75
SNV- Tchc phát trin Hà Lan Kho sát thtrường đối vi Các nông phm vùng cao có trin vng ca tnh Sơn La Măng, Mt ong, Bí ngô, Ln bn và Go SNV Marije Boomsma Tư vn phát trin thtrường Tháng 3, 2006

SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan

Khảo sát thị trường đối với Các nông phẩm vùng cao có triển vọng

của tỉnh Sơn La Măng, Mật ong, Bí ngô, Lợn bản và Gạo

SNV Marije Boomsma

Tư vấn phát triển thị trường Tháng 3, 2006

Page 2: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Tóm tắt SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm nghèo. Kể từ năm 2003, tổ chức SNV Việt Nam cung cấp các dịch vụ tư vấn về phương thức tiếp cận thị trường cho người nghèo tại Sơn La. Các cơ quan Sơn La đã xác định một số sản phẩm người nghèo sản xuất và bán. Đó là Măng, Lợn bản, Bí ngô và Gạo địa phương. Để chọn ra 2 sản phẩm từ 5 sản phẩm, chúng tôi đã tiến hành cuộc khảo sát thị trường này. Mục tiêu của cuộc khảo sát thị trường này là để đánh giá 5 sản phẩm về tiềm năng thị trường, tiềm năng tiếp thị và mở rộng sản xuất, và tiềm năng chế biến, và để đưa ra phân tích tiềm năng phát triển sản phẩm và thị trường chi tiết. Để đạt được điều này (phương pháp luận), chúng tôi đã tiến hành nhiều cuộc phỏng vấn với các đối tượng tham gia vào các chuỗi giá trị sản phẩm, bắt đầu từ phía sản xuất tại Sơn La và kết thúc ở phía bán lẻ và xuất khẩu và gần khu vực Hà Nội. Hơn nữa, chúng tôi cũng tham khảo các số liệu từ các nghiên cứu cũ và từ internet. Các số liệu được phân tích bởi ba công cụ: phân tích chuỗi giá trị, phân tích tính cạnh tranh (mô hình 5 lực lượng của Porter) và SWOT. Măng Có ít nhất 12 loại măng tại Sơn La. Tổng diện tích trồng măng năm 2002 là 37.651 Ha diên tích rừng tự nhiên và 41,1 Ha đất trang trại. Tính trên sản lượng 2 tấn/ha thì sản lượng măng tối đa ước tính khỏang 75.384 tấn. Một hai năm gần đây, còn có một giống măng nhập được đưa vào Sơn La (Bát Độ) và hiện tại có khoảng 2.500 Ha. Măng Bát Độ có sản lượng trung bình là 15 Tấn/Ha/ Dự tính tổng diện tích măng Bát Độ sẽ tăng lên 4.000 Ha vào năm 2010. Măng được trồng bởi các nhóm dân tộc thiểu số. Doanh thu trung bình từ măng là 8 triệu đồng / Ha. Sơ đồ chuỗi giá trị măng

Page 3: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Do buôn bán măng rừng tự nhiên là bất hợp pháp nên phần lớn măng được tiêu thụ trong tỉnh. Chỉ một phần nhỏ được vận chuyển đi các tỉnh khác: một số măng khô, măng bản địa để xuất khẩu (100 tấn) và măng Bát Độ. Măng là sản phẩm trồng tương đối dễ và rẻ. Tuy nhiên, đa số măng Sơn La đắng và do đó không dễ bán; đặc biệt là ngoài địa bàn tỉnh. Măng Sơn La được bán ở các chợ tại Hà Nội thì chỉ có loại măng Bương khô ít đắng hơn (ở các chợ bán đồ tươi) và măng Lay đóng gói bán sơ chế (trong siêu thị). Măng Bương khô tương đối rẻ nhưng được cho rằng không ngon bằng các lọai măng từ các tỉnh khác. Ngòai ra măng Bương và Lay Sơn La dùng cho chế biến cũng chịu cạnh tranh của măng Bương từ Hòa Bình. Hòa Bình gần Hà Nội hơn và do đó vận chuyển sản phẩm từ đó đi sẽ rẻ hơn. Về mặt sản xuất, măng còn chịu cạnh tranh của việc trồng măng cây bởi hiện tại việc này mang lại thu nhập cao hơn (8 triệu đồng/ha mỗi năm). Do vậy, măng có tiềm năng tăng doanh thu lên tới 25 triệu đồng.

Vận chuyển

Chế biến

Bán buôn/bán lẻ

người thu mua măng Lay

những nông dân thu hoạch măng bản địa từ rừng và vườn tại Sơn La

cơ sở Vạn Đạt (được thiết lập năm 2006 tại Sơn La)

Những người bán lẻ tại

Giai đoạn chế biến lần hai và phân phối (Tân Đông Á, Hà Nội. 580 tấn trong nước, 20 tấn xuất khẩu)

Lâm trường quốc doanh

Thị trường nước ngoài : Nhật Bản, Châu Âu (2005, 1680 Tấn)

Sơ chế tại Tân Đông Á, Hòa Bình (600 tấn trong đó có 100 là từ Sơn La)

Sản xuất

Người sản xuất măng Bát Độ (bắt đầu)

Vạn Đạt ,Hải Dương

Người bán lẻ tại thị trường các tỉnh

người sản xuất:vận chuyển / đóng gói

Đức (20 Tấn Buang)

Những người sản xuất khác

Những người tiêu thụ tại Son La

Page 4: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Nhu cầu trong tỉnh và trong nước đặc biệt đối với măng tươi và ở một mức độ ít hơn là măng khô đang tăng dần. Các cơ hội thị trường đặc biệt ẩn chứa trong nhu cầu các sản phẩm tiện dụng ngày càng tăng ở đồng bằng: măng tươi sơ chế đóng gói. Một cơ hội khác là (tái) bắt đầu chế biến măng tại thị xã Sơn La. Năng xuất chế biến măng đóng hộp hiện tại ở Sơn là ít nhất là 100 tấn măng mỗi tháng. Tuy nhiên thị trường măng giầm dấm lại khá bão hòa. Ngòai nhu cầu trong nước tăng, lượng măng Việt Nam xuất khẩu cũng tăng. Cả măng Bát Độ (tổng số 100.00 tấn) và (ít hơn một chút) các giống măng địa phương nhu Bương và Lay đều có tiềm năng xuất khẩu tăng. Tuy nhiên ta cần phải theo dõi chặt chẽ sự cạnh tranh mạnh mẽ từ phía Trung Quốc bởi các doanh nghiệp của Trung Quốc có thể sản xuất hiệu quả hơn. Tóm lại, điểm mạnh và điểm yếu của măng Sơn La là: ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Sơn La có nhiều loại măng - Dễ trồng - Chi phí sản xuất nhỏ - Nhu cầu đối với loại măng này cao - Nhiều khả năng chế biến: khô, sơ chế và đóng gói

- Lượng cung cấp ít - Người nông dân không chăm sóc cây trồng - Buôn bán măng là bất hợp pháp - Đối vơi ngừời miền xuôi thì măng Sơn La được cho là qua đắng - Địa lý: Chi phí vận chuyển cao - Thị trường măng dầm dấm bão hoà

CƠ HỘI THÁCH THỨC - Nhu cầu trong nước và cả ở nước ngoài đều tăng - Chế biến tại các tỉnh để giảm chi phí vận chuyển và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm - Trồng nhiều các giống mới

- Lợi thế thu nhập trong việc bán cây măng - Cạnh tranh với măng các tỉnh - Cạnh tranh với măng Trung Quốc tại các thị trường xuất khẩu - Khí hậu (tốt cho việc trồng măng Bát Độ)

Mật ong Có nhiều sản phẩm mật ong được sản xuất tại Sơn La. Kể từ năm 2001, con số sản lượng mật ong được đăng ký chính thức giao động quanh 500 tấn. Bởi con số này chỉ được tính dựa trên một phần tổng số người nuôi ong nên con số thực tế có thể cao hơn (600 tấn). Đa số người nuôi ong là người Kinh (60%) và nhóm dân tộc đông thứ hai là người Thái (30%). Thu nhập hộ gia đình trung bình từ nghề nuôi ong là 18 triệu đồng một năm. Mật ong Sơn La và các sản phẩm liên quan được sản xuất để vừa tự dùng vừa bán. Đa số người bán buôn, bán lẻ, các công ty chế biến và xuất khẩu trong tỉnh mua trực tiếp từ nông dân. Người bán lẻ địa phương bán sản phẩm cho người qua đường và những người buôn bán nhỏ ở đồng bằng (5%). Các công ty chế biến dùng mật ong Sơn La để sản xuất mật ong thực phẩm, phấn hoa, rượu và dược phẩm (80%). Các công ty xuất khẩu Việt Nam bán mật ong lỏng cho ngành dược mỹ phẩm. Con số xuất khẩu của Việt Nam ước tính xấp xỉ 16.000 tấn, 144 tấn xuất xứ từ Sơn La.

Page 5: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Chuỗi giá trị mật ong Tiêu thụ mật ong ở Việt Nam tương đối thấp, 100 gram trên một đầu người. Do đó, tổng cầu trong nước (tạm cho dân số Việt Nam là 84 triệu người) ước tính tối đa khỏang 8,400 tấn/năm. Thị trường xuất khẩu tương đối cạnh tranh bởi có nhiều nước sản xuất mật ong. Giá mật ong bán tại trang trại cho các công ty xuất khẩu do đó thấp hơn giá bán tại trang tranh cho lái buôn để bán ra thị trường trong nước, giá là 18.000 đồng/kg so với 20-25.000 đồng/kg. Mật ong Tây Bắc có hương vị thành phần và cơ cấu đặc biệt bởi được sản xuất từ hoa su su, vải, chó đẻ, nhãn và hoa rừng. Sản xuất mật ong thông thường tương đối dễ. Tuy nhiên, sản xuất mật với mức thủy phần đúng mức khó hơn. Mật long nhãn được cho là có thủy phần cao và có ảnh hưởng xấu tới thời gian sử dụng của sản phẩm. Tuy nhiên, năng xuất của ong được nuôi chủ yếu ở miền bắc thấp hơn so với ong Ý nhập được nuôi đặc biệt là ở miền Nam (tối đa là 15kg so với tối đa 35 kg mỗi đàn mỗi năm). Hơn nữa việc tiếp thị mật ong Sơn La kém phát triển. Rào cản tham gia thị trường tương đối cao bởi người nuôi ong cần phải được đào tạo về các kỹ thuật nuôi ong và cần vốn để trang trải chi phí (0,5 triệu đồng một tổ ong). Ngòai ra cũng cần phải có mạng lưới tốt để có thể di chuyển đàn ong tới nơi

Sản xuất

Vận chuyển

Chế biến

Người nuôi ong Sơn La (xấp xỉ 600 tấn)

Các bác sĩ thú y

Những ngưòi bán lẻ tại đồng bằng (90 tấn)

Những người kinh doanh (ước tính 15%=90tấn)

Các Công ty chế biến/nhà xuất khẩu (ước tính 480 tấn tương đương 80%)

Các cửa hàng bán lẻ Sơn la (xấp xỉ 60 tấn)

Các cửa hàng bánh kẹo

Bán buôn/Bán lẻ

Khách hàng đồng bằng (72% hay 426 tấn mật ong của Sơn La)

Khách hàng Sơn La (xấp xỉ 30 tấn)

Những người bán lẻ: các siêu thị (336 tấn trong tổng sản lượng của Sơn La)

Các thị trường nước ngoài: Cuba, Hàn Quốc, Châu Âu v.v..(ước tính khoảng 24% hay 144 tấn sản lượng của Sơn La)

Tiêu thụ

Nguồn cung cấp sản phẩm đầu vào

Page 6: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

có hoa. Để cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần phải có vốn để mua thiết bị chế biến (để đo thủy phần). Tóm lại, điểm mạnh và điểm yếu của ngành mật ong như sau: NHỮNG ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU Mùi vị đặc biệt do hoa nhãn và các loại hoa khác Tồn tại lâu trong văn hóa Giá cao và là nguồn thu nhập tốt Cơ sở hạ tầng (hiệp hội, thị trường) Các thị trường đa dạng (trong nước và nước ngoài)

Chi phí đầu tư cao Chi phí vận nuôi cao (đường) Hầu như không có kỹ thuật tiên tiến Sản lượng thấp Không có chiến lược tiếp thị Hầu như khâu đóng gói không phát triển Không có nhà đầu tư/các nguồn đầu tư

CƠ HỘI ĐE DỌA Giống ong Italia: Chất lượng cao hơn Thiết bị kỹ thuật để đo thủy phần

Thị trường nước ngoài đòi hỏi chất lượng cao Giá đường tăng và giá xuất khẩu thấp

Lợn bản Lợn bản, cũng còn được gọi là lợn của người Mông, chủ yếu là do nông dân người Mông nuôi vì lý do tự cung tự cấp. Năm 2004, tổng số lợn tỉnh Sơn La là 452.875 con. Tuy nhiên không biết số lợn bản là bao nhiêu. Chuỗi giá trị lợn bản

Vận chuyển

Chế biến

Bán sỉ/ bán lẻ

Tiêu thụ

Người thu gom

Nông dân nuôi lọn bản

Bán lẻ tại Son La (3650-5475 con)

Người tiêu dùng ở Sơn La

Nhà hàng và quán Bia Hơi ở các tỉnh khác (25 ở Hà Nội và Hà Tây

Các nhà hàng ở Son La và các tỉnh (khỏang 577-1733 con)

Lò mổ

Người tiêu dùng ở các tỉnh khác

1 người chế biến thịt xây (57-171 con)

Sản xuất

Page 7: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Thông thường lợn bản chỉ được bán trong trường hợp người nông dân cần tiền. Lợn bản thường được thu gom bởi trung gian và được đưa đến lò mổ hoặc được người nuôi bán trực tiếp cho các lò mổ. Một số lợn cũng được bán trực tiếp cho các khách hàng. Các lò mổ bán thịt lợn trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người bánlẻ. Người bán lẻ trong các chợ ở tỉnh bán cho các nhà hàng và người tiêu dùng (109.500 kg thịt lợn tươi mỗi năm, tương đương 3.650 con lợn bản trưởng thành (60 Kg) hoặc 5.475 lợn bản con (20 Kg). Các nhà hàng ở thị xã Sơn La tiêu thụ xấp xỉ 13.000 kg thịt lợn tươi mỗi năm (433 - 1.300 kg thịt lợn tươi mỗi năm (433- 1.300 con). Giả sử đây là 75% tổng số lượng thịt lợn bản tiêu thụ ở tất cả các nhà hàng tại tỉnh Sơn La thì tổng lượng tiêu thụ sẽ vào khỏang 577 và 1.733 con lợn mỗi năm. Một số ngươì bán lẻ/chế biến của Sơn La chế biến thịt lợn bản bằng cách xấy khô. Một vài người thu mua ngoài tỉnh đi thu mua lợn bản về bán cho các nhà hàng đặc sản ở miền xuôi (khỏang 25 nhà hàng ở Hà Nội và Hà Tây). Thịt lợn khô cũng được bán sang các tỉnh khác (1.200kg thịt lợn khô hay 57-171 con mỗi năm). Lợn bản được bán tại chuồng với giá xấp xỉ 25.000 đồng/kg đối với lợn khỏang 20kg và người buôn ở Mộc Châu và Hà Nội bán với giá 40.000-50.000 đồng. Thị trường lợn bản là thị trường nhỏ bởi sản phẩm đắt và chỉ được tiêu thụ trong các dịp đặc biệt. Nhu cầu đặc sản tại tỉnh và ở Hà Nội tăng (chầm chậm). Bởi lượng cung lợn bản giảm và nhiều nông dân thôi không nuôi lợn bản nữa, những nông dân vẫn còn nuôi lợn bản có nhiều khả năng bán hàng hơn. Lợn bản của Sơn La là sản phẩm sạch có mùi vị và chất đặc biệt. Giá và lãi cao, kể cả thịt lợn nạc và mỡ. Nuôi lợn bản không tốn sức lao động và cũng không đòi hỏi chi phí sản xuất hay đầu tư cao. Ngòai ra lợn bản còn ít nhiễm bệnh tật hơn các giống lợn khác. Tuy nhiên lợn bản lớn chậm và nông dân thích nuôi lợn ngoại hơn bởi có lãi hơn (6,9 triệu đồng so với 0.86 triệu đồng một con lợn nái). Ở thị trường Hà Nội, lợn bản phải cạnh tranh với lợn bản của Hòa Bình bởi lợn bản của Sơn La giá đắt hơn. Việc nuôi lợn bản nạc phải cạnh tranh với nuôi lợn bản mỡ bởi lợn bản nhiều tuổi hơn được bán với giá cao hơn (780.000 đồng) so với lợn bản nhỏ (500.000 đồng). Tuy nhiên, thịt lợn bản nạc tính về lâu về dài thì có lãi hơn bởi một con lợn bản 60kg phải nuôi mất (30 tháng) gấp ba lần thời gian nuôi một con lợn bản 20 kg. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của lợn bản bé là: ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Sản phẩm sạch -Mùi vị đặc biệt -Ít bị lây nhiễm các bệnh dịch hơn các giống lợn khác

- Nông dân thiếu kiến thức về thị trường và thiếu quan tâm đến việc chăn nuôi để kinh doanh - Số lượng con đẻ ra ít

Page 8: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

- Giá mỗi kilogram thịt lợn nạc cao - Đầu vào sản xuất tương đối ít

-Chậm lớn -Ít/không có hỗ trợ tư vấn

CƠ HỘI ĐE DỌA - Nhu cầu đối với các đặc sản tăng lên - Đối thủ chuyển sang giống lợn ngoại -Các thương hiệu đối với lợn bản 100%

-Lợi thế thu nhập từ lợn bản già - Lợi thế thu nhập từ lợn ngoại

Bí ngô Ước tính mỗi năm sản xuất được 3.577 tấn bí tẻ (đỏ). Hầu hết bỉ đỏ được trồng ở huyện Mai Sơn đặc biệt là người H’Mong. Tuy nhiên, chủ yếu người bán bỉ ở Sơn La lại là người Thái (80%). Điều này có thể là do người Mông (chưa) không tham gia rộng rãi vào việc canh tác vì mục đích thương mại. Giá bán bí tại ruộng nằm giữa 1.000 đồng/kg sau khi thu hoạch và 1.600 đồng/kg trong thời gian tết. Thu nhập từ bí ngô chiếm khỏang 10-30% tổng thu nhập hộ gia đình, tương đương với 280.000VND-840.000VND per year. Bí ngô trước tiên được dùng để nuôi lợn. Lượng bí ngô trồng thừa ở Sơn La chủ yếu được bán (thông qua 10 người thu gom) cho một người buôn ở Cò Nòi (1.500 tấn). Người buôn này bán bí cho 3 người chế biến ở tỉnh Hải Dương. Những người chế biến ở Hải Dương này xuất khẩu bí sang Hàn Quốc (5.000-10.000 tấn một năm). Hạt bí, sống hoặc chín, được bán ở các chợ địa phương. Chuỗi giá trị bí ngô

Vân chuyển

Chế biến

Bán xỉ/ lẻ

Người mua bán ở Cò Nòi (1.500 tấn/năm)

Người trồng ngô Sơn La (xx. 3500 tấn)

Người tiêu dùng Việt Nam (hạt) Người chế biến/xuất

khẩu Hải Dương (tổng 5.000-10.000 tấn/năm)

Người chế biến Hải Dương (tổng số 4.000 tấn/năm)

Sản xuất

Thị trường Hàn Quốc (5.000-10.000 tấn/năm)

Người tiêu dùng

Người tiêu dùng Sơn La

Người bán lẻ ở chợ Son La : lá, quả, hạt

Những người buôn khác

Bí các tỉnh khác

Page 9: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Có nhiều cơ hội tốt cho thị trường bí ngô để tăng trưởng. Trước tiên, xuất khẩu sang Hàn Quốc có tiềm năng tăng trưởng. Tới nay lượng xuất khẩu tăng 20% một năm. Hiện tại năng xuất chế biến dư thừa là 2.00 tấn một năm. Hơn nữa khi xấy bí ở Cò Nòi hoặc ở tại làng sẽ thu được thêm nhiều giá trị gia tăng hơn. Một cơ hội khác có thể là chế biến bí cho thị trường bánh kẹo trong nước. Một nhà máy ở Hưng Yên dự kiến sẽ chế biến 30 tấn bí tươi thành 20 tấn bánh vào năm 2006. Bí ngô là sản phẩm dễ trồng. Hầu như không cần đầu vào nào. Không cần thêm đất bởi bí có thể được trồng kèm với ngô. Tuy nhiên, việc trồng bí ngô hiện nay bị hạn chế bởi đó chỉ là hoa màu và có ít nhân công để thu hoạch và bán bí. Bí ngô Sơn La nhỏ nhưng lại có mùi vị ngon hơn bí đồng bằng. Hơn nữa, bí Sơn La có thể dự trữ trong một thời gian lâu hơn các giống bí khác. Bí Sơn La có lợi thế khác là mùa vụ. Đây là loại bí duy nhất ở Việt Nam được thu hoạch vào mùa thu. Một đặc tính nhỏ khác của bí ngô Sơn La là giá cả: trong khi tất cả các loại bí được mua với giá 700-800 đồng/kg, giá bí ngô Sơn La ở Hải Dương khỏang giữa 1.200 và 1.300 đồng/kg. Tuy nhiên điều này dường như không ảnh hưởng xấu tới nhu cầu. Một bất lợi so sánh của bí ngô so với các sản phẩm khác là số người mua hạn chế. Điều này ảnh hưởng tới khả năng thương lượng của người trồng bí. Ngòai ra thông thường phụ thuộc vào một số nhỏ người mua sẽ rất mạo hiểm. Trên thị trường thế giới bí Sơn La bị bí New Zealand có kích thước và mùi vị tốt hơn cạnh tranh. New Zealand cũng có hiệp ước thương mại hỗ trợ việc buôn bán bí với Hàn Quốc. Ngòai ra bí ngô Trung Quốc cũng cạnh tranh vơi bí ngô Việt Nam về giá cả. Tuy nhiên, bí ngô Việt Nam lại hơn bí ngô Trung Quốc ở mùi vị. Rào cản tham gia và rút lui khỏi thị trường trồng bí là nhỏ. Rào cản thị trường chế biến bí lại tương đối cao bởi cần phải đầu tư vào thiết bị chế biến. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của bí ngô Sơn La là: ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Dễ trồng - Mùi vị đặc biệt - Có tiếng - Các sản phẩm phụ: hạt, lá - Đầu vào cho sản xuất nhỏ - Thị trường và sản phẩm đa dạng - Mùa thu hoạch - Thời gian lưu trữ (dài)

- Thu hoạch dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu - Lượng cung cấp nhỏ - Vụ màu: không được ưu tiên - Thiếu lao động (chế biến) - Ít lợi thế cạnh tranh về hạt: hạt nhỏ hơn các giống bí ngô khác - Phụ thuộc vào một lái buôn

Page 10: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

- Giá cao CƠ HỘI THÁCH THỨC - Nhu cầu tại thị trường xuất khẩu (Hàn Quốc) vẫn tăng - Chế biến tại Sơn La: sấy, lưu kho - Quá trình chế biến - Các thị trường mới: bí ngô sấy giòn

- Cạnh tranh với bí ngô Trung Quốc - Cạnh tranh với bí ngô New Zealand

Gạo Vào năm 2004, tổng sản lượng gạo tại tỉnh Sơn La là 133.946 tấn. Sản lượng trên đầu người thấp hơn mức tiêu thụ trung bình trên đầu người mỗi năm là 160kg. Việc sản xuất các giống gạo địa phương đang giảm dần bởi năng xuất và doanh thu thấp (3 triệu đồng/ha từ các giống gạo địa phương so với 18 triệu đồng/ha so với các giống cải tiến). Gạo chủ yếu được trồng để tự cung tự cấp. Gạo được bán (tối đa là 5.000 tấn một năm) được thu gom bởi người thu gom ở các làng. Những người thu gom này bán cho các người buôn bán nhỏ ở thị trấn và người này sau đó bán cho những người bán lẻ, nhà hàng và du khách tới Sơn La. Người bán lẻ bán các giống gạo địa phương chủ yếu cho các nhà hàng ở Sơn La xấp xỉ 500kg gạo mỗi tuần. Số còn lại được bán cho người tiêu dùng có thu nhập cao và du khách tới thăm tỉnh. Ngoại trừ một nhà hàng ở Hà Tây, không tìm thấy gạo Sơn La ngòai biên giới tỉnh. Chuỗi giá trị gạo Gạo Sơn La là một loại đặc sản. Bởi thị trường đặc sản tăng do thu nhập cao hơn, sản phẩm này, đặc biệt là gạo nếp Sơn La, có nhiều tiềm năng tăng trưởng. So với

