138
1 TRNH GIA CHÍNH PHTác gi: Trịnh Như Tấu - xut bản năm 1933 Minh Khang Đại Vƣơng Trịnh Kim

Trình Gia Chính Phả

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Phả hệ họ Trình

Citation preview

1

TRỊNH GIA CHÍNH PHẢ Tác giả : Trịnh Như Tấu - xuất bản năm 1933

Minh Khang Đại Vƣơng Trịnh Kiểm

2

Là quyển gia phả của chúa Trịnh, chép hết công việc của 12 đời chúa, từ

lúc thịnh đến lúc suy, gồm đủ mọi việc chính trị, văn chương, ngoại giao, nội

chiến, quốc thể, nhân tài,vv. Về đời vua Lê, chúa Trịnh: tóm lại là hết thảy

những điều quan hệ đến lịch sửnước Nam trong klhoảng 249 năm từ thế kỷ

thứ XIV đến thế kỷ thứ XVIII (1539 – 1787) đều có quyển sách này.

3

TỰA

Họ có Gia phả cũng như nước có lịch sử, để kỷ niệm công đức của tổ tôn đời

trước và tổ bảo nguồn gốc cho con cháu đời sau.

Nhà Trịnh là một nhà to họ, dài giống, trong nước Việt Nam. Xem chữ có

câu rằng: “ Trịnh tồn, Lê tại”, thì biết Lê nhờ có Trịnh, mấy gây dựng được cơ

nghiệp trung hưng. Xem lại có câu: “Vua Lê chúa Trịnh”, thế là Trịnh nhờ Lê

mới dựng lên cơ nghiệp, trải thờ mười bốn đời vua, tính có hai trăm bốn mươi

năm lẻ. Văn trịnh, võ công đã rõ rệt trong lịch sử triều Lê, mà thế thứ trước sau

đều ghi chép trong gia phả họ Trịnh. Duy từ lúc vua Lê thất thế, họ Trịnh bá

thiên, con cháu xa đời, gia phả rách nát. Như thế mà muốn khảo cứu, soạn

thành một bộ Gia phả hoàn toàn không phải việc dễ. Và nay đương lúc hán tự

hậu tàn, Quốc ngữ đương thịnh, làm sách quốc ngữ cốt lấy chơi nhẽ giản dị,

từng thứ phân minh như vờn nước trong, vẽ người đẹp, quý vẻ tự nhiên, không

cần phấn sức. Nếu nói văn hoa quá sợ mất sự thực của tiền nhân, mà vắn tắt

quá sao đủ làm gương cho hậu thế? Vậy thời phải học hành rộng, kiến thức cao

mới có thể làm được.

Ông Trịnh Như Tấu, dòng dõi nhà Tông, tính lại ham học, mới đỗ Tham

tá, chuyên học sử khoa. Trong hạn Thượng du, được ngày công hạ, tự xem Gia

phả, dịch ra Quốc văn, thấy chỗ nào khiếm khuyết, lấy “Khâm địch Việt sử”

thêm vào cho đủ, thấy chỗ nào sai nhầm trích “Việt Nam sử được” chua vào

cho tường. Tóm tắt cả thẩy mười hai đời, chia ra làm năm giai đoạn. Nói có

chứng cứ, như dao chém đá, như đinh đóng cây. Văn không cầu kỳ, trẻ con dễ

4

xem, đàn bà dễ hiểu. Lại kê cửu niên hiệu nhà Lê sóng mấy dương lịch, làm

thành một quyển có linh trăm tờ, nhan đề: “Trịnh Gia Chính Phả”. Làm xong

đưa tôi xem: tôi đọc từ đầu đến cuối, hết lòng kính phục, nên cầm bút làm tựa

này

Lão Nhai, ngày 15 tháng 3 năm Nhân Thân

Niên hiệu Bảo Đại thứ bảy (21 mars 1932)

Tú tài Hàn lâm viện kiểm thảo

Đầu hoa Trần kinh nam

5

TỰA

Chúng ta khi còn nhỏ, thường nghe nói: “Vua Lê Chúa Trịnh”, vẫn

tưởng là câu ngạn ngữ thường của thôn quê ta. Lúc đã đi học lại thường

ngâm câu: “Trịnh tồn Lê tại, Trịnh bại Lê vong”, cũng không hiểu ý nghĩa

câu ấy thế nào? Sau học đến sử Nam, mới biết câu ngạn ngữ kia phát hiện

ra từ đời hậu Lê, mà có quan hệ với quốc dân lắm, và sự giải quyết hai câu

nọ là tình hình liên lạc của hai nhà, cũng ví như ngũ quan đối với dây thần

kinh vậy.

Lê nhờ có Trịnh mới khôi phục được cơ đồ, dẹp yên được loạn giặc, tuyệt

diệt được Ngụy Mạc, thu phục được Nam Triều: tìm tòi giống cũ, thay đổi

chính mới, đều là nhờ tay chúa Trịnh cả.

Trịnh nhờ có Lê mới được vinh tổ diệu tông, phong thê ấm tử: sắclệnh ra

Bắc, Bắc phải tuân; vinh quyền sang Nam, Nam phải phục; thu phục được

nhân tài, hiệu lệnh được thiên hạ, đều nhờ có vua Lê cả. Nên ông Trạng

Trình có bảo nhà chúa rằng: “ muốn ăn lúa phải tìm thóc giống cũ” lại dẫn

ra chùa mà chỉ bảo nhà sư: “nên thành kính phụng Phật thì được thụ lộc”.

Thế nên Trịnh dẫu quyền khuynh thiên hạ mà vẫn phải giữ đạo tử thần,

không dám bắt trước như Vương Mãng nhà Hán, Lộc Sơn nhà Đường vậy.

Vua Lê mấy phen toan mưu trừ chúa Trịnh mà cũng không xong, là bởi

tại thiên số. Đến sau Nguyễn Hữu Chỉnh dẫn Tây Sơn vào, mượn tiếng “phù

Lê diệt Trịnh”, té ra Trịnh mất thì Lê cũng không còn: thế là kết cục của hai

nhà.

6

Lại xét đến sự tình liên lạc của Nguyễn với Trịnh: đức Thế Tổ Trịnh

Kiểm nhờ đức Chiêu Huân Nguyễn Kim mới gây lên cơ đồ Vương nghiệp

Đức Đoan Quốc Nguyễn Hoàng lại nhờ có Đức Thành Tổ Trịnh Tùng mới

mở mang được Nam Triều. Ấy là đoạn thứ nhất, đoạn giữa thì tuy rằng

Nguyễn với Trịnh tranh hành nhau mà vẫn duy trì nhau: Nguyễn vì e có

Trịnh mà hết sức mở đất cõi để giúp vua Lê ở ngoài, Trịnh e có Nguyễn mà

hết sức giữ đạo thần tử để giúp vua Lê ở trong.

Sau cùng thì Trịnh thất thế mà Nguyến lại lên ngôi, nhớ đến tình xưa

nghĩa cũ, sắc cho con cháu nhà Trịnh được coi giữ việc tế tự Tiên Vương.

Nhà Trịnh có Bản Triều mà được hưởng hương hỏa trăm năm, không đến

nỗi luân duyệt như họ Hồ, họ Mạc. Thế là nhờ có trung huân của Liệt

Vương để lại cho đó.

Nay nhân ông Trịnh Như Tấu đưa tôi xem bộ “ Trịnh Gia Chính Phả”,

vậy xin cẩn thuật để làm tựa.

Giang Nam, Ngọc Hồ cư sĩ

Phạm Ngọc Đan

Cẩn tự

7

BÀI TỔNG LUẬN

Nhà Trịnh, từ đức Thái vương Trịnh Kiểm theo đức Triệu Tổ Nguyễn

Kim giúp vua Lê trung hưng dẹp yên được Châu Hoan, Châu Ái, lấy lại

được Trấn Hưng, Trấn Tuyên, trải thờ vua Trang Tôn, vua Trung Tôn, vua

Anh Tôn nhà Lê tặng tước Minh Khang Đại Vương.

Đức Trịnh Tùng phong tước Bình An Vương, bắt giết được Mạc Mậu

Hợp, lấy lại được thành Thăng Long, nối dõi trí cha, giúp lên nghiệp đế, trải

thờ bốn triều, dựng thành Vương phủ, anh hùng tiếng lừng Trung Quốc.

Đức Trịnh Tráng phong tước Thanh Vương, giúp quân cứu nhà Minh, sai

tướng trừ Ngụy Mạc, tôn phù vua Thần Tông, vua Chân Tôn; vua nhà Minh

tặng phong “An Nam Phó Quốc Vương”.

Đức Trịnh Tạc phong tước Tây Vương, trải thờ vua Thần Tôn, vua Chân

Tôn; vua nhà Minh tặng phong “An Nam Phó Quốc Vương”.

Đức Trịnh Tạc phong tước Tây vương, trải thờ vua Thần Tôn, Huyền

Tôn, Gia Tôn, bốn triều, đánh bắt được giặc Mạc Kinh Vũ, lấy lại được trấn

Cao Bằng.

8

Đức Trịnh căn phương tước Định vương, khi tuổi trẻ giúp ông và cha, lấy

lại được nhiều cảnh thổ, thờ vua Lê Hi Tôn, Lê Dụ Tôn.

Đức Trịnh Cương phong tước An vương, sửa đổi nhiều việc trong nước.

Đức Trịnh Giang phong tước Uy vương, dựng vua Thuần Tôn, vua Ý

Tôn, săn sóc việc chính trị, khuyến khích bọn nho thần.

Đức Trịnh Doanh phong tước Minh vương, tôn phủ vua Lê Hiển Tôn,

chọn dùng kẻ hiền tài, dẹp yên được loạn giặc,lưu tâm về việc chính trị, trăm

họ an vui.

Đức Trịnh Sâm phong tước Tĩnh vương, dẹp yên giặc Trấn Ninh, bình

được trấn Thuận Hóa, sửa đổi việc chính trị.

Đức Trịnh Cán phong tước Diện đô vương, phải quân tam phú bách bỏ.

Đức Trịnh Khải phong tước Đoan nam vương, phải tên Nguyễn Trang

bắt nộp Tây Sơn, không chịu khuất, bèn tự tận.

Đức Trịnh Bồng phong tước Ấn độ vương, trí toan khôi phục, lại bị

Nguyễn Hữu Chỉnh đánh thua, chán nản sự đời, xuất gia đầu Phật.

Họ Trịnh nhà ta, từ Đức Thái vương Trịnh Kiểm tổng chính đến đức Ấn

độ vương Trịnh Bồng xuất gia truyền ngôi chúa, mười hai đời chẵn, cộng hai

trăm bốn mươi chín năm, thực là một nhà không phải là Đé, cũng không

phải là Bá, quyền khinh thiên hạ mà vẫn giữa đạo tử thần. Không những các

vua đời nhà Lê tấn phong vương tước mà dẫn đến vua đời nhà Nguyễn còn

truy niệm ân tình. Nên có sắc dụ cho tổ tôn họ Trịnh đã trở về trước được

9

biệt cấp tự đièn mà nòi giống họ Trịnh ta về sau này đòi được miễn trừ sưu

dịch.

Thế mấy biết: Nước có thay đổi, nhà có thịnh suy nhưng bao giờ đối với

nước cũng phải lấy Trung làm đầu, đối với nhà phải lấy Hiếu làm trọng, nên

tường thuật hành trạng của tổ tôn đời trước, soạn thành bộ Gia phả này,

mong con cháu đời sau trông đó làm gương, sao giữ được:

“ Con nhà tông, chẳng giống lông cũng giống cánh”

Nay tổng luận

Lão Nhai, ngày 15 tháng giêng năm Nhân Thân

Niên hiệu Bảo Đại thứ bảy (20 fevrier 1932)

Nhật nham Trịnh Nhƣ Tấu

10

LỊCH SỬ VƢƠNG NGHIỆP NHÀ TRỊNH

ĐOẠN THỨ NHẤT

CÔNG ĐỨC LIỆT TỔ

Cụ Hưng tổ Phúc ấm vương Trịnh Liễu, người làng Sáo Sơn, huyện Vĩnh

Phúc, phủ Thiệu Hóa, trấn Thanh Hóa, lúc bé cha mẹ mất sớm, lấy nghề cày

cấy chăn nươi để sinh nhai, lại vốn có lòng nhân từ hiền hậu. Một hôm, trời

gần tối, chợt gặp ông già bảy mươi tuổi trên bờ sông, xin ngủ trọ một dêm.

Cụ chào mời vui vẻ, cùng đi về nhà, tiếp đài rất hậu. Đêm khuya, ông già

bảo cụ rằng: “Tôi xem ông có lòng thành thực tiếo đẫi tôi. Bên nam núi

Hùng Lĩnh có một ngôi đất, để mả ở đấy, bốn đời sau, có thể làm lên Vương

nghiệp. Tôi muốn lấy chỗ đất đấy trả ơn ông, ông nghí sao?- Cụ thưa rằng: “

Tôi dám mong đâu thế!”- ông già lại bảo rằng: “Trời cho người cho, không

phải tìm cũng được”.Cụ theo nhời ông cùng đi lấy hài cốt thiên nhân về

chôn chỗ đó, song cùng đi đến bên Đông núi Lệ Sơn, xứ Ngõ Thắng, xã

Biện Thượng. Ông già chỉ bảo cụ rằng: “Chỗ này có thể lập ngôi dương cư

được”. Lại đi đến Mả Thắm, ông già nói rằng: “Chỗ này quý địa, trăm năm

sau có thể làm âm phần tiếp phúc được”, rồi hai người cùng trở lại Sáo Sơn.

Đương lúc chè chén vui vẻ, ông già đủng đỉnh ra ngoài, rồi không biết đi đâu

mất, tìm không thấy mới biết là Thần trên trời giáng xuống (sau phong là

Tống Thiền Thần Vương).

Cụ lấy con gái họ Hoàng làng Biện Thượng rồi rời sang ở đấy.

Cụ sinh ra đức Diễn Khánh vương Trịnh Lan.

Trịnh Lan sinh ra đức vương Trịnh Lâu.

11

Trịnh Lâu lấy con gái họ Hoàng thôn Hồ, làng Vệ Quốc (huyện Yên

Định), sinh ra đức Thế Tổ Minh Khang Đại Vương Trịnh Kiểm.

Trịnh Kiểm gây lên Vương nghiệp truyền mười hai đời, cộng hai trăm

bốn mươi chín năm.

12

ĐOẠN THỨ HAI

HÀNH TRẠNG CỦA LIỆT TỔ

1. ĐỜI THẾ TỔ MINH KHANG ĐẠI VƢƠNG (1539 – 1569)

Trịnh Kiểm mặt vuông, tai to, mồ côi cha từ năm lên sáu. Mẹ con nghèo

đói, ai cũng khinh để. Trịnh Kiểm phân tri, bỏ Biện Thượng lại về Sáo Sơn,

thường nhật vẫn chăn trâu thuê trong núi Lệ Sơn, tụ tập trẻ mục đồng, lấy gà

vịt làm lương thực, lấy trâu bò giả làm voi ngựa, bẻ bông lau giả làm cờ xí,

bầy cơ ngũ, tập trận mạc. Người làng khó chịu, toan mưu hại Trịnh Kiểm

mới chạy về với bầy tôi nhà Mạc là tước Ninh Bang Hầu người làng Biện

Thượng, chăn ngựa cho tước hầu ở Thạch Thành (xách Thọ Liêu), rồi lấy

một con ngựa giỏi chạy sang Mường Sùng (Cổ Lũng Ai lao), còn bà mẹ phải

trốn về quê mình là làng Vệ Quốc. Trịnh Kiểm nghe tin về thăm mẹ. Có

người tố giác với tước Hầu, tước Hầu sang Sáo Sơn vây bắt, nhưng không

bắt được Trịnh Kiểm, bèn trói bà mẹ đem dìm xuống sông làng Biện

Thượng. Xác bà trôi dạt vào bờ sông, gặp người họ Mai làng Đông Biện vớt

đem lên bờ, đương tìm ván cuốc toan chôn, ra đến nơi mối đã đùn lên thành

mộ. Người ta ai cũng cho là thiên táng. Chỗ mộ ấy đến nay xa bồi ra đến

giữa sông, có nhiều cây cổ thụ. Trịnh Kiểm được tin mẹ bị nạn, khóc lóc vật

vã, nói không ra lời làm lễ tế mộ, rồi xa lũ Vũ Thời Tung Định đi táng về xứ

Đông Lãng, thôn Sáo Sơn.

Lúc bấy giờ đức Hưng quốc công Nguyễn Kim tôn phủ nhà Lê đóng đồn

ở đất Mường Sùng sứ Ai Lao đang toan trính khôi phục cơ đồ nhà Lê, thấy

13

Trịnh Kiểm có dũng lược. Nguyễn Kim mới tâu cho làm chức Tri mã cơ Dục

nghĩa hầu ông lại gả con gái là Ngọc Bảo cho để cùng gia sức phù Lê.

Vua tôi nhà Lê nương náu ở Cẩm Châu để chiêu tập binh mã. Mãi đến

năm Canh Tý (1540), mới đem quân về đánh Nghệ An và Thanh Hóa, thu

phục đất Tây Đô (1543). Bấy giờ quan tổng trấn nhà Mạc là Dương Chấp

Nhất ra hàng Trịnh, uy tiếng ngày một lừng lẫy.

Năm Ất Tỵ (1545) Vua Lê tiến binh ra đánh trấn Sơn Nam, Nguyễn Kim

là Đô tướng Thái Tể Tiết chế thủy bộ mọi dinh, đánh đâu được đấy. Không

ngờ Mạc Phúc Hải ủy cho Dương Chấp Nhất là hoạn quan giả cách hàng vua

Lê để thám thính tình thế. Vua Lê tính thực, cho binh theo đánh Mạc. Một

hôm đi đến huyện Yên Mô, vua Lê mời Nguyễn Kim đến bàn tâm sự, gặp

trời nắng bức, đem dưa mời Nguyễn Kim ăn giải khát. Nguyễn Kim ngộ phải

thuốc độc chết. Chấp Nhất trốn về với Mạc. Trước khi chết, Nguyễn Kim

giao cả binh quyền cho con rể là Trịnh Kiểm.

Trịnh Kiểm được ra phong làm Đô úy tướng Tiết chế thủy bộ mọi dinh

gồm tổng chức Ngoại binh Chương quân Quốc trọng sự hàm Thái sư, tước

Lượng quốc công.

Năm Bính Ngọ (1546), Trịnh Kiểm rút quân về Thanh Hóa lập hành điện

ở đồn Vạn Lại thuộc huyện Thụy Nguyên (Thanh Hóa) để cho vua ở, dựng

hành dinh ở xã Biện Thượng rồi chiêu mộ những kẻ hào kiệt, luyện tập quân

sĩ, tích trữ lương thảo để lo việc nước. Anh hùng hào kiệt ở Châu Hoan,

Châu Diễn (Nghệ An) đều vui lòng theo dung nên cảnh thổ Châu Ái ( Thanh

Hóa) cũng dần dần bình trị cả.

Năm Mậu Thân (1548) , vua Trang Tôn mất, Trịnh Kiểm lập Thái tử là

Duy Hiên lên làm vua: tức là Trung Tôn, được 8 năm rồi băng hà.

14

Trong mấy năm đời vua Trung Tôn, Trịnh Kiểm giữ thế thủ ở đất Thanh

Hóa để sửa sang việc binh lương, đợi ngày tiến đánh họ Mạc.

Vua Trung Tôn mất không có con mà lúc bấy giờ dòng dõi họ Lê cũng

không có ai; việc binh quyền vẫn ở trong tay Trịnh Kiểm cả.

Trịnh Kiểm thân đi tìm con cháu nhà Lê, đến làng Bố Vệ ( huyện Đông

Sơn) gặp được cháu huyền tôn ông Lam Quốc công Lê Trừ ( anh vua Thái

Tổ) tên là Duy Bang (tục gọi là Chúa Chổm) rước về dựng lên làm vua, tức

là vua Lê Anh Tôn.

Năm Mậu Ngọ niên hiệu Chính Trị thứ nhất (1558), trời mưa to luôn,

trong nước mất mùa, dân tình đói kém, Trịnh Kiểm sắp sửa tiến binh phải

hoãn đến năm sau, cho qua nạn đói. Bấy giờ đất Thuận Hóa mới bình định,

nhà Lê đặt chức Tam ty và phân ra các phủ, huyện để cai trị nhưng nhân tâm

vẫn chưa yên, vả đấy lại là nơi xa hiểm nên Trịnh Kiểm ngày đêm rất lo về

mặt Nam. Nguyễn Hoàng nhờ chị là công chúa Ngọc Bảo xin Trịnh Kiểm

cho vào trấn đất Thuận Hóa. Tháng mười năm ấy (1558), Trịnh Kiểm dâng

biểu tấu vua Anh Tôn: “đất Thuận Hóa là nơi hình thắng xưa nhà nước nhờ

binh tài ở đấy mà thành lên đaị nghiệp. Nay nhân tâm chưa yên, nhiều người

trốn ra theo Mạc, sợ sau này có kẻ đem giặc vào cướp phá chăng? Nếu

không được một người tướng giỏi chấn thủ, không sao yên được. Đoạn quân

công Nguyễn Hoàng vốn dòng thế tướng, gồm đủ dũng lược, có thể cho vào

trấn thủ Thuận Hóa để cùng với các thủ tướng ở miền Quảng nam làm thế ỷ

dốc. Như vậy nhà vua mấy khỏi cái lo về phía Nam”. Vua Lê Anh Tôn nghe

nhời Trịnh Kiểm tâu, chuẩn cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ Thuận Hóa, sắc

cho mọi việc được chuyên trách, chỉ hàng năm phải cống thuế.

15

Trịnh Kiểm không phải lo đến mặt Nam nữa, năm sau (1559), khởi binh

đánh Mạc.

Mạc Kinh Điển đem binh vào đánh Thanh Hóa cả thảy kể hơn mười trận,

trận nào cũng đại bại phải rút quân về, Trịnh Kiểm tiến binh đánh Sơn Nam

kể vừa sáu lần, mà không lần nào được toàn thắng. Chỉ có năm Kỷ Mùi

(1559), Trịnh Kiểm tự lĩnh sáu vạn quân tiến lên mặt Bắc, chiếm được tỉnh

Sơn Tây, Hưng Hóa, Thái Nguyên, Kinh Bắc, Lạng Sơn và các huyện thuộc

Hải Dương, nhưng lại bị Mạc Kinh Điển đo đường bộ vào đánh úp Thanh

Hóa, tình thế rất nguy cấp. Trịnh Kiểm phải bỏ xứ Bắc về giữ Tây Đô.

Thành ra hai bên cứ giữ nhau mãi, không bên nào được hẳn mà cũng không

bên nào thua hẳn.

Trịnh Kiểm tuy chưa lấy lại được đất Bắc Kỳ nhưng đã dẹp yên được

Châu Hoan, Châu Ái, lấy lại được trấn Hưng, trấn Tuyên, lại vốn có dũng

lược hơn người, biết xếp đặt các kế hoạch để chống giữ, biết trù tính việc lâu

dài, khiến cho thế lực nhà Lê mỗi ngày một thêm mạnh. Nhà Lê nhờ Trịnh

Kiểm mới trung hưng được, mà họ Trịnh lập lên nghiệp Chúa cũng là khởi

đầu tự Trịnh Kiểm vậy.

Năm Kỷ Tỵ thứ 12 (1569), Trịnh Kiểm được gia phong làm quan thượng

tướng chức Thượng phu Thái quốc công. Năm Canh Ngọ niên hiệu chính trị

thứ 13 (1570) tháng hai ngày 18, Trịnh Kiểm mất thọ 68 tuổi truy tôn Minh

Khang Đại Vương, miếu hiệu là Thế Tổ. Chiếu cho con trưởng là Trịnh Cối

tước Đại quốc công thay quyền cha lo việc đánh dẹp. Nhưng Trịnh Cối

không biết thương quân sĩ, nên tướng tá không ai quy phục đều bỏ theo cả về

với em là Trịnh Tùng, Trịnh Tùng nhân đấy được nối nghiệp Vương.

16

2. ĐỜI THÀNH TỔ TRIẾT VƢƠNG TRỊNH TÙNG (1570 - 1623)

Trịnh Tùng con thứ hai của Trịnh Kiểm, thấy tướng tá không quy phục

anh là Trịnh Cối mà theo cả mình, bèn cùng với Lê Cập Đệ và Trịnh Bách

rước vua về đồn Vạn Lại (Thanh Hóa). Trịnh Cối được tin đem quân đuổi

theo nhưng không đuổi kịp, lại gặp Mạc Kinh Điển đốc mười vạn quân sang

đánh cửa bể Linh Trường, Hội Trào, Chi Long; quân đóng ở phủ Hà Trung,

khói lửa liền liền hơn mười dặm ta. Trịnh Cối tự lượng thế không chống lại

được, bèn đem quân về hàng họ Mạc, Mạc lại cho giữ quan tước như cũ.

Mạc thừa thế kéo binh lên Sông Mã, từ Cửa ứng trở xuống sông Lương Từ

Bổng lật trở về, khói lửa rực trời, tinh kỳ rợp đất. Bên tả ngạn sông Mã:

Châu Ra, Châu Tầm; ở hữu ngạn sông Mã: huyện Lôi Dương, huyện Nông

Cống đều biến thành nơi chiến trường. Quân Mạc tiến đến vây hành điện chỗ

vua Lê đóng. Trấn Thanh Hóa lại sắp về nhà Mạc.

Bấy giờ vua Anh Tôn rời về Đông Sơn phong cho Trịnh Tùng làm Tả

Thừa tướng Tiết chế mọi dinh tướng sĩ, để chống với quân Mạc, Trịnh Tùng

sai các tướng giữ các nơi hiểm yếu, rất là chắc chắn. Mạc Kinh Điển đánh

mãi không được, lâu ngày hết cả lương thực. Trịnh Tùng thừa thế rước xa

giá đem quân đánh lấy lại được huyện Thụy Nguyên, huyện Yên Định, thắng

cho đến huyện Đông Sơn, trọ dinh ở đấy rồi sai ông Hoàng Đình Ái đánh lấy

huyện Lôi Dương, huyện Nông Cống và địa phận Quảng Xương nữa, và sai

ông Lại Thế Khánh đánh lấy huyện Tống Sơn, huyện Nga Sơn. Quân Mạc

thua chạy, Kinh điển phải nhổ trại rút quân về Bắc.

Năm Tân Mùi niên hiệu chính trị thứ 14 (1571), vua Lê Anh Tôn bàn đến

chiến công, gia phong cho Trịnh Tùng làm quan Thái úy tước Trưởng quốc

công và thăng trưởng cho các tướng sĩ. Quan thái phó là Lê Cập Đệ sinh

17

lòng ghen ghét, mưu với vua toan hại Trịnh Tùng. Trịnh Tùng giả làm người

thường lấy vàng ngọc tặng cho Lê Cập Đệ. Ngày 21 tháng 11 năm ấy, Lê

Cập Đệ thân lại tạ, Trịnh Tùng phục binh giết ngay. Vua Anh Tôn lo sợ lắm,

cùng bốn hoàng tử đưa ra tuần ở ngoài, chạy vào Nghệ An lánh ở huyện Lôi

Dương, rồi mất ngày 22 tháng giêng năm Quý Dậu niên hiệu Hồng Phúc thứ

hai (1573).

Trịnh Tùng thấy vua xuất ngoại rồi bèn rước hoàng tử thứ năm là Lê Duy

Đàm ở làng Quảng Thị (huyện Thụy Nguyên) về dựng lên làm vua, đổi niên

hiệu là Gia Thái, ấy là vua Lê Thế Tôn.

Thời bấy giờ quân Mạc đang tung hoành, Trịnh Tùng một mặt chia quân

phòng giữ các nơi hiểm yếu, một mặt tiến đại binh đánh nhau với Mạc ở

thành Khoái Châu. Tướng nhà Mạc là Lê Thế Viêm, Mạc Kinh Điển yếu thế

phải cùng nhau rút quân về Kinh Đô.

Rồi trong 10 năm từ Quý Dậu (1573) đến Quý Mùi (1583), Trịnh Tùng

cứ giữ vững đất Thanh Hóa, Nghệ An khiến cho Mạc đánh vào phải hao

binh tổn tướng. Tướng nhà Mạc là Mạc Kinh Điển, Nguyễn Quyện và Mạc

Ngọc Liễn khi thì vào đánh Thanh Hóa, khi thì đánh cả Thanh Hóa và Nghệ

An nhưng không bao giờ thành công lại phải rút quân về.

Năm Mậu Dần (1578), đổi niêm hiệu là Quang Hưng.

Đến năm Quý Mùi (1583), Trịnh Tùng xem thế mình đã mạnh, mới cử

binh mã ra đánh Sơn Nam (Nam Định) lấy được rất nhiều lương thực. Về

sau năm nào cũng ra đánh khiến cho quân nhà Mạc sức một ngày một suy.

Nhà Mạc thấy thế nhà Lê một ngày một mạnh, bèn bắt quân dân đắp ba từng

lũy, đào ba lần hào ở ngoại thành Đại La để phòng giữ lũy.

18

Lũy ấy bắt đầu từ làng Nhật Chiêu (nay là Nhật Tân về phía Tây Bắc Hà

Nội, quanh Tây Hồ, qua xã Yên Thái (làng Bưởi làm giấy ta) theo đông ngạn

sông Tô Lịch đến Gia Kiều (nay là Thịnh Quang) suốt sang đông cho đến bờ

đê sông Nhị Hà gần xã Vĩnh Tuy (thuộc huyện Thanh Trì).

Thế là Thăng Long, phía đông sông Nhị Hà về phía tây, nam, bắc có lũy

bao bọc rất là kiên cố.

Trịnh Tùng bèn nhất quyết cử đại binh ra đánh Thăng Long.

Năm Tân Mão (1591), Trịnh Tùng sai Diễn quận công Trịnh Văn Hải,

thái quận công Nguyễn Tất Lý đem binh trấn thủ các cửa bể và các nơi hiểm

yếu; sai Thọ quận công Lê Hòa ở lại giữ ngự dinh và trông nom cả địa hạt

Thanh Hóa. Phòng bị đâu đấy rồi, Trịnh Tùng bèn chia năm vạn (50.000)

quân ra làm năm đạo, giao cho Thái phó Nguyễn Hữu Liên, Thái úy Hoàng

Đình Ái, Lân quận công Hà Thế Lộc, Thế quận công Ngô Cảnh Hựu mỗi

người lĩnh một đạo; còn mình tự thân chính làm tướng đem hai vạn quân

thẳng cửa Thiên Quan (Ninh Bình) tiến đánh nhà Mạc.

Vua nhà Mạc là Mạc Hậu Hợp được tin Trịnh Tùng đem quân ra Bắc,

bèn hợp tất cả quân bốn vệ và quân năm phủ được hơn mười vạn, chia làm

ba đạo, sai Mạc Ngọc Liễn và Nguyễn Quyện lĩnh hai đạo đi làm tả hữu

dực;còn mình tự dẫn trung quân đến đóng đối trận với quân Trịnh Tùng.

