30
ĐẠI HC HUTRƯỜNG ĐẠI HC KHOA HC NGUYN THÙY TRANG TIU THUYT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TGÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI Chuyên ngành: Văn học Vit Nam Mã schuyên ngành: 62 22 01 21 TÓM TT LUN ÁN TIẾN SĨ VĂN HC VIT NAM Huế - 2018

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

  • Upload
    others

  • View
    1

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

ĐẠI HỌC HUẾ

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

NGUYỄN THÙY TRANG

TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2014

TỪ GÓC NHÌN PHÊ BÌNH SINH THÁI

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số chuyên ngành: 62 22 01 21

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

Huế - 2018

Page 2: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

Công trình được hoàn thành tại: ...............................................................

...........................................................................................................................

Người hướng dẫn khoa học: ..........................................................

...........................................................................................................

Phản biện 1: ...................................................................................................

...........................................................................................................................

Phản biện 2: .....................................................................................

...........................................................................................................

Phản biện 3: ......................................................................................

...........................................................................................................

Luận án đã được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Đại học

Huế họp tại ........................................................................................

...........................................................................................................

Vào hồi: .... giờ ngày ... tháng .... năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại: ............................................................

...........................................................................................................

Page 3: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

1

MỞ ĐẦU

Giáo sư Laurence Buell nhận định: “Văn học sinh thái là văn

học viết về nguy cơ của thế giới”. Ở Việt Nam, có thể thấy rõ dấu ấn

của văn chương sinh thái qua những tiểu thuyết tiêu biểu như Trăm

năm còn lại (Trần Duy Phiên), Thập giá giữa rừng sâu (Nguyễn

Khắc Phê), Chó Bi, đời lưu lạc (Ma Văn Kháng), Sông (Nguyễn

Ngọc Tư), Gần như là sống, Ruồi là ruồi (Đỗ Phấn), Săn cá thần

(Đặng Thiều Quang), Dòng sông chết (Thiên Sơn), Nhắm mắt nhìn

trời (Nguyễn Xuân Thủy), Thân xác (A Sáng), Thiên đường ảo vọng

(Nguyễn Trí), Chúa đất (Đỗ Bích Thúy), Vết thương hoa hồng

(Nguyễn Văn Học)… Với số lượng tác phẩm đáng kể, các nhà văn

Việt Nam đã thể hiện được sự nhạy bén của mình trong việc tri nhận

những vấn đề thời sự mang tính nhân loại. Hướng đến môi trường,

phải chăng văn học đang hướng đến sự sống còn của toàn nhân loại?

Đó cũng chính là sứ mệnh của văn học sinh thái. Vì lẽ đó, chúng tôi

lựa chọn đề tài: Tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014 từ góc

nhìn phê bình sinh thái, để chỉ ra được tính cấp thiết của việc phát

triển sâu rộng mảng phê bình sinh thái trong văn học Việt Nam. Nó

cho thấy, các nhà văn đã chú ý nhiều hơn đến đề tài môi trường và

mối quan hệ giữa văn học với môi trường, trách nhiệm của nhà văn

với giới tự nhiên và sự an nguy, sự tồn vong của dân tộc, của nhân

loại. Đó chính là tâm thức thời đại, yêu cầu thời đại.

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái

1.1.1. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái trên thế giới

1.1.1.1. Chặng một từ 1972 đến 1991: Thời kì manh nha

Ở giai đoạn này, phê bình sinh thái vẫn đang bước những

bước đầu tiên chậm rãi và chưa có hệ thống. Các nhà nghiên cứu văn

học và văn hóa đã phát triển lí thuyết và phê bình về phương diện

Page 4: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

2

sinh thái bằng cách tiếp cận liên ngành. Nhưng các nghiên cứu của họ

được coi là “những nghiên cứu trước tác về tự nhiên” (the study of

nature writing) xuất hiện đơn lẻ với những tên gọi khác nhau như:

chủ nghĩa đồng quê, sinh thái học con người, chủ nghĩa địa phương

(regionalism), phong cảnh trong văn học, nghiên cứu liên ngành

(interdisciplinary studies)… Cho nên, hai mươi năm đầu tiên vẫn là

giai đoạn manh nha hình thành của phê bình sinh thái.

1.1.1.2. Chặng hai từ 1992 đến 2004: bùng nổ lí thuyết phê bình sinh thái

Giai đoạn này phê bình sinh thái thực sự phát triển sâu rộng, trở

thành một hiện tượng lí luận phê bình văn học – văn hóa toàn cầu. Nhiều

hội thảo liên tiếp được diễn ra, nhiều tổ chức nghiên cứu mối quan hệ

giữa văn học và tự nhiên, sinh thái được thành lập khắp thế giới. Các

chuyên luận phê bình sinh thái giai đoạn này mang tính cô đúc, đi sâu

hơn về học thuật. Tiêu biểu: cuốn Tuyển tập Nghiên cứu Xanh: từ Chủ

nghĩa lãng mạn đến Phê bình sinh thái (The Green Studies Reader:

From Romanticism to Ecocriticism, Routledge, 2000) của Laurence

Coupe. Công trình của Lawrence Buell: Viết vì một Thế giới lâm

nguy: Văn học, Văn hóa, Môi trường nước Mĩ và các quốc gia khác

(Writing for an Endangered World: Literature, Culture, and

Environment in the United States and Beyond, 2001). Cuốn Phê bình

sinh thái (Ecocriticism) xuất bản năm 2004 của Greg Garrard…

1.1.1.3. Chặng ba từ 2005 đến nay: hoàn thiện và mở rộng phê bình sinh thái

Nhìn vào những công trình ban đầu, các nhà phê bình sinh thái

tập trung tìm hiểu những văn bản tại quốc gia họ sinh sống (gồm văn

bản tiếng Anh, Đức, và những ngôn ngữ thuộc Tây phương), sau đó, phê

bình sinh thái dần dần rời khỏi địa hạt trung tâm, lưu ý đến các văn bản

ngoài Âu – Mĩ để khai mở những tiềm năng lí thuyết mới trong nội tại

chính nó. Cũng trong quá trình nghiên cứu những văn bản ngoài Âu –

Mĩ, cụ thể ở đây là những văn bản Đông Á, các nhà phê bình sinh thái

còn phát hiện ra “sự mơ hồ” trong thái độ, tình cảm của người phương

Đông đối với thiên nhiên (trường hợp của Karen Thornber). Đồng thời,

bắt nhịp về với phương Đông, phê bình sinh thái đã kết nối với các tư

tưởng triết học sinh thái môi trường hiện đại và nguồn mạch tư tưởng

văn hóa phương Đông ngàn xưa (Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo) để đề

Page 5: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

3

xuất một cách ứng xử mới với tự nhiên, tái thiết môi sinh. Từ đó nó cho

thấy sự cần thiết và cấp bách hiện nay trong việc dẫn nhập, áp dụng lí

thuyết phê bình sinh thái vào nghiên cứu văn học các nước châu Á nói

chung, Việt Nam nói riêng.

1.1.2. Nghiên cứu lí thuyết phê bình sinh thái ở Việt Nam

Cho đến nay, theo tìm hiểu của chúng tôi, phê bình sinh thái

đang dần được các học giả, nhà nghiên cứu quan tâm, đón nhận và đầu

tư tìm hiểu. Dẫu vậy, số lượng những công trình, bài viết nghiên cứu phê

bình sinh thái ở Việt Nam còn hạn hữu. Đã có những công trình chuyên

sâu, đúng hướng với phê bình sinh thái và gợi mở cho chúng tôi nhiều

điểm thú vị; nhưng vẫn chưa có những chuyên luận về tiểu thuyết, nhất

là tiểu thuyết từ sau Đổi mới – một giai đoạn văn học đang phát triển của

văn học sinh thái Việt Nam.

1.2. Nghiên cứu tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 nhìn từ lí thuyết

Phê bình sinh thái

1.2.1. Tiểu thuyết Việt Nam sau 1986 – quá trình đổi mới và tiến

dần đến văn học sinh thái

Ý thức sinh thái trong văn học Việt Nam sau 1986 nói chung,

tiểu thuyết Việt Nam nói riêng bắt đầu manh nha từ dòng chảy văn

học hậu chiến. Về sau, văn học thời kì Đổi mới bắt đầu xuất hiện và

chú ý đến vị thế trong mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Đi

kèm với việc phê phán mặt trái của văn minh, nhiều nhà văn đã ngầm

cảnh báo rằng nguồn gốc của nguy cơ sinh thái chính là tính hiện đại

và căn bệnh của chủ nghĩa tiêu dùng – sự tiêu xài quá độ, sự lên ngôi

của đồng tiền. Có thể thấy rõ điều này qua sáng tác của Nguyễn Huy

Thiệp, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Xuân Thủy, Đặng Thiều Quang,

Đỗ Phấn, Đỗ Bích Thúy, Nguyễn Xuân Thủy, Nguyễn Văn Học…

Các nhà văn đã chỉ ra sự hủy hoại môi sinh dẫn tới việc mất cân bằng

tự nhiên; quá trình đô thị hóa, nền kinh tế thị trường khiến con người

rời xa môi trường sinh thái, con người trở thành nạn nhân, công cụ

của thương mại.

1.2.2. Phê bình sinh thái – một lối tiếp cận mới vào tiểu thuyết Việt

Nam sau 1986

Page 6: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

4

Bài báo Sáng tác và phê bình sinh thái – Tiềm năng cần khai thác

của văn học Việt Nam của Nguyễn Thị Tịnh Thy đăng trên Tạp chí Văn

nghệ quân đội (25/10/2014) đã đưa ra những dẫn chứng cho thấy những

tiềm năng trong sáng tác, phê bình sinh thái của văn học Việt Nam.

