Upload
cronosorma
View
8
Download
0
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Dialectical Thoughts in Buddhism Philosophy
Citation preview
Lời mở đầu
Triết học Phật giáo là một trong những học thuyết triết học - tôn giáo
lớn, tồn tại lâu đời trên thế giới . Với hệ thống giáo lý rất đồ sộ và số lượng
phật tử đông đảo được phân bố rộng khắp, triết học Phật giáo nhanh chóng
trở thành một tôn giáo có ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tinh thần của rất
nhiều quốc gia trên thế giới và Việt Nam không phải là ngoại lệ. Ngày nay
dù đã trải qua các cuộc cách mạng xã hội và các cuộc cách mạng trong hệ ý
thức với chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng chủ đạo, là vũ khí lý luận của
chúng ta nhưng giáo lý nhà Phật đã ít nhiều in sâu vào tư tưởng tình cảm của
một số bộ phận lớn dân cư Việt Nam. Tại sao tác động của đạo Phật đối với
thế giới quan, nhân sinh quan của con người nói chung và của người Việt
nói riêng lại lớn đến như vậy? Có lẽ việc đi sâu nghiên cứu, đánh giá tư duy
biện chứng trong triết học Phật giáo sẽ giúp ta hiểu rõ hơn về điều này.
Đồng thời qua đó ta cũng vận dụng vào trong nền kinh tế thi trường ở Việt
Nam để tìm ra một phương cách hợp lý để hướng đạo theo điều thiện, tránh
cái ác, hình thành nhân cách con người tốt hơn góp phần xây dựng đất nước
giau mạnh hơn chứ không trở nên mê tín dị đoan, cúng bái, lên đồng, gây
ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ, niềm tin của quần chúng nhân dân và nhiều
điều khác tốt đẹp nữa. Với mong muốn đó chúng em đã chọn đề tài : “Tư
duy biện chứng trong triết học Phật giáo. Vận dụng tư tưởng trong nền kinh
tế thi trường ở Việt Nam” để tìm hiểu và nghiên cứu.
1
Chương 1 : Tư duy biện chứng trong triết học Phật giáo
Phật giáo là một tôn giáo, nhưng trong đó hai yếu tố tôn giáo và triết
học quyện vào nhau, làm cơ sở luận chứng cho nhau. Tư tưởng triết lý Phật
giáo được tập trung trong một khối lượng kinh điển rất lớn, được tổ chức
thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho
cả năm bộ phái Phật giáo như: “ Tứ phần luật” của thượng toạ bộ, Maha tăng
kỷ luật của “Đại chúng bộ”, căn bản nhất thiết hữu bộ luật” ... Sau này còn
thêm các Bộ luật của Đại Thừa như An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều
tập dưới dạng các tiền đề, mỗi tập được gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của
Phật giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm
về giáo pháp của Phật giáo.
Tư tưởng triết học Phật giáo trên hai phương diện, về bản thể luận và
nhân sinh quan, chứa đựng những tư tưởng duy vật và biện chứng chất phác.
1. Bản chất của tư duy biện chứng trong triết học Phật giáo
Tư duy biện chứng trong phật giáo là tư duy về sự vận động biến đổi
của vạn vật trong thế giới. Nó thể hiện rõ ràng nhất, nổi bật nhất là phạm trù
tư duy về về thế giới và con người trong đó luận giải về các vấn đề sinh ra,
tồn tại và biến mất: con người nằm trong vòng sinh lão bệnh tử, quan niệm
về con người trong vòng luôn hồi số kiếp và giải thoát; thế giới vô thường -
vô tại, hiện tại này là nguyên nhân dẫn đến những cái khác trong xã hội…
Tư duy biện chứng thể hiện rõ nhất và trung tâm nhất là ở thuyết vô
ngã - vô thường và luật nhân quả :
2
+ Luật nhân - quả: triết học phật giáo đề cao tính tự thân sinh thành,
biến đổi của vạn vật, không do sự chi phối quyết định của một lực lượng
thần linh hay thượng đế tối cao nào. Trái lại vạn vật đều tuân theo tính tất
định và phổ biến của luật nhân – quả. Điều này được quán triệt trong việc lý
giải những vấn đề của cuộc sống nhân sinh như: hạnh phúc, đau khổ, giàu
nghèo, thọ, yểu …
+Thuyết vô ngã - vô thường: Tính biện chứng sâu sắc của triết học Phật
giáo đặc biệt thể hiện rõ qua việc luận chứng về tính chất “vô ngã” và “vô
thường” của vạn vật .
