194
Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) về Sở hữu trí tuệ Nhà xuất bản Công thương

về Sở hữu trí tuệ - trungtamwto.vn soat ve So huu tri tue.pdf · LỜI MỞ ĐẦU 5 Lời mở đầu Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp

  • Upload
    others

  • View
    9

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

  • Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam

    Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) về Sở hữu trí tuệ

    Nhà xuất bảnCông thương

  • Quan điểm trong Báo cáo này là của các tác giả và không thể hiện quan điểm củaĐại sứ quán Anh và Bắc Ai len hay Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

    PhòNg ThươNg mại Và CôNg NghiệP ViệT NAmTruNg Tâm WTO Và hội NhậP

    TS. Nguyễn Thị Thu Trang (chủ biên)

    Nhà xuất bản Công Thương

    Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Đầu tư

  • PhòNg ThươNg mại Và CôNg NghiệP ViệT NAmTruNg Tâm WTO Và hội NhậP

    TS. Nguyễn Thị Thu Trang (chủ biên)

    Nhà xuất bản Công Thương

    Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU về Đầu tư

    Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) về Sở hữu trí tuệ

    Hà Nội 2017

  • 5LỜI MỞ ĐẦU

    Lời mở đầu

    Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP), Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới giữa 12 nước hai bờ Thái Bình Dương, trong đó có Hoa Kỳ, là một trong các Hiệp định thương mại lớn nhất mà Việt Nam từng tham gia đàm phán và ký kết trong thời gian qua.

    Mặc dù đã có diễn biến không thuận trong việc phê chuẩn TPP từ phía Hoa Kỳ, thành viên lớn nhất của TPP (với quyết định của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump rút nước này ra khỏi TPP tháng 1/2017), Hiệp định này vẫn đang được các nước thành viên khác mong muốn tiếp tục bằng cách này hay cách khác, theo các kịch bản khác nhau, với đầy đủ 12 thành viên hoặc thêm, bớt các thành viên. Cho tới nay, chưa rõ kịch bản nào cho TPP sẽ trở thành hiện thực. Mặc dù vậy, đối với Việt Nam, dù là kịch bản nào thì việc đánh giá và chuẩn bị cho những cam kết trong TPP vẫn là rất có ý nghĩa. Trong các kịch bản tích cực, với TPP có hiệu lực sau một thời gian, việc chuẩn bị này sẽ giúp tận dụng tối đa các cơ hội về kinh tế mà Hiệp định này hứa hẹn mang lại. Trong kịch bản xấu, với TPP hoàn toàn bị bỏ qua thì việc rà soát rà soát, đánh giá hệ thống chính sách pháp luật thương mại của Việt Nam dựa vào các tiêu chuẩn hiện đại trong TPP cũng sẽ rất có ý nghĩa để tiếp tục cải cách thể chế kinh tế ở Việt Nam, qua đó thúc đẩy dòng vốn đầu tư hiệu quả, xây dựng niềm tin và tạo cơ sở phát triển bền vững nền kinh tế Việt Nam.

    Một trong những chế định gây tranh cãi nhất trong quá trình đàm phán TPP và cũng là chế định đồ sộ nhất trong văn kiện kết thúc đàm phán TPP là sở hữu trí tuệ (SHTT). Trong tổng thể, các tiêu chuẩn về SHTT trong TPP là rất cao so với mặt bằng pháp luật SHTT ở Việt Nam và theo hướng bảo hộ chủ thể quyền (chủ sở hữu quyền SHTT). Trong khi đó, các doanh nghiệp và cộng đồng dân cư ở Việt Nam lại chủ yếu thuộc nhóm sử dụng các sản phẩm SHTT, với lợi ích ngược lại với lợi ích của các chủ thể quyền. Vì vậy, về mặt logic, nếu không buộc phải thực hiện các cam kết về SHTT trong TPP, Việt Nam không nên tự nguyện chủ động thực hiện các cam kết về SHTT trong TPP.

    Tuy nhiên, trong phần lớn các kịch bản khả thi thì TPP có thể vẫn có hiệu lực theo một cách nào đó, toàn phần hoặc một phần. Do đó việc chuẩn bị sẵn cho cam kết TPP là không thừa, đặc biệt là lĩnh vực SHTT, lĩnh vực phức tạp và việc thực thi, nếu có, cần một thời gian chuyển đổi không ngắn.

    Hơn nữa, với nhiều cam kết về SHTT tương tự nhau trong TPP và trong Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) ngay cả khi TPP không có hiệu lực với Việt Nam thì Việt Nam cũng vẫn phải thực thi nhiều tiêu chuẩn về SHTT trong TPP thông qua việc thực thi EVFTA.

    Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết TPP về SHTT này được Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện với các phân tích về mức độ tương thích giữa pháp luật Việt Nam với các cam kết từ góc độ lợi ích của doanh nghiệp Việt Nam, qua đó đề xuất giải pháp đảm bảo tuân

  • 6 LỜI MỞ ĐẦU

    thủ Hiệp định theo cách có lợi nhất cho các doanh nghiệp Việt Nam. Các đề xuất khuyến nghị trong Rà soát được thực hiện với suy đoán là TPP có hiệu lực và chỉ có ý nghĩa sau thời điểm TPP có hiệu lực. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, khi việc thực hiện một cam kết nhất định là có lợi cho các chủ thể ở VN thì các đề xuất được nêu rõ là để áp dụng ngay trong thời gian tới, với các ghi chú cụ thể. Ngoài ra, Rà soát này được thực hiện sau Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết về SHTT trong EVFTA mà VCCI đã triển khai trước đó, vì vậy Rà soát này còn đồng thời so sánh các cam kết TPP và EVFTA về cùng các vấn đề trong chế định SHTT và đánh giá mức độ tương đồng cũng như khác nhau của hai Hiệp định này ở các khía cạnh cụ thể.

    Đây là Rà soát nằm trong chuỗi 09 Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết TPP và EVFTA trong các lĩnh vực thể chế quan trọng lĩnh vực quan trọng (bao gồm Đầu tư, Mua sắm công, Sở hữu trí tuệ, Hải quan và tạo thuận lợi thương mại, Minh bạch, Mở cửa thị trường dịch vụ) do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) thực hiện trong khuôn khổ 02 giai đoạn của Chương trình Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết về thể chế trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới với sự hỗ trợ của Đại sứ quán Anh và Bắc Ai-len tại Việt Nam.

    Hy vọng rằng Báo cáo Rà soát này sẽ là nguồn thông tin bổ trợ hữu ích cho quá trình rà soát pháp luật chuẩn bị phê chuẩn và thực thi TPP và EVFTA cũng như cho các nỗ lực tiếp tục cải cách môi trường đầu tư kinh doanh Việt Nam của Chính phủ, Quốc hội cũng như các đơn vị liên quan.

    Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trân trọng cảm ơn Đại sứ quán Anh và Bắc Ai-len đã hỗ trợ VCCI trong việc thực hiện Chương trình rất có ý nghĩa này./

    Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt NamTrung tâm WTO và Hội nhập

  • 7LỜI MỞ ĐẦU

    Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam trân trọng cảm ơn:

    Các chuyên gia tham gia Rà soát:

    1. Ông Phạm Duy Khương – Luật sư Công ty luật SB LAW

    2. Ông Quách Minh Trí – Luật sư Công ty luật Baker & McKenzie

    Các chuyên gia bình luận:

    3. Bà Nguyễn Thị Thanh Hà – Trưởng phòng Phòng Pháp chế, Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ; Trưởng nhóm đàm phán TPP về Sở hữu trí tuệ, Đoàn đàm phán TPP Việt Nam

    4. Bà Nguyễn Thị Thu – Luật sư Công ty InvestConsult Group

    5. Ông Trần Quang Phương – Luật sư Công ty luật Trần & Trần

  • 9MỤC LỤC

    Mục lục

    Lời mở đầu ................................................................................................................................................................ 5

    Phần thứ nhất: Tổng hợp kết quả rà soát .................................................................... 11

    I. Mục tiêu và bối cảnh Rà soát ............................................................................................................... 12

    II. Giới hạn phạm vi rà soát ........................................................................................................................ 141. Về các cam kết về SHTT trong TPP, EVFTA .................................................................................. 142. Về pháp luật Việt Nam về sở hữu trí tuệ ................................................................................... 14

    III. Tổng hợp kết quả Rà soát và các Kiến nghị ......................................................................... 161. Kết quả so sánh các cam kết TPP và EVFTA về SHTT ............................................................ 162. Kết quả rà soát tính tương thích của pháp luật Việt Nam

    với các cam kết TPP về SHTT ................................................................................................................... 19

    Phần thứ hai: Bảng Rà soát tóm tắt ................................................................................... 27

    Phần thứ ba: Bảng Rà soát chi tiết ....................................................................................... 63

  • 10 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

    Danh mục từ viết tắt

    EVFTA: Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – Liên minh châu Âu

    FTA: Hiệp định Thương mại tự do

    PLVN: Pháp luật Việt Nam

    RMI: Thông tin quản lý quyền

    SHTT: Sở hữu trí tuệ

    TPP: Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương

    TPMs: Các biện pháp công nghệ bảo vệ quyền

    WTO: Tổ chức Thương mại Thế giới

  • phần thứ nhấtTổng hợp kết quả Rà soát

    i. mục tiêu và bối cảnh rà soát

    ii. giới hạn phạm vi rà soát

    iii. Tổng hợp kết quả rà soát và các Kiến nghị

    10

    12

    1614

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT12

    I. Mục tiêu và bối cảnh Rà soát

    Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) được 12 nước thành viên (bao gồm Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam) chính thức ký kết ngày 4/2/2016. Đây là một Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới có mức độ cam kết tự do hóa mạnh nhất, với phạm vi cam kết bao trùm nhiều lĩnh vực nhất không chỉ với Việt Nam mà còn là đối với tất cả các nước thành viên Hiệp định này.

