trên
địa bàn nông thôn đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
Riêng nông dân ĐBSCL với tư cách là một bộ phận quan trọng của
nông dân cả nước cũng là đối tượng được nhiều học giả nghiên cứu, đáng chú
ý có Sơn Nam với tư cách là nhà văn, nhà Nam bộ học đã đi sâu nghiên cứu
về lịch sử khai phá, phát triển vùng đất phương Nam, về con người Nam bộ
và đã xuất bản hơn 50 tác phẩm, tiêu biểu như: Nói về miền Nam, cá tính miền
Nam, thuần phong mỹ tục Việt Nam; Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh
13
hoạt xưa và văn minh miệt vườn; Lịch sử khẩn hoang miền Nam; Sài Gòn xưa
- Ấn tượng 300 năm và tiếp cận với Đồng bằng sông Cửu Long [72], [73],
[74], [75]. Theo Sơn Nam, tính cách, tâm lý người dân Nam bộ luôn có sự
đan xen của cả hai yếu tố đối lập: hiền lành, đôn hậu nhưng cũng ngang tàng,
liều lĩnh; năng động, thích tìm tòi khám phá cái mới từ thực tiễn nhưng có
phần lười biếng, không quan tâm việc học từ sách vở, đi học là điều không
cần thiết; không văn chương hoa mỹ, nói ít làm nhiều, con người hành động
nhưng cũng dễ buông suôi, thiếu kiên nhẫn,... Bên cạnh đó, trong các sách của
mình, tác giả đồng thời trình bày về các phong tục, tập quán, về “văn minh
miệt vườn” của người dân vùng ĐBSCL. Các tác phẩm của Sơn Nam là kho
tài liệu đồ sộ, thực sự cần thiết để nghiên cứu tìm hiểu về những nét đặc trưng
văn hóa cũng như tâm lý, tính cách nông dân vùng ĐBSCL với tất cả những
ưu nhược điểm - yếu tố quan trọng có liên quan đến thực trạng phát huy vai
trò chủ thể của nông dân trong XDNTM hiện nay.
Cuốn sách Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ do Trần Ngọc Thêm
chủ biên và viết chính [96] là công trình khảo cứu rất đồ sộ, công phu gần 900
trang in với sự tham gia nghiên cứu và thẩm định của nhiều nhà khoa học, nhà
văn hóa học có sự am hiểu sâu sắc về Nam bộ nói chung và Tây Nam bộ nói
riêng. Xuyên suốt 8 chương của cuốn sách, các học giả đều xuất phát từ tồn
tại xã hội, nhất là căn cứ vào những nét đặc thù do điều kiện tự nhiên quy
định, làm cơ sở đối chiếu với các vùng miền khác trong cả nước, qua đó nhằm
làm rõ bên cạnh những điểm tương đồng thì người Việt ở Tây Nam bộ cũng
có những nét văn hóa độc đáo có tính khu biệt. Đặc biệt, ở chương V, công
trình tập trung nghiên cứu về các đặc trưng tính cách văn hóa của người Việt
vùng Tây Nam bộ, đó là: tính sông nước, tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính
bao dung, tính thiết thực và tính mở thoáng. Ở mỗi yếu tố trên lại chứa đựng
cả tích cực và tiêu cực, ưu điểm và nhược điểm. Trên cơ sở đó, tác giả rút ra
kết luận:
14
Từ thiên nhiên, khí hậu cho đến con người, không có cái gì là bất
biến. Chất văn minh thì tăng lên, đời sống kinh tế thì có đi lên,
nhưng thiên nhiên và khí hậu và một số mặt của con người thì đang
có dấu hiệu đi xuống. Bởi vậy mà người Tây Nam Bộ không thể
ngủ yên; đối với Tây Nam Bộ, cả tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên
khí hậu và tài nguyên con người đều cần được nuôi dưỡng. Trong
đó, tài nguyên con người là quan trọng nhất; con người mà suy
thoái về đạo đức, thiếu hiểu biết về nhận thức và thiếu tầm nhìn về
năng lực thì chính họ sẽ tàn phá rất nhanh tài nguyên thiên nhiên và
tài nguyên khí hậu của mình, của mọi người và của muôn đời con
cháu về sau [96, tr.853].
Nhìn chung, các tác phẩm của Sơn Nam, hay Trần Ngọc Thêm tuy không
chủ đích bàn sâu về nông dân Nam bộ với tư cách là một giai tầng trong xã hội,
nhưng bối cảnh lịch sử mà các tác giả đề cập có liên quan đến cư dân Nam bộ
mà về thực chất và chủ yếu đó là nông dân. Vì vậy, sẽ là thiếu sót nếu nghiên
cứu về nông dân ĐBSCL mà lại không tìm hiểu nghiên cứu về những tác phẩm
này, bởi lịch sử là một dòng chảy liên tục. Một khi hiểu rõ về văn hóa, về đất và
người của vùng đất chín rồng là một trong những cơ sở quan trọng để hoạch định
chính sách phù hợp nhằm tiếp tục phát huy tốt hơn vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM. Các sách này giúp cho tác giả luận án có nguồn tư liệu phong
phú làm cơ sở để tiếp tục nghiên cứu về những đặc điểm tâm lý, tính cách của
nông dân ĐBSCL trong điều kiện hiện nay.
Để tiếp tục phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn và XDNTM đồng thời cũng là để nâng cao đời sống cho
nông dân, đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu những giải pháp hỗ trợ
nông dân như:
Sách Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân
ở Việt Nam của tác giả Hồ Quế Hậu [40]. Cuốn sách đi sâu nghiên cứu và khảo
15
sát về mối liên kết giữa doanh nghiệp chế biến với nông dân - một phần rất quan
trọng trong mối kiên kết “Bốn nhà” - được tác giả nhấn mạnh nhất là khi Thủ
tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 80/2002/QĐ-TTg ngày 24/6/2002 về
chính sách khuyến khích tiêu thụ nông sản hàng hóa thông qua hợp đồng giữa
nông dân với các doanh nghiệp. Qua khảo sát về mối liên kết giữa doanh nghiệp
chế biến nông sản với nông dân trên phạm vi cả nước cho thấy bước đầu đạt
được nhiều kết quả tốt đẹp. Đối với doanh nghiệp chế biến nông sản, thông qua
mối liên kết với nông dân, đã thu mua được sản phẩm có chất lượng tốt, tạo
nguồn cung nguyên liệu ổn định bền vững cho nhu cầu chế biến, phát huy được
hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị, sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả kinh tế
cao. Về phía nông dân, khi tham gia liên kết với doanh nghiệp chế biến đã giúp
cho nông sản ổn định được đầu ra với giá cả hợp lý, yên tâm sản xuất và thu
nhập từng bước được cải thiện. Tuy nhiên, theo tác giả, quá trình thực hiện liên
kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với nông dân tiến triển chậm,
còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Đáng chú ý là quy mô thực hiện còn nhỏ,
chất lượng liên kết không cao, thiếu bền vững; tranh chấp hợp đồng giữa doanh
nghiệp chế biến với nông dân diễn ra khá gay gắt, phức tạp. Tình trạng vi phạm
hợp đồng từ cả hai phía rất phổ biến. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương
hướng và giải pháp phát triển liên kết giữa doanh nghiệp chế biến nông sản với
nông dân Việt Nam ngày càng trở nên thực chất và hiệu quả hơn.
Cuốn sách Xây dựng câu lạc bộ sinh kế cộng đồng - Góp phần xóa đói
giảm nghèo [133]. Cuốn sách được trình bày bằng hình thức như sổ tay, cẩm
nang cho nông dân. Cuốn sách khẳng định các câu lạc bộ sinh kế cộng đồng
là hình thức hợp tác giản đơn, có khả năng áp dụng rộng rãi ở các vùng miền,
phù hợp với nông dân có hoạt động sản xuất quy mô nhỏ lẻ, vốn ít, dễ bị thiệt
thòi khi tham gia thị trường. Do vậy, việc hợp tác liên kết giữa một số nông
dân hay hộ gia đình thành tổ chức cộng đồng cùng thực hiện các hoạt động
sản xuất được đánh giá là thích hợp để huy động các nguồn lực phát triển kinh
16
tế hộ gia đình nhằm nâng cao năng lực sản xuất, XĐGN, liên kết tạo thêm
nguồn lực, bình đẳng giới, thúc đẩy thực hiện dân chủ cơ sở.
Hoàng Chí Bảo với Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới [7]. Nội dung cuốn sách nêu bật tầm quan trọng của dân chủ, dân
chủ cơ sở, đặc biệt là việc thực hiện và phát huy tốt dân chủ cơ sở ở nông thôn
nước ta hiện nay là chìa khóa quan trọng trong việc thực hiện tốt công tác
XĐGN nói riêng cũng như CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung; về
những ảnh hưởng và tác động của tâm lý làng xã trong việc thực hiện và phát
huy dân chủ ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ hiện nay; đồng thời trình bày những
bài học kinh nghiệm từ các địa phương về quá trình triển khai, thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở cùng với đó là các khuyến nghị. Cuốn sách là tài liệu quan trọng
có thể nghiên cứu vận dụng vào quá trình XDNTM hiện nay, vì muốn XDNTM
thành công đòi hỏi phải thực hiện tốt vấn đề dân chủ, dân chủ phải đi trước một
bước. Chỉ có như thế mới có thể phát huy tốt sức mạnh của quần chúng nhân
dân, nhất là nông dân. Nhưng, để phát huy dân chủ được tốt thì yêu cầu đặt ra là
HTCT cơ sở phải trong sạch, vững mạnh toàn diện - một nội dung quan trọng
được thể hiện ở tiêu chí số 18 trong Bộ tiêu chí quốc gia về XDNTM.
Cũng bàn về vấn đề dân chủ có bài “Thực hành dân chủ qua 30 năm đổi
mới - Thực trạng và giải pháp” của tác giả Lê Hữu Nghĩa, trong sách Triết
học chính trị - con người - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn [79], tác giả cho
rằng để thực hiện dân chủ thì phải từ nhiều chủ thể khác nhau như Đảng, Nhà
nước và đặc biệt là nhân dân:
Nhân dân phải có năng lực làm chủ. Năng lực đó không phải bỗng
dưng mà có, không phải từ trên trời rơi xuống, không phải do “ban
phát” mà một mặt Đảng, Nhà nước phải tạo ra cơ chế, chính sách,
luật pháp thích hợp, mặt khác người dân phải phấn đấu, rèn luyện,
phải học dân chủ, phải nâng cao trình độ hiểu biết về dân chủ,
phương pháp thực hành dân chủ và bản lĩnh thực hành dân chủ. Có
17
như vậy, nhân dân mới có quyền dân chủ thực sự, tránh tình trạng
dân chủ chung chung, dân chủ hình thức [79, tr.12].
Những năm gần đây, đặc biệt kể từ khi phong trào XDNTM được Đảng
ta chủ trương thực hiện trên phạm vi cả nước thực sự đang trở thành chủ đề
lớn được cả xã hội quan tâm. Đến nay, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
về vấn đề này.
Đối với các đề tài khoa học, đáng chú ý có: Một số giải pháp xây dựng
nông thôn mới vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng (2012), mã số KHBĐ
(2009)-16 [51]; Bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa truyền thống vùng đồng
bằng Bắc bộ trong xây dựng nông thôn mới hiện nay (2014), mã số KHBĐ
(2013)-12 [50]; Phát huy vai trò của Hội Nông dân Việt Nam trong xây dựng
nông thôn mới ở khu vực đồng bằng sông Hồng (2014), mã số KHBĐ (2013)-
39 [49]. Các đề tài khoa học trên tuy đối tượng nghiên cứu có khác nhau,
nhưng đều xoay quanh chủ đề XDNTM và những giải pháp đề ra đều nhằm
mục đích làm thế nào để phong trào XDNTM đạt được nhiều thành tựu to lớn
hơn. Có thể nhận định, ngay từ khi Đảng ta đề ra chủ trương XDNTM, ở khu
vực phía Bắc đã và đang có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này với
những góc độ tiếp cận khác nhau. Trong khi đó, ở ĐBSCL đây là vấn đề chưa
được quan tâm đúng mức.
Sách Xây dựng nông thôn mới những vấn đề lý luận và thực tiễn, Vũ
Văn Phúc (Chủ biên) [159]. Quyển sách trình bày những vấn đề lý luận chung
và kinh nghiệm quốc tế về XDNTM, về thực tiễn XDNTM ở Việt Nam tập
trung ở các tỉnh khu vực phía Bắc. Tuy nhiên, khảo sát về thực tiễn XDNTM
ở ĐBSCL như thế nào, cũng như vai trò của nông dân với tư cách là chủ thể
trong quá trình XDNTM ở ĐBSCL ra sao chưa được đề cập đến, trong khi
ĐBSCL là địa bàn rộng lớn, giàu tiềm năng để phát triển nông nghiệp vì trên
thực tế ĐBSCL đã và đang đóng góp đáng kể vào thành tựu chung cho nền
kinh tế nông nghiệp của cả nước. Cho nên, chương trình XDNTM nói chung
18
và việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL nói
riêng cũng nên được quan tâm nghiên cứu và tổng kết thực tiễn.
Bài viết Kết quả sau bốn năm thực hiện Chương trình xây dựng nông
thôn mới của Nguyễn Sinh Cúc [19], tác giả tập trung khái quát về kết quả đạt
được rất cơ bản của bốn năm triển khai thực hiện XDNTM (2011 - 2014)
thông qua những mô hình tiêu biểu ở một số địa phương như: Đồng Nai, Thái
Bình, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Lâm Đồng. Đồng thời, tác giả chỉ ra
những khó khăn, hạn chế và đề xuất một số giải pháp chủ yếu để quá trình
XDNTM trong những năm tiếp theo được tốt hơn. Bài viết phản ánh kịp thời
thực trạng của chương trình XDNTM với nội dung và số liệu được cập nhật
cùng với những giải pháp có tính gợi mở. Vì vậy, đây là tài liệu tham khảo
quan trọng và cần thiết.
Đặc biệt, với bài Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới - khâu
đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp và nâng cao thu nhập bền vững cho
người nông dân của tác giả Nguyễn Thiện Nhân đã chỉ ra một giải pháp rất
quan trọng nhằm nâng cao thu nhập cho nông dân trong quá trình XDNTM
đó là con đường tất yếu cần phải hướng đến mô hình HTX kiểu mới gắn
với sự ra đời của của Luật Hợp tác xã năm 2012. Theo Nguyễn Thiện
Nhân, nông dân không thể sản xuất riêng lẻ vì “nếu canh tác độc lập, riêng
lẻ thì sức mạnh kinh tế của hộ nông dân rất nhỏ bé, khả năng chịu đựng rủi
ro rất thấp, tình trạng tái nghèo rất dễ xảy ra” [80, tr.17]. Tác giả cho rằng:
Chừng nào mà nền sản xuất nông nghiệp nước ta còn chủ yếu vẫn là
các hộ riêng lẻ, không liên kết với nhau, thì 10 triệu hộ nông dân
vẫn mãi là 10 triệu hộ yếu thế và các yêu cầu rất hợp lý về sản xuất
nông nghiệp, các chính sách về tín dụng, đào tạo, liên kết với các
nhà khoa học sẽ rất khó thực thi [80, tr.19].
Vì vậy, để đổi mới mô hình sản xuất nông nghiệp, đòi hỏi các hộ
nông dân nhất thiết phải liên kết, hợp tác với nhau bằng mô hình HTX kiểu
19
mới. Bởi lẽ, tham gia vào các HTX kiểu mới trong giai đoạn hiện nay là
hướng đi cần thiết và đúng đắn vì chỉ có vào HTX nông dân sẽ có được
nhiều lợi ích trên nhiều phương diện.
Nhìn chung, bài viết của Nguyễn Thiện Nhân bàn về tầm quan trọng
phát triển HTX nông nghiệp kiểu mới - một hình thức sản xuất tiêu biểu của
nông dân - để cơ cấu lại nông nghiệp mà mục đích cuối cùng không gì khác
hơn nhằm nâng cao đời sống cho nông dân là rất sâu sắc đã gợi mở, định
hướng cho tác giả luận án trong việc định hình giải pháp phát triển các HTX
nhất là đối với mô hình cánh đồng lớn trong sản xuất lúa gạo ở ĐBSCL.
Bài viết Phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội Nông dân Việt
Nam trong xây dựng nông thôn mới của tác giả Hoàng Phó Dân [21, tr.15-19]
nhấn mạnh đến vai trò chủ thể của nông dân trong phong trào XDNTM được
thể hiện qua việc nông dân chủ động tham gia trên tất cả các nội dung của Bộ
tiêu chí Quốc gia về XDNTM dưới sự dẫn dắt bởi tổ chức của mình là Hội
Nông dân Việt Nam các cấp.
Tuy nhiên, việc nhận thức về vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM ngay ở một bộ phận cán bộ, đảng viên còn khá nhiều bất cập, điều
này được thể hiện trong bài “Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý về
Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (Qua khảo sát tại
một số tỉnh duyên hải Nam Trung bộ)” của Phạm Đi. Qua điều tra xã hội học
với các số liệu khảo sát thực tế về tình hình cán bộ, đảng viên nhận thức chưa
chuẩn xác về việc ai giữ vai trò chủ thể trực tiếp thực hiện và thụ hưởng
những thành quả trong XDNTM, tác giả kết luận đang có tình trạng “nhầm
vai” khá phổ biến. Theo đó:
Chính sự “nhầm vai” này khiến cho nông dân - những người cần phải
trực tiếp tham gia và thụ hưởng từ Chương trình - còn “đứng ngoài
cuộc”: quyền được biết, bàn, tham gia, quyết định, giám sát, thụ
20
hưởng… chưa được thể hiện một cách đầy đủ và vô hình trung trở
thành “khán giả” trong tiến trình xây dựng nông thôn mới [35, tr.68].
1.2. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ THỰC TRẠNG PHÁT HUY
VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Nghiên cứu về nông dân ĐBSCL nói chung, về vai trò chủ thể của
nông dân gắn với quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và hiện nay là
phong trào XDNTM nói riêng đáng chú ý có các công trình như:
Kỷ yếu Hội thảo Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn XDNTM thích
ứng với biến đổi khí hậu vùng ĐBSCL [12]. Nhiều bài viết trong Kỷ yếu cho
rằng ĐBSCL có nhiều tiềm năng, lợi thế để XDNTM, vì với hơn 13 triệu
người sống ở địa bàn nông thôn ĐBSCL và hàng năm đóng góp 40,7% trong
giá trị sản xuất nông lâm ngư nghiệp, 53,4% sản lượng thóc, 70% sản lượng
trái cây, 68,7% sản lượng thủy sản, 90% sản lượng gạo xuất khẩu và chiếm
gần 70% sản lượng xuất khẩu thủy sản của cả nước [12, tr.7]. Những kết quả
của nền nông nghiệp vùng ĐBSCL đang góp phần to lớn vào sự phát triển
chung của nền nông nghiệp nước nhà, điều này càng chứng minh thành tựu có
được không thể thiếu vai trò của người nông dân.
Bài viết Giải pháp cho vấn đề Tam nông ở Đồng bằng sông Cửu Long
của tác giả Phạm Ngọc Hòa. Trong bài viết, bước đầu tác giả đã khái quát
những thành tựu đạt được đồng thời chỉ ra những hạn chế trên cả ba lĩnh vực
nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Riêng đối với nông dân ĐBSCL, tác giả
khẳng định nông dân đang có nhiều thay đổi theo hướng tiến bộ “Người nông
dân đã tự mình vươn lên trong phát triển kinh tế nông nghiệp và tham gia xây
dựng nông thôn mới, từng bước tiếp cận, tham gia, hòa nhập được các loại thị
trường, giải phóng năng lực sản xuất, tạo ra động lực mới, bước đột phá mới
cho sự phát triển của vùng” [43, tr.58].
Trong cuốn sách Xây dựng nông thôn mới - Khảo sát và đánh giá của
Trần Minh Yến (Chủ biên) [146]. Từ kết quả khảo sát trực tiếp tại 3/11 xã ở
21
nhiều vùng miền khác nhau, trong đó có xã Mỹ Long Nam, huyện Cầu Ngang,
tỉnh Trà Vinh đại diện cho các tỉnh thuộc ĐBSCL thực hiện thí điểm XDNTM
với những thành tựu bước đầu đạt được là rất cơ bản. Trong cuốn sách, tập thể
tác giả đánh giá kết quả đạt được trong XDNTM ngoài sự tác động từ nhiều
nhân tố khánh quan thì không thể không đề cập đến vai trò chủ thể nông dân.
Ở ĐBSCL, khi nghiên cứu về nông dân với phạm vi hẹp hơn là đồng
bào Khmer, có đề tài khoa học Chính sách khuyến khích đồng bào Khmer
vùng Tây Nam Bộ tham gia tích cực vào chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo
vệ tuyến biên giới Tây Nam của Tổ quốc (11/2014) do Học viện khu vực IV
(Cần Thơ) thực hiện [45]. Đề tài khẳng định: đồng bào Khmer Nam bộ là một
bộ phận quan trọng trong đại gia đình các dân tộc ở ĐBSCL. Trong khi đó,
tuyệt đại đa số đồng bào Khmer Nam bộ sinh sống chủ yếu bằng nghề nông,
thực chất họ là nông dân. Do đó, XDNTM ở ĐBSCL không thể không đề cập
đến sự tham gia của đồng bào Khmer Nam bộ. Cùng nghiên cứu về dân tộc,
tôn giáo ở ĐBSCL còn có sách Nhà nước, tôn giáo, luật pháp [53] của Đỗ
Quang Hưng. Cuốn sách cho thấy vấn đề giữ vững an ninh, trật tự nông thôn
nhất là nơi có đông đồng bào dân tộc và theo đạo vùng Tây Nam bộ là một
trong những nội dung quan trọng (tiêu chí 19) trong XDNTM cần được quan
tâm khi xây dựng chính sách.
Vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM là to lớn. Tuy nhiên, trong
những năm qua, vai trò chủ thể của nông dân trên thực tế chưa được phát huy
tốt, đời sống của nông dân còn gặp không ít khó khăn do nhiều nguyên nhân
khác nhau. Lý giải về vấn đề này có những công trình nghiên cứu như:
Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất
ở đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp của Nguyễn Đình
Hương (chủ biên) [55]. Nội dung cuốn sách bước đầu cố gắng làm rõ thực
chất, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tình trạng các hộ nông dân không có
đất hoặc thiếu đất sản xuất. Trên cơ sở đó đề xuất và kiến nghị một số quan
22
điểm và giải pháp nhằm bảo đảm công ăn việc làm, ổn định đời sống cho các
hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở vùng ĐBSCL.
Với tiêu đề của cuốn sách bằng cách đặt ra câu hỏi lớn Nông dân dựa
vào đâu? do Đặng Đức Thành chủ biên [93] đã thể hiện một cách sâu sắc tâm
huyết của các chuyên gia, các nhà quản lý về lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn
và nhất là nông dân. Các tác giả đã tập trung đi sâu trình bày vai trò to lớn của
nông dân trong mối quan hệ với nông nghiệp và nông thôn. Tuy nhiên, thực
trạng về đời sống của nông dân lại không như kỳ vọng, đến mức có nhiều bài
viết đã được các tác giả đặt tiêu đề theo tên chủ đề của cuốn sách như: Vì sao
nông dân chưa giàu? Nông dân đang ở đâu, về đâu? Nhà nước hỗ trợ gì cho
nông dân?... Nhìn chung, các bài viết trong quyển sách đã thể hiện sự đồng
cảm, trăn trở, chia sẻ khi đi sâu chỉ ra những những khó khăn, thách thức do
các nhân tố khách quan và cả sự bất cập trong cơ chế chính sách là những
nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự thua thiệt cho nông dân. Đây cũng lý do, theo
tác giả luận án, làm cho vai trò chủ thể của nông dân chưa được phát huy tốt.
Thực trạng phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL ngoài những
nhân tố khách quan, còn do những hạn chế từ phía bản thân người nông dân.
Bài viết Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng Tây Nam Bộ trong
tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Hoàng Mạnh
Tưởng [128]. Theo tác giả, ĐBSCL tuy giàu tiềm năng, lợi thế so sánh nhưng
thực tế cho thấy thực trạng chất lượng nguồn nhân lực ở ĐBSCL còn rất
nhiều hạn chế, là nút thắt cản trở quá trình CNH, HĐH và hội nhập quốc tế
của Vùng [128, tr.61]. Nguyên nhân của thực trạng này, theo tác giả, chủ yếu
là do tỷ lệ đói nghèo cao và chất lượng sống của người dân thấp; ý thức nâng
cao trình độ học vấn của người dân còn thấp vì “phần đông người dân có
ruộng có vườn, nên cuộc sống ít vất vả, cực nhọc... Có lẽ vì vậy, người dân
thường có suy nghĩ đơn giản, ít có sự nhìn xa trông rộng để có sự đầu tư cho
23
con cái trong tương lai về vấn đề học hành, sự nghiệp. Cho đến nay, tình trạng
này vẫn không được cải thiện là bao so với trước đây” [128, tr.62-63].
Võ Tòng Xuân trong bài “Vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà
khoa học và nông dân trong việc hình thành và phát triển các chuỗi giá trị
nông nghiệp” trong Tài liệu hội thảo Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp bền
vững [151]. Với tư cách là chuyên gia hàng đầu trong lĩnh vực nông nghiệp,
tác giả nhận xét về nông dân ĐBSCL như sau:
Sự nghèo nàn của đa số nông dân còn do chính bản thân người nông
dân gây ra. Với kinh nghiệm “lão nông tri điền” rất nhiều bà con
nông dân tự hào làm theo kinh nghiệm cũ của mình mà không
nghiêm túc tuân thủ quy trình kỹ thuật nông nghiệp cao (GAP) khi
sản xuất… Mặt khác, nông dân ta thì học thức kém nên cứ hay bắt
chước người khác mà không tính toán kỹ lưỡng, thấy ai trồng gì
bán được giá thì hùa nhau trồng theo, không biết thị trường như thế
nào, đến khi cung vượt quá cầu thì rớt giá, bán không được, phải
chịu lỗ, càng nghèo thêm [151, tr.122].
Đây là nhận định xác đáng về một trong những nhược điểm của nông
dân ĐBSCL. Chính điều này ít nhiều làm hạn chế việc phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay.
1.3. NHỮNG CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP
PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG
THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Đối với các kỷ yếu được hình thành từ các cuộc hội nghị, hội thảo khoa
học lớn được các cơ quan Trung ương và địa phương đồng tổ chức, chủ trì ở
ĐBSCL đáng chú ý như: Kỷ yếu Hội thảo khoa học Đẩy mạnh tuyên truyền
trên báo Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Đồng bằng sông Cửu
Long [92]; Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cơ chế chính sách phục vụ tái cơ cấu
ngành nông nghiệp [4]; Kỷ yếu Hội nghị xúc tiến thương mại - đầu tư nông
24
nghiệp - nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long [9]; Tài liệu hội thảo
Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững [129].
Các kỷ yếu là tập hợp các bài viết được chuẩn bị công phu phục vụ cho
các hội thảo, hội nghị gắn với từng chủ đề riêng. Nhìn chung, các bài viết
trình bày khá toàn diện vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân vùng
ĐBSCL gắn với XDNTM với những thời cơ, thuận lợi. Song song đó là
những khó khăn, thách thức, bất cập cần được quan tâm nghiên cứu tháo gỡ.
Qua đó, có cái nhìn tổng thể về tình hình KT - XH và đầu tư phát triển trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, đưa ra những giải pháp và kiến
nghị nhằm phát huy các sản phẩm nông nghiệp lợi thế ở ĐBSCL. Trong giải
pháp, đáng chú ý là tập trung đi sâu vào việc chỉ ra sự cần thiết và tình hình
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH; về tái cấu trúc toàn diện sản xuất
nông nghiệp một cách bền vững và hiệu quả để nâng cao chuỗi giá trị nông
nghiệp. Riêng đối với nông dân ĐBSCL, các kỷ yếu đều thể hiện sự đồng
hành, chia sẻ và sự cần thiết phải có thêm nhiều hỗ trợ từ phía các bộ ngành,
địa phương, của đội ngũ doanh nghiệp, các nhà khoa học nhằm tháo gỡ những
khó khăn cho nông dân từ việc ban hành chủ trương, chính sách trong việc tái
cơ cấu ngành nông nghiệp, giải quyết việc làm gắn với giảm nghèo bền vững,
khắc phục ô nhiễm môi trường,… đến hỗ trợ về vốn, kỹ thuật, bao tiêu nông
sản,… Tuy nhiên, một điều dễ nhận thấy là xuyên suốt các bài tham luận
trong tất cả các kỷ yếu chưa đề cập hoặc thể hiện không rõ về vai trò chủ thể
nông dân với tư cách là một yếu tố đặc biệt quan trọng trong XDNTM.
Đối với các công trình khoa học cấp tỉnh nghiên cứu về XDNTM có đề
tài: Đề xuất các giải pháp chủ yếu xây dựng xã nông thôn mới theo bộ tiêu chí
của tỉnh trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2012 - 2014 của Liên hiệp các
Hội khoa học và kỹ thuật tỉnh Bến Tre chủ trì thực hiện [134]. Đề tài đi sâu
khảo sát thực tế quá trình triển khai XDNTM ở 03 xã: Sơn Định (huyện Chợ
Lách), Phú Nhuận (thành phố Bến Tre) và Tân Thủy (huyện Ba Tri) tương
25
ứng với đặc thù của ba vùng sinh thái nước ngọt, nước lợ và nước mặn. Trên
cơ sở đó, tập thể tác giả tập trung vào việc đề xuất hệ thống các giải pháp
nhằm phát huy tốt hơn những kết quả đồng thời khắc phục những hạn chế
trong quá trình XDNTM của 03 xã để có thể nhân rộng áp dụng cho tất cả các
xã trên địa bàn tỉnh.
Trương Giang Nam, Nguyễn Thành Phong (Đồng chủ biên), Liên kết
“Bốn nhà” - giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở Đồng
bằng sông Cửu Long [76]. Đây là sách tham khảo tập hợp các bài viết của các
nhà khoa học tập trung vào thực trạng và những vấn đề đặt ra trong quá trình
thực hiện liên kết “Bốn nhà” ở ĐBSCL trong thời gian qua với những thành
tựu và hạn chế; về vai trò của nhà nước và các cấp chính quyền trong liên kết
“Bốn nhà”, về vai trò của các nhà khoa học trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn, về trách nhiệm của các doanh nghiệp đồng hành cùng với
nông dân. Tuy nhiên, trong mối liên kết “Bốn nhà” thì vai trò của nông dân
ĐBSCL là gì, về những mặt ưu điểm và hạn chế ở nông dân ĐBSCL chưa
được đề cập đến. Vì vậy, đây là khoảng trống cần được nghiên cứu bổ sung
để có cái nhìn đầy đủ, toàn diện, đa chiều. Cuốn sách có giá trị lớn giúp cho
tác giả luận án kế thừa những yếu tố hợp lý để xây dựng giải pháp huy động
nguồn lực XDNTM thông qua liên kết “Bốn nhà” với góc nhìn mới.
Liên quan đến nông dân ĐBSCL nhưng ở phạm vi đối tượng nghiên
cứu hẹp hơn là đồng bào Khmer có đề tài khoa học Công tác dân vận trong
thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo vùng đồng bào dân tộc Khmer Tây
Nam Bộ - Thực trạng và giải pháp [48]. Đề tài cho rằng công tác dân vận
trong thực hiện chính sách XĐGN chỉ có thể thành công khi có sự cộng tác
tích cực của các hộ nghèo vì “Xóa đói giảm nghèo xét cho cùng là trách
nhiệm của Đảng và Nhà nước; của cộng đồng và xã hội, song trước hết và chủ
yếu là sự nghiệp của chính bản thân hộ nghèo, người nghèo, còn những yếu tố
khác chỉ là sự hỗ trợ cần và đủ để người nghèo sớm đạt được mục tiêu thoát
26
nghèo bền vững” [48, tr.97]. Nhưng để làm được điều này thì các hộ nghèo
cần “bài trừ các tệ nạn như mê tín, tiêu xài lãng phí, rượu chè…; có ý thức tiết
kiệm trong chi tiêu, bố trí chi tiêu hợp lý, tiến bộ, thể hiện cuộc sống văn
minh ngay trong cơ cấu chi tiêu của gia đình” [48, tr.97].
Đối với các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành đáng
chú ý có: Nguyễn Phong Quang với bài Cơ cấu lại và phát triển bền vững
nông nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở liên kết vùng [84]. Từ việc
phân tích những thành tựu, hạn chế trong phát triển nông nghiệp gắn với
XDNTM, tác giả khẳng định yêu cầu tất yếu phải liên kết, đặc biệt là liên kết
trong thực hiện mô hình cánh đồng lớn. Theo tác giả, điểm nổi bật của liên
kết theo mô hình này (chủ yếu giữa doanh nghiệp với nông dân) đó là: doanh
nghiệp đóng vai trò là nhà đầu tư cho nông dân, thiết kế mô hình tổ chức sản
xuất, chuyển giao khoa học kỹ thuật và bảo đảm thị trường tiêu thụ. Trong khi
đó, vai trò chủ thể của nông dân là trực tiếp sản xuất, đảm bảo tuân thủ đúng
quy trình sản xuất để đạt hiệu quả cao. Kết quả đạt được đôi bên cùng chia sẻ,
trong đó nông dân hưởng lợi đáng kể vì thực tế cho thấy trên mỗi hecta lúa
khi áp dụng mô hình này người nông dân có thể giảm chi phí từ 10% đến
15%, giá trị sản lượng tăng lên từ 20% đến 25%, thu lợi nhuận thêm từ 2,2
đến 7,5 triệu đồng.
Giải pháp cho vấn đề Tam nông ở Đồng bằng sông Cửu Long của tác
giả Phạm Ngọc Hòa [43]. Bài viết khái quát những thành tựu đạt được, đồng
thời chỉ ra những hạn chế trên cả ba lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông
thôn. Theo tác giả, để phát huy tốt hơn vai trò chủ thể của nông dân rất cần có
những giải pháp mang tính chất công cụ thông qua các chính sách nhằm tác
động vào chủ thể nông dân ĐBSCL như giải pháp về miễn, giảm thuế cho
nông dân; hỗ trợ nông dân khi xảy ra mất mùa, thiên tai; hỗ trợ giải quyết việc
làm, an sinh xã hội; đầu tư xây dựng trường học, trung tâm dạy nghề.
27
Kết luận chƣơng 1
Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn là lĩnh vực rộng lớn lại có tính
thời sự đang gây sự quan tâm, chú ý của toàn xã hội. Phong trào XDNTM không
chỉ được nông dân đón nhận và tham gia thực hiện mà nhiều tổ chức, cá nhân,
các học giả, các nhà khoa học cũng bày tỏ sự đồng tình, ủng hộ và có những
đóng góp to lớn từ việc nghiên cứu lý luận đến tổng kết thực tiễn phong trào
XDNTM trên nhiều phương diện, ở nhiều góc độ, phạm vi khác nhau, tạo nên
bức tranh sinh động về một phong trào sôi nổi trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Đây là những kênh thông tin đa chiều, thậm chí đóng vai trò phản biện
cần thiết giúp cho Đảng và Nhà nước có thêm cơ sở trong hoạch định chủ
trương, chính sách XDNTM bám sát thực tiễn và phù hợp hơn.
Đến nay, đã có nhiều công trình khoa học, bài viết đi sâu nghiên cứu về vị
trí, vai trò của nông nghiệp, nông thôn; về quá trình CNH, HĐH nông nghiệp,
nông thôn gắn với XDNTM; về thành tựu đạt được cũng như những hạn chế,
yếu kém và bất cập từ thực tiễn XDNTM; về những thời cơ và thách thức trong
quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng có ảnh hưởng trực tiếp đến nông nghiệp,
nông thôn nước ta; về kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong xây dựng và
phát triển nông nghiệp, nông thôn mà Việt Nam có thể nghiên cứu, học tập và
vận dụng vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mình; về vai trò của HTCT và các
tổ chức CT - XH, tổ chức xã hội nghề nghiệp, các doanh nghiệp, của đội ngũ các
nhà khoa học trong tham gia XDNTM cũng như kết quả đạt được và những hạn
chế, bất cập từ mối quan hệ, sự tương tác giữa các chủ thể này thông qua liên kết
“Bốn nhà”.
Riêng đối với nông dân, đã có nhiều bài viết, nhiều sách, công trình
nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu về nông dân
như khảo sát thực trạng giai cấp nông dân dưới tác động của kinh tế thị trường,
của quá trình CNH, HĐH và xu hướng vận động; về những thuận lợi và khó
28
khăn của nông dân,… Tuy nhiên, có một điểm chung ở rất nhiều bài viết, công
trình nghiên cứu về nông dân nước ta nói chung, nông dân ĐBSCL nói riêng
hiện nay cũng chỉ dừng lại ở một số vấn đề như: một là, bày tỏ sự cảm thông,
chia sẻ với những khó khăn, vất vả, thua thiệt của nông dân trong sản xuất, cũng
như xót xa với nỗi khổ của nông dân trong cuộc sống; hai là, cần phải làm gì và
làm thế nào để tác động, hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân trong
XDNTM thông qua cơ chế, chính sách như giao đất, giao rừng, hỗ trợ về vốn,
hướng dẫn kỹ thuật, phát triển giáo dục gắn với đào tạo nghề, giải quyết việc
làm, giải quyết đầu ra cho nông sản hàng hóa.
Thực tiễn XDNTM ở nước ta trong những năm qua cho thấy, bằng sự
chủ động, tích cực, tự giác, năng động và sáng tạo các chủ thể nông dân đang
ra sức vươn lên trong cuộc sống không chỉ cho bản thân người nông dân mà
còn vì sự tiến bộ xã hội, không chỉ đem lại sự sung túc cho riêng mình mà còn
vì nền nông nghiệp hưng thịnh, một nông thôn hiện đại và giàu bản sắc. Điều
này càng khẳng định vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM là vô cùng
to lớn. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu về vai trò chủ thể của nông
dân trong XDNTM đến nay còn khá nhỏ bé, khiêm tốn. Đặc biệt, đi sâu
nghiên cứu tình hình phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở
ĐBSCL với những nét đặc thù cho đến nay vẫn còn là khoảng trống cần được
bổ sung, lấp đầy.
Từ việc thiếu hụt những công trình nghiên cứu và khảo sát thực tế đang
đặt ra vấn đề là căn cứ vào cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn nào để khẳng định
vai trò chủ thể của nông dân, làm gì và làm thế nào để phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong XDNTM hiện nay. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa kết quả
nghiên cứu của các công trình đã có về nông dân để bổ sung khoảng trống của
các vấn đề còn bỏ ngỏ, chưa nghiên cứu sâu nhằm hoàn thiện hơn những vấn
đề lý luận và đánh giá thực tiễn việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
29
trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay rất cần được quan tâm nghiên cứu và được
luận án xác định là hướng phát triển tiếp theo.
Vì vậy, trong chương 2 của luận án, bước đầu trình bày khái quát
khung lý luận về chủ thể nông dân, trên cơ sở nội dung và yêu cầu cơ bản về
XDNTM ở nước ta hiện nay luận án khẳng định tầm quan trọng của việc phát
huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM, những nhân tố tác động đến
việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM được thể hiện trên
những nội dung cụ thể.
Ở chương 3, từ việc khái quát về ĐBSCL và nông dân ĐBSCL, luận án
đi sâu trình bày thực trạng phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL căn
cứ vào các nội dung, tiêu chí (19 tiêu chí) trong Bộ tiêu chí Quốc gia về
XDNTM trên cả hai phương diện thuận lợi và khó khăn, thành tựu và hạn chế.
Luận án cũng trình bày những nguyên nhân của thành tựu, hạn chế trong việc
phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong XDNTM hiện nay. Đây
là cơ sở quan trọng để tác giả luận án khẳng định những kết quả đạt được
trong XDNTM không phải bỗng nhiên mà có và cũng không hẵn thuần túy do
các nhân tố bên ngoài đem đến mà ở đó có một phần đặc biệt quan trọng là do
việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân với tất cả sự chủ động, tích cực,
phấn đấu, nỗ lực không ngừng; đồng thời cũng do những hạn chế, nhược
điểm của nông dân đang là rào cản cho việc phát huy vai trò của mình trong
XDNTM.
Ở chương 4, luận án đề xuất những quan điểm có tính định hướng và
những giải pháp cơ bản để làm gì và làm như thế nào nhằm tiếp tục phát huy
ngày một tốt hơn, hiệu quả hơn vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong
XDNTM hiện nay và trong những năm tiếp theo.
30
Chƣơng 2
PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY -
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
2.1. CHỦ THỂ NÔNG DÂN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA VIỆC PHÁT HUY
VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.1.1. Chủ thể nông dân và đặc điểm cơ bản của chủ thể nông dân
Chủ thể là phạm trù thuộc lĩnh vực triết học. Ở mỗi giai đoạn lịch sử và
tùy vào từng trường phái triết học mà phạm trù chủ thể được nghiên cứu với
những góc nhìn khác nhau. Nhìn chung, các trường phái triết học khi đề cập
đến chủ thể cho rằng chủ thể là con người. Triết học Ấn Độ cổ đại cho rằng,
chủ thể nhận thức chính là Atman (linh hồn con người) nhưng Atman của con
người không phải tự hình thành, tồn tại và vận động theo những quy luật của
riêng nó. Mọi hoạt động của nó, suy cho cùng, là do Brahman (linh hồn vũ
trụ) tạo ra, quy định và chi phối. Tương tự, trong triết học Trung cổ Tây Âu,
do chịu sự quy định bởi tư tưởng thần quyền, phạm trù chủ thể được hiểu ở
hai góc độ: chủ thể nhận thức là con người, còn chủ thể chi phối là thượng đế,
chúa trời. Trong triết học cổ điển Đức, đặc biệt với Immanuel Kant, khi đề
cập đến vấn đề con người thì chủ yếu bàn về con người với vai trò là chủ thể
nhận thức, trong đó ông đặc biệt nhấn mạnh đến tính năng động, sáng tạo của
hoạt động nhận thức. Tuy nhiên, I. Kant tách rời nhận thức ra khỏi hiện thực
khách quan, không coi nhận thức như là quá trình lịch sử dựa vào hoạt động
thực tiễn, không phải là nhận thức về “vật tự nó” mà là hiện tượng luận. Điều
này có nghĩa là chủ thể nhận thức chỉ nhận thức những gì do mình sáng tạo ra,
con người chỉ có tri thức về thế giới hiện tượng mà không thể có tri thức về
thế giới “vật tự nó”.
Với triết học Mác - Lênin, chủ thể là phạm trù được đề cập một cách
toàn diện nhất so với các trào lưu trước đây. Triết học Mác - Lênin khẳng
31
định chủ thể chỉ có thể là con người hiện thực và chủ thể là bản chất đặc trưng
của con người. Từ điển Triết học định nghĩa: “Chủ thể là con người hoạt động
tích cực và nhận thức, có ý thức và ý chí” [127, tr.93]. Như vậy, chủ thể -
trước hết phải là con người. Tác giả Dương Thị Liễu tiếp cận phạm trù chủ
thể trong mối quan hệ với khách thể, theo đó: “Chủ thể là con người với
những cấp độ tồn tại khác nhau của nó, đang thực hiện hoạt động nhằm tác
động vào khách thể” [67, tr.13].
Như vậy, khi khẳng định chủ thể là con người rõ ràng không phải con
người chung chung trừu tượng, mà là con người hiện thực đang tham gia vào
các hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn gắn với những điều kiện xã hội
cụ thể có tác động tích cực vào khách thể, buộc khách thể bộc lộ những đặc
điểm, thuộc tính. Là chủ thể thì trước hết phải có năng lực nhận thức, trình độ,
kinh nghiệm, học vấn,… riêng có, tạo nên sự đa dạng, phong phú. Như vậy,
một khi con người được xác định là chủ thể thì chủ thế ấy về cơ bản phải có
những thuộc tính như có ý thức, có tư duy, chủ động, tích cực, sáng tạo và có
mục đích, luôn phản ánh hiện thực khách quan và tác động vào thế giới xung
quanh từ đời sống tự nhiên đến đời sống xã hội thông qua hoạt động thực tiễn.
Thứ nhất, chủ thể có nhận thức, có tư duy. Đây là thuộc tính cơ bản đầu
tiên để phân biệt một con người cụ thể nào đó là chủ thể hay không là chủ thể.
Đối với từng chủ thể thì năng lực nhận thức, năng lực tư duy ở mỗi người là
khác nhau, rất đa dạng. Có người tư duy sắc sảo, nhạy bén, thông minh. Ngược
lại, có người năng lực nhận thức hạn chế, chậm chạp. Tuy nhiên, đã là con người
với tư cách là chủ thể thì bao giờ cũng phải có một năng lực nhận thức nhất định
để khám phá, chinh phục, cải tạo thế giới với những mức độ khác nhau.
Thứ hai, chủ thể tích cực, chủ động. Để sinh tồn, con người luôn biết
tìm mọi cách vượt qua mọi khó khăn, trở ngại trong cuộc sống. Đây là điều
khác biệt cơ bản giữa con người với con vật. Đối với con vật cũng có sự phản
ánh hiện thực khách quan, nhưng đó là sự phản ánh có tính thụ động và tiêu
32
cực. Theo đó, nếu hiện thực khách quan thuận lợi, sẽ tạo điều kiện cho con
vật tồn tại. Ngược lại, trong trường hợp hiện thực khách quan khó khăn, thậm
chí khắc nghiệt, thì bằng sự phản ánh thụ động chắc chắn con vật không thể
tồn tại, nguy hại hơn có thể đưa đến sự tiêu vong của giống nòi. Thế nhưng,
riêng con người ở góc độ là chủ thể thì lại khác. Bằng sự phản ánh mang tính
chủ động, tích cực, con người không ngừng tác động vào thế giới vật chất, bắt
thế giới vật chất bộc lộ những đặc điểm, thuộc tính, kết cấu, quy luật,… của
nó ngày càng đầy đủ, rõ nét, sâu sắc hơn. Qua đó, từng bước làm cho năng lực
nhận thức của các chủ thể được nâng cao. Bằng sự phản ánh có tính tích cực,
chủ động giúp các chủ thể khắc phục, vượt qua những khó khăn, thách thức từ
cuộc sống để tồn tại và không ngừng phát triển.
Thứ ba, chủ thể sáng tạo. Sáng tạo là một trong những thuộc tính độc
đáo riêng có của con người với tư cách là chủ thể trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Điều cần nhấn mạnh là, sự sáng tạo ở đây không phải là sản
phẩm thuần túy trong tư duy. Tức là một sự sáng tạo hoàn toàn xa rời và tách
biệt với hiện thực khách quan, hay từ suy nghĩ chủ quan để quy định và thậm
chí tạo ra thế giới vật chất như cách tiếp cận của chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, đối với từng chủ thể nhận
thức, sáng tạo là sự phản ánh hiện thực khách quan, trên cơ sở của hiện thực
khách quan. Nhờ có sự sáng tạo, các chủ thể đã tạo nên một “Thiên nhiên thứ
hai” [56]. Nói cách khác, thế giới vật chất phải là thuộc tính thức nhất, là cái
có trước và là “chất liệu” sinh động cho sự phản ánh mang tính sáng tạo của
các chủ thể. Vì rằng, thông qua sự phản ánh đó, còn là quá trình mô phỏng,
bắt chước, làm theo những cái vốn có trong thế giới vật chất, giống như thế
nhưng không hoàn toàn là như thế và thường đạt đến một trình độ cao hơn.
Hơn nữa, nhờ có tính sáng tạo mà các chủ thể nhận thức còn có khả năng tạo
ra tri thức mới về các sự vật hiện tượng cũng như khả năng dự đoán, dự báo
các khuynh hướng vận động của thế giới vật chất trong tương lai.
33
Thứ tư, chủ thể có mục đích. Chính thuộc tính có mục đích đã làm cho
các chủ thể có sự khác biệt căn bản với thế giới loài vật. Theo C. Mác: “Con
nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ dệt… con ong
còn làm cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân
biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây những ngăn
tổ ong bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu óc của mình
rồi” [59, tr. 266-267]. Như vậy, rõ ràng đối với loài vật, hoạt động của chúng
thuần túy chỉ dừng lại ở bản năng, bẩm sinh di truyền vốn có của sự sinh tồn
theo kiểu “đói thì ăn, khát thì uống” hay sinh con đẻ cái duy trì nòi giống.
Trong khi đó, mọi hoạt động của con người chủ thể đều có mục đích, tức là
các hoạt động, hành vi, lời nói mà con người đang thực hiện hoặc sẽ thực hiện
đều phải thông qua hoạt động tư duy và đều phải đem lại một kết quả, một giá
trị hay một ý nghĩa nhất định nào đó. Cũng chính vì trong từng chủ thể nhận
thức và hành động có tính mục đích mà đảm bảo cho hoạt động của con người
có tính định hướng, để từ những mục đích ban đầu đã được định hình theo đó
từng chủ thể phấn đấu, vươn lên đạt được những mục tiêu đã đề ra.
