Click here to load reader
Upload
phong-tran
View
8
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
TU THÂN NHO GIÁO VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HÓA VIỆT NAM HIỆN NAY
Trần Tuấn Phong
Định hướng cho sự phát triển văn hóa Việt nam trong giai đoạn hiện nay
đã được khẳng định rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển 2011) được Đại hội XI của
Đảng Cộng Sản Việt Nam thông qua. Mục tiêu tổng quát của sự phát
triển văn hóa là nhằm: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm
nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn
kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”1.
Tiếp cận hệ thống về văn hóa và phát triển văn hóa cho chúng ta thấy
rằng truyền thống văn hóa dân tộc là nền tảng và tiềm năng nội sinh cho
sự phát triển mang đậm bản sắc dân tộc của văn hóa. Tuy nhiên nguyên
nguồn sâu xa hơn của truyền thống văn hóa dân tộc là tính nhân loại
(nhân tính) và văn hóa dân tộc phát triển trong mối tương tác với văn hóa
nhân loại. Điều này có nghĩa là phát triển văn hóa là tiến trình phát triển
con người, tiến trình hiện thực hóa, cụ thể hóa bản tính con người (nhân
tính) trong các bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể. Hơn nữa sự đa dạng của
phát triển văn hóa còn là biểu hiện tính sáng tạo và chủ động của con
người trong sự triển khai phát triển bản tính (nhân tính) của chính mình.
Phát triển văn hóa của một dân tộc, vì thế, trước hết là sự phát triển trên
nền tảng của truyền thống văn hóa của dân tộc đó, đồng thời sự phát triển
1 Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.76.
1
đó phải được đặt trong bối cảnh tương tác với các nền văn hóa khác (của
khu vực và của thế giới) và trong sự quy chiếu với nhân tính.
Với tư cách là một bộ phận của văn hóa Đông Á, văn hóa Việt Nam phát
triển trong sự tương tác với văn hóa Đông Á. Phát triển văn hóa của Việt
Nam, vì thế, diễn ra trong sự tương tác với các nền văn hóa của khu vực
Đông Á, mà trong đó văn hóa Nho giáo đóng vai trò quan trọng. Chính vì
vậy việc tìm hiểu quan điểm của Nho giáo về phát triển con người và phát
triển văn hóa có thể đem lại những đóng góp và gợi ý cần thiết cho sự
phát triển của Văn hóa Việt Nam.
1. Tu thân Nho giáo và phát triển con người
Phát triển con người có thể được hiểu như là tiến trình khai triển của bản
tính con người, một tiến trình phát triển mang tính hữu cơ và cụ thể tiềm
năng con người trong những bối cảnh lịnh sử, văn hoá xã hội khác nhau.
Nhìn nhận từ quan điểm phát triển con người như vậy thì toàn bộ lịch sử
của nhân loại là một tiến trình hữu cơ (thống nhất trong đa dạng) mà ở đó
bản tính con người đã và đang được hiện thực hóa, cụ thể hóa và đa dạng
hóa trong các truyền thống văn hóa. Tính đa dạng của các truyền thống
văn hóa thể hiện tính sáng tạo của con người trong việc luận giải và phát
triển bản tính con người. Tính đa dạng của các truyền thống văn hóa còn
cho ta thấy tính hữu hạn của con người trong nỗ lực luận giải và phát
triển bản tính con người như là một tiềm năng vô hạn. Tính hữu hạn của
con người còn thể hiện ở chỗ sự phát triển con người mang tính lịch sử-
cụ thể và vì thế luôn gắn liền và song hành cùng với sự hình thành và
phát triển của truyền thống văn hóa. Nỗ lực phát triển con người vì thế là
một nỗ lực liên tục hướng tới mục đích phát lộ ngày càng đầy đủ hơn bản
tính con người, tới một đời sống nhân văn và tốt đẹp hơn.
2
Một quan niệm tương tự như vậy về phát triển con người có thể được
nhận thấy trong khái niệm Tu thân của Nho giáo. Bởi vì tu thân Nho giáo
gắn liền với quan niệm về bản tính con người (nhân tính) và được hiểu
như là một tiến trình hiện thực hóa bản tính đó nhằm hướng tới một cuộc
sống tốt đẹp (chỉ ư chí thiện) bao gồm không những hạnh phúc cho chính
bản thân con người mà còn cả sự hòa hợp trong gia đình, trong xã hội và
cao nhất là sự hòa hợp với Thiên nhiên (Vũ trụ).
