273
TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET Người dịch: NGUYỄN DƯƠNG KHƯ LỜI TỰA Một cuốn sách về "Tâm lí học trí khôn" có thể đã bao trùm một nửa lĩnh vực của tâm lí học. Những trang sau đây chỉ hạn chế trong việc phác họa một quan điểm, quan điểm của sự tạo thành "các thao tác" và đặt nó một cách khách quan nhất trong toàn bộ các quan điểm đã được đề xướng. Vấn đề trước tiên là nêu đặc tính của vai trò trí khôn, có tính đến những quá trình thích nghi nói chung (chương 1); đoạn bằng việc xem xét "tâm lí học của tư duy" chỉ rõ rằng hành vi trí khôn bao hàm chủ yếu việc "nhóm họp" các thao tác theo một số cấu trúc xác định (chương 2). Được hình dùng như là hình thức cân bằng mà mọi quá trình nhận thức hướng tới, trí khôn nêu ra vấn đề của các quan hệ của này với sự tri giác (chương 3), với thói quen (chương 4) cùng như những vấn đề về sự phát triển của nó (chương 5) và sự xã hội hóa của nó (chương 6). Mặc dầu đã có những công trình nổi tiếng phong phú và có giá trị, lí thuyết tâm lí học về những cơ chế của trí tuệ cũng chỉ mới ở những bước khởi đầu, và người ta hầu

saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN

TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN

(Tái bản lần thứ 1)

Tác giả: JEAN PIAGET

Người dịch: NGUYỄN DƯƠNG KHƯ

LỜI TỰA

Một cuốn sách về "Tâm lí học trí khôn" có thể đã bao trùm một nửa lĩnh

vực của tâm lí học. Những trang sau đây chỉ hạn chế trong việc phác họa một

quan điểm, quan điểm của sự tạo thành "các thao tác" và đặt nó một cách

khách quan nhất trong toàn bộ các quan điểm đã được đề xướng. Vấn đề

trước tiên là nêu đặc tính của vai trò trí khôn, có tính đến những quá trình

thích nghi nói chung (chương 1); đoạn bằng việc xem xét "tâm lí học của tư

duy" chỉ rõ rằng hành vi trí khôn bao hàm chủ yếu việc "nhóm họp" các thao

tác theo một số cấu trúc xác định (chương 2). Được hình dùng như là hình

thức cân bằng mà mọi quá trình nhận thức hướng tới, trí khôn nêu ra vấn đề

của các quan hệ của này với sự tri giác (chương 3), với thói quen (chương 4)

cùng như những vấn đề về sự phát triển của nó (chương 5) và sự xã hội hóa

của nó (chương 6).

Mặc dầu đã có những công trình nổi tiếng phong phú và có giá trị, lí

thuyết tâm lí học về những cơ chế của trí tuệ cũng chỉ mới ở những bước

khởi đầu, và người ta hầu như mới thoáng thấy mức độ chính xác mà lí

thuyết đó chứa đựng. Chính là tôi cố gắng biểu đạt cái ý thức tìm tòi đang

thịnh hành này.

Tập sách nhỏ này gồm chất liệu các bài giảng mà tôi đã được may mắn

trình bày năm 1942 ở Pháp quốc Học hiệu, vào một thời điểm mà những giáo

chức đại học cảm thấy cần thiết phải nêu bật tình đoàn kết của họ trước bạo

lực và lòng trung thành của họ với những giá trị vĩnh cửu.

Page 2: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Viết lại những trang này, tôi thật khó quên được sự đón nhận của cử

tọa và những giao tiếp mà tôi có được thời gian đó với người thầy P.Janet

của tôi và với các bạn H.Piéron, H.Wallon, P.Guillaume, G. Bachelard, P.

Masson – Oursel, M. Mauss và nhiều bạn khác của tôi. Tôi cũng không quên

I. Meyerson thân mến của tôi đang "chống đỡ" ở nơi khác.

LỜI TỰA LẦN XUẤT BẢN THỨ NHẤT

Tác phẩm này đã được đón tiếp nói chung thuận lợi, nên tôi mạnh dạn

cho in lại không thay đổi gì cả. Tuy nhiên, thường có một điều chỉ trích đối với

quan điểm của chúng tôi về trí khôn: đó là không dựa vào hệ thần kinh và

không dựa vào cả sự thuần thục của nó trong tiến trình phát triển của cá

nhân. Ở đây, chúng tôi nghĩ là đã có một sự hiểu nhầm. Vì khái niệm "đồng

hóa" lẫn sự chuyển từ những nhịp điệu sang những điều tiết và từ những điều

tiết sang thao tác có thể nghịch đảo đòi hỏi một sự giải thích thần kinh học

đồng thời tâm lí học (và lôgich học). Mà hai lối giải thích này không hề mâu

thuẫn nhau mà chỉ có thể là hòa hợp với nhau. Chúng tôi sẽ trình bầy vấn đề

chính yếu đó ở chỗ khác, nhưng không bao giờ thấy mình có quyền đề cập

đến nó trước khi kết thúc những tìm tòi chi tiết về tâm lí học phát sinh, mà

chính quyển sách nhỏ này thể hiện sự tổng hợp.

Phần 1. BẢN CHẤT CỦA TRÍ KHÔN

Chương 1. TRÍ KHÔN VÀ SỰ THÍCH NGHI SINH HỌC

Mọi giải thích tâm lí học sớm hay muộn cuối cùng cũng dựa vào sinh

học hoặc lôgich học (hay dựa vào xã hội học, nhưng khoa học này bản thân

nó cũng kết thúc ở cùng cái thế hai chọn một ấy). Đối với một số người, các

hiện tượng tinh thần chỉ trở nên hiểu được khi chúng gắn liền với cơ thể. Lối

suy nghĩ này là thực sự cần thiết trong việc nghiên cứu những chức năng sơ

đẳng (tri giác, vận động v.v...) mà trí khôn phụ thuộc lúc khởi đầu. Nhưng

người ta không hề thấy khoa thần kinh học giải thích tại sao 2 cộng 2 thành 4

và cũng không giải thích tại sao các quy luật của sự diễn dịch được đặt ra cho

Page 3: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

trí óc một cách cần thiết. Từ đó mà có xu hướng thứ hai, coi những quan hệ

lôgich và toán học là không thể bỏ được và gắn sự phân tích chúng với việc

phân tích những chức năng trí tuệ cao cấp. Vấn đề chỉ là nắm xem lôgich học,

được quan niệm như là thoát khỏi mưu toan giải thích của tâm lí học thực

nghiệm, có thể ngược trở lại, giải thích một cách chính đáng cái gì đó trong

sự thử nghiệm tâm lí học với tư cách như thế hay không. Lôgich học hình

thức hoặc lôgistích đơn giản tạo thành việc nghiên cứu theo thuyết tiền đề

những trạng thái cân bằng của tư duy và khoa học thực tại tương ứng với

thuyết tiền đề này, không là gì khác hơn bản thân tâm lí học của tư duy.

Những nhiệm vụ đã được phân bố như thế, tâm lí học trí khôn tất phải tiếp tục

tính đến những khám phá lôgistích, nhưng những khám phá này không bao

giờ đi đến việc áp đặt cho nhà tâm lí học những giải pháp riêng của mình;

chúng chỉ hạn chế trong việc đặt ra cho ông ta các vấn đề.

Chính là từ bản chất kép ấy của trí khôn: sinh học và lôgich học mà

chúng ta phải xuất phát. Hai chương tiếp theo có mục đích ấn định phạm vi

của những vấn đề tiên quyết đó và nhất là tìm cách quy vào một sự thống

nhất lớn hơn cả, trong tình hình các hiểu biết hiện nay, hai mặt cơ bản, mà bề

ngoài có vẻ không dung hòa được của đời sống tư duy.

* VỊ TRÍ CỦA TRÍ KHÔN TRONG TỔ CHỨC TINH THẦN

Mọi cư xử, dù là một hành vi triển khai ra bên ngoài hoặc nội hiện thành

ý nghĩa, đều được biểu hiện như một sự thích nghi hoặc, nói đúng hơn, như

một sự tái thích nghi. Cá nhân chỉ hành động nếu nó cảm nhận một nhu cầu,

tức là nếu sự cân bằng tạm thời bị phá vỡ giữa môi trường và cơ thể, và hành

động nhằm lặp lại sự cân bằng, tức đúng là để tái thích nghi cơ thể

(Claparède). Một "cư xử" vậy là một trường hợp đặc biệt của sự trao đổi giữa

thế giới bên ngoài và chủ thể, nhưng trái với những trao đổi sinh lí học mang

tính vật chất và giả định một sự biến đổi nội tại của những vật thể hiện diện,

các "cư xử" được tâm lí học nghiên cứu mang tính chức năng và được thực

hiện ở những khoảng cách ngày càng lớn, trong không gian (tri giác, v.v...) và

trong thời gian (trí nhớ, v.v...), cũng như theo những quỹ đạo ngày càng phức

Page 4: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hợp (trở về, vòng quanh v.v...). Sự cư xử, được quan niệm như vậy thành

những quan hệ trao đổi có tính chức năng, bản thân nó cũng giả định hai mặt

chủ yếu và phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau: mặt xúc cảm và mặt nhận thức.

Người ta đã bàn cãi nhiều về các quan hệ giữa tính xúc cảm và sự hiểu

biết. Theo P. Janet, phải phân biệt "hành động sơ cấp", hoặc quan hệ giữa

chủ thể và khách thể (trí khôn, v.v..) và "hành động thứ cấp" hoặc sự phản

ứng của chủ thể đối với hành động của bản thân mình: sự phản ứng này, tạo

thành những tình cảm sơ đẳng, bao hàm những điều tiết của hành động sơ

cấp và bảo đảm lưu lượng của những năng lượng nội tại sẵn có. Nhưng,

cạnh các điều tiết thực sự xác định năng lượng học hoặc kết cấu bên trong

của cư xử, dường như chúng ta phải dành một chỗ cho những điều tiết điều

chỉnh tính mục đích và các giá trị của cư xử, và những giá trị như vậy (đặc

trưng cho một sự trao đổi có tính năng lượng học, hoặc tiết kiệm, với môi

trường bên ngoài. Theo Claparède, các tình cảm định một mục đích cho cư

xử, còn trí khôn chỉ hạn chế trong việc cung cấp những phương tiện (cái "kĩ

thuật". Nhưng có một sự nắm hiểu các mục đích cũng như các phương tiện,

và sự nắm hiểu đó không ngừng thay đổi cả tính mục đích của hành động.

Trong chừng mực mà tình cảm điều khiển cư xử bằng cách gắn một giá trị

cho những mục tiêu của nó, thì chỉ nên hạn chế ở việc nói ằng nó cung cấp

những năng lượng cần thiết cho hành vi, trong khi sự hiểu biết ấy cho nó một

cấu trúc. Từ đó mà có giải pháp do tâm lí học gọi là tâm lí học hình thức đưa

ra: sự cư xử giả định một "trường tổng thể" bao trùm chủ thể với các khách

thể, và động lực của trường đó tạo thành các cảm xúc (Lewin), còn sự cấu

trúc hóa của nó được bảo đảm bởi những tri giác, chức năng vận động và trí

khôn. Chúng tôi theo một công thức tương tự, trừ việc phải nêu rõ rằng cả

cảm xúc lẫn những hình thức nhận thức không chỉ duy nhất phụ thuộc vào

"trường" hiện có, mà phụ thuộc cả vào toàn bộ lịch sử có trước của chủ thể -

hành động. Vậy chúng tôi nói một cách đơn giản rằng mỗi cư xử giả định một

mặt năng lượng học hoặc xúc cảm và một mặt cấu trúc hoặc nhận thức, điều

đó trên thực tế tụ hội những quan điểm đa dạng đã nêu trước.

Page 5: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Quả vậy, tất cả các cảm xúc bao gồm hoặc những điều tiết các năng

lượng nội tại ("cảm xúc nền tảng" của P. Janet, "hứng thú" của Claparède

v.v...) hoặc những điều chỉnh các trao đổi năng lượng với bên ngoài ("giá trị"

mọi loại, thực tại hoặc giả định, từ những "ao ước" riêng đến "trường tổng

thể" của K. Lewin, và những "hóa trị" của E. S. Russell cho đến những giá trị

liên cá nhân hoặc xã hội). Bản thân ý chí cũng phải được quan niệm như một

tác động của những thao tác xúc cảm, tức là có tính năng lượng học thuộc

những giá trị cao cấp và làm cho chúng có khả năng đảo ngược và bảo toàn

(tình cảm đạo đức, V.V...), song hành với hệ thống những thao tác lôgich

trong quan hệ với các khái niệm.

Nhưng nếu mọi cư xử không loại trừ một cái nào bao hàm một sự trù

tính năng lượng hoặc một sự "tiết kiệm” tạo thành mặt xúc cảm của nó thì

những trao đổi mà nó gây ra với môi trường cũng bao gồm một hình thức

hoặc một cấu trúc quy định những chu trình có thể có được thiết lập giữa chủ

thể và các khách thể. Chính sự cấu trúc hóa này của cư xử bao hàm mặt

nhận thức của nó. Một tri giác, một tập luyện cảm giác - vận động (thói quen

v.v...), một hành vi nắm hiểu, một lập luận v.v... tất cả đều quay về việc cấu

trúc hóa, cách này hay cách khác, những quan hệ giữa môi trường và cơ thể.

Chính là ở điều này mà chúng có những sự thân thuộc giữa chúng với nhau,

đối lập chúng với những hiện tượng thuộc về xúc cảm. Chúng tôi nói về

chúng như những chức năng nhận thức theo nghĩa rộng (kể cả những thích

nghi cảm giác - vận động).

Đời sống xúc cảm và đời sống nhận thức vậy là không tách rời nhau

mặc dầu là khác biệt nhau. Chúng không tách rời nhau bởi vì mọi trao đổi với

môi trường giả định đồng thời một sự cấu trúc hóa và một sự đánh giá, nhưng

chúng vẫn không kém phần khác biệt, vì hai mặt đó của cư xử không thể nào

thu gọn mặt này vào mặt kia. Vì vậy, người ta không thể lập luận, ngay ở toán

học thuần túy, mà không cảm nhận những xúc cảm nào đó và ngược lại

không thể có xúc cảm mà không có một tối thiểu nắm hiểu và phân biệt.

Page 6: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Vậy một hành vi trí khôn bản thân nó giả định một sự điều tiết năng

lượng học bên trong (hứng thú, nỗ lực, sự dễ dàng v.v...) và bên ngoài (giá trị

những giải pháp tìm thấy và những mục tiêu mà sự tìm kiếm nhằm tới) nhưng

hai sự điều chỉnh này đều mang tính chất xúc cảm và vẫn so sánh được với

mọi sự điều tiết khác cùng loại. Ngược lại, những yếu tố tri giác hoặc trí tuệ

mà người ta tìm thấy lại trong mọi biểu hiện xúc cảm đều liên quan đến đời

sống nhận thức, như bất cứ phản ứng tri giác hoặc trí tuệ nào khác. Cái mà

lương tri thông thường gọi là "tình cảm" và "trí tuệ" bằng cách coi chúng là hai

"năng khiếu" đối lập nhau đều đơn giản chỉ là những cư xử liên quan đến các

con người và những cư xử liên quan đến các ý tưởng và các sự vật: nhưng ở

mỗi một cư xử đó, cùng những mặt cảm xúc và nhận thức ấy của hành động

can thiệp vào, những mặt này luôn tụ hội lại trên thực tế và vì vậy hoàn toàn

không đặc trưng cho những năng khiếu độc lập.

Hơn nữa, bản thân trí khôn không bao hàm một phạm trù riêng rẽ và

đứt đoạn của các quá trình nhận thức. Nói đúng ra, nó không phải là một sự

cấu trúc hoá trong số các cấu trúc hóa khác: nó là nhận thức cân bằng mà

mọi cấu trúc đều hướng tới, những cấu trúc là sự hình thành phải được tìm

kiếm ngay từ sự tri giác, thói quen là các cơ chế cảm giác - vận động sơ

đẳng. Quả vậy, phải hiểu thật rằng nếu trí khôn không phải là một năng khiếu

(năng lực), sự phủ định đó mang theo một sự liên tục cơ bản có tính chức

năng giữa những hình thức cao cấp của tư duy và toàn bộ những loại hình

cấp thấp của sự thích nghi tri giác hoặc vận động: vậy trí khôn chỉ có thể là

hình thức cân bằng mà những hình thức và loại hình này hướng tới. Điều đó

tất nhiên không có nghĩa là một lập luận bao gồm một sự kết hợp các cấu trúc

tri giác và cũng không có nghĩa là tri giác quay trở lại thành lập luận một cách

vô thức (mặc dầu cả hai luận điểm đó đều đã được ủng hộ), vì sự liên tiếp về

chức năng không hề loại bỏ sự đa dạng và ngay cả sự không đồng đều của

các cấu trúc. Mỗi cấu trúc phải được quan niệm như là một hình thức đặc biệt

của sự cân bằng, ít nhiều ổn định trong trường chật hẹp của nó và trở thành

bấp bênh ở các giới hạn của trường đó. Nhưng các cấu trúc này, được xếp

từng chặng theo các nấc, phải được xem như nối tiếp nhau theo một quy luật

Page 7: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tiến hóa sao cho mỗi cấu trúc bảo đảm một sự cân bằng rộng hơn và ổn định

hơn cho các quá trình đã từng xẩy ra trong lòng của cấu trúc trước. Vậy trí

khôn là một thuật ngữ phát sinh, chỉ những hình thức cao cấp của tổ chức

hoặc cân bằng của những sự cấu trúc hóa nhận thức.

Cách trình bày này có nghĩa là trước tiên nhấn mạnh vai trò cơ bản của

trí khôn trong đời sống của trí tuệ và của cả bản thân cơ thể nữa: là sự cân

bằng về cấu trúc uyển chuyển nhất và đồng thời lâu dài nhất của sự cư xử, trí

khôn chủ yếu là một hệ thống thao tác sống động và hoạt động. Nó là sự

thích nghi tinh thần tiên tiến nhất, tức là dụng cụ cần thiết của những trao đổi

giữa chủ thể và vũ trụ, khi mà vòng quay của chúng vượt những tiếp xúc tức

thì và nhất thời để đạt đến những quan hệ rộng rãi và ổn định. Nhưng, mật

khác, cũng cách trình bày đó không cho phép chúng tôi ấn định phạm vi của

trí khôn về phần điểm xuất phát của nó: nó là điểm đạt tới, và nguồn gốc của

nó trùng hợp với nguồn gốc của sự thích nghi cảm giác - vận động nói chung,

cũng như vượt quá sự thích nghi này, trùng hợp với nguồn gốc của bản thân

sự thích nghi sinh học.

* TÍNH CHẤT THÍCH NGHI CỦA TRÍ KHÔN

Nếu trí khôn là sự thích nghi thì trước hết, nên định nghĩa sự thích nghi.

Mà để tránh những khó khăn của ngôn ngữ mục đích luận, sự thích nghi phải

được nêu đặc tính như là một sự cân bằng giữa các hành động của cơ thể

lên môi trường và các hành động ngược lại. Người ta có thể gọi là sự "đồng

hóa", nếu lấy từ này ở nghĩa rộng nhất của nó, hoạt động của cơ thể lên

những khách thể xung quanh nó, với tư cách là hoạt động này phụ thuộc vào

các cư xử trước đó liên quan đến cùng những khách thể đó hoặc những

khách thể khác tương tự. Quả vậy, mọi quan hệ giữa một sinh thể với môi

trường của nó mang tính chất đặc thù này là sinh thể thay vì thụ động phục

tùng môi trường, biến đổi nó bằng cách áp đặt cho nó một cấu trúc riêng nào

đó. Chính là bằng cách ấy mà, vẻ mặt sinh lí học, cơ thể hấp thu các chất và

biến đổi chúng căn cứ vào chất của mình. Mà về mặt tâm lí học, vấn đề cũng

là như vậy ngoại trừ một điều là những biến đổi nói đến lúc này không còn

Page 8: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mang tính chất chất liệu mà đơn thuần mang tính chất chức năng và được

xác định bởi tính vận động, sự tri giác hoặc tác động của những hành động

thực tại hoặc tiềm tàng (thao tác mang tính quan niệm v.v...). Sự đồng hóa

tinh thần do vậy là sự sáp nhập các khách thể vào trong các sem của sự cư

xử, những sem này không gì khác là cái sườn của những hành động có khả

năng được lặp lại một cách tích cực.