Trịnh Tùng thấy quân Mạc đã đến bèn tự mình dốc tướng sĩ, thề đánh cho

được giặc để yên trong nước. Hai bên đánh nhau ở bên sông Hát Gian. Quân

họ Trịnh đánh rất hăng. Quân nhà Mạc chống không nổi, thua chạy qua

sông, đảng lốt tranh thuyền, lăn xuống sông chết quá nửa. Mạc Hậu Hợp bỏ

chạy. Quân họ Trịnh thừa thế đuổi tràn gần đến thành Thăng Long, đóng

quân trên sông Nhuệ (Ninh Giang). Vừa gặp tết Nguyên Đán nên Trịnh

19

Tùng định chiến cho quân sĩ nghỉ ngơi ăn tết. Qua sang tháng giêng năm

Nhâm Thìn thứ 15 (1592), Trịnh Tùng lập đàn tế trời đất và các Tiên đế nhà

Lê rồi đặt ba điều để nghiêm cấm quân sĩ:

Điều thứ nhất: không được vào nhà dân lấy lương thực và củi đuốc.

Điều thứ hai: không được cướp của cải và chặt cây cối.

Điều thứ ba: không được dâm hiếp đàn bà con gái, không được vị tư thù

mà giết người.

Ai phạm ba điều ấy sẽ lấy quân pháp nghiêm trị.

Đoạn rồi, Trịnh Tung tiến quân đánh Thăng Long thành. Quân sang sông

Nhuệ, đóng ở chùa Thiên Xuân thuộc xã Thanh Xuân cách tỉnh lỵ Hà Đông

gần hai cây số rồi đến cầu Nhân Mục nghỉ chân.

Bấy giờ Mạc Hậu Hợp tuy thua quân cậy có tràng giang để thủ hiểm,

thấy quân nhà Trịnh tiến lên bèn sai lũ Mạc Ngọc Liễn, Bùi Văn Khuê,

Nguyễn Quyện và Trần Bách Niên ở lại cố giữ thành Thăng Long, rồi đem

quân qua sông Nhị Hà sang đóng ở lang Thổ Khối (huyện Gia Lâm), dùng

một trăm chiếc chiến thuyền chống giữ mặt đông thành Thăng Long. Mạc

Ngọc Liễn thống lĩnh đại quân giữ mặt Bắc, tây - bắc và tây thành Thăng

Long, từ sông Nhị Hà (xã Nhật Chiêu) đến cửa Bảo Khánh. Bùi Văn Khuê

và Trần Bách Niên cầm bốn đạo quân giữ mặt Tây Nam: cửa Gia Kiều,

Mộng Kiều và Triền Kiều (từ Tiên lãng đến Bạch Mai). Còn Nguyễn Quyện

thì dốc quân chống giữ mặt Nam và Đông Nam từ Bạch Mai đến sông Nhị

Hà.

Mồng 5 tháng giêng năm ấy (1592), Trịnh Tùng kéo quân qua cầu Nhân

Mục sang sông Tô Lịch, đóng ở Sạ Đôi, để bày trận thế rồi truyền cho các

20

tướng sĩ nội nhật phải lấy được thành Thăng Long và tướng nào vào được

trong thành trước sẽ được trọng thưởng.

Nguyễn Hữu Liêu và Trịnh Ninh làm tả dực cầm một vạn quân và voi

đánh lấy cầu Gia Kiều (nay là Thịnh Quang) cùng Bùi Văn Khuê và Trần

Bách Niên đại chiến ở cửu tây.

Hoàng Đình Ái và Trịnh Đồng làm hữu dực có 10.550 quân và voi, đánh

nhau với Nguyễn Quyện mặt Nam thành Thăng Long: cửu Triền Kiều (Bạch

Mai) và cửa Nam Giao.

Tiền quân và trung quân có Trịnh Đỗ đốc xuất.

Trịnh Tùng làm hậu tập có 25.000 quân.

Thuỵ Trang Hầu cầm 1.200 quân nghe hiệu lệnh phải đánh tiên phong,

lấy cầu Mộng Kiều và cửa Mộng Kiều ở mặt Nam thành Thăng Long.

Xếp đặt đâu đấy, các đạo quân đều kéo về xã Hông Mai (nay là Bạch Mai

phường) để chờ hiệu.

Đến giờ Tị thì nổi hiệu bằng ba tiếng súng, tiếmg cồng và tù và. Thế là

gần 9 giờ sáng mới bắt đầu khởi chiến: mãi đến 3 giờ chiều mà bất phân thắng

phụ. Trịnh Tùng đốc bản quân cố sức xông vào mới phá được luỹ. Quân Trịnh

kéo vào trong thành, Bùi Văn Khuê, Mạc Ngọc Liễn và Trần Bách Niên bỏ

thành chạy thoát.

Quân Nguyễn Hữu Liên lấy được cửa tây, xông vào trong thành, đốt phá

lâu đài, dinh thự, rồi kéo thẳng đến bến sông Nhị Hà.

21

Hoàng Đình Ái chiếm được cửa Triền Kiều (Bạch Mai), phá cầu Triền

Kiều, khiến cho quân Nguyễn Quyện không lối tháo than, chết hại rất nhiều,

Nguyễn Quyện bị bắt còn hai con tử trận.

Trịnh Tùng thắng trận rồi, kéo toàn lục quân kỵ binh và voi vào thành

Thăng Long. Quân Mạc bị chết hoặc bị bắt rất nhiều; phần thì chạy về phía

đông, bơi qua sông Nhị Hà để trốn, bị chết đuối rất nhiều. Mạc hậu Hợp chống

giữ hai bên bờ sông Nhị Hà cứu được nhiều đảng lốt trốn qua sông.

Khi bắt được Nguyễn Quyện rồi, Trịnh Tùng đối đãi rất ân cần, hỏi

Nguyễn Quyện những kế hoạch để diệt Mạc. Nguyễn Quyện khuyên nên phá

luỹ Đại La san phẳng ra làm bình địa, rồi tiếp chiến luôn.

Tuy phá mất nhiều thì giờ và tốn công phu mấy xong nhưng Trịnh Tùng

cũng nghe theo Nguyễn Quyện bắt quân lấp vào, phá luỹ.

Thế là cuối năm Nhâm Thìn (1592), Trịnh Tùng thu phục được thành

Thăng Long và cả xứ Bắc Kỳ (phía nam tỉnh Hưng Yên và Thái Bình không

kể).

Công việc xong rồi, Trịnh Tùng thân về Thanh Hoá đem tin thắng trận

cho Vua biết.

Trịnh Tùng đã bỏ Thăng Long về Thanh Hoá, Mạc Hậu Hợp không biết

nhân cơ hội ấy chỉnh đốn quân bị, sửa đổi chỉnh thể, lại cứ say đắm trong vòng

tửu sắc, bạc đãi các tướng sĩ, đến nỗi các công việc hư hỏng, thân mình bị hại.

Tướng nhà Mạc là Bùi Văn Khuê có người vợ tên là Nguyễn Thị, nhan

sắc hơn người. Mạc hậu Hợp toan giết Văn Khuê để lấy Nguyễn Thị làm vợ.

Văn Khuê biết ý, đem vợ vào huyện Gia Viễn (Ninh Bình). Mậu Hợp cho quân

theo bắt, Văn Khuê phải xin về hàng Trịnh Tùng.

22

Trịnh Tùng mừng lắm, sai Hoàng Đình Ái ra đón Văn Khuê cho Văn

Khuê làm tiền khu, tự mình lại đem đại binh trở ra Tràng An, gặp quan nhà

Mạc ở sông Thiên Phái (huyện Ý Yên và Phong Doanh thuộc tỉnh Nam Định),

đánh nhau một trận kịch liệt, lấy được 70 chiếc thuyền chiến. Tướng nhà Mạc là

Trần Bách Niên hàng Trịnh Tùng.

Quân Trịnh Tùng kéo ra Bình Lục (Hà Nam) rồi sang huyện Thanh Oai

(Hà Đông) đóng ở bãi Tinh Thần (xã Thanh Thần bây giờ), sau tiến lên đến

sông Hát Giang (cửa sông Đáy ra sông Hồng Hà), gặp tướng nhà Mạc là Mạc

Ngọc Liễn đánh cho một trận điên bái, lấy được kể hàng nghìn chiếc thuyền

chiến. Quân Mạc bị tan vỡ.

Mạc Hậu Hợp được tin quân mình thua to, bỏ thành Thăng Long đem

binh chạy về đóng ở Kim Thành thuộc tỉnh Hải Dương.

Trịnh Tùng ra tới Thăng Long sai Nguyễn Thất Lý, Bùi Văn Khuê và

Trần Bách Niên đem quân tiến đánh Kim Thành, đánh Mạc Hậu Hợp lấy được

rất nhiều của cải vàng bạc và bắt được mẹ Mạc Hậu Hợp cùng quân nhu chiến

mã đem về.

Mạc Hậu Hợp thấy nhiều phen quân mình bất lợi bèn cử con là Mạc Toàn

giám quốc, rồi tự mình thân chinh đem quân đi đánh. Nhân sai người đến hỏi

Trạng Trình quốc công mưu kế nên làm thế nào? Trạng Trình bảo: “Một mai

nước có biến cố, đất Cao Bằng tuy nhỏ nhưng cũng khá di duyên được vài đời”.

Bấy giờ quan nhà Mạc là bọn Đỗ Uông, Ngô Tạo cả thảy 17 người, về

hàng nhà Lê.

Trịnh Tùng sang đón ở huyện Vĩnh Lại, rồi sai Phạm Văn Khoái đem

quân đuổi đánh Mậu Hợp ở huyện Yên Dũng (Bắc Giang) và huyện Vũ Ninh

23

(nay là huyện Vũ Giang thuộc tỉnh Bắc Ninh), Mạc Hậu Hợp cùng thế phải bỏ

thuyền chạy lên bộ, vào ẩn trong chùa ở huyện Phượng Nhưỡng (Bắc Giang),

Văn Khoái đuổi đến đấy, có người chỉ dẫn bắt được Mậu Hợp đem về Thăng

Long, làm tội sống 3 ngày rồi đem chém ở bên sông Bồ Đề, đầu Mậu Hợp đem

vào bêu ở trong Thanh Hoá.

Nhà Mạc làm Vua kể từ Đặng Dung đến Mậu Hợp gồm 5 đời cộng được

65 năm (1527 - 1692).

Bấy giờ Mạc Kính Chỉ (con Mạc Kinh Điển và chắt Mạc Đặng Dung) ở

Đông Triều biết tin Mạc Hậu Hợp đã chết, bèn tự tôn làm vua, đóng ở huyện

Thanh Lâm, họp tộc đảng hơn trăm người và các quan văn võ rồi treo bảng

chiêu mộ quân sĩ. Chẳng bao lâu được sáu, bảy vạn người. Mạc Toàn là con

Mạc Mậu Hợp cũng theo về với Mạc Kính Chỉ.

Trịnh Tùng thấy Mạc Kính Chỉ lại nổi lên, thanh thế lừng lẫy bèn đem

quân sang đánh ở huyện Cẩm Giàng và huyện Thanh Lâm. Ngày 14 tháng

giêng năm Quý Tị niên hiệu Quang Hưng thứ 7 (1593), Trịnh Tùng bắt được

Kính Chỉ và họ hàng nhà Mạc cùng các quan văn võ cả thảy 60 người. Trong số

đó có hai quận công Khang Hựu và Hùng Lễ. Ngày 27 tháng ấy, Mạc Kinh Chỉ

bị xử giảo.

Trịnh Tùng đánh được trận ấy, trở về Thăng Long. Tháng 3 năm Quý Tị

(1593), rước xa giá vua Thế Tôn từ xách Vạn Lại đến Thanh Oai trú chân.

Tháng tư rước về kinh ngự chính điện mở triều và thăng thưởng cho các tướng

sĩ. Vua Thế Tôn chịu bốn phương chầu mừng và đại xá cho thiên hạ.

Năm sau, tướng nhà Mạc là Mạc Ngọc Liễn tìm được một người con Mạc

Kinh Điển là Mạc Kính Cung lập lên làm vua, chiếm giữ châu Yên Bác ở đất

Lạng Sơn để làm căn bản. Nhưng chẳng bao lâu Trịnh Tùng sai quan Thái úy là

24

Hoàng Đình Ái đem binh lên đánh, Mạc Kim Cung và Mạc Ngọc Liễn chống

không nổi phải bỏ chạy sang Long Châu.

Đến đây nhà Mạc tan hết mà nhà Lê trung hưng mới thực nhất thống được

Nam - Bắc.

Trịnh Tùng tuy đã dứt được nhà Mạc, thu phục được đất Đông Đô nhưng

nhà Minh nhận của đút của nhà Mạc vẫn cố ý bênh nhà Mạc không chịu nhận

nhà Lê. Vả con cháu nhà Mạc và đảng nhà Mạc còn nhiều: nay xưng vương chỗ

này, mai nổi loạn nơi khác, cho nên Trịnh Tùng phải dùng đến cả trí lực: dùng

trí để giữ cho nhà Minh khỏi quấy nhiễu; dùng lực để đánh dẹp dư đảng họ

Mạc.

Khi Trịnh Tùng lấy lại được thành Thăng Long rồi, nhà Mạc sang kêu với

Minh Đế rằng không phải con cháu nhà Lê, chính họ Trịnh nổi lên tranh ngôi.

Vua nhà Minh sai sứ đến Nam Quan khám xét về việc ấy.

Tháng 3 năm Bính Thân (1596), vua Thế Tôn sai quan Hộ bộ thượng thư

Đỗ Uông và quan Đô ngự sử Nguyễn Văn Giai lên Nam Quan tiếp xứ Tầu. Sau

lại sai hai ông Hoàng thân Lê Cảnh và Lê Lựu cùng với quan Công bộ Tả thị

lang Phùng Khắc Khoan đem 10 người kỳ mục, 100 cân vàng, 1.000 cân bạc,

ấn An nam Đô thống sứ của nhà Mạc và ấn An nam Quốc Vương của vua Lê

ngày trước, sang cho sứ nhà Minh khám. Nhưng sứ nhà Minh bắt vua Thế Tôn

phải thân hành sang hội ở Nam Quan.

Trịnh Tùng sai Hoàng Đình Ái đem một vạn quân đi hộ giá, đưa Vua sang

hội ở cửa Nam Quan. Sang đến nơi xứ nhà Minh đòi phải nộp người vàng và ấn

vàng như trước, mà không chịu đến hội. Vua chờ lâu không xong việc phải bỏ

về.

25

Đến tháng tư năm sau, sứ nhà Minh lại sang mời vua Thế Tôn lên ngôi ở

Nam Quan, Trịnh Tùng sai quan Thái úy Hoàng Đình Ái đem năm vạn quân

đi hộ giá đưa vua sang phó hội.

Khi xa giá về, Trịnh Tùng đi các quan đi đón mừng sau sai quan Công bộ

Tả thị lang Phùng Khắc Khoan làm Chánh sứ, Quan thái thượng tự khanh

Nguyễn Nhân Thiềm làm Phó sứ, đem đồ lễ sang Yên Kinh cống nhà Minh.

Từ đó nhà Lê lại cống hiến nhà Minh như trước.

Năm Đinh Dậu niên hiệu Phúc Đức thứ hai Đại Đức thứ ba (1597), có hai

người tên là Nguyễn Đường Minh quán huyện Yên Phong và Nguyễn Minh

Trí quán xã Ngải Kiều (huyện TừLiêm) toan mưu thoán vi nhưng việc lộ ra

đều bị Trịnh Tùng bắt giết ngay.

Từ khi Mạc Hậu Hợp và Mạc Kinh Chỉ phải bắt rồi, tộc đảng họ Mạc

nương náu ở các nơi, toan đường khôi phục:

1. Mạc Kinh Chương xưng làm Tráng Vương chiếm giữ từ đất Đông

Triều cho đến đất Yên Quảng. Mùng một tháng giêng năm Bính Thân

(1596), Mạc Kinh Chương dời đóng đồn tại Yên Quảng lấy đất Vạn

Ninh và đất Hương Lan làm căn bản. Trịnh Tùng sai quan chấn thủ

Hải Dương là Phan Ngạn đem quân vây đánh trấn Kinh Chương bị

bắt.

2. Mạc Kinh Dụng (con Mạc Kinh Chỉ) chiếm giữ đất Yên Bác (Lạng

Sơn) xưng là Uy vương chẳng bao lâu cũng bị quân nhà Trịnh bắt

được.

3. Mạc Kinh Cung trước chạy sang Châu Long sau lại trở về họp du

đảng, đánh phá ở đất Cao Bằng và Lạng Sơn, Trịnh Tùng cho quân

đuổi đánh, Kinh Cung chạy thoát, sang kêu với nhà Minh. Bấy giờ thổ

26

quan nhà Minh nhận của đút nhà Mạc, tâu vua Minh an sáp cho họ

Mạc ở Cao Bằng.

Nhà Lê bất đắc dĩ phải nhường đất Cao Bằng cho con cháu họ Mạc ở.

Trịnh Tùng thu xếp xong việc thông sứ với nhà Minh dứt được họ

Mạc, thu giang sơn lại cho Lê rồi, năm Giáp Ngọ (1594), vua Lê Thế Tôn

phong cho Trịnh Tùng Tước Vương, phàm chính sự trong nước phải đưa

Vương Phủ sửa định rồi mới tâu lên thi hành. Ngày 7 tháng 4 năm Kỷ Hợi

niên hiệu Quang Hưng thứ 12 (1599) vua Thế Tôn ban kim sách phong

Trịnh Tùng làm Đô nguyên súy, Tổng quốc chính, Thượng phụ Bình an

vương phàm những việc đặt quan thu thuế, bắt lính trị dân đều thuộc về họ

Trịnh cả. Chỉ khi nào thiết triều hay tiếp sứ thì vua làm chủ.

Từ đó về sau, họ Trịnh cứ thế lập tước Vương gọi là chúa Trịnh.

Từ tháng tám năm Kỷ Hợi (1599) vua Lê Thế Tôn mất, Trịnh Tùng

rước ông hoàng thứ là Duy Tân dựng làm vua Lê Kính Tôn, đổi niên hiệu là

Thuận Đức.

Đức Đoan quốc công Nguyễn Hoàng (con thứ đức Chiêu huân Tĩnh

công Nguyễn Kim) đem quân nhu súng ống ra giúp Trịnh Tùng đánh Mạc

trong tám năm trời lập được nhiều chiến công to. Năm sau (1600) lại về giữ

đất Thuận Hóa. Trịnh Tùng đưa thơ khuyên dụ Nguyễn Hoàng mới chịu

cống thuế ngoài Bắc.

Năm ấy (1600), bọn Phan Ngạn, Ngô Đình Nga và Bùi Văn Khuê nổi

loạn ở cửa Đại An (Nam Định). Nhưng chẳng bao lâu Phan Ngạn và Bùi

Văn Khuê sinh lòng nghi kị và giết lẫn nhau. Còn Ngô Đình Nga về giúp

nhà Mạc.

27

Trịnh Tùng ở Thăng Long sợ bốn mặt thù địch bèn rước xa giá về

Thanh Hóa.

Trịnh Tùng đi rồi, thành Thăng Long bỏ không. Đảng họ Mạc bèn

rước bà thứ mẫu của Mạc Hậu Hợp là Bùi Thị về tôn làm quốc mẫu rồi đón

Mạc Kinh Cung ở đất Cao Bằng về làm vua.

Trịnh Tùng rước vua Kinh Tôn vào Thanh Hóa rồi thu xếp quân nhu

chiến mã ra lấy lại thành Thăng Long. Nhưng còn sợ mặt Thuận Hóa có

biến chăng, bèn sai quan vào sai ủy dụ Nguyễn Hoàng rồi mới kéo thủy bộ

đại quân ra Bắc đánh Mạc, Bùi Thị bị bắt giết ngay.Còn Mạc Kinh Cung bỏ

chạy sang Kim Thành (Hải Dương) rồi trốn lên Cao Bằng.

Trịnh Tùng lấy lại Thăng Long rồi sai quân vào rước vua Kính Tôn ra

và sai các tướng đi tiễu trừ đảng nhà Mạc ở Thái Nguyên, Lạng Sơn và Yên

Quảng.

Năm Kỷ Mùi (1607), Trịnh Tùng ra chơi Đông Lâu xem thuyền, đến

ngã ba đường, bị đạn bắn vào voi. Bắt được người bắn đem về tra tấn mới

biết Vương tử Trịnh Xuân muốn tranh quyền với anh là Trịnh Tráng, bèn

âm mưu với vua Kinh Tôn để giết Trịnh Tùng. Nhưng chẳng may sự không

thành, vua Kinh Tôn lo sợ, bèn thắt cổ chết. Trịnh Tùng bắt Trịnh Xuân

giam mấy tháng rồi tha.

Vua Kinh Tôn chết rồi, Trịnh Tùng dựng hoàng tử Hựu làm vua Thần

Tôn đổi niên hiệu là Vĩnh Tộ.

Ngày 17 tháng 6 năm Quý Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ năn thứ 5 (1623),

Trịnh Tùng bị bệnh ốm, hội các quan giao binh quyền cho thế tử là Trịnh

Tráng và thứ tử Trịnh Xuân làm phó.

28

Trịnh Xuân không bằng lòng đem binh làm loạn, bắt Trịnh Tùng phải

ra ngoài rồi đốt phá kinh thành. Xa giá nhà vua phải rời về Thanh Hóa,

Trịnh Tùng thấy biến chạy về xã Hoàng Mai (huyện Thanh Trì) vào nhà

Trịnh Đỗ thì dỗ Trịnh Xuân đến để trao quyền cho. Trịnh Xuân vào thì

Trịnh Tùng sai bắt chém ngay, rồi rời sang quận Thanh Xuân huyện Thanh

oai, mất ngày 20 tháng 8 (đúng ra là ngày 20 tháng 6) năm Quý Hợi (1623)

niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 thọ 74 tuổi, làm Chúa 58 năm; Năm Giáp Tý

(1624) tôn phong Triết Vương, miếu hiệu Thành Tổ.

CHÍNH TRỊ

Trịnh Tùng phải đánh họ Mạc và giẹp nội loạn nên thời kì ấy chỉ có việc

chiến tranh không sửa sang việc chính trị được mấy.

Binh chế: Đánh được nhà Mạc rồi, Trịnh Tùng đặt ra hai thứ binh lính:

1. Ưu binh: Lính này lấy ở ba phủ đất Thanh Hóa và bốn phủ đất Nghệ An,

ba suất đinh lấy một tên. Những lính ấy đóng ở kinh thành làm quan túc vệ,

canh giữ đền vua, phủ chúa, không những được cấp công điền, lại được thêm

chức sắc.

2. Nhất binh: Lính này lấy ở từ trần đất Bắc là Sơn Nam, Kinh Bắc, Hải

Dương, Sơn Tây, cứ năm xuất đinh lấy một tên. Lính ấy chỉ để đủ giữ các trấn,

còn cho về làm ruộng lúc cần dùng đến mới gọi ra.

Học hành thi cử: Về đời Hậu Lê, trong nước ở đâu cũng lấy nho học làm

trọng, ở quốc tử giám thì đặt quan Tế tửu và quan Tư nghiệp làm giảng quan.

Mỗi tháng một lần tiểu tập, ba tháng một lần đại tập.

29

Từ khi nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê, họ Mạc vẫn mở khoa thi ở Thăng Long để

chọn lấy nhân tài. Nhà Lê vì bận việc chiến tranh nên mãi đến năm Canh Thìn

(1580) mới mở khoa thi hội ở Tây Đô rồi từ đó, cứ ba năm một kì thi Hội, để

chọn nhân tài giúp nước.

30

3. ĐỜI VĂN TỔ NGHI VƢƠNG TRỊNH TRÁNG ( 1623 – 1657 )

Trịnh Tráng là con thứ hai Trịnh Tùng. Ngày 20 tháng 6 năm Quý Hợi niên

hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1623), nối nghiệp cha làm Chúa.

Được tin Trịnh Tùng mất ở quận Thanh Xuân, Trịnh Tráng mới rước về Ninh

Giang phát táng, rồi đem linh cữu về Thanh Hóa.

Dư đảng Trịnh Xuân đương làm loạn nên Trịnh Tráng rước giá về Thanh

Hóa. Vua Lê Thần Tông phong cho Trịnh Tráng làm Thái úy Thanh quốc công.

Tiết chế thủy bộ mọi dinh.

Nhân dịp Trịnh Xuân làm loạn. Mạc Kinh Khoan cháu Mạc Kinh Cung trước

đã bị quân Trịnh đánh thua mấy trận phải ẩn nấp ở đất Cao Bằng, nay đem quân

vào đánh kinh thành. Tháng 8 năm Quý Hợi (1623), Trịnh Tráng từ Thanh Hóa

thân đốc quân sĩ đến sông Nhị Hà đánh vỡ được quân nhà Mạc: Mạc Kinh

Khoan lại phải chạy về Cao Bằng kinh đô lại được bĩnh tĩnh như cũ.

Trịnh Tráng giẹp yên nhà Mạc lại vào rước xa giá về kinh đô. Ngày 21 tháng

11 năm Quý Hợi (1623) vua Lê Gia Kim sách phong Trịnh Tráng làm Nguyên

súy, Thống quốc chinh Thanh Đô Vương.

Năm Giáp Tí (1624) vua Lê truy phong Bình an vương Trịnh Tùng làm Triết

vương miếu hiệu là Thành Tổ.

Năm Ất Sửu (1625), Trịnh Tráng sai con là Trịnh Kiều đem quân lên đánh

Cao Bằng. Mạc Kinh Cung bị bắt giết, còn cháu là Mạc Kinh Khoan chạy sang

Tàu, rồi cho người về dâng biểu xin hàng.

Kinh Khoan được phong làm Thái úy Thống quốc công cho giữ đất Cao

Bằng.

31

Tháng 10 năm Kỷ Tị niên hiệu Đức Long thứ ba (1629), vua Lê gia phong

Trịnh Tráng làm Sư phụ Thanh Vương.

Năm Quý Mùi (1631) vua Lê Thần Tôn truyền ngôi cho Hoàng thái tử, gọi là

vua Chân Tôn đổi niên hiệu là Phúc Thái rồi lên làm Thái Thượng Hoàng.

Năm Nhâm Thân (1632) Yên Kinh Tàu bị quân Lý Tự Thành vây đánh.

Tướng nhà Minh là Ngô Tam Quế đang chống với quân nhà Thanh ở Sơn Hải

Quan phải đem binh về cứu viện, song mới đến nửa đường đã được tin Yên

Kinh thất thủ. Tam Quế trở lại Sơn Hải Quan xin hàng nhà Thanh để viện binh

đánh Lý Tự Thành.

Lý Tự Thành thua, phải bỏ Yên Kinh chạy, vua Thế Tổ nhà Thanh vào kinh

làm vua Trung Quốc, đổi niên hiệu là Thuận Trị.

Dòng dõi nhà Minh là Quế Vương xưng đế ở đất Quảng Tây để mưu sự khôi

phục, có ý muốn cầu cứu nước Nam. Trịnh Tráng sai Trịnh Đồng tiến quân lên

Cao Bằng để dương thanh thế cho quân nhà Minh.

Năm Kỷ Sửu (1648) vua Lê Chân Tôn mất, không có con nối nghiệp. Trịnh

Tráng xin đức Thái thượng hoàng lại lên ngôi đổi niên hiệu là Khánh Đức.

Năm Thân Mão thứ ba (1654), vua Quế vương nhà Minh chạy sang thành

Nam Ninh, sắc dụ Trịnh Tráng giúp cho voi, ngựa súng ống. Tháng 10 nhà

Minh sai sứ đem sắc sang phong cho vua Thần Tôn nhà Lê lam An Nam Quốc

Vương và phong Trịnh Tráng làm An Nam phó Quốc Vương.

Tháng tám năm Nhâm Thìn (1652), thế tử Trịnh Tráng là Trịnh Tạc tiến

phong tước Tây định vương.

32

Từ khi Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa, vẫn có ý định độc lập, hàng ngày luyện

tập quân lính, xây thành, đắp lũy, để chống với họ Trịnh.

Năm Đinh mão (1627), Trịnh Tráng sai quân vào Thuận Hóa đòi tiền thuế hai

tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam tử năm 1620 chưa nộp. Sãi vương Nguyễn Phúc

Nguyên tiếp sư nhưng không chịu nôp thuế, thác cớ là dân mất mùa. Trịnh

Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê Thần Tôn vào dụ Sãi Vương cho con ra chầu

và nộp 20 con voi cùng 30 chiếc thuyền để đưa cống nhà Minh. Sãi Vương

cũng không chịu.

Trịnh Tráng thấy vậy bèn quyết chí đánh họ Nguyễn sai Nguyễn Khải và

Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân đi tiên phong rồi tự xuất đại binh, rước vua

Lê vào đánh phía Nam.

Sãi Vương sai cháu là Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế cùng với Nguyễn Hữu

Dật đem binh mã trấn thủ các nơi hiểm yếu. Hai bên đánh nhau trên sông Nhựt

Lệ (Đồng Hới ). Trịnh Tráng không đánh được phải rút quân về Bắc.

Ba năm sau (1630), nhà Nguyễn tiến quân chiếm cứ đất Nam bố chính ( phía

nam tỉnh Hà Tĩnh bây giờ).

Năm Quý Dậu (1633), người con thứ ba Sãi Vương là Ánh trấn thủ đất ở

Quảng Nam đưa thư ra Thăng Long, xin Chúa Trịnh đem binh vào đánh: ngoài

bắn súng làm hiệu, trong Ánh sẽ nội ứng.

Trịnh Tráng liền đem đại binh đóng ở cửa Nhựt Lệ ( Đồng Hới ). Tướng nhà

Nguyễn là Nguyễn Văn Thăng và Nguyễn Hữu Dật đem quân ra chống giữ.

Quân họ Trịnh đợi hơn 10 ngày, không thấy tin tức gì của Ánh bèn lui quân

ra để chờ.

33

Quân lính đợi lâu ngày sinh ra chán nản, bị quân Nguyễn xuất kỳ bất ý, đổ ra

đánh đuổi.

Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút quân về Bắc để Nguyễn Khắc Loát và

một đạo quân ở lại giữ đất Bắc Bố Chính (Quảng Trạch bây giờ ).

Năm Ất Hợi (1635), Sãi Vương Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn

Phúc Lan nối nghiệp Chúa: tức là Công Thượng Vương.

Ánh ở Quảng Nam nghe tin Sãi Vương mất, anh lên nối nghiệp bèn phát binh

làm phản. Công Thượng Vương đánh bắt được Ánh gần Cửa Hàn đem về

Thuận Hóa giết đi: đoạn rồi bỏ ngục bốn người em ruột Ánh để phòng nội biến.

Trịnh Tráng thấy anh em họ Nguyễn tranh nhau sai đem quân đánh đất Nam

Bố Chính, giết được tướng họ Nguyễn là Bùi Công Thắng, rồi đóng quân ở cửa

Nhựt Lệ.

Năm Canh Thìn (1640), chúa Nguyễn đem binh lấy đươc đất Bắc Bố Chính,

rồi định tiến lấy Bắc Hà; hàng ngày bắt quân chuyên luyện vũ bị và thân chính

đến trường tập để mục kích tướng tá luyện quân. Một hôm chúa Nguyễn đi tuần

tiễu ở Cửa Nọn ( sông Hương Giang chảy ra bể Trung Quốc ) thấy thủy quân

trễ biếng bèn truyền cho ba huyện Hương Trà, Quảng Diên và Phúc Vinh phải

lập một trường tập ở xã Hoàng Phác ( ngày nay là Hồng Phúc thuộc Phú Vinh ),

cho thuỷ quân. Trong vòng bảy tháng, thủy quân tập chiến lược, vừa chèo

thuyền, vừa bắn súng. Quân nào tập giỏi đều được thưởng vàng lụa. Vì vậy mà

sĩ tốt nhà Nguyễn rất am hiểu việc binh bị.

