Upload
others
View
2
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
KHÁI NIỆM THÀNH PHỐ THÔNG MINH Khái niệm thành phố thông minh rất đa
dạng. Mặc dù được biết đến trên toàn thế giới, khái niệm này được sử dụng với nhiều cách hiểu, cách tiếp cận và bối cảnh thực thi khác nhau. Thành phố thông minh là sự lồng ghép giữa hạ tầng, dịch vụ, ứng dụng công nghệ, nguồn lực xã hội để phát triển hạ tầng, tăng cường thể chế và huy động sự tham gia của người dân. Do đó, thành phố thông minh là một thuật ngữ phức tạp và đa nghĩa.
*Giám đốc Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
TS. Trần Hữu Hà*
XÂY DỰNG THÀNH PHỐ THÔNG MINH>> GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI
Tóm tắt: Đô thị hóa đặt ra vấn đề cấp thiết phải có các giải pháp thông minh hơn để kiểm soát những thách thức từ phát triển nhằm hướng tới phát triển các đô thị tích hợp nhiều tiện ích. Vậy làm thế nào để có thể giải quyết khó khăn trước mắt và những thách thức đặt ra. Bài báo giới thiệu khái quát về đô thị thông minh và những lợi thế, thách thức khi xây dựng đô thị thông minh tại Việt Nam; từ đó đề xuất một số giải pháp phát triển đô thị theo hướng thông minh và bền vững.
Từ khóa: Xây dựng, đô thị thông minh, quản lý đô thị.Abstract: Urbanization poses an urgent need for
smarter solutions to control the challenges of development in order to aim at developing cities integrating many convenient facilities. So how to solve the current difficulties and the challenges given? The article briefly introduces smart city and the advantages as well as challenges when building smart city in Vietnam. Then, it proposes some solutions to develop city smartly and sustainably.
Key words: Building, smart city, urban management
6 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
“Thành phố thông minh” hay “Đô thị thông minh” là sự kết hợp giữa quản lý khai thác, phát triển không gian đô thị và ứng dụng công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin. Đô thị thông minh sẽ giúp người dân vận hành tất cả công việc trên hệ thống công nghệ thông tin dưới sự điều hành của một trung tâm. Đô thị thông minh làm cuộc sống con người trở nên dễ dàng hơn, môi trường sinh hoạt an toàn và thoải mái hơn. Sự tương tác giữa người dân và đô thị dễ dàng, linh hoạt hơn.
Xây dựng một đô thị thông minh là hướng đến thực hiện đô thị hóa một cách toàn diện. Chất lượng của đô thị hóa không chỉ thể hiện qua các số liệu báo cáo GDP, mà hơn hết nó thể hiện sự phát triển hài hòa, tổng thể mọi mặt của đô thị. Vừa hướng đến mục tiêu tăng trưởng song cũng hướng đến sự thay đổi về chất lượng cuộc sống của cư dân đô thị. Khái niệm về đô thị thông minh đang dần trở nên rõ nét và càng có ý nghĩa hơn khi đô thị hóa đang trở thành xu thế của toàn cầu. Sự phát triển của thành phố thông minh chính là hướng tới sự thay đổi về chất cho quá trình đô thị hóa, mà ở đó công nghệ, khoa học kỹ thuật được áp dụng một cách có hiệu quả nhằm đem đến một môi trường sống ổn định, lành mạnh hơn cho người dân. Đặc biệt là thay đổi phương thức quản lý của các nhà quản lý đô thị trong giai đoạn mới.
NHỮNG LỢI THẾ VÀ THÁCH THỨC KHI XÂY DỰNG ĐÔ THỊ THÔNG MINH TẠI VIỆT NAM
1. Lợi thếQuản lý đô thị là quản lý động
lực phát triển kinh tế Hiện nay, Việt Nam có hơn 800 đô
thị, trong đó đô thị có quy mô lớn là 2 đô thị đặc biệt: Thủ đô Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh (quy mô trung bình 7-8 triệu người); khoảng gần 30 đô
thị tương đối lớn bao gồm: các đô thị loại I và loại II có quy mô từ 25 vạn đến 1,5 triệu người. Năm 2016, tổng thu ngân sách của các tỉnh trực thuộc Trung ương luôn dẫn đầu danh sách cả nước . Tổng thu ngân sách của 5 thành phố ước đạt 538, 331 nghìn tỷ đồng, bằng 48,56% thu ngân sách cả nước, trong đó TP. Hồ Chí Minh tổng thu ngân sách đạt 307,336 nghìn tỷ đồng, bằng 57,84% tổng thu ngân sách của Cụm 5 thành phố. Có thể xem đây là một lợi thế khi chúng ta quản lý đô thị theo hướng hiện đại, thông minh bởi quản lý đô thị là quản lý động lực phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, việc phát triển đô thị thông minh cần phải hướng giải quyết các vấn đề như: Số dân đô thị tăng nhanh dẫn đến áp lực của đô thị tăng (môi trường, giao thông, dịch vụ y tế, an toàn, nhà ở…); hạ tầng lạc hậu, quá tải; cạnh tranh kinh tế giữa các đô thị, giữa các vùng ngày càng gay gắt và đòi hỏi ngày càng cao của người dân về chất lượng cuộc sống. Vì vậy, việc nghiên cứu, tìm ra mô hình quản lý và phát triển các đô thị không chỉ có ý nghĩa cấp bách trước mắt, mà còn có ý nghĩa chiến lược lâu dài cho sự phát triển bền vững của đất nước, xây dựng đô thị thông minh là một lựa chọn tất yếu, phù hợp xu thế phát triển của thời đại.
Việt Nam đang phát triển theo hướng tiếp cận với nhiều mô hình tiên tiến cùng xu thế hội nhập quốc tế
Lợi thế thứ hai có thể kể đến là các đô thị Việt Nam đang phát triển theo hướng tiếp cận với nhiều mô hình tiên tiến theo xu thế hội nhập quốc tế, tạo ra những tiền đề về ứng dụng và phát triển CNTT, truyền thông để phát triển đô thị thông minh và quản lý thông minh. Hiện nay Việt Nam có gần 50 triệu người sử dụng Internet, đạt tỷ lệ trên 53% dân số, cao hơn mức trung bình thế giới là 46,64%. Việt Nam đứng vị trí thứ 16 trong top 20 quốc gia có số lượng người sử dụng Internet nhiều nhất tại châu Á. Việt Nam có gần 14.000 doanh nghiệp CNTT với 500.000 lao động và doanh thu lớn. Việt Nam cũng đã đạt được nhiều thành tựu trong việc ứng dụng CNTT vào hoạt động quản lý nhà nước và các lĩnh vực đời sống xã hội, rõ nhất là ở các lĩnh vực quản lý ngân sách và kho bạc, quản lý thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội, giáo dục, y tế, quản lý giao thông, quản lý đất đai, quy hoạch, xây dựng, môi trường…
Việt Nam có gần 20 tỉnh, thành phố xây dựng các dự án thí điểm về phát triển công nghệ thông tin
Hiện nay, ở Việt Nam có gần 20 tỉnh, thành phố đã tổ chức hội thảo và ký thoả thuận hợp tác (MOU) với các doanh nghiệp viễn thông – công nghệ thông tin (CNTT) để xây dựng các dự án thí điểm về phát triển đô thị thông minh. Cụ thể: TP. Hồ Chí Minh là một trong những thành phố lớn nhất cả nước đã có Quyết định số 4693 ngày 8/9/2016 về thành lập Ban Điều hành thực hiện Đề án “Xây dựng TP. Hồ Chí Minh trở thành đô thị thông minh”. Để xây dựng thành phố thông minh, UBND TP. Hồ Chí Minh và Tập đoàn Bưu chính viễn thông Việt Nam (VNPT) đã ký thỏa thuận hợp tác Tư vấn khung về công nghệ thông tin
“Thành phố thông minh” hay “Đô thị thông minh” cần sự kết hợp các tiện ích đô thị với công nghệ thông tin
7Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
và truyền thông (ICT) trong xây dựng và triển khai Đề án “Xây dựng TP. Hồ Chí Minh trở thành thành phố thông minh giai đoạn 2017 – 2025, tầm nhìn đến năm 2030”. Tại Đà Nẵng, ngày 25/3/2014 Chủ tịch UBND thành phố Đà Nẵng đã ký Quyết định 1797 phê duyệt Đề án “Xây dựng thành phố thông minh hơn tại Đà Nẵng giai đoạn 2014 – 2020”. Chiến lược phát triển đô thị thông minh tại Đà Nẵng sẽ theo hướng xây dựng một chính quyền thông minh kết nối được với những công dân thông minh, doanh nghiệp thông minh. Tại Bình Dương cũng đang có những bước đi đầu tiên để chuẩn bị cho lộ trình xây dựng thành phố thông minh. Tháng 9/2016, với sự phối hợp của Tập đoàn Braintport (Hà Lan) và Tổng Công ty Becamex IDC đã xây dựng Đề án “Xây dựng Thành phố thông minh Bình Dương” dựa trên mô hình của thành phố Eindhoven và báo cáo với UBND tỉnh Bình Dương để tiến tới hoàn thiện và có các bước triển khai phát triển đô thị thông minh tiếp theo trên địa bàn tỉnh. Với vị thế đặc biệt và cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ, Phú Quốc là địa điểm rất thích hợp để trở thành thành phố thông minh. Ngày 29/9/2016, UBND Tỉnh Kiên Giang và VNPT đã tổ chức Hội nghị xây dựng và triển khai đề án thành phố thông minh Phú Quốc. Trong lộ trình xây dựng Phú Quốc trở thành thành phố thông minh, có 4 giai đoạn. Đó là: Bước đầu triển khai hạ tầng mạng, công nghệ thông tin và triển khai các dịch vụ cơ bản. Sau đó, Phú Quốc sẽ xây dựng Trung tâm vận hành tập trung, triển khai thêm các dịch vụ thông minh và cuối cùng là xây dựng thành phố thông minh theo xu hướng thế giới và Việt Nam. Trong năm 2016, VNPT đã triển khai các dịch vụ cơ bản nhất, phục vụ nhu cầu thiết yếu của Phú Quốc như xây dựng Chính quyền điện tử, hệ thống Smart Wifi và hệ thống giám sát môi trường. Tại Thanh Hóa, bên cạnh các hoạt động hội thảo chuyên ngành, ngày 21/9/2016, Dự thảo Kế hoạch xây dựng mô hình thành phố thông minh hướng đến xây dựng thành phố Thanh Hóa, thành phố Sầm Sơn, thị xã Bỉm Sơn và các đô thị động lực trở thành thành phố thông minh đã được lập và báo cáo UBND tỉnh, trong đó thúc đẩy việc ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý đô thị, từng bước nâng cao chất lượng sống cho người dân, phát triển các thành phố
thuộc tỉnh Thanh Hóa theo định hướng thành phố thân thiện với môi trường, thành phố đáng sống, phát triển bền vững; góp phần làm tăng sức hấp dẫn của tỉnh để thu hút các nguồn lực đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Ở tầm quốc gia, tháng 12/2016, trên cơ sở xem xét nội dung kiến nghị của Bộ Thông tin & Truyền thông tại báo cáo kèm theo văn bản 3963/BTTTT-KHCN ngày 11/11/2016 về xây dựng đô thị thông minh bền vững trên thế giới và Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu các Bộ, ngành, địa phương tăng cường ứng dụng CNTT, xây dựng Chính phủ điện tử theo Nghị quyết 36a ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử và Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 đã được ban hành kèm theo Quyết định 1819 ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng chỉ đạo Bộ Thông tin và Truyền thông khẩn trương chủ trì, phối hợp với Bộ Xây dựng và các cơ quan liên quan xây dựng, ban hành tiêu chí đánh giá, công nhận đô thị thông minh và hướng dẫn các địa phương thực hiện, bảo đảm việc đầu tư thiết thực, hiệu quả, phù hợp với khả năng cân đối vốn và điều kiện của từng địa phương, tránh đầu tư theo phong trào, lãng phí, thất thoát.
2. Thách thứcĐánh giá chung, phát triển “đô thị thông minh” ở nước
ta đang ở trong các giai đoạn ban đầu, một số đô thị đã quan tâm bắt tay vào việc xây dựng và phê duyệt các đề án, quy hoạch phát triển đô thị thông minh, điển hình như TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Bình Dương, Kiên Giang, Thanh Hóa… Trong quá trình đó, các công ty viễn thông, công nghệ thông tin đóng vai trò khá tích cực và quan trọng trong việc giới thiệu các giải pháp xây dựng đô thị thông minh cho chính quyền. Tuy nhiên, lựa chọn một chiến lược phát triển phù hợp với điều kiện từng địa phương để phát triển đô thị thông minh trên khắp cả nước có hiệu quả không chỉ đơn thuần là phát huy tốt yếu tố công nghệ mà quan trọng hơn hết chính là tiềm năng con người. Đặc biệt chúng ta cần thẳng thắn đánh giá và nhận thức rõ những thách thức để từ đó có những chiến lược ngắn hạn cũng như trong dài hạn một cách cụ thể và chi tiết hơn.
Xây dựng đô thị thông minh là hướng đến thực hiện đô thị hóa
một cách toàn diện vì mục tiêu chất lượng cuộc sống8 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Vấn đề đầu tiên cần kể đến là điều kiện phát triển cho các đô thị thông minh chưa đồng bộ, hạ tầng cũng chưa được phát triển toàn diện. Do vậy, việc áp dụng hệ thống công nghệ cao trong phát triển đô thị ẩn chứa nhiều thách thức. Đặc biệt là khi lồng ghép hệ thống công nghệ cao vào sử dụng sẽ có những khó khăn nhất định.
Vấn đề thứ hai là sự tiếp nhận của người dân, đặc biệt là người quản lý đô thị. Để sở hữu những căn hộ thông minh trong khu đô thị thông minh, người dân bắt buộc phải chi trả một chi phí nhất định trong quá trình sử dụng, và chắc chắn là không rẻ. Thế nên, điều quan trọng là cần phải nâng cao nhận thức cho người dân để nhận thấy sự khác biệt giữa khu đô thị truyền thống và đô thị thông minh.
Để giải quyết bài toán thiếu đồng bộ giữa đô thị cũ và đô thị mới trong tương lai thì việc tạo hành lang pháp lý phù hợp, những quy chuẩn thích hợp với điều kiện của Việt Nam cũng như những Nghị định, Thông tư hướng dẫn chi tiết của các Bộ, Ngành liên quan nhằm tạo điều kiện để đô thị thông minh được phát triển theo hướng Thông minh là việc làm cần thiết ngay lúc này. Điều này cũng giúp cho công tác quản lý đô thị một cách hiệu quả và đồng bộ hơn. Hiện tại, một số khu chung cư mới đã được các nhà đầu tư đã áp dụng các quy chuẩn quốc tế để tạo sự cạnh tranh. Tuy nhiên đây mới chỉ là một giải pháp trước mắt mà thôi.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH
Điểm khó khăn nhất khi xây dựng thành phố thông minh chính là làm thế nào để thông qua hệ thống chia sẻ thông tin loại trừ trường hợp thông tin không tích hợp hoặc thông tin bị cô lập. Sự phát triển của thành phố thông minh chính là hướng tới sự thay đổi về chất cho quá trình đô thị hóa mới, một mặt áp dụng khoa học
kỹ thuật hiện đại, tri thức để thay đổi cách quản lý, một mặt đem đến hiệu quả và môi trường sống ổn định, lành mạnh hơn cho cư dân sống sinh sống tại đô thị đó. Đô thị thông minh hoạt động do con người và vì con người. Con người là chủ thể, công nghệ chỉ đóng vai trò hỗ trợ việc quản lý đô thị sao cho hiệu quả. Chính vì vậy, vấn đề công nghệ và con người là một trong những yếu tố cơ bản giúp giải quyết tốt mục tiêu phát triển đô thị theo hướng hiện đại hóa, thông minh hóa. Không có một mô hình chuẩn nước nào về đô thị thông minh cho Việt Nam.
Con người là chủ thể quản lý Giải pháp đầu tiên cần đề cập tới chính là con người,
dùng tri thức để thúc đẩy đô thị hóa. Xây dựng thành phố thông minh là áp dụng công nghệ khoa học (Công nghệ ICT) vào ứng dụng trong đô thị hiện đại. Nói như vậy không có nghĩa đưa công nghệ hiện đại áp dụng vào đô thị truyền thống để đạt được mục tiêu công nghệ hóa đô thị. Dù giải pháp nào thì con người vẫn là chủ thể của công nghệ. Như vậy, đồng nghĩa với việc sẽ không có tính mở và tiêu chuẩn hóa cho một dự án xây dựng thành phố thông minh khi không có con người để vận hành nó. Các hoạt động quản lý và sử dụng công nghệ thông minh cần đặt trên nền tảng hợp tác nhóm, bao gồm việc đào tạo cán bộ quản lý biết phối hợp thông qua công nghệ thông minh, bồi dưỡng cư dân biết hợp tác và sử dụng các ứng dụng thông minh. Việc hợp tác giữa các nhóm quản lý đô thị theo chuyên đề và nhóm người sử dụng là hoạt động trung tâm và quan trọng nhất trong việc đem lại hiệu suất ứng dụng công nghệ cao và hiệu quả. Mục tiêu lớn nhất mà chúng ta muốn hướng đến khi xây dựng thành phố thông minh là kinh tế thông minh, giao thông thông minh, quản lý đô thị thông minh hay cuộc sống thông minh, con người thông minh… Ở đó, tiện ích đô thị luôn là mục tiêu cơ bản nhất. Con người là chủ thể quyết định cho sự thành công khi áp dụng đô thị thông
Phát triển thành phố thông minh chính là hướng tới sự thay đổi về chất cho quá trình đô thị hóa
Khóa đào tạo Nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị cho Chủ tịch, Phó Chủ tịch các thành phố, thị xã khu vực phía Bắc
9Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
minh và cũng là người thụ hưởng trực tiếp những tiện ích của đô thị thông minh. Ngoài việc nâng cao tầm nhận thức của người dân về đô thị, những người làm công tác đô thị phải có tầm nhìn mang tính định hướng và chiến lược trong công tác quy hoạch, xây dựng thành phố thông minh. Điều cần nhấn mạnh ở đây là các vấn đề đô thị hóa thông minh cần phải được giải quyết bằng khoa học kỹ thuật nhất là trong quá trình đô thị hóa quá mức, giao thông quá mức trong khi tiềm lực kinh tế lại hạn hẹp.
Ứng dụng công nghệ khoa học và hợp lýThành phố thông minh không chỉ là bước đột phá
kiểu mới mà ở đây công nghệ được ứng dụng, vận hành một cách khoa học, hợp lý. Công việc cần làm trong thành phố thông minh không chỉ do một bộ phận chuyên trách hoặc ứng dụng công nghệ mà cần một hệ thống tổng thể với nguồn thông tin lớn nhằm hướng đến một mục tiêu chung. Đô thị thông minh là nơi mà chính quyền địa phương cũng như cư dân sử dụng nhiều ứng dụng công nghệ trong cuộc sống đời thường và trong công tác quản lý địa phương. Các ứng dụng điển hình của thành phố thông minh như: Quản lý thông tin các dự án quy hoạch, công trình bất động sản; Lập, theo dõi, phối hợp triển khai kế hoạch cho cá nhân, phòng ban, dự án, doanh nghiệp hoặc các cấp quản lý nhà nước về quy hoạch và phát triển đô thị; Cảm biến theo dõi mức độ ô nhiễm không khí, đo tiếng ồn; công nghệ để xây dựng giao thông thông minh, cảm biến để quản lý bãi đỗ xe, công nghệ quản lý nguồn nước; công nghệ xử lý rác thải...
Công nghệ thông tin ngày nay phát triển rất nhanh và kinh phí cho những giải pháp công nghệ tiên phong ứng dụng trong quản lý đô thị thường rất tốn kém, trên thế giới hiện vẫn chưa có những đô thị thông minh toàn diện mà chỉ có những đô thị thông minh theo hướng tập trung vào một số lượng chọn lọc nhất định trong các lĩnh vực như: Chính quyền điện tử, quản lý đô thị, giao thông vận tải, hạ tầng, môi trường, tiết kiệm năng lượng, y tế và sức khỏe, an ninh trật tự, giáo dục, viễn thông,… Ở Việt Nam, tại các đô thị đặc biệt lớn, như Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, việc ứng dụng giải pháp công nghệ thông minh có thể đem lại hiệu quả kinh tế cao cho những yêu cầu bức thiết nhất như quản lý hạ tầng và giao thông, quản lý ngập lụt và môi trường, quản lý hành chính và chính quyền điện tử.
Trong quá trình xây dựng thành phố thông minh cần giải quyết bài toán bắt đầu từ đâu? Bắt đầu như thế nào? Thay vì câu hỏi bắt đầu từ đâu, chúng ta nên nhìn nhận dưới góc độ của một cư dân sinh sống tại đô thị thông minh để trả lời câu hỏi. Quá trình xây dựng cần phải suy
nghĩ đến quy hoạch tổng thể, bao gồm nguồn lực tài chính, kế hoạch đầu tư, quản lý các hạng mục trong quá trình xây dựng, thông tin dịch vụ, phân cấp của cơ quan quản lý hành chính nhà nước, vai trò của các tổ chức đoàn thể và huy động nguồn vốn từ bên ngoài. Khi bài toán bắt đầu từ đâu được giải quyết thì đồng nghĩa với việc bắt đầu như thế nào đã được trả lời.
Thay đổi tư duy và hệ thống quản lý phù hợp với việc
áp dụng công nghệ thông minh: Việc tích hợp công nghệ thông minh sẽ không hiệu quả nếu không thực hiện song hành với việc cải tổ hệ thống, đổi mới tư duy quản lý đô thị theo khoa học. Việc tạo lập nền tảng pháp lý cho chính sách và tổ chức quản lý đô thị thông minh cũng rất quan trọng. Cho đến hiện nay, Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 là văn bản pháp luật duy nhất nói về xây dựng thành phố thông minh trong nước. Chính phủ cần nhanh chóng lập một chiến lược quốc gia về phát triển đô thị thông minh tại Việt Nam và các Nghị định, Quyết định, Thông tư hướng dẫn kèm theo, không chỉ về mặt công nghệ mà cả về mặt đổi mới tư duy quản lý và cải tổ cơ cấu tổ chức hành chính đô thị phù hợp với xu hướng đô thị thông minh kết nối mạng, để hướng dẫn cho các đô thị trong nước có thể lập kế hoạch phát triển đô thị thông minh, vừa phù hợp với nhu cầu của địa phương, vừa hướng đến việc kết nối liên thông với nhau trong tương lai theo một chiến lược quốc gia thống nhất.
HỌC VIỆN AMC ĐỐI VỚI CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐÔ THỊ THÔNG MINH
Các vấn đề phát sinh trong đô thị đang ngày càng trở nên nghiêm trọng khi lượng người đổ dồn về đô thị sinh sống ngày càng cao, điều này đòi hỏi người cán
Công việc cần làm trong thành phố thông minh không chỉ do một bộ phận chuyên trách hoặc ứng dụng công nghệ mà cần mộthệ thống tổng thể với nguồn thông tin lớn nhằm hướng đến
mục tiêu chung
10 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Hội thảo Thúc đẩy đổi mới đô thị với mô hình Thành phố thông minh tổ chức tại Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
bộ làm công tác quy hoạch đô thị phải nghĩ đến hướng giải quyết các vấn đề của đô thị bằng khoa học kỹ thuật thông minh. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của các đô thị cùng với nhiệm vụ được Chính phủ và Bộ Xây dựng giao là đơn vị chủ trì thực hiện Đề án 1961 về “Đào tạo bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý về xây dựng và phát triển đô thị đối với công chức và lãnh đạo chuyên môn đô thị các cấp”, những năm qua, hơn 10.000 lượt cán bộ quản lý, chuyên môn đô thị đã được đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực quản lý xây dựng và phát triển đô thị. Hiện nay, Học viện đã và đang tích cực triển khai nhiều thỏa thuận hợp tác đào tạo và phân phối giải pháp quản lý quy hoạch và phát triển đô thị trong việc thúc đẩy phát triển đô thị thông minh, điển hình là việc phối hợp với Công ty Cp công nghệ và phần mềm TPIZI cùng nghiên cứu tạo lập, ứng dụng, phân phối phần mềm trong quản lý đô thị tại Việt Nam.
TPIZI.COM là phần mềm điện toán đám mây phục vụ công tác số hóa, quản lý thông tin các dự án quy hoạch, quản lý thông tin các dự án bất động sản, và đã được đăng ký bản quyền với Cục Bản quyền tác giả. Các tính năng của phần mềm TPIZI.COM bao gồm:
- Quản lý thông tin các dự án quy hoạch, các công trình bất động sản (cả nhà phân lô và nhà cao tầng) trên nền bản đồ trực tuyến phục vụ cho công tác quản lý quy hoạch và phát triển đô thị.
- Lập, theo dõi, phối hợp triển khai kế hoạch cho cá nhân, phòng ban, dự án, doanh nghiệp hoặc các cấp quản lý nhà nước về quy hoạch và phát triển đô thị.
- Quản lý công việc, quản lý các hồ sơ về tiến độ, tài chính, chất lượng... của các dự án đầu tư xây dựng ở mọi giai đoạn.
- Quản lý bán hàng, quản lý các đại lý bán hàng cho các dự án bất động sản bao gồm chung cư, khu đô thị, khu công nghiệp...
- Quản lý các Chủ đầu tư, dự án, người dân... thuộc
phạm vi số hóa.Hiện nay, Học viện đã trình Bộ Xây dựng phê duyệt
thành lập Trung tâm Đô thị Tiên tiến trực thuộc Học viện với mục tiêu thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, đào tạo, tư vấn ở trình độ quốc tế những vấn đề liên quan tới quản lý và phát triển đô thị bền vững của Việt Nam; kết nối các lãnh đạo, nhà quản lý, chuyên gia đô thị trong nước và quốc tế để chia sẻ tri thức trong lĩnh vực xây dựng, phát triển đô thị, huy động các nguồn lực tài chính, tri thức, cùng hợp tác với các thành phố xây dựng và phát triển. Trong đó đặc biệt xúc tiến xây dựng các mô hình thành phố thông minh.
Phát triển Đô thị thông minh ngày càng được quan tâm tại nhiều đô thị trên thế giới. Tại Việt Nam, sự quan tâm và xúc tiến nghiên cứu chương trình và lộ trình phát triển đô thị thông minh của chính quyền các đô thị tạo ra nhiều thuận lợi cho việc đổi mới hạ tầng và cơ cấu quản lý theo tư duy đô thị thông minh. Vấn đề quan trọng ưu tiên hàng đầu hiện nay là cần lập một chiến lược quốc gia về xây dựng và phát triển đô thị thông minh giúp các đô thị nước ta có thể phát triển bền vững, hài hòa, nhằm hướng đến mục tiêu chung vì chất lượng cuộc sống của con người.
Tài liệu tham khảo- Quyết định số 1819/QĐ-TTg ngày 26/10/2015 của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020
- Nghị quyết 36a ngày 14/10/2015 của Chính phủ về Chính phủ điện tử và Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020
- Công văn 10384/VPCP-KGVX Xây dựng đô thị thông minh bền vững trên thế giới và Việt Nam
- http://www.vietnamplus.vn/tang-ty-le-nguoi-dung-internet-viet-nam-len-muc-8090-dan-so/432087.vnp
11Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
BAC LIEUTHE GREEN LIFEOF A YOUNG CITY
Lưu Hoàng Ly*
*Chủ tịch UBND TP. Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu
Được công nhận là đô thị loại II năm 2014, đến nay TP. Bạc Liêu (tỉnh Bạc Liêu) được du khách đánh giá là một thành phố có nhiều đổi thay tích cực. Bạc Liêu đã tạo dựng hình ảnh về một thành phố năng động, hiếu khách, văn minh, lịch thiệp trong lòng mọi người. Về Bạc Liêu những ngày này mới cảm nhận hết được những đổi thay lớn trong diện mạo của một đô thị trẻ năng động: Đường phố khang trang, sạch đẹp; cây xanh tỏa bóng mát trên các cung đường; chất lượng cuộc sống người dân ngày càng nâng cao. Nhiều dự án, sự kiện văn hóa mang tầm quốc gia được tổ chức tại TP. Bạc Liêu càng khẳng định vị thế quan trọng của một thành phố trung tâm, niềm tự hào của người dân nơi đây.
Là thành phố trẻ, Bạc Liêu đang vươn mình trỗi dậy với
nhiều chương trình, dự án ấn tượng, hứa hẹn tạo ra một sức
vóc, diện mạo mới trong tương lai.
