40
Toán học Việt Nam: Danh và thực Cập nhật lúc 05:35, Thứ Hai, 27/02/2006 (GMT+7) , Tháng 1/2006, GS Toán ĐH Toulouse Nguyễn Tiến Dũng, nhân vật trong bài "Cần thêm ít nhất 50 TS Toán mỗi năm" đã có bài viết khá kỹ lưỡng "Vài suy nghĩ về Toán học Việt Nam" mà theo anh, "trong quá trình viết bài này, đã nhận được sự góp ý của nhiều đồng nghiệp và người thân, bạn bè, giúp cho bài viết tốt lên". Được sự đồng ý của tác giả, VietNamNet đăng tải bài viết này (tác giả chia làm 7 phần) và mong nhận được ý kiến của bạn đọc, như lời tác giả "nếu bạn đọc nào có ý kiến phê bình hay trao đổi". Tòa soạn có lược bớt một số đoạn trong bản thảo bài viết. Các đầu đề các mục do tòa soạn đặt. Phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực VN mạnh về Toán: Nhầm! Rất nhiều người ở VN cho rằng nước ta có một nền toán học mạnh trên thế giới. Nếu tôi không nhầm, báo chí trong nước từng viết "VN là trung tâm toán học đứng thứ 10 thế giới", sau có đổi lại thành "đứng thứ 10 trong số các nước đang phát triển". Trên thực tế, VN có tổng cộng (tính tất cả các trường ĐH và viện nghiên cứu) quãng trên 1.000 cán bộ nghiên cứu giảng dạy về toán, trong đó chỉ có khoảng 300 người "tích cực nghiên cứu" (theo nghĩa là có công trình khoa học trong thời gian gần đây). Theo một thống kê gần đây , trong giai đoạn 1995-2004, có tổng cộng 300 bài báo toán của người các nhà toán học VN (ở trong nước) có đăng trên tạp chí quốc tế mà không có đồng tác giả người nước ngoài; nếu kể cả các bài có đồng tác giả người nước ngoài thì con số này được nhân lên quãng 5-6 lần (tính trung bình quãng 150-200 bài một năm). Tuy nhiên, số bài đăng ở các tạp chí "hạng cao" còn rất ít. Theo một thống kê thì trong 3 năm 2003-2005, ở các tạp chí toán thuộc "top 10" chỉ có đúng 1 bài báo là của một người Việt làm toán trong nước, và nếu điểm qua 30 tạp chí thuộc loại uy tín nhất thì cũng chỉ tìm được quãng hơn một chục bài báo do các nhà toán học trong nước đăng (kể cả các bài có đồng tác giả người nước ngoài). Để so sánh, ĐH Toulouse (một trung tâm lớn cỡ vừa phải; trên thế giới có cả trăm trung tâm như vậy) có trên 100 người làm toán chuyên nghiệp, mỗi năm công bố hàng trăm công trình, trong đó, có nhiều công trình đăng trong các tạp chí "top 10". Nếu tính về số lượng và chất lượng các công trình toán học thì cả nước VN chưa chắc đã bằng một trường ĐH lớn ở các nước tiên tiến. Theo tôi, nền toán học VN (tính theo đóng góp và ảnh hưởng đến toán học thế giới) vào thời điểm hiện tại chỉ hơn được một số nước Đông Nam Á, những nước rất lạc hậu ở châu Phi, và một số nước rất ít dân. Sự phát triển toán học hay khoa học nói chung của một nước đi đôi với sự phát Các nhà toán học thế giới gặp gỡ tại một hội nghị toán học

Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

  • Upload
    lamnhi

  • View
    213

  • Download
    1

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Toán học Việt Nam: Danh và thựcCập nhật lúc 05:35, Thứ Hai, 27/02/2006 (GMT+7),

Tháng 1/2006, GS Toán ĐH Toulouse Nguyễn Tiến Dũng, nhân vật trong bài  "Cần thêm ít nhất 50 TS Toán mỗi năm" đã có bài viết khá kỹ lưỡng "Vài suy nghĩ về Toán học Việt Nam" mà theo anh, "trong quá trình viết bài này, đã nhận được sự góp ý của nhiều đồng nghiệp và người thân, bạn bè, giúp cho bài viết tốt lên".

Được sự đồng ý của tác giả, VietNamNet đăng tải bài viết này (tác giả chia làm 7 phần) và mong nhận được ý kiến của bạn đọc, như lời tác giả "nếu bạn đọc nào có ý kiến phê bình hay trao đổi". Tòa soạn có lược bớt một số đoạn trong bản thảo bài viết. Các đầu đề các mục do tòa soạn đặt.

Phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực  

VN mạnh về Toán: Nhầm!

Rất nhiều người ở VN cho rằng nước ta có một nền toán học mạnh trên thế giới. Nếu tôi không nhầm, báo chí trong nước từng viết "VN là trung tâm toán học đứng thứ 10 thế giới", sau có đổi lại thành "đứng thứ 10 trong số các nước đang phát triển".

Trên thực tế, VN có tổng cộng (tính tất cả các trường ĐH và viện nghiên cứu) quãng trên 1.000 cán bộ nghiên cứu giảng dạy về toán, trong đó chỉ có khoảng 300 người "tích cực nghiên cứu" (theo nghĩa là có công trình khoa học trong thời gian gần đây).

Theo một thống kê gần đây, trong giai đoạn 1995-2004, có tổng cộng 300 bài báo toán của người các nhà toán học VN (ở trong nước) có

đăng trên tạp chí quốc tế mà không có đồng tác giả người nước ngoài; nếu kể cả các bài có đồng tác giả người nước ngoài thì con số này được nhân lên quãng 5-6 lần (tính trung bình quãng 150-200 bài một năm).

Tuy nhiên, số bài đăng ở các tạp chí "hạng cao" còn rất ít. Theo một thống kê thì trong 3 năm 2003-2005, ở các tạp chí toán thuộc "top 10" chỉ có đúng 1 bài báo là của một người Việt làm toán trong nước, và nếu điểm qua 30 tạp chí thuộc loại uy tín nhất thì cũng chỉ tìm được quãng hơn một chục bài báo do các nhà toán học trong nước đăng (kể cả các bài có đồng tác giả người nước ngoài). Để so sánh, ĐH Toulouse (một trung tâm lớn cỡ vừa phải; trên thế giới có cả trăm trung tâm như vậy) có trên 100 người làm toán chuyên nghiệp, mỗi năm công bố hàng trăm công trình, trong đó, có nhiều công trình đăng trong các tạp chí "top 10". Nếu tính về số lượng và chất lượng các công trình toán học thì cả nước VN chưa chắc đã bằng một trường ĐH lớn ở các nước tiên tiến. Theo tôi, nền toán học VN (tính theo đóng góp và ảnh hưởng đến toán học thế giới) vào thời điểm hiện tại chỉ hơn được một số nước Đông Nam Á, những nước rất lạc hậu ở châu Phi, và một số nước rất ít dân.

Sự phát triển toán học hay khoa học nói chung của một nước đi đôi với sự phát triển kinh tế của nước đó, nên chuyện VN nền kinh tế còn yếu và nền toán học cũng còn yếu không có gì mâu thuẫn. Nhưng có những người ở VN hiểu nhầm là VN rất mạnh về toán trong khi kinh tế kém (so với những nước như Nhật Bản không có gì đặc biệt về toán mà kinh tế mạnh !?!) để rồi rút ra kết luận sai lầm là nền toán học VN không đem lại lợi ích gì cho đất nước.

"Cò gỗ mổ cò thật" Nói một cách khách quan, nền toán học VN tuy hiện tại còn chưa mạnh so với thế giới, nhưng so với trước đây đã tiến bộ rất nhiều, và trong tương lai chắc sẽ còn tiến bộ nhiều. Trước thế kỷ 20, khái niệm "toán học" hầu như không tồn tại ở VN. Ai có may mắn được học hành, thì cũng học thơ phú, lễ nghĩa là chính. Có lẽ nhà toán học (nói chính xác hơn là nhà giáo về toán) VN duy nhất thời trước thế kỷ 20 có được thế giới nhắc đến là Lương Thế Vinh (1441-1496?) bởi ông có soạn cuốn sách giáo khoa "Đại Thành Toán Pháp".

Các nhà toán học thế giới gặp gỡ tại một hội nghị toán học

Page 2: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Vào giữa thế kỷ 20 mới bắt đầu xuất hiện một vài tiến sĩ toán người Việt (du học ở phương Tây). Trong đó có GS Lê Văn Thiêm, bảo vệ Docteur d'Etat (tiến sỹ quốc gia) về giải tích phức ở Pháp năm 1949, người có công đầu trong việc xây dựng nền toán học hiện đại của VN.

Từ giữa thế kỷ 20 đến nay, số lượng người Việt làm toán (theo nghĩa có kết quả nghiên cứu toán học) tăng dần lên từ con số vài người lên đến hàng chục rồi hàng trăm người. Phần lớn những người làm toán Việt Nam hiện nay được đào tào hoặc tu nghiệp ở nước ngoài (các nước xã hội chủ nghĩa cũ hoặc phương Tây). Một số nhà toán học VN đã đạt tầm quốc tế, với hàng chục công trình khoa học đăng trên các tạp chí có uy tín cao trên thế giới, tiêu biểu như GS Hoàng Tụy và GS Ngô Việt Trung. Có một số người được "dư luận quần chúng" cho là những nhà toán học tiêu biểu nhất VN nhưng lại có đóng góp khoa học ít hơn những người khác.

Có người trình độ "làng nhàng" nhưng báo chí luôn nhắc đến, bởi ngày trước có thành tích cao khi thi HS giỏi toán quốc tế. (Đây là lỗi của một số nhà báo -- người được nhắc đến chưa chắc đã sung sướng gì).

Có người được báo chí lăng xê thành nhà toán học hàng đầu từ khi chưa bảo vệ tiến sỹ. Có người được gắn danh là "người giải được bài toán thế kỷ" trong khi trong giới chuyên môn không ai đánh giá như vậy.

Có vị mang danh "viện sỹ nổi tiếng", "một trong mấy trăm bộ óc vĩ đại nhất của thế kỷ trên thế giới", tự so sánh "cống hiến khoa học" của mình ngang tầm với những nhà toán học tên tuổi như Lobachevsky, trong khi "công trình" của vị chẳng được ai trên thế giới quan tâm đến.

Phần lớn những người làm khoa học thực sự có lòng tự trọng và trung thực trong khoa học. Nhưng có những người giả làm khoa học, "mua danh bán tước" để đạt bằng cấp địa vị .

Ở Liên Xô cũ, trong những năm tám mươi chín mươi của thế kỷ trước, chuyện người Việt "mua bằng", thuê người làm hộ luận án, nghe nói khá phổ biến, và chuyện "bằng rởm" ở VN nghe nói cũng không phải là hiếm.

 Hồi tôi học ở Nga (1986-1991), có một anh tốt nghiệp ĐH trong nước  được cử sang làm nghiên cứu sinh cùng khoa Toán Cơ trường Lomonoxop. Anh này học kém, đi thi tối thiểu bị thi lại, chủ yếu lo chuyện buôn bán, rồi "mua bằng" từ bằng TS đến bằng TSKH (doctor nauk), những người cùng khoa ai cũng biết chuyện. Về nước được "cơ cấu" vào chức lãnh đạo quản lý  khoa học ở một nơi khá quan trọng. Những chuyện "cò gỗ mổ cò thật" như thế thật tai hại cho việc phát triển khoa học ở VN.

Nguyễn Tiến Dũng

Có phải làm toán là 'ăn hại, tự sướng'? Cập nhật lúc 15:41, Thứ Hai, 27/02/2006 (GMT+7),

Một số người có học (kể cả ở Việt Nam lẫn ở nước ngoài) cho rằng những người làm toán là "ăn hại, tự sướng". Suy nghĩ này có lẽ xuất phát từ sự hiểu biết hạn chế về toán học và ứng dụng của toán học.

Xem phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực 

Ứng dụng của toán học hiện đại vào đời sống thường không trực tiếp, mà gián tiếp qua những khoa học, công nghệ khác, và bởi vậy nhìn bề ngoài khó thấy, khó cảm nhận. Nhưng trong bất kỳ ngành nào cũng có thể chỉ ra các ứng dụng của toán học.

Xin kể vài ví dụ. Vật lý hiện đại luôn đòi hỏi đến công cụ, lý thuyết mới của toán học hiện đại (phương trình vi phân, hình học vi phân, lý thuyết biểu diễn, đại số toán tử, v.v.), và có những nhà vật lý hàng đầu như Edward Witten cũng đồng thời là những nhà toán học lớn.

Có nhiều người được giải Nobel về kinh tế trong những năm gần đây chính nhờ những công trình mang tính toán học. Trên internet có thể trao đổi mua bán mà không sợ trộm vì các thông tin quan trọng thường

SV ĐH rất nhiều ngành khác nhau cần được học toán hiện đại (cao cấp) ở một mức nào đó, vì nó cần thiết trong các ngành khác (Ảnh: LAD)

Page 3: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

được mã hóa để chống trộm, và việc làm mật mã này là một trong những ứng dụng trực tiếp của toán rời rạc, lý thuyết số và hình học đại số.

Trong y học, để sáng chế các dụng cụ chẩn đoán, ví dụ như chẩn đoán có thai, người ta lập các mô hình toán về sự thay đổi trong cơ thể, rồi giải nó bằng các công cụ toán học, ví dụ như biến đổi Laplace trong phương trình đạo hàm riêng, v.v. Không phải ngẫu nhiên mà các nước tiên tiến nhất trên thế giới cũng là những nước mạnh nhất về toán học, và nhiều hãng công nghệ lớn và các tập đoàn tài chính trên thế giới hay tuyển việc những người có bằng TS về toán. Toán học có thể chia thành hai phần: toán lý thuyết (hay có thể gọi là toán cơ bản - fundamental mathematics) và toán ứng dụng (applied mathematics), tuy không có biên giới rõ ràng giữa 2 phần này.

Toán ứng dụng nhằm phát triển các lý thuyết và phương pháp tính để phục vụ các ngành khác, còn toán cơ bản thì nhằm giải quyết các vấn đề "nội tại" của toán học. Toán ứng dụng dùng kết quả của toán cơ bản để phát triển, và nhiều vấn đề trong toán cơ bản có xuất phát điểm là các bài toán ứng dụng. Không phải kết quả toán lý thuyết nào cũng sẽ tìm được ứng dụng trong ngành khác, nhưng những kết quả  thực sự cơ bản thì trước sau cũng sẽ có ứng dụng, và các thành tựu về toán lý thuyết, ngay cả khi không có "giá trị kinh tế" tức thời, thì cũng có giá trị như là thành tựu văn hóa của thế giới.

