193
TIẾNG KÊU Truyện dài Bùi Công Thuấn LỜI GIỚI THIỆU Giáo phận Xuân Lộc được Đức Thánh Cha Phaolô VI thành lập ngày 14 tháng 10 năm 1965. Trải qua gần 50 năm hình thành và phát triển, Giáo phận luôn dành cho Đức Maria một sự tôn kính đặc biệt. Ước mơ có một trung tâm hành hương dâng kính Đức Mẹ luôn được các Đức cố Giám Mục ấp ủ. Ước mơ ấy đã trở thành hiện thực khi Đức Cha Cố Giuse Lê Văn Ấn, vị Giám mục tiên khởi, cho khởi công xây dựng trung tâm hành hương Đức Mẹ Bãi Dâu và tượng đài Chúa Giêsu núi Tao Phùng vào năm 1972, nhân dịp cử hành Năm Thánh Mẫu. Đến năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Giáo phận, đức Cha Cố Phaolô Maria đã trao cho Ban Xây dựng Giáo phận nhiệm vụ trùng tu hai công trình hành hương Bãi Dâu và tượng đài Chúa Giêsu núi Tao Phùng. Công việc trùng tu được mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận tích cực hưởng ứng. Mặt bằng được mở rộng, các hạng mục công trình được đồng loạt tiến hành, bao gồm tượng đài Đức Mẹ, đường Thánh Giá, đường Mân Côi, đồi Calve, nhà thờ, nhà chầu Thánh Thể, nhà hành hương và hàng ngàn bậc tam cấp đi lên các công trình đang xây dựng. Công viên cây xanh, công trường, bãi đậu xe ở trung tâm Bãi Dâu đã được chỉnh trang. Tại tượng đài Chúa Giêsu núi Tao Phùng, công việc cũng nhộn nhịp không kém. Hàng ngàn bậc tam cấp được xây dựng dẫn lên nhà nghỉ, trạm dừng chân, lên các công trình phụ,

Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

TIẾNG KÊUTruyện dàiBùi Công Thuấn

LỜI GIỚI THIỆU

Giáo phận Xuân Lộc được Đức Thánh Cha Phaolô VI thành lập ngày 14 tháng 10 năm 1965. Trải qua gần 50 năm hình thành và phát triển, Giáo phận luôn dành cho Đức Maria một sự tôn kính đặc biệt. Ước mơ có một trung tâm hành hương dâng kính Đức Mẹ luôn được các Đức cố Giám Mục ấp ủ. Ước mơ ấy đã trở thành hiện thực khi Đức Cha Cố Giuse Lê Văn Ấn, vị Giám mục tiên khởi, cho khởi công xây dựng trung tâm hành hương Đức Mẹ Bãi Dâu và tượng đài Chúa Giêsu núi Tao Phùng vào năm 1972, nhân dịp cử hành Năm Thánh Mẫu.

Đến năm 1990, nhân dịp kỷ niệm 25 năm thành lập Giáo phận, đức Cha Cố Phaolô Maria đã trao cho Ban Xây dựng Giáo phận nhiệm vụ trùng tu hai công trình hành hương Bãi Dâu và tượng đài Chúa Giêsu núi Tao Phùng.

Công việc trùng tu được mọi thành phần Dân Chúa trong Giáo phận tích cực hưởng ứng. Mặt bằng được mở rộng, các hạng mục công trình được đồng loạt tiến hành, bao gồm tượng đài Đức Mẹ, đường Thánh Giá, đường Mân Côi, đồi Calve, nhà thờ, nhà chầu Thánh Thể, nhà hành hương và hàng ngàn bậc tam cấp đi lên các công trình đang xây dựng. Công viên cây xanh, công trường, bãi đậu xe ở trung tâm Bãi Dâu đã được chỉnh trang.

Tại tượng đài Chúa Giêsu núi Tao Phùng, công việc cũng nhộn nhịp không kém. Hàng ngàn bậc tam cấp được xây dựng dẫn lên nhà nghỉ, trạm dừng chân, lên các công trình phụ, lên tượng đài, qua các chặng đàng Thánh Giá, nhà nguyện ở chân tượng đài, và theo 33 bậc trong lòng tượng lên đến tay Chúa Giêsu. Từ đây du khách có thể nhìn ra đại dương bát ngát.

Cả hai công trình tạm hoàn thành vào ngày 22 tháng 07 năm 1997, kỷ niệm 22 năm Giám mục của Đức Cha Cố Phaolô Maria.

Vào dịp đại lễ khánh thành hai công trình này, nhiều linh mục, tu sĩ và giáo dân đã tề tựu về trung tâm Đức Mẹ Bãi Dâu để hiệp dâng thánh lễ tạ ơn Chúa, Đấng qua tay Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa đã ban cho Giáo phận phát triển mạnh mẽ về nhân sự, cơ sở và đời sống đức tin.

Ngày 22 tháng 11 năm 2005, Giáo phận Bà Rịa được thành lập và tách ra từ Giáo phận Xuân Lộc. Trung tâm hành hương Đức Mẹ Bãi Dâu và tượng đài Chúa Giêsu

Page 2: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

núi Tao Phùng đã được trao lại cho Giáo phận mới. Cũng từ đó, Giáo phận Xuân Lộc không còn trung tâm hành hương. Đứng trước những nhu cầu mục vụ của một Giáo phận có số giáo dân đông nhất nước, việc xây dựng một trung tâm hành hương mới lại càng trở nên khẩn thiết hơn.

Sau một thời gian dài tìm kiếm, Giáo phận đã có được một mặt bằng gần 20 hecta ở Russeykeo, nơi có các giáo dân vừa thoát nạn diệt chủng về sinh sống và lập xứ tại đó. Vì thế, nơi đây được xem là nơi lý tưởng để xây dựng một trung tâm hành hương dâng kính Đức Mẹ và tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa vì thời gian qua Giáo phận đã được Chúa, qua sự bầu cử của Đức Mẹ, ban cho biết bao ơn lành. Vì thế Giáo phận cần có nơi để bày tỏ tâm tình tạ ơn và đền tạ. Giáo phận dự tính sẽ dâng kính trung tâm hành hương này cho Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Bởi Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội là ơn đầu tiên và cao trọng nhất mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, nâng con người lên địa vị cao trọng nhất; nhưng ngược lại, con người ngày nay khắp nơi trên thế giới đang vùi dập phẩm giá con người xuống vực thẳm bằng mọi phương thế, mọi thủ đoạn, cụ thể là việc bách hại các Kitô hữu, nạn phá thai lan tràn, nạn buôn bán phụ nữ và trẻ em, nạn diệt chủng… Nhưng tiếc rằng phần đất này không được chấp thuận vì nằm trong vành đai an ninh quốc phòng.

Gần đây, người ta vớt được hai tượng Đức Mẹ ở sông Mêkông, Campuchia: tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội (2009) và tượng Đức Mẹ Mân Côi (2012). Đó là một sự lạ lùng trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Cả hai tượng đều do những người bên lương vớt. Qua việc tôn kính các tượng này, nhất là tượng Đức Mẹ Mân Côi, nhiều người lương cũng như giáo nhận được ơn lành của Đức Mẹ.

Chúng tôi nhờ thầy Micae Bùi Công Thuấn là nhà giáo, nhà văn, dựa vào sự kiện vớt được tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và tượng Đức Mẹ Mân Côi ở Campuchia; và những vấn đề đang chi phối đời sống đức tin của giới trẻ Công Giáo; những dòng thác cuồng bạo đang nhận chìm nhân phẩm con người xuống vực thẳm, để xây dựng thành một tác phẩm, dóng lên tiếng kêu cảnh báo cho mọi người, đặc biệt trong giáo phận. Bằng việc cùng nhau chung lòng, chung sức xây dựng một trung tâm hành hương tại núi Cú (Cát Minh) để tôn vinh quyền năng của Thiên Chúa qua việc Chúa đã ban Ơn Vô Nhiễm Nguyên Tội cho Đức Mẹ, kính Đức Mẹ và kính các thánh tử đạo Việt nam.

Mặt khác, nhờ cảnh sắc thanh khiết của thiên nhiên, con người sẽ lắng đọng tâm hồn nhìn lại mình, công việc của mình, để sám hối và đền tạ. Đồng thời cũng để làm việc bác ái, vực dậy sự sống cho những con người đã bị tổn thương bởi sự chà đạp quyền con người..

` Tòa Giám Mục Xuân Lộc ngày 19 tháng 3 năm 2014

Đa Minh Nguyễn Chu Trinh Giám mục giáo phận Xuân Lộc

________________________________________

Page 3: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

TIẾNG KÊU – truyện dài

DẪN VÀO TRUYỆN

Vấn đề quyền sống, quyền con người đã được đặt ra trong Kinh Thánh ngay từ đầu. Sách Sáng Thế Ký chép rằng: “Thiên Chúa sáng tạo con người theo hình ảnh Thiên Chúa…Thiên Chúa ban phúc lành cho họ, và Thiên Chúa phán với họ: ‘Hãy sinh sôi nảy nở thật nhiều, cho đầy mặt đất, và thống trị mặt đất ’.” (St 1, 27-28). Như vậy, con người có phẩm giá thật cao quý vì con người mang hình ảnh Thiên Chúa và qua ơn cứu độ của đức Giêsu, con người được thánh hiến (Ga 17, 19). Con người cũng có quyền sống hạnh phúc vì được Thiên Chúa ban phúc lành. Thế nhưng ma quỷ, tội lỗi đã làm tha hóa con người. Con người bị bách hại, nhân phẩm bị chà đạp, sự sống bị hủy diệt. Dân Israel xưa từng bị Ai Cập bắt làm nô lệ nhiều trăm năm. Pharaon đã ra lệnh tàn sát các bé trai Do Thái ném xuống sông Nil… Đến thời Đức Giêsu, vua Hêrôđê lại ra lệnh tàn sát tất cả các trẻ em từ hai tưởi trở xuống ở Belem và tòan vùng lân cận.

Ngày nay, vấn đề quyền sống, quyền con người, vấn đề bảo vệ nhân phẩm vẫn là vấn đề của nhân loại. Bởi sự sống, nhân phẩm của con người vẫn bị xâm hại, bị chà đạp ở khắp nơi, tội ác đối với con người vẫn ngày càng man rợ.

Pho tượng Đức Mẹ vớt được ở sông Mekong, Campuchia, gợi ra nhiều vấn đề suy tư. Tại sao tượng Đức Mẹ lại xuất hiện ở Campuchia, nơi mà 95% dân số theo đạo Phật? Nguồn gốc tượng Đức Mẹ ở đâu mà trôi giạt về đây? Thông điệp từ bức tượng có ý nghĩa gì?

Để trả lời cho những suy tư ấy, tôi đã lần theo hành trình lịch sử truyền giáo đầy máu và nước mắt của các vị thừa sai, từ những ngày đầu tiên đặt chân đến Tây Nguyên; và lịch sử Giáo hội tử đạo Campuchia trong nạn diệt chủng do Khmer Đỏ gây ra những năm 1975-1978. Tôi cũng nhận ra điều này, hành trình khám phá ý nghĩa tượng Đức Mẹ Mekong cũng là hành trình tái khám phá đức tin Công Giáo, ấy là tín thác vào sự quan phòng của Thiên Chúa và thực thi thánh ý của Ngài.

Tiếng Kêu là truyện dài nghiêng về bút ký, nhưng căn cốt vẫn là một truyện hư cấu. Tư liệu được sử dụng chỉ là chất liệu xây dựng tác phẩm. Truyện được chấp bút theo tâm nguyện của Đức Cha Đa Minh Nguyễn Chu Trinh, Giám Mục giáo phận Xuân Lộc, hướng về việc xây dựng trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ ở đồi Cát Minh, Đồng Nai mà Giáo phận Xuân Lộc đang thực hiện. Xin được chia sẻ với bạn đọc tâm nguyện thiết tha của Đức Giám Mục Đa Minh…Bùi Công ThuấnNgày 19 tháng 03 năm 2014

Page 4: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

1.Truyện đọc trên Internet.

Việc vớt tượng Đức Mẹ ở sông Mêkông 2012 được một nam thanh niên người Việt làm việc tại Campuchia tường thuật lại như sau:

” Ông Phan Văn Hú sinh năm 1953, sinh sống tại xóm Arey-Ksath, xã Arey-Ksath, huyện L-vi-em, tỉnh Condal. Ông là người đạo Phật, trước đây ông làm nghề thợ lặn.

Đêm 18. 11.2012, ông chiêm bao thấy một tượng bằng đồng giang tay, hình thù một người thanh niên to lớn, ông nghe tiếng phát ra từ tượng đó: “Hãy vớt tôi lên, Tôi đang nằm dưới đáy sông Mekong, Tôi gần nơi mà các người đã vớt Đức Mẹ lần trước”. Ông vội vàng đi vớt lên, nhưng nặng quá ông phải thuê máy cẩu hết 300 dollars Mỹ mà vẫn không vớt lên được.

Nhưng đó chỉ là giấc chiêm bao.

Sáng sớm tinh mơ, ông ngồi quán café của người Công giáo, ông nói: Hôm nay tôi sẽ đi lặn vớt Chúa Giêsu lên, vì đêm qua tôi mơ thấy Chúa. Mọi người nghe ông nói bán tín bán nghi. Ông gọi hai người con trai của ông là Phan văn Ì và Phan văn Mận cùng đi với ông. Đến nơi ông đã chiêm bao, ông chỉ chỗ cho hai con xuống lặn tìm. Chỉ một lát sau anh Mận đã chạm vào tượng. Ba cha con dùng máy bắn bùn ra khỏi tượng rồi lấy dây cột và dùng cầu lắc cẩu tượng lên. Có khoảng 50 thanh niên tiếp sức đưa Đức Mẹ lên bờ,

Tượng được đưa về nhà thờ Arey-Ksath (Bãi Cải) để tôn kính. Lúc đó là 13 giờ chiều ngày 19/11/2012.

Ông Hú nói: Khi vớt được Đức Mẹ lên ghe, tôi có cảm giác không phải là tượng, nhưng là thân thể của một người đang sống như chúng ta. Tôi vừa mừng vừa run, và tôi thầm thì cầu xin Mẹ ban cho vợ tôi được khỏi bệnh vì vợ tôi mắc rất nhiều bệnh.“

Sự xuất hiện của pho tượng Đức Mẹ bồng Con Thiên Chúa đã cuốn hút khách du lịch đi Campuchia . Nhiều người đã tìm đến đây để cầu xin Đức Mẹ ban ơn lành. Nhiều người truyền tai nhau “Có một bà được vớt từ dòng sông Mê Kông lên rất linh thiêng, bất cứ ai đến xin ơn gì, bà ấy cũng ban cho”.

Câu truyện dưới đây do một người hành hương Đức Mẹ Mekong 2012 kể lại. Hơi khác một chút so với câu truyện kể của anh thanh niên Việt kiều ở trên. Nhưng pho tượng Đức Mẹ và những ơn riêng Đức Mẹ ban cho những ai cầu xin Đức Mẹ thì luôn được khách hành hương chia sẻ…

***

Page 5: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Thạch Hải đã thức dậy trước khi gà gáy sáng, anh chuẩn bị chài lưới để lên ghe sớm. Cha anh đang bị sốt đã đi nằm viện, vì thế anh cố đánh bắt nhiều cá để có tiền chạy thuốc cho cha. Cả tuần nay ngày nào anh cũng lưới được nhiều loại cá chỉ có vào mùa nước lũ. Chưa bao giờ cha con anh đánh bắt được nhiều cá như vậy kể từ ngày theo cha anh đi chài ven sông Mêkông, hoặc sau khi anh quy y theo nghĩa vụ nhà Chùa Khmer.

Thạch Hải nhớ lại thời gian anh được gửi vào Chùa tu học. Cha mẹ đưa anh đến Chùa, tham dự nghi lễ Bambous Neakh (Lễ xuất gia), xem lễ cạo đầu, ăn bánh ngọt và nghe tụng kinh hiều rồi ra về. Ở Chùa, hàng ngày Thạch Hải học kinh Phật, nghe lời các vị sư giảng kinh, thực hành các giới luật của Chùa. Thú thực là đầu óc non nớt của Thạch Hải hoàn toàn mụ mị trước những kinh điển cao siêu của Phật. Nhưng không khí yên tĩnh của Chùa làm cho tâm tính Thạch Hải điềm đạm hơn. Thạch Hải cũng được học một số môn văn hóa và võ thuật, được học nghề truyền thống như làm nông, đánh cá để chuẩn bị cho cuộc sống tương lai. Ngoài những giờ học kinh, Thạch Hải cũng theo các thầy đi làm những công việc như một người bình thường. Trong Chùa vẫn thường xuyên diễn ra các buổi giao lưu cộng đồng cho phép mọi người đến chơi, trò chuyện. Sau ba năm, Thạch Hải hoàn tục, được cấp giấy chứng nhận. Thực ra anh vào Chùa là để trả hiếu cho cha mẹ, vì cha mẹ anh muốn vậy. Gia đình anh theo Phật như hầu hết mọi người ở đây, nhất là mẹ anh, bà rất sùng Phật. Bà siêng tụng kinh để được vãng sanh.

Mấy ngày vừa rồi Thạch Hải có hỏi mẹ về chuyện tại sao anh phải vào Chùa tu, nhưng rồi cũng không thấy mẹ anh nói gì, có lẽ tạimẹ không tu ở Chùa nên không biết chăng. Dường như đó là một tục lệ bắt nguồn từ một truyền thuyết, mà lúc còn ở trong Chùa, Thạch Hải được nghe kể. Thuở ấy, Đức Phật giảng kinh, cóù rất nhiều tăng và người dân đến nghe. Trong rừng, có con rồng tu luyện ngàn năm tên là Kalla Neakh - rồng Kalla. Nó biến hình thành một nhà sư trẻ lén đến Chùa, ngồi lẫn với các vị sư khác để nghe Đức Phật giảng đạo. Một lần, nó ngủ thiếp đi, trở lại nguyên hình là một con rồng làm mọi người khiếp sợ. Neakh xấu hổ và lặng lẽ rút ra đứng ở bên Chùa nghe kinh từ xa. Đức Phật thấy vậy, Ngài nói: “Ta biết con muốn tu học để trở thành người. Song, con phải nhớ rằng, tạo hóa đã sinh ra con trong hình hài như vậy, là vì muốn con phục vụ cho muôn loài. Con hãy về và làm công việc của con. Để ghi nhớ lòng thành của con, ta sẽ lấy tên con đặt cho tất cả những người muốn xuất gia cửa Phật là Neakh”.

Nghe truyền thuyết ấy, Thạch Hải hiểu rằng anh đến Chùa tu là để sau này phục vụ cho tha nhân như lời Phật nói với con rồng Neakh.

Anh miên man suy nghĩ. Anh chưa muốn nói cho mọi người biết việc anh đánh bắt được nhiều cá, vì trên khúc sông quen thuộc này, nhiều bạn chài như anh, không nghe ai kháo về số cá họ đánh được. Anh hy vọng vận may của anh vẫn kéo dài.

Gà vừa gáy sáng, làng chài nhà nào cũng đã thấy lên đèn. Thạch Hải bước ra cửa, vươn vai lấy sức. Cả làng chài còn chìm trong sương sớm. Ở đây chỉ có vài chục gia đình, nhà ở dọc bên bờ sông Mêkông. Hầu hết là những căn nhà vách lá, mái lá ọp

Page 6: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

ẹp, trống trải, quay mặt ra sông. Có những cái siêu vẹo, che lợp bằng đủ mọi thứ. Sợ gió thổi tốc mái, người ta đặt lên mái lá những phên tre đan thành mành, hoặc đan

những mắt cáo bằng tre để chặn. Trong nhà ngổn ngang mọi thứ. Chiếc võng toòng teng giữa nhà. Lưới cá quăng vào một góc. Chậu thau thùng nhựa chất vào một chỗ. Mùng mền cuộn lại treo trên vách.

Nhà của người Khmer là nhà sàn, người ở trên sàn, dưới đất để vật dụng, có khi nuôi heo. Nếu là nhà nổi thì thường có một nhà chính để ở và một nhà phụ để lưới và các vật dụng khác. Nhà người Việt là nhà nền đất, khác với kiểu nhà sàn Khmer. Thạch Hải nhìn quanh nhà, vách lá đã thủng nhiều chỗ, mái nhà cũng lỗ chỗ có ánh sao. Ở ngoài đầu hồi, cha anh có làm một dàn cây để phơi lưới. Ngày ngày mẹ anh đứng vá lưới. Thạch Hải mới hoàn tục nên mọi thứ còn bỡ ngỡ, không nề nếp như khi tu ở trong Chùa, nhưng được cái thoải mái. Anh được mẹ chăm sóc kỹ lưỡng. Bà dồn hết tình thương cho anh.

Tối hôm trước, sau giờ tụng kinh, bà đã nói với Thạch Hải:

- Ngày con mới học xong lớp năm, cha con đã cho con theo cha và anh Ba đi đánh cá. Mẹ rất lo vì con hiền lành và ốm yếu, liệu có kham nổi nghề đánh cá vừa vất vả vừa khổ cực như vậy không. Sông nước sẽ đào tạo con thành “rái”.

Mẹ Thạch Hải kể chuyện gia đình cho anh nghe:

- Khi chị Hai và anh Ba con đi lập gia đình ra ở riêng, cha con và con phải tần tảo làm ăn. Mẹ rất ái ngại phần vì con phải bỏ học, còn cha mẹ và chị Hai con một chữ bẻ đôi cũng không biết. Anh Ba con cũng chỉ học được nửa năm lớp ba. Cả gia đình chỉ có con được học hành và con còn phải phụ cha con để kiếm sống; đến khi con vừa quen việc với cha con, thì con lại phải đi làm công việc nghĩa vụ tôn giáo.

Ba năm qua, vắng con, một mình cha con quá cực, làm việc không nghỉ ngơi. Sáng sớm đã sửa soạn thuyền, lưới và những vật dụng cần thiết để ra sông. Mẹ có nhắc thì cha con mới ăn vội vàng vài miếng cơm rồi đi. Cha con mang theo một niêu cơm với gói muối và mè để ăn trưa, tuyệt nhiên không có một miếng thịt hoặc tôm cá gì, vì cha con giữ chay rất nhiệm nhặt. Chiều tối về, cha con cũng chỉ ăn qua loa.

Làm việc cật lực vậy, cha con cũng chỉ kiếm được chút ít đủ cho gia đình sống qua ngày. Một mình tay chèo tay lưới, sao lại với người có ghe máy đánh bắt xa bờ; rồi còn phải nhịn ăn nhịn mặc để đóng góp phần nào cho nhà Chùa để con theo đuổi nghĩa vụ tôn giáo nữa.

Vài tuần nay, con hoàn tục trở về, con mới phụ cha được ít ngày, thì cha con lại ngã bệnh. Mẹ lo quá. Cha con ăn uống kham khổ, lao lực quá sức lâu ngày sinh bệnh. Mẹ không biết lấy gì mà chạy chữa thuốc men cho cha con. Đang trong tình thế ngặt nghèo, Trời Phật lại phù hộ cho con đánh bắt được nhiều cá. Ngày nào cũng như ngày nào, mẹ phải nhờ chị dâu con gánh cá ra chợ. Chị Ba chỉ “bán cái vèo” là hết sạch. Ai cũng khen cá tươi ngon, và rối rít hỏi thăm làm sao mà bắt được mớ cá rói tươi ngon như vậy. Chị dâu con chỉ trả lời là chú út đánh được thôi. Dân buôn bán ở

Page 7: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

chợ cho rằng chị dâu con dấu mai mối để làm ăn. Phần mẹ, chỉ biết hằng ngày tụng kinh tạ ơn Trời Phật đã độ trì hoàn cảnh gia đình ta.

Người ta thì đồn ầm ĩ và tưởng tượng ra đủ thứ chuyện, nhưng bà Ba và Thạch Hải vẫn im tiếng trước sự kiện này…

Hôm nay lại một lần nữa Thạch Hải dậy thật sớm, nhưng mẹ của Thạch Hải có lẽ còn dậy sớm hơn. Dường như bà đã thức trắng đêm để tụng kinh. Bà luôn cám ơn Trời Phật đã cho con trai bà đánh được nhiều cá cả tuần nay. Nhưng bà cũng băn khoăn nhiều về đứa con trai út của bà. Do đâu nó được Phật độ như vậy.

Sau nhiều lần trằn trọc và tụng niệm, bà tin rằng con bà trong ba năm tu ở trong Chùa đã gieo nhân tốt nên Trời Phật đã nhận lòng thành của bà, cho con bà được những sự may mắn lạ lùng như vậy. Bởi tại sao cùng đi đánh cá với nhiều người, Thạch Hải lại bắt được nhiều cá hơn họ, và nhờ đó bà có tiền lo thuốc cho chồng đang nằm viện. Bà không có cách giải thích nào khác. Nhân quả rõ ràng, gia đình bà ăn ở lương thiện, Thạch Hải hiền lành, gieo phúc thì gặp may lành.

Chính trong niềm vui này, bà càng đặc biệt quan tâm chăm sóc hơn cho cậu con trai út của bà. Bà ở nhà sửa soạn, chuẩn bịmọi sự cho Thạch Hải đi sông. Tấm lưới nào rách, bà tranh thủ vá lại. Đồ ăn thức uống trong ngày, bà đều lấy thêm để Thạch Hải ăn cho có sức. Bà luôn dặn dò con phải cẩn trọng để tránh tai nạn sông nước. Một mình con, biết đâu lúc vô ý… Xong việc, bà lại tụng kinh, gần như bà tụng suốt ngày. Lúc ở nhà một mình làm việc mà tâm trí bà không lúc nào rời con.

Bà vốn là người sùng đạo. Lòng tin của bà đơn sơ. Bà cầu Phật A Di Đà vì tin vào 48 lời đại nguyện của Ngài. Ngài dạy: Nếu có ai chỉ cần niệm danh hiệu A Di Đà Phật và tán tụng công đức của Ngài, là Ngài sẽ ban cho, muốn có cái ăn thì có ăn, muốn có cái mặc, nhà ở thì liền có và khi chết, được vãng sanh vào cõi thế giới của Ngài. Vì thế bà cầu nguyện cho con và cho công việc của con được an lành. Và bà tin Phật đã nhận lời của bà. Chiều đến, cậu con trai út lại về với hai bao cá rói. Bà phụ cậu út đổ cá ra hai thúng, rồi cho gọi con dâu gánh đi bán.

Thế rồi một buổi sáng, khi cậu út thức dậy để sửa soạn ra ghe thì bà cũng sửa soạn cho cậu út xong, ngoài nắm cơm muối mè như bà vẫn làm cho chồng và cậu út trước đây, hôm nay bà còn bồi dưỡng cho cậu hai chai sữa đậu nành, mấy chiếc bánh cam và một nhánh chuối.

Nhận túi xách từ tay mẹ trao với lời dặn: “Con ráng bồi dưỡng cho có sức khỏe”, Thạch Hải hơi thắc mắc: một mình cậu làm sao ăn hết phần cơm này? Tuy nhiên, anh không dám hỏi lại mẹ vì anh biết lúc này bà đang sống trong tâm tình tri ân Trời Phật và rất quý trọng anh.

Nhận lương thực của mẹ cùng với những đồ nghề đánh cá, Thạch Hải vội vã ra thẳng bãi ghe. Trời đã ửng sáng. Những chiếc ghe đánh cá của dân chài đậu ngổn ngang nơibến sông. Đó là loại ghe nhỏ, có thể chèo hoặc chạy máy kiểu như ghe tam bản. Ghe dài hơn chục mét, hai đầu vuốt nhọn để cắt sóng. Lòng ghe rộng hơn một mét, trên có sạp để đứng ngồi đánh cá, dưới lòng ghe ngăn theo từng khoang, hoặc để đồ nghề hay để rọng cá. Ghe được sơn màu xanh biển cho đẹp, và để bảo vệ gỗ cho bền.

Page 8: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Lác đác đã có người ra bến. Hơn một tuần nay nhiều người đã kháo nhau về những mẻ cá của Thạch Hải, chắc sẽ có nhiều người theo dõi anh. Nhưng anh chẳng có động thái nào đặc biệt. Anh vẫn ra sông với chiếc ghe cũ của cha anh như bao lâu nay, vẫn những tay lưới như mọi người. Và anh cũng chài, cũng lưới một chỗ như mọi người. Hơn nữa, anh cũng biết rằng ghe của anh nhỏ, chỉ đánh bắt cá ở gần bờ thôi. Sông Mêkông rộng mênh mông, cá tôm tha hồ vẫy vùng, nào ai có thể dụ dỗ để cá chỉ vào lưới của mình. Thạch Hải biết rõ mình là tay thợ chài vừa yếu vừa thiếu kinh nghiệm. Anh mới hoàn tục được vài tuần, nào có kỹ năng hay ngón nghề nào bí mật nơi sông nước.

Bắt được nhiều cá lại cùng một loại và nhiều ngày được như vậy, chính anh cũng không biết được nguyên nhân. Nhìn dòng Mêkông mênh mông không hết tầm mắt, nước đỏ phù sa, anh tin rằng có Trời Phật ban cho anh. Lát nữa ghe của anh sẽ ra sông như mọi người, cũng đánh cá như mọi người, nhưng lòng anh hướng về người cha đang nằm trong bệnh viện và tâm của anh hòa với lời tụng niệm của mẹ. Có lẽ Trời Phật xót thương một người con thảo hiếu như anh chăng. Anh không biết được. Trong Chùa, các thầy dạy anh rằng, nghiệp là do mình tạo ra. Anh cố gắng sống thật tốt để gặt quả tốt. Nhưng anh cũng thầm cầu cho mình đánh được nhiều cá như mọi ngày, để mẹ có tiền lo thuốc cho cha.

2Đưa thuyền ra sông, Thạch Hải hơi ái ngại vì nước sông hôm nay dâng cao. Đứng xa nhìn thì mặt sông buổi sáng vẫn êm đềm, nhưng khi chèo chống, mới thấy dòng nước cuồn cuộn như cuốn trôi chiếc ghe đi. Ghe của Thạch Hải không có máy chạy, nên Thạch Hải phải cố sức chèo mới đưa được chiếc ghe ra chỗ thường ngày. Nhiều bạn chài của Thạch Hải đã bỏ cuộc vì kinh nghiệm lâu năm cho thấy rằng mấy ngày trước nước chảy tương đối êm còn đánh bắt được. Khi nước dâng cao, dòng sông chảy xiết, sông nước trở nên nguy hiểm. Nó cuốn trôi đi tất cả, rất khó đánh cá. Thạch Hải đưa ghe đến khúc sông quen thuộc. Anh cột thuyền vào một gốc cây, rồi đứng trên sạp thuyền, thử độ tròng trành của sóng. Không có gió lớn nên ghe không đến nỗi quá bồng bềnh, anh vẫn có thể đứng để tung lưới được. Thạch Hải vẫn tin vào ơn trợ giúp của Trời Phật.

Lưới đã được để sẵn trên sạp thuyền. Thạch Hải đứng dậy. Anh cởi bộ bà ba ra, còn lại trên người là chiếc áo thun cũ và chiếc quần đùi. Nghề sông nước ướt suốt ngày, mặc vậy cho tiện. Anh bắt đầu công việc. Hai tay anh cầm lưng lưới, túm chặt, anh khoác một vạt lưới lên cánh tay, đăm đăm nhìn dòng nước. Không biết có con cá nào đang bơi ở dưới kia không. Anh nhớ lại các tư thế quăng lưới của cha anh. Phải xoay người đủ đà để lưới bung ra hết cỡ, ôm lấy một khoảng sông rộng, có vậy mới hy

Page 9: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

vọng bắt được nhiều cá. Mấy tuần nay anh đã thành thạo với những động tác này, chân đứng đã vững, và động tác tung lưới đã đủ mạnh để lưới bung ra trông đẹp mắt và chuyên nghiệp hơn. Khi tất cả đã sẵn sàng, anh hít một hơi thật mạnh và nín thở lấy sức. Những ngón chân bám thật chặt vào sạp thuyền, anh khẽ nhún mình rồi quay vòng cho lưới bung ra. Những kẹp chì dưới của vạt chài như được tiếp sức, nó vang lên những tiếng leng keng và văng ra rất mạnh. Tấm chài như một cánh dù chụp lấy dòng sông.

Con thuyền chao mạnh. Dòng nước chảy xiết cùng với sức ghì của lưới chài làm con thuyền chúi xuống nhào lên như muốn giựt đứt dây để cuốn theo dòng nước. Thạch Hải chờ cho chài đã bám được đáy sông, anh mới tập trung sức để kéo chài lên. Chài rất nặng, phần vì nước cuốn và chắc chắn vì trong lưới có nhiều cá. Phải hồi lâu anh mới kéo được hết vạt chài lên thuyền. Anh đã trúng một đàn cá rói to. Những con cá nằm trong lưới, đầu mắc vào mắt lưới, khi lên khỏi nước, mắt còn long lanh, và miệng đang mở to để hớp không khí. Đuôi chúng vẫn giãy đành đạch. Thạch Hải biết rằng, khi còn ở dưới nước, sức quẫy của đàn cá này mạnh biết bao. Chúng đã lôi Thạch Hải dúi vào mũi thuyền. Anh hơi hoảng, nhưng vẫn cố hết sức mình. Trời Phật vẫn đang độ trì cho anh.

Anh ngồi trên sạp thuyền gỡ từng con cá cho xuống khoang. Một niềm vui lan tỏa. Mẹ anh sẽ rất mừng. Chắc mẹ vẫn vừa làm việc vừa tụng kinh. Nhìn những con cá bơi lắp sắp trong khoang thuyền, bỗng anh nghĩ vẩn vơ. Không biết những kiếp nào hóa thân trong những con cá ấy. Các thầy trong Chùa dạy anh rằng, người ta sau khi chết, tùy theo nghiệp quả lúc sống mà tái sinh vào một kiếp nào đó trong sáu cõi như cõi trời, cõi người, cõi Atula, cõi Địa Ngục, cõi Súc Sanh và cõi Ngạ Quỷ; và vì thế không được sát sinh, vì biết đâu, trong hình hài loài sinh vật đang bơi lội trước mặt anh lại không có một người thân nào đó. Anh hiểu tại sao ba anh lại ăn chay nghiêm nhặt, không ăn thịt, ăn cá bao giờ. Có điều ăn uống thiếu dinh dưỡng như vậy, ba anh đã kiệt sức. Và bây giờ ba anh đang nằm viện, đang cần có tiền thuốc thang, mẹ anh chỉ trông nhờ vào anh. Lòng hiếu lại thúc giục anh gỡ cá cho nhanh để đánh bắt tiếp. Anh đã vào Chùa tu ba năm là để trả hiếu cho cha, và bây giờ đây là hành động cụ thể, cố gắng đánh bắt nhiều cá để mẹ có tiền chữa bệnh cho cha.

Thạch Hải lại tiếp tục quăng chài, và chỉ trong ít tiếng đồng hồ, cá trong khoang thuyền của anh đã gần đầy. Xung quanh anh chưa có bạn chài nào. Họ còn đang đợi cho dòng nước bớt chảy xiết để xuất bến.

Thạch Hải vớt cá cho vào bao. Được hai bao đầy như mọi ngày. Anh tính đem cá về bán sớm cho được giá, rồi trở ra đánh bắt tiếp. Dòng nước vẫn cuồn cuộn phù sa. Anh đang định tháo dây buộc thuyền để về, thì bỗng nghe vọng lên trong đầu anh tiếng khóc của trẻ con. Tiếng khóc mơ hồ nhưng nghe rất rõ. Anh không định hướng được tiếng khóc phát ra từ đâu. Không phải tiếng trẻ con trên bờ. Ngoài kia sông Mêkông mênh mông, không có thuyền bè nào, lẽ nào có trẻ con ở đó. Tiếng khóc mỗi lúc một rõ, một lớn hơn và nghe rất gần. Bất giác anh rùng mình hoảng sợ. Biết đâu lại không là tiếng khóc của một hồn oan nào đó đang hóa thân trong con cá nằm trong bao kia. Tiếng khóc càng rõ bao nhiêu, Thạch Hải càng sợ bấy nhiêu. Anh áp

Page 10: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

tai vào bao cá, không có động tĩnh gì, rõ ràng tiếng khóc không xuất phát từ bao cá. Anh tạm yên tâm.

Tiếng khóc trẻ con lại vang lên khẩn thiết hơn. Thạch Hải nghe như tiếng kêu cứu. Anh thực sự hoảng sợ, bởi tiếng khóc không còn là mơ hồ, mà dường như ở đâu đây. Anh nhìn đăm đăm xuống dòng chảy, như cố sức xuyên qua dòng nước xem có đứa trẻ nào rơi xuống sông trôi đến đây rồi vướng không. Bởi trên sông chỗ này chỗ kia có những cây cọc người ta cắm để neo thuyền. Cũng có những đám cây chà người ta quây lưới. Dòng sông đỏ phù sa cuồn cuộn chảy. Và tuyệt nhiên không có dấu tích gì có một đứa trẻ trôi trên sông dính mắc ở đây.

Thạch Hải quan sát kỹ cây cọc nơi anh cột chiếc ghe, anh săm soi hai bên lườn ghe. Không có gì vướng mắc. Ghe của anh không kéo theo bất cứ vật dụng gì, để không bị cản nước chèo cho đỡ tốn sức. Anh định tháo dây cột ghe và chèo vào bờ thì tiếng khóc lại vang lên. Rõ ràng là tiếng khóc từ dưới sông. Ghé tai sát mặt nước, Thạch Hải nghe tiếng khóc rất rõ. Anh băn khoăn, sao lại có em bé nào nằm dưới lòng sông này mà khóc? Và nếu nằm dưới lòng sông thì làm sao còn sống nổi? Sao suốt buổi anh quăng lưới lại không đụng chạm gì đứa bé? Thạch Hải chợt thấy gai ốc nổi lên, anh nghĩ đến hà bá hay thủy thần của sông? Nhưng nếu là các vị thần thì sao lại phát ra tiếng khóc trẻ con. Không thể hiểu được, Thạch Hải đành phải lấy lòng thành cầu xin Trời Phật phù hộ cho anh.

Kiểm điểm lại đời anh, từ nhỏ anh đã được gọi là “Phật nhỏ” hiền lành, dễ thương, ai cũng quý mến chăm sóc anh. Cha mẹ anh nghèo khó, phải chật vật lắm mới nuôi được ba người con. Dòng họ ba đời vẫn được tiếng là đạo hạnh, cha mẹ anh tuy không tu hành nhưng vẫn giữ đạo luật rất cặn kẽ, còn anh thì mới làm bổn phận tôn giáo về, anh cũng muốn tu, nhưng vì cha mẹ già yếu, nhà nghèo nên anh không đạt ước nguyện. Nghĩ vậy anh thấy mình chẳng làm gì thất đức để Trời Phật phạt anh. Vậy tiếng kêu cứu này là của ai và muốn điều gì ở anh?

Lương tâm thôi thúc anh buộc phải tìm cho ra căn nguyên tiếng khóc của trẻ dưới lòng sông. Anh quyết định lặn tìm dưới đáy sông, gần chỗ anh buộc chiếc ghe, vì tiếng khóc nghe gần đâu đây. Sau khi đã kiểm soát lại dây cột thuyền, Thạch Hải còn cẩn thận cột thêm một sợi dây vào gốc cây, rồi anh mới nhảy xuống sông. Phải cố sức anh mới bơi xuống đáy sông vì nước chảy xiết, nhưng khi chân anh vừa chạm đất thì dòng nước lại cuốn anh đi. Không sao mò mẫm được gì. Thạch Hải vội ngoi lên mặt nước, anh bấu vào mạn thuyền rồi trèo lên sạp. Lần này, anh cột một sợi dây vào ngang người, định vị chỗ tiếng khóc rồi mới nhảy xuống nước. Dòng sông vẫn cuồn cuộn chảy, nhưng nhờ có sợi dây, anh vẫn giữ được vị trí. Anh mở mắt nhìn đáy sông, nước đục nên chẳng thấy gì đành lấy tay quờ quạng. Anh mò mẫm một hồi lâu dưới đáy sông, Thạch Hải chỉ thấy đất bùn. Hết một hơi lặn, anh lại phải trồi lên.

Mùa khô từ tháng Mười Một đến tháng Năm độ sâu của sông có chỗ chỉ khoảng một hai mét. Vào mùa mưa có chỗ sâu đến chín mét. Nơi Thạch Hải lặn sâu khoảng bốn năm mét, vì thế anh không thể lặn được lâu. Định tâm lại, Thạch Hải thấy mình đã trôi quá xa chỗ tiếng kêu mà anh đã nghe rõ ngay ở chỗ thuyền anh cột. Một lần nữa, anh lại leo lên thuyền định hướng chỗ tiếng kêu rồi lấy hơi nhảy xuống sông. Lần

Page 11: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

này, anh cẩn thận hơn, định vị được chỗ tiếng kêu, tính toán được khoảng cách dòng nước sẽ cuốn anh đi. Khi vừa chạm tới đáy sông, bất ngờ anh sờ thấy một khối gì cứng giữ anh lại. Anh lại trồi lên lấy hơi dài hơn và lặn xuống sờ xem cái khối ấy là cái gì.

Ngay lúc ấy anh có một cảm giác rất lạ lùng lan tỏa toàn thân. Anh lặn khá lâu mà không bị ngộp. Khối cứng như có sức hút rất mạnh khiến anh không còn bị nước cuốn đi. Sau khi sờ toàn khối, anh đoán chừng đó là một pho tượng bằng kim loại, có hình thù như một người. Phải chăng là tượng của vị thần nào mà người ta đã bỏ đi? Nhưng ai đã bỏ tượng này xuống sông và bỏ từ bao giờ? Sao tượng lại phát ra tiếng khóc? Và tượng không bị trôi dạt đi? Có thể là vì tượng khá nặng và bị chôn quá nửa dưới bùn đất đáy sông, nên vẫn còn nằm nguyên tại chỗ.

Anh quyết định ôm tượng lên và thật lạ lùng, khi anh vừa chạm tay và dùng hết sức mình để cố gắng đưa tượng lên thì tượng nhẹ tênh, khiến anh chỉ cần một tay ôm tượng, một tay bơi mấy thước là có thể bấu vào mạn thuyền được.

Đưa được tượng lên thuyền, anh vội vàng tắm rửa và lấy bình nước uống của anh rửa sạch tượng. Tượng bằng đồng, gần bằng người thật, và dù có hoen ố đôi chút, vẫn còn nguyên nét sáng ngời của một vị thần nữ phúc hậu và nhân từ, tay bồng một trẻ nhỏ. Dường như anh đã nhìn thấy tượng nữ thần này ở đâu đó, có lẽ ở khuôn viên của một nhà thờ anh có dịp đi ngang qua. Anh vừa lau tượng, vừa thấy niềm vui trong lòng.

Xong việc, anh quỳ gối xuống lạy bức tượng, dù anh chưa biết tượng đó là vị thần thuộc tôn giáo nào, nhưng anh xác nhận rằng tiếng kêu mà anh nghe được là từ bức tượng này phát ra và từ bấy lâu nay anh được may mắn có lẽ nhờ vị thần này.

Thạch Hải lấy chiếc khăn lớn mà mẹ anh đã mua cho nhờ lợi nhuận sau mấy mẻ cá, phòng khi anh bị lạnh mà anh vẫn chưa dùng, anh bọc tượng cẩn thận và cho vào bao để đưa về, tránh tất cả sự tò mò của người khác theo dõi anh từ cả tuần nay, lỡ anh đã gặp may…

3Đưa ghe vào bến, Thạch Hải ngó trước ngó sau để tìm người giúp đỡ đưa cá và tượng về nhà.

May mắn thay, lúc đó có một chiếc xe lôi của người quen vừa chở đồ cho ai đó đi ngang qua, Thạch Hải vội nhờ chở cá về nhà. Được sự đồng ý, anh nhanh chóng chuyển cá và tượng lên xe. Người lái xe lôi đang mải lo chuyện gì đó, nên cũng chẳng để ý Thạch Hải nhờ chở cái gì. Hơn nữa, quãng đường cũng không xa lắm.

Page 12: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Xe vừa dừng lại, Mẹ Thạch Hải đã mở cửa ngồi đón con từ lâu như thường lệ. Bà vội chạy ra phụ con đưa cá xuống. Bà rất vui vì hôm nay Thạch Hải bắt được nhiều cá, nên phải thuê xe lôi chở cá về, hơn hẳn mọi lần. Bà chỉ hơi ngạc nhiên khi thấy Hải ôm một bao đặt xuống giường, không sợ bao cá làm tanh giường nằm hay sao, hay là bao đựng vật gì? Bà hỏi:

- Bao gì vậy con?

Hải đưa một ngón tay lên miệng ra dấu cho mẹ giữ im lặng. Anh nói:

- Mẹ cứ để đó cho con.

Điều này càng làm bà mẹ tò mò, không phải cá thì là cái gì? Nghĩ vậy nhưng bà không dám mở bao. Bà phụ con đổ cá ra hai cái thùng, để vào góc nhà chờ con dâu đem ra chợ bán.

Hải nói với mẹ về cái bao còn để trên giường.

- Con giao cho mẹ đó, mẹ mở ra coi đi.

Trước khi mở bao, bà lấy tay nắn nắn bên ngoài và thử đoán xem là vật gì. Vật trong bao rất cứng, không đoán được, nhưng chắc là bằng sắt hay bằng thứ gì đó, không phải là thứ có thể ăn được. Lúc đầu bà nghĩ, chắc Hải vớt được vật gì đó trôi nổi trên sông, có thể là những dụng cụ của một chiếc thuyền đắm, trôi giạt đến chỗ anh đánh cá, và anh vớt lên. Nhưng bây giờ, cái đồ vật bên trong bao ngoài dự đoán của bà. Vật gì mà Hải lại bảo bà giữ im lặng để người ngoài không tò mò?

Bà mẹ vội vã cởi dây buộc miệng bao. Bà kinh ngạc vì từ trong bao toát ra một mùi hương ngào ngạt, như hương hoa rất thơm. Khi miệng bao được kéo sát xuống đáy, thì lộ ra pho tượng một người phụ nữõ bồng con trên tay rất lạ. Mẹ Thạch Hải bị choáng vì sự việc bất ngờ và lạ lùng. Bà có linh cảm ngay thần khí và uy lực từ pho tượng, tuy vô hình nhưng rất mạnh mẽ, mùi hương lạ của tượng làm bà tin ngay đây là một phúc thần. Trong một chớp mắt như ngất đi, bà thấy một quầng sáng chói lọi phát ra từ pho tượng. Nhưng khi định thần lại, bà nhận ra ngay tình thế của bà. Cả đời ông bà và cả dòng họ nội ngoại bao đời vẫn ăn chay niệm Phật, một lòng trung thành với Phật, làm việc lành để có được phúc nghiệp, mong kiếp sau gia đình có được hạnh phúc, thoát được cảnh nghèo nàn. Trước mặt bà là tượng một thần nữ, lại không phải là Quan Thế Âm Bồ Tát mà bà vẫn tôn sùng. Bà sợ mình làm việc bất xứng với Phật, đưa thần lạ về nhà, Trời Phật sẽ giáng phạt. Bà quay sang nhìn Hải và nói:

- Con đem ngay tượng đi, trả về chỗ cũ. Trời ơi, con không biết rằng đụng chạm đến thần linh thì sẽ mang họa suốt kiếp. Con mang ngay đi. Mẹ sợ lắm.

- Không được mẹ à. Bức tượng này kêu khóc bảo con đem về nhà!

- Con nói sao? Bức tượng này biết khóc, còn bảo con mang về nhà? Mẹ không hiểu?

- Là như thế này, lúc con định cởi dây chèo thuyền vào bờ thì con nghe từ tâm con tiếng khóc trẻ con. Tiếng khóc từ dưới sông. Con lặn xuống thì vớt lên được bức tượng này. Con nghĩ ngay đến sự việc lạ lùng cả tuần nay là ngày nào con cũng đánh

Page 13: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

bắt được nhiều cá ở chỗ bức tượng. Giờ mẹ bảo con trả tượng về sông thì sao con làm được.

Đến lượt mẹ Thạch Hải đứng chết lặng. Đúng là cả tuần nay ngày nào Hải cũng đánh bắt được nhiều cá, một hiện tượng lạ mà bà không sao giải thích được. Bà chỉ tin rằng Trời Phật độ cho con bà, vì Hải là đứa hiếu thảo, mới đi tu ở Chùa về. Hải cố làm việc để có tiền lo thuốc cho cha đang nằm viện. Bà nghĩ đơn giản vậy, nhưng bà cũng biết xưa nay không có chuyện phép lạ ở nhà người thờ Phật.

Người theo Phật chỉ tin vào nhân quả, vào nghiệp báo, ở hiền thì gặp lành, ăn ở nhân hậu thì sẽ được vãng sinh vào cõi cực lạc. Đời là bể khổ. Chính mình tạo ra nghiệp quả cho mình. Bà tụng niệm Phật A Di Đà vì tin vào 48 đại nguyện của Ngài. Bà cũng nghe nói có những vị bồ tát đã thành Phật, nhưng chưa về cõi Niết Bàn, mà ở lại cứu độ chúng sinh trong cõi trầm luân. Bà đang thờ một vị ấy. Những khi quá khổ bà thường cầu xin Quan Thế Âm Bồ Tát. Bà không biết pho tượng này là của nữ thần nào. Nhưng chắc là một phúc thần. Thần Phật ở những cảnh giới khác nhau, đâu có ở chung với nhau được. Bây giờ phải làm sao!

Hai mẹ con đang khó xử về sự hiện diện của bức tượng và Thạch Hải cũng đang tính lên nhà thương để thỉnh ý cha, thì nghe tiếng chị dâu và tiếng người đàn ông nào giống tiếng của cha, bà mẹ liền giục Thạch Hải:

- Con mau lấy mền phủ lên tượng và tìm cái gì che đi.

Thạch Hải vội vàng lấy mền phủ lên tượng và đặt mấy vật dụng nữa để gần tượng để tránh sự chú ý, rồi đóng cửa lại.

Nghe tiếng kêu cửa. Thạch Hải nhìn ra cửa. Bà mẹ mở cửa ra. Vừa thấy chồng và con dâu, bà la lên:

- Ô..ô..ông…ủa, ông xuất viện từ hồi nào vậy?

Thạch Hải vội ra đỡ chị dâu mang vật dụng ở bệnh viện vào nhà, còn bà mẹ đỡ tay ông Ba Hưởng. Bà để ông nằm lên chiếc võng căng ngang giữa nhà, rồi săn đón hỏi han:

- Ông đang bệnh nặng, bác sĩ cho ông về là sao?

- Bác sĩ nói tôi hết bệnh rồi, cho về.

- Lúc tôi lên thăm ông, ông còn nằm liệt giường, bác sĩ còn nói với tôi là trường hợp của ông rất khó. Tôi nghe vậy tôi rầu thúi ruột, chỉ biết cầu trời khấn Phật cho ông, vậy mà hôm nay ông đã xuất viện, thật không hiểu nổi.

Cha Thạch Hải ngồi trên võng, thảnh thơi, vui vẻ như người không có bệnh tật gì, tuy có hơi gầy một chút, bởi xưa nay ông ăn chay. Ông nói trong sự ngạc nhiên:

- Hôm nay, khoảng 9 giờ rưỡi, bác sĩ khám bệnh cho tôi như mọi ngày. Ông có vẻ rất ngạc nhiên. Ông đặt ống nghe khắp lưng và ngực tôi, nghe đi nghe lại rất kỹ, rồi xem bệnh án, xem các toa thuốc đã điều trị. Ông lại hỏi các bác sĩ trực đã khám và điều trị cho tôi mấy tuần nay. Họ nói chuyện với nhau những gì tôi không hiểu. Họ

Page 14: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

cũng nói rằng họ không sao hiểu được trường hợp của tôi, vì theo dõi biểu đồ khám và điều trị của tôi, họ thấy tình trạng bệnh của tôi mỗi ngày mỗi trầm trọng. Nay bỗng dưng kiểm tra, lại không thấy dấu vết gì tổn thương ở phổi. Căn cứ vào kết quả xét nghiệm, các bác sĩ hội chẩn nói tôi hết bệnh và cho tôi xuất viện. Lúc ấy con dâu vừa đưa đồ ăn đến.

Thấy vợ và con có vẻ đăm chiêu về hiện tượng của ông, ông nói:

- Được khỏi bệnh là tôi mừng rồi. Chắc là nhờ thần Phật cứu giúp. Nhà mình nghèo, nếu tôi nằm liệt giường thì lấy tiền đâu lo thuốc, và ngộ nhỡ tôi có mệnh hệ nào thì mẹ con bà sống làm sao.

Thấy ông trở về nhà, đi đứng khỏe mạnh, vui vẻ bên cạnh cô con dâu ôm gói đồ đạc, bà con lối xóm kéo đến hỏi thăm. Họ rất ngạc nhiên. Hôm trước, ông phải nằm xe cấp cứu đưa đến bệnh viện, hôm nay đã trở về khỏe re; rồi họ thắc mắc hỏi han về bệnh tình của ông. Do đâu mà ông được khỏi bệnh cách mau lẹ như vậy. Họ tin chắc ông được Trời Phật độ mạng cho qua khỏi cơn hoạn nạn. Hơn thế chuyện Hải gặp may đánh được nhiều cá cũng là do Trời Phật cho.

Phần cha của Thạch Hải, khi gặp mọi người lối xóm, ông đều chia sẻ niềm vui và hào hứng tường thuật lại việc ông được khỏi bệnh.

- Như bà con biết đó, lần vào viện này là lần thứ ba rồi, khi đưa tôi lên xe cấp cứu, tôi không hy vọng được trở về nhà, phần vì bệnh phổi mỗi ngày một nặng hơn; gia đình tôi lại gặp khó khăn và đơn chiếc. Bà nhà tôi thì già yếu phải ở nhà chăm sóc con gà con heo. Còn thằng út thì mới hết nghĩa vụ tôn giáo, mới vào nghề chài của tôi còn non yếu, đồ ăn thức uống ngày hai bữa phải nhờ con dâu tiếp tế, thuốc men chỉ còn biết nhờ vào nhà thương.

Trong hoàn cảnh như vậy, tôi nghĩ lần này vào viện là về với ông bà luôn. Sáng nay, khi bác sĩ cho tôi về cũng nhắc lại: “Khi đưa ông nhập viện, qua những chứng từ nằm viện những lần trước và bệnh lần này chúng tôi thấy ông khó lòng qua khỏi, nhưng thấy hoàn cảnh khó khăn, đơn chiếc của gia đình ông, nhất là lời năn nỉ của cô con dâu ông, chúng tôi cũng nhận để chữa trị cho ông được ngày nào hay ngày đó”.

Ông Ba Hưởng nói tiếp:

- Phần tôi, ngay khi ngã bệnh lại, tôi chỉ muốn ở nhà để sớm về với ông bà, nhưng bà nhà tôi và các con cháu cứ nằng nặc nài ép tôi đi bệnh viện. Chiều ý mọi người, tôi liền thử một lần nữa. Đến bệnh viện, trước khi cho nhập viện, nhà thương xem xét bệnh án của tôi, họ chỉ khuyên con Ba - con dâu của tôi đưa tôi về nhà để chăm sóc cho tôi. Tôi muốn ăn thứ gì thì cứ cho tôi ăn. Nhưng con dâu tôi khóc lóc năn nỉ và nói với bác sĩ rằng: tôi ăn chay nhiệm nhặt kỹ lắm, chẳng thèm ăn thứ gì. Họ hỏi thêm về nghề nghiệp của tôi, con Ba kể lể tôi làm nghề đánh cá vất vả khó khăn lắm.

Sau khi thăm hỏi, bác sĩ trực thấy tội nghiệp tôi, liền chấp thuận cho tôi được nằm viện với lời nhắn con Ba: “Ông cụ lao lực quá, ăn uống thiếu chất, phổi bị tổn thương, có thể là ung thư thời kỳ cuối, tình hình ngày càng nặng, khó qua khỏi được…”.

Page 15: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Nghe con Ba nói lại, tôi đã dặn con Ba: “Đừng cho gia đình biết kẻo phải lo lắng thêm, để mình tôi chịu được rồi”.

Con Ba liền òa lên khóc, tôi phải trấn an nó: “Trời Phật có mắt, có nhiều việc người ta không làm được, nhưng Trời Phật làm được”.

Thế rồi vì công việc và vì có con dại, con Ba cũng không còn giờ ở lại chăm sóc tôi như trước, tôi nằm viện một mình, ngày hai bữa, nó đưa đồ ăn đến cho tôi.

Ông Ba Hưởng nhìn mọi người như chia sẻ tình cảnh cùng quẫn của mình:

- Tôi còn biết làm gì. Nằm nhà thương, tôi có nhiều giờ tụng kinh và cầu nguyện với Phật cho gia đình. Tôi biết, tôi nằm đây đã yên phận, nhưng gia đình còn phải khổ cực nhiều hơn tôi. Bà nhà tôi đã vậy, nhưng nhất là thằng út, mới hết nghĩa vụ tôn giáo, nghề nghiệp thì chưa quen, nhất là thời buổi làm ăn khó khăn, thời tiết thất thường, bão tố luôn luôn, không khéo lại mất tài sản, có khi còn mất mạng. Đêm ngày tôi tụng kinh lo lắng, hễ cứ nhắm mắt vào thì lo âu lại ùa đến kéo tôi dậy.

Mọi người ồn ào:

- Ừ, dạo này nước dâng, sóng gió nhiều mà chú út thì có vẻ yếu đuối, ông lo là phải.

Ông Ba chờ mọi người bớt xôn xao rồi nói tiếp:

- May mà mới đây, con Ba báo cho tôi biết là thằng út nhà tôi gặp may, ngày nào cũng đánh bắt được một tạ cá rói, bán cái vèo là hết. Tôi không nghĩ rằng nó giỏi vậy. Mới ở Chùa về nào đã biết làm ăn gì. Dù sao nhờ nó mà giải quyết được một phần nào cuộc sống. Nhưng sự khốn khó của gia đình tôi vẫn còn đó làm tôi không nguôi lo lắng. Bệnh trạng của tôi không thấy khả quan. Bác sĩ điều trị nói chuyện với nhau, tôi nghe loáng thoáng rằng tình hình của tôi tiếp tục đi xuống.

