Upload
hathuy
View
221
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNGPHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
Tác giả: Nguyễn Hữu Nhân
LỜI NÓI ĐẦU
Phát triển cộng đồng là một lĩnh vực khoa học lý luận và thực tiễn, tuy
đã có từ những năm 1940 ở trên thế giới nhưng ở Việt Nam vẫn còn là điều
mới mẻ. Đã có một số tài liệu lý thuyết về Phát triển cộng đồng được phổ biến
trong giới nghiên cứu và hoạt động thực tiễn. Một số tài liệu được các chuyên
gia trong nước biên soạn dưới dạng sách tham khảo cho sinh viên ở một số
trường đại học và phục vụ cho việc xây dựng, thực hiện các dự án. Các tài
liệu này đều có điểm chung là được viết vì mục đích thực hiện dự án hơn là
các tổng kết lý luận về cộng đồng và phát triển cộng đồng. Giáo trình "Phát
triển cộng đồng” nhằm cung cấp cho sinh viên chuyên ngành Nhân học,
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên - Đại học Quốc gia Hà Nội có được những
kiến thức cơ bản về cộng đồng và phát triển cộng đồng cùng với những thực
tế về phát triển cộng đồng ở Việt Nam trong những năm qua; Hướng cho sinh
viên có kiến thức về dự án phát triển cộng đồng và thực hành xây dựng dự án
phát triển một lĩnh vực cụ thể của cộng đồng.
Giáo trình gồm 2 đơn vị học trình (ĐVHT) được chia thành 5 chương và
phần phụ lục.
Chương 1: Bàn về cộng đồng và những vấn đề về phát triển cộng
đồng, gồm một số khái niệm và lý luận về phát triển cộng đồng.
Chương 2: Phát triển cộng đồng trong bối cảnh hiện nay.
Đây là phần định hướng quan trọng để giải quyết những vấn đề cơ bản
trong phát triển cộng đồng trong bối cảnh xây dựng đất nước tiến lên công
nghiệp hóa, hiện đại hóa v.v...
Chương 3: Sự hòa nhập xã hội, việc hòa nhập của phụ nữ, người dân
tộc thiểu số và các đối tượng dễ bị tổn thương khác vào sự phát triển cộng
đồng. Sự tham gia và hòa nhập của các đối tượng này là quan trọng và cần
thiết, và bên cạnh việc huy động thêm sức mạnh của cộng đồng còn tạo điều
kiện để họ được hưởng mọi quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và hòa nhập với sự phát triển chung của đất nước.
Chương 4: Dự án phát triển cộng đồng. Nội dung của chương này
cung cấp cho người học những vấn đề cơ bản mà các dự án phát triển cộng
đồng cần tuân theo để đạt được hiệu quả cao, đồng thời, giới thiệu cho người
học làm quen với cách xây dựng dự án phát triển cộng đồng.
Chương 5: Bàn về bộ công cụ thực hiện trong các dự án phát triển
cộng đồng - PRA - lập kế hoạch có sự tham gia của người dân.
Phần phụ lục: Giới thiệu tóm tắt kết quả một số dự án phát triển cộng
đồng đã và đang thực hiện ở nước ta, qua đó người học có thể thấy được các
hoạt động thực tiễn về phát triển cộng đồng ở một số lĩnh vực như tổ chức
cộng đồng, tạo việc làm, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo v.v...
Giáo trình Phát triển cộng đồng cũng là tài liệu học tập và tham khảo
quí cho sinh viên các ngành có liên quan như xã hội học, nông nghiệp và phát
triển nông thôn cũng như người làm công tác phát triển cộng đồng.
Giáo trình được biên soạn dựa trên cơ sở những kiến thức và kinh
nghiệm đã được tích lũy trong nhiều năm học tập, nghiên cứu và qua thực tế
thực hiện đánh giá các dự án, cũng như làm việc trong các dự án phát triển
cộng đồng. Tuy vậy, những thiếu sót là không thể tránh khỏi, tác giả xin cảm
tạ và ghi nhận những ý kiến đóng góp của các nhà khoa học và các độc giả.
Tác giả
Chương 1. CỘNG ĐỒNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
1.1. Cộng đồng1.1.1. Lịch sử của vấn đề cộng đồng
Trong đời sống xã hội, khái niệm cộng đồng (Commumty) có nhiều
tuyến nghĩa khác nhau, đồng thời cộng đồng cũng là đối tượng nghiên cứu
của nhiều ngành khoa học như: Xã hội học, Dân tộc học, Y học v.v... Khái
niệm cộng đồng thường dùng để chỉ nhiều đối tượng có những đặc điểm
tương đối khác nhau về qui mô và đặc tính xã hội. Ý nghĩa rộng nhất của
cộng đồng là tập hợp người với các liên minh rộng lớn như toàn thế giới
(cộng đồng thế giới), một châu lục (cộng đồng châu Á, cộng đồng châu Âu
v.v...), một khu vực (cộng đồng ASEAN). Cộng đồng còn được áp dụng để chỉ
một kiểu xã hội, căn cứ vào những đặc tính tương đồng về sắc tộc, chủng tộc
hay tôn giáo (cộng đồng người Do Thái, cộng đồng người da đen tại Hoa Kỳ
v.v...) Nhỏ hơn nữa, cộng đồng được dùng khi gọi tên các đơn vị như làng,
bản, xã, huyện v.v..., những người chung về lý tưởng xã hội, lứa tuổi, giới
tính, thân phận xã hội v.v...
Khái niệm cộng đồng bao gồm từ các thực thể xã hội có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ cho đến các tổ chức ít có cấu trúc chặt, là nhóm xã hội có lúc khá
phân tán, chỉ được liên kết với nhau bằng lợi ích chung trong một không gian
tạm thời và thời gian nhất định chẳng hạn như: phong trào quần chúng, công
chúng và đám đông. Như vậy, có thể phân thành hai dạng cộng đồng dựa
trên cấu trúc xã hội và tính chất liên kết xã hội:
- Dạng cộng đồng thể hiện mối quan hệ xã hội trong đó có những đặc
trưng được xác định như: tình cảm, ý thức và chuẩn mực xã hội. Dạng cộng
đồng này được gọi là cộng đồng tính.
- Dạng cộng đồng mà được xác định là nhóm người cụ thể, những
nhóm xã hội có liên kết với nhau ở nhiều qui mô khác nhau, kể từ đơn vị nhỏ
nhất như gia đình cho đến các quốc gia và toàn thế giới. Dạng cộng đồng này
gọi là cộng đồng thể.
Năm 1887, F. Tonnies - nhà xã hội học người Đức đã phân chia xã hội
thành hai dạng có liên quan đến sự phát triển nghề nghiệp như: Dạng xã hội
thứ nhất gần như cộng đồng tính bao gồm các cộng đồng truyền thống tiền
công nghiệp và thuộc các xã hội nông nghiệp; Dạng thứ hai có tính hiệp hội,
giống các cộng đồng thể thuộc xã hội công nghiệp và đô thị.
Về mặt tổ chức xã hội, người ta cho rằng có 3 tổ chức gắn kết với nhau
để tạo thành cộng đồng là: 1) dòng họ hay dòng tộc; 2) đẳng cấp hay tầng lớp
xã hội và 3) câu lạc bộ. Như vậy, tổ chức 1) và 2) gần với dạng cộng đồng
tính còn dạng câu lạc bộ gần với hiệp hội như cách chia của F. Tonies.
Từ những quan điểm trên, có thể rút ra những nhận xét về đặc trưng
của cộng đồng tính là:
- Quan hệ mang tính chất thân tình, thân thiện, mang độ cố kết có ý
nghĩa tự nhiên và thể hiện tính cộng đồng cao.
- Tính cộng đồng là bền vững, được khẳng định theo thời gian và chính
thời gian là yếu tố kết dính các thành viên trong cộng đồng.
- Khi xét về vị thế xã hội của các thành viên trong cộng đồng tính thì ở
đó vị thế xã hội được gán sẵn hơn là sự phấn đấu của các thành viên mà có.
Chẳng hạn, con cái của người ở đẳng cấp cao trong xã hội khi sinh ra đương
nhiên họ được xếp vào đẳng cấp này.
- Dòng họ là quan hệ cơ bản, vừa là huyết thống và vừa là khuôn mẫu
văn hóa của sinh hoạt cộng đồng.
- Trong khi đó, các hiệp hội, câu lạc bộ không có các đặc tính trên đây
của cộng đồng tính được thể hiện là:
- Có tính cá nhân rất cao.
- Có tính nhạy cảm trong quan hệ xã hội.
- Quan hệ xã hội theo nội qui, sự thỏa thuận giữa các thành viên trong
hiệp hội/ câu lạc bộ về quyền lợi và nghĩa vụ.
- Có tính hợp lý và tính toán thiệt hơn, hơn là tình cảm trong các quan
hệ xã hội.
- Các vị thế trong hiệp hội là vị thế do phấn đấu để đạt được chứ không
phải gán sẵn.
Như vậy, cộng đồng tính có nhiều đặc tính thiên về mặt truyền thống
trong quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng, còn các hiệp hội/ câu lạc
bộ thiên về hiện đại.
1.1.2. Một số đặc tính của cộng đồng
Cộng đồng thể hiện một số đặc tính là: sự đoàn kết xã hội, sự tương
quan xã hội và cơ cấu xã hội.
1.1.2.1. Đoàn kết xã hội
Theo quan niệm Mác-xít, cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa các cá
nhân, được quyết định bởi sự cộng đồng hóa lợi ích giống nhau của các
thành viên về các điều kiện tồn tại và hoạt động của những con người hợp
thành cộng đồng đó. Quan niệm bao gồm các hoạt động sản xuất vật chất và
các hoạt động khác của họ, sự gần gũi giữa các cá nhân về tư tưởng, tín
ngưỡng, hệ giá trị chuẩn mực cũng như các quan niệm chủ quan của họ về
các mục tiêu và phương tiện hoạt động.
Ở Việt Nam, làng, xã đã có từ lâu đời, có giá trị tốt đẹp của cộng đồng
tính. Sự phát triển của xã hội cùng với sự xuất hiện của đô thị hóa ngày càng
tăng và cơ chế thị trường ngày càng ảnh hưởng rộng lớn, nên các giá trị của
cộng đồng tính trong các làng, xã cũng ngày một giảm.
Bên cạnh khái niệm cộng đồng tính là khái niệm cộng đồng thể. Cộng
đồng thể có 2 nghĩa:
1. Là một nhóm dân cư cùng sinh sống trong một địa vực nhất định, có
cùng các giá trị và tổ chức xã hội cơ bản.
2. Là một nhóm dân cư có cùng mối quan tâm có bản.
Như vậy, từ những phân tích trên đây cho thấy cộng đồng được hiểu
theo nhiều nghĩa, tùy theo phạm vi cấu trúc và đặc tính. Trong phạm vi giáo
trình này, cộng đồng được nhắc tới và được hiểu là một nhóm cư dân sinh
sống trong một thực thể xã hội, trong một địa vực nhất định, có cơ cấu tổ
chức chặt chẽ và có cùng một giá trị cơ bản. Do đó, cộng đồng có thể là một
làng, một xã hay huyện v.v...
Đoàn kết xã hội luôn được các nhà nghiên cứu cộng đồng coi là đặc
tính hàng đầu của mỗi cộng đồng. Đây là ý chí và tình cảm của những người
cùng sống trong một địa vực có những mối liên hệ về mặt huyết thống hay
quan hệ láng giềng. Quá trình tổ chức đời sống xã hội bởi các thiết chế xã hội
lại càng thống nhất ý chí, tình cảm của cộng đồng qua một số giá trị, chuẩn
mực và biểu tượng riêng. Đây cũng là mục tiêu mà các cộng đồng đều mong
muốn tập hợp và duy trì.
Các lệch chuẩn xã hội xuất hiện trong cộng đồng là do mất ý thức đoàn
kết xã hội, đi kèm theo đó là sự mất ý thức và nhân cách cá nhân. Ngược lại,
khi các cá nhân đồng nhất với cộng đồng, hòa mình trong cộng đồng đã làm
tăng tính đoàn kết xã hội đồng thời cũng làm tăng ý thức và nhân cách của cá
nhân.
Cộng đồng tồn tại được là do từng thành viên trong các nhóm thành
viên của cộng đồng có tiếng nói thống nhất trong các hành động tập thể, khi
không còn tâm thức chung thì cộng đồng đó bắt đầu lụi tàn. Chẳng hạn, trong
các làng, xã hiện đang tồn tại các nhóm thành viên (tổ chức xã hội) như: Hội
Phụ nữ, Đoàn thanh niên, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh v.v..., một khi
các thành viên của nhóm có cùng tiếng nói và ý chí thì sức mạnh của nhóm
sẽ tăng lên, các nhóm thành viên đều hướng theo sự lãnh đạo của Đảng,
chính quyền ở địa phương thì sức mạnh đoàn kết trong cộng đồng được củng
cố và trở thành làng/ xã mạnh.
1.1.2.2. Sự liên kết xã hội
Đây là sự tương quan giữa người với người, có tính kết hợp hay những
phản ứng tương hỗ, theo đó con người được gần nhau và phối hợp chặt chẽ
với nhau hơn. Sự tương quan và kết hợp giữa các thành viên trong cộng
đồng được biểu hiện qua các hoạt động thực tiễn hàng ngày và củng cố thêm
sự đoàn kết trong cộng đồng.
Các cộng đồng ở nông thôn, do sự phân tán về nghề nghiệp không cao
nên các thành viên trong cộng đồng thường xuyên quan hệ với nhau trong
công việc hơn ở các cộng đồng đô thị, nơi có sự phân tán nghề nghiệp khá
cao. Chính vì thế, sự đoàn kết trong cộng đồng ở nông thôn thường cao hơn
cộng đồng ở đô thị.
Kiểu liên kết cao nhất trong cộng đồng chính là các quan hệ mang tính
hội nhập, ở đó có mức độ hợp tác tích cực giữa các cá nhân trong các đoàn
thể hay hội mà các cá nhân đó tham gia. Như vậy, ở góc độ cá nhân, khi một
người tham gia nhiều các hội, đoàn thể thì người đó có mối quan hệ rộng.
1.1.2.3. Các cơ cấu xã hội
Như đã phân tích ở phần 1.1.2.1 trên đây, một khi không có giá trị
chung, không có sự định hướng để qui tụ nhau hay không có những qui tắc
ứng xử của các thành viên trong cộng đồng thì không có cơ sở xã hội để tạo
thành cộng đồng. Những định hướng, những qui tắc này được nằm trong tổ
chức đoàn thể của cộng đồng, chẳng hạn các hương ước, nội qui, qui chế là
do làng, xã đặt ra. Quá trình thể chế hóa các giá trị chuẩn mực trong các tổ
chức xã hội tương đương là bước quan trọng để các liên kết xã hội trong
cộng đồng được bền vững và có giá trị đối với tất cả mọi người, tạo nên sức
mạnh của cộng đồng.
1.1.3. Các yếu tố tạo thành cộng đồng
Các yếu tố này bao gồm: địa vực cư trú, kinh tế và văn hóa - là những
yếu tố được hình thành trong quá trình lịch sử.
1.1 3.1. Yêu tố địa vực
Nói đến cộng đồng là nói đến một tập hợp người định cư trên một vùng
đất đai nhất định, đó là yếu tố địa vực. Đây cũng là yếu tố có giá trị tinh thần
và tạo nên sự gắn kết tập thể. Địa vực là yếu tố được xác định trong quá trình
lịch sử, là cơ sở để ta phân biệt cộng đồng này với cộng đồng khác. Đường
phân chia ranh giới thường lấy một số mốc của tự nhiên như sông, núi,
đường sá v.v... Đôi khi cũng chỉ là đường phân ranh vô hình được các cộng
đồng thỏa thuận và chấp nhận. Ý thức về địa vực là một trong những ý thức
sâu sắc và lâu bền của con người trong lịch sử, là một hạt nhân tạo nên tâm
thức chung của cộng đồng. Chẳng hạn, tình cảm “đồng hương” của những
người đã từng cùng sinh ra và chung sống trong một địa vực nhất định
thường rất sâu nặng, dù họ có còn ở nơi đó hay sau này di dời đến một nơi ở
mới nhưng họ vẫn rất dễ gần gũi với nhau trong quan hệ.
Xuất phát từ sự khác biệt trong sự đa dạng nghề nghiệp giữa các cộng
đồng nông thôn và cộng đồng đô thị, nên ý nghĩa của yếu tố địa vực của hai
dạng cộng đồng là khác nhau. Ở nông thôn, do cuộc sống gắn liền với thiên
nhiên, ruộng, đồng, sông, núi v.v... nên ý thức về địa vực là rất sâu sắc, trong
khi đó, các hoạt động phi nông nghiệp ở các cộng đồng thành thị không tạo
nên sự gắn kết chặt chẽ của các thành viên trong cộng đồng với địa vực cư
trú.
1.1.3.2. Yếu tố kinh tế
Yếu tố kinh tế ở đây chủ yếu nói về các hoạt động kinh tế hay nghề
nghiệp, nó không chỉ tạo ra cho cộng đồng một sự bảo đảm về vật chất để họ
cùng nhau tồn tại mà còn có các ý nghĩa sau:
- Việc có cùng một nghề hay vài nghề chính trong cộng đồng sẽ liên
quan đến sự tương đồng về yếu tố địa vị kinh tế, sở hữu, cách thức làm ăn,
cùng một thị trường nguyên vật liệu và sản phẩm tiêu thụ chung. Cho đến
việc cùng thờ chung một ông tổ làng nghề đã đưa đến cho cộng đồng một lớp
vỏ liên kết về tinh thần. Các làng nghề tiểu thủ công nghiệp trong xã hội nông
thôn, các phường hội trong các đô thị cổ là những kiểu liên kết cộng đồng
dựa trên cơ sở kinh tế.
- Khi có chung nghề nghiệp thì lợi ích kinh tế được gắn chặt trong hệ
thống sản xuất, vốn, sức lao động, tư liệu sản xuất và đặc biệt là kinh nghiệm
sản xuất, vì thế, đã góp phần gắn kết chặt chẽ các thành viên trong cộng
đồng. Yếu tố nghề nghiệp ở nông thôn đã biểu hiện sự gắn kết cộng đồng rõ
rệt hơn ở thành thị. Ở thành thị sự gắn kết theo nghề nghiệp là không chặt vì
nghề nghiệp đa dạng, sự chuyển nghề cũng dễ dàng, do đó sự liên kết hầu
như chỉ xảy ra ở các nhóm có cùng công việc.
1.1.3.3. Yếu tố văn hóa của cộng đồng
Yếu tố văn hóa của cộng đồng gồm ba yếu tố chính: tộc người, tôn giáo
- tín ngưỡng và hệ giá trị chuẩn mực.
Tộc người: gồm tộc người chủ thể trong một quốc gia và các tộc người
thiểu số. Nhóm tộc người chủ thể không chỉ đóng vai trò liên kết trong tộc
người đó mà còn phải thể hiện vai trò liên kết các tộc người thiểu số khác với
nhau và với chính họ. Chẳng hạn ở Việt Nam, người Kinh (Việt) chiếm đa số,
ngoài việc tạo mối liên kết trong nhóm người Kinh thì việc tạo mối liên kết
giữa người Kinh và người thuộc các dân tộc thiểu số khác và mối liên kết
giữa các dân tộc thiểu số với nhau luôn được chú trọng và tạo ra mối liên kết
cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam.
Trong bình diện quốc gia, hệ tư tưởng, các giá trị chuẩn mực và các
nghi lễ là văn hóa của tộc người chủ thể. Các dân tộc thiểu số khác một mặt
họ có ý thức theo nghi lễ chung, nhưng mặt khác họ vẫn giữ các nghi lễ của
riêng họ, đó là bản sắc văn hóa riêng.
Quá trình di dân trong lịch sử đã chia thành nhiều tộc người sinh sống
trên các khu vụtc địa lý khác nhau, mỗi tộc người có các điều kiện sinh thái,
kinh tế, xã hội khác nhau cho dù họ có cùng xuất thân từ một nguồn gốc
chủng tộc hay nguồn gốc văn hóa. Đặc trưng văn hóa thực sự là những yếu
tố liên kết cộng đồng được biểu hiện qua ngôn ngữ, phong tục tập quán, nghi
lễ mà các thành viên trong cộng đồng tuân thủ và tạo nên một ý thức văn hóa
tộc người. Trong môi trường xã hội ít có sự biến đổi, thì các yếu tố trên lại
càng có vị trí quan trọng và góp phần vào quá trình củng cố đoàn kết xã hội
trong cộng đồng.
Tuy nhiên, khi xét đến sự phát triển thì một số nét trong bản sắc văn
hóa có thể không đảm bảo cho chúng còn mang ý nghĩa tích cực cho sự phát
triển và khi đó chúng dần dần bị mai một. Những yếu tố vẫn giữ được bản sắc
của dân tộc nhưng không cản trở sự phát triển thì sẽ được duy trì, kế thừa -
đây cũng là một trong những mục tiêu của UNESCO trong thập kỷ văn hóa
(1987 - 1997), phát động các quốc gia thành viên coi trọng yếu tố văn hóa
truyền thống (tộc người) trong sự phát triển.
Tôn giáo, tín ngưỡng: đây là yếu tố củng cố sự liên kết cộng đồng
trên cơ sở niềm tin. Thực tế lịch sử cho thấy, đây là một yếu tố có tính chất
bền vững cho sự tồn tại của các cộng đồng dân cư, bởi vì, khi cùng có chung
một niềm tin và tín ngưỡng thì con người dễ chia sẻ được những ước nguyện
về mặt tinh thần với nhau.
Các tổ chức tôn giáo cũng là các tổ chức tham gia tích cực vào các
hoạt động xã hội, các hoạt động xây dựng đạo lý hướng thiện, tu thân của
nhiều tôn giáo và đã góp phần vào nhiều hoạt động xã hội của cộng đồng
bằng các thái độ tự nguyện, dấn thân và không vụ lợi. Các hoạt động xã hội
của các tổ chức tôn giáo được thiết lập trên cơ sở tín ngưỡng, góp phần củng
cố sự liên kết và đoàn kết trong cộng đồng.
Hệ giá trị chuẩn mực: mỗi cộng đồng xác định cho mình một hệ giá trị
chuẩn mực riêng với tính chất là các định chế xã hội qui định các nhận thức
và hành vi của các thành viên trong cộng đồng (luật bất thành văn). Cụ thể,
qui định các thành viên trong cộng đồng phải làm gì? Làm như thế nào? Các
qui chế khen thưởng, xử phạt ra sao?
Khi các thành viên tuân theo các giá trị chuẩn mực của cộng đồng thì
sẽ bảo đảm sự thống nhất và đoàn kết trong cộng đồng.
Hệ giá trị chuẩn mực của cộng đồng được xây dựng dựa trên cơ sở
nhận thức, quan niệm và tập quán của từng cộng đồng, vì vậy có những quan
niệm cộng đồng này coi là hay và tuân theo nhưng ở cộng đồng khác lại thấy
không chấp nhận được.
1.2. Những vấn đề cơ bản về phát triển cộng đồng1.2.1. Những vấn đề chung
1.2.1.1. Lịch sử phát triển cộng đồng
Phát triển cộng đồng (Community Development) xuất hiện vào những
năm 40 của thế kỷ XX ở các nước thuộc địa của Anh. Năm 1950, một người
Anh tốt bụng đã nảy sinh ý nghĩ giúp người dân tự cải thiện đời sống bằng sự
nỗ lực của chính quyền và người dân địa phương. Một bên góp của và một
bên góp công sức để xây dựng các công trình ở địa phương như: trạm xá,
trường học, đường sá v.v... Ông thấy rằng, khi những người dân được huy
động, họ đã rất tích cực tham gia đóng góp công sức, thậm chí cả tiền của
vào việc xây dựng các công trình có mục đích cải thiện đời sống cho chính
họ. Cũng từ những việc làm đầu tiên này, người ta đã nhận thấy sự phát triển
phải đồng bộ ở mọi khía cạnh của đời sống kinh tế, sức khỏe, văn hóa v.v...
nếu chỉ tập trung vào một lĩnh vực nào đó thì không thể phá vỡ được vòng
luẩn quẩn của sự đói nghèo, dốt nát và bệnh tật. Những thành công ban đầu
đã được Liên hợp quốc nhận thấy là sự phát triển cơ sở hạ tầng ở các cộng
đồng nghèo đã làm thay đổi bộ mặt của các cộng đồng này. Tuy nhiên, vấn
đề nảy sinh sau khi hoàn thành một số cơ sở hạ tầng là các cơ sở hạ tầng
này chỉ còn lại “một cái xác không hồn”, nghĩa là trạm xá chỉ là một cái nhà
mà nó không hoạt động, hoặc có nhân viên y tế nhưng không có người dân
đến khám và chữa bệnh. Mặt khác, các công trình khi xây dựng xong, người
dân tuy có sử dụng nhưng họ chưa xem đó như là của chính mình, nên công
tác bảo quản và ý thức giữ gìn hầu như không có. Như vậy, ở đây mới chỉ có
sự thay đổi về hình thức mà chưa có sự chuyển biến về nhận thức, thái độ và
hành vi của người dân để tiếp nhận những thành quả vừa được tạo ra.
Ở Việt Nam, khái niệm phát triển cộng đồng cũng đã được đưa vào từ
giữa thập kỷ 50, thông qua các hoạt động phát triển giáo dục ở các tỉnh phía
Nam. Sang thập kỷ 60 - 70 thì hoạt động phát triển cộng đồng chuyển sang
lĩnh vực xã hội. Từ thập kỷ 80 đến nay, phát triển cộng đồng được biết đến
một cách rộng rãi hơn qua các chương trình viện trợ phát triển của nước
ngoài. Ở giai đoạn này, một sự đổi mới trong cách tiếp cận đó là những người
làm công tác phát triển cộng đồng đã tập trung chú ý đến sự tham gia của
người dân và coi đây là nhân tố quyết định sự thành công và có hiệu quả bền
vững. Môn học Phát triển cộng đồng và Tổ chức cộng đồng đã được đưa vào
giảng dạy ở một số trường đại học ở phía Nam gồm nhiều lĩnh vực như: phát
triển nông thôn, tín dụng, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe v.v... (Theo
Nguyễn Thị Oanh).
1.2.1.2. Những phương hướng chính trong phát triển cộng đồng
Các phương hướng về phát triển cộng đồng được đưa ra với những chỉ
dẫn như:
- Sự tham gia của người dân là yếu tố cơ bản.
- Thiết chế xã hội chính là môi trường cho sự tham gia, còn các tổ chức
chính quyền, đoàn thể ở địa phương phải thể hiện được vai trò tổ chức. Sự
phát triển phải hỗ trợ cả việc nâng cao năng lực cho các tổ chức này.
- Trong phát triển cộng đồng, không áp đặt chương trình có sẵn của tổ
chức Nhà nước hay cơ quan phát triển từ bên ngoài vào mà phải là các công
trình do dân đề xướng với sự giúp đỡ từ bên ngoài.
- Phải tạo được chuyển biến xã hội, đó là sự thay đổi nhận thức, hành
vi của người dân. Phải tạo được sự chuyển biến trong tổ chức, cơ cấu và các
mối tương quan lực lượng xã hội.
- Phát triển cộng đồng chỉ có hiệu quả khi nó nằm trong một chiến lược
phát triển đúng đắn của quốc gia.
Tuy nhiên, Phát triển cộng đồng vẫn là môn khoa học mới được hình
thành ở nước ta trong những năm gần đây, vì vậy cần phải được tổng kết
thành lý thuyết và thực tế đã ngày càng hoàn thiện hơn.
1.2.1.3. Xu thế hiện nay trong phát triển cộng đồng
- Muốn phát triển thì chính người dân phải ý thức và đòi hỏi, cũng như
tự tổ chức bảo vệ quyền lợi của mình. Điều này thay thế cho sự thụ động
trong nhận thức, cùng như hành động từ xưa tới nay là người dân thường
phải tiếp thu những gì người khác nghĩ về mình và kể cả những điều tốt lành
cần làm cho mình.
- Xu hướng cơ bản trong phát triển cộng đồng hiện nay là tăng cường
năng lực (Capability Building) và tạo sức mạnh (Empowerment), bởi vì người
dân không thể hành động nếu họ thiếu năng lực (kiến thức, kỹ năng), họ cũng
không thể hành động đơn phương, riêng lẻ mà phải kết hợp với các cá nhân,
các tổ chức cùng chí hướng và quyền lợi để tạo sức mạnh tổng hợp.
- Phát triển cộng đồng và tổ chức cộng đồng phải luôn đi đôi với nhau,
vì muốn để người dân tự phát triển được thì phải có sự tổ chức và hướng dẫn
họ tự làm. Mặt khác, do sự rời rạc trong tổ chức, sự chia rẽ giữa các nhóm
người vẫn thường tồn tại, nguồn tài nguyên dù có sẵn trong cộng đồng nhưng
cũng khó tiếp cận và thừa hưởng nếu không có sự tổ chức tốt.
- Phát triển cộng đồng phải như một nghề. Thực tế cho thấy, để phát
triển phải có các tác nhân phát triển - đó là các tổ chức, cá nhân với kiến thức
và kỹ năng tổng hợp, đặc biệt không thể thiếu được các lĩnh vực khoa học về
hành vi con người (Behavioral Sciences). Những tác nhân hay tác viên phát
triển có qui chế chính thức bên cạnh các ngành nghề khác. Có những nước
hiện có các tác viên cộng đồng tổng hợp với vai trò phối hợp, liên kết tổ chức
và có những tác viên là những chuyên gia giỏi về một lĩnh vực nào đó. Hiện
nay, các tổ chức phát triển của quốc tế tại Việt Nam như: UNDP, các OXFAM,
CARE đều có những chuyên gia giỏi, họ có kiến thức chuyên sâu về một số
lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng, y tế, giáo dục v.v..., để thực thi các dự
án phát triển cộng đồng.
1.2.2. Khái niệm về phát triển cộng đồng
Có nhiều cách để định nghĩa về phát triển cộng đồng.
Năm 1956, Liên hiệp quốc đã đưa ra định nghĩa: "Phát triển cộng đồng
là những tiến trình qua đó nỗ lực của dân chúng kết hợp với nỗ lực của chính
quyền để cải thiện các điều kiện kinh tế văn hóa, xã hội của các cộng đồng và
giúp cộng đồng này hội nhập và đồng thời đóng góp vào đời sông quốc gia"
(Trích theo Nguyễn Thị Oanh). Thực chất, muốn phát triển cộng đồng thì phải
tổ chức cho cộng đồng khai thác, phát huy và sử dụng tốt nguồn tài nguyên,
nhân lực của cộng đồng mình.
Một định nghĩa khác về phát triển cộng đồng: "Phát triển cộng đồng là
một tiến trình giải quyết vấn đề qua đó cộng đồng được tăng cường sức
mạnh bởi các kiến thức cuộc sông, kỹ năng phát hiện nhu cầu và vấn đề, ưu
tiên hóa chúng, huy động nguồn lực để giải quyết chúng. Phát triển cộng đồng
không phải là một cứu cánh mà là một kỹ thuật, nó nhằm tăng sức mạnh cho
các cộng đồng tự quyết về sự phát triển và định hình tương lai của mình
v.v..." (Trích theo Tô Duy Hợp và Lương Hồng Quang).
Như trên đã đề cập, phát triển cộng đồng rất gần với tổ chức cộng đồng
nên có những định nghĩa về tổ chức cộng đồng cũng tương tự như phát triển
cộng đồng, chẳng hạn theo Muray, G. Ross: "Tổ chức cộng đồng là một tiến
trình trong đó cộng đồng nhận rõ nhu cầu hay mục tiêu của mình, sắp xếp
nhu cầu và mục tiêu này, phát huy sự tự tin và ý muốn thực hiện chúng, tìm
nguồn tài nguyên để giải quyết nhu cầu hay mục tiêu ấy. Thông qua đó sẽ
phát huy những thái độ, kỹ năng hợp tác với nhau trong cộng đồng" (Trích
theo Nguyễn Thị Oanh) .
Từ những định nghĩa trên có thể rút ra một số nhận xét chung là:
- Cộng đồng phải tự xác định được các vấn đề cần giải quyết của chính
mình.
- Cộng đồng phải tự chọn được những vấn đề cần ưu tiên bằng cách
phân tích định lượng và định tính.
- Cộng đồng phải xây dựng được các chương trình hành động trên cơ
sở phối hợp các nguồn lực bên ngoài.
- Triển khai các hoạt động theo kế hoạch.
1.2.3. Lý thuyết phát triển cộng đồng
1.2.3.1. Nguyên lý phát triển cộng đồng
* Trước hết phải hiểu theo một cách lôgíc của vấn đề: phát triển - phát
triển xã hội - phát triển cộng đồng.
- Phát triển (Development) là quá trình biến đổi về chất lượng, nếu chỉ
biến đổi làm tăng về số lượng thì đó mới chỉ là tăng trưởng (Growth).
- Phát triển Xã hội là sự biến đổi xã hội về mặt chất lượng bao gồm
tăng trưởng kinh tế, đẩy mạnh giáo dục, y tế về số lượng cũng như chất
lượng và các chỉ số về cơ sở hạ tầng, các dịch vụ và có sự biến đổi theo
hướng tiến bộ hơn, đẹp hơn, tốt hơn v.v...
- Phát triển cộng đồng là một đặc trưng của phát triển xã hội, là quá
trình tăng trưởng kinh tế cộng đồng cùng với sự tiến bộ trong cộng đồng theo
hướng hoàn thiện các giá trị chân, thiện, mỹ.
* Nguyên lý phát triển cộng đồng:
- Tính tương đối: Nghĩa là không nên tuyệt đối hóa một sự vật, hiện
tượng xã hội theo một quan niệm nào cả. Với nguyên lý này thì phát triển chỉ
là tương đối, bởi vì có thể về mặt này thì kém phát triển nhưng về mặt khác
nó lại được xem như phát triển.
- Tính đa dạng: Cộng đồng được biểu hiện đa dạng, phong phú nên
phát triển cộng đồng cũng mang tính đa dạng và phong phú.
- Tính bền vững: Cộng đồng luôn có tính bền vững, mặc dù có thể bị
biến đổi tính chất nhưng khi cộng đồng cũ bị giải thể đi chăng nữa thì cộng
đồng mới lại hình thành và qua đó nó sẽ được thay đổi về trình độ phát triển
mà không hề bị biến mất.
1.2.3.2. Các thể chế tác động đến sự phát triển cộng đồng
Đó là sự tự quản cộng đồng, sự quản lý của Nhà nước và sự tác động
của cơ chế thị trường.
Ba thể chế này là riêng biệt và hợp tác với nhau cùng tác động vào sự
phát triển. Tuy nhiên, cũng có khi các thể chế này cản trở nhau, chẳng hạn có
thời kỳ Nhà nước đã xâm nhập vào sự tự quản cộng đồng và cản trở không
cho thị trường xâm nhập vào cộng đồng.
Trong các xã hội nông nghiệp sơ khai thì sự phát triển cộng đồng có rất
ít sự can thiệp của Nhà nước, nhưng ở xã hội nông nghiệp phát triển cao thì
Nhà nước đã can thiệp sâu vào các hoạt động của cộng đồng và biến các
cộng đồng trở thành một mắt xích trong hệ thống chính quyền, khi đó Nhà
nước có vai trò tổ chức và hỗ trợ.
Để phát triển cộng đồng thì có bốn lực lượng chủ chốt tham dự vào, đó
là bản thân cộng đồng, nhà nước, thị trường và các nhân tố xã hội khác.
1 2.3.3. Các quan điểm, định hướng trong phát triển cộng đồng
- Phát triển cộng đồng được xây dựng dựa trên phương pháp luận từ
dưới lên (bottom up) tức là phải xuất phát từ nhu cầu của chính người dân.
Muốn tự phát triển thì chính bản thân người dân cũng phải tự ý thức cũng
như tự tổ chức để bảo vệ quyền lợi của mình.
- Phát triển cộng đồng phải đồng bộ dựa trên mọi khía cạnh của đời
sống kinh tế, văn hóa, xã hội v.v..., chúng phải cùng được nâng lên, vì nếu chỉ
chú ý vào một khía cạnh thì không thể nào phá vỡ được sự đói nghèo, dốt nát
và bệnh tật. Phát triển cộng đồng chỉ đạt được hiệu quả khi nằm trong chiến
lược phát triển của quốc gia.
- Sự tham gia của quần chúng là yếu tố cơ bản của đường lối phát triển
cộng đồng, trong đó, vai trò tổ chức là then chốt, các tổ chức chính quyền địa
phương có vai trò tổ chức hỗ trợ để huy động và củng cố các tổ chức quần
chúng ở cộng đồng. Sự tham gia của tổ chức chính quyền phải được coi như
một nhân tố bên trong mà không phải lực lượng bên ngoài - là một thành
phần quan trọng của cộng đồng.
- Phát triển cộng đồng phải chú ý về tạo sự chuyển biến, đó là sự thay
đổi nhận thức, hành vỉ của người dân nhằm mục đích phát triển; tạo được sự
chuyển biến trong cơ cấu tổ chức và các mối tương quan lực lượng trong
chính cộng đồng đó.
- Phát triển cộng đồng cần tập trung vào phát triển năng lực trên cơ sở
không "làm thay", "làm cho" người dân. Người dân không thể hành động nếu
thiếu năng lực. Họ cũng không thể hành động đơn phương, riêng lẻ mà phải
kết hợp với các cá nhân, tổ chức cùng chí hướng và quyền lợi để tạo thành
quyền lực chung. Muốn cho người dân tự làm thì việc tổ chức thông qua huấn
luyện là then chốt.
1.2.3.4. Mục tiêu phát triển cộng đồng
Trọng tâm của phát triển cộng đồng là con người - các thành viên của
cộng đồng, việc phát triển cũng phải tập trung vào con người và phát triển con
người. Nói cách khác, thước đo của sự phát triển là tiềm năng và khả năng
con người làm chủ môi trường của mình. Các mục tiêu cụ thể của phát triển
cộng đồng là:
- Hướng tới cải thiện chất lượng sống của cộng đồng với sự cân bằng
cả vật chất và tinh thần, qua đó tạo sự chuyển biến xã hội trong cộng đồng.
- Củng cố các thiết chế để tạo điều kiện thuận lợi cho chuyển biến xã
hội và sự tăng trưởng.
- Tạo sự bình đẳng tham gia của mọi nhóm xã hội trong cộng đồng, chú
ý nhiều tới nhóm thiệt thòi để họ có quyền nêu lên nguyện vọng của mình và
được tham gia vào các hoạt động phát triển, qua đó đẩy mạnh công bằng xã
hội.
- Bảo đảm sự tham gia tối đa của người dân vào tiến trình phát triển.
- Phát triển con người ngoài việc nâng cao sinh thể (trước hết là sức
khỏe, thể chất) còn phát triển về năng lực tinh thần (trước hết là tri thức).
Như vậy, khi con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển,
được coi là chủ thể và là mục tiêu của sự phát triển thì sự tăng trưởng kinh tế,
sự phát triển của nguồn lao động, cũng như sự phát triển các lĩnh vực xã hội
dù có ý nghĩa đến mấy cũng mới chỉ là phương tiện của sự phát triển. Nói
cách khác, sẽ là khiếm khuyết nếu trình độ phát triển của một xã hội chỉ được
đánh giá bằng thu nhập quốc dân, bằng tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế
bằng số lượng của đội ngũ lao động, hay bằng các chỉ tiêu nào đó về mặt tiện
nghi vật chất của đời sống. Phát triển xã hội suy cho cùng là phát triển con
người. Ý nghĩa của sự phát triển cộng đồng, trên thực tế, chính là sự phát
triển con người.