2. Thế giới quan trong triết học Phật giáo
2.1 Thuyết vô ngã- vô thường
Phạm trù “vô ngã” bao hàm tư tưởng cho rằng, vạn vật trong vụ trụ
vốn không có tính thường hằng nó chỉ là sự “giả hợp” do sự hội đủ nhân
duyên nên thành ra “có” (tồn tại). Ngay bản thân sự tồn tại của thực tế con
người chẳng qua cũng là do “ngũ uẩn” (năm yếu tố) hội hợp lại: Sắc (vật
chất), thụ (cảm giác), tưởng (ấn tượng), hành (suy lý) và thức (ý thức). Theo
cách phân loại khác - “lục tại”: địa (chất khoảng), thuỷ (chất nước), hoả
(nhiệt năng), phong (hơi thở), không (khoảng trống) và thức (ý thức). Nói
một cách tổng quát thì vạn vật chỉ là sự “hội hợp” của hai loại yếu tố là vật
chất “sắc” và tinh thần “danh”. Như vậy thì không có cái gọi là “tôi” (vô
ngã).
3
Phạm trù “vô thường” gắn liền với phạm trù “vô ngã”. Vô thường
nghĩa là vạn vật biến đổi vô cùng theo chu trình bất tận: Sinh – Trụ – Dị –
Diệt (hay: Sinh – Trụ – Hoại – Không). Vậy thì “có có” – “không không”
luân hồi (bánh xe quay) bất tận: “thoáng có”, “thoáng không” cái còn mà
chẳng còn, cái mất mà chẳng mất.
Triết học Phật giáo cho rằng các sự vật hiện tượng trong vũ trụ là vô
thủy vô chung (vô cùng - vô tận). Tất cả thể giới đều ở quá trình biến đổi
liên tục (vô thường) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả
các Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới.
Mỗi một pháp ( mỗi một sự vật hiện tượng, hay một lớp các sự vật hiện
tượng) đều ảnh hưởng đến toàn pháp. Như vậy các sự vật, hiện tượng hay
các quá trình của thế giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua
lại và quy định lẫn nhau. Tác phẩm “thanh dung thực luận” của kinh phật
viết: có người cố chấp có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc
nào cũng thường định ra chu pháp, đạo Phật cho rằng toàn bộ chư pháp đều
chi phối bởi luật nhân quả, biến hóa vô thường, không có cái bản ngã cố
định, không có cái thực thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn.
“SINH DIỆT VÔ THƯỜNG”: Là sự vô thường nhanh chóng trong từng ý
niệm, nó thay đổi hoàn toàn, cái mà xảy ra bên trong bất cứ một chúng sanh
nào hay một sự vật nào, ngoài sự tập hợp của các pháp thì xuất hiện sự sanh
diệt ngay lúc đó. Như vậy, mỗi người, mỗi vật luôn luôn thay đổi và không
4
bao giờ giống nhau, vì hai sự kiện hoạt động tiếp nối nhau. Trong Triết học
Phật giáo gọi là “sinh diệt vô thường”, nguyên lý này được giải thích theo
quan điểm Phật giáo là bất cứ sự thay đổi nào của vạn vật đều sanh diệt
không ngừng trong từng khoảnh khắc.
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra
quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta
muốn có. Nhưng không hẳn là như vậy mà lắm lúc chúng ta quên đi sự vô
thường và biến hoại của vật chất trong từng giây phút đi qua. Ta có thể tận
mắt nhìn một đám mây đang bay ngang trước mắt, nhưng rồi nó cũng phải
biến tướng dời đi nơi khác mà không còn nguyên vẹn như ban đầu chúng ta
đang có cảm thọ là đám mây kia vẫn ở vị trí cũ.