Toán học với VN: Rất cần thiết! Thế giới cần đến toán học đã đành, nhưng VN còn nghèo nàn lạc hậu, có cần đến toán học không, và cần ở mức độ nào? Chưa có công nghệ hiện đại thì ứng dụng toán học vào đâu ? Dưới đây, tôi muốn chỉ ra rằng việc phát triển toán học là rất cần thiết cho VN. Trước hết, thử xét vai trò của toán học trong vấn đề giáo dục đào tạo.

Các HS khi học phổ thông hay ĐH mà giỏi toán thì sau này dễ thành đạt, trong bất cứ lĩnh vực nào, khoa học công nghệ, kinh doanh hay là quản lý. Học giỏi toán có nghĩa là có khả năng suy luận logic tốt, tính toán cẩn thận và kiên trì suy nghĩ khi gặp tình huống khó, nắm vững những khái niệm, nguyên tắc trừu tượng cơ bản để có thể áp dụng chúng vào những bài toán cụ thể. Những đức tính đó là yếu tố cho việc thành công trong mọi lĩnh vực cần đến đầu óc (trừ các lĩnh vực nghệ thuật ?). [Ở đây không có nghĩa là nghệ thuật không cần đầu óc, nhưng trí tưởng tượng quan trọng hơn là logic trong nghệ thuật]

Để có học trò giỏi, một yếu tố quan trọng là cần có giáo viên giỏi, có trình độ cao.  Để có giáo viên toán có trình độ cao, thì những người đào tạo ra các giáo viên đó càng cần có trình độ cao, v.v. Trong mô hình tháp về giáo dục này, ở trên đỉnh phải là các giáo sư tầm cỡ quốc tế, nắm bắt được sự phát triển của toán học thời đại, tiếp đó là đội ngũ tiến sỹ có nghiên cứu khoa học (nếu không nghiên cứu khoa học hoặc ít ra là học tập trau dồi kiến thức thường xuyên, chỉ giảng dạy hoặc làm những việc "tay trái" thôi, thì kiến thức sẽ mai một dần, trình độ ngày càng giảm), rồi đến các thạc sỹ, cử nhân, v.v. Sinh viên ĐH rất nhiều ngành khác nhau cần được học toán hiện đại (cao cấp) ở một mức nào đó, vì nó cần thiết trong các ngành khác. Giáo viên dạy toán ở các trường ĐH, dù là dạy cho ngành nào, để có thể dạy tốt thì cần có trình độ cao hơn mức ĐH (TS, hoặc trong hoàn cảnh VN hiện nay thì ít ra cần có trình độ thạc sỹ). Riêng nhu cầu về giáo dục đào tạo của một nước với hơn 80 triệu dân như VN đã cần một lượng đáng kể tiến sỹ toán. Theo đánh giá của GS Đỗ Đức Thái và một số nhà toán học khác, hiện tại VN mỗi năm thiếu quãng 50 tiến sỹ mới về toán học, trong vòng hai mươi năm tới, riêng cho việc nâng cấp các trường ĐH. Đây là con số lớn so với khả năng đào tào tiến sỹ của VN và so với số lượng cử nhân tài năng ngành toán có khả năng và nguyện vọng học thành tiến sỹ vào thời điểm hiện tại.

Về mặt ứng dụng toán học, ngay trong thời kỳ chiến tranh chống Pháp chống Mỹ, đã có những người thuộc "làng toán VN" có những đóng góp lớn cho đất nước (như trong tình báo, chế tạo vũ khí), tiêu biểu như GS Tạ Quang Bửu, GS Lê Văn Thiêm và GS Nguyễn Đình Ngọc.

Từ cuối năm 1999 ở VN có thành lập Hội Ứng dụng Toán học, với sự tham gia của hàng trăm nhà toán học. Theo thông tin của Hội thì toán học đang được ứng dụng ở rất nhiều ngành khác nhau ở VN. Để phát triển ứng dụng toán học, hàng năm VN cũng cần đào tạo được thêm nhiều TS toán mới.

Page 4: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

 Theo chủ quan của tôi, các công trình nghiên cứu toán (lý thuyết) ở VN hiện nay ít có ứng dụng trực tiếp (tuy có nghe nói đến một vài ứng dụng, ví dụ như trong chuyện làm mật mã hay dò mìn). Điều đó không có nghĩa là việc nghiên cứu toán cơ bản ở VN là "vô bổ, ăn hại".

Kết quả toán học lớn: Có giá trị văn hóa quan trọng!

Như đã viết ở trên, nền toán học VN đóng vai trò thiết yếu trong việc giáo dục đào tạo (cho mọi ngành nghề khác). Hơn nữa, các kết quả toán học lớn, kể cả khi nó không có "giá trị kinh tế", thì cũng có giá trị văn hóa quan trọng.

Nếu chúng ta có thể tự hào về trống đồng (một di sản văn hóa lớn) thì cũng có thể tự hào khi một người Việt đạt được một thành tựu toán học nổi tiếng thế giới (ví dụ như mới đây có GS Ngô Bảo Châu được giải thưởng quốc tế Clay về một công trình lớn trong toán lý thuyết).

Về mặt chiến lược, để "đi tắt", Việt Nam có thể nhập công nghệ của nước ngoài (ngay cả những nước tiên tiến cũng cần trao đổi và nhập công nghệ), nhưng để thành một nước tiên tiến hiện đại, sử dụng có hiệu quả các công nghệ hiện đại và tự mình làm được nhiều công nghệ hiện đại (ví dụ như Trung Quốc tự sản xuất tên lửu vũ trụ), thì cần một nền tảng khoa học cơ bản vững vàng.

Để có thể phát triển thành một nước tiên tiến, nước ta cần đầu tư thích đáng cho toán học và các khoa học cơ bản khác.  Hy vọng đó là tương lai của Việt Nam trong thế kỷ 21.

Nguyễn Tiến Dũng (GS Toán, ĐH Toulouse, Pháp)

'Cơm áo không đùa với khách...Toán' Cập nhật lúc 08:40, Thứ Ba, 28/02/2006 (GMT+7),

Việt Nam đầu tư về tiền của cho khoa học còn quá ít, và lương trả cho người làm khoa học còn quá thấp. Lương chính thức trung bình của cán bộ giảng dạy nghiên cứu quá thấp (dưới 1 triệu đồng một tháng), không đủ cho họ sống và nuôi gia đình, nên họ phải làm nhiều việc "tay trái", có rất ít thời giờ dành cho khoa học.

Xem phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực

Xem phần 2: Có phải làm toán là "ăn hại, tự sướng"?

GS Đỗ Đức Thái của ĐHSP Hà Nội (một người rất tích cực nghiên cứu và đào tạo nghiên cứu sinh ở VN được phong GS cách đây mấy năm khi 42 tuổi, trẻ nhất trong đợt phong GS đó) có than phiền với tôi là bản thân anh cũng mất quá nhiều thời gian cho việc "kiếm cơm".

1.000$ và 50.000$ Để so sánh, lương của một GS toán ở Mỹ có thể trên một trăm nghìn đô la một năm, đủ để cho GS đó có một cuộc sống khá thoải mái về vật chất.

Ngay ở một số nước đang phát triển như Brazil, Trung Quốc, lương của những người làm khoa học cơ bản khá cao, đủ để cho họ sống mà không phải ngày nào cũng lo chuyện "cơm áo gạo tiền", yên tâm mà làm việc.

 Một anh bạn tôi ở Brazil mới có bằng TS được ba năm có lương hơn 2000$/tháng. Các GS ở các trường ĐH lớn ở Trung Quốc có lương trên 1000$/tháng, và dễ dàng được cấp tiền vé máy bay đi dự các hội nghị quốc tế.

Ở Liên Xô cũ, lương của một người làm toán trung bình được quãng 300-400 rúp một tháng (so với giá cả thời đó: bàn là 7 rúp một cái, tủ lạnh 300 rúp một cái, ăn uống dưới 1 rúp một bữa), đủ để cho họ sống tương đối thoải mái tuy không phải là giàu có đặc biệt, yên tâm làm việc theo đúng ngành nghề của mình. Khi Liên Xô sụp đổ, hệ thống giá cả thay đổi, các nhà toán học của Nga toàn tầm cỡ quốc tế nhưng lương không đủ sống nên bỏ ra nước ngoài làm việc rất nhiều.

Những người Việt làm toán ở nước ngoài hài lòng với mức thu nhập với công việc của mình 

Page 5: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

 Hồi là SV khoa Toán Cơ trường Lômônôxốp ở Nga (từ 1986 đến 1991), trong khoa có hơn hai chục SV và nghiên cứu sinh VN, phần lớn đều giỏi và ham học toán. Nhưng đến nay, may ra còn 1/3 trong số đó là theo nghề toán, số còn lại đã chuyển nghề (chủ yếu là làm máy tính hoặc doanh nghiệp, nói nôm na là đi buôn). Chuyện "cơm áo gạo tiền" chính là nguyên nhân chính khiến cho nhiều người chuyển nghề: chẳng mấy ai có thể học được với cái bụng đói (và ở Nga thời đó có thể bị đói thực sự theo nghĩa đen). Khi đi buôn ra tiền mà làm toán không ra tiền thì toán học dễ bị coi là vô dụng. Giá thành sản phẩm của một công trình khoa học ngành toán (đăng thành một bài báo trên một tạp chí khoa học nghiêm chỉnh) trên thế giới ước tính tương đương với giá một chiếc ô tô, tức trung bình tốn quãng vài chục nghìn đô la (trả lương cho nhà toán học và các chi phí khác) để làm ra một công trình toán học.

Ô tô xe sang có thể đắt gấp hàng chục lần xe làng nhàng, tạp chí toán học loại uy tín cao được trích dẫn nhiều gấp hàng chục lần loại làng nhàng, bài báo khoa học thì có những bài có giá trị gấp hàng trăm lần bài báo khác, và các nhà toán học ở những nơi tốt nhất lương cũng gấp nhiều lần ở những chỗ làng nhàng. Nhưng nói chung thì "tiền nào của đấy". "Xe ô tô" ứng với xe máy một nghìn đô la một cái ở VN, thì ước tính giá thành sản phẩm của một công trình khoa học viết thành một bài báo trong một tạp chí kiểu Vietnam Journal of Mathematics (tuy nghiêm chỉnh nhưng rất ít người trên thế giới quan tâm đến và không có trong danh sách 200 tạp chí toán uy tín nhất) cũng quãng một- hai nghìn đô la. Chất lượng trung bình của một bài báo "giá thành 1.000$" ắt hẳn khó so sánh với chất lượng của một bài báo "giá thành 50.000$".

0,5% GDP: Quá thấp! Ở trong nước hay bàn về "nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu", nhưng nếu không nâng cao đầu tư tiền của (trả lương xứng đáng với trình độ, tạo điều kiện làm việc tốt hơn), thì chuyện bàn bạc này tương đối viển vông.  Nâng lương chính thức cho đội ngũ làm khoa học ở Việt Nam không phải dễ, trong khi mà lương chính thức của Chủ tịch nước năm 2005 chỉ có 3,77 triệu đồng/ tháng. Có điều, ở VN, có "cán bộ" nào sống bằng lương đâu. Hệ thống "lương ít lậu nhiều" là một trong những nguyên nhân đẻ ra nhiều tiêu cực. Không sống được bằng lương thì người ta có "mánh" để kiếm "bổng". Giới toán học VN cũng đủ thông minh để nghĩ ra các "mánh", chỉ có điều càng nhiều "mánh" kiếm tiền thì càng ít thời giờ cho khoa học, càng coi nhẹ việc nghiên cứu khoa học hay trau dồi kiến thức khoa học. Các nước tiên tiến trên thế giới dành khoảng 2-3% GDP (tổng sản phẩm quốc gia) cho phát triển khoa học công nghệ. Ví dụ như Phần Lan năm 2002 dành 3,3% GDP cho phát triển khoa học công nghệ, tăng lên từ 1,8% vào năm 1987; ở Mỹ ngân sách này chiếm 2,7% GDP vào năm 2004, và ngay ở Trung Quốc con số này cũng được gần 2%. 

Ở VN, theo thông tin năm 2005, nhà nước đã nâng ngân sách chi cho phát triển khoa học công nghệ lên thành 2% tổng ngân sách nhà nước. Tuy nhiên tổng ngân sách nhà nước (chi cho các ngành) chỉ bằng một phần nhỏ của GDP, [con số này tùy thuộc từng nước, ví dụ như ở Cộng Đồng Châu Âu ngân sách nhà nước bằng quãng 37% GDP, ở Anh thì bằng quãng ¼ GDP] nên tỷ lệ tiền đầu tư ở Việt Nam cho khoa học công nghệ ước tính thấp hơn 0,5% GDP, xem ra quá thấp so với thế giới. Để khỏi tụt hậu thêm so với thế giới, VN cần tăng tỷ lệ ngân sách đầu tư cho khoa học lên ít ra 2-3 lần so với hiện tại.

Nếu như thu nhập bình quân ở VN bằng quãng một nửa thu nhập bình quân ở Trung Quốc (theo số liệu năm 2003, tính theo "purchasing power parity" thì "GDP per capita" của Trung Quốc gấp đôi VN: 5000$/năm so với 2500$/năm), thì cũng nên trả lương cho GS ở VN ít ra bằng một nửa lương ở Trung Quốc (tức là nên trả cho GS ở các trung tâm lớn ở VN ít ra trên 500$/tháng). Dự án thành lập Viện Khoa học Công nghệ Hàn Quốc (Korea Advanced Institute of Science and Technology) lúc đầu bị trợ lý của Tổng thống Hàn Quốc bác bỏ vì trong dự án đó các nhà khoa học có thể có lương cao hơn cả lương tổng thống, nhưng Tổng thống Hàn Quốc khi nhận được chính dự án đó đã ký duyệt. Hy vọng, VN sẽ học tập được Hàn Quốc trong việc này.

Nguyễn Tiến Dũng

Page 6: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Chuyện chức danh bằng cấp ở Việt Nam Cập nhật lúc 08:14, Thứ Tư, 01/03/2006 (GMT+7),

(VietNamNet) - Hệ thống bằng cấp ở Việt Nam chủ yếu là do du nhập từ nước ngoài về. Nhưng vì nhập nhiều nguồn khác nhau (Nga, Pháp, Mỹ, v.v., mỗi nước có một hệ thống khác nhau), nên không đồng bộ, khó thống nhất, gây nên nhiều tranh cãi; cải cách mấy lần mà vẫn còn nhiều vấn đề. 

Xem phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực

Xem phần 2: Có phải làm toán là "ăn hại, tự sướng?"

