34
Lớp D2 khóa 2013 - 2018 Câu 1: Chứng minh sự ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh là tất yếu lịch sử Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX tới nay. Đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động của ba yếu tố quan trọng: xã hội, quê hương, và thời đại. I. Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX: 1. Trong suốt thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến bảo thủ và phản động: - Trong suốt thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến vẫn nắm giữ quyền lực nhà nước và duy trì thực hiện những chính sách mà mình đã đặt ra trước đó: + Thi hành chính sách áp bức bóc lột ở bên trong và bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài, không tạo ra cơ hội để dân tộc tiếp xúc với thế giới văn minh. + Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ là nền kinh tế chủ yếu. + Văn hóa: nặng nề về tư tưởng Nho giáo từ vua cho đến quan lại và dẫn đến ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống của nhân dân. + Cơ cấu xã hội: giữ nguyên cơ cấu xã hội cũ, không mở trường đào tạo khoa học kỹ thuật, kinh tế và cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư tưởng đương thời (như Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch) >>> Nhà Nguyễn đã không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất nước, không tạo ra được tiềm lực vật chất và tinh thần để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài. - Yếu tố phản động của triều đình phong kiến Việt Nam: + Triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ thù. Lúc đầu thì “chủ chiến” có chống cự yếu ớt, nhưng sau khi thực dân Pháp bắn đại bác vào 1

Tư tưởng HCM

Embed Size (px)

DESCRIPTION

Tư tưởng

Citation preview

Page 1: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Câu 1: Chứng minh sự ra đời của Tư tưởng Hồ Chí Minh là tất yếu lịch sửTư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm tất yếu của cách mạng Việt Nam, ra đời do yêu cầu

khách quan và là sự giải đáp những nhu cầu bức thiết do cách mạng Việt Nam đặt ra từ đầu thế kỷ XX tới nay. Đó là sự kết hợp giữa chủ nghĩa yêu nước truyền thống văn hóa, nhân nghĩa và thực tiễn cách mạng Việt Nam với tinh hoa văn hóa nhân loại, được nâng lên tầm cao mới dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin.

Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành dưới tác động của ba yếu tố quan trọng: xã hội, quê hương, và thời đại.

I. Xã hội Việt Nam thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX: 1. Trong suốt thế kỷ XIX, xã hội Việt Nam vẫn là một xã hội phong kiến bảo thủ và

phản động: - Trong suốt thế kỷ XIX, giai cấp phong kiến vẫn nắm giữ quyền lực nhà nước và duy trì

thực hiện những chính sách mà mình đã đặt ra trước đó:+ Thi hành chính sách áp bức bóc lột ở bên trong và bế quan tỏa cảng đối với bên ngoài,

không tạo ra cơ hội để dân tộc tiếp xúc với thế giới văn minh. + Nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, trì trệ là nền kinh tế chủ yếu.+ Văn hóa: nặng nề về tư tưởng Nho giáo từ vua cho đến quan lại và dẫn đến ảnh hưởng

sâu rộng trong đời sống của nhân dân.+ Cơ cấu xã hội: giữ nguyên cơ cấu xã hội cũ, không mở trường đào tạo khoa học kỹ thuật,

kinh tế và cự tuyệt mọi đề án cải cách, canh tân của nhiều nhà tư tưởng đương thời (như Đặng Huy Trứ, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Lộ Trạch)

>>> Nhà Nguyễn đã không phát huy được những thế mạnh của dân tộc và đất nước, không tạo ra được tiềm lực vật chất và tinh thần để có đủ sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc, chống lại kẻ thù bên ngoài.

- Yếu tố phản động của triều đình phong kiến Việt Nam:+ Triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ, trong thì sợ nhân dân, ngoài thì bạc nhược trước kẻ

thù. Lúc đầu thì “chủ chiến” có chống cự yếu ớt, nhưng sau khi thực dân Pháp bắn đại bác vào Đà Nẵng thì lại “chủ hòa”, từng bước nhân nhượng, cầu hòa; cuối cùng là cam chịu “đầu hàng”, đồng ý thương lượng chia cắt một số tỉnh hiến dâng cho giặc để giữ lấy ngai vàng và lợi ích riêng của hoàng tộc.

>>> Tất cả những hành động này của nhà Nguyễn khiến đất nước Việt Nam từ một nước hòa bình độc lập chủ quyền biến thành một nước nô lệ.

2. Trong giai đoạn từ năm 1858 đến cuối thế kỷ XIX khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược xã hội Việt Nam:

- Sau khi thực dân Pháp tiến hành xâm lược nước ta, triều đình phong kiến do đớn hèn, bạc nhược nên đã từng bước nhượng bộ, đi từ quan điểm chủ chiến đến quan điểm chủ hòa và đi đến việc “cam tâm đầu hàng”, cam chịu làm nô lệ cho kẻ thù.

- Những phong trào tự vũ trang kháng chiến chống thực dân Pháp của quần chúng nhân dân lần lượt xuất hiện và lan rộng khắp cả nước. Như ở Nam Bộ có Trương Định, Nguyễn Trung Trực; ở Trung Bộ có Trần Tấn, Đặng Như Mai, Nguyễn Xuân Ôn, Phan Đình Phùng,…; Ở Bắc Bộ có Nguyễn Thiện Thuật, Nguyễn Quang Bích,…

1

Page 2: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Tuy nhiên, những phong trào này, cuối cùng cũng đều đi đến thất bại. Nguyên nhân chủ

yếu dẫn đến những thất bại này là vì những phong trào này vẫn chưa có đường lối kháng chiến rõ ràng, lãnh đạo các cuộc kháng chiến là các sĩ phu mang nặng ý thức hệ phong kiến, nặng tư tưởng tôn quân, chưa thực sự tin vào lực lượng của nhân dân.

>>>> Như vậy, hệ tư tưởng phong kiến đã tỏ rõ được sự bất lực trước nhiệm vụ lịch sử hiện tại của đất nước đặt ra.

3. Đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiến hành khai thác thuộc địa và xã hội Việt Nam bắt đầu có sự phân hóa:

- Đến đầu thế kỷ XX, đã có sự xuất hiện của giai cấp công nhân, giai cấp tư sản. Bên cạnh đó “ Tân thư ”, “Tân văn”..., cùng với các cuộc vận động cải cách của Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu từ Trung Quốc…

- Các phong trào yêu nước Việt Nam chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản như: phong trào Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục, Duy Tân, Việt Nam Quang phục Hội,…Những phong trào này chỉ phát triển một thời gian ngắn và lại bị thực dân Pháp đàn áp vì còn gắn với hệ tư tưởng tư sản. Hệ tư tưởng tư sản lúc này đã trở nên lỗi thời và lạc hậu ở phương Tây, hơn nữa lại được các sĩ phu phong kiến truyền bá nên còn nhiều hạn chế và bất lực trước những nhiệm vụ lịch sử củađất nước.

Có thể nói rằng, các phong trào cứu nước đầu thế kỷ XX đã rơi vào tình trạng khó khăn, bế tắc nhất, tưởng chừng như không có đường ra.

>>>>Hệ tư tưởng phong kiến cũng như hệ tư tưởng tư sản không thể đáp ứng kịp thời nhiệm vụ lịch sử giành lại độc lập cho dân tộc. Có thể nói rằng, đây chính là điều kiện quan trọng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh được đặt ra trước tình hình, hiện trạng xã hội Việt Nam thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.

II. Quê hương và gia đình:- Nghệ Tĩnh - quê hương của chủ tịch HCM là một mảnh đất giàu truyền thống yêu nước,

chống giặc ngoại xâm, đây cũng là quê hương của nhiều vị anh hùng nổi tiếng. HCM được sinh ra trong một gia đình nhà Nho giàu truyền thống yêu nước và trưởng thành trong phong trào quần chúng giàu truyền thống cách mạng. Người đã kế thừa được từ các bậc tiền bối tư tưởng yêu nước, thương dân, gắn bó với dân và lấy dân làm hậu thuẫn cho mọi hoạt động chính trị - xã hội và những tư tưởng đó đã trở thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị Người trong thời đại mới.

- Nguyễn Tất Thành đã tận mắt chứng kiến một cảnh ngộ đối lập giữa: một bên là đồng đội mình, nhân dân mình bị áp bức bóc lột, cuộc sống nghèo khổ với phía bên kia là những tên thực dân độc ác, phong kiến địa chủ dã man, cuộc sống xa hoa đồi trụy.