Nghe ông Ba Hưởng nói, mọi người nhìn nhau rồi nhìn ông. Họ có vẻ quan tâm:

- Lúc ấy ông thấy trong người thế nào?

- Tôi không lo gì việc sống chết. Tử sinh là lẽ thường mà. Đời người ai rồi cũng một lần qua sông, nhưng tôi lo cho bà nhà tôi và thằng út, không biết nó sẽ sống thế nào, vì thằng út yếu đuối lắm.

Mọi người lại nhao nhao lên:

- Thế sao ông lại khỏi bệnh mau vậy?

Ánh mắt ông Ba Hưởng sáng rực lên, hướng nhìn lên trên, rất thành khẩn và tôn kính. Ông chậm rãi kể, lời sâu lắng từ đáy lòng:

- Sáng hôm nay, tôi mệt quá. Đêm qua trở bệnh, ngộp thở không ngủ được, phần vì lo lắng cho gia đình. Khi trời tảng sáng, tôi đã rơi vào hôn mê. Tôi thấy một vị thần nữ đi vào nhà tôi. Bà rất đẹp, tôi chưa từng thấy người nào đẹp và phúc hậu như Bà. Người Bà chiếu tỏa hào quang sáng chói. Bà thăm hỏi từng người. Bà đến chỗ tôi, thấy tôi bệnh nặng, Bà đưa tay kéo tôi ngồi dậy. Một luồng ánh sáng từ người Bà bao

Page 16: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

trùm lấy tôi. Ngay lập tức tôi cảm thấy dễ chịu. Bà nói tôi nằm nghỉ và hứa sẽ gặp lại tôi… rồi Bà biến đi trong vầng hào quang rất đẹp.

Mọi người lại nhao nhao:

- Thần nữ ấy có phải là Phật Bà Quan Âm không?

Ông Ba vội trả lời, ông nói như đang nhìn thấy vị nữ thần ở trước mặt:

- Không phải, tôi biết Phật Bà Quan Âm đội mũ ni xanh, ngồi trên tòa sen, bên tay mặt có một con chim mỏ ngậm xâu chuỗi bồ đề, dưới có đứa trẻ bận khôi giáp chắp tay hầu. Vị nữ thần này mặc áo dài trắng, có khăn xanh, thắt lưng xanh, trên tay bồng một đứa bé, nét mặt rất nhân hậu.

Mọi người trầm trồ:

- Lạ quá! Lạ quá!

Ông Ba kể tiếp:

- Giật mình thức dậy, tôi cảm thấy mình dễ chịu như trong giấc mơ, tôi không còn đau đớn trong người nữa. Lúc đó, tôi thật sự ngỡ ngàng và không dám tin vào mình. Tôi không ngờ sự việc vừa xảy ra trong mơ lại là thực. Tôi tin rằng vị thần trong mơ đã cứu chữa tôi. Tôi vội vàng bước xuống khỏi giường bệnh và quỳ chắp tay tạ ơn. Tôi hướng về vị thần mà vái. Các bệnh nhân cùng phòng nhìn tôi ngạc nhiên. Họ không hiểu tại sao tôi đang nằm trên giường lại lăn xuống đất rồi chắp tay lạy lia lịa. Miệng tôi nói thầm: “Con xin tạ ơn Người, con xin tạ ơn Người”.

Đúng lúc đó, con Ba đưa đồ ăn đến cho tôi, tôi nói lớn: “Cha hết bệnh rồi…”. Lúc đầu, con Ba không tin vào mắt mình, nó hốt hoảng, tưởng tôi lên cơn sốt nên bị mê sảng. Nó chạy lại đỡ tôi ngồi lên giường, định đi gọi bác sĩ trực. Không riêng con Ba mà cả phòng bệnh, mọi người đã chứng kiến đều không thể biết điều gì đã xảy ra cho tôi. Có người la lên vì họ tưởng tôi điên. Bác sĩ trực thấy ồn ào cũng chạy đến. Tôi nói với bác sĩ tôi hết bệnh, khỏe lại như người thường rồi. Bác sĩ và y tá trực cũng hoảng. Bác sĩ đưa tay sờ trán tôi, cầm tay tôi, thân nhiệt tôi bình thường, không có sốt. Ông kinh ngạc. Khi mọi người thấy tôi vui vẻ và đi đứng như người thường, họ mới tin lời tôi nói, nhưng họ không sao hiểu được chuyện gì lạ lùng đã xảy ra cho tôi.

Ông Ba nhìn mọi người một lượt xem phản ứng của họ thế nào. Có thể họ cho rằng ông mê sảng nên mơ thấy vậy, nhưng họ không sao giải thích được sự việc ông đang ở nhà, ở trước mặt họ và khỏe mạnh bình thường. Ông kể tiếp:

- Con Ba đưa tôi đến bác sĩ trưởng khoa để kiểm tra và xin cho tôi xuất viện. Bác sĩ đã cẩn thận xem lại bệnh án và nghe tôi tường thuật lại việc tôi được khỏi bệnh cách lạ thường. Họ hỏi tôi lý do tôi được khỏi bệnh, tôi cũng chẳng biết, chỉ biết tôi đã được khỏe lại bình thường. Bác sĩ làm hồ sơ cho tôi xuất viện. Tôi mừng vô cùng, không ngờ tôi còn trở về với gia đình và bà con.

Ông Ba vuốt tóc mấy đứa trẻ đứng bên ông. Những đứa trẻ nhìn ông và há hốc miệng ra nghe. Mấy tuần nay nghe nói ông đi nhà thương và ốm sắp chết, chúng buồn lắm;

Page 17: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

giờ thấy ông về, chúng vây quanh ông, đứa nắm tay ông, đứa níu áo ông như không để cho ông đi nữa. Ông Ba kể tiếp câu chuyện của mình:

- Con Ba đòi thuê xe và báo cho gia đình biết tin vui này. Tôi nói với nó là tôi khỏe lại và có thể đi bộ được và đồng thời để cho gia đình được vui, nhất là để cho thằng út trưa hoặc chiều thấy tôi đã về, nó mới ngạc nhiên.

Ông uống một ngụm nước rồi nói tiếp:

- Đúng như tôi dự đoán, trên đường về nhà, lối xóm đều yên tĩnh vì người lớn đã đi làm, nó chỉ ồn ào khi chiều đến, người dân đã đi chài về. Đám trẻ con, đứa lớn một chút đã theo nhà đi thuyền, hoặc đứa khác bơi thuyền chậu thau đi ăn xin du khách. Một ít đứa ở nhà với ông bà già trông nhà và trông coi em bé.

Thấy tôi về nhà, mấy con chó đánh hơi trước, nó nhảy bổ vào người tôi rồi kêu lên vì mừng, khua động cả xóm chài. Tôi thấy nhiều nhà mở cửa ngó ra, họ trố mắt nhìn, họ không tin rằng tôi trở về. Lúc ấy cửa nhà tôi còn đóng, cô con dâu phải gọi cửa.

Mọi người nghe chuyện đều cám ơn Trời Phật và chúc mừng ông Ba. Có người nắm lấy tay ông, người đặt tay trên vai ông, có người đứng sững nhìn ông để chứng thật rằng ông đã trở về khỏe mạnh. Họ ra về và đem theo việc lạ lùng của ông. Họ không sao hiểu được.

Thạch Hải và bà Ba nghe ông Ba kể thì nghĩ ngay đến bức tượng đang để trong nhà. Họ vẫn còn dấu kín chưa cho ông Ba biết. Và bây giờ, họ thực sự bối rối, có nên cho ông Ba biết sự việc Thạch Hải đã đưa tượng một nữ thần về nhà không? Và sau cùng, như có gì đốt lửa trong lòng, Thạch Hải đành phải cho ông Ba biết trong nhà có bức tượng nữ thần mình đem về. Ông Ba vội vã mở mền trùm pho tượng để trên giường. Ông nhìn bức tượng một cách thành kính, rồi bất chợt ông sụp lạy và la lên:

- Đúng vị nữ thần này đã cứu chữa cho tôi. Xin tạ ơn Người. Sao lại có sự trùng hợp lạ lùng giữa giấc mơ và sự thật như thế này?

Ông Ba và cả nhà khóc nức nở...

4Tin ông Ba Hưởng được khỏi bệnh đột ngột, khỏe mạnh trở về nhà đã sớm lan rộng khắp làng chài, chẳng mấy chốc, người ta kéo đến đầy nhà ông. Thực ra, cả tuần lễ nay gia đình ông Ba là điểm được chú ý đến vì những mẻ cá tươi ngon mà những người rành nghề và đầy kinh nghiệm cũng không thể có được; bây giờ lại đến tin ông Ba được lành bệnh đột ngột.

Page 18: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Họ háo hức kéo đến tận nhà để được xem tận mắt con người bằng xương bằng thịt của ông Ba, mà chỉ cách đây hai tuần ông đã được đem đi nhà thương để cấp cứu, và ai cũng bảo: kỳ này ông Ba khó lòng qua khỏi, vì nhà thương đã gần như nhà riêng của ông rồi… Thế mà giờ này ông đã khỏe mạnh…

Trước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và sự khỏi bệnh lạ lùng của mình. Ông không kết luận điều gì, song người nghe hiểu rằng sự việc ông khỏi bệnh phải do yếu tố siêu nhiên, bởi ông đang nằm nhà thương, các bác sĩ đang điều trị cho ông đều biết tình trạng bệnh của ông mỗi ngày mỗi trầm trọng. Vậy mà chỉ sau một đêm ông hết bệnh. Các bác sĩ thì không tin vào chuyện duy tâm; nhưng họ không sao giải thích được trường hợp của ông. Còn bây giờ xóm chài lại nghĩ đến sức mạnh của thần linh. Họ hỏi ông Ba:

- Vị thần nào đã cứu ông Ba vậy?

Theo ý của bà Ba Hưởng, thì bà muốn giấu nhẹm sự hiện diện của tượng thần này, vì không biết của tôn giáo nào, nhưng giờ đây thì không thể giấu được nữa rồi. Bà đành nháy mắt ra hiệu cho Thạch Hải thuật lại việc gặp được bức tượng thần.

Đang chờ ý mẹ, được mẹ ra dấu, Thạch Hải mở mền che tượng đặt trên giường, đưa tượng lên đặt trên bàn trước mặt mọi người, rồi thuật lại cho ông Ba và mọi người nghe sự xuất hiện của tượng trong gia đình. Mọi người kinh ngạc nhìn pho tượng lạ. Tượng trông rất cũ, bằng đồng, cao gần bằng người thật, một vài chỗ đã hoen ố trầy xước, không phải là tượng Phật Quan Âm. Ở xóm chài này mọi người đều theo Phật giáo, lại ít ra ngoài, nên họ không biết hình tượng của các tôn giáo khác.

Thạch Hải nói:

- Hôm đó, nước sông dâng lên và chảy xiết, những người bạn chài không dám đánh bắt, vì theo kinh nghiệm, họ cho rằng không thể đánh bắt được gì, lại có thể gặp nguy hiểm. Còn tôi vì hoàn cảnh gia đình, tôi không thể trở về tay không, tôi đành liều ở lại và tìm cách thả lưới. Tôi đã lưới được hai mẻ cá rói to mà chính tôi cũng không thể tin được.

Sau hai mẻ cá lạ đó, tôi đang định thu dọn về thì từ trong tâm tôi, nghe tiếng em bé kêu khóc. Nhìn lui nhìn tới và lục lọi tìm kiếm khắp nơi trên bờ, trên cây, dưới nước cũng chẳng thấy dấu hiệu gì. Lúc đó, tôi hơi hoảng sợ, nhưng rồi tiếng khóc lại vang lên càng lúc càng rõ mồn một. Tôi đã ngụp lặn dưới nước để tìm kiếm. Mãi đến lần thứ ba, tôi mới định vị được và sờ thấy một vật gì thật cứng và đứng thẳng, khiến tôi có thể víu vào để khỏi bị nước cuốn đi. Tôi đã sờ thấy bức tượng thần này. Tôi vội vàng đưa lên ghe cách nhẹ nhàng hơn tôi tưởng. Sau đó, tôi đóng bao đưa tượng về nhà.

Đưa tượng về nhà, mẹ tôi sợ hãi, hoảng hốt, tính đậy kín, gọi chị dâu tôi đang đi bán số cá tôi bắt được, đến nhà thương hỏi ba tôi sẽ xử lý ra sao với bức tượng thần này. Tôi sang gọi chị dâu thì chị dâu tôi đã đến giờ đưa cơm cho cha tôi vào lúc 9 giờ rưỡi sáng hôm nay, khớp với giờ cha tôi được khỏi bệnh.

Page 19: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Nghe ông Ba kể rồi Thạch Hải kể, mọi người đều “ồ” lên ngạc nhiên. Mọi người đều nhận rằng gia đình ông Ba Hưởng thời gian qua đã được Trời Phật ban cho bao nhiêu việc tốt, nhưng rồi họ lại thắc mắc: Vị thần này là vị thần tôn giáo nào? Có đúng là vị thần này đã ban ơn cho gia đình ông Ba không? Tại sao chỉ độ trì gia đình ông Ba mà không giúp đỡ cho gia đình khác?

Ở làng chài này và cả làng nổi trên Hồ Tonlé Sap có nhiều gia đình đang sống rất nghèo vì hầu hết là dân lưu tán, không có giấy tờ gì nên không thể làm được việc gì. Họ kiếm ăn chủ yếu bằng nghề đánh bắt cá. Những tháng bị cấm đánh bắt cá thì chỉ có cách bám theo du khách xin ăn. Trẻ con hầu hết phải thất học. Lâu lâu được các đoàn thể từ thiện ghé thăm, cho ít vật dụng, ít thùng mì ăn liền. Bao nhiêu người đau yếu bệnh tật phải chết tức tưởi vì không có tiền thuốc thang... Rồi họ suy luận, có thể là có người nào đó đã bí mật giúp đỡ nhà ông Ba, và ông Ba bịa ra câu chuyện này để che dấu họ.

Họ cũng đã từng nghe chuyện kể rằng, có những nhà truyền đạo, đến vùng dân nghèo làm việc từ thiện. Họ hứa nếu cải đạo thì sẽ giúp đỡ chuyện này chuyện khác. Số tiền giúp đỡ có khi đến năm, ba triệu đồng. Họ giúp sửa nhà, giúp trả nợ, đóng tiền học cho con, cho vay vốn làm ăn, đặc biệt là những người đau ốm đang nằm viện. Những nhà truyền giáo tìm đến an ủi, giúp tiền thuốc thang.

Những việc từ thiện như thế tác động mạnh đến đức tin người bệnh và thân nhân họ. Từ đó họ dễ dàng nghe theo nhà truyền giáo mà cải đạo. Đành rằng, theo một tôn giáo nào đó là quyền tự do của cá nhân; đành rằng những việc từ thiện là tốt. Chẳng hạn nạn đói Ất Dậu 1945 ở miền Bắc, có những làng Công Giáo toàn tòng không ai chết vì giáo dân giúp đỡ lẫn nhau, trong khi những làng bên “lương” có rất nhiều người chết. Dù vậy, sự việc ở nhà ông Ba là rất đáng ngờ. Biết đâu lúc ở bệnh viện ông Ba đã được một tổ chức truyền giáo nào giúp đỡ, rồi dụ dỗ cải đạo, chối bỏ truyền thống của dân tộc. Dân làng chài kết luận: việc của gia đình ông Ba đây phải thưa trình lên chính quyền và chức sắc tôn giáo mới được.

Gia đình ông Ba đang trong bầu khí hân hoan, bỗng trở nên lo âu. Đã có nhân viên an ninh đến dòm ngó nhà, đã có những chức sắc tôn giáo đến thăm. Nhưng thực sự là họ quan sát cách sinh hoạt của gia đình ông Ba, quan sát những thay đổi ở gia đình ông để xác định những tin tức loan truyền trong dân thực hư là thế nào. Dù chưa thấy có gì khác lạ, nhưng sự hiện diện của một pho tượng lạ trong nhà ông Ba đủ là một bằng chứng không còn nghi ngờ.

Gia đình ông Ba Hưởng thực sự bối rối trong cách giải quyết pho tượng. Bà Ba nói với ông Ba:

- Ngay từ lúc thằng út đưa tượng về nhà, tôi đã sợ sự hiện diện của tượng lạ ở nhà. Các chức sắc sẽ biết, họ sẽ làm khó mình, biết đâu họ sẽ loại ra khỏi làng xã như đã tẩy chay những người cải đạo. Nhưng khi thấy thằng út đánh bắt được nhiều cá và ông khỏe mạnh trở về nhà nhờ vị nữ thần này cứu chữa thì tôi không biết phải làm sao.

Bà Ba lo lắng hỏi cha con Thạch Hải:

Page 20: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Sự thể đã như thế này, giờ cha con ông tính sao?

Ông khẳng định:

- Mạng sống tôi coi như đã tận rồi, tôi được khỏe mạnh và lại trở về với gia đình là do vị phúc thần này cứu chữa, nên mạng sống tôi thuộc về vị thần này.

Bà Ba tỏ ra ái ngại:

- Người ta định làm khó nhà mình vì nghi ngờ ông định cải đạo? Nhưng ông có biết vị phúc thần này đạo nào không mà cải đạo?

Ông Ba ngẩn người ra một lát rồi gạt đi:

- Việc đó tính sau. Nhưng bà thử tính xem: đáng lý ra, hôm nay bà đã đưa tiễn tôi đi hỏa thiêu rồi, nhưng tôi được vị phúc thần này cho khỏe lại, thì ai cho tôi khỏe lại thì tôi thuộc về người ấy.

- Thế ông không nghĩ đến chuyện rắc rối sẽ đến với vợ con ông hay sao? - Bà Ba quyết liệt hơn.

Ông Ba bỗng nổi nóng:

- Bà nói rắc rối là rắc rối cái gì? Mình đã cải đạo gì đâu mà loại trừ mình, và nếu có cải đạo thì việc ấy có làm hại gì đến ai? Đó là chuyện riêng của mình, chuyện tâm linh không ai có quyền cấm cản, bà biết không. Sao lúc tôi ốm gần chết mấy người không đến cứu tôi đi? Còn bao nhiêu người nghèo kia, bao nhiêu trẻ con thất học kia, sao không thấy ai giúp đỡ họ đi. Nói gì cũng phải cụ thể! bằng hành động cụ thể! Dân làng chài này là dân lưu tán, mảnh giấy tùy thân không có, không làm gì mà sống nếu không lặn ngụp ở dưới sông kia. Tôi vì lao động kiệt sức mà phải vào viện. Họ đã không giúp đỡ tôi mà còn làm khó tôi, tôi không cam chịu đâu!...

Bà Ba biết không thể thuyết phục được ông Ba. Nỗi lo cứ lớn dần, bà nức nở khóc. Bà quay sang cậu út, bà hỏi:

- Còn con thì sao? Con có bỏ mẹ không?

Thạch Hải nghe ông Ba nói, anh thấy có lý có tình, nhưng Thạch Hải cũng thương mẹ, bà Ba không hỏi việc cải đạo mà tác động đến tình cảm của anh, làm anh khó xử:

- Con bỏ mẹ làm sao được - Cậu út đáp - Mẹ sinh con ra, nuôi dạy con khôn lớn đến giờ này, lúc nào mẹ cũng vẫn là mẹ con. Dẫu thế nào, con cũng không đời nào bỏ mẹ. Nhưng trong lúc này, nhờ vị phúc thần ẩn trong bức tượng kia, ba được khỏi bệnh đúng vào giờ con đưa tượng về nhà, thì điều ấy cho con biết chắc rằng, chính vị phúc thần ấy đã giúp gia đình mình.

Bà Ba có vẻ yên lòng hơn, nhưng vẫn không thôi lo lắng vì bà là một Phật tử. Các thông tin về ý kiến của các chức sắc tôn giáo và chính quyền làm bà luôn lo lắng, bà hỏi Thạch Hải:

- Con nghĩ sao việc kết án của các chức sắc?

Im lặng một lát, bà hỏi tiếp:

Page 21: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Mình phải làm gì với pho tượng này?

Thạch Hải vốn mộc mạc chân chất, với lại anh còn nhỏ, chưa có giao tiếp xã hội nên nghĩ sao nói vậy:

- Mẹ để coi người ta làm gì mình cái đã. Mới chỉ là những thông tin không chính thức. Các thầy trong Chùa chắc sẽ không làm khó dễ mình, bởi mình có làm ác để tạo ra ác nghiệp trái với chữ Tâm của Phật đâu. Xưa nay mình vẫn sống lương thiện, vẫn cầu Trời cầu Phật, vẫn thờ ông Địa, ông Táo, thần sông thần núi, vẫn tôn kính những anh hùng liệt sĩ, những người có công với đất nước được phong thần, nào có chuyện gì đâu! Mẹ đừng quá lo!...

Ông Ba khẳng định thêm:

- Hơi đâu mà bà lo, việc tới đâu, hay tới đó. Bà cứ yên tâm. Đạo nào cũng cần cái tâm, cái lương tâm, cái lòng yêu thương con người. Phật tại Tâm. Tâm tức Phật. Mỗi chúng sinh là Phật sẽ thành. Những kẻ ác tâm dù có tu vạn kiếp thì vẫn phải vào cõi Ngạ Quỷ.

Nói vậy thôi chứ thực sự gia đình ông Ba Hưởng đang rất lúng túng trong việc xử lý pho tượng. Làm thế nào để không ảnh hưởng đến sinh hoạt và tình cảm tôn giáo của cộng đồng, nhưng cũng phải làm gì để không vô ơn bạc nghĩa với vị phúc thần trong pho tượng kia đã cứu giúp gia đình ông Ba.

Chưa bao giờ tôn giáo lại trở thành phức tạp trong gia đình ông và gây ra sự phức tạp cho cộng đồng, bởi ở đất nước này Phật giáo là quốc giáo, 95% người dân theo đạo Phật, họ cũng lớn lên trong truyền thống văn hóa Phật. Chỉ một đụng chạm nhỏ vào truyền thống văn hóa ấy sẽ có thể gây ra những hậu quả không lường hết được. Ông Ba Hưởng cố suy nghĩ để tìm một giải pháp, song sức khỏe chưa cho ông tập trung để suy nghĩ đến nơi đến chốn một điều gì. Ông cảm thấy đầu mình rất căng, đành phải hỷ xả. Chuyện tới đâu tính tới đó.

5Việc gia đình ông Ba chưa giải quyết xong thì ngoài đường đã ồn ào tiếng người. Cả bà Ba và Thạch Hải chưa biết phải ứng xử thế nào thì một đoàn người rất đông đã đi vào sân nhà. Ông Ba Hưởng nhìn ra ngoài. Ông nhận ra có quý chức tôn giáo, có nhân viên an ninh khu vực, có cả những người vác máy quay phim và đeo máy ảnh nữa, chắc là nhà báo hay phóng viên truyền hình.

“Chà, thế này thì nghiêm trọng rồi. Rất nhiều người hiếu kỳ cũng đang chạy đến, chắc là họ muốn được lên tivi không chừng!”. Ông Ba biết chắc rằng chuyện rầy rà sẽ đến. Nhưng vì đã chuẩn bị tinh thần trước nên ông cũng vững tâm.

Page 22: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Ông Ba mời khách vào nhà. Nhà ông là nhà lá nhỏ chỉ đủ cho quý chức tôn giáo và nhân viên an ninh khu vực có chỗ ngồi làm việc. Họ ngồi tạm trên những chiếc ghế đẩu gỗ do ông Ba tự đóng. Những người quay phim đứng ở góc nhà để có thế quay bao quát được toàn cảnh. Người đến xem mỗi lúc một đông, họ đứng chật xung quanh nhà ông Ba. Anh em an ninh phải yêu cầu bà con giữ trật tự để các phóng viên báo chí truyền thanh truyền hình làm việc.

Sau khi tự giới thiệu và nói rõ mục đích làm việc, viên trưởng đoàn nói to trước mọi người.

- Theo yêu cầu của viên chức tôn giáo, chúng tôi đến đây để làm rõ những vấn đề sau đây: Trước hết là việc gia đình ông đưa tượng lạ về nhà, không rõ nguồn gốc tung tích, không rõ mục đích sử dụng tượng làm gì, ông mua hay ai cho ai tặng, có phải là do các phái đoàn truyền đạo nước ngoài tặng không. Việc thứ hai là việc ông bất ngờ khỏi bệnh. Có thực là trước đó ông bị bệnh trầm trọng không, việc ông khỏi bệnh diễn ra như thế nào, xin ông tường trình rõ. Thứ ba là việc cậu út mới tu ở Chùa về, liên tục đánh bắt được nhiều cá. Việc này là do kinh nghiệm học được nghề đánh bắt cá trong Chùa hay kinh nghiệm gia truyền của gia đình ông, hay một lý do nào khác, xin cho chúng tôi được biết, để tránh những đồn đoán duy tâm, xuyên tạc gây ra những hậu quả không tốt cho cộng đồng, nhất và làm xôn xao lòng dân, ảnh hưởng đến an ninh trật tự cộng đồng và sinh hoạt tôn giáo. Chúng tôi đại diện chính quyền và tôn giáo yêu cầu ông Ba trình bày rõ.

Vị đại diện nói bằng một giọng khá căng thẳng, tuy ngôn từ là rõ ràng và khách quan, nhưng ngầm trong giọng nói là sự răn đe, vì đặt ra những vấn đề không đúng với thực tế của gia đình ông Ba.

Ông Ba cảm thấy mình bị xúc phạm, ông muốn làm to chuyện, nhưng ông cố kiềm chế. Ông tự nghĩ: Mình cứ trình bày đúng sự thật, còn ai hiểu sao, nghĩ sao là quyền của họ. Nhưng ông buộc họ phải tôn trọng sự thật. Ông từ tốn trả lời. Các ống kính đều tập trung vào ông. Đèn “flash” chớp lia lịa. Lần đầu tiên bị đặt vào tình huống nghiêm trọng như thế này, ông có hơi bị khớp, người ta thấy tay ông run run, có thể là ông mất bình tĩnh, cũng có thể là ông chưa khỏe hẳn. Mọi con mắt người đứng xem đều nín thở, vì họ muốn biết thực hư câu chuyện thế nào và cách xử lý của chức sắc tôn giáo và chính quyền ra sao. Ông Ba nói rõ ràng, bình tĩnh:

- Thưa quý vị, việc tôi đau ốm, nằm cả tuần nay ở bệnh viện thì quý vị cứ đến bệnh viện xác minh. Chúng tôi có giấy ra viện do bác sĩ giám đốc bệnh viện huyện cấp hẳn hoi. Chẳng nhẽ tự dưng tôi lại muốn mình bệnh để vào bệnh viện nằm, hay chẳng nhẽ các bác sĩ lại không chẩn đoán được bệnh của tôi? Tôi nằm hai tuần lễ đâu phải có một ngày. Hôm xe cấp cứu đưa tôi đi, ở quanh đây có nhiều bà con chứng kiến.

Phía ngoài có tiếng ồn ào. Viên trưởng đoàn tiếp lời ông Ba:

- Việc ông Ba vừa trình bày, chúng tôi đã có chứng cứ. Trước khi đến đây, chúng tôi đã đến nhà thương, xin bác sĩ giám đốc và bác sĩ điều trị cho xem xét hồ sơ bệnh án nằm viện của ông. Chúng tôi đã nắm được ngày nhập viện, ngày ra viện, chẩn đoán và điều trị của bác sĩ. Ông bị bệnh phổi nặng, đã chuyển sang ung thư di căn. Nhưng

Page 23: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

chuyện ông khỏi bệnh bất ngờ, và xuất viện thực hư thế nào chúng tôi cần phải làm rõ.

Ông Ba Hưởng cười vui vẻ nói:

- Cám ơn quý vị đã làm chứng cho tôi. Quả thật, tôi đã được khỏi bệnh một cách lạ lùng…

Viên chức ngắt lời ông Ba:

- Chúng tôi nghe người dân nói rằng, ông khỏi bệnh là do được một vị phúc thần chữa cho. Vị phúc thần ấy ẩn trong một pho tượng ở nhà ông. Xin ông cho biết rõ sự việc.

Ông Ba Hưởng thấy đây là dịp cần nói cho mọi người biết để tạ ơn vị phúc thần, nên ông không ngần ngại nói sự thật:

- Đêm hôm trước ngày xuất viện, tôi trở bệnh đau nặng, mệt quá và thiếp đi. Tôi thấy một nữ thần rất phúc hậu, sáng láng đến nhà tôi và cầm tay tôi nâng tôi dậy. Ánh sáng từ áo của Người bao trùm tôi, tự nhiên tôi thấy khỏe, khi tỉnh ra thì vị nữ thần ấy biến mất từ lúc nào. Khi về nhà tôi thấy pho tượng của vị phúc thần ấy ở nhà. Con trai út của tôi nói rằng, nó mò được ở đáy sông trong lần đánh cá vừa rồi. Thưa quý ngài, sự thật là vậy.

Ngoài sân có tiếng xôn xao:

- Lạ quá! Linh quá!

Viên trưởng đoàn yêu cầu mọi người im lặng, ông ta có vẻ mềm dịu hơn sau khi nghe ông Ba Hưởng nói, vì nhận ra sự thành thực chân chất ở người trong cuộc. Ông ta nói:

- Thưa tất cả mọi người, đây mới là bước đầu phần tìm hiểu, xác minh của chúng tôi, còn kết luận thế nào phải chờ cấp trên. Chúng ta cần hết sức tôn trọng sự thật khách quan để vấn đề sớm được sáng tỏ. Chúng tôi ghi nhận lời ông Ba.

Quay sang Thạch Hải, ông trưởng đoàn nói:

- Theo như lời cha anh nói, thì anh là người vớt được bức tượng này ở sông. Anh nên nói rõ, anh vớt được như thế nào, hoặc nếu ai cho anh, thì anh cũng trình bày đúng sự thật. Người ta bảo rằng ai đó đã cho anh bức tượng khi cha anh đang nằm viện.

Thạch Hải thực sự lúng túng, bởi chưa bao giờ anh phải trả lời những việc ngoài sức tưởng tượng của mình. Anh vốn sống khép kín trong Chùa, mới trở về nhà được ít bữa, mọi chuyện còn bỡ ngỡ, và giờ phải đặt vào một tình huống hết sức nghiêm trọng. Anh cố định tâm rồi trả lời:

- Thưa quý chức, tôi mới ở Chùa về, đâu có quen ai ở ngoài đời. Tôi vừa về là cha tôi đi nằm viện. Nhà rất đơn người, chỉ có tôi và mẹ tôi. Mỗi ngày tôi cố sức đánh bắt cá để có tiền chạy thuốc cho cha tôi. Tôi cũng quăng chài và thả lưới như mọi người, chẳng có bí quyết gì hết. Hôm kia, lúc tôi sắp chèo thuyền về thì từ trong tâm tôi

Page 24: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

nghe có tiếng khóc dưới sông, tôi nhảy xuống xem có đứa trẻ nào trôi sông hay không, và tôi vớt được pho tượng này. Ngay sau đó là cha tôi xuất viện về nhà. Cha tôi bảo rằng trong giấc mơ, người thấy vị nữ thần đã chữa cha tôi khỏi bệnh giống như pho tượng này. Dạ, chuyện chỉ có vậy. Tôi đã khai đúng sự thật.

Viên trưởng đoàn thấy không có gì để khai thác thêm, nhưng vấn đề trung tâm bây giờ là pho tượng. Giải quyết vấn đề pho tượng là giải quyết được tất cả các vấn đề liên quan. Ông ta hỏi bà Ba:

- Xin bà cho biết pho tượng này ở đâu mà có trong nhà bà.

Bà Ba biết rằng lời khai của bà rất quan trọng, vì bà là nhân chứng cho chồng bà và con trai bà, nếu lời khai của bà có điều gì mâu thuẫn với lời khai của chồng hay của con, chắc chắn vấn đề sẽ rắc rối thêm. Bà thành tâm cầu với vị phúc thần trong pho tượng cho mình nói năng được rõ ràng. Nãy giờ bà ngồi khép nép trong góc nhà, bà đứng dậy hướng về phía viên trưởng đoàn. Ống kính thu hình bây giờ tập trung vào bà. Bà Ba ăn mặc đơn sơ, áo bà ba nâu đã cũ, tóc búi cao, hai tay đan vào nhau rất chặt như để giữ bình tình. Nét mặt của bà hiền lành, chân chất. Giọng nói của bà cũng nhỏ nhẹ:

- Thưa quý chức, như mọi khi, con tôi vác về hai bao cá. Hôm ấy, ngày ông nhà tôi xuất viện về nhà, nó vác về ba bao, một bao để trên giường, hai bao cá tôi phụ nó đổ vào thùng cho con dâu đi bán. Rồi nó kể cho tôi nghe việc vớt pho tượng như đã kể cho quý vị vừa nghe. Tôi có nói với con: “Nhà mình thờ Phật, con liệu xem để đem bức tượng đi chỗ khác”. Nó bảo: “Không được, chẳng lẽ lại vứt tượng xuống sông?”, vì nó tin rằng vị thần trong pho tượng này đã cho nó đánh bắt được nhiều cá, và khi ông nhà tôi trở về, thì ông lại khẳng định chính vị phúc thần trong pho tượng này cho ông khỏi bệnh. Tôi bối rối chưa biết suy tính thế nào cho phải với thần linh.

Viên trưởng đoàn biết không còn gì để khai thác thêm, ông ta nói:

- Thưa cả nhà, chúng tôi đã ghi lời tường trình của ba người. Chúng tôi sẽ thẩm tra lại từ các nguồn tin khác nữa. Kết luận như thế nào sẽ làm việc với ông bà sau. Bây giờ chúng tôi xin tận mắt chụp hình bức tượng lạ và gia đình ông.

Viên trưởng đoàn dừng lại hỏi ông Ba:

- Ông có bằng lòng không?

- Chúng tôi sẵn sàng.

Thạch Hải mở cái mền trùm pho tượng ra. Mọi người dán mắt nhìn. Ống kính truyền hình vừa quay toàn cảnh buổi làm việc vừa lấy cận ảnh pho tượng lạ. Họ biết đây là pho tượng Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu bên đạo Công Giáo. Gọi là pho tượng lạ vì pho tượng Công Giáo xuất hiện trong một nước mà Phật giáo là quốc giáo, không rõ nguồn gốc. Tượng lại do một người theo đạo Phật vớt được, và lại làm phép lạ ở một gia đình theo đạo Phật mà mọi người đã chứng kiến nhãn tiền.

Các phóng viên chụp hình xong, viên trưởng đoàn hướng về phía ông Ba hỏi tiếp:

- Ông thấy khỏe mạnh như lúc trước không?

Page 25: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Thưa khỏe. Như các ông vừa điều tra bệnh án của tôi. Hoàn cảnh gia đình tôi: vợ yếu, con đông, công việc làm ăn khó khăn nên tôi phải làm việc cật lực cũng không đủ ăn, nên tôi bị lao phổi. Cứ chạy chữa được ít bữa, hết tiền, tôi lại lao vào công việc, nên bệnh tình càng ngày càng nặng. Lần nhập viện vừa rồi tôi nghĩ là chín mươi đến một trăm phần trăm tôi sẽ bị hỏa thiêu.

Nghe ông nói “hỏa thiêu”, bà Ba hắng giọng ho, sợ ông nói gở.

Ông Ba giơ tay chỉ bức tượng nói tiếp:

- Hôm nay tôi được khỏi bệnh là nhờ Bà này chữa tôi…

Bà Ba càng hắng giọng to hơn, rồi bà vội nói vào:

- Việc ông được khỏi bệnh phải để cho cấp trên quyết đoán, sao ông lại nói vội vậy?

Ông Ba định cãi lại vợ, nhưng ông thôi không nói nữa.

Thấy trời đã về chiều, nhà ông Ba lại tối, nên viên trưởng đoàn quay sang hỏi người con dâu:

- Chị là con dâu trong gia đình, chị là người bán cá do anh Hải đánh bắt, chị cũng là người chăm sóc cha chồng ở bệnh viện, chị có ý kiến gì về sự việc này?

Chị khiêm tốn trả lời:

- Ngày nào chú út cũng đem về hai bao cá ngon, tôi đem ra chợ bán cái vèo là hết. Ai cũng hỏi đánh bắt ở đâu được nhiều cá và toàn cá ngon như vậy, tôi nói chú út chài lưới ở ngoài sông như mọi người. Bán xong tôi đem cơm cho cha chồng tôi và chăm sóc người ở bệnh viện. Ngày nào tôi cũng hỏi bác sĩ về bệnh tình của người. Các bác sĩ đều ái ngại. Tôi lo lắm.

Hôm cha tôi xuất viện, hôm đó khoảng hơn chín giờ sáng, tôi đem cơm cho cha tôi. Khi vào đến phòng, tôi thấy cha tôi đang quỳ ở dưới đất, nhìn lên trời vái lia lịa. Có ai đó nói chắc cha tôi điên. Tôi chạy lại đỡ cha tôi dậy, nhưng cha tôi la lên: “Cha hết bệnh rồi”.

Sau đó các bác sĩ chạy đến, họ xét nghiệm lại và cho cha tôi xuất viện. Thưa quý chức sự việc là như thế.

Bà Ba tiếp lời con dâu:

- Thưa quý chức, nhờ con dâu tôi mà gia đình tôi mới có ngày đoàn tụ này. Cách đây mấy tuần, ông xã nhà tôi đau nặng phải đi nhà thương, cháu út nhà tôi mới đi nghĩa vụ tôn giáo về. Gia đình chúng tôi túng quẫn quá phải để cháu đi chài, may ra có kiếm được chút ít gì để phụ vào ăn uống cho qua ngày. Không ngờ sau ít ngày làm ăn, cả tuần lễ nay, ngày nào cháu cũng đánh bắt được vài bao cá. Con dâu nhà tôi đem ra chợ bán, nên tiền thuốc men cho ông nhà tôi có phần đỡ hơn, rồi con dâu tôi ở lại chăm sóc cha chồng thay tôi…

Viên trưởng đoàn hỏi tiếp:

- Vậy khi bà thấy cậu út này đưa tượng về nhà, bà có ý kiến gì không?

Page 26: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Bây giờ bà Ba đã bình tĩnh hơn vì thấy thái độ của viên trưởng đoàn đã có vẻ thân thiện:

- Nhìn thấy thằng út đem tượng lạ về, tôi đã hoảng hồn kêu Trời Phật và vội vàng đóng cửa lại. Tôi sợ có tượng lạ, Trời Phật sẽ phạt, và sợ người ngoài nhìn thấy tượng lạ vào nhà, người ta báo cho quý chức thì không biết phải khai báo thế nào. Tôi đã nói thằng út đưa tượng trả về chỗ cũ, nhưng nó không chịu. Thằng út kể tất cả những điều lạ lùng trước, đang và sau khi thấy tượng. Nó bảo gia đình tôi đã nhận được nhiều ơn phúc, nên nó không chịu đưa tượng đi. Chúng tôi đang tính đi lên nhà thương hỏi ý kiến ông nhà tôi thì bất ngờ ông xuất viện về nhà. Mọi chuyện thì các ông đã rõ rồi đó.

6

Câu chuyện bức tượng lạ đưa về nhà ông Ba Hưởng tưởng chừng đã dừng lại; nhưng chính từ gia đình ông Ba Hưởng xuất hiện những điều lạ đã gây xáo trộn và sợ hãi trong đời sống tôn giáo xóm chài. Các viên chức tôn giáo trong xóm rất khó chịu, họ muốn tìm ra sự thật để chặn đứng sự hoang mang trong dân. Vì thế, trong đoàn đến nhà ông Ba Hưởng thẩm tra vừa rồi đã có các viên chức phụ trách tôn giáo ở làng chài, có cả chức sắc cấp cao hơn. Họ nghĩ rằng đây có thể là một hoạt động cải đạo, bằng cách giúp đỡ người bệnh và phao lên chuyện phép lạ, để thu hút sự hiếu kỳ, mê tín trong dân. Nhưng họ đã thất vọng.

Các cơ quan báo đài và viên an ninh đã đến nhà ông Ba Hưởng để làm sáng tỏ vấn đề, nhưng đã không được như ý. Gia đình ông Ba Hưởng đã khai báo rất thành thật và rất rõ ràng, không có chỗ nào mờ ám, ẩn khuất, cũng không có bóng dáng nào của nhà truyền đạo, cũng chưa có sự cải đạo nào. Còn sự hiện diện của pho tượng là một sự thật không thể chối cãi. Tượng cũ, đã hoen rỉ và trầy xước, không phải tượng mới đúc để đem tặng. Báo đài đã tường thuật khá khách quan sự thật ở nhà ông Ba Hưởng. Họ cũng tường thuật cả những người được ơn lạ khi cầu xin tượng nữ thần. Cũng có thể có những chuyện được người dân “thổi phồng” lên không kiểm chứng được, nhưng được báo, đài tường thuật, đã tác động rất mạnh vào dư luận. Thay vì ngăn chặn sự lan tỏa những tin tức về pho tượng, báo đài lại làm cho những tin tức này lan tỏa nhanh hơn, mạnh hơn.

Gia đình ông Ba Hưởng sau những ngày “thử thách” đã trở lại bình an. Bà Ba không còn bắt chồng và con phải đem tượng đi nơi khác. Còn cha con ông Ba một lòng thành kính biết ơn vị phúc thần ẩn trong pho tượng. Vì nhà chật chội, lại có bàn thờ Phật của bà Ba, ông Ba đã đặt tượng ra ngoài sân, trên một tảng đá lớn, có mái che

Page 27: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

mưa nắng và ngày ngày thắp nhang vái tượng. Ông không biết tụng kinh hay làm nghi thức gì để bày tỏ niềm tin tâm linh của mình, nhưng ông tin rằng chính nữ thần trong pho tượng này đã cứu giúp ông. Có một điều đến nay chưa giải thích được, là theo lời kể của Thạch Hải, nơi khúc sông vớt được tượng lại có tiếng khóc của trẻ con vang lên trong tâm mình. Quan sát kỹ pho tượng, cha con ông Ba suy đoán rằng, tiếng khóc trẻ con chắc là của em bé được bồng trên tay vị nữ thần. Nhưng sao lại là tiếng khóc mà không là một âm thanh nào khác? Hẳn là phải có một thông điệp nào chăng? Hàng ngày khi thắp nhang trước pho tượng, cha con ông luôn nghĩ đến điều ấy.

Chỉ trong một thời gian ngắn, nhà ông Ba Hưởng đã trở thành nơi có nhiều khách từ phương xa lui tới. Họ là khách hành hương. Lúc đầu thỉnh thoảng có một vài người, sau người ta đến càng lúc càng đông. Ông Ba phải thu dọn sân sạch sẽ, che thêm mái lá cho mát chỗ đứng của khách những lúc nắng mưa.

Thế là từ đó, nhà ông Ba Hưởng trở thành một điểm đến của các Tour Du Lịch xứ Chùa Tháp. Khách du lịch từ thủ đô Phnom Penh ra thăm đảo “Hy Vọng”, không Tour nào là không có khách đến viếng tượng Đức Mẹ làm phép lạ. Họ đến để xin ơn, và nhiều người trong số họ đã được ơn riêng.

Làng chài trở nên náo nhiệt. Các quán giải khát bắt đầu mọc lên. Có cả những người bán hoa tươi, vì khách du lịch thường mua hoa đặt dưới chân tượng Đức Mẹ. Người ta cũng tự nguyện thắp đèn cầy và đọc kinh chung, rất thành kính. Ông Ba Hưởng không hiểu biết gì nhiều về tôn giáo, ông chỉ nghe người ta nói: khách hành hương là người Công Giáo ở khắp nơi tìm đến, phần nhiều là người Việt ở trong nước sang và người Việt ở Pháp, Mỹ, Úc đi du lịch Campuchia. Đã có một vài chức sắc của một họ đạo ở nhà thờ Arey Ksath đến đây. Họ đã ngỏ ý xin đưa pho tượng về Giáo xứ, nhưng ông Ba không chịu. Với ông, pho tượng Đức Mẹ là một ân nhân. Ngài đã cứu ông khỏi cái chết hiểm nghèo, vì thế ông phải hết lòng biết ơn Ngài.

Hàng ngày, ông dùng khăn mềm lau sạch bụi bám trên tượng, thu xếp hoa tươi khách hành hương để lại, để vào một chỗ trang trọng. Ông cũng giúp đỡ khách hành hương những nhu cầu cần thiết. Thái độ của ông cung kính, nhiệt thành, khiến khách hành hương tưởng ông là người có đạo.

***

Những năm gần đây, người Việt trong nước đi du lịch nhiều. Do ít tiền, họ sang những nước lân cận như Campuchia, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Trung Quốc, vừa gần gũi về văn hóa, vừa tranh thủ thời gian. Đó cũng là một nét sinh hoạt trong xu thế toàn cầu hóa và trong khối Asean. Có đi thăm các nước bạn, người Việt trong nước mới hiểu rõ mình hơn. Quả là Việt Nam được trời cho thiên nhiên đẹp. Thật đáng tự hào. Suốt từ Bắc chí Nam, nơi nào ở Việt Nam cũng có thắng cảnh, có thể khai thác du lịch. Có điều chúng ta chưa biết cách làm. Khi du khách đến Thái Lan, các công ty tổ chức Tour cho các thiếu nữ xinh đẹp mặc quốc phục chào đón và chụp

Page 28: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

hình với khách ngay từ bước chân đầu tiên xuống xe. Họ kết hợp du lịch văn hóa với tham quan mua sắm, và họ móc tiền túi du khách bằng đủ loại dịch vụ.

Du lịch Campuchia còn sơ sài. Chủ yếu họ dựa vào Angkor Wat và AngKor Thom ở Siem Reap, biển Hồ Tonlé Sap và thủ đô Phnom Penh, một thành phố quen thuộc như ở Sài Gòn.

Viếng thăm xứ Chùa Tháp dịp này có một phái đoàn từ Việt Nam tới. Trên chuyến xe đi du lịch có hai mẹ con bà Thiên Phước và Thiên Thanh. Qua tin tức trên báo đài, bà Thiên Phước được biết ở Campuchia người ta mới vớt được một tượng Đức Mẹ, và tượng đã làm nhiều phép lạ. Bà chú tâm tìm hiểu vấn đề bằng cách gặp gỡ những người đã đi Campuchia về kể lại. Họ nói tượng Đức Mẹ làm phép lạ ở Campuchia là có thật, không phải chỉ là tin đồn để câu khách du lịch. Họ đã đến tận nơi đặt tượng tại nhà ông Ba Hưởng ở xóm chài. Họ tả lại tỉ mỉ pho tượng và khung cảnh xóm chài. Họ cũng cho biết Campuchia là xứ Phật giáo, người Công Giáo rất ít, không có nhà thờ. Thế nên khi đến đây, du khách cần tôn trọng văn hóa Phật giáo của người dân Campuchia. Họ kể rằng ông Ba Hưởng rất thân thiện, ông sẵn sàng kể lại việc con ông vớt được tượng và ơn lạ ông được Đức Mẹ chữa khỏi bệnh cho mọi người nghe. Ông không ngớt lời ca khen Đức Mẹ. Ông nói, trong giấc mơ ông thấy Đức Mẹ đẹp lắm, không gì ở trần gian sánh bằng…

Nghe những lời ấy bà Thiên Phước thấy náo nức trong lòng, bà muốn đi hành hương Đức Mẹ ở Campuchia ngay, nhất là khi nghe những người xin khấn Đức Mẹ được ơn lạ. Đặc biệt là những người hiếm muộn con cái. Bà đã đến bàn bạc với Cha Phương Bảo về việc bà muốn đi viếng Đức Mẹ ở Campuchia.

Cha Phương Bảo là chánh xứ Russeykeo hiện nay thay Cha cố Gioakim Hồ Quang, nguyên chánh xứ đã về hưu. Ngài là chỗ rất thân quen của gia đình, gần như mọi việc trong gia đình, bà Thiên Phước đều gặp gỡ và xin Cha chỉ dạy. Cha coi ông bà Thiên Phước là ân nhân của Giáo xứ. Ông bà đã dâng hiến cho Giáo xứ một mặt bằng gần 20 hecta để làm trung tâm hành hương Đức Mẹ.

Giáo dân Việt Nam có lòng sùng kính Đức Mẹ một cách đặc biệt, vì Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Đấng bầu cử cho con cái Người trước mặt Đức Giêsu Con Thiên Chúa. Chạy đến Mẹ chắc chắn là được Mẹ cứu giúp, nhất là với con dân Giáo xứ mới được Đức Mẹ cứu thoát nạn diệt chủng ở Campuchia.

Làm một trung tâm hành hương Đức Mẹ để tạ ơn và cầu xin Người ban hòa bình cho đất nước, ban bình an cho mọi người thoát khỏi cảnh chiến tranh, hủy hoại sự sống, phá thai, chà đạp nhân phẩm… là một khát vọng của mọi giáo dân. Giáo xứ đã tiến hành công việc từ năm đến sáu năm nay, nhưng do nhiều nguyên nhân khách quan, công trình chưa hoàn thành được…

Hôm nay đứa con gái lớn là Thiên Thanh, niềm hy vọng lớn nhất của gia đình bà đang rơi vào cơn khủng hoảng trầm trọng. Bà đã chạy chữa hết cách nhưng vẫn không kết quả; Thiên Thanh ngày càng trầm uất. Bà Thiên Phước đến xin ý kiến chỉ dẫn của Cha Phương Bảo. Bà biết rằng những việc con người trần gian không làm được thì Thiên Chúa làm được. Trong thâm tâm, bà định đưa Thiên Thanh đi

Page 29: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Campuchia khấn tượng Đức Mẹ làm phép lạ, nhưng bà không biết đường đi nước bước thế nào. Lại nữa, việc tâm linh cần được Cha linh hướng chỉ dạy, nếu không dễ lầm lạc thành mê tín dị đoan.

Cha Phương Bảo là người biết nhiều về Campuchia, chắc Cha sẽ giúp bà được nhiều trong chuyến đi sắp tới.

Cha Phương Bảo cũng là người rất yêu mến Đức Mẹ. Ngài là Cha xứ của Giáo xứ Russeykeo, giáo xứ của người Việt hồi hương vì bị nạn “cap duồn” những năm 1970. Ngài đang cùng với giáo dân xây dựng trung tâm tôn kính Đức Mẹ.

Theo sự hướng dẫn của Cha Phương Bảo, bà Thiên Phước phải rất kín đáo, không tiết lộ việc bà sẽ đi đâu, làm gì cho ai, nhất là đối với Thiên Thanh. Bà chỉ làm một việc thường lệ là vào dịp hè, bà đi du lịch. Lần này, bà theo đoàn hành hương đi du lịc, tour các nước Đông Nam Á.

Bà Thiên Phước đầy ắp hy vọng về chuyến đi. Bà tin rằng mình đã chuẩn bị kỹ lưỡng. Cha Phương Bảo cũng hướng dẫn bà đôi điều về văn hóa Campuchia khi tiếp xúc với người dân ở đây, đặc biệt là sự tôn trọng phong tục tập quán và tín ngưỡng của họ. Đạo Phật là quốc giáo ở Campuchia, 95% người dân theo đạo Phật. Nhưng đa số họ không hiểu kinh Phật, vì kinh quá cao siêu. Người dân theo Phật là để giải hạn, để làm ăn gặp may mắn, gia đình được bình an, và khi chết được vãng sanh về Tây phương cực lạc v.v… chứ không phải vì giác ngộ chân lý Phật dạy. Ở đây không có nhà thờ, vì thế ngày Chúa Nhật và ngày thường bà Thiên Phước sẽ đọc kinh thay cho Thánh lễ…

Tuy nhiên, bà Thiên Phước gặp trở ngại khi nói chuyện với Thiên Thanh về chuyến đi này. Thiên Thanh viện đủ lý do để từ chối không đi. Nàng bảo, đang bận học và kỳ thi sắp tới, bận sinh hoạt các câu lạc bộ mà Thiên Thanh là thành viên phụ trách nhóm. Sắp tới, nhóm của Thiên Thanh phải tham gia nhiều chương trình trong các lễ hội (festival) văn hóa và du lịch… Bà Thiên Phước biết đó là cách Thiên Thanh từ chối không đi với bà. Bà cũng hiểu Thiên Thanh đang bị hút về phía thế tục, về phía xã hội. Sự phát triển tâm hồn đang bị lệch, bị mất thăng bằng, nếu không nói là đang lao dốc. Bởi nếu người ta cứ hướng ra bên ngoài, cứ lao về phía trước mà không nhìn vào nội tâm, thì một lúc nào đó sẽ đánh mất mình. Bà Thiên Phước thực sự lo lắng. Bà chạy đến xin Cha Phương Bảo can thiệp.

Cha Phương Bảo là người trước đây Thiên Thanh rất kính trọng và yêu mến, nhất là khi gia đình Thiên Thanh chuyển nhượng lại khu đất gần 20 hecta để làm trung tâm hành hương Đức Mẹ. Mỗi lần đi xem đất hay đo đạc, Thiên Thanh đều đòi theo Cha, nhiều lúc ông Hoàng Văn không vui vì muốn Thiên Thanh dành giờ học hành; nhưng vì chiều con, ông lại cho Thiên Thanh đi theo. Mục đích chính của Thiên Thanh là để gặp được Cha Phương Bảo và mong được nghe Cha chia sẻ nhiều điều về đời sống của người trẻ mà Thiên Thanh chưa biết. Cha có cách nói chuyện hút hồn người nghe.

Thường thì mỗi khi đi học về thăm nhà, Thiên Thanh đều vào thăm Cha Phương Bảo. Mối quan hệ của cha mẹ Thiên Thanh với Cha làm cho Thiên Thanh thấy Cha

Page 30: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Phương Bảo như là người thân ruột thịt của mình. Thiên Thanh còn tìm thấy ở Cha sự tin cậy về tri thức, về tâm linh. Bất cứ thắc mắc nào trong việc học tập, trong đời sống và cả trong hành đạo, Thiên Thanh hỏi Cha, đều được Cha chia sẻ thuyết phục.

Cha Phương Bảo cũng biết rằng, tuổi của Thiên Thanh là tuổi dễ gặp khủng hoảng. Từ 15 đến 25 tuổi, người trẻ rất dễ vấp ngã trong hành trình trưởng thành của mình. Đó là tuổi khao khát lý tưởng, giàu sức sáng tạo. Dám dấn thân nhưng dễ chao đảo, bồng bột và liều mạng. Thích tự mình khám phá và không thích bị áp đặt. Dám thử sức với mọi trở ngại dù chưa hề có kinh nghiệm. Dám đạp lên tất cả mà đi, nhưng lại rất dễ bị dụ dỗ, sa ngã. Nhất là trong đời sống xã hội hôm nay, người trẻ sống thực dụng, sống cá nhân chủ nghĩa và chạy theo chủ nghĩa thế tục. Cha rất lo cho giới trẻ và đặc biệt quan tâm đến Thiên Thanh. Cha thường hỏi thăm ông bà Thiên Phước về Thiên Thanh khi lâu ngày không thấy Thiên Thanh về thăm nhà. Cha luôn dõi theo sự trưởng thành về đời sống tâm linh của Thiên Thanh.

Nhưng từ khi gặp “tai nạn tôn giáo” đến nay, Thiên Thanh rút vào phòng kín, ít tiếp xúc với ai và rất ít khi Thiên Thanh nhắc đến Cha Phương Bảo. Ở nhà, ông bà Hoàng Văn không hiểu thực sự điều gì đã xảy đến với Thiên Thanh. Chắc chắn không phải là chuyện thất tình, vì xưa nay đâu có nghe Thiên Thanh nói gì về bạn trai hay là dẫn bạn trai về giới thiệu với gia đình.

Chuyện này ông bà Thiên Phước đã nói rõ với Thiên Thanh. Ông bà khuyên con còn đang học thì không nên dính mắc vào chuyện tình cảm. Hơn nữa, hôn nhân là chuyện hệ trọng, cần tìm người cùng tôn giáo, người hiền lành đạo đức, người chịu thương chịu khó, ăn ở có tình có nghĩa. Không quan tâm giàu nghèo hay địa vị xã hội, quan trọng là con người. Thiên Thanh có vẻ nghe ra vấn đề và sống chuẩn mực, quan hệ có chọn lọc.

Còn chuyện học hành, ông bà Hoàng Văn luôn tôn trọng sự chọn lựa ngành nghề của con. Ông cũng khuyến khích con tham gia các hoạt động xã hội, các câu lạc bộ, các nhóm từ thiện để có dịp phát triển năng lực và tập thực hành các nhân đức xã hội. Thiên Thanh sống rất thoải mái trong sự tin yêu của cha mẹ và của Cha Phương Bảo.

Bà Thiên Phước thấy khó có thể ép Thiên Thanh thực hiện kế hoạch bà đề nghị, nên bà phải nhờ đến Cha Phương Bảo trực tiếp gặp Thiên Thanh. Sau những thăm hỏi xã giao, bà thưa với Cha:

- Thưa Cha, Cha cứu con với. Con Thiên Thanh nhà con nó làm sao ấy. Con hỏi thì nó không nói, nó bảo nó không sao cả. Đi học về là nó rút vào phòng không tiếp xúc với ai. Nó dẹp hết ảnh tượng, chỉ để lại một cây Thánh Giá. Như vậy là sao, thưa Cha?

Cha Phương Bảo có vẻ suy tư. Cha hiểu rằng tuổi sinh viên là tuổi năng động. Thiên Thanh vốn dĩ là một cô gái trẻ trung sôi nổi. Chắc chắn là có chuyện gì hệ trọng không thể chia sẻ. Cha nói:

- Bà xem Thiên Thanh có bị đau ốm không, chuyện học hành có gì khó khăn không, hay là chuyện tình cảm khó nói…

Page 31: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Thưa Cha không ạ. Cháu bình thường. Chuyện tình cảm thì con chưa nghe cháu đề cập đến bao giờ, với lại chúng con cũng “thoáng”, không cấm cản, mà chỉ hướng dẫn để cháu tự chọn lựa, mình là người Công Giáo, phải tìm người Công Giáo mà kết bạn. Khác tôn giáo thì rất khó.

