Upload
pham-van-viet
View
103
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
SỰ THỐNG NHẤT TRONG ĐA DẠNG CỦA KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
A. PHẦN MỞ ĐẦU
Đông Nam Á từ lâu được biết đến là một khu vực chiến
lược có tầm quan trọng hàng đầu trên thế giới. Đây là một
vùng rộng lớn nằm chắn ngang tất cả các con đường hàng hải
từ Ên Độ Dương sang Thái Bình Dương, từ Châu Á xuống
châu Óc. Đo điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý thuận lợi, nên
từ buổi bình minh của lịch sử khu vực, Đông Nam Á đã giữ
một vai trò đặc biệt trên con đường buôn bán Đông – Tây, và
là nơi gặp gỡ, giao thoa của các nền văn hoá lớn trên thế giới.
“Đông Nam Á là ống thông khói, tích tụ và lan toả các nền
văn hoá trên thế giới” (Hall). Đây là một khu vực địa lý – lịch
sử – văn hoá, có bản sắc riêng biệt, là một trung tâm văn minh
cổ, có nhiều đóng góp lớn trong lịch sử nhân loại. Một đặc
điển tiêu biểu và đặc sắc của khu vực Đông Nam Á là tính
thống nhất trong đa dạng, điều này được thể hiện trên mọi lĩnh
vực: điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hoá và lịch sử.
Vậy tính thống nhất, tính đa dạng là gì? Được biểu hiện
cụ thể như thế nào? Làm rõ vấn đề trên chúng ta sẽ hiểu chính
xác và toàn bộ tiến trình lịch sử của khu vực Đông Nam Á từ
khi hình thành, phát triển đến tận ngày nay, trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động đời sống xã hội.
Tính thống nhất giữa các quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á sẽ tạo ra một nét chung, nét tương đồng, giúp các
quốc gia gần gũi với nhau hơn, đây là nhân tố, là nền tảng, là
chất kết dính các nước thắt chặt quan hệ với nhau.
Tính đa dạng được thể hiện rất khác nhau giữa các lĩnh
vực kinh tế – xã hội trong một quốc gia và giữa các quốc gia
với nhau. Đây là nhân tố để giữ gìn bản sắc truyền thống của
dân téc, là điểm để phân biệt quốc gia này với quốc gia khác,
mỗi quốc gia có những nét riêng biệt tuỳ thuộc vào điều kiện
tự nhiên, vị trí địa lý, sự tiếp thu ảnh hưởng của văn hoá bên
ngoài, tạo nên sự đa dạng, phong phó cho khu vực. Khu vực
có tính thống nhất, nhưng từng quốc gia lại có nét đa dạng, đa
dạng trong thống nhất, thông nhất trong đa dạng là một nét
đặc sắc trong lịch sử các quốc gia Đông Nam Á.
B. PHẦN NỘI DUNG
1. Tính thống nhất trong đa dạng về mặt điều kiện tự
nhiên của khu vực Đông Nam Á
Là mét khu vực nằm ở Đông Nam lục địa châu Á, Đông
Nam Á có diện tích khá lớn 4476000 km2 với 55 triệu dân.
Hiện nay Đông Nam Á có 11 quốc gia, trong đó
Đôngkimo là quốc gia trẻ tuổi nhất. Đông Nam Á có phạm vị
lãnh thổ bao gồm 2 phần là:
- Đông Nam Á lục địa: Việt Nam, Lào, Campuchia, Miama,
Thái Lan
- Đông Nam Á hải đảo: Inđônêxia, Malaixa, Singapo,
Philipin, Brunây và Đôngkimo.
Bản đồ Đông Nam Á
Chính đặc điểm của vị trí địa lý này đã quy định tính đa
dạng của các nước trong khu vực. Cùng nằm trong mét khu
vực nhưng có quốc gia hoàn toàn là hải đảo như Inđônêxia
(13667 đảo lớn nhá) , Singapo, có quốc gia vừa giáp biển vừa
ở lục địa như Việt Nam, có quốc gia hoàn toàn không có biển
như Lào. Đông Nam Á nằm ở vị trí bản lề giữa lục địa Á - Âu
rộng lớn với một bên là Thái Bình Dương và Ên Đé Dương,
cho nên Đông Nam Á nằm giữa các đơn vị địa lý tự nhiên
mang tính độc lập: Lục địa - đại dương: Lục địa bán cầu bắc
– lục địa bán cầu nam, tạo nên cho Đông Nam Á những đặc
điểm phong phú và đa dạng về các mặt như khí hậu, sông
ngòi.
Mặc dù Đông Nam Á như một vùng bị nát vụn nhưng
Đông Nam Á luôn là một khối thống nhất bao gồm 2 bộ phận:
Bán đảo Trung Ên và quần đảo Mã Lai, Đông Nam Á nằm
gọn trong khoảng 95 độ đến 141 độ kinh Đông và từ 28 độ vĩ
Bắc đến 11 độ vĩ Nam. Đông Nam Á nằm trong vòng nóng
của địa cầu, nên các yếu tố địa lý, tự nhiên ở mỗi vùng, mỗi
quốc gia có những nét tương đồng, gần gũi với nhau như ở bất
cứ quốc gia nào cũng có kết cấu văn hoá biển, núi và đồng
bằng.
Do nằm trong vành đai nóng của địa cầu nên Đông Nam
Á có khí hậu nhiệt đới cận xích đạo, gió mùa nóng Èm. Nhờ
có gió mùa và khi hậu biển đã làm cho Hà Nội, Mandalay,
Cancuta trở nên xanh tốt, trù phú, bên các vĩ độ gần xích đạo
đáng lẽ chỉ có cây cối rậm rạp, dân cư thưa thít thì lại tạo nên
những đô thị đông đúc, thịnh vương như Kulalămpua,
Singapo… Gió mùa giảm bớt sự không thuần nhất và tạo nên
2 mùa rõ rệt cho khu vực, mùa khô lạnh và mát và mùa nóng,
Èm. Chính nhờ yếu tố khí hậu này đã tạo nên một cảnh quan
tự nhiên hết sức đa dạng, ở Đông Nam Á hầu như có toàn bộ
các loài các chủng loài của giới tự nhiên. Các cánh rừng thưa,
rừng xavan ở cao nguyên Còrạt, Camphuchia, có rừng ngập
mặn ở Inđônêxia, Malaixia, Việt Nam…
Đông Nam Á có một mạng lưới sông ngòi dày đặc, với
các hệ thống sống lớn như Mê công, sông Hồng, Sông
Mênam, sông Iraoadi… tạo nên những đồng bằng phù sa màu
mỡ, trong đó cây lúa nước với những điều kiện sinh trưởng
thích hợp trở thành cây trồng chủ yếu trong nền nông nghiệp
của dân cư Đông Nam Á. Đây cũng là một nét thống nhất của
khu vực Đông Nam Á, nhưng tuy mỗi vùng của quốc gia, tuỳ
thuộc vào mỗi quốc gia mà cây lúa có nhiều chủng loại và
chất lương khác nhau.
Sự thống nhất đó là kết cấu liên hoàn núi, đồng bằng và
sông suối, mặt khác cũng tạo nên tính đa dạng của địa hình
như ở Việt Nam có hệ thống núi rộng lớn ở miền Đông và Tây
Bắc, ở Philipin có núi lửa. Những đặc điểm của điều kiện tự
nhiên Đông Nam Á từ vị trí địa lý, khí hậu, địa hình… đều thể
hiện rõ nét tính thống nhất trong đa dạng của khu vực, tạo nên
một đặc điểm riêng biệt, một nét đặc sắc của Đông Nam Á. Sự
thống nhất và đa dạng về điều kiện tự nhiên là cơ sở, nền tảng
tạo ra sự thống nhất trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
2. Tính thống nhất trong đa dạng về mặt lịch sử
2.1: Cư dân.
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu và dùa trên các kết luận
của khảo cổ học, có thể kết luận rằng toàn bộ cư dân Đông
Nam Á thuộc tiểu chủng Môngôlôit Phương nam, tiểu chủng
này được hình thành do sự hỗn dung giữa 2 đại chủng
Môngôlôit và Ôxtralôit. Nhưng từ tiểu chủng Mônôgôit
Phương Nam phân hoá thành 2 loại hình nhân chủng là Nam
Á và Anh đônêdiên, và từ 2 nhóm này lại phân hoá thành các
téc người khác nhau tạo nên sự phong phú, đa dạng trong
thành phần téc người ở Đông Nam Á.
Ở bất cứ quốc gia nào cũng có mặt các téc người thuộc
cả nhóm Nam Á và Anhđônêdien, hoặc cùng một téc người
nhưng sống ở nhiều nước khác nhau như người Thái có mặt ở
Thái Lan, Việt Nam, Lào, người Khơme có ở Việt Nam,
Campuchia. Nhưng có điều đặc biệt là dù sống ở những nơi
khác nhau nhưng người Thái ở Thái Lan, Việt Nam … vẫn có
những đặc tính, truyền thống, phong tục, tập quán giống nhau.