Tóm lại, ngay từ đầu triết học Phật giáo đã giả quyết các vấn đề một
cách biện chứng và duy vật. Triết học Phật giáo đã gạt bỏ vai trò sáng tạo
thế giới của các đấng tối cao, của thượng đế và cho rằng bản thể của thế giới
tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản thể ấy
chính là sự thường hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình thức
của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhưng nó không dừng
lại ở bất kỳ hình thức nào.Và có thể nói qua thuyết vô ngã vô thường người
ta nhận ra thế giới quan trong triết học phật giáo hay nói cách khác là cách
nhìn nhận thế giới của triết học phật giáo. Đó là một thế giới luôn vận động,
biến đổi không ngừng và triết học phật giáo đã nhìn nhận thế giới trong sự
5
hình thành, tồn tại, phát triển và biến mất. Hay nói một cách khác triết học
Phật giáo đã nhìn nhận sự tồn tại thế giới trong sự phức tạp của nó.
2.2 Luật nhân quả
Luật nhân quả được hiểu một cách thông thường như sau: cái nhân
nhờ có cái duyên mới sinh ra được mà thành quả. Qủa lại nhờ có duyên mà
thành nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới … Cứ thế
nối nhau vô cùng, vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hóa
hóa mãi. Tất cả vạn vật đều tuân theo luật nhân quả biến đổi không ngừng và
chỉ có sự biến hoá ấy là thường còn (vĩnh viễn).
Do quy luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không
ngừng, thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại và diệt vong). Qúa
trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phương thức thay đổi chất
lượng của sự vật hiện tượng. Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hóa
vô thường của vạn vật đã xây dựng nên thuyết nhân duyên. Trong thuyết
nhân duyên có ba khái niệm cơ bản là Nhân, Qủa, Duyên:
+ Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó được
gọi là Nhân.
+ Cái gì tập lại từ Nhân gọi là Qủa.
+ Duyên là điều kiện, mối liên hệ giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tương hợp, điều kiện để
giúp cho sự biến chuyển của Phật pháp.
6
Luật nhân quả có thể hiểu cụ thể như sau:
+ Nhân Quả là một định luật mới nhìn thì rất giản dị, nhưng nếu
càng đi sâu vào sự vật thì càng thấy phức tạp, khó khăn! Trong vũ trụ mọi sự
vật không phải đơn thuần tách rời từng món, mà có liên quan mật thiết, xoắn
lấy nhau, ảnh hưởng nhau, tương phản nhau, tiếp thừa nhau, chằng chịt giữa
sự vật, hành giả gọi nó là "Duyên" nên mới có từ “Nhân Duyên”. Ví dụ hạt
lúa cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây lúa sắp thành.
Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và những mối liên
hệ thích hợp như đất, nước, không khí, ánh sáng. Những nhân tố đó chính là
“Duyên”. Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá
vô thường của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tương lại, Phật
giáo đã trình bày thuyết “ Thập Nhị Nhân Duyên” ( mười hai quan hệ nhân
duyên) được coi là cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách
tất yếu của sự liên kết nghiệp quả. Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan
hệ biện chứng trong không gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó
bao trùm lên toàn bộ thế giới không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự
giản đơn hay phức tạp. Một hạt cát nhỏ được tạo thành trong mối quan hệ
nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ hoà hơp tạo nên nó. Cũng như nó hoà
hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có tất cả trong tất cả có một. Do
nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp thì sinh, Duyên tan thì
diệt. Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
7
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tương đối, trong dòng biến hoá vô tận
vô thường vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là hư ảo. Chỉ có sự biến đổi vô
thường của vạn vật, vạn sự theo nhân duyên là thường còn không thay đổi.
+ Mối quan hệ Nhân – Qủa là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ bao trùm lên toàn bộ thế giới
không tính đến cái lớn nhỏ, cái đơn giản hay phức tạp. Ví như một hạt cát
nhỏ được tạo thành từ mối quan hệ nhân quả trong toàn vũ trụ, cả vũ trụ hòa
hợp tạo nên nó.
+ Thuần nhân không sinh ra quả. Hạt lúa không thành cây, nếu không
đem gieọ hạt lúa không thành cơm, nếu không đem xay giả và nấu chín. Ở
khía cạnh khác thì lại khác. Thí dụ, muốn có quả cam thì phải có nhân (hạt)
cam. Tức nhân nào thì quả nấỵ. Học đàn thì biết đàn. Nghĩa là nhân quả phải
đồng loại nhau. Do đó, nhân chuyển đổi thì quả cũng chuyển đổi theo. Thế
nên dựa vào luật nhân quả ông bà ta khuyên ngắn gọn "làm lành hưởng
phước, làn ác mang họa", với ước muốn con cháu ăn hiền ở lành.
