177
ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HUẾ - NĂM 2016

TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM · lại những kiến giải mới về biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam và đóng góp vào khuynh

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • ĐẠI HỌC HUẾ

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

    NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG

    BIỂU TƯỢNG ĐÁ

    TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM

    LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

    HUẾ - NĂM 2016

  • ĐẠI HỌC HUẾ

    TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC

    NGUYỄN THỊ QUỲNH HƯƠNG

    BIỂU TƯỢNG ĐÁ

    TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM

    Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

    Mã số: 62 22 01 21

    LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM

    Người hướng dẫn khoa học:

    1. PGS. TS. Trần Thị An

    2. TS. Hà Ngọc Hòa

    HUẾ - NĂM 2016

  • LỜI CẢM ƠN

    Để hoàn thành được luận án này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ vô cùng quý báu

    của nhiều tập thể và cá nhân.

    Tôi xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến PGS.TS. Trần Thị An và TS. Hà Ngọc Hòa

    đã tận tình hướng dẫn, đóng góp những ý kiến quý báu giúp tôi hoàn thành luận án

    trong điều kiện tốt nhất có thể.

    Xin trân trọng cảm ơn Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế

    đã quan tâm, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án.

    Xin được gửi lời cảm ơn chân thành đến quý thầy cô, bạn bè, đồng nghiệp,

    những người đã luôn động viên, khuyến khích giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực

    hiện luận án.

    Tác giả

    Nguyễn Thị Quỳnh Hương

  • LỜI CAM ĐOAN

    Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả

    nêu trong luận án là trung thực, đảm bảo độ chuẩn xác cao. Các tài liệu tham

    khảo, trích dẫn có xuất xứ rõ ràng. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về công

    trình nghiên cứu của mình.

    Huế, tháng 11 năm 2016

    Tác giả

    Nguyễn Thị Quỳnh Hương

  • MỤC LỤC

    MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

    1. Lý do chọn đề tài................................................................................................... 1

    2. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................. 2

    3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 2

    4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu .................................................................. 3

    5. Đóng góp khoa học của luận án ................................................................................... 5

    6. Bố cục luận án ................................................................................................................ 5

    NỘI DUNG ......................................................................................................................... 7

    Chương 1. LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH

    NGHIÊN CỨU ........................................................................................................ 7

    1.1. Lý thuyết biểu tượng và nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng 7

    1.1.1. Lý thuyết biểu tượng ....................................................................................... 7

    1.1.2. Nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng .................................. 12

    1.2. Các công trình nghiên cứu đá ở Việt Nam ...................................................... 17

    1.2.1. Công trình về tín ngưỡng thờ đá ................................................................... 17

    1.2.2. Công trình nghiên cứu Đá với tư cách biểu tượng........................................ 19

    1.2.3. Công trình nghiên cứu motif Đá trong truyện kể dân gian Việt Nam (thần

    thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích) ........................................................................ 23

    1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài ............................... 24

    1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu ...................................................................... 24

    1.3.2. Hướng triển khai đề tài ................................................................................. 24

    Chương 2. BIỂU TƯỢNG ĐÁ VÀ HỆ THỐNG NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG

    ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM ......................................... 26

    2.1. Biểu tượng đá và các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và

    Việt Nam ..................................................................................................................... 26

    2.1.1. Biểu tượng đá và các hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam.................... 26

    2.1.2. Các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới và Việt Nam qua

    các công trình nghiên cứu ........................................................................................... 32

  • 2.2. Các lớp nghĩa tiêu biểu của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian

    Việt Nam ................................................................................................................. 38

    2.2.1. Sự sống trong trạng thái tĩnh ......................................................................... 38

    2.2.2. Sự tái sinh trong ngưỡng vọng ...................................................................... 45

    2.2.3. Sự hiện diện của thần linh ............................................................................. 55

    2.2.4. Ý niệm chuyển vị .......................................................................................... 63

    Chương 3. CẤU TRÚC TRẦN THUẬT CỦA DẠNG TRUYỆN KỂ SỬ

    DỤNG BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN

    VIỆT NAM ............................................................................................................ 70

    3.1. Đá trong giấc mơ điềm báo của truyền thuyết dân gian Việt Nam ................. 70

    3.1.1. Đá là phần thưởng cho việc tu thân tích đức ................................................ 71

    3.1.2. Đá là hiện thân của nhân vật lịch sử trong giấc mơ điềm báo ...................... 76

    3.2. Đá trong motif hiển linh của truyền thuyết dân gian Việt Nam .......................... 85

    3.2.1. Đá và sự hiển linh của nhân thần .................................................................. 85

    3.2.2. Đá và sự hiển linh của nhiên thần ................................................................. 92

    3.2.3. Đá – thành tố cấu tạo nên không gian tâm linh ............................................ 96

    Chương 4. BIỂU TƯỢNG ĐÁ TRONG TRUYỀN THUYẾT VÀ TÍN

    NGƯỠNG DÂN GIAN: NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP THAI DƯƠNG

    PHU NHÂN VÀ KỲ THẠCH PHU NHÂN ............................................................... 104

    4.1. Văn bản và cấu trúc văn bản của truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và

    Kỳ Thạch phu nhân ............................................................................................... 105

    4.1.1. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân nhìn từ

    văn bản .................................................................................................................. 106

    4.1.2. Truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch phu nhân nhìn từ

    cấu trúc văn bản .................................................................................................... 112

    4.2. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch

    phu nhân trong mối quan hệ với tín ngưỡng dân gian Chăm ............................... 117

    4.2.1. Tín ngưỡng thờ đá ....................................................................................... 119

    4.2.2. Tín ngưỡng thờ Mẫu ................................................................................... 125

    4.3. Biểu tượng đá trong truyền thuyết về Thai Dương phu nhân và Kỳ Thạch

    phu nhân trong mối quan hệ với tục thờ đá tại đền Thai Dương phu nhân và

  • miếu Kỳ Thạch phu nhân ...................................................................................... 130

    4.3.1. Hình thức đá thờ ......................................................................................... 131

    4.3.2. Hình thức thờ cúng ..................................................................................... 135

    KẾT LUẬN ........................................................................................................... 140

    DANH MỤC CÁC BÀI BÁO KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ .............................. 143

    TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 144

    PHỤ LỤC

  • 1

    MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài

    Đá là sự vật gắn kết với loài người từ thuở hồng hoang bởi con người trú thân

    trong hang đá, mượn cạnh sắc của đá để làm công cụ săn bắt, nhờ cái cứng rắn của

    đá mà tạo ra lửa sưởi ấm và nấu chín thức ăn,… Ngay cả khi con người trở về với

    đất, đá là một trong những lựa chọn đầy tin cậy để gởi gắm thể xác hay làm vật

    đồng hành trên con đường đến cõi khác. Con người tìm thấy sự an nhiên và sức

    mạnh của mình từ đá nên như một điều hiển nhiên, con người tin và thờ phụng vị

    thần đá. Có thể nói chính sự gắn bó mật thiết này đã phần nào lý giải vai trò của tục

    thờ đá trong đời sống của con người.

    Trong văn học dân gian Việt Nam, truyền thuyết là thể loại có sự liên kết chặt

    chẽ với những biến thiên lịch sử của dân tộc, đồng thời thể hiện rõ nét nhất cảm

    quan lịch sử của người nghệ sĩ dân gian. Bằng khả năng tích hợp nhiều lớp nghĩa

    một cách hiệu quả trong chiều dài thời gian lịch sử, biểu tượng đá có mối liên hệ

    chặt chẽ với nội dung và nghệ thuật trần thuật của thể loại truyền thuyết. Thông qua

    việc lưu giữ biểu tượng đá, tục thờ cúng đá cùng các dạng thức của đá, truyền

    thuyết Việt Nam đã lưu lại dấu ấn của sự giao thoa tín ngưỡng, văn hóa ở Việt Nam

    và sức mạnh của nhân vật lịch sử, của cộng đồng dân tộc.

    Trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế, có hai truyền thuyết thể hiện những lớp

    nghĩa đặc biệt của biểu tượng đá là Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân.

    Trong luận án này, sau khi phân tích các vấn đề lý thuyết, chúng tôi lựa chọn

    nghiên cứu trường hợp hai truyền thuyết trên bởi các lý do sau: a) Với đặc trưng

    của mình, hai truyền thuyết đã phản ánh những biến chuyển về lịch sử và văn

    hóa, tín ngưỡng của vùng đất Thừa Thiên Huế, nơi có sự xếp chồng các lớp văn

    hóa (Việt, Chăm); b) Đây là những truyền thuyết được ghi chép vào các thư tịch

    khá sớm và vẫn đang “sống” tại địa phương với nhiều dị bản; c) Hai truyền

    thuyết này có mối quan hệ chặt chẽ với tín ngưỡng dân gian thông qua sự hiện

    diện của đền/ miếu và hình thức thờ cúng. Vì vậy, tính đa nghĩa và sợi dây liên

    kết của biểu tượng đá từ truyền thuyết đến tín ngưỡng, văn hóa trong Thai

    Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân là tương đối dễ nhận ra. Là người đang

  • 2

    giảng dạy văn học dân gian tại trường đại học ở Huế, việc nghiên cứu biểu tượng

    đá qua hai trường hợp trên không chỉ thuận lợi trong quá trình điền dã cho chúng

    tôi mà thông qua việc khảo sát và nghiên cứu trường hợp văn hóa dân gian tại

    địa phương, chúng tôi còn có thể mở rộng hiểu biết về văn học dân gian, lịch sử

    và văn hóa Thừa Thiên Huế.

    Từ những lý do đó, chúng tôi chọn đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết

    dân gian Việt Nam để nghiên cứu trong luận án. Chúng tôi hi vọng luận án mang

    lại những kiến giải mới về biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam và

    đóng góp vào khuynh hướng nghiên cứu các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn

    học/ văn hóa dân gian của người Việt.

    2. Mục tiêu nghiên cứu

    Đề tài Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam đặt mục tiêu

    giải mã những lớp nghĩa của biểu tượng đá trong các bản kể truyền thuyết và trong

    trầm tích văn hóa của tín ngưỡng dân gian Việt Nam; từ đó, có thể hiểu sâu hơn về

    các vấn đề bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa - xã hội qua các giai đoạn lịch sử.