2.2. Lịch sử
Có thể khẳng định Đông Nam Á là khu vực lịch sử vừa
thống nhất, vừa đa dạng đều thể hiện qua quá trình phát triển
của lịch sử Đông Nam Á.
Phân kỳ lịch sử Đông Nam Á gồm những giai đoạn sau:
* Từ đầu công nguyên đến thế kỷ X. Đây là thời kỳ hình
thành các nhà nước ở nhiều nơi, dù tổ chức nhà nước khác
nhau nhưng đều được gọi chung là các quốc gia sơ kỳ, giai
đoạn này gồm 2 thời kỳ nhỏ:
- Thời kỳ thứ I: Từ đầu công nguyên đến thế kỷ VII.
Thời kỳ này có khoảng 30 tiểu quốc đã được hình thành
ở phía Nam Đông Nam Á như Champa ở Nam – Trung Bộ
(Việt Nam), Phù Nam ở trung và hạ lưu sông Mêcông, tiểu
quốc Lancasuca, Tambrahinga, Takôla ở bán đảo Malaya,…
Các nhà nước được xuất hiện ở 3 khu vực là hạ lưu và
châu thổ sông Mêcông; Phía Bắc Huế thuộc Trung kỳ hiện
nay ở Việt Nam và phần phía Bắc bán đảo Mãlai.
- Thời kỳ thứ II: Từ thế kỷ VII – X, là thời kỳ các
tiểu quốc hợp nhất lại với nhau theo téc người và theo địa vực,
hình thành nên các quốc gia lớn và lấy một bộ téc tương đối
đông làm nòng cốt như Srivijaya, Kalinga ở Inđônêxia, Đại
Việt và Chămpa ở Việt Nam
* Giai đoạn 2 từ thế kỷ X – XV: Là thời kỳ phát triển
thịnh đạt của các quốc gia Đông Nam Á, so với các khu vực
khác, Đông Nam Á là nơi phát triển thịnh đạt nhất của chế độ
phong kiến, đạt đến đỉnh cao cụ thể như sau:
Vương quốc Camphuchia bước vào thời kỳ phát triển –
thời kỳ Ăng co, từ 802 – 1434.
Đại Việt: Bước vào thời kỳ thịnh đạt dưới triều Lý –
Trần, Lê Sơ (thế kỷ XI - XV)
Vương quốc Miama thinh vượng dưới triều đại Pagan
1044 – 1287
Inđônêxia đạt tới thịnh vương dưới chiều đại Môjopahit
(1213 - 1527)
Vương quốc Lanxang ở Lào 1353
Triều đại Trailock ở Xiêm
Ở thời kỳ này còn xuất hiện nhiều quốc gia mới như
Giava chinh phục Sumatra vào thế kỷ VII – XIII ở Inđônêxia.
Vương quốc Lavô và Sukhathay tạo thành vương quốc A
Yuthay của người Thái.
Sự phát triển đa dạng của Đông Nam Á được thể hiện
qua các mặt sau:
+ Kinh tế: Các khu vực kinh tế quan trọng được hình
thành, xuất hiện các vựa lúa, “bát gạo lớn” của Đông Nam Á
và thế giới như Đồng bằng Mênam (Thái Lan), đồng bằng
sông Hồng, sông Cửu Long (Việt Nam ), đồng bằng Iraoađi ở
Mianma…
Thủ công nghiệp bắt đầu xuất hiện, thành thị ra đời nh
Sukhothay, Authay, Thăng Long, Pagan, Palembang,
Ăngco…
Hoạt động thương mại bắt đầu sôi động, các nước Đông
Nam Á có quan hệ buôn bán với các nước Trung Quốc, Ên
Độ, Ba Tư, Ả Rập, các hải cảng lớn ra đời và hoạt động tấp
nập như Hội An, Vân Đồn (Việt Nam ) Palembang
(Inđônêxia), nổi bật hơn cả là Malacca.
+ Chính trị: Công cuộc xây dựng nhà nước đạt tới trình
độ tương đối hoàn chỉnh và ổn định, thể chế nhà nước là quân
chủ chuyên chế, phù hợp với nền nông nghiệp xóm làng như:
Đại Việt ở Việt Nam, LanXang ở Lào… Sự thịnh đạt về chính
trị còn biểu hiện qua cuộc kháng chiến chống quân xâm lược
Mông Nguyên của nhân dân Đông Nam Á (Trừ Myanma).
+ Văn hoá: NÒn văn hoá dân téc của các quốc gia Đông
Nam Á phát triển mạnh trên tất cả các lĩnh vực và đã đóng
góp lớn vào kho tàng văn hoá nhân loại, các khu đền như Ăng
covat, Ăngcothom (Campuchia), Thạt Luông (Lào)… bên
cạnh sự phát triển chung đó cũng có sự phát triển riêng của
từng quốc gia, tạo nên sự thông nhất trong đa dạng trên lĩnh
vực văn hoá.
* Giai đoạn 3: Từ thế kỷ XVI – XIX:
Là thời kỳ suy thoái của các quốc gia Đông Nam Á,
nhưng sự suy thoái không đồng đều về mặt thời gian, đầu tiên
là Campuchia suy thoái từ thé kỷ XIII, Mianma vào thế kỷ
XVI, XVII, Chămpa thế kỷ XV, Đại Việt thế kỷ XVII; XVIII.
Còn Xiêm và LanXang lại tiếp tục phát triển.
Sù suy thoái được biểu hiện trên các mặt sau:
- Kinh tế: Suy thoái, trì trệ, mọi hoạt động sản xuất bị
đình đốn…
- Chính trị: Sự khủng hoảng và bất lực của giai cấp
phong kiến cầm quyền
- Xã hội: Mâu thuẫn trong xã hội diễn ra gay gắt, các
cuộc khởi nghĩa nổ ra ở nhiều nơi.
Quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực giảm so với
trước, các quốc gia trước kia là hữu hảo thì nay cũng có xung
đột.
Trong bối cảnh Êy, các quốc gia Đông Nam Á phải đối
mặt với sự dòm ngã của các nước tư bản phương Tây. Sự
thống nhất của khu vực đó là phải đối mặt với thách thức,
nhưng việc lùa chọn con đường, biện pháp để đối phó với
thực dân Phương Tây lại khác nhau, qua đó thể hiện rõ tính đã
dạng của khu vực.
Sự đa dạng của khu vực thể hiện qua 2 xu hướng chính
sau:
Thứ nhất: Là đóng cửa, không hợp tác với phương Tây.
Ở Việt Nam , nhà Nguyễn đã thực hiện chính sách” bế quan
toả cảng”, ngăn cấm sự xâm nhập của văn hoá phương Tây,
cấm hàng, cấm đạo, cấm người tây vào nước.
Thứ hai: Một số nước đã mở cửa, đón nhận ảnh hưởng
của văn minh phương Tây, đây chính là một phương pháp bảo
vệ nền độc lập dân téc. Tiêu biểu cho xu hướng này là Xiêm
dưới triều Rama IV và Rama V. Xiêm đã tìm cho mình một
con đường đặc sắc đó là cải cách đất nước, tiến hành đường
lối ngoại giao độc đáo, “đầu nhọn đầu tù”. Xiêm đã kí kết các
hiệp ước với tư bản bên ngoài, cải cách kinh tế, xã hội trong
nước mở đường cho nền kinh tế Xiêm phát triển. Nh xoá bỏ
độc quyền của nhà nước trong việc xuất khẩu gạo, cải cách
này được đánh giá là cấp tiến nhất vì giải phóng sức sản xuất,
kích thích tăng năng suất lao động. Xiêm tham gia vào nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa và hội nhập kinh tế toàn cầu một
cách tự nhiên.
Xu hướng hội nhập là cái chung, là điều tất yếu đặt ra đối
với mỗi quốc gia nhưng con đường hội nhập của mỗi quốc gia
lại khác nhau. Người phương Tây nhận xét: “Kinh tế Xiêm
cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là hình mẫu điển hình cho các
nước và bước đầu cho sự cạnh tranh với bên ngoài”. Nhờ đó
mà Xiêm thoát khỏi cảnh thuộc địa, đưa Xiêm ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế, chính trị – xã hội của chế độ phong kiến.
* Giai đoạn đầu thế kỷ XX đến nay: Là thời kỳ đấu
tranh giành độc lập dân téc của các quốc gia Đông Nam Á
Sự thống nhất ở giai đoạn này là độc lập dân téc, nhưng
nét đa dạng là sự lùa chọn các con đường khác nhau của mỗi
nước kết quả đạt được, mức độ giành độc lập cũng rất khác
nhau.
Sau khi giành được độc lập, con đường đi lên xã hội hiện
đại của từng quốc gia là không giống nhau nhưng cùng hướng
tới một mục tiêu chung là phát triển khu vực Đông Nam Á
giàu mạnh. Đây chính là sự thống nhất đa dạng về mặt lịch sử.