Đến năm Quý Mùi (1643), Trịnh Tráng đem đại quân và rước vua Lê vào đất

Bắc Bố Chính. Quân Nguyễn phải bỏ chạy. Nhưng bấy giờ đương giữa mùa hạ,

34

quân Bắc không quen nóng nực chết hại rất nhiều. Trịnh Tráng phải rút quân về

Bắc.

Năm Mậu Tý (1648), Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu

đem thủy bộ quân vào đánh chúa Nguyễn: Quân bộ đóng ở đất Bắc Bố Chính,

còn thủy quân vào đánh cửa Nhựt Lệ, thắng được nhiều trận nhỏ. Quân Trịnh

đánh rất hăng, xông pha phá lũy Trường Dục. Đạn bắn như mưa, quân Nguyễn

bỏ chạy quá nửa.

Bấy giờ Trấn thủ lũy Trường Dục là Trương Phúc Phấn liều chết cố sức

chống giữ. Hai cha con ung dung ngồi trước lũy, đánh trống, phất cờ, thúc quân

cự lại. Chung quanh tên đạn như mưa, quân sĩ chết ngổn ngang mà Phúc Phấn

cứ trơ như đá, vững như đồng. Quân Bắc tưởng một vị thần có phép lạ nên

không dám tiến gần. Nhờ cái can đảm ấy mà lũy Trường Dục tuy bị phá ít nhiều

nhưng không đến nỗi mất, lại đủ thì giờ cho quân cứu viện tiếp ứng.

Được tin quân Trịnh đương phá lũy Trường Dục, tình thế rất nguy cấp, chúa

Nguyễn sai con là Nguyễn Phúc Tấn dùng một trăm voi canh năm xông vào trại

quân Trịnh đánh phá. Quân Trịnh không kịp chống giữ, thua to chạy về Bắc.

Trịnh Tráng thấy quân mình thua, sai Lê Văn Hiểu, Trần Ngọc Hầu, Lê Hữu

Đức, Vũ Lương và Phạm Tất Hoàn đem binh trấn thủ các cửa bể và các nơi

hiểm yếu đề phòng bị quân Nguyễn.

Lúc bấy giờ, trong Nam, Công Thượng Vương mất, con là Nguyễn Phúc Tấn

lên nối nghiệp gọi là Chúa Hiền Vương.

Từ đó trong vòng bảy năm trời, hai bên tạm đình chiến.

Đến năm Ất Vị ( Mùi ) (1655), quân Trịnh lại vào đất Bắc Bố Chính đánh

Nguyễn. Hiền Vương mang quân ra Nam Bố Chính đối địch. Tướng Trịnh là

35

Phạm Tất Toàn về hàng Nguyễn. Quân Nguyễn nhân thế tiến lên Hoành Sơn,

rồi thừa đánh đến đồn Hà Trung. Tướng Trịnh là Lê Văn Hiểu và Lê Hữu chống

không nổi phải rút quân về giữ An Tràng ( Nghệ An bây giờ ).

Trịnh Tráng thấy bọn Lê Văn Hiểu bại binh ở Hà Trung bèn sai sứ vào triệu

về kinh, rồi cho Trịnh Trượng làm Thống lĩnh kinh lược đất Nghệ An.

Lê Văn Hiểu bị đạn ở chân, về đến nửa đường thì chết. Bọn Lê Hữu Đức, Vũ

Lượng đều phải giáng chức cả.

Trịnh Trượng tiến binh đóng ở Lạc Xuyên. Nguyễn Hữu Dật đem thủy binh

ra đánh ở cửa Kỳ La, đều thừa thắng tiến binh chiếm cứ được đồn Lạc Xuyên.

Binh tướng họ Trịnh phải chạy về An Tràng ( Nghệ An ).

Tướng nhà Nguyễn bèn yết bảng chiêu dụ nhân dân nên phục tùng nhà

Nguyễn. Người xin quy phụ mỗi ngày một tăng nên chẳng bao lâu bảy huyện:

Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiện Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Thanh Chương và Hương

Sơn ở phía Nam sông Lam Giang ( sông Cả bây giờ ) đều thuộc về Nguyễn.

Trịnh Tráng được tin quân mình thua ở Lạc Xuyên, bèn giáng Trịnh Trượng

xuống làm Đô đốc, rồi sai con là Trịnh Tạc làm Thống lĩnh đất Nghệ An để

chống giữ với Nguyễn. Trịnh Tạc thân xuất chư tướng đem quân ra đánh, đóng

ở làng An Tràng ( huyện Trân Phúc ).

Nhưng bấy giờ ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh Tạc về, để

tướng là Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ Nghệ An cùng Trấn Văn Quang và

Mậu Văn Liên chống giữ các nơi. Vũ Văn Thiêm đóng thủy quân ở sông Khu

Dực ( huyện Nghi Xuân ).

Năm Bính Thân (1656) quân họ Nguyễn đến đánh quân Trịnh, bọn Trần Văn

Quang bỏ chạy. Quân Nguyễn thừa thế tiến lên đánh phá thủy binh của Vũ Văn

36

Thiêm, sau lại gặp quân của Đào Quang Nhiêu. Hai bên đánh nhau một trận giữ

dội bên sông Chế Giang: Đào Quang Nhiêu thua chạy về An Tràng dâng biểu tạ

lỗi xin viện binh.

Trịnh Tráng sai con út là Tả đô đốc Ninh quận công Trịnh Toàn vào làm

Thống lĩnh trấn thủ đất Nghệ An, để chống với quân họ Nguyễn.

Trịnh Toàn vào đến Nghệ An chia đạo tiến ra địa phương Kỳ Hoa, quân

Nguyễn phải lui. Trịnh Toàn thắng được một trận to ở địa hạt Đại Nại.

Triều đình bàn đến chiến công trận đánh Đại Nại, phong cho Trịnh Toàn làm

chức Tiết Chế thủy bộ mọi dinh kiêm chức Phó đô tướng đạo Nghệ An, hàm

Thái úy, tước Ninh quốc công, mở phủ Dương Uy.

Tháng hai năm Bính Thân (1656), Thế tử của Tây Định Vương Trịnh Tạc là

Trịnh Căn được phong làm Phó đô tướng, tước Phú quận công, mở dinh Tả

Quốc.

Tháng sáu năm ấy, Trịnh Tạc sai con là Trịnh Căn thống lĩnh chư tướng vào

Nghệ An hiệp đồng cùng Trịnh Toàn đánh quân nhà Nguyễn.

Bấy giờ Trịnh Toàn đóng đồn ở Quảng Trị; Trịnh Căn đóng đồn ở Bạt Trạc.

Trịnh Toàn vì ý riêng lui quân về An Tràng. Trịnh Căn thấy thế làm nghi kỵ,

đem quân đóng đồn ở Phú Long sửa sang thành lũy, để xem Trịnh Toàn làm ăn

ra sao?

Năm Đinh Dậu niên hiệu Thịnh Đức thứ 5 (1657), ngày 16 tháng 4, Trịnh

Tráng mất, miếu hiệu là Văn Tổ Nghị Vương, thọ 81 tuổi, làm chúa 35 năm.

Trịnh Toàn từ khi vào trấn thủ đất Nghệ An, hậu đãi tướng sĩ, yêu mến quân

dân, lòng người đều quy phụ. Gặp lúc Trịnh Tráng mất, thủ hạ khuyên Trịnh

37

Toàn mưu làm phản. Trịnh Toàn không nghe nên chúng đều su phu với dinh Tả

Quốc ( Trịnh Căn ), lại có kẻ phao ngôn cho Trịnh Toàn có trí làm phản. Trịnh

Toàn mới sai người đưa voi, ngựa, khí giới của bộ ngũ mình đến dâng nộp ở

Cửa quân. Trịnh Căn bảo rằng: “ Sự thể đã như vậy, phải nên đến Cửa Quyết

chờ lệnh vua xem sao?”.

Trịnh Toàn về kinh, Trịnh Tạc phó cho đình thần tra hỏi, xét được tình trạng

(vì có kẻ ghen ghét làm chứng buộc tội trạng ). Trịnh Tạc nghĩ Trịnh Toàn là

người trí thần không nỡ xử tử, đặc án cho khóa bạc, bắt giam trong ngục.

Năm Bính Tí (1660), Trịnh Toàn mất rồi trong họ có người khiếu oan nên

Trịnh Toàn được khai phục chức cũ mà con cháu được ăn lương tôn thất và tùy

tài bổ dụng.

CHÍNH TRỊ

Trịnh Tráng vì bận việc chiến tranh nên việc trong nước không sửa đổi được

mấy.

Việc giao thiệp với ngƣời ngoại quốc: Năm Định Sửu (1637), Trịnh Tráng

cho người Hòa Lan đến mở cửa hàng ở phố Hiến ( gần tỉnh lỵ Hưng Yên ), về

sau ở đấy có người Nhật Bản, ngưởi Trung Hoa, người Xiêm La, người Bồ Đào

Nha đến buôn bán làm thành một nơi rất tấp nập. “ Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì

Phố Hiến”, là một câu truyền tụng từ thời bấy giờ.

Việc mua bán: Niên hiệu Đức Long thứ 6 (1634), Trịnh Tráng định rằng:

Việc mua bán trong các chợ Kinh thành mục đích là dễ lưu hành các hàng hóa

vẫn thường dùng. Các nhà quan trưởng hoặc các công sở không được phép cho

người ra chợ uy hiếp lấy không hàng hóa hay đồ vật của khách thương mại. Nếu

trái phép, Xá Nhân ( Tuần thành ở kinh đô ) có quyền xét hỏi, lấy đủ chứng cứ

38

và tang vật rồi đệ hồ sơ lên quan trên chung thẩm. Nếu xét quả thực, can phạm

sẽ bị trọng phạt.

Việc sát sinh: Từ trước vẫn hạn chế việc sát sinh trâu bò. Trâu bò còn khỏe

mạnh béo tốt, cấm không được đem giết để ăn thịt.

Năm thứ 6 niên hiệu Đức Long (1634), Trịnh Tráng định rằng:

Riêng xã Nghiêu Kỵ thuộc huyện Gia Lâm, Bắc Ninh được phép mua các bò

gầy giết thịt bán còn da để chế các đồ dùng cho nhà nước.

Niên hiệu Phúc Thái thứ 1 (1643), định thêm cho hạng Mực ở Đồng Xuân

cầu mỗi ngày được giết một con trâu và bò để lấy da nấu keo làm mực.

39

4. ĐỜI HOÀNG TỔ DƢƠNG VƢƠNG TRỊNH TẠC ( 1657 – 1682 )

Trịnh Tạc con thứ hai Trịnh Tráng, khi làm thế tử được phong tước Tây Định

Vương.

Tháng tư năm Đinh Sửu (1657), Trịnh Tạc nối ngôi cha, giao binh quyền cho

thế tử là Trịnh Căn thống trị đạo Nghệ An.

Tháng 6 năm ấy, Trịnh Căn chia quân làm ba đạo: sai Hoàng Nghĩa Giao và

Trịnh Thế Công làm tả hữu quân Tướng quân, còn Lê Hiến thì sai làm Tướng

trung quân tiến đánh quân Nguyễn.

Tướng Nguyễn là Nguyễn Hữu Tiến biết trước, phòng bị nên quân Trịnh

thua, bị vây may có Trịnh Căn tiếp ứng, mới rút về được.

Từ đó hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam Giang, thỉnh thoảng đánh nhau một

trận, không chia bên nào thua, bên nào được. Mãi đến tháng chạp năm Mậu

Tuất (1658) Trịnh Căn thắng một trân to ở làng Tuần Lễ ( huyện Hương Sơn ).

Năm Ất Hợi niên hiệu Vĩnh Tộ thứ hai (1659), tháng chín vua Lê Thần Tôn

gia phong cho Trịnh Tạc làm chức Thượng Sư Tây Vương.

Ngày 11 tháng 9 năm Canh Tí (1660), Trịnh Căn chia quân làm hai đạo, sai

Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Toàn lĩnh một đạo sang sông Lam Giang, còn

một đạo sai Lê Hiến cùng Mậu Văn Liên thống lĩnh xuống phía Hội Thống rồi

sang sông.

Đến nửa đêm, hai đạo nghe hiệu cùng tiến đánh.

Hoàng Nghĩa Giao gặp quân Nguyễn Hữu Dật, hai bên đánh nhau một trận

dữ dội. Quân Hoàng Nghĩa Giao bị vây ngặt lắm, may Trịnh Căn cho binh đến

cứu nên quân Nguyễn phải chạy.

40

Quân Lê Hiến và Mậu Văn Liên đánh nhau với quân Nguyễn ở làng Tả Ao.

Mậu Văn Liên tử trận nhưng quân Nguyễn phải bỏ về đóng ở Nghi Xuân.

Tháng 11 năm ấy, Trịnh Căn chia đạo tiến đánh quân Nguyễn bị thua ở làng

An Điềm và Phù Lưu, Trịnh Căn thừa thắng đuổi quân Nguyễn thẳng đến cửa

bể Nhựt Lệ.

Từ bấy giờ bảy huyện ( Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiện Lộc, Nghi Xuân, La Sơn,

Hương Sơn, Thanh Chương ) của Nguyễn chiếm cứ ở phía nam sông Lam

Giang nay lại thuộc về đất Bắc.

Vua Lê được tin thắng trận, sai đưa ngân sách đến chỗ quân thứ, phong Phú

Quận Công Trịnh Căn làm Khâm Sai Tiết Chế thủy bộ mọi dinh kiêm Tổng

quyền chính trong nước, hàm Thái úy, tước Nghi quốc công, mở phủ Lý Quốc.

Năm Tân Sửu (1651), Trịnh Căn sai Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất

Nghệ An và kiêm lĩnh cả đất Bắc Bố Chính, đề phòng giữ mọi nơi rồi rước cờ

toàn thắng kéo quân về kinh.

Tháng 10 năm ấy, Trịnh Tạc cử đại binh, rước xa giá vào đánh quân Nguyễn.

Trịnh Căn làm thống lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm Tổng xuất, Lê Hiến và

Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc xuất, Lê Sĩ Triết và Trịnh Tế làm Đốc thị đem binh

sang sông Linh Giang đến đóng trước thành Đồng Hới.

Tướng Nguyễn là Nguyễn Hữu Dật trấn thủ đất Nam Bố Chính chia quân đắp

lũy giữ gìn mọi nơi rất là chắc chắn. Quân Trịnh đánh luôn mấy tháng không

được, sức đã kiệt. Tháng ba năm Nhâm Dần (1662), Trịnh Tạc thu quân và rước

vua Lê về Bắc.

41

Tháng 9 năm ấy, vua Lê Thần Tôn mất. Trịnh Tạc lập thái tử là Duy Vu lên

làm vua, đổi niên hiệu là Cảnh Trị, tức vua Lê Huyền Tôn.

Năm Giáp Thìn (1664), vua Lê Sắc cho Trịnh Tạc vào chầu không phải

lạy, sở tấu không viết tên, đặt giường ngồi bên tả long sàng.

Năm Bính Ngọ (1666), Trịnh Tạc đi tuần phía Tây hỏi han đến các ông

trưởng lão, ban cho tiền lụa có thứ tự.

Nhà Thanh lên làm vua Trung Quốc cho sứ sang dụ An Nam triều cống Trịnh

Tạc cho sứ đem đồ cúng lễ sang Yên Kinh. Năm Đinh Mùi (1667), vua Khang

Hi nhà Thanh sai sứ sang phong vua Lê Huyền Tôn làm An Nam quốc vương.

Từ đấy hai nước vẫn giao thông với nhau. Tuy có lôi thôi về việc giặc cướp hay

phân giới nhưng trù liệu xong cả.

Mạc Kinh Khoan mất năm Mậu Dần (1638), con là Mạc Kinh Vũ tự xưng

làm vua, chiếm cứ đất Cao bằng thỉnh thoảng đưa quân về cướp mạn Thái

Nguyên.

Năm Đinh Mùi (1667), Trịnh Tạc sai con là Trịnh Căn đem binh lên đánh đất

Cao Bằng. Mạc Kinh Vũ phải bỏ chạy sang Tầu. Họ Trịnh treo bảng chiêu an

và đặt quan cai trị Cao Bằng lại được thái bình như cũ.

Năm Mậu Thân (1668) kéo cờ thắng trận về, Trịnh Tạc được tôn làm Thượng

phu Minh thành Tây vương.

Mạc Kinh Vũ sau khi trốn sang Tầu cùng vàng bạc đút lót quan nhà Thanh,

xin bàn với vua bắt họ Trịnh giả lại đất Cao Bằng. Vua Thanh sai sứ sang điều

đình với nhà Trịnh. Sau khi Trịnh Tạc bằng lòng trả Cao Bằng cho họ Mạc bốn

châu Cao Bằng (Thạch Lâm, Quảng Uyên, Thượng Lang và Hạ Lang) và triệu

quan đốc trấn Cao Bằng là Vũ Linh về.

42

Về sau Ngô Tam Quế phản nhà Thanh ở Vân Nam và Quảng Tây. Mạc Kinh

Vũ theo hiệu Ngô Tam Quế giúp cho lương thực. Khi Tam Quế mất rồi, họ

Trịnh muốn trừ nhà Mạc, bèn sai sứ sang kể tội họ Mạc với nhà Thanh và cho

quân lén đánh đất Cao Bằng. Tháng 8 năm Đinh Tỵ (1667), tướng Trịnh là

Đinh Văn Tá lấy lại được bốn châu Cao Bằng. Mạc Kinh Vũ cùng họ hàng chạy

sang Long Châu lại bị quân nhà Thanh bắt trả nhà Trịnh.

Đến đây, họ Mạc mất hẳn. Dòng dõi nhà Mạc hoặc về hàng hoặc bị bắt, phần

nhiều được tha hoặc làm quan với họ Trịnh.

Năm Tân Hợi niên hiệu Cảnh Trị thứ 9 (1671), tháng 10 ngày 15, vua Lê

Huyền Tôn băng hà, thọ 78 tuổi ở ngôi 9 năm.

Trịnh Tạc dựng Hoàng Đệ Duy Hội làm vua Lê Gia Tôn đổi niên hiệu là

Dương Đức.

Năm Nhâm Tí (1672), Trịnh Tạc dẹp yên họ Mạc, bèn đem 10 vạn quân và

rước xa giá vua Lê Gia Tôn vào Bắc bố chính để đánh nhau với Nguyễn. Trịnh

Căn là Nguyên súy. Cuối năm ấy, đóng quân ở Bắc bố chính, sau rời sang đóng

ở hữu ngạn sông Linh Giang từ Quảng Khê đến Lý Hòa. Đoạn, Trịnh Căn bèn

chiêu dụ dân hai tỉnh Thuận Hóa và Quảng Nam nên theo chính thống vua Lê.

Em thứ tư chúa Hiền Vương là Hiệp làm Nguyên súy, đem binh ra cự địch.

Quân Nguyễn đóng sau thành Đồng Hới, Trấn Ninh và Sa Phụ, ở hữu ngạn

sông Nhật Lệ.

Quân Trịnh đánh lũy Trấn Ninh rất hăng, đã sắp phá được thì gặp thời tiết

mưa rét và Trịnh Căn bị bệnh nặng, nên Trịnh Tạc sai Lê Hiến ở lại trấn thủ

Nghệ An và Lê Sĩ Triết làm đô đốc đóng ở Hà Trung để giữ các nơi hiểm yếu.

43

Trịnh Tạc lấy sông Linh Giang mà phân giới hạn Nam Bắc rồi rước xa giá và

rút quân thủy bộ về Thăng Long.

Trận đánh này là lần thứ bảy lại là lần cuối cùng nhà Nguyễn vẫn độc lập ở

xứ Nam Thành ra hai bên thế lực ngang nhau, không làm gì được nhau.

Năm ấy (1672), là thời kỳ thứ nhất Nam, Bắc thôi việc chiến tranh.

Năm Giáp Dần (1674), tháng 8, Nghi quốc công Trịnh Căn sau khi đuổi được

quân nhà Nguyễn ra khỏi đất Nghệ An được phong làm Nguyên súy Tổng quốc

chính Định Nam Vương.

Ngày 3 tháng 4 năm Ất Mão (1675), niên hiệu Đức Nguyên thứ 2 vua Lê Gia

Tôn băng hà, Trịnh Tạc dựng hoàng đệ Duy Hạp làm vua Hi Tôn đổi niên hiệu

là Vĩnh Trị.

Tháng 8 năm Nhâm Tuất niên hiệu Chính Hòa thứ 3 (16820, Trịnh Tạc mất

thọ 77 tuổi, làm chúa 25 năm, miếu hiệu là Hoằng Tổ Dương Vương.

CHÍNH TRỊ

Trịnh Kiểm, Trịnh Tùng, Trịnh Tráng, phía Bắc phải đánh họ Mạc rồi chống

lại với họ Nguyễn ở phía Nam cho nên trong thời kỳ ấy và bàn việc chiến tranh

mà công việc trong nước không sửu sang được mấy.

Sau khi chiến tranh đã yên, trong nước bình trị, Trịnh Tạc sửa sang và chỉnh

đốn lại việc binh, việc hình, việc học, việc hộ, thuế khóa, vân vân.

Quan chế: Quan chế có thay đổi ít nhiều, trên 6 quan thượng thư giữ 6 Bộ

(Lại bộ, Hộ bộ, Binh bộ, Hình bộ, Công bộ, Lễ bộ) có đặt thêm quan Tham tụng

và quan Bồi tụng coi việc chính trị, năm Giáp Thìn (1664), Trịnh Tạc đặt thêm

Trưởng thủ sự và Thủ phủ sự để coi việc binh chính.

44

Bên nhà vua gọi là triều đình, bên chúa gọi là phủ liêu. Quan thì chia ra văn

ban, vũ ban, giám ban (các quan nội gián thường được tuyển làm quan coi việc

triều chính).

Việc gì cũng ở bên phủ liêu quyết định cả.

Mấy năm các quan phải khảo hạch lại một lần. Ai không xứng chức thì phải

giáng.

Quan viên nào hưu trí thì được ăn dân lộc, tùy theo phẩm trật.

Trịnh Tạc phải cấm các quan viên không được lập trang trại ở chỗ mình làm

quan vì phần nhiều ủy quyền thế uy hiếp lấy ruộng đất của nhân dân, nuôi quân

gian ác làm thủ hạ để quấy nhiễu lương dân, làm cho lắm nơi dân phải siêu tán.

Như thế đỡ hại dân và giữ liêm cho quan.

Thi cử: Năm Giáp Thìn (1664), Trịnh Tạc định lại quy thức thi hội.

Năm Mậu Ngọ (1678) định lại quy thức, tiền lệ thi Hương. Ba năm một lần

thi Hương. Thanh Hóa, Nghệ An, Sơn Nam, Sơn Tây, Kinh Bắc, Hải Dương ,

Thái Nguyên, Hưng hóa, Tuyên Quang, Lạng Sơn, Yên Quang đều có trường

thi.

Làm quốc sử: Năm Ất Tỵ (1665), Trịnh Tạc sai quan Tham tụng Phạm Công

Trứ soạn sách Đại Việt sử ký toàn thư kể từ lúc khởi thủy nhà hậu Lê cho đến

đời vua Lê Thần Tôn (1662), chia làm 23 quyển. Năm Bính Thìn (1676), ông

sai Hồ Sĩ Dương chép nối bộ Đại Việt sử ký toàn thư.

Nhưng đến năm Tân Dậu (1681), ông ấy mất, lại sai ông Lê Hi và ông

Nguyễn Quý Đức chép nối từ niên hiệu Cảnh Trị đầu năm vau Lê Huyền Tôn

45

(1663) cho đến niên hiệu Đức Nguyên thứ 2 vua Lê Gia Tôn (1675) thêm vào

13 quyển gọi là sử ký tục biên.

Ông Hồ Sĩ Dương mất sớm, tuy chưa kịp chép nối bộ Đại Việt sử ký toàn

thư, nhưng năm Bính Thìn (1676) đã soạn được bộ Đại Việt Lê triều Đế vương

trung hưng công nghiệp thực lục, có hai quyển, ba chương chép từ vua Lê

Trung Tôn (1548) đến vua Lê Huyền Tôn (1671).

Hình luật: Ngũ hình là: xuy, trượng, đồ, lưu và tử. Trước thì tội gì cũng

chuộc được. Trịnh Tạc định lại: Ai phạm tội thì cứ chiếu theo nặng nhẹ mà luận

hình, không được phép chuộc nữa.

Trịnh Tạc chia việc kiện tụng thành 2 thứ:

1. Những việc mưu, sát, đạo, kiếp, điền thổ, vân vân gọi là đại tụng;

2. Những việc hộ, hôn, ẩu đả, hủy bang, mạ lỵ, các việc tạp tụng, vân vân

gọi là tiểu tụng.

Năm thứ 3 niên hiệu Cảnh Trị (1664), Trịnh Tạc định rằng:

1. Quan xử các việc đại tụng thì phải giáng một trận, nhưng có thể chuộc

tiền như sau này:

Các quan thẩm phán nhất phẩm phải chuộc 100 quan

Các quan thẩm phán nhị phẩm phải chuộc 75 quan

Các quan thẩm phán tam phẩm phải chuộc 50 quan

Các quan thẩm phán tứ phẩm phải chuộc 30 quan

Các quan thẩm phán ngũ phẩm phải chuộc 25 quan

Các quan thẩm phán lục và thất phẩm phải chuộc 20 quan

46

Các quan thẩm phán bát và cửu phẩm phải chuộc 10 quan

2. Các quan và chức dịch sử, các việc tiểu tụng không hợp luật phải phạt

tiền như sau này:

Lý trưởng các làng phải phạt 5 quan

Các quan phủ, huyện phải phạt 10 quan

Các quan thừa ti, hiến ti, phủ doãn, đề lĩnh, trấn tủ, cai đạo phải phạt 15 quan

Giám sát và đề lĩnh phải phạt 15 quan

Năm ấy, Trịnh Tạc lại định rằng:

Những việc xử đúng luật rồi, mà những người đi kiện còn chống án lên tòa

trên thì phải phạt tiền để đền danh giá cho các quan thẩm phán như sau này:

1. Việc đại tụng:

Đối với quan thẩm phán nhất phẩm phải phạt 100 quan

Đối với quan thẩm phán nhị phẩm phải phạt 75 quan

Đối với quan thẩm phán tam phẩm phải phạt 50 quan

Đối với quan thẩm phán tứ phẩm phải phạt 30 quan

Đối với quan thẩm phán ngũ phẩm phải phạt 25 quan

Đối với quan thẩm phán lục và thất phẩm phải phạt 20 quan

Đối với quan bát và cửu phẩm phải phạt 15 quan

Thừa sứ ở thừa ti thì thuộc về từng tam tứ ngũ phẩm

Hiến sứ thì chánh lục, thất phẩm

47

Tri phủ thì chánh lục, thất phẩm

Tri châu, Tri huyện thì chánh thất phẩm là những quan chức thừa hành luôn

thời bấy giờ.

Những việc áng mạng, trộm cướp, ẩu đả, ma lỵ, hủy báng, hộ, hôn, điền thổ

công hay tư thì phải theo thứ tự mà xét. Việc án mạng, quan phủ, huyện xét rồi

thì đệ lên để thừa ti và hiến ti hội đồng xét lại. Nếu không xong ngự sử đài xét

lại rồi lên đến hội đồng, chính đương chung thẩm. Việc trộm cướp ở Kinh đô

thì quan đề lĩnh xét lại; ở các trấn , quan trấn thủ xét lại.

Các việc đại tụng, tiểu tụng mà ở huyện, phủ hay là ở thừa ti, trấn ti xử không

xong thì đến hiến ti xét lại, hiến ti không xét xong thì đến giám sát. Ở giám sát

và đề lĩnh không xong thì đến ngự sử đài xét lại. Trừ những việc quan trọng mà

ngự sử đài không xét xong mới đến hội đồng chính đương.

Những việc nhân mạng thì hạn bốn tháng, việc hôn nhân, ẩu đả thì hai tháng

phải xét chứ không được để lâu làm mất công việc của dân.

Trịnh Tạc lại đặt ra thời hạn chống án, những việc hộ, hôn, điền thổ, trộm,

cướp, uy hiếp các việc tạm tụng thì hạn 6 tháng bắt đầu từ ngàu tuyên án, việc

nhân mạng thì hạn 1 năm.

Mỗi tháng quan phủ phải khám văn án của quan huyện rồi đệ 1 tờ bẩm dính

theo 1 tờ loát bộ lê. Thừa ti khám văn án của quan phủ rồi bẩm lên hiến ti, đề

lĩnh, phủ doãn khám tòa dưới rồi bẩm lên ngự sử đài. Thừa ti, hiến ti và ngự sử

đài phải xét rất kỹ lưỡng các tờ bẩm của tòa dưới trình lên.

Năm thứ 3 niên hiệu Vĩnh Tộ (1660), Trịnh Tạc định rằng:

48

Tiền phí tổn ăn đường giả công sai đi thu các thứ tiền ăn phí, tiền chuộc, tiền

tạ, tiền đền, tiền phạt, thì người đương sự phải chịu. Muốn tránh những sự

nhũng nhiễu dân quê, các quan phải chọn những người công sai thực thà, trung

hậu để mang các công văn và đi thu tiền ăn phí cùng các thứ tiền khác.

Những tổng lý khám xét việc án mạng đều được phụ cấp 1 quan tiền, 10

thước lụa trắng và một quan tiền thưởng gọi là Thiết tỏa lễ (Lễ khỏa sắt. Các

quan Phủ, Huyện khám xét việc ấy cũng được cấp 1 quan 5 tiền và 15 thước lụa

trắng. Không kể tiền ấy, ngoài ra các quan và chức dịch còn được tiền phụ cấp

nộp bản 1 quan 5 tiền nữa. Khi lĩnh tiền phụ cấp, các lý trưởng phải phát thẻ để

làm tờ khai gia sản của pháp nhân.

Thuế đinh: Năm Kỷ Dậu (1663), đặt ra binh lệ; sổ đinh nhất định 1 lần, rồi

làng nào phải đóng thuế bao nhiêu suất đinh cứ theo như thế mà đóng mãi, đẻ

thêm cũng không kể, chết đi cũng không trừ.

Đong lƣờng: Năm Giáp Thìn (1661), lấy ống Hoàng Trung Quân làm chừng.

Ống ấy đựng được 1.200 hạt thóc gọi là 1 thược, 10 thược làm 1 hạp, 10 hạt

làm 1 thăng, 10 thăng làm 1 đấu, 10 đấu làm 1 hộc.

Việc mua bán: Niên hiệu Cảnh Trị thứ 6 (16670, Trịnh Tạc định rằng:

Các quan viên nào thừa hành mua các quý vật hoặc hàng hóa, trước phải lấy

ở công khố đủ tiền trả cho người bán được vừa lòng. Nếu làm điều gì trái phép,

hại đến quyền lợi người bán, người bán được phép truy tố. Xét được tình trạng,

can phạm sẽ bị trọng phạt tùy theo tội nặng nhẹ.