Vận chuyển

Chế biến

Bán xỉ / lẻ

Người thu gom ở làng

Nông dân trồng để ăn

Sản xuất

Bán lẻ/chế biến ở Sơn La (tối đa 5.000 tấn gạo Sơn La)

Người tiêu dùng/ Du khách tới Sơn La

Các nhà hàng ở Sơn La (26 tấn một năm)

Người tiêu dùng

Page 11: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

gạo từ các vùng khác, gạo Sơn La được cho là dẻo hơn và vị ngon hơn. Đây cũng là lý do tại sao gạo Sơn La lại được bán với giá cao hơn gạo Điện Biên tại thị xã Sơn la: 9.000 và 8.000 đồng/kg. Tuy nhiên, gạo tẻ chịu sự cạnh tranh của gạo Điện Biên. Điều này rất khó bởi gạo Điện Biên có thị phần lớn hơn, mềm hơn và ngon hơn. Gạo tẻ Điện Biên đắt hơn gạo tẻ Sơn La, 7.000 đồng so với 4.000 đồng/kg giá bán lẻ. Hạn chế chủ yếu đối với gạp địa phương là lượng cung cấp. Năng xuất thấp và độ màu mỡ của đất giảm dần. Hơn nữa, đất canh tác lại thiếu và hầu hết các giống gạo địa phương chỉ trồng ở các nơi đặc biệt.Bởi các sản phẩm khác có lãi hơn gạo địa phương, nông dân thôi không trồng sản phẩm này nữa. Gạo Sơn La cũng thiếu hoạt động marketing: thương hiệu, khuyến mại, tổ chức việc bán hàng v.v. Rào cản tham gia bắt đầu sản xuất các giống gạo địa phương cao do thiếu đất canh tác ở Sơn La. Mặt khác rào cản rút lui lại thấp bởi không cần phải đầu tư lớn để bắt đầu trồng lúa và nông dân có thể dễ dàng chuyển sang các cây trồng khác mà không mất tiền. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức của gạo là: ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Đặc sản (đặc biệt gạo nếp) - Chất lượng tốt: gạo nếp - Có nhu cầu đối với các giống gạo vùng cao

- Năng suất thấp - Thiếu đất trồng (phù hợp) - Lợi nhuận thấp - Không có sức hấp dẫn thị trường ngòai tỉnh Sơn La - Gạo tẻ không dẻo bằng gạo Điện Biên - Thị trường gạo nếp hạn chế

CƠ HỘI THÁCH THỨC - Nhu cầu đối với các đặc sản ngày càng tăng - Thiếu nguồn cung cấp - Thương hiệu - Kỹ thuật được cải tiến

- Cạnh tranh với gạo Điện Biên - Cạnh tranh từ các sản phẩm khác (về mặt sản xuất)

Phân tích so sánh các sản phẩm Năm sản phẩm đã được đánh giá dựa trên tiêu chí Tiềm năng thị trường, Ảnh hưởng (đối với xóa đói giảm nghèo) và Năng lực sản xuất. Phân tích so sánh TIỀM NĂNG THỊ

TRƯỜNG ẢNH HƯỞNG TIỀM NĂNG ĐỐI VỚI XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

TIỀM NĂNG SẢN XUẤT

TỔNG

MĂNG 4 4 3 11 MẬT 2 2 2 6 BÍ NGÔ 4 4 3 11 LỢN BẢN 4 4 2 10 GẠO ĐỊA PHƯƠNG 3 3 2 8

Page 12: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Điểm số: 1 là không có, 2 là ít, 3 là trung bình, 4 là tốt và 5 là xuất sắc

Măng có điểm cao nhất, sau đó là bí ngô và lợn bản. Măng không đắng có thị trường ngòai tỉnh Sơn La tốt. Đặc biệt có nhu cầu ngày càng lớn đối với măng tươi và bán sơ chế cho cả thị trường trong nước và quốc tế. Việc trồng măng có tiềm năng gây ảnh hưởng tích cực tới nghèo đói bởi đặc biệt các hộ nghèo và trung bình có quyền sử dụng rừng. Thu nhập có thể lên tới 25 triệu đồng/ha. Việc trồng một số giống măng địa phương có thể dễ dàng thâm canh bằng cách lấy cây giống từ rừng và trồng trong vườn. Các giống nhập cần tập trung nhiều vốn hơn các giống đại phương nhưng vẫn thấp hơn so với các nguồn thu nhập tiềm năng khác. Hơn nữa, sản phẩm này cũng có nhiều cơ hội chế biến: xấy, đóng gói, bảo quản v.v. Bí ngô Sơn LA có tiềm năng thị trường tốt. Nó có lợi thế cạnh tranh nhờ mùi vị của mình. Cả thị trường xuất khẩu (Hàn Quốc) và thị trường trong nước (chế biến bánh) dự tính sẽ tăng trưởng trong tương lai gần. Tuy nhiên, tiềm năng giảm nghèo lại chỉ ở mức trung bình. Mặc dầu nhiều nông dân nghèo trồng bí, thu nhập trugn bình hiện tại tương đối thấp và chưa chắc sẽ tăng nhiều trong tương lai. Mặt khác bí ngô có tiềm năng sản xuất tốt về mặt diện tích đất có sẵn và cần ít đầu tư để mở rộng sản xuất. Nhân tố hạn chế sản xuất là thiếu lao động. Thị trường trong nước đối với lợn bản đang tăng lên dần dần và lợn bản có tiềm năng tăng trưởng ở lĩnh vực ăn uống nhà hàng và ở các kênh thị trường mới như sản phẩm xấy và đóng gói cho các siêu thị. Doanh thu từ lợn bản tương đối thấp nhưng mặt khác vì lợn bản chủ yếu là do nông dân nghèo nuôi trong đó nhiều người là người H’Mong nên cải thiện tình hình sản xuất lợn bản sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với nghèo đói. Do vậy, lợn bản có tiềm năng giảm nghèo ở mức trung bình. Lợn bản có tiềm năng sản xuất hạn chế bởi cần vốn để tăng cường sản xuất và cũng bởi nhiều nông dân có vẻ như không quan tâm đến việc nuôi lợn bản để bán. Gạo là một sản phẩm thị trường nhỏ có tiềm năng tăng trưởng hạn chế. Ảnh hưởng đối với nghèo đói là trung bình. Mặc dầu nhiều người nghèo tham gia sản xuất lúa gạo và có thể được hỗ trợ của dự án (phạm vi xa hơn), thu nhập tính theo héc-ta tương đối thấp và khả năng tăng năng xuất dường như ít. Các cơ hội sản xuất do đó thấp bởi có ít đất canh tác lúa, thiếu tài chính và thiếu lao động. Mật ong có tiềm năng tăng trưởng hạn chế tại thị trường trong nước. Thị trường quốc tế có nhu cầu cao hơn nhưng cạnh tranh cao và đòi hỏi tiêu chuấn chất lượng cao. Mật đem lại thu nhập trung bình cao. Tuy nhiên, lại cần chi phí đầu tư và chi phí vận hành lớn và do đó thị trường sản phẩm này rất khó để người nghèo tham gia.

Page 13: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Đề xuất Đề nghị phân tích thêm ba chuỗi giá trị: măng, bí ngô và lợn bản. Các mặt cần tập trung đối với măng là:

• Doanh thu và chi phí (chi phí cơ hội) bán măng so với các nguồn thu nhập khác;

• Tính khả thi của việc trồng măng tại vườn, cả về mặt kỹ thuật và quy hoạch đất đai;

• Các kỹ thuật chăm sóc cần thiết để trồng măng; • Các mối liên hệ thị trường giữa người nông dân và người chế biến/xuất

khẩu ở đồng bằng về thông tin thị trường, vận chuyển v.v. • (về lâu dài khi đã có đủ lượng cung cấp) Sơ chế măng tại tỉnh.

Chuỗi giá trị bí ngô cần phân tích thêm về:

• Doanh thu và chi phí (chi phí cơ hội) của việc trồng/bán bí ngô so với các nguồn thu nhập khác;

• Tính khả thi của các hoạt động chế biến (xấy khô) tại làng/người nông dân và ở cấp tỉnh, bao gồm vốn đầu tư cần thiết và tiếp cận tín dụng;

• Tiềm năng của thị trường trong nước: chế biến thực phẩm; • Các cách thức có thể xây dựng mối liên hệ giữa người nông dân, người

buôn bán và người sản xuất ở tỉnh (các thị trường đã có và thị trường mới). Cuối cùng, để nâng cao chuỗi giá trị lợn bản, cần phải chú ý đến các mảng sau:

• Doanh thu và chi phí (chi phí cơ hội) của việc bán lợn bản so với các nguồn thu nhập khác bao gồm từ lợn bản mỡ;

• Tính khả thi của việc sản xuất với mục đích thương mại/có tổ chức ở cấp làng: bao gồm nghiên cứu khả thi kỹ thuật, nghiên cứu khả thi tài chính, mức độ sẵn sàng và các dịch vụ hiện có (dịch vụ thú y);

• Tính khả thị của việc liên kết người nông dân với người buôn bán/chế biến ở đồng bằng;

• Khả năng đa dạng hóa các sản phẩm lợn bản của Sơn La, ví dụ chế biến thịt lợn bản xấy cùng với các nhà chế biến hiện có, thịt lợn xấy với thương hiệu của Sơn La v.v

Page 14: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Nội dung Từ viết tắt 1. Giới thiệu 1.2. Mục tiêu 1.3. Phương pháp luận 1.4. Phân tích chuỗi giá trị, sức cạnh tranh và SWOT 1.5. Cấu trúc Báo cáo 2. Bối cảnh kinh tế 3. Ngành măng 3.1. Giới thiệu 3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị 3.3. Sản xuất 3.4. Quá trình chế biến và thị trường 3.5. Cạnh tranh 3.6. SWOT

4. Ngành mật ong 4.1. Giới thiệu 4.2. Sơ đồ chuỗi giá trị 4.3. Sản xuất 4.4. Quá trình chế biến và thị trường 4.5. Cạnh tranh 4.6. SWOT 5. Ngành lợn bản 5.1. Giới thiệu 5.2. Sơ đồ chuỗi giá trị 5.3. Sản xuất 5.4. Quá trình chế biến và thị trường 5.5. Cạnh tranh 5.6. SWOT 6. Ngành bí ngô 6.1. Giới thiệu 6.2. Sơ đồ chuỗi giá trị 6.3. Sản xuất 6.4. Quá trình chế biến và thị trường 6.5. Cạnh tranh 6.6. SWOT 7. Sản phẩm gạo địa phương 7.1. Giới thiệu 7.2. Sơ đồ chuỗi giá trị 7.3. Sản xuất 7.4. Quá trình chế biến và thị trường 7.5. Cạnh tranh 7.6. SWOT

Page 15: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

8. Phân tích so sánh các ngành 8.1. Phân tích 8.2. Kết luận và kiến nghị

Page 16: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Từ viết tắt ADB Ngân hàng Phát triển Châu Á AEC Trung tâm Khuyến nông DoTT Sở Thương mại và Du lịch EU Liên hiệp Châu Âu FAO Tổ chức Nông Lương Liên hiệp quốc GDP Tổng Sản phẩm Quốc nội GEF-UNDP Chương trình Hỗ trợ Môi trường Toàn

cầu – Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc

Ha Héc ta kg Ki-lô-gram MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông

thôn NA Không có NTFP Sản phẩm lâm sản ngoài gỗ OVN Công ty Ong Việt Nam SNV Tổ chức Phát triển Hà Lan SOE Doanh nghiệp nhà nước SWOT Những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và

thách thức (công cụ phân tích) Tet Tễt âm lịch của Việt Nam US Mỹ VINAPI Công ty Ong Trung ương VNA Thông tấn xã Việt Nam đồng Việt Nam đồng

Page 17: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

1. Giới thiệu SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm nghèo. Các lĩnh vực hoạt động chính của SNV tại Việt Nam là Du lịch Bền vững vì Người nghèo, Khí sinh học và Năng lượng Tái sinh, Quản lý Lâm nghiệp Phối hợp, Quản lý tại Địa phương và Tiếp cận Thị trường cho Người nghèo. Kể từ năm 2003, tổ chức SNV Việt Nam cung cấp các dịch vụ tư vấn về phương thức tiếp cận thị trường cho người nghèo tới các khách hàng của mình tại 3 tỉnh Tây Bắc. Mục tiêu của chương trình là góp phần xóa đói giảm nghèo bằng cách tạo cho những người nông dân nghèo vùng cao có những cơ hội kinh tế và việc làm. Phương thức tiếp cận sau đây nhằm tăng cường năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ địa phương và để phát triển các chuỗi giá trị cho các sản phẩm vùng cao có triển vọng. Trong tập hợp nghiên cứu thị trường của các xã nghèo do đội tư vấn SNV thực hiện theo yêu cầu của AEC và DoTT tỉnh Sơn La, mốt số sản phẩm những người nghèo sản xuất và bán trên thị trường đã được xác định. Dựa trên một loạt tiêu chí đã được xác định trước (xem phần 1.3), các cơ quan của tỉnh Sơn La đã chọn ra 5 sản phẩm có tiềm năng nhất:

• Các giống gạo địa phương • Măng • Mật ong • Bí ngô • Lợn bản

Để hiểu đầy đủ tiềm năng thị trường của các sản phẩm này, một cuộc khảo sát thị trường đã được yêu cầu thực hiện. Báo cáo này là kết quả từ cuộc khảo sát thị trường. Phải nói rằng, việc thu thập dữ liệu tại Việt Nam còn kém phát triển, chính vì vậy nguồn cơ sở dữ liệu được sử dụng trong Báo cáo này có thể khác so với tình hình thực tế. Dữ liệu định tính cũng dựa trên quan điểm của người dân nhiều hơn số liệu thực tế được sử dụng. Cuối cùng, do 5 sản phẩm phải được phân tích trong một khoảng thời gian tương đối ngắn cho nên dữ liệu vẫn chưa được hoàn tất. Mặc dầu vậy, kết quả nghiên cứu vẫn đưa ra được ấn tưọng ban đầu về thị trường hiện tại và tiềm năng của các sản phẩm này và do đó đưa ra được những kết luận, dầu có thể chưa phải là kết luận cuối cùng. Sau khi lựa chọn một hoặc hai sản phẩm trên cơ sở cuộc khảo sát thị trường này, sẽ tiến hành phân tích ký hơn về chuỗi giá trị của sản phẩm đó như điểm xuất phát cho việc phát triển các chuỗi này.

Page 18: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

1.2. Các mục tiêu Các mục tiêu của cuộc khảo sát thị trường: - Xác định tiềm năng thị trường về các sản phẩm vùng cao được chọn dưới các dạng khác nhau đối với cả thị trường địa phương và trong nước và cả thị trường quốc tế nếu có thể. - Xác định tiềm năng mở rộng sản xuất và bán ra thị trường đối với vùng cao hoặc những người nông dân nghèo (bao gồm chi phí, lợi nhuận hoặc đầu tư tính theo đầu người) - Xác định tiềm năng chế biến tại tỉnh Sơn La (giá trị gia tăng) - cả về công nghệ lẫn tính khả thi về kinh tế (đầu tư tính theo đầu người/chi phí-lợi nhuận). - Đưa ra tiềm năng phát triển sản phẩm và thị trường một cách chi tiết (bao gồm việc so sánh giữa các sản phẩm) để làm thông tin đầu vào thảo luận lựa chọn các chuỗi giá trị với các đối tác địa phương và các bên liên quan 1.3. Phương pháp Các sản phẩm đã được đánh giá dựa trên 9 tiêu chí chọn lựa, nhấn mạnh vào tác động của tiêu chí và tiềm năng thị trường: 1. Tác động về việc được các mục tiêu của chương trình “Các Mục tiêu Phát triển của Việt Nam” 2. Mức độ tác động tới những người dân nghèo nông thôn (phạm vi, số lượng và mức độ) 3. Mức độ tác động tới người dân tộc thiểu số và phụ nữ 4. Khả năng mở rộng qui mô (xu hướng/sự tái tạo)

5. Đầu tư tính theo đầu người 6. Sự đồng bộ giữa sản phẩm và khách hàng 7. Tiềm năng thị trường 8. Tiềm năng sản xuất 9. Tính ổn định về môi trường

Để đánh giá sản phẩm, các cuộc phỏng vấn đã được tổ chức với các bên tham gia trong chuỗi giá trị của các sản phẩm, bắt đầu từ mặt sản xuất tại Sơn La và kết thúc ở mặt bán lẻ và xuất khẩu trong và gần Hà Nội. Ngoài các nhà sản xuất, những người, những người vận chuyển, những người buôn bán, những nhà chế biến, những người bán lẻ trên thị trường, trong các nhà hàng, các siêu thị và những nhà xuất khẩu, đồng thời cũng đã tiến hành phỏng vấn các quan chức chính phủ. Đã khảo sát nhu cầu về số lượng và chất lượng và những hạn chế về tiềm năng hoặc các cơ hội tăng trưởng đối với các sản phẩm. Tham khảo dữ liệu bổ sung từ Internet và những nghiên cứu ban đầu. 1.4. Phân tích chuỗi giá trị, sức cạnh tranh và SWOT Ba công cụ được sử dụng để phân tích dữ liệu đã được thu thập: phân tích chuỗi giá trị, sức cạnh tranh và SWOT.

Page 19: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Phân tích chuỗi giá trị Do một vài lý do, ví dụ kỹ thuật và vận tải được cải tiến, thế giới đang dần được thu hẹp lại. Chính vì vậy, các nền kinh tế đang ngày càng được hội nhập hơn. Tuy nhiên, tại cùng thời kỳ cạnh tranh đang trở lên khắc nghiệt hơn và nhiều ngành nghề bị thâu tóm trong tay của chỉ một số các doanh nghiệp. Những chuỗi giá trị xuất hiện nhằm làm giảm các nguy cơ rủi ro và tạo ra sự minh bạch. Các chuỗi giá trị này cũng tạo ra lợi thế cho người nghèo, đó chính là sự tiếp cận với các thị trường mới, công nghệ và thông tin. Chuỗi giá trị là một chuỗi các quá trình liên kết những nhà cung cấp đầu vào và các nhà sản xuất thô và cuối cùng là người tiêu thụ đối với một sản phẩm đặc biệt. Đồng thời, chuỗi giá trị là một sự sắp xếp có tính tổ chức liên kết với những nhà sản xuất, buôn bán, kinh doanh, gia công chế biến và những nhà phân phối cho một sản phẩm cụ thể nào đó. Điều thứ ba, đây cũng là hệ thống kiến thức kết hợp với thông tin, công nghệ và các kỹ năng để phối hợp sản xuất và tiếp thị (GTZ). Các bước phân tích chuỗi giá trị đơn giản hóa là: a. Xác định các phân đoạn sản phẩm b. Cụ thể hóa các quá trình và các hoạt động trong các phân đoạn đó: xếp loại và miêu tả các hoạt động giữa khâu cung cấp đầu vào và khâu tiêu thụ cuối cùng. c. Theo sát những người tham gia vào các hoạt động d. Phân tích các chuỗi giá trị bằng cách: Các mối quan hệ theo chuỗi và các luồng thông tin, các mối quan hệ giữa các cấp quản lý, các kích cỡ về số lượng (# những người tham gia hoạt động, # các công việc, # khối lượng thương mại, giá trị gia tăng), các nhà cung cấp đầu vaò và các nhân tố bên ngoài) Phân tích tính cạnh tranh (Porter) Phân tính cạnh tranh Porter nghiên cứu vị trí của một tổ chức bằng cách xem xét những lợi thế cạnh tranh của mình qua những người khác hoạt động trong ngành đó. Bằng việc xem xét vị thế thị trường, công ty có thể chỉnh sửa cho phù hợp các nguồn và các kỹ năng của mình để duy trì hoặc đạt được lợi thế cạnh tranh (Đại học Hoàng gia Luân-đôn, 2005). Sức ép thị trường sẽ được xem là: 1. Tính cạnh tranh: Mức độ cạnh tranh khắc nghịêt như thế nào về tăng trưởng, sự phân biệt sản phẩm, rào cản thôi không tham gia ngành? 2. Các sản phẩm thay thế: Sản phẩm thay thế đe dọa lợi nhuận của ngành? 3. Quyền của những người mua: Người mua có quyền được mặc cả bao nhiêu 4. Quyền của những nhà cung cấp: Nhà cung cấp có quyền chấp thuận sự mặc cả đó là bao nhiêu?

5. Lối vào/lối ra: Mức độ dễ dàng để bước vào hoặc ra khỏi ngành này như thế nào?

Page 20: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Điểm 5 lực lượng thị trường này được sử dụng một cách thông thóang như một công cụ để xem xét tính cạnh tranh của 5 sản phẩm. Một cách thông thóang là do không phải tất cả các lực lượng thị trường thường xuyên ảnh hưởng tới tính cạnh tranh. SWOT SWOT là viết tắt của điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức. Để đánh giá tiềm năng phát triển của một sản phẩm thì những đặc trưng bên trong của sản phẩm, Điểm mạnh và Điểm yếu của sản phẩm và những đặc trưng bên ngoài, Cơ hội và Thách thức đều cần phải được xem xét. Sau khi đã xác định được những điều này, có thể thiết kế các chiến lược là “ làm thế nào để tiếp cận được thị trường”; bằng cách khẳng định chắc chắn những điểm mạnh của bạn, giảm bớt những điểm yếu, phát triển các cơ hội và tránh những mối đe dọa bên ngoài. 1.5. Cấu trúc của báo cáo Trong các chương tiếp theo, trước tiên tóm tắt bối cảnh kinh tế chung đối với 5 loại sản phẩm. Từ chương 3 cho tới chương 7, 5 sản phẩm đã được giới thiệu thông qua việc thảo luận, theo trật tự sau, chuỗi giá trị của mỗi sản phẩm, sản xuất, các thị trường và các hoạt động chế biến và những lợi thế cạnh tranh. Phần cuối của mỗi chương, vị thế của sản phẩm được phân tích thông qua SWOT. Trong chương cuối cùng, 5 sản phẩm đã được so sánh dựa trên tiêu chí lựa chọn của SNV.

2. Bối cảnh kinh tế Sơn La là một tỉnh nằm ở phía Tây Bắc Việt Nam. Đây là tỉnh lớn thứ ba của đất nước. Địa hình chủ yếu của khu vực này là đồi núi và chỉ có khoảng 200.000 hecta đất là đất nông nghiệp (qui hoạch nông nghiệp 2004). Do nằm ở địa hình cao, khí hậu tương đối lạnh, một vài loại hàng nông sản không trồng được ở vùng đất thấp trong những mùa nóng nhưng trồng được ở Sơn La. Dân số của tỉnh Sơn La là 974.897 người và khác nhau về nền tảng văn hóa. Nhiều nhóm dân tộc thiểu số sống tại Sơn La mà phần lớn là dân tộc Thái (53%), Kinh (18%) và H’Mong (12%).Tỉnh Sơn La được xem là một tỉnh nghèo. Năm 2004, 86 xã nghèo trong tổng số 1.715 xã nghèo trong cả nước nằm tại tỉnh Sơn La. Thu nhập trung bình hàng tháng của mỗi hộ gia đình khoảng 272.520 đồng. Tại các khu vực nông thôn, thu nhập khoảng 233.620 đồng mỗi tháng (theo thống kê của tỉnh Sơn La). Nhiều nông dân vẫn đang trồng trọt tự cung tự cấp. Nhìn chung, đại đa số lực lượng lao động của tỉnh Sơn La làm nông nghiệp, chiếm đến 90% dân số của tỉnh (theo thống kê tỉnh Sơn La). Lực lượng lao động trong ngành nông nghiệp tạo ra 50% sản lượng GDP của tỉnh này (theo SNV, 2005). Đất nông nghiệp chủ yếu

Page 21: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

được dùng để trồng các loại cây trồng chính như ngô và gạo. Cũng trồng cả cây công nghiệp, cây lương thực và hoa quả. Về xây dựng, năm 2005 đã tiến hành xây dựng nhà máy thủy điện tại tỉnh này. Người ta mong đợi rằng, trong tương lai, đập nước lớn này sẽ cung cấp nguồn nước và điện tốt hơn có thể giúp tăng trưởng kinh tế. Nói chung, cơ sở hạ tầng tại tỉnh Sơn La, đặc biệt là đường xá cũng như viễn thông vẫn cần phải được nâng cấp để ra tăng tiếp cận tới các thị trường. Tính đến năm 2004, tổng số các doanh nghiệp tại tỉnh Sơn La là 11.118, chỉ có 1,8% trong số đó là các doanh nghiệp tư nhân. Dự kiến của tỉnh để phát triển chính sách mở cửa về đầu tư tư nhân và nước ngoài và điều này có thể tăng con số này hơn nữa. Trong kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm 2000-2010, tỉnh Sơn La có kế hoạch sẽ chuyển đổi nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế thị trường thương mại với các dịch vụ và cơ sơ hạ tầng được cải tiến. Điều này là phù hợp với sự phát triển kinh tế của Việt Nam.