    Hiện Hiệp định này đang trong giai đoạn phê chuẩn nội bộ của các nước thành viên và chỉ có hiệu lực khi đạt được các điều kiện có hiệu lực đã nêu trong văn kiện kết thúc đàm phán TPP (về số lượng phê chuẩn, về mức độ bao trùm của các nước phê chuẩn đối với GDP toàn khối…). Quá trình phê chuẩn của TPP hiện vấp phải khó khăn lớn khi mà Tổng thống Donald Trump của Hoa Kỳ, thành viên chủ chốt trong TPP ra quyết định rút Hoa Kỳ khỏi TPP. Mặc dù vậy, các nước thành viên khác của TPP vẫn đang quyết tâm thực hiện quá trình phê chuẩn trong nội bộ nước mình (ví dụ Nhật Bản, New Zealand…) với hy vọng có thể hiện thực hóa Hiệp định này trong bất kỳ tình huống nào, theo các kịch bản khác nhau (TPP như hiện tại, TPP không có Hoa Kỳ, TPP có thêm các thành viên mới trong đó có Trung Quốc, các FTA song phương giữa Hoa Kỳ và từng nước thành viên còn lại của TPP…).

    Từ góc độ chung, đối với Việt Nam, là một thành viên được đánh giá là có xuất phát điểm thấp nhất trong TPP, những lợi ích tiềm tàng mà TPP có thể mang lại cho Việt Nam không chỉ là ở con đường ưu tiên cho các sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài mà quan trọng hơn là cơ hội, động lực và định hướng để cải cách thể chế kinh tế, nâng tầm môi trường kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Với mục tiêu như vậy, tất nhiên sẽ là tốt nhất cho Việt Nam nếu TPP có hiệu lực như dự kiến, với các nội dung như đã cam kết và với đầy đủ các thành viên như tính toán ban đầu. Mặc dù vậy, ngay cả trong các kịch bản ít mong chờ nhất, khi thời điểm có hiệu lực của TPP bị đẩy lùi một vài năm so với dự kiến, số lượng thành viên tham gia có thể không đủ như khi ký kết, thậm chí các cam kết của TPP có thể phải điều chỉnh, đàm phán lại, đối với Việt Nam, TPP vẫn sẽ là một động lực quan trọng và sức ép có ý nghĩa để Việt Nam cải cách thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh theo các xu hướng lớn và thông lệ hiện đại của thế giới.

    Từ góc độ sở hữu trí tuệ (SHTT) nói riêng, vấn đề có thể là phức tạp hơn bởi các cam kết về SHTT có tiêu chuẩn bảo hộ rất cao cho các chủ thể quyền (chủ thể sở hữu các quyền SHTT) trong khi lợi ích chủ yếu của Việt Nam (các doanh nghiệp, cộng đồng dân cư…) lại nằm ở nhóm ngược lại, nhóm sử dụng các sản phẩm SHTT và sẽ được lợi nếu các sản phẩm SHTT này được sử dụng với ít nhất các chi phí phải trả cho các chủ thể quyền. Như vậy, về mặt logic, nếu không buộc phải thực hiện các cam kết về SHTT trong TPP, Việt Nam không nên tự nguyện chủ động thực hiện các cam

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 13

    kết về SHTT trong TPP. Nói cách khác, nếu TPP khong có hiệu lực, trên bề mặt Việt Nam không cần quan tâm tới các cam kết về SHTT trong TPP.

    Tuy nhiên, như đã đề cập trong phần lớn các kịch bản khả thi thì TPP có thể vẫn có hiệu lực theo một cách nào đó, toàn phần hoặc một phần. Khi đó, Việt Nam cũng sẽ vẫn phải thực thi các cam kết, trong đó có cam kết SHTT, ở mức độ nhất định. Vì vậy việc rà soát pháp luật Việt Nam, đánh giá mức độ tương thích và đề xuất các giải pháp tốt nhất cho việc thực thi một khi phải thực thi các cam kết này từ góc độ Việt Nam là rất cần thiết, đặc biệt khi đây là vấn đề phức tạp, cần nhiều thời gian để cân nhắc.

    Hơn nữa, cần phải nhấn mạnh rằng nhiều cam kết về SHTT trong TPP có nội dung tương tự với Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA), một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới mà Việt Nam đã kết thúc đàm phán, đang trong quá trình rà soát pháp lý, chuẩn bị cho ký kết trong năm 2017 và hy vọng sẽ có hiệu lực trong một vài năm tới. Do đó, trong nhiều trường hợp, ngay cả khi TPP không có hiệu lực với Việt Nam thì Việt Nam cũng vẫn phải thực thi nhiều tiêu chuẩn về SHTT trong TPP thông qua việc thực thi EVFTA.

    Ngoài ra, trong một số các trường hợp, các tiêu chuẩn về SHTT trong TPP (đặc biệt là trong thực thi các quyền SHTT) có thể có ý nghĩa với Việt Nam trong việc bảo vệ các quyền chính đáng của chủ thể quyền trước các hành vi vi phạm SHTT minh thị, qua đó thu hút đầu tư vào các hoạt động này, khuyến khích tăng cường sáng tạo, thúc đẩy hiệu quả sản xuất kinh doanh và phổ biến tri thức. Với những trường hợp này, dù có hay không có TPP, việc cân nhắc và áp dụng các tiêu chuẩn TPP ở mức độ thích hợp là có lợi cho chính Việt Nam và nên làm ngay, không chờ tới khi TPP hay EVFTA có hiệu lực.

    Trong bối cảnh như vậy, việc rà soát pháp luật Việt Nam (PLVN) với các cam kết TPP để đánh giá mức độ tương thích, chuẩn bị cho việc thực thi TPP khi thích hợp, xác định và áp dụng ngay các tiêu chuẩn có lợi cho Việt Nam trong thời gian tới là rất có ý nghĩa đối với Việt Nam, ngay cả khi tương lai TPP hiện còn chưa rõ ràng.

    Cụ thể, Nghiên cứu Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết TPP về SHTT được thực hiện nhằm các mục tiêu cụ thể sau đây:

    - Làm rõ các nội dung cam kết về SHTT trong TPP, đặt trong so sánh với các cam kết trong cùng vấn đề, nếu có, của EVFTA;

    - Nhận diện các quy định trong pháp luật Việt Nam có liên quan hoặc nội dung gắn trực tiếp với các vấn đề được cam kết trong TPP về SHTT; đánh giá nội dung và mức độ tương thích của các quy định pháp luật nội địa với các cam kết TPP;

    - Phân tích nhu cầu nội tại của Việt Nam (từ góc độ lợi ích doanh nghiệp Việt Nam) cũng như các yêu cầu của cam kết (giả sử là cam kết có hiệu lực), từ đó đề xuất giải pháp thích hợp để sửa đổi, điều chỉnh pháp luật về đầu tư Việt Nam nhằm cải thiện môi trường đầu tư và thực thi cam kết khi các cam kết này có hiệu lực tại Việt Nam.

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT14

    II. Giới hạn phạm vi rà soát

    1. Về các cam kết về SHTT trong TPP, EVFTA

    Trong TPP các cam kết về sở hữu trí tuệ được quy định tập trung trong Chương 18 cùng với các Phụ lục, không có quy định liên quan trong các Chương khác của Hiệp định này.

    Rà soát này được thực hiện với tất cả các cam kết xuất hiện trong phạm vi Chương 18 TPP và không bao gồm các Phụ lục không có liên quan tới Việt Nam (các Phụ lục liên quan tới các nước thành viên khác của TPP). Văn kiện TPP được đề cập trong toàn bộ Rà soát này là Văn kiện kết thúc đàm phán TPP, đã được rà soát pháp lý bởi tất cả các nước thành viên TPP và được đồng loạt công bố chính thức bởi các nước này ngày 5/11/2015. Các phân tích, bình luận, khuyến nghị trong Rà soát, vì vậy, cũng chỉ có ý nghĩa đối với các cam kết có nội dung như trong Văn kiện nói trên. Trường hợp TPP được đàm phán lại, với một số các cam kết được chỉnh sửa, thì các kết quả Rà soát chỉ đúng với các cam kết có nội dung

    Cũng tương tự như vậy, các cam kết EVFTA được so sánh với các cam kết tương ứng về SHTT trong TPP trong Nghiên cứu rà soát này bao gồm các nội dung của Chương 12 EVFTA, bao gồm tất cả các cam kết về SHTT của Hiệp định này trong Văn kiện Hiệp định công bố 2/2016 (EVFTA không có cam kết về SHTT nào khác ngoài các cam kết trong Chương 12).

    2. Về pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam

    Trong pháp luật Việt Nam, các vấn đề về SHTT được quy định phần lớn trong hệ thống pháp luật về sở hữu trí tuệ (với Luật SHTT năm 2005, sửa đổi năm 2009, và các Nghị định, Thông tư hướng dẫn thi hành Luật này). Ngoài ra, một số các quy định liên quan tới các khía cạnh của cam kết về SHTT

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 15

    trong TPP được nêu trong các văn bản pháp luật thuộc một số hệ thống pháp luật khác, ví dụ:

    - pháp luật hải quan (liên quan tới thực thi quyền SHTT tại biên giới), - pháp luật cạnh tranh (các hành vi cạnh tranh không lành mạnh về SHTT), - pháp luật dân sự (quan hệ dân sự có đối tượng là các quyền dân sự), - pháp luật tố tụng dân sự (xử lý các vi phạm SHTT theo thủ tục dân sự, bằng các chế tài

    dân sự),

    - pháp luật hình sự (các tội danh liên quan tới vi phạm SHTT),- pháp luật tố tụng hình sự (xử lý các tội hình sự về SHTT và các chế tài hình sự tương ứng)…

    Cho đến thời điểm thực hiện Nghiên cứu rà soát này (10/2016), Việt Nam đã có nhiều cam kết quốc tế về SHTT đã có hiệu lực tại Việt Nam. Đáng kể nhất là các cam kết của Việt Nam về đầu tư trong khuôn khổ WTO (Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền SHTT). Ngoài ra, Việt Nam cũng tham gia nhiều thỏa thuận quốc tế về SHTT (Công ước Berne về bảo hộ các tác phẩm văn học nghệ thuật, Thỏa ước Madrid về đăng ký quốc tế nhãn hiệu, Công ước Paris về Bảo hộ sở hữu công nghiệp, Công ước quốc tế về bảo hộ giống cây trồng UPV…). Pháp luật Việt Nam về SHTT hiện đang được thiết kế phù hợp với các cam kết quốc tế này và do đó có mức độ bảo hộ về sở hữu trí tuệ tương ứng theo chuẩn bảo hộ tại TRIPS và các Công ước liên quan. Về cơ bản, đây cũng là mức độ bảo hộ thông dụng hiện nay trên thế giới.