- Bà nói phải. Cứ phải hướng dẫn cho con trẻ. Chắc Thiên Thanh có điều gì khó nói, lúc nào tiện, Thiên Thanh về, bà và Thiên Thanh vào tôi chơi.

Nhân ngày sinh nhật của Cha Phương Bảo, bà Thiên Phước đã rủ Thiên Thanh cùng đi mừng Cha. Thiên Thanh miễn cưỡng phải đi. Thiên Thanh biết sinh nhật của một người là rất quan trọng với người ấy và cũng rất quan trọng trong phép xã giao, Thiên Thanh không thể để cha mẹ thất lễ với Cha Phương Bảo được; vả lại, Cha cũng rất mến Thiên Thanh, xưa nay Thiên Thanh đâu có vắng mặt trong bất cứ lễ mừng nào của Cha bao giờ. Nhưng thực sự bây giờ Thiên Thanh không muốn gặp Cha Phương Bảo nữa, cô dường như đã hết quý mến Cha, và một lực cản nào đó cứ ngăn cô lại. Hình ảnh của Cha Phương Bảo trong cô bây giờ không còn giống như trước kia nữa.

Trước kia, Cha Phương Bảo là thần tượng của Thiên Thanh về mọi mặt. Ở Cha có nét thánh thiện của một vị mục tử hiền lành, bao dung; có nét thanh thoát của một nghệ sĩ tài hoa và có sự uyên bác của một trí thức bậc thầy về trình độ. Cha rất thấu hiểu tha nhân, biết lắng nghe và chia sẻ. Đó là một hình mẫu lý tưởng trong sâu thẳm tâm hồn Thiên Thanh mà khó có thể tìm thấy trong đời thực. Thiên Thanh tự đặt mình làm con chiên ngoan trong tay vị mục tử ấy, để ngài dẫn dắt; tự coi mình là học trò nhỏ của người thầy ấy mà học tập; và là người bạn rất thân có thể chia sẻ mọi điều, nhất là những khi có những vấn đề khó khăn trong tư tưởng.

Nhưng bây giờ Thiên Thanh không nhìn Cha Phương Bảo như vậy nữa. Mọi sự đã bị đảo lộn, đã bị bôi xóa nhem nhuốc. Những gì Thiên Thanh nhận thấy trước kia ở Cha Phương Bảo chỉ là bề ngoài, không thật, không phải như cô đã thấy, đã thầm ước mơ.

Chính Thiên Thanh cũng không ý thức được sự thay đổi ấy từ đâu và từ bao giờ. Có lẽ từ khi Thiên Thanh về thành phố học Đại Học. Từ khi Thiên Thanh gia nhập các nhóm bạn, đi sinh hoạt, thì tình cảm với Cha Phương Bảo cứ nhạt dần. Người ta bảo: “xa mặt cách lòng” là vậy. Thiên Thanh đi học Đại Học như con thuyền ra khơi. Khi rời xa tổ ấm gia đình, khi rời xa cái nôi tinh thần là Giáo xứ, khi rời xa những người thân yêu dắt dìu, thì hoàn toàn mất phương hướng. Trước mặt cô là hai chữ “tự do”. “Tự do” mênh mông! Hai tiếng ấy mới thật tuyệt. Bây giờ cô hoàn toàn có quyền sống cho mình và sống như mình mơ ước. Nhưng cô đâu có biết rằng con thuyền đức tin của cô bắt đầu trôi dạt về nơi vô định, quay quắt trong lầm lạc không sao thoát ra được. Và khi bão giông ập đến, nó sẽ bị nhận chìm.

Chương trình triết học, tôn giáo học, thuyết tiến hóa, khảo cổ học đã làm lung lay tận gốc những nhận thức của Thiên Thanh về tôn giáo.

Khảo cổ học tìm thấy nguồn gốc con người văn minh hôm nay ở Đông Phi cách nay hai trăm ngàn năm. Không có vườn địa đàng. Sáng Thế Ký chỉ là huyền thoại của người Do Thái. Không có A-đam, E-và ăn trái cấm, thì làm gì có tội tổ tông. Thuyết

Page 32: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Tiến Hóa còn cho rằng loài người tách ra từ loài khỉ cách nay bốn triệu rưỡi năm. Không có chuyện Chúa dùng đất nặn nên A-đam và thổi hơi cho A-đam thành người sống. Tôn Giáo Học đứng trên lập trường khoa học duy vật thì lý giải rằng, tôn giáo là sự phản ánh hư ảo thế giới vật chất vào trong tâm hồn con người, rằng sự sợ hãi tạo ra thần linh. Sét đánh là do Thiên Lôi…

“Đất có thổ công, sông có hà bá”. Bao nhiêu tín ngưỡng, bao nhiêu lễ hội đều do con người tự đặt ra, tự huyễn hoặc chính mình. Chẳng hạn, có nơi thờ cá ông và tổ chức lễ hội cá ông hằng năm, người làm nghề biển tin rằng nhờ ông mà chài lưới được mùa. Người đi trên thuyền, trên tàu bị sóng to gió lớn vùi giập, cầu ông thì được ông độ qua khỏi sóng gió. Tín ngưỡng như thế chỉ là do ”sự sợ hãi” mà phát sinh. Ngày xưa còn có tín ngưỡng phồn thực, tức là tục thờ bộ phận sinh dục nam nữ mà người ta gọi là Linga và Yoni. Đối với con người văn minh hôm nay, đó là điều quái gở. Vậy mà ở nước Nhật hiện nay vẫn có lễ hội phồn thực, người ta rước một tượng tạc bộ phận sinh dục nam rất to đến đền để làm lễ. Trước đền người ta bán những cây chocolat, những quà lưu niệm hình Linga khách mua để cầu may…

Những hiểu biết lầm lạc ấy dẫn Thiên Thanh vào bóng tối của ma quỷ. Đức tin và khoa học trở thành một trận chiến trong đầu Thiên Thanh.

Không ai nói cho Thiên Thanh biết về bản chất của những giả thuyết khoa học. Giả thuyết chỉ là giả thuyết, giả thuyết sau lật nhào giả thuyết trước. Giả thuyết thì không phải chân lý. Thiên Thanh cũng không biết rằng khoa học hoàn toàn bất lực trước những vấn đề tâm linh. Không một khoa học nào biết được sự sống là gì, sự sống bắt nguồn từ đâu và sau cái chết, con người đi đâu. Và dù khoa học của con người tiến bộ đến đâu cũng không thể khám phá được những bí mật của vũ trụ vô cùng vô tận này. Dù là thuyết Big Bang hay thuyết đa vũ trụ, vẫn hoàn toàn bất lực trước những điều kỳ diệu phi thường của tạo hóa.

Thiên Thanh cũng không biết rằng, khoa học là con đường tìm kiếm chân lý, và chân lý khoa học phải được chứng minh. Vậy mà, chính khoa học phải dựa trên những cái không thể chứng minh. Toán học Euclide chẳng hạn, phải dựa hoàn toàn trên những định đề Euclide, là những tiền đề không thể chứng minh. Định lý bất toàn của Kurt Godel và nguyên lý bất định của Heisenberg đã chỉ ra rằng, không một hệ thống nào có thể hiểu chính nó, mà phải dựa vào những gì bên ngoài nó. Muốn hiểu vũ trụ thì phải đứng bên ngoài vũ trụ để nhìn, ai có thể đứng bên ngoài vũ trụ? Người ta phải dựa vào đức tin.

Như vậy khoa học và đức tin đâu có mâu thuẫn với nhau. Trí não con người quá nhỏ bé để nhận thức vũ trụ, nếu không nói là không thể hiểu được vũ trụ mênh mông đến như thế nào. Đáng thương thay Thiên Thanh không biết những điều cần phải biết.

Người ta dạy cho Thiên Thanh biết: linh mục chỉ là một tầng lớp thống trị và sống bám vào “con chiên”. Con chiên ngoan đạo là người biết cúi đầu cầu nguyện và thò tay vào túi móc tiền dâng cúng. Như cha mẹ cô đã dâng hiến đất cho nhà thờ, và cả tiền bạc nữa, để được gọi là “ân nhân”. Các vị linh mục ấy chẳng làm gì cho những con chiên “ghẻ”, như con chiên vùng sâu, vùng xa đói nghèo.

Page 33: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Thiên Thanh đã theo những nhóm Thiện Nguyện đi sinh hoạt, đi làm từ thiện. Nhóm trao đổi về mọi vấn đề của người trẻ, có cả giờ trao đổi về Kinh Thánh. Không khí hết sức cởi mở, dân chủ và thoải mái. Trong nhóm có hai sinh viên Hàn Quốc đang thực tập ở Việt Nam. Họ theo đạo Tin Lành. Họ rất cởi mở và năng động. Họ bảo, người theo Đức Giêsu là người sống yêu thương, quan tâm chia sẻ với người nghèo, chia sẻ cụ thể đồng tiền, chén gạo lúc ngặt nghèo, thăm viếng ủi an lúc bệnh tật khó khăn. Hành động ấy chính là rao giảng, không đứng trên bục giảng mà nói suông. Thời đại công nghiệp, tôn giáo cần phải bỏ những nghi lễ rườm rà phong kiến. Người theo Chúa chỉ cần một quyển Kinh Thánh là đủ. Lời Chúa là tất cả, đọc và suy niệm ở bất cứ chỗ nào cũng được, không cần phải đến nhà thờ. Chúa mạc khải cho những kẻ bé mọn, không cần phải linh mục mới giảng được Kinh Thánh.

Lại còn chuyện xưng tội. Nhóm bạn Thiện Nguyện nói, Chúa luôn dạy yêu thương và tha thứ. Chúa chịu đóng đinh, Người đã tha thứ và cứu rỗi tất cả, người theo Chúa không còn mắc tội gì. Và nếu có tội thì đã có pháp luật xử. Người theo Chúa, sống vì tha nhân, yêu thương tha nhân như chính mình thì làm gì có tội. Nếu cảm thấy có lỗi với anh em, thì cứ đứng giữa cộng đoàn, sám hối và chia sẻ. Ngày xưa các tông đồ theo Chúa có ai xưng tội với Chúa bao giờ. Họ đi rao giảng rồi về cùng nhau cầu nguyện và chia sẻ kinh nghiệm, có người thành công, có người thất bại, có lần nào Chúa nào có bắt tội các ông ấy đâu…

Nhóm bạn Thiện Nguyện còn chỉ cho Thiên Thanh nhiều điều mà trước kia Thiên Thanh không được nghe. Họ nói, sau khi ông Giuse chết bà Maria đã tái hôn và sinh ra Gia-cô-bê, Giô-xếp, Si-môn, và Giu-đa (Mt 13,55). Thiên Chúa chỉ nương nhờ nơi Maria để nhập thể làm người chứ Maria không phải là Mẹ Thiên Chúa. Luận điệu đó nhằm phủ nhận vai trò cộng tác của Mẹ Maria vào chương trình cứu chuộc của Chúa.

Những chuyện như thế Thiên Thanh không nghiên cứu Kinh Thánh nên không biết thực hư. Nhưng chuyện về các linh mục thì Thiên Thanh có thể kiểm chứng. Nhóm bạn nói: linh mục bây giờ người nào cũng sống đầy đủ tiện nghi hiện đại, có người đi xe con tiền tỷ, kết bạn với đại gia. Có ai đi chân đất và kết bạn với những kẻ khố rách áo ôm đâu. Họ nói, Kinh Thánh dạy rằng: Nước Trời là của người nghèo, chứ không phải là của người “có tinh thần nghèo khó”. Có người giải thích rằng: cứ làm giàu đi, rồi dùng tiền của phi nghĩa để mua Nước Trời, càng nhiều tiền gửi ngân hàng càng tốt, chỉ cần “có tinh thần nghèo khó” là được. Không phải vậy. Chúa khẳng định, kẻ giàu có vào nước Thiên Chúa khó hơn con lạc đà chui qua lỗ kim. Chúa bảo anh nhà giàu về bán tài sản chia cho người nghèo rồi theo Chúa, nhưng anh ta đi luôn. Chúa lại quyết liệt, rạch ròi: Không ai có thể làm tôi hai chủ. Không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi tiền bạc. Chân lý là thế nhưng các vị mục tử có sống vậy đâu. Các ngài chỉ rao giảng thôi, còn người nghèo thì cứ sống tủi nhục trong hắt hủi.

Bạn sinh viên Hàn Quốc nói rằng: ở bên nước họ, tín hữu Tin Lành ở Nam Hàn được giáo huấn Lời Chúa để hiểu đạo, để rồi tin theo đạo, sống theo đạo, và dạn dĩ rao giảng Tin Lành của đấng Christ cho nhiều người khác. Nhiều tín hữu Hàn Quốc tin rằng sự thành công và thịnh vượng chính là dấu chỉ của ơn phước Chúa ban. Hai nhà Kinh tế học Robert J.Barro và Rachel McCleary cho rằng những xã hội có niềm tin

Page 34: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

cao độ và tỉ lệ đi thờ phượng Chúa cho thấy có tỉ lệ kinh tế tăng trưởng. Tin Lành là tôn giáo phù hợp nhất với thời đại công nghiệp, vì tôn trọng tự do của con người, đề cao tinh thần dân chủ và có sinh hoạt giản dị. Tin Lành thích ứng được với mọi hoàn cảnh vì có nhiều hệ phái, không tập trung như một tổ chức thống nhất toàn cầu. Ngày nay, người ta dễ dàng nhận thấy những nước có nền công nghiệp tiên tiến là những nước có đông người theo đạo Tin Lành như Mỹ, Anh, Thụy Điển, Na Uy, Đan Mạch, Đức, Hà Lan…

Bị tiêm nhiễm những điều lầm lạc như vậy, đầu óc Thiên Thanh cứ rối tung lên và lòng đạo cứ nguội lạnh dần. Cô đi nhà thờ là theo quán tính. Cô nhìn linh mục cử hành Thánh lễ chỉ là những hành động có ý nghĩa biểu tượng, không có gì là linh thiêng. Tượng ảnh là giả tạo, đó chỉ là cục đá, khúc cây vô tri do người ta tôn làm thần thánh.

Rất tiếc là Thiên Thanh không đến những giáo xứ vùng sâu vùng xa, những giáo xứ không có nhà thờ, chỉ có nhà tạm, những giáo xứ ở miền Tây chẳng hạn, hay ở Tây Nguyên, để thấy người Mục Tử đã từ bỏ tất cả để theo Chúa chăm sóc đoàn chiên như thế nào. Thiên Thanh cũng không đến những trung tâm hành hương như Đức Mẹ La Vang, Đức Mẹ Trà Kiệu, đền thánh Giuse, đền thánh Martin… để chứng kiến sức mạnh đức tin của hàng vạn, hàng vạn con người, có cả những người bên lương. Và để tự trả lời những vấn nạn của mình? Một người đã mù thì không thể nhìn thấy đường mà đi…

Có điều Thiên Thanh không nói với ai suy nghĩ của mình, bởi cô không còn tin ai nữa. Cuộc đấu tranh trong nội tâm cô đã tàn phá tất cả những gì được bồi đắp từ nhỏ. Và cô lâm vào trạng thái trầm cảm. Phải có một biến cố nào đó, thật mãnh liệt, như biến cố Damas thì may ra con mắt tâm linh của cô mới mở ra được. Còn bây giờ, tình cảnh tăm tối trong tâm hồn cô thật đáng thương.

Thiên Thanh đi với mẹ đến chúc mừng sinh nhật Cha Phương Bảo. Như một người mất hồn, Thiên Thanh trở nên thờ ơ và xa lạ.

Cha Phương Bảo đã được báo trước. Cha vẫn vui vẻ, nồng nhiệt và gần gũi như từ trước đến giờ. Cha hỏi thăm việc học và sự thăng tiến của Thiên Thanh. Cha không đả động gì đến những bất ổn trong tâm hồn Thiên Thanh, bởi lúc này Cha biết: nếu bùng nổ những bức xúc trong một tâm hồn đã nguội lạnh thì chỉ làm đổ vỡ thêm. Cần có thời gian để khâu vá một trái tim đã rạn vỡ. Cũng cần có những thực tiễn để Thiên Thanh nhận thức và tự giác ngộ. Con đường tự chứng ngộ là con đường đau khổ mà mỗi cá nhân phải vượt qua. Cha tin rằng ơn Chúa vẫn hằng đổ trên Thiên Thanh và Chúa Thánh Thần sẽ giúp cô vượt qua những cơn thử thách.

Cha Phương Bảo gợi ý cho Thiên Thanh đi du lịch và giúp Cha thu thập tin tức và hình ảnh để Cha viết sách. Khác với mọi lần, mọi đề nghị của Cha Phương Bảo đều được Thiên Thanh chấp nhận ngay cách hồn nhiên vui vẻ, lần này Cha phải cố nài nỉ, Thiên Thanh mới thuận ý. Cha Phương Bảo biết rằng, như thế là còn hy vọng. Thiên Thanh chưa hoàn toàn đánh mất gia đình, đánh mất những tình thân, và bây giờ phải thắp lửa tin yêu trong lòng cô để xua tan đi bóng đêm và băng giá. Cha hướng dẫn cho Thiên Thanh về văn hóa xứ Campuchia, về những địa danh trong Tour Du Lịch.

Page 35: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Thiên Thanh tỏ ra chú ý lắng nghe và thích thú về những câu chuyện Cha kể, vì những chuyện như thế, Thiên Thanh chưa nghe sách báo nào nói đến. Cha cũng chỉ cho bà Thiên Phước cách giúp Thiên Thanh trong cuộc viếng thăm tượng Đức Mẹ mới tìm thấy ở sông Mekong. Ngài chúc lành cho chuyến đi của hai người và chờ tin vui Thiên Thanh đem về.

7Chuyến xe khởi hành lúc 4 giờ sáng, đến Tây Ninh lúc 7 giờ, dừng lại nửa giờ ăn đặc sản bánh canh Tây Ninh. Có người bảo, bánh canh có gì là đặc sản, ở Việt Nam, đâu mà chả có. Nhưng ở đây có cái riêng của chủ quán: Bánh tráng cuốn thịt heo luộc được thái to bản ăn với nhiều loại lá cây hái ở trong rừng. Bánh canh sợi mềm và ngon hơn, mỗi tô bánh canh có một cục thịt heo to. Sáng thức sớm, đói bụng mà làm một tô bánh canh nóng thì khỏe người. Khách du lịch ra vào quán nườm nượp, không khí có vẻ náo nức.

Bà Thiên Phước và Thiên Thanh chọn một bàn ngồi chung với những người cùng đoàn để làm quen. Xe đi sớm, trên xe ai cũng ngủ, chưa ai biết ai, trừ những người đi theo nhóm gia đình. Câu chuyện làm quen mới chỉ bắt đầu từ lúc khởi hành và đoạn đường lên Tây Ninh. Ai cũng than khổ:

- Xe chạy như rùa!

Tài xế bảo:

- Công an bắn tốc độ dữ lắm, bị bấm thẻ là treo niêu, vợ con cạp đất mà ăn.

Mọi người chép miệng cảm thông với bác tài, không ao nỡ cằn nhằn điều gì nữa. Nghề nào cũng có cái khổ của nó. Làm dân thì phải sống và làm việc theo pháp luật.

Một đoạn đường hơn trăm cây số mà xe chạy gần 4 giờ, và phải đóng tiền qua trạm bảy lần. Ai đó nói: “Cái đất nước mình nó vậy”. Thiên Thanh chỉ im lặng quan sát, nàng không thấy có cảm xúc, vì những chuyện như vậy với cô đã quá quen, không biết bên Campuchia có vậy không.

Sau khi rời quán bánh canh, xe trực chỉ biên giới đi cửa khẩu Mộc Bài Tây Ninh.

Hơn 9 giờ, xe dừng ở trạm Mộc Bài. Trong khi chờ làm Visa qua trạm, ai cũng tranh thủ chụp hình, sợ xe đi nhanh sẽ không kịp ghi lại kỷ niệm một lần xuất ngoại. Người đứng góc này, người xoay ống kính góc kia, cố chụp cho được cái cổng chào rất to và cột tháp rất cao. Cổng trạm có hình mái cong như hai bàn tay đưa lên, mang phong cách phương Đông. Tháp cao, trên ngọn có bánh xe công nông và những con chim

Page 36: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

hạc như trong trống đồng, nhưng nhìn xa như tháp của một ngôi Chùa có xa luân nhà Phật, tức là giống bánh xe luân hồi. Nhìn xa phía bên kia là đất nước Campuchia.

Những tưởng làm thủ tục thị thực Visa mất chừng một giờ là cùng, vậy mà Thiên Thanh phải chờ đến gần 11 giờ trưa mới qua trạm Việt Nam. Trời nắng, nóng như trong nhà mồ. Sao mà rùa quá, không chịu nổi. Chỉ có mỗi việc đóng dấu thị thực vài chục người mà mất 3 tiếng đồng hồ. Kiểu này sang trạm Campuchia mất 3 tiếng nữa là hết ngày.

Thiên Thanh cảm thấy bực bội, thời buổi computer kết nối Internet mà làm việc còn thế này thì bao giờ mới theo kịp người ta. Nghĩ vậy, nhưng Thiên Thanh chẳng biết nói với ai. Cho đến khi qua trạm phía Campuchia, cô mới thở phào nhẹ nhõm. Phía Campuchia họ làm rất nhanh. Du khách xếp hàng một, có bốn năm dãy làm thủ tục. Từng người một, đi qua camera chụp hình rồi đi ra, chỉ mất chừng 20 phút. Xe đón đoàn chờ sẵn ở cổng.

Nữ hướng dẫn viên người Campuchia đón đoàn lên xe. Cô chừng 20 tuổi, màu da chỉ hơi ngăm, không quá rám nắng như người Khmer bản địa. Cô nói tiếng Việt như người miền Tây. Khi mọi người đã an vị trên xe, cô gửi lời chào và nói rằng cô là người hướng dẫn tour suốt thời gian du khách lưu lại trên đất nước Campuchia. Cô có cha là người Khmer, mẹ là người Việt miền Tây. Cô đã ở Việt Nam lúc nhỏ và học trường du lịch ở Việt Nam hai năm. Hèn chi, du khách có cảm giác rất gần gũi thân thiện. Chỉ khi cô ta nói chuyện với tài xế bằng tiếng Campuchia, lúc ấy người ta mới biết cô là người Campuchia.

Du khách trong đoàn phần nhiều là đi nghỉ hè. Có gia đình đi cả cha mẹ, con cái và có cả người lớn tuổi. Nhiều người lúc ở trên xe, tay lần chuỗi bồ đề, chắc là Phật tử đi tham quan đất Phật để cầu phước. Cùng đi với bà Thiên Phước, có mấy người muốn đến chỗ Đức Mẹ làm phép lạ mà họ nghe đồn. Nhờ thế, bà Thiên Phước kết bạn rất nhanh.

Người lớn từng trải, họ hiểu nhau ngay sau vài câu xã giao. Nhất là cùng tôn giáo, cùng mục đích đi hành hương, thì tâm tình tôn giáo là sợi dây rất chắc kết nối họ với nhau. Họ không ngại thổ lộ những chuyện riêng tư mang đến xin khấn với Đức Mẹ. Có người chồng bị ung thư thời kỳ cuối. Có người con gái bỏ nhà đi, tìm không thấy, chỉ biết chạy đến Mẹ. Có người làm ăn khánh tận bị nợ xiết đến xin Mẹ cứu giúp. Mỗi người mỗi cảnh, thì thầm truyện trò với nhau, như đã thân nhau từ bao giờ. Nhờ thế họ quên thời gian và đường xa.

Thiên Thanh không quan tâm đến chuyện người lớn, chuyện Đức Mẹ làm phép lạ. Thiên Thanh chỉ muốn biết đất nước người ta có giống đất nước mình hay không.

Xe chạy rất nhanh. Kim đồng hồ chỉ tốc độ vọt lên 100km rồi 120km. Chưa bao giờ ở Việt Nam mà xe chở khách dám chạy với tốc độ như vậy. Có người hỏi tài xế :

- Không sợ công an bắn tốc độ hay sao?

- Ở đây không có công an, chạy thoải mái. Nhưng cũng rất sợ.

- Bác tài sợ gì?

Page 37: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Sợ bò thả rông băng qua đường bất chợt.

- Bò thả rông không sợ bị bắt bán cho tiệm phở hay sao?

- Người ta thả, nó đi ăn, tối tự tìm về, chẳng ai bắt cả.

Thiên Thanh nhìn ra hai bên đường. Cảnh vật lướt qua rất nhanh. Lác đác có một vài căn nhà. Cánh đồng mênh mông, trơ đất trắng, không thấy trồng trọt gì. Đúng là lâu lâu lại thấy mấy con bò gặm cỏ bên đường. Không thấy có người chăn bò.

- Bác tài ơi, sao ở đây người ta không trồng trọt gì vậy?

- Không có nước. Không có hệ thống kinh rạch dẫn nước vào ruộng nên không trồng được gì.

- Thế người dân làm gì để sống.

- Đi làm thuê. Nhìn trên đường kia, có nhiều tốp người đạp xe đạp. Họ đi làm. Lúc trở về, người nào vui vẻ là người ấy có việc làm, người nào rầu rĩ là hôm ấy thất nghiệp.

- Trước cửa nhà người dân có những cái máng chắn bằng tấm nilon trắng là cái gì vậy bác tài?

- Là cái máng người ta bắt dế. Ban đêm người ta bắt điện sáng, dế bay đến đụng vào tấm nilon, rơi xuống bọng nước có muối, sáng ra người ta vớt lên cho vào chảo chiên lên rồi đem bán.

- Thiệt vậy sao?

- Ở đây người ta ăn dế, ăn bò cạp núi và đủ thứ.

Du khách trên xe ồ lên ngạc nhiên. Có người lại hỏi:

- Sao Nhà Nước không lập nhà máy sản xuất hàng hóa cho dân làm?

- Người dân Campuchia không sản xuất, vì hàng Thái Lan và hàng Việt Nam rất nhiều và rẻ, hàng sản xuất trong nước mắc, không ai mua.

Mọi người lại kinh ngạc.

- À ra vậy!

Cô hướng dẫn giới thiệu với đoàn vài điều về đất nước Campuchia. Cô ta nói giọng hơi lơ lớ, cuối câu thường thêm vào chữ “Hayza!”. Đặc biệt phát âm “r” thành “g” như người Nam bộ.

- Hôm nay xe sẽ chạy suốt ngày, Hayza! Quý khách nhìn bản đồ sẽ thấy xe chạy suốt từ Nam lên phía Bắc gần hết đất nước Campuchia. Mình rời cửa khẩu Mộc Bài, mình đi theo quốc lộ 7 lên Kampong Cham, rồi sang quốc lộ 6 đi Kampong Thom và lên Siem Reap, Hayza!. Tên Siem Reap có nghĩa là người Xiêm bị bại trận. Hayza!

Khách trên xe lắng nghe và nhìn theo tay chỉ trên bản đồ của hướng dẫn viên du lịch. Cất tấm bản đồ đi, cô hướng dẫn nói tiếp:

Page 38: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Có mấy điều lưu ý quý vị. Ở bên đường thường có những cổng Chùa, nhưng Chùa lại nằm sâu trong làng, cách đó hàng cây số. Chùa Campuchia chỉ thờ Phật, không thờ Quan Âm như ở Việt Nam, Hayza!

Cô hướng dẫn viên bắt đầu nói say mê, nhất là những khác biệt văn hóa với người Việt.

- Trước kia thanh niên Khmer phải vào Chùa tu hết. Hayza, có người tu luôn, có người tu tập. Muốn lấy được vợ hay muốn xin việc làm phải có giấy nhà Chùa chứng nhận mình đã tu. Hayza! trong Chùa dạy chữ, dạy đạo đức nên chứng chỉ của nhà Chùa có giá trị. Hayza! Ở Campuchia buổi sáng các vị sư đi hóa duyên, ai có gì cho nấy. Người dân có thể cho cơm, cho tiền hay thức ăn. Họ ăn mặn chứ không ăn chay. Và chỉ ăn một bữa sáng thôi, nhịn tới sáng hôm sau.

Campuchia vẫn giữ chế độ mẫu hệ. Con gái cưới chồng, con trai ở rể. Hayza! con gái đi làm nuôi sống gia đình, con trai làm việc nhà. Nhà có con gái tới tuổi lấy chồng thì treo vải hồng ở cửa sổ. Chàng trai nào muốn tìm hiểu thì xin đến ở. Anh ta được nhà vợ thử thách 3 tháng. Nếu được thì sẽ cho cưới vợ. Không được thì đi. Ngày nay anh trai nào có tiền gửi ngân hàng, có công ăn việc làm là có thể lấy vợ. Ở Campuchia có tiền thì có thể mua được mọi thứ. Nhưng chứng nhận của nhà Chùa thì không mua được, Hayza!

Mọi người lại ồ lên và chăm chú nhìn vào những căn nhà lụp xụp ven đường, nhưng chẳng thấy có nhà nào có rèm cửa màu hồng cả. Không biết điều cô hướng dẫn viên nói là thực hay chỉ đùa cho vui. Đã quá trưa, mọi người đều đói bụng. Cô hướng dẫn làm dịu cơn đói:

- Hôm nay mình qua khẩu hơi trễ nên ăn trễ một chút, quý khách xin vui lòng. Có điều này xin lưu ý: Ở đây người ta ăn bằng tay. Lấy tay bốc cơm, bốc thức ăn, không dùng đũa hay muỗng như ở Việt Nam.

Có người hỏi:

- Vậy ăn canh thì ăn làm sao?

- À, mình dùng ống hút để hút nước canh, sau đó dùng tay để bốc rau trong tô canh!

Thiên Thanh chợt la lên:

- Eo ôi, làm sao mà ăn kiểu vậy được, dơ quá hà!

Mọi người nơm nớp lo lắng về cách ăn uống ở đây. Ăn kiểu bốc như thế này thì mất vệ sinh quá. Lại nghe nói có món mắm bò hóc, nặng mùi rất khó ăn. Chuyến đi này chắc là nhịn đói thôi. Cô hướng dẫn cũng chỉ cho mấy tiếng Campuchia:

- Anh ơi: boong ơi, em ơi: ôn ơi (tiếng gọi thân mật)

- Đói bụng là gì? - có người lên tiếng hỏi.

- Là heo bai,

- Gọi thêm cơm là gì?

Page 39: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Là thêm bai. Còn muốn thêm gì nữa thì cứ chỉ vào món đó là tiếp viên họ hiểu.

Câu chuyện cứ cuốn mọi người vào sự hiếu kỳ. Bà Thiên Phước và Thiên Thanh ngồi cạnh nhau trông như hai chị em gái. Người mẹ có dáng sang trọng, tự nhiên, nét mặt phúc hậu. Tuy bà có tuổi nhưng trông còn rất đẹp. Thiên Thanh ngồi bên cạnh mặc quần jean xanh, áo pul trắng, đeo kính trông rất trẻ trung và trí thức. Cô cũng có khuôn mặt thanh tú của mẹ, nhưng dường như không được vui.

Câu chuyện của cô hướng dẫn viên cùng những điều lạ lùng Thiên Thanh quan sát được trên đường đi làm cho cô quên đi những nặng nề trong lòng. Cô thấy đất nước này người dân còn nghèo quá. Việt Nam là nước nghèo song còn thấy những cánh đồng xanh tốt phì nhiêu, ở đây chỉ có đất trắng. Nhà bên đường chỉ là nhà sàn lợp lá, không thấy có ngành nghề sản xuất gì.

Xế chiều xe mới tới Siem Reap. Sau khi ăn tối và nhận phòng ở khách sạn, du khách được đi chợ tối tự do. Cô hướng dẫn nói rằng, nên đi theo nhóm để thuê xe Tuk Tuk cho rẻ. Ở đây mua gì cũng phải trả giá, nếu không sẽ bị hớ. Người bán hàng nói được tiếng Anh và tiếng Việt. Nhưng quý khách nhớ mang theo card khách sạn, nếu lạc còn biết đường về. Kế hoạch tham quan ngày mai là đến thành phố cổ Mahendraparvata, thành phố 1200 năm tuổi mới được nhà khảo cổ học người Pháp Jean-Baptiste Chevance tìm thấy gần đây.

Mahendraparvata có nghĩa là “Núi của thần Indra vĩ đại" (Thần Indra là vị thần có 1000 mắt, có khả năng kiềm chế tình dục). Thành phố nằm sâu trong vùng rừng núi Phnom Kulen ở Siem Reap. Các chuyên gia cho rằng Mahendraparvata được xây dựng trước Angkor Wat khoảng 350 năm. Sau đó đoàn sẽ đi Angkor Wat và Angkor Thom.

Chuyến đi dài và căng thẳng nên ngay sau khi đọc kinh tối với mẹ, Thiên Thanh đã lăn ra ngủ. Lần đầu tiên Thiên Thanh được ngủ một giấc ngon lành, nên khi thức dậy nàng thấy tinh thần vui tươi và rạng rỡ. Cảm giác như bừng tỉnh sau những ngày tháng dài sống trong bóng đêm u tối. Cô hướng dẫn viên thông báo lộ trình và nhắc mọi người đi ngay sau ăn sáng.

Đoàn xe rời Siem Reap. Thành phố buổi sáng khá êm ả. Đường phố vắng người. Vài chiếc xe đưa rước khách du lịch di chuyển chậm qua các con phố. Khu vực này mới xây dựng làm trung tâm du lịch nên có các cửa hàng và các bảng quảng cáo như thường thấy ở các thành phố khác. Cô hướng dẫn cho biết: nhà ở đây không xây cao quá năm tầng, để không che khuất Angkor Wat nằm sâu trong rừng.

Xe bắt đầu đi vào con đường dẫn đến Mahendraparvata. Thành phố cổ này mới chỉ được phát hiện qua công nghệ Lidar nên chưa được khai quật để tham quan. Xe chạy vòng vòng qua những cánh rừng chỉ để du khách biết khu vực có thành phố cổ, sau đó rẽ vào con đường dẫn đến Angkor Wat. Khu đền đài này khá rộng. Xe dừng ở ngoài cổng xa, du khách được hướng dẫn đi bộ vào. Các đoàn tham quan đều có người cầm cờ dẫn đường đi trước.

Trời bắt đầu nắng nóng. Thiên Thanh dừng ở ngoài cổng để mua một chiếc khăn Campuchia. Nàng ghé vào một sạp bán khăn và đồ lưu niệm bên đường. Sạp có mái

Page 40: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

lá che giống như sạp bán hàng ở những điểm tham quan du lịch ở Việt Nam. Thiên Thanh chọn một chiếc khăn màu cam rồi ướm thử lên xem có phù hợp với màu áo không. Nàng có vẻ ưng ý. Màu này mà lên hình thì rất nổi. Thiên Thanh hỏi chị bán hàng:

- Chị nói tiếng Việt được không?

Chị bán hàng người Campuchia lắc đầu. Thiên Thanh hỏi:

- How much does it cost? (Giá bao nhiêu?)

- 4 Dollars (Chị ta đưa ra 4 ngón tay)

- Too expensive! (Mắc quá)

- How much do you pay? (Cô trả bao nhiêu?)

- 2 Dollars (2 Đô)

Khi Thiên Thanh bỏ đi thì chị ta gọi lại bán. Nàng nghĩ, ở đây cũng nói thách chẳng khác gì chợ Bến Thành. Thiên Thanh quấn chiếc khăn lên đầu theo cách quấn khăn của người Campuchia, trông ngồ ngộ. Bà Thiên Phước bảo con gái:

- Bây giờ con là con gái Cam rồi nha. Kiếm một chàng Cam kiều nữa là đẹp đôi. Nhưng mà theo phong tục Campuchia, anh ta phải đến ở rể ba tháng xem giò cẳng có biết làm ăn không.

Hai mẹ con cùng cười. Rồi Thiên Thanh nhờ mẹ chụp cho mình mấy tấm hình với chiếc khăn Campuchia. Thiên Thanh tìm một vị trí có thể lấy được toàn bộ đền đài Angkor Wat. Rồi cả hai cùng đi theo đoàn vào Angkor.

Vừa đi, hướng dẫn viên vừa giới thiệu: Siem Reap nổi tiếng với quần thể Angkor Wat, Angkor Thom, đền Bayon có tượng Phật 4 mặt, Đền Ta Phrum. Cảnh hoàng hôn tuyệt đẹp trên đồi Bakheng. Angkor Wat (Angkor: kinh đô, Wat: đền thờ hay Chùa), thờ vị thần Visnu của Ấn Độ Giáo. Nằm cách thủ đô Phnom Penh 240 km về hướng Bắc, Angkor Wat được xây dựng dưới thời vua Surja-warman II (1113-1150), mới đầu để thờ thần Visnu của Ấn Độ giáo. Về sau, khi vương triều Khmer theo Phật giáo, Angkor Wat trở thành đền thờ Phật. Angkor Thom là thành phố thủ đô cuối cùng và lâu dài nhất của đế quốc Khmer. Thành được vua Jayavarman VII xây dựng vào cuối thế kỷ XII. Ngày nay quần thể là một kiến trúc tuyệt đẹp, hoành tráng về tầm vóc, chạm khắc tinh vi. Đá được lấy từ ngọn núi cách xa 60km và được kéo bằng voi về. Đường kéo bị bào mòn rồi nước chảy thành sông. Angkor Wat cao 65 mét.

Trong khu đền Angkor tuyệt nhiên không có hàng quán, không có người xin ăn. Rải rác có những công nhân người Campuchia cuốc cỏ, lượm rác trên sân đền. Lâu lâu họ ngước nhìn đoàn tham quan và cười thân thiện. Thiên Thanh hỏi chuyện họ, nhưng họ không nói được tiếng Việt, cũng không giao tiếp được bằng tiếng Anh, cô mỉm cười vẫy tay chào họ rồi đi.

Angkor Wat thật hùng vĩ. Những nhà thiết kế ngày xưa vĩ đại hơn sự tưởng tượng của Thiên Thanh. Họ lấy đá từ một nơi rất xa đưa về đây, rồi xẻ thành những khối có

Page 41: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

cạnh phẳng và đặt chồng lên nhau thành những dãy nhà liền nhau, nhiều tầng, có những đỉnh tháp cao. Thiên Thanh thấy có những khối đá rất to phải vài chục người khiêng mới nổi. Trên mặt đá quanh đền đều chạm trổ hình của các cô gái Apsara rất tinh tế. Nơi đây không có người ở, và chính phủ Campuchia cũng không sử dụng để làm gì. Tất cả trở thành hoang phế. Có những chỗ đá bị sụp đổ ngổn ngang, nhưng không được tu sửa. Công trình vĩ đại này nhà nước không đủ sức để trùng tu. Nhiều du khách leo lên tháp cao để chụp hình. Thiên Thanh chỉ đứng dưới nhìn lên, cô sợ độ cao. Nhìn ngôi đền cổ vĩ đại bị bỏ hoang phế, trong lòng Thiên Thanh thoáng ngậm ngùi. Những con người vĩ đại của ngày xưa đã trở về với hư không. Cái mà họ tưởng có thể tồn tại muôn đời giờ chỉ còn là một phế tích, uổng phí không biết bao nhiêu công sức của người lao động.

Ở Angkor Thom, Thiên Thanh cũng có những cảm giác ngậm ngùi như vậy. Lâu đài, thành quách, đá chồng lên đá, kỳ vĩ nhưng hoang phế. Có lẽ người ta chỉ đến đây một lần cho biết, và để suy gẫm về lịch sử, về sự tàn phá của thời gian và về kiếp nhân sinh. Bất giác trong lòng Thiên Thanh vang lên câu thơ Thăng Long Hoài Cổ của Bà Huyện Thanh Quan, sao mà ngậm ngùi đau đớn:

“Tạo Hóa gây chi cuộc hí trường

Đến nay thấm thoát mấy tinh sương

Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,

Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,

Nước còn cau mặt với tang thương.

Ngàn năm gương cũ soi kim cổ.

Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”

Rời Angkor Wat, Angkor Thom, Thiên Thanh lại lâm vào trạng thái trầm mặc. Buổi tối hôm ấy nhà hàng ở Siem Reap có chương trình văn nghệ Apsara. Các thiếu nữ Campuchia ban ngày trông đen đen quê mùa nhưng khi họ hóa trang thành các cô gái Apsara, dưới ánh đèn sân khấu cùng với những trang phục lấp lánh vàng, họ trở nên xinh đẹp tuyệt vời. Những động tác múa của họ nhẹ nhàng uyển chuyển và rất tình tứ.

Dân tộc này không chỉ hùng vĩ với Angkor nhưng còn rất nghệ sĩ trong những động tác múa Apsara. Thiên Thanh cứ trầm trồ khen ngợi. Bất giác cô nhận ra dân tộc Việt chẳng có một điệu múa riêng nào. Người Việt thua xa người Campuchia cả về sự hùng vĩ và những đặc sắc tinh tế trong sáng tạo nghệ thuật. Điều ấy càng làm cho Thiên Thanh ngậm ngùi hơn. Trạng thái u uất lại ập đến. Suốt đêm Thiên Thanh không sao chợp mắt được. Gần sáng mới thiếp đi.

***

Page 42: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Ngày hôm nay đoàn đi “Đảo Hy Vọng”, nơi hành hương chính của Phật tử trong mùa Vu Lan. Trên đường đến “Đảo Hy Vọng”, khách du lịch sẽ đi ngang qua con đường rẽ vào xóm chài, nơi có tượng Đức Mẹ làm phép lạ. Vì tượng mới tìm được nên còn nóng dư luận. Cô hướng dẫn tour kể lại những thông tin mà báo, đài đã đăng về tượng lạ, nhưng còn kể thêm những câu chuyện của khách du lịch đi theo tour của cô đến đây và được ơn lạ ngay trên đường về.

Thực ra cô chỉ làm công việc giới thiệu những địa danh du lịch chứ không có mục đích tôn giáo, giống như cô đã giới thiệu những truyền thuyết về cây cầu Kompong Kdei 1000 năm tuổi, hay các truyền thuyết về Angkor Wat, Angkor Thom. Người Việt Nam rất nhạy cảm với vấn đề tâm linh, nhiều người trên xe muốn được ghé vào nơi có tượng Đức Mẹ. Vì đây không phải là điểm tham quan của tour nên bà Thiên Phước và các bà bạn đã thương lượng với người hướng dẫn để xe ngừng ít phút tại nhà ông Ba Hưởng.

Xe đang chạy trên quốc lộ 6 thì rẽ vào con đường đất hướng về phía sông Mê-kông, quãng đường không xa lắm, đâu chừng 10 phút thì đến xóm chài. Đây là một vùng quê như những vùng quê khác ở Campuchia. Cũng những vạt đồng ruộng nứt nẻ, một vài cây thốt nốt vươn cao, rải rác những căn nhà sàn lợp lá, và thấp thoáng những con bò gặm cỏ ở những bờ bụi.

Cô hướng dẫn thông báo xe dừng 15 phút cho khách có nhu cầu viếng tượng Đức Mẹ. Mọi người vội vã xuống xe. Người hướng dẫn chỉ cho mọi người căn nhà lá của ông Ba Hưởng. Căn nhà ọp ẹp như nhiều nhà của dân chài bên bờ sông. Trên mái có những miếng nilon che những chỗ lá đã thủng. Phía đầu hồi có dàn cây phơi lưới. Từ xa du khách cũng nhìn thấy tượng Đức Mẹ đứng trên bệ đá ở trước sân. Có một mái che tượng, và đủ che cho người đứng thắp nhang.

Khách du lịch đã xuống xe gần hết, chỉ còn mẹ con Thiên Thanh. Không hiểu sao Thiên Thanh cứ ngồi lì trên xe, bà Thiên Phước nhắc con.

- Xuống viếng Đức Mẹ đi, con.

Thiên Thanh vẫn lầm lì không nói không rằng. Quả thực, khi nghe người hướng dẫn viên giới thiệu về tượng Đức Mẹ mới tìm thấy và những phép lạ Đức Mẹ đã làm, Thiên Thanh vẫn dửng dưng và còn có thái độ không tin. Trong đầu cô lại vang lên lời những người bạn Tin Lành nói về bà Maria, rằng Bà không phải là Mẹ Thiên Chúa, rằng Bà tái hôn và có thêm mấy người con… Cô không còn nhìn thấy ở Bà vẻ đẹp linh thánh của Mẹ Thiên Chúa nữa. Cô cũng không tin vào ảnh tượng là thứ người ta làm ra để tự mình lừa dối mình. Nào ai biết được Bà Maria, một người Do Thái sống cách nay hơn 2000 năm hình thù thế nào để mà vẽ mà tạc. Kinh Thánh cũng không hề miêu tả Bà làm bất cứ phép lạ nào. Bà chỉ là một phụ nữ bình thường như những người phụ nữ khác theo Chúa. Thiên Thanh thấy lòng mình nguội lạnh. Cô nói với mẹ:

- Mẹ xuống đi, con bị mệt. Đêm qua mất ngủ giờ cái đầu còn quay quay. Con muốn nghỉ một lát.

Page 43: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Nói rồi Thiên Thanh gục đầu xuống lưng ghế phía trước. Bà Thiên Phước biết không thể làm gì khác được, bởi Thiên Thanh đã trưởng thành, cần được tôn trọng. Mọi sự thúc bách hay áp đặt sẽ chỉ làm tăng thêm sự chống đối. Tuổi trẻ vốn dễ phản ứng bộc phát khi bị áp đặt phải tuân theo mệnh lệnh của người lớn. Bà đành xuống chỗ tượng Đức Mẹ chung với các bà khác, không muốn đôi co với Thiên Thanh, sợ người ta biết sự bất hòa giữa hai mẹ con, và lòng đạo nguội lạnh của Thiên Thanh. Tình thương con của người mẹ bao giờ cũng đầy ắp bao dung. Bà chỉ còn biết cậy trông vào Đức Mẹ.

Chuyến đi này của bà là để xin ơn Đức Mẹ cứu chữa cho Thiên Thanh. Sự chân thành của bà, lòng tin của bà là chính. Lòng tin của bà có đủ mạnh để được Đức Mẹ nhận lời hay không, sự hy sinh cầu nguyện của bà có đủ sức kéo ơn của Đức Mẹ xuống cho Thiên Thanh hay không? Suốt chặng đường chuyến đi, bà đã liên lỉ đọc kinh cầu xin Đức Mẹ. Bà không biết Thiên Thanh bệnh gì, chỉ mơ hồ rằng Thiên Thanh đã nhạt đạo, đã có những cử chỉ đi ngược với truyền thống đức tin làm cho bà rất lo sợ. Bà cầu xin Đức Mẹ cho Thiên Thanh sớm trở lại bình thường, nhiệt thành sống đạo.

Thiên Thanh gục đầu xuống lưng ghế trong trạng thái đầu óc quay quay như trong một cơn choáng. Có thể là do đêm qua mất ngủ, cũng có thể là do Thiên Thanh đã kiệt sức trong cuộc đấu tranh tư tưởng. Nàng đã oằn mình chịu đựng những sấm sét trong cuộc giao tranh giữa ánh sáng và bóng tối. Đã vật lộn ngộp thở giữa khoa học và đức tin, đã mất phương hướng giữa giả thuyết và thực tiễn. Đã chao đảo giữa một bên là tình thương của cha mẹ, Cha Phương Bảo và một bên là nỗ lực cá nhân đi tìm chân lý. Và giờ này đây Thiên Thanh đang chới với bên bờ vực. Cô nhìn thấy một miệng vực đen ngòm, sâu thẳm như trong một lỗ đen vũ trụ. Bất giác người cô rung lên một cơn sợ hãi toát mồ hôi hạn.

Một ánh chớp lóe lên trong tâm thức và ánh sáng rạng rỡ dần ra. Những hình ảnh của lịch sử lần lượt đi qua tâm trí Thiên Thanh. Phêrô đang đi trên mặt nước bỗng chìm xuống. Chúa đưa tay đỡ và nói: "Người đâu mà kém tin vậy! Sao lại hoài nghi”. Khi Tôma đòi xỏ tay vào lỗ đinh và vết đâm trên cạnh sườn Chúa thì mới tin Người sống lại. Chúa hiện ra giữa các tông đồ, Người nói với Tôma: "Hãy xỏ ngón tay vào đây và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin". Còn Phaolô trên đường Damas, một người hăng hái bách đạo, đã ngã ngựa trong ánh sáng chói lòa của Chúa, để rồi trở thành một tông đồ vĩ đại làm chứng cho Chúa trong suốt trường kỳ lịch sử hơn hai ngàn năm của Giáo hội. Hàng trăm ngàn giáo dân Việt Nam đã tử vì đạo dưới thời vua nhà Nguyễn. Chẳng lẽ tất cả những người ấy là u mê, cái chết của họ không đủ làm chứng cho chân lý hay sao. Và những giáo dân được Đức Mẹ cứu ở La Vang chẳng lẽ chỉ là huyền thoại…

Trong đầu Thiên Thanh vang lên một lời rất dịu êm Chúa Giêsu nói với Tôma: "Tôma, vì con đã thấy Thầy nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin". Tin bằng thực nghiệm là đúng và là tốt, nhưng tin bằng đức tin thì có phúc hơn. Phải chăng Chúa đang nói với Thiên Thanh điều này ở đây và bây giờ?

Page 44: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Bà Thiên Phước đã cầu nguyện xong và quay trở lại để xem tình hình Thiên Thanh thế nào. Từ phía dưới bà đi lên, khuôn mặt rạng rỡ trong nắng. Thiên Thanh nhìn mẹ, bất chợt, trong một chớp mắt, Thiên Thanh nhìn thấy khuôn mặt Đức Mẹ. Đúng là khuôn mặt Đức Mẹ đang nhìn Thiên Thanh. Thiên Thanh thảng thốt kêu lên: “Lạy Chúa! Lạy Thiên Chúa của con! Lạy Mẹ Maria”. Thiên Thanh tỉnh hẳn. Bà Thiên Phước nhìn con, quan sát rất nhanh thái độ của Thiên Thanh.

Thấy con đã có dấu hiệu tỉnh hẳn, bà mở bóp lấy tràng chuỗi mà Cha Phương Bảo đã trao cho bà với lời dặn: “Khi thấy Thiên Thanh đã có dấu hiệu chuyển biến, thì lấy tràng chuỗi đeo vào cổ cho Thiên Thanh để nhờ Đức Mẹ cứu”. Thiên Thanh ngoan ngoãn đón nhận. Bà Thiên Phước nói:

- Con xuống viếng Đức Mẹ đi! Có chuyện gì con cứ thưa với Đức Mẹ. Mẹ đã cầu nguyện cho con rồi.

Thiên Thanh vẫn nhìn mẹ đăm đăm để kiểm tra lại phút giao cảm bất chợt vừa rồi. “Đúng là mẹ mình, sao lúc nãy mình nhìn rất rõ khuôn mặt Đức Mẹ đang nhìn mình trìu mến!”.

Bà Thiên Phước thấy con không nói gì mà cứ nhìn mình đăm đăm liền nói:

- Con không nhớ Cha Phương Bảo nhờ con chuyện gì sao. Mẹ nhắc con nhé: Cha nhờ con chụp hình, ghi chép tất cả chuyến đi, đặc biệt là chụp hình và ghi chép tượng Đức Mẹ, sao con không giúp Cha? Xe sắp chuyển bánh rồi!

Thiên Thanh như sực tỉnh, cô chạy như bay xuống chỗ tượng Đức Mẹ và quỳ đọc kinh rất sốt sắng, rồi cô lấy máy ảnh chụp hình tượng Đức Mẹ ở nhiều góc độ, để Cha Phương Bảo có thể như được tận mắt chiêm ngưỡng Đức Mẹ.

Lúc ấy bà Thiên Phước gọi điện cho Cha Phương Bảo để ngài nói chuyện với Thiên Thanh. Bà kể cho Cha nghe rằng Thiên Thanh đang quỳ trước tượng Đức Mẹ đọc kinh rất sốt sắng và đang chụp hình. Cha Phương Bảo thăm hỏi chuyến đi, về tượng Đức Mẹ, giải thích cho Thiên Thanh một số chi tiết.

Nghe giọng nói Thiên Thanh và sự nhiệt thành của cô, Cha hiểu đã có sự chuyển biến mạnh mẽ trong tâm hồn người trẻ cứng lòng tin nhưng yếu đuối này. Cha tin rằng: việc người ta không làm được thì Chúa, qua lời bầu cử của Đức Mẹ, mọi sự sẽ có thể hết. Cha chúc mẹ con Thiên Thanh có một chuyến đi đầy ơn lành của Đức Mẹ, và mong Thiên Thanh mang về cho Cha nhiều tư liệu quý.

Thiên Thanh ngưng nói chuyện và đưa điện thoại cho mẹ. Bỗng dưng cô tiến lại gần tượng, tháo cỗ tràng hạt của mình đang đeo, và vòng vào tay Chúa Giêsu. Lúc đó, mọi người nhận ra: mẫu tượng này, tay Chúa Giêsu phải có tràng hạt mới đúng, chắc chắn là khi tượng bị lạc, cỗ tràng hạt đã mất.

Thiên Thanh tìm Thạch Hải và ông Ba Hưởng để hỏi thăm. Thiên Thanh đã trở lại sự hồn nhiên, nhanh nhẹn, vui vẻ như xưa. Tác phong làm việc như một phóng viên chuyên nghiệp.

Page 45: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Trước một cô gái xinh đẹp, trẻ trung, và thân mật như vậy, Thạch Hải rất vui. Ông Ba Hưởng hứa sẵn sàng nói cho Thiên Thanh nghe mọi điều về ơn Đức Mẹ đã cho ông. Ông cũng nói: Nếu Thiên Thanh cần gì, Thạch Hải sẽ sẵn sàng giúp.

8

Mặc dù ngoài chương trình và địa điểm du lịch, nhưng chiều theo yêu cầu của khách du lịch, đặc biệt là sự giao kèo của bà Thiên Phước, đoàn du lịch đã dừng lại nhà ông bà Ba Hưởng cả tiếng đồng hồ để mọi người cầu nguyện, chụp ảnh, hỏi thăm tin tức.

Các hướng dẫn viên lên tiếng nhắc nhở đoàn lên xe để đến điểm tham quan tiếp theo. Bỗng Thiên Thanh quay sang nói nhỏ với mẹ:

- Nếu có thể được, mẹ cho con bãi bỏ chuyến du lịch này để con ở lại đây lấy hình ảnh và tin tức cho Cha Phương Bảo…

Giờ đến lần bà Thiên Phước ngạc nhiên, chỉ trong ít phút, bà chứng kiến biết bao nhiêu thay đổi nơi đứa con cưng của bà: từ thái độ gần như bướng bỉnh chống đối, đến thái độ miễn cưỡng vâng lời; rồi đến sự biến đổi hiền lành, thánh thiện hơn trước kia; bây giờ lại nhiệt tình quá mong muốn của Cha Phương Bảo.

Thực ra, Cha Phương Bảo nhờ Thiên Thanh chụp hình và ghi chép chỉ là cái cớ để Thiên Thanh chịu đi du lịch và để bà Thiên Phước khấn Đức Mẹ ban ơn cho cô trở lại với Chúa.

Trước đề nghị của Thiên Thanh, bà Thiên Phước hơi ái ngại một chút vì bất ngờ. Tuy nhiên, bà vẫn có thể liệu được, vì con bà đã được Đức Mẹ thương cứu. Bà Thiên Phước trả lời con:

- Được, mẹ sẽ thu xếp.

Thỏa mãn yêu cầu, Thiên Thanh gặp gỡ, trao đổi với Thạch Hải và ông bà Ba Hưởng rất tỉ mỉ. Thiên Thanh chụp ảnh khắp nơi khắp chốn nhà ông Ba, không trừ một chỗ nào; dù vậy, ông Ba và Thạch Hải vẫn không lấy gì làm phiền hà, khó chịu.

Ông Ba Hưởng và Thạch Hải lần lượt kể cho Thiên Thanh và bà Thiên Phước nghe về cuộc sống của gia đình họ, về niềm tin và cách sống của họ từ khi có tượng Đức Mẹ như thế nào, cả những ước vọng của họ về hiện tại và tương lai…

Câu chuyện đang hứng khởi thì có khách tới viếng, ông Ba Hưởng phải ra tiếp khách, còn lại một mình Thạch Hải, anh chuyển sang câu chuyện về bức tượng trước và sau khi tìm thấy, anh nói:

Page 46: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Chừng một tuần trước, tôi đưa cha tôi đi nhà thương, gia đình tôi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, buộc lòng tôi phải đi ghe một mình…

Thiên Thanh chen vào:

- Trước kia, anh vẫn đi ghe với cha anh sao?

- Phải, khi anh của tôi lấy vợ và ở riêng, thì chỉ có mình cha tôi, đến khi tôi xong nghĩa vụ tôn giáo thì tôi theo cha tôi, nhưng chỉ vì cha tôi quá kiệt sức, người chỉ cho tôi kinh nghiệm, còn việc làm thì tôi phải đảm đang hết. Nhờ vậy mà tôi đã hơi quen việc…

Thiên Thanh hỏi:

- Nghe nói là anh đã đánh được nhiều cá lắm mà? Như vậy thì anh phải kinh nghiệm lắm chứ đâu phải chỉ hơi quen?

Thạch Hải nhìn Thiên Thanh hết sức cảm phục, một cô gái thật hiểu biết và nói chuyện dễ thương, thu hút được tâm hồn của Thạch Hải, lại còn tỏ ra hết sức lắng nghe và thông cảm với Thạch Hải. Thạch Hải trả lời:

- Không hẳn nhờ vào kinh nghiệm đâu, bằng chứng là trước đây nhiều tháng, cha tôi và tôi nhiều ngày không bắt được cá đủ tiền chợ, không phải riêng tôi mà nhiều ghe khác cùng hoàn cảnh như tôi vậy.

- Vậy nhờ đâu mà một mình anh lại có thể bắt được những mẻ cá như vậy?

Thạch Hải hướng mắt nhìn ra bức tượng ngoài sân và chỉ cho Thiên Thanh:

- Có lẽ nhờ Bà đó!

- Anh nhờ như thế nào?

- Cách đây chừng một tuần trước khi tôi tìm được bức tượng này tại lòng sông Cửu Long, chỗ tôi đi ghe đánh cá. Lúc đầu tôi hơi ngã lòng vì nước sông mưa nguồn đổ xuống quá lớn, muốn cuốn trôi cả thuyền cả lưới. Thực tế, nhiều người đã bỏ về, còn tôi thì cố làm để kiếm sống, nhất là trong lúc gia đình tôi gặp cảnh khốn cùng.