+ Trong nhân có quả, trong quả có nhân. Chính trong Nhân hiện tại đã
hàm chứa cái Quả vị lai; cũng chính trong Quả hiện tại đã có hình bóng của
Nhân quá khứ. Một sự vật ta gọi là Nhân, là khi nó chưa biến chuyển, hình
thành ra cái Quả. Một vật đều có Nhân và Quả; đối với quá khứ nó là Quả,
nhưng đối với tương lai nó là Nhân. Nhân và Quả đấp đổi nhau, tiếp nối
nhau không bao giờ dứt. Nhờ sự liên tục ấy, mà trong một hoàn cảnh nào,
8
người ta cũng có thể đoán biết quá khứ và tương lai của một sự vật hay một
người.
+ Sự biến chuyển từ Nhân đến Quả có khi mau, khi chậm, chứ không
phải bao giờ diễn tiến trong một thời gian đồng đều. Có những Nhân và Quả
xảy ra kế tiếp nhau, Nhân vừa phát thì Quả xuất hiện, như khi ta vừa đánh
xuống mặt trống (nhân) thì âm thanh phát ra (quả). Nhiều khi Nhân gây rồi,
nhưng phải đợi một thời gian mới hình thành. Cái thời gian ấy phức tạp vô
chừng. Như gieo hạt lúa phải cần thời gian vài ba tháng. Có khi từ Nhân đến
Quả hàng chục năm, như từ khi đi học (nhân) đến lúc thành tài (quả). Có khi
từ Nhân đến Quả phải đợi một vài trăm năm hay hơn nữa. Điều này vượt qua
mức sự kiểm soát của một kiếp người nên có kẻ không tin luật Nhân Quả.
Nhân Quả nơi con người: nói đến con người thì có nhiều phương diện
nào vật chất, như con người do cha mẹ sinh ra (nhân) rồi hoàn cảnh cuộc
sống (duyên). Về phương diện tinh thần thì có tư tưởng tốt và xấu. Nói một
cách tổng quát dù vật chất hay tinh thần, hễ gieo nhân nào thì gặt quả nấỵ
Về thời gian thì Nhân trước, Qủa sau. Nhân Qủa tồn tại trong diễn
biến trước sau nối nhau, trong sự hòa hợp liên quan đến nhau. Có nguyên
nhân thì tất có kết quả, có kết quả thì tất có nguyên nhân. Mọi sự vật đều
biến đổi sinh diệt theo phép Nhân quả. Luật nhân quả là lý luận cơ bản mà
triết học Phật giáo dùng để giải thích mối quan hệ tương hỗ của mọi sự vật.
3. Nhân sinh quan trong triết học Phật giáo
9
Quan điểm về triết lý nhân sinh, ở phương Đông đã kết luận bản tính
tự nhiên của con người. Ở phương Tây thì kết luận con người được cấu tạo
từ vật chất. Còn theo triết học Mác – Lê nin, quan niệm về con người: Con
người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với xã hội; trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội; con
người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Đạo Phật quan niệm về triết lý
nhân sinh thể hiện trong thuyết “thập nhị nhân duyên”. Trong mười hai nhân
duyên thì vô minh căn bản. Từ nhân quá khứ sang quả hiện tại lại làm lại
nhân cho quả tương lai. Cũng theo Phật giáo nguồn gốc vũ trụ và con người
không do lực lượng siêu nhân sáng tạo ra mà cho rằng thế giới là vô cùng vô
tận.
Trong thập nhị nhân duyên ta chú trọng đến quy luật “sinh lão bệnh
tử”, là bốn nỗi khổ mà ai cũng phải trải qua theo như Phật giáo. Sinh lão
bệnh tử là quy luật lẽ thường của tự nhiên, cái chết không loại trừ bất cứ ai.
Trong mỗi con người luôn tồn tại hai mặt: sự sống và cái chết. Khi con
người sinh ra và lớn lên cũng đồng nghĩa với việc tiến dần tới cái chết. .