    Mục tiêu cụ thể:

    - Từ hệ thống phân loại, phân tích các lớp nghĩa của đá để cho thấy sự biến

    thiên của biểu tượng đá trong truyền thuyết.

    - Đặt biểu tượng đá và nhân vật truyền thuyết trong trường so sánh nhằm đánh

    giá vai trò của biểu tượng đá trong quá trình khám phá, nhận diện sức mạnh của

    nhân vật lịch sử, của cộng đồng dân tộc.

    - Thông qua hoạt động điền dã tại di tích và khảo sát văn bản hai trường

    hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân, phân tích làm rõ lớp trầm tích

    văn hóa, tín ngưỡng trong biểu tượng đá, xem xét những biến chuyển của tục thờ

    đá trong đời sống tâm linh của người dân Việt, cũng như mối quan hệ giữa tín

    ngưỡng của người Việt và tín ngưỡng của các dân tộc tiền trú trên mảnh đất

    Thừa Thiên Huế.

    3. Đối tượng, phạm vi và nhiệm vụ nghiên cứu

    Đối tượng nghiên cứu: Biểu tượng đá

    Phạm vi nghiên cứu: Truyền thuyết dân gian Việt Nam

    Phạm vi tư liệu được sử dụng chủ yếu để tiến hành nghiên cứu là Tổng tập

  • 3

    văn học dân gian người Việt (tập 4 và tập 5: Truyền thuyết) do Kiều Thu Hoạch

    chủ biên, xuất bản năm 2004. Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng thêm Tổng tập văn

    học các dân tộc thiểu số Việt Nam (tập 16: truyện cổ tích thần kỳ, truyền thuyết)

    do Nguyễn Thị Yên chủ biên (2009) để hỗ trợ phần tư liệu về truyền thuyết các

    dân tộc thiểu số.

    - Về truyền thuyết Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân: Phạm vi

    tư liệu được sử dụng chủ yếu để tiến hành nghiên cứu, ngoài các bộ tổng tập

    trên, là Truyện kể dân gian Thừa Thiên Huế do Tôn Thất Bình chủ biên (1998),

    Tổng tập văn học dân gian xứ Huế (tập 1) do Triều Nguyên sưu tầm, biên soạn

    (2010), Đặc khảo văn học dân gian Thừa Thiên Huế do Lê Văn Chưởng sưu tầm,

    biên soạn (2010),…

    Nhiệm vụ nghiên cứu:

    - Thống kê sự xuất hiện của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, từ đó

    phân loại theo các lớp nghĩa. Nói một cách khác, trên cơ sở thống kê, luận án sẽ đi

    sâu phân tích, tổng hợp để khẳng định những giá trị của biểu tượng đá nói riêng và

    truyền thuyết dân gian Việt Nam nói chung.

    - Phân tích cấu trúc trần thuật của truyện kể có sử dụng biểu tượng đá trong

    truyền thuyết dân gian Việt Nam. Thao tác này góp phần làm rõ vai trò của biểu

    tượng, đồng thời mở ra những lớp nghĩa lớn hơn của biểu tượng đá trong truyền

    thuyết dân gian.

    - Nghiên cứu hai trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân để

    minh chứng cho mối quan hệ của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt

    Nam với tín ngưỡng dân gian.

    4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

    4.1. Cách tiếp cận

    Đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam là một biểu tượng mang tính tích

    hợp nhiều lớp nghĩa văn hóa, tín ngưỡng nên trong luận án, chúng tôi đặt biểu

    tượng đá trong mối liên hệ mật thiết với văn hóa, nhân học, dân tộc học,… Để thực

    hiện đề tài luận án, chúng tôi sử dụng các cách tiếp cận sau đây:

    - Cách tiếp cận văn học dân gian: Từ việc tập hợp truyền thuyết dân gian về đá

    trong thư tịch và quá trình điền dã, chúng tôi tiến hành phân tích các truyền thuyết từ

  • 4

    hai góc độ: thứ nhất là hệ thống nghĩa và thứ hai là cấu trúc văn bản. Hai vấn đề này

    là nội dung chính của luận án được thể hiện trong chương 2 và chương 3.

    - Cách tiếp cận văn hóa học: Trên cơ sở khảo sát những dị bản đang được lưu

    truyền của hai trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân, chúng tôi

    soi chiếu biểu tượng đá trong truyền thuyết từ góc độ tín ngưỡng, cụ thể là tục thờ

    đá và tín ngưỡng thờ mẫu. Trên cơ sở đó, luận án chỉ ra một cách rõ ràng nhất giá

    trị biểu tượng văn hóa của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.

    - Cách tiếp cận nhân học: Để thực hiện luận án, chúng tôi tiến hành điều

    tra, khảo sát hiện tượng văn hóa dân gian trong đời sống thông qua di tích và

    hình thức thờ cúng tại đền Thai Dương phu nhân, miếu Kì Thạch phu nhân. Với

    cách tiếp cận này, luận án hy vọng làm rõ mối quan hệ giữa đá của truyền thuyết

    và tín ngưỡng thờ đá ở hai trường hợp trên. Đồng thời, công tác điều tra, khảo

    sát giúp chúng tôi xác định được vai trò và những biến chuyển của tục thờ đá ở

    các di tích.

    4.2. Phương pháp nghiên cứu

    - Phân tích tài liệu thứ cấp: Từ văn bản truyền thuyết dân gian đã được sưu

    tầm, biên soạn và số liệu thống kê trong nghiên cứu của người đi trước, phương

    pháp phân tích giúp chúng tôi xác định các hướng tiếp cận phù hợp với đề tài.

    - Điền dã: Đối với hai trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu

    nhân, phương pháp điền dã hỗ trợ chúng tôi trong quá trình tìm hiểu thực trạng đá

    thờ, kiến trúc đền/ miếu và đời sống tín ngưỡng của cộng đồng.

    4.3. Các thao tác nghiên cứu

    - Thống kê: Trên cơ sở khảo sát văn bản, người viết tiến hành thống kê, phân

    loại hệ thống nghĩa của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam nhằm phản ánh

    sự đa dạng về nghĩa của biểu tượng đá.

    - Phân tích: Thao tác này giúp người viết làm nổi bật những biểu hiện đặc thù

    của đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.

    - So sánh loại hình: Bằng cách thu thập mọi loại văn bản có thể có, dựa vào

    thao tác so sánh, người viết hệ thống hóa tư liệu và nhận diện được từng dạng thức

    của câu chuyện, truy nguyên nguồn gốc, cốt lõi của truyện kể,… trên cơ sở liên hệ

    với các lĩnh vực khác của con người (lịch sử, triết học, chính trị,…).

  • 5

    5. Đóng góp khoa học của luận án

    Thứ nhất, trên cơ sở thống kê, chúng tôi tiến hành hệ thống hóa tư liệu về

    nghiên cứu biểu tượng và biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam,

    đem đến những đánh giá tổng quan về tình hình nghiên cứu.

    Thứ hai, phân tích biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam từ các

    góc độ: ý nghĩa biểu tượng, cấu trúc trần thuật, nhằm khẳng định sự phong phú về

    lớp nghĩa của biểu tượng đá. Khảo sát khả năng kết hợp đá với các motif khác của

    truyền thuyết dân gian (giấc mơ, hiển linh) để kiến giải vai trò của đá trong cấu trúc

    truyện kể và nghệ thuật xây dựng nhân vật truyền thuyết.

    Thứ ba, thông qua biểu tượng đá, chúng tôi chỉ ra mối liên hệ giữa truyền

    thuyết dân gian (một thể loại văn học dân gian) với tín ngưỡng thờ đá (một bộ phận

    của văn hóa). Luận án đã cho thấy sự tương tác giữa văn học và văn hóa dân gian.

    Đây chính là hướng nghiên cứu mang lại nhiều kiến giải mới cho các thể loại văn

    học dân gian.

    Thứ tư, nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân –

    hai truyền thuyết tiêu biểu của Việt Nam trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế có biểu

    tượng đá (truyện kể, tín ngưỡng và hình thức thờ cúng) để góp phần minh giải mối

    liên hệ truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá mà chúng tôi đề cập ở trên. Với hai

    trường hợp này, biểu tượng đá trong truyền thuyết Thừa Thiên Huế đã hình thành

    lớp nghĩa riêng và là minh chứng cho sự dung hòa tín ngưỡng trong quá trình sinh

    tồn của người Việt.

    Sự phân tích cấu trúc trần thuật và các lớp nghĩa của biểu tượng đá cũng như

    mối quan hệ mật thiết của truyền thuyết - nghi thức thờ cúng - di tích - lễ hội thờ đá

    ở Thừa Thiên Huế sẽ góp phần lí giải các vấn đề bản sắc văn hóa, biến đổi văn hóa -

    xã hội qua các giai đoạn lịch sử.

    6. Bố cục luận án

    Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung

    chính của luận án được triển khai trong 4 chương:

    Chương 1: Lý thuyết biểu tượng và tổng quan tình hình nghiên cứu

    Chương 2: Biểu tượng đá và hệ thống nghĩa của biểu tượng đá trong truyền

    thuyết dân gian Việt Nam

  • 6

    Chương 3: Cấu trúc trần thuật của dạng truyện kể dân gian có sử dụng biểu

    tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam

    Chương 4: Biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian và tín ngưỡng dân gian:

    nghiên cứu trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân

  • 7

    PHẦN NỘI DUNG

    CHƯƠNG 1

    LÝ THUYẾT BIỂU TƯỢNG

    VÀ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

    1.1. Lý thuyết biểu tượng và nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng

    1.1.1. Lý thuyết biểu tượng

    Biểu tượng là một thuật ngữ khá quen thuộc trong đời sống thường ngày và

    đời sống học thuật. Tính đa nghĩa của biểu tượng đã tạo ra sức hút đối với các nhà

    nghiên cứu, vì vậy, mỗi ngành khoa học lại gởi gắm một nội hàm riêng cho thuật

    ngữ này. Theo Từ điển Tiếng Việt, biểu tượng là “hình ảnh tượng trưng”, là “hình

    thức của nhận thức, cao hơn cảm giác, cho ta hình ảnh của sự vật còn giữ lại trong

    đầu óc khi tác động của sự vật vào giác quan ta đã chấm dứt” [70, tr. 26]. Từ điển

    Biểu tượng văn hóa thế giới lại cho rằng “những gì được gọi là biểu tượng khi nó

    được một nhóm người đồng ý rằng nó có nhiều hơn một ý nghĩa là đại diện cho

    chính bản thân nó” [21, tr. 25].