    Tuy nhiên, các cam kết về SHTT trong TPP được đánh giá là TRIPS+ (tức là mức bảo hộ các quyền SHTT và các đòi hỏi liên quan trong TPP phần lớn là cao hơn mức bảo hộ hiện tại trong TRIPS và nhiều Công ước về SHTT).

    Trong khi đó, từ thời điểm Việt Nam đàm phán TPP, Việt Nam chưa tiến hành bất kỳ đợt sửa đổi lớn nào đối với hệ thống pháp luật về SHTT (đặc biệt là văn bản gốc trong lĩnh vực này là Luật Sở hữu trí tuệ). Vì vậy, không khó để suy đoán là mức độ tương thích giữa PLVN hiện nay về SHTT với các cam kết tương ứng trong TPP là tương tương đối hạn chế.

    Đây cũng là nguyên nhân lý giải phần nào sự khác biệt về kết quả đánh giá mức độ tương thích giữa PLVN với cam kết về SHTT trong TPP và mức độ tương thích giữa PLVN với cam kết TPP trong nhiều lĩnh vực thể chế khác (ví dụ đầu tư, mua sắm công, hải quan…) mà ở đó các văn bản pháp luật cơ bản đã được sửa đổi trong thời gian gần đây (từ 2013 đến 2016) và do đó đã tính đến khá nhiều các xu hướng cam kết TPP thể hiện trong quá trình đàm phán tới thời điểm sửa đổi.

    Về phạm vi các văn bản được phân tích, trên thực tế, trong nhiều vấn đề/chế định pháp luật, hệ thống pháp luật Việt Nam có nhiều văn bản, ở các tầng nấc khác nhau cùng quy định về vấn đề liên quan. Trong những trường hợp như vậy, Nghiên cứu Rà soát này chỉ tập trung vào các văn bản có chứa các quy định trực tiếp và có hiệu lực bao trùm/cao nhất về vấn đề được phân tích, không liệt kê các quy định có liên quan một cách gián tiếp hoặc nhắc lại các quy định có giá trị pháp lý cao hơn.

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT16

    III. Tổng hợp kết quả Rà soát và các Kiến nghị

    Nghiên cứu rà soát chi tiết pháp luật Việt Nam với các nghĩa vụ cụ thể về SHTT được Việt Nam cam kết trong TPP cho kết quả là PLVN đã tương thích với đa số các cam kết TPP (PLVN đã tương thích hoàn toàn với 54 Điều trong số 82 Điều của Chương SHTT của TPP). PLVN chưa tương thích một phần với một số các cam kết trong TPP (28 Điều trong số 82 Điều của Chương SHTT của TPP). Rà soát so sánh giữa TPP và EVFTA cũng cho thấy những điểm tương đồng và khác biệt giữa các cam kết về SHTT giữa hai Hiệp định này.

    Phần dưới đây sẽ tổng hợp kết quả so sánh giữa TPP và EVFTA, làm rõ và phân tích tính chất của nhóm cam kết về SHTT trong TPP mà PLVN đã tương thích hoặc chưa tương thích cùng với các đề xuất về hướng xử lý tương ứng.

    1. Kết quả so sánh các cam kết TPP và EVFTA về SHTT

    Với nguyên tắc MFN và NT trong TRIPS, nếu Việt Nam đã có cam kết về SHTT trong EVFTA và EVFTA có hiệu lực, Việt Nam sẽ phải áp dụng cam kết đó cho tất cả các đối tác (EU hoặc ngoài EU). Trong khi đó, rất nhiều các cam kết EVFTA về SHTT có nội dung hoặc mức độ yêu cầu tương tự như cam kết trong TPP. Như vậy, một số cam kết về SHTT trong TPP có nội dung tương tự như cam kết EVFTA sẽ phải được thực hiện trên thực tế vào thời điểm EVFTA có hiệu lực ngay cả khi TPP không có hiệu lực. Vì vậy, việc so sánh nội dung các cam kết về SHTT của TPP và EVFTA là rất có ý nghĩa.

    Kết quả so sánh TPP và EVFTA cho thấy trong tổng thể TPP có yêu cầu về bảo hộ SHTT cao hơn EVFTA (với nhiều các quy định TRIPS+ hơn hẳn so với EVFTA). Tuy nhiên, trong một số ít các trường hợp cụ thể, cam kết TPP và EVFTA có nội dung tương tự nhau (ví dụ các nguyên tắc bảo hộ, các quyền độc quyền) hoặc thậm chí EVFTA có yêu cầu cao hơn (ví dụ về chỉ dẫn địa lý).

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 17

    Nhóm các cam kết TPP và EVFTA có nội dung tương đương (tương đồng) chủ yếu tập trung ở các khía cạnh sau:

    - Một số vấn đề chung (một số định nghĩa; mục tiêu bảo hộ SHTT chung; cạn quyền SHTT)- Nhãn hiệu (một số nội dung về nhãn hiệu trung hoặc tương tự; nhãn hiệu nổi tiếng, thủ

    tục thẩm định, phản đối, hủy bỏ; duy trì hiệu lực văn bằng qua hệ thống điện tử; phân loại hàng hóa dịch vụ)

    - Quyền tác giả và quyền liên quan (các quyền cụ thể của chủ thể quyền; các giới hạn và ngoại lệ đối với quyền độc quyền; quản lý tập thể)

    - Thực thi (các yêu cầu chung về thực thi, các yêu cầu về thủ tục và chế tài dân sự, hành chính; các biện pháp tạm thời; các biện pháp tại biên giới)

    Về mặt nội dung, cam kết tương đương trong TPP và EVFTA chủ yếu là các cam kết có mức bảo hộ tương tự như TRIPS. Một số rất ít các trường hợp cam kết TPP và EVFTA được thiết kế theo cùng hướng TRIPS+ (tăng mức độ bảo hộ hơn so với TRIPS) nhưng lại khác nhau về chi tiết nội dung cam kết, do đó không được xếp vào nhóm cam kết tương đương.

    Nhóm các cam kết có trong TPP nhưng không có trong EVFTA bao gồm:

    - Một số vấn đề chung (Các nguyên tắc, bản chất nghĩa vụ; Thỏa thuận liên quan tới Tuyên bố TRIPS và sức khỏe cộng đồng; minh bạch; hợp tác về sáng chế; Tài sản cộng đồng; Hợp tác trong lĩnh vực tri thức truyền thông)

    - Nhãn hiệu (bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, mùi; nhãn hiệu tập thể, nhãn hiệu chứng nhận; thời hạn bảo hộ; không bắt buộc đăng ký hợp đồng li-xăng; tên miền)

    - Tên quốc gia- Hệ thống bảo hộ kiểu dáng công nghiệp (cải thiện chất lượng, hiệu quả của hệ thống này)

    Đối với các trường hợp này, TPP được coi là có yêu cầu bảo hộ cao hơn EVFTA (do EVFTA không đề cập nên suy đoán là không có bất kỳ yêu cầu gì với PLVN về vấn đề liên quan trong khi TPP lại có cam kết, tức là có ràng buộc về tuân thủ).

    Về mặt nội dung, các lĩnh vực mà TPP có cam kết trong khi EVFTA không có cam kết tương ứng rơi vào các vấn đề về ngoại lệ đối với dược phẩm (liên quan tới sức khỏe cộng đồng), nhãn hiệu và bảo hộ kiểu dáng công nghiệp, những vấn đề mà Hoa Kỳ, thành viên TPP đưa ra đề xuất ban đầu trong đàm phán SHTT, rất quan tâm nhưng không phải là trọng tâm ưu tiên của EU. Ngược lại, EVFTA có các cam kết rất chi tiết, với số lượng tương đối lớn các điều khoản trong Chương SHTT về chỉ dẫn địa lý mà TPP không có, thể hiện mối quan tâm đặc biệt của EU đối với chế định này.

    Nhóm các vấn đề mà TPP và EVFTA cùng có cam kết nhưng nội dung và mức độ cam kết không giống nhau bao gồm:

    - Nguyên tắc không phân biệt đối xử: EVFTA chỉ có nguyên tắc MFN, TPP chỉ có nguyên tắc NT

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT18

    - Hợp tác về SHTT: EVFTA có cam kết cao hơn- Hợp tác về sáng chế và chia sẻ công việc: TPP có cam kết cao hơn- Nhãn hiệu (sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự; hệ thống nộp đơn điện tử): TPP có cam

    kết cao hơn

    - Chỉ dẫn địa lý: EVFTA có cam kết cao hơn- Bảo hộ độc quyền dữ liệu đối với nông hóa phẩm: TPP có cam kết cao hơn- Sáng chế đối với dược phẩm (điều chỉnh thời hạn bảo hộ sáng chế do bị rút ngắn bất hợp

    lý vì chậm trễ trong quy trình xem xét đăng ký lưu hành): EVFTA nêu mức điều chỉnh tối đa, TPP không nêu mức nào cụ thể

    - Thời hạn bảo hộ kiểu dáng công nghiệp: EVFTA có cam kết cao hơn- Thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan: TPP có cam kết cao hơn- Giả định về chủ thể quyền: EVFTA có cam kết cao hơn TPP- Hoạt động thực thi quyền SHTT (công khai các quyết định liên quan đến SHTT): EVFTA có cam

    kết cao hơn

    - Chế tài đối với các vi phạm biện pháp công nghệ bảo vệ quyền TPMs: TPP có cam kết cao hơn- Bảo hộ thông tin quản lý quyền RMIs: TPP có cam kết cao hơn- Các nhà cung cấp dịch vụ Internet (Chế tài pháp lý và nghĩa vụ): TPP có cam kết cao hơn

    Đối với nhóm cam kết này, khi EVFTA có hiệu lực, Việt Nam sẽ phải sửa pháp luật SHTT để thực thi và tuân thủ EVFTA. Khi đó những phần cam kết nào của TPP ở cùng mức với EVFTA cũng sẽ được hiện thực hóa dù TPP không có hiệu lực. Như vậy, đối với các trường hợp mà TPP cam kết cao hơn EVFTA thì mức được hiện thực hóa chỉ tương tự mức của EVFTA; đối với các trường hợp mà cam kết TPP thấp hơn EVFTA thì mức hiện thực hóa cam kết TPP sẽ là hoàn toàn.