Xem phần 3: "Cơm áo không đùa với khách...Toán"

Nên có cơ chế tuyển PGS, GS gắn liền với khả năng khoa học thực sự

Về mặt học hàm cao cấp, ở Việt Nam có GS (dịch ra tiếng Anh thành full professor), PGS (associate professor), nếu không kể học hàm Viện sỹ. Nhưng ở VN không có Viện Hàn lâm Khoa học, nên cái danh viện sỹ dễ thật giả lẫn lộn.

Có những viện hàn lâm danh tiếng, ví dụ như RAN (Russkaya Academia Nauk - Viện Hàn Lâm Khoa Học Nga) hay Académie des Sciences của Pháp, mà thành viên toàn là các nhà khoa học đứng hàng đầu thế giới, phải qua bầu bán lựa chọn khắt khe. Một viện hàn lâm uy tín và gần gũi với VN nhất là Third World Academy of Sciences, và có 7 nhà khoa học hàng đầu VN được bầu là viện sỹ của TWAS (theo thông tin năm 2005): Đào Vọng Đức, Hà Huy Khoái, Lê Dũng Tráng, Ngô Việt Trung, Nguyễn Văn Đạo, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Tuyên Hoàng.

Mặt khác, có những "viện hàn lâm vườn" chẳng ai nghe tên, hoặc như kiểu New York Academy of Sciences, cứ đóng tiền là được thành "viện sỹ" không cần qua bầu bán gì, và nhiều "viện sỹ" ở trong nước thuộc loại như vậy.  Tuy chức danh GS ở VN có thể dịch sang tiếng Anh thành professor, nhưng về mặt ý nghĩa nội dung khác xa so với chức danh professor ở phương Tây (ở đây, tôi không so sánh trình độ GS VN với GS phương Tây, chỉ nói chuyện hiện nay cách hiểu chức danh GS ở VN khác với cách hiểu chức danh GS ở phương Tây thế nào).

Ở phương Tây, chức danh nói chung đi đôi với công việc/trách nhiệm và lương bổng. Người ta tuyển việc GS, tức là khi có một chân GS trống ở một trường ĐH thì tuyển một người (có thể từ nơi khác, hoặc ở sẵn trong trường nhưng chức thấp hơn) vào chân đó. Thông thường, người ta thích tuyển những người có tài và còn tương đối trẻ. Ở VN không có tuyển việc GS, PGS, mà chỉ phong hàm GS, PGS cho những người đang ngồi tại chỗ, và thường phải "hói đầu hay bạc đầu" mới lên được PGS, GS. Học hàm GS, PGS ở Việt Nam là "danh hão", không gắn liền trực tiếp tới trách nhiệm hay lương bổng.

Theo tôi biết, trong đợt phong PGS gần đây nhất, có người "làm toán" không có kết quả khoa học gì đáng kể nhưng cũng "sản xuất" được hai "bài báo khoa học" cho đủ điểm khoa học để được phong PGS. Hai bài đó gửi đăng ở những tạp chí nghiêm chỉnh trong nước thì bị từ chối, nhưng đăng được ở Tạp chí Khoa học của ĐHQG (tôi được nghe phản ánh là tạp chí mới này không có quá trình phản biện nghiêm túc, nhưng không hiểu sao cũng được tính điểm tương đương với hai tạp chí toán học nghiêm túc của VN). Trong khi đó, có những TS trẻ trình độ cao ở VN, có nhiều bài báo khoa học có giá trị đăng trên các tạp chí quốc tế, phải "đợi còn lâu" mới lên được giảng viên chính hay PGS.

VN nên có một cơ chế bầu (hay tuyển) PGS, GS gắn liền với khả năng khoa học thực sự (chú trọng hơn về thành tích khoa học và uy tín khoa học trên thế giới), trách nhiệm thực sự và lương bổng thực sự giống như nhiều nước khác thì sẽ tốt hơn so với kiểu "danh hão" và "lâu lên lão làng" hiện nay.

Ở các nước tiên tiến tuổi trung bình khi nhận chức GS trong khoa học tự nhiên là quãng 40, trong khi ở VN người trẻ nhất trong đợt phong GS năm 2004 là 46 tuổi. GS Hà Huy Khoái (Viện trưởng Viện Toán) trong một lần trò chuyện với tôi có nói đùa (mà có ý đúng thật) là "như cậu mà ở VN thì xin GS không

Trưng bày kết quả đào tạo sau ĐH tại một hội nghị (Ảnh: Lê Anh Dũng)

Page 7: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

được mà xin PGS cũng không được vì người ta đòi hỏi những tiêu chuẩn khác bên Tây". Mới đây, có GS Ngô Bảo Châu được phong là GS ở VN. Chuyện hơi buồn cười vì GS Châu đang là professeur ở ĐH Paris Sud rồi, cái danh GS VN thì có hơn gì, nhưng có lẽ đó sẽ là tiền lệ để hy vọng rằng sẽ có nhiều người trẻ tài giỏi nhưng "non thâm niên" cũng sẽ được phong (hay được tuyển) thành PGS, GS ở VN. TS Phan Hà Dương, từng là "maitre de conférences" ở Paris, bỏ việc làm ở Paris (tuy đây là công việc ổn định - một "maitre de conférences" là một viên chức nhà nước Pháp, được chính phủ Pháp đảm bảo việc làm cả đời trừ trường hợp phạm tội nghiêm trọng), về VN làm việc tại Viện Toán Hà Nội từ năm 2005.

Báo chí VN trong một bài giới thiệu TS (trong một loạt bài về những người từng thi toán quốc tế) có viết là "PGS ở tuổi 26", gây nên một trận bàn tán tranh cãi trong dư luận. Tôi đem từ điển Pháp-Việt ra coi thì thấy cụm từ "maitre de conférence" trong đó được dịch là PGS.

Mấu chốt của sự tranh cãi chẳng qua là sự khác nhau về hệ thống bằng cấp, và sự hiểu khác nhau nghĩa của từ PGS. Ở VN, phải "hói đầu mới lên được PGS" nên chuyện "PGS tuổi 26" đúng là chuyện động trời. Ở Pháp, người ta thường tuyển việc những người trẻ và có nhiều triển vọng, có bằng Docteur mới được ít năm, vào chân maitre de conférences (tuổi trung bình khi tuyển vào maitre de conférences các ngành khoa học tự nhiên ở Pháp là 31 tuổi theo một thống kê gần đây của Bộ Giáo dục Pháp; được tuyển vào lúc 26 tuổi là trẻ hơn đáng kể so với trung bình, tuy hiện tượng này không hiếm lắm).

Thông thường, những người khi được được tuyển vào "maitre de conférences" thì mới chỉ có ít công trình khoa học đầu tay. Những ai trong số đó làm việc tích cực và đạt nhiều kết quả tốt thì sau quãng một chục năm ở chức "maitre de conférences" có thể xin được việc professeur (tuổi trung bình khi nhận việc professeur trong khoa học tự nhiên ở Pháp là 42 tuổi).

So sánh với hệ thống Mỹ, thì những người mới làm "maitre de conférences" ở Pháp tương tự như "tenure-track assistant professor" ở Mỹ. Các "tenure-track assistant professor'" ở Mỹ thường làm 5 năm ở chức này thì được tenure (biên chế) và được lên chức thành "associate professor". Ở Pháp thì "maitre de conférences" 5 năm sau vẫn là "maitre de conférences", nên những "maitre de conférences" có nhiều thâm niên có thể coi tương đương như "associate professor", hay là PGS, cũng được.

Ngăn chặn bằng rởm: Không dễ Về mặt học vị, hiện nay ở VN có TS (tiến sỹ, coi tương đương với "kandidat nauk" của Nga hay PhD của nhiều nước) và TSKH (tiến sĩ khoa học, tương đương với "doktor nauk" hay "Dr. Habil."), với xu hướng đơn giản hóa chuyển về hệ một bằng TS cho giống hệ thống Mỹ, thôi không lập hội đồng bảo vệ TSKH nữa. Dưới bằng TS thì có bằng Thạc sỹ (tương đương với bằng Master ở các nước phương Tây; ở Pháp cũng có bằng Master, trước gọi là DEA; bằng agrégation của Pháp cũng được dịch là Thạc sỹ tuy bằng này khác bằng Master về ý nghĩa), Cử nhân (bằng tốt nghiệp đại học).

Nói lạc đề một chút, về bằng agrégation của Pháp: bằng này không liên quan gì đến chuyện nghiên cứu khoa học, mà là bằng chứng nhận nắm vững kiến thức ở mức độ đại học và có khả năng truyền đạt tốt (để có bằng này phải thi viết và thi nói). Ai có bằng agrégation thì có thể đi dạy trung học (lycée) nếu muốn (chính phủ sẽ phải phân việc cho), và hồi trước có thể xin làm giáo viên cấp thấp ở đại học, tuy bây giờ để có thể xin việc nghiên cứu/giảng dạy ở đại học ở Pháp nói chung phải có bằng Docteur và không cần bằng agrégation. Hệ thống một bằng tiến sỹ (Ph.D.) ở Anh, Mỹ hoạt động tốt, và hệ thống hai bằng ở Nga, Pháp Đức hoạt động cũng tốt (ở Nga có "candidat nauk" và "doctor nauk", ở Pháp và Đức thì có bằng "Habilitation" sau bằng Doctor). Tôi không biết chữ Habilitation dịch ra tiếng Việt là gì, nhưng bằng Habilitation của Pháp (gọi đầy đủ là Habilitation à Diriger des Recherches) có nghĩa là bằng cho phép hướng dẫn nghiên cứu sinh. (Hiện tại, ai ở Pháp mà muốn xin làm professeur thì phải có bằng này, nhưng không có nghĩa là ai có bằng này cũng đều sẽ lên professeur).

Có những cuộc bàn cãi ở Pháp về chuyện nên bỏ bằng "Habilitation" (đơn giản hóa cho giống hệ thống Mỹ) hay nên giữ, nhưng đa số ý kiến hiện tại vẫn là nên giữ, vì nó đánh dấu sự  "chín muồi, độc lập tự chủ" của một người trong khoa học. Ở Việt Nam, chúng ta muốn đơn giản hóa theo hệ thống một bằng Ph.D., theo tôi cũng tốt. Điều quan trọng hơn cả là phải làm sao đảm bảo chất lượng bằng tiến sỹ, ngăn chặn những trường hợp bằng rởm (bằng "mua" từ Liên Xô cũ đem về, bằng dựa trên công trình do người

Page 8: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

khác làm hộ hay dựa trên kết quả ăn cắp của người khác, v.v.). Ở phương Tây, bằng tiến sỹ chỉ là điều kiện cần (nhưng chưa đủ) để xin được một chân trong đại học hay viện nghiên cứu: mỗi suất tuyển việc thường có nhiều người xin, có cạnh tranh lớn. Bằng cấp chả giúp ích gì (trong xin việc, làm dự án khoa học, v.v.) nếu không có trình độ tương xứng: nếu hồ sơ khoa học "mỏng", ít năng lực, thì thường bị loại ngay vòng đầu bất kể có bằng gì. Bởi vậy ít ai có nhu cầu kiếm bằng "rởm".

Ở VN hiên tại bằng "rởm" vẫn cho phép "thăng quan tiến chức" như thường nên mới có nhiều người kiếm bằng TS dù không có trình độ khoa học gì cả. Điều này tất nhiên là tai hại cho VN, nhưng trong hoàn cảnh nước ta hiện nay, ngăn chặn nó chắc không phải dễ.

Nguyễn Tiến Dũng

Tạp chí toán học của Việt Nam: Cần 'quốc tế hóa' Cập nhật lúc 05:18, Thứ Năm, 02/03/2006 (GMT+7),

VN hiện tại có 2 tạp chí nghiên cứu toán học có được phát hành ra nước ngoài, là Acta Mathematica Vietnamica (của Viện Toán) và Vietnam Journal of Mathematics (của Hội toán học Việt Nam).

Các bài báo đăng chủ yếu bằng tiếng Anh. Về số lượng, có được hai tạp chí là nhiều, so với nền toán học còn bé (những nước nhỏ nhiều khi có được một tạp chí nghiên cứu toán học có phát hành trên thế giới là "vinh dự" rồi). Nhưng mặt chất lượng thì còn thấp.

Tôi không có con số thống kê gì về "chỉ số ảnh hưởng" (impact factor) của hai tạp chí VN (vì hai tạp chí này ít được thế giới quan tâm quá, không ai đi làm thống kê), nhưng phỏng đoán rằng tổng số lần trung bình một bài báo đăng ở ActaMathematica Vietnamica hay Vietnam Journal of Mathematics được trích dẫn ở nước ngoài là không quá 1-2 lần.

Để so sánh, trung bình một bài báo đăng ở Annals of Mathematics (tạp chí uy tín nhất thế giới về ngành toán) được trích tổng cộng hơn 100 lần, và một bài báo đăng ở Manuscripta Math (tạp chí loại trung bình, đứng quãng thứ 90-100 trong các tạp chí toán) được trích tổng cộng quãng 10 lần. Có lẽ phải nhiều năm nữa (hàng thập kỷ nữa) chất lượng tạp chí của VN mới có thể lên "hàng trung bình" được bằng Manuscripta. Chất lượng của các tạp chí toán học của một nước phản ánh uy tín toán học của nước đó, và việc chất lượng tạp chí toán của VN còn thấp đi đôi với việc uy tín toán học của VN chưa cao. Làm sao để nâng cao chất lượng tạp chí toán học Việc Nam, và đồng thời nâng cao uy tín của nền toán học Việt Nam?

Tất nhiên, muốn phát triển thì phải có đầu tư, và muốn toán học (hay khoa học nói chung) VN phát triển thì phải đổ tiền của vào. Hiện tại tỷ lệ ngân sách chi cho khoa học ở VN còn quá ít so với các nước khác. Nếu có đầu tư nhiều hơn, thì khoa học phát triển hơn, và khi đó tạp chí khoa học cũng sẽ có chất lượng cao hơn, theo tỷ lệ thuận.

"Quốc tế hóa" ban biên tập Song song với việc đầu tư tiền của nhiều hơn, có nhiều việc khác có thể làm để nâng cao uy tín tạp chí toán học VN. Một trong những việc đó là nâng cao uy tín của ban biên tập bằng cách "quốc tế hóa" nó.

Lấy một ví dụ: Journal of Operator Theory là tạp chí của Viện Toán thuộc Viện Khoa Học Rumani (Romania). Bản thân Rumani không phải là nước nổi tiếng về toán học (tuy họ vẫn hơn nhiều so với VN, và có khá nhiều nhà toán học nổi tiếng thế giới gốc Rumani), nhưng tạp chí này thuộc loại có uy tín (đứng quãng thứ 70 trong danh sách các tạp chí toán học).

Những người làm toán tại một hội thảo về toán học tháng 7/2005

Xem phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực Xem phần 2: Có phải làm toán là "ăn hại, tự sướng?"