- Những bài học thất bại của những nhà yêu nước, tiền bối đương thời cũng có tác động không nhỏ tới Nguyễn Tất Thành.

>>>> Chính điều đó đã thôi thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc. III. Thời đại:- Trên phạm vi toàn thế giới, từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã

chuyển thành chủ nghĩa đế quốc và có tính chất quốc tế. Chúng tranh giành thuộc địa và nô dịch các dân tộc nhỏ yếu. Lúc này, mỗi thuộc địa là một khâu của hệ thống đế quốc chủ nghĩa.

2

Page 3: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không còn là hành động riêng lẻ của từng nước

mà đã trở thành cuộc đấu tranh chung của các dân tộc thuộc địa chống lại chủ nghĩa đế quốc và gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản thế giới.

- Những biến đổi của tình hình thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ trong tư tưởng của người thanh niên Nguyễn Tất Thành. Nhờ lăn lộn với phong trào quần chúng, sát cánh với những người Việt Nam và những người cách mạng thuộc địa của Pháp, Nguyễn Tất Thành đã nhanh chóng tiếp cận với phái tả và gia nhập Đảng Xã hội Pháp-một Đảng tỏ rõ nhiều quan điểm tiến bộ về vấn đề dân tộc và thuộc địa.

- Tại Hội nghị hòa bình (Vecxay), Nguyễn Ái Quốc đã ký tên và gửi tới hội nghị Yêu Sách của nhân dân An Nam với mong muốn được giúp để giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Nhưng bản yêu sách này đã không được chấp nhận.

Qua sự kiện Người gia nhập Đảng Xã hội Pháp và sự kiện gửi bản Yêu Sách của nhân dân An Nam tới Hội nghị hòa bình đã có ảnh hưởng rất lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Người đã nhận rõ bản chất giả dối của chủ nghĩa đế quốc và rút ra được bài học là muốn được giải phóng các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào bản thân mình, vào lực lượng của mình.

- Vào thời gian đó, Cách mạng Tháng Mười năm 1917 ở Nga thành công, tháng 3 năm 1919 V.I. Lê nin thành lập Quốc tế III và việc Nhà nước Xô Viết non trẻ đánh bại cuộc chiến tranh can thiệp của 14 nước đế quốc vào nước Nga, đồng thời giải quyết xong vấn đề nội chiến. Ba vấn đề này đã mang lại những ý nghĩa hết sức to lớn:

+ Cán cân lực lượng chính trị trên thế giới có lợi cho vô sản: những sự kiện vĩ đại này làm thay đổi cục diện chính trị của tình hình thế giới với lợi thế nghiêng về nước Nga, về phong trào vô sản.

+ Những sự kiện vĩ đại này đã làm cho bầu không khí chính trị ở các nước Châu Âu trở nên sôi động, nhất là trong Đảng xã hội Pháp.

>>>>Chính những sự kiện đó đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình nhận thức và chuyển biến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc.

- Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc đã đọc được bài “ Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lê nin và các văn kiện khác chuẩn bị đưa ra Đại hội lần thứ 2 Quốc tế cộng sản. Những văn kiện đó đã giúp Người tìm thấy con đường chân chính cho sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc và đánh dấu bước chuyển căn bản trong tư tưởng của Người. Tại đại hội Tua (12/1920), Người đã bỏ phiếu tán thành Quốc tế ba, tham gia sáng lập Đảng CS Pháp và trở thành một trong những Đảng viên đầu tiên của Đảng CS Pháp.

Kết luận:Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự gặp gỡ giữa trí tuệ lớn Hồ Chí Minh với trí tuệ của dân tộc và

trí tuệ thời đại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần và trí tuệ quý báu của cách mạng nước ta, của dân tộc và của Đảng cộng sản Việt Nam trong cuộc đấu tranh lâu dài giải phóng đất nước, bảo vệ tôt quốc, xây dựng cuộc sống mới ở Việt Nam, tư tưởng đó là một động lực lớn của nhân dân ta trong cuộc hành trình mới xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, ấm no, hạnh phúc, văn minh.

Câu 2: Trình bày các tiên đề tư tưởng, lý luận hình thành tư tưởng HCM3

Page 4: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018 - Giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam: Dân tộc Việt Nam trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước đã tạo lập cho mình

một nền văn hóa riêng, phong phú và bền vững với những truyền thống tốt đẹp và cao qúy. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết chịu ảnth hưởng bởi những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam.

Một là, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đấu tranh chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Chủ nghĩa yêu nước luôn đứng đầu trong bảng giá trị truyền thống dân tộc, “là dòng sữa tinh thần nuôi sống tinh thần Việt Nam từ thời lập quốc cho đến ngày nay và mãi mãi về sau”. Khái quát lại giá trị đặc sắc đó, Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước”. Có thể nói, đây là nét đặc sắc nhất trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành tư tưởng HCM và tạo động lực to lớn quyết định đến sự ra đi tìm đường cứu nước của Người. Người nói: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ không phải chủ nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba”

Hai là, cùng với chủ nghĩa yêu nước, trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam có những giá trị văn hóa ảnh hưởng đến sự hình thành tư tưởng HCM như tinh thần đoàn kết cộng đồng dân tộc, tương thân tương ái. Truyền thống này đã đi vào đời sống lao động, trong chiến đấu, sản xuất, trong các câu ca dao tục ngữ, trong các truyền thuyết, truyện cổ tích và trở thành một nền tảng tinh thần vững chắc của dân tộc Việt Nam, tạo động lực to lớn để nhân dân ta đoàn kết chiến thắng thiên tai và giặc ngoại xâm giữ vững độc lập, chủ quyền của dân tộc.

Ba là, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình. Tin vào sự tất thắng của chân lý, chính nghĩa. HCM chính là hiện thân của truyền thống lạc quan đó.

Bốn là, dân tộc VN là một dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo trong chiến đấu, trong sản xuất. Đó cũng là một dân tộc ham học hỏi và không ngừng mở rộng cửa để làm giàu, làm sâu sắc thêm nền văn hóa của mình. Trên cơ sở giữ vững văn hóa của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình.

Ngoài ra, văn hóa dân tộc VN còn có những giá trị đặc sắc khác như tinh thần khoan dung, nhân nghĩa, tinh thần trọng trí thức, hiền tài, … HCM là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của những giá trị truyền thống đó.

- Tinh hoa văn hóa nhân loại:* Nho giáo:HCM đã kế thừa những mặt tích cực hợp lý của Nho giáo, đồng thời loại bỏ mặt tiêu cực

của học thuyết này.- Những mặt tích cực, hợp lý của Nho giáo mà HCM kế thừa và phát triển là:Một là những chuẩn mực để tu dưỡng đạo đức cá nhân trong xã hội của Nho giáo. Nho

giáo đã đề cập đến các phạm trù đạo đức như “tam cương, ngũ thường”; các đức tính cần, kiệm, liêm, chính, trung hiếu,…Các phạm trù đạo đức này đã được HCM kế thừa và phát

4

Page 5: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018triển, đồng thời đưa vào đó những mới để xây dựng đạo đức cách mạng – đạo đức của con người VN mới.

Hai là tư tưởng về một XH đại đồng của Khổng Tử. HCM từng khẳng định: “Khổng Tử vĩ đại (551 trước C.N) khởi xướng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ông từng nói: Thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Người ta không sợ thiếu chỉ sợ có không đều”. Chính từ tư tưởng này mà khi lãnh đạo sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở VN, HCM đã cân nhắc lại lời nói của Không Tử để căn dặn cán bộ quản lý trong việc phân phối sản phẩm lao động trong xã hội: “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng; không sợ nghèo, chỉ sợ lòng dân không yên”.

Ba là, tư tưởng lấy dân làm gốc. Trong học thuyết của mình, Khổng Tử còn đề cập đến tư tưởng lấy dân làm gốc mà về sau được Mạnh Tử phát triển thành một mạnh đề hoàn chỉnh: “Dân vi qúy, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là trọng hơn cả, xã tắc đứng sau, vua còn nhẹ hơn). Tư tưởng này đã được HCM kế thừa, phát triển để xây dựng một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân; đồng thời tư tưởng lấy dân làm gốc đã làm tỏa sáng tư tưởng HCM.