Ngược lại, môi trường tác động đến cơ thể, và người ta có thể gọi, theo

như các nhà sinh học thường gọi, hoạt động nghịch đảo này bằng thuật ngữ

"điêu ứng”, vì đã thống nhất rằng sinh thể không bao giờ chịu sự tác động của

những vật thể chung quanh nguyên xi như chúng là như vậy, mà nó đơn giản

biến đổi chu kì đồng hóa bằng cách sửa đổi chu kì đó cho thích hợp với các

vật thể. Về mặt tâm lí học, người ta tìm thấy lại cùng quá trình ấy, với nghĩa là

sức ép các sự vật luôn dẫn đến không phải là một sự phục tùng thụ động, mà

một sự biến đổi đơn giản của hành động hướng về các sự vật. Điều đó nói

lên rằng người ta có thể định nghĩa sự thích nghi như là một sự cân bằng

giữa đồng hóa và điều ứng, tức cũng có nghĩa là một sự cân bằng của những

trao đổi giữa chủ thể và các khách thể.

Trong trường hợp của sự thích nghi cơ thể, những trao đổi này, vì có

tính chất vật chất, giả định một sự thâm nhập lẫn nhau giữa một bộ phận nào

đó của cơ thể sống với một khu vực nào đó của môi trường bên ngoài. Trái lại

đời sống tâm lí khởi đầu như chúng ta đã thấy với những trao đổi có tính chất

chức năng, tức là ở điểm mà sự đồng hóa không còn biến đổi một cách lí -

hóa những khách thể được đồng hóa, mà đơn giản sáp nhập chúng vào

những dạng của hoạt động riêng (và ở điểm mà sự điều ứng chỉ biến đổi hoạt

động đó). Lúc này người ta hiểu ra rằng cùng với sự xâm nhập trực tiếp lẫn

nhau của cơ thể và môi trường, còn có thêm, với đời sống tinh thần, những

trao đổi gián tiếp giữa chủ thể và các khách thể, sự trao đổi đó được thực

hiện ở những khoảng cách không gian luôn luôn lớn hơn và theo những

đường đi luôn luôn phức tạp hơn. Tất cả sự phát triển của hoạt động tinh

thần, từ sự tri giác và thói quen đến biểu tượng và trí nhớ cũng như đến các

Page 9: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thao tác cao cấp của lập luận và tư duy hình thức, đều tùy thuộc như thế vào

khoảng cách tuần tự tăng lên đó của các trao đổi, tức là vào sự cân bằng

giữa sự đồng hóa các thực tế ngày càng xa hơn với hoạt động riêng và một

sự điều ứng của hoạt động với các thực tế.

Chính trong ý nghĩa đó mà trí khôn, với những thao tác lôgích của nó

tạo thành một sự cân bằng cơ động và bền lâu giữa vũ trụ và tư duy, kéo dài

và kết thúc toàn bộ những quá trình thích nghi. Sự thích nghi của cơ thể quả

là chỉ bảo đảm một sự cân bằng trực tiếp và vì vậy hạn chế giữa sinh thể và

môi trường hiện tại. Các chức năng nhận thức sơ đẳng như tri giác, thói quen

và trí nhớ kéo dài sự thích nghi theo hướng của mặt rộng đang có (sự tiếp

xúc tri giác với những khách thể cách xa) và những sự đón trước hoặc tái tạo

gần kề. Chỉ có trí khôn với khả năng về tất cả các vòng quanh và các trở về

bằng hành động và bằng tư duy, hướng đến một sự cân bằng hoàn toàn

nhằm vào việc đồng hóa toàn bộ thực tại và điều ứng hành động mà nó giải

thoát khỏi sự phụ thuộc vào cái ở đây và bây giờ bạn đầu.

* ĐỊNH NGHĨA TRÍ KHÔN

Nếu người ta muốn định nghĩa trí khôn, điều chắc hẳn là quan trọng để

phân định lĩnh vực mà người ta chăm sóc tới dưới cái tên gọi đó. chỉ cần

thống nhất với nhau về mức độ phức hợp của các trao đổi ở cách xa mà từ

những trao đổi đó người ta thỏa thuận gọi chúng là "thông minh" (là thuộc trí

khôn). Nhưng ở đây nổi lên những khó khăn bởi vì cái đường ranh giới ở bên

dưới vẫn là võ đoán. Đối với một số người như Claparède và Stern, trí khôn

là một sự thích nghi của tinh thần vào các hoàn cảnh mới. Như vậy,

Claparède đối lập trí khôn với bản năng và với thói quen, là những thích nghi,

di truyền hoặc thụ đắc, với những hoàn cảnh lặp đi lặp lại, nhưng ông cho trí

khôn khởi đầu ngay từ sự mầy mò kinh nghiệm chủ nghĩa sơ đẳng nhất

(nguồn gốc của những mầy mò nội hiện đặc trưng về sau cho sự tìm kiếm giả

thuyết). Theo Buhler, người đã phân bố các cấu trúc thành ba loại (trực giác,

tập luyện và trí khôn), định nghĩa đó quá rộng: trí khôn chỉ xuất hiện với

những hành vi nắm hiểu đột ngột (Aha-Erlebris), còn sự mầy mò thì thuộc

Page 10: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

việc luyện tập. Hochler cũng vậy, dành thuật ngữ trí khôn cho những hành vi

cấu tạo lại đột ngột và loại trừ khỏi nó sự mầy mò. Không thể chối cãi là sự

mầy mò xuất hiện ngay từ sự hình thành những thói quen đơn giản nhất,

những thói quen này bản thân chúng vào thời điểm cấu thành cũng là những

thích nghi vào các hoàn cảnh mới. Mật khác, câu hỏi, giả thuyết và sự kiểm

tra mà sự tụ hội cũng là đặc trưng cho trí khôn theo Claparède, đã là có mầm

mống trong các nhu cầu, các thử và sai và hình phạt kinh nghiệm chủ nghĩa

riêng cho những thích nghi cảm giác - vận động tiến bộ nhất. Vậy hai cái chọn

một: hoặc bằng lòng với một định nghĩa có tính chức năng, với nguy cơ bao

quát hầu hết toàn bộ những cấu trúc tri giác; hoặc chọn làm tiêu chí một cấu

trúc đặc biệt, nhưng sự lựa chọn vẫn là ước lệ và có nguy cơ xem nhẹ tính

liên tục thực tại.

Tuy nhiên còn có thể định nghĩa trí khôn bằng cái hướng theo: sự phát

triển của nó đã định, không nhấn mạnh đến các vấn đề ranh giới, những vấn

đề này trở thành công việc của các giai đoạn hoặc các hình thức liên tiếp của

sự cân bằng. Lúc đó người ta có thể đồng thời đứng trên quan điểm của tình

huống chức năng và của cơ chế cấu trúc. Từ cái thứ nhất của những quan

điểm ấy, người ta có thể nói ràng một cư xử là càng "khôn ngoan" hơn khi

quỹ đạo giữa chủ thể và các khách thể của hành động không còn đơn giản và

đòi hỏi một sự cấu tạo tiệm tiến. Tri giác như vậy chỉ bao gồm những đường

đi đơn giản, ngay khi khách thể được tri giác khá xa. Một thói quen có thể

hình như phức hợp hơn, nhưng những khớp nối không gian - thời gian được

gán lại thành một tổng thể duy nhất, không có bộ phận độc lập hoặc có thể

cấu tạo riêng rẽ. Trái lại, một hành vi của trí khôn, như tìm thấy lại một đồ vật

bị giấu hoặc ý nghĩa của một hình ảnh, giả định một số các đoạn đường đi

(trong không gian và trong thời gian) vừa có thể phân cách riêng ra vừa có

khả năng cấu tạo lại. Trên quan điểm của cơ chế cấu trúc, vì vậy, những thích

nghi cảm giác - vận động sơ đẳng vừa là cứng cỏi vừa là có hướng độc nhất,

còn trí khôn thì đi vào chiều cơ động đảo nghịch. Chúng ta sẽ thấy rằng chính

ngay đó là tính chất chủ yếu của các thao tác đặc trưng cho lôgich học sống

động đang hành động. Nhưng người ta thấy ngay rằng tính chất chủ yếu của

Page 11: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tính có khả năng đảo nghịch không gì khác hơn là tiêu chí của sự cân bằng

(như những nhà vật lí đã dạy chúng ta). Định nghĩa trí khôn bằng tính có khả

năng đảo nghịch tiệm tiến của các cấu trúc cơ động mà nó tạo dựng nên tức

là nói lại dưới một hình thức mới rằng trí khôn tạo dựng trạng thái cân bằng

mà tất cả những thích nghi liên tiếp thuộc dạng cảm giác vận động và tri giác

hướng tới, cũng như tất cả những trao đổi đồng hóa và điều ứng giữa cơ thể

và môi trường.

* PHÂN LOẠI NHỮNG GIẢI THÍCH CÓ THỂ CÓ VỀ TRÍ KHÔN

Trên quan điểm sinh học, trí khôn hiện ra như là một trong những hoạt

động của cơ thể, còn những khách thể mà nó tự thích nghi tạo thành một khu

vực đặc biệt của môi trường xung quanh. Song, trong chừng mực mà những

tri thức do trí khôn luyện được thực hiện một sự cân bằng có lợi, bởi vì là sự

kết thúc cần thiết của những trao đổi cảm giác - vận động và biểu tượng vào

lúc những khoảng cách trong không gian và trong thời gian được mở rộng vô

hạn, trí khôn để ra ngay cả tư duy khoa học, bao gồm cả tri thức sinh học.

Vậy là rất tự nhiên rằng những í thuyết tâm lí học trí khôn đến đan xen vào

giữa những lí thuyết sinh học về sự thích nghi và những lí thuyết về tri thức

nói chung. Thế thì không lấy gì làm ngạc nhiên là có sự thân thuộc giữa các lí

thuyết tâm lí học và các học thuyết trí học (khoa học luận) bởi vì nếu tâm lí

học đã tự thoát ra khỏi những bảo trợ của triết học, vẫn thật may mắn còn

một sự liên hệ nào đó giữa việc nghiên cứu các chức năng tinh thần và việc

nghiên cứu các quá trình của tri thức khoa học. Nhưng điều còn thú vị hơn là

có một sự song hành, và khá chặt chẽ, giữa những học thuyết lớn của sinh

học về sự thay đổi mang tính tiến hóa (tức là về sự thích nghi) và các lí thuyết

chật hẹp về trí khôn với tính cách là sự kiện tâm lí học: thường các nhà tâm lí

học quả là không ý thức được những dòng cảm hứng sinh học nuôi dưỡng

những giải thích của họ; vả lại cũng vậy các nhà sinh học đôi khi đã theo mà

không biết một quan điểm tâm lí học riêng biệt trong số các quan điểm có thể

có (xem vai trò của thói quen ở Lamarck, hoặc của sự cạnh tranh và sự đấu

tranh ở Darwin); hơn nữa vì các vấn đề có quan hệ thân thuộc với nhau, có

Page 12: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thể xảy ra sự hội tụ đơn giản của các giải pháp, và lúc đó giải pháp này xác

nhận giải pháp kia.

Trên quan điểm sinh học, các quan hệ giữa cơ thể và môi trường, bao

gồm sáu cách giải thích có thể được, theo những cách phối hợp sau đây (đều

tất cả đưa lại những giải pháp riêng biệt, cổ điển hoặc hiện đại): hoặc người

ta loại bỏ ý tưởng về một sự tiến hóa thực sự (I) hoặc người ta thừa nhận sự

tổn tại của nó (II); mặt khác trong cả hai trường hợp (I và II) người ta quy các

thích nghi hoặc cho những yếu tố bên ngoài cơ thể (1) hoặc cho những yếu tố

bên trong (2) hoặc cho sự tác động qua lại giữa hai yếu tố (3). Trên quan

điểm của thuyết cố định (I), người ta có thể quy sự thích nghi cho một sự hòa

hợp được thiết lập từ trước giữa cơ thể và các đặc tính của môi trường (I.1)

cho một thuyết tiền tạo cho phép cơ thể ứng đáp mọi hoàn cảnh bằng cách

làm cho cập nhật những cấu trúc tiềm tàng (I), hoặc nữa cho sự "đột khởi"

của các cấu trúc tổng thể không rút gọn được vào những yếu tố của chúng và

được xác định lần lượt từ bên trong và từ bên ngoài. Còn về các quan điểm

của thuyết tiến hóa (II), chúng giải thích song song các biến đổi để thích nghi

hoặc bằng sức ép của môi trường (thuyết Lamarck II.1) hoặc bằng những

thay thế nội sinh kèm theo sự chọn lựa sau đó (thuyết đột biến II.2), hoặc

bằng một sự tác động qua lại tiệm tiến của các yếu tố bên trong và bên ngoài

(II.3).

Điều lạ lùng là nhận thấy người ta tìm lại được biết bao cùng những

dòng suy nghĩ ấy trong việc giải thích bản thân tri thức với tính cách là quan

hệ giữa chủ thể suy tư và các khách thể. Với sự hòa hợp được thiết lập trước

đặc trưng cho thuyết sức sống sáng tạo tương ứng thuyết hiện thực của

những học thuyết nhìn thấy ở lí trí một sự thích đáng bẩm sinh với những

hình thức và những bản chất vĩnh cửu (I.1); với thuyết tiến tạo tương ứng

thuyết tiên nghiệm, giải thích tri thức bằng những cấu trúc bên trong có trước

kinh nghiệm (I.2) và tương ứng với thuyết "đột khởi" của các cấu trúc không

được tạo dựng là hiện tượng luận đương thời, phân tích đơn giản các hình

thức khác nhau của tư duy bằng cách từ chối đồng thời rút một cách phát

Page 13: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

sinh những cái này từ những cái kia và tách riêng ở chúng phần của chủ thể

và phần của các khách thể (I.3). Mặt khác, những giải thích theo thuyết tiến

hóa được tìm thấy lại trong những trào lưu trí học góp một phần vào sự tạo

dựng dần dần lí trí: với thuyết Lamarck tương ứng chủ nghĩa kinh nghiệm, nó

giải nghĩa tri thức bằng sức ép các sự vật (III); với thuyết đột biến tương ứng

thuyết quy ước và chủ nghĩa thực dụng, chúng gán sự thích đáng của trí tuệ

đối với thực tại cho sự sáng tạo tự do những khái niệm chủ quan được chọn

lựa sau đó theo một nguyên tắc của sự thuận tiện đơn giản (II.2). Cuối cùng

thuyết tác động qua lại kéo theo một thuyết tương đối nó làm cho tri thức trở

thành sản phẩm của một sự cộng tác không thể tách rời giữa thí nghiệm và

sự diễn dịch (II.3).

Không nhấn mạnh vào sự song hành đó, dưới hình thức chung của nó,

cần nhận xét bây giờ rằng các lí thuyết đương thời và thực sự tâm lí học về trí

khôn được gợi ý từ cùng những dòng suy nghĩ khác nhau, hoặc giọng điệu

sinh học chiếm ưu thế, hoặc biểu hiện những ảnh hưởng của triết học trong

quan hệ với việc nghiên cứu bản thân tri thức.

Đầu tiên, không phải chỉ có một sự đối lập chủ yếu phân cách hai loại

giải thích: những giải thích mà trong khi vẫn thừa nhận sự tồn tại của các sự

kiện về phát triển, không thể tự ngăn cản mình coi trí khôn như một dữ kiện

đầu tiên, và như vậy rút gọn sự tiến hóa tinh thần thành một thứ nhận thức

dần dần, không có sự tạo dựng chân chính, và những giải thích mưu toan

định nghĩa trí khôn bằng ngay sự phát triển của nó. Chúng ta cũng nên ghi

nhận thêm rằng hai trường phái cộng tác với nhau trong việc khám phá và

phân tích bản thân các sự kiện thực nghiệm, vì vậy nên phân loại một cách

khách quan tất cả những giải thích tổng quát hiện tại trong chừng mực mà

chúng phục vụ cho việc soi sáng mặt này hay mặt khác riêng biệt của những

sự việc cần giải thích: đường ranh giới giữa các lí thuyết tâm lí học và các

học thuyết triết lí quả phải được tìm kiếm trong sự ứng dụng vào thí nghiệm

này chứ không trong các giả thuyết xuất phát.

Page 14: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Trong số những lí thuyết của thuyết cố định, trước hết có những lí

thuyết dù sao vẫn giữ sự trung thành với ý tưởng về một trí khôn - năng

khiếu, một thứ tri thức trực tiếp về những tồn tại vật thể và những ý tưởng

lôgich hoặc toán học, do sự hòa hợp đã được thiết lập từ trước giữa trí tuệ và

thực tại (I.1). Phải thú nhận rằng ít nhà tâm lí học thực nghiệm còn gắn bó với

giả thuyết này. Nhưng những vấn đề mà các ranh giới chung cho tâm lí học

và cho việc phân tích tư duy toán học đã nêu lên tạo dịp cho một số nhà

lôgistich, như B. Russell, xác định một quan niệm như vậy về trí khôn và còn

muốn áp đặt nó cho bản thân tâm lí học (xem "Phân tích Trí tuệ" của ông).

Thông dụng hơn là giả thuyết (I.2) theo đó trí khôn được xác định bởi

những cấu trúc nội tại, những cấu trúc này cũng không tự tạo dựng nên, mà

tự bộc lộ ra dần dà trong tiến trình phát triển, nhờ một sự phản chiếu của tư

duy lên bản thân mình. Dòng tiên nghiệm này trên thực tế đã được gợi ý một

phần lớn bởi những công trinh của Tâm lí học Đức và do vậy nằm ở nguồn

gốc của nhiều tìm tòi bằng thực nghiệm về sự suy nghĩ bằng phương tiện của

các phương pháp nổi tiếng về sự nội quan được gây nên, những phương

pháp ấy ngay từ những năm 1900 - 1905 đến nay đã đổi thay nhiều. Tất nhiên

là không thể nói rằng mọi sử dụng các phương cách tìm tòi nghiên cứu đó

dẫn đến sự giải thích trí khôn như vậy: công trình của Binet chứng thực cái

trái lại. Song, ở K. Buhler, Selz và nhiều người khác, trí khôn rốt cuộc trở

thành như một "tấm gương của lôgich học”, nó tự áp đặt từ bên trong không

thể có sự giải thích nguyên nhân nào cả.

Ở hàng thứ ba (I.3), với các quan điểm về thuyết đột hiện và hiện

tượng luận (với ảnh hưởng lịch sử hữu hiệu của hiện tượng luận) tương ứng

một lí thuyết mới đây về trí khôn, nó đã đổi mới các vấn đề một cách đầy ấn

tượng: lí thuyết về hình thức (gestalt). Xuất phát từ những tìm tòi thực nghiệm

về sự tri giác, khái niệm "hình thức tổng quát" bao hàm việc thừa nhận rằng

một toàn bộ là không thể rút thành các yếu tố tạo nên nó, trong chừng mực nó

được những quy luật riêng về tổ chức và cân bằng điều chỉnh. Thế là sau khi

đã phân tích các quy luật của cấu trúc hóa này trong lĩnh vực tri giác và tìm

Page 15: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thấy lại chúng trên địa hạt của tính vận động, của trí nhớ v.v.. lí thuyết về hình

thức được áp dụng vào cả bản thân trí khôn, và dưới các mặt suy ngẫm (tư

duy lôgich) cũng như cảm giác - vận động (trí khôn loài vật và trẻ em chưa

biết nói). Chính là do vậy mà Koehler về các con Hắc tinh tinh; Wertheimer về

tam đoạn luận, đã nói đến "sự cấu trúc hóa lại tức thì”, tìm cách giải thích

hành vi nắm hiếu bằng sự "hàm súc” có cấu trúc được tổ chức tốt. Chúng

không là nội sinh cũng không là ngoại sinh, mà bao quát chủ thể và các khách

thể bằng một chu trình toàn bộ. Hơn nữa các hình thức (gestalt) đó, chung

cho tri giác, tính vận động và trí khôn không tiến hóa, mà biểu hiện những

hình thức bền vững của sư cân bằng, độc lập với sự phát triển trí tuệ (người

ta có thể về mặt này tìm ra tất cả những thuyết trung gian giữa thuyết tiên

nghiệm và thuyết hình thức, mặc dầu thuyết sau thường được đặt trong viễn

cảnh của một chủ nghĩa hiện thực vật lí học hoặc sinh lí học của các "cấu

trúc").

Ba lí thuyết chính không mang tính phát sinh về trí khôn là như thế đấy.