Gần đây, Trần Thị Ánh Nguyệt đã bảo vệ thành công luận án

Tiến sĩ với đề tài “Con người và tự nhiên trong văn xuôi Việt Nam sau

1975 từ góc nhìn phê bình sinh thái” (Trường Đại học Sư phạm Hà

Nội, tháng 1/2016). Qua luận án, tác giả đã khảo sát văn học Việt Nam

sau 1975 và thấy có sự xuất hiện khuynh hướng văn xuôi sinh thái.

1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài

1.3.1. Về tình hình nghiên cứu

Việc nghiên cứu phê bình sinh thái trên thế giới đã diễn ra

hơn bốn thập kỉ nhưng không liên tục mà bị gián cách trong biên độ

thời gian lẫn không gian do những yếu tố về địa lí, chính trị, văn hóa

– xã hội của từng quốc gia, khu vực. Thoạt tiên ở Mỹ, phê bình sinh

thái hình thành rồi lan sang các nước cùng ngôn ngữ Anh, Úc, và tiếp

đến là Châu Âu, Châu Á đón nhận nó nhưng một hiện tượng văn hóa

– xã hội của kỉ nguyên hậu công nghiệp. Tính chất liên ngành của

phê bình sinh thái đã thu hút nhiều quan tâm, chú ý của các chuyên

gia văn học, văn hóa, sinh học, lịch sử, địa lí, vật lí… Từ những năm

1970 đến nay, phê bình sinh thái từ phong trào nhỏ lẻ, tản mác đã trở

thành một hướng nghiên cứu phổ biến, sôi nổi toàn cầu.

1.3.2. Hướng nghiên cứu đề tài

Thứ nhất, giới thiệu được ngành sinh thái học nhân văn hiện

nay đang trở thành một khoa học toàn cầu, kết hợp thành tựu của

khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn để xử lý những vấn đề mà

Trái đất, môi trường đặt ra trước con người. Thứ hai, việc tiếp cận

phê bình sinh thái sẽ phát hiện ra những bước chuyển mình của tiểu

thuyết Việt Nam trong bối cảnh Đổi mới, tiếp thu tinh hoa nhân loại.

Thứ ba, khảo cứu những tiểu thuyết từ Đổi mới đến nay, chúng tôi

tiến hành định giá các chuẩn tắc đạo đức sinh thái được biểu hiện cụ

thể qua hệ thống nhân vật. Mỗi hành động, ứng xử của nhân vật sẽ là

nấc thang để phân chia phạm trù đạo đức. Thứ tư, dựa vào tính chất

liên ngành và những hiệu ứng mà phê bình sinh thái mang lại, chúng

Page 7: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

5

tôi đi sâu vào thế giới tinh thần qua quyền lực của diễn ngôn và các

phạm trù văn hóa, liên văn bản.

CHƯƠNG 2. MỘT CÁI NHÌN HẬU/ GIẢI CẤU TRÚC

VỀ PHÊ BÌNH SINH THÁI TRONG TIỂU THUYẾT

VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 – 2014

2.1. Phê bình sinh thái và đặc tính hậu/ giải cấu trúc

2.1.1. Về khái niệm và cội nguồn của phê bình sinh thái

2.1.1.1. Khái niệm

Tính chất mở, đa chiều và liên ngành đã mang đến nhiều khái

niệm cho phê bình sinh thái. Điều này không tạo nên những mâu

thuẫn, đối lập và tranh cãi giữa các học giả. Ngược lại, nó phát ra một

hiệu ứng khả nghiệm, lan tỏa và thu hút nhiều ý kiến đóng góp hơn

nữa nhằm hoàn thiện lí thuyết, đồng thời cũng khẳng định từ trường

hấp dẫn của phê bình sinh thái đối với thế giới hiện nay. Và dù có

nhiều cách định nghĩa khác nhau, nhưng tất cả các học giả đều đồng

nhất phê bình sinh thái là một lí thuyết có những đặc trưng tư tưởng

và nguyên tắc mĩ học rõ ràng, đó là lấy chủ nghĩa chỉnh thể sinh thái

làm tôn chỉ, phán xét nguồn gốc văn hóa tư tưởng của nguy cơ sinh

thái và thẩm định văn bản từ góc độ nghệ thuật sinh thái. Đây cũng

chính là quan điểm của chúng tôi trong luận án.

2.1.1.2. Cội nguồn triết học của phê bình sinh thái

Những tư tưởng triết học của các trường phái luân lí học môi

trường phương Tây nửa đầu thế kỉ XX có thể coi là nền tảng cơ bản

cho sự ra đời của phê bình sinh thái, trong đó quan trọng nhất là luân lí

“kính trọng sinh mệnh” của Schweitzer và “luân lí địa cầu” của

Leopold. Aldo Leopold được coi là người đầu tiên đề xướng sự bảo vệ

sinh thái của phương Tây cận đại. Bên cạnh đó, quay về với tư tưởng

văn hóa phương Đông cổ đại cũng là một khuynh hướng quan trọng

của phê bình sinh thái hiện nay. Tính chỉnh thể trong trật tự, tính

hướng nội trong quy tắc của phương Đông có thể điều chỉnh tư tưởng

cá nhân và chủ nghĩa bá quyền mang tính hiện đại phương Tây, giúp

cho nhân loại tìm ra con đường tinh anh nhất giữa các nền văn hóa.

Sự hòa kết Đông Tây, tư tưởng luân lí sinh thái phương

Tây nửa đầu thế kỉ XX và tư tưởng sinh thái của tam giáo phương

Page 8: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

6

Đông là nền tảng vững chắc của phê bình sinh thái. Bổ sung

những ưu điểm và khắc phục nhược điểm giữa hai nguồn tư tưởng

này, phê bình sinh thái sẽ có cội nguồn triết học cùng cơ sở lí luận

thuyết phục và hoàn thiện hơn.

2.1.2. Đặc tính hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh thái

Chứng minh rõ đặc tính hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh

thái được thể hiện như thế nào, trong một bài nghiên cứu của mình,

Michael Verderame, ông đã cho rằng, thời kì này các học giả chú

trọng nhiều hơn đến giải cấu trúc trong phê bình sinh thái, với các

đặc điểm: giải cấu trúc sự đối lập có tính kế thừa của “tự nhiên” và

“nhân loại” mà trước đây điều này là vinh dự nhưng sau này là một

sự xem thường; khám phá các khía cạnh vật chất, kinh tế, xã hội và

những tác động của quá trình môi trường; kiểm tra “phương diện môi

trường” như một thuộc tính quan trọng của tất cả các văn bản hơn là

một lĩnh vực của một thể loại bị giới hạn eo hẹp trong “lối viết tự

nhiên”; đồng thời mở rộng tầm nhìn của nó vượt ra ngoài cảnh quan

hoang dã và nông thôn bao gồm các thành phố, vùng ngoại ô và phần

còn lại của môi trường xây dựng. Ông nhấn mạnh “một phê bình sinh

thái mới tốt nhất nên được xuất phát từ các bậc tiền bối” và “các nhà

phê bình sinh thái văn học cần tham gia vào các dòng chảy phê bình

tân lịch sử và chủ nghĩa hậu cấu trúc một cách trọn vẹn và cởi mở

hơn”, trong đó giải cấu trúc là một xu hướng thích hợp để giúp phê

bình sinh thái “trở nên dễ tiếp nhận hơn” bằng cách trút bỏ vị trí bên

lề (nằm ngoài phê bình văn học hiện đại chính thống) và “mang đến

một không gian thích hợp hơn trong các cuộc đối thoại về tri thức”.

Nhưng các lí thuyết như “tác giả chết” R.Barthes, “nguyên lí

đối thoại” của M.Bakhtin, “chủ thể biến mất liên chủ thể” của

M.Foucault, chủ yếu là diễn giải ở cấp độ văn bản, ngôn ngữ. Vì thế,

vận dụng vào phê bình sinh thái sẽ có độ lệch nhất định, đôi chỗ dễ rơi

vào biện luận. Do đó, chúng tôi xác định từ đầu, chủ đích của phê bình

sinh thái không chú trọng mạnh vào hình thức nghệ thuật (như ngôn từ

trau chuốt, cốt truyện li kì hay xây dựng nhân vật hấp dẫn) mà cốt yếu đi

sâu vào nội dung, trong đó định giá đạo đức và tinh thần sinh thái là vấn

đề cốt lõi. Bên cạnh đó, với đặc trưng và hệ thống lí luận như trên, phê

Page 9: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

7

bình sinh thái đã thể hiện rõ cảm quan hậu hiện đại. Vì thế hậu/ giải

cấu trúc trong phê bình sinh thái còn gợi mở cho chúng ta một vấn đề

khác liên quan đến liên văn bản và văn học so sánh, cũng như các hệ

hình lí thuyết khác. Do vậy, hậu/ giải cấu trúc không phải là phương

pháp duy nhất để tìm kiếm ý thức sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam

giai đoạn 1986 đến nay, nhưng là cánh cửa gợi mở nhiều tham chiếu

thú vị.