Bốn là, triết lý hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo giúp đời; đó là lý tưởng về một xã hội bình trị ; triết lý nhân sinh: tu thân, dưỡng tính, chủ trương từ thiên tử đến thứ dân,ai cũng phải lấy tu thân làm gốc.

Năm là, đề cao văn hóa, lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học, đề cao việc học, coi trọng hiền tài

- Cùng với việc tiếp thu những mặt tích cực, HCM còn phê phán những mặt tiêu cực, hạn chế của Nho giáo mà người cách mạng cần phải khắc phục và loại bỏ ra khỏi nhận thức và hành động của mình, đó là: Nho giáo phân chia xã hội thành những đẳng cấp khác nhau: người tiểu nhân và người quân tử, kẻ lao tâm và người lao lực; tư tưởng trọng nam khinh nữ; những hủ tục lạc hậu, tư tưởng trông chờ, ỷ lại; tâm lý tự ti, thụ động; coi khinh lao động chân tay,…

* Phật giáoHCM đã kế thừa những mặt tích cực, hợp lý của Phật giáo và loại bỏ những yếu tố hạn

chế. Về mặt tích cực: Thứ nhất, là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương người như thể

thương thân, một tình yêu bao la đến cả chim muông, cây cỏ. Thứ hai, là nếp sống có đạo đức, trong sạch, giản dị, chăm lo làm điều thiện. Thứ ba, Phật giáo lên án sự phân chia xã hội thành các giai cấp và chủ trương thực

hiện bình đẳng trong xã hội. Đó là tinh thần dân chủ chất phác chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp.

Thứ tư, Phật giáo phái Thiền tông đề cao lao động, chống lười biếng.Về hạn chế: Những tư tưởng của Phật giáo mang tính duy tâm, khó thực hiện. * Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn Đó chính là dân sinh, dân quyền và dân quốc, nghĩa là dân tộc thì được độc lập, dân

quyền thì được tự do và dân sinh thì được hạnh phúc. Đặc biệt, khi CM T10 Nga thắng lợi(1917), Tôn Trung Sơn đã chủ trương thân Nga, liên Cộng, phù trợ công- nông. Chính

5

Page 6: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018những tư tưởng tiến bộ đó của Tông Trung Sơn mà HCM từng khẳng định chủ nghĩa Tông Dật Tiên có những điểm phù hợp với điều kiện của nước ta.

Trong các giá trị phương Đông ảnh hưởng đến HCM, ngoài Nho giáo, Phật giáo, chủ nghĩa Tam dân thì HCM còn chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Lão gia, Pháp gia,…

* Văn hóa phương Tây- Ngay từ khi còn học ở trường tiểu học Pháp Việt Đông Ba rồi vào Trường Quốc học Huế,

HCM đã làm quen với văn hóa Pháp. Người nghiên cứu tư tưởng của những nhà khai sáng Pháp như Rútxô, Môngtétxkiơ, Vônte, Điđờrô,…đó là những tư tưởng tiến bộ thể hiện trong tác phẩm Tinh thần pháp luật, Khế ước xã hội hay học thuyết về Tam quyền phân lập, cũng như tư tưởng Tự do-Bình đẳng-Bác ái ra đời trong đại CM Pháp năm 1789.

- HCM còn nghiên cứu những tư tưởng trong Tuyên ngôn độc lập của CM Mỹ(1776); Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của CM Pháp (1791). Qua đó, HCM đã nhận thức được tính tất yếu về quyền con người và quyền dân tộc mà hai cuộc CM đó đã xác lập. Chính những tư tưởng này mà khi viết Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1945, HCM đã mở đầu bằng quyền con người mà hai bản Tuyên ngôn của CM Mỹ và CM Pháp xác lập để nâng nó lên thành quyền của dân tộc VN.

- HCM hình thành phong cách dân chủ của mình từ trong cuộc sống thực tiễn. Người học được cách làm việc dân chủ trong các buổi sinh hoạt khoa học ở câu lạc bộ Phôbua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp.

* Chủ nghĩa Mác-Lênin- Chủ nghĩa Mác – Lênin đóng vai trò là thế giới quan và phương pháp luận quan trọng,

góp phần trực tiếp đến sự hình thành tư tưởng HCM.+ HCM đã lấy thế giới quan duy vật biện chứng để xem xét những vấn đề cụ thể của CM

Việt Nam. Chính vì vậy mà trong hoạt động CM, Người luôn lấy thực tiễn để tìm kiếm chân lý, không tin vào những điều huyền bí, mầu nhiệm mà tin vào sức mạnh của quần chúng nhân dân, tin vào chân lý khoa học mà sinh thời C.Mác đã nhấn mạnh: phải lấy khoa học thay cho mộng tưởng.

+ Người đã lấy cái linh hồn của phép biện chứng để xem xét, giải quyết mọi vấn đề. Vì vậy mà Người dạy: Học chủ nghĩa Mác là nắm lấy tinh thần của phép biện chứng chứ không phải học thuộc lòng từng câu,từng chữ. Học để vận dụng vào công tác hằng ngày, chứ không phải chủ nghĩa Mác để đi lòe thiên hạ; phải luôn quan sát, phân tích, tổng kết một cách độc lập, tự chủ và sáng tạo; không rơi vào sao chép,giáo điều, rập khuôn; tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin một cách sáng tạo, phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của VN. Người từng căn dặn: “Dù sao cũng không thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa vào đó những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử nào? Lịch sử Châu Âu. Mà Châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”.

- HCM đã tiếp thu lý luận Mác-Lenin theo phương pháp nhận thức Mác xít, cốt nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất chứ không tự trói buộc trong cái vỏ ngôn từ, câu ngữ. Người vận dụng những chủ trương giải pháp, đối sách phù hợp với từng hoàn cảnh cụ thể, từng thời kỳ cụ thể của cách mạng Việt Nam chứ không đi tìm những kết luận đã có sẵn trong sách vở kinh điển.

6

Page 7: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018- HCM đến với chủ nghĩa Mác Lenin để tìm đường cứu nước giải phóng dân tộc, tức là

xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của CM Việt Nam. Vì vậy, Người nhắc nhở: Học chủ nghĩa Mác-Lenin là phải sống với nhau cho có tình có lý. Nếu học chủ nghĩa Mác mà sống với nhau không có tình có lý thì không gọi là chủ nghĩa Mác được.

Câu 3:Trình bày nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa trong tư tưởng Hồ Chí Minh

1. Độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi của vấn đề dân tộc thuộc địa: a. Hồ Chí Minh tiếp cận quyền dân tộc từ quyền con người- Hồ Chí Minh tiếp cận quyền con người hoàn toàn khác với các học giả tư sản và những

nhà tư tưởng của nhân loại, cách tiếp cận của Người hoàn toàn mới mẻ và sâu sắc. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận những nhân tố về quyền con người được nêu trong bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 như quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền tự do, và quyền mưu cầu hạnh phúc. Người khẳng định: “đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

- Nhưng từ quyền con người, HCM đã khái quát và nâng cao thành quyền dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền được sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Người đã sử dụng tuyên ngôn tư sản để đấu tranh cho lợi ích của mình, biên squyeenf bình đẳng, tự do, hạnh phúc cá nhân theo kiểu tư sản thành quyền bình đẳng của cả dt VN, của tất cả các dt trên thế giới không phân biệt màu da, chủng tộc. Tư tưởng vĩ đại này của Người chẳng những mang tính quốc tế, tính thời đại rộng lớn mà còn mang tính nhân văn sâu sắc. HCM đã đặt quyền con người vào trong quyền dân tộc vì chỉ có giải phóng dt mới tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng con người.

b. Nội dung của độc lập dân tộc- Đối với Hồ Chí Minh, đấu tranh cho độc lập dân tộc, thống nhất đất nước là một nhận

thức nhất quán và hành động thống nhất, trước sau như một. Người nói: “Độc lập cho dân tộc tôi, tự do cho đồng bào tôi, đó là tất cả những gì tôi hiểu, tôi biết và tôi làm “.

- Với nhận thức đó năm 1919, Người đã gửi bản Yêu sách của nhân dân An Nam đến Hội nghị Vec-xay để đòi những quyền cơ bản cho dân tộc Việt Nam

- Khi sáng lập ra Đảng Cộng Sản Việt Nam năm 1930, Người xác định mục tiêu chính trị của Đảng là: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến tay sai để làm cho Việt Nam hoàn toàn được độc lập”.

