Upload
phamkhuong
View
219
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
CHƯƠNG IIICÔNG TÁC TƯ TƯỞNGTRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ,CỨU NƯỚC VÀ XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ HỘI (1954 - 1975)
III- ĐỘNG VIÊN QUÂN DÂN CẢ NƯỚC ĐÁNH MỸ, XÂY DỰNG
VÀ BẢO VỆ MIỀN BẮC, HOÀN THÀNH CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG
MIỀN NAM (1965 - 1975)
1. Nêu cao quyết tâm đánh thắng chiến lược "chiến tranh cục bộ" của
Mỹ (1965 - 1968)
Thay thế cho chiến lược "chiến tranh đặc biệt" đã thất bại thảm hại, từ
những tháng đầu năm 1965 đế quốc Mỹ bắt đầu triển khai chiến lược mới, ồ ạt
đưa quân viễn chinh Mỹ và tiến hành “chiến tranh cục bộ" ở miền Nam Việt
Nam, đồng thời tăng cường chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân
đánh phá miền Bắc và mở rộng chiến tranh san Lào. Như vậy, cuộc chiến tranh
xâm lược của Mỹ đã không còn giới hạn ở miền Nam Việt Nam mà đã lan ra
miền Bắc.
"Chiến tranh cục bộ" là nấc thang chiến tranh cao nhất của Mỹ ở miền Nam
Việt Nam. Với hành động leo thang mới của Mỹ, chiến tranh Việt Nam trở
thành cuộc chiến tranh lớn nhất, ác liệt nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ
hai, gây nên tình hình hết sức căng thẳng không chỉ trên bán đảo Đông Dương
mà còn đe doạ nghiêm trọng hòa bình thế giới. Nhân dân tiến bộ, yêu chuộng
hòa bình trên thế giới phản đối hành động xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, ủng hộ
cuộc kháng chiến của nhân dân ta, quan tâm theo dõi diễn biến của cuộc chiến
tranh với sự lo lắng: liệu Việt Nam, một nước nhỏ và nghèo, vừa ra khỏi cuộc
chiến tranh xâm lược của Pháp có đương đầu nổi với Mỹ, một đế quốc có tiềm
lực kinh tế và quân sự mạnh nhất thế giới?
Đứng trước cuộc đụng đầu lịch sử mới, trong tư tưởng của cán bộ, đảng
viên có một số vấn đề được đặt ra: Quân Mỹ vào có làm thay đổi mục đích, tính
chất, hình thức chiến tranh ở miền Nam có làm thay đổi về cơ bản so sánh lực
lượng trên chiến trường, làm cho ta phải trở lại thế phòng ngự đường lối chống
Mỹ, cứu nước của ta liệu có phải thay đổi hoặc điều chỉnh ?...
Trên cơ sở quán triệt trong Đảng và trong nhân dân Nghị quyết Hội nghị lần
thứ 11 cửa Trung ương Đảng tháng 3-1965, công tác tư tưởng đã phân tích rõ
âm mưu và hành động mới của Mỹ, tính chất ác liệt của cuộc chiến tranh sẽ tăng
lên gấp bội, nhưng (quốc Mỹ sẽ không sao đảo lộn được thế chiến lược hiện nay
ở miền Nam. Bởi vì chúng đang ở thế thua, thế bị động về chiến lược và thất bại
về chính trị, bị cô lập cao độ cả trong nước và trên thế giới, trong khi ta đang
trên đà chiến thắng, ở thế chủ động và được nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa
bình trên thế giới đồng tình ủng hộ. Đảng và nhân dân ta quyết tâm đẩy mạnh
cuộc kháng chiến để giành độc lập, thống nhất toàn vẹn cho Tổ quốc. Khẳng
định đường lối và phương châm giành thắng lợi ở miền Nam đã đề ra trong các
nghị quyết trước đây của Đảng, về cơ bản vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, trong
tình hình cả nước có chiến tranh với hình thức và mức độ khác nhau của mỗi
miền, trong cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, "miền
Nam là tiền tuyến lớn và miền Bắc là hậu phương lớn - nhưng hậu phương ấy
cũng đang có chiến tranh hạn chế và đang trực tiếp chiến đấu" nhằm "xây dựng
và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam". Vì vậy Đảng chủ trương chuyển
hướng nền kinh tế miền Bắc sang thời chiến. Trong tình hình mới quân và dân
miền Bắc nêu cao ý chí quyết chiến quyết thắng đế quốc Mỹ và tay sai, sẵn sàng
chiến đấu và công tác bất kỳ nơi đâu khi Đảng cần, sẵn sàng đánh bại bất cứ loại
chiến tranh nào của địch, khắc phục mọi khó khăn, gian khổ, xây dựng tinh thần
tự lực cánh sinh cao, chống chủ quan khinh địch. Giải phóng miền Nam là trách
nhiệm chung của nhân dân cả nước, cả nước đều tham gia đánh giặc, thực hiện
Lời kêu gọi nhân ngày 20- 7- 1965 của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Đồng bào miền
Bắc và đồng bào miền Nam đoàn kết một lòng, kiên quyết chiến đấu; dù phải
chiến đấu 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa, chúng ta cũng kiên quyết
chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn"[38].
Ở miền Nam, Ban Tuyên giáo các cấp giúp cấp ủy tổ chức quán triệt và
thực hiện Nghị quyết 11 của Trung ương Đảng và Nghị quyết của Trung ương
cục về công tác tư tưởng năm 1965 nhằm mục tiêu đưa phong trào đấu tranh
quân sự và chính trị, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nông thôn và
thành thị lên quy mô lớn, đạt hiệu quả cao hơn trước, triển khai nhiệm vụ giáo
dục tư tưởng, ổng động viên chính trị trong toàn Đảng, toàn quân và các đoàn
thể, các tầng lớp nhân dân nhằm nâng cao nhận thức về tính chất, nhiệm vụ của
cuộc đấu tranh cách mạng chống chủ nghĩa thực dân mới, nỗ lực tham gia tiến
công địch, không sợ hy sinh gian khổ, sẵn sàng đối phó với "chiến tranh cục bộ"
của Mỹ, kiên định ý chí sắt đá: "Sẽ hy sinh tất cả thà chết chứ không chịu làm nô
lệ, sẽ chiến đấu đến cùng để bảo vệ Tổ quốc, giành độc lập hoàn toàn... Dù Mỹ
có đưa 5 vạn hay 10 vạn quân, dù trang bị vũ khí gì hay bất cứ chúng đặt chân
lên nơi nào trên lãnh thổ Việt Nam, chúng ta cũng kiên quyết đánh bại chúng,
đánh cho đến khi nào không còn bóng một tên xâm lược trên dải đất thân yêu
của chúng ta"[39].
Tháng 12-1965, Hội nghị lần hứ 12 của Trung ương Đảng (khóa III), sau
khi xem xét và đánh giá toàn bộ tình hình, đã kết luận: Ngày nay, mặc dù đế
quốc Mỹ đưa vào miền Nam hàng chục vạn quân viễn chinh, ực lượng so sánh
giữa ta và địch vốn không thay đổi lớn, tuy cuộc chiến tranh ngày càng trở nên
gay go ác liệt, nhưng nhân dân ta đã có cơ sở chắc chắn để giữ vững và tiếp tục
giành thế chủ động trên chiến trường, có lực lượng và điều kiện để đánh bại âm
mưu trước mắt và lâu dài của địch. Quyết tâm chiến lược của ta là: Động viên
lực lượng của cả nước, kiên quyết đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ trong bất kỳ tình huống nào, để bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền
Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước… Phương
châm chiến lược chung của chúng ta là: "đánh lâu dài, dựa vào sức mình là
chính", trên cơ sở tiếp tục quán triệt và vận dụng phương châm đánh lâu dài,
chúng ta cần cố gắng cao độ, tập trung lực lượng của cả hai miền để tranh thủ
thời cơ giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn trên chiến
trường miền Nam.
Nghị quyết 12 của Trung ương Đảng là sự kết tinh ý chí kiên cường, trí tuệ
và tài năng sáng tạo của Đảng ta, nhân dân ta và dân tộc ta, là ánh sáng soi
đường cho nhân dân cả nước ta tiến lên giành thắng lợi. Các hoạt động tư tưởng
trong những năm 1965 - 1968 đã bám sát Nghị quyết 11, 12 của Trung ương
Đảng và diễn biến của cuộc chiến tranh, làm quán triệt những nhận định của
Đảng, xây dựng ý chí quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược trong bất cử loại
chiến tranh nào, trước mắt là đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ” của Mỹ.
Những năm 1965 - 1968 các mặt công tác tư tưởng và khoa giáo đều phát
triển. Để giúp Trung ương Đảng lãnh đạo cụ thể hơn đối với mỗi mặt công tác,
từ tháng 2-1968, theo Quyết định số 1584 ngày 30-l-1968 của Bộ Chính trị, Ban
Tuyên giáo Trung ương được tách ra thành hai ban: Ban Tuyên huấn Trung
ương và Ban Khoa giáo Trung ương.
a) Động viên quân dân miền Bắc chuyển hướng xây dựng kinh tế sang thời
chiến, vừa sản xuất vừa chiến đấu, đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ
nhất của Mỹ và tích cực chi viện cho miền Nam.
Từ sau ngày 5-8-1964, đế quốc Mỹ ngày càng tăng cường và mở rộng các
hoạt động đánh phá miền Bắc bằng không quân và hải quân. Một vấn đề lớn đặt
ra cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là: Trong điều kiện chiến tranh đang
lan rộng ra cả nước, có thể tiếp tục công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền
Bắc hay phải dừng lại?
Căn cứ các nghị quyết 11, 12 của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng đã
làm rõ chủ trương của Đảng ta là tiếp tục xây dựng miền Bắc thành hậu phương
chiến lược vững mạnh, bảo đẩm cho kháng chiến chống Mỹ thắng lợi. Là căn cứ
địa của cách mạng cả nước, miền Bắc phải được xây dựng thành hậu phương
chiến lược vững mạnh, bảo dảm cho cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân
ta giành được thắng lợi. Trong điều kiện trưc tiếp phải đương đầu với cuộc chiến
tranh phá hoại của Mỹ, miền Bắc phải tiếp tục được xây dựng theo phương
hướng kết hợp chặt chẽ xây dựng kinh tế với củng cố và tăng cường quốc
phòng, kiên quyết bảo vệ miền Bắc, đánh bại chiến tranh phá hoại và phong tỏa
của máy bay, tàu chiến Mỹ, đồng thời ra sức tăng cường lực lượng về mọi mặt
cho miền Nam. Sức mạnh của nhân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ là sức
mạnh tổng hợp của chính chúng ta (cả hậu phương lớn và tiền tuyến lớn), và sức
mạnh của thời đại. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
chính miền Bắc xã hội chủ nghĩa là một trong những nhân tố tranh thủ sự ủng hộ
của các nước xã hội chủ nghĩa và bè bạn quốc tế đối với cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Chỉ có một miền Bắc được xây dựng theo
hướng chủ nghĩa xã hội mới tạo ra sự nhất trí về chính trị và tinh thần của toàn
dân với quyết tâm "Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm
lược". Chỉ có tiếp tục xây dựng miền Bắc mới có thể tạo được sức người, sức
của để chi viện cho chiến trường miền Nam.
Trong điều kiện phải chịu tác động lớn của chiến tranh, miền Bắc không thể
giữ nguyên quy mô, tốc độ và phương hướng xây dựng kinh tế như trong thời
bình, mà phải chuyển huớng xây dựng kinh tế sang thời chiến, làm cho việc xây
dựng và phát triển kinh tế phù hợp với tình hình địch tăng cường chiến tranh phá
hoại miền Bắc, bảo đảm yêu cầu chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ miền Bắc
và chi viện cho miền Nam; đồng thời vẫn phù hợp với phương hướng về lâu dài
của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua lo năm xây dựng trong hòa bình,
miền Bắc đã tạo lập được một số nền tảng bước đầu của công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội, song chúng ta chưa có nhiều khu công nghiệp lớn tập trung,
nền kinh tế chủ yếu vẫn là sản xuất nhỏ, các cơ sở kinh tế phân tán. Mỹ khó có
thể làm tê liệt nền kinh tế dựa trên cơ sở nông nghiệp, cho dù chúng có thể phá
huy các thành phố và khu công nghiệp. Đồng thời với chuyển hướng về xây
dựng kinh tế, đẩy mạnh xây dựng kinh tế địa phương, cần chuyển hướng cả về
tư tưởng và tổ chức và tăng cường lực lượng quốc phòng phù hợp với tình hình
mới.
Kết quả công tác tư tưởng làm quán triệt các Nghị quyết 11, 12 của Trung
ương Đảng đã góp phần khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội của quân và dân ta. Cả miền Bắc chuyển nhanh sang thời chiến. Với bản lĩnh
của một dân tộc đã dày dạn trong đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, nhân
dân miền Bắc bình tĩnh bước vào cuộc chiến đấu mới. Nhiều sáng kiến của các
địa phương, các ngành, các đoàn thể được phát huy. Hàng loạt phong trào cách
mạng được dấy lên, với hào khí của một dân tộc anh hùng, sục sôi khí thế chống
Mỹ. Giai cấp công nhân thực hiện "tay búa tay súng", đồng bào nông dân thực
hiện "tay cày tay súng". Hàng triệu thanh niên tình nguyện "ba sẵn sàng": sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu dũng cảm; sẵn sàng đẩy mạnh sản xuất; sẵn sàng đi
bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì mà Tổ quốc cần. Hàng triệu phụ nữ tình nguyện
"ba đảm đang": đảm đang sản xuất và công tác thay thế cho chồng con đi chiến
đấu; đảm đang việc gia đình cho chồng con, anh em đi tòng quân, phục vụ lâu
dài trong quân đội; đảm đang phục vụ chiến đấu, tham gia dân quân tự vệ, luyện
tập quân sự, sẵn sàng chiến đấu. Giới trí thức có phong trào "ba quyết tâm":
quyết tâm phục vụ sản xuất và chiến đấu; quyết tâm đẩy mạnh cách mạng khoa
học kỹ thuật và cách mạng văn hóa, tư tưởng; quyết tâm xây dựng và phát triển
đội ngũ trí thức xã hội chủ nghĩa. Các lực lượng vũ trang thi đua giành danh
hiệu "đơn vị quyết thắng" và "chiến sĩ quyết thắng". Các cụ phụ lão có phong
trào “bạch đầu quân”, các cháu thiếu nhi thi đua "làm nghìn việc tốt", làm công
tác Trần Quốc Toản.
Với tinh thần "mọi việc ta làm đều nhằm chống Mỹ bởi Chủ tịch Hồ Chí
Minh” trên mặt trận lao động sản xuất và bảo vệ sản xuất, chuyển hướng xây
dựng kinh tế, trong những năm 1965 - 1968 quân dân miền Bắc đã làm cho nền
kinh tế xã hội chủ nghĩa về căn bản được giữ vững, một số ngành còn phát triển
thêm.
Thực hiện Chỉ thị số 104 (tháng 7- 1965) của Ban Bí thư, các hoạt động văn
hoá, văn nghệ phát triển rộng rãi, phong phú, sinh động, góp phần khơi sâu lòng
căm thù đối với bọn xâm lược Mỹ và bè lũ tay sai, cổ vũ tinh thần yêu nước và
yêu chủ nghĩa xã hội, giáo dục chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bồi dưỡng khả
năng sản xuất và chiến đấu của nhân dân, nâng cao sinh hoạt tinh thần của quần
chúng, xây dựng một nền văn hóa xứng đáng với nhân dân ta, phục vụ sự nghiệp
vĩ đại chống Mỹ, cứu nước của dân tộc. Trong chiến tranh, Đảng ta vẫn rất quan
tâm gìn giữ và phát huy văn hoá tốt đẹp của các dân tộc thiểu số, xây dựng và
củng cố sự nhất trí về chính trị và tinh thần của nhân dân các dân tộc, vận động
cải tạo nếp sống cũ, bài trừ mê tín dị đoan, đồi phong bại tục, xây dựng nếp sống
mới và đời sống văn hóa mới phong phú, lành mạnh, văn minh, tiến bộ, đậm đà
bản sắc dân tộc.
Đông đảo văn nghệ sĩ bám sát sản xuất và cuộc sống chiến đấu hào hùng
của dân tộc để sáng tác. Các đội văn công ra tuyến lửa phục vụ đồng bào và
chiến sĩ ngày đêm chiến đấu và phục vụ chiến đấu. Trong các tác phẩm ca ngợi
những sự tích anh hùng của quân và dân ta ở hai miền trong cuộc chiến đấu
chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội đã nổi lên một số tác phẩm
có giá trị về giáo dục tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Số
sách in ra năm 1965 là 22 triệu bản, năm 1968 tăng lên 30 triệu bản. Số đội
chiếu bóng lưu động năm 1968 tăng gấp hơn hai lần năm 1965. Phong trào văn
nghệ quần chúng phát triển mạnh. "Tiếng hát át tiếng bom" là phong trào ca hát
quần chúng thể hiện khí thế hào hùng, nếp sống lạc quan yêu đời của quân và
dân ta trong những năm chiến tranh. Tại Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ 4
(tháng 1-1968), trong thư gửi Đại hội, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã biểu
dương những cố gắng và tiến bộ trên lĩnh vực văn nghệ và của các văn nghệ sĩ
từ Đại hội lần trước đến Đại hội lần này, nêu tình hình và nhiệm vụ chung của
quân và dân cả nước kêu gọi văn nghệ sĩ nước ta hãy mạnh dạn sáng tạo, tiến
công liên tục trên mặt trận tư tưởng và văn hóa phục vụ đắc lực cho công cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và cho cách mạng xã hội chủ nghĩa “hãy xứng
đáng là chiến sĩ anh hùng diệt Mỹ trên mặt trận văn nghệ". Bức thư viết: "Văn
nghệ ta phải có nội dung xã hội chủ nghĩa trong sáng và đậm đà tính chất dân
tộc"... "đối với anh chị em văn nghệ sĩ của ta, chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản phải là mục đích và lý tưởng đẹp đẽ nhất: Tổ quốc, nhân dân và cách mạng
là đối tượng phục vụ cao quý nhất; văn hóa và tư tưởng là chiến trường; tác
phẩm văn học, nghệ thuật là vũ khí sắc bén...
Trung ương Đảng tin rằng văn nghệ xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ chống
Mỹ, cứu nước vẻ vang này sẽ đạt tới những đỉnh cao trong lịch sử văn học và
nghệ thuật nước nhà"[40]. Trong chiến tranh ác liệt, mọi hoạt động tư tưởng
(báo chí, đài phát thanh, thông tấn xã, xuất bản, giáo dục chính trị lý luận, văn
hoá văn nghệ) đều được tăng cường. Mỗi đơn vị đều có phương án đảm bảo hoạt
động trong thời chiến, kể cả trong tình huống ác liệt nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh
và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước rất quan tâm việc chuẩn bị chu đáo,
bảo đảm hoạt động nhanh chóng, liên tục của báo, đài, thông tấn xã trong tình
hình mới. Mạng lưới các phân xã của Việt Nam Thông tấn xã và phóng viên
thường trú của các báo Trung ương ở các địa phương, nhất là vùng tuyến lửa
được hình thành, bảo dảm cho hoạt động thông tin đại chúng luôn luôn đứng ở
mũi nhọn sản xuất và chiến đấu, kịp thời tố cáo tội ác dã man của đế quốc Mỹ
trước dư luận trong nước và trên thế giới, khơi sâu chí căm thù, nêu cao những
tấm gương đơn vị và cá nhân sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi, tiêu biểu cho tinh
thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam. Công tác tư tưởng vừa phát huy những hình thức sinh động, cuốn hút đông
đảo quần chúng, cổ vũ mạnh mẽ phong trào hành động của nhân dân, vừa phát
huy truyền thống công tác vận động quần chúng của Đảng đến với từng nhà,
từng người, trong từng trận đánh và trên mọi lĩnh vực của sản xuất và đời sống.
