26
Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 1/46 LỜI GIỚI THIỆU Mía là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao đang được chú trọng đầu tư phát triển. Nhiệm vụ chính của cây mía là sản xuất đường. Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất đường là tình hình sâu bệnh trên cây mía. Đặc điểm của cây mía là khi cây bị sâu bệnh hại, ngoài thiệt hại trực tiếp đến sự phát triển và khối lượng của cây, phản ứng của cây mía sẽ chuyển đường từ thân mía ra dự trữ ở lá (và sau đó sẽ bị loại bỏ trên ruộng. Như vậy, cây mía mang về nhà máy để chế biến sẽ có hàm lượng đường thấp. Hiện nay sản lượng đường/ha bình quân của Việt Nam đang ở mức nhỏ hơn 4 tấn đường/ha. Trong khi đó, tại các nước láng giềng của chúng ta như Philippines đã là 5,5 tấn/ha, Thái Lan là 7 tấn/ha. Điều đó có nghĩa là năng suất sản xuất đường của chúng ta đang ở mức thấp và cần có những nỗ lực để vượt qua những khoảng cách đó. Một trong những yếu tố giúp tăng năng suất đường là giảm thiệt hại sâu bệnh thông qua triển khai chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp cho cây trồng, gọi tắt là IPM. Sử dụng IPM trên cây mía là áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật một cách hợp lý, duy trì cân bằng hệ sinh thái ruộng mía, duy trì đa dạng sinh học, các loại dịch hại được duy trì ở mức độ thấp dưới mức gây hại có ý nghĩa kinh tế, cây mía sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất chữ đường cao. Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường đã cùng hợp tác để biên soạn tài liệu này, nhằm bước đầu cung cấp các thông tin kiến thức cơ bản và cần thiết cho các cán bộ nông vụ và nông dân trồng mía triển khai quản lý tốt dịch hại theo IPM trên toàn bộ diện tích mía của vùng nguyên liệu, với mục đích ổn định và phát triển bền vững. Các thông tin trong tài liệu này chủ yếu rút ra từ các kết quả nghiên cứu gần đây của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường, cũng như những quan sát hiện trạng mía ở vùng Đông Nam bộ. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng những thông tin này cũng sẽ có ích cho các vùng nguyên liệu mía khác trong cả nước. Đây là tài liệu biên soạn lần đầu tiên, còn nhiều thiếu sót, mong rằng với sự tham gia góp ý của các cán bộ nông nghiệp và bà con nông dân, tài liệu sẽ được tiếp tục hiệu chỉnh, bổ sung hàng năm, để lần tái bản sau tài liệu sẽ ngày càng hoàn chỉnh hơn. Xin chân thành cảm ơn những đóng góp ý kiến của TS Cao Anh Đương – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường, TS Đỗ Ngọc Diệp – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát đã giúp chúng tôi thực hiện hoàn chỉnh hơn các nội dung của tài liệu này. CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƯỜNG BIÊN HÒA TỔNG GIÁM ĐỐC

So Tay Quan Ly Dich Hai Tren Cay Mia (Tex 14-7-2011)

Embed Size (px)

Citation preview

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 1/46

LỜI GIỚI THIỆU

Mía là một trong những cây trồng có giá trị kinh tế cao đang được chú trọng

đầu tư phát triển. Nhiệm vụ chính của cây mía là sản xuất đường. Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến năng suất đường là tình hình sâu bệnh trên cây mía. Đặc điểm của cây mía là khi cây bị sâu bệnh hại, ngoài thiệt hại trực tiếp đến sự phát triển và khối lượng của cây, phản ứng của cây mía sẽ chuyển đường từ thân mía ra dự trữ ở lá (và sau đó sẽ bị loại bỏ trên ruộng. Như vậy, cây mía mang về nhà máy để chế biến sẽ có hàm lượng đường thấp.

Hiện nay sản lượng đường/ha bình quân của Việt Nam đang ở mức nhỏ hơn 4 tấn đường/ha. Trong khi đó, tại các nước láng giềng của chúng ta như Philippines đã là 5,5 tấn/ha, Thái Lan là 7 tấn/ha. Điều đó có nghĩa là năng suất sản xuất đường của chúng ta đang ở mức thấp và cần có những nỗ lực để vượt qua những khoảng cách đó.

Một trong những yếu tố giúp tăng năng suất đường là giảm thiệt hại sâu bệnh thông qua triển khai chương trình Quản lý dịch hại tổng hợp cho cây trồng, gọi tắt là IPM. Sử dụng IPM trên cây mía là áp dụng đồng bộ các biện pháp kỹ thuật một cách hợp lý, duy trì cân bằng hệ sinh thái ruộng mía, duy trì đa dạng sinh học, các loại dịch hại được duy trì ở mức độ thấp dưới mức gây hại có ý nghĩa kinh tế, cây mía sinh trưởng phát triển tốt, cho năng suất chữ đường cao.

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường đã cùng hợp tác để biên soạn tài liệu này, nhằm bước đầu cung cấp các thông tin kiến thức cơ bản và cần thiết cho các cán bộ nông vụ và nông dân trồng mía triển khai quản lý tốt dịch hại theo IPM trên toàn bộ diện tích mía của vùng nguyên liệu, với mục đích ổn định và phát triển bền vững.

Các thông tin trong tài liệu này chủ yếu rút ra từ các kết quả nghiên cứu gần đây của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường, cũng như những quan sát hiện trạng mía ở vùng Đông Nam bộ. Tuy nhiên, chúng tôi tin rằng những thông tin này cũng sẽ có ích cho các vùng nguyên liệu mía khác trong cả nước.

Đây là tài liệu biên soạn lần đầu tiên, còn nhiều thiếu sót, mong rằng với sự tham gia góp ý của các cán bộ nông nghiệp và bà con nông dân, tài liệu sẽ được tiếp tục hiệu chỉnh, bổ sung hàng năm, để lần tái bản sau tài liệu sẽ ngày càng hoàn chỉnh hơn.

Xin chân thành cảm ơn những đóng góp ý kiến của TS Cao Anh Đương – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường, TS Đỗ Ngọc Diệp – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát đã giúp chúng tôi thực hiện hoàn chỉnh hơn các nội dung của tài liệu này.

CÔNG TY CỔ PHẦN ĐƯỜNG BIÊN HÒA

TỔNG GIÁM ĐỐC

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 2/46

Phần thứ nhất

ĐỊNH NGHĨA, NGUYÊN TẮC CƠ BẢN VÀ ĐIỀU KIỆN ÁP DỤNG QUẢN LÝ DỊCH HẠI TỔNG HỢP

1. Định nghĩa về dịch hại cây trồng và quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) 1.1 Dịch hại là gì?

Dịch hại là tất cả động vật, thực vật và các vật sống gây thiệt hại hoặc truyền bệnh tật cho cây trồng, các sinh vật khác thậm chí cả người.

Các loại dịch hại chính của cây trồng gồm: - Sâu: Tên gọi chung cho nhóm côn trùng, có nhiều loại sâu thay đổi hình dạng

một lần hay nhiều lần trong vòng đời của chúng. - Nhện: Các loại nhện rất nhỏ, màu đỏ hoặc xanh, có 8 chân. - Ốc và sên: Là loại có thân mềm và nhớt. Thân ốc được bao bọc lớp vỏ cứng,

còn loài sên thì không có vỏ bao. Ban ngày chúng nghỉ, ban đêm đi kiếm ăn. - Tuyến trùng: Là loại rất nhỏ, không màu, không thấy được bằng mắt thường.

Tuyến trùng chích, hút rễ thân, đỉnh sinh trưởng và gây hại làm cho cây kém phát triển. Rất khó phòng trừ tuyến trùng

- Gậm nhấm: Là loài chuột, sóc, thỏ có thể gây hại cho cây trồng, hoa quả và sản phẩm trong kho. Chuột sinh sản nhanh và có thể phòng trừ có hiệu quả bằng nhiều biện pháp kết hợp với nông dân.

- Cỏ dại: Là những loại thực vật mà ở một thời điểm hay một nơi nào đó, con người không mong muốn có sự hiện diện của chúng. Cỏ dại làm cản trở việc sử dụng nguồn tài nguyên đất, nước. 1.2 Quản lý dịch hại tổng hợp là gì?

Quản lý dịch hại tổng hợp (IPM, viết tắt của cụm từ tiếng Anh: Integrated Pest Management), được định nghĩa là một hệ thống quản lý dịch hại mà trong khung cảnh cụ thể của môi trường và những biến động quần thể của các loài gây hại, sử dụng tất cả các kỹ thuật và biện pháp thích hợp có thể được, nhằm duy trì mật độ của các loài gây hại ở dưới mức gây ra những thiệt hại kinh tế. 2. Năm nguyên tắc cơ bản trong quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) 2.1 Trồng và chăm cây khoẻ:

- Chọn giống tốt, phù hợp với điều kiện địa phương. - Chọn cây khoẻ, đủ tiêu chuẩn. - Trồng, chăm sóc đúng kỹ thuật để cây sinh trưởng tốt có sức chống chịu và

cho năng suất cao. 2.2 Thăm đồng thường xuyên:

- Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, nắm được diễn biến về sinh trưởng phát triển của cây trồng, dịch hại, thời tiết, đất, nước... để có biện pháp xử lý kịp thời. 2.3 Nông dân trở thành chuyên gia đồng ruộng

- Nông dân hiểu biết kỹ thuật, có kỹ năng quản lý đồng ruộng cần tuyên truyền cho nhiều nông dân khác. 2.4 Phòng trừ dịch hại

- Sử dụng các biện pháp phòng trừ thích hợp tuỳ theo mức độ sâu bệnh, thiên địch ký sinh ở từng giai đoạn.

- Sử dụng thuốc hoá học hợp lý và phải đúng kỹ thuật. 2.5 Bảo vệ thiên địch

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 3/46

- Bảo vệ những sinh vật có ích, giúp nhà nông tiêu diệt dịch hại. 3. Điều kiện áp dụng

Để có thể áp dụng được IPM cho một đối tượng cây trồng, cần phải tiến hành song song và đầy đủ các bước sau:

- Bước 1: Nghiên cứu hệ sinh thái, thổ nhưỡng từng loại cây trồng trong mối quan hệ với sinh vật có ích và có hại. Phải nghiên cứu khả năng đề kháng của môi trường đối với sâu, bệnh và cỏ dại.

- Bước 2: Nghiên cứu những biện pháp làm giàu thêm hệ sinh vật có ích trong quần xã.

- Bước 3: Tách được các giống cây chịu sâu bệnh và sử dụng chúng với từng khu vực, từng phân vùng (phù hợp với khí hậu, đất đai, có ưu thế hoặc có khả năng kháng một số loài sâu bệnh phổ biến ở vùng đó).

- Bước 4: Sản xuất và vận dụng các chế phẩm sinh học, chế phẩm từ thảo mộc. Nghiên cứu sử dụng các loại thuốc hoá học ít độc đặc biệt cho các vùng trồng rau.

- Bước 5: Nghiên cứu các loại thuốc trừ sâu với có tính chọn lọc cao tác động nhanh và mạnh ít ảnh hưởng tới côn trùng có ích.

- Bước 6: Nghiên cứu thời điểm phù hợp sử dụng thuốc với liều lượng phù hợp, phương pháp phù hơp.

- Bước 7: Nghiên cứu các kỹ thuật sử dụng thuốc mới nhằm làm đơn giản các thao tác pha chế ảnh hưởng tới môi trường.

- Bước 8: Nghiên cứu các phương pháp dự tính, dự báo sâu bệnh có hiệu quả. - Bước 9: Theo dõi và đánh giá tình hình phát triển sâu bênh thường xuyên để

đưa ra các biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 4/46

Phần thứ hai

KỸ THUẬT THĂM ĐỒNG VÀ ĐIỀU TRA SÂU BỆNH HẠI MÍA

Trong IPM, kỹ thuật thăm đồng và điều tra sâu bệnh đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Việc thường xuyên thăm đồng, kiểm tra tình hình dịch hại và điều tra đúng phương pháp cho phép xác định hiện trạng sâu bệnh đã đến mức ngưỡng gây hại và ngưỡng kinh tế hay chưa, tác động thiên địch ra sao, đã cần phải thực hiện biện pháp hóa chất chưa, nếu có ở mức độ nào?. 1. Đối tượng và nội dung điều tra

- Cây mía: Theo dõi sự sinh trưởng và phát triển của cây mía và các yếu tố có liên quan như thời vụ, đất đai, thời tiết, chế độ tưới nước,...