1.2.3.5. Một số qui tắc hành động trong phát triển cộng đồng
- Mọi người dân đều có khả năng tự quản lý cuộc sống của chính mình,
trừ khi họ bị đè nặng bởi những mối lo âu và chịu nhiều thiệt thòi, vì vậy, cần
tin tưởng vào mọi đối tượng người dân trong cộng đồng.
- Việc tạo sự công bằng là rất quan trọng và phải thể hiện bằng những
hành động cụ thể như sự tái phân phối tài nguyên bao gồm tiền của, đất đai,
tiện nghi, quyền lực v.v... ở các cấp. Nếu không chú ý điều này thì đôi khi các
chương trình phát triển cộng đồng lại tạo thêm sự cách biệt giàu nghèo.
- Mọi chương trình hành động phải do cộng đồng tự quyết nhằm bảo
đảm tính tự chịu trách nhiệm của cộng đồng.
- Dân chủ là một nguyên tắc mà mọi chương trình phát triển cộng đồng
cần đề cao và hướng tới để đảm bảo rằng lợi ích chung sẽ được tôn trọng,
tuy nhiên việc áp dụng sự dân chủ phải có quá trình vì không phải người dân
đã quen ngay, đồng thời dân chủ phải được đặt trong tính kỷ luật cao.
- Không áp đặt chương trình phát triển từ trên hoặc từ bên ngoài vào,
mà việc lập chương trình hay nhu cầu phải xuất phát từ chính người dân
trong cộng đồng. Sự hỗ trợ về chuyên môn, thậm chí cả vốn và tài nguyên chỉ
là chất xúc tác.
- Không nên đổ lỗi cho người dân và cho rằng người dân "hạn chế về
nhận thức", hoặc "ít học, khó tiếp thu" mà phải thấy lỗi này do chính tay nghề
của các tác viên phát triển còn thấp, vì rằng nếu người dân không ở trong tình
trạng như vậy thì đâu cần các tác viên đến xây dựng và lập chương trình phát
triển.
- Đối tượng ưu tiên của phát triển cộng đồng là người nghèo và người
thiệt thòi. Nghèo và dân trí thấp là các vấn đề mà phát triển cộng đồng cần
phải chú ý để giải quyết.
- Các hoạt động phát triển cộng đồng là các hoạt động mang tính nhân
quả, muốn tạo ra hiệu quả mang tính tổng thể phải có một chuỗi các hoạt
động liên quan và phụ thuộc lẫn nhau.
Các hoạt động phát triển cộng đồng có tính trình tự về mặt phương
pháp, do vậy, cần có sự huấn luyện cho các tác viên phát triển cộng đồng
cũng như người dân tham gia các chương trình này.
1.2.3.6. Tiến trình phát triển cộng đồng
Phát triển cộng đồng là một quá trình luôn luôn tiếp diễn, mục tiêu cuối
cùng của phát triển cộng đồng là giúp cho cộng đồng đi từ tình trạng yếu kém,
không hành động được tiến tới sự tự lực trong hành động. Muốn vậy, phải đi
từ sự thức tỉnh cộng đồng tới chỗ tăng cường năng lực và rồi cộng đồng sẽ tự
lực được.
Sự thức tỉnh cộng đồng: Thường những người dân trong cộng đồng
không hiểu ngay chính họ và cuộc sống của họ nên việc thức tỉnh cộng đồng
giúp người dân trong cộng đồng hiểu về chính mình thông qua các hoạt động
trao đổi, thảo luận, điều tra những vấn đề khó khăn và các nhu cầu của họ, từ
đó xác định những nhu cầu ưu tiên, xây dựng các dự án để giải quyết v.v... là
việc làm cần thiết.
Tăng cường năng lực cho cộng đồng: khi cộng đồng đã thức tỉnh, cần
tăng cường năng lực cho họ về việc nhận biết các nguồn lực vốn có, những
khả năng tiềm tàng của họ, nâng cao năng lực trong việc khai thác và sử
dụng nguồn lực này. Đồng thời, hỗ trợ thêm nguồn lực từ bên ngoài (vốn,
kiến thức, năng lực tổ chức thực hiện v.v...) để các hoạt động được thực hiện
có hiệu quả.
Cong dong con yeu kem
Cong dong tinh thuc
Cong dong duoc tang nang luc
Cong dong tu luc
Tu tim hieu va phan tich
Phat huy tiem nang
Tang cuong dong luc tu
nguyen
Hinh thanh cac nhom lien ket
Huan luyen
Luong gia (cho tung hoat dong va ca tien hanh)
Sơ đồ 1.1. Tiến trình phát triển cộng đồng
Tự lực của cộng đồng: Thông qua sự tăng trưởng về nhiều mặt, cộng
đồng phải có khả năng tự lực. Mục đích cuối cùng không phải là giải quyết hết
mọi khó khăn, mà mỗi khi gặp khó khăn thì cộng đồng phải tự biết huy động
tài nguyên bên trong và bên ngoài. Mỗi lần như vậy, cộng đồng sẽ tăng tưởng
và tự lực hơn trong việc giải quyết các vấn đề của mình. Tiến trình trên được
thể hiện qua sơ đồ 1.1.
1.2.3.7. Sơ lược về thực tiễn phát triển cộng đồng ở Việt Nam thời gian qua
Từ giữa thập kỷ 50, phát triển cộng đồng được giới thiệu ở Việt Nam
thông qua Trường Tiểu học Cộng đồng ở Lái Thiêu (nay thuộc tình Bình
Dương) thời chế độ cũ, nhằm tăng cường hiệu quả giáo dục bằng cách gắn
nhà trường với cộng đồng địa phương, đồng thời, biến nhà trường thành
công cụ để phát triển địa phương. Học sinh không chỉ học chữ mà còn được
học các kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi, vệ sinh v.v... giúp ích cho phát triển
nông thôn. Sau một vài năm, Trường Sư phạm Cộng đồng được thành lập ở
tỉnh Long An do Bộ Giáo dục cũ cùng với sự hỗ trợ của UNESCO. Phong trào
lúc ấy là giáo dục cơ bản nhằm giáo dục những kỹ năng về đời sống, bổ sung
cho một chương trình giáo dục xa rời cuộc sống. Vào thập kỷ 60, khi phong
trào phát triển cộng đồng ở các nước trong vùng phát triển mạnh, tổ chức
viện trợ của Mỹ đã tập trung phát triển nông thôn miền Nam, và phát triển
cộng đồng chuyển sang lĩnh vực công tác xã hội. Khi đất nước thống nhất
năm 1975, được sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và các nước trên thế giới,
phát triển cộng đồng đã được đưa vào miền Bắc. Tuy nhiên, trong thời gian
này, xã hội ta chưa biết nhiều đến các tổ chức tự nguyện cũng như các tổ
chức phi chính phủ. Mọi hoạt động đều xuất phát từ tổ chức chính quyền hay
các đoàn thể quần chúng mang tính chính trị - xã hội lớn. Việc áp dụng lý
thuyết phát triển cộng đồng vào thực tế còn rất hạn chế (Theo Nguyễn Thị
Oanh).
Hiện nay, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mới, vai trò
và sức sáng tạo trong nhân dân ngày càng được đánh giá cao, các chương
trình phát triển nông thôn và phát triển cộng đồng đã được thực hiện ở nhiều
nơi bằng nhiều nguồn lực từ bên ngoài (Nhà nước, các tổ chức quốc tế v.v...)
lý thuyết phát triển cộng đồng đã dần dần được áp dụng trong các chương
trình phát triển. Chẳng hạn, khi các tổ chức như CARE quốc tế, OXFARM của
các nước Anh, Bỉ và Hồng Kông triển khai thực hiện các dự án phát triển
cộng đồng ở một số địa phương miền núi, vùng sâu ở nước ta, các chuyên
gia phát triển đã áp dụng triệt để lý thuyết phát triển cộng đồng trong việc triển
khai các dự án này, nổi bật nhất là họ luôn khuyến khích lấy ý kiến từ người
dân, lập kế hoạch từ dưới lên, coi sự tham gia của người dân là một việc
không thể thiếu trong các dự án.
Trên thực tế ở nước ta, cơ cấu tổ chức ở địa bàn cơ sở là một thuận lợi
cho việc vận động người dân tham gia. Hệ thống tổ dân phố, thôn/ ấp là đơn
vị tập hợp, liên lạc thông tin rất thuận lợi. Các tổ chức chính trị xã hội như:
phụ nữ, đoàn thanh niên, nông dân, cựu chiến binh, chữ thập đỏ v.v... có
mạng lưới rộng khắp và chân rết tại cơ sở. Đây là cơ chế tổ chức tốt để
chuyển tải các chính sách, chủ trương từ trên xuống cũng như phản ánh tâm
tư, nguyện vọng của người dân từ dưới lên. Các đoàn thể này đã đa dạng
hóa các hoạt động đề hướng về phúc lợi xã hội, kinh tế gia đình, chăm sóc
sức khỏe, tín dụng, tiết kiệm, xúc tiến việc làm, xóa đói giảm nghèo và chúng
rất gần gũi với phát triển cộng đồng. Vấn đề đặt ra là, nếu áp dụng đúng
phương pháp phát triển cộng đồng, các hoạt động xã hội tại cộng đồng sẽ có
hiệu quả hơn nhiều.
Với gần 80% dân cư sống ở nông thôn, đất nước không thể đi lên với
một nông thôn nghèo nàn, lạc hậu, phát triển cộng đồng ở nước ta gắn liền
với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Gần đây,
Đảng và Nhà nước rất coi trọng việc phát triển nông thôn toàn diện, bởi nông
thôn không thể thoát khỏi nghèo đói để vươn lên khi không có những hoạt
động đồng bộ về văn hóa, giáo dục, xã hội, sức khỏe bên cạnh các chương
trình kinh tế. Đối tượng của các chương trình lớn trên thường là những người
nghèo, thất học, cần phải vận dụng lý thuyết phát triển cộng đồng trong việc
phát triển, không chỉ dạy chữ, dạy nghề mà còn phải giúp người dân về năng
lực, khả năng phân tích tình hình, làm họ hiểu về hoàn cảnh của chính mình,
giúp họ nắm vững các kỹ năng để tự quản và vươn lên bằng chính sức lực
của họ.
Phát triển cộng đồng là một phương pháp tiếp cận phù hợp và hiệu quả
cho các chương trình phát triển kinh tế, xã hội. Nhìn chung, đây là phương
pháp vận động, giáo dục và tổ chức quần chúng nên triết lý và phương pháp
phát triển cộng đồng được áp dụng trong nhiều lĩnh vực như: khuyến nông,
khuyến lâm, y tế cộng đồng, kế hoạch hóa gia đình v.v... Để phát triển cộng
đồng thực sự trở thành một nghề nghiệp, cần đẩy mạnh phát triển nguồn
nhân lực được đào tạo với kiến thức, kỹ năng tổng hợp, đặc biệt không thể
thiếu khoa học về nhân văn và quản lý xã hội v.v...
Do tính bức thiết của việc áp dụng phương thức phát triển cộng đồng,
cần có một số biện pháp tổ chức ở cấp vĩ mô cần thiết để thúc đẩy phát triển,
cụ thể là:
- Đối với Nhà nước, cần có sự công nhận việc phát triển cộng đồng
như một phương thức tạo điều kiện cho phát triển kinh tế, xã hội toàn diện và
phải được áp dụng trong các chương trình quốc gia như phát triển nông thôn,
xóa đói giảm nghèo, dân số và y tế.
- Đội ngũ cán bộ của các chương trình trên đây cần được trang bị kiến
thức và kỹ năng về phát triển cộng đồng.
- Phát triển cộng đồng cần được xây dựng thành môn khoa học ứng
dụng tại các trường đại học để phục vụ trong các ngành nông, lâm, ngư
nghiệp, y tế, phát triển đô thị và một số ngành khác như quản lý nhà nước
v.v...
Tóm tắt chương 1
Cộng đồng được hiểu theo nhiều nghĩa, tùy theo phạm vi cấu trúc và
đặc tính. Trong phạm vi giáo trình này, cộng đồng được nhắc tới và được
hiểu là một nhóm cư dân sống trong một thực thể xã hội, trong một địa vực
nhất định, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ và có cùng một giá trị cơ bản. Do đó,
cộng đồng có thể là một làng, một xã hay một huyện v.v...
Đoàn kết xã hội là đặc tính hàng đầu của mỗi cộng đồng. Đây là ý chí,
là tình cảm của những người cùng sống trong một địa vực có những mối liên
hệ về mặt huyết thống hay quan hệ láng giềng. Quá trình tổ chức đời sống xã
hội thông qua các thiết chế xã hội lại càng thống nhất ý chí, tình cảm của
cộng đồng qua một số giá trị, chuẩn mực và biểu tượng riêng. Đây cũng là
mục tiêu mà các cộng đồng đều mong muốn tập hợp và duy trì.
Phát triển cộng đồng là một đặc trưng của phát triển xã hội, là quá trình
tăng trưởng kinh tế cộng đồng cùng với sự tiến bộ theo hướng hoàn thiện các
giá trị chân, thiện, mỹ.
Phát triển cộng đồng có quan điểm, định hướng của nó, đó là: Phát
triển cộng đồng phải dựa trên phương pháp luận đi từ dưới lên, xuất phát từ
nhu cầu của chính người dân. Phát triển cộng đồng phải đồng bộ, dựa trên
mọi khía cạnh của cộng đồng. Sự tham gia của công chúng là yếu tố cơ bản
và từ đó họ phải được chuyển biến về nhận thức, năng lực và hành vi.
Chính người dân trong cộng đồng phải ý thức và đòi hỏi, cũng như tự
tổ chức bảo vệ quyền lợi của mình. Phát triển cộng đồng là tăng cường năng
lực và tạo sức mạnh, bởi vì, người dân không thể hành động nếu họ thiếu
năng lực, họ cũng không thể hành động đơn phương, riêng lẻ mà phải kết
hợp với các cá nhân, tổ chức cùng chí hướng và quyền lợi để tạo sức mạnh.
Mục tiêu của phát triển cộng đồng là phát triển con người và vì con
người. Qui tắc của phát triển cộng đồng là phải tạo sự công bằng và mọi
chương trình hành động phải do cộng đồng tự quyết.
Phát triển cộng đồng và tổ chức cộng đồng phải luôn được đi đôi với
nhau vì muốn để người dân tự phát triển được thì phải có sự tổ chức và
hướng dẫn họ tự làm. Mặt khác, sự rời rạc trong tổ chức, sự chia rẽ giữa các
nhóm người thì nguồn tài nguyên dù có sẵn trong cộng đồng cũng khó tiếp
cận và được hưởng.
Chương 2. PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG TRONG BỐI CẢNH XÃ HỘI VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nayBáo cáo Chính trị tại Đại hội IX của Đảng với đầu đề: "Phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
xây dưng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" thể hiện sự khái quát
lý luận và sự định hướng chiến lược của Đảng về con đường phát triển của
đất nước trong kỷ nguyên mới. Đảng ta cũng đã xác định rõ những cơ hội lớn
cần phải nắm bắt kịp thời và những thách thức lớn phải vượt qua để tạo ra sự
phát triển mạnh mẽ của đất nước trong thời kỳ mới: “Những thành tựu to lớn
và rất quan trọng của 15 năm đổi mới làm cho thế và lực của đất nước ta lớn
mạnh lên nhiều. Cơ sở vật chất kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường, đất
nước còn nhiều tiềm năng lớn về tài nguyên, lao động. Nhân dân ta có phẩm
chất tốt đẹp Tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Môi trường hòa bình,
sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế tích cực trên thế giới tạo điều
kiện để chúng ta tiếp tục phát huy nội lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại
lực - nguồn vôn, công nghệ mới, kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường
phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đó là cơ hội lớn v.v...
Hơn nữa, thế kỷ 21 sẽ tiếp tục có nhiều biến đổi. Khoa học và công nghệ sẽ
có bước tiến nhảy vọt. Kinh tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong quá
trình phát triển lực lượng sản xuất Toàn cầu hóa kinh tên là một xu hướng
khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều. nước tham gia v.v...” (Văn kiện Đại hội
đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX, tr.66, 67). Song, Đảng ta cũng chỉ rõ:
“Nước ta là nước kinh tế kém phát triển, mức sống nhân dân còn thấp, trong
khi đó cuộc cạnh tranh quốc tế ngày càng quyết liệt, nên chúng ta không
nhanh chóng vươn lên thì sẽ càng tụt hậu xa hơn về kinh tế” (Văn kiện Đại hội
Đảng, tr. 64).
2.2. Nguyên tắc phát triển tiến bộ và công bằng Khi bàn về vấn đề phát triển xã hội, căn cứ vào đường lối chủ trương,
chính sách chung của Đảng và Nhà nước, vào những kinh nghiệm thực tế (cả
kinh nghiệm thành công và không thành công) trong quá trình đổi mới kinh tế
- xã hội của nước ta 15 năm qua, đồng thời, tham khảo có lựa chọn những
kinh nghiệm quốc tế và kết quả thực hiện đề tài cấp Nhà nước, mã số
KHXH.03.06 "Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công
bằng" đã đề cập đến hệ quan điểm quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên
tắc tiến bộ và công bằng trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay bao gồm:
- Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng, đòi
hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, có hiệu quả và bền vững.
- Quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng phải
được tiến hành ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển kinh
tế, không chờ đợi đến khi đất nước đạt tới sự phát triển kinh tế cao rồi mới
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Công bằng không có nghĩa là cào bằng, không có nghĩa là thực hiện
chủ nghĩa bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra, bất chấp chất
lượng, hiệu quả sản xuất, kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự
phát triển chung của cộng đồng như sai lầm của thời kỳ bao cấp trước đây.
Điều quan trọng hiện nay là phải tạo ra các cơ hội công bằng cho mọi người
dân, nhất là những người yếu thế và chịu thiệt thòi đều được tiếp cận các
dịch vụ xã hội cơ bản về giáo đục - đào tạo y tế, việc làm, tín dụng, thông tin,
bảo trợ xã hội v.v... để họ có thể tự lo liệu và dần dần cải thiện cuộc sống của
bản thân và gia đình.
- Quản lý sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ cần hết sức quan tâm
đến phát triển văn hóa, xem văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
- Quá trình quản lý sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công
bằng phải gắn liền với việc xây dựng và thực hiện tốt nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa.
- Phải kết hợp sử dụng và phát huy sức mạnh của cả Nhà nước, cộng
đồng và bản thân mỗi người dân.
2.3. Những chỉ tiêu, chỉ số chủ yếu trong quản lý sự phát triển xã hội
Quản lý sự phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người, với tư
cách mỗi cá nhân và cả cộng đồng không chỉ đòi hỏi phải có những quan
điểm chỉ đạo đúng mà còn cần phải có một hệ thống các chỉ tiêu (indicator),
chỉ số (index), hoặc các thước đo (measure) để làm căn cứ cho việc xác định
mục tiêu, tổ chức thực hiện và đánh giá kết quả của các chương trình, kế
hoạch, dự án phát triển xã hội cụ thể.
Tùy theo hình thức của từng nước, hệ thống chỉ tiêu, chỉ số hoặc thước
đo về phát triển xã hội được quy định ít nhiều có sự khác nhau. Song, nhìn
chung, các chỉ tiêu, chỉ số hoặc thước đo quan trọng nhất của các nước càng
ngày càng có xu hướng đi tới phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này giải
thích tại sao trong những năm gần đây ngày càng có nhiều nước trên thế giới
tán thành ý kiến đề xuất của chương trình Phát triển của Liên hợp quốc
(UNDP) về việc thay thế chỉ tiêu tổng thu nhập nội địa (Gross Domestic
Product - GDP) tính bình quân đầu người, vốn được dùng làm thước đo xem
nước nào phát triển hay đang phát triển và chậm phát triển trong những thập
niên trước, bằng chỉ số phát triển con người (Human Development Index -
HDI) với ba chỉ tiêu chung nhất là:
- Tuổi thọ.
- Trình độ dân trí (giáo dục).
- GDP bình quân đầu người tính ra USD theo sức mua tương đương.
Từ năm 1996, trong báo cáo hàng năm về phát triển con người (Human
Development Report), UNDP lại bổ sung thêm những chỉ số có liên quan đến
phát triển xã hội, phát triển con người là:
- Chỉ số nghèo của con người (Human Poverty Index - HPI) bao gồm 4
chỉ tiêu là:
Tỷ lệ người chỉ sống được đến tuổi dưới 40.
Tỷ lệ người lớn không biết chữ.
Tỷ lệ người không được tiếp cận nguồn nước sạch, dịch vụ y tế và
tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng.
So sánh phần thu nhập hoặc tiêu thụ giữa nhóm 20% dân cư
nghèo nhất và nhóm 20% dân cư giàu nhất.
- Chỉ số liên quan đến phát triển giới (Gender - Related Development
Index - GDI) bao gồm các chỉ tiêu chung nhất về chỉ số phát triển con người
nhưng được đặt trong mối tương quan giữa nam và nữ hay mối tương quan
giới.
- Thước đo quyền hạn giới (Gender Empowerment Measure - GEM),
dùng để đo mối tương quan giới trong sự tham gia vào các hoạt động kinh tế,
chính trị và ra quyết định của một cộng đồng, một địa phương hoặc một
nước.
Những điều trên đây chứng tỏ có sự chuyển biến trong nhận thức về
phát triển: từ chỗ đồng nhất tăng trưởng kinh tế với phát triển đến quan niệm
tăng trưởng kinh tế xét đến cùng phải nhằm mục tiêu phát triển xã hội và phát
triển con người. UNDP đã thể hiện thành các chỉ tiêu phát triển gồm các chỉ
tiêu định tính và định lượng nhằm khuyến khích các nước trên thế giới cùng
phấn đấu. Năm 2000, căn cứ vào số liệu năm 1998, UNDP đã xếp Việt Nam
vào hàng thứ 108 trong số 174 nước được điều tra về chỉ số phát triển con
người với những số tiêu cụ thể là:
- Tuổi thọ bình quân: 67,8
- Tỷ lệ người lớn biết chữ: 92,9%
- Thu nhập thực tế GDP bình quân đầu người tính theo mức tiêu thụ:
1689 USD/năm.
Với những số liệu kể trên và theo cách tính của UNDP thì chỉ số phát
triển con người của Việt Nam là 0, 671 (Human Development Report, 2000, p.
159)
Nếu xếp loại phát triển theo GDP tính bình quân đầu người, tức chỉ tiêu
kinh tế thuần túy thì thứ hạng xếp loại của chỉ số phát triển của Việt Nam bị
giảm 24 bậc. Điều đó có nghĩa rằng, mặc dù kinh tế còn nghèo, GDP tính
bình quân đầu người thuộc nhóm những nước thấp nhất, nhưng do thành tựu
về y tế, giáo dục đạt được thì chỉ số phát triển con người của Việt Nam lại
được xếp vào loại nhóm nước trung bình trên thế giới. Có thể thấy rõ, chỉ số
phát triển con người của Việt Nam so với các nước trong khu vực như sau:
Bảng 2.1. Chỉ số phát triển con người của một số nước khu vực Đông Nam Á
Tên nước Tuổi thọ bình
quân
Tỷ kệ người
lớn biết chữ
GDP/ người
(USD) theo
tiêu dùng
Chỉ số phát
triển con
người
Malaixia
Thái Lan
Philippin
Việt Nam
72,2
68,9
68,6
67,8
86,4
95,0
94,8
92,9
8,137
5,456
3,555
1,689
0,722
0,745
0,774
0,761
Inđônêxia
Mianma
Ấn Độ
Pakixtan
Campuchia
Lào
65,6
60,6
62,6
64,4
53,5
53,7
85,7
84,1
55,7
44,0
65,0
46,1
2,651
1,199
2,077
1,751
1,257
1,734
0,670
0,585
0,563
0,522
0,512
0,484
Nguồn: UNDP (sđd, p.158,159)
Cũng theo UNDP năm 2000, Việt Nam được xếp thứ 47 trong số 87
nước đang phát triển được điều tra về chỉ số nghèo của con người, đứng
dưới một số nước như Trung Quốc, Mêhicô, Malaysia, Thái Lan v.v... nhưng
đứng trên một số nước như Ai Cập, I-rắc, Ấn Độ v.v... là những nước vốn có
GDP tính bình quân đầu người cao hơn chúng ta.
Còn về chỉ số liên quan đến sự phát triển giới (GDI), thì Việt Nam được
xếp thứ 89 trong tổng số 143 nước trên thế giới được điều tra (UNDP).
Sự chuyển biến trong nhận thức - từ đồng nhất tăng trưởng kinh tế với
phát triển, tới việc coi tăng trưởng kinh tế dù quan trọng những cũng chỉ là
phương tiện để đạt đến mục tiêu phát triển xã hội, phát triển con người và đã
đạt một bước tiến lớn. Song, chỉ số phát triển con người mà UNDP đề xuất từ
đầu những năm 90 và trong những năm gần đây đã được bổ sung thêm một
số chỉ số và thước đo như: HPI, GDI, GEM v.v... những chưa bao quát hết
các lĩnh vực xã hội. Do vậy, cần tiếp tục bổ sung thêm một số lĩnh vực thuộc
sự phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng trong nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là việc làm cần thiết và
cấp bách. Tuy nhiên, tùy từng giai đoạn, tùy từng nơi người ta có thể quan
tâm hơn đến một số lĩnh vực của sự phát triển. Chẳng hạn, năm 1991, Hội
nghị Manila đề ra 3 lĩnh vực ưu tiên là:
- Xóa bỏ tình trạng nghèo tuyệt đối.
- Thực hiện công bằng trong phân phối.
- Tăng cường sự tham gia của người dân (vào các dự án phát triển).
Các lĩnh vực xã hội khác được quan niệm gồm chín lĩnh vực: dân số,
sức khỏe, giáo dục, việc làm, nhà ở, môi trường, thiên tai (bão lụt, hạn hán,
sóng thần, động đất, núi lửa), tội ác và an toàn xã hội.
Đến Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội ở Copenhagen
(Đan Mạch) tháng 3/1995, ba lĩnh vực được ưu tiên trong phát triển xã hội
của tất cả các nước là:
- Mở rộng việc làm.
- Giảm nghèo.
- Hòa nhập xã hội.
Ở các lĩnh vực khác nhau, thì mỗi nước đưa ra sự ưu tiên tùy theo tình
hình cụ thể của nước mình. Trong Hội nghị này, đại diện của Việt Nam đã
trình bày báo cáo quốc gia về phát triển xã hội tập trung vào 10 lĩnh vực sau:
- Giải quyết việc làm.
- Xóa đói giảm nghèo.
- Hòa nhập xã hội.
- Tăng cường vai trò của gia đình.
- Phát triển giáo dục.
- Dân số - kế hoạch hóa gia đình.
- Chăm sóc sức khỏe nhân dân.
- Bảo trợ xã hội (bao gồm bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội).
- Môi trường.
- Hạn chế, ngăn ngừa các hành vi phạm tội.
Mười lĩnh vực trên đây đã bao gồm được cả ba lĩnh vực ưu tiên của thế
giới. Tuy nhiên, để thực hiện được tốt việc phát triển các lĩnh vực này cần
phải cụ thể hóa mỗi lĩnh vực thành hệ thống các chỉ tiêu tương ứng.
2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm trong phát triển cộng đồng2.4.1. Khái niệm về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của một quốc gia, một vùng lãnh thổ hay một cộng
đồng là tổng thể những tiềm năng lao động của con người có được trong một
thời điểm nhất định (thường tính cho một năm). Tiềm năng đó bao hàm tổng
hòa về thể lực, trí lực và tâm lực của đội ngũ lao động trong một quốc gia
(một vùng lãnh thô), đáp ứng một cơ cấu lao động do nền kinh tế - xã hội quy
định.
Phát triển nguồn nhân lực là biến đổi số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế - xã hội. Tuy
nhiên, yêu cầu về nguồn nhân lực có nhiều quan mềm khác nhau, chẳng hạn,
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) quan
niệm về phát triển nguồn nhân lực là làm cho trình độ lành nghề của dân cư
luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Tổ chức
Lao động quốc tế (ILO) cho rằng, kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực bao
hàm phạm vi rộng hơn, không chỉ có sự chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc
đào tạo nói chung, mà còn là phát triển năng lực và sử dụng năng lực đó của
con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thỏa mãn nghề
nghiệp và cuộc sống cá nhân. Sự lành nghề được hoàn thiện nhờ bổ sung,
nâng cao kiến thức trong quá trình sống và làm việc.
Khái niệm về việc làm, thiếu việc làm và thất nghiệp.
Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hóa - tập trung quan liêu bao cấp,
người lao động chỉ được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân
trọng khi làm việc trong khu vực Nhà nước, trong thành phần kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể. Hiện nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường,
nhận thức về giá trị xã hội của việc làm phải được thay đổi một cách căn bản
theo hướng:
- Thị trường việc làm phải được mở rộng trong tất cả các ngành nghề
mà pháp luật cho phép.
- Tạo khả năng tối đa giải phóng tiềm năng lao động, giải quyết việc làm
cho nhiều người, người lao động phải được tự do hành nghề, tự do liên
doanh, liên kết, tự do thuê mướn nhân công theo luật pháp và có hướng dẫn
của Nhà nước.
Từ nhận thức trên, khái niệm về việc làm trong kinh tế thị trường đã
được xác định trong Bộ luật Lao động của Việt Nam năm 1994 là: "Mọi hoạt
động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm" (Điều 13 - Bộ luật lao động của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam). Với khái niệm gốc này, tùy thuộc vào mục tiêu nghiên cứu
mà người ta xác định trên thực tế ai là người có việc làm. Thông thường,
người có việc làm là người đang làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề,
đang hoạt động có ích, không bị pháp luật cấm, đem lại thu nhập để nuôi
sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội.
Trong thống kê và phân tích thị trường lao động, người có việc làm
được xác định với tiêu thức cụ thể hơn để có thể điều tra, khảo sát hoặc
thống kê được. Trong đó có các chỉ tiêu quan trọng nhất là:
- Giới hạn về độ tuổi: Có thể quy định khác nhau tùy thuộc vào điều
kiện kinh tế - xã hội của mỗi nước. ở Việt Nam, chỉ tính cho những người đủ
15 tuổi trở lên, không giới hạn tuổi tối đa. Tuy nhiên, trong phân tích, rất chú ý
đến tình trạng việc làm của người lao động từ 15 tuổi trở lên đến hết tuổi lao
động (nam đến 60, nữ đến 55 tuổi).
- Giới hạn về thời gian làm việc của người có việc làm: ở nước ta mức
chuẩn về thời gian làm việc trong tuần điều tra, người được coi là có việc làm
ít nhất là 16 giờ trong tuần, người đó có thể đang làm công ăn lương hoặc
hoạt động trong kinh tế hộ gia đình không nhận tiền công.
Người có việc làm được chia thành người đủ việc làm và người thiếu
việc làm.
Người đủ việc làm: là người đó làm việc 40 giờ trở lên trong tuần điều
tra, hoặc trong tuần lễ điều tra. Người đó không làm việc vì lý do bất khả
kháng, nhưng trước đó 4 tuần người đó vẫn làm việc 160 giờ (20 ngày) và
sau đó lại đi làm việc bình thường, không có nhu cầu làm thêm.
Người thiếu việc làm: là tình trạng người lao động có việc làm, nhưng
đo nguyên nhân khách quan họ phải làm việc không hết thời gian theo luật
định, hoặc làm những công việc có thu nhập thấp, không đủ sống và muốn
tìm thêm việc làm bổ sung (Theo Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội).
Thất nghiệp: là tình trạng tồn tại khi một số người trong lực lượng lao
động muốn làm việc nhưng không thể tìm được việc làm ở mức tiền công
đang thịnh hành (Theo ILO). Thất nghiệp được chia thành:
- Thất nghiệp tự nhiên: Là loại thất nghiệp khi có một tỷ lệ nhất định số
lao động luôn ở tình trạng không có việc làm.
- Thất nghiệp tạm thời: Là loại thất nghiệp phát sinh do sự di chuyển
không ngừng của lao động trên thị trường lao động (giữa các vùng, các
ngành v.v...). Trong thời gian di chuyển, người lao động không có làm việc.
- Thất nghiệp cơ cấu: Là loại thất nghiệp xảy ra khi mất cân đối giữa
cung - cầu.
- Thất nghiệp tự nguyện: Do tiền công thấp, người lao động không
muốn làm.
- Thất nghiệp trá hình: Người lao động được sử dụng dưới mức khả
năng của họ.
Như vậy, người thất nghiệp là người ở trong độ tuổi lao động, có sức
lao động nhưng chưa có việc làm và đang có nhu cầu tìm được việc làm.
Trong khái niệm này cần phân biệt đối tượng chưa làm việc bao giờ (thanh
niên mới bước vào tuổi lao động, chưa có việc làm) và người đã từng làm
việc nhưng bị sa thải hay mất việc và hết hợp đồng chưa có công việc khác.
2.4.2. Tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết việc làm trong cộng đồng
Việt Nam đang trên con đường phát triển công nghiệp hóa và hiện đại
hóa đất nước, quá trình này đồng nghĩa với việc phát triển và sử dụng có hiệu
quả nguồn nhân lực, tạo thêm việc làm, đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế trên cơ
sở phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến. Theo lý thuyết phát
triển bền vững, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực gắn với giải quyết việc
làm, tăng thu nhập và sử dụng tối đa tiềm năng lao động xã hội chính là phát
huy nguồn lực nội sinh của mỗi cộng đồng hay toàn quốc. Từ đó, nhiệm vụ
phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao và giải quyết việc làm cần được
đặt ở vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Tầm quan trọng của nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và giải quyết
việc làm không chỉ dừng lại ở nhận thức lý thuyết, ở tư duy của các nhà lãnh
đạo, của các nhà lập chính sách mà còn được khẳng định ở cuộc sống sinh
động. Nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu
tố vật chất quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế, của việc
sử dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất.
2.4.3. Nhận thức mới về nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm
* Nguồn nhân lực: Dựa trên lý thuyết về phát triển con người, vấn đề
con người và sự tham gia của con người vào tiến trình phát triển xã hội và
tiến bộ xã hội được xem xét trong mối quan hệ thống nhất giữa hai mặt như:
- Một là, con người với tư cách là chủ thể, sáng tạo ra mọi của cải vật
chất và tinh thần. Trong quá trình tồn tại và phát triển, con người bằng sức lao
động của mình, là lực lượng sản xuất cơ bản nhất của quá trình sản xuất và
tạo ra giá trị vật chất cũng như tinh thần (yếu tố cung).
- Hai là, con người sử dụng và tiêu dùng của cải vật chất và tinh thần
để tồn tại và phát triển, thông qua quá trình phân phối và tái phân phối (yếu tố
cầu).
Hai yếu tố cung và cầu luôn có mối quan hệ với nhau, nó tồn tại thống
nhất, phát triển trong một thực thể con người và trong mối quan hệ với cộng
đồng và xã hội. Từ đó, phát triển con người trở thành nhu cầu trước tiên, nhu
cầu cơ bản và là trung tâm của mọi quá trình phát triển.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực là một khái niệm động, do đó, nội
hàm của nó luôn phải thay đổi, bổ sung hoàn thiện cho phù hợp với điều kiện
và yêu cầu của từng thời kỳ phát triển. Trong điều kiện công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa,
có sự quản lý của Nhà nước, từng bước hội nhập vào cộng đồng quốc tế thì
nội hàm chất lượng nguồn nhân lực ở Việt Nam là đào tạo, bồi dưỡng, phân
bổ và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực với tiêu chuẩn như: có lòng yêu
nước, yêu chủ nghĩa xã hội, có trình độ văn hóa, kỹ thuật, công nghệ và tay
nghề cao, có tác phong công nghiệp và đạo đức, lối sống lành mạnh, đáp ứng
yêu cầu sản xuất của thị trường lao động. Thực tế, mỗi lĩnh vực như quản lý
kinh tế - xã hội, quản lý sản xuất kinh doanh, hoạt động khoa học, công nghệ,
lao động trực tiếp v.v... lại có những nhu cầu khác nhau về năng lực xã hội và
tính năng động xã hội của nguồn nhân lực, tức là yêu cầu khác nhau về chất
lượng nguồn nhân lực. Tuý nhiên, trong tương lai, khi chúng ta phát triển nền
kinh tế tri thức, một xã hội tri thức thì yêu cầu về tri thức cho nguồn nhân lực
là quan trọng. Cũng chỉ có nền kinh tế tri thức cũng như xã hội tri thức mới
khai thác, phát huy được tiềm năng vô tận của con người và vạn con người
để xây dựng đất nước.
* Giải quyết việc làm: Trong nền kinh tế thị trường, khái niệm việc làm
đã thay đổi một cách căn bản. Trong điều kiện đó, người lao động có thể làm
việc trong bất cứ thành phần kinh tế nào với mọi hình thức sản xuất kinh
doanh. Điều đó nghĩa là phải từng bước xóa bỏ tâm lý xã hội nặng nề chỉ coi
trọng việc làm trong khu vực Nhà nước đã tồn tại mấy chục năm qua, làm cho
toàn xã hội thay đổi nhận thức về chuẩn mực và thang giá trị xã hội của lao
động để đánh giá đúng sự cống hiến của người lao động cho xã hội.
Giải quyết việc làm vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề xã hội. Về kinh
tế, giải quyết việc làm là giải quyết việc sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực,
tạo ra thu nhập và của cải vật chất cho xã hội. Về xã hội, giải quyết việc làm
có mục tiêu chống thất nghiệp và khắc phục tình trạng thiếu việc làm, đặc biệt
cho nhóm xã hội yếu thế, góp phần xóa đói giảm nghèo và từ đó giải quyết tốt
vấn đề tệ nạn xã hội.
2.5. Xóa đói giảm nghèo trong phát triển cộng đồng 2.5.1. Tầm quan trọng của xóa đói giảm nghèo đối với sự phát triển
Trong thế giới hiện đại, loài người đang chứng kiến những thành tựu kỳ
diệu của khoa học, kỹ thuật và công nghệ. Trong quá trình đó, nhiều nước
đang trên đà phát triển và phồn vinh, nhưng mặt khác, tình trạng nghèo khổ
vẫn đang gia tăng ở nhiều nơi. Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới hiện
nay, trên hành tinh của chúng ta vẫn còn khoảng 15 tỷ người đang sống dưới
mức nghèo khổ, trong đó có 500 triệu người sống ở châu Phi và 800 triệu
người sống ở châu Á (chiếm gần 87% số người nghèo trên thế giới). Ngay tại
các nước công nghiệp phát triển cũng còn một bộ phận dân cư sống dưới
mức đường ranh giới nghèo (poverty line). Đa số những người nghèo khổ là
phụ nữ, trẻ em và nhóm người yếu thế, dễ bị tổn thương.
Liên hiệp quốc cho rằng, sự tăng trưởng, phát triển phồn vinh và sự gia
tăng nghèo khổ ngày càng gay gắt trên thế giới, là do mâu thuẫn không thể
chấp nhận được và cần phải được khắc phục bằng các hành động khẩn thiết.
Như vậy, để phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng, các nước
trên thế giới cần phải tấn công vào sự đói nghèo ngay trong các cộng đồng
cư dân. Mặt khác, xóa đói giảm nghèo còn góp phần to lớn vào sự phát triển
xã hội bền vững. Xóa đói giảm nghèo là tháo gỡ mắt xích quan trọng nhất của
sự phát triển vì đói nghèo nằm trong "vòng luẩn quẩn" thể hiện ở sơ đồ 2.1.
Doi ngheo
Gia tang dan soBenh tat
O nhiem moi truong song
Suy dinh duong
Te nan xa hoi That hoc
Sơ đồ 2.1. Vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo
Nhận thức được tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề xóa đói giảm
nghèo, mỗi quốc gia và cả cộng đồng quốc tế đã và đang nỗ lực hành động
cùng chung hướng vào mục tiêu xóa đói giảm nghèo như là một ưu tiên hàng
đầu trong hoạch định chiến lược và trong điều chỉnh mục tiêu phát triển.