3. Ngành Măng 22 người hoạt động trong chuỗi giá trị măng đã được phỏng vấn sâu. Ngoài ra, một vài thị trường hàng tươi, thị trường nhỏ và các siêu thị trong tỉnh Sơn La, tỉnh Hòa Bình và thành phố Hà Nội đều được mời tham gia vào cuộc nghiên cứu về giá trị và những đặc tính của các loại măng. NGƯỜI SẢN XUẤT

NGƯỜI THU MUA

NGƯỜI KINH DOANH

NGƯỜI CHẾ BIẾN/ XUẤT KHẨU

NGƯỜI BÁN LẺ

NHÀ HÀNG

CƠ QUAN NHA NƯỚC

2 1 2 7 3 3 4

3.1. Giới thiệu Măng là mặt hàng được tiêu thụ rộng rãi. Đặc biệt tại nhiều tỉnh, đây cũng là môt phần trong thức ăn của người dân. Về tiêu thụ măng trong nước ước tính khoảng 300.000 tấn/1năm. Có nhiều giống măng tại Sơn La. Các loại măng được đề cập trong các cuộc phỏng vấn và các khu vực trồng măng, theo như trả lời của người được phỏng vấn như được trình bày trong bảng dưới đây: Bảng 3.1 : Các loại măng Sơn La Giống măng Khu vực địa lý Mùa bán Đặc tính Bát Độ (giống đã được xuất khẩu)

Mai Sơn, Thuận Châu, Sốp Cốp (2.400 Hécta)

Không có Năng suất cao, mềm, không đắng, dễ nấu

Bói Quỳnh Nhai Tháng 4-tháng 10 Ngọt, ngon, đắt

Page 22: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Bương (được xuất khẩu một vài năm trước đây)

Mai Sơn, Mộc Châu, Yên Châu, Mường La

Tháng 4-tháng 5

Rất có mùi vị, đắng, kết cấu cứng hơn măng Bát Độ

Măng Lay Mường Tranh (Huyện Mai Sơn), Mộc Châu

Tháng 4- tháng 11

Đắng

Măng Tre Không có Tháng 3-tháng 7 Đắng Măng De Không có Tháng 3-tháng 7 Đắng Măng Đắng Không có Tháng 3-tháng 7 Đắng Măng Sật Mộc Châu Tháng 12-tháng 11 Đắng, rẻ Măng Hốc Không có Tháng 4-tháng 5 Đắng Nứa Không có Tháng 3-tháng 7 Vị ngon Tiên Hóa Mộc Châu Không có Đắng Tre Không có Tháng 3-tháng 7

Rất đắng, chỉ thỉnh thoảng mới được tiêu thụ

3.2. Sơ đồ chuỗi giá trị Đa phần, măng mọc tự nhiên trong rừng. Chỉ một số nhỏ là được trồng trong vườn hoặc nông trường nhỏ. Cần phân biệt giữa chuỗi các giống măng bản địa và giống măng trồng để xuất khẩu Bát Độ. Măng Bát Độ chỉ được bán thông qua các Lâm trường Quốc doanh tới Công ty Vạn Đạt để xuất khẩu sang các thị trường nước ngoài. Các giống măng bản địa chủ yếu được bán trực tiếp hoặc qua những người thu gom trong làng tại các chợ trong tỉnh. Một vài giống măng đặc biệt được sấy khô ở hộ gia đình. Những lọai này được bán tại thị trường trong tỉnh và ở mức nhỏ hơn là taị các thị trường Hà Nội. Măng cũng được vận chuyển hợp pháp và bất hợp pháp tới Hòa Bình. Tại Hoà Bình, măng được chế biến rồi sau đó đóng gói và bán tại Hà Nội.

Page 23: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Hình 3.1. Sơ đồ chuỗi giá trị các loại măng

3.3. Sản xuất Trong năm 2004, thu nhập trung bình hàng năm từ lâm nghiệp là 208.080 đồng/1 hộ gia đình. Trong năm 2002, ước tính diện tích tre trong rừng tự nhiên là 37.651 hecta. Măng thuần hóa được trồng trên 41,1 hecta. Dựa vào sản lượng trung bình 2 tấn/ha, tổng sản lượng măng tối đa khoảng 75,384 tấn (không phải loại tre nào cũng thu hoạch măng được và do đó con số thực tế có thể thấp hơn một chút). Kể từ năm 2002, diện tích trồng đã tăng lên bởi nhiều các công ty đầu tư vào việc sản xuất măng do kết quả Chính sách 199 thúc đẩy việc trồng tre. Theo chương trình 6611 mới, 1.000 hecta tre sẽ được trồng trong giai đoạn 2002-2010. Trước hết là 4.000 hecta sẽ do phòng Kinh tế Lâm nghiệp trồng. Giống măng sẽ được trồng là giống măng Bát Độ, có nguồn gốc từ Trung Quốc. Trong quá trình tiến hành nghiên cứu, điều chưa được rõ ràng là nhóm người dân tộc thiểu số nào tham gia vào việc thu hoạch măng. Nghiên cứu của SNV năm 2005 kết luận đặc biệt các hộ gia đình nghèo và các hộ gia đình ở mức trung bình có đất rừng (SNV, 2006, trang 8) nhưng khi xem xét thu nhập thu được từ việc bán lâm sản thì các hộ giàu có tỷ phần cao nhất (trang 10).. Nguyên nhân đối với điều

Vận chuyển

Chế biến

Bán buôn/bán lẻ

người thu mua măng Lay

những nông dân thu hoạch măng bản địa từ rừng và vườn tại Sơn La

cơ sở Vạn Đạt (được thiết lập năm 2006 tại Sơn La)

Những người bán lẻ tại

Giai đoạn chế biến lần hai và phân phối (Tân Đông Á, Hà Nội. 580 tấn trong nước, 20 tấn xuất khẩu)

Lâm trường quốc doanh

Thị trường nước ngoài : Nhật Bản, Châu Âu (2005, 1680 Tấn)

Sơ chế tại Tân Đông Á, Hòa Bình (600 tấn trong đó có 100 là từ Sơn La)

Sản xuất

Người sản xuất măng Bát Độ (bắt đầu)

Vạn Đạt ,Hải Dương

Người bán lẻ tại thị trường các tỉnh

người sản xuất:vận chuyển / đóng gói

Đức (20 Tấn Buang)

Những người sản xuất khác

Những người tiêu thụ tại Son La

Tiêu thụ

Những người tiêu thụ tại Hà Nội

Page 24: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

naỳ có thể là: cũng như đã được trình bày trong các cuộc phỏng vấn, mặc dù các hộ gia đình nghèo hơn có lâm sản nhưng họ không kinh doanh các sản phẩm này. Hầu hết các loại măng được trồng tự nhiên. Một số giống măng, măng Bát Độ và các giống măng bản địa khác như Bương, Lay và Hốc, cũng được trồng tại vườn nhà và các trang trại. Như được trình bày trong Bảng 3.1, mùa thu hoạch của các giống măng khác nhau. Măng do đó có thể có ít hoặc nhiều tùy vào từng thời điểm trong năm. Để bảo vệ rừng, chính phủ cấm buôn bán măng tự nhiên. Chỉ được phép vận chuyển số lượng nhỏ. Việc trồng giống măng xuất khẩu Bát Độ hiện đang đựơc chính phủ đẩy mạnh. Sơn La được cho là nơi có điều kiện thuận lợi cho việc trồng măng Bát Độ và có thị trường cho sản phẩm này. Giống măng Bát Độ có năng suất cao hơn giống măng bản địa: đạt 15 tấn trong khi giống măng bản địa chỉ đạt 2 tấn/hecta. Theo công ty mà đầu tư vào giống măng Bát Độ, Công ty Vạn Đạt cho biết, trung bình hàng năm một người nông dân có thể kiếm được tối thiểu 20 triệu đồng trên mỗi hecta trồng măng Bát Độ.Giả sử sản lượng 15 tấn/1 hecta và giá mua tối thiểu là 1.500 đồng/1kg2. Các chi phí đầu tư là 6,6 triệu đồng/1 hécta đối với việc mua giống cây. Các chi phí vận hành chỉ tính công lao động và phân bón. Công ty cho nông dân vay mà không tính lãi 2,3 triệu đồng. Số tiền này phải hoàn trả bằng hàng hóa trong vòng 4 năm. Công ty Vạn Đạt đã ký các hợp đồng trong 10 năm với Công ty Công nghiệp và Lâm nghiệp Sơn La. Công ty này ký hợp đồng với các các nhân hộ gia đình để trồng măng Bát Độ trên đất của mình. Các công ty cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho người sản xuất. Năm 2005, 2.988 hộ gia đình của 158 làng, 3 huyện đã tham gia sản xuất măng Bát Độ tại Sơn La.

3.4. Các thị trường và chế biến Tỉnh Nếu có nguồn cung cấp bổ sung, các sản phẩm măng được bán tại các thị trường tươi sống của các tỉnh. Thường thì các loại măng được thu hoạch bởi những người thu gom trong làng, ví dụ người thu gom từ bản Suỗi Kẽm tại Mộc Châu mua và bán khoảng 3 tấn măng Bương, măng Hốc và măng Đắng hàng năm. Những người thu gom này bán măng trực tiếp cho những người bán lẻ tại các chợ địa phương hoặc tới những người buôn bán lớn hơn để bán sang các thị trấn và các vùng đồng bằng khác. Tại Sơn La, ví dụ, có khỏang 10 người buôn bán măng lớn hơn cung cấp cho tất cả những người bán lẻ tại các chợ Sơn La ( khỏang 3). Một lái buôn lớn nhất tại số Chợ Cầu Trắng (3/8). Trong mùa măng đắng, từ tháng 12 đến tháng 2, bà phân phối được 500kg măng mỗi ngày. Trong những tháng mùa hè, các giống măng không được kinh doanh mà được những người dân làng bán xung quanh thị trấn. Việc kinh doanh này được cho là sẽ tăng lên đặc biệt là đối với những vùng đất thấp, do măng bây giờ ngày càng được trồng nhiều trong vườn nhà.

Page 25: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

----------------------------------- 1 Còn được gọi là chương trình 5 triệu héc ta rừng 2 Cần lưu ý, để sản xuất được 15 tấn cần phải chăm sóc hàng ngày, Trong các cuộc phỏng vấn, người được phỏng vấn trả lời sản lượng trung bình ước tích khoảng 5tấn/ha. Con số thấp hơn này có thể là do thực tế cần phải mất vài năm mới có thể đạt được năng xuất tối đa. Hơn nữa, người nông dân dùng măng để mở rộng sản xuất và làm giảm sản lượng đem bán Giá bán lẻ thay đổi trong suốt mùa măng, với giá thấp nhất trong lúc thu hoạch và giá cao nhất là vào đợt trước Tết. Đầu vụ thu hoạch, loại măng đắng to có giá 8.000 đồng/1kg, loại măng đắng nhỏ có giá 10.000 đồng/1kg, còn măng ngọt có giá 10.000/1kg bán tại các chợ huyện. Giá tối thiểu là 5000 đến 6000 đồng/1kg đối với các loại măng khác nhau. Loại măng đắt nhất là măng Bói, mức giá thường xê dịch từ 6000 đồng/1kg đến 15.000 đồng/1kg. Cứ 1 kg măng tươi người bán lẻ thu được lợi nhuận là 1.500 đồng. Loại măng đã được làm sạch và cắt từ 1 hoặc 2 năm có thể được bán trên thị trường Sơn La. Vì người dân có nhiều tiền hơn và có ít thời gian để dành cho các hoạt động gia chánh hơn, thị trường cho các sản phẩm tiện lợi tăng lên. Loại măng đã được làm sạch được bán từ 22.000 đồng đến 25.000 đồng/1kg. Bảng 3.2 Giá 1 kg măng tươi Sơn La tính theo đơn vị tiền Việt Chuỗi giá trị địa phương

Đắng Lay Bương Hốc

Giá mua tại cổng trang trại

2-9.000 3.000 2-5.000 2-5.000

Từ những người thu gom

3-10.000 Không có 4-6.000 4-6.000

Giá bán lẻ trên thị trường rau tươi Sơn La

5-10.000 Không có 5-8.000 5-10.000

Giá bán lẻ trên thị trường rau tươi Hà Nội

Không có Không có Không có Không có

Một cách chế biến măng khô khác là phơi khô. Theo như những người bán lẻ cho biết, cách này thường được những người bán lẻ làm do chất lượng măng khô trong các làng thường lên xuống thất thường. Những người bán lẻ mua măng tươi tại các chợ, loại măng mà họ sẽ cắt, làm sạch, luộc chín và đem phơi khô ngoài nắng. Măng khô đặc biệt được tiêu thụ trong các dịp cưới hỏi, Tết và các ngày hội. Phụ thuộc vào phần gốc và phần lá được bán mà giá măn g khô dao động khoảng từ 60.000 đồng đến 75.000 đồng/1kg tại thị xã Sơn La. Một năm trước đây, đã có một công ty chế biến tại tỉnh Sơn La, đó là Nhà máy Cà phê và Hoa quả tỉnh Sơn La. Công ty này có dây chuyền nhà máy chế biến các lọai măng đắng. Loại măng có nguồn gốc từ Sông Mã và Sơn La. Trên cơ sở hàng năm, nhà máy đã chế biến tối đa 1 tấn măng Bương. Sau khi phân loại, bóc vỏ, đun sôi và thái mỏng và sau đó được bảo quản với muối, giấm và gia vị. Tổng lượng sản xuất năm 2005 là 1000 hộp loại 400g.

Page 26: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Tất cả sản phẩm đều được bày bán tại tỉnh Sơn La. Do thị trường bị giới hạn, Công ty sẽ không chế biến sản xuất măng năm 2006. Chỉ khi công ty tìm thấy các kênh thị trường khác thì công ty sẽ tiếp tục làm. Ngoài việc sử dụng loại măng Bương thì công ty sẽ cố để có nguồn măng Bát Độ trong tương lai. Do loại măng Bát Độ mềm hơn và chính vì vậy chỉ cần nấu một lần. Tất cả các nhà hàng tại tỉnh đều có măng phục vụ suốt cả năm và được mua từ các chợ rau tươi. Các nhà hàng sử dụng các loại măng khác nhau tùy theo mùa. Phía bắc Việt Nam Nhiều loại măng khác nhau sẵn có trên các thị trường rau tươi tại các tỉnh phía bắc Việt Nam. Do măng là mặt hàng có theo mùa cho nên nhóm nghiên cứu cũng chỉ thấy được rất ít các giống măng là đang có. Tại thời điểm tiến hành các cuộc nghiên cứu, giá măng tại các thị trường tươi sống ở Hà Nội là 10.000 đồng/1kg đối với loại măng tươi Bương và măng Nứa được lấy từ tỉnh Hoà Bình. Hầu hết măng khô và Vầu được trở từ Tuyên Quang xuống. Loại này được bán từ khoảng 30.000 đồng đến 90.000 đồng/1kg. Măng nứa khô -loại măng được gọi là măng lưỡi lợi, do hiếm và rất đắt nên được bán với giá từ 150.000đồng/1kg tơí 160.000 đồng/1kg. Ngoài loại măng khô Bương Sơn La được bán với giá 45.000 đồng/1kg, thì không còn loại măng nào khác của Sơn La được tìm thấy trên thị trường rau tươi ở Hòa Bình và Hà Nội. Các loại măng được bán rộng rãi trong các siêu thị tại Hà Nội. Tất cả các siêu thị đã được khảo sát trong cuộc nghiên cứu đều bán loại măng sơ chế đóng gói, măng khô và măng ngâm. Loại măng đóng gói và măng khô do một số các công ty cung cấp. Trong số 2 công ty được biết là bán sản phẩm măng Sơn La là công ty Tân Đông Á và Công ty Quốc Minh. Công ty Tân Đông Á có một điểm thu mua tại Hoà Bình. Những những người buôn bán mang măng Đắng, măng Lay và măng Bương từ Hòa Bình và Sơn La về. Các loại măng này được làm sạch và được bảo quản trong nước muối trước khi vận chuyển về Hà Nội. Tại Hà Nội, măng được nấu, đóng gói và được phân phối. Loại măng Lay đã chế biến được bán ra bởi nhà máy chế biến với giá 19.000 đồng/1kg. Xấp xỉ 600 tấn măng được chế biến hàng năm , trong đó khoảng 100 tấn có nguồn gốc từ Sơn La (măng Lay). Mặc du nhiều cửa hàng mua và bán măng tươi (hơn 100 cửa hàng), Công ty Tân Đông Á là một trong số ít các công ty đã đóng gói măng bằng bao bì plastic. Công ty lưu ý rằng người tiêu thụ là người Việt Nam vẫn chưa sẵn lòng đối với những lọai sản phẩm tiện lợi này. Mặc dù thị trường đang ngày một gia tăng, hầu hết những người tiêu thụ đều thấy được các sản phẩm tiện lợi là quá đắt. Trong tươi lai, Công ty sẽ chuyển nhà máy chế biến tới Hoà Bình do nhà máy tại Hà Nội là đang bị thu nhỏ lại. Công ty Quốc Minh bán loại

Page 27: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

măng hốc khô. Đây là loại măng hiếm và đắt (giá khoảng 160.000 đồng/1kg). Công ty có thể chỉ bán ra 500 kg/1 năm trong nhịp Tết do nhu cầu có hạn. Ngoài những nhà chế biến măng sơ chế và măng tươi còn có một loạt các nhà cung cấp măng ngâm, khoảng 7 nhà cung cấp. Các nhà cung cấp đã được phỏng vấn này đều không có loại măng gốc từ Sơn La. Có một vài nguyên nhân cho điều này là do măng này được mua bởi những người của cuộc phỏng vấn: Măng Sơn La được cho là loại măng quá đắng và quá xa nên các công ty đã có các nguồn cung cấp khác. Thị trường măng ngâm xuất hiện có tính cạnh tranh cao và đang bị bão hòa như: - Có nhiều nhà cung cấp - Phạm vi giá cả nhỏ - Sản phẩm được đặt tại các ngăn thấp nhất nên không nhìn thấy rõ trong các siêu thị Siêu thị Big C là siêu thị duy nhất bày bán loại măng tươi trong suốt thời gian tiến hành phỏng vấn. Nhìn chung, giá cả tại Unimart là đắt nhất nếu tính đến các sản phẩm măng tươi. Giá trung bình tại các siêu thị là: Bảng 3.3 Giá tại các siêu thị Sản phẩm

Giá 1kg măng tươi tính theo đơn vị tiền Việt

Măng sơ chê đã đóng gói

30.000

Măng khô (1kg măng khô tương ứng 20 kg măng khô)

4.300 – 6.875

Măng dầm dấm (1 hộp xấp xỉ 685g)

14.600

Măng tươi 11.500 Thị trường quốc tế Hiện nay khỏang 10.000 tấn măng được xuất khẩu ra nước ngoài. Người ta cho rằng, số lượng này sẽ tăng lên và đến năm 2010 tổng doanh thu của Việt Nam từ ngành xuất khẩu măng sẽ là 350 triệu USD (www.vietnamnet.vn). Du cầu thị trường thế giới là 250.000 tấn măng mỗi năm nhưng con số này sẽ còn tăng lên xấp xỉ 20% theo như FAO cho biết (VNA). Những nhà xuất khẩu hàng đầu là Mĩ, Châu Âu, Nhật Bản, Đài Loan và Úc. Công ty Vạn Đạt là một trong những công ty xuất khẩu sang Châu Âu, Nhật, Đức và Đài Loan. Công ty hiện đang cho trồng và lấy nguồn từ loại tre măng Bát Độ lấy từ Sơn la (2.300 hecta), Hà Giang (1.000 hecta) và Yên Bái (1.000hecta). Năm 2006, công ty sẽ xây dựng một cửa hàng chế biến tại Sơn La trị giá là 3,5 tỷ đồng. Năm 2005 công ty đã chuyển các côngtennơ loại 80x20 tấn và 1 côngtenơ sang Nhật Bản-quốc gia có tổng xuất khẩu là 1.680 tấn loại nửa măng tươi năm 2005.

Page 28: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Trên thực tế, công ty đã có các đơn đặt hàng với 800 côngtenơ nhưng không thể đáp ứng hết các đơn đặt hàng do nguồn cung cấp ít. Công ty Tân Đông Á cũng xuất khẩu các sản phẩm măng. Măng Bương được muối và được bán tại thị trường Đức. Công ty Đông Tân Á dự kiến thị trường đối với các loại măng Bương và Đắng sẽ tăng hơn nữa trong tương lai. Tại miền nam Việt Nam, các khu đất trồng lớn của Nhật Bản đang trồng các loại măng cung cấp cho thị trường Nhật Bản . 3.5 Tính cạnh tranh Đa phần các loại măng bản địa có nguồn gốc từ Sơn La đều có vị đắng. Do những người tiêu thụ dưới đồng bằng không quen ăn măng đắng, vì vậy khó bán sản phẩm này bên ngoài tỉnh Sơn La và có thể mở một thị trường thích hợp cho những người dân cư trú ở Sơn La. Tại các thị trương tươi sống tại Hà Nội chỉ có thể tìm thấy loại măng khô Bương và măng Lay lấy từ Sơn La. Các loại măng này là ít đắng hơn các loại măng khác. Măng Lay được cho rằng chỉ được trồng tại Sơn La (sản lượng 300-400 tấn/năm). Giá măng Bương khô hơi thấp. Đặc biệt loại măng khô Tuyên Quang được bán với giá cao hơn. Loại măng này được biết đến nhiều do vị ngon cuả nó và chính vì vậy loại măng này là đối thủ cạnh tranh với măng khô Sơn La. Về loại măng tươi Bương, Sơn La đang phải cạnh tranh với loại măng Hòa Bình. Măng Bương là loại măng to và chính vì vậy chi phí vận chuyển cao. Do Hòa Bình gần Hà Nội vì vậy người mua thường mua loại măng Bương Hòa Bình. Tuy nhiên thị trường đang ngày một phát triển và nguồn cung cấp lại không thường xuyên nên măng Sơn La vẫn có tiềm năng tăng trưởng. Xét về tính cạnh tranh từ các sản phẩm tương tự và các mặt hàng thay thế thì măng cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh về khâu sản xuất. Thay vì việc bán măng, những người nông dân thường chọn hình thức bán cả cây bởi họ nghĩ rằng như vậy sẽ có lợi nhuận hơn. Cứ một hécta người nông dân có thể trồng được 20.000 gốc măng trong 5 năm. Và anh ta có thể bán 2000đồng/1 gốc và trong 5 năm anh ta sẽ thu được 40 triệu đồng, tương đương với 8 triệu đồng/1 năm. Theo như những người sản xuất thì số tiền này lời hơn doanh thu từ việc bán măng: trước tiên phải nói đến sản lượng măng Bương là 1 tấn/hecta trong mỗi năm. Do măng Bương được bán từ 2.000 đến 5000 đồng/1 kg và cứ 1 hécta cho lãi từ 2 – 5 triệu đồng. Những con số sau này tương đối thấp. Sản lượng có thể tăng nếu người nông dân chăm sóc măng tốt hơn. Có thể đạt được sản lượng tới 5 tấn/1 năm, tạo thu nhập từ 10 đến 20 triệu đồng.