Xem phần 3: "Cơm áo không đùa với khách...Toán"

 Xem phần 4: Chuyện chức danh bằng cấp ở Việt Nam

Page 9: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Nhìn vào danh sách ban biên tập của Journal of Operator Theory thì thấy chỉ có vài người là người Rumani, còn chủ yếu là người nước ngoài, trong đó có nhiều "tên tuổi quen thuộc" như Alain Connes, Vaughan Jones, Peter Lax, v.v.

Với một ban biên tập có uy tín rất cao, điều dễ hiểu là họ thu hút được nhiều bài báo chất lượng cao. Trong khi đó, ban biên tập hai tạp chí toán của VN hiện tại chủ yếu là người Việt, ít người nước ngoài (ví dụ như ban biên tập của Vietnam Journal of Mathematics có hơn 20 người Việt, 6 người nước ngoài). Những người Việt trong ban biên tập hai tạp chí của VN hầu hết là tiến sĩ khoa học, có "trình độ cỡ quốc tế", nhưng chưa ở mức "có tiếng", và thậm chí một số người trong ban biên tập đã ngừng nghiên cứu toán học từ lâu.

Một ban biên tập "không mấy tiếng tăm" thì chỉ dễ thu hút những bài báo "khó đăng được ở nơi khác".

Tạp chí của VN cần tìm cách tăng tỷ lệ các nhà khoa học nước ngoài có uy tín cao trong hội đồng biên tập. Tất nhiên, việc này không dễ, vì các nhà khoa học có uy tín cao không dễ gì nhận lời mời làm biên tập cho một tạp chí chất lượng còn thấp.

Nhưng không phải là không thể làm được, vì có nhiều nhà khoa học lớn có quan hệ, cảm tình với VN, hay từng có học trò là người VN, v.v., và trong số đó có thể có những người sẽ nhận lời giúp đỡ tạp chí của VN. Vấn đề là phải tích cực tìm đến họ.

Đăng bài trong nước: "Tự mình dìm mình"

Một tạp chí toán có uy tín thì nhận được bài gửi đăng từ khắp nơi trên thế giới. Ví dụ như tạp chí Israel Journal of Mathematics, phần lớn các bài báo đăng ở đó đến từ bên ngoài Israel, trong khi các nhà toán học Israel thì hay đăng báo ở các tạp chí khác (điều đó tạo thuận lợi cho giao lưu toán học trên thế giới).

Hiện tại, tỷ lệ các bài báo đến từ nước ngoài đăng ở hai tạp chí VN còn thấp, và chủ yếu cũng chỉ đến từ các vùng kém về toán. Điều này dễ hiểu vì tạp chí chất lượng chưa cao thì chỉ dễ thu hút các bài báo chất lượng chưa cao của các "nhà toán học" từ những nơi còn "lạc hậu".

Khi họ có một "công trình" ở dạng khó đăng ở một tạp chí nghiêm chỉnh thì có khi họ nghĩ gửi đến VN biết đâu đăng được, và nếu đăng được thì ở chỗ họ cũng được "tính điểm" về khoa học.

Cách đây ít lâu tôi có nhận làm phản biện cho một bài báo gửi từ nước ngoài đến Acta Mathematica Vietnamica. Đọc qua thì thấy bài báo đó giống như một tiểu luận của một SV hơn là một công trình nghiên cứu. Tôi từng làm phản biện cho nhiều tạp chí, trong đó có cả tạp chí "top 10" như Duke Mathematical Journal và tạp chí "khiêm tốn" như Publicationes Mathematicae Debrecen (đứng thứ 176 trong một bảng xếp hạngtạp chí toán), nhưng chưa thấy bài báo nào chất lượng kém đến vậy, trừ một bài báo khác của một người VN gửi đăng ở trong nước. Có một điều tôi nhận thấy là có một số những nhà toán học "có cỡ" của VN (tức là có trình độ TSKH thực sự, có làm việc nghiên cứu, có những công trình thuộc loại có thể đăng ở các tạp chí quốc tế nghiêm chỉnh) chủ yếu chỉ đăng bài ở tạp chí trong nước (tỷ lệ bài báo của họ đăng trong nước cao hơn quá nhiều so với tỷ lệ đăng ở nước ngoài, nếu không tính những bài họ đăng khi đang còn du học nước ngoài).

Có người bảo là "làm như vậy vì nếu không thì tạp chí VN chẳng có gì để mà đăng". Theo tôi thì chuyện "gà què ăn quẩn cối xay" này không có lợi. (Ý của tôi ở đây không phải là không nên đăng ở trong nước – những người trình độ cao thỉnh thoảng "ủng hộ" cho tạp chí VN những bài báo chất lượng cao là điều đáng hoan nghênh – tôi chỉ có ý rằng nếu chủ yếu đăng ở trong nước thì thành phản tác dụng).

 Đối với một nghiên cứu sinh trong nước, đăng ở tạp chí của VN là chuyện dễ chấp nhận. Nhưng đối với một TSKH về toán, có một công trình mà không thể đăng ở nước ngoài thì không đáng gọi là công trình khoa học. Nếu có thể đăng ở nước ngoài nhưng chỉ đăng ở trong nước là "tự mình dìm mình", bài báo đăng ở tạp chí của VN chắc chắn ít được đọc đến hơn nhiều so với đăng ở các tạp chí khác, nên dù kết quả có tốt thì cũng ít ai biết đến, tạo được ảnh hưởng rất thấp. Mà khi ảnh hưởng của mình đối với đồng nghiệp thế giới thấp, thì khó thu hút họ hợp tác, khó thu hút họ đăng báo ở VN (một vòng luẩn quẩn). Chuyện "nếu không thì tạp chí VN chẳng có gì để mà đăng" là ngụy biện. Nếu tạp chí không tìm được đủ

Page 10: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

cái đảm bảo chất lượng để đăng thì đăng ít đi, chất lượng quan trọng hơn là số lượng. Còn nếu một tạp chí sau nhiều cố gắng vẫn không có gì đáng chú ý để mà đăng thì tạp chí đó chẳng nên tồn tại -- hy vọng hai tạp chí của VN không thuộc diện như vậy.

"Tân trang" hình thức

Một điểm yếu nữa của tạp chí toán VN là vấn đề hình thức, khâu in ấn phát hành.

Từ khi Vietnam Journal of Mathematics có thỏa thuận được với nhà xuất bản Springer (theo thỏa thuận thì Springer chịu trách nhiệm in ấn phát hành), về mặt hình thức có khá hẳn lên, trông không kém gì các tạp chí nghiêm chỉnh trên thế giới, và về mặt phát hành chắc cũng khá lên nhiều.

 Nhưng hiện tại tạp chí Acta Mathematica Vietnamica (là tạp chí từ trước đến nay có uy tín cao hơn Vietnam J. Math.) về hình thức vẫn kém hơn so với hầu hết các tạp chí toán quốc tế. 

Các số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm 2005) phần lớn bị xộc xệch và đóng bìa không chắc, có vẻ hơi thủ công. Hình thức kém làm giảm giá trị, càng khó thu hút các nhà toán học nước ngoài.

Nguyễn Tiến Dũng

Người Việt làm Toán ở nước ngoàiCập nhật lúc 05:36, Thứ Bảy, 04/03/2006 (GMT+7),

Theo thống kê sơ bộ, hiện có gần 100 người Việt làm toán (hiểu theo nghĩa có công việc tương đối ổn định, và có làm việc nghiên cứu về toán, kể cả lý thuyết lẫn ứng dụng) đang định cư ở nước ngoài. So với tổng số các nhà toán học trên thế giới thì con số này chỉ là "muối bỏ biển", nhưng so với VN thì đây là con số đáng kể, và sẽ là một động lực quan trọng cho việc phát triển toán học của VN.

Người Việt làm toán ở nước ngoài: = 1/3 trong nước

Để so sánh, trong số các thành viên của Hội toán học VN (ở trong nước), có quãng 300 người "tích cực nghiên cứu", tức là có kết quả đăng báo trong mấy năm gần đây.

Tỷ lệ "người Việt nghiên cứu toán" ở nước ngoài so với ở trong nước có thể coi là bằng 1/3. Đấy là về số lượng người.

Còn nếu tính về "tổng sản phẩm" nghiên cứu toán học thì theo tôi, nhóm người Việt ở nước ngoài làm được nhiều hơn so với nhóm ở trong nước. Tính về trình độ thì có lẽ trình độ trung bình của những người làm toán ở các nước tiên tiến cao hơn so với ở VN nhiều, và do vậy trình độ trung bình của người Việt làm toán ở nước ngoài cũng cao hơn so với người Việt làm toán ở trong nước. (Ở đây không có ý gì chê bai người trong nước -- môi trường làm việc ở nước ngoài thuận lợi hơn nhiều so với ở trong nước và sự cạnh tranh ở nước ngoài cũng lớn hơn, nếu đạt kết quả thấp hơn mới là chuyện lạ).

Ví dụ như đồng nghiệp của tôi ở cùng khoa hầu như ai cũng có ít nhất một vài bài báo đăng ở các tạp chí thuộc loại "top 10" trên thế giới, và những người Việt làm toán ở nước ngoài mà tôi quen cũng đều như vậy.

Trong khi ở VN, cách đây ít lâu khi có một nhà toán học trẻ (từng đi du học ở Pháp) có một bài báo được đăng trên Advances in Mathematics (một tạp chí thuộc "top 10") đã thành một sự kiện được báo chí trong

nước đưa tin. 

Trong số những người Việt làm toán ở nước ngoài hiện nay, thì có một phần là Việt kiều lâu năm (rời khỏi VN từ trước 1954 hay 1975), hoặc là sinh ra trong một gia đình người Việt ở nước ngoài, ví dụ như GS Lê

GS NguyễnTiến Dũng (trái) và GS Phạm Hữu Tiệp

GS Đinh Tiến Cường (trái) và GS Ngô Bảo Châu (thứ 3 từ trái sang)

Page 11: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Dũng Tráng (hiện là trưởng Phân viện Toán của Trung tâm Vật lý Quốc tế, Trieste), GS Dương Hồng Phong (Colombia University), GS Tôn Thất Tưởng (Iowa), hay GS Frédéric Phạm (GS ở Nice đă nghỉ hưu từ hai năm nay, bố Việt mẹ Pháp).

Còn một phần không nhỏ là những người đi từ VN, du học ở nước ngoài sau 1975, rồi chọn ở lại nước ngoài, ví dụ như GS Vũ Kim Tuấn (ĐH West Georgia), GS Phạm Hữu Tiệp (Florida), GS Lê Tự Quốc Thắng (Georgia Tech), GS Đinh Tiến Cường (Paris 6), hoặc những người đã làm việc ở trong nước một thời gian dài rồi kiếm được việc ở nước ngoài, như GS Đinh Thế Lục (từng làm việc lâu năm ở Viện Toán Hà Nội, nay làm ở Avignon). Người Việt làm toán ở nước ngoài chủ yếu tập trung ở bốn nước Mỹ, Pháp, Canada và Úc (cũng là những nước có đông Việt kiều nhất).

Chất xám: Bị "chảy máu" hay được "xuất khẩu"?

Có những người ở VN thành kiến cho rằng việc "bỏ đi" làm ở nước ngoài thay vì về làm việc ở VN là  "phản bội tổ quốc", "chảy máu chất xám".

Những ý nghĩ phiến diện này có lẽ xuất phát từ sự hiểu biết sai lệch về thế giới. Thế giới ngày nay đi theo xu hướng "thế giới đại đồng". Việc một người Việt đi làm việc ở Mỹ hay Pháp không khác gì mấy việc một người "tỉnh lẻ" ra Hà Nội làm việc. Các anh tài từ khắp các nơi được thu hút về các trung tâm lớn nơi họ có nhiều điều kiện nhất để phát triển là điều dễ hiểu. Bởi thế nên một trường ĐH lớn ở phương Tây thường có rất nhiều GS là người gốc nước ngoài (và cũng nhiều SV người nước ngoài). Ngày xưa người Anh đi chiếm các "vùng đất mới" ở khắp năm châu bốn biển. Ngày nay người Trung Quốc "chiếm lĩnh trận địa" tại mọi thành phố lớn nhỏ trên khắp thế giới. Một trong những thế mạnh của Trung Quốc nằm chính ở chỗ nơi đâu họ cũng có người, có quan hệ. Người VN, nếu trụ lại được và thành công (có vị trí xã hội cao) ở nước ngoài, thì sẽ thành cái cầu nối mở cửa cho VN với thế giới, giúp cho VN phát triển hòa nhập với thế giới. Hiện tại, do điều kiện làm việc khoa học ở VN còn quá kém so với ở phương Tây (tuy điều kiện sống có khi hơn ở phương Tây đối với ai có tiền), nên nhiều nhà toán học trẻ xuất sắc nhất của VN chọn làm việc ở nước ngoài. Nếu một người có tài như Ngô Bảo Châu (GS ở Paris) mà làm việc ở VN, suốt ngày lo chuyện "cơm áo gạo tiền", và không được thường xuyên trao đổi với những nhà toán học lớn như Laumon (viện sỹ hàn lâm Pháp, thầy của GS Châu) và Lafforgue (người được giải thưởng Fields năm 2002, cũng là học trò của Laumon) thì chắc còn lâu mới làm được công trình dẫn đến giải thưởng Clay (chung với Laumon).

Khi nào ở VN có được trung tâm khoa học với điều kiện làm việc ngang tầm thế giới, trả lương cao như thế giới, thì sẽ thu hút được những nhà khoa học giỏi nhất, không chỉ người Việt mà cả người ngoại quốc, đến làm việc. (Để đạt tầm thế giới thì việc mở cửa mời chuyên gia nước ngoài đến làm việc dài hạn rất quan trọng). Cụm từ "chảy máu chất xám" nên đổi thành "xuất khẩu chất xám" thì đúng hơn. Nếu xuất khẩu gạo có lợi cho VN, thì xuất khẩu chất xám cũng có lợi. "Chất xám thô" nếu dùng ở nước ngoài hiệu quả gấp nhiều lần dùng ở trong nước, thì xuất khẩu có lợi cho cả đôi bên.

Một trong những động lực phát triển kinh tế VN trong những năm vừa qua chính là nguồn vốn do hai triệu Việt kiều đổ vào VN. Những nhà toán học mà VN "xuất khẩu" ra nước ngoài không những đã đóng góp nhiều tiền của cho VN mà còn đã và đang giúp đỡ VN nhiều về toán học.

Mong có "Hội toán học Việt kiều" 

Xem phần 1: Toán học Việt Nam: Danh và thực Xem phần 2: Có phải làm toán là "ăn hại, tự sướng?"