- Sâu bệnh hại mía: Tập trung vào những sâu bệnh hại chính gây hại có ý nghĩa kinh tế ở từng khu vực. 2. Thời gian điều tra

- Điều tra định kỳ 7-10 ngày/lần. - Điều tra bổ sung: vào các thời kỳ xung yếu của cây mía cần mở rộng tuyến

điều tra để ghi nhận đặc tính của các đối tượng dịch hại theo vùng sinh thái. 3. Chọn ruộng điều tra

Ruộng điều tra đượcc chọn phải thỏa mãn các yếu tố điều tra về diện tích, giống, thời vụ, chân đất… 4. Các chỉ tiêu và phương pháp điều tra 4.1 Phương pháp điều tra sâu hại: 4.1.1 Đối với nhóm sâu hại gốc, rễ (sùng trắng, mối, ....):

- Chỉ tiêu điều tra: + Mật độ sâu hại (con/m2) = số sâu hại (con)/diện tích điều tra (m2) + Tỷ lệ cây bị hại (%) = (số cây bị hại) x 100/(tổng số cây điều tra) - Phương pháp điều tra: Điều tra trên 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên 3

m dài hàng mía. 4.1.2 Đối với nhóm sâu hại thân (sâu đục thân):

- Chỉ tiêu điều tra: + Tỷ lệ ngọn bị héo (%) = (số ngọn bị héo) x 100/(tổng số ngọn điều tra) + Tỷ lệ cây bị hại (%) = (số cây bị hại) x 100/tổng số cây điều tra) + Tỷ lệ đốt (lóng) bị hại (%) = (số lóng bị hại) x 100/(tổng số lóng điều tra) + Chỉ số hại (%) = [Tỷ lệ cây bị hại (%) x Tỷ lệ lóng bị hại (%)]/100 - Phương pháp điều tra: + Điều tra trên 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên 5 m dài hàng mía. + Điều tra thành phần sâu hại: Ghi nhận loài sâu đã biết tên và tần xuất bắt gặp

chúng hoặc thu thập mẫu vật sâu lạ gửi đi định danh 4.1.3 Đối với nhóm sâu hại lá (sâu ăn lá, rệp, rầy…):

- Chỉ tiêu điều tra: + Tỷ lệ cây bị hại (%) = (số cây bị hại) x 100/(tổng số cây điều tra) + Mật độ sâu hại (con/cây) = số sâu hại (con)/ số cây điều tra (cây) - Phương pháp điều tra: Điều tra trên 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên

10 cây liên tục. 4.2 Chỉ tiêu và phương pháp điều tra bệnh hại: 4.2.1 Đối với bệnh hại trên rễ:

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 5/46

- Chỉ tiêu điều tra: + Tỷ lệ cây bị bệnh (%) = (số cây bị bệnh) x 100/(tổng số cây điều tra). + Chỉ số bệnh (%): Phân theo 3 cấp: • Cấp 1 (nhẹ): Số rễ bị bệnh < 10% • Cấp 2 (trung bình): Số rễ bị bệnh 10-40% • Cấp 3 (nặng): Số rễ bị bệnh > 40% - Phương pháp điều tra: Điều tra trên 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên

10 cây liên tục. 4.2.2 Đối với bệnh hại trên thân:

- Chỉ tiêu theo dõi: Tỷ lệ cây bị bệnh (%) = (số cây bị bệnh) x 100 / (tổng số cây điều tra).

+ Điều tra trên 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên 5 m dài hàng mía. 4.2.3 Đối với bệnh hại trên lá:

- Chỉ tiêu điều tra: + Tỷ lệ lá, bẹ lá bị bệnh = (số lá, bẹ lá bị bệnh) x 100/(tổng số cây điều tra). + Chỉ số bệnh: Phân theo thang 9 cấp: + Cấp 1: Diện tích lá, bẹ lá bị bệnh < 1% + Cấp 3: Diện tích lá, bẹ lá bị bệnh < 1-5% + Cấp 5: Diện tích lá, bẹ lá bị bệnh < 5-25% + Cấp 7: Diện tích lá, bẹ lá bị bệnh < 25-50% + Cấp 9: Diện tích lá, bẹ lá bị bệnh > 50% - Phương pháp điều tra: Điều tra trên 5 điểm chéo góc, mỗi điểm điều tra trên

10 cây liên tục. 4.3 Phương pháp điều tra sinh trưởng: 4.3.1 Các chỉ tiêu sinh trưởng:

- Giai đoạn mía mọc mầm-cây con:(mầm mọc-5 lá thật): + Tỷ lệ mọc mầm (%) + Mật độ mầm (cây/m2) + Số lá/cây - Giai đoạn mía đẻ nhánh (6-10 lá thật): + Mật độ cây mẹ (cây/m2) + Số nhánh cấp 1/cây mẹ + Số nhánh cấp 2/cây mẹ + Số lá thật/cây - Giai đoạn vươn lóng (sau trồng khoảng 3- 4 tháng): + Mậtt độ (cây/m2) + Chiều cao cây (cm) + Số lá xanh/cây + Số lóng/cây + Diện tích lá (cm2) + Chiều dài lóng (cm) (đo ở 3 lóng) + Đường kính thân (cm) (đo ở 3 lóng) 4.3.2 Phương pháp điều tra: Điều tra 5 điểm cố định, mỗi điểm điều tra 1 m2.

4.4 Ngưỡng kinh tế của sâu hại mía Việc sử dụng thuốc chỉ thực sự đạt hiệu quả về mặt kinh tế và kỹ thuật khi sinh

vật hại đã phát triển đến ngưỡng gây hại hoặc ngưỡng kinh tế.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 6/46

- Ngưỡng gây hại là mức độ của dịch hại bắt đầu làm tổn thương đến sinh trưởng, phát triển và năng suất cây trồng.

- Ngưỡng kinh tế (ETL, viết tắt của cùm từ Economic Threshold Level) là mức độ dịch hại mà khi đó nếu tiến hành các biện pháp phòng trừ thì chi phí bỏ ra phải ít hơn hoặc bằng với giá trị sản phẩm thu lại được do kết quả của việc phòng trừ.

Trên thế giới đã có nhiều tác giả nghiên cứu và xác định được ngưỡng kinh tế của các loài sâu hại mía. Trong phạm vi tài liệu này, chúng tôi xin trích dẫn ra đây số liệu tổng hợp về ETL tại Ấn Độ để cùng tham khảo thêm.

Bảng 1. Ngưỡng kinh tế của một số loài sâu hại mía ở Ấn Độ

TT Loài sâu hại Ngưỡng kinh tế (ETL) 1 Sâu đục thân 5 vạch đầu nâu (đục mầm) - Giống chín muộn: 15-22,8%.

- Giống chín sớm: 16,8% 2 Pyrilla 3-5 cá thể/lá hoặc 1 ổ trứng/lá 3 Sâu đục thân 17 lóng bị đục/hàng 6m 4 Sâu đục thân 4 vạch (đục lóng) 16,15-28,39 cây bị đục/hàng 6m 5 Sâu đục thân mình trắng (đục ngọn) Tỷ lệ nhiễm 15-22% 6 Sùng trắng đục gốc 15 con/cây ký chủ 7 Gặm nhấm 15 hang/ha

( Nguồn: Theo Pulikesh Naidu, 2009 )

Ở Việt Nam, chưa có nhiều nghiên cứu về ETL của sâu hại mía. Tuy nhiên, riêng tại vùng Đông Nam bộ, đối với nhóm sâu đục thân hại mía, theo Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát (2006), có thể coi tỷ lệ 10% lóng bị hại là ngưỡng kinh tế (ETL) của nhóm sâu đục thân hại mía.

Một nguyên tắc khác (theo tài liệu hướng dẫn của đại học Florida – IFAS extension, ENY-406, Ron H.Cherry and Gregg S.Nuessly) để xác định ngưỡng kinh tế là sự hiện hiện của các thiên địch và ký sinh gây bệnh trên côn trùng. Nếu số lượng hoặc sự hiện diện của thiên địch và ký sinh gây bệnh lớn hơn 50% so với mật độ của côn trùng gây hại, thì không cần phải áp dụng biện pháp hóa chất (thuốc BVTV).

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 7/46

Phần thứ ba

KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH DỊCH HẠI MÍA

1. Tình hình dịch hại mía trên thế giới Mía là cây công nghiệp sản xuất đường chủ yếu và được trồng phổ biến ở nhiều

nước trên thế giới. Ở Việt Nam, cây mía đang chiếm một vị trí quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng trong sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước (Hà Minh Trung, 1997).

Theo thống kê của Hiệp hội Kỹ thuật Mía Đường Quốc tế (Internatinal Society of Sugar Cane Technologists – ISSCT, 1999), trong số 324 loài động vật hại mía đã xác định được trên toàn thế giới, ngành chân khớp (Arthropoda) chiếm số lượng loài nhiều nhất (84,5%), phần còn lại là động vật gặm nhấm ăn thực vật (5,9%), tuyến trùng (4,9%) và động vật khác (4,7%). Trong ngành chân khớp, lớp côn trùng (Hexapoda) chiếm 84,2% tổng số loài, các loài nhện chỉ chiếm 0,3% tổng số loài đã phát hiện. Trong lớp côn trùng, bộ cánh vảy (Lepidoptera) chiếm số lượng loài nhiều nhất 50,3% tổng số loài, bộ mối (Isoptera) chiếm 0,9%, bộ cánh tơ (Thysanoptera) chiếm 0,3%, bộ cánh nửa (Hemiptera) chiếm 16,7%, bộ cánh cứng (Coleoptera) chiếm 11,7%, bộ hai cánh (Diptera) chiếm 0,6% và phần còn lại (3,7%) thuộc các bộ côn trùng khác. Trong bộ cánh vảy (Lepidoptera, 50,3%), số lượng loài hại lá chỉ chiếm khoảng 0,6%, phần còn lại (49,7%) là các loài hại thân. Còn theo tổng kết của CIRAD - Trung tâm Hợp tác Quốc tế về nghiên cứu phát triển nông nghiệp - Pháp (2000), thiệt hại tổng số do các loài dịch hại gây ra đối với cây mía ước tính chiếm khoảng 54,0% tổng sản lượng mía của toàn thế giới. Trong đó, riêng thiệt hại do nhóm côn trùng gây ra chiếm tới 19,5%. Còn nếu chỉ dựa vào các thông tin đại chúng do các viện, cơ quan nghiên cứu cung cấp thì ta có thể thấy rõ một điều rằng côn trùng là nhóm sâu hại quan trọng nhất (8 trong 10 trường hợp) và trong nhóm côn trùng thì sâu đục thân thường xuất hiện nhiều hơn cả (50% thông tin), kế đến là nhóm côn trùng chích hút (15 – 20% thông tin), sau đó là các loài bọ hung đục gốc (10 – 14% thông tin). Tuyến trùng và chuột tương ứng là 5 – 10% và 5 – 6% thông tin.

Bảng 2. Tổng hợp về tổn thất do các loại sâu hại mía trên thế giới

TT Loại sâu hại Thiệt hại

sản lượng (%) Thiệt hại

chữ đường (%) 1 Sâu đục mầm sớm 22-33 2 2 Sâu đục lóng 34,88 1,7-3,07 3 Sâu đục ngọn 21-37 0,2-4,1 4 Sâu đục thân >33 1,7-3,07 5 Rệp vảy 32,6 1,5-2,5 6 Rệp sáp đẻ nhánh kém, >35% brix giảm 16,2

7 Rầy các loại (rầy nâu, rầy đen)

86 1-1,5

8 Bọ phấn trắng (chích hút +truyền bệnh)

80 1,4-1,8

9 Sùng đục gốc (Holotrichia) 100 5-6 10 Sùng đục gốc (Leucopholis) 33 chết khô nguyên cây 11 Mối 22,27 4,5 12 Gặm nhấm (chuột, thỏ) 7-39 13 Rệp bông 1,2-3,43

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 8/46

2. Tình hình dịch hại mía ở Việt Nam

Ở nước ta, theo thống kê của Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát (2006) từ 2001-2005, có 28 loài sâu, 2 loài nhện, 1 loài ốc nhỏ, 2 loài ốc sên, 3 loài gặm nhấm, 26 loài bệnh, 4 loài tuyến trùng và 29 loài cỏ dại hại mía. Trong đó:

- Có 11 loài sâu hại chính: 4 loài sâu đục thân (bốn vạch, năm vạch đầu nâu, mình tím và mình hồng lớn), 1 loài sùng trắng (bọ hung đen), 1 loài xén tóc (nâu lớn), 2 loài rệp (rệp bông trắng, rệp sáp đỏ), 2 loài rầy (rầy đầu vàng, bọ phấn trắng) và 1 loài mối.