Nhưng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác tan
đi là hết nhưng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang nghiệp
rơi vào vòng luân hồi khổ não. Do vậy, nếu tất cả mọi người đều hiểu được
sinh tử là quy luật tự nhiên thì họ sẽ sống tích cực hơn và ra sức đóng góp
cho đời nhiều hơn. Sau khi lý giải được nỗi khổ ở cuộc đời con người là do “
10
thập nhị nhân duyên” làm cho con người rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã
chủ chương tìm con đường diệt khổ. Con đường giải thoát đó không những
đòi hỏi ta nhận thức được nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm
nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
+ Khổ đế: Con người và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu
là khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà
phải chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà được cũng là khổ. .... Những nỗi
khổ ấy từ đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
+ Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập
lại mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con người có lòng tham, dâm (giận dữ), si ( si mê, cuồng mê,
mê muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con người xâu xé là do
con người không nắm được nhân duyên vốn như là một định luật chi phối
toàn vũ trụ. Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không
không. Cái tôi tưởng là có nhưng thực là không. Vì không hiểu được ra nỗi
khổ triền miên, từ đời này qua đời khác.
+ Diệt đế: Là phải thấu hiểu được “Thập nhị nhân duyên” để tìm ra
được căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ.
Thực chất là thoát khỏi nghiệp chướng, luân hồi, sinh tử.
+ Đạo đế: Là con người ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy
nghĩ trong thế giới nội tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc
biệt là thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi
phận là đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy được chân
11
như và thanh thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thường, tức
là đạt tới cói “niết bàn” không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới
luật tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đường hay 8
nguyên tắc ( Bát chính Đạo) - buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt được phải trái, không để
cho những cái sai che lấp sự sáng suốt.
- Chính tư duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho người
khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà,
không được bỏ điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vươn lên
để đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hướng về đạo lý chân chính, không nghĩ
đến những điều bạo ngược gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung tư tưởng vào con đường chính,
không bị thoái chí, lay chuyển trước mọi cán dỗ.
12
Chương 2 : Vận dụng tư tưởng trong nền kinh tế thị trường ở
Việt Nam
Thời đại ngày nay, là thời đại phát triển. Nước ta vừa trải qua mấy
chục năm chiến tranh và hàng chục năm sống dưới chế độ quan liêu bao cấp,
đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu vẫn cần đến sự phát triển. Phát triển có
nghĩa là sự tăng trưởng nhanh chóng về kinh tế, đời sống vật chất và văn
hoá. Đảng và nhà nước đã chỉ ra nhiệm vụ trước mắt làm dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng văn minh. Để đạt mục tiêu này nước ta cần có
những người có tham vọng lớn, năng động, lạc quan, tin tưởng, dũng cmở
rộng sáng tạo. Những phẩm chất này phần lớn trái với giáo lý nhà Phật, vì
tham vọng trái với cấm dục, vô dục, ly dục của Nhà Phật ... Vì vậy việc cần
làm hiện nay là phải xác định rõ Phật giáo có ảnh hưởng đến hệ tư tưởng của
người Việt Nam như thế nào để từ đó đưa ra những chính sách phát triển phù
hợp với lòng dân, làm cho xã hội ngày càng phát triển tiến bộ và tốt đẹp hơn.
Mô hình lý tưởng nhân đạo của Phật giáo và chủ nghĩa cộng sản trong
nền kinh tế thị trường là: Một bên là duy tâm, một bên duy vật. Một bên diệt
dục triệt để bằng ý chí và coi dục là căn nguyên của mọi tội lỗi, bên kia thì
cố gắng thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người bằng lao động với
năng suất và chất lượng cao nhằm cải tạo thế giới, coi nhằm cải tạo thế giới,
coi đó là tiêu chuẩn đánh giá tính nhân đạo thực sự tiến bộ của xã hội, một
bên hứa hẹn một mô hình niết bàn bình đẳng tự do cho tất cả mọi người, từ
13
bi bác ái như nhau, không còn bị ràng buộc bởi các nhu cầu trần tục, còn bên
kia khẳng định mô hình lý tưởng cho mọi người lao động, coi lao động là
nhu cầu sống chứ không phải phương tiện sống, lao động không còn là
nguồn gốc của khổ đau, qua lao động con người hoàn thiện cả bản thân và
hoàn thiện cả xã hội.