    Có thể nói với những điểm tương đồng (hoàn toàn hoặc một phần) với các cam kết về SHTT trong EVFTA, ngay cả trong trường hợp TPP không thành hiện thực (TPP với các nội dung như kết quả đàm phán công bố 11/2015 có hiệu lực với Việt Nam) thì các cam kết TPP cũng sẽ có thể được thực thi ở Việt Nam ở mức độ nhất định cùng với hiệu lực của EVFTA.

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 19

    2. Kết quả rà soát tính tương thích của pháp luật Việt Nam với các cam kết TPP về SHTT

    2.1. Về các cam kết TPP mà PLVN đã tương thích

    TÌNH TRẠNG

    Kết quả rà soát cho thấy PLVN đã tương thích hoàn toàn với 54 Điều trong số 82 Điều của Chương SHTT của TPP.

    Trên thực tế, cam kết TPP về SHTT mặc dù có tiêu chuẩn cao nhưng nền tảng cơ bản vẫn là các quy định TRIPS, phần TRIPS+ thực chất chỉ là bổ sung và làm rõ thêm trên nền tảng đó. Trong khi đó kể từ khi là thành viên chính thức của WTO, với trách nhiệm thực thi đầy đủ các cam kết bắt buộc trong WTO, trong đó có cam kết của TRIPS, Việt Nam đã tiến hành sửa đổi pháp luật cho phù hợp với cam kết mới. Đây là lý do lý giải tại sao kết quả Rà soát cho thấy một phần cơ bản (đa số) các cam kết trong TPP về SHTT về những vấn đề nền tảng gắn liền với TRIPS đã được thể hiện đầy đủ và phù hợp trong PLVN.

    Cụ thể, các cam kết có nội dung mà PLVN đã thỏa mãn hoàn toàn thuộc các nhóm vấn đề sau:

    - Các định nghĩa liên quan tới chế định SHTT- Các cam kết về các vấn đề chung (nguyên tắc chung, minh bạch, hợp tác)- Cạn quyền- Nhãn hiệu (loại nhãn hiệu, ngoại lệ hạn chế quyền của chủ nhãn hiệu, dấu hiệu bị coi là

    “có khả năng gây nhầm lẫn”, nhãn hiệu nổi tiếng, thủ tục liên quan tới bảo hộ nhãn hiệu, phân loại hàng hóa, thời hạn bảo hộ)

    - Tên miền quốc gia- Chỉ dẫn địa lý (lựa chọn hệ thống bảo hộ chung với nhãn hiệu hoặc riêng, thủ tục bảo hộ

    chỉ dẫn địa lý, thời điểm bắt đầu bảo hộ)

    - Sáng chế và dữ liệu bí mật (điều kiện bảo hộ, các trường hợp tước bỏ/hủy/vô hiệu văn bằng bảo hộ, ngoại lệ hạn chế quyền độc quyền, nguyên tắc ưu tiên đơn nộp trước, quyền sửa chữa đơn và bình luận của người nộp đơn, ngoại lệ kiểm soát bắt buộc đối với dược phẩm, tính độc lập về thời hạn bảo hộ giữa sáng chế và độc quyền dữ liệu)

    - Kiểu dáng công nghiệp (tất cả các cam kết về kiểu dáng công nghiệp, bao gồm đối tượng bảo hộ, cải thiện hệ thống bảo hộ kiểu dáng công nghiệp)

    - Quyền tác giả và quyền liên quan (các định nghĩa liên quan, các quyền độc quyền của từng nhóm chủ thể liên quan, giới hạn và các ngoại lệ đối với quyền độc quyền, nguyên tắc cân bằng giữa lợi ích của chủ thể quyền và các mục tiêu công cộng, tự do chuyển nhượng)

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT20

    - Thực thi quyền SHTT (giả định về chủ thể quyền và hiệu lực của văn bằng, duy trì cơ chế/thủ tục để bảo vệ quyền khi chủ thể quyền có yêu cầu, quyền ngăn chặn đưa hàng hóa vi phạm SHTT vào lưu thông, các khoản bồi thường thiệt hại, chế tài đối với hành vi vi phạm lệnh về bí mật thông tin, các biện pháp tạm thời, đình chỉ hàng nghi ngờ vi phạm SHTT tại biên giới, yêu cầu bên liên quan cung cấp thông tin, khoản bảo đảm bắt buộc khi yêu cầu biện pháp tạm thời, chế tài phạt hành chính, chế tài thu giữ tài sản có được từ hành vi vi phạm hoặc phạt tiền tương đương)

    - Tội danh hình sự (tội danh hình sự với hành vi cố ý làm giả, xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối hàng hóa giả nhãn hiệu, sao lậu trái phép ở quy mô thương mại)

    - Chính phủ sử dụng phần mềm

    Về mặt nội dung, như đã đề cập, phần lớn các cam kết TPP mà PLVN đã tương thích là các cam kết nhắc lại hoặc nhấn mạnh việc thực thi các nghĩa vụ trong TRIPS. Và với TRIPS thì VN đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ, thông qua việc đưa các nghĩa vụ này vào hệ thống pháp luật nội địa khi Việt Nam gia nhập Tổ chức này.

    Ngoài ra, trong một số ít các trường hợp, cam kết TPP phản ánh lại một vài tiêu chuẩn bảo hộ SHTT cao hơn TRIPS mà Hoa Kỳ đã đưa vào Hiệp định thương mại song phương với Việt Nam (BTA) và Việt Nam cũng đã sửa đổi pháp luật về SHTT để phù hợp với BTA (đặc biệt lần sửa đổi Luật SHTT năm 2009).

    ĐỀ XUẤT

    Về mặt nguyên tắc, đối với các trường hợp PLVN đã tương thích với cam kết TPP thì Việt Nam sẽ không cần sửa đổi, điều chỉnh gì về pháp luật.

    Mặc dù vậy, có một thực tế là (i) một số quy định pháp luật nội địa mặc dù tương thích (theo nghĩa “không mâu thuẫn”) nhưng chưa thật rõ, có thể gây bất cập trong quá trình thực thi, bảo hộ quyền SHTT; và (ii) trong khá nhiều các trường hợp, quy định pháp luật là đã có nhưng việc thực thi trên thực tế rất lỏng lẻo, do đó chưa bảo đảm được các mục tiêu đặt ra của các quy định pháp luật này (đặc biệt là tình trạng vi phạm bản quyền tác giả, các quyền liên quan).

    Do đó, ngay cả đối với các trường hợp PLVN được đánh giá là đã tương thích với cam kết TPP về SHTT, Nhóm Nghiên cứu vẫn khuyến nghị Chính phủ và các cơ quan chức năng cần có một số hành động nhất định để bảo đảm hiệu lực thực chất của các quy định, đặc biệt là:

    - Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, chính phủ điện tử trong quản lý và bảo hộ các quyền SHTT- Tiếp tục điều chỉnh pháp luật nội dung, bổ sung các cơ chế thích hợp để tăng hiệu lực thực thi- Nghiên cứu để tận dụng tốt hơn các ngoại lệ được phép (ví dụ các ngoại lệ về sáng chế đối

    với dược phẩm liên quan tới sức khỏe cộng đồng, cân bằng giữa lợi ích của chủ thể quyền và các lợi ích cộng đồng…)

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 21

    2.2. Về các cam kết TPP mà PLVN chưa tương thích

    TÌNH TRẠNG

    Kết quả rà soát cho thấy PLVN chưa tương thích một phần đối với các cam kết nằm trong 28 Điều trên tổng số 82 Điều của Chương SHTT của TPP.

    Điểm nổi bật của nhóm này là tất cả đều là chưa tương thích một phần (chưa tương thích ở một khía cạnh nào đó, một đoạn/mục/khoản trong một Điều trong Chương SHTT TPP), không có trường hợp nào chưa tương thích với toàn bộ các nội dung của một Điều hay một vấn đề trong Chương SHTT TPP.

    Cụ thể, các cam kết có nội dung mà PLVN đã thỏa mãn hoàn toàn thuộc các nhóm vấn đề sau:

    - Một số Công ước về SHTT cần gia nhập (Hiệp ước Hợp tác sáng chế, Công ước Paris, Công ước Berne, Nghị định thư Madrid, UPOV 1991)

    - Nhãn hiệu (bảo hộ đối tượng nhãn hiệu âm thanh, khuyến khích bảo hộ mùi; thông báo bằng văn bản về lý do từ chối đơn; hệ thống nộp và xử lý đơn điện tử; không bắt buộc đăng ký hợp đồng li-xăng; hệ thống giải quyết tranh chấp về tên miền phù hợp ICANN)

    - Chỉ dẫn địa lý (cách xác định thuật ngữ thông thường trong ngôn ngữ phổ thông)- Sáng chế chung (bảo hộ một trong 03 nhóm đối tượng: công dụng mới/phương pháp sử

    dụng mới/quy trình sử dụng mới của một sản phẩm đã biết; điều kiện ân hạn “tính mới); công khai thông tin về đơn, bằng sáng chế; điều chỉnh gia hạn thời gian bảo hộ do chậm trễ của cơ quan Nhà nước trong xem xét đơn)

    - Sáng chế liên quan tới Nông hóa phẩm (thời hạn bảo hộ độc quyền dữ liệu; định nghĩa nông hóa phẩm)

    - Sáng chế liên quan tới Dược phẩm (điều chỉnh thời hạn bảo hộ sáng chế khi thời hạn thực tế bị rút ngắn do chậm trễ trong xem xét đơn đăng ký lưu hành; thời hạn bảo hộ độc quyền dữ liệu nói chung, sinh phẩm nói riêng; liên kết sáng chế/patent linkage)

    - Quyền tác giả và quyền liên quan (một số định nghĩa thuật ngữ; nguyên tắc không thứ bậc giữa các chủ thể quyền; thời hạn bảo hộ quyền tác giả và quyền liên quan đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình; tội danh, ngoại lệ, thuật ngữ liên quan tới các biện pháp công nghệ bảo vệ quyền TPMs; tội danh, định nghĩa liên quan tới thông tin quản lý quyền RMIs);

    - Thực thi chung (các khoản bồi thường định trước trong tố tụng dân sự; chế tài đối với vi phạm lệnh về bí mật thông tin; bồi thường thiệt hại nếu lạm dụng thủ tục tố tụng)

    - Thực thi tại biên giới (thông báo cho chủ thể quyền khi hàng hóa vi phạm bị đình chỉ thông quan/thu giữ; quyền mặc nhiên tiến hành các thủ tục biên giới không cần yêu cầu của chủ thể quyền)

    - Xử lý hình sự vi phạm (định nghĩa “quy mô thương mại”; tội danh hình sự với hành vi sao chép tác phẩm điện ảnh ở rạp, xâm phạm bí mật thương mại, xâm phạm tín hiệu cáp và

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT22

    chương trình vệ tinh được mã hóa)

    - Chế tài dân sự (bảo vệ người có lợi ích đối với tín hiệu cáp và vệ tinh mang chương trình được mã hóa)

    - Định nghĩa nhà cung cấp dịch vụ Internet, các chế tài pháp lý và các trường hợp miễn trách (lĩnh vực an toàn)

    Trong so sánh với nhóm đã tương thích thì nhóm các cam kết TPP mà PLVN chưa tương thích ít hơn đáng kể về số lượng. Mặc dù vậy, trong so sánh với nhiều lĩnh vực quy tắc/thể chế khác trong TPP (ví dụ đầu tư, mua sắm công, hải quan và tạo thuận lợi thương mại…) thì mức độ chưa tương thích trong lĩnh vực SHTT lớn hơn hẳn.