- Khi trở về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người chủ trì Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5/1941) và trong thư Kính cáo đồng bào, Người viết: “Trong lúc này quyền lợi của một số bộ phận giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong, sinh tử của dân tộc, nếu dt không được giải phóng thì không những toàn thể quốc gia dt còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của một số bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi được. Từ đó Người nêu ra quyết tâm “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập dt”.

- Cách mạng tháng 8 thành công, Người tuyên bố cho thế giới biết về quyền mà dân tộc Việt Nam được hưởng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành

7

Page 8: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.

- Năm 1946, khi thực dân Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, Người ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến trong đó khẳng định: “Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”.

Toàn bộ những khát vọng cháy bỏng về đấu tranh giành độc lập dt của HCM đã hun đúc thành chân lý lớn nhất của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”.

Qua nội dung cốt lõi của độc lập dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng ta thấy:+ Độc lập, tự do là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của các dân tộc. Nếu ai vi phạm

đến quyền đó đều sẽ bị đánh trả, những người trong nước mà vi phạm thì sẽ bị pháp luật nghiêm trị.

+ Độc lập dân tộc phải gắn liền với sự thống nhất toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bình đẳng dân tộc, tôn trọng quyền tự quyết của các dân tộc.

+ Nền độc lập dân tộc phải được thực thi trong hòa bình, tự đo. Người kiên quyết lên án độc lập giả hiệu.

+ Độc lập phải bảo đảm cơm no, áo ấm, hạnh phúc cho mọi người dân. 2. Chủ nghĩa dân tộc chân chính vẫn là một động lực lớn của đất nước - Chủ nghĩa dân tộc chân chính mà Hồ Chí Minh phát động là chủ nghĩa yêu nước trong

truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, đó là tinh thần dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước.

- Sự nghiệp cách mạng của người bản xứ gắn bó mật thiết với sự nghiệp của vô sản thế giới; mỗi khi chủ nghĩa cộng sản giành được một chút ít thắng lợi trong một nước nào đó thì đó cũng là thắng lợi cho người An Nam.

- Phát động chủ nghĩa dân tộc bởi vì Nguyễn Ái Quốc thấy rằng, trong cuộc giải phóng ấy, “người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại và duy nhất của đời sống xã hội của họ”.

- Người lên án chủ nghĩa dân tộc “vi kỷ”, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi của giai cấp tư sản, chủ nghĩa dân tộc sôvanh…

Câu 4: Phân tích quan điểm của HCM về đặc trưng bản chất của CNXH?Để phù hợp với trình độ nhận thức của người VN, HCM thường diễn đạt những quan điểm

lý luận rất ngắn gọn, dễ hiểu. Mặc dù vậy bản chất của CNXH ở VN vẫn được Người quán triệt theo đúng tư tưởng lý luận của các nhà sáng lập CHXH khoa học.

- Thông qua các cách tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ chủ nghĩa nhân đạo, từ văn hóa, từ đạo đức… từ những đối tượng khác nhau và từ tính chất của các hội nghị ở Trung ương và địa phương mà Hồ Chí Minh đã đưa ra những luận điểm khác nhau về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Chẳng hạn:

Hồ Chí Minh tiếp thu lý luận về chủ nghĩa xã hội khoa học trước hết từ lòng yêu nước, ý chí quyết tâm cứu nước và khát vọng giải phóng dân tộc Việt Nam. Người tìm thấy trong lý luận của Mác – Lênin sự thống nhất biện chứng giữa giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (đã bao gồm giải phóng giai cấp), giải phóng con người. Đó cũng là mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa cộng sản theo đúng bản chất của chủ nghĩa Mác – Lênin.

8

Page 9: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018 Hồ Chí Minh tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ phương diện đạo đức . Chủ nghĩa xã

hội với mục tiêu và cơ sở kinh tế dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất của nó sẽ đi đến giải phóng cho cả loài người khỏi áp bức bóc lột. Nó xa lạ và đối lập với chủ nghĩa cá nhân nhưng không phủ nhận cá nhân, trái lại còn đề cao, tôn trọng cá nhân, các giá trị cá nhân, phát triển mọi năng lực của cá nhân vì sự phát triển của xã hội và hạnh phúc con người. Người cho rằng: “Chủ nghĩa cá nhân là một trở ngại lớn cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Cho nên thắng lợi của chủ nghĩa xã hội không thể tách rời thắng lợi của cuộc đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân”; “Không có chế độ nào tôn trọng con người, chú ý xem xét những lợi ích cá nhân đúng đắn và bảo đảm cho nó được thỏa mãn bằng chủ nghĩa xã hội”.

Hồ Chí Minh còn tiếp cận chủ nghĩa xã hội từ văn hóa. Người đã đưa văn hóa thâm nhập chính trị, kinh tế tạo nên sự thống nhất giữa chúng, giữa các mục tiêu phát triển xã hội. Quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng là quá trình xây dựng một nền văn hóa trong đó có sự kết tinh, kế thừa, phát triển những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp hàng ngàn năm của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, kết hợp truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế

Hồ Chí Minh còn nhận thấy những nét tương đồng của chủ nghĩa xã hội với truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Việt Nam.

- Khái quát từ các định nghĩa khác nhau đó thì chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo Hồ Chí Minh có những nét nổi bật sau:

Chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm nhân dân lao động thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Chủ nghĩa xã hội là giải phóng nhân dân lao động khỏi nghèo nàn lạc hậu.

“Chủ nghĩa xã hội là lấy nhà máy, xe lửa, ngân hàng… làm của chung”. Chủ nghĩa xã hội là một xã hội không có chế độ người bóc lột người, một xã hội

bình đẳng, nghĩa là ai cũng phải lao động và có quyền lao động “Ai làm nhiều thì ăn nhiều, ai làm ít thì ăn ít, không làm thì không ăn”.

“Cách mạng xã hội chủ nghĩa gắn liền với sự phát triển khoa học và kỹ thuật, với sự phát triển văn hóa của nhân dân”.

“Chỉ ở trên chế độ xã hội chủ nghĩa thì mỗi người mới có điều kiện cải thiện đời sống riêng của mình, phát huy tính cách riêng và sở trường riêng của mình”

Chủ nghĩa xã hội là do quần chúng nhân dân tự mình xây dựng nên. Đó là công trình tập thể của quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng.

“Chế độ xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là chế độ do nhân dân lao động làm chủ”.

Từ những đặc điểm trên có thể khái quát thành những đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh:

- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ. Hồ Chí Minh coi nhân dân có vị trí tối thượng trong mọi cấu tạo quyền lực. Chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của chính bản thân nhân dân, dựa vào sức mạnh của toàn dân để đưa lại quyền lợi cho nhân dân.

- Chủ nghĩa xã hội là một chế độ có nền kinh tế phát triển cao với lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại, có khoa học - kỹ thuật tiên tiến hiện đại, dần xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất để thực hiện công hữu về tư liệu sản xuất.

9

Page 10: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển dựa trên cơ sở năng suất lao động xã hội cao, sức

sản xuất luôn luôn phát triển trên nền tảng khoa học - kỹ thuật, ứng dụng có hiệu quả các thành tựu khoa học - kỹ thuật của nhân loại.

- Chủ nghĩa xã hội là chế độ xã hội thực hiện công bằng hợp lý. Nghĩa là trong xã hội đó không còn áp bức, bất công, thực hiện chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất và nguyên tắc phân phối theo lao động. Một xã hội công bằng hợp lý, các dân tộc đều bình đẳng, miền núi được giúp đỡ để tiến kịp miền xuôi, có quan hệ quốc tế tốt đẹp.

- Chủ nghĩa xã hội là một xã hội phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Đó là một xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động chân tay và lao động trí óc, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong việc phát triển xã hội và tự nhiên.

- Chủ nghĩa xã hội là một công trình tập thể của nhân dân, do nhân dân xây dựng dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.

Như vậy theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, đạo đức, văn minh, một chế độ xã hội ưu việt nhất trong lịch sử, một xã hội tự do và nhân đạo, phản ánh được nguyện vọng thiết tha của loài người./.

Câu 5: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về sự ra đời của ĐCSVNVận dụng nguyên lý chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của việt Nam, HCM xác

định ĐCS VN ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước

Điều này thể hiện: HCM đánh giá rất cai vai trò của chủ nghĩa mác – Lê-nin đối với cách mạng nói

chung và đối với sự hình thành của ĐCSVN nói riêng. HCM đánh giá rất cao vai trò giai cấp công nhân VN và phong trào công nhân.