Đấy là những tư tưởng tiến bộ của chủ nghĩa Mác - Lê nin. Nó phù
hợp với xu thế phát triển của thời đại, của xã hội. Do đó, nó nhanh chóng
được hầu hết mọi người ủng hộ, tiếp thu. Còn hạn chế lớn nhất của Phật
giáo đối với phương pháp tư duy của người Việt Nam là quan điểm
duy tâm thần bí. Quan điểm này khiến người ta không hướng vào
hiện thực, mà hướng vào nghiệp, vào quả báo, vào thần linh để mong
được phù hộ, độ trì. Và một khi tư duy như vậy thì không cần gì đến
sự tìm tòi và khám phá, sáng tạo và hành động.
Mặt khác, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, mọi
lĩnh vực trong đời sống con người đều có bước nhảy vọt. Xu thế toàn cầu
hoá thể hiện ngày càng rõ nét. Điều kiện đó đòi hỏi con người phải hết sức
năng động, nhanh nhạy nắm bắt vấn đề trong cuộc sống. Trong khi đó, theo
giáo lý nhà Phật con người trở nên không có tham vọng tiến thân, bằng lòng
với những gì mình đã có, sống nhẫn nhục, không đấu tranh, hướng tới cõi
niết bàn khi cuộc sống trần gian đã chấm dứt. Như vậy Phật giáo đã tách con
người ra khỏi điều kiện thực tiễn của con người xã hội, làm cho con người
14
có thái độ chấp nhận chứ không phải là cải tạo thế giới. Đạo đức xuất thể
của Phật giáo là chạy trốn nhu cầu bản năng chứ không phải chế ngự thiên
nhiên, bắt nó phục vụ cho mình. Các chương trình xã hội của Phật giáo
không phải cải tạo lại điều kiện sống mà chỉ để cố san bằng xã hội bằng đạo
đức, trong xã hội đó ai cũng từ bi, bác ái, hỉ xả, nhẫn nhục …
Tuy nhiên các phong trào nhân đạo như “ Lá lành đùm lá rách”., “ quỹ
giúp bạn nghèo vượt khó” , “ quỹ viên gạch hồng” , “quỹ vì người nghèo”...
tiêu biểu cho tư tưởng nhân đạo, bác ái, giúp đỡ người khác mà cơ sở của
nền tảng ấy là tư tưởng giáo lý nhà Phật đã hoà tan với giá trị truyền thống
của con người Việt Nam. Sự đồng cảm với những con người gặp khó khăn,
những số phận bất hạnh cô đơn, cộng với truyền thống từ bi, bác ái đã giúp
chúng ta, có đủ nghị lực và tâm huyết để lập ra những kế hoạch, tham gia
vào những hoạt động thiết thực như hội chữ thập đỏ, hội tình thương, các
chương trình phổ cập văn hoá cho trẻ em nghèo, chăm nom các bà mẹ Việt
Nam nghèo ... Tất cả những điều đó chứng tỏ chúng ta không chỉ năng động,
sáng tạo đầy tham vọng trong cuộc sống mà còn thừa hưởng những giá trị
đạo đức tốt đẹp của ông cha, đó là sự thương yêu, đùm bọc lẫn nhau giữa
mọi người, lòng thương yêu giúp đỡ mọi người qua cơn hoạn nạn mà không
chút nghĩ suy, tính toán. Và ta không thể phủ nhận Phật giáo đã góp phần tạo
nên những giá trị tốt đẹp ấy.
15
Ngoài ra chúng ta cần phải thấy rằng một trong những bài học lớn của
phân tích kinh tế là ngoài việc thừa nhận sự phát triển kinh tế bằng những
yếu tố đơn thuần về tự nhiên và kinh tế, còn có một yếu tố khác nữa cực kỳ
quan trọng, đó là văn hóa tâm linh với những hệ quả tâm lý và xã hội của
chúng. Có thể xem đây là một trong những nhân tố làm đòn bẩy cho sự phát
triển kinh tế nước nhà từ điểm nhìn văn hóa Phật giáo. Văn hóa Phật giáo đã
hòa quyện vào trong mỗi nền văn hóa dân tộc mỗi nước, khó mà tách bạch
rõ ràng được trong sự phát triển kinh tế, đời sống xã hội...