Đông đảo cán bộ, đảng viên bám ruộng đồng, bám nhà máy, bám trận địa, vận
động và tổ chức quần chúng hăng hái sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu và
xây dựng cuộc sống mới. Qua thử thách trong chiến tranh, miền Bắc thể hiện
tính ưu việt của hậu phương xã hội chủ nghĩa. Một hậu phương trong chiến
tranh ác liệt, đời sống của nhân dân nói chung vẫn ổn định. Một hậu phương chi
viện ngày càng nhiều sức người sức của cho tiền tuyến lớn với tinh thần "thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một người". Một hậu phương đầy tình
nghĩa, các gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có người đi chiến đấu hoặc phục
vụ chiến đấu các hộ cô quả, neo đơn, những người bị tai nạn chiến tranh được tổ
chức đảng, chính quyền, đoàn thể và hợp tác xã chăm nom, giúp đỡ. Một hậu
phương vững vàng, kiên cố, không gây rối loạn, hoang mang, nao núng trước sự
đánh phá ác liệt của kẻ thù. Một hậu phương mà ở đó mọi người thương yêu,
đùm bọc lẫn nhau trong gian khổ, hoạn nạn và thử thách, là niềm tin, niềm thôi
thúc chồng con, anh em họ lớp lớp nối tiếp nhau ra tiền tuyến lớn sát cánh cùng
đồng bào và chiến sĩ miền Nam ngày đêm chiến đấu. Đó là những đóng góp
quan trọng và là kết quả của công tác tư tưởng, đồng thời đó cũng là cơ sở thực
tiễn nhằm nâng cao hiệu quả xã hội của công tác tư tưởng.
Đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ tăng cường quốc phòng chiến đấu bảo vệ
miền Bắc và chi viện cho miền Nam, với cố gắng lớn trong công tác tuyên
truyền giáo dục của Đoàn Thanh niên và các cấp, các ngành, phong trào thanh
niên xung phong tòng quân diễn ra sôi nổi, liên tục. Đi bộ đội, ra chiến trường
trở thành nguyện vọng thiết tha của tuổi trẻ. Anh hùng Lê Mã Lương là một
trong những tấm gương tiêu biểu "nước còn giặc còn đi đánh giặc", "cuộc đời
đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù". 13 vạn cuốn sách về anh được in ra
và phát hành rộng rãi trong thanh niên. Trong 4 năm 1965 - 1968, đã có 888.641
thanh niên nhập ngũ, trong đó có 336.941 người vào Nam chiến đấu. Các hoạt
động tư tưởng đã thường xuyên cổ vũ phong trào bắn máy bay Mỹ bằng những
vũ khí có trong ta. Khẩu hiệu "nhằm thẳng quân thù mà bắn" của anh hùng
Nguyễn Viết Xuân được cổ vũ mạnh mẽ, đã trở thành hành động của hàng vạn
chiến sĩ bộ đội và dân quân tự vệ. Năm 1965 quân dân miền Bắc đã bắn rơi 834
máy bay Mỹ, tiêu diệt và bắt làm tù binh hàng trăm giặc lái Mỹ, làm cho chúng
bị thiệt hại lớn mà vẫn không đạt được một mục tiêu cơ bản của chiến tranh phá
hoại là ngăn chặn chi viện từ Bắc vào Nam.
Các năm 1966, 1967, 1968 Mỹ ngày càng leo thang đánh phá miền Bắc,
hòng "gây áp lực không thương xót"[41] đối với quân dân ta. Chỉ riêng năm
1967 khối lượng bom đạn chúng dội xuống miền Bắc đã gấp 7 lần năm 1965.
Máy bay Mỹ đánh phá dã man cả vào các chợ, bệnh viện, trường học... tàn sát
hàng ngàn phụ nữ, người già, người bệnh và trẻ em. Từ cuối tháng 4-1967 chúng
mở rộng đánh phá liên tục vào Hà Nội, Hải Phòng; tàu chiến Mỹ tăng cường bắn
phá, phong tỏa đường biển. Các hoạt động tư tưởng, trong không khí sôi sục
chiến đấu, đã chiến đấu, đã nêu cao ý chí Việt Nam thể hiện trong Lời kêu gọi
của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 17-7-1966 gửi đồng bào và chiến sĩ cả nước:
"Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân
dân Việt Nam quyết không sợ" Không có gì quý hơn độc lập, tự do. Đến ngày
thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp
hơn"[42]. Bao năm rên xiết dưới ách thống trị của nước ngoài, nhân dân Việt
Nam hiểu rõ nỗi nhục mất nước và giá trị cao quý của độc lập, tự do. Nền độc
lập, tự do mà nhân dân ta giành được là thành quả mồ hôi xương máu của các
thế hệ người Việt Nam trong mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước. Quyết
chiến quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, bảo vệ độc lập, tự do và thống nhất Tổ
quốc là ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta, không gì có thể là
chuyển được.
Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơi dậy mạnh tinh thần yêu nước
của toàn dân vượt qua mọi gian khổ sinh quyết đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn. Mọi mặt sản xuất, xây dựng, chiến đấu được đẩy mạnh. Trên mặt trận bắn
máy bay, tàu chiến Mỹ ngày càng xuất hiện nhiều điển hình cá nhân và đơn vị
đánh giỏi bắn trúng, diệt nhiều máy bay Mỹ, bắn cháy tàu chiến Mỹ.
Giao thông vận tải là mặt trận ngày đêm nóng bỏng. Địch quyết phá để
chặn chi viện của miền bắc cho miền Nam, ta quyết giữ và không ngừng mở
rộng để chi viện ngày càng cao cho tiền tuyến lớn. Thực hiện chủ trương của
Đảng, Chính phủ và của Trung ương Đoàn Thanh niên, các hoạt động tư tưởng
đã góp phần động viên thanh niên tham gia các đội thanh niên xung phong. Chỉ
trong vòng ba tháng, từ tháng 4 đến tháng 7-1965 gần 5 vạn đội viên thanh niên
xung phong lên đường để cùng sát cánh với bộ đội Trường Sơn làm nhiệm vụ
mở đường mới và đảm bảo giao thông vận tải chi viện cho tiền tuyến, vượt qua
bom đạn ác liệt "địch đánh, ta cứ đi". Cuộc chiến đấu trên tuyến đường lửa là
một thiên anh hùng ca. Mỗi đoạn đường Trường Sơn hằng ngày, hằng giờ diễn
ra những sự tích kỳ diệu, sáng chói chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Báo, đài và
nhiều cuốn sách đã liên tục nêu cao ý chí sắt thép của bộ đội Trường Sơn và
thanh niên xung phong "sống anh dũng bám đường, chết kiên cường dũng cảm",
"tim có thể ngừng đập nhưng mạch máu giao thông không thể tắc". Biết bao tấm
gương hy sinh oanh liệt, một trong những tấm gương tiêu biểu là đội nữ thanh
niên xung phong ngã ba Đồng Lộc (Hà Tĩnh)… Để góp phần giữ vững giao
thông vận tải chi viện cho tiền tuyến, đồng bào các tỉnh Liên khu IV không tiếc
sức người, sức của với tinh thần "xe chưa qua, nhà không tiếc". Vai trò to lớn và
hoạt động sáng tạo của nhân dân ta để đảm bảo giao thông vận tải thông suốt, đã
được khái quát thành câu ca:
"Dễ mười lần không dân cũng chịu
Khó trăm lần dân liệu cũng xong"[43].
Đại hội anh hùng, chiến sĩ thi đua chống Mỹ, cứu nước họp ngày 30-12-
1966 đã tuyên dương nhiều đơn vị anh hùng và 111 anh hùng cổ vũ mạnh mẽ
tinh thần yêu nước xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân
dân ta.
Công tác xây dựng Đảng về tư tưởng kịp thời chuyển hướng để đảm bảo
yêu cầu lãnh đạo quân dân ta thực hiện tốt những nhiệm vụ cấp bách của miền
Bắc. Thực hiện Chỉ thị số 88 - CT/TƯ ngày 2- 1- 1965 của Bộ Chính trị, cuộc
vận động chỉnh huấn mùa Xuân năm 1965 được tiến hành trong toàn Đảng
nhằm nâng cao ý chí phấn đấu, nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, bồi dưỡng
phẩm chất đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân, khắc phục những tư
tưởng lệch lạc, những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân. Học tập kết hợp với tự
phê bình và phê bình, quán triệt nhiệm vụ mới, phát huy tính tiên phong của
đảng viên cộng sản, sẵn sàng đứng ở hàng đầu trên trận tuyến cách mạng. Nhân
dịp những ngày kỷ niệm quan trọng (kỷ niệm 35 năm ngày thành lập Đảng, 150
năm ngày sinh Các Mác) đều tiến hành các đợt giáo dục chính trị, tư tưởng trong
Đảng.
Trong 5 năm 1964 - 1968 toàn Đảng đã kết nạp được 486.123 đảng viên,
gấp hơn 2 lần các năm 1961 - 1964. Số đảng viên được kết nạp nhiều nhưng số
được huấn luyện còn ít. Kết quả kiểm tra cuối năm 1965 ở 31 đơn vị, có 50.760
đảng viên dự bị nhưng mới huấn luyện được 25.300 đồng chí, tức là chưa được
một nửa. Việc giáo dục đảng viên còn làm theo từng vụ, từng việc, chưa có
chương trình, kế hoạch giáo dục toàn diện và lâu dài. Một số cấp ủy chưa quan
tâm công tác giáo dục đảng viên, có nơi khoán trắng cho cán bộ tuyên huấn. Ban
Bí thư quyết định tăng cường hơn nữa công tác giáo dục đảng viên. Chủ tịch Hồ
Chí Minh trực tiếp sửa bản dự thảo kế hoạch mở lớp thí điểm giáo dục đảng viên
mới do Ban Tuyên huấn Trung ương soạn. Ban Tuyên huấn Trung ương phôí
hợp với Thành ủy Hà Nội mở 2 lớp thí điểm: một lớp cho đang viên mới ở các
xí nghiệp công nghiệp, một lớp cho đảng viên mới ở nông thôn. Ngày 14-5-
1966 Chủ tịch Hồ Chí Minh đến thăm và nói chuyện với các học viên trong buổi
khai giảng. Giảng viên đều là các đồng chí lãnh đạo của Đảng phụ trách công
tác xây dựng Đảng và các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp... Bác nói với các
đồng chí học viên: "Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do
chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt. Muốn xây dựng chi bộ "bốn
tốt" thì phải bồi dưỡng lập trường vô sản cho đảng viên. Muốn có lập trường vô
sản vững chắc, thì đảng viên phải có ý thức giai cấp, đồng thời phải có lý luận
cách mạng. Không có lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học thì không thể có lập
trường giai cấp vững vàng. Vì vậy, các cô, các chú phải chịu khó học tập..."[44].
Bác căn dặn các đảng viên mới phải học tập nắm vững những hiểu biết cơ bản
về chủ nghĩa cộng sản, về đường lối của Đảng và nhiệm vụ trước mắt của cách
mạng nước ta, về tổ chức cơ sở của Đảng, nhiệm vụ quyền hạn và phương pháp
công tác của người đảng viên. Bác nhắc nhở: các cô, các chú còn phải nắm được
phương pháp công tác cách mạng của Đảng, ví dụ như cách vận động quần
chúng. Không đi theo đường lối quần chúng của Đảng thì sẽ mắc bệnh quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng. Bác chỉ thị: "Từ nay trở đi công tác giáo dục
đảng viên phải là một điều quan trọng trong chương trình công tác của cấp ủy
Phải bồi dưỡng giảng viên lý luận cho chi bộ. Tất cả các đảng viên phải cố gắng
học tập, coi việc học tập lý luận và chính trị là một nhiệm vụ quan trọng của
mình"[45].
Sự quan tâm đặc biệt của Chủ tịch Hồ Chí Minh và những kinh nghiệm rút
ra từ các lớp thí điểm đã tạo chuyển biến mới trong lãnh đạo của các cấp ủy, đưa
công tác giáo dục đảng viên đi vào có chương trình, kế hoạch tiến hành thường
xuyên, các Truởng Đảng huyện được xây dựng, bộ phận huấn học trong các Ban
Tuyên giáo được tăng cường để bảo đảm thực hiện chương trình kế hoạch giáo
dục đảng viên. Là người quan tâm đến công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ nữ,
tháng 3-1967, khi đến thăm lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo cấp huyện, được biết
trong tổng số 288 học viên chỉ có 16 cán bộ nữ, Bác phê bình và mong các đồng
chí lãnh đạo các cấp khắc phục bệnh hẹp hòi, không đánh giá đúng khả năng của
phụ nữ, không quan tâm đúng mức công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ nữ.
Từ năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tặng huy hiệu của Người cho
những người tốt làm việc tốt được báo, đài nêu gương. Tháng 6- 1968 Bác mời
các đồng chí lãnh đạo Ban Tuyên huấn và Bộ Văn hóa để bàn việc xuất bản loại
sách người tốt việc tốt. Bác nói: "Nhìn lại lịch sủ mấy nghìn năm của ông cha ta,
ta cũng thấy điều đó. Cứ mỗi lần có những thử thách lớn thì nhân dân ta lại tỏ rõ
khí phách, nêu cao phẩm chất tốt đẹp của mình. Ngày nay, chúng ta lại đang
đứng trước những thử tháeh rất lớn, truyền thống anh hùng hàng nghìn năm
đang được nhân dân ta phát huy đến độ cao chưa từng thấy. Và đã có những
người làm nên sự tích oanh liệt được Đảng và Nhà nước tuyên dương..."[46].
Nhưng dù sao, số người và tập thể được công nhận là anh hùng, dũng sĩ, chiến sĩ
thi đua, được tặng huân chương, huy chương vẫn chỉ là số ít so với hàng triệu,
hàng chục triệu con người hàngngày góp gió thành bão, đang gánh vác mọi việc
nước, việc nhà để đánh thắng giặc Mỹ và xây dựng chủ nghĩa xã hội… Những
chiến công và thành tích nổi bật, vang dội thì ai cũng có thể nhìn thấy được. Còn
những việc nhỏ, bình thường thôi nhưng ích nước lợi dân thì hay bị xem
thường... Người tốt, việc tốt nhiều lắm, ở đâu cũng có. Ngành giới nào, địa
phương nào, lứa tuổi nào cũng có... Những gương người tốt làm việc tốt muôn
hình muôn vẻ là vật liệu quý để các chú xây dựng con người. Lấy gương tốt
trong quần chúng nhân dân và cán bộ, đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một
phương pháp, lấy quần chúng giáo dục quần chúng cũng rất sinh động và có sức
thuyết phục rất lớn. Đó cũng là cách thực hành đường lối quần chúng trong công
tác giáo dục.
Bác hỏi các đồng chí lãnh đạo tuyên huấn: Lâu nay các chú tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin như thế nào? kết quả ra sao? Các chú có xem
xét công tác giáo dục thanh niên không? Bác nói: Theo Bác, hiểu chủ nghĩa Mác
- Lênin tức là cách mạng phân công cho việc gì, làm Chủ tịch nước hay nấu ăn,
đều phải làm tròn nhiệm vụ. Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau
có tình có nghĩa. Mấy chục năm nay cán bộ, đảng viên và nhân dân ta thực hành
chủ nghĩa Mác - Lênin bằng cách ra sức làm tròn nhiệm vụ cách mạng và sống
với nhau có tình có nghĩa. Lấy gương người tốt, việc tốt có thật trong nhân dân
và cán bộ, đảng viên ta mà giáo dục lẫn nhau đó chính là một cách tuyên truyền,
giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin một cách thiết thực nhất.
Về loại sách Ngủời tốt, việc tốt sắp làm, Bác căn dặn: Không nên tham viết
dài. Nhân dân ta có truyền thống kể chuyện ngắn gọn mà lại có duyên. Các chú
phải học cách kể chuyện của nhân dân. Nên kèm theo nhiều tranh vẽ dễ hiểu và
đẹp, nhưng đừng vì vẽ nhiều mà tính đắt quá. Bác góp ý cụ thể về khuôn khổ
cuốn sách, không nên to quá hoặc nhỏ quá. Ngoài bìa cần có dòng chữ Loại sách
người tốt, việc tốt. Phải bàn tập thể để đặt tên sách và viết lời tựa cho đúng, cho
hay. Có sách rồi lại phải biết tuyên truyền, giới thiệu sách cho nhiều người biết
và đọc. Ở trang đầu mỗi cuốn sách đều phải ghi một câu Hoan nghênh bạn đọc
phê bình. Từ nay trở đi, trên sách hay trên báo, các chú nên luôn luôn có câu đó.
Bác biết các chú văn hay chữ tốt, nhưng dù sao nhân dân trăm tay nghìn mắt vẫn
có nhiều ý kiến thông minh giúp các chú tiến bộ hơn.
Thực hiện lời hứa với Bác, Ban Tuyên huấn Trung ương đã tích cực chỉ đạo
biên soạn và xuất bản, đúng ngày 2-9-1986 kỷ niệm ngày Quốc khánh, các cuốn
đầu tiên của loại sách Người tốt, việc tốt ra mắt bạn đọc. Đến giữa năm 1969 đạt
số lượng xuất bản gồm 9 triệu 80 vạn cuốn, được đông đảo người đọc hoan
nghênh, có tác dụng giáo dục sâu sắc. Mục "người tốt, việc tốt" cũng trở thành
một mục thường xuyên của của báo Đảng, đoàn thể. Nêu gương các điển hình
tiên tiến và những người tốt, việc tốt có tác dụng lớn và trở thành một trong
những phương thức chủ yếu của công tác tuyên truyền giáo dục.
Hoạt động tư tưởng ở các địa phương và cơ sở luôn luôn nảy sinh những cái
hay, những cách làm tốt. Năm 1967, từ kinh nghiệm của phong trào thi đua "Hai
giỏi" ở Quảng Bình và cuộc vận động "Báo công” ở "tỉnh tấn Thái Bình", Ban
Tuyên huấn Trung ương đã nghiên cứu tại chỗ, rút kinh nghiệm và kiến nghị với
Ban Bí thư đưa cuộc vận động "Báo công, lập công" thành nền nếp hàng năm
(Chỉ thị số 153 của Ban Bí thư, tháng 6- 196'7). Đây là một hình thức lấy quần
chúng giáo dục quần chúng, nâng cao tính quần chúng của công tác tư tưởng.
Đây là cách giáo dục lấy xây làm chính, nâng cao con người lên, thấy được công
lao, ưu điểm của họ, phát huy ưu điểm để khắc phục khuyết điểm, phát huy
những cái hay, cái đẹp trong mỗi con người.
Từ khi bước vào cuộc chiến đấu chống Mỹ, cứu nước, công tác tuyên
truyền đối ngoại đã từng bước được tăng cường. Được sự giúp đỡ của anh em
bạn bè trên thế giới, chúng ta đã tích cực tranh thủ các diễn đàn quốc tế (phong
trào không liên kết, Đoàn thanh niên dân chủ thế giới, Liên đoàn phụ nữ quốc tế,
v.v.) và thông qua các hoạt động ngoại giao, nêu cao cuộc đấu tranh chính nghĩa
của nhân dân ta chống đế quốc Mỹ xâm lược, tố cáo tội ác dã man của Mỹ, tranh
thủ được sự đồng tình ủng hộ to lớn của anh em bè bạn và nhân dân tiến bộ trên
thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ. Đài phát thanh Cuba dành cho ta một kênh
tiếng Anh phát 6 buổi một ngày để tuyên truyền vào nhân dân Mỹ. Việc củ các
đoàn ra, đón các đoàn vào, kể cả các đoàn người Mỹ tiến bộ, trong đó có nhiều
nhân sĩ, nhà báo, văn nghệ sĩ có tiếng, ngày càng mở rộng. Được tận mắt chứng
kiến cuộc chiến đấu chính nghĩa, hào hùng của quân dân ta và tội ác dã man của
đế quốc của Mỹ, những người đến Việt Nam đều lên án cuộc "chiến tranh bẩn
thỉu" của Mỹ, khâm phục và đồng tình ủng hộ nhân dân ta. Tòa án Bertrand
Roussel kết tội đế quốc Mỹ, đã gây ảnh hưởng rộng rãi trong dư luận tiến bộ
trên thế giới. Những kết quả đó đã góp phần từng bước hình thành mặt trận
thống nhất ba nước Đông Dương chống Mỹ và mặt trận nhân dân thế giới ủng
hộ Việt Nam, xây dựng hậu phương quốc tế cho cuộc kháng chiến chống Mỹ
của nhân dân ta.
