Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
Các chuyên gia cho rằng, mặc dù lãi suất
huy động giảm nhưng chưa chắc dòng tiền
sẽ rút khỏi hệ thống ngân hàng. Hiện nay,
trong bối cảnh mọi dự đoán về sự phục hồi
đều chưa rõ ràng, giữ tiền sẽ là lựa chọn
hàng đầu của nhiều người dân. Vì thị trường
thời điểm này, đang trong giai đoạn quan
sát, theo nguyên tắc chưa xuống được tiền
thì giữ tiền vẫn là ưu tiên số một. Có chăng
dòng tiền chỉ dịch chuyển từ kỳ hạn ngắn
sang kỳ hạn dài để hưởng lãi suất cao hơn.
Điều này có thể giúp dòng vốn trong hệ
thống ổn định hơn.
Tin nổi bật
Doanh nghiệp ngóng ngân hàng thiết lập mặt
bằng lãi vay mới
Dòng tiền tiết kiệm có 'chuyển kênh' đầu tư khi
LS xuống thấp?
Chủ tịch Quốc hội: 'TW chưa bật đèn xanh để
điều chỉnh tăng trưởng kinh tế'
Nâng mức giảm trừ gia cảnh lên 11 triệu đồng
IMF dự báo nền kinh tế thế giới chỉ phục hồi
một phần trong năm 2021
Thứ Ba, ngày 19/05/2020
BẢNG CHỈ SỐ
Chứng khoán (ngày 18/5)
VN - Index 837,01 1,21%
HNX - Index 108,54 0,45%
D.JONES CK Mỹ 24.597,37 3,85%
STOXX CK C.Âu 2.911,88 5,10%
CSI 300 CK TQ 3.922,91 0,26%
Vàng (SJC cập nhật 08h30 ngày 19/5)
SJC Ng.đ/L 49.000 0,04%
Quốc tế USD/Oz 1.734,02 0,60%
Tỷ giá
USD/VND BQ LNH 23.259 0,03%
EUR/USD 1,0916 0,92%
Dầu
WTI USD/th 33,12 8,06% BP.NGHIÊN CỨU & PHÁT TRIỂN – PHÒNG KẾ HOẠCH
[a] 266-268 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, Phường 8, Quận 3, TP.HCM
[t] (028) 38 469 516 (1813/1819) – [e] [email protected]
2
Doanh nghiệp ngóng ngân hàng
thiết lập mặt bằng lãi vay mới
Khi LS tiền gửi quá thấp, người dân sẽ không gửi tiền vào NH, thanh
khoản của hệ thống sẽ rơi vào tình trạng báo động. Theo số liệu của
NHNN, huy động vốn đầu vào của các NH trung bình đang ở mức 6-
6,5%/năm. NH chỉ là trung gian đứng giữa trung hòa lợi ích của cả người
gửi lẫn người vay. Với giá vốn cao như vậy, việc đưa LS cho vay về mức
dưới 6,5-7%/năm là rất khó. Thiết lập mặt bằng lãi vay thấp là đòi hỏi
chính đáng của DN. Bản thân NH cũng mong muốn có mặt bằng LS thấp,
ổn định. LS rẻ thì NH có điều kiện thúc đẩy tín dụng, tăng doanh thu.