Giai cấp công nhân lúc bấy giờ tuy còn nhỏ bé (2% dân số), phong trào công nhân còn yếu nhưng họ vẫn giữ vai trò lãnh đạo cách mạng vì:

- Đó là giai cấp tiên tiến nhất đại diện cho lực lượng sản xuất tiến bộ, đại diện chi phương thức sản xuất mới, gánh trách nhiệm đánh đổ chủ nghĩa tư bản và đế quốc để xây dựng một xã hội mới.- Đó là giai cấp có tinh thần cách mạng kiên quyết, triệt để nhất, có tổ chức kỹ luật cao.- Giai cấp công nhân có chủ nghĩa mác – Lê-nin làm nền tảng tư tưởng. Phong trào yêu nước là một nhân tố quan trọng trong việc ra đời ĐCSVN vì:Phong trào yêu nươc có vị trí, vai tro cực ky to lơn trong quá trình phát triển của dân

tộc VN. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tinh thần trường tồn trong lịch

sử dân tộc Vn, là nhân tố chủ đạo quyết định sự nghiệp chống ngoại xâm của dân tộc ta. Phong trào yêu nước Vn là phong trào rộng lớn nhất, có trước

phong trào công nhân hàng nghìn năm lịch sử, nó cuốn hút mọi tầng lớp nhân dân, toàn dân tộc đứng lên chống kẻ thù.

10

Page 11: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018 Phong trào yêu nước liên tục và bền bỉ trong hàng nghìn năm

dựng nước và giữ nước đã trở thành giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc VN.Phong trào công nhân kết hợp được vơi phong trào yêu nươc bởi vì hai phong trào đó

đều có muc tiêu chung. Phong trào công nhân ngay từ khi mới ra đời đã kết hợp với phong trào yêu nước. Cơ sở

của vấn đề kết hợp ngay từ đầu, liên tục, chặt chẽ giữa hai phong trào này là do xã hội nước ta tồn tại mâu thuẫn cơ bản giữa toàn thể dân tộc VN với bọn đế quốc và tay sai, cả hai phong trào đều có mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, làm cho VN được hoàn toàn độc lập, xây dựng đất nước giàu mạnh. Khác với những người cộng sản phương Tây, HCM và những người cộng sản VN đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lê-nin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp.

Phong trào nông dân kết hợp vơi phong trào công nhân. Nói đến phong trào yêu nước Vn, phải kể đến phong trào nông dân. Đầu thế kỷ XX, nông

dân VN chiếm tới khoảng 90% dân số. Giai cấp nông dân là bạn đồng minh tự nhiên của giai cấp công nhân. Đàu thế kỷ XX ở VN, do điều kiện lịch sử chi phối, không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ người nông dân nghèo. Do đó, giữa phong trào công nhân và phong trào yêu nước có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Giai cấp công nhân và giai cấp nông dân hợp thành quân chủ lực của cách mạng.

Phong trào yêu nươc của trí thức VN là nhân tố quan trong thuc đây sự kết hợp các yếu tố cho sự ra đời của ĐCSVN.

Phong trào yêu nước VN những thập niên đầu thế kỷ XX ghi dấu đậm nét bởi vai trò trí thức, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là ngòi nổ cho các phong trào yêu nước bùng lên chống thực dân Pháp và bọn tay sai,cũng như thúc đẩy sự canh tân và chấn hưng đát nước, với một bầu nhiệt huyết, yêu nước, thương nòi, căm giận bọn cướp nước và bọn bán nước, họ rất nhạy cảm với thời cuộc, do vậy, họ chủ động có cơ hội đón nhận những luồng gió mới về tư tưởng của tất cả các trào lưu trên thế giới dội vào VN.

Quy luật về sự hình thành của ĐCSVN là một luận điểm cực ky sáng tạo có ý nghĩa to lớn không chi đối với cách mạng nước ta mà còn ảnh hưởng lớn đến phong trào cách mạng thế giới.Thực tiên cho thấy, khi Nguyên Ai Quốc truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước VN thì cách mạng VN từ 1925 đã có sự chuyển biến mạnh me theo xu hướng vô sản. Khi phong trào lên cao đã đòi hỏi phải có Đảng tiên phong dẫn đường. Đáp ứng đòi hỏi khách quan đó, ngày 3/2/1930, ĐCSVN ra đời. Sự tồn tại và phát triển của ĐCSVN phu hợp với quy luật phát triển của xã hội, đáp ứng được nhu cầu của lịch sử, đáp ứng nguyện vọng của đại đa số tầng lớp nhân dân vì mục tiêu giành độc lập và xây dựng xã hội mới.

Câu 6: Trình bày tư tưởng Hồ Chí Minh về nội dung và hình thức tổ chức của đại đoàn kết dân tộc.

Nội dungĐại đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân

11

Page 12: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018 Trong tư tưởng HCM, các khái niệm Dân, Nhân dân có nội hàm rất rộng, họ là chủ thể

của khối đoàn kết dân tộc, và đại đoàn kết dân tộc thực chất là đại đoàn kết toàn dân. Xuất phát từ nhận thức cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, muốn có sức

mạnh của lực lượng quần chúng đông đảo nhất tham gia vào tiến trình thay đổi xã hội cũ bằng một xã hội mới tiến bộ, đòi hỏi lực lượng quần chúng đông đảo ấy không thể hành động tự phát mà phải có hành động tự giác. Muốn quần chúng hành động tự giác, họ phải được giác ngộ, giáo dục và tổ chức lại thành một khối. Đó là khối đại đoàn kết dân tộc.

Nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc là liên minh công- nông-trí thức. Người nói: nếu nền tảng được củng cố vững chắc thì khối đoàn kết dân tộc càng có thể mở rộng, không e ngại bất cứ thế lực nào có thẻ làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.

Đoàn kết ở đây là đoàn kết rộng rãi và lâu dài. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của tổ quốc, ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức phụng sự tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta phải đoàn kết với họ. Nhưng đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ, đồng thời phải củng cố và giữ vững nguyên tắc. Người chỉ rõ: tất cả các tầng lớp nhân dân ta... ai nấy hãy làm tròn nghĩa vụ của ngời công dân, người chủ nhà, giúp chính quyên giữ trật tự an ninh, tăng cường đoàn kết.

Thực hiên đại đoàn kết toàn dân phải kế thừa truyền thống yêu nươc - nhân nghia - đoàn kết của dân tộc; đồng thời phải có tấm long khoan dung, độ lượng, tin vào nhân dân, tin vào con người.

Để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phải kế thừa truyền thống yêu nước- nhân nghĩa- đoàn kết của dân tộc. Truyền thống này được hình thành, củng cố và phát triển trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của cả dân tộc, trở thành giá trị bền vững, thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn của mỗi con người VN, được lưu truyền qua các thê hệ. Truyền thống đó là cội nguồn sức mạnh vô địch của cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng thiên tai địch họa, làm cho đất nước trường tồn, bản sắc dân tộc được giữ vững.

Phải có lòng khoan dung , độ lượng với con người. HCM chỉ rõ: trong mỗi cá nhân cũng như mỗi cộng đồng đều có những ưu, khuyết điểm, mặt tốt, mặt xấu... Cho nên, vì lợi ích cách mạng, cần phải có lòng khoan dung độ lượng, trân trọng cái phần thiện dù là nhỏ nhất của mỗi con người mới có thể tập hợp, quy tụ rộng rãi mọi lực lượng.

Lòng khoan dung độ lượng ở HCM là sự tiếp nối và phát triên truyền thống nhân ái, bao dung của dân tộc, từ chính mục tiêu của cuộc cách mạng mà Người suốt đời theo đuổi. Đó là một tư tưởng nhất quán, được thể hiện trong đường lối, chính sách của Đảng đối với những người làm việc dưới chế độ cũ và những người nhất thời lầm lạc biết hối cải.

Để thực hành đoàn kết rộng rãi, cần có niềm tin vào nhân dân. Với HCM, yêu dân, tin dân dựa vào dân, sống, đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân là nguyên tắc tối cao. Nguyên tắc này vừa là sự tiếp nối truyền thống dân tộc " nước lấy dân làm gốc", " chở thuyền và lật thuyền cũng là dân", đồng thời là sự quán triệt sâu sắc nguyên lí mác xít: " cách mạng là sự nghiệp của quần chúng". Theo Người, Dân là chỗ dựa vững chắc của Đảng, là nguồn sức mạnh vô tân và vô địch của khối đại đoàn kết, quyết định thắng lợi của cách mạng, là nền, gốc và chủ thể của Mặt trận.