3: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt văn hoá
3.1. Văn hoá vật chất:
Đông Nam Á được coi là khu vực có nền văn hoá cổ xưa
của thế giới, văn hoá Đông Nam Á là nơi hội tụ của nền văn
hoá Đông - Tây vừa có nét chung, thống nhất vừa mang tính
độc đáo, đa dạng. Cuộc sống của cư dân Đông Nam Á luôn
gắn liền với những hoạt động của nền kinh tế nông nghiệp lúa
nước, do đó những phong tục, tập quán của các quốc gia Đông
Nam Á gắn bó chặt chẽ với nền nông nghiệp lúa nước và
mang tính bản địa sâu sắc. Điều này đã tạo nên sự thống nhất
trong văn hoá của khu vực Đông Nam Á và cũng hình thành
nên sự đa dạng, đặc sắc trong văn hoá của từng quốc gia.
* Ăn uống: Do có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận
lợi nên Đông Nam Á có thảm động vật, thực vật rất phong
phú, đa dạng, cây cối quanh năm xanh tốt, cây lương thực chủ
yếu của cư dân Đông Nam Á là lúa, ngô, khoai và các loại hoa
mầu. Tuy nhiên gạo là quan trọng nhất trong cuộc sống hàng
ngày, thông thường mỗi bữa ăn gồm có cơm, rau, thịt, cá, do
có nhiều thuận lợi nên người Đông Nam Á không chế biến và
dự trữ đồ ăn với khối lượng lớn. Họ thường sử dụng đồ ăn
tươi, sống để làm món ăn như món phở ở Việt Nam, mãn
Tomyam của Thái Lan, món Xiêmlo của Campuchia. Trong
khi chế biến món ăn, một loại gia vị không thể thiếu đó là vị
cay, hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều ăn cay trong bữa
ăn của mình. Ở mỗi nước, mỗi dân téc lại có sự khác nhau về
cách nấu gạo thành cơm cũng như sự kết hợp các loại thức ăn,
gia vị trong mỗi bữa ăn, tạo nên những nét riêng biệt và đặc
trưng cho mỗi vùng.
Mặc dù cách ăn, cách chế biến thức ăn khác nhau nhưng
tính thống nhất của văn hoá Èm thực Đông Nam Á là văn hoá
Èm thực nhiệt đới.
* Trang phục:
Do nằm trong khu vực khí hậu nóng Êm, nhiệt độ trung
bình cao, nên cư dân Đông Nam Á rất thích mặc đồ thoáng
nhẹ, thoải mái, theo truyền thống mọi gia đình đều trồng
bông, dệt vải, như vải lụa, tơ tằm ở Việt Nam, vải thổ cẩm của
ngưòi Lào, Thái…Trang phục truyền thống của phụ nữ Đông
Nam Á là áo, váy và khăn, đối với nam là đóng khố cởi trần.
Cã những điểm thống nhất, nhưng mỗi quốc gia, mỗi dân téc,
trang phục lại có những nét đặc sắc riêng tạo nên một bức
tranh đa dạng trong cách ăn mặc của người Đông Nam Á.
Cư dân ở Đông Nam Á hải đảo thường gọi váy là Kain –
Kain, còn đối với cư dân Đông Nam Á lục địa gọi váy là
Sarông.
Sự đa dạng trong trang phục truyền thống của phụ nữ
Đông Nam Á được tạo nên bởi sự kết hợp hài hoà và tinh tế
trong một bộ trang phục. Thông thường phần dưới cơ thể là
các loại Kain, Sarông có độ dài ngắn khác nhau, còn phần trên
cơ thể là áo cánh dày tay hoặc áo chui đầu, đại diện tiêu biểu
là phụ nữ Thái, người Giava, người Sunđa (Inđônêxia).
Còn phụ nữ ở Campuchia, miền Bắc Việt Nam lại có sự
kết hợp độc đáo giữa váy với áo yếm, có nơi váy được kết hợp
với khăn tạo nên sự hấp dẫn, lôi cuối cho trang phục. Phụ nữ
ở đảo Bali (Inđônêxia) thường quấn khăn che phần trên cơ thể
khi đi chùa chiền.
Trang phục của nam giới phổ biến là đóng khố cởi trần,
như Êđê, Bana, téc người Papua, Tôratja… Còn ở một số nơi
Kain và Sarông là trang phục truyền thống của cả nam và nữ
như người Mianma, Malaixia. Sự phân biệt trang phục của
nam và nữ được phân biệt ở độ dài ngắn và cách quấn Kain và
Sarông, ở Mianma trang phục của nam thường ngắn và quấn
dầy hơn rất nhiều lần và gấp thành 2 nếp ở phía trước.
* Nhà ở:
Nhà không đơn thuần là nơi cư trú của mỗi gia đình mà
còn phản ánh đời sống tinh thần phong phó, quan hệ huyết téc
cũng như mọi phong tục, nghi lễ nông nghiệp gắng liền với
ngôi nhà. Do điều kiện tư nhiên mà cư dân Đông Nam Á cư
trú chủ yếu bằng nhà sàn, trở thành kiến trúc dân gian phổ
biến toàn Đông Nam Á.
Nhà sàn được làm bằng gỗ, tre, nứa, hầu hết các nhà sàn
có mái hiên rộng ngay trước cửa, từ hiên có bậc cầu thang để
lên xuống, hiên nhà là nơi mọi người làm việc như quay tơ,
dệt vải… Gầm nhà sàn thường được dùng để nuôi trâu bò, lợn
gà hoặc là nơi để công cụ lao động. Một dấu hiệu thống nhất
có thể thấy ở các quốc gia Đông Nam Á là sự tồn tại phổ biến
của những “ngôi nhà chung”, đây là kiểu nhà thường được
xây dựng ở giữa làng hoặc giữa bản có quy mô lớn hơn các
ngôi nhà bình thường. “Ngôi nhà chung” được sử dụng làm
nơi hội họp, tế lễ và tổ chức các hoạt động văn hoá chung cho
cả làng – bản. Ở Việt Nam có nhà Rông. Tuy nhiên kiến trúc
nhà ở của cư dân Đông Nam Á ở mỗi dân téc, vùng lại có
những nét riêng biệt độc đáo về hình thức, kích thước và cách
bài trí, đây không chỉ là sự khác biệt về mặt hình thức mà là
sự khác biệt về phong tục, lối sống, nghi thức của gia đình.
Sự đa dạng, phong phú của nhà sàn của cư dân Đông
Nam Á còn được thể hiện ở trong phạm vi một quốc gia. Ở
Inđônêxia, téc người Minang Kabau gọi ngôi nhà của mình là
Rumacgadang (ngôi nhà lớn), kiểu nhà này được dựng trên
sàn cao, có 2 mái dốc vểnh lên như 2 hình yên ngựa, và kết
thúc ở 2 đầu nóc bằng hình mô phỏng cặp sừng trâu. Còn téc
người Toratja lại làm nhà theo hình thuyền, người Papua làm
nhà sàn trên cây.
* Phương tiện đi lại.
Đông Nam Á có một mạng lưới sông ngòi dày đặc và
hầu hết các quốc gia tiếp giáp với biển, hệ thống sông ngòi tạo
nên một hệ thống giao thông rất thuận lợi cho cư dân trong
vùng. Do đó người ta thường dùng thuyền, bè để đi lại, để
giao lưu buôn bán, chuyển tải văn hoá - kinh tế giữa các quốc
gia trong khu vực. Cư dân Đông Nam Á sớm biết buôn bán
bằng đường sông, đường biển và hình thành nên các chợ nổi
tiếng trên sông và sớm tham gia vaò nền thương mại thế giới.
Kĩ thuật đóng thuyền của cư dân Đông Nam Á ngày càng
hoàn thiện để phục vụ nhu cầu đi lại của nhân dân và phục
vụ mục đích quân sự của nhà cầm quyền. Tuỳ vào đặc điểm
thuỷ văn từng vùng mà người Đông Nam Á có những cách
đóng thuyền khác nhau.
Cư dân hải đảo đi lại chủ yếu trên biển nên thuyền, bè
thường được đóng với kích thước lớn chuyên chở với số
lượng nhiều, còn việc đi lại trên sông, trên lạch nhỏ, trong
đảo người Đaiăk trên đảo Kalimantan (Inđônêxia) thường
đóng những con thuyền nhỏ nhưng dài tới 50m. Còn ở lục địa
các loại thuyền có hình dáng và kích thước rất phong phú.
Những cư dân miền núi thường đóng bè hoặc mảng để di
chuyển trên các dòng sông còn cư dân đồng bằng thường đóng
thuyền có kích thước nhỏ hơn để dễ dàng đi lại ví dụ như ở
Việt Nam loại thuyền thúng rất phổ biến ở đồng bằng Bắc Bé.
Còn thuyền ba lá, hoặc ghe chèo được sử dụng trong điều kiện
kênh rạch chằng chịt ở miền Đông Nam Bé
Phương tiện đi lại bằng thuyền gắn bó chặt chẽ với đời
sống cư dân Đông Nam Á, vì thế biểu tượng con thuyền luôn
gắn với cuộc sống văn hoá ở đây.