Recognized as a second-class city in
2014, evaluated by tourists as a city with a
lot of positive changes, Bac Lieu has grown
up and built for itself an image of a dynamic,
hospitable, civilized and polite city in visitors’
heart. Coming to Bac Lieu these days, visitors
can feel the great changes in the appearance
of a young and dynamic city: the streets
are wide and clean, where the trees are
green with cool shade; citizen’s life quality is
increasing ever. Many national- level projects,
cultural events have been held in Bac lieu
city, which affirms the important roles of a
central city, the pride of Bac lieu citizens.
As a young city, Bac Lieu is rising up with
many impressive programs and projects,
promising to create a new shape and
appearance in the near future.
BẠC LIÊU SỨC SỐNG XANH CỦATHÀNH PHỐ TRẺ
Quảng trường Hùng Vương - TP. Bạc Liêu
12 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Từ sự quyết tâm của người dân và chính quyền các cấp
Sau 05 năm thực hiện Nghị quyết số 01 của Tỉnh ủy
về xây dựng thành phố Bạc Liêu trở thành đô thị loại II,
thành phố xanh-sạch-đẹp, văn minh. Dưới sự lãnh đạo,
chỉ đạo sâu sát của Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban
nhân dân tỉnh; sự phối hợp, hỗ trợ tích cực của các sở,
ban, ngành cấp tỉnh, sự vào cuộc mạnh mẽ của tập thể
lãnh đạo và người dân, thành phố Bạc Liêu tiếp tục được
đầu tư nâng cấp và chỉnh trang theo hướng xanh - sạch
- đẹp.
Kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội được tăng cường; các
công trình có kiến trúc hiện đại và kiến trúc đặc trưng
của Bạc Liêu như: Quảng trường Hùng Vương, biểu tượng
văn hóa của tỉnh (Cây Đờn kìm cách điệu), Tượng đài chiến
thắng, Cổng chào thành phố Bạc Liêu, Khu lưu niệm
Nghệ thuật đờn ca tài tử Nam Bộ và cố nhạc sĩ Cao
Văn Lầu, Nhà thi đấu đa năng, Trung tâm Hội chợ
triển lãm, các khu du lịch, cụm nhà Công tử
Bạc Liêu, quần thể nhà cổ, kè hai bên bờ
sông Bạc Liêu... được đầu tư, trùng tu và
đưa vào khai thác, sử dụng góp phần làm
thay đổi diện mạo đô thị của thành phố
và tạo ấn tượng tốt cho sự phát triển kiến
trúc đô thị.
Không gian đô thị được mở rộng, các khu đô thị
mới được hình thành; hệ thống cây xanh, chiếu sáng
được tăng cường; hệ thống thoát nước thải được đầu tư,
cải tạo; ý thức bảo vệ môi trường của người dân được
nâng lên; các tuyến đường kiểu mẫu được hình thành;
hẻm nội ô, vỉa hè tiếp tục được nâng cấp, chỉnh trang, làm
cho diện mạo đô thị ngày càng khang trang, xanh - sạch
- đẹp hơn; trật tự, kỷ cương, văn minh đô thị được tăng
cường và dần đi vào nề nếp.
Sự phát triển đáng ghi nhậnLà trung tâm hành chính - chính trị, kinh tế, văn hóa - xã
hội, khoa học - kỹ thuật, dịch vụ, an ninh quốc phòng của
tỉnh Bạc Liêu, là đầu mối giao thương với các tỉnh, TP. Bạc
Liêu có đầy đủ ưu thế để phát triển kinh tế và văn hóa - xã
hội. Mặc dù năm 2016 còn gặp nhiều khó khăn trong bối
cảnh chung, nhưng với việc ban hành kịp thời các giải pháp
và làm tốt công tác lãnh đạo, chỉ đạo, nền kinh tế - xã hội của
thành phố tiếp tục tăng trưởng khá. Qua đó tạo nền tảng,
động lực cho năm 2017 tăng tốc, đưa thành phố phát triển
nhanh, xứng tầm là trung tâm kinh tế, du lịch của tỉnh.
Năm 2016, tốc độ tăng trưởng GRDP của thành phố là
7,18%, đạt 100,42% kế hoạch; tổng sản phẩm bình quân
đầu người hơn 59 triệu đồng/năm, đạt 100,34% kế hoạch.
Trong 23 chỉ tiêu của Nghị quyết số 01/NQ-TU về nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2016, các chỉ tiêu đều
đạt, một số chỉ tiêu vượt so với nghị quyết đề ra.
Ngành công nghiệp - xây dựng tiếp tục phát triển, một
số dự án động lực đang từng bước phát huy hiệu quả, giá
trị sản xuất công
nghiệp tăng 8,95%
so với cùng kỳ.
Hoạt động
thương
mại
tăng
t r ư ở n g
khá, tổng
mức bán lẻ
thương mại - dịch
vụ cả năm tăng 10,2%
so với cùng kỳ. Lĩnh vực du lịch tiếp
tục có bước phát triển khá mạnh, hạ
tầng du lịch được cải thiện, hoạt động dịch
vụ du lịch phong phú và có chất lượng hơn…
TP. Bạc Liêu đã và đang tập trung thực hiện rà soát
điều chỉnh, lập mới quy hoạch chi tiết, quy hoạch chung
thành phố đến năm 2030 tầm nhìn 2050, điều chỉnh cục
bộ một số quy hoạch chi tiết không còn phù hợp, hoàn
chỉnh quy hoạch chi tiết những khu dân cư đô thị sau khi
tỉnh điều chỉnh quy hoạch chung của thành phố. Cập
Cây Đờn kìm cách điệu - biểu tượng của văn hóa
Bạc Liêu
13Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
14 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
nhật, điều chỉnh và phê duyệt lại các quy hoạch chi tiết
của toàn thành phố đảm bảo phù hợp với quy hoạch
tổng thể kinh tế - xã hội đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030 (đã được tỉnh phê duyệt). Xây dựng quy chế quản lý
kiến trúc đô thị, trước hết là quản lý kiến trúc nội ô thành
phố; giải quyết cơ bản những yếu kém trong quản lý nhà
nước về xây dựng cơ bản, nhà, đất, giao thông, vỉa hè, trật
tự mua bán…
Nét đặc trưng và cũng là niềm tự hào của nhân dân
thành phố là nơi bắt nguồn cảm hứng của nhạc phẩm
“Dạ cổ hoài lang”; với các giai thoại về Công tử Bạc Liêu;
về gốc xoài có niên đại 300 năm tuổi, đồng hồ đá, sân
chim, vườn nhãn, khu du lịch tâm linh Phật Bà Nam Hải,…
đã được du khách gần xa biết đến. Đây cũng là thế mạnh
để thành phố đẩy mạnh phát triển kinh tế theo hướng
tăng tỷ trọng thương mại - dịch vụ - du lịch và công
nghiệp - xây dựng.
Đặt chân tới thành phố Bạc Liêu ngày hôm nay, người
dân và du khách có thể cảm nhận được rõ ràng sự phát
triển, nét nhộn nhịp đầy sức sống của một đô thị mới với
những điểm du lịch nằm cách trung tâm không xa như
chợ Bạc Liêu, Vườn chim, biển Nhà Mát, nhà hát và khu
tưởng niệm cố nhạc sỹ Cao Văn Lầu, quảng trường trung
tâm… Du khách cũng không khỏi trầm trồ với những con
đường được điểm tô bởi cây xanh và cờ hoa rực rỡ.
Hướng đến một đô thị văn minh, hiện đại và bền vững
Để xây dựng thành phố Bạc Liêu tương xứng với vị
trí trung tâm kinh tế, hành chính-chính trị, văn hóa, giáo
dục-đào tạo của tỉnh và là đô thị kiểu mẫu trong khu vực
theo tinh thần Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ thành
phố lần thứ XI. Thực hiện Kết luận số 15-KL/TU, ngày
04/01/2017 của Tỉnh ủy về xây dựng đô thị thành phố Bạc
Liêu theo hướng văn minh, từng bước hiện đại, Ban Chấp
hành Đảng bộ thành phố đề ra Nghị quyết về chỉnh trang,
nâng cấp đô thị theo hướng văn minh, từng bước hiện
đại.
Bạc Liêu hôm nay đặt ra mục tiêu tiếp tục nâng cao
các tiêu chí đạt thấp và sớm hoàn thành các tiêu chí chưa
đạt của đô thị loại II vào trước năm 2020, hướng đến đạt
cao các tiêu chí theo hướng văn minh, từng bước hiện
đại. Tăng cường công tác quy hoạch, quản lý và thực hiện
quy hoạch; tập trung chỉnh trang đô thị và thực hiện tốt
trật tự, kỷ cương, văn minh đô thị; tranh thủ các nguồn
lực đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Phát
huy hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa”, phường đạt chuẩn văn minh đô thị gắn với
chỉnh trang, nâng cấp đô thị. Nâng cao năng lực lãnh đạo,
quản lý của các cấp, các ngành; chỉnh trang, nâng cấp đô
thị đi đôi với đẩy nhanh quá trình phát triển kinh tế - xã
hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân
dân; phát huy hiệu quả các công trình văn hóa gắn với
việc bảo tồn giá trị nghệ thuật đờn ca tài tử và đưa thành
phố Bạc Liêu trở thành trung tâm phát triển du lịch của
tỉnh.
Tăng cường và đổi mới công tác quản lý nhà nước về
đô thị, thực hiện tốt nhất trách nhiệm công chức, công
vụ; nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành đối với
công tác này, tạo lập và duy trì cơ chế phối hợp giữa các
phòng, ban thành phố và Ủy ban nhân dân các phường,
xã, quyết tâm tạo sự gắn kết trách nhiệm của lực lượng
chức năng, chuyên ngành với cả hệ thống chính trị, phát
huy tối đa vai trò của lực lượng khóm, ấp, đoàn thể khu
dân cư, các mô hình tự quản trong công tác quản lý đô thị
nhằm đem lại hiệu quả cao trong công tác này.
Dù có đổi mới để phù hợp với sự phát triển của cuộc sống
hiện đại nhưng Bạc Liêu vẫn bảo tồn mà không làm mai
một những giá trị truyền thống.
Không còn ẩn mình trong những tháng ngày xưa cũ, Bạc
Liêu ngày nay đã trở mình vươn dậy với một sức sống hoàn
toàn mới Với những giải pháp đồng bộ, hy vọng TP. Bạc Liêu
sẽ ngày càng phát triển, hứa hẹn một sức vóc mới ở khu vực
đất chín rồng.
Thành phố đã giải quyết cơ bản những yếu kém trong quản lý nhà nước về xây dựng cơ bản, nhà đất, giao thông, vỉa hè, trật tự xây dựng
THE VI ANNUAL CONFERENCE OF THE SOUTH WESTERN MEMBER URBAN ASSOCIATION – 2017
THE CONFERENCE’S THEME: “PRACTICING ORDER – DISCIPLINE – URBAN
CIVILIZATION”The South Western Member Urban Association is
made up of 28 towns, cities in 13 provinces in the South
West region, which is a nuclear factor of the Mekong river
Delta. These cities play a very important role in the stable
development of the whole area in all fields of urban.
During the last several years, the member towns
and cities have made rapid steps in socio-economic
development, which is one of the important requirements
to the general development of localities. The work of
urban management, building and development has
made clear progresses, meeting the demanding need of
development. The annual conference is the place where
cities in the association meet, exchange information,
share their experience, cooperate, assist each other in
solving difficult obstacles and propose initiatives, effective
solutions in the work of urban management, building and
development.
The VI annual conference of the South Western
Member Urban Association – 2017, held by Bac Lieu city
People’s Committee in Bac lieu city on 28-29 September
2017, will create opportunities for member cities,
scientists, top experts, and international organizations to
meet, discuss, unify the overall orientations of the action
plan among the member cities in the Association, as well
as create the cohesion among cities so as to enhance the
socio-economic development.
Besides, the conference also gives proposals to build up
policies for inter-regional urban development, ensuring
the cities in the association to have harmonious, civilized,
modern and stable development along with the general
orientations. The activities of cooperation, exchange with
other cities in the country and abroad are enhanced so
that experiences can be learnt and exchanged in building,
managing and developing cities. In addition to its main
agenda, the conference organizes seminars on current
issues. The annual conference of the South Western
Member Urban Association year 2017 will be an important
step to create foundation and orientation in organizing
and cooperating activities of the South Western urban
Association in the following years.
15Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
HỘI NGHỊ THƯỜNG NIÊN CỤM ĐÔ THỊ HỘI VIÊN MIỀN TÂY NAM BỘ LẦN THỨ VI - NĂM 2017
CHỦ ĐỀ HỘI NGHỊ: “THỰC HIỆN TRẬT TỰ - KỶ CƯƠNG – VĂN MINH
ĐÔ THỊ”Cụm đô thị hội viên miền Tây Nam Bộ bao gồm 28
thị xã, thành phố thuộc 13 tỉnh thành miền Tây Nam
Bộ, là các hạt nhân của vùng đồng bằng sông Cửu
Long. Các đô thị đóng vai trò rất quan trọng trong sự
phát triển đô thị ổn định của toàn vùng trên các lĩnh
vực của đô thị.
Những năm qua các thị xã, thành phố hội viên đã
có bước phát triển nhanh về kinh tế - xã hội, đó là
một trong những yêu cầu quan trọng đối với sự phát
triển chung của các địa phương. Trong đó công tác
quản lý, xây dựng phát triển đô thị đã có những bước
tiến rõ rệt, từng bước đáp ứng được yêu cầu phát
triển ngày càng cao. Hội nghị thường niên là nơi để
các đô thị trong cụm gặp gỡ, trao đổi thông tin, chia
sẻ kinh nghiệm, hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau trong giải
quyết những khó khăn, vướng mắc và đưa ra sáng
kiến, đề xuất các giải pháp hữu hiệu trong công tác
quản lý, xây dựng và phát triển đô thị.
Hội nghị thường niên Cụm đô thị hội viên miền
Tây Nam Bộ lần thứ VI năm 2017, do Ủy ban nhân dân
thành phố Bạc Liêu tổ chức tại thành phố Bạc Liêu
ngày 28-29/9/2017 sẽ tạo điều kiện cho các đô thị
hội viên và các nhà khoa học, chuyên gia đầu ngành,
tổ chức quốc tế gặp gỡ, thảo luận, thống nhất định
hướng chung về kế hoạch hành động của Cụm đô
thị hội viên, cũng như tạo sự gắn kết giữa các đô thị,
cùng thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Hội nghị phối hợp tham gia đề xuất việc xây dựng
các chính sách phát triển đô thị liên vùng, đảm bảo
các đô thị trong cụm phát triển hài hòa, văn minh,
hiện đại và bền vững theo định hướng chung. Đẩy
mạnh hợp tác, giao lưu với các đô thị trong và ngoài
nước nhằm trao đổi học tập kinh nghiệm trong xây
dựng, quản lý và phát triển đô thị. Ngoài nội dung
chính, Hội nghị còn tổ chức buổi Hội thảo với các
chủ đề mang tính thời sự. Hội nghị thường niên Cụm
đô thị miền Tây Nam bộ năm 2017 sẽ là bước quan
trọng tạo nền tảng và định hướng trong tổ chức và
phối hợp hoạt động của Cụm đô thị miền Tây Nam
Bộ trong những năm tiếp theo.
MÔ HÌNHCẠNH TRANH ĐÔ THỊ
VÀ CÁC YẾU TỐ
ẢNH HƯỞNG
TS. Phạm Văn Bộ*
*Phó Giám đốc Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị
Trong xu hướng toàn cầu hóa, các đô thị
muốn tồn tại và phát triển không những phải
cạnh tranh với các đô thị trong nước, trong khu
vực mà cả với các đô thị trên thế giới. Việc nghiên
cứu về năng lực cạnh tranh đô thị đã được các
học giả và các nhóm học giả tiến hành trong
những thập niên vừa qua. Nhiều nhà nghiên
cứu sử dụng các phương pháp cũng như tạo
ra những công cụ để phân tích đánh giá năng
lực cạnh tranh của các địa phương trong đó có
các đô thị. Tuy nhiên, hầu hết các nghiên cứu
chủ yếu tập trung vào yếu tố kinh tế nhằm xác
định vị trí cạnh tranh; các lĩnh vực khác như xã
hội, lịch sử, văn hoá, pháp luật, chính trị, môi
trường ... chưa nhận được sự quan tâm hoặc đã
có nhưng ở mức độ khá khiêm tốn. Nghiên cứu
năng lực cạnh tranh đô thị dưới góc độ những
khái niệm, các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực
cạnh tranh trên cơ sở hệ thống hóa thành mô
hình với các yếu tố bên ngoài và bên trong đô
thị sẽ được đề cập trong nghiên cứu này.
16 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Đối tượng nghiên cứu: Các yếu tố chính ảnh hưởng trong mô hình cạnh tranh đô thị.
Mục tiêu nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các lý thuyết cơ bản và những nội dung liên quan đến hoạt động của đô thị, đưa ra các yếu tố và các nhân tố then chốt của môi trường vĩ mô và môi trường vi mô ảnh hưởng đến cạnh tranh của một thành phố đương đại trong một mô hình cạnh tranh để thấy rõ được bức tranh tổng thể.
Phương pháp nghiên cứu: Phân tích những lý thuyết liên quan để phân tích vấn đề như lý thuyết đô thị, chính sách công, quản lý, kinh tế học, xã hội học và địa lý. Nền tảng của nhận thức luận và phương pháp luận của nghiên cứu dựa trên cơ sở những lý thuyết như lý thuyết về cạnh tranh, lý thuyết hệ thống, lý thuyết về tổ chức, lý thuyết về phát triển đô thị, lý thuyết về cải tiến quản lý. Để xác minh cơ sở lý thuyết nhằm đưa ra các yếu tố cạnh tranh
chính của đô thị, nghiên cứu thực nghiệm đã được tiến hành. Các chuyên gia đại diện cho các tổ chức của chính quyền địa phương và quốc gia, các đơn vị kinh doanh và các tổ chức phi chính phủ được phỏng vấn.
Các vấn đề về cạnh tranh đô thị dưới giác độ lý thuyết đã được phân tích bằng cách sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phân tích theo hệ thống, phân tích so sánh và logic các tài liệu khoa học, phân tích trường hợp cụ thể, phân loại, dự đoán, mô hình lý thuyết, giải thích, tổng quát lý thuyết.
KHÁI NIỆM CẠNH TRANH ĐÔ THỊĐô thị là trung tâm và động lực cho sự phát triển kinh
tế - xã hội của quốc gia và quốc tế. Các đô thị góp phần lớn để các quốc gia đạt được các mục tiêu của đất nước đã đặt ra và các đô thị cũng đại diện cho các tâm điểm của sự tồn tại và lối sống của con người. Sự thịnh vượng của dân cư hầu hết các đô thị trên thế giới phụ thuộc rất lớn vào cơ chế của chính quyền địa phương. Những khía cạnh quan trọng của một đô thị được trình bày bằng khái niệm sau đây: Các đô thị là các đơn vị hành chính cấp dưới của quốc gia, có sự phân bổ dân cư với ranh giới đường biên xác định rõ ràng theo luật định, có quyền tự chủ về quản trị, một bộ phận lớn dân cư đô thị làm việc ở những ngành phi nông nghiệp.
Có thể tóm tắt những quan điểm của những nhà khoa học đưa ra những nhận định khác nhu về đô thị như sau: Đô thị là một tiến trình; Đô thị là một hệ thống; Đô thị là nơi chốn; Đô thị là kết quả; Đô thị là tổ chức; Đô thị là những chức năng.
Dựa trên cơ sở hai quan điểm đầu tiên, chúng ta có sơ đồ như sau:
Sơ đồ 1: Đô thị là một hệ thống
Để đưa ra khái niệm về cạnh tranh, người ta đã đưa ra bốn nhóm quan điểm chính sau:
1) Quan điểm về năng lực cạnh tranh và/ hoặc lợi thế cạnh tranh (Durand and Giorno, 1987; Fagerberg, 1988),
2) Các nghiên cứu thực nghiệm (Fakiolas, 1985, Clegg, 1987, Fagerberg, 1988, Porter, 1990, Cartwright, 1993, Rugman và D.Cruz, 1993),
17Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
3) Quan điểm chiến lược và quản lý (Day and Wensley, 1988, Yip, 1989, Porter, 1985, 1990, 1999, D.Cruz và Rugman, 1993, Peters, 1988, Porter and Millar, 1985, Kogut, 1985),
4) Quan điểm lịch sử và văn hoá-xã hội (Hofstede, 1980, 1983, Kenedy, 1987, Hofstede và Bond, 1988, Aakers, 1989, Franke và cộng sự, 1991).
Các tài liệu khoa học về chủ đề này cho thấy năng lực cạnh tranh là muôn hình vạn trạng, phụ thuộc vào chủ đề phân tích nghiên cứu, và có thể xác định được ở các mức độ khác nhau – mức độ lớn, vĩ mô, trung bình và vi mô (Bảng 1).
Bảng 1: Một số khía cạnh phân tích mức độ cạnh tranh
Trong những năm gần đây, trọng tâm nghiên cứu của các học giả thế giới về vấn đề năng lực cạnh tranh của các chủ thể ở mức độ cực đại và vĩ mô đang tăng một
cách đáng kể. Năng lực cạnh tranh đô thị, với tư cách là một đơn vị quản trị địa phương, nhận được nhiều sự quan tâm về học thuật. Mặc dù vậy, số lượng các nghiên cứu năng lực cạnh tranh đô thị tiếp tục còn rất hạn chế và các phương pháp phân tích vấn đề này mới đưa ra ở mức độ sơ khai mà thôi.
Những mô hình về năng lực cạnh tranh được đưa ra phân tích ở 4 cấp độ: Cực đại, vĩ mô, trung mô và vi mô. Phần lớn những mô hình về năng lực cạnh tranh được biết ở mức độ vĩ mô như của Porter (1990) “Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh”, “Mô hình 9 yếu tố về cạnh tranh quốc tế” của Cho (1994), “Mô hình đôi kim cương” của Rugman và D’Cruz (1993), các mô hình thể hiện trong những báo cáo về sự cạnh tranh các nền kinh tế của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (2006), Viện nghiên cứu Thế giới về Phát triển Quản lý (2006), WB (2006). Mô hình phân tích về cạnh tranh ở cấp chính quyền địa phương như Chỉ số kinh tế mới của đô thị (2006), mô hình về chỉ số cạnh tranh Châu Âu (2006), và Chỉ số sáng tạo của Florida (2002)… Điểm lại về mô hình cạnh tranh được sử dụng cho phân tích về những vấn đề ở cấp địa phương đều chỉ ra rằng phần lớn các mô hình nhấn mạnh vào yếu tố kinh tế ảnh hưởng đến cạnh tranh đô thị không đề cập hoặc để ý nhiều đến các yếu tố khác, đặc biệt là những yếu tố bên ngoài tác động trực tiếp đến đô thị. Như kết quả nghiên cứu lý thuyết khác nhau cho thấy, vấn đề cạnh tranh có thể được giải quyết hiệu quả hơn nếu quan tâm nhiều hơn đến vấn đề vốn xã hội (Putnam, 1993), Thiết chế thể chế (Amin và Thrift, 1995), Môi trường sáng tạo (Camagni, 1991) và các lĩnh vực khác theo chức năng của đô thị.
Đánh giá tổng quan chi tiết về các thị trường chung và các loại cạnh tranh đô thị, cũng như việc phân tích các khía cạnh khác nhau của thuật ngữ “năng lực cạnh tranh đô thị” do các tác giả đưa ra cho thấy các thành phố cạnh tranh trên các quy mô khác nhau và theo loại sản phẩm. Theo Turok và các cộng sự (2004), các thành phố cạnh tranh dưới các khía cạnh như sau: Dành vị trí trung tâm dịch vụ vùng, dành các sản phẩm thương mại mang tính quốc gia và quốc tế, đầu tư vào thị trường theo chiều sâu,
Mức độ phân tích
Cực lớn
Vĩ mô
Tầm trung
Vi mô
Những khía cạnh nổi bật về cạnh tranhThu nhập và việc làm ổn định ở mức độ caoThu nhập, thịnh vượng ở mức độ cao, mức độ việc làm cao, các doanh nghiệp duy trì được sự thành công
Giá cả, năng suất cạnh tranh, chia sẻ thị trường bên ngoàiNăng suất, tính ưu việt của giá cả sản phẩm, chia sẻ thị phần, chia sẻ lợi nhuận
Người nghiên cứu/ Viện nghiên cứuHội đồng Châu Âu, 1999
Porter, 1990; Dollar and Wolff, 1993; Bramezza, 1996; van der Berg, Braun, 1999; Harvey, 1989; Webster and Muller, 2000; Kaldor, 1970; Rowthom, 1999; Diễn đàn kinh tế Thế Giới 2005; và những nghiên cứu khácBryan,1994; Markusen, 1992; Blunck, 2006
Casson 1991; Rugman, Hodgetts 2000; Faulkner, Bowman 1995; Porter 1998; Hamel, Prahalad 1990; Stalk, Evans, Schulman 1992; Hill, Jones 1992; Blunck, 2006; Chikan, 2001; Tyson,1993, những nghiên cứu khác.
Melbourne là thành phố đáng sống nhất thế giới18 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
yếu tố về môi trường bên trong và bên ngoài”.
MÔ HÌNH NĂNG LỰC CẠNH TRANH ĐÔ THỊ VÀ CÁC YẾU TỐ CẤU TRÚC
Mô hình năng lực cạnh tranh đô thị xác định tiến trình phổ biến về việc hình thành cạnh tranh đô thị và những yếu tố cấu trúc trong mô hình ảnh hưởng việc hình thành kết quả hoạt động đô thị. Begg (1999) chỉ ra rằng, “… hiểu các yếu tố cải thiện năng lực cạnh tranh đô thị trên thị trường quốc gia và quốc tế giúp việc xác định vị trí hiện tại của các đô thị chính xác hơn và phán đoán được triển vọng đô thị để có thể đưa ra chính sách phát triển đô thị đúng mục tiêu hơn”
Quy trình chung về hình thành năng cạnh tranh đô thị được thể hiện Hình 2:
Như vậy, hình trên đã đưa ra hai cấp độ môi trường đô thị - môi trường bên trong và môi trường bên ngoài. Đối với môi trường bên ngoài, lại được chia ra thành môi trường quốc tế và môi trường quốc gia được gọi chung làm một là môi trường bên ngoài đô thị.
Đề xuất này dựa trên quan điểm của Pumain (2003), Masure (2003), MsAvoy (2002), Cheshire và Hay (1989), Budd (1998), Ủy ban Châu Âu (2000) và của các tác giả khác, đã đưa ra rằng những năm gần đây do quá trình tái cấu trúc, các đô thị của các quốc gia dân chủ có sự lớn mạnh và ảnh hưởng trực tiếp của lực lượng toàn cầu, do vậy đòi hỏi phải thay đổi phù hợp với cấu trúc và nội dung các yếu tố bên ngoài của các đô thị.
có đội ngũ dân số di cư lành nghề và tổ chức các hội nghị, lễ hội văn hoá, thi đấu thể thao và các sự kiện nổi bật khác trong phạm vi thị trường của mình. Một loạt các định nghĩa về năng lực cạnh tranh của các đô thị và các khía cạnh chính được nhấn mạnh trong mỗi định nghĩa được trình bày trong Bảng 2.
Bảng 2. Định nghĩa về năng lực cạnh tranh đô thị
Những quan điểm khác nhau về khái niệm năng lực cạnh tranh đô thị cần được tôn trọng để mở ra những hướng tốt hơn (Sheppard, 2000; Krugman, 1994; Budd, 1998). Có thể nói rằng năng lực cạnh tranh được diễn tả giữa hai hoặc nhiều đối tượng phân tích và có thể được áp dụng cho các chủ thể về mức độ phân tích cũng như ở mỗi cấp đô thị.
Định nghĩa cụ thể về khái niệm cạnh tranh đô thị được đưa ra như sau: “Đó là khả năng của người dân đô thị duy trì vị trí cạnh tranh trong một khu vực cụ thể (thị trường) về cạnh tranh giữa các đô thị khác nhau có cùng loại hình tương tự và theo đuổi các mục tiêu tương tự bằng cách tiết kiệm tài nguyên và nâng cao phúc lợi của các thành viên bằng việc quản lý các
Tác giả
OECD
Storper (1997)
Webster ir Muller (2000)
Gordon và Cheshire (2001)
Kostiainen (2002)
Những khía cạnh nhấn mạnhNăng lực cạnh tranh về sản phẩm của đô thị; dân số địa phương có thu nhập cao hoặc tăng lên.Hấp dẫn/ duy trì các doanh nghiệp thành công; mức sống cao
Tăng cường năng lực cạnh tranh bằng những sản phẩm của địa phương
Gia tăng về tài nguyên, vốn, quản lý thị trường, sự thịnh vượng của cộng đồng địa phương. Khả năng thu hút dòng chảy, môi trường sáng tạo, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp, mức sống cao.