    Thực tế này thể hiện rất rõ sự khác nhau trong quan điểm tiếp cận vấn đề giữa Việt Nam và một số nước có tầm ảnh hưởng trong đám phán về SHTT trong TPP (mà đặc biệt là Hoa Kỳ). Cụ thể, được hình thành chủ yếu trên cơ sở đề xuất của Hoa Kỳ với tư cách là nước xuất khẩu sản phẩm SHTT, cam kết TPP trong văn bản kết thúc đàm phán thể hiện rất rõ quan điểm của nước này, với yêu cầu về tiêu chuẩn bảo hộ cao hơn mức thông thường trong TRIPS+ cho các chủ thể quyền. Trong khi đó Việt Nam (cũng như phần lớn các nước khác trong TPP, kể cả các nền kinh tế phát triển như Australia, New Zealand) lại là nền kinh tế nhập khẩu SHTT là phổ biến, với nền tảng tiêu chuẩn bảo hộ quyền SHTT ở mức thông thường như TRIPS. Do đó Việt Nam cũng như nhiều nước trong TPP không mong muốn thực hiện tiêu chuẩn bảo hộ cao này sớm trước thời điểm bắt buộc phải thực hiện. Đây là lý do giải thích vì sao trong khi nhiều cam kết thể chế khác (đặc biệt là các cam kết liên quan tới minh bạch hóa, cải cách thủ tục, đơn giản, hiện đại hóa…) được Việt Nam chủ động đưa vào pháp luật nội địa ngay trong quá trình đàm phán vì chính nhu cầu nội tại của mình, các cam kết về SHTT trong TPP lại không được Việt Nam tiếp nhận theo cách tương tự.

    Từ góc độ nội dung, có thể thấy tất cả các cam kết TPP mà PLVN chưa tương thích đều là các cam kết TRIPS+, phân thành 02 nhóm: nhóm tiêu chuẩn TRIPS+ về quy trình thủ tục và nhóm tiêu chuẩn TRIPS+ về mức độ bảo hộ chủ thể quyền (mang lại lợi ích cho chủ thể quyền).

    Cụ thể, nhóm cam kết TRIPS+ về thủ tục bao gồm các cam kết về:

    - Minh bạch hóa đơn giản hóa thủ tục (công khai thông tin đơn và văn bằng, thống nhất các thuật ngữ

    - Điện tử hóa thủ tục tiếp nhận, xử lý đơn- Bảo vệ quyền của các chủ thể trong các trường hợp vi phạm nghiêm trọng/rõ ràng (bồi

    thường thiệt hại, công khai thông tin, bảo vệ thông tin mật trong các thủ tục tố tụng…)

    Nhóm cam kết TRIPS+ về tiêu chuẩn bảo hộ đối với chủ thể quyền bao gồm các cam kết về:

    - Mở rộng các đối tượng có thể được bảo hộ (nhãn hiệu, sáng chế)- Linh hoạt các điều kiện bảo hộ (ân hạn “tính mới” đối với sáng chế) - Mở rộng thời hạn bảo hộ độc quyền (sáng chế, sáng chế - đăng ký lưu hành, độc quyền dữ liệu)- Gia tăng và mở rộng nguyên tắc suy đoán quyền của chủ thể quyền (quyền tác giả và

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 23

    quyền liên quan)

    - Tăng cường các cơ chế để bảo vệ tốt hơn lợi ích của chủ thể quyền trong thực thi quyền SHTT (phát hiện, ngăn chặn, xử lý, chế tài đối với hành vi vi phạm SHTT)

    - Hình sự hóa nhiều hành vi vi phạm SHTT (xâm phạm tác phẩm điện ảnh, TPM, RMI, tín hiệu cáp, tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa)

    ĐỀ XUẤT

    Về mặt nguyên tắc, đối với các trường hợp cam kết mà PLVN chưa tương thích thì Việt Nam sẽ phải sửa đổi, điều chỉnh pháp luật để phù hợp với nghĩa vụ cam kết trong TPP trước khi TPP có hiệu lực. Tuy nhiên, trong bối cảnh tương lai TPP còn chưa thể xác định rõ ràng, hiện không thể có bất kỳ nhận định nào về thời điểm có hiệu lực của TPP (với các nội dung cam kết như văn bản Hiệp định công khai tại thời điểm 11/2015).

    Do đó, việc quyết định nên hay không nên chuyển hóa các cam kết TPP về SHTT vào PLVN, và thời điểm nào nên thực hiện chuyển hóa này, hoàn toàn phụ thuộc vào nhu cầu nội tại của Việt Nam trong cải thiện hệ thống pháp luật về SHTT theo hướng có lợi nhất cho Việt Nam (bao gồm cộng đồng dân cư và cộng đồng doanh nghiệp).

    Như đã đề cập, theo kết quả Rà soát thì nhóm các cam kết TPP mà PLVN chưa tương thích thực chất có thể chia thành 02 phân nhóm nhỏ hơn: nhóm các cam kết về minh bạch hóa và hiện đại hóa các thủ tục, và nhóm cam kết về tăng cường bảo hộ cho chủ thể quyền.

    Về mặt nội dung, trong khi các cam kết thuộc nhóm thứ hai (nhóm tăng cường bảo hộ cho chủ thể quyền) được đánh giá là không phù hợp với lợi ích của Việt Nam (nơi cộng đồng dân cư và doanh nghiệp chủ yếu nhóm sử dụng sản phẩm SHTT, phần lớn không có cùng lợi ích với chủ thể quyền) thì các cam kết thuộc nhóm thứ hai (nhóm tăng cường minh bạch và hiện đại hóa thủ tục) lại rất phù hợp với mục tiêu minh bạch hóa, cải cách thủ tục hành chính của Việt Nam trong các lĩnh vực thương mại đầu tư nói chung và trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói riêng.

    Do đó, các khuyến nghị về phương thức hành động của Việt Nam hiện tại đối với các trường hợp chưa tương thích với TPP về SHTT cũng được thiết kế riêng phù hợp với tính chất của từng nhóm như đề cập ở trên.

    Đối với nhóm cam kết tăng cường mức độ bảo hộ quyền của chủ thể quyền, Việt Nam chỉ nên sửa đổi pháp luật nội địa cho phù hợp với các cam kết này khi đã xác định được thời điểm có hiệu lực chính xác của TPP, và việc sửa đổi này chỉ có hiệu lực khi TPP chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam1. Cụ thể, các trường hợp chưa tương thích sau đây giữa PLVN với TPP được khuyến nghị chỉ sửa khi TPP có hiệu lực đối với Việt Nam:

    - Một số định nghĩa thuật ngữ: “phát sóng”, “truyền đạt tới công chúng”, “người biểu diễn”, “công bố” (Điều 18.58); “biện pháp công nghệ hữu hiệu” (Điều 18.68); “thông tin quản lý quyền” (Điều 18.69); “quy mô thương mại” (Điều 18.77); “nhà cung cấp dịch vụ Internet” (Điều 18.79)

    1/ Chú ý: TPP ở đây suy đoán phải là TPP với các kết quả cam kết như được công bố công khai 11/2015 và được phân tích trong Rà soát này. Trường hợp TPP được thông qua và có hiệu lực với nội dung được đàm phán lại hoặc được sửa chữa, điều chỉnh thì khuyến nghị này không có giá trị.

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT24

    - Gia nhập 03 Công ước về SHTT mà Việt Nam chưa phải thành viên (Hiệp ước Budapest; Hiệp ước Singapore; WCT; và WPPT) (Điều 18.7)

    - Bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh, khuyến khích đối với mùi (Điều 18.8)- Quy định nhãn hiệu trùng cho hàng hóa dịch vụ tương tự phải được tự động coi là “có khả

    năng gây nhầm lẫn” (Điều 18.20)

    - Liên thông hệ thống quản lý tên miền quốc gia, sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền phù hợp ICANN (ĐIều 18.28)

    - Xác định thế nào là thuật ngữ thông thường trong ngôn ngữ phổ thông (Điều 18.33)- Bảo hộ sáng chế đối với một trong 03 đối tượng sau: công dụng mới/phương pháp sử dụng

    mới/quy trình sử dụng mới của một sản phẩm đã biết (Điều 18.37)

    - Điều kiện để được ân hạn “tính mới” đối với đăng ký sáng chế (Điều 18.38)- Điều chỉnh, gia hạn thời hạn bảo hộ sáng chế do chậm trễ bất hợp lý (Điều 18.46)- Bảo hộ độc quyền dữ liệu 10 năm đối với nông hóa phẩm (Điều 18.47)- Điều chỉnh thời hạn bảo hộ sáng chế đối với dược phẩm nếu thời hạn bảo hộ thực tế bị rút

    ngắn bất hợp lý do chậm trễ trong quá trình xem xét đăng ký lưu hành (Điều 18.48)

    - Bảo hộ độc quyền dữ liệu 05 năm đối với dược phẩm (Điều 18.50)- Bảo hộ độc quyền dữ liệu 08 năm (hoặc 05 năm kết hợp biện pháp tương đương) đối với

    sinh phẩm (Điều 18.51)