Nhưng thật lạ lùng, tôi vừa tung lưới, thì lưới đã làm thuyền tôi hơi chìm xuống. Tôi cố gượng chống chọi và tìm cách để kéo lưới lên. Một mẻ, rồi tới hai mẻ cá, nhiều không thể tưởng tượng được, tiếp tục đến mẻ thứ ba… Mẻ nào cũng vậy, đổ đầy cả hai bao tải đựng gạo những con cá rói to ít khi tôi gặp thấy trong khi theo cha tôi đi ghe.

Tôi âm thầm đưa cá về và đem cho chị dâu tôi đi chợ bán. Rồi mấy ngày sau tôi vẫn đến khúc sông đó để đánh bắt cá. Cũng chừng lượng cá đó là tôi về…

- Sao anh không bắt thêm để thêm thu nhập - Thiên Thanh hỏi lại.

- Tôi không muốn, vì biết của Trời đã ban cho, không nên lạm dụng. Lòng tham của con người thì vô đáy…

- Rồi đến ngày thứ mấy thì anh vớt được tượng?

Page 47: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Ngày thứ bảy.

- Hôm đó anh có bắt được cá không?

- Cũng như mấy ngày trước, sau khi tôi đã bắt được hai bao cá, tôi định đi về thì nghe tiếng em bé kêu khóc vang lên trong tâm hồn tôi, tôi đã nghe ngóng tìm tòi nhiều nơi mà không có dấu hiệu gì. Dưới dòng sông thì nước đang cuồn cuộn chảy muốn cuốn trôi cả thuyền, may mà tôi đã cột chặt thuyền vào cây. Kiểm tra xong, tôi lại nghe tiếng khóc dội lên lớn hơn và rõ hơn.

Tôi hoảng sợ chợt nghĩ, không biết tôi đã làm gì gây hại cho oan hồn nào. Nghĩ rồi, tôi định vị tiếng kêu khóc ấy ở dưới lòng sông. Lấy hết can đảm, tôi cột thuyền kỹ để nhảy xuống sông tìm mò xem có gì lạ không. Phải đến lần thứ ba tôi mới mò được tượng này.

Bỗng Thiên Thanh đưa ra một đề nghị táo bạo:

- Anh có thể đưa mẹ con tôi đến chỗ anh đã mò được tượng không?

Sau một hồi do dự, Thạch Hải đã hội ý với ông Ba Hưởng và họ đã nhận lời Thiên Thanh.

Thực ra, việc trở lại địa điểm vớt tượng không khó với nghề của Thạch Hải, nhưng có thể rất khó đối với mẹ con Thiên Thanh, nhất là đối với Thiên Thanh. Nhưng trước sự chân thành và chờ đợi của Thiên Thanh, Thạch Hải sẵn sàng chiều theo. Dù vậy, Thạch Hải cũng ra điều kiện:

- Bà và cô có dám lội bộ được không? Có sợ xuống nước không? Nếu sợ thì ta bỏ cuộc!

Trước câu hỏi của Thạch Hải, bà Thiên Phước tỏ ra hơi ái ngại, vì từ nhỏ, ít khi Thiên Thanh đi bộ, nhất là những con đường gồ ghề. Đôi khi Thiên Thanh có đi với cha để theo Cha Phương Bảo đi xem đất làm trung tâm hành hương, nhưng đã được chuẩn bị, còn đây là đề nghị đột xuất…

Còn thuyền thì chưa bao giờ Thiên Thanh đi, đôi khi có đi tham quan trên tàu du lịch; mà đây lại là thuyền đánh cá, còn lội nước sông thì không. Nhưng Thiên Thanh đang hứng khởi, nhất là sau ơn lạ Đức Mẹ ban, và Thiên Thanh đang làm công tác Cha Phương Bảo nhờ là lấy hình ảnh và tin tức cho Cha viết sách, một điều mà chính bà Thiên Phước cũng không dám từ chối.

Bà Thiên Phước đang do dự thì Thiên Thanh cầm tay mẹ nói:

- Mẹ à, mình đi theo anh Hải đến linh địa đi, con sẽ nói với mẹ về cái này hay lắm!

Trước đề nghị của Thiên Thanh, bà Thiên Phước mới dám nhận lời.

Sửa soạn xong, mẹ con bà Thiên Phước theo Thạch Hải đi bộ ra sông.

Vừa bước xuống ghe, Thiên Thanh suýt té khiến Thạch Hải phải giơ tay đỡ. Thiên Thanh hơi ngượng, nhưng không còn cách nào khác. Ngồi yên vị rồi, Thiên Thanh mới chữa thẹn:

Page 48: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Anh Hải đưa tay cho mẹ em lên với!

Thạch Hải đưa tay ra để đưa bà Thiên Phước lên ghe, nhưng bà nói:

- Thôi, bác quen rồi, cháu cứ lo chuẩn bị đi.

Ở bãi đậu ghe, có vài chục chiếc ghe nằm cạnh nhau, được cột rất cẩn thận và hầu hết chủ ghe đã lên bờ, để sáng sớm mai nhổ cọc và tiếp tục công việc, nên mẹ con bà Thiên Phước xuống ghe của Thạch Hải ít người chú ý tới. Có chăng là mấy người tò mò cho rằng Thạch Hải đưa khách xem tượng Đức Mẹ đi để khoe ghe của anh thôi.

Tháo dây buộc ghe, đẩy ghe rời bãi ra sông, Thạch Hải quay lại nói:

- Bà và cô ngồi vào giữa ghe, nếu có sợ thì bấu chặt vào tấm ván ngồi.

Rồi ngoái lại nhìn hai mẹ con lần nữa, Thạch Hải trấn an:

- May mà hôm nay Trời ban cho dòng sông êm quá, khác với mấy hôm trước, nước chảy xiết muốn trôi luôn cả ghe.

Bà Thiên Phước động viên:

- Đến thánh địa mà được như thế này là điều may quá rồi!

Thiên Thanh thêm vào:

- Linh địa chứ mẹ!

- Ừ, thì nói sao cũng được.

Nói rồi Thiên Thanh lấy máy ảnh ra chụp phong cảnh từ bãi đậu ghe, đặc biệt là hình ảnh Thạch Hải, hai tay chèo rất lanh lẹ đưa chiếc ghe băng băng ra sông. Mặt sông mênh mông, ghe xa bờ dần dần. Dòng chảy êm ái như chiều hai người khách. Bên bờ sông, cây xanh um tùm. Những cây thốt nốt vươn lên như cây dừa ở Việt Nam. Cảnh sắc bát ngát, nước sông đỏ phù sa, bờ xanh tít tắp, mây trắng trên đầu, không khí mát rượi làm cho Thiên Thanh cảm thấy hạnh phúc, bình an. Chưa bao giờ Thiên Thanh được sống trong một khung cảnh khoáng đạt sông nước dào dạt như thế này.

Ở Việt Nam, khi đi đò qua Vàm Mỹ Thuận hay Vàm Cống, bờ sông khá rộng, nhưng không bằng ở đây, Tonlé Sap nhìn không hết tầm mắt. Đôi khi Thiên Thanh thoáng hơi sợ, ngộ nhỡ ghe chìm thì không biết sẽ thế nào vì trên ghe không có phao. Nhưng nhìn đôi tay chèo và vẻ bình tĩnh thành thạo của Thạch Hải, Thiên Thanh rất vững bụng. Thực sự thì Thiên Thanh vững tâm hơn vì cảm nhận được sự bình an Đức Mẹ mới ban cho cô. Và người mẹ đang ngồi bên cạnh cùng với Thạch Hải nữa, là những người rất thân yêu của cô đang bảo vệ cô.

Thiên Thanh dựa sát vào mẹ, nắm tay mẹ, mân mê chuỗi hạt trên cánh tay mẹ, cô nói:

- Mẹ à, nếu cuộc đời này mọi người đều trôi theo dòng chảy êm đềm như dòng nước này thì chắc không có hạnh phúc đâu mẹ nhỉ?

Page 49: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Bà Thiên Phước ôm con sát vào người, bà vuốt tóc con, một cử chỉ mà Thiên Thanh đã lẫn tránh bà bấy lâu nay. Bà ôn tồn nói:

- Con nói đúng, nhưng chỉ có quyền năng Chúa và nhờ Đức Mẹ bầu cử mới có được, con ạ. Cụ thể như hôm nay, mẹ con mình ngồi trên ghe này, con nghe cậu Hải nói hồi nãy đó: hôm nay Trời ưu ái đặc biệt cho mẹ con ta, sông nước yên lặng một cách kỳ lạ; còn ngược lại, kể cả khi cậu Hải vớt được tượng Đức Mẹ, thì cũng sóng to gió lớn muốn trôi cả ghe đó mà. Dòng đời cũng vậy, con ạ, mà có khi còn dữ dội hơn sóng nước của con sông “chín con Rồng” này nữa.

Bà Thiên Phước nhắc cho con:

- Mà con Rồng theo Thánh Kinh tượng trưng cho thế lực nào rồi?

Thiên Thanh âu yếm nhìn mẹ, cô thưa:

- Dạ, con nhớ rồi, mẹ nói nữa cho con nghe đi.

- Thời đại hôm nay, không chỉ một mà muôn vàn thế lực đang hoành hành tiêu diệt thế gian này. Trên dòng sông này, đã bao tháng ngày cuồn cuộn những cơn sóng dữ, đã giết chết không biết bao nhiêu người.

Thời “cáp duồn”, nửa đêm, những con thuyền lạ ập đến, người ta nhảy sang thuyền dân và đập chết hết những người trên thuyền, kể cả trẻ em, rồi quăng xác xuống sông. Những năm sau 1975, lực lượng Pol Pot cũng sát hại dân lành như vậy. Dòng đời hôm nay cũng không khác, nhân loại đang bị cuốn vào thứ văn hóa tìm thỏa mãn những dục vọng thấp hèn, dẫn con người đến sự chết. Con thấy đó, ở Việt Nam, mỗi năm có hàng triệu thai nhi bị giết hại, không ngày nào báo chí không đưa tin về một vụ giết người man rợ. Lúc đầu người ta còn bàng hoàng, còn bây giờ thì… vô cảm. Tiếng kêu của “em bé Giêsu” là một bằng chứng.

Bà Thiên Phước nói tiếp:

- Vì dục vọng vô độ của con người đã gây ra, khiến cho nước mắt của bà mẹ, trẻ thơ, những người nghèo khó, bệnh tật, những người bị áp bức, bóc lột, những người nghèo bị buôn bán như một món hàng. Tất cả vì dục vọng xác thịt đã biến thành sông và máu hòa cùng nước mắt, khiến dòng sông đục ngầu.

Nghe mẹ kể, Thiên Thanh thấy hoảng sợ, tự nhiên gai ốc nổi lên. Thiên Thanh tưởng tượng mình đang đi trên dòng nước mắt và máu của dục vọng con người. Cô lại nắm lấy tay mẹ:

- Vậy mình phải làm gì, hả mẹ?

- Như mẹ nói với con đó, chỉ có quyền năng Thiên Chúa, vì việc người ta không thể, thì đối với Thiên Chúa đều có thể. Con nhớ việc Chúa đã làm cho đống xương khô thành đoàn người đông đảo đó.

Rồi bà nói tiếp:

- Mình phải sống xứng đáng là con cưng của Chúa và cầu xin Đức Mẹ giúp mình sống theo ý Chúa như gương Đức Mẹ.

Page 50: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Suy nghĩ một chút, Thiên Thanh đề nghị với mẹ:

- Vậy mẹ con mình lần hạt đi.

Vừa xong năm chục kinh mùa Vui, Thạch Hải cho ghe đi chậm lại và quay lại nói với hai mẹ con:

- Gần tới địa điểm tôi vớt được tượng rồi đó!

Thiên Thanh nói nhỏ với mẹ điều gì, rồi xin mẹ đến trao đổi với Thạch Hải. Đến lúc này, Thiên Thanh mới tiết lộ cho mẹ biết lý do cô cứ nằng nặc đòi mẹ nhờ Thạch Hải chở đến chỗ đã vớt tượng, vì tượng vớt được còn thiếu chuỗi hạt trên tay Chúa, nên khi viếng tượng, được ơn Đức Mẹ, Thiên Thanh đã lấy chuỗi đeo cổ mà Cha Phương Bảo nhờ bà Thiên Phước đeo vào cổ cô, đeo vào tượng Đức Mẹ và xác định rằng: Tượng Đức Mẹ còn thiếu chuỗi hạt.

Điều Thiên Thanh xác tín được mẹ cô và nhiều người công nhận, nên Thiên Thanh vừa muốn đến tận hiện trường vớt tượng Đức Mẹ, vừa muốn kiểm chứng điều xác tín của mình. Cũng may Thiên Thanh đã cho mẹ biết ý định của mình và được mẹ khích lệ.

Thiên Thanh lom khom bước đến chỗ Thạch Hải, Thiên Thanh nói:

- Tôi muốn nhờ anh một chuyện này, không biết anh có sẵn sàng giúp không?

Thạch Hải mừng thầm vì được Thiên Thanh tín nhiệm “nhờ vả”, anh vui vẻ nói:

- Tôi sẵn sàng.

Thiên Thanh cầm chuỗi tràng hạt và trình bày với Thạch Hải, cô nói:

- Bức tượng anh vớt còn thiếu một tràng chuỗi giống như vậy - Thiên Thanh vừa nói vừa chỉ vào chuỗi tràng hạt trên tay.

Mặc dù không hiểu gì về cấu trúc tượng của người Công Giáo, nhưng được Thiên Thanh nhờ, Thạch Hải đã nhận lời.

- Thế anh đã định vị đúng chỗ này chưa? - Thiên Thanh hỏi.

- Tôi chắc: hai gốc cây tôi đã cột thuyền ở đàng kia - Thạch Hải chỉ về phía hai gốc cây - chỉ khác một điều là hôm đó gió rất lớn.

Thiên Thanh nghĩ đến cơn bão dục vọng của con người mà mẹ kể, cô chợt rùng mình. Thạch Hải nhìn thấy liền vội quay đi. Thiên Thanh lấy lại bình tĩnh và tự nhủ: việc con người không làm được, Chúa sẽ làm được. Phải cầu nguyện!

Thiên Thanh đề nghị Thạch Hải làm thao tác y như ngày Thạch Hải vớt được tượng để cô lấy hình. Rồi Thạch Hải cột dây thuyền và phóng xuống nước như một con nhái. Anh bơi lại gần ghe định vị, rồi lặn xuống mò.

Nhìn tràng chuỗi Thiên Thanh giới thiệu, Thạch Hải nhớ lại cảm giác khi anh vớt được tượng, một tay anh vác tượng lên vai, một tay phải dùng để bơi vì nước chảy quá xiết. Khi ngoi lên gần đến mặt nước, anh thấy có một vật gì chạm vào lưng anh,

Page 51: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

nhưng anh không quan tâm. Hôm nay, thấy Thiên Thanh đeo tràng chuỗi vào tay tượng nhỏ ở nhà và được Thiên Thanh giải thích lần nữa, anh mới nhớ lại hôm đó.

Thạch Hải lặn xuống khá lâu, mặt sông phẳng lì không còn tăm tích gì, khiến Thiên Thanh lo sợ. Cô níu tay mẹ:

- Liệu anh Thạch Hải có sao không mẹ?

Bà mẹ chăm chú nhìn chỗ Thạch Hải lặn rồi trấn an con:

- Cậu ấy là dân sông nước, chắc không sao đâu, con.

- Nhưng sao không thấy tăm hơi gì hết?

- Chút xíu cậu ấy trồi lên thôi.

Bà Thiên Phước vừa nói xong thì Thạch Hải trồi lên, anh trôi hơi xa nơi chiếc ghe cột sẵn. Thạch Hải lắc đầu một cái thật mạnh để nước văng đi, rồi anh sải tay bơi lại phía ghe.

Thiên Thanh hỏi:

- Sao anh lặn lâu thế, có thấy gì không?

- Tôi quen rồi. Hôm nay nước không chảy xiết nên lặn được lâu hơn.

- Có thấy gì không anh? - Thiên Thanh sốt ruột hỏi.

- Tôi lấy tay quờ quạng khắp nhưng chưa thấy, mở mắt để nhìn, nhưng nước đục, chỉ thấy mờ mờ. Tôi sợ xâu chuỗi nhẹ đã trôi đi xa, để tôi lặn lần nữa xem sao.

Thạch Hải một tay bám lấy ghe, anh xoay mặt nhìn ra sông, định vị lại chỗ vớt được tượng, rồi ước lượng khoảng cách xâu chuỗi có thể trôi. Anh lấy hơi rồi lặn thêm lần nữa.

Bây giờ thì bà Thiên Phước và Thiên Thanh cùng đọc kinh, cầu cho Thạch Hải bình an và tìm thấy xâu chuỗi. Cả hai miệng đọc kinh, nhưng mắt không rời quãng sông trước mặt, chỗ Thạch Hải lặn, rồi dõi theo những di chuyển của anh những lúc bọt tăm nổi lên hay những cái khỏa nước nổi sóng. Sông nước mùa này không sâu nên việc mò tìm không vất vả nhiều.

Khi những bọt bóng nổi nhanh lên cũng là lúc Thạch Hải nhô người lên khỏi mặt nước. Anh lại sải tay bơi về ghe. Khoảng cách hơi xa hơn lúc nãy một chút. Một tay bám ghe, một tay anh đưa tràng chuỗi cho Thiên Thanh, miệng nói:

- Có phải cái này không?

Nhìn thấy tràng chuỗi, Thiên Thanh vui mừng nhận lấy từ tay Thạch Hải. Cô hôn tràng chuỗi và ríu rít cảm ơn Thạch Hải, rồi vội tháo khăn quàng cổ gói cỗ tràng hạt vào, miệng run run nói:

- Ôi, Mẹ ơi, con hạnh phúc quá!... Con đã tìm được báu vật…

Bà Thiên Phước chia sẻ niềm vui với con, bà nói:

Page 52: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Tạ ơn Chúa với con. Chúa đã cứu con, đã cho con tìm lại hạnh phúc của con, không những cho con, cho mẹ mà còn cho cả gia đình ta và cả Cha Phương Bảo nữa.

Thạch Hải nhanh chóng lên ghe và chèo vào bờ. Nhìn hai mẹ con Thiên Thanh vui tíu tít, anh cũng vui lây. Anh không hiểu giá trị của tràng chuỗi nhưng khi làm được một việc giúp ích người khác, anh thấy lòng mình trong trẻo và hân hoan.

Thiên Thanh hỏi:

- Anh mệt lắm không?

- Không sao, bình thường thôi, sông nước với tôi quen rồi.

- Làm phiền anh, tôi ngại quá, nhưng tượng Đức Mẹ không thể thiếu xâu chuỗi.

- Giúp được bà và cô, tôi vui lắm. Chắc Đức Mẹ thương cô mới cho tôi tìm thấy xâu chuỗi.

Thạch Hải nói như tâm sự:

- Lúc đầu tôi nghĩ chắc không thể nào tìm được xâu chuỗi, vì hôm ấy nước lớn và chảy xiết, không êm như hôm nay. Với lại xâu chuỗi nhẹ, sẽ bị nước cuốn đi xa. Sông mênh mông sao mò hết được, có chăng phải dùng cào để cào, có khi phải mất cả buổi may ra mới tìm thấy.

Thiên Thanh lại hỏi:

- Sao anh biết Đức Mẹ thương tôi?

- Tôi thấy cô quyết tâm tìm xâu chuỗi, chắc là cô thương Đức Mẹ lắm, với lại nhìn cô xinh đẹp, hiền lành, người thường như tôi còn quý mến huống chi Đức Mẹ. Tôi biết Đức Mẹ rất thương những người hiền lành, có lòng chân thành.

- Sao anh biết điều ấy?

- Bản thân tôi, tôi biết. Nhà khó khăn quá, cha tôi lại bị bệnh sắp chết, Đức Mẹ cho tôi đánh được nhiều cá, cho cha tôi khỏi bệnh, điều ấy làm tôi tin.

Thiên Thanh thấy mình vững tin hơn. Một người chưa biết Đức Mẹ bao giờ, lại có lòng tin chân thành đơn sơ như vậy, Thiên Thanh nhận ra đó là một chứng nhân mà Đức Mẹ cho cô được trực tiếp gặp gỡ. Không thể hoài nghi. Thạch Hải lại chèo ghe băng băng vào bờ, bến bờ của tin yêu.

9

Page 53: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Sau chuyến hành hương Đức Mẹ trở về, bà Thiên Phước rất vui. Trong niềm tin thuần khiết của bà, Đức Mẹ đã nhận lời bà cầu xin. Thiên Thanh đã trở lại bình thường, vui vẻ nhiệt thành và sốt sắng việc kinh lễ, gần gũi với mọi người. Bà xin lễ tạ ơn, và dẫn Thiên Thanh vào thăm Cha Phương Bảo.

Gặp lại hai mẹ con bà Thiên Phước, Cha rất mừng. Đúng là việc con người không thể làm được thì Thiên Chúa làm được. Những tưởng bà Thiên Phước sẽ mất đứa con thương yêu trong nỗi tuyệt vọng, những tưởng không sao có thể cưỡng lại được xu hướng tục hóa của thời đại mà người trẻ đang bị cuốn đi.

Trường hợp của Thiên Thanh làm Cha Phương Bảo suy nghĩ nhiều. Tương lai Giáo hội thuộc về người trẻ, mà một người trẻ sinh ra, lớn lên trong một gia đình đạo hạnh như Thiên Thanh, lại có thể trong nháy mắt đánh mất niềm tin, đánh mất tất cả những giá trị đã được giáo dục từ nhỏ. Điều ấy Cha không ngờ. Là mục tử, Cha phải làm gì cho giới trẻ trong Giáo xứ mình. Không biết có bao nhiêu những cô cậu sinh viên đang quay quắt trong giông bão của những trào lưu thách đố đức tin, bao nhiêu trong số họ đã vấp ngã, làm sao cho họ vững tin mà đi tới, làm sao vực dậy những tâm hồn đã đổ vỡ.

Đâu đó, Cha được nghe về việc học tập và đời sống của sinh viên. Một cô học Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn, ngành du lịch, chỉ mới học năm đầu Đại Học đã tham gia câu lạc bộ khiêu vũ, tham gia các show thời trang và cặp bồ đi chơi Đà Lạt, Nha Trang. Cô ấy phơi trên Facebook những bức hình chụp khỏa thân, những cảnh ăn chơi thoải mái nam nữ xô bồ và cả những dòng tâm sự về những cuộc tình với hết chàng này đến chàng kia. Thật không tưởng tượng được sự tha hóa lại diễn ra nhanh như thế.

Một cô sinh viên khác học Đại Học Hoa Sen, khi đi thực tập làm khóa luận, muốn xin tài liệu của một luật sư để bổ sung vào hồ sơ, ông luật sư hẹn cô ấy đến nhà, hẹn đi ăn, đi pic-níc, và sau cùng, đòi phải ngủ khách sạn với ông ta thì ông ta mới cho bộ hồ sơ ở tòa án mà cô sinh viên cần có. Cha Phương Bảo hỏi cô ấy, thế con xử lý vấn đề thế nào. Cũng may, cô ấy là người Công Giáo nề nếp, còn giữ được linh hồn. Cô ấy hỏi lại Cha: Thế nếu Cha là con thì Cha sẽ xử lý vấn đề ra sao, hoặc là đổi tình lấy điểm, hoặc là học lại một năm. Những đứa con gái bạn con, nó coi chuyện ngủ khách sạn là chuyện bình thường, đó là sự trao đổi sòng phẳng, vấn đề là đạt được mục đích. Còn con, chuyển sang làm đề tài khác, chậm lại một chút. Cha Phương Bảo sững sờ. Tạ ơn Chúa.

Bây giờ Cha lắng nghe những gì bà Thiên Phước kể về Thiên Thanh, vừa để chia sẻ, vừa để nhận thức về người trẻ và cầu xin Chúa soi sáng cho mình trên con đường dẫn dắt đoàn chiên Chúa. Đã lâu bà Thiên Phước không dám tỏ lộ gì cho Cha Phương Bảo biết. Bà sợ Cha sẽ la mắng về tội thiếu trách nhiệm giáo dục con cái. Bà sợ mất danh dự gia đình. Bà sợ mọi người nghĩ xấu về con bà. Bà muốn trước mặt Cha, và trước mặt mọi người, hình ảnh gia đình bà phải là mẫu mực cho mọi người trầm trồ, con bà phải vượt trội. Thế nhưng sự đổ vỡ xảy ra quá nhanh, bà cố che giấu cũng không được nữa, và bà hoàn toàn bất lực trong việc bảo vệ con mình. Đến hôm nay, bà mới có dịp trình bày với Cha.

Page 54: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Bà nhớ lại. Thiên Thanh bỗng dưng bị bệnh lạ lùng, gần như một thứ bệnh tâm thần, hay ma quỷ ám hại. Thấy con càng ngày càng sa sút, ăn uống qua loa, tinh thần trầm uất, bà đã lo hết cách chạy chữa cho Thiên Thanh. Đông y không chẩn được bệnh. Thầy Đông y chỉ nói lục phủ ngũ tạng yếu và cho thuốc bồi bổ. Còn Tây y, người ta đã làm đủ các xét nghiệm, nhưng bó tay. Sau cùng người ta giới thiệu bà đưa Thiên Thanh đến bệnh viện tâm thần để khám nghiệm thần kinh. Bác sĩ thần kinh tâm lý thì cho rằng: Thiên Thanh học và suy nghĩ nhiều quá, thần kinh bị suy nhược, cần nghỉ ngơi. Những người quen biết với bà Thiên Phước nhận định rằng: khi khoa học bó tay, Đông y hay Tây y, thì người bệnh nhất định bị bệnh tà. Có thể là bị bỏ bùa hay thư, yểm cái gì đó.

Họ kể rằng, có người bị thư mà không biết. Kẻ xấu thuê thầy bùa bỏ vật lạ vào trong người. Có khi là một lọn tóc to bằng đầu một chiếc đũa, dài chừng ba phân, cột chặt. Khi lọn tóc này rối là không chữa được nữa. Có khi bỏ trong người một miếng bùa Lỗ Ban, miếng vải to bằng móng ngón tay cái, có vẽ mặt người. Có khi bỏ trong người miểng chai nhỏ như đầu kim. Nó găm vào người đau nhức không sao chịu đựng nổi. Có khi là những cái đinh năm phân. Khi đinh bị sét thì con bệnh sẽ không còn chữa được nữa. Có khi bỏ vào người một củ ngải, như củ nghệ. Khi củ ngải mọc rễ thì không còn chữa được. Triệu chứng chung là ốm bệnh, Tây y không tìm ra bệnh gì, người bị bệnh hay mơ những giấc mơ kinh hoàng, ăn không được, dần mòn rồi chết.

Bà Thiên Phước hỏi rằng: Thầy ngải bỏ vào trong người thế nào được? Người ta trả lời: Lúc mình ngủ nằm trên giường, đầu không đội trời, chân không đạp đất, thầy ngải sai âm binh bỏ vật lạ vào người. Nghe vậy bà Thiên Phước sợ rùng mình. Họ khuyên bà nên đưa Thiên Thanh đến thầy bùa ở núi Sam (Châu Đốc) xem sao.

Bà Thiên Phước không biết là hư hay thực. Người theo Chúa không được tin những điều trái với đức tin. Ma quỷ là có thật, nhưng người có đức tin, có Chúa trong mình thì ma quỷ làm được gì. Nếu người ta dùng tà thuật để hại được người khác thì đã có bao nhiêu người bị hại. Thầy cúng, thầy bùa nào thấy công an cũng chạy, như vậy là sao? Nhưng thương con, bà biết làm sao? thì còn nước còn tát, có bịnh thì vái tứ phương, miễn là mình đứng có cúng kiến, đừng tin vào tà thuật là được?

Bà ngỏ ý với Thiên Thanh, nhưng Thiên Thanh nhất định không chịu. Thiên Thanh nói cô chẳng bệnh tật gì hết, làm gì có chuyện bùa ngải, thư ếm. Thời buổi khoa học, ai lại tin mấy chuyện mê tín nhảm nhí ấy. Bà bảo, nhưng chuyện ấy do ma quỷ làm, ma quỷ là có thật. Thiên Thanh bảo, ma quỷ ở trong lòng mình ấy. Bà Thiên Phước sững người. Đã vậy thì phải đưa Thiên Thanh đến những nơi linh thiêng có phép lạ xin khấn, may ra… Nhưng Thiên Thanh cũng không chịu. Cô không tin vào phép lạ.

Người ta bảo chỗ này Đức Mẹ khóc, chỗ kia Đức Mẹ hiện ra, rồi ùn ùn đến đọc kinh xin ơn lạ, những điều như thế chỉ là bịa đặt. Bởi Giáo hội đâu có công nhận, bởi chỉ sau một thời gian ngắn là người ta tự động giải tán. Những tin tồn như thế chỉ giúp cho những người làm ăn buôn bán, bác xe ôm, xe đò chở khách có thêm khách thôi. Chúa nói rõ ràng: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá hàng ngày mà theo Ta”. Vậy mà người ta cứ xin đủ mọi thứ ân lộc, thì sao Chúa cho được.

Page 55: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Nghe Thiên Thanh nói vậy, bà Thiên Phước biết mình không thể chinh phục được con. Bỗng dưng bà nhận ra điều này, con bà hiểu biết nhiều điều hơn bà. Nhưng hình như đức tin của con có vấn đề. Cụ thể là gì thì bà chưa biết.

Trước đây, Thiên Thanh là một thiếu nữ ngoan hiền, có nhan sắc, ít ai được như vậy. Thiên Thanh còn có tài đan len và thêu tranh rất giỏi, mặc dù không được đi học. Ngoài tài năng bẩm sinh, gia đình đã cho Thiên Thanh học đến nơi đến chốn.

Có thể nói: từ trường đạo đến trường đời, năm nào Thiên Thanh cũng đều là học sinh xuất sắc. Thầy cô và các bạn đều thương mến Thiên Thanh. Chỉ mới xong cấp ba, Thiên Thanh đã có thể giao tiếp tiếng Anh lưu loát. Ngoài ra, Thiên Thanh còn giúp Cha Phương Bảo đàn hát ở nhà thờ. Còn ở nhà, không ai chê Thiên Thanh vào đâu được, nàng rất hiếu thảo, kính trọng cha mẹ và các đấng bậc, thương yêu và giúp đỡ các em rất tận tình. Điều đặc biệt nữa, Thiên Thanh rất thương những người nghèo, những người khuyết tật, mồ côi. Tuy là con nhà có của, nhưng từ đồ dùng và cách ăn mặc, Thiên Thanh rất giản dị.

Lên đại học, ông bà Thiên Phước không cho con ở nhà riêng, mà gởi Thiên Thanh vào khu lưu xá của các soeurs. Ở đó, Thiên Thanh có nơi yên tĩnh để học, không bị bạn bè rủ rê và đời sống chật vật thành thị quyến rũ. Hàng ngày Thiên Thanh dự Thánh lễ, hàng tuần làm giờ chầu, tham gia ca đoàn, nên đời sống tinh thần của Thiên Thanh khá phong phú và thánh thiện. Kỳ nghỉ hè vừa qua, Thiên Thanh ở lại trên thành phố để học thêm ngoại ngữ. Thiên Thanh cũng tham gia các nhóm học tập, các câu lạc bộ và các nhóm từ thiện. Nhờ đó Thiên Thanh phát triển được những đức tính xã hội và thực hành được đời sống đức tin, sống chan hòa với mọi người. Thiên Thanh rất vị tha và bao dung, lại khiêm tốn và nhiệt thành nên được mọi người yêu mến.

Được ít lâu, Thiên Thanh dần dần trở nên lầm lì, ít nói ít cười, lúc nào cũng có thái độ suy nghĩ trầm tư, việc đi lễ, đọc kinh thưa dần.

Lâu lâu gia đình lên thăm, có hỏi điều gì, Thiên Thanh chỉ trả lời cho qua. Rằng lúc này cô học nhiều, có quá nhiều chuyên đề thực hành phải làm việc nhóm với các bạn. Cô phải đi thực tế để lấy tư liệu và nghiên cứu môi trường làm việc. Hàng tuần đi với bạn làm công tác từ thiện, thăm viếng người nghèo, phát quà cho trẻ em nghèo, giúp đỡ việc này việc kia ở những xóm lao động. Đời sinh viên là vậy, phải hoạt động nhiều, giao tiếp nhiều thì khi ra trường mới tìm được việc, mới có “group” để mở công ty hay thực hiện những công trình lớn. Sinh viên mà cứ ru rú, suốt ngày kinh với sách thì thà vào dòng tu kín tốt hơn.

Bà mẹ nói:

- Nhưng con phải giữ những nề nếp căn bản, nhà thờ nhà thánh, kinh sách cho chu tất, sao lại sao nhãng như vậy?

Thiên Thanh đáp trả ngay:

- Chỉ có người già gần chết mới đọc kinh ra rả suốt ngày. Người trẻ còn phải học tập và làm việc, còn suy nghĩ sáng tạo. Làm việc giúp ích cho đời thì tốt hơn đọc kinh.

Page 56: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Chúa Giêsu chỉ dạy có một kinh Lạy Cha, và Giáo hội dạy kinh Kính Mừng. Một năm Chúa lên đền thánh có vài lần, đâu có tuần nào cũng đi lễ đâu. Chuyện kinh kệ là người ta chế ra, để những người không biết cầu nguyện riêng thì đọc chung, mà họ đọc như vẹt, có suy gẫm gì đâu. Nhiều kinh ngày nay đã lạc hậu lắm rồi, nhưng vẫn đọc: “Thứ Sáu, kiêng thịt ngày thứ Sáu cùng các ngày khác Hội thánh dạy”. Mẹ xem, có ai còn kiêng thịt ngày thứ Sáu không? Đọc như thế có khác gì con vẹt, nó giả hình lắm, mà trong Kinh Thánh Chúa Giêsu đã nguyền rủa thậm tệ bọn giả hình, mẹ thấy không.

Bà mẹ chết đứng tại chỗ, còn Thiên Thanh thì bỏ đi:

- Con đi học nhóm đây. Nhóm của con có hai sinh viên Hàn Quốc, vui lắm. Họ rất giỏi nữa. Thôi con đi đây.

Nói xong, Thiên Thanh ra cổng, có một bạn chờ sẵn chở Thiên Thanh vù đi. Bà Thiên Phước không biết con đi đâu, sinh hoạt như thế nào. Chỉ thấy Thiên Thanh ngày càng ốm đi, lầm lì, có lúc quá quắt, mất hết vẻ đơn sơ, vui vẻ ngày trước.

Quá lo lắng cho con, bà Thiên Phước đành bỏ việc nhà lên thành phố để canh chừng Thiên Thanh. Bà tìm cách gần gũi, tâm tình với con, nhưng câu chuyện chỉ được vài phút là Thiên Thanh xin phép ngồi vào bàn học. Bà không biết con có học không, nhưng có thấy đọc đủ thứ sách vở. Một lần Thiên Thanh đi học, bà vào phòng riêng của Thiên Thanh. Phòng trống trơn, không có ảnh tượng thờ nào cả, chỉ có một cây Thánh giá đóng trên tường. Cầm xem những quyển sách của Thiên Thanh, bà thấy có cuốn sách giảng Kinh Thánh của các mục sư Tin Lành, và vô tình trong sách rơi ra một tấm hình 15x18 chụp chung nhóm bạn trẻ, trong đó có Thiên Thanh. Bà vỡ lẽ ra tất cả. Con bà sinh hoạt trong nhóm thanh niên Thiện Nguyện do các sinh viên Tin Lành Hàn Quốc tổ chức.

Thế là bà Thiên Phước làm dữ. Bà cấm không cho Thiên Thanh đi sinh hoạt, không cho tham gia các câu lạc bộ, các nhóm từ thiện, cấm tất cả mọi giao tiếp của Thiên Thanh.

Bà Thiên Phước đâu biết rằng đó là một biện pháp chỉ có thể dành cho con nít mà thôi. Với một sinh viên Đại Học, tuổi đang bồng bột mà bị trói buộc như thế thì chuyện gì xảy ra ai cũng có thể đoán được. Cô (cậu) ta hoặc là bỏ nhà đi, vì có nhóm bạn trợ giúp, vì có thể tìm việc làm kiếm sống; hai là quá quẫn bách, khùng điên rồi bị ma quỷ cám dỗ, cô (cậu) ta sẽ tự hủy. Lúc ấy hậu quả sẽ trầm trọng không lường hết được. Bà Thiên Thanh bị dồn vào tình huống như thế. Thiên Thanh nói thẳng với mẹ:

- Hoặc con bỏ nhà đi, hoặc con tự tử trước mặt mẹ. Mẹ làm thế là sỉ nhục con quá. Con 18 tuổi rồi, có quyền công dân, có toàn quyền đối với số phận của chính mình. Con không làm gì xấu, không phạm pháp là được. Con có quyền tự do chọn lựa con đường của con. Mẹ đừng bắt con phải giống mẹ. Thế hệ của con, thời đại của con đã khác rồi.

Nói xong Thiên Thanh nằm vật xuống giường khóc nức nở, rồi bỏ ăn. Bà Thiên Phước năn nỉ thế nào Thiên Thanh cũng không bỏ vào miệng một hột nước. Thiên

Page 57: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Thanh cứ nằm thiêm thiếp. Hoảng quá, sợ con có mệnh hệ nào thì biết làm sao, bà Thiên Phước mời bác sĩ đến bắt mạch và vào nước biển cho Thiên Thanh, bà hứa với Thiên Thanh không can dự vào đời riêng của con nữa. Thiên Thanh lúc ấy mới chịu nguôi ngoai, nhưng tình trạng trầm uất trầm trọng hơn.

Phải khó khăn lắm, bà Thiên Phước mới đưa được Thiên Thanh trở về nhà. Bà đã cấp báo cho Cha Phương Bảo, vừa là Cha xứ, vừa là Cha linh hướng của Thiên Thanh. Nhưng Thiên Thanh đã tìm hết cách để không gặp Cha Phương Bảo, dù trước kia Cha là thần tượng của Thiên Thanh. Có thể nói: Cha Phương Bảo là người Thiên Thanh yêu mến và kính trọng nhất; đã vậy, lâu lâu lại có tin nhắn gọi Thiên Thanh lên thành phố để thi lấy bằng. Gia đình đã xin Cha Phương Bảo chỉ cho cách gìn giữ Thiên Thanh.

Phần Cha Phương Bảo, khi nghe gia đình tường thuật hoàn cảnh của Thiên Thanh từng ngày và mặc dầu chưa gặp được Thiên Thanh, Cha vẫn âm thầm cầu nguyện và trấn an gia đình, Cha nói:

- Việc của Chúa, Chúa sẽ làm, cứ cậy trông và phó thác. Cậy trông vào Đức Mẹ, mình cứ kiên trì cầu xin Đức Mẹ, chắc chắn Đức Mẹ sẽ không bỏ chúng ta đâu. Thiên Thanh là con Đức Mẹ mà.

Rồi nhân dịp báo chí và các phương tiện truyền thông đưa tin một người Việt Kiều Campuchia đã vớt được tượng Đức Mẹ làm phép lạ, Cha Phương Bảo báo tin cho gia đình và yêu cầu gia đình gia tăng ăn chay cầu nguyện, rồi Cha xin các Đấng bậc, các dòng tu khấn theo ý nguyện của Cha.

Bước đầu, Thiên Thanh đã chịu gặp Cha Phương Bảo. Bước thứ hai, Thiên Thanh đã nhận lời mẹ để đi du lịch theo kế hoạch của Cha Phương Bảo.

Chuyến đi được ơn Đức Mẹ ngoài sức trông đợi, đúng như lời Cha Phương Bảo: việc con người không thể làm được thì Chúa sẽ làm được.

10Vừa nhìn thấy mẹ con bà Thiên Phước, Cha Phương Bảo ngỡ ngàng như trong mơ. Mặc dù bà Thiên Phước đã báo cho Cha biết lý do bãi bỏ chuyến du lịch tham quan các nước Đông Nam Á, nhất là Thiên Thanh đòi về gấp để báo cáo đầy đủ chi tiết cho Cha việc Đức Mẹ đã làm cho cô.

Mẹ con bà Thiên Phước vừa bước xuống xe, Cha Phương Bảo cũng từ trong nhà bước ra. Thiên Thanh bước vội đến quỳ xuống cầm lấy tay Cha và quá vui mừng,

Page 58: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Thiên Thanh đã bật khóc. Bà Thiên Phước cũng vui không kém gì con, lại được chứng kiến niềm hạnh phúc của con, bà cũng bật khóc. Cha Phương Bảo cũng xúc động không kém.

Qua giây phút đó, Cha nâng Thiên Thanh đứng dậy và dẫn hai mẹ con vào nhà khách, vì ngoài nhà thờ, giáo dân đã đến dâng Thánh lễ chiều. Cha Phương Bảo mời mẹ con bà Thiên Phước ngồi ghế để thăm hỏi, nhưng Thiên Thanh chỉ muốn quỳ bên Cha để khóc cho thỏa niềm hạnh phúc mà cô mới được. Bà Thiên Phước cố gắng kiềm chế cơn xúc động, nhưng cũng khó ngăn.

Cha Phương Bảo quá biết nỗi đau khổ của mẹ con bà Thiên Phước nên cũng đành để cho mẹ con bà khóc. Nhưng vì gần đến giờ dâng Thánh lễ và rất nhiều người đến dâng lễ cũng đã nghe tin mẹ con bà Thiên Phước đã được phép lạ và đang báo cho Cha Phương Bảo, họ cũng xúm đến. Cha Phương Bảo an ủi:

- Tất cả là hồng ân của Thiên Chúa: thử thách, đau khổ, ủi an, hạnh phúc… tất cả đều bởi bàn tay Chúa. Tất cả đều mang lại lợi ích cho những người yêu mến Chúa. Cha đề nghị: Cha, bà và Thiên Thanh sẽ cùng với cộng đoàn chiều nay dâng Thánh lễ tạ ơn Chúa và Đức Mẹ đã cứu Thiên Thanh và gia đình, vì ít nhiều trong Giáo xứ cũng đã biết hoàn cảnh của Thiên Thanh, nhất là vì gia đình có tham gia vào khu đất ở trung tâm Đức Mẹ.

Nhận bí tích hòa giải xong, Thiên Thanh cùng mẹ và cộng đoàn dâng Thánh lễ.

Ngay từ đầu lễ, Cha Phương Bảo đã mời gọi giáo dân, Cha nói:

- Chúng ta cùng tạ ơn Chúa cho gia đình ông bà Hoàng Văn - Thiên Phước. Đặc biệt, người con gái là Thiên Thanh đã được ơn khỏi bệnh. Thiên Thanh bị căn bệnh mà mọi phương thế trần gian đều bó tay; nhưng nhờ Đức Mẹ cứu giúp, cô đã được giải thoát.

Cha nói them một chú về pho tượng. Đó là tượng Đức Mẹ mà một người thuyền chài đạo Phật tên Thạch Hải, đã vớt được ở dòng sông Cửu Long. Chính lúc đưa tượng về nhà thì cha của Thạch Hải đang bị bệnh thập tử nhất sinh cũng được khỏi bệnh. Từ đó, ông đã giữ tượng ở nhà và đặt ở ngoài sân cho người ta kính viếng, cầu xin, mặc dù ông gặp nhiều sự phản đối của các chức sắc tôn giáo.

Cha cũng nhấn mạnh, nhưng điều quan trọng là tại sao tượng Đức Mẹ nằm ở lòng sông Mekong và ai đã chỉ cho Thạch Hải tìm gặp được pho tượng? Đức Mẹ muốn gửi sứ điệp gì cho chúng ta qua tiếng khóc của Hài Nhi Giêsu vang lên trong thâm tâm Thạch Hải?

Trong bài giảng lễ, Cha gợi ý một vài điểm chính như Cha đã từng chia sẻ với các hiền mẫu trong giáo xứ, dựa theo lời Chúa áp dụng cho ngày tạ ơn này. Cha nói:

- Dòng đời hôm nay cũng giống như dòng sông Cửu Long, nước từ nhiều nguồn khắp nơi đổ về, dòng sông càng dâng cao, nhất là mùa nước lũ, dòng sông càng trở nên dữ dằn hơn, nó cuốn trôi tất cả những gì trên sông. Nước sông lúc nào cũng đục ngầu.

Page 59: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Hình ảnh dòng sông Cửu Long đỏ máu cùng với bao nhiêu xác người vô tội bị thả trôi, là hình ảnh dòng chảy tội ác. Con người chỉ vì tham vọng quyền lực, tiền bạc, hưởng thụ… mà chà đạp lên nhân phẩm, tính mạng của người khác. Nạn diệt chủng khủng khiếp đã từng xảy ra trên dòng sông này. Và ở khắp nơi, những thành phố ăn chơi trụy lạc, những nơi mà con người chạy theo lối sống hưởng thụ vị kỷ, thì nạn phá thai, giết hại thai nhi đang trở nên kinh hoàng.

Cha kết luận:

- Chính dục vọng của con người đã làm cho nước mắt và máu người lương thiện chảy thành sông và dòng sông tội ác ấy càng lúc càng trở hung bạo, điên cuồng. Phải chăng tượng Chúa Hài Đồng đã cất tiếng kêu thất thanh để cảnh báo con cái Ngài? như lời kêu gọi của Mẹ Maria ở Fatima ngày xưa: Hãy ăn năn đền tội.

Thánh lễ đã diễn ra hết sức cảm động, trang nghiêm và sốt sắng. Cha Phương Bảo hứa sẽ tường thuật đầy đủ tin tức và hình ảnh gia đình ông Ba Hưởng, người đã được khỏi bệnh ngay khi con ông đưa tượng về nhà. Kế đến là cuộc sống và sinh hoạt của gia đình ông, nơi đặt tượng Đức Mẹ, kèm theo một vài phản ứng của người dân và các chức sắc tôn giáo, kể cả nơi vớt được tượng trên dòng sông và cụ thể nhất là ơn Đức Mẹ đã ban cho Thiên Thanh thế nào.

Thánh lễ kết thúc, mọi người không ai bảo ai, chờ cho Cha Phương Bảo đưa hai mẹ bà Thiên Phước ra, họ vây kín lấy ba người, rồi như bất ngờ, họ cùng hô lên:

- Ồ, bà Thiên Phước và cô Thiên Thanh!!!...

Cha Phương Bảo cười thân mật nói:

- Sao, khách quen hả?

Mọi người đồng thanh “dạ”, rồi nhiều bà đến nắm lấy tay bà Thiên Phước thăm hỏi; còn các cô thì chạy đến ôm cổ Thiên Thanh. Với gia đình bà Thiên Phước, thì người dân ở đây quá quen thuộc. Cha Phương Bảo cười nói:

- Ông Bà Thiên Phước là ân nhân của Giáo xứ chúng ta. Ông bà đã hiến tặng khu đất để làm trung tâm Đức Mẹ đó!

Mọi người đồng thanh hoan hô bà Thiên Phước.

Quay sang cô Thiên Thanh, Cha nói tiếp:

- Còn đây là con gái cưng của ông bà. Mỗi lần Cha và ông Hoàng Văn đi đo đất, đều có cô đi theo cầm ống nhòm, giúp đo đạc, ghi chép…

Mọi người trầm trồ thán phục làm Thiên Thanh đỏ mặt. Có tiếng thanh niên hô lên:

- “Phó nhòm” dễ thương quá!...

Cha Phương Bảo nói tiếp:

- Ừ, cô Thiên Thanh dễ thương như vậy là nhờ Đức Mẹ cứu giúp. Nếu không thì bây giờ cha chẳng còn Thiên Thanh phụ làm “phó nhòm” nữa…

Page 60: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Mọi người lại vỗ tay náo nhiệt. Thiên Thanh càng đỏ mặt hơn. Cô cầm lấy tay mẹ kêu:

- Mẹ! Mẹ!...

Bà Thiên Phước chỉ lên tượng Đức Mẹ ở núi đá, bà nói:

- Đức Mẹ đã cứu con kia kìa!

Cha Phương Bảo nói tiếp:

- Sự kiện của Thiên Thanh xác tín cho chúng ta điều này là, việc mà con người không làm được thì Chúa làm được; mà muốn Chúa can thiệp thì không gì bằng chạy đến Đức Mẹ. Cứ xem tiệc cưới Cana: Chúa đã nghe lời Đức Mẹ mà làm phép lạ, đem đến hạnh phúc cho mọi người .

Lời Cha Phương Bảo làm mọi người thực sự xúc động, có người đề nghị:

- Xin chị Thiên Thanh chia sẻ với chúng tôi việc Đức Mẹ đã cứu chị như thế nào?

- Thôi, để một vài bữa nữa, để cô ấy nghỉ ngơi đôi chút đã - Cha Phương Bảo can thiệp

- rồi một vài bữa cũng là để cho hai mẹ con khóc cho thỏa niềm hạnh phúc Chúa ban, rồi Cha sẽ tổ chức một buổi sinh hoạt các bạn trẻ trong Giáo xứ để Thiên Thanh chia sẻ với các bạn. Cha cũng công bố những bức hình Thiên Thanh chụp và những ghi chép tỉ mỉ của Thiên Thanh trong chuyến đi, để mọi người được tận mắt chứng kiến tượng Đức Mẹ.

Nghe Cha Phương Bảo nói vậy, các bạn trẻ hoan hô Cha và nhao nhao lên:

- Cha tổ chức ngay Chúa Nhật tuần này nghe Cha. Chúa Nhật này là Chúa Nhật đầu tháng, nhiều người đi học xa, đi làm về dự lễ, Cha làm thật xôm tụ nghe Cha!

- Được rồi, các con cứ về, Cha hẹn các con Chúa Nhật tuần này, nhất định phải là một buổi sinh hoạt thật sôi nổi và hấp dẫn.

Mọi người ra về. Sau đó, Cha Phương Bảo mời mẹ con bà Thiên Phước dùng cơm tại nhà xứ. Cha cũng muốn được nghe chính Thiên Thanh nói về trường hợp của mình, để ngài có thực tế chia sẻ và giải quyết những vấn đề của bạn trẻ trong lần sinh hoạt sắp tới.

Thiên Thanh rất vui vẻ, cô trở lại trẻ trung sinh động và hồn nhiên như xưa. Cô đem về cho Cha Phương Bảo rất nhiều hình chụp trong chuyến đi, cả những ghi chép tỉ mỉ mọi việc, khiến Cha Phương Bảo vô cùng ngạc nhiên và thích thú.

Thánh lễ tạ ơn của gia đình bà Thiên Phước sốt sắng vô cùng, và một cuộc họp mặt hôm nay như thể bữa tiệc mừng người con hoang trở về. Cha Phương Bảo nói Thiên Thanh chuẩn bị thật tốt việc chia sẻ, đặc biệt là những trải nghiệm Đức Tin, và kinh nghiệm học tập ở thành phố nữa. Thiên Thanh rất vui.

Page 61: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

11

Hội trường của Giáo xứ có 300 chỗ ngồi đã chật ních. Hàng tháng Cha Phương Bảo tổ chức gặp gỡ giới trẻ đầu tháng để chia sẻ những vấn đề mà bạn trẻ đang gặp phải. Trên sân khấu, màn chiếu có hình ảnh Chúa Giêsu và đàn chiên trên đồng cỏ xanh với hàng chữ lớn, chủ đề của buổi sinh hoạt: Hành Trình Đức Tin của Người Trẻ.

Không khí náo nức trong tiếng nhạc và tiếng nói cười của các bạn trẻ đi xa về. Ở Giáo xứ này, sinh hoạt giới trẻ đã được tổ chức thành nề nếp vào sáng Chúa Nhật đầu tháng. Dù đi học hay đi làm xa cũng phải trở về, bởi ai cũng còn đang gắn bó với gia đình, cần về lấy thêm “lúa” và thăm người thân. Giáo xứ là một gia đình lớn, Cha sở quan tâm đến mọi bạn trẻ, vì thế vắng ai, người sẽ tới nhà thăm hỏi ngay. Tình cha con thân thiết như tình gia đình.

Buổi sinh hoạt hôm nay đông hơn bình thường vì các bạn trẻ nghe nói có Thiên Thanh mới đi Campuchia về, chia sẻ câu chuyện về tượng Đức Mẹ làm phép lạ. Người trẻ vốn háo hức với cái mới, cái lạ, với lại, mấy ai đã được đi du lịch nước ngoài. Những câu chuyện đường xa giúp cho họ mở rộng thêm tầm nhận thức.

Trên bàn chủ tọa có Cha Phương Bảo, ông Trưởng Ban Hành Giáo, anh Trưởng Giới Trẻ Giáo xứ, và Thiên Thanh. Cha Phương Bảo nói vài lời về nội dung buổi sinh hoạt và nhường việc điều hành sinh hoạt cho anh Trưởng Giới Trẻ. Chương trình được khởi động bằng bài hát Theo Thầy Giêsu với những động tác múa tập thể. Sau đó anh Trưởng giới thiệu Thiên Thanh một cách sinh động và trang trọng.

Thiên Thanh mặc robe trắng, trông thanh khiết hơn ngày thường. Khuôn mặt thanh tú, giống Đức Mẹ. Ánh mắt rất hiền cùng với nụ cười rất duyên. Thiên Thanh xuất hiện làm cả hội trường vỗ tay ào ào. Cô sử dụng laptop chạy một chương trình Powerpoint về chuyến đi vừa rồi. Cô nói đến đâu thì hình ảnh hiện ra trên màn hình đến đó khiến các bạn trẻ có cảm giác như đang được đi cùng cô đến chỗ có tượng Đức Mẹ.

Trên màn hình là cổng trạm cửa khẩu Mộc Bài Tây Ninh, sau đó là cổng trạm cửa khẩu phía Campuchia, ngay sau đó là hình những dãy nhà cách biên giới hai nước chỉ chừng cây số. Thiên Thanh hỏi :

- Các bạn biết nhà gì không?

Cả hội trường im phắc, nào ai biết mà trả lời. Thiên Thanh giải thích:

- Đó là những dãy nhà đánh bạc, người ta gọi là Casino. Con bạc Việt Nam sang đốt tiền ở đây. Nhiều người thua bạc, mượn tiền đánh tiếp, rồi không có trả, chúng bắt

Page 62: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

làm con tin, phải báo người nhà ở Việt Nam mang tiền sang chuộc. Cách đây không lâu, có mấy học sinh lớp 12 rủ nhau sang đây chơi, thua bạc, chúng để bạn gái ở lại làm con tin. Cha mẹ cô ấy phải sang chuộc, không biết có bị xâm hại gì không.

Cả hội trường nhao nhao bất bình. Thiên Thanh chiếu hình những cánh đồng mênh mông nhưng trơ trọi nứt nẻ, không canh tác, những căn nhà lá của người Campuchia hai bên quốc lộ 6. Có tiếng ai đó nói:

- Sao nghèo quá vậy, tưởng họ phải hơn Việt Nam chứ.

- Các bạn biết tại sao người Campuchia để đồng không như vậy không? Là vì không có hệ thống kinh rạch dẫn nước vào ruộng. Họ chỉ có Biển Hồ Tonlé Sap và sông Mêkông chảy qua là chính.

Trên màn hình là bản đồ Campuchia. Thiên Thanh chỉ con đường cô đã đi từ Tây Ninh qua quốc lộ 7, rồi quốc lộ 6: Từ Kampong Cham đến Kampong Thom, Siem Reap, Biển Hồ rồi về Phnom Penh, suốt từ Nam chí Bắc nước Campuchia. Có người hỏi:

- Điều gì để lại ấn tượng nhất cho bạn?

- Mình có rất nhiều ấn tượng. Phnom Penh không khác gì Sài Gòn. Chợ Phnom Penh giống chợ Bến Thành. Bảng hiệu các cửa hàng ở đây ghi bằng bốn thứ tiếng: Campuchia, tiếng Anh, tiếng Hoa và tiếng Việt. Xe hơi ở đây rất rẻ. Mười ngàn đô là mua được một chiếc xịn, trong khi ở Việt Nam phải 60 ngàn đô. Xe rẻ vì không có xăng. Các cây xăng chỉ bán buổi sáng. Vì thế, mới có chuyện xăng ở Việt Nam tuồn lậu sang Campuchia.

Trên màn hình là một khu nhà rộng, rất đông người tụ tập xung quanh nhiều bàn. Thiên Thanh bảo đó là trung tâm đánh bạc Nagaworld. Casino này của người Hoa và người Mã Lai. Đó là một kiến trúc hiện đại, sang trọng và rất rộng. Tòa nhà có mái che trong suốt, nhìn lên du khách thấy bầu trời trong xanh dìu dịu như một buổi chiều đẹp. Ban đêm bầu trời vẫn thế. Dân chơi bạc ở đây không có cảm giác về thời gian. Khách ra vào nườm nượp. Ngay lối vào, có một sảnh lớn, chưng bày các mẫu quần áo, tranh ảnh quảng cáo. Có một sân khấu, cả ca sĩ tân nhạc và cổ nhạc thay nhau trình diễn suốt ngày đêm. Bên trong là khu đánh bài, đủ các món chơi. Có bàn quay Rullet, có bàn chơi bài bằng máy điện tử, có bàn nhà cái chia bài, chia tiền thắng thua bằng phỉnh (tiền Campuchia). Thiên Thanh nghe nhiều người ở đây nói tiếng Việt Nam.

- Thế Thiên Thanh có thử vận may không?

- Ái chà, đánh bạc ở đây chỉ có thua thôi. Có mấy người Việt Nam đi cùng đoàn, đổi 100 USD ra phỉnh, nháy mắt hết béng ngay trăm đô, người nhà sợ quá phải lôi ra ngay, sợ con ma ghiền nó giữ lại. Thiên Thanh chỉ đứng coi ca nhạc do các nghệ sĩ trẻ trình diễn. Họ cũng nhún nhảy, la hét y như ca sĩ Việt Nam, họ cũng hát nhạc sến Việt Nam nữa. Món này thì Thiên Thanh ngán quá rồi, bèn bỏ ra ngoài.

- Thiên Thanh đi Campuchia có mục đích gì không, hay đi chơi thôi!