Trong đời sống kinh tế thị trường, ai cũng biết muốn phát triển phải
tăng cường đầu tư. Muốn đầu tư, phải tiết kiệm vốn. Tỷ lệ tiết kiệm vốn tùy
thuộc thái độ đối với sự hưởng thụ. Theo triết học Phật giáo hẳn nhiên phải
thực hành một nếp sống đạm bạc, tri túc, và cần siêng năng lao động theo
tinh thần Bát chính đạo và “Nhất nhật bất tác, nhất nhật bất thực” (một ngày
không làm thì một ngày không ăn). Rõ ràng triết học Phật giáo đề cao tinh
thần tự chủ, độc lập trong vấn đề sinh tồn và phát triển cá nhân và tạo ra cơ
sở đóng góp cho cộng đồng. Hơn nữa, ý niệm sâu sắc về cuộc đời vô thường
cũng thúc đẩy chúng ta sống biết đủ, đạm bạc và có một cái nhìn một cách
tích cực và thiết thực.
Triết học Phật giáo luôn đề cao về sự ý thức khả năng tiến bộ không
giới hạn của con người, sống và làm việc theo tinh thần duyên khởi tính,
16
khiến chúng ta phải làm việc khẩn trương tối đa, và luôn luôn học hỏi ở
người khác giỏi hơn mình. Cho nên, với vai trò lãnh đạo tối cao của công ty,
chúng ta không nên xem công nhân như là phương tiện mà chính là mục
đích của công ty mình phụ trách, thì điều đó không có nghĩa hy sinh mục
đích cho phương tiện mà xem mục đích như là nội hàm, trong tất cả mọi
phương tiện được sử dụng để đạt tới mục đích đó. Vận dụng nguyên tắc này,
hệ quả, công nhân rất mực trung thành và tự hào với công ty của mình, thậm
chí sẵn sàng tự nguyện chịu giảm lương để công ty có thể khởi động lên và
làm ăn có lãi. Tất nhiên khi công ty phát triển, đời sống cá nhân và gia đình
họ đều tăng thêm thu nhập. Và để đền đáp lại, công nhân làm việc thêm giờ
tự nguyện, sẵn sàng hiến dâng những sáng kiến ở mọi cấp, chứ không phải
từ cấp lãnh đạo công ty mà thôi.
Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy, trong các công ty, thành phần lãnh
đạo cũng cần tham khảo các ý kiến tập thể công nhân trên tinh thần thống
nhất mới đi đến quyết định quan trọng. Kết quả là giữa các thành viên của
cộng đồng, không có ganh đua mà là tinh thần hợp tác, đoàn kết vì lợi ích
chung của cộng đồng. Kết quả là có nhiều sáng kiến hay, xuất phát từ cấp
dưới khi người ta sống tình nghĩa với nhau.
Một tư tưởng trong triết học Phật giáo nữa có liên quan là sự thay đổi trong
bản thân khi cần thiết, để thích ứng với hoàn cảnh đổi mới là tư tưởng Phật
17
giáo nỗ lực tối đa, cải thiện tối đa, đối với cá nhân cũng như đối với toàn xí
nghiệp, công ty. Đấy là lí do của hiện tượng: sản phẩm tốt và rẻ của các tổ
chức làm kinh tế. Những người lãnh đạo, không thắc mắc quá đáng về vấn
đề thị trường, vì họ tin rằng một sản phẩm tốt và rẻ nhất định sẽ có thị
trường.
Một đặc sắc nữa của tư tưởng Phật giáo là chủ thể hòa nhập vào khách
thể, là một hệ quả của thuyết vô ngã Phật giáo. Người công nhân hay kỹ sư
hòa nhập vào xí nghiệp, và công việc chuyên môn của họ. Do đó, năng suất
làm việc của mọi người tăng lên rất nhiều.