2.2. Những phương diện hậu/ giải cấu trúc của phê bình sinh thái

trong tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới

2.2.1. Phi trung tâm – dạng thức tồn tại của văn hóa hậu hiện đại

Nằm trong dòng chảy hậu hiện đại, các nhà văn sinh thái rời bỏ

niềm tin vào tương lai bền vững, tươi đẹp, quay về ý thức rõ hơn hiện

thực với nhiều hiểm nguy đang rình rập, con người đối mặt trước một

thời đại “không số phận”, không đoán định. Nhưng nếu hậu hiện đại tạo

ra cái nhìn hỗn mang trước những giao điểm, ngã rẽ, thì phê bình sinh

thái lại tạo ra cái nhìn tụ điểm. Điều này tưởng như mâu thuẫn, nghịch lí

với “phi trung tâm” của hậu/ giải cấu trúc. Nhưng kì thực, đó lại là nét

riêng biệt của tính chất phi trung tâm phê bình sinh thái. Tụ điểm của

phê bình sinh thái thể hiện ở chỗ, khi xóa bỏ cái nhìn trung tâm, các nhà

văn có cơ hội quan tâm nhiều hơn trong văn bản những đối tượng yếu

thế, thua thiệt, có nguy cơ tổn hại và chìm khuất. Bước ngoặt này giúp

cho các nhà phê bình sinh thái dịch chuyển trung tâm qua những đối

tượng mang tính chất thực tế hơn: “trái đất trung tâm”, “sinh vật trung

tâm”, “sinh thái trung tâm”. Tùy theo từng hoàn cảnh, tình thế cụ thể, tụ

điểm được kết nối và trở thành trung tâm, chẳng hạn, trong Ruồi là ruồi

(Đỗ Phấn), khi người dân tiến hành cuộc tàn sát quy mô lớn nhất từ

trước đến nay để tiêu diệt tận gốc loài ruồi và môi trường dành cho

chúng, ống kính nhà văn hướng nhiều ưu ái đến ruồi. Dù muốn hay

không muốn, nhân loại phải thừa nhận “chúng là một phần trong cuộc

sống trên hành tinh xanh của chúng ta”, và “những mối nguy hiểm do

chúng mang lại không hẳn đã áp đảo lợi ích của chúng”. Cuộc sống của

người đều xoay quanh bên ruồi, nên mục đích của nhà văn khi đề cao

ruồi chính là “hướng đến một trái đất cân bằng sinh thái. Mọi cỏ cây và

sinh vật sống trên hành tinh này đều phải được tôn trọng”.

Page 10: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

8

2.2.2. Cái chết của chủ thể - tính liên chủ thể

Cái chết của chủ thể dưới góc độ sinh thái không đơn giản

chỉ là phủ định hoàn toàn vai trò và vị thế của con người, mà sâu xa

hơn, nhà văn mong muốn kìm hãm những dục vọng bạo liệt của con

người cùng những suy nghĩ và hành động phi lí của chính họ đối với tự

nhiên. Chính vì vậy, đi cùng với việc phản chủ thể, cái chết của chủ thể

trong sáng tác phê bình sinh thái còn là sự thể hiện tính liên chủ thể.

Trong tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới, tính chủ thể tự trị, tính

độc sáng của cá nhân theo đây chỉ còn là một huyễn tưởng khi ý nghĩa

tương giao nhân loại – tự nhiên được xác định thông qua những hình ảnh

cụ thể mang tính ẩn dụ cao. Sự tương trợ sinh tồn của tập thể Liên hiệp

quốc doanh đánh cá và biển (Biển và chim bói cá); sự hòa nhập giữa Ân

và sông (Sông); kiếp sống kí sinh giữa ruồi và người (Ruồi là ruồi); tính

hài hòa nhân ái giữa bồ câu và già SuDa (Những bầy mèo vô sinh);

những hi sinh, tận tụy, trung thành của một chú chó luôn hết mình vì chủ

và người chủ cũng chân thành đối đãi thật tâm với nó (Chó Bi, đời lưu

lạc),… là những thành công trong việc xóa mờ ranh giới giữa chủ thể/

khách thể, nhân loại/ phi nhân qua hai hình tượng song trùng: người/ cá,

người/ sông, người/ ruồi, người/ mèo, người/ chó.

2.2.3. Tính đối thoại – phương thức kết nối với thế giới tự nhiên

Đối thoại thực chất là thể hiện sự đối lập về lập trường tư

tưởng của các nhân vật, làm nên đặc điểm đa thanh, phức điệu cho

tiểu thuyết. Tất nhiên, tính chất đối thoại với tự nhiên trong các tiểu

thuyết sinh thái hoàn toàn khác với đối thoại trong các truyện viết về

loài vật. Nghĩa là nhà văn không tạo ra những lượt vấn đáp/chuyện

trò giữa nhân loại và thế giới phi nhân loại, cũng không theo phương

thức đồng thoại. Sự thấu cảm và kết nối ở đây được thực hiện chủ

yếu thông qua độc thoại, suy tưởng, tự vấn của con người và cả tự

nhiên. Trên nguyên tắc đảm bảo cân bằng giữa lập trường nhân vật

và lập trường tác giả, chủ thể (có thể là con người, hoặc tự nhiên) bộc

lộ hành trình tự nhận thức của mình. Bằng sự trải nghiệm của chủ

thể, nhân vật phát biểu, phán xét những hành động, vấn đề liên quan

đời sống như đạo đức, xã hội, chính trị, văn hóa…

Page 11: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

9

CHƯƠNG 3. ĐỊNH GIÁ CHUẨN TẮC ĐẠO ĐỨC

SINH THÁI TỪ HỆ THỐNG NHÂN VẬT

3.1. Kiểu nhân vật xâm phạm tự nhiên – khát vọng bành trướng

3.1.1. Tư tưởng nhân loại trung tâm và sai lạc hành vi

3.1.1.1. Niềm khoái cảm khi được thống trị tự nhiên

Sở dĩ con người có thể bất chấp mọi hậu quả nhằm chinh phục

được tự nhiên là bởi họ tìm thấy trong đó một niềm khoái cảm của kẻ

chiến thắng, một cảm giác tự tin khi được làm trung tâm, bá chủ. Tiểu

thuyết Gần như là sống của Đỗ Phấn có kể về chi tiết những dân chơi

Hà Nội đua nhau “tha” những thứ ở rừng về trưng bày trong không gian

chật chội của phố thị, trong đó có nhiều loài chim quý. Tuy nhiên, dân

chơi chim cảnh Hà thành không mấy ai nhòm ngó loài chim Quế Lâm

ngũ sắc, “dù bộ mã con chim vô cùng bắt mắt”, “tiếng hót của nó quá

ồn ào liến thoắng như thổi còi làm tăng thêm nhịp độ gấp ruổi vội vã

phố phường”. Nuôi chim cảnh, nhưng không phải để ngắm, cũng không

phải thưởng thức tiếng hót, rút cuộc những dân chơi thành thị muốn gì?

Họ nhốt chim trong lồng, treo giữa nhà như một thứ “trang sức”. Muốn

nhìn thấy chúng nằm trong những chiếc hộp, cũng giống như họ đang

“ở trong những cái hộp như thế của thành phố”. Chính quá trình vật

lộn và giành được chiến thắng với tự nhiên, con người đạt những cảm

giác mới, đánh thức bản năng của chính mình ẩn nấp trong chuỗi

ngày u ám, tẻ nhạt.

3.1.1.2. Đến những sai lạc trong hành vi

Đắm chìm trong tư tưởng thống trị thế giới, con người không

nhận thức sáng suốt hoàn cảnh thực tế và những hành động chính

đáng cần làm. Người cha (Trăm năm còn lại) vì mãi theo tiếng gọi

của vàng và tham vọng bá chủ, nên đã quên chăm sóc, vun vén cho tổ

ấm của mình. Một thời gian sống trong rừng sâu với sự thù hằn và

đối chọi, rẫy khai hóa đã hơn hai mươi năm nên đất mầu xói mòn

cuốn theo suối rồi đổ cả vào dòng Dabkla.

Mất đi khả năng thấu hiểu tự nhiên và chối từ giao cảm với

muôn loài, con người dễ đẩy mình vào con đường tha hóa, độc tài, máu

lạnh. Trong Thoạt kì thủy (Nguyễn Bình Phương), Tính là kiểu con

người có hội chứng tâm thần đặc biệt, với sở thích quái dị: khoái cảm

Page 12: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

10

khi được trải nghiệm cảnh sát sinh. Không làm chủ được hành động

của mình, Tính đã để vô thức điều khiển trong niềm khoái lạc, dã tâm

châm lửa thiêu cháy bố mẹ Hiền không chút dao động, cầm dao giết

ông Khoa rồi tự kết liễu mình. Nếu con người không ý thức được sự

đau đớn của sinh vật khi bị chính mình giết hại, thì cũng sẽ không nhận

thức được hành động đã làm với chính đồng loại.

Nhìn các nhân vật trong Trăm năm còn lại, Săn cá thần,

Thoạt kì thủy theo quan điểm Phật giáo sẽ thấy, sự hủy hoại môi sinh,

ô nhiễm môi trường là hậu quả đỉnh cao của tư duy hữu ngã, con

đường hưởng thụ lạc thú của con người. Vì thế, nguyên nhân chính của

cuộc khủng hoảng môi sinh nghiêm trọng là do vô minh và tham ái.

Còn theo quan điểm của Lão Tử trong Đạo đức kinh thì, “Trí tuệ

xuất, hữu đại ngụy” (Trí tuệ sinh ra, có vô vàn điều giả dối). Cho nên,

càng biết nhiều, con người càng ham muốn nhiều, khả năng đòi hỏi

thỏa mãn dục vọng cao. Không có trí tuệ nào của con người có thể

sánh kịp với “trí tuệ của tự nhiên”. Khi các nhân vật bất tuân tự

nhiên, làm trái đạo lí, tất yếu sẽ gánh những hậu quả khó lường. Như

vậy, phê bình sinh thái phản đối tư tưởng nhân loại trung tâm không

chỉ đơn thuần là phản đối nhận thức lệch lạc của con người đối với tự

nhiên, ẩn chứa trong đó còn là sự phê phán thái độ vô cảm, tha hóa

đạo đức, lệch lạc lối sống. Cho nên, giải trừ quan niệm “nhân loại

trung tâm” cũng là cách giải trừ “tà khí” trong con người.

3.1.2. Sự mơ hồ sinh thái – những ngộ nhận trong quy luật sinh tồn

3.1.2.1. Ngộ nhận tự nhiên là vô tận trong thời đại công nghiệp hóa –

hiện đại hóa

Đầu tiên là những ngộ nhận của con người trong giai đoạn

chiến tranh. Khu rừng Yên Ngựa trong tiểu thuyết Thập giá giữa

rừng sâu của Nguyễn Khắc Phê là minh chứng cho những vết tích và

mất mát của một thời máu lửa. Để phục vụ cuộc đối đầu với kẻ thù,

người ta “đua nhau đi chặt gỗ làm hầm, cây càng to, càng chắc càng

có nhiều thành tích”. Cánh rừng là nơi nương náu cho bộ đội, là

nguồn vũ khí đơn sơ mà hữu dụng trong chiến đấu và cũng là nơi

hứng chịu không biết bao nhiêu trận càn quét của giặc.