Đối với việc truyền giáo: Năm Quý Mão (1663), Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo

sĩ và cấm không cho người An Nam theo đạo Gia Tô.

49

5. ĐỜI CHIÊU TỔ KHANG VƢƠNG TRỊNH CĂN ( 1682 – 1709 )

Trịnh Căn con thứ tư Trịnh Tạc, lúc làm Thế tử phong tước Định Nam

Vương.

Năm Nhâm Tuất (1682), tháng 8, Trịnh Căn nối nghiệp cha làm chúa. Năm

ấy, tướng nhà Mạc là Nguyễn Công Hồi về làm quan Trấn thủ Cao Bằng là Lê

Hải.

Năm Giáp Tí (1684), Trịnh Căn được phong tước Thượng Thành Phụ sư

Đinh Vương.

Trịnh Căn chịu mệnh tiết chế, tiến quân đánh Nam Triều và trấn Cao Bằng,

lấy lại được nhiều cảnh thổ, công lao to tát, danh vọng lừng lẫy. Vua Lê Hi Tôn

muốn phong cho tước Vương nhất tự ( chỉ dung một chữ ) để tỏ ý kính trọng.

Trịnh Căn vẫn khiêm nhượng mãi, vì có các quan đại thần khẩn nài nên đến bấy

giờ mới chịu sắc phong.

Năm Quý Mùi (1691), cháu tằng tôn Trịnh Căn là Trịnh Cương được phong

làm chức Tiết Chế, hàm Thái úy tước An Quốc Công. Trịnh Cương là con Tấn

Quang Vương Trịnh Bính, cháu Lương Mục Vương Trịnh Vịnh.

Năm Bính Tuất (1694), 52 người xã Đa Già Thượng ( tỉnh Ninh Bình ) bị xử

trảm. Xã ấy ở trong núi, cạnh một con đường, thường thường có nhiều ác thú

làm hại hành khách. Nhân dịp đó, xã ấy lập một nhà trọ để chứa khách bộ hành.

Dân đinh đều đồng ý góp tiền xây lên thành nhà. Khách bộ hành qua lại rất

đông, đều vào đấy trọ. Nhưng đến đêm, dân ấy lừa giết hành khách lấy hết của

cải, làm cho mất tích. Như thế trong hơn hai mươi năm, quan địa phương mới

biết, đến tận nơi khám xét, hiện thấy một đống xương người; bắt 290 người

50

giam cứu; trong số ấy, 52 người bị kết án xử tử, còn lại thì bị chặt một ngón tay

và phát lưu đi viễn châu, làng thị bị triệt hạ.

Tháng tư năm Ất Dậu niên hiệu Chính Hòa thứ 26 (1705), vua Lê Hi Tôn

truyền ngôi cho Hoàng tử Duy Đường đổi niên hiệu là Vĩnh Thịnh, gọi là vua

Lê Dụ Tôn, rồi lên làm Thái Thượng Hoàng.

Ngày 10 tháng 5 năm Kỷ Sửu niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709), Trịnh Căn

mất thọ 77 tuổi, làm chúa 26 năm, miếu hiệu là Chiêu tổ Khang Vương.

Tháng 9 năm ấy, tiến phong An Quốc Công Trịnh Cương làm tước An Đô

Vương thay quyền Vương phủ.

CHÍNH TRỊ

Quan chế: Năm Ất Sửu (1685), Trịnh Căn đặt các điều lệ về việc thăng

thưởng các quan.

Trước cứ mỗi năm xét lý lịch các quan một lần rồi hoặc thăng, hoặc giáng.

Trịnh Căn ra thời hạn ấy ngắn quá không đủ thì giờ để xét tài năng các quan

cho đúng được nên định lại rằng:

Mỗi năm vẫn cứ cho điểm như cũ nhưng ba năm mấy có một kỳ thăng

thưởng. Điểm thi chia ra Thượng, Trung, và Hạ. Ba năm mà được luôn điểm

Thượng thì được thăng lên một bực trên và được thưởng 50 quan tiền. Được hai

điểm Thượng và một điểm Trung cũng được thăng một trật và được thưởng 20

quan tiền. Một điểm Thượng và hai điểm Trung, chỉ được thăng không được

thưởng. Được ba điểm Trung phải thuyên chuyển, nhưng giữ được chức cũ. Ba

điểm Hạ, một điểm Trung phải giáng chức và quạt 25 quan tiền. Một điểm Hạ

và hai điểm Trung chỉ phải giáng chức không phải phạt tiền.

51

Việc học hành thi cử: Năm Ất Dậu (1693), Trịnh Căn lập lại trường Quốc

Tử Giám và chia nho thần làm bốn hạng:

1. Liêm năng ( thanh liêm và tài năng )

2. Bình thường.

3. Đãi nọa ( trễ biếng ).

4. Tham giảo ( tham và giảo quyệt ).

Năm Bính Tuất (1694), Trịnh Căn sai làm sách Tu Tri nói về núi, sông, ngòi,

đình, chùa, miếu vũ, chợ, đò, đương, cầu, cống trong nước.

Năm Mậu Tí (1696), một vị quan trường bị khép án xử tử vì bắt được gian

lậu cho một ông quan đại thần trúng tuyển.

Luật lệ: Năm thứ 8 niên hiệu Chính Hòa (1687), Trịnh Căn rút lệ chống án

xuống bốn tháng ( việc nhân mạng ); ba tháng ( việc trộm cướp ); hai tháng (

việc hộ, hôn, ẩu đả, ma lỵ và các việc tạp tụng ). Hạn chống án ấy bắt đầu từ

ngày tuyên án.

Năm Đinh Sửu (1697), Trịnh Căn nghiêm cấm cờ bạc và đặt luật để trừng

phạt đổ bạc.

Việc cấp điền: Trước những dân đinh, hoặc mình hoặc cha mẹ hoặc vợ đã có

tư điền rồi, các quan viên đã được cấp đủ điền lộc hoặc ở địa phận làng mình

hoặc ở nơi khác đều không có quyền lợi gì đến ruộng công hàng xã hay ruộng

hương hỏa.

Về sau lại thêm lệ rằng: Nếu số ruộng khẩu phần có quá số ruộng của mình

thì trừ số ruộng của mình đi còn bao nhiêu thì được hưởng số thửa ấy. Nếu trừ

đi không còn thừa thì thôi. Thí dụ: Ruộng mình hai mẫu. Ruộng khẩu phần

được 2 mẫu 2 sào, thì mình chỉ được hưởng thêm 2 sào thôi.

52

Năm thứ 4 niên hiệu Vĩnh Thịnh (1708), Trịnh Căn định thêm rằng:

Thí dụ: Một người có mẫu ruộng tư điền, trót cầm trước đi 5 sào rồi. Đến khi

ruộng khẩu phần không kể cái số 5 sào ấy, nhưng khi chuộc 5 sào ấy, phải trả

lại 5 sào khẩu phần đã cấp trước cho làng ngay. Khi nào bố con ở chung một

nhà đã có nhiều ruộng thì nếu chia ruộng khẩu phần không chia cho cha chỉ cho

người con được hưởng thôi.

Phá bỏ các trang trại: Năm thứ 4 niên hiệu Vĩnh Thịnh (1708), Trịnh Căn

cấm việc lập các trang trại, vì các nhà quan trưởng các nhà phú hào thường hay

lấy thế lực hoặc tiền tài để chiếm đoạt hoặc mua rẻ tư điền của dân, đê lợi riêng

cho mình khiến cho dân phải siêu tán. Không những thế trong các trang trại,

thường ẩn nặc các điền tốt trốn thuế, trốn phu đài, tạp dịch, trốn ra lính. Trịnh

Căn hạn trong 3 tháng, các trang trại phải phá bỏ. Nếu hết hạn ấy, mà các chủ

trại không chịu tuân hành thì các Thừa ti và Hiến ti có quyền theo luật định tội

và phái các quan trấn thủ phá các trang trại ấy.

Bài ngoại: Người Trung Hoa lúc bấy giờ ở xứ ta rất nhiều. Vì sợ dân ta tiêm

nhiễm các phong tục hủ bại của Tàu nên Trịnh Căn bắt người Tàu ngụ trong

nước phải mặc quần áo An Nam, nói tiếng An nam, theo phong tục An Nam.

Lại cấm người Nam Việt không được nói tiếng Tàu và mặc theo lối Tàu.

Ngoại giao: Năm Nhâm Tuất (1682), Trịnh Căn sai Đặng Công Chất làm

Chánh sứ sang Tàu xin phong cho vua Lê Hi Tôn. Cuối năm ấy, quân Tàu giao

trả 350 tù đinh là quân nhà Mạc trước và tướng là Mạc Kinh Liêu. Hai bên điều

đình mãi, quan ta chỉ nhận 121 tên tù và Mạc Kinh Liêu. Sau tha cho cả về yên

nghiệp làm ăn.

Năn sau (1683), vua Khang Hi sai sứ Tôn Chác Vinh sang phong cho vua Lê

Hi Tôn.

53

Năn Bính Tí (1696), Triều Phúc nhờ Trịnh Căn giúp sức mới được làm vua

Ai Lao. Binh mã họ Trịnh đóng ở miền Trấn Ninh và Hua Phan, thanh thế lẫy

lừng dẹp yên được nhiều giặc Thổ. Năm Canh Thìn (1700), Ai Lao có nội

chiến, Triều Phúc cầu cứu Trịnh Căn mới dẹp được giặc mà giữ được ngôi báu.

Năm Bính Tuất (1706), Triều Phúc sai sứ sang cống chúa Trịnh, sau lấy con

gái nhà Trịnh là Trịnh Quận Chúa.

Đối với việc truyền giáo: Năm Mậu Tí (1696), Trịnh Căn bắt đốt hết các

sách đạo và phá hết các nhà giáo đường ở các nơi, lại đuổi các giáo sĩ ra khỏi

nước Nam, cấm không cho dân theo đạo Gia Tô.

54

6. ĐỜI HY TỔ NHÂN VƢƠNG TRỊNH CƢƠNG

Trịnh Cương là con Tấn quang vương Trịnh Bính, cháu Lương mục vương

Trịnh Vịnh, chắt Chiêu tổ Khang vương Trịnh Căn.

Năm Kỷ Sửu (1709), nối ngôi Trịnh Căn làm chúa, được gia phong tước An

đô vương.

Vua Lê Dụ Tôn truy phong tổ phụ Trịnh Cương tước Lương mục vương và

Thân phụ Trịnh Cương tước Tấn quang vương.

Năm Canh Tí (1720), đổi niên hiệu là Bảo Thái.

Trịnh Cương được tôn làm Thượng phụ Thượng sư An vương: con là Trịnh

Giang được dựng làm thế tử.

Trịnh Cương rất siêng năng việc chính trị, thường cùng quan Tham tướng

Nguyễn Công Hãng bàn soạn công việc, từ đầu canh năm đến mặt trời lặn mới

thôi.

Phàm các công việc trong nước như việc binh, việc hình, việc học,việc hộ,

việc dịch lộ, việc phẩm phục, thuế ruộng, thuế muối, thuế dung, thuế điệu, cho

đến lễ nhạc nhà tôn miếu, Trịnh Cương đều sửa đổi đầy đủ cả.

Năm Giáp Thìn (1724), vua Lê Dụ Tôn bị bệnh ở chân, Trịnh Cương phải

thay vua làm chủ tế Nam Giao.

Năm Đinh Mùi (1727), thế tử Trịnh Giang được phong làm chức Tiết chế

kiêm xét việc nước, hàm Thái úy, tước Trịnh Quốc Công, mở phủ Diện quốc.

Tháng chạp năm ấy, Trịnh Cương dựng hành cung ở Cổ Bi. Năm Kỷ Dậu

(1729), Trịnh Cương đi chơi cung Cổ Bi rồi mất ở đấy ngày 28 tháng 11, thọ 44

55

tuổi, làm chúa 22 năm. Quan nội giám Nguyễn Huân rước linh cữu về cung mới

phát tang, tôn làm đức Nhân Vương, miếu hiệu là Hy Tổ.

Tháng 10 năm Kỷ Dậu niên hiệu Vĩnh Khánh năm đầu (1729), Trịnh quốc

công Trịnh Giang được phong làm tước Uy Nam vương thay quyền Vương phủ.

CHÍNH TRỊ

Việc thi cử: Trịnh Cương thấy việc thi Hương bấy giờ còn hồ đồ không được

nghiêm ngặt, bèn đặt ra lệ: ai thi phải nộp tiền minh kinh, để lấy tiền làm nhà

trường và khoản đốn quan trường.

Quan chế: Trịnh Cương cấm các quan viên không được lập xã thôn dưới

quyền mình quản trị vì thế dễ khiến cho dân đinh trốn thuế, trốn phu đãi tạp

dịch và tránh khỏi phải ra lính trong thời biến loạn.

Năm Mậu Tuất (1718), Trịnh Cương đặt ra lục phiên ở phủ Liêu cũng như

lục bộ (Lại bộ, Hộ bộ, Lễ bộ,Binh bộ, Hình bộ, Công bộ) bên nhà vua. Từ đó

việc gì cũng ở bên Lục phiên cả. Lục bộ không có quyền gì nữa.

Niên hiệu Bảo Thái năm đầu (1720), các quan văn tại chức được cấp “ngụ

lộc”: Quan văn tri sĩ được cấp “ân lộc” hay “huệ lộc” và quan võ được cấp “chế

lộc”.

Các quan Hiến ti, mỗi năm được 130 quan tiền và 200 bát gạo của một làng.

Các quan Thừa ti, mỗi năm được 80 quan tiền và 150 bát gạo của một xã

Theo thứ tự như thế mà cấp “ngụ lộc”.

Năm Thái Bảo thứ 5 (1721) các quan Chánh sứ được cấp 5 năm mẫu điền

ruộng, 15 mẫu cấy lũy còn lấy thuế 40 mẫu kia. Phó sứ được hưởng 45 mẫu

điền lộc.

56

Trƣờng Vũ bị: Trịnh Cương mở Trường Vũ bị đặt quan Giao thu dạy cho

con cháu các quan võ chiến. Mỗi tháng một lần triệu tập, ba tháng một lần thi

tập. Xuân thu thi tập võ nghệ (múa võ): Đông hạ thi tập võ kinh (học võ giảng

theo sách).

Ba năm một lần thi võ. Thi về bắn cung, múa giáo, múa gươm,vừa phi ngựa

vừa bắn cung, vừa chạy bộ vừa bắn cung. Sau cùng quan trường hỏi nghĩa sách

để xét học lực, hỏi phương lược để xét tài năng.

Hình luật: Trước can phạm đã phải tội lưu, còn phải chịu thêm tội chặt tay

nữa. Trịnh Cương bỏ luật chặt tay và đổi lại: Tội phải chặt hai bàn tay và phải

lưu viễn châu thì phải đổi làm tội đồ trung thân; phải chặt một bàn tay và phải

lưu ngoại châu thì cải sang 12 năm tội đó; phải chặt hai ngón tay trỏ và phải lưu

cận châu thì dổi làm tội đồ 6 năm. Những việc đạo thiết không kể vào các

trường hợp ấy.

Trịnh Cương lại đặt ra lệ giám sát các văn án. Cứ thứ tự các thẩm quan xét xử

rồi đưa hồ sơ lên tòa trên xét lại. Năm nào đầu tháng Chạp, ngự sử đài cũng

phải đệ trình hội đồng chính đương các sổ sách của mình và các tòa dưới để hội

đồng duyệt y.

Ngoài các điều luật bổ khuyết nói ở trên, Trịnh Cương còn đặt thêm quyền

hạn về việc kháng cáo và cho thi hành phương pháp làm giảm bớt các việc kiện

tụng, cho dân đỡ hại: Lại cấm các quan chức, các trấn không được uy hiếp dân

đóng góp để lấy tiền dâng vua, lễ chúa, nếu trái lệnh sẽ bị nghiêm trị mà lễ vật

thời trả lại cho dân sự.

Trịnh Cương tuy không làm riêng thành một quyển dân luật nhưng các điều

luật đặt ra phần nhiều cũng chú trọng về các việc dân sự tố tụng.

57

Việc hộ: Trịnh Cương đặt ra việc đạc điền và bắt làm lại sổ địa bạ. Các quan

phủ, huyện, thừa chính, Hiến sát phải trông nom việc ấy. Lại đặt ra các quan

Nông sứ để thanh tra việc canh nông, tìm cách khuyến khích cho việc giồng

giọt, cầy cấy được thịnh vượng.

Thuế công điền và công thổ chia ra làm ba hạng:

1. Hạng nhất, mỗi mẫu đồng niên đóng một quan;

2. Hạng nhì phải đóng 8 tiền;

3. Hạng ba 6 tiền.

Những sưu dịch như là việc tế tự trong đền vua phủ chúa, việc sửa sang

trường thi, việc làm cầu cống, tắc đương sá, giữ đê điều thì cứ tùy nghi mà cho

các suất đinh để lấy tiền mà dùng cho đủ.

Hai cửa bể Nghệ An và Thanh Hóa mở mang rộng rãi để tiện đường thương

mại.

Năm Quý Mão (1723), thuế điền, thuế đinh và sưu dịch sửa đổi như sau này:

a. Thuế điền: mỗi mẫu công điền phải nộp đồng niên 8 tiền. Ruộng nào cấy

2 mùa chia 3, quan lấy một phần thóc. Đất bãi của quan mỗi năm phải nộp 1

quan 2 tiền 1 mẫu, chỗ nào giồng dâu được nộp một nửa bằng tơ, chỗ nào

không giồng dâu thì nộp cả bằng tiền.

Ruộng tư điền trước không đánh thuế, bấy giờ phải nộp mỗi mẫu 3 tiền (

ruộng hai mùa ), 2 tiền ( ruộng 1 mùa ).

b. Thuế thân: Mỗi suất đinh đồng niên nộp 1 quan 2 tiền. Những người

sinh đồ, lão hạng ( từ 50 đến 60 tuổi ) và hoàng đinh ( từ 17 đến 19 tuổi ) thì

đóng một nửa.

58

c. Sƣu dịch: Mỗi suất đinh phải đóng 1 năm 2 lần: mùa hạ 6 tiền, mùa đông

6 tiền, để dùng làm các việc trong nước, không phiền đến dân nữa.

Các thứ thuế: Trịnh Cương đánh thuế các thứ thổ sản, thuế mỏ, thuế đò, thuế

chợ, vân vân..

+ Thuế tuần ti: Thuyền bè chở hàng hóa buôn bán trên sông đều phải chịu

thuế: như tre gỗ thì cứ 10 phần thì đánh thuế một phần, đồ tạp hóa thì 40 phần

phải chịu thuế 1 phần. Trong nước lập ra cả thảy 23 sở tuần ti để thu thuế.

+ Thuế muối: Năm Tân Sửu (1721), Trịnh Cương định lệnh đánh thuế muối

và đặt quan Giám đương để thu thuế: cứ 10 phần lấy 2 phần. Buôn muối trước

phải lĩnh thẻ của quan Giám đương sau mới được mua muối nhưng trước phải

mua của quan, sau mấy được mua của người làm muối.

+ Thuế thổ sản: năm Giáp Thìn (1724), Trịnh Cương đặt lệ đánh thuế các

thổ sản như vàng, bạc, đồng, kẽm, sơn, than gỗ, than đá, gỗ, tơ, lụa, quế, cá

mắm, các đồ dụng vật như rượu, mật, dầu và các đồ thập vật như giấy, chiếu,

vải, vân vân..

Dân số: năm Vĩnh Thịnh thứ 9 (1713) mưa luôn, nước lụt làm vỡ đê, mùa

màng bị thiệt hại nhiều. Trịnh Cương sai các quan cai sổ dân đinh để chiếu bổ

lấy tiền sửa đắp đê điều.

Cộng được 206.311 suất đinh ( mỗi suất 10 người ) cộng 2.063.110 người

trong số ấy có:

1) 64.267 suất rưỡi nội vi tử ( dân các xã không phải cấp cho các quan để

làm việc lợi riêng cho các quan, các xã ấy chỉ phải nộp thuế cho nhà nước thôi);

2) 20.038 suất rưỡi dân đinh cấp cho các quan tri sĩ được “ân lộc” ( dân đinh

ấy phải làm việc để lợi riêng cho các quan đó).

3) 86.851 suất đinh cấp cho các võ dược “ chế lộc”;

4) 8.892 suất làm Tạo lệ;

5) 26.262 suất “ Tự sự”.

59

Việc khai mỏ: Bấy giờ ở nước ta có mỏ vàng ở Kim Mã và Tam Lộng ( Thái

Nguyên ); mỏ bạc ở Nam Xương và Long Sinh ( Tuyên Quang ); mỏ đồng ở

Tụ Long ( Tuyên Quang ), Trịnh Lan và Ngọc Uyển ( Hưng Hóa ) Sáng Mộc,

Yên Hậu, Liêm Tuyền. Tống Sinh, Vũ Nông ( Thái Nguyên ), Hoài Viễn ( Lạng

Sơn); mỏ kẽm ở Cồn Minh ( Thái Nguyên ).

Người mình chưa biết khai thác các mỏ ấy bao nhiêu quyền lợi về tay khách

trú hết cả. Không những thế mà phu Tầu thường hay quấy nhiễu dân sự. Năm

Đinh Dậu (1717), Trịnh Cương định lệ hạn cho người Tàu sang khai mỏ chỗ

đông lắm chỉ được 100 người mà thôi. Thế mà về sau có nơi phu khách đông

đến hàng vạn người thường sinh sự đánh nhau, quan quân giẹp mãi mới yên.

Về ngoại giao: Năm Canh Tý (1720), vua nhà Thanh sai sứ là Đặng Đình

Triết và Thanh Vân đem sắc phong vua Lê Dụ Tôn làm An Nam Quốc Vương

và ban cho nhất phẩm bào. Lúc phụng nghinh sắc chỉ, sứ tàu bắt vua Dụ Tôn

phải quỳ 3 lần và lễ 5 lạy. Trịnh Cương không nghe xin theo lễ nghi nước Việt

Nam chỉ có năm bái và ba lần cúi đầu là đủ. Dùng dằng mãi đến hôm sứ Tàu

phải bằng lòng để vua Lê Dụ Tôn theo lễ nghi nước Nam.

Đối với việc truyền giáo: Năm Nhâm Thìn (1712), Trịnh Cương bắt nhưng

người theo đạo Gia Tô phải cạo trán và khắc vào mặt 4 chữ: “ Học Hòa Lan

đạo”, vì người Hòa Lan sang buôn bán trước nhất ở xứ Bắc Kỳ nên mới gọi là

đạo Hòa Lan.

Phân chia các đạo: Năm Quý Mão niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 19 (1723),

nước Việt Nam chia làm mười ba Đạo hay thừa tuyên:

1 – Lạng Sơn

2 – Kinh Bắc

3 – Thái Nguyên gồm cả Cao Bằng

4 – Tuyên Quang

5 – Hưng Hóa

60

6 – Sơn Tây

7 – An Quảng ( trước gọi là An Bang mãi đến năm 1592 mới đổi ra là An

Quảng).

8 – Hải Dương

Kinh đô:

Trung đô hay

Thăng Long hay

Phụng Thiên

9 – Sơn Nam

10 – Thanh Hóa

11 – Nghệ An

12 – Thuận Hóa

13 – Quảng Nam

61

7. ĐỜI DỤ TỔ THUẬN VƢƠNG TRỊNH GIANG ( 1729 – 1740 )

Trịnh Giang con trưởng Trịnh Cương, trước là Cường. Tháng 10 năm Kỷ

Dậu (1729), nối ngôi cha làm Chúa.

Năm Nhâm Tí (1732), niên hiệu Long Đức năm đầu, Trịnh Giang được tôn

làm Thượng sư Uy vương vào chầu không phải lạy, sớ tấu không viết tên.

Năm Giáp Dần niên hiệu Long Đức thứ 3 (1734), được tôn làm Thượng sư

Đại phu Thành vương.

Năm Ất Mão (1735), vua Lê Thuần Tôn mất. Trịnh Giang dựng Hoàng đệ

Duy trấn làm vua Lê Ý Tôn đổi niên hiệu là Vĩnh Hựu.

Trịnh Giang dựng hành cung ở núi Nhu Sơn ( huyện Hiệp Hòa ), có làm sáu

bài thơ để chầu mừng nhà vua. Rất thích làm văn, thường triệu các thi thần vào

Cung ăn yến ngâm thơ, nên các bậc nho thần đều ganh đua nhau.

Năm Bính Thìn (1736), trấn Thái Nguyên, trấn Sơn Tây trộm giặc như ong.

Có thầy tăng là Nguyễn Đăng họp đồ đảng ở trong núi Tam Đảo, đi lại trong

dân gian, quyến rũ đám ngu tục, nhiều người nghe theo để làm rối loạn. Lũ giặc

dựng lên Phủ thư đặt ra quan chức. Bấy giờ thiên hạ thái bình đã lâu, dân không

biết dựng binh, bỗng có giặc đến, xa gần đâu cũng nhốn nháo. Người kẻ chợ

cũng phải dắt díu nhau ra ngoài thành, chỗ ở phải đào hầm để của, phải phơi

cơm làm lương thực để phòng khi giặc đến mà tránh cho khỏi hạn.

Tháng giêng năm Nhâm Ngọ (1738), Trịnh Giang sai các quan đem binh giẹp

yên được đảng giặc ấy.

Tháng chạp năm ấy, trong triều bọn Hoàng thân là Lê Duy Mật, Lê Duy Quy

hai người con vua Dụ Tôn, Lê Duy Chúc ( con vua Hi Tôn ) và mấy người triều

thần là Phạm Công Thế, Võ Thước cùng nhau định đốt kinh thành để làm rối

loạn chính phủ. Nhưng chẳng may việc lộ ra. Duy Quy và Duy Chúc bị bắt giết

còn Duy Mật phải vượt bể trốn vào Thanh Hóa giữ đất Thượng Du phía Tây

Nam làm ngăn trở việc chính trị.

62

Trịnh Giang sai quân lính đi các nơi tầm nã những người đồng mưu với Duy

Mật đều bị họ Trịnh bắt giết cả.

Năm Kỷ Mùi niên hiệu Vĩnh Hưng thứ 5 (1739) tháng chín Trịnh Giang được

tôn làm chức Thượng Sư Đại phụ Toàn vương.

Mấy năm sau, Trịnh Giang bị yếu, trễ nải công việc nên bọn loạn thần Hoàng

Công Phụ chuyên quyền làm bậy. Lúc bấy giờ ngoài các trấn giặc Nguyễn

Tuyển, Nguyễn Cừ, Võ Trác Oanh, ở Sơn Nam có giặc Hoàng Công Chất đều

mượn tiếng phù “ Lê diệt Trịnh” nên dân mật Đông Nam theo rất nhiều, rồi đi

cướp phá hương thôn. Thế giặc rất mạnh, quan quân đánh giẹp không được.

Hoàng Công Phụ bèn xuất bộ binh sang sông, toan đi giẹp giặc để lập công.

Nhưng Hoàng Công Phụ ra đi thì tháng giêng năm Canh Thân niên hiệu Vĩnh

Hựu thứ 6 (1740), bà Vương thái phi cùng các quan giảng thần ở Phủ liêu là

Nguyễn Quý Cảnh, Nguyễn Công Thái, Võ Công Tế mưu xuất Trịnh Giang mà

lập vương đế Ân quốc công Trịnh Doanh đô vương thay quyền Vương phủ để

lo việc đánh giẹp cho yên giặc giã.

Trịnh Giang được tôn làm Thái thượng vương.

Hoàng Công Phụ được tin trốn mất, thiên hạ mới có hi vọng thái bình.

Ngày 15 tháng 12 năm Tân Hợi (1761), Trịnh Giang mất, thọ 51 tuổi, miếu

hiệu là Dụ tổ Thuận Vương.

CHÍNH TRỊ

Trịnh Giang cũng là một nhà chính trị khôn ngoan.

Quan chế: Niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 3 (1731), Trịnh Giang định cấp cho các

quan số Tùy Hậu theo phẩm trật nhớn nhỏ để dùng làm thừa hành công vụ,

Nhất và nhị phẩm được 6 người

Tam và tứ phẩm được 4 người

63

Ngũ và lục phẩm được 3 người

Thất và bát phẩm được 2 người

Cửu phẩm được 1 người

Nếu ngoài số đã định mà còn lạm quyền bắt binh lính hoặc dân sự về làm

việc riêng cho mình sẽ bị trọng phạt.

In sách: Nước Nam tuy học hán tự đã lâu năm mà vẫn phải mua sách thi của

Tàu về dùng: quyền lợi về tay người Tàu cả.

Năm Giáp Dần (1734), Trịnh Giang bắt khắc bản in, in các sách ( Sử ký, Tự

điển, Ngũ Kinh, Đại Toàn ) và làm sách lê triều Hội điển phát ra mọi nơi và

cấm không cho mua sách in của tàu nữa, mục đích là mở mang nền học vấn,

khuyến khích việc làm sách và khuyếch trương nghề in sách và mua sách hội

họa, làm lợi cho tài chính Việt Nam nữa.

Sổ chi thu: Vì có lần giặc giã, phải chi tiêu nhiều cho đến năm Kỷ Mùi

(1731), Trịnh Giang lập sổ chi thu biên rõ đồng niên thu vào được bao nhiêu và

chi ra mất bao nhiêu, để liệu sự chi dụng cho vừa; lại đặt quan chức để cùng Hộ

phiên trông nom các sổ ấy.

Thuế muối: Thuế muối thời bấy giờ đánh cao quá ( 10 phần quan lấy 2

phần), dân sự phải ăn uống kham khổ. Năm Nhâm Tí (1732), Trịnh Giang bỏ

thuế muối không đánh nữa.

Việc khai mỏ: Vì người Tàu sang khai mỏ nước ta, chiếm hết cả quyền lợi

và lại sinh sự lôi thôi nên Trịnh Giang định lại các điều lệ và quyền hạn cho

khai mỏ, bắt các Hoa Kiều phải nộp thuế nặng, để giảm thuế cho dân.

Đối với việc tôn giáo: Ngày 29 tháng giêng, niên hiệu Long Đức thứ 2

(1733), Trịnh Giang đặt ra lệ hạn chế việc làm tượng phật.

Ngoài các tượng được phép làm chỉ được dùng gỗ, đá mỗi chiều dài 3 thước

ta. Cấm không được làm tượng quá chiều ấy. Nếu không theo đúng lệ thì quan

64

huyện bẩm quan trên không cho phép làm lại bắt phạt nữa. Như thế để hạn chế

sự xa phí.