2.5.2. Nguyên nhân tình trạng đói nghèo
Nguyên nhân tình trạng đói nghèo có thể phân thành các nhóm cơ bản
sau:
Nhóm 1: Do chính bản thân đối tượng. Người nghèo không biết làm
ăn, thiếu hoặc không có vốn, đông con, neo đơn, thiếu lao động, ăn tiêu lãng
phí, lười lao động, mắc tệ nạn xã hội v.v...
Nhóm 2: Do điều kiện tự nhiên và môi trường như: đất canh tác ít, đất
xấu, điều kiện thời tiết khí hậu không thuận lợi (thường bị thiên tai, mất mùa),
bất lợi về địa lý (xa xôi, hẻo lánh, không có đường giao thông v.v...).
Nhóm 3: Do thể chế và chính sách như: chính sách đầu tư cơ sở hạ
tầng kém, chưa hoàn thiện về chính sách khuyến khích phát triển sản xuất, tự
tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo (về thuế, tín dụng ưu đãi), thiếu chính sách
trợ giúp đối với gia đình và xã hội, cũng như chính sách hạn chế tệ nạn xã
hội, áp dụng chính sách cứng nhắc, không phù hợp (ví dụ thu hồi bớt ruộng
đất của người nghèo nợ sản lượng khoán), thiếu sự quan tâm của chính
quyền địa phương và các tổ chức xã hội, chưa thực hiện tốt chính sách phát
triển dân số. Các chính sách khác như: giáo dục, y tế, việc làm v.v... chưa
đồng bộ, chưa tác động cùng chiều hoặc còn chồng chất với chính sách xóa
đói giảm nghèo.
Nhóm 4: Các nguyên nhân tổng hợp. Các hộ chịu sự chi phối của
nhiều nguyên nhân, thực tế cho thấy và ít có trường hợp chỉ đơn nhất một
nguyên nhân.
2.5.3. Các khái niệm nghèo đói và chuẩn mực nghèo đói
* Các khái niệm cơ bản: Theo ESCAP, nghèo đói được hiểu theo hai
nghĩa: tuyệt đối và tương đối. Năm 1993, ESCAP đưa ra định nghĩa: "Nghèo
là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thỏa mãn những
nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa
nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa
phương". Từ định nghĩa chung này có thể hiểu các khái niệm sau:
- Nghèo tuyệt đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư không được
hưởng và thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, tối thiểu của cuộc sống (ăn, mặc,
nhà ở thích hợp, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường, chăm sóc y tế và giáo
dục).
- Nghèo tương đối: Là sự nghèo khổ thể hiện ở sự bất bình đẳng trong
quan hệ phân phối của cải xã hội giữa các nhóm xã hội, các tầng lớp dân cư
và các vùng địa lý.
Như vậy, có thể hiểu nghèo tuyệt đối là sự thiếu của cải so với nhu cầu
cơ bản, thiết yếu của con người. Còn nghèo tương đối muốn nới tới sự thiếu
của cải của các nhóm hay cá nhân so với nhóm hoặc cá nhân khác.
Các khái niệm chung về nghèo khổ của thế giới được vận dụng vào
Việt Nam một cách linh hoạt hơn. Chẳng hạn, đối với thế giới, nghèo tuyệt đối
còn có nghĩa là người đó bị bần cùng hóa, bị tước bỏ các cơ hội và khả năng
thỏa mãn nhu cầu cơ bản, tối thiểu. Song ở Việt Nam, về bản chất nghèo
tuyệt đối không mang ý nghĩa này mà được giải thích là những người đói do
bất trắc hoặc do khả năng thỏa mãn quá thấp về kinh tế, tức là nghèo về
lương thực và thực phẩm. Còn nghèo tương đối cũng không hẳn là sự "bất
bình đẳng" trong phân phối và hưởng thụ, cụ thể là:
- Đói là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới mức tối thiểu.
Đói thường rơi vào những người thiếu lương thực, thực phẩm để ăn, ngoài ra
còn rơi vào những người đủ ăn nhưng bị thiên tai hoặc gặp rủi ro và bất trắc
trong cuộc sống.
- Nghèo tương đối là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức sống
trung bình của cộng đồng tại địa phương đang xem xét.
* Chuẩn mực nghèo đói: Là các thước đo có thể lượng hóa để xác
định người nghèo và đánh giá mức độ nghèo khổ. Khó có thể có một chuẩn
mực chung về nghèo khổ cho tất cả các nước trên thế giới. Một quốc gia
được coi là nghèo khi thu nhập thực tế bình quân đầu người thấp, tài nguyên
hạn hẹp, cơ sở hạ tầng yếu kém, môi trường bị ô nhiễm và có vị trí bất lợi
trong cộng đồng thế giới.
Cách tiếp cận tình trạng nghèo khổ đáng lưu ý nhất và điển hình là đo
lường nhu cầu thiết yếu, cơ bản về dinh dưỡng (ăn) thông qua khối lượng
hàng hóa, lương thực, thực phẩm được sử dụng, khả năng tiếp cận các dịch
vụ xã hội cơ bản như giáo dục, y tế, nước sạch và vệ sinh môi trường v.v...
Tuy nhiên, trên thế giới người ta cũng dựa vào chỉ tiêu thu nhập hay sức mua
tương đương qui đổi về giá chung bằng USD và phân thành 6 mức như sau:
- Trên 25.000 USD/người/năm: nước cực giàu.
- Từ 20.000 đến dưới 25000 USD/người/năm: nước giàu.
- Tư 10.000 đến dưới 20.000 Usd/ngườilnăm: nước khá giàu.
- Từ 2.500 đến dưới 10.000 USD/người/năm: nước trung bình.
- Từ 500 đến dưới 2.500 USD/người/năm: nước nghèo.
- Dưới 500 USD: nước cực nghèo.
Ngoài ra, như phần ba của chương này đã đề cập, người ta còn dựa
vào chỉ số khác như HDI, chỉ số PQLI (tuổi thọ bình quân tương lai của trẻ sơ
sinh đã được 1 tuổi, tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh, tỷ lệ xóa mù chữ) để đánh giá
sự giàu nghèo giữa các quốc gia.
Xuất phát từ tình hình thực tế thu nhập của người dân qua từng thời kỳ
cùng với mặt bằng chung của toàn xã hội, tiêu chí về hộ nghèo cũng thay đổi
theo.
Năm 1993, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã đưa ra chuẩn mực
nghèo đói ở Việt Nam như sau:
- Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng qui đổi ra
gạo dưới 13kg đối với thành thị và dưới 8kg đối với vùng nông thôn.
- Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng qui đổi
ra gạo dưới 20 kg đối với thành thị và dưới 15kg đối với vùng nông thôn.
Năm 1996, chuẩn mực đói nghèo đã được Bộ Lao động - Thương binh
và Xã hội điều chỉnh nâng lên cho phù hợp như sau:
- Hộ đói: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng qui đổi ra
gạo dưới 13kg (tương đương 45.000 đồng) .
- Hộ nghèo: Là hộ có thu nhập bình quân đầu người một tháng qui đổi
ra gạo dưới 25kg (tương đương 90.000 đồng) ở thành thị; dưới 20kg (tương
đương 70.000 đồng) ở vùng đồng bằng và trung du và dưới 15kg gạo (tương
đương 55.000 đồng) ở vùng miền núi và hải đảo.
Năm 2001, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội đã điều chỉnh như sau:
- Nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập 80.000đ/ngườiltháng hay
960.000đ/người/năm.
- Nông thôn đồng bằng: thu nhập 100.000đ/người/tháng hay
1.200.000đ/người/năm.
- Vùng thành thị: thu nhập 150.000đ/người/tháng hay
1.800.000đ/người/năm.
Một xã được coi là nghèo khi có tỷ lệ hộ nghèo từ 40% trở lên, không
có một trong sáu công trình hạ tầng cơ sở cơ bản như: điện, đường giao
thông, trường học v.v...
Sự phân cực giàu nghèo cũng khác nhau theo các lần điều tra. Theo
Tổng cục Thống kê, nếu so sánh 20% nhóm hộ có thu nhập cao nhất với 20%
nhóm hộ có thu nhập thấp nhất ở vùng nông thôn thì có sự chênh lệch nhau
7,3 lần (1996), tăng lên 11,2 lần (1998) và 8,1 lần (2002).
2.5.4. Nhận thức mới về xóa đói giảm nghèo
Để giải quyết vấn đề đói nghèo có 3 vấn đề lớn cần được xem xét:
- Tăng cường quyền lực cho người nghèo, đảm bảo sự tham gia của
họ một cách bình đẳng trong mối liên kết xã hội, đặc biệt là quyền lợi về kinh
tế, nhất là quyền về tài sản.
- Phát triển hoàn thiện mạng lưới an ninh xã hội để người nghèo -
nhóm phải đối mặt với nhiều với rủi ro ít bị ảnh hưởng bởi hậu quả của chúng,
đặc biệt là những rủi ro về khủng hoảng kinh tế, thiên tai, chiến tranh và biến
động chính trị.
- Tạo cơ hội cho người nghèo tự vươn lên, đặc biệt là cơ hội về tài sản,
tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản ở những vùng bất lợi về địa lý (nông thôn,
vùng sâu, vùng xa v.v...).
Đối với Việt Nam, xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ hết sức nặng nề,
phức tạp và khó khăn cả về nhận thức cũng như chỉ đạo thực tiễn. Trước hết
về nhận thức, cần phải làm cho các cấp các ngành và mọi người có nhận
thức đúng về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong điều kiện bối cảnh Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn qua những năm đổi mới có thể
nêu lên khái quát một số nhận thức sau đây:
- Về đặc điểm cơ bản tình trạng đói nghèo ở Việt Nam:
+ Phần lớn những người đói, nghèo đều tập trung ở nông thôn, nhất là
ở miền núi, vùng sâu, vùng xa và thường rơi vào nhóm hộ gia đình thuần
nông, độc canh lúa và tự cung, tự cấp.
+ Đói nghèo là do hậu quả trực tiếp, thường xuyên của thiên tai, mất
mùa và hậu quả của chiến tranh để lại, môi trường bị phá hủy nặng nề, các
điều kiện địa lý bất lợi (kinh tế thị trường ở đó chưa phát triển), điều kiện cơ
sở hạ tầng thấp kém.
+ Mặc dù số hộ đói nghèo ở Việt Nam còn lớn, song về bản chất vẫn có
tư liệu sản xuất (trước hết là ruộng đất và công cụ sản xuất). Đó là điều kiện
cực kỳ quan trọng để thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo.
- Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, sự phân cực giàu
nghèo là hiện tượng kinh tế khó tránh khỏi, thậm chí hiện tượng phân cực này
ngày càng tăng, do vậy, nhận thức của chúng ta là:
+ Một mặt, Nhà nước tiếp tục có cơ chế, chính sách giải phóng mọi
tiềm năng, khơi dậy mọi nguồn lực nội sinh và tranh thủ mọi nguồn lực bên
ngoài để phát triển đất nước, khuyến khích mạnh hơn nữa mọi người làm
giàu hợp pháp.
+ Mặt khác phải có chính sách xã hội tích cực hướng vào xóa đói giảm
nghèo để đảm bảo công bằng xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo.
- Bên cạnh trợ giúp cho những người nghèo là việc quan tâm đến các
cộng đồng nghèo (thôn, bản, xã, phường, quận, huyện). Đây là nhận thức rất
quan trọng để có chính sách và giải pháp đúng, có kế hoạch giúp đỡ cả cộng
đồng trong việc xóa đói giảm nghèo.
Có thể nới rằng: đói nghèo đi đến với lạc hậu, chậm phát triển, là trở
ngại lớn đối với phát triển của xã hội. Xóa đói giảm nghèo là tiền đề của sự
phát triển. Xóa đói giảm nghèo không phải là vấn đề kinh tế thuần tuý mà là
một vấn đề kinh tế - xã hội, do đó phải thống nhất chính sách kinh tế với chính
sách xã hội.
Từ những vấn đề về nghèo đói trên đây, xóa đói giảm nghèo là một
trong những nội dung của việc phát triển cộng đồng. Chúng ta thấy cần phải
quan tâm đến mọi đối tượng trong cộng đồng, với những nhóm đối tượng khó
có điều kiện hòa nhập thì càng phải được chú ý để tạo điều kiện cho họ hòa
nhập vào quá trình phát triển của cộng đồng xã hội.
2.5.5. Thực trạng đói nghèo ở Việt Nam
Nước ta còn một bộ phận dân cư không nhỏ sống nghèo khổ, hàng
năm vẫn phải cứu trợ đột xuất do hậu quả nặng nề của thiên tai. Số hộ đói
nghèo năm 1998 là 2.387.050 hộ. Năm 1999 là hơn 2 triệu hộ, năm 2000
giảm xuống còn 1,7 triệu hộ. Phần lớn các hộ nghèo sống ở vùng nông thôn
(91,5%), trong đó tập trung đông nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao và
vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Bảng 2.2. Số hộ và tỷ lệ hộ đói nghèo theo vùng
STT Vùng 1997 1998
Số hộ Tỷ lệ
(%)
Số hộ Tỷ lệ
(%)
1 Miền núi và Trung du phía
Bắc
638400 25,32 570445 22,39
2 Đồng bằng sông Hồng 302460 9,81 27,2160 8,38
3 Bắc Trung Bộ 544926 27,84 500225 24,62
4 Duyên hải miền Trung 358260 22,4 291815 17,8
5 Tây Nguyên 180400 27,84 171915 25,65
6 Đông Nam Bộ 103900 5,5 91400 4,75
7 Đồng bằng sông Cửu Long 293750 15,65 489090 15,35
8 Cả nước 2622096 17,68 2387050 15,7
Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
(Trích theo Phạm Xuân Nam)
Phân tích tỷ trọng hộ đói nghèo của từng vùng cho thấy như bảng sau:
Bảng 2.3. Tỷ trọng đói nghèo phân theo 7 vùng sinh thái – kinh tế
STT Vùng % của năm
1997
% của năm
1998
1 Miền núi và Trung du phía Bắc 25.0 23.9
2 Đồng bằng Sông Hồng 11.0 11.4
3 Bắc Trung bộ 20.0 21.0
4 Duyên hải miền Trung 14.5 12.2
5 Tây Nguyên 6.5 7.2
6 Đông Nam Bộ 4.0 3.8
7 Đồng bằng Sông Cửu Long 19.0 20.5
8 Cả nước 100.0 100.0
Nguồn: Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
(Trích theo Phạm Xuân Nam)
Để phản ánh mức đói nghèo và phát triển không đồng đều giữa các
vùng, có thể thông qua chỉ số phát triển theo vùng. Theo tính toán của UNDP,
chỉ số phát triển theo vùng dựa trên các chỉ tiêu về số người đến trường, tuổi
thọ bình quân và thu nhập ở các vùng như sau (coi bình quân của toàn quốc
là 100):
1. Miền núi và Trung du phía Bắc: 89
2. Đồng bằng Sông Hồng: 114
3. Bắc Trung bộ: 88
4. Duyên hải miền Trung: 96
5. Tây Nguyên: 99
6. Đông Nam bộ: 128
7. Đồng bằng Sông Cửu Long: 93
2.5.6. Một số giải pháp trong xóa đói giảm nghèo
- Chương trình xóa đói giảm nghèo phải được đặt trong chiến lược và
kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của toàn quốc cũng như của từng địa
phương.
- Cuộc vận động xóa đói giảm nghèo phải được thực hiện theo phương
châm xã hội hóa.
- Tăng cường nguồn vốn cho chương trình mục tiêu quốc gia về xóa
đói giảm nghèo, bao gồm nguồn ngân sách Nhà nước, nguồn huy động từ
cộng đồng và tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức quốc tế.
- Xác định rõ qui chế và qui trình lồng ghép các chương trình, dự án có
liên quan đến mục tiêu xóa đói giảm nghèo.
- Tăng cường công tác chỉ đạo của các cơ quan quản lý ở Trung ương
đối với việc triển khai thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, tập trung
vào vùng trọng điểm. Một số giải pháp cụ thể như sau:
- Vấn đề phát triển kinh tế phải đi đôi với bảo vệ môi trường đảm bảo
phát triển bền vững. Để thực hiện được giải pháp này cần:
Đẩy mạnh khuyến nông, khuyến lâm.
Tăng cường quĩ tín dụng.
Cải thiện tình trạng giao thông vận tải.
Tiến hành tốt công tác giao đất, giao rừng.
Chuyển giao khoa học kỹ thuật và chuyển dịch cơ cấu sản xuất.
- Các vấn đề xã hội:
Y tế.
Giáo dục.
Về bản sắc văn hóa dân tộc thiểu số.
- Trợ giúp đối tượng chính sách xã hội
Người có công với nước và gia đình họ.
Người tàn tật, già yếu, trẻ mồ côi.
- Cứu tế viện trợ khẩn cấp: Hàng năm Nhà nước vẫn sử dụng nguồn
ngân sách để cứu tế tập trung chủ yếu vào hai hình thức:
Cứu tế khi bị thiên tai.
Cứu tế khi giáp hạt.
* Chống tệ nạn xã hội - xây dựng nếp sống văn hóa.
Tệ nạn xã hội chủ yếu ở khu vực miền núi hiện nay là nghiện hút thuốc
phiện, ma chay, cưới xin còn lạc hậu, tốn kém đã ảnh hưởng lớn tới kinh tế
gia đình làm cho các hộ nghèo lại càng nghèo.
Tóm tắt chương 2
Phát triển xã hội trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng trong điều kiện
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
bao gồm: Quản lý sự phát triển xã hội có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh,
có hiệu quả và bền vững. Sự quản lý xã hội phải được tiến hành ngay trong
từng bước và trong suốt quá trình phát triển kinh tế, không chờ đợi đến khi
đất nước đạt tới sự phát triển kinh tế cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội.
Công bằng không có nghĩa là cào bằng, không có nghĩa là thực hiện
chủ nghĩa bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra.
Sự phát triển xã hội theo hướng tiến bộ cần hết sức quan tâm đến phát
triển văn hóa, xem văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội. Phải gắn liền với việc xây dựng và thực hiện tốt nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa. Phải kết hợp sử dụng và phát huy sức mạnh của cả
Nhà nước, cộng đồng và bản thân mỗi người dân.
Sự phát triển xã hội mà trung tâm là phát triển con người cần phải có
một hệ thống các chỉ tiêu, chỉ số, hoặc các thước đo đó là: tuổi thọ, trình độ
dân trí, GDP bình quân đầu người, chỉ số liên quan đến phát triển giới – mối
tương quan giữa nam và nữ, thước đo quyền hạn giới.
Phát triển nguồn nhân lực là biến đổi số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn yêu cầu của nền kinh tế - xã hội. Nguồn
nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao luôn là yếu tố vật chất
quan trọng nhất của lực lượng sản xuất, của nền kinh tế của việc sử dụng tiến
bộ khoa học kỹ thuật công nghệ mới vào sản xuất.
Giải quyết việc làm vừa là vấn đề kinh tế, vừa là vấn đề xã hội.
Đói nghèo do nhiều nguyên nhân, việc xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ
hết sức nặng nề và phải có sự chỉ đạo thống nhất của Nhà nước tới các cấp,
các ngành.
Chương 3. SỰ HÒA NHẬP XÃ HỘIHòa nhập xã hội là một trong những chính sách xã hội cơ bản của
Đảng và Nhà nước ta hướng vào bảo đảm cho một người được sống bình
đẳng, tự do và hạnh phúc trong tình thân ái.
Mục tiêu của chính sách hòa nhập xã hội là phấn đấu từng bước tạo cơ
hội, bảo đảm sự bình đẳng cho mọi người về các quyền lợi chính trị, kinh tế
và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản như học tập, chữa bệnh, hưởng thụ văn
hóa và bảo đảm cuộc sống từ tuổi ấu thơ đến lúc già.
Đối tượng của chính sách này là tất cả các nhóm người yếu thế dễ bị
tổn thương, trong đó phụ nữ và các dân tộc thiểu số là hai đối tượng chủ yếu
cần tập trung nghiên cứu. Tuy vậy, còn một số đối tượng khác cũng cần sự
quan tâm như: trẻ em lang thang, người tàn tật, người cao tuổi, người mắc tệ
nạn xã hội.
3.1. Vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ trong sự hòa nhập vào các dự án phát triển 3.1.1. Vai trò của phụ nữ trong trong đời sống kinh tế
Từ những năm 80, các dự án phát triển đã chú ý đến sự tham gia của
phụ nữ. Người ta đã nhận thấy một điều rằng: Khi phụ nữ không phải là mục
tiêu trực tiếp thì họ không có tiếng nói riêng của mình và ít được chú ý trong
việc hình thành các chương trình phát triển. Họ không được hưởng lợi từ dự
án và vai trò của họ bị lu mờ so với nam giới, vì nam giới có nhiều cơ hội hơn.
Cũng trong giai đoạn này, các tổ chức phát triển đã nhận thấy rằng
ngay cả khi lấy phụ nữ làm mục tiêu cũng chưa đủ, do vậy mà xu hướng xem
xét người phụ nữ trong mối tương quan, kết hợp hài hòa với nam giới tạo ra
sự phát triển có hiệu quả nhất, có nghĩa là người ta không nhìn nhận phụ nữ
một cách biệt lập nữa, đây được xem như là một phương pháp tiếp cận mới
trên quan điểm giới và phát triển.
Đây là cách tiếp cận được vận dụng để giải quyết vấn đề đã tồn tại từ
lâu trong lịch sử, đó là vấn đề bất bình đẳng giữa nam giới và nữ giới trong
đời sống xã hội và gia đình và đã xem xét họ trong sự phát triển của xã hội,
của quốc gia. Họ có khả năng và có điều kiện đóng góp gì? Mỗi giới được
hưởng thụ từ những thay đổi kinh tế - xã hội chung như thế nào? Họ có khó
khăn và thuận lợi khác nhau và giống nhau ra sao? Mỗi giới có nhu cầu,
nguyện vọng như thế nào cần được quan tâm giải quyết để đảm bảo sự phát
triển hài hòa, sự hợp tác tốt đẹp giữa hai giới, sự đoàn kết hỗ trợ cho nhau
trong hoạt động, lao động, thúc đẩy sự phát triển xã hội đi tới phồn vinh, ấm
no và bình đẳng.
Trong nhiều thập kỉ qua, vấn đề sức khỏe bà mẹ, trẻ em, việc làm của
lao động nữ, sinh đẻ có kế hoạch, nghiện hút v.v... được xem xét giải quyết
một cách độc lập, coi là một vấn đề riêng của nữ giới hoặc nam giới. Các vấn
đề này thường đặt ra riêng rẽ bên các vấn đề chung cần giải quyết, tách rời
các vấn đề phát triển của xã hội. Song trong lịch sử, nữ giới và nam giới có
tương quan và tác động qua lại trong quan hệ gia đình, xã hội và chỉ trong sự
tương quan ấy mới thấy rõ vai trò của mỗi giới.
Vấn đề tưởng đơn giản, dễ nhận thấy, song nó lại ít được chú ý, vận
dụng vào thực tế. Trong 20 năm qua, nhiều quốc gia đã đạt được những
thành tựu khoa học kỹ thuật, văn hóa thật to lớn, tốc độ phát triển kinh tế
nhanh, người phụ nữ có những đóng góp đáng kể trong sự tiến bộ của xã hội,
thế nhưng đến nay qua các cuộc điều tra, các số liệu thu thập được, các chỉ
số quan trọng về phụ nữ đang tụt hậu so với nam giới. Báo cáo về phát triển
con người năm 1995 của tổ chức UNDP đã viết: "Cho đến nay chưa có nơi
nào trên trái đất phụ nữ được hoàn toàn bình đẳng với nam giới (kể các nước
Bắc Âu như Thụy Điển, Phần Lan, Nauy v.v... là nơi được coi là Thiên đường
của phụ nữ USD/người/năm.
Bất kỳ ở đâu, lúc nào người ta cũng nhìn thấy sự đóng góp công sức to
lớn của nữ giới vào trong các công việc gia đình và xã hội, song dường như
sự đóng góp này lại không được công nhận một cách chính thức và đánh giá
đúng mức trên các tài liệu thống kê hay trên sổ sách và báo cáo của lãnh đạo
các cấp. Nhiều số liệu thống kê đã không tính đến các công việc do phụ nữ
đảm nhận, mặc dù chúng có một giá trị to lớn về vật chất và xã hội, chẳng
hạn như:
- Lao động của phụ nữ trung công việc nội trợ.
- Lao động của phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ gia đình và lĩnh vực
phi chính thức.
Đây là những công việc khó có thể đo, đếm chính xác, nhưng qua đó
có thể nói phụ nữ là người chủ yếu chăm lo công việc nuôi sống bản thân,
con cái, người già v.v... trong gia đình. Ở các nước đang phát triển, trong đó
có Việt Nam - nơi gần 80% dân số đang sống ở nông thôn, trong đó phụ nữ
chiếm 51% dân số và hơn 52% lực lượng lao động (số liệu thống kê năm
2000 của TCTK), người phụ nữ phải gánh vác phần lớn công việc trên đồng
ruộng. Họ không những sản xuất đủ lương thực cho tiêu dùng gia đình mà
còn cho cả việc xuất khẩu gạo, đóng góp vào việc nuôi sống một phần thế
giới. Người phụ nữ phải lao động với một cường độ rất lớn, thời gian làm việc
kéo dài mà ít có điều kiện nghỉ ngơi, hưởng thụ văn hóa và chăm sóc khi đau
ốm.
Tại thành phố, phụ nữ cũng chịu một sức ép rất lớn về việc làm, họ
cũng phải chịu một gánh nặng về đời sống kinh tế - xã hội và cũng phải hy
sinh cho công việc chăm sóc gia đình mà dường như xã hội không tính đến
và cũng không trả công cho họ.
Những con số do chương trình phát triển phụ nữ đã đưa ra vào năm
1985 tại Hội nghị thế giới về phụ nữ lần thứ hai tại Nairôbi, thủ đô Kênnya đã
làm chấn động thế giới:
- Phụ nữ chiếm 1/2 dân số thế giới.
- Phụ nữ làm việc 2/3 tổng số thời gian làm việc của thế giới.
- Sản xuất ra 1/2 sản lượng nông nghiệp của thế giới.
Nhưng:
- Họ chiếm 2/3 số mù chữ của thế giới.
- Được hưởng thụ 1/10 thu nhập của thế giới.
- Phụ nữ chiếm 70% số người nghèo đói khắp các lục địa.
Có thể nói, do cách nhìn thiên lệch xuất phát từ xa xưa, mà có sự vắng
mặt của phụ nữ trong nhiều lĩnh vực và phụ nữ cũng là người bị thiệt thòi
nhiều nhất - sự thiệt thòi này kéo theo nhiều vấn đề xã hội cản trở sự phát
triển cộng đồng như: bệnh tật, sản xuất thấp, dân trí hạn chế. v.v...
Nói về nguyên nhân của vấn đề này, Viện Nghiên cứu Phát triển xã hội
của Liên hợp quốc nhận định rằng đó là sự thất bại về mặt kiến thức, cơ cấu
tổ chức của phong trào phụ nữ và phát triển. Một sự thật hiển nhiên là cùng
với sự bất bình đẳng về giới đang là một vấn đề mang tính toàn cầu. Đây
cũng chính là vấn đề lớn mà các dự án phát triển cần phải quan tâm để giải
quyết.
Vì sự tiến bộ của mỗi giới, mối quan hệ giữa hai giới trong hiện tại và
tương lai của sự phát triển, cách tiếp cận giới và sự phát triển đòi hỏi phải
xem xét thực trạng giới nữ ở một vùng, một nước, một dân tộc và cả thế giới
trong sự so sánh với giới nam. Giải quyết các vấn đề của giới nữ trong mối
liên hệ gắn bó với các vấn đề chung và của cả giới nam, trong sự phối hợp
lực lượng không có sự đối lập bài trừ lẫn nhau.
Cách tiếp cận mới khi nhìn vào thực tế xã hội có sự cùng tồn tại, chung
sống giữa hai giới trong sinh hoạt gia đình và cộng đồng, những vấn đề riêng
của từng giới chỉ có thể giải quyết trong cái chung với sự quan tâm của xã
hội. Không chỉ riêng giới nữ mà cần có sự hợp tác chung sức của cả hai giới
vì lợi ích của sự tiến bộ xã hội. Bởi lẽ "một quốc gia muốn phát triển lành
mạnh bền vững là một quốc gia ở đó sự tăng trưởng kinh tế không làm xấu đi
mối quan hệ giữa con người với con người, không gây ra hoặc làm tăng thêm
sự bất công, tệ nạn xã hội, không kèm theo sự suy giảm đạo đức, sự xói mòn
bản sắc dân tộc và hủy hoại môi trường".
Hiện nay, ở nước ta vẫn có tới gần 14 triệu người thuộc diện nghèo tức
là có mức ăn hàng ngày dưới 2100 Kcal trong đó có 300.000 hộ với trên 1,5
triệu người thường xuyên thiếu đói tập trung ở các vùng cao, vùng sâu, vùng
xa. Cũng vì vậy, vẫn còn khoảng 40% trẻ em dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng và
có tới 60% phụ nữ khi mang thai bị thiếu máu. Mặc dù vậy lương thực Việt
Nam vẫn đều đặn tăng hàng năm gần 1 triệu tấn và xuất khẩu gạo từ 1,5 đến
3,6 triệu tấn, đứng hàng thứ hai thế giới, nhưng vẫn còn là một thách thức lớn
với các nhà quản lý, lãnh đạo trong việc bảo đảm cuộc sống cho những người
nghèo trong xã hội, nhất là với phụ nữ và trẻ em. Lồng ghép giới trong các
hoạt động của các dự án là một cách giúp phụ nữ tự vượt lên, tham gia vào
quá trình phát triển. Hiện nay, hầu hết các tổ chức phát triển thường xem xét
các hoạt động của mình theo một chu trình và lồng ghép vấn đề giới từ việc
xác định nhu cầu đến việc vạch ra kế hoạch, theo dõi, điều chỉnh việc thực
hiện kế hoạch và cuối cùng là đánh giá dự án.
3.1.2. Vai trò của phụ nữ, giới trong sự phát triển
Trên quan điểm tiếp cận giới trong sự phát triển và vai trò của nữ giới
đã được chú trọng trong các dự án. Họ vừa là người quản lý, vừa là người
thực hiện các hoạt động của dự án. Sự tham gia của họ là yếu tố cơ bản cho
một sự phát triển cân bằng và bền vững song trên thực tế những người
nghèo và nhất là phụ nữ thường hay bị lãng quên trong các hoạt động phát
triển cộng đồng. Chính vì vậy, việc giám sát dự án là việc làm luôn được đặt
ra. Cũng như bất kì phương pháp nào khác, tiếp cận giới không phải là giải
pháp dùng cho mọi vấn đề, nó luôn có những khó khăn nảy sinh trong khi
thực hiện công tác phát triển. Nó chỉ thực sự có hiệu quả khi trở thành một
phần của phương pháp tiếp cận toàn diện với việc phát triển bao gồm cả
công tác vận động và hoàn thành mạng lưới hoạt động. Nhìn chung, trong các
dự án phát triển được thiết kế có sự tham gia của người dân trong cộng đồng
- những người sẽ được hưởng lợi, các cán bộ phát triển có thể hỗ trợ bằng
các hình thức, chẳng hạn như dạy nghề, tạo điều kiện phát triển và cung cấp
một phần kinh phí, còn những người dân địa phương là người tham gia chính
dự án. Đó là cách phát triển từ dưới lên trên, từ nhu cầu và nỗ lực của quần
chúng, tạo ra sự phát triển cộng đồng. Khi lập kế hoạch phát triển làng xã,
phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia (PRA) thường được
sử dụng để xem xét các nhu cầu, theo dõi hoặc đánh giá các giai đoạn của
dự án, nâng cao chất lượng của chu trình, dự án đang được tiến hành -
phương pháp này đòi hỏi có thời gian và cần tạo điều kiện để khai thác, chia
sẻ thông tin giữa người dân địa phương và cán bộ phát triển một cách tối ưu.
Tuy nhiên, các thành viên trong cộng đồng có hoàn cảnh khó khăn, thường là
phụ nữ và người nghèo, có trình độ học vấn thấp, do đó họ thường khó tiếp
cận với các kế hoạch phát triển ban đầu cũng như các chương trình dự án.
Nếu như người làm công tác phát triển không khuyến khích họ tham gia, hoặc
các hoạt động của dự án không phù hợp hoặc không có hiệu quả thì cũng khó
thu hút sự quan tâm của nữ giới và nam giới trong cộng đồng. Thậm chí ngay
cả khi hoạt động đó có lợi, song nhận thức của người dân có hạn thì đây
cũng là vấn đề khó khăn trong việc tổ chức thực hiện.
Thực tế cho thấy, các vùng có dự án phát triển ở nông thôn thường là
vùng sâu, vùng xa, nơi có nhiều dân tộc thiểu số. Trong số họ, nhiều người
không biết chữ, thậm chí không nói được tiếng Kinh, nhiều cuộc họp thôn/
bản cũng như các lớp tập huấn dành cho phụ nữ, phải cử nam giới đi thay để
về truyền đạt lại. Đặc biệt là với loại dự án cho vay vốn của hội phụ nữ, người
quản lý vốn, lãi trong các nhóm tiết kiệm - tín dụng của phụ nữ đòi hỏi phải có
trình độ đủ để tính toán các loại lãi, vốn và số tiền trả đần. Công việc này rất
khó, đòi hỏi sự tỉ mỉ, cẩn thận và phải biết cách làm, cách giải thích cụ thể cho
người vay, vì không phải người vay nào cũng hiểu nổi cách tính. Song, chính
qua hoạt động này, cán bộ hội đã được bồi dưỡng về kiến thức tài chính,
nâng cao năng lực quản lý và kinh doanh. Hơn nữa, đa số các dự án cho vay
đều có qui định phụ nữ phải có phương án sử dụng hợp lý số tiền vay và mục
đích sinh lời, vì vây, các chị phải có phương án trước khi nhận tiền. Chính
cách này đã tạo cho chị em cách làm ăn và bước đầu biết tính toán kinh tế.
Hoạt động của các dự án này không chỉ cung cấp lợi ích kinh tế mà thực sự
đã tạo ra khả năng kỹ thuật cho người tham gia dự án. Vai trò của phụ nữ
trong dự án được đẩy mạnh, vì họ ngày càng có khả năng, tự tin hơn vào
công việc xác định và đưa ra các giải pháp cho vấn đề riêng của mình mà
không chỉ là vấn đề phát triển kinh tế.
Trong các dự án của các tổ chức phát triển, đặc biệt của những tổ chức
phi chính phủ (NGO), thường có một số loại khác nhau. Các hoạt động có liên
quan đặc biệt tới phụ nữ như: tiết kiệm, tín dụng, chăm sóc sức khỏe được
thực hiện tốt - ở đó vai trò của phụ nữ đã được khẳng định. Trong một số dự
án khác như kế hoạch hóa gia đình, quản lý rừng đầu nguồn, chương trình
nước sạch, làm ruộng nương đã thu hút cả nữ giới và nam giới tham gia.
Trong nhiều trường hợp nữ giới đã vượt xa nam giới khi đảm nhận các công
việc (làm giống lúa, vườn ươm, chăn nuôi, quản lý và phòng trừ dịch hại tổng
hợp - IPM). Có thể nói, tuy ở một số nhóm, phụ nữ còn thiếu kinh nghiệm và
kỹ năng quản lý nhưng bù lại là sự nhiệt tình và tập trung trong công việc. Khi
sử dụng phần thu nhập bổ sung của mình, phụ nữ có xu hướng dành nhiều
ưu tiên cho con cái hơn là nam giới. Đồng thời họ cũng góp phần xây dựng
tình đoàn kết xóm làng qua các hoạt động hỗ trợ nhau trả nguồn vốn trong
nhóm tiết kiệm của họ, khuyến khích con người gần gũi nhau hơn trong cuộc
sống hàng ngày.
Người ta cũng nhận thấy rằng nữ giới có nhiều phẩm chất để tham gia
vào các công việc phát triển, họ sẵn sàng đấu tranh cho sự công bằng, lẽ
phải, luôn ủng hộ những ý kiến tiến bộ, yêu chuộng hòa bình và cũng ít tham
ô, lãng phí. Do vậy, nếu chú ý đầu tư cho phụ nữ thì đem lại nhiều lợi ích cho
công cuộc phát triển chung hơn trong cộng đồng.
3.1.3. Sự hòa nhập của phụ nữ trong các hoạt động phát triển cộng đồng
3.1.3.1. Tầm quan trọng của sự hòa nhập xã hội đối với phụ nữ
Hòa nhập là sự liên kết, tham gia của cá nhân hoặc nhóm với tư cách
là một đơn vị, một bộ phận trong quá trình hoạt động. Đó là, quá trình hợp tác
theo hai chiều, bao gồm sự tham gia tích cực từ phía cá nhân, gia đình, nhóm
và sự đón nhận, tạo điều kiện từ phía cộng đồng, tổ chức và đường lối chính
sách phát triển của Nhà nước. Như vậy, sự hòa nhập đối với phụ nữ (chiếm
trên 50% dân sô) chính là điều kiện quan trọng để xây dựng một xã hội phát
triển, công bằng và văn minh. Tuy nhiên, việc hòa nhập của phụ nữ đang trở
nên khó khăn hơn do sự phân hóa giàu - nghèo, giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, giữa các thành phần kinh tế làm cho một bộ
phận phụ nữ ít có điều kiện tham gia vào quá trình cải thiện chất lượng cuộc
sống. Những phụ nữ ở vùng sâu, vùng xa, phụ nữ đông con thường không có
đủ việc làm, không có điều kiện tham gia quản lý và không có cơ hội tiếp cận
đầy đủ các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhiều phụ nữ nghèo không có nghề nghiệp
phải làm thuê hoặc tự kiếm việc làm và chấp nhận những công việc không ổn
định, tiền công thấp. Một bộ phận các em bé gái đến tuổi đi học nhưng do nhà
nghèo mà không được tới trường, nhiều học sinh phải bỏ học sớm để ở nhà
giúp bố mẹ lao động. Tất cả những tình trạng này cho thấy sự cần thiết phải
xem xét và nâng cao điều kiện và hòa nhập của phụ nữ trong các hoạt động
phát triển cộng đồng, xã hội.
3.1.3.2. Một số định hướng chính sách và giải pháp nhằm tăng cường sự hòa nhập của phụ nữ
+ Biện pháp chung, quan trọng nhất trong việc đổi mới và thực hiện
chính sách hòa nhập đối với phụ nữ là tuyên truyền giáo dục và mạnh dạn
huy động giới nữ tham gia quản lý nhiều hơn ở tất cả các cấp, nhất là cấp cơ
sở. Có chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút giới nữ vào tất cả các khâu
của quá trình quản lý sự phát triển xã hội, bao gồm việc hoạch định chính
sách, lập chương trình, kế hoạch, tổ chức thực hiện, kiểm tra đánh giá và
điều chỉnh chính sách. Để làm tốt được điều này, một mặt cần tiếp tục đấu
tranh khắc phục tư tưởng trọng nam khinh nữ, mặt khác cần quán triệt sâu
rộng quan điểm xem thực hiện hòa nhập xã hội đối với phụ nữ là điều kiện
quan trọng để khai thác phát huy mạnh mẽ những tiềm năng to lớn của lực
lượng chiếm trên 50% dân số.
- Có chính sách bảo vệ, hỗ trợ một cách cụ thể, thiết thực đối với phụ
nữ nông dân.
- Mở rộng việc làm và đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo cho phụ nữ.
- Tăng cường hòa nhập giới trong việc thực hiện chính sách giáo dục -
đào tạo.
- Xã hội hóa việc thực hiện chính sách đối với phụ nữ và nâng cao
năng lực, vai trò của các tổ chức xã hội.