Dĩ nhiên, mỗi chủ thể trong hoạt động của mình bao giờ cũng có sự
tương tác với những khách thể cụ thể, nhất định. Những khách thể ấy đóng
vai trò là “nhân tố khách quan” với tư cách là tất cả những gì tồn tại bên ngoài
chủ thể, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của chủ thể và tham gia trực tiếp
vào hoạt động của chủ thể. Đó là môi trường tự nhiên, là phương thức sản
xuất, những quan hệ xã hội, chính trị, tư tưởng,… tồn tại với tư cách là khách
thể của hoạt động. Vì vậy, mọi hoạt động của chủ thể suy cho cùng cũng phải
trên cơ sở của khách thể, chịu sự quy định bởi nhân tố khách quan. Mọi mục
đích, dự định mà các chủ thể đặt ra phải lấy hiện thực khách quan làm căn cứ.
Như trên đã trình bày, ở góc độ triết học, khi đề cập đến khái niệm “chủ
thể” thì đó phải là con người với tất cả những đặc tính vốn có. Tuy nhiên, chủ
thể ở đây không chỉ dừng lại ở từng cá nhân riêng lẻ, mà tùy vào cấp độ và
34
qui mô tiếp cận, chủ thể được xem xét ở nhiều góc độ khác nhau. Bởi lẽ, con
người trong quá trình tồn tại của mình luôn gắn chặt với các mối quan hệ xã
hội, chịu sự quy định bởi các thiết chế xã hội, vì như chủ nghĩa Mác khẳng
định: trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những mối
quan hệ xã hội. Theo đó, trong xã hội, chủ thể còn được hiểu đó là các tổ
chức, tổ chức CT - XH, tổ chức xã hội - nghề nghiệp,… Nói cách khác, chủ
thể còn là các nhóm người, đảng phái, giai cấp,... Chẳng hạn, trong khoa học
quản lý nhà nước, chủ thể được phân chia bao gồm “chủ thể quản lý” được
hiểu “là cá nhân, tổ chức có một quyền lực nhất định buộc các đối tượng quản
lý phải tuân thủ các quy định do mình đề ra để đạt được những mục tiêu đã
định trước” [47, tr.7]. Ngoài ra, còn có “chủ thể quản lý nhà nước” được định
nghĩa “là các cơ quan nhà nước (cán bộ, công chức có thẩm quyền phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ được giao). Những chủ thể này tham gia vào quá
trình tổ chức quyền lực nhà nước về lập pháp, hành pháp, tư pháp theo quy
định của pháp luật” [47, tr.8].
Đi sâu nghiên cứu về chủ thể nông dân, Từ điển tường giải và liên
tưởng tiếng Việt của Nguyễn Văn Đạm định nghĩa nông dân là “Người
chuyên sản xuất ra các loại lương thực, thực phẩm” [23, tr. 614]. Còn Từ điển
tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên định nghĩa nông dân là “Người lao động
sống bằng nghề làm ruộng” [148, tr. 717]. Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
định nghĩa về nông dân khá đầy đủ và toàn diện, theo đó: “Nông dân là những
người lao động cư trú ở nông thôn, tham gia sản xuất nông nghiệp. Nông dân
sống chủ yếu bằng ruộng vườn, sau đó đến các ngành nghề mà tư liệu sản
xuất chính là đất đai. Tùy từng quốc gia, từng thời kỳ lịch sử, người nông dân
có quyền sở hữu khác nhau về ruộng đất. Họ hình thành nên giai cấp nông
dân, có vị trí, vai trò nhất định trong xã hội”.
Có thể khái quát một số đặc điểm cơ bản của chủ thể nông dân nước ta:
35
Thứ nhất, chủ thể nông dân Việt Nam là những người lao động trong
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Bằng năng lực tư duy và tri thức kinh nghiệm
sản xuất gắn với một phương thức sản xuất đặc thù, chủ thể nông dân trực tiếp
lao động sản xuất trên các lĩnh vực: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, ngư
nghiệp,… tạo ra khối lượng của cải lương thực thực phẩm nuôi sống con
người, cung cấp nguyên liệu đầu vào cho công nghiệp và hàng xuất khẩu.
Thứ hai, chủ thể nông dân là lực lượng chiếm số đông trong cơ cấu dân
số của cả nước, có sự gắn bó lâu đời với cội nguồn dân tộc, với địa bàn nông
thôn. Trong tiến trình dựng nước và giữ nước, với lòng yêu nước nồng nàn,
tinh thần bất khuất, kiên cường, các chủ thể nông dân đã có nhiều công lao to
lớn đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời với năng
lực sáng tạo vô hạn xuất phát từ nhu cầu của cuộc sống, các chủ thể nông dân
còn là lực lượng trực tiếp xây dựng và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Thứ ba, các chủ thể nông dân nước ta có nhiều ưu điểm như cần cù
trong lao động, tinh thần yêu nước và tính cố kết cộng đồng bền chặt. Trong
xã hội cũ, các chủ thể nông dân bị áp bức, bóc lột nặng nề nên có tinh thần
phản kháng, đấu tranh cao, nhưng đồng thời nông dân nước ta thiếu sự liên
kết chặt chẽ về kinh tế. Muốn được giải phóng khỏi sự áp bức và nô dịch, các
chủ thể nông dân phải chủ động tham gia vào khối liên minh công - nông - trí
dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, bản thân chủ thể nông dân Việt
Nam cũng có những biến đổi cho phù hợp với các điều kiện khách quan.
Chẳng hạn, do tồn tại xã hội đang có sự chuyển biến đáng kể nhất là phương
thức sản xuất nông nghiệp ngày càng tiên tiến, do sự biến đổi của điều kiện tự
nhiên,… đòi hỏi các chủ thể nông dân nước ta cũng phải có sự điều chỉnh
theo hướng ra sức phát huy tính năng động và sáng tạo, tinh thần tự lực và tự
cường, đức tính cần mẫn và chịu khó để thích ứng và tồn tại với điều kiện
hoàn cảnh mới.
36
2.1.2. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông
thôn mới
Xây dựng NTM là chủ trương đúng đắn của Đảng ta nhưng cũng là
nhiệm vụ khó khăn. Thực hiện sự nghiệp cách mạng này đòi hỏi cần có sự
tham gia của nhiều lực lượng xã hội. Vì vậy, tiếp cận khái niệm “chủ thể”
trong trường hợp này cũng có phạm vi rộng hơn. Chủ thể không chỉ dừng lại
với ý nghĩa là con người cá nhân, mà chủ thể còn được hiểu là các tổ chức xã
hội rộng lớn. Về cơ bản, có ba nhóm chủ thể cùng tham gia XDNTM.
Một là, nông dân. Đây là lực lượng đông đảo, hùng hậu nhất. Nông
dân với tư cách là từng chủ thể cá nhân trực tiếp lao động sản xuất trong
lĩnh vực nông nghiệp, gắn bó với địa bàn nông thôn, giàu kinh nghiệm sản
xuất, cần cù, năng động, sáng tạo đang là lực lượng chủ lực trực tiếp tham
gia XDNTM. Ngoài ra, chủ thể nông dân ở đây không chỉ dừng lại ở từng
người nông dân cụ thể mà còn bao gồm các tổ chức và các hình thức hợp tác
kinh tế như tổ hợp tác, HTX, doanh nghiệp nông nghiệp, xí nghiệp, công
ty,… của nông dân hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp trên địa bàn nông
thôn [95, tr.5], [146, tr.294].
Hai là, HTCT bao gồm: Đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Cựu chiến
binh, Công đoàn. Tất cả các tổ chức này đều được xác định là chủ thể, chẳng
hạn “Nhà nước luôn là chủ thể quản lý, chủ thể kinh tế lớn nhất của nền kinh
tế thị trường” [83, tr.137]. Tương tự, các tổ chức khác tiêu biểu như Hội Nông
dân là tổ chức CT - XH đại diện cho nông dân, không chỉ đại diện về mặt
chính trị mà còn đại diện cả về lĩnh vực kinh tế, xã hội. Về mặt pháp lý cũng
như trên thực tế, Hội Nông dân là cầu nối, là trung tâm, là đầu tàu trong các
phong trào nông dân trong XDNTM hiện nay.
Ba là, các lực lượng khác như các nhà khoa học, đội ngũ trí thức, đội
ngũ doanh nhân. Đây là những người có năng lực tốt, trình độ cao, giàu kinh
37
nghiệm thực tiễn, có nhiều tâm huyết, luôn muốn khẳng định và cống hiến
cho xã hội và quê hương và hiện nay ít nhiều cũng tham gia, góp sức vào
phong trào XDNTM.
Mỗi chủ thể có chức năng, vai trò khác nhau, nhưng có điểm giống
nhau là cùng góp phần chung tay XDNTM. Do đó, sự kết hợp, tương tác giữa
các chủ thể là yêu cầu khách quan để tác động, hỗ trợ, chia sẻ, cộng đồng
trách nhiệm hướng đến đối tượng là nông dân, vì nông dân để đạt mục tiêu cốt
lõi cuối cùng là giúp nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư nông
thôn một cách bền vững, địa bàn nông thôn được phát triển hài hòa.
Tuy nhiên, trong mối quan hệ giữa các chủ thể khi tham gia XDNTM,
suy cho cùng, vai trò chủ thể của nông dân nổi lên hàng đầu và quan trọng
nhất. Đây cũng chính là vấn đề được tác giả luận án giới hạn đó là phát huy
vai trò chủ thể của bản thân người nông dân trong XDNTM cả nước nói
chung và ở ĐBSCL nói riêng như đã được xác định ở đối tượng và phạm vi
nghiên cứu của luận án tại mục 3.1 và 3.2 ở trang 4.
Vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM thể hiện thông qua việc
nông dân trực tiếp tham gia vào tất cả các nội dung, tiêu chí của chương trình
XDNTM. Do đó, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM là
phát huy tất cả tâm lực, trí lực, tài lực của nông dân; là phát huy sức mạnh nội
sinh từ tinh thần cách mạng đến lòng yêu nước, từ đức tính cần cù đến sự
năng động, sáng tạo mà mục đích cuối cùng không gì khác hơn cũng chính là
đem lại lợi ích cho bản thân người nông dân.
Chủ thể nông dân, ngoài mối quan hệ với các chủ thể khác, còn có mối
quan hệ với các khách thể. Trước hết, cần phải đặt chủ thể nông dân trong
mối quan hệ chặt chẽ với nông nghiệp và nông thôn, trong đó nông dân là yếu
tố trung tâm, cốt lõi của mối quan hệ này. Bởi lẽ, sẽ không có khái niệm nông
thôn nếu không chỉ rõ đây là không gian, địa bàn mà ở đó đang tồn tại những
cộng đồng người (chủ yếu là nông dân) tiến hành một hoạt động sống cơ bản
38
đó là sản xuất nông nghiệp. Còn nói đến nông nghiệp cũng có nghĩa là nói
đến quá trình nông dân tiến hành hoạt động sản xuất trên một địa bàn nông
thôn nhất định, cụ thể để tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho xã
hội và làm thay đổi diện mạo của nông thôn theo hướng ngày càng văn minh,
tiến bộ. Có thể thấy nông nghiệp là chức năng cơ bản của nông thôn thể hiện
thông qua quá trình lao động sản xuất của chủ thể nông dân.
Ngoài ra, trong XDNTM chủ thể nông dân cũng giữ vai trò quyết
định trong mối quan hệ với các yếu tố khách thể khác thông qua các nguồn
lực như vốn, khoa học công nghệ, điều kiện tự nhiên,… Bởi vì, nếu không
có nông dân thể hiện vai trò chủ thể của mình, thì tất cả các nguồn lực trên
không thể được phát huy, luôn tồn tại ở dạng tiềm năng. Nói khác đi, tất cả
các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế của từng vùng miền, từng địa bàn nông
thôn có được khơi dậy, phát huy một cách tối đa, triệt để cho XDNTM hay
không không đơn giản thuần túy xuất phát từ chính bản thân nội tại của nó
mà phải thông qua hoạt động của nông dân với tư cách là chủ thể bằng tất
cả sức mạnh, tiềm năng vốn có. Điều này cũng có có nghĩa là vai trò chủ
thể của nông dân phải được phát huy trước một bước, cũng như phải được
phát huy xuyên suốt trong quá trình XDNTM.
Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt định nghĩa “phát huy” đó là
“Đưa vào thế tạo ra lợi ích, có tác dụng tốt” [23, tr.636]. Còn theo Từ điển
Tiếng Việt, “phát huy” là “làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy
nở thêm” [147, tr.742]. Như vậy, tuy cách diễn đạt về thuật ngữ “phát huy” có
khác nhau, nhưng nhìn tổng thể đều có chung một nghĩa bao quát. Theo đó,
động từ “phát huy” tự bản thân nó luôn phải gắn chặt với những điều tốt đẹp,
tiến bộ, tích cực hay nói cách khác phát huy là phải gắn với những yếu tố
thuộc về chân, thiện, mỹ mà không phải ở những mặt ngược lại.
Xuất phát từ những giá trị mà nông dân Việt Nam đã dày công tạo dựng
xuyên suốt chiều dài lịch sử, nên khi nói đến phát huy vai trò chủ thể của
39
nông dân vào trong phong trào XDNTM hiện nay, theo tác giả, trước hết cần
được thể hiện thông qua hệ giá trị cốt lõi vốn dĩ là những yếu tố thấm đậm
trong tâm hồn và tính cách của từng chủ thể nông dân. Một khi phát huy tốt
các yếu tố này, đến lượt nó và chính nó là nền tảng, là bệ phóng cho việc phát
huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM gắn với từng nội dung, tiêu
chí cụ thể trong Bộ tiêu chí quốc gia về XDNTM. Những giá trị cốt lõi đó là:
Thứ nhất, phát huy lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần cách mạng
của người nông dân vào trong XDNTM.
Lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần cách mạng của nhân dân ta
đặc biệt là lực lượng nông dân đã được hun đúc, kết tinh và phát huy xuyên
suốt qua các giai đoạn lịch sử của dân tộc trong chống giặc ngoại xâm. Theo
giáo sư Vũ Khiêu: “Chống xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do, đó là điều kiện
đầu tiên để dân tộc tồn tại và phát triển. Yêu nước vì thế trở thành tình cảm
thiêng liêng và điều kiện thiết yếu để sống còn. Nó trở thành giá trị hàng đầu
chi phối toàn bộ hệ thống giá trị của dân tộc ta” [149, tr.65-66]. Đặc biệt,
trong những năm chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, lòng yêu quê hương
đất nước của nông dân được thể hiện tột bậc bằng sự gan dạ, dũng cảm, bất
khuất, kiên cường, bám làng, bám đất bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng vì sự
nghiệp giành độc lập dân tộc. Ngày nay, lòng yêu quê hương đất nước, tinh
thần cách mạng tiến công của nông dân trong điều kiện hoàn cảnh mới đó là
ra sức phát triển KT - XH góp phần làm cho nước nhà ngày càng “đàng
hoàng hơn, to đẹp hơn” rất cần được tiếp tục phát huy. Vậy, phát huy lòng
yêu nước ở đây thực chất là phát huy về vấn đề gì? Trước hết, đó là sự tin
tưởng của nông dân vào vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp đổi
mới, phát triển KT - XH của đất nước để nhận thức được rằng nếu trước đây
mất nước là quốc nhục thì ngày nay nghèo nàn, lạc hậu và có nguy cơ tụt
hậu xa hơn về kinh tế cũng là một cái nhục của dân tộc; phát huy sự đồng
thuận, đồng lòng, ủng hộ của nông dân đối với các chủ trương, quyết sách
40
của Đảng và Nhà nước về XDNTM để ra sức lao động sản xuất, quyết tâm
XĐGN, không ngừng vươn lên trong cuộc sống vì mục tiêu “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Những hành động cụ thể, thiết thực
của nông dân như thế tự nó đã là yêu nước, là cách mạng và không có bất kỳ
lý do gì để không tiếp tục duy trì và nâng lên một tầm cao mới trong một
thời đại mới. Như vậy, phát huy lòng yêu quê hương đất nước, tinh thần
cách mạng của chủ thể nông dân Việt Nam là xuất phát điểm, là nhân tố cơ
bản đem lại điều kiện thuận lợi đảm bảo cho chương trình mục tiêu quốc gia
về XDNTM sớm đạt được mục tiêu đề ra. Sức mạnh của quần chúng nhân
dân là vô cùng to lớn. Trong mọi hoàn cảnh, nếu có sự hậu thuẫn, giúp sức
của nhân dân nói chung, của nông dân nói riêng thì việc gì dù khó khăn mấy
cũng vượt qua vì “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu
cũng xong”.
Thứ hai, phát huy sự cần cù, chịu thương chịu khó và tính năng động,
sáng tạo, tự lực, tự cường của người nông dân vào trong XDNTM.
Ngày nay, đất nước ta đang trong giai đoạn đẩy mạnh quá trình
CNH, HĐH để phát triển KT - XH. Riêng đối với XDNTM, mặc dù trong
những năm qua có đạt được nhiều thành tựu quan trọng nhưng chỉ mới là
kết quả bước đầu, chưa bền vững. Trên thực tế, nền nông nghiệp nước ta
vẫn còn nhiều hạn chế do khả năng nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ
thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp chưa cao. Vì vậy, trong điều
kiện hiện nay, việc phát huy sự cần cù, siêng năng của từng chủ thể nông
dân là rất cần thiết để trước mắt bù đắp cho năng suất, chất lượng, hiệu quả
còn thấp. Về lâu dài, đức tính tốt đẹp đó vẫn cần tiếp tục duy trì và một khi
nó được kết hợp với trình độ tri thức ở người nông dân ngày càng nâng
cao, đồng thời nông dân có thêm tính năng động, sáng tạo, nhạy bén tiếp
thu cái mới trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, của sự phát triển
41
khoa học công nghệ và hội nhập quốc tế sâu rộng sẽ giúp cho quá trình lao
động sản xuất, xây dựng quê hương của nông dân ngày càng thêm nhiều
khởi sắc.
Cùng với đó, khi tham gia vào các hoạt động thực tiễn phát triển KT -
XH từ phong trào XDNTM, nhất là trong hoạt động sản xuất nông nghiệp,
đang cho thấy việc phát huy tinh thần hăng say lao động cũng là sức mạnh
giúp các chủ thể nông dân “vượt lên chính mình” để tự lực cánh sinh trước
những vấn đề mới vô cùng khó khăn, nan giải do các yếu tố khách quan đem
lại có tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình sản xuất cũng như đời sống
sinh hoạt hằng ngày. Đó mới là con đường của sự phát triển có tính bền vững.
Đặc biệt, với tính năng động sáng tạo, nhất là trong sáng kiến cải tiến kỹ
thuật, chế tạo máy, chuyển đổi mô hình sản xuất,… một khi được phát huy tốt
sẽ đem lại những hiệu quả thiết thực cho bản thân nông dân, góp phần quan
trọng cho sự phát triển nền nông nghiệp nước nhà.
Thứ ba, phát huy tinh thần đoàn kết, gắn bó, tương trợ lẫn nhau của
người nông dân vào trong XDNTM.
Yếu tố này từ lâu vốn dĩ là một trong những giá trị truyền thống quý
báu của dân tộc ta. Trong lịch sử, chính tinh thần đoàn kết là chất keo kết dính
toàn dân tộc, tạo nên sức mạnh vô địch làm cho dân tộc ta trường tồn. Ngày
nay, cũng với tinh thần đoàn kết đang tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả cộng
đồng để chung tay, góp sức phát triển KT - XH. Tinh thần đoàn kết, gắn bó
của nông dân, nhất là trong quá trình sản xuất nông nghiệp, được tiếp tục phát
huy thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau thông qua các mô hình hợp tác
sản xuất, trao đổi kinh nghiệm, chia sẻ thông tin, hỗ trợ về vốn,... Cho nên,
chính sự đoàn kết, chung lưng đấu cật là yếu tố quan trọng cần được phát huy
để đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của bản thân người nông dân và cho cả
cộng đồng. Bởi lẽ, đã là phong trào XDNTM thì không phải là việc của riêng
42
ai và không một ai có thể làm được. Riêng đối với địa bàn nông thôn, mọi
mâu thuẫn, chia rẽ trong nội bộ dân cư nông thôn, trong khi bản thân nông
dân nước ta vốn dĩ là lực lượng luôn chịu nhiều thua thiệt, sẽ là nguyên nhân
quan trọng làm cho việc thực hiện sự nghiệp XDNTM khó có thể thành công.
Hơn nữa, một trong những mục tiêu của XDNTM là hướng đến làm cho tính
cố kết cộng đồng dân cư nông thôn ngày càng trở nên bền chặt hơn chứ không
phải lỏng lẻo đi. Đó cũng chính là bản sắc, là nét đẹp độc đáo, là tài sản tinh
thần vô giá của đời sống nông dân trên địa bàn nông thôn - một điểm khác
biệt cơ bản so với lối sống đô thị.
2.1.3. Tính tất yếu của việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong xây dựng nông thôn mới
2.1.3.1. Nội dung cơ bản về xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay
Xuất phát từ vị trí, vai trò của nông thôn ngày nay được thể hiện trên
các mặt: là địa bàn có vị trí chiến lược trọng yếu về quốc phòng an ninh; là
địa bàn rộng lớn để bảo tồn, giữ gìn, phát huy các giá trị truyền thống và bản
sắc văn hóa dân tộc; là địa bàn với gần 70% dân số thực sự là thị trường to
lớn cho việc tiêu thụ các sản phẩm quan trọng của các ngành công nghiệp
(nhất là công nghiệp cơ khí chế tạo máy phục vụ nông nghiệp, công nghiệp
hóa chất, công nghiệp chế biến) càng cho thấy đây là nơi cần được quan tâm
đầu tư, xây dựng.
Tuy nhiên, nông thôn Việt Nam đang đối diện với vô vàn khó khăn,
thách thức. Nếu như ở thành thị có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển
KT - XH bao nhiêu, thì ngược lại nông thôn là địa bàn gặp nhiều khó khăn
bấy nhiêu. Sự thật là, nông thôn xưa nay luôn gánh chịu nhiều thiệt hại do
thiên tai gây ra, hậu quả của chiến tranh để lại nặng nề (khối lượng bom
mìn còn sót lại, nạn nhân chất độc điôxin…); nông thôn còn là địa bàn rộng
lớn, địa hình phức tạp, cách trở nên mức độ và khả năng huy động các
nguồn lực đầu tư còn nhiều hạn chế. Điều này làm cho dân cư nông thôn
43
luôn chịu sự thiệt thòi trên mọi phương diện từ việc đi lại đến lao động sản
xuất và sinh hoạt hằng ngày; từ việc học tập đến nhu cầu vui chơi giải trí
và thụ hưởng các phúc lợi xã hội đặc biệt là vùng sâu vùng xa, vùng biên
cương, hải đảo thì lại càng khó khăn gấp bội phần.
Vì vậy, XDNTM là xu thế tất yếu của quá trình tiếp tục đẩy mạnh
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng có tính định hướng cụ thể hơn,
từng bước đi vào chiều sâu, bảo đảm được sự thống nhất. Mục đích
XDNTM để thu hẹp khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, làm cho
nông thôn ngày một văn minh, hiện đại nhưng vẫn bảo đảm bản sắc văn
hóa đặc trưng và môi trường tự nhiên vốn có. Điều quan trọng hơn, thực
hiện phong trào XDNTM để phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của nông
dân, phát huy sức mạnh của 70% dân cư nông thôn về tính tự lực, tự cường
với tinh thần “Lấy sức ta giải phóng cho ta”, từng bước nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần và phúc lợi xã hội cho chính người dân nông thôn. Do
đó, đầu tư phát triển KT - XH trên địa bàn nông thôn - thông qua phong
trào XDNTM - là yêu cầu khách quan và thực sự có ý nghĩa mang tính
nhân văn sâu sắc.
Để đảm bảo được sự thống nhất trong thực hiện chương trình XDNTM,
Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về việc
ban hành Bộ tiêu chí Quốc gia xây dựng nông thôn mới và Quyết định số
800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 về việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc
gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020. Đây là những căn cứ
pháp lý quan trọng để triển khai thực hiện trên phạm vi cả nước. Trên cơ sở
đó, Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNN ngày 21/8/2009 của Bộ Nông
nghiệp và phát triển Nông thôn tại điều 2, phần I (Quy định chung) hướng
dẫn: “Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới là căn cứ để các địa phương chỉ
đạo việc xây dựng, phát triển nông thôn mới; là cơ sở để đánh giá công nhận
xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới” [11].
44
Trong Bộ tiêu chí quốc gia về XDNTM bao gồm 19 tiêu chí được bố
cục thành 5 phần [Phụ lục 1]:
- Phần I. Quy hoạch: với tiêu chí số 1 (Quy hoạch và thực hiện quy hoạch).
- Phần II. Hạ tầng KT - XH: với các tiêu chí số 2 (Giao thông), số 3
(Thủy lợi), số 4 (Điện), số 5 (Trường học), số 6 (Cơ sở vật chất văn hóa), số 7
(Chợ nông thôn), số 8 (Bưu điện), số 9 (Nhà ở dân cư).
- Phần III. Kinh tế và tổ chức sản xuất: với các tiêu chí số 10 (Thu
nhập), số 11 (Hộ nghèo), số 12 (Cơ cấu lao động), số 13 (Hình thức tổ chức
sản xuất).
- Phần IV. Văn hóa - xã hội - môi trƣờng: với các tiêu chí số 14
(Giáo dục), số 15 (Y tế), số 16 (Văn hóa), số 17 (Môi trường).
- Phần V. Hệ thống chính trị: với các tiêu chí số 18 (Hệ thống tổ chức
chính trị xã hội vững mạnh), số 19 (An ninh, trật tự xã hội).
Ngày 17/10/2016, Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
1980/QĐTTg về Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 -
2020 (gọi tắt là Bộ tiêu chí xã). Về cơ bản, Bộ tiêu chí này kế thừa Bộ tiêu
chí Quốc gia xây dựng nông thôn mới (Quyết định số 491/QĐ-TTg). Tuy
nhiên, tên và nội dung một số tiêu chí có điều chỉnh, trong đó đáng chú ý
UBND cấp tỉnh được chủ động quyết định trong một số nội dung cụ thể. Sự
điều chỉnh này là cần thiết, kịp thời nhằm hướng đến sự phù hợp với tình
hình thực tế từng vùng miền, từng địa phương, cũng như phù hợp với
những diễn biến mới do tác động từ các nhân tố khách quan để việc triển
khai thực hiện phong trào XDNTM đạt hiệu quả tốt hơn [118], [Phụ lục 2].
Như vậy, Bộ tiêu chí Quốc gia về XDNTM và các văn bản quy phạm
pháp luật khác có liên quan là cơ sở pháp lý quan trọng, định hướng cho các
bộ ngành và địa phương trên phạm vi cả nước đồng loạt triển khai thực hiện
đảm bảo tính thống nhất gắn với những nội dung, tính chất mới cùng với
những bước đi, lộ trình phù hợp, nhưng đồng thời tôn trọng tính đặc thù của
45
từng vùng miền nhằm phát triển tổng hợp cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội, quốc phòng an ninh trên địa bàn nông thôn một cách bền vững.
Xây dựng NTM thực chất là một phong trào cách mạng xã hội, có tác
động và ảnh hưởng lớn đến toàn bộ đời sống xã hội. Vì vậy, để chương trình
mục tiêu Quốc gia về XDNTM sớm đạt nhiều thành tựu to lớn, đòi hỏi phải
đảm bảo các yêu cầu sau:
Một là, đối với HTCT.
Toàn HTCT, nhất là HTCT cơ sở, phải có sự quán triệt, thống nhất và
quyết tâm cao, phải thông suốt về tư tưởng, mục đích, ý nghĩa của XDNTM,
phát huy tinh thần trách nhiệm của người đứng đầu cũng như ở từng cán bộ
đảng viên để thể hiện tính tiên phong, gương mẫu dẫn dắt phong trào quần
chúng. Xây dựng NTM là sự nghiệp đầy khó khăn, thách thức và thực hiện
trong thời gian dài. Vì vậy, không thể nóng vội, đốt cháy giai đoạn nhưng
cũng không thụ động, trì trệ, thiếu quyết tâm hay trông chờ, ỷ lại, không có sự
đột phá.
Các địa phương khi triển khai thực hiện XDNTM phải kiên trì, phát
huy nội lực là chính nhưng phải có lộ trình, bước đi phù hợp, vững chắc để
kết quả đạt được phải thực chất, tránh chạy theo thành tích mà thiếu tính bền
vững, nợ đọng xây dựng cơ bản gia tăng mất khả năng thanh toán. Điều quan
trọng là phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động nông dân hăng hái
phát huy vai trò chủ thể của mình trong phong trào cách mạng này nhưng
tuyệt đối không được lợi dụng việc XDNTM để o ép bắt nông dân đóng góp
quá mức làm lệch lạc mục đích, ý nghĩa ban đầu của phong trào XDNTM.
Trong quá trình XDNTM một mặt cần tuân thủ các quy định có tính
định hướng, đảm bảo các nguyên tắc và sự thống nhất chung nhưng mặt khác
không rập khuôn, cứng nhắc, giáo điều; phải tôn trọng tính đặc thù của từng
vùng miền, từng địa bàn, khu vực. Các lực lượng trong HTCT khi tham gia
XDNTM phải không ngừng phát huy tính năng động, sáng tạo vốn có, tìm tòi
những cách làm hay có tính đột phá, luôn bám sát thực tiễn để kịp thời có
46
những quyết sách phù hợp; phải thường xuyên tổ chức các hoạt động sơ tổng
kết để có cơ sở cho lãnh chỉ đạo XDNTM trong các giai đoạn tiếp theo.
Hai là, đối với chủ thể nông dân.
Quán triệt tư tưởng của Hồ Chí Minh: “Phải đem hết sức dân, tài dân,
của dân làm lợi cho dân. Trước kia, sức dân, của dân làm lợi cho đế quốc, nay
đem làm lợi cho dân” [66, tr.61]. Nông dân là lực lượng chính trực tiếp tham
gia XDNTM, đang tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho xã hội,
làm thay đổi diện mạo của nông thôn theo hướng ngày càng văn minh, tiến
bộ. Nhưng bản thân từng chủ thể nông dân nếu không có ý chí vươn lên vượt
khó “lấy sức ta mà giải phóng cho ta” mà lại lười biếng trong lao động, thờ ơ
với thời cuộc, ỷ lại trông chờ vào chính quyền và sự trợ cấp từ xã hội thì dù
có chủ trương đúng đắn của Đảng, sự quyết tâm của HTCT, sự ưu đãi của
thiên nhiên,... cũng trở nên vô nghĩa, chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng, khó có thể
triển khai và phát huy có hiệu quả. Trong hoàn cảnh này, đời sống của nông
dân vẫn mãi trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói và lạc hậu, bần cùng và
TNXH; kinh tế của các địa phương vẫn mãi là nền nông nghiệp sản xuất nhỏ,
khép kín, trì trệ, manh mún khó có sự chuyển biến đáng kể và càng không thể
có những bước đột phá ngoạn mục.
Vì vậy, để phát huy tốt vai trò chủ thể của mình trong XDNTM, nông
dân phải thấu hiểu được hai vấn đề cốt lõi, đó là:
Thứ nhất, xây dựng NTM là do nông dân. Nông dân là chủ thể trực tiếp
thực hiện, quản lý, kiểm tra, giám sát trên tất cả các nội dung, tiêu chí
XDNTM. Xây dựng NTM có thành công hay không, thành công đến mức độ
nào, nhanh hay chậm cũng như việc duy trì, giữ vững thành quả của NTM về
cơ bản là do vai trò chủ thể của nông dân có được phát huy hay không, phát
huy như thế nào, đây mới là yếu tố quyết định, các chủ thể khác (ngoài nông
dân) chỉ giữ vai trò là nhân tố tác động. Hiểu được điều này sẽ giúp các chủ
thể nông dân chủ động phát huy tính tự lực, tự cường, tích cực, năng động,
47
sáng tạo; từng bước tự giác xóa bỏ tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự giúp đỡ của
chính quyền hay cho rằng XDNTM chỉ là việc của Nhà nước, của các đoàn
thể. Chẳng hạn, Hội Nông dân với tư cách là tổ chức CT - XH trực tiếp tập
hợp, vận động, bảo vệ, chăm lo cho nông dân thông qua các đề án, chương
trình hành động thiết thực, cụ thể và đầy trách nhiệm, nhưng từng chủ thể
nông dân lại không phát huy sức mạnh nội lực vốn có, không tích cực hưởng
ứng, không tham gia vào tổ chức Hội, không cố gắng trong mọi hoạt động thì
khó có thể vươn lên trong cuộc sống.
Thứ hai, xây dựng NTM là vì nông dân. Việc Đảng, Nhà nước đề ra
chủ trương, nghị quyết, cơ chế, chính sách và huy động mọi nguồn lực triển
khai thực hiện phong trào XDNTM không có mục đích nào khác hơn là chăm
lo cho đời sống của nông dân, nâng cao mức sống và chất lượng sống của
nông dân. Nông dân là người trực tiếp thụ hưởng lợi ích từ các thành quả trên
tất cả các mặt từ trong quá trình XDNTM. Hiểu được điều này sẽ giúp các
chủ thể nông dân thông suốt về nhận thức và tư tưởng, biết trân trọng sự hỗ
trợ, giúp đỡ của các lực lượng khác mà có sự đồng thuận, sẵn sàng hợp tác,
tích cực tham gia với tinh thần quyết tâm cao nhất để thực hiện chương trình
XDNTM đi đến thành công.
2.1.3.2. Tầm quan trọng của việc phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới
Xây dựng NTM là một phong trào hành động cách mạng mang tầm
chiến lược, nội dung đa dạng phong phú có tính toàn diện, thời gian thực hiện
lâu dài gắn với từng lộ trình phù hợp, qui mô diễn ra rộng lớn trên phạm vi cả
nước. Vì vậy, thực hiện sự nghiệp cách mạng này đòi hỏi cần có sự cộng đồng
trách nhiệm, chung tay góp sức của toàn xã hội, đặc biệt không thể thiếu vai
trò chủ thể của nông dân. Thông qua sự đồng thuận, đồng lòng, ủng hộ đối
với chương trình XDNTM của từng chủ thể nông dân với tất cả sự chủ động,
48
tích cực, nhiệt tình mới có thể đưa chủ trương XDNTM đi vào thực tế của
cuộc sống.
Nông dân Việt Nam với hoạt động lao động sản xuất và sinh hoạt đặc
thù của mình được khẳng định là chủ thể đóng vai trò trung tâm, cơ bản trong
mối quan hệ với các chủ thể khác có liên quan đến XDNTM; các chủ thể khác
nếu có tham gia vào tiến trình này cũng chỉ dừng lại ở mức độ tác động, hỗ
trợ chứ không thể làm thay vai trò chủ thể của nông dân. Tiềm năng, sức
mạnh của các nguồn lực phục vụ cho XDNTM chỉ có thể được phát huy khi
vai trò chủ thể của nông dân được phát huy. Nói cách khác, XDNTM sẽ
không thể thực hiện cũng như khó có thể đạt được mục tiêu đề ra một khi vai
trò chủ thể của nông dân mờ nhạt, không được phát huy hoặc phát huy chưa
đúng mức, chưa triệt để. Bởi lẽ, không một lực lượng nào khác có thể thay thế
được vai trò chủ thể của nông dân và cũng không ai có thể làm tốt hơn người
nông dân trong XDNTM.
Thứ nhất, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM góp
phần tích cực phát triển KT-XH ở địa bàn nông thôn.
Nông thôn nước ta là một địa bàn rộng lớn , nơi sinh sống, lao động
sản xuất của nông dân trong lĩnh vực nông nghiệp. Vì vậy, phát huy vai
trò chủ thể của từng nông dân trong XDNTM, nhất là một khi các chủ thể
nông dân tích cực thực hiện tốt việc tái cơ cấu kinh tế nông nghiệp hướng
vào chiều sâu với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày càng cao , trước
hết từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của bản thân người
nông dân vì ước tính có đến 85% hộ nghèo của cả nước chủ yếu gắn với
địa bàn nông thôn. Mặt khác, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM còn là để chấn hưng nền nông nghiệp nước nhà. Qua đó, góp
phần phát triển KT - XH của đất nước một cách toàn diện, bền vững vì
nền nông nghiệp nước ta - mặc dù đang có khuynh hướng giảm dần -
nhưng trên thực tế vẫn đang chiếm một tỷ trọng đáng kể trong cơ cấu của
49
nền kinh tế. Tính đến năm 2013 là 18,4% và tỷ trọng lao động trong
ngành nông nghiệp là 46,9% [33, tr.84, 86]. Hơn nữa, một khi vai trò chủ
thể của nông dân trong XDNTM phát huy tốt sẽ gián tiếp góp phần tạo
nên sự tương tác lẫn nhau giữa lĩnh vực nông nghiệp với các ngành, các
lĩnh vực khác trong nền kinh tế quốc dân như công nghiệp, dịch vụ
thương mại, giao thông vận tải,… được mở rộng và phát triển. Điều này
cho thấy, thông qua phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM
sẽ kéo theo sự phát triển mạnh mẽ, có hiệu quả sức mạnh tổng hợp của
các nguồn lực khác cho phát triển KT - XH.
Thứ hai, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM góp
phần tích cực ổn định chính trị, thực hiện tốt thế trận quốc phòng toàn dân,
an ninh nhân dân trên địa bàn nông thôn.
Lãnh thổ Việt Nam có diện tích 331.212 km2
bao gồm khoảng
327.480 km2 đất liền và hơn 4.200 km
2 biển nội thủy, với hơn 2.800 hòn
đảo, bãi đá ngầm lớn nhỏ, gần và xa bờ. Phía Bắc giáp Trung Quốc với
đường biên giới khoảng 1.400 km, phía Tây giáp Lào với đường biên giới
dài 2.067 km và giáp Campuchia với đường biên giới dài 1.080 km, phía
Đông giáp biển Đông, phía Nam giáp vịnh Thái Lan với bờ biển dài 3.260
km [85, tr.334, 338-339]. Với đặc điểm về điều kiện tự nhiên đa dạng, địa
hình phức tạp và vị trí địa lý như trên, Việt Nam là quốc gia biển, có vị trí
địa - kinh tế, địa - chính trị đặc biệt quan trọng không chỉ trong khu vực
Đông Nam Á mà cả châu Á Thái Bình Dương. Các khu vực biên giới, hải
đảo tiền tiêu của nước ta chính là địa bàn nông thôn có vị trí chiến lược
trọng yếu về quốc phòng an ninh. Do vậy, nông thôn cũng chính là khu vực
nhạy cảm, dễ bị các lực lượng thù địch trong và ngoài nước cấu kết với
nhau, lấy đó làm địa bàn trọng điểm để lôi kéo, kích động, xúi giục nhân
dân gây nên các điểm nóng chính trị mà sự kiện “Ba Tây” trong những năm
50
qua là một điển hình. Cho nên, việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM thực chất là thực hiện nền quốc phòng toàn dân gắn với thế
trận an ninh nhân dân. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong việc đảm bảo
an ninh nông thôn, giữ vững chủ quyền biên giới đất liền và chủ quyền
biển đảo, nhất là trong tình hình căng thẳng, xung đột, tranh chấp liên quan
đến vấn đề biển Đông đang diễn biến phức tạp và tiềm ẩn nhiều yếu tố khó
lường như trong giai đoạn hiện nay.
Thứ ba, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM góp phần
tích cực trong việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Nông thôn nước ta là không gian rộng lớn nơi đang bảo tồn, giữ gìn,
phát huy các giá trị truyền thống và bản sắc văn hóa dân tộc. Với 54 dân tộc
cùng tồn tại, sinh sống trên các vùng miền khác nhau, cùng với quá trình hơn
4000 năm dựng nước và giữ nước, nhân dân ta đã tạo nên những nét đặc sắc,
phong phú, độc đáo riêng có của một nền văn hóa đa dạng trong sự thống
nhất. Nói cách khác, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam không phải bỗng
nhiên mà có, nó được vun đắp qua hàng nghìn năm vốn dĩ đã gắn chặt với nền
sản xuất nông nghiệp, với người nông dân và “Người nông dân Việt Nam là
những người có văn hóa theo nghĩa họ tiêu biểu cho những truyền thống tốt
đẹp mang bản sắc dân tộc” [149, tr.999]. Ngày nay, trong xu thế hội nhập
quốc tế sâu rộng có nguy cơ làm cho bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là những
nét văn hóa cổ truyền ở làng quê, của nền văn minh nông nghiệp lúa nước bị
mai một, dễ bị mất đi hoặc bị biến tướng, lệch lạc. Do đó, phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong XDNTM nhằm tạo ra sức đề kháng đủ mạnh để một
mặt chống chọi có hiệu quả trước sự tác động mạnh mẽ từ những yếu tố tiêu
cực nhất định của một xã hội hiện đại; mặt khác để giữ gìn và phát huy giá trị
truyền thống, tập quán tốt đẹp của làng quê Việt Nam, ở phạm vi rộng hơn là
51
để đảm bảo cho các yếu tố văn hóa nội sinh với tất cả những giá trị chân,
thiện, mỹ luôn được gìn giữ và không ngừng sáng tạo.
Thứ tư, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM góp phần
tích cực bảo vệ môi trường sinh thái, phòng chống biến đổi khí hậu và giảm
thiểu thiên tai.
Với điều kiện tự nhiên cơ bản thuận lợi, địa hình đa dạng, phong cảnh
thiên nhiên tươi đẹp cho thấy nông thôn nước ta còn đóng vai trò cân bằng
sinh thái và đa dạng sinh học. Tuy nhiên, trên thực tế môi trường tự nhiên ở
nông thôn nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức, đang ảnh hưởng trực
tiếp đến sinh kế và sức khỏe của nông dân, tập trung ở các vấn đề sau:
Một là, khối lượng bom mìn trong chiến tranh còn sót lại đến nay còn
rất lớn ước khoảng 800.000 tấn đang tiếp tục gây nguy hại cho cư dân nông
thôn, gây ô nhiễm môi trường trong khi việc xử lý bom mìn phải mất rất
nhiều thời gian, công sức và tiền của.
Hai là, tình trạng ô nhiễm môi trường, nhất là ô nhiễm nguồn nước
và đất đai, ngày một phổ biến và nặng nề do mặt trái của CNH, HĐH và
hợp tác quốc tế (sự kiện tập đoàn Formosa xả thải gây ô nhiễm nghiêm
trọng trên diện rộng ở các tỉnh miền Trung), cũng như ô nhiễm do chất thải
từ chính quá trình sản xuất và sinh hoạt của người dân tạo ra.
Cho nên, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM không
những bảo vệ môi trường cảnh quan tự nhiên, mà còn góp phần duy trì, phát
triển mối quan hệ hài hòa vốn có giữa con người với thiên nhiên nhằm hướng
đến một không gian nông thôn xanh, sạch, đẹp, văn minh và hiện đại. Hơn
nữa, nông thôn Việt Nam còn là địa bàn có đầy tiềm năng để khai thác du lịch
sinh thái, du lịch miệt vườn với sự tham gia của cộng đồng dân cư nông thôn.
Môi trường cảnh quan thiên nhiên đang thực sự tạo ra sinh kế cho nông dân,
góp phần quan trọng trong phát triển KT - XH ở các địa phương, đồng thời
52
bản thân dân cư nông thôn chính là chủ thể trực tiếp tham gia và thụ hưởng
những thành quả do ngành du lịch đem lại.
Như vậy, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM thông
qua bốn nội dung trên làm cho các mặt này không ngừng phát triển nhưng
đồng thời, đến lượt nó, tác động trở lại làm cho cuộc sống của các chủ thể
nông dân ngày một tốt hơn, tiến bộ hơn.
2.2. PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG
NÔNG THÔN MỚI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY - NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN
2.2.1. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong tham gia quy
hoạch nông thôn mới và thực hiện quy hoạch
Quy hoạch và thực hiện quy hoạch là tiêu chí đầu tiên trong Bộ tiêu chí
Quốc gia về XDNTM. Tiêu chí này được cụ thể hóa bằng Thông tư liên tịch
số 13/2011/TTLT-BXD-BNNPTNT-BTN&MT ngày 28/10/2011 của liên bộ:
Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và
Môi trường [14] quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt quy hoạch xây dựng
xã NTM và được cấp có thẩm quyền phê duyệt, công bố rộng rãi tới thôn, ấp
cũng như các bản vẽ quy hoạch được niêm yết công khai để người dân biết
góp ý và thực hiện.
Như vậy, việc lập quy hoạch XDNTM về cơ bản là công việc chuyên
môn thuần túy của các cơ quan chức năng. Trong đó tập trung vào các nội
dung cơ bản như quy hoạch không gian tổng thể toàn xã làm cơ sở để quy
hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp; quy hoạch phát triển hạ tầng
kinh tế - xã hội - môi trường theo chuẩn mới; quy hoạch phát triển các khu
dân cư mới và chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo
tồn được bản sắc văn hóa.
Với những nội dung cơ bản trong xây dựng quy hoạch XDNTM như
trên không phải là việc của dân cư nông thôn và thực tế người dân cũng
53
không có khả năng làm được điều này. Tuy nhiên, tại chương I (Quy định
chung), điều 3 (Lấy ý kiến đối với đồ án quy hoạch NTM) của Thông tư này
quy định rõ:
1. Trong quá trình lập đồ án quy hoạch NTM, UBND xã chịu trách
nhiệm lấy ý kiến của cộng đồng dân cư trước khi thông qua HĐND xã.
2. Nội dung lấy ý kiến: những định hướng cơ bản về phát triển dân cư,
các công trình hạ tầng công cộng, phát triển sản xuất nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ, môi trường.
Điều này cho thấy, ở tiêu chí quy hoạch và thực hiện quy hoạch do tính
chất đặc thù của tiêu chí nên dân cư nông thôn nói chung, nông dân nói riêng
không tham gia trực tiếp về góc độ chuyên môn. Tuy nhiên, việc quy định
phải phổ biến và lấy ý kiến đóng góp của người dân, trước hết cho thấy có sự
đảm bảo yếu tố dân chủ trong việc thực hiện chủ trương XDNTM. Mặt khác,
cán bộ trực tiếp xây dựng các đồ án quy hoạch cũng như các cơ quan liên
quan tuy có thể giỏi chuyên môn nhưng trong quá trình xây dựng quy hoạch
khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót nhất định do không sát thực tế ở từng
địa phương.
Do đó, việc phổ biến các đồ án quy hoạch XDNTM đến nông dân,
tiếp thu ý kiến đóng góp của nông dân là việc làm cần thiết và rất quan
trọng. Việc góp ý cho các đồ án quy hoạch XDNTM vừa là nghĩa vụ vừa là
quyền lợi của dân cư nông thôn nói chung, của từng chủ thể nông dân nói
riêng. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong quy hoạch và thực hiện
quy hoạch là việc làm cần thiết và quan trọng vì hơn ai hết, nông dân vốn
dĩ là những người gắn bó mật thiết với nông thôn, với hoạt động sản xuất
nông nghiệp nên nông dân rất am tường, thấu đáo về những thuận lợi và
khó khăn, phù hợp và không phù hợp, những việc nên làm và không nên
làm trong quá trình sản xuất và sinh hoạt hàng ngày. Cho nên, những ý
54
kiến đóng góp của các chủ thể nông dân về cơ bản rất thực tế chứ không
viển vông, sâu sắc chứ không hời hợt, xác đáng chứ không phi lý; là kênh
thông tin quan trọng thậm chí đóng vai trò “phản biện”, “thẩm định” các
luận cứ khoa học từ đồ án quy hoạch ban đầu. Qua đó, giúp cho các đồ án
quy hoạch XDNTM (qua những lần điều chỉnh từ sự góp ý của người dân)
bám sát thực tế, có sự phù hợp, tính khả thi cao và khi triển khai thực hiện
có được những thuận lợi cùng với đó là những kết quả tốt đẹp.