Chương mở đầu của Trung Dung đã khái quát cô đọng về bản tính con
người và tu thân của con người: “Mệnh trời gọi là tính. Noi theo tính gọi
là Đạo. Tu theo Đạo gọi là Giáo” (Thiên mạng chi vị tính. Suất tính chi vị
Đạo. Tu Đạo chi vị Giáo)2. Tính như vậy là sự ‘hiện diện’ của mạng trời
trong con người, sự phú bẩm của trời cho người. Nhân tính chính là mạng
trời ở dạng tiềm năng vô tận, chưa được định dạng hay chưa được khai
triển. Đạo chính là sự phát lộ (suất tính) của thiên mệnh trong thế giới của
con người. Trong đời sống của con người thì Đạo mà Nho giáo đề cập
đến chính là sự tỏa sáng (minh đức), sự phóng phát của cái Thiên Mệnh
hay cái Lý tự nhiên tiềm ẩn nội tại trong con người “làm thực thể cho
lòng ta”3. Ở bình diện phát triển của mỗi cá nhân con người thì mục đính
của tu thân, hay suất tính (theo Đạo), là nhằm đạt đến đức nhân (chí
thiện) bởi vì “Tu đạo mà cốt cho được ‘chí ư chí thiện’, tất phải thực hành
cho được đức ‘nhân’”, vậy nên, như Phan Bội Châu nói, không những tu
thân dĩ đạo mà còn phải thấy rằng ‘tu đạo dĩ nhân’ bởi vì ‘nhân’ tức là
‘đạo’, mà ‘đạo’ cũng là ‘nhân’4. Đạo được thực hành biểu hiện trong tập
tục và nếp sống tốt đẹp của “đời sống đạo đức” của cộng đồng văn hóa.
Sự hiện diện của Đạo đem lại mối tương giao hài hòa giữa con người với
2 Tứ Thư. (trọn bộ 4 tập). Tập 2: Trung Dungc.Bản dịch của Đoàn Trung Còn. Nhà xuất bản Thuận Hóa. 2006. c tr. 42-43
3 Phan Bội Châu Phan Bội Châu. Khổng Học Đăng. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin. Hà Nội, 1998 tr. 393 Thiên mệnh đã là cái lý tự nhiên thời tính cũng là cái lý tự nhiên mà làm thực thể cho lòng người ta4 Phan Bội Châu sdd tr. 447.
3
con người, con người với Trời Đất và vạn vật. Sống có đạo đức là sống
trong sự thức tỉnh và hiện thực hóa mối tương giao này qua việc khai
triển và ‘thi hành’ Mệnh Trời’ để Thành người. Chữ Thành(誠) trong Nho
giáo bao gồm cả sự nhận biết (thức tỉnh) được bản tính hay Đạo (lý) trong
(tâm) mình lẫn tiến trình ‘hiện thực hóa’ bản tính của mình trong đời
sống đạo đức5. Sự thức tỉnh và triển khai của Mệnh Trời này trong tiến
trình tu thân của con người đem lại sự phát triển (hoàn thiện hóa) của cá
nhân con người và từ đó dẫn đến trật tự của gia đình, ổn định của quốc
gia và thái bình của thế giới. Tu than quan trọng như vậy nên tu thân là
nghĩa vụ của tất cả mọi người, từ bậc Thiên tử xuống chí hạng bình dân,
ai nấy đều phải lấy sự tu tập lấy mình làm gốc “Những vị vua thánh thủa
xưa muốn làm cho cái đức tính mình tỏ sáng ra trong thiên hạ, trước hết
phải lo sửa trị nước mình. Muốn sửa trị nước mình, trước phải sắp đặt nhà
cửa cho chỉnh tề. Muốn sắp đặt nhà cửa cho chỉnh tề, trước phải tu tập lấy
mình” bởi vì chỉ khi tu tập được mình thì “mới sắp đặt nhà cửa cho chỉnh
tề. Nhà cửa đã sắp đặt cho chỉnh tể, thì nước mới sửa trị được. Nước đã
sửa trị, thiên hạ mới bình an”6.