Thực tế, NH đã thực hiện hầu hết các giải pháp có thể tiến hành để hỗ
trợ DN như giãn, hoãn nợ, giảm lãi vay, giảm phí…. Tuy nhiên, thiết lập
mặt bằng lãi vay mới như kỳ vọng của DN không phải muốn là được. Hơn
nữa, bên cạnh hỗ trợ DN, hỗ trợ nền KT, NHNN không thể “lơ là” theo dõi
sức khỏe, khả năng chịu đựng của các NH. Nếu hy sinh LN, cho vay “vô
tội vạ”, thì NX sẽ tăng lên, bản thân NH sẽ không còn đủ sức hỗ trợ nền
KT, thậm chí đẩy nền KT vào bất ổn. Vì vậy, mong muốn nguồn vốn rẻ
từ NH là đúng nhưng DN phải nhìn thẳng vào thực tế để tìm giải pháp
cho chính mình. Mấu chốt với DN hiện nay là tìm phương án phục hồi
khả thi. Nếu có dự án hiệu quả, thì chắc chắn việc tiếp cận vốn NH sẽ
không quá khó, lãi vay sẽ không đắt như trước. Tuy nhiên, không có
nghĩa là dư địa giảm lãi vay đã hết. Nếu NH tiếp tục tiết giảm chi phí, lạm
phát thấp được duy trì, nền tảng vĩ mô ổn định… thì LS có thể giảm thêm.
NHNN có thể tiếp sức cho NHTM giảm lãi vay bằng cách “bơm” thanh
khoản, cho vay tái cấp vốn, tái chiết khấu với LS thấp hoặc hạ mức
DTBB. Thiết lập mặt bằng lãi vay mới đòi hỏi “thiên thời, địa lợi” cả trong
và ngoài nước. Quả bóng LS không hoàn toàn nằm trong chân NH.
Lãi suất liên ngân hàng giảm
mạnh tất cả các kỳ hạn
BC của Trung tâm Nghiên cứu KT MSB cho biết, tuần 11-15/5, LS VND
LNH giảm mạnh liên tục qua các phiên ở tất cả các kỳ hạn. Đây là tuần
đầu tiên thị trường đón quyết định giảm các LS điều hành của NHNN.
Chốt phiên 15/5, LS VND LNH kỳ hạn qua đêm giao dịch quanh
1,21%/năm, 0,66 điểm %; kỳ hạn 1 tuần là 1,35%, 0,71 điểm %; kỳ
hạn 2 tuần là 1,55%, 0,69 điểm % và kỳ hạn 1th là 2,08%, 0,42 điểm
%. LS USD LNH cũng giảm ở tất cả các kỳ hạn. Cụ thể, LS USD LNH kỳ
Tài chính – Ngân hàng
3
hạn qua đêm ở mức 0,21%/năm, 0,03 điểm %; kỳ hạn 1 tuần là 0,33%,
0,03 điểm %; kỳ hạn 2 tuần là 0,46%, 0,08 điểm % và kỳ hạn 1th là
0,83%, 0,14 điểm %. Trên thị trường mở, NHNN tiếp tục chào thầu
1.000 tỷ đồng/phiên trên kênh cầm cố đều với kỳ hạn 7 ngày, LS chào
thầu 2 phiên đầu tuần giữ ở mức 3,5%, 3 phiên cuối tuần được điều chỉnh
xuống mức 3,0%. Có 3 tỷ đồng trúng thầu trên kênh này, trong tuần
không có đáo hạn. Như vậy, chốt tuần, có 3 tỷ đồng lưu hành trên kênh
cầm cố. Trong khi đó, NHNN không chào thầu tín phiếu NHNN. Trong
tuần, có 24.998 tỷ đồng tín phiếu đáo hạn. Khối lượng tín phiếu lưu hành
trên thị trường giảm xuống 60.991 tỷ đồng. Như vậy, NHNN bơm ròng
25.001 tỷ đồng ra thị trường thông qua kênh nghiệp vụ thị trường mở.
Dòng tiền tiết kiệm có 'chuyển
kênh' đầu tư khi LS xuống thấp?