Khái niệm về năng lực cạnh tranh đô thị
Trong điều kiện thị trường tự do và công bằng, thì mức độ mà các đô thị có thể sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ đáp ứng được sự kiểm nghiệm của thị trường quốc tế, đồng thời duy trì và mở rộng thu nhập thực tế của người dân trong dài hạn.Năng lực cạnh tranh phản ánh năng lực của nền kinh tế thu hút và duy trì các doanh nghiệp với sự ổn định hoặc ra tăng cổ phiếu trong hoạt động, trong khi đó vẫn duy trì sự ổn định hoặc nâng cao được mức sống đối với những người tham ra vào quá trình đóNăng lực cạnh tranh đô thị liên quan tới khả năng của vùng đô thị sản xuất và tiếp thị tập hợp sản phẩm (hàng hóa và dịch vụ) đó là những hàng hóa có chất lượng tốt với giá trị cao (chứ không cần thiết phải là giá cả thấp) liên quan tới so sánh với các sản phẩm ở những vùng đô thị khác. Có thể được hình thành như là các nỗ lực của các cơ quan đại diện cho các khu vực cụ thể để tăng cường lợi thế địa phương của họ bằng cách vận động một số sản phẩm đặc trưng để góp phần làm nên giá trị của khu vực đó như việc xác định cho các hoạt động khác nhau.Khả năng thu hút thông tin, công nghệ, vốn, văn hóa, con người và các tổ chức, đây là vấn đề rất quan trọng đối với vùng, và đi cùng với nó là khả năng duy trì và phát triển chất lượng cuộc sống và mức sống của con người nơi đây, cũng như khả năng tạo ra môi trường vận hành đổi mới để các công ty có khả năng phát triển cạnh tranh.
QUY TRÌNH
19Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
Webster và Muller (2000) chỉ ra rằng phần lớn các nước, các yếu tố quốc gia mất đi tầm quan trọng trước kia của họ do ảnh hưởng của lực lượng toàn cầu: Tự do thương mại, phân quyền và những yếu tố khác, đặt trách nhiệm vào nhiều yếu tố quan trọng về khả năng cạnh tranh ở cấp địa phương. Xác định các yếu tố đại diện cho môi trường bên trong và bên ngoài của đô thị có ảnh hưởng lớn nhất đến năng lực cạnh tranh đô thị, trước hết cần bắt đầu bằng việc nhận dạng từ các yếu tố bên ngoài và cần xem xét tới yếu tố bên ngoài tác động tới các đô thị và những kết quả của đô thị. Các chính sách quốc gia và siêu quốc gia như cấu trúc nền kinh tế quốc dân, mức độ đổi mới, chính sách thuế quốc gia, phát triển nguồn nhân lực, thuế quan, sáng kiến kinh tế vĩ mô và công nghiệp, các điều kiện chính sách công khác, mức độ tiếp cận, kỹ năng của lực lượng lao động... ảnh hưởng trực tiếp kết quả của mỗi đô thị (Ủy ban Châu Âu, 2000, Webster và Muller, 2000).
Việc xác định các yếu tố quan trọng nhất của môi trường bên ngoài đô thị dựa trên phân tích PEST (Politics, Economics, Social, Technology) được bổ sung bởi một khía cạnh khác, đang đóng một vai trò rất quan trọng trong bối cảnh cạnh tranh đô thị - dưới khía cạnh môi trường sinh thái. Việc mô tả chi tiết của năm yếu tố bên ngoài (kinh tế, văn hóa - xã hội, công nghệ, luật pháp - chính trị, môi trường - sinh thái) và các yếu tố cấu thành các yếu tố đó là cần thiết.
Các yếu tố bên trong của môi trường đô thị có tầm quan trọng lớn nhất đối với kết quả hoạt động của đô thị. Do vậy, năng lực cạnh tranh của đô thị đã được xác định trên cơ sở phân tích chi tiết lý thuyết và quan điểm của các nhà khoa học quốc tế về việc giải quyết các vấn đề về năng lực cạnh tranh của đô thị. Tập hợp các yếu tố bên trong cũng như việc phân loại các yếu tố này thay đổi đáng kể ở các tài liệu học thuật. Phân tích những tài liệu trên hướng tới 5 nhóm sau: Các yếu tố đầu vào-kết quả (Fried and Lovell, 1996), Quan điểm về các yếu tố kiểm soát được không kiểm soát được (Fried và Lovell, 1996), Quan điểm về các yếu tố chiến lược và kinh tế (Kresl, 1995; van Dijk, 1998; Jensen-Butler, 1997; van den Berg, 1993; Lever, 1997), Quan điểm các yếu tố cấu trúc động lực (Sutarauta, 2001; Linnamaa, 1999) và Quan điểm các yếu tố bên trong (Duffy, 1995; Oatley, 1998 , Jensen-Butler, 1997, Savitch và Kantor, 2002, và các tác giả khác).
Trên cơ sở phân tích cụ thể các quan điểm khác nhau của các tác giả về những yếu tố bên trong (cũng như cấu trúc và ý nghĩa) đang ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh đô thị, từ đó phân ra bốn loại yếu tố chính bên trong: Yếu
tố về con người, yếu tố về thiết chế, yếu tố về vật chất, yếu tố về kinh tế. Đặc tính cụ thể của mỗi yếu tố và các yếu tố cấu thành được cung cấp ở Bảng 3: Bảng 3: Các yếu tố ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh đô thị
Khi thực hiện phân tích các yếu tố cải thiện khả năng cạnh tranh đô thị không nên đề cao bất cứ một yếu tố đặc biệt nào mà cần phải phân tích một cách tổng hợp. Tất cả các yếu tố bên trong và bên ngoài tạo nên một hệ thống tổng thể, tất cả các yếu tố phụ thuộc lẫn nhau. Hình 3 minh họa mô hình năng lực cạnh tranh đô thị và cấu trúc mô hình dưới góc độ lý thuyết. Mô hình này dựa trên phương pháp tiếp cận “đô thị như một hệ thống mở” liên quan đến các đặc trưng của đô thị và các sản phẩm của đô thị. Tất cả những yếu tố liên hệ chặt chẽ với nhau được tích hợp và hoạt động năng động trong một hệ thống thống nhất, trong đó mỗi yếu tố bổ sung và tăng cường cho nhau. Khi phân biệt các yếu tố cải thiện năng lực cạnh tranh đô thị quan trọng nhất, người ta đã cố gắng tách rời các yếu tố không ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của đô thị, không mang tính thông tin, có nghĩa là ảnh hưởng của các yếu tố này rất hạn chế. Các nhóm yếu tố có giá trị như nhau, điều đó có nghĩa là các yếu tố không phụ thuộc vào vị trí của nó trong mô hình.
LoạiCác yếu tố về con người
Các yếu tố về thiết chế
Các yếu tố về vật chất
Các yếu tố về kinh tế
Các yếu tốKỹ năng lao độngCác năng lực về giáo dục và đào tạo Tình hình nhân khẩu học địa phươngLãnh đạo địa phươngĐổi mới/sáng tạo/tài năng của người dân địa phươngBao dung/văn hóa/ truyền thống của người dân địa phươngHiệu quả của chính quyền địa phươngTổ chức - lãnh đạoMạng lưới thể chếCơ sở vật chất và tiện nghi của thành phốChiến lược phát triển thành phốVị trí và khả năng tiếp cận của đô thịHạ tầng kỹ thuậtTài nguyên thiên nhiên đô thịCơ cấu kinh tếCác hoạt động có giá trị gia tăng caoHệ thống thuế địa phươngMức lương địa phươngTiếp cận vốn tại đô thịCác tổ chức nghiên cứu khoa học và phát triển thực nghiệm ở địa phươngCụm công nghiệp đô thị
20 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Trong mô hình cạnh tranh đô thị, năng lực cạnh tranh đô thị phần lớn phụ
thuộc vào các yếu tố nội tại bên trong đô thị. Tuy nhiên, để các đô thị tăng sức
cạnh tranh, các đô thị cần phải thay đổi thích ứng với các yếu tố bên ngoài. Những
nỗ lực nhằm cải thiện cạnh tranh của các đô thị cần tập trung tăng cường vào
các yếu tố bên trong như sau: Thúc đẩy hiệu quả hoạt động của chính quyền địa
phương (tăng cường chất lượng về việc thực hiện các chức năng nhà nước ở địa
phương), cải thiện hạ tầng kỹ thuật đô thị (phát triển giao thông đô thị, cung cấp
năng lượng, xử lý nước, không gian công cộng và các hệ thống khác), đảm bảo tiếp
cận với đô thị dễ dàng nhất (bằng tất cả các phương tiện giao thông công cộng và
hệ thống mạng lưới viễn thông), thực hiện chiến lược phát triển đô thị (theo chiến
lược, ưu tiên, tầm nhìn phát triển tổng hợp), đào tạo và hỗ trợ lãnh đạo của các tổ
chức, ban ngành của đô thị.
Các đô thị cạnh tranh dựa trên quy mô, vị trí địa lý khác nhau cho những
mục đích khác nhau. Các đô thị quốc gia cạnh tranh với nhau và với những
thành phố có quy mô và có tầm quan trọng tương tự từ những đất nước láng
giềng. Các thành phố vùng cạnh tranh với các thành phố hàng đầu vùng khác,
đặc biệt những nơi có vị trí địa lý gần nhất. Các thành phố cấp huyện cạnh tranh
với thành phố cấp huyện khác hoặc thành phố có những chức năng riêng biệt
(ví dụ thành phố nghỉ dưỡng sức khỏe). Nói cách khác, khả năng cạnh tranh đô
thị là khả năng của dân cư đô thị duy trì vị thế cạnh tranh trong khu vực cạnh
tranh cụ thể (thị trường) với các đô thị khác có loại hình tương tự và theo đuổi
mục tiêu tương tự trên cơ sở bảo tồn tài nguyên và cải thiện phúc lợi cho những
thành viên trong đô thị bằng việc quản lý các yếu tố môi trường bên ngoài và
yếu tố bên trong đô thị.
Tài liệu tham khảo1. Cho, D. S. 1998. From National Competitiveness to Bloc and Global
Competitiveness, Competitive-ness
Review 8(1): 11–23
2. Durand, M., C. Giorno,
(1987), “Indicators of International
Competitiveness: Conceptual
Aspects and Evaluation”, OECD
Economic Studies, No. 9 Autumn,
147-182.
3. Fagerberg, J. (1988),
“International Competitiveness”,
The Economic Journal, No. 391,
(June),355-374.
4. Porter M.E. (1990),“The
competitive advantage of the
nations”, Ed. The FreePress, A Division
of MacMillan Press Ltd., New York.
5. Rugman, A. M. & D’Cruz, J. R.
(1993). The ‚Double diamond’ model
of international competitiveness:
6. The Canadian experience.
Management International Review,
33(2), 17-39.
7. World Economic Forum, The
Global Competitiveness Report
2009–2010, p.3
21Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
*Sáng lập viên và Chủ tịch danh dự FundaciónMetrópoli/ *Founder and Honorary President FundaciónMetrópoli
Chúng ta đang sống trong một thế giới của những đô thị, hành tinh của chúng ta đang ngày càng đô thị hóa. Các đô thị là những động lực mới của nền kinh tế toàn cầu, đồng thời là những chủ thể chính phải đối mặt với những thách thức của biến đổi khí hậu và đương đầu với sự bất bình đẳng và đói nghèo. Mức độ phụ thuộc lẫn nhau giữa các đô thị ngày càng tăng do sự gia tăng kết nối vật lý và kỹ thuật số. Quy mô của các đô thị cũng thay đổi, đến mức các giới hạn hành chính truyền thống ngày càng trở nên không liên quan khi tìm kiếm câu trả lời cho các mục tiêu phát triển lớn, cân bằng và môi trường bền vững. Nếu trong quá khứ chúng ta đã trải qua những giai đoạn mà thế giới được tổ chức bởi các đế chế và sau đó bởi các quốc gia dân tộc, trong tương lai, chúng ta sẽ sống trong thế giới của những đô thị, thế giới của những siêu đô thị.
Vào đầu thế kỷ 21, chúng ta đã trải qua một trong những biến chuyển sâu sắc và mạnh mẽ nhất trong lịch sử nhân loại. Đổi mới công nghệ, sự phát triển của viễn thông và Internet, đang thúc đẩy sự xuất hiện của một trật tự kinh tế quốc tế mới được củng cố bởi sự tan rã dần dần các rào cản thương mại, sự hình thành các khối kinh tế lớn và mở rộng thị trường.
Cuộc “cách mạng số” chưa từng có này được định hình bởi sự hợp lưu của bốn xu hướng lớn đó là điện toán đám mây, thiết bị di động, mạng xã hội và sự thông minh được áp dụng cho Big Data (dữ liệu lớn). Chúng ta chưa bao giờ
Alfonso Vegara*
SIÊU ĐÔ THỊSỰ THÔNG MINH CỦA MỘT VÙNG LÃNH THỔ
We live in a world of cities, our Planet is increasingly urban. Cities are the new engines of the global economy and at the same time, they can be the main actors to face the challenges of climate change and fight against inequality and poverty. The level of interdependence between cities is increasing, thanks to the growth of physical and digital connectivity. The size of cities is also changing, to the point where traditional administrative delimitations are becoming increasingly irrelevant when seeking answers to the big goals of development, balance and environmental sustainability.If in the past we lived stages in which the world was organized by empires and then by nation-states, in the future we will live increasingly in a world of cities, in a world of SuperCities.
At the beginning of the 21st centurywe are experiencing one of the most profound and accelerated transformations in the history of humanity.Technological innovation, the development of telecommunications
SUPERCITIESTHE INTELLIGENCE OF THE TERRITORY
22 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
tận hưởng được sức mạnh của vi tính hóa như vậy, truy cập thông tin dễ dàng hơn, hay lựa chọn giao tiếp kỹ thuật số và vật lý tốt hơn. Tất cả các lựa chọn này đang thay đổi cách mọi người sống, làm việc, vui chơi, học hành và các hoạt động có liên quan. Chính trị, kinh tế, xã hội, và tất nhiên là các đô thị cũng đang thay đổi do những cơ hội này.
Toàn cầu hoá đã có những tiến bộ quan trọng, nhưng cũng có “bước đột phá lớn” giữa các quốc gia, thành phố, công ty và giữa những người được lồng ghép với những người không được lồng ghép vào trật tự kinh tế mới này. Sự khác biệt ngày nay giữa các nước giàu và các nước nghèo vẫn là khôn lường và các thành phố, đặc biệt là những thành phố lớn ở các nước đang phát triển đang phải trải qua những vấn đề đặc biệt nghiêm trọng do các tác động trái chiều của toàn cầu hóa.
Đô thị ngày nay phải đối mặt với nhiều thách thức lớn; do đó cần phải tìm kiếm những hình thức mới để gắn kết xã hội, bảo vệ hệ sinh thái của chúng ta và phản ứng có trách nhiệm trước những thách thức của biến đổi khí hậu.
Các đô thị của chúng ta, hầu như luôn luôn có nguồn lực kinh tế hạn chế, nhiệm kỳ của chính quyền ngắn hạn và sức mạnh chính trị có hạn đang phải đối mặt với những thách thức gian nan. Đó là lý do tại sao chúng ta đặt tên “Siêu đô thị” cho thế hệ những địa điểm độc đáo này; trong suốt quá trình lãnh đạo, sáng tạo và chia sẻ tầm nhìn, loại hình này đang gây ra sức hút đặc biệt và qua đó phát triển các sáng kiến và dự án có ảnh hưởng xã hội lớn.
Những Siêu đô thị này có khả năng phân biệt sự thông minh của một vùng lãnh thổ. Chúng là những điểm nút của sự đổi mới và sáng tạo của Hành tinh của chúng ta. Các ngôi làng nhỏ ở nông thôn, các thành phố quy mô vừa, các khu đô thị có quy mô khác nhau và vùng đô thị phức tạp nhất mà chúng ta có thể hình dung được, có thể thiết kế một dự án tri thức tương lai và phát triển các hành động phù hợp với kịch bản mới cho sự cạnh tranh và hợp tác toàn cầu này, các thách thức bền vững và cam kết hội nhập xã hội và vượt qua đói nghèo. Một thế hệ mới của các Siêu đô thị được xem như là giải pháp chống lại những thách thức lớn mà con người đang phải đối mặt.
Siêu đô thị được lãnh đạo bởi những người đang ngày càng quan tâm đến xã hội của chúng ta: những thị trưởng có tầm nhìn, chuyên gia, doanh nhân, nghệ sĩ, quan chức, học giả và công dân – những người có thể cộng tác để đạt được những thành tựu đặc biệt trong dịch vụ cộng đồng. Các Siêu đô thị có thể có một dự án thông minh và chia sẻ nó trong tương lai và đạt được kết quả tuyệt vời về phát triển kinh tế, hội nhập xã hội và môi trường bền vững.
and Internet, are propitiating the emergence of a new international economic order reinforced by the progressive dissolution of trade barriers, the formation of large economic blocs and the expansion of markets.
This unprecedented “digital revolution” is characterized by the confluence of four megatrends that are cloud computing, mobile devices, social networks and intelligence applied to Big Data. We had never enjoyed of such computing power, easier access to information, or better physical and digital communication options, all these options are changing the way people live, work, play, learn and relate. Politics, economy, society, and of course cities are also changing due to these opportunities.
Globalization has made important progress, but there has also been a “big break” between countries, cities, companies and people who are integrated and those who are not integrated into this new economic order. Differences of today between rich countries and poor countries are still abysmal and cities, especially large cities in developing countries, are experiencing with particular virulence the contradictory effects of globalization.
The Cities of today face major challenges; therefore it’s necessary to seek new forms of social cohesion, protection of our ecosystems and responsible responses to the challenges of Climate Change.
Our cities, almost always with limited economic resources, short periods of government and scarce political power are facing arduous challenges. This is why we have named “SuperCities” to this generation of unique places that throughout leadership,creativity and a shared vision are causing special magnetism and therefore developing initiatives and projects of great social impact.
These SuperCities are being capable of distinguishing the Intelligence of the Territory. They are the nodes of innovation and creativity of our Planet. Small rural
23Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
Siêu đô thị có khả năng đưa ra một “cuộc đối thoại thông minh” với môi trường và hệ sinh thái của họ như một công cụ tìm kiếm để tìm ra các thành phần chính và nghề nghiệp trong tương lai của họ.
Siêu đô thị, bất kể quy mô hoặc mức độ phát triển hiện tại của họ, cũng đều tìm kiếm sự xuất sắc và cam kết đóng góp từ lĩnh vực hành động của mình để “biến đổi thế giới” và trở thành một nguồn tham khảo cho các đô thị khác. Vì điều này, họ có thể khám phá ra bản sắc riêng của mình và những thành phần tạo nên sự xuất sắc làm cơ sở để xác định đô thị của họ kích hoạt mạng lưới hợp tác và phát triển dự án đô thị.
Đây là 3 thách thức cơ bản mà Siêu đô thị phải đối mặt ngày nay:
Ứng phó với biến đổi khí hậu. Khía cạnh hệ sinh thái của đô thị, đối thoại nhạy cảm với môi trường tự nhiên và sử dụng có trách nhiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Sự cần thiết phải cải tiến sâu sắc và vượt trội của chính quyền địa phương. Quản trị cần có một định hướng chiến lược trong các đô thị ngày nay.
Xã hội số, không chỉ theo sáng kiến của đô thị thông minh, hoặc sử dụng công nghệ số để nâng cao đáng kể hiệu quả của dịch vụ đô thị, mà còn là sự phát triển toàn diện của xã hội tri thức.
Siêu đô thị đang được chuyển đổi thành các nút trung tâm cho xung lực xã hội và kinh tế, trở thành nam châm có sức hút đặc biệt của tài năng và sự đổi mới. Đây là những địa điểm “kỳ diệu” nơi mà “Sự thông minh của một vùng lãnh thổ” được thể hiện đầy đủ.
village, medium-sized cities, metropolitan areas of different sizes and the most complex urban megaregion we can imagine, can design a futureintelligent project and develop actions to be relevant in this new global scenario ofcompetitionand cooperation, of sustainability challenges and of commitments of social integration and overcoming poverty.A new generation of SuperCities is seen as the solution against the great challengeshumanity is facing.
SuperCities are led by actors who are gaining a growing relevance in our society: mayors with vision, professionals, entrepreneurs, artists, officials, academics and committed citizens who, when able to collaborate achieve exceptional accomplishments at the service of the community.SuperCities are capable of having an intelligent and shared project of the future and achieve amazing results in terms of economic development, social integration and environmental sustainability.
SuperCities are capable of articulating an “intelligent dialogue” with their environment and ecosystem as aframework of reference in which to discover their key components and their future vocation.
SuperCities, regardless their size or current level of development are territories that seek excellence and assume commitment to contribute from their field of action to “transform the world” and be a referent for other cities. For this they’re able to discover their own identity and their components of excellence as a basis to define their urban profile activate their networks of cooperation and develop their own city project.
These are the 3 fundamental challenges that SuperCities face today:
Fight against climate change. Theecological dimension of the urban, the sensitive dialogue with the natural environment and the responsible use of natural resources.
The need of a deep and progressive improvement of territorial government. Governance acquires a strategic dimension within today’s cities.
Digital society, not only under initiatives of smart city, or use of digital technology for the substantial improvement of the efficiency of urban services, but as integral development of knowledge society.
SuperCities are being transformed into central nodes for social and economic impulse, becoming special magnets of talent and innovation. These are “magic” places where the “Intelligence of the Territory” is fully expressed.
24 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
Ths. Phạm Thị Thu Hiền*
*Phó viện trưởng Viện Kinh tế xây dựng và đô thị - AMC
Để phát triển công trình xanh, đòi hỏi trước tiên là nhận thức đúng đắn về nó. Công trình xanh là những toà nhà được xây dựng thân thiện với thiên nhiên, khi vận hành không gây ảnh hưởng xấu đến môi trường khu vực và đô thị, giảm nhiều nhất tiêu thụ năng lượng hóa thạch, nhờ đó, giảm phát thải khí CO2, bảo tồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên nước và tạo được môi trường sống tốt nhất cho con người và mọi loài sinh vật.
Mỹ là một trong những quốc gia nhận thức rất sớm về lợi ích mà công trình xanh mang lại cho môi trường sống. Cách đây khoảng 20 năm, khái niệm công trình xanh còn khá mới mẻ và phát triển công trình xanh là sự khởi đầu để tạo không gian xanh trên toàn nước Mỹ. Giờ đây, công trình xanh đã là khái niệm rất quen thuộc với các kiến trúc sư Mỹ. Các công trình được xây dựng với tiêu chí hàng đầu là tạo không gian cho môi trường sống, bất kể là công trình đó ở trung tâm thành phố hay ở vùng ngoại ô, bất kể là công trình nhà ở riêng lẻ hay cao ốc thương mại, trụ sở cơ quan hành chính,... Xin được giới thiệu một số dự án/công trình xanh tại Mỹ đã gây ấn tượng mạnh, tạo nên sự lan tỏa và sức hút đối với những ý tưởng xây dựng tương lai vì mục tiêu phát triển bền vững.
1. Bullitt CenterLà một tòa nhà văn phòng sáu tầng nằm ở Seattle, Washington với
tổng số vốn đầu tư 32,5 triệu USD. Ngay từ khi đưa vào sử dụng năm 2013, Bullit Center được đánh giá là một trong những tòa nhà xanh và bền vững trên thế giới và đã được trao chứng nhận Living Building - tiêu chuẩn cao nhất dành cho các công trình phát triển bền vững.
Bullitt Center được thiết kế để thúc đẩy văn hóa và sự tương tác giữa những người sử dụng với nhau. Ở đó, người ta có thể sử dụng mọi hệ thống trong toà nhà. Không có bất cứ sự trở ngại nào trong việc tận hưởng các yếu tố tự nhiên như ánh sáng hoặc không khí. Các yếu tố về kiến trúc tự nhiên của tòa nhà cũng đáp ứng được nhu cầu của con người trong việc tiếp xúc với thiên nhiên: Tất cả những chiếc bàn đều được đặt ở nơi thông thoáng để đón ánh nắng trực tiếp, mọi không gian có người ở đều được lắp cửa sổ, nhằm đón gió trời và ánh nắng tự nhiên.
Phát triển công trình xanh là một tất yếu trên thế giới để tạo sự phát triển về môi trường sống, môi trường sinh thái bền vững. Phong trào công trình xanh ra đời từ những năm 1990 – 1995, trong bối cảnh loài người đứng trước một cuộc khủng hoảng lớn về sinh thái và môi trường từ cuối thế kỷ 20, bước sang thế kỷ 21 - khoảng thời gian khí hậu toàn cầu biến đổi rõ rệt, đe dọa đến sự sống trên trái đất.
CÔNG TRÌNH
XANHẤN TƯỢNG TỪ
ĐÔ THỊ MỸ
25Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
Bullitt Center là toà nhà không tiêu tốn nhiều năng lượng hơn so với mức nó tạo ra. Trong suốt thời gian đánh giá để được cấp chứng nhận Living Building, tòa nhà sử dụng 152,877 KWh trên tổng số 243,671 KWh điện mà nó tạo ra thông qua 575 tấm pin năng lượng mặt trời trên mái. Điện năng dư thừa được hòa vào lưới điện vào những tháng hè, khi mức độ sản xuất tăng cao, để tới mùa đông, mức độ sản xuất giảm xuống thì toà nhà này sẽ lại lấy điện năng từ lưới điện.
Bên cạnh đó, Bullitt Center còn được kiểm chứng là công trình tiết kiệm nước. Toàn bộ tòa nhà được lắp hệ thống toilet tự hoại khô và hệ thống thu, dẫn nước mưa từ mái nhà xuống bể chứa ngầm để lọc. Nước thải xám từ bồn rửa, vòi hoa sen, máy rửa bát được giữ lại và lọc trong đất ngập nước kiến tạo (một dạng bể lọc sinh học) trước khi đưa ra ngoài tầng nước ngầm. Trong khi đó, nước thải đen từ nhà vệ sinh được tận dụng cho hệ thống sản xuất phân compost của tòa nhà. Phân compost và nước thải đã qua xử lý đi qua một hệ thống xử lý thứ cấp trước khi được dùng làm phân bón.
Cuối cùng, không thể không đề cập đến yếu tố đặc biệt đó là hệ thống địa nhiệt của toà nhà. Hệ thống này được sử dụng với những đường ống có chứa hỗn hợp nước và glycol chảy xuống 26 giếng kín, hỗn hợp này được đun nóng ở nhiệt độ 12 độ C và bơm lên các tầng, giúp sưởi ấm toàn bộ tòa nhà vào mùa đông. Vào mùa hè, hệ thống này có thể được đảo ngược, đem cái nóng của mùa hè truyền vào lòng đất.
2. David and Lucile Packard Foundation Headquarters
Dự án hoàn thành vào tháng 7/2012 với nguồn kinh phí đầu tư 37,2 triệu USD, dự án đã làm thay đổi diện mạo của cả một khu vực đô thị, từ một khu đất trơ trọi với rất ít công trình được xây dựng và cây xanh nay đã trở thành một khu vực với mật độ xây dựng 35% và tỷ lệ phủ xanh bề mặt lên đến 90%.
Mặt bằng dự án được thiết kế gồm ba khối công trình bố trí song song, vật liệu chính sử dụng cho xây dựng công trình là gỗ và đá ở vùng giáp ranh Nevada và Utal, đã giảm thiểu được đáng kể lượng phát thải carbon ra môi trường.
Công trình được thiết kế phù hợp với điều kiện khí hậu của khu vực, không gian bên trong và bên ngoài được kết nối bằng vách kính trong suốt. Việc kết hợp hài hòa giữa hệ thống chiếu sáng tự nhiên và nhân tạo là một trong những giải pháp thiết kế bền vững được ứng dụng vào công trình. Hệ thống chiếu sáng tự nhiên có được nhờ bố cục mặt bằng gồm hai khối công trình đặt song song với khoảng sân vườn ở giữa đóng vai trò trung tâm trong một tổng thể. Hệ thống mái che công trình vươn rộng đạt hiệu quả tối đa cho việc che nắng. Ở những vị trí bất lợi do bị nắng chiếu, đều được trang bị màn che nắng bên trong và trồng cây xanh. Hệ thống bể chứa có dung tích lớn được xây dựng dưới lòng đất, đã tận thu được toàn bộ lượng nước mưa từ mái nhà xuống, đáp ứng nhu cầu sử dụng cho khoảng 90% các thiết bị trong khu vệ sinh và khoảng 60% cho nhu cầu tích trữ.