- Có 1 loài nhện: Nhện đỏ - Có có 9 loài bệnh hại chính: 3 bệnh nấm (than đen, thối đỏ thân, thối ngọn), 3

bệnh vi khuẩn (cằn gốc, thân chồi đâm ngọn, chảy gôm), 2 bệnh phytoplasma (trắng lá, chồi cỏ xanh) và 1 bệnh vi rút (vàng gân lá).

- Có 1 loài chuột hại chính: Chuột đồng. - Có 7 loài cỏ dại phổ biến trên ruộng mía gồm: Cỏ chỉ, mần trầu, trinh nữ, dền

gai, cứt lợn, cỏ gấu và cỏ tranh. Theo kết quả điều tra của Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa và Trung tâm

Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường (2010), ở vùng Đông Nam bộ nói chung, vùng nguyên liệu mía của Công ty nói riêng hiện đang có 16 loài dịch hại chính và có nguy cơ phát sinh thành dịch cần phải tập trung phòng trừ (Bảng 1), chúng bao gồm:

- 8 loài sâu hại: Sâu đục thân 4 vạch, sâu đục thân 5 vạch đầu nâu, sâu đục thân mình tím, sâu đục thân mình hồng lớn, sâu đục thân mình trắng, rầy đầu vàng, rệp sáp đỏ và bọ phấn trắng.

- 1 loài nhện hại: Nhện đỏ - 7 loại bệnh hại: Bệnh than, bệnh thối đỏ, thối ngọn, cằn gốc, thân chồi đâm

ngọn, trắng lá và khảm lá vi rút. Bảng 3. Danh mục các dịch hại chính trên cây mía ở vùng Đông Nam bộ

TT Tên tiếng Việt Tên khoa học Giai đoạn sinh trưởng

bị hại chủ yếu Bộ phân cây

bị hại chủ yếu 1 Sâu đục thân 4 vạch Chilo sacchariphagus

Bojer Mọc mầm, đẻ nhánh, vươn lóng, mía chín

Lá đọt, lóng thân, đỉnh sinh trưởng

2 Sâu đục thân mình tím

Phragmataecia castaneae Hŭbner

Đẻ nhánh, vươn lóng, mía chín

Bẹ lá, lóng thân

3 Sâu đục thân mình hồng lớn (cú mèo)

Sesamia sp. Đẻ nhánh, vươn lóng Bẹ lá, lóng thân

4 Sâu đục thân 5 vạch đầu nâu (đục mầm)

Chilo infuscatellus Snellen

Mọc mầm Đỉnh sinh trưởng

5 Sâu đục thân mình trắng (đục ngọn)

Scirpophaga nivella Fabr. Mọc mầm, đẻ nhánh, vươn lóng

Lá đọt, đỉnh sinh trưởng

6 Rầy đầu vàng Eoeurysa flavocapitata Muir.

Đẻ nhánh, vươn lóng Lá đọt

7 Rệp sáp đỏ Saccharicoccus sacchari Cock.

Vươn lóng Đốt thân

8 Bọ phấn trắng Aleurolobus barodensis Maskell

Vươn lóng, mía chín Lá mía

9 Nhện đỏ Oligonychus simus Baker & Pritchard

Vươn lóng, mía chín Lá mía

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 9/46

10 Bệnh than đen Ustilago scitamenia Sydow

Mọc mầm, đẻ nhánh Đỉnh sinh trưởng

11 Bệnh thối đỏ Glomerella tucumanensis Muller

Vươn lóng, mía chín Lá, bẹ lá, lóng thân

12 Bệnh thối ngọn Fusarium moniliforme Sheldon

Vươn lóng Lóng ngọn, lá đọt

13 Bệnh cằn mía gốc (RSD)

Leifsonia xyli subsp. xyli Davis

Vươn lóng, mía chín Toàn thân cây, toàn bụi mía

14 Bệnh thân chồi đâm ngọn

Xanthomonas albilineans Dowson

Vươn lóng, mía chín Toàn thân cây, toàn bụi mía

15 Bệnh chảy gôm Xanthomonas campestris pv. vasculorum (Cobb)

Vươn lóng, mía chín Toàn thân cây, toàn bụi mía

16 Bệnh khảm lá vi rút Sugarcane mosaic virus Sorghum mosaic virus

Vươn lóng, mía chín Toàn thân cây, toàn bụi mía

Ngoài ra, nhóm cỏ dại tuy không là dịch hại quá nguy hiểm nhưng là đối tượng mà người trồng mía ở khắp các vùng phải thường xuyên chú ý phòng trừ sớm và triệt để, nếu không sẽ làm giảm đáng kể năng suất mía. Đây cũng là đối tượng dịch hại khiến cho người trồng mía phải tiêu tốn khá nhiều chí phí, bình quân mỗi vụ phải chi từ 1,4 – 2,0 triệu đồng/ha.

Chưa có nhiều nghiên cứu xác định được chính xác mức độ tổn thất do từng loài dịch hại gây ra đối với sản xuất mía ở trong nước. Tuy nhiên, gần đây trên các phương tiện thông tin đại chúng liên tục xuất hiện các thông tin về tổn thất do một số loài dịch hại gây ra đối với cây mía ở một số vùng mía lớn, như dịch bệnh chồi cỏ xanh hại mía ở Nghệ An, dịch thối đỏ ở Tây Ninh, dịch bệnh than đen ở Kon Tum, dịch rệp xơ bông trắng ở Thanh Hóa, dịch bọ hung đen và xén tóc nâu lớn hại mía ở Bắc Trung bộ và Tây Nguyên, dịch rầy đầu vàng hại mía ở miền Nam, dịch bọ phấn trắng ở Phú Yên,… Riêng đối với nhóm sâu đục thân, đối tượng gây hại phổ biến và chủ yếu trên cây mía ở vùng Đông Nam bộ, theo đánh giá của Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát (2006), thiệt hại do chúng gây ra ước tính chiếm khoảng 20-40% năng suất mía trong vùng.

Điều rất may là trong tự nhiên luôn tồn tại một lực lượng đông đảo các loài thiên địch của các dịch hại nêu trên. Nếu không có chúng, cân bằng sinh học trong tự nhiện sẽ bị phá vỡ, dịch bệnh sẽ phát sinh thường xuyên và gây thiệt hại rất lớn. Kết quả điều tra của Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường (2009) cho thấy, riêng đối với nhóm sâu đục thân ở vùng Đông Nam bộ, có tới 21 loài côn trùng ký sinh và 16 loài côn trùng ăn thịt (Bảng 2), trong đó, ong mắt đỏ màu vàng kí sinh trứng Trichogramma chilonis Ishii, ong kén trắng kí sinh sâu non Cotesia flavipes Cameron, ong nhỏ râu ngắn kí sinh nhộng Tetrastichus howardi Olliff và bọ đuôi kìm ăn thịt Euborellia annulipes Lucas là những loài thiên địch có vai trò quan trọng nhất cần được bảo vệ và lợi dụng có hiệu quả hơn nữa trong công tác phòng trừ sâu đục thân mía ở miền Đông Nam bộ.

Bảng 4. Thành phần thiên địch của sâu đục thân mía ở vùng Đông Nam bộ

TT Loài thiên địch Họ - Bộ Loài kí chủ (vật mồi)

Mức độ bắt gặp

A- Côn trùng kí sinh: 1. Ong mắt đỏ màu vàng kí sinh trứng

Trichogramma chilonis Ishii Trichogrammatidae

- Hymenoptera - Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch - Sâu đục ngọn - Sâu ĐT mình vàng

+++ + - -

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 10/46

2. Ong mắt đỏ màu đen kí sinh trứng Trichogramma japonicum Asmead

Trichogrammatidae - Hymenoptera

- Sâu đục ngọn - Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình hồng

+ - -

3. Ong mắt đỏ kí sinh trứng Trichogramma ostriniae Pang & Chen

Trichogrammatidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT mình vàng -

4. Ong mắt đỏ kí sinh trứng Trichogrammatoidea nana Zehntner

Trichogrammatidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình tím

- -

5. Ong đen kí sinh trứng Telenomus rowani Gahan

Scelionidae - Hymenoptera

- Sâu đục ngọn +

6. Ong đen kí sinh trứng Telenomus beneficiens Zehntner

Scelionidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch

+++

7. Ong đen kí sinh trứng Telenomus daobochongus Walker

Scelionidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình hồng

- -

8. Ong đen lớn kí sinh trứng Telenomus sp.

Scelionidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT mình hồng

+

9. Ong kén trắng kí sinh sâu non Cotesia flavipes Cameron

Braconidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình hồng - Sâu ĐT mình tím - Sâu ĐT mình vàng

+++ + - - -

10. Ong kén nhỏ kí sinh sâu non Microbracon chinensis Szépligeti

Braconidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch

- -

11. Ong kén nhỏ kí sinh sâu non Stenobracon nicevillei Bingham

Braconidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 5 vạch

-

12. Ong kén nhỏ kí sinh sâu non Rhaconotus rosliensis Lal

Braconidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT mình tím -

13. Ong kí sinh sâu non Elasmus zehntneri Ferrière

Elasmidae - Hymenoptera

- Sâu đục ngọn +

14. Ong cự đen kí sinh sâu non Melaboris sinicus Holmgren

Ichneumonidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình hồng

- - -

15. Ong cự đen bụng to kí sinh sâu non Isotima javensis Rohwer

Ichneumonidae - Hymenoptera

- Sâu đục ngọn -

16. Ong cự vàng kí sinh sâu non Enicospilus sp.

Ichneumonidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT mình hồng ++

17. Ong cự nâu vàng kí sinh sâu non Goryphus sp.

Ichneumonidae - Hymenoptera

- Sâu đục ngọn -

18. Ong cự vàng chấm đen kí sinh nhộng Xanthopimpla stemmator Thunberg

Ichneumonidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT mình hồng - Sâu ĐT mình tím

- - -

19. Ong nhỏ râu ngắn kí sinh nhộng Tetrastichus howardi Olliff

Eulophidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu đục ngọn - Sâu ĐT mình hồng

- ++ -

20. Ong đùi to kí sinh nhộng Brachymeria sp.

Chalcididae - Hymenoptera

- Sâu ĐT mình hồng -

21. Ruồi kí sinh sâu non Sturmiopsis inferens Townsend

Tachinidae - Diptera

- Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình hồng - Sâu ĐT mình tím

- - -

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 11/46

B- Côn trùng bắt mồi:

22. Bọ đuôi kìm Euborellia annulipes Lucas

Carcinophoridae - Dermaptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình tím - Sâu ĐT mình hồng

++ + +

+++ 23. Bọ đuôi kìm nâu đen lớn

Euborellia annulata Fabricius Carcinophoridae

- Dermaptera - Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT mình hồng

- +

24. Bọ đuôi kìm cánh vàng Doru sp.

Forficulidae - Dermaptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT mình hồng

- -

25. Bọ xít bắt mồi Rhinocoris marginellus Thunberg

Reduviidae - Hemiptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch

- -

26. Bọ xít bắt mồi lớn Acanthaspis sp.

Reduviidae - Hemiptera

- Sâu ĐT 4 vạch -

27. Bọ chân chạy 2 chấm trắng Chlaenius posticalis Motschulky

Carabidae - Coleoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT mình hồng - Sâu ĐT mình tím

- + -

28. Bọ phóng bom Pherosophus sp.

Carabidae - Coleoptera

- Sâu ĐT mình hồng +

29. Bọ hổ trùng 6 chấm Cicindela sexpunctata Fabricius

Cicindelidae - Coleoptera

- Sâu ĐT mình hồng - Sâu ĐT 5 vạch

- -

30. Bọ hổ trùng 2 sọc thẳng Cicindela striolata Illiger

Cicindelidae - Coleoptera

- Sâu ĐT mình hồng -

31. Bọ cánh cộc Paederus fuscipes Curtis

Staphilinidae - Coleoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch - Sâu ĐT mình hồng

+ - -

32. Bọ rùa nhỏ ăn thịt Brumus saturalis Fabricius

Coccinellidae - Coleoptera

- Sâu đục ngọn +

33. Kiến ăn thịt Anoplolepis sp.

Formicidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch -

34. Kiến ăn thịt Camponotus sp.

Formicidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch

- -

35. Kiến ăn thịt Monomonium sp.

Formicidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT 5 vạch

- -

36. Kiến ăn thịt Pheidole sp.

Formicidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT mình vàng - Sâu ĐT mình hồng

+ - -

37. Kiến ăn thịt Solenopsis sp.

Formicidae - Hymenoptera

- Sâu ĐT 4 vạch - Sâu ĐT mình vàng

- -

Ghi chú: +++ bắt gặp nhiều (>50% số lần bắt gặp) ++ bắt gặp trung bình (26 - 50% số lần bắt gặp)

+ bắt gặp ít (6 - 25% số lần bắt gặp) - bắt gặp rất ít (0 - 5% số lần bắt gặp).