Hội nghị lần thứ 13 của Trung ương Đảng (1- 1- 1967) chủ trương đẩy
mạnh đấu tranh ngoại giao, chủ động tiến công địch, song song với đấu tranh
quân sự và đấu tranh chính trị, phối hợp giữa các mặt đấu tranh đó để giành
thắng lợi to lớn hơn nữa. Quán triệt nghị quyết Trung ương, các hoạt động tư
tưởng đã vạch trần những thủ đoạn "hòa bình" giả hiệu của Mỹ, nêu cao lập
trường bốn điểm của Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà và tuyên bố năm
điểm của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam, trước mắt đòi Mỹ phải chấm
dứt không diều kiện và vĩnh viễn việc ném bom và mọi hành động chiến tranh
khác chống nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
Thắng lợi vang dội của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân
năm 1968 ở miền Nam và thắng lợi chống chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của
Mỹ đối với miền Bắc đã buộc tổng thống Mỹ đêm 3 1-3-1968 phải tuyên bố
ném bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra, chấp nhận đàm phán với ta ở Pari.
Thực hiện chủ trương của Đảng "vừa đánh vừa đàm", quân dân miền Bắc tiếp
tục đánh thắng máy bay và tầu chiến Mỹ từ vĩ tuyến 20 trở vào, tăng cường chi
viện cho miền Nam với khối lượng lớn để đánh thắng "chiến tranh cực bộ" của
Mỹ. Ngày 1- 11- 1968 Tổng thống Mỹ buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn
việc ném bom bắn phá và mọi hành động chiến tranh khác chống Việt Nam dân
chủ cộng hòa, chấp nhận họp Hội nghị Pari để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt
Nam, thừa nhận đại diện chính thức của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam
Việt Nam trong Hội nghị.
Các hoạt động tư tưởng đã nêu cao thắng lợi của ta, sự thất bại không sao
cưỡng lại được của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Vỉệt Nam và
tuyên truyền phổ biến rộng rãi Lời kêu gọi ngày 3-11-1968 của Chủ tịch Hồ Chí
Minh: "Chúng ta đã đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở
miền Bắc. Song đó mới chỉ là thắng lợi bước đầu. Đế quốc Mỹ rất ngoan cố và
xảo quyệt... Vì vậy, nhiệm vụ thiêng liêng của toàn dân ta lúc này là phải nâng
cao tinh thần quyết chiến quyết thắng, quyết tâm giải phóng miền Nam, bảo vệ
miền Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất tổ quốc… Hễ còn một tên xâm lược trên
đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch nó đi"[47].
b) Động viên quân dân miền Nam đánh bại các cuộc phản công chiến lược
của Mỹ, làm phá sản chiến lược "chiến tranh cục bộ" của chúng.
Trong 10 năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 -
1964), đối tượng tác chiến trực tiếp và đấu tranh trực diện về chính trị của quân
và dân ta ở miền Nam chủ yếu là ngụy quân, ngụy quyền được Mỹ chỉ huy,
huấn luyện và tài trợ. Nay trong "chiến tranh cục bộ" quân dân ta ở miền Nam
phải trực tiếp đương đầu với quân viễn chinh Mỹ và quân đội tay sai, với bộ
mày chiến tranh khổng lồ chưa từng có trong lịch sử chiến tranh xâm lược nước
ta.
Chúng ta quyết đánh, nhưng bằng cách nào đê đánh thắng Mỹ vẫn là một
câu hỏi lớn, một vấn đề tư tưởng mà Đảng ta, quân dân ta phẫi giải quyết trong
thự tiễn chiến đấu.
Ngày 8-3- 1965 đơn vị đầu tiên của lữ đoàn số 9 lính thủy đánh bộ Mỹ đổ
bộ lên Đà Nẵng (tỉnh Quảng Đà - khu V). Mở đầu kế hoạch, Mỹ đưa ồ ạt quân
viễn chinh vào miền Nam Việt Nam, triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ".
Lúc đầu, trước đối tượng tác chiến mới, có xã khi quân Mỹ đến càn, du kích
"chạy xà đùa", chưa dám đánh; một số các bà, các chỉ chưa dám đấu tranh chính
trị trực diện với quân Mỹ.
Nghị quyết của Thường vụ tỉnh ủy Quảng Đà khẳng định quyết tâm: "Miền
Nam chưa được giải phóng thì còn đánh, chiến tranh gì cũng đánh, đối tượng
nào cũng đánh, địch đông bao nhiêu cũng đánh, lâu bao nhiêu cũng đánh,…
Chúng ta có nhiệm vụ đánh Mỹ trước tiên bằng "hai chân, ba mũi" để đóng góp
kinh nghiệm cho toàn miền và góp phần đánh bại ý chí xâm lược của đế quốc
Mỹ". Tỉnh ủy gửi thư động viên quân dân toàn tỉnh kiên quyết đánh Mỹ. Ban
Tuyên giáo phối hợp với các ngành, các đoàn thể tiến hành cuộc vận động “Nhà
nhà đón thư Đảng bàn việc chống Mỹ, cứu nước", "Toàn dân hiến kế đánh thắng
giặc Mỹ xâm lược". Huyện Hòa Vang lập vành đai diệt Mỹ"[48]. Khu ủy V lãnh
đạo đánh trận phủ đầu quân Mỹ ở Núi Thành (đêm 26-5- 1965) diệt gọn một đại
đội, thu toàn bộ vũ khí. Tiếp đó là chiến thắng lớn của quân dân ta ở Vạn Tường
(8- 1965), đánh bại trận ra quân rầm rộ, hiệp đồng binh chủng đầu tiên của quân
Mỹ trên một khu vực do chúng lựa chọn...
Công tác tuyên truyền của ta đã nêu rõ chiến thắng Núi Thành, Vạn Tường
chứng tỏ quân dân ta có khả năng đánh bại quân Mỹ mặc dù chúng có ưu thế về
số lượng, hỏa lực và sức cơ động. Tiếp đó, trong thu - đông 1965, quân dân Nam
Bộ và Tây Nguyên liên tiếp đánh thắng các đơn vị có tiếng là thiện chiến của
Mỹ (Sư đoàn kỵ binh không vận số 1, Lữ đoàn 173, Sư đoàn bộ binh số "anh cả
đỏ") như các trận Plây Me (Tây Nguyên), Dất Cuốc, Bàu Bàng, Dầu Tiếng...
(Nam Bộ). Những chiến thắng đó được thông tin nhanh chóng làm nức lòng
quân dân cả nước và là thực tế chứng minh quân dân ta ở miền Nam chẳng
những dám đánh Mỹ mà còn biết đánh thắng các quân, binh chung Mỹ, chẳng
những đánh tiêu hao mà còn có khả năng đánh tiêu diệt từng đơn vị Mỹ, làm chủ
chiến trường. Tháng 1- 1966, bộ đội địa phương và du kích Củ Chi (thuộc quân
khu Sài Gòn - Gia Định) bám trụ địa bàn, bằng cách đánh mưu trí, sáng tạo,
đánh bại cuộc tiến công của Lữ đoàn dù 173 và Sư đoàn "anh cả đỏ" của Mỹ,
diệt hàng ngàn tên; hơn 2.000 lượt quần chúng đấu tranh chính trị trực diện với
quân Mỹ. Tháng 2- 1966 Bộ Tư lệnh quân khu Sài Gòn - Gia Định tổng kết
chiến tranh nhân dân địa phương trên địa bàn huyện Củ Chi rút ra 10 bài học
kinh nghiệm đanh Mỹ:
- Ai cũng đánh được Mỹ.
- Vũ khí gì cũng đánh được Mỹ.
- Nhiều cũng đánh, ít cũng đánh, một người, một tổ cũng đánh và đều đánh
thắng.
- Ở đâu cũng đánh được Mỹ. Đánh ở rừng, ở xóm, ở ấp chiến lược, ở đồng
lầy. Chỉ cần tích cực bám dịch, tìm địch mà đánh là được.
- Đánh cả ở trong xã, ấp chiến đấu và ngoài xã, ấp chiến đấu, chỉ cần nâng
cao quyết tâm tìm Mỹ mà đánh, tìm Mỹ mà diệt.
- Có khả năng đánh thắng các loại binh chủng Mỹ.
- Đánh bằng vũ trang, đánh bằng chính trị, đánh cả bằng binh vận.
Những kinh nghiệm phong phú nói trên của quân và dân ta là cơ sở thực
tiễn để tiến hành công tác tư tưởng có sức thuyết phục cao, từng bước giải quyết
những băn khoăn của đồng bào và chiến sĩ ta trong thời gian đầu trực tiếp chiến
đấu với quân Mỹ. Từ chỗ dám đánh, quân và dân ta đã tiến lên biết cách đánh
thắng Mỹ. Quyết tâm kháng chiến và niềm tin chiến thắng được củng cố vững
chắc hơn. Phong trào "tìm Mỹ mà diệt", thi đua trở thành "dũng sĩ diệt Mỹ" phát
triển rộng khắp. Để tăng cường công tác tuyên truyền giáo dục, năm 1966 khu
ủy V xuất bản báo Cờ giải phóng với danh nghĩa cơ quan của Đảng Nhân dân
Cách mạng miền Nam khu V.
Triển khai chiến lược "chiến tranh cục bộ", cùng với quân. Mỹ và quân chư
hầu ồ ạt kéo vào miền Nam Việt Nam, chiến tranh bằng bom đạn, chiến tranh
bằng thuốc độc hóa học chiến tranh tâm lý, văn hóa được Mỹ - nguỵ tăng cường
đến cực độ. Ở Sài Gòn và các đô thị khác, địch khủng bố và kiểm soát rất gắt
gao, nhưng dưới sự lãnh đạo của đảng bộ và cần cán bộ hoạt động bí mật, phong
trào đấu tranh của nhân dân và các giới báo chí, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh,
sinh viên yêu nước, trên mặt trận tuyên truyền, báo chí, văn hóa diễn ra sôi
động.
"Nội các chiến tranh" mới của Thiệu - Kỳ quyết định đóng cửa các báo ở
Sài Gòn trong một tháng, từ ngày 1-7-1965 là để "chấn chỉnh báo chí". Báo chí
thành phố lập tức họp Đại hội bất thường, các báo đều đăng ở trang nhất trong
khung đen dòng chữ "Chúng tôi cực lực phản đối quyết định đó của tất cả các
báo". Nhân dân Sài Gòn ủng hộ mạnh mẽ các báo. Chính quyền Sài Gòn buộc
phải rút lệnh đóng cửa xuống ba ngày. Trước tình hình cac biểu hiện văn hóa nô
dịch và đồi truỵ phát triển làm nhức nhối mọi người dân yêu nước, dưới sự lãnh
đạo của thành ủy, Đảng ủy văn hóa và Ban Trí vận Sai Gòn tiến hành cuộc vận
động phong trào quần chúng bảo vệ van hóa dâTl tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ
Việt Nam, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt Nam. Tháng 6-1966, 118 văn
nhân, nghệ sĩ, ký giả Sài Gòn ra tuyên bố tố cáo văn hóa đồi truỵ, phản dân tộc.
Lực lượng bảo vệ văn hóa dân tộc ra đời ngày 7-8-1966 với lời kêu gọi: "Phải
cứu lấy văn hóa chúng ta", đã tập hợp được đông đảo trí thức, văn nghệ sĩ, các
nhà hoạt động xã hội thuộc những khuynh hướng chính trị khác nhau. Tờ Tin
văn, cơ quan ngôn luận của Lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc (do Thành ủy
lãnh đạo) có ảnh hưởng lớn trong dư luận, quy tụ được rất đông các cây bút yêu
nước, nhiều người dân thường ở Sài Gòn gom góp tiền bạc để báo Tin văn sống
được và phục vụ phong trào. Cuộc thảo luận trên báo Tin văn về bảo vệ văn hóa
dân tộc (8- 1966), chống văn hóa đồi truỵ và những nguyên nhân trực tiếp, chính
yếu của văn hoá đồi truỵ đã đưa đến chỗ động viên chống chiến tranh xâm lược,
chống sự có mặt của quân đội nước ngoài (Mỹ). Phong trào bảo vệ văn hóa dân
tộc, bảo vệ nhân phẩm phụ nữ Việt Nam, bảo vệ tinh thần thanh thiếu niên Việt
Nam không chỉ lên mạnh ở Sài Gòn mà phát triển nhanh và rộng ra các thành
phố và các tỉnh miền Nam. Lực lượng bảo vệ văn hoá dân tộc còn thành lập Nhà
xuất bản Đồ Chiểu.
Một trong các tác phẩm đầu tiên được in là Mười bài sứ ca (1967) tập hợp
các ca khúc nổi tiếng (Hội nghị Diên Hồng. Ải Chi Iăng, Bạch Đãng Giang, Lên
Đàng...). Những khúc tráng ca này đã góp phần hun đúc tinh thần tự hào dân tộc
vốn tiềm ẩn trong tâm hồn thế hệ trẻ. Mỹ - Thiệu tức tối đóng cửa báo Tin văn
và Nhà xuất bản Đồ Chiểu. Hai phong trào bảo vệ văn hóa dân tộc, bảo vẹ nhân
phẩm phụ nữ Việt Nam tuy bị Mỹ - Thiệu đàn áp, giải tán, nhưng đã ghi lại
những thành tích đấu tranh rất đáng trân trọng của nhân dân miền Nam, các ký
giả, văn nghệ sĩ, trí thức, học sinh, sinh viên yêu nước miền Nam chống Mỹ -
nguỵ trên mặt trận văn hóa[49].
Từ tháng 1 đến tháng 4-1966 Mỹ - Ngụy sử dụng 72 vạn quân cùng nhiều
phương tiện chiến tranh hiện đại mở cuộc phản công chiến lược thứ nhất vào hai
chiến trường trọng điểm: miền Đông Nam Bộ và khu V, nhằm tiêu diệt một bộ
phận quan trọng quân chủ lực của ta, phá căn cứ, kho tàng của ta, giành lại
quyền chủ động chiến trường, mở rộng và củng cố vùng chiếm đóng của chúng.
Nhưng chúng đã bị quân và dân ta ở Đông Nam Bộ và khu V đánh bại. Các hoạt
động tư tưởng đã nêu cao ý nghĩa chiến thắng của quân dân Đông Nam Bộ và
khu V đánh bại ngay từ đầu chiến lược chiến tranh cục bộ của Mỹ, qua chiến
đấu, quân dân ta hiểu biết thêm về khả năng tác chiến và quy luật hoạt động của
quân Mỹ và chư hầu, có thêm kinh nghiệm về cách đánh thắng chúng.
Phát huy thắng lợi đông xuân 1965 - 1966, thực hiện Chỉ thị ngày 26-6-
1966 của Thường vụ Trung ương cục, các đảng bộ ở miền Nam tăng cường
công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng động viên toàn đảng, toàn quân,
toàn dân nỗ lực vượt bậc, quyết chiến, quyết thắng giành thắng lợi to lớn trong
năm 1967. Công tác giáo dục chính trị tư tưởng được đặt thành công tác trọng
tâm hàng đầu, nhằm xây dựng con người quyết chiến quyét thắng giặc Mỹ xâm
lược để cứu nước "phát huy đến đỉnh cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt
Nam. Năm 1967, các đảng bộ địa phương tiến hành ba đợt giáo dục chính trị tư
tưởng: Đợt mùa Xuân sinh hoạt chính trị theo lời chúc năm mới của Chủ tịch Hồ
Chí Minh; đợt mùa Hè học tập nghị quyết của cấp trên, tiến hành chỉnh huấn;
đợt mùa Đông động viên chính trị, quán triệt nhiệm vụ đông xuân 1967 - 1968.
Kết quả của công tác giáo dục chính trị tư tưởng năm 1967 đã nâng cao ý chí
quyết chiến quyết thắng cho đảng viên, cán bộ, chiến sĩ và quần chúng, củng cố
sự vững vàng trong nội bộ đồng thời góp phần tiến công mạnh vào các hoạt
động chiến tranh tâm lý, chiêu hồi, chiêu hàng rất xảo quyệt của địch.
"Vì miền Nam ruột thịt" là ý chí và hành động của quân dân miền Bắc chi
viện hết sức mình cho cách mạng miền Nam. "Tìm Mỹ mà đánh", "tìm ngụy mà
diệt" là ý chí và hành động của quân dân miền Nam chia lửa với miền Bắc, góp
phần bảo vệ miền Bắc. Công tác tuyên truyền đã nêu cao những hoạt động phối
hợp giữa quân dân cả nước: miền Nam gọi, miền Bắc trả lời, miền Bắc gọi, miền
Nam trả lời. Năm 1966 - 1967 hơn 5 vạn bộ đội và hàng vạn tấn vũ khí, phương
tiện chiến tranh được chuyển từ miền Bắc vào miền Nam. Hòa nhịp với phong
trào "thanh niên ba sẵn sàng", "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước" ở miền Bắc,
thanh niên miền Nam đẩy mạnh phong trào "năm xung phong". Các đoàn cán bộ
quân sự và cán bộ các ngành, trong đó có hàng ngàn cán bộ thông tin, báo chí,
văn hóa, giáo dục và nhiều phương tiện công tác tăng cường cho miền Nam. Với
lực lượng ngày càng được tăng cường, quân dân miền Nam đánh mạnh, đánh
hiểm giáng cho địch những đòn đau, và tích cực chuẩn bị mọi mặt, quyết tâm
đánh bại những cố gắng cao nhất của Mỹ trong mùa khô l966-1967
Mùa khô 1966 - 1967, quân và dân ta đã chiến đấu anh dũng bẻ gãy cả ba
cuộc hành quân quy nô lớn: Atơnbơrơ, Xêđaphôn và Gianxơnxiti của hơn 1 triệu
quân Mỹ - ngụy. Phối hợp chiến đấu với quân dân miền Nam, ngày 73-1967
pháo binh miền Bắc bất ngờ bắn phá vào các vị trí địch ở bên kia sông Bến Hải,
mở mặt trận mới, tiến công tuyến phòng ngự đường 9 của địch, làm nức lòng
quân dán cả nưóc và buộc địch phải bị động đối phó.
Gọng kìm "bình định" diễn ra rất phức tạp và quyết liệt. Mỹ - nguỵ liên tục
mở các cuộc càn quét khủng bố nhân dân san ủi làng mạc, phá phách rụộng
vườn, dùng cả máy bay ném bom bắn phá và rải chất độc hóa học làm cho đồng
bào ta ở nhiều nơi lâm vào cảnh tan đàn xe nghé, mất sạch tài sản, sống cảnh
màn trời chiếu đất rất cơ cực. Bằng những hành động dã man đó, chúng hy vọng
tách cán bộ, bộ đội, du kích ra khỏi nhân dân mỗi xóm, ấp để tiêu diệt, song
chúng đã thất bại. Dù địch chà đi xát lại nhiều lần, nhưng lực lượng cách mạng ở
cơ sở, nòng cốt là các đảng viên và tổ chức đảng đã dày dạn trong chiến đấu,
vẫn kiên trì thực hiện "ba bám" tuyên truyền vận động và tổ chức quần chúng
phát triển chiến tranh du kích đánh trả các cuộc càn quét của địch, tiêu hao sinh
lực chúng, diêt bọn "cán bộ bình định", huy động hơn 1 triệu lượt người tham
gia đấu tranh chống địch càn quét khủng bố, bắn pháo, ném bom, rải chất độc
hóa học, bắt lính đôn quân. Phong trào toàn dân làm công tác binh vận phát triển
kế hoạch của Thiệu bắt lính, đưa quân chủ lực lên 70 vạn tên gặp khó khăn, đôn
trên thì hổng dưới; kế hoạch vơ vét l triệu tấn thóc ở đồng bằng sông Cửu Long
cũng thất bại Kết thúc mùa khô năm 1967, Mỹ đánh giá chương trình bình định
và phát triển nông thôn của Việt Nam Cộng hỏa đã thất bại.