Page 63: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Thiên Thanh đi theo mẹ để viếng tượng Đức Mẹ làm phép lạ mà người Campuchia mới vớt được năm 2012. Với lại, Thiên Thanh thực hiện nhiệm vụ Cha Phương Bảo giao.

Thiên Thanh nhìn sang phía Cha Phương Bảo nháy mắt cười và nói:

- Nhiệm vụ gì thì lát nữa Cha Phương Bảo sẽ nói cho các bạn biết!

Bây giờ, trên màn hình là ảnh pho tượng Đức Mẹ làm phép lạ. Thiên Thanh nói:

- Đây là một pho tượng do một thanh niên người Campuchia đánh cá vớt được ở dưới sông. Anh ta tên là Thạch Hải, mới tu ở Chùa ra được vài tuần.

Có tiếng hỏi:

- Sao Đức Mẹ lại để cho một người tu trong Chùa tìm thấy và vớt lên, không có người Công Giáo hay sao.

- Các bạn biết không - Giọng Thiên Thanh trầm lắng: ở Campuchia có đến 95% người dân theo Phật Giáo. Đạo Phật ở đây là quốc giáo. Tìm đỏ mắt cũng không thấy nhà thờ. Đức Giám mục Yves-Georges-René Ramousse kể lại: Ngài làm đại diện tông tòa của Phnom Penh cho đến khi Khmer Đỏ nắm quyền kiểm soát thành phố vào tháng 4-1975. Trong 15 năm sau đó, Giáo hội gần như biến mất ở Campuchia. Trong bốn năm Khmer Đỏ nắm quyền, không một tàn dư tôn giáo nào sống sót.

- Thế Thiên Thanh có gặp anh Thạch Hải không?

- Thiên Thanh đã đến nhà anh ấy. Pho tượng đặt trên bệ đá ở ngoài sân. Anh đã kể cho Thiên Thanh nghe việc vớt tượng như thế nào. Thiên Thanh quan sát kỹ pho tượng. Đây là tượng Đức Mẹ bồng Chúa Giêsu, nhưng trên tay không có chuỗi hạt. Thiên Thanh nhờ anh Hải chở ra sông, chỗ anh vớt tượng để tìm xâu chuỗi, và Đức Mẹ lại cho anh tìm thấy xâu chuỗi ấy. Thiên Thanh rất mừng.

- Thế Thiên Thanh có cầu xin Đức Mẹ điều gì không?

- À, điều này phải hỏi mẹ Thiên Thanh hoặc hỏi Cha sở, Thiên Thanh không nói được. - Thiên Thanh nhìn mọi người cười.

Thiên Thanh cám ơn mọi người rồi về chỗ ngồi. Một tràng pháo tay nổ ra dài không dứt và tiếng ồn ào nổi lên khắp hội trường:

- Xin mời Cha sở! Chúng con xin mời Cha sở! - Cả hội trường vỗ tay nhao nhao.

Cha Phương Bảo vui vẻ và nhanh nhẹn đứng lên ngay. Cha tiến lại chỗ để micro, Cha nói:

- Các bạn ơi, các bạn có biết nghệ thuật Thiên Thanh chuyền bóng sang Cha không? Cầu thủ xuất sắc đấy. (Hội trường lại ồn ào vỗ tay)… Nhưng mà chuyện Thiên Thanh, Cha có nên nói cho các bạn nghe không?

Cha Phương Bảo nhìn về phía Thiên Thanh cười chờ đợi. Thiên Thanh nhìn Cha cười và gật đầu. Mọi người lại vỗ tay. Chưa bao giờ không khí lại “nóng” như vậy.

Page 64: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Chắc là chuyện bí mật, lại chuyện của con gái nên sẽ rất hấp dẫn. Cha Phương Bảo bắt đầu câu chuyện rất tự nhiên:

- Cha đã ở bên Campuchia rồi, nên không lạ đời sống sinh hoạt và nhất là tình cảnh người Việt và người Công Giáo ở bên ấy. Chính Cha GioaKim và Giáo xứ chúng ta đây năm 1970 đã phải bỏ Campuchia chạy về đây. Cha nhờ Thiên Thanh chụp hình, ghi chép cẩn thận chuyến đi, và nhất là tượng Đức Mẹ làm phép lạ là có mục đích khác.

Rồi Cha Phương Bảo trầm giọng, thân mật chia sẻ:

- Cha muốn nhờ Đức Mẹ cứu giúp Cha một việc nên nhờ đích thân Thiên Thanh đến gặp Đức Mẹ.

- Thế Đức Mẹ có nhận lời Cha không?

- Có chứ! Đức Mẹ nhận lời nên mới có buổi sinh hoạt đặc biệt này?

Hội trường lại nhao nhao:

- Chúng con không hiểu, Cha nói rõ đi!

Cha Phương Bảo trầm giọng thân mật hơn:

- Phép lạ Đức Mẹ làm ở nơi Thiên Thanh, bạn ấy đang ngồi trước mặt chúng ta đó.

Mọi người đổ dồn mắt nhìn về Thiên Thanh để quan sát, họ đâu thấy gì. Cha Phương Bảo tiếp:

- Thời gian trước đây Thiên Thanh bị trầm cảm, sức khỏe giảm sút, tinh thần hoảng loạn, Đông, Tây y đều “bó tay”, còn bây giờ bạn ấy tươi trẻ, sinh động và duyên dáng nữa. Đức Mẹ làm đấy.

Cả hội trường lại vỗ tay, có tiếng nói: Đẹp thật, đẹp thật, giống Đức Mẹ nữa.

Cha Phương Bảo nói tiếp:

- Lúc đầu bạn ấy không chịu đi với mẹ để viếng tượng Đức Mẹ, Cha phải nói mãi “người đẹp con Đức Mẹ” mới chịu đi. Mục đích của Cha là để Thiên Thanh trực tiếp gặp Đức Mẹ. Và Cha tin chắc Đức Mẹ rất thương Thiên Thanh. Đi về, được ơn Đức Mẹ, Thiên Thanh mới kể chuyện lòng của cô ấy. Thực ra trước đó Cha cũng được biết sơ sơ.

Cha Phương Bảo nhìn Thiên Thanh rồi nói:

- Thiên Thanh đi học ở Sài Gòn, giao tiếp với bạn bè, chịu ảnh hưởng những tư tưởng lầm lạc, bạn ấy hoang mang không còn biết đâu là chân lý. Vì không tự mình thoát ra được nên tâm bệnh của bạn ấy càng nặng. Chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa thế tục và cả những giả thuyết khoa học quấn xiết lấy bạn ấy, thế là lòng đạo của bạn ấy phai lạt. Gia đình rất lo, Cha biết tin, Cha cũng rất lo. Có người nói rằng bạn ấy bị bỏ bùa, họ bảo nên đưa Thiên Thanh đi thầy bùa ở Thất Sơn. Cũng may Thiên Thanh không chịu…

Page 65: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Lại có tiếng nhao nhao:

- Rồi sao nữa, thưa Cha?

Cha Phương Bảo nhìn khắp hội trường một lượt để kéo sự chú ý của mọi người:

- Cha nhờ Đức Mẹ giúp, và Đức Mẹ đã cho Thiên Thanh khỏi bệnh. Trong những tình huống khủng hoảng đức tin, chỉ có ơn Chúa mới vượt qua, nhưng đồng thời mỗi người cũng phải tự mình vượt lên khỏi sự lầm lạc. Tức là phải hiểu biết đến nơi đến chốn.

Cha nói tiếp:

- Chẳng hạn, chủ nghĩa thực dụng, về mặt sản xuất vật chất thì rất tốt, nó tiện dụng cho con người, nhưng thực dụng trong quan hệ, trong tình cảm, trong tâm linh thì tồi tệ. Báo Tuổi Trẻ có lần đăng một phỏng vấn: Cô gái trẻ Việt Nam lấy một ông chồng người Đài Loan già khoảng 60 tuổi. Ông ta đi khập khiễng, mắt có khuyết tật. Phóng viên hỏi cô gái: “Hai anh chị quen nhau lâu chưa?” - Họ trả lời: “Ba tháng”. Cô phóng viên hỏi tiếp: “Anh chị có yêu nhau không?”. - Họ trả lời dứt khoát: “Dạ không yêu sao lấy nhau, thưa cô”. Người phóng viên liền hỏi: “Vậy anh ấy có nói được tiếng Việt và cô có nói được tiếng Hoa không, hay hai người nói chuyện bằng tiếng Anh?”. - Họ đáp: “Dạ, thưa không”. Người phóng viên hỏi tiếp: “Vậy hai người yêu nhau thế nào?” - Họ trả lời không do dự: “Dạ, thưa, nhìn nhau là đủ”. Phóng viên chào thua. Thực dụng đến thế là cùng. Cha ngừng một chút…

Cha nói tiếp:

- Lại còn chuyện này: Một anh thanh niên đem chiếc xe Honda Dream đến tiệm sửa xe để luộc đồ. Anh ta bỏ túi vài triệu. Thợ sửa xe hỏi: “Xe của ai mà anh đổi đồ vậy”. Anh ta thản nhiên: “Xe của người yêu”. “Sao anh lại luộc xe người yêu?” - “À, mấy tháng nay đi chơi với em tốn tiền quá, giờ phải gỡ lại”.

Cả hội trường nhao nhao lên:

- Sao tàn nhẫn quá vậy!

Cha Phương Bảo tiếp luôn:

- Chưa tàn bạo lắm đâu. Chuyện này đã xảy ra rồi, báo đăng, có một thanh niên 18 tuổi, trong ba năm đã bán 24 cô gái “người yêu” sang Trung Quốc. Và chuyện kinh hoàng năm vừa rồi, hai người vừa yêu nhau xong, con quỷ râu xanh đã giết chết người yêu, chặt làm mấy khúc quăng xuống sông Hồng nữa. Sự tàn bạo và tội ác không sao tưởng tượng được.

Cả hội trường chết lặng. Cha Phương Bảo nói tiếp:

- Người đi đạo mà thực dụng với Chúa thì đâu phải là con Chúa. Đi nhà thờ cũng tính toán thời gian, cầu nguyện thì xin với Chúa đủ điều; khi đi học, đi thi, đi xin việc làm thì dấu nhẹm tôn giáo trong lý lịch, đó là thực dụng. Đi đạo mà chỉ cầu lợi thì đó chính là chủ nghĩa thế tục. Người ta biến Chúa thành một vị thần, kiểu như thần Tài. Tôn giáo trở thành một kiểu “làm kinh tế” trá hình. Không còn gì là linh thánh,

Page 66: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

không còn đâu là Đấng Cứu Thế đến trần gian để cứu rỗi con người khỏi tội lỗi. Chủ nghĩa thế tục đã đuổi Chúa ra khỏi đền thờ tâm hồn rồi.

Hội trường im phăng phắc, dường như vấn đề Cha Phương Bảo nói đã khía vào lương tâm tôn giáo của mọi người, bắt mỗi người phải tự vấn lại việc sống đạo của mình. Cha Phương Bảo nói hăng say hơn:

- Các bạn trẻ bây giờ hầu như chỉ tin vào chân lý khoa học. Người ta dạy thuyết tiến hóa, người ta chứng minh bằng khảo cổ học, người ta đề ra đủ mọi thứ giả thuyết. Và người ta làm cho các bạn lầm lạc. Mục đích là đánh đổ đức tin tôn giáo bên trong các bạn.

Các con thân mến, giả thuyết dù thế nào vẫn chỉ là giả thuyết. Thuyết tiến hóa là một giả thuyết. Đến nay đã hơn 150 năm, nhưng người ta không sao lấp đầy được những vết gãy lý thuyết, không sao tìm được chứng cớ rằng có một giống loài nửa người nửa khỉ trong quá trình tiến hóa. Không sao tìm được nguồn gốc sự sống là gì.

Khoa học hoàn toàn bất lực trước vấn đề tâm linh, trước sự vô cùng vô tận của vũ trụ. Người ta đặt ra thuyết Big Bang, vũ trụ có từ vụ nổ lớn, vậy trước vụ nổ ấy vũ trụ là gì. Không trả lời được. Giả như thuyết tiến hóa là thật, thì ai đã đặt cái quy luật ấy vào sự vật để vạn vật ngày càng tiến bộ hơn, mà không thụt lùi, thoái hóa.

Vâng, Thiên Chúa đã làm nên mọi sự. Con người chỉ là hạt cát so với vũ trụ có bao nhiêu ngàn tỷ ngôi sao. Cái bộ não bé nhỏ của con người làm sao chứa đựng được Thiên Chúa - Đấng sáng tạo nên vũ trụ vĩ đại ấy. Chỉ có đức tin mới giúp con người tiếp cận được Thiên Chúa. Chúng ta chẳng thể tìm biết được tổ tiên của ta là ai, nhưng ta tin chắc là có tổ tiên, đúng không. Chúa mạc khải cho những kẻ bé mọn là vậy.

Cha Phương Bảo nhìn các bạn trẻ và hỏi:

- Chúng con có thắc mắc điều gì không?

Hội trường dường như thấm thía. Người này nhìn người kia, dường như muốn hỏi nhưng lại e dè. Mãi mới có người ngập ngừng:

- Xin Cha giải thích cho chúng con Sáng Thế Ký là chuyện thật hay là huyền thoại của người Do Thái. Chuyện nguồn gốc con người văn minh là ở Đông Phi phải giải thích thế nào?

Cha Phương Bảo khích lệ:

- Câu hỏi của con là câu hỏi thời sự và thú vị. Cha hỏi lại các con, các con có tin và tự hào mình là con Rồng cháu Tiên không, có biết truyện Lạc Long Quân và Âu Cơ lập ra nước Âu Lạc, đẻ ra một bọc trăm trứng, nở thành trăm con, làm nên dân tộc Việt Nam hôm nay không? Người ta gọi đó là dã sử.

Dù không có cơ sở khoa học, nhưng người Việt Nam không hề hoài nghi gì về tổ tiên mình. Chân lý khoa học khác với chân lý nghệ thuật. Sáng Thế Ký là cách con người tìm hiểu sự sáng tạo của Thiên Chúa. Chân lý của sự sáng tạo là như thế này: Thiên Chúa tạo dựng mọi sự. Còn cụ thể của việc sáng tạo, thì con người tự hình dung theo

Page 67: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

cách của mình. Cho nên dù có tìm thấy thủy tổ con người ở Đông Phi thì Thiên Chúa vẫn là Đấng sáng tạo không thể phủ định được.

Chuyện con người phạm tội diễn ra hàng ngày trước mắt chúng ta, thì có khác nào thủy tổ chúng ta phạm tội. Nếu nhìn bằng con mắt đức tin, bạn sẽ thấy rất rõ. Thiên Chúa tạo dựng tất cả, kể cả thuyết tiến hóa, kể tất cả những quy luật khoa học đã tìm ra mà con người không thể cưỡng lại được. Nào có ai cưỡng lại được sự chết đâu, đúng không?

- Dạ thưa Cha, nhìn bằng con mắt đức tin là nhìn thế nào?

- Là nhìn theo những gì Chúa đã dạy chúng ta. Vì “Người là đường, là sự thật và là sự sống”. Chẳng hạn Chúa dạy Tôma: "Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!" Chúa đã chúc phúc cho chúng ta đó.

Buổi sinh hoạt sau đó chuyển sang thảo luận sôi nổi. Các bạn vây lấy Thiên Thanh để hỏi về sự chuyển biến trong tâm hồn diễn ra thế nào. Thiên Thanh đã kể lại phút bừng tỉnh như nhìn thấy Đức Mẹ, và từ đấy ngọn lửa tin cậy mến và lòng nhiệt thành của Thiên Thanh đã sống động trở lại. Mọi người ra về trong niềm vui của tâm hồn vừa được tắm gội.

***

Sau đó ít bữa, Cha Phương Bảo nhận được tin không vui từ Campuchia. Tin do một giáo dân mà Thiên Thanh đã liên lạc được: Khách hành hương viếng tượng càng đông thì gia đình ông Ba Hưởng càng gặp rắc rối. Người ta thúc ép bà Ba Hưởng, không cho để tượng ở nhà. Lý do là khách hành hương tấp nập ồn ào, bà Ba không thể tụng kinh được. Bà nói thần Phật báo mộng cho bà phải đưa tượng đi nơi khác. Họ còn mời ông Ba Hưởng và cậu con trai út lên làm việc, rằng do tượng mà tình hình an ninh chính trị có nhiều vấn đề. Giải pháp tốt nhất là trả tượng về chỗ cũ…

Ông Ba Hưởng một đàng thương vợ, nể vợ, còn Thạch Hải thì kính trọng và yêu mến mẹ; đàng khác thì cũng sợ xóm làng và quý chức làm khó dễ; nhưng sau thời gian suy nghĩ và xin ơn của tượng thần chỉ dẫn, ông tuyên bố:

- Số tôi tưởng đã chết vì bệnh tật, nhưng tôi đã được cứu sống. Ai đã cứu sống tôi thì mạng sống tôi thuộc về người đó, dẫu thế nào tôi cũng cam lòng…

Rồi ông nhất định không chịu đưa tượng đi.

Còn Thạch Hải, anh cũng không chịu đưa tượng đi nơi khác. Vì anh là người được ơn của Đức Mẹ. Anh cũng là người được nghe từ trong tâm hồn tiếng kêu thảm thiết của em bé nhiều lần trước khi anh vớt được tượng. Hơn nữa, chính Thiên Thanh khi được tượng cứu khỏi bệnh đã chỉ cho anh vớt được xâu chuỗi, nơi chính anh đã vớt được tượng. Những điều ấy càng củng cố niềm tin trong anh. Hình ảnh Thiên Thanh vẫn còn rõ nét trong anh và đặc biệt là chiếc điện thoại cô tặng anh để làm việc. Thiên Thanh nhờ anh có thông tin gì về tượng Đức Mẹ thì gọi cho cô biết.

Page 68: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

***

Cha Phương Bảo xem xét kỹ những tấm ảnh của Thiên Thanh chụp, nhất là cỗ tràng hạt. Từ khi có tin không vui của gia đình ông Ba Hưởng, Cha Phương Bảo liên tục cầu nguyện xin Đức Mẹ soi dẫn. Đức Mẹ muốn tiếp tục hiện diện ở nhà ông Ba Hưởng hay đến một nơi nào khác để Danh Chúa được tỏ rạng hơn. Sứ điệp Đức Mẹ trao gửi cho con Mẹ là gì ?

Cha Phương Bảo cũng muốn tìm hiểu nguồn gốc tượng phát xuất từ đâu? Tại sao tượng lại bị trôi nổi ở dòng sông Mêkông này?

Nghiên cứu kỹ những bức ảnh chụp và nhất là tràng chuỗi, Cha có nhận định, có thể đây là một bức tượng được tạc ở nước ngoài của một nhà thờ, nhà nguyện nào đó.

Ở ngoại quốc, đặc biệt Châu Âu, tượng thánh giá thường ghi “made in France”. Chắc chắn đây không phải tượng của người Âu Châu bỏ xuống sông, cũng không phải một tàu hàng Âu Châu có chở tượng bị đắm. Tượng phải ở một nhà thờ hay nhà nguyện nào của các cố thừa sai? nhưng tại sao tượng lại bị bỏ xuống sông và trôi giạt đến đây? Chắc chắn phải có nguyên nhân.

Nhận định thứ hai: tượng phải ở vùng nào đó thuộc thượng nguồn sông Cửu Long trôi xuôi về Phom Pênh. Tượng không thể trôi ngược từ Việt Nam sang, vì nước sông Mekong chỉ có một dòng đổ từ thượng nguồn ra biển. Sự trôi dạt có thể biết được vì trên thân tượng có những chỗ bị sứt, bị móp có lẽ do quá trình va đập.

Điểm thứ ba: tượng Đức Mẹ lại dừng lại tại một xứ sở có rất ít giáo dân Công Giáo, và tình hình xã hội còn nhiều phức tạp. Điều này có ý nghĩa gì?

Việc người ta ép ông Ba Hưởng đưa Đức Mẹ đi nơi khác chẳng khác nào như xưa, Chúa Giêsu đã đến vùng dân ngoại làm phép lạ, nhiều người chứng kiến hết sức thán phục, nhưng những người đứng đầu sợ mất ảnh hưởng đã mời Chúa đi.

Với tất cả những nhận định ấy, Cha Phương Bảo trao đổi với gia đình ông bà Hoàng Văn và Thiên Thanh để xin đem Đức Mẹ về, tìm nguồn gốc trước khi đưa Đức Mẹ trở lại Campuchia.

12

Page 69: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Tình hình để tượng và bỏ tượng mỗi lúc một phức tạp. Số người hành hương cứ mỗi lúc một gia tăng, nhiều người được ơn lành.

Nhưng càng đông người hành hương thì tình hình lại càng căng thẳng hơn. Áp lực ngày càng đè nặng lên gia đình ông Ba Hưởng.

Giữa lúc ấy thì bà Ba Hưởng lâm bịnh và đột ngột qua đời. Các viên chức tôn giáo ra quyết định chôn cất mà không cần hỏi ý kiến gia đình. Họ buộc ông Ba Hưởng phải bỏ tượng đi, vì họ cho rằng sự hiện diện của pho tượng là nguyên nhân gây ra cái chết của bà Ba Hưởng. Đàng khác, họ lấy lý do để có mặt bằng tổ chức lễ an táng cho bà theo nghi thức dành cho Phật tử. Thực ra là họ muốn ngăn chặn khách hành hương với lý do nhà có tang.

Lúc đầu cũng có một vài lộn xộn với khách hành hương, nhưng an ninh địa phương đã phối hợp với các viên chức tôn giáo giải quyết ổn thỏa. Khách hành hương đành phải ra về mà không thể trách cứ gì, họ chỉ tiếc không được viếng Dức Mẹ để xin ơn.

Trước áp lực quá lớn, ông Ba Hưởng thật bối rối chẳng biết phải làm sao. Thạch Hải vội báo tình hình cho Thiên Thanh, và Thiên Thanh báo ngay cho Cha Phương Bảo.

Cha Phương Bảo đang có ý định xin đem tượng về, được tin Thiên Thanh báo khẩn, Cha Phương Bảo đăng ký xe đi ngay. Chuyến đi có Cha Phương Bảo, ông trùm xứ và mẹ con Thiên Thanh.

Chỉ một ngày sau, xe đã đưa Cha Phương Bảo tới nhà ông Ba Hưởng. Xe bị chặn lại từ xa. Lúc ấy Thạch Hải ra đón người ta mới cho xe vào. Nhìn thấy cha Phương Bảo và Thiên Thanh xuống xe, Thạch Hải hết sức mừng rỡ. Anh mời ba người vào khu tiếp khách. Nhà trong đang để áo quan bà Ba, có các sư thầy đang tụng niệm khói nhang nghi ngút. Những người đến phúng viếng ngạc nhiên nhìn những người khách lạ từ Việt Nam sang. Nhưng trong không khi trang nghiêm, Thạch Hải không giới thiệu đoàn khách của Thiên Thanh.

Nhìn Thạch Hải bơ phờ, Thiên Thanh hiểu nỗi bi thương trong lòng anh. Cô lên tiếng:

- Xin chia buồn với anh. Bác gái ra đi thật đột ngột. Mất một người thân yêu là sự mất mát không thể bù đắp, nỗi buồn thương còn mãi trong lòng ta. Mong anh sớm vượt qua và giữ gìn sức khoẻ để lo cho bác trai. Ông cụ nhìn chưa thật khỏe, nhất là trong tình hình như thế này.

Cô nắm tay Thạch Hải thật lâu để nhịp đập trái tim mình hòa cùng nhịp đạp trái tim Thạch Hải.

Nghe Thiên Thanh nói, nỗi xúc động trong lòng Thạch Hải dâng tràn. Anh không sao ngăn được dòng nước mắt trào ra. Mấy ngày nay không ai chia sẻ với anh được những khốn khó anh đang phải gánh chịu. Tình cảm của Thiên Thanh dành cho anh thấm trong từng lời, giúp anh cởi bỏ hết những lắng lo ưu phiền. Anh như được tiếp thêm sức sống.

-Cám ơn Thiên Thanh đã chẳng quản xa xôi sang thăm và chia buồn với Thạch Hải.

Page 70: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Nói đến đó, anh nghẹn lời và đưa vạt áo lau vội dòng nước mắt.

Thiên Thanh buông tay Thạch Hải ra, cô lặng đi trước sự xúc động của Thạch Hải. Cô hỏi:

-Có chuyện gì khác không mà thấy anh có vẻ căng thẳng quá vậy?

Thạch Hải ngập ngừng:

- Họ quần cha con tôi muốn điên lên. Họ cứ khăng khăng đòi chúng tôi trả tượng về chỗ đã vớt và ngăn cản không cho người ta viếng. Cha con tôi không chịu, họ đe dọa sẽ xử lý tượng và người…

Thiên Thanh trầm ngâm:

- Thế ba anh và anh tính thế nào?

- Họ quá áp lực, nhưng đưa tượng về chỗ cũ thì chúng tôi không làm. Họ trách móc và đổ thừa vì chúng tôi đem tượng về nhà nên mẹ tôi chết. Cha con chúng tôi phải chịu trách nhiệm việc đó và họ nói không được để tượng ở lại, vì sợ rằng rồi đây cả xóm sẽ phải tai họa.

- Có thực là tai họa không, lấy gì chứng minh? - Thiên Thanh có vẻ bức xúc.

- Người ta cứ phao lên như vậy, lý của những người không có thiện ý và thiếu hiểu biết, trong nhà đang có tang, mình không cãi họ được.

Thiên Thanh gần gũi:

- Ba anh và anh không chịu bỏ tượng, vậy bây giờ để tượng lại hay tính làm sao?

Thạch Hải đã lấy lại bình tĩnh:

- Họ yêu cầu chúng tôi: nếu không đem tượng trả về sông thì trao tượng lại cho một nhà thờ nào đó. Họ đã báo cho một giáo xứ ở đâu đây. Có mấy người ở giáo xứ ấy mới đến, họ đang trao đổi với ba tôi ở ngoài kia…

Thiên Thanh nghe Thạch hải nói mấy người đứng nói chuyện với ông Ba Hưởng ở ngoài kia là quý chức nhà thờ Akreiy Kasatv, thì nàng đến chỗ Cha Phương Bảo, nói nhỏ:

- Thưa Cha, mấy người đang nói chuyện với ba anh Thạch Hải là quý chức ở nhà thờ Akreiy Kasatv. Họ được các chức sắc tôn giáo ở đây mời đến đưa tượng đi.

Cha Phương Bảo rời chỗ đứng, đi theo Thiên Thanh, ngài nói:

- Để Cha gặp và trao đổi với gia chủ và anh em bổn đạo nhà thờ Akreiy Kasatv.

Đến gặp ông Ba Hưởng, Cha Phương Bảo chào hỏi rồi xin phép được thắp nhang cho bà Ba. Cha cùng mẹ con bà Thiên Phước và ông trùm xứ vào trong nhà. Thiên Thanh rút bốn cây nhang, thắp lửa rồi che tay thổi tắt đi. Cô đưa cho mỗi người một cây. Cả bốn người cùng nghiêm trang vái trước di ảnh người quá cố. Ông Ba Hưởng và Thạch Hải vội đứng vào vị trí đầu quan tài, và vái đáp lễ thật sâu.

Page 71: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Vái nhang xong, Cha Phương Bảo cầm tay ông Ba Hưởng và nói:

-Chúng tôi ở Việt Nam, khi Thiên Thanh báo bà nhà qua đời, chúng tôi vội sang ngay, để trước là chia buồn với ông và gia đình, sau là để viếng bà, và tiễn bà về cõi vĩnh hằng theo tâm nguyện của bà. Mong ông sớm vượt qua nỗi đau buồn để giữ gìn sức khỏe. bà nhà sống khôn thác thiêng chắc sẽ độ trì cho ông.

Ông Ba ngước nhìn cha Phương Bảo và mọi người bằng ánh mắt cảm động bà biết ơn. Ông cầm tay cha Phương Bảo run run:

- Xin cám ơn quý vị. Tôi rất cảm động về sự hiện diện của quý vị trong lúc gia đình tôi đang có chuyện đau buồn như thế này. Được các vị thăm viếng, chúng tôi rất biết ơn.

Cha Phương Bảo tiếp lời:

- Thưa ông Ba, vì đi vội, chúng tôi không kịp chuẩn bị gì cho phải lễ. Xin có chút lễ mọn để nhang đèn hương hoa cho bác gái, mong bác nhận cho lòng thành của chúng tôi.

Bà Thiên Phước mở bóp, lấy ra một phong bì đưa cho Thiên Thanh đặt vào đĩa, rồi trao cho ông Ba Hưởng. Ông Ba Hưởng ngạc nhiên và cảm động không nói lên lời. Những người khách Campuchia đang có mặt ở đó cùng với các chức sắc địa phương hộ tang cũng rất ngạc nhiên. Nhưng họ không biết bốn vị khách vừa thắp nhang là ai.

Thạch Hải mời mọi người ra nhà ngoài ngồi nói chuyện.

Sau mấy lời thăm hỏi về bệnh tình của bà Ba, Cha đi ngay vào vấn đề, Cha nói:

- Tôi nghe anh Thạch Hải cho biết: sự hiện diện của bức tượng Đức Mẹ ở nhà ông Ba đã gây khó cho ông, nhất là trong dịp này phải không, thưa ông?

Ông Ba Hưởng thở dài nói:

- Chúng tôi bối rối, khó xử quá. Tôi và thằng út nhỏ quá không đủ sức chống lại được…

- Ông Ba yên tâm - Cha Phương Bảo tiếp lời:

- Chúng tôi từ Việt Nam sang đây, trước hết là để thăm viếng và chia buồn với gia đình về sự ra đi của bà nhà, sau là để thưa với ông Ba và anh Thạch Hải xin được đưa tượng về Việt Nam một thời gian rồi chúng tôi sẽ trả tượng trở lại Campuchia trao cho một nhà thờ nào đó. Xin thưa, ý của ông Ba thế nào?

Ông Ba Hưởng có vẻ do dự:

- Hình như họ đã sắp xếp trao tượng này cho một giáo xứ nào đó ở đây rồi. Quý chức ở nhà thờ ấy đang đợi lấy tượng đi; nhưng cháu út nhà tôi không chịu và đang còn trao đổi gì đấy. Các vị chức sắc ở đây đòi giải quyết vấn đề sớm để họ còn tổ chức lễ cầu siêu cho bà nhà tôi.

Cha Phương Bảo trấn an:

Page 72: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Ông Ba đồng ý trao tượng cho chúng tôi là được rồi, còn ai nhận tượng thì chúng tôi sẽ dàn xếp.

Cha Phương Bảo đến gặp mấy anh em Công Giáo được mời đến để đưa tượng đi. Họ là quý chức trong Ban hành giáo nhà thờ Akreiy Kasatv, tỉnh Kandal, Phnom Penh. Trao đổi với ông Ba, họ được biết Cha đây là Cha sở Russeykeo ở Việt Nam, dù vậy, Cha cũng giới thiệu:

- Có lẽ nhiều anh chị em chưa biết tôi. Tôi là Cha xứ Russeykeo Việt kiều Campuchia tại Việt Nam. Trước năm 1970 chúng tôi thuộc họ đạo Russeykeo ở phía bắc Phnom Penh. Chúng tôi hồi hương năm 1970. Chúng tôi cũng biết thời Polpot, Giáo hội không còn gì. Hiện anh em đang ở Bãi Cải cũng không cách xa Russeykeo ngày xưa bao nhiêu. Chúng tôi cũng được biết năm 2008 Bãi Cải đã vớt được tượng Đức Mẹ Lên Trời. Nay chúng tôi được tin cậu Thạch Hải cho biết giới chức tôn giáo ở đây muốn gia đình ông phải đưa tượng Đức Mẹ đi nơi khác và họ đã báo cho Giáo xứ của quý chức đến đưa tượng đi có phải không?

Quý chức Ban hành giáo Giáo xứ Akreiy Kasatv nghe Cha Phương Bảo nói vậy thì rất mừng, vì gặp được đồng hương, lại là người đã sống ở Campuchia, người cũng hiểu rõ về họ. Họ nắm tay cha Phương Bảo chào hỏi và nói với Cha, đúng là các chức sắc ở đây đã mời họ đến để đưa tượng đi.

Cha Phương Bảo cũng rất vui. Ngài nói tiếp:

- Thưa quý chức, chúng tôi nghe tin ông bà Ba gặp khó khăn vì sự hiện diện của pho tượng, chúng tôi muốn được chia sẻ khó khăn ấy, và không để người ta, vì thiếu hiểu biết, mà xúc phạm đến Mẹ. Hơn thế, cả bốn người chúng tôi đây đều được ơn riêng của Đức Mẹ. Nhân dịp này chúng tôi lặn lội sang đây xin thỉnh Đức Mẹ về…

Nghe Cha Phương Bảo nói tượng Đức Mẹ đã ban ơn riêng cho một cô gái bằng xương bằng thịt đang đứng bên họ, và ơn riêng Đức Mẹ đã chữa bệnh cho chính ông Ba Hưởng, nên họ nói với Cha:

- Xin Cha cho chúng con rước tượng về giáo xứ để chúng con cũng được nhờ…

Cha Phương Bảo thân thiện trả lời:

- Theo chỗ tôi được biết, hiện giáo xứ của quý chức đang có pho tượng Đức Mẹ vớt được năm 2008. Việc đưa tượng Đức Mẹ ở đây về để tôn kính là điều phải làm. Nhưng xin thưa, chúng tôi chỉ xin đem tượng về một thời gian để tìm hiểu nguyên gốc của tượng, sau đó sẽ đưa tượng Đức Mẹ trở lại giáo xứ của quý chức. Sự xuất hiện của tượng Đức Mẹ ở đây hẳn là thánh ý của Chúa mà chúng ta chưa biết được. Cũng xin thưa thực rằng, giáo xứ chúng tôi đang dự định xây trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ, nên sang đây xin được đưa Đức Mẹ về để giáo dân cầu xin Đức Mẹ cho công trình dâng Người.

Cha giải thích thêm:

- Anh chị em vừa mắt thấy, tai nghe việc Chúa làm qua Đức Mẹ. Nhưng nguyên nhân nào người ta đã bỏ Đức Mẹ trôi sông, chắc chắn sẽ rất bí ẩn. Chuyện tượng trôi

Page 73: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

giạt đến đây và cả hai tượng đều do anh em lương dân phát hiện và đều được hưởng phép lạ. Qua các sự kiện này, Đức Mẹ muốn nói gì với chúng ta?

Anh chị em hãy cầu nguyện cho chúng tôi, để chúng tôi tìm biết được ý Chúa và làm sáng danh Ngài trong môi trường sống của chúng ta hôm nay. Sau đó, chúng tôi sẽ trả lại tượng gốc cho anh chị em, chỉ xin giữ bản sao của tượng để tôn kính theo tâm nguyện của con dân giáo xứ chúng tôi.

***

13Cha Phương Bảo cầu nguyện và suy nghĩ nhiều. Pho tượng có nguồn gốc ở đâu? Sao lại trôi giạt về Campuchia và ý Chúa muốn nói gì với nhân loại khi tượng xuất hiện ở nơi còn quá nhiều người chưa biết Chúa?

Cha đến gặp Cha cố Gioakim Hồ Quang, người đã sống mấy chục năm đời mục vụ ở Campuchia để xin ý kiến chỉ dẫn của ngài. Cha cố Gioakim người nhỏ nhắn. Tuy đã già nhưng còn rất tinh anh. Cặp kính trắng và đôi mắt sáng ánh lên sự uyên bác trải nghiệm như thường thấy ở các linh mục trí thức.

Cha cố Gioakim đón tiếp Cha Phương Bảo rất chân tình. Trong cách chia sẻ của ngài, có cả những thông điệp mà ngài muốn những thế hệ đi sau cần hiểu rõ. Đó là lòng tin mạnh mẽ vào thánh ý Chúa quan phòng, ngài nhấn mạnh đến lý tưởng của người mục tử là dấn thân cho đoàn chiên. Người cũng soi sáng những bài học lịch sử truyền giáo và cuộc đời của các thánh tử đạo.

Cha Phương Bảo tường thuật lại cho ngài nghe việc vớt được tượng Đức Mẹ từ sông Mêkông ở Campuchia. Cha cũng trình bày việc chuộc tượng Đức Mẹ đưa về đây và ý định của mình về một trung tâm hành hương kính Đức Mẹ.

Nghe Cha Phương Bảo nói, Cha cố Gioakim yêu cầu cho ngài được xem pho tượng Đức Mẹ, bởi ngài cũng chỉ được nghe nói về bức tượng qua những người đi hành hương Campuchia. Cha Phương Bảo cho người đem tượng đến, và thành kính đặt trên bàn. Cha cố Gioakim nhìn chăm chú pho tượng Đức Mẹ. Có một sự xúc động sâu xa trong lòng khiến cho mắt ngài nhòa đi và giọng nói của ngài nghẹn ngào:

- Tượng Đức Mẹ này là của các Cha cố Tây, đưa từ Pháp sang, lúc các ngài sang truyền giáo ở Campuchia và ở Việt Nam cách đây đã mấy trăm năm, đặc biệt ở vùng Kontum. Ở nhà thờ Russeykeo ngày xưa của chúng tôi có tượng giống tượng này, nhưng đã hơi lâu.

- Thưa Cha, sao người biết được điều này?

Page 74: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Cha cố Gioakim nhìn ra xa, ánh mắt chìm sâu vào lịch sử:

- Campuchia đã từng có thời là một đế quốc hùng mạnh ở vùng Đông Nam Á. Theo truyền thuyết địa phương, một vị ẩn sĩ Ấn Độ tên là Kambu đã kết hôn với nữ thần Mera, sinh ra người Khmer. Con cháu của họ được gọi là Kambuja (con cháu của Kambu). Tên ghép của hai vợ chồng trở thành tên dân tộc là Kambu-Mera, Kmer hay Khmer.

Người Khmer lập nên nước Chân Lạp vào thế kỷ thứ sáu. Họ đánh bại nước Phù Nam để mở rộng bờ cõi về phía Nam. Thời kỳ Angkor là thời kỳ lừng lẫy của đế quốc Khmer (802-1434). Đế quốc này đã chinh phục được Champa trong khoảng 1145-1149 và thậm chí 5 lần đem quân đánh Đại Việt (1128, 1129, 1132, 1138, 1150). Ngoài việc đánh Champa, người Khmer còn thôn tính luôn cả Haripunjaya gần biên giới Miến Điện-Thái Lan và bán đảo Malaya. Họ xây dựng Angkor Wat như là một biểu tượng cho sức mạnh của vương triều. Sau đó, người Pháp tới chiếm Đông Dương. Năm 1863 Vua Norodom ký một hiệp ước với Pháp để thành lập một chính quyền bảo hộ trên toàn vương quốc. Mãi đến tháng 10 năm 1953 Campuchia mới độc lập.

Cha cố Gioakim trầm giọng hơn:

- Vương quốc Campuchia được mệnh danh là đất nước của Phật. Chín mươi năm phần trăm dân số theo Phật giáo nguyên thủy. Ước tính có khoảng 4.392 đền thờ tu viện trong cả nước. Phần lớn sắc tộc Khmer theo đạo Phật. Người Hoa và người Việt Nam tại Campuchia theo Phật Giáo Đại thừa, việc hành đạo có khác biệt, chẳng hạn như việc tôn kính các anh hùng dân gian và tổ tiên. Văn hóa Phật giáo được xem là bản sắc và văn hóa của dân tộc.

Cha Phương Bảo thầm cảm phục sự hiểu biết sâu rộng của Cha cố GioaKim về đất nước Campuchia. Những gì Cha cố Gioakim trình bày lại đặt ra cho Cha Phương Bảo nhiều điều cần phải lý giải:

- Thưa Cha, Campuchia là đất Phật, vậy đạo Công Giáo đã được truyền vào như thế nào? Các nhà truyền giáo đã làm gì để hạt giống Tin Mừng có thể bén rễ trong lòng người dân Khmer?

Cha cố Gioakim lấy làm thú vị về câu hỏi này, vì đó là điều mà bất cứ người Mục tử nào cũng trăn trở. Làm thế nào để hạt giống Tin Mừng nảy mầm khắp nơi:

- Đạo Công giáo mới được truyền vào Campuchia sau này. Theo lời Đức Giám Mục Emile Destombes, vào năm 1555, Fr. Gaspar da Cruz, một tu sĩ dòng Đaminh người Bồ Đào Nha đã đem Tin Mừng đến Campuchia. Năm 1574 Fr. Sylvestre D'Azevedo, cũng là một tu sĩ người Bồ Đào Nha dòng Đaminh đã đến vương quốc Campuchia, ông ở đây 22 năm, nói tiếng Khmer, xây nhà thờ, và viết sách Công Giáo bằng tiếng Khmer.

Những cộng đoàn Công Giáo được thành lập từ thế kỷ 17 do các tu sĩ dòng Tên, dòng Đaminh và dòng Phanxicô. Người Công Giáo Nhật, người Công Giáo Indonesia đến đây từ giữa thế kỷ 17. Giữa năm 1700 sách giáo lý (vấn đáp) được các

Page 75: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

linh mục Thừa Sai Paris (MEP) dịch sang tiếng Khmer. Năm 1850 Phủ doãn Tông tòa được thiết lập. Thời Pháp thuộc, nhiều người Công Giáo Việt Nam đã đến và định cư ở Campuchia. Người Campuchia đầu tiên được thụ phong Linh mục vào năm 1957.

Cha Phương Bảo hỏi về đời mục tử riêng của Cha Gioakim:

- Thưa Cha, trước kia cha ở Campuchia thì Giáo xứ của cha ở đâu trên đất nước Campuchia?

- À, Giáo xứ Russeykeo. Để tôi kể Cha nghe đôi điều về Giáo xứ này.

Cha Gioakim bỗng trở nên hoạt bát, tinh thần của ngài bỗng trẻ trung hẳn lên. Ngài sôi nổi kể về thời trẻ:

- Russeykeo là tên một Quận của Phnom Penh. Từ Phnom Penh lên Oudong (Thủ đô Vương quốc Campuchia xưa) theo quốc lộ 5, là con đường nhà vua thường đi qua. Hoàng gia cho trồng hàng tre màu dọc một bên và chỉ trồng cho riêng quốc lộ này. Giáo xứ Russeykeo của tôi được thành lập vào năm 1863, thời Đức Cha Jean-Claude Miche (1850-1869). Ban đầu chỉ có vài trăm giáo dân, cử hành phụng tự nơi nhà thờ tạm bằng cây gỗ. Dọc hai bên đường vào và cả khuôn viên nhà thờ, giáo dân trồng hai hàng tre màu. Năm 1923, nhà thờ mới được xây dựng kiên cố hơn. Gần 100 năm hình thành và phát triển, Giáo xứ Russeykeo đã có hơn 7000 giáo dân. Và cũng từ những năm này, Giáo xứ được chăm sóc bởi những vị mục tử Việt Nam. Cha Carôlô Châu Hữu Hạnh làm Chánh xứ từ 1955 đến 1970. Năm 1975, nhà thờ này không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Tôi làm Phó xứ (Phnom Penh) từ 1950 đến 1970.

Cha Phương Bảo reo lên kinh ngạc:

- Con không ngờ Cha đã là Mục tử rất lâu ở Campuchia. Dạ thưa, Cha cố, Cha về đây năm nào?

Cha cố Gioakim lặng im một lát. Ngài đưa tay lên kệ sách lấy một tệp rất dày những bài báo ngài đã gom góp được. Ngài đưa cho Cha Phương Bảo và nói:

- Tất cả vấn đề nằm ở đây. Cần phải ghi nhớ lấy thật cẩn thận. Lúc nào có thì giờ, Cha nên đọc, giờ chỉ xin nói sơ lược như thế này.

Cha Phương Bảo vừa nhìn lướt những trang báo trong tệp hồ sơ, vừa lắng nghe Cha cố Gioakim:

- Từ tháng 6 năm 1957 thời Sihanouk đã có luật cấm ngoại kiều làm 18 nghề, sau tăng thêm 6 nghề nữa là 24 nghề. Việt Kiều phải đóng thuế thân mỗi năm. Đa số dân Việt chỉ sống trên sông nước. Người Khmer gọi người Việt là "Youn". Nạn “cáp duồn” người Việt đã xảy ra nhiều lần trong lịch sử. Năm 1730 tất cả người Việt ở vùng Banam bị tàn sát. Đây là vụ “cáp duồn” đầu tiên. Trong cuốn sách “Đức cha Adran”, nhà văn Pháp Louis-Eugene Louvet cho biết, ngày 13/11/1769, nhà của Giám Mục Bá Đa Lộc ở Hòn Đất, ngoài khơi Hà Tiên bị một toán cướp người Campuchia đánh phá. Chúng chém giết, hãm hiếp nhiều con chiên người Việt. Lịch sử Campuchia cũng có ghi: Quốc vương Ang Non II (1775-1779) rất ghét người

Page 76: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Việt, ông ta đã nghĩ đến việc tàn sát tất cả người Việt trên đất Campuchia. Dưới triều Ang Chan II (1796-1834), đặc biệt vào năm 1818, một số người Việt đã bị tàn sát ở tỉnh Baphnom.

Cha Phương Bảo nói chen vào:

- Thưa Cha cố, như vậy nạn “cáp duồn” có phải là xuất phát từ lịch sử quan hệ giữa hai dân tộc?

Cha cố Gioakim gật đầu tâm đắc:

- Vùng đất Nam bộ của ta ngày xưa là nước Phù Nam. Khi người Khmer đánh chiếm Phù Nam, họ đặt thành Lục Chân Lạp và Thủy Chân Lạp. Vì thế các tỉnh miền Tây có rất đông đồng bào Khmer Nam bộ sinh sống.

- Thưa cha, nạn “cáp duồn” năm 1970 xảy ra như thế nào?

Cha cố Gioakim bỗng rùng mình, co rúm người lại:

- Đó là một thời kinh hoàng đối với Việt kiều sống ở Campuchia. Năm 1970, chính phủ Lon Nol thân Mỹ phát động chiến dịch “cáp duồn” toàn quốc. Điều này họ có mục đích chính trị. Họ chống lại cách mạng Việt Nam. Thực ra Mỹ muốn dùng Lon Nol để ngăn chặn và tiêu diệt Cách Mạng miền Nam. Lúc ấy, hàng ngày ở Campuchia: tivi, radio, báo chí… của chính quyền Lon Nol ra sức tuyên truyền kể tội, nói xấu người Việt. Họ cho đăng những chuyện bịa đặt và phổ biến bức hình ba người Campuchia bị chôn sống, “ba cái đầu người” chụm lại làm ba ông táo, nhằm dấy lên làn sóng bài Việt.

Vì thế, từ ngày 18/03/1970, người Việt bị ngược đãi, bị ruồng bắt khắp nơi. Mỗi ngày có hàng chục, hàng trăm xác người Việt bị sát hại và thả trôi trên sông Mêkông và hồ Tonlé Sap. Hàng chục ngàn người đã bị bắn giết vô tội vạ. Giới ngoại giao quốc tế có mặt ở Phnom Penh lúc ấy lên tiếng can ngăn chính phủ Lon Nol, nhưng không được.

Cha cố Gioakim ngậm ngùi:

- Biến cố “cáp duồn” kinh hoàng đã làm cho đàn chiên tan tác. Người người gạt nước mắt ra đi. Từ tháng 6 đến tháng 8 năm 1970: gần 49.000 người Việt cả giáo lẫn lương tập trung lần lượt về Việt Nam. Hầu hết giáo dân Russeykeo đi chuyến cuối cùng vào đầu tháng 9 năm 1970. Có khoảng 300 chiếc ghe được hộ tống, xuôi giòng sông Mêkông, cập bến Trà Nóc (Cần Thơ) và Chợ Mới (An Giang). Tôi đã đưa khoảng hơn 200 gia đình thuộc Giáo xứ Russeykeo về định cư tại Suối Cát 1 thành lập Giáo xứ Russeykeo thuộc Giáo phận Xuân Lộc. Năm 1970 dựng một ngôi nhà tạm, mãi đến 1972 mới xây xong nhà thờ.

Cha Phương Bảo chia sẻ:

- Con không ngờ Cha cố lại có một quãng đời gian truân như vậy. Trước kia, con chỉ được nghe nói về “cáp duồn” mà không hiểu cụ thể là như thế nào.

Trở lại câu chuyện tượng Đức Mẹ, Cha cố nói:

Page 77: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Tôi biết tượng Đức Mẹ Mêkông có từ thời các nhà truyền giáo phương Tây đến truyền giáo ở Tây Nguyên và Campuchia. Các Cha cố thời ấy khi làm nhà thờ đều đặt tượng Đức Mẹ. Tượng được đúc tạc từ Pháp đem sang. Có hai mẫu tượng mà các cố thường đặt là tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm và Đức Mẹ Mân Côi. Tượng Đức Mẹ ở nhà thờ Russeykeo là tượng Đức Mẹ Mân Côi giống như tượng này… Sở dĩ có điều này là vì Cha cố Combes trên đường truyền giáo ngài đã bị quân cướp biển người Hoa tấn công và chém ngài một gươm. Lúc ấy ngài khấn với Đức Mẹ rằng, nếu ngài được Đức Mẹ cứu thoát thì ngài sẽ dâng kính Đức Mẹ cơ sở truyền giáo đầu tiên với danh hiệu Đức Mẹ Giải Thoát. Ngài đã đến Tây Nguyên và truyền giáo ở đó. Năm 1852 Cha cố Combes đã dâng kính Đức Mẹ làng Kon Kơ Xâm (Tây nguyên), với tên gọi “Cơ sở truyền giáo Đức Mẹ Giải Thoát”. Nhưng rồi ở đâu người ta chối Chúa, bỏ Chúa, thù ghét Chúa, thì đồng thời người ta cũng từ bỏ Đức Mẹ như ở Campuchia.

14

Những thông tin Cha cố Gioakim cho biết về nguồn gốc pho tượng càng gợi thêm những thắc mắc trong lòng Cha Phương Bảo. Cứ theo lời của Cha cố Gioakim thì tượng có nguồn gốc từ các đấng thừa sai phương Tây khi đến truyền giáo ở Tây Nguyên, nhưng do đâu tượng lại trôi giạt sang Campuchia và dừng lại trên sông Mêkông mà không trôi dạt xuống Việt Nam? Tiếng kêu vang lên trong tâm của Thạch Hải từ pho tượng là có ý nghĩa gì? Làm thế nào để hiểu được thánh ý Thiên Chúa khi Người để tượng Đức Mẹ xuất hiện ở một nơi mà những hạt giống đức tin đang rất cần đất để nảy mầm?

Cha Phương Bảo lần theo những tài liệu mà Cha cố Gioakim đưa cho. Đó là một tệp dày những bài báo, bài viết mà ngài tập hợp được về những biến cố đã xảy ra có liên quan đến con dân Giáo xứ Russeykeo của ngài. Bao nhiêu tội ác đã ập xuống đầu người dân vô tội Campuchia và người dân Việt sống dọc biên giới Việt Nam-Campuchia.

Ngay sau khi chiếm được Phnom Penh, ngày 4/5/1975, quân Khmer Đỏ đột kích đảo Phú Quốc. Đến ngày 10/5, Khmer Đỏ lại đánh chiếm đảo Thổ Chu và giết hại hơn 500 dân thường Việt Nam. Tiếp đó, Khmer Đỏ tiến hành hai cuộc xâm nhập qui mô lớn vào Việt Nam. Tháng 4/1977, quân Khmer Đỏ tiến sâu 10km vào lãnh thổ Việt Nam, chiếm một số vùng ở tỉnh An Giang và tàn sát rất nhiều dân thường. Ngày 25/9/1977, bốn sư đoàn quân Khmer Đỏ đánh chiếm nhiều điểm ở các huyện Tân Biên, Bến Cầu, Châu Thành (tỉnh Tây Ninh), đốt phá 471 ngôi nhà, giết 800 người dân.

Page 78: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Tháng 4 năm 1978, Khmer Đỏ tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam 15 đến 20km, giết 3157 thường dân Việt ở Ba Chúc. Tính từ năm 1975 cho tới năm 1978, chúng đã tàn sát hơn 30 ngàn người Việt trong các cuộc tấn công dọc biên giới. Nhà Nước Việt Nam muốn thông qua đàm phán ngoại giao để giải quyết cuộc xung đột một cách hòa bình, nhưng Khmer Đỏ từ chối. Liên Hiệp Quốc không phản hồi các kháng cáo của Việt Nam về các hành động gây hấn của Khmer Đỏ.

Ngày 13/12/1978, Khmer Đỏ lại huy động 10 sư đoàn (khoảng 50.000 đến 60.000 quân) tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới. Ba sư đoàn đánh Bến Sỏi để chiếm thị xã Tây Ninh, hai sư đoàn đánh Hồng Ngự (Đồng Tháp), hai sư đoàn đánh khu vực Bảy Núi (An Giang), một sư đoàn đánh Trà Phô, Trà Tiến (Kiên Giang). Tại những vùng chiếm đóng, Khmer Đỏ đã thực hiện sách lược diệt chủng đối với người Việt, như đã làm với người Khmer.

Ở Campuchia, ngay khi chiếm được Phnom Penh, Khmer Đỏ thành lập nước "Campuchia Dân chủ". Tháng 10 năm 1974 chúng bắt tất cả dân cư thành phố phải về lao động khổ sai ở nông thôn. Hàng trăm nghìn người đã bị giết hại dã man trong những nhà tù và trên những cánh đồng chết. Nhiều người chết vì làm việc quá sức, đói và bệnh tật. Phnom Penh trở thành một thành phố chết. Khmer Đỏ thực hiện triệt để chính sách bài phương Tây và "quyết tâm xây dựng Xã hội Chủ nghĩa theo kiểu Mao Trạch Đông trong vòng 6 tháng”. Trong 4 năm cải tạo xã hội (1975-1979), Khmer Đỏ đã giết hơn hai triệu người Khmer. Thực ra không thể có con số chính xác về số nạn nhân của Khmer Đỏ.

Cha Phương Bảo ngưng đọc các tài liệu, cha tự hỏi: Tại sao Pol Pot và đồng bọn lại làm thế? - Ngài tìm được câu trả lời như thế này:

“Pol Pot giải thích sự di tản đó là cần thiết vì thành thị sắp cạn lương thực, và Mỹ sắp tấn công. Nhưng sau này Ieng Sary cho biết Pol Pot và đồng bọn rút kinh nghiệm của Công xã Paris vào thế kỉ 19. Theo họ, Công Xã này sụp đổ là bởi giai cấp vô sản đã không hành quyền độc tài đối với giai cấp trưởng giả. Pol Pot muốn tránh sai lầm đó. Mục đích “làm trống đô thị” là nhằm bảo tồn và củng cố địa vị của cán bộ và quân lính Khmer Đỏ.

Pol Pot dự trù là chỉ sau 2-3 năm, khi dân di tản không còn vật dụng, tiền bạc mà họ mang theo, thì mọi người đều vô sản như nhau, đưa Campuchia trở về cảnh hỗn mang, và từ đó một Campuchia mới không còn giai cấp xuất hiện. Pol Pot và đồng bọn không chỉ muốn áp dụng chủ nghĩa Mác-Lê ở Campuchia (thực ra họ phản bội Marx), họ còn muốn vượt qua chủ nghĩa đó để khôi phục sự “vĩ đại” của Khmer trên cả Việt Nam và mọi nước khác.”

Cha Phương Bảo kêu lên:

- Lạy Chúa, quả là những ý tưởng điên rồ và phi nhân!

Nhưng phi nhân nhất là ở cái cách chúng thực hiện, thay vì làm cho xã hội Campuchia văn minh hơn, chúng lại đưa người dân trở về sống thời hỗn mang.

Page 79: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Một câu hỏi mà Cha Phương Bảo không sao giải thích được là, Pol Pot và đồng bọn cũng là người Khmer, nhưng sao chúng tàn độc với dân tộc mình như vậy. Có phải chúng là bọn người còn ở thời ngu muội không?

Sau đây là những thông tin về Pol Pot.

Lãnh đạo Khmer Đỏ không phải là những kẻ vô học hay bọn thảo khấu ngày xưa. Nhiều người trong bọn chúng học ở Pháp, Pol Pot và đồng bọn được đảng Cộng Sản Pháp huấn luyện. Chúng huênh hoang về học thuyết “bạo lực cần thiết” của Jean Paul Sartre, và quan niệm của Rousseau về quyền lực. Trên con đường xây dựng thiên đường Cộng Sản, Pol Pot nghĩ rằng cần loại bỏ giới chủ và tầng lớp trí thức của nó.

Tiến sĩ Gregory H. Stanton, đã viết trong cuốn “Những chiếc khăn quàng xanh và những ngôi sao vàng” về cuộc diệt chủng ở Campuchia: "Những người lãnh đạo chính của chế độ Pol Pot đã đọc lý thuyết Marx của André Gunder Frank rằng các thành phố là những vật kí sinh vào nông thôn, rằng chỉ giá trị lao động là giá trị thật sự, rằng các thành phố chiếm đoạt giá trị thặng dư của những vùng nông thôn. Vì thế, ngay sau khi chiếm được quyền lực, Khmer Đỏ sơ tán toàn bộ các thành phố theo hình thức ép buộc, gồm cả những người không nên đi sơ tán như các bệnh nhân trong bệnh viện và những đứa trẻ mới sinh."

Trên một nửa dân Campuchia cư trú ở thành phố (khoảng 4 triệu người) được lệnh rời nhà cửa, bỏ lại tài sản, và đi bộ nhiều ngày không có lương thực, nước uống hay sự giúp đỡ y tế cho đến khi họ tới những trại cải tạo, và những trại giam ở nông thôn. Lãnh đạo Khmer Đỏ khoe khoang trên đài rằng chỉ một hay hai triệu người trong số dân chúng toàn quốc là cần thiết để xây dựng một xã hội điền địa cộng sản lý tưởng. Đối với những người khác, thì theo câu châm ngôn: "Sống cũng chẳng được gì; chết cũng chẳng mất gì”. Hàng trăm ngàn người bị xiềng xích, bị buộc phải đào mồ chôn chính mình. Sau đó các binh sĩ Khmer Đỏ đánh họ đến chết bằng những thanh gỗ và những cái cuốc hay chôn sống họ. Một chỉ thị của Khmer Đỏ về việc giết chóc đã ra lệnh: "Không được làm phí đạn dược." Khắp đất nước Campuchia ở đâu cũng có những hố chôn người, những đống thi thể thối rữa, những cánh đồng chết (killing fields) phủ trắng đầu lâu…

Nhận xét về sự tàn độc của Khmer Đỏ, Philip Short, nguyên là phóng viên BBC người Anh nhận xét: “Pol Pot chịu ảnh hưởng của Stalin nhiều hơn Marx, nhất là phần thanh trừng nội bộ”.