Xem phần 3: "Cơm áo không đùa với khách...Toán"

 Xem phần 4: Chuyện chức danh bằng cấp ở Việt Nam

Xem phần 5: Tạp chí toán học của Việt Nam: Cần "quốc tế hóa"

Xem phần 6: Học sinh giỏi Toán và hệ thống chuyên Toán

GS Vũ Kim Tuấn, ĐH West Georgia (bên trái ảnh) và các đồng nghiệp nước ngoài 

Page 12: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Vào quãng năm 1995, các GS toán gốc Việt ở Pháp cùng các đồng nghiệp Pháp và đồng nghiệp ở VN lập ra một tổ chức gọi là ForMathVietNam với mục đích giúp đỡ đào tạo thế hệ trẻ làm toán của VN.

Tổ chức này không có nhiều tiền, nhưng mạnh về nhân lực (với sự tham gia trực tiếp hoặc ủng hộ của hàng chục nhà toán học Pháp trong đó có những người là viện sỹ hàn lâm Pháp), và đã giúp đỡ phía VN đào tạo hàng chục tiến sỹ toán trong hơn mười năm qua (nhiều người trong số đó được đào tạo theo kiểu cotutelle, có một thầy hướng dẫn ở VN và một thầy hướng dẫn ở Pháp).

ForMathVietNam hiện vẫn đang tồn tại và hoạt động tốt. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động chỉ dừng lại ở nước Pháp nên hơi hạn chế. Nhiều GS toán người Việt ở Mỹ và các nước khác cũng rất quan tâm giúp đỡ VN, tham gia trực tiếp hướng dẫn nghiên cứu sinh VN hoặc giúp họ xin được vào học các trường tốt, nhưng theo tôi hiểu sự hợp tác giúp đỡ VN này đang chỉ ở mức độ cá nhân, không có tổ chức tương tự như ForMathVietNam. Có một ý tưởng của một số Việt Kiều làm toán, hy vọng sẽ trở thành hiện thực, là sẽ có một tổ chức kiểu "Hội toán học Việt kiều", trao đổi thông tin qua mạng, liên hệ hợp tác thường xuyên với nhau trong công việc, đời sống, cũng như trong việc giúp đỡ và hợp tác với VN: tổ chức hội nghị hoặc đọc bài giảng ở VN, giúp sinh viên, nghiên cứu sinh và cán bộ khoa học của VN đi du học hoặc hợp tác với người nước ngoài, v.v.

Nếu làm được việc này, thì một trong các hệ quả là khả năng giúp đỡ đào tạo tiến sỹ toán cho VN sẽ tăng lên rất nhiều. (Như tôi có viết ở phía trước, hiện VN cần đào tạo thêm mỗi năm 50 tiến sỹ toán liên tục trong 20 năm tới, và một phần lớn trong số này cần được đào tạo ở nước ngoài vì khả năng và chất lượng ở trong nước hạn chế). Hy vọng là phía VN sẽ tăng cường đầu tư và tạo thuận lợi cho việc hợp tác này.

Nguyễn Tiến Dũng - Toulouse, Tết Bính Tuất 2006

Ghi chú của tác giả: Những ai quan tâm hơn nữa về loạt bài này có thể xem thêm phần phục lục: http://zung.zetamu.com/THVN_Appendix.pdf. Hiện tại, phần phụ lục gồm có: một danh sách người Việt làm toán ở nước ngoài; một danh sách các tạp chí toán; và một bảng thống kê nhỏ về các bài báo toán do người Việt đăng trên các tạp chí thuộc loại uy tín nhất.

Toán học vị Toán học hay Toán học vị nhân sinh?Cập nhật lúc 06:51, Thứ Tư, 19/04/2006 (GMT+7),

Lời toà soạn: Sau khi VietNamNet đăng loạt bài nhiều kỳ về HSG quốc tế và loạt bài "Toán học Việt Nam" của GS Toán ĐH Toulouse Nguyễn Tiến Dũng, có nhiều nhà khoa học, nhà giáo, nhà kinh doanh và những người quan tâm đến Toán đã chia sẻ những suy nghĩ xung quanh vấn đề này.

Nhận thấy, đây là vấn đề có nhiều đìều để nói, chúng tôi tiếp tục đăng tải những tranh luận, có thể, sẽ ít nhiều có ích trong việc mang lại một nhận thức tổng quát về Toán học, khoa học tại Việt Nam.

Toán học vị Toán học hay Toán học vị Nhân sinh?

“Toán lý thuyết chỉ phục vụ sự phát triển nội tại của nó. Toán ứng dụng phục vụ các ngành khác. Ở VN hiện tại, rất cần Toán ứng dụng, trong khi chưa thấy vai trò của Toán lý thuyết.

Chúng ta chưa cần phát triển Toán lý thuyết. Nên để dành tiền của và nhân lực cho nhiều ngành khác thiết thực hơn, vị nhân sinh hơn”.

Bùi Quang Ngọc: "Việt Nam chưa cần đầu tư cho Toán lý thuyết"

Page 13: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Đó là nhận định của ông Bùi Quang Ngọc, Phó TGĐ Công ty FPT, trong cuộc trao đổi với VietNamNet, cuối tháng 2.

Ở Việt Nam, Toán lý thuyết chưa có ích

Anh có theo dõi loạt bài về HSG quốc tế và những tranh luận xung quanh Toán học thời gian qua?

Tôi theo dõi khá kỹ và thích nhất bài phỏng vấn anh Trung Hà. Thật và sắc. Có thể cách diễn đạt của anh ấy hơi thái quá, nhưng hầu hết các nhận định và tư tưởng của anh ấy là đúng, dưới con mắt của tôi.

Anh cũng là dân khoa học chuyển sang kinh doanh. Những người như các anh dễ “đồng cảm” khi nhìn mọi thứ dưới con mắt thực dụng?

Cách nhìn của anh Hà gọi tên là “thực tế” thì đúng hơn. Nhìn nhận mọi việc đúng thực tế của nó, nên xem là một ưu điểm.

Tôi từng gắn bó nhiều với Toán. Tôi học chuyên Toán ở phổ thông, học tiếp Toán lý thuyết ở ĐH, làm luận án Tiến sỹ về Tin học, trong đó sử dụng khá nhiều kiến thức Toán.

Nhưng, tôi cũng sớm xa rời Toán, vì sớm nhận ra rằng mình làm cái khác thì sẽ có ích hơn cho chính mình và cho xã hội.

Có lẽ tôi gần Trung Hà ở nhận thức này. 

Một trong những nhận định của Trung Hà là "Toán học ít có ích cho xã hội”. Anh cũng đồng ý với điều này?

Phân tích sâu thì các anh nhà Toán học sẽ bảo là chưa đủ hiểu về Toán thì đừng phát biểu linh tinh (cười). Ở đây, tôi chỉ nói nôm na dưới những nhận định của mình.

Toán học được chia ra thành: Toán lý thuyết (phát triển cho nội tại Toán học) và Toán ứng dụng (phát triển để phục vụ các môn khác, ngành khác), mặc dù nhiều trường hợp ranh giới này không được rõ ràng.

Tôi nghĩ, thứ “Toán” mà anh Hà đang nói đến là Toán lý thuyết, tức là ngành học nghiên cứu các vấn đề nội tại của Toán học.

Bàn về thế giới là chuyện xa xôi, nhưng ở VN thì Toán lý thuyết chưa có ích lắm.

Chi tiết hơn, trong cách phân loại mà anh đề cập, lấy những yếu tố gì để tách bạch 2 "loại" Toán này?

Tôi muốn mượn ý của cuộc tranh luận giữa các cụ Hoài Thanh và Hải Triều ngày xưa để thêm một cách gọi khác, dễ cảm nhận hơn: Toán lý thuyết là Toán học vị Toán học và Toán ứng dụng là Toán học vị Nhân sinh.

Trước hết, Toán học tự thân nó không phải là môn khoa học có đối tượng nghiên cứu trực tiếp cho nền kinh tế, cho phát triển xã hội.

Page 14: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Những ngành khoa học khác như Lý, Hóa, Sinh... (KH tự nhiên) hay Khảo cổ, Lịch sử, Luật... (KH xã hội), ngày nay còn có các ngành KH công nghệ như CNTT hay CN Vật liệu, mới trực tiếp cần cho kinh tế, xã hội.

Toán, mà cụ thể là Toán ứng dụng chỉ là công cụ cho các môn đó, ngành đó. Còn Toán lý thuyết chẳng phục vụ ngành nào cả, ngoài sự phát triển của bản thân nó.

Trong hoàn cảnh VN hiện tại, theo tôi, Toán lý thuyết không đóng góp được nhiều và cũng chưa cần đầu tư phát triển.

Toán học chỉ là công cụ

Tạm đặt Toán lý thuyết sang một bên, anh đánh giá thế nào về đóng góp của Toán ứng dụng?

Toán ứng dụng cần thiết trong việc giải quyết mọi bài toán thực tiễn, trong việc giảng dạy ở tất cả các trường dù ở khối kỹ thuật, kinh tế hay xã hội.

Qúa dễ để chỉ ra sự ứng dụng của nó.

Phân tích dữ liệu, mô phỏng, dự báo, mô hình hóa, quy hoạch trong Xây dựng, Giao thông, Hàng không, Quân sự... là Toán ứng dụng.

Giải mã ADN của con người, xây dựng Cơ sở dữ liệu, mã hóa thông tin, vận hành bộ máy kinh tế, quản lý... là Toán ứng dụng.

Nhưng, liệu có thể đặt câu hỏi rằng, nếu không có Toán lý thuyết thì sẽ không phát triển được Toán ứng dụng?

Chỉ các nhà Toán lý thuyết mới đặt ra các vấn đề Toán học lý thuyết, giải quyết chúng, phát triển lên. Và cũng chỉ họ mới hiểu được chúng.

Trong khi đó, Toán ứng dụng vẫn đi từ các đòi hỏi của thực tế, các vấn đề thời đại... và phát triển cũng như phục vụ cuộc sống một cách mạnh mẽ.

Các nhà Vật lý nổi tiếng như Newton, Einstein có thể nói cũng là các nhà Toán học vĩ đại.

Newton đã đóng góp rất nhiều cho môn Toán giải tích khi ông giải các bài toán của Vật lý cổ điển. Einstein đã có những phương trình nổi tiếng để chứng minh thuyết tương đối (rộng và hẹp) của ông. Nhưng với họ, Toán chỉ là công cụ để giải quyết các bài toán Vật lý. Họ vẫn là các nhà Vật lý học xuất chúng.

Vai trò của Toán là rất lớn, không thể thiếu trong khoa học, kinh tế, xã hội. Nhưng đó là Toán ứng dụng, Toán vị nhân sinh. Còn Toán lý thuyết thuần túy, vị trí của nó không như vậy.

Vậy thì vị trí của "nó" ở đâu, khi "nó" vẫn đang tồn tại?

Toán lý thuyết vẫn tồn tại và tất nhiên vẫn phải có nó. Nhưng, hãy nhìn nhận đúng vị trí của nó. Thử xem giải Nobel, giải thưởng khoa học danh giá nhất không có giải dành cho Toán.

Page 15: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Điều này hình như có lý do riêng (báo chí vẫn nói, nhà bác học Nobel, người sáng lập giải thưởng mang tên ông không đặt ra Nobel Toán vì không ưa các nhà Toán học - PV), nên có lẽ ý kiến này không thoả đáng?

Nobel là nhà khoa học lớn, có tầm nhìn rộng. Khi quyết định như vậy, có lẽ ông ấy cũng nhận thấy Toán chỉ có vai trò công cụ, chứ không hẳn vì bị một nhà Toán học nào đó cuỗm mất người yêu, như lý do người ta vẫn dùng để giải thích lâu nay.

Ban đầu chỉ có Nobel Vật lý, Hoá học, Y học. Về sau, người Thuỵ Điển đã cho thêm các giải Nobel Hòa bình, Kinh tế, Văn học... những lĩnh vực rất vị nhân sinh, nhưng vẫn không có Toán.

Nếu lấy những giải thưởng lớn làm thước đo tầm quan trọng của Toán học, thì còn những ví dụ khác, chẳng hạn giải thưởng Fields?

Liệu mấy ai hiểu được và thấy lợi ích của các giải thưởng Toán lý thuyết? Còn ngay như “Thuyết tương đối” của Einstein, đã có nhiều quyển sách viết về nó mà rất nhiều người trình độ trung bình có thể hiểu các kết quả cơ bản của nó, thấy được cái hay, cái cao siêu của nó.

Thêm một thực tế nữa, người bình thường nhớ đến Mendel (di truyền học), Newton, Einstein, Edison (vật lý học), Mendeleep (hoá học), Pasteur (vi trùng học), đến Bill Gate (như một kiến trúc sư phần mềm, chưa nói về tài năng kinh doanh), chứ mấy ai nhớ đến các nhà Toán học, trừ những "cụ"  thời cổ đại: Pythagore, Euclide…

Anh cho rằng, việc các nhà Toán học không được “quen mặt, thuộc tên” như những cá nhân xuất sắc trong các ngành khác, vì Toán lý thuyết ít tính vị nhân sinh?

Thử hình dung, nếu một người trí tuệ đặc biệt như Bill Gate say mê học Toán và làm Toán, thì chúng ta sẽ thiệt thòi bao nhiêu?

Có thể thế giới sẽ có thêm một nhà Toán học xuất chúng, nhưng khi đó sẽ không có những tư tưởng thực sự "cách mạng" đã làm thay đổi cách sử dụng máy tính cá nhân vào việc xử lý thông tin hàng ngày của mỗi chúng ta, không có một quý ông hào phóng đã đóng góp từ thiện nhiều tỷ đô la Mỹ cho việc nghiên cứu các bệnh hiểm nghèo, vào các quỹ đào tạo và giáo dục.

Tóm lại, một người giỏi, làm Toán có thể tốt. Nhưng nếu họ cống hiến cho một lĩnh vực khác, thì hứa hẹn giá trị to lớn hơn nhiều.

Việt Nam từng sai lầm trong chiến lược đào tạo nhân lực?

Quay trở lại ý anh nói ở trên "Ở VN, Toán lý thuyết không đóng góp được nhiều và chưa cần phát triển". Anh lấy những gì làm cơ sở, để chứng minh điều này?

Xin nhắc lại, Toán học chỉ là công cụ của các khoa học và công nghệ khác.

Nhiều thế hệ HSG Việt Nam đã được hướng vào học Toán.

Page 16: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Ở nước ta, người giỏi Toán lý thuyết có lẽ chưa cần thiết bằng người giỏi Sinh học, Luật, Y, Dược hay khoa học Quản lý (ngành đang rất cần cho VN).

Trong một thời gian dài, ngành Toán đã có một vị trí, một sự tôn vinh quá mức. Chúng ta đã mất cân đối, phí phạm khi mà các HS học giỏi nhất đều được phân công học Toán ở ĐH. Tôi nghĩ đây là một sai lầm.