Trên cơ sở đánh bại hai cuộc phản công chiến lược của quân Mỹ, cach
mạng miền Nam đã tạo được thế chiến lược mới để tiến lên giành thắng lợi to
lớn hơn. Quân Mỹ ở Nam Việt Nam đã phải lùi dần về chiến lược phòng ngự.
Thương vong ngày càng lớn của quân Mỹ dội về nước, chọc thủng màn bưng bít
của chính quyền Mỹ. Cuộc đấu tranh của nhân dân và thanh niên tiến bộ Mỹ
chống chính sách của chính phủ Mỹ tiến hành chiến tranh âm lược Việt Nam
ngày càng phát triển làm cho nhà cầm quyền Mỹ thêm khó khăn cả ở trong nước
và trên mặt trận ngoại giao, nhất là trong thời điểm sắp chuyển sang năm 1968 là
năm bầu cử Tổng thống mới của Mỹ.
Tháng 6- 1967, căn cứ những diễn biến thực tế trên chiến trường, Hội nghị
Bộ Chính trị nhận định nhưng thắng lợi to lớn, toàn diện mà quân và dân ta
giành được trên cả hai miền Nam, Bắc đã làm thất bại một bước rất cơ bản chiến
lược "chiến tranh cục bộ" của Mỹ, đẩy chúng vào thế lúng túng và bị động cả về
chiến lược lẫn chiến dịch. Về phía ta, thế và lực đang có những tiến bộ, cho
phép ta trên cơ sở phương châm đánh lâu dài, đây mạnh nỗ lực chủ quan đến
mức cao nhất để giành thắng lợi quyết định trong một thời gian tương đối ngắn.
Thực hiện mục tiêu đó, các đảng bộ ở miền Nam dặc biệt coi trọng công tác tư
tưởng trong Đảng quân đội và nhân dân. Tháng 9- 1967 Đại hội anh hùng, chiến
sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ lần thứ hai biểu dương mạnh mẽ thắng lợi to lớn của
quân dân miền Nam chống "chiến tranh cục bộ" của Mỹ. Các hoạt động tuyên
truyên giáo dục đã nêu cao những tấm gương chiến đấu dũng cảm và mưu trí
của các anh hùng dũng sĩ, nhằm tạo một khí thế sục sôi cách mạng hết sức khẩn
trương, thừa thắng xông lên liên tục tiến công, đè bẹp ý chí xâm lược của giặc
Mỹ. Thực hiện hướng dẫn của Trung ương cục, các cấp ủy đảng tiến hành củng
cố các Ban Tuyên ìluấn, tăng cường cán bộ, bồi dưỡng về chính trị, nghiệp vụ và
hướng dẫn công tác để Ban Tuyên huấn các cấp giúp cấp ủy đắc lực hơn trong
lãnh đạo công tác phát động tư tưởng quần chúng. Lúc này công tác phát động
quần chúng là cực kỳ quan trọng vì cách mạng miền Nam đang đứng trước một
giai đoạn lịch sử đặc biệt với quyết tâm chiến lược lớn, cuộc chiến đấu sắp tới sẽ
diễn ra rất quyết liệt và phức tạp.
Trên cơ sở phân tích toàn bộ tình hình ta, địch, tình hình trong nước và trên
thế giới, tháng 1- 1968, Hội nghị lần thứ 14 của Trung ương Đảng quyết định
"chuyển cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân ta ở miền Nam sang một thế
kỷ mới - thời kỳ giành thắng lợi quyết định". Thực hiện Nghị quyết của Trung
ương Đảng, các đảng bộ ở miền Nam, lực lượng vũ trang và chính trị trên khắp
các chiến trường từ vùng núi đến nông thôn đồng bằng và các đô thị khẩn
trương chuẩn bị mọi mặt cho cuộc tổng tiến công và nổi dậy.
Đêm 20-1-1968, chủ lực ta bất ngờ tiến công mãnh 1, tập đoàn cứ điểm Khe
Sanh ở tây Quảng Trị trên Đường Phòng tuyến Mắc Namara của Mỹ nhằm ngăn
chặn chi viện của miền Bắc cho miền Nam bị uy hiếp nghiêm trọng. Giữa lúc
địch đang bị động chống đỡ ở Đường 9 Khe Sanh, đêm 30-1- 1968 (30 tết Mậu
Thân) lực lượng vũ trang ta mở cuộc tiến công và nổi dậy đồng loạt ở 41 thành
phố, thị xã và hàng trăm quận lỵ, thị trấn trên toàn miền Nam, đánh trúng nhiều
sào huyệt và cơ quan đầu não của địch, đặc biệt ở các thành phố lớn như Sài
Gòn, Huế... Về chính trị, chính sách đại đoàn kết dân tộc, chĩa mũi nhọn vào
giặc Mỹ xâm lược và bọn tay sai giành thêm một thắng lợi mới: tại Huế và Sài
Gòn, Liên minh dân tộc, dân chủ và hòa bình được thành lập và sau đó Liên
minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Nam Việt Nam ra đời (20-4-
1968), kêu gọi các tầng lớp nhân dân, trí thức đứng lên chống Mỹ - ngụy. Bị tiến
công bất ngờ, mãnh liệt và rộng khắp. địch hoang mang rối loạn. Quân Mỹ phải
rút chạy khỏi Khe Sanh (Quảng Trị). Nhưng ngay sau đó, chúng nhanh chóng tổ
chức lực lượng phản kích quyết liệt.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân được mở ra đã thu hút sự
quan tâm đặc biệt của nhân dân trong nước và dư luận tiến bộ trên thế giới. Các
hoạt động tư tưởng trong cả nước, nhất là báo chí, đài phát thanh, đã bám sát
diễn biến tình hình, thông tin nhanh chóng chiến thắng lớn của ta, thất bại nặng
nề của địch. Đặc biệt nêu rõ ý nghĩa cuộc tổng tiến công và nổi dậy diễn ra đồng
loạt với quy mô lớn chưa từng có trên toàn miền Nam. Đây là lần đầu tiên quân
ta đánh thẳng vào sào huyệt, hang ổ và các cơ quan đầu não của địch, gây hoang
mang lớn trong đội ngũ của chúng. Cuộc tiến công mạnh mẽ của quân dân ta đã
làm cho kế hoạch chiến tranh và thế bố trí chiến lược của địch bị đảo lộn, Mỹ -
Ngụy càng lún sâu hơn vào thế bị động về chiến lược. Ở miền Nam, Trung ương
cục liên tiếp ra 2 chỉ thị (ngày 1-2 và ngày 27-2- 1968) hướng dẫn công tác
tuyên truyền, cổ vũ mạnh mẽ quan dân miền Nam thừa thắng xốc tới và đẩy
mạnh công tác binh vận. Khuyết điểm của công tác tư tưởng trong đợt này là
chưa làm rõ tổng tiến công và nổi dậy là một giai đoạn quyết liệt, không phải
"làm cái rụp" là xong; không uốn nắn kịp thời tư tưởng chủ quan, đánh giá quá
thấp khả năng phản kích của địch.
Thắng lợi của ta trong cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân đã gây
chấn động lớn trong chính giới và trong nhân dân Mỹ, bóc trần những luận điệu
lừa bịp lâu nay của chính quyền Mỹ đối với nhân dân nước họ, làm bùng lên
phong trào nhân dân Mỹ đòi giới cầm quyền Mỹ xem xét lại chính sách tiến
hành chiến tranh Việt Nam, đòi chấm dứt dính líu của Mỹ trong cuộc chiến
tranh ở Việt Nam. Trước sức ép nặng nề từ nhiều phía, ngày 25-3- 1968 Tổng
thống Mỹ Giônxơn buộc phải quyết định thay đổi chiến lược quân sự ở Việt
Nam, từ "tìm và diệt" lui về "quét và giữ"; tăng cường quân nguỵ để đối phó với
ta, từng bước thực hiện "phi Mỹ hóa chiến tranh", giảm sự dính líu trên bộ của
Mỹ ở Nam Việt Nam, ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra.
Ngày 13-5-1968 Mỹ buộc phải cử đại biểu đến Pari đàm phán với ta, song mặt
khác chúng vẫn tập trung đánh phá vùng khu IV cũ rất ác liệt, đồng thời mở các
cuộc phản kích ở miền Nam, đẩy lực lượng của ta ra xa các đô thị và ráo riết tiến
hành "bình định cấp tốc" nhằm giành giật lại các vùng nông thôn đã mất, hy
vọng bằng biện pháp quân sự, giành được thế mạnh trong đàm phán.
Với tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta, cuộc tiến công và nổi
dậy mùa Xuân 1968 đã đạt thắng lợi ta lớn. Nhưng mặt yếu là phong trào nổi
dậy và công tác binh vận, địch vận còn kém, trước những khó khăn mới, ta
không chuyển kịp để tiếp tục tiến công đợt hai và đợt ba khi yếu tố bất ngờ đã
không còn và lực lượng bị tiêu hao chưa kịp củng cố. Lợi dụng sơ hở của ta do
dồn lực lượng đánh vào đô thị, không củng cố vững chắc vùng đã giành quyền
làm chủ ở nông thôn, những tháng cuối năm 1968 địch dồn sức tiến hành các
chiến dịch bình định giành lại hầu hết những khu vực đã mất trong các đợt chiến
dịch bình định giành lại hầu hết những khu vực đãmats trong các đợt tiến công
và nổi dậy.
Trước những diễn biến mới của tình hình, đã xuất hiện những đánh giá khác
nhau về kết quả tiến công và nổi dậy, nảy sinh tâm hoài nghi bi quan. Căn cứ
vào những nhận định của Trung ương Đảng, công tác tư tưởng đã nêu rõ ý nghĩa
thắng lợi, mà ý nghĩa lớn nhất là một đòn quyết định làm phá sản chiến lược
"chiến tranh cục bộ", bước leo thang cao nhất của Mỹ trong chiến tranh xâm
lược Việt Nam, từ đó làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, tạo nên bước
ngoặt mới của chiến tranh. Thắng lợi to lớn đó bắt nguồn từ sự lãnh đạo của
Đảng và là kết qua của tinh thần chiến đấu dũng cảm của quân và dân ta, sự hy
sinh to lớn của đồng bào và chiến sĩ. Đảng ta đã đánh giá đúng ý nghĩa của
thắng lợi, đồng thời cũng nhận rõ những khuyết điểm trong lãnh đạo, chỉ dạo
của Đảng: "Chủ quan trong việc đánh giá tình hình cho nên dù đề ra yêu cầu
chưa thật sát với tình hình thực tế, ta đã không kịp thời kiểm điểm rút kinh
nghiệm ngay nhằm đánh giá lại tình hình và có chủ trương chuyển hướng kịp
thời; ta chậm thấy những cố gắng mới của địch, những khó khăn lúc đó của ta,
không đánh giá hết âm mưu địch trong kế hoạch bình định nông thôn nhằm
giành lại những vùng đã mất". "Ta cứ đánh mãi trong khi chúng ta đã bị tiêu hao
nặng, mất dân, mất đất nhiều". Sau tết Mậu Thân ta chuyển chậm, chủ trương
tiếp tục các đợt tiến công vào đô thị khi không còn điều kiện là sai lầm về chỉ
đạo chiến lược, để địch gây cho ta nhiều khó khăn, tổn thất" (Nghị quyết 21 của
Trung ương Đảng). Tuy nhiên, "cuộc tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân
(1968) vẫn giữ một vị trí rất to lớn và oanh liệt trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước của nhân dân Việt Nam anh hùng"[50].
2. Động viên quân dân cả nước đánh bại những hành động chiến tranh
mới của Mỹ, đánh cho "Mỹ cút, nguy nhào", giải phóng hoàn toàn miền
Nam (1969-1975)
Ngày 1-1-1969, nhân dịp năm mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư chúc
chiến sĩ và đồng bào ta "năm mới đoàn kết, chiến đấu, thắng lợi". Người khẳng
định: "Chắc chắn giặc Mỹ sẽ hoàn toàn thất bại. Quân và dân ta trong cả nước
thừa thắng xông lên, nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn"[51]. Người kêu gọi quân
và dân ta:
"Vì độc lập, vì tự do,
Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào.
Tiến lên! chiến sĩ, đồng bào,
Bắc - Nam sum họp, Xuân nào vui hơn!"[52].
Các hoạt động tư tưởng liên tục tuyên truyền rộng rãi thư chúc Tết của Chủ
tịch Hồ Chí Minh bằng nhiều hình thức sinh động, soạn thành bài hát phổ cập
rộng rãi trong nhân dân, thanh niên và lực lượng vũ trang... "Đánh cho Mỹ cút,
đánh cho Ngụy nhào" là tiếng kèn xung trận, động viên quân và dân cả nước
quyết tâm chiến đấu vì mục tiêu giải phóng miền Nam.
a) Vạch rõ âm mưu mới của Mỹ, động viên quân và dân miền Nam đánh
thắng chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh "
"Việt Nam hóa chiến tranh" là một chiến lược rất thâm độc của Mỹ nhằm
sử dụng sức mạnh tối đa về quân sự kết hợp với những thủ đoạn chính trị và
ngoại giao xảo quyệt nhằm giành thế mạnh, cô lập và bóp nghẹt cuộc kháng
chiến của nhân dân ta. Buộc phải tuyên bố rút quân Mỹ về nước nhưng Mỹ vẫn
ngoan cố tiến hành chiến tranh để duy trì chế độ thực dân mới ở Nam Việt Nam.
Chúng rút quân nhỏ giọt để tránh ảnh hưởng đột ngột đến tinh thần quân ngụy
và so sánh lực lượng trên chiến trường. Chúng tập trung nỗ lực xây dựng quân
ngụy để thay thế quân Mỹ trong chiến đấu trên bộ ở Nam Việt Nam và là lực
lượng xung kích trên toàn chiến trường Đông Dương. Biện pháp then chốt của
chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" là tiến hành "bình định nông thôn" nhằm
giành dân, kiểm soát đại bộ phận dân chúng, đánh bật lực lượng cách mạng ra
khỏi các thôn ấp, vơ vét người và của, triệt phá cơ sở hạ tầng, triệt nguồn bổ
sung nhân lực và hậu cần tại chỗ của lực lượng cách mạng. Năm 1969 và những
tháng đầu năm 1970 là giai đoạn Mỹ - ngụy triển khai quyết liệt kế hoạch "bình
định nông thôn". Sau tổng tiến công và nổi dậy, các đảng bộ ở miền Nam tiến
hành sinh hoạt chính trị trong Đảng và các lực lượng vũ trang nhằm đánh giá
đúng thắng lợi, giữ vững và nâng cao ý chí chiến đấu khắc phục những tư tưởng.
Ở Nam Bộ Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương cục quyết định tiến hành sinh
hoạt chính trị, giáo dục tư tưởng trong đang theo nội dung "5 xây, 5 chốn":
- Xây dựng nhận thức sâu sắc thấu triệt quyết tâm chiến lược của Đảng,
chống các biểu hiện tư tưởng hoài nghi, bi quan.
- Xây dựng lập trường chính trị kiên định và tinh thần liên tục tiến công
chống hữu khuynh co thủ, ngại ác liệt, sợ hy sinh, chần chừ, thoái lui hoặc nôn
nóng, mất cảnh giác.
- Xây dựng quan điểm quần chúng vững chắc, chống quan liêu, mệnh lệnh,
xa rời quần chúng, thiếu tin ở khả năng của quần chúng, không chăm lo đời sống
quần chúng.
Xây dựng thức tổ chức ky luật cao, chống tự do vô kỷ luật, tùy tiện, hẹp
hòi, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, độc đoán.
Xây dựng tác phong tích cực, khẩn trương, cụ thể, táo bạo, linh hoạt trên cơ
sở giữ vững nguyên tắc, chống tác phong lề mề, luộm thuộm, tản mạn, không
kiểm tra đôn đốc, đánh trống bỏ dùi, đầu voi đuôi chuột.
Trong các đoàn thể quần chúng, sinh hoạt chính trị theo chủ đề "Không có
gì quí hơn độc lập, tự do". Tăng cường các hoạt động chống chiến tranh tâm lý
của địch.
Vượt lên trên những khó khăn, gian khổ, hy sinh, xuân - hè năm 1969 quân
dân khu V và Nam Bộ đã đánh nhiều trận tiêu diệt địch, chống phá càn quét của
địch ở vùng nông thôn; ở đô thị đã nổ ra một số cuộc đấu tranh lớn của công
nhân như cuộc đấu tranh của 30 vạn công nhân vận tải toàn miền Nam. Tháng 6
- 1969 Đại hội đại biểu quân dân miền Nam họp và thành lập Chính phủ cách
mạng lâm thời miền Nam Việt Nam. Đây là một thắng lợi quan trọng về chính
trị và đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh đấu tranh ngoại giao của ta.
Trên chiến trường do ta chậm nhận thấy nhưng cố gắng mới của địch và âm
mưu mới của chúng, không kịp thời chuyển hướng củng cố vùng nông thôn bị
tổn thất nặng, vùng giải phóng ở đồng bằng bị thu hẹp, nhiều nơi mất đất, mất
dân, cán bộ, du kích ở cơ sở phần bị hy sinh, phần bị bật ra vùng giáp ranh,
nhiều tỉnh uỷ, huyện uỷ không còn địa bàn phong trào, bộ đội ta bị tiêu hao chưa
kịp bổ sung phải rút về các vùng rừng núi. Nguồn tiếp tế từ đồng bằng lên rất
khó khăn, ở khu V bộ đội, cán bộ (có một số cán bộ tuyên huấn) nhiều người bị
hy sinh trong khi đi thu gom, vận chuyển lương thực. Đời sống cán bộ, đồng bào
tại các căn cứ và vùng giải phóng hết sức gian khổ, thiếu thốn.
Một số cán bộ, Đảng viên, sau khi chính quyền Mỹ tuyên bố sẽ rút quân Mỹ
về nước, sinh chủ quan, mất cảnh giác, khi địch phản kích mạnh, thì hoang
mang, bối rối, cho rằng “tình hình chung thì sáng, nhưng ngược lại tình hình địa
phương thì tối”. Thiếu tin ở phương châm chiến lược trên cơ sở đánh lâu dài,
phấn đấu giành thắng lợi quyết định trong thời gian tương đối ngắn, có tình
trạng nghe nói “dài” thì ngán, nghe nói “ngắn” thì không tin. Trước những khó
khăn, tổn thất, một bộ phần cán bộ, Đảng viên và lực lượng vũ trang xuất hiện tư
tưởng bi quan, dao động, ngại gian khổ, sợ hy sinh, ngại bám trụ chiến trường,
có một số thoái lui về phía sau, thậm chí ra hàng địch.
Ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời. Nhân dân và các lực lượng
vũ trang ta ở miền Nam, từ nông thôn đến đô thị, từ vùng giải phóng đến các xã,
ấp còn bị địch kìm kẹp, cả những đồng bào, đồng chí còn bị địch giam giữ trong
tù ngục, bằng nhiều hình thức tỏ lòng tiếc thương vô hạn và ghi nhớ công ơn
Người, vị lãnh tụ thiên tài của Đảng và nhân dân ta. ở Sài Gòn, nhiều tờ báo viết
bài và đăng hình Chủ tịch Hồ Chí Minh rất trang trọng. Các đảng bộ tổ chức lễ
tang Bác và tiến hành công tác giáo dục tư tưởng, giữ vững niềm tin tất thắng
vào sự lãnh đạo của Đảng, đoàn kết xung quanh Ban Chấp hành Trung ương
đảng, biến đau thương thành sức mạnh thực hiện các nghị quyết của Đảng, kiên
quyết đánh bại âm mưu mới của địch, chống các luận điệu chiến tranh tâm lý
của chúng.