3.2:Văn hoá tinh thần
3.2.1:Chữ viết
Đông Nam Á là khu vực có nhiều thành phần dân téc,
sắc téc cùng chung sống, trải qua các giai đoạn phát triển mỗi
dân téc đã sáng tạo ra rất nhiều kiểu chữ để ghi lại ngôn ngữ
của mình. Nhưng điểm chung, điểm thống nhất trong chữ viết
của cư dân Đông Nam Á là thời gian xuất hiện vào những thế
kỉ tiếp giáp công nguyên cùng với sự ra đời của hàng loạt
quốc gia cổ của Đông Nam Á, là quá trình truyền bá mạnh mẽ
văn hoá Ên Độ, Trung Hoa vào khu vực. Trong dòng chảy văn
hoá đó chữ viết đã được các téc người ở đây tiếp thu và sáng
tạo ra kiểu chữ riêng cho dân téc mình. Do đó mỗi téc người
lại có những kiểu chữ khác nhau: Chữ Chăm cổ (thế kỉ IV),
chữ Nôm cổ (thế kỉ V), Chữ Khơme cổ (thế kỉ VI). Mặc dù
vậy ta vẫn nhận thấy nét tương đồng trong chữ viết của các
quốc gia Đông Nam Á là nguồn gốc ra đời của chữ viết. Chữ
viết của Đông Nam Á trải qua 3 giai đoạn phát triển sau:
Thứ nhất là sự vay mượn trực tiếp từ chữ viết của Ên
Độ và Trung Hoa
Thứ hai là sáng tạo ra các kiểu chữ dùa trên nhưng kiểu
chữ ban đầu
Thứ ba là sử dụng chữ viết truyền thống và dùng chữ
latinh
Trải qua những giai đoạn, những biến động của tình
hình kinh tế, chính trị và xã hội cũng ảnh hưởng tới sự hình
thành chữ viết, đây là điều kiện quan trọng tạo nên sự phong
phú đa dạng trong bức tranh ngôn ngữ của khu vực. Hầu hết
chữ viết của cư dân Đông Nam Á đều được sáng tạo trên cơ
sở chữ Ên Độ và chữ Trung Hoa, nhưng quá trình vay mươn
này diễn ra vào những thời điểm khác nhau nên khi du nhập
vào các quốc gia nó được biến thể thành muôn hình muôn vẻ
kiểu chữ khác nhau.
Sự đa dạng phong phú của ngôn ngữ chữ viết Đông
Nam Á còn được biểu hiện ở vị trí từng kiểu chữ. Do điều
kiện chính trị, xã hội, lịch sử khác nhau mà ngôn ngữ và chữ
viết của mỗi dân téc có địa vị và chức năng xã hội khác nhau.
Có ngôn ngữ đóng vai trò quan trọng trở thành ngôn ngữ quốc
gia như tiếng Việt ở Việt Nam, tiếng Malaixia ở Malaixia,
tiếng Khơme ở Campuchia.
3.2.2: Tín ngưỡng- tôn giáo
Đông Nam Á là một khu vực đa tôn giáo hầu hết các
tôn giáo lớn trên thế giới đều có mặt ở đây như đạo Phật, đạo
Thiên chóa, đạo Ixlam…Do cùng chung sống trên một khu
vực địa lí có nhiều điểm tương đồng nên tín ngưỡng, tôn giáo
ở Đông Nam Á có nhiều điểm thống nhất với nhau
Cuộc sống của cư dân Đông Nam Á gắn bó chặt chẽ với
hoạt động nông nghiệp, điều kiện tự nhiên luôn tác động tới
cuộc sống của họ nên trong cư dân xuất hiện tín ngưỡng sùng
bái tự nhiên. Đây là những nhận thức sơ khai của con người
về các hiện tượng tự nhiên như mưa, gió, sấm…Xuất phát từ
thuyết “vạn vật hữu linh” người Đông Nam Á đã sáng tạo ra
mét hệ thống tín ngưỡng sùng bái tự nhiên như thờ thần mặt
trời, thờ thần nước, thờ hòn đá…nhưng mỗi quốc gia nghi
thức hành lễ và tên gọi các nghi thức Êy còng khác nhau, tạo
nên sự thống nhất nhưng cũng rất đa dạng trong đời sống tâm
linh của họ.
Từ tín ngưỡng thờ thần mặt trời ở Việt Nam có lễ hội
rước đèn trung thu vào ngày 15-8 âm lịch, ở Mianma cũng có
lễ hội “đèn trời”, ở Lào, Thái lan có lễ hội hoa đăng trên các
dòng sông. Ở Thái Lan có lễ hội tạ ơn “mẹ nước”vào buổi tối
trăng tròn tháng 10 âm lịch hàng năm. Ở Campuchia, Lào có
lễ hội té nước đầu năm để cầu mong nhiều phóc nhiều léc. Ở
Inđônêxia, Mianma, Philipin có tục thê thần sông.
Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á, tín ngưỡng phồn
thực được thể hiện đa dạng ở nhiều hình thức khác nhau
nhưng những điểm chung về điều kiện tự nhiên, xã hội, đặc
biệt là nền kinh tế nông nghiệp trồng lúa nước đã tạo nên sự
thống nhất trong tín ngưỡng này.
Ở Thái Lan có tục nặn hình người bằng đất sét để cầu
nguyện cho mùa màng tốt tươi, tượng là một cặp nam nữ ôm
nhau. Ở miền bắc Việt Nam thì thờ cóng cột đá có hình sinh
thực khí khá phổ biến thể hiện qua tượng Linga và Yôni.
Trong các nghi lễ phồn thực người ta thường làm các loại
bánh từ lúa, gạo mang hình dáng các sinh thực khí để cóng, cư
dân Việt Nam có tục làm bánh tét, bánh tày. Ở Campuchia
làm bánh hình sinh thực khí nam và nữ trong những ngày lễ
liên quan tới nông nghiệp như lễ PchemBel. Ở Mianma có tục
làm bánh Hatamane.
Tín ngưỡng phồn thực trở thành một nghi lễ quan trọng
trong đời sống tín ngưỡng của cư dân Đông Nam Á , mỗi quốc gia
mỗi dân téc lại có những nghi lễ phồn thực khác nhau nhưng đều
mang đậm nét sinh hoạt của nền nông nghiệp lúa nước.
Ngoài ra cư dân Đông Nam Á còn có tín ngưỡng thờ
cóng tổ tiên, họ quan niệm rằng con người gồm hai phần là
hồn và xác. Người Thái cho rằng khi con người chết thì hồn
biến thành Phỉ (ma). Còn người Việt dùng từ ma để chỉ những
người đã chết.
Việc thê cóng tổ tiên được thể hiện qua nhiều hình thức
như thờ cóng người đã chết có quan hệ huyết thống, thờ
những người đã sinh ra cộng đồng, thờ người đã tạo nên
những yếu tố văn hoá. Nhưng điểm thống nhất là đối tượng
thờ cóng là những người đã chết. Việc thờ cóng tổ tiên thể
hiện sự nhớ ơn cội nguồn, lòng mong ước được người đã chết
phù hộ cho mình. Đây là một nét đặc sắc trong tín ngưỡng và
văn hoá của người Đông Nam Á
3.2.3 Lễ hội
Hầu hết các lễ hội cổ truyền ở Đông Nam Á đều xoay
quanh hai chủ đề chính là cầu nắng và cầu mưa, thực chất của
lễ hội này là mong ước có một kết quả sản xuất nông nghiệp
tốt đẹp.Vì thế các lễ hội cổ truyền ở Đông Nam Á đều được
hình thành trên cơ sở nền nông nghiệp lúa nước: Ở Việt Nam
có lễ hội xuống đồng, người Chăm có lễ hội dựng chòi cày,
người Campuchia có lễ hội ban phát giống thiêng .
Sau khi thu hoạch lúa người dân thường tổ chức nghi lễ
để cảm ơn trời đất, tổ tiên nh lễ hội vun thóc trên sàn của
người Lào, hay lễ hội mừng cơm mới của nhiều nước trong
khu vực. Trong lễ hội cổ truyền đón năm mới các dân téc
Đông Nam Á thường dùng nước để chức mừng nhau, bởi họ
cho rằng nước là yếu tố đem đến sù Êm no, hạnh phóc và may
mắn: Ở Phó Thọ Việt Nam có lễ hội” cướp bưởi cầu mưa
cướp dừa cầu nước”, Ở Thái Lan tổ chức lễ hội cầu mưa
thông qua các hành động như múa cờ, chọi voi trắng và dựng
đu, Ở Mianma, Inđônêxia, Mãlai..có lễ hội đua thuyền rồng, Ở
Campuchia có lễ hội Loipratit.
Qua các lễ hội ở Đông Nam Á ta thấy chính cây lúa đã
tạo dùng những nét tương đồng cho các lễ hội nhưng vẫn thể
hiện tính đa dạng, phong phú về kiểu loại sắc thái của từng
quốc gia, dân téc.
4. Tính thống nhất trong đa dạng về mặt kinh tế
Do có vị trí địa lý tương đồng nên các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á không chỉ có tính thống nhất trong đa
dạng về lĩnh vực văn hoá xã hội, ngay cả lĩnh vực kinh tế các
quốc gia Đông Nam Á còng mang đặc điểm thống nhất trong
đa dạng.