    - Liên kết bằng sáng chế (patent linkage – cung cấp thông tin về đơn đăng ký lưu hành mới cho chủ thể quyền và duy trì cơ chế ngoài tư pháp cho phép ngăn chặn cấp phép lưu hành mới của bên thứ ba) (Điều 18.53)

    - Bảo hộ 70 năm đối với cuộc biểu diễn, bản ghi âm, ghi hình (Điều 18.63)- Tội danh, chế tài, các ngoại lệ/giới hạn đối với các hành vi vi phạm liên quan tới các biện

    pháp công nghệ bảo vệ quyền PTM (Điều 18.68)

    - Tội danh, chế tài, ngoại lệ đối với hành vi gỡ bỏ, thay đổi thông tin quản lý quyền RMI (Điều 18.69)

    - Quy định về các khoản bồi thường định trước để chủ thể quyền lựa chọn (Điều 18.74)- Thẩm quyền mặc nhiên tiến hành các thủ tục biên giới mà không cần yêu cầu của chủ thể

    quyền (Điều 18.76)

    - Tội hình sự đối với hành vi sao chép tác phẩm điện ảnh từ buổi chiếu phim trong rạp gây thiệt hại đáng kể cho chủ thể quyền (Điều 18.77)

    - Tội danh hình sự đói với hành vi xâm phạm bí mật thương mại (Điều 18.78)- Chế tài dân sự hoặc hình sự đối với hành vi xâm phạm quyền SHTT đối với tín hiệu cáp, tín

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 25

    hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa (Điều 18.79)

    Đối với nhóm cam kết tăng cường minh bạch, hiện đại hóa hệ thống đăng ký, bảo hộ SHTT, Nhóm Nghiên cứu khuyến nghị sửa đổi PLVN về sở hữu trí tuệ theo hướng như trong cam kết TPP ở những khía cạnh sau ngay khi có thể mà không cần chờ tới hiệu lực của TPP:

    - Quy định rõ về cạn quyền sở hữu trí tuệ (Điều 18.11)- Nâng cao chất lượng, hiệu quả của hệ thống đăng ký sáng chế, hợp lý hóa, đơn giản hóa quy

    tình của cơ quan đăng ký sáng chế; Hợp tác giữa các cơ quan sáng chế nhằm tạo thuận lợi cho việc chia sẽ và sử dụng các kết quả tra cứu và thẩm định sáng chế; giảm thiểu khác biệt về thủ tục và quy trình (Điều 18.14)

    - Thông báo cho người nộp đơn bằng văn bản hoặc phương tiện điện tử, nêu rõ lý do từ chối nếu là thông báo từ chối (Điều 18.23)

    - Thực hiện hệ thống nộp đơn điện tử đối với nhãn hiệu (Điều 18.24)- Không bắt buộc đăng ký hợp đồng li-xăng (Điều 18.27)- Quy định các ngoại lệ hạn chế quyền độc quyền sáng chế (Điều 18.40)- Cung cấp thông tin cụ thể về các đơn sáng chế, bằng sáng chế (Điều 18.45)- Quy định về việc sử dụng tác phẩm phải được sự cho phép của tất cả các chủ thể quyền

    (Điều 18.61)

    - Bổ sung định nghĩa “thông tin quản lý quyền” (Điều 18.69)- Duy trì một cách hiệu quả các thủ tục, biện pháp ngăn chặn, chế tài đối với các hành vi vi

    phạm SHTT; bảo đảm các thủ tục thực thi công bằng, hợp lý, đơn giản, ít tốn kém, mức chế tài cân xứng (Điều 18.71)

    - Quyết định của Tòa và quyết định hành chính thực thi SHTT có hiệu lực chung phải được ban hành bằng văn bản và được công bố (Điều 18.73)

    - Quy định thẩm quyền của Tòa trong áp dụng chế tài đối với vi phạm lệnh của Tòa về bảo vệ bí mật thông tin; thẩm quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do lạm dụng thủ tục tố tụng (Điều 18.74)

    - Quy định về nghĩa vụ của cơ quan có thẩm quyền trong việc thông báo và cung cấp thông tin cho chủ thể quyền khi hàng hóa vi phạm SHTT bị đình chỉ thông quan hoặc thu giữ (Điều 18.76)

    Với tính chất và tác động của các cam kết nói trên, việc sửa đổi pháp luật và thực tiễn để phù hợp với các tiêu chuẩn trong các cam kết này là rất có ý nghĩa trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của các chủ thể liên quan ở Việt Nam (bao gồm cả các chủ thể quyền và các nhóm dân cư). Nói cách khác, việc tự nguyện thực hiện các cam kết nhóm này trước hết mang lại lợi ích cho chính Việt Nam (các chủ thể liên quan ở Việt Nam). Do đó, mặc dù không bắt buộc thực hiện, Việt Nam không nên và không cần đợi tới khi TPP có hiệu lực mới bắt đầu sửa đổi, thực thi các cam kết nhóm này mà có thể bắt đầu ngay từ bây giờ, vì nhu cầu nội tại của nền kinh tế trong cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, thúc đẩy sáng tạo và phát triển bền vững.

  • TỔNG HỢP KẾT QUẢ RÀ SOÁT26

    Tóm lại

    Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết TPP về SHTT và so sánh TPP với EVFTA về vấn đề này cho các kết quả đáng chú ý, mặc dù không gây ngạc nhiên.

    Cụ thể, về cơ bản mức độ cam kết của Việt Nam về SHTT trong TPP cao hơn hẳn EVFTA (trừ vấn đề về chỉ dẫn địa lý, với các cam kết rất khác biệt trong EVFTA), không chỉ trong những khía cạnh mà TPP có cam kết trong khi EVFTA không đề cập tới mà còn cả trong các khía cạnh mà TPP và EVFTA cùng có mức cam kết TRIPS+. Những trường hợp tương đồng giữa EVFTA và TPP chủ yếu là ở các khía cạnh mà cả TPP và EVFTA đều nhắc lại hoặc nhấn mạnh việc thực hiện TRIPS.

    Từ góc độ pháp luật nội địa, kết quả rà soát cho thấy mặc dù PLVN đã tương thích với đa số các cam kết về SHTT trong TPP, mặc dù số các cam kết TPP mà PLVN chưa tương thích chỉ là thiểu số và không có trường hợp nào là chưa tương thích hoàn toàn, mức độ chưa tương thích của PLVN với TPP trong SHTT cao hơn hẳn so với nhiều lĩnh vực khác (như đầu tư, hải quan và tạo thuận lợi thương mại…).

    Các trường hợp chưa tương thích phần lớn là các cam kết có mức bảo hộ SHTT cao hơn TRIPS (TRIPS+) về đối tượng bảo hộ (mở rộng các nhóm đối tượng có thể được bảo hộ bằng quyền SHTT), điều kiện bảo hộ (giảm bớt, ân hạn hoặc linh hoạt các điều kiện để được bảo hộ), thời hạn bảo hộ (mở rộng hoặc điều chỉnh theo hướng mở rộng thực tế thời gian có hiệu lực của văn bằng bảo hộ), tăng cường quyền của chủ thể quyền (các quyền độc quyền rõ ràng hơn, quyền được thông tin về các đăng ký lưu hành sản phẩm liên quan, quyền được yêu cầu các biện pháp thực thi, các quyền lựa chọn yêu cầu bồi thường thiệt hại…) và gia tăng cơ chế kiểm soát vi phạm (các cơ chế cho phép áp dụng các biện pháp thực thi dễ dàng hơn, nhiều tội danh hình sự đối với các vi phạm SHTT hơn…). Đối với các trường hợp này, Nhóm Nghiên cứu khuyến nghị các biện pháp thực thi phù hợp với lợi ích của Việt Nam nhưng chỉ thực hiện khi xác định rõ được thời điểm có hiệu lực của TPP. Chừng nào TPP chưa có hiệu lực với Việt Nam thì chừng đó Việt Nam chưa sửa đổi pháp luật nội địa theo các cam kết này.

    Bên cạnh đó, cũng có một nhóm các cam kết TPP mà PLVN chưa tương thích nhưng có nội dung chủ yếu hướng tới minh bạch hóa, thuận lợi hóa (thông tin công khai về đơn, văn bằng; làm rõ một số thuật ngữ; duy trì hệ thống điện tử…) hoặc bảo vệ hợp lý chủ thể quyền trong các trường hợp có vi phạm (bảo vệ bí mật thông tin, thông báo trong trường hợp hàng giả bị phát hiện và thu giữ…). Đây là các yêu cầu phù hợp với định hướng cải cách thủ tục hành chính, hoàn thiện thể chế pháp luật nói chung và hệ thống SHTT nói riêng của Việt Nam. Việc thực hiện các thay đổi theo các cam kết TPP trong các trường hợp này sẽ mang lại lợi ích tức thời và đáng kể cho chính Việt Nam. Do đó với các trường hợp này, Nhóm Nghiên cứu khuyến nghị Việt Nam không chờ đợi TPP có hiệu lực mà nên có biện pháp để sửa đổi pháp luật và thực tiễn theo hướng các cam kết này càng sớm càng tốt, vì mục tiêu cải thiện môi trường kinh doanh, thu hút đầu tư, bảo vệ các lợi ích công cộng liên quan, đồng thời thúc đẩy và khuyến khích sáng tạo ở Việt Nam./.