Nạn nhân của Khmer Đỏ là đa số các lãnh đạo quân sự và dân sự của chế độ cũ, những người không thể che giấu được nhân thân của mình đã bị hành quyết. Nhưng không chỉ có vậy. Ở nhiều vùng trong nước, người dân bị bố ráp và bị hành quyết vì tội nói tiếng nước ngoài, đeo kính, bới rác kiếm thức ăn, và thậm chí là than khóc khi có người thân qua đời. Những doanh nghiệp và các quan chức thời trước bị săn đuổi một cách tàn nhẫn và bị giết chết cùng toàn bộ gia đình họ. Khmer Đỏ sợ rằng những người đó có lòng tin là họ có thể sẽ đứng lên phản đối lại chế độ của chúng. Một số kẻ trung thành với Khmer Đỏ thậm chí còn bị giết vì tội không thể kiếm đủ số "phản cách mạng" để hành quyết.

Page 80: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Sisowath Doung Chanto, sinh năm 1970 - người có cha đã bị Khmer Đỏ sát hại đã kể lại những ký ức không thể nào quên: “Hai ngày sau khi bị bắt và thẩm vấn, Khmer Đỏ đã mang cha tôi đi hành quyết. Ông bị giết bởi ba cú đánh mạnh bằng một thanh kim loại vào phía sau đầu. Met Chan, tên đồ tể, không cho biết cha tôi có chết ngay lập tức sau những cú đánh đó không. Cha tôi - Sisowath Doung Kara đã bị Khmer Đỏ xử tử vào tháng 7/1978”.

Thảm sát Ba Chúc

Đêm 30/4/1977, Khmer Đỏ mở cuộc tấn công đồng loạt toàn tuyến biên giới An Giang dài gần 100km, mở màn cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam thảm khốc.

Nhân chứng 1: Trần Đình Hải

“Gia đình tôi là dân Việt kiều Campuchia, cư trú ở xã Tân Lập, huyện Tân Biên, tỉnh Tây Ninh. Người trong gia đình tôi phần lớn là dân được mộ phu Bắc bộ Việt Nam từ những năm đầu 1940, làm công nhân cho Tập đoàn IECC. Chúng tôi đã từng bị nạn “cáp duồn” năm 1970, và giờ đây, một lần nữa lại bị quân Pol Pot tàn sát đêm 25/9/1977.”

Nhân chứng 2: ông Đinh Trọng Vinh

Ông là cựu chiến binh Sư đoàn Bộ binh 9, Quân đoàn 4 - Binh đoàn Cửu Long anh hùng. Ông vào bộ đội từ năm 1972 đã đi qua cả hai cuộc chiến chống Mỹ và chống bọn diệt chủng Khmer Đỏ. Ông tận mắt chứng kiến sự tàn bạo của chúng đối với đồng bào ta.

Ông kể:

“Bất ngờ, vào lúc 0 giờ 15 phút ngày 25/9/1977, đúng vào dịp toàn dân Việt Nam chuẩn bị Tết Trung thu, tập đoàn Pol Pot mở cuộc tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Tây Nam nước ta. Chỉ riêng Tây Ninh, chúng đã tấn công trên một đoạn biên giới dài hơn 200km, sâu vào nội địa tỉnh nhà 10km, trong phạm vi 7 xã thuộc 3 huyện Tân Biên, Châu Thành và Bến Cầu.

Chúng tổ chức thành 9 mũi lén lút bao vây tấn công nhiều điểm thuộc 5 ấp: Tân Khai, Tân Chánh, Tân Thạnh, Bảy Bàu và Chằng Riệc của xã Tân Lập. Chúng chia một lực lượng để bao vây, khống chế các đồn biên phòng, các chốt và vị trí quân sự của ta. Đại bộ phận còn lại tràn vào làng tàn sát đồng bào. Chúng đốt phá nhà cửa, trường học, cướp của, tàn sát đồng bào ta rất dã man. Trong đó, xã Tân Lập, huyện Tân Biên là nơi chúng tập trung đánh phá nặng nề và ác liệt nhất.

Bọn ác thú sử dụng các loại vũ khí từ đao, búa, chỉa đến các loại súng, lựu đạn… để tàn sát người dân. Chúng chặt đầu, chặt tay chân, chặt người ra nhiều khúc, mổ bụng, moi gan, xé xác trẻ em ném vào lửa, đập đầu hãm hiếp phụ nữ, mổ bụng phụ nữ có thai, cắt cổ lấy máu, rạch miệng, ném xác người xuống giếng, chôn sống, tàn sát tập thể nhiều gia đình. Có 592 người dân vô tội ở Tân Lập đã bị chúng sát hại, những thi thể la liệt, chất chồng khắp nơi. Những đám cháy bốc lên mùi thịt người khét lẹt.

Page 81: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Hiện trường vụ thảm sát tại trường tiểu học Tân Lập đẫm máu vẫn còn nguyên: Xác những cô giáo trẻ, các em học sinh bị lính Khmer Đỏ sát hại nằm ngổn ngang trên sân trường. Chúng không bắn mà dùng sạc lai (một loại dao phát cỏ) và búa đập đầu, cắt cổ. Có những thi thể bị xẻ làm đôi. Các cô giáo trẻ bị chúng xé nát quần áo, hãm hiếp, dùng dao xẻo vú, thọc tầm vông, cán búa vào cửa mình cho đến chết. Lúc ấy tôi vô cùng căm phẫn. Tôi không thể tưởng tượng nổi sự dã man của bọn chúng đến thế nào”

Nhân chứng 3 : Bà Hà Thị Nga (Ba Chúc - An Giang)

Ở Ba Chúc (An Giang) có nhiều nơi còn nguyên vẹn chứng tích tội ác của bọn Khmer Đỏ. Những tội ác trời không dung đất không tha. Đó là Chùa Phi Lai, Chùa Tam Bửu, cánh đồng Tân Quới, cầu Sắt Vĩnh Thông và núi Tượng là những nơi mà Khmer Đỏ đã tàn sát dã man đồng bào ta.

Núi Tượng có tên là Kỳ Lân Sơn, một trong bảy quả núi của Thất Sơn linh thiêng trên đất An Giang. Mỗi lần quân Pol Pot tấn công vào Ba Chúc, đồng bào đều bỏ nhà chạy lên núi, trốn trong những hang đá đã chọn trước.

Nửa đêm 18/4/1978, Khmer Đỏ tràn vào xã, chặn các ngả đường. Chúng hành quyết hàng ngàn người dân trốn trong Chùa Phi Lai và Chùa Tam Bửu. Một nhóm bao vây, truy lùng trên núi Tượng. Ông Nguyễn Văn Tiệm, người trông coi nhà mồ Ba Chúc cho biết: “Đến bây giờ cũng chưa rõ có bao nhiêu người chết ở trên núi Tượng, nhưng theo tôi đoán, phải đến cả ngàn người. Đau xót nhất là gia đình bà Hà Thị Nga và đại gia đình bên vợ nhà tôi. Chúng đã sát hại 3.157 người dân vô tội.

Cả dòng họ gia đình bà Nga gồm 100 con người sống quây quần bên chân núi Tượng hàng trăm năm qua, bỗng dưng bị Khmer Đỏ tràn sang giết sạch. Sau khi giết hết các con của bà Nga, bọn Pol Pot định cưỡng hiếp bà. Nhìn người đàn bà 6 con không còn hấp dẫn, chúng giương súng bắn. Chúng nã mấy viên liền, bà Nga ngã sấp xuống. Thấy bà còn giãy đạp, một tên cầm tảng đá lớn đập thẳng vào đầu bà. Thấy bà nằm bất động. Chúng mới bỏ đi.

Sáng sớm hôm sau, bà Nga tỉnh dậy. Cơ thể bê bết máu. Đầu đau như vỡ ra. Xung quanh bà, hàng trăm xác chết nằm la liệt. Tất cả các con bà và người thân của bà không còn nguyên vẹn hình hài. Quá đau đớn và kinh hãi, bà gượng dậy tìm đường thoát thân. Nhưng nhìn quanh, đâu cũng thấy bọn Khmer Đỏ đang đi lại ngoài cánh đồng, bà đành nằm im bên những xác chết, chờ đêm xuống.

Chừng nửa đêm, bà lò dò đi. Mò mẫm được một đoạn thì bà bị bọn Khmer Đỏ phát hiện. Chúng bắn xối xả về phía bà, và ném theo 3 quả lựu đạn. Bà ngã vật xuống kênh không còn biết gì. Kỳ lạ thay, bà chỉ ngất một lúc thì tỉnh lại. Bà lại lần mò theo con kênh để tìm đường thoát thân. Đói ăn, khát nước, lại mất máu nhiều, nên bà kiệt sức, đôi mắt mờ tịt, không nhìn thấy gì nữa. Bà nằm bên những xác chết. Đến ngày thứ 12, bộ đội chủ lực của ta tấn công vào Ba Chúc, đuổi bọn Pol Pot về bên kia biên giới. Các anh bộ đội đã tìm thấy bà Nga nằm ở cánh đồng Tân Quới và đưa bà về Bệnh viện Đa khoa An Giang. Các bác sĩ không tin nổi bà có thể sống sót trong tình trạng thương tích, không ăn uống gì, nằm phơi ngoài đồng suốt 12 ngày đêm.

Page 82: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Đọc những trang tư liệu và xem những hình ảnh nạn nhân tội ác của Khmer Đỏ, Cha Phương Bảo không sao cầm được cơn xúc động. Nỗi đau đớn xót xa như ngàn vạn mũi dao làm tan nát tâm can. Toàn thân Cha bị rúng động như chính mình đang trong cơn khủng khiếp. Cha kêu lên: Lạy Chúa! Ôi! Lạy Chúa, xin giải thoát chúng con. Cha như nghe đâu đây tiếng kêu gào tuyệt vọng của hàng ngàn đồng bào bị giết hại. Cha bị ám ảnh mãi về những bức hình chụp tội ác của Pol Pot. Hình ảnh những xác người cong queo không toàn thây, trong đó có nhiều trẻ em và phụ nữ, hình ảnh đồng bào bị giết phơi xác khắp cánh đồng, bức tường thấm máu đỏ trong hậu cung Chùa Phi Lai, những núi xương sông máu của bao nhiêu sinh linh…

Phải lâu lắm Cha mới lấy lại được bình tĩnh. Nhưng Cha không sao lý giải được nguyên nhân nào mà bọn quỷ dữ đội lốt người lại hành xử như vậy. Chúng còn dã man hơn cả quân Hitler.

Cha Phương Bảo để tệp tài liệu lên bàn và hướng mắt tìm Cha cố Gioakim. Người đang quỳ trước tượng Đức Mẹ cầu nguyện. Khuôn mặt ngài thấp thoáng nét đau khổ nài xin Đức Mẹ giải thoát. Cứ mỗi lần nhớ lại thảm cảnh “cáp duồn” mà con cái Russeykeo phải chịu, Cha cố Gioakim lại tha thiết khẩn nguyện Đức Mẹ giải thoát, Đức Mẹ sự sống, bởi xưa kia Đức Mẹ và thánh Giuse đã từng bảo vệ Chúa Hài Đồng khỏi cuộc tàn sát của Herode. Cũng như Đức Mẹ La Vang đã giải thoát những người dân núp dưới chân Mẹ.

Trở lại câu chuyện với Cha cố Gioakim, Cha Phương Bảo hỏi:

- Thưa Cha cố, đạo Công Giáo ở Campuchia đã có hơn 400 năm phát triển, sao đến bây giờ người Công Giáo Campuchia chỉ có 1% dân số?

Cha cố Gioakim ngậm ngùi:

- Năm 1975, khi Khmer Đỏ nắm quyền, Pol Pot trục xuất tất cả các giáo đoàn ngoại quốc. Giáo hội Công Giáo gần như bị tiêu diệt hoàn toàn. Giám mục Joseph Chhmar Salas (Giám mục người Campuchia đầu tiên), Đức cha Paul Tep Im Sotha (Phủ doãn tông tòa đầu tiên của Battambang), tất cả các linh mục Khmer, các tu sĩ nam nữ và phần lớn người Công Giáo Campuchia đã bị giết chết trong thời kỳ diệt chủng. Các cơ sở tôn giáo, nhà thờ đều đã bị phá hủy, các tượng thờ cúng bị bỏ trôi sông, trôi biển cho sạch dấu vết ngoại lai.

Cha cố Gioakim tiếp lời:

- Linh Mục Enrique Figaredo Alvargonzalez, (Phủ doãn tông tòa, 52 tuổi người Tây Ban Nha, dòng Tên, người đã làm việc truyền giáo tại Campuchia từ hơn 25 năm qua), nói rằng: Giáo hội Campuchia là một Giáo hội tử đạo. Giáo hội đã hoàn toàn bị triệt hạ. Tất cả các giám mục, linh mục, tu sĩ nam nữ và nhiều giáo lý viên đã bị sát hại. Những người không bị giết, thì đã chết vì đói khát và bệnh tật. Và tình hình Giáo hội rất là thê thảm.

Nhưng trong sự quan phòng của Thiên Chúa, 15 năm bị bách hại, người Công Giáo Campuchia đã sống đức tin thật sống động. Đức Cha Paul Tep Im Sotha đã cử hành Thánh lễ và chúc lành cho tất cả mọi tín hữu hai ngày trước khi chết. Ngài nói với

Page 83: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

họ: "Các thời gian khó khăn sẽ tới, anh chị em hãy chăm sóc đức tin của mình và hãy săn sóc đức tin của người khác". Sau khi dâng Thánh lễ, Đức Cha bị đưa lên một chiếc xe đem đi giết. Đức Cha Joseph Chhamar Salas, Giám Mục Phnom Penh, được chỉ định làm Giám Mục bốn ngày trước khi quân Khmer Đỏ tiến vào thủ đô. Ngài đã bị bắt đi lao động như mọi người, và ngài đã chết vì kiệt sức trong trại cưỡng bách lao động.

Sau khi đưa tay lên ngực ngăn cơn xúc động, Cha cố Gioakim nói tiếp, giọng có vui hơn được một chút:

- Mãi đến 1990 các cộng đoàn Công Giáo mới được phép sinh hoạt. Và Caritas Campuchia được tái lập sau 15 năm vắng bóng.

Năm 1993 Đức ông Lesouef đến Kampong Cham, người đứng trước chợ Kampong suốt ngày, hy vọng tìm thấy một người Công Giáo ở đó, nhưng thất bại. Sau khi trở lại Phnom Penh, Đức ông nhận được một lá thư của một người phụ nữ Công Giáo trẻ ở Kampong Cham, ngài đến gặp người phụ nữ này và từ đó bắt đầu công việc truyền giáo trong giáo hạt.

Cha Phương Bảo tiếp tục trao đổi với Cha cố Gioakim về những điều mình chưa lý giải được:

- Thưa Cha cố, xin cha giải thích cho con ý nghĩa sự xuất hiện của tượng Đức Mẹ ở sông Mêkông bên Campuchia. Sao Đức Mẹ lại xuất hiện ở một nơi mà tín ngưỡng của người dân rất khác biệt với đạo Công Giáo, một nơi mà giáo dân chỉ có khoảng 1% dân số trong nước, bởi xưa nay Đức Mẹ chỉ xuất hiện ở những nơi có lòng sùng kính Mẹ một cách đặc biệt?

Cha cố Gioakim suy nghĩ một lúc, Cha nói:

- Chúng ta phải cầu nguyện nhiều để xin Thánh Thần Chúa chỉ dẫn. Chắc chắn mọi việc đều có sự quan phòng của Chúa.

Rồi ngài nói một tâm nguyện:

- Bản thân tôi suy nghĩ thế này: Lịch sử Campuchia vừa trải qua những ngày đen tối nhất của nạn diệt chủng. Hẳn Đức Mẹ đã ở đây và đã chứng kiến những nỗi đau thương nhất mà nhân loại phải chịu vì tội ác man rợ. Đức Mẹ lại đến với một gia đình có những con người hiền lành, “nơi họ không có gì gian dối”. Điều ấy cho thấy tình thương yêu của Thiên Chúa bao trùm lên mọi con người ngay lành, và tình thương yêu ấy được chuyển tải qua tay Đức Mẹ.

Sao Đức Mẹ không cứu giúp dân Người như Môsê ngày xưa đưa dân qua biển Đỏ? Xin nhớ rằng chính Chúa đã đổ máu mình ra để cứu nhân loại khỏi tội lỗi, và bao nhiêu thánh tử đạo đã đổ máu mình ra để làm chứng cho đức tin. Và chính giá máu cứu độ của Chúa Giêsu, của các thánh tử đạo đã làm triển nở hạt giống Tin Mừng. Giáo hội tử đạo ở Campuchia một lần nữa trở thành nhân chứng đức tin cho toàn nhân loại. Chúng ta nhớ lại, thời đế quốc Rôma bắt đạo 300 năm, giáo dân phải trốn trong hang. Ở nước ta, các vua chúa nhà Nguyễn cũng bách hại những người theo đạo bằng những biện pháp dã man trong suốt lịch sử truyền giáo hơn 300 năm, nhưng

Page 84: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

đâu có diệt được đức tin, đâu có ngăn cản được lòng yêu mến Thiên Chúa và lòng tôn kính Đức Mẹ.

Cha Gioakim hướng về Cha Phương Bảo để chia sẻ ý tưởng:

- Cha nghĩ xem, có phải việc vớt được tượng Đức Mẹ ở sông Mêkông nhắc mọi người nhớ đến biến cố diệt chủng mà nài xin Đức Mẹ gìn giữ, giống như Cha Combes ngày xưa được Đức Mẹ cứu thoát. Người đã dâng cơ sở truyền giáo đâu tiên cho Đức Mẹ. Chắc chắn Đức Mẹ muốn chúng ta xây dựng một trung tâm tôn kính Đức Mẹ, Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ các Thánh tử đạo, Đức Mẹ bảo vệ sự sống, bảo vệ quyền con người khỏi mọi bách hại và chà đạp nhân phẩm.

Cha Phương Bảo hỏi:

- Thưa Cha cố, con cũng đã nghĩ đến việc xây trung tâm tôn kính Đức Mẹ nên mới xin đưa tượng Đức Mẹ về đây. Cha cố nhìn pho tượng này có phải tượng Đức Mẹ ở nhà thờ Russeykeo của Cha trước kia không?

Cha cố đứng dậy, tiến lại gần tượng, sờ vào tượng, và quan sát rất kỹ, ngài nói:

- Giống thì có giống, nhưng không chắc có phải là tượng ở nhà thờ cũ, vì thời gian đã lâu quá rồi; lúc ấy các cố thường chở đến các Tòa Giám Mục nhiều tượng giống nhau. Thời xưa, việc đi lại không như bây giờ.

Cha cố Gioakim kết luận:

- Tôi rất xúc động khi Đức Giám Mục Giáo phận đã mở rộng vòng tay đón tiếp đồng bào Campuchia về định cư trong Giáo phận này và đã chấp thuận để cho xây dựng một trung tâm kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và tôn kính các Thánh tử đạo tại phần đất Giáo xứ này.

Ngài nói tiếp:

- Nhưng nhất là Chúa đã an bài cho Cha chuộc được Đức Mẹ Mêkông về xứ này, đây cũng là một bằng chứng nói lên ý Chúa muốn.

Ngài chia sẻ những mối bận tâm:

- Hiện nay, không phải chỉ xã hội, Giáo hội mới chứng kiến nạn diệt chủng ở Campuchia thôi, mà còn rất nhiều nơi, quyền con người đang bị xâm phạm trầm trọng. Công luận đã lên tiếng báo động. Tiếng kêu của trẻ Giêsu nơi tượng Đức Mẹ vang lên trong thâm tâm Thạch Hải, một thanh niên ngoại giáo, hẳn là tiếng kêu thức tỉnh chúng ta. Chúng ta phải làm gì để đem tình yêu thương của Chúa và Đức Mẹ đến cho đồng loại? Chắc chắn việc tìm tòi nguồn gốc tượng Đức Mẹ Mêkông, hành trình đức tin và đức ái của chúng ta mới chỉ là bắt đầu.

Cha Phương Bảo nhìn Cha cố với lòng kính phục trìu mến. Bởi Cha cố Gioakim đã được ơn Chúa trải nghiệm những biến cố đau thương mà nhờ đó Cha nhận rõ ý Chúa Quan phòng soi dẫn con đường của người Mục tử. Cha cố Gioakim hiện đã nghỉ hưu. Cha là mục tử nhân lành, rất thương dân, lo cho dân không chỉ đời sống thiêng liêng mà còn cả đời sống vật chất. Cha lo phát triển, thăng tiến về nhân bản và học hành, y

Page 85: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

tế… theo tinh thần của các cố thừa sai mà Cha đã được thụ giáo. Cha cộng tác và coi xứ thay các ngài trước khi có nạn cáp duồn. Cha cố còn có lòng yêu mến Đức Mẹ cách đặc biệt.

15Trong cuốn Dân Làng Hồ, linh mục P. Dourisboure viết:

“Ngăn trở chính cho kế hoạch truyền giáo của Đức cha Cuénot Thể (1802-1861) là cuộc bắt đạo tàn khốc trên khắp Vương quốc An Nam lúc bấy giờ, nhất là ở các tỉnh miền Trung. Các vị thừa sai phải liên tục ẩn trốn và chỉ có thể lợi dụng đêm tối để thi hành nhiệm vụ của mình. Một khi bị phát hiện, lập tức họ bị bắt giữ, bị nộp cho quan sai và bị kết án tử hình. Đầu năm 1842, hai vị thừa sai Miche và Duclos đã thực hiện cuộc mạo hiểm đầu tiên. Hai vị đã băng qua biên giới tỉnh Phú Yên và tiến sâu vào giữa vùng dân tộc thì bị phát hiện và bị bắt. Các lái buôn người Kinh đã bắt giữ hai vị và áp giải về nộp cho quan sai An Nam. Nếu như Thiên Chúa không cho phép hai vị thừa sai này đạt đến thành công trong cuộc hành trình của họ và trong việc khai sáng cuộc truyền giáo mới nơi người Ba Na, thì đổi lại, Ngài ban cho họ vinh dự tuyên xưng đức tin trong gông cùm ngục tù. Sau khi bị áp giải về Huế, họ bị điệu ra trước tòa hết lần này đến lần khác, bị giam cầm, chịu cực hình và cuối cùng bị kết án tử hình…”

Ở trang 117, linh mục P. Dourisboure dẫn lời linh mục Arnoux: “Tôi không chịu đựng được lâu đâu, và tôi tin chắc rằng trong vòng 15 năm nữa sẽ không một ai trong các bạn đồng nghiệp của chúng ta đang có mặt nơi miền dân tộc này còn sống sót. Tôi cho là mười lăm năm chỉ vì có một trường hợp duy nhất là Cha quá khỏe, còn những người khác và nhất là tôi, chúng tôi sẽ chết hết trước vài năm”.

Tội nghiệp cha Arnoux! Lời tiên đoán của ngài đã được ứng nghiệm. Ngài đã chết. Hai cha Combes và Desgouts cũng đã qua đời. Năm hoặc sáu vị thừa sai khác mới đến sau này cũng đã chết. Cha Fontaine cảm thấy mình sắp chết cũng đã rời bỏ xứ dân tộc. Mười lăm năm cũng đã trôi qua lâu rồi và chỉ còn mình tôi là người sống sót duy nhất. Bệnh tật ngày càng chồng chất, nặng thêm, cảnh báo cho tôi biết rằng tôi cũng sắp kết thúc cuộc lữ hành nơi trần thế của tôi. Phó dâng cho Chúa mọi sự…”

Cha cố Gioakim ngừng đọc, ngài để cuốn Dân Làng Hồ (Nxb Đà Nẵng 2010) lên bàn và quay sang chia sẻ với Cha Phương Bảo:

- Cha biết tại sao tôi đọc cuốn sách này không?

Ngưng một chút, ngài kể:

Page 86: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Thời mới làm linh mục, tôi được làm Cha phó Giáo xứ chính tòa Phnom Penh. Lúc ấy tôi ở với các cố thừa sai, thường được nghe các cố nói về công việc truyền giáo tại Giáo phận Kontum. Giờ đọc lại cuốn Dân Làng Hồ của cố P. Dourisboure tôi mới thấy hết tinh thần dấn thân và chấp nhận hy sinh của các môn đệ Đức Kitô. Đức Kitô là Thiên Chúa đã xuống thế làm người, cứu con người khỏi tội lỗi và ban cho con người ân sủng mang hình ảnh Thiên Chúa. Người yêu thương và dạy dỗ con người, cho họ được hưởng mọi điều tốt đẹp Thiên Chúa đã tạo dựng, và cho họ được hưởng sự sống đời đời.

Với lý tưởng đó, các vị thừa sai đã trăn trở dấn thân vào cánh đồng truyền giáo, có ngày đến mà không có ngày về.

Cha Phương Bảo hỏi:

- Thưa Cha cố, làm thế nào mà các vị thừa sai người phương Tây có thể đến với người dân tộc và rao truyền Tin Mừng cho họ trong những điều kiện ngặt nghèo của hoàn cảnh lịch sử, sự khác biệt văn hóa và môi trường địa lý?

Cha cố Gioakim gật đầu:

- Đó là vấn đề chúng ta cần nghiên cứu kỹ để học tập. Các vị truyền giáo này đều xuất thân từ nước Pháp. Gia đình đạo đức, thánh thiện, có nhiệt huyết tông đồ, được đào tạo rất kỹ trong các chủng viện. Các vị đã gia nhập hội truyền giáo Paris và rất mong muốn được theo chân Đức Kitô đem máu mình làm chứng cho đức tin. Vì thế các vị đã dấn thân vào vùng truyền giáo Á Đông, mặc dù đất nước Á Đông đang trong giai đoạn cấm đạo nghiêm ngặt. Sức mạnh của các vị là lòng nhiệt thành vì Đức Kitô.

Cha cố Gioakim ngưng một chút để suy gẫm, rồi ngài tiếp:

- Việc truyền giáo ở Kontum, Tây nguyên thật vô cùng khó khăn. Cố thừa sai Dourisboure đã thuật lại thật cụ thể từng bước chân của người đi gieo hạt giống Tin Mừng nơi các dân tộc ít người vùng Tây nguyên, nơi có con sông Đăk Bla chảy từ hướng Bắc xuống, ôm gọn bình nguyên Kontum rồi vòng sang hướng Tây, nhập vào sông Pô Kô thành sông Sê San, hòa vào Mêkông hùng vĩ của hạ Lào rồi chảy qua Campuchia và đổ ra biển Đông. Những năm đầu tiên, tất cả các chuyến đi thâm nhập Tây nguyên đều thất bại. Có đến trên 20 lần không gặt hái được gì. Nhưng Đức Cha Cuénot không nản lòng. Ngài tìm nhiều con đường để đi lên Tây nguyên. Và Đức Cha đã chọn được thầy Phó tế Fx. Nguyễn Do làm người mở đường. Ngài nói với thầy Do: "Anh cứ xẻ rừng mà đi, khi gặp con sông lớn, dừng lại lập làng và rao giảng Tin Mừng". Lúc ấy thầy Do đang ở trong hầm trú ẩn Tòa Giám Mục Đàng Trong ở Gò Thị, Bình Định. Đó là năm 1848.

Cha Phương Bảo tiếp lời:

- Thưa Cha cố, năm 1848 là năm Tự Đức nguyên niên, việc cấm đạo đã trở nên quyết liệt hơn bao giờ. Theo con biết, tính từ năm 1825-1838 đã có 4 Giám mục, 9 Linh mục ngoại quốc, 20 Linh mục người Việt và hàng trăm giáo dân bị sát hại. Tháng 10 năm 1839, Minh Mạng lại ban hành dụ cấm đạo, buộc tất cả những người

Page 87: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

theo đạo phải bỏ đạo trong vòng một năm, xây dựng chùa chiền vào những nơi trước đây xây dựng nhà thờ. Tất cả thần dân phải tích cực trông nom chùa chiền. Tuy thế, số giáo dân vẫn được tiếp tục tăng. Vào năm 1840, cả nước có 3 Giám mục, 2 Phó Giám mục, 24 Linh mục ngoại quốc, 144 Linh mục người Việt và 420 ngàn giáo dân.

Cha cố Gioakim gật đầu:

- Đúng như Cha nói. Không gì ngăn cản được Tin Mừng. Các cố thừa sai đã gặp muôn vàn khó khăn trong hành trình đem Tin Mừng cho anh em dân tộc. Đói khổ, bệnh tật, chết chóc là chuyện hàng ngày. Nhưng khi đến được với anh em dân tộc, các cố thừa sai cũng không sao tiếp xúc được với họ vì khác ngôn ngữ, phong tục, tập quán sinh hoạt, lối sống, chẳng khác người gì người câm người điếc nói chuyện với nhau, chẳng nghe, chẳng hiểu. Nhất là hình dáng, ăn mặc, tiếng nói, hành vi của người phương Tây đã trở thành kỳ dị trước mắt người dân tộc.

Có trường hợp người dân tộc bỏ trốn vì tưởng ma quỷ hiện hình. Trong hoàn cảnh ấy, các cố đã phải hóa thân hoàn toàn. Càng nhiều tuổi đời càng khó hội nhập. Chẳng hạn người dân tộc ăn thứ gì thì các vị thừa sai cũng phải ăn thứ ấy. Cha P. Dourisboure kể: “Một ngày kia tôi đi ngang qua khu rừng, một người dân làng Dak Rô Ting quen biết tôi đã gọi tôi từ xa và lịch sự gọi tôi dùng bữa tối với anh. Anh muốn thết đãi tôi một bữa tiệc, theo như lời anh nói. Tôi quay lại và đến gần anh. Anh đang nấu thức ăn trong một ống lồ ô đặt trên đống lửa. Món gì vậy? Anh chàng này đã may mắn vớ được một phần còn lại của một con nai còn thối rữa. Anh cẩn thận lượm từng con giòi đang lúc nhúc trong đống thịt thối, bỏ vào đầy một ống lồ ô để làm một bữa tiệc, mà theo khẩu vị của anh thì đây phải là một bữa yến tiệc dành cho bậc quyền quý”.

Cha Phương Bảo kinh ngạc. Cha ngẫm nghĩ rồi hỏi:

- Thưa Cha cố, quả thật là khó, ngay cả người Kinh như chúng ta bây giờ gặp trường hợp như cố P. Dourisboure cũng chưa biết phải ứng xử thế nào cho phải.

Cha cố Gioakim tiếp lời:

- Vấn đề khó nhất của các cố thừa sai là đến được nơi rồi, nhưng vẫn không dám đường đột xuất hiện, cứ thập thò như “con cáy”, ló ra khỏi lỗ quan sát, thấy động lại chui vào. Cũng may có các nhà truyền giáo người Kinh đồng hành, đã có dịp gặp và làm quen, nên dần dần sự giao tiếp thân thiện hơn. Các vị thừa sai đã học rất nhanh tiếng nói của đồng bào dân tộc. Tuy vậy việc dạy giáo lý rất khó, đặc biệt là những ý niệm về Thiên Chúa và Đức Mẹ, khác hẳn với tín ngưỡng của họ. Đời sống yêu thương đại đồng cũng là một quan niệm hoàn toàn xa lạ.

Các bộ tộc thiểu số ở sông Đăk Bla cũng rất khác nhau. Mỗi sắc tộc Xê Đăng chiếm cứ một vùng với nhiều tập tục sinh hoạt khác nhau. Nhìn chung các bộ tộc này còn sống rất cách biệt với đời sống xã hội phương Tây. Nhưng họ giống nhau ở việc uống rượu và hút thuốc, người lớn cũng như trẻ nhỏ. Điều này cũng dễ hiểu, vì họ dùng rượu và thuốc để chống chọi với những khắc nghiệt của thiên nhiên.

Cha Phương Bảo tham gia câu chuyện:

Page 88: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Con nghe nói các nhà truyền giáo còn gặp khó vì sự thù địch phá phách của các phù thủy phải không, thưa Cha cố?

Cha Gioakim gật đầu:

- Óc mê tín dị đoan của người dân tộc đã có từ lâu đời. Trong các bộ tộc thường có những tên phù thủy, gọi là các Bơ Dâu. Cha P. Dourisboure cho biết: “Bơ Dâu là một bà đồng bóng, hay nói cách khác, là một mụ phù thủy chính thức của một làng dân tộc. Người dân tộc tuyệt đối tin tưởng vào Bơ Dâu. Bà Bơ Dâu được xem là người biết được nhiều điều bí nhiệm trong cái chết, nào là thấy được, tiếp xúc được với thần linh; nào là biết được tương lai. Ví dụ bà ta có thể nói ta còn sống được bao lâu hoặc sẽ chết như thế nào, vv… Ai đó mắc bệnh chăng? Bơ Dâu biết được căn nguyên của bệnh và biết phải làm gì để xua đuổi bệnh tật. Bơ Dâu nói cho biết những điều dị đoan phải làm, phải tránh để được thành công trong một việc gì đó, rồi cần phải cúng lễ vật gì để tránh tai ương.

Mỗi Bơ Dâu đều có một thần Grou, tức là con quỷ riêng của bà. Bơ Dâu cậy nhờ vào chính con quỷ riêng ấy để biết những điều bí hiểm mà người ta muốn hỏi bà”. Kinh nghiệm của Cha P. Dourisboure là: nếu ta có thể tức khắc loại bỏ được ảnh hưởng của Bơ Dâu thì việc truyền giáo sẽ phát triển mau chóng. Các nhà truyền giáo biết rõ Bơ Dâu chỉ là những kẻ lừa bịp, các ngài đã phân tích, vạch trần chân tướng sự dối trá của chúng. Tuy nhiên các ngài cũng không tránh khỏi sự thất bại.

Cha Phương Bảo hỏi thêm:

- Thưa Cha cố, các thừa sai đã thất bại như thế nào?

Cha cố Gioakim giọng chùng hẳn xuống:

- À, có người đã theo đạo, nhưng bị người trong cộng đồng chê cười, họ chịu đựng không nổi thì bỏ các ngài mà đi. Lại có những tai nạn bất ngờ xảy ra mà sức lực con người không chống đỡ được. Cha P. Dourisboure kể lại sự việc đau thương này: “Tại Kon Trang vào cuối năm 1855 có khoảng 20 tân tòng còn trẻ, không ai quá 25. Cuối năm 1856, tám người trong số họ đã chết.

Điều đã gây nên trong tâm trí họ ấn tượng còn tai hại hơn cái chết nữa, đó là cách chết của những người đó. Một cô gái chết vì ra máu liên tục từ mũi, cô đã chết vì kiệt sức. Một cô gái khác chết vì bị rắn độc cắn. Bốn thanh niên đã chết sau 48 tiếng vì một căn bệnh cấp tính mà không ai biết là bệnh gì. Một người tên là Gioakim Am chết vì thổ tả sau 3 ngày đau bụng dữ dội. Cuối cùng là Giuse Ngui ngã quỵ vì bệnh màng não.

Điều lạ lùng nhất là trong khi các trẻ thân yêu của tôi mắc bệnh và chết thì không một người ngoại giáo nào cùng trang lứa thiệt mạng cả. ...Ma quỷ đã lợi dụng sự việc này để vu khống đạo, để loan truyền những lời đồn đại lố lăng nhất và để quả quyết với người dân tộc rằng những tai họa chết chóc đó chỉ xảy ra cho các tân tòng sau khi chịu phép rửa. Và chính phép rửa là nguyên nhân độc nhất. Ta dễ dàng tưởng tượng ra hậu quả của sự việc trên. Một vài anh em dân tộc tuy đã bắt đầu học kinh, nay đã bỏ trốn… Tâm hồn tôi đau buồn biết ngần nào! Bao nhiêu hy vọng của

Page 89: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

tôi tan thành mây khói. Tôi thấy tòa nhà được xây lên với bao khó nhọc, nay bị phá đổ tan hoang. Hỏa ngục đang chiếm lại phần đất đã mất…”

Cha Phương Bảo kêu lên:

- Lạy Chúa, nếu là con, thì con biết phải làm thế nào để cứu lấy các con cái của con?

Cha cố Gioakim cũng ngậm ngùi:

- Những thử thách như thế thật quá sức của một con người yếu đuối. Nhưng sự hy sinh của các thừa sai còn lớn lao hơn nhiều những nỗi thống khổ mà các ngài phải chịu đựng. Gần 10 năm trời (1842-1852), Cha Dourisboure mới rửa tội cho một cậu bé; và gần 30 năm sau (1880) mới được 800 người dân tộc tin theo Chúa. Tuy vậy, ngay sau khi rửa tội cho một người trong gia đình, thì các liên hệ của họ thoát khỏi ràng buộc ma quỷ của các Bơ Dâu. Họ đã tôn kính Đức Mẹ và được Đức Mẹ che chở. Bao nhiêu ơn lạ Chúa đã làm cho các vị thừa sai và các tân tòng. Chính vì vậy, ngay cả trước khi được một tân tòng năm 1852, Cha Combes đã đặt tượng Đức Mẹ giải thoát, rồi sau này, khi đã rửa tội cho một số người, Cha Dourisboure đã đặt tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm.

Cha Phương Bảo muốn hướng đến niềm vui Tin Mừng, ngài hỏi:

- Thưa Cha cố, các vị thừa sai có bao giờ gặt hái được niềm vui không?

Cha cố Gioakim bỏ cặp kính xuống, ngài nhìn Cha Phương Bảo, ánh mắt lấp lánh niềm vui:

- Có nhiều chứ, Cha. Nếu Chúa cứ thử thách mãi như thế thì sức con người yếu đuối sao chịu đựng được. Cha P. Dourisboure có kể rằng: Một lần kia, chiến tranh đã xảy ra giữa hai dân làng Rơp De và Kon Trang, cả hai cùng chịu thiệt hại. Cha P. Dourisboure đã trực tiếp xin tha tù binh và lập lại hòa bình cho hai dân làng. Một lần khác, có sự tranh chấp giữa anh em dân tộc với anh em người Kinh, cha cũng đứng ra hòa giải thành công, bởi anh em dân tộc rất tin tưởng các thừa sai.

Cha cố GioaKim nở một nụ cười thú vị hỏi Cha Phương Bảo:

- Cha có biết qua những trải nghiệm như thế, Cha P. Dourisboure có lời khuyên gì đối với các linh mục người Kinh không ?

Cha Phương Bảo ngạc nhiên:

- Dạ, thưa Cha cố, con chưa được nghe.

Cha cố Gioakim đọc nguyên văn lời Cha Dourisboure:

- “Nhân dịp này tôi phải lưu ý rằng bản tính kiêu căng của anh em người Kinh là một trở ngại lớn trong việc chiếm lấy cảm tình của người địa phương, và điều đó đã gây ra cho chúng tôi nhiều tình huống khó xử. Người Ba Na cũng như các bộ tộc thiểu số khác, vốn thích sống tự do, độc lập và không có gì làm tổn thương đến niềm tự hào cố hữu của họ cho bằng ra lệnh một cách trịch thượng hoặc có thái độ khinh thường họ. Ngược lại, người Kinh, trong xứ sở nô lệ, đã quen dẫm đạp lên bất cứ ai dưới quyền mình, bắt họ phải tuân lệnh mà không nói một lời. Chính các linh mục

Page 90: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

người Kinh cũng không biết khắc phục nhược điểm này và họ không được người địa phương tôn trọng và vâng phục cho bằng các linh mục người Âu, chính xác hơn vì họ thích đặt động từ ở thể ra lệnh nhiều hơn chúng tôi.”

Nghe lời nhận xét này của cha P. Dourisboure, Cha Phương Bảo giật mình:

- Thưa Cha cố, con nghĩ, điều này ngay cả chúng ta ngày hôm nay vẫn cần phải rút kinh nghiệm. Chưa phải chúng ta đã hoàn toàn gột rửa được ảnh hưởng của óc phong kiến và thực dân để sống đúng với lời dạy của Đức Kitô khi Người cúi xuống rửa chân cho các tông đồ trong bữa tiệc ly.

Cha cố Gioakim gật đầu đồng ý, nhưng Ngài hướng vào vấn đề có ý nghĩa sâu xa hơn:

- Điều chúng ta cần ghi nhận và học hỏi là đời sống hy sinh dấn thân rao truyền Tin Mừng của các cố thừa sai. Thực ra, việc đem Tin Mừng cho các dân tộc thiểu số Tây nguyên đã được nghĩ đến từ năm 1672. Hai linh mục Việt Nam đầu tiên của Đàng Trong là Cha Giuse Trang và Cha Luca Bền, địa sở Nước Mặn tỉnh Bình Định, đã hướng việc truyền giáo lên vùng cao phía Tây tỉnh này. Tiếc rằng cả hai vị đã chết vì bệnh sốt rét năm 1676, vào lúc tuổi đời chưa tròn 36. Trên 4 năm sau, năm1680, Cha Courtaulin, rồi năm sau đó 1681, các Cha Vachet và Le Noir, Hội Thừa Sai Paris, đã tìm đường lên Tây Nguyên qua ngã Quảng Ngãi. Nhưng mọi cố gắng này đều thất bại…

Cha cố Gioakim ngưng một chút rồi tiếp tục câu chuyện:

- Phải từ năm 1834 và đặc biệt vào thời Thánh Giám mục Etienne-Théodo-Cuénot, việc truyền giáo lên Tây Nguyên mới được thực hiện tích cực. Đức Cha Cuénot Thể phục vụ Giáo hội Việt Nam 32 năm, phần lớn cuộc đời của Ngài ở dưới hầm và trốn chạy. Ngài bị bắt và bị án chém tại Bình Định, nhưng Ngài đã chết trong tù một ngày trước khi án lệnh của vua Tự Đức đến. Ngày 05/02/1842, hai linh mục Miche và linh mục Duetos bị bắt giải ra Huế và bị tử hình. Năm 1850, linh mục Combes và Fontaine, là hai vị thừa sai đầu tiên được phái đi truyền giáo cho người dân tộc Ba Na. Tháng 11 năm 1850, hai Cha Desgoute và Cha Dourisboure lên Tây Nguyên. Cha Dourisboure truyền giáo cho người Xê Đăng, Cha Combes truyền giáo cho bộ tộc Bana Jolong. Cha Desgoute truyền giáo cho dân tộc Bana-Rongao và Cha Fontaine phụ trách truyền giáo cho dân tộc Jarai. Cha Herreugt chạy về Sài Gòn và chết ở Sài Gòn, còn Cha Besombes bị sốt rét rừng, suýt nữa qua đời, sau khi đã lập làng Pleitouen (làng Trà oe). Cha Suchet, 24 tuổi, qua đời sau hai tháng. Chúng ta cũng không thể quên những nhà truyền giáo người Việt có công đầu như thầy sáu Fx. Nguyễn Do, ông Cả Ninh, Cả Quới và những cư dân khố rách áo ôm từ Quảng Ngãi, Bình Định đi theo thầy Sáu…

***

Page 91: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

16Cha cố Gioakim lưu ý Cha Phương Bảo điều này:

- Có một điều đặc biệt là, khi Tin Mừng truyền tới đâu, thì các thừa sai đã đặt tượng Đức Mẹ ở đó với niềm tín thác cậy trông, để nhờ Đức Mẹ che chở, gìn giữ.

Cha Phương Bảo tham gia thêm ý kiến:

- Thưa Cha cố, theo con biết, niềm cậy trông vào Đức Mẹ của giáo dân Việt Nam có cơ sở từ tín ngưỡng đạo Mẫu trong dân gian. Người bên lương thờ Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Liễu Hạnh, Mẫu Thượng Ngàn… thờ mẹ Âu Cơ. Ở làng Hiền Lương (miền ngược), hiện có đền thờ Âu Cơ, được xây dựng năm 1465 thời Hậu Lê. Làng Hiền ở hữu ngạn sông Thao, tỉnh Phú Thọ, giáp với Yên Bái và Nghĩa Lộ cũ. Cha cố có nghĩ như vậy không?

Cha cố Gioakim gật đầu:

- Văn hóa chung của nhân loại có nhiều điểm tương đồng. Chẳng hạn niềm tin vào Trời của người Việt rất gần với đức tin Công Giáo tôn thờ Thiên Chúa. Và người Công Giáo có lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức Mẹ hẳn nhiên phải có gốc rễ từ tình mẫu tử trong văn hóa Việt Nam. Nhưng Kinh Thánh đã chỉ ra vai trò đặc biệt của Đức Mẹ trong việc cộng tác vào công trình cứu chuộc nhân loại từ khi Người vâng lời sứ thần Gabriel đến khi Đức Mẹ đứng dưới chân Thánh Giá. Và Đức Giêsu đã không từ chối lời cầu xin nào của Đức Mẹ.

Cha cố Gioakim hướng nhìn về tượng Đức Mẹ lên trời trong phòng riêng của Ngài và nói tiếp:

- Lòng sùng kính Đức Mẹ trải dài trong suốt lịch sử của Giáo hội. Ngay từ thế kỷ thứ nhất, hình ảnh Đức Maria đã được tìm thấy trong các hang toại đạo Priscilla, hang toại đạo Thánh Phêrô, hang toại đạo Maiô. Kinh Trông Cậy được cho là ra đời vào khoảng năm 250. Từ năm 1000 trở đi ngày càng có nhiều nhà thờ, được xây dựng dành riêng cho Đức Maria, trong đó, nhà thờ Đức Bà Paris được xem là một kiệt tác.

Từ thế kỷ 13, rất nhiều hình tượng nghệ thuật về Đức Maria xuất hiện ở Châu Âu. Thời kỳ Phục Hưng các họa sĩ bậc thầy như Boticelli, Leonardo da Vinci và Raphael đã để lại những kiệt tác về Đức Maria. Đức Giáo Hoàng Clêmentê XI xác lập lễ Vô Nhiễm Nguyên Tội năm 1708. Năm 1854 Đức Giáo Hoàng Piô IX công bố tín điều Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Đức Giáo Hoàng Piô XII tuyên bố năm Thánh Mẫu và công bố tín điều Đức Mẹ Hồn Xác Lên Trời vào ngày 15 tháng 8 năm 1950. Trong Công Đồng Vatican II, Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã công bố Đức Maria là Mẹ Giáo hội.

Page 92: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Cha cố Gioakim nhấn mạnh điều này:

- Đức Mẹ không chỉ hiện diện trong những tín điều của Giáo hội, mà còn trực tiếp hiện diện bảo trợ Giáo hội. Trong cuộc chiến chống lại quân Thổ Nhĩ Kỳ, Giáo hội đã giành chiến thắng dưới sự bảo trợ của Đức Maria, đặc biệt là chiến thắng Lepanto (1571). Lúc ấy Đức Piô V tha thiết kêu gọi toàn thể Giáo hội lần hạt Mân Côi, tham dự các cuộc rước kiệu công khai và hãm mình đền tội, khẩn nài sự trợ giúp của Mẹ Maria. Đức Mẹ cũng đã hiện ra nhiều lần và làm nhiều phép lạ được Giáo hội công nhận, như Đức Mẹ mạc khải cho thánh Catherine Labouré ở Paris trong khoảng 1830-1836, rồi hiện ra với Thánh Bernadette Soubirous ở Lộ Đức năm 1858 và hiện ra ở Fatima năm 1917. Khắp thế giới nơi nào cũng có trung tâm hành hương Đức Mẹ: như Knock ở Ireland, Beauraing ở Bỉ.

Ở Việt Nam, Đức Mẹ Maria hiển linh ở La Vang vào năm 1798. Một nhà thờ đã được xây dựng gần ba cây đa, nơi Đức Mẹ đã hiện ra và được Tòa Thánh tôn phong là Tiểu Vương Cung Thánh đường La Vang từ năm 1961. Vì thế, việc các thừa sai sùng kính Đức Mẹ và đặt tượng Đức Mẹ để xin Đức Mẹ bảo trợ là nằm trong truyền thống đức tin của Giáo hội.

Cha Phương Bảo lại đặt vấn đề:

- Thưa Cha cố, tượng Đức Mẹ ở Trà Kiệu, ở Tà Pao, ở Măng Đen có phải là do các thừa sai đặt không?

Cha cố Gioakim chia sẻ:

- Các tượng này không phải do các cố thừa sai đặt. Nhưng tượng Đức Mẹ ở các nơi ấy đã ban nhiều ơn cho những người thành tâm kêu cầu ngài.

Đức Mẹ Trà Kiệu ở quận Duy Xuyên, Quảng Nam được tôn vinh là Đức Mẹ "Đấng phù hộ các giáo hữu". Năm 1883, sau khi vua Tự Đức chết, phong trào Văn Thân nổi lên. Họ phát hịch "bình Tây, sát tả" (đánh Tây, giết tả đạo - tức là người theo đạo Gia-tô). Ngày 1/9/1885, Giáo xứ Trà Kiệu bị quân Văn Thân bao vây chặt chẽ, họ tấn công liên tục. Đến ngày 9/9 quân Văn Thân kéo thần công về đánh phá. Trong hai ngày sau đó, họ không sao bắn trúng được nhà thờ. Họ thấy trên nóc nhà thờ có một bà mặc áo trắng, rất đẹp ngăn cản. Đức Mẹ đã cứu giáo dân nơi đây.

Tượng Đức Mẹ Măng Đen bị cụt tay được tôn vinh là Mẹ của người cùi. Nơi đây người dân tộc và người cùi đến viếng rất đông. Tượng được người dân phát hiện vào đầu thập niên 1980, ở thôn Măng Đen, xã Đăk Long, huyện Kon Plông, tỉnh Kontum. Tượng Đức Mẹ Tà Pao nằm ở xã Đồng Kho, huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận. Ngày 8/12/1959, lễ Cung hiến và khánh thành tượng Đức Mẹ Tà Pao do Giám mục Marcello Piquet (Piquet Lợi - Giám mục Giáo phận Nha Trang bấy giờ) cử hành. Trong chiến tranh, tượng bị bỏ quên. Mãi đến 2007 Trung tâm Hành hương Đức Mẹ Tà Pao mới được khánh thành vào ngày 13/5/2007...

Cha cố Gioakim nhấp một ngụm nước thấm giọng. Phong thái và tinh thần của Cha thật dung dị nhưng đầy niềm tín thác vào Đức Mẹ. Cha nói về trường hợp tượng Đức Mẹ ở Tây Nguyên:

Page 93: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Tại vùng truyền giáo Kontum, bên bờ sông Ba có một nơi tuyệt đẹp, trời đất giao hòa. Trên đỉnh đồi, rừng cây thông xanh bạt ngàn, làn mây trời chờn vờn lơ lửng. Thoai thoải dưới chân đồi là dòng sông Ba không bao giờ cạn, khi đầy khi vơi và là nguồn tuôn sức sống cho người cho vật. Cả một vùng cao nguyên thơ mộng nơi đây trước kia cũng là một nơi cư dân sinh sống, cũng có một nhà nguyện, một tượng đài Đức Mẹ, nhưng rồi chiến tranh tràn tới, cư dân tan tác, nhà nguyện cũng chung số phận, chỉ riêng Đức Mẹ là vẫn còn đứng đó. Mẹ chia sẻ những buồn vui sướng khổ với con cái Mẹ và Mẹ đã từng ra tay cứu chữa biết bao nhiêu người gặp đau khổ, khốn khó, hoạn nạn. Chiến tranh cũng làm cho tượng Mẹ mang đầy thương tích.

Nhưng khi chiến tranh qua đi, con người đã quên đi tai nạn “rắn lửa”. Họ lao vào tìm kiếm lạc thú. Khu đồi thông thơ mộng cao nguyên được đưa vào quy hoạch làm khu du lịch, vui chơi giải trí. Người ta san lấp mặt bằng. Nhà nguyện và tượng đài Đức Mẹ cũng bị tháo gỡ. Có điều kỳ lạ là: đoàn xe máy ủi và hàng trăm công nhân đã khai quang và máy móc khai phá mặt bằng đá nhiều ngày, nhưng khi đến khai quang khu nhà nguyện trước kia thì xe ủi bị khựng lại. Kiểm tra lại máy móc, tất cả vẫn tốt, nhưng không thể nào ủi thêm được. Công trường phải thay xe khác. Xe mới hơn đến vẫn bị khựng lại. Không ai hiểu được nguyên nhân. Chiếc xe thứ ba được đưa đến. Xe mới khởi động chưa ủi được tấc đất nào thì bị bốc cháy. Người ta phải ngưng công trình để khám xét hiện trường. Lúc ấy mới biết nơi đây có một tượng Đức Mẹ bị chôn vùi trong đất đá. Sau đó người ta đã mang tượng đi đâu thì không ai biết. Và biết đâu người ta đã quăng tượng xuống sông?

Cha Phương Bảo ngậm ngùi:

- Thưa Cha cố, Cha nghĩ gì về những tượng Đức Mẹ được phát hiện và sùng kính ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam? Phải chăng còn có những tượng chưa được phát hiện?

Cha cố Gioakim có vẻ đăm chiêu:

- Thực sự không thể biết rõ được vấn đề. Nhưng chắc chắn một điều, khi nhà Nguyễn cấm đạo gắt gao, cùng với hành động “bình Tây, sát tả” của phong trào Văn Thân, thì nhiều tượng thờ đã bị triệt hạ. Và sau đó là chiến tranh hàng thế kỷ, nhiều nơi trước kia có giáo dân, có cơ sở thờ tự đã bị tàn phá hoặc bỏ hoang như trường hợp tượng Đức Mẹ Măng Đen hay tượng Đức Mẹ Tà Pao. Người ta có thể phá bỏ hoặc quăng tượng xuống sông như trường hợp tượng Đức Mẹ vừa được vớt ở sông Mêkông, khu vực Campuchia. Nhưng cho dù người ta có xúc phạm đến Chúa như thế nào, Chúa vẫn không bỏ rơi con người, trường hợp nguyên tổ là bằng chứng, rồi đến lịch sử dân riêng của Chúa, ngay cả thời Chúa Giêsu, dân Israel đã lên án và giết Con Thiên Chúa, nhưng Thiên Chúa vẫn tha thứ. Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa cũng luôn tìm mọi dịp, mọi hoàn cảnh để mời gọi con người trở về với Chúa. Phải chăng tượng Đức Mẹ vớt được ở sông Mêkông bên Campuchia là một thông điệp của Chúa gửi cho con người?

Cha Phương Bảo thấy rằng lý giải vấn đề bằng những hoàn cảnh xã hội chỉ là phần ngọn, mà gốc rễ vấn đề phải tìm trong ý Chúa quan phòng. Ngài hỏi Cha Gioakim:

Page 94: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Vậy thưa Cha cố, Cha có nhận ra thông điệp nơi tượng Đức Mẹ sông Mêkông không?

Cha cố Gioakim có vẻ ưu tư và đắn đo:

- Có thể mỗi người sẽ tìm thấy thông điệp riêng cho mình từ tượng Đức Mẹ Mêkông. Chẳng hạn, gia đình Thạch Hải, người vớt được tượng sẽ nghe được tiếng nói của Mẹ khác với chúng ta. Khách hành hương tìm đến tượng Đức Mẹ cũng sẽ được Đức Mẹ hướng dẫn đời sống đạo khác chúng ta. Nhưng vượt lên trên hoàn cảnh, ta vẫn nhận thấy nét chung này: Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, Người là mẹ của sự sống, Người bảo vệ quyền con người, Người là mẹ của các thánh tử đạo (mà cụ thể là các thánh Tông đồ), người là Mẹ Giáo hội, là Đấng Phù Hộ, là Mẹ Hằng Cứu Giúp những ai kêu cầu ngài. Ngay trong thời đại chúng ta đang sống, sự chà đạp nhân phẩm vẫn đang diễn ra khắp nơi. Nạn buôn bán phụ nữ làm nô lệ tình dục trở thành tội ác xuyên quốc gia, những tội ác man rợ ngày càng gia tăng, tình trạng vô cảm đã hủy hoại mọi giá trị nhân bản. Chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa thực dụng và chủ nghĩa hưởng thụ đang làm băng hoại giới trẻ… Trước thực tại ấy Đức Mẹ muốn chúng ta làm gì?

Cha Phương Bảo lại được đặt vào những vấn đề của đời sống đòi buộc lương tâm Công Giáo phải lên tiếng nói, đòi buộc người theo Chúa phải hành động vì tình yêu thương đồng bào, thương yêu con người, đem tình yêu thương của Đức Kitô cho mọi người. Cha muốn được nghe những ý kiến của Cha cố Gioakim bởi ngài đã trải nghiệm một đời sống mục tử sâu sắc. Cha nói:

- Thưa Cha cố, Cha có thể nói rõ hơn những gì Cha trăn trở được không? Con thấy những vấn đề Cha đặt ra gợi cho con rất nhiều thao thức.

Cha cố Gioakim trầm ngâm:

- Thực ra những vấn đề của thực tại xã hội lại rất nhạy cảm, bởi ở mỗi góc độ người ta có thể nhận định khác. Chẳng hạn, chúng ta đang nỗ lực xây dựng và bảo vệ đất nước, đẩy mạnh phát triển kinh tế và hội nhập toàn cầu hóa, đời sống nhân dân đã được cải thiện đáng kể ở nhiều lĩnh vực, sản xuất hàng hóa của ta không thua kém gì thế giới, vị thế kinh tế và chính trị của nước Việt Nam đã có những thế giá mà thế giới khâm phục. Thế nhưng khi mở cửa, ảnh hưởng xấu của mặt trái kinh tế thị trường tràn vào làm đảo lộn mọi giá trị văn hóa Việt Nam. Nền văn hóa Nho giáo đã bị thay thế bằng văn hóa thực dụng Mỹ. Một cuộc xâm lăng văn hóa đang tràn vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội Việt Nam. Giới trẻ gần như ngày càng mất gốc. Đạo đức xã hội xuống cấp trầm trọng. Sự xuống dốc về đạo đức đã được báo động, song chưa có cơ may vực dậy được. Biểu hiện rõ nhất là tội ác man rợ đang xảy ra hàng ngày.