65

ĐỒ - MIẾU NHAD VƢƠNG

Hưng Tổ Triệu Tổ Mục Tổ Uyên Tổ

Hương án

Thế Tổ Thánh Tổ

Hương án

Đoan

Nam

Vương

Thánh

Tổ

Dụ

Tổ

Chiêu

Tổ

Văn

Tổ

Hoàng

Tổ

Thuần

Tổ

Hy

Tổ

Nghị

Tổ

Diện

Đô

Vương

Án

Đô

Vương

BÀI VỊ TIÊN VƢƠNG

66

Thái Vương Triết Vương

Nghi Vương Dương Vương

Khang Vương

Nhân Vương

Thuận Vương Ân Vương

Thịnh Vương Án Đô Vương

Đoan Nam Vương Diện Đô Vương

67

Vua Lê

Trang Tôn, Trung Tôn, Anh Tôn

Anh Tôn, Thế Tôn, Kinh Tôn,

Thần Tôn

Thần Tôn, Chân Tôn, Thần Tôn

Thần Tôn, Huyền Tôn, Gia Tôn,

Hi Tôn

Hi Tôn, Dụ Tôn

Dụ Tôn, Lê Đế Duy Phương

Lê Đế Duy Phương, Thuần Tôn,

Ý Tôn

Ý Tôn, Hiển Tôn

Hiển Tôn

Hiển Tôn

Hiển Tôn

Chiêu Thống

Chúa Trịnh

Thái Vương húy Trịnh Kiểm

Thành Tổ Triết Vương húy

Trịnh Tùng

Văn Tổ Nghị Vương húy

Trịnh Tráng

Hoằng Tổ Dương Vương húy

Trịnh Tạc

Chiêu Tổ Khang Vương húy

Trịnh Căn

Hy Tổ Nhân Vương húy

Trịnh Cương

Dụ Tổ Thuận Vương húy

Trịnh Giang

Nghị Tổ An Vương húy

Trịnh Doanh

Thánh Tổ Thịnh Vương húy

Trịnh Sâm

Diện Đô Vương húy

Trịnh Căn

Đoan Nam Vương húy

Trịnh Khải

Án Đô Vương húy

Trịnh Bồng

MIẾU HÚY NHÀ VƢƠNG

Cộng mƣời hai đời – 249 năm chẵn

68

8. ĐỜI NGHỊ TỔ ÂN VƢƠNG TRỊNH DOANH ( 1730 – 1767 )

Tháng Giêng năm Canh Thân (1740), Trịnh Doanh con thứ Trịnh Cương

và em ruột Trịnh Giang được dựng làm chúa.

Trước phong làm Ân quốc công sau phong tước Minh Đô Vương.

Trịnh Doanh thấy Hoàng điệt Duy Diêu, con vua Thuần Tôn là phái đích

tôn nhà vua lên dựng lên chính thống để yên lòng phản trắc bèn tâu với vua

Lê Y Tôn nên trả lại ngôi chí tôn cho người tôn tử, để yên lòng thiên hạ. Vua

Lê Y Tôn cũng thuận y nhời ấy. Hoàng điệt Duy Đào lên trị vì, đổi niên hiệu

là Cảnh Hưng, tôn vua Lê Y Tôn lên làm Thái Thượng Hoàng. Chiếu ra trăm

họ đều vui lòng mà cho là việc cử hành đó có chủ nghĩa thứ nhất là tôn phủ

chính thống, chỉnh đốn danh vị.

Từ khi chạy về Thanh Hóa, Lê Duy Mật vẫn chiêu tập binh mã, đến năm

Canh Thân (1740), tiến đánh Hưng Hóa và Sơn Tây, họp cùng giặc là tên

Tương, giữ đồn Ngọc Lâu ( huyện Thạch Thành ). Tướng họ Trịnh đem binh

phá đồn Ngọc Lâu và giết được tên Tương, Lê Duy Mật lại chạy vào Nghệ

An rồi sang giữ đất Trấn Ninh làm căn bản.

Năm ấy, đất Sơn Nam ở làng Ngân Già có lũ Vũ Đinh Dung, Đoàn Danh

Chấn, Tú Cao nổi lên cướp phá các nơi, giết cả quan Đốc lĩnh Hoàng Kim

Qua. Thế giặc lừng lẫy, dân gian thực là khốc hại. Trịnh Doanh phải thân

chinh đem binh đi giẹp, đánh cho một trận điên bái, đuổi thẳng đến sào

huyệt bắt được cả bọn Vũ Đình Dung, đem chém ngay rồi đổi tên xã Ngân

Già làm Lai Cách ( nay là Gia Hòa ).

Giặc Ngân Già vừa tan thì giặc Nành là bọn Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ,

Vũ Trác Oanh và Nguyễn Diên lúc ấy đương tung hoành ở đất Hải Dương.

Bèn thừa hư tiến lên Nhị Hà. Trịnh Doanh bèn sai Chư tướng dẫn quân về để

69

cứu chỗ cỗi rễ. Kinh thành hết sức chống cự. Quân giặc phải lui về tổ. Ai

cũng nói rằng trận này là công võ thứ nhất lúc sơ chính.

Năm Tân Dậu (1741), quan thong lĩnh Hải Dương là Hoàng Nghĩa Bá phá

được các đồn của giặc ở Phao Sơn, Ninh Xá và Gia Phúc. Trần Cảnh đem

quân theo đánh giặc Nguyễn Tuyển ở Đại Tâu và Đại Bát ( Đông Triều ).

Nguyễn Tuyển thua chạy rồi chết, Vũ Trác Oánh không biết trốn đi đâu mất,

Nguyễn Cừ chạy lên Lạng Sơn mấy tháng sau lại về Đông Triều, nhưng hết

lương phải ẩn nấp ở ngọn Vân Sơn rồi bị quan Hiệp đồng Phạm Đình Trọng

bắt được, đóng cũi đem về kinh nộp cho chúa Trịnh.

Còn dư đảng giặc Nành thì đến ngày 7 tháng giêng năm Nhâm Tuất

(1742), Trần Cảnh đem quân giẹp tan được cả ở An Quảng ( Quảng Yên ).

Đến bấy giờ giặc Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ mới bình được cả.

Năm Nhâm Tuất (1742), Trịnh Doanh được phong làm thượng sư Minh

Vương.

Thời ấy, tỉnh Hải Dương có một tên ăn cướp rất hung tợn tên là Nguyễn

Hữu Cầu tục gọi là Quận Heo nhập đảng Nguyễn Cừ làm loạn, tàn phá các

nơi. Đến khi Nguyễn Cừ bị bắt, Nguyễn Hữu Cầu đem dư đảng chống lại

với triều đình. Năm Quý Hợi (1743), Nguyễn Hữu Cầu giết được quan Thủy

đạo đốc binh là Trịnh Bảng rồi tự xưng làm Đông Đạo Thống Quốc Bảo

Dân Đại Tướng Quân, thanh thế rất lừng lẫy, tung hoành ở mật Vân Đồn và

Đồ Sơn.

Trịnh Doanh sai Hoàng Ngũ Phúc đem binh đến vây núi Đồ Sơn. Hữu

Cầu phá vây chạy rồi tiến đánh đến thành Kinh Bắc ( Bắc Ninh, Sơn Tây,

Hải Dương ) quan Trấn thủ là Trần Đình Cẩm và quan đốc đồng là Võ

Phượng Đề chống nhau với giặc ở Thị Cầu, bị thua phải bỏ ấn tín mà bỏ

chạy. Tin ấy về đến Kinh Sư làm náo động cả lên.

70

Hoàng Ngũ Phúc đem binh về cùng với Trương Khuông lấy lại thành

Kinh Bắc. Nhưng thế giặc Cầu rất mạnh, phá quân Trương Khuông ở làng

Ngọc Lâm ( huyện Yên Dũng ), đuổi quân của quan thống lĩnh Định Văn

Giai ở Xương Giang ( huyện Phất Lộc ) rồi lại về vây Thị Cầu.

Trịnh Doanh biết giặc Cầu sợ tiếng Phạm Đình Trọng bèn sai Hoàng Ngũ

Phúc cùng Phạm Đình Trọng đem binh đến đánh Cầu, giết được tướng của

Cầu là Thông lấy được quân nhu chiến mã thực nhiều.

Giặc Cầu lấy làm căm tức bèn đào mả mẹ Phạm Đình Trọng đổ xuống

sông. Từ đó Phạm Đình Trọng thề không cùng Nguyễn Hữu Cầu đội trời

chung . Vì lẽ đó, năm Bính Dần (1746), Hữu Cầu đem vàng bạc đút lót bọn

Đỗ Thế Giai ở Phủ Liêu để xin về hàng. Trịnh Doanh thuận cho và đặc ân

phong Cầu làm Hương nghĩa hầu lại sai quan Thiêm Tri Nguyễn Phi Sảng

đem tờ dụ đến nơi quân thứ, truyền cho Phạm Đình Trọng đình chiến. Song

Phạm Đình Trọng khăng khăng một mực không chịu hoãn binh.

Vì vậy nên ở Phủ Liêu, bọn Đỗ Thế Giai bèn tìm lời nói dèm với Trịnh

Doanh. Nhưng Trịnh Doanh là người sang suốt, vốn biết Phạm Đình Trọng

là một tay kiện tướng rất trung thành nên không nói gì đến việc ấy. Lại làm

một bài thơ sai đưa ra để yên ủi Phạm Đình Trọng.

Nguyễn Hữu Cầu tuy đã về hàng mà vẫn thường cướp phá các nơi, sau lại

về quấy nhiễu đất Sơn Nam. Một hôm Cầu bị Phạm Đình Trọng đánh đuổi ở

Cẩm Giàng, bèn nhân dịp quan quân thắng trận, không ai phòng bị, đến đem

kéo quân lẻn về bến Bồ Đề. Trịnh Doanh biết tin, tự đem quân ra giữ bến

Nam Tân. Phạm Đình Trọng cũng được tin ấy lập tức đem quân đánh mặt

sau, Hữu Cầu thua trốn thoát. Sau Cầu hợp đảng với Hoàng Công Chất ở đất

Sơn Nam, rồi cùng nhau cướp phá ở huyện Thần Khê và Thanh Quang (

Thái Bình ). Phạm Đình Trọng và Hoàng Ngũ Phúc lại đem binh đi tiễu phỉ.

Hoàng Công Chất chạy vào Thanh Hóa, Hữu Cầu chạy vào Nghệ An, nhập

71

đảng với tên Diên ở Quỳnh Lưu nhũng nhiễu dân thôn. Phạm Đình Trọng

đem quân dõi theo, phá được trại giặc, đuổi Hữu Cầu ra đến làng Hoàng Mai

thì bắt được đóng cũi đem về Thăng Long nộp Chúa Trịnh.

Thế là từ năm Quý Hợi (1743) đến bấy giờ là năm Tân Mùi (1751), cộng

tám năm, mấy giẹp yên giặc Quận Heo.

Năm Canh Thân (1740), tên Tế và tên Bồng làm loạn ở Sơn Tây, bị quan

Chinh Tây Đại Tướng Quân Võ Tá Lý bắt được cả ở phủ Vĩnh Tường, đem

đồ đảng về giữ núi Tam Đảo, mộ quân trữ lương, rồi cho người về nói dối

xin hàng.

Bấy giờ phía Đông Nam đương bị tên Cầu, tên Chất quấy nhiễu, nên

Trịnh Doanh cũng tạm cho hàng.

Năm Giáp Tý(1744) tên Phương đem quân giữ đất Việt Trì phá cướp

huyện Bạch Hạc, nhưng bị quan Đốc xuất Sơn Tây là Văn Đình Úc đem

quân vây đánh phải bỏ chạy.

Danh Phương chiếm núi Độc Tôn, lấy núi Ngọc Hồi huyện Bình Xuyên

làm xào huyệt, lập đồn Hương Canh và Kỳ Úc để chặn giữ, rồi tự xưng là

Thuận Thiên Khải Vận Hoàng đế, lập cung điện, đặt quan tước, thu thuế ở

đất Tuyên Quang, thanh thế lẫy lừng riêng một giang sơn, dân tỉnh phía tây

bị trong cảnh lẩm than họa loạn, thực là khổ sở và phần nhiều bị hại.

Năm Canh Ngọ (1750), Trịnh Doanh xuất đại quân tự mình làm tướng,

tiến lên đồn giặc. Ngày 19 tháng chạp phá được đồn Kỳ Úc, kéo quân đến

tận thành rồi lên ngọn núi cao nhất, chỉ báo quân sĩ. Đạn giặc bắn như mưa.

Nguyễn Phan cùng thủ hạ liều chết xông vào mới phá được đồn Hương

Canh. Danh Phương rút quân về giữ đồn Ngộc Bội. Trịnh Doanh tiến công

đuổi đánh, Danh Phương cùng đồ đảng chống không nổi, bỏ chạy vào núi

Độc Tôn. Ngày 10 tháng 2 năm Tân Vị (1751), quan quân đuổi Danh

Phương đến làng Hải Luyện ( huyện Lập Trạch ), thì bắt được. Thế là trong

72

non 10 năm trời, trấn Sơn Tây bị giặc Ngũ hoành hành, đến bấy giờ mấy trở

lại thái bình.

Phạm Đình Trọng bắt được giặc Cầu ở xã Hoàng Mai đóng cũi đem về

hành tại ( chỗ Trịnh Doanh đóng quân ), lại gặp ngay giặc Ngũ, cũng đem về

đấy, trịnh Doanh bèn mở tiệc thưởng tướng khao quân, bắt Cầu thổi sáo,

Ngũ dâng rượu, quân sĩ reo hò ầm ầm sấm vang thực là vui vẻ.

Tháng hai năm Tân Vị ( Mùi ) (1751), Trịnh Doanh kéo quân về kinh làm

lễ dâng tù ở nhà Thái miếu, giặc Cầu và giặc Ngũ đều bị chém cả.

Năm Quý Dậu (1753), Trịnh Doanh dựng con trưởng là Trịnh Sâm làm

thế tử.

Năm Mậu Thìn (1760), Thế Tử Trịnh Sâm được gia phong làm chức Tiết

chế gồm giữ việc nước, hàm Thái úy, tước Tĩnh quốc công.

Trịnh Doanh vốn chuộng nghề nho, thương triệu các nho thần vào phủ thi

thơ, họa phú rồi ban thưởng cho.

Ngày 17 tháng 5 Đinh Hợi niên hiệu Cảnh Hưng 28 (1767), Trịnh Doanh

mất, thọ 48 tuổi, làm Chúa 28 năm, truy tôn là Ân Vương, miếu hiệu Nghị

Tổ.

Trịnh Doanh, tuổi trẻ nối ngôi, lưu tâm về việc chính trị, sai quan văn tìm

xét sách vở xưa nay để liệu cách sắp đặt, sai quan võ rèn tập binh thư để tinh

tường việc võ nghệ. Lại sửa đổi chính thể, giẹp yên giặc loạn, thiên hạ được

hưởng thái bình gần 30 năm, nên khi ngài mất, trăm họ đều khóc than

thương tiếc.

Thế tử Tĩnh quốc công Trịnh sâm tập phong Vương hiệu.

CHÍNH TRỊ

Quan chế: Năm Cảnh Hưng thứ nhất (1740), vì số dân đinh giảm mất

nhiều, nên Trịnh Doanh bớt số tùy hành của các quan văn võ, rồi cấp ruộng

73

“liêm – điền” thay vào để khuyến khích các quan liêm khiết. Những người

tùy hành ấy trước theo phẩm trật các quan nhớn nhỏ mà cấp, để các quan sai

khiến, làm những việc lợi cho riêng mình.

Làm Quốc sử: Năm Kỷ Tỵ (1749), ông Lê Quý Đôn soạn xong bộ Đại

Việt Thông Sử có 3 quyển: quyển thứ nhất có bài tựa và hai chương nói về

đời vua Lê Thái Tổ, hai quyển sau nói về nhà Mạc.

Được ít lâu ông Ngô Thời Sỹ soạn xong quyển Việt sử tiêu án chữa những

đoạn ở quốc sử nói sai nhầm. Quyển ấy chia làm 10 chương.

Võ miếu: Năm Canh Tân (1740), Trịnh Doanh lập võ miếu chính vị thì

thờ Vũ Thành Vương, Khương Thái Công, Tôn Võ Tử, Quảng Tử, vân vân.

Đằng sau thì thờ Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn. Lại lập miếu thờ

riêng Quang công. Mỗi năm, mùa xuân mùa thu hai kỳ tế lễ.

Binh chế: Năm Canh Thân (1710), Trịnh Doanh bắt mỗi xã phải tuyển lấy

hai đội lính, mỗi đội 10 người để khi có giặc cướp đến mà chống giữ và

phòng để cứu làng, láng giềng. Lính nhất binh chỉ để đủ giữ các trấn và hầu

hạ các quan còn thì cho về làm ruộng, khi nào cần đến mấy gọi. Thời bấy

giờ linh tứ trấn cả thẩy được độ 11.500 người, chia làm 20 duệ. Trịnh Doanh

đổi ra làm cơ, làm đội: mỗi cơ có 200 người, 100 người cho về làm ruộng,

trong khi 100 người kia ở tại ngũ rồi cứ lần lượt thay đổi nhau mà về.

Pháp luật: Nhân dân trong nước nếu bị các nhà quyền quý ức hiếp hay

phải điều gì oan uổng mà không thuộc về thẩm quyền các tòa án, không thể

kêu đâu được, thì được phép đến gõ chuông ở Phủ Liêu mà kêu với ngự sử

đài.

Niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 8 (1747), Trịnh Doanh cho treo chuông và

khánh bên cửa tả Phủ Liêu.

Người nào muốn đến trình bày về thời sự, muốn tỏ ý kiến mình và muốn

giúp việc ấy thì gõ chuông.

74

Những kẻ bị các nhà quyền quý uy hiếp hay bị điều gì oan khuất, không

thể kêu ở tòa án được thì lắc khánh. Đơn kêu phải niêm phong cẩn thận, lại

phiên phải hỏi sư trạng rồi lấy cung ngay để hầu cứu.

Ân điển: Tháng 4 năm thứ 2 niên hiệu Cảnh Hưng (1741), nhân dân vừa

trải qua cuộc binh đao mới bắt dầu yên nghiệp làm ăn. Trịnh Doanh cấm các

công sai thu các thứ tiền án phí và các quan chức thu thuế, không được tịch

biên điền khí và trâu bò của dân, để cho dân được sinh nhai một cách êm

đềm.

Tháng 7 năm ấy, lại nghiêm cấm các quan thu thuế và các quan thẩm phán

không được tịch biên trâu bò, các điền khí và các hóa vật thường dùng của

dân.

Việc đúc tiền: Trước thì trấn nào cũng có sở đúc tiền, nên sinh ra lắm sự

nhũng lạm. Năm Quý Dậu (1753), Trịnh Doanh bỏ sở đúc tiền ở các trấn,

chỉ để hai sở ở gần Kinh thành để tiện kiểm soát.

Thuế muối: Năm Bính Thìn (1746), Trịnh Doanh lập lại phép đánh thuế

muối. Cứ năm mươi mẫu ruộng muối làm một bếp, mỗi bếp phải nộp mười

hộc muối thuế, mỗi hộc trị giá 180 đồng tiền tức là 3 tiền.

Đối với việc truyền giáo: Năm Giáp Tuất (1754), đời Cảnh Hưng, Trịnh

Doanh nghiêm cấm một cách rất ngặt không cho người trong nước theo đạo

Gia Tô và lại giết cả các đạo trưởng cùng đạo đồ.

75

9. ĐỜI THÁNH TỔ THỊNH VƢƠNG TRỊNH SÂM ( 1767 – 1782 )

Tháng Giêng năm Đinh Hợi niên hiệu Cảnh Hưng thứ 28 (1767), Trịnh

Sâm con trưởng Trịnh Doanh nối ngôi làm chúa.

Lúc bấy giờ có giặc Hoàng Công Chất chiếm động Mãnh Thiên ( phía bắc

Hưng Hóa ) cùng mấy châu gần đấy, họp đồ đảng kể hàng vạn người, đi

cướp phá vùng Hưng Hóa và Thanh Hóa. Thế giặc rất mạnh, dân tình thực là

khổ sở.

Năm Kỷ Sửu (1769), Trịnh Sâm sai Đoàn Hữu Thục thống lĩnh đạo Sơn

Tây đem quân tiễu giặc. Đoàn Hữu Thục vâng mệnh tiến vào Thanh Châu

đánh động Mãnh Thiên. Đến nơi giặc Chất chết rồi, con là Hoàng Công

Toản đem quân chống giữ, nhưng không nổi phải bỏ đồn chạy sang Vân

Nam còn đồ đảng tan hết.

Tháng 4 năm ấy, Trịnh Sâm được phong làm Thượng sư Thượng Phụ

Tĩnh Vương.

Đến giờ Lê Duy Mật vẫn nương náu ở đất Trấn Ninh chiêu tập binh mã.

Trịnh Sâm cho người đem thư sang dỗ về, không được, mới quyết ý dùng

binh giẹp giặc.

Ngày 1 tháng 6 năm Kỷ Sửu (1769) Trịnh Sâm cùng Hoàng Ngũ Phúc

thương nghị các mưu chước bí mật để dẹp yên đất Trấn Ninh.

Đến ngày 4 tháng 7 Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt thống lĩnh đất Nghệ An

làm Chánh đốc lĩnh đất Thanh Hóa, Hoàng Đình Thể làm Đốc binh đất

Hưng Hóa, ba đạo cùng tiến đánh Trấn Ninh. Năm Canh Dần (1770), Lê

Duy Mật định cố thủ trong thành không ra đánh. Sau thấy súng nhà Trịnh

phá lũy rất hăng biết thế không thể chống nổi quan quân bèn sai chất củi và

thuốc súng rồi cùng vợ con tự đốt mà chết. Giặc Trấn Ninh bình.

Khi sắp khởi binh đánh Lê Duy Mật các quan trong ngoài đều lấy làm trở

ngại về sự hiểm nghèo, chỉ có Trịnh Sâm là quả quyết thế nào cũng được.

76

Nay được như nhời liệu giặc, ai cũng cho Trịnh Sâm là một danh tướng đủ

cả dũng lược.

Trịnh Sâm đi kinh lý phía Tây, tuần thú trấn Thanh Hóa, bái yến lăng

miếu Tiên Vương, xem xét qua lại, hỏi han tình hình dân tình, khao thưởng

quân sĩ, chỉnh đốn nghi vệ. Xa gần ai cũng hoan nghênh, đi đến đâu dân sự

đều đặt hương án, bầy hoa quả, dắt già ẵm trẻ để bái vọng. Ai cũng cho là

việc cử hành đặc biệt trong thời đại Trung hưng.

Năm Ất Dậu (1765), chúa Nguyễn là Võ Vương mất. Quyền thần là

Trương Phúc Loan chuyên quyền làm nhiều điều tàn ngược, dân tình oán

giận trong nước đều không phục tòng.

Lúc bấy giờ, ở xã Tây Sơn ( Quy Nhơn ) có Nguyễn Nhạc khởi binh phản

đối chúa Nguyễn. Ông tổ bốn đời Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với

Hồ Quý Ly nguyên quán ở Nghệ An, lúc gặp Trịnh, Nguyễn đánh nhau bị

bắt đem vào ấp Tây Sơn.

Nguyễn Nhạc có hai em là Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ. Ba anh em bàn cải

họ Hồ sang họ mẹ là họ Nguyễn, để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì

đất xứ Nam là đất chúa Nguyễn.

Nguyễn Nhạc trước kia vẫn buôn giầu không với dân mọi, sau làm biện

lại ở Vân Đồn, thường gọi là Biện Nhạc. Vì tính ham mê cờ bạc, tiêu mất cả

công thuế, sợ phải tội, bỏ vào rừng làm giặc tục gọi là Man Tù ( Quan

trưởng trong Mường ).

Năm Tân Mão (1771), lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu tập quân sĩ, đồ

đảng một ngày một đông.

Thế Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh. Đến năm Nhâm Tỵ (1773) lấy

được thành Quy Nhơn làm nơi căn bản rồi tiến quân lên đến đất Quảng

Nam. Chẳng bao lâu từ Quảng Nghĩa đến Bình Thuận đều thuộc về Tây Sơn

cả.

77

Đương khi đất xứ Nam, có quyền thần chuyên chính ở trong, giặc Tây

Sơn đánh phá ở ngoài, ở xứ Bắc chúa Trịnh là Trịnh Sâm biết tình trạng như

vậy bèn nghĩ đến việc đánh Nguyễn, sai Hoàng Ngũ Phúc làm Bình Nam

Đại tướng quân đem hơn 3 vạn thủy bộ vào Bắc bố chính để đánh họ

Nguyễn.

Tháng 10 năm Giáp Ngọ (1771), Hoàng Ngũ Phúc đem quân sang sông

Linh Giang rồi sai Hoàng Đình Thể đánh lấy được lũy Trấn Ninh. Quân

Trịnh bèn phá lũy Trấn Ninh san phẳng làm bình địa. Trịnh Sâm được tin

Hoàng Ngũ Phúc phá được lũy Trấn Ninh rồi tự đem đại binh vào tiếp ứng

đánh thành Phú Xuân truyền hịch nói rằng quân Bắc vào đánh Trương Phúc

Loan chứ không có ý gì khác. Các quan ở Phú Xuân bấy lâu vẫn oán giận

chính sách tham tàn của Trương Phúc Loan, bèn mưu bắt Phúc Loan đem

nộp chúa Trịnh.

Tuy đã bắt được Trương Phúc Loan rồi mà Hoàng Ngũ Phúc vẫn tiến

quân.

Chúa Nguyễn là Huệ Vương biết mưu Hoàng Ngũ Phúc định lừa để lấy

kinh thành bèn đốc thủy bộ quân ra cự địch. Hoàng Ngũ Phúc sai bọn Hoàng

Định Thể cùng mình tiến binh hai mặt đánh áp lại. Quân Nguyễn vỡ tan, bỏ

chạy, quân Bắc chiếm lĩnh được thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn cùng các

quan tùy thuộc chạy vào Quảng Nam.

Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung được tin Hoàng Ngũ Phúc đã lấy được thành

Phú Xuân, xiết bao mừng rỡ, sai quan đưa cho Ngũ Phúc một trăn lạng vàng

và cho các tướng sĩ 5.000 lạng bạc. Lại phong Ngũ Phúc làm Đại trấn thủ

đất Thuận Hóa để lo việc lấy đất Quảng Nam. Song rồi Trịnh Sâm rút về

Bắc.

Quân Trịnh lại thẳng đường tiến xuống phía Nam, gặp lúc quân Tây Sơn

đã lấy được thành Quảng Nam. Nguyễn Nhạc sai người khách là Tạp Đình

78

làm Tiên phong, Lý Tài làm trung quân còn mình tự làm hậu tập đánh nhau

với quân họ Trịnh. Quân của Tạp Đình đều là khách Quảng Đông và người

mọi to lớn, khỏe mạnh đánh rất là hăng hái. Quân tiền đội của Hoàng Ngũ

Phúc đương không nổi. Ngũ Phúc bèn sai Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng

Cơ đem kỵ binh xông vào trận rồi bộ binh đánh tràn vào. Tạp Định thua

chạy. Nguyễn Nhạc và Lý Tài rút quân về Quy Nhơn.

Lúc bấy giờ ở phía Nam quân nhà Nguyễn là Tống Phúc Hợp đem quân

đánh lấy lại được ba phủ Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khánh, rồi tiến

đánh đất Phú Yên. Ở phía Bắc thì có quân Trịnh đóng ở Quảng Nam.

Nguyễn Nhạc ở giữa liệu thế không chống nổi, bèn sai Phan Văn Tuế đem

thư và mang lụa ra nói với Hoàng Ngũ Phúc xin nộp đất Quảng Nghĩa, Quy

Nhơn và xin làm tiền phu để đi đánh họ Nguyễn.

Hoàng Ngũ Phúc muốn dùng Nguyễn Nhạc để đánh lấy đất Gia Định, bèn

làm biểu xin Chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm Tiên phong Tướng quân tây

Sơn hiệu trưởng.

Nguyễn Nhạc không lo mặt Bắc nữa, sai em là Nguyễn Huệ đem quân đến

đánh Tống Phúc Hợp. Quân Nguyễn thua to bỏ chạy. Nguyễn Nhạc đem tin

thắng trận ra cho Hoàng Ngũ Phúc, Ngũ Phúc dâng biểu xin Chúa Trịnh

phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn hiệu tiên phong Tướng quân.

Tháng chạp năm Ất Vị ( Mùi ) (1775), quân Hoàng Ngũ Phúc bị thua bị

dịch chết mất nhiều ở Quảng Nghĩa, Ngũ Phúc xin Chúa Trịnh cho rút quân

về giữ Thuận Hóa, Trịnh Sâm thuận cho. Hoàng Ngũ Phúc về đến Phú Xuân

thì mất. Chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào thay và Lê Quý Đôn vào làm Tham

thị cùng giữ đất Thuận Hóa.

Từ khi quân Trịnh về Thuận Hóa, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây Sơn.

79

Năm Đinh Dậu (1777), Nguyễn Nhạc sai người ra xin Chúa Trịnh trấn thủ

đất Quảng Nam. Trịnh Sâm bấy giờ chán sự dụng binh, bèn phong cho

Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam Trấn thủ Tuyên úy Đại sứ Cung quận công.

Nguyễn Nhạc được phong rồi bèn sai hai em là Nguyễn Lữ và Nguyễn

Huệ vào lấy được thành Gia Định và giết được Thái thượng vương và Tân

chính vương nhà Nguyễn.

Năm Nhâm Tuất (1778), Nguyễn Nhạc tự xưng Đế hiệu, đặt niên hiệu là

Thái Đức, gọi thành Đồ Bản ( Kinh đô cũ của nước Chiêm Thành ngày trước

) là Hoàng đế thành, phong Nguyễn Lữ làm tiết chế. Nguyễn Nhạc ( Nguyễn

Huệ ) làm Long nhương tướng quân.

Ngày 13 tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất thọ 44 tuổi, làm

Chúa 16 năm, truy tôn làm Thịnh vương, miếu hiệu là Thành Tổ.

CHÍNH TRỊ

Làm quốc sử: Năm Ất Vị ( mùi ) (1775), Trịnh Sâm sai Nguyễn Hoàn,

Lê Quý Đôn, Vũ Miện, Ngô Thời Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Ninh Tốn và

Nguyễn Trạch soạn Quốc sử chép thêm từ đời vua Lê Hi Tôn (1676) đến đời

vua Lê Y Tôn (1740), cả thảy sáu quyển, gọi là Việt sử Tục biên.

Năm Đinh Dậu (1777), xong quyển Bình Nam Thực Lục nói về việc giẹp

nội loạn, bình được các trấn Sơn Tây, Hưng Hóa và Trấn Ninh.

Năm Giáp Tý (1780) xong quyển Lê Hoàng Ngọc phổ nói về triều nhà Lê

và thế hệ các vua Lê.

Việc đúc tiền: Năm Bính Thân (1776), Trịnh Sâm đã lấy được đất Thuận

Hóa rồi, mở thêm lò đúc tiền ở Phú Xuân đúc ra ba vạn quan tiền Cảnh

Hưng nữa.

80

Đời bấy giờ có đúc cả bạc đĩnh để tiêu dùng. Mỗi lạng là 10 đồng. Mỗi

đồng giá 2 tiền. Bạc ấy chặt ra tiêu cũng được.

81

10. ĐỜI DIỆN ĐÔ VƢƠNG TRỊNH CÁN ( 1782 )

Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Sâm mất để di chiếu bỏ con trưởng

là Trịnh Khải, lập con thứ là Trịnh Cán, con bà Tuyên phi Đặng Thị Huệ

mới lên 5 tuổi làm Chúa và cho Huy quận công Hoàng Đình Bảo làm Phụ

chính Trịnh Cán nối ngôi cha, được tôn làm Diện đô vương.

Từ đó người thì theo Đặng Thị Huệ người thì theo Trịnh Khải. Trong phủ

Chúa, chia ra bè đảng. Vả lại, Trịnh Cán còn ít tuổi và lắm bệnh cho nên ít

người quy phụ.