Người ta nhận ra rằng thuyết thứ nhất quy sự thích nghi tri giác về một sự

điều ứng thuần túy, bởi vì với nó, tư duy chỉ là tấm gương những "ý tưởng" có

sẵn; thuyết thứ hai quy sự thích nghi thành một sự đồng hóa đơn thuần vì các

cấu trúc trí tuệ được nó xem xét như là tuyệt đối nội sinh; và thuyết thứ ba

hỗn hợp đồng hóa và điều ứng thành một tổng thể duy nhất bởi vì theo quan

điểm của tâm lí học Gestalt, chỉ tồn tại cái chu trình nối liền các khách thể với

chủ thể, không có hoạt động của chủ thể và cũng không có sự tồn tại riêng

biệt của các khách thể.

Còn về các giải thích phát sinh, người ta tìm thấy những thuyết giải

thích trí khôn duy nhất bằng môi trường bên ngoài (chủ nghĩa kinh nghiệm

liên tưởng tương ứng với thuyết Lamarck), bằng hoạt động của chủ thể (lí

thuyết của sự mầy mò tương ứng, trên bình diện của các thích nghi cá nhân

với thuyết đột biến trên bình diện những biến đổi di truyền) và bằng quan hệ

giữa chủ thể và các khách thể (thuyết thao tác).

Page 16: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Chủ nghĩa kinh nghiệm (II.1) không hề còn được ủng hộ dưới hình thức

theo thuyết liên tưởng thuần túy của nó, trừ một vài tác giả có xu hướng sinh

lí học là chủ yếu, họ nghĩ có thể đưa trí khôn quay trở về một trò chơi cư xử

được "điều kiện hóa". Nhưng dưới những dạng mềm mại hơn, người ta tìm

thấy lại chủ nghĩa kinh nghiệm trong những giải thích của Rignaro, người đã

quy sự lập luận về kinh nghiệm trí tuệ, và nhất là trong lí thuyết thú vị của

Spearman, vừa mang tính thống kê học phân tích những yếu tố của trí khôn

vừa mang tính miêu tả: bằng quan điểm thứ hai này, Spearman quy những

thao tác của trí khôn về việc "thâu tóm kinh nghiệm" và về việc "rút ra" những

quan hệ và những "tương liên", tức là về một việc đọc ít nhiều phức hợp

những tương quan được cung cấp trong thực tại. Vậy những tương quan này

không được tạo dựng mà được khám phá do sự điều ứng đơn giản với thực

tế bên ngoài.

Khái niệm thử và sai (II.2) đã đưa đến nhiều giải thích về việc học tập

và về bản thân trí khôn. Lí thuyết về sự mầy mò, do Claparède xây dựng, bao

hàm về mặt đó sự hiệu chỉnh sâu sắc nhất: sự thích nghi khôn ngoan (có trí

khôn) gồm những thử hoặc giả thuyết có được do hoạt động của chủ thể và

do sự tuyển lựa chúng được tiến hành sau đó dưới sức ép của kinh nghiệm

(thành công hay thất bại). Sự kiểm soát kinh nghiệm chủ nghĩa đó, nó lúc đầu

lựa chọn những cái thử của chủ thể, sau đó nội hiện dưới dạng những đón

trước do ý thức được những quan hệ, cũng như sự mầy mò khởi động tự kéo

dài thành mầy mò biểu tượng hoặc tưởng tượng ra những giả thuyết.

Cuối cùng, việc nêu bật các tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường

dẫn tới lí thuyết thao tác về trí khôn (II.3). Theo quan điểm này, các thao tác

trí tuệ mà hình thức cao cấp là lôgich học và toán học bao hàm những hành

động thực tại, dưới phương diện kép của một sự sản xuất riêng của chủ thể

và một kinh nghiệm có thể có về thực tế. Vấn đề lúc này là hiểu được những

thao tác được xây dựng cách thế nào từ hành động vật chất và sự tiến hóa

của chúng được những quy luật cân bằng nào điểu khiển như vậy các thao

tác được quan niệm như nhóm họp một cách tất yếu thành những hệ thống

Page 17: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tổng thể so sánh được với những "hình thức" của lí thuyết Gestalt, nhưng

hoàn toàn không tĩnh tại và có sẵn ngay từ đầu khi xuất phát, mà là cơ động,

có thể nghịch đảo và chỉ khép lại trên bản thân mình lúc kết thúc quá trình

phát sinh vừa cá nhân vừa xã hội làm đặc trưng cho chúng.

Quan điểm thứ sáu này là quan điểm mà chúng tôi sẽ triển khai. Còn về

các lí thuyết của sự mầy mò và các quan niệm kinh nghiệm chủ nghĩa, chúng

tôi bàn cãi về chúng khi nói tới trí khôn cảm giác - vận động và quan hệ của

nó với thói quen (chương 4). Lí thuyết và hình thức đòi hỏi một sự bàn cãi

riêng mà chúng tôi sẽ tập trung vào vấn đề chủ yếu của các tương quan giữa

tri giác và trí khôn (chương 3). Cuối cùng, về những gì thuộc hai học thuyết

của một trí khôn được thích nghi từ trước vào các sinh thể lôgich còn tồn tại ở

bản thân hoặc của một tư duy phản ánh một lôgich - tiên nghiệm, chúng ta sẽ

tìm thấy lại chúng ở đầu chương sau. Cả hai học thuyết đó quả là nêu lên cái

mà người ta có thể gọi là “vấn đề tiên quyết" của việc nghiên cứu mặt tâm lí

học của trí tuệ: người ta phải chăng có thể hi vọng một sự giải nghĩa thực sự

về tri khôn hoặc phải chăng trí khôn bao hàm một sự việc khởi đầu không rút

gọn được, với tính cách là tấm gương của một thực tế có trước mọi kinh

nghiệm và nó sẽ là lôgich học?

Chương 2. "TÂM LÍ HỌC TƯ DUY" VÀ BẢN CHẤT TÂM LÍ HỌC CỦA NHỮNG THAO TÁC LÔGICH

Khả năng của một giải thích tâm lí học về trí khôn tùy thuộc ở cách thức

mà người ta giải thích những thao tác lôgich: chúng là sự phản ánh của một

thực tế có sẵn hay là biểu hiện của một hoạt động thực sự. Chỉ khái niệm của

một lôgich học mang tính tiền đề học mới chắc chắn cho phép thoát khỏi cái

thế hai chọn một này bằng cách bắt những thao tác thực tại của tư duy phải

chịu sự giải thích phát sinh, trong khi vẫn giữ lại tính chất không thể quy của

những nối kết hình thức của chúng, khi những nối kết này được phân tích một

cách tiền đề học: nhà lôgich học lúc đó tiến hành như nhà hình học đối với

Page 18: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những không gian mà ông ta tạo dựng một cách diễn dịch, còn nhà tâm lí học

lại có thể đồng nhất với nhà vật lí học tự mình đo không gian của thế giới thực

tại. Nói cách khác, nhà tâm lí học nghiên cứu cách thức mà sự cân bằng trên

thực tế của các hành động và các thao tác được tạo dựng, trong khi nhà

lôgich học phân tích cũng sự cân bằng ấy trong hình thức lí tưởng của nó, tức

là như nó sẽ là như thế nếu nó được thực hiện nguyên vẹn và như nó tự áp

đặt bằng cách đo một cách chuẩn tác vào trí óc.

* SỰ GIẢI THÍCH CỦA B. RUSSELL

Chúng ta đi từ lí thuyết về trí khôn của B. Russell, nó đánh dấu tối đa

sự phụ thuộc có thể có của tâm lí học vào khoa lôgistich (lôgich tư biện). Khi

chúng ta tri giác một bông hồng trắng, Russell nói, chúng ta quan niệm đồng

thời các khái niệm hoa hồng và màu trắng, và điều đó bằng một quá trình

tương đồng với quá trình của tri giác: chúng ta nắm bắt trực tiếp và như từ

bên ngoài những "cái phổ biến" tương ứng với những khách thể có cảm giác

và "tồn tại" không phụ thuộc vào tư duy của chủ thể. Nhưng, thế những ý

tưởng sai thì sao? Đó là những ý tưởng như những ý tưởng khác, và các

phẩm chất đúng và sai được áp dụng vào các khái niệm cũng như có những

bông hồng trắng và những bông hồng đỏ. Còn như các quy luật điều khiển

các phổ biến và điều chỉnh các tương quan của chúng thì chúng thuộc về

lôgich học duy nhất và tâm lí học chỉ có thể cúi mình trước cái tri thức tiên

quyết này, được cung cấp cho nó ở dạng có sẵn.

Giả thuyết là như vậy đó. Đánh giá nó là siêu hình hoặc siêu tâm lí học

thật không ích lợi gì, vì nó vấp phải lương tri thông thường những người thực

nghiệm: lương tri của nhà hóa học hòa hợp rất tốt với nó và tâm lí học phải

tính toán với các nhà toán học. Một luận điểm triệt để như vậy thật đáng để

làm ta suy nghĩ. Trước tiên nó loại trừ khái niệm thao tác bởi vì nếu người ta

nắm bắt các cái phổ biến từ bên ngoài, người ta không tạo dựng nên chúng.

Trong biểu thức 1 + 1 = 2, dấu + lúc đó chỉ một quan hệ giữa hai đơn vị mà

thôi chứ hoàn toàn không chỉ một hoạt động tạo nên số 2: như Conturat đã

nói rất rõ, khái niệm thao tác là chủ yếu "nhân hình học". Lí thuyết của Russell

Page 19: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

như vậy là chia cắt một cách võ đoán các yếu tố chủ quan của tư duy (niềm

tin v.v...) khỏi những yếu tố khách quan (nhu cầu, khả năng v.v...). Cuối cùng

nó loại trừ quan điểm phát sinh: một người theo trường phái Russell một ngày

nọ đã nói để chứng tỏ sự vô bổ của sự nghiên cứu tư duy của trẻ em rằng

nhà "lôgich học" quan tâm đến những ý tưởng đúng, còn nhà tâm lí học tìm

thấy niềm vui trong việc mô tả những ý tưởng sai?

Nhưng nếu chúng tôi đã muốn bắt đầu chương này bằng một sự nhắc

lại các ý kiến của Russell chính là để chỉ ngay tức khắc ra rằng đường ranh

giới giữa tri thức môn lôgistich và tâm lí học không thể do môn lôgistich vượt

qua mà không bị trừng phạt. Ngay cả nếu như trên quan điểm tiền đề học,

thao tác hiện ra như không có ý nghĩa gì, "thuyết nhân hình" một mình nó

cũng tạo cho thao tác thành một thực tế của trí tuệ. Trên quan điểm phát sinh,

những thao tác quả là nhưng hành động thực sự, chứ không chỉ là những sự

nhận thấy hay nắm bắt các quan hệ. Khi 1 được cộng vào 1, chính là chủ thể

họp hai đơn vị thành một tổng thể trong khi nó có thể giữ chúng riêng rẽ.

Chắc hẳn hành động đó, được tiến hành trong óc đạt một tính chất đặc thù

phân biệt nó với những hành động thông thường: nó có thể đảo nghịch, nghĩa

là sau khi họp hai đơn vị chủ thể có thể tách chúng ta ra và bằng cách đó tự

thấy mình ở lại điểm xuất phát. Nhưng nó không hề kém phần là một hành

động thực sự, rất khác với việc đọc đơn giản một quan hệ như 2>1. Mà về

việc này, những người theo trường phái Russell chỉ trả lời bằng một luận

chứng ngoài tâm lí học đó là một hành động ảo bởi vì 1 + 1 đã hợp thành 2 từ

muôn đời (hoặc như Carnap và von Wittgenstein nói, bởi vì 1 + 1 = 2 chỉ là

một hằng đề, đặc trưng của ngôn ngữ "cú pháp lôgich" và không liên quan

đến bản thân tư duy, mà các phương pháp tiến hành là đặc biệt thực

nghiệm). Một cách khái quát, tư duy toán học tự lừa dối mình khi nó tưởng

rằng nó tạo dựng hoặc sáng tạo, trong khi nó chỉ hạn chế trong việc khám phá

những mặt khác nhau của một thế giới có sẵn (và những người thành Vienne

còn dặn thêm: hoàn toàn trùng lặp). Duy có điều là dẫu người ta từ chối

không cho tâm lí học trí khôn quyền chăm sóc đến bản chất những sinh thể

lôgich - toán học, vẫn còn là tư duy cá nhân không thể giữ thụ động trước các

Page 20: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

ý (hoặc các dấu hiệu của một ngôn ngữ lôgich học), càng không hơn trước

những vật thể vật lí và vẫn còn là để đồng hóa chúng, nó tạo dựng lại chúng

nhờ vào những thao tác thực tại về mặt tâm lí học.

Chúng tôi nói thêm rằng trên quan điểm hoàn toàn lôgistich học, những

lời khẳng định của B. Russell và của câu lạc bộ Vienne về sự tồn tại độc lập

những sinh thể lôgich - toán học, đối với những thao tác dường như đẻ ra

chúng, cũng võ đoán như theo quan điểm tâm lí học: những khẳng định đó

luôn vấp phải khó khăn cơ bản của tính hiện thực các lớp, các quan hệ và các

số, nó là khó khăn của những tương phản liên quan đến lớp "của tất cả các

lớp" và đến số vô hạn hiện tại. Trái lại trên quan điểm thao tác, những sinh

thể vô hạn chỉ là sự biểu hiện những thao tác có khả năng lặp lại vô cùng tận.

Cuối cùng trên quan điểm phát sinh, giả thuyết về sự nắm bắt trực tiếp

(tổng giác) bằng tư duy những cái phổ biến tồn tại độc lập đối với tư duy lại

càng hảo huyễn hơn nữa. Hãy thừa nhận rằng những ý tưởng sai của người

lớn có một cuộc sống so sánh được với đời sống của các ý tưởng đúng. Vậy

nghĩ gì về những khái niệm lần lượt được trẻ em tạo dựng nên trong tiến trình

các giai đoạn không đồng đều của sự phát triển của nó? Và những "sem" của

trí khôn thực hành tiền ngôn ngữ có tồn tại bên ngoài chủ thể không? Và

những "sem" của trí khôn loài vật? Nếu người ta dành sự "tồn tại" vĩnh cửu

cho duy nhất những ý đúng thì vào lứa tuổi nào bắt đầu sự nắm bắt chúng ?

Và ngay cả, một cách khái quát, nếu các giai đoạn của sự phát triển đơn giản

đánh dấu những sự phỏng chừng liên tiếp của trí khôn trong sự chinh phục

những "ý tưởng" không đối của nó, chúng ta có chứng cứ nào tỏ ra rằng

người lớn bình thường hoặc những nhà lôgich học của trường phái Russell

đạt đến sự nắm hiểu chúng và sẽ không thường xuyên bị những thế hệ tương

lai vượt qua?

* TÂM LÍ HỌC TƯ DUY: BUHLER VÀ SELZ

Những khó khăn mà chúng ta vừa gặp trong cách giải thích về trí khôn

của B. Russell cũng được tìm thấy lại một phần trong cách giải thích mà tâm lí

học Đức đã dẫn tới, mặc dầu lần này đây là công trình của những nhà tâm lí

Page 21: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

học thuần túy. Đúng là đối với các tác gia của trường phái này, lôgich học

được áp đặt vào trí óc không phải từ bên ngoài mà từ bên trong; những xung

đột giữa "những câu thúc của việc giải thích có tính chất tâm lí học và những

câu thúc của sự diễn dịch riêng cho những nhà lôgich học đã nhờ vậy mà

chắc chắn đã giảm bớt. Nhưng như chúng ta sẽ thấy, nó không được hoàn

toàn loại bỏ và bóng của lôgich học hình thức tiếp tục bay lượn, như một cái

cho sẵn không rút gọn được, trên sự tìm tòi cách giải thích và nguyên nhân

của nhà tâm lí học, trong chừng mực ông ta không đứng trên quan điểm triệt

để phát sinh. Mà những "nhà tâm lí học tư duy" Đức trên thực tế đã được gợi

ý bởi hoặc những dòng tuyệt đối tiên nghiệm hoặc những dòng hiện tượng

luận (ảnh hưởng của Husserl đã là đặc biệt rõ rệt), với tất cả những trung

gian giữa hai cái đó.

Với tính cách là một phương pháp, tâm lí học tư duy xuất hiện lần lượt

ở Pháp và ở Đức. Hoàn toàn quay trở lại từ thuyết liên tưởng mà ông bênh

vực trong quyển sách nhỏ của mình về Tâm lí học lập luận, Binet đã lấy lại

vấn đề về các tương quan của tư duy và các hình ảnh bằng một cách thức lí

thú của sự nội quan được gây ra và đã nhờ cách thức đó mà khám phá ra sự

tồn tại của một tư duy không có những hình ảnh các quan hệ, các phán đoán,

các thái độ v.v... đã tràn ra ngoài sự tạo hình và tư duy không tự quy vào việc

"ngắm nghía từ trung tâm triển lãm tạo hình dân gian" - ông đã khẳng định

như vậy năm 1903 trong Nghiên cứu thực nghiệm về trí khôn của ông. Còn

như muốn biết những hành vi tư duy đó chống lại sự giải thích bằng thuyết

liên tưởng, bao hàm những gì, Binet giữ thái độ thận trọng, tự hạn chế trong

việc ghi nhận sự thân thuộc giữa các "tư thế" trí tuệ và vận động và kết luận

rằng trên quan điểm của một mình sự nội quan, "tư duy là một hoạt động vô

thức của trí óc". Bài học bổ ích vô hạn, nhưng chắc chắn là gây thất vọng về

mặt những vốn của một phương pháp đã tỏ ra là sinh sôi về bản thân việc đặt

ra các vấn đề hơn là về các giải pháp cho những vấn đề ấy.

Năm 1900 Marbe (Experimentalle Untersuchungen uber das Urteil)

cũng tự hỏi sự phán đoán khác gì với một liên tưởng và hi vọng giải quyết vấn

Page 22: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đề bằng một phương pháp nội quan được gây ra. Marbe lúc đó gặp những

trạng thái ý thức đa dạng nhất: biểu tượng bằng lời, hình ảnh, cảm xúc về các

cử động, thái độ (hoài nghi v.v...), nhưng không có gì là cố định. Trong khi vẫn

đã nhận xét rằng điều kiện cần của phán đoán là tính chất được mong muốn

hoặc cố tình của tương quan, ông không coi điều kiện đó là đủ và kết luận

bằng một sự phủ định nó làm nhớ lại công thức của Binet: không có trạng thái

ý thức liên tục gắn liền với phán đoán và có thể được coi là cái quyết định.

Nhưng ông nói thêm, và điều phụ thêm này dường như đã đè nặng trực tiếp

hoặc gián tiếp lên toàn bộ tâm lí học tư duy Đức, mà sự phán đoán do đó bao

hàm sự can thiệp của một yếu tố ngoài tâm lí học vì gắn chặt với lôgich học

thuần túy. Người ta thấy rằng chúng đã không cường điệu khi báo sự tái hiện

trên bình diện mới này những khó khăn không thể tách rời với chủ nghĩa

lôgich của bản thân những người theo học thuyết Platông.

Sau đó đến các công trình của Watt, của Hesser và của Buhler, do

Kiilpe gợi cảm hứng và đã làm rạng danh "trường phái Wurzbourg". Watt khi

nghiên cứu luôn luôn bằng sự nội quan được gây ra, những liên tưởng do chủ

thể cung cấp bằng sự áp dụng một mệnh lệnh đã cho (chẳng hạn liên tưởng

do siêu lệnh v.v...) khám phá ra rằng mệnh lệnh có thể hoạt động hoặc có

kèm theo hình ảnh, hoặc ở trạng thái ý thức không hình ảnh (Bewusstheit)

hoặc cuối cùng ở trạng thái vô thức. Lúc đó ông đưa ra giả thuyết rằng "ý

định" của Marbe đúng là kết quả của những mệnh lệnh (bên ngoài hoặc bên

trong) và nghỉ giải quvết vấn đề phán đoán bằng cách biến ảo thành một

chuỗi liên tiếp các trạng thái được điều kiện hóa bởi một yếu tố tâm linh có ý

thức từ trước và phát huy ảnh hưởng lâu dài.

Messer cho rằng sự miêu tả của Watt quá mơ hồ vì nó được áp dụng

vào một trò chơi có điều khiển cũng như vào sự phán đoán và lấy lại vấn đề

bằng một kỉ thuật tương tự: ông phân biệt sự liên tưởng có điều khiển với bản

thân sự phán đoán, nó là một tương quan được chấp nhận hoặc bị bác bỏ và

dành phần chủ yếu các công trình của mình để phân tích những loại hình tinh

thần khác nhau của phán đoán.