3. John and Frances Angelos Law CenterCông trình được coi là “ngôi nhà mới” của Khoa luật
John and Frances Angelos, hoàn thành vào tháng 4/2013 với tổng mức đầu tư khoảng 114 triệu USD, tọa lạc tại ngã tư phố Charles và Mount Royal của thành phố Baltimore. Công trình này là minh chứng cho cam kết của Đại học Baltimore bằng hành động thiết thực nhằm đối phó với các vấn đề biến đổi khí hậu và môi trường toàn cầu.
Những khối nhà hình chữ L được bố trí đan xen nhau. Không gian bên trong công trình là các văn phòng làm việc, lớp học, thư viện, khu quản lý và khu vực nghỉ ngơi,
David and Lucile Packard Foundation Headquarters đã làm thay đổi diện mạo của cả một khu vực đô thị
26 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
DIỄN ĐÀN XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
được phân biệt qua các màu sắc khác nhau: Khu vực quản lý, lớp học và văn phòng làm việc có màu xanh lục; màu vàng là khu vực thư viện và các khu vực nghỉ ngơi. Lớp học và văn phòng luật được bố trí xen kẽ tạo ra sự tương tác giữa sinh viên luật với công việc thực tế.
Dựa trên đặc tính khí hậu se lạnh của khu vực Baltimore, các giải pháp chiếu sáng và thông gió tự nhiên đã được ứng dụng vào công trình. Hệ thống các cửa lấy sáng được thiết kế hợp lý nhằm đảm bảo hệ số độ rọi tự nhiên cho các không gian. Các mặt tường tiếp xúc với không gian thông tầng được cấu tạo bằng các lớp kính trong suốt, cho phép không gian được chiếu sáng tự nhiên và kết nối các hoạt động bên trong và bên ngoài, đặc biệt là các hoạt động sinh hoạt học thuật của trường. Hệ thống che nắng bên ngoài có thể di động cho phép người sử dụng điều chỉnh nhằm tối đa chất lượng chiếu sáng tự nhiên.
Với thiết kế thông tầng giữa nhà, ngoài hiệu quả thiết kế không gian còn mang lại hiệu quả thông gió tự nhiên cho các không gian bên trong, nhờ sự chênh lệch nhiệt độ giữa các không gian trong và ngoài công trình, tạo ra các dòng khí đối lưu chuyển động. Hệ thống cửa mái, cửa thông tầng giữa nhà được điều khiển bằng hệ thống điều khiển tự động theo điều kiện khí hậu bên ngoài. Hệ thống quạt đẩy không khí được bố trí trên mái thông tầng sẽ được bật khi tốc độ thông gió tự nhiên thấp, nhằm đảm bảo chất lượng thông gió xuyên phòng cho tất cả các không gian.
4. The Sustainability TreehouseĐược hoàn thành vào năm 2013, với chi phí đầu tư xây dựng khoảng 7,7
triệu USD, The Sustainability Treehouse nằm tại miền tây Virginia đã được đánh giá là công trình đáp ứng hoàn toàn các tiêu chí về quản lý và tái sử dụng các nguồn năng lượng tự nhiên. Các giải pháp thiết kế tiết kiệm năng lượng và các giải pháp công nghệ cao đã được đưa vào công trình, như:
Công trình là minh chứng cho cam kết của Đại học Baltimore bằng hành động thiết thực nhằm đối phó với các vấn đề biến đổi khí hậu và môi trường toàn cầu
Vỏ bao che được cách nhiệt hợp lý, tối ưu hóa phương vị công trình, khai thác hiệu quả ánh sáng tự nhiên; sử dụng pin năng lượng mặt trời, tua – bin gió, các hệ thống địa nhiệt,… đã giúp giảm đáng kể năng lượng tiêu thụ và điện lưới đưa vào sử dụng.
Sự tương tác giữa con người với tự nhiên là ý tưởng thiết kế xuyên suốt được đưa vào mọi không gian của công trình, giúp cho du khách cảm nhận những góc nhìn chân thực nhất về cuộc sống tự nhiên. Không gian bên trong công trình gồm các phòng trưng bày - nơi giới thiệu cho khách thăm quan về những giải pháp thiết kế bền vững, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tận dụng lợi thế khu vực. Không gian bên ngoài là khu vực nghỉ ngơi, tổ chức thành các lối đi, bậc thang, tạo cho du khách những trải nghiệm ở các cao độ khác nhau và đắm mình vào không gian sống trong lành, tinh khiết.
Có thể nói, lợi ích mà công trình xanh mang lại là rất lớn đối với quá trình phát triển đô thị của một quốc gia, tạo lập môi trường sống bền vững cũng như góp phần quan trọng vào việc nâng cao chất lượng sống của mọi người dân. Những công trình đô thị xanh của Mỹ đã tạo ấn tượng không nhỏ cho khách đến tham quan về một hình ảnh đô thị Mỹ phát triển với không gian xanh, để khẳng định rằng: Một quốc gia càng phát triển, một đô thị càng phát triển càng không thể tách rời việc phát triển những công trình xanh.
* Nguồn số liệu: Từ Hội đồng Công trình xanh Mỹ (USGBC); Bullitt Center financial case study.
27Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
PGS,TS. Nguyên Hông Tiên*
*Nguyên Cuc trưởng Cuc Hạ tâng ky thuật, Bộ Xây dựng
VAI TRÒ CỦA CÂY XANH TRONG ĐÔ THỊ Cây xanh đóng vai trò quan trọng trong đời sống con người,
là một bộ phận trong hệ sinh thái tự nhiên có tác dụng to lớn
trong việc thanh lọc không khí, cải tạo và điều hòa khí hậu,
giảm thiểu ô nhiễm, giảm thiểu tiếng ồn và góp phần bảo vệ
môi trường. Người ta thường ví cây xanh đối với môi trường đô
thị tương tự như lá phổi hô hấp của con người.
Cây xanh góp phần chống xói mòn, làm nền cho đa dạng
sinh học; phát triển cây xanh, mảng xanh thay cho tình trạng
bê tông hóa có tác dụng thẩm thấu nước xuống đất, hoàn
trả-bổ cập nước nguồn, lọc chất ô nhiễm và làm chậm dòng
chảy nước mưa góp phần giảm thiểu úng ngập và ô nhiễm môi
trường đất, nước.
Cây xanh góp phần tạo dựng cảnh quan, bố cục, không
gian đô thị, tôn lên giá trị thẩm mỹ các công trình kiến trúc,
đài kỷ niệm, các danh lam thắng cảnh... Thành công trong việc
tổ chức cây xanh trong đô thị tạo nên sắc thái hình ảnh riêng,
đi vào các tác phẩm thơ, ca, nhạc, họa, gắn bó với tâm hồn
người dân địa phương (như hoa sữa ở Hà Nội, hoa phượng ở
Hải Phòng...) và góp phần tạo sự hấp dẫn và thu hút khách du
lịch, nói một cách khác là góp phần phát triển đô thị bền vững.
Cây xanh, không gian xanh có ý nghĩa xã hội và nhân văn to
lớn, nơi mà mọi tầng lớp người dân đều được hưởng các giá trị
quý giá của thiên nhiên ngay trong lòng đô thị như: Dạo chơi,
hít thở không khí trong lành, ngắm cảnh thiên nhiên, thư giãn
tinh thần.
KẾT QUẢ VÀ HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC TRỒNG, CHĂM SÓC VÀ BẢO VỆ CÂY XANH TRONG THỜI GIAN QUA
Một số kết quả nổi bậtTrong thời gian qua, công tác phát
triển cây xanh, công viên đô thị đã được
các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm.
Diện tích đất cây xanh đô thị từng bước
tăng dần cả về số lượng và chất lượng.
Cây trồng đặc biệt ở các đô thị lớn ngày
càng phong phú về thể loại.
Ngày 11/6/2010, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 64/2010/NĐ-CP về
Quản lý cây xanh đô thị. Nghị định đã
quy định cụ thể dựa trên một số nguyên
tắc cơ bản:
(1) Việc quản lý, phát triển cây xanh
đô thị phải tuân thủ quy hoạch đô thị,
quy chuẩn kỹ thuật đồng thời góp phần
tạo cảnh quan, bảo vệ môi trường và đa
dạng sinh học.
(2) Khi triển khai xây dựng khu đô
thị mới, chủ đầu tư phải đảm bảo quỹ
đất cây xanh; cây xanh được trồng phải
đúng chủng loại, tiêu chuẩn cây trồng
theo quy hoạch chi tiết khu đô thị mới
28 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
TRACH NHIÊM CUA CAC TỔ CHỨC VÀ CÔNG ĐÔNG
TRONG VIÊC BAO VÊCÂY XANH ĐÔ THI
Cây xanh đường phố
đã được phê duyệt, đồng thời phải có
trách nhiệm chăm sóc và bảo vệ cây
xanh đến khi bàn giao cho cơ quan
quản lý theo quy định của Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh.
(3) Khi xây dựng mới đường đô
thị phải trồng cây xanh đồng bộ với
việc xây dựng các công trình hạ tầng
kỹ thuật. Khi cải tạo, nâng cấp đường
đô thị, các công trình đường ống kỹ
thuật hoặc khi tiến hành hạ ngầm
các công trình đường dây, cáp nổi tại
các đô thị có liên quan đến việc bảo
vệ, chặt hạ, dịch chuyển, trồng mới
cây xanh, chủ đầu tư phải thông báo
cho cơ quan quản lý cây xanh trên địa
bàn biết để giám sát thực hiện..
Đồng thời trách nhiệm bảo vệ
cây xanh đô thị trong Nghị định số
64/2010/NĐ-CP đã quy định rõ:
(1) Cây xanh đô thị phải được giữ
gìn, bảo vệ và kiểm tra thường xuyên.
(2) Mọi tổ chức và cá nhân, hộ gia
đình có trách nhiệm chăm sóc, bảo
vệ cây xanh đô thị, ngăn chặn kịp
thời các hành vi vi phạm các quy định
vể bảo vệ cây xanh trong đô thị, đồng
thời thông báo cho Ủy ban nhân dân
theo phân cấp quản lý để có biện
pháp xử lý.
(3) Ủy ban nhân dân theo phân
cấp quản lý có trách nhiệm tổ chức
bảo vệ, kiểm tra, xử lý các hành vi xâm
phạm về cây xanh đô thị; tổ chức, cá
nhân vi phạm các quy định về bảo vệ
cây xanh đô thị có trách nhiệm khắc
phục, bồi thường thiệt hại theo quy
định của pháp luật.
(4) Đơn vị thực hiện dịch vụ về
quản lý cây xanh đô thị có trách
nhiệm bảo vệ cây xanh đô thị trên địa
bàn được giao theo hợp đồng với cơ
quan quản lý cây xanh đô theo phân
cấp.
Căn cứ Nghị định của Chính phủ,
trong thời gian vừa qua nhiều địa
phương đã tổ chức thực hiện có hiệu
quả: Đến nay đã có 45 tỉnh/ thành
phố ban hành quy định về quản lý
cây xanh, phân công, phân cấp quản
lý cây xanh trên địa bàn. Hằng năm,
trong ngân sách địa phương đã bố
trí kinh phí để đầu tư, phát triển, xây
mới, cải tạo, chỉnh trang và nâng
cấp, cải tạo hệ thống cây xanh đô
thị, lập kế hoạch duy trì bảo tồn và
phát triển cây xanh đường phố đô
thị. Một số thành phố, thị xã đã lập
đồ án quy hoạch hệ thống cây xanh
thành phố (như Hà Nội, Vĩnh Yên,
Hà Tĩnh, Tây Ninh…) hoặc xây dựng
đề án phát triển cây xanh (như Hải
Phòng, Đà Nẵng, Đồng Hới, Bình
Thuận, Gia Lai…).
29Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Cây xanh, không gian xanh có ý nghĩa xã hội và nhân văn to lớn, nơi mà mọi tầng lớp người dân đều được hưởng các giá trị quý giá của thiên nhiên ngay trong lòng đô thị
Cây xanh đường phố
Những thành công bước đầu đó
là thể hiện sự quan tâm của các cấp
chính quyền và công sức to lớn của
cộng đồng trong trồng, chăm sóc,
bảo vệ và phát triển cây xanh.
Những hạn chế còn tồn tạiChưa đảm bảo chất lượng trong
công tác quy hoạch trồng cây xanh đô thị
Hiện trạng hệ thống công viên,
vườn hoa, cây xanh trên địa bàn đô
thị còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu
cầu vui chơi giải trí của nhân dân.
Nhiều cây đã đến tuổi trưởng thành
bị mối đục thân hoặc mục gốc, thân
cành có thể gãy đổ gây nguy hiểm
trong mùa mưa bão. Một số loài cây
trồng hiện có là các loài cây không
thuộc danh mục cây trồng đường
phố, được người dân trồng tự phát
nhiều trên vỉa hè để lấy bóng mát với
đặc điểm cây gỗ nhỏ, rễ nông, dễ gãy
đổ khi gặp mưa gió, cây có quả gây
mất vệ sinh môi trường, có nhiều sâu
róm, cong xấu, chiều cao thấp che
khuất tầm nhìn gây mất mỹ quan đô
thị.
Trong quá trình phát triển của
đô thị, do tác động của các nguyên
nhân chủ quan, nhiều cây xanh bóng
mát phát triển cong, nghiêng, xấu
gây mất mỹ quan đô thị, cản trở giao
thông. Các cây này cần phải có kế
hoạch thay thế bằng các loài cây đảm
bảo chất lượng theo quy hoạch.
Lựa chọn cây trồng phù hợp với
mỗi đô thị chưa được quan tâm thỏa
đáng. Nhiều thành phố lớn ở Việt
Nam, hoa sữa được trồng vừa lấy
hương thơm và tạo bóng mát. Loài
cây này cũng đi vào trong thơ ca
như là điểm nhấn, nét đặc trưng của
Hà Nội. Việc trồng cây hoa sữa ở các
thành phố lớn với mật độ vừa phải
tạo nên mùi hương êm dịu, nhưng với
mật độ quá dày đặc lại cho mùi hắc,
rất khó chịu và nhiều nơi phải chặt bỏ
bớt cây hoa sữa ví dụ TP. Quy Nhơn
(Bình Định) đã chặt bỏ 3.000 cây hoa
sữa (trong tổng số 4.000 cây) hay tại
TP. Đồng Hới (Quảng Bình) hoặc ở TP
Trà Vinh - UBND tỉnh Trà Vinh đã có
chủ trương cho đốn bỏ các cây hoa
sữa trồng dọc nhiều tuyến đường và
thay thế bằng loại cây khác vì “mùi
hoa sữa đã làm ảnh hưởng đến sức
khỏe”.
Chương trình trồng 1 triệu cây
xanh của Hà Nội đang triển khai
thực hiện. Trên nhiều tuyến phố đã
được trồng cây có đường kính cây
to hơn, tạo mảng xanh nhanh hơn,
tuy nhiên cũng có nhiều ý kiến cần
được xem xét thêm: Có nên trồng
cây dưới đường sắt đô thị không? Có
nên trồng cây tại các dải phân cách
khi chiều rộng dải phân cách này chỉ
rộng 0,5-1m hoặc tại các hè phố chỉ
rộng 1-2m; khoảng cách giữa các cây
hoặc loại cây trồng trong thời gian
vừa qua có phù hợp không… việc
tuân thủ các tiêu chuẩn, quy chuẩn
quy định về cây trồng trong đô thị
như thế nào?
Bảo vệ cây xanh đô thị còn nhiều tồn tại
Mặc dù có nhiều kết quả trong
quá trình phát triển, việc tổ chức
trồng, chăm sóc được toàn xã hội
quan tâm và đang trở thành phong
trào sâu rộng, thiết thực song công
tác trồng cây chưa đi đôi với bảo vệ
cây và hiện cũng còn quá nhiều tồn
tại và hạn chế trong công tác này mà
vừa qua dư luận đang lên tiếng đó là:
- Phá hoại cây xanh từ cộng đồng:
Người dân có rất nhiều kiểu bức hại
cây với các hình thức: Cố tình chặt;
đổ hóa chất, a-xít, đổ nước sôi vào
gốc cây; khoanh, cắt, tróc vỏ, đặt lò
nướng thịt, bếp than tổ ong, đốt
vàng mã và đốt vỏ quanh gốc hoặc
thân cây; đổ bê tông kín gốc, đóng
đinh treo đồ lên thân cây… Thậm
chí còn cưa trộm cây xanh. Nhiều hộ
dân ven đường hoặc tại mặt đường
phố, vì động cơ cá nhân như: Xây
dựng cải tạo nhà, hạ vỉa hè để thuận
lợi cho việc tập kết hàng hoá, chỗ để
phương tiện cho khách hàng hoặc
muốn tạo mặt bằng kinh doanh rộng
và thuận tiện… đã đang chung tay
“sát hại” cây xanh đô thị.
30 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Hoa sữa trên đường phố Hà Nội
- Bức tử cây xanh từ các hoạt động
xây dựng: Trong quá trình cải tạo hè,
nâng cấp hoặc mở rộng đường phố,
chỉnh trang đô thị, cải tạo, xây dựng
các công hạ tầng kỹ thuật nhiều đơn
vị thi công cố tình hoặc chặt cây xanh
để việc thi công được tiện lợi hoặc
chặt bớt rễ cây và hậu quả cây bị loại
bỏ quá nhiều rễ lớn, không còn độ
bám vào đất, dẫn đến cây chết đứng,
hoặc đổ ngả mỗi khi có giông, gió.
- Tính không đồng bộ từ quy hoạch,
dự án đầu tư và thực tế triển khai
Việc gắn kết giữa quy hoạch, xây
dựng đô thị với quản lý và phát triển
cây xanh, công viên, vườn hoa, hồ
nước… chưa chặt chẽ. Việc xem xét
dự án đầu tư xây dựng hầu như chưa
có sự kết hợp với bảo tồn cây xanh
(có thể trong báo cáo đánh giá tác
động môi trường chưa có sự xem xét
đến vấn đề này…) và dẫn đến những
hậu quả. Việc chặt hạ hàng loạt cây
xanh này mà lâu nay đã gắn bó với
mỗi người dân đô thị để xây dựng các
công trình giao thông như xây dựng
đường sắt đô thị, đường trên cao tại
Hà Nội và tại nhiều đô thị khác để lại
cho chúng ta quá nhiều suy nghĩ (và
nếu/giá như là… thì sẽ có câu trả lời
sẽ phải làm gì).
- Sự buông long trong quản lý, thiếu
các quy định, hướng dẫn
Trong quá trình xây dựng, việc
lấn chiếm, thu hẹp mặt nước (mỗi
khi cải tạo hồ nước, diện tích bị thu
hẹp lại), lấn chiếm đất công viên, cây
xanh hay xây dựng công trình không
đúng chức năng trong các khuôn
viên, công viên cây xanh vẫn diễn ra
thường xuyên.
Việc trồng cây xanh ở đường phố,
những nơi công cộng như vườn hoa,
công viên vẫn còn mang tính tự phát,
manh mún, cây xanh được trồng
chưa thể hiện đúng vai trò chức năng
vốn có của chúng. Ở một số thành
phố dù tỷ lệ cây xanh tương đối cao
song chưa có bàn tay tác động của
con người, chưa tôn thêm vẻ đẹp cho
đô thị, chưa tạo được những nét đẹp
đặc trưng. Vấn đề tồn tại cũng có thể
là chưa có hướng dẫn về lựa chọn cây
trồng nào phù hợp với mỗi loại đô thị
như: Khí hậu, thổ nhưỡng, văn hóa và
quy định loại cây nào cấm trồng, loại
cây nào nên khuyến khích trồng.
Công tác quản lý cây xanh nhiều
nơi thực hiện còn lỏng lẻo, một mặt
ngân sách hạn chế, mặt khác chưa có
các ưu đãi, khuyến khích đầu tư phát
triển cây xanh. Mặc dù các văn bản
pháp luật quy định về quản lý cây
xanh đã có nhưng khi thực hiện vẫn
còn nhiều bất cập,
Những hành vi xâm hại, bứt tử,
chặt hạ cây xanh chưa các biện pháp
phòng ngừa, ngăn chặn hữu hiệu.
Sự phối hợp giữa các cơ quan
chức năng chưa chặt chẽ; công tác
thông tin tuyên truyền chưa kịp thời,
đầy đủ, công khai, minh bạch, chưa
phát huy trách nhiệm và vai trò của
cộng đồng trong việc bảo vệ cây
xanh đô thị.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO PHÁT TRIỂN CÂY XANH BỀN VỮNG CÓ SỰ HUY ĐỘNG CỦA CỘNG ĐỒNG DÂN CƯ
1. Tiếp tục nâng cao nhận thức và trách nhiệm của hệ thống chính trị và cộng đồng trong việc phát triển cây xanh đô thị
Tăng cường giáo dục và truyền
thông thông qua các phương tiện
truyền thông đại chúng, qua nội
dung giáo dục cho học sinh, sinh viên
trong nhà trường, trong các cổng
thông tin điện tử có thêm chuyên
mục về cây xanh. Tổ chức triển lãm
về cây xanh kết hợp với các triển lãm
có liên quan đến bảo vệ môi trường.
Kết hợp giữa tuyên truyền và vận
động tạo sự đồng thuận cao trong
cộng đồng đối với các chính sách,
chủ trương phát triển cây xanh đô thị
đồng thời tạo điều kiện để nhân dân
thực hiện chức năng giám sát việc
thực hiện các chủ trương chính sách
phát triển cây xanh.
Thống nhất trong nhận thức: Việc
tham gia phát triển cây xanh đô thị
là trách nhiệm và quyền lợi của mọi
thành phần kinh tế và cộng động
(không phải chỉ là trách nhiệm của
các Công ty công viên – cây xanh...).
Đẩy mạnh cuộc vận động hưởng ứng
Tết trồng cây, ngày chủ nhật xanh,
trồng cây đi đôi với bảo vệ cây, ngày
cây xanh Việt Nam. Kịp thời biểu
dương, khen thưởng các tổ chức cá
nhân làm tốt công tác phát triển cây
xanh.
2. Những giải pháp về quản lý và hoàn thiện cơ chế, chính sách
- Tăng cường quản lý và phát triển
mảng xanh nhằm giảm thiểu tác
31Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Chặt cây xanh để xây dựng công trình giao thông
nhân của biến đổi khí hậu đã được đề cập trong Chiến lược, chương trình
mục tiêu quốc gia đến năm 2020, trong đó nêu rõ cải thiện môi trường
không khí trong các đô thị, khu dân cư là thực hiện nghiêm các yêu cầu
về bố trí đất cho công viên, cây xanh và tăng cường kiểm tra, giám sát
việc thực hiện các chỉ tiêu này đối với các dự án xây dựng, chỉnh trang đô
thị, khu dân cư. Cần có các giải pháp mang tính đồng bộ từ quy hoạch mà
trong đó xác định cụ thể đất dành cho cây xanh; đề xuất xây dựng công
trình gắn với bảo vệ cây xanh hiện hữu (việc chặt hạ nhiều cây xanh để
xây dựng công trình cần phải được xem xét, cân nhắc thận trọng trên các
yếu tố kinh tế, hậu quả môi trường); quản lý chặt chẽ đất dành cho cây
xanh chống lấn chiếm, cấm chuyển đổi mục đích… Xây dựng và cụ thể
hóa các tiêu chí “Xanh” trong đánh giá, xếp loại đô thị (đô thị xanh, con
đường xanh, đường hoa đẹp…,)
Xây dựng đề án huy động các nguồn lực để kêu gọi đầu tư, quản lý,
duy trì vào lĩnh vực cây xanh công viên trong đề án cần làm rõ: (1) Những
công việc gì có thể xã hội hóa, những việc nhà nước quản lý và những
việc gì kết hợp giữa nhà nước và tư nhân; (2) Những ưu đãi hỗ trợ cho
đầu tư hoặc quản lý; (3) Những cơ chế, chính sách mới trong hợp tác, liên
danh…;
Quy định rõ loại cây nào khuyến khích trồng và loại cây không được
trồng ở đô thị. Biến đổi khí hậu tác động rất bất lợi đến cây xanh đô thị vì
vậy lựa chọn cây trồng cho đô thị phải lưu ý yếu tố này (đối với các đô thị
ven biển phải là các cây chịu được gió bão) đồng thời cũng có những giải
pháp hữu hiệu bảo vệ cây trước những sự bất thường của thời tiết (kinh
nghiệm của Đà Nẵng như H2 của bài viết này)
Quản lý dữ liệu cây xanh, phải tiến hành đánh số tất cả các cây trên
đường phố. Cây xanh phải có lý lịch, để từ đó quản lý cây xanh thông qua
lý lịch cây. Ứng dụng công nghệ GIS trong quản lý và phát triển cây xanh.
Bổ sung các quy định có liên quan đến bảo vệ cây: Những tội xâm
phạm cây xanh như đóng đinh treo
biển quảng cáo hay đổ dầu, đổ muối
gây cho cây chết để thoáng đãng mặt
tiền kinh doanh cần phải xử phạt nặng;
Những quy định về trách nhiệm bảo vệ
cây xanh của mỗi người dân, chẳng hạn
như cây xanh trước mặt tiền cửa hàng
của hộ dân nào thì hộ dân đó phải có
trách nhiệm chăm sóc, bảo quản cây
xanh.
Các tổ chức và cộng đồng phải có
trách nhiệm trong việc trồng và bảo
vệ cây xanh đô thị và để nâng cao vai
trò của cây xanh và bảo vệ cây xanh.
Hy vọng gần đây chúng ta sẽ tổ chức
được Ngày cây xanh Việt Nam và khi
đó chúng ta có dịp tôn vinh những tổ
chức và cá nhân, cộng đồng đã làm tốt
công tác này.
Đô thị của chung ta se xanh hơn nếu trong môi đô thị có nhiều ngôi nhà xanh, công trình xanh, không gian xanh và môi góc phố, môi con đường phố có nhiều cây xanh… Điều đó chỉ xảy ra khi môi tổ chức, cá nhân hiểu, quan tâm, cam kết tự nguyện tham gia trồng, chăm sóc, bảo vệ cây xanh.
Tài liệu tham khảo1. Kỷ yếu hội thảo “Y tưởng phát
triển cây xanh thành phố Đà Nẵng”
Tháng 4/2014
2. PGS.TS. Vũ thị Vinh, “Một vài kinh
nghiệm về sự tham gia của Công đồng
xây dựng các thành phố Xanh ở nước
ta”.
3. GS.TSKH Phạm Ngọc Đăng “Nét
đặc trưng của đô thị Xanh” Báo Nhân dân
cuối tuần số 45(1345) ngày 9/11/2014
4. Nguyễn văn Ngọc, “Thương cây,
thương phố…” Báo Nhân dân cuối tuần
số 45(1345) ngày 9/11/2014.
32 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Đô thị của chúng ta sẽ xanh hơn nếu trong mỗi đô thị có nhiều ngôi nhà xanh, công trình xanh, không gian xanh và mỗi góc phố, mỗi con đường phố có nhiều cây xanh…
TIỀM NĂNG PHÁT TRỂN NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI TẠI VIỆT NAM
Việt Nam được xem là một quốc gia có tiềm
năng lớn về năng lượng mặt trời. Năng lượng mặt
trời ở nước ta có sẵn quanh năm, khá ổn định và
phân bố rộng rãi trên các vùng miền của đất nước.
Đặc biệt, số ngày nắng trung bình trên các tỉnh của
miền Trung và miền Nam là khoảng 300 ngày/năm.
Năng lượng mặt trời có thể được khai thác cho hai
nhu cầu sử dụng: Sản xuất điện và cung cấp nhiệt.
Với lợi thế về gió và mặt trời của một quốc gia khí
hậu nhiệt đới gió mùa, Việt Nam xác định, đây là 2
nguồn năng lượng chính để phát triển điện sạch.
Tuy nhiên, theo nhiều chuyên gia, khai thác hiệu
quả nguồn điện từ gió và mặt trời không hề đơn
giản.
Theo đánh giá của Hiệp hội Năng lượng sạch
Việt Nam, Việt Nam là một trong những quốc gia
có ánh nắng mặt trời nhiều nhất trong bản đồ bức
xạ mặt trời thế giới. Trung bình, tổng bức xạ năng
lượng mặt trời ở nước ta dao động từ 4,3-5,7 triệu
kWh/m2. Ở các tỉnh Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, số
giờ nắng khá cao, đạt từ 2.000 - 2.600 giờ/năm.