Hình thứcHình thức tổ chức của khối đại đoàn kết dân tộc là Mặt trận dân tộc thống nhất.

12

Page 13: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018 Trong tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc (không chỉ dừng lại ở quan niệm,ở những lời

kêu gọi, những lời hiệu triệu) mà phải trở thanh 1 chiến lược cách mạng, trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.

Đó là tổ chức chính trị- xã hội rộng lớn của nhân dân VN, nơi quy tụ, tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập dân tộc, thống nhất của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Cả dân tộc hay toàn dân chỉ trở thành lực lượng to lớn, trở thành sức mạnh vô địch khi được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung, được tổ chức lại thành một khối vững chắc và hoạt động theo đường lối chính trị đúng đắn. Thất bại của các phong trào yêu nước trước kia đã chứng minh rất rõ ràng về điều đó.

(Mặt trân thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức, cá nhân yêu nước, nới tập họp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trng nước mà còn bào gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài, dù ở bất cứ phương trời nào, nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương, đất nước, về Tổ quốc Việt Nam, đều được coi là thành viên của Mặt trận)

Tùy theo từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, mặt trận dân tộc thống nhất có thể có những tên gọi khác nhau: Hội phản đế đồng minh(1930), Mặt trận dân chủ(1941), Mặt trân Tổ quốc VN(1955),(1976), nhưng thực chất chỉ là một. Mặt trận phải có cương lĩnh, điều lệ phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ của từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng.

Một số nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của mặt trân dân tộc thống nhất- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối lien minh công-

nông-trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối cao của dân

tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, đảm

bảo đoang kết ngày càng rộng rãi bền vững- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành,

thân ái giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.

Câu 7 : Phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về nhà nươc của dân, do dân, vì dân. Từ đó rut ra ý nghia đối vơi xây dựng và hoàn thiện nhà nươc Việt Nam hiện nay

a. Quan niệm của Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân và vì dânNếu vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng là vấn đề chính quyền thì vấn đề cơ bản của

chính quyền là ở chỗ nó thuộc về ai, phục vụ quyền lợi cho ai.Năm 1927, trong cuốn “Đường cách mệnh” Bác chỉ rõ: “Chúng ta đã hy sinh làm cách

mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc”.

Sau khi giành độc lập, Người khẳng định, “nước ta là nước dân chủ, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân... nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều

13

Page 14: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018ở nơi dân”. Đó là điểm khác nhau giữa nhà nước ta với nhà nước bóc lột đã từng tồn tại trong lịch sử.

Nhà nước của dân- Quan điểm nhất quán của Hồ Chí Minh là tất cả mọi quyền lực trong Nhà nước và

trong xã hội đều thuộc về nhân dân.Điều 1 Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (Năm 1946) nói: “Nước Việt Nam là

một nước dân chủ cộng hoà. Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.

- Nhân dân có quyền quyết định những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia, dân tộc.Điều 32 -Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc liên quan đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa

ra nhân dân phúc quyết...”, thực chất đó là chế độ trưng cầu dân ý, một hình thức dân chủ đề ra khá sớm ở nước ta.

Hoặc khi dân bầu ra các đại biểu, uỷ quyền cho họ bàn và quyết định những vấn đề quốc kế dân sinh, thì nhân dân có quyền bãi miễn những đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân nếu họ không xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân.

- Nhà nước của dân thì dân là chủ, người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm những việc pháp luật không cấm và có nghĩa vụ chấp hành nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật. Đồng thời, là người chủ cũng phải thể hiện năng lực, trách nhiệm làm chủ của mình.

Nhà nước phải bằng mọi nỗ lực, hình thành thiết chế dân chủ để thực thi quyền làm chủ của người dân. Những vị đại diện do dân cử ra chỉ là thừa uỷ quyền của dân, là “công bộc” của dân; phải làm đúng chức trách và vị thế của mình, không phải đứng trên nhân dân, coi khinh nhân dân, “cậy thế” với dân, “quên rằng dân bầu mình ra là để làm việc cho dân”.

Nhà nước do dân- Nhà nước phải do dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu của mìnhNhà nước đó do dân ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để nhà nước chi tiêu, hoạt động, vận hành

bộ máy để phục vụ nhân dân.Nhà nước đó do dân phê bình, xây dựng, giúp đỡ.Nhà nước do dân tạo ra và tham gia quản lý, thể hiện ở chỗ:+ Toàn bộ công dân bầu ra Quốc hội - cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước, cơ quan

duy nhất có quyền lập pháp.+ Quốc hội bầu ra Chủ tịch nước, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và Hội đồng Chính phủ

(nay gọi là Chính phủ).+ Hội đồng Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của Nhà nước, thực hiện các nghị

quyết của Quốc hội và chấp hành pháp luật.+ Mọi công việc của bộ máy nhà nước trong việc quản lý xã hội đều thực hiện ý chí của

dân (Thông qua Quốc hội do dân bầu ra).- Do đó, Hồ Chí Minh yêu cầu tất cả các cơ quan nhà nước là phải dựa vào dân, liên hệ

chặt che với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân. Người nói: “Nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi chính phủ”, nghĩa là khi cơ quan nhà nước không đáp ứng lợi ích và nguyện vọng của nhân dân thì nhân dân có quyền bãi miễn nó. Hồ

14

Page 15: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Chí Minh khẳng định: mỗi người có trách nhiệm “ghé vai gánh vác một phần” vì quyền lợi, quyền hạn bao giờ cũng đi đôi với trách nhiệm, nghĩa vụ.

Nhà nước vì dân- Đó là Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân, không có đặc

quyền đặc lợi, thực sự trong sạch, cần kiệm liêm chính. Trong nhà nước đó, cán bộ từ chủ tịch trở xuống đều là công bộc của dân.

- Mọi hoạt động của chính quyền phải nhằm mục tiêu mang lại quyền lợi cho nhân dân và lấy con người làm mục tiêu phấn đấu lâu dài. Trách nhiệm của Nhà nước là nhằm thoả mãn những nhu cầu thiết yếu của nhân dân, mà trước hết là:

“Làm cho dân có ănLàm cho dân có mặcLàm cho dân có chỗ ởLàm cho dân có học hành”“Việc gì có lợi cho dân ta phải hết sức làm,Việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”- Hồ Chí Minh chú ý mối quan hệ giữa người chủ nhà nước là nhân dân với cán bộ nhà

nước là công bộc của dân, do dân bầu ra, được nhân dân uỷ quyền. Là người phục vụ, nhưng cán bộ nhà nước đồng thời là người lãnh đạo, hướng dẫn nhân dân. “Nếu không có nhân dân thì chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có chính phủ thì nhân dân không ai dẫn đường”. Cán bộ là đày tớ của nhân dân là phải trung thành, tận tuỵ, cần kiệm liêm chính...; là người lãnh đạo thì phải có trí tuệ hơn người, sáng suốt, nhìn xa trông rộng, gần gũi với dân, trọng dụng hiền tài...Cán bộ phải vừa có đức vừa có tài, vừa hiền lại vừa minh.

Hồ Chí Minh là người Chủ tịch suốt đời vì dân. Người tâm sự: “Cả đời tôi chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc, và hạnh phúc của nhân dân.

Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo - là vì mục đích đó.

Đến lúc nhờ quốc dân đoàn kết, tranh được chính quyền, uỷ thác cho tôi ghánh việc Chính phủ, tôi lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng - cũng vì mục đích đó”

b. Ý nghĩa đối với xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Việt Nam hiện nayNhà nước bảo đảm quyền làm chủ thật sự của nhân dânNhà nước phải đảm bảo quyền làm chủ thật sự của nhân dân trên tất cả các mặt của đời

sống xã hội. Trong vấn đề này, việc mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cướng pháp chế xã hội chủ nghĩa có ý nghĩa quan trọng. Chính vì vậy, quyền làm chủ của nhân dân phải được thể chế hoá bằng Hiến pháp và pháp luật, đưa Hiến pháp và pháp luật vào cuộc sống.