    Tổng kết định nghĩa về thuật ngữ biểu tượng trong các từ điển trên thế giới,

    Đinh Hồng Hải, tác giả có nhiều công trình nghiên cứu về biểu tượng trong những

    năm gần đây, đã tóm lược: “Biểu tượng có tính đa nghĩa nhưng chúng ta có thể chia

    làm hai nghĩa chính là biểu hình và biểu ý. Trên thế giới, thuật ngữ symbology được

    nhiều từ điển giải thích với các ý nghĩa: 1- Việc nghiên cứu hoặc sử dụng các biểu

    tượng và 2- Tập hợp các biểu tượng (1: the study or use of symbols. 2: symbols

    collectively). Các từ điển nghệ thuật có thêm một ý nghĩa là: 3- Nghệ thuật sử dụng

    các biểu tượng để nhắc đến một trào lưu nghệ thuật thịnh hành ở Châu Âu vào thế

    kỷ XIX. Như vậy, thuật ngữ symbology trong tiếng Anh tương đương với nghiên

    cứu biểu tượng (hoặc biểu tượng học) trong tiếng Việt” [34, tr.128]. Đinh Hồng Hải

    khẳng định “Nghiên cứu biểu tượng là khoa học có chức năng giải mã các thành tố

    văn hóa được sản sinh trong đời sống của con người” [34, tr.30].

    Từ chính những định nghĩa trên, dễ dàng nhận ra bản chất của biểu tượng là

    khó xác định và sống động, như cách R. de. Becker so sánh: “Có thể ví biểu tượng

  • 8

    với một khối tinh thể phục nguyên lại theo cách khác nhau, nguồn sáng tùy theo

    từng mặt tinh thể tiếp nhận ánh sáng” [dẫn theo Đinh Hồng Hải, 34, tr.87]. Vậy nên,

    giải mã biểu tượng không phải là một hành trình bằng phẳng và con đường thẳng

    tắp. Việc xác định ý nghĩa/ giá trị của biểu tượng còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu

    tố: nền văn hóa sản sinh, bối cảnh và thời điểm biểu tượng ra đời, cùng với mục

    đích sử dụng ở từng thời điểm,… Điều đó cho thấy nghiên cứu biểu tượng phải là

    ngành khoa học liên ngành với nhiều hướng tiếp cận khác nhau: triết học, văn học,

    dân tộc học, mỹ học, phân tâm học, xã hội học… Trong đó, các lĩnh vực ngôn ngữ

    học, nhân học và ký hiệu học được xem là nền tảng để nghiên cứu biểu tượng.

    Trước tiên, với ký hiệu học, theo Claude Levi-Strauss, “Mọi nền văn hóa có

    thể được xem như là một tổng thể các hệ thống biểu tượng mà ở hàng đầu là ngôn

    ngữ, các quy tắc hôn nhân, các quan hệ kinh tế, nghệ thuật khoa học, tôn giáo. Tất

    cả các hệ thống đó nhắm đến sự thể hiện một số mặt của thực tại thể xác và thực tại

    xã hội, và hơn thế nữa, thể hiện các quan hệ mà hai loại hình thực tại đó và bản thân

    các hệ thống biểu tượng có với nhau” [dẫn theo Đinh Hồng Hải, 34, tr.143]. Biểu

    tượng tồn tại dạng ngôn ngữ đặc biệt, có khả năng xóa nhòa khoảng cách về không

    gian và thời gian để con người có thể tri nhận những thông điệp cổ xưa qua các di

    vật văn hóa. Mang trong mình nhiều tầng lớp nghĩa nhưng lại được biểu đạt dưới

    hình thức súc tích của ngôn ngữ, biểu tượng có quan hệ chặt chẽ với ký hiệu. Dựa

    trên mô hình cấu trúc nổi tiếng của F.D. Saussure, hai tác giả tiêu biểu của cấu trúc

    luận là L. Hjelmslev và R. Barthes đã phát triển để làm rõ mối liên hệ này.

    Ký hiệu (Sign) =

    Cái biểu đạt (Signifier)

    Cái được biểu đạt (Signified)

    Mô hình của F.D. Saussure

    “Ngôn ngữ là một hệ thống ký hiệu, mỗi ký hiệu ngôn ngữ có hai phần: cái biểu

    đạt (le signifiant) và cái được biểu đạt (le signifié). Cái biểu đạt là một hình ảnh thính

    giác, cái được biểu đạt là một khái niệm. Không có mối liên hệ tất yếu nào giữa ký

    hiệu với vật được chỉ định, hay như người ta thường nói, liên hệ giữa chúng là võ

    đoán” [34, tr. 79]. Trên cơ sở mở rộng nội hàm của thuật ngữ ký hiệu cho nhiều lĩnh

    vực (cả trong và ngoài ngôn ngữ học), bao gồm dấu hiệu, tín hiệu, lời nói, cử chỉ,

  • 9

    hành động,… mang tính thông tin, L.Hjelmslev đã khái quát ba yếu tố cấu thành mỗi

    ký hiệu (sự biểu đạt - quan hệ - nội dung) trong mô hình tam giác sau:

    Mô hình ký hiệu học của L. Hjelmlev [66, tr.76]

    Đóng góp quan trọng nhất của L. Hjelmlev là sự phân biệt “ký hiệu học biểu

    thị” với “ký hiệu học hàm nghĩa”. Trong đó, ký hiệu thông thường là hệ thống ký

    hiệu biểu thị, còn “ngôn ngữ hàm nghĩa là một ngôn ngữ mà bình diện biểu đạt

    (hình thức) của nó cũng là một hệ thống ngôn ngữ thông thường (ký hiệu biểu thị)

    và cả hai hệ thống đã lồng vào nhau tạo thành một hệ thống kép – hệ thống siêu ký

    hiệu” [34, tr.94].

    R. Barthes lại phát triển mô hình cấu trúc của ký hiệu ở mức cao hơn với sơ đồ

    cú pháp ký hiệu học hàm nghĩa như sau:

    A CBĐ:

    Sự biểu thị (HT)

    CĐBĐ:

    Sự biểu đạt (ND)

    B CBĐ:

    Sự hàm nghĩa (HT)

    CĐBĐ:

    Sự hàm nghĩa (ND)

    A: Ký hiệu học biểu thị (Semiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường

    B: Ký hiệu học hàm nghĩa (Semiotic connotative) – Ngôn ngữ biểu tượng

    Mô hình cấu trúc của ký hiệu của R. Barthes [68, tr.78]

    Thông qua sơ đồ, R. Barthes đã cụ thể hóa tính “hệ thống kép” hay “hệ thống

    trong hệ thống” đặc trưng của ngôn ngữ biểu tượng. Nghĩa là trong ngôn ngữ biểu

    tượng, bình diện biểu đạt (hình thức) lại ẩn chứa một ký hiệu biểu thị - ngôn ngữ

    thông thường. Đây cũng chính là mô hình mà R. Barthes sử dụng để giải mã cấu

    trúc của thần thoại.

  • 10

    Trong bài viết “Biểu tượng như là “đơn vị cơ bản” của văn hóa”, Nguyễn Văn

    Hậu chuyển đổi sơ đồ của R. Barthes thành sơ đồ giải thích ký hiệu hàm nghĩa

    nhằm giải mã ngôn ngữ biểu tượng:

    A

    Hình thức sự biểu thị

    Sự vật, hiện tượng,

    cái dùng biểu thị

    Nội dung sự biểu thị

    nội dung, ý nghĩa, tên

    gọi v.v..

    B Hình thứcsự hàm nghĩa

    (Ký hiệu biểu thị – hiển ngôn)

    Nội dung sự hàm nghĩa

    (Ký hiệu ẩn dụ – mật ngôn)

    Siêu ký hiệu - ngôn ngữ biểu tượng (Symbol)

    A: Ký hiệu học biểu thị (Semiotic denotative) - Ngôn ngữ thông thường

    B: Ký hiệu học hàm nghĩa (Semiotic connotative) – Ngôn ngữ biểu tượng

    Mô hình chuyển đổi của Nguyễn Văn Hậu [92]

    Có thể nói ký hiệu học với phương pháp tiếp cận rõ ràng, cụ thể đã giúp cho

    các nhà khoa học hạn chế được tính khó xác định của biểu tượng. Dù khẳng định

    vai trò nền tảng cho khoa học nghiên cứu về biểu tượng của ký hiệu học, Đinh

    Hồng Hải chỉ ra giới hạn của phương pháp này, đó là “nếu chỉ tiếp cận nghiên cứu

    các biểu tượng dưới góc nhìn ký hiệu học thì chúng ta vẫn có thể gặp khó khăn khi

    buộc phải giải thích một thành tố văn hóa trong môi trường sống của nó (nghĩa là

    trong thời gian và không gian của riêng nó” [34, tr.75].

    Bên cạnh ký hiệu học, hướng tiếp cận nhân học trong nghiên cứu biểu tượng

    đã được Raymond Firth khái quát thế mạnh trong Biểu tượng: Chung và Riêng: “Nó

    liên kết và giải thích về các sự kiện thông qua biểu tượng luận với các cấu trúc xã

    hội và các sự kiện xã hội trong những điều kiện cụ thể… Theo đó, các nhà nhân học

    được trang bị để giải thích ý nghĩa của các biểu tượng trong các nền văn hóa mà họ

    đang nghiên cứu, và để sử dụng những lý giải như những phương tiện trung gian để

    hiểu xa hơn về các tiến trình trong đời sống xã hội” [34, tr.82]. Đối tượng nghiên

    cứu của nhân học biểu tượng là ẩn dụ, ngôn ngữ, hệ thống biểu tượng, nghi lễ, ma

    thuật, đời sống, biểu tượng luận, vũ trụ luận, và thần thoại. Với những phương pháp

    chuyên biệt như điền dã thực địa (fieldwork) hay quan sát tham dự (participant

  • 11

    observation), nhân học đem lại giải pháp để khám phá biểu tượng trong chính môi

    trường “sống” của nó một cách tối ưu. Do đó, nhân học được xem là phương pháp

    bổ khuyết cho giới hạn của ký hiệu học trong nghiên cứu biểu tượng.