Page 13: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

11

Người Việt thường tự hào về non sông gấm vóc hùng vĩ và

“rừng vàng, biển bạc”, nhưng rừng ngày một tàn lụi, và biển cũng đến

lúc cạn nguồn. Thuyền trưởng Lê Mây (Biển và chim bói cá – Bùi Ngọc

Tấn) luôn ao ước khi kháng chiến thắng lợi sẽ được lên tàu đi đánh cá

ngoài biển khơi. Anh tâm niệm phục vụ đất nước bằng cách “khai thác

biển vàng biển bạc, xây dựng đất nước ngày một giàu mạnh, sánh vai

cùng các nước khắp năm châu bốn biển”. Nhưng biển ngày càng bị con

người xâu xé, khai thác đến cạn kiệt. Kết cục tàn lụi của Quốc doanh

đánh cá là điều dễ dàng đoán định, khi chúng ta không ý thức được khai

thác đi liền với gìn giữ, đánh bắt cùng cần phải bảo vệ tài nguyên; mặc

sức vơ vét tận cùng, biển sẽ nổi giận qua những đợt giông bão, sóng

thần, thủy triều đỏ, và cá tôm cũng sẽ vơi dần.

3.1.2.2. Thái độ thờ ơ trước cuộc khủng hoảng môi trường

Nguyễn Khắc Phê đã lí giải cuộc chiến đấu bảo vệ rừng

trong Thập giá giữa rừng sâu sở dĩ không cân sức và có một kết cục

bất hợp lí cũng vì lòng tham và sự vô cảm của rất nhiều người. Bá

mang chức danh là hạt trưởng Hạt kiểm lâm nhưng chính y lại đi bán

rừng và quên đi nhiệm vụ chính của mình là phải bảo vệ rừng. Với

tâm lí thờ ơ và hám lợi, Bá bị đồng tiền của lâm tặc điều khiển và

trượt dài trên con đường tha hóa. Ngay cả những người dân làng Sim,

họ cũng hết sức buông xuôi, vì “đã quen coi mọi thứ trong rừng núi

là của trời đất, như cát dưới lòng sông, như nước mưa, như nắng,

chẳng của riêng ai và dùng nhiều hay ít chẳng làm hại ai”. Nên có bi

quan không khi Nguyễn Khắc Phê tự đặt một câu hỏi nhói lòng:

“Chẳng lẽ con người càng văn minh, càng ngu ngốc, vô đạo sao?”.

Khai thác những trạng huống phản diện, tiêu cực trong cách

hành xử với tự nhiên của con người từ sau Đổi mới, các nhà văn không

cố tình làm mất đi những giá trị người, chỉ là để thấy một thực tế đã và

đang diễn ra trước những tương tác, va chạm của thế giới người và thế

giới bên-ngoài-con-người. Trong sự va chạm, tương tác ấy, nhiều tổn

thất, nguy hại đã xảy đến với tự nhiên, mà một phần nguyên nhân

chính là do sự “ngây thơ”, bàng quan, quan liêu, tư lợi của con người.

Vấn đề mơ hồ sinh thái sẽ còn tiếp diễn nếu chúng ta không thức tỉnh

và thay đổi nhận thức toàn bộ cộng đồng. Charles Wells đã nói:

Page 14: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

12

“Chúng ta chỉ có thể thay đổi thế giới bằng cách thay đổi con người”.

Tiếng nói tôn trọng sinh mệnh và bảo vệ tự nhiên của từng cá nhân

riêng lẻ sẽ chìm dần trong bất lực và yếu đuối. Sự kết nối và san sẻ của

tất cả mọi người là điều cần thiết.

3.2. Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái – hậu quả của văn minh

3.2.1. Nông dân, người nghèo và sự gợi mở sinh thái giai cấp

Quan sát, một vòng luẩn quẩn có tính quy luật trong đời sống

của nông dân và người nghèo được diễn ra, lặp lại trong tiểu thuyết từ

sau Đổi mới: Đói khổ Bóc lột tự nhiên Thoát khỏi đói khổ Tha

hóa, sa ngã Đói khổ. Chúng tôi gọi mô hình này là Chu trình Sinh thái

đói nghèo. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến cuộc sống khốn cùng của

nhân dân, như dịch bệnh, dân số đông, trình độ dân trí thấp, những bất cập

trong chính sách quản lí của nhà nước, thiên tai,… Trong số đó, chúng tôi

muốn nhấn mạnh đến những hậu quả do sự tác động của con người đối

với thiên nhiên khiến cho người dân khó thoát khỏi cảnh đói nghèo.

Nhưng điều quan trọng của sinh thái giai cấp là “sự áp bức

của con người đối với tự nhiên bao giờ cũng đi kèm với sự áp bức

của con người đối với con người trong xã hội”. Bởi trong quá trình

chiếm đoạt tự nhiên, những người làm chủ, có tiền, có quyền luôn

được hưởng lợi nhiều nhất. Đối với người nghèo, người làm thuê, họ

thường chịu thua thiệt và hẩm hiu. Sùng Chúa Đà trong Chúa Đất

(Đỗ Bích Thúy) là kẻ “vừa giàu có, vừa độc ác”. Hắn đã dùng sức

mạnh quyền lực của mình để bắt dân làng trồng cây thuốc phiện thay

vì trồng cây lương thực.Bởi sau mỗi vụ anh túc, Chúa đất lại thu về

rất nhiều bạc trắng. Nhưng “bạc trắng vào nhà chúa đất một trăm

đồng thì chưa chắc vào nhà người trồng anh túc được một đồng”.

Nên cả một vùng núi, nông dân đói khổ, lầm than. Biển và chim bói

cá của Bùi Ngọc Tấn lại phản ánh trong cuộc mưu sinh khó nhọc,

người nghèo luôn phải nỗ lực hết mình lao động, khai thác nhiên

nhiên bằng máu, nước mắt, mồ hôi. Nhưng kết quả họ thu về đều

phải san sẻ cho người quyền thế hơn.

Qua quá trình miêu tả cuộc chiến đấu, sinh tồn của con người

trước thiên nhiên, các tiểu thuyết gia Việt Nam bắt đầu chú ý đến mối

tương quan trong sự phân cấp giữa nông dân/ địa chủ, người giàu/

Page 15: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

13

người nghèo. Bất bình và phản đối những hành động xâm phạm

nghiêm trọng đến tự nhiên, nhiều nhà văn chủ trương bình đẳng môi

sinh và giai cấp, thay đổi cách ứng xử giữa con người – con người sẽ

góp phần nhỏ trong việc thay đổi cách ứng xử với thế giới thiên

nhiên. Màu rừng ruộng (Đỗ Tiến Thụy), Gần như là sống (Đỗ Phấn),

Biển và chim bói cá (Bùi Ngọc Tấn), Sông (Nguyễn Ngọc Tư), Chúa

đất (Đỗ Bích Thúy), Thiên đường ảo vọng (Nguyễn Trí)… là những

tiểu thuyết đã thể hiện tinh thần như thế.

3.2.2. Thị dân, trí thức và làn sóng sinh thái đô thị

Hướng đến một đời sống tinh thần an nhiên, với người thành

phố là điều quá khó khăn. Họ tự phản biện lại sự lựa chọn cuộc sống

của chính mình: “chẳng hiểu đô thị có những gì mà giàu sức quyến rũ

đến thế?”. Vì khi làm dân phố nghĩa là tự nhốt mình vào những căn

hộ tập thể chật chội, đông đúc trong các tòa nhà quanh năm không

thấy ánh mặt trời, là chen chúc mệt nhoài trên những con đường mù

bụi luôn tắc vào giờ cao điểm, là hiếm hoi thưởng thức những món

ăn đậm tình quê; và chỉ mỗi thuận lợi là “ra đường chẳng phải chào

hỏi nhau như ở làng”. Xuyên suốt tiểu thuyết Nhắm mắt nhìn trời

(Nguyễn Xuân Thủy) là quá trình Nguyễn trăn trở, cố gắng gìn giữ

phẩm giá của một công chức quèn. Sống giữa những đổ vỡ, lạc lối của

nhiều số phận trong vòng xoáy đồng tiền, Nguyễn mang bi kịch của

một nhà văn có lương tâm, không thể làm ngơ trước mọi vấn nạn xã

hội. Tách biệt khỏi các điều kiện tự nhiên và đối mặt với khói bụi

thành phố, với không gian thiếu cây xanh, Nguyễn nhận ra, “con người

nhỏ bé cứ bị chìm xuống mãi dưới đáy những huyệt mộ, như những

con bọ gậy loe ngoe thống khổ và bất lực bơi trong thứ nước lờ nhờ

cống rãnh. Nghẹt thở”.

3.2.3. Nữ giới và những thấu chạm sinh thái nữ quyền

Nếu tự nhiên được xem là nguồn sống nuôi dưỡng cho sự tồn

sinh của con người, thì phụ nữ lại mang thiên chức “sản sinh”, “chăm

sóc”. Vai trò của nữ giới thể hiện ở hành động bảo bọc, chở che, nâng

đỡ mọi sinh linh, chứ không chỉ riêng mình con người. Trong Trăm

năm còn lại (Trần Duy Phiên), khi xây dựng nhân vật người chồng

đầy lòng tham, bản năng và thú tính, nhà văn lại để cho hình ảnh một

Page 16: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

14

người đàn bà suốt đời lầm lũi cạnh ông – một bà mẹ giàu đảm đang,

biết vun vén, lo toan, sống có phép tắc, trật tự. Trong mắt lũ con,

vàng – vật chất đã làm “mờ mắt” hết thảy. Bà chết trong hoang liêu

và hờ hững. Thậm chí, vì nghi kị nhau, Chò, Sấu và Đế đã đào mộ

mẹ sục sạo tìm vàng, nhưng dưới đáy huyệt sâu tăm tối, đất, đá và hài

cốt lẫn lộn chỉ thấy mỗi “vũng nước đỏ ngầu gần như máu”. Chút

nhân tính chẳng còn gì khi chúng không hề nghĩ đến việc dọn dẹp

khu mộ của mẹ lại như cũ. Phúc phận đời bà dường như không có.