Kiện toàn bộ máy hành chính nhà nướcKiện toàn bộ máy hành chính nhà nước, đẩy mạnh cải cách hành chính theo hướng dân chủ,

trong sạch, vững mạnh, phục vụ đắc lực cho nhân dân và công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Kiên quyết khắc phục thói quan liêu, hách dịch, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, tham nhũng, bộ máy cồng kềnh, kém hiệu lực. Chú trọng và tiến hành thường xuyên công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn và đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, công chức.

Tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước

15

Page 16: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thể hiện ở những nội dung như: Lãnh đạo Nhà nước thể chế

hóa đường lối, chủ trương của Đảng; đảm bảo sự lãnh đạo cảu Đảng và phát huy vai trò quản lý của Nhà nước.

Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước bằng cách Đảng lãnh đạo bằng đường lối, bằng tổ chức, bộ máy của Đảng trong các cơ quan Nhà nước, bằng vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ đảng viên trong bộ máy Nhà nước, bằng công tác thanh tra, kiểm tra, Đảng không làm thay công việc quản lý của Nhà nước.

Câu 8: phân tích quan điểm của Hồ Chí Minh về chuân mực đạo đức cách mạng " Trung vơi nươc - hiếu vơi dân" và chuân mực " cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư "

- Trung với nước, hiếu với dânTrong mối quan hệ đạo đức thì mối quan hệ giữa mỗi người với đất nước, với nhân dân,

với dân tộc là mối quan hệ lớn nhất. Trung, hiếu là phẩm chất đạo đức quan trọng nhất, bao trùm nhất.

+ Trung, hiếu là những khái niệm đã có trong tư tưởng đạo đức truyền thống Việt Nam và phương Đông, song có nội dung hạn hẹp, phản ánh bổn phận của dân đối với vua, con đối với cha mẹ: “Trung với vua, hiếu với cha mẹ”.

+ Hồ Chí Minh đã mượn khái niệm cũ và đưa vào nội dung mới: “Trung với nước, hiếu với dân”, tạo nên một cuộc cách mạng trong quan niệm về đạo đức.

Trung với nước là tuyệt đối trung thành với sự nghiệp dựng nước và giữ nước, trung thành với con đường đi lên của đất nước; là suốt đời phấn đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì CNXH, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng.

Trung với nước phải gắn liền hiếu với dân. Vì nước là nước của dân, còn nhân dân là chủ của đất nước. Đây là chuẩn mực đạo đức có ý nghĩa quan trọng hàng đầu. Hiếu với dân thể hiện ở chỗ thương dân, tin dân, gắn bó với dân, kính trọng và học tập nhân dân, lấy dân làm gốc, phục vụ nhân dân hết lòng.

Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững dân tình, hiểu rõ dân tâm, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí.

- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tưĐây là những phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hàng ngày của con người. Hồ Chí

Minh cũng dùng những phạm trù đạo đức cũ, lọc bỏ những nội dung lạc hậu, đưa vào những nội dung mới đáp ứng nhu cầu cách mạng.

+ Cần là lao động cần cù, siêng năng, lao động có kế hoạch, sáng tạo năng suất cao; lao động với tinh thần tự lực cánh sinh, không lười biếng, không ỷ lại, không dựa dẫm.

+ Kiệm là tiết kiệm sức lao động, tiết kiệm thì giờ, tiết kiệm tiền của của nhân dân, của đất nước, của bản thân mình. Tiết kiệm từ cái nhỏ đến cái to; “Không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”[1], nhưng không phải là bủn xỉn. Kiệm trong tư tưởng của Người còn đồng nghĩa với năng suất lao động cao.

+ Liêm là “luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân”. Phải trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, sung sướng.

16

Page 17: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018Không tâng bốc mình. Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ. Hành vi trái

với chữ liêm là:... cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, hoặc trộm của công làm của riêng. Dìm người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình là trộm vị. Gặp việc phải, mà sợ khó nhọc nguy hiểm, không dám làm là tham uý lạo. Cụ Khổng nói: người mà không liêm, không bằng súc vật. Cụ Mạnh nói: ai cũng tham lợi thì nước sẽ nguy.

+ Chính là không tà, thẳng thắn, đứng đắn đối với mình, với người, với việc.Đối với mình, không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm

mình để phát huy điều hay, sửa đổi điều dở.Đối với người, không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới; luôn giữ thái độ chân

thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc.Đối với việc, để việc công lên trên việc tư, làm việc gì cho đến nơi, đến chốn, không ngại

khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân cho nước.Theo Hồ Chí Minh, Cần, kiệm, liêm, chính là “tứ đức” không thể thiếu được của con

người. Người viết:“Trời có bốn mua: Xuân, Hạ, Thu, ĐôngĐất có bốn phương: Đông, Tây, Nam, BắcNgười có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chínhThiếu một mua thì không thành trờiThiếu một phương thì không thành đấtThiếu một đức thì không thành người”. Bác cũng nhấn mạnh: Cần, kiệm, liêm, chính càng cần thiết đối với người cán bộ, đảng

viên. Nếu đảng viên mắc sai lầm thì sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, nhiệm vụ của cách mạng. Cần, kiệm, liêm, chính còn là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, sự văn minh của dân tộc. “Nó” là cái cần thiết để “làm việc, làm người, làm cán bộ, để phụng sự Đoàn thể, phụng sự giai cấp và nhân dân, phụng sự Tổ quốc và nhân loại”.

+ Chí công vô tư là ham làm những việc ích quốc, lợi dân, không ham địa vị, không màng công danh, vinh hoa phú quý; “phải lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.

Thực hành chí công vô tư là nêu cao chủ nghĩa tập thể, nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân. Chủ nghĩa cá nhân chỉ biết đến mình, muốn “mọi người vì mình”. Nó là giặc nội xâm, còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại xâm.

Hồ Chí Minh viết: “Một dân tộc, một đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Người cũng phân biệt lợi ích cá nhân và chủ nghĩa cá nhân.

Chí công vô tư là tính tốt có thể gồm 5 điều: nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là để người cách mạng vững vàng qua mọi thử thách : “Giàu sang không quyến rũ, nghèo khó không thể chuyển lay, uy vũ không thể khuất phục”.

Câu 9: Quan điểm HCM về văn hóa giáo duc.Nêu ý nghia của nó đối vơi việc đổi mơi giáo duc đại hoc ở nươc ta hiện nay

Quan điểm HCM về văn hóa giáo duc17

Page 18: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018- Đối tượng của GD: là toàn thể nhân dân VN Mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện 3 chức năng của văn hóa bằng giáo

dục: Dạy và học để bồi dưỡng lý tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp; mở mang dân trí; bồi dưỡng những phẩm chất và phong cách tốt đẹp cho con người. Giáo dục để đào tạo con người có ích cho xã hội. Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Giáo dục nhằm đào tạo lớp người có đức, có tài, kế tục sự nghiệp cách mạng, làm cho nước ta sánh vai cũng các cường quốc năm châu.

Cải cách giáo dục bao gồm xây dựng chương trình, nội dung dạy và học hợp lý, phù hợp với các giai đoạn cách mạng. Nội dung giáo dục phải toàn diện: văn hóa, chính trị, khoa học – kỹ thuật, chuyên môn nghiệp vụ, lao động... Các nội dung đó có mối quan hệ mật thiết với nhau. Học chính trị là học chủ nghĩa Mác – Lê-nin, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cách học phải sáng tạo, không giáo điều. Học để nắm các quan điểm có tính nguyên tắc, phương pháp luận. Học khoa học kỹ thuật để đáp ứng đòi hỏi của thời đại mới, thời đại của cách mạng khoa học – công nghệ đang phát triển như vũ bão.

Phương châm, phương pháp giáo dục: Phương châm bao gồm; học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế,

học tập kết hợp với lao động; phối hợp nhà trường - gia đình – xã hội; thực hiện dân chủ, bình đẳng trong giáo dục; học suốt đời. Coi trọng việc tự học, tự đào tạo và đào tạo lại. Học ở mọi lúc mọi nơi, học mọi người.

Phương pháp giáo dục phải xuất phát và bám chắc vào mục tiêu giáo dục. Giáo dục là một khoa học nên cách dạy phải phù hợp với lứa tuổi; dạy từ dễ đến khó; kết hợp học tập với vui chơi có ích, lành mạnh; giáo dục phải dùng phương pháp nêu gương; giáo dục phải gắn liền với thi đua.