    Ngoài ra, nghiên cứu biểu tượng không thể không đề cập đến hướng tiếp cận

    từ cấu trúc luận. Claude Levi-Strauss đã có những đóng góp lớn cho việc nghiên

    cứu biểu tượng. “Ông cho rằng phân loại nhị nguyên (binary classification) là một

    điểm đặc trưng phổ quát của nhận thức con người. Các nghiên cứu mở rộng của ông

    đối với thần thoại, nghệ thuật và hệ thống thân tộc đã khám phá ra những hình mẫu

    văn hóa khác nhau ở mức độ phức tạp và diện mạo bên ngoài, về bản chất, dựa vào

    tính đối ngẫu: tự nhiên/ văn hóa, đàn ông/ đàn bà, tinh khiết/ không tinh khiết, v.v…

    Hệ thống văn hóa, dưới góc nhìn này, với những nền tảng tinh vi của nó khai hóa

    thế giới, xã hội hóa nó, đưa ra sự phân loại tùy theo biểu hiện của tự nhiên. Mối

    quan tâm của các nhà cấu trúc luận trong các hệ thống văn hóa của ý nghĩa ở những

    gì họ có thể bộc lộ ra và khi nào thì phân tích về tiến trình nhận thức phổ quát của

    con người” [dẫn theo Đinh Hồng Hải, 34, tr.130]. Có thể thấy cấu trúc luận đã tạo

    nền tảng để ký hiệu học và nhân học (nhân học cấu trúc và nhân học biểu tượng)

    nghiên cứu biểu tượng với những hướng tiếp cận hiệu quả khác nhau. Trong công

    trình nghiên cứu Nghiên cứu biểu tượng – Một số hướng tiếp cận lý thuyết (2014), ở

    phần “Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: từ ký hiệu học đến nhân học biểu

    tượng”, Đinh Hồng Hải đã đưa ra sơ đồ tóm tắt diễn trình của khoa học nghiên cứu

    biểu tượng như sau:

    CBĐ

    Cái biểu đạt

    KH

    hiệu

    NNBT

    Ngôn

    ngữ biểu

    tượng

    BT

    Biểu

    tượng

    ND

    Nội

    dung

    MĐSD

    Mục đích

    sử dụng CĐBĐ

    Cái được

    biểu đạt

    HT

    Hình

    thức

    “Diễn trình của khoa học nghiên cứu biểu tượng” (Đinh Hồng Hải) [34, tr.145]

    Ý nghĩa của biểu tượng chỉ có thể giải mã được một cách đầy đủ khi đặt nó

    trong bối cảnh xuất hiện với những mục đích sử dụng cụ thể. Điều này cho thấy các

  • 12

    phương pháp tiếp cận nghiên cứu biểu tượng như triết học, xã hội học,… đều góp

    phần hỗ trợ tích cực trong việc phân tích mỗi biểu tượng.

    Như vậy, nghiên cứu biểu tượng là một trong những phương pháp không chỉ

    nhằm tìm hiểu con người mà còn cắt nghĩa thế giới ở những tầng nghĩa sâu xa nhất.

    Leslie A. White đã nhận xét rằng “Toàn bộ hành vi ứng xử của con người đều bắt

    nguồn từ việc sử dụng các biểu tượng. Chính biểu tượng đã làm biến đổi tổ tiên

    vượn người của chúng ta trở thành người và làm cho họ có đặc trưng nhân tính. Mọi

    nền văn hoá được tạo ra và trường tồn mãi mãi chỉ từ việc sử dụng các biểu tượng.

    Biểu tượng đã làm biến đổi một đứa trẻ của người khôn ngoan (Homo Sapiens) trở

    thành con người thực sự. Còn người câm điếc lớn lên, nếu không được sử dụng các

    biểu tượng thì họ cũng không trở thành người đúng nghĩa. Tất cả hành vi ứng xử

    của con người tạo ra hoặc phụ thuộc vào việc sử dụng các biểu tượng. Hành vi của

    con người là hành vi mang tính biểu tượng. Nói cách khác, hành vi mang tính biểu

    tượng chính là hành vi của con người. Thế giới biểu tượng là thế giới của bản chất

    người (nhân tính)” [dẫn theo Nguyễn Văn Hậu, 92].

    Tóm lại, biểu tượng chỉ có thể được giải mã trên cơ sở liên ngành với nhiều

    hướng tiếp cận. Hiện nay, ký hiệu học, nhân học và cấu trúc luận được xem là ba

    hướng tiếp cận hiệu quả, tối ưu để bóc tách lớp nghĩa của biểu tượng. Tuy nhiên,

    chúng tôi thiết nghĩ, sự lựa chọn hướng tiếp cận phải phù thuộc vào đặc trưng của

    mỗi biểu tượng. Đồng thời, vai trò của các cách tiếp cận trong quá trình nghiên cứu

    biểu tượng cũng sẽ đậm nhạt khác nhau.

    1.1.2. Nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng

    Nghiên cứu biểu tượng trong văn học và văn học dân gian là xu hướng phê bình

    văn học phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù hướng nghiên cứu biểu tượng

    trong văn học dân gian xuất hiện từ khá sớm nhưng dường như chưa có nhiều công

    trình lớn chuyên sâu, hầu hết là các bài viết xuất hiện đơn lẻ trên tạp chí và internet.

    Trong công trình Thi pháp ca dao (1993, NXB Đại học Quốc gia), Nguyễn

    Xuân Kính đã thống kê một số biểu tượng của ca dao Việt Nam: cây trúc, cây mai,

    con bống, con cò,… Cụ thể ở chương VII, tác giả không chỉ phân tích, giải mã ý

    nghĩa của biểu tượng mà còn chỉ ra sự giống/ khác nhau của các biểu tượng giữa

    văn học dân gian và văn học viết. Điều này đã cho thấy sự phong phú, linh hoạt và

  • 13

    có tính kế thừa của biểu tượng trong văn học. Với Thi pháp ca dao, Nguyễn Xuân

    Kính được đánh giá là một trong những người tiên phong trong nghiên cứu biểu

    tượng của văn học dân gian Việt Nam. Tác giả tiếp cận biểu tượng từ văn học dân

    gian, thông qua thi pháp học và các đặc trưng của thể loại ca dao.

    Phải đến những năm cuối thế kỷ XX, lý thuyết về biểu tượng và các phương

    pháp tiếp cận nghiên cứu biểu tượng mới thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà

    nghiên cứu văn học dân gian. Năm 1999, bài viết “Những biểu tượng không gian

    thiêng trong truyền thuyết dân gian người Việt” của Trần Thị An in trong Những

    vấn đề lí luận và lịch sử văn học của Viện Văn học có thể được xem là một trong số

    công trình đầu tiên soi chiếu biểu tượng văn học đặt từ nền tảng văn hóa. Chúng tôi

    sẽ trình bày kỹ về công trình trong mục sau, bởi lẽ tác giả đề cập trực tiếp đến biểu

    tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.

    Trong bài nghiên cứu đăng năm 2006, Nguyễn Thị Bích Hà đã sử dụng lý

    thuyết mã văn hóa để nghiên cứu văn học dân gian. Trong bài viết “Mã và mã văn

    hóa” (2006) đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian, theo tác giả, biểu tượng văn hóa là

    một trong những biểu hiện của mã văn hóa [gồm: kí tín hiệu văn hóa (cultural

    signs), biểu tượng văn hóa (cultural symbols, và mật mã văn hóa (secret codes of

    cultural) – NTQH]. Tác giả giới thiệu ngắn gọn khái quát về biểu tượng văn hóa:

    định nghĩa, mối quan hệ giữa biểu tượng và tín hiệu, đặc điểm, cách giải mã biểu

    tượng trong trường liên tưởng và tính quan niệm của biểu tượng (xin xem mục 2.2

    của bài viết). Tác giả lấy các biểu tượng nước, rắn, rồng,… để làm rõ phần lý

    thuyết. Tác giả viết: “Biểu tượng được hình thành trong một quá trình lâu dài, có

    tính ước lệ và bền vững, là cảm quan, nhận thức được lắng đọng, kết tinh, chắt lọc

    trải qua bao biến cố thăng trầm vẫn không bị phai mờ mà ngược lại càng khắc sâu

    hơn vào tâm khảm con người” [31, tr.23].

    Năm 2014, Nguyễn Thị Bích Hà đã xuất bản cuốn Nghiên cứu văn học dân

    gian từ mã văn hóa (2014, NXB Đại học Sư phạm). Đây là công trình đầu tiên

    chuyên sâu nghiên cứu văn học dân gian theo khuynh hướng biểu tượng luận. Công

    trình này đã xác lập một lý thuyết với hệ thống: phương pháp nghiên cứu văn học

    dân gian qua các mã văn hoá dân gian; quan niệm về văn hoá, mã văn hoá; mối

    quan hệ giữa văn hoá, văn hoá dân gian và văn học dân gian; các khái niệm: tín

  • 14

    ngưỡng, mã tín ngưỡng, phong tục tập quán, mã phong tục tập quán...; và các thao

    tác nghiên cứu văn học dân gian dựa vào mã văn hoá dân gian. Công trình giới thiệu

    năm bài viết nghiên cứu các trường hợp cụ thể: “Giải mã văn hóa tết người Việt”

    (Nguyễn Thị Bích Hà), “Giải mã biểu tượng Lanh trong dân ca dân tộc H’Mông”

    (Đặng Thị Oanh), “Giải mã truyền thuyết Hùng Vương chọn đất đóng đô trong

    truyền thuyết chọn đất đóng đô của người Việt” (Ngô Thị Diễm Hằng), “Giải mã

    các con số trong tục ngữ người Việt” (Nguyễn Thị Thuỳ Dương), “Giải mã biểu

    tượng dòng sông trong bài ca tang lễ một số dân tộc vùng Bắc Bộ Việt

    Nam” (Nguyễn Thị Minh). Tất cả là kết quả nghiên cứu thể nghiệm lý thuyết mã

    văn hóa của học viên cao học, nghiên cứu sinh do Nguyễn Thị Bích Hà hướng dẫn.

    Sau đó, năm 2011, luận án tiến sĩ của Đặng Thị Oanh đã được xuất bản thành sách

    với nhan đề Biểu tượng Lanh trong dân ca dân tộc H’Mông (NXB Đại học Quốc

    gia).