Mùa thu năm 1969, Bộ Chính trị chỉ đạo các chiến trường "chuyển hướng
hành động nhằm đánh mạnh vào kế hoạch bình định của địch". Sự chuyển
hướng trong chỉ đạo của Bộ Chính trị phù hợp với yêu cầu bức xúc của tình
hình, đã tác động tích cực đến tư tưởng chỉ đạo của các cấp. Hội nghị lần thứ
chín của Trung ương Cục miền Nam (tháng 7-1969) xác định nhiệm vụ quan
trọng nhất của mặt trận nông thôn là phải: "giành dân, giành dất, phát triển thế
và lực của ta"… Hội nghị Thường vụ khu ủy khu V (tháng 9-1969) cũng xác
định "nhiệm vụ chống bình định, giành dân, giữ dân” nhiệm vụ trọng tâm của
đảng bộ". Một số đơn vị chủ lực dư điều về phối hợp với địa phương đánh địch
tạo điều kiện cho cán bộ cơ sở bám trụ địa bàn, xây dựng lại cơ sở cách mạng,
phát động chiến tranh du kích, tạo thế đứng xen kẽ với địch. Công tác tư tưởng
đã góp phần làm thấu suốt chủ trương của Đảng, biểu dương những gương tốt
bám trụ địa bàn, phổ biến kinh nghiệm phá bình định có kết quả. Các tỉnh khu V
phát động cán bộ, đảng viên "kiên trì bám trụ, diệt kẹp, giành dân, giữ vững
quyền làm chủ ở nông thôn". Các tỉnh Nam Bộ thực hiện "ba bám", lấy xã ấp
làm địa bàn chính, đánh địch bằng ba mũi giáp công, phá kế hoạch bình định của
địch.
Chủ trương đúng của lãnh đạo tác động tích cực đến tư tưởng cán bộ, đảng
viên ở cơ sở. Tuy bị hy sinh, tổn thất không nhỏ nhưng các cán bộ, đảng viên bị
bật khỏi địa phương đã dần dần trở lại bám trụ, đấu tranh quyết liệt giành đất,
giành dân với địch.
Tháng 1- 1970 Trung ương Đảng họp hội nghị lần thứ 18, điểm lại tình hình
từ tết Mậu Thân, đề ra phương hướng, giải pháp đưa cuộc kháng chiến tiến lên.
Triển khai nghị quyết Trung ương, công tác tư tưởng đã chú trọng làm rõ những
ưu điểm và khuyết điểm trong chỉ đạo thời gian qua, và những bài học kinh
nghiệm về vận dụng đường lối chiến tranh của Đảng, nhất là bài học phải nắm
vững quy luật giành thắng lợi từng bước mới tiến lên giành thắng lợi quyết định;
phải xác định đúng phương hướng tiến công chính; kết hợp tiêu diệt địch với
giành dân; coi trọng công tác hậu cần tại chỗ... Nghị quyết 18 đánh dấu bước
chuyển quan trọng về chỉ đạo chiến tranh trong tình hình địch thay đổi chiến
lược. Thông qua các hoạt động tư tưởng, nghị quyết Trung ương được truyền
xuống các cấp tạo ra một không khí mới, củng cố sự nhất trí về nhận định tình
hình và nhiệm vụ, nâng cao niềm tin và tinh thần tiến công, khắc phục tư tưởng
hữu khuynh và các hiện tượng tiêu cực.
Đúng như dự đoán của Đảng ta, tháng 4-1970 và những tháng đầu năm
1971, Mỹ mở rộng chiến tranh sang Campuchia và Lào nhằm chặt đứt hành lang
tiếp vận của ta từ Bắc vào Nam qua Trung và Hạ Lào; đánh bật lực lượng ta ra
khỏi bàn đạp chiến lược Campuchia cô lập cách mạng miền Nam, duy trì chủ
nghĩa thực dân mới của Mỹ ở cả ba nước trên bán đảo Đông Dương.
Căn cứ các nghị quyết của Đảng công tác tư tưởng đã giải thích rõ trong
Đảng, trong nhân dân và các lực lượng vũ trang về quan điểm Đông Dương là
một chiến trường, chỉ rõ âm mưu mới của Mỹ, giáo dục nâng cao tinh thần quốc
tế vô sản, sát cánh với nhân dân Lào và Campuchia chống đế quốc chi phối toàn
bộ cục diện chiến trường Đông Dương, quân dân miền Nam phải đánh bại kế
hoạch bình định của địch và chiến lược “Việt Nam hoá chiến tranh” của Mỹ,
miền Bắc phải cố gắng gấp bội, làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn của miền
Nam và cách mạng Lào, Campuchia. Các lực lượng vũ trang của ta nêu cao tinh
thần quốc tế trong sáng đã phối hợp với lực lượng cách mạng Lào và Campuchia
đập tan các cuộc tiến công của Mỹ, giúp bạn tăng cường lực lượng và mở rộng
vùng giải phóng.
Nhân lúc địch phải phân tán lực lượng do mở rộng chiến tranh san Lào
Campuchia, quân và dân ta ở miền Nam tận dụng cơ hội đẩy mạnh các hoạt
động quân sự hỗ trợ cho phát triển chiến tranh du kích và nổi dậy của quần
chúng phá kế hoạch "bình định đặc biệt" của địch ở nhiều vùng nông thôn. Các
khu căn cứ từng bước được củng cố và bảo vệ phong trào quần chúng ở nông
thôn và cơ sở cách mạng ở các đô thị dần dần được khôi phục. Báo chí tiến bộ
thường xuyên bị Mỹ ngụy đàn áp, nhưng những người làm báo yêu nước không
hề khiếp sợ. Ở Sài Gòn tờ Sinh viên chỉ trích Mỹ - Thiệu rất gay gắt cảnh sát
thường thu gom để đốt, sinh viên đối phó bằng cách chia nhau đi bán. Năm 1970
báo chí Sài Gòn đủ mọi xu hướng, đấu tranh chống thuế kiệm ước, chống tăng
giá giấy. Ngày 17-2-1970 tại Trung tâm báo chí của ngụy quyền, mộ số ký giả
cạo đầu biểu thị ý chí kiên quyết đấu tranh. Ngày 2-3- 1970 các báo nhất loạt
đình bản ba ngày. Cuộc đấu tranh của giới báo chí được các giới đồng bào ủng
hộ, tổ chức mít tinh, hội tháo biểu tình rầm rộ đòi dân chủ, đòi hòa bình, thống
nhất.
Về công tác xây dựng Đảng, các mặt công tác củng cố chi bộ, giáo dục, bồi
dưỡng đảng viên và phát triển đảng được chú trọng chỉ đạo. Qua đấu tranh quyết
liệt chống kế hoạch bình định của địch, ở nhiều cơ sở phần lớn đảng viên có
kinh nghiệm công tác xây dựng Đảng và lãnh đạo quần chúng đấu tranh đã bị hy
sinh, lớp trẻ có nhiệt tình cao, hăng hái, năng nổ nhưng ít hiểu biết về chính trị,
về công tác đảng, công tác vận động quần chúng. Chưa nắm vững phương châm
chiến lược của Đảng, lúc phong trào lên thì nôn nóng muốn làm nhanh, khi cuộc
chiến kéo dài lại lo không biết kéo dài đến bao giờ. Công tác giáo dục, bồi
dưỡng đạo đức và tác phong cách mạng chưa được coi trọng đúng mức. Trước
yêu cầu bức xúc của phong trào ở cơ sở, những tháng cuối năm 1971 Ban Tuyên
giáo các cấp giúp cấp ủy tổ chức thực hiện quyết định tháng 8- 197 l của Trung
ương cục mở đợt bồi dưỡng nâng cao nhận thức, tư tưởng cho đảng viên và cán
bộ cơ sở, đặc biệt là đối với các đồng chí chi bộ mật, iúp cho nh chị em nhận
thức đúng phương châm chiến lược của Đảng, kiên định lập trường và ý chí
chiến đấu; có hiểu biết cần thiết về lý tưởng cộng sản, mục tiêu và lý tưởng của
Đảng, lập trường của giai cấp công nhân và quan điểm quần chúng của Đảng.
Nội dung đó được thể hiện trong ba bài: Tình hình và nhiệm vụ hiện nay; Công
tác chi bộ; Công tác vận động quần chúng (bao gồm "5 bước công tác").
Thắng lợi có ý nghĩa chiến lược của cách mạng ba nước Đông Dương và
thắng lợi đẩy lùi kế hoạch bình định của địch, giành lại quyền làm chủ ở nhiều
vùng nông thên miền Nam đã tác động lớn đến quân dân cả nước ta. Công tác tư
tưởng đã kịp thời phát huy thắng lợi, cổ vũ nâng cao thêm niềm tin và ý chí
chiến đấu, đẩy lui các hiện tượng hữu khuynh, tiêu cực đã phát sinh trong hoàn
cảnh đặc biệt khó khăn những năm 1969 - 1970, động viên quân dân cả nước
khẩn trương tạo thế và lực, chuẩn bị cho cuộc tiến công mới, giành thắng lợi
quyết định trong năm 1972 (nghị quyết tháng 5- 1971 của Bộ Chính trị).
Đầu năm 1972, Hội nghị lần thứ 20 của Trung ương đảng quyết định động
viên toàn lực, cố gắng vượt bậc, anh dũng tiến lên, đẩy mạnh cuộc kháng chiến,
đoàn kết với quân với dân Lào và Campuchia anh em, đánh bại chính sách “Việt
Nam hóa chiến tranh” của Mỹ. Thực hiện chủ trương của Đảng, ngày 30-3-1972
cuộc tiến công chiến lược mở đầu quyết liệt trên cả ba hướng chiến lược: Trị
Thiên, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ và thắng lợi lớn ỏ Quảng Trị, An Ninh, An
Lộc. Các hoạt động tư tưởng đã kịp thời tuyên truyền chiến thắng và phổ biến
rộng rãi thư của Trung ương Đảng gửi đồng bào và chiến sĩ trên các mặt trận, cổ
vũ quân dân cả nước thực hiện Di chúc thiêng liêng của Chủ tịch Chí Minh,
quyết tâm chiến đấu giành thắng lợi lớn nhất công cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước. Quảng Trị tỉnh đầu tiên được giải phóng. Mỹ-ngụy phản ứng quyết
liệt trên khắp các chiến trường, đặc biệt ở mặt trận Quảng Trị. Các hoạt động tư
tưởng đã nêu cao gương chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của quân dân ta trên
mặt trận Quảng Trị, một bản anh hùng ca của quân dân Việt Nam anh hùng.
Vượt lên mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, quân dân cả nước ta vững vàng
xốc tới. Các hoạt động tư tưởng đã lên án mạnh mẽ và tố cáo trước dư luận thế
giới và nhân dân Mỹ những thủ đoạn tàn bạo của Níchxơn, vạch rõ đây là những
phản ứng trong thế thua, thế đi xuống của Mỹ trên chiến trường Nam Việt Nam.
Trước những thử thách mới rất quyết liệt công tác tư tưởng đã nêu cao chủ nghĩa
anh hùng cách mạng, ý chí chiến đấu 'Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "Kẻ
thù nào cũng đánh thắng”, đã theo sát diễn biến trên chiến trường cả nước, thông
tin kịp thời những chiến thắng của ta trên cả ba vùng chiến lược, ba mũi giáp
công, ba mặt trận (quân sự, chính trị, ngoại giao), lấy thắng lợi của môi miền cổ
vũ lẫn nhau chiến đấu hiệp đồng, quyết giành thắng lợi lớn nhất trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước như Trung ương Đảng đã kêu gọi.
Kết quả cuộc tiến công chiến lược của quân dân ta năm 1972 trên chiến
trường miền Nam đã tiêu diệt và làm tan rã một khối lượng sinh lực rất lớn của
địch khoảng trên 30 vạn tên, vùng giải phóng được mở rộng và kéo dài từ tây
Trị - Thiên qua Tây Nguyên, vùng giáp ranh và một phần đồng bằng khu V đến
miền Đông Nam Bộ. Các đơn vị chủ lực của ta đã đứng vững cả ở vùng núi và
các vùng đồng bằng khu V và Nam Bộ. Thắng lợi to lớn dó đã làm chuyển biến
căn bản cục diện chiến tranh, góp phần quyết định buộc đế quốc Mỹ phải ký
Hiệp định Pari rút hết quân Mỹ ra khỏi miền Nam Việt Nam, tạo bước ngoặt về
so sánh thế và lực có lợi cho cách mạng nước ta.
b. Động viên quân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, tăng
cường chi viện tiền tuyến, đánh thắng oanh liệt cuộc chiến tranh phá hoại lần
thứ hai của Mỹ
Quân và dân miền Bắc bắt tay vào thực hiện các nhiệm vụ năm 1969 đã đề
ra trong Ngụy bị quy (từ tháng 10-1968 của Bộ Chính trị trong không khí phấn
khởi trước thắng lợi của cả nước buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh. Niềm
tin và quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ được củng cố. Trước những thử thách nặng
nề trong bốn năm chống chiến tranh phân hoại, miền Bắc vẫn được bảo vệ và
tiếp tục tiến lên trên con đường xã hội chủ nghĩa, bảo đảm đời sống nhân dân và
nhiệm vụ chi viện tiền tuyến, các tổ chíc đảng và đội ngã đảng viên được rèn
luyện nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu. Công tác giáo dục chính trị
cơ bản cho đảng viên chủ yếu là đảng viên mới, trong các năm 1966 - 1968 đã
góp phần quan trọng xây dựng và củng cố Đảng từ cơ sở. Trong điều kiện sản
xuất và chiến đấu khẩn trương, 22 vạn đảng viên mới đã dự các lớp huấn luyện,
hiểu rõ hơn đường chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng
xác định rõ hơn vai trò và trách nhiệm của đảng viên, nâng cao niềm tin vào
Đảng và sự nghiệp cách mạng. Với những mức độ khác nhau, đa số các đồng chí
sau học tập có tiến. Biết phát huy vai trò tiên phong, ý thức trách nhiệm và tính
cơ động trong sản xuất, chiến đấu và công tác ở cơ sở. Những tiến bộ đó thể
hiện rõ nhất ở những vùng chiến đấu ác liệt. Tổng kết năm 1967 Đảng bộ Quảng
Bình đạt 99,8% đảng viên, và đảng bộ Vĩnh Linh 100% đảng viên là chiến sĩ
“hai giỏi” (sản xuất giỏi, chiến đấu giỏi). Bên cạnh mặt cơ bản vẫn tồn tại một
bộ phận đảng viên yếu kém cả về phẩm chất chính trị và đạo đức cách mạng.
Một số có tâm trạng kém phấn chấn do không đánh giá đúng những thắng lợi đã
giành được, bi quan trước những khó khăn trong sản xuất và đời sống, những
khuyết điểm trong chỉ đạo và quản lý kinh tế, quản lý nhả nước.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ năm 1969, trong 6 tháng đầu năm, toàn
Đang đã tiến hành hai đợt giáo dục: Nghiên cứu bài "Nâng cao đạo đức cách
mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết nhân kỷ niệm
lần thứ 39 ngày thành lập Đảng; và sinh hoạt chính trị về tình hình và nhiệm vụ
nhân kỷ niệm lần thứ 79 ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Qua hai đợt sinh hoạt
chính trị, tư tưởng, các tổ chức đảng và đảng viên đã nhận thức đúng đắn hơn về
tình hình và nhiệm vụ, tích cực lãnh đạo khôi phục sản xuất, khắc phục những
khuyết điểm trong quản lý kinh tế, quản lý nhà nước và buông lơi công tác giáo
dục đảng viên về phẩm chất đạo đức cách mạng.
Trong lễ quốc tang Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hoạt động tư tưởng đã phổ
biến sâu rộng Lời kêu gọi của Trung ương đảng và bài Điếu văn do Tổng bí thư
Lê Duẩn đọc, đời đời ghi nhớ cống hiến vĩ đại của Người đối với sự nghiệp cách
mạng của Đảng, giai cấp và dân tộc, nguyện ra sức phấn đấu thực hiện những lời
Người căn dặn trước lúc đi xa. Phản ánh kịp thời những hoạt động của đồng bào
ở mọi miền đất nước và kiều bào ở nước ngoài trong dịp lễ tang, tình cảm quý
báu của các Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới, các nước anh em và bạn
bè quốc tế chia sẻ nỗi đau thương của Đảng và nhân dân ta trước tổn thất lớn lao
này.
Cuối năm 1969 và đầu năm 1970 toàn đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành
đợt sinh hoạt chính trị "học tập và làm theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh”,
gắn với tích cực triển khai các cuộc vận động lớn: cuộc vận động lao động sản
xuất, cuộc vận động phát huy dân chủ, tăng cường chế độ làm chủ tập thể của
quần chúng xã viên ở nông thôn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp phát triển toàn
diện, mạnh mẽ và vững chắc, cuộc vận động nâng cao chất lượng đảng viên và
kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh (19-5-1970 - 19-5-1971). Trong cuộc vận
động lao động sản xuất, các hoạt động tư tưởng hướng vào trọng tâm là phát
triển nông nghiệp, cổ vũ mạnh mẽ phong trào các hợp tác xã nông nghiệp thi
đua cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, thực hiện điều lệ mới, đẩy mạnh sản xuất,
phấn đấu đạt và vượt mục tiêu "5 tấn thóc/ha, 2 con lợn/ha gieo trồng". Năm
1970 sản lượng lương thực đạt gần 5,3 triệu tấn, tăng 500.000 tấn so với năm
1969 tỉnh Thái Bình, ngoại thành Hà Nội và 30 huyện đạt và vượt mục tiêu 5 tấn
thóc/ha. Tồn tại chủ yếu là công tác quản lý hợp tác xã và phát huy quyền làm
chủ tập thể của xã viên còn yếu. Một số hợp tác xã tư tưởng xã viên không ổn
định vì sản xuất tụt lùi, thu nhập giảm sút, quyền làm chủ của xã viên bị vi
phạm, nảy sinh nhiều hiện tượng tiêu cực.
Góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng Đảng, công tác giáo dục, bồi dưỡng
nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên được đẩy mạnh. Nhân
dịp kỷ niệm lần thứ 40 ngày thành lập Đảng, theo quyết định của Bộ Chính trị
đồng chí Tổng bí thư Lê Duẩn viết cuốn Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng, vì độc
lập tự do, vì chủ nghĩa xã hội, tiến lên giành những thắng lợi mới. Đây là một
tác phẩm lý luận tổng kết những kinh nghiệm lớn của Đảng ta trong lãnh đạo
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa và công tác
xây dựng Đảng để vận dụng và phát huy, đẩy mạnh sự nghiệp chống Mỹ, cứu
nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đợt nghiên cứu tác phẩm Dưới lá cờ vẻ
vang. . . được tổ chức trong toàn Đảng đã nâng cao thêm nhận thức và niềm tin
vào đường lối của Đảng, giúp cho cán bộ, đảng viên vận dụng vào giải quyết
những vấn đề đang đặt ra trong thực tiễn sản xuất và chiến dấu.
Tiếp theo đợt giáo dục chính trị cơ bản cho đảng viên, hai năm 1969 - 1970
hệ thống trường Đảng đã bồi dưỡng cho trên 5.000 cán bộ lãnh đạo cấp huyện
và các ngành xung quanh tỉnh, 10.448 cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp xã về đường
lối chống Mỹ, cứu nước, đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa, phương hướng
nhiệm vụ phát triển kinh tế (chủ yếu là nông nghiệp) và công tác xây dựng
Đảng. Nhiều lớp bồi dưỡng đối tượng kết nạp Đảng đã được mở, phục vụ cuộc
vận động nâng cao chất lượng Đảng viên và kết nạp đảng viên lớp Hồ Chí Minh
(trong cuộc vận động này toàn Đảng đã kết nạp 39.644 đảng viên mới).