Page 23: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Cuối cùng K. Buhler đánh dấu sự kết thúc các công trình của trường

phái Wurzbourg. Sự nghèo nàn của các kết quả ban đầu của phương pháp

nội quan được gây ra dường như theo ông là kết quả của sự việc này: các

vấn đề được đặt ra thuộc về những quá trình rất đỗi đơn giản, và từ đó ông

say mê phân tích cùng những người cộng tác giải pháp của các vấn đề thực

sự. Những yếu tố của tư duy có được bằng phương thức đó được phân bố

thành ba phạm trù: các hình ảnh, mà vai trò là phụ chứ không chủ yếu như

thuyết liên tưởng mong muốn, những tình cảm trí tuệ và những thái độ; sau

cùng và nhất là bản thân những "ý nghĩ". Những ý nghĩ này về phần mình

được biểu hiện dưới hình thức hoặc "ý thức về tương quan" (ví dụ A < B)

hoặc "ý thức về các quy tắc" (chẳng hạn, nghĩ về số nghịch của bình phương

khoảng cách mà không rõ về khách thể nào và khoảng cách nào được nói tới

ở đây), hoặc về các ý định (theo nghĩa kinh viện) "thuần túy hình thức" (ví dụ:

suy nghĩ về kiến trúc của một hệ thống). Được quan niệm như vậy, tâm lí học

tư duy cuối cùng đi đến sự mô tả đúng và thường rất tinh tế các trạng thái trí

tuệ, nhưng song hành với sự phân tích lôgich học và không giải nghĩa tí nào

các thao tác với tư cách chúng là như thế.

Với các công trình của Selz, trái lại, các kết quả của trường phái

Wurzbourg được vượt sang hướng của một sự phân tích ngay động cơ của

tư duy, chứ không còn chỉ là những trạng thái riêng lẻ. Selz cũng như Buhler,

nghiên cứu lời giải của bản thân các vấn đề, nhưng ông ít mô tả các yếu tố

của tư duy hơn là nắm bắt cách thức đạt được của Lời giải. Sau khi nghiên

cứu vào năm 1913 "tư duy tái tạo", ông mưu toan vào năm 1922 (Zur

Psychologie des produktiven Denkens und des irrtums) chọc thủng tấm màn

bí mật của sự tạo dựng trong óc. Thật thú vị khi nhận ra rằng trong chừng

mực mà những tìm tòi được hướng như vậy vào hoạt động với tính cách như

vậy của tư duy, chúng chính vì thế mà đi xa ra khỏi thuyết nguyên tử lôgich

mà nội hàm là xếp loại các quan hệ, phán đoán và sem riêng lẻ và đi gần lại

những tổng thể sống, theo mẫu hình được tâm lí học hình thức minh họa mà

chúng ta sẽ tìm thấy lại chốc nữa một mẫu hình khác biệt về cái có liên quan

đến các thao tác. Theo Selz, mọi công việc của tư duy bao gồm việc bổ sung

Page 24: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

cho đủ một tổng thể (lí thuyết của Komplexerg anzung): lời giải của một bài

toán (vấn đề) không để quy về một sơ đồ kích thích - đáp ứng, mà bao hàm

việc lấp đầy các lỗ hổng tồn tại ở bên trong những "phức hợp" khái niệm và

quan hệ. Khi một vấn đề được đặt ra, hai trường hợp có thể xẩy ra. Hoặc đây

chỉ là một vấn đề tái tạo, không đòi hỏi một sự tạo dựng mới và lời giải chỉ là

đơn giản sử dụng những "phức hợp" đã có: lúc này có sự cập nhật hóa sự

hiểu biết, đó là tư duy "tái tạo" một cách đơn giản. Hoặc đây là một bài toán

thực sự, chứng tỏ sự tồn tại những lỗ hổng ở bên trong những "phức hợp" đã

được thừa nhận cho đến lúc đó, và cần thiết phải cập nhật hóa không phải là

sự hiểu biết nữa, mà những phương pháp lời giải (vận dụng những phương

pháp đã biết vào trường hợp mới), hoặc cả trừu xuất những phương pháp

mới từ những phương pháp cũ: trong hai trường hợp cuối này, đó là tư duy

"tạo dựng" và chính kiểu tư duy này bao hàm thực sự việc bổ sung cho đủ

những tổng thể hay phức hợp đã có. Còn về việc "lấp lỗ hổng" này, nó luôn

được định hướng bằng những "sem đón trước" (có thể so sánh với "sem

năng động" của Bergson, chúng dệt nên, giữa những dự kiến mới và tổng thể

của phức hợp tương ứng, một hệ thống những quan hệ thời toàn bộ tạo nên

sườn của lời giải cần tìm (tức là giả thuyết chủ đạo). Những quan hệ này, bản

thân chúng cuối cùng cũng được chi tiết hóa, theo một cơ chế tuân thủ những

quy luật xác định: những quy luật này không gì khác hơn là những quy luật

của lôgich mà tư duy tóm lại là một tấm gương.

Chúng tôi cũng xin nhắc đến tác phẩm của Lindworski xen giữa hai

công trình của Selz và báo trước những kết luận của vị này. Còn việc nghiên

cứu của Claparèle về sự phát sinh của giả thuyết, chúng tôi sẽ nói lại khi nói

về sự mầy mò (chương 4).

* PHÊ PHÁN TÂM LÝ HỌC TƯ DUY

Rõ ràng là các công trình nêu trên đã phục vụ nhiều cho việc nghiên

cứu trí khôn. Chúng ta giải phóng tư duy khỏi hình ảnh được quan niệm như

là yếu tố tạo dựng và đã khám phá lại sau Descarles rằng phán đoán là một

hành vi. Chúng đã mô tả chính xác những trạng thái khác nhau của tư duy và

Page 25: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bằng cách đó chỉ ra, chống lại Wundt rằng nội quan có thể nâng lên bằng

phương pháp tích cực khi nó được gây ra, tức là khi trên thực tế nó được một

người quan sát kiểm soát.

Nhưng trước hết, nên ghi nhận rằng ngay trên bình diện của sự mô tả

đơn giản, các tương quan giữa hình ảnh và tư duy đã bị trường phái

Wurxbourg đơn giản hóa quá đáng. Ắt vẫn còn cái đạt được là hình ảnh

không tạo nên một yếu tố của bản thân tư duy. Duy chỉ có điều là nó đi kèm

và dùng làm biểu tượng cho tư duy, biểu tượng cá nhân bổ sung những kí

hiệu tập thể của ngôn ngữ. Trường phái Meaning xuất phát từ lôgich học của

Bradley, chỉ đúng ra rằng mọi tư duy là một hệ thống các nghĩa, và chính khái

niệm ấy mà Delacroix và đồ đệ của ông, đặc biệt là Meyerson, đã phát triển

thành những gì liên quan đến các tương quan giữa tư duy và hình ảnh. Quả

vậy các ý nghĩa bao gồm những cái được biểu đạt là tư duy với tư cách như

thế, mà cả "cái biểu đạt" được tạo thành bởi những kí hiệu của lời nói hoặc

những biểu tượng bằng hình ảnh được tạo dựng trong mối tương quan chặt

chẽ với bản thân tư duy.

Mặt khác, hiển nhiên là phương pháp ngang của tâm lí học Đức ngăn

cản nó vượt quá sự mô tả thuần túy và nó thất bại trong việc giải thích trí

khôn ở những cơ chế thực chất là tạo dựng, bởi vì nội quan cả khi được kiểm

soát chắc chắn liên quan đến chỉ những sản phẩm của tư duy mà thôi chứ

không đến sự hình thành ra nó. Hơn nữa, nội quan được dành cho các chủ

thể có khả năng suy nghĩ: mà có thể ta phải tìm kiếm bí mật của trí khôn

trước 7-8 tuổi.

Thiếu viễn cảnh phát sinh như vậy, "tâm lí học tư duy" chuyên phân tích

những giai đoạn kết thúc của sự tiến hóa trí tuệ. Nói bằng các thuật ngữ trạng

thái và cân bằng hoàn chỉnh, không lấy làm lạ là tâm lí học tư duy kết thúc ở

một thuyết phiếm lôgich và bị bắt buộc phải ngưng sự phân tích tâm lí học

trước cái đã được coi là bất khả quy của những quy luật lôgich học. Từ Marbe

- người viện dẫn không thêm gì nữa quy luật lôgich học với tính cách là yếu tố

ngoại-tâm lí học chi phối một cách nhân quả và lấp các lỗ hổng của tính nhân

Page 26: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

quả trí tuệ, đến Selz - người đã cuối cùng đi đến một thứ song hành lôgich -

tâm lí học bằng cách biến tư duy thành tấm gương của lôgich học - sự việc

lôgich học đối với các tác gia này vẫn còn là không thể giải thích nổi bằng lời

lẽ tâm lí học.

Không nghi ngờ là Selz đã phần nào tự giải thoát khỏi phương pháp

quá chật hẹp của việc phân tích các trạng thái và các yếu tố, để tìm cách theo

dõi tính năng động của hành vi trí khôn, vì vậy, ông đã khám phá ra những

toàn bộ xác định đặc trưng của các hệ thống tư duy cũng như vai trò của

những sem đón trước trong lời giải các vấn đề. Nhưng, trong khi thường

xuyên ghi nhận các tương đồng giữa những quá trình ấy và những cơ chế

hữu cơ và vận động, ông không tạo dựng lại sự hình thành có tính phát sinh

của chúng. Vì vậy ông cũng đi theo thuyết phiếm Lôgich của trường phái

Wurzbourg và ông làm điều đó một cách nghịch lí, mà tấm gương là rất quý

để suy ngẫm cho ai muốn giải thoát tâm lí học khỏi những ảnh hưởng của

thuyết tiên nghiệm lôgistich học, trong khi vẫn tìm cách giải thích sự việc

lôgich học.

Quả vậy, khám phá ra vai trò chủ yếu của các toàn bộ trong sự vận

hành của tư duy, Selz lẽ ra đã có thể từ đó rút ra kết luận rằng lôgich học

không có khả năng thể hiện lập luận thành hành động, như nó hiện ra và tạo

thành trong "tư duy tạo dựng”. Lôgich học cổ điển, ngay cả dưới hình thức

được mém hóa vô hạn bởi kĩ thuật tinh vi và chính xác của phép tính lôgistich

vẫn theo thuyết nguyên tử; các lớp, các quan hệ, các mệnh đề được phân

tích ở đó trong các thao tác sơ đẳng của chúng (cộng và nhân lôgich học,

quan hệ liên can và sự không tương hợp, v.v...). Để thể hiện tác động của các

sem đón trước và của Complexerganzung, tức là những toàn bộ trí tuệ can

thiệp vào tư duy tích cực và sống động, trái lại lẽ ra phải có cho Selz một

lôgich học của bản thân các toàn bộ, và lúc đó các tương quan giữa trí khôn,

với tính cách là sự việc tâm lí học và lôgich học với tính cách như thế sẽ được

đặt thành những thuật ngữ mới có thể đã đưa đến một lời giải phát sinh một

cách thực chất. Trái lại Selz quá tôn trọng những khung lôgich tiên nghiệm,

Page 27: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mặc cho tính chất đứt quãng và nguyên tử luận của chúng, tất yếu kết thúc

bằng việc tìm thấy lại chúng nguyên như vậy với tính cách cái sót lại của sự

phân tích tâm lí học và bằng việc viện dẫn chúng trong chi tiết của những

luyện xây trí tuệ.

Nói tóm lại, "tâm lí học tư duy" cuối cùng đã đi đến việc biến tư duy

thành tấm gương của lôgich học, và chính đó là nguồn gốc của những khó

khăn mà nó không thể vượt qua được. Vấn đề lúc này là biết được xem nên

chăng đảo lại không thêm gì nữa các số hạng và biến lôgich học thành tấm

gương của tư duy, điều đó khôi phục lại cho tư duy tính độc lập tạo dựng của

nó.

* LÔGICH HỌC VÀ TÂM LÍ HỌC

Lôgich học là tấm gương của tư duy chứ không phải ngược lại, đó là

quan điểm mà chúng tôi đã đi đến (Lớp, quan hệ và số - Tiểu luận về những

nhóm hợp của lôgistich học và tính có thể đảo nghịch của tư duy, 1942) bằng

việc nghiên cứu sự hình thành các thao tác ở trẻ em, và điều đó sau khi đã

được thuyết phục ở điểm xuất phát về tính đúng đắn của định đề về tính bất

khả quy mà các "nhà tâm lí học tư duy" đã dựa theo. Điều đó cũng có nghĩa là

lôgich học là một thuyết nguyên tử về lí trí mà tâm lí học trí khôn là khoa học

thực nghiệm tương ứng. Chúng tôi nghĩ cần thiết phải nhấn mạnh một ít đến

điểm phương pháp đó.

Một thuyết tiên nghiệm là một khoa học chuyên suy diễn giả thuyết, tức

là nó rút gọn đến tối thiểu những chỗ dựa vào kinh nghiệm (nó còn có tham

vọng loại bỏ hoàn toàn những chỗ dựa đó) để tạo dựng lại một cách tự do

khách thể của nó nhờ vào những mệnh đề không chứng minh được (tiên đề),

mà vấn đề là phối hợp chúng với nhau theo mọi khả năng và theo cách chặt

chẽ nhất. Chính bằng cách đó mà hình học đã đạt được những tiến bộ lớn khi

trừu xuất mọi trực giác, nó xây dựng những không gian rất đa dạng bằng

cách định nghĩa đơn giản những yếu tố đều được thừa nhận bằng giả thuyết

và những thao tác mà các yếu tố này bị chi phối bởi chúng, vì vậy phương

pháp tiên đề là phương pháp toán học tiêu biểu nhất và nó tìm thấy nhiều ứng

Page 28: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

dụng, không chỉ trong toán học thuần túy mà cả trong nhiều lĩnh vực khác

nhau của toán học ứng dụng (từ vật lí học lí thuyết đến bản thân kinh tế học

toán học). Quả vậy, ích lợi của thuyết tiên đề vượt ích lợi của việc chứng

minh (tuy rằng trên địa bàn này nó tạo thành phương pháp chặt chẽ duy

nhất): trước những thực tế phức hợp và chống lại sự phân tích triệt để, nó

cho phép tạo dựng những mẫu hình được đơn giản hóa của thực tại và cung

cấp cho việc nghiên cứu thực tại những dụng cụ phân tích không gì thay thế

được. Một cách khái quát, một thuyết tiện đề tạo thành, như F. Gonseth đã

chỉ ra rất đúng, một "lược đồ" của thực tế và do sự việc là một trừu xuất dẫn

đến một sự lược đồ hóa, phương pháp tiên đề tóm lại là phương pháp của

bản thân trí khôn.

Nhưng đúng là do tính chất sơ đồ hóa của nó mà một thuyết tiên đề

không thể có tham vọng sáng lập và nhất là thay thế khoa học thực nghiệm

tương ứng, tức là thuộc lĩnh vực thực tế mà thuyết tiên đề tạo thành cái sơ đồ

(lược đồ). Chính vì vậy mà hình học tiên đề luận bất lực trong việc cho chúng

ta biết không gian của thế giới thực tại là cái gì (và kinh tế học thuần túy hoàn

toàn không thấu hết tính phức hợp của những sự việc kinh tế cụ thể). Thuyết

tiên đề không thể thay thế được khoa học quy nạp tương ứng với nó vì lẽ

chính yếu là sự thuần túy riêng của nó chỉ là một giới hạn không bao giờ đạt

được một cách hoàn toàn. Như Gonseth còn nói, luôn sót lại một chút cận

trực giác trong lược đồ thuần túy nhất (cũng vậy đã lọt vào một yếu tố sơ đồ

hóa trong mọi trực giác). Chỉ lí do duy nhất đó đủ để cho hiểu tại sao thuyết

tiên đề không bao giờ "lập ra" khoa học thực nghiệm và tại sao với mọi thuyết

tiên đề đều có thể tương ứng một khoa học như thế (chắc hẳn cái đảo nghịch

cũng vậy).

Điều đó nói lên rằng vấn đề về những tương quan giữa lôgich học hình

thức và tâm lí học trí khôn là có khả năng tiếp nhận một giải pháp so sánh

được với giải pháp kết thúc sau nhiều thế kỉ tranh cãi cuộc xung đột giữa hình

học diễn dịch và hình học thực tại hoặc vật thể. Như chính trường hợp của

hai loại bộ môn kia, lôgich học và tâm lí học trí khôn đã bắt đầu bị trùng khớp

Page 29: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hoặc không được phân biệt. Aristote nghĩ rằng đã viết một lịch sử tự nhiên

của trí tuệ (và lại cũng như của bản thân thực tại vật thể) khi phát biểu những

luật của tam đoạn luận. Khi tâm lí học được xây dựng thành một khoa học

độc lập, những nhà tâm lí học đã hiểu rõ (tuy đã bỏ vào đó không ít thời gian)

rằng những suy nghĩ trong các sách lôgich học về khái niệm, phán đoán và

lập luận không miễn trừ cho họ việc tìm tòi để làm sáng tỏ cơ chế nhân quả

của trí khôn. Duy có điều là do kết quả còn sót lại của sự không chia cách ban

đầu, họ tiếp tục coi lôgich học là một khoa học của thực tế, dù tính chất chuẩn

mực của nó vẫn được đặt trên cùng một bình diện với tâm lí học, nhưng

chuyên chăm lo sự suy nghĩ đúng, đối lập với sự suy nghĩ nói chung không kể

đến chuẩn mực nào. Từ đó mà có viễn cảnh hão huyền của

Denkpsychologize, theo viễn cảnh đó tư duy với tính cách là sự việc tâm lí

học tạo thành cái phản ánh của những luật lôgich học. Trái lại nếu lôgich học

là một thuyết tiên đề, cái sai của những quan hệ đan chéo lẫn nhau đó tan

biến đi do sự đảo nghịch các vị trí.

Mà dường như hiển nhiên là trong chừng mực mà lôgich học từ bỏ tính

không chính xác của ngôn ngữ nói để tạo thành, dưới cái tên lôgich học, một

algorit mà sự chặt chẽ ngang tầm sự chặt chẽ của ngôn ngữ toán học, nó đã

tự biến đổi thành một kĩ thuật theo thuyết tiên đề. Mặt khác người ta biết kĩ

thuật đó đã giao thoa nhanh chóng đến thế nào với những phần chung nhất

của toán học, đến mức lôgistich ngày nay đã có được một giá trị khoa học

độc lập với những triết học đặc biệt của những nhà lôgistich học (chủ nghĩa

Platông của Russell hoặc thuyết duy danh của câu lạc bộ Vienne). Ngay sự

việc những giải thích triết học để cho kĩ thuật bên trong của nó không thay

đổi, chỉ riêng sự việc đó, cũng chỉ ra rằng kĩ thuật này đã đạt trình độ của

thuyết tiên đề: vậy là lôgistich học tạo thành, không thêm gì nữa, một hình

mẫu lí tưởng của tư duy.

Vậy mà các tương quan giữa lôgich học và tâm lí học cùng được đơn

giản hóa. Lôgistich học không phải nhờ cậy ở tâm lí học bởi vì một vấn đề

thuộc về sự việc không thể can thiệp vào một học thuyết giả thiết - diễn dịch.

Page 30: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Ngược lại, thật là phi lí viện dẫn lôgistich học để giải quyết dứt điểm một vấn

đề thuộc về kinh nghiệm, như vấn đề cơ chế thực tại của trí khôn. Tuy nhiên,

trong chừng mực tâm lí học gắn bó với việc phân tích những trạng thái cân

bằng cuối cùng của tư duy, không có sự song hành mà có sự tương ứng giữa

tri thức thực nghiệm ấy với lôgistich học như có sự tương ứng giữa một lược

đồ và thực tế nó biểu hiện. Mỗi vấn đề mà một trong hai bộ môn nêu lên lúc

đó tương ứng với một vấn đề của bộ môn kia, mặc dầu phương pháp của

chúng lẫn giải pháp riêng của chúng không thể giao thoa.