Cha Gioakim đưa cho Cha Phương Bảo những trang báo có bài điều tra về những chợ phá thai công khai ở thành phố, những số liệu báo động về nạo phá thai ở Việt Nam, ngài nói:

- Cha thấy đó, báo Công An TP.HCM ngày 9/11/2006 đưa tin: Hàng năm ở Việt Nam có 1,4 triệu ca nạo phá thai, trong đó có khoảng 5.000 ca vị thành niên chưa lập

Page 95: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

gia đình. Ngày 31/3/2011, Hội Kế hoạch hóa gia đình Việt Nam đã công bố mỗi năm ở nước ta có khoảng từ 1,2 đến 1,6 triệu ca nạo phá thai, trong đó hơn 20% ở lứa tuổi vị thành niên. Gần đây, trong một cuộc hội thảo ở TP.HCM, có sự tham gia của hơn 150 nhà khoa học, dược sĩ, bác sĩ sản phụ khoa đến từ 8 nước Châu Á-Thái Bình Dương, Hội Kế hoạch hóa gia đình lại công bố trung bình mỗi năm ở Việt Nam có khoảng 300.000 ca nạo hút thai ở độ tuổi 15-19, trong đó 60-70% là học sinh, sinh viên. Việt Nam vẫn là nước có tỷ lệ nạo phá thai ở tuổi vị thành niên cao nhất Đông Nam Á.

Cha cố Gioakim nhìn Cha Phương Bảo, Cha nói tiếp:

- Nhìn những con số vô cảm, ta chưa thể thấy được vấn đề, nhưng hãy thử so sánh với chiến tranh Iraq. Theo số liệu của Lầu Năm Góc, tính đến ngày 17/3/2004, sau ba năm Mỹ đánh bom Bão Sa Mạc, cùng với những cuộc đánh bom tự sát, đã có 30.000 người Iraq bị giết hại, 2.313 người Mỹ (kể cả lính và nhân viên quân sự) chết, 17.000 bị thương tổng cộng khoảng 50.000 người. Nhưng chỉ một năm, ở Việt Nam đã có 1,6 triệu trẻ em bị tước đoạt quyền sống. Và nếu tính từ khi chúng ta mở cửa thì số trẻ em bị giết sẽ là hàng chục triệu sinh linh. Chưa có cuộc tàn sát nào kinh khủng như thế. Thế chiến II, Hitler đã gây tội ác bị nhân loại lên án khi giết sáu triệu người Do Thái, thế giới cũng bàng hoàng khi Khmer Đỏ giết hơn hai triệu người Campuchia. Nhưng người ta lại vô cảm khi hàng năm ở Việt Nam có khoảng 1,6 triệu thai nhi bị giết. Cha nghĩ sao về vấn đề này?

Cha Phương Bảo bị đặt vào tình huống phải đối mặt với một vấn đề quá lớn của thời đại, Ngài thực sự lo lắng trước thực tại của giới trẻ. Cha khiêm tốn nhận thức vấn đề:

- Theo con thì căn gốc là ở hai vấn đề: Một là giáo dục, hai là kinh tế. Nếu giới trẻ không được giáo dục những truyền thống đạo đức của dân tộc và giáo dục nhân bản, thì khi bị chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thực dụng tấn công, các em sẽ bị Mỹ hóa, sống hết sức thực dụng. Đặc biệt là khi các em ra khỏi cái nôi văn hóa gia đình, để đi làm, đi học ở thành phố, các em sẽ bị nhiễm rất nhanh những cái xấu của đời sống phố thị.

Còn về kinh tế, khi người ta tôn thờ tiền bạc, lấy cuộc sống hưởng thụ làm mục tiêu, thì người ta có thể chà đạp lên tất cả, dẫn đến việc buôn bán heroin, buôn bán phụ nữ trẻ em và kinh doanh đa cấp lừa bịp. Phim ảnh, vũ trường, giải trí chỉ khai thác cảnh trên giường, khai thác sex. Internet tràn lan những phim sex đồi trụy. Giới trẻ sống buông thả, đã yêu là phải yêu hết mình, “nhà nghỉ” chỗ nào cũng có, dù biết đó chỉ là trá hình. Hôn nhân không còn là giá trị quan trọng. Sinh viên, công nhân sống thử trước khi lấy nhau, và 99,9% là không hợp, và chia tay, mọi hậu quả, người nữ phải chịu. Ca sĩ, người mẫu, diễn viên là thần tượng của giới trẻ, nhưng nhiều người trong họ dùng những scandal sex để nổi tiếng, không ít người trong giới showbiz dính vào những đường dây mại dâm. Có tiền, họ dám làm tất cả, và hậu quả là việc nạo phá thai.

Cha cố Gioakim gật đầu tán đồng:

Page 96: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Cha nói đúng. Chúng ta có thể nhìn thấy nhãn tiền những nguyên nhân của vấn đề, nhưng người ta lại không làm gì để ngăn chặn vấn đề ngoài những điều tra và những hội thảo. Bệnh viện và các cơ sở y tế tư nhân thì luôn mở rộng cửa đón những cô gái “lỡ lầm”, có cô sinh viên nạo thai đến bốn lần. Còn cha mẹ học sinh lại không sao kiểm soát được con cái…

Nhưng nguyên nhân sâu xa của vấn đề là sự chà đạp nhân phẩm con người, tước đoạt quyền sống của người khác, rồi đưa ra đủ mọi lý do để bào chữa cho việc làm ác. Người ta không biết rằng, không gì quý bằng sự sống. Bởi con người không thể làm ra sự sống. Sự sống thuộc về Thiên Chúa. Khi nặn hình hài con người, Thiên Chúa đã thổi hơi sự sống và cho con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Cho con người được hưởng dùng mọi điều tốt đẹp mà Thiên Chúa đã làm nên. Chúa dạy con người hãy sinh sôi nẩy nở đầy mặt đất để thờ phượng Chúa và hưởng hạnh phúc vĩnh cửu; nhưng con người qua bao đời đã phản bội lại ý định của Thiên Chúa, càng lúc càng chìm sâu trong tội ác. Chính tội ác làm biến đổi con người thành quỷ. Những con quỷ dâm dục, con quỷ tham lam, con quỷ tôn thờ của cải và quyền lực thế tục, quỷ kiêu ngạo, như Lucifer, tự coi mình là tất cả. Đoạn Kinh Thánh Lc 4,1-13 miêu tả quỷ cám dỗ Đức Giêsu, đủ để giải thích về những giống quỷ này.

Cha Phương Bảo lại đặt vấn đề với Cha cố Gioakim:

- Vậy thưa Cha cố, trong tình cảnh này, chúng ta có thể làm được gì?

Cha cố Gioakim lại dẫn Kinh Thánh để lý giải vấn đề:

- Trong Kinh Thánh, Đức Giêsu dạy: “Giống quỷ ấy, chỉ có cầu nguyện mới trừ được thôi” (Mc 9,29). Chúng ta cũng thấy Đức Giêsu cầu nguyện nhiều lần trước khi thực hiện những việc quan trọng, chẳng hạn khi Chúa chọn các tông đồ: “Trong những ngày ấy, Đức Giêsu đi ra núi cầu nguyện, và Người đã thức suốt đêm cầu nguyện cùng Thiên Chúa. Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ” (Lc 6,12-13). Chúng ta cũng phải cầu nguyện và cổ vũ nhiều người cùng cầu nguyện. Chúa dạy rằng: “Nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ” (Mt 18,19-20).

Mà muốn vậy, cần phải có những trung tâm hành hương để mọi người cùng hợp nhau cầu nguyện.

Cha Phương Bảo như hiểu được ý của Cha cố Gioakim, Cha nói:

- Thưa Cha cố, ý của Cha là chúng ta phải xây dựng một trung tâm hành hương để tôn kính Đức Mẹ, để mọi người cùng cầu xin cùng Đức Mẹ?

Cha Gioakim thổ lộ:

- Ngay khi dẫn dân về đây, tôi đã nghĩ đến một nơi tôn kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và kính các Thánh tử đạo đã anh dũng đổ máu đào để bảo vệ đức tin. Có Đấng đã từng nói: vua quan có thể giết được thân xác, nhưng không thể giết được linh hồn. Thánh Thông nói: vàng bạc đâu mua được sự sống đời đời. Cũng vì vậy, ngay từ lúc đó, tôi đã xin Đức Cha cho xây dựng, ít là một nhà nguyện thờ kính Đức

Page 97: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Mẹ bảo vệ sự sống và các Thánh tử đạo, và nếu có thể, thì cho phép xây dựng một trung tâm hành hương.

Nhưng sức lực và tuổi tác của tôi không thể thực hiện được. Đến khi Đức Cha đưa Cha về đây, Ngài đã nhận lời tôi cho xây dựng trung tâm Đức Mẹ. Bây giờ tôi rất vui, vì đã có người kế thừa công việc, nên dù có nhắm mắt tôi cũng an lòng…

Cha Phương Bảo muốn biết rõ hơn ý nguyện của Cha cố Gioakim:

- Thưa Cha cố, con cũng có một tâm nguyện như Cha, nhưng công việc ấy quá lớn lao, cha con mình sao có thể làm nổi, con thiết nghĩ: phải cả Giáo phận cùng chung sức mới có thể thực hiện được. Nhưng con muốn được nghe Cha cố chia sẻ thêm do đâu Cha lại có ước vọng ấy?

Cha cố Gioakim tâm sự:

- Đọc lại cuốn sách Dân Làng Hồ, tôi thấy thương và cảm phục các cố thừa sai quá. Tinh thần dấn thân và sự hy sinh của các Ngài vì Tin Mừng thật lớn lao. Các vị thừa sai hy sinh cả đời nơi chốn rừng sâu nước độc, đói khát, khổ sở, hiểm nguy rình rập. Nhiều vị đã bỏ mình, có vị chỉ mới được vài tháng.

Tại sao các vị thừa sai lại có thể từ bỏ cuộc sống bình an và đầy tương lai nơi quê nhà mà dấn thân đến một xứ sở xa lạ, rồi bỏ mình âm thầm nơi rừng sâu cô quạnh? Nếu tính toán theo cái nhìn thế tục thì không sao giải thích được. Câu trả lời là “Tất cả vì tình yêu Đức Kitô” như Phaolô đã viết trong thư thứ nhất gởi tín hữu Côrintô: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Chắc chắn các ngài đã được Chúa chúc phúc, vì Chúa đã nói: “Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu không đủ điều xấu xa. Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao” (Mt 5,11-12).

Hồi ở Campuchia, tôi có may mắn được gắn bó với các cố thừa sai một thời gian dài, từ hồi làm chủng sinh đến tiểu chủng viện, đại chủng viện, làm Cha phó, rồi làm Cha xứ thay các ngài. Tôi đã được thấy, được nghe, được học hỏi và được chia sẻ với các ngài đời mục vụ; thành công thì ít, vất vả, thử thách, đau khổ về đoàn chiên thì nhiều.

Ở Campuchia, các ngài đã từng là nạn nhân của bọn diệt chủng. Chúng phá sạch, giết sạch và xóa sạch mọi ảnh hưởng của ngoại bang. Chúng triệt hạ nơi thờ phượng và đập bỏ ảnh tượng… Trong vụ ấy, các cố thừa sai và tôi cùng bạn bè cũng suýt là nạn nhân của “cáp duồn”. Các ngài đã bị trục xuất; còn tôi phải vội vã dẫn đoàn chiên về đây. Nhiều vị thừa sai đã gửi thân xác lại nơi xứ người, mồ mả của các ngài vẫn còn đó.

Phải nhận rằng, qua những hy sinh rất lớn của các cố mà Tin Mừng được loan báo đến cho dân tộc Campuchia. Sự thật, Tin Mừng được loan truyền đến đâu thì ảnh hưởng của ma quỷ ở nơi đó bị đẩy lùi; quyền sống, quyền con người, và những giá trị nhân bản được bảo vệ và thăng tiến.

Nhưng như lời Chúa nói: Khi đã trục xuất được một quỷ ra thì ma quỷ lại tấn công bằng bảy quỷ khác dữ tợn hơn. Các vị thừa sai đã bị các sắc dân, các nhà cầm quyền và chiến tranh đánh bật ra khỏi địa bàn, đàn chiên bị đánh tan tác, nơi thờ phượng bị

Page 98: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

tàn phá và tượng ảnh bị phá hủy hoặc buông sông. Chỉ trong một thời gian ngắn, trên dòng sông Cửu Long, khúc sông của địa bàn Campuchia, hai tượng Đức Mẹ đã được tìm thấy và vớt lên.

Trút hết được tâm sự với Cha Phương Bảo, Cha cố Gioakim xúc động thì thào:

- Tạ ơn Chúa. Xin Đức Mẹ giúp chúng con.

17

Chia sẻ được tâm nguyện và ước mơ cho Cha Phương Bảo, Cha cố Gioakim Hồ Quang thấy lòng mình nhẹ nhàng và một niềm vui đang rạng rỡ dần lên. Tuổi “gần đất xa trời” của Cha giờ trở nên có ý nghĩa và còn hy vọng. Cha ngước mắt nhìn lên Thánh Giá:

- Lạy Chúa! Con cảm tạ Chúa. Xin cho con ra đi bình an trong tay Chúa…

Riêng Cha Phương Bảo, hôm nay được tiếp chuyện với Cha cố Gioakim, cha thấy như được tiếp thêm một sức mạnh kỳ diệu cho những dự tính của mình. Cha hiểu thêm về lịch sử truyền giáo ở Tây Nguyên, đặc biệt hiểu được sự dấn thân gian khổ và sự hy sinh rất lớn của các cố thừa sai trong hành trình rao giảng Tin Mừng.

Cha cố cũng gợi ra cho Cha nhiều vấn đề thao thức, những vấn đề thách thức lương tâm Công Giáo trong sứ mệnh Phúc Âm hóa môi trường. Đó là tội ác tàn sát thai nhi, là sự chà đạp nhân phẩm và quyền con người ở mọi nơi, mọi hoàn cảnh. Cha cũng hiểu sâu sắc hơn sự hoành hành các giống quỷ, tình trạng xuống cấp đạo đức, đặc biệt trong giới trẻ, sẽ gây hậu quả trầm trọng cho Giáo hội trong tương lai, sự xâm lăng văn hóa, sự thống trị của chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa thế tục…

Bao nhiêu vấn đề đang đặt ra trách nhiệm nặng nề cho người Mục tử. Nhưng Cha cũng vui vì được chia sẻ tâm nguyện về một trung tâm hành hương dâng kính Đức Mẹ. Quả là thánh ý Chúa quan phòng cho Cha chuộc được tượng Đức Mẹ Mêkông.

Tượng Đức Mẹ Mêkông đã để lại trong Cha những ấn tượng sâu đậm về thánh ý của Chúa. Chúa đã kêu gọi người thanh niên chài lưới vớt được tượng Đức Mẹ, mặc dù người thanh niên này không hề biết Chúa, anh ta mới vừa xong nghĩa vụ học tập trong Chùa ra. Đức Mẹ cũng đã thương cứu linh hồn người thiếu nữ là Thiên Thanh lầm lạc trở về. Thiên Thanh đã có thời chối bỏ tất cả, đập bỏ tượng Chúa và Đức Mẹ, chạy theo một niềm tin lầm lạc…

Page 99: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Nhờ Đức Mẹ, người thanh niên vớt được tượng Đức Mẹ và Thiên Thanh đã trở nên thân thiết, và nhờ họ mà Cha Phương Bảo đã chuộc được Đức Mẹ về. Từ đó Cha có thể tìm về nguồn gốc của lịch sử truyền giáo ở Tây Nguyên và Campuchia, nguyên do nào tượng lại trôi giạt về đây. Ấn tượng về tiếng kêu mà người thanh niên nghe được từ pho tượng có một ý nghĩa đặc biệt.

Cách đây bốn hay năm năm, cha Phương Bảo được Đức Giám Mục đưa về Giáo xứ này để nhận nhiệm vụ thay cha cố Gioakim đã đến tuổi hưu dưỡng. Đời mục tử của Cha cố đã quá nhiều thử thách, ngay cả việc Cha đang gánh trách nhiệm với Giáo xứ Russeykeo. Người đã coi Giáo xứ này từ khi mới thụ phong linh mục ở Campuchia. Chính Cha nói một cách bóng bẩy là: Cha phải bồng bế họ chạy trốn nạn diệt chủng ghê sợ nhất thế giới, để tìm nơi đặt nôi cho con cái, rồi làm nhà làm cửa, xây dựng nhà thờ, nhà xứ, sắp xếp lại các sinh hoạt cộng đồng, làm thăng tiến đời sống đức tin, đời sống xã hội, băng bó những vết thương kinh hoàng do nạn “cáp duồn” gây ra cho con cái Cha. Sau hằng chục năm trời, Cha mới tạm yên tâm về trách nhiệm Mục tử của mình. Có thể nói: Cha đã rút hết ruột như con tằm nhả hết tơ để làm tổ cho con, hay Cha như cây nến sáp tỏa sáng cho con cái hưởng, để rồi thân xác Cha ngày một hao mòn…

Và ngay khi con cái được an cư, Cha cố đã nghĩ đến việc làm một nơi tôn kính Đức Mẹ. Chính Đức Mẹ đã cứu Cha và con cái Cha thoát nạn diệt chủng ở Campuchia, nếu không Cha đã không còn tồn tại trên đất nước này. Cha sống đời Mục tử theo chân các cố thừa sai ngày xưa. Tin Mừng ló rạng đến đâu, các đấng đặt tượng Đức Mẹ nơi ấy để Đức Mẹ phù hộ. Bởi Đức Mẹ đã hiện diện và bảo vệ Giáo hội trong suốt trường kỳ lịch sử. Đức Mẹ cũng đã che chở Giáo hội Việt Nam trong những cơn bách hại, Đức Mẹ đã nâng đỡ bước chân các vị thừa sai khỏi sự bắt bớ và sự phá phách của ma quỷ. Thì giờ đây, Cha cố cũng muốn tín thác tất cả ước nguyện của Ngài trong tay Đức Mẹ.

Cha luôn để tâm tìm một nơi dâng kính Đức Mẹ, đặc biệt là Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội. Điều mà Cha muốn tạ ơn đó là hồng ân Chúa ban cho con người khi Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa và kính các Thánh tử đạo vì nhờ máu các ngài đổ xuống mà hạt giống Tin Mừng được mọc lên. Chính các ngài đã dám hy sinh tất cả, kể cả mạng sống mình để Ơn Cứu Độ của Chúa được đến với muôn dân.

Cha Phương Bảo đã biết ước vọng của Cha cố, nhưng “lực bất tòng tâm”, Cha chỉ biết cầu nguyện và phó thác, từng bước dò dẫm và báo cáo để xin ý kiến và sự giúp đỡ của Tòa Giám Mục, vì đó là công việc lớn lao. Sở dĩ Cha cố Gioakim và Giáo xứ Russeykeo được đoàn tụ về đây là nhờ sự quan phòng kỳ diệu của Chúa và sự bầu cử của Đức Mẹ. Giáo xứ cần có nơi để cầu nguyện chung tôn kính Đức Mẹ.

Khi tiếp xúc với Tòa Giám Mục, Cha Phương Bảo được biết, Giáo phận cũng muốn xây dựng một trung tâm hành hương kính Đức Mẹ, vì Giáo phận trong quá khứ cũng đã phải trải qua bao nhiêu biến cố thăng trầm và Giáo phận có ngày hôm nay cũng là nhờ sự quan phòng của Chúa và nhờ sự che chở của Đức Mẹ. Năm 1965, Giáo phận

Page 100: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

chỉ có 165 ngàn giáo dân. Hôm nay, sau gần 50 năm, Giáo phận đã có hơn 5 trăm linh mục, 2 ngàn tu sĩ nam nữ và 1 triệu giáo dân.

Nên khi Cha cố Gioakim và Giáo xứ Việt kiều đề xuất xây dựng một nơi để tôn kính Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, Giáo phận đã chấp thuận và hỗ trợ toàn bộ công trình. Nhưng Cha Phương Bảo chưa thực hiện được. Ngài biết mình quá nhỏ bé và yếu đuối, sức người có hạn trước một công việc lớn lao. Cha đã hứa sẽ nỗ lực hết sức, vì thương Cha cố Gioakim và đoàn chiên của ngài. Họ như đoàn dân riêng của Chúa, sau khi được thoát nạn trở về, muốn xây dựng nơi thờ phượng Chúa. Cha Phương Bảo liên tục cầu nguyện và ăn vạ với Chúa và Đức Mẹ, đồng thời kiên nhẫn chờ đợi ý Chúa thể hiện.

Nhân dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo phận, Tòa Giám Mục muốn xây dựng một trung tâm hành hương để tạ ơn Chúa và Đức Mẹ. Cha Phương Bảo nhận trách nhiệm chuẩn bị phần đất mặt bằng ngay tại Giáo xứ của mình. Nhớ lại việc chuẩn bị mặt bằng này, Cha Phương Bảo đã sớm nhận ra sự dẫn dắt của Chúa về dự định của Giáo phận. Thật vậy, đất của Giáo xứ còn lại chừng 2 hecta, nhưng Giáo phận muốn xây dựng trung tâm Đức Mẹ trên một diện tích rộng ít nhất trên 20 hecta mới đủ xây dựng các công trình Mục vụ. Làm thế nào để có được một mặt bằng như thế trong điều kiện quỹ đất của Giáo xứ còn rất ít? Bước đi thứ nhất này quyết định tất cả. Trách nhiệm Giáo phận giao cho Cha nặng như núi Thái Sơn, mà sức người lại có hạn. Cha Phương Bảo cầu nguyện và lo lắng đêm ngày.

Trước kia cả vùng này là hàng ngàn mẫu đất hoang chạy dài theo chân núi Chứa Chan. Cả một vùng đất rộng, cỏ hoang và đá núi lăn lóc, cây cối thưa thớt. Những vùng đất màu mỡ có thể trồng trọt, canh tác được, đồng bào tỵ nạn trước đó đã chọn định cư hết rồi. Cha cố Gioakim đành phải dừng chân ở đây. Ngài cũng đã tìm nhiều nơi, nhưng không chỗ nào có thể đóng trại cho cả ngàn con người. Chọn nơi đây, Cha cố Gioakim cho xây dựng nhà thờ, nhà xứ. Đất còn lại, ai có thể khai thác được bao nhiêu, Cha cố đều chấp thuận cả. Đất lành chim đậu, dân cư nhiều nơi tìm về, và cả vùng đất hoang ngày xưa giờ đã chật kín dân cư.

Trên 20 hecta đất, quả là một vấn đề không đơn giản trong điều kiện dân cư đã ổn định như thế này, ngoại trừ vùng đất đá dưới chân núi chưa có người ở. Cha Phương Bảo phải họp bàn với giáo dân, trình bày ý nguyện của Cha cố Gioakim và ý định của Giáo phận về một trung tâm dâng kính Đức Mẹ và kêu gọi mọi người cùng một lòng chung tay xây dựng. Kế hoạch là Cha sẽ chuyển đổi những diện tích đất cần thiết và thu xếp đất ở cho những gia đình giáo dân trong phạm vi di dời. Việc này liên hệ đến nhiều người, và mất nhiều thời gian. Cũng phải hàng chục năm trời mới có thể hoàn thành công trình. Bây giờ thời gian kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo phận đã gần kề. Trước đây, việc xây dựng trung tâm Đức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa ở Bãi Dâu là một kinh nghiệm. Phải mất rất nhiều thời gian, công sức và nỗ lực của cả Giáo phận mới có thể hoàn thành.

Nhận thức được tầm vóc lớn lao của công việc, sau Thánh lễ mỗi buổi sáng, Cha Phương Bảo và Ban hành giáo ngày nào cũng ngồi lại với nhau để bàn tính xem công việc đã tiến triển thế nào. Gia đình nào đã đồng ý chuyển đổi, và được dời đến vị trí

Page 101: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

nào, việc hỗ trợ di dời đã thực hiện đến đâu. Sau đó, đích thân Cha Phương Bảo và Ban hành giáo đến thăm từng gia đình, động viên họ và trực tiếp giải quyết những nguyện vọng của họ.

Trong tất cả các Thánh lễ, Cha cũng đặc biệt cầu nguyện cho họ được bình an và sớm ổn định cuộc sống, bởi bất cứ một thay đổi nào, nhất là thay đổi chỗ ở đều gây ra những khó khăn mà phải mất nhiều thời gian mới ổn định được. Chúa thương, công việc tương đối thuận lợi.

Nhưng quả thực, đất đai là vấn đề không đơn giản. Thôi thì việc Chúa làm, mình chỉ là công cụ vô dụng của Chúa. Khó khăn nào bằng hy sinh gian khổ của các cố thừa sai. Nghĩ vậy, Cha Phương Bảo như được tiếp thêm sức, mặc dù Ngài đang mang trong mình những mầm bệnh hiểm nghèo.

Một bữa sáng nọ, Cha con đang đứng ngắm nhìn khu đất ước mơ để làm trung tâm, thì một chiếc xe bảy chỗ ấn còi rồi dừng lại ngay sau chỗ Cha con đang đứng. Cha Tổng Đại Diện Tòa Giám Mục và hai ông Bà Hoàng Văn và Thiên Phước cùng với cô con gái là Thiên Thanh tìm đến. Cha Phương Bảo hết sức ngạc nhiên, còn Ban hành giáo thì lúng túng không biết có việc gì mà các Đấng lại đến thăm Giáo xứ không báo trước.

Cuộc gặp gỡ rất thân tình. Mẹ con bà Thiên Phước rất vui. Sau những chào hỏi, họ chỉ đứng lắng nghe cha Phương Bảo và Cha Tổng Đại Diện bàn bạc công việc.

Cha Tổng Đại Diện giới thiệu các vị khách:

- Xin giới thiệu với Cha sở và Ban hành giáo: đây là ông bà Hoàng Văn, vị ân nhân sẵn sàng giúp Cha và Giáo xứ tìm mặt bằng xây dựng trung tâm.

Ông bà Hoàng Văn hơi cúi mình chào cha Phương Bảo, rồi đỡ lời:

-Kính thưa Cha Tổng Đại Diện, chúng con với cha sở đây là chỗ thân tình đã lâu. Ngài đã thương yêu và giúp đỡ gia đình con rất nhiều, nhờ thế gia đình con mới có được ngày hôm nay. Chúng con chưa làm được gì cho giáo xứ nên không dám nhận mình là ân nhân. Chúng con chỉ biết cố gắng hết sức góp phần nhỏ bé của mình vào công cuộc chung của giáo xứ và giáo phận. Được cha sở và cha Tổng Đại Diện thương yêu là hạnh phúc cho chúng con rồi.

Cha Phương Bảo đỡ lời;

-Kính thưa cha Tổng Đại Diện, ông bà Hoàng Văn là một gia đình giáo dân nhiệt thành làm việc nhà Chúa. Với giáo xứ chúng con, ông bà là chỗ thân tình từ lâu, nay giáo phận lại cho phép ông bà được tham gia vào công việc của giáo phận, thì giáo xứ chúng con cũng được hãnh diện lây. Ước gì trong giáo phận có được nhiều gia đình nhiệt thành Phúc Âm hóa môi trường như ông bà.

Ông bà Hoàng Văn cảm động vì các vị chủ chăn đều yêu thương mình:

-Chúng con cám ơn Chúa và Đức Mẹ. Chúng con cám ơn hai Cha đã dành cho gia đình con thật nhiều tình thương. Chúng con biết chúng con còn nhiều thiếu sót, xin hai Cha cầu nguyện cho chúng con.

Page 102: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Sau những chào hỏi, cha Tổng Đại Diện và mọi người đi thăm khu đất cha Phương Bảo đã chuẩn bị được. Cha con vừa đi vừa nói chuyện.

Ch Tổng Đại Diện nói :

-Hôm nay chúng tôi thay mặt giáo phận đến thăm cha sở, và cũng là để xem việc chuẩn bị đất làm trung tâm hành hương tôn kính Đức Mẹ đã tiến hành đến đâu, để nếu đã ổn định, Tòa Giám Mục xin phép chính quyền tiến hành xây dựng.

Sau đó cha Tổng Đại Diện cũng trình bày chung về các công việc của giáo phận, các sinh hoạt chung toàn giáo phận trong Chương trình Ngũ niên mừng Kim khánh giáo phận, trong đó Đức Giám Mục đặc biệt quan tâm đến việc xây dựng trung tâm Đức Mẹ.

Nghe Cha Tổng Đại Diện thông báo, Cha Phương Bảo và Ban hành giáo hết sức vui mừng. Quả thực việc Chúa làm thật lớn lao và ơn Chúa ban cho Giáo phận thật dồi dào. Nỗ lực của từng con người một thì thật nhỏ bé, nhưng nỗ lực của mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận sẽ làm nên những điều kỳ diệu đẹp lòng Chúa và mưu ích cho mọi người. Cha Phương Bảo gẫm lại công việc mình đã làm so với yêu cầu của Giáo phận, quả thật chưa được bao nhiêu. Nhưng được Giáo phận quan tâm, Cha con thấy những cố gắng của mình thật đáng khích lệ.

Trước đây, theo sự hướng dẫn của Cha Tổng Đại Diện, Cha Phương Bảo và Ban hành giáo đã làm hết sức mình trao đổi, thương lượng với những hộ dân có đất trong phạm vi xây dựng trung tâm để họ nhượng lại cho Giáo phận. Đa phần giáo dân hiểu vấn đề và sẵn lòng vì việc chung. Nhưng cũng có người đã bán đất cho người bên lương, những người này không hiểu vấn đề, nên việc chuyển nhượng hết sức khó khăn. Dù sao công việc đã thực hiện được một phần.

Cha Phương Bảo trình bày với Cha Tổng Đại Diện:

-Kính thưa Cha Tổng Đại Diện, sau nhiều nỗ lực chuyển đổi, chúng con đã chuẩn bị được khu đất có một mặt bằng tương đối đạt yêu cầu. Khu đất trước mặt cha đây. Mặt giáp với quốc lộ có chiều dài 200m, chạy đến sát chân núi. Phía đối diện, đất có gò, có đồi, có thể làm nơi đặt tượng đài, xây các khu mục vụ..Tổng thể khu đất đủ rộng để làm trung tâm hành hương và tổ chứa những sinh hoạt chung toàn giáo phận.

Cha Tổng Đại diện rất vui, Ngài quan sát khắp khu đất. Hiện tại chưa có gì ngoài mặt bằng và những đồi núi thấp gần chân núi cao, nhưng địa thế này thật tốt đẹp để xây dựng trung tâm, nhất là gần quốc lộ, thuận tiện cho sự đi lại của con dân trong toàn giáo phận mỗi khi có những sinh hoạt chung.

Cha cám ơn Giáo xứ, Ban hành giáo và Cha sở Phương Bảo đã hết lòng vì việc chung của Giáo phận. Công việc đã có những bước đi ban đầu tốt đẹp.

Trong khi đi xem xét khu đất, Cha Tổng Đại Diện trình bày cho Cha Phương Bảo dự kiến việc xây dựng công trình trung tâm hành hương Đức Mẹ. Tượng đài Đức Mẹ sẽ đặt trên một đồi đất cao. Trước mặt đài là một sân rộng, có chỗ cho hàng trăm ngàn người cùng cầu nguyện trong những dịp lễ lớn. Một nguyện đường lớn, các phòng chức năng cho các đoàn thể tĩnh tâm. Mẫu nguyện đường theo mô hình Đền Thánh

Page 103: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Phêrô ở La Mã. Đài Đức Mẹ lấy mẫu từ Đức Mẹ Lộ Đức và Đức Mẹ Fatima. Con đường lên tượng đài đi qua những chặng như ở Fatima…

Nghe cha Tổng Đại Diện trình bày sơ khởi dự kiến của Giáo phận, Cha Phương Bảo hết sức vui mừng. Cha không ngờ Giáo phận lại có một kế hoạch xây dựng với một tầm nhìn rất rộng như vậy. Đó không chỉ là một trung tâm hành hương mà còn là một công trình có ý nghĩa văn hóa đóng góp vào việc xây dựng văn hóa của đất nước. Cha cũng rất yên tâm, tin tưởng Đức Mẹ sẽ hỗ trợ để công trình dâng kính Mẹ được sớm hoàn thành. Bởi đó là tâm nguyện của toàn Giáo phận. Trước đây, Giáo phận đã trùng tu, xây dựng được trung tâm Đức Mẹ Bãi Dâu, thì nay việc xây dựng trung tâm Đức Mẹ chắc chắn là có thể. Nhưng tất cả là công việc của Chúa. Chúng ta cần phải cầu nguyện và cố gắng nhiều để ý Chúa được thể hiện.

***

Sau đó, Tòa Giám Mục đã làm đơn xin phép xây dựng trung tâm. Lý do cụ thể là trung tâm Đức Mẹ Bãi Dâu trước đây của Giáo phận Xuân Lộc nay đã giao lại cho Giáo phận Bà Rịa. Nhu cầu sinh hoạt mục vụ cho toàn giáo phận là một nhu cầu cấp thiết, để giáo dân có thể sống tốt đạo, từ đó tham gia tích cực vào việc xây dựng đời sống. Hội đồng Giám Mục Việt Nam đã hướng dẫn người giáo dân “ sống Phúc Ậm giữa lòng dân tộc”. Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI dạy cụ thể hơn. Ngài nói : “Bằng đời sống xây nền trên đức ái, sự liêm chính, việc quý trọng công ích, anh chị em phải chứng tỏ rằng người công giáo tốt cũng là người công dân tốt”.

Sau nhiều tháng điều tra, nghiên cứu, xem xét nhu cầu của Giáo phận và cũng là để thực hiện chính sách về tôn giáo của Nhà Nước, nhiều ban ngành đã vào cuộc. Ủy Ban Nhân dân Tỉnh, Ban Tôn giáo, Mặt Trận Tổ Quốc, Ủy Ban môi trường, Sở Nhà đất … Tỉnh có nhận xét: nhu cầu cần có trung tâm sinh hoạt Mục vụ của Giáo phận là chính đáng. Tỉnh cũng có quyết tâm tạo mọi điệu kiện để người công dân được sinh hoạt tôn giáo theo nhu cầu đời sống tâm linh của mình, nhưng mặt bằng Tòa Giám Mục đề xuất hiện có một số trở ngại , chẳng hạn, khu gần khu trại giam, cũng khu đất cũng nằm trong vành đai quốc phòng. Tỉnh cần có thời gian nghiên cứ thêm.

Tòa Giám Mục lại tiếp tục làm đơn xin, Ủy Ban tiếp nhận với hảo ý. Mọi người lại hy vọng và cầu nguyện. Việc xây dựng trung tâm Đức Mẹ ở đây hay ở nơi nào khác là nằm trong sự quan phòng của Chúa. Nếu Chúa thấy mọi sự là tốt cho Giáo phận, chắc chắn Chúa sẽ không từ chối lời cầu xin của chúng ta. Cha Phương Bảo thường chia sẻ với giáo dân như vậy, và Ngài cũng xác tín rằng ơn Chúa hằng đổ xuống cho những ai cậy trông Người.

Sau một thời gian nghiên cứu, Ủy Ban lại trả lời dứt khoát: khu đất dự định xây dựng trung tâm của Tòa Giám Mục thuộc vòng đai đất quốc phòng, không thể giải quyết cho Tòa Giám Mục, đề nghị Giáo phận tìm nơi khác.

Page 104: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Mọi việc trở lại từ số không. Giáo xứ và Giáo phận liên lỷ cầu nguyện, chúng ta chỉ có một cách duy nhất là bám lấy Chúa và Đức Mẹ. “vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được.”(Ga 15, 5). Những nỗ lực bao ngày tháng qua chưa đủ để ơn Chúa nhận lời cầu nguyện của Giáo xứ và Giáo phận. Cha phương Bảo luôn chia sẻ như vậy với mọi người với một niềm tín thác không nguôi.

Cha Phương Bảo lại phải tìm nơi khác. Cha con bảo nhau: xưa nay Chúa không chối từ những kẻ kêu xin. Cần phải cầu nguyện nhiều hơn và kiên nhẫn tìm kiếm. Giáo xứ tổ chức nhiều chương trình mục vụ để mọi thành phần dân Chúa cùng cầu nguyện. Cha Phương Bảo chia sẻ, Chúa hứa :”Hãy xin thì sẽ được, hãy tìm thì sẽ thấy, hãy gõ thì sẽ mở cửa cho”(Mt 11,9). Nếu Chúa còn trì hoãn chưa đáp ứng lời cầu xin của ta, đó là dấu Ngài có một kế hoạch đặc biệt có lợi cho ta, hãy tin tưởng và chờ đợi kế hoạch đó được thực hiện. Chúa còn dạy ”phải cầu nguyện luôn, không được nản chí “ (Lc.18, 1).

Sau đó, có người chỉ cho khu đất của một nhà Dòng gần rừng tre. Cha Phương Bảo và Ban hành giáo đã lặn lội đến nơi. Con đường từ ngoài lộ dẫn vào khu vực này vô cùng khó khăn, cây cối um tùm, xung quanh không có dân cư. Cha ngẫm nghĩ, trung tâm hành hương là để cho mọi người có thể tìm đến được, vì thế việc đi lại phải dễ dàng thuận lợi. Nơi này xa xôi và cách trở quá. Sau khi cha con lội một vòng thăm khu đất, cha Phương Bảo cùng quý chức Ban hành giáo đành trở về, lòng trĩu nặng ưu tư. Hôm ấy trời mưa như trút nước, trời đất tối tăm mãi khuya cha con mới về đến nhà

Hôm sau, Cha cho cho mời gia đình ông bà Hoàng Văn để bàn bạc.

Nhận được tin của cha Phương Bảo, Ông bà Hoàng Văn vội đến ngay.

Bước xuống xe, ông Hoàng Văn chào Cha và nói ngay:

- Nghe Cha gọi là con hiểu vấn đề gặp khó khăn rồi

Cha Phương Bảo trầm tư:

- Mời bà vào trong nhà, tôi xin thưa vài việc.

Ông bà Hoàng Văn cùng với Thiên Thanh theo cha Phương Bảo vào phòng khách. Gọi là phòng khách cho có vẻ sang trọng, thực ra đó là căn nhà cấp 4 có hai phòng. Một phòng làm phòng hội họp, một phòng được ngăn đôi, nửa trong làm phòng riêng của cha Phương Bảo, nửa ngoài kê bộ bàn ghế gỗ thô sơ để tiếp khách.

Trên vách tường, có một bàn thờ nhỏ đặt tượng Chịu nạn. Ở phía vách tường đối diện có chân dung cha Phương Bảo lúc trẻ. Trông người hơi gầy, nhưng thanh nhã. Gọng kính trắng và mái tóc bồng bềnh tạo thêm dáng thư sinh và cốt cách nghệ sĩ. Đôi mắt sáng đầy nghị lực và nụ cười thấp thoáng nét vui, nhưng dường như che dấu nhiều ưu tư.

Trong phòng chẳng có vật dụng gì ngoài một kệ sách. Có khá nhiều sách Triết học, sách tôn giáo và Kinh Thánh. Thiên Thanh hơi tò mò, cô lần đọc một vài tựa sách, có

Page 105: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

những cuốn sách cổ, giấy đã vàng và gáy sách đã sờn. Cô ngạc nhiên về cuốn Tự Điển Kinh Thánh (Anh-Việt). Cô không ngờ cha Phương Bảo có cả cuốn Tự Thuật (Confessions) của thánh Augustinô (năm 354-430) và cuốn Hành Trình và Truyền Giáo của Alexandre de Rhodes (1593-1660).

Thiên Thanh đã theo cha mẹ đến nhà xứ nhiều lần, nhưng cha Phương Bảo chỉ tiếp khách ở phòng họp bên cạnh. Đây là lần đầu tiên cô được vào phòng khách riêng của Cha. Chắc phải có vấn đề gì quan trọng và cha mẹ cô là người rất thân cha mới tiếp ở đây. Ngài rất giữ gìn các quan hệ để tránh những ngộ nhận đối với những người thiếu hiểu biết hay những người cố ý lợi dụng ngài. Thấy Thiên Thanh chăm chú nhìn kệ sách, cha Phương Bảo nói:

-Nếu Thiên Thanh thích, lúc nào rãnh cha cho mượn đọc, nhưng với điều kiện phải giữ gìn cẩn thận, và sau đó..

Thiên Thanh rất vui:

-Thưa cha, sau đó thì sao?

Cha Phương Bảo cười bí mật:

-À, không có gì, cha chỉ nhờ Thiên Thanh chia sẻ với các bạn trẻ trong giáo xứ vào những buổi sinh hoạt đầu tháng.

Thiên Thanh kêu lên:

-Eo ôi, Thưa cha, việc ấy khó lắm, chắc con không làm được. Sách của Cha cuốn nào cũng dày cộm, và khó đọc nữa, chưa chắc con đã hiểu thì làm sao chia sẻ. Thôi Cha tha cho con.

Cha Phương Bảo gật đầu:

-Con nói đúng, những cuốn sách của cha cần phải có một ít trình độ và có tâm thế tốt mới đọc được

Ông Hoàng Văn nhắc con:

-Con đừng làm phiền cha, cha mời cha mẹ và ông trùm chánh đến đây đâu phải để nói chuyện sách, để xem con chia sẻ được gì với cha nào.

Quay sang cha Phương Bảo, ông Hoàng Văn thưa:

-Thưa cha, có chuyện gì gấp mà cha cho gọi chúng con đến đây?

Cha Phương Bảo nhìn ra xa :

-Ý định của Thiên Chúa như trời cao, ý tưởng của con người như cỏ mặt đất…

Ông Hoàng Văn hơi do dự vì chưa hiểu được câu nói của Cha Phương Bảo, ông mấp môi định nói câu gì đó, đoán được ý của ông, Cha Phương Bảo nói ngay:

- Chính quyền đã trả lời, khu vực này là đất vành đai quốc phòng, không thể xây dựng trung tâm… Họ yêu cầu mình tìm đất chỗ khác.

Page 106: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Ông Hoàng Văn vừa ngạc nhiên, phản ứng có vẻ không hài lòng :

- Ủa! Mình có thấy xung quanh đây có doanh trại quân đội nào đâu, sao lại là vành đai quốc phòng?

Trầm ngân một lúc, ông Hoàng Văn hỏi:

- Chính quyền nói vậy thì mình chịu. Bây giờ Cha tính xoay trở thế nào?

Cha Phương Bảo dè dặt:

-Mình là dân thì không biết được. Hình như núi Chứa Chan là một cao điểm quân sự có tính chiến lược về lâu về dài. Mà trung tâm lại ở ngay dưới chân núi, đúng là cần phải xem xét nhiều vấn đề. Mình phải chủ động tìm kiếm khu đất khác. Việc quốc phòng là việc chung, mình cũng phải có trách nhiệm.

Cha Phương Bảo ngừng nói một lát như đang trong tình trạng hoàn toàn bế tắc, nhất là Cha đang nhận trách nhiệm với Tòa Giám Mục. Cha nói :

-Chuyện tìm đất phải có ý kiến Tòa Giám Mục, xem Đức Cha dạy bảo thế nào. Chúng ta chỉ ở trong một địa phương nhỏ không thể xoay sở được. Xung quanh gần đây không còn khu đất nào đủ cho nhu cầu xây dựng trung tâm. Ở phạm vi toàn Giáo phận, Đức Cha và Hội đồng Linh Mục sẽ có cái nhìn rộng hơn, bao quát hơn.

Ông bà Hoàng Văn khẽ gật đầu:

-Thưa, Cha dạy phải. Chúng con luôn bên Cha. Có gì Cha cứ báo cho chúng con biết.

Thiên Thanh đứng đó nãy giờ chứng kiến cuộc đối thoại, không kìm được nỗi buồn, cô chạy lại bên Cha Phương Bảo khóc :

- Thưa Cha, có phải tội con trước đây làm mất ơn nghĩa với Chúa và Đức Mẹ, nên các đấng đã không nhận lời cầu xin của chúng ta.

Cha Phương Bảo nói với Thiên Thanh:

-Chúng ta cần cầu nguyện nhiều hơn nữa con ạ. Con không nên nghĩ vậy. Chúa bao dung và nhân hậu vô cùng. Chúa chỉ làm những gì tốt đẹp cho chúng ta.

Bà Thiên Phước nghe con nói thì lòng đầy thổn thức. Chắc chắn là có lỗi của gia đình bà. Bà buồn vì bao nhiêu ngày tháng vất vả gia đình bà cùng với Cha, Ban hành giáo và mọi người trong giáo xứ dồn hết công sức vào khu đất này, chỉ với nguyện vọng xây một trung tâm tôn kính Đức Mẹ và các Thánh tử đạo Việt Nam. Bây giờ, tất cả trở về số không, tất cả phải làm lại từ đầu, nhưng có thể làm được gì trong hoàn cảnh khó khăn này.

Sau giây phút xúc động, Cha Phương Bảo nói:

-Có ông bà chia sẻ và hỗ trợ, tôi thấy vững tâm, mặc dù không biết Chúa còn thử thách chúng ta bao lâu nữa. Dẫu thế nào chúng ta phải cầu nguyện nhiều hơn để tìm biết thành ý Chúa và vẫn phải tích cực hành động để cho thánh ý Chúa được thể hiện.

Ông Hoàng Văn chậm rãi nói:

Page 107: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Vâng, chúng con tin rằng ý Chúa sẽ nhận lời cầu xin của chúng ta. Chúng con xin chia sẻ nỗi buồn lo của cha, sẽ làm việc hết sức mình cho công việc chung của giáo xứ và giáo phận.

Cha Phương Bảo xác tín:

- Cám ơn ông bà. Cha tin rằng việc Chúa muốn, Chúa sẽ làm. Riêng phần Cha, có lẽ như Môsê, sẽ trông nhìn về nơi Chúa muốn xây dựng trung tâm của Giáo phận.

Cha Phương Bảo đưa ra đề nghị:

- Ngày mai, Cha sẽ xin Tòa Giám Mục cho cuộc hẹn, để Cha và ông bà đến trình bày với Đức Cha sự việc cụ thể và để xin Ngài chỉ dạy.

***

18Sau lần đi rừng tre về bị mưa, cha Phương Bảo thường bị sốt. Những cơn sốt xuất hiện thường xuyên làm cho đầu của Cha đau buốt, thân thể bải hoải như người mất sức. Cha vẫn ăn uống và tập thể dục mỗi ngày, nhưng nhiều khi thấy khó thở, da dẻ nhợt nhạt và thường chán ăn. Bình thường, Cha chỉ uống vài liều thuốc cảm là khỏe, nhưng gần đây những liều thuốc ấy không còn tác dụng. Thuốc chỉ làm dịu được một chút, rồi các triệu chứng sốt, đau đầu, mệt mỏi lại tái phát. Cha không nói với ai. Đôi lần ông trùm chánh có việc đến gặp cha bất chợt, thấy cha ngồi ôm đầu, hoặc đưa tay ôm ngực, tiếng thở mệt nhọc, ông hỏi thì cha bảo, ngài hơi mệt một chút, chắc là do Cha làm việc nhiều. Ông cũng nghĩ vậy. Ông khuyên Cha nên nghỉ ngơi thư dãn .Việc làm nhà thờ đã khiến cha lo lắng vất vả, mất ăn mất ngủ nhiều năm tháng,

Page 108: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

và bây giờ là việc lo mặt bằng xây dựng trung tâm, tưởng đã tốt đẹp, không ngờ lại phải làm lại từ đầu.

Trưa nay cha Phương Bảo bỏ bữa. Cái bụng không cho ăn, nó cứ đầy đầy sao ấy, cảm giác dợn dợn ở cổ. Cơn sốt và đau đầu lại xuất hiện, trong ngực như thiếu oxy, Cha không thở được.

Buổi trưa, nắng ngột ngạt. Cha nằm nghỉ và thiếp đi. Giấc ngủ chập chờn vật vã. Trong cơn miên man, Cha vẫn thì thầm cầu nguyện. Lạy Chúa, xin cất khỏi con cơn khốn khó này, xin cho con sức khỏe để con làm xong những việc Chúa trao. Lạy Chúa, con còn nhiều việc quá, mà sức con thì yếu đuối, ước gì có Chúa bên con, thì mọi việc khó khăn sẽ qua ngay thôi. Hơn năm ngàn người theo Chúa nghe giảng, suốt một ngày, họ đói khát, vậy mà, chỉ có năm cái bánh và hai con cá, Chúa đã cho họ ăn no đủ. Ở tiệc cưới Ca Na, gia chủ hết rượu, Chúa truyền cho gia nhân đổ nước vào sáu chum và làm phép nước thành rượu, mọi người vừa vui vừa hãnh diện. Phêrô và các bạn suốt một đêm không đánh bắt được con cá nào. Chúa bảo các ông :”Cứ thả lưới xuống bên phải mạn thuyền đi, thì sẽ bắt được cá”. Các ông thả lưới xuống nhưng không sao kéo lên nổi vì lưới đầy cá”(Ga 21, 6). Vâng, có Chúa, chắc chắn mọi việc của con sẽ dễ dàng. Ôi lạy Chúa, con cậy trông Người…

Cha cứ thì thầm kêu xin, đầu óc chìm vào cơn sốt mê man. Những năm tháng đã qua hiện ra trong tâm trí ngài…

Cha sinh ra trong một vùng quê nghèo bên con sông Đồng Nai hiền hòa. Thuở nhỏ Cha cùng với bạn bè thường rủ nhau ra ông tắm, bắt cá. Sông nước mênh mông, vườn cây trĩu quả cùng với những con người hiền hòa đã nuôi dưỡng hồn quê của cậu học trò nhỏ.

Cậu học trò nhỏ ấy đã sống những tháng ngày vất vả như bao trẻ em miền quê khác . Đi học về, cậu cất cặp vào bàn học rồi vội vàng phụ với cha mẹ đủ mọi công việc. Từ việc nhà đến việc nương rẫy, việc gì cậu cũng không từ nan. Và khi lớn khôn hơn, hoàn cảnh khó khăn, cậu cũng từng giăng lưới bắt cá, lên rừng lội suối làm rẫy, và cả đến những công việc khéo tay ở tổ hợp mây đan tre lá.

Chiến tranh ập đến, quê hương không còn bình yên. Cuộc sống trở nên bấp bênh. Mối hiểm nguy, bom đạn ở trên đầu. Chiến tranh vô tình và tàn bạo đối với sinh mệnh con người. Cậu học trò Phương Bảo học xong cấp ba thì về Sài gòn, vừa làm vừa đi học, lúc nào cũng trăn trở. Làm gì để đừng trở thành nạn nhân chiến tranh? Làm gì để cuộc sống có ích và giúp ích cho mọi người? Sàigòn xáo trộn, Sàigòn biến động, Sàigòn hoảng hốt lo âu, tương lai mù mịt.

Tìm đâu ra một con đường thoát? Tìm đâu ra một công việc có ý nghĩa cho đời mình? Cậu nhìn thấy nghề thuốc và nghề dạy học là những nghề cứu người. Thế nhưng cậu không thể thi vào Đai học Y Khoa, Đại học Dược Khoa hay Sư Phạm, bởi việc tuyển sinh vào các trường này rất khó. Trước 1975 ở Sài gòn, Đại học Văn Khoa, Đại học Luật khoa là những trường sinh viên có thể đăng ký vào học, không phải thi đầu vào. Cậu sinh viên Phương Bảo theo học Luật Khoa. Học để có tri thức, chưa định hình được sau khi tốt nghiệp Luật khoa, cậu sẽ làm gì giữa lúc đất nước

Page 109: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

còn đang chiến tranh. Mọi dự tính về tương lai đều rất mơ hồ. Chiến tranh làm mờ đi tất cả ước vọng của một đời người.

Chỉ một năm sau, đất nước được Giải phóng, cậu sinh viên Phương Bảo trở về làng quê, việc học dở dang. Mọi người vui mừng vì được sống trong hòa bình. Từ nay không còn bom đạn dội xuống tàn phá xóm làng, không còn những nỗi lo bị càn quét, không còn những cái chết bi thương của người dân Việt. Buổi tối có thể đi ra đường thoải mái, không còn giới nghiêm, không còn lựu đạn nổ, không còn pháo mồ côi. Đất nước liền một dải. Bắc, Trung, Nam vui mừng gặp mặt sau mấy chục năm ly tán. Bao nhiêu hy vọng đang vươn dậy.

Thế nhưng, ai đã sống ở giai đọan lịch sử này, mới hiểu được con đường đi lên của đất nước còn lắm gian nan. Lại mất mùa, giặc dã, đói khổ. Ngay từ những năm 1975 đến 1978, bọn Khmer Đỏ đã tàn sát đồng bào các tỉnh phía Tây Nam tổ quốc, rồi bọn Bành Trướng tràn qua biên giới tàn sát đồng bào sáu tỉnh phía Bắc. Cả nước ăn độn khoai, bắp, bo bo. Kinh tế suy sụp và đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Hàng triệu con người bỏ nước ra đi…

Trở về quê cũ, cậu sinh viên Phương Bảo không phải đi học tập cải tạo vì không có dính dáng gì đến chế độ Sài gòn. Cậu được mời tham gia dạy các lớp Tiểu học. Công việc khá vất vả nhưng vui. Đươc sống tự do, làm việc phục vụ cộng đồng là một niềm hạnh phúc.

Nhưng dần dần, thầy giáo Phương Bảo nhận ra nhiều điều không giống như những gì đã mường tượng trước kia. Chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục, các sinh hoạt trong hội đồng giáo viên rất khác. Không khí làm việc nặng nề, căng thẳng và đầy nghi kỵ. Tuần nào cũng họp, cũng kiểm điểm công tác. Cuối tháng lại họp đánh giá thi đua, cuối học kỳ, cuối năm lại họp xét, bình bầu các danh hiệu. Con người bị trói vào những sinh hoạt hành chính, mất hết sự sáng tạo, nhiệt tình làm việc trở thành hình thức. Những người của Sàigòn trước kia được gọi là “lưu dung” họ sống đầy mặc cảm.

Người ta kèn cựa, tranh giành nhau từng cân cá, từng cái vỏ xe đẹp. Cái nghèo, cái đói làm cho con người trở nên tồi tệ với nhau. Thầy giáo Phương Bảo phải dè dặt từng lời nói, từng cử chỉ, từng mối quan hệ giao tiếp. Bởi chỉ cần một ai đó vu cáo điều gì, thì cuộc sống sẽ gặp rắc rối ngay. Trong khi cuộc sống cứ ngày càng khó khăn vì “ngăn sông cấm chợ”, vì “đánh tư sản”…

Vào thời ấy, công nhân viên được lĩnh 15 ký lương thực một tháng. Chi viện cho chiến trường hai ký. Còn 13 ký, mỗi người được lĩnh hai ký gạo và 11 kg độn. Khi thì bắp, khi thì khoai hay bo bo. Cũng chẳng có bắp xay, mà thường là bắp trái. 11kg bắp thì vào kho Phòng lương thực lựa 33 trái.

Thầy giáo Phương Bảo người gầy gò, ngày ngày đạp xe cọc cạch đến trường dạy chữ và làm đủ thứ việc như mọi thầy cô khác. Hội họp, thao giảng, lao động và tối còn đi dạy Bổ túc Văn hóa. Chưa bao giờ thầy Phương Bảo thấy ngột ngạt như lúc này. Cuộc sống dường như không có lối ra.

Page 110: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Trong khi đó giáo xứ nơi thầy cư trú gặp nhiều khó khăn trong công việc mục vụ. Thầy được cha sở mời gọi cộng tác. Gần với cha sở, gần với công việc Mục vụ và được gia đình khuyến khích, thầy nhận ra ơn gọi bắt đầu nhen nhúm trong tâm hồn mình. Con đường không lối ra, giờ đã có ánh sáng chiếu soi. Thầy nghĩ đến việc dâng mình cho Chúa. Và nhiều đắn đo chọn lựa. Sự chọn lựa nào cũng rất khó khăn, nhất là chọn lựa lý tưởng. Chọn lựa con đường từ bỏ trần gian, theo Chúa để phục vụ tha nhân còn khó khăn hơn nhiều. Lúc ấy thầy mới 22 tuổi.

22 tuổi chưa phải là tuổi thực sự trưởng thành, nhưng cũng đã có hiểu biết và trải nghiệm. Trong đầu thầy Phương Bảo ngổn ngang bao thứ tư tưởng. Nhưng câu hỏi căn cốt vẫn là câu hỏi về ý nghĩa cuộc đời và làm gì để đời mình có ý nghĩa. Cuộc đời này sẽ là vô nghĩa, trống rỗng và vô vị nếu đời mình không có một lý tưởng. Điều quan trọng là phải tìm được ý nghĩa cho đời mình, phải làm cho đời mình trở nên có ý nghĩa, có giá trị, không thể sống vật vờ vô định. Những vĩ nhân là những người sống chết cho một lý tưởng cao đẹp, họ nào có bận tâm đến cơm áo gạo tiền, dù cái ăn, cái đói ghì người ta sát đất. Sự vĩ đại là ở chỗ họ đã vươn tới một lý trưởng cao đẹp.

Thầy lần theo các nhà tư tưởng. Các triết gia phương Tây chỉ quanh quẩn với những tranh cãi vô bổ về duy tâm và duy vật. Dù là Hêraclide, Platon, Descartes hay Hégel… Sự sống thật phong phú, trời đầy sao và mặt đất đầy hoa, nào có duy một thứ nào. Con người gồm cả tâm lẫn vật, duy bên bào, con người cũng mất thăng bằng.

Tìm về phương Đông, Thầy Phương Bảo có thấy chút ánh sáng chập chờn. Khổng Tử nói về Thiên Mệnh, người quân tử phải biết mệnh trời và sống thuận theo mệnh trời, thực hiện lý tưởng “kinh bang tế thế”. Học thuyết của Khổng Tử là học thuyết chính trị dùng để xây dựng Nhà Nước phong kiến. Trong lịch sử nhân loại, triều đại phong kiến nào cũng gây tội ác. Thời nhà Nguyễn, các vua chúa coi đạo Nho là chính đạo, gọi đạo Công Giáo là tả đạo, họ đã giết hàng trăm ngàn giáo dân. Các đời vua thay nhau giết hại công thần. Đạo của Khổng Tử là đạo Nhân, nhưng sao các chế độ phong kiến lại chà đạp lên sinh mệnh con người như vậy. Vua bảo mày chết thì mày phải chết, ấy mới là tôi trung. Ôi đức Khổng ơi, học thuyết của ngài đã thành tai họa rồi. Cái gọi là Thiên mệnh ấy ám vào số kiếp nhiêu con người?