Tuy công tác giáo dục, bồi dưỡng nâng cao tư tưởng và năng lực công tác
cho cán bộ, đảng viên đã có một số cố gắng, song nhìn chung chưa đáp ứng
được yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và sự phát triển của phong trào cách mạng.
Tháng 12-1970 Ban Tuyên huấn Trung ương xây dựng đề án, trình Ban Bí thư
Trung ương Đảng ra Nghị quyết số 210 về công tác chính trị và tư tưởng. Nghị
quyết xác định nhiệm vụ của công tác giáo dục lý luận chính trị và tư tưởng là:
"Nâng cao một bước quan trọng phẩm chất cách mạng, trình độ chính trị, năng
lực vận dụng lý luận Mác - Lênin và đường lối chính sách của Đảng vào thực
tiễn công tác, năng lực tổ chức và quản lý kinh tế cho cán bộ, đảng viên trước
hết là cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành". Nội dung giáo dục lý luận chính trị
và tư tưởng bao gồm những nguyên lý của chủ nghĩa Mác Lênin và đường ối
chính sách của Đảng. những hiểu biết cần thiết về đất nước và lịch sử Việt Nam,
về thế giới hlện đại, những quan điểm của Đảng về các mặt công tác, nhất là về
kinh tế, công tác Đảng và lịch sử Đảng ta. Để thực hiện nhiệm vụ đó, cần nâng
cao chất lượng công tác giáo dục lý luận cơ bản trong các trường Đảng và các
trường lớp tại chức; xây dựng chế độ báo cáo thời sự chính sách; làm cho việc
đọc sách báo của Đảng thành một thói quen một, nhu cầu hàng ngày trong nếp
sống của cán bộ đảng viên; nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ và các cuộc hội
nghị cán bộ các cấp; quy định chế độ cán bộ các cấp hàng năm có thời gian tham
gia công tác thực tế ở các cơ sở sản xuất, chú trọng những điển hình tiên tiến và
cả những cơ sở còn yếu kém. Nghị quyết 210 mở ra bước phát triên mới của
công tác giáo dục chính trị và tư tưởng đối với cán bộ, đảng viên. Các trường
đảng tỉnh, thành phố được kiện toàn, trường Đảng huyện được xây dựng, lực
lượng báo giáo viên thời sự, chính sách và lực lượng giảng viên lý luận được
tăng cường, đầu tư cho công tác giáo dục, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tăng hơn
trước. Tháng 6-1973 Nhà xuất bản sách giáo khoa Mác - Lênin trực thuộc Ban
Tuyên huấn Trung ương được thành lập để phục vụ phong trào học tập lý luận
chính trị.
Chất lượng và hiệu quả công tác tư tưởng phụ thuộc một phần quan trọng
vào chất lượng đội ngũ cán bộ tuyên huấn. Năm 1969 Ban Tuyên huấn Trung
ương tiến hành khảo sát thực trạng đội ngũ cán bộ của ngành, xây dựng kế
hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ toàn ngành các năm 1969 - 1975. Kết quả khảo
sát cho thấy nhìn chung cán bộ tuyên huấn các cấp có phẩm chất chính trị tốt,
nhiệt tình công tác, chịu khó học tập đường lối chính sách của Đảng, có ý thức
tự rèn luyện để nâng cao năng lực nghiệp vụ. Tổng số cán bộ toàn ngành từ
Trung ương đến huyện lúc đó là 6.760 (2.618 cản bộ làm báo, 1509 cán bộ huấn
học, 1.280 cán bộ tuyên truyền, 350 cán bộ xuất bản…) so với biên chế thì thiếu
3.760, chủ yếu là cán bộ giảng dạy lý luận chính trị và cán bộ báo chí, xuất bản.
Phần lớn cán bộ tuyên huấn các địa phương chưa được học tập lý luận cơ bản có
hệ thống, trình độ văn hóa và kiến thức về các mặt còn hạn chế nhiều, về văn
hóa phần lớn mới tốt nghiệp cấp III. Công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa có quy
hoạch và không theo kịp nhu cầu. Sơ kết 10 năm 1959 - 1969 Trường Tuyên
huấn Trung ương mở được 6 lớp đào tạo gồm 1.173 cán bộ (báo chí 584; giảng
viên lý luận chính trị tuyên truyền 238), 35 lớp bồi dưỡng gồm 3.955 học viên.
Đây là một cố gắng không nhỏ song còn xa so với nhu cầu. Phương hướng, mục
tiêu đề ra là từng bước phấn đấu đến năm 1975 đào tạo bổ sung cho tuyên huấn
các tỉnh, thành phố đủ biên chế cán bộ cả bốn bộ môn (tuyên truyền, huấn học,
báo chí, xuất bản) mỗi huyện có năm cán bộ đã qua đào tạo nghiệp vụ: một phó
trưởng ban, một huấn học, hai giảng viên trường đảng, một cán bộ tuyên truyền.
Bước đầu đề ra nhứng tiêu chuẩn chung của cán bộ tuyên huấn là:
- Có phẩm chất chính trị tốt, đã được học tập lý luận cơ bản, nắm vững có
căn cử khoa học đường lối, chính sách của Đảng, trung thành với đường lối,
quan điểm của Đảng.
- Có kiến thức tương đối toàn diện, về văn hóa đã tốt nghiệp cấp III, có khả
năng viết và nói, có hiểu biết nhất định về kinh tế, kỹ thuật.
- Có quá trình công tác thực tiễn, được rèn luyện trong phong trào quần
chúng.
Đây là lần đầu tiên trong nhiều năm, vấn đề đào tạo bồi dưỡng cán bộ toàn
ngành được đặt ra một cách đúng mức hơn, tạo điều kiện từng bước khắc phục
những yếu kém, bất cập.
Năm 1971 miền Bắc bị lụt nặng trên diện tích lớn. Đây là trận lũ lớn nhất
trong vòng 100 năm, gây thiệt hại nặng nề về sản xuất nông nghiệp, về giao
thông vận tải, về tài sản của nhân dân và Nhà nước ở nhiều địa phương. Dưới sự
lãnh đạo tích cực, khẩn trương của Đảng và Chính phủ, sự chỉ đạo của các đảng
bộ và chính quyền địa phương, đông đảo nhân dân, bộ đội và cán bộ, đảng viên
đã anh dũng chiến đấu khắc phục thiên tai. Nhờ vậy đã hạn chế dược tai họa của
lũ lụt, thủ đô Hà Nội và các tỉnh hạ lưu sông Hồng như Nam Hà, Thái Bình
được bảo vệ. Các hoạt động tư tưởng đã nêu cao những tấm gương dũng cảm hy
sinh của nhân dân, bộ đội và cán bộ, đảng viên để bảo vệ đê điều, cứu người và
tài sản, những hoạt động tích cực của các cấp, các ngành và phong trào quần
chúng giúp đỡ lẫn nhau khắc phục hậu quả thiên tai, mau chóng khôi phục sản
xuất, ổn định đời sống.
Tuy bị thiên tai nặng nề, năm 1971 miền Bắc vẫn đạt 5.6 triệu tấn lương
thực, cao hơn mức bình thường của các năm, giá trị tổng sản lượng công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp đạt kế hoạch. Số chiến sĩ lên đường vào Nam chiến đấu
bằng 15 lần năm 1970. Bộ đội Trường Sơn đã phát triển thành một binh đoàn
chiến lược hùng mạnh, tuyến vận tải Bắc - Nam đã trở thành hệ thống liên hoàn,
ngoài tuyến đường bộ, cuối năm 1971 đường ống dẫn xăng dầu dài hơn 1000km
đã hoàn thành, đây là thành tựu mới của tinh thần dũng cảm, không quản hy sinh
xương máu của các chến sĩ bộ đội và thanh niên xung phong. Trong chiến tranh
ác liệt, lực lượng các binh chủng trên mặt trận tư tưởng tiếp tục phát triển, ngày
7-9- 1971 Đài Truyền hình Việt Nam lần đầu tiên phát sóng chương trình thử
nghiệm.
Để phát huy thành tựu năm 197l và động viên phong trào quần chúng thực
hiện nhiệm vụ năm 1972, thi hành chỉ thị của Ban Bí thư, tháng 12- 197 l và
tháng 1-1972 các cấp ủy đảng chỉ đạo tiến hành đợt báo công, lập công trong
nhân dân, tự phê bình và phê bình trong các tổ chức đảng và Nhà nước. Từ kết
quả của đợt này cùng với những kết quả đã tiến hành trong các năm 1967 -
1970, các ngành, các địa phương đánh giá báo công, lập công là một hình thức
công tác chính trị, tư tưởng, công tác vận động quần chúng phù hợp với quan
điểm của Đảng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, mọi thành tựu của cách
mạng là công lao của quần chúng. Qua báo công, lập công quần chúng tự giáo
dục mình và giáo dục lẫn nhau nâng cao thêm lòng tự hàó về Tổ quốc ta, nhân
dân ta, về sự nghiệp cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng, hiểu rõ hơn ý nghĩa
mỗi việc mình làm và công lao, sức mạnh của tập thể, phấn khởi thi đua lập
công mới.
Tháng 2- 1972 Níchxơn tiến hành những hoạt động ngoại giao xảo quyệt
hòng cô lập Việt Nam, bóp nghẹt cuộc kháng chiến của quân và dân ta. Căn cứ
nghị quyết và chủ trương của Đảng, công tác tư tưởng đã kịp thời vạch rõ mưu
đồ xảo quyệt của Mỹ, chúng sẽ tăng cường và mở rộng quy mô của cuộc chiến
tranh, nhưng cuối cùng chúng sẽ thất bại; khẳng định quyết tâm không gì lay
chuyển được của quân và dân ta là đánh bại chiến lược "Việt Nam hóa chiến
tranh", đánh bại mọi âm mưu và thủ đoạn đối phó mới của địch. Hành động
ngoại giao xảo quyệt của Mỹ và những hành động mở rộng chiến tranh của
chúng đối với miền Bắc chỉ làm nung nấu thêm chí căm thù và quyết tâm chiến
đấu của quân và dân ta. Mọi hoạt động chuẩn bị cho cuộc tiến công chiến lược
mới được đẩy mạnh đi đôi với sằn sàng đánh bại địch nếu chúng nem bom bắn
phá trở lại hoặc mở rộng chiến tranh trên bộ ra miền Bắc.
Trước nguy cơ chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" bị đổ vỡ, Níchxơn
hung hãn đến điên cuồng. Đồng thời với phản kích quyết liệt trên chiến trường
Nam Việt Nam, từ ngày 6-4-1972 Mỹ ném bom bắn phá trở lại miền Bắc và từ
ngày 8-5-1972 thả thủy lôi phong tỏa các cảng biển, cảng sông của ta, hòng cắt
đứt nguồn tiếp tế từ ngoài vào và đường vận chuyển Bắc-Nam. Trong chiến
tranh phá hoại lần trước chúng leo thang từng bước. Lần này chúng hành động
nhanh và quyết liệt ngay từ đầu, sử dụng lực lượng máy bay, tàu chiến lớn hơn,
đánh tập trung, liên tục vào Hà Nội, Hải Phòng, các khu công nghiệp và trọng
điểm giao thông, đảnh phá dã man nhiều vùng dân cư, cả bệnh viện, trường học,
chặn các "cổ họng" tiếp tế, hòng gây sức ép lớn buộc ta phải khuất phục.
Quân và dân miền Bắc đã chuẩn bị sẵn sàng, bình tĩnh bước vào cuộc thử
thách mới quyết liệt và phức tạp hơn nhanh chóng sơ tán dân và các cơ sở sản
xuất, chuyển mọi hoạt động sang thời chiến, đánh thắng địch ngay từ trận đấu
chúng trở lại đánh phá, cả ở Vĩnh Linh, Quảng Bình, Hải Phòng, Hà Nội… Tuy
vậy, ta cũng có thêm những khó khăn mới, hàng chục ngàn đồng bào bị thương
vong, sự đánh phá và phong tỏa của địch lúc đầu đã hạn chế khá lớn việc tiếp
nhận hàng viện trợ và đưa hàng vào Nam. Song nhờ sự lãnh đạo kịp thời của
Đảng và Nhà nước, tinh thần dũng cảm, mưu trí, sáng tạo của bộ đội, các nhà
khoa học và anh chị em công nhân chúng ta đã có nhiều cách có hiệu quả phá
nhiễu, bắn rơi máy bay B52, rà phá thủy lôi, mở đường vận chuyển, bảo đảm về
cơ bản việc tiếp nhận hàng từ ngoài vào và đưa hàng vào Nam, đẩy mạnh cuộc
tiến công chiến lược suốt năm 1972. Các hoạt động tư tưởng, trong đó báo chí là
lực lượng xung kích, với đội ngũ phóng viên (tin ảnh, quay phim) nhanh nhạy,
xông xáo, dũng cảm đã bám sát cuộc chiến đấu hào hùng của quân và dân ta,
bảng trí tuệ và sức mạnh của cả dân tộc, được sự ủng hộ của loài người tiến bộ,
quyết thắng tên hung nô của thời đại. Địch đánh phá quyết liệt nhưng báo chí từ
Thủ đô vẫn phát hành thường xuyên tính chiến đấu được nâng cao, đài phát sóng
bị B52 dội bom nhiều lần nhưng Tiếng nói Việt Nam vẫn vang lên đều đặn, đến
với thính giả trong nước và trên thế giới.
Bọn hiếu chiến Mỹ điên cuồng trong đánh phá, đồng thời ngoan cố, tráo trở
trong thương lượng. Sau khi trúng cử Tổng thống Mỹ trong nhiệm kỳ mới,
Níchxơn lật lọng tất cả những điều đại diện chính quyền Mỹ đã thỏa thuận với
đại diện phái đoàn ta tháng 10-1972. Căn cứ tuyên bố của Chính phủ ta ngày 26-
10-1972, các hoạt động tuyên truyền đã lập tức nêu cao lập trường đúng đắn của
ta, vạch trần sự tráo trở, lật lọng của Mỹ trước dư luận trong nước và quốc tế,
góp phần động viên mạnh mẽ làn sóng đấu tranh đòi Mỹ phải ký ngay dự thảo
hiệp định, chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam; đã kịp thời phổ biến trong nhân
dân và các lực lượng vũ trang nhận định của Bộ Chính trị chỉ rõ âm mưu của Mỹ
tiếp tục kéo dài chiến tranh trong một thời gian nữa để giành thắng lợi về quân
sự nhằm kết thúc chiến tranh trên thế mạnh, giáo dục nâng cao cảnh giác đối với
những hành động ch;ến tranh mới của chúng. Miền Nam phải tiếp tục phát triển
tiến công, miền Bắc phải sẵn sàng chiến đấu đến mức cao nhất và rút kinh
nghiệm đánh B52 có hiệu quả hơn, thắng lớn hơn.
Ngày 14-12- 1972 Nichxơn quyết định mở cuộc tập kích B52 vào Hà Nội.
Cuộc tiến công này là đỉnh cao trong chiến tranh phá hoại bằng không quân của
Mỹ ở miền Bắc nước ta, huy động lớn nhất số máy bay chiến lược B52, mục tiêu
đánh phá chủ yếu nhằm vào Hà Nội, trung tâm chính trị của cả nước, nơi đóng
bản doanh của cơ quan đầu não chỉ huy cuộc kháng chiến. Với thế trận sẵn sàng,
trong 12 ngày đêm chiến đấu (từ 18 đến 29-12), bộ đội phòng không - không
quân, quân dân Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương đã anh dũng đập tan
cuộc tập kích chiến lược bằng B52 của Mỹ, bắn rơi 81 máy bay hiện dại trong
đó có 34 máy bay B52 (riêng Hà Nội bắn rơi 25 chiếc), diệt và bắt sống hàng
trăm giặc lái. Bị thua đau, ngày 30-12-1972 chính quyền Mỹ phải ngừng ném
bom miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra và chấm dứt hoàn toàn vào ngày 15- 1-1973.
Cùng với việc liên tục đưa tin chiến thắng oanh liệt của quân dân ta, các
hoạt động tư tưởng đã nêu bật tầm vóc vĩ đại của nó: .
Về quân sự, đây là một chiến dịch phòng không đạt tới mức tiêu diệt cao
nhất, oanh liệt nhất trong cuộc chiến đấu bảo vệ miền Bắc cũng như trong sự
nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Đây cũng là một chiến dịch đầu
tiên trên thế giới tiêu diệt lớn máy bay chiến lược B52 của Mỹ giáng cho không
quân chiến lược Mỹ đòn thất bại nặng nề nhất trong lịch sử xâm lược của nó.
Chiến thắng đó đã nhấn chìm ý đồ "đàm phán trên thế mạnh" của Mỹ. Chính vì
vậy nhân dân ta gọi đây là trận "Điện Biên Phủ trên không". Chiến thắng "Điện
Biên Phủ trên không" là đòn quyết định buộc Mỹ phải xuống thang và kết thúc
cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai đối với miền Bắc nước ta. Chiến tranh phá
hoại đối với miền Bắc là một bộ phận quan trọng trong chiến tranh xâm lược của
đế quốc Mỹ. Thắng lợi của quân dân miền Bắc chống chiến tranh phá hoại của
Mỹ cùng với thắng lợi của cuộc tiến công chiến lược năm 1972 trên chiến
trường miền Nam đã làm phá sản chiến lược "Việt Nam hóa chiến tranh" và
"Mỹ hóa" trở lại cuộc chiến tranh của bọn hiếu chiến Mỹ.
- Về chính trị, thắng lợi của quân và dân ta đánh thắng chiến tranh phá hoại
bằng không quân và hải quân của Mỹ có ý nghĩa quốc tế to lớn, chứng tỏ Mỹ
không phải là vô địch, động viên mạnh mẽ phong trào đấu tranh của nhân dân
thế giới chống chủ nghĩa đế quốc, đứng đầu là đế quốc Mỹ. Phong trào lên án
Níchxơn và đòi chấm dứt chiến tranh Việt Nam bùng lên trên thế giới và trong
nước Mỹ.
Trong hoàn cảnh lịch sử đó, ngày 27-1-1973 tại Pari chính quyền Mỹ bụộc
phải ký Hiệp định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam. Thắng
lợi cơ bản mà nhân dân ta đạt được trong việc ký kết hiệp định trước hết là Mỹ
và các nước khác phải cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Mỹ phải rút quân và chấm dứt mọi sự dính líu quân
sự vào miền Nam Việt Nam và phải chấp nhận sự tồn tại của bộ đội chủ lực ta ở
miền Nam. Với việc hiệp định được ký kết, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước của nhân dân ta đã giành được thắng lợi rất vẻ vang. Đây là thắng lợi rất to
lớn trong lịch sử chống xâm lược của dân tộc Việt Nam ta.
c) Động viên quân dân cả nước thừa thắng xốc tới giải phóng hoàn toàn
miền Nam 1973 - 1975
Phải ký Hiệp định Pari, rút quân về nước nhưng đế quốc Mỹ vẫn ngoan cố
duy trì chế độ thực dân mới ở miền Nam Việt Nam. Trước khi ký Hiệp định, Mỹ
đã đưa vào miền Nam Việt Nam một khối lượng lớn vũ khí, phương tiện chiến
tranh và chỉ huy quân ngụy vào ra cắm cờ lấn đất ở nhiều nơi. Hiệp định vừa
được ký kết, chúng mở ngay chiến dịch "tràn ngập lãnh thổ", triển khai các cuộc
hành quân lấn chiếm vùng giải phóng và các vùng giáp ranh hòng xóa "thế da
báo". Mục tiêu của chúng là giành đất, giành dân, tiêu diệt lực lượng vũ trang và
lực lượng chính trị của cách mạng, xóa bỏ tình trạng thái chính quyền, hai quân
đội, ba lực lượng, biến miền Nam Việt Nam thành lãnh thổ chỉ có một chính
quyền tay sai Mỹ. Từ sau hiệp định Pari, miền Nam Việt Nam không có lấy một
ngày hòa bình.