Thêm nữa , khoa học và kỹ thuật là mẹ đẻ của phát triển kinh tế. Nếu
trong lịch sử tôn giáo thời phong kiến châu Âu, từng có sự chống đối lại tiến
bộ kỹ thuật, thì đạo Phật không cố chấp, cởi mở và duy lý hơn. Đạo Phật lấy
thuyết nhân quả làm một chủ thuyết nền tảng của nó, mà thuyết nhân quả
chính là cơ sở của tư tưởng khoa học hiện đại. Nói cách khác, Phật giáo dễ
dàng tiếp thu mọi tư tưởng và phương pháp khoa học kỹ thuật hiện đại. Đạo
Phật là tôn giáo điển hình không giáo điều và chống giáo điều. Phật tuyên
bố: Ta không phải là kẻ giáo điều mà là một người phân tích (Kinh Soubha
số 99). Tư tưởng chống giáo điều là một tư tưởng tiến bộ và thúc đẩy tiến bộ
trong tất cả mọi lĩnh vực, đặc biệt là trong lĩnh vực khoa học kỹ thuật và
kinh tế. Vì thế, nề nếp tư duy và công tác của đạo Phật cần có dấu ấn rõ nét
18
trong tổ chức làm việc của các tập đoàn, công ty, xí nghiệp phát huy tác
dụng như là những yếu tố phát triển kinh tế và sản xuất.
Rõ ràng, nếu biết vận dụng triết lý Phật giáo vào trong lĩnh vực kinh tế
thì có khả năng đưa đến sự phát triển đời sống cho mọi người dân chứ không
phải mối quan tâm hàng đầu là lợi nhuận, là mức tăng trưởng kinh tế mà nền
kinh tế thị trường đang tạo ra. Còn số lợi nhuận và mức tăng trưởng kinh tế
đó đòi hỏi một trả giá như thế nào về mặt đạo đức và xã hội, thì nền kinh tế
thị trường cũng không quan tâm hay là ít quan tâm. Mọi hoạt động của con
người - kể cả hoạt động kinh tế cũng vậy, đều phải có nội dung đạo đức,
nhằm tới hạnh phúc của bản thân cũng như cộng đồng. Bởi vì đồng tiền,
không phải thâu góp bằng bàn tay đạo đức, sẽ là con dao hai lưỡi, sẽ giết
chết người chủ của nó. Giá trị của đồng tiền là ở chỗ nó là phương tiện tạo ra
môi trường thuận lợi cho sự tiến bộ đạo đức và tâm linh con người.
Tóm lại chúng ta muốn dân giàu nước mạnh, mọi người đều an cư
lạc nghiệp, thì phải có một kế hoạch phát triển kinh tế toàn diện hợp lý, đảm
bảo cho nghề nông, nghề buôn bán phát triển, còn công nhân viên chức thì
lương bỗng tốt. Vì thế việc thu hút vốn đầu tư để phát triển kinh tế là vì hạnh
phúc thật sự của người dân, vì sự giàu mạnh và độc lập thật sự của đất nước
chúng ta, với một môi trường sống được bảo vệ tốt, những kho tàng tài
nguyên thiên nhiên được khai thác và sử dụng hợp lý, vì lợi ích không
19
những của thế hệ hiện nay, mà còn của các thế hệ mai sau nữa, với những
giá trị văn hóa truyền thống thắm màu bản sắc dân tộc
20
Kết luận
Đất nước ta đã trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài với những biến
động và thăng trầm của riêng mình. Gắn liền với nó là sự ảnh hưởng của rất
nhiều các trường phái triết học khác nhau đã du nhập, đã được chọn lọc và
áp dụng trong cách sống, cách tư duy của người Việt Nam chúng ta. Và
không thể phủ nhận rằng trong hàng loạt các tư tưởng triết học đó, chúng ta
nói riêng và Đông Nam Á cũng như Châu Á nói chung đã bị ảnh hưởng khác
sâu sắc và rõ rệt bởi mảng triết học Phật giáo. Tuy nhiên chúng ta có những
tư duy riêng của mình, có những cảm thụ cũng như cách chắt lọc riêng về
những lý luận hay tri thức mà triết học Phật giáo mang lại cho chúng ta. Vì
vậy chúng ta đã và đang nhận thức cũng như từng bước áp dụng tư duy biện
chứng của triết học Phật giáo vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước để đất nước ta ngày càng giàu đẹp,
dân ta ngày càng ám no, hạnh phúc.
Do bị giới hạn về mặt thời gian cũng như sự hiểu biết còn hạn chế nên
bài viết này chác chắn không tránh khỏi thiếu sót. Chúng em rất mong được
sự đóng góp ý kiến của thầy và các bạn để bài viết được hoàn thiện hơn.
21