Ngoài các loài thiên địch kể trên, trong tự nhiên cũng luôn tồn tại các loài nấm,

vi khuẩn, vi rút ký sinh gây bệnh côn trùng như nấm bạch cương Beauveria bassiana, nấm lục cương Metarhizium anisopliae, nấm Verticillium lecanii, vi khuẩn BT Bacillus thuringiensis, vi rút nhân đa diện NPV,... hay như loài nấm đối kháng Trichoderma spp.,... chúng cũng góp phần không nhỏ trong việc khống chế mật độ các loài dịch hại và duy trì cân bằng sinh học trong tự nhiên.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 12/46

Phần thứ tư

ĐẶC ĐIỂM VÀ BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ CÁC LOÀI DỊCH HẠI CHÍNH TRÊN CÂY MÍA Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ

1. Sâu đục thân 4 vạch: Chilo sacchariphagus Bojer - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem hình 1 - Đặc điểm sinh học, sinh thái: Mỗi năm phát sinh 6 đợt. Vòng đời sâu: trứng 6-7 ngày, sâu non 35-40 ngày, nhộng 10-11 ngày, trưởng thành 1-2 ngày. Ngài cái đẻ từ 8- 11 ổ trứng, tổng số khoảng 250 - 300 trứng. Sâu non cũng hại mía mầm nhưng hại mía cây là chính. Sâu chui vào nách lá rồi đục vào thân tạo thành hang ngách, ảnh hưởng đến sự vận chuyển nhựa và làm mía dễ gẫy ngang thân khi có gió. Đường đục cũng tạo cho nấm bệnh thối đỏ xâm nhập. Sâu 4 vạch phá hại mạnh vào mùa mưa cao điểm tháng 7-8 trong năm. - Biện pháp phòng trừ:

+ Trồng hom sạch sâu, loại bỏ mầm nước vào tháng thứ 8 hoặc thứ 9 sau trồng hoặc tái sinh gốc. Tránh bón quá nhiều đạm và tiêu nước cho ruộng ngập úng. + Bóc lá vào các tháng 5, 7 và tháng 9 sau trồng, tái sinh gốc. + Thả ong mắt đỏ Trichogramma chilonis định kỳ 15 ngày/lần để diệt trứng, mỗi lần thả 50 ngàn ong/ha, thả từ tháng thứ 3 - 8 sau trồng. + Thả ong kén trắng Cotesia flavipes để diệt sâu non, thả 1 lần/tháng từ khi thấy xuất hiện triệu chứng gây hại, thả 2.000 kén/ha/lần. + Có thể dùng các loại thuốc Diaphos (50 ND, 10 H), Padan (95 SP, 4 H) v.v… phun hoặc rải cục bộ, có chọn lọc lên bộ lá những cây bị hại lốm đốm trắng, phun 2 tuần/1 lần, phun liên tục 3 – 5 lần trong khoảng thời gian từ lúc mía 4 – 6 tháng tuổi. 2. Sâu đục thân mình tím: Phragmataecia castaneae Hŭbner - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 2.

- Đặc điểm sinh học, sinh thái: Sâu phát sinh 2-3 đợt trong năm. Vòng đời sâu: trứng 9-11 ngày, sâu non 55-71 ngày, nhộng 11-15 ngày, trưởng thành 3-5 ngày; mùa đông vòng đời sâu dài hơn. Ngài cái đẻ 2-3 ổ trứng, 300-700 trứng/ổ. Sâu phá hại cả mùa khô lẫn mùa mưa. Sâu non có 8 tuổi, sau khi nở ra khỏi trứng khoảng 15 phút là sâu non phân tán ngay, thường mỗi cây có từ 1 – 2 con tấn công gây hại. Sâu non tuổi nhỏ đục ăn trong bẹ lá theo kiểu vịng trịn (gy ra triệu chứng ho l bn trước), đến cuối tuổi 2, đầu tuổi 3, sâu mới đục vào phần thịt lóng theo 1 đường đục rất thắng từ dưới lên trên (gây ra triệu chứng ngọn teo). Trong quá trình gây hại, sâu rất ít khi đục ra ngoài, phân sâu nén trong đường đục, chỉ đến khi gần hoá nhộng, sâu mới đục 1 lỗ vũ hoá ở phần thân ngọn và chui trở lại đáy đường đục để hoá nhộng. - Biện pháp phòng trừ:

+ Giai đoạn cây con 4 – 6 tháng sau trồng hoặc thu hoạch, có thể dùng các loại thuốc Diaphos 50 ND, Vibasu 40 ND, Padan 95 SP, Diaphos 10 H, Padan 4 H v.v… phun hoặc rải cục bộ, có chọn lọc cho những đoạn mía bị hại (triệu chứng héo lá bên), từ 3 - 5 lần cách nhau 14 ngày. Làm như vậy vừa có thể tiết kiệm thuốc trừ sâu, tập trung thuốc đủ liều lượng có thể giết chết sâu ẩn chứa trong thân, vừa chừa lại những khoảng không gian nhất định cho các loài thiên địch cư trú và thực hiện thiên chức của mình.

+ Dùng bẩy đèn bắt trưởng thành vào 2 thời điểm rộ: Tháng 3, 4 và tháng 8, 9.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 13/46

3. Sâu đục thân mình hồng lớn (cú mèo): Sesamia sp. - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 3.

- Đặc điểm sinh học, sinh thái: Trong năm sâu phát sinh 5-6 đợt. Vòng đời sâu: trứng 4-6 ngày, sâu non 21-29 ngày, nhộng 10-11 ngày, trưởng thành 4-6 ngày; mùa đông vòng đời sâu dài hơn. Mỗi ngài cái đẻ khoảng 70-100 trứng. Sâu non phá hại vào mùa mưa, mưa càng nhiều sâu phá hại càng mạnh, phá hại trên mía mầm là chính. Khi mới nở, sâu tập trung và gặm bên trong lá, tuổi 2-3 thì phân tán, từ bẹ lá đục vào ngọn và phá hại điểm sinh trưởng làm cho nõn mía bị héo.

- Biện pháp phòng trừ: + Chặt, cắt bỏ ổ sâu định kỳ kể từ đầu vụ mía & giữ cho ruộng luôn sạch cỏ.

Diệt chồi vô hiệu ở giai đoạn mía 7-8 tháng tuổi, hạn chế sâu đẻ trứng, nhân nhanh số lượng.

+ Ruộng trồng mới: Bón lót Diaphos 10 H hoặc Padan 4 H cùng với phân lót ngay khi trồng, liều lượng dùng khoảng 30 – 45 kg/ha.

+ Rải thuốc Diaphos 10 H hoặc Padan 4 H ở giai đoạn bị hại nặng hoặc đầu giai đoạn vươn lóng mạnh hoặc 90 ngày sau trồng, liều lượng dùng khoảng 35-40 kg/ha, rải dọc theo hàng mía, dùng cuốc cày vun lấp thuốc, sau đó tưới ẩm nếu cần. Có thể trộn 30 kg thuốc Diaphos 10 H + 50 kg cát, sau đó rắc thuốc lên ngọn lá ở giai đoạn mía vươn lóng mạnh. Tập trung thuốc rắc cho những cây bị hại.

+ Thả ong kén trắng Cotesia sesamiae ký sinh sâu non ở giai đoạn rộ hoặc mía bị hại nặng, liều lượng thả khoảng 5.000 ong/ha/lần thả. Thả 2 lần cách nhau 1 tháng. 4. Sâu đục thân 5 vạch đầu nâu (đục mầm): Chilo infuscatellus Snellen - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 4.

- Đặc điểm sinh học, sinh thái: Sâu phát sinh 5-6 đợt trong năm. Vòng đời trong mùa hè: trứng 5-7 ngày, sâu non 20-26 ngày, nhộng 5-8 ngày, trưởng thành 4-6 ngày; mùa đông vòng đời sâu dài hơn, trứng đẻ thành ổ, mỗi ổ có 250- 300 trứng. Sâu non nở ra là phân tán, thường nhả tơ đu đưa rồi nhờ gió chuyển sang những cây mía lân cận. Sâu chủ yếu phá hại ở thời kỳ mía mía mầm, ảnh hưởng đến mật độ cây. Sâu phá hại nặng trên mía trồng vụ thu đông, mía gốc thu hoạch muộn có đốt lá vào mùa khô. - Biện pháp phòng trừ:

+ Tránh trồng mía vào các tháng khô hạn, lột bỏ bẹ lá đầu tiên, vun luống nhẹ 2 – 3 lần giai đoạn đầu vươn lóng, không đốt lá sau thu hoạch, tưới nước trong mùa khô hạn.

+ Rút bỏ đọt héo và giết sâu non, nhộng trong cây héo ngọn bằng xiên nhọn hoặc cắt mầm héo sâu 5 cm dưới mắt đất (tháng 3-4).

+ Thả ong mắt đỏ định kỳ 1 lần/tháng, mỗi lần thả 50 ngàn ong/ha, thả từ tháng thứ 1,5 đến tháng thứ 6 sau trồng (hoặc tái sinh gốc) ở những vùng khô hạn kéo dài.

+ Xử lý hom giống trước khi trồng bằng thuốc trừ sâu Diaphosọ 50 EC hoặc bón lót Padan 4 G, Diaphos 10 H, liều lượng 30 – 45 kg/ha ngay khi trồng. 5. Sâu đục thân mình trắng (đục ngọn): Scirpophaga nivella Fabr. - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 5.

- Đặc điểm sinh học, sinh thái: Mỗi năm phát sinh 6 đợt. Vòng đời sâu: trứng 7-15 ngày, sâu non 31-61 ngày, nhộng 12-18 ngày, trưởng thành 3-13 ngày. Mỗi ngài cái đẻ từ 70-100 trứng. Sâu phá hại trên mía cây, đặc biệt là ở đốt ngọn. Sâu non đục từ ngọn mía xuống dưới ăn điểm sinh trưởng làm cho ngọn mía bị héo, lá xung quanh ngọn mía xoè ra không bình thường, các mầm nhánh đâm ra thành hình ngọn chồi. - Biện pháp phòng trừ:

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 14/46

+ Ngắt ổ trứng trên lá thu bắt trưởng thành vào buổi sáng sớm. + Chặt cây sâu giết sâu non nhộng trong thân. + Bón thêm đạm thúc đẩy cây sinh trưởng nhanh. + Tiêu úng. + Thả ong mắt đỏ Trichograma chilonis Ishii + Phun Diaphos 50 EC, Padan 95 SP vào giai đoạn sâu non nở rộ hoặc rắc

Diaphos 10 H, Padan 4 H vào đọt cây bị hại. 6. Rầy đầu vàng: Eoeurysa flavocapitata Muir. - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 6.