Phát triển điện mặt trời tại Việt Nam:TIỀM NĂNG VÀ THÁCH THỨC
Nguyên Hương
Hội thảo Phát triển năng lượng mặt trời tại Việt Nam - những xu hướng gần đây và các vấn đề mới nổi
Quy hoạch Điện VII điều chỉnh đưa ra triển vọng và đặt kế
hoạch khai thác được khoảng 850MW điện mặt trời vào
năm 2020; sẽ nâng lên 4.000MW vào năm 2025 và có thể
khai thác khoảng 12.000MW vào năm 2030.
Tại COP21 (Hội nghị Liên hiệp quốc về khí hậu), Chính
phủ Việt Nam cam kết giảm khí phát thải nhà kính từ việc
giảm phát triển nguồn điện từ các nhà máy nhiệt điện chạy
than. Chính phủ vừa qua đã ban hành Quyết định 11/2017/
QĐ-TTg về cơ chế khuyến khích phát triển dự án điện mặt
trời tại Việt Nam. Cùng với đó, nhiều hành động chính
sách cấp quốc gia và cấp Bộ gồm chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch hành động… cho phát triển năng lượng tái tạo
(gồm năng lượng mặt trời) của Việt Nam đã được ban hành.
Tuy nhiên, để phát triển công nghệ năng lượng pin mặt
trời còn vấp phải rất nhiều khó khăn về kỹ thuật, hệ thống
tích trữ năng lượng, đặc biệt là giá thành điện mặt trời còn
khá cao so với các nguồn điện khác. Giá thành của 1 kW/h
điện mặt trời nối lưới dao động khoảng 12 cent/kWh, trong
33Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
khi giá điện từ các nguồn hiện nay trung bình khoảng 5-6
cent/kWh. Các chuyên gia cho rằng, Chính phủ cần đưa
ra các cơ chế hỗ trợ về giá điện mặt trời. Có như vậy, mới
khuyến khích phát triển được nguồn năng lượng sạch và
tiềm năng này.
THỰC TẾ CÔNG TÁC KHAI THÁC NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI
Trong khi các dự án nguồn thủy điện lớn đã được khai
thác tối đa, các dự án nhiệt điện than phải đối mặt với
áp lực về môi trường thì việc phát triển các nguồn năng
lượng tái tạo, trong đó có năng lượng mặt trời, đang là
hướng đi mới tại Việt Nam.
Tuy nhiên, theo TS. Nguyễn Huy Hoạch (Hiệp hội Năng
lượng sạch Việt Nam), dù tiềm năng rất lớn, nhưng việc
khai thác nguồn năng lượng này ở Việt Nam còn chưa
đáng kể. Hầu hết các dự án điện mặt trời chỉ ở quy mô
nhỏ và tập trung chủ yếu vào việc khai thác nhiệt năng
từ năng lượng mặt trời. Chi phí đầu tư lớn là rào cản chủ
yếu cho việc phát triển các dự án điện mặt trời ở nước ta.
Dự án điện mặt trời được nối lưới đầu tiên là Nhà máy
quang năng An Hội (Côn Đảo, Bà Rịa - Vũng Tàu). Dự án
được triển khai từ giữa tháng 3/2014, hoàn thành việc xây
dựng lắp đặt và đấu nối vào lưới điện của Điện lực Côn
Đảo vào đầu tháng 12/2014 với công suất 36 kWp, điện
lượng hơn 50 MWh.
Hiện nay, tại Việt Nam đã có một số dự án năng lượng
mặt trời lớn như: Dự án Thiên Tân –2019MW (Quảng Ngãi-
19.2MW, Ninh Thuận-2000MW); Sao Mai Group –210MW
(An Giang); Xuân Cầu -2000MW (Tây Ninh); Thành Thành
Công –1000MW (Bình Thuận, Gia Lai, Ninh Thuận, Huế…);
BIM –200MW (Ninh Thuận); Tập đoàn AES –500MW
(Dak Lak); TH True Milk –1000MW (Đắk Lắk); Xuân Thiện
–2000MW Đắk Lắk); EVN –2000MW (Khánh Hòa - 50MW.
Phần nhiều các dự án tập trung vào phát triển ở Bình
Thuận (100 dự án), Ninh Thuận (140 dự án), Đak Lak (13
dự án), Khánh Hòa (12 dự án), Tây Ninh, An Giang, Gia Lai,
Bình Phước, Thanh Hóa…
Hiệp hội Năng lượng sạch Việt Nam cũng cho biết đến
nay, dự án điện mặt trời Quảng Ngãi nối lưới là dự án đầu
tiên có quy mô tương đối lớn đã cơ bản hoàn thành xây
dựng. Tuy vậy, trong dài hạn chúng ta cần phải có chiến
lược và giải pháp tổng thể để thúc đẩy mạnh hơn nữa
việc khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn năng lượng
sạch này tại Việt Nam.
Nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng thách thức lớn nhất
đối với việc phát triển điện mặt trời tại Việt Nam là biểu
giá điện hiện hành chưa hấp dẫn các nhà đầu tư; suất đầu
tư hiện nay còn rất cao trong khi Chính phủ chưa ban
hành giá bán điện mặt trời. Cùng với đó nhà đầu tư chưa
tiếp cận được nguồn vốn từ quỹ hỗ trợ năng lượng tái tạo
mà phải dùng nguồn vốn trong nước, đa phần các thiết
bị đều phải nhập khẩu, vì vậy giá thành của một đơn vị
sản phẩm cao.
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG MẶT TRỜI
Phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có năng lượng
mặt trời rất cần có các giải pháp thực tế. Cần xây dựng
Quy hoạch trung hạn và dài hạn về phát triển năng lượng
mặt trời với các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể đối với từng giai
đoạn phát triển kinh tế, xã hội. Mặt khác, nên xác định
các nhiệm vụ nghiên cứu triển khai ưu tiên về năng lượng
mặt trời và xem nó như là các nhiệm vụ khoa học công
nghệ trọng điểm. Từ đó cần có sự đầu tư đúng mức để
giải quyết ngay các vấn đề có tính quan trọng đối với
phát triển năng lượng mặt trời (ví dụ như điều tra, đánh
giá tiềm năng; lựa chọn công nghệ phù hợp; đề xuất các
cơ chế khuyến khích, hỗ trợ cụ thể…). Xây dựng một số
cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học công nghệ chuyên
sâu về năng lượng tái tạo. Đẩy mạnh hợp tác quốc tế để
học hỏi trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ,
tranh thủ các nguồn tài trợ… nhằm đẩy nhanh quá trình
phát triển năng lượng tái tạo ở Việt Nam.
Việc khai thác nguồn năng lượng mặt trời ở Việt Nam còn chưa đáng kể
Việt Nam được xem là một quốc gia có tiềm năng rất lớn về năng lượng mặt trời
34 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Cần định hướng đúng cho người dân về hiệu quả sử dụng năng lượng mặt trời
Trao đổi về vấn đề này, bà Hoàng Thu Hường - Phó
Vụ trưởng Vụ Công nghiệp, Ban Kinh tế Trung ương cho
rằng, Việt Nam có đủ điều kiện, dư địa phù hợp để phát
triển điện mặt trời, đặc biệt là ở miền Trung. Thời gian
qua, Chính phủ đã thông qua các chính sách hỗ trợ mới.
Bên cạnh đó, theo Quyết định 11/QĐ-TTg về cơ chế hỗ
trợ điện mặt trời, các loại thuế nhập khẩu, thuế thu nhập
doanh nghiệp, thuế sử dụng đất đều được cắt giảm hoặc
miễn thuế. Những cơ chế này sẽ góp phần hỗ trợ sự phát
triển điện mặt trời trên toàn quốc.
Từ thực tế phát triển nguồn năng lượng mặt trời, ông
Diệp Bảo Cánh (Chủ tịch HĐQT Công ty CP Năng lượng
Mặt trời Đỏ) kiến nghị ngoài đáp ứng về nguồn nhân lực,
Nhà nước cũng cần sớm có bộ tiêu chuẩn kỹ thuật liên
quan đến điện mặt trời đầy đủ hơn (ví dụ như tiêu chuẩn
tấm pin, invester chuyển điện, giàn khung đỡ…) để giúp
người tiêu dùng mua đúng sản phẩm chất lượng. Chính
phủ cũng nên sớm ban hành giá mua điện lên lưới từ
nguồn năng lượng mặt trời.
Theo ông Lê Vĩnh Sơn (Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sơn
Hà), cấp thẩm quyền trước hết cần xây dựng và công bố
quy hoạch phát triển điện mặt trời. Sau đó sớm công bố
giá mua bán điện mặt trời hợp lý và cơ chế hòa lưới điện
quốc gia; ban hành bộ tiêu chuẩn cho các thiết bị sử dụng
và thực hiện thử nghiệm chất lượng để hạn chế lưu thông
sản phẩm kém chất lượng, định hướng đúng cho người
dân về hiệu quả sử dụng năng lượng mặt trời.
Ông Phạm Trọng Thực, Vụ trưởng Vụ Năng lượng tái
tạo (Bộ Công Thương) khẳng định: Sự tham gia của năng
lượng tái tạo ngoài đáp ứng nhu cầu an ninh năng lượng,
còn giúp khai thác nguồn tài nguyên năng lượng tái tạo
rất dồi dào ở Việt Nam. Việt Nam có thể thành lập Quỹ
phát triển năng lượng bền vững sử dụng các nguồn từ
ngân sách, phí môi trường đối với nhiên liệu hóa thạch.
Cơ chế chính sách giá điện và đảm bảo đầu tư, là điểm
nghẽn khi phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có năng
lượng mặt trời hiện nay. Nhiều nhà đầu tư vẫn đang cảm
thấy gặp rủi ro cao về tài chính trong đầu tư hay những
hạn chế về năng lực chế tạo, lắp đặt và vận hành nên chi
phí đầu tư điện mặt trời cao hơn so với đầu tư vào điện
đốt than và khí. Cần có cơ cấu chính sách hỗtrợ mang tính
chất bắt buộc và đáng tin cậy cho điện mặt trời (những
mục đích ngắn, trung, dài hạn, chính trị, kỹ thuật, công
nghiệp). Có những quy định ưu tiên nối lưới cho năng
lượng mặt trời. Thiết kế quy trình kỹ thuật hành chính
tinh gọn và minh bạch để giảm thiểu giá thành phát sinh
và tạo sự tin tưởng cho người đầu tư và người vận hành
hệ thống (giấy phép, kết nối mạng lưới, yêu cầu dự án
và sự chấp thuận,..). Xây dựng kiến thức và năng lực cho
các nhà đầu tư, phát triển dự án, các tổ chức tài chính,
hành chính tập trung và cục bộ…Tạo các chiến dịch nâng
cao nhận thức của người dân nhằm tăng sự chấp nhận
và thấu hiểu những chính sách hỗ trợ và những sự thay
đổi trong hệ thống năng lượng. Mặt khác, cũng cần đặt
ra những chuẩn mực đánh giá chất lượng cao cho công
nghệ và lắp đặt nhằm đảm bảo thành công về mặt lâu
dài cho quá trình chuyển đổi năng lượng cũng như sự tin
tưởng và chấp nhận của các bên liên quan và công chúng.
Như vậy, rất cần có sự ưu tiên trong hình thành, phát
triển thị trường, trong quy hoạch và các chính sách ưu đãi,
hỗ trợ tài chính để phát triển năng lượng tái tạo. Qua đó,
góp phần bảo tồn năng lượng và giảm thiểu ô nhiễm, giảm
thiểu biến đổi khí hậu, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển
kinh tế bền vững. Các chuyên gia, cơ quan chức năng trong
nước cần đánh giá lại việc sử dụng nguồn năng lượng nào
để giảm thiểu nguy hại đến môi trường cũng như sức khoe
con người và hướng đến một tương lai bền vững.
35Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Nhà máy quang năng An Hội (Côn Đảo, Bà Rịa - Vũng Tàu) đã khánh thành
TS. Lê Quỳnh Chi*
Nhận diện và quản lý
trong bối cảnh toàn cầu hóa tại Việt Nam
Tóm tắt: Việt Nam có một nền văn hóa đặc sắc, lâu
đời gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của dân
tộc cùng với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú.
Tuy nhiên, đứng trước thách thức của quá trình đô thị hóa
mạnh mẽ và nhận thức hạn chế của cộng đồng, công tác
bản tồn các di sản đô thị đang gặp rất nhiều khó khăn. Bài
viết sẽ giúp độc giả nhìn nhận lại lịch sử phát triển của các
khái niệm về di sản đô thị nhằm làm rõ xu hướng trên thế
giới, phương pháp phân tích đặc điểm và đánh giá giá trị
của di sản đô thị Châu Á, và các bài học rút ra đối với nhận
diện và quản lý di sản đô thị tại Việt Nam.
Từ khóa: Di sản đô thị, bảo tồn, Việt Nam.
Summary: Vietnam has a unique and long life culture with
a long history of forming and developing nation and diverse
natural resources. However, coping with the challenges of
the strong urbanization and the limited awareness of the
community, the conservation of city heritage is encountering
a lot of difficulties. This article will help readers to have an
overview of the development history of city heritage concepts
in order to clarify tendency in the world, methods to analyze
the characteristics and evaluate the value of Asian city
heritage, and the lessons learnt in the field of identifying and
managing the city heritage in Vietnam.
Key words: City heritage, conservation, Vietnam
Nhận ngày 22/7/2017, chỉnh sửa ngày 12/8/2017, chấp nhận đăng ngày 20/8/2017.
36 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
các công trình lịch sử. Năm 1972, nhiều nước phát triển đã ký vào Hiệp ước UNESCO về bảo vệ các di sản thiên nhiên và di sản văn hóa thế giới. Trong khi Hiến chương Venice chỉ quan tâm đến các công trình lịch sử riêng lẻ, Hiệp ước UNESCO đã giới thiệu khái niệm di sản văn hóa, là cơ sở cho việc bảo tồn và cải tạo khu vực. Kể từ khái niệm khởi nguồn về di sản văn hóa năm 1972 cho đến nay, rất nhiều khái niệm về di sản đô thị đã ra đời nhằm thích ứng với sự thay đổi của kinh tế, xã hội. Năm 1976, UNESCO đề xuất khái niệm Khu vực/thành phố lịch sử bao gồm nhóm các công trình, cấu trúc và không gian mở; phương pháp bảo tồn là bảo tồn nguyên trạng. Hiến chương Washington năm 1987 đã mở rộng mối quan tâm, theo Hiến chương, Khu vực đô thị lịch sử cần đặt trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên và nhân tạo. Bên cạnh vai trò là chứng nhân lịch sử, các khu vực này chứa đựng giá trị văn hóa truyền thống. Đến năm 2004, Hiệp hội Châu Âu chính thức đề xuất các hợp phần của Di sản đô thị bao gồm ba loại chính (1) Di sản mang tính biểu tượng, chứa đựng giá trị văn hóa độc đáo (2) Các thành phần di sản tuy không chứa đựng giá trị độc đáo nhưng biểu hiện rõ ràng, góp phần tạo nên sự phong phú (3) Các nhân tố đô thị mới nên được xem xét; ví dụ: Hình thái đô thị, không gian mở, hạ tầng đô thị. Khái niệm mới nhất hiện nay được UNESCO đề xuất năm 2011 là Cảnh quan đô thị lịch sử. Khái niệm đã mở rộng và thể hiện sự linh hoạt của định nghĩa di sản đô thị. Theo khái niệm này, Cảnh quan đô thị lịch sử là các khu vực đô thị hình thành do sự chồng lớp lịch sử của các giá trị và thuộc tính về văn hóa và tự nhiên; khái niệm cũng mở rộng mối quan tâm đến bối cảnh đô thị và các nhân tố về địa lý.
Phố cổ Hội An - Di sản Văn hóa thế giới
Với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, đa dạng cùng với bề dày văn hóa lịch sử lâu năm, Việt Nam hiện đang có 22 di sản thế giới được UNESSCO vinh danh, hàng trăm các di sản cấp quốc gia hay cấp địa phương được công nhận, và hàng ngàn các công trình có giá trị đang hiện hữu tại các khu vực thành thị và nông thôn. Tuy nhiên, các di sản văn hóa lịch sử, đặc biệt là các di sản ở đô thị chưa được công nhận, đang chịu sức ép từ sự phát triển, trong đó có hai thách thức lớn bao gồm: Quá trình đô thị hóa mạnh mẽ kéo theo sự tăng trưởng dân số, và nhận thức hạn chế của cộng đồng và giáo dục. Nhằm cứu giữ những di sản này, cần thiết có một cách nhận diện linh hoạt hơn về di sản đô thị, đặc biệt trong lĩnh vực quy hoạch xây dựng.
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN CỦA KHÁI NIỆM DI SẢN ĐÔ THỊ
Năm 1964, ICOMOS đưa ra Hiến chương Venice (Venice Charter), thiết lập phương pháp bảo tồn cho
37Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH ĐẶC ĐIỂM VÀ ĐÁNH GIÁ GIÁ TRỊ CỦA DI SẢN ĐÔ THỊ TẠI CHÂU Á
Đầu thế kỉ 21, hai vấn đề đã chi phối việc bảo tồn quốc tế là tính xác thực và tính toàn vẹn. Đây là những vấn đề mà việc bảo tồn đã giải quyết sau nhiều thế kỷ tìm kiếm và phát triển các học thuyết và ý tưởng. Tuy nhiên, câu hỏi đặt ra về phù hợp và những hạn chế của các học thuyết bảo tồn được phát triển ở các nước phương Tây áp dụng vào trong khu vực Châu Á, nơi có sự khác biệt về lịch sử xây dựng, văn hóa và bối cảnh phát triển đô thị. Phần này sẽ tập trung bàn luận xoay quanh vấn đề của tính xác thực, đưa ra quan điểm làm cơ sở cho việc phân tích đặc điểm và đánh giá giá trị của di sản tại Châu Á.
Khởi nguồn từ Hiến chương Venice năm 1964, trong nhiều năm, các tài liệu tham khảo chính cho nền tảng của bảo tồn quốc tế bắt đầu bằng việc cho rằng: “Trách nhiệm của chúng ta là trao lại cho các thế hệ sau di sản văn hóa mang tính xác thực cao” (“It is our duty to hand them on in the full richness of their authenticity”). Đây là một nguyên lý quan trọng của bảo tồn quốc tế trong quá trình xác định những di sản đích thực.
Câu hỏi cần phải đặt ra trong phạm vi di sản của Châu Á là những gì chúng ta đang bảo vệ, tinh thần hay vật chất của di sản đó. Kể từ khi áp dụng kỹ thuật và khoa học tự nhiên phục vụ cho công việc bảo tồn, chúng ta đã có thể kiểm tra một cách chắc chắn về sự xác thực; Ví dụ về việc xác định tuổi thực của một đối tượng, nghiên cứu về xác thực của việc xây dựng hay sự xác thực về tông màu sắc .v.v. Tuy nhiên, đối với các di sản của Châu Á, chỉ số ít trong những trường hợp đặc biệt mới có thể được phục hồi để có tính xác thực; đa số trường hợp chỉ là tân trang chứ không bao giờ có thể được tái tạo lại về nguyên gốc. Nguyên nhân là do các di sản liên tục trải qua quá trình xây dựng lại, các công trình thường được cách điệu hơn vì lí do truyền thống. Seung Jim trong những nghiên cứu về
Trong rất nhiều di sản của Châu Á, giá trị phi vật thể luôn nổi trội hơn
bảo tồn ở Nam Triều Tiên, ông đã kết luận về bảo tồn ở Châu Á là nơi mà những yếu tố về tâm linh và sự tinh tế được sử dụng để xác định giá trị. Larsen trong Bảo tồn kiến trúc tại Nhật Bản (Architectural Preservation in Japan) đã lưu ý rằng “không phải là gốc ban đầu được đánh giá là xác thực mà chính là sự xây dựng nó để truyền lại cho chúng ta qua lịch sử”. Theo cách này, tại thời điểm cộng đồng bắt đầu nhận thức tầm quan trọng của công trình, công trình đó được coi là một di sản lịch sử với các giá trị mặc định. Hiến chương Nara đã giải quyết một phần những vấn đề về tính xác thực, các định nghĩa về tính xác thực cần linh động và phù hợp hơn. Trong khi người phương Tây chủ yếu nhìn nhận về vật chất, cách tiếp cận của người Châu Á lại được miêu tả là một cách nhìn được định hình bằng sự hòa hợp, thống nhất của con người, cộng đồng.
38 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Quần thể di tích cố đô Huế - Di sản Thế giới tại Việt Nam
Việc bảo tồn truyền thống phương Tây tập trung vào những giá trị thực tế của di sản, điều này đẩy việc bảo tồn các giá trị vật chất lên cao hơn giá trị tinh thần của di sản. Trong rất nhiều di sản của Châu Á, giá trị phi vật thể luôn nổi trội hơn, nhất là trong bối cảnh những di sản Châu Á không có tính vĩnh cửu. Đối với nền văn hóa Châu Á, giá trị lại ở chính đời sống văn hóa truyền thống của họ. Chen & Aass (1989) đã nhấn mạnh nhân tố then chốt của những công trình di sản văn hóa trong phạm vi Châu Á là di sản phi vật thể, là các giá trị tinh thần, văn hóa. Chúng không cần giá trị vật chất cụ thể, cũng không thể hiện giá trị qua kết cấu hay hình thức của công trình di sản. Giống như việc thể hiện thần thái trong một bức tranh Trung Quốc, những người nghệ sĩ Trung Hoa đã cảm nhận hàng ngàn năm nay rằng mục đích chính của việc vẽ tranh là thể hiện được cái thần thái của chủ thể trong bức tranh. Một bức vẽ núi rất ít khi họa ra hẳn hình ảnh cụ thể mà chỉ là các hình ảnh ước lệ, khi nhìn vào sẽ không thấy núi cụ thể, song lại mang sắc thái núi non rõ ràng. Việc giải thích, miêu tả này đã nhấn mạnh sự khác nhau trong cách tiếp cận và cũng cho thấy rõ giá trị tinh thần có ý nghĩa lớn lao như thế nào so với giá trị vật thể.
ÁP DỤNG VÀO BỐI CẢNH ĐÔ THỊ TẠI VIỆT NAMTrong bối cảnh phát triển năng động tại các đô thị ở
Việt Nam, cần thiết một cách thức nhận diện linh hoạt về di sản đô thị, bắt kịp xu hướng thế giới. Việc áp dụng khái niệm mới nhất của UNESSCO đưa ra về Cảnh quan đô thị lịch sử yêu cầu thừa nhận các nguyên tắc trong quy hoạch xây dựng: Chấp nhận các thay đổi trong lịch sử phát triển đô thị như một phần trong truyền thống thành phố; Đáp ứng các yêu cầu về nâng cao tiện nghi sống và phát triển kinh tế, trong khi vẫn tôn trọng cảnh quan được kế thừa nhằm đảm bảo tính toàn vẹn và thẩm mỹ của các khu vực lịch sử.
Khi xem xét, nhận diện và phân tích đặc điểm và giá trị không gian kiến trúc cảnh quan lịch sử, chúng ta cần
nhìn nhận những lớp thông tin: (1) Nhìn nhận trong bối cảnh phát triển của thành phố, có tính đến quy hoạch chung để nhận diện các áp lực phát triển (2) Các yếu tố tự nhiên (3) Các yếu tố về môi trường xây dựng: Môi trường xây dựng (cả môi trường lịch sử và môi trường hiện tại); Hạ tầng (nổi và ngầm); Không gian mở và vườn hoa, Hình thái sử dụng đất và tổ chức không gian, Các nhân tố khác của cấu trúc đô thị (5) Các giá trị phi vật thể: Bao gồm kỹ thuật xây dựng và sử dụng vật liệu truyền thống, giá trị về tâm linh, vai trò quan trọng của công trình trong cộng đồng, đời sống văn hóa truyền thống.
Khuyến nghị một số các chính sách và chiến lượcMột là, cần đánh giá kỹ lưỡng về cơ hội và nguy cơ
trong quy trình quy hoạch cảnh quan đô thị nhằm đảm bảo sự phát triển cân bằng nhất.
Hai là, cần nhìn nhận các kiến trúc đương đại là nhân tố bổ sung giá trị cho cảnh quan đô thị lịch sử.
Ba là, cần giới hạn ngưỡng phát triển kinh tế vì tầm nhìn tổng thể và dài hạn, bảo tồn di sản lâu dài trong tương lai.
Tài liệu tham khảoChen, W. and Aass, A. (1989) “Heritage Conservation:
East and West”, ICOMOS Information, 3: 348Larsen, K. (1994)“Archiectural Preservation in Japan”,
Nhà xuất bản Tara, Nauy, 204 trang. ISBN 82-519-1432-9Seung-Jin, C (1998)“Architectural Conservation in
the East Asian Cultural Context with special reference to Korea”. Khoa Môi trường xây dựng. Sydney, Đại học New South Wale : 284
Seung-Jin, C. (2005). “East Asian Values in Historic Conservation”. Tạp chí bảo tồn Kiến trúc: 55-50.
UNESCO (2011), “UNESCO Recommendation on the Historic Urban Landscape”, website chính thức của UNESCO.
39Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Giá bất động sản (BĐS) cũng giống như các loại hàng hóa thông thường khác được hình thành trên cơ sở quan hệ cung – cầu về BĐS trên thị trường. Giá cả BĐS là biểu hiện bằng tiền giá trị của tài sản mà bên bán và bên mua có thể chấp nhận. Về cơ bản giá cả BĐS bao gồm giá của đất và giá công trình. Trong đó, đất đai không phải là sản phẩm do con người tạo ra nên không có giá thành sản xuất. Giá trị của đất đai chủ yếu là do tự nhiên sinh ra và do con người khai thác sử dụng đất đai mang lại. Khi khai thác sử dụng đất đai, lợi ích thu được càng lớn thì giá trị của đất càng cao. Đất đai có thể được mua bán, chuyển nhượng dẫn tới đất đai có “giá trị trao đổi”. Giá trị của đất đai được biểu hiện dưới hình thức tiền tệ, đó chính là “giá cả của đất đai” thường gọi là giá đất. Tuy nhiên, hàng hoá BĐS, nhà ở là hàng hoá đặc biệt, do đó giá cả BĐS có một số đặc trưng riêng. Giá cả BĐS phụ thuộc vào mức độ lợi ích sử dụng, mức độ khan hiếm tương đối và mức cầu của người mua.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG VÀ ĐỀ XUẤTGIẢI PHÁP ĐIỀU TIẾT GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN
Ths. Nguyên Hông Phú*
*Viện Kinh tế Xây dựng, Bộ Xây dựng
PHÂN LOẠI GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN Giá cả BĐS nhà ở có nhiều cách phân loại khác nhau phụ
thuộc vào ý nghĩa, mục đích sử dụng riêng. Sau đây là một số
cách phân loại giá BĐS thông dụng:
- Giá thị trường là giá mua bán BĐS mang tính phổ biến, nó
chỉ có ý nghĩa trên khi có thị trường mở và cạnh tranh, lợi ích
của bản thân người mua và người bán được thể hiện rõ ràng,
trong điều kiện được thông tin đầy đủ và không chịu bất kỳ
áp lực của hoàn cảnh đặc biệt nào;
- Giá đầu tư là giá của BĐS cho người đầu tư, sự tăng thêm
giá trị trên thị trường của đối tượng bất động sản nhờ việc
đầu tư;
- Giá bảo hiểm là giá thị trường của đối tượng, được tính
với mục đích bảo hiểm. Thông thường đây là giá thay thế hay
giá xây dựng lại (khôi phục);
- Giá thay thế là giá của đối tượng bất động sản mới với các
tính chất chức năng tương tự, sử dụng loại vật liệu, có kết cấu
và trang thiết bị tại mặt bằng thời điểm hiện tại;
- Giá xây dựng lại (khôi phục) là giá tái xây dựng đối tượng
bất động sản, như vậy toàn bộ chi phí cho việc xây dựng được
lấy y nguyên theo đối tượng cần định giá;
- Giá cầm cố, được tính trên cơ sở giá thị trường phục vụ
việc cho vay (tín dụng);
- Giá tính thuế là giá của BĐS được xác định cho việc tính
thuế và được tính phù hợp với các quy định pháp luật. Đây
40 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
là giá thị trường hay giá khôi phục lại phụ thuộc vào đối
tượng bất động sản;
- Giá tận dụng là giá của đối tượng BĐS được định giá
bằng giá vật liệu thị trường của bản thân đối tượng và có
tính toán đến các chi phí cho việc tận dụng đối tượng đó;
Ngoài ra, nếu căn cứ vào công dụng của BĐS, còn có
các loại giá khác như Giá thuê, dùng trong giao dịch cho
thuê; Giá đền bù, dùng trong giải phóng mặt bằng; Giá
khởi điểm đấu giá; Giá trưng mua lại khi Chính phủ cần
huy động BĐS...Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của
dự án, ta chỉ cần quan tâm đến giá thị trường của BĐS.