2.2.2. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng hạ
tầng kinh tế - xã hội nông thôn
Kết cấu hạ tầng KT - XH là toàn bộ hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật
nền tảng cho sự phát triển KT - XH bao gồm hệ thống giao thông vận tải, thủy
lợi, điện, cấp thoát nước, bưu chính, viễn thông, thông tin liên lạc, các cơ sở
trường học, bệnh viện, cơ sở văn hóa,…
Những năm qua, hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH ở nước ta được
quan tâm đầu tư xây dựng và đang có sự chuyển biến mạnh mẽ. Tuy vậy, đến
nay hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH ở nước ta vẫn còn yếu kém, lạc hậu và
chưa đồng bộ nhất là ở các vùng nông thôn, vẫn là “thắt cổ chai” trở thành rào
cản cho quá trình phát triển KT - XH. Chính vì thế, trong chiến lược phát
triển KT - XH giai đoạn 2011 - 2020 của Đại hội XI, Đảng ta xác định xây
dựng hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH đồng bộ, hiện đại là một trong ba
khâu đột phá chiến lược đối với quá trình CNH, HĐH nói chung cũng như
trong phong trào XDNTM nói riêng [31, tr.106]. Một khi kết cấu hạ tầng KT -
XH được đầu tư xây dựng đúng mức sẽ là tiền đề, động lực và là điều kiện
quan trọng đánh thức mọi tiềm năng, lợi thế góp phần từng bước XĐGN,
nâng cao thu nhập và cải thiện an sinh xã hội.
Do đặc thù của địa bàn nông thôn nên đối với việc xây dựng, phát triển
kết cấu hạ tầng về kinh tế đó là tập trung vào vấn đề giao thông, thủy lợi,
55
điện, nước sạch,... Đối với kết cấu hạ tầng về xã hội đó là tập trung xây dựng
trường học, bưu điện, cơ sở vật chất văn hóa,... để phục vụ cho dân cư nông
thôn vốn dĩ chịu nhiều thiệt thòi trên mọi phương diện. Tuy nhiên, do điều
kiện kinh tế của đất nước còn nhiều khó khăn, nên bên cạnh sự đầu tư của
Nhà nước thì việc xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH ở các địa bàn nông thôn
cần được xã hội hóa bằng sự chung tay góp sức của cả cộng đồng, trong đó
không thể thiếu sự tham gia của dân cư nông thôn. Hơn ai hết, nông dân hiểu
rằng tham gia vào quá trình này cũng là đem lại lợi ích thiết thực cho chính
bản thân người nông dân và trên thực tế đang phát triển thành phong trào thi
đua sôi nổi, sức lan tỏa rộng lớn và có hiệu quả ở nhiều địa phương. Phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH không
chỉ là sự đồng thuận về mặt quan điểm với chính quyền các cấp, mà quan
trọng hơn đó là những hành động thiết thực. Đó là việc nông dân tự nguyện,
tự giác hiến đất, hoa màu, vật kiến trúc, tiền của, đóng góp ngày công lao
động trong khả năng và mức độ phù hợp để xây dựng những công trình thiết
yếu phục vụ sản xuất và dân sinh như: làm đường giao thông nông thôn, xây
dựng các công trình thủy lợi vừa và nhỏ, xây dựng trường học, cơ sở vật chất
văn hóa (nhà văn hóa thôn, ấp), kéo mạng lưới điện, từng bước xóa bỏ nhà
tranh tre nứa lá phấn đấu xây nhà ở dân cư đạt chuẩn.
2.2.3. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong tổ chức sản xuất
và đổi mới các hình thức sản xuất
Xây dựng NTM trước hết cần tập trung vào sản xuất phát triển kinh tế,
làm thay đổi căn bản và toàn diện đời sống của nông dân theo hướng ngày
càng tốt hơn. Đây mới là vấn đề cốt lõi, chiều sâu của chương trình XDNTM.
Từ chỗ xuất phát điểm của nền nông nghiệp nước ta còn ở trình độ thấp, qui
mô sản xuất nhỏ bé, hiệu quả kinh tế chưa cao, khả năng cạnh tranh hạn chế.
Cho nên, trong tổ chức sản xuất, ưu tiên hàng đầu là phải đẩy mạnh tái cấu
trúc nền kinh tế nông nghiệp gắn với đổi mới và phát triển các hình thức tổ
chức sản xuất, từng bước xóa bỏ lối sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, phân tán và
56
cá thể đã tồn tại lâu dài trong tập quán sản xuất của nông dân. Thông qua phát
huy vai trò chủ thể của nông dân để “Đồng khởi khởi nghiệp” trong tổ chức
sản xuất và đổi mới các hình thức sản xuất cần hướng vào ba nội dung chủ
yếu sau:
Một là, vai trò chủ thể của nông dân trong chủ động nỗ lực tăng gia sản
xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với điều kiện sinh thái
đặc thù vùng miền, địa bàn để phát huy lợi thế so sánh làm cho thu nhập trong
từng nông hộ ngày càng cao hơn, nâng cao mức sống và phát triển bền vững.
Hai là, vai trò chủ thể của nông dân (nhất là đối với các hộ nghèo và
cận nghèo) thể hiện qua sự quyết tâm trong lao động sản xuất, vượt lên chính
mình để từng bước tự XĐGN, thoát nghèo bền vững, quyết tâm không tái
nghèo và từng bước nâng lên khá giả.
Ba là, vai trò chủ thể của nông dân trong tích cực tham gia, gắn bó và
liên kết với nhau hình thành nên các tổ hợp tác, nhất là HTX để đưa hoạt động
sản xuất của nông dân có hiệu quả hơn. Chỉ khi tham gia vào các tổ chức này
nông dân mới có được nhiều lợi ích thiết thực vì “cái gì xã viên không thể làm
được thì hợp tác xã làm” [80, tr.19].
2.2.4. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phát triển văn
hóa, xã hội, bảo vệ môi trƣờng
Xây dựng NTM không chỉ thuần túy tập trung phát triển kinh tế mà bên
cạnh đó yếu tố về giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường cũng là những nội dung
cần được quan tâm, không thể xem nhẹ. Hiện nay, mặc dù công tác giáo dục
và đào tạo, y tế, văn hóa, môi trường luôn được Đảng và Nhà nước ta quan
tâm chăm lo. Tuy nhiên, trên thực tế dân cư nông thôn, nhất là vùng sâu vùng
xa, biên cương hải đảo, luôn gặp rất nhiều khó khăn, chịu nhiều thiệt thòi
trong việc tiếp cận các yếu tố này.
Cho nên, cùng với sự chăm lo của Đảng và Nhà nước, của các tổ chức
CT - XH đối với công tác giáo dục, y tế, văn hóa,… thì trước hết từng chủ thể
57
nông dân ra sức nêu cao tinh thần tự giác, tư tưởng tiến công tập trung vào
các nội dung sau:
Về giáo dục, vai trò chủ thể của nông dân được thể hiện trước hết bằng
tinh thần tự học, tự rèn để từng bước chiếm lĩnh tri thức; thông qua sự khuyến
khích, động viên mọi người nêu cao tinh thần học tập trong gia đình, trong
dòng tộc, trong làng xã,… mà hình thành nên phong trào khuyến học, khuyến
tài, xã hội học tập vì ngày mai tươi sáng. Các chủ thể nông dân (nhất là các
bậc phụ huynh) ra sức lao động sản xuất để có điều kiện cho con em được học
tập trước mắt nhằm đạt được mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở, đồng
thời khuyến khích cho con em được tiếp tục học ở các bậc học cao hơn, tạo
tiền đề góp phần nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo. Những nghĩa cử này của
các chủ thể nông dân tự nó đã thể hiện vai trò của nông dân trong sự nghiệp
giáo dục và đào tạo, sự nghiệp trồng người.
Về y tế, vai trò chủ thể của nông dân được phát huy thông qua việc chủ
động thực hiện cũng như tuyên truyền, vận động người thân trong gia đình và
cộng đồng tích cực tham gia các hoạt động chăm sóc sức khỏe cộng đồng, chủ
động phòng chống các dịch bệnh, xóa bỏ các tập tục lạc hậu ảnh hưởng trực
tiếp đến sức khỏe. Đáng chú ý, nông dân vì sức khỏe của bản thân mình nên
ngày càng tích cực tham gia bảo hiểm y tế tự nguyện để được chăm sóc sức
khỏe tốt hơn khi gặp rủi ro, ốm đau, bệnh tật.
Về văn hóa, yếu tố văn hóa là một phần cốt lõi trong đời sống tinh thần
của nông dân. Nông dân Việt Nam trong quá trình lao động sản xuất, sinh
hoạt và cố kết cộng đồng làng xã qua bao đời nay đã hun đúc, tạo dựng nên
những nét văn hóa độc đáo của các vùng miền. Nói cách khác, bản sắc văn
hóa ở nông thôn luôn gắn với người nông dân, ở góc độ nào đó cũng đồng
thời là bản sắc văn hóa Việt Nam. Vì vậy, việc gìn giữ, bảo tồn, phát huy các
giá trị văn hóa, nhất là bản sắc văn hóa làng xã, lên một tầm cao mới có được
hay không và phát huy như thế nào, tự nó là việc làm của người dân, nhất là
58
trong điều kiện nền văn hóa cổ truyền đang chịu sự tác động mạnh bởi các
yếu tố văn hóa ngoại sinh. Nông dân trực tiếp gìn giữ, bảo vệ, phát huy các
yếu tố văn hóa dân tộc chính là để giữ lấy cốt cách của mình và đôi khi những
nét chân quê, sự mộc mạc lại là cái hay, nét đẹp đáng trân trọng.
Về môi trường, bảo vệ môi trường tự nhiên ở địa bàn nông thôn là trách
nhiệm của toàn xã hội, của bản thân người nông dân vì lợi ích của cộng đồng
không chỉ cho hôm nay mà còn vì các thế hệ mai sau. Trong điều kiện hiện
nay, khi tình hình môi trường trên địa bàn nông thôn ngày càng suy thoái do
hậu quả của chiến tranh, do thiên tai, do biến đổi khí hậu và cả từ quá trình
sản xuất của con người thì vai trò chủ thể nông dân cần phát huy nhiều hơn để
đảm bảo môi trường luôn được xanh, sạch, đẹp. Theo đó, phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong bảo vệ môi trường không hẳn là những việc lớn lao
mà nó được thể hiện từ những việc nhỏ, đơn giản ngay trong hoạt động sinh
hoạt và sản xuất hằng ngày. Đó là chủ động đảm bảo vệ sinh trong ăn uống,
đảm bảo nguồn nước hợp vệ sinh, nước sạch trong sinh hoạt. Trong sản xuất
và sinh hoạt, nông dân không có các hoạt động gây suy giảm hay tác động
tiêu cực đến môi trường, chất thải được nông dân thu gom và xử lý đúng quy
trình, quy định.
2.2.5. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong tham gia xây
dựng hệ thống chính trị và giữ vững trật tự, an ninh xã hội
Để xây dựng HTCT ở cơ sở ngày càng trong sạch vững mạnh không
phải chỉ dừng lại trong bản thân nội bộ của HTCT, mà điều cần thiết và không
kém phần quan trọng là phải có sự tham gia của người dân. Phát huy vai trò
chủ thể của nông dân tham gia xây dựng HTCT trong sạch vững mạnh ở địa
bàn nông thôn trên thực tế dễ nhận thấy đó chính là việc nông dân chủ động
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra”, Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường,
59
thị trấn [138] với nhiều hình thức hoạt động phong phú, đa dạng bao gồm dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện [34, tr.167].
Trước hết, các chủ thể nông dân phát huy vai trò của mình thông qua
thực hiện tốt các quyền dân chủ trực tiếp như bầu cử, ứng cử, tiếp xúc cử tri;
thực hiện dân chủ gián tiếp bằng việc tham gia công tác giám sát đối với
chính quyền cơ sở thông qua vai trò của HĐND nói chung và vai trò của từng
đại biểu HĐND nói riêng; là mức độ tín nhiệm của người dân đối với đại biểu
HĐND. Nếu đại biểu HĐND không thực sự đại diện vì quyền lợi của dân,
không thực hiện tốt chức trách, nhiệm vụ được ủy thác, thì người dân không
trao quyền.
Ngoài ra, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng HTCT
cơ sở còn là đối thoại trực tiếp với lãnh đạo các cấp ủy để đề xuất, kiến nghị,
phản ánh tâm tư, nguyện vọng chính đáng; kịp thời phản ánh những tiêu cực,
hạn chế, yếu kém, không phù hợp của cán bộ đảng viên cũng là cách để kịp
thời nhận ra những mà khắc phục, sửa chữa. Mặt khác, phát huy vai trò chủ
thể của nông dân còn là tích cực tham gia các hoạt động gắn với các tổ chức
CT - XH như Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể (Hội Nông dân, Công đoàn,
Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh) không chỉ là để đem lại
lợi ích cho bản thân nông dân, mà qua đó còn góp phần củng cố và xây dựng
HTCT cơ sở, đảm bảo quyền dân chủ.
Công tác đấu tranh đẩy lùi các TNXH, giữ vững an ninh trật tự, đảm
bảo quốc phòng an ninh trên địa bàn nông thôn trong tình hình mới là công
việc khó khăn cần có sự kiên trì, xuyên suốt và phải có sự cộng đồng trách
nhiệm của toàn xã hội chứ không phải là việc riêng của các cơ quan chức
năng nhất là lực lượng vũ trang. Các cơ quan chức năng sẽ hoàn thành tốt hơn
nhiệm vụ khó khăn này nếu như có sự chung tay tiếp sức từ nông dân. Vì vậy,
việc nông dân tích cực tham gia xây dựng và thực hiện tốt nhiều mô hình, quy
ước làng xóm về giữ gìn an ninh trật tự, phòng chống TNXH, đấu tranh bài
60
trừ các hủ tục, tập quán lạc hậu từ phạm vi gia đình đến cộng đồng làng xã
không chỉ thể hiện tính xung kích, nhiệt tình cách mạng của mình mà còn là
trách nhiệm của công dân đối với xã hội.
Thông qua sự quan tâm, hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân vùng
biên giới như giao đất, giao rừng để canh tác hay hỗ trợ ngư dân vay vốn
ưu đãi để đóng mới hoặc cải hoán tàu cá với công suất lớn để vươn khơi
bám biển,... là nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nông dân có thêm nhiều cơ
hội phát triển kinh tế gia đình. Tuy nhiên, ở chiều ngược lại và quan trọng
hơn, đó chính là song hành với lao động sản xuất, các chủ thể nông dân còn
đóng vai trò là người chiến sĩ ở tuyến đầu của Tổ quốc, thực sự là phên
dậu, tai mắt của Đảng và Nhà nước trong vấn đề bảo vệ an ninh và chủ
quyền biên giới.
2.3. NHỮNG NHÂN TỐ CƠ BẢN ẢNH HƢỞNG ĐẾN PHÁT HUY VAI TRÕ
CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
2.3.1. Điều kiện kinh tế - xã hội trong và ngoài nƣớc
Qua 30 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới đất nước, đồng thời với những
thời cơ và thuận lợi của quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng trong bối cảnh
Việt Nam là thành viên của WTO, khi cộng đồng ASEAN được thành lập,
Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Việt
Nam là thành viên được thông qua,… đang tạo động lực quan trọng cho phát
triển KT - XH của đất nước nói chung và XDNTM nói riêng. Riêng đối với
lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và đời sống của nông dân cũng chịu nhiều tác
động tích cực. Trước hết, thị trường xuất khẩu nông sản và thủy sản ngày
càng rộng lớn, đa dạng (hiện nay thị trường xuất khẩu của Việt Nam được mở
rộng đến 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, riêng thị trường xuất khẩu trái cây là
60 quốc gia), tạo cơ hội cho nông dân mở rộng đầu tư sản xuất và hạn chế rủi
ro do không phải lệ thuộc vào một vài thị trường nhất định. Đồng thời, nông
dân có nhiều cơ hội để trao đổi học tập kinh nghiệm, có điều kiện tiếp cận quá
61
trình chuyển giao, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất, làm gia
tăng năng suất và chất lượng nông sản, góp phần nâng cao năng lực cạnh
tranh trên thị trường. Mặt khác, khi nông dân tham gia vào thị trường thế giới,
bước đầu giúp nông dân dần xóa bỏ tư duy sản xuất manh mún nhỏ lẻ, hướng
đến nền sản xuất qui mô lớn và nắm bắt những quy định của pháp luật theo
thông lệ quốc tế. Tất cả những yếu tố thuận lợi trên đang ảnh hưởng tích cực
đến việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM tập trung vào
việc phát triển kinh tế và tổ chức sản xuất (tương ứng từ tiêu chí số 10 đến
tiêu chí 13).
Tuy nhiên, những khó khăn, thách thức từ các xu thế của thời đại là
không nhỏ, có ảnh hưởng đáng kể đến việc phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong XDNTM. Đó là áp lực từ xu hướng kết tinh hàm lượng tri thức
ngày càng cao vào quá trình sản xuất trong khi trình độ của nông dân nước ta
còn nhiều hạn chế; việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định, tiêu chuẩn, quy
chuẩn và luật pháp quốc tế trong khi nông dân nước ta vẫn còn thói quen, tập
quán sản xuất nông nghiệp lạc hậu, tùy tiện,… Mặt khác, việc hình thành nền
kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta còn non
trẻ, các doanh nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm, hệ thống pháp luật chưa
hoàn thiện, ý thức chấp hành pháp luật trong sản xuất kinh doanh chưa cao,
mối liên kết và cộng đồng trách nhiệm giữa “Bốn nhà” chưa thật bền vững mà
trong mối liên kết đó thì nông dân luôn là người bị thua thiệt. Trong điều kiện
như thế, vai trò chủ thể của nông dân khó được phát huy có hiệu quả.
2.3.2. Hệ thống chính trị cơ sở
Để xây dựng HTCT cơ sở trong sạch, vững mạnh toàn diện chắc chắn
không là điều đơn giản và do đó đòi hỏi phải có sự phấn đấu, nỗ lực và quyết
tâm cao. Trong những năm qua, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị 03/CT-TW
của Bộ Chính trị ngày 14/5/2011 tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh thực sự đang có sức lan tỏa mạnh mẽ trong
62
cán bộ, đảng viên. Theo đó, từng HTCT cơ sở đang rất chú trọng đến ba trụ
cột: thứ nhất, công tác quy hoạch cán bộ đảm bảo khách quan, đáp ứng yêu
cầu, nhiệm vụ của địa phương được quan tâm; thứ hai, công tác xây dựng và
chỉnh đốn Đảng gắn với tự phê bình và phê bình trên tinh thần thẳng thắn,
trung thực, trách nhiệm được tăng cường; thứ ba, công tác đấu tranh phòng
chống tham nhũng, sự suy thoái về mặt đạo đức lối sống, thái độ quan liêu,
hách dịch, xa rời quần chúng được đẩy mạnh.
Những chuyển biến tích cực của HTCT đang có sự tác động mạnh
mẽ đến các phong trào của nông dân. Hệ thống chính trị đang thực sự đóng
vai trò đầu tàu, dẫn dắt, định hướng nông dân trong XDNTM, vì như chủ
nghĩa Mác đã từng khẳng định: một mình nông dân không có khả năng làm
cách mạng. Sự đồng thuận và quyết tâm của cả HTCT trong XDNTM thể
hiện thông qua sự chỉ đạo quyết liệt, kịp thời của các cấp ủy Đảng, của
người đứng đầu; là sự nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, đảng viên
đồng hành và chia sẻ cùng nông dân. Một khi cả HTCT thực hiện tốt chức
năng, nhiệm vụ sẽ là chỗ dựa tinh thần quan trọng, là động lực to lớn cho
các chủ thể nông dân phát huy tốt vai trò của mình trong XDNTM. Chẳng
hạn, Hội Nông dân Việt Nam với tư cách là đoàn thể CT - XH được tổ
chức bộ máy theo hệ thống bốn cấp, có gần 10 triệu hội viên đang cho thấy
đây là một tổ chức rộng lớn, mạnh mẽ trong HTCT nước ta. Hội Nông dân
các cấp với vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình có quan tâm, chăm lo
cho nông dân. Từ việc tuyên truyền, vận động nông dân tham gia xây dựng
và phát triển kinh tế hợp tác, HTX nông thôn đến hỗ trợ nông dân vay vốn
và hướng dẫn sử dụng vốn vay có hiệu quả trong sản xuất kinh doanh; từ
việc phối hợp với doanh nghiệp, nhà khoa học, các bộ ngành có liên quan
giúp nông dân mua vật tư, máy nông nghiệp theo phương thức trả chậm
đến việc hỗ trợ nông dân trong ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật phục vụ
63
sản xuất và đời sống; từ việc vận động nông dân tích cực tham gia xây
dựng kết cấu hạ tầng KT - XH đến các phong trào “Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa”, xây dựng gia đình văn hóa, làng xã văn hóa gắn
với thực hiện quy chế dân chủ cơ sở,… Chính vai trò cầu nối, dẫn dắt của
Hội Nông dân đã giúp các chủ thể nông dân có cơ hội tự khẳng định mình.
Như vậy, những đóng góp, chăm lo của cả HTCT đối với nông dân
thông qua phong trào XDNTM là to lớn. Từ đây đã có tác động lan tỏa mạnh
mẽ đến nông dân, từng lúc làm cho vai trò chủ thể của nông dân, với tất cả
sức mạnh và tiềm năng sẵn có, được phát huy ngày một tốt hơn.
Hơn nữa, “Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực
hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn có tiến bộ” [43, tr.167] ngày càng đi vào
thực chất, có hiệu quả là cơ sở quan trọng để củng cố niềm tin trong nhân dân.
Điều này càng cho thấy “Nhân dân làm chủ là yếu tố trung tâm của mối quan
hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, bởi vì mọi hoạt
động của Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân và vì nhân dân” [121, tr.272].
Mối quan hệ tốt đẹp giữa chính quyền với nhân dân, trong đó chính quyền
trọng dân và vì dân, dân tin tưởng vào chính quyền sẽ tạo nên sức mạnh tổng
hợp để đưa chủ trương, nghị quyết, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà
nước đi vào cuộc sống và cụ thể hóa thành các phong trào hành động cách
mạng của nông dân.
Tuy nhiên, HTCT cơ sở ở nước ta hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn
chế, bất cập. Những biểu hiện như quan liêu, tham nhũng, vi phạm dân chủ
vẫn đang diễn ra. Quy chế dân chủ cơ sở, Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị
trấn tuy có triển khai thực hiện nhưng còn thiếu sự chỉ đạo thường xuyên.
Đáng chú ý “Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị
vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hiện dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính
hình thức” [34, tr.168]. Thậm chí một số địa phương, sức chiến đấu của tổ
64
chức cơ sở Đảng yếu kém, đặc biệt một bộ phận cán bộ lãnh đạo có biểu hiện
độc đoán chuyên quyền, ức hiếp quần chúng chưa được khắc phục.
Việc XDNTM đang bị lạm dụng với nhiều vấn đề tiêu cực xảy ra, tình
trạng lạm thu chưa được khắc phục thậm chí là điều ám ảnh với nhiều nông
dân. Chính những mặt trái, lệch lạc trong quá trình XDNTM hiện nay đang
làm cho đời sống của nông dân ở một số địa phương đã nghèo lại càng nghèo
hơn, đã khổ lại càng khổ hơn. Trong khi đó, vai trò, trách nhiệm và hiệu quả
hoạt động của Hội Nông dân ở một số nơi chưa như mong muốn, còn những
hạn chế, bất cập. Không ít tổ chức Hội Nông dân cấp xã chưa thể hiện tính
năng động, còn hành chính hóa; chưa đổi mới cả nội dung, hình thức và
phương pháp trong công tác vận động nông dân; vai trò của Hội trong lãnh
đạo, tập hợp nông dân XDNTM chưa được thể hiện rõ nét, cụ thể, chỉ mới
dừng lại ở tính chất phong trào mà chưa đi vào chiều sâu.
Xây dựng NTM có liên hệ mật thiết đến nguồn nhân lực vì suy cho
cùng XDNTM có thành công hay không là do con người quyết định. Tuy
nhiên, trong giai đoạn hiện nay vấn đề nguồn nhân lực ở địa bàn nông thôn
nước ta còn nhiều khó khăn, hạn chế. Nguồn nhân lực ở đây, theo tác giả,
được tiếp cận ở ba góc độ: nguồn nhân lực trong dân cư nông thôn, nguồn
nhân lực trong xã hội và nguồn nhân lực trong HTCT. Riêng đối với nguồn
nhân lực trong HTCT phục vụ cho XDNTM còn có những bất cập. Tuy Ban
Chỉ đạo XDNTM có được thành lập xuyên suốt trên toàn hệ thống, nhưng
trên thực tế tại đơn vị cấp xã hiện nay số lượng cán bộ chuyên trách về
XDNTM còn ít so với tính chất, yêu cầu, nhiệm vụ XDNTM đang đặt ra. Hơn
nữa, năng lực và tâm huyết của đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận và
chuyên trách về XDNTM chưa thật tốt. Điều này thể hiện qua mức độ sâu sát
nắm bắt tâm tư, nguyện vọng chính đáng của nông dân để kịp thời định
hướng, hướng dẫn, hỗ trợ hay tham mưu, đề xuất cho các cơ quan chức năng
nghiên cứu tháo gỡ chưa cao, chưa làm tốt vai trò là cầu nối giữa HTCT với
65
nông dân. Những hạn chế, yếu kém, bất cập, sai phạm trong HTCT ở cơ sở
làm cho lòng tin và tình cảm của nông dân ít nhiều bị giảm sút. Một khi sự
mất lòng tin, sự hoài nghi và cả sự không hài lòng gia tăng sẽ là tỷ lệ nghịch
đối với việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM.
2.3.3. Các chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Nhà nƣớc về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn
Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của vấn đề nông nghiệp,
nông dân, nông thôn đối với quá trình phát triển KT - XH của đất nước, trong
những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, nghị
quyết thể hiện sự quan tâm sâu sắc đến vấn đề “Tam nông” và tạo được sự
đồng thuần cao trong nhân dân.
Hội nghị lần thứ Bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X năm 2008, đã
ban hành Nghị quyết số 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông thôn và nông dân
được xem như là bước ngoặt cho sự ra đời chủ trương XDNTM. Trong đó,
Đảng ta đã tổng kết những thành tựu đạt được, đồng thời chỉ ra những hạn
chế, khó khăn, bất cập; xác định rõ hơn về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
tam nông:
Nông nghiệp, nông dân, nông thôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc,
là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội bền
vững, giữ vững ổn định chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phòng; giữ
gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh
thái của đất nước… Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn
phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước… Trong mối quan hệ mật thiết
giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của
quá trình phát triển [30, tr.123-124].
66
Ngày 30/12/2008, Ban Bí thư ban hành quyết định số 205-QĐ/TW
thành lập Ban chỉ đạo thí điểm chương trình NTM với mục tiêu xây dựng
mô hình thực tế NTM thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH làm cơ sở tổng kết
chương trình để nhân rộng ra toàn quốc. Với mục tiêu này, Ban chỉ đạo
chọn 11 xã đại diện cho các vùng kinh tế - văn hóa - xã hội trong cả nước
làm thí điểm; chọn 5 huyện và 5 tỉnh trong cả nước làm điểm để XDNTM
cấp huyện và cấp tỉnh.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng tiếp tục
khẳng định:
Xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp nông dân, chủ thể của quá
trình phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới. Hỗ trợ,
khuyến khích nông dân học nghề, chuyển dịch cơ cấu lao động, tiếp
nhận và ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ, tạo điều kiện thuận
lợi để nông dân chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Nâng cao
năng suất lao động trong nông nghiệp, mở rộng và nâng cao chất
lượng cung ứng các dịch vụ cơ bản về điện, nước sạch, y tế, giáo
dục, thông tin…, cải thiện chất lượng cuộc sống của dân cư nông
thôn; thực hiện có hiệu quả, bền vững công cuộc xóa đói, giảm
nghèo, làm giàu hợp pháp [34, tr.161].
Trên cơ sở của các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Thủ tướng Chính
phủ đã ban hành các quyết định có liên quan về nông nghiệp, nông thôn,
nông dân như: Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 về việc ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về NTM [104]; Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày
04/6/2010 ban hành Chương trình mục tiêu quốc gia về XDNTM giai đoạn
2010 - 2020 [109]; Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/2/2013 về sửa đổi
một số tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia về NTM [114]; Quyết định số
1980/QĐ-TTg ngày 17/10/2016 về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về
xã nông thôn mới giai đoạn 2016 - 2020 (gọi tắt là Bộ tiêu chí xã) [118].
67
Đây là những văn bản quy phạm pháp luật tiếp tục cụ thể hóa quan điểm,
chủ trương của Đảng về vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân; là cơ
sở pháp lý quan trọng, cần thiết, có tính định hướng để triển khai đồng bộ
và rộng khắp trên phạm vi toàn quốc.
Ngoài ra, liên quan đến XDNTM, Chính phủ đã ban hành nhiều chủ
trương, chính sách thể hiện sự quan tâm đến nông dân, người nghèo, đồng
bào dân tộc thiểu số vùng nông thôn như: Chương trình 135 về phát triển
KT - XH ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi
theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ; Quyết định 134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng
Chính phủ về việc hỗ trợ đất sản xuất, nhà ở, đất ở và nước sinh hoạt cho
hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo; Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày
09-6-2008 của Thủ tướng Chính phủ về một số chính sách hỗ trợ giải quyết
đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc làm cho đồng bào Khmer nghèo, đời
sống khó khăn vùng ĐBSCL giai đoạn 2008 - 2010; Quyết định
167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ về chính
sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; Nghị quyết số 30/A/2008/NQ-CP ngày
27/12/2008 của Chính phủ về Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và
bền vững đối với 61 huyện nghèo trên phạm vi cả nước; Quyết định số
102/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ
trợ trực tiếp cho người dân thuộc diện hộ nghèo ở vùng khó khăn; Quyết
định số 449/QĐ-TTg ngày 12/3/2013 của Thủ tướng Chính phủ về Phê
duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020;...
Việc quan tâm, chăm lo của Đảng và Nhà nước đối với nông dân
thông qua chương trình XDNTM là rất cần thiết, là đạo lý nên làm và phải
làm cho tốt; hơn nữa đây còn là tiền đề, nền tảng và là động lực quan trọng
để trên cơ sở đó vai trò chủ thể của nông dân ngày càng được phát huy
nhiều hơn và tốt hơn. Nhưng để thực hiện được điều này, bản thân các chủ
68
trương, nghị quyết của Đảng phải thỏa mãn được hai điều kiện: một là, các
chủ trương, nghị quyết của Đảng phải đúng đắn, cách mạng, khoa học, bám
sát thực tiễn, tính khả thi cao; hai là, các chủ trương, nghị quyết của Đảng
phải đem lại những lợi ích thiết thực cho nông dân vì “Kinh nghiệm của
Đảng ta trong quá trình cách mạng đã chỉ rõ là nơi nào, lúc nào cán bộ ta
giải quyết tốt lợi ích thiết thân của nông dân... thì nơi đó, lúc đó cách mạng
đều tiến mạnh” [68, tr.18] .
Quá trình XDNTM ở nước ta trong những năm qua cho thấy, hai
điều kiện này về cơ bản là phù hợp, đáp ứng được mong muốn của nông
dân, bước đầu phát huy được hiệu quả. Các chủ trương, chính sách này khi
đi vào cuộc sống như luồng gió mới lan tỏa khắp làng quê nông thôn Việt
Nam, được các chủ thể nông dân đón nhận với tinh thần rất phấn khởi, lạc
quan, tin tưởng vào một tương lai tươi sáng mà ra sức phát huy mọi tiềm
năng vốn có của mình. Theo đó, các chủ thể nông dân đang từng bước biến
chuyển những chủ trương, nghị quyết, chính sách của Đảng và Nhà nước
thành những việc làm cụ thể, thiết thực và hiệu quả.
Tuy nhiên, việc xây dựng thể chế còn gặp nhiều khó khăn. Có những
chủ trương xét ở phạm vi cả nước thì đúng nhưng khi vận dụng vào đặc thù
từng vùng miền mức độ phù hợp chưa cao, chưa sát thực tế, gây khó khăn
cho cả HTCT và nông dân. Bởi lẽ, “Do đặc điểm nông nghiệp, nông dân và
nông thôn trải ra trên một không gian rộng lớn, gắn liền với từng vùng kinh
tế - văn hóa, sinh thái nên tôn trọng tính chất vùng trong hoạch định và chỉ
đạo chính sách đối với nông dân là rất cần thiết” [123, tr.169]. Mặt khác,
có những văn bản quy phạm pháp luật mới khi được ban hành mục đích là
để khắc phục những hạn chế, bất cập của các văn bản quy phạm pháp luật
cũ, nhưng sau đó đến lượt nó lại phát sinh những hạn chế, bất cập mới. Bên
cạnh đó, một số thủ tục hành chính vẫn còn nặng nề, rườm rà; thời gian
69
triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật lại chậm, gây khó
khăn cho hoạt động sản xuất của nông dân. Thậm chí có những quy định
không hợp lý, vô hình trung trở thành gánh nặng trên đôi vai của người
nông dân, là áp lực tinh thần làm hạn chế việc phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong XDNTM mà câu chuyện của nông dân trong chăn nuôi với
sự kiện một con gà phải nộp 14 loại phí là một điển hình [Phụ lục 3]. Hoặc
như căn cứ vào Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM giai đoạn 2016 - 2020, tại
tiêu chí số 13.1. “Xã có HTX hoạt động theo đúng quy định của Luật Hợp
tác xã năm 2012”. Điều này trên thực tế sẽ khó áp dụng rộng rãi và khó
thực hiện. Vì rằng, nhiều xã, nhất là vùng sâu vùng xa, người nông dân
không đủ khả năng và nguồn lực để thiết lập HTX, lại là HTX kiểu mới
hoạt động có hiệu quả và bền vững. [Phụ lục 2].
Mặc dù còn có những hạn chế nhất định, nhưng có thể khẳng định các
chủ trương, nghị quyết, cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về
XDNTM đang có tác động, ảnh hưởng to lớn, mạnh mẽ, trực tiếp đến nông
dân; đang thực sự là cú hích quan trọng thúc đẩy các chủ thể nông dân phát
huy vai trò của mình trong XDNTM tốt hơn. Cố nhiên, quá trình triển khai tổ
chức thực hiện gắn với những vấn đề cụ thể do nhiều nguyên nhân khác nhau
nên khó tránh khỏi có những điểm chưa phù hợp, bất cập hoặc do thực tiễn
luôn đặt ra những vấn đề mới cần xem xét. Cho nên, việc chỉnh sửa, bổ sung,
hoàn chỉnh chính sách cho phù hợp với thực tiễn là điều cần thiết và là một
yêu cầu tất yếu phải thực hiện.
2.3.4. Trình độ, nhận thức của nông dân
Trong những năm trước đây, nhất là trong thời kỳ dưới ách áp bức
và thống trị của thực dân phong kiến, trình độ học vấn của nông dân nước
ta nhìn chung rất thấp, năng lực nhận thức của người dân nhất là nông dân
vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số rất hạn chế. Điều này
70
gây khó khăn và ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lao động sản xuất và
sinh hoạt của bản thân người nông dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, để
thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới gắn với CNH, HĐH đất nước,
công tác giáo dục và đào tạo rất được quan tâm nhằm “nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài” ngay trong lực lượng nông dân phải
được quan tâm chú trọng, vừa là yêu cầu cấp bách vừa có ý nghĩa chiến
lược lâu dài. Nhìn chung, đến nay trình độ học vấn, năng lực nhận thức
của nông dân nước ta về cơ bản được cải thiện, từng bước được nâng cao.
Đây là yếu tố nội sinh có tính căn bản và bền vững giúp cho việc phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM đem lại hiệu quả ngày càng
tốt hơn. Chẳng hạn, chính sự quyết tâm, nỗ lực trong việc tự học, tự rèn
để nâng cao năng lực tư duy, trình độ học vấn giúp cho nhiều chủ thể
nông dân tự tin tiếp cận tốt những thành tựu khoa học, kỹ thuật và công
nghệ (công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ sau thu hoạch,
kỹ thuật canh tác mới,…) vào quá trình sản xuất.
Tuy nhiên, trên thực tế xét về quy mô, chất lượng và hiệu quả của
nguồn nhân lực ở địa bàn nông thôn nước ta vẫn còn nhiều bất cập. Trình
độ học vấn, năng lực nhận thức của một bộ phận không nhỏ trong nông
dân chưa ngang tầm đang ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng, hiệu quả
chương trình XDNTM. Một khi trình độ học vấn, năng lực nhận thức ,
chuyên môn tay nghề, ý thức tổ chức kỷ luật của nông dân chưa được
nâng cao sẽ là rào cản, “xiềng xích” trói buộc nông dân trong sinh hoạt,
sản xuất và hội nhập. Nông dân Việt Nam vốn có tính chăm chỉ, nhưng
chăm chỉ không thôi thì chưa đủ mà đòi hỏi phải được đặt trên nền tảng
của tri thức. Vì vậy, từng chủ thể nông dân phải ra sức vượt qua mọi khó
khăn, phát huy tinh thần hiếu học mới là con đường phát triển bền vững.
71
2.3.5. Những yếu tố tâm lý xã hội của nông dân Việt Nam tác động
hai chiều tích cực, tiêu cực trong việc phát huy vai trò chủ thể của mình
Xuyên suốt chiều dài lịch sử, nền kinh tế nước ta gắn chặt với nền kinh
tế tiểu nông. Do ảnh hưởng từ trong quá trình sản xuất nông nghiệp, cho nên
xét về tâm lý xã hội của nông dân Việt Nam có những đặc điểm mang tính hai
mặt đan xen như sau:
Thứ nhất, cần cù, siêng năng trong lao động sản xuất là đức tính tiêu
biểu của người nông dân. Xuất phát từ phương thức sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, phân tán, năng suất thấp cùng với điều kiện tự nhiên không mấy thuận
lợi buộc nông dân nước ta luôn phải “một nắng hai sương”, “bán mặt cho đất,
bán lưng cho trời” gieo vào lòng đất những giọt mồ hôi của lao động và sáng
tạo để từ đất vươn lên những mầm xanh, trái ngọt cho đời. Nhưng cũng trong
điều kiện hoàn cảnh này, từng lúc hình thành ở người nông dân lối tư duy sản
xuất manh mún, tản mạn, cục bộ, tùy tiện làm theo cảm hứng, chỉ thấy cái lợi
trước mắt mà không thấy cái hại lâu dài. Vì vậy, hiệu quả kinh tế thường
không cao, đời sống của nông dân luôn gặp khó khăn. Những hạn chế, nhược
điểm này lại càng không phù hợp trong xu thế của nền sản xuất nông nghiệp
hiện đại, quy mô lớn gắn với các hình thức tổ chức sản xuất tập thể theo mô
hình HTX, có tính định hướng và thượng tôn pháp luật. Cho nên, để phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM có hiệu quả thì bản thân từng chủ
thể nông dân từng bước khắc phục những tâm lý, thói quen không phù hợp;
đổi mới tư duy trong lao động sản xuất để theo kịp sự phát triển của thời đại.
Thứ hai, nông dân Việt Nam có tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái,
cố kết cộng đồng làng xã tạo nên sức mạnh để chống chọi với thiên tai, địch
họa. Trong thời kỳ dưới ách kiềm kẹp, áp bức và bóc lột của chế độ thực dân,
phong kiến đã làm cho đời sống của người nông dân vô cùng ngột ngạt, tối
tăm và bần cùng. Vì vậy, ở nông dân luôn có sự tương đồng đó là cùng chung
72
một chí hướng, chung một ước mơ, hoài bão về một cuộc sống thanh bình và
tốt đẹp. Điều này làm cho họ dễ cảm thông, chia sẻ, xích lại gần nhau hơn
trong cuộc sống. Việc sẵn sàng giúp người khi khó khăn, hoạn nạn với tinh
thần “lá lành đùm lá rách”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no” là nét
văn hóa đặc sắc của nhân dân ta nói chung, của nông dân nói riêng. Nhưng do
lối tư duy cào bằng, dàn đều theo kiểu “xấu đều hơn tốt lỏi” nên nông dân
nước ta khó tránh khỏi có tâm lý không muốn bị người khác hơn thậm chí dễ
dẫn đến sự ganh ghét, đố kỵ. Điều này một khi vẫn còn tiếp diễn sẽ làm cho
nông dân vốn dĩ là lực lượng yếu thế lại càng yếu hơn vì thiếu sự liên kết, hỗ
trợ cho nhau trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh khốc liệt.
Thứ ba, nông dân Việt Nam giàu tri thức kinh nghiệm được tích lũy từ
cuộc sống lao động sản xuất. Vì vậy, yếu tố “lão nông tri điền” luôn được
nông dân đề cao. Tuy nhiên, do nông dân chịu ảnh hưởng của nền sản xuất tự
cung tự cấp, khép kín, bó buộc trong không gian của lũy tre làng, từ đó dễ
hình thành nên tính bảo thủ, khó tiếp nhận cái mới. Nhược điểm này sẽ cản
trở nông dân trong việc tiếp cận sự phát triển của lực lượng sản xuất nhất là
những yếu tố khoa học mới, kỹ thuật mới, phương pháp sản xuất mới.
Thứ tư, yêu quê hương, đất nước, gắn bó với quê cha đất tổ, yếu tố
cội nguồn được đề cao. Từ đó, làm cho các mối quan hệ dòng họ, thân tộc,
quan hệ xóm giềng được coi trọng, từng lúc hình thành nên tính cộng đồng,
có sự cố kết chặt chẽ, bền vững. Tuy nhiên, chính ưu điểm này một khi bị
đẩy đến đỉnh của sự cực đoan lại trở thành nhược điểm trong việc hình
thành nên tính tự trị, bản vị, cục bộ địa phương, óc bè phái, làng nào biết
làng ấy, mỗi làng là vương quốc khép kín. Điều này có thể phù hợp trong
lịch sử, nhưng hiện nay chính nhược điểm này là một trong những trở ngại
cho sự phát triển của bản thân người nông dân trong điều kiện đất nước
đang đổi mới, mở cửa gắn với xu thế giao lưu và hội nhập mạnh mẽ.
73
Kết luận chƣơng 2
Xây dựng nông thôn mới là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
mang tầm chiến lược trong phát triển KT - XH của đất nước. Vì vậy, ở
chương 2, trên cơ sở trình bày về khái niệm chủ thể, chủ thể nông dân, luận
án nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tiếp tục phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong XDNTM.
Căn cứ vào bộ tiêu chí Quốc gia về XDNTM, luận án xây dựng khung
lý thuyết về phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở nước ta
hiện nay tập trung vào năm nội dung cơ bản: trong tham gia quy hoạch và
thực hiện quy hoạch; trong xây dựng hạ tầng KT - XH; trong tổ chức sản xuất
và đổi mới các hình thức sản xuất; trong lĩnh vực văn hóa - xã hội - môi
trường; trong tham gia xây dựng HTCT và giữ vững trật tự, an ninh xã hội.
Ở chương này, luận án cũng chỉ ra những nhân tố cơ bản có ảnh hưởng
đến việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân nước ta trong giai đoạn hiện
nay với những thuận lợi và khó khăn, ưu điểm và hạn chế đan xen. Trên thực
tế, dù rằng không tránh khỏi những khó khăn, thách thức, bất cập nhưng về cơ
bản các nhân tố này đang tạo điều kiện thuận lợi và những xung lực mới để
phát huy ngày một tốt hơn vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM trên
phạm vi cả nước trong những năm vừa qua và ở những năm tiếp theo.
Với nhân tố là bản thân chủ thể nông dân Việt Nam. Mặc dù còn tồn tại
những hạn chế nhất định như trình độ nhận thức và mặt bằng dân trí thấp, chất
lượng nguồn nhân lực trong chính lực lượng nông dân chưa cao, những nhược
điểm về tâm lý, tính cách chưa được khắc phục,… Những khó khăn, hạn chế
này chắc chắn cần phải được vượt qua. Tuy nhiên, luận án nhấn mạnh và
khẳng định chính sức mạnh to lớn của từng chủ thể nông dân nước ta vẫn là
nền tảng căn bản. Trên thực tế, sức mạnh này đang được phát huy tốt và đây
là nhân tố quyết định cho sự thành công của phong trào XDNTM hiện nay.
74
Chƣơng 3
PHÁT HUY VAI TRÒ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG -
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN
3.1. KHÁI LƢỢC VỀ ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG VÀ NÔNG DÂN
ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
3.1.1. Khái lƣợc về Đồng bằng sông Cửu Long
3.1.1.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) là một bộ phận của châu thổ sông
MêKông. Phía Đông Bắc giáp Đông Nam Bộ, phía Bắc giáp Campuchia, phía
Đông Nam giáp biển Đông, phía Tây Nam giáp vịnh Thái Lan với diện tích tự
nhiên khoảng 40.572,0 km2. Vùng biển này có khá nhiều đảo chủ yếu tập
trung ở tỉnh Kiên Giang với 145 đảo lớn nhỏ tạo nên năm quần đảo: An Thới,
Thổ Chu, Nam Du, Bà Lụa và Hải Tặc. Trong đó đảo Phú Quốc (thuộc quần
đảo An Thới) là đảo lớn nhất với diện tích 589 km2 được mệnh danh là đảo
ngọc với rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế và du lịch [135, tr.2,10].
Trên đất liền, địa hình tương đối thấp và bằng phẳng. Đồng bằng sông Cửu
Long là vùng có khí hậu cận xích đạo, nắng nóng mưa nhiều bao gồm hai
mùa rõ rệt: mùa mưa và mùa khô. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô
từ tháng 12 đến tháng 4. Mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, cung cấp
lượng phù sa, nguồn lợi thủy sản và nước tưới tiêu cho nông nghiệp. Nhìn
chung, vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên ở ĐBSCL cơ bản ổn định, thuận lợi cho
giao lưu, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đặc biệt trong sản xuất phát triển
lĩnh vực nông nghiệp.
Đồng bằng sông Cửu Long có đường biên giới giáp Campuchia khoảng
330 km, trong đó có 4 tỉnh chung đường biên giới với Vương quốc
Campuchia, bao gồm: Long An giáp với tỉnh Prây Veng và Svay Riêng, Đồng
75
Tháp giáp với tỉnh Prây Veng và Kandal, An Giang giáp với tỉnh Tà Keo,
Kiên Giang giáp với tỉnh Kampốt. Dọc tuyến biên giới, có ba cửa khẩu quốc
tế và bốn cửa khẩu quốc gia. Ngoài ra, ĐBSCL có đường bờ biển dài trên 700
km và khoảng 360.000 km2 vùng biển thuộc chủ quyền [12, tr.7].
3.1.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long có 12 tỉnh và 1 thành phố trực thuộc trung
ương, bao gồm: An Giang, Bến Tre, Bạc Liêu, Cà Mau, thành phố Cần Thơ,
Đồng Tháp, Hậu Giang, Kiên Giang, Long An, Sóc Trăng, Tiền Giang, Trà
Vinh và Vĩnh Long. Theo Tổng cục Thống kê, tổng dân số của các tỉnh trong
vùng tính đến năm 2013 là 17.478.900 người. Trong đó có 13.191.800 người
sống ở địa bàn nông thôn chiếm 75% [124, tr.64,75]. Dự báo đến năm 2050,
dân số của toàn vùng khoảng 30 - 32 triệu người.
So với nhiều khu vực khác trong cả nước, ĐBSCL có điều kiện tự
nhiên khá thuận lợi và đa dạng, thích hợp cho phát triển lĩnh vực nông
nghiệp, nhất là đánh bắt, nuôi trồng thủy hải sản và sản xuất lúa gạo. Theo
Sơn Nam, trong tác phẩm Sài Gòn xưa - Ấn tượng 300 năm và tiếp cận với
Đồng bằng sông Cửu Long, miêu tả về sự trù phú của vùng này như sau:
“Lúa gặt về, chất đống, mặc cho gà vịt ăn, năm trúng mùa, gặt không cần
sạch” [82, tr.266]. Cho đến nay, dù rằng yếu tố “địa lợi” từng lúc thay đổi
theo hướng khó khăn hơn, nhưng ĐBSCL vẫn được xem là vựa gạo lớn nhất
của cả nước với tổng diện tích trồng lúa 4337,9 nghìn ha, năng suất lúa đạt
57,6 tạ/ha [124, tr.382,384]. Qua đó, góp phần quyết định trong việc đảm
bảo an ninh lương thực trong nước và xuất khẩu gạo.
Đồng bằng sông Cửu Long có vùng kinh tế trọng điểm gồm Cần Thơ,
An Giang, Cà Mau và Kiên Giang theo quyết định 492/QĐ-TTg của Thủ
tướng chính phủ [105]. Đây là trung tâm lớn về sản xuất lúa gạo, nuôi trồng,
đánh bắt và chế biến thủy sản; đồng thời đóng vai trò quan trọng trong nghiên
cứu, chuyển giao công nghệ, cung cấp giống, các dịch vụ kỹ thuật, chế biến
76
và xuất khẩu cho toàn khu vực. Riêng thành phố Cần Thơ, trong nhiều thập
kỷ qua và hiện nay, được xem là “Tây đô” - trung tâm của ĐBSCL. Đến nay,
vùng kinh tế trọng điểm đang phát huy tốt thế mạnh và đóng vai trò động lực
trong thúc đẩy phát triển KT - XH toàn vùng.