Bởi do con người luôn sinh ra trong một truyền thống văn hóa nhất định
và bị chế định bởi chính truyền thống văn hóa đấy nên khởi đầu của tiến
trình tu thân là khởi đầu của một tiến trình ‘hội nhập xã hội’ trong một
môi trường văn hóa nhất định. Tu thân trong một môi trường văn hóa cụ
thể là quá trình con người giao tiếp với các thành viên khác trong cộng
đồng, hiểu biết được sự vật xung quanh mình, là quá trình hòa nhập vào
‘không gian xã hội’ và ‘thiên nhiên thứ hai’ của con người, tìm ra ‘chức
năng xã hội’ của mình để bắt nhịp được với đời sống xã hội đầy năng
5Yong Huang. Confucius and Mencius on the motivation to be moral. Philosophy East & West Volume 60, Number 1 January 2010 p. 726 Tứ Thư. (trọn bộ 4 tập). Tập 1: Đại Học.Bản dịch của Đoàn Trung Còn. Nhà xuất bản Thuận Hóa. 2006. tr. 9 (chương 1)
4
động và biến đổi7. Mỗi truyền thống văn hóa, với tư cách là một cách lý
giải đặc thù về bản tính con người và ý nghĩa của tồn tại của người, vừa
là cơ sở tiềm tàng vừa là giới hạn cho những sự diễn giải về ý nghĩa tồn
tại người, cho những sự lựa chọn và dự phóng của mỗi cá nhân sống
trong đó. Nói khác đi truyền thống văn hóa vừa là điều kiện khả thể vừa
là giới hạn (dù là tạm thời) cho sự phát triển cá nhân của con người. Ở
đây ta thấy được mối quan hệ biện chứng giữa phát triển của truyền thống
văn hóa và phát triển con người. Truyền thống văn hóa ở thể tĩnh tương
đối là một hệ thống các phong tục tập quán, kỹ năng xã hội, quy tắc luân
lý … còn truyền thống văn hóa ở thể động (trong sự vận động) chính là
thực tiễn xã hội. Ở đây ‘hệ thống’ mang tính quy định sự hình thành con
người xã hội nhưng chính trong hoạt động của‘thực tiễn’ con người thì
hệ thống mới tồn tại và được đổi mới bổ sung. Để có thể hòa nhập với xã
hội thì cá nhân con người phải trải qua một quá trình giáo dưỡng và đào
luyện nhằm hình thành nhân cách và tiếp thu các kỹ năng hoạt động xã
hội, đồng thời con người xã hội thông qua các hoạt động của mình cũng
chính là những tác nhân chính đổi mới các giá trị truyền thống và khai
mở các kỹ năng mới phù hợp với điều kiện lịch sử của mình.
Thông qua mối liên hệ biện chứng giữa phát triển con người và phát triển
văn hóa mà bản tính con người ngày càng được hiện thực hóa đầy đủ hơn
( nhân tính ngày càng được phát lộ hơn). Bởi vì con người, khác với các
sinh thể khác, cảm nhận được tiềm năng vô tận của bản tính nội tại và
tiểm ẩn của mình. Tiến trình tu than hay phát triển con người là tiến trình
lấy bản tính tiềm năng đó làm đối tượng để ‘tra vấn’. Sự ‘tra vấn’ nguồn
tiềm năng vô tận tiềm ẩn đó đó đem lại tính chủ động trong quan hệ của
7 Đứa trẻ sinh ra lúc đầu được phân biệt thành ‘con trai’ (male)hay ‘con gái’ (female) trên cơ sở các đặc tính sinh vật học, khi đó thì chưa có nhiều sự khác biệt giữa đứa bé sinh ra ở Việt nam, ở Trung Quốc hay ở bất cứ một khu vực nào trên thế giới. Tuy nhiên lớn lên trong các xã hội khác nhau đứa bé sẽ đảm nhận các vai trò (xã hội) mà cộng đồng quy định theo giới tính của nó. Nó sẽ thành ‘đàn ông’ (masculine) hay ‘đàn bà’ (feminine), đảm đương những vai trò xã hội cụ thể tương ứng. Ví dụ theo truyền thống Ấn độ những người bán hàng ở chợ là đàn ông, còn ở Việt nam thì phần lớn đàn bà đảm nhiệm việc này …
5
con người với bản tính của mình. Nó là chủ động bởi vì con người đóng
vai trò to lớn trong việc khai triển và định dạng bản tính tiềm năng của
mình bởi vì ‘Người ta có thể mở rộng nền đạo đức nơi mình; chẳng phải
nền đạo đức mở rộng được người8’. Sự “mở rộng của nền đạo đức” đồng
thời là sự khai triển sáng tạo bản tính của con người trong những bối cảnh
lịch sử văn hóa cụ thể của các cộng đồng người khác nhau, nó thể hiện
trong cách thức tổ chức xã hội của một cộng đồng người. Sự đa dạng của
các cách thức tổ chức đời sống của con người chính là sự sáng tạo của
con người trong việc luận giải bản tính con người để tìm ra và hiện thực
hóa các hình thức phát triển phù hợp cho cộng đồng của mình. Các cách
tổ chức đời sống xã hội khác nhau trong lịch sử của các cộng đồng người
cũng chính là các “đời sống đạo đức” của các cộng đồng đó, tuy khác
nhau nhưng đều xuất phát từ một nguyên nguồn chung là nhân tính.