- Nâng cao nhận thức về giới của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp
- Kiện toàn tổ chức và đẩy mạnh hoạt động của ủy ban Quốc gia vì sự
tiến bộ của phụ nữ từ Trung ương, các Bộ, Ngành xuống các địa phương.
3.1.4. Một số mô hình phân tích giới được áp dụng trong việc thực hiện chu trình kế hoạch của dự án
Hiện nay, ngày càng có nhiều tổ chức chính phủ, phi chính phủ sử
dụng khái niệm, mô hình và công cụ phân tích giới để thực hiện các chu trình
kế hoạch của mình. Phân tích giới được tiến hành ở hầu hết các dự án, trong
một số giai đoạn (tiền dự án, giữa kỳ và kết thúc dự án). Các câu hỏi "ai làm
gì", "ai sử dụng", "ai quản lý" luôn được nhắc đến trong từng lĩnh vực hoạt
động của dự án nhằm chỉ ra những vấn đề, những biểu hiện bất bình đẳng
giới đang tồn tại trong dự án hay một kế hoạch công tác cụ thể, cùng với các
yếu tố kinh tế - văn hóa - xã hội ảnh hưởng tới tương quan giới. Điều cốt lõi
của phân tích giới là nhận thức rõ ràng về những mâu thuẫn, những tồn tại
cũng như những nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó. Sau khi phân tích giới,
nội dung tiếp theo của hầu hết các dự án là xây dựng các biện pháp khắc
phục hay chương trình hành động nhằm cải thiện tình hình thực tế.
* Một số mô hình xây đựng phác đồ về lao động theo giới trong cộng
đồng bắt đầu bằng việc lập bảng phân công lao động trong các nhóm lao
động sản xuất, tái sản xuất và công việc của cộng đồng. Cùng với điều này có
thể hỗ trợ thêm bằng phác đồ về sự đánh giá và kiểm tra các nguồn lực cần
thiết cho việc thực hiện các hoạt động để xem xét ở mức độ nào thì nữ giới
và nam giới có thể kiểm soát được nguồn lực, cũng như yếu tố nào về văn
hóa, kinh tế, xã hội ảnh hưởng đến việc thực hiện các vai trò này hoặc cản trở
việc tiếp cận các nguồn lực đó.
* Một số mô hình phân biệt giữa những nhu cầu chiến lược và nhu cầu
thực tế về giới, đáp ứng nhu cầu trước mắt được tạo nên từ những điều kiện
cụ thể và không gây khó khăn cho việc thực hiện các vai trò của nữ giới hoặc
nam giới (ví dụ, việc cấp nước sạch, chăm sóc sức khỏe và các hoạt động
tạo thu nhập cho gia đình). Các dự án giúp phụ nữ và nam giới thực hiện tốt
hơn các vai trò vốn có của mình mà không làm thay đổi thực tế phân công lao
động theo giới thì dự án đó đáp ứng các nhu cầu về giới. Trong dự án y tế
của "Chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển", qua phân tích giới cho
thấy hầu hết phụ nữ người Mông (trên 90%) sinh con ở nhà với lý do họ
không muốn cho người thứ hai nhìn vào "cái của riêng họ". Đây là một phong
tục có từ lâu đời, giải pháp tốt nhất là cung cấp cho người phụ nữ túi đẻ sạch,
hướng dẫn và vận động họ sử dụng nó, mở lớp tập huấn "bà đỡ dân gian" tại
thôn/bản là công việc trước mắt có ý nghĩa thiết thực hơn cả bên cạnh việc
xây dựng củng cố trạm y tế cơ sở để có thể tự giải quyết các trường hợp đẻ
bất thường tránh bị nhiễm trùng và phát hiện các ca đẻ khó để chuyển đi kịp
thời.
* Các nhu cầu chiến lược của giới được tạo nên từ sự phân tích bản
chất mối quan hệ tự nhiên giữa nam và nữ, tăng cường các mục đích nhằm
khắc phục vai trò thứ yếu của họ trong một hoàn cảnh cụ thể, tạo điều kiện
cho hai giới thực hiện những công việc vốn được coi là của một giới, giúp họ
đổi mới vai trò truyền thống của mình qua đó nâng cao được bình đẳng nam
nữ - còn gọi là lợi ích giới. Những lợi ích của hai giới mà khi được đáp ứng sẽ
làm biến đổi thực tế phân công lao động theo hướng tiến bộ, làm tăng cường
sự bình đẳng nam nữ trong xã hội (chia sẻ công việc nội trợ, xóa bỏ sự phân
biệt trong vay vốn, ra quyết định v.v...). Một ví dụ có thể nêu lên là Trung tâm
Y tế huyện Bắc Hà - Lào Cai đã đào tạo lớp bà đỡ dân gian trong đó có sự
tham dự của 2 nam giới học trong 15 ngày để thông qua họ tuyên truyền cho
nam giới trong cộng đồng và họ có thể đỡ đẻ cho người thân trong gia đình
và họ hàng v.v... đây là việc làm đầy sáng tạo và mang ý nghĩa giới sâu sắc,
như một mắt xích đột phá hàng rào tập tục vốn cố hữu trong nhiều đời của
người phụ nữ nơi đây. Thực tế việc làm này dần dần đã giúp cho cộng đồng
đổi mới vai trò truyền thống, biến đổi thực tế phân công lao động và đáp ứng
lợi ích giới về lâu dài.
Thường thì giữa các nhóm phụ nữ - nam giới có nhu cầu thực tế và
chiến lược khác nhau. Các dự án phát triển thường xem xét vấn đề này nhằm
đánh giá mức độ ảnh hưởng đến quan hệ giới trong các dự án để từ đó có
hướng cải thiện tốt hơn.
* Để có định hướng nên tập trung thực hiện các hoạt động trong tương
lai vào đâu thì các dự án cũng thường xem xét các nhu cầu theo sự phân cấp
mức độ, trên cơ sở này thấy được quyền bình đẳng nam nữ như thế nào, từ
đó tìm ra những nhân tố phát triển then chốt. Đó là sự tiếp cận và phát triển
nguồn lực, phúc lợi, việc tham gia vào các quyết định, chủ trương và ý thức
trách nhiệm của người dân trong cộng đồng. Cách xem xét này tạo điều kiện
cho việc đánh giá các thuận lợi của hai giới và những điều còn lại cần phải
làm, khắc phục để từ đó thấy rõ những khả năng và các mặt hạn chế. Việc
xem xét khả năng và hạn chế được dựa trên quan điểm cho rằng: phát triển là
một quá trình trong đó khả năng thì tăng lên, hạn chế thì giảm xuống, đồng
thời giúp người tài trợ nhận ra được các yếu tố ảnh hưởng đến cuộc sống
của người dân địa phương và dự đoán các trở ngại bên ngoài đối với các
nguồn lực bên trong của cộng đồng.
Hiện nay, ở nước ta có nhiều tổ chức quốc tế đến làm công tác phát
triển cộng đồng giúp Việt Nam vượt qua khó khăn sau giai đoạn đất nước bị
chiến tranh tàn phá. Trong việc làm đầy ý nghĩa nhân đạo này, những người
làm công tác giảng dạy về giới cũng như những người làm thực tế đã học tập
được nhiều về phương pháp tiếp cận, triển khai của họ. Bởi hầu hết mọi dự
án phát triển đều xem xét rất kỹ từ góc độ bình đẳng giới trong việc tham gia
lấy quyết định cũng như hưởng thụ.
Đúng như ông Butros Butros Ghali - năm 1995 có viết: "Không có tiến
bộ trong hoàn cảnh của phụ nữ thì không có phát triển xã hội đích thực. Nhân
quyền sẽ không xứng đáng với danh xưng nếu loại trừ phân nửa của nhân
loại là phụ nữ. Cuộc đấu tranh cho quyền bình đẳng của phụ nữ là một phần
gắn liền với cuộc đấu tranh vì một thế giới tốt hơn cho mọi người, mọi xã hội".
3.2. Hòa nhập xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trong các hoạt động phát triển3.2.1. Vài nét về các dân tộc thiểu số ở Việt Nam
Theo số liệu Tổng điều tra dân số ngày 1/4/1999 cho thấy dân số các
dân tộc thiểu số của nước ta là hơn 10 triệu người. Trừ vùng đồng bằng Bắc
Bộ, những thành phố lớn và phần đất màu mỡ nhất ở trung tâm đồng bằng
sông Cửu Long, hầu hết ở các vùng còn lại đều có đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống, ở rải rác hoặc tập trung theo các mật độ khác nhau. Toàn bộ lãnh
thổ có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú có thể chia thành các vùng như sau:
- Vùng núi và trung du Bắc Bộ, gồm 2 vùng đặc trưng:
+ Vùng núi đá cao, vùng giáp biên cương, vùng sâu, vùng xa.
+ Vùng núi đất và trung du, đất trống đồi trọc.
- Vùng dân tộc thiểu số miền Trung và Nam Trung bộ, bao gồm 2 vùng
đặc trưng:
+ Giải bán sơn địa phía Đông dãy Trường Sơn.
+ Vùng dân tộc thiểu số Tây Nguyên.
- Vùng dân tộc thiểu số Nam Bộ, gồm 2 vùng đặc trưng:
+ Vùng Tây Nam Bộ có đồng bào Khơ me.
+ Vùng Đông Nam Bộ (từ Bình Dương đến Bà Rịa Vũng Tàu và Bình
Phước).
Về dân số, ở Việt Nam, bên cạnh dân tộc Kinh chiếm đa số còn có 53
dân tộc thiểu số khác (chiếm 13% dân số cả nước). Dân số của các dân tộc
thiểu số cũng chênh lệch nhau khá lớn từ vài ba trăm người (Ơ du, Brâu, Rơ
măm Pu péo, Si la v.v...) đến trên dưới triệu người (Dao, Nùng, Tày, Khơme
v.v...). Trừ một vài dân tộc sang chủ yếu ở đồng bằng hoặc đô thị (Khơme,
Hoa v.v...) còn hầu hết các dân tộc thiểu số khác cư trú tại các vùng núi và
cao nguyên nơi chiếm 3/4 diện tích của cả nước.
Các dân tộc thường sống xen kẽ với nhau nhưng mỗi dân tộc đều có
những đặc trưng riêng về ngôn ngữ, phong tục, tập quán, truyền thống văn
hoá và đồng thời họ cũng có nét văn hóa chung của người Việt Nam.
3.2.2. Tầm quan trọng của vấn đề dân tộc và - việc hòa nhập các dân tộc thiểu số trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam
Từ thực tế phát triển xã hội, quan hệ giữa các dân tộc là một vấn đề
nhạy cảm và phức tạp. Sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội là
khó tránh khỏi, sự khác biệt về phong tục, tập quán, tín ngưỡng và lối sống
được hình thành từ lâu đời giữa các dân tộc, một mặt là tiền đề cho sự giao
lưu, hợp tác nhưng mặt khác nó cũng tiềm ẩn những mầm mống của sự mặc
cảm, nghi kỵ, thậm chí dẫn đến mâu thuẫn và xung đột, gây mất ổn định về
chính trị - xã hội và ngăn cản sự phát triển hài hòa, bền vững của một quốc
gia.
Các cuộc xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc trên thế giới xảy ra ở
nhiều nơi, giữa các dân tộc thiểu số với dân tộc đa số hoặc giữa các dân tộc
thiểu số với nhau do sự chênh lệch về mức độ nhận thức, sự phát triển kinh
tế, xã hội, thêm vào đó là sự lợi dụng của các thế lực thù địch gây chia rẽ làm
ảnh hưởng đến sự phát triển chung của quốc gia.
Ở Việt Nam, khi đất nước đang bước sang giai đoạn công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thì việc hòa nhập xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số
chính là tạo điều kiện để đồng bào được hưởng mọi quyền bình đẳng về
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; hòa nhập với sự phát triển chung của đất
nước.
3.2.3. Định hướng chính sách và giải pháp đẩy mạnh việc hòa nhập các cộng đồng dân tộc thiểu số
+ Ở tầm quản lý vĩ mô, Nhà nước cần tăng cường đầu tư và chỉ đạo
sát sao việc triển khai các chương trình phát triển kinh tế - xã hội ở vùng đồng
bào các dân tộc thiểu số, hướng dẫn và hỗ trợ đồng bào tiếp tục chuyển
mạnh từ kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần.
+ Tiếp tục đẩy mạnh cuộc vận động định canh, định cư đối với những
đồng bào dân tộc thiểu số đang còn trong tình trạng du canh, du cư và đồng
thời có kế hoạch chủ động hướng dẫn đồng bào ở những nơi quá khó khăn
đến những vùng kinh tế mới làm ăn sinh sống. Đây là hai cuộc vận động có
liên quan chặt chẽ với nhau.
+ Nhà nước cần đầu tư nâng cấp, xây dựng các đường quốc lộ tuyến
đường dọc biên giới và các tuyến đường đến các huyện, xã vùng cao. Gắn
việc phân bố lại dân cư với việc xây dựng đường xá giao thông, phục vụ tốt
các điểm dân cư. Xây dựng và phát triển các đô thị, thị trấn, thị tứ để hỗ trợ
vùng nông thôn, miền núi phát triển.
+ Coi trọng việc giữ gìn, tôn tạo, khai thác và phát huy mạnh mẽ hơn
nữa những giá trị và sắc thái văn hóa riêng rất phong phú và đa dạng của tất
cả các dân tộc sống trên đất nước ta. Thúc đẩy giao lưu văn hóa giữa các
dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại vì sự phát triển và tiến
bộ chung của văn hóa Việt Nam, đây không chỉ là vấn đề có ý nghĩa văn hóa
đơn thuần mà thực sự có ảnh hưởng to lớn tới việc củng cố sự hòa nhập xã
hội đối với các dân tộc thiểu số anh em.
+ Tiếp tục phấn đấu để hoàn thành tiêu chuẩn quốc gia về xóa mù chữ
và phổ cập giáo dục tiểu học ở những huyện, xã miền núi chưa đạt chuẩn đề
ra (90% số người 15 - 25 tuổi học hết lớp 3 và 70% số trẻ em trong độ tuổi 6 -
14 học hết lớp 5).
+ Tích cực xây dựng và phát triển đội ngữ cán bộ là người dân tộc thiểu
số, xem đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định trong việc tổ chức thực hiện
thắng lợi chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước.
3.3. Sự hòa nhập xã hội đối với những nhóm người dễ bị tổn thương khác3.3.1. Đối với trẻ em gặp khó khăn
Tình hình trẻ em đặc biệt khó khăn hiện nay là một vấn đề xã hội rất
đáng quan tâm. Ở nước ta, năm 1999, có trên 1,5 triệu trẻ em thuộc các đối
tượng dưới đây:
- Trẻ em mồ côi không nơi nương tựa.
- Trẻ em tàn tật nặng.
- Trẻ em lang thang.
- Trẻ em phải lao động sớm.
- Trẻ em nghiện ma túy.
- Trẻ em bị xâm hại tình dục.
- Trẻ em con các hộ quá nghèo.
Nhà nước đã có nhiều hoạt động nhằm xây dựng các chính sách, tạo
hành lang pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ chăm sóc trẻ em gặp khó
khăn. Chương trình hành động bảo vệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn
trong giai đoạn 1999 - 2002 đã được Chính phủ phê duyệt cùng với Nghị định
cứu trợ xã hội đối với trẻ em bị dị dạng, dị tật do di chứng từ bố mẹ bị nhiễm
chất độc hóa học trong chiến tranh. Đã có nhiều mô hình được xây dựng ở
các tỉnh như: Mô hình vừa học, vừa làm; Mô hình phục hồi chức năng dựa
vào cộng đồng và Mô hình phòng ngừa và giải quyết trẻ em lang thang v.v...
Tuy nhiên, vấn đề chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn còn
gặp không ít trở ngại do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan như
sau:
- Về mặt khách quan: đây là một vấn đề xã hội có qui mô lớn, không thể
giải quyết nhanh chóng; do sự phân hóa giàu nghèo, sự phát triển không đều
giữa thành thị và nông thôn; tình trạng thiếu việc làm, đói nghèo, ảnh hưởng
của thiên tai là những yếu tố thường xuyên làm gia tăng số trẻ em lang thang
kiếm sống.
- Về mặt chủ quan: việc chấp hành luật pháp liên quan đến trẻ em còn
hạn chế, đặc biệt ở các địa phương nghèo; công tác quản lý, giáo dục thiếu
niên chưa được quan tâm đúng mức; nhiều cấp chính quyền, tổ chức xã hội
chưa xem đây là nhiệm vụ của mình; nguồn kinh phí cho công tác này còn
quá thấp; lực lượng cán bộ làm công tác này còn thiếu về số lượng, hạn chế
về chuyên môn.
Giải pháp để nâng cao hơn nữa hiệu quả của công tác đưa trẻ em gặp
nhiều khó khăn hòa nhập xã hội là:
- Xã hội hóa hoạt động bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em. Phối hợp
các đoàn thể nhân dân như: Hội Liên hiệp Phụ nữ, Đoàn thanh niên v.v..., huy
động mọi nguồn lực gia đình, cộng đồng; nguồn lực từ Trung ương và Địa
phương cũng như sự Viện trợ quốc tế.
- Điều chỉnh và bổ sung các văn bản pháp luật, qui định các chính sách
cụ thể về thực hiện Công ước quốc tế về Quyền trẻ em, Luật bảo vệ, chăm
sóc và giáo dục trẻ em. Mở rộng chương trình chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh
khó khăn.
- Kiện toàn tổ chức, nâng cao năng lực đội ngữ cán bộ của hệ thống
chăm sóc - bảo vệ trẻ em từ trung ương tới địa phương.
3.3.2. Đối với người tàn tật
Do hậu quả của chiến tranh, Việt Nam hiện nay có gần 5 triệu người
tàn tật (chiếm 7% dân số), trong đó nữ chiếm 58%, trẻ em 15 tuổi chiếm 27%
(Bộ Lao động Thương binh và Xã hội). Với đối tượng này, Nhà nước đã quan
tâm trợ giúp để họ có việc làm, tăng thu nhập, kết hợp với phục hồi chức
năng và hòa nhập cộng đồng. Chương trình quốc gia về giải quyết việc làm,
xóa đói giảm nghèo đã ưu tiên cho đối tượng người tàn tật vay vốn với lãi
xuất ưu đãi hỗ trợ dạy nghề, tạo việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống.
Tuy nhiên, một số chính sách sau vẫn cần được Nhà nước thực hiện đối với
người tàn tật:
- Nhà nước bảo hộ quyền làm việc của người tàn tật và khuyến khích
thu nhận, tạo việc làm cho họ.
- Chính phủ quy định tỷ lệ lao động là người tàn tật ở một số nghề và
công việc mà các doanh nghiệp phải đóng góp một khoản tiền vào qui việc
làm do Chính phủ qui định để góp phần giải quyết việc làm cho người tàn tật.
Những cơ sở nhận người tàn tật vào làm việc được Nhà nước giảm thuế và
cho vay vốn với lãi xuất thấp.
- Phát huy vai trò của Hội bảo trợ người tàn tật Việt Nam nhằm vận
động mọi cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội giúp đỡ từ thiện cho người tàn
tật. Đối với những người không còn khả năng lao động được Nhà nước trợ
cấp thường xuyên, những người tàn tật không nơi nương tựa được nuôi
dưỡng tại các cơ sở tập trung hoặc tại cộng đồng nơi họ sinh sống.
- Phát triển các trường và lớp học chữ, học nghề cho người tàn tật ở
các tỉnh thành phố. Hình thành hệ thống các trung tâm chỉnh hình, cung cấp
chân, tay giả nhằm tạo điều kiện phục hồi khả năng lao động, giúp người tàn
tật hòa nhập với cộng đồng.
3.3.3. Đối với người cao tuổi
Ở Việt Nam, người cao tuổi chiếm khoảng 10% dân số.
Trong những năm tới, do tình hình kinh tế của đất nước phát triển, chính sách
xã hội được tăng cường thì tỷ lệ người cao tuổi sẽ còn cao hơn. Trong những
năm qua, Nhà nước đã có nhiều chính sách để hỗ trợ, chăm sóc người cao
tuổi như: bảo hiểm xã hội tuổi già thông qua hệ thống bảo hiểm xã hội, nhằm
bảo đảm thu nhập cho những người lao động khi đến tuổi về hưu; chính sách
trợ cấp hàng tháng cho người già cô đơn không có nguồn thu nhập. Tuy
nhiên, để tạo điều kiện cho người cao tuổi có cuộc sống ổn định và hòa nhập
với cộng đồng, cần bổ sung một số biện pháp như:
- Phát triển rộng ở các ngành, các địa phương Hội những người cao
tuổi nhằm tạo môi trường tốt cho các cụ sinh hoạt và tiếp tục đóng góp những
kinh nghiệm trong các lĩnh vực hoạt động của họ trước đây, nhằm phục vụ tốt
sự nghiệp xây dựng đất nước. Động viên, khuyến khích người cao tuổi tham
gia dạy bảo con cháu trở thành người có đức, có tài, sống hữu ích cho gia
đình và xã hội.
- Phát triển hơn nữa hệ thống y tế lão khoa để chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi, thành lập các câu lạc bộ dưỡng sinh để rên luyện sức khỏe
người cao tuổi. Lập hội Bảo thọ để các cụ giúp nhau lúc ốm đau.
- Sửa đổi, bổ sung và nâng mức trợ cấp hưu trí để đảm bảo cuộc sống
tuổi già. Đối với các cụ già cô đơn không nơi nương tựa cần từng bước thu
hút đông hơn đến các trung tâm dưỡng lão ở các tỉnh, thành phố để nuôi
dưỡng hoặc chăm sóc ngay tại cộng đồng.
3.3.4. Đối với người mắc tệ nạn xã hội
Đối tượng này gồm hai nhóm chính là người nghiện ma túy và người
mắc tệ nạn mại dâm.
* Người nghiện ma úy: Tính đến 12/1999, cả nước có 104.574 người
nghiện ma túy có hồ sơ kiểm soát, trong đó có 11.193 phạm nhân nghiện ma
túy trong các trại giam. Nhìn chung, nạn ma túy chưa bị chặn đứng, vẫn còn
diễn biến phức tạp, cuộc đấu tranh chống tệ nạn ma túy là cuộc đấu tranh lâu
dài, đòi hỏi phải được tiến hành bền bỉ, thường xuyên liên tục và kiên quyết.
Để đẩy mạnh công tác phòng, chống ma túy, nâng cao hiệu quả của
việc cai nghiện, phục hồi nhân phẩm cho những người mắc phải tệ nạn này
và đưa họ trở lại hòa nhập xã hội, cần áp dụng một số biện pháp sau:
- Khẩn trương xây dựng và ban hành các văn bản pháp lý của nhà
nước để chỉ đạo có hiệu lực công tác phòng chống ma túy. Ban hành luật
phòng chống ma túy.
- Xem xét, điều chỉnh một số chức năng quản lý nhà nước về phòng,
chống ma túy của một số Bộ, Ngành theo hướng xây dựng một cơ quan
phòng, chống ma túy thống nhất, đủ mạnh, có hiệu lực và có tính chiến đấu
cao như nhiều nước trên thế giới và trong khu vực đang tổ chức.
- Củng cố và đa dạng hóa các hình thức cai nghiện, lấy hình thức cai
nghiện tại gia đình, cộng đồng làm cơ bản. Tổ chức quản lý chặt chẽ sau cai
nghiện, tạo điều kiện cho những người đã được cai cắt cơn nghiện tái hòa
nhập cộng đồng.
* Người mắc tệ nạn mại dâm: nhìn tổng thể, nạn mại dâm hiện nay
vẫn chưa giảm, vẫn diễn biến phức tạp với phương thức hoạt động ngày
càng trá hình và đa dạng. Tệ nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em làm mại dâm vẫn
tiếp diễn đáng lo ngại.
Để đẩy mạnh công tác phòng chống, chữa trị và hòa nhập đối tượng
mắc tệ nạn mại dâm vào cộng đồng, cần phải tiến hành:
- Kiện toàn Ban chỉ đạo và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ phòng,
chống tệ nạn xã hội ở các cấp từ Trung ương đến cơ sở.
- Xây dựng chương trình, kế hoạch liên ngành phòng chống tệ nạn mại
dâm. Cụ thể hóa chỉ tiêu, điều kiện, thời gian, cơ chế thực hiện, thống nhất
hành động và đặc biệt cần giải quyết dứt điểm các địa bàn trọng điểm.
- Thực hiện tổng điều tra đối tượng mại dâm để phân loại và có giải
pháp xử lý, giáo dục, giúp đỡ, dạy nghề, tạo công việc phù hợp cho từng loại
đối tượng.
- Đầu tư kinh phí, nguồn lực để củng cố các cơ sở chữa bệnh cho đối
tượng mại dâm. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để giảm tỷ lệ tái phạm, đặc
biệt quản lý tốt đối tượng sau chữa trị tại cộng đồng.
Tóm tắt chương 3
Phụ nữ có vai trò lớn trong quá trình phát triển xã hội nhưng thường ít
được nhắc tới, bởi vậy, cần có cách tiếp cận giới và sự phát triển - xem xét
thực trạng giới nữ ở một vùng, một nước, một dân tộc và cả thế giới trong sự
so sánh với giới nam, vì sự tiến bộ của mỗi giới, mối quan hệ giữa hai giới
trong hiện tại và tương lai của sự phát triển. Giải quyết các vấn đề của giới nữ
trong mối liên hệ gắn bó với các vấn đề chung và của cả giới nam trong sự
phối hợp lực lượng không có sự đối lập bài trừ lẫn nhau.
Sự hòa nhập đối với phụ nữ chính là điều kiện quan trọng để xây dựng
xã hội phát triển công bằng và văn minh.
Sự chênh lệch khó tránh khỏi về trình độ phát triển kinh tế - xã hội, sự
khác biệt về phong tục, tập quán, tín ngưỡng và lối sống của các dân tộc
thiểu số đòi hỏi nhà nước phải tập trung đầu tư nhiều hơn cho những vùng có
người dân tộc thiểu số sinh sống.
Các đối tượng dễ bị tổn thương khác của xã hội như: trẻ em gặp khó
khăn, người già, người mắc tệ nạn xã hội cần được quan tâm và có chính
sách riêng với từng đối tượng này theo hướng tạo điều kiện thuận lợi cho họ
hòa nhập vào cộng đồng.
Khi Việt Nam đang bước sang giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước thì việc hòa nhập xã hội đối với phụ nữ, đồng bào các dân tộc thiểu
Du anTinh trang xa hoi cham phat trien
Tinh trang xa hoi duoc cai thien
số và các đối tượng dễ bị tổn thương khác là tạo điều kiện để họ được hưởng
mọi quyền bình đẳng về chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội và hòa nhập với sự
phát triển chung của đất nước.
Chương 4. DỰ ÁN PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
4.1. Khái niệm dự án, dự án phát triển cộng đồng Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường hay nghe nói tới dự án.
Có những dự án lớn được tiến hành trên phạm vi cả nước, hoặc một tỉnh, một
huyện, đôi khi vài ba tỉnh, hoặc huyện, có những dự án do tổ chức quốc tế tài
trợ và thực hiện với một hay nhiều đối tác ở trong nước, chẳng hạn như:
- Chương trình nước sạch của chính phủ Đan Mạch.
- Dự án hỗ trợ sức khỏe cho phụ nữ vùng khó khăn ở các tỉnh miền núi
phía Bắc của Tổ chức SIDA - Thụy Điển.
Đôi khi có những dự án lớn của các tổ chức quốc tế tiến hành trên
phạm vi liên chính phủ. Cũng có những dự án nhỏ hơn do chính phủ Việt
Nam hoặc một nhóm tổ chức xã hội thực hiện như: Dự án xóa đói giảm nghèo
ở miền Trung của Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Dự án hỗ trợ cho người bị tai nạn,
rủi ro của Bộ Thủy sản v.v... để giúp cho một cộng đồng dân cư và những
người dân cải thiện điều kiện sống trên một địa bàn nhất định.
Dự án cũng có thể chỉ đơn giản như: một phụ nữ gây dựng và phát
triển đàn lợn nái, hay một người nông dân nam tách chiết một vườn cây, xây
dựng những vườn ươm; hoặc lớn hơn một chút như: một nhóm ngư dân làm
tàu nuôi cá bè trên sông, v.v...
Đối với các nhà khoa học, hoặc các nghệ sĩ thì có thể đó là các công
trình nghiên cứu hoặc những sưu tập trong quá khứ và hiện tại, hay có thể là
việc gây quỹ cho những việc làm nhân đạo với những trẻ em nghèo vượt khó,
hoặc cho việc nuôi dưỡng những tài năng v.v...
Sơ đồ 4.1. Ý nghĩa của dự án
Trong gần một nửa thế kỷ qua, dự án đã là một trong những công cụ và
phương tiện để những tổ chức viện trợ quốc tế chuyển giao viện trợ không
hoàn lại, các khoản quỹ tín dụng, các khoản cho vay và viện trợ kỹ thuật khác.
Với chức năng là đòn bẩy quan trọng trong quá trình phát triển, các dự án đã
giúp việc biến kế hoạch thành hành động, mục đích cuối cùng là mang lại
những thay đổi về mặt kinh tế và xã hội. Chính vì vậy, trong những năm gần
đây, ở các nước đang phát triển, người ta ngày càng chú trọng các chương
trình, các dự án nhằm mục tiêu phát triển kinh tế và xã hội của các nước này.
Vì dự án là phương tiện huy động tài nguyên và nguồn lực các loại, tiến tới
việc phân bổ, sử dụng một cách hợp lý các đối tượng để tạo ra hàng hóa kinh
tế và những dịch vụ xã hội. Do vậy, có thể nhận thấy ý nghĩa của dự án theo
sơ đồ 4.1.
Như vậy, có thể thấy rằng: dự án là sự can thiệp để tạo ra một sự thay
đổi trong nhận thức của người dân. Những thay đổi về nhận thức này sẽ giúp
người dân quyết tâm thực hiện những công việc nhằm mang lại một sự thay
đổi trong môi trường sống, sự thay đổi này lại một lần nữa giúp cho người
dân tiếp tục đổi mới nhận thức của họ, nghĩa là họ cảm thấy nhu cầu muốn
cải thiện cuộc sống trong cộng đồng và xã hội ở mức cao hơn.
Vậy dự án là gì? Có thể định nghĩa theo nhiều cách.
* Dự án (Project):
Là sự can thiệp một cách có kế hoạch nhằm đạt một hay một số mục
tiêu cũng như hoàn thành những chỉ báo thực hiện đã định trước tại một địa
bàn trong một khoảng thời gian nhất định, có huy động sự tham gia thực sự
của những tác nhân và tổ chức cụ thể.
Nói cách khác, dự án là một tổng thể có kế hoạch những hoạt động
(hay công việc) nhằm đạt một số mục tiêu cụ thể trong một khoảng thời gian
và trong khuôn khổ chi phí nhất định về nguồn lực.
Ở đây chúng ta cần phân biệt thêm dự án nhánh và chương trình:
- Dự án nhánh (Sub - Project): là những dự án nhỏ nằm trong một dự
án và thường được thực hiện trên một địa bàn hay một cộng đồng. Ví dụ, các
dự án nhánh của dự án "Phụ nữ và các tệ nạn xã hội trong thành phố" là:
+ Phụ nữ mại dâm.
+ Phụ nữ với vấn đề nghiện hút.
+ Giải quyết việc làm trong các trung tâm giáo dưỡng phụ nữ, v.v...
- Chương trình (Program): là tổ hợp các Dự án có cùng mục đích hay
chủ đề; là một loạt những Dự án làm cùng một việc tại một nơi và trong một
khoảng thời gian nhất định. Trong mỗi chương trình, có một số mục tiêu và
tiêu chuẩn chung được đề ra, còn các dự án được thực hiện ở nhiều nơi khác
nhau, có thể là một vùng, một nước, hay cả thế giới vào các thời điểm khác
nhau. Chương trình có thể bao gồm nhiều dự án có liên quan đến nhau và
lồng ghép trong một tổng thể.
Ví dụ, trong chương trình chăm sóc và bảo vệ sức khỏe Bà mẹ - Trẻ em
tại một thành phố X thì đối tượng của chương trình này được xác định là tất
cả các bà mẹ và trẻ em trong thành phố X và gồm có một số dự án như:
+ Giáo dục sức khỏe sinh sản cho phụ nữ.
+ Tiêm phòng cho bà mẹ lúc mang thai và trẻ em từ 1 - 5 tuổi.
+ Cung cấp vitamin A, v.v...
+ Hoặc trong chương trình Hỗ trợ phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt tại
thành phố Y có một số dự án như:
+ Dự án Hỗ trợ phụ nữ đơn thân.
+ Dự án tạo việc làm cho phụ nữ lang thang trên đường phố.
+ Xây dựng quỹ Hỗ trợ phụ nữ nghèo bị tai nạn, rủi ro v.v...
* Dự án phát triển cộng đồng
Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, đặc biệt là vào giai đoạn những
năm của thập kỷ 40 - 50 tại Châu Âu đã xảy ra những xung đột giữa các cộng
đồng dân định cư ở đô thị, tạo ra những sự khác biệt rõ nét về đời sống và
chính trị giữa các nhóm dân cư khác nhau. Các dự án phát triển cộng đồng
được ra đời với mục đích hướng vào các cư dân bị thiệt thòi trong khu vực đô
thị nhằm hỗ trợ họ, thông qua đó giúp họ thay đổi nhận thức, để tạo cơ hội cải
thiện căn bản tình trạng sống thấp kém của những cộng đồng dân cư đô thị
này. Mặc dù các dự án này chỉ được coi là có giá trị tích cực, đặc biệt trong
việc huy động người dân vào sự tham gia của giới nghiên cứu. Song, các dự
án này cũng bị phê phán là không biết đến vai trò của phụ nữ trong cộng đồng
và đời sống xã hội (Trích theo Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang, 2000).
Trong các dự án phát triển cộng đồng thì người dân trong cộng đồng có
một vai trò hết sức quan trọng:
- Họ là một lực lượng xác định, hình thành các nhu cầu cơ bản và bước
đầu của cộng đồng, đồng thời là người thực hiện chính những hoạt động phát
triển để đáp ứng những nhu cầu này.
- Mức độ tham gia của người dân trong cộng đồng góp phần vào quá
trình phát triển dân chủ trực tiếp tại cộng đồng.
Những người làm công tác phát triển thường rất cố gắng làm cho cộng
đồng đóng vai trò làm chủ dự án ngay từ giai đoạn đầu thực hiện đến khi kết
thúc hay nói khác "quyền sở hữu" dự án phải được cộng đồng duy trì và phát
huy, thành quả của dự án phải ngày càng được mở rộng. Tính bền vững của
các dự án phát triển cộng đồng là ở chỗ khi dự án được kết thúc thì người
dân trong cộng đồng vẫn duy trì và phát triển các thành quả của dự án bằng
chính năng lực tổ chức của họ thông qua các hoạt động tổ chức phát triển
khác hoặc tương tự bằng chính nguồn lực của cộng đồng - Đây thực sự là
hiệu quả xã hội của dự án! Việc tạo ra những biến đổi xã hội theo hướng tích
cực là mục tiêu cao nhất của các dự án phát triển cộng đồng.
- Cái thay đổi lớn nhất, khó khăn nhất trong phát triển là phá bỏ những
thói quen, nếp nghĩ cũ, cách làm cũ lạc hậu, bảo thủ cho người dân ở cộng
đồng, tạo cho họ cách tiếp cận mới, một tư duy mới trong phương thức sinh
sống v.v... là giúp cho họ có một phương tiện mới như "Chiếc cần câu cá" mà
không phải là giúp cho họ những "Con cá" như người ta thường nghĩ. Trên
thực tế, có nhiều dự án khi chuyên gia về nước, dự án kết thúc thì mọi việc
"đâu lại hoàn đấy", thậm chí có khi lại gây những mâu thuẫn, xung đột và
những nguy cơ xấu tiềm ẩn khác bộc lộ trong cộng đồng nếu người ta chỉ
thuần túy nghĩ về một khoản tài trợ và những hoạt động bề nổi theo kiểu
phong trào mà quên đi việc giáo dục nhận thức và phương thức huy động khả
năng tham gia. Đây chính là điểm khác của dự án phát triển cộng đồng với
các dự án có tính chất thuần túy về kĩ thuật, công nghệ hay chuyên môn,
nghiệp vụ tại văn phòng, phòng thí nghiệm. Trong dự án phát triển cộng đồng,
sự tham gia của quần chúng - những người dân trong cộng đồng là một yếu
tố có vai trò quan trọng - người làm công tác phát triển không những chỉ lôi
kéo được sự tham gia tích cực của họ mà còn cần phải giúp họ tổ chức, tận
dụng được tài nguyên, nguồn lực của cộng đồng một cách tối ưu nhất, khôn
ngoan nhất và giúp họ phát huy được tính sáng tạo trong các hoạt động phát
triển tại cộng đồng.
Dự án phát triển cộng đồng nhằm mục tiêu giải quyết một hoặc một số
vấn đề đáp ứng các nhu cầu có thức của cộng đồng. Các tổ chức quốc tế và
ở trong nước (bao gồm cả các tổ chức Chính phủ và phi Chính phủ), các cá
nhân khi có ý định đầu tư các dự án phát triển cộng đồng thường chú ý tới
nhu cầu của người dân, trên cơ sở đó căn cứ vào nguồn lực, tài lực, nhân lực
để xây dựng kế hoạch của dự án, với những phạm vi xác định về vùng dự án
thực hiện (có thể nơi có nhu cầu phát triển song không có khả năng về nguồn
lực tài chính v.v...).
Y dinh cua chung ta
Nhu cau va kha nang cua nguoi dan
Kha nang cua chung ta
Du an
Song, các dự án phát triển cộng đồng không phải là một dự án cứu trợ
hay giải quyết tình huống khẩn cấp bằng một khoản kinh phí hay vật chất tức
thì. Ý nghĩa nhân đạo của các dự án phát triển cộng đồng chính là ở triết lý
của phương pháp hành động vì mục tiêu phát triển, lấy dân làm gốc khi triển
khai các dự án tại cộng đồng, khi có sự hội tụ giữa ý định, nhu cầu và khả
năng:
Sơ đồ 4.2. Vị trí của dự án phát triển cộng đồng
Trên thực tế, đã có những trường hợp nhiều tổ chức tài trợ chỉ nhằm
đạt một mục tiêu duy nhất là "muốn lập thành tích", giải ngân nhanh với
những động cơ không lành mạnh, trong khi người dân không có nhu cầu về
hoạt động đó - thì đó là sự áp đặt buộc người dân phải nhận dự án - Do vậy,
cần phải có cơ quan đối tác của dự án.
Dự án phát triển cộng đồng là một kế hoạch hành động có sự phối hợp
của nhiều lực lượng xã hội, nhằm huy động các nguồn lực, phân bổ chúng
một cách hợp lí để tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ xã hội và từ đó tạo
ra những chuyển biến xã hội tại cộng đồng.
Dự án phát triển cộng đồng là một loại dự án phát triển hướng vào đối
tượng là các cộng đồng với mục đích cuối cùng là tạo ra những chuyển biến
xã hội tại cộng đồng. Đây là một kế hoạch hành động có sự phối hợp của
nhiều lực lượng, tổ chức bên trong và bên ngoài xã hội vì mục tiêu phát triển,
huy động các loại tài nguyên và nguồn lực, phân bổ chúng một cách hợp lí để
giảm bớt khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các nhóm đối tượng
người khác nhau trong cộng đồng; là động lực để tạo ra sản phẩm hàng hóa
và dịch vụ xã hội; là một dự án tập thể, được tạo ra bởi ý chí, sự đồng thuận
(consences) của các nhóm xã hội tại cộng đồng cũng như sự trợ giúp của các
lực lượng bên ngoài (Tổ chức Quốc tế, Chính phủ, các tổ chức xã hội, nhà
chuyên môn, các cộng tác viên của dự án v.v...).