Tuy kết cấu hạ tầng KT - XH của ĐBSCL trong những năm qua còn
nhiều khó khăn, chưa đồng bộ, nhưng về cơ bản đã hình thành được mạng
lưới giao thông đường bộ khá đa dạng với các tuyến đường huyết mạch như
các quốc lộ 1A, 57, 60, 61, 63, đường cao tốc thành phố Hồ Chí Minh -
Trung Lương kết nối giữa thành phố Hồ Chí Minh với ĐBSCL;... Cùng với
đó, hệ thống các cầu vượt sông lớn từng bước được xây dựng thay cho các
bến phà như cầu Mỹ Thuận (giữa Tiền Giang với Vĩnh Long), cầu Cần Thơ
(giữa Vĩnh Long với Cần Thơ), cầu Rạch Miễu (giữa Tiền Giang với Bến
Tre), cầu Cổ Chiên (giữa Bến Tre với Trà Vinh), cầu Vàm Cống (giữa Đồng
Tháp với Cần Thơ),… Đồng thời với mạng lưới giao thông đường bộ là hệ
thống đường thủy nội địa gắn với hệ thống hậu cần logistic khá tốt, trong đó
ngoài cụm cảng Cần Thơ là cảng loại I đóng vai trò đầu mối của khu vực
còn có hệ thống các cảng loại II gắn với hệ thống sông Tiền, sông Hậu, sông
Cái lớn theo Quyết định số 2190/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ [108].
Các cảng cá và hậu cần nghề cá ở các tỉnh đang phát huy có hiệu quả và do
đó đang tác động, ảnh hưởng lớn đến phát triển KT - XH của khu vực nhất là
rất thuận lợi cho lưu thông hàng hóa. Dọc các sông rạch là các chợ đầu mối
là nơi trung chuyển nông sản được hình thành ở khắp mọi nơi góp phần quan
trọng trong lưu thông hàng hóa tạo nên nét đặc sắc trên bến dưới thuyền rất
nhộn nhịp. Đây là một lợi thế cơ bản của ĐBSCL. Ngoài ra, ở ĐBSCL còn
có các cảng hàng không như sân bay Cần Thơ, Phú Quốc (Kiên Giang).
Cùng với mạng lưới điện quốc gia, ĐBSCL trong những năm gần đây
còn đầu tư xây dựng thêm các công trình mới như nhà máy khí - điện - đạm
Cà Mau; các nhà máy nhiệt điện như Ô Môn (Cần Thơ), Duyên Hải (Trà
77
Vinh), Sông Hậu 1 (Hậu Giang). Phong điện ở Bạc Liêu là hướng đi có tầm
chiến lược nhằm khai thác nguồn năng lượng sạch và thân thiện với môi
trường. Việc huyện đảo Phú Quốc (ngày 2/2/2014) hay xã đảo Hòn Tre,
huyện Kiên Hải (2/2015) chính thức có nguồn điện quốc gia đi vào hoạt
động là nỗ lực lớn của ĐBSCL nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng. Nhìn
tổng thể, kết cấu hạ tầng KT - XH ở ĐBSCL còn có những mặt yếu kém
nhất định, chưa thật đồng bộ, sự kết nối giữa các địa phương chưa cao,
nhưng với hiện trạng kết cấu hạ tầng hiện nay về cơ bản có tác động, ảnh
hưởng tích cực đến phát triển KT - XH của khu vực.
Qúa trình kiến tạo vùng đất ĐBSCL gắn với sự xác lập chủ quyền
qua các đời chúa Nguyễn cũng là quá trình hình thành nên sự giao thoa từ
nhiều nền văn hóa khác nhau, tạo nên sự đa dạng và giàu bản sắc đặc thù
của vùng sông nước. Đáng chú ý, đờn ca tài tử được UNESCO công nhận
là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại vào năm 2013. Nhiều lễ hội của
vùng đất phương Nam với sự tham gia của cộng đồng người Kinh như lễ
hội dừa (Bến Tre), lễ hội lúa (Hậu Giang), lễ hội nghinh ông của ngư dân ở
các tỉnh ven biển, festival Đờn ca tài tử cấp quốc gia ở Bạc Liêu,… Các lễ
hội của đồng bào Khmer như lễ hội Ok-Om-Bok nổi tiếng đã được Bộ Văn
hóa thể thao và du lịch công nhận là một trong những di sản văn hóa phi
vật thể cấp quốc gia thứ tư của Trà Vinh [Phụ lục 4]. Đồng bằng sông Cửu
Long cũng là nơi có nhiều công trình kiến trúc gắn với bản sắc văn hóa của
các dân tộc như đền thờ của đồng bào Chăm, chùa của người Việt, người
Hoa, người Khmer; có văn hóa ẩm thực độc đáo và đa dạng của vùng đất
phương Nam trù phú.
Cùng với xu hướng chung của cả nước, các tỉnh thành phố trong khu
vực ĐBSCL luôn rất quan tâm đến công tác giáo dục và đào tạo đặc biệt là
việc nâng cao dân trí. Đến nay, mạng lưới trường lớp cũng như cơ sở vật chất
trường học từng bước được đầu tư tốt hơn với 42 trường đại học cao đẳng, 30
78
trường trung cấp chuyên nghiệp, có 6.961 trường mầm non và phổ thông,
trong đó có 1.514 trường đạt chuẩn quốc gia [9, tr.11-12].
Từ những điều kiện khá thuận lợi về kinh tế, văn hóa, xã hội đã giúp
ĐBSCL trong những năm qua đạt được nhiều thành tựu to lớn trên nhiều
lĩnh vực nhất là trong sản xuất nông nghiệp. Mỗi năm, ĐBSCL làm ra 70%
lượng trái cây, đóng góp gần 60% kim ngạch xuất khẩu thủy sản của cả
nước, sản xuất hơn 50% sản lượng lúa của cả nước, trong đó có đến 90%
lượng gạo xuất khẩu góp phần đưa Việt Nam thành một trong các nước xuất
khẩu gạo hàng đầu thế giới. [12, tr.3].
3.1.2. Nông dân Đồng bằng sông Cửu Long
3.1.2.1. Đặc điểm sự hình thành cư dân Đồng bằng sông Cửu Long
Theo tác giả Đỗ Quỳnh Nga, trong cuốn sách Công cuộc mở đất Tây
Nam Bộ thời chúa Nguyễn [78], khẳng định: miền Tây Nam Bộ từ thế kỷ III
đến thế kỷ VI, vốn là trung tâm của vương quốc Phù Nam (Founan) gốc
người Malayo - Polynesian (Mã Lai - Đa đảo) gắn với nền văn hóa Óc Eo.
Đến cuối thế kỷ VI, đế chế Phù Nam bắt đầu tan rã thay vào đó là sự hình
thành vương quốc Chân Lạp (Tchenla). Chủ nhân của đất Chân Lạp là người
Khmer thuộc ngữ hệ Nam Á, nhóm Môn - Khmer. Đến thế kỷ VIII, Chân Lạp
gồm có Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Đến thế kỷ IX, Chân Lạp trở thành
quốc gia cực thịnh ở Đông Nam Á. Cuối thế kỷ XIV, Chân Lạp bắt đầu suy
yếu, nội bộ chia rẽ, luôn có chiến tranh. Nên từ thế kỷ XIV đến thế kỷ XVII,
vùng đất này (miền Tây Nam Bộ ngày nay) là vùng đất bỏ hoang, chưa ai
khai phá. Đây là điều kiện rất thuận lợi cho việc mở đất Tây Nam Bộ gắn với
việc xác lập chủ quyền qua các đời chúa Nguyễn vào thế kỷ XVII - XVIII để
xác định vùng đất này là một bộ phận của lãnh thổ quốc gia Đại Việt:
Vào thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII, lưu dân người Việt đã tỏa đi
khắp mọi nơi ở miền Tây Nam Bộ, tuy số lượng không nhiều và họ
sống rải rác tùy theo điều kiện tự nhiên thuận lợi của từng vùng mà
79
không cần đợi đến chính sách khuyến dụ của chúa Nguyễn. Những
người dân Việt di cư tự phát đến miền đất mới, một mặt khai hoang,
mở đất, xây dựng làng xóm, mặt khác tiếp xúc và chung sống hòa
bình với các tộc người đang sinh sống ở đây như: người Khmer,
người Hoa, người Chăm, người Chà Và… Tất cả đều chung sức
góp phần xây dựng cuộc sống mới trên mảnh đất trước đây vốn rất
hoang du… Lưu dân Việt đi đến đâu, đất hoang được mở mang đến
đó, những xóm làng người Việt được dựng lên [78, tr.80].
Như vậy, trong khoảng thời gian trên, ĐBSCL còn là một vùng đất hoang
vu, xa lạ, rừng thiêng nước độc vô cùng khắc nghiệt đến nỗi “con chim kêu phải
sợ, con cá vùng phải kinh” hay “dưới sông sấu lội, trên rừng cọp um”. Nhưng
cũng ngần ấy thời gian, những lưu dân người Việt đã đến đây khai phá tự nhiên,
vượt qua mọi khó khăn ban đầu, từng bước làm cho vùng đất này thay đổi hẳn:
từ một vùng đất hoang vu, xứ sở của rừng rậm, sình lầy, thú dữ, rắn rết, cá sấu và
cả bệnh sốt rét ác tính trở thành một vùng ruộng vườn tươi tốt, trù phú như ngày
nay. Đây là kết quả của bao mồ hôi, công sức, trong đó có cả máu và nước mắt,
của những lưu dân cùng các thế hệ con cháu tạo dựng nên.
Ngày nay, các dân tộc Kinh, Khmer, Hoa, Chăm đang không ngừng
phát triển trên vùng đất ĐBSCL. Riêng đồng bào Khmer (khoảng 1,3 triệu
người) tập trung nhiều nhất là ở các tỉnh Sóc Trăng (khoảng 400 ngàn người),
Trà Vinh (khoảng 320 ngàn người), Kiên Giang (khoảng 204 ngàn người), An
Giang (khoảng 85 ngàn người), Bạc Liêu (khoảng 60 ngàn người), Cần Thơ
(khoảng 39 ngàn người), Cà Mau (khoảng 24 ngàn người), Vĩnh Long
(khoảng 21 ngàn người) [45, tr.1]. Tập quán sinh hoạt và sản xuất của đồng
bào Khmer chủ yếu tập trung ở những vùng sâu, vùng xa, dọc theo các bờ
biển, biên giới và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông. Đồng bào Chăm sinh
sống ở An Giang, Cần Thơ chủ yếu sống bằng nghề nông và có nhiều nghề
thủ công truyền thống nổi tiếng. Người Kinh và người Hoa có khắp mọi nơi
trong vùng. Riêng tỉnh Bến Tre, thành phần các dân tộc khá thuần nhất trong
80
đó tuyệt đại đa số là người Kinh, một số ít người Hoa, còn người Khmer và
người Chăm hầu như không có.
Ở ĐBSCL, còn có sự đa dạng về tín ngưỡng, tôn giáo. Phật giáo với tư
cách một tôn giáo lớn có Phật giáo Đại thừa (Bắc Tông) tín đồ chủ yếu là
người Kinh, Phật giáo Tiểu thừa (Nam Tông) gắn với đồng bào Khmer, ngoài
ra còn có Phật giáo Hòa Hảo phổ biến ở An Giang. Đối với đạo Cao Đài lại
có nhiều hệ phái, trong đó Cao Đài Ban Chỉnh và Cao Đài Tiên Thiên phổ
biến ở Bến Tre. Hồi giáo gắn với đồng bào Chăm tập trung ở An Giang và
Cần Thơ. Các tôn giáo như Thiên chúa, Tin lành,... đều có ở tất cả các tỉnh
thành trong khu vực.
Nhìn chung, các dân tộc, tôn giáo trong khu vực tuy có những bản sắc
riêng nhưng về cơ bản vẫn có những nét tương đồng, có sự giao thoa, tiếp
biến văn hóa; luôn gắn bó keo sơn, chung sống hài hòa; không xảy ra mâu
thuẫn, xung đột dân tộc, tôn giáo. Sự đoàn kết, hòa thuận là điều kiện khách
quan thuận lợi cơ bản cho quá trình phát triển KT - XH nói chung và
XDNTM nói riêng ở ĐBSCL trong giai đoạn hiện nay.
3.1.2.2. Đặc điểm tâm lý nông dân Đồng bằng sông Cửu Long
Đồng bằng sông Cửu Long là địa bàn rộng lớn, có những thuận lợi
nhất định do được thiên nhiên ưu đãi, phù hợp cho sản xuất nông nghiệp chủ
yếu tập trung vào việc thâm canh lúa nước, trồng cây ăn trái và nuôi thủy
sản. Những năm gần đây, thu nhập, mức sống của nông dân ĐBSCL từng
bước được cải thiện. Nhưng nhìn tổng thể, nông dân trong toàn khu vực vẫn
còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập và mức sống thấp, việc thụ hưởng các
phúc lợi xã hội chưa nhiều. Trình độ dân trí thấp cùng với việc chưa thoát
khỏi những rào cản tâm lý cũ kỹ, lạc hậu tập trung chủ yếu ở các vùng sâu,
bãi ngang và nhất là vùng có đông đồng bào dân tộc thiểu số Khmer. [124,
tr.134-135,720-721]. Tính đến năm 2013, tỷ lệ dân số toàn vùng biết chữ đạt
93,4%. Đây là nỗ lực lớn của các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL. Tuy nhiên,
81
nhìn tổng thể trong so sánh với các khu vực khác của cả nước, tỷ lệ này chỉ
cao hơn khu vực Trung du và miền núi phía Bắc (89,5%), trong khi đó thấp
hơn nhiều so với ĐBSH (98,1%) [124, tr.105-106]. Do nhiều nguyên nhân
khác nhau, đến nay tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền
kinh tế ở ĐBSCL tính đến năm 2013 chỉ đạt 10,4%, chưa bằng một nửa so với
ĐBSH (24,9%) [124, tr.129-130].
Do đặc thù của vùng ĐBSCL có mật độ hệ thống sông ngòi chằng chịt,
nên việc sinh sống quần tụ dọc theo hai bờ của các sông rạch theo kiểu “Nhất
cận thị, nhị cận giang”, hòa quyện vào thiên nhiên, không chịu sự bó buộc,
khép kín bởi lũy tre làng như làng xã cổ truyền ở Đồng bằng Bắc bộ là tập
quán định cư của đông đảo nông dân ĐBSCL “Nhà cửa phố xá ở Tây Nam Bộ
đều dựng ven sông, chợ Tây Nam Bộ cũng họp trên sông - chợ nổi. Bởi vậy,
việc đi lại, vận chuyển của con người Tây Nam Bộ gắn bó hết sức chặt chẽ
với ghe thuyền, sông rạch” [96, tr.653]. Mặt khác, ở ĐBSCL trong rất nhiều
năm trước đây ít khi xảy ra thiên tai, cộng với tâm lý nông dân ĐBSCL coi
trọng việc ăn hơn việc ở theo kiểu “ăn thì nhiều chớ ở chẳng bao nhiêu”. Tất
cả những điều trên lý giải vì sao nhà ở vùng nông thôn ĐBSCL phần nhiều
là nhà tạm, không kiên cố, tiện nghi sinh hoạt đơn giản nhất là đối với những
nông dân thường xuyên lênh đênh trên sông nước lấy ghe xuồng làm nhà để
mưu sinh kiếm sống [124, tr.754, 757]. Tập quán sống trên ghe xuồng, di
chuyển tự do nay đây mai đó lâu ngày trở thành các “hộ trên sông”. Ở góc
độ nào đó, đây là nét văn hóa đặc thù sông nước, nhưng xét về mặt KT - XH
lại có nhiều thách thức vì phần đông các đối tượng này là những người
nghèo, không có đất sản xuất và dĩ nhiên cũng không có đất để ở mà thành
ra “sống vô gia cư, chết không địa táng” - một nghịch lý của vùng đất rộng
lớn. Hơn nữa, điều này còn kéo theo hệ lụy đó là người dân không có nghề
nghiệp ổn định, chủ yếu sinh nhai bằng đánh bắt thủy sản hay mua bán nhỏ,
82
làm ô nhiễm môi trường cảnh quan, không được chăm sóc sức khỏe, trẻ em
không được học hành.
Những yếu tố về tồn tại xã hội, nhất là điều kiện tự nhiên, đã quy định,
hình thành nên ý thức xã hội đặc biệt là tâm lý, tính cách của người dân
(chính xác hơn là nông dân) vùng ĐBSCL vì:
Đối với người dân châu thổ sông Cửu Long thì thiên nhiên còn hào
phóng hơn rất nhiều, rừng tràm mênh mông là nguồn cung cấp củi
đun, gỗ làm nhà; mật ong, cá tôm dường như vô tận. Đến mùa cá
linh từ thượng nguồn đổ về, người dân thi nhau ra sông vớt, bỏ vào
chum vại muối ăn quanh năm. Khi mùa khô đến, các ao đìa trên
cánh đồng trở thành nơi tập trung của cá tự nhiên cho nông dân
nuôi dự trữ hoặc phơi khô. Trong bữa ăn của nông dân Đồng bằng
sông Cửu Long, hũ cá kho tộ, hay cá chiên cùng với bát canh chua
và đĩa rau sống hái từ vườn nhà chấm nước mắm cá linh tự làm
cũng thể hiện sự hài hòa giữa nhu cầu dinh dưỡng và hệ thống sản
xuất gắn với thiên nhiên. Sự gắn kết hài hòa này là ưu đãi của thiên
nhiên giàu có [141, tr.166-167] .
Cho đến nay, nhìn chung các học giả, các nhà nghiên cứu khi bàn về
tâm lý, tính cách người nông dân vùng ĐBSCL phần đông cho rằng bên cạnh
những đặc điểm chung, tương đồng với nông dân các vùng miền khác trong
cả nước thì nông dân ĐBSCL lại có những nét độc đáo, riêng biệt, giàu bản
sắc. Học giả Ngô Đức Thịnh có nhận xét về con người Nam bộ như sau: “Họ
cởi mở, chan hòa, dễ kết thân, dễ hòa vào với cộng đồng mới lạ, không sĩ diện
kiểu kẻ sĩ, không coi trọng môn đăng hộ đối” [97, tr.289]. Còn theo giáo sư
Trần Ngọc Thêm, đã nêu lên 6 đặc trưng về tính cách người Việt vùng Tây
Nam bộ, đó là: tính sông nước, tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính bao dung,
tính thiết thực và tính mở thoáng [96].
83
Tuy chưa thật đầy đủ, nhưng tác giả luận án bước đầu khái quát đặc
điểm tâm lý, tính cách nông dân ĐBSCL với những ưu nhược điểm ở một số
nét cơ bản sau:
Thứ nhất, hiền lành, đôn hậu, cởi mở, phóng khoáng nhưng cũng ngang
tàng, liều lĩnh, thiếu tính lo xa.
Thứ hai, năng động, sáng tạo, thích tìm tòi khám phá và dễ thích ứng
nhanh với cái mới từ thực tiễn nhưng đồng thời lại tùy tiện, có tính tự phát và
cũng có phần lười biếng, không quan tâm việc học từ sách vở, đi học là điều
không cần thiết.
Thứ ba, không văn chương hoa mỹ, không cầu kỳ, không phô trương
hình thức, nói ít làm nhiều, con người hành động nhưng cũng dễ buông suôi,
thiếu kiên nhẫn, có phần thực tế.
Với những đặc điểm tâm lý, tính cách nổi trội như tính năng động, sáng
tạo, con người hành động luôn quyết đoán, luôn hướng đến cái mới,... là
những ưu điểm cơ bản và nổi bật của nông dân ĐBSCL. Những phẩm chất
này rất phù hợp và cần thiết trong XDNTM dưới tác động của nền kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế sâu rộng trong giai đoạn hiện nay. Ngược lại,
những nhược điểm của một bộ phận không nhỏ của nông dân ĐBSCL nhất là
tính ỷ lại, tùy tiện, tự phát hay mặt bằng dân trí thấp đang là “xiềng xích” trói
buộc sự tiến bộ của nông dân ĐBSCL. Vì vậy, để phát huy vai trò chủ thể của
nông dân ĐBSCL trong XDNTM tất yếu phải thực hiện song song hai quá
trình: một mặt phát huy ưu điểm nhưng mặt khác phải khắc phục nhược điểm.
Nếu chỉ chú trọng mặt này mà không quan tâm mặt kia và ngược lại đều trở
nên khập khiễng, hiệu quả không cao.
3.2. THỰC TRẠNG PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN
TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Chương trình XDNTM ở ĐBSCL được triển khai trên tất cả các xã,
thị trấn, trong đó có 2 xã: Long Mỹ Nam (huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà
Vinh) và Định Hòa (huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang) được chọn làm xã
84
điểm của cả nước. Ngoài ra, vùng ĐBSCL có huyện Phước Long (tỉnh
Bạc Liêu) và tỉnh An Giang là một trong 5 huyện và 5 tỉnh trong cả nước
được chọn làm điểm để XDNTM cấp huyện, tỉnh.
3.2.1. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng sông Cửu
Long trong tham gia quy hoạch nông thôn mới và thực hiện quy hoạch -
Một số thành tựu và hạn chế
Chủ trương XDNTM là một sự kiện CT - XH quan trọng được nông
dân ĐBSCL đón nhận với tinh thần phấn khởi. Trong XDNTM, công tác quy
hoạch phải đi trước một bước tạo tiền đề để thực hiện toàn thể chương
trình XDNTM. Vì vậy, ngay từ đầu công tác lập quy hoạch XDNTM được
các địa phương ở ĐBSCL quan tâm, chỉ đạo các sở, ngành phân công cán
bộ có năng lực, trình độ chuyên môn tốt giúp địa phương thẩm định các
đồ án quy hoạch trước khi phê duyệt, lựa chọn đơn vị tư vấn có năng lực
lập quy hoạch. Tuy nhiên, quá trình lập quy hoạch không tránh khỏi khó
khăn. Cho nên, chính việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
tham gia quy hoạch và thực hiện quy hoạch XDNTM thông qua tiến hành
tổ chức lấy ý kiến rộng rãi trong dân cư nông thôn đã góp phần tháo gỡ
được nhiều vướng mắc vì suy cho cùng không ai hiểu về nông thôn bằng
chính nông dân.
Sự thật là, ở nhiều địa phương ĐBSCL, khi quy hoạch được công bố
và phổ biến rộng rãi đến tận các ấp, tổ nhân dân tự quản đã được rất nhiều
nông dân đến tham gia đông đủ để tìm hiểu về thông tin quy hoạch, nhiệt tình
đóng góp ý kiến, bày tỏ sự đồng thuận với những nội dung quy hoạch hợp lý,
đồng thời thẳng thắn góp ý những điểm chưa hợp lý cần điều chỉnh, khắc
phục. Chẳng hạn, trong quá trình lập quy hoạch, có nhiều nội dung khi
triển khai ở ĐBSCL chưa được nông dân hưởng ứng, đồng tình cao vì nông
dân xét thấy nhiều vấn đề chưa thật phù hợp. Trong Bộ tiêu chí quốc gia về
XDNTM theo Quyết định số 491/QĐ-TTg [104] và Bộ tiêu chí quốc gia về
85
xã nông thôn mới theo quyết định số 1980/QĐ-TTg [118] ở tiêu chí 6 (về
cơ sở vật chất văn hóa) đều quy định: tỷ lệ ấp (thôn) có nhà văn hóa và khu
thể thao ấp là 100%. Bởi lẽ, ĐBSCL là nơi có rất đông đồng bào Khmer
sinh sống và phong tục, tập quán sinh hoạt của đồng bào Khmer lại gắn bó
mật thiết với chùa. Đồng bào Khmer có câu “sống vào chùa gửi thân, chết
vào chùa gửi cốt”. Tương tự như thế là các thánh đường của đồng bào
Chăm (tập trung chủ yếu ở An Giang và Cần Thơ). Do đó, chùa hay thánh
đường không chỉ là nơi đáp ứng thỏa mãn về đời sống tâm linh, tín ngưỡng
mà đó còn là không gian văn hóa cộng đồng. Cho nên, việc buộc phải xây
dựng các nhà văn hóa thôn (ở vùng đồng bào Khmer Tây Nam bộ thôn
được gọi là Phum, Sóc) xem ra trở nên thừa, thậm chí gây lãng phí tiền của
của nhân dân. Việc đồng bào Khmer góp ý về việc không cần thiết xây
dựng các nhà văn hóa thực sự cho thấy tinh thần trách nhiệm, sự cộng tác
rất cao đối với quy hoạch XDNTM.
Có thể nhận thấy, nông dân ĐBSCL tích cực tham gia công tác quy
hoạch và thực hiện quy hoạch, suy cho cùng, cũng là xuất phát từ chính lợi
ích của bản thân người nông dân. Vì vậy, khi chính quyền cùng với các cơ
quan chức năng thuận theo các ý kiến đóng góp phù hợp, chí tình của các chủ
thể nông dân tiến bộ sẽ là bệ phóng để phát huy được vai trò của các chủ thể
nông dân trên tất cả các mặt của quá trình XDNTM.
Tuy nhiên, khi nông dân ĐBSCL tham gia công tác quy hoạch và thực
hiện quy hoạch XDNTM cũng gặp không ít khó khăn, hạn chế và bất cập.
Một là, một bộ phận khá đông nông dân bày tỏ thái độ thờ ơ, không
tham dự các buổi họp lấy ý kiến quy hoạch, xem quy hoạch XDNTM là việc
của chính quyền, là chuyện “quốc gia đại sự” chứ không phải của người dân.
Điều này vô hình trung làm cho nông dân tự đánh mất quyền làm chủ của
mình. Nông dân không nhận thức được rằng khi tham gia góp ý cho quy
hoạch đây thực sự là cơ hội quý giá để nông dân thể hiện chính kiến, đảm bảo
86
cho quyền lợi chân chính của mình không chỉ cho hôm nay mà còn vì các thế
hệ mai sau. Trong một diễn biến khác, nhiều nông dân ĐBSCL có tinh thần
trách nhiệm và lòng nhiệt tình cao khi tham gia đóng góp các đồ án quy hoạch
XDNTM tại địa phương. Tinh thần này là đáng quý. Tuy nhiên, do nông dân
không hiểu về những vấn đề mang tính chuyên môn trong quy hoạch (do trình
độ dân trí hạn chế), nên mức độ góp ý phần nhiều chỉ dừng lại ở sự đồng
thuận về mặt chủ trương hơn là đi sâu vào vấn đề chuyên môn.
Hai là, một bộ phận nông dân do xuất phát từ lợi ích cá nhân, vì sự hẹp
hòi ích kỷ, không muốn bị mất đất hay xáo trộn cuộc sống nên không đồng
tình với các đề án quy hoạch XDNTM, có thái độ phản ứng việc triển khai
XDNTM, thậm chí có cả những hành vi chống đối như tụ tập đông người,
khiếu kiện vượt cấp, gây rối trật tự công cộng làm mất ổn định CT - XH. Tình
hình này chủ yếu liên quan đến quy hoạch đất đai giải phóng mặt bằng để xây
dựng các công trình hạ tầng KT-XH thiết yếu nhất là làm đường, xây cầu, xây
chợ nông thôn.
3.2.2. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng sông Cửu
Long trong xây dựng hạ tầng kinh tế - xã hội ở nông thôn - Một số thành
tựu và hạn chế
Xây dựng hạ tầng KT - XH là vấn đề rất quan trọng trong XDNTM.
Tính chất quan trọng của hạ tầng KT - XH được thể hiện ở chỗ: nếu trong Bộ
tiêu chí quốc gia về XDNTM và Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới
giai đoạn 2016 - 2020 có tất cả 19 tiêu chí, thì riêng phần hạ tầng KT - XH có
đến 8 tiêu chí theo trình tự từ tiêu chí thứ 2 đến tiêu chí thứ 9 [Phụ lục 1, 2].
Như vậy, ở phần này tập trung một khối lượng công việc rất lớn, mức độ huy
động các nguồn lực để đầu tư xây dựng rất cao, thời gian thực hiện lâu dài và
cũng là thách thức lớn đối với ĐBSCL. Do đặc thù về điều kiện tự nhiên như
mạng lưới sông ngòi chằng chịt, địa bàn bị chia cắt mạnh, nền địa chất yếu,
7/13 tỉnh tiếp giáp biển,... là một trong những lý do làm cho ĐBSCL luôn có
87
hiện trạng kết cấu hạ tầng KT - XH yếu kém, không đồng bộ, gây khó khăn
và ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất và sinh hoạt của nông dân. Vì vậy, xây
dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH là một trong những nội dung ưu
tiên hàng đầu cần đầu tư trước một bước (làm tiền đề và động lực cho sản
xuất và sinh hoạt của người dân), trong đó cần tập trung vào hai vấn đề cốt lõi
đó là giao thông và thủy lợi.
Những năm qua, nông dân ĐBSCL với bản tính năng động, sáng tạo, ý
thức tự lực tự cường, đang có những việc làm tích cực, thiết thực trong việc
chinh phục, cải tạo tự nhiên, chủ động tham gia xây dựng hạ tầng KT - XH
bằng việc chung sức, chung lòng góp vốn, hiến đất, hoa màu, vật kiến trúc,
ngày công lao động để thực hiện hai vấn đề cơ bản, thiết yếu đó là thủy lợi và
giao thông nông thôn. Nhờ vậy, đến nay bức tranh toàn cảnh về hệ thống thủy
lợi và mạng lưới giao thông nông thôn ở ĐBSCL đang từng lúc được định
hình, phát triển và lan tỏa rất mạnh mẽ trên tất cả các địa phương, hình thành
phong trào thi đua trong nông dân giữa ấp với ấp, giữa xã với xã và thậm chí
giữa các huyện với nhau. Đây là một trong những hoạt động sôi nổi, dễ nhận
thấy nhất trong XDNTM ở ĐBSCL do nông dân hiểu rõ xây dựng kết cấu hạ
tầng KT - XH là đem lại lợi ích cho chính mình. Có thể thấy, với tính cách
rộng rãi, hào hiệp, phóng khoáng, cởi mở nên việc huy động sự đóng góp của
các chủ thể nông dân ĐBSCL tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH
trong ba năm (từ năm 2011 đến năm 2013) là rất lớn với số tiền 21.345 tỷ
đồng. Trong các xã đạt chuẩn NTM tiêu biểu như xã Đại Thành, thị xã Ngã
Bảy, tỉnh Hậu Giang. Chính sự đồng lòng của nông dân là một trong những
nguyên nhân giúp cho xã Đại Thành sớm hoàn thành 19 tiêu chí và trở thành
xã NTM đầu tiên ở ĐBSCL vào cuối năm 2013. Thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu
Giang cũng là địa phương cấp huyện nổi tiếng với việc có nhiều đội vá đường
do nông dân tình nguyện hằng ngày làm công việc duy tu, bảo dưỡng đường
88
giao thông nông thôn góp phần giúp thị xã Ngã Bảy được công nhận là huyện
NTM đầu tiên của ĐBSCL vào ngày 12/10/2015.
Bên cạnh đó, trong điều kiện mạng lưới điện quốc gia chưa có khả năng
đến từng ấp, từng tổ nhân dân tự quản, nhưng vì nhu cầu phục vụ sản xuất và
sinh hoạt, nông dân ở nhiều địa phương chủ động góp tiền nhờ ngành điện
đưa điện đến từng hộ dân trong phạm vi địa bàn của mình. Mặt khác, nếu như
trước đây nông dân ĐBSCL sống trong những ngôi nhà lá tạm bợ (lá từ cây
dừa nước mọc nhiều ven sông rạch ĐBSCL), thì ngày nay nông dân đang có
sự thay đổi nhận thức đáng kể với mong muốn có được ngôi nhà khang trang,
kiên cố. Cho nên, khi điều kiện về kinh tế được nâng lên, nhiều hộ nông dân
đã xây dựng ngôi nhà mới cho mình và đây cũng là một sự thay đổi đáng kể ở
ĐBSCL hiện nay. Trong nhiều trường hợp, mặc dù cuộc sống còn khó khăn
nhưng nhiều nông dân chủ động vay tiền vừa đủ để xây nhà mà không trông
chờ, ỷ lại từ sự hỗ trợ từ các yếu tố bên ngoài.
Việc triển khai xây dựng hạ tầng KT - XH về cơ bản có được sự
đồng thuận trong nông dân, nhưng không phải không có những khó khăn
nhất định từ chính trong lực lượng nông dân. Trên thực tế, quá trình thực
hiện vẫn còn một bộ phận nông dân do tính tư lợi nên dứt khoát không
hưởng ứng chủ trương xã hội hóa xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH,
thậm chí có những hộ dân vẫn “bình chân như vại” án binh bất động, bất
chấp dư luận và dĩ nhiên gây khó khăn, cản trở việc thi công dù chỉ là đốn
bỏ một vài cây dừa hay di dời hàng rào vào bên trong một ít . Trong khi
đó, các công việc này khi thực hiện hoàn toàn mang tính tự nguyện trong
nông dân, chính quyền không được cưỡng chế hay ép buộc. Chính vì điều
này đã dẫn đến tình trạng ở ĐBSCL có những con đường nông thôn sau
khi làm mới nhưng lại uốn lượn, gấp khúc bất thường do phải “né” các
cây dừa (của các hộ dân bất hợp tác kiên quyết không đốn bỏ điển hình
như ở huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre), hay như con đường thẳng tắp thì
89
lại có khoảng sân nhà và tường rào nhô ra. Điều này làm cho các con
đường khi đưa vào sử dụng không được như mong muốn vì vừa không
đảm bảo an toàn giao thông vừa gây mất cảnh quan nông thôn.
Trong xây dựng, phát triển hạ tầng KT - XH có một nội dung quan
trọng đó là xây chợ nông thôn (tiêu chí số 7). Chủ trương xây chợ mới suy
cho cùng không có mục đích nào khác hơn là nhằm tạo điều kiện thuận lợi
cho việc mua bán của dân cư nông thôn và phù hợp theo quy hoạch. Thế
nhưng, một bộ phận tiểu thương và kể cả nông dân vẫn muốn duy trì các chợ
cũ và quyết liệt cho rằng chính quyền xây chợ mới là “không phù hợp” và
kiên quyết “tẩy chay”, bất hợp tác, khi xây chợ xong rồi người dân không
chịu vào đấy để buôn bán thậm chí tiến hành tụ tập đông người, tổ chức
biểu tình gây sức ép đối với chính quyền như trường hợp ở xã Tân Xuân,
huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Điều này lý giải vì sao tính đến 12/2013, toàn
ĐBSCL mới có 433/1.269 xã đạt tiêu chí này càng cho thấy việc xây chợ
mới với góc độ là một hoạt động có tính an sinh xã hội nhưng xem ra rất nan
giải, không dễ thực hiện trong một thời gian ngắn.
3.2.3. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng sông Cửu
Long trong tổ chức sản xuất, phát triển kinh tế, đổi mới các hình thức
sản xuất - Một số thành tựu và hạn chế
Xuất phát từ đặc thù của nền sản xuất nông nghiệp vùng ĐBSCL, nên
khi triển khai phong trào XDNTM nông dân ĐBSCL tích cực tham gia thực
hiện có hiệu quả chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên ba trụ cột đó là:
lúa gạo, thủy sản và cây ăn quả nhằm khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh của
từng địa phương với nhiều mô hình sản xuất kết hợp đa canh bền vững.
Trước hết, với sản xuất lúa gạo vùng ngọt hóa, nông dân ĐBSCL ngày
càng chủ động, tự giác tham gia nhiều vào mô hình cánh đồng lớn. Khuynh
hướng dồn điền đổi thửa theo mô hình cánh đồng lớn tập trung ở các tỉnh
Đồng Tháp, An Giang, Hậu Giang, Bạc Liêu,... với tổng diện tích 452,7 ngàn
90
ha. Lợi ích của việc nông dân ĐBSCL tham gia cánh đồng lớn, cùng với đó là
việc áp dụng bộ tiêu chuẩn quốc tế sản xuất lúa gạo bền vững (SRP), giúp
tăng năng suất lúa từ 15% đến 20% so với diện tích đất canh tác thông thường
và nông dân thu lời thêm trung bình từ 2,2 đến 7,5 triệu đồng [129, tr.4-5].
Hiện nay, do tác động tiêu cực từ hạn mặn ảnh hưởng trực tiếp đến sản
xuất, ở từng địa phương, nông dân chủ động, nhạy bén trong việc tìm tòi
nhiều cách làm mới để biến cái bất lợi (hạn mặn) thành cái có lợi. Chẳng hạn,
nông dân chủ động chuyển đổi mô hình sản xuất thuần túy từ độc canh cây
lúa sang mô hình lúa - tôm hoặc chủ động xuống giống sớm hơn. Riêng đối
với những vùng không thể trồng được lúa, nhiều nông dân có cách làm hay
khi chuyển sang trồng rau màu, cây ăn trái, trồng dừa (ở Bến Tre, nông dân
phát hiện cây dừa chịu mặn khá tốt, hoàn toàn thích ứng với dùng nước lợ),
trồng cỏ nuôi bò,… Ngoài ra, nông dân chủ động nạo vét ao mương, đấp bờ
bao trữ nước ngọt ngay trên đất canh tác để đảm bảo nguồn nước cho cây
trồng, vật nuôi khi đến mùa hạn mặn trong điều kiện các công trình thủy lợi
do Nhà nước đầu tư chưa hoàn chỉnh. Điều cần lưu ý là phần nhiều các mô
hình này (điển hình như mô hình lúa - tôm ở các tỉnh ven biển vùng ĐBSCL
đã có hơn 15 năm) ngay từ đầu xuất phát từ thực tiễn sản xuất của mình mà
nông dân chủ động đi tìm cái lợi thế trong cái bất lợi, “tìm Cơ trong Nguy”, tự
tạo sinh kế để thích ứng trước những thách thức từ thiên nhiên chứ không
phải thuần túy do nhà nước hay các nhà khoa học định hướng cho nông dân.
Ngoài ra, nhiều nông dân ĐBSCL năng động, nhạy bén tìm kiếm
hướng đi mới trong lao động sản xuất với sự kết hợp đa ngành nghề, đa lĩnh
vực như trường hợp điển hình của nông dân tỷ phú Hà Tấn Tâm, phường
Thới An, quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ với mô hình làm vườn (trồng
cam), nuôi thủy sản (cá tra) và dịch vụ vận tải đường thủy về thức ăn thủy sản
đem lại thu nhập khoảng 14 - 15 tỷ đồng/năm, tạo việc làm thường xuyên, thu
nhập ổn định cho 60 lao động tại địa phương (4 - 6 triệu đồng người/tháng).
91
Để khắc phục tình trạng thị trường đầu ra của các sản phẩm tươi sống gặp khó
khăn, nhiều nông dân chủ động tìm kiếm mô hình mới như trường hợp nông
dân Nguyễn Văn Nữa huyện Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp với sản phẩm ếch
sấy khô, ếch chà bông được xem là những sản phẩm “độc, lạ” (độc đáo), sản
xuất ra bao nhiêu tiêu thụ hết bấy nhiêu; hay như trường hợp lão nông Trần
Nguyễn Hồ, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang với mô hình trứng cút đóng
lon (trứng cút luộc chín đóng hộp) xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản.
Trong chuyển dịch sản xuất nông nghiệp, đáng chú ý nông dân tích
cực, chủ động chuyển đổi từ hoạt động sản xuất cá thể sang các mô hình liên
kết sản xuất của nền sản xuất lớn như tổ hợp tác, HTX. Hiện toàn vùng
ĐBSCL có hơn 33.000 tổ hợp tác trong lĩnh vực nông nghiệp trong đó phần
nhiều các tổ hợp tác đang phát huy hiệu quả rất tốt tiêu biểu như các tổ hợp
tác trồng cây có múi trên vùng đất trũng nhiễm phèn ở huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc
Trăng với diện tích gần 2400 ha với lợi nhuận tăng cao gần gấp 10 lần so với
trồng mía và lúa như trước kia, bình quân đạt 100 triệu đồng/ha sau khi đã trừ
chi phí sản xuất, những lúc trúng mùa được giá thu nhập đạt tới 400 đến 500
triệu đồng/ha được phản ảnh ánh trong chương trình thời sự tổng hợp VTV
Cần Thơ ngày 20/3/2015. Riêng tại Bến Tre, tính đến cuối năm 2014, nông
dân chủ động, tự giác tham gia để thành lập được 18 HTX sản xuất nông
nghiệp (8 HTX nông nghiệp và 10 HTX thủy sản) và 426 tổ hợp tác liên kết
sản xuất có hiệu quả như tổ liên kết sản xuất và tiêu thụ dừa, tổ hợp tác cây ăn
trái theo chuẩn GAP (bưởi da xanh, sầu riêng, hoa kiểng), liên kết trong phát
triển du lịch sinh thái cộng đồng, sinh thái hoa kiểng và vườn cây ăn trái theo
mô hình homestay [120, tr.3]. Có thể nhận thấy, hiệu quả hoạt động của các tổ
hợp tác do các chủ thể nông dân tự nguyện tham gia không chỉ đem lại nguồn
thu nhập đáng kể mà qua đó và quan trọng hơn nó còn thắt chặt tình làng
nghĩa xóm, tương trợ lẫn nhau.
92
Ở ĐBSCL, các làng nghề truyền thống tiếp tục được duy trì và phát
triển với hơn 250 làng nghề như đan đác các sản phẩm thủ công, chế tác mỹ
nghệ, lụa tơ tằm, làm gốm đỏ, sản xuất kẹo dừa, cá khô, nước mắm, rượu, sản
xuất cây giống và hoa kiểng,… Qua tìm hiểu thực tế, tác giả luận án nhận
thấy có điểm tương đồng đó là việc nhiều chủ thể nông dân ở ĐBSCL cố gắng
duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống trước hết do xuất phát từ tâm
huyết muốn qua đó nhằm để tri ân các bậc tiền nhân, tiền hiền đã tạo dựng
nên các làng nghề mang đậm nét văn hóa đặc thù của vùng sông nước phương
Nam. Hơn nữa, việc nông dân (trong nhiều trường hợp vừa là nông dân vừa là
nghệ nhân dân gian) cố gắng duy trì và phát triển các làng nghề còn thể hiện
tính cộng đồng, sẻ chia khi tạo ra sinh kế cho lực lượng lao động tại từng xóm
ấp, trong đó đáng chú ý tạo việc làm cho đối tượng là phụ nữ, người già góp
phần tăng thu nhập cho nông hộ. Thực tế cho thấy, tỷ lệ hộ nghèo ở các khu
vực có làng nghề thường thấp hơn ba lần so với các khu vực khác.
Sẽ thuyết phục hơn nếu chúng ta biết rằng, nông dân ĐBSCL với tính
cách năng động, sáng tạo đã hiện thực hóa các ý tưởng của mình để làm nên
những điều kỳ diệu thông qua rất nhiều sáng chế, cải tiến kỹ thuật đầy ấn
tượng, rất hiệu quả [Phụ lục 6]. Có thể khái quát việc các chủ thể nông dân
ĐBSCL phát huy sự năng động, sáng tạo của mình thông qua các sáng chế,
cải tiến kỹ thuật để nâng cao hiệu quả sản xuất tập trung ở ba nhóm vấn đề cơ
bản như sau:
Một là, đối với máy móc có động cơ như: máy đào đất hút bùn, máy
đánh rãnh thoát nước, máy cấy lúa, máy sạ lúa theo hàng, máy bón phân, máy
gặt đập liên hợp, máy gom lúa, máy xúc lúa, máy sấy lúa, máy cuộn rơm, máy
đắp bờ mẫu, máy sạ hạt mè đen, máy phun xịt thuốc kết hợp tưới điều khiển
từ xa (bằng điện thoại di động), máy dệt chiếu bán tự động, máy tách vỏ trái
dừa (công suất 800 - 1000 trái/giờ), máy gọt vỏ dừa, máy xe chỉ sơ dừa, máy
hái trái cây, máy bắt rầy xanh trên cây đậu bắp,...
93
Hai là, đối với thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp như: kéo cắt tỉa cành
và trái cây, dụng cụ bao trái (xoài cát, vú sữa, bưởi da xanh), lò sấy lúa bằng các
nguồn nhiên liệu rẻ tiền, máy dập lỗ màng phủ nông nghiệp (các tấm nhựa kỹ
thuật che phủ trên các luống dưa, cà,...), máy phát điện bằng năng lượng gió,...
Ba là, về cải tiến kỹ thuật như: kỹ thuật lai ghép cây con giống, kỹ
thuật xử lý ra hoa nghịch vụ, kỹ thuật xây cầu treo, kỹ thuật di dời nhà, kỹ
thuật tạo hình trên cây ăn quả (thay đổi kiểu dáng, màu sắc, in chữ trên dưa
hấu, dừa xiêm, bưởi da xanh,…) nhằm tạo sự hấp dẫn cho người tiêu dùng và
gia tăng giá trị kinh tế.
Bên cạnh những ưu điểm, nông dân ĐBSCL vẫn còn những hạn chế
đặc biệt là tính tự phát, tùy tiện trong sản xuất, bất chấp các định hướng cũng
như khuyến cáo từ các cơ quan chức năng, các chuyên gia.
Trước hết, đó là việc nông dân tự ý chuyển đổi vật nuôi cây trồng.
Chẳng hạn, để cải tạo môi trường tự nhiên đang bị ô nhiễm, chính quyền
địa phương đưa ra lệnh cấm nuôi thả tôm trong một thời gian nhất định.
Thế nhưng, một bộ phận nông dân vẫn bất chấp các khuyến cáo, lén lút
nuôi thả tôm. Kết quả là, tôm bị bệnh chết và dĩ nhiên nông dân bị thiệt hại,
thua lỗ. Cũng liên quan đến việc nuôi tôm, trong khi các cấp chính quyền
nỗ lực tìm mọi cách chống chọi với hạn mặn thì một bộ phận nông dân, vì
lợi ích ích kỷ bất chấp tình làng nghĩa xóm, tự ý phá bỏ đê bao để lấy nước
mặn nuôi tôm trên đất trồng lúa hay khoan giếng lấy nước mặn từ mạch
nước ngầm để nuôi tôm thẻ chân trắng ngay trên vùng nước ngọt. Điều này
gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc canh tác của các hộ xung quanh và
gây ô nhiễm môi trường. Đối với trồng trọt cũng không ngoại lệ. Do biến
động giá cả nhất thời, nhưng nông dân thiếu tính kiên nhẫn nên vội vàng
đốn chặt vườn dừa để trồng nhãn, sa bô (hồng xiêm). Khi nhãn, sa bô rớt
giá thì bị đốn hạ để trồng lại dừa. Đến lượt dừa khó tiêu thụ lại tiếp tục đốn
dừa trồng bưởi da xanh.
94
Tính tùy tiện, tự phát còn biểu hiện ở việc nông dân không tuân thủ chủ
trương chuyển đổi cây trồng, vật nuôi theo quy hoạch cho phù hợp với tái cơ
cấu nền nông nghiệp. Điển hình như một bộ phận nông dân tỉnh Sóc Trăng
trong nhiều năm liên tục chỉ tập trung trồng hành tím, dẫn đến tình trạng cung
vượt cầu mà đỉnh điểm vào vụ hành tím năm 2015 có đến 60.000 tấn không
tiêu thụ được đến mức Bộ Công thương phải có công văn kêu gọi hỗ trợ tiêu
thụ nhằm “giải cứu” hành tím, “giải cứu” nông dân Sóc Trăng.
Riêng đối với sản xuất lúa gạo, tình trạng nông dân trồng lúa vụ đông
xuân có phẩm cấp thấp với giống lúa IR50404, trong khi nông dân Thái Lan
từ lâu đã hạn chế trồng giống lúa này, tuy sản lượng có cao nhưng chất lượng
không đạt chuẩn để xuất khẩu. Tình hình này về lâu dài dẫn đến khó khăn
trong giải quyết đầu ra vì không có thị trường xuất khẩu và dĩ nhiên việc nông
dân bị tư thương ép giá là không tránh khỏi.
Nông dân ĐBSCL nổi tiếng có tính năng động, sáng tạo, nhưng sáng
tạo không có nghĩa là tùy tiện, thiếu cân nhắc vì trong thời gian qua một số
nông dân có “sáng kiến” trong việc bón xi măng cho ruộng lúa nhằm tăng
năng suất! Năng suất không rõ có tăng hay không nhưng đất đai bị thoái hóa
và ô nhiễm là điều không tránh khỏi, hơn nữa việc làm này hoàn toàn đi
ngược lại tiêu chí 13 [Phụ lục 1].