  • phần thứ haiBảng rà soát chi tiết pháp luật Việt Nam và cam kết EVFTA về Đầu tư

    Phần thứ haiBảng tóm tắt rà soát Pháp luật Việt Nam với cam kết TPP về Sở hữu trí tuệ

  • BẢNG TÓM TẮT RÀ ROÁT28

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Mục A: Những điều khoản chung

    Điều 18.1: Định nghĩa

    Các định nghĩa sử dụng trong Chương SHTT của TPP

    Đánh giá:PLVN có các định nghĩa tương tự TPP (trừ các trường hợp thuật ngữ không liên quan tới pháp luật nội địa), do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Tương đương

    Trừ: EVFTA không có cam kết về định nghĩa buổi biểu diễn

    Điều 18.2: Mục tiêu

    Mục tiêu hướng đến của TPP về việc bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ

    PLVN ghi nhận các mục tiêu tương tự TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Tương đương

    Điều 18.3: Nguyên tắc

    Cam kết ghi nhận quyền ban hành các biện pháp bảo vệ sức khỏe và dinh dưỡng cộng đồng, lợi ích công cộng không được trái với các quy định tại Chương này

    Đây là bảo lưu quyền của thành viên TPP, do đó PLVN suy đoán đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Cam kết ngăn chặn hành vi lạm dụng quyền SHTT cản trở thương mại bất hợp lý hoặc ảnh hưởng xấu đến việc chuyển giao công nghệ quốc tế

    PLVN không có quy định trái nguyên tắc này, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Điều 18.4: Thỏa thuận đối với Chương này

    Cam kết ghi nhận các mục tiêu thúc đẩy đổi mới và sáng tạo; tạo điều kiện thuận lợi cho việc quảng bá thông tin, tri thức, công nghệ, văn hóa và nghệ thuật; và thúc đẩy cạnh tranh và thị trường mở cửa, đảm bảo lợi ích của các bên liên quan

    PLVN ghi nhận các mục tiêu tương tự TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.5: Bản chất và phạm vi của nghĩa vụ

    Cam kết về việc thực hiện các quy định Chương SHTT và ghi nhận quyền tự do quyết định cách thức thi hành các quy định của Chương này

    Đây là quyền của VN (trong việc tự do quyết định cách thức thực hiện nghĩa vụ, miễn không vi phạm TPP), do đó suy đoán đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 29

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.6: Thỏa thuận liên quan đến các biện pháp bảo vệ sức khỏe cộng đồng

    Cam kết thực hiện Tuyên bố về Hiệp định TRIPS và Sức khỏe Cộng đồng

    PLVN đã phù hợp với TRIPS, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.7: Điều ước quốc tế

    Danh mục các điều ước mà mỗi Bên đã phê chuẩn hoặc gia nhập hoặc phải phê chuẩn/gia nhập khi TPP có hiệu lực

    VN chưa là thành viên của 03 Điều ước bắt buộc, do đó chưa tương thích

    Đề xuất:Cân nhắc thời điểm tham gia các điều ước quốc tế mà Việt Nam chưa phải là thành viên phù hợp với thời điểm có hiệu lực thực tế của TPP

    EVFTA không yêu cầu VN tham gia bắt buộc 03 Công ước như TPP

    Điều 18.8: Đối xử quốc gia

    Nghĩa vụ dành sự đối xử quốc gia đối với tất cả các quyền SHTT trừ các ngoại lệ liên quan đến:

    - bản ghi âm bằng các phương tiện truyền thông kỹ thuật tương tự (analog) và phát sóng qua không trung miễn phí;

    - các thủ tục hành chính và tư pháp để đảm bảo sự tương thích với những quy định của pháp luật không mâu thuẫn với TPP; và

    - Các thủ tục trong các điều ước đa phương được ký kết dưới sự bảo trợ của WIPO.

    PLVN quy định quyền và nghĩa vụ chung cho tất cả các chủ thể, không phân biệt theo quốc tịch, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có điều khoản về đối xử quốc gia như TPP nhưng lại có điều khoản đối xử tối huệ quốc mà TPP không có

    Về cơ bản thì nghĩa vụ của VN là tương đương trong EVFTA và TPP về vấn đề này

  • BẢNG TÓM TẮT RÀ ROÁT30

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.9: Sự minh bạch

    Nghĩa vụ nỗ lực đăng tải trên Internet các luật, quy định, thủ tục và quyết định hành chính có hiệu lưc áp dụng chung

    PLVN đã quy định về việc đăng tải trên mạng tất cả các VBPL, vì vậy đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Nghĩa vụ nỗ lực đăng tải trên Internet các thông tin được phép công khai về:

    - đơn nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng, sáng chế và quyền đối với giống cây trồng

    - nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, kiểu dáng, sáng chế và giống cây trồng đã đăng ký hoặc đã cấp, đủ để cho công chúng có thể làm quen với các quyền đã đăng ký và đã cấp đó

    PLVN về SHTT đã quy định đăng tải trên mạng Đơn đăng ký và Văn bằng bảo hộ SHTT, vì vậy đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Điều 18.10: Áp dụng Chương này với các đối tượng đã tồn tại và hành vi xảy ra trước

    Nguyên tắc áp dụng cam kết đối với các đối tượng đang bảo hộ vào thời điểm TPP có hiệu lực hoặc đáp ứng các tiêu chí được bảo hộ sau thời điểm đó

    Không áp dụng hồi tố với đối tượng đã thành tài sản công cộng vào thời điểm TPP có hiệu lực hoặc hành vi xảy ra trước ngày TPP có hiệu lực

    PLVN về các nguyên tắc áp dụng pháp luật (hồi tố, thời điểm có hiệu lực…) đã phù hợp với cam kết TPP, do đó đã tương thích.

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.11: Cạn quyền Sở hữu trí tuệ

    Cam kết ghi nhận quyền quy định về sự cạn quyền sở hữu trí tuệ

    Đây là quyền của thành viên TPP, PLVN cũng đã có quy định về cạn quyền, vì vậy đã tương thích

    Đề xuất:Về nguyên tắc không cần điều chỉnh, sửa đổi gì về PL

    Vì mục tiêu minh bạch, có thể cân nhắc quy định lại, tập trung, đầy đủ về cạn quyền

    Tương đương

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 31

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Mục B: Hợp tác

    Điều 18.12: Đầu mối liên lạc về hợp tác

    Chỉ định đầu mối liên lạc cho mục đích hợp tác

    Đây là vấn đề riêng của TPP, việc thực thi không ảnh hưởng tới hệ thống PL nội địa về nội dung

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Tương đương

    Điều 18.13: Sáng kiến và hoạt động hợp tác

    Cam kết về các hoạt động và lĩnh vực hợp tác đối với các đối tượng được quy định tại Chương 18 của TPP

    Đây là vấn đề riêng của TPP, việc thực thi không ảnh hưởng tới hệ thống PL nội địa về nội dung

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA yêu cầu cụ thể, trong khi TPP yêu cầu chung hơn

    Điều 18.14: Hợp tác về sáng chế và chia sẻ công việc

    Cam kết ghi nhận tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hệ thống đăng ký sáng chế và đơn giản hóa, hợp lý hóa thủ tục và quy trình của cơ quan sáng chế

    Không rõ PLVN đã tương thích chưa

    Đề xuất:Cần có các nỗ lực cải thiện tính minh bạch, chất lượng, hiệu quả thủ tục đăng ký bảo hộ sáng chế

    TPP yêu cầu cụ thể, trong khi EVFTA yêu cầu chung hơn

    Hợp tác giữa các cơ quan sáng chế nhằm tạo thuận lợi cho việc chia sẽ và sử dụng các kết quả tra cứu và thẩm định sáng chế của các Bên

    PLVN chưa quy định về vấn đề này. Tuy nhiên TPP cũng không nêu rõ đây có phải là biện pháp bắt buộc không.

    Do đó chưa thể xác định được về tính tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Hợp tác để giảm thiểu sự khác biệt về thủ tục và quy trình của cơ quan sáng chế

    Đây là vấn đề riêng của TPP, việc thực thi không ảnh hưởng tới hệ thống PL nội địa về nội dung

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Ghi nhận việc cân nhắc phê chuẩn hoặc gia nhập Hiệp ước luật sáng chế

    Đây là cam kết về nỗ lực, không gắn với nghĩa vụ bắt buộc, do đó PLVN suy đoán đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

  • BẢNG TÓM TẮT RÀ ROÁT32

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.15: Tài sản cộng đồng

    Cam kết ghi nhận tầm quan trọng của tài sản công cộng và tài liệu chứa thông tin giúp xác định đối tượng đã trở thành tài sản cộng đồng

    PLVN không có quy định cụ thể về vấn đề này.

    Cam kết này của TPP không mang nội dung cụ thể, chỉ là ghi nhận về định hướng, vì vậy suy đoán PLVN đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.16: Hợp tác trong lĩnh vực tri thức truyền thống

    - Ghi nhận sự tương hợp giữa hệ thống sở hữu trí tuệ và tri thức truyền thống gắn với nguồn gen

    - Nỗ lực hợp tác để tăng cường hiểu biết về tri thức truyền thống gắn với nguồn gen và các nguồn gen.

    - Nỗ lực tăng chất lượng thẩm định sáng chế liên quan đến tri thức truyền thống

    PLVN không quy định cụ thể về các vấn đề này nhưng không có quy định mâu thuẫn, do đó suy đoán đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.17: Hợp tác theo yêu cầu

    Việc thực thi các cam kết về hợp tác phụ thuộc vào thỏa thuận, lựa chọn và nguồn lực của các Bên

    Đây là vấn đề riêng của TPP, việc thực thi không ảnh hưởng tới hệ thống PL nội địa về nội dung

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Mục C: Nhãn hiệu

    Điều 18.18: Loại dấu hiệu có thể đăng ký làm nhãn hiệu

    Cam kết không từ chối bảo hộ vì lý do đối tượng bảo hộ là âm thanh, dấu hiệu không nhìn thấy được

    Cam kết nỗ lực bảo hộ nhãn hiệu mùi

    PLVN chưa bảo hộ các nhãn hiệu đối với âm thanh, dấu hiệu không nhìn thấy được, do đó chưa tương thích

    TPP không bắt buộc bảo hộ mùi, vì vậy PLVN suy đoán đã tương thích

    Đề xuất:Khi TPP có hiệu lực, cần sửa đổi Điều 72.1 của Luật sở hữu trí tuệ và các Điều 73, 74 Luật SHTT để bảo hộ cả âm thanh, dấu hiệu không nhìn thấy được

    EVFTA không có cam kết tương ứng

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 33

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.19: Nhãn hiệu tập thể và Nhãn hiệu chứng nhận

    Cam kết ghi nhận nhãn hiệu có thể bao gồm nhãn hiệu tập thể và nhãn hiệu chứng nhận

    PLVN đã có quy định về các loại nhãn hiệu này, do đó đã tương thích

    Đề xuất: Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.20: Sử dụng dấu hiệu trùng hoặc tương tự

    Cam kết bảo đảm chủ sở hữu nhãn hiệu có quyền ngăn cản việc sử dụng các dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đã được bảo hộ cho hàng hóa, dịch vụ liên quan