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN Giá cả BĐS tuỳ thuộc một phần lớn vào quan hệ cung –
cầu trên thị trường. Khi cầu lớn hơn cung, giá BĐS thường
bị đẩy cao lên; ngược lại, khi cầu thấp hơn cung, giá BĐS
có xu hướng giảm xuống. Tuy nhiên, giá cả BĐS còn phụ
thuộc vào nhiều yếu tố khác như những yếu tố xuất phát
từ những khuyết tật của thị trường như “độc quyền”, “đầu
cơ”, “cạnh tranh không lành mạnh”... có những yếu tố xuất
phát từ sự can thiệp của Nhà nước như đầu tư của Nhà
nước vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng khu dân cư (đường
giao thông, cấp và thoát nước, cấp điện...), tăng hoặc
miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp kinh doanh địa ốc,
áp dụng việc bán đấu giá tài sản BĐS thuộc sở hữu Nhà
nước, chính sách nhà ở cho người có thu nhập thấp...; có
những yếu tố bắt nguồn từ tâm lý, thói quen của người
dân như không muốn bán nhà đất do cha ông để lại, hoặc
không thích ở nhà chung cư, hoặc nhu cầu có nhà nằm
trên quốc lộ, tỉnh lộ...
Có 3 nhóm nhân tố tác động ảnh hưởng đến giá BĐS
nói riêng cũng như đối với BĐS nói chung, cụ thể là:
1. Yếu tố thị trườngYếu tố thị trường ảnh hưởng mạnh nhất đến giá BĐS
là tính hữu dụng và nhu cầu về loại BĐS trên thị trường.
Tính hữu dụng được hiểu là các lợi ích mang lại cho người
chủ sở hữu của BĐS. BĐS càng tiện nghi, thỏa mãn được
nhiều lợi ích cho người tiêu dùng thì giá thành BĐS đó
càng lớn và khả năng sẵn sàng trả giá cao hơn cho BĐS
đó cũng sẽ tăng lên. Từ đó có thể thấy, tính chất này đồng
biến theo giá trị của BĐS. Tuy nhiên, trong một số trường
hợp đặc biệt, khi tài sản có hữu dụng nhưng không có
khả năng chuyển giao thì cũng có thể làm giảm giá trị
của nó. Ví dụ như: Vị trí của BĐS nằm trong khu quy hoạch
treo, khả năng chuyển giao bị giới hạn làm cho giá trị bị
sụt giảm.
Tính khan hiếm và nhu cầu thể hiện qua quan hệ cung
cầu thị trường. Khi BĐS nào đó khan hiếm trên thị trường
có nghĩa rằng cung thị trường có hạn, theo quy luật cung
– cầu, nếu thị trường vẫn có nhu cầu về loại BĐS đó thì
giá BĐS đó sẽ tăng lên. Với trường hợp loại BĐS nào đó có
nhu cầu tăng cao có nghĩa rằng cầu thị trường tăng lên
thì theo quy luật cầu, giá của loại BĐS đó sẽ tăng và ngược
lại. Tuy nhiên, chúng ta cần lưu ý rằng cung của BĐS trong
ngắn hạn có tính chất co giãn kém, do vậy giá của BĐS
trong ngắn hạn chủ yếu phụ thuộc vào nhu cầu của thị
trường, hay nói khác đi cầu tăng, giá tăng và ngược lại.
Một số đồ thị minh họa cho việc giá BĐS chịu ảnh
hưởng từ thay đổi cung, cầu của thị trường:
Hình 1. Giá tăng khi cầu (nhu cầu) tăng
Hình 2. Giá tăng khi cung thị trường giảm (khan hiếm)
S: đường cung về BĐS, D: đường cầu về BĐS, Q: số
lượng BĐS, P: giá BĐS
Tại Hình 1, cung và cầu BĐS gặp nhau tại 1 điểm hình
thành mức giá P1 ứng với số lượng Q1. Khi nhu cầu tăng
làm cho đường cầu dịch chuyển sang phải, vì thế đường
cung và đường cầu cắt nhau tại điểm mới và hình thành
Giá bất động sản phụ thuộc vào mức độ lợi ích sử dụng, mức độ khan hiếm tương đối và mức cầu của người mua
41Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
nên giá mới là P2 ứng với lượng mới là Q2. Tương tự vậy,
Hình 2 minh họa giá BĐS tăng khi BĐS khan hiếm, cung
BĐS sụt giảm làm cho giá BĐS tăng lên.
2. Yếu tố vị tríMỗi BĐS đều gắn liền với một vị trí cố định, và gần như
duy nhất. Hầu như các BĐS khác nhau đều có vị trí khác
nhau, không lặp lại hay giống nhau mà chỉ có thể tương
tự nhau. Với mỗi vị trí của BĐS, khả năng sinh lời của BĐS
cũng khác nhau. Khả năng sinh lời do yếu tố vị trí BĐS
mang lại càng cao thì giá trị của BĐS càng lớn. Việc xem
xét đánh giá ưu thế về vị trí BĐS là cực kỳ quan trọng, đặc
biệt là đối với việc xác định giá đất.
Mỗi BĐS luôn đồng thời tồn tại 2 loại vị trí, vị trí tuyệt
đối và vị trí tương đối. Vị trí tuyệt đối của BĐS là vị trí duy
nhất với mỗi BĐS thể hiện tính cố định của BĐS, còn vị
trí tương đối của BĐS thể hiện đặc điểm tương đồng của
một nhóm BĐS như: Những BĐS nằm tại trung tâm đô
thị, BĐS ở ngoại ô... Cả 2 loại vị trí nói trên đều có vai trò
quan trọng trong việc xác lập giá trị của BĐS. Ví dụ như
BĐS ở mặt phố có giá cao hơn BĐS ở trong ngõ hẻm (vị trí
tuyệt đối), BĐS ở trung tâm TP. Hà Nội có giá cao hơn BĐS
ở ngoại ô Thành phố (vị trí tương đối).
Sự khác biệt về vị trí, hướng nhà tạo nên một sự chênh
lệch khá lớn về giá bán ở trong cùng một dự án bất động
sản. Tính duy nhất về vị trí của một mảnh đất nhất định
và khả năng sinh lời của đất được hiểu là khoản lợi nhuận
thu được từ đất do nó có vị trí thuận lợi hơn so với các vị
trí đất khác. Khi những thửa đất có diện tích như nhau,
được sử dụng cho những mục đích giống nhau và các
yêu cầu tương tự về vốn, lao động và quản lý tạo ra các
thu nhập ròng khác nhau. Chênh lệch về thu nhập ròng
từ những mảnh đất này chính là thể hiện về chênh lệch
về giá đất và cần được tính đến trong quá trình xác định
giá trị đất đai.
Thông thường, những BĐS có thể mang lại lợi ích kinh
tế cao thường có giá trị rất đắt đỏ. Đặc biệt là những BĐS
nằm tại vị trí mặt đường các khu phố sầm uất, thuận lợi
cho việc kinh doanh, buôn bán. Còn với những
người muốn mua BĐS để phục vụ nhu
cầu về chỗ ở thì hầu hết đều đặt ra
một số tiêu chí về vị trí BĐS để
chọn lựa như: đường hoặc ngõ
rộng, gần trường học, gần
bệnh viện, gần chợ, gần mặt
đường phố, gần các khu
trung tâm vui chơi giải trí... Những BĐS nằm tại vị trí càng
thỏa mãn được nhiều tiêu chí đó thì giá càng cao. Trong
đó, việc BĐS nằm tại vị trí có đường hoặc ngõ rộng ảnh
hưởng khá nhiều tới giá BĐS. Qua khảo sát tại các trung
tâm thành phố có thể thấy, BĐS nằm ở mặt phố có thể
đắt hơn BĐS trong ngõ từ 2-5 lần, BĐS nằm ở ngõ to mà
hiện nay người ta thường định lượng bằng việc ô tô có
thể vào được có thể có giá cao gấp 1,2-2 lần BĐS cùng
khu vực nhưng nằm ở ngõ nhỏ hơn. Còn tại các khu đô
thị mới, vị trí của các BĐS ảnh hưởng tới giá BĐS cũng
không nhỏ.
Ngoài ra, tùy thuộc vào nhu cầu riêng của từng đối
tượng sử dụng BĐS mà giá BĐS có thể khác nhau. Những
người làm khoa học thì lại thích mua BĐS có vị trí yên
tĩnh, thoáng mát. Những người làm nghệ thuật thì muốn
sở hữu BĐS có vị trí gần gũi với thiên nhiên, lãng mạn.
Với mỗi nhu cầu, sở thích riêng biệt này, BĐS thỏa mãn
được các yêu cầu phù hợp cũng sẽ có lợi thế về giá hơn
các BĐS khác.
Mặt khác, không chỉ thuận tiện và thỏa mãn được các
nhu cầu, vị trí BĐS mang lại khả năng sinh lời cao do sự
tăng giá BĐS cho người sở hữu. Có thể thấy, với tốc độ
tăng dân số như hiện nay và nhu cầu mở rộng các thành
phố, các đô thị hiện nay thì quỹ đất tại các khu trung tâm
có vị trí đẹp sẽ ngày càng hạn hẹp. Do đó, việc sở hữu một
vị trí BĐS đắc địa sẽ ngày càng khó.
3. Các yếu tố khácNgoài hai yếu tố chính ảnh hưởng đến giá BĐS là yếu
tố thị trường và yếu tố vị trí thì còn một số yếu tố khác
cũng có những ảnh hưởng nhất định tới giá BĐS như:
♦ Kích thước, diện tích, hình thể thửa đất hoặc lô đất
Một kích thước và diện tích thửa đất tối ưu khi thoả
mãn một loại nhu cầu cụ thể của đa số dân cư trong vùng
thì sẽ có giá cao. Ví dụ: Tại Hà Nội, với nhu cầu để ở, thì
loại kích thước và diện tích tối ưu khi mặt tiền thửa đất từ
4m-5m và chiều sâu thửa đất là từ 10m-15m. Khi diện tích
ô đất lớn hơn diện tích tối ưu thì giá trị đất sẽ giảm đi do
số người dân có đủ khả năng để mua được ô
đất diện tích lớn cũng giảm đi, còn với
diện tích ô đất nhỏ hơn diện tích
tối ưu thì nhu cầu ít hơn nên
giá trị đất cũng giảm đi. Về
hình thể, đa số người dân
đều thích lô đất có hình
chữ nhật, các lô đất méo
Sự khác biệt về vị trí,hướng nhà tạo nên một sự chênh lệch
khá lớn về giá bán ở trong cùng một dự án bất động sản
42 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
mó hoặc có góc nhọn sẽ bị giảm giá
trị trừ trường hợp lô đất “nở hậu” tức
có chiều dài của mặt sau nhà lớn hơn
chiều dài mặt tiền thì giá trị đất lại cao
hơn.
♦ Địa hình BĐS toạ lạc
Địa hình nơi BĐS toạ lạc cao hay
thấp so với các BĐS khác trong vùng
lân cận có tác động đến giá trị BĐS.
Nước ta có hai mùa là mùa mưa và
mùa khô diễn ra rõ rệt. Vào mùa
mưa, những khu vực có địa hình thấp
thường hay bị ngập nước hay bị hiện
tượng triều cường gây rất nhiều khó
khăn trong việc đảm bảo giao thông
cũng như làm đảo lộn và tác động
xấu tới cuộc sống của người dân. Do
đó, mọi người đều không muốn mua
những BĐS này, làm giá của BĐS bị
thấp xuống. Ngược lại, những BĐS có
địa hình cao sẽ có giá đắt hơn.
♦ Tình trạng môi trường
Mọi người đều có xu hướng chọn
BĐS có môi trường xung quanh trong
lành, sạch sẽ, thoáng mát, yên tĩnh.
Một môi trường tốt sẽ giúp con người
thư thái, khỏe mạnh, dễ dàng nghỉ
ngơi và thư giãn. Do đó, môi trường
trong lành hay bị ô nhiễm, yên tĩnh
hay ồn ào đều ảnh hưởng trực tiếp
đến giá BĐS. Cụ thể, môi trường khu
vực xung quanh BĐS càng tốt thì giá
BĐS càng cao và ngược lại môi trường
xung quanh BĐS càng bị ô nhiễm thì
giá BĐS càng thấp.
♦ Hiện trạng về hệ thống cơ sở hạ
tầng nơi có BĐS
Hệ thống cơ sở hạng tầng như hệ
thống đường giao thông, hệ thống
cấp thoát nước, cấp điện, thông tin
liên lạc…càng hoàn chỉnh, năng lực
phục vụ càng tốt thì giá BĐS càng cao.
Nếu hệ thống cơ sở hạ tầng kém, năng
lực phục vụ yếu như hay bị mất điện,
mất nước... thì giá BĐS sẽ càng thấp.
♦ Tình trạng pháp lý của BĐS
Các giấy tờ chứng minh tính hợp pháp về quyền sử dụng đất, sở hữu nhà,
giấy phép xây dựng... hiện có nếu không đầy đủ theo quy định của pháp luật
thì giá trị BĐS sẽ thấp. Hoặc nếu BĐS đang trong tình trạng thế chấp hoặc
tranh chấp quyền sử dụng đất, sở hữu nhà…thì giá trị BĐS cũng bị giảm.
♦ Các yếu tố xã hội
Môi trường xã hội cũng có tác động lớn đến giá trị BĐS. Một khu vực mà
mật độ dân số đột nhiên tăng cao do tốc độ tăng của dân số cơ học thì giá trị
BĐS nơi đó sẽ tăng lên do cân bằng cung-cầu bị phá vỡ. Ngoài ra, các yếu tố
xã hội khác trong vùng như: chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, trình độ dân trí,
vấn đề an ninh trật tự... cũng ảnh hưởng thuận chiều tới giá BĐS.
♦ Các cơ chế chính sách của Nhà nước
Các cơ chế chính sách của Nhà nước có thể ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián
tiếp tới giá BĐS thông qua những tác động vào hoạt động của thị trường BĐS
nói chung và sự đầu tư vào lĩnh vực BĐS nói riêng.
♦ Các yếu tố kinh tế vĩ mô
Có rất nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô có tác động tới giá BĐS như: tỷ lệ lạm
phát, tình hình thị trường lao động, thị trường chứng khoán, tỷ giá ngoại tệ,
thị trường tín dụng...
GIẢI PHÁP VỀ ĐIỀU TIẾT GIÁ BẤT ĐỘNG SẢN PHÙ HỢP VỚI MỨC ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ VÀ MỨC THU NHẬP CHUNG CỦA TOÀN XÃ HỘI
Theo báo cáo của Ủy ban kinh tế Quốc hội, trong vòng 20 năm qua, giá nhà
đất ở nước ta đã tăng lên 100 lần và giá nhà ở trung bình cao hơn 25 lần so với
thu nhập bình quân của người lao động. So với thu nhập, giá BĐS trung bình
ở các nước Châu Âu chỉ bằng 7 lần, Thái Lan 6,3 lần, Singapore là 5,2 lần. Dù
gặp khó khăn suốt 2 năm qua, tính trên tổng thể, giá nhà ở thực tế không giảm
nhiều, chỉ giảm ở những phân khúc và những khu vực bị thổi lên một cách quá
vô lý. Theo nhiều chuyên gia kinh tế, giá BĐS ở nước ta là ảo vì giá không tương
xứng với thu nhập của người dân và giá trị sinh lời của BĐS. Nguyên nhân giá
BĐS cao bất hợp lý là do các nguyên nhân về cung cầu, tính kém minh bạch
Người sử dụng bất động sản có nhu cầu tiếp cận các dự án đáp ứng được không gian sống, môi trường sống văn minh, khoa học, lành mạnh
43Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
của thị trường, chi phí chuẩn bị các dự án quá cao. Việc
điều tiết giá BĐS có thể thực hiện như sau:
1. Đối với nhà ở xã hội, nhà ở cho người thu nhập thấp
Nhà nước có chính sách khống chế giá một cách có
hiệu quả thông qua các quy định cụ thể, theo hướng: Có
phương án quản lý về thiết kế cơ sở và tổng mức đầu tư
ngay trong giai đoạn lập dự án của các chủ đầu tư; Cần
thống nhất về thời điểm huy động vốn từ khách hàng và
mức độ huy động vốn. Bên cạnh đó nghiên cứu cơ chế
quản lý đầu tư phù hợp cho loại nhà này với mục tiêu tiết
giảm tối đa chi phí.
Đẩy mạnh nghiên cứu áp dụng các loại công nghệ xây
dựng hiện đại và sử dụng các loại vật liệu xây dựng thích
hợp sẽ nâng cao được chất lượng, giảm giá thành nhà ở
và rút ngắn thời gian xây dựng, phù hợp với điều kiện cụ
thể của từng địa phương.
ảnh 5: Bất động sản sẽ trở về giá trị thực khi người
mua nhà đất cảm thấy giá nhà đất phù hợp với khả năng
chi tiêu họ
2. Đối với nhà ở thương mạiBất động sản sẽ trở về giá trị thực khi người mua nhà
đất cảm thấy giá nhà đất phù hợp với khả năng chi tiêu
họ. Để đưa BĐS về giá trị thực của nó, Nhà nước có thể
can thiệp gián tiếp qua các giải pháp:
- Làm cho thị trường minh bạch hơn thông qua các biện
pháp công khai quy hoạch BĐS; tổ chức đấu thầu đấu giá
đất; tổ chức, nâng cao chất lượng, năng lực hệ thống các
sàn giao dịch BĐS thực sự.
- Giảm chi phí chuẩn bị dự án thông qua giảm thủ tục
hành chính, quy trình phê duyệt dự án, thủ tục đền bù
giải phóng mặt bằng và các chi phí bất hợp lý khác liên
quan đến đền bù mặt bằng, tiền sử dụng đất.
- Đẩy mạnh phát triển nhà ở xã hội nhằm tăng nguồn
cung cho thị trường thông qua các chính sách hỗ trợ của
Nhà nước như: Chính sách tiếp cận quỹ đất, chính sách
đền bù giải phóng mặt bằng, chính sách thuế, lãi suất,…
- Kiểm soát chống đầu cơ BĐS thông qua các biện pháp
về thuế, hành chính và kinh tế khác.
- Tổ chức bình ổn giá, không để giá các sản phẩm liên
quan đến đầu vào BĐS tăng cao bất hợp lý.
- Sớm hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường BĐS,
trước mắt cần công bố thông tin về giá thành xây dựng
BĐS nhà ở, giá bình quân của BĐS (giá nhà, đất) đã giao
dịch thành công trên thị trường, chỉ số đánh giá thị trường
BĐS để các đối tượng trong xã hội có thể tham khảo khi
quyết định đầu tư, kinh doanh BĐS.
Minh bạch được giá BĐS cũng như làm rõ các chi phí
xây dựng thì mới có thể đưa BĐS trở về đúng giá trị thực
của nó. Khi ấy mới có thể làm tăng tính thanh khoản của
thị trường BĐS và khiến thị trường sôi động trở lại. Để
đảm bảo tính hiệu quả của các dự án, quản lý được giá
BĐS, không cho phép giá BĐS lên quá cao gây mất cân
đối cung cầu, việc thường xuyên có các cuộc điều tra,
nghiên cứu để cung cấp thông tin đầy đủ về thị trường
BĐS là hết sức cần thiết. Chức năng điều tiết thị trường
không của ai khác ngoài của chính quyền địa phương và
cơ quan quản lý Nhà nước về phát triển nhà và thị trường
BĐS. Việc đảm bảo thị trường BĐS hoạt động có hiệu
quả không chỉ mang lại lợi ích cho Nhà nước, nhà đầu tư,
người sử dụng mà còn góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, cải thiện xã hội, cải thiện nhà ở cho đại bộ phận
dân cư đô thị.
Theo các chuyên gia, thông thường, để xác định mức
độ hợp lý về giá của BĐS thường dựa vào các yếu tố cơ
bản, đó là: Yếu tố đầu tiên là dựa trên so sánh chi phí làm
ra BĐS và tỷ suất lợi nhuận chung của nền kinh tế, hoặc là
tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư chính ngành kinh doanh
BĐS với các ngành có liên quan. Thứ hai, phải so sánh với
mức thu nhập, sức mua có khả năng thanh toán của các
tầng lớp dân cư. Thứ ba, xem xét mức sinh lợi của ngành
kinh doanh BĐS so với mức sinh lợi chung của nền kinh tế
và mức sinh lợi của kênh dân cư đầu tư vốn vào thị trường
tiền tệ.
44 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
45Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
TS. Nguyên Liên Hương*
*Khoa Kinh tế và Quản lý xây dựng- Trường Đại học Xây dựng
Tóm tắt: Chi phí dự phòng là khoản mục chi phí
không thể thiếu trong ngân sách dự án để đảm bảo
sự thành công của dự án đầu tư xây dựng. Bài báo
đã xem xét một số vấn đề cơ sở lý luận về chi phí dự
phòng và xác định chi phí dự phòng theo thông lệ
quốc tế và ở Việt Nam, từ đó chỉ ra những điểm khác
biệt giữa hai cách tiếp cận. Mặt khác, bài báo cũng
đã chỉ ra 6 tồn tại trong việc xác định và quản lý chi
phí dự phòng theo các quy định hiện hành ở Việt
Nam và đề xuất 4 giải pháp định hướng cho các vấn
đề này, góp phần hoàn thiện quy định pháp luật về
đầu tư xây dựng và nâng cao hiệu quả các dự án.
Từ khóa: Dự án đầu tư xây dựng, rủi ro dự án đầu
tư xây dựng, chi phí dự phòng, quản lý rủi ro, cơ sở dữ
liệu quản lý chi phí đầu tư xây dựng.
Nhận ngày 15/8/2017, chỉnh sửa ngày 25/8/2017,
chấp nhận đăng ngày 31/8/2017.
Abstract: Contingency is the cost item that can’t be lack in the project budget to ensure the success if the construction investment project. The article has reviewed some of the theoretical basics of contingency costs and determining contingency cost under the international practice and in Vietnam, from which, it points out the differences between these two approaches. On the other hand, the article also points out six shortcomings in the defining and managing contingency expenses under the current regulations in Vietnam and proposes four solutions to these issues, contributing to the improvement of Laws on investment in construction and improving
the effectiveness of projects.
Key words: Construction investment project, risks
in construction investment project, contingency cost,
risk management, data base to manage the cost in
construction investment.
XÁC ĐỊNH CHI PHÍ DỰ PHÒNGTRONG CÁC DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
Việc dự toán chi phí cho một dự án đầu tư xây dựng
được tiến hành theo hai bước: (i) tính toán các chi phí cơ
sở và (ii) xác định các rủi ro và thiết lập chi phí dự phòng.
Chi phí cơ sở được hiểu là các chi phí mà có khả năng xảy
ra nhất ở mọi giai đoạn của dự án, mà thường là bao gồm
toàn bộ các chi phí của dự án có thể nhận dạng được và
được dự toán. Theo quá trình thực hiện dự án, chi phí cơ
sở sẽ tăng lên trong khi chi phí dự phòng sẽ giảm đi, do
các rủi ro dẫn đến cần bố trí các khoản dự phòng ngày
càng được nhận dạng nhiều hơn [4]. Chi phí dự phòng
là khoản mục không thể thiếu trong ngân sách dự án để
đảm bảo sự thành công của dự án. Tuy nhiên, việc xác
định các khoản chi phí dự phòng cho các dự án đầu tư
xây dựng ở Việt Nam vẫn còn nhiều vấn đề khi thực hiện
trong thực tế, và cũng có những sự khác biệt nhất định so
với thông lệ quốc tế.
CHI PHÍ DỰ PHÒNG TRONG DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG VÀ PHƯƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ
Để hiểu rõ hơn vể chi phí dự phòng cho dự án đầu tư
xây dựng, cần hiểu về rủi ro cho loại dự án này. Rủi ro dự
án nói chung được định nghĩa là “một sự kiện hay điều
kiện chưa chắc chắn mà nếu nó xảy ra, sẽ có ảnh hưởng
đến ít nhất một mục tiêu của dự án, ví dụ như phạm
vi, tiến độ, chi phí và chất lượng. Rủi ro luôn nằm trong
tương lai” [5]. Theo cách hiểu này, rủi ro có thể tạo ra các
kết quả tích cực (rủi ro thuộc loại cơ hội) hoặc tiêu cực (rủi
ro thuộc loại nguy cơ), khác với cách hiểu phổ biến ở Việt
Nam là rủi ro chỉ mang nghĩa tiêu cực. Các rủi ro, có thể
ảnh hưởng đến các mục tiêu khác của dự án như phạm
vi, tiến độ, chất lượng, nhưng người ta cũng thường tìm
cách quy đổi về chi phí để dễ đo lường hậu quả, hệ quả.
Nhiều nghiên cứu trên phạm vi quốc tế cho thấy, rất
nhiều các dự án đầu tư xây dựng phải đối mặt với việc
chi phí dự án có nguy cơ vượt ngân sách. Do đó, khi tính
toán ngân sách cho các dự án này, người ta phải đưa vào
các khoản chi phí dự phòng. Các khoản chi phí dự phòng
có thể được phân loại theo nhiều cách, trong đó có thể
phân loại dựa trên loại rủi ro nó được sử dụng để xử lý,
thành chi phí dự phòng cho các rủi ro đã nhận dạng được
(allowances) và chi phí dự phòng cho các rủi ro chưa nhận
dạng được (contingencies). Cách phân loại này chưa được
sử dụng rộng rãi ở Việt Nam, và cũng chưa được đề cập
đến trong các quy định pháp luật và hướng dẫn về quản
lý chi phí đầu tư xây dựng hiện hành.
Có nhiều phương pháp xác định chi phí dự phòng, theo
Hiệp hội Tăng cường Kỹ thuật Chi phí (The Association for
the Advancement of Cost Engineering), chi phí dự phòng
có thể được xác định theo các phương pháp sau:
- Đánh giá của chuyên gia (Expert judgment);
- Theo các nguyên tắc định trước (Predetermined
guidelines);
- Phân tích mô phỏng (Simulation analysis);
- Mô hình hóa theo tham số (Parametric modeling).
Các phương pháp này còn được phân loại thành hai
nhóm khá phổ biến là:
- Các phương pháp tất định (Deterministic methods)
- Các phương pháp xác suất (Probabilistic methods).
Trong thực tế, các phương pháp tất định phổ biến
hơn. Cách tiếp cận này được sử dụng bởi các chủ đầu tư
không muốn, vì nhiều lý do, thực hiện các đánh giá rủi ro
cho dự án. Trong nhóm này có các cách tiếp cận sau:
- Quy định một tỷ lệ phần trăm cố định tùy thuộc vào
loại dự toán họ đang tính toán. Ví dụ, ở dự toán nhóm 5
theo cách phân loại của tổ chức này, người ta xác định chi
phí dự phòng là 40%, trong khi dự toán nhóm 2 thì tỷ lệ
ấy sẽ là 15%.
- Đánh giá của chuyên gia: Phương pháp này sử dụng
một chuyên gia hoặc một nhóm chuyên gia, nội bộ hoặc
thuê ngoài, về quản lý rủi ro và về loại dự án đang xem xét
để xác định giá trị dự phòng.
Việc sử dụng các phương pháp xác suất để xác định
chi phí dự phòng khi tính dự toán chi phí kém thông
dụng hơn. Các phương pháp này thường được sử dụng
cho các dự án rất phức tạp. Sử dụng phương pháp này,
một loạt các chi phí có khả năng phát sinh được gán cho
từng hạng mục của dự án sử dụng mức độ tin cậy theo
các giá trị khác nhau của chi phí dự án. Chi phí dự phòng
tổng thể được xác định dựa trên mức độ tin cậy tổng thể
mà chủ đầu tư mong muốn cho cả dự án.
Các phương pháp xác suất có thể sử dụng mô phỏng
hoặc không sử dụng mô phỏng. Các phương pháp mô
phỏng xác suất là các phương pháp đòi hỏi chi phí cao
nhất vì cần các phần mềm mô phỏng phức tạp. Các
phương pháp không sử dụng mô phỏng liên quan đến
việc sử dụng các phương pháp phân tích để tính toán rủi
ro và chi phí dự phòng, như:
- Phương pháp cây xác suất (Probability Tree); FOSM
(First-Order Second-Moment, tạm dịch là Khoảng khắc
thứ hai của Chuỗi Taylor); Giá trị kỳ vọng (Expected Value);
Kỹ thuật soát xét và đánh giá chương trình (Program
46 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Evaluation and Review Technique – PERT); Ước lượng
tham số (Parametric Estimation); Phân tích thứ bậc
(Analytical Hierarchy Process); Dự báo theo nhóm tham
chiếu (Reference Class Forecasting);
Việc sử dụng các phương pháp này một cách chi tiết
để dự báo chi phí dự phòng sẽ được tìm hiểu trong một
nghiên cứu khác.