Tính tự phát, tùy tiện ở nông dân ĐBSCL lại khơi nguồn cho thói hám
lợi vụn vặt, chỉ thấy cái lợi nhỏ bé trước mắt mà không thấy cái hại to lớn về
lâu dài. Trong vài năm gần đây, ở ĐBSCL thường hay xuất hiện các thương
lái “lạ mặt” (thật ra là người Trung Quốc) đến tận các nông hộ để thu mua
những thứ mà theo nông dân mô tả là “không hiểu nổi” và “để làm gì”, nhưng
nông dân với suy nghĩ giản đơn thấy có tiền thì cứ bán bất chấp sự vận động,
tuyên truyền của chính quyền, đoàn thể. Chương trình thời sự trên kênh
truyền hình Quốc phòng Việt Nam phát sóng vào lúc 20 giờ ngày 22/3/2015
đưa tin: ở ĐBSCL, cứ sau khi thu hoạch vụ lúa đông xuân, thì nông dân lại
95
đào lấy lớp đất bề mặt của ruộng đem bán cho những người có nhu cầu san
lấp mặt bằng với giá chỉ 70.000 đồng/3m3, mà không nhận thức được rằng đây
là lớp đất phù sa rất cần thiết cho sự sinh trưởng của cây lúa trong khi lũ
thượng nguồn về ĐBSCL có khuynh hướng ngày càng ít.
3.2.4. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng sông Cửu
Long trong phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trƣờng - Một số thành
tựu và hạn chế
Trong những năm qua, công tác giáo dục và đào tạo ở ĐBSCL đang có
bước chuyển mình đáng kể. Để có được những thành tựu cơ bản rất đáng
khích lệ này là công lao của toàn HTCT nhưng sẽ không công bằng nếu như
không thấy vai trò chủ thể của nông dân được phát huy mạnh mẽ ngay trong
lĩnh vực này. Nói một cách khác, phát huy vai trò chủ thể của nông dân
ĐBSCL trong XDNTM không phải là thực hiện những việc xa vời mà đó
chính là những chuyển biến đáng kể trong nhận thức và hành động của số
đông nông dân ĐBSCL theo chiều hướng tích cực về tầm quan trọng của tri
thức, của việc học - một vấn đề mà phần đông nông dân ĐBSCL trước đây
không mấy quan tâm, coi trọng.
Qua tìm hiểu thực tế, tác giả luận án nhận thấy nông dân ĐBSCL phát
huy tốt vai trò chủ thể của mình trong công tác giáo dục và đào tạo có thể khái
quát trên ba phương diện: đối với bản thân, đối với con cháu và đối với cộng
đồng xã hội. Thứ nhất, đối với bản thân (chủ yếu là các bậc lão nông). Hiện
nay, ở nhiều vùng nông thôn ĐBSCL có nhiều nông dân tuy tuổi đã cao
nhưng vẫn chủ động, tích cực, tự giác đến với “đèn sách” bằng nhiều hình
thức khác nhau mặc dù việc học đối với các nông dân này đôi khi còn khó
khăn, vất vả hơn nhiều so với việc cày cuốc không còn là chuyện lạ. Với ý chí
và nghị lực bền bỉ, nhiều nông dân khắc phục khó khăn, từng bước tiếp cận tri
thức bằng cách của riêng mình như học từ báo đài, từ các buổi khuyến nông
khuyến ngư do cán bộ nông nghiệp hướng dẫn, từ các cuộc hội thảo đầu bờ,…
96
để vận dụng những kiến thức vào thực tế sản xuất. Trong nhiều trường hợp
(Tiền Giang, Bến Tre, An Giang,…), có những nông dân tuy lớn tuổi nhưng
quyết tâm theo đuổi việc học và đã đạt được những thành tích như tốt nghiệp
THPT, trúng tuyển đại học ở độ tuổi “thất thập cổ lai hy” rất đáng trân trọng
và là tấm gương mẫu mực cho con cháu noi theo. Thứ hai, đối với con cháu.
Nhiều nông dân tuy cuộc sống còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, vất vả, thiếu
trước hụt sau, phải đi làm thuê hoặc vay tiền để có điều kiện cho con cháu
được đến trường và không ngừng động viên con cháu cố gắng học tập tốt vì
ngày mai tươi sáng. Thứ ba, đối với cộng đồng và xã hội. Nông dân phát huy
vai trò chủ thể của mình trong công tác giáo dục và đào tạo bằng nhiều cách
khác nhau tùy vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của mình, phổ biến nhất đó là
phong trào nông dân tự nguyện hiến đất xây trường học (điển hình như nông
dân Nguyễn Thanh Hải, ấp 2B, xã Phong Thạnh Tây, huyện Phước Long, Bạc
Liêu tình nguyện hiến hơn 1ha đất; nông dân Thạch Ua, ấp 4, xã Phong Phú,
huyện Cầu Kè, Trà Vinh tuy cuộc sống gia đình rất khó khăn nhưng tự
nguyện hiến 1500 m2 đất…); nông dân tự nguyện hằng ngày đưa đón học sinh
đi học bằng đò ngang; chủ động thành lập các hội khuyến học, khuyến tài
thông qua đóng góp tiền của để có nguồn lực hỗ trợ, giúp đỡ học sinh, nhất là
học sinh nghèo vượt khó.
Ngay từ những ngày đầu khi đến định cư khai phá vùng đất này trong
điều kiện tự nhiên vô cùng khó khăn, khắc nghiệt và thiếu thốn trăm bề,
nhưng những lưu dân người Việt cùng với người Khmer, người Hoa, mà thực
chất là nông dân, đã có ý thức trong việc phải gắn kết với nhau chặt chẽ để
vượt qua những thử thách đầy cam go đang đặt ra trước mắt. Từ đó, hình
thành nên tính cách hào hiệp, trọng nghĩa, khinh tài, sẵn sàng giúp đỡ, chia sẻ
nhau khi khó khăn hoạn nạn, hỗ trợ nhau trong lao động sản xuất. Tính cố kết
cộng đồng đã tạo cho họ sức mạnh vươn lên làm chủ thiên nhiên trong cuộc
đấu tranh sinh tồn để tạo nên vùng đất trù phú, bạt ngàn như ngày hôm nay.
97
Ngày nay, tình đoàn kết, nghĩa đồng bào của nông dân ĐBSCL về căn
bản vẫn đang được tiếp tục khơi dậy và phát huy. Nhiều mô hình, cách làm
hay về việc chia sẻ, hỗ trợ nhau trong nông dân thông qua cầu nối của các
đoàn thể đang tiếp tục được lan tỏa. Kênh truyền hình VTV9 trong chương
trình “Sáng phương Nam” ngày 03/3/2016 phát phóng sự “Bếp ăn từ thiện,
bếp của yêu thương”. Đây là hoạt động đã tồn tại 24 năm với 250 thành viên
đều là nông dân. Mặc dù các thành viên đều bận rộn với công việc nhà nông,
nhưng với tinh thần tương thân tương ái đã góp công sức và tiền của để mỗi
ngày cung cấp hơn 3000 suất cơm và nước đun sôi hoàn toàn miễn phí cho
bệnh nhân nghèo tại các bệnh viện ở Cần Thơ. Tương tự, mô hình “Cây nhân
đạo” ở xã Hòa Tân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh bằng cách các hộ nông dân
trích ra một cây ăn quả tốt nhất trong vườn nhà mình mà nguồn thu hoạch từ
nó được góp vào quỹ của hội Nông dân xã để hỗ trợ cho các đối tượng người
nghèo có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn hay cứu trợ khẩn cấp cho các trường
hợp gặp thiên tai, hỏa hoạn,... Ở Bến Tre, nhiều nông dân xã Vang Qưới
Đông, huyện Bình Đại bằng tinh thần thiện nguyện đã tự giác thành lập đội xe
máy cấp cứu người bệnh. Một diễn biến khác nhưng có quy mô lớn hơn, đó là
việc nông dân các xã trên các địa bàn huyện Châu Phú, huyện Tân Châu thuộc
tỉnh An Giang chủ động, tự nguyện, tự giác đóng góp tiền mua xe cứu thương
và trực tiếp quản lý, điều hành để kịp thời đưa bà con nông dân đến các cơ sở
y tế khi bị ốm đau bệnh tật. Đây là những nghĩa cử nhân ái bình dị nhưng cao
đẹp đang tỏa sáng giữa đời thường không chỉ ở An Giang mà còn ở các tỉnh
khác trong khu vực.
Những thành tựu về phong trào toàn dân xây dựng đời sống văn hóa
cũng như bảo tồn và phát huy những nét văn hóa độc đáo của vùng ĐBSCL
không thể thiếu vai trò của nông dân. Ở nhiều nơi trên địa bàn ĐBSCL, nông
dân chủ động thành lập các câu lạc bộ đờn ca tài tử, xem đó là món ăn tinh
thần không thể thiếu đối với người nông dân. Chính nông dân là người nuôi
98
dưỡng, giữ gìn và phát huy loại hình nghệ thuật độc đáo này, làm cho nó
không những được bảo tồn mà còn không ngừng phát triển mạnh mẽ, góp
phần phổ biến và lan tỏa đến các vùng miền trong cả nước.
Các hoạt động lễ hội, tín ngưỡng, tôn giáo của cộng đồng người Kinh,
Khmer, Hoa, Chăm gắn với du lịch tâm linh được duy trì và không ngừng mở
rộng, một mặt nó vẫn đảm bảo được bản sắc riêng của từng dân tộc nhưng
đồng thời tạo nên sự giao thoa, thẩm thấu, có sự tiếp biến văn hóa lẫn nhau,
tạo nên tính thống nhất trong sự đa dạng. Ngày nay, tết cổ truyền của người
Kinh cũng là tết của người Khmer Nam bộ, ngược lại tết cổ truyền của đồng
bào Khmer (tết Chol Chnam Thmay) thì người Kinh cũng tham gia rất nhiệt
tình như một phần văn hóa của chính mình. Lễ hội Ok-Om-Pok là lễ hội của
đồng bào Khmer, trong đó có hoạt động đua ghe Ngo rất sôi nổi, nhưng luôn
có sự tham gia đông đảo, nồng nhiệt của người Kinh, Hoa. Điều này càng
minh chứng cho tinh thần đoàn kết của các cộng đồng dân tộc trên địa bàn.
Điều cần nhấn mạnh rằng các giá trị văn hóa được hình thành và phát
triển không thuần túy từ yếu tố tinh thần, mà suy cho cùng, nó được hình
thành ngay trong hoạt động thực tiễn, nhất là hoạt động sản xuất vật chất. Từ
hoạt động sản xuất, nông dân ĐBSCL chủ động kết hợp làm du lịch một mặt
làm gia tăng nguồn thu nhập, mặt khác góp phần bảo tồn và phát triển bản sắc
văn hóa vùng. Một là, sản xuất gắn với du lịch sinh thái, du lịch miệt vườn
thông qua mô hình homestay. Du khách đến thăm quan, sinh hoạt và cùng trải
nghiệm với nông dân bằng những hoạt động hoàn toàn tự nhiên, chân thực
như ban ngày vào rừng tràm lấy mật ong, đêm về đi bắt ba khía vùng ven biển
như Cà Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu; thăm quan việc chăm sóc vườn cây ăn
trái, trồng hoa cây cảnh, trồng sen với các địa danh nổi tiếng như Chợ Lách
(Bến Tre), Phong Điền (Cần Thơ), Cái Bè (Tiền Giang), Sa Đéc (Đồng
Tháp)... Hai là, sản xuất gắn với thăm quan từ hơn 250 làng nghề truyền
thống rất đa dạng, phong phú ở khắp các tỉnh thành trong khu vực.
99
Do đặc thù sông nước gắn với nền sản xuất nông nghiệp qua bao đời
mà hình thành nên nét sinh hoạt trên bến dưới thuyền rất nhộn nhịp với các
chợ nổi trên sông tiêu biểu như chợ nổi Cái Răng (Cần Thơ), Cái Bè (Tiền
Giang), Phụng Hiệp (Hậu Giang), Châu Đốc (An Giang), Trà Ôn (Vĩnh
Long),… Đây không chỉ là nơi hội tụ các phương tiện ghe, xuồng của nông
dân trong việc giao thương buôn bán các sản phẩm nông nghiệp mà đây còn
là những điểm du lịch đặc sắc có một không hai vì không phải vùng miền nào
ở nước ta cũng có được. Riêng chợ nổi Cái Răng đã được Bộ Văn hóa, Thể
thao và Du lịch công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia (3/2016).
Trong hoạt động xã hội, công tác vận động quần chúng của cán bộ đảng
viên về XDNTM là cần thiết, nhưng đôi khi nông dân chủ động đứng ra làm
công tác tuyên truyền, vận động trong nội bộ dân cư nông thôn về chủ trương,
chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước trên các lĩnh vực nhất là về
XDNTM còn tốt hơn. Khi nông dân chủ động làm công tác tuyên truyền, vận
động, thuyết phục thì góc độ tiếp cận có một sự khác biệt nhất định so với cán
bộ trong HTCT làm công tác dân vận. Bởi lẽ, khi nông dân tham gia vào công
việc này là trên cơ sở của mối quan hệ giữa nông dân với nhau, trong đó có sự
chi phối bởi yếu tố tình làng nghĩa xóm và thậm chí là mối quan hệ bà con
thân tộc. Đặc biệt, bằng sức mạnh cộng đồng, từ tâm huyết của những nông
dân tiến bộ, gương mẫu, nhất là vai trò của những người có uy tín trong cộng
đồng, tự nguyện trở thành tuyên truyền viên góp phần đấu tranh, gây sức ép
đối với những cá nhân hay hộ gia đình có tính cá biệt vì lợi ích ích kỷ, nhỏ
nhen không vì cái chung, quên đi lợi ích của cộng đồng. Qua quá trình kiên trì
vận động, thuyết phục, từng lúc các hộ dân thay đổi nhận thức và hành vi để
có sự đồng thuận vì lợi ích chung. Điều này cho thấy, việc nông dân làm công
tác “Dân vận” đang tỏ ra rất hiệu quả.
Trong sản xuất nông nghiệp, nông dân ĐBSCL từng bước nhận thức
được tầm quan trọng của yếu tố môi trường nên ngày càng tham gia tích cực
100
các mô hình và phong trào sản xuất sạch như “ba giảm, ba tăng” (giảm lượng
giống gieo sạ, giảm lượng thuốc trừ sâu, giảm lượng phân đạm bón lúa; tăng
năng suất lúa, tăng chất lượng gạo, tăng hiệu quả kinh tế), “một phải, năm
giảm” (phải sử dụng giống có xác nhận; giảm giống, giảm nông dược, giảm
phân đạm, giảm nước tưới, giảm thất thoát sau thu hoạch) và hiện nay có
thêm “một giảm” đó là giảm khí phát thải gây hiệu ứng nhà kính trong canh
tác lúa trên cánh đồng lớn. Mô hình “Ruộng lúa - bờ hoa” tức mô hình “Công
nghệ sinh thái quản lý rầy nâu và bệnh virus trên cây lúa” đạt hiệu quả cao
tiêu biểu ở tỉnh Tiền Giang với diện tích hơn 1000 ha. Hình thức của mô hình
khá đơn giản. Theo đó, nông dân trồng thêm hoa dại trên bờ ruộng để hấp thu
và dẫn dụ thiên địch về sinh sống, trú ngụ nhằm đa dạng hóa thành phần thiên
địch có ích, khống chế các loài côn trùng gây hại đặc biệt là rầy nâu. Áp dụng
mô hình này không chỉ làm đẹp cảnh quan đồng ruộng mà điều quan trọng
hơn là sau mỗi vụ lúa nông dân giảm được chi phí cho thuốc trừ sâu, giống
lúa, công chăm sóc trung bình từ 2 - 2,5 triệu đồng/ha.
Những năm gần đây, nông dân ĐBSCL ngày càng ý thức được tầm
quan trọng của việc sử dụng nguồn nước sạch hợp vệ sinh đối với sức khỏe
của cộng đồng. Cho nên, nông dân đã chủ động tham gia thực hiện các mô
hình nước sạch hợp vệ sinh như xã hội hóa (nông dân góp vốn) xây dựng các
nhà máy nước mi ni, sử dụng clopheniraminB. Nhiều mô hình nông dân tự
đầu tư xây dựng các công trình nước sạch và hình thành nên các tổ hợp tác,
thậm chí nâng lên quy mô cao hơn như HTX “Nước sạch - vệ sinh môi
trường nông thôn” hoạt động rất hiệu quả ở xã Ngũ Hiệp huyện Cai Lậy, xã
Tân Điền huyện Gò Công Đông của tỉnh Tiền Giang. Hiện nay, trước tình
hình hạn mặn diễn ra gay gắt nhất là đối với các tỉnh ven biển, nông dân chủ
động trích trữ nước mưa, nước ngọt bằng mọi phương tiện có được, bằng mọi
biện pháp có thể. Hoạt động này đang trở thành phong trào và có sức lan tỏa
mạnh mẽ trong cộng đồng dân cư nông thôn.
101
Có rất nhiều phong trào của nông dân ĐBSCL chung tay bảo vệ và xây
dựng cảnh quan môi trường xanh, sạch, đẹp gắn với đặc thù của miền quê
sông nước như phong trào “năm không, ba sạch” (sạch ngõ, sạch nhà, sạch
bếp) của phụ nữ, trong đó đáng chú ý là mô hình “Bếp ít khói” ở tỉnh Long
An. Phong trào xây hầm khí sinh học Biogas, nuôi heo trên đệm lót từ chế
phẩm sinh học (hỗn hợp từ trấu, mùn cưa, men vi sinh Balasa) đang được
nông dân ĐBSCL (tiêu biểu ở huyện Mỏ Cày Nam, Bến Tre) áp dụng rộng rãi
vì tiết kiệm được nhiều chi phí về điện, nước và công lao động. Hoạt động thu
gom và phân loại rác thải tại nhà, đáng chú ý là việc đồng bào dân tộc Khmer
từng bước không còn nuôi gia súc (trâu bò) ngay trong nhà là một điều đáng
trân trọng. Mô hình tự giác thu gom chất thải trong sản xuất nông nghiệp qua
việc lắp đặt các thùng rác, lu chứa rác tại các cánh đồng tiêu biểu ở xã Phú
Cường, huyện Tam Nông, tỉnh Đồng Tháp hay xã Tân Long, huyện Mang
Thít, tỉnh Vĩnh Long. Ở Bến Tre, việc nông dân chủ động quay phim, chụp
hình các phương tiện khai thác cát trái phép trên sông làm bằng chứng giúp
các cơ quan chức năng xử phạt càng cho thấy nhân dân luôn là tay mắt của
chính quyền. Tất cả các mô hình trên, mặc dù mang tính tự phát do nông dân
nghĩ ra, nhưng là những cách làm hay, có tính sáng tạo đang phổ biến rộng rãi
trong cộng đồng dân cư nông thôn ĐBSCL.
Tuy nhiên, việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL lĩnh vực
văn hóa - xã hội - môi trường trên thực tế vẫn còn rất nhiều những hạn chế
cần được khắc phục.
Trước hết, vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong giáo dục và đào
tạo hiện nay vẫn chưa được phát huy thật tốt. Có một sự thật cần phải khẳng
định rằng nếu nông dân Đồng bằng Bắc bộ, Bắc Trung bộ dù cuộc sống kinh
tế có khó khăn đến mấy, nhưng luôn quyết tâm cho con em ăn học đến nơi
đến chốn thì ngược lại, phần nhiều nông dân ĐBSCL có tâm lý không bắt
buộc con em mình học cao, thậm chí phải nghỉ học sớm để phụ giúp gia đình
102
mưu sinh kiếm sống. Điều này được minh chứng qua tỷ lệ lao động (từ 15
tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế) đã qua đào tạo xuyên suốt từ năm
2008 đến năm 2013 ở ĐBSCL là thấp nhất so với tất cả các vùng trong cả
nước. Cụ thể hơn, qua số liệu thống kê rất đáng để suy ngẫm, cũng là khu vực
đồng bằng nhưng tỷ lệ này ở ĐBSCL chưa bằng một nửa so với ĐBSH, trong
khi đó tỷ lệ lao động thiếu việc làm lại cao nhất nước và gần gấp đôi ĐBSH
[Bảng 3.3 và 3.4].
Phát triển một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH là dịp
đem đến những vận hội mới cho người nông dân có điều kiện nâng cao thu
nhập, cải thiện cuộc sống. Đặc biệt là, khi kết cấu hạ tầng KT - XH nông thôn
vùng ĐBSCL được đầu tư phát triển góp phần rút ngắn khoản cách với các khu
vực khác trong cả nước. Nhờ thế nông dân ĐBSCL có nhiều cơ hội thoát khỏi
trạng thái trì trệ, lạc hậu hướng đến giao lưu hội nhập, tiếp cận các yếu tố văn
minh hiện đại và hưởng thụ các phúc lợi xã hội. Thế nhưng, từ đây những vấn
đề về văn hóa, xã hội diễn biến theo chiều hướng tiêu cực, thậm chí trước đây
chưa từng có, gây nên những tác động xấu mà bản thân nông dân là người trực
tiếp chịu ảnh hưởng nặng nề nhất cũng đồng thời nảy sinh. Điều dễ nhận thấy ở
nông thôn ĐBSCL hiện nay đó là nhiều yếu tố văn hóa truyền thống đang có
dấu hiệu mai một từ những trò chơi dân gian của trẻ con đến những điệu ru lời
ca của những người mẹ người bà, hay các món ăn thức uống dân dã đồng quê
mà nhà nào cũng có thể làm được,... gần như tất cả được thay vào đó bằng các
trò chơi game online, là băng đĩa nhạc CD, là thức ăn nhanh mua ở chợ hay ở
các cửa hàng, cửa hiệu.
Ngày nay, dưới áp lực của nền kinh tế thị trường thì những toan tính
vụn vặt, thói ích kỷ, tính tư hữu và hám lợi của người nông dân lại có cơ hội
trỗi dậy thay cho tình làng nghĩa xóm, tương thân tương ái vốn từ lâu đã trở
thành văn hóa ứng xử trong cộng đồng dân cư nông thôn. Ở ĐBSCL, đang tồn
tại nhiều mâu thuẫn đan xen khó có thể tháo gỡ, giải quyết được. Những xung
103
đột, mâu thuẫn trong sản xuất như tranh chấp về nguồn nước phục vụ sản xuất
giữa người nuôi tôm cần nước mặn với người trồng lúa cần nước ngọt, giữa
người nuôi tôm với những người nuôi sò huyết và nuôi nghiêu vùng ven biển.
Đó còn là việc tranh chấp đất bãi bồi ở các cồn trên sông đến tranh chấp ranh
đất và cả lối đi chung. Đây là điều hiếm có trong những năm trước đây, nhưng
nay trở nên phổ biến và đang gây áp lực cho chính quyền địa phương và các
đoàn thể trong công tác hòa giải. Cũng vì tranh giành, quyết không nhường
nhịn mà làm cho mối quan hệ tình cảm xóm giềng, kể cả ngay trong gia đình
dòng họ bị xói mòn, rạn nứt, đôi khi khó có thể hàn gắn. Sự việc sáu người
anh chị ruột khỏe mạnh kiện người em út là Phạm Thanh Tùng ở thị trấn
Minh Lương, huyện Châu Thành, Kiên Giang bị tật nguyền (do chất độc màu
da cam, mất 85% sức khỏe) ra tòa chỉ vì người em út được mẹ để lại di chúc
thừa hưởng tài sản, trong khi những người anh chị này cũng đã được mẹ chia
tài sản rồi. Cũng ở Kiên Giang, vợ chồng người em Danh Thanh Phương và
Võ Thị Thu Nga đánh chết vợ chồng người anh Danh Thanh Hậu và Danh
Thị Na ở xã Mỹ Hiệp Sơn, huyện Hòn Đất ngày 29/9/2014 là một minh chứng
cho sự xuống cấp về văn hóa và đạo đức trong một bộ phận nông dân ĐBSCL
có liên quan đến đất đai.
Cùng với đó, việc một bộ phận nông dân chưa chăm chỉ trong lao động,
sa vào rượu chè và cờ bạc cũng là vấn đề xã hội đáng quan tâm. Thực trạng
này đang góp phần làm cho tỷ lệ hộ nghèo của toàn vùng ĐBSCL, tuy có
giảm theo từng năm, vẫn còn cao ở mức 9,2% năm 2013 (trong khi tỷ lệ này ở
ĐBSH chỉ là 4,9% [124, tr.739,741]) và chưa bền vững. Nguy cơ tái nghèo ở
bộ phận nông dân này là khó tránh khỏi. Cho nên, thực hiện việc giảm nghèo
ở vùng ĐBSCL xem ra là cả một quá trình lâu dài, không đơn giản một khi
chưa thay đổi tận gốc rễ nguyên nhân của nó.
Nghèo khó, lười biếng và rượu chè một khi kết hợp với nhau làm cho
bạo hành gia đình và những hệ lụy khác gia tăng như trường hợp Phạm Văn
104
Xuyên, xã Phước Tuy, huyện Cần Đước, tỉnh Long An do say rượu đã trói và
đánh con trai 12 tuổi dẫn đến tử vong vào ngày 27/11/2015. Điều này cũng lý
giải vì sao ở ĐBSCL có đến 5729 số vụ ly hôn đã xét xử vào năm 2013 cao
nhất so với các vùng khác trong cả nước [124, tr.108] và bình đẳng giới ở
ĐBSCL vẫn là câu chuyện dài chưa biết khi nào sẽ đạt được.
Sự nghiệp XDNTM đòi hỏi phải huy động bằng được toàn bộ sức dân
tham gia. Trong khi đó, hiện nay nội bộ nông dân ĐBSCL đang có hiện tượng
chia rẽ, phân hóa và mất đoàn kết làm hạn chế sức mạnh vốn có của nông
dân. Hiện tượng trên đây, nhìn toàn cục, tuy chưa phải là phổ biến rộng khắp,
tính chất và mức độ cũng chưa đến mức tạo thành các điểm nóng xã hội, làm
phá vỡ khối đại đoàn kết toàn dân, nhưng đây cũng là điều đáng quan ngại,
sớm cần có những hướng xử lý với cả một hệ thống các giải pháp đồng bộ.
Trong mối quan hệ với môi trường sinh thái, nhìn chung nông dân là
chủ thể trực tiếp bảo vệ, luôn gắn bó hài hòa, thân thiện với thiên nhiên vì đây
là không gian sinh tồn của dân cư nông thôn, từ thiên nhiên hoang sơ đó đã
ban tặng cho nông dân những sản vật có sẵn phong phú và đa dạng. Việc
nông dân vùng ĐBSCL từng lúc thay đổi nhận thức và hành vi trong bảo vệ
môi trường sống rất đáng trân trọng.
Tuy nhiên, do lối sản xuất và tập quán sinh hoạt không phù hợp của
một bộ phận nông dân ĐBSCL đã làm cho họ vô tình trở thành kẻ thù của
thiên nhiên, đang là tác nhân tàn phá gây biến đổi hệ sinh thái nghiêm trọng.
Trong nhiều trường hợp, nông dân có đủ nhận thức để hiểu được việc làm của
mình là không phù hợp nhưng trên thực tế hành vi tàn phá môi trường thì vẫn
cứ diễn ra. Ở ĐBSCL, nhiều loài động thực vật đang bị xâm hại, điển hình
như nạn đánh bắt cá non theo kiểu tận diệt bằng nhiều hình thức khác nhau
làm cho nguồn lợi thủy sản trong tự nhiên bị sụt giảm mạnh, ngày càng khan
hiếm. Ngày nay, tôm cá chủ yếu cũng phải do nuôi mà có. Việc nông dân tự ý
chặt phá rừng phòng hộ ven biển để làm than hay xâm lấn đất rừng để nuôi
105
tôm đang diễn ra trên hầu hết các tỉnh ven biển dẫn đến sạt lở, xâm thực
mạnh. Mặc dù chính quyền địa phương các tỉnh ĐBSCL quan tâm công tác
tuyên truyền, vận động xây nhà vệ sinh đạt chuẩn, nhưng tỷ lệ hộ dùng hố xí
hợp vệ sinh ở nông thôn ĐBSCL thấp nhất nước chỉ ở mức 53,3%, trong khi
tỷ lệ này ở ĐBSH là 91,4% [124, tr.747]. Hay như ở tiêu chí 17 về môi trường
trong đó có việc xây nghĩa trang tập trung tại xã sẽ rất khó thực hiện do tập
quán an táng của người dân vùng ĐBSCL nói chung, đặc biệt ở Bến Tre nói
riêng, là chôn rải rác ở đất nhà mà như thế vừa lãng phí đất đai vừa ảnh hưởng
xấu đến cảnh quan nông thôn vì đi đến đâu cũng thấy mồ mả.
Tại Diễn đàn hợp tác kinh tế ĐBSCL (MDEC) năm 2014 tổ chức tại
Sóc Trăng, các nhà quản lý, các nhà khoa học đã thống kê có hơn 96% nông
dân sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá mức cho phép so với hướng dẫn sử
dụng trên chai nhãn (hàng năm, toàn vùng ĐBSCL sử dụng khoảng 100.000
tấn thuốc bảo vệ thực vật, trong khi theo các nhà khoa học chỉ cần một nửa là
đủ); gần 95% nông dân đổ các hóa chất dư thừa vào các rảnh, mương hoặc
phun vào các loại cây trồng khác; ước tính có khoảng 21/26 triệu tấn rơm rạ
bị đốt bỏ bởi tập quán đốt đồng góp phần gây ra phát thải khí nhà kính.
Những việc làm này đang tạo nên các tác động tiêu cực rất lớn đến nền sản
xuất xanh và bền vững, một xu thế mà thế giới đang hướng đến. Việc sản xuất
theo hướng GAP, VietGAP, GlobalGAP được nói nhiều, nhưng trên thực tế
không được nông dân thực hiện bao nhiêu. Những khi dịch cúm gia cầm bùng
phát, nhiều nông dân vô tư vứt xác gia cầm xuống sông rạch, điều này không
những gây ô nhiễm môi trường mà còn làm cho tình trạng lây lan dịch bệnh
càng thêm nghiêm trọng. Chưa kể nông dân ĐBSCL vẫn còn thói quen lạm
dụng nguồn nước tưới mà lẽ ra cần phải hết sức tiết kiệm trong điều kiện tình
hình hạn mặn ngày một phổ biến. Thực trạng này cho thấy không phải tất cả
nông dân thực sự chủ động, quyết liệt thay đổi nhận thức, đổi mới tư duy, đổi
106
mới cách làm từ chỗ “sống chung với lũ” như trước đây sang “sống chung với
hạn mặn” do biến đổi khí hậu như hiện nay.
3.2.5. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng sông Cửu
Long trong tham gia xây dựng hệ thống chính trị và giữ vững trật tự xã
hội, an ninh nông thôn - Một số thành tựu và hạn chế
Giống như HTCT các cấp bên trên, HTCT cơ sở bao gồm Đảng, chính
quyền và Mặt trận Tổ quốc cùng các đoàn thể. Tuy nhiên, HTCT cơ sở có nét
đặc thù đó là đơn vị gắn bó trực tiếp với nhân dân. Cụ thể: trực tiếp đưa chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đến nhân
dân; đồng thời, HTCT cơ sở trực tiếp nắm bắt, giải quyết tâm tư, tình cảm,
nguyện vọng của nhân dân theo thẩm quyền. Như vậy, thực hiện chủ trương
XDNTM ở ĐBSCL, trước hết HTCT cơ sở phải là đầu mối trong công tác
tuyên truyền, phổ biến đến dân cư nông thôn. Mặt khác, HTCT cơ sở cũng
đóng vai trò là một lực lượng (chủ thể) cùng tham gia vào phong trào
XDNTM tại địa phương của mình. Điều quan trọng hơn, HTCT cơ sở (thực
chất là cán bộ, đảng viên) trong mối quan hệ với nhân dân chung tay XDNTM
phải thể hiện tinh thần trách nhiệm, đề cao tính gương mẫu, trung thực trước
nhân dân, phải luôn quán triệt tinh thần “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô
tư” theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Muốn làm được điều này, phải tiếp
tục thực hiện tốt dân chủ cơ sở.
Quy chế dân chủ cơ sở “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” cùng
với đó là Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn trong những năm
gần đây không phải là những khẩu hiệu suông, mà thực tế đã đi vào cuộc sống
ở các địa phương vùng ĐBSCL. Kết quả của việc phát huy dân chủ ngày một
tốt hơn không chỉ là sự phấn đấu, nỗ lực của riêng HTCT ở cơ sở mà chính
việc thay đổi nhận thức và năng lực thực hành dân chủ của nông dân đang
từng bước được nâng lên mới là điều đáng ghi nhận. Xuất phát từ chỗ mặt
bằng dân trí được nâng cao cùng với đó là sự phát triển, tiến bộ của xã hội nói
107
chung đã giúp cho nông dân ĐBSCL thấy rõ hơn quyền lực của mình trong
mối quan hệ với chính quyền cơ sở. Thái độ e dè, sợ sệt của nông dân đối với
chính quyền như những năm trước đây dần được thay thế cho tâm lý của
người thực sự là chủ, làm chủ. Ở nông thôn ĐBSCL ngày nay, việc cán bộ,
công chức chính quyền cấp xã có hành vi quan liêu, tham nhũng xem ra khó
qua tai mắt người dân hay như thái độ hách dịch, cửa quyền, ức hiếp nhân dân
là chuyện không dễ.
Qua quá trình thâm nhập nghiên cứu thực tế tại nhiều địa phương ở
ĐBSCL, tác giả luận án nhận thấy đối với HTCT ở các địa phương đạt danh
hiệu trong sạch, vững mạnh toàn diện là do: thứ nhất, cán bộ, đảng viên cơ sở
nhìn chung có thực hiện tốt phương châm “Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân
dân”. Một khi làm tốt vai trò là công bộc của dân thì dĩ nhiên mức độ tín
nhiệm, sự hài lòng của người dân đối với chính quyền cơ sở từng lúc được
nâng lên. Thứ hai, ở các địa phương này quy chế dân chủ cơ sở đều được thực
hiện tốt. Chính HTCT cơ sở thực hiện được hai điều này đã tạo động lực cho
từng chủ thể nông dân khẳng định được quyền lực của mình mà ra sức phát
huy. Theo đó, nông dân chủ động biết (tiếp cận thông tin), chủ động bàn (trao
đổi, thảo luận), chủ động làm và chủ động trong kiểm tra, giám sát. Điều này
thể hiện rõ trong xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH. Chính sự tương tác hai
chiều này làm cho mối quan hệ giữa người dân và HTCT ngày càng trở nên
khăng khít. Trong điều kiện như thế, HTCT cơ sở không thể không đạt trong
sạch, vững mạnh toàn diện.
Trong phong trào đấu tranh phòng chống TNXH, giữ vững an ninh trật
tự, an ninh nông thôn, nông dân ĐBSCL có nhiều đóng góp quan trọng và
thực sự đóng vai trò là những chiến sỹ tiên phong. Các phong trào của nông
dân hiện diện ở khắp các địa bàn nông thôn ĐBSCL với các mô hình tiêu biểu
như: “Tiếng mõ an ninh”, phong trào “Tứ trụ” (tỉnh Bến Tre), “Trong nhà có
mõ, ngoài ngõ có đèn” (xã Hàm Tân, huyện Trà Cú, tỉnh Trà Vinh), cổng rào
108
an ninh tự phòng tự quản, tổ tự quản dòng tộc về an ninh trật tự trong đồng
bào Khmer, xóm đạo bình yên, đội xe ôm xung kích (thị trấn Giồng Riềng,
huyện Giồng Riềng, tỉnh Kiên Giang),... Cái hay và hiệu quả của việc nông
dân chủ động thiết lập được các mô hình này là khi triển khai trên thực tế đã
tạo nên thế trận liên hoàn, khép kín trên từng địa bàn nông thôn, góp phần
đáng kể trong việc đảm bảo an ninh trật tự và nhất là kéo giảm nạn trộm cắp
vì với thế trận này tội phạm từ nơi khác đến gây án khó có đường tẩu thoát.
Riêng đối với nông dân địa phương, nhất là những thanh thiếu niên chậm tiến,
một khi có những hành vi không phù hợp, thiếu chuẩn mực, gây ảnh hưởng
xấu đến an ninh trật tự và an toàn xã hội đều được nông dân kiên quyết và
kiên trì tuyên truyền giáo dục cũng như đưa ra phê bình, góp ý, kiểm điểm
trước dân.
Hiện nay, việc xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, an ninh nhân
dân ở ĐBSCL còn gặp nhiều khó khăn. Trong đó đáng chú ý các địa bàn nông
thôn trọng yếu như vùng dọc tuyến biên giới đất liền với Campuchia nơi tập
trung nhiều điểm nóng về buôn lậu; địa bàn ven biển nơi phát triển mạnh nghề
đánh bắt nuôi thủy hải sản nhưng đồng thời đang phát sinh nhiều tụ điểm ăn
chơi và TNXH; vùng có đông đồng bào Khmer sinh sống là đối tượng dễ bị
các lực lượng thù địch kích động, xúi giục tiến hành biểu tình, bạo loạn hình
thành điểm nóng chính trị liên quan đến vấn đề dân tộc, dân chủ, nhân quyền.
Tuy nhiên, bằng việc phát huy tốt sức mạnh quần chúng nhân dân bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới với phương châm “biên giới bình yên, nội biên vững
mạnh” nên tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại các địa bàn
xung yếu từng bước ổn định và chuyển biến tích cực. Đến nay, nhiều mô hình
nông dân tham gia bảo vệ tuyến biên giới, với nhiều cách làm sáng tạo, hiệu
quả như: “Thanh niên xung kích bảo vệ đường biên”, “Tổ tự quản đường biên,
cột mốc”, “Tiếng kẻng vùng biên”, “Thắp sáng đường biên”, “Lực lượng quần
109
chúng nữ trong đồng bào dân tộc Khmer trong xử lý tình huống gây rối, bạo
loạn” (mô hình của Hội phụ nữ huyện Tịnh Biên và Tri Tôn tỉnh An Giang),...
Thực tế cho thấy, vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL tích cực tham
gia đấu tranh phòng chống TNXH, giữ vững trật tự xã hội và an ninh nông
thôn là to lớn. Thế nhưng, điều đáng quan tâm là những TNXH hay sự mất ổn
định về trật tự trị an đang diễn ra ngày càng nhiều trên địa bàn nông thôn
ĐBSCL như là mặt đối lập tất yếu song hành. Điều này không hẳn do các
nhân tố khách quan tác động mà đó lại do nông dân tạo nên. Có thể khái quát
trên một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nông dân chưa thể tự giác từ bỏ và cũng rất khó từ bỏ các
TNXH đã tồn tại lâu dài từ trước đến nay như: rượu chè, đá gà, đánh bài, số
đề, mê tín, bạo hành gia đình,... Những TNXH này ăn sâu vào tâm thức của
một bộ phận nông dân tạo nên sự chai ì, bất chấp mọi sự biến đổi và phát triển
của xã hội cũng như sự kỳ thị của cộng đồng dân cư nông thôn tiến bộ. Các tệ
nạn này, trên thực tế, không mất đi thậm chí có chiều hướng gia tăng.
Thứ hai, các TNXH mới xuất hiện được du nhập từ thành thị về nông
thôn như: ma túy, mại dâm, game bắn cá,... ngày một nhiều, có chiều hướng
diễn biến phức tạp, tác động chủ yếu vào đối tượng thanh thiếu niên. Tình
hình thanh thiếu niên bỏ học, kéo bè cánh, thành lập băng nhóm quậy phá,
gây rối trật tự, thanh toán lẫn nhau thậm chí tiến hành cướp giật trên địa bàn
nông thôn ĐBSCL hiện nay là rất đáng lo ngại. Vụ 30 thanh thiếu niên thị xã
Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng dùng hung khí tấn công người khác dù mâu thuẫn
rất nhỏ, vụn vặt vào tháng 2/2012 hay như sự kiện hai thanh niên va quẹt xe
với một thanh niên địa phương trên địa bàn huyện Mỏ Cày Bắc, Bến Tre vào
tháng 8/2015 vì không kiềm chế nên một trong hai thanh niên dùng dao để
sẵn trong cốp xe cắt cổ nạn nhân chết tại chỗ gây chấn động và hoang mang
trong dư luận. Nghiêm trọng hơn, số người đến với mại dâm và ma túy ở
nông thôn ngày một nhiều, làm gia tăng tỷ lệ người nhiễm HIV/AIDS. Theo
110
thống kê, số người nhiễm HIV/AIDS và số người chết do AIDS ở ĐBSCL
cao hơn hẳn so với ĐBSH [Bảng 3.1, 3.2].
Thứ ba, những năm gần đây, hoạt động vận chuyển hàng cấm, hàng nhập
lậu ở địa bàn dọc tuyến biên giới các tỉnh Tây Nam Bộ không giảm mà còn có
dấu hiệu gia tăng về số lượng, tính chất ngày một tinh vi, manh động, sẵn sàng
chống trả các cơ quan chức năng. Điều đáng nói ở đây là việc buôn lậu (thuốc
lá, đường, xăng dầu) của các đầu nậu lại có sự tiếp tay đắc lực của một bộ phận
nông dân (chủ yếu từ thanh niên và phụ nữ) nông thôn thông qua vận chuyển
thuê để kiếm sống, thậm chí làm “trinh sát” theo dõi ngược lại các cơ quan chức
năng để kịp thời né tránh khi có những đợt ra quân tuần tra, truy quét. Tình hình
này cho thấy công tác đấu tranh phòng chống buôn lậu vùng biên giới Tây Nam
của các cơ quan chức năng sẽ trở nên đơn độc, hiệu quả thấp, nếu không có sự
tích cực giúp sức của người dân và càng khó khăn hơn nếu như chính người dân
lại chủ động, tự nguyện tiếp tay cho cái xấu và vi phạm pháp luật.
Thứ tư, tình trạng một bộ phận nông dân tham gia tụ tập đông người
khiếu kiện vượt cấp (chủ yếu tập trung vào các vấn đề như tranh chấp đất đai,
xây chợ nông thôn,…) có dấu hiệu gia tăng. Việc người dân tiến hành khiếu
kiện là quyền dân chủ. Do đó, các cơ quan chức năng có thẩm quyền phải tôn
trọng và giải quyết kịp thời nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng của nhân dân.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy đa phần các nội dung khiếu kiện
không phù hợp, không đúng quy trình, thậm chí có một số nông dân bản thân
không liên quan nhưng vẫn can dự vào các sự việc này mà nguyên nhân suy
cho cùng vì hiệu ứng bởi tâm lý đám đông. Điều này góp phần làm cho tình
hình an ninh nông thôn thêm phần diễn biến phức tạp, tạo điều kiện cho các
thế lực thù địch, các phần tử xấu lợi dụng để xuyên tạc, vu cáo, bịa đặt trong
các vấn đề có liên quan. Tất cả tình hình trên ít nhiều đang làm đảo lộn, phá
vỡ cuộc sống của người dân, làm nguy hại đến các giá trị truyền thống văn
hóa tốt đẹp.
111
Nhìn chung, thực hiện chương trình XDNTM ở ĐBSCL tuy còn có
nhiều khó khăn, thách thức nhưng do vai trò chủ thể của nông dân được
phát huy tốt nên những thành tựu đạt được là cơ bản. Theo bản tin thời sự
14 giờ của Đài truyền hình Việt Nam VTV1 ngày 26/10/2015 đưa tin, tính
đến tháng 10/2015, ĐBSCL đã có 136 xã đạt chuẩn NTM, chiếm hơn 10%
tổng số xã toàn vùng. Riêng thị xã Ngã Bảy, tỉnh Hậu Giang được công
nhận là huyện NTM đầu tiên của ĐBSCL tháng 10/2015; huyện Phong
Điền, thành phố Cần Thơ được công nhận là huyện NTM tháng 5/2016.
3.3. NGUYÊN NHÂN CỦA VIỆC PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ CỦA
NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG
CỬU LONG HIỆN NAY
3.3.1. Nguyên nhân của những thành tựu
Thứ nhất, sự quyết tâm của hệ thống chính trị trong việc cổ vũ, động
viên người nông dân phát huy vai trò chủ thể của mình.
Trên cơ sở các chủ trương, Nghị quyết của Đảng về nông nghiệp, nông
thôn và nông dân, đòi hỏi toàn HTCT phải thể hiện tốt trách nhiệm của mình.
Ngay từ khi bắt tay vào XDNTM, cấp uỷ Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể CT - XH các cấp trong toàn vùng ĐBSCL đều được
quán triệt sâu về mục đích, ý nghĩa, nội dung của chương trình XDNTM
để có nhận thức đúng đắn, thông suốt và quyết tâm chính trị cao. Biến quyết
tâm chính trị thành hành động, các địa phương toàn vùng ĐBSCL đều xác
định rõ XDNTM là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của cả HTCT. Trong
XDNTM, nông dân là chủ thể trực tiếp thực hiện. Vì vậy, toàn HTCT đều
có sự cổ vũ, động viên, khích lệ đến từng chủ thể nông dân ra sức phát
huy vai trò của mình thông qua việc lãnh đạo, định hướng, dẫn dắt phong
trào XDNTM của HTCT. Sự thật là, khi nhận được sự động viên, khích lệ
từ HTCT đã giúp cho các chủ thể nông dân càng có thêm sự tin tưởng vào
112
tính hiệu quả của chương trình XDNTM, có thêm chỗ dựa tinh thần vững
chắc mà hăng hái, tích cực phát huy mọi tiềm năng to lớn của mình.
Thứ hai, sự đồng hành và chia sẻ của toàn xã hội đối với nông dân
trong XDNTM.
Đồng hành cùng với nông dân XDNTM ở ĐBSCL có cả một lực
lượng đông đảo các tổ chức và cá nhân: từ sự tham gia của nhiều nhà khoa
học, của cộng đồng doanh nghiệp đến kiều bào là con em nông dân
ĐBSCL đang định cư ở nước ngoài; từ đội ngũ trí thức đến các chức sắc
và tín đồ tôn giáo,... cùng chung tay, góp sức, hỗ trợ, chia sẻ với nông dân
- một lực lượng vốn dĩ luôn chịu nhiều thiệt thòi, rủi ro từ chính trong quá
trình sản xuất cũng như sự khổ cực khi đối diện với thiên tai. Đáng chú ý,
việc thực hiện mối liên kết “Bốn nhà” ngày càng đi vào thực chất, có hiệu quả
càng cho thấy sự quan tâm của xã hội đối với nông dân ĐBSCL 1. Sự tích
cực, nhiệt tình, tâm huyết của cộng đồng xã hội giúp cho mức độ phát huy
vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong XDNTM càng về sau càng trở
nên mạnh mẽ hơn. Bởi lẽ, chính sự đồng hành, chia sẻ của xã hội đối với
nông dân trong XDNTM đã giúp cho nhiều chủ thể nông dân cảm thấy không
đơn độc, ngược lại các chủ thể nông dân cảm thấy như được tiếp thêm sức
mạnh. Chính sự hậu thuẫn này đã giúp cho nhiều chủ thể nông dân có thêm
động lực, khát vọng và nghị lực vươn lên trong cuộc sống không chỉ cho bản
thân mà còn để không phụ lòng tin yêu từ các lực lượng luôn kề vai sát cánh
trong suốt quá trình XDNTM như là một sự tri ân, “trả nợ” với đời - một tính
cách sòng phẳng của nông dân ĐBSCL.
1 Tập đoàn Lộc Trời có cách làm độc đáo khi từ năm 2006 tập đoàn này thành lập phong
trào “Lực lượng 3 cùng” (cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nông dân), được tổ chức Guinness
Việt Nam chính thức công nhận là lực lượng cùng nông dân ra đồng lớn nhất Việt Nam
vào ngày 23/8/2015. Đến nay, đã có 1.325 kỹ sư nông nghiệp tình nguyện tham gia chương
trình này để hỗ trợ nông dân trong suốt quá trình sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả của
chuỗi giá trị sản xuất, đặc biệt trong sản xuất lúa gạo gắn với mô hình cánh đồng lớn.
113
Thứ ba, công tác xây dựng Đảng, dân chủ cơ sở được phát huy là tiền
đề để phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM được tốt hơn.
Điều dễ nhận thấy hiện nay khi vấn đề dân chủ trong XDNTM ở
ĐBSCL được thực hiện tốt chứng minh rằng HTCT nói chung, chính quyền
cơ sở nói riêng có sự tôn trọng người dân, biết cầu thị lắng nghe ý kiến, thấu
hiểu nguyện vọng chính đáng của dân và làm mọi việc là để chăm lo lợi ích
của dân, nếu có mắc khuyết điểm thì không ngại sửa sai, nhận lỗi trước dân.
Đây là yếu tố tâm lý, tình cảm quan trọng làm cho nông dân cảm nhận mình
được chính quyền đề cao, luôn được lắng nghe, chia sẻ và thấu hiểu, thực sự
đúng với tinh thần “dân là chủ”, “dân làm chủ”. Mặt khác, công tác xây dựng
và chỉnh đốn Đảng được quan tâm, kiện toàn; kiên quyết, kiên trì trong công
tác đấu tranh phòng chống tham nhũng - nhất là tham nhũng vặt, tệ quan liêu,
hách dịch đang đạt được nhiều kết quả tốt đẹp; công tác cải cách hành chính,
cải cách tư pháp, xây dựng thái độ hòa nhã trong giao tiếp, tận tụy trong công
việc của cán bộ công chức với nhân dân được thực hiện tốt,… tất cả đang góp
phần tạo dựng được hình ảnh tích cực, từng bước có được niềm tin và sự yêu
mến từ nhân dân. Những động thái tích cực của HTCT trong công tác xây
dựng Đảng và dân chủ cơ sở là chất xúc tác giúp cho việc phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL ngày một tốt hơn.