Như vậy, trong bước đường tha hóa của phụ nữ có một phần

nguyên nhân đến từ những thua thiệt sẻ chia với tự nhiên, và cũng có

một phần đến từ những đói nghèo vì thiên tai, thảm họa thiên nhiên.

Nàng Nhình (Thân xác, A Sáng) quyết định từ giã mối tình đầu với A

Sàng và bản làng Pác Thay tươi đẹp để sống giữa chốn phồn hoa đô

hội, không phải vì tình yêu trong cô chưa đủ lớn. Sự tàn tạ, thiếu thốn

của thiên nhiên và cảnh vật cũng trở thành vật cản đẩy cô xa hơn và

xích gần về phố thị. Nhình sợ “những ngôi nhà nghiến, đen sẫm, đầy

mùi phân trâu”. Và trong kí ức cô, những mùa giáp hạt xa xưa, cả bản

“thoi thóp, đói cồn cào. Mé nó, ngoại nó cả ngày lên rừng cũng chỉ lôi

về vài củ pao pinh ăn cho khỏi phải chết”. Nếu an phận đành lòng ở

lại, Nhình sẽ nhanh chóng trở thành một bà già, “thân hình vừa nảy nở,

bầu vú mới cựa mình đã bị đàn ông cướp mất”, “suốt ngày cặm cụi bên

bếp lửa, buồn bã, cam chịu… như bất cứ mụ đàn bà ở cái bản Pác

Thay kia”, sẽ “sinh ra những đứa con đen nhẻm, cởi truồng chạy nhông

nhông trên con đường đầy bùn đất trộn với phân” và đêm đêm sẽ chết

dần chết mòn trong tiếng ru con ời ời não nuột.

3.3. Kiểu nhân vật thức tỉnh – ý niệm về sự hợp nhất

3.3.1. Sám hối, trăn trở – niềm kính sợ sinh mệnh

Nhà văn bằng trách nhiệm của mình góp phần truy tìm những

căn nguyên dẫn đến thảm họa môi trường, ngụp lặn vào khoảng mơ hồ

vô thức để cắt nghĩa những động cơ bí ẩn vận hành cỗ máy hành vi con

người. Từ đó tạo ra một tấm gương soi chiếu con người từ “bên trong”.

Nhưng để có cái nhìn toàn diện bên trong, bên cạnh lối trần thuật xưng

tôi ở ngôi thứ nhất, nhà văn còn phải xây dựng không gian nghệ thuật

với ẩn số những ý đồ. Các hình thức tiểu thuyết tự thú, sám hối phát

Page 17: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

15

triển trên cơ sở này. Đưa nhân vật vào bối cảnh đắc địa trở thành một

dụng ý nghệ thuật hiệu quả để nhà văn tỏ tường niềm kính sợ tự nhiên.

Cảm nhận về những gì thiên nhiên bị mất mát, dày vò, xâu xé

dưới bàn tay nhân loại, các nhà văn không còn tán tụng tất cả những gì

nhân loại phát minh, sáng tạo. Dám nhìn con người như - nó - vốn - có

với những khả năng và hạn chế của chính nó, tiểu thuyết Việt Nam

thời kì đổi mới đã đưa ra ánh sáng những vùng tối trong con người, hạ

thấp con người, không thần bí hóa cũng không duy lí hóa. Các cây bút

Trần Duy Phiên, Đỗ Phấn, Nguyễn Khắc Phê, Đặng Thiều Quang,

Nguyễn Xuân Thủy… đã khước từ xây dựng những tính cách kì vĩ,

hoàn hảo và đơn chiều của lối viết trước đó, đi sâu giải mã những

chiều kích mới của con người. Đó là khát vọng được truy tìm bản

nguyên đích thực. Nó cho thấy, con người không chỉ là một thực thể xã

hội, mà còn là một thực thể sinh học – xã hội.

3.3.2. Bảo vệ tự nhiên – nỗ lực tái thiết Trái đất

Thường thấy, với kiểu nhân vật đứng lên bảo vệ tự nhiên, họ

đều có điểm chung là mang một trái tim mê đắm thiên nhiên, thiết tha

thương yêu muôn loài. Bằng tất cả tình cảm chân thành, họ xem tự

nhiên như một phần thân thể, là điểm tựa tinh thần. Nên khi tự nhiên

bị xâm hại, cưỡng đoạt, họ tìm mọi cách để cứu lấy tự nhiên từ tận

cùng nỗ lực và xót xa. Lớn lên bên dòng Săm Tang, A Sàng (Thân

xác – A Sáng) bị vẻ đẹp của núi rừng cuốn lôi, níu giữ bước chân về

thành phố lập nghiệp. Cái mật lớn của loài gấu trong anh tiết ra đắng

ngắt, ngăn cản anh đừng về nơi đó: “địa ngục đấy”, anh bằng lòng ở

lại làm một “nông dân chính hiệu, cả ngày chỉ quanh quẩn bên đồi

dẻ”. Cả cánh rừng anh trồng luôn rợp một màu hồng, rập rờn ong

bướm bay lượn. Anh xem chúng như một sinh thể thực sự, anh thấy

“cuộc sống của cây cối cũng như con người: có trái tim, có nhịp đập,

có tình yêu”, và “cái giống hạt dẻ này nếu không nâng niu từng nụ

hoa, chúng giận dỗi không ngủ với nhau, rụng xuống đất đố ra hoa”.

Trước những mất mát, hi sinh của các nhân vật dám đứng lên

đấu tranh để cứu lấy hệ sinh thái, như Đức (Thập giá giữa rừng sâu),

A Sàng (Thân xác), các nhà văn đã tạo nên một kết thúc bằng bi kịch

của cái thiện. Không lãng mạn hóa hiện thực, không theo triết lí dân

Page 18: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

16

gian “ở hiền gặp lành”, “ác giả ác báo”, nhân vật sống ác vẫn tiếp tục

tàn phá môi trường, cỏ cây, đất đai, muôn thú. Điều này gióng lên hồi

chuông cảnh tỉnh nhằm khơi dậy ý thức trách nhiệm của con người

với tự nhiên. Đâu đó trong cuộc sống thường nhật, vẫn còn những

người lặng thầm quên đi sinh mạng để cứu lấy Trái đất. Ít nhiều trong

chúng ta không tự cảm thấy nhói lòng và hổ thẹn? Những tấm gương

sáng, những nghĩa cử cao đẹp với thiên nhiên sẽ đánh thức lương tri

của cộng đồng độc giả.

3.3.3. Hướng đến lối sống điền viên – cuộc hành hương về với tự

nhiên

Dễ thấy rằng, nhiều tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới đã tập

trung vào các trạng huống hiện hữu cá biệt của con người trong đời sống

để làm nên một khuynh hướng nhân vật “về nguồn” với khát vọng hoàn

lương. Khi quay về với thiên nhiên, nằm giữa lòng thiên nhiên, nhân

loại nhận diện vị thế của mình giữa vũ trụ, sống có trách nhiệm và

tôn trọng các sinh mệnh khác hơn?! Đăng (Săn cá thần) sau khi

chứng kiến cuộc sống nhàn cư, thanh tịnh của cha con ông Văn, anh

muốn tách rời đoàn người “rửng mỡ, rồ dại và đồng bóng” đi cùng để

thoát khỏi những nỗi sợ hãi và tồi tệ phải hứng chịu trong cuộc vật

lộn với cá thần và “muốn được ở lại căn nhà đơn sơ bên suối đó của

cha con họ”.

Hành trình nhận thức của con người từ vị thế xâm phạm tự

nhiên sang trạng thái sám hối và hòa nhập với tự nhiên là một hành

trình đấu tranh giữa cái Thiện và cái Ác, giữa Dục vọng và Lương tâm,

giữa Vô thức và Ý thức. Cũng lẽ đó, nhân vật thuộc những tiểu thuyết

dạng này thường được miêu tả phức tạp về tâm lí. Tác giả đi sâu vào

thế giới nội tâm của nhân vật bằng độc thoại, chất vấn, suy nghiệm

không dứt. Để khẳng định được sự hiện tồn của chính mình, hoàn thiện

bản thân, đòi hỏi một quá trình diễn ra nhọc nhằn, vừa gắn với những

diễn biến nội tâm, vừa gắn với thực tế đời sống. Vì hiện thực như thế

nào sẽ phản ánh qua tính cách, suy nghĩ, hành động như thế ấy.

Page 19: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

17

CHƯƠNG 4. PHỤC HƯNG TINH THẦN SINH THÁI

TỪ QUYỀN LỰC VĂN HÓA

4.1. Quyền lực của diễn ngôn – những khai mở nhãn quan văn

minh đương đại

4.1.1. Định hình diễn ngôn lãng mạn tự nhiên trong tầm nhận thức

mới

4.1.1.1. Diễn trình vẻ đẹp tự nhiên trong hoài niệm

Sự trở lại diễn ngôn lãng mạn trong tiểu thuyết không phải là

ngẫu nhiên, mà là sự chủ ý của nhà văn để nhấn mạnh rằng, chúng ta

đã và đang có một tuyệt phẩm thiên nhiên như thế, nhưng rồi chúng ta

sẽ giữ gìn nó được bao lâu?! Người hiện đại nhấn nhá những cảnh sắc

của “ngày cũ” qua việc phục hồi trong văn chương dấu ấn một thời.