    Nhãn hiệu trùng dùng cho hàng hóa, dịch vụ tương tự phải đương nhiên bị coi là “có khả năng gây nhầm lẫn”

    PLVN đã ghi nhận các quyền này của chủ sở hữu nhãn hiệu. PLVN cũng có các quy định tương tự về dấu hiệu “có khả năng gây nhầm lẫn”. Do đó PLVN đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Cơ bản là tương đương

    Trừ:

    - Với chỉ dẫn địa lý có sau mang dấu hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu đã đăng ký: TPP nêu cụ thể, EVFTA nêu chung, do đó phạm vi nghĩa vụ cam kết trong EVFTA rộng hơn TPP

    - Khái niệm “có khả năng gây nhầm lẫn”: TPP yêu cầu suy đoán mặc nhiên, trong khi EVFTA không đề cập đến khái niệm này

    Điều 18.21: Ngoại lệ

    Cam kết ghi nhận quyền quy định một số giới hạn các ngoại lệ đối với các quyền đối với nhãn hiệu, với điều kiện đã tính tới quyền hợp pháp của chủ sở hữu và các bên thứ ba

    PLVN quy định về các trường hợp ngoại lệ về nhãn hiệu, có tính tới lợi ích các bên liên quan, do đó đã tương thích với TPP

    Đề xuất: Không đề xuất gì về pháp luật

  • BẢNG TÓM TẮT RÀ ROÁT34

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.22: Nhãn hiệu nổi tiếng

    Nghĩa vụ không sử dụng các tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng sau đây (i) đã được đăng ký tại Bên đó hoặc trong một lãnh thổ tài phán khác, hoặc (ii) được liệt kê trong một danh sách các nhãn hiệu nổi tiếng, hoặc đã được công nhận là một nhãn hiệu nổi tiếng

    PLVN về tiêu chí xác định nhãn hiệu nổi tiếng không có các tiêu chí bị cấm theo TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất: Không đề xuất gì về pháp luật

    Tuy nhiên, để bảo đảm minh bạch, có thể cân nhắc bổ sung các quy định làm rõ, chi tiết hóa các tiêu chí công nhận nhãn hiệu nổi tiếng

    Cơ bản là tương đương

    Trừ: Cam kết về thực thi Công ước Paris trong TPP chặt chẽ hơn EVFTA

    Nghĩa vụ tuân thủ Điều 6bis Công ước Paris 1967 (về các trường hợp có thể gây tổn hại cho nhãn hiệu nổi tiếng dù không trùng hoặc tương tự với hàng hóa, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng)

    PLVN đã có quy định tương tự cam kết này trong TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Ghi nhận Khuyến nghị chung liên quan tới các quy định về bảo hộ nhãn hiệu nổi tiếng ngày 29/9/1999

    Nghĩa vụ có biện pháp từ chối đơn, hủy bỏ đăng ký hoặc cấm việc sử dụng một nhãn hiệu trùng hoặc tương tự với nhãn hiệu nổi tiếng có trước nếu gây nhầm lẫn

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 35

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.23: Khía cạnh thủ tục về thẩm định, phản đối và hủy bỏ

    Nghĩa vụ bảo đảm thông báo cho người nộp đơn bằng văn bản hoặc bằng phương tiện điện tử, trong đó nêu rõ lý do từ chối đăng ký nhãn hiệu nếu là thông báo từ chối

    PLVN mặc dù đã có quy định về thông báo về kết quả thẩm định đơn nhưng không có quy định về việc nêu rõ bằng văn bản lý do từ chối đơn, do đó chưa tương thích

    Đề xuất:Sửa đổi PLVN để bổ sung quy định về việc nêu rõ lý do từ chối

    Tương đương

    Nghĩa vụ dành cho người nộp đơn cơ hội phản hồi, khiếu nại và kiện ra tòa quyết định từ chối bảo hộ

    PLVN đã có quy định tương tự cam kết này của TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luậtNghĩa vụ duy trì hệ thống thẩm

    định cho phép người nộp đơn cơ hội phản hồi các thông báo này cũng như cho phép các bên liên quan cơ hội để phản đối

    Nghĩa vụ bảo đảm các quyết định hành chính trong thủ tục phản đối và hủy bỏ phải bằng văn bản, nêu rõ lý do

    Điều 18.24: Hệ thống nhãn hiệu điện tử

    Cam kết thực hiện hệ thống nộp đơn và duy trì hiệu lực văn bản bảo hộ điện tử và có thể truy cập công cộng

    PLVN không có quy định về việc nộp đơn điện tử. PLVN về thủ tục hành chính nói chung có quy định về dịch vụ hành chính công, tuy nhiên chưa đủ để đánh giá thủ tục này đã đáp ứng yêu cầu về nộp Đơn, xử lý Đơn và duy trì hiệu lực Văn bằng hoàn toàn bằng điện tử. Do đó, PLVN chưa tương thích.

    Đề xuất:Bổ sung quy định về việc thiết lập, duy trì và giá trị pháp lý của hệ thống thông tin điện tử trong việc nộp đơn và duy trì hiệu lực văn bằng

    Tương đương

    Trừ: EFVTA không có cam kết về nộp đơn điện tử như TPP

  • BẢNG TÓM TẮT RÀ ROÁT36

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.25: Phân loại hàng hóa và dịch vụ

    Cam kết ban hành và duy trì một hệ thống phân loại nhãn hiệu phù hợp với Hiệp định Nice về bảng phân loại hàng hóa và dịch vụ dùng cho đăng ký nhãn hiệu

    PLVN đã có quy định tương tự cam kết này trong TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    Tương đương

    Điều 18.26: Thời hạn bảo hộ nhãn hiệu

    Cam kết thời hạn bảo hộ nhãn hiệu lần đầu và mỗi lần gia hạn không ít hơn 10 năm.

    PLVN đã quy định thời hạn bảo hộ 10 năm, được gia hạn nhiều lần, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.27: Không ghi nhận hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng (li-xăng)

    Cam kết không yêu cầu bắt buộc đăng ký hợp đồng li-xăng

    PLVN quy định hợp đồng chỉ có hiệu lực nếu được đăng ký với cơ quan Nhà nước về SHTT, do đó chưa tương thích

    Đề xuất:Sửa Điều 148.2 Luật Sở hữu trí tuệ và các quy định liên quan trong các văn bản hướng dẫn thi hành

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Điều 18.28: Tên miền

    Cam kết liên thông với hệ thống quản lý tên miền cấp cao mã quốc gia của mỗi Bên, sử dụng thủ tục giải quyết tranh chấp thích hợp, căn cứ vào hoặc mô phỏng theo cơ chế giải quyết tranh chấp tên miền ICANN

    PLVN không có quy định về giải quyết tranh chấp riêng cho loại tranh chấp về tên miền, cũng không phỏng theo cơ chế ICANN (trừ trường hợp liên quan tới hành vi cạnh tranh không lành mạnh về tên miền), do đó chưa tương thích.

    Đề xuất:Sửa đổi Nghị định số 73/2013/NĐ-CP và Thông tư số 24/2015/TT-BTTTT để thiết kế một thủ tục giải quyết tranh chấp tên miền dựa trên chính sách của ICANN

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Cam kết có chế tài thích hợp đối với người đăng ký hoặc nắm giữ tên miền trùng hoặc tương tự gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu vì mục đích không lành mạnh nhằm thu lợi

    PLVN đã quy định chế tài riêng đối với hành vi cạnh tranh không lành mạnh vi về tên miền, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất gì về pháp luật

  • RÀ SOÁT PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỚI CÁC CAM KẾT CỦA HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (TPP) VỀ SỞ HỮU TRÍ TUỆ 37

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Mục D: Tên quốc gia

    Điều 18.29: Tên quốc gia

    Nghĩa vụ quy định ngăn chặn việc sử dụng tên quốc gia cho hàng hóa gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về xuất xứ của hàng hóa

    PLVN đã có các quy định cấm và biện pháp xử phạt liên quan tới sử dụng tên quốc gia tương tự TPP, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất điều chỉnh gì về pháp luật

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Mục E: Chỉ dẫn địa lý

    Điều 18.30: Công nhận chỉ dẫn địa lý

    Cam kết ghi nhận quyền lựa chọn bảo hộ chỉ dẫn địa lý như nhãn hiệu hoặc bảo hộ theo một hệ thống riêng

    PLVN đang bảo hộ chỉ dẫn địa lý theo hệ thống riêng, độc lập với nhãn hiệu. TPP cho phép các thành viên lựa chọn hệ thống, do đó PLVN đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất điều chỉnh gì về pháp luật

    Điều 18.31: Thủ tục hành chính về bảo hộ và công nhận chỉ dẫn địa lý

    Các quy định về thủ tục hành chính để công nhận, bảo hộ chỉ dẫn địa lý dù dưới hình thức nhãn hiệu hay hệ thống riêng

    PLVN đã có quy định về thủ tục hành chính riêng để công nhận và bảo hộ chỉ dẫn địa lý, do đó đã tương thích

    Đề xuất:Không đề xuất điều chỉnh gì về pháp luật

    Tương đương

  • BẢNG TÓM TẮT RÀ ROÁT38

    Cam kết TPP Nội dung cam kết TPP Đánh giá tính tương thích của PLVNSo sánh EVFTA

    và TPP

    Điều 18.32: Cơ sở phản đối và huỷ bỏ

    Cam kết về thủ tục cho phép người có lợi ích liên quan

    - phản đối việc bảo hộ hoặc công nhận một chỉ dẫn địa lý

    - yêu cầu hủy một chỉ dẫn địa lý

    theo các điều kiện nhất định trong đó có điều kiện chỉ dẫn địa lý có khả năng gây nhầm lẫn với một nhãn hiệu là đối tượng của đơn đăng ký đang được xem xét

    PLVN đã có quy định tương tự cam kết này trong TPP, trừ trường hợp bảo hộ khi nhãn hiệu mới chỉ đang trong quá trình nộp đơn đăng ký bảo hộ, do đó chưa tương thích

    Đề xuất:Sửa Điều 80 Luật SHTT cho phù hợp với yêu cầu nói trên của TPP

    EVFTA không có cam kết tương ứng

    Cam kết về thủ tục cho phép người có lợi ích liên quan yêu cầu huỷ một chỉ dẫn địa lý, và c