Nền kinh tế chủ yếu của các quốc gia Đông Nam Á là
nền kinh tế nông nghiệp lúa nước, đây là điểm chung, điểm
thống nhất xuyên suốt từ thời cổ đại. Nhưng những năm gần
đây do nhiều nguyên nhân tác động mà kinh tế các nước Đông
Nam Á mang tính đa dạng, mỗi nước có một xu hướng phát
triển, một đường đi khác nhau. Mặc dù vậy ta vẫn thấy những
điểm chung và điểm thống nhất của các quốc gia Đông Nam
Á là:
Các quốc gia Đông Nam Á đều có mẫu số chung là tiến
hành công nghiệp hoá để đưa đất nước thoát khỏi sự yếu kém,
lạc hậu về kinh tế, sự lệ thuộc vào nước ngoài và phù hợp với
xu thế chung của nền kinh tế thế giới. Quá trình thực hiện
công nghiệp hoá, hiện đại hoá được chia lầm hai thời kỳ là
công nghiệp hoá hướng nội và công nghiệp hoá hướng ngoại.
Đặc điểm chung nữa là các quốc gia Đông Nam Á có
nền kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, các nước Thái Lan, Việt
Nam, Lào, Mianma… có tới 3/4 số dân làm nông nghiệp, các
quốc gia ở Đông Nam Á là nơi cung cấp nguyên liệu và là thị
trường tiêu thụ hàng hoá cho các nước công nghiệp phương
Tây. Nhưng sự nghèo nàn lạc hậu ở mỗi nước lại có mức độ
khác nhau:
- Inđônêxia: Trên 70% dân số là nông dân, đóng góp
khoảng 70% thu nhập quốc dân, nhưng vẫn phải nhập khẩu
lương thực, bởi vì các đồn điền, cơ sở kinh tế quan trọng nằm
trong tay tư bản Hà lan.
- Philipin: Sau khi được trao trả độc lập, Philipin cũng
gặp nhiều khó khăn như lương thực thiếu hụt trầm trọng, đời
sống nhân dân thấp kém, hệ thống giáo dục rối loạn, tình hình
xã hội căng thẳng, kinh tế Philipin cơ bản là nền kinh tế nửa
phong kiến nửa thuộc địa, mang tính tự cấp tự túc rất lạc hậu.
- Malaixia: Sau khi được độc lập (1957) kinh tế
Malaixia mang tính chÊt nửa thuộc địa nửa phong kiến. Tư
bản Anh vẫn nắm giữ 2/3 sản lượng thiếc, sở hữu 60% diện
tích đồn điền cao su, nông nghiệp chiếm tỉ trọng lớn với 80%
dân số là nông dân, công nghiệp chỉ chiếm 8,2% GDP, cơ sở
sản xuất nghèo nàn, lạc hậu.
- Singapo: Sau gần 150 năm là thuộc địa của Anh,
kinh tế Singapo gặp nhiều khó khăn nh tốc đé tăng dân số khá
cao 4,4%/ năm, tỉ lệ thất nghiệp là14%, tình hình xã hội
không ổn định .
- Thái lan: Nông nghiệp được coi là lĩnh vực chủ chốt
của nền kinh tế chiếm 82% lao động, nhưng có tới 80% nông
dân không có ruộng phải đi làm thuê, đời sống của nhân dân
thấp kém, không ổn định nên dẫn tới các cuộc nổi dậy của
nông dân ở vùng Đông bắc Thái lan. Công nghiệp cuẩ Thái
lan nhỏ bé và đình đốn .
Nh vậy nét đa dạng về kinh tế của các quốc gia Đông
Nam Á được thể hiện ở chỗ: Thời điểm tiến hành công nghiệp
hoá, xuất phát điểm của quá trình công nghiệp hoá, con đường
tiến hành công nghiệp hoá, kÕt quả của quá trình công nghiệp
hoá.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hoá hướng nội các nước
Đông Nam Á còng có nhiều nét thống nhất và đa dạng. Công
nghiệp hoá hướng nội (công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu)
tức là tự sản xuất ra hàng hoá tiêu dùng thay thế nhập khẩu.
Đây là thờ kỳ xây dựng nền móng để phát triển kinh tế.
Điểm thống nhất của các quốc gia Đông Nam Á trong giai đoạn này là xuất phát điểm của các nước đều là thuộc địa, nền kinh tế què quặt, công nghiệp phát triển không cân đối, toàn diện, chủ yếu là nơi tiêu thụ hàng hóa cung cấp nguyên vật liệu cho các nước chính quốc, do đó muốn xây dựng đất nước phải xây dựng nền kinh tế độc lập, phải xây dựng một chiến lược phát triển kinh tế, đặc biệt là sản xuất hàng tiêu dùng thay thế cho việc nhập khẩu và xây dựng hàng rào thuế quan chặt chẽ, quan trọng hơn là giải quyết vấn đề việc làm cho người lao động, vì thất nghiệp là tình trạng rất phổ biến của các quốc gia sau khi giành độc lập. Điểm đa dạng ở đây là thời điểm tiến hành và kết thúc
công nghiệp hoá hướng nội của từng nước do mỗi nước có
một hoàn cảnh khác nhau.
Philipin là nước tiên phong, thực hiện sớm nhất trong
khu vực, nhưng quá trình thực hiện lại dài nhất từ 1946-1970:
Singapo bắt đầu từ 1961-1964; Malaixia từ 1957-1970; Thái
Lan từ 1961-1972; Inđônexia 1950-1965.
* Inđônêxia: Sau khi độc lập, Inđônêxia bắt đầu triển
khai chiến lược công nghiệp hoá hướng nội, Inđônêxia đã
thực hiện chính sách kinh tế tự do, khuyến khích tư bản tư
nhân phát triển, hạn chế đầu tư nước ngoài, nhờ đó tốc độ phát
triển kinh tế đạt 5,2%.
Từ năm 1957, Inđônêxia chuyển sang “chính sách kinh
tế có chỉ đạo” thực hiện cơ chế kế hoạch hóa tập trung, củng
cố vai trò kinh tế của Nhà nước, kiểm soát các hoạt động kinh
tế của tư bản nước ngoài và tư nhân trong nước, đặt trọng tâm
vào xây dựng các khu công nghiệp nặng, quy mô lớn… về cơ
bản chính sách công nghiệp hóa của Inđônêxia đạt được mục
tiêu đề ra nhưng còn nhiều hạn chế.
*Philippin: cũng tiến hành chiến lược công nghiệp hoá
thay thế nhập khẩu để củng cố nền độc lập, khắc phục sự phụ
thuộc nền kinh tế vào nước ngoài. Philipin đã xóa bỏ tự do
thương mại, thực hiện chế độ bảo hộ mậu dịch, ban hành các
chính sách về tài chính, thương mại để khuyến khích kinh tế
tư nhân và sản xuất trong nước phát triển. Nhà nước chú trọng
các ngành công nghiệp sử dụng nguyên liệu có sẵn nh công
nghiệp dệt, chế biến nông sản, thực phẩm, chế tạo máy móc,
đẩy mạnh quá trình cơ giới hóa nông nghiệp.
*Malaixia: Để khắc phục tình trạng khó khăn của đất
nước, Malaixia tập trung phát triển kinh tế nông nghiệp, chú
trọng các loại cây công nghiệp, đặc biệt là cao su, cọ dâu, thực
hiện khai hoang, mở rộng diện tích trồng lúa, thực hiện cuộc
cách mạng xanh, áp dụng kỹ thuật mới trong nông nghiệp.
Chú trọng công nghiệp chế biến, khai khoáng, xây dựng
một số khu công nghiệp, khu mậu dịch để thu hót vốn của
nước ngoài nh khu công nghiệp Mắc Mađin, Kamunting và
Tasêch có những chuyển biến sau: tốc độ tăng trưởng kinh tế
cao đạt từ 5-5,4%. Từ chỗ nhập 40% nhu cầu lương thực
(1960) đến 1972 đã tự túc được 91% lương thực. Công nghiệp
chế biến phát triển với tốc độ khá nhanh là 67,2%.
*Singapo: Singapo thực hiện chiến lược thu hót đầu tư
nước ngoài, phát triển các khu công nghiệp tập trung: chú trọng
công nghiệp lọc dầu, công nghiệp đóng mới và sửa chữa tàu
thủy, công nghiệp điện tử…Cuối 1965, tổng giá trị ngành công
nghiệp chế biến trong tổng sản phẩm quốc nội tăng 15,6%, tốc
độ tăng trưởng kinh tế là 5-7%.
Như vậy, công nghiệp hóa hướng nội là một hướng đi
đúng, bởi vì đáp ứng được nhu cầu nguyện vọng của các quốc
gia sau khi giành được độc lập, điểm thống nhất của các nước
là sản xuất hàng tiêu dùng để thay thế hàng nhập khẩu, do đó
thị trường nội địa đóng vai trò chủ yếu, hạn chế nhập khẩu
hàng hóa bằng cách đánh thuế cao.