2. Tu thân và phát triển văn hóa
Khi cho rằng tu thân là cơ sở quan trọng để thúc đẩy sự phát triển của văn
hóa, chúng tôi muốn khẳng định rằng tu thân là một tiến trình hoàn thiện
nhân cách con người, một tiến trình mở mang tính liên tục và hữu cơ
(toàn thể). Chính cái ‘khả tính’ của nhân tính tiềm tàng là cơ sở và tiềm
năng vô hạn tạo ‘động lực’ và sinh lực cho sự liên tục của tiến trình tu
thân, của tiến trình ‘khắc kỷ, phục lễ’ liên tục. ‘Kỷ’ ở dây bắt đầu là cái
tôi cá nhân mang tính sinh học, khi được triển khai rộng hơn nữa sẽ trở
thành ‘cái tôi’ của gia đình, của cộng đồng, của quốc gia và của một nền
văn hóa. ‘Phục lễ’ đầu tiên là tuân theo các quy tắc sinh hoạt, kỹ năng
sống và hoạt động thực tiễn của gia đình, cộng đồng và của một nền văn
hóa. Chúng ta có thể hiểu rằng ‘lễ’ không phải là những gì bất biến mà là
sự hiện thực hóa, tỏa sáng của ‘ Lý’ của ‘Tính’ ở những mức độ khác
8 Tứ Thư. (trọn bộ 4 tập). Tập 3: Luận ngữc.Bản dịch của Đoàn Trung Còn. Nhà xuất bản Thuận Hóa. 2006. tr. 251
6
nhau và trong một giai đoạn phát triển lịch sự nhất định. Đây là tính đa
dạng của ‘lễ’ thể hiện qua các tập tục, quy tắc ứng xử và nếp sinh hoạt
của các truyền thống văn hóa khác nhau, ở những thời điểm lịch sử khác
nhau. Chính vì vậy nên tu thân khởi đầu từ ‘phục lễ’ nhưng không chỉ
phục một cách thụ động mà ‘phục’ một cách tích cực thông qua sự ‘cải
hóa’ và làm giàu ‘lễ’ truyền thống trong sự đáp ứng với tiềm năng của
Nhân Tính. Đây có thể là điều mà Khổng Tử muốn đề cập đến trong Luận
ngữ “Người thảy đều gần giống nhau vì ai nấy đều có cái bản tính lành;
nhưng bởi nhiễm thói quen, nên họ thành ra khác nhau (Tính tương cận
giã, tập tương viễn giã)9”
Cái ‘bản tính lành’ mang tính phổ quát chính là mục đích và điều kiện
khả thể cho các cái ‘thói quen’ tập tục riêng biệt, nó là cái đem lại ý nghĩa
cho sự hiện hữu của các cái riêng khác biệt đó, là cấu trúc tổ chức, một
hình thức thiết lập trật tự các mối quan hệ của các cái riêng này. Nó chính
là cái ‘thống nhất’ các các riêng biệt này và hiện thể ra trong sự tồn tại
của các cái riêng biệt này. ‘Bản tính lành’ như vậy chính là ‘mục đích’ tối
cao, nguyên nhân nội tại chi phối hoạt động của các cái cái cá biệt. Nói
một cách khác nếu như hiểu ‘bản tính lành’ như là nguyên nguồn và mục
đích nội tại quy định sự phát triển của văn hóa nhân loại, còn các ‘thói
quen’ tập tục là các truyền thống văn hóa đặc thù cá biệt thì ta có thể
nhận thấy được tính thống nhất cũng như ‘tính mở’ của các truyền thống
văn hóa. “Tính mở” của mỗi truyền thống văn hóa được thể hiện trong sự
phản tỉnh về tính hữu hạn của mỗi nền văn hóa trong nỗ lực tiến tới hiện
thực hóa bản tính lành đang tiềm ẩn trong mỗi truyền thống văn hóa.