    Từ 2007 đến 2014, Đinh Hồng Hải là tác giả đã có nhiều công trình nghiên

    cứu và dịch thuật giới thiệu phương pháp tiếp cận nghiên cứu biểu tượng (cấu trúc

    luận, ký hiệu học, nhân học): “Nghiên cứu biểu tượng và vấn đề tiếp cận nhân học

    biểu tượng ở Việt Nam” (2007), “Nghiên cứu văn hóa từ góc nhìn nhân học biểu

    tượng” (2010), “Cấu trúc luận trong nghiên cứu biểu tượng: từ ký hiệu học đến

    nhân học biểu tượng” (2012), “Khoa học về các ký hiệu” (Terence Hawkes, 2012),

    “Khám phá những biểu tượng trong văn học” (Raymond Firth, 2012),… Năm 2014,

    Đinh Hồng Hải đã tập hợp tất cả các bài viết trên trong Nghiên cứu biểu tượng –

    Một số hướng tiếp cận lý thuyết. Có thể xem đây là công trình đầu tiên giới thiệu

    một cách hệ thống lý thuyết về biểu tượng ở Việt Nam. Trong đó, Đinh Hồng Hải

    vẫn đề cao phương pháp cấu trúc luận và cho rằng việc nghiên cứu biểu tượng phải

    là sự kết hợp đa ngành.

    Năm 2015, cuốn Các vị thần của Đinh Hồng Hải (NXB Thế giới) là tập 2

    trong hệ thống bộ sách Những biểu tượng đặc trưng trong văn hóa truyền thống

    Việt Nam (tập 1, Các bộ trang trí điển hình, NXB Tri thức, 2012) được xuất bản.

    Trong công trình này, Đinh Hồng Hải đã lựa chọn tiếp cận 6 vị thần (gồm: Thần

    Đất, Thần Bếp, Thần Tài, Thánh Gióng, Di Lặc, Ông Trời) trên cơ sở bối cảnh văn

    hóa Việt Nam xưa, nay, đặt trong sự đối sánh với văn hóa Trung Hoa và Ấn Độ

  • 15

    nhằm giúp người đọc có cái nhìn tổng thể và khách quan nhất. Với Các vị thần,

    chúng tôi đặc biệt chú ý Thánh Gióng, bởi lẽ nhân vật có liên quan chặt chẽ với

    truyện kể dân gian Việt Nam. Tác giả đã đi từ những vấn đề lý thuyết (khái niệm

    huyền thoại và huyền thoại trong mối quan hệ với lịch sử) đến thực tiễn (huyền thoại

    Thánh Gióng với lịch sử chống ngoại xâm ở Việt Nam và biểu tượng Thánh Gióng

    trong lịch sử thành văn). Theo Đinh Hồng Hải, Thánh Gióng là một biểu tượng dân

    tộc, mang bản sắc văn hóa của Đại Việt và “được “cung đình hóa” từ vị thần dân

    gian: Thần Đất/ Thổ địa” [35, tr.181] và “trở thành một lễ hội quốc gia: Hội Phù

    Đổng” [35, tr.182]. Qua quá trình giải mã, Đinh Hồng Hải thành công khi chỉ ra được

    sự tích hợp đa văn hóa và bản sắc dân tộc trong biểu tượng Thánh Gióng.

    Nguyễn Văn Hậu, trong bài viết “Đi tìm bản sắc văn hóa dân tộc qua thế giới

    biểu tượng” (2009), đã liệt kê các định nghĩa về biểu tượng (từ điển Petit Larousse,

    C.G. Jung, trong Dịch thuyết cương lĩnh của Chu Hy), những chức năng của biểu

    tượng (khám phá, thay thế, liên kết xã hội và giáo dục) và vai trò của biểu tượng (hạt

    nhân tâm lý cho sự sáng tạo, khuôn mẫu văn hóa cho mọi ứng xử của con người và

    “khuôn mẫu gốc” chuẩn mực văn hóa của mỗi cộng đồng). Để minh chứng cho

    phương thức nhận biết “bản sắc dân tộc” thông qua việc giải mã biểu tượng, tác giả

    đã đi vào phân tích ý nghĩa của một số biểu tượng trong huyền thoại truyền thống của

    Việt Nam: Con Hồng – cháu Lạc, tóc dài – răng đen,… Tác giả đưa ra nhận định:

    “Bản sắc văn hóa dân tộc là sự biểu hiện về bản lĩnh sáng tạo của mỗi dân tộc. Nó

    được kết tinh thành những biểu tượng văn hóa và thông qua các hệ thống biểu tượng,

    ta có thể hiểu được tính cách của dân tộc đó” [92]. Bài viết tuy không giải mã ý nghĩa

    các biểu tượng nhưng đã giới thiệu biểu tượng từ góc độ lý thuyết, khẳng định vai trò

    của biểu tượng trong quá trình nhận chân bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc.

    Hướng nghiên cứu văn học dân gian từ biểu tượng được quan tâm nhiều hơn

    trong thời gian gần đây ở các luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ (luận văn Ý nghĩa

    biểu trưng của hệ biểu tượng con số trong ca dao người Việt của Nguyễn Thị

    Duyên bảo vệ năm 2006; luận văn Thế giới biểu tượng thần thoại trong Mo Mường

    của Bùi Văn Thành bảo vệ năm 2012; luận án Sự phát triển ý nghĩa trong hệ biểu

    tượng trang phục trong ngôn ngữ thơ ca Việt Nam của Nguyễn Thị Ngân Hoa bảo

    vệ năm 2005,…), những bài viết trên tạp chí và internet (“Biểu tượng “nước” trong

  • 16

    thơ ca dân gian và thơ ca hiện đại các dân tộc ít người” của Nguyễn Thị Thanh Lưu

    (2008); “Đôi nét về nhóm biểu tượng hoa trong ca dao” của Nguyễn Thị Ngọc Điệp

    (2010),… Song, để tập trung vào công trình liên quan đến đề tài, chúng tôi chỉ xin

    giới hạn trong các nghiên cứu truyền thuyết dân gian từ biểu tượng.

    Nguyễn Thị Thanh Xuân với “Phê bình cổ mẫu và cổ mẫu Nước trong văn

    chương Việt Nam” đã bắt đầu bằng cách lược sử đầy đủ và chi tiết về khuynh hướng

    phê bình cổ mẫu, sau đó đi vào nghiên cứu chuyên biệt về cổ mẫu Nước trong văn

    học Việt. Tiểu mục “Nước trong văn chương Việt Nam” đánh dấu những khám phá

    và đóng góp mới mẻ của Nguyễn Thị Thanh Xuân. Tác giả thống kê sự xuất hiện của

    Nước từ trong văn học dân gian đến văn học viết, từ đặc trưng thể loại (sử thi, truyền

    thuyết, thơ, truyện) đến phong cách của một số tác giả tiêu biểu. Trên cái nhìn đối

    sánh, tác giả đã cho thấy “Cảm thức và ý niệm về nước trong văn chương Việt có một

    sự vận động rõ rệt” [96]. Điểm đặc biệt là văn học dân gian ghi dấu cổ mẫu Nước ở

    tất cả các hình thái (lụt, mưa, biển, sông, đầm, giếng) với những lớp tầng ý nghĩa

    khác nhau. Bài viết thể hiện một hướng đi mới của phê bình văn học và để lại nhiều

    gợi mở thú vị, thiết thực về nghiên cứu biểu tượng trong văn chương Việt.

    “Từ truyền thuyết rồng Thăng Long khám phá biểu tượng rồng trong truyền

    thuyết dân gian Việt Nam” (2011) đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học của

    Nguyễn Thị Thanh Lưu là công trình gần đây nhất đi sâu vào giải mã một biểu

    tượng trong truyền thuyết. Trong dung lượng của một bài viết nhỏ, tác giả chưa đi

    sâu để giải thích nguồn gốc cũng như sự tiếp biến biểu tượng rồng từ văn hóa Trung

    Hoa hay Ấn Độ,… Đóng góp của tiểu luận là Nguyễn Thị Thanh Lưu đã chỉ ra con

    đường, cách thức và cơ chế văn hóa của quá trình biến thân từ rắn đến rồng trong

    truyền thuyết dân gian Việt Nam. Không chỉ gói gọn trong phạm vi các truyền

    thuyết của đất Thăng Long, bài viết mở rộng trường so sánh cho biểu tượng đến

    truyền thuyết của một số dân tộc thiểu số và truyền thuyết dân gian nói chung để

    người đọc có thể hình dung về sự giao thoa, chuyển biến trong biểu tượng Rồng của

    các tộc người ở Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi “Rồng có phải là tô tem và tín

    ngưỡng của dân gian bản địa”, tác giả đã minh xác việc lựa chọn thể loại truyền

    thuyết và biểu tượng văn hóa: “Truyền thuyết là thể loại có mối quan hệ hữu cơ với

    lễ hội và tín ngưỡng dân gian. Một biểu tượng văn hóa chỉ thực sự xác lập được chỗ

  • 17

    đứng vững chãi và lâu đời trong lòng dân gian khi sống bằng nguồn sinh khí được

    bồi tụ liên tục bằng các hoạt động tín ngưỡng với những hành động thờ phụng, cầu

    cúng – những hành động mang tính chất trao đổi tinh thần, tâm linh giữa người và

    thần, người và linh vật” [60, tr. 53]. Chúng tôi hoàn toàn đồng thuận với ý kiến trên

    của tác giả, vì đây cũng chính là những lý do lựa chọn đề tài biểu tượng đá trong

    truyền thuyết dân gian Việt Nam của chúng tôi.

    Từ việc điểm lại kết quả nghiên cứu về biểu tượng, có thể nói, các đề tài

    nghiên cứu văn học dân gian từ lý thuyết biểu tượng chưa có nhiều thành tựu; tuy

    nhiên, công trình của một số tác giả đi trước đã cung cấp cho chúng tôi nhiều gợi ý

    để thực hiện đề tài luận án của mình.