Sự độc lập này của các phương pháp có thể được minh họa bằng một

ví dụ rất đơn giản, mà sự bàn bạc sẽ ích lợi cho chúng tôi về sau (phương 5

và 6). Là thông dụng nói rằng tư duy (thực tại) "áp dụng nguyên tác mâu

thuẫn", điều đó nếu hiểu đúng từng li từng tí giả định sự can thiệp của một

yếu tố lôgich học trong bối cảnh nhân quả của các sự việc tâm lí học và như

vậy mâu thuẫn với điều mà chúng ta vừa bênh vực. Mà nếu nắm cho chặt các

lời lẽ một sự khẳng định như vậy là hoàn toàn không có ý nghĩa. Quả vậy,

nguyên tắc mâu thuẫn hạn chế ở việc cấm đồng thời khẳng định và phủ định

một tính chất đã cho: A là không thế tương hợp với không A. Nhưng đối với

tư duy hữu hiệu của một chủ thể thực tại khó khăn bắt đầu khi chủ thể tự hỏi

xem anh ta có quyền hay không khẳng định đồng thời A và B, vì không bao

giờ lôgich học quy định trực tiếp xem B bao hàm A hay không. Chẳng hạn

người ta có thể nói về một quả núi chỉ cao 100 mét hay không, hoặc đó là

mâu thuẫn? Người ta có thể vừa cộng sản vừa yêu nước không? Người ta có

thể hình dung một hình vuông có góc không bằng nhau không? v.v... Để biết

điều đó, chỉ có hai cách thức. Cách thức lôgich học gồm việc xác định A và B

một cách hình thức và tìm xem B có bao hàm không - A không. Nhưng lúc đó

việc ”áp dụng" "nguyên tắc" mâu thuẫn chỉ liên quan thuần túy đến các định

nghĩa, tức là đến những khái niệm đã được tiên đề hóa chứ không phải đến

những khái niệm sống động mà tư duy dùng đến trong thực tế. Cách thức mà

tư duy thực tại tuân theo trái lại gồm không phải việc lập luận chỉ trên cái định

nghĩa mà thôi, điều đó không ích lợi gì cho nó (định nghĩa về phương diện đó

chỉ là một nhận thức nhìn về dĩ vãng và không đầy đủ mã hành động và thao

Page 31: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tác bằng cách xây dựng các khái niệm theo các khả năng cấu tạo của những

hành động hay những thao tác đó. Mọi khái niệm quả thật chỉ là một sem

hành động hay thao tác và chính là hàng cách thực hiện các hành động đẻ ra

A và B mà người ta nhận ra xem chúng có tương hợp hay không. Hoàn toàn

không phải "áp dụng một nguyên tắc" mà các hành động được tổ chức tùy

theo những điều kiện bên trong của sự mạch lạc, và chính là cấu trúc của tổ

chức này tạo thành sự việc tư duy thực tại tương ứng với cái mà trên bình

diện theo thuyết tiên đề, người ta gọi "nguyên tắc mâu thuẫn".

Quả thật là ngoài sự liên kết cá nhân của những hoạt động, còn xảy ra

trong tư duy những tác động qua lại mang tính chất tập thể và do đó những

"chuẩn mực" được ngay sự cộng tác này áp đặt. Nhưng sự hợp tác chỉ là một

hệ thống hành động hoặc cả thao tác thực hiện chung, và người ta có thể làm

lại lập luận trước đó về những biểu tượng tập thể mà bản thân chúng cũng

vẫn nằm trên bình diện những cấu trúc thực tại đối lập với những sự tiên đề

hóa có tính chất hình thức.

Vậy vấn đề vẫn còn lại toàn vẹn đối với tâm lí học, phải hiểu bằng cơ

chế nào trí khôn đi đến chỗ xây dựng những cấu trúc mạch lạc có khả năng

cấu tạo thao tác; và không ích lợi gì viện dẫn những "nguyên tắc" mà trí khôn

đó sẽ áp dụng một cách hồn nhiên vì những nguyên tác lôgich học là sự việc

của lược đồ lí thuyết được phát biểu sau đó. khi tư duy đã được tạo dựng,

chứ không phải sự việc của bản thân sự tạo dựng sống động đó. Trí khôn,

Brunschvig đã nói rất sâu sắc, thắng các trận hoặc hiến thân như thơ ca cho

một sự sáng tạo liên tục trong khi sự suy diễn lôgistich chỉ có thể so sánh

được với các sách về chiến lược và các "thi pháp" quy tắc hóa những chiến

thắng đã qua của hành động hay của trí tuệ, nhưng không bảo đảm những

chiến trận tương lai.

Tuy nhiên, và chính bởi vì thuyết tiên đề lôgich học sau đồ lược đó hóa

công việc thực tại của trí tuệ, mọi khám phá trên một trong hai bình diện có

thể tạo ra một vấn đề trên bình diện kia. Không nghi ngờ rằng những lược đồ

lôgich học thường hay giúp đỡ, bằng sự tinh tế của chúng, sự phân tích của

Page 32: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

các nhà tâm lí học. Tâm lí học tư duy của Đức là một ví dụ tốt. Nhưng ngược

lại, khi các nhà tâm lí học khám phá với Selz, với các nhà "Hình thức học” và

nhiều người khác, vai trò các toàn bộ và các tổ chức tổng thể trong công việc

của tư duy, không có một lí do nào để coi lôgich học cổ điển hoặc ngay cả

lôgistich học hiện tại, vẫn còn ở một thể thức mô tả gián đoạn và theo thuyết

nguyên tử, như là không thể động chạm đến và cuối cùng, cũng không thể

biến chúng thành một mẫu hình mà tư duy sẽ là tấm gương; hoàn toàn trái lại,

vấn đề là tạo dựng một lôgich học của các toàn thể, nếu người ta muốn dùng

nó làm lược đồ thích đáng cho các trạng thái cân bằng của trí tuệ, và phân

tích các thao tác mà không quy chúng về những yếu tố riêng rẽ không đầy đủ

theo quan điểm của những đòi hỏi tâm lí học.

* CÁC THAO TÁC VÀ NHỮNG "NHÓM HỢP" CỦA CHÚNG

Tảng đá ngầm lớn của một lí thuyết về trí khôn xuất phát từ sự phân

tích tư duy dưới những hình thức cao cấp của nó, đó là nỗi ám ảnh mà những

sự dễ dàng của tư duy bằng lời ảnh hưởng đến ý thức. P. Janet đã chỉ ra một

cách tuyệt vời ngôn ngữ đã thay thế một phần hành động như thế nào, đến

mức mà sự nội quan cảm thấy nỗi khó khăn lớn nhất trong việc phân định

bằng những phương tiện duy nhất của nó rằng nó còn là một ứng xử thực

thụ: sự cư xử bằng lời là một hành động, chắc chắn là đã bị giảm đi và vẫn

giữ tinh chất nội hiện, một phác thảo hành động có nguy cơ luôn luôn vẫn ở

trạng thái dự định, nhưng dẫu sao cũng là một hành động chỉ đơn giản thay

thế các sự vật bằng kí hiệu và những cử động bằng sự gợi chúng ra, nhưng

vẫn còn thao tác, trong ý nghĩ, bằng phương tiện của những môi giới. Mà coi

nhẹ mặt tích cực đó của tư duy bằng lời, sự nội quan chỉ thấy ở tư duy có sự

suy nghĩ, sự suy lí và biểu tượng khái niệm: từ đó mà các nhà tâm lí học nội

quan có ảo tưởng rằng trí khôn tự rút gọn lại thành những trạng thái kết thúc

có lợi thế và những nhà lôgich học có ảo tưởng rằng sơ đồ lôgistich thích

đáng nhất phải là chủ yếu một lí thuyết của các "mệnh đề".

Để đạt được sự hành chức thực tại của trí khôn, điều quan trọng vậy là

đảo ngược sự vận động tự nhiên của trí tuệ và đặt mình vào trong viễn cảnh

Page 33: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

của bản thân hành động: chỉ lúc đó vai trò của hành động bên trong - là thao

tác mới hiện ra đầy đủ dưới ánh sang. Và ngay bằng sự việc, được đặt ra sự

liên tục nối liền thao tác với hành động thực thụ - nguồn gốc và môi trường

của trí khôn. Không gì chuyên nhất hơn cho việc soi sáng viễn cảnh đó bằng

sự suy ngẫm về thứ ngôn ngữ đó - cũng còn là ngôn ngữ, nhưng thuần túy trí

tuệ, trong suốt và xa lạ với những lừa phỉnh của hình ảnh - là ngôn ngữ toán

học. Trong một biểu thức nào đó, như X² + Y = z.a (mỗi vế xét đến cùng chỉ

một hành động: cái dấu (=) biểu thị khả năng của một sự thay thế, kí hiệu (+)

biểu thị một sự tụ họp, kí hiệu (-) một sự xa cách; số bình phương (X²), hành

động nhân X lần X, và mỗi trong các giá trị a, x, y và z hành động nhân một số

lần đơn vị. Mỗi một trong các tượng trưng đó được quy chiếu vào một hành

động có thể là thực tại nhưng mà tư duy toán học hạn chế ở việc chỉ ra một

cách trừu tượng dưới hình thức những hành động nội hiện, tức là thao tác

của tư duy.

Mà nếu sự vật là hiển nhiên trong trường hợp của tư duy toán học, nó

không kém phần thực tại trong trường hợp của tư duy lôgich học và ngay cả

của ngôn ngữ thông thường, trên quan điểm kép của sự phân tích lôgistich

học và sự phân tích tâm lí học. Chính bằng cách đó mà hai lớp có thể được

cộng lại như hai số. Trong: "Các loài có xương sống và các loài không có

xương sống tất cả đều là loài vật", từ "và" (hoặc kí hiệu lôgistich +) biểu thị

một hành động tụ họp có thể được thực hiện một cách vật chất, trong việc

xếp thứ bậc (phân loại) một bộ các đồ vật nhưng mà tư duy cũng có thể thực

hiện nhẩm trong óc. Cũng như người ta có thể phân loại cùng một lúc theo

nhiều quan điểm, như trong một cái bảng có hai lối vào và phép tính đó (mà

lôgistieh học gọi là phép nhân lôgich: kí hiệu X) quá tự nhiên đối với trí tuệ tới

mức nhà tâm lí học Spearman đã biến nó dưới cái tên "giáo dục các phép đối

xạ", một trong những đặc tính của hành vi trí khôn. "Paris đối với nước Pháp

như Luân Đôn đối với nước Anh". Người ta có thể chia loại các tỉ số: A < B; B

< C và tỉ số kép đó nó cho phép kết luận rằng C lớn hơn A, là sự tái tạo trong

ý nghĩ hành động mà người ta có thể thực hiện một cách vật thể bằng cách

xếp thành hàng ba đồ vật theo các đại lượng càng lớn lên của chúng. Người

Page 34: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

ta cũng có thể sắp xếp thứ tự theo nhiều tỉ số cùng một lúc và người ta lại rơi

vào một dạng khác của phép nhân lôgich học hoặc của sự tương quan đối xạ

v.v...

Nếu bây giờ người ta xem xét các số hạng như chúng là như vậy, tức

là những cái gọi là yếu tố của tư duy, khái niệm về lớp hoặc quan hệ, người

ta còn thấy lại ở chúng cùng một tính chất thao tác như trong các kết hợp của

chúng. Một khái niệm về lớp, về mặt tâm lí học chỉ là sự diễn đạt tính đồng

nhất trong phản ứng của chủ thể đối với khách thể mà nó tụ họp lại thành một

lớp: theo lôgich học, sự đồng hóa tích cực đó được thể hiện bằng sự tương

đương định tính của tất cả các yếu tố của lớp. Cũng vậy một tỉ số bất đối

xứng (± nặng hoặc lớn) diễn tả những cường độ khác nhau của hành động,

tức là những khác biệt do đối lập với những cái tương đương, và được thể

hiện về mặt lôgich học bằng những cấu trúc chia loại.

Tóm lại, đặc tính cơ bản của tư duy lôgich là có tính chất thao tác, tức

là kéo dài hành động bằng cách nội hiện nó. Về điểm đó, người ta liên minh

những ý kiến xuất phát từ những trường phái rất khác nhau, từ những lí

thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa và thực dụng chủ nghĩa hạn chế trong sự khẳng

định sơ đẳng đó bằng cách dành cho tư duy hình thức của một "thử nghiệm

tinh thần" (Mach, Rignano, Chaslin) cho đến những giải thích theo tinh thần

tiên nghiệm (Delacroix). Hơn nữa, giả thiết đó phù hợp với những sơ đồ hóa

lôgistich khi chúng hạn chế trong việc tạo dựng một kĩ thuật và không kéo dài

thành một thứ triết học phủ nhận sự tồn tại của cùng những thao tác mà trên

thực tế chúng không ngừng sử dụng.

Tuy nhiên, không phải là đã nói hết tất cả như vậy, vì thao tác không

thu gọn lại thành một hành động tầm thường nào đó, và nếu hành vi thao tác

được rút ra từ hành vi hữu hiệu, khoảng cách phải vượt vẫn còn khá lớn giữa

hai thứ hành vi, mà chúng ta sẽ xem xét chi tiết khi nói về sự phát triển của trí

khôn (các chương 4 và 5).

Thao tác duy lí chỉ có thể đem so sánh với một hành động đơn giản với

điều kiện xem xét nó ở trạng thái riêng rẻ, nhưng chính cái sai cơ bản của các

Page 35: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

lí thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa của "thử nghiệm tinh thần" là lợi dụng những

thao tác riêng rẽ: một thao tác độc nhất không phải là một thao tác, mà vẫn

nằm ở trạng thái của biểu tượng trực giác đơn giản. Tính chất đặc thù của

các thao tác so sánh với các hành động kinh nghiệm chủ nghĩa là trái lại ở

chỗ chúng không bao giờ tồn tại ở trạng thái đứt quãng. Chính là với một sự

trừu tượng hóa hoàn toàn không chính đáng mà người ta nói tới "một" thao

tác: một thao tác độc nhất không thể là một thao tác, vì cái riêng biệt của các

thao tác là tạo thành những hệ thống. Ở đây phải phản ứng kiên quyết với

thuyết nguyên tử lôgich học, mà sơ đồ đè nặng lên tâm lí học tư duy. Để nắm

bắt tính chất thao tác của tư duy duy lí, phải đạt đến những hệ thống với tư

cách chúng là như vậy và nếu các sơ đồ lôgich học tầm thường che lắp sự

tồn tại của chúng, phải tạo dựng một lôgich học của những toàn bộ.

Chính bằng cách đó, để bắt đầu từ trường hợp đơn giản nhất, mà tâm lí

học cũng như lôgich học cổ điển nói về khái niệm với tính cách là yếu tố của

tu duy. Mà một "lớp" không thể tồn tại bởi tự nó và điều này không phụ thuộc

vào sự việc là định nghĩa của nó nhờ cậy tới những khái niệm khác. Với tính

cách là công cụ của tư duy thực tại và không kể đến định nghĩa lôgich học

của nó, nó chỉ là một yếu tố được "cấu trúc hóa" chứ không phải là yếu tố "tạo

nên những cấu trúc" hoặc ít nhất nó đã được "cấu trúc hóa" trong chừng mực

nó tạo nên những cấu trúc: nó chỉ có thực tế khi phụ thuộc vào tất cả những

yếu tố mà nó chống lại hoặc trong đó nó bị lồng vào (hoặc bản thân nó lồng

vào). Một lớp giả định một sự "phân loại” (phân lớp) và sự việc khởi đầu được

tạo nên bởi sự phân loại này vị chính các thao tác phân loại đẻ ra các lớp

riêng biệt. Độc lập với một sự phân loại tổng thể, một thuật ngữ phát sinh

không chỉ một lớp, mà một bộ sưu tập trực giác.

Cũng vậy, một quan hệ bất đối xứng bắc cầu, như A < B không tồn tại

với tính cách là quan hệ (mà chỉ với tính cách là tỉ số tri giác hoặc trực giác)

không có khả năng tạo dựng cả một chuỗi những quan hệ khác được chia

loại như A < B < C <... vì khi chúng ta nói nó không tồn tại với tinh cách là

quan hệ phải hiểu sự phủ định đó trong nghĩa cụ thể nhất của thuật ngữ vì

Page 36: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chúng ta sẽ thấy (chương 5) rằng trẻ em đúng là không có khả năng suy nghĩ

bằng những quan hệ trước khi biết chia loại. Vậy sự chia loại là thực tế thứ

nhất mà một quan hệ bất đối xứng nào đó chỉ là một yếu tố trừu tượng nhất

thời.

Những ví dụ khác: một "đối xạ" theo nghĩa của Spearman (Con chó đối

với con sói như con mèo đối với con hổ) chỉ có ý nghĩa phụ thuộc vào một

bảng có hai lối vào. Một quan hệ thân thuộc (anh – em, chú v.v....) quy chiếu

vào tập hợp đó một cây phả hệ tạo thành, v.v... Nên chăng cũng nhắc lại rằng

một số nguyên chỉ tồn tại với tính cách yếu tố của một dãy các số được sinh

ra bằng thao tác + 1), rằng một quan hệ không gian giả định cả một không

gian, một quan hệ thời gian bao hàm sự nắm bắt thời gian với tính cách sem

độc nhất. Và trên một địa hạt khác, nên chăng nhấn mạnh sự việc là một giá

trị chỉ có giá trị tùy thuộc ở một "thang" đầy đủ các giá trị, nhất thời hay ổn

định ?

Tóm lại, trong bất cứ lĩnh vực nào của tư duy được tạo dựng (đối lập

đúng với các trạng thái mất cân bằng đặc trưng cho sự phát sinh của nó),

thực tế tâm lí học bao hàm những hệ thống thao tác tổng thể chứ không phải

những thao tác riêng rẽ được quan niệm như những yếu tố, có trước so với

những hệ thống này; vậy chính là chỉ với tư cách những hoạt động hoặc

những biểu tượng trực giác được tổ chức thành những hệ thống như vậy mà

chúng (những hoạt động và những biểu tượng) có được (và chúng có được là

nhờ bản thân sự việc) tính chất "thao tác". Vấn đề chủ yếu của tâm lí học tư

duy lúc này là rút ra những quy luật cân bằng từ những hệ thống ấy cũng như

vấn đề trung tâm của một lôgich học muốn thích đáng với công việc thực tại

của trí óc đối với chúng tôi dường như là trình bày những quy luật của các

toàn bộ ấy với tư cách chúng là như vậy.

Mà sự phân tích mang tính chất toán học từ lâu đã khám phá ra sự phụ

thuộc lẫn nhau của các thao tác tạo thành một số hệ thống rất xác định: khái

niệm "nhóm", được áp dụng cho dãy các số nguyên cho các cấu trúc không

gian, thời gian, vào các phép tính đại số v.v... như vậy trở thành một khái

Page 37: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

niệm trung tâm ngay trong sự sắp xếp của tư duy toán học. Trong trường hợp

những hệ thống định tính riêng của tư duy lôgich học đơn thuần như những

việc phân loại đơn giản, những bảng hai lối vào, những sự chia loại các quan

hệ, những cây phả hệ, v.v...; chúng tôi gọi "những nhóm hợp", những hệ

thống tổng thể tương ứng. Về mặt tâm lí học, "nhóm hợp" bao hàm một số

hình thức cân bằng các thao tác, tức là những hành động đã được nội hiện và

được tổ chức thành cấu trúc tổng thể và vấn đề là nêu tính chất của sự cân

bằng đó, vừa tỉ lệ với những trình độ phát sinh khác nhau chuẩn bị cho sự

cân bằng đó, vừa đối lập với những dạng cân bằng riêng của các chức năng

khác với trí khôn (các cấu trúc tri giác hoặc vận động v.v...). Trên quan điểm

lôgich học, "nhóm hợp" có một cấu trúc rất xác định (bà con – với cấu trúc của

"nhóm" nhưng có khác ở một vài điểm chủ yếu) và biểu hiện một chuỗi liên

tiếp các khác biệt lưỡng phân: những quy tác thao tác của nó vậy là tạo thành

đúng là các lôgich của các toàn bộ thể hiện thành một sơ đồ, theo thuyết tiên

đề hoặc hình thức, công việc hữu hiệu của trí tuệ ở trình độ thao tác của sự

phát triển của nó tức là ở hình thức cân bằng cuối cùng của nó.

* Ý NGHĨA CHỨC NĂNG VÀ CẤU TRÚC CỦA CÁC "NHÓM HỢP"

Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc nối trong một lúc những suy nghi vừa

trình bày với những gì mà "tâm lí học tư duy" đã bày cho chúng ta. Theo Selz,

lời giải của một vấn đề giả định trước hết một "sem đón trước” nối lièn mục

đích phải đạt với một "phức hợp" khái niệm, mà so với phức hợp này nó tạo

ra một lỗ hổng, và thứ đến sự "lấp đầy" cái sem đón trước đó bằng những

khái niệm và quan hệ đến bổ sung đầy đủ cái phức hợp và được sắp xếp

theo các quy luật lôgich học. Từ đó một loạt câu hỏi: Những luật tổ chức của

"phức hợp" tổng số là gì ? Tính chất của sem đón trước là gì? Có thể loại bỏ

hay không sự nhị nguyên hình như đang tồn tại giữa sự hình thành sem đón

trước và chi tiết các quá trình quy định sự lấp đầy của nó ?