Dự án phát triển cộng đồng có mục tiêu xây dựng các hành động tập
thể, qua đó mỗi cá nhân tìm thấy ở đó những lợi ích riêng, bao gồm rất nhiều
các lĩnh vực từ phát triển kinh tế, hỗ trợ tín dụng, quản lí, nâng cao năng lực,
phát triển hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, hỗ trợ các nhóm đối tượng thiệt
thòi, xóa đói giảm nghèo và quản lí và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên môi
trường v.v...
Xét theo quan điểm phát triển cộng đồng thì thực hiện một dự án phát
triển cộng đồng là nhằm tạo ra những điều kiện cải thiện tình trạng kinh tế và
xã hội của một cộng đồng mà ta muốn can thiệp.
Thực hiện một dự án phát triển cộng đồng không chỉ là mang tiền bạc
hay các cơ sở vật chất kĩ thuật đến cho một cộng đồng mà trước tiên phải
phát huy tích cực sự tham gia của người dân trong cộng đồng, giúp họ tự xác
định nhu cầu đích thực mà họ cần phải giải quyết, tạo cho họ khả năng tự lực
tự giải quyết các vấn đề của chính bản thân họ mang lại, còn sự can thiệp của
các tác viên làm công tác phát triển cộng đồng hay tác viên dự án chỉ mang
tính xúc tác không có tính quyết định và không phải người làm thay họ.
Do vậy, có thể định nghĩa: Dự án phát triển cộng đồng là một loại dự án
phát triển nhằm giải quyết một hay một số các vấn đề của cộng đồng với sự
tham gia tích cực của nhiều lực lượng xã hội (bên trong và bên ngoài, Chính
phủ và Phi chính phủ), thể hiện bằng một kế hoạch can thiệp hay một chương
trình hành động được xác định bởi một khung thời gian, nhân lực, tài chính và
các vấn đề quản lí khác. (Theo Tô Duy hợp, Lương Hồng Quang, tr. 122)
4.2. Sự cần thiết của những Dự án phát triển cộng đồng trong giai đoạn phát triển hiện nay
Chưa bao giờ giới nghiên cứu khoa học cũng như các nhà hoạch định
chính sách trên thế giới và ở nước ta lại đưa vấn đề phát triển trở thành một
trọng tâm và được đặt lên hàng đầu như hiện nay.
Lời kêu gọi Alma Ata năm 1987 đã đưa ra chiến lược chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho con người.
Tuyên bố Reo de Janeiro năm 1992 đã nêu rõ: Con người được đặt
vào vị trí trung tâm những sự quan tâm của chúng ta đối với sự phát triển bền
vững. Con người có quyền được hưởng một cuộc sống lành mạnh sáng tạo
và hài hòa với thiên nhiên.
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội họp ở Copenhagen
năm 1995, tập trung vào hướng giải quyết ba vấn đề lớn của toàn cầu: tạo
việc làm, giảm nghèo và hội nhập xã hội.
Trong những năm gần đây, diễn đàn của thế giới thứ 3 đã tập hợp
được hàng nghìn nhà khoa học xã hội ở châu Á, châu Phi và Mỹ La tinh có trụ
sở ở Daca (Xenegan) cũng bàn về những vấn đề phát triển của thế giới thứ 3,
với khuynh hướng nghiên cứu vấn đề phát triển của các nước thuộc thế giới
thứ 3 theo một phương pháp liên ngành, bao gồm các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội. Những nghiên cứu về phát triển phải được hội nhập vào
khuôn khổ cuộc tranh luận về hệ tư tưởng. Chẳng hạn như, xây dựng một mô
hình xã hội nào trên quy mô quốc tế cũng như trong từng nước, cần thật sự
coi trọng lợi ích của nhân dân và của con người, và theo một quan điểm địa lý
- chính trị nhằm thực hiện sự cân bằng giữa các thành viên của hệ thống thế
giới, đồng thời với việc bảo vệ môi trường cũng là một vấn đề hết sức quan
trọng trong quá trình phát triển.
Phát triển xã hội là một quá trình tiến hóa của mọi xã hội, mọi cộng
đồng dân tộc, trong đó, bằng các chiến lược, các chính sách thích hợp cùng
với những đặc điểm về lịch sử, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, các chủ thể
lãnh đạo và quản lí cần tạo ra, huy động và quản lí các nguồn lực tự nhiên và
con người nhằm đạt được những thành quả bền vững, được phân phối công
bằng cho các thành viên xã hội vì mục đích không ngừng nâng cao chất
lượng cuộc sống của họ.
Do vậy, các dự án phát triển xã hội trên một phạm vi, một mô hình nào
đó thì vấn đề dân chủ phải được xem là phương tiện quan trọng nhất để thực
hiện chiến lược phát triển xã hội.
Ở Việt Nam, sau 15 năm đổi mới, chúng ta đã chuyển một bước quan
trọng sang kinh tế thị trường, nhưng chưa kết thúc bước chuyển đó. Do vậy,
những đặc trưng của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa
vẫn đang trong quá trình hình thành, thực tế chưa thể hiện đầy đủ. Song, nền
kinh tế của Việt Nam đã đạt được những kết quả rất đáng khích lệ. Nhiều tiến
bộ Khoa học Kĩ thuật và Công nghệ đã được chuyển giao và ứng dụng trong
các ngành sản xuất của xã hội, góp phần nâng cao năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế ở các ngành đó (Điện tử tin học, Công nghệ sinh học, Bưu
chính viễn thông, Dệt, máy, Xi măng v.v...). Quan hệ sản xuất bao gồm quan
hệ sở hữu, quan hệ phân phối, quan hệ quản lý trong các thành phần kinh tế
cũng được chú ý về nội dung, điều chỉnh phù hợp với yêu cầu giải phóng và
phát triển của lực lượng sản xuất làm cho cơ cấu kinh tế có sự chuyển biến
tích cực. Kinh tế tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình
quân 7%; văn hóa, xã hội có những tiến bộ; đời sống nhân dân tiếp tục được
cải thiện; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng và an ninh
được tăng cường; công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng được chú trọng; hệ
thống chính trị được củng cố, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng,
hội nhập kinh tế quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả tốt.
Những thành tựu nói trên đã tăng cường sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ
mặt của đất nước và cuộc sống của nhân dân.
Củng cố vững chắc độc lập dân tộc và chế độ xã hội chủ nghĩa, nâng
cao vị thế và uy tín của nước ta trên trường quốc tế, đặc biệt trên mặt trận
sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn. Thành tích nổi bật là từ sau
năm 1990, nông nghiệp phát triển và tăng trưởng ổn định, bình quân tăng
4,4%. Sản lượng lương thực tăng từ 21,5 triệu tấn năm 1990 lên 30,6 triệu
tấn năm 1997; 35,5 triệu tấn năm 2000. Lương thực bình quân đầu người
tăng từ 324,9kg năm 1991 lên 398kg năm 1997 và 444kg năm 2000. Việt
Nam từ một nước thiếu lương thực (trước 1989) đã trở thành nước xuất khẩu
gạo thứ 2 thế giới sau Thái Lan (năm 1997 đã xuất được 3,6 tấn gạo, vượt
Mỹ; năm 1998 xuất khẩu 3,8 triệu tấn, đạt kim ngạch 1,05 tỷ USD; năm 1999 -
4,5 triệu tấn v.v...).
Mặc dù đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ, song trên con
đường đi tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, chúng ta còn bộc lộ nhiều yếu kém và còn phải vượt qua nhiều khó
khăn, thử thách to lớn:
+ Về kinh tế. Nước ta còn nghèo và kém phát triển: gần 70% lao động
xã hội vẫn còn tập trung trong các ngành nông - lâm - ngư nghiệp, tạo ra
khoảng 1/4 tổng sản phẩm trong nước; công nghiệp còn nhỏ bé, trình độ kĩ
thuật và công nghệ ở nhiều nhà máy và xí nghiệp còn lạc hậu từ 2 - 5 thế hệ
so với các nước phát triển; các ngành dịch vụ chưa được mở mang theo
hướng hiện đại, kết cấu hạ tầng còn yếu kém:
Những năm gần đây nhịp độ tăng trưởng kinh tế có chiều hướng giảm
sút. GDP năm 1998 giảm 3% so với năm 1997, năm 1999 lại giảm 1% so với
năm 1998. Năm 2000, sự sút giảm mức độ tăng trưởng kinh tế đã được chặn
lại, GDP tăng khoảng 6,7%, nhưng vẫn chưa bằng mức tăng trưởng cao như
giữa thập kỷ 90 (Tổng cục Thống kê). Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so
với nhiều nước trong khu vực và thế giới vẫn là thách thức lớn nhất đối với
Việt Nam hiện nay.
Bảng 4.1. Tỷ lệ tăng trưởng GDP và một số ngành kinh tế khác (%)
Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 20000
GDP 5,96 8,65 8,07 8,84 9,54 9,34 8,80 5,8 4,8 6,67
Công
nghiệp
9,04 14,0 13,13 14,02 13,94 14,43 13,5 11,5 10,4 15,7
Nông 2,17 4,08 3,82 3,92 5,10 4,13 4,0 4,3 6,3 5,0
nghiệp
Dịch vụ 8,26 6,98 9,19 10,2 10,6 10,03 8,9 4,2 3,0 5,6
Nguồn: Tổng cục thống kê, 2001
+ Về xã hội: Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, vấn đề
bức xúc của xã hội hiện nay là tỷ lệ thất nghiệp và thiếu việc làm khá cao. Tỷ
lệ lao động thất nghiệp ở đô thị đã tặng từ 6% năm 1997 lên 6,85% năm 1998
và 7,4% tính đến giữa năm 1999; năm 2000 tỷ lệ thất nghiệp ở đô thị đã giảm
chút ít, song vẫn còn ở mức khá cao (6,44%).
Ở nông thôn hiện nay, tình trạng thiếu việc làm khá phổ biến, nếu tính
qui đổi thời gian lao động được sử dụng đảm bảo cho người nông dân có đủ
việc làm trong 250 ngày/ năm thì có khoảng 8 - 9 triệu người không có việc
làm. Mức sử dụng thời gian lao động ở nông thôn rất thấp (74%) (Văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX).
Trong quá trình chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh những tác
động tích cực còn có một số tác động tiêu cực làm cho sự phân tầng xã hội,
phân hóa giàu nghèo diễn ra khá sâu rộng ở cả thành thị và nông thôn. Nếu
phân chia tổng số hộ điều tra thành năm nhóm thu thập từ thấp đến cao
tương ứng với năm giải phân tầng bằng nhau (mỗi giải bằng 20% số hộ) thì
hệ số chênh lệch giữa nhóm có thu nhập cao nhất và nhóm có thu nhập thấp
nhất năm 1992 là 5,6 lần đến năm 1996 tăng 7,3 lần. Còn theo số liệu của ủy
ban điều tra Trung ương về mức sống dân cư năm 1997 - 1998 thì hệ số
chênh lệch giữa nhóm 20% dân cư giàu nhất và nhóm 20% dân cư nghèo
nhất đã tăng lên 11,26 lần (Tổng cục thống kê - Điều tra mức sống dân cư
Việt Nam 1997 - 1998, Hà Nội 8/1999, tr. 278). Trên thế giới, khoảng cách thu
nhập giữa nhóm 20% dân cư giàu nhất và nhóm 20% dân cư nghèo nhất năm
1960 là 30 lần, năm 1991 tăng lên 61 lần và đến năm 1997 tăng lên đến 74
lần (UNDP - Human Development Report 1994, New York, 1999, tr. 3).
Hệ số chênh lệch về mức sống trung bình giữa thành thị và nông thôn,
miền xuôi và miền núi cũng đang ngày càng xa cách. Nếu tỷ lệ đói nghèo
chung của cả nước năm 2000 là 11%, ở một số tỉnh, thành phố tỷ lệ đói
nghèo đã giảm xuống dưới 5%, thì ở nhiều xã đặc biệt khó khăn thuộc vùng
đồng bào các dân tộc thiểu số, tỷ lệ này có khi còn tới 30 - 35% hoặc cao hơn
nữa. Về thu nhập, vẫn còn tới 2,4 triệu hộ (khoảng 12,5 triệu người) đói
nghèo và chủ yếu ở nông thôn. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới, thì
hiện nay nước ta có khoảng 30 triệu người (chiếm 37% dân số) còn sống
trong cảnh nghèo khó, khoảng 25 triệu người (chiếm 60% lực lượng lao động)
hoặc thất nghiệp, hoặc không đủ việc làm. Nhiều hộ nông dân ở các vùng
cao, vùng sâu còn chưa được hưởng thụ các dịch vụ cơ bản tối thiểu. (Báo
cáo Phát triển Việt Nam - 2001. Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển
châu Á và chương trình phát triển Liên hiệp quốc, ngày 14 – 15/12/2000).
Đời sống vật chất và tinh thần, tình trạng sức khỏe, thể lực của nhân
dân còn thấp và chậm được cải thiện, thu nhập còn thấp, số người nghèo còn
nhiều. Đời sống của công nhân công chức, giáo viên, cán bộ y tế, khoa học
còn khó khăn. Số trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn cũng tăng. Theo báo
cáo của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội năm 1999, nếu tính cả số trẻ
em quá nghèo thì hiện nay có khoảng 1,5 triệu trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, chiếm 1,9% dân số, năm 1999 có 172.429 trẻ em tàn tật nặng,
hoàn cảnh gia đình khó khăn; 93.811 trẻ em mồ côi không nơi nương tựa;
23.237 trẻ em lang thang kiếm sống - tỷ lệ này tăng so với năm 1997 chỉ có
12.745 trẻ em lang thang; 36.000 trẻ em lao động sớm; 1696 trẻ em bị xâm
hại tình dục; 3.383 trẻ em nghiện hút ma túy; 6.247 trẻ em vi phạm pháp luật.
Trên thực tế, số trẻ em này có thể nhiều hơn: số trẻ sinh nhẹ cân (dưới
2.500g) còn chiếm tới 7,27%; tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng có giảm nhưng còn
ở mức cao (33,1%). Số hộ được dùng nước sạch mới đạt 38%. Tình trạng ô
nhiễm nước và không khí, thiếu vệ sinh an toàn thực phẩm, cùng với các tập
quán sinh sống lạc hậu ở nhiều vùng đang ảnh hưởng lớn đến sức khỏe nhân
dân. Số người bị lây nhiễm HIV đã vượt qua con số 27.000 người, trong đó
có 4.548 người đã chuyển sang giai đoạn AIDS. Tỷ lệ tử vong trẻ em dưới 5
tuổi vẫn còn ở mức 42‰ và tỷ lệ chết mẹ là 95/100.000 trẻ sinh ra sống vào
năm 1999 - 2000. (Trích "Triển khai Nghị quyết Đại hội IX trong lĩnh vực khoa
giáo", NXB Chính trị Quốc gia, 2001, tr. 39, tr. 206).
Mặc dù việc thực hiện quyền bình đẳng nam nữ đã có những tiến bộ
lớn trong hơn 55 năm qua, dưới chế độ mới, song trong bối cảnh chuyển
sang kinh tế thị trường hiện nay, việc tạo lập các cơ hội và điều kiện hòa nhập
thế giới về nhiều mặt, nhất là việc làm, tham gia các hoạt động xã hội vẫn cần
nhiều nỗ lực quan tâm của Chính phủ, đặc biệt ở các cộng đồng vùng sâu,
vùng xa v.v...
Ngoài ra còn nhiều vấn đề xã hội phức tạp khác do mặt trái của cơ chế
thị trường đem lại, đặc biệt khi vai trò quản lý của nhà nước trong một số lĩnh
vực còn yếu kém; khi việc thi hành kỷ cương, pháp luật chưa nghiêm; tỷ lệ
các tệ nạn xã hội vẫn đang có xu hướng gia tăng ở nhiều nơi làm ảnh hưởng
tới sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Từ những điều nêu trên, một loạt vấn đề có ý nghĩa về lí luận và thực
tiễn đặt ra đòi hỏi đến việc quản lí và phát triển xã hội, phát triển cộng đồng
cần phải làm khẩn cấp trên nguyên tắc tiến bộ và công bằng trong điều kiện
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
Việc phát triển xã hội nói chung, phát triển cộng đồng nói riêng là một
trong những chiến lược cơ bản để cải thiện điều kiện sống của người dân và
nhất là những nhóm đối tượng bị thiệt thòi.
4.3. Chu trình dự án phát triển cộng đồng Trên thực tế hoạt động của cộng đồng rất đa dạng về hình thức. Có
những hoạt động thuộc về xây dựng, phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng (điện,
nước, giao thông), có hoạt động thuộc về phát triển kinh tế, cơ sở vật chất, kỹ
thuật, có những hoạt động thuộc về lĩnh vực văn hóa xã hội, quản lý và bảo
vệ môi trường, có những hoạt động thuộc về giáo dục, y tế và chăm sóc sức
khỏe v.v... Có thể nói, tùy thuộc vào từng chương trình phát triển của từng
nước, từng khu vực mà có những trọng tâm khác nhau. Tùy thuộc vào từng
chương trình mà có một hay nhiều dự án với các mục tiêu cụ thể gần nhau
hoặc khác nhau, có thể thực hiện lồng ghép hay riêng biệt nhau. Tuy có sự đa
dạng và khác biệt nhưng các chương trình phát triển cộng đồng, cụ thể là các
dự án đều nhằm cải thiện hoặc nâng cao điều kiện sống của các đối tượng
trong cộng đồng, không chỉ là sự nâng cao và cải thiện về mặt vật chất, tài
chính, công nghệ sản xuất mà còn cả về mặt xã hội, tinh thần như đời sống
văn hóa, dân trí v.v... cũng được cải thiện và bảo tồn di sản văn hóa truyền
thống dân tộc. Với chức năng là đòn bẩy quan trọng trong quá trình phát triển,
các dự án phát triển cộng đồng đã giúp chúng ta biến kế hoạch thành hành
động. Khác với các hoạt động khác trong cộng đồng, các dự án phát triển
cộng đồng không phải là nơi mà các nhà đầu tư tiêu tiền vì mục đích từ thiện
trong một khoảng thời gian nhất định mà chính là vì mục tiêu phát triển bền
vững trong hệ thống phát triển mang tính phương pháp luận. Vì vậy, trong
phương pháp tiến hành các dự án phát triển cộng đồng, phương pháp tham
gia của người dân trong quá trình thiết kế, sử dụng, quản lý, kiểm tra giám sát
luôn luôn được chú ý như là một mục tiêu xuyên suốt cả quá trình dự án.
Sự tham gia của người dân trong quá trình thiết kế và thực hiện dự án
không những tạo cho dự án có được những căn cứ thực tiễn mà còn là cơ hội
để người dân có thể sở hữu ngay từ đầu dự án, hay nói cách khác, chính
cộng đồng là một tác giả tập thể của bản dự án.
Có nhiều mô hình chu trình dự án phát triển cộng đồng khác nhau,
song, nhìn chung các mô hình đều phải trải qua và tuân thủ theo 3 giai đoạn
cơ bản sau:
Giai đoạn 1: Thiết kế dự án.
Giai đoạn 2: Thực hiện (triển khai dự án).
Giai đoạn 3: Đánh giá.
4.3.1. Thiết kế dự án
Trong chu trình của dự án phát triển cộng đồng, thiết kế dự án là một
khâu quan trọng, là cơ sở cho việc thực hiện và quyết định sự thành công của
dự án về sau này. Việc thiết kế dự án phát triển cộng đồng được bắt đầu
bằng quá trình hợp tác giữa cộng đồng với nhóm chuyên gia, quá trình này
cho phép các chuyên gia có thể hiểu biết tường tận các vấn đề của cộng
đồng để lập dự án sát thực và hoàn chỉnh hơn, và cũng giúp cho việc tổ chức
thực hiện quản lý dự án được tốt hơn. Như phần trên đã phân tích, triết lý của
phát triển cộng đồng là nhằm mục tiêu phát triển, tăng cường năng lực cho
cộng đồng, do vậy, không cho phép các chuyên gia làm thay hoặc áp đặt kế
hoạch thực hiện. Trong việc ra quyết định, người dân thể hiện quyền lực của
họ để giải quyết các vấn đề của cộng đồng họ, còn các chuyên gia, vì họ là
những người ngoài vào thực hiện nên có những hạn chế nhất định về thời
gian, về những hiểu biết với cộng đồng và thường có những khoảng cách
nhất định trong việc nhận định các vấn đề của bản địa. Bởi vậy, việc cộng tác
trên nguyên tắc "cùng tham gia" là yêu cầu hàng đầu của quá trình thiết kế dự
án phát triển cộng đồng. Mức độ hợp tác càng chặt chẽ thì quá trình thâm
nhập cộng đồng càng nhanh chóng, là cơ sở để các nhà chuyên môn có thể
biết được tường tận các vấn đề của cộng đồng, đồng thời cũng là cơ hội để
người dân thâu tóm vấn đề một cách tổng hợp và khoa học hơn những tình
hình thực tiễn, những vấn đề mà trước đây ít nhiều họ cũng đã được biết.
Giai đoạn này được trải qua các bước cụ thể như:
1. Tìm hiểu cộng đồng (phân tích tình hình cộng đồng).
2. Xác định nhu cầu.
3. Xác định mục tiêu chung, mục tiêu cụ thể.
4. Đánh giá nguồn lực.
5. Những thuận lợi, khó khăn và những trở ngại có thể gặp của cộng
đồng.
6. Hoạch định các nội dung và kế hoạch hoạt động.
4.3.1.1. Tìm hiểu cộng đồng
Đây là bước đi đầu tiên của giai đoạn thiết kế, là cơ sở quan trọng giúp
dự án xác định được đúng tình hình thực tiễn, từ đó sẽ thiết kế được dự án
mang tính khả thi cao. Trong bước phân tích cộng đồng này cần phải xem xét
tất cả các vấn đề của cộng đồng (kinh tế - văn hóa - xã hội v.v...) một cách có
hệ thống. Nhìn chung, đó là tất cả các lĩnh vực khác nhau của đời sống cộng
đồng, bao gồm:
- Đặc điểm dân số, lao động theo giới tính.
- Các hoạt động kinh tế, cơ cấu kinh tế.
- Kết cấu cơ sở hạ tầng.
- Cơ cấu chính trị hiện hành.
- Phân tầng xã hội và các mối tương quan quyền lực, các mối quan hệ
trong cộng đồng.
- Vấn đề giáo dục, dân trí, văn hóa bao gồm cả vấn đề phong tục tập
quán và truyền thống.
- Tình trạng sức khỏe, vệ sinh môi trường, dinh dưỡng: và kế hoạch
hóa dân số.
- Chức năng, nhiệm vụ và các hoạt động của các tổ chức trong cộng
đồng, cũng như vai trò của những tổ chức này trong cộng đồng.
- Đội ngũ lãnh đạo, quản lý, các phương thức tổ chức và điều hành. Vị
trí, vai trò của người phụ nữ trong việc ra các quyết định.
- Những vấn đề cấp thiết và những vấn đề cần phải xử lý giải quyết
Đây mới chỉ là các thông tin chung mà các dự án cần phải thu thập.
Trên thực tế, có nhiều loại dự án khác nhau tùy vào từng mục tiêu, nội dung
và phạm vi can thiệp của dự án mà cần thu nhập các loại thông tin riêng; bổ
sung cho các thông tin trên.
Ví dụ, dự án nâng cao địa vị của người phụ nữ nông thôn thông qua
hoạt động tăng thu nhập và kế hoạch hóa gia đình, thì ngoài việc thu thập các
thông tin chung đã nêu trên, có thể phải thu thập thêm một số thông tin như:
- Vại trò của phụ nữ trong các quyết định của gia đình (ăn, mặc, ở, học
tập, ma chay, cưới xin, mua sắm đồ đạc, tư liệu sản xuất, vui chơi giải trí
v.v...).
- Sự độc lập về kinh tế và gánh nặng công việc của phụ nữ trong các
hoạt động như: làm ruộng, chăn nuôi, sản xuất phi nông nghiệp và các hoạt
động sản xuất khác; chăm sóc, nuôi dưỡng các thành viên trong gia đình.
- Hoạt động xã hội, đoàn thể ngoài gia đình của phụ nữ (mức độ tham
gia, lý do, đánh giá vai trò của các đoàn thể với việc nâng cao đời sống phụ
nữ và bảo vệ sức khỏe - kế hoạch hóa gia đình).
- Vấn đề chấp nhận và thực tế việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình:
+ Áp dụng các biện pháp tránh thai, trách nhiệm đối với kế hoạch hóa
gia đình của từng thành viên (vợ, chồng, bố mẹ, họ hàng v.v...).
+ Mức độ trao đổi, bàn bạc giữa vợ - chồng.
+ Số con mong muốn của vợ, chồng.
+ Mức độ kế hoạch hóa của gia đình và cộng đồng.
+ Định hướng giá trị của phụ nữ với việc sinh đẻ.
+ Định hướng của cha mẹ với những đứa con.
Tìm hiểu cộng đồng là một quá trình phức tạp, đòi hỏi cần có nhiều thời
gian, nhất là trong các dự án lớn, thường phải được triển khai nghiên cứu kỹ
lưỡng thông qua các phương pháp nghiên cứu định lượng và định tính. Điều
cần lưu ý trong phương pháp phân tích tình hình là:
- Không có một phương pháp đơn lẻ nào là thích hợp cho việc thu thập
thông tin từ mọi nguồn.
- Biện pháp tốt nhất là sử dụng các phương pháp khác nhau để phân
tích và đánh giá.
- Các phương pháp phổ biến nhất là: bảng hỏi (phiếu điều tra), phỏng
vấn, quan sát và thảo luận nhóm.
Ở giai đoạn đầu của dự án, kết quả phân tích cộng đồng thông qua các
dữ liệu nghiên cứu đã giúp cho việc xây dựng các nội dung dự án phù hợp
với mục tiêu đề ra, đồng thời là cơ sở dữ liệu để xem xét, đối chiếu với các
kết quả tác động của dự án ở giai đoạn sau. Trong quá trình thực hiện dự án,
việc xem xét, phân tích tình hình của cộng đồng luôn được đặt ra nhằm giúp
cho dự án nắm bắt kịp thời các thông tin, những diễn biến cần thiết trong
cộng đồng để điều chỉnh và quản lý dự án cho phù hợp và tốt hơn. Do vậy,
việc phân tích cộng đồng không chỉ có ở giai đoạn đầu của dự án nhằm thu
thập dữ liệu đầu vào mà còn được duy trì và liên tục phân tích trong suốt quá
trình thực hiện dự án. Bởi vì, trong cộng đồng luôn có những nhân tố mới,
những thuận lợi và khó khăn mới, cũng như các tương tác mới. Do đó, tìm
hiểu cộng đồng là một việc làm liên tục cũng như hiểu biết một cá nhân là một
sự khám phá không ngừng.
Tóm lại, việc phân tích tình hình ở cộng đồng trong các giai đoạn của
dự án đã giúp cho người làm công tác phát triển cộng đồng và tất cả các
thành viên tham gia dự án xác định được bối cảnh hoạt động của dự án trong
điều kiện kinh tế văn hóa xã hội và chính trị của cộng đồng, là cơ sở quan
trọng giúp cho cộng đồng xác định được những ảnh hưởng tác động tới
người dân và thấy được những nhu cầu cần phải hành động để đem lại
những thay đổi mong muốn. Thông qua đó, người dân có cơ hội nắm bắt
những khó khăn, những vấn đề cần phải giải quyết, là cơ hội cho người dân
tham gia xác định những vấn đề của cộng đồng để chính họ cùng nhau
hướng tới các hoạt động của tập thể bên trong cộng đồng về sau này.
Việc xác định hệ thống dữ liệu ban đầu này là cơ sở giúp cho việc xây
dựng nội dung dự án cũng như là điểm mốc cho các hoạt động kiểm tra, giám
sát và lượng giá tác động cuối cùng của dự án.
4.3.1.2. Xác định nhu cầu
Cùng với việc tìm hiểu cộng đồng nêu trên, việc xác định nhu cầu của
cộng đồng là khâu quan trọng và khó khăn nhất trong giai đoạn khởi động của
dự án, vì phải nhận diện đúng nhu cầu, xác định rõ ràng và cụ thể nhu cầu
mới có cơ sở tốt để xây dựng các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể của
dự án.
Trong hoạt động phát triển cộng đồng, xác định nhu cầu xuất phát từ ý
kiến đại diện của người dân ở các nhóm trong cộng đồng là một vấn đề mới.
Với quan niệm trước đây người dân được xem như là đối tượng thụ động, vì
thế đã có không ít dự án bị thất bại vì không xuất phát từ nhu cầu và khả năng
của cộng đồng hay nói khác đi là không xuất phát từ ý chí và nội lực bên trong
của cộng đồng. Những dự án loại này khi lên kế hoạch và thực hiện thường
chỉ làm theo ý kiến của nhóm chuyên gia hay của lãnh đạo hoặc của một số ít
người dân có tiếng nói trong cộng đồng. Do vậy, các loại dự án này không
được xếp vào loại dự án phát triển cộng đồng.
Việc đánh giá hay xác định nhu cầu là xem xét những vấn đề trong tình
trạng hiện thực và tình trạng mong muốn đạt được trong quá trình thực hiện
dự án có nghĩa nhu cầu, là một hiện tượng, một vấn đề cần được đáp ứng
phù hợp với nguyện vọng và lợi ích của người dân trong cộng đồng. Giữa nhu
cầu và điều kiện thực tại của vấn đề có một khoảng cách mà dự án là tác
nhân cần phải vượt qua cách biệt ấy.
Trên thực tế, khi thảo luận về các nhu cầu của một cộng đồng cụ thể,
thường có rất nhiều loại nhu cầu khác nhau và của nhiều đối tượng tham gia
thảo luận có trình độ nhận thức khác nhau, thậm chí người có nhu cầu đôi khi
cũng chưa xác định được rõ nhu cầu thực của họ, do mức độ tập trung, khái
quát của họ bị hạn chế hoặc do sự hiểu biết vấn đề mang cảm tính và không
xác định. Bởi vậy, lúc này cần có những ý kiến của chuyên gia tham gia qua
các cuộc thảo luận "có tính gợi mở" hoặc "nêu vấn đề" để người tham dự
thảo luận, tiếp tục tranh luận, bàn bạc trên cơ sở xác định nhu cầu một cách
chính thức này, cùng với những căn cứ khác từ nhiều nguồn thông tin và từ
nguồn lực của cộng đồng cùng với thực trạng của cộng đồng có thể đưa tới
những nhu cầu mà dự án có thể đáp ứng được. Có thể thể hiện các bước
thực hiện việc xem xét (đánh giá) nhu cầu một cách cơ bản có hệ thống như
sau:
Bước 1: Xác định nhu cầu.
Bước 2: Sắp xếp các thứ tự ưu tiên trong các nhu cầu.
Bước 3: Cân đối các nhu cầu.
Bước 4: Quyết định các nhu cầu có thể đáp ứng.
Trong quá trình này, người làm công tác phát triển thường phải xử lý
rất nhiều nguồn thông tin khác nhau (tham dự thảo luận của cộng đồng, nghe
ý kiến của lãnh đạo các cấp các ban ngành, đoàn thể, ý kiến hoặc đơn từ của
cá nhân, quan sát thực tế cuộc sống của người dân trong cộng đồng, số liệu
điều tra khảo sát qua phiếu điều tra, phỏng vấn người dân v.v...). Dường như
các kênh thông tin này đều có những vấn đề xác định khác nhau, cũng có khi
trùng nhau ở một vài khía cạnh nào đó. Do đó, cần phải linh hoạt và biết kết
hợp các nguồn thông tin được phân tích và xử lý sao cho thích hợp nhất để
có thể sắp xếp được các thứ tự nhu cầu cần ưu tiên, đồng thời căn cứ vào
các nguồn kinh phí của các tổ chức tài trợ cùng với nguồn lực của cộng đồng
để cân đối các nhu cầu. Có như vậy dự án mới đạt được tính khả thi cao, đó
là sự gặp gỡ giữa nhà tài trợ và sự chấp nhận của cộng đồng với tư cách là
người sở hữu dự án. Khi đó dự án được chính thức chấp nhận và phê duyệt.
Một số kỹ thuật xác định nhu cầu.
1. Khảo sát.
2. Quan sát.
3. Bảng hỏi (Phiếu điều tra).
4. Lắng nghe ý kiến của mọi người.
5. Tham gia vào cuộc họp của các tổ chức cộng đồng.
6. Hội nghị chuyên đề của cộng đồng có sự tham gia của các thành
viên trong cộng đồng với những người lãnh đạo chính thức và không chính
thức.
7. Tìm hiểu quan điểm của các tổ chức.
8. Phỏng vấn cán bộ Nhà nước.
9. Phỏng vấn bằng câu hỏi chuẩn bị sẵn và câu hỏi gợi mở.
10. Yêu cầu - kiến nghị của cộng đồng.
11. Vẽ sơ đồ áp phích và gợi ý cho những cuộc thảo luận về nhu cầu
của cộng đồng.
12. Khuyến khích cộng đồng lắng nghe chuyên gia trình bày và gợi ý họ
thảo luận các nhu cầu.
13. Xác định nhu cầu sau khi đã thảo luận.
14. Lấy ý kiến nhanh về tình trạng khó khăn hiện tại.
15. Báo cáo và hoàn chỉnh nhu cầu về những vấn đề trong cộng đồng.
16. Xem xét các kiến nghị của các đại biểu địa phương.
4.3.1.3. Xây dựng mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể
Trước khi thực hiện dự án, chương trình hay một công việc gì đó thì
chúng ta đều phải biết chính xác mình phải làm gì, nói cách khác là việc làm
ấy đạt được những mục tiêu nào? Đối với dự án thì việc xác định mục tiêu dự
án không phải chỉ là của riêng chủ nhiệm dự án hay của các tác viên dự án
mà là của tất cả các thành phần tham gia dự án, tất cả đều phải biết chính
xác trước khi tiến hành công việc.
Về mặt lý thuyết, khi xác định đúng mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ
thể trên nguyên lý tính hệ thống sẽ là điều kiện cho các hoạt động của dự án
nói chung và dự án phát triển cộng đồng nói riêng không đi chệch hướng.
Các mục tiêu cụ thể chịu sự chi phối của mục tiêu tổng quát, mục tiêu
cụ thể chính là sự cụ thể hóa của mục tiêu tổng quát thành những mục tiêu
riêng biệt. Sự đạt được từng mục tiêu cụ thể là dần từng bước đạt được mục
tiêu tổng quát. Do vậy, để một dự án được thành công thì mục tiêu tổng quát
và mục tiêu cụ thể của dự án phải được xác định rõ ràng, nghĩa là xác định
được hướng đi của dự án và nội dung công việc những vấn đề gì. Điều quan
trọng là các nội dung của mục tiêu cụ thể này phải đo lường hoặc định lượng
được, là cơ sở để lượng giá dự án sẽ đạt được trong từng giai đoạn của dự
án.
Nhiệm vụ của mục tiêu tổng quát là xác định điều mà các thành viên
trong cộng đồng mong đợi từ dự án, trên ý nghĩa chung nhất, bao trùm và
tổng hợp hàng loạt các kết quả sẽ đạt được từ dự án thông qua các mục tiêu
cụ thể mang tính thực tiễn, các mục tiêu có thể đạt được trong một thời hạn
nhất định tại một thời điểm nào đó của dự án. Do vậy, có thể định nghĩa về
mục tiêu tổng quát và cụ thể như sau (Trích theo Nguyễn Thị Oanh, sđd):
Mục tiêu tổng quát
Chỉ ra mục đích cuối cùng của dự án, nói cách khác là chỉ ra phương
hướng đi tới cho tất cả những người tham gia thực hiện dự án. Do đó, điều
hệ trọng là mọi người tham gia dự án phải nhất trí về mục tiêu tổng quát của
dự án nhưng đồng thời nói lên được mục đích của những người làm dự án.
Mục tiêu cụ thể
Giải thích mục tiêu tổng quát. Khi xác định hay xây dựng mục tiêu cụ
thể cần đạt được 4 yêu cầu sau: 1) Làm gì; 2) Khi nào làm?; 3) Có thể làm
được hay không (thời gian, tiền bạc, nhân sự v.v...) và 4) Có thể đo lường
được: Người Anh đã tổng kết về mục tiêu cụ thể bằng cụm từ: SMART nghĩa
là thông minh, sắc sao, được viết tắt từ các từ: Specific, Measurable,
Attainable, Realistic và Time-bound.
Ví dụ dự án cải thiện điều kiện sống của người lao động nữ ở vùng
nguyên liệu giấy Vĩnh Phú với mục tiêu chung là: cải tạo và xây mới nhà ở
cho các hộ gia đình có hoàn cảnh khó khăn đặc biệt và 20 hộ cô đơn được hỗ
trợ về con giống trong thời gian một năm. Nếu một trong ba mục tiêu cụ thể
sau đây không đạt được thì không thể đạt được mục tiêu tổng quát của dự án
và dự án không thành công. Ba mục tiêu cụ thể đó là:
- Sửa chữa 50 căn hộ trong tình trạng dột nát.
- Xây mới 20 căn hộ cho phụ nữ có hoàn cảnh khó khăn.
- Hỗ trợ lợn giống cho 20 hộ cô đơn để có điều kiện tăng thu nhập từ
chăn nuôi.
4.3.1.4. Đánh giá nguồn lực
Đánh giá nguồn lực của cộng đồng là công việc quan trọng và tiếp theo
sau khi đã xác định được những mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể dựa
trên cơ sở các nhu cầu được ưu tiên sắp xếp. Điều quan trọng là phải liệt kê
những nguồn lực có sẵn và cần có để từ đó hiểu được thế mạnh của cộng
đồng nhằm đạt được những mục tiêu cụ thể đã xác định. Khi đã xác định
được nguồn lực trong cộng đồng, người làm công tác phát triển hay tác viên
dự án sẽ dễ dàng tính toán được những gì cần phải huy động thêm từ dự án
và từ bên ngoài để đạt được mục tiêu dự án.
Việc xác định nguồn lực của cộng đồng không chỉ bao gồm xác định tài
nguyên vật chất của cộng đồng mà còn bao gồm cả con người và các thiết
chế xã hội.
Nói tới con người là nói tới một nguồn lực quan trọng nhất trong mọi
nguồn lực của một quốc gia hoặc của một cộng đồng. Với trình độ văn hóa,
khả năng nghề nghiệp, tổ chức, sức khỏe, ý chí, sự hợp tác, tinh thần nhiệt
tình, trách nhiệm v.v... là những tài nguyên sức mạnh của con người. Đây
chính là sức mạnh về tiềm năng của con người, nếu biết phát triển, bồi
dưỡng, đào tạo tốt sẽ ngày càng lớn mạnh và không ngừng phát triển.
Cùng với các nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực của cộng đồng, dự án
cần phải xem xét các tổ chức, đoàn thể, trường học, trạm y tế và người dân
tham gia dự án trong mối quan hệ ràng buộc của cộng đồng. Điều cần thiết là
phải xác định được khả năng tài chính, khả năng lãnh đạo tham gia với vị trí
là các thiết chế. Mức độ đánh giá các nguồn lực của cộng đồng càng chính
xác thì khả năng thành công của dự án càng cao, vì như vậy sẽ biết và tận
dụng được tối đa nguồn lực trong cộng đồng cả về khả năng và tiềm năng,
tránh được tình trạng lãng phí hoặc bị bỏ quên các nguồn lực trong cộng
đồng, là cơ sở để xây dựng nguồn lực cần thiết và nguồn lực chưa có sẵn
cần phải huy động thêm.