Bằng giọng văn nhẹ nhàng, Nguyễn Ngọc Tư đã thủ thỉ đưa người đọc

đến với một phiên chợ đặc biệt mà có lẽ chẳng còn tồn tại – chợ khói

(Sông). Vì vậy mà những vẻ đẹp thiên nhiên được nhà văn miêu tả ở

trên đã chứng minh người Việt dường như không thể rời bỏ cội rễ

nông nghiệp. Dù cuộc sống có văn minh, đầy đủ đến đâu, trong tâm

thức mỗi người vẫn nhung nhớ không nguôi về một vùng quê mình

từng có. Bởi thế, nhiều tiểu thuyết đã viết về thế giới tự nhiên như

một chốn nương náu, trú ngụ của cõi lòng bằng một tình yêu tha thiết

với quê hương, đất nước.

4.1.1.2. Lược đồ thân phận của muôn loài từ vị trí bên lề

Sự chuyển dịch vị trí bên lề của cái Khác đã mang đến điểm

nhìn mới trong tiểu thuyết. Từ sau Đổi mới, nhiều nhà văn lần nữa đặt

lại vấn đề vị thế của thế giới thiên nhiên, sinh loài trong bối cảnh phát

triển đô thị, dĩ nhiên ở mức độ nhận thức sâu sắc và có tính khách quan

hơn so với trước đó. Xóa đi dấu vết bản lề của tự nhiên không phải là

điều diễn ra chớp nhoáng, tức khắc trong tiểu thuyết Việt Nam đương

đại. Đó là lược đồ với quá trình khúc khuỷu, quanh co từ thái độ đồng

cảm, thấu hiểu đến thái độ giác ngộ, sẻ chia tiếng nói cùng tự nhiên. Có

thể thấy, những dòng văn đẹp về thôn quê trong Nhắm mắt nhìn trời

(Nguyễn Xuân Thủy) được viết nên không phải qua hơi thở sống động

của thực tế mà bằng phản ứng bất mãn của muôn loài. Với cái nhìn bình

đẳng, nhà văn đã nói hộ “tiếng lòng” của thế giới phi nhân loại.Trong

Page 20: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

18

cuộc chiến đấu sinh tồn để hướng đến “văn minh tân tiến”, thiên nhiên

có lẽ là những nạn nhân thiệt thòi, bất lực nhất. Văn bản đã cho thấy,

cánh đồng xưa như một “khu vườn cổ tích”, giờ chẳng còn “thẳng cánh

cò bay”, thay vào đó là trắng vật vờ những xác bao ni lông như những

linh hồn cò trắng. “Rặng xoan dài mấy cây số dọc cánh đồng ngày nhỏ

đã trở thành biểu tượng của thôn Đào” bây giờ xơ xác, “từng bãi rác lộ

thiên chất đống hai bên đường bốc mùi xú uế”. Làng quê đang bị bức tử

trong những kế hoạch xây dựng, lấn chiếm của thành phố.

Trong tâm thế thấu nhận và hiểu rõ những mất mát của hệ sinh

thái, các nhà văn đã thể hiện tinh thần chung là hướng tới đồng cảm

với muôn loài. Những diễn ngôn như vậy, một cách tự nhiên sẽ đi đến

những quan niệm tích cực cho cộng đồng: sẻ chia và yêu thương tự

nhiên như chính bản mệnh của mình. Đó sẽ là phẩm tính đẹp đẽ và

đáng trân quý của nhân loại.

4.1.2. Kiến tạo diễn ngôn sinh thái hiện đại – tưởng tượng khác về

môi trường

4.1.2.1. Lối viết song hành – nỗ lực vượt qua tính nhị nguyên nhân

loại/tự nhiên

Khảo sát tiểu thuyết Việt Nam sau Đổi mới đến nay, như một

sự trùng hợp, hoặc có thể đây là phương thức đắc địa, lối viết song

hành nhân loại/phi nhân, chủ thể/ khách thể, con người/ tự nhiên

được rất nhiều nhà văn vận dụng và tạo nên dấu ấn nghệ thuật cao. Ở

tiểu thuyết Sông (Nguyễn Ngọc Tư), bóng dáng dòng sông luôn chảy

đồng hành trên mọi nẻo đường cùng các nhân vật Ân, Xu, Bối; đi tìm

ngọn nguồn sông Di cũng là đi tìm bản thể con người. Những bầy

mèo vô sinh (Mạc Can) tạo thành một mê lộ hỗn độn giữa người và

bồ câu, bồ câu sống trong nhà của ông già SuDa, ngôi nhà ông SuDa

lại được thiết kế như một chiếc chuồng bồ câu, và cũng khó phân

định người đang nói tiếng bồ câu hay bồ câu nói được tiếng người.

Chó Bi, đời lưu lạc (Ma Văn Kháng) là thân phận lưu lạc của chú chó

Bi gặp gỡ với đời sống phiêu dạt của người cha, đề rồi tác giả nhìn

trong sự đối chiếu: “Bi thì quả là một bức họa ở mặt sống động. Còn

bố tôi thì thật là một bài thơ trầm hùng, dồi dào ẩn dụ”.

Page 21: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

19

4.1.2.2. Lối viết mở - vẫy gọi những chân trời suy tư

Trong sứ mệnh bảo vệ Trái đất, diễn ngôn môi trường thường

gợi ý những cách hành xử đối với tự nhiên, buộc độc giả suy nghĩ, truy

vấn về sự cần thiết của việc thay đổi quan niệm nhân loại trung tâm lỗi

thời bằng thái độ “kính sợ sinh mệnh”, “tôn trọng tự nhiên”. Để hiện

thực hóa điều này, diễn ngôn tiểu thuyết cần thoát ra khuôn khổ truyền

thống, mở ra những chân trời suy tư. Tính ngẫm nghiệm khi kết thúc

văn bản đưa đến một cái nhìn tổng quan, liên đới nhiều khía cạnh,

phạm trù vượt ra ngoài giới hạn của văn học. Hẳn nhiên, nó cũng tạo ra

sự dịch chuyển của hệ giá trị trong tiến trình đổi mới văn hóa, văn học,

được hình thành từ sự thức nhận các vấn đề môi trường.

Gần đây, một số tiểu thuyết hầu như vắng bóng thiên nhiên,

cấu trúc nghệ thuật đóng gói trong một lớp diễn ngôn vô âm sắc, với

những biểu tượng xô lệch, xơ cứng. Tiêu biểu như Thành phố bị kết

án biến mất, Trần Trọng Vũ trình tấu trò chơi thị giác không chỉ ở

văn bản lạ (tiểu thuyết không dấu phẩy) mà còn ở cách tạo dựng

không gian hình ảnh đa chiều chỉ duy nhất một màu sắc là hơi nước

với ba nhân vật cùng tên X sống trong cùng một khu nhà tràn ngập kí

tự, khó phân định. Tiểu thuyết đã ngầm báo động, sẽ đến lúc nhân

loại chỉ có những dòng văn chương ngột ngạt bóc trần thế hệ “homo

spaciens” bất định trong những bức tường bê tông lạnh ngắt, mịt

mùng khói công nghiệp.

4.2. Quyền lực liên văn bản – tạo liên kết với tổng thể sống linh

thiêng trong vũ trụ

4.2.1. Sự biện chứng giữa văn chương và thực tế

4.2.1.1. Khả năng dự báo qua giấc mơ và giả thuyết

Khởi nguyên lại thế giới qua những giấc mơ và tiên báo, các

nhà văn cho thấy, khi mất đi vị trí độc tôn của mình, con người phải

“cúi xuống” và “làm hòa” với thiên nhiên để tồn tại, cũng giống như

bất kì sinh vật nào khác. Nếu con người tàn hại đến tự nhiên nghĩa là

đang tàn hại chính mình. Vì một lẽ, Trái đất đã trải qua hàng tỉ năm

biến cố với hàng triệt đợt phun trào núi lửa, nham thạch, động đất,

sóng thần để đạt được trạng thái cân bằng, ổn định. Nhưng ngày nay,

Page 22: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

20

những hoạt động và lối sống của con người đã làm cho môi trường

xung quanh bị hủy hoại, không chỉ riêng Trái đất, hệ sinh quyển cũng

phải gánh chịu tổn thất nặng nề. Những dự báo có mối biện chứng chặt

với thực tế luôn là tầm ngắm để con người bước đi trên con đường rút

ngắn “ngày tận thế”.

4.2.1.2. Chỗ trú ẩn, phục trang như rào cản giao hoạt vũ trụ

Đã có nhiều tác phẩm đề cập đến vấn đề nhà ở và phục trang

như một phương tiện tạo cho con người cảm giác thắng thế tự nhiên. Với

thành phố, nhà cửa được xem là bộ mặt khẳng định sự hoa lệ, phồn

thịnh. Nhưng nhiều văn bản đã gợi dẫn, nhà cửa là nơi nhốt con người

trong cảm giác cô đơn. Họ chẳng thể làm gì trong ngôi nhà “siêu mỏng”

– một đặc sản thời tấc đất tấc vàng. Con người hơn loài vật nhờ điều gì?

Không phải là giọng nói, không phải là ý thức. Vì rõ ràng một kí sinh

như ruồi cũng có đối thoại và suy nghĩ. Ruồi và ruồi (Đã Phấn) đã diễn

giãi rất rõ ràng: đó là “chỗ trú ẩn. Những vật liệu đã từng gìn giữ sĩ

diện cho con người” [64, tr.32]. Có chăng là con người đầy đủ tiện

nghi hơn, kĩ thuật hiện đại hơn so với muôn loài khác.

Cùng với nhà cửa, phục trang cũng là một vật phẩm để tạo sự

tôn ti, thứ bậc cho con người. Và nếu mặt trái của nhà cửa là nhốt con

người vào những lồng không gian ngột ngạt, thì mặt trái của phục trang

là biến con người như những con rô-bốt đơn điệu, tẻ nhạt. Gió mùa đông

bắc về, những đứa trẻ trong Gần như là sống (Đỗ Phấn) đến trường co

ro với “bộ đồng phục lồng phồng vặn vẹo”. “Sau nhiều năm miệt mài

nghiên cứu thời trang học đường, ngành giáo dục đã thiết kế ra những bộ

đồng phục duy nhất một tiêu chuẩn. Đảm bảo không đứa nào mặc vừa”

[63, tr.327]. Người lớn thì chạy đua trong những mốt thời trang khó

hiểu. “Quần áo toàn một màu rêu nhàu nhĩ te tướp mòn bạc. Cả một

thành phố cứ như vừa đi “bộ đội” thoắt cái đã trở thành cựu chiến binh”.

Và “nỗi ám ảnh về sự khác người bị bỏ quên của một kẻ không cơ quan

đoàn thể” đã thôi thúc nhân vật tôi bước chân ra đường, “trong bộ quần

áo màu rêu” nhàu nhĩ ấy. Kết quả là, “thành phố toàn một màu rêu thời

trang làm cho con mắt nhiều lúc cảm thấy không màu”, và chẳng ai

buồn nhìn sang người khác – như mình cả thôi. “Buổi sáng không màu”!

Page 23: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

21

Một thành phố nhạt nhòa trong những đồng phục và mốt thời thượng

đầy phản cảm.

4.2.2. Những huyền tích, tập tục như cách thức điều chỉnh tư duy

về Trái đất

4.2.2.1. Mã báo ứng - quyền năng của tạo hóa qua thế giới biểu tượng

Trong cái nhìn của phê bình sinh thái, nhận thức không phải là

mục đích duy nhất và chủ yếu của huyền tích, tập tục. Mục đích then

chốt của huyền tích, tập tục là nối dài và kế tục tinh thần hòa hợp giữa

cá nhân, xã hội và tự nhiên, duy trì trật tự xã hội và vũ trụ đã có từ khởi

thủy. Sự phục hồi và biện giải những huyền tích, lời sấm truyền là cách

thức cảnh báo những quyền năng tạo hóa của người xưa. Đất và rừng

trở thành biểu tượng văn hóa tinh thần của dân tộc Việt Nam trong Mẫu

thượng ngàn. Người Việt luôn kính trọng, tôn thờ đất đai và biến điều

này trở thành tôn giáo đầy ngưỡng vọng. Người Pháp “đến xứ sở này với

mục đích chiếm đất, khai hóa”, họ đã giày xéo những làng quê nguyên

sơ, bình yên của đất nước, cướp bóc sản vật quý hiếm, và khinh ngạo

trước tôn giáo thiêng liêng của dân tộc – đạo Mẫu. Dưới sự quan sát của

nhà dân tộc học Réne, đất và rừng An Nam đều có linh hồn, đều có con

mắt biết thương yêu và biết trừng phạt. Không ít người Pháp đã bị đất trả

thù qua hiện tượng “going black”: “Đó là sự trả thù của đất mẹ. Đó là số

phận những người đi xâm chiếm chúng ta. Chúng ta đi đồng hóa người,

nhưng chúng ta cũng không thoát khỏi bị đồng hóa trở lại” [22, tr.513].

Sự hòa quyện các yếu tố huyền thoại, tập tục, báo ứng sẽ tạo ra

nhiều ám gợi và lay động mãnh liệt đến tâm thức con người, tạo nền

móng tinh thần vững chắc để không ngừng răn đe, nhắc nhở chúng ta

nhất thiết phải kính cẩn và khiêm nhường trước tự nhiên.

4.2.2.2. Mã hạnh phúc – cảnh giới của sinh tồn qua hệ thống tập tục,

quan niệm

Các nhà phê bình sinh thái thường khẳng định: sự gắn kết giữa

trẻ em với thế giới tự nhiên lớn hơn rất nhiều so với người lớn. Trong tâm

hồn thiếu nhi luôn có sợi dây vô hình liên kết cùng vạn vật. Có lẽ, vì trẻ

thơ mang tính rỗng, được coi là biểu tượng của sự hồn nhiên, ngây thơ.

Điều này tạo ra nét gần gũi và dễ dàng thân thiện cùng tự nhiên. Tiểu

thuyết Biển của vô cùng (Thủy Trương) cũng nhấn mạnh: “Trẻ con mà,

Page 24: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

22

chúng chạm được vào những tần số âm thanh tinh tế nhất của vũ trụ, của

thiên nhiên và của cuộc sống qua trí tưởng tượng, qua màng rung mỏng

manh ngây thơ của chúng” [62, tr.100]. Trong một số tác phẩm, các nhà

văn đã đề cao tâm hồn thanh cao khi đối chứng với tự nhiên. Cô gái

Đồng Nàng (Sông, Nguyễn Ngọc Tư) là biểu hiện cho sự cần thiết phải

có phẩm tính trong sáng, thuần khiết của con người khi muốn đạt được

sự cộng hưởng cùng thế giới muôn loài. “Mọi thứ ở cô trong veo, ngời

ngợi”. Loài ốc Bụt tìm thấy ở cô những điều thuần khiết, chúng hát cho

cô nghe với tất cả tủi hờn. Những kẻ phàm tục như Lượm có thích nghe

tiếng loài vật thì chẳng bao giờ nghe được.

Tiểu thuyết Họ vẫn chưa về (Nguyễn Thế Hùng) giới thiệu về

tập tục nuôi hươu đầy linh thiêng ở một vùng núi miền Trung: Những

người nuôi hươu thì phải giữ cho thân thể trong sạch trước khi lấy

nhung – một sự trai giới để giữ thiêng cho nghề, người không giữ được

mình thì gây ra tai họa. Tâm thức đáng kính thể hiện trong khát vọng

sống, khát vọng duy trì nòi giống của con người từ việc lấy “Lộc trời”.

“Người thợ bắt đầu trong nghề nuôi hươu và khai thác Lộc trời không

thể là người buông thả, dễ dãi với các dục vọng của bản thân mình. Sự

bắt đầu phải là sự trưởng thành, chín muồi về nghề nghiệp, đạo đức,

nhất là sự bắt đầu đó lại là sự ứng xử với thiên nhiên”. Trong quá trình

lao động, những người nuôi hươu đã coi những sản phẩm nhung hươu

mang lại hằng năm chính là Lộc trời. Để được trời ban lộc, họ phải để

tâm hồn và thể xác trong sạch, tránh chạm vào những điều cấm kị, ô

uế, xem thường vạn vật. Đó cũng là chìa khóa để mở cánh cửa sung

túc, hạnh phúc của nông dân. Ngược lại, nếu bất tuân quy luật tự nhiên,

nhiều năm sau đó, trời sẽ không ban lộc, cuộc sống nhân dân rơi vào

cảnh thất thu, thiếu thốn, khó khăn.

Huyền thoại là một quyền lực thông tin cung cấp ý nghĩa nghi lễ

và lời sấm truyền, là sự khai mở toàn diện cho nhân loại nhằm xem xét

các mối quan hệ giữa con người và môi trường. Ấn tượng sức mạnh và

quyền năng của tự nhiên không phải là dấu ấn riêng của từng cá nhân

sau khi họ bị vướng phải những tai nạn sinh thái, mà đó là tâm thức của

cộng đồng, được tiếp nhận và nối dài từ xa xưa. Giải mã những huyền

Page 25: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

23

tích và tập tục về tự nhiên, chúng ta sẽ giải mã được đâu là cảnh giới của

sinh tồn, đâu là nguyên tắc sống vẹn toàn của nhân loại.

KẾT LUẬN

1. Quan niệm về thực tại và con người như đã nói ở trên chính

là chìa khóa mở đường cho sự đổi mới tư duy cùng những tìm tòi lối viết

phù hợp với tâm thế, thị hiếu thẩm mĩ trong không gian văn hóa mới.

Đây là những tác nhân đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự chuyển dịch và

vận hành của tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết sinh thái nói riêng.

Thời gian đầu, tư tưởng sinh thái trong tiểu thuyết vẫn chưa rõ nét, biểu

thị mờ nhạt cùng với các chủ đề, tư tưởng khác. Dần dần, các nhà văn đã

ý thức được đề tài sinh thái là một vấn đề thiết yếu, có ý nghĩa trong đời

sống hiện đại. Từ những năm cuối thế kỉ XX đến nay, tiểu thuyết sinh

thái phát triển mạnh, được các nhà văn trình bày theo hệ thống quan

điểm và diễn ngôn sinh thái đặc trưng với từng phong cách riêng (trường

hợp phong cách sinh thái đô thị như Đỗ Phấn, sinh thái hoang dã như

Trần Duy Phiên). Đặc biệt, các nhà văn trẻ cũng rất lưu tâm đến vấn đề

sinh thái như một hiện tượng nóng bỏng trên toàn cầu.

2. Với cách tiếp cận lấy chỉnh thể sinh thái làm trung tâm,

chúng tôi tiến hành tìm hiểu đặc tính hậu/ giải cấu trúc phê bình sinh

thái trong tiểu thuyết Việt Nam giai đoạn 1986 – 2014. Tuy nhiên,

mục đích của giải/ hậu cấu trúc không nhằm thay thế vị trí của sự đối

lập phân cực, mà nhằm phá huỷ, thủ tiêu mâu thuẫn của các cặp đối

lập (như nhân loại/ tự nhiên) bằng cách điều chỉnh mối quan hệ của

chúng. Khi vận dụng lí thuyết này trong phê bình sinh thái, chúng tôi

nhận thấy cần phải cẩn trọng, nếu không sẽ rất dễ rơi vào các trường

hợp: hoặc là quá chú trọng đến văn bản (hệ lụy đi kèm: phê bình sinh

thái trở thành lí thuyết lệ thuộc của hậu/ giải cấu trúc); hoặc là quá đề

cao “cái chết của chủ thể”, triệt hạ hoàn toàn vị thế con người, quên

mất con người cũng là mắt xích quan trọng trong sinh thể. Vì vậy,

tính đối thoại là con đường để hòa giải những xung khắc trên. Những

phạm trù của hậu/ giải cấu trúc như phi trung tâm, cái chết của chủ

thể, tính liên chủ thể, tính đối thoại trở thành điểm tham chiếu và ứng

dụng để dẫn nhập, giải mã những thông điệp môi trường. Giải quyết

Page 26: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

24

những hạn chế của hậu/ giải cấu trúc, chúng tôi tin rằng đây sẽ là

phương pháp thực hành rất hữu ích để chuyển tải tư tưởng và nhiệm

vụ của văn học sinh thái.