Chúng ta hãy lấy làm ví dụ một thí nghiệm lí thú nhờ vào cộng tác viên

André của chúng tôi. Một hình vuông được vẽ lên một tờ giấy cũng hình

vuông (có cạnh 10 đến 15 cm), người ta bảo chủ thể vẽ cái hình vuông nhỏ

Page 38: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

nhất có thể được bằng bút chì, cũng như hình vuông lớn nhất mà người ta có

thể hình dung (vẽ) được trên một tờ giấy như thế. Thế là trong khi người lớn

(và những trẻ từ 7 - 8 tuổi) đạt đến tức khắc việc cung cấp một hình vuông có

cạnh 1 - 2mm cũng như một hình vuông cạnh chạy sát mép tờ giấy, những trẻ

dưới 6-7 tuổi trước tiên chĩ vẽ những hình vuông hơi nhỏ hơn hay hơi lớn

hơn hình mẫu một ít, rồi tiến hành bằng mầy mò liên tiếp và thường không kết

quả, làm như chúng không một lúc nào đón trước những lời giải cuối cùng.

Người ta thấy ngay trong trường hợp này sự can thiệp của một "nhóm hợp"

của các quan hệ bất đối xứng (A<B<C<...) hiện diện ở người lớn và hình như

không có ở trẻ dưới 7 tuổi: cái hình vuông được tri giác nằm trong ý nghĩ ở

một loạt hình vuông ảo giác càng ngày càng lớn và càng ngày càng nhỏ so

với cái đầu tiên. Lúc đó người ta có thể chấp nhận: 1) rằng cái sem đón trước

chỉ là cái sem của ngay bản thân "nhóm hợp", tức là ý thức về chuỗi liên tiếp

những thao tác có thể có; 2) rằng sự lấp đầy của sem là cách sử dụng đơn

giản các phép tính ấy. 3) rằng sự tổ chức của "phức hợp" các khái niệm có

trước dựa ngay vào các quy luật của "nhóm hợp". Nếu lời giải đó khái quát,

khái niệm "nhóm hợp" như vậy là đưa sự thống nhất vào giữa hệ thống có

trước của các khái niệm, cái sem đón trước và sự lấp đầy có kiểm soát của

nó.

Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ đến tập hợp những vấn đề cụ thể mà trí

óc đang vận động luôn đặt ra: cái này là cái gì? Hơn hay kém (lớn, nặng, xa

v.v...)? Ở đâu ? Khi nào ? Do nguyên nhân gì ? Nhằm mục đích gì ? Bao

nhiêu ? v.v và v.v... Chúng ta nhận ra rằng mỗi câu hỏi đó là tất vếu tùy thuộc

vào một "nhóm hợp" hoặc một nhóm; mỗi cá nhân đều sẵn có những phân

loại, chia loại, hệ thống giải thích, không gian và niên đại riêng, thang các giá

trị v.v... cũng như không gian và thời gian được toán học hóa những dãy số.

Mà những nhóm hợp này không sinh ra khi có câu hỏi đặt ra mà kéo dài suốt

cả đời; ngay từ tuổi thơ, chúng ta phân loại, so sánh (khác nhau hay tương

đương), xếp sắp thứ tự trong không gian và trong thời gian, giải thích, đánh

giá mục đích và phương tiện của chúng ta, đếm v.v... chính trong quan hệ với

các hệ thống tổng thể đó mà các bài toán được đặt ra đúng trong chừng mực

Page 39: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mà những sự việc mới nổi lên mà chưa được phân loại, chia hạng v.v... Cái

câu hỏi định hướng cái sem đón trước vậy là tiến hành từ cái nhóm hợp có

trước, và cái sem đón trước bản thân nó không gì khác là cái hướng mã câu

trúc của nhóm hợp ấy cho sự tìm kiếm. Mỗi bài toán, cả về cái liên quan đến

giải thích đón trước của lời giải cũng như về sự kiểm tra chi tiết cái này (lời

giải) chi bao gồm một hệ thống đặc biệt các phép tính cần thực hiện trong nội

bộ của nhóm hợp tổng thể tương ứng. Để tìm ra đường đi, không cần thiết

phải tạo dựng lại toàn bộ không gian, mà chỉ đơn giản bổ sung sự lấp đầy ở

một khu vực nhất định. Để đoán trước một sự cố sửa chữa chiếc xe đạp của

mình, lập quy hoặc lập chương trình hoạt động, không cần thiết phải đúc lại

tất cả tính nhân quả và thời gian, ôn lại tất cả những giá trị đã được công

nhận v.v...: lời giải cần tìm chỉ kéo dài và hoàn chỉnh những tỉ số đã được

nhóm lại, dù phải sửa cái nhóm hợp khi có những sai sót chi tiết và đặc biệt là

chia nhỏ nó ra và phân biệt hóa nó đi, nhưng không phải là xây dựng lại toàn

bộ. Còn về việc thử lại, nó chỉ có thể có được tùy theo những quy tắc của bản

thân nhóm hợp: bằng sự hòa hợp của những quan hệ mới với hệ thống

trước.

Sự việc đáng chú ý trong sự đồng hóa liên tục từ thực tại đến trí khôn,

đó là "quả vậy", sự cân bằng của các khung đồng hóa được nhóm hợp tạo

dựng. Trong toàn bộ sự hình thành ra nó, tư duy ở trong trạng thái mất cân

bằng hoặc có cân bằng không ổn định: mọi thụ đắc mới thay đổi các khái

niệm có trước hoặc có nguy cơ đem đến mâu thuẫn.

Trái lại ngay ở trình độ thao tác, các khung để phân loại và chia hạng,

các khung không gian và thời gian. v.v... được xây dựng dần dần, đến sáp

nhập vào mà không hề có va chạm giữa những yếu tố mới: cái giá nhiều ngăn

đặc biệt cần tìm, cần bổ sung hoặc đưa thêm hoàn toàn không làm lung lay

sự vững chắc của tổng thể, mà hòa hợp với tổng thể. Chính là vì vậy, để lấy

một ví dụ tiêu biểu nhất của sự cân bằng các khái niệm đó mà một khoa học

chính xác mặc cho tất cả những "khủng hoảng" và những sự soạn lại mà nó

muốn ảo tưởng để chứng thực sức sống của mình, không kém phần tạo nên

Page 40: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

một bộ khái niệm mà chi tiết các tương quan được gìn giữ và thắt chặt lại nữa

mỗi khi có sự bổ sung mới những sự việc hoặc nguyên tác, vì những nguyên

tác mới dù có cách mạng đến mấy, gìn giữ các nguyên tác cũ với tính cách là

những sự phỏng chừng đầu tiên liên quan đến một thang nhất định: sự sáng

tạo liên tục và không dự đoán trước được mà khoa học chứng tỏ, không

ngừng sát nhập vào quá khứ riêng của mình. Người ta tìm thấy lại cùng một

hiện tượng ây, nhưng thu nhỏ lại, trong tư duy của mọi người có đầu óc cân

bằng.

Hơn nữa, so sánh với sự cân bằng bộ phận của các cấu trúc tri giác

hoặc vận động, sự cân bằng các nhóm hợp là chủ yếu một sự "cân bằng cơ

động": các thao tác là những hành động, sự cân bằng của tư duy thao tác

không phải là sự nghỉ yên mà là một hệ thống những trao đổi bù chì cho

nhau, những biến đổi luôn được những biến đổi khác đến cho. Đó là sự cân

bằng của một loại nhạc phức điệu chứ không phải của hệ thống những khối

trơ ì, không có gì liên quan đến sự ổn định giả, đôi khi là kết quả do tuổi tác

của sự chậm chạp lại của các nỗ lực trí tuệ.

Vậy vấn đề là, và chính đó là nội hàm của mọi vấn đề nhóm hợp, xác

định những điều kiện của sự cân bằng để sau đó có thể tìm thấy, trên quan

điểm phát sinh, nó được tạo thành như thế nào. Mà những điều kiện đó có

thể đồng thời được khám phá ra bằng quan sát và thử nghiệm tâm lí học và

được phát triển theo loại chính xác mà một sơ đồ theo thuyết tiên đề chứa

đựng. Những điều kiện đó, dưới góc độ tâm lí học, tạo thành những yếu tố có

tính chất nhân quả, giải thích cơ chế của trí khôn, đồng thời sự sơ đồ hóa

theo thuyết lôgistich của chúng cung cấp những quy tắc của lôgich học các

toàn bộ.

Những điều kiện đó gồm có 4 trong trường hợp các "nhóm" có tính chất

toán học và có 5 trong trường hợp của các "nhóm hợp" có tính chất định tính.

1. Hai yếu tố bất kì của một nhóm hợp có thể được so sánh với nhau và

như vậy chúng đẻ ra một yếu tố mới của cùng nhóm hợp đó: hai lớp riêng biệt

có thể hợp lại thành một lớp tổng thể lồng khít các lớp kia; hai quan hệ A < B

Page 41: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

và B < C có thể nối lại thành một quan hệ A < C chứa đựng các quan hệ kia

v.v... Về mặt tâm lí học, điều kiện đầu tiên này biểu thị sự phối hợp có thể

được của các thao tác.

2. Mọi biến đổi đều có thể đảo nghịch. Chính vì vậy mà hai lớp hoặc hai

quan hệ hợp lại ngay lập tức có thể được tách riêng ra và trong tư duy toán

học mỗi thao tác trực tiếp của một nhóm chứa đựng một thao tác ngược lại

(phép trừ cho phép cộng, phép nhân cho phép chia v.v,...). Sự có thể đảo

nghịch đó chắc hẳn là tính chất đặc thù nhất của trí khôn, vì nếu tính vận

động và sự tri giác biết đến sự bố cục, chúng là không thể đảo nghịch. Một

thói quen vận động có hướng độc nhất, và học thực hiện các cử động theo

một hướng khác bao gồm việc đạt được một thói quen mới. Một tri giác tổng

thể đảo nghịch bởi vì khi mỗi xuất hiện của một yếu tố khách quan mới trong

trường tri giác, có việc "chuyển dịch sự cân bằng" và nếu khôi phục lại một

cách khách quan tình huống xuất phát sự tri giác được biến đổi bằng những

trạng thái trung gian. Trí khôn trái lại có thể xây dựng các giả thuyết rồi loại bỏ

chúng trở về điểm xuất phát, đi một đoạn đường và đi lại đoạn đường đó theo

chiều ngược lại mà không thay đổi các khái niệm được sử dụng. Mà tư duy

của trẻ em đúng là, như chúng ta sẽ thấy ở chương 5, càng không thể đảo

nghịch lúc đứa trẻ càng nhỏ và gần hơn với những sem tri giác - vận động,

hoặc trực giác, của trí khôn ban đầu: tính có thể đảo nghịch như vậy là đặc

trưng cho không chỉ những trạng thái cân bằng cuối cùng mà còn cho bản

thân những quá trình tiến hóa nữa.

3. Sự Cấu tạo các thao tác là có thể "kết hợp" (theo nghĩa lôgich học

của thuật ngữ); tức là tư duy luôn vẫn tự do làm những khúc vòng quanh, và

một kết quả đạt được bằng hai con đường khác nhau vẫn giữ là như nhau

trong cả hai trường hợp. Tính chất đó hình như cũng là riêng của trí khôn. Sự

tri giác cũng như tính vận động chỉ biết mỗi một con đường duy nhất, bởi vì

thói quen là thuộc chứng lặp lại một cách máy móc và trong sự tri giác, hai

con đường khác nhau dẫn đến những kết quả khác nhau (ví dụ, cùng một

nhiệt độ được tri giác sau những thời hạn so sánh khác nhau hình như không

Page 42: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

cùng là như nhau nữa). Sự xuất hiện các khúc vòng quanh là đặc trưng của

trí khôn cảm giác vận động và tư duy càng tích cực và cơ động bao nhiêu,

các khúc vòng quanh càng có vai trò ở đó, nhưng chỉ trong một hệ thống

thường xuyên cân bằng chúng mới để cho thời hạn cuối cùng của sự tìm

kiếm không đổi.

4. Một thao tác kết hợp với cái nghịch của nó là bị triệt tiêu (ví + 1-1 = 0

hoặc x 5: 5 = x 1. Trong những dạng ban đầu của tư duy trẻ em, trái lại, sự

quay trở lại điểm xuất phát không đi kèm với một sự bảo toàn cái này: ví dụ,

sau khi làm một giả thiết mà sau đó trẻ vứt bỏ đứa trẻ không tìm thấy lại

nguyên xi những dữ kiện của bài toán bởi vì chúng còn bị biến dạng bởi giả

thiết tuy đã bị vứt bỏ.

5. Trong địa hạt các số, một đơn vị thêm vào cho bản thân nó tạo ra

một số mới, do áp dụng sự cấu tạo (1): có sự lặp lại. Trái lại, một yếu tố định

tính được lặp lại không biến đổi: lúc đó có sự "trùng ý" A + A = A

Nếu người ta biểu thị năm điều kiện đó của nhóm hợp thành một sơ đồ

lôgistich, người ta cuối cùng đi đến những công thức đơn giản sau đây: 1/

Cấu tạo: x + x’ = y; y + y’ = z v.v... 2/ Đảo nghịch: y - x = x’ hoặc y - x’ = x 3/

Kết hợp: (x + x’) + y’ = x(x’ + y’) = (z) 4/ Thao tác đồng nhất chung: x - x = 0; y

- y = 0; v.v... 5/ Trùng ý hoặc đồng nhất riêng: x + x = x; y + y = y; v.v... Lẽ

đương nhiên một sự tính toán các biến đổi lúc đó trở thành có thể được,

nhưng nó đòi hỏi, do sự có mặt những trùng ý, một số quy tắc nào đó mà ta

không cần đi vào chi tiết (xem tác phẩm của chúng tôi: Lớp, quan hệ và số,

Paris, Vrin (1942).

* PHÂN LOẠI CÁC "NHÓM HỢP" VÀ CÁC THAO TÁC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY

Việc nghiên cứu những vận động của tư duy đang tiến hóa, ở trẻ em,

dẫn đến sự thừa nhận không chi sự tồn tại của các nhóm hợp mà còn sự liên

kết lẫn nhau của chúng, tức là những tương quan cho phép xếp loại chúng và

kiểm kê chúng. Sự tồn tại tâm lí học của một nhóm hợp được nhận thấy dễ

dàng qua các thao tác rõ ràng mà một chủ thể có thể làm được. Nhưng còn

Page 43: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

có hơn thế: hễ không có nhóm hợp, không thể có sự bảo toàn các tập hợp và

các toàn bộ, còn sự xuất hiện một nhóm hợp được chứng thực bằng sự xuất

hiện một nguyên tắc bảo toàn. Chẳng hạn, chủ thể có khả năng lập luận bằng

thao tác với cấu trúc của nhóm hợp sẽ được bảo đảm trước rằng một toàn bộ

được bảo toàn độc lập với sự sắp xếp của các bộ phận, trong khi chủ thể

trước đó còn đặt vấn đề nghi ngờ. Chúng ta sẽ nghiên cứu ở chương 5 sự

hình thành của các nguyên tác bảo toàn ấy để nêu rõ vai trò của nhóm hợp

trong sự phát triển của lí trí.

Nhưng để sự trình bày được sáng tỏ, điều quan trọng là mô tả trước

các trạng thái cân bằng cuối cùng của tư duy, để mà sau đó xem xét các yếu

tố phát sinh có khả năng giải thích sự cấu tạo của tư duy. Để tránh nguy cơ

của một sự liệt kê trừu tượng và có tính lược đồ, chúng tôi hoàn chỉnh các

suy nghĩ trước bằng cách kể ra những nhóm hợp chính, khi đã đồng ý với

nhau rằng bảng này chỉ đơn giản trình bày cấu trúc kết thúc của trí khôn và

rằng vấn đề phải tìm hiểu sự hình thành của chúng vẫn còn là nguyên vẹn.

Một hệ thống đầu tiên của nhóm hợp được lập thành bởi những thao

tác được gọi là lôgich, tức là bởi những thao tác xuất phát từ những yếu tố cá

nhân được coi là không đổi và chỉ hạn chế do việc xếp loại chúng, chia hạng

chúng v.v...

1. Sự nhóm hợp lôgich đơn giản nhất là sự nhóm hợp phân loại, hoặc

việc lồng vào nhau theo cấp bậc các lớp. Nó dựa trên một thao tác cơ bản

đầu tiên: sự hội họp các cá nhân thành lớp, và các lớp với nhau. Mẫu hình

hoàn chỉnh được tạo thành bởi những sự phân loại động vật hoặc thực vật,

nhưng mọi phân loại định tính được tiến hành theo cùng một sơ đồ lưỡng

phân:

Giả định một loại A, bộ phận của loài B, của họ C, v.v... Loài B chứa

đựng những loại khác ngoài A: chúng ta gọi chúng là A’ (cho là A’ = B – A).

Họ C chứa đựng những loài khác ngoài B: chúng ta gọi chúng B’ (cho là B’ =

C - B) v.v... Lúc đó ta có cấu tạo A + A’ = B, B + B’ = C; C + C’ = D, v.v...; khả

năng đảo nghịch: B - A’ = A v.v...; tính kết hợp: (A + A’) + B’ = A + (A’ + B’) =

Page 44: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

C và tất cả các tính chất khác của nhóm hợp. Chính sự nhóm hợp đầu tiên

này đẻ ra tam đoạn luận cổ điển.

2. Một nhóm hợp sơ đẳng thứ hai sử dụng thao tác nó không còn bao

hàm việc tụ hội với nhau những cá nhân được xem là tương đồng (như ở 1)

mà bao hàm việc nối các quan hệ bất đối xứng biểu hiện những khác biệt của

chúng. Sự tụ hội của những khác biệt đó lúc này giả định một trật tự của dãy

liên tiếp và các nhóm hợp do đó tạo thành một sự "chia hạng định tính".

Chúng ta hãy gọi a quan hệ 0 < A,; b quan hệ 0 < B; c quan hệ 0 < C.

Người ta có thể lúc đó gọi a’ quan hệ A < B; b’ quan hệ B < C; v.v... và người

ta có cái nhóm hợp a + a’ = b; b + b’ = c; v.v... Thao tác đảo là phép trừ của

một quan hệ, điều đó giá trị ngang với phép cộng của số nghịch của nó. Cái

nhóm họp là song song với cái nhóm hợp trước, với một khác biệt duy nhất là

phép tính cộng bao hàm một trật tự của dãy liên tiếp (và do vậy không thể

giao hoán); chính là trên sự bắc cầu riêng cho sự chia hạng này mà lập luận

A < B; B < C; vậy A < C lấy làm chỗ dựa.

3. Một phép tính thứ ba rất cơ bản là phép thay thế, cơ sở của sự

tương đồng tụ hội những cá nhân khác biệt của một lớp hoặc những lớp khác

biệt đơn giản thành một lớp phức hợp.

Quả vậy, giữa hai yếu tố A1 và A2 của cùng một lớp B không có sự

bằng nhau như giữa các đơn vị toán học. Chỉ đơn giản có sự tượng đồng

định tính, tức là có thể thay thế nhau, nhưng trong chừng mực người ta cũng

thay thế cho những A’1, tức là cho những yếu tố "khác" so với A1, những A’2;

tức là những yếu tố "khác" so với A2. Từ đó có nhóm hợp A1 + A’1 = A2 + A’2

<=>, B1 + B’1 = B2 + B’2 = C= C1 v.v...

4. Thể hiện bảng các quan hệ, những phép tính trước đẻ ra sự hỗ

tương riêng cho các quan hệ đối xứng. Các quan hệ này quả thật chỉ là

những quan hệ nối liền với nhau những yếu tố của cùng một lớp, tức là

những quan hệ tương đồng (đối lập với những quan hệ bất đối xứng đánh

dấu sự khác biệt). Các quan hệ đối xứng (chẳng hạn anh em, anh em, chú

bác v.v...) nhóm lại theo mẫu hình của nhóm hợp trước, nhưng phép tính đảo

Page 45: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

là đồng nhất với phép tính thuận, đó chính là định nghĩa về sự đối xứng (y =

z) = (z = y). Bốn nhóm hợp nêu trên là thuộc tính cộng, hai trong chúng (1 và

3) liên quan đến các lớp, còn hai nhóm kia là những quan hệ. Ngoài ra còn có

bốn nhóm hợp dựa trên các phép nhân, tức là chúng xét đến hơn một hệ

thống đồng thời các lớp hoặc các quan hệ. Các nhóm hợp này tương ứng

từng số hạng một với bốn nhóm trước.