- Đặc điểm sinh học, sinh thái: Trong năm phát sinh 6-7 lứa. Vòng đời: Trứng từ 8-15 ngày, sâu non 23-33 ngày, trưởng thành 23-38 ngày. Trứng thường được đẻ 2 bên gân lá chính. Rầy non mới nở bò men theo mép lá đến đọt lá và chủ yếu gây hại ở lá đọt chích hút chất dịch của lá. Phần đọt lá mía bị hại lúc đầu xuất hiện các chấm màu vàng nhỏ, sau đó chúng liên kết với nhau thành chấm lớn, trên bề mặt có 1 lớp bọt trắng, chất dịch này thường thu hút ruồi, kiến, … đến ăn. Sau một thời gian nấm muội đen bắt đầu xâm nhập phát triển trên lớp bọt trắng, biến chúng thành màu đen, phủ kín mặt lá và có mùi chua ngọt rất đặc trưng. Lá bị hại biến dạng, thun ngắn, ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của cây mía ở giai đoạn đầu và ảnh hưởng đến năng suất chất lượng mía ở giai đoạn thu hoạch. - Biện pháp phòng trừ:

+ Nên quy hoạch trồng mía thành từng vùng tập trung, trong đó nên phân thành 2 khu vực với 2 thời vụ trồng riêng biệt là hè thu và đông xuân. Trong từng thời vụ, nên tiến hành trồng tập trung trong cùng một thời gian nhất định, không nên kéo dài thời gian trồng trong 1 vụ quá 1 tháng, không nên trồng xen kẽ mía hè thu với mía đông xuân. Đối với vụ hè thu, nên trồng sớm trước ngày 10/6 dương lịch hàng năm. Ở những vùng nguyên liệu tập trung, có điều kiện phù hợp nên chuyển dịch cơ cấu thời vụ trồng sang trồng chủ yếu trong vụ đông xuân. + Các vùng thường phát dịch nên trồng các giống ít mẫn cảm với rầy đầu vàng như: K84-200, VN84-4137, K88-65,… + Thường xuyên thăm đồng ruộng phát hiện rầy sớm để kịp thời phòng trừ. + Khi rầy phát sinh thành dịch, có thể sử dụng 20 ml Carbosulfan (Marshal 200 SC) + 30 ml Fenobucarb (BPMC) (Bassa 50 EC) pha trong 20 lít nước. Ngay sau khi phun có thể tiêu diệt được 60-70% số lượng rầy trong đọt lá. 7. Rệp sáp đỏ: Saccharicoccus sacchari Cock. - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 7.

- Đặc điểm sinh học, sinh thái: Trong năm phát sinh 6-7 đợt, sinh sản đơn tính. Vòng đời sâu: trứng 2-3 ngày, sâu non 20-30 ngày, trưởng thành 1-2 tháng. Mỗi con cái đẻ 200 trứng. Rệp trưởng thành ít di động. Rệp non bám vào đốt mía phía trong bẹ lá để hút chất dinh dưỡng. Rệp bài tiết ra chất đường nên tạo điều kiện cho bệnh muội và nhiều loại kiến ăn mật cùng cộng sinh với rệp và giúp rệp phát tán. - Biện pháp phòng trừ:

+ Sử dụng hom giống sạch hoặc đã ngâm trong nước vôi 2 giờ. + Chăm sóc bón phân cân đối N-P-K, mật độ trồng thích hợp, vệ sinh đồng

ruộng sau thu hoạch và khi cây mía non có lóng, ruộng sạch cỏ dại... + Chọn giống có tán lá gọn, có sức đề kháng tốt, bố trí mùa vụ để các vụ mía

không liền kề trong năm, thu hoạch gọn từng vùng nguyên liệu.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 15/46

+ Thăm đồng thường xuyên để phát hiện ổ rệp tiêu diệt ngay từ khi còn là những ổ nhỏ, trồng xen canh với cây họ đậu để phát triển và bảo vệ thiên địch của rệp.

- Khi mật độ cao phải dùng thuốc hoá học đặc hiệu để phòng trừ. Có thể dùng thuốc Supracide 40 EC pha với nước, nồng độ 0,1-0,15% phun ướt đẫm đều thân, bẹ lá. 8. Bọ phấn trắng: Aleurolobus barodensis Maskell - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 8. - Đặc điểm sinh học, sinh thái: Vòng đời từ 32 đến 44 ngày. Lá non chưa hoàn chỉnh (chưa mở) là nơi con cái ưa thích để đẻ trứng. Thời gian pha trứng từ 8 đến 31 ngày. Mỗi con cái có thể đẻ 80 trứng, số lượng trứng thay đổi theo mùa. Ấu trùng từ 1 đến 3 tuổi có thể di chuyển và gây hại trong phạm vi ngắn; đến tuổi thứ 4 thường được gọi là nhộng. Khi ấu trùng phát triển, chúng phủ một lớp bọc bằng sáp trắng giúp bảo vệ khỏi các tác động bên ngoài, nhất là thuốc trừ sâu, đây là đặc điểm riêng biệt của bọ phấn trắng ở các pha phát dục, trừ pha trứng. Ấu trùng bọ phấn trắng chích hút nhựa của lá mía dẫn đến lá bị chuyển vàng và hồng nhạt, cuối cùng làm khô cháy lá. Các ấu trùng bài tiết lượng đường lớn trong phân tích tụ trên lá, đây là nguyên nhân làm xuất hiện nấm muội đen tạo các vết đen trên lá, làm ảnh hưởng đến quang hợp của cây. Bọ phấn trắng gây hại nhiều trên những ruộng mía lưu gốc năm thứ 2 và 3, đặc biệt là trong khu vực ngập nước, nghèo hàm lượng đạm. Điều kiện thích hợp để mật độ bọ phấn trắng gây cháy là thiếu đạm, ngập úng (độ ẩm cao và nhiệt độ thuận lợi cho sự phát triển của dịch hại), mưa lớn, mật độ cao và độ kiềm của đất lớn. Bọ phấn trắng gây hại quanh năm nhưng nặng nhất từ tháng 8 đến tháng 11. - Biện pháp phòng trừ:

+ Có thể nói đây là một dịch hại đặc biệt nghiêm trọng cho cây mía gốc, nhưng nó cũng tấn công các cây trồng khác trong vùng thấp trũng và đọng nước. Vì vậy, để phòng trừ có hiệu quả, cần chú trọng biện pháp canh tác trồng mía ở mật độ thích hợp, tránh điều kiện cho bọ phấn trắng phát sinh. Tránh để mía lưu gốc ở những vùng đã bị nhiễm bọ phấn trắng.

+ Bóc hay cắt lá bị hại, đem chôn hoặc đốt để tiêu diệt nguồn gây hại. Thực hiện quy trình bóc lá làm thông thoáng ruộng mía góp phần hạn chế sự phát triển của bọ phấn trắng. Hạn chế sử dụng các giống mía có bản lá to và dài như R 570 và R 579. Không để ruộng mía bị úng nước, thoát nước khi trời có mưa to.

+ Bón phân cân đối, cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng, nhất là phân đạm. Sử dụng một số thiên địch ăn thịt và ký sinh để phòng trừ bọ phấn trắng như: bọ rùa, nhện đồng thời sử dụng chế phẩm vi sinh như: nấm bột trắng Beauveria bassiana hoặc nấm Paecilomyces fumosoroseus tấn công trên ấu trùng và trưởng thành.

+ Việc kiểm soát bọ phấn trắng mía bằng thuốc hóa học là khó khăn và phức tạp vì chúng có lớp sáp bảo vệ nên nhanh chóng kháng thuốc trừ sâu. Đồng thời biện pháp này cũng khó khăn vì việc phun thuốc trên cây mía đòi hỏi dụng cụ và bảo hộ lao động cao. Khi cần thiết có thể sử dụng các thuốc trừ sâu có tính nội hấp và lưu dẫn mạnh như hoạt chất Dinotefuran, Imidacloprid và Thiamethoxam. Khi phun phải tuân thủ theo nguyên tắc 4 đúng.

+ Xin lưu ý là giống mía R 579 rất mẫn cảm với bọ phấn trắng và điều kiện thời tiết mưa nhiều, do đó về lâu dài nên có kế hoạch thay thế bằng những giống khác có tính kháng bọ phấn trắng và phù hợp với điều kiện canh tác ở địa phương. 9. Nhện đỏ: Oligonychus simus Baker & Pritchard - Triệu chứng gây hại và đặc điểm hình thái các pha phát dục: Xem Hình 9. - Đặc điểm sinh học, sinh thái:

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 16/46

+ Nhện non có 3 tuổi: Tuổi 1 có 3 đôi chân màu trắng nhạt, tuổi 2 có 4 đôi chân màu thẫm hơn và tuổi 3 có 4 đôi chân kích thước gần bằng trưởng thành, màu nâu đỏ.

+ Nhện đỏ hại mía có vòng đời khá ngắn từ 7-8 ngày và thời gian sống của trưởng thành tương đối dài, con đực thường sống lâu hơn con cái. Nhện đỏ có mặt quanh năm trên các ruộng mía, hàng năm chúng thường xuất hiện vào 2 cao điểm là các tháng 2-4 và 8-9.

+ Nhện đỏ hại mía thường sống tập trung ở mặt trên lá bánh tẻ và nhất là lá già, rất ít khi thấy sống trên lá non và ngọn. Trên lá, chúng tập trung thành từng đám xung quanh gân chính hoặc bên cạnh mép lá. Chúng dùng kìm chích vào lá, hút dịch, tạo nên các vết châm nhỏ gần bằng đầu tăm. Lúc đầu có màu trắng trong sau chuyển sang màu nâu hồng hoặc trắng bạc. Khi các vết châm dày đặc tạo nên các đốm màu nâu đỏ, trên 1 lá có thể thấy rất nhiều đốm như vậy. Khi bị hại nặng toàn bộ lá mất màu xanh và chuyển sang màu nâu đỏ, mép lá không trải phẳng mà cong lên làm cho lá dường như bị nhỏ lại, biến dạng. Trên lá còn thấy các vết bụi trắng, đó là xác lột của nhện và vỏ trứng. Nhện hại mang tính cục bộ rõ rệt. Chúng hại từng đám lá rồi lan sang cả bụi mía. Sau đó lan rộng cả lô ruộng. Trong thời kỳ khô hạn, toàn bộ bụi mía hoặc cả ruộng mía có thể chuyển sàng màu nâu đỏ. Cây mía bị kiệt quệ và hồi phục rất chậm. - Biện pháp phòng trừ:

+ Sử dụng biện pháp phòng trừ sâu hại tổng hợp (IPM), trong đó các thao tác nhự: trồng đúng thời vụ, mật độ trồng hợp lý, bón phân cân đối và đặc biệt là tưới nước đầy đủ, nhất là tưới phun sẽ kìm hãm sự phát triển của nhện đỏ.

+ Khi mật độ nhện trên 10-15 con/lá thì tiến hành phun thuốc hóa học để diệt trừ. Các loại thuốc có thể sử dụng là Nissorun 5 EC, Rufast 3EC, Ortus 5SC, Danitol 10 EC với liều lượng nước phun là 500 lít/ha 10. Bệnh than đen: Ustilago scitamenia Sydow

- Tác nhân: Do nấm Ustilago scitaminea H. Sydow. - Triệu chứng: Roi được hình thành từ mô ngọn hay chồi tận cùng của cây bị

nhiễm, phủ đầy bao tử màu đen (teliospore: đông bào tử). Chồi bị nhiễm trở nên mảnh dẻ và giống như cỏ, với phiến lá hẹp và ngắn (Hình 10).

- Sự lan truyền: Bào tử được phát tán nhờ gió, nhiễm vào chồi ngọn của cây. Sự nhiễm này duy trì tiềm ẩn nhưng phát triển trong chồi non sau khi nảy mầm, dần dần tạo ra roi. Sự nhiễm cũng có thể xảy ra trong đất, do không khí bị ô nhiễm nặng. Nấm có thể sống sót vài tuần lễ trong đất khô. Điều kiện ẩm ướt làm giảm khả năng sống của bào tử. Những dòng nấm khác nhau đã được ghi nhận. - Biện pháp phòng trừ:

+ Ngâm hom trong nước lạnh đang chảy 48 giờ, sau đó xử lý nước nóng (50oC từ 150 – 180 phút); hoặc ngâm hom trong nước nóng 52oC trong 30 phút sẽ trừ được bệnh than đen khỏi hom bị nhiễm.