Nhưng bên cạnh những thành tựu đã đạt được, các nước
trong khu vực còn phải đối mặt với nhiều khó khăn sau: phải
nhập khẩu nhiều nguyên liệu, máy móc, vẫn phải phụ thuộc
vào nước ngoài, sử dụng vốn đầu tư không hiệu quả, kinh
doanh thua lỗ, tệ tham nhòng, quan liêu, những bất ổn định về
chính trị, xã hội như bất bình đẳng giữa người Mã lai và người
Hoa ở Malaixia…
Sự đa dạng của các nước Đông Nam Á còn được thể hiện ở việc thực hiện các chính sách công nghiệp hóa, cụ thể nh: Singapo là công nghiệp chế biến, lắp ráp điện tử, Malaixia là công nghiệp chế biến lâm sản, nông sản
Do những hạn chế trên, và do hoàn cảnh thế giới có
nhiều thay đổi đã tác động tới các nước Đông Nam Á, buộc
các nước này phải thay đổi chiến lược phát triển của mình,
chuyển từ công nghiệp hoá hướng nội sang công nghiệp hoá
hướng ngoại.
Công nghiệp hoá hướng ngoại là lấy các mặt hàng nông
nghiệp truyền thống làm trọng điểm, sử dụng nhiều sức lao
động, để thu hót bao nhiêu lao động, và chú trọng các sản
phẩm sử dụng hàm lượng kỹ thuật cao nh điện tử. Việc
chuyển sang công nghiệp hoá hướng ngoại sẽ giúp các nước
Đông Nam Á có thể phát huy được thế mạnh của từng nước,
giải quyết vấn đề thất nghiệp, tận dụng những kỹ thuật tiên
tiến bên ngoài.
Đây là xu hướng chung, là điểm thống nhất của các nước
Đông Nam Á, nhưng quá trình thực hiện ở mỗi nước lại có
nhiều điểm khác nhau do đó thành tựu đạt được cũng khác
nhau.
*Inđônêxia: Thực hiện chương trình ổn định kinh tế để
khắc phục những hạn chế trước đây, đưa nền kinh tế “đóng
cửa” chuyển sang nền kinh tế mở.
Từ năm 1969 thực hiện chương trình công nghiệp hóa
dùa trên khai thác dầu mỏ để xuất khẩu và thực hiện kế hoạch
5 năm lần thứ nhất Repelia (1969-1974), thu hót đầu tư nước
ngoài, thực hiện cách mạng xanh trong nông nghiêp, đa dạng
hóa cây trồng…Do đó kinh tế Inđônêxia có nhiều khởi sắc:
năm 1960 tốc độ tăng trưởng kinh tế là 3,5% đến năm 1970 là
7,8%.
*Philipin: thực hiện kế hoạch 4 năm (1967-1790), để
hiện đại hóa nông nghiệp, tăng cường công nghiệp hóa, đưa ra
luật khuyến khích xuất khẩu năm 1970 để kích tích sản xuất.
Các ngành công nghiệp hiện đại cũng được chú trọng nh
luyện kim, xây dùng.
Chính phủ còn ban hành Sắc lệnh cải cách ruộng đất
(năm 1972) thực hiện cuộc cách mạng xanh trong nông
nghiệp để nâng cao đời sống nhân dân, nhờ đó nền kinh tế có
chuyển biến tốt: năm 1970 mức tăng GDP là 3,7% thì năm
1972 là 5,54%.
*Malaixia: Chính phủ quyết định thực hiện chiến lược
phát triển kinh tế xã hội nhằm “xâydựng lại xã hội Malai”,
thông qua thực hiện kế hoạch triển vọng lần thứ nhất (OPPI)
1970-1980. Nhờ đó kinh tế Malaixia có nhiều ghi nhận đáng
kể sau: tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm 7,8%. Thu
nhập quốc dân năm 1973 là 600 USD/ người, đến năm 1975 là
890 USD/ người.
*Singapo: Để phục vụ chiến lược công nghiệp hóa hướng
ra xuất khẩu, chính phủ chủ trương thu hót đầu tư của các
công ty đa quốc gia. Năm 1966 luật công đoàn ra đời, thành
lập quỹ dự phòng trung ương (CPF) để tăng cường nguồn dự
trữ và khả năng cung cấp vốn của chính phủ. Cải tổ hệ thống
giáo dục từ phổ thông đến đại học, nhờ đó mà tốc độ tăng
trưởng kinh tế Singapo rất cao 12%/năm, tỷ trọng sản xuất
công nghiệp tăng đạt 30% trong toàn bộ nền kinh tế, tạo ra
150.000 việc làm tỷ lện thất nghiệp giảm còn 4,5%, thu nhập
bình quân đầu người đạt 1580 USD năm 1973, là nước đứng
đầu Đông Nam Á về phát triển kinh tế trong thời kỳ này.
Đây chính là một số nét đặc sắc, đa dạng của các nước
Đông Nam Á trong những thập kỷ 70 của thế kỷ XX.
Từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay nền kinh tế của
các nước Đông Nam Á cũng có nhiều thay đổi và mỗi nước lại
tạo cho mình một nét độc đáo riêng.
* Inđônêxia: vẫn tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ của
kế hoạch 5 năm lần thứ năm (1989-1994), mở rộng quốc tế tư
nhân hóa, đa dạng hóa kinh tế, về cơ bản là đạt được những
chỉ tiêu đề ra: đầu tư nước ngoài (FDI) tăng 7 lần, giá trị xuất
khẩu tăng gấp đôi…
Đến 1995, Inđônêxia thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 6
(1995-1999) để duy trì ổn định kinh tế, chính trị, tập trung vào
các ngành kinh tế đòi hỏi kỹ thuật cao, điều chỉnh cơ cấu kinh
tế. Trong thời gian này, cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở
Đông Nam Á diễn ra (1997) làm cho kinh tế Inđônêxia chịu tác
động nặng nề, đồng rupi bị mất giá quá 80%, mức lạm phát phi
mã 83,2%, có 80% tổng số công ty, xí nghiệp bị phá sản, có 12
triệu người thất nghiệp làm 15 triệu người thiếu đói. Trước tình
hình đó Inđô đã kêu gọi quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Inđô thực
hiện “chương trình cải cách và phục hồi kinh tế 4 điểm” và
“chương trình hành động 8 điểm”. Bằng những biện pháp đó,
cuối 1999, kinh tế Inđônêxia dần dần phục hồi. Năm 2000 tỷ
lệ nợ chính phủ trong tổng GDP là 100%, đến 2001 còn 90%
và năm 2002 là 80%, mức độ lạm phát giảm còn 22,7%
(1999), số người thất nghiệp còn 8,5 triệu người. Nền kinh tế
Inđônêxia dần ổn định.
*Philipin: Đầu thập niên 90 kinh tế Philipin có biểu hiện
sa sót do khó khăn trong nước và ảnh hưởng của việc tăng giá
xăng dầu mỏ trong thời gian chiến tranh vùng vịnh. Vì thế,
chính phủ đã miễn thuế một số mặt hàng xuất khẩu, đẩy mạnh
quốc tế tư nhân hóa có chọn lọc, do có tốc độ tăng trưởng kinh
tế dần nhích lên, đạt 1,7% (1993) công nghiệp tăng gần 3 %,
dịch vụ tăng 2% (1993).
Đến năm 1997 cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ có tác
động tới Philipin nhưng nhờ có nhiều cố gắng nên kinh tế
nước này đạt được nhiều thành tựu: 2002 tốc độ tăng trưởng
kinh tế là 4%), tỷ lệ lạm phát dưới 3%.
*Mianma: cuối 1988, SLORC thực hiện chính sách cải
cách và mở cửa nền kinh tế, để khôi phục nguồn tài chính,
chính phủ đã bán quyền khai thác lâm, hải sản cho các công ty
nước ngoài, mở cửa buôn bán biên giới, ban bố luật đầu tư
nước ngoài, bãi bỏ luật thiết lập hệ thống xã hội chủ nghĩa”,
thông qua luật Doanh nghiệp tư nhân để khuyến khích các
thành phần kinh tế tư nhân phát triển. Chính sách cải cách và
mở cửa đã đem lại những kết quả bước đầu, tốc độ tăng
trưởng kinh tế 1989 là 3%, 1992 là 10,9%.
Nhìn chung, kinh tế Mianma có trình độ phát triển kinh
tế còn thấp, cơ sở hạ tầng lạc hậu, sản xuất không hiệu quả…
Đây là những thách thức đặt ra cho chính phủ Mianma.
*Lào: tháng 11-1986 đã đặt ra chương trình cải cách kinh
tế toàn diện là xây dựng cơ chế kinh tế mới, thông qua các kế
hoạch 5 năm 1990-1995 và 1996-2000, đề ra những chính
sách nhằm hiện đại hóa nền sản xuất, chuẩn bị điều kiện để
hội nhập vào khu vực và thế giới.