5. Trước hết cho hai dãy lớp được lồng vào nhau A1 B1 C1 và A2 B2

C2, người ta có thể phân bố các cá nhân theo hai dòng cùng một lúc: đó là

phương thức các bảng hai lối vào. Mà "phép nhân các lớp", nó tạo thành

phép tính riêng cho loại nhóm hợp này đóng một vai trò chủ yếu trong cơ chế

của tri khôn: chính nó mà Spearman đã mô tả bằng lời lẽ tâm lý học dưới cái

tên: "sự rút gọn của tương quan”.

Phép tính thuận là, đối với hai lớp B1 và B2, tích số B1x B2= B1.B2

(=A1A2 + A1A'2 + A'1A2 + A’1A’2). Phép tính đảo là phép chia lôgich học

B1B2 = B2 = B1, điều đó tương ứng với sự trừu xuất (B1B2) không kể đến B2

(trừu xuất B2 đi) là B1.

6. Người ta cũng có thể nhân với nhau như vậy hai loạt quan hệ, tức là

tìm ra tất cả những tương quan tồn tại giữa đồ vật được chia hạng theo hai

thứ quan hệ cùng một lúc. Trường hợp đơn giản nhất không gì khác là sự

"tương ứng một đổi một" định tính.

7 và 8. Người ta cuối cùng có thể nhóm các cá nhân, không phải theo

nguyên tắc các bảng có hai lối vào như trong hai trường hợp trước, mà bằng

cách làm cho một số hạng tương ứng với nhiều số hạng, như người cha

tương ứng với các con trai. Sự nhóm hợp này như vậy lấy dạng một cây phả

hệ và biểu đạt hoặc bằng lớp (7) hoặc bằng quan hệ (8), những cái sau lúc

này là bất đối xứng theo một trong hai hướng (cha, v.v….) và đối xứng theo

hướng kia (anh em v.v,...).

Như vậy người ta có được theo những cách kết hợp đơn giản nhất tám

nhóm hợp lôgich học căn bản, những nhóm hợp này là cộng (1 — 4) những

nhóm hợp khác là nhân (5 - 8), những cái này liên quan đến các lớp và những

Page 46: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

cái khác liên quan đến các quan hệ: những cái này triển khai thành nhưng sự

lồng vào nhau, sự chia hạng hoặc sự tương ứng đơn giản (1, 2 và 5, 6),

những cái khác thành những cái đảo và những tương ứng theo kiểu một với

nhiều (3, 4 và 7, 8). Từ đó có tất cả 2 x 2 x 2 khả năng.

Chúng ta còn nên ghi nhận rằng chính cái tốt nhất của tính chất tự

nhiên của các toàn bộ được tạo thành bởi những nhóm hợp thao tác là chỉ

cần gộp vào nhau các nhóm hợp của sự lồng đơn giản các lớp (1) và của sự

chia hạng (2) để có được, không còn là một nhóm hợp định tính, mà cái

"nhóm" được tạo thành bởi dãy những số nguyên âm và dương. Quả vậy tụ

hợp các cá nhân thành lớp bao gồm việc xem chúng như tương đương, còn

như chia hạng chúng theo một quan hệ bất đối xứng nào đó là biểu đạt những

khác biệt của chúng. Mà khi xem xét các phẩm chất của các đồ vật, người ta

không thể nhóm chúng lần lượt như là tương đượng và khác biệt cùng một

lúc. Nhưng nếu người ta không kể đến các phẩm chất, người ta bằng sự việc

đó làm cho nó tương đương với nhau và có thể chia hạng theo một trật tự liệt

kê bất kỳ: người ta biến đổi chúng thành những "đơn vị" được xếp theo thứ tự

và thao tác cộng hợp thành của số nguyên bao hàm đúng điều đó. Cũng vậy,

bằng cách gộp các nhóm nhân các lớp (5) và các quan hệ (6), người ta có

được nhóm nhân các số dương (nguyên và phân số).

II. Những hệ thống khác nhau nêu trên không bao gồm hết tất cả những

thao tác sơ đẳng của trí khôn. Trí khôn, quả vậy không hạn chế ở việc thao

tác trên các đồ vật để tụ hội chúng thành lớp, chia hạng chúng hoặc đếm

chúng. Hoạt động của nó còn thuộc việc tạo dựng đồ vật với tư cách như thế,

và như chúng ta sẽ thấy (chương IV), công việc đó bắt đầu ngay ở trí khôn

cảm giác - vận động. Tháo một đổ vật và lắp nó lại tạo thành bằng cách đó

công việc riêng cho một tập hợp thứ hai các nhóm hợp mà các thao tác cơ

bản có thể do đó được gọi là "ngoại lôgich". Bởi vì các thao tác lôgich kết hợp

những đồ vật được coi là không đổi. Các thao tác ngoại lôgich có một tầm

quan trọng lớn ngang với các thao tác lôgich, bởi vì chúng mang tính chất

hợp thành của những khái niệm không gian và thời gian, mà sự luyện xây

Page 47: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

choán hầu hết tuổi thơ ấu. Nhưng mặc dầu rất khác biệt với các thao tác

lôgich, chúng hoàn toàn song hành với những thao tác ấy. Vấn đề về các

tương quan phát triển giữa hai tập hợp thao tác đó tạo thành như vậy một

trong những vấn đề lí thú nhất liên quan đến sự phát triển của trí khôn:

1. Với sự lồng các lớp vào nhau tương ứng việc lồng các phần hợp

thành những toàn bộ theo cấp bậc mà số hạng cuối cùng là đồ vật hoàn chỉnh

(ở bất cứ thang nào, kể cả bản thân vũ trụ không gian - thời gian). Chính là

cái nhóm hợp đầu tiên này của việc cộng từng bộ phận đã cho phép trí tuệ

quan niệm sự cấu tạo theo thuyết nguyên tử trước mọi kinh nghiệm thực sự

khoa học.

2. Với sự chia hạng các quan hệ bất đối xứng tương ứng những thao

tác đặt chỗ (trật tự không gian hoặc thời gian) và dời chỗ định tính (thay trật

tự đơn giản, độc lập với số đo).

3. 4. Những thay thế và những quan hệ đối xứng không gian - thời gian

tương ứng với những thay thế và những đối xứng lôgich học.

5-8. Các thao tác nhân phối hợp đơn giản những thao tác trước theo

nhiều hệ thống và kích thước.

Như nhiều thao tác bằng số có thể được xem như là biểu đạt một sự

gộp đơn giản các nhóm hợp của các lớp và các quan hệ bất đối xứng, cũng

vậy các thao tác đo đạc thể hiện sự tụ hội thành một cái toàn bộ duy nhất

những thao tác phân chia và dời chỗ.

III. Người ta có thể tìm thấy lại cùng những phân bố về các thao tác

thuộc các giá trị, tức là biểu đạt những tương quan về phương tiện và mục

đích, chúng đóng một vai trò thiết yếu trong trí khôn thực hành (mà sự định

lượng thể hiện giá trị kinh tế).

IV. Cuối cùng, toàn bộ ba hệ thống thao tác đó (I đến III) có thể được

biểu hiện dưới dạng những mệnh đề đơn giản, từ đó mà có một lôgich học

của những mệnh đề trên cơ sở những quan hệ liên can và những sự không

tương hợp giữa các chức năng theo tỉ lệ: chính nó tạo nên lôgich học theo

Page 48: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

nghĩa thông thường của thuật ngữ cũng như những lí thuyết giả thiết - diễn

dịch riêng của toán học.

* SỰ CÂN BẰNG VÀ SỰ PHÁT SINH

Trong chương này, chúng tôi tự đề ra cho mình việc tìm một sự giải

thích về tư duy không va chạm với lôgich học như với một dữ kiện đầu tiên và

không giải nghĩa được, nhưng nó tôn trọng tính chất cần thiết hình thức đặc

trưng cho lôgich học tiên đề trong khi vẫn giữ cho trí khôn bản chất tâm lí học

hết mực hoạt động và tạo dựng của nó.

Mà sự tồn tại những nhóm hợp và khả năng tiên đề hóa chặt chẽ của

chúng thỏa mãn cái thứ nhất của hai điều kiện đó: lí thuyết nhóm hợp có thể

đạt được sự chính xác dứt khoát, trong khi vẫn sắp xếp tập hợp các yếu tố

lôgistich và các thao tác thành những toàn bộ so sánh được với các hệ thống

chung mà toán học dùng tới.

Mặt khác, trên quan điểm tâm lí học, vì các thao tác vừa là những hành

động có thể tạo dựng được và đảo nghịch được, mà còn là những hành động,

sự liên tục giữa hành vi trí khôn và toàn bộ các quá trình thích nghi vẫn còn

được bảo đảm bằng cách đó.

Nhưng vấn đề của trí khôn chỉ mới bằng cách đó đơn giản được đặt ra,

và còn hoàn toàn phải tìm tòi lời giải của nó. Tất cả những gì sự tồn tại và sự

mô tả các nhóm hợp dạy cho ta là: ở một trình độ nào đó, tư duy đạt được

trạng thái cân bằng. Chúng chắc chắn cho chúng ta biết sự cân bằng đó là cái

gì: một sự cân bằng vừa cơ động vừa thường trực, cũng như cấu trúc của

toàn thể thao tác tự bảo toàn khi chúng đồng hóa những yếu tố mới. Chúng ta

hơn nữa còn biết rằng sự cân bằng cơ động đó giả định sự đảo nghịch, đó

chính là định nghĩa của một trạng thái cân bằng theo những nhà vật lí học

(chính là theo mẫu hình vật lí thực tại ấy chứ không phải theo tính nghịch đảo

trừu tượng của sơ đồ lôgistich mà ta phải quan niệm tính nghịch đảo của các

cơ chế của trí khôn được tạo dựng). Nhưng cả sự nhận ra trạng thái cân

bằng ấy lẫn bản thân sự phát triển những điều kiện cần thiết chưa tạo thành

một giải nghĩa.

Page 49: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Giải nghĩa trí khôn trên quan điểm tâm lí học bao gồm việc vạch ra sự

phát triển của nó bằng cách chỉ rõ bằng cách nào sự phát triển này tất yếu kết

thúc ở sự cân bằng được mô tả. Theo quan điểm đó, công việc của tâm lí học

là so sánh được với công việc của phôi học, công việc trước hết là miêu tả,

bao hàm sự phân tích các bước và các thời kì của sự phát sinh hình thái cho

đến sự cân bằng sau cùng do hình thái học người lớn tạo thành, nhưng là

công việc tìm tòi trở thành "nhân quả" ngay khi các yếu tố bảo đảm sự chuyển

từ giai đoạn này sang giai đoạn sau được làm sáng tỏ. Công việc của chúng

tôi là rõ ràng: vấn đề bây giờ là tạo dựng lại sự phát sinh hoặc các bước của

sự hình thành trí khôn, cho đến lúc có thể trình bày trình độ thao tác kết thúc

mà chúng tôi vừa mô tả các dạng cân bằng. Và vì người ta không quy trình độ

trên và trình độ dưới, trừ phi làm què quặt trình độ trên hoặc làm phong phú

trước trình độ dưới - sự giải thích phát sinh chỉ có thể bao gồm việc chỉ rõ

cách thế nào, ở mỗi nấc mới, cơ chế những yếu tố hiện diện dắt dẫn đến một

sự cân bằng còn chưa hoàn chỉnh, thì ngay sự cân bằng hóa đó của chúng

dẫn đến trình độ tiếp sau. Chính bằng cách đó mà dần dần chúng ta hi vọng

trinh bày được việc tạo dựng từng bước sự cân bằng thao tác mà không hình

thành nó trước ngay lúc bắt đầu hoặc làm cho nó đột ngột hiện lên từ hư

không ở giữa đường đi.

Tóm lại, giải nghĩa trí khôn vậy là trở thành đặt những thao tác cao cấp

trong sự tiếp nối với toàn bộ sự phát triển, sự phát triển này được hình dung

như một tiến hóa được điều khiển bởi những nhu cầu bên trong của sự cân

bằng. Mà sự nổi tiếng có tính chức năng này liên minh rất chặt chẽ với sự

phân biệt những cấu trúc liên tiếp. Như chúng ta đã thấy, người ta có thể tự

hình dung ra cấp bậc các cư xử, của phản xạ và của các tri giác tổng thể ban

đầu như một sự mở rộng dần các khoảng cách và một sự phức hợp hóa dần

những đoạn đường đặc trưng cho những trao đổi giữa cơ thể (chủ thể) và

môi trường (các khách thể): mỗi một trong những mở rộng hoặc phức hợp

hóa đó biểu hiện một cấu trúc mới, còn dãy liên tiếp của những mở rộng và

phức hợp hóa đó phục tùng những nhu cầu của một cân bằng luôn luôn phải

là cơ động hơn, căn cứ vào sự phức hợp. Sự cân bằng thao tác thực hiện

Page 50: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

các điều kiện đó vào lúc có tối đa những khoảng cách có thể có (bởi vì trí

khôn tìm cách ôm trùm vũ trụ) và sự phức hợp các đoạn đường (vì sự diễn

dịch có khả năng làm những "đường vòng" lớn nhất): vậy sự cân bằng đó

phải được quan niệm như là sự kết thúc một quá trình tiến hóa mà ta còn phải

vạch ra lại những giai đoạn.

Tổ chức của các cấu trúc thao tác như vậy là đâm sâu các rễ của nó

vào phía bên này của tư duy suy ngẫm và đến nguồn gốc của bản thân hành

động. Và do sự việc là các thao tác được nhóm hợp lại thành những toàn thể

được cấu trúc hóa thì vấn đề là so sánh chúng với tất cả các "cấu trúc" ở trình

độ thấp hơn - những cấu trúc tri giác và vận động. Con đường phải theo đã

được vạch rõ: phân tích các tương quan của trí thông minh với tri giác

(chương 3), với thói quen vận động (chương 4), đoạn nghiên cứu sự hình

thành các thao tác trong tư duy trẻ em (chương 5) và sự xã hội hóa của nó

(chương 6). Chỉ lúc đó cấu trúc của "nhóm hợp" đặc trưng cho lôgich học

sống động đang hành động mới bộc lộ bản chất thật của nó, hoặc bẩm sinh,

hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa và đơn thuần bị môi trường áp đặt, hoặc cuối

cùng sự thể hiện những trao đổi ngày càng nhiều và càng phức hợp giữa chủ

thể và các khách thể: những trao đổi lúc đầu không đầy đủ, không ổn định và

không thể đảo nghịch, nhưng dấn dần, do chính nhu cầu của sự cân bằng mà

chúng bị bó buộc, có được hỉnh thức cấu tạo có khả năng đảo nghịch riêng

cho nhóm hợp.

Phần 2. TRÍ KHÔN VÀ CÁC CHỨC NĂNG CẢM GIÁC – VẬN ĐỘNG

Chương 3. TRÍ KHÔN VÀ TRI GIÁC

Tri giác là sự hiểu biết mà chúng ta có được từ những đồ vật, hoặc từ

sự vận động của chúng, do tiếp xúc trực tiếp và hiện tại, còn trí khôn là một

sự hiểu biết tồn tại khi những vòng quanh can thiệp vào và khi những khoảng

cách giữa chủ thể và các khách thể về không gian và thời gian tăng lên. Vậy

có thể là các cấu trúc trí tuệ và nhất là các nhóm hợp thao tác, đặc trưng cho

Page 51: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

sự cân bằng cuối cùng của sự phát triển của trí khôn, đã có trước, toàn bộ

hay từng phần, ngay lúc xuất phát dưới hình thức những tổ chức chung cho

cả tri giác lẫn tư duy. Đó đặc biệt là ý tưởng trung tâm của "lí thuyết hình

thức", lí thuyết này nếu nó không biết đến khái niệm về cái nhóm hợp có tính

đảo nghịch, đã mô tả những quy luật của cấu trúc hóa tổng thể điều khiển liên

tiếp, theo lí thuyết đó, cả tri giác, tính vận động và những chức năng sơ đẳng

lẫn bản thân sự lập luận và đặc biệt là tam đoạn luận (Wertheimer). Vậy cần

thiết là chúng ta đi từ những cấu trúc tri giác để xét xem người ta có thể rút ra

từ đấy một giải nghĩa về toàn bộ tư duy, bao gồm cả những nhóm hợp với tư

cách là như vậy.

* MỘT CHÚT LỊCH SỬ

Giả thuyết về một mối tương quan chặt chẽ giữa tri giác và trí khôn

được số người này ủng hộ ở mọi thời và cũng bị một số người khác ở mọi

thời bác bỏ. Chúng tôi chỉ nêu ở đây những tác giả của các công trình nghiên

cứu thực nghiệm, đối lập với vô số triết gia chỉ hạn chế ở việc "suy ngẫm" về

đê tài đó mà thôi. Và chúng tôi trình bày cả quan điểm những nhà thực

nghiệm muốn giải thích tri giác bằng sự can thiệp của trí khôn lẫn quan điểm

của những người tìm cách tách trí khôn và tri giác ra.

Hemholz chắc hẳn là người đầu tiên đã đặt vấn đề về những tương

quan giữa các cấu trúc tri giác và các cấu trúc thao tác, dưới hình thức hiện

đại của nó. Người ta biết rằng tri giác thị giác có khả năng đạt dưới một số

"tính không đổi" đã gây ra và còn gây ra mãi mãi một loạt công việc: một đại

lượng được tri giác gần đúng về chiều sâu, dù có sự thu nhỏ lại đáng kể của

hình ảnh ở võng mạc và sự giảm bớt do phối cảnh; một hình dạng được nhận

rõ dù có những đảo ngược một màu sắc được nhận ra trong bóng tối cũng

như được ánh sáng đầy đủ; v.v... Helmholtz tìm cách giải thích những tính

không đổi đó của tri giác bằng sự can thiệp của một "lập luận vô thức" đến

sửa cảm giác tức thì dựa vào những tri thức đã có. Khi người ta nhớ lại

những lo toan của Helmholtz về sự hình thành khái niệm không gian, người ta

tưởng tượng rõ rằng giả thuyết đó phải có một ý nghĩa xác định trong sự suy

Page 52: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

nghĩ của ông, và Cassirer đã giả định (bằng cách tự mình chịu trách nhiệm về

ý tưởng trên) rằng nhà sinh lí học, vật lí học và hình học tìm cách trình bày về

những tính không đổi của tri giác bằng sự can thiệp của một thứ "nhóm" hình

học tự tại trong trí khôn vô thức đang hoạt động trong sự tri giác. Sự việc đó

ích rất lớn cho sự đối sánh những cơ chế trí tuệ với những cơ chế tri giác mà

chúng tôi đang làm ở đây. Quả vậy, những "tính không đổi" thuộc tri giác có

thể đem so sánh, trên bình diện cảm giác - vận động, với những gì là những

khái niệm khác nhau của sự "bảo toàn", đặc trưng cho những chiếm lĩnh đầu

tiên của trí khôn (sự bảo toàn các tập hợp, chất liệu, trọng lượng, thể tích

v.v... lúc có những biến dạng trực giác): mà các khái niệm về bảo toàn đều

luôn luôn do sự can thiệp của một "nhóm hợp" hay một "nhóm" các thao tác,

nếu những tính không đổi thị giác bản thân chúng đều có thể gán cho một lập

luận vô thức ở dạng "nhóm", sẽ có bằng cách đó sự liên tục về cấu trúc trực

tiếp giữa tri giác và trí khôn.

Duy có điều là Hering đã trả lời cho Helmholtz, rằng sự can thiệp của tri

thức trí tuệ không biến đổi một tri giác: người ta cảm nhận rõ rệt cùng ảo giác

thị giác ấy, hoặc trọng lượng v.v... khi người ta biết các giá trị khách quan

những dữ kiện đã được tri giác. Vậy người ta từ đó kết luận rằng lập luận

không can thiệp vào tri giác, và những "tính không đổi" là do những điều tiết

thuần túy sinh lí học.