Page 29: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

3.6. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức

ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Sơn La có nhiều loại măng - Dễ trồng - Chi phí sản xuất nhỏ - Nhu cầu đối với loại măng này cao - Nhiều khả năng chế biến: khô, sơ chế và đóng gói

- Lượng cung cấp ít - Người nông dân không chăm sóc cây trồng - Buôn bán măng làbất hợp pháp - Đối vơi ngừời miền xuôi thì măng Sơn La được cho là qua đắng - Địa lý: Chi phí vận chuyển cao - Thị trường măng dầm dấm bão hoà

CƠ HỘI THÁCH THỨC - Nhu cầu trong nước và cả ở nước ngoài đều tăng - Chế biến tại các tỉnh để giảm chi phí vận chuyển và tăng giá trị gia tăng cho sản phẩm - Trồng nhiều các giống mới

- Lợi thế thu nhập trong việc bán cây măng - Cạnh tranh với măng các tỉnh - Cạnh tranh với măng Trung Quốc tại các thị trường xuất khẩu - Khí hậu (tốt cho việc trồng măng Bát Độ)

Thường xuyên có nhu cầu tiêu thụ măng do măng là một phần trong thực phẩm của người Việt Nam. Hơn nữa, nó lại là sản phẩm dễ trồng và chi phí thấp. Tuy nhiên nó cuũng cần phải chăm sóc để nâng cao năng suất sản phẩm. Dẫu sao nó cũng cần được canh tác và không thể thu hái từ rừng một cách bất hợp pháp. Có tối thiểu 2 nhà máy ở Sơn La có thể và sẵn sàng chế biến các lọai măng miễn là có thể tìm kiếm được thị trường và nguồn cung cấp ổn định. Nhà máy Rượu và Hoa quả Sơn La cũng như Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Sơn La cung đang quan tâm đến việc chế biến măng. Công ty hiện đang xây dựng một nhà máy chế biến nấm và vẫn còn thừa năng suất để chế biến măng. Không chỉ có măng Bát Độ mà cả loại măng Bương địa phương do thị trường Châu Âu và thị trường trong nước được cho là thích những lọai này. Công ty có nhu cầu thu mua 100 tấn măng/ 1 tháng. Ngoài ra, gia tăng nhu cầu xuất khẩu măng Bát Độ gần Hà Nội: 100.000 tấn sang Châu Âu, Đài Loan và thị trường Nhật Bản là 16.000 tấn. Tuy nhiên không đảm bảo rằng liệu khí hậu Sơn La có phù hợp để trồng loại măng Bát Độ không. Người ta hy vọng rằng, khu vực gần nhà máy thủy điện sẽ đặc biệt thích hợp sau khi nhà máy này đi vào hoạt động. Dẫu sao thị trường xuất khẩu đối với các giống măng địa phương cũng đang tăng lên.Tuy nhiên, cũng cần tính đến sự cạnh tranh khắc nghiệt với măng Trung Quốc do chi phí sản xuất thấp hơn nên các doanh nghiệp Trung Quốc có sản xuất với giá thành hạ hơn.

Page 30: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Tại thị trường trong nước, có sự gia tăng nhu cầu đối với các loại măng tươi và măng sơ chế. Mặc dù, nhu cầu chỉ đang dần tăng lên nhưng trong tương lai cần phải có nhiều măng hơn nữa được đóng gói để đáp ứng nhu cầu đối với các sản phẩm tiện lợi. Mối đe dọa chủ yếu đối với ngành măng là ở khâu sản xuất. Trước hết là phải mất vài năm trước khi thu hoạch măng. Thứ hai là, mặc dù măng có thể tạo nguồn thu nhập đảm bảo hàng năm nhưng người nông dân vẫn thích bán cả cây hơn là bán măng.

4. Ngành mật ong Đã tiến hành phỏng vấn sâu 13 người họat động trong chuỗi giá trị ong. Ngoài một số chợ hoa quả tươi, chúng tôi cũng đã đến các thị trường nhỏ và các siêu thị ở các tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Hà Nội để nghiên cứu giá trị và những đặc tính của sản phẩm mật ong: NGƯỜI SẢN XUẤT

NGƯỜI THU GOM

NGƯỜI KINH DOANH

NGƯỜI CHẾ BIẾN/NHÀ XUẤT KHẨU

NGƯỜI BÁN LẺ

NHÀ HÀNG

CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

2 1 2 3 5

4.1. Giới thiệu Mật hoa tươi và phấn hoa cũng như các sản phẩm mật ong có liên quan như sáp ong và ong được sản xuất tại tỉnh Sơn La, đặc biệt là gần thị xã Sơn La và Mộc Châu. Ong Sơn La được nuôi bằng hoa su su, hoa vải, hoa nhãn và hoa rừng. Loại hoa có ảnh hưởng đến mùi vị cũng như chất lượng mật ong.

4.2. Sơ đồ chuỗi giá trị Mật ong và các sản phẩm có liên quan đều được sản xuất để dùng và để bán. Đa phần những người dân bán lẻ, những người buôn bán, các công ty chế biến và những nhà xuất khẩu đều mua trực tiếp từ người nông dân. Những người bán lẻ địa phương bán các sản phẩm của họ cho những người khách qua đường và những người kinh doanh nhỏ ở đồng bằng. Mật ong được chuyển về đồng bằng để bán cho những người bán lẻ tại các chợ. Các công ty chế biến sử dụng mật ong để làm mật ong để ăn, phấn hoa, rượu và thuốc. Các nhà xuất khẩu bán mật ong dạng lỏng đặc biệt dùng cho các ngành dược và mĩ phẩm

Page 31: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Biểu 4.1. Sơ đồ chuỗi giá trị mật ong

4.3. Sản xuất Một số sản phẩm mật ong được sản xuất tại Sơn La. Lớn nhất cả về khối lượng và giá trị là mật ong nguyên chất. Kể từ năm 2001 sản xuất mật ong đã được đăng ký một cách chính thức dao động trong khoảng 500 tấn (xem các thông tin sản xuất trong phụ lục II) Tuy nhiên, việc sản xuất thực tế được cho là cao hơn những con số kể trên dựa trên việc sản xuất của các thành viên của Hiệp hội nuôi ong Sơn La và nhiều người nuôi ong không phải là thành viên của hội, ví dụ những người nuôi ong ở Mộc Châu là 100 hộ bao gồm nhóm nuôi ong Mộc Châu (20 hộ người kinh) Ngoài mật ong, các sản phẩm từ ong khác được sản xuất tại Sơn La là sáp ong, phấn hoa4 (300 tấn), sữa ong chúa và các ong thợ dùng ngâm với rượu. Mật ong được sản xuất thành nhiều loại phụ thuộc vào các sản phẩm đầu vào đối với ong, ví dụ các loại hoa mà ong hút mật. Những người nuôi ong di dời các đàn ong trong các mùa tới các khu vực có hoa nở.

4 Trong trường hợp giống ong nhập

Sản xuất

Vận chuyển

Chế biến

Người nuôi ong Sơn La (xấp xỉ 600 tấn)

Các bác sĩ thú y

Những ngưòi bán lẻ tại đồng bằng (90 tấn)

Những người kinh doanh (ước tính 15%=90tấn)

Các Công ty chế biến/nhà xuất khẩu (ước tính 480 tấn tương đương 80%)

Các cửa hàng bán lẻ Sơn la (xấp xỉ 60 tấn)

Các cửa hàng bánh kẹo

Bán buôn/Bán lẻ

Khách hàng đồng bằng (72% hay 426 tấn mật ong của Sơn La)

Khách hàng Sơn La (xấp xỉ 30 tấn)

Những người bán lẻ: các siêu thị (336 tấn trong tổng sản lượng của Sơn La)

Các thị trường nước ngoài: Cuba, Hàn Quốc, Châu Âu v.v..(ước tính khoảng 24% hay 144 tấn sản lượng của Sơn La)

Tiêu thụ

Nguồn cung cấp sản phẩm đầu vào

Page 32: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Bảng 4.1: Thời vụ sản xuất mật ong Tháng 3 Tháng 6 Tháng 12

Địa lý

Mai Sơn Mộc Châu Sơn La

Hoa

Nhãn

Hoa rừng

Hoa Chó Đẻ

Sản phẩm

Mật Mật ong và phấn hoa vàng

Mật ong và một ít phấn hoa

Do người nuôi ong phải di rời các bày ong trong năm nên họ thường phải sống xa nhà. Để hạn chế thời gian đi lại, những người nuôi ong kết hợp thành những nhóm nhỏ. Một hoặc hai người nuôi ong khác thường thay phiên nhau chăm sóc ong. các Nhóm sản xuất ong lớn hơn nhỏ tùy vào số lượng hoa có sẵn mà. Có nhiều nhóm người dân tộc nuôi ong. Tuy nhiên, đa phần những người nuôi ong là người kinh (60%). Nhóm người dân tộc nuôi ong lớn thứ hai là người Thái (30%). Hiệp hội nuôi ong chủ yếu hoạt động gần thị xã Sơn La và hiện có 700 thành viên. Các thành viên không phải trả phí và nhiệm vụ của hiệp hội là cung cấp hỗ trợ kỹ thuật và giúp đỡ tiếp cận các thị trường và tiếp cận các dịch vụ của chính phủ. Tổ chức đã và đang đào tạo kỹ thuật cho người nông dân để nâng cao chất lượng sản phẩm. Hiệp hội “ Vườn-Ao-Chuồng” tại Hà Nội hỗ trợ cho Hiệp hội Sơn La về vấn đề này. Về việc mở các thị trường, Hiệp hội Sơn La kết hợp với Vinapi SOE. Sản xuất mật ong cho các mục đích kinh doanh cần nhiều vốn, đặc biệt do giá đường cao mà đường cần để nuôi ong trong mùa lạnh (11.000 đồng/kg). Mặt khác đây còn là một nguồn thu nhập tốt. Thu nhập trung bình của mỗi hộ gia đình nuôi ong xấp xỉ 18 triệu đồng/1 năm, trong khi các trang trại lớn nhất cho biết nguồn thu nhập là 200 triệu đồng/1 năm. Ví dụ, một người nuôi ong nuôi 40 bầy ong có thể thu được lợi nhuận thực tế là khoảng 50,5 triệu đồng/1 năm. Bảng 4.2. Thu nhập và những chi phí hàng năm trong việc nuôi ong được tính bằng tiền triệu đồng Chi phí

Giá cả

Lợi nhuận

Giá cả

Số đàn ong (40)

20 3 tấn mật ong x 25.000 đồng/kg

75

Tổ ong

Không biết 300kg phấn hoa x 50.000 đồng/kg

15

Dược phẩm

Không biết 55 kg ong nhỏ x 55.000 đồng/kg

3

Đường

20 350 kg sáp ong x 50.000 đồng/kg

17,5

Các khoản chi phí di rời Không biết Tổng chi phí 60 Tổng doanh thu 110,5

Page 33: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Lợi nhuận thực tế thậm chí còn cao hơn so với con số đã được trình bày ở trên, do người nuôi ong không mua các bày ong nhưng lại mở rộng số lượng các nhóm bằng cách tách các đàn. Chi phí trong việc thuê đất thấp. Đôi khi những người nuôi ong trả tiền thuê cho nông dân để đặt tổ ong vào đất của họ nhưng thường thì họ không trả gì cả vì ong thụ phấn cho cây cối của họ. Chi phí lao động không bao gồm trong tính tóan. Những con số trên được tính dựa trên doanh nghiệp 1 thành viên. Thường thì người nuôi ong làm việc toàn thời gian trong suốt mùa thu hoạch ( 4 tháng/1 năm) và thời gian làm ngoài giờ là phần còn lại của năm.

4.4. Các thị trường và chế biến Tróng tỉnh Các sản phẩm mật ong được bán trong các cửa hàng bán lẻ khắp tỉnh. Hầu hết các cửa hàng nằm cách xa thị xã Sơn La khoảng 10 km. Có 14 cửa hàng bán mật ong, phấn hoa và rượu ong. Các cửa hàng được cung cấp trực tiếp từ người sản xuất. Trước khi bán, những người bán lẻ lọc mật ong bằng vải. Sau đó họ đóng mật vào các can chứa bằng plastic và các chai mà họ lấy từ các công ty rượu. Một số mật ong được dán nhãn mác của Hiệp hội. Nhãn này được sản xuất năm 1990 và có một số thông tin về khối lượng, loại sản phẩm và thông tin liên lạc . Hầu hết những người bán lẻ bán loại mật ong hoa nhãn và hoa Chó Đẻ. Một cửa hàng lớn hơn cho biết, thường cứ một năm họ bán được 2,5 tấn mật ong dạng lỏng. Tổng khối lượng bán trực tiếp tới những người khách hàng trong tỉnh ước tính tối đa là 60 tấn/1 năm (xấp xỉ 10 % tổng khối lượng được sản xuất) Tại tỉnh, mật ong được bán với giá 25.000 đồng đến 30.000 đồng/1kg, giá sau chỉ giành cho loại mật ong hoa nhãn loại I. Phấn hoa vàng giá 50.000 đồng/1 kg và phấn hoa trắng (lấy từ Sapa) giá 60.000 đồng/1kg. Được cho rằng người lợi nhuận của người bán lẻ mật ong xấp xỉ 30%. Bảng 4.3 Giá trị gia tăng trong chuỗi Chuỗi gía trị địa phương

Mật ong hoa nhãn

Phấn hoa

Tại cổng trang trại 25.000 50.000 Giá bản lẻ tại tỉnh và giá kinh doanh

20.000-30.000 50.000-55.000

Giá bán lẻ tại Hà Nội 40.000-45.000 85.000 Phía bắc Việt Nam

Page 34: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Hiện chưa được biết rõ chính xác số lượng người kinh doanh ở đồng bằng mua sản phẩm mật ong từ những người nuôi ong và từ các cửa hàng xung quanh thị xã Sơn La là bao nhiêu. Tuy nhiên, tại Mộc Châu có 4 người kinh doanh. Mỗi năm, khoảng từ 100 đến 120 tấn mật ong, 5 tấn phấn hoa và 36 tấn sáp ong được bán tại Mộc Châu. 70% được bán cho những người bán lẻ, phần lớn là giành cho việc tiêu thụ mật ong nguyên chất tại Hòa Bình, Hà Nội và Sơn La. Hiện tại chỉ có 30% được bán cho các công ty chế biến để xuất khẩu. Trước đây thì ngược lại nhưng giá địa phương bây giờ cao hơn giá xuất khẩu: giá lên tới 20-25.000 đồng/1kg so với giá trung bình là 21,306 đồng/1kg (www.nhb.org. tháng mười hai 2005)5. Tổng khối lượng bán bên ngoài thị xã Sơn La thông qua những người buôn bán được tính xấp xỉ là 15%. Số còn lại ước tính 80% là được bán cho các nhà máy chế biến để chế biến mật ong cho cả thị trường trong nước và quốc tế. Mật ong đã được chế biến và đóng gói có thể được mua tại các siêu thị và các thị trường nhỏ. Các cửa hàng này tiến hành phân loại mật ong. Tất cả các sản đều có nguồn gốc Việt Nam. 6 công ty cung cấp mật ong cho các siêu thị Hà Nội là: 1. Bốn mùa 2. OVN 3. VINAPI 4. Công ty Phương Bắc 5. Dung Dung 6. Mật ong Tây Nguyên Bốn mùa và Vinapi cũng phân phối phấn hoa. Công ty Mật ong Buôn Mê Thuột chuyên về các viên mật ong khô. Giá mật ong khác nhau nhiều: từ khoảng 25.000 đồng/1kg cho tới 55.000 đồng/1kg (=65 ml). Loại mật ong rẻ nhất do Phương Bắc và Dung Dung chế biến, cả những cửa hàng có qui mô nhỏ. Loại mật ong đắt nhất là mật ong hoa rừng (xấp xỉ 46.000 đồng/1 kg) của Công ty Bốn mùa và mật ong chiết xuất từ ong chúa (> 50.000 đồng). Giá một 1 kg phấn hoa là khoảng 85.000 đồng. Hầu hết mật ong được đóng gói tương tự chai như mật ong Sơn La. Tuy nhiên, nhãn mác cung cấp nhiều thông tin, chứa đựng những thông tin về khối lượng, sử dụng và thành phần (thủy phần). Điểm đáng chú ý là sản phẩm bao bì thiếu thông tin về nguồn gốc mật ong. Chỉ có phấn hoa Big C có nguồn gốc từ Mộc Châu là được bán nhưng vẫn chưa có trên nhãn mác công ty trừ the ghi giá Big C. Tất cả sản phẩm mật ong đều được tiếp thị bằng tên của đầu vào sản xuất, ví dụ như mật ong Nhãn, mật ong Rừng, mật ong nguyên chất hoặc mật ong Chúa.

5 Đây là giá FOB trung bình của bốn nước xuất khẩu chính (Mexico, Trung Quốc, Argentina và Canada). Giá xuất khẩu ở Trung Quốc thấp hơn nhiều và chỉ có 13.356 đồng/kg vào tháng mười hai 2005.

Page 35: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Chỉ có cửa hàng/nhà hàng nơi mật ong Sơn La có nhãn hiệu Hiệp hội Sơn La được bán đó là Cửa Hàng Sơn La số 387 đường Nguyễn Trãi. Cửa hàng này chuyên bán các sản phẩm mật ong lâý từ Sơn La và bán được khoảng 100kg mật ong và phấn hoa mỗi tháng tương đương với 30.000 đồng/1 kg và 60.000 đồng/1kg. Mật ong rừng là loại mật có ít được bán với giá 100.000 đồng/1kg. Mật ong rừng không được tìm thâý trong các siêu thị và các chợ nhỏ. Khách hàng của cửa hàng phần lớn là những người bán lẻ và những nhà thuốc gia truyền và thường bán mật ong với giá 40.000 đồng/1kg. Ngoài sản phẩm mật ong,cửa hàng còn bán chè Mộc Châu, sữa Mộc Châu, măng ngâm và các loại ngạo truyền thống được lấy từ Sơn La và tỉnh Điện Biên. Lượng tiêu thụ mật ong hàng năm ở Việt Nam tính theo đầu người là tương đối thấp, khoảng 100g. Chính vì vậy, tổng thị trường trong nước về mật ong tối đa là 8,400 tấn/1 năm. Tuy nhiên, theo hiệp Trung tâm Ong trung ương Vinapo thì con số này trên thực tế chưa đầy 90% tổng sản lượng mật ong tại Việt Nam, ước tính khoảng 18,000 tấn, được xuất khẩu. Thị trường quốc tế Khách mua lớn nhất loại mật ong Sơn La (xấp xỉ 50%) là Công ty Cổ phần Rượu xuất khẩu mật ong sang Đài Loan. Công ty mua mật ong tại các trang trại và lọc nó trước khi xuất khẩu. Người ta không biết mật ong đươc sử dụng cho mục đích gì. Có khoảng 20 công ty chế biến mật ong để xuất khẩu tại Việt Nam. Tổng sản lượng xuất khẩu trong năm 2005 xấp xỉ 16. Thị trường xuất khẩu là Mỹ (xấp xỉ 90%). Tỷ phần của Việt Nam trong nhập khẩu mật ong của Mỹ đang giao động và chiếm 13,2% vào năm 2005 (xem Phụ lục). Mật ong cũng được xuất khẩu sang EU, Cu Ba, Colombia, Đài Loan và Hàn Quốc và được dùng trong các ngành dược, mĩ phẩm và thực phẩm. Mật ong hoa nhãn đặc biệt được dùng trong các ngành mĩ phẩm còn mật ong Mộc Châu thì phù hợp hơn đối với ngành dược phẩm. Tiêu chuẩn chất lượng đối với mật ong nhập khẩu rất cao, đặc biệt là tại EU. Trong năm 2001 sản lượng mật ong trên thế giới là 1.263.000 tấn. Châu Á là nhà sản xuất lớn nhất với sản lượng 465.000 tấn, trong đó 381.000 tấn được sản xuất tại Trung Quốc và Nga. Nhà nhập khẩu chính là Châu Âu, Mĩ và Nhật Bản với tổng khối lượng là 370.000 tấn trong năm 2000 (www.beekeeping.com)

4.5 Cạnh tranh Mật ong từ các tỉnh phía bắc và phía nam khó so sánh do thực tế chúng là những sản phẩm khác nhau. Mật ong từ phía bắc là loại mật ong từ các loại hoa susu, hoa

Page 36: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

vải, chó đẻ, nhãn và hoa rừng, trong khi mật ong miền nam chủ yếu được nuôi bằng hoa cà phê và lá cao su. Các sản phẩm đầu vào khác cung cấp sản phẩm mật ong có mùi vị, thành phần và nồng độ hoàn toàn toàn khác. Mật ong hoa nhãn có độ ẩm quá cao. Điều này có ảnh hưởng không tốt tới độ bền của sản phẩm. Thông qua các phương pháp kỹ thuật về thành phần độ ẩm đã được cải tiến có thể được ổn định ở 17%. Dẫu sao, hiệu quả năng suất của ong chủ yếu là ở miền bắc được so sánh với ong xuất khẩu Italia (apis mellifera và apis cerana) đặc biệt được nâng lên trong niềm Nam (tối đa là 15 kg so với tối đa là 35 kg mỗi tổ /1 năm). Những rào cản đối với việc tham gia và o ngành này tương đối cao do người nuôi ong cần phải được đào tạo kỹ thuật nuôi ong và cần vốn để có thể chi phí cho việc nuôi ong trong năm đầu tiên. Các mối quan hệ cũng cần thiết để có thể chuyển các tổ ong tới những chỗ có hoa. Để có thể cạnh tranh với những giá cả thị trường quốc tế thậm chí còn cao hơn so với vốn được yêu cầu để mua trang thiết bị nâng cao chất lượng sản phẩm mật ong (để đo thủy phần).

4.6 Những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và đe dọa NHỮNG ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU Mùi vị đặc biệt do hoa nhãn và các loại hoa khác Tồn tại lâu trong văn hóa Giá cao và là nguồn thu nhập tốt Cơ sở hạ tầng (hiệp hội, thị trường) Các thị trường đa dạng (trong nước và nước ngoài)

Chi phí đầu tư cao Chi phí vận hành cao (đường) Hầu như không có kỹ thuật tiên tiến Sản lượng thấp Không có chiến lược tiếp thị Hầu như khâu đóng gói không phát triển Không có nhà đầu tư/các nguồn đầu tư

CƠ HỘI ĐE DỌA Giống ong Italia: Chất lượng cao hơn Thiết bị kỹ thuật để đo thủy phần

Thị trường nước ngoài đòi hỏi chất lượng cao Giá đường tăng và giá xuất khẩu thấp

Mật ong được sản xuất bởi nhiều người với những môi trường văn hóa khác nhau. Có thể dễ sản xuất sản phẩm này và mở rộng các nhóm nuôi ong. Tuy nhiên để sản xuất ra một loại sản phẩm có tính cạnh tranh, cần sản xuất mật ong có chất lượng tốt với thành phần độ ẩm chuẩn. Chính vì vậy cần có những đầu tư cả về kỹ thuật và trang thiết bị. Hơn thế, sản phẩm có thể có một thị trường lớn hơn nếu nó được đưa vào thị trường theo cách khác: hiện hữu hơn, cung cấp nhiều thông tin hơn v..v. Hiện tại, loại sản phẩm này hiếm được thấy bên ngoài tỉnh Sơn La. Nhìn chung, chi phí đầu tư cao: khoảng 0,5 triệu đồng mỗi tổ ong để nuôi ong bằng đường trong mùa lạnh và các chi phí vận chuyển cao đối với việc di rời các tổ ong trong các mùa. Cuối cùng, những người nông dân đang dần bỏ làm kinh doanh do họ không thể đáp ứng được các chi phí. Trước đây, Chính phủ cố gắng

Page 37: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

đẩy mạnh việc nuôi ong bằng việc cung cấp các tổ ong miễn phí cho người nông dân. Tuy nhiên, kết quả của kế hoạch này lại rất hạn chế do không có đủ hỗ trợ kỹ thuật cho những người nuôi ong mới. Tuy nhiên, mối đe dọa chính đối với ngành ong là giá xuất khẩu thấp (xấp xỉ 21.000 đồng/1kg). Lượng tiêu thụ mật ong tính theo đầu người là hơi thấp, khoảng 100g. Tổng thị trường nội địa đối với loại sản phẩm naỳ là không quá 8,400 tấn/năm. Chính vì vầy, phải bán phần mật ong dư thừa ra nước ngoài. Do giá mật ong ở nước ngoài thấp hơn nhiều so với giá mật ong trong nước, vì thế cần phải được khảo sát tỷ lệ hòan vốn nếu bán ra thị trường nước ngoài là bao nhiêu. Dự kiến trong trường hợp này, phải tăng sản xuất để đáng công đầu tư. Đưa vào giống ong mới có thể là giải pháp cho vấn đề mở rộng ngành. Tuy nhiên nhược điểm ở đây là lòai ong này đăt hơn: 700.000 đồng/1 đàn thay vì 500.000 đồng/1 tổ ong bản địa.