Trịnh Khải mưu với quân tam phủ ( lính Thanh , lính Nghệ đóng ở Kinh

thành làm quân túc vệ canh giữ đền Vua, phủ Chúa ) để tranh ngôi Chúa của

em. Tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), quân ưu binh có Nguyễn Bằng, Nghệ

An đứng đầu đến vây phủ Chúa và giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và

Đặng Thị Huệ lập Trịnh Khải làm Chúa.

Trịnh Cán mất ngay năm ấy.

82

11. ĐỜI ĐOAN NAM VƢƠNG TRỊNH KHẢI (1782 – 1786)

Ngày 24 tháng 10 năm Nhâm Dần (1782), Trịnh Khải lên làm Chúa, tước

Đoan Nam vương.

Trịnh Khải phong tước cho bọn Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân

tam phủ. Từ đó quân ưu binh một ngày một kiêu, đi cướp phá các nhà,

không ai kiêm chế được. Năm Giáp Thìn (1784), nhà quan Tham tụng

Nguyễn Ly bị quân tam phủ cướp nhà. Nguyễn Ly chạy thoát lên Sơn Tây,

cùng em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài rồi gọi quân

nhất binh ở các trấn về trừ Kiêu binh. Nhưng việc lộ ra quân Kiêu binh canh

giữ phủ Chúa rất nghiêm mật nên Trịnh Khải không ra được. Quân các trấn

sợ Chúa bị hại không dám động binh, phải cùng nhau rút về. Từ đó quân ưu

binh hoành hành đi cướp phá các làng: Binh kiêu dân oán, mà các văn hầu

võ tướng cũng bó tay rồi nhìn chịu không làm gì được. Sau có quan Tham

tụng Bùi Huy Bích dỗ dành mãi mới dần dần yên.

Bấy giờ đất Thuận Hóa có Phạm Ngô Cầu trấn thủ vốn nhu nhược, vô

mưu, tính khí tham tàn chỉ tìm cách làm giàu, không lo gì đến việc binh cả.

Nguyễn Hữu Chỉnh là tướng nhà Trịnh trước, bỏ vào với Tây Sơn bày

mưu định kế xin Tây Sơn đánh Thuận Hóa và Bắc Hà. Lại nhân lúc đất

Thuận Hóa không phòng bị nên Tây Sơn bèn sai quân thủy bộ tiến đánh

Thuận Hóa.

Tướng giữ đồng Hải Vận là Hoàng Nghĩa Hồ chống không lại bị tử trận.

Phó tướng là Hoàng Đình Thể đem quân bản bộ ra tiếp chiến bắn hết cả

thuốc đạn. Phạm Ngô Cầu đóng cửa thành không ra tiếp ứng. Hoàng Đình

Thể cùng hai con và tì tướng là Vũ Tá Kiên đều tử trận cả.

Khi quân Tây Sơn đến nơi, Phạm Ngô Cầu mở cửa thành ra hàng. Quân

họ Trịnh giữ các đồn đều tan vỡ bỏ chạy. Phạm Ngô Cầu giải về Quy Nhơn

bị kết án xử trảm.

83

Quân Tây Sơn thừa thắng kéo lên chiếm được hai tỉnh Quảng Bình và

Quảng Trị. Thế là trong đó có mấy ngày về, tháng 5 năm Bính Ngọ (1786)

niên hiệu Cảnh Hưng thứ 47 mà từ Thuận Hóa đến Linh Giang đều thuộc về

Tây Sơn.

Tây Sơn lại tiến quân lên miền Bắc, qua hai tỉnh Nghệ An và Thanh Hóa

không phải độ binh, rồi đến đóng ở Vị Hoàng (trấn Sơn Nam). Quan coi đồn

Vị Hoàng (bấy giờ là làng Vị Xuyên thuộc tỉnh Nam Định) bỏ chạy.

Tướng nhà Trịnh là Trịnh Tự Quyền đem quân giữ mặt Kim Động, quan trấn

thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dân đem bộ binh đến đóng ở xã Phù xa (huyện

Đông An), Đinh Tích Nhưỡng đem thủy quân giữ cửa Luộc. Lúc đấy quân

Tây Sơn tiến đánh thì Đinh Tích Nhưỡng hết đạn phải bỏ thuyền chạy. Bùi

Thế Dân và Trịnh Tự Quyền bị thua, quân tan vỡ cả.

Lấy được trấn Sơn Nam rồi, quân Tây Sơn kéo lên hạ thành Thăng Long,

đánh tan thủy quân của nhà Trịnh. Tướng Trịnh Hoàng Phùng Cơ thua phải

bỏ chạy.

Ngày 25 tháng 6 năm Bính Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 47 (1786),

Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ, cưỡi voi, thúc quân xông vào trận

nhưng thế Tây Sơn rất mạnh đánh không được bị thua ở sông Thủy Ái,

Trịnh Khải phải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi (huyện Yên

Lãng), gặp tên Nguyễn Trang đánh lừa bắt nộp tây Sơn, Trịnh Khải không

chịu khuất đi đến nửa đường lấy gươm cắt cổ tự tận. Thế là Trịnh Khải mất

ngày 27 tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), niên hiệu Cảnh Hưng thứ 47, thọ 24

tuổi làm Chúa 5 năm.

Nguyễn Huệ sai lấy vương lễ mà tống táng cho Trịnh Khải, rồi kéo quân

vào thành Thăng Long, chiếm lĩnh phủ Trịnh Vương, hạ lệnh chiêu an.

84

Ngày 29 tháng 6 năm ấy, Lý Trần Quán thấy Chúa Đoan nam vương

Trịnh Khải bị nạn, thương xót vô cùng, sai người đào huyệt tự chôn sống mà

chết.

85

12. ĐỜI ÁN ĐÔ VƢƠNG TRỊNH BỒNG

Trịnh Bồng, con thứ Trịnh Giang vẫn có trí toan khôi phục lại vương

nghiệp.

Anh em Tây Sơn đã lấy được Thăng Long rồi, đem quân vào thành yết

kiến vua Lê. Ngày 17 tháng 8 năm Bính Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng thứ 47

(1786), Tây Sơn sai các tướng điểm quân Thủy Bộ, lấy hết kho hàng rồi kéo

quân về Nam.

Tây Sơn đi rồi, Trịnh Bồng ở huyện Trương Đức và Kinh Tự lập nghiệp

Chúa. Vua Lê Chiêu Thống bèn phong Trịnh Bồng tước Côn quốc công, sau

lại phong làm Án Đô vương, lập lại phủ liêu, từ ấy uy quyền lại dần dần về

tay Chúa Trịnh.

Vua Lê Chiêu Thống lấy làm lo bèn mật chiếu với Nguyễn Hữu Chỉnh ra

giúp. Nguyễn Hữu Chỉnh hiện đương giữ đất Nghệ An cho Tây Sơn bèn

đem hơn vạn quân ra Bắc để phù Lê đánh Trịnh. Trịnh Bồng đem quân ra

chống cự, nhiều trận bị thua, phải bỏ chạy.

Sau Trịnh Bồng có khởi binh mấy lần để toan khôi phục lại vương nghiệp

nhưng lần nào cũng thua, nên không đạt được trí hướng, rồi chán nản việc

đời, Trịnh Bồng bèn bỏ đi tu.

Ngày 14 tháng 4 năn Tân Hợi (1791), Trịnh Bồng mất ở xách Cổ Lũng

(Ai Lao).

Nhà Trịnh mất hẳn.

Nhà Trịnh từ đức Thái vương Trịnh Kiểm Tổng chinh đến đức Án đô

vương Trịnh Bồng xuất gia, gồm 12 đời, kể năm được 249 năm (1539 –

1787).

Thế là nhà Trịnh mất thì nhà Lê cũng không còn, thực như nhời sấm ngữ

vậy.

86

ĐOẠN THỨ BA

THẾ HỆ HỌ TRỊNH

1. Đời thứ nhất

Đức Thái tể Duệ quốc công, gia phong tước Tuy nhân công tôn phong

Uyên Tổ Tuy đạo vương, tên thụy là Viên Trưởng là Thủy tổ nhà Trịnh.

Ngài tên húy là Kỷ, mất ngày 18 tháng Chạp, yên táng lăng làng Sáo Sơn.

Bà Thái phu nhân tôn phong là Thận phi Lê Quý Thị, tên thụy là An

Nhân, người xã Biện Thượng, mất ngày 28 tháng 4, yên táng lăng làng Sáo

Sơn. Sinh ra ông Phúc ấm công.

2. Đời thứ hai

Đức Thượng tể tướng Phúc quốc công, gia phong Phúc ấm công, tôn

phong là Mục Tổ Phúc ấm vương, tên thụy Viên Sùng, tên húy Liễu, mất

ngày 15 tháng giêng, yên táng lăng làng Sáo Sơn, chân núi thôn Việt An, xứ

Mả Củ.

Bà Thái phu nhân tôn phong là Quý phi Hoàng quý thị, tên thụy là Phúc

Thắng, người làng Biện Thượng, mất ngày 13 tháng Chạp, yên táng lăng

làng Sáo Sơn. Sinh ra ông Diễn Khánh Công.

87

3. Đời thứ ba

Đức Thượng tể tướng Diễn quốc công, gia phong tước Diễn khánh công,

tôn phong Triệu Tổ Diễn khánh vương, tên húy là Lan, tên thụy là Viên Đao,

mất ngày 15 tháng 9, yên táng lăng làng Biện Thượng.

Bà Thái phu nhân tôn phong là Kính phi Hoàng quý thị, tên thụy là Từ

Thông, người huyện Yên Định, mất ngày 15 tháng 6, yên táng lăng làng

Biện Thượng. Sinh ra ông Phúc nguyên công và Dục đức công.

4. Đời thứ tƣ

Đức Thượng tể tướng Đôn quốc công, gia phong tước Dục đức công, tôn

Hưng Tổ Dục đức vương, tên húy là Lâu, tên thụy là Trực Đạo, mất ngày 25

tháng 9, yên táng ở xứ Mả Củ, chân núi thôn Việt An.

Bà Thái phu nhân tôn phong Thục phi Hoàng quý thị, tên húy là Ngọc

Dốc, tên thụy là Từ Tâm ( con gái ông Thái tể Dụ quốc công ổ thôn Hổ )

mất ngày 10 tháng 3, yên táng lăng thôn Việt An. Sinh ra bốn giai, hai gái là:

Ông Hậu quận công

Ông Huệ quận công

Đức Minh khang đại vương Trịnh Kiểm

Ông Phấn quận công

Bà Từ Thiện Phu nhân và bà Từ Đức Phu nhân

5. Đời thứ năm

Đức Minh khang đại vương tên húy là Kiểm, tên thụy là Trung Huân.

Sinh ngày 24 tháng 8 năm Quý Hợi niên hiệu Cảnh Thống thứ sáu (1503).

Mất ngày 18 tháng hai năm Canh Ngọ niên hiệu Chính trị thứ 13 (1570).

88

Bà Thái phi là Nguyễn Quý Thị, tên húy là Ngọc Bảo, tên thụy là Tử

Nghi. Người làng Gia Miên ngoại trang, huyện Tống Sơn. Con gái đức

Hưng quốc Chiêu huân Tĩnh Công Nguyễn Kim. Mất ngày 17 tháng 8 năm

Bính Tuất (1574).

Bà Chính phi là Lại Quý Thị, tên húy là Ngọc Lãnh người xách Thọ Liêu

( huyện Thạch Thành ), con gái ông Đạo sùng công. Mất ngày 12 tháng 8.

Yên táng ở bản quán.

Năm con giai:

1. Đạt nghĩa công Trịnh Cối ( Bà Chính phi Lại thị sinh ra );

2. Thành tổ Triết vương Trịnh Tùng ( Bà Thái phi Nguyễn thị sinh ra );

3. Dương nghĩa công;

4. Dịch nghĩa công;

5. Cần nghĩa công.

Hai con gái: Tiên thượng Công chúa; Quận chúa.

6. Đời thứ sáu

Đức Thành tổ Triết vương tên húy là Tùng, con thứ hai đức Thái vương

Trịnh Kiểm, sinh ngày 12 tháng 11 năm Canh Tuất niên hiệu Thuận Bình

thứ hai (1548).

Ngài 20 tuổi (1576), đặc mạnh cho làm tước Phúc lương hầu, đeo ấn bình

đồng, mở phủ coi việc. Năm 21 tuổi (1568) đức Thái vương mất, được

phong làm tước Lương quận công. Năm 22 tuổi (1569), thăng chức Tả tướng

Tiết chế các sứ thủy bộ mọi dinh tướng sĩ, hàm Thái úy, tước Lương quốc

công. Năm 24 tuổi (1571), tiến phong chức Đô thống Tiết chế thủy bộ mọi

dinh kiêm Tổng binh chương quân Quốc trọng sự. Năm 44 tuổi (1591), diệt

được Ngụy Mạc, nhất thống thiên hạ. Nhà Minh sai sứ là Trần Đôn Đức,

89

Vương Doãn Lập đem ngựa tốt, đai bằng ngọc, mũ sung thiên và hai bức sắc

văn có viết tám chữ: “ Quang hưng tiền liệt, định quốc nguyên huân” ( Làm

rực rỡ công đức tổ tiên và có công đầu định được nước ), tặng ngài, để tỏ

tình hiếu giao lân. Từ đấy, nước Nam lại cống hiến nước Tàu. Vua Tàu khen

ngài rằng: “ Nước An Nam, tướng họ Trịnh hay hậu được nghĩa nhớn, giúp

được nhà Lê tiểu trừ giặc Mạc, thực là bực anh hùng trong đời”. Năm 46

tuổi (1593), tiến phong chức Đô nguyên súy Tổng quốc chính Thượng phụ

Bình an vương.

Năm Quý Hợi (1623), tháng 8 ngày 18, con thứ ngài tước Vạn quận công

Trịnh Xuân thấy vương phải cảm, bèn xuất quân ra Hoàng đình, sai tước

Diện quận Phiên quân, đem quân vào phá nội phủ, cướp voi, ngựa, vàng,

ngọc, bách ngài phải ra ngoài thành, rồi phóng lửa đốt kinh thành. Quan

Chưởng giám Nhạc quận công Bùi Lâm dấn thân cứu ngài ra ngoài. Bấy giờ

đức Thanh vương Trịnh Tráng làm Thế tử sai em là Dũng quận công Trịnh

Giai phụng nghinh Thánh giá và hộ vệ ngài ra Quán bạc ở xã Hoàng mai (

huyện Thanh Trì ). Ông Bùi Lâm rước ngài vào dinh, ông Quốc công Trịnh

Đỗ. Ngài dụ ông Xuân vào để trao quyền cho. Ông Xuân ngậm cỏ phủ phục

ở sân. Ngài kể tội: “Tôi loạn; con giặc”, rồi sai ông Bùi Lâm chặt chân ông

Xuân, ông Xuân chết ngay. Ngày 20, ông Bùi Lâm lại rước ngài đến quận

Thanh Xuân thuộc xã Trào Khúc ( huyện Thanh Oai ). Hôm ấy ngài mất.

Thế là ngài mất vào ngày 20 tháng 8 ( ngày 20 tháng 6 ) năm Quý Hợi

niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 5 (1623), thọ 74 tuổi, tôn phong sách vàng làm Triết

vương, tên hèm là Ruệ Vũ miếu hiệu là Thành Tổ lăng ở làng Sáo Sơn.

Bà Thái quốc Thái phi họ Đặng, tên húy là Ngọc Bảo tên hèm là Từ Huy,

người làng Lương Xá ( huyện Chương Đức ) con gái tước Nghĩa quốc công,

gia phong Hậu trạch công. Mất ngày 7 tháng giêng, lăng ở làng Phúc Địa (

huyện Thụy Nguyên ). Sinh ra đức Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng.

90

Bà Chính phi họ Lại tên húy là Ngọc Như, tên thụy là Từ Huệ, người làng

Quang Lãng ( huyện Tống Sơn ). Con gái tước Cẩn lễ công Lại Thế Khanh.

Mất ngày 19 tháng 9. Lăng ở làng Hải Lịch ( huyện Lôi Dương ). Sinh ra

quan Hữu tướng tước Tín lễ công Trịnh Túc.

Con giai

1) Đức Thanh vương tôn phong Văn Tổ Nghị vương Trịnh Tráng.

2) Ông Hiệp mưu Đồng đức công thần Hữu tướng Tín lễ công Trịnh

Túc.

( Ông là con trưởng đức Triết vương Trịnh Tùng hay rượu, sức mạnh,

thích quần voi, ngựa, thường cưỡi voi lội qua sông, bị voi húc chết. Mất

năm 28 tuổi. Sinh được 2 con giai: Con trưởng là Nhuệ quận công vinh

phong là Dực vận Tân trị công thần; con thứ là Tước Quế quận công ).

3) Ông Hiệp mưu Đồng đức Dực vận Tân trị Công thần tước Mỹ dự

công Trịnh Lâm.

4) Ông Hiệp mưu Đồng đức Dực vận Tân trị Công thần tước Tụng nhạc

công Trịnh Vân.

5) Ông Hiệp mưu Đồng đức Dực vận Tân trị Công thần tước Thuần

nghĩa công Trịnh Dương.

6) Ông Hiệp mưu Đồng đức Dực vận Tân trị Công thần tước Dũng lễ

công Trịnh Giai.

7) Ông Hiệp mưu Đồng đức Dực vận Tân trị Công thần quan Triều tể,

tước Ý công Trịnh Lệ.

8) Quan Thái phó Quảng quận công Trịnh Hàng.

9) Quan Thái bảo Lập quận công Trịnh Tuân.

10) Ông Dực vận Tân trị Công thần, quan Tả đô đốc, tước Tựu quận công

Trịnh Trân.

91

11) Quan Thiếu bảo Hựu quận công Trịnh Điện ( ông dựng ra nghề làm

bia; nay nghề ấy lấy ông này làm tiên sư ).

12) Quan Thái bảo Lộc quận công Trịnh Hà.

13) Quan Thái bảo Việt quận công Trịnh Trinh.

14) Quan Thiếu úy Duyên quận công Trịnh Ngà.

15) Quan Thái phó Xuyên quận công Trịnh Quảng.

16) Ông Dực vận tân trị Công thần, quan Tả tư mã Quốc lão tước Kiện

quân công Trịnh Quân.

17) Quan Thái phó Hào quận công Trịnh Quang.

18) Quan Tả tư không Nông quận công Trịnh Nhương.

19) Ông Vạn quận công Trịnh Xuân ( ông phạm tội ác nghịch, bị chặt

chân, rồi chết ).

7. Đời thứ bảy

Đức Tiên thánh Văn tổ Nghịch vương, tên húy là Tráng, sinh ngày 23

tháng 7 năm Đinh Sửu, niên hiệu Gia Thái thứ 5 (1577).

Ngài là con thứ 2 Đức Thành tổ Triết vương Trịnh Tùng. Năm 22 tuổi

(1598), phong Bình quận công. Năm 47 tuổi (1623), đặc mạnh cho kiêm

trưởng binh quyền, tiến phong làm Hiệp mưu Đồng đức Công thần, chức Đô

tướng, hàm Thái úy, lĩnh Tiết chế, tước Thanh quốc công. Năm ấy rước xa

giá nhà Vua về, nhất thống thiên hạ, sách phong làm Nguyên súy Tổng quốc

chính Thanh đô vương. Năm 53 tuổi (1629), tiến phong Đại nguyên súy

Tổng quốc chính Thượng phụ Thanh vương. Năm 75 tuổi (1651), nhà Minh

sai sứ Tàu sang phong ngài làm An Nam phó quốc vương. Năm 81 tuổi

(1657), tiến phong Đại nguyên súy Tổng quốc chính Thượng Chúa Sư phụ

Công Cao Thông đoán Nhân thánh Thanh vương. Ngày 16 tháng 4 năm ấy,

92

ngài mất tôn phong sách vàng làm Nghị vương, tên húy là Long Tự, miếu

hiệu là Văn Tổ, tôn lăng ở làng Cửu Bao ( huyện Thụy Nguyên ).

Bà Thái phi họ Trần, húy là Ngọc Đài, tên thụy là Từ Huyên, người làng

Đồng Đợi ( huyện Thiên Bản ) con gái ông Khải quận công. Sinh ra đức

Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc. Mất ngày 14 tháng giêng. Bấy giờ xứ

nhà Thanh là Lý Dương cùng lũ Lý Đường Rạng, Triệu Quang Húc, Ngụy

Tương Hiền, đem nghi tiết lại tế điếu lên lăng ở làng Phúc Sơn ( huyện Thụy

Nguyên ).

Bà Chính phi Nguyễn Quý thị, húy Ngọc Tú, tên thụy Từ Thuận, người

làng Gia Miêu ngoại trang ( huyện Tống Sơn ) cháu đức Chiêu huân Nguyễn

Kim, con gái đức Đoan quốc Nguyễn Hoàng. Khi đức Nguyễn Hoàng lẻn

vào Thuận Hóa bà còn bé, không theo đi được. Nhân dịp đức Nguyễn Hoàng

sợ có điều nghi kỵ bèn gả bà cho đức vương. Đức vương lấy làm Chính phi

Tây cung. Sinh ra ông Sùng nghĩa vương. Mất ngày 23 tháng 3. Tôn lăng ở

xã Bồi Dương ( huyện Tống Sơn ).

Bà Hiền phi họ Nguyện, húy Ngọc Súy, tên thụy là Từ Hiền, người làng

Gia Miêu ngoại trang ( huyện Tống Sơn ) cháu đức Đoan quốc công Nguyễn

Hoàng, con gái ông Lý Nhân công Nguyễn Hắc, Chính phi ở Đông Cung,

mất 22 tháng 9 tôn lăng ở xã Bà Đông ( huyện Tống Sơn ).

Con giai:

1) Đức Tây vương tôn phong Hoằng tổ Dương vương Trịnh Tạc

2) Ông Sùng Nghĩa vương Trịnh Kiều ( ông là con trưởng, vâng mệnh

tiết chế, mở phủ Sùng quốc mất sớm ).

3) Ông Dực vận Tân trị Công thần Thân nghĩa công Trịnh Lưu.

4) Ông Dực Vận Tân trị Công thần Thuần vĩ công Trịnh Trương.

5) Ông Dực Vận Tân trị Công thần Bỉnh trung công Trịnh Quế.

6) Ông Dực Vận Tân trị Công thần Quốc lão Tô quận công Trịnh Hàm.

93

7) Quan Thái tể Bảng quận công Trịnh Biện.

8) Quan Thái phó Khuê quận công Trịnh Lực

9) Quan Thái tể Hoàng quận công Trịnh Lộc.

10)Quan Thái phó Địch quận công Trịnh Tiến.

11)Quan Dực vận tân trị công thần hiệu quận công Trịnh Tấu.

12)Quan Dực vận tân trị công thần An quận công Trịnh Thiện

13)Quan Dực vận tân trị công thần Mỹ quận công Trịnh Hoàn.

14)Quan Dực vận tân trị công thần Cảo quận công Trịnh Lệ.

15)Quan Thái úy Ninh quốc công Trịnh Toàn.

( Ông là con út đức vương Thống Lĩnh đi đánh Nam triều, mở dinh gọi là

Tả Dực nội quân. Trấn thủ tỉnh Nghệ An mở phủ gọi là Dương uy phủ, vâng

mệnh Tiết chế. Ở chỗ quân ngũ lâu ngày nên được lòng tướng sĩ. Gặp lúc

đức Văn tổ nghi vương Trịnh Tráng mất, đức Trịnh Tạc lên nối ngôi, thủ hạ

khuyên ông mưu làm phản. Ông không nghe, chúng mới phao ngôn là ông

có trí làm phản và làm chứng buộc thành tội trạng. Đức Trịnh Tạc nghĩ ông

là người trí nhân không lỡ xử tử, đặc ân cho khóa bạc, giam trong ngục.

Năm Giáp Dần niên hiệu Đương Hòa thứ 3 (1637) ba lần ông tâu xin cho

chết. Đức Trịnh Tạc sai ông Hán quận công đưa rượu cho uống và ban cho

quan tài cùng tiền cổ 300 quan, sai quan dụ tế cho đưa linh cữu về chôn ở

ngoại quán thuộc xã Phú Vinh ( huyện Hoằng Hóa ).

Đến năm Đinh Mùi (1655), phụng chuẩn định sự lệ tôn thất nhờ ông là

người đánh giặc có công lao đặc ân tha cho và con cháu cũng chuẩn được ăn

lương theo như lệ năm đời, nhưng không được bổ dụng.

Năm Bính Tí (1660) trong họ có người kêu oan mới chuẩn tha cho ông

được khai phục chức cũ. Đức Trịnh Tạc sai quan Xán trung hầu phụng sắc

truyền phong cho:

94

16)Ông Phủ quận công Trịnh Lịch phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải

sang họ mẹ.

17)Ông Hoa quận công Trịnh Sầm phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải

sang họ mẹ.

8. Đời thứ tám

Đức Tiên thánh Hoằng tổ dương vương tên húy là Tạc sinh ngày 5 tháng

3 năm Giáp Ngọ (1606). Ngài là con thứ. Lên 9 tuổi (1614) chịu phong tước

Quận công. Năm 26 tuổi (1631), thăng làm Bắc quan Đô đốc phủ, Tả đô đốc

Phó tướng tước Tây quận công trấn thủ tỉnh Nghệ An. Năm 27 (1632), thăng

hàm Thiếu phó. Năm 37 tuổi (1642), phụng mệnh Khâm sai trấn thủ sứ Sơn

Nam. Năm 40 tuổi (1645), tiến phong Tiết chế Tả tướng Thái úy Tây quốc

công, giữ quyền chính trong nước, mở Phủ gọi là Khiêm định phủ. Năm 47

tuổi (1652), tiến phong chức Nguyên súy Trưởng quốc chính Tây định

vương. Năm 52 tuổi (1657), đức Nghi vương Trịnh Tráng mất, ngài lên nối

nghiệp Chúa. Năm 54 tuổi (1659), tiến phong tước Đại nguyên súy Trưởng

quốc chính Thượng sư Tây vương. Năm 59 tuổi (1664), vua Lê gia cho ngài,

vào chầu không phải lạy, chương tấu không phải viết tên, được đặt giường

bên tả Long sàng. Năm 63 tuổi (1668), tiến phong chức Đại nguyên súy

Trưởng quốc chính Thương sư đại phu công đức Nhân uy Minh thánh Tây

vương. Năm 69 tuổi (1674), gia tôn cho được mệnh du khái văn. Năm 77

tuổi (1682), ngày 23 tháng 8 ngài mất, tôn phong sách vàng là Dương vương

tên thụy là Thông Hiến, miếu hiệu là Hoằng Tổ, Tôn lăng ở xách Vạn Lại.

Bà Thái phi họ Vũ húy là Ngọc Lễ, tên thụy là Tứ Tá, người xã Thạch

Lỗi ( huyện Cẩm Giàng ), con gái ông Hồng Nhân Công. Sinh ra đức Chiêu

Tổ Khang vương Trịnh Căn. Mất ngày 22 tháng 7. Tôn lăng ở sứ Mạnh Sơn.

95

Bà Chính phi quốc thái mẫu họ Trịnh tên húy là Ngọc Lung, tên thụy là

Tứ Hậu, người làng Sài Sơn ( huyện Vĩnh Phúc ). Con gái ông Thái tể

Quảng quận công. Mất ngày 5 tháng 9. Tôn lăng ở làng Nguyệt Áng ( huyện

Lôi Dương ).

Con giai:

1) Đức Định vương tôn phong Chiêu Tổ Khang Vương Trịnh Căn.

2) Ông Thiệu công Trịnh Úc, con trưởng, anh ruột đức Khang vương.

3) Vương Mậu công Trịnh Đức, con thứ hai anh ruột đức Khang vương.

4) Quan Thiếu bảo đường quận công Trịnh Lương.

5) Ông Lý quận gia phong Đại vương Trịnh Đống.

6) Ông Diễn nghĩa công Trịnh Ốc.

7) Quan Đại tư không phái quận công Trịnh Thâu.

8) Quan Đề đốc Diệu quận công Trịnh Ký.

9) Quan Thiếu bảo Thiều quận công Trịnh Pháp.

( ông thích chơi nghề Giát, thường chế đồ giát vàng, giát bạc để chơi.

Thời bấy giờ gọi ông là Thợ giát ).

10)Ông Quốc lão Tuyên Trung công tiến phong Tuyên Mậu Công Trịnh

Quán.

11) Ông Liêu Quân công Trịnh Phức phạm tội ác nghịch, con cháu phải

cải sang họ mẹ.

12) Ông Trà Quân công Trịnh Cầm phạm tội ác nghịch, con cháu phải cải

sang họ mẹ.

9. Đời thứ chín

Đức Tiên thánh Chiêu Tổ Khang vương tên húy là Căn, sinh ngày 13

tháng 6 năm Quý Dậu (1633). Ngài là con thứ tư, năn 24 tuổi (1650), gia

96

phong chức Phó đô tướng tước Phú quận công, mở dinh Tả quốc, thống lĩnh

chư tướng và Nghệ An đánh Nam triều kiêm trấn thủ đất Nghệ An, gia thăng

hàm Thái phó. Năm 28 tuổi (1660)), dựng được nhiều công to, được thăng

Khâm sai Tiết chế thủy bộ mọi dinh, kiêm Trưởng quyền chính, hàm Thái

úy tước Nghi quốc công, mở phủ gọi là Lý quốc phủ. Năm 42 tuổi (1674),

công vọng long trọngtieens phong chức Nguyên súy, giữ chính nước, tước

Định nam vương. Năm 50 tuổi (1682), đức Dương vương Trịnh Tạc mất,

ngài lên nối nghiệp Chúa. Năm 53 tuổi (1685), tiên phong chức Đại nguyên

súy Thống quốc chính Thượng thánh Sư phụ Trịnh công Nhân minh Uy

đoan Định vương. Năm 77 tuổi (1709), ngài mất ngày 10 tháng 5, tôn phong

sách bằng vàng là Khang vương, tên thụy là Đông Đoán, miếu hiệu là Chiêu

Tổ, tôn lăng ở làng Lịch Thượng (huyện Yên Định).

Bà Thục phi họ Nguyễn tên húy là Ngọc Phụng, tên thụy là Trang thân,

người xa Quang Lãm (huyện Thanh Trì) bảo dưỡng đức Tiên đúc Tấn quang

vương Trịnh Bích. Mất ngày 13 tháng 3.

Bà Thuận phi họ Ngô tên húy là Ngọc Quyền, tên thụy là Rượu Mỹ,

người làng Mỹ Cốt (huyện Lôi Dương), con gái quan Đô đốc Lưu quận công

Phạm Sỹ Kỳ. Sinh ra đức Lương mục vương Trinh Vinh. Mất ngày 19 tháng

4. Lăng ở làng Phúc Hà (huyện Thụy Nguyên).

Bà Thuận phi họ Ngô tên húy là Ngọc Uyên, tên Thụy là Rượu Tĩnh,

nguyên quán ở xã Phượng Lịch (huyện Hoằng Hóa) cháu ông Thân Huân

Tán trị Công thần hàm Thái bảo tước Hòa quận công. Con gái ông Thiếu bảo

Kiêm quận công. Bảo dưỡng đức Hy Tổ Nhân vương Trịnh Cương: Thời

bấy giờ gọi là đức Bảo Mẫu. Mất ngày 12 tháng 11. Lăng ở làng Bảo Ngũ.