Xin lỗi, anh vừa nói “sai lầm”?

Đúng, sai lầm. Thế hệ chúng tôi rất biết ơn và kính trọng bác Tạ Quang Bửu, Bộ trưởng Bộ Đại học (nay là Bộ GD-ĐT) những năm 70. Bác rất yêu quý học sinh chuyên Toán hồi đó. Bác từng tặng vé các trận bóng đá quốc tế tại sân Hàng Đẫy, từng gỡ những trường hợp vướng lý lịch để được đi học nước ngoài hay vào ĐH.

Nhưng bác ấy đã phạm “sai lầm” là rất ưu ái Toán, có lẽ vì bác cũng là dân Toán.

Thời đó, khi cử người đi học nước ngoài, có bao nhiêu HSG bác ấy cho đi học Toán trước tiên, rồi mới đến Vật lý, Hóa học, Sinh học (theo thứ tự học giỏi) và cuối cùng, xin lỗi, mới đến học Luật (xét cụ thể trường ĐH của tôi ở Liên Xô những năm 1970, 1980).

Với hoàn cảnh kinh tế, xã hội của VN, đáng lẽ 2 ngành Sinh học và Luật phải được ưu tiên hơn, vì VN là một nước nông nghiệp lạc hậu và còn phát triển thấp về Luật pháp, một nước mới ra khỏi các cuộc chiến tranh triền miên, cần nhanh chóng phục hồi để đi lên. Thế mà thế hệ chúng tôi chỉ biết đến Toán, chỉ được bồi dưỡng thêm về Toán, luôn luôn được giáo dục về vẻ đẹp của Toán học.

Rất may, hình như các bạn trẻ không còn ham Toán như chúng tôi khi xưa.

Tức là anh nghĩ nên khuyến khích thế hệ trẻ bớt say mê Toán?

Phương pháp Toán học bao giờ cũng có giá trị. Nên học giỏi Toán trong lĩnh vực của mình, biết cách vận dụng nó để giải quyết công việc. Đó là việc cần làm dù ở bất cứ vị trí nào. Đó cũng là cách trân trọng, say mê Toán học theo hướng vị nhân sinh.

Nhưng, nên khơi dậy để các bạn trẻ đi vào những ngành khác, hơn là làm Toán.

"Xuất khẩu chất xám" là nguỵ biện

Loạt bài "Toán học Việt Nam" của anh Nguyễn Tiến Dũng đề cập đến nhiều vấn đề  Toán học nói riêng và khoa học VN nói chung, nhận được sự quan tâm của khá nhiều độc giả. Cách nhìn nhận của anh, với tư cách một người ngoài cuộc?

Công nhận anh Dũng có tâm huyết và đặt ra nhiều vấn đề đáng nói, nhưng tôi khá bức xúc vì thấy có rất nhiều điều không ổn trong đó.

Ví dụ?

Anh Dũng nói, người VN làm khoa học ở nước ngoài nên nhìn nhận là "xuất khẩu chất xám". Ngụy biện! Nguỵ biện hết sức. Ai xuất khẩu? Chẳng ai cả. Các anh ấy toàn tự đi tìm bến đỗ cho mình, nếu để ý, cũng có khi có vài bến đỗ rồi mới dừng chân.

Xuất khẩu phải là một chủ trương, chính sách (ví dụ xuất khẩu lao động), có tổ chức, có chủ thể (các công ty xuất khẩu), có hàng hóa (các công nhân). Người xuất khẩu phải

Page 17: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

thu về được cái gì đó, nhất là tiền bạc. Ngoài ra, để gọi là xuất khẩu thì số lượng phải đủ lớn.

Việc một số trí thức VN làm việc ở nước ngoài đều không rơi vào các tiêu chí trên. Không có sự chủ động, không là đường lối chính sách, số lượng thì rất nhỏ.

Khoan đi sâu vào sự đúng sai trong cách gọi tên sự việc, bản thân anh đánh giá hiện tượng này có lợi không, cho chúng ta?

Tôi cũng đang muốn đặt một big question với phát hiện hồn nhiên của anh Dũng: "Xuất khẩu chất xám có lợi cho Việt Nam".

Thử xem, các anh ấy có lợi gì cho VN? Một vài buổi hội thảo tại đây mà tôi tin rất ít người dự vì Toán học là môn mà chỉ khác đi một tý là không thể trao đổi gì với nhau (Toán có nhiều chuyên ngành hẹp, trong đó có những ngành trên thế giới chỉ có khoảng vài chục chuyên gia). Một vài khoá giảng dạy ngắn hạn hay vài suất NCS cho một vài bạn trẻ ham mê Toán, mà tôi tin là bây giờ số đó không nhiều.

Sản phẩm của họ là những bài báo, đa phần lý thuyết được gọi là cao siêu, được đăng ở các tạp chí mà chỉ những người làm Toán mới biết đến.

Tôi có nhiều bạn bè làm Toán, làm Vật lý lý thuyết nên biết rõ những giá trị, những đóng góp của các bài báo đấy cho VN.

Nói thêm về hiện tượng "chảy máu chất xám" (tạm dùng từ này khi anh không đồng ý với từ của anh Dũng). Phải chăng, chúng ta đã lãng phí khi không giữ chân được nhiều người giỏi?

Nếu để ý hơn, sẽ thấy có rất nhiều trí thức từ các nước thế giới thứ 3 đến các nước tiên tiến làm việc, và cả một dòng chảy từ Nga, từ Đông Âu sau khi hệ thống XHCN sụp đổ ở châu Âu.

Tôi chẳng có con số thống kê, nhưng thấy có hàng nghìn nhà khoa học như thế đang hoạt động tại các nước phát triển. Họ cũng sống, làm việc và định cư lâu dài ở đó như các nhà khoa học VN ở xứ người. Có gì đáng nói đâu nhỉ?

Cuộc sống phương Tây chấp nhận họ, vì họ góp một phần kết quả khoa học. Và họ lựa chọn như vậy, vì những gì mà cuộc sống và công việc ở đó mang lại.

Thời gian trôi đi, đất nước đổi thay rất nhiều về kinh tế, công nghệ, xã hội, lối sống, họ khó có thể đi cùng nhịp với chúng ta. Sẽ có những nhìn nhận khác nhau. Cuộc sống là thế.

Tôi nghĩ chúng ta không phải quá dằn vặt về chuyện này. Đó là thực trạng, là bài toán chung của rất nhiều nước kém hay đang phát triển.

Nói một cách ngắn gọn, “ở lại” là họ chọn con đường tốt hơn cho chính họ trước. Đấy là điều thường tình thôi, tôi ở cương vị của họ, chắc tôi cũng làm như thế. 

Nhưng, nếu vừa được chọn cách sống hợp lý cho mình, vừa được thông cảm rằng tại đất nước chẳng biết sử dụng... thì không công bằng lắm. Chúng ta cần sòng phẳng hơn.

Page 18: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Con người quan trọng hơn điều kiện

Nhưng, phải nhìn nhận một thực tế, với cơ chế hiện tại, chúng ta chưa thực sự khuyến khích khoa học phát triển?

Giải quyết vấn đề này là chuyện ở tầm vĩ mô. Đó là việc của các nhà quản lý, hoạch định chính sách. Nhà nước phải có chính sách thay đổi và cũng phải lưu ý những hiện tượng như vậy. Phải nghiên cứu để có những điều chỉnh, những cải thiện tốt hơn cho môi trường khoa học của VN.

Tất nhiên ở các nước phát triển sẽ có nhiều điều kiện tốt hơn, thuận lợi hơn cho cá nhân các nhà khoa học.

Tuy nhiên, thời buổi này, với hỗ trợ của công nghệ, việc nghiên cứu có lẽ không phụ thuộc khoảng cách địa lý là mấy. Qua Internet, vẫn có thể học hỏi và sử dụng những tri thức mới được cập nhật thường xuyên, có thể trao đổi (voice chat), thậm chí thực hiện hội thảo (video conference) với những người cách xa hàng ngàn cây số... 

Đôi khi, việc gây cản trở không chỉ là điều kiện thiết bị mà là môi trường khoa học không hiện đại và thiếu chuyên nghiệp?

Không phủ nhận là ta chưa có một môi trường thuận lợi và ưu ái với các nhà khoa học. Nhưng, đó không phải lý do căn bản về việc khoa học VN còn phát triển thấp.

Tôi ví dụ, cũng trong hiện trạng VN, nhiều ngành, như CNTT hay Viễn thông, ban đầu ta ở mức xuất phát điểm rất thấp, nhưng đến giờ có thể nói, khoảng cách giữa ta với các nước phát triển không hề lớn. Đặc biệt là ngành Viễn thông của ta, tôi cho là phát triển rất nhanh, rất sát với thế giới.

Có lẽ còn những lý do khác, về con người, về năng lực, về quản lý, về tầm nhìn...

Xin anh cho những ví dụ cụ thể hơn?

Tiền đầu tư, hay điều kiện, hay môi trường, tôi vẫn xếp sau một số yếu tố khác.

Anh Dũng có nói (và đó chắc cũng là suy nghĩ của nhiều nhà khoa học VN ở nước ngoài) rằng "nếu một người tài như anh ABC nào đó mà ở VN thì....", rằng "ở nơi XYZ nào đó đầu tư thế kia, mới được thế nọ", tôi lại muốn phản biện tiếp.

Khi xưa, nhiều nhà khoa học đáng kính của ta như Hoàng Tụy, Tôn Thất Tùng, Lương Định Của, Nguyễn Văn Hiệu, Đào Vọng Đức… vẫn làm rất tốt công việc nghiên cứu ngay tại VN. Và mấy vị tiền bối như Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Đặng Văn Ngữ... theo Bác Hồ từ Pháp về nước, vẫn có những công trình khoa học, kỹ thuật rất có giá trị phục vụ trực tiếp cho VN.

Quan trọng là có đủ tài hay không.

Không phải "một bài báo có đầu tư 50.000$ sẽ giá trị hơn bài báo 1.000$".

Những công trình về mổ cắt gan của GS Tôn Thất Tùng ra đời khi mà người VN không biết đồng đô la là cái gì. Trong kháng chiến chống Pháp, GS Đặng Văn Ngữ vẫn làm ra thuốc kháng sinh penexiline phục vụ đồng bào, chiến sỹ.

Page 19: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

 GS, Viện sỹ Trần Đại Nghĩa đã chế tạo các vũ khí không giật trong lòng núi rừng Việt Bắc, góp phần vào thắng lợi thực dân Pháp.

Thời chống Mỹ, các nhà khoa học VN đã nghiên cứu thành công việc phá bom từ trường chống lại sự phong tỏa các cửa biển, cũng như đã cải tiến hệ thống tên lửa phòng không bắn hạ các máy bay khổng lồ B52 của Mỹ.

Nhiều kết quả của GS Hoàng Tụy về lý thuyết tối ưu cũng ra đời tại VN, mà tôi tin là các kết quả này cũng có chất lượng không dưới “50.000$”.

Làm lý thuyết, nhất là trong thời đại Internet bây giờ, ở VN chắc cũng có nhiều kết quả. Và cùng một kết quả khoa học, tôi trân trọng nếu nó làm đuợc tại VN hơn nhiều so với được làm ở nước ngoài. Vì tôi tâm niệm, "Con không chê cha mẹ nghèo, người xa xứ không chê quê mình khó".

Còn nhiều thứ cần hơn cho đất nước nghèo khó của chúng ta

Các SVVN tại trường ĐH Bách Khoa Paris (Polytechnique), Pháp

Trở về với mục đích chính của buổi trao đổi, anh nhấn mạnh nhiều lần đến sự lãng phí nếu dùng người giỏi làm Toán. 

Chúng ta là VN, nói thẳng ra, chúng ta còn nghèo khó, đang tìm đường để phát triển lên văn minh. Nếu chúng ta là những người Mỹ, người Đức… thì câu chuyện nó khác. Chúng ta là VN thì chúng ta mới nói những câu chuyện như thế này.

Có thể 50 hay 70 năm nữa, khi phát triển hơn, chúng ta sẽ gặp những vấn đề giống các nước phát triển bây giờ. Lúc đó, sẽ lại phải có những định hướng khác, phù hợp hơn.

Định hướng phát triển cho hoàn cảnh hiện tại mà anh đang đề cập cụ thể là gì?

Vấn đề tôi muốn nói ở đây là tối ưu hoá khi đào tạo nguồn nhân lực. Thực sự VN không có quá nhiều người giỏi như chúng ta vẫn tự hào.

Page 20: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Chúng ta không có nhiều cá nhân xuất sắc, nhưng số lượng người giỏi chắc cũng không ít. Đấy là nhận định của rất nhiều đánh giá tổng kết hay kế hoạch đào tạo nhân tài. 

Không, chẳng nhiều đâu. Tại chúng ta tuyên truyền tốt thôi.

Chẳng hạn, giải thưởng của anh Ngô Bảo Châu, có lẽ cũng nên đặt đúng tầm của nó. Đơn giản, bạn có để ý và quan tâm, năm 2005 giải Clay được trao cho ai không? Tôi chắc chắn là không.

Ngày xưa, như lứa chúng tôi, cũng tưởng mình là tinh hoa của đất nước (cười). Học ở nước ngoài, gặp mấy sinh viên Do Thái thì “mất điện”.

Nói chung, theo tôi, người giỏi của ta ít. Mà ít, thì đơn giản thôi, phải khéo dùng.

Một số nhà khoa học nhận định, VN cần thêm “ít nhất 50 Tiến sỹ Toán mỗi năm” trong vòng 20 năm tới. Đó cũng là một đánh giá nghiêm túc, và ra kết quả khác anh?

Những vấn đề dạng này, tôi nghĩ phải có tính toán cụ thể, xác thực dựa trên những yếu tố thực tế, hiện trạng, nhu cầu và cả khả năng đáp ứng.

Tôi rất muốn biết các anh ấy tính toán thế nào để thuyết phục về sự hợp lý của con số này.

Trong bài phỏng vấn, nếu để ý, chính anh Dũng cũng lơ mơ khi nói đến dự án của mình. Đã làm TS Toán thì đến 90% họ chọn đường ở lại, vì môi trường khoa học cơ bản của VN chưa thể đáp ứng ngay được nguyện vọng làm việc của họ (như chính anh ấy nói).

Mà, người VN làm Toán ở nước ngoài, có lợi ích gì với đất nước, tôi đã nói ở trên.

Thế thì VN cần thêm mỗi năm 50 ông TS Toán làm gì, tôi vẫn chưa tư duy ra. Thậm chí việc mỗi năm tìm ra ngần ấy bạn trẻ có nguyện vọng này, tôi cũng thấy nan giải.