+ Dùng giống kháng. + Dùng hom sạch bệnh lấy từ vườn ươm đã được kiểm tra hệ thống và đã hủy

sạch bệnh. + Hủy bỏ ruộng nhiễm và cày phá gốc những chỗ nhiễm tập trung nghiêm

trọng. + Nhổ bỏ tận gốc những bụi mía mọc tự nhiên (mía rài: mọc từ gốc mía cũ còn

sót) khi trồng mía trên ruộng trước đó đã trồng giống mía mẫn cảm với bệnh. 11. Bệnh thối đỏ: Glomerella tucumanensis Muller

- Tác nhân: Do nấm Glomerlla tucumanensis Muller

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 17/46

+ Giai đoạn vô tính: Colletotrichum falcatum + Đồng nghĩa: Physalospora tucumanensis - Triệu chứng: Bên trong cây mía biến màu đỏ, tiêu biểu với những giải băng

ngang màu trắng, đặc điểm dễ nhận biết là có mùi rượu. Thỉnh thoảng những vệt này nhiều đến nỗi tạo ra hình thể lốm đốm trên mô. Sự biến màu cũng xuất hiện trên vỏ, thường ở đốt nhưng cũng ở lóng. Ở giai đoạn sau, cả cây bị nhiễm trở nên lõm và teo tóp dọc theo chiều dài thân. Triệu chứng tiếp theo có thể gồm lá bị vàng, tàn lụi và khô, và cuối cùng chết thân, chết chồi, tái sinh mùa gốc bấp bênh và thối hom. Nấm có thể nhiễm trên lá, tạo màu đỏ ở gân chính và đôi khi gây đốm trên phiến lá (Hình 11).

- Sự lan truyền: Bào tử một phần được phát tán nhờ gió và nhiễm vào chồi qua vết thương, vảy mầm, sẹo lá, mầm rễ và vết đục của sâu đục thân. Tác nhân gây bệnh cũng được lan truyền qua vết cắt, mưa dập, hạt sương rơi và lan truyền trong đất. Điều kiện mát và khô là thuận lợi để truyền bệnh. Cấu trúc vô tính và hữu tính được tạo ra trên cây mía thối nhũng hoặc xác bã và gây nhiễm mía sau khi trồng. - Biện pháp phòng trừ:

+ Xử lý hom trong không khí nóng ẩm 54o C trong 2 giờ, hay xử lý dòng khí lưu ở 52o C từ 4 – 5 giờ, hay xử lý không khí nóng ở 54o C trong 8 giờ hạn chế tác nhân gây bệnh từ hom nhiễm.

+ Ngâm hom trong nước lạnh đang chảy 48 giờ sau đó xử lý nước nóng (50o C từ 150 – 180 phút) cũng sẽ hạn chế tác nhân gây bệnh từ hom nhiễm.

+ Dùng giống kháng. + Thu hoạch sớm trong trường hợp bị bệnh tấn công nghiêm trọng. + Nên tránh các điều kiện gây sốc trong ruộng mía lớn cũng như trong lúc trồng. + Dùng hom sạch bệnh.

12. Bệnh thối ngọn: Fusarium moniliforme Sheldon - Tác nhân: Do nấm Fusarium moniliforme Sheldon - Triệu chứng: Bệnh gây hại trên lá non, thoạt đầu là những đám màu trắng ở

gốc lá non, dần dần xuất hiện thành đốm sọc nhỏ màu nâu và hợp lại thành vết to, do vết bệnh xoắn lùn làm cho phiến lá dị hình. Bị hại nặng thì gốc phiến lá ngắn lại, phiến lá không xoè, ra bình thường, đọt bị chết thối, ngửi có mùi khó chịu và có bụi phấn màu hồng nhạt (Hình 12).

- Sự lan truyền: Nấm bệnh có thể phát triển ở điều kiện nhiệt độ từ 10-37oC (thích hợp nhất ở điều kiện 24-32oC), ẩm độ cao và ánh sáng yếu. Trên đồng ruộng, bào tử phân sinh có thể tồn tại và sống trong đất từ 4-6 tháng. Nấm bệnh tồn tại chủ yếu dưới dạng sợi và bào tử hữu tính trên tàn dư cây bị bệnh, trong đất và trong hom giống. Bệnh có thể lây truyền qua không khí, qua tàn dư của cây bị bệnh, nhưng chủ yếu là qua hom giống. - Biện pháp phòng trừ: + Trồng giống mía kháng bệnh.

+ Thời kỳ mía vươn lóng cắt và tiêu huỷ lá bệnh. + Dùng thuốc Boóc-đô hoặc sulphat đồng trộn với vôi bột và đất bột rắc vào

ngọn mía (tỷ lệ trộn: 10 : 40 : 50). 13. Bệnh cằn mía gốc (RSD): Leifsonia xyli subsp. xyli Davis - Tác nhân: Do vi khuấn Leifsonia xyli subsp. xyli Davis

- Nguồn gốc và phân bố: Bệnh cằn mía gốc hiện nay được xếp vào loại bệnh có tầm quan trọng kinh tế lớn trên thế giới. Nguyên nhân là do sự phân bố rộng khắp của nó trên thế giới, sự thiếu các triệu chứng có thể nhận diện được ở cây kí chủ, thiếu các

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 18/46

đặc tính của tác nhân gây bệnh, sự nghiên cứu về bệnh và những chiến lược cần thiết để kiểm soát bệnh có hiệu quả. Do vậy, bệnh cằn mía gốc hiện đang là một trong những bệnh đang gây hậu quả nghiêm trọng cho các vùng trồng mía trên thế giới.

- Triệu chứng: + Triệu chứng bên ngoài: Hầu như không có triệu chứng bên ngoài có thể nhận

ra được từ cây mía bị bệnh ngoại trừ sự cằn cọc và phát triển kém của cây. Tuy nhiên những đặc điểm trên đều có thể thấy được ở những vùng đất trồng kém dinh dưỡng, độ ẩm không thích hợp hay cây bị thiếu dinh dưỡng. Về sự phát triển của chồi thì cây bị bệnh phát triển chậm hơn cây sạch bệnh đặc biệt là trong mùa khô khi mà các gốc mía dường như không phát triển trong vài tuần hay cả khi cả tháng. Những gốc mía này thường rất khỏe và không có sự bất thường nào ở hệ thống rễ cũng như ở thân hay chồi ở dưới đất. Sự cằn cỗi biểu hiện không đồng nhất giữa các chồi nhiễm bệnh và ruộng nhiễm bệnh biểu hiện cả sự đi lên và đi xuống của sự phát triển, ngay cả khi tất cả các cây đều bị nhiễm bệnh (Hình 13).

+ Triệu chứng bên trong cây: Khi chẻ đôi thân cây bị nhiễm bệnh bằng một con dao sắc thì sẽ thấy ở phần dưới các mắt mía có những chấm đổi màu hình dấu chấm hay dấu phẩy. Sự đổi màu thường diễn ra từ đốt dưới rồi mới lên đến các nốt bên trên, thường định vị ở những vùng dưới bẹ lá ngay tại vị trí của nơi xuất dịch cây. Trong vùng này là nơi phát sinh ra lá và các nhánh của các bó mạch. Sự đổi màu do RSD không diễn ra ở phẩn giữa đốt. Màu của mô nhiễm bệnh khác nhau về mức độ đậm nhạt và cường độ phụ thuộc vào mức độ nhiễm bệnh và các giống mía khác nhau và nó cũng có thể khác nhau bên trong các giống. Một vài giống thì không biểu hiện các triệu chứng này. Các vùng bị biến đổi màu này rất đa dạng có thể là màu vàng, cam, hồng, đỏ và hơi đỏ nâu và những màu này thường nổi bật lên trên trên nền màu trắng sáng của mô tế bào. Có trường hợp bệnh tạo ra những vết đổi màu kem, khó có thể phân biệt trong toàn bộ đốt khi so sánh với mô của cây khỏe mạnh. Nhưng khi các vệt này xuất hiện tại một nốt mà nốt kế cận lại không biểu hiện thì vẫn không chắc là nó có bị bệnh cằn mía gốc hay không. Để chẩn đoán chính xác, thì các vệt đổi màu phải xuất hiện trên tất cả các nốt của cây. Triệu chứng của RSD trên chồi mía 1 - 2 tháng tuổi là sự chuyển hồng tại các đốt còn non, nhưng nó diễn ra chỉ trong vài dòng mía và dưới những điều kiện canh tác khác nhau. Sự đổi màu diễn ra và khuyếch tán từ nốt lên 1 - 2 cm đến đỉnh sinh trưởng của nốt kết cận. Phần đầu của đỉnh sinh trưởng không liên kết với RSD. Những triệu chứng ban đầu được thấy rõ nhất khi cắt các chồi non theo chiều dọc (Hình 13).

- Sự lan truyền: Nguồn bệnh chủ yếu tổn tại trên cây mía trong điều kiện tự nhiên, không có vector truyền bệnh. Bệnh có thể lan truyền cơ giới thông qua các dụng cụ thu hoạch và canh tác mía, cũng như qua hom, nhưng không lan truyền qua hạt. Bào tử vi khuẩn gây bệnh có thể tồn tại trong đất và tàn dư cây bệnh trong vài tháng, khi gặp điều kiện thuận lợi sẽ xâm nhiễm và gây bệnh cho các vu mía tiếp theo. - Biện pháp phòng trừ:

+ Xử lý hom bằng hơi nước nóng 54oC trong 7 giờ. + Xử lý kép: Chặt giống từ 1 – 5 ngày trước khi xử lý, xử lý bằng nước nóng

50oC trong 10 phút, sau đó vớt ra và đến ngày hôm sau xử lý lại bằng nước nóng 50oC trong 2 – 3 giờ.

+ Mía nguyên liệu dùng để làm giống cần xử lý các dụng cụ thu hoạch như xử lý bằng cồn 70%. Mía đẻ lưu gốc cũng cần xử lý các dụng cụ như trên.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 19/46

14. Bệnh thân chồi đâm ngọn: Xanthomonas albilineans Dowson - Tác nhân: Do vi khuẩn Xanthomonas albilineans Dowson - Triệu chứng: Lá mía bệnh có sọc màu vàng, đôi khi có sọc màu tím. Ở ngọn

thân có nhiều chồi mầm mọc ra thành cánh rồi héo khô và lá ở ngọn sẽ chết dần. Trong thân có nhiều vết màu đỏ tươi (Hình 14).

- Sự lan truyền: Bệnh được lan truyền trong điều kiện thiên nhiên khi vết gãy giữa các lá gây ra vết thương, qua đó tác nhân gây bệnh có thể đi vào lá. Sự phân tán bệnh là do hom giống, mưa gió và các dụng cụ chặt. - Biện pháp phòng trừ:

+ Không để vườn mía bị ngập úng. + Ngâm hom mía vào nước nóng 50°C trong 2-3 giờ hoặc 52°C trong nửa giờ

hoặc trong hơi nóng 54°C trong 8 giờ trước khi đem ra trồng. Dùng hơi nóng sẽ ít gây hại cho hom mía non hơn là dùng nước nóng (do dễ bị hư chồi mầm).

+ Dùng giống kháng bệnh. 15. Bệnh chảy gôm: Sugarcane gumming disease

- Tác nhân: Do vi khuẩn Xanthomonas campestris pv. vasculorum (Cobb 1894 Vauterin et al. (1995).

- Triệu chứng: Giai đoạn ở lá của bệnh này bắt đầu bằng những sọc vàng từ ngọn lá và tiến triển vào trong dọc theo các gân phụ, từ góc lá đến gân chính, sọc trở thành hoại tử hướng lên ngọn lá. Ở giống mẫn cảm, sọc kéo dài dần, cuối cùng xâm nhập bẹ lá và thân để khởi đầu giai đoạn hệ thống của bệnh. Triệu chứng bên ngoài liên quan với giai đoạn này là một phần hay toàn thể các lá bị vàng hoại tử. Triệu chứng bên trong gồm sự biến màu của mạch dẫn truyền ở đốt và lóng, các túi mủ, đặc biệt ở đốt, ở trong mô của lóng và ngay cả ở điểm sinh trưởng. Nếu điểm sinh trưởng bị ảnh hưởng, cây chết. Một chất mủ vàng tiết ra từ vết cắt ngang thân hay giữa bẹ và những lá non vẫn không cuộn vào trong đọt. Triệu chứng khác là sự biến dạng lá và chồi, sọc đỏ ở lá và những vết thương như “vết cắt bằng dao” (Hình 15).

- Sự lan truyền: Bệnh được lan truyền trong điều kiện thiên nhiên khi vết gãy giữa các lá gây ra vết thương, qua đó tác nhân gây bệnh có thể đi vào lá. Sự phân tán bệnh là do hom giống, mưa gió và các dụng cụ chặt. - Biện pháp phòng trừ: Chưa có cách phòng trừ hữu hiệu, tuy nhiên trước mắt có thể áp dụng các cách sau:

+ Dùng giống kháng. + Dùng hom sạch bệnh lấy từ vườn ươm đã hủy sạch các bụi mía bị nhiễm. + Dùng chuỗi xử lý nước nóng: 52oC/30 phút và sau đó 24 giờ xử lý 50oC/2 giờ

để thành lập các lô trong vườn ươm. + Sát trùng dao chặt bằng hợp chất iodine (250 ppm iodine). + Khi phát hiện 1 cây mía bị nhiễm, tiêu hủy toàn bộ bụi mía (kể cả gốc, rễ) kết

hợp rải vôi vào vị trí nhiễm để phòng ngừa bệnh lây lan. + Rải vôi với lượng 1-2 tấn/ha trên toàn bộ diện tích lô mía để hạn chế tốc độ

lây lan của bệnh. + Thực hiện tiêu thoát nước triệt để cho lô mía.