    1.2. Các công trình nghiên cứu Đá trong văn hóa ở Việt Nam

    1.2.1. Công trình về tín ngưỡng thờ đá

    Đầu tiên phải kể đến người đã có công lao to lớn trong việc nghiên cứu tín

    ngưỡng thờ đá ở Việt Nam: Leopold Cadiere. Trong Văn hóa tín ngưỡng và thực

    hành tôn giáo người Việt (2010), ông đã phân loại đá thờ thành bốn nhóm lớn: đá

    hiểm hóc, đá linh (bụt), đá hộ mệnh và thần đá. Bên cạnh những lý giải rất thuyết

    phục về tín ngưỡng thờ đá của người Việt, Cadiere còn luận bàn về mối quan hệ

    giữa tục thờ đá và truyện kể dân gian. Theo ông, “Có thể là người Việt đã thừa

    hưởng từ những thế hệ đi trước về chuyện linh thiêng của viên đá này, tảng đá kia

    rồi truyền tụng luôn cả việc thờ kính cũng như những huyền thoại liên quan. Nhiều

    khi viên đá được thờ bái nhưng lại không có lai lịch huyền thoại thì họ lại tưởng

    tượng ra một lai lịch huyền thoại để biện minh cho sự thờ bái của mình. Các tư liệu

    đều cho ta thấy một điều trong tâm tư người Việt, việc thờ đá luôn luôn được lý giải

    trước hết là do có phép mầu” [19, tr. 118]. Hay nói cách khác, Cadiere cho rằng

    huyền thoại (truyện kể dân gian) về đá thiêng đều bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ đá.

    Nhận định này đã phần nào trở thành “tôn chỉ” cho các nhà nghiên cứu hậu sinh khi

    tìm hiểu về hình tượng đá trong văn học dân gian, cũng như tín ngưỡng thờ đá ở

    Việt Nam. Công trình của Cadiere là bức tranh toàn cảnh cho chúng tôi những hiểu

    biết ban đầu về tục thờ đá ở Việt Nam, mối quan hệ giữa truyện cổ dân gian về đá

    thiêng và tín ngưỡng thờ đá.

  • 18

    Đối với đá trong văn học dân gian, Man Nương là truyện được các nhà nghiên

    cứu tín ngưỡng, văn hóa đề cập đến nhiều nhất, bởi lẽ tích truyện về nguồn gốc Phật

    pháp có mối quan hệ chặt chẽ với hiện tượng thờ cúng Thạch Quang Phật tại Thuận

    Thành, Bắc Ninh. Sự hóa thân của nhân vật trong tích truyện thể hiện rất rõ kết cấu

    cây – đá – Phật (sư Khâu Đà La đặt đứa bé vào thân cây Dung Thụ, thân cây hóa

    thành đá và đá hóa thành Phật Thạch Quang). Đặc biệt, hình ảnh đá phát hào quang

    rực rỡ khi bị toán thợ tạc tượng ném hòn đá xuống sông góp phần lý giải một số chi

    tiết trong việc thờ cúng ở đây. Quan hệ giữa tín ngưỡng thờ đá và hình tượng đá

    trong truyện cổ dân gian này được giới thiệu trong công trình Tìm hiểu văn hóa dân

    gian Việt Nam trong bối cảnh văn hóa Đông Nam Á (Đinh Gia Khánh, 1993) và Tín

    ngưỡng thành hoàng Việt Nam (Nguyễn Duy Hinh, 1996). Các nhà nghiên cứu đã

    cho thấy vai trò của văn học dân gian nói chung, truyện cổ dân gian nói riêng trong

    việc truy nguyên và hỗ trợ nghiên cứu tín ngưỡng, tôn giáo.

    Ở bài viết “Thờ đá trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam” (2004) đăng trên tạp

    chí Văn hóa dân gian, Nguyễn Việt Hùng phân tích một số truyện cổ dân gian về đá

    thiêng để làm dẫn chứng minh họa cho những hình thức đá thờ, đồng thời cũng làm

    rõ mối quan hệ giữa tín ngưỡng thờ đá với các tín ngưỡng, tôn giáo bản địa và ngoại

    lai ở Việt Nam (tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ thành

    hoàng, cầu tự, Phật giáo, các hình thức thờ đá khác và trong mối quan hệ Việt -

    Chăm). Tiểu luận đã mở ra cái nhìn đa diện về lớp trầm tích tôn giáo, tín ngưỡng

    trong biểu tượng đá của văn học dân gian. Bài nghiên cứu đã giúp chúng tôi hiểu kỹ

    hơn về tục thờ đá và mở ra hướng nghiên cứu về biểu tượng đá của truyền thuyết

    người Việt trong sự tương tác với các tín ngưỡng, tôn giáo khác.

    Trong chuyên luận Sự tích vọng phu và tín ngưỡng thờ đá ở Việt Nam (2011,

    NXB Văn hóa thông tin), Nguyễn Việt Hùng tập trung khảo sát, thống kê kiểu

    truyện vọng phu, đặt trong sự đối sánh với tín ngưỡng thờ đá. Xuất phát từ việc hệ

    thống sự tích vọng phu trong đời sống văn hóa dân gian, tác giả khái quát và phân

    tích kết cấu truyện vọng phu. Nguyễn Việt Hùng nêu ra khái niệm “ra đi giả” cho sự

    di chuyển trong không gian của nhân vật. Theo ông, một vài nhân vật ra đi chỉ bởi

    sự ép buộc của tình huống và cốt truyện vẫn tiếp tục diễn biến ở điểm bắt đầu, gắn

    với những hành động của nhân vật khác (người chồng ra đi biệt tăm, người vợ đau

  • 19

    khổ, chờ chồng đến hóa đá). Trên cơ sở làm rõ sự vay mượn, tiếp nối những chi tiết

    quan trọng trong kiểu truyện vọng phu người Việt từ truyện cổ Chăm, tác giả đã

    chứng minh dấu ấn dung hợp tín ngưỡng, văn hóa ở tín ngưỡng thờ đá.

    Qua điền dã, khảo sát và thống kê truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa, Hồ

    Quốc Hùng nỗ lực giải mã các lớp tín ngưỡng thờ đá trong tiểu luận “Thử nhận diện

    dấu vết tín ngưỡng Chăm qua nhóm truyện cổ người Việt ở Thuận Hóa” (Tuyển tập

    40 năm Viện Văn học, 1999, NXB thành phố Hồ Chí Minh). Bên cạnh việc sưu tầm

    được khá nhiều truyện cổ về chủ đề đá thiêng, công trình đã đưa ra kết cấu người

    đánh cá – nhặt đá thiêng – thờ đá – đá mang phúc ấm cho dân làng với những lý

    giải thuyết phục và dẫn chứng thú vị. Hồ Quốc Hùng cho rằng huyền thoại và hình

    thức thờ đá là một hiện tượng phổ biến ở các tỉnh Nam Bộ, Nam Trung Bộ, và “nếu

    kết dính các chuỗi chi tiết trong các dị bản với cốt truyện chính, ta sẽ thấy các mắt

    xích quan trọng đều xoay quanh tục thờ cúng có liên quan đến linh vật: đá” [48, tr.

    586]. Kết cấu trên là một gợi ý đắc dụng cho chúng tôi khi tiếp cận biểu tượng đá

    trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, đặc biệt đối với hai trường hợp Kì Thạch

    phu nhân và Thai Dương phu nhân ở Thừa Thiên Huế.

    Từ thực tế nghiên cứu, hầu hết công trình đã cho thấy vai trò và vị trí của tục

    thờ đá trong đời sống tâm linh của người dân Việt, mối quan hệ tương tác giữa văn

    học dân gian và tín ngưỡng, văn hóa, cũng như sự dung hòa của nhiều yếu tố tín

    ngưỡng khác trong tục thờ đá ở Việt Nam. Đặc biệt, trong thời gian gần đây, hướng

    nghiên cứu này đã đạt được nhiều kết quả mới trong việc đánh giá chuyên sâu hơn

    đối với một số thể loại của văn học dân gian.

    1.2.2. Công trình nghiên cứu Đá với tư cách biểu tượng

    Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng) của Jean

    Chevalier và Alain Gheerbrant có thể được xem là công trình nghiên cứu biểu tượng

    một cách hệ thống và khái quát nhất hiện nay. Trong đó, biểu tượng Đá trong văn

    hóa nhân loại đã được khảo sát chi tiết và tương đối đầy đủ.

    Ngoài việc nêu ra các tiêu chí lựa chọn thông tin, cách trình bày hệ biểu

    tượng, phần giới thuyết sơ lược và tổng hợp những nghiên cứu về biểu tượng đã góp

    phần định hướng lý thuyết biểu tượng cho người đọc trước khi nghiên cứu các biểu

    tượng trong công trình. Riêng biểu tượng Đá, trước tiên, Jean Chevalier và Alain

  • 20

    Gheerbrant khẳng định: “Trong truyền thuyết, đá chiếm một vị trí trang trọng. Giữa

    linh hồn con người và đá có mối quan hệ chặt chẽ” [21, tr. 268]. Tác giả tập hợp

    những mối quan hệ và cách giải thích gắn với biểu tượng Đá của các dân tộc/ tôn

    giáo tín ngưỡng/… trên thế giới dựa vào hình thức/ xuất xứ/ màu sắc/ nét nghĩa

    chung/ mục đích sử dụng/ truyền thuyết,… Đá ở Việt Nam chỉ mới được Jean

    Chevalier và Alain Gheerbrant nhắc đến trong hai dạng thức “các tảng đá dựng

    đứng” [21, tr.269], và “đá chảy máu khi bị cuốc vào” [21, tr.269]. Hiện nay, chúng

    tôi vẫn chưa tìm được thêm thông tin về hai trường hợp này.

    Những mục liên quan đến đá trong công trình Từ điển biểu tượng văn hóa thế

    giới (2002) của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã trở thành một bảng tra cứu,

    giúp chúng tôi định hướng giải mã các nét nghĩa của biểu tượng đá trong truyền

    thuyết dân gian Việt Nam. Hơn thế nữa, thông qua công trình, chúng tôi có thể dễ

    dàng nhận ra những nét đồng điệu của đá trong truyền thuyết Việt Nam nói riêng và

    văn hóa Việt nói chung với văn hóa thế giới.

    Với công trình Đá và Người (2008, NXB Từ điển bách khoa), Trần Sỹ Huệ đã

    đem đến cho người đọc một cái nhìn mới về vai trò đa dạng của đá trong đời sống/

    văn hóa Phú Yên. Bằng văn phong tùy bút-khoa học, tác giả phân loại, hệ thống sự

    xuất hiện và ý nghĩa của đá từ khung cảnh thiên nhiên, địa danh, tên các loại vật,

    trong đời sống vật chất đến sinh hoạt tâm linh, văn hóa nghệ thuật, văn học dân gian.