Tóm lại, theo anh, giới trẻ VN nên học những ngành khác, hơn là Toán?

Tất nhiên, một khi làm Toán là lẽ sống của bạn, thì hãy làm Toán. Tôi đã có người bạn bỏ học ngành Hóa dầu ở Liên Xô về nước để được học Toán và anh ấy vẫn say mê Toán học đến bây giờ.

Tôi tôn trọng niềm say mê của các nhà Toán học VN. Mỗi người có một đam mê và hoàn toàn có thể tự chọn hướng đi cho riêng mình.

Nhưng, ở góc độ phục vụ cho sự phát triển đất nước hiện nay, các bạn trẻ nên đi vào các ngành KH ứng dụng, các KH công nghệ vì đây là những lĩnh vực đang và sẽ làm thay đổi bộ mặt nền kinh tế nước nhà.

Xin được nhắc lại ý của anh Trung Hà, nếu người (VN) giỏi đi làm Toán sẽ rất lãng phí. Còn biết bao cái thực tế hơn, vị nhân sinh hơn, cần hơn cho đất nước còn nghèo khó của chúng ta. Toán lý thuyết có vẻ đẹp nội tại của nó, nhưng lúc này chưa cần thiết.

Chưa cần, nhưng chính anh cũng thừa nhận "có thể 50, 70 năm nữa sẽ cần thiết", mà khoa học cơ bản không thể xây dựng trong thời gian ngắn. Một đất nước mà thiếu lực lượng làm khoa học cơ bản thì...?   

Page 21: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Thiếu thì đi thuê. Có nhiều cách đầu tư. Ai chẳng biết là đầu tư cho khoa học cơ bản sẽ tốt, nhưng liệu có phải là tối ưu cho VN không?

 Hãy nhìn Singapore, họ bỏ tiền ra mời rất nhiều chuyên gia giỏi của thế giới đến làm việc, trong các Viện nghiên cứu, các trường ĐH và hiệu quả lớn hơn nhiều so với sử dụng của "nhà trồng được".

Số tiền họ trả cho các chuyên gia ấy, trông thì có thể lớn hơn nhiều so với tiền lương của nhà khoa học bản xứ, nhưng thực ra lại là tiết kiệm hơn rất nhiều so với tiền đầu tư để tự nghiên cứu.

Cảm ơn anh

Hoàng Lê (Thực hiện)

Muốn có ứng dụng, phải có lý thuyết Cập nhật lúc 11:26, Thứ Sáu, 21/04/2006 (GMT+7),

(VietNamNet) - Không có ranh giới thực sự giữa Toán lý thuyết và Toán ứng dụng. Bởi vì, cái hôm nay ta tưởng rất lý thuyết thì ngày mai lại có thể rất ứng dụng. Những nước mà kinh tế phát triển nhất, ứng dụng Toán giỏi nhất cũng chính là những nước mà Toán lý thuyết phát triển nhất.

Xem bài: Toán học vị Toán học hay Toán học vị nhân sinh?

Đó là những nhận định của ông Hà Huy Khoái, Viện trưởng Viện Toán học Việt Nam, trong cuộc trò chuyện với VietNamNet, đầu tháng 3.

Lý thuyết cũng là để quay về phục vụ thực tiễn

"Toán học nghiên cứu những vấn đề cao siêu, xa rời thực tế, và rất ít người hiểu được". Ông nghĩ gì về nhận xét này?

Các giải Nobel Kinh tế gần đây, hầu như trong đó chỉ có Toán.

Nhiều người ngạc nhiên khi có những vấn đề Toán học, lúc sinh ra rất trừu tượng, mà lại được sử dụng rất bất ngờ.

Nói cho cùng, Toán học là 1 sản phẩm của thực tiễn. Nên dù anh Toán học ngồi đấy vẽ voi với phát triển nội tại đi nữa... nếu ở mức độ cao, thì sẽ không tách rời thực tiễn. Làm Toán cao thì phải đẹp, mà cái đẹp thì bao giờ cũng phải đi với thực tiễn.

Có khi nào, tồn tại những cái đẹp mà chưa thực tế?

Không, cái đẹp thì không bao giờ vô dụng (cười). Tôi cho rằng, một thứ khoa học mà chưa đi vào được bản chất của sự vật thì chỉ vì nó chưa đủ cao.

Ông Newton có một câu nói rất nổi tiếng "Không có gì gần với thực tiễn hơn là 1 lý thuyết đẹp". Có nghĩa là một lý thuyết cao và sâu sắc đến mức đẹp thì chắc chắn sẽ gần với thực tiễn.

 

 

GS Hà Huy Khoái: "Khoa học cơ bản tạo cho xã hội nền tảng chung cao, nhưng rất khó nhìn thấy lợi ích của nó"

Page 22: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Tôi nghĩ đó hoàn toàn không phải là 1 câu nói suông, mà rất đúng trong thực tế phát triển của khoa học. Những lý thuyết rất cao, rất sâu rồi cuối cùng đều quay về phục vụ cuộc sống.

Ông René Thom, một nhà Toán học Pháp từng đạt giải thưởng Fields, có nói "Những người đi đầu thường không biết là họ đang đi đâu. Lúc mà họ biết... thì không đi được xa".

Toán lý thuyết, chắn chắn sẽ quay về thực tiễn, trừ phi đó là những lý thuyết vớ vẩn.

Lấy gì để xác định được 1 lý thuyết đẹp và 1 lý thuyết vớ vẩn, khi những vấn đề đó vượt quá tầm hiểu biết của đa số dân chúng?

Tiêu chuẩn đầu tiên là nó quay về thực tiễn, chẳng hạn quay về phục vụ Vật lý, Tin học...

Thứ hai, những người làm Toán giỏi thì bao giờ cũng đi không xa luồng chính của sự phát triển.

Tất nhiên để nhận diện cũng khó, nhưng chắc chắn nhận diện được, cũng giống như làm thơ. Một nhà thơ lớn nào đó nói "Tôi không định nghĩa được thế nào là thơ hay, nhưng cứ đưa tôi 1 bài thơ, thế nào tôi cũng nhận ra được".

Có một số tiêu chuẩn để định lượng. Ví dụ, một cô gái đẹp, chắc sẽ được ngắm nhiều. Một công trình hay sẽ được trích dẫn nhiều. Một ca sĩ lớn, sẽ biểu diễn ở những chương trình hoành tráng. Một bài báo tốt sẽ dễ được đăng ở những tạp chí uy tín.  

Bàn về sự hữu ích của Toán, có người lấy ví dụ "Các công trình Toán lý thuyết chỉ có 1 số rất ít người hiểu được. Trong khi, nhiều lý thuyết lớn trong các ngành khác, như thuyết tương đối của Einstein, một người không phải dân chuyên ngành (như anh ấy) cũng hiểu được. Sở dĩ như vậy, vì Toán lý thuyết ít tính vị nhân sinh, xa rời thực tế cuộc sống". Ông nghĩ sao về nhận định ấy? 

Tôi cho rằng, nhận định này không chính xác.

Không phải vì đa số không hiểu mà suy ra Toán không có tác dụng thực tiễn. Mà, bởi vì trong khoa học cơ bản, những tư tưởng lớn bao giờ cũng phải đi trước. 

Thời của Newton và Einstein, thậm chí Archimedes... , các công trình của họ là lý thuyết cao nhất, cũng có mấy ai hiểu họ đâu, nhưng, so với sự phát triển khoa học hiện tại thì bình thường.

Vấn đề là vì các đỉnh của thời đại ngày càng cao hơn. Bây giờ mặt bằng chung cao, ta nhìn thấy được cái đỉnh của thời Newton, Einstein. Còn đỉnh bây giờ cao đến mức, chỉ người ở trên đỉnh mới nhìn thấy. Nhưng 1 thời gian sau này, nhiều người sẽ hiểu, như bây giờ ta nhìn lại Newton vậy.

Ví dụ Edward Witten, nhà Vật lý lớn nhất của thời này, chắc chắn rất ít người biết, dù đó là đỉnh cao bây giờ.

Không nên phân biệt Toán lý thuyết và Toán ứng dụng

Page 23: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Có ý kiến cho rằng, để đánh giá về vai trò của Toán học, nên phân định rõ ràng Toán ứng dụng, phục vụ cho các ngành khác và Toán lý thuyết, chỉ phục vụ cho sự phát triển nội tại của Toán. Ông có đồng tình với cách phân chia này?

Thực ra thì không nên chia chút nào, vì trong Toán rất khó phân biệt đâu là ứng dụng, đâu là lý thuyết. Đó là điều khó nhất. Bởi vì có thứ bây giờ ta tưởng là rất lý thuyết, thì ít lâu sau lại trở thành rất thực tiễn.

Ví dụ điển hình, trong bài trả lời phỏng vấn VietNamNet, anh Trung Hà nói anh ấy không phải người ngoại đạo, rằng ngày xưa anh học Lý thuyết số, là môn Toán cổ điển nhất, không có ứng dụng gì cả.

Phát biểu đó chứng tỏ anh ấy đã là "người ngoại đạo". Vì Toán phát triển quá nhanh.

Thời anh Hà học thì Số học đúng là cái mà người ta tưởng là lý thuyết thuần tuý nhất, không có ý nghĩa gì trong thực tiễn cả. Nhưng, hiện tại đó lại là một trong những ngành đi vào thực tiễn nhanh nhất.

Điển hình là lý thuyết "mật mã khoá công khai", xuất phát hoàn toàn từ một bài toán lý thuyết... mà đến giờ người ta không thể hình dung hết được về ứng dụng của nó.

Một cách đơn giản, ông có thể nói qua để độc giả dễ hình dung về lý thuyết này và các phạm vi ứng dụng của nó?

Mật mã khoá công khai (tên tiếng Anh là Public key) hiểu nôm na là mật mã, nhưng công khai khoá.

Sở dĩ có tên này vì trong thời cổ điển, mật mã chỉ dùng trong những nhóm rất hẹp, ví dụ trong ngoại giao...

Bắt đầu từ một bài toán của Số học, cho đến trước năm 1980, người ta nghĩ rằng nó không hề có ứng dụng gì trong thực tế.

Nhưng từ đầu thập niên 80, bắt đầu xuất hiện ứng dụng hết sức lớn của lý thuyết Số học trong mật mã. Càng hội nhập thì phần ứng dụng đó càng lớn, trong thương mại điện tử, chính phủ điện tử, thanh toán nhà băng đều dùng mật mã khoá công khai.

Hơn nữa, bây giờ trong bảo mật thông tin, người ta không chỉ sử dụng Số học, mà còn dùng những ngành mới nhất của Toán như Hình học đại số, một ngành hết sức lý thuyết.

Đó là những ví dụ theo tôi là hết sức điển hình về việc không có ranh giới thực sự giữa Toán lý thuyết và Toán ứng dụng.

Khi dùng 2 từ này, tức là ông vẫn thừa nhận tồn tại 2 dạng Toán mà người ta gọi bằng 2 cái tên đó?

Cách hiểu đó thậm chí không phải chỉ của những người không làm Toán mà ngay cả những người làm Toán.

Các nhà Toán học thế giới gặp gỡ tại một hội nghị Toán quốc tế

Page 24: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Đối với Viện Toán, từ lúc thành lập đến giờ luôn có cân nhắc giữa chuyện ứng dụng và lý thuyết. Và, trong các hội thảo, tôi đã phải vài lần đứng lên thuyết phục mọi người rằng không có gì phân biệt.

Nhưng, chính điều đó đã chứng tỏ rằng có sự phân biệt. Vì nếu không có, thì tôi đã không phải thuyết phục (cười).

Đóng góp lớn nhất của Toán Việt Nam là làm thế giới biết đến 

Thưa ông, cơ cấu nhân sự của Viện Toán hiện tại, nếu chiếu theo cách hiểu thông thường, có bao nhiêu người làm ứng dụng và bao nhiêu người làm lý thuyết?

Hiện tại, Viện có 103 người, trong đó có 86 cán bộ nghiên cứu, ngoài ra là các cán bộ hành chính, thư viện...

Thực chất thì tất cả đều làm ứng dụng và tất cả đều làm lý thuyết. Còn, nếu phân loại một cách cơ học, thì tôi nghĩ trong Viện Toán sẽ có khoảng 1/3 sẽ được xếp vào dạng Toán ứng dụng.

Đội ngũ dưới 30 tuổi chiếm tỷ lệ bao nhiêu, thưa ông?

Vài năm gần đây, con số này có tăng lên. Một phần nhờ nguồn bổ sung từ các đại học, chẳng hạn khoa Cử nhân tài năng Toán của ĐHQG Hà Nội.

Tuy nhiên, con số này vẫn ít một cách tương đối.

Ông có con số thống kê những người đang làm Toán ở nước ta hiện tại?

Cả nước, trường nào cũng có khoa Toán. Hiện tại, hội Toán học có khoảng 600-700 hội viên.

Hội Toán học không phải một hội hành chính sự nghiệp như Hội Nhà văn, mà là một hội nghề nghiệp, một tổ chức xã hội, ai làm Toán hay giảng dạy Toán, và có nguyện vọng tham gia đều được chào đón.

Hội thường chỉ tổ chức những hoạt động chung, như Hội nghị Toán học 4 năm 1 lần, thi thoảng tổ chức những trường hè, hội thảo.

Với lực lượng này, trong 30 năm qua, theo ông Toán học đã có những đóng góp gì cho Việt Nam?

Đóng góp lớn nhất là làm cho thế giới biết rằng Việt Nam cũng có Toán học. Trước đây, gần như thế giới không hề có khái niệm gì về nền Toán học của ta.

Điều này quan trọng, bởi vì cũng không phải nhiều ngành khoa học cơ bản của nước ta được thế giới đánh giá là tương đối tốt.

Theo tôi ngành Toán là một trong số ít ngành khoa học của VN mà có thể nói là gần với trình độ phát triển của quốc tế. Tôi nghĩ chỉ có Toán học, Vật lý và 1 số ngành nào đó... được vậy.

Dựa vào đâu ông nói như vậy?

Page 25: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Một số tên tuổi Toán học thế giới mà tôi biết, đánh giá tốt về vị trí của nền Toán học Việt Nam, như GS Laurent Schwartz, từng đoạt giải thưởng Fields hay GS Philip Griffith, Viện trưởng Viện Nghiên cứu cao cấp ở Princeton, Mỹ.

Nhận định này có chút mâu thuẫn với ý kiến của anh Nguyễn Tiến Dũng trong bài viết “Toán học Việt Nam”?

Tôi và anh Dũng cũng thường trao đổi và khi viết bài đó, anh có gửi bản thảo cho tôi.

Phải khẳng định đăng bài viết của anh Dũng là có ích, vì có dịp nhìn bao quát về nhiều vấn đề xung quanh Toán học và khoa học VN... Chỉ có điều, có lẽ anh thiết tha đẩy Toán học VN lên, nên có nhiều nhận định dễ gây tâm trạng bi quan.