Thứ tư, ý thức tự giác trong việc nâng cao trình độ học vấn, năng lực
sản xuất của nông dân ĐBSCL từng bước được khẳng định.
Xét về trình độ học vấn và đào tạo nghề của nông dân ĐBSCL được
xác định còn rất nhiều hạn chế so với mặt bằng chung của cả nước. Chính
điều này ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả XDNTM. Tuy nhiên, có một thực
tế không thể phủ nhận đó là do công tác giáo dục và đào tạo được chú trọng
đang phát huy có hiệu quả nhưng điều có ý nghĩa và đáng trân trọng hơn là do
có nhiều nông dân ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của việc học,
114
của tri thức mà ra sức học tập. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho mặt bằng
dân trí, trình độ học vấn và chuyên môn tay nghề của nông dân đang từng
bước có sự nâng lên đáng kể. Hơn nữa, sự năng động, sáng tạo, nhạy bén vốn
có của nông dân thông qua các sáng kiến, cải tiến kỹ thuật (được xã hội tôn
vinh gọi là “Vua”, “Thần đèn”, “Kỹ sư chân đất”, “nông dân thời @”, “Nhà
sáng chế không chuyên”,…) cũng là yếu tố nội sinh giúp nông dân ĐBSCL
thực hiện có hiệu quả trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nhằm
khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh của từng địa phương với nhiều mô hình sản
xuất bền vững.
Thứ năm, năng lực thực hành dân chủ của nông dân ĐBSCL từng bước
được phát huy.
Với tư tưởng cởi mở, hướng ngoại đã giúp cho nông dân ĐBSCL ngày
càng thể hiện tốt hơn quyền làm chủ của mình. Những năm qua, sự hiểu biết
về dân chủ, về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; đồng thời năng lực thực
hành dân chủ ở nông dân vùng ĐBSCL (tuy không phải là tất cả) từng lúc
được nâng cao không chỉ với dân chủ gián tiếp mà dân chủ trực tiếp ngày
càng được chú trọng. Bằng chính ý chí và nguyện vọng của mình, nông dân
ĐBSCL có suy xét và trách nhiệm hơn trong việc chọn ra những người thực
sự có đức, có tài, công tâm phục vụ lợi ích của người dân, của cộng đồng
thông qua các hoạt động như bầu trưởng ấp, HĐND, ban chủ nhiệm các
HTX,... Mặt khác, nông dân còn tự nguyện tham gia vào các đoàn thể của
mình như Hội Nông dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh,… để bày tỏ quan
điểm, chính kiến, nguyện vọng ngay từ các tổ chức hội. Chính các hoạt động
dân chủ ở nông thôn ĐBSCL đang góp phần tích cực vào việc xây dựng và
củng cố HTCT ở cơ sở, đấu tranh ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực nhất là tệ
nạn tham ô, tham nhũng và quan liêu. Thông qua việc kiểm tra, giám sát của
dân cư nông thôn nên đối với những cán bộ có cái tâm không trong sáng,
115
thiếu tu dưỡng, rèn luyện, thoái hóa, biến chất,… sẽ không có cơ hội để trục
lợi hay như có muốn thực hiện hành vi tham ô, tham nhũng cũng sẽ khó lòng
đạt được trước tai mắt giám sát của nhân dân.
3.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất, một số nội dung trong Bộ tiêu chí Quốc gia XDNTM chưa
thật phù hợp khi áp dụng ở ĐBSCL làm người nông dân khó phát huy tốt vai
trò chủ thể của mình.
Qua những năm đầu triển khai chương trình XDNTM tuy “Đã rà soát,
điều chỉnh các chính sách, tiêu chí phù hợp hơn với đặc thù từng vùng” [34,
tr.235] và bước đầu đạt được những kết quả quan trọng, nhưng chương trình
XDNTM qua thực tế thực hiện vẫn còn bộc lộ những điểm chưa thật hợp lý.
Điều này thể hiện trước hết ngay ở những nội dung trong Bộ tiêu chí quốc gia
về XDNTM. Nội dung của Bộ tiêu chí xét trên tổng thể của cả nước là đúng,
nhưng xét ở góc độ từng vùng, từng địa phương, đặc biệt là đối với ĐBSCL,
thì thiếu những cơ chế đặc thù.
Một là, về tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa. Xã được công nhận đạt
tiêu chí cơ sở vật chất văn hóa khi đáp ứng đủ 02 yêu cầu: (1) Có nhà văn
hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn theo quy định tại Thông tư 12/2010/TT-
BVHTTDL ngày 22/12/2010 [15]. (2) 100% thôn hoặc liên thôn có nhà văn
hóa và khu thể thao đạt chuẩn theo quy định tại Thông tư số 06/2011/TT-
BVHTTDL ngày 08/3/2011 [16]. Trường hợp sử dụng trụ sở thôn, đình
làng hoặc nhà rông có trang thiết bị và nội dung hoạt động theo tiêu chuẩn
nhà văn hóa thì cũng được công nhận đã có nhà văn hóa thôn. Căn cứ vào
thực tế, quy định này chỉ phù hợp cho các vùng miền khác nhất là Đồng
bằng Bắc bộ. Ở ĐBSCL, đình làng có nhưng không nhiều, chủ yếu là chùa
chiền. Riêng đối với đồng bào Khmer chủ yếu sinh hoạt cộng đồng gắn với
Chùa. Do đó, thiết nghĩ cần bổ sung “những nơi có đông bào dân tộc
Khmer sinh sống có thể sử dụng nhà chùa để sinh hoạt văn hóa...”, Nhà
116
nước chỉ cần hỗ trợ trang thiết bị và thiết kế nội dung sinh hoạt theo tiêu
chuẩn văn hóa. Qua đó, tiết kiệm được nguồn kinh phí mà vẫn đảm bảo
tính sinh hoạt cộng đồng cao.
Hai là, về tiêu chí chợ nông thôn. Theo tiêu chí về chợ nông thôn, mỗi
xã phải có một chợ để phục vụ người dân là không thực sự cần thiết vì ở
ĐBSCL có những xã quy mô rất nhỏ chỉ có hai ấp. Hơn nữa, hiện nay mạng
lưới giao thông nông thôn đường bộ đang không ngừng phát triển, giúp cho
việc đi lại của nhân dân giữa các xã lân cận trở nên thuận lợi. Thực tế nhiều
nơi, chợ khu vực (liên xã) đáp ứng nhu cầu của dân cư nông thôn trên một
tiểu vùng đã tồn tại và phục vụ tốt nhu cầu của người dân, không cần thiết
phải xây thêm chợ mới. Cùng với đó, ở ĐBSCL từ lâu đã tồn tại rất nhiều chợ
nổi cũng giúp cho việc mua bán của người dân rất thuận lợi. Chính việc o ép
phải xây chợ nông thôn ở từng xã là một trong những nguyên nhân chợ xây
xong lại bị bỏ hoang không có người vào buôn bán dẫn đến rất lãng phí.
Ba là, tiêu chí về nhà ở dân cư. Theo quy định, nhà đạt chuẩn của Bộ
Xây dựng hiện nay là nhà 3 cứng (nền cứng, cột cứng, mái cứng) và niên hạn
sử dụng 20 năm trở lên, điều này chưa hẳn phù hợp với ĐBSCL. Hiện nay, ở
ĐBSCL có nhiều hộ nông dân sinh sống ở các địa bàn là vùng sâu, vùng
trũng, vùng ngập nước, vùng nước mặn mà đặc thù của nó là nền địa chất yếu,
mạng lưới sông rạch dày đặc, nên đa phần dân cư nơi đây có tập quán sống
trên nhà sàn dọc theo sông rạch thậm chí lấy ghe, xuồng làm nhà lênh đênh
trên sông nước thì làm sao có được “3 cứng”; hơn nữa, đây lại là địa bàn sinh
sống của đa phần các hộ nông dân nghèo, có đông đồng bào dân tộc thiểu số
thì càng không có điều kiện kinh tế để xây nhà.
Thứ hai, thiếu những điều kiện cần thiết để phát huy tính tích cực, hạn
chế mặt tiêu cực của nông dân ĐBSCL trong XDNTM.
Một là, chi phí cho các yếu tố đầu vào của hoạt động sản xuất
thường tăng cao, thậm chí nông dân ĐBSCL còn phải đối diện với vấn
117
nạn hàng giả (cây con giống giả, phân bón giả, thuốc bảo vệ thực vật
giả,...). Trong khi đó, thị trường đầu ra cho nông sản của nông dân luôn
không ổn định, thường gặp rủi ro, dễ bị mất thị trường. Nông dân luôn
phải chật vật xoay trở, đối mặt với tình trạng giá cả luôn bấp bênh, tư
thương ép giá với điệp khúc của vòng lẫn quẩn vô tận “được giá mất mùa,
được mùa mất giá”. Dù ở tình thế nào thì nông dân cũng thua thiệt, và
tình cảnh éo le này của nông dân vẫn đang là bài toán nan giải chưa biết
đến bao giờ mới được giải quyết căn cơ, toàn diện.
Hai là, sự gắn kết, hỗ trợ, chia sẻ giữa các chủ thể có liên quan
trong sản xuất nông nghiệp chưa thật sự bền chặt, mô hình liên kết “Bốn
nhà” tuy có tồn tại nhưng thật ra chỉ mới “gắn” mà chưa thực sự “bó”, tức là
mối liên kết còn khá lỏng lẻo, nặng về hình thức hơn là thực chất, mức độ tin
cậy giữa các bên chưa nhiều, hiệu quả đạt được chưa cao. Đối với các cơ
quan quản lý Nhà nước, việc quy hoạch nói chung và quy hoạch tái cơ cấu
kinh tế nông nghiệp nói riêng chưa thật tốt, chưa bám sát thực tế, thiếu tính
đồng bộ; khả năng dự đoán dự báo, đánh giá diễn biến thị trường còn nhiều
hạn chế; mức độ định hướng, hỗ trợ, tư vấn chưa được nhiều, chưa thật hiệu
quả. Đối với doanh nghiệp, chưa có nhiều doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp, có những doanh nghiệp chưa tạo điều kiện thuận lợi tiêu
thụ nông thủy sản của nông dân, nông dân khó tiếp cận nguồn vốn vay từ
phía các ngân hàng mặc dù Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều văn
bản quy phạm pháp luật chỉ đạo các chủ thể có liên quan hỗ trợ nông dân
[116], [117]. Đối với các nhà khoa học, chưa có nhiều nhà khoa học thực
sự tâm huyết, gắn bó với nông dân để hỗ trợ, hướng dẫn nông dân tiếp cận
khoa học kỹ thuật trong sản xuất.
Ba là, tác động tiêu cực của các yếu tố tự nhiên là nỗi lo lớn cho nông
dân trong suốt quá trình sản xuất. Đã qua rồi cái thời “làm chơi, ăn thiệt” do
những yếu tố “thiên thời”, “địa lợi” đang dần không còn ủng hộ nông dân
118
ĐBSCL. Ngược lại, những khó khăn do tự nhiên đem lại ngày càng gia tăng.
Diễn biến thất thường của thời tiết do tác động của biến đổi khí hậu đang xảy
ra ở ĐBSCL như hạn hán, xâm nhập mặn ngày càng diễn ra gay gắt, nghiêm
trọng, làm đảo lộn cuộc sống và hoạt động sản xuất của nông dân2. Hiện
tượng ĐBSCL không còn lũ hoặc lũ về ở mức thấp đang làm cho nguy cơ
miền sông nước vùng ĐBSCL lại thiếu nước là hoàn toàn có thật [Phụ lục 5].
Tình hình xâm thực, sạt lở đất đang diễn ra dữ dội không theo quy luật ở hầu
hết các sông rạch, bờ biển của các tỉnh, thành phố trong khu vực (nếu như
trước đây hiện tượng sạt lở đất chỉ diễn ra vào mùa mưa lũ thì hiện nay sạt lở
đất diễn ra ngay trong mùa khô).
Thứ ba, trình độ dân trí của nông dân ĐBSCL còn thấp.
Đồng bằng sông Cửu Long trong một thời gian dài luôn có mặt bằng
dân trí thấp và được xem là vùng trũng về giáo dục và đào tạo, chất lượng
nguồn nhân lực nhìn chung đến nay vẫn còn nhiều hạn chế. Đây cũng là điểm
khác biệt khá cơ bản giữa nông dân ĐBSCL với nông dân các vùng miền
khác trong cả nước. Trình độ dân trí thấp thể hiện trên những vấn đề sau:
Một là, nông dân chưa nhận thức được bản thân là chủ thể trực tiếp
tham gia XDNTM. Một bộ phận nông dân có biểu hiện tư tưởng ỷ lại,
trông chờ vào sự chăm lo của Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể
thông qua các chương trình, dự án, nguồn vốn,… và xem XDNTM là việc
của chính quyền, nông dân chỉ thụ hưởng từ các thành quả. Tâm lý dựa
dẫm vào sự hỗ trợ của Nhà nước không chỉ ở những vấn đề lớn mà cả những
việc nhỏ như chỉnh trang nhà cửa, xây cổng hay tường rào, làm hố xí hợp vệ
sinh,... cũng phải có sự “chi viện” của chính quyền (hỗ trợ xi măng hay một
phần kinh phí) như một chất xúc tác thì người dân mới làm (dĩ nhiên ở đây
2 Riêng hạn mặn trong năm 2016, được đánh giá là nghiêm trọng, khốc liệt nhất trong
vòng 100 năm qua đến mức nhiều tỉnh ven biển ĐBSCL phải công bố tình trạng thiên
tai, tổng thiệt hại do hạn mặn gây ra ước tính 4.678 tỷ đồng.
119
không bao gồm các hộ nghèo, cận nghèo, các hộ thuộc diện đặc biệt khó
khăn đã được thẩm định) mặc dù trên thực tế những nội dung này nông dân
hoàn toàn có đủ khả năng và chủ động thực hiện được3. Mặt khác, nông dân
hiểu chưa đúng, chưa đầy đủ về XDNTM. Nhiều nông dân cho rằng
XDNTM thuần túy chỉ là xây cầu, làm đường, làm cho bộ mặt nông thôn
trở nên khang trang, văn minh, hiện đại mà chưa hiểu được rằng XDNTM
là quá trình phát triển toàn diện - nhất là tập trung vào hoạt động sản xuất,
đổi mới các hình thức sản xuất với năng suất, chất lượng, hiệu quả ngày
càng cao - để XĐGN, hướng đến giảm hộ nghèo tăng hộ giàu, nâng cao
thu nhập, cải thiện đời sống cho dân cư nông thôn một cách bền vững.
Hai là, do chất lượng nguồn nhân lực còn hạn chế nên ảnh hưởng
đến khả năng và mức độ tiếp thu, ứng dụng các thành tựu khoa học vào quá
trình sản xuất còn thấp nhất là đối với nông dân vùng đồng bào dân tộc
Khmer. Trong khi đó số lao động trẻ, lao động có trình độ, nhạy bén với
tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ ngày một ít do lực lượng này không
còn thiết tha với công việc ở nông thôn nên từ bỏ ruộng vườn vào làm
trong các KCN, khu chế xuất, ở các thành phố lớn hoặc hợp tác xuất khẩu
lao động để có thu nhập cao hơn. Vì vậy, hoạt động sản xuất nông nghiệp
chỉ còn là việc của người già, phụ nữ [22, tr.93-94].
Ba là, do trình độ học vấn, năng lực nhận thức hạn chế dẫn đến việc
một bộ phận nông dân không tuân thủ những quy định của các cơ quan chức
năng liên quan đến hoạt động sản xuất. Cũng vì mặt bằng dân trí thấp làm cho
ý thức chấp hành pháp luật ở một bộ phận nông dân không cao, thậm chí
Đài truyền hình VTV Cần Thơ 1 trong chương trình thời sự Miền Tây ngày mới sáng
ngày 12/5/2015, phát đi một phóng sự khó tin nhưng lại có thật đó là tình trạng số người
bị mù lòa (khoảng 600 người) ở thị xã Vĩnh Châu, tỉnh Sóc Trăng không chịu đi chữa trị
kể cả khi được tỉnh hỗ trợ chi phí một phần. Các bệnh nhân này cho rằng chỉ chịu đi điều
trị để được sáng mắt với điều kiện phải được hỗ trợ chi phí 100% cho cả bệnh nhân và
người nhà theo nuôi bệnh, còn nếu không cứ thế sống chung với… mù!
120
trong nhiều trường hợp nông dân có những hành vi không chuẩn mực, phù
hợp nhưng không nhận thức được mình đang vi phạm về đạo lức, lối sống và
pháp luật.
Thứ tư, những nhược điểm về tâm lý, tính cách của chủ thể nông dân
ĐBSCL.
Những nhược điểm về tâm lý, tính cách của nông dân ĐBSCL trong
thực hiện vai trò chủ thể XDNTM tiêu biểu đó là tính tự phát, tùy tiện và
thực dụng đồng thời thiếu kiên trì, nhẫn nại vượt qua những lúc khó khăn
trong sản xuất cũng như trong cuộc sống; sự ỷ lại, trông chờ và lối tiêu
xài hoang phí kể cả khi điều kiện kinh tế còn đang rất khó khăn, túng
thiếu cũng là nét đặc thù của nông dân ĐBSCL “Chủ quan ỷ y vào sự hào
phóng của thiên nhiên, người Tây Nam Bộ ít lo chắt bóp, mắc tật chơi xả
láng, bạt mạng. Người bình dân thường có đồng nào tiêu đồng nấy, dễ sa
vào cờ bạc đề đóm”, đó còn là “biểu hiện vội vàng hấp tấp, liều lĩnh, cảm
tính, thiếu cẩn trọng, thiếu chuyên nghiệp trong các quyết định nhiều khi
rất hệ trọng” [96, tr.830-831].
Về tính tự phát, tùy tiện.
Đây là cách làm theo suy nghĩ chủ quan của cá nhân chỉ thấy lợi ích
trước mắt mà không thấy lợi ích lâu dài, tự phát chuyển dịch kinh tế không
theo quy hoạch bất chấp sự tuyên truyền, vận động, khuyến cáo của các cấp
chính quyền, của các cơ quan chức năng. Điều này thể hiện qua các hiện
tượng được lặp đi lặp lại thường xuyên của cái vòng lẩn quẩn trồng rồi chặt,
nuôi rồi diệt, đào rồi lắp để rồi hiệu quả kinh tế cao hơn không thấy chỉ thấy
nông dân cứ mãi là người theo đuôi phong trào. Nông dân ĐBSCL năng
động, thường có những đột phá trong sản xuất là tốt, nhưng lại có nhược điểm
là hay “làm bừa”, “làm càn” theo kiểu “cứ tới đâu thì hay tới đó”.
Với mô hình liên kết “Bốn nhà”, nhất là mối quan hệ giữa nhà nông
và nhà doanh nghiệp, hiện nay còn khá lỏng lẻo, rời rạc, các hợp đồng
121
được ký kết trước đó dễ bị phá vỡ từ cả hai phía. Riêng đối với nông dân,
mặc dù trước đó được doanh nghiệp hỗ trợ về giống, thuốc, phân bón,
hướng dẫn kỹ thuật và bao tiêu sản phẩm, nhưng khi nông sản có giá thì
nông dân không giữ chữ tín, sẵn sàng “bẻ kèo” không bán cho doanh
nghiệp như thỏa thuận ban đầu, hoặc nếu có bán cho doanh nghiệp thì bán
số nông sản có chất lượng thấp hơn, còn nông sản chất lượng cao thì dành
bán cho thương lái vì được giá cao hơn. Từ đó, gây khó khăn cho các
doanh nghiệp về nguồn nguyên liệu đầu vào của quá trình sản xuất. Với
cách hành xử như trên càng cho thấy “Một bộ phận nông dân thiếu tầm
nhìn dài hạn, thiếu chữ tín trong kinh doanh. Biểu hiện rõ nhất là ý thức
trong chấp hành hợp đồng, giao ước kinh doanh, chấp hành quy trình công
nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh an toàn thực phẩm kém…” [123, tr.221].
Về lối sống tiêu xài hoang phí.
Với lối sống tiêu xài hoang phí điều này cứ tưởng chỉ có trong thời kỳ
trước đây khi điều kiện tự nhiên còn nhiều thuận lợi, những sản vật do thiên
nhiên ban tặng nhiều vô kể đến mức không phải lo cái ăn, cái ở và ít nhiều
hình thành nên thái độ sống đủng đỉnh, không lo xa. Thế nhưng ngày nay khi
điều kiện tự nhiên thay đổi theo hướng tiêu cực, các nguồn lợi có sẵn ngày
càng khan hiếm, phương thức sản xuất nông nghiệp có nhiều tiến bộ, thời
gian nông nhàn ít đi nhưng cái kiểu ăn trước làm sau, hết tiền thì vay mượn
hay mua chịu trong xóm ấp và hằng sáng vẫn cứ thoải mái vô tư uống cà phê,
trưa đến thì “lai rai” vài xị rượu (mà phần nhiều tiệc nhậu kéo dài đến chiều
tối) vẫn là thói quen cố hủ của một bộ phận không nhỏ nông dân ĐBSCL.
Ở ĐBSCL, nhìn chung người dân ít khi bị đói, nhưng với lối sống tùy
tiện thích thì làm không thích thì không làm, làm ra một nhưng ăn nhậu đến
mười theo kiểu “nghèo mà chơi sang”, không chịu tiết kiệm, không biết lo xa
để “tích cốc phòng cơ, tích y phòng hàn” thành ra cái nghèo cứ đeo bám dai
122
dẳng, thiếu trước hụt sau, nợ nần chồng chất. Ăn nhậu lại sinh ra thói làm
biếng chỉ biết ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp của xã hội. Điều này lý giải vì
sao ở ĐBSCL hiện nay có tình trạng đáng xấu hổ ở một bộ phận nông dân
thuộc diện nghèo nhưng vẫn cứ muốn được sống trong… kiếp nghèo, được là
hộ “nghèo bền vững” để hưởng chính sách! Hệ lụy từ việc ăn nhậu không chỉ
dẫn đến nghèo khó mà còn gây ra bao chuyện vi phạm pháp luật, đạo đức, lối
sống và cả thuần phong mỹ tục, làm gia tăng TNXH gây khó khăn cho việc
XDNTM khó có thể hoàn thành các nội dung ở các tiêu chí 16 và 19 liên quan
đến vấn đề văn hóa, gia đình văn hóa và an ninh trật tự xã hội.
Thứ năm, ý thức pháp luật còn nhiều hạn chế, yếu tố dân chủ chưa
được thực hiện tốt.
Trước hết, một bộ phận nông dân chưa nhận thức được quyền dân chủ
của mình nên còn thờ ơ, không quan tâm hoặc ít quan tâm đến các vấn đề CT
- XH, thậm chí có những vấn đề liên quan trực tiếp đến quyền lợi của mình.
Vẫn còn khá đông nông dân có biểu hiện trông chờ, ỷ lại từ sự tác động của
các yếu tố bên ngoài mà thiếu sự chủ động trong suy nghĩ và hành động để tự
vươn lên trong cuộc sống, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
Bên cạnh đó, một bộ phận nông dân do nhận thức hạn chế và do lợi
ích cục bộ nhất thời nên dễ bị các phần tử xấu lợi dụng, kích động trong
những vấn đề có liên quan đến dân chủ. Từ đó, dẫn đến những hành vi vi
phạm pháp luật, coi thường kỷ cương phép nước, gây ảnh hưởng xấu đến an
ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, gây phương hại đến lợi ích chung của
cộng đồng. Cũng do ý thức pháp luật còn hạn chế nên việc một bộ phận
nông dân ĐBSCL ngày nay có những hành vi chửi bới, lăng mạ, hành hung
cán bộ xã, tấn công người đang thi hành công vụ, đập phá trụ sở cơ quan
công quyền hay kéo đi khiếu kiện vượt cấp (mặc dù tính chất vụ việc không
nghiêm trọng) ngày càng gia tăng.
123
Kết luận chƣơng 3
Ở chương 3, từ việc trình bày khái lược điều kiện tự nhiên, kinh tế, văn
hóa, xã hội và đặc điểm tâm lý của nông dân ĐBSCL, tác giả luận án khái
quát thực trạng phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong XDNTM.
Theo đó, việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL
với những thành tựu đạt được là rất cơ bản, từng bước tạo tiền đề vững chắc
cho tiếp tục phát huy vai trò này trong những năm tiếp theo được tốt hơn, hiệu
quả nhiều hơn. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, quá trình phát
huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong XDNTM vẫn còn một số tồn
tại, hạn chế, bất cập, khó khăn. Trên thực tế, vai trò chủ thể của nông dân
ĐBSCL chưa được phát huy đúng mức, chưa triệt để.
Trên cơ sở khảo sát thực trạng phát huy vai trò chủ thể của nông
ĐBSCL trong XDNTM, luận án trình bày nguyên nhân của những thành tựu
và hạn chế trong việc phát huy vai trò này. Bên cạnh những nguyên nhân do
các nhân tố bên ngoài tác động đến nông dân, điều quan trọng hơn, luận án đi
sâu nghiên cứu những nguyên nhân thuộc về bản thân người nông dân
ĐBSCL. Cùng với những ưu điểm được xem là thế mạnh vốn có, tạo nên sức
mạnh nội lực để các chủ thể nông dân khẳng định được vai trò của mình,
nông dân ĐBSCL vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề đến nay vẫn chưa được giải
quyết một cách căn cơ như: trình độ học vấn, chuyên môn, tay nghề thấp;
những nhược điểm trong tâm lý, tính cách chưa được điều chỉnh, xóa bỏ; ý
thức pháp luật còn nhiều hạn chế, yếu tố dân chủ chưa được thực hiện tốt.
Từ việc phân tích thực trạng và nguyên nhân của việc phát huy vai trò
chủ thể nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL hiện nay là cơ sở quan trọng để
đưa ra những quan điểm định hướng và những giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục
phát huy vai trò chủ thể của nông dân trên vùng đất chín rồng với những
thành tựu mới, thắng lợi mới.
124
Chƣơng 4
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG
VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ
CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƢỚNG NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ
CHỦ THỂ CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG
BẰNG SÔNG CỬU LONG HIỆN NAY
4.1.1. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng sông Cửu
Long trong xây dựng nông thôn mới là quá trình vừa khơi dậy những
mặt ƣu điểm, tích cực vừa khắc phục những hạn chế của nông dân
Xây dựng NTM là do vai trò chủ thể của nông dân quyết định. Vì vậy,
đối với nông dân ĐBSCL, cần phải hiểu được một vấn đề cốt lõi: để phát huy
tốt vai trò chủ thể của mình trong XDNTM hiện nay, trước hết bản thân nông
dân phải mới toàn diện: mới từ trong tư duy nhận thức đến hành động theo
hướng tiến bộ. Tuy nhiên, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM ở ĐBSCL hiện nay không có nghĩa là nông dân thay cái cũ đổi
cái mới, là xóa bỏ tất cả những gì thuộc về quá khứ, mà điều cốt lõi của
việc phát huy này trong XDNTM là làm thế nào để kết quả đạt được cuối
cùng phải thỏa mãn được hai vấn đề: thứ nhất, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của bản thân người nông dân một cách bền vững; thứ hai, đảm
bảo việc giữ gìn bản sắc, nếp sống tốt đẹp rất đặc thù ở nông thôn, đồng
thời đấu tranh loại bỏ những hủ tục, thói quen, tập quán lạc hậu đi ngược
lại với sự phát triển của xã hội là điều cần thiết buộc phải làm.
Xây dựng NTM là quá trình lâu dài, có nhiều thách thức, luôn đặt nông
dân vào thế phải “vượt lên chính mình” trước những vấn đề mới vô cùng khó
khăn, hóc búa của cuộc sống. Vì vậy, từng chủ thể nông dân ở ĐBSCL phải
thực sự là người trong cuộc chứ không phải “khán giả”. Nông dân cần nhận
125
thức được mình là một lực lượng đông đảo, có đầy tiềm năng, sức mạnh và
những ưu điểm vốn có để hoàn thành xuất sắc nhiều trọng trách. Lịch sử đã
cho thấy, trong chiến tranh nông dân đã góp phần to lớn đánh thắng nhiều kẻ
thù xâm lược hùng mạnh, thì trong thời bình không có lý do gì để không
chiến thắng được sự nghèo nàn và lạc hậu, cứ mãi “đi trước, về sau”. Hiện
nay, nông dân vùng ĐBSCL bước vào quá trình này với tâm thế của cả hai
mặt ưu, nhược điểm song hành. Do đó, hơn ai hết, từng chủ thể nông dân
ĐBSCL cần tiếp tục nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, tính năng động
sáng tạo vốn có, tiếp tục thực hiện phong trào “Đồng khởi mới”; phải tự lực
cánh sinh, không ỷ lại trông chờ, phát huy nội lực là chính; ra sức khắc phục
nhược điểm, vượt qua những rào cản tâm lý, thói quen, tập quán cũ kỹ và
lạc hậu; phải biết tự ái về học thức thấp là nguyên nhân gốc rễ của sự thua
thiệt mà không ngừng tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ để có đủ nội lực
“đem sức ta giải phóng cho ta”. Đồng thời, nông dân ĐBSCL cũng nên có
sự đồng thuận cao với các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
nhiệt tình hưởng ứng tham gia các phong trào dưới sự dẫn dắt của HTCT;
chấp hành tốt các quy định và tuân thủ pháp luật trong lao động sản xuất và
sinh hoạt; cần đảm bảo chữ tín, hợp tác tốt và có trách nhiệm với doanh
nghiệp, các nhà khoa học.
Với đức tính năng động, sáng tạo, con người hành động luôn quyết
đoán, hướng đến cái mới,... là những ưu điểm cơ bản, nổi bật của nông dân
ĐBSCL. Những phẩm chất này rất cần được tiếp tục phát huy trong XDNTM
hiện nay. Tuy nhiên, nông dân ĐBSCL cần lưu ý không cực đoan ở bất cứ
mặt nào mà phải chủ động tạo sự cân bằng, phù hợp, hài hòa, đó là: phát huy
tính tích cực, năng động, sáng tạo nhưng không được xa rời thực tế, viển vông
mà phải trên cơ sở hiện thực; dám nghĩ, dám làm nhưng không phiêu lưu mạo
hiểm mà phải chắc chắn; có những bước đột phá mạnh dạn, táo bạo nhưng
không đánh đổi, bất chấp tất cả mà phải đảm bảo có được hiệu quả và mang
tính bền vững. Mặt khác, các chủ thể nông dân ĐBSCL cần tự giác khắc phục
126
những nhược điểm, hạn chế để mở đường cho việc phát huy những ưu điểm
được thuận lợi hơn.
4.1.2. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông
thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long phải chú trọng đến lợi ích chính
đáng của ngƣời nông dân
Thứ nhất, đối với HTCT, nhất là HTCT cơ sở, phải nắm vững, quán
triệt và có quyết tâm chính trị cao. Để phát huy tốt vai trò chủ thể của nông
dân trong XDNTM ở ĐBSCL không phải là việc đưa ra những chủ trương có
tính chất hoạt động bề nổi, hô hào mà là hướng đến chiều sâu đích thực từ các
kết quả đạt được; không là hình thức thể hiện màu mè, phô trương nhưng
trống rỗng, mà những giá trị đạt được phải là thực chất; không vì chạy theo số
lượng, chỉ tiêu nhưng không ổn định, mà là hướng đến sự phát triển bền vững
lâu dài; không phải là sự gò ép, khiên cưỡng để đạt thành tích mà là sự tự
nguyện, tự giác đến với phong trào của quần chúng. Thông qua phát huy vai
trò chủ thể của nông dân trong XDNTM mục tiêu cuối cùng là để nâng cao
đời sống, tăng thu nhập cho người nông dân chứ không phải càng phát huy
vai trò chủ thể của nông dân thì làm cho người nông dân ngày càng trở nên
nghèo hơn, vất vả hơn, sinh lực của nông dân ngày càng bị hao tổn. Điều này
dĩ nhiên hoàn toàn đi ngược lại mục đích ban đầu của chương trình XDNTM.
Cho nên, xuất phát từ lương tâm, trách nhiệm, tình cảm với người nông
dân, từng cán bộ, đảng viên trong toàn HTCT cần phải học tập quan điểm và
tấm gương của Hồ Chí Minh với tinh thần “Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm” (lấy cái
tâm của mọi người làm cái tâm của chính mình) tức là lấy nguyện vọng, mong
muốn của dân làm nguyện vọng, mong muốn của mình; vui với cái vui của
dân, buồn với cái buồn của dân [39, tr.135-142]. Trong tình hình hiện nay,
một trong những vấn đề cấp bách và quan trọng mà đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải tâm niệm và cố gắng thực hiện tốt, đó là: “Đội ngũ cán bộ, đảng viên
phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có
trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc, những
127
kiến nghị chính đáng của nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công dân” [34,
tr.210]. Điều này cũng có nghĩa là, toàn HTCT ở cơ sở phải hiểu người nông
dân đang cần gì, muốn gì để đồng hành, chia sẻ cùng nông dân bằng những
chương trình, phần việc cụ thể gắn với chức trách, nhiệm vụ được giao. Một
khi đáp ứng được lợi ích chính đáng của nông dân thì tất yếu việc phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM trở nên thuận lợi, dễ dàng.
Thứ hai, đối với các nhà khoa học và đội ngũ doanh nhân khi tham gia
XDNTM cần xuất phát từ cái tâm trong sáng, là sự thiện nguyện và tình yêu
thương chân thành. Các nhà khoa học, các doanh nhân cần nhận thấy rằng:
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường đầy nghiệt ngã, cùng với những hạn
chế về nhận thức, về trình độ và kể cả những nhược điểm cố hủ làm cho nông
dân tuy là lực lượng đông đảo nhưng vẫn luôn là bộ phận yếu thế, dễ bị tổn
thương nhất trong các giai tầng của xã hội. Bởi lẽ, đến nay, cũng giống như
nông dân cả nước, nông dân ĐBSCL có “năm cái nhất” mà bản thân các chủ
thể nông dân tiến bộ và cả xã hội không mong muốn, đó là: đông nhất, nghèo
nhất, nhiều bức xúc nhất, hy sinh nhiều nhất và hưởng lợi từ đổi mới ít nhất.
Vì vậy, nông dân rất cần đến sự hỗ trợ, giúp sức của nhà khoa học và doanh
nghiệp. Với khả năng và điều kiện của mình, các nhà khoa học, các doanh
nhân nên hướng về nông thôn và nông dân để góp phần đổi mới nông thôn,
chấn hưng nông nghiệp, giúp đỡ nông dân vươn lên thoát nghèo, càng không
nên xem việc tham gia XDNTM là cơ hội để gia tăng lợi ích và làm giàu trên
mồ hôi và nước mắt của nông dân.
4.1.3. Phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng nông
thôn mới ở Đồng bằng sông Cửu Long phải căn cứ vào thực tiễn và đặc
thù của vùng để đề ra chủ trƣơng, chính sách phù hợp
Với tên gọi “Đồng bằng sông Cửu Long” cho thấy nơi đây có mạng
lưới sông ngòi chằng chịt, địa hình bị chia cắt mạnh. Đặc thù về tồn tại xã hội
này đưa đến nghịch lý đó là nếu giao thông đường thủy nội địa thuận lợi bao
128
nhiêu thì giao thông đường bộ lại khó khăn, cách trở bấy nhiêu do “qua sông
thì phải lụy đò”. Hơn nữa, ĐBSCL là địa bàn tiếp giáp với biển trong tình
cảnh tác động tiêu cực bởi biến đổi khí hậu ngày một nghiêm trọng là những
khó khăn khách quan. Cho nên, để phát huy vai trò chủ thể của nông dân
trong XDNTM ở ĐBSCL có hiệu quả cần phải xác định các vấn đề trọng tâm:
Thứ nhất, tăng cường đầu tư, xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH, nhất
là tập trung vào các nội dung mang tính đột phá như giao thông và thủy lợi
(tiêu chí số 2 và tiêu chí số 3 trong Bộ tiêu chí quốc gia về XDNTM) nhằm
tạo động lực cho sự phát triển của các tiêu chí khác là hoàn toàn phù hợp với
yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
Thứ hai, cần quan tâm đến một số tiêu chí như nhà ở và chợ nông thôn.
Đây là hai tiêu chí chịu tác động, ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên cũng như
tập quán sinh hoạt của nông dân ĐBSCL. Do đó, nếu thực hiện hai tiêu chí này
như những vùng miền khác trong cả nước là rất khó khăn. Vì vậy, việc điều
chỉnh các nội dung ở hai tiêu chí này cho phù hợp hơn là cần thiết. Chỉ có như
thế mới giúp cho việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở
ĐBSCL trong những năm tiếp theo có được thuận lợi và hiệu quả cao hơn.
Thứ ba, cần có quy hoạch vùng sản xuất một cách cụ thể, chi tiết,
đồng bộ gắn với nghiên cứu chuyển giao khoa học và công nghệ; thực hiện
mối liên kết “Bốn nhà” đi vào thực chất và có hiệu quả.
Riêng đối với nông dân ĐBSCL, xưa nay luôn có tâm lý, tính cách của
sự cởi mở, rộng rãi, phóng khoáng. Đặc điểm ý thức xã hội này là một thuận
lợi cơ bản cho việc huy động sức dân đóng góp tiền của XDNTM. Ưu điểm
này có thể tiếp tục phát huy. Tuy nhiên, rộng rãi, phóng khoáng không đồng
nghĩa là giàu có, mà đôi khi những người rộng rãi, phóng khoáng nhất là
những người nghèo nhất. Vì vậy, không nên nóng vội chạy theo thành tích.
Xây dựng NTM là cả quá trình lâu dài, phải căn cứ vào khả năng hoàn cảnh
cụ thể của từng địa phương vì trên thực tế ở ĐBSCL vẫn còn nhiều nơi đời
129
sống của người dân còn rất khó khăn, nhất là địa bàn có đông đồng bào
Khmer. Sự thật là, thu nhập bình quân đầu người của dân cư nông thôn ở
ĐBSCL nói chung, đồng bào Khmer nói riêng còn thấp. Tỷ lệ hộ nghèo của
đồng bào Khmer hiện nay trên 20%. Do đó, cần tránh việc bắt dân đóng góp
quá mức mà phải biết thực hiện “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền
gốc”, đảm bảo sinh lực của nông dân. Việc huy động đóng góp từ dân phải
được người dân bàn bạc dân chủ và được sự đồng tình của người dân, tuyệt
đối không được yêu cầu dân đóng góp theo kiểu bắt buộc và huy động quá
sức dân, nhất là đối với các hộ nghèo, các đối tượng thuộc diện chính sách.
Hơn nữa, mặt bằng dân trí, trình độ học vấn của nông dân ĐBSCL còn
thấp, đến nay vẫn được xác định là vùng trũng của giáo dục và đào tạo. Điều
này là nguyên nhân cốt lõi kiềm hãm sự phát triển, thậm chí một khi vấn đề
nguồn nhân lực chưa được đầu tư đúng mức sẽ là một trong những nguy cơ
làm cho toàn vùng ĐBSCL ngày một tụt hậu xa hơn một cách toàn diện so
với mặt bằng chung của cả nước. Vì vậy, không thể không có những chính
sách quan tâm đặc biệt đến công tác giáo dục và đào tạo cho nông dân
ĐBSCL. Đây là vấn đề vừa mang tính cấp bách vừa có ý nghĩa chiến lược lâu
dài làm nền tảng vững chắc để phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM được thuận lợi và hiệu quả hơn.
4.2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM PHÁT HUY VAI TRÕ CHỦ THỂ
CỦA NÔNG DÂN TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở ĐỒNG BẰNG
SÔNG CỬU LONG
4.2.1. Nhóm giải pháp đối với chủ thể nông dân Đồng bằng sông
Cửu Long
4.2.1.1. Nâng cao trình độ dân trí nhằm tạo tiền đề phát huy vai trò
chủ thể của nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Để phát huy tốt hơn vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM, thì
vấn đề cơ bản và then chốt đó là mặt bằng dân trí của nông dân ĐBSCL cần
130
được cải thiện. Một khi trình độ dân trí được nâng cao sẽ giúp bản thân nông
dân ĐBSCL khắc phục được những hạn chế, nhược điểm vốn có tập trung ở
hai vấn đề chính.
Một là, thay đổi nhận thức và hành vi không phù hợp.
Nông dân ĐBSCL vốn có tính năng động, sáng tạo. Điều đó là tốt và
cần thiết. Nhưng năng động, sáng tạo hoàn toàn khác về chất so với tính tùy
tiện, tự phát. Ngay cả khi các chủ thể nông dân ĐBSCL có được tính năng
động, sáng tạo như thế nào đi chăng nữa, về nguyên tắc vẫn cần phải tuân thủ
những định hướng, quy hoạch của Nhà nước. Đây cũng là nghĩa vụ của công
dân trong một nhà nước pháp quyền XHCN.
Thực tế cho thấy, những nhược điểm như tùy tiện, tự phát, lãng phí ở
nông dân ĐBSCL trong nhiều năm qua thực sự là rào cản lớn cho sự phát
triển của chính bản thân người nông dân. Mọi nỗ lực, phấn đấu và thành quả
trong lao động sản xuất của nông dân sẽ trở nên vô nghĩa một khi những
nhược điểm này vẫn còn tồn tại. Chừng nào nông dân ĐBSCL vẫn tiếp tục bất
chấp mọi khuyến cáo, không tuân thủ các định hướng từ các cơ quan chức
năng, tự ý làm theo chủ quan cảm tính, khi đó chắc chắn nông dân ĐBSCL
còn tiếp tục nhận lấy nhiều thua thiệt. Mặc dù những lúc nông dân đứng trước
khó khăn, Nhà nước luôn có những chính sách can thiệp, hỗ trợ, nhưng những
tác động này cũng chỉ là biện pháp tạm thời, giải quyết phần ngọn. Nông dân
ĐBSCL cần phải hiểu, vai trò của Nhà nước là định hướng, điều hành, quản
lý vĩ mô là chính, chứ không phải chỉ có việc giải quyết những hệ lụy do nông
dân gây ra. Cho nên, về lâu dài và quan trọng hơn, bản thân nông dân ĐBSCL
cần quyết tâm trong đổi mới nhận thức, đổi mới tư duy, chấp hành và tuân thủ
theo quy hoạch của các cơ quan chức năng mới là giải pháp căn cơ.
Vì vậy, thay đổi nhận thức và hành vi không phù hợp ở từng chủ thể
nông dân ĐBSCL cần tập trung vào các vấn đề sau:
131
Về nội dung: 1) Đối với hoạt động sản xuất: thay đổi từ chổ tùy tiện, tự
phát trong trồng trọt, chăn nuôi sang sản xuất theo quy hoạch và có kế hoạch
dưới sự định hướng, dẫn dắt của Nhà nước, nhà khoa học và doanh nghiệp.
Trong quá trình sản xuất, nông dân ĐBSCL cần đảm bảo tuân thủ và chấp
hành nghiêm các quy định theo chuẩn GAP như có sổ ghi chép, sổ nhật ký, có
các hồ sơ liên quan…; cần chấm dứt trình trạng bón phân, phun thuốc tùy tiện
vì điều này không chỉ gia tăng chí phí mà còn góp phần làm thoái hóa đất đai
và ô nhiễm môi trường; tránh lãng phí trong sử dụng nguồn nước cho canh tác,
thay vào đó cần học tập cách làm nông nghiệp rất khoa học và hiệu quả của
nông dân Israel về mô hình công nghệ tưới nhỏ giọt và sử dụng nguồn nước tái
chế trong sản xuất nông nghiệp [20, tr.208-217]. 2) Đối với lối sống sinh hoạt
hằng ngày: thay đổi từ chổ tùy tiện thích thì làm, không thích thì không làm
sang lối sinh hoạt có kế hoạch và khoa học; phải chắt chiu, tiết kiệm để lo cho
tương lai không chỉ cho bản thân mà còn vì các thế hệ mai sau như tham gia
các quỹ tương trợ, chơi hụi không lời của các tổ hội, nuôi heo đất; từng bước
xây dựng ý thức pháp luật và chấp hành pháp luật thông qua tuyên truyền
được lồng ghép vào các buổi họp tổ tự quản, bình xét thi đua.
Về phương thức: thay đổi nhận thức và hành vi không phù hợp không
phải bỗng nhiên mà có. Đó thực sự là một điều khó khăn. Một mặt, về lâu dài
thì việc thông qua con đường giáo dục và đào tạo để nâng cao dân trí, khai
sáng trí tuệ mới thực sự là chìa khóa của sự thành công có tính bền vững. Mặt
khác, cùng với công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục của
HTCT thì bản thân nông dân phải nỗ lực, kiên trì tự làm công tác tư tưởng, tự
thay đổi nhận thức và hành vi không phù hợp. Trong gia đình, vai trò và tầm
ảnh hưởng của ông bà, cha mẹ là rất quan trọng để đấu tranh loại bỏ những
thói hư tật xấu. Điều này được thể hiện thông qua việc nêu gương để con cháu
trực tiếp thấy, trực tiếp nghe, cảm nhận và làm theo. Chẳng hạn, các bậc cha
chú phải tu dưỡng, rèn luyện, gương mẫu, đi đầu trong việc quyết tâm từ bỏ
132
các thói quen như tùy tiện bỏ bê đồng áng, sa vào rượu chè hay bạo hành gia
đình. Ở phạm vi xã hội, nông dân là lực lượng xung kích làm công tác tuyên
truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục, cảm hóa và cả nghiêm khắc phê bình để
xóa bỏ các thói quen, tập quán, tâm lý, tính cách không còn phù hợp nhằm thích
ứng với điều kiện mới nhưng vẫn giữ vững cốt cách, bản sắc văn hóa đặc thù
vùng ĐBSCL. Để thực hiện tốt điều này, nên phát huy những nhân tố tích cực, là
hạt nhân có “tính trội” ngay trong lực lượng nông dân, tức là những người có uy
tín và tầm ảnh hưởng lớn trong cộng đồng như cán bộ lão thành cách mạng, cựu
chiến binh, chức sắc tôn giáo, các nông dân sản xuất giỏi,… để tập hợp, vận
động, lôi kéo bộ phận nông dân chưa tiến bộ xóa bỏ những nhận thức và hành vi
không phù hợp.
Hai là, đủ khả năng thích ứng với nền sản xuất nông nghiệp có hàm
lượng tri thức cao.
Thực tiễn của cuộc sống đã cho thấy thời kỳ nào thì con người ấy, con
người luôn phải thích nghi với hoàn cảnh mới, bởi mỗi khi tồn tại xã hội thay
đổi thì sớm muộn ý thức xã hội cũng sẽ thay đổi theo cho phù hợp. Đó chính
là quy luật của cuộc sống. Trước đây, trong những năm chống Mỹ cứu nước,
nông dân ĐBSCL đã dành trọn tất cả tâm sức của mình cho sự nghiệp cách
mạng nên không có điều kiện học hành, tiếp cận với tri thức khoa học. Ở họ
khi đó, chỉ cần có lòng nhiệt tình cách mạng, sự gan dạ dũng cảm và không
nhất thiết phải có trình độ học vấn cao vẫn có thể đóng góp to lớn vào sự
nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Đồng thời, với kinh nghiệm
sản xuất vốn có được truyền qua nhiều thế hệ, cộng với điều kiện tự nhiên
thuận lợi nên người nông dân vẫn có thể tạo ra cái ăn, cái mặc cho mình trong
một nền sản xuất nông nghiệp khép kín, tự cung tự cấp.
Ngày nay, những đức tính ở người nông dân ĐBSCL như lòng nhiệt
tình cách mạng, sự cần cù chịu khó trong lao động, kinh nghiệm sản xuất (lão
nông tri điền),... vẫn là những yếu tố tích cực, đáng trân trọng và thời nào
133
cũng cần. Nhưng như thế vẫn chưa đủ và chưa thể đem lại một nền sản xuất
nông nghiệp tiên tiến với năng suất, chất lượng, hiệu quả cao; chưa thay đổi
căn bản, toàn diện đời sống của nông dân; chưa thể tạo nên một diện mạo
nông thôn với sự phát triển toàn diện, giàu bản sắc văn hóa và thân thiện môi
trường. Cho nên, trong bối cảnh hiện nay, tất cả các yếu tố trên chỉ có thể
được phát huy một khi nó được kết hợp chặt chẽ với tri thức, vì suy cho cùng
tri thức là nền tảng của sự phát triển. Vì vậy, nông dân ĐBSCL cần phải học
nhằm tạo dựng cho mình một nền tảng căn bản vững chắc để có khả năng tiếp
cận và ứng dụng được các thành tựu khoa học và công nghệ vào quá trình sản
xuất nông nghiệp; có kiến thức về quản lý, nắm bắt thông tin thị trường; có
khả năng sử dụng được tin học ứng dụng và kể cả giao tiếp bằng ngoại ngữ.