Chính trong tiến trình tu thân đích thực của con người thì tính hữu hạn
lịch sử của từng truyền thống văn hóa văn hóa có thể được ‘vượt qua’. Tu
thân như vậy là vừa là quá trình tiếp nhận những giá trị văn hóa truyền
thống đồng thời cũng là quá trình mở rộng, biến cải văn hóa truyền thống 9 Luận ngữ 269
7
đó. Đây chính là cơ sở cho phát triển và hội nhập văn hóa. Mục đích cuối
cùng của phát triển và hội nhập văn hóa không phải là để áp đặt giá trị
văn hóa của một dân tộc lên các dân tộc khác mà là để các nền văn hóa
khác nhau cùng nhau phản tỉnh về các giá trị văn hóa đặc thù về tính hữu
hạn của mình đồng thời tiếp thu những giá trị tích cực và quan trọng hơn
cả là để cùng nhau tìm cách tốt nhất hoàn thiện nhân tính của con người.
Cái ‘tối thiện’ hay ‘nhân tính’ hay ‘bản tính lành” chính là cùng đích
không chỉ Nho giáo mà văn hóa nhân loại hướng tới. Tiến trình hội nhập
và phát triển văn hóa chính là tiến trình các nền văn hóa khác nhau đối
thoại với nhau để đạt đến mục đích đó “Người quân tử nhờ văn chương
học vấn mà hội hiệp bằng hữu và nhờ bằng hữu mà tấn lên đức nhân”
(Quân tử dĩ văn hội hữu, dĩ hữu phu nhân)10.
Rõ ràng rằng sự hài hòa và đồng điệu giữa Trời, Người và Đất mà tu thân
Nho giáo hướng tới có thể đạt được thông qua tiến trình động được hiện
thực hóa trong những thang bậc (mức độ) khác nhau của nỗ lực tu thân
đích thực của con người. Ở bậc thánh nhân, khi mà nỗ lực tu thân tiệm
cận tới sự viên mãn, đó là sự đồng hàng và hòa điệu với nhịp sống tự
nhiên của Trời Đất và Vạn Vật. Đồng hàng và hòa điệu với nhịp sống của
Trời Đất và vạn vật đạt được trong nỗ lực tu thân chính là hạnh phúc lớn
nhất của con người. Niềm hạnh phúc này không phải chỉ dừng ở chỗ hiểu
biết mang tính lý luận hay sự ưa thích bình thường mà là sự hòa điệu với
Đạo “Biết Đạo chẳng bằng ưa Đạo; ưa Đạo chả bằng vui với Đạo”11.
Không hạnh phúc và an lạc sao được khi mà ta nhận ra rằng “Càn (trời) là
cha, Khôn (đất) là mẹ, tấm thân nhỏ nhoi của ta tương hợp với trời đất mà
đứng ở giữa. Cho nên cái khí lấp đầy trời đất là thân thể ta. Cái thống lĩnh
10 Luận ngữ, 19511 Tứ Thư. (trọn bộ 4 tập). Tập 3: Luận Ngữ .Bản dịch của Đoàn Trung Còn. Nhà xuất bản Thuận Hóa. 2006. tr. 93
8
trời đất là bản tính của ta. Người dân là đồng bào của ta. Vạn vật là bè
bạn của ta” 12
Như vậy chúng ta nhận thấy rằng tu thân chính vừa quá trình hòa nhập
của cá nhân với truyền thống văn hóa của mình, đồng thời cũng là quá
trình tham gia tích cực của cá nhân vì sự phát triển của nền văn hóa đó.
Tu thân, còn là một tiến trình mở rộng (và vượt qua) liên tục bản ngã cá
nhân, là một tiến trình tiếp nhận những giá trị mới, mở rộng và làm giàu
chân trời truyền thống. Trong bối cảnh như vậy tu thân còn là cơ sở bền
vững để thiết lập những đối thoại văn hóa không những giữa các cộng
đồng trong một quốc gia mà giữa các nền văn hóa khác nhau.