Việc NHNN liên tiếp điều chỉnh LS điều hành cũng làm nhiều người lo
ngại dòng tiền chạy khỏi kênh tiết kiệm NH và chuyển hướng sang kênh
hấp dẫn hơn khi LS huy động xuống thấp. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia
cho rằng, dù các kênh đầu tư khác có dấu hiệu phục hồi nhưng diễn biến
vẫn ổn định sau dịch. Theo chuyên gia Đinh Thế Hiển, trước đây LS tiền
gửi của các NH đối với kỳ hạn 3th và kỳ hạn 1 năm gần như bằng nhau
nhằm thu hút người gửi tiền. Tuy nhiên, chính sách này làm méo mó
đường cong LS. LS ngắn hạn không thể bằng LS 1 năm. Vì vậy, chính
sách điều hành mới đây phù hợp với đường cong LS, tức kỳ hạn ngắn thì
LS phải thấp. Đồng thời, giúp NH cải thiện cơ cấu vốn, chuyển từ nguồn
vốn ngắn hạn sang trung hạn. Khả năng xuất hiện xu hướng rút tiền gửi
chuyển sang các kênh đầu tư khác để hưởng lợi tức cao hơn sẽ là điều
khó xảy ra. Trong bối cảnh mọi dự đoán về sự phục hồi đều chưa rõ ràng,
vì vậy giữ tiền vẫn sẽ là lựa chọn hàng đầu của nhiều người. Bởi theo
nguyên tắc thị trường đang thời điểm này vẫn trong giai đoạn quan sát,
chưa xuống được tiền thì giữ tiền vẫn là ưu tiên số 1. Ngoài ra, trong cân
đối vĩ mô, 3-4 năm qua, lạm phát của VN tương đối ổn định, dao động
xung quanh mức 4%. Với mức lạm phát này, LS BQ khoảng 4-5%/năm
vẫn đảm bảo nguyên tắc LS thực dương. Trên cơ sở này, TGĐ OCB cũng
đã đưa ra nhận định, dòng tiền tiết kiệm sẽ có chuyển động nhưng sẽ là
dịch chuyển từ tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn ngắn qua kỳ hạn dài hơn hoặc
điều chỉnh từ NH này sang NH khác, bởi các NH hiện cạnh tranh huy
động rất gay gắt. Tuy nhiên, nếu nhìn về tổng thể toàn ngành NH sẽ
không thấy khả năng tiền rút ra khỏi hệ thống. Thực tế, để giữ khách
hàng nhiều NH đã tính toán đưa ra phương án cạnh tranh LS qua hình
4
thức tiền gửi online. Hiện tại, 1 số NH áp dụng LS huy động tiết kiệm
online cao hơn sv tại quầy từ 0,1-1,25% tùy từng kỳ hạn. Vì vậy, thông
qua việc chuyển đổi hình thức tiết kiệm có thể giúp người gửi tiền tăng tỷ
suất LN hơn là rút tiền chuyển sang kênh đầu tư khác.
Mục tiêu đến năm 2025, có 55%
dân số mua sắm trực tuyến, trung
bình 600 USD/người/năm
Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng vừa ký QĐ số 645/QĐ-TTg phê duyệt
Kế hoạch tổng thể phát triển thương mại điện tử (TMĐT) quốc gia 2021-
2025. Theo đó, Kế hoạch đặt ra các mục tiêu cụ thể cần đạt được vào
2025. Về quy mô thị trường, đến 2025 phấn đấu 55% dân số tham gia
mua sắm trực tuyến, với giá trị mua hàng hóa và DV trực tuyến đạt 600
USD/người/năm; doanh số TMĐT của mô hình TMĐT DN - người tiêu
dùng (B2C) (tính cả hàng hóa và DV tiêu dùng trực tuyến) 25%/năm, đạt
35 tỷ USD, chiếm 10% sv tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu DV
tiêu dùng cả nước. Về hạ tầng các DV phụ trợ TMĐT, thanh toán không
dùng tiền mặt trong TMĐT đạt 50%, trong đó thanh toán thực hiện qua
các tổ chức cung ứng DV trung gian thanh toán chiếm 80%; chi phí trung
bình cho chuyển phát và hoàn tất đơn hàng chặng cuối chiếm 10% giá
thành sản phẩm trong TMĐT; 70% giao dịch mua hàng trên website/ứng
dụng TMĐT có hóa đơn điện tử; XD và đưa vào vận hành CSDL dùng
chung về TMĐT. Về tương quan phát triển TMĐT giữa các vùng KT, các
địa phương ngoài Hà Nội và Tp.HCM chiếm 50% giá trị giao dịch TMĐT
B2C của toàn quốc; 50% số xã và các đơn vị hành chính tương đương
trên cả nước có thương nhân thực hiện hoạt động bán hàng hóa hoặc
cung ứng DV trực tuyến. Về ứng dụng TMĐT trong DN, 80% website
TMĐT có tích hợp chức năng đặt hàng trực tuyến; 50% DNVVN tiến hành
hoạt động KD trên các sàn giao dịch TMĐT, bao gồm mạng XH có chức
năng sàn giao dịch TMĐT; 40% DN tham gia hoạt động TMĐT trên các
ứng dụng di động; 70% các đơn vị cung cấp DV điện, nước, viễn thông
và truyền thông triển khai hợp đồng điện tử với người tiêu dùng.