Nói tóm lại, khi lên kế hoạch thực hiện một dự án phát triển cộng đồng
cần phải biết rõ các nguồn lực trong cộng đồng, bao gồm:
- Nguồn lực sẵn có ở cộng đồng:
+ Nguồn lực vật chất (đất, nước, khoáng sản, điện, nước, đường,
trường, trạm y tế v.v...).
+ Khả năng tài chính, khả năng lãnh đạo và tham gia của các tổ chức
trong cộng đồng.
+ Các thiết chế, chính quyền, đoàn thể, hội, khả năng tham gia của
người dân.
- Nguồn lực cần thiết.
- Nguồn lực cần phải huy động thêm từ dự án và bên ngoài.
- Phương thức vận dụng tối đa các nguồn lực.
4.3.1.5. Những thuận lợi, khó khăn và những trở ngại có thể gặp của dự án
Trên cơ sở các nguồn lực của cộng đồng đã được xác định cùng với
những mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể được xác lập trên các thứ tự nhu
cầu đã ưu tiên, dự án có thể dự kiến những thuận lợi và những trở ngại có
thể gặp trong quá trình triển khai dự án. Bằng phương pháp "cây vấn đề" hay
phương pháp SWOT (Sương, Weaknes Opportunity v.v...) để xác định vấn đề
và những nguyên nhân sâu xa của nó. Thông thường, trong quá trình phát
triển người ta thường quan tâm đến các nhu cầu, những khó khăn, những trở
ngại và rất ít khi người ta để ý đến những mặt mạnh và cơ hội hiện có hay
những thuận lợi của dự án. Phân tích tình hình trong trường hợp này là bao
gồm việc xem xét những thuận lợi và những khó khăn, những cản trở trong
một phạm vi cụ thể để phân tích tình hình phát triển.
Việc xem xét những trở ngại có thể gặp của dự án là công việc hết sức
cần thiết để xác định được những khó khăn, trên cơ sở đó có biện pháp để
biến những trở ngại, khó khăn thành những nguồn lực và năng lực có thể có
ở dạng tiềm năng và có thể phát huy. Bởi vậy, việc xác định được những trở
ngại có một ý nghĩa quan trọng trong các giai đoạn của dự án, đặc biệt trong
giai đoạn đầu ngay từ khi lên kế hoạch để có thể có sự điều chỉnh kịp thời
bằng những hoạt động cần thiết.
Tuy nhiên, không phải lúc nào cũng nhìn nhận thấy hết mọi trở ngại mà
thường những trở ngại hay xuất hiện khi qua một vài quá trình hoạt động của
dự án. Xác đính được những thuận lợi, khó khăn, những trở ngại của dự án
chính là xác định được các điều kiện thực thi dự án. Để một dự án thành công
cần phải xem xét các mối quan hệ, trong đó, có quan hệ hợp tác, đối tác và
khả năng hội nhập vào dự án có một tầm quan trọng đặc biệt. Cùng với bối
cảnh ra đời của dự án, việc xác lập cơ chế làm việc, cơ chế hợp tác, những
thỏa thuận, cam kết của các bên đối tác càng chặt chẽ, càng cụ thể và có sự
thống nhất bao nhiêu thì dự án càng có khả năng thực thi và có điều kiện để
thành công bấy nhiêu.
Nếu chuẩn bị không kỹ lưỡng ở giai đoạn lập dự án, lên kế hoạch thực
thi thì dự án có thể bị thất bại, nghĩa là khả năng cũng như mọi tiềm năng
trong cộng đồng không được phát huy nên nguồn lực của dự án sẽ bị bỏ
quên và lãng phí.
4.3.1.6. Hoạch định các nội dung và kế hoạch hoạt động
Hoạch định các nội dung và kế hoạch hoạt động là yếu tố trọng tâm
trong quá trình triển khai dự án. Đây là một tiến trình tổng hợp tất cả những
quyết định cần thiết và xem xét tất cả những bước cần thiết để thực hiện các
hoạt động của dự án. Cụ thể là:
- Dự kiến kinh phí sẽ huy động ở nguồn nào?
- Nguồn lực và tài nguyên gì được huy động, sử dụng và phân bổ
chúng ra sao?
- Thời gian và tiến độ thực hiện các hoạt động thế nào?
- Việc phân công trách nhiệm cho các thành viên trong các hoạt động
của dự án thế nào?
Có thể tóm tắt các bước chính của việc xây dựng kế hoạch hoạt động
gồm: xác định các hoạt động; lập trình tự cho các hoạt động; xác định khung
thời gian cho các hoạt động; phân công trách nhiệm thực hiện các hoạt động;
chuẩn bị nguồn lực thiết yếu và vấn đề hậu cần; nguồn kinh phí hoạt động.
+ Xác đinh các hoạt động của dự án: Đây là bước quan trọng nhất
trong việc xây dựng các kế hoạch của dự án. Điều chú ý là phải liệt kê các
hoạt động chính và những đề mục trong từng hoạt động. Khi xác định các
hoạt động này phải dựa trên các mục tiêu cụ thể của dự án, căn cứ vào
nguồn lực trong cộng đồng cùng với những trở ngại đã được xem xét. Để
thực hiện tốt được bước này cần phải có sự tham gia tích cực của các thành
viên có liên quan trong dự án. Các hoạt động này cần được vạch ra chi tiết và
kỹ lưỡng, không cứng nhắc, phải ăn khớp với nhau trong sự nỗ lực đầu tư về
thời gian, công sức khi quyết định các hoạt động, đây là điều kiện thúc đẩy
khả năng thành công của dự án.
+ Lập trình tự cho các hoạt động: Trên cơ sở các hoạt động đã được
vạch ra ở bước trên, việc sắp xếp các trình tự hoạt động một cách khoa học
và có hệ thống sẽ giúp cho dự án tiết kiệm được thời gian, nguồn lực của
cộng đồng. Quá trình này đòi hỏi người lập kế hoạch phát triển phải có kỹ
năng và kinh nghiệm trong lĩnh vực dự án triển khai để có thể hình thành các
trình tự hoạt động sẽ diễn ra trong một khối thống nhất của các hoạt động cho
một mục tiêu chung xuyên suốt của dự án. Cũng có hoạt động diễn ra trước
khi dự án triển khai như tìm kiếm nguồn lực tài chính, tìm đối tác, tuyển chọn
nhân viên; một số hoạt động khác như thành lập. Ban quản lý dự án, xây
dựng tổ chức của dự án cũng cần được tiến hành vào giai đoạn chuẩn bị dự
án. Trong các hoạt động cụ thể của dự án có những hoạt động có thể làm
song song, phối hợp với một số hoạt động khác, tuy nhiên, tất cả những việc
thiết lập này đòi hỏi một trình tự hợp lý và do vậy, rất cần thiết phải có sự
giám sát để kịp thời điều chỉnh.
+ Xác định khung thời gian cho các hoạt động: Cùng với việc xác lập
trình tự cho các hoạt động thì việc vạch kế hoạch về thời gian tiến hành là
công việc cần làm tiếp theo, điều này giúp cho các nhà quản lý dự án và
người thực hiện kiểm tra xem công việc có tiến triển đúng thời gian không để
kịp thời điều chỉnh. Muốn có một khung thời gian được sát, người làm dự án
phải bám sát những thuận lợi cơ bản về nguồn tài nguyên trong cộng đồng,
cũng như các trở ngại có thể có sau khi đã dự kiến.
+ Phân công trách nhiệm: Trên cơ sở và nguyên tắc "cộng đồng là
người chủ tham gia và sở hữu dự án" việc phân công trách nhiệm đảm bảo
cho dự án có hiệu quả cao nhất phụ thuộc rất nhiều vào việc nhìn nhận, đánh
giá năng lực từng cá nhân, sở thích của họ cũng như những tiềm năng của
các thành viên khác trong cộng đồng. Quá trình phân công trách nhiệm được
đảm bảo tính đúng đắn và phù hợp sẽ tạo ra động cơ tốt cho người tham gia,
giúp cho công việc được trôi chảy và hoàn thành đúng với tiến độ và mục tiêu
đề ra.
+ Nguồn lực thiết yếu và vấn đề hậu cần: Khi triển khai dự án vào từng
thời điểm khác nhau cần có những nguồn lực khác nhau -và sự chuẩn bị
phương tiện, thiết bị, nguồn vật liệu, dịch vụ khác nhau v.v... cho từng hoạt
động riêng rẽ của dự án. Việc chuẩn bị tốt các nguồn lực cần thiết cũng như
thu xếp tốt các dịch vụ hậu cần để đáp ứng với nhu cầu của các hoạt động
vào đúng lúc cần thiết, kịp để triển khai mọi hoạt động là yếu tố quan trọng
của sự thành công kế hoạch của dự án, đảm bảo cho việc sử dụng các nguồn
lực có hiệu quả, không lãng phí thời gian và vật chất. Ví dụ, để tổ chức một
cuộc hội thảo lấy ý kiến từ các nhóm đối tượng của dự án cần phải chuẩn bị
về nội dung cần thảo luận và cả về nơi ăn chốn ở của các thành viên tham
gia, bên cạnh đó phải có các phương tiện phục vụ cho hội thảo như: máy
chiếu, bảng, giấy các loại, hội trường v.v... để giúp cho hội thảo được thành
công.
+ Nguồn kinh phí hoạt động: Để có nguồn kinh phí cho hoạt động của
dự án, việc chuẩn bị là khâu rất quan trọng - không có kinh phí để triển khai
thì sẽ không thu được một kết quả nào. Kinh phí cho các hoạt động dự án
phát triển cộng đồng thường được huy động từ nhiều nguồn như: nguồn từ tài
Tim hieu cong dong
Danh gia nhu cau
Muc tieu chungMuc tieu cu the
Danh gia nguon luc
Thuan loi va kho khan
Lap ke hoach cho cac hoat dong cua du an
Trach nhiem
Tham gia
Phuong tien dich vu
Ngan sach
Ke hoach
Thuc hien
Theo doi
Doi ngu quan li
Danh gia
Phoi hop
trợ của dự án, nguồn từ các tổ chức trong cộng đồng, nguồn từ trong dân,
cũng có thể vay từ các quỹ phát triển v.v... Nhìn chung, cán bộ làm công tác
phát triển cộng đồng phải xây dựng, bàn bạc chi tiết, dân chủ, công khai với
đại diện của cộng đồng, bên đối tác v.v... để xây dựng một kế hoạch ngân
sách giữa khoản thu và chi một cách cân đối và có hiệu quả. Việc xây dựng
này phải được tiến hành bằng nhiều phương án khác nhau, sau đó có thảo
luận để chọn một phương án tối ưu cho từng hoạt động để dự án được tiến
hành có hiệu quả thiết thực.
Sơ đồ 4.3. Xây dựng dự án phát triển cộng đồng
Việc lập kế hoạch chi tiêu hợp lý, tiết kiệm, quyết toán rõ ràng mạch lạc
sẽ tạo điều kiện cho người dân tin tưởng và yên tâm vào công việc của dự
án. Đồng thời đây cũng là một yếu tố quan trọng đảm bảo sự đoàn kết và
phát triển bền vững trong cộng đồng, nhất là các dự án có huy động tối đa
nguồn tài chính trong dân, cần phải thường xuyên công khai kinh phí theo tiến
độ, đồng thời nếu có sự chi phí phát sinh cần phải có sự thống nhất cao trong
cộng đồng để tạo ra sự ổn định trong cộng đồng.
Mô hình xây dựng dự án ở cộng đồng được minh họa ở sơ đồ 4.3.
4.3.2. Triển khai dự án
Sau khi có một bản thiết kế dự án thì công việc tiếp theo là triển khai và
đánh giá dự án. Đây là những hoạt động cơ bản, có tính then chốt trong chu
trình của dự án phát triển cộng đồng. Nguyên tắc cơ bản của dự án phát triển
cộng đồng là tạo ra sự tự lực, tăng năng lực, quyền lực cho người dân trong
cộng đồng để họ tự giải quyết vấn đề của họ. Bởi vậy, quá trình triển khai dự
án là một quá trình hợp tác, học hỏi, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa
những người tổ chức dự án và cộng đồng nhằm phát huy tối đa tiềm năng
sẵn có của cộng đồng.
Có thể xem quá trình triển khai dự án là một quá trình thực hiện những
nội dung đã được hoạch định trong bản kế hoạch của dự án, bao gồm các
hoạt động phối hợp nhằm đảm bảo việc tham gia của các lực lượng vào quá
trình triển khai các hoạt động thuộc dự án và các hoạt động giám sát, quản lý
dự án.
4.3.2.1. Các hoạt động phối hợp
+ Trên cơ sở các nguyên tắc tham gia của các nhóm, các lực lượng
trong cộng đồng và ngoài cộng đồng, dự án có nhiệm vụ phối hợp giữa các
lực lượng để đảm bảo sự tham gia của các thành viên trong cộng đồng vào
quá trình thực hiện dự án một cách dân chủ và hạn chế tối đa những mâu
thuẫn phát sinh trong cộng đồng. Do các thành viên trong dự án thường có
mức độ tham gia khác nhau, trong các hoạt động khác nhau, vào các giai
đoạn khác nhau, cùng với đó là lợi ích về vật chất cũng có thể khác nhau, nên
việc phối hợp tốt các hoạt động sẽ làm cho cộng đồng phát triển bền vững
nhiều mặt, không chỉ về mặt vật chất.
+ Việc phối hợp tốt các nhóm, cáo tổ chức tham gia cũng như các cá
nhân sẽ giúp cho các dự án khi triển khai không bị chồng chéo, trùng lặp,
nâng cao hiệu quả của dự án, giảm chi phí và tiết kiệm thời gian, nguồn lực
lao động.
+ Trên thực tế khi triển khai dự án, mỗi bộ phận, mỗi cơ quan tham gia
đều có các chức năng và nhiệm vụ khác nhau, sự phối hợp của dự án sẽ giúp
cho việc điều phối, điều chỉnh các hoạt động được nhịp nhàng, giúp cho dự
án thực hiện đúng tiến độ và phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn.
+ Trong quá trình thực hiện dự án có những yếu tố phát sinh ngoài kế
hoạch, việc phối hợp bàn bạc để đi đến thống nhất là hết sức cần thiết và
đảm bảo cho sự thành công của dự án sau này.
+ Với tính chất đặc biệt của dự án phát triển cộng đồng là đảm bảo sự
tham gia của mọi thành viên trong cộng đồng, do vậy việc phối hợp các hoạt
động có một ý nghĩa vô cùng quan trọng giữa các lực lượng.
4.3.2.2. Hoạt động giám sát
Khi dự án được thực thi, điều cần thiết là phải theo dõi các hoạt động
khác nhau của dự án, phải đảm bảo tuân theo các chiến lược phù hợp và thứ
tự các hoạt động. Hoạt động giám sát được thực hiện bởi Ban quản lý dự án
hoặc cơ quan có thẩm quyền cao hơn (bộ, ngành, nơi tài trợ v.v...). Trên cơ
sở các mục tiêu, nội dung và nguồn lực được xác định trong bản kế hoạch,
hoạt động giám sát nhằm bảo đảm cho dự án có thể tiến hành các công việc
một cách có hiệu quả và nâng cao năng lực cho người được giám sát. Thực
chất đây là hoạt động nhằm điều chỉnh những sai lệch trong quá trình thực
hiện, đồng thời hỗ trợ tại chỗ về chuyên môn thông qua quá trình kiểm tra và
giám sát.
Có thể nói, giám sát là hình thức quản lý trực tiếp, trong đó, người giám
sát xem xét tại chỗ các vấn đề, cùng với bộ phận (người) được giám sát và
các bộ phận có liên quan tìm cách giải quyết vấn đề đó. Một cách chung nhất,
trong quá trình giám sát (kể cả đánh giá) đều phải trả lời các vấn đề sau:
- Dự án đã làm được những gì?
- Các hoạt động của dự án có thực hiện đúng như đã được định ra
trong kế hoạch hay không (cả về thời gian, nguồn lực v.v...)
- Những gì chưa làm được? Lý do?
- Những vấn đề phát sinh diễn ra ở khâu nào?
- Có đáp ứng được mục tiêu xác định trước đó không, nếu không đạt
được thì đo nguyên nhân gì?
- Cần phải chấn chỉnh hoặc thay đổi tiến trình trong kế hoạch ban đầu,
hoặc tiếp thu thực hiện trong thời gian tới.
- Những hoạt động nào cần thay thế cho phù hợp với tình huống mới
khi có vấn đề phát sinh.
Với những cơ sở luận chứng của việc giám sát trên đây có thể thấy
rằng: Giám sát là việc làm thường xuyên, nhằm kiểm tra tiến độ và theo dõi
các hoạt động để kịp thời điều chỉnh. Việc kiểm tra, so sánh tiến độ trong thực
tế với kế hoạch thực hiện đã đề ra trong dự án cũng như xem xét chất lượng
hoạt động, nguồn lực của dự án đặc biệt nguồn kinh phí là nội dung thiết yếu
của hoạt động giám sát. Để cho việc giám sát đạt yêu cầu cao thì việc áp
dụng tổng hợp các phương pháp như quan sát, lắng nghe, đánh giá, phân
tích, kiểm tra và đôn đốc là hết sức cần thiết nhằm đạt được các chức năng
cơ bản của giám sát như:
- Đảm bảo mục tiêu của dự án được thực hiện.
- Tìm ra những gì đã hoạt động tốt.
- Giúp người được giám sát xác định rõ nội dung việc phải làm.
- Cải thiện kỹ năng công tác cho đội ngữ triển khai dự án
- Thúc đẩy lòng nhiệt tình, sự tham gia tích cực của đối tượng tham gia
với các hoạt động của dự án.
Việc giám sát dự án có thể là thường xuyên, có thể là định kỳ, cũng có
khi là đột xuất, tùy thuộc vào mục đích của việc cần theo dõi về chuyên môn,
tài chính hay xem xét về tiến độ v.v...
Hệ thống giám sát có thể là một tầng hay nhiều tầng, tùy thuộc vào qui
mô của dự án thuộc cấp nào quản lý (cấp Quốc gia, Bộ, Tỉnh, Viện, Huyện
hay tổ chức xã hội v.v...). Nhìn chung, các cấp giám sát tầng trên (cao nhất)
không thường xuyên như cấp trực tiếp quản lý dự án và thực hiện dự án ở
cộng đồng, tuy vậy, một khi cấp trên đã giám sát thì lại thường mang nội đung
lớn hơn và bao trùm hơn.
4.3.2.3. Hoạt động quản lý
Quản lý dự án là tiến trình tổ chức và sử dụng một cách có hiệu quả
những nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu của dự án. Quản lý là sử dụng hữu
hiệu tiền bạc, vật chất và con người, gọi chung là tài nguyên hay nguồn lực.
Trong dự án phát triển cộng đồng có nhiều thành phần tham gia, với các công
việc khác nhau song lại có cùng một mục tiêu chung thì cần phải quản lý, tạo
nên sự thống nhất, nếu không, sẽ không đạt được mục tiêu đã đề ra hoặc dự
án sẽ đi chệch hướng.
Muốn quản lý tốt, người làm công tác này cần phải có cách nhìn tổng
hợp, bao quát vấn đề, phải có kỹ năng nắm bắt vấn đề và giải quyết kịp thời
những mâu thuẫn phát sinh của dự án.
Quản lý dự án là một tiến trình gồm nhiều bước đi với những hoạt động
nối tiếp nhau, nó liên quan đến việc hoàn tất hàng loạt những công việc tạo
thành dự án - do vậy, quản lý dự án được coi như là một chu trình. Từ thực tế
cho thấy tiến trình quản lý dự án được chia thành 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1 : Khởi động dự án.
Giai đoạn 2: Tổ chức các nguồn lực.
Giai đoạn 3: Tiến hành những công việc.
Giai đoạn 4: Kiểm tra tiến độ.
Các giai đoạn trên được chia thành 10 bước như sau:
Bước 1 : Xác định mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể
Bước 2: Phân công.
Bước 3: Lên kế hoạch dự án.
Bước 4: Chuẩn bị thực hiện kế hoạch.
Bước 5: Thành lập hệ thống kiểm soát.
Bước 6: Tuyển chọn nhân viên.
Bước 7: Huy động nguồn lực đúng thời điểm.
Bước 8: Giám sát công việc.
Bước 9: Giám sát dự án.
Bước 10: Lượng giá dự án.
Trong tài liệu "Tập huấn cộng đồng của Hội chữ thập đỏ" các bước
trong tiến trình quản lý dự án được chỉ dẫn như sau:
Bước 1: Vào cộng đồng để chọn địa bàn.
Bước 2: Tìm hiểu cộng đồng/ khảo sát/ phân tích xã hội.
Bước 3: Hội nhập cộng đồng.
Bước 4: Nhận diện những người tích cực có khả năng trong cộng
đồng.
Bước 5: Xây dựng và bồi dưỡng nhóm lãnh đạo nòng cốt.
Bước 6: Thành lập nhóm hợp tác.
Bước 7: Vận động nhóm, phát huy tiềm năng nhóm, củng cố tổ
chức nhóm.
Bước 8: Rút kinh nghiệm, lượng giá sự phát triển của tổ chức
nhóm.
Bước 9: Mở rộng các mối liên kết với các nhóm khác trong và
ngoài cộng đồng.
Bước 10: Rút lui.
Nhìn chung, hoạt động quản lý rất đa dạng, tùy thuộc vào từng dự án
cụ thể, nhưng về cơ bản thường có một số kiểu quản lý như: quản lý nhân
lực, quản lý tài chính và quản lý vật tư.
Để thực hiện tốt công việc quản lý, điều trước tiên là phải xây dựng tốt
một cơ chế quản lý, trên cơ sở đó là việc xây dựng và triển khai kế hoạch và
cuối cùng là phải tuyển chọn nhân lực để sắp xếp phù hợp với các công việc.
* Việc xây dựng cơ chế quản lý: Đây là khâu hết sức quan trọng trong
tiến trình quản lý dự án. Việc xây dựng hệ thống tổ chức từ cơ quan lãnh đạo
cho đến các bộ phận chuyên môn, hành chính, xác định quyền hạn và trách
nhiệm của từng thành viên trong dự án (chủ nhiệm dự án, tác viên dự án, bộ
phận chuyên môn v.v...) cần phải được phân định rõ ràng.
* Xây dựng và triển khai kế hoạch: Đây là những công việc hết sức cụ
thể và đòi hỏi phải linh hoạt, không cứng nhắc, có thể điều chỉnh, thay đổi
trong những tình huống phát sinh. Quá trình xây dựng kế hoạch, đặc biệt là
kế hoạch về ngân sách, tiến độ các công việc luôn luôn phải chú ý tới việc sử
dụng, huy động các nguồn lực, tài nguyên trong cộng đồng, cũng như việc
phải phân bổ hợp lý chúng để đảm bảo mục tiêu của dự án. Sự sắp xếp việc
gì cần làm trước, sau và tổ chức tốt các nguồn lực sẽ đảm bảo cho việc tiết
kiệm tài nguyên cũng như không gây sự lãng phí tiền bạc, công sức của cộng
đồng - là cơ sở để theo dõi tiến độ và các chỉ số cho việc kiểm tra, giám sát,
đánh giá sau này.
* Tuyển chọn nhân lực: Căn cứ vào kế hoạch thực hiện, ngân sách và
cơ chế làm việc, dự án cần tuyển chọn nhân lực để hoạt động triển khai. Có
nhiều loại nhân lực cần huy động vào dự án ở các thời điểm khác nhau, thời
gian tham gia dài, ngắn khác nhau. Có thể có chuyên gia hay nhân viên làm
việc chính thức, toàn bộ thời gian (full time), có thể có chuyên gia hoặc nhân
viên chỉ làm một phần thời gian trong từng công đoạn thích hợp, nhất là các
chuyên gia về kỹ thuật và đánh giá dự án (part time). Với các dự án lớn kéo
dài, việc tuyển chọn nhân lực cho dự án thường được đấu thầu ở giai đoạn
đầu.
Trong những năm gần đây, sự tham gia của cộng đồng trong quá trình
quản lý đã được chú trọng. Khuynh hướng này đã tạo điều kiện cho người
dân trong cộng đồng chủ động xây dựng, xét duyệt, thực hiện, giám sát và
đánh giá, giúp họ nắm vững kế hoạch đảm bảo cho dự án phát triển hài hòa,
dân chủ và bền vững về sau này. Do vậy, việc tuyển chọn nhân lực cho dự
án, các nhân viên tham gia vào dự án phải có kỹ năng của "một tác viên cộng
đồng" - tức là người đóng vai trò tạo thuận lợi, biết nghiên cứu, huấn luyện,
vạch kế hoạch, tổ chức và xúc tác tốt cho công việc của cộng đồng. Muốn vậy
họ phải là người có năng lực chuyên môn, có khả năng giao tiếp có phong
cách hòa đồng và trung thực, kiên trì, nhẫn nại, không áp đặt, biết khiêm tốn
học hỏi và lắng nghe ý kiến của người dân, có tinh thần khách quan vô tư và
lối sống có đạo đức được mọi người tin yêu và chấp nhận.
4.3.3. Đánh giá dự án
Phần trên đã có khái niệm về giám sát dự án, vậy giám sát và đánh giá
dự án có gì khác nhau?
- Giám sát được hiểu ngắn gọn là tiến trình theo sát tiến độ còn đánh
giá là phân tích một cách tổng thể sự thành công và hạn chế của một dự án.
- Hoạt động giám sát có một ý nghĩa hẹp hơn còn đánh giá thì được coi
là một hoạt động xem xét nhiều khía cạnh khác nhau, với nội dung lớn hơn
của dự án (hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, sự bền vững của dự án v.v...)
mà không chỉ là xem xét những hoạt động mang tính chất kỹ thuật hay kinh tế
đơn thuần.
- Trong mô hình triển khai dự án, hoạt động đánh giá tổng thể dự án là
khâu cuối cùng trong tiến trình triển khai dự án phát triển cộng đồng, còn
trong quá trình thực hiện dự án người ta có thể tiến hành đánh giá theo từng
giai đoạn khác nhau.
+ Đánh giá tiền dự án: là đánh giá trước khi thực hiện dự án; xem xét
và nhận định tính chất thích đáng và khả năng thực thi của dự án, của mục
tiêu cụ thể và kế hoạch công việc.
+ Đánh giá trong tiến trình dự án, ở từng giai đoạn quan trọng hoặc vào
giữa kỳ dự án - trên cơ sở phân tích và đánh giá có biện pháp sửa chữa kịp
thời hoặc chấn chỉnh những nội dung, kế hoạch để đảm bảo duy trì mục tiêu
của dự án.
+ Đánh giá cuối kỳ: khi tổng kết và kết thúc dự án nhằm xem xét những
mục tiêu đề ra có đạt được hay không.
+ Đánh giá hiệu quả tác động của dự án và tính bền vững của dự án:
được tiến hành sau một thời gian dự án đã hoàn tất (có thể sau 2 - 3 năm)
- Điều hết sức quan trọng là phải tiến hành đánh giá có sự tham gia của
các bên có liên quan mà quan trọng hơn là có sự tham gia của người dân
trong cộng đồng. Họ là những đối tượng thụ hưởng. Đối với dự án phát triển
cộng đồng người ta thường phải chú ý tới những nhóm người bị thiệt thòi
trong cộng đồng (chẳng hạn như: người cô đơn, người nghèo, người già phụ
nữ, trẻ em v.v...) là những người dễ bị tổn thương nhất trong cộng đồng. Sự
tham gia của họ làm tăng thêm tinh thần hợp tác, sự nhiệt tình và trách nhiệm
tham gia dự án (khi dự án có gặp những khó khăn nhất định về sự huy động
nhân lực, vật lực), đồng thời để đảm bảo tính khách quan, tính công bằng
trong quá trình thực hiện các dự án phát triển.
- Trong đánh giá dự án thường do một nhóm chuyên gia có kinh
nghiệm trong các lĩnh vực dự án tiến hành đánh giá, thường là nhóm chuyên
Phat hien van de Phan tich van de
Hoat dong Quyet dinh
gia ở bên ngoài dự án có thể là chuyên gia quốc tế hoặc chuyên gia trong
nước, cũng có khi do lãnh đạo cấp trên đánh giá trong sự phối hợp chặt chẽ
với người được hưởng lợi từ dự án và các bên của dự án (cán hộ chỉ đạo
trực tiếp, các tác viên của dự án, chính quyền địa phương, bộ phận chuyên
môn v.v...).
- Nhìn chung, cả giám sát và đánh giá dự án đều có một ý nghĩa quan
trọng ở chỗ nó giúp cho chúng ta có những quyết định quan trọng và chính
xác, bởi vì nhiều khi trong quá trình thực hiện phải điều chỉnh dự án vì vấn đề
nổi lên do điều kiện diễn biến khách quan. Việc đánh giá giúp cho các bên liên
quan có cái nhìn cập nhật hơn.
Có thể tóm tắt các hoạt động đánh giá theo một chu trình bằng sơ đồ
4.4.
- Trong hoạt động đánh giá phải căn cứ vào mục tiêu cụ thể và những
chỉ báo kèm theo. Việc xem xét kết quả không những chỉ về số lượng mà còn
cả chất lượng.
- Một hoạt động đánh giá thường được tiến hành bằng cách nào?.
Sơ đồ 4.4. Hoạt động đánh giá dự án ở cộng đồng
Thông thường khi đánh giá dự án người ta thường dùng một số
phương pháp phối hợp như: điều tra, khảo cát (survey); phỏng vấn sâu
(indepth interview); bảng hỏi (questionare), họp nhóm cộng đồng (những
người được hưởng lợi), sử dụng các báo cáo định kỳ, nhật ký dự án v.v...
- Các bước của đánh giá: công việc đánh giá được chia làm 4 bước
sau:
+ Thiết kế đánh giá: xây dựng mục tiêu, nội dung, phương pháp, thời
gian, nhân lực, kinh phí v.v...).
+ Thu thập thông tin.
+ Phân tích thông tin.
+ Kết luận và kiến nghị đề xuất sau đánh giá.
Trong quá trình thiết kế đánh giá, ngoài việc xem xét nội dung, mục
tiêu, phạm vi đánh giá thì điều cần xem xét là các mục tiêu cụ thể và mục tiêu
tổng quát của dự án có được đề cập rõ ràng trong thiết kế đánh giá hay
không (với nội dung đánh giá như vậy có đủ cơ sở để đánh giá các mục tiêu
của dự án hay không) .
Để công việc đánh giá được thuận lợi, người đánh giá phải xây dựng
các câu hỏi và hệ thống chỉ báo cho từng nội dung công việc cần đánh giá,
trên cơ sở đó cần có kế hoạch cụ thể cho các đánh giá.
Trong quá trình thu thập và phân tích thông tin phải đảm bảo cơ sở cho
việc trả lời các câu hỏi và chỉ báo đã đặt ra. Việc phân tích số lượng, nghiên
cứu định lượng cũng như định tính đều phụ thuộc rất cao vào năng lực và kỹ
năng cá nhân của người đánh giá, nhất là các thông tin về định tính, là loại
thông tin có tính "nhạy cảm", phụ thuộc nhiều vào quan sát, khả năng phân
tích, phán đoán, cũng như phụ thuộc vào sự lôi cuốn của người đánh giá với
đối tượng phỏng vấn. Do vậy, sau khi có các phỏng vấn sâu (thông tin định
tính) với các cá nhân, cần có sự thảo luận, trao đổi để kiểm chứng lại vấn đề
được nêu ra. Đây là phương pháp hạn chế những cái nhìn thiên kiến, lệch lạc
và chủ quan của người nghiên cứu đánh giá và quan trọng hơn là việc trao
đổi này sẽ tạo nên những ý kiến thống nhất, chung nhất của cả nhóm nghiên
cứu đánh giá.
Sau quá trình phân tích thông tin là việc viết báo cáo đánh giá và đưa
ra những kết luận, những đề nghị. Đây là một khâu trọng yếu của việc quản lý
dự án - Những kết luận cần phải được cân nhắc thật kỹ lưỡng trên cơ sở xem
xét cẩn thận nội dung của bản kế hoạch ban đầu cùng với các mục tiêu của
dự án. Để có được những kết luận và đề nghị xác thực cần phải có sự chia sẻ
suy nghĩ thận trọng trong nhóm chuyên gia đánh giá và đôi khi phải dựa vào
cả ý kiến của cộng đồng. Ý kiến đánh giá và đề nghị có ảnh hưởng tới việc
triển khai dự án trong giai đoạn tiếp theo, hoặc bổ sung, sửa chữa, hoặc
chấm dứt dự án, hay mở rộng phạm vi v.v... Do vậy trách nhiệm của người
đánh giá là rất lớn, đòi hỏi sự khách quan trong đánh giá và rành mạch trong
diễn đạt báo cáo cũng như trong trình bày trước hội nghị, hội thảo, thông qua
đó mọi thành viên tham gia quản lý dự án cũng như cộng đồng hưởng lợi thấy
được những thành công và cả những hạn chế của mình - từ đó có thể triển
khai tốt hơn dự án ở giai đoạn tiếp theo hoặc rút kinh nghiệm cho những dự
án khác.
Tóm tắt chương 4
Dự án là sự can thiệp một cách có kế hoạch, nhằm đạt một hay một số
mục tiêu cũng như hoàn thành những chỉ báo thực hiện đã định trước tại một
địa bàn trong một khoảng thời gian nhất định, có huy động sự tham gia thực
sự của những tác nhân và tổ chức cụ thể.
Dự án phát triển cộng đồng là một kế hoạch hành động có sự phối hợp
của nhiều lực lượng xã hội nhằm huy động các nguồn lực, phân bổ chúng
một cách hợp lí để tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ xã hội và từ đó tạo
ra những chuyển biến xã hội tại cộng đồng.
Dự án phát triển cộng đồng trên một phạm vi, một mô hình nào đó thì
vấn đề dân chủ phải được xem là phương tiện quan trọng nhất để thực hiện
chiến lược phát triển xã hội. Mọi kế hoạch phát triển cộng đồng phải được lập
từ cơ sở, do cơ sở lập ra, không thể thiếu sự tham gia của người dân, dưới
sự hỗ trợ của những người có chuyên môn.
Chu trình dự án phát triển cộng đồng thường gồm ba giai đoạn chính
là: thiết kế, thực hiện và đánh giá.
Thiết kế dự án thường trải qua sáu bước: tìm hiểu cộng đồng, xác định
mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể, đánh giá nguồn lực, xác định những thuận
lợi, khó khăn và hoạch định nội dung.
Thực hiện dự án là quá trình triển khai những nội dung đã được hoạch
định trong bản kế hoạch của dự an.
Đánh giá dự án là hoạt động xem xét nhiều khía cạnh khác nhau, với
nội dung bao trùm hiệu quả của dự án về kinh tế, xã hội và tính bền vững của
dự án. Đánh giá dự án bao gồm đánh giá tiền khả thi, đánh giá từng giai đoạn
và đánh giá cuối kỳ.
Chương 5. PHƯƠNG PHÁP ĐÁNH GIÁ NÔNG THÔN CÓ NGƯỜI DÂN THAM GIA TRONG PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
5.1. Giới thiệu chungVào giữa thập kỷ 80, phương pháp đánh giá nhanh nông thôn - RRA
(Rapid Rural Appraisal) được sử dụng rộng rãi vào các chương trình Phát
triển nông thôn nhưng phương pháp này đã bộc lộ một số điểm hạn chế cơ
bản là:
- Cán bộ phát triển nông thôn, các nhà khoa học, các nhà tư vấn v.v...
đã thu thập thông tin từ người dân thông qua một loạt các phỏng vấn, các chủ
đề v.v... các số liệu thu thập được họ tự xử lý, lưu giữ, phân tích, nhưng
không chia sẻ trở lại với người dân.
- Cán bộ phát triển nông thôn v.v..., dùng kết quả RRA cho mục đích
lập kế hoạch thôn, bản theo kiểu can thiệp từ bên ngoài bằng các dự án,
chương trình nghiên cứu theo kiểu áp đặt từ trên xuống v.v... Do vậy, trên
thực tế đã có không ít các dự án, các chương trình bị thất bại. Người ta nhận
thấy cần phải thay đổi thái độ và cách ứng xử trong cách tiếp cận hướng tới
người dân trong RRA sang quá trình học hỏi từ người dân để thu thập thông
tin cùng người dân phân tích, lập kế hoạch phát triển trên cơ sở nguồn lực
của họ.
Từ những nhận thức trên vào cuối thập kỷ 80, một trong những kỹ thuật
có hiệu quả trong công cuộc xây dựng và phát triển nông thôn đó là phương
pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người dân - PRA (Participatory
Rural Appraisal). Robert Chambers, Gordon Conway v.v... và nhiều nhà
nghiên cứu khác đã xây dựng phương pháp PRA từ phương pháp RRA như:
RRA chủ đề, RRA giám sát, RRA thăm dò, RRA cùng tham gia v.v... trong đó,
RRA cùng tham gia là cơ sở và là cầu nối giữa RRA sang PRA, và PRA được
áp dụng rộng rãi ở Ấn Độ, Kenya vào năm 1988.
Cuối những năm 80 và đầu những năm 90, phương pháp PRA được
sử dụng khá phổ biến ở Ấn Độ, các nước Châu Phi và Châu Á trong các dự
án phát triển nông thôn. Đặc biệt là sự tiếp nhận phương pháp này của các tổ
chức Quốc tế và phi chính phủ, của các chương trình, các dự án phát triển tại
các nước phát triển và đang phát triển. Đây là một phương pháp mới, cần
được hoàn thiện và bổ sung trong quá trình áp dụng cho từng lĩnh vực, từng
địa phương khác nhau, bởi thế hàng năm đã có những hội thảo quốc tế về
PRA (đã có 2 hội thảo quốc tế của tổ chức tại Ấn Độ), và nhiều hội thảo quốc
gia, khu vực, trong các lĩnh vực v.v... được tổ chức. Đặc biệt các hội thảo
PRA trong lĩnh vực: xóa đói giảm nghèo, quản lý tài nguyên thiên nhiên và
môi trường, an toàn lương thực, nông nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng, y tế
cơ sở, chương trình lâm nghiệp xã hội, khuyến nông - khuyến lâm, công nghệ
thu hoạch giao đất, giao rừng (tín dụng) v.v... nhằm xây dựng một kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội một cách có hiệu quả giúp các nhà quản lý và lãnh
đạo có nhiều kỹ năng thu thập trí tuệ và sức lực của người dân giúp cho các
kế hoạch, các chương trình phát triển đề ra, thỏa mãn các nhu cầu đời sống
của con người một cách phù hợp nhất.
5.2. Định nghĩa PRA"PRA là phương pháp bao gồm hàng loạt cách tiếp cận và phương
pháp khuyến khích lôi cuốn người dân nông thôn cùng tham gia, chia sẻ, thảo
luận và phân tích kiến thức của họ về đời sống, điều kiện nông thôn để họ tự
lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch cũng như giám sát kế hoạch đó, đánh giá
tạo ra sự công bằng dân chủ trong việc tham gia phát triển nông thôn một
cách bền vững". (Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia
trong hoạt động khuyến nông – khuyến lâm. NXB Nông nghiệp, 1998, tr.10).
Có thể nói "PRA là quá trình dựa trên thực địa, tập trung và tương hỗ bằng
cách sử dụng hàng loạt các kỹ thuật để làm việc với dân. Điều đó tạo điều
kiện cho người dân tìm hiểu tình hình địa phương từ đó xác định và chọn vấn
đề ưu tiên và lập kế hoạch về các nguồn lực để giải quyết chúng một cách tốt
nhất" (Tài liệu hướng dẫn PRA - Chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thuỵ
Điển, giai đoạn 1996 - 1998, tỉnh Vĩnh Phú, Lào Cai).