16. Bệnh khảm lá vi rút (Sugarcane mosaic virus): - Tác nhân: Do vi rút SugarCane Mosaic Virus (SCMV), sorghum mosaic

(SMMV) và maize dwarf mosaic (MDMV) potyvirus. Một virus thứ 4, JGMV (Johnson grass mosaic potyvirus = virus gây bệnh khảm cỏ johnson) ít nhiễm trên mía.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 20/46

- Triệu chứng: Lá bệnh lốm đốm những vân màu xanh hay vàng nhạt dài ngắn to nhỏ xen kẻ như một tấm thảm. Khảm thay đổi mật độ và hình dạng tùy thuộc vào virus, giống mía, nhiệt độ và điều kiện sinh trưởng. Nều nhiễm ít lá chỉ bị khảm lúc nhỏ và sau đó hết bệnh, lá có màu hơi vàng như bị thiếu phân đạm. Nếu bệnh nặng thì chồi và bụi mía bị lùn, lóng ngắn. Sự thay đổi màu sắc và hoại tử bên ngoài nên có thể xuất hiện trên vỏ nhưng không phổ biến trên những giống mía lai. Đôi khi gặp sự hoại tử bên trong thân. Sự nhiễm tiềm ẩn có thể xảy ra (Hình 16).

- Sự lan truyền: Được lan truyền do vài loài Aphis (rệp) qua hom bị nhiễm và do sự lây nhiễm cơ học. - Biện pháp phòng trừ: Phòng trừ bằng cách xử lý nhiệt độ theo sau là trồng bằng nuôi cấy mô có thể hạn chế được SCMV trong nhà kiểm dịch.

+ Dùng giống kháng. + Dùng hom sạch bệnh, gồm chuỗi xử lý nước nóng đến việc tạo dựng nên

những vườn ươm giống sạch bệnh. + Hủy bỏ bụi mía nhiễm và cày phá gốc ruộng mía bệnh. + Không trồng xen bắp trong ruộng mía.

18. Cỏ dại: - Tác hại của cỏ dại: + Ảnh hưởng trực tiếp: Cỏ dại cạnh tranh ánh sáng, nước, dinh dưỡng với cây

trồng và là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất cây trồng. + Ảnh hưởng gián tiếp: Cỏ dại là ký chủ của nhiều loại dịch hại (sâu, rầy); làm

ảnh hưởng đến độ màu mỡ của đất (trừ cây họ đậu); làm tăng chi phí sản xuất (phòng trừ cỏ); làm cản trở quá trình chăm sóc, thu hoạch mía. Từ đó làm ảnh hưởng đến chất lượng mía nguyên liệu. - Phân loại cỏ dại: Thông thường thuốc trừ cỏ thường có tác dụng chọn lọc do đó việc biết nhận dạng phân loại cỏ có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại trong việc phòng trừ cỏ bằng thuốc hoá học. Có nhiều cách phân loại như:

+ Phân loại theo thời gian sống: Cỏ hằng niên: Rau dền, cỏ tràn đồng…; Cỏ đa niên: Cỏ chỉ, cỏ ống…

+ Phân loại theo điều kiện sống: Cỏ ngập nước: Cỏ năng, rau bợ…; Cỏ trên cạn: Cỏ hôi, rau dền …

+ Phân loại theo hình thái: Trong các cách phân loại trên, phân loại theo đặc điểm hình thái rất quan trọng trong việc chọn đúng thuốc trừ cỏ.Theo cách phân loại này cỏ dại chia làm 3 nhóm chính như sau: cỏ hoà bản, cỏ cói lác, cỏ lá rộng

Phân biệt cỏ theo hình thái Loại cỏ

TT Nhận dạng Hòa bản Cỏ lác Lá rộng

1 Cách mọc mầm

Có một lá mầm Có một lá mầm Có hai lá mầm

2 Lá, gân lá Lá hẹp, gân lá song song

Lá hẹp, gân lá song song

Lá rộng gân lá hình lông chim (không song song)

3 Thân Thân thảo, thường tròn, rỗng ruột, có lóng

Thân thảo có 3 cạnh, không có lóng

Thân gỗ, có nhiều nhánh.

4 Rễ Rễ chùm, không có đuôi chuột

Rễ chùm, không có đuôi chuột

Rễ trụ, có đuôi chuột.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 21/46

5 Tên cỏ dại diện

Cỏ ống, cỏ bông Cỏ chỉ, cỏ mần trầu…

Cỏ năng, cỏ cháo Cỏ gấu, cỏ lác…

Cỏ hôi, rau dền Rau mương, cỏ mần ri…

- Biện pháp phòng trừ: 1/ Biện pháp thủ công: Làm cỏ tay bằng cuốc. Ưu điểm là dễ thực hiện. Nhược

điểm là chậm, tốn nhiều công, không hiệu quả trong mùa mưa và dễ bị động nhân công khi vào vụ chăm sóc.

2/ Biện pháp cơ giới: Dùng máy (hoặc trâu bò) cày xới giữa hàng mía để cắt, vùi lấp những loại cỏ hằng niên nhỏ, đưa những hạt cỏ bị vùi trong đất lên tầng mặt để chúng nảy mầm và được diệt sau đó. Ưu điểm là dễ thực hiện, có thể kết hợp với các đợt bón phân thúc cho mía. Nhược điểm là kém hiệu quả đối với củ rạng và các loại cỏ có thân ngầm như cỏ tranh, cỏ gấu.

3/ Biện pháp hóa học: Dùng thuốc hóa học để phun diệt cỏ. Ưu điểm là chi phí thấp, hiệu quả kéo dài. Nhược điểm là đòi hỏi người sử dụng phải có kiến thức về thuốc BVTV, dễ gây ra hiện tượng “lờn thuốc” ở cỏ dại và ảnh hưởng môi trường. + Ngay sau trồng: Nếu đất có nguồn cỏ nhiều có thể phun các loại thuốc tiền nảy mầm như: Ansaron, Gesapax, Ametryne, Mizine hoặc Astrazine từ 2 – 2,5kg/ha. Phun phủ toàn bộ ruộng từ 2 – 5 ngày sau trồng (Chú ý: Nếu đất đủ ẩm hiệu lực trừ cỏ sẽ cao hơn).

+ Giai đoạn 20 – 30 ngày sau trồng: Có thể sử dụng Gexsapax, Ansaron hoặc Ametryne 3kg/ha, phun trong hàng mía (hạn chế để thuốc tiếp xúc ngọn và lá mía) hoặc làm cỏ thủ công kết hợp xới xáo giữa hàng.

+ Giai đoạn 2- 6 tháng sau trồng: Có thể áp dụng biện pháp thủ công hoặc hóa học. Nếu làm cỏ thủ công: Vùi lấp hoặc đưa cỏ ra ngòai ruộng. Nếu sử dụng hóa chất: Có thể phun Paraquat (Gramxone) từ 2 – 3 l/ha. Nếu ruộng xuất hiện chủ yếu cỏ 2 lá mầm có thể dùng 2,4 D liều lượng 2 – 3l/ha.

+ Giai đoạn trên 6 tháng sau trồng đến thu hoạch: Nếu mía được chăm sóc, tưới nước đầy đủ thì mía đã giao tán kín và tốt, do vậy không cần thiết phải làm cỏ vì hiệu quả làm cỏ không cao. Tuy nhiên, nếu ruộng có quá nhiều cỏ dại cũng nên làm sạch bằng biện pháp thủ công hoặc phun thuốc Paraquat (Gramxone) từ 2 – 3 l/ha, nhằm hạn chế để cỏ ra hoa, lây lan sang vụ mía tiếp theo.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 22/46

Phần thứ năm QUY TRÌNH QUẢN LÝ DỊCH HẠI MÍA Ở VÙNG ĐÔNG NAM BỘ

I. Xuất xứ

Quy trình là kết quả nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát (cũ), nay là Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường trên cơ sở 5 năm (2001-2005) thực hiện đề tài “Nghiên cứu sự thay đổi thành phần chủng loài, quy luật phát sinh, gây hại của nhóm sâu đục thân hại mía và các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở miền Đông Nam bộ” và 3 năm (2006-2008) thực hiện đề tài: “Nghiên cứu sử dụng các tác nhân sinh học trong phòng trừ sâu đục thân mía ở các tỉnh Đông Nam bộ”, cùng kinh nghiệm nhiều năm phòng trừ sâu bệnh hại mía của Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa. II. Phạm vi và đối tượng áp dụng

Qui trình này được áp dụng cho các vùng sản xuất mía nguyên liệu tập trung tại Đông Nam bộ để phòng trừ các loài sâu bệnh hại trên cây mía. III. Nội dung qui trình 1. Giai đoạn trước khi trồng

- Đối tượng phòng trừ: Các loài sâu đục thân, rệp sáp, sùng trắng, các bệnh vi khuẩn, các bệnh nấm lây qua hom giống

- Nội dung thực hiện: + Vệ sinh đồng ruộng: Trước khi trồng cần vệ sinh, phát quang bờ lô, băm vùi

lá mía để diệt các mầm mống sâu bệnh trong tàn dư mía của vụ trước, đồng thời làm mất nơi trú ngụ và nguồn thức ăn của sâu bệnh. Những ruộng mía bị sậu bệnh nặng thì cho đốt lá để tiêu diệt nguồn sâu bệnh hại trước khi tổ chức trồng lại.

+ Lựa chọn thời vụ trồng thích hợp và trồng đúng thời vụ: Lựa chọn thời vụ trồng thích hợp và trồng đúng thời vụ sẽ đảm bảo cho cây mía sinh trưởng, phát triển tốt, đạt được năng suất cao, tránh được rủi ro về thời tiết. Việc xác định thời vụ thích hợp còn phải dựa vào đặc điểm phát sinh gây hại của các loại sâu bệnh quan trọng, đảm bảo cho cây trồng tránh được các đợt cao điểm của dịch bệnh. Ở vùng Đông Nam bộ, có 2 vụ trồng. Trong đó vụ Đông Xuân (hay vụ cuối mưa) chủ yếu nên trồng mía nguyên liệu, thời gian trồng cần tập trung trong khoảng từ ngày 1/11 đến ngày 15/1 dương lịch năm sau. Còn vụ Hè Thu (hay vụ đầu mưa) chủ yếu nên trồng nhân mía giống cung cấp giống cho vụ trồng Đông Xuân hoặc cung cấp nguyên liệu cho giai đoạn cuối vụ ép, thời gian trồng vụ Hè Thu cần tập trung trong khoảng từ 1/5 đến ngày 15/6 dương lịch. Lưu ý: Tuỳ thuộc vào điều kiện thời tiết, độ ẩm đất (đạt 70-75 %) có thể kéo dài thời vụ trồng ở vụ Đông Xuân. Còn ở vụ Hè Thu không nên kéo dài quá 15/6 dương lịch.

+ Chọn các giống mía tốt, sạch bệnh, chống chịu sâu bệnh: Giống tốt sẽ sinh trưởng, phát triển tốt, cho năng suất, chất lượng cao. Còn giống chống chịu sâu bệnh tốt sẽ giúp giảm sử dụng thuốc hóa học, giảm ô nhiễm môi trường, bảo vệ được thiên địch, giữ được cân bằng hệ sinh thái nông nghiệp trong ruộng mía. Các loại giống mía tốt hiện nay ở vùng Đông Nam bộ:

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 23/46

Bảng 5. Danh sách các giống mía tốt cho vùng Đông Nam bộ

TT Tên giống Nguồn giống hiện có

1 K 95-156

2 K 95-84

3 K 94-2-483

4 K 2000

5 KK6

6 KU 60-3

7 Suphaburi 7

8 Uthong 7

9 Uthong 8

10 LK92-11

11 K2000-89

12 K99-72

13 KHON KAEN 3

14 KPS01-25

Xí nghiệp Nông nghiệp Thành Long ( Xã Thành Long – H. Châu Thành – T. Tây

Ninh)

+ Chọn ruộng, chọn hom tốt: Ruộng giống không bị sâu bệnh, 6-8 tháng tuổi, thuần giống và khả năng nảy mầm tốt, mỗi cây có từ 3-4 hom 3 mắt mầm tốt. Chọn cây khỏe, đường kính thân trung bình, loại bỏ các cây quá nhỏ hoặc quá to và cây lẫn giống. Khi ra hom loại bỏ mắt quá già hoặc quá non, loại bỏ các hom bị sâu đục. Nên chủ động ruộng sản xuất giống để phục vụ cho kế hoạch trồng mới. Ruộng làm giống nên tưới, chăm sóc kỹ, bón đủ dinh dưỡng để có hom giống tốt.