Con giai:

1) Đức Quốc tể Lương mục công tôn phong Lương mục vương Trịnh

Vịnh là con trưởng.

97

2) Quan Trưởng tể Thượng tướng công Trịnh Ruyên sau đổi thành Trịnh

Bách là con thứ hai.

(Đức Lương mục vương mất, ông lĩnh chức Khâm sai Tiết chế, phong

tước Mưu quốc công, mở phủ gọi là Lý chính phủ, ông mất sớm sinh ra:

Ba giai:

a) Con trưởng là quan Nội nhuệ Quân dinh Trịnh Luân;

b) Con thứ là quan Trung Kiên Trung dinh Trịnh Hiệu (hai người đều

phgạm tội ác nghịch).

c) Con út là quan Nội kinh Quan dinh Phó đô lương Thái tể tước Cơ

quốc công Trịnh Lãng.

Một gái:

Trịnh Thị Xuân làm Thượng quận chúa gả cho ông Tựu quận công Lê

Thời Bảo là con ông Thái phó Trung quận công gia phong Đại vương Lê

Thời Liệu).

3) Quan Thái phó Đề quận công Trịnh Lan là con út.

(Ông sinh ra:

a) Con trưởng là Hội quận công Trịnh Lộc, tước mở dinh Nội kiên quân,

phạm tội phải tự sát, các con đều phải giam cấm. Năm Đinh Mùi, phụng

chuẩn định sự lệ tôn thất, lấy sự tích đó chưa rõ, đặc ân được tha, con cháu

không phải đổi họ;

b) Con thứ là Tào Trung công gia phong Đại vương Trịnh Nhượng.

Ba gái:

a) Trịnh Thị Ngọc Phúc làm Thượng quận chúa gả cho tước Ân Quận

công họ Lê, sinh ra bà Tương Thọ Hầu Lệ Sanh lấy đức Dụ Tôn Hoàng đế.

98

b) Trịnh Thị Ngọc Phúc làm Thượng quận chúa gả cho quan Đề đốc

Hằng Thọ hầu ứng luật.

c) Trịnh Thị Ngọc Quỹ làm Quận chúa gả cho quan Đô đốc Đồng tri

Tuân quận công Lệ Đình Khôi).

Con gái:

a) Bà trưởng thượng quận chúa Trịnh Thị Ngọc lai, gả cho quan Đề đốc

Bán quận công Trịnh Thập;

b) Bà Thân thượng quận chúa Trịnh Thị Ngọc Bảo, gả cho quan Tham

đốc Trịnh tương hầu Lê Thái;

c) Bà thượng quận chúa Trịnh Thị Ngọc Lan, gả cho quan Thái bảo

Trung quận công Lê Thời Liệu.

10. Đời thứ mƣời

Đức Tiên đức Lương mục vương tên húy là Trịnh Vịnh. Sinh ngày 30

tháng 9 năm Tân Mão niên hiệu Khánh Đức thứ 3 (1654).

Năm Đinh Mùi niên hiệu Cảnh Trị thứ 5 (1667), ngài 17 tuổi, thăng chức

Phó đô tướng Đô đốc Đồng Tri Lương quận công mở dinh Tả khuông quân.

Năm Giáp Dần (1674), ngài 24 tuổi, thăng chức Tả đô đốc rồi lại thăng

chức Thiếu phó. Năm Mậu Ngọ niên hiệu Đức Nguyên thứ năm (1678),

tháng 8 ngày 23, ngài mất thọ 28 tuổi tặng chức Thái phó tiến phong Quốc

tể Du nhân Vĩ tượng Thủy hựu Đốc dự Địch phúc Tích công Chiêu tiền

Hiển hậu Lương công, tôn phong là Lương mục vương tên thụy là Đôn

Chính, lăng ở làng Cổ Biện (huyện Nông Cống).

Bà Huệ phi họ Nguyễn tên húy là Ngọc Ruệ, tên thụy là Đoan Thận,

người làng Lạc Nhuế (huyện Yên Phong) sinh ra đức Tấn quang vương

Trịnh Bính. Mất ngày 29 tháng 6, thọ 28 tuổi. Lăng ở xứ Nhà Đài xã Bái

Nại (huyện Yên Định).

Con giai:

99

Đức Tham tể Tấn quốc công gia phong Tấn quang vương Trịnh Bích;

Ông Trịnh Quyền là con thứ hai và anh ruột đức Tấn quang vương.

( Mở dinh Hữu trung quân, làm Phó đô tướng Toán quận công, phạm tội

phải tự sát, các con đều phải giam cấm. Năm Đinh Mùi, phụng chuẩn định

sự lệ tôn thất, lấy sự tích đó chưa rõ rang, đều tha cho cả; các con cháu

không phải cải sang họ mẹ, còn bổ dụng cúng lẩm cấp thì không được).

Ông Trịnh Liêu là con thứ ba.

( Mở dinh Hậu trung quân làm quan ( Phó đô tướng, tước Vỵ quận công.

Trái phép công phải giải quyền chức, cho ở nhà Quận công; các con đều

được ở nhà các quan trọng thần. Năm Đinh Mùi, phụng chuẩn định sự lệ

tôn thất, đặc ân được tha, con cháu cũng được dự ân điển. Năm Nhâm Tý

tháng 12 ngày 19, phụng chuẩn ban cho phục chức cũ. Tước Tăng huyện

hầu phụng sắc truyền cho tông nhân giữ làm bằng tích ).

Quan Thái tể Đông quận công gia phong Đông nghĩa công. Trịnh Hoàn là

con thứ tư, mở dinh Trung kính quân.

Quan Phó tướng Thoan quận công gia phong Trung hiếu Đại vương

Trịnh Tu là con út;

Con gái:

Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Qua là con gái trưởng chị ruột đức Tấn

quang vương, gả cho quan Đại Tư đồ Gia quận công cho theo họ là Trịnh

Lân.

11. Đời thứ mƣời một

Đức Tiên đức Tấn quang vương tên húy là Trịnh Bính. Sinh ngày 14

tháng 5 năm Canh Tuất (1670). Con trưởng đức Lương mục vương Trịnh

Vịnh. Mở phủ Dục quốc, làm chức Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ mọi

dinh, kiêm Tổng quyền chính hàm Thái úy tước Tấn quốc công. Mất ngày

28 tháng chạp năm Nhâm Ngọ niên hiệu Chính Hòa thứ 23 (1702) thọ 33

100

tuổi. Tôn phong chức Tham tể Thượng tướng công, tiến phong đức Anh

minh thong ruệ Riết văn Tích thiện Bồi cơ Dỵ mưu Du hậu Tấn quang

vương, tên thụy là Vỹ Khánh, lăng ở xã Phú ( huyện Thuần Lộc ).

Bà Thái phi Trương Thị Ngọc Chủ tiến phong là Huy như Thuần đức

Thái tôn. Tên thụy là Tứ Tuyên người huyện Gia Lạc. Con gái ông Duyên

Khánh công Trương Rự. Sinh ra đức Hy tổ Nhân vương Trịnh Cương và

hai bà Quận chúa là Trịnh Thị Ngọc Thung, Trịnh Thị Ngọc Cơ. Em ruột bà

là ông Thiêm quận công Trương Nhưng. Phấn quận công Trương Nhượng,

đều gia phong Đại vương. Bà mất ngày 28 tháng 8 năm Canh Ngọ, thọ 88

tuổi. Lăng ở lang Dương Ký ( huyện Thiên Bản ). Năm Nhâm Ngọ tháng 3

ngày 19 phụng cải về lăng làng Quảng Hán ( huyện Yên Định ).

Bà Chính phi Trần THị Ngọc Nhiên, tên thụy là Ôn Dung người xã Yên

Lạc ( huyện Đông Thành ), con gái quan Hộ bộ Tả thị lang Liêm quận công

Trần Đăng Doanh. Mất ngày 26 tháng 10 Lăng ở xã Bái Nại ( huyện Yên

Định ).

Con giai:

1) Đức An vương tôn phong Hy tổ Nhân vương Trịnh Cương;

2) Ông Suy tâm Dực vận Tán trị Công thần, quan Tiền hòa Quận doanh

Đô đốc phủ Tả đô đốc Phó đô tướng Trưởng phủ sự Đại Tư đồ Quốc lão

Roãn trung công Trịnh Đạc;

3) Ông Suy tâm Dực vận Tán trị Công thần, quan Tiền hòa Quận doanh

Đô đốc phủ sự Đại Tư mã kiêm chức Tôn nhân phủ Tả tôn chính Đỉnh trọng

công gia phong Túc vương Trịnh Trụ;

4) Quan Hữu đô đốc Phó tướng Tuân quận công Trịnh Rự;

5) Quan Hữu đô đốc Phó tướng Lộc quận công Trịnh Hành;

6) Quan Hữu đô đốc Đồng tri Phó tướng Kinh quận công Trịnh Khuê;

7) Quan Đô đốc Đồng tri Phó tướng Lộc quận công Trịnh Khôi;

101

8) Quan Đô đốc Thiên sự Phó tướng Hậu quận công Trịnh Bi;

9) Quan Thái bảo Phó tướng Dực quận công Trịnh Đinh;

10) Quan Đô đốc Thiêm sự Phó tướng Tín quận công Trịnh Đôn;

11) Quan Phó tướng Thân quận công Trịnh Linh;

( ông xuất gia tu hành. Thời bấy giờ gọi là Sư quan hiệu là Nhực thân Bồ

tát);

12) Quan Đô đốc Đồng tri Phó tướng Du quận công Trịnh Tăng;

13) Quan Tả đô đốc Phó tướng Tản quận công Trịnh Nhiêu;

14) Quan Nôi hữu đội đô Chỉ huy sứ ty Phó tướng Khuông quận công

Trịnh Hiệu;

15) Quan Đô chỉ huy sứ Đồng tri Phó tướng Cẩn quận công Trịnh Tuy;

16 Quan Tả đô đốc Phó tướng Khoa quận công Trịnh Thập;

17) Quan Tả hòa Quận doanh Đô đốc phủ Đô đốc thiêm sự Phó đô tướng

Thự phủ sự Thủy quận công gia phong Thụy trung vương Trịnh Tân.

Con gái:

1) Trưởng thượng quận chúa Trịnh Thị Ngọc Thung lấy quan Đô chỉ huy

sứ Huy quận công Lê Thời Hiệu;

2) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Lan lấy quan đô đốc đồng tri Chiêm

quận công Lê Thực;

3) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ lấy quan Thái bảo kiêm chức Hữu

tôn chinh Rĩnh quận công Lê Đinh;

4) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Anh lấy quan Thái bảo Huân quận

công Đặng Đình Gián;

5) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Trạch lấy quan Chỉ huy Trấn tướng

hầu Trần Công Thạnh;

6) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Khuy lấy quan Tổng binh Đồng tri Rật

trung hầu Đặng Đình Khôi;

102

7) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc An lấy quan Đô chỉ huy sứ ty Đạc

Khanh hầu Lê Đình Tính;

8) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Chư lấy quan Chỉ huy sứ Trạc thọ hầu

Cao Sán;

9) Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Huỳnh lấy quan Hiệu úy Tuần Vũ hầu

Nguyễn Đức Ân;

10)Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Hoàn lấy quan chỉ huy thiêm sự Nhuận

phái hầu Đặng Đình Đê;

11)Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Mai lấy quan chỉ huy thiêm sự Trưởng

thọ hầu Lê Hùng;

12)Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Bảng lấy quan Phủ sự Đô chỉ huy sứ

Trí sĩ khai phục Hiển trung hầu Đặng Đinh Quỳnh;

13)Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Dung lấy quan Chỉ huy Đồng tri Hậu

thọ hầu Trịnh Quyền;

14)Bà Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Nghiên lấy quan Chỉ huy Thiêm sự

Đặc thọ hầu Mai Thế Án.

12. Đời thứ mƣời hai

Đức Tiên thánh Hy Tổ Nhân vương tên húy là Cương. Sinh ngày 19

tháng 5 năm Bính Dần niên hiệu Chính Hòa thứ 7 (1686). Ngài là con

trưởng. Năm 15 tuổi (1700) làm Phó tướng, tước Phả an hầu. Năm 17 tuổi

(1702) thăng chức Đô đốc, tước Phả quận công. Năm 18 tuổi (1703) phụng

mệnh Khâm sai Tiết chế các xứ thủy bộ mọi dinh kiêm giữ việc nước, hàm

Thái úy Phả quốc công Kinh quốc phủ. Năm 21 tuổi (1709), đức Khang

vương Trịnh Căn mất, ngài nối nghiệp chúa tôn làm Đại nguyên súy Tổng

quốc chính An đô vương. Năm 29 tuổi (1744) tiến tông là chức Đại nguyên

súy Thượng thượng phụ An vương. Năm 35 tuổi (1720), tôn làm chức Đại

nguyên súy Tổng quốc chính Thượng sư Thượng phụ uy minh Nhân công

103

thánh đức An vương, Ngài mất ngày 28 tháng 11 năm Kỷ Dậu niên hiệu

Vĩnh khánh năm đầu 1729, thọ 44 tuổi. Tôn phong làm Ôn mục Trang tức

Khoan rụ Trung Ruệ kinh văn Vỹ vũ Hồng mô Đại lược Thúy thống Hiến

thiên Nhân vương. Tên thụy là Uy Lược miếu hiệu là Hy Tổ lăng ở làng

Khoải Lạc ( huyện Yên Định ).

Bà Thái phi họ Vũ tên húy là Ngọc Quyến tên tựa là Ngọc Nguyên. Tôn

phong là Ý công Hậu đức Trang hạnh Đoan Nghi Khuông vận Diễn phúc

Quốc Thánh mẫu. Tên thụy là Từ Đức. Người xã Úc Thự ( huyện Quảng An

) con gái ông Ruệ Trạch Công Vũ Tất Ru sinh ra:

1) Con trưởng là đức Thái thượng vương ( Thuận vương ) Trịnh Giang;

2) Con thứ là đức Thánh thượng Đại nguyên súy Tổng quốc chính sự

Thượng sư Thượng phụ Anh Đoán Vạn Trị Vũ công Minh vương ( Ân

vương ) Trịnh Doanh.

3) Con gái là Thái chưởng công chúa Trịnh Thị Ngọc Cư.

Em ruột bà là:

1) Súy Trung Dực vận Công thần Đồng Tham tụng Trung Roanh khuôn

quân roanh Đô đốc phủ chánh Đô đốc Thự phủ sự kiêm Tôn nhâm phủ Hữu

Tôn chính Đại tư đồ Bỉnh trung công Vũ Tất Trấn vâng cho theo họ Trịnh là

Trịnh Thiết cũng như Vương thân vậy.

2) Bà Vũ Thị Sơ ra ở chùa Phong là Bồ tát vương.

Bà mất ngày 21 tháng 9 năm Tân mùi, thọ 23 tuổi, lăng ở xứ Đồng Ngô,

thôn Thanh Long xã Kim Hoạch ( huyện Thủy Nguyên ).

Con giai:

1) Đức Dụ Tổ Thuận vương Trịnh Giang;

2) Đức Nghị Tổ Ân vương Trịnh Doanh;

3) Ông Huy quận công Trịnh Tập;

4) Ông Khanh quận công Trịnh Kiều;

104

5) Ông Thọ quận công Trịnh Đang;

6) Ông Phúc quận công Trịnh Quế;

7) Ông Nham quận công

Con gái:

Bà Thái chưởng công chúa Trịnh Thị Ngọc Cư.

13. Đời thứ mƣời ba

A. Đức Dụ Tổ Thuận vương tên húy là Giang trước là Cường. Sinh năm

Kỷ Ngọ niên hiệu Chính Hòa thứ 10 năm 1710. Năm 10 tuổi (1720) được

lập làm thế tử. Năm 19 tuổi (1729) đức Nhân vương Trịnh Cương mất, ngài

nối ngôi làm Chúa. Năm 20 tuổi (1730) ngài tiến phong Nguyên súy Thống

quốc chính tước Uy nam vương. Năm 22 tuổi (1732), phong là Uy vương.

Năm 24 tuổi (1734) tôn làm Tổng quốc chính. Năm 29 tuổi (1739), tiến

phong tước An nam thượng vương Toàn vương. Năm 30 tuổi (1740), tôn

phong Thái thượng vương. Mất ngày 5 tháng chạp năm Tân Hợi niên hiệu

Vĩnh Hựu thứ 6 (1761), thọ 51 tuổi, tôn phong là Thuận vương miếu hiệu là

Dụ Tổ.

Con giai:

1) Đức Án đô vương Trịnh Bồng;

2) Ông Trịnh quận công Trịnh Trù;

3) Ông Cậu quận công;

4) Ông Kỳ quận công Trịnh Bồi;

A. Đức Nghị Tổ an vương tên húy là Doanh sinh năm Canh Tý niên hiệu

Bảo Thái năm đầu 1720. Năm 20 tuổi (1740), được dựng làm Chúa thay anh

là Trịnh Giang, tôn phong Nguyên súy Tổng quốc chính tôn Minh đô vương.

Năm 22 tuổi ( 1742) tôn phong Đô nguyên súy. Mất ngày 17 tháng 5 năm

Đinh Hợi (1767), thọ 48 tuổi. Truy tôn là Ân vương, miếu hiệu là Nghị Tổ.

105

Con giai:

1) Đức Thánh tổ Thịnh vương Trịnh Sâm;

2) Ông Thuy quận công;

3) Ông Đồng quận công;

14. Đời thứ mƣời bốn

A. Đức Thánh tổ Thịnh vương tên húy là Sâm. Sinh năm Kỷ Mùi

niên hiệu Vĩnh Hựu thứ năm (1739).

Năm 29 tuổi (1767), đức An vương Trịnh Doanh mất, ngài nối nghiệp

chúa tôn phong Nguyên súy Tổng quốc chính tước Tĩnh đô vương.

Mất ngày 13 tháng 9 năm Nhâm Dần, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 43

(1782), thọ 44 tuổi. Truy tôn Thịnh vương, miếu hiệu Thánh tổ.

Con giai:

1) Đức Đoan nam vương Trịnh Khải;

2) Đức Diện đô vương Trịnh Cán;

A. Đức án đô vương tên húy là Trịnh Bồng

Năm Bính Ngọ (1786), Tiên phong Côn quốc công. Tôn phong Nguyên

súy Tổng quốc chính tước Án đô vương.

Năm Đinh mùi niên hiệu Chiêu Thống năm đầu 1787, không khôi phục

lại được vương nghiệp, chán nản sự đời, bỏ đi tu.

Ngày 11 tháng 1 năm Tân Hợi (1791), mất ở xách Cổ Lũng ( Ai Lao ).

Sinh ra bốn con:

1) Hiến quận công;

2) Khiêm quận công;

3) Tiệp quận công;

106

4) Ninh quận công;

( Nay ông Trịnh thực phụng tự )

15. Đời thứ mƣời lăm

A. Đức đoan Nam Vương tên húy là Khải

Sinh năm Quý Mùi, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 23 (1763), năm 20 tuổi

(1782), nối nghiệp chúa, tôn phong là Nguyên súy tước Đoan nam vương.

Năm 24 tuổi (1786), bị Tây Sơn đánh thua bèn tự sát. Mất tháng 6 năm

Bính Ngọ niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 7 (1786).

A. Đức Diện đô vương tên húy là Cán.

Sinh năm Đinh Dậu niên hiệu Cảnh Hưng thứ 38 (1778). Lên 5 tuổi

(1782) được dựng làm thế tử. Tháng 9 năm Nhâm Dần niên hiệu Cảnh Hưng

thứ 43 (1782). Ngài nối nghiệp Chúa, mẹ là bà Tuyên phi Đặng Thị Huệ làm

phụ chính, tiến phong tước Diện đô vương. Tháng 10 năm ấy bị truất ngồi

rồi mất.

B. Ông Trịnh Tư là con đức án đô vương Trịnh Bồng.

Khi đức Gia Long lên ngôi, nghĩ đến tình nghĩa nhân gia, sắc cho ông

giám thủ việc tế tử Tiên vương.

Ông sinh được ba người con: Con trưởng là Trịnh Thực, con thứ là Trịnh

Đồng và Trịnh Lãm.

16. Đời thứ mƣời sáu

Ông Trịnh Thực phụng sự Các tiên vương, chi phái đến nãy hãy còn

thịnh vượng.

107

108

ĐOẠN THỨ TƢ

SAO LỤC CÁC SẮC DỤ CỦA LIỆT ĐẾ

I

Ngày 11 tháng 7 năm 47 niên hiệu Cảnh Hưng (1786).

Đặc sai quan Tiết chế thủy bộ chư dinh. Đại nguyên súy, Phụ quốc

thượng công, truyền cho chi phái họ Trịnh cung thích thuộc ngoại gia.

Kính vâng uy giời, tìm nên yên định, thần dân nhởn nhơ đều đội ân

quang.

Lũ nhà ngươi là thích thuộc họ Trịnh, đừng nên câu nệ đều phải kính nể

đức ý nhà vua, lại về chốn cố hương mà yên phận làm ăn; kẻ nào có văn học,

tài nghề, muốn ra xuất chính, sẽ tùy tài bổ dụng, để rõ đức ý rộng rãi của nhà

vua.

Vậy đều nên nghĩ kỹ để yên lòng, chớ nên đánh nghi kỵ mà có lỗi.

Nay truyền cáo

II

Ngày mồng 10 tháng 12 năm 17 niên hiệu Cảnh Hưng.

Sắc dụ các chi phái nhà Vương:

Từ khi trung hưng đến nay, Hoàng, Vương, cũng như mọi người.

Trước kia nhà Vương phải bước gian truân; Trẫm đã có chỉ chọn phải

đích tôn, trao cho thế tước; còn các viên chí phải khác, cũng đều được

nguyên chức phẩm cũ. Đó là truy tư đến trung huân của các Tiền vương, ơn

đền giả báo, phải nên như thê. Hiện nay giặc ngoài, ngày một kịch liệt, xa

giá nhà Vương phải ra ngoài coi quân, tình nghĩa thân hầu, không thể thông

109

đạt được với nhau. Lũ nhà người phải nên thể tất ý đó. Còn ai trong kinh

thành này, đều nên đến ngay Cửa Quyết, để Trẫm liệu cách xử trí cho, chớ

nên chậm trễ, sinh lòng nghi kỵ.

Nay đặc dụ

III

Ngày mồng một tháng 6 năm thứ 3 niên hiệu Quang Trung ( Tây Sơn ).

Chỉ dụ cho quan Cựu tri phủ ở làng Sáo Sơn ( huyện Vĩnh Phúc ), phủ

Thiệu Thiên, trấn Thanh Hóa là người Trịnh Tiệp tuân biết;

Mới rồi lũ nhà người đến cửa lạy mưng, bong Dương đã soi đến gốc Quỳ.

Nay lệnh chỉ cho tìm bảo các viên trong họ đều được trở về làm ăn: ai có

bụng trung thành, quan ra hiệu dụng đều cho đầu nạp để được thu lục, cho

yên lòng chúng để rõ đức vua, ấy là sự tin thật đó.

Nay lệnh chỉ

IV

Ngày 16 tháng 6 năm đầu niên hiệu Gia Long (1802).

Chiếu cho ngoại quân các chi phái họ Trịnh đều biết:

Nhớ xưa: Họ ta cùng họ Trịnh vẫn là thân thích, quãng giữa bắc nam đôi

ngả, thành xa cách nhau. Đó là công việc của tiền nhân, ta cũng không nên

nói đến nữa.

Tay ta trả được hận, giẹp được giặc, trong ngoài thống nhất như một nhà,

thì tình thân qua cát từ xưa, lại nên nhớ đến. Vậy chiếu ban cho trong họ đều

biết: nên phải bảo nhau, họp chọn lấy năm, sáu người tộc trưởng, có tài cán

biện, đến Hành doanh chầu mừng và đưa cả sổ sách gia tiên, để tìm rõ được

chi phái đích thứ, mà thu lục cho, để hậu nghĩa hai họ vơí nhau.

Nay đặc chiếu

110

V

Ngày 19 tháng 8 năm đầu niên hiệu Gia Long.

Chiếu cho thần dân thiên hạ kính biết:

Từ xưa, các đời dựng nước, có đời gọi là Đế, có đời gọi là Vương, xưng

hiệu dẫu không giống nhau nhưng từ dân ta chỉ có một nghĩa mà thôi.

Mới đây giặc Tày nổi loạn, nhà Lê mất nước, hơn hai mươi năm, chính

thống của nước nhà, vẩn vơ rối loạn. Ta ở trấn Gia Định, vẫn lo cho xã tắc

sinh dân nước nhà. Trước phải chính ngôi vua, cho phó lòng nhân dân thiên

hạ trông mong; sau lấy lại được kinh Phú Xuân, phải chọn ngày cáo Thái

miếu, dựng niên hiệu cũng là để rõ chính thống lúc ban đầu và làm mới tai

mắt cho thiên hạ.

Bấy giờ tướng giặc bị bắt, việc quân đã định, sĩ phu thiên hạ cùng con

cháu nhà Lê, chi phái họ Trịnh và các họ công thần, các quan văn võ trong

ngoài, trước sau biểu chương đều xin sớm chính ngôi Hoàng đế: nhời suy

đời đó đều là thiết thực cả. Vả lại nước ta, từ ông Triệu Vũ nhà Đinh, Lý,

Trần, Lê xưa nay vẫn xưng Đế ở Nam phương: sông núi nước nam vua Nam

ở, đã rõ rang ở thiên thư.

Nhưng hồi tưởng: nhà nước mới gây dựng nên, chỗ ghẻ lở chưa trừ được,

kẻ ốm yếu chưa sống lại; phong tục điêu bạc biến hóa chưa hết; chính sự tệ

ngược, thay đổi còn nhiều. Nhất thiết tình dân kế nước, cần phải trừ liệu.

Lúc mới sắp được phong thịnh, có nhẽ đâu lại uốn mình để theo lòng chúng,

mà nghiễm nhiên tự xử, ngôi chí tôn. Phải nhưng bởi những chương tấu của

lũ đó, để tỏ lòng khiêm ước.

Vậy bá cáo rộng ra, để cho thiên hạ đều biết.

111

Phải nên kính vâng nhời đó.

Nay đặc chiếu

VI

Ngày 23 tháng 9 năm đầu niên hiệu Gia Long.

Chiếu cho các phái đích tôn nhà Trịnh tuân biết:

Tiên tổ nhà ngươi vốn là thân thích với nhà ta. Dẫu rằng quãng giữa bắc

nam đôi ngả, đều là việc đã qua. Hiện đó giặc Tây Sơn dấy loạn. Đế tộ nhà

Lê phải suy đồi. Vương nghiệp nhà Trịnh cũng thiên đi. Nay thiên hạ đã

định, bốn bề đã trong, nghĩ lại tình thần qua cát, cũng nên thương nhớ.

Vậy chuẩn tha cho lũ nhà người: thuế thân, thuế dung sưu lính, mọi việc

và cho nối dõi tông đường họ Trịnh. Lại biệt cấp cho ruộng tế 500 mẫu,

chiểu y sổ bộ hộ cấp cho nhà người nhân lĩnh số thuế thóc thu hàng năm là

333 hộc 10 cân và tiền khoán thập vật là 75 quan, y số chuẩn dùng việc tế tự.

Còn như họ Trịnh 847 người, cứ y trong sổ khai, chuẩn miễn sưu linh thân

dung mọi thứ tiền, để tỏ phúc tốt của nhà vua ban cho.

Phải nên kính vâng nhờ đó.

Nay đặc chiếu

112

BIỂU TẤU CỦA DÒNG DÕI NHÀ TRỊNH

Tháng 7 năm đầu niên hiệu Gia Long

Triều cũ, cả họ Trịnh kính tâu:

Vì vàng đem từ đạt sau này:

Nguyên chúng tôi là dòng dõi nhà Trịnh. Từ khi giặc Tây Sơn phá Cửa

Quyết, lầm than, không thể chịu được, phải vào rừng núi ẩn khuất lâu năm.

Nay kính vâng xa giá nhà Vua, chiếu cố đến kẻ hạ thần, mở rộng lòng

nhân từ, thương nhớ kẻ cố cựu chưa kịp dừng xa giá đã vội ban sắc chỉ.

Chúng tôi may được mở mặt nhường này, thực là đội đức vô cùng.

Nay vâng chiếu ban ơn, đến Cửa lạy tạ.

Nay kính tâu

Cả họ Trịnh ký tên

113

ĐOẠN THỨ NĂM

DI THẢO VÀ CỔ TÍCH

Thơ Chúa Nhật Nam Trịnh Cƣơng để ở vịnh Hạ Long

Vịnh hạ thuộc tỉnh Quảng Yên.

Một vùng nươc biếc, một giả non xanh, lộ nhô giữa dòng trong có nhiều

hang động, trông xa lóng lánh như ngọc châu, cảnh trí thực là thanh nhã. Cái

khéo thiên nhiên của tay thợ Tạo không bút nào tả hết được! Thực là một nơi

đại thắng cảnh trong nước Việt Nam mà đã biết bao qua lại khách Đông

Tây!

Đức Trịnh Cương khi qua chơi có đề thơ:

Thời điều ngọc chúc, tuế thục kim nhương.

Thích vạn vụ chi dư nhàn, thức nhất du chi hữu độ.

Dư chỉnh chu sư, giả Dư Hoàng, lâm vu Đông Minh

Lãm đảo dữ chi như họa, giảo thất chứng thanh

Riệu thủy bộ chỉ như lôi, bổ sư hoàn tráng.

Đan thân rạt hứng, chỉ thảo dũng sinh.

Viên thuật huyền nhai di vận, chác tựu thất ngôn, vĩnh lưu vu thạch.

Minh hạnh vô nhai hồi tổng xuyên

Sơn liên long thủy thủy man thiên

Thân kỷ mạc trạng, an bài chưởng

Hàm nhuận nam danh hóa dục quyền

Đại viễn thượngdi cầm thất sú

114

Xuân quang điệp kiến lạn hoa yên

Tái tuân lục dự phu đoài duyệt

Quần hồ hàm ca hải án niên

Bảo Thái Kỷ đậu niên

Trọng xuân sơ thất nhật

Nhật Nam Trịnh Chúa đề

Dịch:

Nhân khi thời thuận tiết hòa

Quan dân hỉ hả ân ca thái bình

Sẩy xem muôn việc đã đành

Thừa nhàn sắm sửa xuất hành du quan

Chu sư truyền lệnh chương phàm

Nước non như vẽ một làn bể Đông

Sóng kình êm lặng như không

Ti hiu mây đội non bồng kéo lên

Cỏ hoa đón rước quân quyền

Hứng vui tạc đá lưu truyền thất ngôn

Thơ rằng:

Bờ cõi mênh mang rốn bể Đông

Núi liền trên nước, nước trên sông

Thợ trời xếp đặt từ bao tá?

115

Ông Tạo vun giồng, có phải không?