Nhờ đó kinh tế Lào có nhiều thay đổi, cơ cấu kinh tế có
sự chuyển dịch nông nghiệp chiếm 54% GDP, công nghiệp là
19% và dịch vụ là 27%. Trong 5 năm (1992-1996) tỷ lệ tăng
trưởng GDP là 7%/ năm, nông nghiệp là 5%/năm, công
nghiệp là 12%/năm, dịch vụ là 7%/năm. Thu nhập quốc dân là
350 USD/ người (1995).
*Campuchia: chính phủ tập trung vào giải quyết những
vấn đề trước mắt như ổn định kinh tế, giảm lạm phát, cải cách
hành chính, nâng cấp cơ sở hạ tầng, khuyến khích đầu tư,…
Nhờ đó kinh tế Campuchia đã đạt được những kết quả sau:
năm 1998 nông sản xuất khẩu chiếm 11.7% tổng kim ngạch
hàng hóa, công tác xóa đói giảm nghèo đạt kết quả cao từ
39% (1998) đến 4,3% (1999), kinh tế có chiều hướng gia tăng
từ 2% (1998) đến 4,3% (1999) và 6% (2001).
*Việt Nam: bắt đầu thực hiện đổi mới nền kinh tế từ
1986 và thu được nhiều thành tựu đáng kể: Tốc độ tăng
trưởng GDP từ 5,3% (1990) lên 9,5% (1995). Để khắc phục
những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trong
khu vực, chính phủ Việt Nam đã đề ra những chủ trương và
biện pháp phát triển để tiếp tục công nghiệp hóa và hội nhập
vào nền kinh tế thế giới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng nhanh: 4,77 % (1999)
lên 6,79% (2000), 6,89%(2001), 7,08% (2002), 7,69% (2004).
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: công nghiệp
và xây dựng tăng từ 22,6% (1990) lên 38,3% (2002), là nước
xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới sau Thái Lan. Tỷ lệ thất
nghiệp giảm: 6,9% (1998) còn 5,6% (2004).
Nh vậy, điểm chung, điểm thống nhất của các quốc gia
trong khu vực là phát triển kinh tế, ổn định đất nước để hội
nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Nhưng quá trình phát triển và hội nhập kinh tế lại có
nhiều khác nhau, mỗi quốc gia lùa chon theo một hướng, một
con đường nên kết quả đạt được có khác nhau. Điều này tạo
nên tính đa dạng trong thống nhất cho các quốc gia Đông
Nam Á. Đa dạng và thống nhất là 2 đặc điểm luôn đi song
song với nhau trong mọi lĩnh vực ở khu vực Đông Nam Á. Kể
cả lĩnh vực chính trị.
5: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt chính trị
Thực tế lịch sử cho thấy, để giành lại độc lập dân téc,
nhân dân các nước Đông Nam Á đều phải trải qua cuộc đấu
tranh lâu dài, gian khổ vì các cường quốc thực dân không dễ
dàng từ bỏ thuộc địa của mình. Cuộc đấu tranh vì độc lập, tự
do diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào điều
kiện lịch sử cụ thể của từng nước và tác động của những nhân
tố bên trong cũng như bên ngoài khu vực. Đặc biệt là tác động
của chiến tranh lạnh, của trật tự thế giới 2 cực và ý đồ chiến
lược của các nước lớn đã ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình khu
vực và cuộc đấu tranh giành độc lập tự do của các dân téc ở
ĐNA.
*Lào: Cách mạng tháng Tám thành công ở Việt Nam đã
tạo điều kiện thuận lợi cho cách mạng Lào. Ngày 12/10/1945
nhân dân thủ đô Viên Chăn khởi nghĩa giành chính quyền.
Nhưng sau đó tháng 3 năm 1946 thực dân Pháp đưa quân tái
chiếm Lào. Cách mạng Lào bước sang mét giai đoạn mới đầy
khó khăn, gian khổ. Đến tháng 5-1975 hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng nhân dân cách mạng Lào, các lực lượng vũ trang
cách mạng có sự phối hợp của quần chúng đã nhanh chóng
chiếm được các vị trí quan trọng: Viên Chăn…
Ngày 23/8/1975 thủ đô Viên Chăn được giải phóng.
Ngày 1/12/1975 Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc được
triệu tập tại thủ đô chính thức thành lập nước Cộng hòa dân
chủ nhân dân Lao, chấm dứt ách thống trị của đế quốc và
phong kiến ở Lào, đưa nước Lào tiến lên con đường hòa bình,
độc lập, dân chủ, thống nhất, thịnh vượng và tiến bộ xã hội.
*Campuchia:
Ngày 7/4/1946 triều đình phong kiến đã kí với Pháp
hiệp định chấp nhận sự thống trị trở lại của Pháp ở
Campuchia, nhưng nhân dân Campuchia đã đứng lên tiến
hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và
thành lập chính phủ trung lập. Nhưng 18/3/1970 Mĩ xâm lược
Campuchia, biến nước này thành thuộc địa kiểu mới của
mình.
Đến17/4/1975 thủ đô Phnômpênh được giải phóng,
cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân
Campuchia thắng lợi hoàn toàn. Tiếp sau đó, Campuchia phải
đối mặt với chính quyền phản động Pônpốt – Iêngxari. Đến
ngày 7/1/1979 mới hoàn toàn được độc lập.
* Inđônêxia:
Ngày 17/8/1945 Inđônêxia tuyên bố độc lập, chính phủ
mới được thành lập. Nhưng tháng 9/1945 Anh giúp đỡ thực
dân Hà Lan quay lại thống trị Inđônêxia.
Trải qua một quá trình đấu tranh gian khổ ngày
15/8/1950 nước cộng hòa Inđônêxia thống nhất được thành
lập.
*Philipin: sau khi lật đổ ách thống trị Nhật thì Philipin
lại rơi vào tay Mĩ. Nhân dân Philipin đấu tranh quyết liệt buộc
Mĩ phải trao trả lại độc lập vào ngày 4/7/1946, Philipin trở
thành một nước cộng hòa độc lập.
*Liên bang Malaixia: sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, 5/9/1945, quân Anh chiếm đóng Mã Lai. Nhân dân Mã
Lai đứng lên đấu tranh tiêu biểu như ngày 20/10/1947 hàng
vạn người ở Culalămpơ tham gia bãi công phản đối sự thống
trị của chính quyền thực dân. Ngày 31/8/1957, Anh phải trao
trả độc lập cho Mã lai và ngày 16/9/1963 liên bang Mã Lai
chính thức được thành lập.
*Singapo: sau chiến tranh thế giới thứ 2, thực dân Anh
quay trở lại xâm lược Singapo. Đến 22/12/1965 nước cộng
hòa Singapo tuyên bố thành lập và bước vào một thời kỳ phát
triển mới.
*Brunây: chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, Anh quay
trở lại thống trị Brunây. Đến ngày 1/1/1984, Brunây chính
thức tuyên bố là quốc gia độc lập nằm trong khối liên hiệp
Anh.
*Thái Lan: là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không
phải tiến hành đấu tranh giành độc lập. Chỉ trong vòng 1 năm
đã lần lượt trao trả các vùng đất chiếm được trong thời gian
chiến tranh và khôi phục lại quan hệ ngoại giao với các nước.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, Đông Nam Á trở thành
điểm khởi đầu của phong trào giải phóng dân téc trên thế giới,
sự phát triển của phong trào nàyđã làm sụp đổ hoàn toàn hệ
thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân ở khu vực này. Những
con đường khác nhau đi đến độc lập dân téc cho thấy sự đa
dạng của các quốc gia Đông Nam Á. Hệ quả của sự phát triển
đa dạng đó đã dẫn tới việc hình thành các thể chế chính trị, xu
hướng phát triển khác nhau. Sau khi giành độc lập, hai nước
Việt Nam và Lào đã lùa chọn con đường phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa; Inđônêxia và Campuchia thì thi hành
chính sách trung lập; Philipin, Malaixia, Singapo và Thái Lan
mặc dù được độc lập về chính trị nhưng nền độc lập còn bị
hạn chế bởi các hiệp định kinh tế, quân sự. Mianma đi theo
con đường phát triển biệt lập.
Mặc dù chế độ chính trị có nhiều khác nhau nhưng có
nét chung, thống nhất, đó là các quốc gia ở Đông Nam Á đều
trong tổ chức ASEAN.
Xu hướng chung của các quốc gia Đông Nam Á là liên
kết khu vực hợp tác hóa để cùng phát triển, hội nhập vào nền
kinh tế thế giới. Đây không chỉ là xu thế chung ở khu vực mà
còn là xu thế chung của thế giới như 1950 Liên đoàn Ả Rập
được thành lập, 1951 các tổ chức Trung Mĩ được thành lập,
1957 cộng đồng kinh tế chung Châu Âu EEC ra đời.
Việc thành lập hiệp hội các nước Đông Nam Á
(ASEAN) nhằm thực hiện những mục tiêu sau:
- Thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và
phát triển văn hóa, trên tinh thần bình đẳng và hợp tác nhằm
xây dựng một cộng đồng Đông Nam Á hòa bình và thịnh
vượng.