Còn Lão Tử, ông này chủ trương “vô vi”, không can dự gì vào cuộc đời, sống thuận theo tự nhiên. Nói thì nghe lý tưởng, nhưng trong xã hội, người xấu, kẻ tốt lẫn lộn, nếu không tích cực làm cho cuộc sống tốt hơn thì cái xấu, kẻ ác sẽ tiêu diệt nhân loại. Lão tử bảo, vì thiên hạ đặt ra cái đẹp nên mới có cái xấu, đặt ra cái thiện nên mới có cái ác, vì thế cần phải “diệt thánh, dứt trí, bỏ nhân, bỏ nghĩa’ thì dân được lợi. Ấy là Lão Tử phản đối nhân nghĩa của Khổng Tử. Ông nói về Đạo, nhưng ông không biết “Đạo” là gì. Ông bảo, Đạo mà gọi tên ra được thì không còn là Đạo thường hằng. Lòng Đạo trống không…trong suốt, dường như vĩnh viễn trường tồn, ta không biết nó con ai..(Vô Nguyên-Đạo Đức Kinh). Thầy Phương Bảo đọc những lời ấy của Lão Tử thì mỉm cười. Chỉ là một trò chơi chữ. Thầy cần tìm kiếm con đường chân lý, con đường làm cho đời mình có ý nghĩa.

Page 111: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Thầy cũng đọc triết học Phật giáo. Đời là bể khổ. Sinh lão, bệnh tử, là khổ… ngũ uẩn là khổ. Hay nói cách khác, tồn tại bằng thân nghiệp là khổ. Muốn hết khổ, phải tiêu diệt thân nghiệp bằng con đường tu tập Bát Chánh Đạo. Bản thể của vạn pháp là Không. Không có thượng đế, không có linh hồn, chỉ có nghiệp báo nhân quả. Thầy Phương Bảo nghĩ, hơn hai triệu người chết đói do thực dân phát xit gây ra 1945 là thật, không phải là Không. Bom Mỹ dội xuống đầu người dân Việt Nam là thật, đâu phải là Không! Pol Pot đập đầu hơn hai triệu đồng bào Khmer là thật, không thể là Không. Giá trị của một đời người là ở cảnh giới tại thế này, nếu là Không thì thật là hư vô…

Thầy Phương Bảo thấy trong những tư tưởng ấy đầy mâu thuẫn, không có linh hồn thì cái gì tái sinh? Thiện, ác đều là nghiệp, đều là dây trói, thì đâu là chân lý? Theo nhân quả thì bao nhiêu triệu con người bị Hitler, bị bom đạn Mỹ chết, bị Pol Pot đập đầu là do kiếp trước họ làm ác nên kiếp này bị hủy diệt. Hóa ra Hittler, Pol Pol là vô tội đối với nhân loại? Thành ra luật nhân quả nghiệp báo không giải thích được những vấn đề của nhân loại. Và đâu phải trong cõi đời này chỉ có luật nhân quả. Trong vũ trụ còn bao nhiêu luật khác, luật sáng tạo mới làm nên con người và vũ trụ này. Nhân quả nào tạo nên Einstein thiên tài? Thầy Phương Bảo không bận tâm đến những điều rắc rối ấy nữa. Điều thầy tìm kiếm là, con người sống trên đời này để làm gì? Sống để từ bỏ chính sự sống thì còn ý nghĩa gì!

Thầy Phương Bảo lắc đầu, triết học nào cũng bế tắc, và phủ định lẫn nhau. Nhưng những vấn đề của tâm linh lại thôi thúc khôn nguôi. Không thể sống cho ra con người nếu không giải quyết tận căn gốc ý nghĩa đời người. Nhưng đâu là chân lý? Thầy tìm thấy điều này, không một nhà tư tưởng nào tự khẳng định mình là chân lý, chỉ duy nhất có Đức Giêsu. Đức Giêsu nói với Tôma :”Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống“(Ga 14, 6).Và ông Tôma đã chứng ngộ chân lý khi Chúa Giêsu sống lại. Người bảo Tôma :”Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìm xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng long tin nữa, nhưng hãy tin”(Ga 21, 27)

Thế là thầy Phương Bảo yên tâm dâng mình cho Chúa.

Những lúc thanh thản, thầy vẫn ngẫm nghĩ về những bậc thầy tư tưởng của nhân loại. Chắc chắn trong học thuyết của họ, phải có mặt chân lý nào đó, nó mới tồn tại hàng ngàn năm, và gây ảnh hưởng đến lịch sử nhân loại.

Đến tận hôm nay, những tư tưởng, lề thói phong kiến vẫn còn ảnh hưởng sâu xa đối với văn hóa Việt. Thiên Mệnh hay Trời có phần nào đó như thượng đế, hay Thiên Chúa. Nói con người có số, chạy trời không khỏi nắng, cũng không khác nào nói Chúa quan phòng mọi sự, sợi tóc trên đầu đã được đếm rồi (Lc 12, 7). Sống “vô vi”, sống an nhiên của Lão Tử để trở về với Đạo, là lối sống thanh cao mà không phải ai cũng đạt được. Từ bi, hỷ xả, không để tâm dính mắc, lo làm việc thiện để gặt quả phúc cũng là một cách sống tốt. Vâng, hãy cứ tôn trọng niềm tin, đức tin của mọi người, vì mọi người cùng một bản thể. Chúa nói:“Thầy là cây nho, anh em là cành”(Ga 15, 5). Đức Đạt Lai Lạt Ma nói :“Tôi tin rằng mục đích của mọi truyền thống tôn giáo lớn không phải là xây dựng những đền thờ lớn bên ngoài, nhưng là tạo nên những đền thờ của lòng tốt và lòng thương xót ở bên trong, trong trái tim của chúng ta…”

Page 112: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Người Việt đã tổng hợp được những gì là tốt đẹp trong tinh thần tam giáo đồng nguyên. Ấy là sống thuận theo mệnh trời của Nho giáo, sống “vô vi” của Đạo giáo và tinh thần từ bi, hỷ xả của Phật giáo. Thầy Phương Bảo nhận ra tinh thần phương Đông thật tuyệt, nó uyển chuyển, dung dị và bao dung. Và nếu kết hợp với cách nhận thức khoa học và tinh thần dân chủ của phương Tây thì sẽ tạo nên một nhân cách sống đẹp, tạo cho con người một bản lĩnh có thể đối mặt với mọi vấn đề và vượt qua những thử thách.

Quả thưc, những bậc thầy về tư tưởng có thể soi dẫn cho chúng ta đôi điều về con đường mình sẽ đi. Nghĩ như vậy, Thầy Phương Bảo thấy lòng mình thanh thản. Thanh thản bởi thầy nhận ra mình đã chọn đúng đường.

Nhưng Thầy không ngờ con đường theo Chúa còn gian nan hơn thầy tưởng nhiều. Từ lúc bước vào đời tu sinh đến khi được nhận chức thánh, chặng đường Thánh giá Thầy đi qua mất 22 năm, mãi đến 44 tuổi mới trở thành Linh Mục. Lúc nào cũng trăn trở. Đường tu thăm thẳm, không biết Chúa có chọn không, bao giờ mới được làm Linh mục. Những lo lắng thao thức ấy làm hao mòn sức lực của thầy. Có khi đuối sức quá, Thầy níu lấy Chúa, thầy không thể bỏ Chúa được : "Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời.(Ga 6:68)

Thầy thích thánh Augustinô ngài rất chân thực. Hành trình đức tin của ngài giúp thầy soi sáng nhiều vấn đề tư tưởng. Thánh Augustino đau đáu trên con đường đi tìm chân lý. “Ôi! Lạy Chúa, niềm hy vọng của tuổi trẻ, đối với con, Chúa đã đi đâu vậy?....”Hãy nói cho con biết, nhờ lòng từ bi Chúa, lạy Thiên Chúa của con, Ngài là ai đối với con. Hãy nói với linh hồn con :‘Ta là ơn cứu độ của con’. Xin Ngài hãy nói, con nghe đây.”… “Bây giờ đã ở tuổi ba mươi, con vẫn dẫm chân trong bùn lầy, ham hố hưởng thụ, một hiện tại luôn trốn chạy…”.”Ham muốn xác thịt vẫn khống chế con, một sự ràng buộc rất chặt, đồng thời cả ách nô lệ của sự đời Chúa sẽ cứu con như thế nào đây, lạy Chúa, con sẽ kể lại mà tán tụng vinh quang Danh Ngài, ôi lạy Chúa, sự trợ giúp và đấng cứu chuộc con”…” Lạy Chúa, xin cho con biết Chúa; xin cho con biết con”…

Ngày ấy đi tu, không phải được vào ăn ở trong Đại Chủng Viện và được hưởng chế độ học tập như các chủng sinh hôm nay. Không ít người phải “tu chui”, sống đời tu như người bình thường. Phải lao động kiếm sống và âm thầm học tập, giữ gìn ơn gọi. Không ít người đã phải bỏ cuộc trong mỏi mòn. Và ngay cả khi đã được vào Đại Chủng Viện, các thầy vẫn phải đi làm đồng, làm rẫy, ăn uống kham khổ như mọi người. Có lần trên tờ báo tường, anh em đề xuất nhà bếp Đại Chủng Viện tăng thêm chất tươi cho các thầy. Suốt tuần chỉ có cá khô, chuối khô, kham khổ quá. Nhưng làm sao tăng chất tươi được vì lúc ấy nhân dân đang ăn bắp, ăn bo bo.

Những năm tháng dài ấy trôi đi trong âm thầm. Thầy Phương Bảo không nghĩ ngợi nữa. Đã dâng mình cho Chúa thì không còn tính toán năm tháng. Năm năm, mười năm hoặc ngay cả nếu Chúa không chọn thầy làm Linh mục, thì “không gì có thể tách được con ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô (Rm 8, 35 – 38). Ngài mượn lời Phaolo để thì thầm với Chúa.

Page 113: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Điều quan trọng là mình đã đủ nhân đức để Chúa trao trách nhiệm chăn dắt đoàn chiên của Chúa hay chưa. Thầy Phương Bảo ngẫm nghĩ lời này của Chúa :” Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em, và cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái,..”(Ga 15, 16). Vâng, Thầy đã chọn con, và Thầy sẽ cắt cử con đi, con vững tin như thế…

Và Chúa đã chọn thầy Phương Bảo làm Mục tử chăn dắt đoàn chiên của Chúa. Sau những năm, tháng làm Linh mục phó, Cha Phương Bảo được Đức Cha điều về giáo xứ Russeykeo làm Linh mục chánh xứ thay cha Gioakim đến tuổi về hưu.

Nếu đời tu sinh chỉ trăn trở trong giữ gìn ơn gọi và học tập nhân đức thì đời Mục tử khó khăn và vất vả hơn nhiều, chẳng khác nào phải lèo lái một con thuyền giữa biển khơi đầy giông bão. Bao nhiêu việc chất lên đôi vai gầy. Điều lo lắng nhất là chăm lo đời sống đức tin, đời sống văn hóa cho giáo dân. Làm thế nào để chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa thế tục và lối sống hưởng thụ vật chất đừng xô ngã những tâm hồn yếu đuối, nhất là giới trẻ. Giáo xứ đang ngổn ngang việc xây dựng nhà thờ và chuẩn bị cho kỷ niệm 150 năm thành lập giáo xứ. Nhưng tài chính eo hẹp, giáo dân lại rất nghèo, lấy đâu ra tiền, ra vật liệu để hoàn thành công trình như ý nguyện của cha Gioakim và giáo dân?

Cha Phương Bảo tìm gặp các Linh Mục đi trước để học tập kinh nghiệm. Trong giáo phận, nhiều linh mục trẻ, ngay khi được điều về một giáo xứ chưa có nhà thờ, chỉ năm năm đã có thể xây được nhà thờ. Lòng đạo của giáo dân trong giáo phận rất nhiệt thành, nhưng làm thế nào để hướng lòng đạo ấy vào việc xây dựng nhà Chúa.

Có Linh mục kể với cha Phương Bảo kinh nghiệm này. Ngay từ khi có ý định làm nhà thờ, cả giáo xứ dâng công trình cho Đức Mẹ và thánh Giuse. Hàng ngày cầu xin thánh Giuse, hàng tuần, mỗi tối thứ Tư, toàn thể giáo dân cùng cha sở tập trung đọc kinh cầu thánh giuse. Cha sở đích thân ra La Vang cầu xin Đức Mẹ La Vang và xin đá Đức Mẹ về đặt dưới chân cột nhà thờ.Vị Linh mục ấy tiết lộ với cha Phương Bảo điều này, có khi giáo xứ hết sạch tiền, tối thứ Tư làm giờ cầu thánh Giuse, thì sáng thứ Năm có người mang tiền tới, không ngờ được, chỉ biết tạ ơn Đức Mẹ và thánh Giuse. Sau vài năm, Chúa đã ban cho giáo xứ một nhà thờ khang trang.

Một Linh mục ở miền tây, coi một giáo xứ rất nghèo. Ngài được điều về giáo xứ này để giúp giáo xứ làm nhà thờ. Trước đó, phải mất gần 10 năm ngài mới xây xong một nhà thờ cho giáo xứ cũ của ngài. Vừa khánh thành xong, Đức Giám Mục giáo phận lại sai ngài đi. Ngài bảo, giáo dân nghèo lắm. Xóc giỏ ngày lễ Chúa Nhật chỉ được hơn một trăm ngàn đồng. Là vùng sâu vùng xa, dân chỉ trông nhờ vào hạt lúa, con cá, và đa số là đi làm thuê, lấy đâu ra tiền để làm nhà thờ. Lúa má thì không ra gì, làm thuê cũng không có việc, đành sống no đói cho qua ngày. Vì thế, có vị hảo tâm nào, dù là giúp ít nhiều, cũng rất quý. Có những đoàn hành hương về ngang qua đó, thấy giáo dân đứng chờ, mời vào tham quan nhà thờ bằng tre lá, không cần phải “vận động”, ai cũng mủi long nhận ra mình thiếu sót với Chúa và an hem quá. Họ sẵn sàng chia sẻ những đồng tiền còn lại sau chuyến đi góp vào việc bác ái. Đích thân cha sở phải đi nhiều nơi xa để xin các ân nhân, mấy năm trời vẫn chưa đủ để xây móng, vì đất miền tây là đất bồi phù sa, phải đóng những móng cọc xi măng bốn năm chục

Page 114: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

mét. Cha Phương Bảo hỏi, khó khăn như thế Người làm sao? Vị Linh mục miền tây nói, chỉ có kiên trì cầu nguyện và ra khơi thả lưới như lời Chúa dạy.

Khi cầu nguyện, cha Phương Bảo đọc đoạn Tin Mừng này, Luca tường thuật :” Đức Giê-su rảo qua các thành phố, làng mạc, rao giảng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa. Cùng đi với Người, có Nhóm Mười Hai và mấy người phụ nữ đã được Người trừ quỷ và chữa bệnh. Đó là bà Maria gọi là Maria Mácđala, người đã được giải thoát khỏi bảy quỷ, bà Gioanna, vợ ông Khuda quản lý của vua Hêrôđê, bà Susa-na và nhiều bà khác nữa. Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ.”(Lc 8, 1-3). Có điều gì đó lóe sáng trong tâm hồn Cha ở câu Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giê-su và các môn đệ. Quan sát kỹ hơn, cha Phương Bảo thấy Chúa đi với các Tông đồ, có các bà đi theo.

Thế là mỗi khi đi xin tiền làm nhà thờ, Cha cùng đi với đại diện Ban hành giáo và ông bà Thiên Phước. Sự hiện diện của Cha đủ bảo đảm lòng tin đối với các ân nhân và những người có lòng hảo tâm xây dựng nhà Chúa. Đại diện Ban hành giáo và ông bà Thiên Phước là những người có uy tín trong dân, nên được dân nể vì, nhờ thế công việc có nhiều thuận lợi. Nhưng không phải nơi nào Cha cũng nhận được sự giúp đỡ ưu ái, mà nhiều khi là sự thờ ơ vô tình, người Mục tử phải uống chén đắng. Cha Phương Bảo lại nhớ, ngày xưa Chúa cũng từng nhiều lần bị xua đuổi, vậy nếu Cha có phải uống mật đắng lòng người, thì cũng là được chia sẻ chén đắng với Chúa thôi. Nghĩ vậy, Cha lại có sức lên đường.

***Cha Phương Bảo trở mình, người vẫn sốt hâm hấp, mồ hôi trán rịn ra lấm tấm. Lâu lâu lại thấy khuôn mặt Cha nhăn nhúm, chắc ngài đang phải chịu đựng cơn đau. Đời Linh mục là đời cô đơn. Những lúc đau ốm thế này Cha càng thấm thía nỗi cô đơn hơn bao giờ hết. Cha chỉ còn biết bám lấy Chúa và âm thầm chịu đựng. Những ai tinh ý mới có thể nhận ra những đau đớn quằn quại Cha đang phải chịu.

Rồi ngài lại thiếp đi, giấc ngủ cứ chập chờn bất an.

Cánh cửa phòng chờ bật mở. Vị bác sĩ khám bịnh cho Cha đem theo một tờ kết quả xét nghiệm. Ông ngồi vào bàn, mời Cha ngồi đối diện. Ông nhìn Cha vừa như cảm thông chia sẻ, vừa như lượng định xem Cha có thể tiếp nhận những thông tin ông sẽ báo cho ngài.

Sau khi đã nói vài câu để làm nhẹ thần kinh người bịnh, ông thông báo:-Theo những kết quả xét nghiệm này, chúng tôi chẩn đóan Linh mục có những triệu chứng của ung thư máu. Căn bịnh này tiềm ẩn rất lâu, triệu chứng của nó trùng với nhiều loại bịnh khác nên khó xác định. Tuy vậy Linh mục cũng đừng quá lo lắng, bởi cũng có người sau một thời gian điều trị thì qua khỏi.

Cha Phương Bảo nghe bác sĩ nói như nghe một bản án tử hình, bủn rủn tay chân, xuất mồ hôi hạn ở trán, nhưng rồi ngài cố bình tĩnh để trao đổi với bác sĩ:-Bác sĩ có thể nói cụ thể về căn bịnh này không?

Page 115: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

-Ung thứ máu là trạng thái bạch cầu trong máu tăng lên, nó tiêu hủy hồng cầu làm cho bịnh nhân thiếu máu, vì thế, người thường mệt mỏi, nhợt nhạt. Vì thiếu máu nên phổi thiếu oxy, làm ngộp thở. Không đủ máu lên não nên gây nhức đầu. Bệnh chỉ trở nên nguy hiểm khi nó di căn. Gan và lách bị tổn thương sẽ làm tồn thương dạ dày…

Cha Phương Bảo kiểm tra lại những triệu chứng mừng gặp phải mấy năm qua, quả như lời bác sĩ nói. Ngài bất giác kêu lên: Chúa ơi, xin cứu con!

Tiếng kêu ú ớ của cha làm cho ông trùm chánh đang làm việc ở phòng bên cạnh liền chạy sang:-Thưa cha có chuyện gì mà người kêu Chúa thất thanh vậy?Cha Phương Bảo gượng ngồi đậy, người lau mồ hôi trán rồi nói:-Không có chuyện gì ông chánh ạ, tôi mơ, vậy thôi. Có lẽ tại lúc ngủ tôi đặt tay lên ngực, thần kinh bị ức chế nên vậy, ông yên tâm.

Thoáng nhìn thấy nét lo âu trên khuôn mặt, và vẻ nhợt nhạt trong thần thái của Cha, ông chánh đến bên cha Phương Bảo, tay đặt lên trán ngài:

-Cha sốt quá. Chắc cha bịnh rồi, để con đưa Cha đi bịnh viện nha. Sức khỏe là trên hết Cha ạ, với lại Cha còn bao nhiêu việc phải làm. Con đưa Cha đi khám bịnh một lần để xem có gì còn chạy chữa. Lúc này con thấy Cha kém ăn, và nhợt nhạt nữa. Cha đừng cố sức, con đường còn dài cha ạ.

Sau mấy phú tự trấn tĩnh, cha Phương Bảo nhìn ông trùm chánh trìu mến:-Cám ơn ông, tôi không sao đâu. Hôm nào thư thả tôi đi một mình cũng được. Phiền ông và quý chức Ban hành giáo. Quý ông còn bao nhiêu việc của giáo xứ, hàng ngày còn điều động công nhân làm việc. Ông cứ yên tâm, có Chúa, tôi không sao đâu.

An ủi ông chánh vậy, nhưng trong lòng cha Phương Bào có gì nao núng, phải chăng giấc mơ là một điềm báo. Giuse đã từng được thiên thần báo mộng đưa Chúa Giêsu trốn sang Ai cập là gì.

Những ngày sau đó, cha Phương Bảo suy nghĩ rất nhiều, nếu Chúa định cho mình phải chứng bịnh hiểm nghèo như trong mơ thì sao? Cha luôn chìm trong tĩnh lặng và cầu nguyện với Chúa. Lạy Chúa, nếu được, xin cất khỏi con chén này, nhưng xin theo ý Chúa. Chúa biết đấy, con còn nhiều việc phải làm cho giáo xứ, Chúa giúp con với. Thân lạy Chúa, nếu Chúa đã định như thế, thì xin cho con được gánh lấy để đền tội thay cho cộng đoàn, như Đavit đã kêu xin: “xin hãy sửa phạt con, nhưng xin đừng làm hại Dân Chúa”.

Và rồi khi thấy những triệu chứng sức khỏe như trong giấc mơ, cha Phương Bảo đi khám bịnh. Ngài đi một mình, nếu có gì, cũng không làm người thân hoảng loạn.

Thời gian sau đó, giáo dân thấy cha Phương Bảo gầy hẳn đi, nhưng ngài vẫn làm việc, vẫn tươi cười. Ngài chỉ nói với ông chánh, lúc nào tôi mệt, ông chánh cố gắng giúp tôi. Mọi người chỉ biết cha bị thiếu máu và hình như đau dạ dày.

Page 116: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Trong các buổi tĩnh tâm Linh mục, nhiều Linh mục gặp gỡ và thăm hỏi. Vác vị cũng ái ngại khi nhìn thấy cha Phương Bảo hình như đang xuống sức. Có lẽ tại ngài làm việc nhiều quá chăng. Cha Phương Bảo cười rất tươi và nói:

-Mình gầy vậy nhưng không sao đâu. Sợ các Cha mập quá 80 ký mới lo. Người ta bảo vòng bụng to ra thì vòng đời ngắn lại, các cha liệu mà ăn kiêng là vừa. Còn mình, mình đã có cách.

Các cha tĩnh tâm ồn ào hỏi:-Cha có cách gì, chỉ với? cách giảm cân ấy, ở đây nhiều cha quá khổ rồi.-Cách ấy thì mình không biết, bởi mình chỉ có hơn 50 ký thôi, so với chiều cao thì hơi gầy, nhưng cách xin Chúa cho mình còn được ở với quý cha thì biết.

-Cha nói vậy là sao?

Cha Phương Bảo vui vẻ kể:

-Lần mình đi dự đêm nhạc kỷ niệm 50 năm sáng tác thánh ca của Linh mục nhạc sư Kim Long, người đã viết hơn ba ngàn bản thánh ca mà ở đây chắc chắn ai cũng biết. Cha Kim Long chia sẻ, ngài bị đau nặng, chỉ chờ chết. Ngài cầu với Chúa cho ngài sống, để ngài viết xong đáp ca cho cả ba năm A, B, C, rồi Chúa hãy gọi Ngài về. Mọi người nghe vậy thì ngậm ngùi và thương cha Kim Long quá. Cha kể tiếp, xin Chúa vậy, rồi ngài miệt mài viết nhạc, và khi xong đáp ca cả ba năm, ngài thưa với Chúa, con xong rồi, xin cho con được về bên Chúa. Chúa cừơi bảo, con còn nhiều việc phải làm cho Chúa, cứ ở trần gian vui vẻ.

Có tiếng ai đó :-Ôi Chúa thương cha Kim Long quá. Việc Chúa làm thật là kỳ diệu.

Cha Phương Bảo tiếp:-Bắt chước cha Kim Long, mình phải bày ra nhiều việc, để công việc cứ dở dang, và Chúa phải cho mình sống để hoàn tất.

Các cha tĩnh tâm vỗ tay:-Một sáng kiến đáng ghi vào Guiness.

Một cha khác nói :-Cha Phương Bảo đúng là một “đóa hoa vô thường”Mọi người cười ồ lên. Có người nói:-Dường như có mùi Thiền! Chắc cha Phương Bảo Thiền đắc đạo thành “đóa hoa vô thường” rồi.

Lại có người hỏi:-Nhưng ‘đóa hoa vô thường” là gì ?-Đây, đây nghe mình giải thích nhá: “Từ đó ta nằm đau, từ đó ta nằm đêm. Nở đóa hoa vô thường”, vô thường bởi vì Cha cứ đau bệnh, cứ nhà thương và nhà xứ, cứ làm

Page 117: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

việc và thương mến những người dân chân chất Nam bộ của Việt kiều Campuchia, thức trong những giấc ngủ chập chờn, vui buồn với những giọt nước mắt khi đầy khi vơi, và nụ cười lúc tươi lúc héo.”

-Ôi, văn chương hay quá, nhưng mà như có muối xát trong lòng vậy, các cha ạ.

Cha Phương Bảo cười:

-Xin cám ơn các Cha. Mình chỉ là “đóa hoa ngày thường “ thôi. Được là đóa hoa cũng là quý lắm rồi. Sinh, lão, bịnh, tử là lẽ thường ở đời, không nên bận tâm. Vấn đề là sống sao cho đời mình có ý nghĩa, và chết cũng có ý nghĩa. Vài chục năm hay trăm năm trên cõi tạm này nào có nghĩa gì. Rồi cũng có ngày Chúa gõ cửa phòng các cha, xem lúc ấy các cha có mở cửa cho Chúa vào không?

Mọi người cười vui vẻ. Nhưng giờ tĩnh tâm hôm ấy, Cha Phương Bảo đã đặt vào tâm trí các cha một đóa hoa của lòng tin yêu và phó thác. Với Chúa, mọi sự đều có thể. Và mọi việc Chúa làm đều đem ân phúc đến cho ta.

***

Chiều nay cha Phương Bảo lại sốt và bỏ bữa. Ông trùm chánh thực sự lo ngại. Cha vẫn nằm thiêm thiếp, chốc chốc lại ôm bụng co rúm người lại, mặt nhăn nhó. Ông vội gọi cho ông bà Thiên Phước. Họ đến ngay, có cả Thiên Thanh.

Thiên Thanh chạy ngay vào bên gường cha Phương Bảo. Thấy cha nằm thiêm thiếp trên giường, thở rất khó nhọc. Cô ngồi sụp xuông bên cạnh:-Cha, Cha ơi, Cha sao vậy? Sao cha đến nông nỗi này!Rồi cô nhìn cha không cầm được nước mắt xót thương. Trông cha gầy và nhợt nhạt quá.Cha Phương Bảo chợt tỉnh, ngài bảo ông trùm chánh đỡ ngài ngồi dậy, vì lúc ấy ông bà Thiên Phước đã đứng bên giường. Cha mời tất cả ngồi xuống ghế nói chuyện.-Ông trùm và ông bà đây đừng lo, tôi không sao đâu, có Chúa gìn giữ. Với lại công việc còn nhiều, Chúa không nỡ gọi đi đâu. Tôi chỉ mệt một xíu thôiÔng Hoàng Văn hỏi:-Bây gờ cha thấy trong người thế nào?-À, không sao, chỉ hơi mệt và khó thở một chút. -Sao trông cha sút ký vậy.-Bà Thiên thước lo lắng.Ông trùm chánh nói chen vào:-Lúc sau này cha thường bỏ bữa, ngài nói cái bụng nó không cho ăn, có lẽ vì thế mà bị mất sức.Bà Thiên Phước thực sự quan tâm:-Để con đưa Cha đi khám bịnh và mua thêm thuốc bổ cho cha. Cha thu xếp ngày giờ đi, có có xe chở cha điThiên Thanh nói chen vào:

Page 118: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

-Con và mẹ com sẽ ở lại bệnh viện trông cha, nếu người ta không cho cha về.Cha Phương bảo nhìn mọi người:-Cha ở lại bệnh viện làm sao được, việc làm nhà thờ còn ngổn ngang. Cha cám ơn ông bà và Thiên Thanh. Cha không sao đâu. Cha có sẵn thuốc ở đầu giường đó.

Thiên Thanh nhìn thấy những gói thuốc trên đầu giường của cha, có thuốc giảm đau, thuốc đau dạ dày, và thuốc bổ máu. Chắc là cha đau bao tử, ít ăn nên thiếu máu làm suy nhược. Tại Cha làm việc quá sức mà.

Bây giờ thì cô thực sự xúc động. Trước đây cô đã nghĩ sai về các Linh mục. Cha Phương Bảo là Linh mục bằng xương bằng thịt đang hiện diện trước mặt cô đây. Cô biết Cha từ khi học cấp hai. Ngài sống giản dị, chân thực và thân thiện như một Mục tử nhân lành. Ngài làm việc hết sức mình cho giáo xứ. Ngài quan tâm nhiều đến giới trẻ và Chính ngài đã giúp Thiên Thanh vượt qua những lầm lạc. Nhìn khuôn mặt tươi cười của cha Phương Bảo, Thiên Thanh thấy xót xa, dường như Cha che dấu điều gì, vì thấp thoáng trên khuôn mặt ấy, Thiên Thanh thấy nhiều lo âu, phải chăng ngài đang lo việc mặt bằng xây trung tâm, mất bao nhiêu công sức, giờ phải bắt đầu lại. bất giác cô kêu thầm trong lòng: lạy Chúa xin cứu chữa cho cha con!

***

19Nhận được cuộc hẹn của Cha Phương Bảo, Đức Giám Mục đồng ý tiếp đón ngay. Đức Cha thu xếp để cuộc gặp gỡ phái đoàn Giáo xứ Russeykeo được thân tình, ấm cúng tình cha con. Ngài hiểu nội dung của cuộc tiếp xúc này vì Ngài hiểu Cha Phương Bảo. Chính Đức Cha đã điều Cha Phương Bảo về Russeykeo để săn sóc đoàn dân tỵ nạn sau cuộc chạy loạn “cáp duồn” ở Campuchia. Cha cố Gioakim đã già yếu và xin hưu.

Đức cha biết Cha Phương Bảo là một người nhiệt thành, giàu đức hy sinh, tận tụy phục vụ đoàn chiên không mỏi mệt. Đức Cha điều ngài về đây là để tiếp nối công việc của Cha cố Gioakim, xây dựng lại cơ sở nhà thờ, nhà xứ, nhà dân; và xây dựng công trình tạ ơn Chúa và Đức Mẹ của Cha cố. Công trình ấy nay được Tòa Giám Mục chấp thuận để biến thành trung tâm hành hương cho cả Giáo phận. Trách nhiệm nặng nề đang đặt trên vai cha Phương Bảo cùng giáo dân Russeykeo. Đức Cha thấy cần phải nâng đỡ tinh thần họ.

Quyết định của chính quyền về việc không chấp thuận khu đất làm trung tâm chắc chắn làm cho Cha Phương Bảo thất vọng. Ngài sẽ đau buồn vì không hoàn thành trách nhiệm Giáo phận giao. Đức Cha sẽ chia sẻ với ngài về trách nhiệm này.

Page 119: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Trước khi tiếp Cha Phương Bảo, Đức Cha đã gặp ban tư vấn của Ngài để giúp Ngài tìm kiếm những phương án khác. Các Linh mục trong Ban tư vấn đã nỗ lực tìm kiếm và thẩm định một số nơi được đề xuất chọn làm trung tâm hành hương. Đức Cha đề ra tiêu chuẩn này: phải là vùng đất còn trinh nguyên, không có dấu vết chiến tranh, không có dấu tích con người xâm hại đến nhân phẩm, đến sự sống và quyền con người của đồng loại. Nơi đặt trung tâm cũng phải thuận lợi cho mọi người đến hành hương và làm việc bác ái.

Trước đó, có người đến giới thiệu cho Giáo phận một khu đất rộng 45 mẫu. Tuy miếng đất đạt yêu cầu về cảnh quan, có thiên nhiên, núi đồi thơ mộng, nhưng việc đi lại rất khó khăn…

Cuộc tìm kiếm vẫn được âm thầm tiếp tục trong cầu nguyện…

Quả thực là khó khăn để tìm một khu đất rộng không bị chiến tranh tàn phá và không bị con người làm cho ô uế. Khu đất ấy lại không vướng vào các công trình quốc gia, đồng thời lại thuận tiện đi lại.

Ở đây, dân cư tăng lên nhanh chóng do tỷ lệ sinh đẻ và di dân. Người đông thì đất co lại. Các công trình quốc gia được xây dựng khắp mới, từ đường cao tốc đến các khu công nghiệp, khu du lịch sinh thái, chưa kể các khu khai thác tài nguyên đất đá để làm đường. Nhiều nơi cách nay hai chục năm còn là rừng, bây giờ đã thành khu dân cư chật chội… Tìm ở đâu được một khu đất có thể xây dựng trung tâm kính Đức Mẹ? câu hỏi đau đáu mọi thành phần dân Chúa trong giáo phận, thúc giục mọi người cùng cầu nguyện và tìm kiếm.

Những nỗ lực vẫn âm thầm…

Sau nhiều năm tháng, qua trao đổi người này người khác, Cha Minh và Cha Liêm đã tìm được một khu đất có cảnh sắc thiên nhiên thơ mộng, rộng chừng 40 mẫu. Có đồi đất nhô cao bên cạnh hồ nước mênh mông - hồ Trị An, gợi nhớ biển hồ Tonlé Sap từ dòng sông Cửu Long đổ vào, nơi đồng bào Việt Kiều đã từng sinh sống và chịu nạn “cáp duồn”, nạn diệt chủng để chạy về đây. Khu vực này chưa có một ngôi nhà nào. Đất còn trinh nguyên và thuận tiện đi lại.

Tìm được miếng đất này, Tòa Giám Mục đọc thấy như là ý Chúa muốn cho Giáo phận xây dựng trung tâm Đức Mẹ tại đây. Trong niềm vui ấy Đức Cha đã đón tiếp Cha Phương Bảo, Ban hành giáo Giáo xứ Russeykeo và gia đình ông bà Hoàng Văn.

Đúng hẹn, Cha Phương Bảo, Ban hành giáo, ông bà Hoàng Văn và Thiên Thanh đến Tòa Giám Mục. Tất cả đem theo tâm trạng buồn và lo lắng. Vì nghĩ rằng chắc sẽ làm Đức Cha thất vọng. Một thầy phụ trách phòng khách mời mọi người vào ngồi nghỉ ngơi một lát chờ Đức Cha xuống. Phòng khách của Đức Cha khá rộng và mát làm hạ nhiệt những người khách từ xa mới về, đường xá nắng gió.

Lần đầu tiên đến Tòa Giám mục, Thiên Thanh vô cùng thích thú. Cô quan sát khắp nơi. Thảm cỏ xanh mát rượi trước mặt. Đây đó các tượng điêu khắc được đặt rải rác trên lối đi ngoài sân, như ở công viên các nước phương Tây mà cô coi trên TV, trên báo chí. Phia bên kia là nhà nguyện Đại Chủng Viện với táp chuông vươn lên trời,

Page 120: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

vừa có nét truyền thống vừa có nét hiện đại. Tất cả cảnh quan và màu sắc rất hài hòa. Cô thầm nghĩ, Đức Cha giỏi thật, Ngài tìm được người biết nghệ thuật thiết kế. Tòa Giám Mục không chỉ là nơi làm việc mà còn là công trình văn hóa làm đẹp xứ sở này. Trong phòng tiếp khách của Đức Cha trên tường có phù điêu bằng gỗ chân dung Chúa, được làm rất công phu của nghệ thuật tranh gỗ. Tất cả đều mới mẽ đối với Thiên Thanh, cuốn hút sự chú tâm của cô.

Bước vào phòng khách, Đức Cha thấy Cha Phương Bảo và gia đình ông bà Hoàng Văn đã chờ sẵn, nét mặt người nào cũng đầy vẻ u buồn. Thiên Thanh đang quan sát phòng khách vội đứng khép nép bên cạnh bà Thiên Phước. Cô thầm ghi nhận hình ảnh của Đức Cha. Tiếc quá cô không mang theo máy ảnh để xin phép Đức Cha chụp chân dung của Ngài. Đức Cha mặc sơ mi trắng giản dị. Tượng Thánh Giá lớn đeo trước ngực. Khuôn mặt sáng và nhân hậu, vầng trán cao rộng, dáng thanh thoát nhưng ẩn chứa sự mạnh mẽ bên trong. Thái độ gần gũi thân thiện. Trước đó, cô những tưởng gặp Đức Cha khó lắm, và chắc Ngài rất nghiêm, cô hơi sợ và ái ngại.

Mọi người mừng rỡ chào Đức Cha. Người bắt tay thăm hỏi từng người, ân cần, thân thiết. Sắc diện của Đức Cha rạng rỡ và thánh thiện hẳn ngài đang vui. Nụ cười của ngài hiền hòa làm yên tâm mọi người. Người đón tiếp mọi người như người thân, thật tự nhiên và gần gũi, khiến cho ông bà Hoàng Văn và Thiên Thanh không cảm thấy “khớp” trước đấng bề trên. Còn cha Phương Bảo, gặp lại Đức Cha như được trở về bên người cha thân yêu sau nhiều ngày xa cách. Từ khi Cha nhận bài sai của Đức Cha đến nhận trách nhiệm cha sở giáo xứ Russeykeo. Cha Phương Bảo nhìn Đức Cha trìu mến và biết ơn.

Đức Cha không ngờ Cha Phương Bảo có vẻ tiều tụy quá như vậy; mặc dù vẫn nụ cười tươi trẻ, nhưng càng cười thì cha Phương Bảo càng lộ rõ những nét nhăn trên trán và trên khuôn mặt nhợt nhạt. Đức Cha cầm tay Cha Phương Bảo, ngài lo lắng:

- Ủa, sao Cha tiều tụy quá vậy?

Cha Phương Bảo có vẻ lúng túng:

- Thưa Đức Cha, có lẽ tại chứng đau dạ dày nó hành con, không cho con ăn, nên mới mất sức một chút.

Đức Cha nhìn Cha Phương Bảo đầy thương yêu, ngài an ủi:

- Cha phải giữ sức khỏe. Đau dạ dày mà Cha để tâm lo lắng thì bịnh sẽ phát nặng hơn đấy. Lúc nào cha rãnh rỗi, cha về đây Đức Cha cho người chở đi khám bịnh. Cha ở hơi xa, Đức Cha không trông nom cho cha được.

Cha Phương Bảo đỡ lời:

- Thưa Đức Cha, Con xin cám ơn Đức Cha đã thương con. Đức Cha yên tâm, con không sao đâu. Con không dám làm phiền Đức Cha.

Cha Phương Bảo tiếp lời:

-Chúng con về thăm Đức Cha. Thấy Đức Cha khỏe, chúng con rất mừng. Cầu xin Chúa cho Đức Cha tràn đầy ơn của Người, sức khỏe, ơn khôn ngoan, ơn lo liệu và ơn

Page 121: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

sức mạnh để Đức Cha hoàn thành những công trình lớn lao phục vụ Chúa và phục vụ Giáo hội, cũng để mưu ích cho mọi người.

Đức Cha nhìn mọi người trìu mến.

Cha Phương Bảo ngập ngừng:

-Thưa Đức Cha, chúng con cũng xin thưa, việc Giáo phận giao cho chúng con chuẩn bị mặt bằng xây dựng trung tâm hành hương tôn kính Đức mẹ, chúng con đã không thể hoàn thành. Chúng con rất buồn và biết lỗi vì làm Đức Cha thất vọng, nhưng không biết phải làm sao, chúng con về đây để xin Đức Cha chỉ dạy…

Nói rồi, cha Phương Bảo cúi đầu, khuôn mặt trầm ngâm lo lắng. Ông Bà Hoàng Văn và Thiên Thanh cũng đứng bất động. Việc trọng đại Giáo phận giao như thế, lại không làm được, giờ biết ăn nói thế nào với Đức Cha.

Đức Cha gật đầu rồi đưa mắt nhìn mọi người cách thân mật:

- Cha và ông bà không nhớ câu người đời nói à: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên” sao? Hay nói cách khác: ý của Thiên Chúa thì cao như trời, còn ý của con người như cỏ mặt đất vậy.

Rồi Đức Cha nói tiếp:

- Đức Cha và Giáo phận rất biết ơn Cha, cũng như Ban hành giáo giáo xứ Russeykeo và ông bà đây đã dành thời gian, công sức, tiền của để lo liệu cho trung tâm, nhưng Chúa chưa muốn. Nhà Nước đã trả lời miếng đất thuộc vòng đai quốc phòng, không thể xây dựng trung tâm. Chúng ta cũng phải có trách nhiệm trong việc bảo vệ tổ quốc. Hơn nữa, như Cha đã nói: gần phần đất đó gần trại giam của Huyện; mà Giáo phận muốn xây dựng trung tâm ở một mảnh đất thật an lành, để mọi người dành hết tâm trí tôn kính Đức Mẹ và làm việc bác ái. Không xây dựng được trung tâm ở Giáo xứ của Cha thì Đức Cha và các Đấng phải tìm kiếm nơi khác, khó khăn không kém gì như Gia-cóp vật lộn với Thiên sứ để tìm ý Chúa, nên Cha, ông bà và cháu cũng đừng buồn.

Nghe Đức Cha nói vậy, Cha Phương Bảo thấy nhẹ lòng. Mọi sự đều nằm trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Đức Cha đã thấu hiểu và chia sẻ như vậy đủ thấy sự quan tâm của Giáo phận bao quát đến thế nào. Điều quan trọng là mọi thành phần trong Giáo phận cùng chung sức làm việc Chúa, cầu xin cùng Đức Mẹ thì chắc chắn Chúa sẽ soi dẫn và Đức Mẹ sẽ nhận lời.

Cha Phương Bảo thưa:

- Thưa Đức Cha, được vậy thì chúng con hết sức vui mừng. Chỉ tiếc là những cố gắng của chúng con đã chẳng giúp được việc gì với Đức Cha trong công việc chung của Giáo phận.

Đức Cha an ủi:

Page 122: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Cha và Giáo xứ của Cha đã làm được nhiều việc lớn lao cho Giáo phận. Tất cả còn ở trước mặt và không gì nằm ngoài ý định của Thiên Chúa. Cha sở và mọi người cứ yên tâm.

- Chúng con cám ơn Đức Cha.

Bỗng Thiên Thanh đứng dậy chạy lại quỳ xuống trước Đức Cha, nước mắt rung rung:

- Thưa Đức Cha, tại tội con bất kính đối với Đức Mẹ, mà Chúa không nhận lời của cha sở con cùng với giáo xứ của con. Xin Đức Cha tha tội.

Cử chỉ đường đột của Thiên Thanh làm Đức Cha, Cha Phương Bảo và mọi người có mặt đều bỡ ngỡ. Đức Cha đã được nghe câu chuyện của Thiên Thanh. Ngài rất vui, nhưng mãi hôm nay mới gặp được người bạn trẻ này. Đức Cha thấy cần phải nâng đỡ những tâm hồn yếu đuối, dễ vỡ như Thiên Thanh. Ngài nâng Thiên Thanh đứng lên và nói:

- Con ngồi xuống đi, Đức Cha được cha Phương Bảo nói cho biết chuyện của con rồi. Con được ơn Đức Mẹ là ân phúc rất thiêng liêng. Đức Cha hỏi con: Con biết mình có lỗi, con đã nhận lỗi và quyết tâm sửa chữa chưa? Và con đã làm gì để sửa chữa?

Thiên Thanh đã tỉnh lại, nàng nhẹ nhàng thưa với Đức Cha:

- Con đã sửa chữa rồi…

Cha Phương Bảo thêm vào:

- Con xác nhận là cháu Thiên Thanh đã làm tốt lắm!

Đức Cha gật đầu mỉm cười nói:

- Như vậy là được rồi, còn việc xây dựng trung tâm là việc của Giáo phận, của Đức Cha, của Cha sở con. Đâu có phải vì lỗi của con mà Chúa không cho. Con nghĩ xem: nếu Chúa chấp tội con như con nghĩ, thì thử hỏi có ai được rỗi đâu? Nên con phải bỏ ý nghĩ đó đi; Chúa nhân hậu và khoan dung vô cùng con ạ. Con phải cố gắng sống thật tốt và gia tăng cầu nguyện như lời Chúa dạy, kiên nhẫn như câu chuyện bà góa và ông quan án đó.

Quay sang Cha Phương Bảo, Đức Cha nói:

- Dù chưa xây dựng gì, Đức Cha nhờ Cha, Cha phó, Ban hành giáo và Giáo xứ tiếp tục coi sóc khu đất đó cho Giáo phận, vì Giáo phận vẫn còn nhiều chương trình, nhiều dự án.

Đức Cha hướng về cha Phương Bảo:

- Cha lo lắng và suy nghĩ nhiều quá cho việc xây dựng trung tâm nên Cha xuống sức. Đức Cha chia sẻ điều này, Cha đừng quá bận tâm, cứ tin tưởng phó thác vào Chúa. Việc người ta không làm được, nhưng nếu Chúa muốn thì mọi sự đều có thể. Bây giờ thì Cha phải nghỉ ngơi và đi chữa bệnh.

Page 123: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Cha Phương Bảo hết sức cảm động, vì không ngờ Đức Cha quan tâm đến sức khỏe của Cha như vậy. Nhưng Cha không thể để Đức Cha bận tâm về mình, bởi Đức Cha đã lớn tuổi, ngài còn phải gánh vác bao nhiêu việc của Giáo phận. Chỉ riêng việc Mục vụ, Đức Cha đã không đủ thời gian. Giáo phận có hơn 260 giáo xứ. Giáo xứ nào cũng tổ chức cho các cháu thiếu nhi chịu Thêm Sức vào ngày Chúa Nhật. Một năm có 52 tuần, trừ các tuần lễ thánh còn lại khoảng 45 Chúa Nhật, vậy phải mất ba năm Đức Cha mới đi giáp vòng các giáo xứ. Nhưng công việc không thể kéo dài như thế. Đức Cha còn bao nhiêu việc khác nữa. Việc xây cất cơ sở cho Đại chủng Viện, xây dựng nơi làm việc của Tòa Giám Mục, xây dựng khu hưu dưỡng cho quý cha đã về hưu, xây trường nghề cho người trẻ, giờ lại lo xây dựng trung tâm kính Đức Mẹ, có vô vàn khó khăn…Đức Cha đã lớn tuổi nhưng sức làm việc thật phi thường, Quả là ơn Chúa ban đặc biệt cho Giáo phận, khó có người sánh được.

Cha Phương Bảo thưa:

-Con cám ơn Đức Cha đã lo cho con. Thưa Đức Cha, con không sao, chỉ hơi mệt một chút, nghỉ ngơi là khỏe. Được làm việc trong tình yêu thương và sự quan tâm của Đức Cha là con hạnh phúc lắm rồi. Mọi việc con phó thác cho Chúa và Đức Mẹ, xin Đức Cha cầu nguyện cho con thôi.

Đức Cha cười bằng lòng:

-Có gì cha phải báo tin cho Đức Cha ngay nhé. Ông trùm chánh và ông bà Hoàng Văn đây trông chừng cha sở giúp Đức Cha, cả Thiên Thanh nữa, con giúp cha sở trong các sinh hoạt của giới trẻ, để cha sở nhẹ nhàng công việc được một chút.

_Chúng con cám ơn Đức Cha!

-Thôi được rồi, mọi người uống nước đi nào.

Trong câu chuyện tâm tình, Đức Cha cũng báo tin vui cho Cha Phương Bảo và gia đình ông bà Hoàng Văn. Ngài nói, chắc chắn ước vọng của Cha cố Gioakim và Giáo xứ Russeykeo sẽ thành hiện thực.

Đức Cha chia sẻ.

Sau khi Nhà Nước trả lời được phép xây dựng trung tâm hành hương tại Russeykeo vì đất thuộc vành đai quốc phòng, Đức Cha đã họp ban tư vấn để tìm nơi khác. Và đã tìm được một nơi, có lẽ là ý Chúa muốn Giáo phận xây dựng trung tâm hành hương Đức Mẹ ở đó. Đó là một khu đất có cảnh thiên nhiên rất đẹp, bên cạnh hồ Trị An, giúp khách hành hương có thể vừa cầu nguyện, vừa thư giãn khi đến kính viếng Đức Mẹ. Khu đất đó khoảng chừng 40 mẫu, đủ rộng để xây dựng nhiều cơ sở sinh hoạt và Mục vụ. Ngoài việc xây nhà nguyện và các phòng sinh hoạt dành cho các đoàn thể đến tĩnh tâm, Đức Cha định làm một nghĩa trang đồng nhi, xây dựng một nhà cho trẻ bị bỏ rơi, một nhà cho các cô gái cơ nhỡ, một nhà cho người già neo đơn và nạn nhân bị xâm hại quyền con người…

Mọi người reo lên:

-Tạ ơn Chúa, được như vậy thì mừng quá, thưa Đức Cha!

Page 124: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

Đức Cha thêm:

- Ý của Đức Cha và Giáo phận là muốn tôn vinh Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và Đức Mẹ Mân Côi mới tìm thấy ở sông Mêkông. Khi xây dựng xong trung tâm hành hương, Cha sẽ đặt tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội ở nhà thờ chính; còn tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp sẽ được đặt ở khu đất thánh hài nhi.

Mọi người chú tâm lắng nghe trong sự kinh ngạc và niềm hân hoan. Đức Cha giải thích:

- Nhà thờ chính đặt tượng Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội, là để cầu xin ơn tha tội, vì xã hội ngày nay đang gây ra nhiều tội ác xâm hại quyền con người, nạn diệt chủng, buôn bán nô lệ, phụ nữ, trẻ em… nhất là nạn phá thai; còn ở nghĩa trang đồng nhi đặt tượng Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, là để cầu xin ơn cứu giúp khỏi mọi thảm cảnh, xin Đức Mẹ bảo vệ sự sống bảo vệ nhân phẩm và quyền làm người. Tiếng kêu mà anh Thạch Hải nghe được là tiếng của chúa Giêsu trên tay tượng Đức Mẹ. Đó là tiếng kêu cứu, con người hãy ngừng giết hại thai nhi, hãy ngưng sự chà đạp tàn bạo lên đồng loại.

Đức Cha khóat tay như thể vẽ ra bản đồ khu vực núi Cát Minh:

-Phần đất của trung tâm này nằm trên mặt bằng cao của núi Cúi nhìn xuống hồ Trị An mà các đấng gọi là núi Cát Minh, vì là nơi Đức Mẹ được hiển vinh chung quanh các Thánh tử đạo, là các vị đã chết để bảo vệ quyền con người, bảo vệ đức tin.

Rồi Đức Cha mở bản đồ khu đất được vẽ, chỉ cho mọi người xem khu đất đã được đồng ý, chỉ chờ giấy phép là thi công.

Mọi người chăm chú nhìn theo sự chỉ dẫn của Đức Cha. Đây là quốc lộ 20. Đây là hồ Trị An. Núi Cúi xây dựng trung tâm ở đây. Cảnh quan rất đẹp. Mọi người cố hình dung xem cụ thể cảnh vật, địa thế như thế nào, nhưng họ cũng chỉ mơ hồ, vì họ chưa quen nhìn bản vẽ. Những đường xanh là tổng diện tích khu đất dự kiến, những đường chì đỏ là khu xây dựng trung tâm. Phần bên ngoài là nơi xây dựng các cơ sở mục vụ. Đức Cha lại cho coi một bức ảnh chụp từ vệ tinh. Quả thực khu đất là nơi có thể xây dựng một trung tâm rất đẹp. Nhìn không ảnh từ vệ tinh, mọi người thấy quen thuộc hơn. Rồi đây một trung tâm kính Đức Mẹ sẽ hình thành với tầm vóc một trung tâm hành hương quốc gia. Mọi người thầm cầu xin Đức Mẹ cho mọi việc được tốt đẹp.

Sau cùng, Đức Cha vui vẻ nói:

- Cha sở, Ban hành giáo và ông bà thấy khu đất mới này có đáp ứng được ước vọng của Cha sở và Giáo xứ không? Và ước vọng của Cha cố Gioakim nữa?

Cha Phương Bảo nở một nụ cười thật tươi, ngài nói:

- Cảm tạ ơn Chúa. Chúng con chúc mừng Đức Cha. Được như vậy con hết sức vui mừng. Chúa có gọi con về, con cũng được tham dự hạnh phúc của tổ phụ Môsê, chết ở trên núi, nhìn về đất hứa.

Đức Cha nhìn Cha Phương Bảo trìu mến, ngài nói:

Page 125: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Cám ơn Cha, Cha đã làm hết sức của Cha. Chúa và Đức Mẹ sẽ trọng thưởng cho Cha.

Quay sang ông bà Hoàng Văn, Đức Cha hỏi:

- Còn ông bà có ủng hộ Giáo phận trong công trình mới này không?

- Dạ, ông Hoàng Văn trả lời, -chương trình của Đức Cha đã mở ra bao nhiêu triển vọng cho Giáo phận. Con tin rằng cả Giáo phận cũng sẽ đồng lòng với Đức Cha để xây dựng trung tâm này. Phần con, gia đình con trước đây đã tích cực cộng tác với Giáo phận thế nào, thì hôm nay con và gia đình con cũng sẽ cộng tác như vậy. Được Đức Cha cho phép góp phần nhỏ bé của mình vào công trình của Giáo phận, ấy là ân phúc của chúng con.

Ông bà Hoàng Văn vừa nói xong, Thiên Thanh hớn hở đứng lên vỗ tay nói lớn:

- Hoan hô Đức Cha! Hoan hô ba má!…Đức Cha có cho con tham gia với công việc của Đức Cha không?

Đức Cha hân hoan :

-Tất nhiên là không thể thiếu phần của con rồi, rồi đây con sẽ tham gia sinh hoạt giới trẻ của Giáo Phận, con bằng lòng không?

Thiên Thanh bẽn lẽn:

-Thưa Đức Cha, việc ấy quá sức của con, con không dám nhận đâu ạ.

Đức Cha động viên:

-Đức Cha biết con dư khả năng sinh hoạt giới trẻ. Những trải nghiệm cùa con rất cần cho các bạn trẻ khác trong hành trình đức tin, vậy nha, khi nào Đức Cha gọi là con phải sẵn sàng ngay.

Rồi nhìn thẳng vào mắt Thiên Thanh, Đức Cha hỏi:

- Thế còn Thạch Hải của con đâu rồi?

Thiên Thanh bất ngờ với câu hỏi của Đức Cha, cô e lệ quay sang nắm lấy tay bà Thiên Phước vừa lay vừa nói:

- Mẹ!…Mẹ!…

Bà Thiên Phước gỡ tay con gái ra rồi trả lời thay con:

- Dạ thưa Đức Cha, chúng con đã đưa gia đình ông Ba Hưởng sang làng cá bờ hồ Trị An rồi ạ; còn cháu Thạch Hải, chúng con đang giúp cháu đi học chuyên ngành.

Đức Cha nói:

- Nghề của Thạch Hải là đánh cá cơ mà?

Bà Thiên Phước mỉm cười thưa lại:

- Thưa Đức Cha, về bên mình cũng cần đổi tay một chút.

Page 126: Tieng Keuthanhnhacvietnam.info/HongBinh/Truyen/TiengKeu_BCThuan.doc · Web viewTrước sự ngỡ ngàng của nhiều người, ông Ba chỉ kể lại vắn tắt giấc mơ và

- Nghĩa là sao? - Đức Cha hỏi lại.

- Dạ có nghĩa là trước kia nghề tay phải của Thạch Hải là đánh cá, sang Việt Nam đổi nghề tay phải là lái xe và tay trái là đánh cá.

Mọi người cười ồ, Đức Cha nói tiếp:

- Cũng như trước kia chưa biết Thiên Thanh, hôm nay nhờ Đức Mẹ mà Thạch Hải mến Thiên Thanh và cũng nhờ Đức Mẹ mà gia đình ông Ba Hưởng đã nhận biết Chúa.

Ngưng một lúc, Đức Cha tiếp:

- Thế còn chuyện “khác” nữa thì sao?

Hiểu ý Đức Cha, bà Thiên Phước trả lời thay Thiên Thanh

- Thưa Đức Cha, chúng con chưa dám thưa chuyện với Đức Cha, mọi việc sẽ chờ cho đến khi trung tâm Giáo phận hoàn thành. Cách riêng, chúng con cậy trông vào tình thương yêu của Đức Cha và xin Đức Cha cầu nguyện nhiều cho chúng con.

Đức Cha nhìn mọi người, vui vẻ nói:

- Đức Cha hiểu rồi. Nhưng mọi người cũng phải cầu nguyện nhiều cho Giáo phận, cho công trình dâng kính Đức Mẹ.

Đức Cha nói trong tâm tình cha con :

-Còn nhiều việc phải làm lắm, và khó khăn chắc chắn là không ít. Chúng ta chỉ biết phó thác cho Chúa, nài nỉ Đức Mẹ, và chắc chắn các Ngài sẽ không từ chối lời cầu xin của chúng ta.

Khi bắt tay chào mọi người, Đức Cha nói:

-Xin mọi người cũng cầu nguyện nhiều cho Đức Cha nữa. Vì con người Đức Cha mỏng giòn, mà trách nhiệm với Giáo phận thật nặng nề, Đức Cha rất cần lời cầu nguyện và sự dấn thân hy sinh của toàn thể dân Chúa. Đức Cha hy vọng chúng ta sẽ hoàn thành nơi tôn kính Đức Mẹ đúng dịp Giáo phận kỷ niệm 50 năm thành lập Giáo phận, như một món quà thiêng liêng dâng kính tạ ơn Mẹ….

_________________________