+ Xử lý hom trước khi trồng: Nếu nhập giống từ nước ngoài hoặc từ vùng khác về trồng đại trà hoặc khảo nghiệm giống, tốt nhất nên tiến hành xử lý hom trước khi trồng bằng nước nóng 52oC trong thời gian từ 30 phút (tùy đối tượng sâu bệnh) để loại trừ các mầm mống sâu, bệnh lạ ẩn chứa trong hom giống. Ngoài ra, có thể ngâm hom trong dung dịch thuốc trừ sâu dimethoate 0,08% trong 15 phút để loại trừ hết các mầm mống sâu hại còn bám dính hoặc ẩn chứa trong hom.

+ Cày sâu, bừa kỹ để làm lộ thiên các loài sâu hại trong đất như sùng trắng, xén tóc, mối, kiến,… cho chim ăn hoặc bị khô chết. 2. Giai đoạn trồng mía

- Đối tượng phòng trừ: Mối, sâu đục thân 5 vạch đầu nâu (đục mầm), sâu đục thân mình tím, cỏ dại

- Nội dung thực hiện: + Bón 20-25 kg thuốc trừ sâu diazinon thành phẩm dạng hạt (loại 10 H) hoặc

phun 3 L thuốc diazinon thành phẩm dạng dung dịch (pha với 3.500 lít nước) xuống đáy rãnh trước khi đặt hom và lấp.

+ Lấp hom kín, không để trồi hom lên trên mặt ruộng cho sâu mình tím đến đẻ trứng gây hại về sau.

+ Ngay sau khi trồng, nếu đất đủ ẩm và có nhiều nguồn cỏ dại, có thể phun các loại thuốc tiền nảy mầm như: Ansaron, Gesapax, Ametryne, Mizine hoặc Astrazine từ 2 – 2,5kg/ha. Phun phủ toàn bộ ruộng từ 2 – 5 ngày sau trồng.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 24/46

3. Giai đoạn mía kết thúc nảy mầm đến đầu vươn lóng - Đối tượng phòng trừ: sâu đục thân 5 vạch đầu nâu (đục mầm), sâu đục thân

mình tím, sâu đục thân mình trắng, bệnh than, trắng lá - Nội dung thực hiện:

+ Tiến hành trồng xen mía với các cây họ đậu hoặc rau để tạo thêm nguồn thức ăn cho thiên địch sinh sống và phát triển, hạn chế cỏ dại. Việc trồng xen đặc biệt có hiệu quả đối với mô hình canh tác hàng kép rộng kết hợp chăm sóc cơ giới.

+ Thường xuyên thăm đồng, phát hiện và cắt bỏ những cây bị sâu hại đã khô ngọn không có khả năng cho thu hoạch 2 lần/tháng, đồng thời đào, bứng triệt để và tiêu huỷ những bụi bị bệnh than, trắng lá,... phát hiện thấy.

+ Dùng máy kéo nhỏ (hoặc trâu bò) cày xới giữa hàng mía để cắt, vùi lấp những loại cỏ hằng niên nhỏ, đưa những hạt cỏ bị vùi trong đất lên tầng mặt để chúng nảy mầm và được diệt sau đó. Hoặc có thể sử dụng thuốc trừ cỏ Gexsapax, Ansaron hoặc Ametryne liều lượng khoảng 2-3 kg/ha, phun trong hàng mía (hạn chế để thuốc tiếp xúc ngọn và lá mía) hoặc làm cỏ thủ công kết hợp xới xáo giữa hàng, đảm bảo cho ruộng mía luôn sạch cỏ dại. 4. Giai đoạn mía đầu vươn lóng đến 8 tháng sau trồng

- Đối tượng phòng trừ: Sâu đục thân 4 vạch, sâu đục thân mình tím, sâu đục thân mình trắng, sâu đục thân mình hồng, rệp sáp, bọ phấn trắng, nhện đỏ, bệnh than, thối đỏ, trắng lá, chảy gôm, thân ngọn đâm chồi, khảm lá vi rút,… và cỏ dại

- Nội dung thực hiện: + Bón phân sớm, tập trung, cân đối và hợp lý giúp cho cây khỏe, kháng sâu

bệnh tốt hơn. Nên chú trọng bón các loại phân vi sinh, hữu cơ vi sinh, các loại phân có nguồn gốc hữu cơ, vừa có tác dụng tăng năng suất cây trồng, giảm lượng phân bón hóa học, tiết kiệm đầu tư sản xuất, vừa giúp giảm ô nhiễm môi trường đất, nước và thực phẩm.

+ Thả ong mắt đỏ Trichogramma chilonis Ishii 15 ngày/lần, mật độ thả 50.000 ong/lần/ha từ tháng thứ 3-8 sau trồng. + Thả ong kén trắng Cotesia flavipes để diệt sâu non, thả 1 lần/tháng từ khi thấy xuất hiện triệu chứng gây hại, thả 2.000 kén/ha/lần.

+ Bóc lá khô, lá già, chặt các cây khô do sâu bệnh hại vào thời điểm 5, 7 và 8 tháng sau trồng.

+ Khi mía đạt 4 – 6 tháng sau trồng hoặc thu hoạch, có thể dùng các loại thuốc Diaphos 50 ND, Vibasu 40 ND, Padan 95 SP, Diaphos 10 H, Padan 4 H v.v… phun hoặc rải cục bộ, có chọn lọc cho những đoạn mía bị hại (triệu chứng héo lá bên, lá lốm đốm trắng, héo đọt), từ 3 - 5 lần cách nhau 14 ngày. Làm như vậy vừa có thể tiết kiệm thuốc trừ sâu, tập trung thuốc đủ liều lượng có thể giết chết sâu ẩn chứa trong thân, vừa chừa lại những khoảng không gian nhất định cho các loài thiên địch cư trú và thực hiện thiên chức của mình. + Thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, đào, bứng triệt để và tiêu hủy cây bị bệnh than, thối đỏ, trắng lá, chảy gôm, thân ngọn đâm chồi, khảm lá vi rút,...

+ Cắt mầm vô hiệu lúc mía 7- 8 tháng tuổi. + Bẫy đèn thu bắt trưởng thành sâu đục thân mình hồng và mình tím. + Phát hiện rầy chích hút có thể dùng các biện pháp đã nêu ở trên.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 25/46

5. Giai đoạn 8 tháng đến trước thu hoạch - Đối tượng phòng trừ: Sâu đục thân 4 vạch, sâu đục thân mình tím, sâu đục sâu

đục thân mình hồng, rệp sáp, bọ phấn trắng, nhện, bệnh than, thối đỏ, trắng lá, chảy gôm, thân ngọn đâm chồi, khảm lá vi rút,…

- Nội dung thực hiện: + Cắt mầm vô hiệu 1 lần/tháng.

+ Thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, đào, bứng triệt để và tiêu hủy cây, bụi bị bệnh than, thối đỏ, chảy gôm, thân ngọn đâm chồi, khảm lá vi rút,...

+ Bẫy đèn thu bắt trưởng thành sâu đục thân mình hồng và mình tím. + Bón phân cân đối giữa các thành phần (NPK) + Ruộng mía luôn sạch cỏ dại trong suốt thời kỳ sinh trưởng. 6. Giai đoạn thu hoạch

- Đối tượng phòng trừ: Các loài sâu đục thân, các bệnh vi khuẩn - Nội dung thực hiện: + Chặt sát gốc để “thu hoạch” luôn sâu trong thân cây, đồng thời giúp cho mía

gốc có khả năng tái sinh tốt hơn, đảm bảo mật độ cho vụ sau. + Không dùng chung dao khi chặt cho các lô mía giống khác nhau để tránh lây

lan bệnh qua dao. 7. Giai đoạn sau thu hoạch

- Đối tượng phòng trừ: Các loài sâu đục thân, rệp, các bệnh vi khuẩn - Nội dung thực hiện: + Chỉ tiến hành đốt lá sau thu hoạch đối với những ruộng mía bị sâu bệnh nặng

năng suất giảm > 20% để tiêu diệt mầm mống sâu hại trong tàn dự, hạn chế lây lan cho ruộng mía khác và vụ mía tiếp theo. Đối với những ruộng ít hoặc không bị sâu bệnh hại nên tiến hành tủ (phủ) lá, không đốt lá sau hoạch để giữ ẩm cho mía gốc, hạn chế cỏ dại và đặc biệt là hạn chế sâu 5 vạch đầu nâu đục mầm tấn công gây hại.

+ Phạt gốc thấp, dọn sạch tàn dư sau khi thu hoạch. + Phát quang bờ lô luôn sạch tránh sự ẩn náu của sâu hại. + Ruộng mía và bờ lô luôn được sạch cỏ dại. + Dùng máy tiến hành cày vun luống, bón phân, tưới nước (nếu có) sớm cho mía gốc, hạn chế mái bị sâu đục mầm tấn công gây hại.

+ Luân canh cải tạo đất (trồng cây khác như cây họ đậu từ 6 tháng đến 1 năm) khi kết thúc một chu kỳ mía.

Sổ tay quản lý dịch hại tổng hợp (IPM) trên cây mía

Công ty Cổ phần Đường Biên Hòa – Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường – 6/2011 26/46

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Gia Tân. 2011. Bài giảng cây mía. Đại học Nông Lâm Tp.HCM (chưa xuất bản).

2. Phan Gia Tân (1983). Cây mía và kỹ thuật trồng mía ở miền Nam. Nhà xuất bản Tp.HCM

3. Hoàng Văn Đức (1982). Mía đường: Di truyền-Sinh lý-Sản xuất. Nhà xuất bản Nông nghiệp.

4. Lê Song Dự, Nguyễn Quý Mùi (1997). Cây mía. NXB Nông nghiệp.

5. Tôn Thất Trình (1970). Cải thiện ngành trồng mía kỹ nghệ tại Việt Nam.

6. Viện Nghiên cứu Mía Đường Bến Cát (2006). Nghiên cứu sự thay đổi thành phần chủng loài, quy luật phát sinh, gây hại của nhóm sâu đục thân hại mía và các biện pháp phòng trừ dịch hại tổng hợp trong chuyển dịch cơ cấu cây trồng ở miền Đông Nam bộ. Báo cáo tổng kết đề tài trọng điểm cấp Bộ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bình Dương, tháng 19/02/2006.

7. Hà Minh Trung (1997). Lời giới thiệu. Phòng trừ sâu bệnh hại mía (Lương Minh Khôi chủ biên), Nhà xuất bản Nông nghiệp, Hà Nội, tr. 3.

8. Trung tâm Khuyến nông Quốc gia (2008). Thâm canh mía công nghiệp. Diễn đàn khuyến nông@công nghệ.

9. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Mía Đường (2009). Nghiên cứu sử dụng các tác nhân

sinh học trong phòng trừ sâu đục thân mía ở các tỉnh Đông Nam bộ. Báo cáo tổng kết đề tài cấp cơ sở Viện KHKT Nông nghiệp miền Nam, tháng 1/2009.

10. CIRAD (2000). Chứng minh kinh tế và quan niệm chung, Đề cương dự án phòng trừ tổng hợp (IPM) sâu hại mía ở Việt Nam (song ngữ Pháp - Việt), Ban hợp tác Pháp –Việt, chương trình cây mía.

11. Koike H. (1988). Sugar-cane diseases: A guide for field identification. FAO

12. ISSCT [International Society of Sugarcane Technologists] (1999). Proceeding XXIII Congress, 22 nd – 26th Feberuary 1999, New Delhi, India.

13. Pulikesh Naidu. 2009. IPM in sugarcane.

14. Sathe T.V., Shinde K.P., Saikh A.L., Raut D.K. (2009). Sugarcane pests and diseases. Manglam publications (India).