Trong điều kiện hiện nay, yêu cầu đặt ra cho nông dân ĐBSCL cần có
trình độ cao thực sự là vấn đề khó khăn, thách thức lớn. Nhưng để tồn tại và
phát triển, nông dân ĐBSCL phải cố gắng vượt qua và không gì là không thể
vì nếu như: không được giáo dục đầy đủ thì rõ ràng là một bất lợi nhưng hoàn
toàn có thể khắc phục được tương đối dễ dàng. Người có giáo dục không nhất
thiết phải có tất cả mọi loại kiến thức, vấn đề là họ biết áp dụng những kiến
thức họ có một cách kiên trì và hiệu quả [77, tr. 205-206]. Để thực hiện được
điều này, điều quan trọng là tự bản thân từng chủ thể nông dân ĐBSCL phải
luôn nêu cao ý chí tự lực tự cường, tinh thần cách mạng tiến công, năng động,
sáng tạo, vượt khó ngay trong việc học, phải học mọi lúc mọi nơi, với nhiều
hình thức đào tạo bồi dưỡng khác nhau.
Trước hết, đối với chủ thể nông dân ĐBSCL là những người có tuổi đời
tương đối cao, mù chữ, hoặc trình độ học vấn thấp. Nhóm đối tượng này nhìn
chung khả năng tiếp thu tri thức có phần bị hạn chế nên cũng không thể yêu
cầu cao hơn. Vì vậy, đối với trường hợp này cần phải biến quá trình đào tạo
thành quá trình tự đào tạo.
134
Có nhiều hình thức đơn giản nhưng khá hiệu quả trong việc nông dân
tự nâng cao trình độ nhận thức nói chung, kiến thức khoa học nói riêng vào
trong quá trình sản xuất cho chính mình như: tham gia các khóa tập huấn hay
bồi dương ngắn hạn, các cuộc hội thảo đầu bờ trên thực địa có tính chất trực
quan để qua đó nông dân học về kỹ năng và kỹ thuật sản xuất.
Ngoài ra, nông dân ĐBSCL cũng nên chịu khó đọc báo hay xem đài để
nắm bắt thông tin, bước đầu làm quen và có kiến thức cơ bản về tiêu chuẩn,
quy chuẩn trong sản xuất theo hướng GAP, kiến thức về marketing giới thiệu
sản phẩm, kiến thức về thủ tục đăng ký kinh doanh, đăng ký cho thương hiệu
nông sản hàng hóa; hơn nữa, thông qua báo đài nông dân còn hiểu biết về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan
đến các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và cũng là những vấn đế liên quan đến
lợi ích thiết thân của người nông dân.
Đặc biệt nông dân nên chủ động tích cực tham gia các tổ liên kết, tổ
hợp tác, HTX để học tập kinh nghiệm, chia sẻ ý tưởng, trao đổi kiến thức lẫn
nhau vì “Nếu bạn có một quả táo, tôi có một quả táo và chúng ta trao đổi táo,
thì bạn và tôi vẫn có một quả táo. Nhưng nếu bạn có một ý tưởng, tôi có một
ý tưởng và chúng ta trao đổi chúng thì mỗi người sẽ có hai ý tưởng” [20,
tr.426]. Đồng thời, cần phải tạo điều kiện cho con em mình được học hành
đến nơi đến chốn, tránh lối mòn, vết xe đổ của họ trước đây. Vì vậy, đã đến
lúc những nông dân có tuổi ở ĐBSCL phải nhận thức được rằng đời mình
trước đây vì nhiều lý do khó khăn khác nhau mà thành ra trình độ học vấn
thấp và đó là sự thua thiệt cơ bản, thì ngày nay phải làm sao tạo điều kiện
thuận lợi trong khả năng có thể để đời con cháu mình được học hành. Đó
không chỉ là tình yêu thương mà còn là trách nhiệm lớn lao.
Đối với thanh niên nông thôn ĐBSCL càng phải ra sức học tập. Phải
xác định học tập là một nhu cầu, học để có tri thức, học là để tồn tại và phát
triển cho bản thân, học còn là để xã hội xóa bỏ cái định kiến đã đeo đẳng lâu
135
dài rằng ĐBSCL là vùng trũng của giáo dục và đào tạo. Vì vậy, thanh niên
nông thôn cần tự xác lập cho mình ý chí, nghị lực và khát vọng vươn lên
trong cuộc sống thông qua con đường học tập để làm nền tảng cho lập thân,
lập nghiệp, tự giải thoát khỏi sự lạc hậu và nghèo nàn như điều mà Phan Châu
Trinh từ năm 1907 đã nói: Những sự giải thoát của chúng ta là nằm chủ yếu
trong sự học hành, mở mang trí tuệ. Vì vậy, đã đến lúc thanh niên nông thôn
ĐBSCL tiếp tục phát huy truyền thống của cha anh ở tính năng động và sáng
tạo, dám nghĩ và dám làm, dám ước mơ và hành động để khởi nghiệp, tạo
dựng tương lai. Trong học tập, thanh niên nông thôn ĐBSCL chí ít cũng cần
phấn đấu hoàn thành chương trình phổ thông để đảm bảo kiến thức nền tảng,
tránh bỏ dở việc học nửa chừng. Sau chương trình giáo dục phổ thông, thanh
niên nông thôn ĐBSCL nên lựa chọn các trường nghề phù hợp để có thể vận
dụng trực tiếp vào các hoạt động sản xuất tại quê hương.
Nếu thanh niên nông thôn vùng ĐBSCL có năng lực nhận thức và học
tập tốt, theo chúng tôi, cũng không nhất thiết theo đuổi con đường vào giảng
đường đại học vì trong tình hình hiện nay (mặc dù không phải là tất cả)
nghiệp đại học nhưng không có việc làm, không có thu nhập thì tốt nhất nên
lựa chọn một “nghề mọn” nhưng phù hợp để học, sau đó có việc làm, có thu
nhập khá là cách tiếp cận thiết thực và hiệu quả. Trong trường hợp này, thanh
niên có thể lựa chọn những nghề mà xã hội đang cần, thời gian học ngắn, chi
phí phù hợp như tham gia các khóa học về thú y, sửa cây cảnh, thủ công mỹ
nghệ,… để phục vụ ngay trong ngành nông nghiệp.
Ngoài ra, với tinh thần “Ly nông bất ly hương” thanh niên nông thôn
với nguồn vốn vừa phải cũng có thể tham gia vào các hoạt động kinh doanh,
buôn bán nhỏ hoặc học những nghề như cơ khí, điện gia dụng, điện tử, sửa
chữa xe máy, xây dựng, hớt tóc, may mặc,… để phục vụ trong các ngành
thương mại, dịch vụ tại địa phương. Với sức trẻ và với nền tảng kiến thức phổ
thông đã có, thanh niên nông thôn ĐBSCL vẫn có thể tiếp tục tham gia các
136
khóa đào tạo ngoại ngữ, nhất là tiếng Anh, để làm du lịch sinh thái, du lịch
miệt vườn gắn với mô hình homestay phục vụ du khách nước ngoài chắc chắn
sẽ là một hướng đi đem lại hiệu quả cao.
4.2.1.2. Thực hiện tốt quyền dân chủ gắn với xây dựng ý thức pháp luật
Thứ nhất, về thực hiện quyền dân chủ.
Bản chất của dân chủ là quyền lực thuộc về nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí
Minh từng khẳng định rằng dân chủ tức là: dân là chủ, dân làm chủ. Vì vậy,
đã đến lúc nông dân ĐBSCL cần phải xây dựng cho mình một tâm thế của
người làm chủ, thực hiện đầy đủ và tốt hơn quyền vốn có của mình trong các
mối quan hệ xã hội và với HTCT. Nông dân ĐBSCL phải mạnh dạn, tự tin,
kiên quyết bảo vệ cái đúng, quyết liệt đấu tranh với cái sai, tiêu cực, góp phần
xây dựng HTCT cơ sở trong sạch, vững mạnh.
Một là, nông dân tích cực tham gia đầy đủ các cuộc họp tổ nhân dân
tự quản, các cuộc tiếp xúc cử tri, các hoạt động như bầu trưởng ấp, bầu cử
quốc hội và HĐND các cấp,… Thông qua các hoạt động này là dịp để nông
dân có cơ hội trao đổi, thảo luận các vấn đề đang diễn ra trên địa bàn như
an ninh trật tự, môi trường, mối quan hệ gia đình và cộng đồng; là cơ hội
để nông dân thể hiện quyền làm chủ của mình như chất vấn, bày tỏ quan
điểm, nguyện vọng, mong muốn chính đáng, trên cơ sở đó các cơ quan
chức năng phải có trách nhiệm giải quyết. Tuy nhiên, đối tượng dự họp
phải là người lớn và là trụ cột của gia đình, tránh trường hợp người lớn thì
ở nhà, mặc dù không bận việc gì, nhưng lại bảo con nhỏ đi dự họp thay.
Hai là, nông dân ĐBSCL thực hiện quyền làm chủ được thể hiện ngay
trong việc đổi mới tư duy, phát huy tính năng động sáng tạo trên mọi phương
diện như: hoạt động sản xuất, xây dựng đời sống văn hóa - xã hội, bảo vệ môi
trường sinh thái, đấu tranh phòng chống TNXH… Chẳng hạn, khi nông dân
tham gia các HTX thì năng lực thực hành dân chủ phải được thể hiện thông
137
qua việc tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để đảm bảo quyền lợi của
mình và của tập thể. Hay như để phát triển mạnh mẽ hơn nữa loại hình nghệ
thuật đờn ca tài tử như là một phần không thể thiếu trong đời sống tinh thần
của người dân Nam bộ (người Kinh) nói chung và người dân ở ĐBSCL nói
riêng thì bản thân nông dân phải vừa là những người sáng tác, vừa là nhạc
công, vừa là nghệ sỹ trình diễn. Tương tự, nghệ thuật sân khấu Dù Kê, nghệ
thuật Chầm riêng Chà pây của đồng bào Khmer Nam bộ… cũng phải do
chính đồng bào Khmer trực tiếp bảo tồn và phát triển, góp phần nâng cao giá
trị của các loại hình nghệ thuật này thành di sản văn hóa cấp quốc gia.
Thứ hai, về xây dựng ý thức pháp luật
Thực hiện quyền dân chủ là tiền đề cho việc phát huy tốt hơn mọi
tiềm năng của con người để đem lại những lợi ích cho bản thân và xã hội .
Ở nước ta hiện nay, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa động lực của quá trình
phát triển. Do vậy, dân chủ luôn được đảm bảo, tăng cường và mở rộng
dưới sự bảo hộ của pháp luật. Tuy vậy, thực hiện dân chủ không có nghĩa
là tùy tiện, vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật mà phải tuân thủ pháp
luật, thực hiện tốt đạo đức công dân, trách nhiệm công dân như điều Hồ
Chí Minh từng nhắc nhở “Nhân dân có quyền lợi làm chủ, thì phải có nghĩa
vụ làm tròn bổn phận công dân, giữ đúng đạo đức công dân” [67, tr.452].
Đảng ta cũng khẳng định rõ “Phát huy dân chủ đi liền với tăng cường pháp
chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao đạo
đức xã hội... Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ để làm mất an
ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội [34, tr.170].
Trong Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam, pháp luật là công cụ
quyền lực để kiểm soát hoạt động của dân chủ để sao cho quyền tự do, dân
chủ của người này, tổ chức này không gây phương hại đến quyền tự do, dân
chủ của người khác, tổ chức khác. Tuy nhiên, hiện nay, mặt bằng dân trí của
138
nông dân ĐBSCL còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật còn nhiều hạn chế, thái
độ thiếu tôn trọng pháp luật còn khá phổ biến. Vì vậy, để nâng cao ý thức
pháp luật, nông dân ĐBSCL cần tập trung vào các vấn đề sau:
Một là, từng chủ thể nông dân cần ra sức học tập, nâng cao năng lực
nhận thức nói chung, ý thức pháp luật nói riêng để tự xác định điều gì là đúng,
điều gì là sai, từ đó điều chỉnh thái độ và hành vi cho phù hợp. Nhưng, xây dựng
ý thức pháp luật không phải là điều dễ dàng. Mọi sự tác động của yếu tố bên
ngoài để xây dựng ý thức pháp luật cho nông dân sẽ khó phát huy hiệu quả, nếu
bản thân người nông dân không quan tâm, bất hợp tác. Vì vậy, để nông dân
ĐBSCL từng bước có được tinh thần thượng tôn pháp luật, có được suy nghĩ
phải sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật thì không có con đường nào
khác hơn là từng chủ thể nông dân phải luôn tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu mà
thành. Nếu để có kiến thức về pháp luật theo kiểu nghiên cứu từ các tài liệu phổ
biến về luật là điều quá khó khăn, thì nông dân ĐBSCL có thể tiếp cận vấn đề
này bằng một cách khá đơn giản lại có tính giải trí đó là nên dành thời gian theo
dõi thời sự, nắm bắt thông tin nhất là các chương trình phổ biến kiến thức pháp
luật. Chẳng hạn, chương trình “Chuyện không của riêng ai” của kênh truyền
hình HTV7 phát sóng vào lúc 21 giờ thứ năm hàng tuần rất sinh động, dễ hiểu,
gần gũi với đời thường đề cập đến tất cả các vấn đề của cuộc sống như đất đai,
hôn nhân, dân sự, hình sự, lao động,…
Hai là, cần tiếp tục phát huy vai trò của các chủ thể nông dân tiến bộ, lại
là những người có uy tín trong cộng đồng để kiên quyết, kiên trì đấu tranh, phê
phán đối với những người có thái độ, hành vi, việc làm không phù hợp, vi phạm
pháp luật. Tuy nhiên, trong đấu tranh trước những việc làm sai trái trong một bộ
phận nông dân thì cũng không nên có thái độ xa lánh, kỳ thị vì điều đó không
đúng với tính cách hào hiệp, nghĩa khí của nông dân ĐBSCL; thay vào đó là sự
139
chân tình, yêu thương của tình làng nghĩa xóm, có sự khoan dung, độ lượng với
tinh thần “đánh người chạy đi chứ không đánh người chạy lại”.
4.2.2. Nhóm giải pháp về xây dựng cơ chế chính sách, tạo môi
trƣờng thuận lợi cho phát huy vai trò chủ thể của nông dân Đồng bằng
sông Cửu Long trong xây dựng nông thôn mới
4.2.2.1. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách,
chương trình hành động cụ thể nhằm phát huy tính chủ động, tích cực của
nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Thứ nhất, cần thường xuyên tổng kết thực tiễn và điều chỉnh đối với các
bộ tiêu chí quốc gia có liên quan đến XDNTM để đảm bảo tính phù hợp và khả
thi khi áp dụng trên thực tế. Chẳng hạn, trong Bộ tiêu chí quốc gia về xã NTM
giai đoạn 2016 - 2020, tại tiêu chí 13.1. “Xã có HTX hoạt động theo đúng quy
định của Luật Hợp tác xã năm 2012” sẽ rất khó thực hiện vì ở nhiều địa
phương vùng ĐBSCL, nhất là nơi có đông đồng bào Khmer, đời sống còn
nhiều khó khăn, trình độ còn hạn chế. Cho nên, cần có sự linh hoạt, mềm dẻo.
Có thể xem tiêu chí này là mục tiêu phấn đấu hơn là sự bắt buộc.
Thứ hai, về căn bản và lâu dài, cần đẩy mạnh công tác giáo dục và đào
tạo, hướng nghiệp và dạy nghề nhằm giúp nông dân có đủ khả năng tiếp cận
và ứng dụng khoa học và công nghệ vào quá trình sản xuất trước sức ép của
sự cạnh tranh khốc liệt trong quá trình hội nhập sâu rộng, toàn diện và dưới
tác động của nền kinh tế tri thức đang phát triển mạnh mẽ. Đối với công tác
giáo dục, phải quyết tâm đạt mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở theo
tinh thần của Thông tư 41/2013/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn ngày 04/10/2013 hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về
XDNTM. Đối với công tác đào tạo, cần hướng sâu vào việc dạy nghề, nâng
cao chất lượng đào tạo của các trường nghề, nhất là các trường cao đẳng nghề
ở tất cả các tỉnh thành ĐBSCL, trong đó tập trung xây dựng một số trường
trọng điểm chất lượng cao như trường cao đẳng nghề Cần Thơ, trường cao
140
đẳng nghề Kiên Giang góp phần đáp ứng nguồn nhân lực cho khu vực. Đây
cũng là một bước cụ thể hóa quyết định 1956/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 27/11/2009 về phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông
thôn đến năm 2020” (gọi tắt là Đề án 1956) [107]. Tuy nhiên, việc xây dựng
các trường nghề, trung tâm dạy nghề cũng cần tính toán chu đáo tránh tình
trạng lãng phí khi đầu tư xây dựng cơ sở vật chất xong nhưng không có người
học như đã xảy ra ở một số địa phương.
Thứ ba, tăng cường chuyển giao khoa học và công nghệ, tập huấn, hội
thảo đầu bờ cho nông dân là yếu tố cần được quan tâm chú trọng, bởi lẽ trong
giai đoạn hiện nay “Khoa học và công nghệ giữ vai trò then chốt trong việc
phát triển lực lượng sản xuất hiện đại” và “Phát triển khoa học và công nghệ
thực sự là động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh và bền vững” [31,
tr.78,132]. Ở ĐBSCL, rất nhiều nông dân với năng lực sáng tạo độc đáo của
mình đã có những sáng chế về máy móc, thiết bị nông nghiệp cũng như cải
tiến kỹ thuật sản xuất [Phụ lục 6]. Vì vậy, các cơ quan chức năng ở các địa
phương, các nhà khoa học nên quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi ở mức tối đa
để hỗ trợ nông dân bổ túc thêm kiến thức khoa học, quy trình thủ tục đăng ký
sở hữu trí tuệ; các doanh nghiệp có thể hỗ trợ vốn, hướng dẫn quy trình sản
xuất, hợp tác sản xuất đại trà mang thương hiệu Việt Nam, thương hiệu nông
dân ĐBSCL. Đây là cách làm thiết thực và hiệu quả giúp nhiều chủ thể nông
dân ĐBSCL đam mê nghiên cứu khoa học có điều kiện thỏa sức phát huy khả
năng sáng tạo vô tận của mình.
Thứ tư, cần thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ vốn, giao đất, giao
rừng (rừng phòng hộ, rừng ngập mặn ven biển) cho nông dân, nhất là đồng
bào dân tộc thiểu số. Việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
29/2013/QĐ-TTg ngày 20/5/2013 [112] về một số chính sách hỗ trợ đất ở, đất
sản xuất và giải quyết việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời
sống khó khăn vùng ĐBSCL bước đầu cơ bản giải quyết được số hộ dân tộc
141
thiểu số Khmer nghèo (theo tiêu chí mới). Tuy nhiên, điều quan trọng là trong
quá trình triển khai cần đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều
điều kiện thuận lợi, tránh gây khó khăn và phiền hà cho nông dân.
Thứ năm, cần tiếp tục quan tâm giữ gìn, bảo tồn các giá trị văn hóa
đặc sắc của nông dân ĐBSCL. Những năm gần đây, việc các địa phương chủ
trương tổ chức các lễ hội càng cho thấy các địa phương ngày một quan tâm
nhiều hơn đến việc đáp ứng, thỏa mãn đời sống văn hóa tinh thần của người
dân, đặc biệt là nông dân. Các hoạt động này trên thực tế được nhân dân hoan
nghênh và tích cực hưởng ứng. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý là chính quyền
và các cơ quan chức năng cần đổi mới cách thức tổ chức sao cho các lễ hội
khi diễn ra phải thực sự là ngày hội, phải thực sự là hoạt động của người dân,
do người dân thực hiện, tránh lặp lại tình trạng ở một số lễ hội trong thời gian
qua tuy trên danh nghĩa là lễ hội dân gian nhưng không thấy yếu tố “dân gian”
ở đâu. Hơn nữa, khi tổ chức các hoạt động lễ hội thì phần lễ nên giảm bớt
theo hướng gọn nhẹ, tiết kiệm; đồng thời tăng phần hội nhiều hơn với sự tham
gia của cộng đồng, tức là phải làm sao khi đến với lễ hội người dân không chỉ
thưởng thức những cái do người khác đem đến, mà điều quan trọng hơn người
dân trực tiếp tham gia và thụ hưởng những thành quả do mình sáng tạo nên,
điển hình như lễ hội Dừa của tỉnh Bến Tre là hoạt động diễn ra trên toàn tỉnh,
được triển khai đến từng tổ nhân dân tự quản để người dân cùng tham gia.
4.2.2.2. Thực hiện tốt mối mối liên kết “Bốn nhà” nhằm phát huy
tính chủ động, tích cực của nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Nông dân là chủ thể XDNTM nhưng nếu chỉ có lực lượng nông dân
không thôi thì chưa đủ, sức mạnh nội lực của quần chúng khó được phát huy
vì suy cho cùng XDNTM là trách nhiệm của toàn xã hội. Cho nên, điều cần
thiết là phải có sự tác động từ các mối liên hệ bên ngoài. Vì thế, chính quyền
các địa phương, các cơ quan chức năng, các tổ chức xã hội, xã hội nghề
nghiệp cần có những chủ trương, chính sách, chương trình, đề án phù hợp để
142
hỗ trợ, chia sẻ, đồng hành cùng nông dân trong XDNTM. Tiềm lực của nông
dân là to lớn và một khi tiềm lực đó được kết hợp bằng sự chung tay góp sức
của cả HTCT và toàn xã hội thì sẽ tạo nên sức mạnh tổng hợp sẽ giúp cho
việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL tốt hơn.
Trên thực tế, điều này dễ nhận thấy thông qua mối liên kết “Bốn nhà”.
Mục đích của mối liên kết “Bốn nhà” là nhằm phát huy thế mạnh, sở trường
cũng như chức năng, nhiệm vụ của từng “Nhà” không chỉ là để phát triển nền
nông nghiệp nói chung, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nền nông
nghiệp, từng bước gia tăng chuỗi giá trị trong từng sản phẩm nông nghiệp nói
riêng mà điều quan trọng hơn có ý nghĩa nhân văn sâu sắc đó là thông qua
mối liên kết “Bốn nhà” suy cho cùng là vì nông dân.
Để hỗ trợ phát huy tốt vai trò chủ thể của nông dân thông qua mối liên
kết “Bốn nhà”, cần xác định trên các vấn đề sau:
Thứ nhất, về nội dung liên kết: nên tập trung liên kết trong thực hiện
mô hình cánh đồng lớn; trong xây dựng các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn
GAP, VietGAP và GlobalGAP; trong các mô hình tổ hợp tác và HTX để các
chủ thể nông dân ĐBSCL có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất nông
nghiệp của mình.
Thứ hai, về phương thức liên kết: Đối với chính quyền cần tập trung
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị trong việc ban hành chủ trương, chính sách
đúng đắn, phù hợp, kịp thời nhằm định hướng và thực hiện tốt vai trò quản lý.
Đối với nhà khoa học cần quan tâm hỗ trợ, chuyển giao, hướng dẫn khoa học
và kỹ thuật cho nông dân. Đối với nhà doanh nghiệp cần đơn giản hóa thủ tục
vay vốn, bao tiêu nông sản đầu ra cho nông dân. Đối với nhà nông trong sản
xuất nông nghiệp cần nghiêm túc thực hiện các tiêu chuẩn, quy chuẩn dưới sự
định hướng, giúp đỡ của các chủ thể trong mối liên kết này.
Thứ ba, về cơ chế của mối liên kết: đây là mối liên kết trên tinh thần tự
nguyện, hợp tác, bình đẳng, cùng cộng đồng trách nhiệm, cùng chia sẻ, cùng
143
tạo dựng sự tin cậy lẫn nhau và cùng có lợi. Lợi ích của các bên phải được tôn
trọng, đảm bảo sự hài hòa, nhưng nông dân cần được ưu tiên về mặt lợi ích vì
ngay từ đầu điều này được xác định như là mục đích, tôn chỉ trong mối liên
kết, nếu không thực hiện được điều này thì việc liên kết không còn ý nghĩa.
Dĩ nhiên, về phía các chủ thể nông dân cũng phải tuân thủ các quy định và
nghiêm túc thực hiện đầy đủ các cam kết với các chủ thể khác.
Tóm lại, sự tác động của Nhà nước, nhà khoa học và nhà doanh nghiệp
đến nhà nông như thế nào, nhiều hay ít, hiệu quả hay không hiệu quả, tích cực
hay tiêu cực, lâu dài hay nhất thời, vì trách nhiệm chung hay lợi ích riêng,…
sẽ tạo nên những hiệu ứng để phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
XDNTM như thế ấy.
4.2.2.3. Ưu tiên đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
trên địa bàn nông thôn tạo động lực cho việc phát huy vai trò chủ thể của
nông dân trong xây dựng nông thôn mới
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH với các công trình trọng
điểm có tính đột phá gắn với đặc thù của ĐBSCL như mạng lưới giao
thông, điện, các cảng cá và hậu cần nghề cá,… là một trong những nội
dung cần được tiếp tục ưu tiên nhằm tạo tiền đề cần thiết để phát huy tốt
hơn vai trò chủ thể của nông dân trong lao động sản xuất cũng như thực
hiện tốt các nội dung khác của bộ tiêu chí về XDNTM.
Đặc biệt, hiện nay có một vấn đề rất quan trọng cần được quan tâm
và phải hành động ngay, đó là vấn đề có liên quan đến “nước”. Có một
nghịch lý ở ĐBSCL đang diễn ra đó là: tuy ĐBSCL là địa bàn có mạng
lưới sông ngòi dày đặt, nhưng lại đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt
nguồn nước nghiêm trọng cho sản xuất và nước sạch sinh hoạt mỗi khi vào
mùa khô hạn. Trong khi đó, muốn phát huy tốt vai trò chủ thể của nông dân
trong sản xuất nông nghiệp thì trước hết nguồn nước tưới tiêu phải được
đảm bảo. Một khi công tác thủy lợi được thực hiện tốt, khép kín, đồng bộ
thì các chủ thể nông dân ở ĐBSCL mới có thể chủ động, tự tin đẩy mạnh
144
sản xuất, thâm canh tăng vụ, thực hiện chuỗi giá trị trên cùng một đơn vị
diện tích. Vì vậy, cần tập trung xây dựng các tuyến đê biển, bờ kè ven
sông, các cống đập, công trình thủy lợi trọng điểm, trồng rừng phòng hộ,
rừng ngập mặn,… gắn với thực hiện tốt các chương trình, dự án phòng
chống, giảm thiểu thiên tai, thích ứng với biến đổi khí hậu. Trong điều kiện
hiện nay, việc xây dựng những công trình thủy lợi có quy mô lớn là rất khó
đối với các địa phương nhưng để tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể
nông dân yên tâm sản xuất, trước mắt các địa phương cần khảo sát lại từng
khu vực, chọn lựa những đoạn sông rạch để nạo vét, khoanh bao thành các
hồ, đập chứa nước, có cống điều tiết tiêu úng, ngăn mặn an toàn đảm bảo
cho hoạt động sản xuất nông nghiệp diễn ra quanh năm nhất là không gặp
khó khăn khi đến mùa hạn mặn.
Một hiện trạng hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH ở ĐBSCL như thế
nào sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
như thế ấy. Cho nên, khi hệ thống kết cấu hạ tầng KT - XH được đầu tư
xây dựng đồng bộ, hoàn chỉnh, tiên tiến không chỉ đem lại một diện mạo
nông thôn khang trang, hiện đại hơn mà còn là mơ ước ngàn đời của nông
dân ĐBSCL. Điều quan trọng, nó là cú hích tạo đà để phát huy vai trò chủ
thể của nông dân tốt hơn, mở đường và góp phần giải phóng sức sản xuất
của các chủ thể nông dân, tạo tiền đề để nông dân ĐBSCL có điều kiện và
cơ hội vươn ra biển lớn.
4.2.2.4. Củng cố và kiện toàn hệ thống chính trị ở cơ sở
Củng cố và kiện toàn HTCT ở cơ sở là công việc thường xuyên. Đối
với địa bàn nông thôn, một HTCT có trong sạch, liêm khiết, gắn bó mật
thiết với nông dân như thế nào sẽ là thước đo tình cảm và niềm tin của
nông dân đối với HTCT như thế ấy. Với nông dân ĐBSCL, một khi có
niềm tin vào HTCT cơ sở thì việc lãnh đạo nông dân, phát huy vai trò chủ
thể của nông dân trong XDNTM sẽ trở nên thuận lợi, dễ dàng.
145
Củng cố và kiện toàn HTCT ở cơ sở phải thường xuyên thực hiện tốt
công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng, công tác cán bộ, công tác kiểm tra
giám sát; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
Đảng, tính tiền phong, gương mẫu của từng cán bộ đảng viên, đặc biệt là
phát huy vai trò trách nhiệm, sự nêu gương của người đứng đầu là vấn đề
cốt lõi cần được thực hiện nghiêm túc.
Vì vậy, từng cán bộ đảng viên phải không ngừng tu dưỡng, rèn
luyện đạo đức, lối sống một cách toàn diện như cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư để thực sự là tấm gương mẫu mực trước quần chúng. Đáng
chú ý trong việc rèn luyện đạo đức, lối sống cần gắn liền với vấn đề
phòng chống tham nhũng. Trong XDNTM, hiện đang có rất nhiều các
chương trình, dự án với nhiều nguồn kinh phí khác nhau được đầu tư vào
đây; đồng thời trong quá trình vận động các chủ thể nông dân tham gia
đóng góp tài lực, vật lực XDNTM ở một số nơi đang có biểu hiện của tình
trạng lạm thu mà nếu quản lý không tốt sẽ dễ dẫn đến tiêu cực. Cho nên,
việc đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng trong XDNTM là điều kiện
quan trọng, là biện pháp an dân, tạo dựng lòng tin trong nông dân đối với
HTCT. Nói cách khác, hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tham
nhũng như thế nào sẽ có tác động trực tiếp đến tình cảm của nông dân đối
với HTCT như thế ấy.
Ngoài ra, cán bộ đảng viên còn cần phải có tác phong quần chúng. Điều
này có nghĩa là, cán bộ đảng viên phải gần gũi, sâu sát với nhân dân đúng với
tinh thần “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” nhưng phải “óc nghĩ, mắt
trông, tai nghe, chân đi, miệng nói, tay làm, chứ không phải nói xuông, chỉ
ngồi viết mệnh lệnh” như Hồ Chí Minh đã dạy; phải có thái độ và hành xử
phù hợp, mềm dẻo trong mối quan hệ với nông dân đó là: kiên quyết đấu
tranh loại bỏ những hạn chế, nhược điểm, tiêu cực của nông dân, nhưng đồng
thời cũng cần kiên trì giáo dục, thuyết phục và cảm hóa.
146
4.2.2.5. Thực hiện tốt vấn đề dân chủ
Hiện nay, một câu hỏi lớn đặt ra làm thế nào để phát huy vai trò và
sức mạnh của nông dân trong các vấn đề trên? Thực tiễn đã cho thấy, để
phát huy tính năng động, sáng tạo của nông dân ĐBSCL thì điều quan trọng
trên hết và trước hết là cần phải có bệ đỡ vững chắc đó chính là phải tạo
dựng cho được một môi trường dân chủ đích thực. Có dân chủ thì mới có
động lực để phát huy tính năng động, sáng tạo của từng chủ thể. Nói cách
khác, tính năng động, sáng tạo của nông dân sẽ được phát huy tốt khi thỏa
mãn được các điều kiện sau:
Một là, thực hiện tốt vấn đề dân chủ nhằm đảm bảo lợi ích chính đáng
của nông dân.
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh từng dạy: “Dân chủ, sáng kiến, hăng
hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần
chúng đề ra sáng kiến” [66, tr.244]. Thế nên, trong quá trình XDNTM, thực
hiện dân chủ, nhất là theo hướng ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất hơn,
là rất quan trọng và cần thiết, là chìa khóa cho sự thành công. Tuy nhiên, thực
hiện dân chủ ở đâu, gắn với vấn đề gì cũng là vấn đề cần xem xét.
Trước hết, đối với HTCT cơ sở phát huy dân chủ phải đi liền với việc
đem lại lợi ích cho dân cư nông thôn vì “Động lực thúc đẩy phong trào nhân
dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân” [32,
tr.40-41]. Vì vậy, trong từng chương trình, dự án cần thực hiện tốt các khâu,
các bước cho thật chính xác, có kế hoạch, tránh tùy tiện, cảm tính; cần phải
hiệp thương với nông dân trong từng vấn đề rất cụ thể, tránh trường hợp đặt
nông dân vào thế đã rồi; phải công khai, minh bạch trước nông dân vì có công
khai, minh bạch trên mọi vấn đề thì càng chứng minh cho nông dân thấy sự
trong sáng, tính liêm khiết và tài năng của các tổ chức và cá nhân.
Riêng đối với người lãnh đạo, cần tăng cường tiếp xúc, đối thoại
với nhân dân. Qua đó, kịp thời nắm bắt và tháo gỡ tâm tư, nguyện vọng,
147
những ý kiến phản ánh của nhân dân, góp phần hạn chế khiếu nại tố cáo
trong dân, đồng thời tạo được niềm tin và đồng thuận từ dân. Đây cũng là
cơ sở để chấn chỉnh những thiếu sót, khuyết điểm của HTCT.
Qua những lần tiếp xúc, đối thoại giữa lãnh đạo với nông dân, nhiều
vấn đề bức xúc trong cuộc sống của nông dân sẽ được kịp thời ghi nhận và
tháo gỡ. Một khi những nhu cầu, mong muốn chính đáng của nông dân được
quan tâm, đáp ứng thì càng tạo dựng được niềm tin trong nông dân. Giữ vững
niềm tin của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng, một thứ quốc bảo của
chế độ ta, quả thật không khó nếu như cả HTCT, từng cán bộ đảng viên thực
sự có cái tâm trong sáng, không sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Ngoài ra, thực hiện dân chủ cũng cần phải có đối với hoạt động của
các mô hình kinh tế hợp tác. Hiện nay, Luật Hợp tác xã năm 2012 đã đi vào
cuộc sống, đây là hành lang pháp lý quan trọng để phát triển các mô hình
kinh tế hợp tác của nông dân. Theo Liên minh HTX Việt Nam, toàn vùng
ĐBSCL hiện có 1928 HTX nông nghiệp. Tuy nhiên, số lượng các HTX hoạt
động thực sự có hiệu quả không quá 10%. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng này là do vi phạm dân chủ. Cho nên, điều quan trọng là
phải tiếp tục phát huy dân chủ trong hoạt động của các HTX vừa là để phát
huy hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh vừa là để ngăn chặn những biểu
hiện tiêu cực thường tập trung vào ban chủ nhiệm các HTX.
Việc thực hiện dân chủ ở nông thôn ĐBSCL cũng cần chú ý tập trung
vào các hoạt động sản xuất trong từng nông hộ, là phát huy dân chủ của từng
thành viên trong gia đình. Đó còn là thực hiện dân chủ nhằm đổi mới, nâng
cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp thông qua các
buổi sinh hoạt vừa trao đổi kinh nghiệm vừa góp phần nâng cao thu nhập vừa
tạo sự gắn kết tình làng nghĩa xóm (các câu lạc bộ của nông dân); phát huy
dân chủ nhằm củng cố và phát triển các làng nghề truyền thống rất đa dạng,
148
phong phú qua đó không chỉ phát triển kinh tế hộ gia đình mà còn góp phần
giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa của vùng đất chín rồng.
Hai là, cần có những chính sách động viên, khen thưởng, tôn vinh nông
dân kịp thời.
Để các hoat động của nông dân ĐBSCL có được hiệu quả tốt hơn
và ngày một lan tỏa thì trong quá trình thực hiện cần tiếp tục có những
chính sách động viên, khen thưởng, tuyên dương, tôn vinh kịp thời; đồng
thời cần nhân rộng những gương nông dân điển hình tiên tiến trên tất cả các
mặt, các phong trào của quá trình XDNTM 4. Các cơ quan chức năng ở các
tỉnh ĐBSCL cần quan tâm xem xét và phong tặng danh hiệu “Nghệ nhân dân
gian” cho những nông dân đã dành trọn tâm sức trong việc bảo tồn bản sắc
văn hóa Chăm, Khmer cũng như đối với các làng nghề thủ công truyền thống
ở ĐBSCL. Mục đích của các việc làm này là nhằm khơi dậy niềm hứng khởi,
phát huy cao hơn nữa tinh thần cách mạng tiến công, tính năng động sáng tạo
của nông dân; tạo nên những hiệu ứng, tâm lý “lây lan” về những điều tích
cực, tiến bộ, tốt đẹp, nhân văn trong cộng đồng để những tấm gương sáng,
những cách làm hay ngày càng trở nên phổ biến, từ đó làm cho cuộc sống của
quảng đại quần chúng nhân dân ở nông thôn từng lúc được nâng cao cả về vật
chất lẫn tinh thần.
Từ năm 2013, Ban Tuyên giáo Trung ương, Hội Nông dân Việt Nam, Báo Nông thôn ngày nay
kết hợp cùng với Đài truyền hình Việt Nam và Công ty cổ phần phân bón Bình Điền (từ năm 2014
có thêm Bộ Nông nghiệp phát triển Nông thôn và Bộ Công - Thương tham gia) tổ chức hằng năm
với Chương trình “Tự hào nông dân Việt Nam” với chủ đề “Đồng hành và chia sẻ”. Đây là chương
trình có quy mô lớn với nhiều nội dung phong phú như: tổ chức nông dân - doanh nhân đồng hành
trên con đường hội nhập, tổng kết hội thi viết “Tự hào nông dân Việt Nam” thường niên và đặc biệt
là nhằm tôn vinh những gương nông dân điển hình tiên tiến có nhiều sáng tạo, đạt hiệu quả cao
trong lao động sản xuất và XDNTM, đạt danh hiệu “Nông dân Việt Nam xuất sắc”.
149
Kết luận chƣơng 4
Việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL
trong những năm vừa qua đạt được nhiều thành tựu cơ bản. Tuy nhiên, vai trò
chủ thể của nông dân ĐBSCL trên thực tế chưa được phát huy đúng mức do
nhiều nguyên nhân khác nhau đã được luận chứng ở chương 3. Ở chương 4,
tác giả luận án đề xuất các quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản để tiếp
tục phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong phong trào XDNTM ở
ĐBSCL ngày một tốt hơn.
Về quan điểm, tác giả cho rằng việc phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong XDNTM ở ĐBSCL là quá trình vừa khơi dậy những mặt ưu điểm,
tích cực của nông dân vừa hoàn thiện người nông dân theo hướng đáp ứng
yêu cầu từ các nội dung của chương trình XDNTM; các nhân tố tác động đến
việc phát huy vai trò chủ thể đều phải hướng đến lợi ích cơ bản, chính đáng
của nông dân; phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở
ĐBSCL giai đoạn hiện nay cần căn cứ vào thực tiễn và yếu tố đặc thù của
vùng để đề ra chủ trương, chính sách phù hợp.
Về giải pháp, với nhóm giải pháp đối với chủ thể nông dân ĐBSCL, trong
đó đáng chú ý nông dân ĐBSCL phải không ngừng chủ động nâng cao trình độ
nhận thức và chuyên môn tay nghề để không ngừng kiến tạo “đồng khởi” khởi
nghiệp, không ngừng phát huy dân chủ để khai thác triệt để tính năng động, sáng
tạo vốn có nhưng đồng thời cũng phải tuân thủ luật pháp. Với nhóm giải pháp về
điều kiện khách quan tác động đến việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân
vùng ĐBSCL, cần tập trung vào các vấn đề như hoàn thiện hệ thống chính sách
đảm bảo tính khả khi, hiệu lực, hiệu quả để hỗ trợ nông dân; tập trung mọi nguồn
lực đẩy mạnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng CNH,
HĐH; huy động nhiều nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT - XH trên
địa bàn nông thôn; củng cố và kiện toàn HTCT ở cơ sở; thực hiện tốt mối liên kết
“Bốn Nhà”.
150
KẾT LUẬN
Sự hình thành và phát triển ĐBSCL không thể thiếu vai trò của người
nông dân. Từ buổi đầu khai hoang, lập ấp với bao khó khăn, gian khổ đã tạo
dựng nên một vùng đất trù phú, đến những năm trường kỳ đấu tranh chống
ngoại xâm giành độc lập dân tộc, nông dân ĐBSCL không ngại gian khổ, hy
sinh cùng cả nước làm nên những thắng lợi vĩ đại. Ngày nay, vai trò của nông
dân ĐBSCL tiếp tục được khẳng định với tư cách là chủ thể trong XDNTM.
Vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL trong cuộc cách mạng xã hội này được
phát huy trên các mặt: thứ nhất, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong
tham gia xây dựng quy hoạch và thực hiện quy hoạch NTM; thứ hai, phát huy
vai trò chủ thể của nông dân trong xây dựng, phát triển hạ tầng KT - XH; thứ
ba, phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong tổ chức sản xuất, phát triển
kinh tế, đổi mới các mô hình sản xuất; thứ tư, phát huy vai trò chủ thể của
nông dân về văn hóa - xã hội - môi trường; thứ năm, phát huy vai trò chủ thể
của nông dân trong tham gia xây dựng HTCT và giữ vững trật tự xã hội, an
ninh nông thôn.
Việc phát huy vai trò chủ thể của nông dân trong XDNTM ở ĐBSCL
đến nay đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng cũng chính trong quá
trình này đang đặt ra những vấn đề và yêu cầu mới đòi hỏi nông dân phải tự
điều chỉnh và vượt qua đó là sự cần thiết phải thay đổi nhận thức, hành vi
trong sinh hoạt và sản xuất theo hướng tiến bộ; là trình độ dân trí phải được
nâng lên; ý thức pháp luật phải được coi trọng... Hơn nữa, trong XDNTM,
nông dân ĐBSCL còn phải đối mặt với những thách thức: thị trường đầu ra
cho nông sản luôn không ổn định, thường gặp rủi ro; sự gắn kết, hỗ trợ, chia
sẻ trong mối liên kết “Bốn nhà” chưa thực sự bền chặt; tác động tiêu cực của
các yếu tố tự nhiên là nỗi lo lớn cho nông dân trong suốt quá trình sản xuất.
151
Xây dựng NTM không có mục đích tự thân. Thực hiện sự nghiệp này
là nhằm góp phần phát triển KT - XH và nhất là phải đem lại những lợi ích
thiết thực cho nông dân. Xây dựng NTM phải do nông dân và vì nông dân. Vì
vậy, hơn ai hết chính bản thân nông dân ĐBSCL phải nỗ lực, phấn đấu vươn
lên vượt qua những rào cản tâm lý, tập quán cũ kỹ và lạc hậu; luôn nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, năng động, sáng tạo trong lao động sản xuất;
không ngừng tự bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và kỹ năng tay
nghề, đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng cao từ thực tiễn của cuộc sống.
Để phát huy tốt hơn vai trò to lớn của từng chủ thể nông dân, cần có
sự tham gia của cả HTCT cùng cộng đồng trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ,
hướng về địa bàn nông thôn, lấy nông dân làm đối tượng cần được quan tâm,
chia sẻ bằng những chương trình hành động, việc làm cụ thể và thiết thực. Từ
việc hoạch định chiến lược, ban hành chính sách đến việc huy động các nguồn
nhân lực thông qua mối liên kết “Bốn nhà”, cũng như phát triển kết cấu hạ
tầng KT - XH nông thôn,... đều là những giải pháp rất cần thiết và quan trọng.
Mỗi giải pháp đều có ý nghĩa, vị trí và mức độ tác động khác nhau đến việc
phát huy vai trò chủ thể của nông dân ĐBSCL. Tuy nhiên, vai trò chủ thể của
nông dân ĐBSCL có được phát huy hay không, phát huy đến mức độ nào, suy
cho cùng, là do bản thân từng chủ thể nông dân quyết định.
Thành công của XDNTM có sự đóng góp to lớn từ các chủ thể nông
dân. Lịch sử đã cho thấy, trong mọi trường hợp biết dựa vào nông dân, biết
phát huy và phát huy có hiệu quả sức mạnh của từng chủ thể nông dân là chìa
khóa của thành công. Là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình này, hơn lúc
nào hết, nông dân ĐBSCL với truyền thống cách mạng vốn có cần tăng cường
đoàn kết, ra sức thi đua, sáng tạo xây dựng nông thôn của vùng đất chín rồng
ngày càng văn minh và giàu đẹp.
152
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2006), “Tìm hiểu về vai trò của quần
chúng nhân dân trong tác phẩm “Gia đình thần thánh” của C. Mác -
Ph.Ăngghen”, Tạp chí Báo Chí và Tuyên truyền, (4), tr.16-19.
2. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2013), “Bến Tre đột phá trong đầu tư xây dựng
kết cấu hạ tầng thủy lợi, giao thông”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 25/6/2013.
3. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2013), “Phát huy vai trò chủ thể của nông
dân Bến Tre trong xây dựng nông thôn mới hiện nay”, Tạp chí Giáo dục lý
luận, (196), tr.81-84.
4. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2014), “Định hướng tâm lý, tính cách
nông dân đồng bằng sông Cửu Long trong vai trò chủ thể xây dựng nông thôn
mới”, Tạp chí Cộng sản - chuyên đề cơ sở, (94), tr. 30-33.
5. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2015), “Phát huy vai trò chủ thể của nông
dân trong xây dựng nông thôn mới ở đồng bằng sông Cửu Long hiện nay”,
Tạp chí Cộng sản - số đặc biệt, (104), tr.102-105.
6. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2015), “Đồng bằng sông Cửu Long trước
những khó khăn, thách thức trong sản xuất nông nghiệp”, Tạp chí Khoa học
chính trị, (7), tr.47-52.
7. Phạm Huỳnh Minh Hùng (2016), “Vai trò của nông dân tham gia giữ
vững trật tự xã hội và an ninh nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long”, Tạp chí
Thông tin Khoa học chính trị, 02(03)-2016, tr.71-75.
153
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Ngọc Anh (Chủ biên) (2013), Tách biệt xã hội về kinh tế đối với nông
dân Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2012), Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi
cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
3. Ban chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM
(2015), Báo cáo kết quả thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia
XDNTM năm 2014 và phương hướng nhiệm vụ năm 2015.
4. Ban Kinh tế Trung ương, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Trường Đại học Cần
Thơ (2014), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Cơ chế chính sách phục vụ
tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Nxb Đại học Cần Thơ.
5. Báo Thanh niên (18/9/2015), số 261 (7209).
6. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy
nguồn lực con người”, Tạp chí Triết học, (1), tr.14-15.
7. Hoàng Chí Bảo, (2010), Dân chủ và dân chủ ở cơ sở nông thôn trong tiến
trình đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Văn Bích (2007), Nông nghiệp, nông thôn Việt Nam sau 20 năm
đổi mới: Qúa khứ và hiện tại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban chỉ đạo Tây Nam bộ, Bộ Công Thương
(2014), Kỷ yếu Hội nghị xúc tiến thương mại - Đầu tư nông nghiệp-
nông thôn vùng ĐBSCL.
10. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Viện Nghiên cứu chiến lược và
chính sách khoa học và công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
11. Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn (2009), Thông tư số 54/2009/TT-
BNNPTNT Hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
154
12. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Uỷ
ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng (Chủ biên) (2014), Kỷ yếu Hội thảo
Tái cơ cấu phát triển nông nghiệp gắn xây dựng nông thôn mới thích
ứng với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
13. Bộ Nông nghiệp và phát triển Nông thôn (2015), Báo cáo số 548/BC-
BNN-VPĐP về Tình hình thực hiện rà soát điều chỉnh, bổ sung một
số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
14. Bộ Xây dựng, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và
Môi trường (2011), Thông tư liên tịch số 13/2011/TTLT-BXD-
BNNPTNT-BTN&MT về Quy định việc lập, thẩm định, phê duyệt
quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
15. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2010), Thông tư số 12/2010/TT-
BVHTTDL Quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của
Trung tâm văn hóa - thể thao xã.
16. Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch (2011), Thông tư số 06/2011/TT-
BVHTTDL Quy định mẫu về tổ chức, hoạt động và tiêu chí của nhà
văn hóa - khu thể thao thôn.
17. Trương Quốc Chính (Sách chuyên khảo) (2013), Xây dựng nhà nước
pháp quyền Việt Nam theo quan điểm Mácxít, Nxb Chính trị quốc
gia - Sự thật, Hà Nội.
18. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa và Đặng Hữu Toàn (chủ biên)
(2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam. Lý luận và thực
tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Nguyễn Sinh Cúc (2015), “Kết quả sau bốn năm thực hiện Chương trình
xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Lý luận Chính trị, (3), tr 38-44.