CHI PHÍ DỰ PHÒNG TRONG DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG THEO CÁC QUY ĐỊNH HIỆN HÀNH Ở VIỆT NAM
1. Các khoản mục chi phí dự phòng và phương pháp xác định theo quy định hiện hành ở Việt Nam
Theo hướng dẫn của quy định pháp luật hiện hành,
trong thành phần của tổng mức đầu tư cũng như dự toán
xây dựng, dự toán gói thầu của các dự án đầu tư xây dựng
phải tính toán đến chi phí dự phòng để đảm bảo đủ vốn
cho việc thực hiện dự án, các gói thầu của dự án khi có
các tình huống bất trắc xảy ra. Theo quy định tại Nghị
định 32/2015/NĐ-CP và Thông tư 06/2016/TT-BXD, trong
dự án đầu tư xây dựng, chi phí dự phòng gồm chi phí dự
phòng cho khối lượng công việc phát sinh và chi phí dự
phòng cho yếu tố trượt giá trong thời gian thực hiện dự
án. Theo quy định tại Thông tư 10/2015/TT-BKHĐT, ngoài
hai khoản mục trên, còn có thêm chi phí dự phòng cho
các khoản tạm tính được tính thêm tùy dự án [1]. Riêng
trong việc xác định Sơ bộ tổng mức đầu tư, theo hướng
dẫn của Thông tư 06/2016/TT-BXD, chi phí dự phòng phải
bổ sung ước tính chi phí phần khối lượng không lường
trước được của dự án. Các văn bản quy phạm pháp luật
nói trên cũng đã chỉ rõ, việc xác định các khoản mục chi
phí này tuân thủ theo quy định về quản lý đầu tư xây
dựng, với quy định hiện hành là Nghị định 32/2015/NĐ-
CP và Thông tư 06/2016/TT-BXD [2, 3].
Theo đó, Chi phí dự phòng cho yếu tố khối lượng công
việc phát sinh được tính bằng tỷ lệ phần trăm (%) trên
tổng chi phí xây dựng, chi phí thiết bị, chi phí quản lý dự
án, chi phí tư vấn đầu tư xây dựng và chi phí khác (trong
giá gói thầu, chi phí dự phòng cho từng loại gói thầu
được tính bằng tỷ lệ phần trăm trên chính khoản mục chi
phí chính của gói thầu đó).
Chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá tùy thuộc vào
mục đích tính toán, được xác định trên cơ sở độ dài thời
gian thực hiện dự án (trong Sơ bộ Tổng mức đầu tư hoặc
Tổng mức đầu tư), hoặc thời gian xây dựng công trình
(tính bằng tháng, quý, năm, trong dự toán xây dựng công
trình), hoặc thời gian thực hiện của gói thầu, kế hoạch
bố trí vốn và chỉ số giá xây dựng phù hợp với loại công
trình xây dựng có tính đến các khả năng biến động giá
trong nước và quốc tế. Thông tư 06/2016/TT-BXD đã
đưa ra công thức để tính toán loại chi phí dự phòng này
cho đủ các trường hợp xác định Sơ bộ tổng mức đầu tư,
Tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng công trình và cả dự
toán giá gói thầu. Trong đó, đã yêu cầu tính toán cả mức
biến động bình quân của chỉ số giá xây dựng theo thời
gian dựng công trình so với mức độ trượt giá bình quân
của đơn vị thời gian (quý, năm) đã tính và được xác định
trên cơ sở dự báo xu hướng biến động của các yếu tố chi
phí giá cả trong khu vực và quốc tế bằng kinh nghiệm
chuyên gia.
Theo Thông tư 06/2016/TT-BXD [2], trong tính toán sơ
bộ tổng mức đầu tư và tổng mức đầu tư, chi phí dự phòng
do yếu tố trượt giá (GDP2) được xác định theo công thức
sau:
(5)
Đối với việc xác định dự toán xây dựng công trình, dự
toán gói thầu thi công xây dựng, dự toán gói thầu mua
sắm vật tư, thiết bị lắp đặt vào công trình thì chi phí dự
phòng cho yếu tố trượt giá (GDP2) được xác định theo
công thức:
(6)
Có thể thấy, cách tiếp cận về xác định chi phí dự
phòng theo các quy định pháp luật hiện hành ở Việt Nam
có nhiều sự khác biệt với thông lệ quốc tế. Mặt khác, các
quy định này còn chưa xem xét đến các vấn đề phức tạp
nảy sinh trong các dự án lớn và phức tạp.
2. Một số vấn đề tồn tại trong việc xác định các chi phí dự phòng trong dự án đầu tư xây dựng theo quy định pháp luật hiện hành
Các quy định pháp luật trên đã có định hướng khá rõ
ràng để giải quyết bài toán xác định các chi phí dự phòng
trong dự án đầu tư xây dựng. Tuy nhiên, trong thực tế
thực hiện, việc xác định các khoản mục chi phí dự phòng
nói trên còn một số vấn đề phải giải quyết để đảm bảo
yêu cầu tính đúng, tính đủ, nâng cao hiệu quả quản lý dự
án đầu tư xây dựng, cụ thể:
- Chưa có sự thống nhất về các khoản mục chi phí dự
phòng giữa quy định của Bộ Kế hoạch Đầu tư và Bộ Xây
dựng; như trên đã chỉ ra, Thông tư 10/2015/TT-BKHĐT đề
xuất có dự án có thể tính thêm chi phí dự phòng cho các
khoản tạm tính trong khi các hướng dẫn của Bộ Xây dựng
không đề cập đến khoản mục này.
47Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
48 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
- Phương pháp xác định chi phí dự phòng cho khối
lượng công việc phát sinh còn chưa có hướng dẫn cụ thể
cách tính tỷ lệ dự phòng, mới chỉ quy định căn cứ để xác
định mức tỷ lệ này là mức độ phức tạp của công trình
thuộc dự án và điều kiện địa chất công trình nơi xây dựng
công trình và quy định mức độ tối đa cho tỷ lệ này tùy
thuộc vào giai đoạn tính toán.
- Phương pháp tính chi phí dự phòng khối lượng dựa
vào một tỷ lệ tối đa cố định là chưa thực sự sát với thực tế.
Các dự án khác nhau có đặc điểm khác nhau (do tính duy
nhất của dự án) nên sẽ có các rủi ro khác nhau. Từ đó việc
quy định khống chế một mức dự phòng tối đa như nhau
cho tất cả các dự án là chưa khoa học, bởi vẫn có thể có
các dự án đòi hỏi mức dự phòng lớn hơn tỷ lệ phần trăm
cố định đã quy định. Mặt khác, quy định này đưa đến thực
tế phổ biến là mức tỷ lệ cao nhất được lấy để tính toán,
gây thất thoát, lãng phí trong nhiều trường hợp, nhất là
khi sử dụng hợp đồng trọn gói.
- Chưa có các hướng dẫn cụ thể để dự báo xu hướng
biến động của các yếu tố chi phí giá cả trong khu vực và
quốc tế phục vụ việc tính toán mức biến động bình quân
của chỉ số giá xây dựng theo năm xây dựng công trình so
với mức độ trượt giá bình quân của năm cần tính (trong
việc xác định chi phí dự phòng cho yếu tố trượt giá); vấn
đề này cùng với việc xác định xu hướng biến động bằng
kinh nghiệm chuyên gia sẽ dẫn đến các hệ lụy phức tạp
trong quản lý chi phí, trong thanh tra, kiểm toán các dự
án đầu tư xây dựng.
- Bên cạnh rủi ro do phát sinh khối lượng và trượt giá
đã được đề cập trong chi phí dự phòng, còn một số yếu
tố có thể gây phát sinh chi phí mà chưa được tính toán
đến ví dụ như: Do không kiểm soát được hoặc xác định rõ
phạm vi dự án, gói thầu hoặc ngay cả công việc, dẫn đến
phát sinh thêm đầu mục công việc mới, khoản mục chi
phí mới, hay do chất lượng (chi phí chất lượng), do thời
gian kéo dài… Các vấn đề nói trên thường xảy ra ở các
dự án lớn, phức tạp, nhất là các dự án thực hiện theo hợp
đồng EPC, gây hệ lụy xấu cho quản lý chi phí, trong thanh
tra, kiểm toán các dự án đầu tư xây dựng.
- Việc phân cấp quản lý tất cả giá trị và khoản mục chi
phí dự phòng cho chủ đầu tư là chưa hợp lý và khác biệt
so với thông lệ quốc tế. Thông lệ quốc tế chia chi phí dự
phòng ra làm hai nhóm: Chi phí dự phòng cho các rủi ro
đã được nhận dạng và chi phí dự phòng cho các rủi ro
chưa được nhận dạng. Việc xác định dự phòng theo một
loại rủi ro như ở Việt Nam sẽ làm giảm hiệu quả việc sử
dụng các khoản dự phòng này.
Các vấn đề trên đòi hỏi phải được giải quyết nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý chi phí đầu tư
xây dựng nói riêng và quản lý dự án đầu tư xây dựng nói
chung, đảm bảo nguyên tắc đã được đề cập đến trong
Điều 3, Nghị định 32/2015/NĐ-CP, đó là chi phí đầu tư xây
dựng phải được tính đúng, tính đủ cho từng dự án, công
trình, gói thầu xây dựng, phù hợp với yêu cầu thiết kế, chỉ
dẫn kỹ thuật, điều kiện xây dựng, mặt bằng giá thị trường
tại thời điểm xác định chi phí và khu vực xây dựng công
trình.
ĐỊNH HƯỚNG VỀ GIẢI PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC TỒN TẠI VỀ XÁC ĐỊNH CHI PHÍ DỰ PHÒNG TRONG DỰ ÁN ĐẦU TƯ XÂY DỰNG
- Đối với các dự án lớn, phức tạp, chi phí dự phòng
nên được phân thành hai loại theo thông lệ quốc tế, đó
là chi phí dự phòng cho các rủi ro đã nhận dạng được,
tuy nhiên chiến lược đối phó rủi ro được áp dụng là chấp
nhận, và chi phí dự phòng cho những rủi ro chưa nhận
dạng được. Đối với các rủi ro đã nhận dạng được, có thể
chia nhỏ ra thành ba loại theo cách phân loại của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư trong Thông tư 10/2015/TT-BKHĐT, đó
là: Chi phí dự phòng trượt giá, chi phí dự phòng phát sinh
khối lượng và chi phí dự phòng cho các khoản tạm tính
(nếu có). Chi phí dự phòng cho khối lượng công việc phát
sinh có thể được tính toán bằng một tỷ lệ % ước lượng
theo phương pháp chuyên gia, hoặc các phương pháp
khác đề xuất dưới đây. Chi phí dự phòng trượt giá và chi
phí dự phòng cho các khoản tạm tính (nếu có) tính toán
theo các quy định pháp luật hiện hành. Chi phí dự phòng
cho các rủi ro chưa nhận dạng được cần được ước lượng
theo một tỷ lệ phần trăm, dựa trên ý kiến chuyên gia.
- Nguyên tắc quản lý các loại chi phí dự phòng trên
như sau: Chi phí dự phòng cho các rủi ro đã nhận dạng
được quản lý theo các gói thầu, tùy thuộc vào loại hợp
đồng tính toán; chi phí dự phòng cho các rủi ro chưa
nhận dạng được cần do cấp quyết định đầu tư quản lý,
chỉ khi được cấp này phê duyệt, lượng vốn cho khoản dự
phòng này mới được chuyển vào ngân sách dự án để chi
tiêu cho các rủi ro phát sinh hợp lý.
- Với các dự án lớn và phức tạp, để tính chính xác hơn
tỷ lệ chi phí dự phòng cho khối lượng công việc phát sinh,
bài báo đề xuất áp dụng phương pháp ước lượng dựa
trên cơ sở các công trình tương tự về quy mô và địa điểm.
Thông tin về các khoản dự phòng đã được sử dụng từ
một số dự án nhất định đã thực hiện ở cùng địa phương
cần được thu thập lại, người làm công tác quản lý chi phí
phân tích các chi phí đã phát sinh cho các rủi ro này để
ước lượng chi phí dự phòng gán cho dự án đang xét. Để
làm được điều này, các địa phương (các Sở Xây dựng) và
cả ở cấp Trung ương (cơ quan chuyên môn thuộc Bộ Xây
dựng) cần xây dựng và vận hành các trung tâm dữ liệu
phù hợp. Số liệu về chi phí của các công trình xây dựng đã
hoàn thành ở các địa phương được thu thập thông qua
công tác tư vấn và/hoặc mệnh lệnh hành chính để tập
hợp vào các trung tâm dữ liệu trên. Dữ liệu thu thập được
không chỉ phục vụ việc xác định chi phí dự phòng, mà
còn có thể sử dụng để thực hiện các nhiệm vụ xác định và
quản lý chi phí đầu tư xây dựng khác.
- Với các dự án rất phức tạp, các phương pháp trên có
thể không đảm bảo đủ độ chính xác, cần xác định chi phí
dự phòng dựa trên kế hoạch quản lý rủi ro của dự án đầu
tư xây dựng.
Các quy định pháp luật và hướng dẫn về xác định chi phí
hiện nay mới chỉ giải quyết được một số vấn đề trong việc
xác định chi phí dự phòng cho các dự án đầu tư xây dựng.
Còn khá nhiều vấn đề còn tồn tại, nhất là đối với các dự án
đầu tư xây dựng phức tạp, như bài báo đã chỉ ra 6 vấn đề
chính. Bài báo đã dựa trên kinh nghiệm quốc tế và điều kiện
Việt Nam, đề xuất 4 giải pháp mang tính định hướng để giải
quyết các vấn đề này, nhằm đảm bảo nguyên tắc đã được
đề cập đến trong Điều 3, Nghị định 32/2015/NĐ-CP, đó là chi
phí đầu tư xây dựng phải được tính đúng, tính đủ cho từng
dự án, công trình, gói thầu xây dựng. Các giải pháp cụ thể
cho các vấn đề này sẽ được nghiên cứu chi tiết hơn ở các
nghiên cứu sau.
Tài liệu tham khảo1. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2015), Thông tư số 10/2015/
TT-BKHĐT ngày 26 tháng 10 năm 2015 của Bộ Kế hoạch
và Đầu tư về việc quy định chi tiết về kế hoạch lựa chọn
nhà thầu, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, chủ biên.
2. Bộ Xây dựng (2016), Thông tư số 06/2016/TT-BXD
ngày 10/03/2016 của Bộ Xây dựng hướng dẫn xác định và
quản lý chi phí đầu tư xây dựng, chủ biên.
3. Chính Phủ (2015), Nghị định 32/2015/NĐ-CP ngày
25/03/2015 của Chính phủ về quản lý chi phí đầu tư xây
dựng, chủ biên.
4. Keith Molenaar, Stuart Anderson và Clifford
Schexnayder (2011), AASHTO practical guide to
estimating, chủ biên.
5. PMI (2012), A Guide to the Project Management
Body of Knowledge, 5th ed., Project Management
Institute.
49Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
*Giảng viên Viện Kinh tế XD & Đô thị - Học viện CBQL xây dựng và đô thị
Thị trường xây dựng đang cạnh tranh gay gắt do sự xuất hiện của các doanh nghiệp xây dựng trong và ngoài nước ngày càng tăng, việc giành thắng lợi trong đấu thầu là yếu tố sống còn đối với môi doanh nghiệp xây dựng. Nhưng làm thế nào để có thể thắng thầu một cách chắc chắn và nhanh nhất là một vấn đề các doanh nghiệp xây dựng đang quan tâm. Nâng cao năng lực cạnh tranh trong đấu thầu có một vai trò hết sức quan trọng, có ý nghĩa quyết định đối với sự thành công và phát triển của các doanh nghiệp xây dựng.
KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒCạnh tranh Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các chủ
thể kinh tế (nhà sản xuất, nhà phân phối,
bán lẻ, người tiêu dùng, thương nhân,…)
nhằm giành lấy những vị thế tạo nên lợi
thế tương đối trong sản xuất, tiêu thụ hay
tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ hay các lợi ích
về kinh tế, thương mại khác để thu được
nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có
thể xảy ra giữa những nhà sản xuất, phân
phối với nhau hoặc có thể xảy ra giữa người
sản xuất với người tiêu dùng khi người sản
xuất muốn bán hàng hóa, dịch vụ với giá
cao, người tiêu dùng lại muốn mua được với
giá thấp. Cạnh tranh của một doanh nghiệp
là chiến lược của doanh nghiệp với các đối
thủ trong cùng một ngành. Năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp xây dựng là khả
năng doanh nghiệp xây dựng tạo ra lợi thế cạnh tranh, có khả năng
tạo ra năng suất, chất lượng cao và giá thành hạ so với đối thủ nhằm
duy trì và phát triển doanh nghiệp, đáp ứng tốt nhu cầu thị trường, tạo
ra khả năng phát triển tốt cho doanh nghiệp trong tương lai. Muốn có
được năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải thường xuyên đầu tư
xây dựng, nâng cấp bộ máy tổ chức quản lý, xây dựng các chiến lược
sản xuất kinh doanh phù hợp gồm: Thị trường, nhân lực, máy móc thiết
bị và công nghệ. Ngoài ra còn có các yếu tố như vị thế, uy tín doanh
nghiệp, môi trường cũng ảnh hưởng tới khả năng cạnh tranh của
doanh nghiệp xây dựng. Trong lĩnh vực xây dựng, để đánh giá về cạnh
tranh giữa các doanh nghiệp cũng sử dụng các tiêu chí để đánh giá
như các ngành khác, gồm: Về khả năng duy trì và mở rộng thị trường:
Tỷ lệ thắng thầu; số lượng các hợp đồng đã và đang thực hiện; kinh
nghiệm; loại, nhóm công trình xây dựng, gói thầu doanh nghiệp đã và
đang thực hiện; Về chất lượng sản phẩm: Chất lượng của sản phẩm; các
thành tích, giải thưởng mà doanh nghiệp đã thực hiện; Về năng suất
các yếu tố sản xuất: Năng suất lao động; năng suất thiết bị thi công; Về
giá cả: Giá trúng thầu; giá thanh toán hợp đồng tính trên đơn vị quy
mô sử dụng công trình xây dựng trong cùng điều kiện thực hiện, cùng
CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANHTRONG ĐẤU THẦU XÂY LẮP CỦA DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
Ths.Đặng Thị Dinh Loan*
50 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
thời điểm thi công so với các doanh nghiệp khác; Về hiệu
quả sản xuất kinh doanh: Cạnh tranh bằng các chỉ tiêu tài
chính như tỷ suất lợi nhuận, tăng trưởng doanh thu, vốn
tự có so với tổng nguồn vốn,…
Vai trò của đấu thầu đối với nhà thầu Tham dự đấu thầu và hướng tới mục tiêu thắng thầu,
các nhà thầu phải tự hoàn thiện mình trên tất cả phương
diện. Nhờ nguyên tắc công khai và bình đẳng trong đấu
thầu, các nhà thầu cạnh tranh bình đẳng trên thương
trường, nhà thầu phải phát huy tối đa tính chủ động
trong việc tìm kiếm các cơ hội tham dự đấu thầu và kí kết
hợp đồng (khi trúng thầu) tạo công ăn việc làm cho người
lao động, phát triển sản xuất. Nhờ đấu thầu, các nhà thầu
phải đầu tư có trọng điểm nhằm nâng cao năng lực công
nghệ và kỹ thuật của mình. Từ đó sẽ nâng cao năng lực
của doanh nghiệp trong tham gia đấu thầu. Để đạt mục
tiêu thắng thầu, các doanh nghiệp xây dựng phải tự hoàn
thiện các mặt quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ cán
bộ quản lý trong tham gia đấu thầu và thực hiện công
trình đã thắng thầu. Thông qua phương thức đấu thầu,
các doanh nghiệp xây dựng sẽ tự nâng cao hiệu quả công
tác quản trị chi phí kinh doanh, quản lý tài chính, thúc đẩy
nâng cao hiệu quả kinh tế khi giá bỏ thầu thấp nhưng vẫn
thu được lợi nhuận.
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY LẮP CỦA CÁC NHÀ THẦU XÂY DỰNG TẠI VIỆT NAM
Đối với một số doanh nghiệp xây dựng mạnh có tên
tuổi và thương hiệu, họ có đội ngũ chuyên gia về đấu
thầu thực hiện thì hồ sơ năng lực và hồ sơ dự thầu của
họ cơ bản đáp ứng yêu cầu của hồ sơ mời thầu và khả
năng thắng thầu của các nhà thầu này rất cao. Tuy nhiên,
phần lớn các nhà thầu xây dựng còn lại vẫn thiếu chuyên
nghiệp, không nhất quán, thời gian chuẩn bị hồ sơ, làm
thầu chậm, việc tìm kiếm thông tin về giá cả, chất lượng
sản phẩm, vật liệu trên thị trường còn yếu, dẫn đến giá dự
thầu chưa linh hoạt, còn thiếu tính cạnh tranh. Việc giảm
giá còn tùy tiện, mang tính chủ quan, chưa quan tâm tới
các giải pháp tiết kiệm chi phí sản xuất để có thể hạ giá
thành sản phẩm.
Hoạt động đấu thầu có đặc điểm là nhà thầu phải
phục tùng những yêu cầu của Chủ đầu tư. Các yêu cầu
này được thể hiện trong hồ sơ mời thầu. Nếu công ty
không đáp ứng được các yêu cầu đó thì khả năng hồ sơ
bị loại rất cao. Nếu những yêu cầu của Chủ đầu tư phù
hợp với thế mạnh của công ty thì công ty sẽ đáp ứng dễ
dàng, tăng sức cạnh tranh trong gói thầu. Ngược lại, nếu
thế mạnh của công ty không phù hợp với yêu cầu của
Chủ đầu tư thì khả năng đáp ứng yêu cầu ấy của công ty
không tốt bằng các đối thủ khác, khả năng cạnh tranh
của công ty sẽ giảm xuống.
Nếu Công ty luôn nắm bắt được thông tin về tình hình
cung cấp đầu vào vật tư, sự biến động của giá cả vật tư thì
trước hết đó là một điều kiện thuận lợi cho việc tính giá
công trình và có thể đưa ra mức giá hợp lý nhất. Ngược
lại, nếu Công ty không nắm rõ thông tin về các nguồn
cung cấp nguyên vật liệu cần thiết thì khi tính giá sẽ gặp
khó khăn, phải sử dụng mức giá không sát với giá thực tế.
Nguồn cung cấp vật tư ổn định, kịp thời cũng là điều
kiện thuận lợi đảm bảo tiến độ thi công của công trình.
Tiến độ thi công phụ thuộc vào tiến độ cung cấp vật tư.
Nếu nguồn vật tư không được cung cấp thường xuyên và
ổn định thì công ty sẽ bị chậm tiến độ so với tiến độ đặt
ra ban đầu. Không hoàn thành công trình đúng tiến độ,
công ty sẽ bị mất uy tín với chủ đầu tư và trong những
lần đấu thầu tiếp theo, khả năng cạnh tranh của công ty
sẽ giảm.
NGUYÊN NHÂN TÁC ĐỘNG ĐẾN NĂNG LỰC CẠNH TRANH TRONG ĐẤU THẦU XÂY LẮP CỦA CÁC NHÀ THẦU XÂY DỰNG
Cơ hội Trong bối cảnh hội nhập, các nhà thầu xây dựng ở Việt
Nam có nhiều khả năng hơn để tiếp cận những thành tựu
khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới, tiếp nhận
Để đạt mục tiêu thắng thầu, các doanh nghiệp xây dựng phải tự hoàn thiện công tác quản lý, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ trong tham gia đấu thầu
51Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
chuyển giao những công nghệ thích hợp. Nguy cơ: Các
công trình có vốn ngân sách nhà nước gặp rất nhiều khó
khăn về vốn xây dựng, bị ứ đọng vốn ở các công trình đã
hoàn thành nhưng chưa bàn giao, hoặc các công trình
bị ngừng thi công, việc này đã gây khó khăn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của các nhà thầu đã và đang
thi công các công trình vốn ngân sách nhà nước. Với các
công trình xây dựng có thời gian thi công kéo dài, nhu
cầu vốn rất lớn, bởi vậy tình trạng trượt giá, lạm phát liên
tục làm cho lợi nhuận doanh nghiệp giảm.
Nguồn nhân lực Nhân tố con người là vô cùng quan trọng đối với hoạt
động của mỗi doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải đảm
bảo yêu cầu về nhân sự chủ chốt của hồ sơ mời thầu để
có thể đáp ứng được yêu cầu về năng lực nhân sự khi sơ
tuyển nhà thầu. Nguồn nhân lực của doanh nghiệp đảm
bảo về số lượng cũng như chất lượng sẽ giúp cho doanh
nghiệp tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản
phẩm, từ đó nâng cao uy tín của doanh nghiệp, đồng thời
với nguồn nhân lực có trình độ và kinh nghiệm, doanh
nghiệp có thể giảm được giá dự thầu nhờ giảm được chi
phí nhân công, góp phần nâng cao khả năng thắng thầu
của doanh nghiệp. Đội ngũ cán bộ làm hồ sơ dự thầu
có ảnh hưởng lớn đến khả năng thắng thầu của doanh
nghiệp. Bên cạnh đó, lãnh đạo của doanh nghiệp cần đưa
ra chiến lược dự thầu hợp lý, để đội ngũ cán bộ làm hồ sơ
dự thầu có thể đưa ra giá dự thầu hợp lý nhất, nâng cao
khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp.
Công tác tổ chức thi công Biện pháp tổ chức thi công trong giai đoạn tham gia
đấu thầu là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực
cạnh tranh của doanh nghiệp. Không đơn giản là việc có
được biện pháp tổ chức thi công hợp lý mà điều quan
trọng hơn là khả năng áp dụng công nghệ mới - đó mới
là nguồn gốc của lợi thế cạnh tranh. Việc áp dụng công
nghệ tiên tiến vào thi công giúp cho nhà thầu đưa ra
được biện pháp thi công hợp lý, có khả năng rút ngắn
được tiến độ thi công, giảm được giá dự thầu, góp phần
nâng cao khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh
nghiệp. Năng lực máy móc, thiết bị thi công là nhân tố
đảm bảo khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Phải
đảm bảo đáp ứng được yêu cầu về máy móc của bên mời
thầu: Chủng loại máy, số lượng, công suất máy, doanh
nghiệp phải chứng minh được khả năng huy động máy
móc để đảm bảo thi công, nếu doanh nghiệp đi thuê
máy móc thì phải có hợp đồng thuê máy, tuy nhiên nếu
phần lớn máy móc thiết bị doanh nghiệp là đi thuê thì
khả năng cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp sẽ
giảm. Doanh nghiệp có máy móc thiết bị tốt, công nghệ
tiên tiến, hợp lý, đồng bộ sẽ đáp ứng được yêu cầu về
năng lực kỹ thuật khi sơ tuyển.
Nhân tố về tài chính Nguồn lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện
ở quy mô vốn tự có, khả năng huy động các nguồn vốn
phục vụ sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng các
nguồn vốn đó. Quy mô vốn tự có phụ thuộc quá trình tích
luỹ của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có quy mô vốn tự có
lớn cho thấy khả năng tự chủ về tài chính và chiếm được
lòng tin của nhà cung cấp, chủ đầu tư và khách hàng,…
Doanh nghiệp nên phấn đấu tăng vốn tự có lên một mức
nhất định đủ đảm bảo khả năng thanh toán nhưng vẫn
đủ kích thích để doanh nghiệp tận dụng đòn bẩy tài chính
làm tăng lợi nhuận, qua đó sẽ nâng cao khả năng cạnh
tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp. Để đáp ứng các
yêu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp
có thể huy động vốn từ rất nhiều nguồn. Tuy nhiên, nếu
doanh nghiệp phụ thuộc vào vốn vay, làm cho tổng nợ
của doanh nghiệp tăng lên, ảnh hưởng đến lợi nhuận thu
được, đồng thời, chủ đầu tư sẽ không tin tưởng vào khả
năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp, từ đó sẽ làm
giảm khả năng thắng thầu của doanh nghiệp. Có đầy đủ
vốn, doanh nghiệp sẽ có điều kiện thuận lợi trong đổi mới
công nghệ, đầu tư trang thiết bị, nâng cao chất lượng, hạ
giá thành sản phẩm, giữ vững được sức cạnh tranh và củng
cố vị thế của mình trên thị trường.