5
Chủ tịch Quốc hội: 'TW chưa bật
đèn xanh để điều chỉnh tăng
trưởng kinh tế'
BC Chính phủ về tình hình triển khai Kế hoạch phát triển KTXH 2020 do
Bộ trưởng Bộ KH&ĐT trình bày tại phiên họp 45 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội, đưa ra 2 kịch bản tăng trưởng KT 2020… Chủ tịch Quốc hội
đề nghị các Ủy viên Ủy ban Thường vụ Quốc hội có ý kiến v/v Chính phủ
xin điều chỉnh chỉ tiêu KTXH do chỉ tiêu trong nghị quyết của Quốc hội là
cụ thể hóa từ nghị quyết của TW. Vì vậy, muốn điều chỉnh thì phải xin ý
kiến cấp có thẩm quyền. “Nghị quyết TW vừa rồi nói phấn đấu, nỗ lực để
đạt mức cao nhất chứ chưa bật đèn xanh cho chúng ta điều chỉnh. Nếu
muốn điều chỉnh phải làm quy trình, xin cấp có thẩm quyền, phải xin TW.
Mặt khác, thời gian có mấy ngày họp Quốc hội, mà chưa BC, chưa thẩm
định, qua mấy tháng cũng chưa có cơ sở”. Kịch bản tăng trưởng mà
Chính phủ đưa ra khá lạc quan dựa trên KQ phòng, chống dịch khá tốt
trong thời gian vừa qua. Tuy nhiên, các đối tác KT, thương mại lớn của
VN thì vẫn còn lao đao.“Thế chúng ta mua bán với ai? XK, NK với ai? Du
lịch thì vẫn chưa cho người vào... Bây giờ nỗ lực cao nhất để hạn chế
việc sụt giảm. Lạc quan có mức độ nhưng nỗ lực phấn đấu là phải tột
độ”, đặc biệt trong bối cảnh hiện nay, cái gì từ nguy thành cơ được thì
phải tận dụng. “Không có chuyện Quốc hội không chịu điều chỉnh chỉ
tiêu. Quốc hội sẵn sàng nhưng phải có cấp thẩm quyền bật đèn xanh
chứ và phải có thời gian để thẩm định, đánh giá. Chúng ta mới bước qua
tháng 5 nửa tháng, đánh giá chưa kỹ. Việc bây giờ phải cố gắng hết sức”.