Phong cảnh còn truyền nơi Sát Thát

Xuân quang như thể chốn non bồng

Theo tuần du dự yên lòng chúng

Bộ hạ vui vầy ngắm bể trong

Mồng 7 tháng 2 năm Kỷ Dậu

Niên hiệu Bảo Thái (1729)

Chúa Trịnh Nhật Nam đế

Văn dụ tế ông Phạm Đình Trọng của đức Minh vƣơng Trịnh Doanh

Ông Phạm Đình Trọng người làng Khinh Giao (tỉnh Hải Dương), lúc bé

đã đĩnh ngộ, thường ứng khẩu thơ rằng:

“Trời chảng già, đất chẳng già,

Năm hồ bẩy miếu một mình ta”

Năm 26 tuổi, đỗ tiến sĩ. Đời Cảnh Hưng nhà Lê, cầm quân diệt được giặc

Quận Hẻo và bình định được đám thổ phỉ ở Vân Đồn và Quan Lan (Quảng

Yên), bắt tù binh đưa sang cửa Nam quan. Vua nước Tàu khen ngợi: “Nam

quốc hữu nhân”. Vì có công to được phong làm Thượng thư, chức quân

công. Năm 36 tuổi, vào chủ nội các. Năm 38 tuổi ra tổng chấn ngoài biên

giới, lưu chấn ở Hoan Châu 3 năm, làm then khóa cho cõi Nam. Bấy giờ có

đám thuyền buôn người Tàu hơn trăm người đến sụp lạy trước mặt ngài.

Ngài hỏi: “Vì cớ gì”. Họ đáp rằng: “Chúng tôi trông ngài diện mạo giống

116

phu thần tượng miếu ngã hồ, trông nghiễm nhiên ra vẻ đại nhân” ngài mới

biết ngài là kiếp sau của Thuần Ngũ Hồ.

Ngài là văn nho mà công nghiệp rực rỡ đến như thế, nên sau khi mất, vua

Lê Hiển Tôn tặng phong vương tước và chúa Minh vương Trịnh Doanh có

văn dụ tế, cho lập đền thờ ở làng.

Bài văn tế lược gia sau này:

Hoành Sơn khả dĩ lệ dao

La hà khả dĩ tẩy giáp

Sơn hà trường tồn! Nhi công kim công hà tại hồ?

Thử tích nhân văn chung cổ chi thanh

Tắc tư biên súy chi thần

Vu dư tâm chi sở khâm khải dã

Công

Nhất thân mưu lược

Vạn giáp hung trung

Dư thập niên mạo tuyết sung sương

Hách hách tráng du, mỹ từ thi thạch

Kinh bách chiến, tôi sơn áp lãng

Chương chương hồng, liệt khả kỷ kiêm tương

Thiên kim chi ưu ốc vị thủ

Vạn lý chi trì khu di đốc

Ngật nhĩ trưởng thành trọng ký

Phương kỳ thanh tráng ư Đường Thần

Hồ nhiên Ngũ Trượng giao đồn

Hốt báo đăng tàn ư Hán Tướng?

Tế Liếu chi hiên môn do tạc

Tiền mao chi quân lệnh mang văn

117

Dư phương hoài thái dĩ chi tư

Công hồ phụ cập qua chi ước

Ngài lại cho câu đối rằng:

“Cái thế anh hùng kim cổ thiểu”

“Tại nhân công đức địa thiên trường”

Dịch:

Đá núi Hoành Sơn có thể mài gươm!

Nước sông La Hà có thể rửa giáp!

Núi sông còn đó! Người đã đi đâu?

Bởi vậy người xưa nghe tiếng chuông trống

lại nhớ đến bầy tôi biên giới

Ấy bụng ta thương tiếc cũng vì lẽ đó

Nhớ người xưa

Một thân mưu lược, muôn mối giáp binh

Hơn mười năm sương tuyết xông pha

Mưu trước giỏi không trừ tên đạn

Đánh hơn trăm trận, thế mạnh như phá non đè song

Công to rõ rệt nên chép sử xanh

Chịu ơn sâu nghìn vàng chưa báo

Sức rong ruổi muôn dặm đương hăng

Đường thân mong ký thác bức Trường thành

Hán tướng phút đèn tàn đồn Ngũ trượng

Cửa Hiên đồn tế liễu còn trơ

Quân lệnh trước cờ đã vắng tiếng

Ta đương mong dùng người giúp nước

Người sao lỡ trái ước về quân

118

*

* *

Anh hùng tột phẩm, xưa nay mấy

Công đức nơi người trời đất còn

Núi Tuyết Sơn

Núi Tuyết sơn thuộc huyện Yên Mũ Hà Đông, có động rất đẹp. Trong

đông, thạch nhũ rủ xuống long lánh tựa ngọc châu. Trên đỉnh động, sẵn một

tòa tượng đá thiếp vàng lại có thông to xòe ra, trông hình như tán. Cảnh trí

rất đẹp, đức Thánh Tổ Trịnh Sâm khi lên chơi có đề thơ rằng:

Thúy binh điệp điệp trĩ nam duy

Động tạc sơn yêu thiết tạo kỳ

Triệu xuất thần tung kim chảo giáp

Ngưng thành tuyết thụ ngọc chi phì

Phong truyền linh lại phân tùng hưởng

Tuyết hộ tình song điểm nguyệt quy

Nhất lạc khả năng tàng thế giới

Đăng lâm liêu ngụ họa trung thi

Dịch:

Non cao chót vót cõi Nam thủy

Lưng núi hang sâu cảnh cũng kỳ

Móng trổ dấu thần vàng chói lọi

Cây in sắc tuyết lá xanh ri

Sáo đưa tiếng gió, thông réo rắt

119

Cửa ngáng vành trăng tuyết tỷ ty

Thế giới thu vào trong một nắm

Qua chơi cao hứng, họa nên thi

Hƣơng tích sơn

Hương Tích sơn ở phía tây núi Tuyết Sơn. Đi theo dòng suối, trèo qua

nhiều ngọn núi thì vào đến chùa Hương Tích. Trong núi có động Thiên tạo

là động đẹp nhất trong nước Việt Nam. Truyền lại rằng “Phật Quan âm và

phật Bồ tát đến tu trì ở đấy”. Trong đông, Phật tượng trang nghiêm, khói

hương nghi ngút. Mỗi năm, mùa xuân, Thiện nam tín nữ các nơi đến hành

hương, tiếng niệm phật huyên náo cả hang núi, là một dịp thắng hội vùng đó.

Núi Hinh Bồng ở ngoài núi Hương Tích, dưới chân núi có sông chảy vòng

quanh, hai bên bờ núi đá bích lở. Có một lối dẽ tắt đi xuyên vào trông như

cửa Long môn. Vách núi có thạch nhũ rủ xuống, lóng lánh như ngọc châu,

cảnh sắc như vẽ. Đức Tĩnh vương Trịnh Sâm có đề thơ rằng:

Loan kinh sanh khai nhất kính xuyên

Hóa có công trùy tạc ký đa niên?

Thanh toàn kiên đẳng nghi vô địa

Bích dẫn hàn lưu hốt hữu thiên

Mạt thạch đan hà thiên cẩm xuyết

Trám ba trung nhũ vạn châu huyên

Cá trung tự thích phi lai lạc

Diệu sứ nan tương họa bút truyền

Dịch:

120

Đường núi quanh co, lẩn một nơi

Thợ giời đucj cham mấy mươi đời

Sườn non phơ phất cây lồng bong

Khe núi long lanh nước lộn giời

Giáng đổ nghìn lần như gấm dệt

Mầm non muôn nhũ, tưởng chân rơi

Sự vui chốn đó đâu hay đến

Cảnh đẹp khôn đem họa hết nhời

Núi Tƣợng Sơn

Núi Tượng sơn thuộc huyện Trương Đức Hà Đông, mọc ở giữa đồng

bằng. Hình núi có vẻ tôn nghiêm cùng với các ngọn núi ở hạt Mỹ Đức đứng

nối nhau, cảnh trí có thể làm nơi thưởng ngoạn. Đức Tĩnh Vương Trịnh Sâm

khi đi qua chơi đề thơ rằng:

Tùng thiên vạn tượng liệt trùng loan

Bãi liệt binh tàn khởi vạn sơn

Thạch cốt xương phi thiêm xuất sắc

Mộc nha tuyết sầu thượng lưu ban

Lũng đầu tỉnh hoạch tình trung kiến

Nham phúc vân phi vũ hậu khan

Liệt ngạn nhật lai dương vũ tích

Xuân thân hán phủ thi sư can

Dịch:

Non xanh muôn trượng tựa trên trời

121

Bên phẳng nhô muôn núi tuyệt vời

Cột đá phủ sương càng thấy béo

Mỏm sông in tuyết lại thêm gầy

Mắm trông tranh vẽ đồi ngang dọc

Mưa đoạn mây bay núi tả tơi

Dấu cũ ngìn xưa nơi dụng vũ

Đầu xuân tiêu phủ thử gia đầu

Núi Quyển Sơn

Núi Quyển Sơn ở trên bờ sông Châu Giang ( Hà Nam ) hình núi cao chót

vót, sắc biếc sắc núi xanh biếc trông có vẻ tịch mịch. Trong núi có thứ cỏ kỳ.

Túc truyền rằng xưa có người lặn xuống nước mò ngọc châu, sau không thấy

lên. Đức Tĩnh Vương Trịnh Sâm ghé thuyền vào chơi có đề thơ rằng:

Thiều đệ giang sơn nhất phiến phàm

Quyển sơn đối bạc ngạn chi nam

Dao khan phượng sí vân bình trĩ

Cạn hám giao cư nguyệt kinh hàm

Châm nghiễm thôn lư thanh trúc hộ

Thê diên tiều kinh tử hà giam?

Nhân lai khúc luận tham châu sự

Dục bả thanh lưu nhất tẩy tham

Dịch:

Rìu rặt rong chơi một cảnh phàm

Đỗ ngay sườn núi Quyển Sơn nam

Xa trông cảnh phượng hình mây ngất

122

Gần ngó hang Rao bong nguyệt hàm

Đầu núi nhà ai tre rậm rạp

Đỉnh non lối củi cõi yên lam

Nhân chơi bàn chuyện mò châu nọ

Muốn gióc going trong rửa bụng tham

Núi Lão Sơn

Núi Lão Sơn thuộc huyện Bình Lục, Hà Nam hình núi như tán. Bốn bề

trông rộng rãi: Trên núi và dưới núi có chùa, có thông cổ thụ um tùm, có

thác đá đột khởi ra bờ sông. Tục truyền trên núi có giến Tiên. Đức Trịnh

Vương có đề thơ rằng:

Nam châu tự cổ địa dư khoan

Yên lão sơn đầu tiểu thắng quan

Lão chướng trùng trùng thanh cùng hướng

Trường lưu miểu miểu cầm hồi hoàn

Dịch

Châu Nam tự cổ địa đồ khoan

Yên lão hình dong cũng khả quan

Dãy núi màu xanh từng lởm chởm

Dòng sông sắc gấm rệt lan man

123

Núi Bảo Đài

Núi Bảo Đài thuộc xã Gián Khê phủ Nghĩa Hưng Nam Định. Núi Bình

Phong ở bên hữu. Phong cảnh u nhã. Trên núi có sông chảy róc rách. Dưới

núi có một cái hồ, nước phẳng lặng như gương. Đức Trịnh Tĩnh Vương lên

chơi có đề thơ:

Ẩn ước nham yêu sưởng phạm doanh

Vân vi liêm mạc thạch vi bình

Châu lưu thủy dạ tuyền song phái

Ngọc tích sơn tâm nguyệt nhất hoàng

Dịch:

Thấp thoáng chùa xây cạnh núi xanh

Mây như màn trướng đá như bình

Nước trôi, song gợn, khẽ đôi phái,

Ngọc chứa giăng soi sững một mình

Phi Lai Tự

Phi Lai Tự thuộc huyện Ý Yên Nam Định. Chùa ở trên lưng chừng núi,

bên cạnh có một ngọn tháp đá, sắc đá sáng bong như gương. Trịnh Vương

có thơ rằng:

Tiền hậu giao hoàn sơn thủy bão

Cao đê tương ảnh tháp già khai

Dịch:

Sau, trước, giao quanh sông núi bộc

Thấp cao cùng ảnh tháp chùa cao

124

Động Hoa Lƣ

Động Hoa Lư thuộc huyện An Khang Ninh Bình, trên sông Điềm Giang

tầng núi cao hiểm. Trong núi có động, ở bên có một ngọn núi giống hình

người, gọi là núi Trạng Nguyên, có một hòn đá gọi là “núi hòm thư”. Dưới

chân núi, tức là di tích nơi cố đô của nhà Đinh, nhà Lê. Hiện nay, nơi ấy có

đền thờ đức Đinh Tiên Hoàng và Lê Đinh Hoàng. Đức Tịnh vương Lê Sâm

qua chơi có đề thơ rằng:

Sắt luyện oanh hồi xuyên thạch động

Trùng sơn nguy nghiệp chí sơn quan

Cương giao dĩ hỳ kinh di hoán

Lục phủ y nhiên tự bão hoàn

Dịch:

Tấm lụa quanh co trùm động đá

Vầng trăng soi tỏ suốt non ngàn

Cõi bờ khai thác bao thay đổi?

Sáu phủ y nhiên, vẫn bão hoàn

Hạc Sơn

Hạc Sơn thuộc huyện An Khang, Ninh Bình, gần bể và gần núi Dục

Thúy. Đức Tĩnh Vương Trịnh Sâm lên chơi có đề 4 chữ: “Thiên nhiên xảo

diệu” “Cái khéo thiên nhiên” đục vào đá lại có đề thơ rằng:

Đột khởi tầng loan hậm bích đào

125

Uyển nhiên thiêu hạc thụy nam giao

Biên chu đáo sứ dò kham thưởng

Vạn trạng tân kỳ nhập thổ mao

Dịch:

Non ngất xa coi mặt song là

Rõ như điểm Hạc nước Nam ta

Buồn mây lèo gió qua chơi thử

Đầu bút muôn hình vẽ được ra

Riệu Sơn

Hang Riệu Sơn thuộc huyện Thiệu Sơn Thanh Hóa, phong cảnh thanh u.

Đức Trịnh Tĩnh vương lên chơi đề thơ rằng:

Thiên tương hu thất thạch toàn ngoan

Riệu tích nhân truyền tại thế gian

Nhất khiếu thâm tàng thiên cổ tỉnh

Bán song đê hám cửa hồi than

Hoa kinh mộng giác vân trung hưởng

Thạch tượng an bài tuyết hậu an

Hải vũ chính phùng thân thiếp hội

Hào đoan thu thập cẩm giang sơn

Dịch:

Trời sinh riệu đá tựa như nhà

Thắng cảnh tương truyền ở nước ta

Giếng thẳm trong hang trơ trọi đó

126

Suối qua cửa sổ ngắm trông mà

Mõ kinh tiếng động trong mây thẳm

Voi đá yên bầy lúc tuyết qua

Cõi bể thăng bình nay gặp hội

Bút nào họa hết cảnh Thanh hoa?

Núi Bằng Trình

Núi Bằng Trình thuộc huyện Thụy Nguyên Thanh Hóa. Trên núi có một

ngôi chùa được gọi là chùa Thái Bình. Đức Trịnh Tĩnh vương có đề thơ

rằng:

Sơn thủy hồi hoàn giác hữu tình

Luân huân thụy khí ủng bằng trình

Nhất điều thạch khiếu thông tà kính

Cửu phẩm kinh đài ý tiễu binh

Thôn thị nhân quy sơ nguyệt thượng

Khê than khách độ vạn trào sinh

Thử lai chính nghĩ tường phong vật

Thiều bạch tùy xa tụng thái bình

Dịch:

Nước non quanh quất hữu tình thay

Giọc lối chim bằng hiện khói mây

Ngang dọc mọi đường thông hồ đá,

Lô nhô chín phẩm, nghĩ đài xây!

Giăng soi gác núi, người đi lại,

Nước xoáy quanh thuyền khách tỉnh say!

127

Phong vận đã tường, ghi bút để

Về xe già lão đón đông tây…

Núi Vân Nam

Núi Vân Nam thuộc xã Trạch Toàn huyện Nga Sơn Thanh Hóa. Vách đá

cao ngất, màu xanh biếc trong động lóng lánh như vàng. Xa trông xuống bể

Bạch Cầu, đức Trịnh Tĩnh vương có đề thơ rằng:

Danh thắng cao tiêu đệ nhất châu

Sơn dung như dại thủy như du

Bán phong vân động yêu huyền hạc

Binh chưởng hà môn áp bạch âu

Vân kinh tiều duyên ngoan thạch cước

Tình ta khách độ cấp than dầu

Bằng cao dục tận quan lan hứng

Bích lạc sương minh nhất sắc thu

Dịch:

Cảnh trí xinh thay đúc một baauf!

Núi xanh như phẩm, nước như dâu!

Hang mây bóng hạc, rêu phong lớp

Mặt nước đàn chim, sóng gợn mau

Chân đá chú tiểu, leo bụi hẻm

Đầu nghềnh chiếc bách, vượt going sâu

Lên núi, cao hứng lần xem sóng,

Xanh biếc trời trong, một sắc thu.

128

Chích Chợ Sơn

Chích Chợ Sơn ( núi Chiếc đũa ) trên cửa bến Thân phu Thanh Hóa, cao

chót vót đứng một mình, xa trông như chiếc đũa dựng đứng. Đức Trịnh Tĩnh

Vương có đề thơ rằng:

Nhất vọng sương mang hải sắc thâu

Thiên tương chích chợ trưởng hoành lưu

Cô cao như tước phủ ngao cực

Tùng bạt vô song áp thận lâu

Thập nhị hải môn tiêu chì trụ

Tam thiên thế giới nhận tiền châu

Dịch:

Một sắc xanh, đen: bể mây trời

Ai đem chiếc đũa cắm ngang vời?!

Gầy gò một mảnh, nưng ngao cực,

Chót vót từng mây tới thần lâu.

Bốn bể ba đào vừng đá sững

Ba nghìn thế giới bãi dâu phơi

……………………………………

……………………………………

Cửa bể Ỷ Bích

Cửa bể Ỷ Bích thuộc huyện Hoằng Hóa Thanh Hóa có mấy tầng đá núi

cao ngất. Núi có một cái cửa rộng hơn một mẫu, sắc đá trông như cát, đường

129

đi bằng phẳng. Tục truyền gọi nơi ấy là Mũi Hải. Đức Trịnh Tĩnh vương lên

chơi có đề hai chữ “Tiên Châu”

Bạch Ấc Động

Bạch Ác Động thuộc huyện Nga Sơn Thanh Hóa gần cửa bể Từ Thức.

Đức Trịnh Tĩnh vương lên chơi có đề thơ rằng:

An bài biệt thị nhất càn khôn

Nguy nghiệp khung lung địa thế tôn

Biểu lý trùng trùng hư thạch bích

Đông tây riện riện sưởng vân môn

Hàn bi vân tỏa chân chần tự

Cổ khánh phong thôi viễn viễn thôn

Ngọc đới chu hồi cung ngã thưởng

Hà lao ngư phủ phóng đào nguyên

Dịch:

Xếp đặt xưa kia đã thực tài

Thênh thang ngất ngểu, đứng lưng vời.

Trong ngoài đá xếp, nhà không vách,

Sau trước mây quanh cửa chẳng cài

Mây phong bia đá màu thiên cổ

Gió thổi chuông đồng khách lắng tai

Giải ngọc hứng vui đà cũng đủ

Lọ tìm ngư phủ, hỏi thiên thai?

130

Thơ Chúa Đoan nam vƣơng Trịnh Khải đề

ở đền thờ đức Phạm Bạch Hổ

Đền này thuộc xã Đằng Châu ( huyện Kim Động ), cách tỉnh lỵ Hưng

Yên ba cây số.

Phạm Bạch Hổ tên tự là Phong Át, người xã Ngọc Đường (huyện Kim

Động) là một vị trong mười sứ quân. Về cuối đời nhà Ngô, Bạch Hổ đóng ở

xã Đằng Châu, sau đem quân giúp vua Đinh Tiên Hoàng khai quốc, làm

quan Thận vệ Đại tướng quân. Trong khi giẹp giặc, không hề để quân nhũng

nhiễu dân lương thiện hoặc dâm hiếp đàn bà con gái.

Khi qua Đằng Châu, Bạch Hổ chú dinh ở đấy, cấm chấp bọn gian phỉ,

làm nhiều việc công đức. Dân gian cảm ân đức đem trâu bò, lợn, rượu khao

quân. Bạch Hổ không nhận. Dân gian lại càng cảm phục, xin duệ hiệu làm

đền thờ.

Qua đời Lý, Trần, Lê đều có sắc phong.

Cuối đời vua Lê Ngọa Triều, Lý Công Uẩn nhân đi thuyền chơi trên sông

Đằng, qua trước cửa biển Bạch Hổ, chợt gặp mưa to gió lớn, Lý Công Uẩn

hỏi lái thuyền xem đền có thiêng không?

Phu chèo trả nhời:

- Đền thờ đức Phạm Đại Vương, dân gian xưa nay cầu gì cũng được.

Lý Công Uẩn khấn rằng:

“ Nếu làm được tạnh gió, nửa sông bên này mưa, nửa sông bên kia nắng,

rồi lại làm nửa sông bên này nắng, nửa sông bên kia mưa mới thực là anh

linh”.

Quả nhiên thấy linh ứng ngay thê, Lý Công Uẩn lấy làm lạ, bèn chữa lại

đền thờ.

131

Đến khi Lý Công Uẩn sắp mưu làm vua, có đến đền Bạch Hổ khấn xin

báo mộng.

Đêm nằm mơ thấy thần nhân đọc thơ rằng:

“Yêu thắng ná đắc thắng, yêu thành ná đắc thành, tứ phương giai thuận

phục, chư quốc hưởng thái bình, tam niên trung lạc nghiệp, thất miếu tự an

linh” ( muốn đánh thời được, muốn làm thời nên, bốn phương hòa thuận, các

nước bình yên, ba năm xong việc, bảy miếu thiêng liêng ) ( bảy miếu tức là

làm vua, được truy tự 7 đời ).

Khi tỉnh dậy, Lý Công Uẩn không hiểu ý bài thơ ấy ra sao? – Có người

đoán là điềm tốt.

Sau Công Uẩn làm vua, hiệu là Lý Thái Tổ đổi Đằng Châu gọi là Thái

Bình phủ, phong Phạm Bạch Hổ là Thượng đẳng Tối linh Đại Vương.

Đến đời nhà Trần, nước to đền ở trong đê, dân gian thường nhìn thấy

hình như có quan quân, xe ngựa cờ quạt đi giữ đê, thành ra đê chỗ ấy tuy

thấp nhỏ mà không bị vỡ lở bao giờ.

Đến đời nhà Lê, sông lở gần vào đến đền. Đêm người quanh đền nghe

thấy hình như có tiếng hỏi nhau mượn thuổng quốc và tiếng thợ làm. Đến

sáng đã thấy bia đá và cột trụ đi vào trong đê hơn ba thước.

Đến đời Chúa Trịnh, cầu đảo việc gì cũng linh ứng. Hàng năm cứ đến

ngày Trung dinh, Chúa Trịnh ban cho 10 quan 24 đồng tiền cổ để làm lễ tế.

Chúa Đoan nam vương Trịnh Khải có đề ba bài thơ ở đền Bạch Hổ như

sau này:

I

Hộ quốc, an dân, hách quyết thanh

132

Lịc triều bao tặng cổn hoa vinh

Làm tiên Đằng thủy chung linh tú

Thập nhị đô kỳ đệ nhất doanh

Dịch:

Thần thiêng hộ nước, lại an dân

Vua Chúa truy phong biết mấy lần?

Trước mặt sông Đằng thu nước tốt

Danh kỳ thứ nhất rõ mười phân

II

Bán giang tinh vũ tam quân tráng

Bát diệp Hầu, Vương nhất mộng thành

Thiên vị Sứ quân lưu chính khí

Sinh vị anh dã, tử vi linh

Dịch:

Nửa sông mưa tạnh, ba quân mạnh

Tám vị Hầu vương một giấc liều

Trời khiên Sứ quân phù đất Việt

Sống thì là tướng, thác thần thiêng

III

Cung doanh thử địa cổ Đằng châu

Thập nhị sơn hà đệ nhất châu

Tối thị anh hùng lưu bất tử

Đường làm nhi hậu kỷ xuân thu

Dịch:

Mở mang danh uy chốn Đằng châu,

133

Sông núi mười hai dải, đứng đầu

Khí phách anh hùng còn mãi mãi

Đường lâm từng trải mấy xuân thu?

Phần hà từ

Đền Phần hà ở xã Phần Ba thuộc huyện Đan Phượng ( Sơn Tây ). Đời

vua Lê Trung Tôn, đức Thành tổ Trịnh Tùng đánh nhau với Mạc Mậu Hợp

được thắng trận, bèn dựng miếu ở đấy để kỷ niệm cuộc toàn thắng. Đền ấy

được phối hưởng như đền thờ các công thần, tới nay hãy còn di tích.

Cổ Bi thành

Cổ Bi thuộc huyện Gia Lâm ( Bắc Ninh ). Niên hiệu Bảo Thái đức Nhân

vương Trịnh Cương đi tuần thú tỉnh Bắc Ninh, có qua chơi Cổ Bi, thấy sơn

thủy hữu tình, bèn dựng hành cung để làm nơi du thưởng, sai quân thần chọn

đất để đặt kinh đô. Đức Nhân vương mất, đức Thuận vương Trịnh Giang sửa

sang nơi ấy, đặt tên là phủ Kim Thành, di tích nay hãy còn.

Ninh Sơn

134

Ninh Sơn thuộc huyện Chương Đức ( Hà Đông ). Lưng núi giáp sông:

cảnh trí là u nhã. Đức Hy Tổ Trịnh Cương dụn hành cung trên đỉnh núi làm

nơi du ngoạn.

Minh Sơn

Núi Minh Sơn ở trên sông Hát Giang, thuộc huyện Mỹ Đức ( Hà Đông ),

cảnh trí thực là thanh nhã. Đức Hy Tổ Trịnh Cương dựng hành cung trên

đỉnh núi làm nơi du thưởng.

Chùa Thiên Thai

Núi Đông Cứu thuộc huyện Gia Bình ( Bắc Ninh ). Hình núi dựng đứng.

Dưới chân núi là sông. Trên ngọn núi có chùa Thiên Thai, cảnh trí rất đẹp.

Đức Dụ Tổ Trịnh Giang thường chơi ở đấy và đề thơ.

Núi Bát Cảnh

Núi Bát Cảnh thuộc xã Quang Thừa, huyện Kim Bảng Hà Nam, có chín

mươi chín ngọn, cảnh trí rất đẹp. Đức Nghị Tổ Trịnh Doanh cho cảnh sơn

thủy giống như cảnh Tiêu Tương bên Tàu, nhân đặt tên là núi Tiêu Tương,

dựng hành cung để làm nơi thưởng lãm.

Đấy cũng là một nơi đại thắng cảnh ở miền Sơn Nam vậy.

135

Núi Địch Lộng

Núi Địch Lộng thuộc huyện Gia Viễn ( Ninh Bình ). Đức Tĩnh Vương

Trịnh Sâm thương lên núi thưởng ngoạn, có đề thơ.

Núi Kẽm Chống

Núi Kẽm Chống thuộc huyện Kim Bảng ( Hà Nam ), kéo dài tới Thanh

Hóa. Hai bên núi giao tiếp giữa có dòng nước chảy, hình thế nông hẹp như

then khóa. Đức Tĩnh Vương Trịnh Sâm đi tuần phía Tây hãy có thơ đề vịnh

ở núi ấy

Tiên Sơn

Núi Tiên Sơn ở phía Nam núi Bồng Hinh thuộc huyện Chương Đức ( Hà

Đông ). Hình núi như tán, cảnh trí rất tịch mịch. Đức Tĩnh vương Trịnh Sâm

đi tuần ở phương Nam có làm lễ trên đỉnh núi.

Đền Bộ Đầu

136

Đền Bộ Đầu ở xã Bộ Đầu thuộc phủ Thường TÍn ( Hà Đông ) thờ đức

Huyền Thiên Đại Thánh. Tục truyền rằng “Mẹ ngài bị con giao long bắt.

Ngài tự trên trời xuống, giết được con giao long, song rồi biến đi, hiện dấu

chân hãy còn. Vì thế người làng lập đền thờ”.

Về sau Đức Thánh Tổ Trịnh Sâm đi đánh giặc qua đấy ngài hiển linh giúp

cho được thành công. Lúc khải hoàn, Trịnh Vương sai sửa sang đền thờ, đúc

một pho tượng cao hơn hai mươi thước, hai chân đạp vào đầu con giao long,

chung quanh có tám vị kim cương. Mỗi năm tháng 9 có hội.

Núi Sùng Nghiêm

Núi Sùng Nghiêm thuộc xã Nam Giản ( Hải Dương ) trên núi có nhiều

thông mọc. Núi vừa đất, vừa đá lẫn lộn. Dưới chân núi có chùa rất cổ của

Chúa Trịnh dựng lên, tới nay di tích hãy còn.

Núi Sùng Nham

Núi Sùng Nham thuộc xã Nam Giản ( Nam Định ).

Núi vừa có đá, vừa có đất. Dưới chân núi có nhiều đồi. Trên núi có nhiều

thông và một ngôi chùa cổ của Trịnh Vương dựng ra di tích hãy còn.

Chùa Nghi Tàm

137

Trên bờ Tây Hồ ( Hà Nội ), thuộc xã Nghi Tàm, có một tòa chùa cổ thờ

phật, bằng gỗ nguy nga, tục truyền của Chúa Trịnh dựng lên, trong khi

đương giúp vua Lê tại Thăng Long Thành.

Tây Hồ

Trước là hồ Lãng Bạc hay Giao Đào thuộc huyện Vĩnh Thuận, phủ Hoài

Đức ( Hà Đông ), phía tây tiếp giáp địa phận huyện Từ Liêm, phía Bắc có

sông Nhị hà, phía Nam có sông Tô Lịch. Tục truyền rằng xưa ở đấy có núi

đá nhỏ, trong núi có một con Hồ tinh chín đuôi, thương quấy nhiễu nhân

dân. Thần Long Đỗ đem việc ấy tâu lên Thượng Đế. Đức Thượng Đế giận

sai Long Vương đem các thủy tộc theo dòng Nhị Hà vào bắt con Hồ Tinh.

Vì thế núi sụt xuống thành đầm.

Đời nhà Hán, Mã Viện đóng quân ở đấy. Đến đời Hàn Thông nhà Đường,

Cao Biền sang đô hộ nước Nam cho chỗ ấy là nơi thắng địa, sở tấu về Tàu

xin tìm cách yểm chấn. Sau vua Lý Anh Tôn ngự thuyền chơi hồ. Bấy giờ

Thái sư là Lê Văn Thịnh dùng ảo thuật hóa con hổ, mưu hại vua. May có

người đánh cá là Mục Thận vác giáo đến cứu, phá được gian kế. Lê Văn

Thịnh bị bắt. Nay bên hồ còn đền thờ Mục Thận.

Đến triều nhà Lê, vì kỵ húy mấy đổi là Tây Hồ. Sau vì kiêng tên mỹ tự

của Trịnh vương lại đổi là Đoái Hồ. Trịnh Vương có giồng sen trong hồ để

làm nơi thưởng ngoạn.

138

Đến cuối đời Cảnh Hưng, nước hồ biến sắc, mùi hôi tanh bốc lên, sen

đương tươi tốt tự nhiên tàn hết. Chưa được bao lâu thì triều đình đổ.

Than ôi! Cũng là cái trưng triệu do cái kinh khí của sơn xuyên thảo mộc

báo ra trước vậy!