    Ở phần viết Đá trong văn học dân gian, tác giả liệt kê sự xuất hiện của đá ở các thể

    loại ca dao, tục ngữ, thành ngữ và truyện kể. Đóng góp của Trần Sĩ Huệ là nghiên

    cứu vai trò của đá trong tất cả các khía cạnh của đời sống tại một địa bàn cư trú cụ

    thể. Dù không gọi tên thuật ngữ “biểu tượng đá” mà chỉ quan niệm “ghi chép qua nét

    nhìn dân gian, phân biệt một cách đơn giản nhưng rất rạch ròi, đá là đá, đất là đất, cát

    sạn là cát sạn” [46, tr.9] nên công trình không gọi tên đích danh đá là “biểu tượng”

    nhưng những thống kê và phụ chú chi tiết trong công trình đã chứng tỏ sự gắn kết

    giữa người và đá, đồng thời cũng góp phần gợi ra lớp nghĩa riêng của đá trong văn

    hóa dân gian Phú Yên.

    Trong Những đỉnh núi du ca – một lối tìm về cá tính H’Mông (2014, NXB

    Thế giới), Nguyễn Mạnh Tiến đã lấy dân ca nói riêng, văn học dân gian H’Mông

    nói chung làm đối tượng nghiên cứu nhằm khám phá tâm thức, cá tính H’Mông.

  • 21

    Nguyễn Mạnh Tiến cho thấy tâm thức mồ côi của người H’Mông hiển lộ khá rõ

    trong biểu tượng đá mồ côi. Biểu tượng này có thể được xem là kết quả của sự kết

    hợp giữa tâm thức tộc người và đặc trưng không gian sống (cao nguyên đá Đồng

    Văn). Mặc dù tác giả không đi sâu vào phân tích biểu tượng đá mồ côi nhưng sự

    tinh tế, sâu sắc trong quá trình nghiên cứu, nhận diện đã phần nào chỉ ra vai trò của

    đá trong văn hóa tộc người H’Mông. Công trình của Nguyễn Mạnh Tiến là gợi ý thú

    vị và hữu ích cho chúng tôi khi giải mã sự ảnh hưởng của các tín ngưỡng khác trong

    biểu tượng đá của truyền thuyết dân gian Việt Nam.

    Như đã nói ở trên, người đầu tiên nghiên cứu về biểu tượng đá trong truyền

    thuyết là Trần Thị An với bài viết “Những biểu tượng không gian thiêng trong

    truyền thuyết dân gian người Việt” (1999) in trong Những vấn đề lí luận và lịch sử

    văn học của Viện Văn học. Nếu như các nhà nghiên cứu trong quá trình sưu tầm,

    biên soạn và định danh thể loại cho truyện cổ dân gian vẫn luôn cân nhắc ranh giới

    mong manh giữa thần thoại và truyền thuyết thì thông qua biểu tượng không gian

    thiêng - một trong những vấn đề chứa đựng nhiều ngộ nhận để xác lập thể loại, tác

    giả đã góp phần phân định các thể loại còn nhiều tranh cãi này. Trên cơ sở khảo sát

    truyền thuyết người Việt và tham khảo những giải mã ý nghĩa biểu tượng trong Từ

    điển biểu tượng văn hóa thế giới (J. Chevalier và A. Gheerbrant), Trần Thị An đưa

    ra năm biểu tượng không gian thiêng có tần số xuất hiện cao: núi, đá, cây, sông

    nước và mây mù. Trong đó, “núi – nơi trú ngụ của thần linh” và “đá – sự sống trong

    trạng thái tĩnh” là hai không gian trực tiếp liên quan đến biểu tượng đá trong truyền

    thuyết dân gian Việt Nam. Tác giả giải mã được vai trò, ý nghĩa của mỗi không gian

    trong trường so sánh giữa thần thoại và truyền thuyết nhằm minh chứng cho sự

    chuyển hóa thể loại và những nét đặc trưng của mỗi biểu tượng không gian thiêng.

    Riêng với không gian đá, từ các trường hợp cụ thể được lưu giữ trong truyền thuyết,

    Trần Thị An gọi tên từng hình ảnh đá và giải mã ý nghĩa linh thiêng của chúng: đá

    thiêng (pho tượng đá cụt đầu, đá chứa linh hồn, đá thô mang sinh thể lưỡng tính, đá

    thô nguyên vẹn của vũ trụ, đá kết tinh mối quan hệ trời – đất), đá xếp thành đống,…

    Theo tác giả, hầu hết các biểu tượng đá trên đều có tính cụ thể và tính cộng đồng

    cao – những đặc trưng cơ bản của thể loại truyền thuyết dân gian. Trần Thị An đã

    chứng minh “sự tương đồng trong những nấc thang tư duy của nhân loại” [4, tr.

  • 22

    741] từ dữ liệu truyền thuyết dân gian người Việt. Tiểu luận của Trần Thị An đã chỉ

    ra tính phổ quát và tính khu biệt của biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian

    người Việt, hỗ trợ cho chúng tôi trong việc triển khai nội dung luận án.

    Hai bài viết khác nghiên cứu về biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian Việt

    Nam là của Nguyễn Huy Bỉnh: “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự nhiên”

    và “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ đá”.

    Trong “Truyền thuyết dân gian xứ Bắc về các thần tự nhiên” (2009) đăng trên

    tạp chí Nghiên cứu văn học, Nguyễn Huy Bỉnh chỉ giới hạn hướng đến truyền

    thuyết về thần Nước, thần Núi, thần Đá. Kết hợp phương pháp điền dã và khảo sát

    văn bản, tác giả giới thiệu khái quát về truyền thuyết dân gian gắn liền với đời sống

    tâm linh của người dân tại các vùng xứ Bắc. Bằng những số liệu, địa danh, tên

    người cung cấp văn liệu cụ thể, Nguyễn Huy Bỉnh nghiên cứu theo khuynh hướng

    dân tộc học để tìm ra dấu vết của truyền thuyết trong dân gian: các dị bản, quá trình

    lưu truyền và tục thờ cúng. Về thần Đá, tác giả phân chia thành hai dạng truyền

    thuyết dựa trên sự liên kết thờ đá - truyền thuyết: truyền thuyết về thần Đá có nguồn

    gốc tự nhiên (Thạch Quang Phật, Thạch Tướng Quân, và ông Đổng ở vùng Bắc

    sông Đuống thuộc thôn Đổng Viên, xã Phù Đổng ngày nay), và truyền thuyết về các

    nhân vật lịch sử có nguồn gốc từ tục thờ thần Đá (Cao Lỗ và Kỳ Nữ Thạch Biểu).

    Nguyễn Huy Bỉnh nhận định: “Các nhân vật này [các nhân vật được thờ là thần Đá

    trong truyền thuyết xứ Bắc – NTQH] được biểu hiện dưới dạng tôn giáo hóa (Phật

    hóa) và biểu hiện dưới dạng lịch sử hóa trở thành các anh hùng chống giặc ngoại

    xâm” [16, tr. 97]. Từ kết quả điền dã, Nguyễn Huy Bỉnh góp phần làm rõ quá trình

    lưu truyền của văn bản, mối quan hệ biện chứng giữa truyền thuyết về đá thiêng và

    tín ngưỡng thờ đá của người dân xứ Bắc.

    Với “Truyền thuyết Thạch tướng quân trong mối quan hệ với tín ngưỡng thờ

    đá” (2013) đăng trên tạp chí Nghiên cứu văn học, Nguyễn Huy Bỉnh tập trung vào

    duy nhất một truyền thuyết (Thạch Tướng Quân) của một địa phương (xã Tiên Lát,

    huyện Việt Yên, tỉnh Bắc Giang). Tác giả đi từ bản kể và kết cấu truyền thuyết Thạch

    Tướng Quân đến mối tương quan truyền thuyết và tín ngưỡng thờ đá ở Tiên Lát. Bài

    viết khẳng định quan hệ chặt chẽ này thông qua việc liệt kê hàng hoạt các di vật đá

    thiêng/ đền miếu tại Tiên Lát. Khác với những bài nghiên cứu chúng tôi đã đề cập

  • 23

    đến, tiểu luận chỉ chuyên sâu vào trường hợp Thạch Tướng Quân cho nên tác giả thật

    sự khám phá cặn kẽ từ văn bản đến tín ngưỡng thờ cúng tại địa phương lưu truyền.

    Tóm lại, công trình nghiên cứu đá với tư cách là biểu tượng chiếm số lượng

    khiêm tốn nhưng đã có những thành tựu bước đầu trong việc khẳng định giá trị văn

    hóa của biểu tượng đá và chỉ rõ mối quan hệ mật thiết giữa biểu tượng đá trong

    truyền thuyết với tục thờ đá ở các địa phương. Trong đó, Từ điển biểu tượng văn

    hóa thế giới của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant là công trình quan trọng, mang

    tính chất định hướng đặc biệt cho chúng tôi nhận chân các nét nghĩa của biểu tượng

    đá trong truyền thuyết dân gian Việt Nam.

    1.2.3. Công trình nghiên cứu motif Đá trong truyện kể dân gian Việt Nam (thần

    thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích)

    Nghiên cứu về đá thiêng từ góc độ motif có bài viết “Môtíp đá thiêng/hóa đá

    và tín ngưỡng thờ đá trong truyện kể dân gian Nam Đảo” (2007) in trong Truyện kể

    dân gian các tộc người Nam Đảo ở Việt Nam (NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ

    Chí Minh) của Phan Xuân Viện.