“Việt Nam đẩy mạnh đầu tư công,
sẵn sàng đón nhận làn sóng đầu
tư trực tiếp nước ngoài”
Trong BC mới công bố, CTCK VNDIRECT cho rằng, đầu tư công sẽ là
động lực tăng trưởng chủ đạo của 2020 trong bối cảnh các động lực tăng
trưởng KT quan trọng khác như tiêu dùng và SX công nghiệp đang trên
đà suy giảm. Vốn đầu tư thực hiện từ nguồn NSNN 4th đạt 83.700 tỷ
đồng, 12,9% sv cùng kỳ 2019 và hoàn thành 17,8% kế hoạch cả năm
nay. Đặc biệt, giải ngân đầu tư công tháng 4 vẫn 0,8% sv cùng kỳ 2019
trong bối cảnh giãn cách XH và Chính phủ tập trung nguồn lực để hỗ trợ
các hoạt động y tế nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch Covid-19. Sau
khi gỡ bỏ các biện pháp giãn cách XH, Chính phủ sẽ đẩy nhanh hơn nữa
đầu tư công để hỗ trợ tăng trưởng KT. Trong bối cảnh TQ đang dần đánh
mất hình ảnh và sự ưu tiên trong chuỗi cung ứng toàn cầu, VN đang nổi
Kinh tế Việt Nam
6
lên là 1 trong những lựa chọn thay thế lý tưởng nhờ lợi thế lớn về mặt địa
lý khi VN nằm gần chuỗi SX đặt tại miền nam TQ. Ngoài ra, 4th đối phó
với đại dịch, VN đã chứng minh cho thế giới thấy được năng lực đối phó
với khủng hoảng và sự kiện bất ngờ 1 cách tuyệt vời khi vừa ngăn chặn
đà lây lan của đại dịch và đảm bảo sức khỏe của người dân, vừa duy trì
được chuỗi SX hoạt động liên tục. Điều đó, càng thu hút và thúc đẩy tập
đoàn KT lớn trên thế giới có ý định đặt nhà máy tại VN khi dịch qua đi.
Nâng mức giảm trừ gia cảnh lên
11 triệu đồng/tháng
Tại họp báo chiều 18/5, ông Nguyễn Trường Giang - PCN Uỷ ban Pháp
luật, Phó Tổng Thư ký Quốc hội cho biết, tại phiên họp 45, Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) đã xem xét và quyết định tăng mức giảm
trừ gia cảnh. Theo uỷ quyền của Quốc hội, UBTVQH không có quyền
quyết định đối tượng nào chịu thuế, mà chỉ quyết định điều chỉnh mức
tăng giảm trừ gia cảnh nếu CPI biến động >20% trên cơ sở đề xuất của
Chính phủ. Từ 2013 đến nay, CPI 23,2%. Do đó, đề xuất tăng mức
giảm trừ gia cảnh lên 11 triệu đồng là phù hợp với biến động tăng của
CPI. Mức giảm trừ gia cảnh mới sẽ áp dụng cho kỳ tính thuế 2020, do
theo quy định hiện hành kỳ tính thuế tiền công/lương của DN được tính
theo năm, từ 1/1. Vì vậy, DN sẽ tạm ứng trước thuế TNCN và khi quyết
toán thuế thì sẽ được truy hoàn. Theo tờ trình Chính phủ gửi UBTVQH,
mức giảm trừ gia cảnh nâng từ 9 triệu lên 11 triệu đồng/tháng cho người
nộp thuế, người phụ thuộc từ 3,6 triệu lên 4,4 triệu đồng/tháng. Chính
phủ cho biết sẽ có khoảng 1 triệu người không phải nộp thuế TNCN.
7
IMF dự báo nền kinh tế thế giới
chỉ phục hồi một phần trong 2021
Ngày 18/5, TGĐ IMF cho rằng, nền KT toàn cầu sẽ cần nhiều thời gian
hơn để phục hồi hoàn toàn sau cú sốc dịch Covid-19, trong khi nguy cơ
về sự trỗi dậy của chủ nghĩa bảo hộ rình rập. Nhiều khả năng IMF sẽ
giảm dự báo mức suy thoái 3% trong 2020 và nền KT thế giới sẽ chỉ phục
hồi 1 phần trong 2021, thay vì dự báo GDP 5,8% như dự báo ban đầu.