Về phía ta, trước khi Hiệp định Pari được ký kết, Bộ Chính trị đã dự kiến
"tình hình có thể phát triển theo hai khả năng: hoặc giữ được hòa bình, hoặc
chiến tranh trở lại, không thể có ảo tưởng địch sẽ thi hành một cách nghiêm
chỉnh vì chúng lo ngại trước nguy cơ sụp đổ hoàn toàn". Sau khi Hiệp định được
ký kết, đồng thời với tuyên truyền thắng lợi các hoạt động tư tưởng đã chú trọng
phổ biến Lời kêu gọi ngày 28- 1-1973 của Trung ương Đảng và Chính phủ nhận
định: Những thế lực quân phiệt, phát xít, công cụ của chủ nghĩa thực dân mới đi
ngược lại nguyện vọng của dân tộc ta vẫn chưa từ bỏ nhung âm mưu phá hoại
hòa bình, ngăn trở con đường độc lập, tự do của nhân dân ta. Vì vậy, nhân dân
cả nước phải tăng cường đoàn kết, đề cao cảnh giác, củng cố những thắng lợi đa
giành được, hoàn thành độc lập, dân chủ ở miền Nam…
Sau thắng lợi "đánh cho Mỹ cút", cách mạng miền Nam đứng trước tình thế
mới với những thuận lợi rất cơ bản. Song những khó khăn sau cuộc tiến công
chiến lược năm 1972, tổn thất về quân số về tổ chức và về vật chất chưa được bổ
sung và củng cố. Những nơi cán bộ lãnh đạo quán triệt tư tưởng tiến công, cảnh
giác sẵn sàng chiến đấu thì ở nơi đó đồng bào, chiến sĩ phát huy được khí thế
chiến thắng, kiên trì bám trụ, giữ cờ, giữ đất, đánh lui các cuộc hành quân lấn
chiếm của địch, bảo vệ được thành quả cách mạng. Nhưng một số nơi, cán bộ,
đảng viên chưa thấu triệt tư tưởng tiến công và quan điểm cách mạng bạo lực, có
tư tưởng mệt mỏi, nghỉ ngơi, ảo tưởng hòa bình, chủ quan mất cảnh giác, hy
vọng trông chờ vào khả năng đối phương phải thi hành Hiệp định. Vì vậy mà
chậm phát hiện âm mưu ấn chiếm của địch, đối phó bị động và kém hiệu quả, có
nơi không chỉ chập chờn, co thủ "sợ vi phạm Hiệp định", mà còn rút bỏ cả "lõm”
giải phóng, tự mình xóa "thế da báo". Do đó, trong những tháng đầu năm 1973
địch đã lấn chiếm dược hầu hết những vùng mới giải phóng và cả một số nơi
thuộc vùng giải phóng cũ. Tình hình đó cho thấy, trong cuộc chiến đấu một mất
một còn với quân thù, khi thắng lợi cũng như lúc cách mạng gặp khó khăn, lãnh
đạo phải giữ vững định hướng tư tưởng chiến luởc tiến công, nếu thỏa mãn dừng
lại hoặc chập chờn, do dự, hữu khuynh cố thủ thì cách mạng không tránh khỏi bị
tổn thất.
Yêu cầu bức xúc đặt ra đối với công tác tư tưởng lúc này là phải làm cho
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân có nhận thức đúng về: âm mưu, thủ đoạn của Mỹ
- ngụy trong tình hình mới; đánh giá địch, ta và khả năng phát triển của tình
hình; phải làm gì và làm thế nào để đánh bại âm mưu và hành động tiếp tục
chiến tranh của địch? Trọng tâm công tác là phát động đấu tranh chính trị hay là
tiến công chống địch lấn chiếm, bình định?
Tháng 7-1973, Hội nghị lần thứ 21 của Trung ương Đảng đã nhận định tình
hình và ra nghị quyết về "Thắng ợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước và nhiệm vụ của cách mạng miền Nam Việt Nam trong giai đoạn mới".
Nghị quyết Trung ương nêu cao ý nghĩa, tầm vóc to lớn của thắng ợi, rút ra
những bài học lớn trong 18 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đó là: Giữ
vững tư tưởng chiến lược tiến công; nắm vững quan điểm cách mạng bạo lực;
giương cao ngọn cờ dân tộc dân chủ và ngọn cờ xã hội chủ nghĩa; biết thắng
từng bước, tiến lên giành thắng lợi hoàn toàn; có phương pháp cách mạng thích
hợp.
Trung ương Đảng nhận dịnh: "Thế và lực của cách mạng miền Nam mạnh
hơn bất cứ thời kỳ nào từ năm 1954 đến nay". Song phong trào đấu tranh chính
trị, bộ đội địa phương và dân quân du kích còn yếu, cơ sở cách mạng ở thành thị
và nông thôn bị hao hụt chưa được củng cố. Sắp tới, cách mạng miền Nam có
thể phát triển theo hai khả năng: 1) ta có thể từng bước buộc địch phải thi hành
Hiệp định Pari; 2) ta buộc phải tiến hành chiến tranh cách mạng để đánh bại
địch, giành thắng lợi hoàn toàn. Song bất kể trong tình hình nào con đường của
cách mạng miền Nam vẫn là con đường bạo lực cách mạng, chiến lược của cách
mạng miền Nam vẫn là chiến lược tiến công.
Hội nghị Trung ương khẳng định nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền
Nam lúc này là tiếp tục thực hiện chiến lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân, đánh đổ ngụy quyền làm thất bại hoàn toàn chủ nghĩa thực dân mới của
Mỹ. Công tác tư tưởng phải tiếp tục bồi dưỡng tinh thần cách mạng tiến công,
kiên trì cách mạng, nâng cao cảnh giác, chống mọi khuynh hướng hòa bình chủ
nghĩa, tư tưởng nghỉ ngơi, không sẵn sàng chiến đấu. Quán triệt tinh thần chỉ
đạo của Trung ương Đảng Khu ủy V quyết định các biện pháp tăng cường lãnh
đạo "đánh bại kế hoạch bình định lấn chiếm của địch, giành dân, giừ dân, mở
rộng quyền làm chủ, phát triển thực lực của ta". Hội nghị lần thứ 12 của Trung
ương cục xác định nhiệm vụ trọng tâm số một là phá bình định lấn chiếm, giành
quyền làm chủ. Ban Tuyên huấn các cấp giúp cấp ủy tiến hành khẩn trương
công tác quán triệt nghị quyết trong toàn đảng bộ, trong lực lượng vũ trang và
các đoàn thể quần chúng, trang bị nhận thức đúng về tình hình và nhiệm vụ, thấu
suốt tư tưởng chiến lược tiến công và quan điểm cách mạng bạo lực, đấu tranh
chống những tư tưởng lệch lạc, như: mơ hồ về bản chất phản động và âm mưu
của dịch, ảo tưởng hòa bình, hy vọng, trông chờ vào khả năng chúng thi hành
Hiệp định. Nhờ đó đã tạo bước chuyển biến tích cực trong hành động của cán
bộ, đảng viên, quân và dân toàn miền.
Trong những tháng cuối năm 1973, đầu năm 1974, tình hình miền Nam
chuyển biến nhanh chóng. Từ thế bị động đối phó, các lực lượng cách mạng đã
chuyển lên chủ động phản công, tiến công, đẩy lui các cuộc hành quân lấn
chiếm của Mỹ - ngụy. Từ chỗ mất đất, mất dân, các lực lượng cách mạng đã
chuyển lên thu hồi và mở rộng vùng giải phóng phát huy thắng lợi, các cấp ủy
đảng tăng cường công tác giáo dục tư tưởng, chỉ rõ: Trong điều kiện Mỹ - ngụy
đã xé bỏ Hiệp định Pari, tiếp tục chiến tranh thì cuộc đấu tranh đòi hòa bình, hòa
hợp dân tộc theo pháp lý của Hiệp định là một đòn tiến công chính trị có tác
dụng lên án tội ác hiếu chiến, độc tài, vạch trần những luận điệu lừa bịp của Mỹ
- ngụy, tập hợp đội quân chính trị quần chúng. Nhưng chỉ có kiên quyết phản
công và tiến công bẻ gãy những hành động lấn chiếm mới đập an được chính
sách chiến tranh của chúng. Thắng lợi phá bình định lấn chiếm là thực tế khẳng
định quan điểm chỉ có bạo lực cách mạng mới thủ tiêu được bạo lực phản cách
mạng, chỉ có chiến tranh giải phóng mới đánh bại được chiến tranh xâm lược,
nếu chập chờn, do dự thì cách mạng không tránh khỏi bị tổn thất. Chính sách
chiến tranh của Mỹ - ngụy buộc nhân dân ta phải cầm vũ khí đứng dậy tiếp tục
chiến đấu để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ.
Thắng lợi phản công và tiến công giành quyền làm chủ trong mùa khô 1973
- 1974 đã tạo đà và đặt nền tảng cho bước ngoặt của chiến tranh trong năm
1975. Công tác tư tưởng đã giải thích rõ: để chuyển cuộc chiến tranh sang bước
ngoặt, cách mạng phải có lực lượng mạnh hơn hẳn lực lượng của Mỹ - ngụy ở
miền Nam. Lực lượng của chiến tranh cách mạng là lực lượng tổng hợp, song
nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh là hậu phương. Miền
Bắc xã hội chủ nghĩa là hậu phương lớn luôn luôn giữ vai trò quyết định đối với
sự nghiệp cách mạng cả nước, nay càng giữ vai trò quyết định đáp ứng yêu cầu
rất cao của miền Nam về sức người, sức của và mọi nhu cầu khác trong giai
đoạn mới của cuộc chiến tranh.
Để góp phần thúc đẩy mọi mặt công tác của miền Bắc, sau Hiệp định Pari,
năm 1973 và những tháng đầu năm 1974 công tác tư tưởng đã tiến hành 5 đợt
tuyên truyền lớn
- Đợt 1 tiến hành trong hai tháng 2, 3- 1973 là một chiến dịch tuyên truyền
cổ động rộng lớn bằng nhiều hình thức cả bề rộng lẫn bề sâu nham làm cho quân
và dân ta hiều rõ ý nghĩa to lớn của thắng lợi đã giành được, nâng cao niềm tin
vào sự lãnh đạo của Đảng và tự tin vào sức mạnh của dân tộc. Làm rõ nhiệm vụ
cấp bách và nặng nề của miền Bắc khắc phục hậu qua của hai cuộc chiến tranh
phá hoại, khôi phục sản xuất, bảo đảm đời sống nhân dân, đáp ứng yêu cầu khẩn
trương và to lớn của miền Nam trong giai đoạn mới, tiếp tục giúp đỡ cách mạng
Lào và Campuchia, chuẩn bị cho xây dựng lại đất nước sau khi giải phóng hoàn
toàn miền Nam.
- Đợt 2 được tiến hành trong tháng 4, sau khi Mỹ rút quân, tuyên truyền
nhằm nâng cao niềm tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc, kẻ thù nào
cũng đánh thắng.
- Đợt 3 được tiến hành trong tháng 10, tuyên truyền vạch trần những hành
động vi phạm Hiệp định Pari của Mỹ - ngụy trước dư luận trong nước và trên
thế giới. Tranh thủ sự đồng tình của dư luận quốc tế đối với cuộc phản công, tiến
công của các lực lượng vũ trang giải phóng và nhân dân miền Nam đánh trả các
hoạt động tiếp tực chiến tranh của Mỹ - ngụy.
- Đợt 4 được tiến hành trong những tháng cuối năm 1973 nhân dịp đoàn đại
biểu Anh hùng các lực lượng vũ trang miền Nam ra thăm miền Bắc, nêu cao chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của quân dân ta trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước, cổ vũ phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong giai đoạn mới.
- Đợt 5 tiến hành trong những tháng đầu năm 1974, làm quán triệt nghị
quyết hội nghị lần thứ 22 của Trung ương Đảng về khôi phục và phát triển kinh
tế trong kế hoạch hai năm 1973 - 1974.
Hưởng ứng nghị quyết của Trung ương Đảng, với khí thế của người chiến
thắng, tuy lực lượng lao động chủ yếu là phụ nữ, năm 1974 nông nghiệp miền
Bắc đã có bước tiến mới về thâm canh lúa, 9 tỉnh, 107 huyện và 4.226 hợp tác
xã đạt năng suất 5 tấn thóc trở lên/lha. Công tác rà phá thủy lôi, bom mìn, nạo
vét, khơi thông luồng lạch, khôi phục cầu và các bến cảng được tiến hành thắng
lợi có ý nghĩa to lớn đối với sản xuất, đời sống ở miền Bắc và đẩy mạnh chi viện
cho miền Nam. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, trong quá trình khôi
phục và phát triển kinh tế chúng ta có những khuyết điểm, yếu kém về quản lý
kinh tế, như quan liêu, thiếu dân chủ, thiếu trách nhiệm, kém ý thức tổ chức và
kỷ luật, việc đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực và xâm phạm tài sản xã hội
chủ nghĩa chưa được quan tâm đúng mức.
Đồng thời với giải quyết những nhiệm vụ lớn trước mắt, Trung ương Đảng
còn lo chuẩn bị cho kế hoạch lâu dài. Tháng 2- 1973 Bộ Chính trị ra nghị quyết
về công tác cán bộ trong giai đoạn mới nhằm đưa công tác tổ chức lên ngang
tầm nhiệm vụ chính trị. Tháng 12-1974 Hội nghị lần thứ 23 của Trung ương
Đảng bàn về tăng cường sự lãnh đạo và nâng cao sức chiến đấu của Đảng. Dưới
ánh sáng Nghị quyết 23 và Nghị quyết về công tác cán bộ, Ban Tuyên huấn
Trung ương đã kiểm điểm công tác của ngành mình góp phần xây dựng Đảng,
đề ra các biện pháp thực hiện nghị quyết, nhất là đối với công tác bồi dưỡng cán
bộ, giáo dục đảng viên và cải tiến, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ (kinh
nghiệm chỉ đạo thí điểm ở Hà Bắc). Trong hai năm 1971 - 1972 chương trình
giáo dục chính trị ngắn hạn cho cán bộ, đảng viên đã hoàn thành. Sau khi Ban Bí
thư ra Nghị quyết 210, trong 3 năm 1971 - 1973, mặc dù có nhiều khó khăn,
nhất là trong điều kiện chiến đấu ác liệt năm 1972, số trường giáo dục chính trị
lý luận trung cấp ở miền Bắc đã phát triển lên 14 trường, trường đảng cấp huyện
được xây dựng, 4 chương trình giáo dục lý luận chính trị đã được triển khai trên
cả hai hệ học tập trung và tại chức. Sơ kết 3 năm 1971 - 1973, trên 50 vạn đảng
viên và 57. 764 chi ủy viên, tổ trưởng đảng đã học xong chương trình cơ sở,
27.338 đảng ủy viên đã qua chương trình sơ cấp, gần l vạn cán bộ lãnh đạo cấp
huyện đã qua chương trình trung cấp. Riêng trường Tuyên huấn Trung ương
trong 3 năm 1971 - 1973 đã mở lớp đào tạo và bồi dưỡng cho 3.442 cán bộ của
ngành, trong đó nhiều nhất là cán bộ giảng dạy lý luận chính trị.
Năm 1973 - 1974, trước yêu cầu mới, các mặt công tác tuyển quân, công
nhân và thanh niên xung phong đi chiến trường và thực hiện nghĩa vụ lương
thực thực phẩm nuôi quân càng là những công tác lớn mà mỗi ngành, địa
phương và cơ sở đều ra sức tiến hành công tác vận động quần chúng để hoàn
thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu. Công tác tư tưởng được tiến hành đến
từng nhà, từng người. Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ là một người tuyên truyền đắc
lực và gương mẫu thực hiện chính sách, thực hiện khẩu hiệu "thóc không thiếu
một cân, quân không thiếu một người". Kết quả trong các năm 1973 - 1975 gần
50 vạn thanh niên miền Bắc đã gia nhập quân đội. Có những em mới 17 tuổi
hoặc thuộc diện miễn hoãn cũng tìm mọi cách để được đi chiến đấu, có những
bà mẹ đã hơn 3 lần tiễn chồng con ra trận, có những gia đình vợ chồng, cha con
đều có mặt trên chiến trường đánh Mỹ. Hơn 30.000 công nhân và thanh niên
xung phong được điều thêm vào mặt trận mở đường Trường Sơn, tạo điều kiện
tăng cường vận chuyển hàng và cho xe tăng, pháo lớn vào chiến trường. Vì
nghĩa lớn của cả dân tộc, nhân dân miền Bắc chấp nhận một mức sống "tối thiểu
13, tối đa 18" (mức phân phối thóc theo đầu người ở hợp tác xã nông nghiệp tối
thiểu 13kg, tối đa không quá 18kg/tháng), chắt chiu mọi bề để nuôi quân đánh
giặc như lời Bác Hồ đã dạy, dù phải chịu nhiều gian khổ hy sinh nhưng:
"Còn non, còn nước, còn người,
Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay".
Từ cuối năm 1972, đáp ứng yêu cầu của chiến trường hàng ngàn cán bộ các
binh chủng công tác tư tưởng (báo chí, tuyền truyền, giáo dực lý luận chính trị,
văn hóa văn nghệ) tiếp tục được bổ sung cho miền Nam. Năm 1973, 1974 các
lớp bồi dưỡng, đào tạo cán bộ cho miền Nam được mở liên tục.
Trong thế suy sụp và đi xuống, ngụy quyền tay sai Mỹ thực hiện chính sách
phát xít, giải tán các đảng phái không ăn cánh với chúng, thẳng tay khủng bố
phong trào chống đối của nhân dân, của các tôn giáo, đàn áp báo chí. Chính sách
phát xít của chúng chỉ dẫn đến kết quả ngược lại. Về phía ta quán triệt và thực
hiện Nghị quyết tháng 9- 1974 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ của thành thị miền
Nam trong giai đoạn mới, các đảng bộ ở đô thị được củng cố, cơ sở cách mạng
dần dần được khôi phục và phát triển, đã tích cực lãnh đạo phong trào đấu tranh
chính trị của nhân dân trong mọi tầng lớp công nhân, lao động, nhân sĩ, trí thức,
ký giả, văn nghệ sĩ, học sinh, sinh viên chống Mỹ - Thiệu, đòi thi hành Hiệp
định. Các báo tiến bộ ở Sài Gòn đăng tin về Hiệp định Pan là thắng lợi của dân
tộc Việt Nam, thất bại của Mỹ, và bằng nhiều hình thức hậu thuẫn phong trào
nhân dân đấu tranh đòi thi hành Hiệp định. Từ 20 - 30 đoàn thể văn hóa, xã hội,
tôn giáo, chính trị liên kết nhau thành một mặt trận đối lập với chính quyền
Thiệu mỗi đoàn thể đều ra báo nội san làm cơ quan tranh đấu của mình; hình
thành các báo đóí lập đòi thật sự vãn hồi hòa bình, chống chiến lược "Việt Nam
hóa chiến tranh", tố cáo Thiệu tham nhũng, đòi cải thiện chế độ lao tù, đòi tha
hết chính trị phạm, tìlả hết tù binh. Từ ngày miền Nam Việt Nam bị đặt dưới ách
thống trị của Mỹ - nguỵ đến nay, chưa lúc nào khí thế đấu tranh của báo chí Sài
Gòn mạnh mẽ như lúc này. Ngoài các loại báo in, ở một số thành phố, trước hết
ở Sài Gòn xuất hiện hình thức: Báo miệng nói cho đồng bào tôi nghe. Số người
chống Mỹ - Thiệu, tán thành Hiệp định Pari, đòi tự do, dân chủ, đa số là học
sinh, sinh viên. Họ chia nhau thành từng nhóm nhỏ, đến các khu phố, nhà ga,
bến đò, xưởng sở, trường học, diễn thuyết từ 10- 15 phút hoặc nửa giờ về hiện
tình đất nước, gây dư luận rộng khắp sôi nổi. Cách làm này còn được gọi là "Xả
luân chiến" chiến đấu tuyên truyền lưu động như bánh xe lăn. Phong trào đấu
tranh của học sinh, sinh viên phát triển cả bề rộng và bề sâu. Anh chị em tập hợp
nhau trong những "Đêm không ngủ", "Đêm cốt nhục", "Đêm đốt lửa căm hờn",
"Đêm cầu nguyện hòa bình".. . hội thảo, biểu diễn văn nghệ, đến với bà con lao
động "hát cho đồng bào tôi nghe", và "nghe đồng bào tôi nói"[53].