    Bài viết nêu lên được những vấn đề khái quát về motif đá thiêng/hóa đá: tìm

    hiểu nguồn gốc, thống kê sơ lược các dạng thức biểu hiện (thần núi, đá thiêng, bụt

    mọc, tinh đá, sinh đẻ thần kỳ từ đá, đá hình người hóa người, người hóa đá, loài vật

    hóa đá,…), nêu ý nghĩa biểu trưng của đá từ tài liệu truyện kể dân gian của bốn dân

    tộc Nam Đảo ở Việt Nam (Chăm, Raglai, Êđê, Giarai). Dựa vào cơ sở khảo sát,

    Phan Xuân Viện đặc biệt phân tích một số motif phổ biến sau: đá thiêng “nuốt

    người”, “tinh đá”, đá kêu, đá vọng phu, người hóa đá, người bị chém chết hóa thành

    đá. Trong giới hạn của tiểu luận, Phan Xuân Viện mới dừng lại ở giới thiệu và phân

    tích, liên hệ một cách điểm xuyết motif đá thiêng/ hóa đá và tín ngưỡng thờ đá. Kết

    quả nghiên cứu của tác giả Phan Xuân Viện là gợi ý quý báu cho chúng tôi trong

    quá trình thực hiện đề tài luận án.

    Như vậy, các dạng motif đá trong truyện kể dân gian đã có được sự quan tâm

    của người nghiên cứu. Với phạm vi khảo sát rộng cả về thể loại lẫn dân tộc, công

    trình cho thấy sự phong phú và đa dạng trong dạng thức tồn tại của đá. Và đây là

    một hướng đi mở để chúng tôi tiếp tục soi chiếu biểu tượng đá trong truyền thuyết

    dân gian Việt Nam từ các motif và dạng thức. Bởi lẽ chính sự lặp lại của motif đã

  • 24

    hình thành những giá trị của đá trong tâm thức của người Việt.

    1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và hướng triển khai đề tài

    1.3.1. Đánh giá tình hình nghiên cứu

    Từ việc điểm các công trình nghiên cứu liên quan đến biểu tượng đá trong văn

    học dân gian Việt Nam, chúng tôi có một số nhận xét sau:

    Thứ nhất, biểu tượng đá trong các bản kể văn học dân gian chủ yếu được đề

    cập đến trong những công trình về tín ngưỡng thờ đá. Điều này chứng tỏ các nhà

    nghiên cứu đã khẳng định mối quan hệ mật thiết giữa biểu tượng đá trong truyện cổ

    dân gian và tín ngưỡng thờ đá của người Việt.

    Thứ hai, biểu tượng đá trong văn học dân gian thể hiện sự dung hòa tôn giáo,

    tín ngưỡng khác trong đời sống tâm linh của người dân Việt và sự ảnh hưởng từ

    những tín ngưỡng, văn hóa khác.

    Thứ ba, rất ít công trình nghiên cứu về biểu tượng đá trong văn học dân gian,

    đặc biệt với tư cách là biểu tượng trong thể loại truyền thuyết. Phần lớn công trình

    nghiên cứu về biểu tượng đá trong các thể loại của văn học dân gian Việt Nam được

    khảo sát trong phạm vi rộng của văn hóa tộc người hoặc vùng văn hóa, chưa tập

    trung vào nghiên cứu biểu tượng đá theo thể loại. Trong khi đó, những công trình

    nghiên cứu về đá trong truyền thuyết lại chỉ tập trung vào một vài bình diện.

    Thứ tư, hầu hết công trình về biểu tượng đá trong văn học dân gian đều được

    nghiên cứu theo phương pháp khảo sát văn bản kết hợp điền dã để có thể khái quát

    được đời sống của đá trong bản kể, môi trường diễn xướng và tín ngưỡng của người

    dân địa phương. Ở đó, mối liên hệ giữa đá trong bản kể và tín ngưỡng thờ đá (đá

    thờ, miếu/đền và lễ hội) được các nhà nghiên cứu đặc biệt quan tâm.

    1.3.2. Hướng triển khai đề tài

    Trên cơ sở thực tiễn nghiên cứu nói trên, luận án dự định sẽ triển khai các

    hướng nghiên cứu sau:

    Thứ nhất, khảo sát, thống kê và phân loại sự xuất hiện của đá trong truyền

    thuyết dân gian Việt Nam nhằm nghiên cứu một cách tổng quát những lớp nghĩa phổ

    biến của đá. Từ đó, luận án sẽ chỉ ra sự phong phú về nghĩa của biểu tượng đá.

    Thứ hai, nghiên cứu biểu tượng đá nhìn từ cấu trúc trần thuật của dạng truyện

    kể có sử dụng biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian người Việt để mở ra

  • 25

    những lớp nghĩa lớn hơn của biểu tượng.

    Thứ ba, nghiên cứu biểu tượng đá trong truyền thuyết Việt Nam, đặc biệt

    trường hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân trong mối quan hệ với tín

    ngưỡng đá, cũng như các tín ngưỡng, văn hóa khác để có thể khám phá một cách

    đầy đủ lớp tầng ý nghĩa ẩn sâu trong trầm tích văn hóa của biểu tượng đá.

    Thứ tư, dựa vào thực tế điền dã, luận án sẽ phân tích mối quan hệ biện chứng

    giữa biểu tượng đá trong truyền thuyết dân gian và đền/miếu thờ đá qua hai trường

    hợp Thai Dương phu nhân và Kì Thạch phu nhân.

    Tiểu kết chương 1

    Từ việc tổng thuật tình hình nghiên cứu vấn đề biểu tượng và biểu tượng đá

    trong truyền thuyết dân gian Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, mặc dù hướng

    nghiên cứu đá trong truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian từ góc độ biểu tượng

    chưa được khai thác nhiều nhưng đã đưa lại những kết quả bước đầu quan trọng để

    hiểu sâu hơn chiều sâu văn hóa của truyền thuyết và tín ngưỡng dân gian. Đặc biệt,

    các công trình nghiên cứu đá với tư cách biểu tượng trong văn hóa và truyền thuyết

    dân gian Việt Nam đã hỗ trợ tích cực cho chúng tôi trong quá trình xác lập một cách

    rõ ràng vai trò của đá - một biểu tượng giàu lớp nghĩa trong thể loại truyền thuyết.

    Tiếp tục đi sâu bóc tách các lớp nghĩa của biểu tượng đá như những trầm tích văn

    hóa và phân tích cấu trúc nghệ thuật của truyền thuyết dân gian về biểu tượng đá là

    việc làm của các chương tiếp theo của luận án.

  • 26

    CHƯƠNG 2

    BIỂU TƯỢNG ĐÁ VÀ HỆ THỐNG NGHĨA CỦA BIỂU TƯỢNG ĐÁ

    TRONG TRUYỀN THUYẾT DÂN GIAN VIỆT NAM

    2.1. Biểu tượng đá và các lớp nghĩa của biểu tượng đá trong văn hóa thế giới

    và Việt Nam

    2.1.1. Biểu tượng đá và các hướng tiếp cận biểu tượng đá ở Việt Nam

    Sự gắn kết của đá với đời sống của con người không chỉ dừng lại ở điểm kết

    thúc của thời kỳ đồ đá mà còn hiển hiện trong tất cả những hoạt động của con người

    ở thời hiện đại. Không phải đơn giản là những dấu tích còn sót lại, mối quan hệ giữa

    người và đá dường như vẫn đang vận động và liên tục tạo ra những móc xích gắn

    kết mới. Vậy nên, trong văn hóa, đá tồn tại như là biểu tượng với các lớp nghĩa đa

    dạng, phong phú. Trên cơ sở các công trình nghiên cứu chúng tôi đã đề cập đến

    trong chương 1, có thể nhận ra, đối với văn học dân gian, đá cũng đã xuất hiện với

    tư cách của một biểu tượng ẩn chứa nhiều lớp trầm tích văn hóa.

    Trong “Mã và mã văn hóa” (2006) đăng trên tạp chí Văn hóa dân gian,

    Nguyễn Thị Bích Hà phân chia biểu tượng thành hai loại: “Biểu tượng sống là biểu

    tượng được giải mã, phân tích, khám phá các lớp nghĩa bên trong của nó. Sự khám

    phá đó khiến biểu tượng gợi cảm đến bất tận. Biểu tượng chết là khi người ta đã lí

    giải được toàn bộ ý nghĩa của nó, nó trở nên dễ hiểu, được sử dụng theo một số

    nghĩa nhất định nào đó và không được người ta dày công khám phá nữa” [31, tr.23].

    Xét trên sự phân loại này, chúng tôi thiết nghĩ đá thuộc về biểu tượng sống, vì các

    công trình nghiên cứu về đá vẫn chưa dừng lại. Hay nói cách khác, giải mã biểu

    tượng đá trong văn học dân gian là một quá trình chưa có hồi kết.

    Trước tiên, chúng tôi xuất phát từ những dạng thức tồn tại của đá. Dựa trên thống

    kê và phân tích, trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới (2002, NXB Đà Nẵng), Jean

    Chevalier và Alain Gheerbrant đã liệt kê rất nhiều dạng đá có ý nghĩa biểu tượng trong

    văn hóa nhân loại khởi đi từ đá thô và đá đẽo gọt, gồm có: đá hình nón, đá hình lập

    phương/ hình lập phương có chỏm nhọn, đá thạch anh, đá thiên thạch, đá lửa (lưỡi tầm

    sét), đá cầu mưa, đá dựng đứng, đá thủng, và các dạng đá quý, đá ngầm,… Mỗi dạng

  • 27

    đá đều có ý nghĩa, giá trị khác nhau trong văn hóa của từng cộng đồng.

    Đối với Việt Nam, các tác giả nhắc đến hai dạng thức mà chúng tôi đã đề cập

    ở chương 1 (đá dựng đứng và đá chảy máu) và không nêu cụ thể địa phương, cũng

    như thời điểm xảy ra hiện tượng. Tuy nhiên, từ thực tế khảo sát, chúng tôi cho rằng

    riêng trong truyền thuyết dân gian, đá đã xuất hiện với sự phong phú dạng thức.

    Hầu hết truyền thuyết giới thiệu về đá một cách chung chung, không xác định loại/

    dạng đá (vật liệu), cũng không chú ý đến màu sắc cụ thể của đá. Theo chúng tôi, có

    thể xếp đá trong truyền thuyết thành hai loại lớn: đá thô tự nhiên (đá thô tự nhiên

    có/ không có hình dáng cụ thể và đá thô tự nhiên có hình dáng giống con người) và

    đá đã được đẽo gọt.

    Bên cạnh dạng đá thô và đá đẽo gọt, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant cũng

    xếp châu báu, kim cương, ngọc lục bảo, ngọc thạch, ngọc trai,… vào những dạng

    thức khác của đá. Điều này minh chứng cho sự