20. Dan Senor and Saul Singer (2013), Quốc gia khởi nghiệp - Câu chuyện về
nền kinh tế thần kỳ của Israel, Nxb Thế giới.
155
21. Hoàng Phó Dân (2014), “Phát huy vai trò của giai cấp nông dân và Hội
Nông dân Việt Nam trong xây dựng nông thôn mới”, Tạp chí Cộng
sản (Chuyên đề cơ sở), (94), tr.15-19.
22. Nguyễn Văn Dũng (2014), Thị trường sức lao động ở khu vực Đồng bằng
sông Cửu Long, Luận án Tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Đạm (1999), Từ điển tường giải và liên tưởng tiếng Việt,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
24. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
25. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội.
26. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ Bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Văn kiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ
Bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI
về “Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
dân vận trong tình hình mới”.
156
33. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng
kết (2015), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30
năm đổi mới (1986-2016), Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.
35. Phạm Đi (2015), “Nhận thức của cán bộ lãnh đạo, quản lý về Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới (Qua khảo sát
tại một số tỉnh duyên hải Nam Trung bộ)”, Tạp chí Lý luận Chính
trị, (10), tr.65-69.
36. Ngô Đình Giao (chủ biên) (1996), Suy nghĩ về công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở nước ta (một số vấn đề lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
37. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2004), Tâm lý người Việt Nam đi vào công
nghiệp hóa, hiện đại hóa Những điều cần khắc phục, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
39. Nguyễn Hùng Hậu, (Chủ biên) (2011), Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn
biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
40. Hồ Quế Hậu (2012), Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến nông
sản với nông dân ở Việt Nam, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân.
41. Vũ Quang Hiển (Chủ biên) (2013), Đảng với vấn đề nông dân, nông
nghiệp và nông thôn (1930 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
42. Hoàng Ngọc Hòa (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn trong quá
trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
43. Phạm Ngọc Hòa (2015), “Giải pháp cho vấn đề Tam nông ở Đồng bằng
sông Cửu Long”, Tạp chí Kinh tế và Quản lý, (13), tr.57-59.
157
44. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tâm lý xã hội trong quá
trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
45. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh , Học viện Chính trị khu vực IV
(11/2014), Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề án nhánh số 12,
Đề án Chính sách khuyến khích đồng bào Khmer vùng Tây Nam Bộ
tham gia tích cực vào chiến lược quốc phòng, an ninh, bảo vệ tuyến
biên giới Tây Nam của Tổ quốc, Cần Thơ.
46. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Tóm tắt kết quả nghiên
cứu đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ giai đoạn 2006 - 2010
của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (Tập 1), Nxb Lý luận
Chính trị, Hà Nội.
47. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2014), Giáo trình Trung cấp
Chính trị - Hành chính, môn Những vấn đề cơ bản về quản lý hành
chính Nhà nước, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
48. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương (2013), Hội đồng khoa
học cơ quan Ban Dân vận Trung ương, Đề tài khoa học Công tác
dân vận trong thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo vùng đồng
bào dân tộc Khmer Tây Nam bộ - Thực trạng và giải pháp, mã số
KHBD (2012)-12.
49. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, Hội đồng khoa học cơ
quan Ban Dân vận Trung ương (2014), Đề tài khoa học Phát huy vai
trò của Hội Nông dân Việt Nam trong xây dựng nông thôn mới ở khu
vực đồng bằng sông Hồng, mã số KHBĐ (2013)-39.
50. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, Hội đồng khoa học
Tạp chí Cộng sản (2014), Đề tài khoa học Bảo tồn và phát huy giá
trị văn hóa truyền thống vùng đồng bằng Bắc bộ trong xây dựng
nông thôn mới hiện nay, mã số KHBĐ (2013)-12.
158
51. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, Hội đồng khoa học
Văn phòng Trung ương (2012), Đề tài khoa học Một số giải pháp
xây dựng nông thôn mới vùng ven biển Đồng bằng sông Hồng, mã
số KHBĐ (2009)-16.
52. Hội đồng Lý luận Trung ương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia (2009),
Vấn đề nông nghiêp, nông dân, nông thôn - Kinh nghiệm Việt Nam,
kinh nghiệm Trung Quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
53. Đỗ Quang Hưng (2014) (Sách thao khảo, tái bản lần thứ nhất), Nhà nước -
Tôn giáo - Luật pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Bùi Thị Thanh Hương (2000), Đặc điểm và xu hướng biến đổi giai cấp
nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết
học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
55. Nguyễn Đình Hương (chủ biên) (1999), Sản xuất và đời sống của các hộ
nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long.
Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. V.I. Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
57. Dương Thị Liễu (2001), Tác động của điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan đối với quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
58. Lê Quốc Lý (chủ biên) (2012), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn. Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
59. C.Mác, Ph.Ăngghen (1981), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
60. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
62. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Đỗ Thị Thanh Mai (2001), Tâm lý nông dân miền Bắc Việt Nam khi chuyển
sang kinh tế thị trường - Đặc trưng và xu hướng biến đổi. Luận án tiến
sĩ Triết học, Hà Nội.
159
64. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
65. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
66. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
67. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
68. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
69. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
70. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
71. Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
72. Sơn Nam (2006), Nói về miền Nam, cá tính miền Nam, thuần phong mỹ
tục Việt Nam, Nxb Trẻ.
73. Sơn Nam (2014), Đồng bằng sông Cửu Long - Nét sinh hoạt xưa và văn
minh miệt vườn, Nxb Trẻ.
74. Sơn Nam (2014), Lịch sử khẩn hoang miền Nam, Nxb Trẻ.
75. Sơn Nam (2014), Sài Gòn xưa - Ấn tượng 300 năm và tiếp cận với Đồng
bằng sông, Nxb Trẻ.
76. Trương Giang Nam, Nguyễn Thành Phong (Đồng chủ biên) (2011), Liên
kết "4 nhà" - giải pháp cơ bản góp phần xây dựng nông thôn mới ở
đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Văn hóa - Thông tin.
77. Napoleon Hill (2013), Nghĩ giàu, làm giàu - Think and grow rich, Nxb
Tổng hợp TP HCM, tr. 205-206.
78. Đỗ Quỳnh Nga (2013), Công cuộc mở đất Tây Nam Bộ thời chúa Nguyễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Lê Hữu Nghĩa (2016), “Thực hành dân chủ qua 30 năm đổi mới - Thực
trạng và giải pháp”, trong Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Nga, (đồng
chủ biên), Triết học chính trị - con người - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Lý luận chính trị, tr.9-26.
160
80. Nguyễn Thiện Nhân (2015), “Phát triển hợp tác xã nông nghiệp kiểu mới
- Khâu đột phá để cơ cấu lại nông nghiệp và nâng cao thu nhập bền
vững cho người nông dân”, Tạp chí Cộng sản, (873), tr.16-22.
81. Nhiều tác giả (2008), Nông dân, Nông thôn và Nông nghiệp: Những vấn
đề đang đặt ra, Nxb Tri thức, Hà Nội.
82. Hoàng Phê (Chủ biên) (1997), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Trung
tâm Từ điển học.
83. Trần Văn Phòng, Nguyễn Thị Nga (Đồng chủ biên) (2016), Triết học
chính trị - con người – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Lý
luận chính trị.
84. Nguyễn Phong Quang (2015), “Cơ cấu lại và phát triển bền vững nông
nghiệp Đồng bằng sông Cửu Long trên cơ sở liên kết vùng”, Tạp chí
Cộng sản điện tử, đăng ngày 8/7/2015.
85. Nguyễn Thị Quế, Ngô Thuý Hiền (Sách chuyên khảo) (2014), Địa - chính
trị thế giới, Nxb Văn hóa - Thông tin.
86. Nguyễn Duy Qúy, Nguyễn Tất Viễn (Đồng chủ biên) (2010), Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân - Lý
luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm và Lê Doãn Tá (đồng chủ biên) (2002),
Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước.
Vấn đề và kinh nghiệm, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội.
88. Đặng Kim Sơn và các cộng sự (2014), Đổi mới chính sách nông nghiệp
Việt Nam: Bối cảnh, nhu cầu và triển vọng. Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội.
89. Nguyễn Ngọc Sơn (2001), Nguồn nhân lực nông thôn trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta - Đặc điểm và xu hướng
phát triển, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội.
161
90. Phan Xuân Sơn (chủ biên), (2002), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo
đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
91. Tạp chí Cộng sản, Ban Chỉ đạo Tây Nam bộ, Tỉnh ủy Sóc Trăng (2013),
Khoa học - công nghệ trong phát triển nông nghiệp bền vững vùng
Đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
92. Tạp chí Cộng sản, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hậu Giang (2013), Kỷ yếu Hội
thảo khoa học Đẩy mạnh tuyên truyền trên báo Đảng về nông
nghiệp, nông dân, nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long.
93. Đặng Đức Thành (chủ biên) (2009), Nông dân dựa vào đâu?, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
94. Mạch Quang Thắng (2015), “Cơ cấu giai cấp nông dân - Một số biến đổi
(chủ yếu từ năm 1996 đến nay)”, Tạp chí giáo dục lý luận,
(223+224), tr.70-74.
95. Nguyễn Xuân Thắng (2015), “Phát huy vai trò chủ thể của nông dân và giải
quyết mối quan hệ giữa pháp luật và các thể chế tự quản trong xây dựng
nông thôn mới”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, (6-91), tr.3-6.
96. Trần Ngọc Thêm (chủ biên) (2014), Văn hóa người Việt vùng Tây Nam Bộ,
Nxb Văn hóa - Văn nghệ, TP HCM.
97. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt Nam,
Nxb Trẻ.
98. Đàm Văn Thọ - Vũ Hùng (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
99. Thủ tướng Chính phủ (1998), Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg về Phát
triển KT - XH ở các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và
miền núi.
100. Thủ tướng Chính phủ (2004), Quyết định 134/2004/QĐ-TTg về việc Hỗ
trợ đất sản xuất, nhà ở, đất ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo.
162
101. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg về Một số
chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở, đất sản xuất và giải quyết việc
làm cho đồng bào Khmer nghèo, đời sống khó khăn vùng ĐBSCL
giai đoạn 2008 - 2010.
102. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định 167/2008/QĐ-TTg về Chính
sách hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở.
103. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 102/QĐ-TTg về Chính sách
hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc diện hộ nghèo ở vùng khó khăn.
104. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 491/QĐ-TTg về Bộ tiêu chí
Quốc gia xây dựng nông thôn mới.
105. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 492/QĐ-TTg về việc Phê
duyệt Đề án thành lập vùng kinh tế trọng điểm vùng đồng bằng sông
Cửu Long.
106. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1581/QĐ-TTg về việc Phê
duyệt quy hoạch xây dựng vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm
2020 và tầm nhìn đến năm 2050.
107. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 1956/QĐ-TTg về phê duyệt
đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”.
108. Thủ tướng Chính phủ (2009), Quyết định số 2190/QĐ-TTg về việc Phê
duyệt Quy hoạch phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm
2020, định hướng đến năm 2030.
109. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 800/QĐ-TTg về việc Phê
duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới
giai đoạn 2010 - 2020.
110. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 939/QĐ-TTg về việc Phê
duyệt Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng
sông Cửu Long đến năm 2020.
163
111. Thủ tướng Chính phủ (2012), Quyết định số 1397/QĐ-TTg Phê duyệt
quy hoạch thủy lợi xây dựng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn
2012 - 2020 và định hướng đến năm 2050 trong điều kiện biến đổi
khí hậu, nước biển dâng.
112. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 29/2013/QĐ-TTg về một số
chính sách hỗ trợ giải quyết đất ở và giải quyết việc làm cho đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn vùng Đồng bằng sông
Cửu Long giai đoạn 2013 - 2015.
113. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg về Chính
sách khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu
thụ nông sản, xây dựng cánh đồng lớn.
114. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 342/QĐ-TTg về Sửa đổi một
số tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
115. Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định số 449/QĐ-TTg về Phê duyệt
chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020.
116. Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị định 36/2014/NĐ-CP về nuôi, chế
biến và xuất khẩu sản phẩm cá tra.
117. Thủ tướng Chính phủ (2014), Nghị định số 67/2014/NĐ-CP về một số
chính sách phát triển thủy sản.
118. Thủ tướng Chính phủ (2016), Quyết định số 1980/QĐ-TTg về việc ban
hành Bộ tiêu chí quốc gia về xã nông thôn mới giai đoạn 2016 -
2020.
119. Ngô Huy Tiếp (Chủ biên) (2010), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo
xây dựng giai cấp nông dân trong giai đoạn hiện nay, Nxb Chính trị
Quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
120. Tỉnh ủy Bến Tre, Báo cáo số 471-BC/TU ngày 03/8/2014, Sơ kết 4 năm
thực hiện Nghị quyết 03-NQ/TU của Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn
mới giai đoạn 2011 - 2015 và định hướng đến năm 2020.
164
121. Nguyễn Phú Trọng (Chủ biên) (2011), Về các mối quan hệ lớn cần được
giải quyết tốt trong quá trình đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta, Nxb Chính trị Quốc - Sự thật, Hà Nội.
122. Nguyễn Văn Tuấn (Sưu tầm, tuyển chọn) (2009), Đảng, Bác Hồ với vấn
đề tam nông, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.
123. Nguyễn Từ (Chủ biên) (2010), Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế đối với
phát triển nông nghiệp Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
124. Tổng cục Thống kê (2014), Niên giám thống kê 2013, Nxb Thống kê, Hà Nội.
125. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Viện Kinh tế học,
Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2003), Một số vấn đề công nghiệp hóa,
hiện đại hóa ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
126. Trung tâm Phát triển nông thôn bền vững (SRD) (2014), Xây dựng câu
lạc bộ sinh kế cộng đồng - Góp phần xóa đói giảm nghèo, Nxb
Thông tin và Truyền thông.
127. Từ điển Triết học (1986), Nxb Tiến bộ Mát-Xcơ-va.
128. Hoàng Mạnh Tưởng (2015), “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực vùng
Tây Nam Bộ trong tiến trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa”, Tạp chí Khoa học Chính trị, (7), tr.60-66.
129. Uỷ ban Kinh tế Quốc Hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn,
Tỉnh ủy Bến Tre, Báo Sài Gòn giải phóng (2015), Tài liệu hội thảo
Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp bền vững, Bến Tre.
130. Uỷ ban nhân dân tỉnh An Giang (2014), Báo cáo Sơ kết 3 năm (2011 - 2013)
thực hiện phong trào thi đua xây dựng nông thôn mới tỉnh An Giang.
131. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bạc Liêu, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
(2014), Báo cáo Sơ kết 03 năm (2011 - 2013) thực hiện Chương
trình mục tiêu quốc gia XDNTM trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu.
132. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2013), Đề án số 6227/ĐA-UBND về Tái
cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và
165
phát triển bền vững tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013 - 2015 và hướng
đến năm 2020.
133. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới
(2014), Báo cáo số 106/BC-BCĐ về Sơ kết 03 năm thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM.
134. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Liên hiệp các Hội khoa học và kỹ thuật
(2014), Đề xuất các giải pháp chủ yếu xây dựng xã nông thôn mới
theo bộ tiêu chí của tỉnh trên địa bàn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2012 -
2014, Đề tài khoa học cấp tỉnh.
135. Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang (2014), Kiên Giang cơ hội đầu tư,
thương mại và du lịch năm 2014.
136. Uỷ ban nhân dân tỉnh Long An, Ban Chỉ đạo chương trình đầu tư xây dựng
và phát triển nông thôn mới (2013), Báo cáo số 1638/BC-BCĐ về Sơ
kết 03 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia XDNTM.
137. Uỷ ban nhân dân tỉnh Sóc Trăng, Quyết định 820/QĐHC-CTUBND về
việc phê duyệt dự án “Hỗ trợ nông dân mua máy gặt đập liên hợp,
thực hiện cơ giới hóa khâu thu hoạch trong sản xuất lúa trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng giai đoạn 2011 - 2015”.
138. Uỷ ban Thường vụ Quốc hội (2007), Pháp lệnh số 34/2007/PL-
UBTVQH11 về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
139. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ.
Trung tâm hỗ trợ khoa học và công nghệ phát triển nông thôn
(1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
140. Viện Nghiên cứu con người, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2003), Con người và
phát triển con người trong quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
166
141. Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đặng
Kim Sơn (2008), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam. Hôm
nay và mai sau, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
142. Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp, nông thôn. Đặng
Kim Sơn (2008), Kinh nghiệm quốc tế về nông nghiệp, nông thôn,
nông dân trong quá trình công nghiệp hóa, Nxb Chính trị quốc gia -
Sự thật, Hà Nội.
143. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Trần Thị Minh
Ngọc (Chủ biên) (2010), Việc làm của nông dân trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm
2020, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
144. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Nguyễn Thị
Tố Quyên (Chủ biên) (2012), Nông nghiệp, nông dân, nông thôn
trong mô hình tăng trưởng kinh tế mới giai đoạn 2011 - 2020, Nxb
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
145. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Nghiên cứu Trung Quốc, Đỗ Tiến
Sâm (Chủ biên) (2008), Vấn đề Tam nông ở Trung Quốc (Thực
trạng và giải pháp), Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
146. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội,
Bùi Quang Dũng (2013), Nông dân những vần đề cơ bản và đương
đại (Sách chuyên khảo dành cho Chương trình đào tạo sau đại học
khoa học xã hội), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
147. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Kinh tế Việt Nam, Trần
Minh Yến (Chủ biên) (2013), Xây dựng nông thôn mới. Khảo sát và
đanh giá, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
148. Viện Ngôn ngữ học, Hoàng Phê (Chủ biên) (1997), Từ điển tiếng Việt,
Nxb Đà Nẵng, Trung tâm Từ điển học, Hà Nội - Đà Nẵng.
149. Vũ Khiêu (2002), Bàn về Văn hiến Việt Nam, Nxb TP Hồ Chí Minh.
167
150. Vũ Văn Phúc (Chủ biên) (2012), Xây dựng nông thôn mới những vấn đề
lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
151. Võ Tòng Xuân (2015), “Vai trò của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà khoa
học và nông dân trong việc hình thành và phát triển các chuỗi giá trị
nông nghiệp”, Tài liệu hội thảo Phát triển chuỗi giá trị nông nghiệp
bền vững, Uỷ ban Kinh tế Quốc hội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, Tỉnh ủy Bến Tre, Báo Sài Gòn giải phóng, Bến Tre,
tr.120-129.
168
PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1
BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA VỀ NÔNG THÔN MỚI
A. XÃ NÔNG THÔN MỚI
I. QUY HOẠCH
TT TÊN TIÊU
CHÍ NỘI DUNG TIÊU CHÍ
CHỈ TIÊU
NTM
TỈNH
1
Quy hoạch
và thực hiện
quy hoạch
1.1. Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho
phát triển sản xuất hàng hóa, công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp, dịch vụ đến năm 2020, tầm nhìn 2025
Đạt 1.2. Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội -
môi trường theo chuẩn mới
1.3. Quy hoạch phát triển các khu dân cư mới và
chỉnh trang các khu dân cư hiện có theo hướng văn
minh, bảo tồn được bản sắc văn hóa tốt đẹp
II. HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI
2 Giao thông
2.1. Tỷ lệ km đường trục xã, liên xã được nhựa hóa
hoặc bê tông hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ
Giao thông - vận tải
100%
2.2. Tỷ lệ km đường từ xã đến ấp và liên ấp được
cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao
thông - vận tải
50%
2.3. Tỷ lệ km đường từ ấp đến khu dân cư sạch và
không lầy lội vào mùa mưa
100%
(30% cứng
hóa)
2.4. Tỷ lệ km đường từ khu dân cư ra đồng ruộng
được cứng hóa, xe cơ giới đi lại thuận tiện 50%
3 Thủy lợi
3.1. Hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất
và dân sinh Đạt
3.2. Tỷ lệ km kênh mương do xã quản lý chủ động
tưới tiêu 85%
4 Điện 4.1. Hệ thống điện đảm bảo yêu cầu kỹ thuật của
ngành điện Đạt
169
4.2. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường xuyên, an toàn từ
các nguồn 98%
5 Trƣờng học
Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non, mẫu giáo, tiểu
học, trung học cơ sở có cơ sở vật chất đạt chuẩn
Quốc gia
70%
6 Cơ sở vật
chất văn hoá
6.1. Nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của
Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch Đạt
6.2. 100% ấp có nhà văn hóa và khu thể thao
ấp, trong đó có 50% nhà văn hóa và khu thể thao ấp
đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa - Thể thao
và Du lịch
Đạt
7 Chợ nông
thôn Chợ theo quy hoạch, đạt chuẩn theo quy định Đạt
8 Bƣu điện
8.1. Có điểm phục vụ bưu chính viễn thông Đạt
8.2. Có Internet đến ấp Đạt
9 Nhà ở
dân cƣ
9.1. Nhà tạm, dột nát Không
9.2. Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn Bộ Xây dựng 70%
III. KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT
10 Thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người
khu vực nông thôn
(triệu đồng/người)
Năm 2012 20
Năm 2015 29
Năm 2020 49
11 Hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo < 7%
12
Tỷ lệ LĐ có
việc làm
thƣờng
xuyên
Tỷ lệ người làm việc trên dân số trong độ tuổi lao
động ≥ 90%
13 Hình thức tổ
chức sản SX
Có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả.
Trong sản xuất không gây suy thoái đất Có
IV. VĂN HÓA - XÃ HỘI - MÔI TRƢỜNG
14
Giáo dục
14.1 Phổ cập giáo dục trung học cơ sở Đạt
14.2 Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở được
tiếp tục học trung học (phổ thông, bổ túc, học nghề) 80%
14.3 Tỷ lệ lao động qua đào tạo > 20%
15 Y tế 15.1 Tỷ lệ người dân tham gia Bảo hiểm y tế ≥ 70%
170
15.2 Y tế xã đạt chuẩn Quốc gia Đạt
16 Văn hóa Xã đạt văn hóa theo quy định của Bộ Văn hóa-Thể
thao và Du lịch Đạt
17 Môi trƣờng
17.1 Có trên 75% số hộ được sử dụng nước sinh hoạt
hợp vệ sinh, trong đó có ít nhất 50% hộ sử dụng nước
sạch theo quy chuẩn Quốc gia
Đạt
17.2 Các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tiêu chuẩn về
môi trường Đạt
17.3 Không có các hoạt động gây suy giảm môi
trường và có các hoạt động phát triển môi trường
xanh, sạch, đẹp
Đạt
17.4 Nghĩa trang được xây dựng theo quy hoạch Đạt
17.5 Chất thải, nước thải được thu gom và xử lý theo
quy định Đạt
V. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
18
Hệ thống
tổ chức chính
trị
xã hội
vững mạnh
18.1 Cán bộ xã đạt chuẩn Đạt
18.2 Có đủ các tổ chức trong hệ thống chính trị cơ sở
theo quy định Đạt
18.3 Đảng bộ, Chính quyền xã đạt tiêu chuẩn "Trong
sạch, vững mạnh" Đạt
18.4 Các tổ chức đoàn thể chính trị của xã đều đạt
danh hiệu tiên tiến trở lên Đạt
19 An ninh, trật
tự xã hội An ninh, trật tự xã hội được giữ vững Đạt
Nguồn: [104], [114].
171
PHỤ LỤC 2
BỘ TIÊU CHÍ QUỐC GIA VỀ XÃ NÔNG THÔN MỚI
GIAI ĐOẠN 2016 - 2020
(ÁP DỤNG TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG)
I. QUY HOẠCH
TT TÊN TIÊU
CHÍ NỘI DUNG TIÊU CHÍ CHỈ TIÊU NTM TỈNH
1 Quy hoạch
1.1. Có quy hoạch chung xây dựng xã (1)
được phê duyệt và được công bố
công khai đúng thời hạn. Đạt
1.2. Ban hành quy định quản lý quy
hoạch chung xây dựng xã và tổ chức
thực hiện theo quy hoạch
Quy hoạch chung xây dựng xã phải đảm bảo thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với
ứng phó biến đổi khí hậu, quá trình đô thị hóa của các xã ven đô và đảm bảo tiêu chí môi trường
nông thôn
II. HẠ TẦNG KINH TẾ - XÃ HỘI
2 Giao thông
2.1. Đường xã và đường từ trung tâm
xã đến đường huyện được nhựa hóa
hoặc bê tông hóa, đảm bảo ô tô đi lại
thuận tiện quanh năm
UBND cấp tỉnh quy định
cụ thể để phù hợp với quy
hoạch, điều kiện thực tế,
nhu cầu phát triển KT -
XH, đảm bảo tính kết nối
của hệ thống giao thông
trên địa bàn.
2.2. Đường trục thôn, bản, ấp và đường
liên thôn, bản, ấp ít nhất được cứng
hóa, đảm bảo ô tô đi lại thuận tiện
quanh năm
2.3. Đường ngõ, xóm sạch và không lầy
lội vào mùa mưa
2.4. Đường trục chính nội đồng đảm
bảo vận chuyển hàng hóa thuận tiện
quanh năm
172
3
Thủy lợi
3.1. Tỷ lệ diện tích đất sản xuất nông
nghiệp được tưới và tiêu nước chủ động
đạt từ 80% trở lên
UBND cấp tỉnh quy định
cụ thể theo hướng đảm
bảo mục tiêu tái cơ cấu
ngành nông nghiệp, thích
ứng với biến đổi khí hậu
và hình thành các vùng
SX nông sản hàng hóa
phát triển bền vững
3.2. Đảm bảo đủ điều kiện đáp ứng yêu
cầu dân sinh và theo quy định phòng
chống thiên tai tại chỗ
Đạt
4 Điện
4.1. Hệ thống điện đạt chuẩn Đạt
4.2. Tỷ lệ hộ sử dụng điện thường
xuyên, an toàn từ các nguồn ≥98%
5 Trƣờng học
Tỷ lệ trường học các cấp: mầm non,
mẫu giáo, tiểu học, trung học cơ sở có
cơ sở vật chất và thiết bị dạy học đạt
chuẩn quốc gia
≥70%
6 Cơ sở vật
chất văn hóa
6.1. Xã có nhà văn hóa hoặc hội trường
đa năng và sân thể thao phục vụ sinh
hoạt văn hóa, thể thao của toàn xã
UBND cấp tỉnh quy định
cụ thể phù hợp với điều
kiện thực tế, nhu cầu của
cộng đồng và đặc điểm
văn hóa từng dân tộc
6.2. Xã có điểm vui chơi, giải trí và thể
thao cho trẻ em và người cao tuổi theo
quy định. (Điểm vui chơi, giải trí và thể
thao cho trẻ em của xã phải đảm bảo
điều kiện và có nội dung hoạt động
chống đuối nước cho trẻ em)
6.3. Tỷ lệ thôn, bản, ấp có nhà văn hóa
hoặc nơi sinh hoạt văn hóa, thể thao
phục vụ cộng đồng
100%
7
Cơ sở hạ
tầng thƣơng
mại nông
thôn
Xã có chợ nông thôn hoặc nơi mua bán,
trao đổi hàng hóa
UBND cấp tỉnh quy định
cụ thể để phù hợp với quy
hoạch, điều kiện thực tế,
nhu cầu phát triển KT -
XH và đặc điểm văn hóa
của từng dân tộc
173
8 Thông tin và
truyền thông
8.1. Xã có điểm phục vụ bưu chính
UBND cấp tỉnh quy định
cụ thể phù hợp với điều
kiện thực tế, nhu cầu của
các tổ chức và cộng đồng
từng xã
8.2. Xã có dịch vụ viễn thông, internet
8.3. Xã có ứng dụng côgn nghệ thông
tin trong công tác quản lý, điều hành
9 Nhà ở
dân cƣ
9.1. Nhà tạm, dột nát Không
9.2. Tỷ lệ hộ có nhà ở đạt tiêu chuẩn
theo quy định ≥70%
III. KINH TẾ VÀ TỔ CHỨC SẢN XUẤT
10 Thu nhập
Thu nhập bình quân đầu người khu vực
nông thôn đến năm 2020 (triệu
đồng/người)
≥50
11 Hộ nghèo Tỷ lệ hộ nghèo đa chiều giai đoạn 2016
- 2020 ≤4%
12 Lao động có
việc làm
Tỷ lệ người có việc làm trên dân số
trong độ tuổi lao động có khả năng
tham gia lao động
Đạt
13 Tổ chức
sản xuất
13.1. Xã có HTX hoạt động theo đúng
quy định của Luật Hợp tác xã năm
2012
Đạt
13.2. Xã có mô hình liên kết SX gắn
với tiêu thụ nông sản chủ lực đảm bảo
bền vững
Đạt
IV. VĂN HÓA - XÃ HỘI - MÔI TRƢỜNG
14
Giáo dục và
Đào tạo
14.1. Phổ cập giáo dục mầm non cho
trẻ 5 tuổi, xóa mù chữ, phổ cập giáo
dục tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập giáo
dục trung học cơ sở
Đạt
14.2. Tỷ lệ học sinh tốt nghiệp Trung
học cơ sở được tiếp tục học trung học
(phổ thông, bổ túc, học nghề)
≥80%
14.3. Tỷ lệ lao động có việc làm qua đào
tạo ≥25%
15 Y tế
15.1. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm
y tế Đạt
15.2. Xã đạt tiêu chí Quốc gia về y tế Đạt
15.3. Tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy ≤20,5%
174
dinh dưỡng thể thấp còi (chiều cao theo
tuổi)
16 Văn hóa Tỷ lệ thôn, bản, ấp đạt tiêu chuẩn văn
hóa theo quy định Đạt
17
Môi trƣờng
và an toàn
thực phẩm
17.1. Tỷ lệ hộ được sử dụng nước hợp
vệ sinh và nước sạch theo quy định
≥95%
(≥65% nước sạch)
17.2. Tỷ lệ cơ sở SX, kinh doanh, nuôi
trồng thủy sản, làng nghề đảm bảo quy
định về bảo vệ môi trường
100%
17.3. Xây dựng cảnh quan, môi trường
xanh, sạch, đẹp, an toàn Đạt
17.4. Mai táng phù hợp với quy định và
theo quy hoạch
UBND cấp tỉnh quy định
cụ thể để phù hợp với
điều kiện thực tế và đặc
điểm văn hóa từng dân
tộc
17.5. Chất thải rắn trên địa bàn và
nước thải dân cư tập trung, cơ sở SX-
kinh doanh được thu gom, xử lý theo
quy định
Đạt
17.6. Tỷ lệ hộ có nhà tiêu, nhà tắm, bể
chứa nước sinh hoạt hợp vệ sinh và
đảm bảo 3 sạch. (Sạch nhà, sạch bếp,
sạch ngõ theo nội dung cuộc vận động
“Xây dựng gia đình 5 không, 3 sạch”
do Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam phát động)
≥70%
17.7. Tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng trại
chăn nuôi đảm bảo vệ sinh môi trường ≥70%
17.8. Tỷ lệ hộ gia đình và cơ sở SX,
kinh doanh thực phẩm tuân thủ các quy
định về đảm bảo an toàn thực phẩm
100%
V. HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
18
Hệ thống
chính trị
và tiếp cận
pháp luật
18.1. Cán bộ, công chức xã đạt chuẩn Đạt
18.2. Có đủ các tổ chức trong hệ thống
chính trị cơ sở theo quy định Đạt
18.3. Đảng bộ, Chính quyền xã đạt tiêu
chuẩn "Trong sạch, vững mạnh" Đạt
175
18.4. Tổ chức chính trị - xã hội của xã
đạt loại khá trở lên 100%
18.5. Xã đạt chuẩn tiếp cận pháp luật
theo quy định Đạt
18.6. Đảm bảo bình đẳng giới và phòng
chống bạo lực gia đình; bảo vệ và hỗ trợ
những người dễ bị tổn thương trong các
lĩnh vực của gia đình và đời sống xã hội
Đạt
19 Quốc phòng
và An ninh
19.1. Xây dựng lực lượng dân quân
“vững mạnh, rộng khắp” và hoàn thành
các chỉ tiêu quốc phòng
Đạt
19.2. Xã đạt chuẩn an toàn về an ninh,
trật tự xã hội và đảm bảo bình yên:
không có khiếu kiện đông người kéo dài;
không để xảy ra trọng án; tội phạm và tệ
nạn xã hội (ma túy, trộm cắp, cờ bạc,
nghiện hút) được kiềm chế, giảm liên tục
so với các năm trước
Đạt
Nguồn: [118].
176
PHỤ LỤC 3
CON GÀ GÁNH 14 LOẠI PHÍ
Một con gà từ khi mở mắt đến khi xuất thịt bán ra thị trường, có thể
“cõng” 14 loại phí (chưa tính các phí kiểm tra định kỳ, lấy mẫu nước phân
chuồng trại kiểm tra hằng quý tại các trại nuôi gà):
1. Phí kiểm dịch trứng thương phẩm 4,5 đồng/quả.
2. Phí trứng giống 5,5 đồng/quả.
3. Trứng đã ấp 5,5 đồng/quả.
4. Phí con gà mới nở 100 đồng/con.
5. Phí cấp giấy kiểm dịch khi xuất gà con ra khỏi trang trại trong nội
tỉnh 5.000 đồng/tờ.
6. Phí xuất gà con ra khỏi trại ra khỏi tỉnh 40.000 đồng/tờ.
7. Giấy tiêu độc sát trùng cho xe vận chuyển gà con nội tỉnh 45.000
đồng/tờ.
8. Giấy tiêu độc sát trùng xe vận chuyển gà ngoại tỉnh 75.000 đồng/tờ.
9. Kiểm tra lâm sàng gà thịt nhập vào 100 đồng/con.
10. Phí niêm phong xe 1.500 đồng/dây.
11. Phí tiêu độc sát trùng 45.000 đồng/xe.
12. Giấy chứng nhận kiểm dịch xuất gà nội tỉnh 5.000 đồng/điểm giao hàng.
13. Giấy kiểm dịch xuất gà ngoại tỉnh 30.000 đồng/điểm giao hàng.
14. Phí kiểm soát giết mổ 200 đồng/con.
Nguồn: [5].
177
PHỤ LỤC 4
DANH MỤC DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ CẤP QUỐC GIA
Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
TT LOẠI HÌNH
NGHỆ THUẬT
ĐẶC ĐIỂM THỜI ĐIỂM
ĐƢỢC CÔNG
NHẬN
1 Đờn ca tài tử Nam
bộ.
Đây không chỉ là di sản VH phi vật thể
cấp quốc gia mà còn được UNESCO
công nhận là di sản VH phi vật thể đại
diện cho nhân loại. Đờn ca tài tử Nam
bộ phổ biến ở 21 tỉnh thành phố trong cả
nước nhất là ở ĐBSCL. Đờn ca tài tử
Nam bộ ra đời vào cuối TK XIX từ nhu
cầu của cộng đồng phản ánh suy nghĩ,
tâm tư, tình cảm của những người mở
đất phương Nam với lối sống cần cù,
phóng khoán, cởi mở, bình dị, nghĩa
hiệp, cang trường.
- DSVHPVT cấp
QG: 2012.
- DSVHPVT đại
diện của nhân
loại: 5/12/2013
2 Nghệ thuật sân khấu
Dù Kê của đồng bào
Khmer Nam bộ.
Dù kê là một loại hình nghệ thuật sân khấu
do ông Lý Cộng người Khmer, xã An
Ninh, huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng sáng
lập. Dù Kê có hát, múa, đọc thơ theo
phong cách dân gian. Với đời sống cộng
cư, Dù Kê cũng chịu ảnh hưởng và giao
thoa với loại hình nghệ thuật cải lương của
người Việt, hát Hồ Quản của người Hoa ở
vùng đất này. Dù Kê phổ biến ở tỉnh Sóc
Trăng.
8/2014
3 Nghệ thuật Chầm
riêng Chà pây của
đồng bào Khmer
Nam bộ
Chầm riêng nghĩa là hát. Chà pây tức là
cây đàn Chà pây. Đây là một loại hình
nghệ thuật trình diễn dân gian có từ lâu
đời. Ở những vùng có đông đồng bào
24/4/2013
178
Khmer sinh sống thì nghệ thuật này khá
phổ biến.
4 Nghề dệt chiếu Định
Yên, huyện Lấp Vò,
tỉnh Đồng Tháp
Nghề truyền thống này đã có quá trình tồn
tại và phát triển hơn 100 năm. Nét độc đáo
của làng chiếu Định Yên chính là chợ
chiếu đêm còn gọi là “chợ ma”. Nguyên
nhân bởi ban ngày nông dân bận dệt chiếu
và thương lái cũng bận đi bán nên việc hợp
chợ để mua bán chỉ diễn ra vào ban đêm.
9/2013
5 Lễ hội nghinh Ông. Lễ hội nghinh ông phổ biến ở các tỉnh ven
biển ĐBSCL đặc biệt là ở Trà Vinh. Lễ hội
được tổ chức vào các ngày 10, 11, và 12
tháng 5 âm lịch hàng năm. Đây là lễ hội gắn
với tín ngưỡng dân gian cầu mưa thuận gió
hòa…
10/2013
6 Lễ hội Ok-Om-Bok
của đồng bào Khmer
Nam bộ.
Đây là Lễ hội cúng trăng rằm tháng 10
âm lịch. Ngoài ra còn có các hoạt động
chính yếu khác là hội thả đèn nước và
đua ghe Ngo truyền thống. Lễ hội phổ
biến ở các tỉnh Trà Vinh, Sóc Trăng.
8/2014
7 Chợ nổi Cái Răng
Nơi chuyên trao đổi, mua bán nông sản,
các loại trái cây, hàng hóa, thực phẩm,
dịch vụ ăn uống. Mọi hoạt động diễn ra
trên sông bằng phương tiện ghe, xuồng.
Chợ thường hoạt động khá sớm, thường
từ lúc mờ sáng và đến khoảng 8, 9 giờ
thì vãn. Đây cũng là điểm tham quan
đặc sắc của quận Cái Răng, thành phố
Cần Thơ.
Di sản VH phi
vật thể cấp QG
(3/2016).
Nguồn: [Tác giả tổng hợp, thống kê].
179
PHỤ LỤC 5
DỰ BÁO XU THẾ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU VÀ THIÊN TAI
TẠI ĐBSCL TRONG 03 THẬP NIÊN TỚI
YẾU TỐ KHÍ HẬU XU THẾ KHU VỰC BỊ TÁC ĐỘNG CHỦ YẾU
Nhiệt độ max, min, trung
bình trong mùa khô
Tăng An Giang, Đồng Tháp, Long An, Cần
Thơ, Sóc Trăng, Kiên Giang
Số ngày nắng nóng trên
350C mùa khô
Tăng Các vùng giáp biên giới với Campuchia,
vùng Tây sông Hậu
Lượng mưa đầu mùa (tháng
5,6,7)
Giảm Toàn đồng bằng
Lượng mưa cuối mùa (tháng
8,9,10)
Tăng Các vùng ven biển ĐBSCL
Lốc xoáy, gió lớn, sét Tăng Các vùng ven biển, hải đảo ĐBSCL
Mưa lớn bất thường (>100
mm/ngày)
Tăng Các vùng ven biển bán đảo Cà Mau, vùng
giữa sông Tiền và sông Hậu
Lũ lụt (diện tích ngập, số
ngày ngập)
Tăng Vùng Tứ giác Long Xuyên - Hà Tiên,
vùng Đồng Tháp Mười, vùng giữa sông
Tiền và sông Hậu
Nước biển dâng, xâm nhập
mặn
Tăng Các tỉnh ven biển, vùng giữa sông Tiền và
sông Hậu
Sạt lở Tăng Toàn đồng bằng
Tác động của triều cường Tăng Toàn đồng bằng
Sự thay đổi mực nước ngầm Giảm Toàn đồng bằng
Nguồn: [4].
180
PHỤ LỤC 6
MỘT SỐ SÁNG KIẾN, CẢI TIẾN KỸ THUẬT TIÊU BIỂU CỦA
NÔNG DÂN ĐBSCL
TT HỌ VÀ TÊN QUÊ QUÁN SẢN PHẨM
GHI CHÚ
01 Nguyễn Văn Dũng Xã Bình Thủy, huyện
Châu Phú, An Giang
Sáng chế 09 loại máy:
máy thu hoạch mè,
máy đánh rảnh thoát
nước, máy cắt lúa,
máy bắt rầy xanh trên
cây đậu bắp, máng
uống tự động cho gia
súc,…
Trình độ học vấn
chưa hết lớp 9.
02 Dương Xuân Nhã
(Năm Nhã)
Xã Bình Đức, TP
Long Xuyên, An
Giang
Lò sấy lúa vĩ ngang
Trình độ học vấn lớp
9.
03
Trần Văn Nghĩa
(“Thần đèn” Tư
Nghĩa)
Xã Long Điền A, Chợ
Mới, An Giang Di dời nhà
Có thể di dời nhà
nặng vài nghìn tấn (ở
ĐBSCL có đến hàng
chục “Thần đèn”).
04 Trần Thanh Tuấn Xã Vĩnh Trạch, huyện
Thoại Sơn, An Giang
Máy (robot) phun
thuốc trừ sâu điền
khiển từ xa bằng
remote
Trình độ học vấn lớp
8. Máy điều khiển
trong bán kính
100m, trọng lượng
của máy 130kg, bình
chứa thuốc dung tích
120 lít, phun xa bán
kính 15m với 30 vòi
phun, công suất 10
ha/ngày, tương
đương 6 lao động
thủ công.
05 Nguyễn Văn Long Xã An Hiệp, huyện
Châu Thành, Bến Tre Máy dệt chiếu tự động
Công suất 15 chiếc
chiếu/ngày và chỉ
cần 1 người vận
hành. Chiếu đạt tiêu
chuẩn xuất khẩu.
181
06 Trần Thanh Thành Xã Bình Thới, huyện
Bình Đại, Bến Tre
Máy phát điện bằng
năng lượng mặt trời
Cục Sở hữu trí tuệ
cấp bằng sáng chế
(2014). Giải thưởng
Sáng tạo trẻ 2011
của TW Đoàn.
07 Cao Văn Tám
Xã Đông Thuận,
huyện Thới Lai, Cần
Thơ
Máy vét bùn đánh
rảnh trên ruộng lúa
(tiêu thoát nước trước
và sau khi sạ lúa)
Trình độ học vấn hết
lớp 2. Đã SX được
50 máy với giá từ
25-30 triệu đồng.
08 Phạm Hoàng
Thắng
Phường Mỹ Thới,
quận Thốt Nốt, Cần
Thơ
Máy phung thuốc,
máy gieo sạ lúa,…
03 bằng sáng chế
của Cục Sở hữu trí
tuệ, 02 bằng sáng
chế của Tổ chức sở
hữu trí tuệ thế giới
KIPO, được Tổ chức
kỷ lục VN xác nhận
là người đạt nhiều
giải thưởng nhất về
thiết bị nông nghiệp.
Năm 2015, ông
chuyển giao công
nghệ cho đối tác với
giá trị 8,5 tỷ đồng.
09 Cao Phát Triển Phường Thới Long,
quận Ô Môn, Cần Thơ
Mô hình hệ thống tưới
nước kết hợp phun
thuốc tự động
Điều khiển bằng
điện thoại di động.
10 Phạm Thanh Liêm
Xã Láng Biển, huyện
Tháp Mười, Đồng
Tháp
Máy gặt đập liên hơp,
máy sạ hàng, máy
đánh rảnh… tiêu thụ
trong nước và xuất
khẩu
Trình độ học vấn lớp
6. Một doanh nghiệp
Thái Lan ngỏ ý mua
lại bằng sáng chế với
giá 2 triệu USD.
11
Huỳnh Thiện Liêm
và các cộng sự (đều
là nông dân)
Xã Trường Xuân,
huyện Tháp Mười,
Đồng Tháp
Xuồng chạy bằng
năng lượng mặt trời
Cải tiến động cơ bao
gồm số tiến, số lùi.
12
Võ Văn Phước
Xã Phú Đức, huyện
Tam Nông, Đồng
Tháp
Máy vét mương (đào
đất trên đồng ruộng)
tự động
Sau khi lập trình,
máy tự hoạt động
không cần người lái.
Năng suất 1000m
đất/1 giờ, tương
đương 30-40 lao
động đào đất bằng
thủ công.
182
13 Phan Tấn Bện
Xã Mỹ Đông, huyện
Tháp Mười, Đồng
Tháp
Máy cuốn rơm
Năng suất 120 cuộn
rơm/1 giờ, mỗi cuộn
rơm nặng 12-15 kg
rơm khô. Máy hoạt
động trên nhiều địa
hình.
14 Võ Văn Chung
Xã Lương Hòa Lạc,
huyện Chợ Gạo, Tiền
Giang
“Vua” các lúa giống
15 Trần Văn Dũng Xã Ngũ Lạc, huyện
Duyên Hải, Trà Vinh
Máy hút bùn trên ao
tôm
Cục Sở hữu trí tuệ
cấp bằng độc quyền
sáng chế. Huân
chương Lao động
hạng Ba.
16 Quách Văn Hôm
Thị trấn Phú Lộc,
huyện Thạnh Trị, Sóc
Trăng
Máy xúc lúa
Máy di chuyển trên
nhiều địa hình: sân
xi măng, sân đất và
trên lò sấy. Công
suất xúc lúa vào bao
50 kg/10 giây. Cục
Sở hữu trí tuệ cấp
bằng sáng chế.
Nguồn: [Tác giả tổng hợp, thống kê].
183
CÁC BẢNG THỐNG KÊ
Bảng 3.1: SỐ NGƢỜI NHIỄM HIV/AIDS VÀ SỐ NGƢỜI CHẾT
DO AIDS PHÂN THEO VÙNG
Đơn vị tính: Người
VÙNG
PHÁT HIỆN MỚI NĂM
2013
LŨY KẾ TÍNH ĐẾN
31/12/2013
SỐ NGƢỜI
CHẾT DO
AIDS NĂM
2013
Số ngƣời
nhiễm HIV
Số bệnh
nhân AIDS
Số ngƣời
nhiễm HIV
còn sống
Số bệnh
nhân AIDS
còn sống
Số ngƣời
chết do
AIDS năm
2013
ĐBSH 2043 808 50878 14642 302
ĐBSCL 2606 1358 32854 9361 561
Nguồn: [124].
184
Bảng 3.2: SỐ NGƢỜI NHIỄM HIV/AIDS VÀ SỐ NGƢỜI CHẾT
DO AIDS PHÂN THEO ĐỊA PHƢƠNG VÙNG ĐBSCL
Đơn vị tính: Người
PHÁT HIỆN MỚI NĂM
2013
LŨY KẾ TÍNH ĐẾN
31/12/2013
SỐ NGƢỜI
CHẾT DO
AIDS NĂM
2013
Số ngƣời
nhiễm HIV
Số bệnh
nhân AIDS
Số ngƣời
nhiễm HIV
còn sống
Số bệnh
nhân AIDS
còn sống
Số ngƣời chết
do AIDS năm
2013
ĐBSCL 2606 1358 32854 9361 561
Long An 211 48 1999 775 27
Tiền Giang 144 87 1299 482 46
Bến Tre 133 71 1584 422 43
Trà Vinh 100 72 889 346 20
Vĩnh Long 130 65 2150 601 16
Đồng Tháp 336 389 4283 1244 172
An Giang 236 159 5046 2047 84
Kiên Giang 297 128 3214 1112 56
Cần Thơ 339 91 4828 968 14
Hậu Giang 73 36 1092 167 17
Sóc Trăng 153 34 1963 281 26
Bạc Liêu 169 87 2281 507 32
Cà Mau 285 91 2226 409 9
Nguồn: [124].
185
Bảng 3.3: TỶ LỆ LAO ĐỘNG TỪ 15 TUỔI TRỞ LÊN ĐANG LÀM
VIỆC TRONG NỀN KINH TẾ ĐÃ QUA ĐÀO TẠO
PHÂN THEO VÙNG
Đơn vị tính: %
KHU VỰC 2008 2010 2011 2012 2013
Đồng bằng sông Hồng 18,1 20,7 21,1 24,0 24,9
Đồng bằng sông Cửu Long 7,8 7,9 8,6 9,1 10,4
Nguồn: [124].
Bảng 3.4: TỶ LỆ THIẾU VIỆC LÀM CỦA LỰC LƢỢNG LAO ĐỘNG
TRONG ĐỘ TUỔI Ở KHU VỰC NÔNG THÔN PHÂN THEO VÙNG
Đơn vị tính: %
KHU VỰC 2009 2010 2011 2012 2013
Đồng bằng sông Hồng 6,57 4,23 3,90 3,09 3,20
Trung du và miền núi phía Bắc 3,50 2,18 1,95 2,09 1,75
Bắc Trung Bộ & duyên hải miền Trung 5,47 4,95 3,63 3,51 3,07
Tây Nguyên 6,00 3,83 3,44 2,89 2,54
Đông Nam Bộ 5,52 1,99 1,41 1,51 1,68
Đồng bằng sông Cửu Long 10,49 6,35 5,39 5,07 6,00
Nguồn: [124].
.