Thứ nhất, anh ấy đánh giá qua số lượng các bài báo được đăng ở các tạp chí quốc tế và cho rằng, cả nền Toán học Việt Nam không bằng phân hiệu ở trường của anh ấy. Khi nhìn nhận, tiêu chí "tạp chí lớn" không phải lúc nào cũng thống nhất.

Thứ hai, anh Dũng tự tách bạch hơi sớm. Có nhiều người Việt Nam làm Toán ở nước ngoài vẫn đang thuộc biên chế của Viện Toán, một số người khác "đi đi về về" và vẫn có hoạt động khoa học cộng tác với Việt Nam. Khi đánh giá về Toán học Việt Nam, cũng nên kể thêm họ.

Và như thế thì nền Toán học VN không đến nỗi kém như anh Dũng nói trong bài.

Nhưng, liệu sự kể thêm này có hợp lý khi họ đang cống hiến cho nền khoa học của các nước khác?

Nhiều nhà khoa học trẻ, tài năng của Việt Nam đang làm việc tại các nước tiên tiến (ảnh chỉ mang tính chất minh hoạ)

Không nên nói là cống hiến cho khoa học của nước ngoài, mà là người Việt Nam cống hiến cho khoa học của thế giới, đó cũng chính là đóng góp cho khoa học VN, nâng uy tín của VN.

Ở Nga, bây giờ, khi kể về Toán học, người ta vẫn kể về những người được giải thưởng Fields, mà hiện đang làm tại Pháp và Mỹ.

Page 26: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Ông nghĩ gì về nhận định của anh Dũng: người VN làm khoa học ở nước ngoài không phải là "chảy máu", mà là "xuất khẩu" chất xám và điều này có lợi cho VN?

Hiển nhiên không thể nói là "xuất khẩu chất xám" được, bản chất của việc xuất khẩu khác. Nhưng để đánh giá về mặt lợi - hại thì hơi khó, phải qua 1 quá trình lâu dài.

Năm 1983, Trung Quốc cử đi Mỹ 5.000 NCS và họ không hi vọng những người đó trở về ngay. Chỉ có điều họ biết rằng, sớm hay muộn những người ấy cũng thành những người giỏi và sớm hay muộn họ cũng tìm được cách để những người ấy đóng góp cho đất nước.

Tôi hi vọng, sự đóng góp của những nhà khoa học Việt Nam làm việc ở nước ngoài sẽ lâu dài hơn. Và, tôi hi vọng 1 lúc nào đó, họ sẽ trở về VN làm việc.

Có 1 điều tôi kỳ vọng là hiện tại chúng ta đang nỗ lực xây dựng đại học đẳng cấp quốc tế. Mô hình như vậy sẽ là động lực để ngày càng có thêm những người VN giỏi về làm việc. 

Không có khoa học cơ bản thì nguy cơ lâu dài là rất lớn 

Anh Bùi Quang Ngọc, một người học Toán và hiện không làm Toán, cho rằng “Việt Nam chưa cần phát triển Toán lý thuyết”. Ông nghĩ gì về nhận định này?

Toán học đi từ thực tiễn đi lên. Từ thực tiễn trừu tượng hoá thành những bản chất, đến lúc nhìn vào đó, thậm chí người ta không thấy hình ảnh của thực tiễn ở đấy nữa. Nhưng khi nó quay về thực tiễn thì lại trở thành rất có ích.

Muốn có ứng dụng ở mức cao, phải có Toán lý thuyết ở mức rất cao.

Những nước mà kinh tế phát triển nhất, ứng dụng Toán giỏi nhất như Mỹ, Nhật, Anh, Pháp, Đức… thì cũng chính là những nước mà Toán lý thuyết phát triển nhất.

Tức là, theo ông, ta nên có hướng đầu tư để Toán lý thuyết phát triển?

Điều này đặt ra khó khăn cho người làm chính sách. Vì họ bao giờ cũng thích ủng hộ tiền cho những dự án ứng dụng ngay.

Nhưng, nếu chỉ như thế thôi thì hết sức thiển cận. Bởi vì nhiều khi có những ứng dụng hết sức bất ngờ, từ khoa học cơ bản đưa vào, mà ta không thể nào lường trước được.

Tôi nghĩ không chỉ là Toán, mà ngay cả Vật lý, Hoá học, tình hình cũng có thể tương tự. Có nhiều nghiên cứu tưởng rất cơ bản nhưng trên thực tế nó lại đi vào ứng dụng lớn.

Ví dụ, thuyết tương đối của Einstein, ai mà nghĩ nó sẽ là cơ sở cho những ứng dụng trong điện tử.

Có một vấn đề đặt ra, với tình hình hiện tại, liệu ta có nên đi theo hướng thừa hưởng những nghiên cứu lý thuyết của thế giới, để ứng dụng, thay vì đầu tư nghiên cứu?

Toán học, hay nói chung là khoa học cơ bản có những đặc thù riêng. Nếu không nghiên cứu thì không hiểu được. Nếu muốn hiểu được lý thuyết của người ta để áp dụng thì không thể bê nguyên xi. 

Page 27: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Nó khác với ứng dụng công nghệ ở chỗ là có thể bỏ tiền ra mua được. Điều này, nhiều người không hiểu.

Khoa học cơ bản tạo cho xã hội nền tảng cơ bản chung cao, để dễ thích ứng với những thay đổi. Mà, bây giờ công nghệ phát triển nhanh khủng khiếp, muốn bắt kịp thì nền tảng khoa học cơ bản phải vững.

Rất khó để nhìn thấy những lợi ích của nó, chẳng hạn, nhiều người có thể đồng tình với anh Trung Hà "làm Toán sẽ phí". Tuy nhiên, nếu không có những người làm Toán, không có khoa học cơ bản... thì nguy cơ về lâu dài là rất lớn.

Nhưng, đa phần những người trẻ làm khoa học cơ bản chọn ở lại xứ người, tức là sự đóng góp trực tiếp cho đất nước là tương đối nhỏ?

Đây là một bài toán khó trong tình hình hiện tại.

Tôi nghĩ lương bổng chưa phải là điều quan trọng nhất. Nhiều nhà khoa học giỏi, mà về nước, với tài năng của họ, làm đề tài, rồi dạy thêm... hoàn toàn có thể sống sung túc. Lý do mà nhiều người chọn ở lại vì họ là những người yêu sự nghiệp của họ.

Với môi trường khoa học trong nước, có thể nhiều người khi về sẽ bị "chết" tài năng, tức là không đủ khả năng để làm những công trình xứng đáng tầm của họ.

Trung Quốc làm điều này rất tốt. Họ có chương trình lấy tên là "100 tài năng", trong đó các nhà khoa học được tạo điều kiện làm việc không thua bất cứ nơi nào trên thế giới cả.

Đã đến lúc Việt Nam nên có chính sách như thế. Đầu tiên là sử dụng những người đang có ở trong nước, đó là cách tốt nhất để, trước hết là giữ chân những người tài, thông qua đó, cũng là tạo niềm tin cho những người ở nước ngoài.

Giới trẻ nên thay đổi và dám thay đổi

Phát biểu của anh Trung Hà về Toán học đã gây nên bất bình lớn trong cộng đồng những người làm Toán, đặc biệt là ở Viện Toán. Là một người trong nghề, ông có cảm giác gì?

Tôi nghĩ việc phát biểu của anh Hà cũng chứng tỏ anh ấy vẫn giữ tính cách điển hình của dân học Toán.

Nói chung, đa số những người dân Toán đều cực đoan và thích nói những điều độc đáo. Và, nhiều khi hi sinh nhiều thứ khác vì ý thích được trình bày những điều độc đáo.

Ông là dân Toán, nhưng hình như ông không phải là người cực đoan?

Tôi cũng cực đoan, theo kiểu không coi bất cứ điều gì là tuyệt đối (cười).

Một chút về cá nhân, được biết, họ Hà nổi tiếng nhiều đời làm Toán. Ông đến với Toán học như thế nào?

Họ Hà có nhiều nhánh Hà Văn, Hà Học, Hà Huy. Nói chung, họ của tôi là họ nghèo, đời nào cũng chủ yếu làm nghề học.

Page 28: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Tôi tốt nghiệp trường trung học Huỳnh Thúc Kháng, Vinh năm 1963, rồi vào ĐHTH khoa Toán, không được đi học nước ngoài vì chưa vào Đoàn. Tốt nghiệp năm 1967, tôi về Viện Toán (khi đó là phòng Toán trực thuộc Ủy ban khoa học nhà nước) và ngồi đó cho đến tận bây giờ.

Trong gần 40 năm làm Toán, đã bao giờ ông có ý định thử sức với một ngành nghề khác?

Giới trẻ nên thay đổi và dám thay đổi

Tôi là sản phẩm đào tạo của một thời kỳ mà con người không được và không có thói quen chủ động trong việc chọn hướng đi của cuộc đời mình. Tôi bị giáo dục theo hướng đó, và đúng là lười, là ngại thay đổi, dù biết rằng, có thể mình đã bỏ mất 1 vài cơ hội nào đó, mà mình không tự biết.

Một cách thẳng thắn, ông có bao giờ hối tiếc về điều này. Và, ông nhìn nhận, điều này là tốt hay không?

Với tôi, Viện Toán là nơi làm việc rất tốt. Riêng việc không dám và ngại thay đổi, hiển nhiên là không tốt rồi.

Con người nên thay đổi và dám thay đổi. Phải phiêu lưu một chút. Và, những người ít bị trói buộc bởi các hệ tư tưởng đã được "đóng đinh", đã được công nhận... là những người dễ thích ứng và thành công. Những nhân tố ấy thường mang lại động lực cho sự phát triển xã hội.

Ở Mỹ, theo tôi biết, họ giáo dục học sinh cách nghĩ: nếu trong vòng 5 năm, mà bạn không thay đổi, tức là bạn đã bỏ qua 1 số cơ hội nào đó.

Ở Việt Nam, ít có thói quen thay đổi. Do tâm lý thích an toàn.

Việt Nam chưa có khoa học xã hội (?)

Vẫn anh Ngọc, cho rằng, chúng ta đã sai lầm khi một thời dồn hết người giỏi vào học Toán. Ông có chia sẻ cùng suy nghĩ này?

Nói chung, để nhìn lại lịch sử và nhận định đúng - sai là rất khó... trừ những trường hợp hiển nhiên. Nhưng "không nên dồn hết người giỏi cho Toán" là hoàn toàn đúng.

Page 29: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Thời đó là thời bao cấp, người ta không có ý thức lắm và không có thói quen tự quyết định tương lai cho mình.

Nếu để mọi người có thói quen tự quyết định tương lai, nghề nghiệp đúng với sở thích của mình thì không cần ai hướng dẫn cả, mà người giỏi sẽ được phân phối cho đều trong các ngành của xã hội.

Nước Mỹ, theo tôi là 1 nước mà cơ chế điều chuyển, sử dụng người tốt, nên họ phân phối rất tốt. Ví dụ, 1 người có thiên hướng về chính trị thì họ sẽ học Luật, người có thiên hướng về khoa học cơ bản, sẽ chọn các ngành đó...

Khi con người có thói quen lựa chọn và được tự lựa chọn thì không theo bất kỳ sức ép gì, thì xã hội sẽ rất lành mạnh và phân phối 1 cách tương đối đều.

Chứ như bây giờ, theo tôi, nước ta vẫn chưa đạt được đến điều ấy, mà trẻ con bây giờ đi học vẫn bị thiên lệch.

Một sự thiên lệch lớn trong xu hướng chọn nghề của giới trẻ VN là tâm lý "coi thường các khối ngành xã hội". Và, có một thực tế là học sinh có trí tuệ tốt thường "nói không" với các ngành này. Ông nhìn nhận hiện tượng này như thế nào?

Thực chất, ở Việt Nam chưa có khoa học xã hội.

Xin lỗi ông, chưa phát triển hay chưa có?

Chính xác là chưa có. Khoa học, bản thân nó, theo đúng nghĩa phải có tranh cãi, sáng tạo, phải chấp nhận những sự khác nhau, phải tồn tại những trường phái khác nhau.

Nhưng, ở Việt Nam, chúng ta chỉ cho phép tranh luận trên một khung tư tưởng đóng chặt, đó là chủ nghĩa Mác. Và điều đó hạn chế rất nhiều đến sự phát triển của khoa học xã hội.

Cho nên, nó cũng tác động đến tâm lý chọn nghề của các bạn trẻ.

Một tâm lý phổ biến khác của người Việt Nam vẫn là coi trọng bằng cấp. Thực tế, nhiều khi việc học cao đồng nghĩa với việc hi sinh những cơ hội khác nào đó, có thể phù hợp hơn.

Điều đó cũng dễ hiểu. Việt Nam chịu ảnh hưởng của hệ thống khoa cử lâu đời. Trong xã hội xưa, con đường tiến thân duy nhất của con người là học.

Tuy nhiên, xã hội bây giờ, mở rộng hơn nhiều và mở rộn con đường đi chứ không chỉ có học hành thi cử.

Tôi gặp nhiều ví dụ về sự thành công như thế này.

Tôi biết một cậu, con của ông Nguyễn Khắc Phi, cháu ông Nguyễn Khắc Viện... đã không đỗ đại học trong năm thi đầu. Đây là niềm thất vọng rất lớn cho một gia đình có truyền thống học hành như thế.

Nhưng, anh ấy đã không cố gắng để đi tiếp con đường khoa cử, mà dấn thân vào một lựa chọn khác và đã đi đúng hướng. Và hiện tại anh là một chủ doanh nghiệp thành đạt.

Page 30: Toán học Việt Nam: Danh và thực · Web viewCác số báo của Acta Math. Viet. mà tôi nhìn thấy ở các thư viện trên thế giới (kể cả những số năm

Theo ông, làm sao để chúng ta khuyến khích, một cách thực sự, những suy nghĩ như thế này?

Do cách đánh giá học sinh, hay rộng ra là đánh giá con người ở ta còn phiến diện. Một người mà có khả năng về cái gì đó, thì tất nhiên là họ giỏi rồi.

Thời ở Nga, tôi thấy người ta đánh giá học trò không giống của ta. Ở ta, em nào học giỏi hay được nhắc đến. Còn họ, tuyên dương em A giỏi vẽ, em B giỏi nhảy cao... tức là họ tôn trọng tất cả mọi khía cạnh hoạt động của con người.

Chúng ta cần tuyên truyền và sử dụng nhiều hơn cách đánh giá này. Như thế cũng là cách xây dựng tâm lý linh hoạt trong cách nhìn nhận, chọn nghề...

Cảm ơn ông.

Hoàng Lê (Thực hiện