Định nghĩa trên cho ta thấy PRA có thể coi như là một quá trình nghiên
cứu linh hoạt, có hiệu quả từ cộng đồng, do cộng đồng tiến hành, trên cơ sở
các điều kiện của cộng đồng để tìm ra các giải pháp có lợi cho mình chính
bằng sự nỗ lực của cộng đồng. Các "kế hoạch phát triển thôn bản" được lập
ra bằng phương pháp PRA sẽ là kế hoạch của chính người dân trong cộng
đồng với sự hỗ trợ của nhà nước, các tổ chức khác sẽ là một kế hoạch có
tính khả thi cao.
5.3. Mục đích của PRANhư phần định nghĩa PRA đã đề cập, PRA được xây dựng dựa trên
kiến thức và năng lực vốn có của người dân để xác định vấn đề, ra quyết
định, huy động các nguồn lực, tổ chức thực hiện v.v... Để cùng phát triển
cộng đồng một cách bền vững thông qua sự nỗ lực của chính cộng đồng
bằng các kỹ thuật thu hút sự tham gia của người dân và kỹ năng thúc đẩy tạo
điều kiện của các cán bộ phát triển đã tạo cho người dân địa phương có thể
tham gia tự nguyện, sáng tạo vào mọi quá trình triển khai thực hiện cũng như
giám sát, đánh giá các kết quả phát triển, trên cơ sở đó mà nâng cao sự hiểu
biết và trách nhiệm của người dân.
Đối với lãnh đạo và các cấp có thẩm quyền, hoạt động của PRA giúp
cho việc nắm bắt tình hình sát thực tế, có kế hoạch hỗ trợ phù hợp đối với
từng cộng đồng nói chung và từng lĩnh vực nói riêng trong quá trình phát
triển.
Trong công cuộc nghiên cứu phụ nữ - giới và phát triển, PRA giúp cho
chúng ta nắm bắt được những thông tin cụ thể về những ảnh hưởng tích cực
và tiêu cực của địa phương hoặc chương trình, của dự án đối với nữ giới và
nam giới. Những thuận lợi, khó khăn của phụ nữ khi tham gia vào quá trình
phát triển. Từ kết quả phân tích giới có thể đưa ra những biện pháp điều
chỉnh và bổ sung nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và xã hội của dự án thông
qua việc bảo đảm lợi ích của cả hai giới. Đặc biệt đảm bảo cho phụ nữ, các
nhóm người nghèo, yếu thế và nhóm dân tộc thiểu số bị thiệt thòi.
Thực tế cho thấy những dự án, chương trình bỏ qua vai trò, lợi ích của
giới đặc biệt của phụ nữ thường không thu được hiệu quả mong muốn. Ví dụ,
phụ nữ làm phần lớn công việc nhà nông nhưng các dự án chương trình
khuyến nông lại đào tạo nhiều nam giới hơn là phụ nữ. Kết quả PRA trong
chương trình Khuyến nông - Khuyến lâm tại 7 tỉnh Việt Nam cho thấy: "Về cơ
bản, phụ nữ thường đảm nhận 100% công việc trong chăn nuôi, đặc biệt là
heo nái nhưng tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các lớp học, hội thảo chăn nuôi cũng
chỉ chiếm tới 50%. Các dạng tập huấn, hội thảo khác, nữ giới nói chung chỉ
chiếm 10%. Chẳng hạn như xã Cẩm Sơn (Cai Lậy) là nơi có phong trào phụ
nữ hoạt động khá tốt, thì số nữ tham gia các lớp IPM cũng chỉ chiếm khoảng
30% (còn lại là nam). Nhưng sang đến xã Tân Phú trong cùng huyện, có kinh
tế phát triển kém hơn thì chỉ có 2 nữ tham gia trong một lớp IPM do câu lạc
bộ khuyến nông của xã mở, còn một lớp IPM khác cũng đọ câu lạc bộ khuyến
nông ở thì không có phụ nữ tham gia. Sang đến một lớp IPM cộng đồng khác
nữa do Hội nông dân xã Tân Phú tổ chức thì cũng toàn là nam giới". (Báo cáo
kết quả đề tài Giới trong công tác Khuyên nông và khuyên lâm ở Việt Nam,
5/1999. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn).
Trong chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển, thông qua PRA
cho thấy người phụ nữ ở vùng cao, đường sá đi lại khó khăn, đặc biệt phụ nữ
Mông có trình độ văn hóa thấp, phong tục tập quán còn lạc hậu, họ không
muốn người ngoài trừ mẹ và em gái thăm khám cơ thể khi sinh, cho nên phần
đông phụ nữ vẫn còn đẻ tại nhà. Do vậy, chương trình đã cung cấp túi đẻ
sạch, tổ chức quản lý và thăm khám thai thông qua mạng lưới y tế cơ sở, đã
làm giảm tỉ lệ tử vong và tai biến thai sản khi sinh đẻ (Báo cáo đánh giá các
hoạt động về giới trong chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển).
Việc xem xét vai trò giới, những nhu cầu và lợi ích của giới trong các
cộng đồng một cách sát thực bằng phương pháp PRA sẽ giúp cho việc tạo cơ
hội, điều kiện nhằm đáp ứng biến đổi thực tế về phân công lao động theo
hướng tiến bộ, cơ hội khả năng đào tạo, khả năng tiếp cận và kiểm soát các
nguồn lực và ra quyết định v.v... góp phần làm biến đổi quan hệ giới, nâng
cao sự bình đẳng nam nữ trong công cuộc nghiên cứu phụ nữ.
5.4. Thời điểm cần thực hiện PRAXuất phát từ nhu cầu và mục đích đã nêu, PRA có thể áp dụng cho
những đánh giá xã hội học, những nghiên cứu về phụ nữ, phân tích về giới,
cho tất cả các lĩnh vực liên quan đến phát triển cộng đồng, cho nhiều lĩnh vực
có cùng điểm xuất phát từ người dân, lấy dân làm gốc, lấy cộng đồng thôn
bản làm cơ sở. PRA thường được thực hiện khi:
- Cần xác định các chủ đề, vấn đề nghiên cứu các đề tài nghiên cứu
phụ nữ - giới và phát triển có sự tham gia của người dân.
- Lập kế hoạch phát triển thôn bản dựa vào cộng đồng, phát huy nội lực
và có người dân tham gia.
- Người dân trong cộng đồng, cần có những giải pháp thực tiễn để phát
triển cộng đồng của họ.
- Xem xét lại các nội dung, nhiệm vụ hoạt động của các cộng đồng cần
phát triển và mức độ phù hợp của nó (qua giám sát đánh giá) để điều chỉnh
hướng đi.
- Cần xác định các biện pháp để khắc phục những khó khăn đã và sẽ
xảy ra hoặc kế hoạch của các hoạt động tiếp theo trong từng công việc, từng
lĩnh vực phát triển.
5.5. Bộ công cụ PRACông cụ PRA là cách làm, hay kỹ năng sử dụng các phương pháp khác
nhau nhằm thu hút người dân vào quá trình đánh giá tình hình, phân tích và
lập kế hoạch phát triển cộng đồng. Có nhiều công cụ khác nhau, mỗi công cụ
lại thường bao gồm một hay nhiều phương pháp, đòi hỏi người sử dụng phải
có kinh nghiệm và kỹ năng sử dụng công cụ PRA. Thông thường, người ta
thường phân chia các công cụ như sau:
- Các công cụ phân tích về không gian: vẽ sơ đồ thôn bản, xây dựng sa
bàn, điều tra tuyến đi, lát cắt, khảo sát hiện trường.
- Các công cụ phân tích theo thời gian: lập bảng lược sử thôn bản, theo
hướng thời gian, biểu đồ v.v...
- Các công cụ phân tích nội dung, cơ cấu v.v...
- Các công cụ phân tích những ảnh hưởng và quan hệ: lịch mùa vụ,
phân loại hộ gia đình, sơ đồ VENN (quan hệ của các tổ chức và phân tích tổ
chức) v.v...
- Thảo luận nhóm (làm việc nhóm sở thích, nhóm lãnh đạo thảo luận
nhóm nam/nữ để tìm hiểu nhu cầu sở thích của hai giới v.v...).
- Họp dân: đây là công cụ có tính quyết định trong việc phân tích bên-
cạnh phương pháp phỏng vấn linh hoạt v.v... Họp dân thể hiện sự tham gia,
đóng góp đầy đủ nhất của người dân trong quá trình thực hiện các đợt đánh
giá PRA. Trong PRA, nhiều cuộc họp dân được tổ chức (có thể từ 3 - 5 lần)
khám:
Kiểm tra lại và bổ sung thông tin.
Bổ sung và thống nhất các giải pháp cho thôn bản.
Thống nhất chương trình hành động và cam kết thực hiện
Thông thường có thể tổ chức ba cuộc họp: Cuộc họp lần thứ nhất
nhằm mục đích giới thiệu chung về đợt đánh giá tại thôn bản, lý do, mục
đích , kế hoạch làm việc, phương pháp và kêu gọi sự tham gia, thông báo kế
hoạch làm việc ngày thứ hai. Cuộc họp thứ hai trình bày và thảo luận kết quả
làm việc hàng ngày, thống nhất định hướng cho kế hoạch hành động. Cuộc
họp dân lần ba tổ chức vào ngày cuối của đợt PRA nhằm mục đích trình bày
dự thảo kết quả, đóng góp bổ sung và thảo luận, thống nhất kết quả hành
động.
Hoặc trong dự án quản lý bền vững tài nguyên vùng hạ lưu sông
Mêkông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk (10/2000), tài liệu hướng dẫn PRA đã yêu
cầu có bốn cuộc họp dân trong nội dung trình tự và các bước thực hiện như
sau:
- Bước 1: Chuẩn bị (tổ chức, lập kế hoạch thực hiện chi tiết, thu thập
thông tin, đào tạo tập huấn, họp dân lần 1, xác định địa điểm giao đất lâm
nghiệp).
- Bước 2: Khảo sát thực địa (điều tra lập bản đồ thực trạng sử dụng đất
lâm nghiệp, họp dân lần 2, điều tra đánh giá tình hình kinh tế xã hội, thông
báo kết quả cho dân ở cuộc họp lần 3).
- Bước 3: Xây dựng phương án (họp dân lần thứ 4 viết báo cáo phương
án).
- Bước 4: Thẩm định và phê duyệt.
- Bước 5, 6, 7: Lập thủ tục thu hồi đất (nếu có), phân chia đất và lập hồ
sơ pháp lý, bàn giao rừng và đất rừng.
Để các cuộc họp trên có kết quả tốt, tài liệu cũng đã đưa ra những yêu
cầu sau:
- Đảm bảo sự có mặt đại diện tất cả các hộ dân của thôn tham gia trong
đó tỉ lệ nữ tối thiểu chiếm 30%.
- Đại bộ phận người dân tham gia đều hiểu rõ nội dung cuộc họp và có
nhiều ý kiến phản hồi từ phía các đối tượng khác nhau (già làng, lãnh đạo
thôn, phụ nữ, thanh niên).
Để đạt được các yêu cầu nói trên cần thiết phải thực hiện các bước
sau:
- Bàn bạc thỏa thuận trước với lãnh đạo thôn về địa điểm thời gian, nội
dung và người chủ trì cuộc họp.
- Nội dung cuộc họp nên trình bày trên giấy khổ lớn (Ao) một cách ngắn
gọn, dễ hiểu hoặc có thể mô hình hóa dưới dạng sơ đồ, bảng, biểu, hình ảnh
để người dân tham gia, tham khảo trước hay trong khi họp.
- Trong nhiều trường hợp nội dung cuộc họp nên được dịch sang tiếng
địa phương để tiện cho việc trao đổi thông tin.
- Tất cả các sản phẩm của cuộc họp cần được lưu lại ở thôn, tạo cơ hội
cho những người vì lý do nào đó không thể đi họp hay những người chưa
hiểu rõ nội dung cuộc họp có thể tìm hiểu thêm.
- Đa sống người dân, nhất là phụ nữ vốn rụt rè. Do vậy, cần phải động
viên họ tích cực tham gia thảo luận, phát biểu ý kiến.
- Kết quả cuộc họp cần được ghi nhận cẩn thận, đầy đủ và trung thực,
đọc lại cho mọi người cùng nghe v.v...
Có thể nói, đối với các loại dự án thuộc loại này, các công cụ PRA và
RRA: như lập bản đồ, đắp sa bàn, lịch sử thôn bản, sơ đồ Venn, phân loại
kinh tế hộ, phân loại cây trồng nông nghiệp, ma trận đánh giá tiềm năng lâm
sản ngoài gỗ, phân loại rừng, đánh giá tiềm năng đất đai v.v. . . thường xuyên
được sử dụng.
Tùy theo nội dung vấn đề thu thập để sử dụng các công cụ PRA một
cách linh hoạt và sáng tạo trên cơ sở nguyên tắc:
- Tạo ra quá trình học hỏi, chia sẻ từ hai phía, tìm hiểu những điểm
hợp lý, không hợp lý, người ủng hộ, không ủng hộ ở mọi tình huống.
- Sử dụng tối ưu các phương pháp, công cụ kiểm tra chéo thông tin,
nhất là các thông tin có liên quan đến phụ nữ và người nghèo.
- Để người dân tự làm, không làm thay, không thành kiến, v.v...
Để thực hiện tốt hoạt động PRA thì việc tạo lập mối quan hệ nhằm đạt
được sự tin tưởng, sự liên kết tốt trong quá trình làm việc là rất cần thiết. Bên
cạnh đó, kỹ năng giao tiếp như sự chú ý, quan sát, lắng nghe, giải thích rõ,
tạo đề xuất mở để hướng dự thảo luận (không phải là thông qua và phê
chuẩn), đặt câu hỏi, phản ánh, trao đổi và thu thập thông tin là rất quan trọng
khi làm việc với người dân địa phương.
5.6. Thực tế áp dụng PRA ở Việt NamTrong những năm qua, đặc biệt vào những năm 90, PRA được các
chương trình của chính phủ, các tổ chức Quốc tế, các tổ chức phi Chính phủ
nước ngoài ở Việt Nam, áp dụng trong các chương trình, các dự án liên quan
đến phát triển nông thôn, đặc biệt trong việc phân tích giới và lập kế hoạch
phát triển thôn bản, đã mang lại những thành công nhất định trong việc khai
thác, phát huy những nguồn lực của cộng đồng vào phát triển kinh tế - văn
hóa - xã hội ở nông thôn. Đặc biệt ở nông thôn miền núi, những nơi áp dụng
PRA có hiệu quả đã tạo ra một sự đột phá trong nếp nghĩ, tư duy và hành
động của người dân đã có tác động trở lại không nhỏ tới phương thức quan
lý, lãnh đạo trong vùng.
Có thể nói, ở Việt Nam, lần đầu tiên PRA được áp dụng một cách có hệ
thống trong chương trình hợp tác lâm nghiệp Việt Nam - Thụy Điển, do SIDA
tài trợ trên một địa bàn rộng và trong một thời gian dài từ 1991 - 1994 tại 5
tỉnh Vĩnh Phú, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái và Hà Giang, với việc lập kế
hoạch phát triển cho 70 thôn bản.
Từ cuối năm 1994 tới nay trong chương trình phát triển nông thôn miền
núi của 5 tỉnh phía Bắc do SIDA tài trợ cũng tiếp tục sử dụng phương pháp
này cho việc lập kế hoạch thực hiện, giám sát, đánh giá các dự án thôn bản
cho khoảng 200 cộng đồng (Phương pháp đánh giá nông thôn có người tham
gia trong hoạt động khuyến nông - khuyến lâm. NXB Nông nghiệp 1998 –
tr.12). Đặc biệt trong lĩnh vực hỗ trợ vùng khó khăn thuộc Chương trình hợp
tác Y tế Việt Nam - Thụy Điển tại 5 tỉnh miền núi phía Bắc với sự giúp đỡ kỹ
thuật của các chuyên gia Viện Quốc tế Tái thiết Nông thôn (IIRR) Philipin, bộ
môn Vệ sinh Môi trường - Dịch tễ Đại học Y khoa Hà Nội, hàng loạt các khóa
đào tạo nhóm PRA nòng cốt ở các tỉnh, huyện, xã và thôn bản được mở ra.
Kết quả là đến tháng 11 năm 1997, chương trình đã đào tạo cho mỗi tỉnh 4
cán bộ nòng cốt và lớp cán bộ trong 13 huyện, nắm được phương pháp PRA,
có khả năng đào tạo lại cho các xã và thôn bản. Đã tiến hành điều tra PRA ở
202 thôn bản và đang từng bước tiếp tục mở rộng (Bộ Y tế - Báo cáo phân
tích chương trình Y tế hợp tác Việt Nam - Thụy Điển, 1994 - 1997).
Một trong những dự án áp dụng nhiều PRA trong các giai đoạn của dự
án và được duy trì thường xuyên phải kể tới Chương trình Dự án Lâm nghiệp
Xã hội Sông Đà (SFDP) giữa Chính phủ Đức và Việt Nam (1993 - 2004) do
Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam và Công ty Hợp tác Kỹ
thuật Đức (GTZ) thực hiện, chương trình An toàn lương thực ở Quảng Bình
do GTZ thực hiện (năm 1994), dự án quản lý rừng đầu nguồn có sự tham gia
của người dân Hoành Bồ - Quảng Ninh (FAO/Belgium), lập kế hoạch sử dụng
đất và giao đất lâm nghiệp tại Quảng Ninh, Thừa Thiên - Huế
(FAO.020/Italia). Dự án hạ tầng cơ sở nông thôn dựa vào cộng đồng của Bộ
Kế hoạch và Đầu tư do Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ năm 1999 quản lý bền
vững tài nguyên vùng hạ lựu sông Mêkông trên địa bàn Đắk Lắk (2000), v.v...
và hàng loạt các dự án của các tổ chức phi Chính phủ như: Quĩ Nhi đồng
Anh, các tổ chức OXFAM, CIDSE, v.v... mà chúng tôi có dịp biết đến trong
quá trình tham gia khảo sát xã hội học, xây đựng dự án và đánh giá dự án
trong những năm qua.
PRA thực sự trở thành một công cụ lập kế hoạch phát triển có sự tham
gia của người dân ngày càng được hoàn thiện để phù hợp với điều kiện nông
thôn Việt Nam.
Quá trình thực hiện PRA ở Việt Nam đã gặp phải không ít những khó
khăn, trở ngại về mặt tư tưởng, thói quen tập quán. PRA là một cách làm đảo
ngược với cách nghĩ, cách làm đã bám rễ rất sâu. Đó là mệnh lệnh từ trên,
người dưới phải tuân phục người trên, sáng kiến không được xuất phát từ
dưới, trong giáo dục thì chỉ có một cách làm là "nhồi sọ" hay "sự tiếp nhận
một chiều". Thêm vào đó với thời gian khá dài theo chế độ quản lý tập trung
bao cấp, sự áp đặt từ trên xuống lại càng nặng nề. Những sáng kiến, hay sự
sáng tạo thường ít được chấp nhận, trong một thời gian tính e dè, phòng thủ,
thu mình lại càng ảnh hưởng tới việc áp dụng PRA.
PRA trong phát triển cộng đồng đã khuyến khích sáng kiến từ dưới lên
đã khó nhưng sự tự kết hợp của chính người dân để giải quyết vấn đề của
mình lại càng khó hơn. Sự tin tưởng tuyệt đối, vô điều kiện vào khả năng
vươn lên của người nghèo, hay những thành phần xã hội thấp kém nhất là
một giá trị nhân bản còn xa lạ. Khó khăn và đáng lo ngại hơn là các cán bộ
làm công tác phát triển cộng đồng bấy lâu nay là sản phẩm của cách giáo
dục, quản lý cũ nên họ khó sửa đổi được do quen bao cấp, áp đặt, làm thay
thế cho dân trong khi thực hiện PRA ở một số khâu. Trong khi PRA trong phát
triển cộng đồng đòi hỏi một sự nỗ lực thực sự của người dân, chia sẻ những
suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm trong việc nâng cao nhận biết và khả năng
tự giải quyết vấn đề xuất phát từ nhu cầu khả năng cụ thể của cộng đồng và
điều này không phải là không đụng chạm đến "quyền ra quyết định" theo lối
chủ quan của lãnh đạo.
Bên cạnh đó cũng còn có những khó khăn khác khi tổ chức thực hiện
PRA như:
- Thời gian thực hiện PRA tại cơ sở trong khoảng 5 - 7 ngày tùy thuộc
vào mục đích của từng đợt đánh giá, nhưng để làm tốt 5 - 7 ngày đó thì phải
có một thời gian tương đối dài để chuẩn bị đào tạo, tập huấn phương pháp
cho cán bộ nòng cất thực hiện ở các tuyến (từ tỉnh huyện, xã tới thôn, bản) để
họ có khả năng tự triển khai, thực hiện, thu thập thông tin, phân tích và cuối
cùng là viết báo cáo và tổng hợp. Trên thực tế, giai đoạn đào tạo thường ít
được thực hiện đầy đủ nên trong một số trường hợp cán bộ dự án, những
cán bộ ở cấp trên đôi khi làm thay thế người dân. Người dân thường chỉ được
nghe nói qua về phương pháp, được mời tới tham dự họp mà ít biết được đầy
đủ các bước và nội dung của phương pháp!
- Khi thực hiện PRA tại thôn bản, đòi hỏi cần có nhiều nông dân tham
gia, có thể làm ảnh hưởng đến sản xuất nếu việc làm PRA được tổ chức vào
đúng mùa vụ gieo trồng hay thu hoạch của người dân.
- Tổ cán bộ PRA gồm nhiều người cho nên có lúc gặp khó khăn trong
việc tổ chức thực hiện ở thôn, bản.
- Ngoài ra cũng phải kể tới một số phong tục tập quán của nhiều địa
phương, những ứng xử đối với người phụ nữ và điều kiện kinh tế, xã hội khác
có ảnh hưởng tới việc thực hiện PRA tại thôn bản.
- Trong quá trình thẩm định phương án đòi hỏi phải đảm bảo đầy đủ đại
diện các bên có liên quan tham gia (các nhà ra quyết định, đại diện cơ quan
chức năng, đơn vị thực hiện, đại diện người hưởng lợi, nữ giới và nam giới),
nhằm xem xét tính phù hợp tính công bằng, tính khả thi (khả năng đáp ứng
nhu cầu, nguyện vọng của hai giới, khả năng đáp ứng nhu cầu kỹ thuật), tính
hiệu quả, trên cơ sở đó có biện pháp điều chỉnh, sửa đổi và bổ sung. Tuy
nhiên, trên thực tế thì nhóm dân tộc thiểu số và một số bộ phận dân cư kém
phát triển, những phụ nữ có hoàn cảnh đặc biệt thường có ít khả năng tham
gia đầy đủ vào quá trình thực hiện dự án và hưởng lợi, nếu không có một cơ
chế "dân chủ thực sự".
Mặc dầu vậy, PRA cũng có nhiều thuận lợi bởi triết lý của phương pháp
này hoàn toàn phù hợp với qui chế dân chủ ở cơ sở, trên cơ sở "lấy dân làm
gốc", "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".
Bởi thế, khi người dân nhận thấy tiếng nói của mình được lắng nghe,
ghi nhận thì càng thúc đẩy sự đóng góp của họ, chỉ cần một sự định hướng,
một sự tập huấn cơ bản ở giai đoạn đầu áp dụng trong một lĩnh vực cụ thể thì
họ có thể áp đụng cho giai đoạn sau hoặc ở lĩnh vực khác mà không mấy khó
khăn!.
Hơn nữa, cơ cấu tổ chức xã hội, đặc biệt là các đoàn thể quần chúng
như: hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên, Hội Nông dân, Cựu chiến binh với mạng
lưới chân rết rộng khắp và xuống tận cơ sở là một điều kiện thuận lợi cho
công cuộc phát triển, thoát dần khỏi sự xơ cứng của những năm trước. Các
đoàn thể đã ngày càng đa dạng hóa các hoạt động để hướng về phúc lợi xã
hội, kinh tế gia đình, chăm sóc sức khỏe, tín dụng, xóa đói giảm nghèo, xúc
tiến việc làm v.v... không những gần gũi với phát triển cộng đồng mà bản thân
những tổ chức này cũng nhận thấy rằng cần phải có phương pháp trong hoạt
động phát triển cộng đồng để tăng hiệu quả áp dụng. Do vậy PRA được sự
hưởng ứng tích cực của đông đảo các tổ chức ở cơ sở, bên cạnh sự tham gia
hưởng ứng tích cực của quần chúng và đồng thời cũng là hội viên của họ.
Thực tế cho thấy, cách tuyên truyền ồ ạt, áp đặt từ trên xuống trong
một số chương trình, dự án phát triển nông thôn đã ít nhiều bị thất bại. Trước
tiên phải kể đến là Chương trình Dân số - Sức khỏe, Kế hoạch hóa gia đình.
Chúng ta đã đưa vào kế hoạch giai đoạn từ 1981 - 1985 là giảm tỉ lệ tăng dân
số xuống 1,7%. Tiếp theo mục tiêu đó lại được khẳng định trong nghị quyết
Đại hội VI về kế hoạch 5 năm 1986 - 1990 nhưng thực tế, đó chỉ là ý muốn
chủ quan, sự áp đặt từ trên, nên chúng ta đã không đạt được chỉ tiêu này
trong giai đoạn kể trên. Thật vậy, sự thay đổi hành vi phải tự nguyện, thói
quen tập quán và những giá trị văn hóa lạc hậu chỉ có thể khắc phục bằng nỗ
lực của toàn cộng đồng. Năng động và sáng tạo trên cơ sở nắm vững qui luật
vận động của dân số để không nôn nóng và chủ quan trong việc thực hiện
mục tiêu dân số, quyết tâm cao trong chỉ đạo thực hiện, song không thể thay
thế tính tự nguyện, tự giác của chủ thể bằng mệnh lệnh cưỡng ép và áp đặt.
Trong lĩnh vực này, ở Việt Nam trong vài năm qua đã có nhiều chuyển biến
nhờ thay đổi phương pháp, cách nghĩ, cách làm "Không chỉ y tế hóa cuộc vận
động thực hiện sức khỏe - dân số - kế hoạch hóa gia đình mà phải xã hội hóa
cuộc vận động" (Tương Lai - Sđd tr.4). Chương trình quản lý tài nguyên thiên
nhiên rừng ở Việt Nam trong những năm qua cũng cho thấy một điều rằng
"không có một đội ngũ kiểm lâm nào đủ lớn, không có một chiếc khóa nào đủ
rộng để bảo vệ và canh giữ được cửa rừng nếu không tạo ra được sự tham
gia hưởng ứng của người dân và hiệu quả cụ thể của phương pháp bảo vệ
rừng cộng đồng bằng những qui định, qui ước bảo vệ rừng do chính người
dân xây dựng nên trong kế hoạch phát triển thôn bản ở một số địa phương
như huyện Ngọc Lặc - Thanh Hóa (Dự án Quản lý và Bảo vệ bền vững tài
nguyên thiền nhiên của CARE), ở 2 huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La và Tủa
Chùa, tỉnh Lai Châu (Dự án Phát triển Lâm nghiệp xã hội Sông Đà - của GTZ)
đã chứng minh tính đúng đắn của phương pháp".
Ở Việt Nam, trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ đất nước, lịch sử
đã chứng minh sự nghiệp của đất nước gắn chặt với sự nghiệp nhân dân.
Các triều đại hưng thịnh thời phong kiến đều biết lấy dân làm gốc. Đảng ta đã
xác định Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chủ tịch
Hồ chí Minh, nhà lãnh đạo kiệt xuất của Việt Nam luôn nhắc nhở cán bộ:
"Muốn phục vụ người dân tốt phải 3 cùng: cùng ăn, cùng ở, cùng làm với
dân". Bằng cách giúp cho người dân tự phân tích tình hình thôn bản, giác ngộ
về hoàn cảnh của mình, giúp họ có kỹ năng tổ chức để tự quản và đi lên bằng
chính sức của mình. PRA trong nghiên cứu phụ nữ - giới và phát triển cộng
đồng đã đáp ứng một phần của yêu cầu này. Đồng thời PRA cũng góp phần
tạo ra sự công bằng dân chủ trong việc tham gia phát triển cộng đồng ở nông
thôn. Sự bình đẳng trong các cơ hội việc làm, đào tạo, hưởng thụ, quyền ra
quyết định của nam giới và nữ giới. Bởi vậy, việc sử dụng PRA là một nhu
cầu thiết yếu. Quá trình trao đổi, học hỏi để có kinh nghiệm khi sử dụng PRA
vào các công việc nghiên cứu phụ nữ - giới và phát triển cộng đồng ở Việt
Nam là một công việc cần thiết để hoàn thiện một phương pháp, nhất là khi
nó được triển khai ở diện rộng.
Tóm tắt chương 5
PRA là biện pháp hỗ trợ cho việc lập kế hoạch có người dân tham gia
để thực hiện "dân chủ ở cơ sở" và thực hiện "phân cấp" theo chủ trương của
Đảng ta.
PRA là quá trình dựa trên thực địa, tập trung và tương hỗ bằng cách sử
dụng hàng loạt các kỹ thuật để làm việc với dân. Điều đó tạo điều kiện cho
người dân tìm hiểu về tình hình địa phương để xác định, chọn vấn đề ưu tiên
và lập kế hoạch về các nguồn lực nhằm giải quyết những vấn đề đó một cách
tốt nhất.
PRA được xây dựng dựa trên kiến thức và năng lực vốn có của người
dân từ đó xác định vấn đề, ra quyết định, huy động các nguồn lực, tổ chức
thực hiện v.v... để cùng phát triển cộng đồng một cách bền vững thông qua
sự nỗ lực của chính cộng đồng. Bằng các kỹ thuật thu hút sự tham gia của
người dân và kỹ năng thúc đẩy, tạo điều kiện của các cán bộ phát triển đã tạo
cho người dân địa phương có thể tham gia tự nguyện, sáng tạo vào mọi quá
trình triển khai thực hiện cũng như giám sát, đánh giá các kết quả phát triển,
trên cơ sở đó nâng cao sự hiểu biết và trách nhiệm của người dân.
Để thực hiện tốt hoạt động PRA thì việc tạo lập mối quan hệ nhằm đạt
được sự tin tưởng, sự liên kết tốt trong quá trình làm việc là cần thiết, đẩy
mạnh kỹ năng giao tiếp sự chú ý quan sát, lắng nghe, giải thích rõ, tạo đề
xuất mở để hướng sự thảo luận, đặt câu hỏi, phản ánh, trao đổi và thu thập
thông tin là rất quan trọng khi làm việc với người dân địa phương.
Việc thực hiện PRA ở Việt Nam còn khá mới mẻ nên hiện tại còn gặp
nhiều khi khăn. Tuy vậy, các dự án phát triển cộng đồng hiện nay hầu hết
được xây dựng và tìm hiểu cộng đồng bằng phương pháp này. PRA là một
biện pháp đảo ngược với cách nghĩ, cách làm đã bám rễ rất sâu. Đó là mệnh
lệnh từ trên xuống, người dưới phải tuân phục người trên, sáng kiến không
được xuất phát từ dưới.
Phụ lục. TÓM TẮT MỘT SỐ DỰ ÁN ĐIỂN HÌNH VỀ PHÁT TRIỂN CỘNG ĐỒNG
A. Dự án phát triển sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam
Cơ quan chủ trì: Trung tâm hỗ trợ phát triển các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh (NEDCEN).
Cơ quan tài trợ: NOVIB (Hà Lan).
Trung tâm NEDCEN đã triển khai một số dự án phát triển sản phẩm
hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam với mục tiêu chung là hỗ trợ
để tạo điều kiện cho người nông dân nghèo và phụ nữ có thêm việc làm, tăng
thu nhập và tăng cường năng lực cho cộng đồng thông qua phát triển sản
phẩm hữu cơ/ sinh thái. Trung tâm đã và đang triển khai dự án nuôi ong sinh
thái ở xã Nậm Lành, Văn Chấn - Yên Bái và xã Hòa Bình, Thị xã Hòa Bình.
Dự án trồng lúa sinh thái tại xã Biên Sơn, huyện Lục Ngạn, tỉnh Bắc Giang và
trồng nấm sinh thái tại xã Nguyệt Đức, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh.
Sau đây là tóm tắt về dự án trồng lúa sinh thái tại cộng đồng xã Biên Sơn.
1. Dự án trồng lúa hữu cơ/ sinh thái
Dự án chính thức được triển khai từ đầu năm 2000 và kết thúc năm
2002, nhưng việc nghiên cứu tại hiện trường và khâu chuẩn bị thì đã tiến
hành trước đó hơn một năm. Mục tiêu chung của dự án trồng lúa hữu cơ/
sinh thái nằm trong mục tiêu chung của dự án sản xuất sản phẩm hữu cơ/
sinh thái. Dự án trồng lúa có mục tiêu cụ thể như sau:
- Giúp nông dân nghèo sản xuất lúa với số lượng lớn, chất lượng cao
làm công cụ để xóa đói giảm nghèo.
- Giúp phụ nữ tham gia một cách tích cực vào các hoạt động của dự
án, nâng cao bình đẳng giới trong cộng đồng.
- Xây dựng và nâng cao năng lực cho người dân khi tham gia dự án để
phát triển sản xuất các sản phẩm hữu cơ.
- Giúp người dân phát triển thị trường cho các sản phẩm hữu cơ.
- Xây dựng mạng lưới giúp đỡ người nghèo phát triển các sản phẩm
hữu cơ/ sinh thái.
2. Địa điểm thực hiện dự án
Thôn Cãi, xã Biên Sơn huyện Lục Ngạn tỉnh Bắc Giang. Sở dĩ chọn địa
phương này vì Biên Sơn là một xã nghèo trong 30 xã, thị trấn của huyện Lục
Ngạn, là một xã miền núi nằm cách trung tâm thị trấn Cho hơn 15km với diện
tích tự nhiên là 4.209 ha, trong đó diện tích đất trồng lúa chỉ chiếm 203,67 ha
(48%), diện tích đất trồng cây ăn quả 540 ha (10,7%) còn lại là đất đồi trọc và
đất lâm nghiệp. Tỷ lệ hộ nghèo năm 2001 trong toàn xã chiếm 34,9% - là mức
cao so với tỷ lệ chung của toàn quốc (11% - năm 2000 ). Dân số của Biên
Sơn tính đến tháng 1 năm 2002 là 6.503 người, trong đó, có 50,4% là nữ. Số
nhân khẩu bình quân trong một hộ là 5,12 người. Biên Sơn có 4 dân tộc cùng
sinh sống là dân tộc Kinh, Tày, Nùng và Hoa, nhưng chủ yếu là người Nùng
chiếm 55%, người Kinh chiếm khoảng 30%, người Tày chiếm 10% và còn lại
là người Hoa chỉ chiếm 5%.
Khu vực triển khai trồng lúa sinh thái nằm trên cánh đồng thuộc thôn
Cãi, là một trong 18 thộn của xã Biên Sơn, với diện tích trồng lúa hơn 10 ha.
Thôn Cãi có 140 hộ với 619 người, bình quân 4,9 người/hộ (tính đến hết
tháng 1 năm 2002), tỷ lệ nữ trong thôn chiếm 50,5%. Cũng như tình hình
chung ở xã Biên Sơn, tuy chỉ là một thôn nhưng thành phần dân tộc của thôn
Cãi cũng khá đa dạng, gồm 4 dân tộc cùng sinh sống, trong đó, dân tộc Nùng
gồm có 400 người (chiếm 57,9%), dân tộc Kinh 249 người (chiếm 36%), dân
tộc Tày 32 người (chiếm 4,6%) còn lại là 10 người Hoa từ nơi khác lấy chồng
ở tại thôn Cãi. Các dân tộc ở Biên Sơn cũng như ở thôn Cãi sống xen kẽ
nhau từ hàng trăm năm nay nên ít nhiều đã ảnh hưởng lẫn nhau về tập quán
sống và lao động, tất cả đều nói được và dùng tiếng phổ thông trong giao
tiếp, hầu như những nét đặc biệt về lối sống cũng như các phong tục tập
quán của từng dân tộc thiểu số không còn thể hiện rõ như các vùng dân tộc
sống cách biệt khác.
Cơ sở hạ tầng của xã Biên Sơn nói chung và thôn Cãi nói riêng còn khá
nghèo nàn. Gần đây, do có sự hỗ trợ của đơn vị quân đội nên đã có đường
nhựa chạy tới xã, còn lại các đường khác trong thôn vẫn là đường đất, rất
khó khăn trong việc đi lại về mùa mưa. Tuy xã đã được cung cấp điện hàng
chục năm nay nhưng cũng chỉ có 70% số hộ có điện, số hộ còn lại do ở quá
xa đường dây nên vẫn chưa có điện sinh hoạt.
3. Các hoạt động của dự án
- Sau khi đã khảo sát tìm được địa bàn để triển khai dự án, việc đầu
tiên của ban quản lý dự án là thương thuyết với lãnh đạo xã Biên Sơn thông
qua Liên hiệp các hợp tác xã của tỉnh Bắc Giang để được sự nhất trí triển
khai dự án.
- Họp bàn với toàn thể các hộ gia đình của thôn Cãi để tuyên truyền về
ý nghĩa của dự án và lấy ý kiến dân chủ của người dân về sự hưởng ứng
tham gia dự án.
- Thành lập ban chỉ đạo, quản lý dự án cấp tỉnh, xã (thôn) cụ thể là
thành lập câu lạc bộ lúa sinh thái xã Biên Sơn gồm ban chủ nhiệm và 10 tổ
trưởng ở các xóm của thôn Cãi, tiến hành cam kết giữa các hộ gịa đình và
Ban quản lý dự án về sự nhất trí tham gia dự án.
- Tiến hành tập huấn kỹ thuật (làm đất, gieo trồng và chăm bón lúa theo
kỹ thuật mới).
- Cung cấp các nguồn đầu vào cần thiết khác.
- Tập huấn và tư vấn về giới cho người dân vùng dự án.
- Quảng cáo, hỗ trợ tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm lúa, gạo chất
lượng cao.
- Đánh giá, rút kinh nghiệm theo định kỳ.
4. Kết quả đã đạt được
* Về nhận thức
- Người dân vùng dự án đã hiểu được khái niệm sản xuất sản phẩm
hữu cơ/ sinh thái nghĩa là áp dụng biện pháp sản xuất mới không dùng các
chế phẩm hóa học như phân bón, thuốc trừ sâu mà thay vào đó là phân hữu
cơ ủ mục, các chế phẩm vi sinh để làm ra sản phẩm không bị ô nhiễm hóa
chất, đất canh tác không bị bạc màu, ô nhiễm và được cải tạo liên tục qua các
vụ, tạo ra môi trường trong lành cho người và các sinh vật khác.
- Thông qua tập huấn, tư vấn về giới, mọi người dân vùng dự án đã
hiểu thêm về sự bất bình đẳng giới đã tồn tại lâu đời ở ngay chính địa
phương họ, qua các hoạt động tư vấn và phân tích giới, lập kế hoạch hành
động về giới. Những người hưởng lợi không những đã nâng cao nhận thức
về giới mà họ còn thay đổi trong hành động hàng ngày để nâng cao bình
đẳng giới như phân công lao động hợp lý hơn trong hộ gia đình, nam giới đã
chia sẻ gánh nặng công việc hàng ngày với nữ giới, người phụ nữ tự tin hơn
khi tham gia và làm chủ nhiều hơn trong các hoạt động của dự án.
* Về hiệu quả kinh tế
Đã qua 4 vụ lúa, năng suất ngày càng tăng do đất tốt dần, do người
dân ngày càng thuần thục với kỹ thuật canh tác mới, người dân đã tăng được
thu nhập do lúa làm ra có giá trị hơn từ 500 - 700đ/kg so với lúa thường trước
đây.
* Về năng lực quản lý cộng đồng
Ban chủ nhiệm Câu lạc bộ đã thể hiện được năng lực quản lý ngày
càng tăng qua các hoạt động của dự án. Các tổ trưởng đã tích cực trong các
khâu giám sát, động viên các hộ thành viên của tổ thực hiện tốt các hoạt động
của dự án. Qua các hoạt động này, tính cộng đồng ngày càng được bền chặt
vì họ thường xuyên quan hệ học hỏi, trao đổi kinh nghiệm sản xuất cho nhau.