- Thúc đẩy hòa bình và ổn định khu vực bằng việc tôn
trọng công lý và nguyên tắc luật pháp của các nước trong khu
vực.
- Thúc đẩy sự cộng tác tích cực và giúp đỡ nhau trong
vấn đề cùng quan tâm trên các lĩnh vực kinh tế xã hội, văn
hóa, khoa học kỹ thuật và hành chính.
- Thúc đẩy việc nghiên cứu về Đông Nam Á
- Duy trì sự hợp tác chặt chẽ cùng có lợi với các tổ
chức quốc tế và khu vực, có tôn chỉ và mục đích tương hợp.
Sau nhiều cuộc thảo luận, ngày 8/8/1967, ngoại trưởng 5 nước (Thái Lan, Malaixia, Singapo, Philipin, Inđônêxia) đã họp ở Băng Cốc, tuyên bố thành lập hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
So với các tổ chức trước đây, nguyên tắc hoạt động, cơ
cấu tổ chức của ASEAN chặt chẽ hơn.
Đến năm 1984 ASEAN kết nạp thêm Brunây.
Ngày 28/7/1995 kết nạp Việt Nam là thành viên thứ 7
của tổ chức.
Năm 1997, Lào và Mianma trở thành thành viên thứ 8 và thứ
9 của ASEAN. Đến năm 1999, Campuchia gia nhập ASEAN.
Nh vậy, tính đến năm 1999 cả 10 nước Đông Nam Á đã gia nhập tổ chức ASEAN, đây là cơ hội mới và cũng là thách thức cho mỗi quốc gia cần phải có những chính sách phù hợp để hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới.
Sau khi thành lập, các quốc gia ASEAN đã đạt được nhiều
thành tựu đáng kể:
Về kinh tế: mục tiêu của ASEAN là xây dựng sự ổn định
trên tất cả các lĩnh vực.
Năm 1967 nền kinh tế của ASEAN bao gồm 5% dân số
thế giới, là nơi có nguồn tài nguyên phong phó: cao su chiếm
80% của thế giới, đồng, thiếc chiếm 60%, dầu lửa chiếm 30%,
gạo chiếm 12%. Sù phong phú này giúp ASEAN có thể tăng
cường vai trò kinh tế của mình. Năm 1969 thành lập quỹ
ASEAN với số vốn là 5 triệu USD. Đề ra nhiều chương trình
hợp tác có tính chất song phương, đa phương. Tăng cường việc
buôn bán trao đổi giữa các nước trong khu vực. Ngoài ra, còn
chủ trương hợp tác với các nước không thuộc khu vực nh
Trung Quốc.
Những cố gắng đó đã đưa đến quan hệ hợp tác ngày càng
phát triển, đã thành lập khu vực mậu dịch AFTA từ năm 1992,
tăng cường hợp tác bên ngoài nh quan hệ với Nhật Bản, Mĩ,
EU…
Việc hợp tác an ninh chính trị là một thành tựu lớn nhất
mà ASEAN đã đạt được, ASEAN giúp các nước trong khu
vực hiểu biết lẫn nhau, đoàn kết với nhau để đối phó với
những thách thức bên ngoài, 1968 ASEAN đã thành công
trong việc xử lý tranh chấp giữa Malaixia với Philipin về vấn
đề Sabar, giải quyết vấn đề Campuchia từ 1979-1989. Đã tạo
dựng được một diễn đàn khu vực châu Á Thái Bình Dương
lớn nhất thế giới là ARF (Asean – Rigional – Forum).
ASEAN đã tạo dựng được sự gắn kết giữa hai châu lục Á
- Âu thông qua hội nghị thượng đỉnh Á - Âu.
Mặc dù theo những chế độ chính trị khác nhau,có nước
theo chế độ xã hội chủ nghĩa, có nước theo chế độ tư bản chủ
nghĩa, có quốc gia theo chế độ cộng hòa: Inđônêxia… có quốc
gia lại theo chế độ quân chủ nh: Campuchia, Brunây… Những
điểm chung, thống nhất của các quốc gia Đông Nam Á là đều
ở trong một tổ chức (ASEAN) để cùng hợp tác, xây dựng đất
nước phát triển, theo kịp xu hướng chung của thời đại.
Trên đây là một số đặc điểm thống nhất trong đa dạng về
tình hình chính trị của các nước trong khu vực Đông Nam Á.
C. KẾT LUẬN
Nhu vậy, do có nhiều điểm tương đồng về vị trí, nên các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á mang một đặc điểm nổi bật, rất đặc sắc đó là “tính thống nhất trong đa dạng”. Đặc điểm này được thể hiển trên tất cả các lĩnh vực của đời sống nh: văn hóa, kinh tế, chính trị, lịch sử… Trên tất cả các lĩnh vực đó chúng ta đều thấy rõ được những nét chung, thống nhất của các quốc gia đồng thời thấy được tính đa dạng, độc đáo của mỗi quốc gia. Tính thống nhất và tính đa dạng luôn tồn tại song song với nhau, bổ sung cho nhau và tạo nên bản sắc của khu vực Đông Nam Á. Tính thống nhất trong đa dạng không chỉ là đặc điểm chung của toàn khu vực mà còn được biểu hiện rõ nét trong phạm vi một quốc gia, trong một vùng hay một miền của đất nước, ví dụ như ở đồng bằng Bắc bộ Việt Nam có tục giỗ kỵ
từ rất lâu đời để tưởng nhớ những người đã khuất nhưng có nơi chỉ giỗ đúng ngày đã mất, có nơi lại làm trước giỗ vài ba ngày. Hay ở Inđônêxia, trong tín ngưỡng tôn giáo của cư dân ở đây có mặt hầu hết các tôn giáo lớn trên thế giới như đạo Phật, Ên Độ giáo, Hồi giáo, Thiên chóa giáo. Mỗi tôn giáo đều mang trong nó những luật lệ và nghi lễ khác nhau, song chúng đều được tiếp thu và phát triển trên nền tảng vẫn bảo lưu hệ thống tín ngưỡng bản địa truyền thống, chính vì thế bức tranh tôn giáo Inđônêxia vừa có những yếu tố thống nhất lại vừa hết sức đa dạng. Đặc biệt trong thời điểm này, xu hướng hội nhập để cùng phát triển được đặt ra cấp thiết, do đó các quốc gia Đông Nam Á đều có những đường lối, chính sách riêng để đưa đất nước mình đi lên nhưng một điểm thống nhất là các quốc gia này đều ở trong tổ chức ASEAN, như vậy, cơ hội phát triển của các nước sẽ được mở rộng và sẽ có sự phát triển đồng bộ để cùng nhau đưa khu vực Đông Nam Á trở thành một khu vực giàu mạnh trên trường quốc tế. Sự phát triển của mỗi quốc gia chính là sự phát triển của cả hai khu vực, vì vậy cần có những chính sách phát triển hợp lý, để xây dựng một Đông Nam Á năng động, hợp tác và phát triển.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Ninh (chủ biên). Lịch sử Đông Nam Á , Nxb
Giáo dục , 2005.
2. D.G.E Hall. Lịch sử Đông Nam Á . Nxb Chính trị quốc
gia, Hà nội, 1997.
3. Phan Ngọc Liên (chủ biên). Lược sử Đông Nam Á , Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1999.
4. Lương Ninh (chủ biên). Lịch sử văn hoá thế giới cổ
trung đại. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999.
5. Trương Hữu Quýnh (chủ biên). Đại cương lịch sử Việt
Nam, tập 1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
6. Mai Ngọc Chữ. Văn hoá Đông Nam Á . Nxb Đại học
quốc gia Hà Nội. 1998.
7. Vũ Dương Ninh. Một số vấn đề về sự phát triển của các
nước ASEAN. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993.
8. Nguyễn Văn Chiến. Vài nét về chữ viết Đông Nam Á .
Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á , sè 1, 1991.
9. Lương Ninh. Văn hoá Việt Nam và giao lưu văn hoá Á
Châu. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á. sè 3, 1995.
10. Vò Quang Thiệu - Ngô Văn Doanh. Những phong tục độc
đáo Đông Nam Á. Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội, 1994.
MỤC LỤC
Trang
A. Phần mở
đầu 1
1: Lý do chọn đề
tài 1
2: Lịch sử vấn
đề 2
3: Phương pháp nghiên
cứu 4
4: Phạm vi, nhiệm vụ của đề
tài 4
B. Nội
dung
5
1: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt điều kiện tự
nhiên 5
2: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt lịch sử
7
2.1: Cư
dân 7
2.2. Lịch
sử 8
3: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt văn
hoá 13
3.1. Văn hoá vật
chất 13
3.2. Văn hoá tinh thần
18
3.2.1 Chữ
viết 18
3.2.2 Tín ngưỡng- tôn
giáo 20
3.2.3 Lễ
hội 22
3.2.4. Nghệ thuật biểu diễn truyền
thống 23
4: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt kinh
tế 23
5: Tính thống nhất trong đa dạng về mặt chính
trị 32
C. Kết
luận 37
Tài liệu tham khảo