Tu thân chính là ‘cách thức đích thực của con người để phát triển năng
lực và tài năng tự nhiên của mình’13 Cái tạo ra sự khác biệt giữa con
người và động vật chính là khả năng con người phản tỉnh về bản tính của
mình nhằm tìm cách phát triển hoàn thiện mình để vượt qua tính đặc thù
của nền văn hóa của mình nhằm vươn tới cái phổ quát của nhân loại
“Con người đặc trưng bởi sự vượt qua cái trực tiếp và cái tự nhiên theo sự
đòi hỏi của phần lý tính và trí tuệ trong bản chất của mình”14. Vượt qua
cái cá thể tính của mình để vươn tới cái phổ quát thông qua quá trình tu
thân có nghĩa là thấy được cái hạn chế của mình để ‘mở lòng’ mình ra
tiếp nhận những giá trị, kinh nghiệm của những người đi trước trong
truyền thống văn hóa văn hóa của mình cũng như sẵn sàng tiếp thu những
giá trị nhân bản của các nền văn hóa khác để làm giàu cho truyền thống
văn hóa của mình, cùng nhau xây dựng và thúc đẩy tiến trình ‘tu thân’
chung của cả nhân loại. Tu thân chính là tiến trình biện chứng giữa tiếp
nhận và phát triển của văn hóa.
12 Trích theo. Phùng Hữu Lan. Lịch sử triết học Trung Quốc. Tập 2. Bản dịch của Lê Anh Minh. Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Hà nội, 2007. tr.555.13 Gadamer. Truth and Method., p. 1214 H. Gadamer. Sđd, tr. 12
9
3. Phát triển con người và phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay
Với tư cách là cái phổ quát, bản tính con người đóng vai trò là cơ sở tạo
ra sự thống nhất cũng như nguyên nguồn cho sự phát triển của các truyền
thống văn hóa đặc thù (được hiểu như những sự luận giải và khai triển
sáng tạo của con người về bản tính con người). Trong sự phát triển đa
dạng của mình các truyền thống văn hóa đã định dạng bản tính con
người, biến bản tính con người từ cái tiềm năng thành cái hiện thực. Nói
khác đi, bản tính con người không tồn tại biệt lập khỏi các truyền thống
văn hóa mà nó được cụ thể hóa (được định dạng, được hiện thực hóa hay
hiện thể hóa) trong các truyền thống văn hóa thông qua hoạt động sáng
tạo của các tác nhân con người. Tính phổ quát được đặc thù hóa này đóng
vai trò là mẫu hình tổ chức đem lại trật tự, sự điều phối và tính ổn định
cho cuộc sống của các thành viên của cộng đồng đó và như thế nó hỗ trợ
và tạo điều kiện cho các thành viên của cộng đồng phát triển tiềm năng và
năng lực của mình. Phát triển con người, phát triển văn hóa luôn là sự đặc
thù hòa bản tính con người là tiến trình thể hiện tính sáng tạo của con
người. Như vậy, từ góc độ của mối quan hệ biện chứng giữa cái phổ quát,
cái đặc thù và cái đơn nhất, chúng ta nhận thấy rằng phát triển con người,
với tư cách là sự triển khai của bản tính con người, được trung gian hóa
qua các giai đoạn khác nhau và trong các bối cảnh lịch sử khác nhau của
truyền thống văn hóa. Truyền thống văn hóa đóng vai trò là các không
gian lịch sử-xã hội mà trong đó các cá nhân con người được sinh ra và trở
thành thành viên đầy đủ thông qua quá trình giáo dục và hòa nhập xã hội
để tham gia và đóng góp vào sự phát triển của cuộc sống xã hội của cộng
đồng. Sự hình thành và phát triển của con người với tư cách là tồn tại xã
hội bị chế định (ở mức độ nhiều hay ít) bởi truyền thống văn hóa nơi họ
sinh sống. Tuy nhiên, khi họ đã trưởng thành (là thành viên đầy đủ của xã
hội) thì họ có thể thúc đẩy sự phát triển (triển khai) tiềm năng tính của
10
con người và cải biến truyền thống văn hóa nơi mà họ sinh ra và trưởng
thành. Tồn tại mang người mang đậm tính xã hội vì con người và tiến
trình “thành người” luôn được đặt trong sự đối thoại với truyền thống văn
hóa để được đào luyện và phát triển thành người và trong đối thoại với
bản tính con người để biến cải (tiếp tục phát triển) chính truyền thống
đang nuôi dưỡng họ.