* Về sản xuất lương thực
Từ nền sản xuất chủ yếu là tự cấp, tự túc, người dân đã tiếp cận được
với thị trường trong việc trao đổi sản phẩm lúa gạo chất lượng cao.
Một điều đặc biệt trong dự án này là ngay từ khâu thiết kế dự án, Chủ
nhiệm dự án đã đưa vấn đề giới là một hoạt động để đạt được mục tiêu tăng
cường sự tham gia của phụ nữ vào các hoạt động của dự án, nâng cao bình
đẳng giới trong cộng đồng. Chính vì vậy, việc đào tạo nâng cao nhận thức về
giới, việc tư vấn và lập kế hoạch hành động về giới được tiến hành song song
cùng các hoạt động khác và dẫn đến kết quả thu được khá rõ nét. Trong khi
đó, nhiều dự án khác cho đến nay nếu có quan tâm cũng mới chỉ lồng ghép
khía cạnh giới vào các hoạt động của dự án và khi đánh giá thì các chuyên
gia về giới cố tìm kiếm những thành công về khía cạnh giới trong kết quả mà
dự án đã đặt được.
* Tính bền vững của dự án
Mặc dù thời gian của dự án đã kết thúc nhưng tính bền vững của dự án
rất cao và thể hiện rõ. Người dân đã thay đổi được nhận thức và thấy điều đó
hoàn toàn là có lợi trong cuộc sống trong lao động hàng ngày của họ thì họ sẽ
duy trì và ngày càng được cải thiện, cụ thể là nhận thức về giới cũng như tầm
quan trọng của việc sản xuất các sản phẩm hữu cơ/ sinh thái. Phần đầu vào
quan trọng của dự án là giống và kỹ thuật thì người dân đã nắm vững và tự
thực hiện được. Duy chỉ có khâu thị trường cho việc sản xuất lớn là còn cần
sự hỗ trợ của NEDCEN hoặc do chính ban chủ nhiệm câu lạc bộ sẽ đứng ra
lo liệu giúp người dân. (Trích theo báo cáo tư vấn về giới cho dự án phát triển
sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam, NEDCEN, 2002).
B. Dự án "Nâng cao thu nhập, bảo đảm an ninh lương thực, tăng khả năng ra quyết định của hộ nông dân Đồng bằng Sông Hồng, thông qua việc áp dụng ICM trên khoai tây"
Dự án do qui Neys Van Hoogstraten - Hà Lan tài trợ và Viện Kinh tế
Nông nghiệp, Trường Đại học Nông Nghiệp I, Hà Nội và Trung tâm Cây có
củ, Viện khoa học Nông nghiệp Việt Nam thực hiện tại 4 xã: Hào Kiệt (huyện
Vụ Bản, tỉnh Nam Định), Nguyên Xá (huyện Đông Hưng, tỉnh Thái Bình),
Đông Xuân (huyện Sóc Sơn, thành phố Hà Nội) và Hà Hồi (huyện Thường
Tín, tỉnh Hà Tây), trong thời gian 3 năm nhằm đạt các mục tiêu tổng thể sau:
1. Giúp những nông dân tham gia dự án sẽ nắm vững lý thuyết và thực
hành tốt IPM/ICM trên cây khoai tây nhằm nâng cao năng suất cũng như thu
nhập góp phần đảm bảo an toàn lương thực cho hộ gia đình.
2. Giúp nông dân hiểu biết được nội dung của an ninh lương thực, mối
liên hệ giữa thu nhập với an toàn lương thực, giữa sản xuất khoai tây với tăng
thu nhập và giữa thực hiện ICM cây trồng với bảo vệ môi trường và sức khỏe
người trực tiếp lao động.
3. Giúp nông dân có những nhận thức đúng mức về vai trò của người
phụ nữ trong phát triển kinh tế hộ và trong công việc gia đình. Từ đó, có các
đề xuất để phát huy tốt vai trò của họ trong gia đình và với cộng đồng.
4. Giúp cho nông dân có đủ kiến thức về kinh tế xã hội và kỹ thuật
nhằm tăng cường khả năng ra quyết định đúng đắn các hoạt động sản xuất
kinh doanh của hộ đạt hiệu quả kinh tế cao, góp phần cải thiện không ngừng
đời sống vật chất, tinh thần cho bản thân và gia đình họ.
5. Thông qua phương pháp nông dân tập huấn cho nông dân, mô hình
phát triển sản xuất được mở rộng, giảm chi phí và bảo đảm tính bền vững
trong cộng đồng.
Để thực hiện các mục tiêu trên, trong việc triển khai của dự án đã áp
dụng các phương pháp rất cơ bản, đã được nhiều cơ quan nghiên cứu phát
triển kinh tế xã hội, các tổ chức trong nước và quốc tế áp dụng rộng rãi như:
phương pháp đánh giá có sự tham gia người hưởng lợi (PRA), tổ chức hội
thảo để thu nhận thông tin đa chiều, phương pháp nông dân tham gia nghiên
cứu trên đồng ruộng, nông dân tập huấn cho nông dân, phương pháp tự tìm
ra quyết định thông qua thảo luận trên đồng ruộng, phương pháp tập huấn
cho người lớn tuổi, phương pháp tham gia của người dân và cộng đồng.
Ngoài ra, dự án có kế hoạch tốt cụ thể trong việc thu thập số liệu và áp
dụng các phương pháp phân tích kinh tế để định lượng hóa hiệu quả kinh tế,
xã hội của từng nội dung triển khai như: sổ ghi chép tổng hợp sản xuất, điều
tra sự thay đổi của học viên trước và sau khi tham gia lớp học, đánh giá hiệu
quả kinh tế, xã hội của việc áp dụng ICM/IPM trên cây khoai tây v.v... Đây là
vấn đề rất cần thiết mà nện nay ở Việt Nam chưa có nhiều dự án quan tâm để
áp dụng.
Việc quản lý các hoạt động của dự án do đội ngữ gồm 14 cán bộ có
năng lực chuyên môn trong nhiều chuyên ngành liên quan đến các hoạt động
dự án (kinh tế nông nghiệp, bảo vệ thực vật, nông học, tuyển chọn giống
khoai tây v.v...) và có trách nhiệm trong quá trình chỉ đạo thực hiện. Sau khi
thảo luận với cộng đồng hưởng lợi, tư vấn của cơ quan tài trợ, cố vấn dự án
và các chuyên gia khoa học thì các quyết định đã được triển khai nhanh
chóng và đồng bộ tới địa phương. Do dự án đã thiết lập được mạng lưới công
tác từ cơ quan thực hiện dự án tới các địa phương. Ban quản lý dự án địa
phương có đại diện lãnh đạo chính quyần, hợp tác xã, làng (thôn) v.v... nên
các hoạt động của dự án được triển khai đồng bộ và thuận lợi. Đó là điều kiện
tốt để xây dựng và thực hiện các dự án tiếp theo ở cộng đồng địa phương
trong tương lai. Tại mỗi xã có hai huấn luyện viên là nông dân (một nam, một
nữ) và một ban chỉ đạo dự án từ 4 - 5 người ở các vị trí lãnh đạo cộng đồng.
Điều cơ bản là dự án đã xây dựng được nội dung hoạt động rất cụ thể,
do đó, sau 3 năm triển khai đã đạt được như sau:
1.1. Nông dân tham gia dự án đã nắm được lý thuyết cũng như thực
hành IPM/ICM trên cây khoai tây nhằm nâng cao năng suất và thu nhập gia
đình, thể hiện trên các mặt:
- Việc lựa chọn giống khoai và chất lượng giống để sản xuất.
- Kỹ thuật bón phân, sử dụng phân chuồng và phân Ka li.
- Kỹ thuật gieo trồng.
- Kỹ thuật thu hoạch và lựa chọn khoai làm giống cho vụ sau.
- Khả năng nhận biết về các sâu hại và thiên địch trên khoai tây.
Qua đó cho thấy, phương pháp áp dụng ICM/IPM cho cây khoai tây có
thể mở rộng cho các cây khác để nâng cao hiệu quả sản xuất ở Đồng bằng
Sông Hồng.
1.2. Nhờ tăng năng suất và thu nhập từ sản xuất khoai tây đã góp phần
đảm bảo an ninh lương thực, nhất là đối với các hộ nông dân nghèo khi bị mất
mùa hoặc thời kỳ thiếu lương thực (thời kỳ giáp hạt).
1.3. Vấn đề giới đã được quan tâm ngay khi thiết kế dự án thể hiện ở cơ
cấu giới trong lựa chọn học viên (58% là nữ).
Kết quả học tập tại các lớp huấn luyện, bố trí thực nghiệm trên đồng
ruộng và thảo luận nhóm cho thấy vai trò, khả năng của phụ nữ được khẳng
định trong gia đình và cộng đồng. Đáng chú ý là qua hoạt động ghi sổ chi tiêu
gia đình càng thể hiện rõ hơn vai trò phụ nữ trong việc ra quyết định của gia
đình. Tác động này của dự án là cơ sở cho sự phát triển và bình đẳng về giới.
1.4. Học viên tham gia dự án đã có được một số kiến thức cơ bản về
phân tích kinh tế đã góp phần nâng cao khả năng lựa chọn phương án sản
xuất và phân bổ nguồn lực của gia đình.
Mặc dù vậy, trong các lớp tập huấn, số học viên thường được lựa chọn
là những người có năng lực sản xuất nên đôi khi số người có trình độ hạn chế
về khả năng ghi chép, số đối tượng là người nghèo, người yếu thế trong cộng
đồng tham gia dự án còn ít. Tuy vậy, đây vẫn là một dự án đáp ứng được
mong muốn và nguyện vọng của người dân, với phương pháp nông dân tập
huấn cho nông dân, những kiến thức hữu ích đó đã được lan rộng nhanh
chóng trong cộng đồng.
Một điều hết sức quan trọng là dự án đã thu hút được người hưởng lợi
vào các công việc thiết kế, kiểm tra, đánh giá các công việc của dự án như từ
các cuộc thảo luận với người được hưởng lợi để tổng kết các khó khăn mà họ
gặp phải, từ đó xây dựng kế hoạch, nhu cầu trợ giúp, những đề xuất nhằm
xây dựng chính xác các hoạt động cần thực hiện (nội dung tập huấn, thử
nghiệm) trong thời gian sau. Các điều khoản giao việc của mỗi bên qua việc
thực hiện dự án ở các làng từ việc ghi chép, theo dõi hoạt động sản xuất,
giảng giải các khoản mục chi phí, các bài tập thực hành về tính giá thành, thu
nhập bố trí, các công thức luân canh cây trồng, phân tích các hoạt động kinh
tế hộ giải đáp được các thắc mắc rút kinh nghiệm cho từng mục, từng bài
khiến cho bài học được hiểu thấu đáo, đồng thời huấn luyện viên được củng
cố kiến thức và nâng cao kỹ năng tập huấn, góp phần nâng cao địa vị của
người dân tham gia trong việc giám sát, quản lý dự án. Nếu trước khi tham
gia vào các lớp tập huấn, học viên (người dân) thiếu kiến thức trong việc
trồng và chăm sóc cây khoai tây (không phân biệt được thiên địch có lợi cho
cây trồng, khoảng cách thời gian bón phân, cách bảo quản sản phẩm -
thường cho vào gầm thường gây thối, nấm mốc gây ô nhiễm môi trường và
gây bệnh cho người v.v...), thì ngày nay họ đã biết hợp tác để cùng nhau sản
xuất, bảo quản sản phẩm theo phương pháp mới, tiếp cận thị trường một
cách tốt nhất. (Trích theo Báo cáo đánh giá cuối kỳ dự án nâng cao thu nhập,
bảo đảm an ninh lương thực, tăng khả năng ra quyết định của hộ nông dân
Đồng bằng sông Hồng, thông qua việc áp dụng ICM trên khoai tây v.v..., Viện
Kinh tế Nông nghiệp, 2001).
* Ghi chú:
IPM - Integrated Pests Management: Tăng cường quản lý dịch
hại
ICM - Integrated Crops Management: Tăng cường quản lý mùa
vụ
C. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà Đây là dự án hợp tác kỹ thuật giữa chính phủ Đức và Việt Nam do Cục
phát triển lâm nghiệp thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn thực thi.
Vùng dự án là khu vực đầu nguồn Sông Đà ở vùng Tây Bắc Việt Nam, nơi có
nhiều người Thái sinh sống (huyện Yên Châu, Sơn La) và người Mông
(huyện Tủa Chùa, Lai Châu).
Mục tiêu của dự án là: Cải thiện đời sống của nhân dân ở vùng Sông
Đà cùng với sự ổn định về sinh thái.
Cơ sở phương pháp luận của dự án là xem xét và giải quyết những
nguyên nhân chính gây nên nạn phá rừng như nghèo đói và thiếu lương thực.
Do đó, dự án áp dụng phương pháp hai chiều, vừa tăng sản lượng lương
thực và thu nhập một cách bền vững hơn, vừa tăng tỷ lệ che phủ rừng thông
qua tái sinh tự nhiên, trồng rừng và các hoạt động quản lý rừng.
Các hoạt động chính của dự án là:
- Trợ giúp xây dựng, cải tiến và áp đụng phương pháp luận về qui
hoạch sử dụng đất và giao đất giao rừng có người dân tham gia.
- Tăng cường năng lực của các cộng đồng địa phương ở xã và đặc biệt
trong các làng để quản lý nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hữu hiệu và
hiệu quả về chi phí nhằm tăng sản xuất nông lâm kết hợp, nâng cao chất
lượng bảo vệ, quản lý các nguồn tài nguyên (rừng). Những phương pháp có
tầm quan trọng đặc biệt là sự tham gia của các cộng đồng vào phân tích
những vấn đề tồn tại, xây dựng giải pháp dài hạn cho các vấn đề và mâu
thuẫn về sử dụng đất. Lập kế hoạch thực hiện theo dõi và đánh giá kế hoạch
là các công cụ hỗ trợ cộng đồng và chính quyền địa phương trong công tác
khuyến nông - lâm v.v...
- Xây dựng các giải pháp kỹ thuật và tổ chức cải tiến cho việc quản lý
các tài nguyên thiên nhiên bền vững phù hợp với môi trường miền núi.
- Xây dựng dịch vụ khuyến nông - lâm theo định hướng nhu cầu để đưa
ra các giải pháp kỹ thuật v.v...
- Tăng cường năng lực cho các cơ quan chức năng địa phương tại cấp
huyện và tỉnh, nhằm nâng cao tính hiệu quả của dịch vụ cung cấp cho người
dân địa phương.
- Quản lý có hiệu quả dự án nhằm thực hiện các hoạt động đã nêu ở
trên.
Tổng thời gian dự án là 12 năm, từ 1993 - 2004 gồm 4 pha:
- Pha 1: Định hướng 1993 - 1995.
- Pha 2: Thực thi 1 từ 4/1995 - 12/1998.
- Pha 3: Thực thi 2 từ 1/1999 - 12/2001.
- Pha 4: Chuyển giao cuối cùng từ 2002 - 2004.
Để hoàn thành các hoạt động chính trên đây, nhiều hoạt động cụ thể
được đặt ra. Đơn cử như trong các giải pháp công nghệ và tổ chức cải tiến
trong việc quản lý, sử dụng nguồn tài nguyên thiên nhiên bền vững thì vấn đề
quản lý lâm nghiệp cộng đồng được chú trọng. Đây là một dự án mà vấn đề
cộng đồng được đặt ra hết sức rõ nét. Điều quan trọng là nhận thức lâm
nghiệp cộng đồng không chỉ cần thiết như một giải pháp cho quản lý rừng mà
còn có tiềm năng quản lý tài nguyên rừng bền vững ở những vùng xa xôi như
đầu nguồn sông Đà. Những cộng đồng trong vùng này sống qua nhiều thế hệ
nhưng vẫn duy trì thể chế và kiến thức cũ, các chương trình của Nhà nước
trong việc quản lý rừng còn yếu. Dự án đã chú trọng vào việc phát triển và thử
nghiệm hai phương pháp luận đó là xây dựng qui chế quản lý, bảo vệ rừng và
soạn thảo kế hoạch quản lý lâm nghiệp cộng đồng ở cấp thôn bản. Dự án đã
thiết lập theo dõi ô thử nghiệm và trình diễn đồng thời khởi xướng, hỗ trợ một
mạng lưới lâm nghiệp cộng đồng ở Sơn La và Lai Châu để kết nối với nhóm
lâm nghiệp cộng đồng ở cấp quốc gia. Những kinh nghiệm rút ra từ quản lý
lâm nghiệp cộng đồng được dự án đúc kết và khuyến nghị cho chiến lược
phát triển rừng ở cấp quốc gia cũng như cấp tỉnh:
* Làm rõ và đảm bảo về quyền lợi của cộng đồng địa phương được
hưởng từ nguồn rừng nhưng là một điều kiện tiên quyết cho quản lý lâm
nghiệp cộng đồng. Sự quản lý rừng của địa phương đã được cải thiện rất
nhiều thông qua qui hoạch sử dụng đất và giao đất, giao rừng cũng như xác
định biên giới vùng giữa các thôn bản và các xã.
* Quản lý lâm nghiệp cộng đồng dựa trên những qui chế pháp lý về bảo
vệ rừng. Sau nhiều thập kỷ, tài nguyên rừng không được quản lý chặt chẽ,
các trách nhiệm về quản lý rừng chỉ có thể chuyển giao cho cộng đồng một
cách thích hợp thông qua các qui chế bảo vệ rừng hiệu quả.
* Quản lý lâm nghiệp cộng đồng đang chứng minh được đây là một
cách quản lý hiệu quả về chi phí xã hội cũng như về môi trường, phù hợp với
phương án quản lý rừng. Sự tham gia của cộng đồng địa phương vào quản lý
và bảo vệ rừng sẽ ổn định, ngăn chặn sự suy thoái hệ thống sinh thái rừng
cũng như thúc đẩy tái sinh tự nhiên. Mục tiêu của việc bảo vệ rừng đầu nguồn
có thể hòa hợp với sử dụng rừng theo nhu cầu của người dân địa phương.
* Tạo cơ hội và khuyến khích người dân địa phương để họ có thể quản
lý nguồn rừng và phân bổ công việc cũng như hưởng lợi một cách hợp lý.
Chương trình quản lý lâm nghiệp cộng đồng phải phản ánh được các kỹ năng
hiện có cũng như khả năng quản lý của cộng đồng địa phương. Kiến thức sẵn
có của địa phương có thể hỗ trợ việc triển khai một cách có hiệu quả.
* Việc sử dụng lâm sản cho nhu cầu thiết yếu là điều vô cùng quan
trọng đối với người dân địa phương. Tuy nhiên, thu nhập từ các hoạt động
lâm nghiệp chỉ bổ sung cho thu nhập từ sản xuất nông nghiệp. Điều mà cộng
đồng địa phương quan tâm nhất hiện nay vẫn là an toàn lương thực, do vậy,
việc quản lý lâm nghiệp chỉ thực sự thành công khi có thể cung cấp được cho
người nông dân những giải pháp sử dụng đất nông nghiệp một cách hợp lý.
* Cuối cùng, môi trường chính sách hỗ trợ của Nhà nước, cũng như
của tỉnh là hết sức cần thiết để mở rộng việc áp dụng phương pháp quản lý
lâm nghiệp cộng đồng. Chính sách lâm nghiệp của Nhà nước ta đang mở ra
những khả năng mới cho lâm nghiệp cộng đồng. Tuy nhiên, việc mở rộng
phương pháp này cũng đòi hỏi những sửa đổi các qui chế chính sách cấp nhà
nước, tỉnh dựa trên các thử nghiệm thành công (Trích theo báo cáo dự án
phát triển lâm nghiệp sông Đà, Chương trình Hợp tác kỹ thuật Việt Nam -
Đức, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, 2000).
D. Một ví dụ về dự án tăng thu nhập ở Việt Nam Hương Phong là một xã nghèo ở Huế, số dân ở xã vào khoảng 9.000
người, gồm 1500 hộ, trong đó, có khoảng 110 hộ làm nghề nuôi tôm, các
nghề chính của dân trong xã là nghề đánh cá, nuôi tôm và trồng trọt. Xã nằm
ở ven biển và chỉ có thể đến được bằng thuyền hoặc xe 2 bánh. Do ở ven
biển nên xã thường bị ảnh hưởng thiên tai như sóng thủy triều và gió mùa
mạnh.
Một chuyên gia người Anh đã đến thăm xã vào năm 1991 - 1992 và đã
đưa ra một số biện pháp về công tác phát triển do Tổ chức Tầm nhìn Thế giới
thực hiện trong vùng. Từ năm 1992, Tổ chức Tầm nhìn thế giới bắt đầu tập
trung vào công tác phát triển cộng đồng và phát triển kinh tế cho xã. Tổ chức
này đã tài trợ để cải tạo một trạm y tế duy nhất trong xã, cung cấp cho trạm
một chiếc xích lô; lát lại một con đường thường dùng trong xã để đi đến thị
trấn gần đó dễ dàng hơn; sửa lại trường học và xây thêm 4 phòng học; các
con đê cũng được củng cố và đắp thêm để nông dân có thể trồng thêm vụ và
tạo ra nhiều hồ nuôi tôm cho họ.
Một chương trình tín dụng vốn quay vòng được bắt đầu từ năm 1992
dành cho những người nuôi tôm. Giai đoạn đầu với số vốn 6000 USD cho
toàn xã. Mỗi hộ nuôi tôm được vay 600 USD và sẽ trả dần trong 5 năm, mỗi
năm 120 USD. Số tiền vay sẽ dùng để sửa sang, củng cố hồ nuôi tôm, mua
giống và thức ăn. Người vay phải trả lãi 1% tháng cùng với gốc. Ngay sau khi
số tiền trả của mỗi hộ đạt đến một khoản tương đối lớn (khoảng 300 - 500
USD), số tiền này được chuyển cho người khác vay để đảm bảo không có
tiền nhàn rỗi.
Ban quản lý gồm các thành viên của ủy ban Nhân dân huyện và xã.
Chức năng của ban quản lý chủ yếu là chọn lọc đối tượng được vay, thu nợ
và tiếp tục cho vay. Các thành viên của ban quản lý không được vay từ quỹ
này trong thời gian hai năm đầu. Họ làm việc này không có lương, không có
tiền bồi dưỡng. Trong vùng không có ngân hàng nông nghiệp cho nên tư
nhân cho vay với lãi xuất từ 3 – 5%/ tháng.
Vào tháng 3/1993, chuyên gia trên trở lại thăm xã và cấp thêm cho xã
đợt 2 là 3000 USD. Theo ý kiến của chuyên gia, xã đã giảm mức vay cho mỗi
hộ gia đình từ 600 USD xuống 200 - 400 USD. Tổng số đã có 20 hộ được vay
vốn.
Tỷ lệ trả nợ trong giai đoạn một là 100%, nhưng trong giai đoạn 2 vào
thoảng 85% với 3 trường hợp không trả được nợ.
Theo báo cáo của cán bộ dự án, số hộ không trả được nợ là do mất
mùa, gặp thiên tai và năng suất kém, họ đã hứa sẽ trả trong thời gian sớm
nhất.
Vào tháng 5/1994, một đoàn cán bộ của Tổ chức Tầm nhìn Thế giới đã
thăm xã và đánh giá kết quả dự án cũng như rút kinh nghiệm. Đoàn cán bộ đã
thăm vùng dự án và phỏng vấn một số đối tượng được vay vốn cùng những
người khác trong xã.
Dưới đây là một số phát hiện:
- Khi được yêu cầu xếp thứ tự về mặt hiệu quả các phần của dự án,
người dân trong xã cho rằng việc xây dựng đê và trường học là các đầu tư có
lợi nhất cho xã, sau đó mới là việc giúp trạm y tế và cho vay vốn.
- Đê đã giúp nông dân mỗi năm thu hoạch thêm một vụ.
- Trường học đã giúp học sinh chỉ phải học hai ca.
- Trạm y tế cũng đã giúp cho việc sinh đẻ tốt hơn.
- Tu sửa đường sá làm cho việc đi đến thị trấn để mua bán thuận tiện
hơn.
- Đối tượng được vay rộng rãi hơn so với chương trình EC (chỉ cho
người hồi hương vay).
- Người vay vốn được ban quản lý chọn. Có hiện tượng thiên vị do thân
quen dẫn đến có sự căng thẳng giữa người vay và ban quản lý.
- Một số người không rõ là tiền được vay hay là cho không, dường như
mọi người thiếu hiểu biết về dự án cho vay và các quy định cho vay.
Những thiếu sót đã nêu có thể là do:
1. Ban quản lý chưa mang tính chất đại diện.
2. Việc lựa chọn đối tượng hưởng lợi không được xác định theo một
tiêu chuẩn rõ ràng.
3. Không có hướng dẫn bằng văn bản rõ ràng về việc sử dụng quỹ, tỷ
lệ lãi và việc trả nợ.
4. Thiếu giám sát và kiểm tra thường xuyên của cán bộ dự án.
5. Thời gian trả nợ là quá dài (5 năm), ảnh hưởng đến việc quay vòng
vốn.
6. Thiếu các cán bộ nghiệp vụ kế toán, tài chính.
7. Không có sự đánh giá dự án giữa kỳ, nếu có thì chương trình có thể
đi đúng hướng hơn.
8. Không có những hợp đồng cụ thể khi cho vay.
9. Không có các phân tích tính khả thi và chi phí của việc nuôi tôm.
10. Trong điều kiện nông thôn, đôi khi việc tạo ra các nhóm đoàn kết
sản xuất để cho vay sẽ tốt hơn là cho từng cá nhân vay.
11. Mục tiêu của dự án không rõ ràng.
12. Cơ cấu quản lý dự án còn mang tính mệnh lệnh.
13. Không có phụ nữ trong số người được vay.
(Trích theo Henry Waller trong Tổ chức và hoạt động phi chính phủ
nước ngoài ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 1995)
E. Từ xích lô... đến dự án Maryknoll là một tổ chức nhân đạo phi chính phủ của Mỹ hiện đang hợp
tác với Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội Việt Nam trong việc triển khai
và thực hiện một số dự án nhân đạo giúp đỡ người nghèo tại một số tỉnh và
thành phố ở Việt Nam: Hà Nội, Hà Tây, Hà Nam, Lạng Sơn. Tổ chức này đã
giúp đồng bào nghèo ở khu kinh tế mới Đồng Mô, thị xã Sơn Tây vay vốn để
xóa đói giảm nghèo và phát triển sản xuất, trợ giúp cho các cháu nhỏ có hoàn
cảnh khó khăn tại huyện Thanh Trì có điều kiện để tiếp tục đi học v.v...
Nhưng có một dự án mà cách đặt vấn đề để lựa chọn chủ đề lại khá bất
ngờ và thú vị. Đó là dự án "Dạy nghề cho thanh niên và giúp phát triển hệ
thông V.A.C. của các hộ gia đình nông dân tại xã Thọ Nghiệp, huyện Xuân
Thủy, tỉnh Nam Hà".
Khi mới sang làm việc tại Việt Nam, do chưa có ô tô, xe máy hoặc bất
kỳ phương tiện riêng nào để đi lại trong thành phố Hà Nội, nên phương tiện
thông dụng nhất của các "ông Tây" là đi xích lô hoặc quốc bộ. Lâu lâu họ
nhận ra một điều là những người làm nghề đạp xích lô dường như đều từ các
tỉnh khác đến Hà Nội. Mà sao lắm xích lô thế! Cái đi ngang, cái đi dọc, nhiều
lúc hai ba cái song song nhau mà đi choán hết cả đường. Rồi thì xe nọ đụng
xe kia, nhiều khi ngồi trên xe mà hết cả hồn. Những người đạp xe trông thật
lam lũ. Công việc thì nặng nhọc, nhất là vào những ngày hè oi ả, dưới nắng
gắt trông họ còn vất vả hơn nhiều. Tìm hiểu thêm thì được biết rằng hầu hết
người đạp xích lô đến Hà Nội hành nghề là người của các tỉnh Hải Hưng,
Thái Bình, Thanh Hóa, Nam Hà v.v... Điều đặc biệt là phần lớn trong số họ đã
tới từ một xã của tỉnh Nam Hà, xã nông nghiệp độc canh cây lúa. Một nghề
mang tính truyền thống lâu đời của cánh đàn ông là lên Ha Nội đạp xích lô và
làm cửu vạn trong những ngày nông nhàn hoặc giáp hạt.
Maryknoll muốn giúp họ, nhưng bằng cách nào? Chẳng lẽ lại mở một
"Cyclo Project" - một dự án xích lô - tại Hà Nội? Không được! Như vậy, sẽ
không giải quyết triệt để được vấn đề. Từ đó Maryknoll nảy sinh ý tưởng: nên
chăng hãy đến tận nơi mà từ đó những người đạp xích lô ra đi để tìm kiếm
công ăn việc làm để tiến hành một dự án khả thi giúp họ có việc làm và tạo ra
thu nhập ngay trên quê hương họ, ngay trên mảnh đất của gia đình họ thay vì
phải xa gia đình, lang thang kiếm ăn và tạo nên sự quá tải ở các thành phố và
những trung tâm lớn. Đó là chưa kể việc họ bị tiêm nhiễm những điều xấu và
mang theo chúng về những miền quê vốn êm ả và trong sạch của họ. Hoặc
khác nữa, một dự án dạy nghề có thể cũng là một ý tưởng hay, vì một khi
trong số đàn ông đó vẫn còn người mơ đến những thành phố lớn, những
"miền đất hứa" thì ít nhất khi ra đi họ đã có một hành trang bảo đảm cho công
việc của họ đỡ vất vả hơn. Tiền kiếm được sẽ khá hơn, đó là tay nghề.
Vậy là sau khi trao đổi với Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội, sau
những cuộc viếng thăm, sau những cuộc khảo sát kỹ lưỡng, một dự án theo
những ý tưởng trên đã được mở ra và đi vào hoạt động.
Từ đó đến nay đã hơn một năm, giờ đây tại xã Thọ Nghiệp, quê hương
của những người đạp xích lô đã có một trung tâm dạy nghề cho thanh niên
với điều kiện cơ sở vật chất và trang bị hiện đại. Tại trung tâm này đã có hai
mươi mốt thợ may và mười bốn thợ mộc được đào tạo tốt và đã thành nghề.
Nhiều người trong số họ đã có cửa hàng riêng và bắt đầu có thu nhập. Một
xưởng may nhỏ với sự trợ giúp ban đầu của Maryknoll đã được thành lập và
hoạt động tốt, chuyên cắt may và bán quần áo trẻ em. Khoảng 50 hộ nông
dân được chọn và được tập huấn về kỹ thuật V.A.C. để họ có khả năng cải
tạo và phát triển vườn, ao, chuồng của gia đình họ. Đây sẽ là 50 mô hình
V.A.C. để rồi sẽ được nhân rộng ra toàn xã. Dọc các bờ kênh, mương, những
hàng vải thiều chạy dài và viền xanh những dải đất trơ trụi trước đây tạo ra
một cảnh quan đẹp mắt cho toàn xã. Vào vụ thu hoạch, vải thiều cũng đem lại
nguồn thu khá cho phúc lợi chung của nhân dân ở đây.
Do vậy, từ hình ảnh những chiếc xích lô hàng ngày cọt kẹt chạy trên
đường phố Hà Nội đã dẫn dắt chúng ta đến một ý tưởng hay cho một dự án
thiết thực. Việc phát triển nông thôn, xóa đói giảm nghèo, giải tỏa gánh nặng
cho những thành phố vốn đã đông đúc và khó kiếm công ăn việc làm đã góp
phần giải quyết những vấn đề xã hội phức tạp mà các thành phố lớn đang
phải hàng ngày đối mặt. Dự án tuy nhỏ nhưng ý nghĩa thì không nhỏ (Trích
theo Nguyễn Duy Phương - Cán bộ dự án của Maryknoll).
TÀI LIỆU THAM KHẢO Tiếng Việt
1. Trần Thị vân Anh, Lê Ngọc Hùng (2000), Phụ nữ giới và phát triển,
Nhà xuất bản Phụ nữ, Hà Nội.
2. Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (1996), Xóa đói giảm nghèo với
tăng trưởng kinh tế, Nhà xuất bản Lao động, Hà nội.
3. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn (1998), Phương pháp đánh
giá nông thôn có người tham gia trong hoạt động khuyến nông, khuyến lâm,
Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
4. Bộ Y tế (1998), Báo cáo phân tích chương trình hợp tác y tế Việt
Nam - Thụy Điển, 1994 - 1997, Hà Nội.
5. Chương trình hợp tác Y tế Việt Nam - Thụy Điển (1996), Tài liệu
hướng dẫn PRA, Vĩnh Phú.
6. Chương trình hợp tác y tế Việt Nam - Thụy Điển, (1998), Tài liệu
hướng dẫn PRA, Lào Cai.
7. Công ty ADUKI (1996), Vấn đề nghèo ở Việt Nam (tài liệu dịch), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Hữu Dũng, Trần Hữu Trung (Chủ biên) (1997), Về chính
sách giải quyết việc làm ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
9. Dự án quản lý bền vững tài nguyên vùng hạ lưu sông Mêkông trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk (2000), Kỹ thuật giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của
người dân áp dụng trên địa bàn xã, tỉnh Đắk Lắk.
10. Dự án Phát triển Lâm nghiệp Xã hội Sông Đà (2000), Báo cáo đánh
giá 1994 - 2000.
11. Dự án Phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà (1995), Tài liệu đào tạo
thực hành phương pháp PRA.
12. Emily A.Schultz, Robert H. Lavenda (2001), Nhân học - một quan
điểm về tình trạng nhân sinh (Phan Ngọc Chiến và Hồ Liên Biện dịch), Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (Chủ biên) (2002), Nghiên cứu con
người - đối tượng và những hướng chủ yếu, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
14. Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (1996), Sổ tay huấn luyện viên về kỹ
năng quản lý và phát triển cộng đồng, Tài liệu do Đại sứ quán Thụy Điển tại
Việt Nam tài trợ.
15. Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang (2000), Phát triển cộng đồng - Lý
thuyết và vận dụng, Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
16. Tương Lai (1998), Một số vấn đề dân số từ hướng tiếp cận xã hội
học, Nhà xuất bản Khoa học, Xã hội.
17. Hà Quế tâm (2002), Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số
nước ta hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà nội.
18. Phạm Xuân Nam (2001), Quản lý sự Phát triển xã hội trên nguyên
tắc tiến bộ và công bằng, Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
19. Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) (1998), Chính sách của ngân
hàng về dân tộc bản địa.
20. Nguyễn Hữu Nhân (2002), Báo cáo tư vấn về giới cho dự án phát
triển sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở Việt Nam, NEDCEN.
21, Nguyễn Thị Oanh (1995), Phát triển cộng đồng, Đại học Mở - Bán
công thành phố Hồ Chí Minh.
22. Quĩ nhi đồng Anh (1997), Dự án quản lý tài nguyên thiên nhiên, Hà
Nội.
23. Nguyễn Văn Thanh (Chủ biên) (1995), Tổ chức và hoạt động phi
chính phủ nước ngoài ở Việt Nam, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia.
24. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam,
Nhà xuất bản phụ nữ, Hà Nội.
25. Tổng cục Thống kê (2000), Kết quả điều tra dân số ngày 1/4/1999 .
26. Hà Thị Phương Tiến, Nguyên Hữu Nhân (1999), Báo cáo đánh giá
các hoạt động về giới trong chương trình hợp tác Y tế Việt Nam - Thụy Điển
giai đoạn 1994 - 1999, Bộ Y tế.
27. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn quốc gia (2001), Báo cáo
phát triển con người Việt Nam 2001 - Đổi mới sự nghiệp phát triển con người,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
28. Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường, Đại học Quốc gia
Hà Nội (dịch) (2000), Các phương pháp tham gia trong quản lý tài nguyên ven
biển dựa vào cộng đồng, Tập 1, 2 và 3, Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội.
Tiếng Anh
29. Foundation for Rural Education and Development (FRED) (1999),
Community Development: A Guidebook for Rural Leaders, London.
30. Henry Sanoff (2000), Community Participation Methods in Design
and Planning, John & Sons, 1st edition.
31. Michael Crowder, Paul Richards (1984), Rural Development,
Hutchingson Group publishing House.
32. Paula J. Dubeck; Karthyn Borman (1996), Women and Work,
Library of Congress Cataloging in - Publication Data.
33. UNDP (2000), Human Development Report, Hà Nội.
34. Vietnam Union for Scient and Technology Association - Center for
Human Resouces Development (2001), Participatory Monitoring and
Evaluation, Hanoi.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương 1. Cộng đồng và những vấn đề cơ bản về phát triển cộng đồng
1.1. Cộng đồng
1.2. Những vấn đề cơ bản về phát triển cộng đồng
Chương 2. Phát triển cộng đồng trong bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
2.1. Bối cảnh xã hội Việt Nam hiện nay
2.2. Nguyên tắc phát triển tiến bộ và công bằng
2.3. Những chỉ tiêu, chỉ số chủ yếu trong quản lý sự phát triển xã hội
2.4. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, giải quyết việc làm trong
phát triển cộng đồng
2.5. Xóa đói giảm nghèo trong phát triển cộng đồng
Chương 3. Sự hòa nhập xã hội
3.1. Vai trò và tầm quan trọng của phụ nữ trong sự hòa nhập vào các
dự án phát triển
3.2. Hòa nhập xã hội đối với đồng bào các dân tộc thiểu số trong các
hoạt động phát triển
3.3. Sự hòa nhập xã hội đối với những nhóm người dễ bị tổn thương
khác
Chương 4. Dự án phát triển cộng đồng
4.1. Khái niệm dự án. Dự án phát triển cộng đồng
4.2. Sự cần thiết của những dự án phát triển cộng đồng trong giai đoạn
phát triển hiện nay
4.3. Chu trình dự án phát triển cộng đồng
Chương 5. Phương pháp đánh giá nông thôn có người dân tham gia trong phát
triển cộng đồng
5.1. Giới thiệu chung
5.2. Định nghĩa PRA
5.3. Mục đích của PRA
5.4. Thời điểm thực hiện
5.5. Bộ công cụ PRA
5.6. Thực tế áp dụng PRA ở Việt Nam
Phụ lục. Tóm tắt một số dự án điển hình về Phát triển cộng đồng
A. Dự án phát triển sản phẩm hữu cơ/ sinh thái hỗ trợ người nghèo ở
Việt Nam
B. Dự án "Nâng cao thu nhập, bảo đảm an ninh lương thực, tăng khả
năng ra quyết định của hộ nông dân Đồng bằng Sông Hồng, thông qua
việc áp dụng ICM trên khoai tây"
C. Dự án phát triển lâm nghiệp xã hội Sông Đà
D. Một số ví dụ về dự án tăng thu nhập ở Việt Nam.
E. Từ xích lô đến dự án
Tài liệu tham khảo
Mục lục bảng và sơ đồ
Bảng 2.1. Chỉ số phát triển con người của một số nước khu vực Đông
Nam Á
Bảng 2.2. Số hộ và tỷ lệ hộ đói nghèo theo vùng
Bảng 2.3. Tỷ trọng đói nghèo phân theo 7 vùng sinh thái - kinh tế
Bảng 4.1. Tỷ lệ tăng trưởng GDP và các ngành kinh tế (%)
Sơ đồ 1.1. Tiến trình phát triển cộng đồng
Sơ đồ 2.1. Vòng luẩn quẩn của sự đói nghèo
Sơ đồ 4.1. Ý nghĩa của dự án
Sơ đồ 4.2. Vị trí của dự án phát triển cộng đồng
Sơ đồ 4.3. Xây dựng dự án phát triển cộng đồng
Sơ đồ 4.4. Hoạt động đánh giá dự án ở cộng đồng