Các số liệu từ khắp thế giới đang xấu hơn dự báo. "Điều đó đồng nghĩa
là sẽ cần nhiều thời gian hơn để phục hồi hoàn toàn khỏi cuộc khủng
hoảng hiện nay". Tháng 4, IMF đã dự báo việc DN phải đóng cửa và các
nước áp đặt lệnh phong tỏa nhằm ngăn chặn đà lây lan của virus SARS-
CoV-2 có thể đẩy thế giới rơi vào suy thoái tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy
thoái thập niên 30 của thế kỷ trước. Đầu tháng 5, bà Georgieva cho biết
các số liệu được ghi nhận sau đó đem đến "tin tức còn tồi tệ hơn".
NHTW Trung Quốc cam kết ngăn
chặn các rủi ro tài chính và hỗ trợ
nền kinh tế
Thống đốc PBoC cho biết, NH này sẽ gia tăng những nỗ lực nhằm khai
thác đầy đủ các chính sách tài chính để ổn định thị trường việc làm và
thúc đẩy nền KT. Kể từ khi đại dịch Covid-19 bùng phát, TQ đã tăng
cường sự hỗ trợ về CSTT và tài khóa nhằm giúp DN, đặc biệt là DNVVN,
vượt qua những khó khăn. Cùng với việc hạ tỷ lệ DTBB có mục tiêu cho
các NH đủ điều kiện, PBoC gia hạn khoản vay nhằm mang lại sự hỗ trợ
về tín dụng với LS ưu đãi cho DN và phát hành các trái phiếu đặc biệt để
NHTM có đủ nguồn lực tài chính. Trong Q.I, tỷ lệ cho vay mới của 5 NH
lớn của TQ cho DN nhỏ và siêu nhỏ đạt trung bình 4,4%, 0,3 điểm %
sv cùng kỳ 2019. TQ đang nhanh chóng khôi phục lại các hoạt động KT
nhưng sự lây lan của đại dịch trên toàn cầu đã gây ra những thách thức
mới cho sự phục hồi này. Số liệu chính thức cho thấy các hoạt động KT
của TQ đã tiếp tục được nối lại, khi sản lượng công nghiệp, doanh số bán
lẻ và đầu tư có sự cải thiện, dù đà phục hồi đối mặt với các yếu tố không
chắc chắn và thách thức do diễn biến của dịch bệnh trên toàn cầu.
Nhật Bản rơi vào suy thoái
Số liệu sơ bộ công bố ngày 18/5 cho thấy, GDP Q.I của Nhật 3,4%. Cả
tiêu dùng cá nhân, chi tiêu vốn và XK đều giảm. GDP đã đi xuống 2 quý
liên tiếp, khiến Nhật rơi vào suy thoái về mặt kỹ thuật lần đầu tiên sau
gần 5 năm. Covid-19 đang gây ra thiệt hại nặng nề với DN và người tiêu
Kinh tế Quốc tế
8
dùng Nhật. Tiêu dùng cá nhân, vốn đóng góp hơn ½ nền KT quy mô
5.000 tỷ USD của Nhật, 0,7% trong Q.I. Đây là quý thứ 2 liên tiếp số
liệu này đi xuống, do người tiêu dùng chịu tác động kép từ Covid-19 và
đợt nâng thuế tiêu dùng từ 8% lên 10% trong 2019. XK Q.I 6%. Riêng
tháng 3, XK giảm mạnh nhất 4 năm, chủ yếu do sản phẩm xuất sang Mỹ
lao dốc. Chi tiêu vốn 0,5%, là quý thứ 2 liên tiếp số liệu này đi xuống.
Tất cả yếu tố trên đang gây sức ép lên thị trường lao động. Tỷ lệ thất
nghiệp đã lên cao nhất 1 năm trong tháng 3. Số việc làm sẵn có cũng
xuống đáy 3 năm. Tình hình dự báo còn tệ hơn trong Q.II, sau khi Thủ
tướng Abe hồi tháng 4 tuyên bố tình trạng khẩn cấp quốc gia vì đại dịch
lan tràn. Việc này khiến người dân phải ở nhà và DN dừng hoạt động.