Sự tồn tại và phát triển của văn hóa Việt Nam có thể được hiểu là tiến
trình phát triển con người, phát triển bản tính con người và bởi con người
Việt Nam trong điều kiện địa lý, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam,
trong mối tương tác lịch sử với các nền văn hóa khác của nhân loại . Tiến
trình phát triển của văn hóa Việt Nam trong lịch sử là sự biểu thị của tính
sáng tạo, tính độc đáo của con người Việt Nam vừa là sự đặc thù hóa bản
tính con người trong một bối cảnh lịch sử cụ thể của Việt Nam. Tính sáng
tạo của con người Việt Nam ở đây gắn liền với sự tự-nhận thức, hay
chính sự phản tỉnh về tính tiềm năng của bản tính con người và khả năng
lựa chọn một phương thức hành động đặc thù, cụ thể phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử của Việt Nam để phát triển (triển khai) bản chất con người.
Tính sáng tạo và đặc thù của sự phát triển này được nuôi dưỡng và phát
lộ ra trong bối cảnh cụ thể của Văn hóa truyền thống Việt Nam của sự
phát triển, hiện thực hóa bản tính con người trong bối cảnh truyền thống
văn hóa Việt Nam, nó cũng chính là động lực đóng góp cho sự phát triển
liên tục của bản tính con người và sự phát triển và hoàn thiện của truyền
thống văn hóa nơi mà con người Việt Nam sinh ra và trưởng thành.
Xét cho cùng thì động cơ và mục đích của phát triển văn hóa Việt Nam
phải vì sự phát triển của con người Việt Nam. Bởi vì hạnh phúc đích thực
mà con người tìm kiếm và hướng tới trong tiến trình hiện thực hoán và
khai triển trọn vẹn của bản tính con người (thành người) cũng chính là lý
tưởng và mục đích của sự phát triển con người. Mưu cầu hạnh phúc cho
11
loài người, mưu cầu hạnh phúc cho xã hội, và mưu cầu hạnh phúc cho
dân tộc cũng chính là mục tiêu chính trong cuộc đời cách mạng của Hồ
Chí Minh, đại diện tiêu biểu của văn hóa Việt Nam “Cả đời tôi chỉ có một
mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi tổ quốc, và hạnh phúc của quốc
dân..Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích,
làm cho ích quốc lợi dân”15 hoặc “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham
muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn
toàn được tự do, đồng bảo ta ai ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
học hành”16. Mục đích cách mạng của Hồ Chí Minh giành lại quyền độc
lập cho đất nước, quyền tự do cho dân tộc để có thể thực hiện quyền được
phát triển, “quyền được sung sướng và quyền hạnh phúc” cho mọi người
dân. Bản thân Hồ Chí Minh là một tấm gương đạo đức mẫu mực trong tu
dưỡng và phát triển nhân cách, Hồ Chí Minh đã từng viết “Cụ Khổng Tử
nói: Mình có đứng đắn, mới tề được gia, trị được quốc, bình được thiên
hạ. Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính. Mình
không chính, mà muốn người khác chính là vô lý”17. Nhân cách của
người “đã phát hiện ra ngoài…trở nên tỏ rõ…sáng chói…cảm động mọi
người và mọi vật”18.
Phát triển văn hóa Việt Nam hiện nay cần phải được hiểu là sự tiếp nối
liên tục, sự kế thừa truyền thống văn hóa dân tộc. Sự tiếp nối và kế thừa
đó phải là sự kế thừa mang tính phê phán để văn hóa có thể trở thành sức
mạnh nội sinh của sự phát triển của Việt Nam, để sự phát triển của văn
hóa mang đậm bản sắc của truyền thống dân tộc. Dựa trên nền tảng (và là
vốn quý báu) của truyền thống của dân tộc sự phát triển của Văn hóa mới
là sự khẳng định nét đặc thù, bản lĩnh văn hóa của Việt Nam. Bản lĩnh và
15 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 24016 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 24017 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 199518 Tứ Thư. (trọn bộ 4 tập). Tập 2: Trung Dung.Bản dịch của Đoàn Trung Còn. Nhà xuất bản Thuận Hóa. 2006. tr. 79
12
sự khẳng định của văn hóa Việt Nam sẽ giúp chúng ta tự tin bước vào hội
nhập quốc tế. Chúng ta hội nhập không những để học hỏi để làm giàu bản
sắc văn hóa của mình mà còn là để chúng ta có sự đóng góp tích cực với
sự phát triển chung của văn hóa nhân loại.
13