Chính quyền Thiệu ra sắc luật 007 nhằm bóp cổ báo chí ở Sài Gòn, ủy ban
đấu tranh đòi quyền tự do báo chí lên án chính sách phát xít của Thiệu. Giới luật
sư Sài Gòn ra tuyên bố ủng hộ yêu sách của báo chí. Hưởng ứng cuộc biểu tình
"Ký giả đi ăn mày", ngày 10-10-1974 hàng trăm nhà báo cùng với hàng vạn
nhân dân Sài Gòn xuống đường biểu tình chống đàn áp báo chí, bóp nghẹt tự do,
dân chủ, đòi Thiệu từ chức. Trước đó là các cuộc biểu tình của hàng vạn nhân
dân Huế. Tại Hạ viện ngụy, đại biểu Phật giáo đối lập công bố cáo trạng kết tội
Thiệu tham nhũng. Giáo hội Thiên chúa thành lập "Phong trào nhân dân chống
tham nhũng" để cứu nước và kiến tạo hòa bình. Nhiều tổ chức chống Thiệu như
"Lực lượng hòa giải hòa hợp dân tộc", "Mặt trận nhân dân cứu đói", "Uỷ ban
đấu tranh đòi thả tù chính trị". .. ra đời. Những hình thức thống nhất hành động
và các phong trào liên hiệp đấu tranh dồn ngụy quyền vào thế hoàn toàn bị cô
lập.
Do chính sách chiến tranh của Mỹ - nguỵ, tháng 6- 1974 Ban liên hợp quân
sự ngừng hoạt động, sau đó hội nghị hiệp thương hai bên Nam Việt Nam và các
cuộc tiếp xúc Việt - Mỹ cũng kết thúc. Các hoạt động tuyên truyền đối ngoại của
ta đã vạch trần bộ mặt thật của Mỹ - ngụy, đập tan những luận điệu lừa bịp của
chúng, làm cho dư luận tiến bộ trên thế giới, thấy rõ tính chất hiếu chiến, phá
hoại hòa bình của Mỹ ngụy và thừa nhận tính chất chính nghĩa của các cuộc
đánh trả của quân và dân ta.
Tháng 7- 1974 quân giải phóng đánh mạnh vào quân ngụy trên khắp các
chiến trường khu V, khu VI, Đông Nam Bộ và đồng bằng sông Cửu Long, giải
phóng thêm nhiều nơi, trong đó có hàng chục chi khu, quận lỵ. Kế hoạch lấn
chiếm, bình định của Mỹ - ngụy về căn bản đã thất bại. Trên chiến trường đã
xuất hiện một tình thế mới: quân ta giải phóng- hàng chục- chi khu, quận lỵ còn
ngụy quyền Sài Gòn đành chịu mất. Lực lượng mọi mặt của ta lớn mạnh hẳn
lên, ngược lại lực lượng mọi mặt của ngụy quyền đang trên đà suy sụp, tan rã.
Chiến thắng của quân dân ta và phong trào đấu tranh của nhân dân tiến bộ trên
thế giới và nhân dân Mỹ đòi chấm dứt chiến tranh tác động mạnh mẽ đến chính
giới Mỹ, ý chí xâm lược của Mỹ bị lung lay mạnh. Những khó khăn của nước
Mỹ không cho phép giai cấp thống trị Mỹ tiếp tục cuộc chiến tranh lâu hơn nữa.
Tháng 5- 1974 Hạ viện Mỹ bác bỏ đề nghị của Níchxơn tăng cường viện trợ cho
Thiệu. Tổng thống Mỹ Nichxơn bị vụ bê bối Oatơghết, phải từ chức, ảnh hưởng
trực tiếp đến ngụy quyền Sài Gòn.
Tháng 10- 1974 Hội nghị Bộ Chính trị quyết định chủ trương giải phóng
hoàn toàn miền Nam. Hội nghị đã cân nhắc kỹ tình hình địch, ta và nhận định
"Lúc này chúng ta có thời cơ… Đây là thời cơ thuận lợi nhất để nhân dân ta
hoàn toàn giải phóng miền Nam, giành thắng lợi trọn vẹn cho cách mạng dân
tộc, dân chủ đồng thời giúp Lào và Campuchia hoàn thành sự nghiệp giải phóng
dân tộc... Đối với vấn đề được nêu ra về khả năng Mỹ đưa quân trở lại, Bộ
Chính trị đã cân nhắc kỹ lưỡng và thống nhất nhận định bản chất Mỹ rất ngoan
cố và còn nhiều âm mưu thâm độc, nhưng "Mỹ đã ra thì việc quay lại không
phải dễ… ta phán đoán Mỹ không có khả năng quay lại. .. Dù Mỹ có can thiệp
trở lại trong chừng mực nào thì chúng cũng không xoay chuyển được tình thế và
ta vẫn thắng".
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, từ hậu phương lớn đến tiền tuyến
lớn đã chuẩn bị về mọi mặt tư tưởng, về tổ chức cho tổng tiến công và nổi dậy,
tiến hành bí mật và khẩn trương. Quân ta ra trận với tinh thần phấn khởi, tự tin,
sung sức, quyết tâm đánh mạnh, thắng lớn. Cùng hành quân với các lực lượng
vào chiến trường là các chiến sĩ thông tin, nhà báo, nhà văn, nhiếp ảnh, quay
phim. . . để thông tin kịp thời và ghi lại những sự kiện lịch sử trong trận quyết
chiến chiến lược. Trên tiền tuyến lớn, toàn bộ cán bộ, chiến sĩ các binh chủng
trên mặt trận tư tưởng văn hoá, cán bộ và học viên các trường Đảng, cả học viên
khóa VIII Trường Nguyễn Ái Quốc miền Nam đã kết thúc lớp học để tham gia
cuộc tổng tiến công và nổi dậy giành thắng lợi cuối cùng.
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mở đầu ngày 4-3 với
thắng lợi giòn giã giải phóng Buôn Ma Thuột (10-3) làm nức lòng quân dân cả
nước, gây hoang mang, hoảng loạn trong hàng ngũ địch. Với sự chỉ đạo sát sao
của Bộ Chính trị, sự chỉ huy kiên quyết, mưu trí, sáng tạo của các Bộ Tư lệnh
chiến trường, tinh thần dũng cảm chiến đấu và phục vụ chiến đấu của quân dân
ta, chỉ một tháng sau quân ta đã lần lượt giải phóng hoàn toàn Tây Nguyên, các
tỉnh, thành phố miền Trung và miền Nam Trung bộ, tiến sát đến cửa ngõ Sài
Gòn. Phối hợp với đòn tiến công quân sự, nhiều địa phương và cơ sở đã lập ủy
ban khởi nghĩa, phát động quần chúng nổi dậy diệt địch, giành quyền làm chủ và
tổ chức phục vụ chiến đấu.
Thiệu cầu cứu khẩn cấp nhưng đến nước này thì chủ Mỹ cũng phải bỏ mặc
cho ngụy chết chìm. Ngày 14-4- 1975 Bộ Chính trị quyết định mở chiến dịch
tiến công giải phóng Sài Gòn - Gia Định, mang tên chiến dịch Hồ Chí Minh lịch
sử. Những ngày này, các hoạt động tư tưởng hừng hực thế tiến công, động viên
cả dân tộc lên đường, cả nước cùng ra trận, mấy thế hệ cùng tham gia trận đánh
cuối cùng của 2l năm chống Mỹ, cứu nước. 17 giờ ngày 26-4- 1975 cuộc tổng
công kích đánh chiếm thành phố Sài Gòn - Gia Định bắt đầu. 10 giờ 45 phút
ngày 30-4-1975 các đơn vị xe tăng và bộ binh thuộc Quân đoàn II tiến vào dinh
Độc Lập, bắt toàn bộ nội các ngụy, buôc Tổng thống ngụy Dương Văn Minh
phải tuyên bố đầu hàng không điều kiện và ra lệnh cho quân ngụy hạ vũ khí.
Cùng ngày 30-4 và 1-5 quân và dân ta nổi dậy và tiến công liên tục, hoàn thành
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện trọn vẹn Di chúc thiêng
liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh "đánh cho ngụy nhào", kết thúc thắng lợi cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Trong suốt 50 ngày đêm chiến đấu của quân và dân ta, các hoạt động thông
tin tuyên truyền đã kịp thời đưa tin chiến thắng, trong đó có bức ảnh lịch sử xe
tăng ta húc đổ cổng sắt dinh Độc Lập. Việc chiếm lĩnh Đài phát thanh, Đài
truyền hình Sài Gòn và Việt Tấn xã (cơ quan thông tấn của nguỵ quyền Sài
Gòn) được tiến hành nhanh, gọn trong ngày 30-4-1975 và đưa vào hoạt động
ngay trong ngày 30-4, 1-5.
Ở miền Bắc, Ban Tuyên huấn Trung ương đã chỉ đạo các cơ quan tuyên
truyền chuẩn bị sẵn sàng đón mừng thắng lợi của chiến dịch Hồ Chí Minh. Qua
báo chí và đài phát thanh, nhân dân cả nước vui mừng, hồi hộp theo dõi các
bước tiến quân của bộ đội ta, đặc bìệt trong thời điểm quân ta đã áp sát Sài Gòn
và những ngày diễn ra chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Trưa 30-4-1975, sau khi
tin quân ta đã tiến vào dinh Độc Lập, buộc ngụy quyền đầu hàng không điều
kiện, chiến dịch Hồ Chí Minh toàn thắng, nhân dân Thủ đô Hà Nội và các thành
phố, thị xã, thị trấn đổ ra đường tụ tập trước các bản đồ chiến sự, các bản tin và
loa truyền thanh, hàng vạn và chục vạn người tuần hành, đánh trống, chiêng, đốt
pháo, tung hoa, múa sư tử, rước cờ, rước ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh, hô vang
các khẩu hiệu mừng chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam, ca ngợi Tổ
quốc Việt Nam anh hùng. Ở Hà Nội, nhiều người nước ngoài cũng xuống đường
tuần hành chào mừng thắng lợi vĩ đại của nhân dân Việt Nam. Ngày 30-4 trở
thành ngày hội mừng chiến thắng của toàn thể dân tộc Việt Nam.
Trải qua 21 năm chiến đấu, sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta
dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đánh thắng cuộc chiến tranh xâm lược thực dân
mới, với quy mô lớn của tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất thế kỷ này,
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước. Thắng lợi đó
của nhân dân ta "mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc ta như một trong
những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ
nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to
lớn và có tính thời đại sâu sắc"[54].
Trong 21 năm chống Mỹ cứu nước và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa
xã hội, công tác tư tưởng đã góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của dân
tộc.
Đặc điểm lớn nhất của thời kỳ này là đất nước tạm chia làm hai miền với
hai chế độ khác nhau. Đảng lãnh đạo tiến hành đồng thời hai chiến lược cách
mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân ở miền Nam. Trong bất kỳ tình huống nào, Đảng và nhân dân ta cũng
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chiến tranh là một thử
thách lớn nhất đối với dân tộc và sự lãnh đạo của Đảng. Đảng và nhân dân ta
phải đấu trí và đấu sức chống tên đế quốc giàu mạnh và hung bạo nhất trong phe
đế quốc. Để giành được thắng lợi, phải động viên được ý chí và sức mạnh đoàn
kết chiến đấu, năng lực sáng tạo và nỗ lực phi thường của toàn dân dưới ngọn cờ
của Đảng.
Để góp phần thực hiện nhiệm vụ đó, qua mỗi bước chuyển của cuộc chiến
tranh, công tác tư tưởng đã tiến hành động viên chính trị sâu rộng mạnh mẽ, liên
tục trong Đảng và trong nhân dân làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhất
trí sâu sắc với đường lối cách mạng của Đảng và quyết tâm với chiến lược của
Trung ương, đánh giá đúng địch, ta nhận rõ tình hình và nhiệm vụ, nâng cao tính
tự giác, sáng tạo trong hành động, biến đường lối và quết tâm của Đảng thành
hiện thực.
Bằng nhiều hoạt động phong phú, công tác tư tưởng đã góp phần phát huy
đến đỉnh cao chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam.
"Không có gì quý hơn độc lập, tự do", "yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là
một" là những chủ đề xuyên suốt trong các hoạt động tư tưởng. Những tấm
gương anh hùng, dũng sĩ, những "người tốt, việc tốt" những cái hay, cái đẹp nảy
sinh trong sản xuất, chiến đấu và công tác được nêu cao, góp phần xây dựng đạo
đức mới, chuẩn mực sống mới của con người Việt Nam, đấu tranh bảo vệ văn
hoá dân tộc, chống văn hoá nô dịch và đồi truỵ của Mỹ - ngụy.
Công tác tư tưởng đã kết hợp giáo dục chủ nghĩa yêu nước với tinh thần
quốc tế vô sản, lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "giúp bạn là tự giúp mình",
động viên quân và dân ta thực hiện liên minh chiến đấu giữa ba nước Đông
Dương chống Mỹ, xác định rõ đánh thắng Mỹ là thiết thực làm nghĩa vụ quốc tế
của nhân dân ta đối với cách mạng thế giới.
Trong cuộc chiến đấu trường kỳ, quyết liệt và phức tạp chưa từng thấy,
công tác tư tưởng đã thường xuyên góp phần xây dựng, vun đắp và phát huy
niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và tự tin vào sức mạnh của dân tộc, dám
đánh Mỹ, sáng tạo nhiều cách đánh Mỹ, kiên quyết đánh Mỹ đến thắng lợi hoàn
toàn và lập trường hiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa đã lựa chọn.
Trong suốt 21 năm trường kỷ kháng chiến, Đảng ta đã huy động các cơ quan
tuyên truyền và văn hoá của Đảng và Nhà nước, các ngành, các giới, các lực
lượng vũ trang phối hợp tiến hành trường kỳ động viên chính trị, giáo dục tư
tưởng, đặc biệt là đối với cán bộ, đảng viên, những người có trách nhiệm đi đầu,
vận động và tổ chức phong trào quần chúng. Tuy có những lúc lãnh đạo tư
tưởng thiếu chặt chẽ, không kịp thời, những vấn đề bức xúc đặt ra chậm được
giải đáp, song nhìn chung khi diễn ra những bước ngoặt của cuộc chiến tranh,
khi tình hình trong nước và quốc tế có những biến động phức tạp, khi địch dùng
những thủ đoạn mới để chống phá, khi cách mạng thắng lợi cũng như khi gặp
khó khăn, tổn thất, công tác tư tưởng đã căn cứ các nghị quyết của Đảng tạo sự
thống nhất về nhận thức, uốn nắn những lệch lạc, định hướng đúng cho hành
động của toàn Đảng, toàn dân.
Công tác tư tưởng đã chú trọng làm thấu suốt tư tưởng chiến lược tiến công
và quán triệt tư tưởng tiến công trên mặt trận tư tưởng, xây dựng sự nhất trí về
chính trị và tinh thần trong xã hội, phát hiện và uốn nắn những tư tưởng lệch lạc,
ngại chiến đấu lâu dài, sợ gian khổ, hy sinh, hữu khuynh, cố thủ, bi quan, dao
động, khuynh hướng giản đơn, nóng vội, muốn thắng nhanh hoặc ảo tưởng hòa
bình, chủ quan, mất cảnh giác. Trên cơ sở xây dựng sự vững vàng về tư tưởng
chính trị trong nội bộ, giáo dục cảnh giác, chống chiến tranh tâm lý của địch.
Công tác tư tưởng đã kết hợp tốt với công tác tổ chức, tập hơp rộng rãi tất
cả mọi người Việt Nam yêu nước, chống Mỹ - ngụy, làm dấy lên một cao trào
chống Mỹ, cứu nước của toàn dân với khí thế sôi nổi, hào hùng, thu hút mọi
tầng lớp mọi lứa tuổi, miền xuôi, miền ngược, tiền tuyến, hậu phương, trên mọi
lĩnh vực sản xuất, chiến đấu và công tác; phát huy mạnh mẽ trí thông minh, tài
sáng tạo của quần chúng, từ người nông dân, công nhân bình thường đến anh bộ
đội, chị du kích, nhà khoa học.. . hành động thiết thực, tạo nên hiệu quả lớn "Tất
cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược. Mỗi phong trào cụ thể của các ngành, các
giới đều mang đậm khí phách của dân tộc, đem lại kết quả "được việc, được tổ
chức, được người" là một thành công lớn và kinh nghiệm quý báu trong công tác
tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng của Đảng ta.
Công tác tuyên truyền đối ngoại ngày càng được mở rộng đã góp phần nêu
cao chính nghĩa Việt Nam, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam, tranh thủ
được sự giúp đỡ to lớn và có hiệu quả của nhân dân Liên Xô, Trung Quốc và các
nước xã hội chủ nghĩa anh em, sự đồng tình ủng hộ rộng rãi của bè bạn và các
lực lượng hòa bình, tiến bộ trên thế giới, góp phần hình thành hậu phương quốc
tế của cuộc kháng chiến chống Mỹ của nhân dân ta. Nhân dân ta vô cùng xúc
động trước lời tuyên bố của Chủ tịch Phiđen Cátxtrô: Vì Việt Nam, nhân dân
Cuba sẵn sàng dâng cả máu của mình.
Trong hoàn cảnh địch đánh phá ác liệt, vượt qua bom đạn, các lớp chính trị
vẫn mở, báo, đài càng phát triển, tiếng hát át tiếng bom… Trải qua 21 năm
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, các binh chủng
trên mặt trận tư tưởng: giáo dục lý luận chính trị, báo chí xuất bản, tuyên truyền
cổ động, văn hoá văn nghệ… Ở mỗi miền, đều được rèn luyện và phát triển,
xứng đáng là lực lượng xung kích góp phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của
dân tộc.
Cùng với quân dân cả nước và các cán bộ trên mọi ngành hoạt động, đội
ngũ cán bộ công tác tư tưởng dù hoạt động ở hậu phương lớn hay tiền tuyến
lớn, ở vùng địch tạm chiếm hay vùng tự do dù phải đấu tranh trong hoàn cảnh
khắc nghiệt của nhà tù của Mỹ - ngụy, . . . đều tỏ rõ lòng trung thành với Đảng,
với Tổ quốc, vượt qua mọi gian khổ hy sinh, nỗ lực phấn đấu để hoàn thành
nhiệm vụ. Hàng ngàn cán bộ tuyên huấn từ Trung ương đến địa phương và cơ
sở, cán bộ các trường đảng, các cơ quan báo chí, đài phát thanh, thông tấn xã,
các ngành văn hoá, nghệ thuật, từ cán bộ lãnh đạo đến công nhân kỹ thuật và
nhân viên phục vụ, các phóng viên, biên tập viên, giảng viên chính trị, nhà văn,
nhà nhiếp ảnh, nhà quay phim, nhạc sĩ, đội viên văn công, chiếu bóng, v.v.. đã
hy sinh vì nhiệm vụ, đến nay vẫn chưa thể tập hợp hết số lượng và danh sách.
Tổ chức của toàn ngành, và các binh chủng đều được củng cố và phát triển.
Đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành mới được bổ sung một lớp cán bộ trẻ, đã
qua đào tạo tương đối có hệ thống, được rèn luyện trong thực tiễn phong trào
quần chúng. Sau thắng lợi, Ban Tuyên huấn Trung ương đã bước đầu sơ kết
công tác tư tưởng thời kỳ chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Song cần tổng kết sâu sắc hơn để góp phần vào phát huy kinh nghiệm và truyền
thống của ngành trong thời kỳ mới.