Ấn Độ sẽ suy thoái nhất thế giới
với sự sụt giảm 45% trong Q.II
Các nhà KT của Goldman cho rằng, GDP Ấn Độ sẽ 45% trong Q.II sv
3th trước. Con số này cao hơn nhiều sv 20% mà Goldman đưa ra trong
dự báo trước. Năm tài khóa 2021, GDP Ấn Độ sẽ 5%, sâu hơn bất cứ
cuộc suy thoái nào mà nền KT này phải đối mặt. Năm tài khóa mới của
Ấn Độ bắt đầu từ tháng 4/2020 và kết thúc vào tháng 4/2021. Q.II/2020
cũng là Q.I trong năm tài khóa mới của Ấn Độ. Hiện tại, Ấn Độ đang
phong tỏa cả đất nước và tình trạng này sẽ kéo dài đến 31/5. Ấn Độ đang
tiến hành nới lỏng các hạn chế trong một số lĩnh vực để thúc đẩy KT
trong bối cảnh số người mắc Covid-19 đang leo thang mạnh mẽ. Bộ
trưởng Tài chính Ấn Độ đã phác thảo chi tiết gói cứu trợ virus trị giá 265
tỷ USD, #10% GDP của Ấn Độ để hạn chế những tác động của đại dịch.
Tuy nhiên, Goldman cho rằng, các biện pháp của Ấn Độ chủ yếu mang
tính chất trung hạn hơn là ngắn hạn. Chính vì thế, khó để mong đợi các
gói cứu trợ sẽ có tác động ngay lập tức tới phục hồi tăng trưởng.
9
Tài liệu tham khảo:
Bảng chỉ số https://www.hsx.vn/
https://hnx.vn/vi-vn/hnx.html
https://www.bloomberg.com/markets/stocks
https://goldprice.org/vi
http://www.sjc.com.vn/
https://www.sbv.gov.vn/TyGia/faces/TyGia.jspx?_afrWindowMode=0&_afrLoop=2045785475492
8577&_adf.ctrl-state=1a9g0kizgf_4
Tin Tài chính - NH https://cafef.vn/lai-suat-lien-ngan-hang-giam-manh-tat-ca-cac-ky-han-20200518100543166.chn
https://tinnhanhchungkhoan.vn/ngan-hang/doanh-nghiep-ngong-ngan-hang-thiet-lap-mat-bang-
lai-vay-moi-327238.html
https://www.thesaigontimes.vn/303587/dong-tien-tiet-kiem-co-chuyen-kenh-dau-tu-khi-lai-suat-
xuong-thap.html
https://cafef.vn/muc-tieu-2025-co-55-dan-so-mua-sam-truc-tuyen-trung-binh-600-usd-nguoi-nam-
20200519062821853.chn
Tin KT vĩ mô https://vietstock.vn/2020/05/chu-tich-quoc-hoi-tu-chua-bat-den-xanh-de-dieu-chinh-tang-truong-
kinh-te-761-759172.htm
https://cafef.vn/vndirect-viet-nam-day-manh-dau-tu-cong-san-sang-don-nhan-lan-song-dau-tu-
truc-tiep-nuoc-ngoai-20200518150840712.chn
https://cafef.vn/nang-muc-giam-tru-gia-canh-len-11-trieu-dong-thang-20200518165918525.chn
Tin KT Quốc tế https://vietstock.vn/2020/05/imf-du-bao-nen-kinh-te-the-gioi-chi-phuc-hoi-mot-phan-trong-nam-
2021-775-760004.htm
https://vietnambiz.vn/trung-quoc-pboc-cam-ket-ngan-chan-cac-rui-ro-tai-chinh-va-ho-tro-nen-kinh-
te-20200518214336462.htm
https://vietstock.vn/2020/05/nhat-ban-roi-vao-suy-thoai-775-759562.htm
https://cafef.vn/goldman-an-do-se-suy-thoai-nhat-the-gioi-voi-su-sut-giam-45-trong-quy-2-
20200518155700884.chn
10
Danh mục viết tắt