Page 38: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

5. Lợn bản Đã tiến hành phỏng vấn sâu 18 người về chuỗi gía trị lợn bản. Ngoài ra, đã đến một số chợ rau quả tươi, các thị trường nhỏ, các siêu thị và các cửa hàng ở tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Hà Nội để tiến hành nghiên cứu sự có sẵn và đặc tính của các sản phẩm lợn bản: NGƯỜI SẢN XUẤT

NGƯỜI THU THẬP

NGƯỜI KINH DOANH

NGƯỜI CHẾ BIẾN/NGƯỜI XUẤT KHẨU

NGƯỜI BÁN LẺ

NHÀ HÀNG

CƠ QUAN NHÀ NƯỚC

2 1 4 7 4

5.1. Giới thiệu Lợn Sơn La bao gồm giống thuần chủng và lợn lai của các loại giống sau: 1. Bản (lợn bản), cũng được gọi là lợn H’Mông (không có mô tả khoa hoạc và di truyền học) 2. Móng Cái 3. Lợn Đại Bạch 4. Landrace 5. Cooc Van

Lợn bản và Móng Cái là các giống vật nuôi bản địa của Việt Nam, lợn bản có nguồn từ các đồi núi phía tây bắc và lợn Móng Cái là từ đồng bằng (Thị xã Móng Cái, Tỉnh Quảng NInh), trong khi lợn Đại Bạch, landrace và lợn Cooc Van được nhập vào Việt Nam. Giống lợn bản gốc và lợn Móng Cái phổ biến nhất nhưng lợn lai giữa lợn Đại Bạch/Móng Cái và Landrace/Móng Cái đang ngày càng phổ biến hơn với việc đưa vào hoạt động lấy giống tư nhân. Không giống như các giống lợn ngoại được nuôi trong những chuồng kín theo kiểu bán tập trung, lợn bản được nuôi theo kiểu không tập trung với số lượng ít hoặc không có đầu vào và chủ yếu được nuôi thả rông. Lợn bản nhỏ, lông đen và có những đốm trắng ở chân. Mặc dù lợn bản đôi khi bị mắc dịch nhưng chúng vẫn ít bị bệnh hơn các giống lợn nhập khẩu. Lợn bản được nuôi đặc biệt ở các tỉnh Tây Bắc và tỉnh Hòa Bình. Tuy nhiên, chúng được gọi tên khác nhau. Ví dụ, ở các khu vực gần Hà Nội, lợn bản được biết đến như là lợn H’Mông.

5.2. Sơ đồ chuỗi giá trị Lợn bản chủ yếu được nuôi để ăn. Chính về vậy, lợn bản thường chỉ bán trong những trường hợp người nông dân cần tiền mặt. Lợn bản cũng được thu mua bởi những người trung gian, họ mang đến các lò mổ hoặc những người sản xuất trực tiếp mang tới các lò mổ và thường vận chuyển bằng xe máy. Một số lợn được bán

Page 39: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

hơi cho các cửa hàng và họ sẽ tự giết mổ chúng. Các lò giết mổ sẽ bán thịt trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua những người bán lẻ. Những người bán lẻ tại các chợ tỉnh bán cho các nhà hàng và người tiêu thụ. Đôi khi những người bán lẻ/người chế biến Sơn La chế biến thịt lợn bằng cách phơi khô. Một số ít những người thu mua ở bên ngoài tỉnh cũng thu mua lợn bản để bán đặc biệt là bán cho các nhà hàng ở miền xuôi. Thịt lợn phơi khô cũng được bán sang các tỉnh khác. Biểu 5.1 Chuỗi giá trị lợn bản

Khó có thể ước tính được số lượng lợn bản được bán và được mua do việc buôn bán diễn ra không chính thức.

5.3. Sản xuất Năm 2004, tổng số lợn tại tỉnh Sơn La ước tính khoảng 452.875 con. Huyện Sông Mã (65.048), Huyện Mai Sơn (958.825 con) và huyện Thuận Châu (55.769 con) là huyện có số lượng lợn lớn nhất. Số lượng lợn ở các huyện khác không thấp hơn mấy. Hiện không được biết tổng số thị phần lợn bản là bao nhiêu. Lợn bản chủ yếu do người dân tộc H’mông nuôi. Mục đích nuôi loại lợn naỳ là để dùng trong nhà và để tiết kiệm. Do đó lợn bản hầu như khôn được nuôi và bán vì mục đích thương mại. Những người nông dân dân tộc Thái có tiềm năng để nuôi loại lợn bản với doanh thu cao hơn do họ thường tiếp thị sản phẩm của họ nhiều hơn ngưòi H’Mông.

Vận chuyển

Chế biến

Bán sỉ/ bán lẻ

Tiêu thụ

Người thu gom

Nông dân nuôi lọn bản

Bán lẻ tại Son La (3650-5475 con)

Người tiêu dùng ở Sơn La

Nhà hàng và quán Bia Hơi ở các tỉnh khác (25 ở Hà Nội và Hà Tây

Các nhà hàng ở Son La và các tỉnh (khỏang 577-1733 con)

Lò mổ

Người tiêu dùng ở các tỉnh khác

1 người chế biến thịt xây (57-171 con)

Sản xuất

Page 40: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Lợn bản được nuôi bằng cỏ, ngô và đôi khi bằng các loại thức ăn không được chế biến như lá chuối, cá và bí ngô. Ngòai việc bổ sung chất sắt thì thường không sử dụng thêm đầu vào nào khác. Lợn bản là ngon nhất khi ở khoảng 10 đến tối đa 15 tháng tuổi. Tại thời điểm đó cân nặng chưa đầy 20 kg và vẫn còn nạc. Thịt lợn lai (ví dụ Đại Bạch lai với Móng Cái) được bán với giá thấp hơn và cần nhiều đầu vào sản xuất hơn lợn bản. Mặc khác, lợn lai lớn nhanh hơn và lợn nái Móng cái đẻ nhiều hơn lợn nái bản. Do đó nếu so sánh ra thì lợn bản ít lãi hơn lợn lai (xem Bảng 5.1). Bảng 5.1 So sánh thu nhập và chi phí cho 1 con lợn nái + các con lợn con lợn lai và lợn bản Lợn Móng cái x 10 con lợn ngoại

Giá/1 tháng

Số tháng

Chi phí (triệu đồng)

6 con lợn bản con

Giá/1 tháng

Số tháng

Chi phí

Các chi phí Các chi phí Thức ăn 360.000 6 2,16 Thức ăn 60.000 10 0,6 Các khoản phụ 78.000 6 0,46 Vẵcin

44.400 1 0,04

Vắc xin

88.800 1 0,08

Tổng chi phí

2,7 Tổng chi phí

0,64

Doanh thu

Giá 1 kg

Số kg Thu nhập

Doanh thu

Giá 1 kg

Số kg Thu nhập

Bán

16.000 600 9,6 Bán 25.000 60 1,5

Lợi nhuận

6,9 0,86

Trong cách tính này, ta giả sử : 1. Lợn nái Móng Cái sinh sản trung bình 10 con và 2 lần một năm trong khi lợn nái Bản sinh sản 2 con và chỉ 1,2 lần một năm 2. Nuôi 10 con lợn lai giữa lợn ngoại và lợn béo Móng Cái mất khoảng 12.000đồng/ngày và nuôi 6 con lợn bản mất khoảng 0-2000 đồng/ngày. 3. Thức ăn bổ sung cho lợn lai giữa lợn Móng Cái với lợn béo là 6.500 đồng/1 tháng cho một con; 4. Vắc xin được dùng cho tất cả giống và là 7.400 đồng/1 con lợn con để giảm tỉ lệ chết; 5. Loại lợn lai lợn ngoại x lợn Móng Cái với lợn mỡ được bán sau 6 tháng nuôi và khoảng 60 kg và lợn bản được bán được bán sau 10 tháng và được khoảng 20 kg. 6. Giá bán lợn lai x lợn Móng Cái tại tỉnh là 16.000 đồng/1 cân hơi và giá lợn bản 10 tháng là 25.000 đồng/1cân hơi. Kết luận này cũng được rút ra bởi GEF-UNDP trong nghiên cứu của họ về các loài động vật/sản phẩm bản địa năm 2004. Nghiên cứu chỉ ra rằng mặc dù các giống vật nuôi bản địa có những ưu thế về chi phí chăn nuôi thấp, cân thấp hơn và giai đoạn sản xuất dài hơn khiến lợi nhuận ít hơn.

Page 41: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

5.4. Các thị trường và chế biến Trong tỉnh Có 10 chợ tại tỉnh Sơn La. Người ta cho rằng, dựa trên những thông tin về 3 thị trường mà ở tất cả các chợ 1 hoặc 2 những chủ lò giết mổ/những người bán lẻ bán lợn bản (thường kết hợp với con lợn thường). Hầu hết các chủ lò giết mổ bán 1 con mỗi ngày (những con nuôi lâu ngày hơn nặng xấp xỉ 60 kg) và do đó hàng năm lợn bản bán ở Sơn La được ước tính khoảng 3,650 con hay 109.500 kg6. Lợn bản thường được giết mổ bằng tay theo qui mô nhỏ hoặc trong sân sau của các nhà hàng. Lợn bản chỉ được bán ở Sơn La, tại các chợ bán đồ tươi ở địa phương. Tại các chợ khác như Mai Sơn, Mộc Châu, Hòa Bình và Hà Nội, không thấy bày bán lợn bản. Tại một trong các chợ tại Sơn La cũng có bán thịt lợn bản khô. Tại các chợ, lợn bản được sấy khô trong 2 ngày trên than hoa sau khi đã đựơc làm sạch, cắt và tẩm ướp với ớt, tỏi, hành, muối và hạt tiêu. Hàng năm, những người bán lẻ bán được khoảng 60kg tương đương 360 kg thịt lợn nạc tươi (tương đương 12 con lợn 60 kg)7. Giá tại chuồng khác nhau nhiều và giữa khoảng 25.000-35.000 đồng/1kg đối với lợn bản ít hơn 15 tháng tuổi và chưa đầy 20 kg. Những con nhiều tháng tuổi hơn được bán với giá 13.000 đồng/1kg. Những con lai được bán với giá 16.000 đồng/1kg. Các lò giết mổ tại Sơn La trả 15.500 đồng/1kg cho lợn bản nuôi dài ngày. Tại chợ địa phương, giá lợn bản và các giống lợn khác là tương tự. Nguyên nhân là chỉ bán lợn bản nuôi dài ngày. Giá tại thị trường tươi sống ở Sơn La trong khoảng 15.000-17.000 đồng/1cân lợn hơi. Lợn bản không quá 15 tháng tuổi, thịt nạc đươc bán tối đa với giá 35.000 đồng/1 kg. 5 đến 6 nhà hàng ở Sơn La phục vụ lợn bản quay, sấy khô, hấp hoặc luộc. Ở hầu hết các cửa hàng. khách hàng phải đặt lợn bản trước. Uớc tính các nhà hàng tại Sơn La phục vụ tối đa 250kg lợn bản mỗi tuần hay 13.000kg mỗi năm. Số lượng này tương đương với 433 con lợn nhiều tuổi hay 1.300 con lợn nhỏ. Giả sử các nhà hàng ở Sơn la chiếm khỏang 75% tổng số các nhà hàng tại Sơn La, tổng lượng tiêu thụ của các nhà hàng vào khỏang 577 và 1.733 con mỗi năm. Tuy nhiên, người ta nghi ngờ rằng liệu các nhà hàng này có bán lợn con hay không bởi một số các nhà hàng mua thịt lợn ngoài chợ-nơi chủ yếu bán các lợn già. Các nhà hàng mà được phỏng vấn là nhà hàng Thái với khoảng 100 khách một ngày. Tại đây phục vụ cả lợn bản và lợn thường. Lợn bản được cho là ngon nhất

6 10 chợ x 365 ngày x (0,5 x 60 Kg) (thịt đã pha bằng 50% thịt lợn hơi) 7 1 Kg thịt tươi bằng 700 gram thịt khô

Page 42: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

nhưng cũng đắt nhất. Các nhà hàng mua các sản phẩm từ chợ địa phương bao gồm cả lợn bản. Giá mua đối với lợn bản đã được giết mổ là từ 35.000 đồng đến 40.000 đồng/1kg. Nhà hàng cho biết là tiêu thụ được 30 kg lợn bản mỗi ngày. Mặc dù nhà hàng không bán các lọai thịt khác , giống như hầu hết các nhà hàng làm, dựa trên các con số tiêu thụ của các nhà hàng khác thì con số thật có thể là ít hơn một chút. Có loại thịt lợn bản được xấy khô trước khi đem ra phục vụ. Giá bán khoảng 70.000 đồng/1kg. 4 nhà hàng tại Mộc Châu phục vụ lợn bản, một số lấy hàng ngày và số khác theo đơn đặt hàng. Các chủ nhà hàng có mối quan hệ tốt với những người thu mua tại các làng trong khu vực xung quanh Mộc Châu. Bất kỳ lúc nào cần lợn, các nhà hàng đều đặt hàng với những người thu mua để mua lợn. Tại Mộc Châu, các chủ nhà hàng thường tự mình giết mổ lợn. Người ta cho biết rằng, sẽ khó kiếm nguồn lợn bản hơn. Tại thời điểm tiến hành các cuộc phỏng vấn, thậm chí có lợn bệnh và do đó các nhà hàng đã dừng phục vụ lợn bản. Giá tại Mộc Châu có cao hơn đôi chút so với Sơn La: tới 120.000 đồng/1kg. Phía bắc Việt Nam Người trung gian vận chuyển lợn bản ra ngoài tỉnh tới Hà Tây và Hà Nội. Do thu nhập của người dân Việt Nam đang tăng lên và họ thích hội họp ăn uống, nhu cầu đối với đặc sản và chất lượng cao cũng tăng lên. Tại đường Láng Hòa Lạc của tỉnh Hà Tây, có 10 quán ăn có bán thịt lợn bản. Đặc biệt trong những ngày nghỉ cuối tuần, các nhà hàng này thường chật kín. 2 nhà hàng lớn nhất này bán gần 10 kg lợn bản mỗi ngày và có khoảng 100 người khách mỗi ngày trong tuần và con số lên tới 500 khách trong ngày nghỉ cuối tuần. Tính tổng cộng, ước tính các nhà hàng tại đường Láng Hòa Lạc bán tối đa là 150 kg lợn bản mỗi tuần, tương đương 15 con lợn 10 tháng tuổi. Tại Hà Nội,có khỏang 12 nhà hàng bán đồ ăn miền núi. Trong số các nhà hàng được phỏng vấn, chỉ có duy nhất một nhà hàng bán các sản phẩm Sơn La. Các nhà hàng khác đã đang bán các sản phẩm lấy từ Hòa Bình. Giá bán lợn bản tại nhà hàng thường cao hơn tại tỉnh: lên tới 150.000 đồng/1kg tại tỉnh Hà Tây và Hà Nội Bảng 5.2 giá lợn bản 10 tháng tuổi trong chuỗi giá trị Đối tượng tham gia Giá bấn hơi đồng/kg Giá bán tại chuồng (lợn hơi: 20 kg)

25,000

Người thu gom/người buôn tại Mộc Châu và Hà Nội (lợn hơi)

40,000–50,000

Người buôn Hà Tây và Hà Nội (lợn móc hàm: 0.5 x trọng lượng hơi)

35,000

Nhà hàng trong tỉnh (lợn đã chế biến: 1 kg lợn hơi được 700 grams thịt lợn khô)

56,000-84,000

Nhà hàng ở Hà Tây và Hà Nội 84,000-105,000

Page 43: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

(lợn chế biến: 1 kg thịt hơi được 700 grams thịt lợn khô) ) Một doanh nghiệp tại Hà Nội cho biết doanh nghiệp đã đăng ký thương hiệu bán thịt lợn bản khô lấy từ tỉnh Sơn La. Doanh nghiệp này mua khoảng 1.200 kg thịt lợn bản khô từ Sơn La với giá 140.000 đồng/1kg (tương đương với 57 con lợn bản già hoặc 171 con lợn bản con)8. Sau khi nhận được, thịt lợn được đóng gói và dán nhãn mác. Có -sử dụng các máy đóng gói chân không đơn giản. Lợn được bán cho 50 đến 70 nhà hàng và các quán bia hơi tại Hà Nội với giá xấp xỉ 160.000 đồng/1kg. Một phần nhỏ hơn của sản phẩm này được bán tới thành phố Đà Lạt và tỉnh Quảng Ninh. Nó được vận chuyển bằng máy bay để giữ lạnh sản phẩm. Không có lợn bản bán tại các siêu thị tại Hà Nội. Giá trung bình đối với lợn thường là 60.000 đồng/1kg (tại siêu thị Big C) Nhìn chung, giá lợn bản là hơi cao trong dịp Tết, ví dụ các nhà hàng tại Hà Tây trả 60.000 đồng/1kg lợn bản nạc hơi ngay dịp trước Tết so với giá thường lệ là 40.000 đến 50.000 đồng/1kg.

5.5. Cạnh tranh Thị trường đối với lợn bản ít tháng tuổi là một thị trường nhỏ. Lợn bản được ăn vào những dịp đặc biệt và không phải hàng ngày do nó tương đối đắt so với thịt lợn từ những giống lợn khác. So với lợn bản Hòa Bình, lợn bản Sơn La được cho là nạc hơn và chính vì vậy có mùi vị và các thành phần ngon hơn nhưng nó cũng đắt hơn. Nhưng nguyên nhân có thể là chi phí vận chuyển cao hơn do Sơn La tương đối xa với Hà Nội. Tình hình của Sơn La và việc thiếu nguồn cung cấp làm yếu đi vị thế thị trường lợn bản Sơn La. Trước hết, việc nuôi lợn nạc Bản đang phải cạnh tranh với lợn bản mỡ. Thậm chí những người nông dân muốn nuôi lợn bản nhưng họ không muốn để đưa lợn bản cho các chợ trên do thực tế họ có thể bán những con lợn già hơn có doanh thu cao hơn là những con lợn bản nhỏ hơn. Bảng 5.3 So sánh thu nhập giữa lợn bản béo và nạc Lợn bản 60 kg Thu nhập đồng Lợn bản 20 kg Thu nhập đồng Thu nhập 60 x 13.000 đồng/kg

780.000 Thu nhập 20 x 25.000 đồng/kg

500.000

Tuy nhiên, điều này là bị hiểu sai do trong thời gian nuôi lợn bản được 60 kg là phải nuôi trong 30 tháng, gấp 3 lần so với việc nuôi lợn bản 20 kg. Do vậy, việc

8 1.200 Kg thịt khô = 1.714,28 thịt tươi = 3.428,57 thịt tươi = 171 con lợn bản nhỏ 20 Kg hay 57 con lợn bản lớn 60 Kg

Page 44: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

nuôi lợn bản 20 kg, nêú làm theo kiểu kinh doanh và hiệu quả thì nó có thể có lợi nhuận nhiều hơn so với việc nuôi loại lợn bản 60 kg. Biểu 5.4 So sánh thu nhập giữa lợn bản béo và nạc

Thu nhập từ lợn bản 60 kg trong30 tháng Thu nhập từ lợn bản 20 kg trong 30 tháng Thời gian tính bằng tháng

Doanh thu Triệu đồng

Chi phí Triệu đồng

Doanh thu Triệu đồng

Chi phí Triệu đồng

10 Không có 0 Thức ăn 6 x 10 tháng x 30 ngày x 200 đồng

0,36 Bán 6 x 20 kg lợn 25.000 đồng/kg

3 Thức ăn 6 x 10 tháng x 30 ngày x 200 đồng

0,36

20 Không có 0 Thức ăn 6 x 10 tháng x 30 ngày x 200 đồng

0,36 Bán 6 x 20 kg lợn 25.000 đồng/kg

3 Thức ăn 6 x 10 tháng x 30 ngày x 200 đồng

0,36

30 Bán 6 x 60 kg lợn 13,000 đồng/kg

4,68 Thức ăn 6 x 10 tháng x 30 ngày x 200 đồng

0,36 Bán 6 x 20 kg lợn 25.000 đồng/kg

3 Thức ăn 6 x 10 tháng x 30 ngày x 200 đồng

0,36

Lợi nhuận

3,6 7,92

*Trong tính tóan này, chỉ tính chi phí mua lợn giống, không tính chi phí lợn nái ** Giả sử mỗi lần có 6 lợn nhỏ để bán, điều này về lý thuyết là hòan tòan có thể.

5.6. Điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội và thách thức ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Sản phẩm sạch -Mùi vị đặc biệt -Ít bị lây nhiễm các bệnh dịch hơn các giống lợn khác - Giá mỗi kilogram thịt lợn nạc cao - Đầu vào sản xuất tương đối ít

- Nông dân thiếu kiến thức về thị trường và thiếu quan tâm đến việc chăn nuôi để kinh doanh - Số lượng con đẻ ra ít -Chậm lớn -Ít/không có hỗ trợ tư vấn

CƠ HỘI ĐE DỌA - Nhu cầu đối với các đặc sản tăng lên - Đối thủ chuyển sang giống lợn ngoại -Các thương hiệu đối với lợn bản 100%

-Lợi thế thu nhập từ lợn bản già - Lợi thế thu nhập từ lợn ngoại

Những điểm mạnh và điểm yếu Lợn bản là sản phẩm hữu cơ tinh khiết có mùi vị và thành phần thơm ngon. Loại này có giá cao và có thể có lợi cả đối với thịt lợn nạc và mỡ. Nuôi lợn bản không đòi hỏi nhiều lao động và cũng không yêu cầu chi phí đầu tư và sản xuất cao. Ngòai ra cũng có thị trường đối với thịt lợn bản

Page 45: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Mặt khác, mặc dù lợn bản ít hơn các giống lợn khác nhưng nó laị là loại dễ nhiễm bệnh. Lợn bản dễ chết khi chúng nhiễm bệnh do chúng được thả dông, đặc biệt nếu chúng không được tiêm văcxin. Trên hết, các nhà sản xuất không thu hút được bất kỳ ai nuôi lợn bản. Một vài nguyên nhân đối với vấn đề này là: - Lợn bản tăng trưởng chậm - Những người nông dân muốn nuôi lợn ngoại lai, lợn Đại Bạch so giống này cho lợi nhuận cao. - Nhiều người nông dân H’Mông nuôi lợn bản để ăn, không phải để bán. Những cơ hội và thách thức Đối với những người nông dân không muốn đổi sang nuôi lợn ngoại thì lợn bản non là một mặt hàng có tiềm năng để nâng cao thu nhập. Có nhu cầu tăng chậm đối với các sản phẩm đặc biệt tại tỉnh và Hà Nội. Thứ hai, việc cung cấp lợn bản đang bị giảm do nhiều người nông dân bỏ nuôi lợn bản, điều này xaỷ ra đối với những người nông dân làm kinh doanh hơn là bán. Lợn bản có thể được bán như một loại sản phẩm đặc biệt từ các khu miền ngược. Các thương hiệu có thể được sử dụng để đảm bảo chất lượng và nguồn gốc xuất xứ sản phẩm. Tuy nhiên, mối đe dọa như đã được đề cập trước đó là: thậm chí người nông dân muốn nuôi lợn bản nhưng họ không muốn chuyển lợn bản cho phía cuối chợ vùng cao do thực tế là họ tin rằng họ có thể bán được những con lợn bản già sẽ được nhiều tiền hơn những con lợn bản trẻ.

6. Ngành Bí ngô 14 người hoạt động trong chuỗi gía trị về bí ngô đã được phỏng vấn sâu. Ngoài một số chợ rau quả tươi , các thị trường nhỏ và các siêu thị ở cả tỉnh Sơn La, tỉnh Hòa Bình và Hà Nội đã được đến để nghiên cứu khả năng và đặc tính của các sản phẩm bí ngô: Người sản xuất

Người thu gom

Người kinh doanh

Người chế biến/Xuất khẩu

Bán lẻ Nhà hàng

Cơ quan nhà nước

2 1 4 4 3

6.1. Giớí thiệu 3 giống bí ngô được trồng tại Sơn La là: hai loại là bí đỏ (bí ngô), Bí Tẻ và Bí nếp và một loại nữa là bí xanh Từ các nghiên cứu, thị trường đối với loại bí xanh bị hạn chế. Việc trồng loại bí này chỉ tìm thấy tại Mộc Châu, khoảng 3.000 tấn. Bí xanh được thu mua bởi 3 hoặc 4 người kinh doanh từ Mộc Châu và những huyện khác. Đa phần sản phẩm này được cho biết là bán cho các ngành hộ gia đình để làm mứt bí xanh (80%),

Page 46: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

trong khi số còn lại được bán tươi tại chợ; chủ yếu ở Hà Nội. Được đề cập đến trong các cuộc phỏng vấn là bí xanh được chế biến trong các ngành bánh kẹo nhưng không có ngành nào như thế được tìm thấy trên địa bàn Hà Nội. Do chuỗi giá trị ngắn nên bất kỳ hoạt động chế biến nào dường như cũng khó tồn tại và giá trị của bí xanh thấp (giá tại ruộng của ngưòi nông dân là khoảng 500đồng/1kg) nhưng cũng do sản phẩm đã không được nhắc đến như một sản phẩm có tiềm năng trong khi bắt đầu gặp gỡ với các khách hàng của SNV tại Sơn La, sản phẩm đã không được khảo sát nhiều hơn.

6.2. Sơ đồ chuỗi giá trị Trước tiên, bí ngô được dùng để nuôi lợn. Số lượng dư thừa tại Sơn La chủ yếu được bán cho một người lái buôn tại Cò Nòi, người này bán cho 3 nhà chế biến tại tỉnh Hải Dương. Các nhà chế biến tại Hải Dương xuất khẩu bí đổ sang Hàn Quốc. Hạt, tươi hoặc khô được bán tại các chợ địa phương. Biểu. 6.1 Sơ đồ chuỗi giá trị Bí ngô

Vân chuyển

Chế biến

Bán xỉ/ lẻ

Người mua bán ở Cò Nòi (1.500 tấn/năm)

Người trồng ngô Sơn La (xx. 3500 tấn)

Người tiêu dùng Việt Nam (hạt) Người chế biến/xuất

khẩu Hải Dương (tổng 5.000-10.000 tấn/năm)

Người chế biến Hải Dương (tổng số 4.000 tấn/năm)

Sản xuất

Thị trường Hàn Quốc (5.000-10.000 tấn/năm)

Người tiêu dùng

Người tiêu dùng Sơn La

Người bán lẻ ở chợ Son La : lá, quả, hạt

Những người buôn khác

Bí các tỉnh khác

Page 47: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

6.3. Sản xuất Trung tâm Khuyến nông Sơn La ước tính diện tích trồng và năng xuất bí ngô khỏang 10% tổng sản lượng của các vụ mùa phụ. Do vậy bởi tổng sản lượng rau được sản xuất tại Sơn La là 35.766 tấn (Cục thống kê Sơn La) (xem Biểu Sản xuất trong Phụ lục II), nên tổng sản lượng bí ngô ước tính là 3.577 tấn. Trong đó chủ yếu là bí Tẻ. Hầu hết bí ngô được sản xuất tại huyện Mai Sơn. Đặc biệt là làng Chiềng Khương, Tà Hộc trồng bí ngô để kinh doanh. Bí ngô cũng được trồng tại huyện Bắc Yên và Yên Châu và cho một qui mô ít hơn, tại huyện Mộc Châu, nơi phù hợp hơn cho việc sản xuất bí xanh. Người trồng bí chủ yếu là người H’Mông. Tuy nhiên, những người dân tộc bán bí tại Sơn La chủ yếu là người Thái (80%). Nguyên nhân đối với điều này có thể là người H’Mông vẫn chưa tham gia rộng rãi vào việc làm kinh tế trang trại. Người sản xuất trồng bí cùng với các vụ mùa khác. Họ trồng bí duới những gốc cây ăn quả như mận hoặc các cánh đồng ngô. Tuy nhiên, một người nông dân đã cho biết các loại bí không thể chịu được nhiều phân bón và chính vì vậy, do ngô không thể trồng thiếu phân và phân bón nên người nông dân trồng bí xung quanh ngô. Những người nông dân có kinh nghiệm trồng bí thì rất dễ nhưng loại cây trồng này nhạy cảm đối với thời tiết mưa quá nhiều hay hạn hán. Bí được trồng khoảng tháng 4 và thu hoạch vào tháng 10. Như đã được nói đến, bí là loại sản phẩm phụ đối với người nông dân. Ở nơi đầu tiên, nó được trồng để nuôi lợn. Nếu thừa thì bán. Lá bí được người sản xuất dung để ăn hoặc được bán tại các chợ rau quả tươi. Khó để nói, năng xuất bí là bao nhiêu vì nó được trồng xen lẫn với ngô. Chi phí sản xuất cũng không biết là bao nhiêu nhưng ước tính là thấp do người nông dân sử dụng hạt bí mà đã được thu hoạch trong vụ mùa trước đó. Trên hết, bí ngô không cần phải chăm sóc nhiều hoặc đầu vào các sản phẩm khác. Giá bán bí tại ruộng của những người nông dân là khoảng 1.000 đồng /1 kg sau khi thu hoạch và 1.600 đồng /1 kg trong dịp tết. Từ các cuộc phỏng vấn, thu nhập tính ra được từ bí là khoảng 10-30% trong tổng thu nhập hộ gia đình. Dựa trên thu nhập trung bình theo hộ gia đình nó là khoảng 280.000 đồng – 840.000 đồng mỗi năm.

6.4. Các thị trường và chế biến Tại tỉnh

Page 48: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Dựa trên các cuộc phỏng vấn, ước tính đa số bí ngô được bán cho khỏang 10 người thu gom ở các trục đường chính ở các huyện, Số còn lại được bán cho một số ít người buôn bán ở các chợ đồ tươi địa phương, nguyên quả hoặc chỉ bán hạt. Rau bí cũng được bán ở các chợ đồ tươi này. Có 10 người thu gom được hợp đồng bởi một người buôn ở Cò Nòi. Người này lấy bí từ các tỉnh Sơn La, Điện Biên Phủ và Lào Cai tương đương với 80%, 10% và 10% tổng lượng mua bán.Thương gia này mua và bán khoảng 900 và 2.500 tấn mỗi năm, phụ thuộc vào điều kiện thời tiết và những thất thóat trong qúa trình vận chuyển Bảng 6.1 Mua bán Bí ngô Sơn La Bán Bí ngô tại Cò Nòi Tấn 2003 2,500 2004 800 2005 1,200 Người thương gia này có 80% thị phần tại Sơn La, tổng số bí bán tại Sơn La khoảng 1.875 tấn (thừa nhận rằng người thương gia này thường kinh doanh khoảng 1.500 tấn). Phần còn lại được bán bởi một số người môi giới nhỏ. Do nhiều bí bị hư hại trong quá trình vận chuyển nên tổng lượng mua bán có thể cao hơn nhiều9. Phía bắc Việt Nam Được biết Bí lấy từ Sơn La được bán tối thiểu cho 3 người chế biến tại Hải Dương, 2 trong số đó là nhà xuất khẩu Giá sản phẩm bí tại các chợ rau quả tươi như sau: Bảng 6.2 Giá bí ngô tòan quốc Giá Các chợ trong

tỉnh (Mộc Châu và Sơn La)

Chợ Hòa Bình Chợ Hà Nội

Tươi 1,500-3,000 (trái vụ)

1,500-3,000 (trái vụ)

4,000 (trái vụ)

Hạt tươi 20,000 / 30,000 (Bắc), 35,000 (Trung Quốc), 35,000 (miền Nam)

Hạt đã rang 25,000-27,000 / 40,000-45,000 (Bắc), 45,000-50,000 (Nam)

Rau 5,000 5,000 / Giá tại các siêu thị Hà Nội không khác nhiều so với giá tại các chợ rau quả tươi: Bí ngô đã được bán với giá 4000 đồng/1kg và hạt bí được bán với giá 52.000 9 Vào năm 2005, hai xe tải 90 tấn bị lật khi đang đi về Hà Nội

Page 49: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

đồng/1kg (Big C) . Hạt bí tại các chợ tươi sống lấy từ Sơn La và Điện Biên Phủ và được phân phối tại chợ Đồng Xuân, Hà Nội. Bí tươi chủ yếu được chuyển từ các huyện xung quanh Hà Nội. Cơ cấu giá bí thông qua chuỗi xuất nhập khẩu là như sau: Bảng 6.3 Giá trị gia tăng trong chuỗi Đối tượng Giá bán đồng/kg bí ngô tươi Nông dân 1,050 Người buôn 1,300 Người chế biến 1,100 – 1,500 Người xuất khẩu Việt Nam 1,352 – 1,802 Người nhập khẩu Hàn Quốc ? Người bán lẻ Hàn Quốc ? *1 USD: 15,900 D ** 1 kg khô = 15 kg - 20 kg tươi *** Giá bán bí ngô khô là 22,000 đồng/kg Nguyên nhân tại sao các nhà máy chế biến bán các sản phẩm đã được chế biến với giá thấp hơn so với giá mua của họ có thể là do họ cũng bán cả hạt bí.

Page 50: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Quốc tế 4 nhà xuất khẩu bán bí sấy (50%) và bí cấp đông (50%) sang Hàn Quốc, nơi được dùng như kẹo hay như một thành phần của các món ăn như bánh . Tổng khối lượngbí được chế biến cho xuất khẩu được ước tính là nằm trong khoảng 5.000 và 10.000 tấn Bí được chế biến để xuất khẩu theo 2 cách: 1. Bỏ vỏ, rửa sạch, cắt miếng, phơi khô và đóng gói 2. Bỏ vỏ, rửa sạch, cắt miếng, để nơi thoáng mát và đóng gói Hạt được phơi khô và được bán tại các chợ địa phương, nơi chúng được bán tươi hoặc khô. Hầu như những người bán lẻ thường rang lên. Đa phần những người chế biến bằng lò sấy lớn. Từ tháng 10 đến tháng 12 họ thường thuê lao động để làm việc này. Một trong số những nhà xuất khẩu thuê 100 hộ gia đình sấy bí trong các lò nhỏ tại nhà của họ. Các kỹ thuật đơn giản thường được sử dụng. Các lò sử dụng than hoa, bí được sấy khô ở các giá trong lò. Chất lượng (ít mùi than và vệ sinh hơn) có thể được nâng cao thông qua việc buôn bán lò có quạt thông gió cải tiến. Một cái lò như thế có khả năng sấy khô 300kg tới 400 kg bí mỗi ngày. Chi phí đầu tư ước tính 300-500 triệu đồng. Việt Nam xuất khẩu bí ngô sang Hàn Quốc kể từ 1989. Khối lượng buôn bán hàng năm tăng khoảng 20%. Tuy nhiên hầu hết bí ngô ở Hàn Quốc là bí Nhật trồng tại New Zealand. New Zealand và Hàn Quốc có thỏa thuận thương mại là tất cả bí ngô tươi tại Hàn Quốc sẽ được nhập khẩu từ New Zealand. Đó là lý do tại sao Việt Nam chỉ bán bí ngô đã được chế biến sang Hàn Quốc.

6.5 Cạnh tranh Bí ngô Sơn La nhỏ nhưng có vị ngon hơn và mùi thơm hơn bí ngô đồng bằng. Lý do có thể là bí ngô Sơn La là giống bản địa được trồng trong thời gian 6 tháng thay vì 3 tháng như bí ngô ở đồng bằng. Ngòai ra có thể cất giữ bí ngô Sơn La lâu hơn các giống bí ngô khác. Bí ngô cũng được trồng ở Thái Nguyên, Bác Giang, Bắc Ninh, Hải Dương, Thái Bình và Ninh Bình (giống Cao Thanh, Cao Sản và Mũi tên đỏ). Ở một số tỉnh, bí ngô được trồng một năm hai vụ và năng suất cao hơn bí ngô Sơn La rất nhiều, khỏang 16 tấn/ha so với 11 tấn/ha (tức 400 kg/360m2 và 600 kg/360m2). Bí ngô Sơn La có lợi thế về mùa vụ do thu hoạch vào mùa thu: Bảng 6.4 Mùa vụ của bí ngô Tỉnh Sơn La Thái Nguyên Bắc Giang /

Bắc Ninh Thái Bình Ninh Bình Hải Dương

Mùa thu hoạch Tháng 10-11

Tháng 1-4 Tháng 1-4 Tháng 5-7 Tháng 5-7 Tháng 5-7

Page 51: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Một đặc tính nhỏ của bí ngô Sơn La là giá cả: khi tất cả bí ngô giá 700-800 đồng/kg, gía bí ngô Sơn La tại Hải Dương vào khỏang 1.200 và 1.300 đồng/kg. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng tới nhu cầu bởi lái buôn vẫn muốn mua ngô. Bí ngô New Zealand được coi là bí ngô ngon nhất về kích thước và mùi vị. Tuy nhiên trên thị trường Hàn Quốc bí ngô Sơn La cũng được xem là ngon về mùi vị. Lý do có thể là tương tự như bí ngô Hàn Quốc, bí ngôn Sơn La được trồng trên vùng núi. Trung Quốc cũng xuất khẩu bí ngô sang Hàn Quốc. Trên thực tế, Trung Quốc là nước sản xuất nhiều bí ngô nhất trên thế giới. Tuy nhiên các giống bí ngô này được cho là giống kém về mùi vị. Trong khỏang tháng 7, tháng 8, không xuất khẩu sang Hàn Quốc bởi đây là mùa thu hoạch bí ngô Hàn Quốc. Một lợi thế cạnh tranh của bí ngô là số lượng người mua ít. Điều này có thể ảnh hưởng tới khả năng thương lượng của người trồng bí ngô. Hơn nữa, sẽ rất mạo hiểm nếu chỉ phụ thuộc vào một số ít người mua. Rào cản đầu ra và đầu vào trong thị trường sản xúât bí ngô nhỏ. Tuy nhiên rào cản trong thị trường chế biến bí ngô lại cao hơn bởi cần phải đầu tư vào thiết bị chế biến.

6.6 SWOT

ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Dễ trồng - Mùi vị đặc biệt - Có tiếng - Các sản phẩm phụ: hạt, lá - Đầu vào cho sản xuất nhỏ - Thị trường và sản phẩm đa dạng - Mùa thu hoạch - Thời gian lưu trữ (dài)

- Thu hoạch dễ bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu - Lượng cung cấp nhỏ - Vụ màu: không được ưu tiên - Thiếu lao động (chế biến) - Ít lợi thế cạnh tranh về hạt: hạt nhỏ hơn các giống bí ngô khác - Phụ thuộc vào một lái buôn - Giá cao

CƠ HỘI THÁCH THỨC - Nhu cầu tại thị trường xuất khẩu (Hàn Quốc) vẫn tăng market - Chế biến tại Sơn La: sấy, lưu kho - Quá trình chế biến - Các thị trường mới: bí ngô sấy giòn

- Cạnh tranh với bí ngô Trung Quốc - Cạnh tranh với bí ngô New Zealand

Bí ngô là sản phẩm dễ trồng và hầu như không cần thêm đất hoặc nguyên liệu đầu vào khác. Bí ngô Sơn La cũng có tiếng tốt do mùi vị và khả năng lưu trữ lâu hơ và có thị trường đối với bí ngô.

Page 52: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Vấn đề nằm ở chỗ để tăng sản xuất bí ngô người nông dân cần phải được thúc đẩy để trồng thêm loại hoa màu này. Bởi bí ngô là sản phẩm phụ và lao động thu hái và bán bí ngô lại hạn chế nên điều này quả không dễ dàng. Có nhiều cơ hội tốt để thị trường bí ngô phát triển mạnh. Trước hết, khối lượng xuất khẩu sang Hàn Quốc vẫn có tiềm năng tăng trưởng. Xuất khẩu từ trước tới nay tăng 20% mỗi năm. Các nhà buôn nói họ sẽ mua nhiều bí ngô Sơn La hơn nếu có. Năng xuất chế biến dư thừa là 2.000 tấn bí ngô/năm. Ngòai ra có thể có thê giá trị gia tăng bằng cách sấy bí ngô tại Cò Nòi hoặc tại các bản. Tuy nhiên, cần phải phân tích tính kinh tế của việc này bởi giá bí ngô khô không cao hơn giá bí tươi nhiều trong khi qua chế biến, khối lượng bí ngô lại giảm. Một cơ hội khác có thể là chế biến bí ngô cho thị trường bánh kẹo trong nước. Một nhà máy tại tỉnh Hưng Yên dự kiến chế biến 300 tấn bí ngô tươi thành 20 tấn bí ngô sấy trong năm 2006. Bí ngô sấy được bán cho 7 nhà phân phối tại Hà Nội, Hải Dương và Hải Phòng. Sau năm 2006, công ty sẽ mở rộng thị trường tới Đà Nẵng (2007), miền Nam (2008) và cả thị trường quốc tế. Hiện tại nhà máy đang sử dụng giống bí ngô có tên Mũi tên đỏ. Giống bí này được cung cấp từ Thái Bình và Hải Dương. Nhà máy rất quan tâm tới việc cung cấp Bí Đá. Giống bí này được trồng ở tỉnh Lào Cai nhưng lượng cung cấp lại hạn chế, chỉ có 40 tấn một năm. Có thể Bí đá cũng được trồng ở Sơn la hoặc tương tự như bí ngô Sơn La. Trong trường hợp này, nông dân Sơn La cũng có thể cung cấp bí ngô cho công ty này. Cần phải kiểm tra điều này. Giá công ty trả cho người trung gian tương tự như các công ty chế biến khác: giữa 1.200 và 1.300 đồng/kg. Công ty không bán hạt mà cho công nhân để gây quĩ cho các hoạt động tập thể. Giá bán lẻ bí ngô sấy xấp xỉ 120.000 đồng/kg. Chi phí chế biến chiếm khỏang 72.000 đồng/kg, khỏang 27% chi phí này rơi vào chi phí nguyên liệu thô. Tỷ lệ hòan vốn (chủ yếu là máy móc) dự tính 7 tới 8 năm. Điểm yếu chính của việc sản xuất và chế biến bí ngô ở Sơn la có lẽ là thiếu lao động. Ví dụ, để sấy bí ngô ở Cò Nòi, cần phải có 100 nhân công trong thời gian 2 tháng. Lao động ở Sơn La cũng đắt hơn: ở Hà Nội, nhân viên được trả 20.000 đồng/ngày trong khi ở Sơn La là 40.000 đồng/ngày. Một giải pháp có thể là sấy bí ngô ở tại làng. Tuy nhiên cần chi phí lên tới 2 triệu đồng cho một lò đối với lò đơn giản (nền, mái, tường) và xấp xỉ 7 triệu đồng cho lò ít khói gần đây được SNV thiết kế lại. Ngòai ra việc kiểm sóat chất lượng cũng là một vấn đề. Mối đe dọa bên ngoài chủ yếu là cạnh tranh từ bí ngô Trung Quốc giá rẻ. Giá bí ngô cũng có thể giảm nếu nhiều bí ngô được trồng ở Sơn La hơn.

Page 53: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

7. Ngành gạo địa phương 14 đối tượng trong chuỗi giá trị gạo đã được phỏng vấn sâu. Ngòai ra, nhóm nghiên cứu cũng đi thăm nhiều chợ rau quả, chợ nhỏ và siêu thị ở cả tỉnh Sơn La và Hòa Bình, Hà Nội để nghiên cứu các loại và các đặc tính của các sản phẩm gạo: NGƯỜI SẢN XUẤT

NGƯỜI THU GOM

NGƯỜI BUÔN BÁN

NGƯỜI CHẾ BIẾN/XUẤT KHẨU

BÁN LẺ NHÀ HÀNG

CƠ QUAN CHINH PHỦ

2 1 5 3 3 3

7.1 Giới thiệu Trừ một số giống nhập (ví dụ Nếp 87), có nhiều giống gạo bản địa được trồng ở Sơn La. Chủ yếu đựoc chia làm hai nhóm, gạo nếp và gạo tẻ:

• Nếp Tan (gạo nếp) • Thuận Châu (Nếp Tan của Sơn La) • Nêp Nương (gạo nếp) • Tẻ Mèo • Tẻ Dao • Nếp Con giòi (gạo nếp) • Nếp Mường Chanh (gạo nếp) • Nếp mèo (gạo nếp)

7.2 Bản đồ chuỗi giá trị Từ các cuộc phỏng vấn với những người trồng và buôn gạo, có thể kết luận rằng gạo Sơn La chủ yếu được trồng để ăn. Gạo được bán ra là do người thu gom ở làng thu gom. NGười thu gom ở hàng gửi cho người buôn bán ở các thị trấn và sau đó những người này bán cho các của hàng bán lẻ, nhà hàng và khách tới thăm quan và làm việc tại Sơn La. Các cửa hàng bán lẻ bán các giống gạo địa phương chủ yếu cho các nhà hàng. Số còn lại được bán cho người tiêu dùng thu nhập cưo hơn và du khách. Không phát hiện ra kệnh buôn bán lớn nào trong suốt quá trình nghiên cứu thực địa. Chỉ trừ một nhà hàng ở tỉnh Hà Tây, ngòai ra không tìm thấy gạo Sơn La ngòai biên giới tỉnh này.

Page 54: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Biểu.7.1 Bản đồ chuỗi giá trị Gạo

7.3 Sản xuất Theo thống kê của Sơn La, tổng sản lượng gạo hiện tại của Sơn la là 133.946 tấn vào năm 2004 (xem chi tiết tại Biểu Sản lượng trong Phụ lục II). Sản lượng tính theo đầu người thấp hơn mức tiêu thụ trung bình 160kg tính trên đầu người, điều này có thể giải thích phần nào cho khối lượng các giống gạo địa phương được buôn bán ít. Các giống gạo địa phương nhạy cảm với điều kiện thiên nhiên. Năng suất của chúng liên quan tới đất, độ cao và thời tiết. Do đó các giống gạo khác nhau được trồng ở nhiều vùng khác nhau: Bảng 7.1 Các giống gạo và vùng sản xuất Giống gạo Vùng sản xuất Nếp Tan Mường La (Ngạc Chiến), Sơn La, Mai Sơn (Mường

Tranh), Sông Mã Nếp Nương Mai Sơn Tẻ Mèo Mộc Châu, Sông Mã Tẻ Dao Quỳnh Nhai Nếp Con Giòi Bắc Yên Năng suất của các giống gạo nêu trên thấp. Ví dụ, Nếp Tan có năng suất xấp xỉ 600 kg, so với năng suất của Nếp 87 là 8 tấn/Ha. Có nhiều nguyên nhân cho điều này (theo chuỗi giá trị gạo Điện Biên, Agrifood 2006):

• Chất lượng giống kém. • Lượng nước cung cấp hạn chế. • Kỹ thuật canh tác kém.

Vận chuyển

Chế biến

Bán xỉ / lẻ

Người thu gom ở làng

Nông dân trồng để ăn

Sản xuất

Bán lẻ/chế biến ở Sơn La (tối đa 5.000 tấn gạo Sơn La)

Người tiêu dùng/ Du khách tới Sơn La

Các nhà hàng ở Sơn La (26 tấn một năm)

Người tiêu dùng

Page 55: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

• Sử dụng phân không hợp lý • Kiểm sóat sâu bệnh kém. • Đất không phì nhiêu.

Một số giống, ví dụ như Nếp Mường Chanh, Tẻ Mèo và Tẻ Dao dó đó gần như đã biến mất. Các giống gạo địa phương càng ngày càng mất đi là do trồng các giống địa phương thì cần thời gian sản xuất tương đối dài. Hai là, mùa vụ trồng các giống địa phương và các giống ngoại nhập trồng chéo nhau. Ví dụ, Nếp Tan được trồng 7 tháng so với Nếp 87 chỉ có 5 tháng và cần phải trồng vào tháng 5 trong khi Nếp 87 được gặt vào tháng 6. Rất khó khuyến khích người nông dân sản xuất các giống gạo địa phương đặc biệt bởi doanh thu thấp: Bảng 7.2 Chí phí và doanh thu trên 1 ha: gạo lai và gạo bản địa Nếp 87 Giá trị tính bằng đồng Nếp Tan Giá trị tính bằng đồng Chi phí Thu nhập Sản lượng (8.000 kg x 3.000 đồng)

24.000.000 Sản lượng (600 kg x 5.700 đồng)

3.420.000

Chi phí Chi phí Hạt giống 200.000 Hạt giống 0 Phân bón 5.000.000 Thu nhập ròng 18.800.000 Thu nhập ròng 3.250.000 *Ví dụ trên không tính chi phí lao động.

7.4 Thị trường và quá trình chế biến Trong tỉnh Chỉ có một số người buôn bán tại tỉnh bán gạo giống địa phương. Ví dụ tại thị xã Sơn la, chỉ có 4 người. Ước tính 4 người buôn này không bán nhiều hơn 700 tấn gạo địa phương một năm. Một người bán gạo được phỏng vấn mua và bán gạo Nếp Tan cho du khách từ dưới xuôi lên và bán gạo giống nhập rẻ hơn cho người tiêu dùng ít tiền hơn. Người này mua gạo từ xã Ngọc Chiến, Huyện Mường La. Đây là xã hiện được coi là nơi trồng Nếp Tan ngon nhất. Nếp Tan Sông Mã đứng thứ hai. Có thể nhận thấy sự khác biệt về chất lượng từ giá bán ra của người bán buôn cho người bán lẻ, hiện tại là 8.000 đồng/kg đối với gạo Nếp Tan Mường La và 7.000 đồng/kg đối với gạo Nếp Tan Sông Mã. Người bán buôn mua thóc rồi tự xát và sàng sảy trước khi bán. Một người buôn nhỏ hơn ở Cò Nòi chủ yếu bán gạo Nếp Tan ở Huyện Sông Mã, Ngọc Chiến cho khỏang 6 hoặc 7 người buôn ở Hà Nội. Có ba người buôn gạo ở Cò Nòi mỗi người bán khỏang 500 tấn thóc chưa xát mỗi năm.

Page 56: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Ngòai các nhà buôn nhỏ, Công ty Lương thực Tây Bắc cũng mua bán gạo, mỗi năm 10.000 tấn tại ba tỉnh (Sơn La, Điện Biên và Lai Châu). Trong tổng số này khoảng 500 tấn là gạo Sơn La. 80% là gạo tẻ IR 64, 10% Nếp Tan và 10% Nếp Nương. Công ty Lương thực Tây Bắc cho rằng công ty chiếm khỏang 10% thị phần. Giả sử điều này là đúng, tổng số lượng gạo Sơn La được mua bán do đó sẽ là 5.000 tấn một năm. Nói chung, giá cả khác nhau rất nhiều giữa các giống gạo khác nhau: Bảng 7.3 Giá gạo đồng/kg Giống gạo Giá tại nơi sản xuất Giá bán lẻ Nếp Tan 4.400-7.000 Lên tới 9.000 Nếp Tan Thuận Châu 8.000-10.000 Tẻ Nương 4,000 Bao Thái 2.700 2.700 Tẻ Dao 10.000 Tẻ Mèo 9.000 Nếp 87 3.000 3.000 Có rất nhiều cửa hàng bán gạo ở Sơn La. Ví dụ, ở thị xã Sơn la đã có hơn 50 cửa hàng bán lẻ. Tuy nhiên, chỉ một số ít bán gạo giống địa phương Sơn La. Có một số nhà hàng trong thị xã bán các món ăn dân tộc bao gồm cả gạo địa phương. Ở Sơn La, có bảy nhà hàng (4 Thái và 3 Kinh) bán gạo Nếp Tan Sơn la. Ước tính các nhà hàng này bán 500 kg/tuần. Chủ nhà hàng Thái được phỏng vấn cho nghiên cứu này chủ yếu bán gạo Nếp Tan ở Huyện Sơn La. Gạo Nếp Tan không cần phải nấu lâu như Nếp Nương và Nếp Con Giòi. Chủ nhà hàng khác ở Mộc Châu chủ yếu bán gạo Tẻ Dao, khỏang 20kg/ngày (cả thức ăn và gạo hạt). Giống Tẻ Dao do người H’Mong trồng, gạo Nếp Mèo chỉ được dùng trong các ngày Tết. Nói chung, mặc dầu gạo nếp vùng cao chỉ được tiêu thụ hàng ngày, người miền xuôi chỉ ăn vào những dịp đặc biệt như trong các lễ cưới hoặc ngày tết. Thị trường do đó rất hạn chế. Ngòai ra gạo nếp cũng được dùng để làm bánh. Thị trường của gạo địa phương do đó khá hạn chế. Miền Bắc Việt Nam Khi đi thực địa ở Hà Nội, chỉ tìm thấy hai loại gạo Sơn La ở các đại lý đặc sản: nhà hàng Mai Sơn và của hàng Sơn La. Cửa hàng thứ nhất tìm nguồn gaoj từ một người buôn bán nhỏ và cửa hàng thứ hai tự mua và bán. Mỗi năm chỉ bán một lượng gạo nhỏ. Do đó có thể kết kuận rằng hoặc dầu có 60 loại gạo khác nhau ở Hà Nội ở các cửa hàng bán lẻ và siêu thị, nói chung không có gạo Sơn La. Mặc dầu có nhiều gạo Điện Biên được bán ở tỉnh Sơn La nhưng ngược lại thì không (SNV/ Agrifood 2006).

Page 57: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

7.5 Cạnh tranh Gạo Điện Biên nổi tiếng bởi chất lượng tốt và do đó thị trường của nó ngày càng phát triển. Tuy nhiên, ở tỉnh Sơn La, nhiều đối tượng tham gia trên thị trường cho rằng gạo nếp Sơn La dẻo hơn và ngon hơn gạo nếp Điện Biên. Điều này có thể cũng là lý do tại sao gạo nếp Sơn La lại được bán đắt hơn gạo Điện Biên tại thị xã Sơn La: 9.000 và 8.000 đồng/kg. Gạo tẻ Điện Biên mặt khác lại đắt hơn gạo tẻ Sơn La ở mức 7.000 đồng so với 4.000 đồng/kg giá bán lẻ. Gạo này cũng được đánh giá tốt hơn về chất lượng. Ở ngòai tỉnh Sơn La, người bán lẻ dường nhưu không biết được nguồn gốc các loại gạo. Khi hỏi về gạo Sơn La ngòai tỉnh Sơn La, các cửa hàng bán lẻ thường cho xem gạo Điện Biên. Do đó cũng có nhiều khả năng là gạo Sơn La đôi khi bị lẫn vào gạo Điện Biên hoặc thậm chí được bán coi như là gạo Điện Biên. Tuy nhiên, vì lượng cung cấp gạo Sơn la rất hạn chế nên điều này có thể không thường xuyên xảy ra. Các rào tham gia bắt đầu trồng các giống gạo địa phương khá cao, do thiếu đất có khả năng canh tác ở Sơn La. Các rào cản thôi không tham gia mặt khác lại thấp vì không cần đầu tư nhiều để sản xuất gạo và cũng có thể trồng thêm các hoa màu khác trong ruộng. Đặc biệt là khi chi phí cơ hội sản xuất gạo cao, điều đó có nghĩa là người nông dân có thể kiếm được thu nhập cao hơn bằng cách sử dụng cùng một thửa ruộng đó cho các mục đích khác, do đó người nông dân thôi không tham gia vào ngành này nữa.

7.6 SWOT

ĐIỂM MẠNH ĐIỂM YẾU - Đặc sản (đặc biệt gạo nếp) - Chất lượng tốt: gạo nếp - Có nhu cầu đối với các giống gạo vùng cao

- Năng suất thấp - Thiếu đất trồng (phù hợp) - Lợi nhuận thấp - Không có sức hấp dẫn thị trường ngòai tỉnh Sơn La - Gạo tẻ không dẻo bằng gạo Điện Biên - Thị trường gạo nếp hạn chế

CƠ HỘI THÁCH THỨC - Nhu cầu đối với các đặc sản ngày càng tăng - Thiếu nguồn cung cấp - Thương hiệu - Kỹ thuật được cải tiến

- Cạnh tranh với gạo Điện Biên - Cạnh tranh từ các sản phẩm khác (về mặt sản xuất)

Bởi thị trường đối với các đặc sản tăng do thu nhập của người dân cao hơn, gạo Sơn La là đặc sản và, đặc biệt là gạo nếp Sơn La, có tiềm năng tăng trưởng. Gạo tẻ không có khả năng cạnh tranh với gạo Điện Biên, điều này khó bởi gạo Điện Biên có thị phần lớn hơn và người ta cho rằng gạo này dẻo hơn và ngon hơn.

Page 58: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Tuy nhiên vấn đề không phải là nhu cầu mà là khả năng cung cấp. Sản lượng của các giống gạo địa phương thấp và đất càng ngày càng kém màu mỡ. Hơn nữa, thiếu đất có khả năng canh tác và hầu hết các giống gạo địa phương chỉ mọc ở một số vùng nhất định. Bởi các sản phẩm khác có lãi hơn gạo địa phương, người nông dân thôi không trồng gạo địa phương nữa. Do đó, cách duy nhất để cho gạo địa phương cạnh tranh tốt hơn là tăng năng suất. Nếu khả năng cung cấp ổn định hơn, gạo Sơn La cần phải được tiếp thị tốt hơn qua nhãn mác bao bì hấp dẫn hơn, khuyến mại, mua bán có tổ chức v.v.

8. Phân tích so sánh ngành Trong chương cuối cùng, 5 ngành sẽ được đánh giá dựa trên tiêu chí lựa chọn mà SNV đưa ra.

8.1 Phân tích Tiêu chí cao nhất là Tiềm năng Thị trường và Ảnh hưởng (đối với xóa đói giảm nghèo). Năng lực sản xuất cũng được đưa vào trong đánh giá bởi trong quá trình thực hiện khảo sát, đây thường được nêu là nhân tố hạn chế tăng trưởng. Các sản phẩm được cho điểm từ 1 đến 5 trong đó 1 là không, 2 là ít, 3 là trung bình, 4 là tốt và 5 là xuất sắc. Bảng 8.1 Phân tích so sánh

TIỀM NĂNG THỊ TRƯỜNG

ẢNH HƯỞNG TIỀM NĂNG ĐỐI VỚI XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO

TIỀM NĂNG SẢN XUẤT

TỔNG

MĂNG 4 4 3 11

MẬT 2 2 2 6

BÍ NGÔ 4 4 3 11

LỢN BẢN 4 4 2 10

GẠO ĐỊA PHƯƠNG 3 3 2 8

Điểm số: 1 là không có, 2 là ít, 3 là trung bình, 4 là tốt và 5 là xuất sắc

Tiềm năng Thị trường Măng có tiềm năng thị trường tốt. Đặc biệt có nhu cầu đối với măng Bương, Lay và Bát Độ tươi và măng sơ chế đối với cả thị trường trong nước và xuất khẩu. Trong tương lai, nhu cầu này dự kiến sẽ tang. Thị trường xuất khẩu tiềm năng đối

Page 59: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

với măng Bát Độ là hơn 100.000 tấn.Nhu cầu măng khô Sơn La ít thay đổi. Nếu chất lượng (độ ẩm và kích thước) của măng không tăng, nhu cầu dự tính sẽ không tăng. Hơn nữa, thị trường đối với măng khô hạn chế bởi đó là sản phẩm chỉ được dùng mỗi năm vài lần, đặc biệt là trong các dịp lễ tết. Nhu cầu măng dầm dấm hạn chế bởi thị trường đã trung hòa. Thị trường quốc tế đối với mật ong dường như ổn định và rất cạnh tranh. Nước sản xuất lớn nhất là Trung Quốc bán mật với giá thấp và do đó giá thị trường tòan cầu sẽ tiếp tục thấp. Giá xuất khẩu thậm chí còn thấp hơn giá trong nước, điều này làm cho việc bán mật ong trong nước hấp dẫn hơn. Tuy nhiên thị trường trong nước đối với mật ong thực phẩm hạn chế do tiêu thụ địa phương hàng năm chỉ khỏang 8.200 tấn. Thị trường với các sản phẩm khác của ong thậm chí còn nhỏ hơn. Chỉ bằng cách cải tiến kỹ thuật sản xuất (đối với thị trường xuất khẩu) và tiếp thị tốt hơn (đối với thị trường trong nước), mật ong Sơn La mới có tiềm năng tăng trưởng. Thị trường đối với bí ngô vẫn chưa bão hòa. Đặc biệt là bí ngô Sơn La có lợi thế cạnh tranh do mùi vị, có thể bán được nhiều bí ngô hơn. Thị trường xuất khẩu hiện khỏang 7.500 tấn vẫn có tiềm năng tăng trưởng. Cho tới nay, người ta ch rằng thị trường xuất khẩu đối với bí ngô sấy sẽ tiếp tục tăng 20% mỗi năm và các đối tượng tham gia ước tính thị trường sẽ tiếp tục tăng. Tuy nhiên, chưa rõ tăng đến mức nào và cần phải theo dõi sát sao cạnh tranh từ phía Trung Quốc và New Zealand. Kể từ năm ngóai, thị trường trong nước đã trở thành một phương án đối với việc mở rộng sản xuất bí ngô bởi theo một công ty chế biến bí ngô sấy có kế hoạch chế biến 300 tấn bí ngô cho năm nay. Trong tương lai, nhu cầu trong nước dự kiến sẽ tăng hơn nữa bởi từ năm 2007 trở đi, công ty dự định sẽ vào các thị trường mới trong và ngòai Việt Nam. Tuy nhiên vẫn cần phải khẳng định lại bí ngô Sơn La có đáp ứng được yêu cầu về sản phẩm của công ty này hay không. Thị trường trong nước đối với lợn bản tăng đều đều. Lý do duy nhất là người tiêu dùng tiêu ngày càng nhiều tiền vào các món đặc sản. Hiện tại, kinh doanh nhà hàng chỉ ở Hà Nội/Hà Tây và thị xã Sơn La thôi đã cần tới xấp xỉ 640.20 kg lợn bản hơi mỗi năm. Lợn bản cũng có tiềm năng chế biến ở qui mô lớn hơn và mở ra các kênh thị trường mới: sấy, đóng gói, xuất khẩu. Chưa biết các con số chính xác về qui mô thị trường này. Về gạo, cần lưu ý đây là sản phẩm thị trường nhỏ. Thị trường, mặc dầu tăng đối với sản phẩm này do đó hạn chế. Giống gạo Sơn La có tiềm năng tăng trưởng là Nếp Tan. Tuy nhiên bởi đây là loại gạo nếp không được tiêu thụ ở qui mô lớn nên thị trường cũng hạn chế. Tác động tiềm năng đối với xóa đói giảm nghèo

Page 60: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Để đánh giá tác động tiềm năng đối với xóa đói giảm nghèo, cần phải cân nhắc tới cả thu nhập và mức độ người nghèo có thể tham gia vào trong chuỗi giá trị. Về thu nhập, chúng tôi đã cố gắng tính tóan mức thu nhập bình quân mỗi hộ. Tuy nhiên cần lưu ý, các con số ở đây có thể khác nhau nhiều tùy vào qui mô đất và đầu tư được thực hiện v.v. Trồng măng có tiềm năng gây ảnh hưởng tới việc xóa đói giảm nghèo một cách tích cực đặc biệt là cho các hộ nghèo và trung bình có đất lâm nghiệp có thể trồng măng. Thu nhập trung bình từ trồng măng không nhiều lắm (8 triệu đồng), nhưng qua các kỹ thuật được cải tiến và thông tin thị trường, con số này có thể cao hơn nhiều trong tương lai: lên tới 25 triệu đồng/ha. Hơn nữa sản phẩm này cũng có nhiều cơ hội chế biến: sấy, đóng hộp, bảo quản v.v. Bảng 8.2 Thu nhập hàng năng trung bình cấp nông dân MĂNG (1HA) MẬT BÍ NGÔ LỢN BẢN (2

LỢN NÁI) GẠO ĐỊA PHƯƠNG (1 HA)

THU NHẬP TRUNG BÌNH 8 triệu đồng 18 triệu

đồng 3-5 triệu đồng

2,88 triệu đồng

3,25 triệu. đồng

MỨC ĐỘ THAM GIA CỦA NGƯỜI NGHÈO

Tham gia được

Tham gia ít hơn trong sản xuất thương mại

Tham gia được

Tham gia ít hơn trong sản xuất thương mại

Tham gia được

Mật ong tạo ra thu nhập trung bình cao hơn. Tuy nhiên, chưa chắc người nghèo có thể thu được nhiều từ sản xuất mật bởi chi phí đầu tư cao và cần phải lưu chuyển nhiều để tạo ra mật. Điều này giải thích tại sao hiện tại các nhóm nuôi ong đông nhất lại là người Kinh (60%). Thu nhập trung bình từ bí ngô không nhiều. Tuy nhiên, điều này (phần nào) là do thực tế người ta thường không trồng bí ngô vì mục đích thương mại. Nếu được trồng ở qui mô lớn hơn và chăm sóc tốt hơn thì dự kiến tạo ra thu nhập cao hơn. Mặc dầu hiện tại người bán bí ngô chủ yếu là người Thái (80%), người H’Mong vùng cao nghèo hơn khá nhiều cũng có tiềm năng kiếm được thu nhập bằng bí ngô bởi họ là những người trồng bí chủ yếu. Hiện tại lợn bản không tạo ra thu nhập cao, giả sử hầu hết các gia đình có hai con lợn nái thì trung bình thu được 2,88 triệu đồng. Thu nhập ít, so với các nguồn thu nhập khác, chủ yếu là do lợn bản không được chăn nuôi và bán với mục đích thương mại. Bởi chủ yếu là người dân nghèo nuôi lợn bản, trong số đó nhiều người là người H’Mong, nên nâng cao việc sản xuất lợn bản có thể sẽ tác động tích cực đối với xóa đói giảm nghèo. Cũng có thể thu được thu nhập cao hơn bằng cách bán lợn nạc thay vì lợn mỡ.

Page 61: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Thu nhập từ gạo địa phương trên mỗi Ha tương đối thấp: 3,2 triệu đồng/Ha đối với gạo địa phương còn đối với gạo nhập là 18,8 triệu đồng/Ha. Mức thu nhập này có thể tăng nếu áp dụng các kỹ thuật sản xuất tốt hơn nhưng cũng chưa chắc có dễ thực hiện hay không. Nhiều người nghèo tham gia sản xuất gạo. Như vaỵa, đây sẽ là loại hoa màu giúp giảm nghèo tốt. Tiềm năng sản xuất và chế biến Nói chung, tiềm năng sản xuất và chế biến măng tốt. Có thể dễ dàng thâm canh trồng một số giống măng địa phương như Bương, Lay bằng cách lấy cây con trong rừng và chồng trong vườn quanh nhà. Các giống nhập có nhiều tiềm năng thâm canh hơn các giống địa phương nhưng cũng không nhiều lắm so với thu nhập tiềm năng: 6,6 triệu đồng so với tối thiểu 20 triệu đồng. Nhân tố hạn chế là đất bởi tất cả đất có thể canh tác ở Sơn la đều đã được phân. Lao động chăm sóc cây cũng có thể trở thành một vấn đề. Mặt khác, trồng măng cũng có lợi trong việc giảm phá rừng và do đó được chính phủ khuyến khích. Về chế biến măng, có tiềm năng chế biến tốt bởi đã có khả năng chế biến như sấy và làm măng dầm dấm (2 nhà máy ở Sơn La). Vẫn cần phải đầu tư vào máy đóng hộp nhưng không cần nhiều vốn. Mật ong có tiềm năng sản xuất lớn về mặt kỹ năng nuôi ong của người dân. Ở hầu hết các làng, các hộ đều đã nuôi ong. Mặc dầu các hộ nuôi ong theo cách truyền thống, chỉ cần cải thiệ kỹ năng của họ. Tuy nhiên, điểm bất lợi về tiềm năng sản xuất là chi phí hoạt động hàng năm hiện nay. Chi phí nuôi ong tương đối cao, đặc biệt là do giá đường cao (lên tới 40 triệu đồng). Do đó, không nhiều người có thể tham gia vào ngành nuôi ong. Thậm chí điều ngược lại cũng đúng bởi hiện tại cũng có nhiều người nuôi ong thôi không sản xuất nữa. Để mở rộng sản xuất cho một số thị trường nhất định và do đó tăng sức cạnh tranh của mật ong Sơn La, cần phải đầu tư lớn vào trang thiết bị. Bí ngô có tiềm năng sản xuất về lượng đất có sẵn và cần ít đầu tư để mở rộng sản xuất. Tuy nhiên vấn đề đối với việc mở rộng là bí ngô là sản phẩm phụ và lao động ở nhiều làng khan hiếm. Một vài đối tượng tham gia trong chuỗi giá trị đã có kế hoạch bắt đầu hoạt động chế biến tại tỉnh nhưng ngay tại đây lao động cũng cản trở tăng trưởng. Về lợn bản, các nhân tố sản xuất không làm giảm tốc độ tăng trưởng. Nhân tố duy nhất có thể gây ra vấn đề là vốn bởi để tăng sản xuất thì cần phải có thêm không gian, các thức ăn bổ xung và thuốc vắc xin để nuôi lợn. Một việc quan trọng hơn nữa là thái độ của người nông dân sẽ làm cản trở mức tăng trưởng. Có ý kiến cho rằng người nông dân H’Mong không quan tâm tới việc chăn nuôi lợn bản vì mục đích thương mại. Để tăng sản xuất, sản xuất theo nhóm cũng có thể là một cơ hội nhưng vấn đề là liệu người H’Mong có sẵn lòng làm việc này hay không. Có một cơ hội thương mại hóa sản xuất với người nông dân những người thể hiện sự quan tâm mà đa số là người Thái nhưng những người này lại khá giả hơn một chút.

Page 62: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Hơn hết, thiếu đất có khả năng canh tác để mở rộng sản xuất gạo. Tài chính cũng là một vấn đề (SNV/Agrifood, 2006). Nông dân trồng lúa cần tiền cho nhiều mục đích quanh năm và trong trường hợp khẩn cấp, họ bán đất đi. Với măng và bí ngô cũng tương tự như vậy, thiếu lao động để mở rộng sản xúât trong làng. Lựa chọn duy nhất là thâm canh sản xuất trên mỗi Ha đất ruộng. Nói chung, vấn đề nằm ở chỗ người sản xuất không nhận ra được tiềm năng thu nhập của các sản phẩm. Thông tin thị trường cũng như thông tin về lợi nhuận sản xuất các sản phẩm nhất định còn thiếu. Do vậy, sản lượng còn rất thấp.

8.2 Kết luận và Khuyến nghị Rút ra từ phân tích, ta có kết quả sau. Trước tiên là Măng (đặc biệt là măng sơ chế để xuất khẩu) và hai là Bí ngô cho cả thị trường trong nước và quốc tế. Đây là hai sản phẩm có vị trí xếp hạng cao nhất dựa trên 3 tiêu chí trên. Lợn bản cũng có tiềm năng thị trường tuy nhiên cũng cần nên phân tích hơn nữa các tác động và chuỗi giá trị này. Một số mặt cần tập trung khi nghiên cứu hơn nữa các sản phẩm này. Đối với măng là:

• Doanh thu và chi phí (chi phí cơ hội) bán măng so với các nguồn thu nhập khác;

• Tính khả thi của việc trồng măng tại vườn, cả về mặt kỹ thuật và quy hoạch đất đai;

• Các kỹ thuật chăm sóc cần thiết để trồng măng; • Các mối liên hệ thị trường giữa người nông dân và người chế biến/xuất

khẩu ở đồng bằng về thông tin thị trường, vận chuyển v.v. • (về lâu dài khi đã có đủ lượng cung cấp) Sơ chế măng tại tỉnh.

Chuỗi giá trị bí ngô cần phân tích thêm về:

• Doanh thu và chi phí (chi phí cơ hội) của việc trồng/bán bí ngô so với các nguồn thu nhập khác;

• Tính khả thi của các hoạt động chế biến (xấy khô) tại làng/người nông dân và ở cấp tỉnh, bao gồm vốn đầu tư cần thiết và tiếp cận tín dụng;

• Tiềm năng của thị trường trong nước: chế biến thực phẩm; • Các cách thức có thể xây dựng mối liên hệ giữa người nông dân, người

buôn bán và người sản xuất ở tỉnh (các thị trường đã có và thị trường mới). Cuối cùng, để nâng cao chuỗi giá trị lợn bản, cần phải chú ý đến các mảng sau:

• Doanh thu và chi phí (chi phí cơ hội) của việc bán lợn bản so với các nguồn thu nhập khácbao gồm từ lợn bản mỡ;

Page 63: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

• Tính khả thi của việc sản xuất với mục đích thương mại/có tổ chức ở cấp làng: bao gồm nghiên cứu khả thi kỹ thuật, nghiên cứu khả thi tài chính, mức độ sẵn sàng và các dịch vụ hiện có (dịch vụ thú y);

• Tính khả thị của việc liên kết người nông dân với người buôn bán/chế biến ở đồng bằng;

• Khả năng đa dạng hóa các sản phẩm lợn bản của Sơn La, ví dụ chế biến thịt lợn bản xấy cùng với các nhà chế biến hiện có, thịt lợn xấy với thương hiệu của Sơn La v.v

Page 64: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Phụ lục Phụ lục I. Điều khỏan tham chiếu

Chương trình Phát triển của SNV

Chương trình Tiếp cận thị trường cho người nghèo Vùng Tây Bắc / Tỉnh Sơn La

Điều khỏan tham chiếu Khảo sát thị trường cho các sản phẩm vùng cao có tiềm năng

Bối cảnh Kể từ năm 2003, tổ chức SNV Việt Nam cung cấp các dịch vụ tư vấn về phương thức tiếp cận thị trường cho người nghèo tới các khách hàng của mình tại 3 tỉnh Tây Bắc. Mục tiêu của chương trình là góp phần xóa đói giảm nghèo bằng cách tạo cho những người nông dân nghèo vùng cao có những cơ hội kinh tế và việc làm. Phương thức tiếp cận sau đây nhằm tăng cường năng lực của các nhà cung cấp dịch vụ địa phương và để phát triển các chuỗi giá trị cho các sản phẩm vùng cao có triển vọng. Trong tập hợp nghiên cứu thị trường của các xã nghèo do đội tư vấn SNV thực hiện theo yêu cầu của AEC và DoTT tỉnh Sơn La, mốt số sản phẩm những người nghèo sản xuất và bán trên thị trường đã được xác định. Để hiểu được tòan bộ tiềm năng thị trường của các sản phẩm này, cần phải tiến hành khải sát thị trường trong đó một số đối tác sẽ tham gia. Mục đích của cuộc khảo sát thị trường Các mục đích của cuộc khảo sát thị trường này là: - Xác định tiềm năng thị trường về các sản phẩm vùng cao được chọn dưới các dạng khác nhau đối với cả thị trường địa phương và trong nước và cả thị trường quốc tế nếu có thể. - Xác định tiềm năng mở rộng sản xuất và bán ra thị trường đối với vùng cao hoặc những người nông dân nghèo (bao gồm chi phí, lợi nhuận hoặc đầu tư tính theo đầu người) - Xác định tiềm năng chế biến tại tỉnh Sơn La (giá trị gia tăng) - cả về công nghệ lẫn tính khả thi về kinh tế (đầu tư tính theo đầu người/chi phí-lợi nhuận). - Đưa ra tiềm năng phát triển sản phẩm và thị trường một cách chi tiết (bao gồm việc so sánh giữa các sản phẩm) để làm thông tin đầu vào thảo luận lựa chọn các chuỗi giá trị với các đối tác địa phương và các bên liên quan Phương pháp Nhóm khảo sát thị trường sẽ thăm người tiêu dùng, các nơi mua bán, các nhà chế biến và buôn bán hiện có (và cả người sản xuất ở một mức độ nào đó) ở cả Sơn La và Hà Nội để đánh giá nhu cầu về chất và lượng và những hạn chế tiềm tàng đối với cơ hội phát triển các sản phẩm này. Nếu có thể thì sử dụng những số liệu đã

Page 65: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

có từ những cuộc nghiên cứu trước (ví dụ nghiên cứu Agri-Food về chuỗi giá trị gạo tại Điện Biên hoặc chương trình Vùng cao về lợn bản). Những điểm cần chú ý đặc biệt là:

- Lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Nó có đặc điểm đặc biệt gì hay có lợi thế cạnh tranh gì bởi có vào nhiều thời điểm trong năm hay không?