Các nhà thầu xây dựng ở Việt Nam có nhiều khả năng hơn để tiếp cận những thành tựu khoa học và công nghệ hiện đại của thế giới
52 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG THẮNG THẦU TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY LẮP CỦA DOANH NGHIỆP NGÀNH XÂY DỰNG
Giải pháp về tài chính Tăng cường huy động vốn và phát triển nguồn vốn tự
có: Cần tăng cường huy động vốn từ các cổ đông trong
và ngoài đơn vị. Huy động vốn góp từ người lao động
vừa tăng nguồn tài chính cho sản xuất kinh doanh vừa
làm cho người lao động gắn bó với công ty hơn, có trách
nhiệm hơn trong công việc vì có quyền lợi kinh tế của họ
ở đó. Tăng cường mối quan hệ sẵn có với các ngân hàng,
đảm bảo uy tín trong quan hệ tài chính với ngân hàng và
các tổ chức tín dụng để có sự trợ giúp về vốn hoặc đứng
ra bảo lãnh thực hiện hợp đồng cho các công ty trong
hoạt động tham gia đấu thầu và thực hiện thi công công
trình.
Đẩy mạnh đầu tư để phát triển sản xuất: Các đơn vị cần
nâng cao năng lực máy móc thiết bị, năng lực nhân sự
bằng cách mua sắm thêm thiết bị máy móc, tuyển dụng
thêm nhân sự để có thể thi công nhiều loại công trình, thi
công được các công trình có quy mô lớn, kỹ thuật phức
tạp, từ đó góp phần mở rộng thị trường hoạt động xây
dựng chuyên sâu bài bản.
Nâng cao hiệu quả đầu tư và sản xuất: Các doanh
nghiệp ngành Xây dựng cần tích cực tìm kiếm các công
trình để có thể tăng doanh thu, mang lại việc làm cho
các cán bộ của đơn vị, đồng thời nâng cao hiệu quả sử
dụng của máy móc thiết bị, tránh để máy móc bị ngừng
việc quá lâu, ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn đầu tư.
Cần có các biện pháp giảm chi phí để nâng cao lợi nhuận
thu được, đảm bảo mức tăng trưởng của doanh thu và
lợi nhuận đồng thời với việc phát triển nguồn vốn nhằm
nâng cao khả năng thắng thầu.
Về nhân sự của doanh nghiệp Đối với đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý cần
xây dựng một đội ngũ quản lý giỏi có kiến thức tổng
hợp để điều hành, biết nghệ thuật kinh doanh để có thể
đưa ra được chiến lực sản xuất kinh doanh tối ưu, quản
trị doanh nghiệp được tốt hơn. Thực hiện công tác đào
tạo, bồi dưỡng và trẻ hoá đội ngũ cán bộ lãnh đạo. Thực
hiện luân chuyển cán bộ chuyên môn nghiệp vụ yếu kém
không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, nâng
cao năng lực của nhân sự sẽ góp phần đáp ứng được
các yêu cầu về trình độ nhân sự, cũng như các bằng cấp,
chứng chỉ của lực lượng cán bộ chủ chốt của công trình
đúng như yêu cầu của hồ sơ mời thầu, nâng cao được khả
năng thắng thầu.
Đối với vật tư, máy móc trang, thiết bịCần phải có kế hoạch đầu tư mua sắm thêm thiết bị
máy móc để có thể làm tăng khả năng cạnh tranh. Máy
móc thiết bị là tài sản cố định của mỗi đơn vị, do vậy khi
quyết định đầu tư vào tài sản cố định phải dựa vào chiến
lược sản xuất kinh doanh và kế hoạch hàng năm của đơn
vị để vẫn có thể đảm bảo cơ cấu nguồn vốn của đơn vị và
chỉ nên đầu tư mua sắm những loại máy móc, công nghệ
cần thiết nhất của đơn vị chưa có, không nên đầu tư tràn
lan gây tốn kém và không khai thác, sử dụng tối đa công
suất máy móc, đem lại hiệu quả không cao, gây lãng phí.
Tăng cường năng lực bộ máy điều hành Tăng cường năng lực quản trị của Giám đốc và cán bộ
quản lý trong các doanh nghiệp về quản trị kinh doanh,
quản trị chiến lược. Trong mọi điều kiện, doanh nhân cần
thường xuyên cập nhật tri thức mới, những kỹ năng cần
thiết (kỹ năng quản trị trong cạnh tranh, lãnh đạo doanh
nghiệp, quản lý sự biến đổi, khả năng thuyết trình, đàm
phán và giao tiếp,...) để có đủ sức cạnh tranh trên thị
trường và tiếp cận kinh tế tri thức.
Xây dựng kỹ năng quản lý Xây dựng kỹ năng giám sát và đánh giá về tiến độ,
chất lượng công trình nhằm đảm bảo hiệu quả cho gói
thầu. Một công trình xây dựng hoàn thành - đó là sản
phẩm, là công sức của cả một tập thể cán bộ, nhân viên,
công nhân lao động. Sản phẩm đó thể hiện rõ hiệu quả
chất lượng, trình độ quản lý, tính chuyên nghiệp của đội
ngũ cán bộ, kỹ thuật chuyên môn và tay nghề của người
thợ. Việc thi công một công trình được thực hiện khoa
học, tính toán kỹ lưỡng, kiểm tra, giám sát và đánh giá cẩn
thận thì hiệu quả sẽ được bảo đảm.
Giải pháp khi lập hồ sơ dự thầuXây dựng chất lượng đội ngũ cán bộ chuyên trách đấu
thầu. Cần tăng cường tổ chức các chuyến đi khảo sát thực
tế, tham dự các hội thảo, đấu thầu để nắm bắt những
thông tin mới, rút ra kinh nghiệm hay để áp dụng cho các
doanh nghiệp.
Hoàn thiện kỹ thuật lập hồ sơ dự thầuNâng cao chất lượng lập hồ sơ dự thầu, cải tiến mẫu mã,
tiến tới chuyên môn hoá trong từng khâu như khâu lập giá,
lập biện pháp thi công, tiến độ thi công, hồ sơ năng lực
tài chính, nhân sự, máy móc của các doanh nghiệp. Hoàn
thiện cơ sở dữ liệu phục vụ công tác làm thầu.
53Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
Việc áp dụng công nghệ tiên tiến vào thi công giúp cho nhà thầu đưa ra được biện pháp thi công hợp lý, góp phần nâng cao khả năng
cạnh tranh trong đấu thầu của doanh nghiệp
Nghiên cứu hồ sơ mời thầu, gói thầu: Cần phải nghiên
cứu các yêu cầu của hồ sơ mời thầu và phương pháp
đánh giá các yêu cầu, đồng thời phải xem xét thời gian
nộp hồ sơ dự thầu để bố trí việc lập hồ sơ dự thầu hợp lý.
Nắm vững thông tin của Chủ đầu tư và các Công ty khác
có thể tham gia đấu thầu công trình: Công ty phải thu thập
các thông tin về chủ đầu tư, các đối thủ cạnh tranh: Năng
lực thực sự của đối thủ cạnh tranh về máy móc thiết bị,
nhân sự, mối quan hệ với chủ đầu tư, điểm mạnh điểm
yếu của các đối thủ, mục đích tham gia đấu thầu… để có
phương án cạnh tranh phù hợp.
Nâng cao kỹ năng tổ chức thi công, tiến độ dự thầu: Với
việc nghiên cứu địa hình, địa điểm, mặt bằng thi công,
cũng như tính chất công trình, cần đề ra biện pháp thi
công phù hợp.
Nâng cao kỹ năng đề xuất giá dự thầu: Giá dự thầu phải
được xây dựng trên cơ sở khoa học và thực tiễn vững
chắc. Nó phải được xây dựng dựa trên các định mức, các
tiêu chuẩn chất lượng được Bộ Xây dựng ban hành và
tình hình thực tế của doanh nghiệp như: Khả năng tài
chính, trình độ công nghệ, nguồn nhân lực, chính sách
khấu hao máy móc thiết bị,… Không chỉ có vậy, giá dự
thầu còn phải tính đến sự biến động của giá cả mới có thể
xác định được giá dự thầu có tính cạnh tranh cao.
Chiến lược khi tham gia chào giá dự thầuChiến lược đặt giá dự thầu thấp: Chiến lược này chỉ
áp dụng trong trường hợp đông nhà thầu tham gia đấu
thầu và có nhiều đối thủ mạnh có ưu thế hơn rất nhiều
hay doanh nghiệp đang trong tình trạng làm ăn ít hiệu
quả. Với mỗi gói thầu công ty cần xây dựng nhiều mức giá
chào hàng khác nhau để thuận lợi khi ra quyết định đấu
thầu, đàm phán ký hợp đồng.
Nâng cao kỹ năng đàm phán nội dung, ký kết hợp đồng
Công ty cần xem xét các điều khoản hợp đồng đưa ra
với giá trị hợp đồng và tiến độ thi công phù hợp với hồ
sơ dự thầu. Đồng thời, cần chú ý các điều khoản về tạm
ứng, thanh, quyết toán với chủ đầu tư trong hợp đồng,
để có thể được chủ đầu tư thanh toán đúng hạn và tránh
nợ đọng, ảnh hưởng đến nguồn vốn của công ty. Cần chú
ý điều khoản về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, điều
này trong thực tế chưa được công ty quan tâm. Khả năng
doanh nghiệp thắng thầu không chỉ đem lại việc làm, lợi
nhuận và cả kinh nghiệm quý báu trong kinh doanh, sản
xuất.
Trong xu thế mở cửa và hội nhập hiện nay, mức độ cạnh tranh trên thị trường ngày càng gay gắt. Tình hình cạnh tranh trong đấu thầu xây lắp cũng không nằm ngoài xu thế này. Để không bị đè bẹp trong cơn lốc cạnh tranh, các công ty xây dựng cần nâng cao khả năng thắng thầu trong đấu thầu xây lắp, môi nhà thầu phải đưa ra được những giải pháp nâng cao khả năng thắng thầu gồm: Nâng cao khả năng thắng thầu của đơn vị nhờ lập đầy đủ và sử dụng có hiệu quả ngân hàng dữ liệu phục vụ công tác lập HSDT; Nâng cao năng lực tài chính của Công ty phù hợp với quy mô phát triển; Đầu tư trang bị và sử dụng có hiệu quả máy móc thiết bị, công nghệ xây dựng; Nâng cao khả năng thắng thầu của doanh nghiệp nhờ phát triển và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao; Sử dụng có hiệu quả lợi thế cạnh tranh chi phí thấp để xây dựng chiến lược giá theo thị trường một cách linh hoạt; Hoàn thiện công tác tổ chức lập hồ sơ dự thầu; Nghiên cứu, áp dụng chủ trương công khai năng lực nhà thầu trong đấu thầu.
54 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
VẤN ĐỀ HÔM NAY
*Viện trưởng Viện Nghiên cứu đô thị và Phát triển hạ tâng
QUY HOẠCH PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG GIAI ĐOẠN 2011-2020
Quyết định số 838/QĐ-BXD phê duyệt Quy hoạch phát triển nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011-2020 do Bộ trưởng Bộ Xây dựng Trịnh Đình Dũng (nay là Phó Thủ tướng Chính phủ) ký ngày 13/9/2012 được xem là cơ sở cho việc xây dựng kế hoạch 5 năm và hàng năm về phát triển nhân lực ngành Xây dựng nói chung và của từng đơn vị trong Ngành nói riêng, đồng thời triển khai xây dựng cơ chế, chính sách và tổ chức thực hiện phát triển nhân lực của toàn ngành Xây dựng.
Theo Quy hoạch, mục tiêu nhằm phát triển toàn diện về đào tạo, tạo sự chuyển biến rõ rệt về chất lượng nhân lực, hình thành đội ngũ nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngành Xây dựng; phát triển nhanh những ngành, lĩnh vực mà ngành Xây dựng có lợi thế so sánh; gắn đào tạo với giải quyết việc làm - đào tạo theo địa chỉ; tích cực phân luồng lao động
sau đào tạo Đại học, trung học chuyên nghiệp và đào tạo nghề; xây dựng một số cơ sở đào tạo đạt chuẩn chất lượng và chất lượng cao trong khu vực và quốc tế, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của ngành Xây dựng trong nước, tham gia cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường xây dựng khu vực và quốc tế. Tăng nhanh tỷ lệ nhân lực qua đào tạo trong ngành Xây dựng dưới các hình thức, cấp học, ngành học khác nhau; đảm bảo đủ số lượng và chất lượng nhân lực hoạt động trong các lĩnh vực của ngành; đảm bảo sự cân đối, hài hòa giữa cấp học, ngành học và địa phương.
Mục tiêu cụ thể: Nhân lực ngành Xây dựng tăng từ 2,9 triệu người năm 2010 lên khoảng 5 triệu năm 2015 và khoảng 8 - 9 triệu người năm 2020; tỷ lệ nhân lực qua đào tạo tăng từ mức 41,0% năm 2010 lên khoảng 60,0% năm 2015 và khoảng 65,0% năm 2020. Trong đó, bậc đào tạo nghề chiếm khoảng 68,5% năm 2015 và khoảng 68,0% năm 2020, bậc trung cấp chuyên nghiệp chiếm khoảng 25,0% năm 2015 và khoảng 24,0% năm 2020, bậc Cao đẳng chiếm
Phấn đấu đến năm 2020, 70% số giảng viên Đại học có trình độ Thạc sĩ , 30% trình độ Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học
55Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNHXÂY DỰNG VIỆT NAM MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁPKHẮC PHỤC PGS. TS. Lưu Đức Hải*
khoảng 2,0% năm 2015 và khoảng 3,0% năm 2020, bậc Đại học và trên Đại học chiếm khoảng 4,5% năm 2015 và khoảng 5,0% năm 2020.
Riêng đối với đào tạo bậc Đại học, mục tiêu đề ra đến năm 2020 toàn Ngành có khoảng 5.500 người đạt trình độ sau Đại học và trên Đại học, khoảng 200 nghìn người có trình độ Đại học và khoảng 124 nghìn người có trình độ Cao đẳng chuyên nghiệp. Phấn đấu đến năm 2020 số giảng viên Đại học có trình độ Thạc sĩ khoảng 70%, còn lại 30% có trình độ Tiến sĩ và Tiến sĩ khoa học, trong đó có khoảng 100 Giáo sư, Phó Giáo sư; giảng viên Cao đẳng có trình độ Thạc sĩ khoảng 60%, giảng viên có trình độ Tiến sĩ khoảng 8%.
THỰC TRẠNG NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG HIỆN NAYLao động
“Đội ngũ công nhân ngành Xây dựng - những người trực tiếp lao động tạo ra thực thể công trình còn thiếu về số lượng, ít về chất lượng. Tỷ lệ lao động thủ công, lao động nông nhàn chưa qua đào tạo còn khá cao”. (Đánh giá của Học viện Cán bộ quản lý xây dựng và đô thị - Bộ Xây dựng).
Xây dựng là một trong những ngành có chỉ số nhân lực tăng trưởng liên tục. Cũng theo số liệu của Bộ xây dựng, cơ cấu nguồn nhân lực của Ngành (tỷ lệ cơ cấu kỹ sư, trung cấp chuyên nghiệp, công nhân học nghề) là 1:1,3:3; trong khi đó, với các nước trên thế giới, tỷ lệ này là 1:4:10. Với tỷ lệ này, ngành Xây dựng đang tồn tại tình trạng thừa thầy thiếu thợ.
Mặt khác, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, điều kiện sống của người lao động còn nhiều thiếu thốn đã ảnh hưởng đến cường độ và năng suất lao động. Đội ngũ công nhân ngành Xây dựng còn thiếu về số lượng, yếu về chất lượng. Số lượng lao động có trình độ Trung cấp nghề và công nhân kỹ thuật được đào tạo có xu hướng giảm, trong khi đội ngũ thợ bậc cao, lành nghề tuổi đời ngày càng cao chậm được bổ sung. Tỷ lệ lao động thủ công, lao động nông nhàn chưa qua đào tạo còn nhiều. Mức độ thành thạo, tính chuyên nghiệp, kỹ năng nghề nghiệp chưa cao. Do đó, nhiều khi có một bộ phận lao động ngành Xây dựng chưa đáp ứng với yêu cầu trình độ công nghệ và tốc độ phát triển sản xuất của Ngành.
Đào tạoThực trạng phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng
hiện nay còn bộc lộ nhiều bất cập. Theo thống kê của Bộ Xây dựng, đội ngũ công chức cơ quan Bộ Xây dựng tuy có những bước trưởng thành, nhưng vẫn còn tình trạng “nợ
tiêu chuẩn” công chức (chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp...), trong khi một bộ phận không nhỏ công chức cơ quan Bộ không được đào tạo đúng Ngành, đúng nghề. Bên cạnh đó, đội ngũ doanh nghiệp ngành Xây dựng được đào tạo, bồi dưỡng về quản lý doanh nghiệp còn chiếm tỷ lệ rất thấp (3,90%) và nhìn chung ít được đào tạo bài bản, nhất là kiến thức về quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa... Có thể nói, thực trạng này đã ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả quản lý, nhất là trong lĩnh vực quản lý đô thị và sự phát triển chung của ngành Xây dựng.
Hằng năm các trường Đại học, Cao đẳng và Cao đẳng nghề, trường Trung cấp và các Học viện liên tục đào tạo nhân lực cho ngành Xây dựng. Tuy nhiên, số lượng người được đào tạo nghề có tăng nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của Ngành và không cân đối giữa các trình độ đào tạo. Đào tạo ở bậc Cao đẳng, Đại học tăng quá nhanh trong khi đào tạo nghề và Trung học tăng chậm hơn, làm cho cơ cấu nguồn nhân lực theo trình độ càng thêm bất hợp lý.
Có một bộ phận lao động ngành Xây dựng chưa đáp ứng với yêu cầu trình độ công nghệ và tốc độ phát triển sản xuất của Ngành
Việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ở các cấp, các ngành là vô cùng cần thiết và quan trọng
56 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
Việc tổ chức đào tạo ở các cấp học, bậc học còn nặng về lý thuyết, ít thời gian thực hành, chưa thực sự gắn bó với nhu cầu sử dụng, với tiến bộ khoa học công nghệ và công việc thực tế mà người học khi ra trường phải đảm nhận. Hệ quả là khi ra trường người học phải mất khá nhiều thời gian để làm quen với công việc, không ít trường hợp đơn vị sử dụng tiến hành bổ túc hay đào tạo bổ sung, đào tạo lại.
MỘT SỐ HẠN CHẾ CHỦ YẾU CỦA NGUỒN NHÂN LỰC NGÀNH XÂY DỰNG NƯỚC TA
Theo Báo cáo đánh giá về “Thị trường lao động Việt Nam” của Cục Việc làm, dự kiến số lao động làm việc trong doanh nghiệp đến 12/2016 khoảng 12,9 triệu người. Nhu cầu sử dụng lao động trong các loại hình doanh nghiệp vẫn tập trung ở nhóm lao động trình độ thấp và một phần nhỏ đối với lao động có trình độ cao; còn lại hầu hết những lao động bậc trung lại ít có nhu cầu sử dụng. Qua đó, có thể thấy việc sử dụng nhân lực lao động nói chung cũng như nhân lực của ngành Xây dựng nói riêng không được quản lý chặt chẽ.
Trong bối cảnh chuyển đổi và hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới thì sự hình thành và phát triển của thị trường lao động Việt Nam vẫn còn nhiều yếu kém. Nguyên nhân chủ yếu là do chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, chức năng và lộ trình phát triển của thị trường lao động; khuôn khổ pháp lý cho phát triển doanh nghiệp và thị trường lao động chậm đổi mới tác động tiêu cực đến môi trường cạnh tranh, phân bổ nguồn nhân lực; các điều kiện để phát triển đồng bộ cung - cầu lao động và gắn kết cung-cầu lao động yếu kém; các thể chế quan hệ lao động và quản trị thị trường lao động còn yếu; huy động và phân bổ nguồn lực tài chính cho phát triển thị trường lao động chưa hợp lý và kém kiệu quả.
Chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương của nguồn nhân lực chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của nhà nước và xã hội.
Đội ngũ nhân lực chất lượng cao, công nhân lành nghề vẫn còn rất thiếu so với nhu cầu xã hội để phát triển của ngành Xây dựng Việt Nam. Số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật, thậm chí nhóm có trình độ chuyên môn cao có khuynh hướng hiểu biết lý thuyết khá, nhưng lại kém về năng lực thực hành và khả năng thích nghi trong môi trường cạnh tranh công nghiệp; vẫn cần có thời gian bổ sung hoặc đào tạo bồi dưỡng để sử dụng hiệu quả.
Khả năng làm việc theo nhóm, tính chuyên nghiệp, năng lực sử dụng ngoại ngữ là công cụ giao tiếp và làm
việc của nguồn nhân lực còn rất hạn chế. Trong môi trường làm việc có yếu tố nước ngoài, ngoại ngữ, hiểu biết văn hoá thế giới luôn là điểm yếu của lao động Việt Nam.
Tinh thần trách nhiệm làm việc, đạo đức nghề nghiệp, đạo đức công dân, ý thức văn hoá công nghiệp, kỷ luật lao động của một bộ phận đáng kể người lao động chưa cao.
Năng suất lao động còn thấp so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Đáng lo ngại là năng suất lao động của Việt Nam có xu hướng tăng chậm hơn so với các nước đang phát triển trong khu vực.
Từ những vấn đề trên, việc cần làm ngay đó là tăng cường công tác đào tạo đặc biệt là đào tạo nghề cho người lao động. Đồng thời việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý ở các cấp, các ngành là vô cùng cần thiết và quan trọng, công tác đào tạo phải gắn với thực tiễn đồng thời thúc đẩy doanh nghiệp tự đào tạo lao động để đáp ứng yêu cầu công việc.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP Đổi mới mạnh mẽ quản lý nhà nước về phát triển
nhân lực Trong đó, cần tập trung vào việc hoàn thiện bộ máy
quản lý phát triển nhân lực, đổi mới phương pháp quản lý, nâng cao năng lực, hiệu lực và hiệu quả hoạt động bộ máy quản lý về phát triển nhân lực. Cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước. Đổi mới các chính sách, cơ chế, công cụ phát triển nhân lực, cải tiến và tăng cường sự phối hợp giữa các cấp các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực.
Về mặt thể chế, chính sáchCần xây dựng, hoàn thiện các Luật Việc làm, Luật Tiền
lương tối thiểu, Luật Quan hệ lao động, Luật An toàn, vệ sinh lao động, hoàn thiện Luật Bảo hiểm xã hội; xây dựng Luật Bảo hiểm thất nghiệp... phù hợp với quy luật của thị trường, lợi ích chính đáng và hợp pháp của người lao động và doanh nghiệp.
Bảo đảm nguồn lực tài chính cho phát triển nhân lực
Ngân sách nhà nước là nguồn lực chủ yếu để phát triển nhân lực quốc gia đến năm 2020. Cần xây dựng kế hoạch phân bổ ngân sách nhà nước theo hướng tập trung để thực hiện các chương trình, nhiệm vụ, dự án đào tạo theo mục tiêu ưu tiên và thực hiện công bằng xã hội.
Đẩy mạnh xã hội hoá để tăng cường huy động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Nhà nước có cơ chế, chính sách để huy động các nguồn vốn của người dân
57Số 55.2017 XÂY DỰNG & ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO
đầu tư và đóng góp cho phát triển nhân lực bằng các hình thức khác nhau.
Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam; sử dụng hiệu quả các nguồn vốn của nước ngoài hỗ trợ phát triển nhân lực (ODA); thu hút đầu tư trực tiếp (FDI) của nước ngoài cho phát triển nhân lực.
Đổi mới giáo dục và đào tạo Đây là nhiệm vụ then chốt, giải pháp chủ yếu để phát
triển nhân lực Việt Nam trong giai đoạn từ nay đến 2020 và những thời kỳ tiếp theo. Cần tập trung vào một số nội dung sau đây:
- Cấu trúc lại chương trình đào tạo theo hướng tập trung cho đào tạo kỹ năng.
- Tăng cường đội ngũ giáo viên để đào tạo theo hướng lấy kỹ năng làm trọng.
- Tăng cường hợp tác với cơ sở sản xuất có nhiều trang thiết bị mới nhằm giúp cho việc đào tạo kỹ năng có thể thực hành, thực hiện công tác với công cụ hiện đại.
- Chú trọng vào việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho tất cả các lớp đào tạo.
Chủ động hội nhập quốc tế để phát triển nguồn nhân lực Việt Nam
Công tác hợp tác quốc tế về phát triển nguồn nhân lực ngành Xây dựng cũng cần đặc biệt chú trọng. Chúng ta học tập kinh nghiệm của các nước về phát triển nguồn nhân lực đi vào thực chất, có hiệu quả thiết thực để đào tạo phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Tham gia kiểm định quốc tế chương trình đào tạo. Thực hiện đánh giá và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế, liên kết, trao đổi về giáo dục và đào tạo Đại học, sau Đại học và các đề tài, dự án nghiên cứu khoa học, công nghệ giữa các cơ sở giáo dục Đại học Việt Nam và thế giới.
Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để thu hút các nhà giáo, nhà khoa học có tài năng và kinh nghiệm của nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực Đại học và nghiên cứu khoa học, công nghệ tại các cơ sở giáo dục Đại học Việt Nam.
Tăng cường dạy và bồi dưỡng ngoại ngữ (đặc biệt là tiếng Anh), văn hoá thế giới, kỹ năng thích ứng trong môi trường cạnh tranh quốc tế cho người Việt Nam.
Để thực hiện thành công các giải pháp trên, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, làm cho cán bộ, công chức của toàn bộ hệ thông chính trị các cấp, các tầng lớp nhân dân, các nhà trường, các doanh nghiệp, tổ chức hiểu rõ vai trò và trách nhiệm đào tạo và sử dụng nhân lực, biến thách thức về nhân lực thành lợi thế để phát triển kinh tế,
xã hội và nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế.Hiện nay, trong điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá
và hội nhập quốc tế, phát triển nhân lực được coi là một trong ba khâu đột phá của chiến lược chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; đồng thời, phát triển nhân lực trở thành nền tảng phát triển bền vững và tăng lợi thế cạnh tranh quốc gia. Việc phát triển nhân lực, đặc biệt là nhân lực ngành Xây dựng, một mặt, cần phải có tầm nhìn chiến lược phát triển tổng thể và dài hạn, nhưng đồng thời, trong mỗi thời kỳ nhất định, cần xây dựng những định hướng cụ thể, để từ đó đánh giá thời cơ, thách thức, những khó khăn, hạn chế và nguyên nhân… để đề ra mục tiêu và giải pháp phát triển thích hợp cho giai đoạn đó phù hợp với bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước và quốc tế.
Tài liệu tham khảo1. Quyết định số 838/QĐ-BXD phê duyệt Quy hoạch
phát triển nhân lực ngành Xây dựng giai đoạn 2011 - 2020 ngày 13/9/2012 của Bộ Xây dựng.
2. Số liệu thống kê của Tổng cục Thủy lợi năm 2012.3. Số liệu của thống kê của Bộ xây dựng năm 2010.4. Báo cáo đánh giá về “Thị trường lao động Việt Nam”
của Cục Việc làm (Bộ LĐ-TBXH) năm 2016.5. http://www.baoxaydung.com.vn - Nâng cao chất
lượng đào tạo nguồn nhân lực ngành Xây dựng.6. http://amc.edu.vn - Phát triển nguồn nhân lực
ngành Xây dựng đáp ứng nhu cầu hội nhập.7. http://www.vncold.vn - Phát triển mạnh mẽ nguồn
nhân lực ngành Xây dựng nước ta.8. http://xaydungtayninh.vn - Chiến lược đào tạo
nguồn nhân lực ngành Xây dựng. 9. http://www.sonadezi.edu.vn - Kiến trúc, xây dựng
cần nhiều nhân lực cao đẳng, trung cấp.10. http://tcxd.edu.vn - Ngành Xây dựng, kiến trúc –
nhu cầu thực tế và vấn đề đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội.
11. http://www.viendong.edu.vn - Dự báo nhu cầu nhân lực 2015 đến 2025.
58 HỌC VIỆN CÁN BỘ QUẢN LÝ XÂY DỰNG VÀ ĐÔ THỊ
NGHIÊN CỨU ĐÀO TẠO