B K
Ban lãnh đạo BLĐ Khách hàng DN KHDN
BH BH Khách hàng cá nhân KHCN
BH tiền gửi BHTG KT KT
BH y tế BHYT KT xã hội KTXH
BH thất nghiệp BHTN KT vĩ mô KTVM
BH xã hội BHXH Kiểm soát rủi ro KSRR
BH nhân thọ BHNT Kết quả KQ
BĐS BĐS Khu vực KV
Bình quân BQ Khu công nghiệp KCN
C
Chi nhánh/phòng giao dịch CN/PGD L
Chỉ số giá tiêu dùng CPI LS LS
Chính sách tiền tệ CSTT Liên NH LNH
Chính sách tín dụng CSTD Lợi nhuận trước thuế LNTT
Chứng khoán/CTCK CK/CTCK Lợi nhuận sau thuế LNST
Công nghệ thông tin CNTT
Công ty cổ phần CTCP M
Cổ phần hóa CPH Mua bán, sáp nhập M&A
Cơ sở hạ tầng CSHT
Cơ quan/Cơ quan quản lý CQ/CQQL N
Cơ quan Nhà nước CQNN NĐT NĐT
D NĐT nước ngoài NĐTNN
Dịch vụ DV NH NH
DN DN NH liên doanh NHLD
DN nhà nước DNNN NH Nhà nước NHNN
DN tư nhân DNTN NH quốc doanh NHQD
DN vừa và nhỏ DNVVN NH thương mại cổ phần NHTMCP
DN có vốn đầu tư nước ngoài DN FDI NH thương mại Nhà nước NHTM NN
Dự trữ bắt buộc DTBB NH nước ngoài NHNNg
Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI NH trung ương NHTW
Đầu tư gián tiếp FII NH chính sách xã hội NHCSXH
Định chế tài chính ĐCTC Ngân sách nhà nước NSNN
G Ngân sách địa phương NSĐP
Giấy chứng nhận GCN Nhập khẩu NK
Giá trị gia tăng GTGT Nợ xấu NX
Giám đốc GĐ Nợ quá hạn NQH
H
Hợp tác xã HTX
11
P V
Phòng giao dịch PGD Vốn điều lệ VĐL
Phó Giám đốc PGĐ Vốn tự có VTC
Vốn chủ sở hữu VCSH
Q Văn bản pháp luật VBPL
Quản lý rủi ro QLRR
Quỹ tín dụng nhân dân QTDND X
Xã hội XH
S Xuất khẩu XK
SX SX Xuất nhập khẩu XNK
SX kinh doanh SXKD Xây dựng XD
So với SV Xây dựng cơ bản XDCB
T Quốc gia/Tổ chức
Tài chính - NH TC-NH VN VN
Tài sản bảo đảm TSBĐ Kho bạc Nhà nước KBNN
TTTD TTTD Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội HNX
Thanh toán quốc tế TTQT Sở Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM HOSE
Thanh toán nội địa TTNĐ Tổng cục thống kê GSO (TCTK)
TTCK TTCK Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia UBGSTCQT
Thị trường mở OMO Ủy ban Chứng khoán Nhà nước UBCKNN
Thu nhập cá nhân TNCN Viện Nghiên cứu KT và Chính sách VERP
Thu nhập DN TNDN Cục dự trữ liên bang Mỹ FED
TCTD TCTD Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN
Tổng giám đốc TGĐ Khu vực sử dụng đồng Euro EUROZONE
Tổng tài sản TTS Liên minh châu Âu EU
Tổng sản phẩm quốc nội GDP NH Thế giới (World Bank) WB
TP Chính phủ TPCP NH Phát triển châu Á ADB
TP DN TPDN NH trung ương châu Âu ECB
NH trung ương Trung Quốc PBOC
NH trung ương Nhật Bản BOJ
NH TTQT BIS
Tổ chức thương mại thế giới WTO
Tổ chức Hợp tác và Phát triển KT OECD
Trung Quốc TQ
Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF