91
Trích đoạn Tiểu thuyết "Giã Từ" Phạm Việt Long Nhà Xuất bản Dân trí vừa xuất bản Tiểu thuyết “Giã từ” của nhà văn Phạm Việt Long. Vanhien.vn trân trọng giới thiệu với bạn đọc hai đoạn trích trong “Giã từ”. Chương một NHỮNG HÌNH HÀI ĐEN ĐỎ Người hùng bên đầm Một kế hoạch hoàn hảo đã được vạch ra. Phen này, bọn mại dâm sẽ chui tụt cả lũ vào rọ. Lê Đản nghĩ như thế nhưng vẫn chưa yên tâm. Gã rời khỏi bàn làm việc, mở cửa sau, bước ra sân thượng. Một làn gió thổi thốc tới làm gã lạnh xương sống. Khẽ rùng mình, gã nghĩ: “Điềm gì đây nhỉ, mới đầu đông mà sao lạnh dữ vậy!”. Gã đưa mắt nhìn bao quát khung cảnh xung quanh. Bầu trời xám xịt một mầu mây ảm đạm, giống như một cái vung nhôm đè nặng mặt đất. Cây cối cũng xam xám, mất hẳn cái sắc xanh tươi rói của lá, của cây vùng nhiệt đới nóng và ẩm. Mặt đầm bát ngát như không có bờ, nước gợn sóng lạnh lẽo. Khung cảnh thiên nhiên trái ngược hẳn với lòng dạ gã. Nó nóng rừng rực. Nó sôi sùng sục. Nó cuồn cuộn sóng. Nhưng thẳm sâu, nó lại tĩnh lặng trong một quyết tâm sắt đá, một mưu kế hiểm độc. Nó hối thúc gã phải khẩn trương nhưng khôn khéo đưa cái lũ mất dạy này vào tròng. Nhất định rồi, phải chờ đúng dịp con mẹ Tổng

GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Giã từ là một tiết đoạn trong bức tranh sống động hôm nay, một giai đoạn kỳ thú mà văn chương có thể và cần phải đem hết sức mình để miêu tả. Giã từ là một trong 51 cuốn tiểu thuyết đã lọt vào vòng chung khảo của cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn.

Citation preview

Page 1: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Trích đoạn Tiểu thuyết "Giã Từ"

Phạm Việt Long

Nhà Xuất bản Dân trí vừa xuất bản Tiểu thuyết “Giã từ” của nhà văn Phạm Việt Long. Vanhien.vn trân trọng giới thiệu với bạn đọc hai đoạn trích trong “Giã từ”.

Chương mộtNHỮNG HÌNH HÀI ĐEN ĐỎ

Người hùng bên đầm

Một kế hoạch hoàn hảo đã được vạch ra. Phen này, bọn mại dâm sẽ chui tụt cả lũ vào rọ. Lê Đản nghĩ như thế nhưng vẫn chưa yên tâm. Gã rời khỏi bàn làm việc, mở cửa sau, bước ra sân thượng. Một làn gió thổi thốc tới làm gã lạnh xương sống. Khẽ rùng mình, gã nghĩ: “Điềm gì đây nhỉ, mới đầu đông mà sao lạnh dữ vậy!”. Gã đưa mắt nhìn bao quát khung cảnh xung quanh. Bầu trời xám xịt một mầu mây ảm đạm, giống như một cái vung nhôm đè nặng mặt đất. Cây cối cũng xam xám, mất hẳn cái sắc xanh tươi rói của lá, của cây vùng nhiệt đới nóng và ẩm. Mặt đầm bát ngát như không có bờ, nước gợn sóng lạnh lẽo. Khung cảnh thiên nhiên trái ngược hẳn với lòng dạ gã. Nó nóng rừng rực. Nó sôi sùng sục. Nó cuồn cuộn sóng. Nhưng thẳm sâu, nó lại tĩnh lặng trong một quyết tâm sắt đá, một mưu kế hiểm độc. Nó hối thúc gã phải khẩn trương nhưng khôn khéo đưa cái lũ mất dạy này vào tròng. Nhất định rồi, phải chờ đúng dịp con mẹ Tổng Giám đốc người Đài Loan sang Việt Nam hãy quăng mẻ lưới bắt con cá bự. Lúc ấy, người ký biên bản phạm pháp quả tang chính là nó, con mẹ Chin keo bẩn. Hừ, cái con mẹ này không những keo bẩn mà còn vô lễ nữa. Mới thay thằng Cheng An làm Tổng Giám đốc cái Liên doanh này được ít ngày, nó đã dám thay đổi cách cư xử với mình. Nào phòng ốc. Nào bàn ghế. Nào máy tính. Nó thay tuốt. Đâu phải thay để nâng cấp. Mà là hạ cấp. Phòng bé hơn, lại ở tầng thượng. Bàn ghế cũng nhỏ hơn, mất hẳn dáng vẻ oai vệ. Máy tính cổ lỗ sĩ chạy như sên bò. Nhiệm vụ, quyền hạn cũng

Page 2: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

khoanh lại vẻn vẹn ở việc đảm bảo an ninh. Mất đứt đi cái chức trách giao dịch về kinh tế. Nó dám dằn mặt mình ư? Nó muốn thâu tóm quyền lực để tha hồ vùng vẫy trên đất nước của ta ư? Làm gì có chuyện dễ thế. Đất này ta là chủ. Ngươi chỉ là khách. Khách mà biết điều thì được đối xử tử tế. Còn vô lễ ư? Hãy đợi đấy! Gã lẩm nhẩm trên môi những suy nghĩ cay độc của mình rồi buột miệng thét lên ba từ cuối cùng vừa loé lên trong đầu: "Hãy đợi đấy!". Tiếng thét của gã dẫu muốn xé toang lồng ngực, cũng bị gió cuốn đi mất hút vào khoảng không xám xịt. Mắt gườm gườm nhìn mặt đầm gợn sóng lao xao, gã quay vào nhà rồi xuống tầng dưới. Kia rồi, thằng Nguyễn Tuấn Lặng đang đi đến. Nó gọi khẽ: "Lặng, lên phòng tôi ngay!".

Khi hai người đã đóng chặt cửa, Đản hỏi Lặng: "Thế nào?".Chỉ cần hỏi thế thôi. Thế là biết phải trả lời ra sao rồi. Hai gã hiểu tới tâm

can của nhau. Gần chục năm cộng tác với nhau trong cái Liên doanh này, hai người trở thành cặp bài trùng với biết bao nhiêu mưu ma chước quỷ. Một Phó Tổng Giám đốc. Một Giám đốc nhân sự. Hai người mà kết hợp với nhau thì trong ngoài đều tuyệt vời. Bọn nhân viên người Việt phải chịu một phép. Bọn đối tác ngoại nhân chỉ có mà ngơ ngáo ngoài cuộc. Đừng ra oai, cậy ta có tới tám lăm phần trăm cổ phần mà đòi làm chủ nhá! Còn lâu! Chúng mày là thế nào? Một từ tiếng Việt bẻ đôi không biết. Miệng như ngậm hột thị, ú ớ. Tai như bị đổ sáp ong, điếc tịt. Muốn nghe, phải qua máy nghe. Muốn nói, phải qua máy nói. Hai cái máy ấy, là của tao, do tao sắm cho chúng mày và tất nhiên là do tao điều khiển cả tầm xa lẫn tầm gần. Đó chính là thằng Lặng này đây. Nó giỏi tiếng Hoa, nó kiêm chức thông dịch viên. Nó chính là cái máy nghe, máy nói mà tao trang bị cho lũ đối tác các người.

Câu nói của Lặng đưa Đản trở lại thực tại:- Thưa anh, mọi việc thu xếp đâu vào đấy rồi ạ!- Tốt!- Em đã bàn phương án tác chiến với bên cơ quan Chức năng. Họ đã lập

chuyên án.- Tốt!- Hai phòng đón khách, em đã cho tháo vít chốt cửa, chỉ để hờ, đẩy nhẹ là

tung ra!- Tốt!- Phía cửa sổ, em đã cho vén màn che phía trên để có thể nằm trên sân

thượng nhòm xuống!

Page 3: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

- Tốt!- Và...- Thôi, thôi đủ rồi. Này, bảo con Huyền lên mát xa cho tôi nhé!- Hì hì. Có ngay ạ! Đơn giản thôi mà!Mẹ kiếp, cái điều đơn giản mà thằng Lặng nói, đâu có đơn giản. Để chuyển

nó từ phức tạp thành đơn giản, ta đã tốn bao công sức, tiền của. Phải làm đệ tử trung thành của lão Chủ tịch Tập đoàn bao thời gian mới xin được lão cử sang đây tham gia liên doanh. Hầu hạ lão đủ kiểu. Mỗi tháng, còn phải trích ra 500 đô cống lão. Có thế mới giữ được chân Phó Tổng Giám đốc Liên doanh này suốt gần chục năm. Chậc, cái mất chẳng bõ bèn gì so với cái được. Thu nhập chính tắc của ta mỗi tháng cũng gấp trên chục lần cái khoản chi ấy. Hừ, chính tắc thôi. Còn các khoản phụ thu, tính làm sao hết được. Mà cũng chẳng cần tính làm gì. Chỉ cần biết có điều kiện là thu. Qủa thật là Đản có tài tận thu. Tận thu như Nhà nước tận thu thuế. Nhưng Nhà nước luôn luôn thất thu thuế, luôn luôn bị các chiêu lừa. Nào là khai khống hàng xuất khẩu để hưởng hoàn thuế giá trị gia tăng. Nào là sổ sách hai loại để giấu doanh thu, lợi nhuận. Đến cả các cô ca sĩ người của công chúng cũng trốn thuế, khi muốn tự tung hô cho mình thì tuyên bố cát xê mỗi tối biểu diễn lên tới vài chục triệu đồng, nhưng khi ông Thuế bảo khai thu nhập để tính thuế thì con số ấy tụt vèo xuống chỉ còn vài ba trăm ngàn bọ. Thất thu đủ kiểu khiến Nhà nước cảnh giác đi kiểm tra gắt gao, đưa ra đủ loại quy định ràng buộc, mở rộng đối tượng đóng thuế. Tới mức người ta định đánh thuế cả những bác xe ôm khốn khổ vật vờ đón khách nơi đầu đường xó chợ. Lại còn định đánh thuế thu nhập những người nông dân cùng khổ một nắng hai sương. Còn Đản, thu đâu tận đấy, đố có thất khoản nào. Tiền thu được rót vào tài khoản của Công ty Thu Đạm. Công ty ấy của gã, gã làm Giám đốc ẩn danh. Gã tha hồ đầu tư cho chuyện học hành của con gái, kể cả mời những gia sư vào hàng cao cấp. Rồi biệt thự. Gã thiếu gì đâu. Kể cả gái gú. Đủ loại. Gái tân, gái nạ dòng, gái trẻ, gái xồn xồn, gái gầy, gái béo, gái Nam, gái Trung, gái Bắc. Đủ hết. Qua tay gã hết. Một lô một lốc. Nhưng riêng Thu Huyền, gã cảm thấy khó điều khiển quá!...

Nghĩ đến Thu Huyền, Đản thấy rậm rật cả người. Cô gái này vào đây mới được mấy tháng, làm nhân viên mát xa. Mấy tháng, làm ở một cơ sở, so với nghề mát xa, là bình thường. Cái đặc tính nghề nghiệp, quan hệ chủ - tớ, sự đòi hỏi cái mới, cái lạ của khách... khiến cho người hành nghề này như kẻ du mục. Cứ lang thang hết phòng mát xa này sang phòng mát xa khác, tỉnh này qua tỉnh nọ, nơi lâu

Page 4: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

cũng chỉ trụ được khoảng hai năm là cùng. Có khi chỉ dăm ba tháng đã nhổ neo ra khơi! Thế cho nên Huyền mới dạt ở nơI nào đó tới đây mấy tháng là chuyện dễ hiểu... Nhưng, có điều lạ là Thu Huyền không một phép chiều chuộng sếp như các cô gái khác, ngược lại hơi ngang bướng. Bương bướng đâm ra Đản lại thích. Những cô gái vừa vuốt vào cổ mấy cái đã tuột hết sống áo ra mà dâng hiến, thì chán lắm. Những cô cứ cương cương, ỡm ờ, giữ giữ gìn gìn bắt đàn ông phải đòi hỏi, phải chiếm đoạt, lại trở nên hấp dẫn với Đản lạ lùng.

- Thưa anh!Đản giật bắn mình khi cửa bị xô vào gấp và Lặng thò cổ vào hấp tấp gọi.

Như vẫn còn mê mẩn với hình ảnh người đẹp, Đản thảng thốt:- Hở hở. Gì thế?- Thưa anh, con Huyền không chịu lên ạ. Nó bảo mời anh xuống phòng,

xông hơi rồi mát xa luôn thể!- Thôi, cút đi! - Đản bỗng nổi quạu.Cửa khẽ khàng khép lại. Đản lại chìm trong dòng hồi tưởng đục ngầu. Hầu

hết các ả tiếp viên làm ở Khách sạn Bạch Liên này đều đã qua tay gã. Tuổi mới sắp tứ tuần, lại có thuốc trợ lực, trợ tính dục, gã khoẻ như vâm. Phải phục vụ gã, có nhiều cô phát hoảng, vì gã đã không cho tiền boa lại còn... làm rất lâu! Dai dẳng. Dầm dề. Như đỉa... Những cô tiếp viên đã qua tay sếp đều sợ đến rúm tứ túc. Kể cả những ả hoạt động mại dâm chuyên nghiệp, coi quan hệ tính dục như chuyện thường tình, cũng thấy sợ. Chẳng cô nào dám mở mắt nhìn khuôn mặt gã áp sát. Khuôn mặt sần sùi những mụn. Đôi môi mím chặt, thỉnh thoảng ngoác ra theo nhịp thở hồng hộc. Nhưng, đắm chìm trong khoái cảm xác thịt, gã không cảm nhận được nỗi sợ hãi toát ra từ các cô gái. Nhiều khi, thấy cô gái dướn qua dướn lại để tránh hơi thở của gã, gã lại nghĩ rằng cô này khoái phát cuồng lên rồi. Từ đó, gã lấy làm tự hào về khả năng đem niềm khoái cảm đến ban cho những đồng loại khác giới. Tự hào thực sự. Thế mới là đàn ông. Cái khả năng dục tính trời cho có công bằng đâu. Khối kẻ khốn khổ vì cái tội “trên bảo dưới không nghe”. Cũng có kẻ luôn luôn mang nỗi mặc cảm thất bại khi vừa tới chợ đã hết tiền. Riêng với ta, cứ phừng phừng như lửa củi thông. Muốn là lên liền. Hừng hực. Dai dẳng. Nhiều khi, với niềm tự hào của con gà trống trước bầy gà mái, gã ưỡn ngực đi qua đi lại giữa hai hàng tiếp viên đang xếp hàng chờ khách. Mặt gã vênh lên. Mắt gã hấp háy. Cái miệng gã chum chúm. Cái lưỡi gã thoắt thò ra thoắt thụt vào như lưỡi rắn. Chỉ thiếu nước gã giang đôi tay ra như đôi cánh gà và chân đạp đạp lượn quanh bầy

Page 5: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

thiếu nữ như con gà trống ghẹ gà mái! Gã nghe dân làng chơi kháo nhau rằng theo điều tra của các nhà khoa học thì hai phần ba phụ nữ trên trái đất cho đến cuối đời chưa một lần được đạt đến điểm cực khoái khi hoạt động tình dục. Tội nghiệp, nhiều chị em phải tự làm cho mình thoả mãn. Vì vậy, ngành sản xuất dụng cụ làm tình phục vụ chị em trên thế giới đạt bước tiến nhảy vọt. Giá ai cũng oai hùng như gã, thì chị em làm gì đến nỗi khốn khổ và cái ngành công nghiệp giả dối kia cũng tiêu tan. Càng nghĩ, Đản càng tự hào về cái khả năng làm tình của mình và càng nổi điên lên với cô Huyền. Con ranh láo thật. Muốn đuổi việc không? Ấy, không được. Đuổi việc, làm sao bắt nó hầu được? Thôi, trời không chịu đất thì đất chịu trời vậy. Đành xuống phòng mát xa cho con bé đấm bóp.

Thấy Đản, cô nhân viên trực khu vực mát xa vội đứng dậy lễ phép:- Thưa, sếp muốn em nào phục vụ ạ?- Lại còn hỏi. Huyền!- Dạ vâng!Thế là Đản đi về phòng số 4. Một lát sau thì Huyền đi theo. Cô không đẹp

lộng lẫy nhưng đằm thắm, có duyên. Đôi lông mày uốn cong, đậm đà trên khuôn mặt hơi tròn, đôi mắt to với phần lòng trắng mầu hơi xanh, lòng đen đen như hạt nhãn. Sống mũi cao vừa phải, cân đối với khuôn mặt. Mái tóc không cắt tỉa, để buông tự nhiên. Có vẻ hoang sơ, thôn dã. Trong bộ váy áo đồng phục mầu cánh sen, trông cô càng duyên dáng. Đản tít mắt nhìn Huyền. Cái miệng chúm của gã chẹp chẹp. Đôi mắt gã nhìn hau háu trên khắp thân thể cô. Ánh mắt gã đục mờ đầy mưu toan. Đôi mắt Đản thật lạ, nhìn mọi người đố có dám nhìn thẳng. Cứ cùm cụp hoặc láo liêng, không dám chạm ánh mắt mình vào ánh mắt ai. Nhưng với Huyền, đôi mắt ấy tỏ rõ uy lực. Nhìn đâu là nhìn thẳng đấy. Nhìn mắt xoáy vào mắt. Nhìn ngực muốn xé toang áo ngực. Nhìn mông muốn tốc cả váy sống lên... Huyền lễ phép:

- Thưa, Phó Tổng xông hơi trước chứ ạ?- Sao em lạ thế. Xông hơi cho tốn thời giờ hả? Nào, vào đây!Đản kéo tay Huyền vào theo rồi đóng sập cửa lại. Huyền miễn cưỡng không

vùng tay ra. Đản buông tay Huyền, tuồn tuột cởi quần áo. Còn mỗi cái quần đùi, Đản định kéo phăng xuống thì Huyền ngăn lại:

- Thưa Phó Tổng, nội quy không cho phép...- Đưa cái khăn đây, anh quấn để dễ mát xa. Quần với chả quẫn, vướng víu

ra!

Page 6: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

- Thưa không được ạ, nếu bảo vệ phát hiện, em sẽ bị đuổi việc!Miễn cưỡng giữ lại chiêc quần đùi, Đản leo lên nằm ngửa trên tấm băng mát

xa. Gã lim dim mắt nhìn Huyền. Cô thản nhiên làm phận sự. Lạ thật, chung đụng với biết bao thân xác đàn bà, cảm giác đã chai lỳ đi, thế mà khi cô gái này chạm vào người, Đản vẫn khẽ rùng mình. Nhắm hẳn mắt lại, gã nằm im nhấm nháp cái cảm giác đê mê khi đôi bàn tay cô gái xoa lên cơ thể gã. Gã chỉ tự trách mình tại sao cứ như bị con bé thôi miên, hết cả chủ động, không dám làm cái điều mà gã rất khoái. Tại sao không tuốt tuồn tuột ra như thủa lọt lòng. Phơi bầy ra hết mới là chân thực. Gã có quan niệm, có triết lý hẳn hoi về sự chân thực. Theo gã, cái gì trần trụi, cái ấy thể hiện sự chân thực. Quần áo, chỉ là sự che giấu, tô vẽ làm cho con người ta khác nhau. Cho nên các cụ mới nói rằng "Hơn nhau tấm áo manh quần/Cởi ra mình trần ai cũng như ai!". Thực ra thì không phải rằng ai cũng như ai đâu. Có kẻ gầy, người béo. Có kẻ trắng, người đen. Nhưng, gã không quan tâm lắm đến sự khác nhau ấy. Gã chỉ quan tâm tới sự khác nhau ở cái của quý trời ban cho. Trời cũng chẳng công bằng đâu. Chẳng thế mà có kẻ vừa sinh ra đã trở thành người khuyết tật bởi thiếu bộ phận đàn ông! Còn của gã, chúa ơi, oai hùng lắm. Ra đời đã cường tráng. Lớn lên càng cường tráng. Người ta bảo rằng trên cơ thể, bộ phận nào hoạt động nhiều ắt bộ phận ấy phát triển hơn. Phình nở. Căng cứng. Dẻo dai. Vân vân. Gã liên tưởng tới con lợn giống mà gã thấy từ khi còn nhỏ. Hồi ấy, về quê tận Nông Cống, Thanh Hoá, ghé nghỉ chân ở nhà một ông lão, gã thấy trong sân có một con lợn to đùng. Lạ lùng là ở phía đuôi con lợn nổi lên hai cục to lù lù, mọng đỏ. Con lợn ấy được một người trai trẻ dắt thả vào chuồng với một con lợn khác. Con lợn này nhảy chồm lên con lợn kia, nhún nhảy... Thấy lạ quá, gã hỏi ông chú đang dắt tay gã. Vốn là nông dân mộc mạc và chân thực, ông chú giải thích: "Đây là lợn giống. Nó chuyên làm cái việc nhảy cái. Vì thế của nó mới to như vậy!". Hình ảnh con lợn giống với hai hòn cà to đùng khắc sâu vào trí não Lê Đản từ đó. Như là một nỗi ám ảnh tiền kiếp. Luôn khơi dậy trong gã lòng ham muốn được như con lợn giống. Lúc bé, cứ đi tiểu, đi ngoài hay đi tắm là thằng Đản nhãi ranh lai mân mê của quý của mình, ngắm nhìn nó, kiểm tra nó xem nó có lớn nhanh không? Khi lớn, với niềm tự hào bệnh hoạn, mỗi lần vào phòng tắm trước khi xông hơi, gã thường nhìn những gã đàn ông khác. Những khi ấy, gã cảm thấy mình như là người anh hùng từ hành tinh khác tới, vì so với gã, mọi người chỉ như trứng chim câu đặt cạnh trứng ngỗng. Chính vì lòng tự hào quái đản ấy, gã muốn khoe cái của đặc ân trời ban này với tất cả những kẻ khác giới. Và khi có điều kiện,

Page 7: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

là gã cởi bỏ tuốt tuồn tuột để diễu võ giương oai. Thế mà, với cô gái này, vũ khí của gã cứ phải khoác lá nguỵ trang suốt. Mê mẩn trong dòng suy tưởng dâm dục cộng với cảm giác đê mê nơi tay cô gái đem lại, Đản quên bẵng việc sàm sỡ mà gã vẫn thường giở ra với mọi cô gái khi gã có dịp tiếp xúc riêng. Hé mở mắt, thấy cô gái đang cắm cúi mát xa phần đùi của mình, gã khen:

- Em mát xa giỏi lắm!- Cảm ơn Phó Tổng!- Nào, mát xa kỹ đùi cho anh nhé. Ừ, tốt lắm, bóp, day đi. Ấy, không cần

bấm huyệt đâu. Nào, bóp, xoa rồi lại bóp, xoa cho máu lưu thông. Được lắm. Được lắm. Lên nữa đi. Lên nữa đi. Ấy, sao lại dừng ở đấy. Thế nào, không lên nữa à... Phải mát xa cả chỗ ấy chứ. Mát xa toàn thân cơ mà. Sao lại buông tay ra...

Gã ngồi phắt dậy, choàng tay ôm lấy Huyền. Cô gái gạt tay gã, nhảy xuống sàn nhà. Gã kéo tay cô:

- Thôi nào, ở lại, chưa hết giờ...*

* *Con người ta hay làm chuyện ấy vào giờ nào trong đêm? Lúc nào họ say mê

quấn quýt nhất? Đản nghiên cứu kỹ điều đó mấy hôm nay. Gã không thể lấy bản thân gã ra làm mẫu để tìm ra quy luật ấy được. Bởi lẽ gã là quái nhân. Gã hoạt động có quy luật đâu. Như gà. Thích đâu làm đấy. Thích lúc nào làm lúc ấy. Đàn bà con gái sẵn quá. Lòng ham dục của gã lại thường trực quá. Chỗ làm tình cũng dễ tìm quá. Thế là cứ lu bù, tung toé, vãi ra khắp nơi. Còn bây giờ, chuẩn bị bắt bọn mua bán dâm, phải biết quy luật. Đã có lần gã nghe người ta bảo rằng hoạt động tình dục vào nửa đêm là tuyệt vời. Bởi vì lúc ấy là giao điểm của thời gian - chuyển từ đêm qua ngày. Nhưng lại có bài báo nói rằng đó là thời điểm mà con người chìm đắm nhất, trì trệ nhất, hoạt dâm lúc ấy chỉ tổ hại sức khoẻ. Gã chẳng cần nghe ai nữa. Gã theo dõi hoạt động tại ngay Khách sạn Bạch Liên của gã. Trong sàn nhảy, nửa đêm vẫn còn là sớm. Phải một giờ sáng mới là lúc những đôi nhảy chia tay, cũng là lúc mà hoa thơm bướm lượn. Bướm lượn hoa thôi. Chưa phải là ong hút mật. Lên phòng nghỉ ngơi, cũng phải tới hai giờ sáng mới có hoạt động thực sự. Muốn thực mục sở thị, hôm ấy đúng hai giờ sáng gã leo lên sân thượng. Từ phòng của gã có lối riêng lên sân thượng. Sẽ sàng như con mèo rình chuột, gã nằm xuống sàn, bò ra mép tường. Bám chắc tay vào thanh sắt thu lôi, gã trườn xuống, ghé mắt nhìn qua ô cửa sổ. Cái ô cửa sổ đã bị vén tấm màn che ở

Page 8: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đoạn trên mà thằng Lặng đã báo với gã hôm nọ. Trong ánh sáng mờ ảo, gã nhìn rõ một đôi trai gái trần như nhộng đang quấn lấy nhau. Suýt nữa thì gã reo to lên: Bắt quả tang rồi! May mà gã ngậm kịp miệng lại. Rồi gã nằm im, chăm chú theo dõi. Quả là kỳ quái. Trong đời, gã chơi thì lắm chứ có bao giờ đi xem người ta chơi đâu. Lúc đầu, gã cảm thấy thờ ơ. Nhưng rồi, gã say dần. Tiếng rên rít của người đàn bà. Tiếng cơ thể cọ xát. Hình ảnh đôi na nữ quằn quại, dập dềnh trên tấm đệm êm. Tất cả bỗng tạo cho gã một khoái cảm kỳ lạ. Khoái cảm của kẻ chứng kiến khoái cảm của người khác. Nó tạo ra trong cơ thể gã những cơn khoái lạc khác hẳn những cơn khoái lạc mà gã từng có trong các cuộc giao hoan. Nó nhẹ nhàng hơn. Nhưng nó thấm sâu hơn. Nó làm cho gã như được sống hai cuộc đời, được có khoái cảm của hai giới đực và cái cùng một lúc. Chính vào cái thời khắc ấy, gã nhiễm một thói dâm mới, thói thị dâm - thích xem người khác làm tình. Rồi đây, cái thói dâm này sẽ khiến gã sống man rợ hơn, bẩn thỉu hơn và nhiều khi hành hạ gã đến phát điên phát cuồng.

Sau khi nắm chắc quy luật hoạt động tình dục của những đôi mua bán dâm tại chính Khách sạn mà gã làm Phó Tổng Giám đốc, Đản ra lệnh cho Lặng báo cơ quan Chức năng triển khai chiến dịch. Không có xe ô tô hú còi thị uy. Không có những đội vũ trang vũ khí đầy mình vây ráp. Chỉ có một tốp sáu chiến sĩ vũ trang nhẹ. Và kèm theo ba nhà báo cũng với trang bị gọn nhẹ là máy ghi âm và máy ảnh kỹ thuật số. Thời này là thời của báo chí. Anh nào biết tranh thủ báo chí, anh ấy thắng. Anh nào đối đầu với báo chí, sự nghiệp coi như đi đời. Hoạt động Khách sạn, vũ trường mà có những nhà báo ruột tung hô hoặc che chắn thì cứ yên tâm. Gã nhận thức sâu sắc điều ấy cho nên gã đã sớm thiết lập mối quan hệ máu thịt với một số phóng viên của một số tờ báo nổi tiếng về châm chích. Lẽ ra, gã có thể mời hẳn chục phóng viên đến chứng kiến, đưa tin, viết bài về sự kiện nổi bật này. Nhưng vì bí mật, gã chỉ mời phóng viên của hai tờ báo thân thiết nhất với gã.

Đúng giờ G. Tín hiệu từ trên tầng thượng phát lên bởi hai chiến sĩ cơ quan Chức năng đã phục sẵn trên đó. Hành lang tầng thượng đang mờ mờ nhân ảnh bỗng bừng sáng trong ánh đèn pha. Hai cánh cửa ra vào của hai phòng liền kề 601, 603 bỗng bật tung. Đèn từng phòng vụt sáng. Mỗi phòng có ba người ập vào. Hai đôi trai gái trần như nhộng đang quấn vào nhau, theo phản xạ bản năng vùng khỏi giường định chạy trốn. Những tia chớp Flat của máy ảnh nháy liên hồi. Những thân hình nồng nỗng ấy vội sụm xuống. Co ro. Cúm rúm. Vơ vội tấm chăn che lên thân thể loã lồ...

Page 9: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Đản đánh giá chiến dịch đã thành công tuyệt đối. Mỹ mãn. Đã bắt quả tang việc mua bán dâm tại Khách sạn. Bắt đúng thời cơ. Lúc này, mẹ Chin, Tổng Giám đốc, vừa từ Đài Loan bay sang. Thế là có người ký biên bản phạm pháp quả tang. Người nước ngoài ký. Không phải người Việt chúng ta. Chúng ta chống mại dâm. Chỉ có bọn xấu xa như các người là coi thân xác phụ nữ như hàng hoá. Lần này thì chúng mày chết. Mặt mẹ Chin, dù đã phấn son mĩ miều, vẫn nhợt đi. Méo xệch. Nhăn nhúm. Ứa nước mắt. Rồi ròng ròng nước mắt. Vào đây. Vào đây ngay. Vào căn phòng này. Có bàn ghế. Có giấy bút để ghi biên bản. Có cả máy ghi âm. Và cả máy quay phim nữa. Tha hồ ghi bằng chứng. Chúng mày có cãi đằng trời. Đồng hành với những khuôn mặt đanh thép, có một khẩu súng ngắn lạnh lùng nằm chềnh ềnh trên mặt bàn. Nào, khai đi. Hoạt động mại dâm tại Khách sạn là có chủ trương, đúng rồi còn cãi cái gì. Chủ tịch Công đoàn Khách sạn đã thay mặt những người lao động chân chính làm đơn gửi cơ quan Chức năng về việc Chủ tịch Liên doanh phổ biến công khai chủ trương mại dâm. Chứng cớ rành rành đây này, còn cãi cái gì. Khai đi. Khai đi. Ghi. Ghi. Đúng chưa? Đúng rồi phải không. Thành khẩn thì nhẹ tội. Ngoan cố thì tăng nặng án. Không được trả lời quanh co. Chỉ được trả lời có hay không, đúng hay sai. Không được giải thích vòng vo. Khai đi. Khai đi. Ghi. Ghi. Ký vào đây. Ký vào đây. Tại sao bảo ký mà lại còn viết loằng ngoằng những chữ gì thế. Gớm nhỉ, lại ghi rằng tôi là người nước ngoài, tôi không hiểu trong tờ giấy này ghi những gì nhưng cơ quan Chức năng bảo ký thì tôi phải ký à? Ngoan cố nhỉ. Có phiên dịch hẳn hoi đây này. Muốn chối tội à. Đừng hòng. Ngày mai và nhiều ngày nữa, bộ mặt trơ trẽn của các người sẽ được tung lên mặt báo. Lúc ấy có mà cãi. Thành khẩn khai đi thì được khoan hồng. Ký tử tế vào, đừng ghi thêm gì. Chỉ ký và ghi rõ họ tên thôi. Không được ghi thêm điều gì khác. Khẩu súng này á? Vô tình người ta để nó nằm đấy thôi. Ai lại đem súng doạ dân thường. Mà các người đâu phải thường dân. Các người là kẻ phạm pháp chứ thường dân nỗi gì. Oan lắm hay sao mà khóc!

Ngày hôm sau và nhiều ngày sau nữa, trên trang nhất cả chục tờ báo, tin, ảnh về sự kiện đánh tan động mại dâm ở Khách sạn Bạch Liên được đăng trang trọng, to đùng, chiếm vị trí nổi bật. Thời đổi mới này, báo chí chúng ta phong phú vô cùng. Ngành ngành có báo chí. Tỉnh tỉnh có báo chí. Thành thành có báo chí. Hội hội có báo chí. Cấp trung ương, cấp tỉnh thành, cấp huyện thị đều có báo đài. Đủ loại. Đủ mọi ngành nghề, do vậy cũng đủ mọi tôn chỉ mục đích khác nhau. Nhưng dù có khác nhau về tôn chỉ mục đích mang tính nghiệp vụ, ngành nghề, thì vẫn

Page 10: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

giống nhau ở tôn chỉ mục đích về nhiệm vụ chính trị. Có nghĩa là phải biểu dương cái tốt. Là phải đấu tranh chống lại cái xấu. Chống tiêu cực. Chống tham nhũng. Chống ma tuý. Chống. Chống. Chống. Càng chống, báo càng hấp dẫn. Càng bán được báo. Càng có lãi. Thời buổi kinh tế thị trường, làm gì mà chẳng phải hạch toán. Ngay cả làm chính trị, khối anh cũng biết hạch toán ra trò. Vào chức ấy phải chi bao nhiêu. Rồi thu lại bao nhiêu. Bao nhiêu lâu thì hoàn vốn. Bao nhiêu lâu thì có lãi. Chắc ăn rồi. Thế là, hấp, chạy. Chạy và chi. Vấn đề là tìm đúng chỗ để chạy. Thời buổi thị trường này cũng không khó lắm cái việc ấy. Có dịch vụ hết. Chợ hàng hoá có kẻ mua người bán và kẻ cò mồi. Chợ chức vụ cũng có kẻ mua người bán và có những kẻ cò mồi. Nếu sẵn có các mối quan hệ với cấp trên, với tổ chức, thì chạy thẳng mà mua chức, đỡ tốn tiền dịch vụ. Nhưng nếu không, đừng chạy loạng quạng, đút đầu vào bẫy như chơi, vào tù là cái chắc. Trường hợp ấy, cứ qua kẻ cò mồi là ổn. Thằng Thiết buôn vua còn chạy được cả chân cán bộ cấp cao cho mấy lão dốt nát và tham lam nữa là. Chạy kiểu nào cũng được, miễn là chi thoả đáng. Chi thoả đáng rồi sẽ thu thoả đáng. Hạch toán rồi, lo gì, sẽ có lãi. Báo cũng phải hạch toán. Có những vụ như thế này, biết cách đầu tư, thì chắc chắn là lãi. Phải biết đào sâu vào nội dung vụ án mà viết thành nhiều bài khác nhau - tin, ghi nhanh, phóng sự, điều tra, phỏng vấn... Dứt khoát là phải có ảnh. Ai mà chẳng muốn nhìn chân dung thằng tiêu cực. Ảnh chụp kẻ tiêu cực càng xấu càng tốt. Góc cạnh. Xù xì. Quạu cọ. Gườm gườm. Trông thằng tiêu cực càng xấu xí càng hay. Kể cả cái tên của nó cũng phải xấu. Bao giờ cũng phải có tên lóng. Nếu tên là Tiến chẳng hạn, ắt phải có thêm cái đuôi Tùng - Tiến Tùng. Hoặc tên là Hùng, thì phải là Hùng Bò. Tên là Đấu, phải là Đấu Sứt... Muốn gợi cảm hơn nữa, phải tìm cho ra biệt danh của kẻ tội phạm để giới thiệu trên báo. Chẳng hạn như Tiến, biệt danh Hai Hổ, Hùng, biệt danh Đầu bò, Đấu, biệt danh Thần sầu... Nghe thế mới ra dân anh chị, dân tiêu cực, dân xấu xa. Đấy là cách phát huy truyền thống văn hoá của dân tộc thôi, có gì lạ đâu. Truyền thống được sáng tạo, có mô típ mới, có phương pháp mới hẳn hoi. Tư duy cổ tích của các cụ truyền thống được phát huy tuyệt đối. Thằng tiêu cực bao giờ cũng xấu đủ thứ. Nó như cái sọt rác, chứa mọi thứ bẩn thỉu của cuộc đời. Nó phải xấu cả về phẩm chất và hình thức. Khi sinh ra, trời đã cho nó đẹp thì sao? Thì có sao đâu. Khi sinh ra, nó đẹp vì nó đang còn là đứa trẻ con, nó chưa là thằng tiêu cực. Còn đến khi nó thành thằng tiêu cực rồi, ắt nó phải thay hình đổi dạng, nó phải xấu xí, gớm ghiếc.

Page 11: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Có bài, có ảnh theo những tiêu chí như trên rồi thì phải có hẳn kế hoạch đăng tải. Anh nào vớ cái gì đăng cái ấy là xoàng, là không biết làm báo. Phải có kế hoạch dài hơi. Một vụ tiêu cực, ít ra là đăng chục số báo liên tiếp. Sau đó đánh tỉa dần. Lai rai lải rải. Vài ba chục số nối đuôi nhau thì càng hay. Đăng thành nhiều kỳ liên tiếp mới gây ấn tượng, mới thu hút người đọc. Phải tăng số bản in lên gấp đôi. Lãi. Lãi và lãi. Lãi cả về uy tín. Lãi cả về số lượng báo phát hành. Lãi toàn diện. Thị trường báo cũng lạ lắm. Nếu anh nào biết tận dụng cơ hội đánh thằng tiêu cực tham nhũng cỡ bự bằng những bài, ảnh có chất lượng cao, mạnh dạn tăng số bản in lên gấp đôi, gấp ba, thì sẽ tạo được bước đột phá về phát hành. Khi vụ án ấy lắng đi rồi, tất số lượng phát hành phải giảm. Nhưng không bao giờ giảm xuống mức như cũ. Mà sẽ đứng lơ lửng ở trên mức cũ, dưới mức đỉnh cao. Bạn đọc tăng thêm hàng vạn. Giống như giá vàng lên. Cứ lên. Lên. Lên mãi. Ông Ngân hàng xui mọi người bình tĩnh, đừng vội mua vàng mà thiệt, rồi giá vàng sẽ xuống. Sau khi lên đỉnh điểm, giá vàng xuống thật. Nhưng hỡi ôi, có bao giờ xuống lại giá cũ đâu, vẫn là giá treo lơ lửng trên cao. Cho nên chẳng anh làm báo nào không biết quy luật ấy. Biết tận dụng cơ hội đánh những vụ lớn, tăng lượng phát hành không chỉ cho những số báo có bài vở về vụ ấy, mà còn tạo bước nhảy ngoạn mục về phát hành, ấy mới là mục tiêu của những nhà báo cỡ bự. Ví như vụ Lương Quốc Dũng, một Lãnh đạo ra Lãnh đạo, mà lại đi hiếp dâm trẻ con. Sự kiện nổi bật quá đi rồi. Tin, ảnh, bài phóng sự, điều tra tuôn ào ào lên mặt báo. Dân tranh nhau mua. Loáng cái, sạp báo chẳng còn tờ nào. Dân ghiền báo có khối anh phải đành lòng mua những bản báo sao chụp bán dọc đường đọc cho đỡ cơn thèm thông tin. Vụ ấy, tờ Liên Thanh đẩy lượng phát hành từ một trăm ngàn lên hai trăm ngàn bản, sau đó xuống ổn định ở mức một trăm năm mươi ngàn bản. Thế là tăng lên được những năm vạn bản! Lượng phát hành tăng, không những tăng doanh thu, mà còn, quan trọng hơn, là tăng quảng cáo - báo nào phát hành với số lượng càng lớn càng thu hút khách hàng quảng cáo. Thế là lợi trăm bề. Tất nhiên, những tờ báo chính thống như Nhân Dân, Thông tấn xã... thì họ không làm thế. Họ có con đường đi riêng. Còn những tờ báo phải tự hạch toán, hoặc không có vị thế lớn trong làng báo, nếu không thực hiện những chiêu thức thương mại như thế, có ngày đình bản vì nợ tiền in. Lũ tiêu cực ơi, giờ hồn, chúng tao đánh cho chúng mày tan tành xác pháo. Sai lầm, tội lỗi của chúng mày là cơ hội làm ăn của bản báo chúng tao...

Như đã nói, báo có chống lại phải có xây. Phải biểu dương những người tích cực. Nhưng nếu đã tự coi mình là nhà báo có nghề, thì phải khai thác ngay những

Page 12: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

yếu tố tích cực trong lòng những vụ án. Thế là biết câu khách bằng cái chân chính. Cái chân chính đi kèm cái bất chính vẽ nên bức tranh tương phản đầy ấn tượng, càng tạo ra sự thu hút lớn đối với độc giả.

Vụ mại dâm ở Khách sạn Bạch Liên đã được thông tin trên báo theo đúng cách thức đã giới thiệu ở trên. Đầu tiên là tin, ảnh. Tất nhiên, do được ưu ái mời riêng nên phóng viên hai tờ báo Việc Làm và Trật Tự có thông tin trước. Trên trang nhất hai tờ báo này, thông tin về vụ mại dâm bị bắt quả tang được in trong khung trang trọng. Do có nhiều thông tin hấp dẫn đều cần đưa lên trang nhất, báo chỉ đăng phần tít, ảnh và vài dòng dẫn dắt bạn đọc thôi, còn chi tiết thì phải đọc ở những trang trong. Khi hai tờ báo này đăng thông tin về sự kiện động trời ấy rồi, lập tức hơn một chục tờ báo khác lập kế hoạch phối hợp tác chiến. Nói một cách thông tục, cánh phóng viên hay gọi đó là cách đánh hội chợ. Cứ xảy ra một vụ nổi cộm nào là có hàng chục phóng viên đủ loại báo: báo ngày, báo tuần, báo chính trị xã hội, báo chuyên ngành... rủ nhau quây lại đánh cho tả tơi trên sàn dư luận. Vụ này cũng vậy, các phóng viên rủ nhau xúm vào Khách sạn Bạch Liên. Tất nhiên là ảnh, cùng những hành động xấu xa của mẹ Chin, và những má mì, những cô đào... được khai thác triệt để (Riêng ảnh mẹ Chin với những tư thế, bộ dạng xấu xa, nhăn nhúm... mà phóng viên Mặt lìn lịt của báo Việc Làm chụp được trở thành mặt hàng quý hiếm, được nhiều báo mua để dùng lại, bởi vì chỉ một ngày sau đó, mẹ ta đã ù té khỏi Việt Nam. Riêng tiền bán ảnh đợt này, Mặt lìn lịt hoàn vốn sắm cái máy ảnh Ni Kon kĩ thuật số mười chấm năm, ống kính rời). Nhưng không chỉ có thế. Phải biểu dương những người có công phá án. Có công nhất là Lê Đản. Có công thứ nhì, chẳng ai khác, là Nguyễn Tuấn Lặng. Ảnh chân dung hai vị đẹp đến khó nhận ra (Lặng chỉ được đăng ảnh và đôi dòng về thành tích, các báo còn để dành cho các chiêu thức tuyên truyền khác). Có gì đâu, nhờ phép thần kỳ của máy tính hết. Phần mềm Photoshop xử lý được hết thảy. Đẹp có thể biến thành xấu. Xấu lại trở thành đẹp. Bộ mặt sủi cảo của Đản, hậu quả của việc sử dụng thuốc kích dục thường xuyên, qua Photoshop trở thành bộ mặt nõn như trứng gà bóc. Mịn màng. Hiền hậu. Nhưng vẫn có chỗ góc cạnh. Pha đôi chút rắn rỏi, cương nghị. Đấy là cách áp dụng phương thức cổ truyền nhìn mặt mà bắt hình dong. Hiền hậu thì mới thương cảnh những cô gái bán trôn nuôi miệng, mới tìm cách cứu các cô khỏi cảnh lầu xanh đen tối. Rắn rỏi, cương nghị mới dám đương đầu với thế giới tội phạm, đưa hành động phạm pháp của chúng ra ánh sáng. Tất nhiên, đối với báo chí hiện đại, tư duy và phương pháp cổ tích vẫn được tôn trọng. Tư duy ấy đưa đến nhận

Page 13: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

thức rằng đã là người tốt thì phải đẹp, phải tốt mọi bề. Trên mặt báo, Lê Đản trở thành một vị anh hùng xán lạn, người hùng của Khách sạn Bạch Liên: Đản sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Cha là liệt sĩ (tuy ở hậu phương nhưng vẫn tham gia chiến đấu và hy sinh). Từ nhỏ, Đản đã được tiếp thu một nền giáo dục tuyệt vời. Tất nhiên là thế rồi, bởi vì nếu không được giáo dục tuyệt hảo như thế, làm sao trưởng thành như hôm nay được. Rồi, trong công việc hàng ngày, Đản tận tâm, chu đáo, thương yêu cấp dưới. Cũng tất nhiên là như thế rồi. Người hùng thời nay bao giờ cũng gắn bó với quần chúng, lo trước quần chúng, hưởng sau quần chúng. Rồi lại cương trực nữa, dám đấu tranh thẳng thắn với những kẻ xấu người nước ngoài trong Liên doanh nhằm ngăn chặn các hoạt động phạm pháp của chúng. Tất nhiên rồi, người hùng của thời đại tất phải dũng cảm kiên cường. Vì cương trực, dũng cảm, Đản đã từng bị bọn xã hội đen hành hung, nhưng anh không hề nhụt chí (Riêng chi tiết này là không thực, Đản bị một nhóm ba kẻ lạ mặt ép xe vào vỉa hè, nện cho mấy đòn oằn lưng, kèm theo lời cảnh cáo vì Đản dám sàm sỡ một gái bao của một đại gia. Mọi người biết chi tiết này không có thực vì nó xảy ra mới đây tại khu vực gần Khách sạn, nhiều người được chứng kiến. Còn những chi tiết khác thực hư ra sao phải đợi nhiều hồi mới rõ). Tóm lại, trên mặt báo, chân dung Đản đã được khắc họa rõ nét, sinh động, đáng yêu, đáng kính đến vô cùng. Được mấy cô phóng viên trẻ phỏng vấn, Đản mềm giọng trả lời:

- Tôi có công gì đâu! Nhờ quần chúng cả thôi! Tôi chỉ là người biết tập hợp sức mạnh của quần chúng để tạo ra quả đấm thép hạ gục đối phương!

Một câu trả lời khiêm nhường nhưng tự tin biết bao! Gì chứ cách tạo ra các quả đấm thép từ sức mạnh của nhiều thế lực thì Lê Đản thừa khả năng làm. Lời nói trên đây của Đản hoàn toàn chân thực.

Bây giờ, gã làm tiếp một việc như bắn một mũi tên mà trúng nhiều đích. Ấy là viết một báo cáo chi tiết gửi Bộ về quá trình đánh vụ mại dâm. Gã ghi rõ "Chúng tôi đã mật báo với cơ quan Chức năng và gài bẫy để cơ quan Chức năng bắt quả tang vụ chứa chấp và hành nghề mại dâm...". Viết xong, đánh máy đẹp đẽ, đúng thể thức rồi, Đản đưa cho Nguyễn Thu Minh ký. Sau đó, gã gửi một bản sao báo cáo này cho Chu Dung (có bản dịch sang tiếng Trung). Gã ngầm nói với Chu rằng người hại vợ chồng ông chính là bà Minh này đấy.

Lý Ngồ Ngộ - nhà cách mạng 30

Page 14: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Sau khi miền Nam được hoàn toàn giải phóng, nước Việt chúng ta có một khái niệm mới: những nhà cách mạng 30. Khái niệm này dùng để chỉ những người tham gia cách mạng vào dịp giải phóng miền Nam - 30 tháng tư năm 1975. Trước đó, có thể họ là sinh viên, học sinh, hoặc là người đạp xích lô, chạy xe lam, hoặc là những người vô gia cư vô nghề nghiệp, thậm chí là kẻ tội phạm... Nói chung, trước khi lực lượng cách mạng vào giải phóng địa phương khỏi ách thống trị của chính quyền nguỵ, họ chưa biết cách mạng là gì. Khi cách mạng vào, họ hăng hái dẫn đường, chở xe, hoặc cầm đàn chạy theo cổ vũ... Sự nghiệp cách mạng mở ra, cần cán bộ, họ nghiễm nhiên được kết nạp vào đội ngũ những người cách mạng. Họ vào Ban Quân quản, rồi dần dần được biên chế vào bộ máy chính quyền từ cơ sở đến huyện, thị, tỉnh, thành. Đó là lực lượng khá phức tạp. Có những người thành phần cơ bản, thực lòng đi theo cách mạng, tích cực làm việc xây dựng đất nước. Nhưng cũng có những người tuy thực bụng, mà dốt nát, tả khuynh, đã cư xử thô bạo với quần chúng, với lực lượng tề nguỵ bị quản thúc tại địa phương, làm mất uy tín của cách mạng, làm suy giảm lòng tin của quần chúng với lãnh đạo. Có rất ít kẻ vốn có nợ máu với nhân dân, nhưng ẩn mình kỹ, che đậy được quá khứ, cũng luồn lỏi được vào bộ máy chính quyền cách mạng, trong đó có kẻ luồn sâu, leo cao. Lại có những kẻ cơ hội. Họ thực sự không giác ngộ cách mạng, chỉ chạy theo lực lượng giải phóng như bèo bọt trôi theo dòng nước, rồi họ nắm lấy cơ hội nhảy vào những vị trí quan trọng trong bộ máy nhà nước. Từ đó, họ tiến thân khá nhanh...

Lý Ngồ Ngộ là một nhà cách mạng 30 cơ hội. Khi đoàn quân Giải phóng ập vào thành phố, Lý Ngồ Ngộ đang là học sinh. Biết đàn hát, cậu học sinh này hồ hởi ôm đàn đi theo các chiến sĩ giải phóng. Cậu ta thuộc và trình diễn rất nhanh những bài ca cách mạng, như Mỗi bước ta đi, Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng, Giải phóng miền Nam...Trong các cuộc họp dân phố, Lý Ngồ Ngộ ôm đàn, hát vang trời bằng cái giọng rền như sấm, được hoan nghênh nhiệt liệt. Dần dần, cuộc sống ổn định, chính quyền tập trung vào chỉ đạo xây dựng kinh tế, văn hoá. Thành phố thành lập Công ty Tri thức để vừa làm kinh tế, vừa đưa văn hoá đến với nhân dân. Một ông cậu của Ngộ tập kết về làm ở Tổ chức thành phố, đã bố trí Ngộ làm nhân viên kinh doanh lưu động. Việc này quá hợp với Ngộ. Sức vóc bề bề, ăn to nói lớn, đàn mạnh hát vang, tha hồ hô hào tuyên truyền, thu hút quần chúng đến để bán hàng. Phải nói, Lý Ngồ Ngộ rất xốc vác trong công tác. Những chuyến hàng dã ngoại lang thang khắp vùng nội ngoại thành Sài Gòn, về tuốt các tỉnh miền Đông, miền Tây, đều có mặt và giọng hát Lý Ngồ Ngộ. Anh ta không quản mưa dầm

Page 15: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

nắng lửa, cứ bám theo xe, theo hàng mà phục vụ quần chúng. Điểm yếu của Lý Ngồ Ngộ là học hành dở dang. Nhà ở nông thôn, bị bom đạn chà xát quá, chịu không nổi, chạy dạt lên thành phố được mấy năm nay, Ngộ không có điều kiện học hành đầy đủ. Bù lại, là sự lanh lợi pha chút láu cá và một ý tưởng nhất quán về con đường tiến thân. Là con người có hoàn cảnh sống phức tạp cho nên Lý Ngồ Ngộ cũng có tính cách pha tạp. Suốt tuổi thơ sống ở nông thôn, học hành bập bõm, cậu ta khá ngờ nghệch trong kiến thức, trong cách ứng xử - nói một cách thông tục, Lý Ngồ Ngộ quê một cục. Lớn lên, sống ở đô thành phồn hoa dưới thời Mỹ - Nguỵ, cậu ta học đòi kiểu cách chơi bời và học cả thủ đoạn thương trường. Biết đàn hát, cậu ta tưởng mình là nghệ sĩ thứ thiệt, nên sống khá phóng túng. Tuổi thanh niên đầu đời cắm rễ trong một xã hội thuộc địa chịu ảnh hưởng của lối sống thị trường, khiến cho Lý Ngồ Ngộ có thói quen đua chen, kèn cựa và tính toán thiệt hơn. Trưởng thành vào thời bao cấp, lại vào giai đoạn khó khăn nhất về kinh tế, khi nhân dân phải ăn bo bo thay gạo, Lý Ngồ Ngộ không hề tiếp thu được chút nào nếp sống tốt đẹp của những người cán bộ cách mạng, mà phát huy cao độ cách thức sống khôn lỏi lợi thân để vượt qua thử thách của giai đoạn trước đổi mới. Hoạt động nhiệt tình thì có, nhưng cậu ta không vô tư như những người bạn cùng trang lứa trong Công ty, mà luôn luôn tìm cách khoe mẽ, làm cho mình trở nên nổi bật trước mắt mọi người. Hơn nữa, ông cậu ở Tổ chức Thành phố là điểm tựa vững chắc cho cậu vượt lên. Cứ thế, Lý Ngồ Ngộ đứng vững ở vị trí nhân viên, rồi lên phó phòng, trưởng phòng một cách nhẹ nhõm.

Trong một lần ra miền Bắc tham quan và học tập, Lý Ngồ Ngộ làm quen với một cô gái Hà Nội chính hiệu có tên là Bích Ngà. Cô có khuôn mặt tròn, đôi mắt to, đượm buồn. Giọng nói nhẹ nhàng của cô gái Thủ đô làm xao lòng chàng trai phương Nam. Nhưng, cái thứ làm cho Ngộ xúc động mạnh mẽ lại là bản lý lịch đẹp đẽ của Ngà: cô là con ông Cục trưởng Cục quản lý Tri Thức. Có nghĩa là Công ty Tri thức của Ngộ nằm dưới quyền quản lý nhà nước của ông già này. Con người Ngà và ông bố oai quyền của Ngà tạo nên sức hút mạnh mẽ khiến Ngộ lao vào như thanh sắt bị nam châm hút. Láu cá, có chút khiếu văn thơ, chàng thanh niên Nam Bộ chắp ghép mấy câu thơ học lỏm được trên báo thành bài thơ tình tặng Ngà. Cô gái ngất ngây như ong say mật (làm ra vẻ say thôi, vì vốn có học, Ngà nhận ra ngay cái chất đầu Ngô mình Sở của bài thơ). Thư đi thư về, gặp qua gặp lại trong những chuyến công tác, họ trở nên gắn bó.

Page 16: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Một hôm ra miền Bắc nhận chỉ tiêu hàng hoá, Ngộ hăm hở tới nhà Ngà. Bấm chuông, chờ mãi, Ngộ mới thấy một phụ nữ dáng vẻ quê mùa ra mở cửa. Chưa đợi Ngộ hỏi, bà ta đã nói:

- Nhà đi vắng cả rồi!Ngộ hỏi trống không:- Đi đâu hết vậy?Người đàn bà trả lời:- Đi bệnh viện ạ!Ngộ lại hỏi độp một câu:- Đi bệnh viện làm gì?Người đàn bà mở miệng định nói, nhưng như chợt nhớ ra điều gì, lại thôi.

Thấy Ngộ cứ dậm chân, vuốt mặt vẻ bồn chồn, người đàn bà nói:- Chiều nay chú đến sẽ có người ở nhà!Ngay chiều tối hôm ấy, Ngộ tới nhà Ngà. Lúc này, ông bà Cục trưởng đang

ngồi bên bộ xa lông, vẻ mặt rầu rĩ. Thấy Ngộ, ông bà nhanh chóng chuyển thái độ, tươi cười như không có chuyện gì xảy ra. Ngộ hỏi:

- Thưa bác, thế gia đình đi bệnh viện vì chuyện gì đấy ạ?(Ngộ có biệt tài thay đổi cách giao tiếp. Với người có thế lực, anh ta một

phép lễ độ. Nhưng với những người thấp cổ bé họng, anh ta rất hách dịch). Ông Cục trưởng chưa kịp mở miệng thì bà Cục trưởng đã gạt phắt:

- Đâu, có đi bệnh viện nào đâu. Chúng tôi bận chút việc trên phố thôi mà!Ngộ lại hỏi:- Thưa bác, em Ngà đâu ạ?Bà Cục trưởng trả lời thay chồng:- Em nó về quê có việc. Tiếc quá, lần khác anh đến chơi vậy!.Vốn ranh ma, Lý Ngồ Ngộ cảm thấy có chuyện gì đó uẩn khúc ở gia đình

Ngà. Hôm sau, vào lúc ông bà Cục trưởng đã đi làm, Ngộ lại đến nhà Ngà, trong tay cầm một bịch bánh bao. Lần này, anh ta ngọt ngào với người đàn bà quê mùa: "Dì ơi, dì ăn bánh đi, rồi nói chuyện với con. Con là anh họ em Ngà, gì đừng ngại!". Lúc này, lương thực, thực phẩm đang rất khó khăn, chiếc bánh bao nhân thịt là một món quà quý. Người đàn bà cầm chiếc bánh bao, nhìn Ngộ với đôi mắt hàm ơn. Ngộ ngồi rỉ rả hỏi chuyện. Người đàn bà thật thà nói:

- Tôi ở quê, mới ra vì gia đình nhờ trông nom em Ngà một thời gian.Ngộ bắt nọn:

Page 17: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

- Em Ngà phải đi bệnh viện, lúc này chắc còn yếu lắm?.Người đàn bà quên cả lời dặn của gia đình, chép miệng:- Vâng, yếu lắm anh ạ. Khổ, bỏ cái thai cũng như bỏ một con người, khoẻ

làm sao được!Ngộ giật thót mình, nhưng trấn tĩnh được ngay, bốc tiếp một cái bánh bao

đưa cho người đàn bà:- Ấy, gì ăn đi, bánh còn nhiều lắm!Rồi, Ngộ cáo lui. Chẳng khó khăn gì, Ngộ tìm hiểu tình hình và được biết

một sự thật bẽ bàng: Thời gian lao động ở bên Đức, Ngà đã chung sống như vợ chồng với một chàng trai xứ Nghệ, nhưng về nước một thời gian rồi thì đường ai nấy đi, riêng Ngà phải ôm một khối tình ngày một lớn... Cái hôm mà bà Cục trưởng bảo rằng em nó về quê ấy, chính là hôm Ngà vào Viện C Trung ương nhờ ông bác sĩ quen làm cho tan biến khối tình trong cơ thể mình đi... Hiểu rõ ngọn ngành, sau giây phút choáng váng, Ngộ ngẫm lại mối quan hệ ban đầu với Ngà mà cay cú. Cay nhất là cái việc Ngộ mắc lỡm cô gái Hà thành dịu ngọt này. Vốn ham nhục dục, khi vừa được Ngà nhận lời yêu, Ngộ băm bổ định bụp liền, nào ngờ bị bàn tay êm ái của Ngà ngăn lại: "Để dành nào anh! Đợi đến khi thành vợ thành chồng cho nó đàng hoàng!". Giật thột vì sợ cô gái con nhà gia giáo này coi là kẻ thô bạo, Ngộ đành nuốt nước miếng nhịn thèm. Rồi, trong suốt quá trình yêu đương, xa nhau cả mấy ngàn cây số, mấy tháng mới gặp nhau một lần, nhưng khi tình tự, Ngà cũng chỉ cho cầm tay, thơm lên má. Ngộ càng tưởng rằng đây là một đoá trà mi trinh trắng mới hé nụ. Ngờ đâu, cái đoá trà mi kiều diễm ấy đã bị con ong cái bướm tuôn mòn đường đi lối về. Cay cú như thế, nhưng Ngộ vẫn đủ tỉnh táo để xác định lại phương hướng chiến lược. Cậu ta tự nhủ:: "Dù thế nào, cũng phải trở thành con rể ông Cục trưởng. Con đường tiến thân đang rộng mở trước mắt. Mà, đàn bà con gái, cũng đã qua tay mình biết bao nhiêu người rồi, có gì là quan trọng đâu. Cộng trừ qua lại, mình vẫn có lời...". Thế là, tối hôm sau, Ngộ lại đến nhà Ngà, tươi cười như không có chuyện gì xảy ra. Cậu ta trịnh trọng nâng hai tay một gói quà, lễ độ nói: "Dạ thưa hai bác, sớm mai con phải về trong đó. Con gửi cho em Ngà bộ áo dài và tập thơ của con vừa xuất bản tặng Ngà!". Ông bà Cục trưởng lấy làm cảm động: "Anh chu đáo quá. Em nó về, tôi sẽ chuyển quà và nhắc nó liên lạc với anh!". Bà Cục trưởng vừa dứt lời thì có một tiếng ho phía buồng của Ngà. Ông bà Cục trưởng giật bắn mình, vẻ lúng túng. Ngộ thản nhiên như không, xin phép ra về. Bà Cục trưởng cẩn thận dặn: "Đợt này em Ngà bận về quê sáu

Page 18: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

tháng. Anh em chịu khó xa nhau một thời gian. Anh thông cảm nhé!". Ra khỏi cổng, Ngộ lầm bầm: Quê gì mà quê. Người Hà Nội chính gốc, đang ở Hà Nội thì về quê nào...

Trên đường trở lại miền Nam, ký ức chợt bừng dậy trong Ngộ, mà nổi bật là hình ảnh một cô gái Sài gòn có dáng người thon thả và một giọng hát ngọt ngào. Hồi ấy, Sài gòn đang là Hòn ngọc Viễn đông. Cái đô thành hoa lệ này như muốn nuốt chửng cậu bé miệt vườn từ huyện Ô Môn thuộc Tây Đô mới lên. Sống nhờ nhà người chú, vừa đi học vừa đánh đàn ở mấy quán cà phê kiếm thêm tiền, Ngộ nhanh chóng bị cuốn hút vào vòng quay của cuộc sống đô thị. Vốn tối dạ, Ngộ học hành dang dở, chẳng đâu vào đâu. Bù lại, là ngón đàn khá tinh xảo được ông chú truyền dạy từ hồi Ngộ còn nhỏ. Cậu ta có thể độc tấu ngon lành các bản nhạc Tây, ta, có thể đệm cho bất kỳ người hát nào theo bất kỳ giọng điệu nào, không cần tập dợt trước. Cái tài lẻ này giúp Ngộ nhanh chóng hoà nhập vào cuộc sống đô thị và kiếm cũng được khá nhiều tiền. Cậu ta sẵn sàng xách đàn tới phục vụ bất cứ nơi nào, miễn là kiếm chác được. Có dạo, cậu ta quần suốt một tháng ở các câu lạc bộ lính Cộng Hoà, vừa độc tấu những bản tình ca cổ điển thế giới, vừa đệm cho các nữ chiến binh Phượng Hoàng ca những bài chống Cộng. Sau mỗi buổi phục vụ, ngoài tiền, Ngộ còn đem về nhà lổn nhổn những lon đồ hộp Mỹ. Một hôm, trời đã về khuya, Ngộ xách đàn lang thang trên phố thì nghe một giọng hát của một thiếu nữ vẳng lên từ trường Lê Quý Đôn. Tiếng hát ngọt ngào của cô gái lạ dẫn dắt Ngộ men theo tường rồi đi qua cổng lúc nào không hay. Bước chân cứ theo giọng hát đưa Ngộ tới trước một lớp học. Tại đó, có chừng hai chục nam nữ học sinh đang quây quần trong không khí văn nghệ khá lạ lẫm đối với Ngộ. Bởi vì, nơi này không cất lên những giọng ca não nề của lối hát nhạc vàng thường thấy tại các quán cà phê, cũng không rộn lên tiếng hát hùng hổ với những bài hát chống Cộng, ca ngợi đời lính chiến như ở các câu lạc bộ lính Cộng Hoà, mà vang lên giai điệu thiết tha, trong sáng với lời ca đẹp lạ lùng: "Nếu là hoa, tôi sẽ là một đoá hướng dương. Nếu là chim, tôi sẽ là loài bồ câu trắng. Nêu là mây, tôi sẽ là một vầng mây ấm. Là người, tôi xin chết cho quê hương...". Từ ngoài cửa sổ nhìn vào, Ngộ nhận thấy rõ đó là những học sinh nghèo - quần áo cũ kỹ, dáng người lam lũ. Đôi mắt sáng ngời của họ chăm chăm nhìn vào cô gái. Cô có dáng người mảnh mai, tóc dài, da ngăm ngăm, gương mặt sáng sủa, duyên dáng. Cô vẫn hát, say mê, đắm đuối, không để ý đến Ngộ đang lặng nhìn mình. Máu nghệ sĩ nổi lên, Ngộ mở bao đàn và nhẹ nhàng lướt những ngón tay của mình trên sáu sợi dây, tạo nên những chùm hợp âm hoà

Page 19: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

vào giọng hát... Sau một phút lặng đi, tốp học sinh ồ lên, nhìn ra cửa sổ. Cô gái ngừng hát và đưa đôi mắt đen láy nhìn thẳng vào Ngộ. Ánh mắt như luồng điện cực mạnh chạm vào ánh mắt Ngộ, khiến Ngộ rùng mình. "Anh Hai, anh vô hát cùng tụi em!". Cả tốp nhao nhao mời chào. Thế là Ngộ hoà nhập dễ dàng với tốp học sinh nghèo trường Lê Quý Đôn, thỉnh thoảng lại ôm đàn tới đệm cho cả nhóm hát những bài ca yêu nước thương nòi và đặc biệt là đệm cho cô gái đô thành có cái tên rất quê Tư Lành hát những bài ca phản chiến. Họ đang tập dợt để tham gia đợt xuống đường của học sinh sinh viên Sài Gòn hát cho đồng bào tôi nghe, đòi vãn hồi hoà bình. Nghệ thuật là một bà mối mát tay, đã nhanh chóng kéo Tư Lành vào vòng tay tình ái của Lý Ngộ Ngộ. Ngộ càng thường xuyên đến đệm đàn cho nhóm học sinh Lê Quý Đôn hơn để có điều kiện gần gũi, tình tự với Tư Lành. Hôm ấy, tập dợt xong thì đã khuya, Ngộ và Tư Lành đi bộ trên con đường Mạc Đĩnh Chi để về nhà Tư Lành. Trời đang yên ả, bỗng gió thổi thốc lên và nước mưa tuôn xuống ào ào. Ngộ nắm tay Lành, kéo chạy vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi. Đây là khu nghĩa trang lớn, nằm giữa lòng Sài Gòn, là nơi yên nghỉ của những bậc quyền quý, được xây cất rất đàng hoàng. Hai người nhanh chân tạt vào dưới mái che của một ngôi mộ lớn như một mái nhà. Trời mưa sầm sập. Hai người quấn chặt vào nhau. Và cuộc đời con gái đã chấm hết với Tư Lành từ đấy. Không hiểu tại sao, dù người Lý Ngồ Ngộ nóng hầm hập, Tư Lành vẫn cảm thấy rờn rợn, như có những hồn ma xen vào giữa cuộc tình với âm khí nặng nề, lạnh thấu con tim. Tư Lành run cầm cập... Một tuần sau thì diễn ra cuộc xuống đường quy mô lớn của học sinh sinh viên Sài gòn đòi vãn hồi hoà bình. Ngộ hăng hái ôm đàn ghi ta cùng Tư Lành và tốp học sinh Lê Quý Đôn xuống đường hát vang những bài ca phản chiến. "Không, không thể sống chần chờ hay trông đợi. Tương lai hồng ta phải nắm về ta. Không, không thể nén hờn căm và uất hận. Sống là đây và chết cũng là đây...", "Dậy mà đi! Dậy mà đi hỡi đồng bào ơi!"... Bài ca hào hùng đang vang lên thì bị chặn lại bởi một loạt đạn súng máy. Rồi lựu đạn hơi cay. Rồi dùi cui... Tất cả nháo nhào dưới những ngón đòn của cảnh sát dã chiến. Ngộ vội quăng đàn, nhanh chân rời xa đám hỗn loạn. Ngoái nhìn lại, Ngộ thấy Tư Lành đang lăn lộn dưới đất, chịu đựng những cú đòn dùi cui đang phang xuống tới tấp. Sợ hết hồn, Ngộ không dám quay lại cứu Tư Lành, mà chạy thẳng một mạch về nhà. Trận hỗn chiến làm cho Ngộ tởn đến từng tế bào. Bởi vậy, dù có nhớ nhung Tư Lành, Ngộ vẫn lánh xa ngôi trường có cô gái mảnh mai và các bạn học sinh nghèo hát những bài ca phản chiến. Đôi lúc nhớ tới trái ngọt mới hái được trong trận mưa rào vừa qua, Ngộ chộn rộn trong

Page 20: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

lòng, định đi tìm Tư Lành. Nhưng, cứ nghĩ tới lựu đạn hơi cay, dùi cui, những trận đòn hỗn loạn, sợ Tư Lành sẽ lôi kéo mình vào những vụ xuống đường đáng sợ, Ngộ lại rùng mình, run gối, không bước nổi ra khỏi nhà. Phải mất gần hai tuần lễ, Ngộ mới hoàn hồn. Cậu ta xách đàn tới các quán cà phê, các câu lạc bộ lính Cộng hoà kiếm chác, như không có chuyện gì xảy ra. Hình ảnh Tư Lành mau chóng lùi vào quá khứ... Vậy mà không hiểu tại sao, vào lúc mà Ngộ tê tái trước sự thật bẽ bàng về vị hôn thê của mình, thì hình ảnh cô gái Nam Bộ đằm thắm ấy lại hiện lên, đôi mắt đen láy cứ nhìn chăm chắm, như trách móc và cũng như giễu cợt, còn giọng hát ngọt ngào của cô cứ ngân vang, dìu dặt như vỗ về, như níu kéo...

Chín tháng sau, Lý Ngồ Ngộ trở thành chú rể trong một đám cưới khá sang trọng vào cái thời buổi kinh tế khó khăn, do ông bố vợ lo cho, có khá đông người dự. Lý Ngồ Ngộ vui mừng về đám cưới thì ít, mà sung sướng nhiều hơn về đáp số cuộc đời đã được công bố ngay sau tuần trăng mật ít lâu: do sự tác động của ông bố vợ, Ngộ được điều lên làm Giám đốc Công ty Miền Nam của Tổng Công ty Tri thức (Sau này là Công ty thuộc tập đoàn). Thế là, thoắt một cái, Ngộ trở thành vua một vùng. Người ta nói đàn bà làm quan tắt, thực ra, cũng khối anh đàn ông bỗng chốc lên quan nhờ bám váy đàn bà!

Những người xây dựng sự nghiệp bằng chính năng lực của mình thường rất tự tin. Họ ngẩng cao đầu đi trong cuộc sống với thái độ khiêm nhường và họ thường dám hy sinh vì sự nghiệp. Họ rất quý trọng những người có tài và biết sử dụng người tài. Còn những người đi tắt, thiếu năng lực, nhưng nhờ dựa dẫm mà thăng quan tiến chức, thường rất thiếu tự tin, không có bản lĩnh và hay đố kỵ. Tự đáy lòng, họ biết mình là ai. Nhưng trên bề mặt, họ muốn mọi người nhìn mình như một con người tài ba, oai quyền. Chính vì vậy, họ hay ra oai, hay tô vẽ bản thân, tạo ra vỏ bọc vững chắc để che giấu cái phẩm giá còm cõi của họ. Đứng đầu một Công ty, Công ty đó lại hoạt động biệt lập ở phương Nam cách Tổng Công ty vài ngàn cây số, Lý Ngồ Ngộ đặt ách thống trị lên toàn đơn vị. Câu nói cửa miệng của cậu ta là: "Tôi nói con trâu là con bò thì các người cũng phải nói con trâu là con bò! Ai nói trái, tôi cho nghỉ việc!". Không biết mọi người có chịu nhìn trâu thành bò hay không, nhưng trong công việc, bộ máy của Chi nhánh Công ty phải răm rắp tuân theo lệnh của Lý Ngồ Ngộ. Dứt khoát Công ty phải có hai sổ. Dứt khoát Công ty phải dành ra một khoản tiền cho Giám đốc chi dùng trong tiếp khách, tuyên truyền và cho những khoản chi không tên. Số tiền ấy, kế toán phải tự biến báo để quyết toán (theo kiểu nói trâu thành bò). Miễn bàn. Miễn góp ý. Lý

Page 21: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Ngồ Ngộ tự đào tạo cho mình một số đệ tử trung thành. Dễ thôi, đào tạo bằng quyền lợi. Cho đi sát sếp. Cho thêm tiền hàng tháng. Cho dính vào chuyện em út. Tiền không phải từ túi Giám đốc, mà từ két Công ty chi ra. Các đệ tử này phải nghe ngóng dư luận để biết ai chống đối thì mật báo kịp thời cho Giám đốc xử lý. Đệ tử cũng có trách nhiệm tìm các biện pháp rút tiền trong quỹ cơ quan ra cho sếp tiêu xài và tìm cách quyết toán cho khéo, không để cơ quan Thuế xuất toán. Hơn nữa, đệ tử phải biết tổ chức mạng lưới mua bán hàng riêng cho sếp, trong đó có việc xuất tiền cơ quan mua những loại sản phẩm mà sếp tự tổ chức "liên kết sản xuất”, lấy danh nghĩa cơ quan mà xuất, nhập hàng, lời bao nhiêu sếp hưởng, lỗ lã đã có cơ quan lo. Tất cả mọi người trong Công ty đều răm rắp tuân thủ Giám đốc. Riêng có mỗi một thằng oắt con Minh Thành, Trưởng Phòng Kinh doanh, là hỗn hào, không chịu khép mình vào khuôn phép. Lý Ngồ Ngộ cay cú vô cùng. Hừ, thằng này dám qua mặt tao à? Lại dám tự động nhập hàng, xuất hàng, không chịu lấy hàng theo hệ thống của tao à? Lại dám liên kết tạo ra sản phẩm, ăn từ gốc đến ngọn à? Tao đã cho phép đâu. Tao có quyền lợi gì trong đó? Đặc tính của Ngộ là chấp vặt và thù dai. Chỉ một chuyện cỏn con làm trái ý anh ta, là anh ta nhớ cả đời, không những vậy còn tìm cách trừng trị. Có lần Ngộ cùng chị Tổng Giám đốc đi công tác địa phương. Tối đó, Giám đốc Công ty Hoa Thanh lên thăm đoàn, sơ ý không ghé vào chào riêng Ngộ, thế mà Ngộ nhớ như in họ tên kẻ vô lễ, ngày giờ, địa điểm bị xúc phạm để sau này trừng trị. Chuyện đó chúng ta sẽ biết vào đoạn sau. Còn bây giờ là đoạn Ngộ tìm cách trừng phạt Minh Thành. Món võ đầu tiên là tung khuyết điểm của Minh Thành lên báo. Sau một bữa nhậu bí tỷ ở nhà hàng Tiên Nữ, mấy tay phóng viên có ngay tư liệu và ảnh về Minh Thành. Hôm sau, mấy tờ báo đồng loạt đăng bài và ảnh nói về chuyện Minh Thành nhân danh cơ quan nhà nước móc nối với tư nhân buôn bán lòng vòng, khiến Công ty tổn thất mấy trăm triệu đồng. Trong buổi giao ban sáng hôm đó, Lý Ngồ Ngộ tay cầm ba bốn tờ báo, ngồi vào chỗ rồi xoè cả ra mặt bàn, cao giọng phê phán Minh Thành. Vốn thẳng tính và tự tin, mặc dù bị vu cáo, Minh Thành không thèm phân bua, viết ngay đơn xin thôi việc, lẳng lặng đưa cho Ngộ rồi hiên ngang bước ra khỏi phòng họp. Lý Ngồ Ngộ hả hê chấp nhận và công bố với cơ quan: "Tôi vốn tính nghiêm khắc, một lòng một dạ vì Nhà nước, vì Công ty, ai không chịu nổi thì cứ rút dù!". Ngày hôm sau, Lý Ngồ Ngộ thấy phòng Kinh doanh không một bóng người. Cô trưởng phòng Hành chính - Tổ chức mặt cắt không còn hạt máu chạy đến: "Dạ thưa... Giám đốc... Cả Phòng này theo anh Thành đi rồi ạ!". Mặt hằm hằm làm cho

Page 22: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

cặp môi dày của Ngộ bành ra, anh ta lạnh lùng: "Làm thủ tục cho thôi việc toàn bộ. Ra thì dễ, nhưng vào mới khó!". Những người đã ra đi đâu có cần quay lại dưới ách thống trị của Ngộ. Họ cùng Minh Thành lập nên một Công ty trực thuộc quân đội, làm ăn rất có uy tín và phát đạt. Sau này, chúng ta sẽ gặp lại Minh Thành trong cuộc chiến thương trường với Lý Ngồ Ngộ, mà Minh Thành là người chiến thắng.

Nói mạnh vậy, nhưng trong lòng, Lý Ngồ Ngộ thấy run lên nỗi sợ hãi về sức mạnh của quần chúng. Rồi một ngày nào đó, sức mạnh ấy liệu có tập trung vào lật đổ ta không? Vậy, ta phải dựng lá chắn trước. Lá chắn đầu tiên phải là sổ sách kế toán. Sổ sách lúc nào cũng phải đẹp. Kế toán trưởng phải biết biến báo cập nhật, không để lộ ra những khoản thu chi bất hợp pháp. Có những khoản chi khó quyết toán, thì làm bài treo - cứ treo lơ lửng trong sổ, chưa vội quyết toán, hoặc làm bài lẩn - quyết toán vào các khoản chi khác. Rồi phải quan hệ chặt chẽ với các cơ quan của Bộ, của Thành phố. Tiếp đến là phải dùng dư luận làm lá chắn mềm. Trước hết, báo chí đừng bao giờ nói xấu ta. Sau đó, báo chí phải ngợi ca ta. Ngợi ca dưới nhiều hình, nhiều vẻ. Ngợi ca đều đặn, rải ra trong suốt cuộc đời. Nói về mối quan hệ với báo chí thì Lý Ngồ Ngộ có biệt tài. Ngay trong thời Nguỵ, Lý Ngồ Ngộ đã thấy vai trò mạnh mẽ của báo chí. Hồi ấy, mấy tờ báo đối lập đã cổ vũ quần chúng xuống đường chống lại luật thuế giá trị gia tăng, làm cho chính quyền nguỵ lao đao khốn đốn. Cho nên, Lý Ngồ Ngộ là người rất sớm tạo nên mối quan hệ mật thiết với những cơ quan báo chí trung ương và địa phương đóng trên địa bàn thành phố. Cũng chẳng khó khăn gì trong mối quan hệ ấy. Bây giờ, cánh nhà báo có nhiều chiêu kiếm tiền, Ngộ tung chiêu nào ra mà chả được. Chiêu quảng cáo được làng báo vận dụng khá phổ biến - doanh nghiệp cứ quẳng ra vài chục triệu đến trăm triệu cho tờ báo có uy lực, thế là được lên hương trong dư luận với những trang quảng cáo mùi mẫn. Được lên mặt báo là vinh dự, nhưng quan trọng hơn, là chính những món quảng cáo đó tạo nên mối quan hệ bền chặt giữa báo chí và doanh nghiệp, tha hồ an toàn, khỏi bị chọc ngoáy. Bên cạnh chiêu thuê quảng cáo như vậy, Lý Ngồ Ngộ còn có những chiêu thức riêng. Nếu Tổng Biên tập báo nào muốn tập hợp những bài báo của mình in thành sách, thì Lý Ngồ Ngộ ô kê liền - nhập hết vào kho, thanh toán sòng phẳng, để rồi sau này... thanh lý. Phóng viên nào có tập truyện, tập bài báo, tập thơ, tập nhạc... khó bán, cứ đưa cho Lý Ngồ Ngộ là được nhập kho và thanh toán nhanh chóng. Nhiều khi, để tỏ ra rộng rãi với cánh nhà báo, Lý Ngồ Ngộ rút ví xỉa ra một vài triệu cho phóng viên này, biên tập viên nọ một cách vô tư (sau đó sẽ yêu cầu Tài vụ Công ty thanh toán lại). Rồi những

Page 23: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

bữa nhậu thường nhật (Có lần anh em phát hiện Lý Ngồ Ngộ thanh toán tiền tiếp khách với tám hoá đơn trong cùng một ngày ở tại cùng một nhà hàng. Mọi người thì thào với nhau: trừ giờ ngủ tám tiếng, thì bình quân cứ hai giờ Giám đốc đãi khách một bữa nhậu oách xì quách tại cùng một nhà hàng. Thì thầm với nhau thôi, không ai dám hé răng thắc mắc). Với một vài tờ báo lớn, Lý Ngồ Ngộ còn đầu tư sâu hơn: thầu hẳn một trang dành nói riêng về Công ty mình. Trên các trang báo đó, thường in "tác phẩm" của Lý Ngồ Ngộ và những bài viết tâng bốc cậu ta. Có bài, phóng viên ca ngợi hết lời một doanh nhân tâm tài. Có bài, phóng viên đưa lên tận mây xanh thành tích của Công ty Miền Nam dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Giám đốc Lý Ngồ Ngộ. Có bài phân tích tỷ mỉ những lời hay, ý đẹp trong "tác phẩm" của Lý Ngồ Ngộ, kiểu như "Việt Nam tiến dọt lên cao/Có công đóng góp của bao nhiêu người". Câu này được bình là mang tính quần chúng sâu sắc, phù hợp với quan điểm của Đảng về nền văn học nghệ thuật dân tộc, khoa học, đại chúng. Nghĩ mình là vĩ nhân, Lý Ngồ Ngộ cuồng lên, thỉnh thoảng lại bật ra những câu "danh ngôn" để dạy đời. Không biết vì vô tình hay cố ý mà Lý Ngồ Ngộ đạo cả thơ của Tố Hữu, biến hoá thành danh ngôn của mình. Tố Hữu viết: "Người yêu người sống để yêu nhau!", thì danh ngôn của Lý Ngồ Ngộ là: "Chúng ta sống để nói lời yêu nhau". Thế mà tờ báo Vĩ Thanh lại tâng bốc rằng đó là triết lý sống đậm tính nhân văn của một doanh nhân - nhà thơ! Càng thêm phởn chí, Lý Ngồ Ngộ lấy tiền của Công ty thuê người viết danh ngôn của mình theo kiểu Thư pháp Việt rồi in hàng vạn bản truyền bá trong xã hội. Chẳng là Lý Ngồ Ngộ thấy dân Việt ngày nay thích biến lối viết thư pháp của người Trung Hoa thành kiểu thư pháp mang bản sắc Việt, thường trích những câu thơ hay viết lên giấy, lên đá, lên vải... để vừa làm vật trang trí, vừa làm một thứ kinh nhật tụng răn dạy đời. Lý Ngồ Ngộ thèm đến rỏ rãi vị trí của nữ sĩ Tôn Nữ Hỷ Khương đối với thư pháp Việt. Thơ của bà được trích dẫn rất nhiều, được viết thành không biết bao nhiêu thể thi pháp Việt và phát hành đi khắp các phương trời, kể cả ngoài biên giới Việt Nam. Câu thơ của Hỷ Khương được trích nhiều nhất là: "Còn gặp nhau thì hãy cứ vui/Chuyện đời như nước chảy hoa trôi/Lợi danh như bóng mây chìm nổi/Chỉ có tình thương để lại đời". Lý Ngồ Ngộ có biết đâu rằng quần chúng tinh lắm, họ biết đâu là của thật, đâu là của giả, cho nên thơ của nữ sĩ Hỷ Khương tuy không cánh mà bay đi biết bao vùng quê, đến với biết bao tấm lòng ngưỡng mộ. Còn với "thơ" Lý Ngồ Ngộ, họ nhận ra ngay đó là đồ rởm, họ thấy rõ thơ Tố Hữu đã bị đánh cắp và bóp méo như thế nào. Với Tố Hữu, tình yêu giữa con người và con người được xem như là bản chất, như là

Page 24: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

mục đích (sống để yêu nhau). Khi bị Lý Ngồ Ngộ đạo rồi phù phép thành danh ngôn của mình, thêm hai từ nói lời vào, tình yêu giữa con người với con người đã trở thành phương tiện, thành thứ giả dối, chót lưỡi đầu môi (sống để nói lời yêu nhau). Vì thế, chẳng ai thèm mua thứ danh ngôn rởm đó, và đến tận bây giờ, chúng vẫn nằm chất đống trong kho, trở thành gánh nặng cho Công ty Miền Nam khi chuẩn bị tiến hành đổi mới. Vân vân. Không ai có thể thống kê được đầy đủ những bài báo bốc thối và những chiêu thức đánh bóng của Lý Ngồ Ngộ...

Người của thời bao cấp

Với chị Nguyễn Thu Minh, thời bao cấp được hiểu theo nghĩa rộng. Nó trải dài suốt từ cuộc kháng chiến trường kỳ chống giặc Mỹ xâm lược của dân tộc tới tận trước năm 1986 - trước thời kỳ đất nước ta đổi mới toàn diện.

Sinh ra vào đầu những năm năm mươi của thế kỷ trước, chị lớn lên trong giai đoạn sau của thời kỳ ấy. Tuổi học trò của chị trôi qua trong khung cảnh đất nước bị chia làm hai miền. Miền Nam đang đau khổ trong ách kìm kẹp của Mỹ - Nguỵ. Miền Bắc được hoà bình xây dựng một thời gian thì phải đương đầu với cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân ác liệt của đế quốc Mỹ. Gồng mình dưới mưa bom bão đạn của kẻ thù, miền Bắc vững vàng vừa là hậu phương vừa là tiền tuyến.

Minh có những kỷ niệm đẹp với thời bao cấp oanh liệt ấy. Cô học trò Minh đi sơ tán tận “vùng nông thôn” của tỉnh Hà Tây. Hà Tây, “cửa ngõ Thủ đô”, chính là quê hương của “Chiếc gậy Trường Sơn”. Minh đã chứng kiến cảnh lên đường ra trận hào hùng của những trai làng có “đôi chân vượt đường xa không mỏi”, có “tinh thần chỉ tiến không lui”. Sơ tán ở làng, Minh cũng là thành viên của làng. Minh trải lòng cùng thương, cùng nhớ các trai làng như những bà mẹ, những người chị, những người em gái của làng đối với những người ra trận. Một khẩu hiệu của thời ấy đã thấm sâu trong óc và trong tim Minh: “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Đấy, khẩu hiệu của một thời bao cấp đấy. Nếu không có thời bao cấp ấy, làm sao có một kỷ luật sắt, một ý chí thống nhất cao độ để tập trung tiềm lực toàn dân tộc cho cuộc kháng chiến vĩ đại bảo vệ Tổ quốc. Lúc ấy, quyền lợi của Tổ quốc gắn bó mật thiết với quyền lợi của mỗi cá nhân. Lòng yêu

Page 25: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

nước thương nòi mãnh liệt đã khiến những con người cá nhân gắn kết với nhau thành một khối mạnh mẽ và vững chắc. Nhớ đến đây, Minh thoáng buồn. Bây giờ, trên chính cái mảnh đất Hà Tây giàu tình làng nghĩa xóm, giàu lòng yêu nước, hy sinh ấy, cũng những người nông dân của những làng quê ấy, có không ít người hò nhau ra rào cổng của cả khu công nghiệp để đấu tranh đòi quyền lợi, hoặc lập trạm canh bất hợp pháp để thu tiền mãi lộ của lái xe... Chẳng ai bảo được ai. Chính phủ chỉ đạo xuống cũng không có hiệu lực. Quyền lợi thời kinh tế thị trường đã biến đổi con người đến kinh ngạc. Lợi ích riêng đã trở thành một thứ quyền năng quá ư mạnh mẽ, có thể điều khiển hết thảy. Thoáng buồn, rồi Minh tự an ủi: “Dù sao, đó chỉ là những tiêu cực mang tính cục bộ. Nhìn chung, xã hội đã phát triển nhiều, theo hướng tốt đẹp lên là chính!”.

Thời bao cấp đã nuôi dưỡng Minh, đã giáo dục Minh để cho Minh trở thành một con người đàng hoàng. Bằng Đại học Kinh tế Tài chính loại ưu. Thời bao cấp không có bằng rởm, cho nên chẳng ai nói đến bằng rởm hay bằng thật mà chỉ nói đến bằng giỏi hay bằng thường. Thời bao cấp cũng tặng cho Minh một người chồng là sĩ quan quân đội, một con người chân chất, chí thú với binh nghiệp, chu đáo với gia đình. Một gia đình êm ấm. Thời bao cấp cũng tạo cho Minh một ưu điểm, mà vào thời buổi thị trường này, có khi lại trở thành nhược điểm, đó là tính thẳng thắn và nhiệt tình vô bờ bến với công việc. Cứ ào ào làm việc. Cứ ào ào đôn đốc, thúc giục mọi người vào công việc. Thấy việc đình trệ thì điên tiết lên, ào ào phê phán, có khi nói mất mặn mất nhạt, nhưng tâm thì trong veo, tình thì đằm thắm - những mong bạn bè mình khắc phục khuyết điểm để vươn lên đóng góp phần tích cực cho cuộc sống. Trong thời bao cấp, thiếu thốn vật chất mọi bề nhưng con người hay chia sẻ. Chia sẻ vật chất và chia sẻ tình cảm. Những con người của thời bao cấp (và bây giờ là những người vẫn “giữ những tính chất của thời bao cấp”, gọi tắt là “người chất bao cấp”) rất hay tâm sự với nhau. Tâm sự việc gia đình, tâm sự việc cơ quan. Họ trải lòng với nhau, không phòng ngừa, không thủ đoạn. Kiểu cách của những “người chất bao cấp” có vẻ lạc lõng với lối sống hiện đại. Trong dân gian đã lưu truyền nhiều câu ca dao về thực trạng này, như:

“Thật thà thẳng thắn thường thua thiệtLỗi lầm luồn lọt lại lên lương”Hay:“Đi nhẹ, nói khẽ, hay cườiChuyện đâu bỏ đó là người lên cao!”

Page 26: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Thế mà những “người chất bao cấp” lại hay tâm sự, cứ vơ việc vào thân, thấy sự bất bằng thì chẳng tha, nói năng lại chẳng kín kẽ, cứ ào ào... thì làm sao phù hợp với môi trường sống nhộn nhạo và đầy cạm bẫy hôm nay? Cái khoản hay giãi bày tâm sự là điểm yếu, yếu vô cùng của những “người chất bao cấp” mà những kẻ của thời kinh tế thị trường khai thác triệt để nhằm tạo ra vũ khí trong các cuộc đấu đá. Đấu đá chứ không phải là đấu tranh. Ở công ty biểu diễn nọ, ông giám đốc Khắc Thế cũng thuộc loại “người chất bao cấp”, thẳng ruột ngựa, có gì cũng đem ra tâm sự với bạn bè và cả với cấp dưới. Buồn vui cũng tâm sự. Bực tức cũng tâm sự. Ý đồ trong công việc cũng tâm sự. Trong cơ quan, có tay kế toán trưởng Văn Thinh là người của thời kinh tế thị trường cho nên hắn có cái tai rất thính và bộ nhớ tuyệt vời, lại được hỗ trợ bởi một cuốn sổ tay lúc nào cũng để sẵn trong túi. Văn Thinh vốn là một kế toán quèn ở một tỉnh miền núi. Thời kháng chiến, Khắc Thế từng đóng quân khá lâu ở vùng quê của Văn Thinh, thường xuyên lui tới gia đình Văn Thinh. Chính vì vậy, anh tìm mọi cách xin được cho hắn chuyển về cơ quan do anh đứng đầu. Khắc Thế coi Văn Thinh như con cháu trong nhà, cứ hềnh hệch tâm sự, chẳng đề phòng gì cả. Ông có biết đâu, trong bụng gã trai trẻ này là cả một mưu đồ đen tối. Về thành phố, sống độc thân trong thời buổi cái gì cũng đòi tiền, Văn Thinh tìm mọi cách kiếm tiền. Thấy Văn Thinh có những biểu hiện moi tiền bất chính, Khắc Thế gọi tới nhà, sạc cho một trận rồi mời ăn một bữa cơm với gia đình. Văn Thinh ở lại ăn cơm, nhưng trong lòng lại mang mối hận với thủ trưởng - ân nhân của mình. Tới một ngày, thanh tra bộ nhận được đơn kiện giám đốc Khắc Thế về một loạt tội, nào là tham ô, nào là hách dịch... Riêng cái khoản hách dịch, có cả mấy trang giấy ghi chi tiết những lời mà Khắc Thế bảo ban Văn Thinh như bảo ban con cháu trong nhà. Ghi rất kỹ. Ngày nào, giờ nào nói, nói ở đâu, có ai làm chứng.... Còn tội tham ô, Văn Thinh lấy tư liệu từ việc Khắc Thế nói rõ với hắn giá mua hệ thống trang âm từ bên Ý với giá nguyên gốc, để tố rằng anh đã nâng khống giá nhập hàng. Thực ra, giá nguyên gốc là một chuyện, còn thuế má, chi phí vận chuyển... mới thành giá chính thức được. Nhưng Văn Thinh cứ khăng khăng coi giá mà hắn biết được do Khắc Thế cung cấp là giá mua hàng chính thức, hắn kiện khắp nơi. Hắn cũng ghi rõ giờ nào, ngày nào, ở đâu, ai nói, nói gì về giá hàng hoá do công ty nhập để minh chứng rằng, quần chúng rất bức xúc trước hành động tham ô của giám đốc. Bộ mất công thanh tra lên thanh tra xuống. Khi được minh oan, thì Khắc Thế đã bị suy kiệt thần kinh tới mức phải nghỉ hưu non! Nhưng trời có mắt, chỉ sau một thời gian, do đấu đá liên tục với

Page 27: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đồng nghiệp, căng thẳng quá, Văn Thinh bị đứt mạch máu não, nằm một xó. Chưa hết, trời còn hành không cho hắn về chầu ông tổ sớm. Hắn cứ nằm chình ình với thân hình hộ pháp nặng gần một tạ suốt năm này qua năm khác, tới mức thối da thối thịt. Bạo bệnh đã gặm nhấm trên năm chục cân thịt của hắn rồi mới tống khứ hắn về âm phủ. Chỉ tội nghiệp chị vợ và đứa con gái phải hầu hạ thâu đêm cạn ngày, mỏi mòn trong nỗi vất vả thân xác và khủng hoảng tinh thần.

Trở lại chuyện của chị Minh, “chất bao cấp” chậm được thay đổi sẽ làm cho chị khốn khổ trong một thời gian khá dài. Cái “chất” ấy khiến chị cả tin, nhìn người khá đơn giản và bao giờ cũng nhìn theo chiều hướng tích cực - chị chẳng nghĩ xấu về ai bao giờ. Trong cư xử với đồng sự, thì nặng về tình cảm mà nhẹ về lý trí, càng không quan tâm tới những thủ tục pháp lý. Cho nên, chị luôn luôn thiếu cảnh giác. Hồi mới được tập đoàn cử sang tham gia liên doanh Bạch Liên, với tư cách phó tổng giám đốc phía Việt Nam kiêm phó chủ tịch liên doanh, chị kết thân nhanh chóng với Lê Đản. Chị hay tâm sự với gã. Chẳng hạn như, chị bảo rằng chị làm việc lâu trên bộ nên có mối quan hệ khá mật thiết với lãnh đạo bộ cũng như các vụ, cục, đó là điều thuận lợi cho công việc hiện nay của chị và đơn vị. Trong khi Minh chuyện trò hồn nhiên, thì Đản thò tay vào túi bật vào nút “REC” của chiếc máy ghi âm kỹ thuật số.

Thời buổi hiện đại này, việc ghi âm lén là chuyện nhỏ. Một chiếc máy ghi âm chỉ to bằng ngón tay được giấu ở bất kỳ chỗ nào, có thể cần mẫn ghi âm liên tục với độ dài tới bảy mươi hai tiếng đồng hồ. Đản học được cái võ ghi lén này từ xã hội đương thời, xã hội công nghệ tiên tiến. Nhờ hiện đại hoá, có phương tiện do thám hiện đại, mà cái “máu Gia ve” bỗng nhiên lan ra trong xã hội. Ai cũng có thể trở thành mật thám rình mò người khác. Ai cũng có thể sử dụng món võ ghi lén hình ảnh, âm thanh để làm tài liệu phục vụ những ý đồ riêng. Chẳng thế mà có chuyện một gã đàn ông tung hình ảnh cô diễn viên điện ảnh làm tình với mình lên mạng, chỉ vì cô ta “đá” mình. Lại có vị thầy giáo được phân công làm giám thị, chẳng lo biện pháp giám thị cho tốt mà lén đem “camera” vào trường thi quay lén cảnh lộn xộn, sau đó tung lên mạng để rồi được tung hô như một anh hùng chống tiêu cực. Lại có chuyện vợ chồng một nhạc sĩ ghi lén câu chuyện của họ với một nhạc sĩ kiêm quan chức khác, rồi dùng làm tài liệu phân phát khắp nơi, bôi xấu vị nhạc sĩ - quan chức nọ. Lại còn chuyện một cô học sinh học dốt nhưng giỏi lừa thầy, đã bẫy thầy thở ra những câu dâm đãng, ghi âm lại, cung cấp cho báo chí, tạo nên vụ “scandal” thầy giáo gạ đổi tình lấy điểm, khiến thầy giáo này trở thành kẻ

Page 28: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

“mất dạy”. Đó chỉ là những vụ “nổi tiếng” được công bố trên các phương tiện truyền thông đại chúng mà thôi. Còn vô vàn những hành động “mật thám” tương tự xảy ra hàng ngày hàng giờ trong khắp các hang cùng ngõ hẻm, không thể nào thống kê nổi. Tình trạng “ghi lén” bùng nổ như vậy chính là một biểu hiện sa sút đạo đức xã hội nghiêm trọng. Lẽ nào một xã hội lành mạnh lại tung hô những kẻ dùng hành động tiêu cực để chống tiêu cực? Cứu vãn tình trạng suy đồi đạo đức bằng những hành vi vô đạo đức chỉ làm cho xã hội suy đồi thêm mà thôi.

Vốn vô đạo đức và có máu thực dụng, Đản không bao giờ quan tâm đến tình trạng suy thoái đạo đức nói trên, mà chỉ thấy rằng những mẩu phim, kiểu ảnh, đoạn âm thanh ghi lén được nhiều khi trở thành loại vũ khí siêu hạng giúp người ta hạ gục đối thủ trong chốc lát. Học được bài học quý giá đó, lúc nào gã cũng thủ sẵn một máy ghi âm kỹ thuật số trong túi, kèm theo một sổ tay con con, cây bút con con để ghi âm, sau đó ghi chữ lên giấy làm tài liệu bổ sung (ghi vào sổ chứ không ghi vào máy tính, vì bằng chứng bằng giấy mới có giá trị, vả lại ghi vào sổ thì có thể biến tấu chút ít cho phù hợp với ý muốn của gã). Gã ghi như sau: “Khách sạn Bạch Liên, hồi 16 giờ 45 ngày 20 tháng 8 năm 2004, chị Nguyễn Thu Minh khoe rằng chị có mối quan hệ thân thiết với bộ trưởng, các thứ trưởng, các cục vụ trưởng, cho nên chị có khả năng chạy chọt, không việc gì phải sợ ai. Việc gì chị Minh cũng chạy được. Cùng nghe có cô Thuỳ, kế toán trưởng. Khi chị Minh tới khách sạn có hai bảo vệ trực cửa là Hồng và Quân chứng kiến”. Sau này, lời ghi này được biến tướng thành lời trong đơn tố cáo: “Bà Nguyễn Thu Minh thường khoe khoang rằng, bà có quan hệ thân thiết với các vị lãnh đạo bộ như bộ trưởng, thứ trưởng cho nên có khả năng chạy vụ án mại dâm trót lọt”. Ngày, giờ, địa điểm, người chứng kiến lời nói này được Đản viết ra đúng như đã ghi trong sổ tay. Chị Minh ngớ người vì không hiểu mình có nói điều ấy hay không, nếu mình không nói thì tại sao Đản lại ghi rõ như thế. Đâm ra tự kỷ ám thị, chị Minh nghi ngờ cả chính mình. Nhưng, đó là chuyện về sau. Chứ giai đoạn đầu, ghi như vậy nhưng thái độ của Đản lại thân tình, cởi mở hết sức (ấy là theo cách nhìn nhận của Minh). Minh thầm khen Đản chân thật và chu đáo khi gã nói với chị: “Em làm ở đây được một nghìn năm trăm đô mỗi tháng. Còn chị làm kiêm nên được sáu trăm đô. Nhưng em sẽ đấu tranh để chúng nó tăng lương cho chị!”. Chẳng ham hố gì tiền bạc, nhưng trước thái độ ân cần của Đản, Minh bổi hổi bồi hồi. Khi công ty của Đản phải giải thể (công ty này là đơn vị trực thuộc tập đoàn, làm đối tác đại diện cho phía Việt Nam trong liên doanh, giải thể vì làm ăn thua lỗ, cho nên tập đoàn

Page 29: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

phải thế chân.), lẽ ra Đản sẽ phải “giải tán khoẻ” theo, nhưng với tấm lòng nhân ái và cả tin, chị Minh lại đề nghị với tập đoàn cho gã tiếp tục tham gia liên doanh với chức danh mới là Phó chánh văn phòng tập đoàn. Sau một thời gian làm việc ở liên doanh cùng Minh, Đản thăm dò: “Chị Minh ơi, các sếp ở tập đoàn thế nào?”. Minh thật thà: “Các sếp tốt lắm. Chỉ có điều tập đoàn ta làm ăn không khá lắm cho nên thu nhập không được cao! Kể như chị em ta có thu nhập cao thì cũng nên hỗ trợ anh chị em ở tập đoàn”. Trong khi chị Minh nói thì Đản thò tay vào túi bấm nút “REC” trên chiếc máy ghi âm kỹ thuật số. Khi chị Minh đi, Đản ghi vào sổ tay: “Khách sạn Bạch Liên, hồi 15 giờ ngày 27 tháng 9 năm 2004, chị Minh nói rằng, lãnh đạo tập đoàn thiếu tiền lắm cho nên cần hỗ trợ cho các sếp. Không có ai nghe cùng nhưng có hai bảo vệ là Hồng và Quân chứng kiến chị Minh vào khách sạn”.

Lại nói tiếp về cái “chất bao cấp” của Minh. Ra tập đoàn nhận công tác, Minh đau đáu với công việc, đi sớm về muộn, sao nhãng cả việc gia đình. Chị phát hiện những yếu kém trong công tác quản lý. Không hiểu sao, ngày nào cũng mất hàng, trị giá trên một triệu đồng mỗi ngày. Khi nhận bàn giao, ban lãnh đạo mới phải tiếp nhận món hàng mất trị giá gần ba trăm triệu đồng. Lạ nhất là không quy được trách nhiệm cho ai. Tất cả đổ tại “tập thể”. Sở hữu cả một toà nhà sang trọng, cao vời vợi ngay trung tâm thủ đô mà hoạt động luôn luôn bị lỗ. Nhân viên bán hàng hưởng lương tháng, bán được hàng cũng hưởng, không bán được hàng cũng hưởng, bán nhiều bán ít đều hưởng như nhau. Quyền lợi và trách nhiệm chẳng gắn bó gì với nhau cả. Cho nên họ thờ ơ với khách hàng. Minh đã từng chứng kiến một cô nhân viên hất hàm với khách: “Hàng đấy, bác tự xem khắc biết!”. Lần ấy, suýt nữa Minh xông đến quát cho cô nhân viên kia một trận, nhưng có anh Mai Chính trực, chủ tịch tập đoàn kéo lại nên Minh mới đứng yên. Sau khi nắm chắc tình hình, Minh đề xuất ý kiến rồi cùng ban lãnh đạo tập đoàn tính toán lên phương án khoán cho từng đơn vị. Sự đổi mới nào chả vấp phải những lực cản của cái cũ. Những tiếng kêu ca, phàn nàn rộ lên. Nhưng Minh kiên quyết tổ chức thực hiện. Chị được tổng giám đốc giao trực tiếp phụ trách công việc này. Chị nói thẳng toẹt với mấy trưởng đơn vị hay ca thán về việc khoán cao quá: “Các anh chị tính thử xem, mức nộp của các anh chị cho tập đoàn cũng chưa đủ trang trải chi phí cho chính các anh chị, tại sao cứ kêu là cao?”. Việc Minh luôn luôn phải đảm đương những công việc gay cấn, đụng chạm là cả câu chuyện dài sẽ tiếp diễn ở nhiều hồi sau. Nhưng chúng ta có thể thấy từ đầu rằng, tổng giám đốc là con người khôn ngoan có hạng, luôn luôn phân công cho cấp phó những việc hắc búa, còn anh ta

Page 30: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

thì tránh biệt. Riêng việc đứng gần các cấp lãnh đạo cỡ quốc gia để chụp ảnh rồi đăng báo, phóng to treo ở phòng làm việc, ở phòng khách, ở nhà riêng, hoặc trả lời phỏng vấn báo, đài phát thanh, truyền hình về thành tích, anh ta nhanh lắm, luôn xuất hiện đúng lúc. Vì vậy, danh anh ta nổi như cồn. Nhưng đó là cả câu chuyện dài, sau này chúng ta sẽ thấy rõ hơn. Chỉ biết rằng chị Minh luôn xông tới những nơi gay cấn, đụng chạm vào quyền lợi của một bộ phận không nhỏ nhân viên quen lợi dụng sơ hở của quản lý để hưởng lợi riêng. Chính sự va chạm ấy đã gây cho Minh những bất lợi trong quan hệ với nhân viên. Thêm vào đó, chị lại hay bô lô ba la, hay nổi đoá, cái gì cũng tồng tộc nói ra bằng hết, phê phán mạnh mẽ, yêu cầu thay đổi mạnh mẽ, bóc mẽ một số nhân vật tiêu cực thẳng thừng... Vô hình trung, Minh đã tạo cho mình một số đối thủ nguy hiểm. Đến dịp nào đó, những con người này sẽ té nước theo mưa, tìm cách đẩy chị xuống bùn. Tại liên doanh Bạch Liên, Minh cũng bắt đầu thấy những bất hợp lý trong quản lý. Cứ phát hiện ra vấn đề gì cần thay đổi là Minh lại tâm sự với Đản. Chị không ngờ rằng, những bất hợp lý ấy chính là kẽ hở mà Đản cần có để kiếm chác. Một hôm, Minh bảo với Đản: “Chị thấy việc thuê giặt là không ổn lắm. Chỗ này giặt không được sạch, lại hay làm rách đồ, chú xem thế nào, ta nên chuyển sang chỗ khác”. Đản bầm gan tím ruột lại. “À, con mẹ này bắt đầu xía vào miếng cơm manh áo của ta đây. Mỗi tháng, ta cũng kiếm được dăm bảy triệu đồng tiêu vặt từ khoản hoa hồng dịch vụ này, mụ định cắt của ta à?”. Nghĩ vậy, nhưng mặt vẫn như không, Đản làm ra bộ tâm đắc: “Chị nói thật chí lý. Em cũng thấy thế, chị bảo nên chuyển về cơ sở nào?”. Nói vậy, nhưng Đản đã nhẩm ngay trong đầu kế hoạch phong toả các tiệm giặt là quanh khu vực khách sạn để chúng trở thành vệ tinh của gã, của riêng gã. Vẫn vô tư, Minh bảo: “Chú khảo sát xem sao?”. Sau lần ấy, Đản đổi chỗ giặt là, nhưng vẫn thoả thuận được với cơ sở mới tiền hoa hồng cho gã hàng tháng. Tuy không mất mát gì, nhưng Đản bắt đầu căm Minh. Vốn thủ đoạn, hay gài bẫy đồng sự, Đản càng tìm cách khoá chị Minh cho chặt. Một hôm, Đản hỏi Minh: “Em làm việc với tư cách đại diện của tập đoàn ở đây một thời gian rồi, các sếp có ý kiến gì không?”. Minh bảo: “Các anh ấy cũng mong chúng ta làm việc nghiêm túc, chu đáo, công việc khó khăn, yêu cầu chúng ta phải hết sức cố gắng. Gái có công thì chồng không phụ!”. Sau khi Minh rời khách sạn, Đản nghe lại đoạn ghi âm rồi ghi (có biến tấu chút ít) như sau: “Khách sạn Bạch Liên, 10 giờ 11 phút ngày 30 tháng 9 năm 2004, chị Minh nói rằng công việc rất khó khăn, muốn được tiếp tục bố trí công tác thì cần phải cung phụng lãnh đạo! Cùng nghe có anh Nguyễn Tuấn Lặng, chủ tịch công

Page 31: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đoàn liên doanh” (Lặng lúc đó đang đi họp công đoàn trên khu, nhưng chi tiết này quan trọng quá, cần người chứng thực, mà Lặng là đệ tử trung thành, cho nên phải ghi rằng có Lặng chứng kiến). Tiếp đó, Đản gợi ý: “Em và chị làm việc ở đây thu nhập cao hơn anh em ở nhà, ta góp tiền lập quỹ chung để chi cho anh em trên tập đoàn những khi cần”. Thế là Minh đồng ý. Chị lập sổ, kẻ ngay ngắn các cột ghi thứ tự, họ, tên, số tiền đóng góp, số tiền chi... Đản lại tỏ ra rất chân thành: “Chị là phụ nữ, chu đáo, tỉ mỉ, chị giữ quỹ nhé! À mà này, chị cứ ghi ở đầu sổ “Quỹ lãnh đạo” cho oai. Em và chị chả gì cũng là lãnh đạo ở cái liên doanh này!”. Minh hồn nhiên làm theo lời Đản. Đản ghi tiếp vào sổ: “Khách sạn Bạch Liên, 14 giờ 27 phút 30 giây, chị Minh đến, mặc bộ váy kiểu công sở, màu xanh đậm. Chị Minh yêu cầu lập quỹ lãnh đạo để chi cho lãnh đạo tập đoàn. Không có ai chứng kiến nhưng có sổ sách làm bằng”. Bởi vì sự kiện này quan trọng quá, cho nên Đản viết thêm: “Ghi chú: Lúc chị Minh đến, trời mưa phùn lất phất. Chị Minh đi xe máy, không khoác áo mưa. Lúc chị Minh rời khách sạn, trời tạnh”. Với kinh nghiệm đấu tranh mang tính sinh tồn cả chục năm ở cái liên doanh hốt bạc này, gã hiểu rằng, những chi tiết tưởng như lụn vụn ấy sẽ rất có giá trị nếu làm bằng chứng khi cần thiết. Minh lại vô tâm, tán thành ngay ý kiến đề xuất của Đản, hàng tháng thu của Đản bảy trăm năm mươi đô la, còn mình cũng tự bỏ ra ba trăm đô la cho vào một cái hộp gỗ để trên cơ quan cùng với cuốn sổ ghi chép có chữ ký của hai người. Minh dự định khi cóp nhặt được khoản tiền kha khá, đợi đến dịp Tết sẽ nộp cho quỹ phúc lợi của cơ quan. Đó là những sai lầm mang tính chiến lược của một con người “chất bao cấp”. Sai lầm ấy suýt nữa dẫn Minh vào vòng lao lý.

Nói về tập đoàn Tri thức này, khối chuyện nhức đầu. Bộ máy lãnh đạo cũ được thay thế gần hết, gồm chức chủ tịch, tổng giám đốc và một Phó Tổng - chính là Minh. Lúc Minh tới nhận nhiệm vụ cũng là lúc tình hình ở đây khá căng thẳng. Chủ tịch tập đoàn trước lúc nghỉ hưu dặn lại Minh: “Phải nghiêm khắc xử lý thằng Triệu Hà, giám đốc công ty Sa Ba. Nó là “Chét nhi a” đấy!”. Minh vâng dạ, nhưng chưa hiểu rõ tại sao Hà lại là kẻ ly khai? Xem lại sổ sách, thấy rằng công ty Sa Ba làm ăn rất khá, doanh số, lợi nhuận, nộp ngân sách, đời sống người lao động... đều cao nhất tập đoàn, lại thực hiện nghĩa vụ với tập đoàn nghiêm túc nhất. Chỉ mỗi tội nội bộ nát nhoét, kiện cáo tùm lum. Trong xã hội thông tin ngày nay, mọi chuyện đều có thể tung lên mặt báo chí. Trong các cuộc đấu đá nội bộ, người ta cũng lợi dụng triệt để dư luận, lấy dư luận làm hậu thuẫn cho việc xử lý lẫn nhau. Những kẻ tiêu cực nhân danh tích cực thường rất già mồm, tìm mọi cách chiếm lĩnh mặt trận

Page 32: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

tuyên truyền, từ báo ngày tới báo tuần, từ báo in đến báo điện tử. Xem lại hàng loạt bài báo viết về những “tội lỗi” của công ty Sa Ba và giám đốc Triệu Hà, Minh thấy lờ mờ một sự thực là người ta muốn hại Hà, đổ vấy mọi tội lỗi cho Hà. Điểm nóng của công ty là chi nhánh trong thành phố Hồ Chí Minh. Triệu Hà, giám đốc công ty kiêm giám đốc chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh được miêu tả trên mặt báo là một kẻ độc đoán, chuyên quyền, vi phạm luật lao động. Phối hợp với mặt trận dư luận là những lá đơn tố cáo gửi đi rất nhiều nơi. Thế là Bộ chỉ đạo tập đoàn phải kiểm tra, xử lý những vấn đề của chi nhánh. Trong buổi họp lãnh đạo, vừa có người gợi ý cử tổng giám đốc Lý Ngồ Ngộ dẫn đoàn kiểm tra vào thành phố, anh ta đã giãy nảy lên: “Tôi bận chỉ đạo kinh doanh chung. Tôi thấy nên cử chị Minh đi”. Con người “chất bao cấp” ấy chẳng suy tính thiệt hơn, vui vẻ nhận lời làm trưởng đoàn kiểm tra của tập đoàn. Chị không mảy may biết rằng, đây là một tảng đá lớn mà chị sắp húc đầu vào.

Vào tới thành phố Hồ Chí Minh, đoàn kiểm tra thuê khách sạn riêng, tự túc hoàn toàn, không nhận bất kỳ sự phục dịch nào của chi nhánh công ty. Chi tiết này được quan tâm đặc biệt bởi những kẻ đang đấu Triệu Hà. Họ bàn nhau ghi chép tỉ mỉ tên, loại, cấp của khách sạn, giá phòng và chụp cả ảnh đoàn trước cửa khách sạn... để làm tư liệu khi cần tung ra. Tư liệu này sẽ được sử dụng theo hai hướng khác nhau tuỳ thuộc vào thái độ của đoàn đối với sự vụ. Nếu thuận cho những kẻ đấu đá, tư liệu này sẽ làm bằng chứng nói rằng, đoàn kiểm tra rất trong sạch, tự thuê khách sạn, tự lo liệu các điều kiện phục vụ công tác, không làm phiền cơ sở. Nhưng nếu không thuận cho họ, thì lập tức tư liệu ấy sẽ là minh chứng cho thói ăn chơi xa hoa của đoàn - vào thành phố không đếm xỉa gì đến cơ sở, thuê riêng khách sạn tư nhân để tách khỏi sự kiểm soát của quần chúng, để tha hồ gặp gỡ, bàn mưu tính kế với “những kẻ tiêu cực”. Minh đâu có biết đã có sự tính toán như vậy. Đứng đầu nhóm “phản kháng” là Phó giám đốc chi nhánh Lan Hương. Hỗ trợ đắc lực là Phó phòng vừa bị huyền chức Thuý Hỏi. Đoàn làm việc căng sức suốt mấy ngày, gặp riêng tất cả những quần chúng nào có nguyện vọng trình bày quan điểm của mình hoặc cung cấp thông tin... Minh giật mình, hoá ra ở đây, sự thể cứ như trong phim Hàn Quốc. Nhóm của Thuý Hỏi ghê gớm lắm. Họ tìm cách nắm giữ thông tin để làm ăn riêng. Cứ có khách hàng nào kha khá là họ tìm cách tách riêng ra, mời về nhà lấy hàng của mình. Họ còn đột nhập máy tính của đồng nghiệp, xem trộm thư điện tử để nắm thông tin về nguồn hàng, khách hàng rồi xoá sạch những thư quan trọng. Thậm chí, họ còn nhờ chuyên gia tin học tạo ra những thư điện tử

Page 33: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

giả, cung cấp thông tin giả cho đối thủ. Còn Lan Hương, tuy làm Phó giám đốc, nhưng lại là thủ lĩnh của nhóm tiêu cực này. Triệu Hà đã theo dõi thấy một quy luật là cứ lần nào đi hội chợ quốc tế mà không có Lan Hương, thì lượng khách hàng đến với công ty khá, nhưng cứ có Lan Hương thì y như rằng lượng khách sút hẳn đi. Lần theo sổ sách, anh phát hiện ra khá nhiều khách quốc tế đã nhập hàng của Lan Hương theo danh nghĩa cá nhân. Biết vậy, nhưng chưa có bằng chứng xác đáng, Triệu Hà tức muốn nổ tung lồng ngực. Nhân một lần Lan Hương chỉ đạo nhóm của Thuý Hỏi nhập một đợt hàng bị hải quan giữ vì vi phạm quy định, Triệu Hà liền ra roi. Anh chỉ đạo cách chức Phó Trưởng phòng Thuý Hỏi, cảnh cáo Phó giám đốc Lan Hương. Thế là bùng lên một chiến dịch chống lại Triệu Hà. Ngón đòn dư luận cũng được sử dụng làm mũi xung kích. Cùng một lúc, trên gần chục tờ báo đăng tin, bài về những vi phạm của chi nhánh Sa Ba. Nào là trù dập người đấu tranh chống tiêu cực. Nào là nhập lậu hàng hoá, bị hải quan phạt hàng trăm triệu đồng. Nào là kế toán trưởng ăn chơi sa đoạ, ôm cả gái làng chơi... Công đoàn, Đảng uỷ khối lại bênh vực nhóm của Lan Hương. Nhóm này có lối ứng xử mềm mại, thường chi tiền ủng hộ công đoàn, Đảng uỷ những khi có sinh hoạt của các tổ chức này. Riêng Triệu Hà thì hơi cứng. Anh giữ nghiêm nguyên tắc tài chính, hơi chặt chẽ trong chi tiêu. Một đôi lần công đoàn, Đảng uỷ gợi ý anh ủng hộ kinh phí để tổ chức ngày hội thể thao hoặc thi tuyên truyền viên giỏi, anh từ chối. Thế là anh được mệnh danh “kẻ chống tổ chức”, bị ghi vào sổ đen. Làm việc với công đoàn, Đảng uỷ, Minh được nghe những nhận định căng thẳng: Anh Hà đã vi phạm pháp lệnh công chức, viên chức, trù dập cấp dưới. Anh Hà yếu kém trong quản lý, để xảy ra những vụ vi phạm pháp luật trong khi nhập hàng. Anh Hà buông lỏng quản lý cán bộ, để cho thuộc cấp ăn chơi sa đoạ! Toàn những tội tày đình. Minh nín lặng ghi nhận rồi về gặp những nhân chứng, xem lại hồ sơ. Quả thật, Hà có vi phạm về thủ tục hành chính khi kỷ luật cán bộ. Lẽ ra phải theo đúng trình tự như: buộc người vi phạm làm kiểm điểm, tổ chức kiểm điểm tại cơ sở, lập hội đồng kỷ luật... thì anh Hà chỉ họp lãnh đạo với người vi phạm rồi ra quyết định kỷ luật. Vi phạm các thủ tục hành chính là bệnh chung của lớp cán bộ vừa thoát thai khỏi chế độ bao cấp. Ngày xưa, mọi việc được tiến hành theo mệnh lệnh hành chính và mọi người tuân thủ một cách vô tư. Còn ngày nay, đất nước đang tăng cường sống và làm việc theo pháp luật, thì lối làm việc ấy đã lạc hậu. Chính vì vậy, rất nhiều kẻ tiêu cực đã thoát tội, còn khá nhiều người tích cực phải bó tay trong đấu tranh, thậm chí phải nhận kỷ luật, vì thói quen làm việc theo kiểu hành chính bao cấp,

Page 34: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

không tôn trọng các trình tự pháp luật. Triệu Hà chính là con người như vậy. Tuy nhiên, Hà không mắc các tội lỗi như báo và đơn viết. Sự vụ nhập hàng lậu, tội của đời giám đốc tiền nhiệm, đã được xử lý. Phó giám đốc Khang không ôm gái làng chơi. Tấm ảnh này do chính nguyên chủ tịch tập đoàn chụp lúc liên hoan cơ quan, anh chị em đùa bỡn ghép đôi, dúi anh Phó giám đốc chi nhánh vào chị văn thư công ty. Khi lên ảnh, hai người đang cười tít mắt, trông thật tình tứ. Tuy vậy, tay nghề của nguyên chủ tịch yếu, nên hình ảnh hơi mờ mờ, không rõ chân dung cô gái. Khi đăng lên báo thành ảnh đen trắng, càng mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm. Nếu cô văn thư không viết đơn phản đối thì mọi người vẫn tin rằng, đó là một gái làng chơi thứ thiệt.

Xem xét kỹ càng, báo cáo với lãnh đạo tập đoàn kỹ càng rồi, đoàn kiểm tra ra kết luận, xác định những thiếu sót của Triệu Hà, yêu cầu làm lại thủ tục kỷ luật những cán bộ cấp dưới. Đồng thời, những mánh khoé làm ăn man trá của nhóm Lan Hương bị lôi ra ánh sáng. Tập đoàn yêu cầu Triệu Hà xây dựng quy chế giao dịch chặt chẽ hơn, chống lại tình trạng móc mánh lôi hàng về cho tư nhân. Thế rồi, nhóm tiêu cực kéo nhau ra khỏi chi nhánh công ty, lập một công ty trách nhiệm hữu hạn làm ăn riêng. Trong nhóm, tất nhiên cầm đầu là Lan Hương và trợ thủ đắc lực, Thuý Hỏi...

Chuyện ở chi nhánh công ty Sa Ba là như vậy. Cơ quan đã phân định rõ đúng - sai, nhưng những người vi phạm không bị xử lý kỷ luật gì hết; họ đã tự nguyện ra đi. Thế nhưng, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến những trận đòn ác hiểm đánh vào Minh trong thời gian tới.

*Hôm ấy, mới sáng sớm, đã có điện thoại gọi Minh. Hoá ra là điện của chánh

văn phòng Bộ. Anh này còn trẻ, tính tình điềm đạm, hỏi chị bằng giọng nhẹ nhàng:- Cơ quan chức năng vừa bắt vụ mại dâm tại khách sạn Bạch Liên, chị có

biết không?Minh giật nảy mình. Lại có chuyện ô nhục ấy ư? Mới về nhận chức kiêm

phó chủ tịch liên doanh, chị mới chỉ kịp tiếp xúc với đối tác một lần và một lần xuống ra mắt cán bộ nhân viên khách sạn, chưa kịp xem xét đến hoạt động của nó. Chị thật thà trả lời:

- Tôi cũng chưa biết chuyện này. Tôi sẽ tìm hiểu tình hình và báo cáo với Bộ ngay.

Liền đó, Minh gọi điện thoại cho Đản. Đản thản nhiên trả lời:

Page 35: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

- Việc này là do em bố trí đấy mà. Chúng ta chủ động gài bẫy bắt vụ mại dâm đúng lúc con mụ tổng giám đốc từ Đài Loan sang.

Minh giận sôi lên:- Chú làm ăn thế à? Tại sao không báo cáo cho tôi biết? Tại sao không báo

cáo cho lãnh đạo tập đoàn biết? Việc tày đình như vậy mà chú tự ý thế sao? Chú thật là tự tiện, thật là vô kỷ luật, thật là...

- Thưa chị, chính vì là việc quan trọng, nên phải bí mật!Minh điên tiết, quát vào máy:- Bí mật với cả lãnh đạo hả? Chú nghĩ chú là ai mà lộng hành như vậy?Rồi chị quăng máy đánh cụp xuống bàn.Đản cười khẩy. “Con mẹ này dám quát ta à? Hãy đợi đấy. Ta mới là người

có thực quyền ở cái liên doanh này. Trước kia, giám đốc kiêm chức phó chủ tịch liên doanh Lê Xuân Định đâu có dám quát nạt ta. Hàng tháng, lão chỉ nhận một nghìn đô rồi ngậm miệng mặc ta làm gì thì làm. Nghĩ đến đây” Đản thấy nhẹ lòng lại. Chả là, hàng tháng, lẽ ra chị Minh được hưởng một nghìn sáu trăm đô la như người tiền nhiệm, nhưng chị này đại khái quá, nói sao nghe vậy cho nên Đản chỉ đưa cho số tiền lương chính thức một nghìn đô la, còn tiền phụ cấp uỷ viên ban lãnh đạo sáu trăm đô, gã ém nhẹm. “Kệ mẹ mụ, dốt thì thiệt”. Căm Minh, Đản tìm hiểu sâu về gia đình chị, để có cơ hội là giở các ngón đòn đánh trộm sau lưng.

Gia đình Minh tuy êm ấm, nhưng có một nỗi đau. Đấy là chuyện cậu con trai cả bị di chứng viêm màng não. Bây giờ đã trưởng thành, đi làm, có vợ con, nhưng cậu Bạch này vẫn chưa thoát khỏi sự hành hạ của di chứng bệnh tật. Thỉnh thoảng, Bạch lại lăn đùng ra, sùi bọt mép. Nhìn con đau đớn, lòng Minh như có muối xát. Có bệnh thì vái tứ phương, Minh đã lặn lội lên hết miền núi Tây Bắc lại Nghệ An, vào Sài Gòn tìm thuốc cho con. Hễ nghe ai mách ở đâu có thuốc hay là Minh lần mò tới đó. Lòng người mẹ héo quắt lại trên các nẻo đường tìm thuốc tìm thầy cứu con. Chuyện này, Minh cũng tâm sự với Đản. Tuy cười thầm trong bụng: “Cho mày chết, con mụ đáo để!”, nhưng Đản lại tỏ ra ân cần: “Tội nghiệp thằng bé quá. Để em lo giúp chị!”. Ngay lập tức, gã vạch ra trong đầu kế hoạch gài bẫy chị Minh. Gã sẽ cử một đệ tử đưa chị Minh sang Trung Quốc mua thuốc. Trong quá trình này, tên đệ tử sẽ lừa chị vào tròng cả về kinh tế và chính trị. Khi ấy có mà chạy đằng trời. May thay, vì trời thương người có đức hay vì chị Minh có những người bạn tốt, cho nên, thật vô tình, chị thoát khỏi cái bẫy nguy hiểm chết người này, tuy chị có đi Trung Quốc và chị có bị phiền toái khá nhiều về chuyện này.

Page 36: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Đại Hoạ sĩ Lếu tếu

Anh tên là Lãi Nguyên. Cái tên đã báo hiệu số phận của anh may mắn, cầu được ước thấy, nhất là làm ăn kinh tế, sẽ chỉ có lãi. Tuy là hoạ sĩ, Lãi Nguyên không nổi tiếng ở các tác phẩm, dù anh có một số bức tranh chân dung sơn dầu khá ấn tượng, mà là ở khả năng thẩm định tranh tượng, khả năng biến chúng thành hàng hoá có giá trị kinh tế cao.

 Anh là người đầu tiên trong nước mở phòng tranh, tên gọi là Sơn Lam. Phòng tranh này chẳng mấy chốc mà nổi tiếng, đến mức được ghi vào danh mục các phòng tranh quốc tế, ghi vào địa chỉ cần tham quan của các tua du lịch quốc tế.

Tranh nào được bầy bán ở Gallery Sơn Lam, ắt có giá trị, ắt bán chạy. Nhưng không phải tranh nào cũng được bày bán ở đây. Lãi Nguyên rất ngặt nghèo trong việc thẩm định chất lượng. Anh đặc biệt quan tâm đến tranh sơn dầu. Đó là thể loại mang tính chất quốc tế, bất kỳ một nền hội hoạ nào muốn được khẳng định đều phải có những hoạ sĩ nổi danh và những tác phẩm có chất lượng cao trên chất liệu sơn dầu. Đề tài tranh cũng là điểm quan tâm đặc biệt của Lãi Nguyên. Tranh phải có chủ đề, chủ đề ấy phải mang hồn dân tộc, không sao chép hoặc học lỏm của nước ngoài. Một bức tranh có nội dung sâu sắc phải thể hiện được ý tưởng nghệ thuật nào đó, giống như thơ phải có tứ. Bút pháp phải có tính cách, tính cách thật sự, không phải là thứ giả tính cách kiểu như thơ tắc tị không ai hiểu là gì do mấy nữ thi sĩ trẻ thời nay sáng tạo ra. Tóm lại, tranh phải có giá trị quốc tế và tranh vào đây được bán theo giá quốc tế, được người nước ngoài mua. Cũng cùng một khổ tranh, chất liệu, chủ đề, tác giả... nhưng nếu bày bán ở phòng tranh Sơn Lam, sẽ có giá đắt gấp chục lần phòng tranh khác, mà thời gian bày chỉ mất nhiều nhất là mười lăm ngày. Sau chuẩn đó, tranh đã bay sang các phương trời khác. Cũng sau thời điểm đó, nếu không bán được, tranh phải quay về với chủ cũ. Nhưng, rất hiếm trường hợp như vậy. Mức hoa hồng mà các tác giả trả cho Lãi Nguyên cao nhất nước, theo sát các phòng tranh ở New York Mỹ: bốn mươi phần trăm. Xin lỗi các hoạ sĩ, phải nói ra một sự thật này: rất nhiều hoạ sĩ của chúng ta hơi hoang tưởng về tài năng của mình. Họ có một niềm tin tuyệt đối rằng, tranh của họ đạt trình độ quốc tế, cho nên ai bán được tranh của họ là một vinh dự cho người đó. Cũng chính vì vậy, rất nhiều hoạ sĩ chỉ đồng ý chi hoa hồng cho người bán tranh từ mười

Page 37: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đến hai mươi phần trăm là mút cần câu. Tuy vậy, nói đến Lãi Nguyên thì mọi hoạ sĩ đều kính nể và đều mong tranh của mình được bày bán ở đây, với giá thù lao “cắt cổ”. Tự nguyện. Vui vẻ. Lại còn cảm ơn lễ độ. Có khi, bán được một bức tranh, hoạ sĩ còn mở cả chầu bia chiêu đãi rộng rãi nữa.

Thời đất nước ta chưa mở cửa, hoạt động văn hoá nghệ thuật còn bị bó hẹp trong nhiều khuôn phép và định kiến bất thành văn cho nên sự sáng tạo nhiều khi bị hạn chế. Trên lĩnh vực hội hoạ, các triển lãm thời ấy gần như chỉ trưng bày các tác phẩm thuộc một trường phái, đó là trường phái hiện thực. Nhưng, cuộc sống vốn phong phú, đa dạng, thì nghệ thuật cũng đòi hỏi phải được mở rộng phương pháp phản ánh. Bên cạnh trường phái hiện thực, các hoạ sĩ Việt Nam đã vung bút vẽ sang các trường phái khác, như trừu tượng, ấn tượng... Nghĩ rằng, nhà nước ta không phân biệt đối xử với các trường phái, cho nên Lãi Nguyên ta tập hợp tranh của năm hoạ sĩ thuộc trường phái ấn tượng, tổ chức một cuộc triển lãm khá hoành tráng ở ngay phố Tràng Tiền. Lập tức dư luận sôi lên. Mấy nhà báo, nhà phê bình thuộc loại “bảo hoàng” tung liền mấy bài phê phán cuộc triển lãm “kỳ quặc” này. Còn trong dân chúng, có người dè bỉu: “Vẽ người cho thật, cho đẹp mới khó chứ vẽ người thành ngợm thì ai chẳng vẽ được, thế mà cũng triển lãm”. Riêng mấy ông khách Tây thì lộ vẻ ngạc nhiên và thú vị: “Ồ, hoá ra hoạ sĩ Việt Nam cũng tài, vẽ được cả tranh ấn tượng!”. Các ông bạn Tây này nói thật lòng, bởi vì ngay sau đó họ móc túi, quăng đô la ra mua về nước hàng chục bức tranh trong phòng triển lãm ấn tượng ấy. Lãi Nguyên ta biết người biết của, đặt giá các loại tranh này đắt gấp ba các loại tranh trước đây vẫn triển lãm. Thế là thu về cho các hoạ sĩ đồng nghiệp một khoản tiền tương đối xôm. Tiến thêm một bước, Lãi Nguyên tổ chức triển lãm tranh khoả thân, một loại tranh vốn bị cấm kỵ thời ấy. Dư luận lại sôi lên một lần nữa. Nhưng các vị khách Tây chỉ xem qua, chẳng thấy ho he khen chê gì. Chỉ có khách ta mua một số bức, giá vào loại trung bình. Mở cửa có ba ngày, khách đến xem đã vãn. Thế là Lãi Nguyên cho đóng cửa. Anh vừa cười vừa nói với anh em trong cơ quan: “Làm cái nghề này cứ như đi câu. Phải biết làm nhiều loại thính, loại mồi, rồi mạnh dạn vãi ra, quăng ra. Có thế mới câu được nhiều cá, mới vớ được con cá lớn. Khi cá không đớp mồi, thì ta lại thu cần về, mất gì đâu!”. Nhờ có hai cuộc triển lãm mang tính đột phá như vậy mà phòng tranh Sơn Lam nổi danh như cồn.

Page 38: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Ngoài phòng tranh, nhiều khi đi đến nhà người này người nọ chơi, Lãi Nguyên còn phát hiện giúp chủ nhân những bức tranh treo trong nhà họ có giá trị như thế nào. Hôm ấy, Lãi Nguyên đến chơi nhà một vị bộ trưởng, thấy ông này treo bức tranh chủ đề Phố của hoạ sĩ Bùi Xuân Phái ở phòng ăn. Liếc qua, Nguyên biết ngay đây là bức nguyên bản. Hỏi ra mới rõ, bức này do con vị bộ trưởng mua tận bên Đức từ một Việt kiều. Nguyên Râu hỏi đùa: “Ông có bán bức tranh này không?”. Vị bộ trưởng cười: “Bán làm gì, được mấy đồng, để treo cho đỡ trống trải phòng ăn!”. Nguyên Râu cười rung cả bộ râu đen láy, ràn rụa cả nước mắt: “Ông quê ơi, bức này ông phải treo trang trọng tại phòng khách. Nó có giá cao ngất ngưởng. Phải giữ cẩn thận, kẻo có kẻ lấy cắp đấy!”. Vị bộ trưởng chỉ cười. Ít lâu sau đến chơi, không thấy bức tranh đâu, hỏi thì Nguyên Râu được vị bộ trưởng này khai thực rằng đã đem lên treo ở phòng thờ - nơi đó kín đáo, dễ bảo vệ...

Làm ăn sành sỏi như vậy, nhưng phong cách sống của Lãi Nguyên lại lếu tếu vô cùng. Nói tục như hát hay. Ngồi chuyện trò cùng một loạt lãnh đạo, vẫn nói tục. Lạ một điều, cũng lời nói tục ấy, nếu phát ra ở miệng người khác thì nghe rất chướng tai, nhưng nếu phát ra từ cái miệng đầy râu của Lãi Nguyên lại nghe rất... êm tai. Chuyện tiếu lâm cũng rôm rả hả hê. Lãi Nguyên hay dùng bản thân mình làm nhân vật tiếu lâm. Tự chỉ trích, tự phê phán những thói hư tật xấu của nhân vật Nguyên Râu. Cứ tỉnh bơ. Mặc mọi người cười như nắc nẻ. Tuy thế, đặc sản trong tài vặt của Nguyên Râu (Nguyên có bộ ria, chòm râu khá rậm và đẹp nên mọi người hay gọi anh là Nguyên Râu) là bắt chước giọng nói mọi người. Anh mà giả giọng cán bộ lãnh đạo thì mọi người phải nghiêm trang lại, kính cẩn như đang đứng trước mặt cấp trên thật. Hôm ấy, trong một tiệc chiêu đãi các lãnh đạo, một vị lãnh đạo chủ trì bữa tiệc do có việc đột xuất phải đến muộn. Khi vị lãnh đạo vừa chớm chân vào cửa thì Nguyên Râu cất giọng: “Này chú Quý!”, chỉ nghe thấy thế thôi, “chú Quý” đã đứng im phăng phắc. Giọng nói tiếp tục cất lên: “Này chú Quý. Chú làm ngành giữ tiền mà để lãng phí như vậy sao. Trong bữa tiệc này, tôi thấy các chú toàn dùng rượu ngoại, tốn kém tiền của của nhân dân...”. “Chú Quý” đứng chết chân. Mãi khi “nhà lãnh đạo” ra lệnh cho vào, “Chú Quý” mới dám bước tới. Khi cuộc vui lên đến cao trào, người ta thích hát. Không phải là hát karaoke mà là hát thực sự những bài vui vẻ không có trong đĩa. Lãi Nguyên cũng là dân anh chị trong làng hát vui này. Anh biết chọn những bài hát vốn bình thường của thời trước để hát trong thời này, biến nó thành bài hát vui, chọc cười một cách tinh tế, làm người ta vui nổ trời. Bài hát mà anh hay “biểu diễn” nhất là bài “không nhớ tên”.

Page 39: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Khi hát bài này, anh đứng trước cử toạ, quần xắn cao quá gối, tay làm động tác minh hoạ:

Sáng hôm nay anh tôi vác cuốcVác cuốc ra thăm đồngAnh cuốc như thế nàyRồi cuốc như thế kia

Như thế này rồi như thế kiaHỡi anh ơi

Anh chăm cuốc đấtCuốc đất cho hăng vào!...

Bài hát có nhiều lời, mỗi lời nói về một thành giai cấp hoặc lực lượng trong nhân dân ta như nông dân, công nhân, bộ đội. Khi hát đến các đoạn sôi nổi như “cuốc đất cho hăng vào”, “bắn súng cho hăng vào”, “đánh búa cho hăng vào”, “như thế này rồi như thế kia”, Râu ta hăng tiết vịt quai hai tay theo nhịp cuốc hoặc nhịp búa, nét mặt trông ngây thơ đến đáng yêu. Dáng cao cao, da hồng hào, tóc dầy, hơi quăn, mũi cao... Trông anh như người châu Âu. Ông Tây An Nam này xắn quần móng lợn, hát múa hồn nhiên càng làm cho mọi người cười, cười lý thú và bổ ích. Phong thái hồn nhiên yêu đời tếu táo của Đại Hoạ sĩ có sức lôi cuốn lạ kỳ. Đến nỗi trong nhiều cuộc gặp mặt doanh nghiệp toàn quốc, nhiều tổng giám đốc, Chủ tập đoàn kinh tế to đùng của đất nước oai như cóc tía gặp Đại Lếu tếu là lao vào cùng vui, cũng nhảy lên sân khấu hát hò. Khốn nỗi, các vị này không có duyên pha trò cho nên các động tác cứ cứng đơ đơ, vụng dại, mặt lại thuỗn ra, bên cạnh một anh có máu hài hước, tinh tế và nhuần nhuyễn trong từng động tác, tạo nên bức tranh tương phản sinh động khiến cả hội trường náo nhiệt như vỡ chợ. Cả hội trường reo lên ầm ầm: “Hoan hô! Hát lại! Hát lại! Hát lại!”. Nhìn xuống cử toạ, toàn là những vị tai to mặt lớn, thấy ai nấy sôi lên ào ào, Đại Lếu tếu nghiêm nét mặt, ôm lấy micrô hô lớn: “Im lặng, nghe lệnh đây!”. Cả hội trường im bặt. Đại Lếu tếu túm lấy hai đại gia chủ tịch hai tập đoàn lớn nhất nước Nam, kéo xềnh xệch lên phía mép sân khấu, tuyên bố dõng dạc: “Các chú chưa thành thạo nghề nghiệp! Pha trò cũng là một nghề, phải tập, phải luyện. Từ nay, các chú phải chịu khó tập luyện rồi mới được nhảy lên sân khấu cùng ta mua vui cho các đại gia!”. Hai đại gia gập mình vâng dạ trước cơn hứng khởi bất chợt của cử toạ, rào rào lên trong tràng pháo tay kéo dài. Hai đại gia đồng thanh: “Xin vâng! Vinh dự lắm!”. Rồi nhìn Râu với con mắt khâm phục và trìu mến. Lạy trời, thế mới biết trời cho gì

Page 40: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

là được nấy, cái năng khiếu hài hước trời cho Râu quý giá vô cùng. Hai đại gia chủ hai tập đoàn to đùng ngã ngửa thế mà phải quy phục tiểu gia Đại Hoạ sĩ, tuân lệnh mỗi tuần một buổi tới học cách pha trò của Đại Lếu tếu. Lãi Nguyên vênh râu lên tự hào. Anh càng tự hào khi biết tin một tập đoàn khổng lồ đã lên lịch tổ chức hội nghị tổng kết toàn tập đoàn nhưng khi nghe tin anh không ở Hà Nội nên không tới dự được đã ra lệnh hoãn lại, bởi nếu không có anh Râu dự thì hỏng hẳn, lấy đâu ra mà vui, phải xin lịch anh Râu, anh Râu có đến thì mới tổ chức tổng kết.

Đại Hoạ sĩ mà đặt “lời hai” thì tác giả ca khúc cũng phải bái phục. Đặt lời rồi tự hát luôn. Đại Hoạ sĩ có giọng nam trung ấm áp, dày dặn rất hấp dẫn, khi anh cất giọng thì kiến trong lỗ cũng phải bò ra nghe. Hôm họp tổng kết ngành, nhân cuộc vui có vị lãnh đạo đầu ngành cùng dự, Râu liền hát tặng bài hát “Lời người ra đi” của Trần Hoàn mà Lãi Nguyên đặt lời hai:

Một chiều anh Sáu DânTêlêphôn cho anh Trần Hoàn

Anh bảo rằng dù kinh tế nhiều thành phầnThì văn hoá chỉ một thành phần không thể nào chia ra!...

Dân cần vuiTa chiều dân

Ta tiếc gì giọng hát câu ca.Hát vang lừng trời Việt Nam ta...

Là nhạc sĩ, tính tình vui vẻ, vị lãnh đạo đầu ngành hấp háy mắt, cười vang và cổ vũ: “Hay lắm, cậu hát tiếp đi”. Vị lãnh đạo đầu ngành thích kiểu đặt lời hai thật sự chứ không hề giả vờ thích để động viên Râu, bằng chứng là nhiều khi đi công tác địa phương, ông vẫn triệu Lãi Nguyên cùng đi. Đi với tư cách “nhạc sĩ đặt lời hai kiêm ca sĩ”, chứ không phải với tư cách Đại Hoạ sĩ hoặc giám đốc. Cũng nhờ các chuyến đi “hầu vui” như vậy, bả lả như vậy, Râu ta kết thân được với bao nhiêu là giám đốc địa phương. Kết thân vô tư. Không vụ lợi. Không tính toán. Vậy mà rất hiệu quả. Nhiều hợp đồng trang trí nội ngoại thất, xây dựng tượng đài... được bắt nguồn từ những chuyến đi vui vẻ ấy.

Lếu tếu, vô tư như vậy, Lãi Nguyên trở thành niềm vui của các nhà chính trị. Tiếp xúc với anh, không phải cảnh giác, giữ miếng, bởi vì anh không hề có tham vọng chính trị. Quan hệ với anh, không phải từ chối những lời nhờ vả, bởi vì anh không bao giờ ỉ thế thân quen mà đòi giúp đỡ. Chỉ vui. Vui và vui. Vui như hội. Lãi Nguyên tự nhận mình là “hề của vua”. Thế nhưng các vị lãnh đạo lại

Page 41: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

phong cho anh danh hiệu cao quý là “Hoạ sĩ cung đình”. Cho nên, tuy chỉ là giám đốc một doanh nghiệp nhỏ, Lãi Nguyên vẫn được sinh hoạt với những doanh nghiệp lớn. Các cuộc họp giữa nhà nước với doanh nghiệp, Lãi Nguyên đều được mời làm đại biểu chính thức. Các chuyến đi nước ngoài của các đại lãnh đạo đều có chân Nguyên Râu. Lần nào anh cũng từ chối. “Doanh nghiệp của tôi nhỏ lắm, không có tiền cho giám đốc ngao du nước ngoài”. Lập tức, mọi người trấn an: “Khỏi lo đi. Không phải đóng tiền. Các doanh nghiệp khác có trách nhiệm bao”. Đi nước ngoài với một bầu đoàn thê tử như vậy, cần có người làm tổ chức. Nguyên Râu chứ ai. Trong các chuyến tháp tùng đoàn cấp cao ra nước ngoài, Lãi Nguyên có khả năng điều hành sinh hoạt của cả một tập thể các giám đốc đã đành, lại còn điều hành được sinh hoạt của cả một lô xích xông những vị lãnh đạo oai phong lẫm liệt quen điều hành người khác. Chuyến đi này những ai được tháp tùng. Bao giờ khởi hành. Địa điểm tập trung là đâu. Được đem theo những gì. Phải quan hệ như thế nào... Chỉ Nguyên Râu là được phổ biến chu đáo để rồi điều hành cả một đội quân lãnh đạo mang chuông đi đánh nước người. Sang đến nơi, ăn ở thế nào, lúc nào phải họp, lúc nào được tự do đi mua sắm... đều do Nguyên Râu điều khiển. Còn ngoài ra, là vui. Vui và vui. Nhiều khi, trên chuyến bay xuyên lục địa xa lắc, buồn buồn, một đại lãnh đạo bảo thư ký “đi tìm thằng Râu về đây chuyện chơi”. Thư ký xuống buồng khách phổ thông gọi: Này ông Râu ơi, lên đại lãnh đạo gặp. Giám đốc các doanh nghiệp cỡ bự ngồi xung quanh “thằng Râu”, trợn tròn mắt thán phục. Phải là nhân vật quan trọng thế nào mới được sếp sòng quan tâm như vậy. Có khi là “Cá chìm” cũng nên. “Cá chìm” loại chiến lược ấy chứ.

Trong cuộc đời, nhiều khi chăm chắm vào mục đích gì, thì không đạt được. Nhưng nhiều khi vô tư, hững hờ, không mưu đồ, lại đạt được nhiều kết quả mĩ mãn. Lãi Nguyên nằm trong trường hợp thứ hai. Vì hay sinh hoạt với các giám đốc cỡ bự, Lãi Nguyên đem về cho công ty của mình nhiều hợp đồng kinh tế, lớn có, bé có. Nhiều nhất là các hợp đồng trang trí nội ngoại thất cho cơ quan. Rồi hợp đồng làm tượng đài. Việc nào cũng được Lãi Nguyên thực hiện chu đáo. Bản tính của Râu là như vậy. Không thích qua loa, đại khái. Không thích lèm nhèm tiền nong. Sòng phẳng. Chất lượng. Lãi ít cũng được. Miễn là tạo dựng được uy tín cho thương hiệu. Dần dà, Râu được nhà nước chỉ định thầu làm những việc mang tầm cỡ quốc gia.

Trong nhóm ba người bạn học thuở phổ thông vẫn thường xuyên liên lạc với nhau, thì hai đã là bộ trưởng. Chỉ có mỗi Râu là anh giám đốc Lếu tếu của một

Page 42: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

doanh nghiệp nhỏ xíu. Nhưng, đã là bạn thì không phân bì đẳng cấp. Vẫn mày tao chí tớ, hồn hậu như thuở thiếu thời.

Vị lãnh đạo

Những người làm chính trị chuyên nghiệp thường không có bạn mà chỉ có những mối quan hệ theo lợi ích. Đó là một định đề được lan truyền khá rộng từ khi có nghề làm chính trị. Thực hư ra sao, cần có cuộc khảo sát kỹ lưỡng theo phương pháp xã hội học.

Nhưng với vị lãnh đạo Phạm Minh Quang, định đề này không phù hợp. Quang có tình bạn chân thật, bền vững với Nguyên Râu. Thực ra, thuở bé, Nguyên chưa để râu nên chưa có biệt danh này. Lúc ấy, Nguyên hay bắt nạt bọn bạn học nên được đặt biệt danh là Nguyên Thụi.

Vị lãnh đạo Bình Đào hồi ấy hiền lành nhất nhóm, hay bị Nguyên Râu kẹp đầu vào háng nện đòn vào mông, kêu oai oái. Bây giờ nhắc lại, vị lãnh đạo này vẫn còn toát mồ hôi. Nhưng đấy là bạn thủa học trò. Còn với vị lãnh đạo Quang, tình bạn mới được kiến tạo trong thời gian Quang đã lên lãnh đạo. Kém Râu bốn tuổi, Quang hay gọi Râu bằng “bác”. Trong mối quan hệ Râu - Quang không có sự ngăn cách của chức vị xã hội. Họ là đôi bạn tri kỷ. Không hiểu nguyên nhân họ thân nhau là vì đâu. Nhưng dứt khoát, đó không phải vì lợi ích kinh tế hay lợi ích chính trị. Có lẽ do duyên trời. Họ hay rủ nhau ngồi nhâm nhi ly rượu và tâm sự đủ mọi chuyện trên đời. Người hay rủ bạn đi lai rai không phải là cậu giám đốc “bé tẹo tèo teo” mà là vị lãnh đạo hoành tráng. Theo dõi bước đường của bạn, Nguyên Râu thấy mình mới sướng, nó khổ quá. Mình sống đời nghệ sĩ là chính, kinh doanh là phụ. Tự do. Phóng khoáng. Vui vẻ. Không ham hố làm ăn. Nhưng như một nghệ sĩ tài ba trình diễn kiểu gì cũng được công chúng mến mộ, doanh nhân Râu làm đâu lãi đó. Đã thế, lại được giới hoạ sĩ kính nể, chiều như chiều vong. Chuyện hoa lá cành cũng điểm xuyết đôi chút, làm cho đời luôn tươi trẻ.

Còn bạn Quang của Râu thì sao? Bầm trầy lắm. Lo nghĩ đủ thứ trên đời. Đối phó với đủ hiểm hoạ trên đời. Nghe những chuyện mà Quang tâm sự, Râu cứ giật mình thon thót. Giật mình xong lại gật gù tán thưởng. Có khi, còn ngẩng đầu, bỏ kính, nhìn thẳng vào mặt bạn mấy giây tỏ lòng ngưỡng mộ. Hồi Quang còn làm

Page 43: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

lãnh đạo ở địa phương, Râu thấy rất đáng ghi nhớ. Ban lãnh đạo địa phương mất đoàn kết, đấu đá nhau loạn xạ. Quang nhận trách nhiệm về thay thế vị lãnh đạo đứng đầu địa phương ấy. Khốn nỗi, chính Quỵ, sếp trưởng cơ quan chức năng, lại là người chống đối mạnh nhất. Một cuộc huyết chiến diễn ra ngầm giữa hai người. Gia đình ở Hà Nội, Quang ở ngay tại phòng làm việc. Vậy mà Quỵ dám gài máy nghe trộm điện thoại, dám đột nhập phòng lục soát tài liệu. Khi tình hình căng thẳng nhất, Quang cảm thấy cả tính mạng mình và một vài đồng chí cũng bị đe doạ. Vốn cảnh giác, phát hiện ra toàn bộ dấu vết, nhưng Quang làm như không biết gì. Quang gọi Quỵ đến phòng làm việc, nói thẳng: “Từ nay, tôi giao cho anh trách nhiệm trực tiếp bảo vệ tôi và các đồng chí trong thường vụ. Nếu xảy ra tình trạng mất mát tài liệu, lộ bí mật hay bị đe doạ tính mạng, thì anh phải chịu trách nhiệm”. Buổi giao nhiệm vụ đó, có sự chứng kiến, ghi biên bản của chánh văn phòng địa phương và phó giám đốc cơ quan chức năng địa phương. Từ đó, Quang vô hiệu hoá được Quỵ. Dần dần, Quang tìm ra những mánh lới làm ăn tiêu cực của cơ quan chức năng địa phương, như bảo kê cho bọn làm ăn phi pháp, hậu thuẫn cho các cuộc đấu đá nội bộ... Thu thập được đủ chứng cứ, Quang đã hạ nốc ao đối thủ - một kẻ không thức thời, lẽ ra phải tự biết là không cân sức với vị lãnh đạo giàu mưu lược và đầy bản lĩnh này. Làm lãnh đạo, phải có thủ đoạn, nói một cách văn hoa là phải có nghệ thuật. Về mặt này, vị lãnh đạo là một nghệ sĩ đầy sáng tạo. Chẳng hạn, khi cần giải toả nhà cửa của dân để dành đất cho những công trình nhà nước, bao giờ vị lãnh đạo cũng chỉ thị cho cấp dưới phải vận động những cán bộ cao cấp nhất tại vùng ấy gương mẫu thực hiện. Đồng thời, tập trung vận động những người ngang bướng nhất khu vực ủng hộ chính quyền. Một khi người công thần và dân anh chị đều đã tuân thủ những quy định của chính quyền, thì toàn bộ quần chúng ào ào làm theo. Nhờ thế, một địa phương mới tái lập như địa phương này, phải mở bao nhiêu đường, xây bao nhiêu nhà, cũng vì thế phải giải toả biết bao hộ dân, bao nhiêu ruộng đất, mà tiến độ công trình không khi nào bị chậm vì lý do chậm di dời dân. Hoặc như chuyện giải tán một nhà hàng ở đầu đường Nguyễn Huệ. Nhà hàng này kinh doanh ăn uống, nhưng có biểu hiện tiêu cực. Chủ nhà hàng vô cùng ranh ma, che chắn các hành động phi pháp không để một khe hở lọt qua. Gã lại được một số cán bộ biến chất tiếp tay. Không tài nào tìm ra bằng chứng để xử lý. Đành phải tìm cách triệt đường làm ăn của nó trước, rồi tính sau. Vị lãnh đạo đã có sáng kiến là cho cắm biển cấm đỗ mọi loại xe ở hai đầu đường sát nhà hàng. Xe không đỗ được cho nên khách lui tới nhà hàng thưa dần. Tới lúc đìu hiu

Page 44: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

quá, nhà hàng đành ngậm ngùi đóng cửa. Nghe bạn kể những chuyện ấy, không để ý thấy vẻ tự hào trên nét mặt bạn, Râu cứ ngậm ngùi thương cảm. Nhưng, thương cảm và kính phục nhất là những chuyện trong thời trai trẻ của bạn. Quang sinh trưởng trong một gia đình có truyền thống cách mạng. Cha Quang cũng là một lãnh đạo của thời bao cấp. Hồi ấy, tính cách của các lãnh đạo là sống gương mẫu, thanh bạch, một lòng một dạ vì dân tộc, vì Tổ quốc. Cả gia đình sống trong nhịp sống lao động, học tập hăng say và tình ruột thịt gắn bó. Tai hoạ ập đến khi giặc Mỹ dùng không lực tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc. Cùng một lúc, hai người trong gia đình là chị ruột và em trai ruột Quang phải lìa đời do một quả bom mà máy bay Mỹ thả xuống. Gạt nước mắt, cả nhà vẫn lao động, học tập. Rồi Quang lên đường ra chiến trường, hừng hực khí thế của thanh niên thời đại “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Thầm so sánh, Nguyên Râu thấy bủi ngủi bùi ngùi. Bạn vất vả vô cùng tận. Còn mình lúc ấy tuy cũng sống trong hoàn cảnh khó khăn nhưng còn sướng chán. Bên cạnh nghề mỹ thuật, Râu còn thạo nghề đồ cổ, cho nên ngay từ những năm chiến tranh, anh đã phát huy được những khả năng có chút thiên hướng bẩm sinh của mình vào việc mưu sinh. Nhiều khi Nguyên Râu cùng hoạ sĩ Trường Thanh rong ruổi trên hai chiếc xe đạp lọc cọc luồn lỏi vào tận các xóm nhỏ xa hút để tìm mua đồ cổ. Đem về, cái nào thích thì cất một chỗ, cái nào người khác thích thì sang tay. Tiền tiêu khá rủng rỉnh. Thế mà bạn ở chiến trường chẳng có lấy một xu. Chỉ có những bữa cơm độn ngô, sắn, ăn với mắm kho loãng toẹt. “Bạn ơi, tội nghiệp thay và cũng tự hào thay, bạn vất vả thế, hy sinh thế, cống hiến thế, con nhà nòi như thế, bạn lên lãnh đạo là xứng đáng. Lếu tếu như mình, lẽ ra chỉ là phó thường dân mới phải”. Râu cũng rất cảm mến bạn ở chỗ chẳng bao giờ cậy thần cậy thế mà hoạnh hoẹ, đòi hỏi được ưu đãi. Cách đây vài năm, ông thân sinh Quang bị mổ mật. Ông cũng là một lãnh đạo cho nên được chữa ở bệnh viện Việt - Xô. Nhưng không rõ vì sao, nơi này điều trị cho ông kém quá. Mổ rồi, ông vẫn đau. Nghe nói bệnh viện Bạch Mai chữa bệnh vào loại giỏi nhất nước, Quang tìm cách chuyển ông cụ vào nơi này. Sợ mất lòng bệnh viện Việt - Xô, hai cha con bàn nhau cách “trốn viện” rồi xin nhập viện Bạch Mai như một thường dân. Một nguyên lãnh đạo, một lãnh đạo đương chức, thét ra lửa, mà xử sự như thế, đáng nể quá... Còn một chuyện, chính Đại Hoạ sĩ Lếu tếu theo dõi từ đầu đến cuối cũng khiến anh vô cùng cảm phục ở bản lĩnh và mưu trí của bạn. Đó là việc xử lý tình trạng mất đoàn kết nội bộ ở Viện Quốc Văn. Dạo đó, Quang mới từ địa phương về Trung ương thì phải giải quyết vụ mất đoàn kết này, khi ấy đã lên đến

Page 45: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đỉnh điểm. Đơn từ kiện cáo tùm lum. Tung hô nhau lên mặt báo đủ loại tội trạng, đủ chuyện bẩn thỉu. Nghiên cứu tình hình, Quang thấy trung tâm của sự mất đoàn kết này là một “Cậu ấm”, Viện phó. Trước kia, đã có đoàn thanh tra về thanh tra kỹ càng viện này, chỉ ra đúng nguyên nhân và đối tượng. Khi đang xử lý thì phải dừng lại, vì đụng phải “Cậu ấm”, ai cũng ngại. Nay, Quang lại cử một đoàn về thanh tra, lại kết luận nguồn gốc của sự mất đoàn kết ấy là ở “Cậu ấm” kia. Vị lãnh đạo liền triệu tập toàn thể cán bộ chủ chốt của viện lên, yêu cầu mọi người phát biểu công khai, thẳng thắn, đề xuất ý kiến xử lý. Rồi vị lãnh đạo kết luận: Cho lấy phiếu tín nhiệm lãnh đạo viện. Ai đủ sáu mươi phần trăm số phiếu trở lên thì tiếp tục ở cương vị cũ, ai dưới mức đó, phải rời khỏi chức vụ. Cũng có người khuyên vị lãnh đạo nên để riêng viện trưởng ra, không lấy phiếu, vì sợ đồng chí này không đạt số phiếu cần thiết. Vị lãnh đạo nói: “Ta phải xử lý công bằng. Đã lấy phiếu thì từ viện trưởng đến các viện phó đều phải được thử thách, có thế mới tạo được lòng tin trong cán bộ”. Với cảm quan nhạy bén của người làm chính trị có nghề, vị lãnh đạo tin rằng, ông Viện trưởng sẽ vượt qua thử thách này. Quả nhiên, ông Viện trưởng đạt số phiếu tín nhiệm gần như tuyệt đối. Còn “Cậu ấm” Viện phó chỉ đạt trên chục phần trăm. Tất yếu, anh này phải rời chức. Nhưng, giải quyết sao cho êm, có lẽ chỉ vị lãnh đạo Minh Quang mới có biện pháp thích hợp. Trước hết, kết quả lấy phiếu tín nhiệm được công bố công khai trong toàn viện. Tiếp đó, vị lãnh đạo mời “Cậu ấm” lên, cho chọn một trong hai cách giải quyết: Hoặc là tự xin chuyển công tác, hoặc là chuyển công tác theo bố trí của tổ chức. Đồng thời, với việc này, vị lãnh đạo gọi điện trao đổi với anh ruột của “Cậu ấm” (quyền huynh thế phụ). Được sự nhất trí của gia đình và sau thời gian “Cậu ấm” không tìm được nơi nào làm bến đỗ mới cho cuộc đời đã xế bóng của mình, vị lãnh đạo quyết định điều chuyển “Cậu ấm” về làm viện phó một viện vào loại cỡ của Bộ. Vốn hay làm mình làm mẩy, “Cậu ấm” đi gặp hoặc gọi điện cho hết đại lãnh đạo này đến đại lãnh đạo khác kể khổ, kêu cứu. Gọi đến đâu, cũng nhận được câu trả lời: “Biết rồi. Thuyên chuyển vị trí là phù hợp, nên chấp hành”. Hoá ra, vị lãnh đạo đã đi trước một bước, chặn mọi đường chạy chọt của “Cậu ấm”. Từ đó đến nay, Viện Quốc Văn êm như ru, làm ăn phát đạt, ai cũng nhớ ơn vị lãnh đạo. Mà bản thân “Cậu ấm” sang cơ quan mới, gặp môi trường mới, cũng tự nhiên khỏi cái bệnh đấu đá, vui vẻ hẳn lên, chuyên tâm làm nghiên cứu khoa học, công bố liền mấy công trình có giá trị. “Cậu ấm từng tâm sự: “Nếu biết là đi khỏi đấy vui thế này thì mình đã đi từ mười năm trước rồi!”.

Page 46: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Cũng có hôm ngồi uống rượu với vị lãnh đạo, Đại Lếu tếu khen rằng ông sống bình dân lắm, mọi người bảo rằng ông không quan cách gì cả. Vị lãnh đạo nói chân thật với bạn rằng quan nhất thời, dân vạn đại, quan nào mà nhớ làm theo lời người xưa dạy như vậy thì sống thảnh thơi. Nhưng vị lãnh đạo thấm nhuần câu nói của tiền nhân ấy hơi khác mọi người. Ông hiểu rằng, không phải làm quan là khác dân, hết làm quan rồi mới về làm dân. Ông nghĩ cách sống đúng đắn nhất của người làm quan là “trong khi là quan đồng thời là dân”. Đang làm quan mà vẫn làm dân thì hiểu được niềm vui, nỗi buồn của dân, hiểu được tâm nguyện của dân, làm cho dân những điều bổ ích. Đang là quan mà làm dân còn khiến cho người làm quan sống thảnh thơi, phóng khoáng, không bị cúm rúm ràng buộc trong những khuôn mẫu chật hẹp, cứng nhắc. Để đến khi hết quan rồi thì không phải “về dân” mà vẫn cứ là dân, giống như người ta trút bỏ bộ trang phục lễ nghi để lộ ra bộ quần áo đời thường vẫn có sẵn trên người. Suốt cuộc đời làm quan, vẫn cứ là dân thì đến khi hết làm quan, không phải “tập làm dân”, sẽ thảnh thơi ngay với cuộc sống không là quan. Sống thế mới sướng. Có những ông quan khi là quan sống cách biệt với dân, sống cao vời vợi trên chín tầng mây, khi hết quan, rơi uỵch xuống đời thường, lóng nga lóng ngóng, lụm cà lụm cụm, không biết sống thế nào cho phù hợp, đâm ra khổ... Nghe bạn tâm sự, Lãi Nguyên lại liên tưởng tới những điều mà Mai Chính Trực đã thổ lộ với mình. Trực bảo rằng chức vụ, bổng lộc mà nhà nước ban cho, là rất đáng quý, nhưng cũng chỉ là một phần nhỏ của đời người. Cuộc đời còn có nhiều điều có ý nghĩa lớn lao khác. Nhận thức được như vậy, thì khi rời nhà nước, vẫn thấy cuộc đời mở rộng đường cho mình tiếp tục sống có ý nghĩa...

Những câu chuyện quá khứ, hiện tại, những suy nghĩ về lối sống cứ triền miên theo lời tâm tình của đôi bạn. Một anh lếu tếu. Một anh mực thước. Hai anh cứ nâng hết chén này đến chén khác chúc tụng nhau, rồi rủ rỉ tâm tình, nhiều khi tới quá nửa đêm.

Lãi Nguyên vô tư trong quan hệ bạn bè như thế, anh có ngờ đâu rồi đây chính mối quan hệ bạn bè thân thiết với vị lãnh đạo đã cứu giúp khối người bị vượt ra khỏi vòng khốn đốn do những kẻ ma quỷ giăng mắc.

CHƯƠNG HAI

Page 47: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

ĐẢO ĐIÊN TRONG VÒNG XOÁY

Đại Sư phụ

Hoàng Phu là đại sư phụ trên nhiều danh nghĩa. Trước hết là chủ tịch tập đoàn, ông là đại sư phụ về mặt hành chính. Tiếp đó, ông là đại sư phụ về mặt đấu đá. Tiếp nữa, ông là đại sư phụ về mặt ăn chơi truỵ lạc.

Câu nói nổi tiếng của ông là: “Ta là chủ tịch, tức là Nghị viện, các ngươi trong Ban tổng giám đốc, tức là Chính phủ. Chính phủ có nghĩa vụ cung cấp tài chính cho Nghị viện. Vì vậy, các ngươi phải cung cấp tài chính cho ta!”. Đấy không phải là lời nói đùa mà là mệnh lệnh thực sự. Mệnh lệnh này tuyệt đối có hiệu lực với giám đốc Lý Ngồ Ngộ. Cứ mỗi lần từ Nam ra Bắc họp hành là Lý Ngồ Ngộ phải ôm theo một bọc tiền, vừa để lót tay chủ tịch, vừa để chi phí cho các cuộc ăn chơi cùng với Hoàng Phu. Lý Ngồ Ngộ tính toán, việc làm này thể hiện tinh thần trung thành tuyệt đối của một giám đốc thành viên với chủ tịch tập đoàn, để được chủ tịch ưu ái. “Con mụ tổng giám đốc sắp nghỉ rồi, ta đường đường là một phó tổng giám đốc kiêm giám đốc một công ty lớn, lẽ nào không đủ khả năng thay thế?”.

  Nếu nói rằng Sài Gòn là đất ăn chơi hạng nhất Việt Nam, thì đó là điều nhầm lẫn cần được cải chính nhanh chóng. Đất ăn chơi có hạng phải là thủ đô Hà Nội. Dân Bắc chơi cao cấp hơn. Không xô bồ, không ồn ào, mà lặng lẽ, kín đáo, với chất lượng cao. Cho nên, với Hoàng Phu, các loại bia ôm, cà phê ôm là tầm thường. Phải chơi theo kiểu nhất dạ đế vương mới đã đời. Không cần nhiều, lâu lâu làm một cuộc, đủ thoả mãn mấy tháng trời. Vả lại, tuổi cao rồi, ham hố quá, nhỡ bị phạm phòng thì tiêu đời. Thực ra, đối với Hoàng Phu, ăn chơi không phải là ham muốn bẩm sinh. Xuất thân bần hàn, lão vốn tiết kiệm, thậm chí sống theo kiểu “ăn mắm mút dòi” đặc nhà quê. Ngay cả khi học ở bên Đức, lão cũng không chơi bời phóng túng mà chỉ lo làm ăn, tích cóp. Riêng cái khoản “sinh lý”, không phải anh chàng Tèo không có nhu cầu, nhưng thời ấy người ta quản lý chặt lắm, lớ vớ bị mắc tội “hủ hoá” thì phải về nước, bỏ dở việc học hành, cho nên đành nhịn thèm. Nhưng từ khi lão lên làm giám đốc, tình hình đã đổi khác. Các cuộc gặp đối tác để bàn chuyện làm ăn thời mở cửa theo mốt mới lấy nhà hàng thay phòng họp làm nơi

Page 48: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

thương thảo, ký hợp đồng đã kéo lão lê lết hết nhà hàng này sang nhà hàng khác. Ăn nhậu, nâng cốc, cạn ly, say bí tỉ, rồi ký... Khoản rượu, lão không ham nhưng lại là tay bợm, uống đến đâu tái mặt đi đến đấy, đầu óc tỉnh như sáo. Trong khi đó các đối tác non men, mặt đỏ tưng bừng, say ngất ngưởng, ăn nói lung tung, đâm ra ký bừa. Chính các cuộc ăn nhậu đã khiến cho lão thu được bao nhiêu là lời lãi qua việc ký các hợp đồng béo bở. Ký rồi, các đối tác kéo nhau đi karaoke, hoặc đi mát xa để cho các em gái nõn nà chăm sóc. Thỉnh thoảng, lũ đàn em lại mời giám đốc đi thư giãn cao cấp từ A tới Z. Và lại nhậu, lại chơi. Lúc này, cái bản năng tình dục mạnh mẽ tiềm ẩn trong từng tế bào của lão do ông bố hiếp dâm truyền “gien” cho mới có dịp được giải phóng. Cứ thế, Hoàng Phu trở thành tay ăn chơi sành điệu, khác hẳn anh cu Tèo lớ ngớ thuở nào...

Lại nói về thực trạng ăn chơi ở đất Bắc. Các điểm ăn chơi rải ra khắp nơi, mỗi nơi một vẻ. Lên Lương Sơn, Hoà Bình, có thể chơi với sơn nữ chính gốc. Qua Bắc Ninh, có thể chơi với liền chị nguyên bản. Còn ở khu vực Hồ Tây, trong các biệt thự, là bộ sưu tập đủ loại gái đẹp Bắc, Trung, Nam, Kinh, Thượng... Gần đây, các nơi mở ra các khu nghỉ dưỡng cao cấp cỡ bốn, năm sao, gọi là “Rì sọt” gì đó, vào đó có thể đặt hàng tổng hợp đủ cách ăn chơi. Tuỳ sở thích của mỗi người mà chọn. Hoàng Phu đã quen vào các chốn ăn chơi cỡ bốn, năm sao rồi.

Nhớ lại cái lần đầu Lý Ngồ Ngộ đãi mình, Hoàng Phu không nén được tiếng cười. “Cái thằng quê một cục. Ai lại dẫn nhau vào quán karaoke ở Mai Hắc Đế, thứ hạ đẳng”. Nhưng trót vào rồi, Phu tặc lưỡi: “Thử xem sao!” (Giống như ông vua quen ăn sơn hào hải vị, thử ăn món rau muống chấm tương bần). Mặc dù nhà nước đã có các quy định chặt chẽ đối với các điểm kinh doanh karaoke về độ rộng của phòng, độ mạnh của ánh sáng, độ hạn chế của tiếp viên, nhưng đó chỉ là trên lý thuyết. Còn thực tế, cuộc sống sinh động hơn nhiều. Cứ là trăm hoa đua nở. Trăm kiểu cách chiều các thượng đế. Cuộc đi này hạn chế chỉ có bốn người: Phu, Ngộ, Đản và Lặng. Lái xe, không bao giờ Hoàng Phu cho bén mảng đến những chốn riêng tư của sếp. Nhiều khi ông ta đi taxi. Còn nếu đi xe cơ quan thì cũng cho tiền và bảo lái xe biến, khi nào gọi hãy quay lại đón. Một đàn “bươm bướm” hở rốn hở ngực, váy ngắn cũn cỡn ùa vào phòng. Mỗi “bướm” sà vào lòng một Thượng đế. Hai “bướm” không có chỗ đậu, lặng lẽ bay ra, lát sau trở vào bê theo bia, rượu và đồ nhắm. Khi “bướm” số một lượn đến, chưa kịp đậu xuống đùi Hoàng Phu thì đã bị lão gạt ra: “Đổi, đổi cho ta. Ta thích bé rốn to hơn!”. Lý Ngồ Ngộ vội đẩy bé rốn

Page 49: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

to sang cho chủ tịch và đón bé rốn nhỏ vào lòng mình. Hoàng Phu thích các cô gái mây mẩy chứ không thích các cô gái chân dài mình dây. Các cụ bảo “Sờ béo, ngoéo gầy mà!”. Vào đây sờ là chính, cho nên gái mập mới hợp khẩu vị. Nói ra sở thích để được chiều theo sở thích là một chuyện, nhưng để ông chủ tịch thử lòng thuộc cấp mới là chuyện chính. Xem đứa nào nhanh trí chiều ý sếp. “Hoá ra thằng Ngộ này ngộ thiệt, ta có chỉ mặt con nào rốn to đâu mà nó biết con này ta thích để đẩy sang cho ta. Hiểu ý sếp thế thì cần được thăng chức. Được rồi, ta sẽ ghi ngươi vào sổ đỏ của ta”. Đang nghĩ ngợi mông lung về quyền lực, quên cả em út, thì Hoàng Phu giật thót mình vì tiếng nhạc cất lên hùng tráng quá. Hoá ra máy “vi tính chọn bài” đã được bật lên. Đây là loại nhạc “đỏ”. Nhạc “đỏ” phù hợp với những thượng đế cao tuổi, ưa vọng về quá khứ. Giai điệu của bài “Đêm Trường Sơn” cất lên hùng tráng... Ôi, nào có ai nghe “Đêm Trường Sơn” lúc này? Chỉ có đêm kara... thôi. Lúc này, miệng không làm chức năng hát, chỉ có tay làm chức năng chu du khắp mọi miền cơ thể gái non. Tuy coi rẻ cái trò hạ đẳng này, nhưng khi vào cuộc rồi, Hoàng Phu cũng hăng ra phết. Lão bảo bé rốn to ngồi lên đùi, quay lưng lại để lão ôm cho gọn. Hai tay lão tha hồ bò ngang luồn dọc. Nhìn sang Ngộ, mặc dù là dân ăn chơi có cỡ, lão vẫn suýt kêu to lên vì ngạc nhiên. Ngộ đã lao vào cuộc mây mưa thực sự, ngay trên đi văng, cạnh mọi người... Thế này thì đại sư phụ cũng phải bái phục. Đại sư phụ chơi kiểu khác. Riêng Đản, gã có vẻ hờ hững. Nhìn qua, thấy Ngộ đang đè nghiến “bướm” rốn bé xuống đi văng, Đản lại hờ hững nhìn lên màn hình. Hình ảnh hai kẻ quần nhau trên đi văng lúc này không gợi cho Đản điều gì thì sau này lại hiện lên rõ ràng, đầy kích động...

Cái khoản đấu đá, không ai theo nổi Hoàng Phu. Khổ nhất là tổng giám đốc Tuyết Nhung. Điều hành một tập đoàn lớn, lẽ ra chị có quyền vận dụng mọi biện pháp để đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, miễn là đúng đường lối do ban lãnh đạo nêu ra. Thế nhưng, chủ tịch lại tìm mọi cách khoá chân tay chị lại. Bề mặt, lúc nào chủ tịch cũng vui vẻ, ngọt ngào, nhưng bên trong, ông ta dùng cả một mạng lưới để phong toả chị. Ngành chức năng thường sử dụng cộng tác viên gọi là đặc tình, nằm ở các cơ sở kinh tế để nắm tình hình, báo cáo thường xuyên. Còn Hoàng Phu thì lại sử dụng chính cán bộ ở cơ quan chức năng làm “đặc tình” cho mình, không phải là để báo cáo tình hình, mà là để họ thường xuyên sang thăm viếng, nắn gân tổng giám đốc. Không quý nào là không phải tiếp cán bộ chức năng một vài lần. Mỗi lần tiếp là một lần lục lọi sổ sách, chứng từ, phơi bày quỹ két. Tất nhiên, cái khoản phong bì lót tay cho cán bộ chức năng dày mỏng ra sao, tổng giám đốc phải tự liệu.

Page 50: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Riêng Hoàng Phu, ông ta sử dụng công quỹ nuôi hẳn hệ thống này, dưới danh nghĩa cộng tác viên tiếp thị. Do vậy, mặc dù giàu bản lĩnh, nhưng nhiều khi để được việc, tổng giám đốc Tuyết Nhung cũng phải ngọt nhạt với chủ tịch. Dào ơi, thái độ tỏ ra kính trọng chỉ là cái vu vơ, chứ cái đích thực là khoản phụ cấp hàng tháng để chủ tịch chi tiêu, chị phải lo đầy đủ. Ấy là chưa kể thỉnh thoảng chủ tịch lại cho lính đưa lên thanh toán một cái hoá đơn về khoản đãi khách mấy triệu đồng. Thế nhưng, chị vẫn chẳng yên thân. Còn với các công ty thành viên, Hoàng Phu khoá họ bằng điều lệ. Điều lệ của công ty thành viên là do chủ tịch ký ban hành. Chủ tịch đã ban hành, thì các điều khoản phải trở thành công cụ quản lý của chủ tịch. Hoàng Phu căm nhất là cái thằng Triệu Hà, giám đốc công ty Sa Ba. Đồ “Chét nhi a” man rợ, lúc nào cũng đòi ly khai. Lại đòi tách ra khỏi tập đoàn, đòi trực thuộc Bộ à? Đã thế, mi phải nằm trong cũi sắt. Cũi càng hẹp càng tốt. Ta thửa riêng cho mi cái cũi nhỏ. Điều lệ hoạt động của mi, ta soi xét từng chữ từng chữ một. Nhất nhất phải có câu: “Trình ban lãnh đạo tập đoàn, được phép rồi mới thực hiện”. Đấy là tinh thần bao quát. Cứ thế mà thực hiện trên mọi phương diện. “Đừng có hòng mà nhân danh đổi mới, sáng tạo để xé rào nhé Triệu Hà ơi. Mày quá hỗn rồi đấy, phải trị, trị đến nơi đến chốn. Trị trên cõi trần chưa đủ thì trị thêm bằng cõi âm”. Vốn rất mê tín, Hoàng Phu mời ngay thầy phù thuỷ về vẽ bùa, làm hình nhân thế mạng để yểm Triệu Hà. Trên đầu hình nhân được coi là Triệu Hà, Phu cho làm một cái kiếm đâm xuyên qua. “Thế này, suốt ngày mi sẽ đau đầu mà chết. Riêng cái khoản Chi nhánh của mi trong thành phố Hồ Chí Minh, ta cũng với tay xuống. Nó cũng phải chịu sự quản lý của ta. Sai luật à? Luật nào? Luật là do con người làm ra. Ta quy định như vậy, cứ thế mà thực hiện. Tính ta ít nói, không thích bàn cãi”. Còn vì sao ư? Bạn đọc đừng sốt ruột, sau này mọi chuyện vỡ ra hết, bạn đọc sẽ hiểu nguyên nhân vì sao ông chủ tịch Phu lại quan tâm đặc biệt đến một đơn vị bé tí tẹo trong thành phố Hồ Chí Minh như vậy.

Vậy ông chủ tịch Phu xuất thân thế nào? Cũng là người của thời bao cấp, tại sao ông gớm ghê đến thế? Xin thưa, Hoàng Phu xuất thân từ một gia đình nông dân hẳn hoi. Nông dân là quân chủ lực. Ông thấy mình phải phấn đấu để đóng vai trò chủ lực thực sự trong công cuộc cách mạng. Hồi cải cách ruộng đất, tuy còn nhỏ, ông đã hăng hái chạy theo “Đội” để làm cốt cán. Cu cậu Tèo thời ấy, tức là ông Phu bây giờ, thích nhất là món gõ kẻng. “Keng keng keng keng!” Tiếng kẻng vừa lảnh lót vang lên, thì từ các căn nhà mái rạ lụp xụp, những con người rách

Page 51: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

rưới, bần hàn túa ra, nhanh chóng đến sân đình tập hợp. Những tiếng kẻng sao mà có uy lực lớn như vậy. Nếu thằng Tèo sợ giọng quát của bố như thế nào, thì nông dân cái thôn Đoài này sợ tiếng kẻng như thế. Hồi đó, thằng Tèo đã khao khát được trở thành người có quyền ra lệnh gõ kẻng (phải có người ra lệnh, Tèo mới được gõ kẻng, chứ chẳng phải cứ gõ bừa phứa lúc nào cũng được). Thế là, từ nơi vô thức, cậu bé nông dân láu cá này đã manh nha thèm muốn quyền lực. Sự thèm muốn ấy lớn dần lên theo cơ thể cậu ta, thành nỗi khát khao có ý thức, dẫn dắt mọi hành động của chàng thanh niên Hoàng Phu. Chạy theo “Đội”, Tèo trở thành cốt cán số một của “Đội”. Hàng xóm gia đình Tèo có ông Nguyễn Nguyên, khá giả hơn mọi người một chút (có ao cá, vườn cây, có ruộng cho cấy rẽ...) liền bị quy tội địa chủ. “Đội” hỏi Tèo:

- Lão Nguyên có bóc lột nhà cháu không?

- Bóc lột là thế nào ạ?

- Bóc lột là bắt làm nhiều mà cho hưởng ít, là lấy thóc gạo của nhà cháu...

Thằng Tèo à lên một tiếng. Thế thì ông Nguyên bóc lột nhà nó rồi. Hôm trước, nó thấy vợ ông ta sang nhà nó, đem về một rá gạo đầy. Bóc lột quá đi rồi còn gì (nó không biết là mấy ngày trước, hết gạo, mẹ nó sang vay nhà ông Nguyên nay phải trả). Nó trả lời như đinh đóng cột:

- Nhà ông Nguyên có bóc lột. Bóc lột gạo nhà cháu. “Ông Đội” bảo “Thư ký Đội” ghi ngay lời tố cáo này vào cuốn sổ bìa vàng

hoen ố lúc nào cũng nằm trong chiếc sắc cốt đeo bên mình. - Thế lão Nguyên có hành hạ gia đình cháu không? - Hành hạ là gì cơ? - Là đánh đập, chửi bới ấy. Thằng Tèo nhớ ngay mấy ngọn roi mà ông Nguyên vụt vào lưng, vào đít nó

khi nó lẻn sang vườn nhà ông hái trộm ổi. Nó cũng nhớ như in những lời chửi ngoa ngoắt mà vợ ông Nguyên hay rống lên mỗi khi nó câu trộm cá ở ao nhà bà ta. Nó bảo:

- Cả vợ chồng ông ta đều chửi rủa, hành hạ cháu.

Nó vạch áo, giơ lưng ra trước “ông Đội”:

Page 52: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

- Bác xem đây, ông ấy hành hạ cháu khiếp lắm!

Nhìn mấy vết hằn trên lưng thằng Tèo, “ông Đội” sôi lên lòng căm thù. “Ôi, những con người của giai cấp nông dân cùng khổ, họ bị bóc lột đến xương tuỷ, bị hành hạ đến trày da tróc vảy. Ta cũng là một cố nông, không mảnh đất cắm dùi, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, bị đè nén không ngóc đầu lên được. Còn bọn địa chủ kia, bọn ngồi mát ăn bát vàng, tao căm thù mày, tao căm thù cả giai cấp địa chủ chúng mày”. Với tình thương yêu giai cấp vô bờ bến, “ông Đội” hướng dẫn cho thằng Tèo làm cốt cán. Nhiệm vụ của nó là hàng ngày rình mò nhà ông Nguyễn Nguyên, xem ông này ăn gì, nói gì, làm gì, có bộc lộ bản chất giai cấp bóc lột xấu xa không. Thằng Tèo làm nhiệm vụ với niềm hứng khởi lạ kỳ. Gì chứ trèo tường, leo cây, nhòm nhà thì nó quen lắm, thạo lắm. Nó nhớ vanh vách từng chi tiết nhỏ. Nó vốn thông minh khác người. Một trí thông minh vượt trội trời cho (Chắc là trời cho chứ không phải được cha ông truyền lại, vì cha ông nó dốt đặc cán mai. Đấy là do cha thằng Tèo nghĩ. Còn mẹ thằng Tèo thì biết rõ cái trí thông minh của thằng Tèo chính là sản phẩm của cha đẻ đích thực của nó. Chẳng là, trong một lần đi lên chợ huyện, bà được gọi vào bán trứng cho một ông nhà giàu, chủ một hiệu buôn, rồi bị ông ta hãm hiếp ngay tại phòng khách. Sau đó, ông ta trả đủ tiền trứng và cho thêm bà tiền mua được cả tạ thóc. Thấy cũng không mất mát gì, lại không ai biết chuyện, bà không hé răng. Thằng Tèo được hoài thai trong vụ ấy. Bà Tèo còn nhớ như in ông này trạc ngoại tứ tuần, có gương mặt rạng rỡ và đôi mắt sáng long lanh. Lạy trời, xin trời tha tội, cái lần ấy, sau giây phút đầu sợ hãi, bà đã chìm vào một khoái cảm chưa bao giờ có để đạt tới rồi mới từ từ rơi vào một vùng tối mờ ảo của cảm giác xác thịt, như pháo thăng thiên lên hết tầm bắn mới nổ tung hoa cà hoa cải để lại những đốm sáng toả rộng trên nền trời đen kịt trước khi lụi tàn. Có lẽ được thụ thai trong cơn cực khoái đột biến của cả cha lẫn mẹ nên thằng Tèo sáng dạ hơn người). Với biết bao tài liệu quý giá do thằng Tèo cung cấp, “ông Đội” phấn khởi lắm. Quý nhất là bằng chứng về việc ông Nguyên có người ở. Xưa nay, dân làng vẫn nghĩ cô Lài là con gái ông Nguyên. Nhưng nhờ công rình mò, nghe ngóng của thằng Tèo mà “ông Đội” phát hiện ra cô Lài chỉ là con nuôi. Con gì nuôi mà người ta không nhằm làm thịt nó. Nuôi người ở, đích thị là bóc lột rồi, bóc lột hạng nặng. Hôm đấu tố, chính thằng Tèo được đứng trước bà con nông dân cùng khổ kể khổ và vạch tội. Một niềm khoái cảm vừa vô thức vừa hữu thức tràn ngập cơ thể thằng bé nông dân rách rưới, bẩn thỉu nhưng có gương mặt khôi

Page 53: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

ngô, đôi mắt sáng long lanh và giọng nói lưu loát. Nó sướng cả mắt khi nhìn lão Nguyên rúm ró người trong nỗi sợ hãi. Nó sướng cả tai khi nghe lão Nguyên lúng búng nhận tội. Nó sướng cả miệng khi được nói những lời bịa đặt đầy tính chân thật - nó tin ngay cả những điều nó bịa là sự thật, nó đã bị chính nó lừa. Chẳng hạn, mấy lần bị ông Nguyên đánh do nó câu trộm cá trong ao, hái trộm ổi trong vườn nhà ông bị bắt quả tang, thì nó tố rằng ông luôn luôn mưu toan bóc lột gia đình nó, cướp cả gạo nhà nó, cho nên nó chống lại “áp bức” thì bị ông đánh đập. Lúc nói đến những chi tiết đại loại như vậy, nó xúc động đến rưng rưng nước mắt và rung cả người lên trong mối căm thù giai cấp mà bây giờ nó bắt đầu ý thức được. “Đả đảo! Đả đảo tên địa chủ Nguyễn Nguyên!”. Tiếng những người cùng giai cấp của nó hô vang trời, càng kích động nó. Như bị ma ám, thằng Tèo chu du trong một thế giới của địa ngục đấu tố mà nó là kẻ cầm thanh gươm của thần ác trừng trị những con người tội lỗi từ trần thế bị tập trung về đây. Từ đó, thói đấu đá đã nhiễm vào máu Hoàng Phu. Đấu đá đem lại lợi ích cho lão, cũng khoái. Đấu đá đem lại nỗi thống khổ cho người khác, cũng khoái. Mà đấu đá vô bổ, cũng khoái. Cứ đấu đá, tố giác, vạch tội... là khoái. Đấu đá đã trở thành niềm say mê của lão. Trên đời này, có người nghiện ma tuý, khi xài ma tuý thấy cuộc đời bay lên cõi tiên. Có người nghiện rượu, khi nốc rượu thấy đời mình chu du cùng cõi mộng. Có người nghiện đàn bà, khi chơi đàn bà thấy mình lạc vào cõi thiên thai. Còn thằng Tèo và sau này chính là chủ tịch Hoàng Phu, thì đấu tố là cơn nghiện truyền kiếp, đem lại cho lão khoái cảm của cả ba loại nghiện nói trên cộng lại. Trở lại chuyện thằng Tèo lúc bé, sau vụ đấu tố thắng lợi vĩ đại ấy, cả nhà thằng Tèo trở thành lực lượng nông dân nòng cốt, không những được chia ruộng vào loại thượng đẳng điền, mà còn được ưu ái biết bao nhiêu điều trong suốt quá trình sống sau này. Cái thời của chủ nghĩa lý lịch, thì lý lịch trong sạch như thằng Tèo là một đặc ân trời ban. Nó như một tờ giấy thông hành vào đời đầy uy lực, có khả năng mở mọi cánh cửa cho Tèo thung dung đi vào. Cũng từ sự kiện này, một nhận thức về cuộc sống đã nhập ngay vào tiềm thức thằng cu Tèo là hại người cũng nhiều khi làm lợi cho mình.

Ngụp lặn trong cuộc sống đói khổ ở nông thôn, thằng Tèo nhận thức được từ rất sớm rằng cái khổ là do cái dốt, cái nghèo đem lại. Phải vượt qua cái dốt, cái nghèo mới hòng ngẩng mặt nhìn trời. Cho nên nó rất ham học. Ham học cộng với sáng dạ, Tèo học lớp nào lên lớp ấy. Thi đại học đỗ cao, lại là thành phần bần nông, Tèo dễ dàng được chọn đi học nước ngoài. Hồi ấy, chúng ta có cả một phe

Page 54: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Xã hội chủ nghĩa làm hậu thuẫn, một chỗ dựa vững chắc cho chúng ta xây dựng đất nước. Đó là nơi giúp chúng ta đào tạo biết bao cán bộ cho Chủ nghĩa xã hội ở quê hương ta, mảnh đất nghèo nàn lạc hậu. Tèo được học ở Cộng hoà dân chủ Đức. Đó là đất nước có nền kinh tế phát triển vào loại nhất của phe Xã hội chủ nghĩa. Tèo vừa chịu khó học, vừa chịu khó tích cóp, mua bán. Cho nên bên cạnh tấm bằng đỏ tốt nghiệp đại học, Tèo còn đem về khá nhiều tài sản và đặc biệt hơn là đem về biết bao mánh lới làm ăn.

Củng cố trục ma quỷ

Sau buổi gặp đại sư phụ Hoàng Phu, Đản bố trí một cuộc đi chơi xa chất lượng cao. Cần phải củng cố mối quan hệ với các đại sư phụ. Lần này, cùng với đại sư phụ Hoàng Phu, Đản mời thêm một nhân vật đặc biệt. Con người này, ngay cả đại sư phụ cũng chưa biết. Đi gọn, chỉ ba người, trên một chiếc xe Mercedes do Đản lái.

Họ khởi hành vào quãng xế bóng. Tới đó sẽ ăn cơm chiều, rồi thì “liên hoan văn nghệ”. Đản thông báo đã thuê trước một căn biệt thự trong khu nghỉ cao cấp năm sao “Tiết Hạnh” để chăm sóc các đại sư phụ. Khu nghỉ này nằm gần biển, mới khai trương, chưa đông người lắm, càng dễ hoạt động. Ngồi trên xe, hai đại sư phụ trầm ngâm như đang nghĩ đến những việc đại sự quốc gia. Thực ra, họ đang hình dung xem chốn ăn chơi mới này mới lạ ở những điểm gì mà thằng đệ tử này lại cất công đưa họ đến. Quanh quẩn, cũng chỉ trong vòng tứ khoái của con người. Hơn nhau là ở cách thức biểu hiện. Một đại sư phụ đã ngoại lục tuần, người thấp đậm, đầu hói, mặt phương phi, da hồng hào nhẵn thín, bóng nhẫy, giọng nói sang sảng oai quyền. Một đại sư phụ ngoại tứ tuần, người cao dong dỏng, tóc đen nhánh, mặt dài giảo quyệt, da xam xám lỳ lợm, giọng nói đanh đanh lạnh lùng. Hai con người khác nhau ấy đang có chung một nỗi khát khao hưởng lạc.

Khác với các chốn ăn chơi bình dân, khu nghỉ “Tiết Hạnh” không có cảnh đón tiếp xô bồ, không có các đàn “bươm bướm” đập cánh ào ào mời chào các Thượng đế. Khách phải đăng ký trước và khi đến, cứ việc cho xe chạy theo biển chỉ dẫn lượn thẳng vào ngôi biệt thự đã đăng ký. Xe đỗ sát cửa ra vào ngôi nhà có gắn biển A1. Lúc ấy mới có mấy cô gái mặc quần áo chỉnh tề ra đón, dẫn vào. Từ

Page 55: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đây, bắt đầu cuộc “liên hoan văn nghệ” với các tiết mục nối tiếp càng về sau càng hấp dẫn. Sau khi các cháu đem cặp của các chú vào từng phòng, các cháu mời các chú dùng chè sâm trộn với linh chi Hàn Quốc ở một gian phòng nhỏ tại tầng một. Chè nóng bốc hơi nghi ngút, toả ra hương thơm ngầy ngậy. Bây giờ, người Việt “sành điệu” đã bỏ thú vui cổ lỗ nhâm nhi chén trà mạn ướp sen hoặc nhài, mà tìm hứng thú ở những loại trà sâm, trà linh chi... theo lời đồn là rất có lợi cho sức khoẻ. Nhất là trà linh chi, nghe nói còn làm giảm cholestorol, phòng ngừa ung bướu...: “Các chú nhấm nháp cho lại sức, rồi đi tắm”. Đản giới thiệu với hai đại sư phụ cách thức tắm và không quên dặn dù hấp dẫn thế nào, cũng mới chỉ là màn dạo đầu, mới chỉ là công đoạn A, đừng đi đến Z. Từ A đến Z còn nhiều tiết mục văn nghệ hấp dẫn hơn. Rất chu đáo với các đại sư phụ, Đản còn dặn rằng, không phải “boa” cho em nào, vì Đản đã lo trọn gói rồi. Thế rồi mỗi chú theo một cháu vào phòng tắm. Theo chương trình, thì đây là tiết mục tắm ngọc trai.

Ngọc trai là một sản vật đặc sắc của thiên nhiên. Những con trai bị mang thương tật trong mình đã tiết ra một tinh chất bọc nơi bị thương lại, trải bao năm tháng đớn đau, dần dần hình thành viên ngọc. Viên ngọc trai là kết tinh của nỗi đau loài vật. Loài người đã phát hiện ra vẻ đẹp lạnh lùng ánh lên trên từng viên ngọc, sử dụng nó làm đồ trang sức cho mình. Có lẽ chỉ có loài người mới tìm ra được chân lý: Nỗi đau của loài này có thể làm đẹp cho loài kia. Muốn có nhiều cái làm đẹp hơn, loài người nghĩ ra cách phổ cập hoá nỗi đau loài vật. Nhờ đó, sẽ có nhiều gấp bội số vật thể chịu số phận đớn đau cống hiến cho loài người. Nỗi đau của loài vật được công nghiệp hoá, tạo ra sản phẩm mang tính hàng loạt. Khi có nhiều ngọc trai rồi, loài người bèn tìm cách khai thác triệt để công dụng của nỗi đau kết tinh này. Người ta đồn rằng, tắm bột ngọc trai sẽ làm cho da dẻ đẹp thêm, sức khoẻ tốt thêm. Và người ta sáng tạo ra một loại hình dịch vụ mới, đó là tắm ngọc trai. Ở nước Việt, tắm ngọc trai là một dịch vụ hoàn toàn mới mẻ và rất hiếm. Số cơ sở nghỉ dưỡng có khoản tắm ngọc trai có thể đếm trên đầu ngón tay. Vì vậy, Đản mới mời các đại sư phụ đến chốn này.

Đại sư phụ Hoàng Phu đi theo một em (từ bây giờ cháu nào cũng chỉ được xưng bằng em) vào phòng tắm ở ngay tầng một. Hai người kia cũng vậy. Nói là phòng tắm thì hơi thường so với quy mô của nó. Nó phải rộng bằng cả một căn hộ chung cư thời bao cấp. Một cái bồn tắm to hình lá sen nằm giữa phòng, với đủ loại vòi nước. Xung quanh tường toàn là gương, một loại gương có gắn thiết bị điện tử,

Page 56: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

không hề bị hơi nước làm mờ. Vào đến nơi, cả người tắm và người phục vụ tắm đều trở về thời ăn lông ở lỗ. Thế là, những cái gương trong vắt ấy nhân lên gấp bội hình hài nguyên sơ của hai con người trần trụi. Em gái phục vụ Hoàng Phu tự giới thiệu tên là Hồng Ngọc. Em mời đại sư phụ nằm lên một cái bàn đá rất thấp nằm gần bể tắm. Mời đại sư phụ nằm sấp trước, để em mát xa nhẹ làn da đã lão hoá của đại sư phụ cho nó mềm mại, thông thoáng, lát nữa tiếp nhận được hết những tinh tuý của đất trời do ngọc trai đem lại. Bàn tay ấm mềm của Hồng Ngọc đặt lên lưng đại sư phụ. Vừa xoa vừa day êm ái, nhẹ nhàng. Rồi em mời đại sư phụ nằm ngửa lên. Tênh hênh. Nồng nỗng. Nhìn vào gương, đại sư phụ cũng bật cười trước hình hài của mình. Đã quá chai lỳ với công việc, Hồng Ngọc cứ lặng lẽ làm việc. Đôi bàn tay ấm mềm xoa bóp đến đâu, máu đại sư phụ chảy rần rần, rậm rật đến đấy. Có lẽ tất cả các lỗ chân lông đã mở ra toang hoác để chuẩn bị đón tinh chất của thiên nhiên. Hồng Ngọc mời đại sư phụ ngồi dậy, đem ra một hộp pha lê trong có đựng một thứ bột mịn màu xam xám, óng ánh. Em mỉm cười giới thiệu đây là bột ngọc trai chính hiệu Trung Quốc.

Tại sao nơi này lại sử dụng ngọc trai Trung Quốc chính hiệu? Vì rằng, Trung Quốc là tổ sư của nghề nuôi cấy ngọc trai. Nếu ai đã đọc tiểu thuyết “Rừng xanh lá đỏ” của nhà văn Mạc Ngôn rồi thì hiểu rõ cái nghề nuôi cấy ngọc trai ở Trung Quốc có lịch sử bi hùng như thế nào. Cuốn sách này nói rằng: Theo điều tra, xưa kia có quá nửa số người mò ngọc trai bị chết ngoài biển, không bị cá mập ăn thịt thì bị sặc nước biển, hoặc bị phủ quan bức tử. Để có nhiều trai ngọc, khai thác đỡ nguy hiểm hơn, người ta nghĩ ra cách nuôi cấy trai ngọc. Người ta vớt lũ trai ngọc ra khỏi bể nuôi, đặt chúng sát nhau trong những chiếc lồng sáu cạnh, treo trên giàn nổi, bắt chúng phải mở miệng. Khi chúng mở miệng, những người phụ nữ nhanh nhẹn cài chiếc lẹm bằng gỗ để chúng không thể ngậm miệng lại, để sang một chỗ đợi làm thủ thuật. Cá biệt có con thông minh không mở miệng. Không mở miệng cũng phải mở, người ta dùng dụng cụ tách miệng, bắt con trai phải mở miệng ra. Việc cấy ngọc bắt đầu. Trước tiên, người ta giết mấy con trai khoẻ mạnh lấy vỏ cắt thành những mẩu nhỏ đặt trên mặt kính, sau đó nhặt những con trai khác đặt lên bàn, dùng kẹp lôi lưỡi và chân ra, châm mấy lỗ thật sâu bằng chiếc kim rỗng ruột, thường là ba lỗ, có khi hai lỗ. Người ta nhét những mẩu vỏ trai còn cạnh hoặc đã mài nhẵn vào trong lỗ châm, rút lẹm ra, thả con trai vào bồn gỗ lớn có chứa nước biển trong hai ngày rồi bỏ vào lồng thả xuống biển, neo lại bằng phao.

Page 57: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Từ đó, lũ trai cứ đung đưa trong nước cho đến ngày người ta thu hoạch. Đôi khi người nuôi lôi chúng lên mặt nước xem xét rồi lại thả chúng xuống biển. Những con trai ngọc bị nhét vật lạ vào sâu trong thịt còn đau khổ hơn những cô gái trinh bị làm nhục. Dưới biển, con trai ngọc gào khóc, cố đùn cái vật lạ ra khỏi người, nhưng con người, sau hàng nghìn lần thử nghiệm, đã nhét mảnh vỏ vào những nơi mà con trai không thể đùn ra. Con trai chỉ có thể chọn một trong hai cách, hoặc là chết, hoặc là sống, sống thì phải tiết ngọc dịch bao kín cái vật làm cho nó khổ sở, bao thật tròn, thật trơn. Quá trình đau khổ tự cứu cũng là quá trình con trai ngọc thai nghén ngọc trai cho con người. Biết bao sự vật đẹp đẽ trên đời kết tinh từ đau khổ? Những con trai bị lăng nhục nhốt trong lồng treo lơ lửng dưới biển. Chúng không thể di chuyển thoải mái, tự do tự tại trên cát bùn mềm mại dưới đáy biển như tổ tiên chúng. Chúng chỉ được sống lửng lơ trong nước, mấy chục anh em chen chúc trong một chiếc lồng. Trong vùng vịnh xinh đẹp, vào lúc đêm khuya thanh vắng, những người ngồi co ro trong chòi có thể nghe thấy tiếng rên rỉ xót xa của những con trai ngọc. Đặc biệt, những đêm trăng tròn, ánh trăng trắng ngần soi tỏ vùng vịnh, thân cành cây vẹt như dát vàng, lá như dát bạc, những con chim biển đậu trên ngọn cây im như tượng đá, vùng biển mênh mông như trong thần thoại. Đêm trăng là lúc con trai ngọc đau đớn nhất, cũng là lúc con trai làm ngọc nhanh nhất. Tiếng rên rỉ của những con trai từ dưới biển vọng lên, khiến những người nuôi trai tâm thần không yên, trằn trọc thâu đêm. Họ thấp thỏm chờ mong, đồng thời vô cùng khiếp hãi. Chờ mong thì đã rõ, nhưng khiếp hãi thì không cắt nghĩa được.

Sau bảy trăm ngày đêm nuôi cấy, đến ngày thu hoạch ngọc trai. Từng sọt trai ngọc, từng bao trai ngọc, từng xe trai ngọc toả ra mùi tanh tanh từ các vùng nuôi trai ngọc đổ về nơi chế biến. Những con trai ngọc rời khỏi nước biển, phơi nắng mười mấy tiếng đồng hồ, chết quá nửa, chưa chết thì cũng ngắc ngoải. Nội tạng chúng bị thối rữa, chưa thối cũng đã mọng nước, thân và dịch thể quyện lẫn, trông rất kinh. Người ta tách ngọc ra khỏi con trai, còn thịt trai bỏ vào thùng nhựa phía sau. Thịt này không bỏ đi, mà đem làm mắm, người miền Bắc rất thích. Toàn thân con trai ngọc đều có giá, vỏ trai bị quẳng ra phía sau cũng không biến thành phế thải mà đắt như vàng. Người ta bảo rằng, chất phát sáng bên trong vỏ con trai cùng chất với ngọc, mà chất lượng không hề thua kém. Vậy là người ta dùng máy mài đi lớp vỏ đen bên ngoài, nghiền lớp trắng bên trong thành bột, gọi là bột ngọc trai. Thuốc rỏ mắt ngọc trai được bào chế từ vỏ trai ngọc. Mỹ phẩm ngọc trai cao

Page 58: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

cấp được luyện từ bột vỏ trai ngọc. Do vậy, mà vỏ trai ngọc giá rất đắt. Trung Quốc cũng nổi tiếng về chất lượng ngọc trai cao, sản phẩm bán khắp năm châu. Đôi khuyên ngọc trên tai phu nhân Tổng thống Hợp chủng quốc Hoa Kỳ Bill Clinton là do người Trung Hoa chế tác. Kem dưỡng da trên mặt người đẹp nổi tiếng thế giới Cindy được sản xuất từ bột ngọc trai của Trung Quốc.

Đoạn văn trên đây là do đại sư phụ nhẩm lại gần như nguyên xi đoạn văn trong tiểu thuyết “Rừng xanh lá đỏ” của Mạc Ngôn mà đại sư phụ vô tình nhớ lại khi nghe nói đến ngọc trai. Trí nhớ của đại sư phụ quả là khác người. Bây giờ, chuẩn bị thưởng ngoạn ngọc trai, đại sư phụ mới thấy hết niềm khoái lạc của một kẻ bệnh hoạn, chuyên lấy nỗi đau của kẻ khác làm niềm vui cho mình. “Trai ngọc ơi, mi đau khổ cả đời, sống dở, chết dở, khốn khổ khốn nạn, bị hành hạ cho tới tận lúc đã tan thây nát thịt, thì cái niềm vui mà mi đem lại cho ta quả là niềm vui vượt trần thế”.

Hồng Ngọc nhẹ nhàng dìm hộp bột ngọc trai vào bể nước, hoà trộn, quấy đảo, làm cho bể nước chuyển dần từ trong vắt sang đùng đục. Thấy đại sư phụ nhớm mình định trườn xuống bể, Hồng Ngọc với tay nhẹ nhàng đặt vào vai đại sư phụ, ngăn lại - “Còn tiết mục nữa anh a”. Em đem ra một lọ nhỏ, mở nắp dốc ra chục viên ngọc trai khá lớn. Đây là chiêu phục vụ mang đặc trưng của khu nghỉ dưỡng “Tiết Hạnh”. Người Việt chúng ta luôn luôn có đầu óc sáng tạo, cái gì học của nước ngoài cũng biết cách Việt hoá. Chẳng hạn, bị phương Bắc đô hộ đến mười thế kỷ, phải sử dụng chữ Hán làm quốc ngữ, cha ông ta đã dựa vào lối viết tượng hình làm nên chữ Nôm cho dân Việt. Sau đó, khi bị Tây xâm lăng, bắt dùng chữ La tinh, thì cha ông ta lại sử dụng luôn lối ghép vần abc tạo nên 24 chữ cái linh hoạt trong bộ chữ Việt chính cống, để bây giờ chúng ta tha hồ viết lách. Còn ở đây, mài từng viên ngọc trai ra để lấy bột “tươi” xoa lên người khách là sáng kiến tuyệt vời, là sản phẩm đặc trưng của khu nghỉ dưỡng “Tiết Hạnh” trên đất nước Việt Nam đáng tự hào về truyền thống tự lực tự cường của chúng ta. Bên Trung Quốc, cái nôi của trò chơi ngọc trai, họ không làm thế.

Đứng bên cạnh một chiếc bàn đá nhỏ, có chiếc máy mài xinh xinh, Hồng Ngọc mài từng viên ngọc trai tạo ra một thứ bột mịn màng. Nhìn cô gái tuổi đôi mươi thân hình thon thả, da dẻ nõn nà, vú tròn nẩy căng, mông cong bọ ngựa, đứng uyển chuyển đung đưa người trong động tác mài ngọc trai, đại sư phụ thấy dâng lên một nỗi khát thèm. Nhưng, nhìn xuống, thấy “nó” vẫn rụt cổ ở vị trí mà kim

Page 59: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

đồng hồ chỉ “sáu giờ chiều”, đại sư phụ chán ngán... Vả lại, thằng Đản đã dặn rồi, đây mới chỉ là công đoạn A. Chớ có vội vàng...

Mài xong, Hồng Ngọc lại đem đĩa bột để cạnh bể tắm rồi mời đại sư phụ xuống tắm. Thứ bột mới mài sẽ bôi lên mình sau khi tắm, để ngọc trai được thẩm thấu vào cơ thể, phát huy hiệu quả tăng cường sinh lực. Hai người, một già, một trẻ quẫy lộn trong bể nước như đôi cá vào mùa sinh sản. Nước dập dềnh, mơn man. Đại Sư phụ chợt thấy thú vị vô cùng. Cứ quần lộn, vờn vã, hai cơ thể khi áp sát, khi trườn qua nhau trong làn nước âm ấm ngọc trai chẳng khác nào đôi cá vờn nhau. Loài cá hay thật, làm tình mà chẳng cần đè nhau ra, leo lên nhau hùng hục như loài người. Cứ vờn lượn đầy tính nghệ thuật. Ta thử làm tình theo kiểu loài cá xem sao. Làm tình theo kiểu nghệ thuật vờn vã. Vờn vã thôi, còn thực hành cái việc truyền nòi giống trong nước như loài cá thì đại sư phụ giơ cả hai tay... Khi thấy đại sư phụ có vẻ đã thấm mệt trong cái trò vờn lượn, Hồng Ngọc mời đại sư phụ ra khỏi bể, đứng thẳng người. Em phết bột ngọc trai lên mình đại sư phụ rồi xoa nhẹ, xoa đều khắp chốn, chỗ lồi lõm, chỗ nhăn nheo, chỗ nhẽo nhèo, chỗ ram ráp. Xoa hết, bột thấm vào từng lỗ chân lông.

Bây giờ đến tiết mục ẩm thực. Ba người ngồi trong một căn phòng quá rộng. Bàn kê lệch một phía để nhìn sang phía bên kia như một sân khấu có chiếu đèn mầu đủ loại. Món ăn gồm những thứ tinh chất nên rất gọn gàng, nhẹ nhàng, đẹp đẽ. Đó là xúp đông trùng hạ thảo. Là yến nguyên tổ. Là sụn cá mập. Là cá hồi hun khói. Là cá hồi tươi. Là trứng cá đỏ. Là rong sâm biển... Toàn là những món thuỷ sản có lợi cho sức khoẻ. Cao tuổi rồi, không được ăn thịt, mỡ, nhỡ tăng cholesterol, đẩy đến nhồi máu cơ tim thì khốn. Riêng đại sư phụ, bị tiểu đường, cho nên Đản tránh dâng các món ăn ngọt. Còn uống, chỉ một loại bia trinh nữ. Đấy là thứ bia tươi nhập thẳng từ Đan Mạch về, đổ gần đầy một bồn pha lê khá lớn, trong suốt. Người phục vụ đổ bia ước lượng khéo tới mức, khi một trinh nữ khoả thân bước vào nửa nằm nửa ngồi trong đó, thì mức bia vừa dập dềnh miệng bồn. Trinh nữ, cổ nghển cao, miệng cười tươi như hoa.

Ngỡ đã vào bữa, đại sư phụ cầm bát đũa, định bảo mọi người đánh chén, vì lão đã bắt đầu đói, thì em phục vụ bảo rằng còn phải chờ hâm bia. Trời ơi, lại còn hâm bia nữa ư? Người ta uống bia với đá, chứ ai lại uống bia nóng. Em gái phục vụ giải thích rằng, đây là chiêu đặc biệt riêng “Tiết Hạnh” mới có. Bồn pha lê bia có cô gái nằm trong sẽ được hâm nóng bằng tia vũ trụ, nóng dần lên, có thể lên đến 900C mà cô gái vẫn không bị bỏng, làm cho tinh chất của cô gái phát tiết ra ngoài,

Page 60: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

hoà lẫn vào bia, tạo nên mùi vị thơm ngon đặc biệt và bổ dưỡng hơn mọi thứ sâm nhung. Trong khi chờ bia thì âm nhạc cất lời, đèn chiếu dìu dịu khu vực sân khấu. Trên đó, có hai cô gái vừa múa vừa cởi dần váy áo. Tiết mục này thì thường thôi. Đơn giản, đó là nghệ thuật múa thoát y chẳng lạ lẫm gì.

Thấy tiết mục không hấp dẫn lắm, đại sư phụ Hoàng Phu bảo em phục vụ: - Bia hâm lâu thế. Hay là cứ chén cái đã. Ta đói rồi đây này. Em phục vụ lễ phép: - Thưa anh, mong anh kiên nhẫn chờ để thưởng thức thứ men đời đặc biệt

chỉ ở đây mới có, khi ấy ăn mới ngon ạ. Đại sư phụ không nói gì nữa mà nghĩ. “Hay là bọn này học lối Trạng Quỳnh

cho Chúa ăn mầm đá. Khi đói, cái quái gì đút vào miệng mà chẳng ngon. Đúng là bọn này câu giờ chờ ta đói ngấu...”.

Lúc này, bồn bia có cô gái nằm trong đã được đẩy ra. Quả thật bia có hơi âm ấm. Đưa bàn tay nhúng vào bia, rồi đại sư phụ Hoàng Phu đột ngột kéo em phục vụ vào lòng, đưa ngón tay giữa của bàn tay phải móc vào vùng kín của em, giả vờ gằn giọng:

- Ngươi loè ta rồi. Sao bảo là bia nóng tới 900C. Ta thử, cũng chỉ âm ấm như cái lạch nước ngầm của ngươi thôi, ngươi ạ.

Em phục vụ không dám toài người xuống, kẹp chặt hai chân lại, van lạy: - Thưa anh, anh tha cho em. Em còn nguyên. Anh mà lỡ quá tay, cái màng

mỏng của em thủng mất thì em mất đứt đời con gái! - Ha, ha, ha! Ngươi còn màng mỏng thật không, ta kiểm tra đã. - Vừa cười

nói, đại sư phụ vừa ấn ngón tay vào sâu thêm khiến cô gái thét lên một tiếng kinh hoàng rồi trườn khỏi đùi lão.

Đùa một tí thế thôi, lão không thích đùa dai. Lão xoay vào mâm cơm, mặc xác em phục vụ đang nhăn nhó vì đau, chẳng cần quan tâm xem em phục vụ có vì ngón tay thọc sâu của lão mà thủng mất cái màng mỏng quý giá của cả đời người con gái hay không. Ba người vừa nhấm nháp sơn hào hải vị, vừa múc bia ở bể có trinh nữ đằm mình. Đản cố tình vục mạnh cốc cho bọt bia bắn lên mặt trinh nữ và lướt đáy cốc vập vào bầu vú căng tròn của em khiến cái cốc nảy tưng lên. Em vẫn mỉm cười duyên dáng. Không chú ý lắm đến sân khấu, cả ba bỗng giật mình vì tiếng nhạc chợt nổi to hơn, rộn rã với tiết tấu dồn dập, ánh đèn rực lên, nhấp nháy đủ màu sắc. Cả ba nhìn thẳng lên sân khấu thì thấy một đôi nam nữ cao to nườn nưỡn theo tiếng nhạc vừa vờn nhau vừa tiến ra giữa sân khấu. Một chiếc bàn cũng

Page 61: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

được chuyển ra. Đôi nam nữ nhảy tuyệt đẹp. Cậu thanh niên cao chừng một mét bảy lăm, săn chắc, bắp thịt nở cuồn cuộn. Cô thiếu nữ cao chừng một mét bảy mươi, ngực nở, bụng thon, đầy sinh lực. Trần trụi trong nhịp tango, họ quấn lấy nhau, ngả nghiêng, ép sát trông thật gợi tình. Họ nhảy nhót theo điệu nhạc mỗi lúc một nhanh, một mạnh hơn. Đột ngột nhạc chuyển sang nhịp slow, chầm chậm, dìu dặt. Đôi nam nữ lượn đến bên bàn rồi chuyển sang các động tác làm tình. Lúc này, âm nhạc câm bặt. Nhìn hai đại sư phụ dán mắt vào đôi nam nữ, Đản hài lòng lắm. Gã cũng dán mắt nhìn lên sân khấu. Gã thở hồng hộc như lợn lòi bị thương. Gã có đặc tính, khi bị kích dâm mạnh, thường thở hồng hộc như thế. Mấy cô tiếp viên ở khách sạn Bạch Liên đều đã thuộc cái tật này của gã, cho nên lúc nào thấy gã thở mạnh dần lên thì phải tìm cách tránh xa nếu không muốn bị ôm ghì, đè nghiến. Đôi trai gái trên sân khấu đã đi đến Z rồi, đang thực hành những động tác làm tình tai quái, ngang ngược, xốc xáo. Lúc này nhạc rộn lên theo nhịp chày khua. Đản thở mạnh hơn. Gã đã nhiễm thói sướng cao độ khi nhìn người khác sướng từ khi rình bắt mại dâm ở khách sạn Bạch Liên. Sau lần ấy, niềm khoái cảm bệnh hoạn luôn luôn làm khổ gã. Bởi vì làm tình thì dễ quá, nhưng xem người khác làm tình thì khó vô cùng. Đâm ra, gã luôn luôn bị thèm khát. May mắn đến với gã khi gã phát hiện Lý Ngồ Ngộ có gan làm tình ngay trong phòng Karaoke, bên cạnh mọi người. Thế là thỉnh thoảng gã mời tổng giám đốc đi ca hát cùng gã. Mỗi lần như thế, ẩn ức dục tình của gã được giải toả chút ít. Lần đi Pháp tìm hiểu tình hình kinh doanh khách sạn, đến phố “Đèn đỏ”, vào một nhà hàng giải khát, lần đầu tiên gã được xem màn trình diễn làm tình. Mặc dù phải chi hơn một nghìn Euro, gã vẫn thấy thoải mái vô cùng. Gã học được chiêu nghệ thuật hoá hành động giao cấu của người Pháp nổi tiếng văn minh, đem về nước khai hoá cho mấy nhà kinh doanh tình dục cao cấp. Không ngờ, món đó hấp dẫn vào loại nhất trong các món dâm tình, đắt khách vô cùng, lợi nhuận cao vô cùng. Khu nghỉ dưỡng “Tiết Hạnh” này cũng nhờ gã mà có chiêu thức kinh doanh độc đáo, thu hút khách ngay từ khi mới khai trương...

Sau màn nghệ thuật giao cấu độc đáo, bữa ăn cũng kết thúc. Trinh nữ trong bia lẩy bẩy đứng lên, từng chỗ từng chỗ trên thân thể em đã nhăn nhèo nhẽo, bợt bờn bơn. Em cúi chào các Thượng đế rồi run rẩy bước ra khỏi bồn bia, lùi lũi rút lui. Chẳng ai thèm chào lại em. Trong khi các Thượng đế tráng miệng bằng trái cây nhập ở Pháp về, trong đó có loại đặc biệt dùng cho người bị tiểu đường và uống nước linh chi Hàn Quốc, thì người phục vụ đem ra một hộp gỗ sơn son thếp vàng,

Page 62: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

trang trí hoa văn rồng phượng kiểu truyền thống. Người phục vụ cũng là một cô gái khoả thân. Cô gái thưa bẩm, rồi bắt đầu giới thiệu tiết mục mới. Đó là tiết mục chọn gái phục vụ trọn đêm. “Đơn giản lắm, khi em đem cái hộp này tới chỗ các anh, mỗi anh bốc một lá bài trong hộp. Lá bài có đánh số. Các anh báo cho em số bốc được, em ghi vào sổ, các anh ký xác nhận. Mỗi số sẽ tương ứng với số đeo trên áo tiếp viên và như vậy mỗi tiếp viên sẽ phục vụ người có số trùng với số quản lý của mình. Các anh rõ chưa ạ? Vâng. Nhưng em lưu ý các anh, các anh bốc cho khéo nhé. Tiếp viên ở đây toàn là loại xịn, nhưng cũng có cô đẹp, có cô không đẹp lắm. Em mong các anh bốc được cô gái hợp với sở thích của mình. Nhưng, các anh cũng phải cảnh giác, vì trong hộp này, có một lá bài không trùng với số của tiếp viên nào, thế tức là anh nào bốc phải lá bài đó, anh ấy sẽ đành ngủ một đêm tới sáng một mình trong nhà nghỉ này. Một lần nữa em chúc các anh may mắn”.

Đại sư phụ Hoàng Phu nhíu mày khó chịu. Sao ở đây phiền toái thế. Ta thích thoải mái kia.Những nơi khác, nhà hàng đem “hàng” ra cả đống cho ta chọn, ta còn chưa khoái nữa là. Đang nghĩ lan man thì Hoàng Phu giật bắn mình vì tiếng thanh la vang lên lảnh lót rồi tiếng nhạc rộn rã hoà theo. Đèn trên sân khấu sáng rực. “Một đàn bươm bướm xinh tung tăng bay lượn” trên sân khấu. Có đến hai chục cô gái khoả thân múa may quay cuồng. Chỉ trong chừng hai phút, các cô rút lui. Đản mải quan sát thái độ của các đại sư phụ, không để ý đến bầy “bươm bướm” trên sân khấu. Cô phục vụ lại giải thích: Đấy là các cô gái mang số mà các anh sẽ bốc vào lát nữa. Hoàng Phu lại nhíu mày. “Bọn này vẽ chuyện thật. Lẽ ra cứ đứng lại, ta chỉ vào ai thì người ấy phục vụ ta, bầy trò bốc thăm nhiêu khê quá”.

Tuy vậy, đến khi chuẩn bị bốc thăm, thấy trong lòng hồi hộp, tay run run thì đại sư phụ Hoàng Phu ngộ ra đây cũng là một thứ văn hoá ăn chơi, tác động rất mạnh vào tâm lý con người. Quả vậy, con người, từ thời nguyên thuỷ, trước biết bao tai họa từ trời giáng xuống, từ nước dâng lên, từ đồng loại đánh vào, đã có thói quen cầu sự may mắn. Trò chơi may rủi luôn luôn hấp dẫn con người. Xin âm dương. Xổ số. Lô tô. Cá độ bóng đá. Đánh bạc. Rồi đến cả các trò chơi trên truyền hình như “Chiếc nón kỳ diệu”, “Ai là triệu phú”... Tất cả đều là trò may rủi. Cái cảm giác nghẹt thở khi chờ kết quả để biết mình may hay rủi nhiều khi có giá trị hơn cả những phần thưởng mà người ta nhận được. Ngộ ra rồi thì đại sư phụ Hoàng Phu gật gù thán phục chiêu thức kinh doanh khác người của doanh nghiệp “Tiết Hạnh” này. Khi cô gái đem cái hộp đến, Hoàng Phu miệng lầm rầm khấn

Page 63: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

Phật cầu may, tay run run bốc một cái rõ nhanh như sợ cái may mắn sẽ vụt bay mất nếu mình bốc chậm. Lão lẩn thẩn tự hỏi: “Nếu bốc phải số không có em nào thì sao nhỉ?”. Rồi lão lại tự trấn an: “Ta bốc được số 68, tức là “lộc phát”. Số đẹp thế, chắc chắn phải trúng em gái tuyệt cú mèo!”.

Bốc thăm rồi, các đại gia có ba mươi phút về phòng nghỉ ngơi để chờ các em đến phục vụ. Đấy cũng là cách giãn thời gian, tăng thêm sự hồi hộp, cũng là tăng thêm khoái cảm cho quý khách.

Đản thật là chu đáo. Gã đến từng phòng đưa thuốc cường dương cho hai đại sư phụ. Không phải là thứ thuốc Viagra của Tây rất nguy hiểm, dễ khiến cho các đại gia truỵ tim mạch thở hắt ra lúc nào không biết. Đây là loại thuốc thảo mộc được phát minh từ thời Từ Hy Thái Hậu của Tàu, được truyền lại trong một gia đình thuộc Hoàng tộc mà Đản mất rất nhiều công sức mới mua được. Dùng nó, không những “hoạt động” khoẻ, mà còn dai sức, tim mạch được tăng cường độ dẻo dai. Đại sư phụ Hoàng Phu vội vồ lấy hộp thuốc. Nhân đó, Đản xin ý kiến chỉ đạo của đại sư phụ. Đấu đá là nghề của đại sư phụ rồi, lo gì. Chỉ sau vài ba câu trao đổi, đại sư phụ đã có ngay một phương án tác chiến quy mô. Sang phòng đại sư phụ Tóc đen nhánh, Đản đưa hộp thuốc và giải thích công dụng cũng như cách dùng, nhưng Tóc đen nhánh không thèm màng. Đại sư phụ này bảo sức mình còn hùng lắm, không nên dùng thuốc, nó hư người đi. Sau khi cảm ơn đại sư phụ Tóc đen nhánh về việc đã phối hợp chặt chẽ lập thành tích vượt trội phá vụ mại dâm ở khách sạn Bạch Liên vừa qua, Đản trình bày ước nguyện được đại sư phụ tiếp tục giúp sức, mà mục tiêu lần này tập trung vào một mình mụ Minh. Đại sư phụ lắng nghe bằng thái độ thật tận tình. Sau đó, đại sư phụ bảo: “Chú yên tâm, anh sẽ giúp. Nhưng không nên châm ngòi từ khu của anh. Anh có hai đệ tử làm ở cơ quan chức năng khu Thành Đô, chính nơi cơ quan mụ Minh đặt trụ sở, anh sẽ bảo chúng phối hợp với em. Yên trí đi!”.

Về phòng, Đản cảm thấy yên tâm. Phen này thì mụ Minh dù có phép độn thổ hay phép thăng thiên cũng không thoát. Cởi hết quần áo, để đèn sáng lờ mờ, khép hờ cửa, Đản nằm thẳng đơ trên giường. Gã cũng hơi hồi hộp. Không phải là lo không có em nào tới phục vụ. Bởi vì nơi này bao giờ cũng phổ biến với khách rằng có một lá bài mang số “không” cho thêm phần ly kỳ và hấp dẫn, chứ thực ra, lá bài nào mà chẳng tương ứng với một em. Gã cũng không hồi hộp vì lo vớ phải em chẳng ra gì, bởi vì gái ở đây được tuyển chọn kỹ, huấn luyện chu đáo, em nào

Page 64: GIÃ TỪ (Trích tiểu thuyết của Phạm Việt Long)

cũng trên cả tuyệt vời. Gã hồi hộp. Hồi hộp và bồn chồn. Không rõ nguyên cớ là đâu.

Đúng 23 giờ, chuông đồng hồ của phòng ngủ cất lên bản nhạc “Tình cho không biếu không”. Cánh cửa từ từ mở ra. Một cô gái trần như nhộng, thân hình thon thả uyển chuyển bước vào. Lê Đản cười to lên một tiếng rồi bật đèn sáng trưng. Gã vốn thích khoe “của quý” với các em. Gã nhổm dậy và bước xuống đất, đứng thẳng chân, ngửa ngực ưỡn nửa thân dưới về phía cô gái.

- Trời ơi! - Cả hai bỗng kêu lên thảng thốt...