3. Trên tinh thần định giá chuẩn tắc đạo đức sinh thái, chúng

tôi quy thành ba tiêu chuẩn đạo đức cơ bản: Nhân vật xâm phạm tự

nhiên, nhân vật nạn nhân sinh thái, nhân vật thức tỉnh. Kết quả của

công việc khảo sát cho thấy, với kiểu nhân vật xâm phạm tự nhiên, sự

mơ hồ sinh thái liên quan nhiều đến các vấn đề chính trị - xã hội và

các cơ chế, chính sách trong quản lí môi trường. Về thực chất, các

nhà văn không cố tình thiết lập một hình mẫu nhân cách lí tưởng để

chứng minh rằng, không có chủ thể nhân loại trung tâm, không có

khách thể tồn tại độc lập, càng không có sự tách biệt giữa người và

vật. Sâu xa, đó là những phản chiếu về tương lai nhân loại phải đối

mặt. Nên trào lưu về với thiên nhiên, đề cao lối sống điền viên là

những gì mà các tiểu thuyết gia muốn độc giả đương đại hướng tới

với thái độ tôn trọng và thành kính trước tự nhiên.

4. Trong chương bốn, việc nghiên cứu một số cạnh khía văn

hóa như quyền lực diễn ngôn và liên văn bản cho thấy rằng, phê bình

sinh thái đã tiếp thu nhiều nguồn lí thuyết và tạo ra những nét đặc

trưng, hấp dẫn cho riêng mình. Qua những diễn ngôn về tự nhiên, con

đường đi của tiểu thuyết sinh thái Việt Nam là từ “phản lãng mạn”

cho đến những tưởng tượng mới về môi trường với các chức năng dự

báo, tiên đoán. Tiểu thuyết sinh thái đã chất vấn khá rõ nét bản chất

của các văn bản tự sự về môi trường, hạn chế hoặc ít khi thấy sự ca

tụng thiên nhiên như trong những văn bản thường làm trước đó. Bên

cạnh đó, hướng đến triết lí phương Đông, từ những huyền tích, tập

tục dân gian, chúng tôi muốn hướng đến phần tư tưởng của phê bình

sinh thái. Quyền lực của tự nhiên không phải là dấu ấn riêng của từng

cá nhân sau khi họ bị vướng phải những tai nạn sinh thái, mà đó là

tâm thức của cộng đồng, đã được truyền lại từ xa xưa. Sự gắn kết

giữa truyền thống và hiện đại, dân gian và bác học đã làm nên mạch

ngầm tuần hoàn, liên hồi cho cảm hứng cội nguồn sinh thái trong văn

học Việt Nam.

Page 27: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

25

5. Trên tinh thần nỗ lực giải quyết các vấn đề trọng tâm của đề

tài, chúng tôi nhận thấy vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra, nếu có điều

kiện nghiên cứu trong tương lai, đây sẽ là những gợi mở thú vị:

- Bản chất là một lí thuyết khởi nguồn từ phong trào hoạt

động môi trường, phê bình sinh thái bị cho là yếu về lí luận, nhiều

khi bỏ qua lí luận. Do đó, xây dựng hệ thống lí luận phê bình sinh

thái vững chắc đang là mục tiêu hướng đến của các nhà nghiên cứu.

Đây là hướng nghiên cứu mở ra triển vọng để xác định cụ thể đối

tượng nghiên cứu phê bình sinh thái, phương pháp thực hành khả

dụng, tránh tình trạng “vay mượn” và “lạm dụng” quá nhiều các lí

thuyết khác, mất đi giá trị độc tôn của phê bình sinh thái. Thực tế,

phê bình sinh thái chú trọng nhiều đến cảm hứng phê phán, điều này

khó mang lại sự trưởng thành về phương diện lí luận. Nếu dẫn nhập

tinh thần triết học sinh thái phương Đông cổ đại, phê bình sinh thái sẽ

bồi đắp và củng cố một số vướng mắc từ trong bản chất.

- Một hướng đi khác có thể xem xét khi nghiên cứu về phê

bình sinh thái trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại đó là các vấn đề

sinh thái nữ quyền, sinh thái giai cấp, sinh thái đô thị, sinh thái hậu

thực dân. Những điều này, chúng tôi đã đề cập đến trong luận án,

nhưng chưa mở rộng và sâu sắc. Do đó, việc phát triển các phạm trù,

phân nhánh của phê bình sinh thái sẽ là những hướng khám phá mới

để tiếp tục công việc nghiên cứu sau này.

- Khi tìm hiểu về tiểu thuyết giai đoạn 1986 – 2014, chúng

tôi nhận thấy càng về sau, đặc biệt từ 2012 đến nay, càng có nhiều

tiểu thuyết thể hiện rõ tư tưởng sinh thái, những vấn nạn về môi

trường được diễn ngôn tường tận, ám ảnh. Cột mốc 1986 – 2014 chỉ

là sự giới hạn thời gian, phạm vi khảo sát của luận án ở khoảng gần

nhất khi chúng tôi bắt đầu tiếp cận đề tài này. Trong quá trình viết,

chúng tôi cũng đã phân tích, nghiên cứu một số tiểu thuyết của những

năm kề cận (2015, 2016) nhằm tạo nên một cái nhìn liền mạch trong

dòng chảy của tiểu thuyết sinh thái đương đại Việt Nam. Vì thế, thiết

nghĩ sẽ rất đáng quý nếu lưu tâm nhiều hơn đến giai đoạn này và lí

giải vì sao tiểu thuyết đầu thế kỉ XXI lại sự nở rộ cảm hứng phê bình

sinh thái. Đây cũng là dấu hiệu phản tỉnh trước cuộc khủng hoảng

Page 28: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

26

môi trường toàn cầu, và cũng cho thấy phê bình sinh thái đang là

hướng nghiên cứu hợp thời, ý nghĩa trong thời đại ngày nay.

Page 29: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC

CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

I. Bài báo

1. Nguyễn Thùy Trang (2015), “Văn xuôi Nguyễn Ngọc Tư từ góc

nhìn sinh thái”; Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Huế,

2015, Tập 105, số 6, tr.179-190.

2. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Cảm quan sinh thái trong tiểu thuyết

Trăm năm còn lại của Trần Duy Phiên”, Tạp chí Khoa học Xã hội và

Nhân văn, Đại học Huế, tập 125, số11, tr.235-246.

3. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Phê bình sinh thái ở Việt Nam từ góc

nhìn văn hóa”; Kỷ yếu khoa học Thành tựu văn học Việt Nam ba mươi

năm đổi mới (1986 – 2016), Trường Đại học Khoa học Huế, tr.76-84.

4. Nguyễn Thùy Trang (2016), “Văn xuôi Nam Bộ sau Đổi mới từ góc

nhìn phê bình sinh thái”; Kỷ yếu Hội thảo Văn học Việt Nam trong xu

hướng toàn cầu hóa, Trường Đại học Sư phạm Đà Nẵng, tr.466–474.

5. Nguyễn Thùy Trang (2017), Tính đối thoại – phương thức kết nối

với thế giới tự nhiên trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, Tạp chí

Nghiên cứu văn học, 2017, số 3, tr.31–38.

6. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Tiểu thuyết Chó Bi – Đời lưu lạc của

Ma Văn Kháng – Nhìn từ lí thuyết phê bình sinh thái”, Nghiên cứu và

dạy học Ngữ văn trong bối cảnh đổi mới giáo dục, Nxb Đại học Huế,

2017; tr.152-162.

7. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Sự lật đổ quan niệm “nhân loại trung

tâm” trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại”, Tạp chí Khoa học,

Trường Đại học Sư phạm Hồ Chí Minh, 2017, tập 14, số 4b, tr.72-80.

8. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Những hệ lụy của văn hóa hiện đại đối

với môi trường sinh thái từ phương diện đô thị hóa trong văn xuôi Việt

Nam sau Đổi mới”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Trường Đại học

Khoa học Huế, tập 9, tr.63–72.

9. Nguyễn Thùy Trang (2017), “Kiểu nhân vật nạn nhân sinh thái trong

tiểu thuyết Việt Nam từ sau Đổi mới đến nay”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế:

Tiếng nói bản địa, tiếng nói toàn cầu, Viện Văn học, tr.689-708.

Page 30: TIỂU THUYẾT VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986 2014 TỪ GÓC NHÌN … · 2020-02-20 · ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THÙY TRANG TIỂU THUYẾT VIỆT

10. Nguyễn Thùy Trang (2018), “Thông điệp môi trường trong tiểu

thuyết Nhắm mắt nhìn trời của Nguyễn Xuân Thủy”, Tạp chí Khoa học

và Công nghệ, Trường Đại học Khoa học Huế, tập 11, số 2, tr.43-52.

II. Đề tài nghiên cứu khoa học

11. Nguyễn Thùy Trang (2016), Văn xuôi Trần Duy Phiên từ góc nhìn

phê bình sinh thái, Đề tài khoa học cấp trường, Trường Đại học Sư

phạm Huế. mã số: T.16 – XH – 06.