- Sự phân biệt chất lượng của cầu. Các thị trường khác nhau có yêu cầu các tiêu chuẩn khác nhau không và cần phải tập trung vào thị trường nào?

- Mức độ đầu tư/kỹ thuật và lợi thế cạnh tranh giữa các sản phẩm Các sản phẩm được lựa chọn Các sản phẩm được khách hàng của SNV và các cố vấn SNV chọn để tiên shành khảo sát thị trường là:

• Các giống gạo địa phương • Măng • Mật ong • Bí ngô • Giống lợn địa phương (Lợn bản)

Kết quả dự kiến Kết quả dự kiến là báo cáo súc tích (bằng tiếng Anh và tiếng Việt) về tiềm năng phát triển chuỗi giá trị đối với các sản phẩm được chọn và khuyến nghị tập trung vào mặt nào hoặc các đối tượng nào trong chuỗi giá trị để xây dựng năng lực. Thành phần nhóm khảo sát Nghiên cứu viên chính – chuyên gia về khảo sát thị trường Trợ lý nghiên cứu – dịch và hỗ trợ hậu cần Chương trình khảo sát thị trường Chương trình khảo sát thị trường gồm các yếu tố sau

1. Chuẩn bị đi thực địa để khảo sát thị trường và đọc tài liệu (3 ngày) 2. Đi thực địa tìm hiểu 5 sản phẩm được lựa chọn; thăm các chợ (bán buôn)

[bao gồm cả siêu thị), thăm người chế biến và buôn bán, gặp các tổ chức ở tỉnh và Huyện, các nhà phân phối ở Hà Nội, các nhà hàng (17 ngày gồm cả đi lại)

3. Thảo báo cáo (3 ngày) 4. Hội thảo xác minh kết quả nghiên cứu tại Sơn La (3 ngày gồm cả đi lại) 5. Viết báo cáo cuối cùng và nộp báo cáo (2 ngày)

Thời gian khảo sát thị trường Dự kiến đi thực địa khảo sát thị trường vào tháng 2/2006 và tiến hành hội thảo xác minh kết quả trước khi nộp báo cáo cuối cùng.

Page 66: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Công việc dự kiến diễn ra tổng cộng 28 ngày làm việc theo lịch trên đây. Các tài liệu về Tây Bắc (SNV) liên quan Báo cáo nghiên cứu xã nghèo – SNV Sơn La Văn kiện dự án: REP Thái Nguyên và Tây Bắc Việt Nam (Cordaid); Khuyến nông cho các nhóm nông dân vùng cao (Cordaid); Khuyến nông theo định hướng thị trường (NMPRP – CPMU) Kế hoạch 2005 – Tổ công tác MAP Sơn La Báo cáo 6 tháng – Tổ công tác MAP Sơn La Nghiên cứu Tây Bắc của Cẩm Tú và Heino và nghiên cứu của Dirk Bol Nghiên cứu chuỗi giá trị gạo tại tỉnh Điện Biên Agrifood Các tài liệu của chương trình Vùng cao về lợn bản

Page 67: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Phụ lục II. Các số liệu về sản xuất Sản xuất mật ong của Sơn La (Nguồn: Trung tâm Khuyến nông) Năm Sản lượng tính bằng tấn 2001 350 2002 500 2003 450 2004 457 2005 556 Sản xuất hoa màu (gồm cả bí ngô) (Nguồn: Chi cục Thống kê Sơn La) 2000 2001 2002 2003 2004 Diện tích sản xuất tính theo Ha

4.515 5.041 5.133 5.379 5.659

Sản lượng tính bằng tấn

28.363 29.962 33.027 36.517 35.766

Huyện Mai Sơn từ trước tới nay là Huyện lớn nhất về sản xuất hoa màu, với 1.460 Ha đất được sử dụng để trồng rau và đậu trong năm 2004. Mặc dầu Yên Châu và Mộc Châu có diện tích đất sản xuất nhỏ hơn trong năm 2004 là 446 và 343 Ha, sản lượng của hai Huyện này cao hơn của Mai Sơn: Mai Sơn 4.500 tấn, Yên Châu 7.231 tấn và Mộc Châu 4.923 tấn. Sản lượng gạo Sơn La (Niên giám Thống kê Sơn La) Kể từ năm 2000 số liệu sản xuất tăng lên: Bảng 7.1 Sản xuất gạo của Sơn La 2000 2001 2002 2003 2004 Sản lượng tính bằng tấn

108.117 112.126 119.242 128.632 133.946

Sản lượng kg trên đầu người

119 121 127 134 137

Diện tích sản xuất

41.537 40.689 39.527 38.465 38.951

Tổng diện tích sản xuất giảm và do đó năng xuất sản xuất mỗi ha tăng lên. Trong nưam 2004, năng xuất trung bình là 3,4 tấn so với năm 2000 là 2.6 tấn. Trên thực tế, diện tích đất nương càng ngày càng nhỏ. Ruộng lúa đông/xuân tăng. Hiện tại phân chia diện tích đất là: 8670 Ha trồng lúa đông/xuân, 15.353 Ha trồng lúa thường và 14.928 Ha trồng lúa nương. Hầu hết lúa được trồng ở các Huyện Sông Mã, Thuận Châu và Phú Yên. Không biết bao nhiêu trong tổng sản lượng được sản xuất ra là giống gạo địa phương.

Page 68: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm
Page 69: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Phụ lục III. Nhập khẩu Mật ong ở Mỹ và giá mật ong tòan cầu (www.nhb.org) Nhập khẩu mật ong của Mỹ tính bằng pound

2000 % 2001 % 2002 % 2003 % 2004 % 2005 % ARGENTINA 98.918.160 50.9% 53.950.862 34.4% 13.174.534 6.9% 15.961.790 7.8% 4.378.161 2.5% 47.453.353 21.0% AUSTRALIA 227.067 0.1% 432.458 0.3% 5.601.230 2.9% 224.893 0.1% 1.577.202 0.9% 850.584 0.4% BRAZIL 340.573 0.2% 5.568 0.0% 8.917.735 4.6% 17.860.076 8.7% 7.403.562 4.1% 9.920.780 4.4% BULGARIA 54.206 0.0% 61.384 0.0% 159.272 0.1% 1.556.864 0.8% 1.322.644 0.7% 627.330 0.3% CANADA 29.289.354 15.1% 21.083.599 13.4% 44.436.094 23.2% 27.804.493 13.6% 21.881.422 12.2% 21.794.883 9.7% CHILE 1.819.462 1.2% 5.924.058 3.1% 10.137.109 4.9% 1.856.341 1.0% 2.178.769 1.0% TRUNG QUỐC 53.546.855 27.6% 48.603.333 31.0% 17.097.663 8.9% 42.793.773 20.9% 61.800.126 34.6% 60.409.612 26.8% ẤN ĐỘ 1.268 0.0% 49.145 0.0% 4.843.832 2.5% 10.774.583 5.3% 13.467.204 7.5% 17.334.655 7.7% INDONESIA 9 0.0% 66 0.0% 80.434 0.0% 4.762.971 2.7% 3.074.140 1.4% MALAYSIA 2.079.218 1.1% 6.977.848 3.4% 1.889.076 1.1% 440.898 0.2% MEXICO 4.550.132 2.3% 8.735.508 5.6% 23.283.075 12.1% 17.737.202 8.6% 7.079.206 4.0% 4.597.953 2.0% Các nước khác 1.955.847 1.0% 3.564.897 2.3% 5.651.240 2.9% 7.677.702 3.7% 11.466.516 6.4% 15.606.693 6.9% PERU 1.025 0.0% 606.094 0.3% 2.211.975 1.1% 1.165.708 0.7% 137.201 0.1% ROMANIA 41.272 0.0% 536.434 0.3% 2.416.657 1.2% 2.124.239 1.2% 562.331 0.2% THÁI LAN 353.390 0.2% 1.518.440 1.0% 11.053.579 5.8% 1.624.065 0.8% 1.819.611 1.0% 979.552 0.4% THỔ NHĨ KỲ 29.883 0.0% 149.246 0.1% 2.950.443 1.5% 5.364.708 2.6% 1.991.064 1.1% 493.309 0.2% UKRAINE 12.491 0.0% 35.201 0.0% 629.874 0.3% 4.406.189 2.1% 4.389.649 2.5% 866.731 0.4% URUGUAY 130.066 0.1% 5.172.089 3.3% 13.391.301 7.0% 12.067.962 5.9% 6.776.222 3.8% 8.740.347 3.9% VIỆT NAM 4.778.357 2.5% 11.777.589 7.5% 31.495.955 16.4% 17.380.070 8.5% 21.499.166 12.0% 29.705.109 13.2% TỔNG 194.187.658 100.0% 157.001.144 100.0% 191.831.631 100.0% 205.058.393 100.0% 178.650.090 100.0% 225.774.230 100.0%

Page 70: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm
Page 71: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Giá mật ong quốc tế - Giá trung bình tính trên một pound

2004 Tháng một Tháng hai Tháng ba Tháng tư Tháng năm Tháng sáu Tháng bảy Tháng tám Tháng chin Tháng mười

Tháng mười một

Tháng mười hai

Canada $1,51 $1,45 $1,34 $1,37 $1,33 $1,25 $1,26 $1,17 $1,14 $1,08 $1,06 $1,00 $1,25 Mexico $1,27 $1,22 $1,28 $1,38 $1,13 $1,09 $0,97 $0,87 $0,79 $0,82 $0,81 $0,84 $1,04 Argentina $0,00 $0,00 $0,00 $0,00 $0,00 $0,00 $0,00 $1,01 $0,96 $1,03 $0,91 $0,86 $0,96 Trung Quốc $0,74 $0,75 $0,55 $0,55 $0,57 $0,61 $0,61 $0,52 $0,54 $0,53 $0,50 $0,44 $0,58 Trung bình $1,17 $1,14 $1,06 $1,10 $1,01 $0,98 $0,95 $0,89 $0,86 $0,87 $0,82 $0,79 $0,97

2005 Tháng một Tháng hai Tháng ba Tháng tư Tháng năm Tháng sáu Tháng bảy Tháng tám Tháng chin Tháng mười

Tháng mười một

Tháng mười hai

Canada $0,90 $0,86 $0,83 $0,73 $0,75 $0,69 $0,77 $0,74 $0,75 $0,77 $0,74 $0,82 $0,78 Mexico $0,82 $0,63 $0,78 $0,80 $0,80 $0,82 $0,74 $0,74 $0,63 $0,67 $0,84 $0,81 $0,76 Argentina $0,83 $0,78 $0,79 $0,71 $0,74 $0,64 $0,60 $0,59 $0,58 $0,60 $0,63 $0,62 $0,68 Trung Quốc $0,46 $0,47 $0,36 $0,37 $0,37 $0,36 $0,34 $0,38 $0,35 $0,38 $0,43 $0,42 $0,39 Trung bình $0,75 $0,69 $0,69 $0,65 $0,66 $0,63 $0,61 $0,61 $0,58 $0,61 $0,66 $0,67 $0,65

*Hộp màu vàng chỉ con số ước tính, không có số liệu

Page 72: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

Phụ lục IV. Sách tham khảo CDP, Dirk Bol, Đánh giá tiểu ngành kinh doanh nông sản tại các tỉnh Sơn La và Lai Châu, tháng 7, 2003 GTZ, Info-Cadena, Công cụ thúc đẩy các chuỗi giá trị, 2004 Imperial College London, Quản lý chuỗi cung cấp, 2005 SNV (công ty Agrifood Consulting International), Chuỗi giá trị gạo Điện Biên, tháng 3, 2006 SNV, Hòa nhập thị trường của nông dân nghèo vùng cao, tháng 1 2006 SNV, Báo cáo của nhóm nghiên cứu về các cơ hội tư vấn các lâm sản phi gỗ tại Việt Nam, tháng 11, 2004 SNV, Chương trình Xúc tiến Doanh nghiệp Nông thôn cho tỉnh Thái Nguyên và Tây Bắc, báo cáo 2005 và kế hoạch 2006 Tỉnh Sơn La, Kế hoạch Kinh tế Xã hội 2000-2010 Chi cục Thống kê Sơn La, Niên giám Thống kê 2004 Trần Hữu Cường, Nghiên cứu về cung và cầu hiện tại và tiềm năng, cơ hội thị trường và thị hiếu của người tiêu dùng đối với các giống vật nuôi và sản phẩm bản địa GEF/UNDP, Việt Nam 2004 Website www.vinapi.com.vn Công ty Ong Trung ương www.beekeeping.com Tổ chức Nuôi ong Quốc tế www.nhb.org Hội đồng Ong Quốc gia (Mỹ) www.sonlatradetourism.com.vn Sở Thương mại và Du lịch Sơn La www.chipsgood.com.vn Công ty bí ngô sấy chipsgood www.vietnamnet.vn Trang tin tức của Vietnamnet

Page 73: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

PHỤ LỤC IV. Danh sách phỏng vấn Số Vai trò Ngành Tên 1 Sản xuất (Dao) Măng và Bí ngô Bà Banti Boi, làng Suối Khem, Xã Phiêng Luông,

Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La 2 Sản xuất (Dao) Người nuôi ong anh Sinh, làng Suối Khem, Xã Phiêng Luông, Huyện

Mộc Châu, Tỉnh Sơn La 3 Sản xuất

(Thái) Người nuôi ong anh Diên Thái, Na Ha 1, Chiềng Sinh, Mai Sơn, tỉnh

Sơn La 4 Sản xuất (Dao) Bí ngô Dì của anh Sinh, làng Suối Khem, Xã Phiêng Luông,

Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La 5 Sản xuất

(H’Mong) Bí ngô Anh …., Thái Pheng, Mai Sơn

6 Sản xuất (Thái)

Lợn bản Anh Cẩm, Thị xã Sơn La

7 Sản xuất (H’Mong)

Lợn bản Anh Trong, làng Tong Tải, Xã Chiềng Châu, Huyện Mai Sơn, Tỉnh Sơn La

8 Sản xuất (Thái)

Gạo bà Phin, Bản Hịa, Huyện Mường Chanh, Mai Sơn

9 Sản xuất (Thái)

Gạo Ủy ban, Làng Cang Mườngng, Xã Mường Chanh, Mai Sơn

10 Người thu gom ở làng (Dao) / Người sản xuất

Bí ngô, Măng, Ngô anh Chiến, làng Suối Khem, Xã Phiềng Luông, Huyện Mộc Châu, Tỉnh Sơn La

11 Người vận chuyển

Gạo Sơn La Anh Sinh, Ngọc Chiến, tel 022 830151

12 Người vận chuyển

Bí ngô Anh Nhường, Chợ lớn, thị xã Mai Sơn

13 Buôn bán Măng Chị Thúy và một người buôn nữa ở Chợ Cầu trắng, Sơn La

14 Buôn bán / Sản xuất

Mật ong anh Minh, Cơ sở Nuôi ong Quang Minh, tiểu khu 64, Thị trấn Mộc Châu, tỉnh Sơn La, tel 022 769238, tel 0912738336

15 Người chế biến / Buôn bánr

Bí ngô Cửa hàng Năm Nguyệt, anh. Năm, Cò Nòi, Huyện Mai Sơn, tel 0904929009

16 Buôn bán Bí ngô Buôn bán, chị Lương, Mộc Châu, tel 022 869315

17 Buôn bán Bí ngô Buôn bán, anh Quốc, Mộc Châu

18 Buôn bán Gạo địa phương anh Dương, Thị xã Sơn La (gần bệnh viện)

19 Buôn bán Gạo địa phương (và long nhãn)

anh Phương, Cò Nòi, Huyện Mai Sơn, tel 022846222

20 Buôn bán Gạo (Điện Biên) chị Thoa (cửa hàng chị Bình, thị xã Sơn La ) 21 Buôn bán Gạo (Điện Biên) Công ty Lương thực Tây Bắc, anh Thăng, phó giám

đốc, thị xã Sơn La (gần bệnh viện) 22 Buôn bán Gạo (Điện Biên ) chị Phương Hoa, Hòa Bình 23 Người chế

biến Cà phê, hoa quả và măng

anh Lê Xuân Dung, phó giám đốc công ty Cà phê Hoa quả Sơn La, Tổ 5, phường Quyết Tâm, thị xã Sơn La ,

Page 74: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

tel 022 854390 24 Chế biến/

Buôn bán Măng (và các loại nấm) anh Phạm Trọng Cử, chủ tịch hội đồng quản trị Công

ty Cổ phần Xuất nhập Khẩu , 217, Trường Chinh, Sơn La, tel 022 852135

25 Chế biến Măng VVÀA Co., LTD, ông Wu Ting Ta, 30 Hồng Quang , Hải Dương, tỉnh Hải Dương, tel. 0320 851543

26 Chế biến Măng Tân Đông Á, anh Đoàn Quang Chính, 337 Đường Trường Chinh, Thanh Trì, Hà Nội, tel. 04 8531056

27 Chế biến Măng khô/ Thịt lợn khô chị Lương, 180, Nhà 41 Nguyễn Lương Bằng, Hà Nội, tel. 04 5113793

28 Chế biến Măng dầm dấm Doanh nghiệp Chế biến Vân Trí, Minh Khai, Hà Nội, tel. 04 8371620 (phỏng vấn qua điện thoại)

29 Chế biến Măng dầm dấm Công ty Trung Thanh, 2 Lĩnh Nam, Hà Nội, tel. 0351836352 (phỏng vấn qua điện thoại)

30 Chế biến Mật ong DETECH, anh Trần Mạnh Hùng, Giám đốc Bán hàng, 47 Hòa Mã, Hà Nội, tel 04 9763152

31 Chế biến Mật ong VINAPI, chị Hằng, Nhân viên Chương trình BRDC, 68 Nguyên Hồng, Hà Nội, tel 0904 160249, email [email protected]

32 Người chế biến

Bí ngô Vũ Đình Vinh (Quản đốc Sản xuất) và Nguyễn Thị Hồng Vân (Phó giám đốc) Vitranimex Food Co.Ltd, Bach Sam, Mu Hao, Hưng Yên, tel 0953 379299, [email protected]

33 Người chế biến

Bí ngô anh Đáng, Xã Hồng Lạc, Thanh Hà, Hải Dương, tel 0904032569

34 Người chế biến / Xuất khẩu

Bí ngô Anh Thu, công ty xuất nhập khẩu nông sản, Thanh Hà , Hải Dương, tel 0903241578

35 Xuất khẩu Bí ngô anh Học (Giám đốc), Công ty Xuất khẩu Hồng Ngọc, tel 0903421217, Hải Dương

36 Bán lẻ Măng Người bán măng tươi (chị Kiều) và măng khô ở hcợ chính Sơn La

37 Bán lẻ Măng, Mật ong, Gạo địa phương, bí ngô

Nhiều cửa hàng ở chợ lớn thị trấn Mộc Châu

38 Bán lẻ Măng, Mật ong, Gạo địa phương, bí ngô

Nhiều cửa hàng tại chợ lớn và nhỏ ở Hòa Bình

39 Bán lẻ Mật ong anh Thủy, Sơn La 40 Bán lẻ Mật ong Cửa hàng Sơn La, 378 Nguyễn Trãi, Hà Nội 41 Bán lẻ Thịt lợn Người bán thịt lợn bản tại chợ Hàng tích , Sơn La 42 Bán lẻ Lợn bản chị Thủy và 2 người bán hàng khác (1 người bán thịt

lợn khô) tại chợ 7/10, Sơn La 43 Bán lẻ Gạo (Điện Biên và Sơn

La) chị Bình, 270 Chu Văn Thịnh, Sơn La

44 Bán lẻ Gạo (Điện Biên) chị Tâm, 139 Nguyễn Lương Bằng, Sơn La 45 Bán lẻ Gạo (Điện Biên ) Anh Hoa Ngát, chợ lớn Mộc Châu, tel 018 852583 46 Nhà hàng Gạo, Lợn bản, Măng Thái Bắc, chị Doan (chủ nhà hàng), Sơn La (gần bệnh

viện) 47 Nhà hàng Lợn bản, Măng, Gạo Hương Sen Hotel, Mộc Châu , Huyện Mộc Châu,

Tỉnh Sơn La 48 Nhà hàng/

Bán lẻ Lợn bản, Măng, Mật ong, Gạo

Nhà hàng 64, Mộc Châu

49 Nhà hàng Lợn bản Cơm Mường Bi, Số 2 Phan Văn Trường, Hà Nội 50 Nhà hàng Lợn bản Mường La, 828 Đường Láng , Hà Nội, tel 7755023 51 Nhà hàng Lợn bản Đặc Sản Phú Bình 2, 800 Láng Hòa Lạc, Hà Tây 52 Nhà hàng Lợn bản Hải Anh, 14 Thị trấn Lương Sơn, Hòa Bình, tel

018824623

Page 75: SNV- Tổ chức phát triển Hà Lan - danangtimes.vn sat thi truong doi voi...SNV là một tổ chức phi lợi nhuận của Hà Lan, hoạt động với mục đích giảm

53 Cơ quan nhà nước

Thương mại và Du lịch Sở Thương mại và Du lịch, thị xã Sơn La

54 Cơ quan nhà nước

Nông nghiệp Trung tâm Khuyến nông, thị xã Sơn La

55 Cơ quan nhà nước

Nông nghiệp Trạm Khuyến nông, Huyện Mộc Châu , Sơn La tỉnh

56 Cơ quan nhà nước

Hội nuôi ong Trung tâm Ong Sơn La , ông. Hồ Văn Sâm, No. 113-TK3, Xã Chiềng Sinh, Sơn La, tel. 022 874231

57 Cơ quan nhà nước

Hội làm vườn (VACVINA Hanoi)

ông Đỗ Như Sưởng, nông học, 190 Quán Thánh, Hà Nội, tel 07164725

58 Cơ quan nhà nước

Lâm nghiệp Sở Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Chi cục Lâm nghiệp

59 Cơ quan nhà nước

Dự án Chăn nuôi Vùng cao

Anh Văn, Phòng Thú y, Thị xã Sơn La

Các cửa hàng và siêu thị đã tới thăm: Tên Các mặt hàng Địa chỉ Big C Thực phẩm, đồ gia

dụng, quần áo

Fivimart Thực phẩm, đồ gia dụng, quần áo

Trấn Vũ

Unimart Thực phẩm 8 Phạm Ngọc Thạch Mini market Thái Hà

Thực phẩm 78 Thái Hà

chợ Thượng Đình (Chợ hoa quả cấp hai)

Rau, quả, thịt tươi Gần bến xe buýt Sơn La

Chợ Ngã Tư Sở (chợ cấp một)

Quần áo, một số sản phẩm tươi và khô, gạo

Gần bến xe buýt Sơn La

Chợ Cao Thắng Quần áo, đồ khô (ở phía sau_

Đồng Xuân

Chợ 19-12 (chợ cấp 1)

Rau quả, gạo, đồ khô Lý Thường Kiệt