Quan tâm xây dựng đội ngũ giáo viên vì không có giáo viên thì không có giáo dục. Phải xây dựng đội ngũ giáo viên có phẩm chất yêu nghề; phải có đạo đức cách mạng; phải yên tâm công tác, đoàn kết; phải giỏi về chuyên môn, thuần thục về phương pháp sư phạm. Người đi giáo dục cũng phải được giáo dục, phải học thêm mãi, học không bao giờ đủ, còn sống còn phải học. Ý nghia trong việc đổi mơi giáo duc đại hoc ở nươc ta

hiện nayHiện nay đất nước và thế giới có nhiều đổi thay so với sinh thời Hồ Chí Minh, nhưng

những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về văn hóa giáo dục vẫn tiếp tục soi sáng sự nghiệp đổi mới giáo dục nước nhà nhất là trong giáo dục đại học hiện nay

-Thứ nhất, nền giáo dục Việt Nam trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI phải phát triển theo hướng đáp ứng yêu cầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức và mở rộng hội nhập quốc tế, tạo cơ hội và tiền đề cần thiết để phát triển con người toàn diện. Việt Nam hiện nay đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức, điều đó cần được coi là một yêu cầu cơ bản nhất để từ đó xác định chiến lược giáo dục. Một mặt, giáo dục là công cụ hữu hiệu và phổ biến để cung cấp cho con người các tri thức khoa học cần thiết mà nếu thiếu nó, không thể khắc phục được tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, không thể phát triển. Mặt khác, giáo dục là công cụ trang bị cho con người tình cảm, lý tưởng và rất nhiều các kỹ năng mềm để con

18

Page 19: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018người nâng cao chất lượng cuộc sống cả về vật chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, nền giáo dục Việt Nam hiện nay cần tiếp tục đổi mới một cách mạnh mẽ trên mọi phương diện. Về nội dung, cần tránh sự thiên lệch chủ yếu chú trọng dạy chữ mà coi nhẹ về đạo đức, tư tưởng, nhân cách làm người; nội dung giáo dục phải theo hướng toàn diện, vừa “hồng” vừa “chuyên” không chỉ là khẩu hiệu, mà phải được coi là hiện thực. Mục tiêu của các cấp học không chỉ là bằng cấp, chứng chỉ, mà là tri thức, kỹ năng, phong cách tư duy và hành động phù hợp, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội, phát triển con người

-Thứ hai, nền giáo dục Việt Nam trong những thập kỷ đầu của thế kỷ XXI phải được phát triển trên cơ sở kết hợp truyền thống với hiện đại, dân tộc và quốc tế. Việt Nam có một nền giáo dục lâu đời. Truyền thống hiếu học, phương châm “tiên học lễ, hậu học văn” và nhiều phương pháp giáo dục truyền thống khác đã tạo nên những sắc thái riêng của nền giáo dục Việt Nam. Điều đó và những giá trị truyền thống tốt đẹp khác là những tài sản vô giá mà nền giáo dục Việt Nam hiện nay nếu không kế thừa sẽ không thể phát triển được. Cũng như nhiều lĩnh vực khác, ngoài việc kế thừa từ truyền thống, trong giáo dục, chúng ta phải kế thừa các thành tựu của văn minh nhân loại, đặc biệt là các lý thuyết khoa học hiện đại và phương pháp giáo dục mới. Nếu tuyệt đối hóa truyền thống dân tộc sẽ làm cho nền giáo duc Việt Nam trở nên lạc hậu, lỗi thời; ngược lại, nếu tuyệt đối hóa yếu tố quốc tế sẽ làm cho nền giáo duc Việt Nam trở nên lai căng, mất gốc, làm mất sự tinh tuy của nền văn hóa dân tộc. Sự kết hợp giữa tinh thần dân tộc và quốc tế còn có nghĩa là xây dựng một nền giáo dục có tính dân tộc cao, nhưng lại tiếp thu được những yếu tố tiến bộ của nền giáo dục thế giới. Những kinh nghiệm giáo dục của các nước trong khu vực và trên thế giới ngày nay đều là những kinh nghiệm quý báu mà nền giáo dục Việt Nam muốn phát triển phải kế thừa và phát huy

-Thứ ba, cần phải đa dạng hóa các phương thức đào tạo; phương thức đào tạo chính quy tập trung truyền thống cần được tiếp tục phát huy bên cạnh nhiều phương thức khác, như đào tạo chính quy không tập trung, đào tạo vừa học vừa làm, đào tạo từ xa, các hình thức bồi dưỡng, cập nhật, hoàn chỉnh kiến thức… Có như vậy, chúng ta mới tạo ra được một xã hội học tập, tạo cơ hội để mọi người, tuỳ điều kiện, hoàn cảnh của mình, đều được học hành.

           Thanh niên là chủ nhân của đất nước vì vậy muốn đất nước ngày càng giàu đẹp thì mỗi chúng ta hãy đứng lên hành động , nỗ lực học tập xây dựng đát nước vững mạnh trong thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa để đuổi kịp các nước trên toàn thế giới.

Câu 10: Phân tích quan điểm Hồ Chí Minh về vai tro của con người trong sự nghiệp cách mạng.Con người là vốn quý nhất,nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạngTheo HCM “trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa , đều thế cả”. Người cho rằng “ việc dễ mấy không có nhân dân cũng chịu, việc khó mấy có nhân dân cũng xong”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần.HCM tổng kết ngắn gọn: dân ta tốt lắm. Người phân tích phẩm chất tốt đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào đảng,không sợ gian khổ, tù

19

Page 20: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018đầy, hi sinh việc dân, nhường cơm, xẻ áo, che chở, đùm bọc, bảo vệ,nuôi nấng bộ đội và cán bộ cách mạng.Dân ta là tài năng trí tuệ và sáng tạo, họ biết “giải quyết mọi vấn đề một cách đơn giản, mau chóng,đầy đủ, mà những người tài giỏi, nhưng người to lớn, nghĩ mãi không ra”. Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân deer thực hiện con đường cách mạng. HCM có niềm tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc t, với lòng yêu nước và chí kiên quyết cưa nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi mà chúng ta nhất định thắng lợi.Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “ lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai có thắng nổi.Con người vừa là muc tiêu vừa là động lực của cách mạng; phaiw coi trong chăm sóc phát huy nhân tố con người.Vì sống gần dân, với dân,giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý. HCM thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao đọng xã hội. Nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực cách mạng. Năm 1911 giữa lúc đất nước đang bị xâm lược , nhân dân phải chịu cảnh lầm than, Người ra di với ý chí “quyết giải phóng gông cùm nooleej cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của người cũng là của đảng và của chính phủ là “ làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành’ở HCM, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng khổ và nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông của tôn giáo, ngược lại,Người lại có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bãn lĩnh của con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để mang lại độc lập tư do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục tiêu trong điều kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nô lê,lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc,ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì,”nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do,thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc, Người viết: “Đầu tiên là công việc đối với con người”.Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài,lợi ích trước mắt,: lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp,tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy-ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân-dù nhỏ mấy-ta phải hết sức tránh. HCM có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng.Trong sự nghiệp xây dựng đất nước,HCM nhận rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có con người XHCN”, “có dân thì có tất cả”...Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhân thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. HCM chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đọa nhưng nhân dân là chủ. Dân như nước,bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân,

20

Page 21: Tư tưởng HCM

Lớp D2 khóa 2013 - 2018tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng CNXH chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.HCM tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Người nói: dân tộc ta là một dân tộc anh hùng.Trng khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân. Không yêu thương và tin cậy nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm-bệnh quan liêu. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là “hỏng việc”.Con người là động lực của cách mạng đươc nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công dân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Nhà nước mới theo tư tưởng HCM lấy công-nông-trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách Mạng Tháng Mười phải nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới, đó là giai cấp công nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân tộc đào mồ chôn CNTB. Muốn vậy, giai cấp công nhân chỉ có liên minh với giai cấp nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam...Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người.Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì vây, cần có sưn lãnh đạo của Đảng Cộng sản.Giữa con người-mục tiêu và con người-động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Càng chăm lo cho con người-mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người-động lực tốt bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người-động lực thì sẽ nhanh chóng đạt được mục tiêu cách mạng.Phải kiên quyết khắc phực kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất đô c này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói, không dám làm, không dám đề ra ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.

21