Nhưng Helmholtz và Hering cả hai đều tin ở sự tồn tại của những cảm

giác có trước tri giác và lúc đó họ quan niệm "tính không đổi" tri giác như là

một sự sửa lại các cảm giác, bằng cách gán nó, người này cho trí khôn còn

người kia cho các cơ chế thần kinh. Vấn đề được đổi mới sau khi Von

Ehrenfels đã khám phá ra năm 1891 những phẩm chất tri giác tổng thể

(Gestaltqualitảten), như phẩm chất của một giai điệu có thể nhận ra được

mặc dầu có một sự chuyển vị biến đổi tất cả các nốt (không một cảm giác sơ

đẳng nào có thể được giữ nguyên như cũ). Từ khám phá này mà xuất phát

hai trường phái, một kéo dài Helmholtz trong việc dựa vào trí khôn và trường

phái kia của Hering phủ định vai trò của trí khôn. "Trường phái Gratz"

Page 53: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

(Meinong, Benussi), quả vậy, tiếp tục tin vào các giác quan và giải thích phẩm

chất tổng thể như là sản phẩm của một tổng hợp: phẩm chất này do có thể

mang đi được, được quan niệm như là do trí khôn, với tính cách là như vậy

Meinong còn đi đến xây dựng trên giải thích này cả một lí thuyết về tư duy

dựa trên ý tưởng của sự toàn bộ (những "đồ vật tập thể” bảo đảm sự nối liền

(cái tri giác và cái thuộc khái niệm). "Trường phái Berlin", trái lại, là ở điểm

xuất phát của "tâm lí học hình thức" đã đảo ngược các vị trí: các cảm giác đối

với nó không còn tồn tại với tính cách những yếu tố có trước tri giác hoặc độc

lập đối với tri giác (đó là những cái "được chứa đựng đã bị cấu trúc hóa” chứ

không còn là "cấu trúc hóa") và hình thức tổng thể, mà khái niệm lúc này

được khái quát hóa cho mọi tri giác, không còn được quan niệm như là kết

quả của một tổng hợp, mà đúng như là một sự việc đầu tiên, thuộc sự sản

xuất vô thức và thuộc bản chất sinh lí học cũng như tâm lí học: những "hình

thức (Gestalt) được tìm thấy lại ngay ở tất cả các tầng của thang cấp bậc trí

tuệ, và người ta có thể hi vọng, theo trường phái Berlin, một sự giải thích về

trí khôn xuất phát từ những cấu trúc tri giác, thay vì cho sự lập luận trong sự

tri giác với tính cách là như vậy, can thiệp vào một cách không thể hiểu nổi.

Trong sự nối tiếp các tìm tòi, một trường phái gọi là Gestalt- kreis (von

Weizsacker, Auersperg) mưu toan mở rộng ý tưởng cấu trúc tổng thể bằng

cách ngay từ điểm xuất phát thâu tóm vào đó tri giác và sự vận động được

quan niệm như là tất yếu gắn bó với nhau: tri giác lúc đó sẽ giả định sự can

thiệp của những đón trước và những tái tạo vận động tuy không bao hàm trí

khôn nhưng báo trước nó. Vậy người ta có thể coi trào lưu này như đổi mới

truyền thống của Helmholtz trong khi những công trình hiện đại khác vẫn

dừng lại ở gợi ý của Hering về một sự giải thích tri giác bằng sinh lí học thuần

túy (Pieron v.v...)

* LÍ THUYẾT HÌNH THỨC VÀ SỰ GIẢI THÍCH VỀ TRÍ KHÔN CỦA NÓ

Một sự quan tâm đặc biệt phải được dành cho quan điểm về cái hình

thức, không chỉ vì nó đổi mới vị trí của một số lớn các vấn đề, mà chủ yếu là

Page 54: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

vì nó cung cấp một lí thuyết hoàn chỉnh về trí khôn, nó sẽ còn là, ngay đối với

những kẻ chống lại, một mẫu mực giải thích tâm lí học mạch lạc.

Ý tưởng trung tâm của lí thuyết hình thức là các hệ thống tinh thần

không bao giờ được cấu tạo bằng sự tổng hợp hoặc kết hợp những yếu tố

được cung cấp ở trạng thái riêng rẽ trước sự tụ hội của chúng, mà luôn bao

gồm những toàn thể được tổ chức ngay từ lúc xuất phát dưới một ”hình thức"

hay cấu trúc tổng thể. Chính vì vậy mà một tri giác không là sự tổng hợp các

cảm giác có trước; nó được quản lí ở mọi trình độ bởi một "trường" mà các

yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do ngay sự việc là chúng được tri giác cùng một

lúc. Ví dụ một điểm đen duy nhất nhìn thấy trên một tờ giấy lớn không thể nào

được tri giác như yếu tố riêng rẽ, dù nó duy nhất đến mấy, vì nó nổi bật lên

với tính cách là "hình" trên một "nền" do tờ giấy tạo nên, và tương quan hình

X nền giả định sự tổ chức của trường thị giác đầy đủ. Điều đó lại càng đúng

hơn nữa khi người ta có thể cùng ra thì đành tri giác tờ giấy như một đồ vật

(cái "hình") và điểm đen như một lỗ, tức là như phần duy nhất có thể nhìn

thấy của "nền". Tại sao người ta thích cách thức tri giác thứ nhất ? Và tại sao,

nếu thay vì một điểm duy nhất, người ta nhìn thấy ba hoặc bốn điểm khá gần

kề nhau, người ta không thể nhìn nối chúng lại thành những dạng ảo ảnh hình

tam giác hoặc hình tứ giác hay sao? Chính là vì những yếu tố tri giác trong

cùng một trường lập tức được nối lại thành cấu trúc tổng thể tuân theo những

quy luật chính xác, chúng là những "quy luật tổ chức".

Những quy luật tổ chức ấy, điều khiển tất cả các tương quan của một

trường, không gì khác hơn trong giả thuyết của những nhà "Hình thức học"

(Gestaltestes), là những quy luật cân bằng cùng một lúc điều khiển các dòng

thần kinh được khởi động bởi sự tiếp xúc tâm linh với các đồ vật bên ngoài,

và bởi bản thân các đồ vật, được tụ hội lại thành một đường vòng bao bọc lần

lượt cơ thể và môi trường gần kề. Trên quan điểm đó, một "trường tri giác

(hoặc vận động v.v...) là có thể so sánh với một trường sức mạnh (điện từ

v.v...) và được những nguyên tác tương tự về cái tối thiểu, về hành động bé

nhất... điều khiển. Trước sự có mặt của số nhiều các yếu tố, chúng ta ấn cho

Page 55: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chúng một hình thức tổng thể nó không phải là một hình thức bất kì, mà là

hình thức đơn giản nhất có thể được biểu thị cấu trúc của trường: vậy đó là

những quy tắc về sự đơn giản, sự đều đặn, sự gần kề, sự đối xứng v.v...

chúng xác định hình thức được tri giác. Từ đó một quy luật thiết yếu (gọi là

của sự hàm súc): trong tất cả những hình thức có thể có, hình thức được áp

đặt bao giờ cũng là cái "tốt nhất" tức là cái cân bằng hơn cả. Hơn nữa một

hình thức tốt bao giờ cũng đều có khả năng chuyển vị như một giai điệu mà

người ta đổi tất cả các nốt. Nhưng sự chuyển vị đó, nó chứng minh sự độc

lập của cái toàn vẹn so với các bộ phận, bản thân nó cũng được giải thích,

bởi những luật cân bằng: đó là cùng những tương quan ấy giữa những yếu tố

mới, chúng kết thúc ở cùng một hình thức tổng thể với các tương quan giữa

những yếu tố trước, không phải chờ một hành vi so sánh, mà do một sự hình

thành lại sự cân bằng, như nước trong một con kênh lấy lại cùng hình thức

nằm ngang, nhưng ở những mức khác nhau, sau khi mở mỗi cống. Sự xác

định đặc trưng của những "hình thức tốt" này và việc nghiên cứu những

"chuyển vị" này đã gây ra một loạt công việc thực nghiệm có lợi ích chắc chắn

mà ở đây đi sâu vào chi tiết của chúng chỉ là vô ích.

Trái lại, cái mà ta phải ghi nhận cẩn thận, như là thiết yếu đối với học

thuyết, đó là cái "quy luật tổ chức" được quan niệm như độc lập với sự phát

triển và do đó chung cho tất cả các trình độ. Sự khẳng định này là tự nhiên

nếu người ta hạn chế nó ở sự tổ chức chức năng, hoặc cân bằng "đồng đại"

của các cư xử, vì sự cần thiết của sự cân bằng này chế ngự trên tất cả các

nấc, từ đó mà có sự liên tục chức năng mà chúng tôi đã nhấn mạnh. Nhưng

người ta thường đối lập với sự hành chức không thay đổi này những cấu trúc

liên tiếp được xem xét trên quan điểm lịch đại và biến đổi từ nấc này sang nấc

khác. Mà cái riêng của tâm lí học Hình thức là tụ hội thành một cái toàn thể

chức năng và cấu trúc, dưới cái tên "tổ chức" và xem các quy luật của những

cái này (chức năng và cấu trúc) như không thay đổi. Chính vì vậy mà các nhà

tâm lí học Hình thức đã nỗ lực, với một khối tích tụ các tư liệu đáng ngạc

nhiên, chứng minh rằng các cấu trúc tri giác là giống nhau ở trẻ em và người

lớn, nhất là ở những loài có xương sống thuộc mọi loại; chỉ có khác nhau,

Page 56: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

giữa trẻ em và người lớn tầm quan trọng tương đối của một số yếu tố chung

về tổ chức, về sự gắn kết chẳng hạn, nhưng toàn bộ các yếu tố vẫn giữ là

cùng những cái ấy, và những cấu trúc từ đó sinh ra tuân theo cùng những quy

luật ấy.

Đặc biệt, vấn đề nổi tiếng của "những tính không đổi" thuộc tri giác đã

tạo nên một lời giải có hệ thống mà hai điểm sau đây đáng nêu. Trước hết,

một tính không đổi như tính không đổi về đại lượng không tạo thành sự sửa

lại một cảm giác ban đầu làm biến dạng, nối liền với một hình thu nhỏ ở võng

mạc, bởi vì không có cảm giác ban đầu riêng rẽ, và hình ảnh ở võng mạc chỉ

là một khâu không có đặc ân trong dây chuyền, mà đường vòng toàn bộ nối

các đồ vật lên não do sự trung gian của những dòng thần kinh liên quan: vậy

là tức khắc và trực tiếp mà người ta bảo đảm cho đồ vật nhìn thấy ở chiều

sâu độ lớn thực tại của nó do nhờ đơn thuần những quy luật tổ chức làm cho

cấu trúc ấy là tốt hơn cả. Thứ hai, những tính không đổi về thị giác không phải

tự có được mà được cung cấp y nguyên ở tất cả các trình độ, ở loại vật và trẻ

sơ sinh, cũng như ở người lớn. Những ngoại lệ bề ngoài trong thực nghiệm là

do sự việc trường tri giác không phải bao giờ cũng được cấu trúc hẳn hoi tính

không đổi tốt nhất đã tìm ra khi mục tiêu thuộc một "hình dáng" tổng thể, như

một dãy liên tiếp các đồ vật được chia hạng.

Nếu chúng ta quay về với trí khôn, nó đã nhận từ quan điểm này một

sự giải thích đặc biệt đơn giản và có khả năng, nếu nó là đúng, gắn hầu như

trực tiếp các cấu trúc cao cấp (và nhất là những "nhóm hợp thao tác" mà

chúng tôi đã mô tả) với các ”hình thức" sơ đẳng nhất có tính chất cảm giác

vận động và ngay cả tri giác. Ba ứng dụng của lí thuyết Hình thức vào việc

nghiên cứu trí khôn đặc biệt đáng nêu: ứng dụng của Kochler vào trí khôn

cảm giác - vận động, ứng dụng của Wertheimer vào cấu trúc của tam đoạn

luận và ứng dụng của Duncker vào hành vi trí khôn nói chung.

Với Kochler, trí khôn xuất hiện khi tri giác không kéo dài trực tiếp thành

những cử động có khả năng bảo đảm chiếm lĩnh mục tiêu. Một con hắc tinh

tinh trong chuồng tìm cách với tới một quả nằm ngoài tầm với tới của cánh

Page 57: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tay: một trung gian lúc đó là cần thiết, mà việc sử dụng xác định tính phức

hợp riêng của hành động thông minh. Hành động thông minh bao hàm cái

gì ? Nếu một chiếc gậy được để sẵn cho con vật, nhưng ở một vị trí bất kì, nó

được nhìn thấy như một đồ vật vô tình; đặt song song với cánh tay nó bỗng

chốc được tri giác như sự kéo dài có thể được của cánh tay. Đến lúc đó là

trung tính, cái gậy như thể là nhận một ý nghĩa do được sát nhập vào trong

cấu trúc tổng thể. Trường được cấu tạo lại và chính những sự cấu tạo lại đột

ngột này theo Kochler là đặc trưng cho hành vi trí khôn: sự chuyển từ một cấu

trúc kém tốt hơn sang một cấu trúc tốt hơn là bản chất của sự nắm hiểu, một

sự tiếp nối đơn giản nhưng trung gian hoặc gián tiếp của bản thân tri giác.

Chính nguyên tác giải thích ấy được tìm thấy lại ở Wertheimer trong sự

giải thích "theo thuyết Hình thức" về tam đoạn luận. Vế lớn là một hình thức

có thể so sánh với một cấu trúc tri giác: "tất cả những con người" như vậy tạo

thành một tập hợp mà người ta hình dung tập trung ở bên trong tập hợp

những "người (có thể chết)". Vế nhỏ cũng theo thể thức như vậy "Socrate là

một cá nhân tập trung trong giới những "con người" cái thao tác rút ra kết luận

từ những sự việc bắt đầu đó: "vậy Socrate là có thể chết" vậy là trở lại một

cách đơn giản cấu tạo lại tập hợp bằầng cách làm biến mất cái vòng trung

gian ở giữa (những con người) sau khi đã định vị nó với nội dung của nó

trong vòng lớn (những người có thể chết). Lập luận là một sự "tập trung lại".

"Socrate” như bị phi tập trung hóa trong lớp "những con người" để tự thấy lại

được tập trung trong cái lớp những "người có thể chết". Cái tam đoạn luận

như vậy không thêm gì nữa thuộc về tổ chức chung các cấu trúc: ở điểm đó

nó tương tự những tái cấu trúc đặc trưng cho trí khôn thực hành của Kochler,

nhưng tiến hành bằng tư duy chứ không còn bằng hành động.

Cuối cùng Duncker nghiên cứu sự tương quan của những thấu hiểu đột

ngột đó (Einsicht) hoặc tái cấu trúc thông minh với kinh nghiệm, để mà đánh

đòn kết liễu chủ nghĩa kinh nghiệm liên tưởng, mà khái niệm Gestalt (Hình

thức) nói trái lại từ trong nguyên tắc.

Page 58: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Nhằm hiệu quả đó, ông phân tích những vấn đề khác nhau của trí khôn

và tìm thấy ở mọi lĩnh vực rằng kinh nghiệm có được đóng một vai trò chỉ là

phụ trong lập luận: Kinh nghiệm bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa đối với tư duy tùy

thuộc ở tổ chức hiện thời. Chính tổ chức này, tức là cấu trúc của trường hiện

tại, quy định những khêu gợi có thể có đối với những kinh nghiệm đã qua,

hoặc bằng cách làm cho chúng vô bổ, hoặc nó chỉ huy một sự khêu gợi và

một sự sử dụng các kỉ niệm. Lập luận như vậy là "cuộc chiến đấu rèn vũ khí

của riêng mình" và mọi cái ở đây được giải thích bởi những quy luật tổ chức,

độc lập với lịch sử của cá nhân và đảm bảo cho cái tổng thể sự thống nhất

bản chất của những cấu trúc ở mọi trình độ, từ những "hình thức" tri giác sơ

đẳng đến những hình thức của tư duy cao nhất.

* PHÊ PHÁN TÂM LÝ HỌC HÌNH THỨC

Người ta chỉ có thể dành cho tâm lý học Hình thức tính chất có căn cứ

của những mô tả của nó: đặc trưng "toàn bộ" riêng của các cấu trúc tinh thần,

cả tri giác lẫn trí khôn, sự tồn tại và các quy luật của "hình thức đúng quy

cách", sự quy những biến đổi cấu trúc về những dạng cân bằng v.v... đều

được biện minh bằng nhiều công trình thực nghiệm đến mức những khái

niệm ấy đã có được sự thừa nhận trong toàn bộ tâm lí học hiện đại. Đặc biệt

cách thức phân tích bao hàm việc luôn luôn thể hiện các sự việc và lời lẽ của

"trường" toàn bộ là duy nhất chính đáng vì việc thu gọn thành yếu tố theo

thuyết nguyên tử bao giờ cũng làm biến chất sự thống nhất của thực tại.

Nhưng phải hiểu rõ rằng nếu các "quy luật tổ chức" không phái sinh, ở

bên kia tâm lí học và sinh học từ những "hình thức vật thể" tuyệt đối chung

(Koehler), lúc đó ngôn ngữ các toàn bộ chỉ là một cách thức mô tả và sự tồn

tại những cấu trúc toàn bộ đòi hỏi một sự giải thích không hề nằm trong sự

việc của bản thân cái toàn bộ. Đó là điều mà chúng tôi đã thừa nhận đối với

những "nhóm hợp" của riêng chúng tôi và phải thừa nhận đối với các "hình

thức" hoặc cấu trúc sơ đẳng.

Mà sự tồn tại chung và thậm chí "vật thể" nữa của những "quy luật tổ

chức" bao hàm ít nhất - và các lí luận gia của thuyết hình thức là những người

Page 59: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đầu tiên khẳng định điều đó - sự không biến đổi trong tiến trình của sự phát

triển tinh thần. Vấn đề tiên quyết đối với học thuyết chính thống của Hình thức

(ở đây chúng tôi bám vào sự chính thống đó, nhưng phải nêu lên rằng một số

môn đồ thận trọng hơn của thuyết Gestalt, như Gelb và Goldstein, đã bác bỏ

giả thuyết về những hình thức vật thể) vậy là vấn đề của sự thường trực,

trong tiến trình của sự phát triển tinh thần, của một số hình thức thiết yếu về

tổ chức: đặc biệt hình thức của những "cái không đổi" trong tri giác.

Tuy nhiên về điểm cơ bản, chúng tôi tưởng có thể bảo vệ rằng trong

tình trạng hiện nay của những hiểu biết, các sự việc chống lại một khẳng định

như vậy. Không đi vào chi tiết và đứng trên mảnh đất của tâm lí học trẻ em và

của sự không đổi các đại lượng, phải nêu lên một số điểm sau:

1. H. Franck đã tưởng có thể xác lập sự không đổi của các đại lượng ở

những trẻ nhỏ 11 tháng. Kĩ thuật của những thí nghiệm của ông quả đã gây

nên sự tranh cãi (Beyrl) và sự việc trên đại thể là đúng 11 tháng đã có một sự

phát triển đáng kể về trí khôn cảm giác - vận động. E. Brunswick và

Cruikshank đã nhận thấy một sự phát triển tiệm tiến của sự không đổi đó

trong sáu tháng đầu.

2. Một số thí nghiệm mà chúng tôi đã làm cùng với Lambercier trên

những trẻ 5 đến 7 tuổi và bao gồm những so sánh (hai đứa một) về những

chiều cao bề sâu đã cho phép chúng tôi rọi ánh sáng vào một yếu tố mà cái

nhà làm thí nghiệm không tính đến: có ở mọi lứa tuổi một "sai lầm có hệ thống

về chuẩn", như nguyên tố dùng làm chuẩn được đánh giá quá cao so với

những biến số mà nó đo, do ngay cái chức năng làm chuẩn của nó trong

trường hợp mà nó nằm ở chiều sâu hay trong tình huống gần kề. Sai lầm có

hệ thống đó của chủ thể kết hợp với những đánh giá của chủ thể về chiều sâu

có thể gây ra một sự không đổi bề ngoài (và ảo giác). Thực hiện sự khấu trừ

"sai lầm của chuẩn" các chủ thể 5-7 tuổi đã đưa ra một sự đánh giá thấp bình

quân đáng kể, về chiều sâu, trong khi những người lớn kết thúc, tính đổ đồng,

ở một sự "siêu không đổi".

Page 60: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

3. Burslaff, người cũng đã đạt được những biến đổi với lứa tuổi trong

những so sánh từng hai đứa một, tưởng đã có thể giữ vững giả thuyết "Hình

thức" về một sự thường trực của sự không đổi các đại lượng trong trường

hợp mà ở đó các yếu tố phải so sánh bị đưa vào một "hình dáng" tổng thể, và

nhất là khi chúng bị chia hạng. Bằng những thí nghiệm tỉ mỉ, Lambecier đã lấy

lại, theo yêu cầu của chúng tôi, vấn đề đó của các so sánh chia hạng chiều

sâu và đã có thể chỉ ra rằng chỉ tồn tại một sự không đổi tương đối độc lập với

tuổi trong một trường hợp duy nhất (trường hợp duy nhất mà đúng là Burzlaff

đã xem xét): trường hợp trong đó chuẩn là bằng số hạng giữa của các yếu tố

phải so sánh. Trái lại, ngay khi người ta chọn một chuẩn lớn hơn hay bé hơn

số hụt nữa, người ta quan sát thấy những sự biến chất có hệ thống về chiều

sâu. Từ đó, rõ ràng là sự không đổi của số hạng giữa thuộc những nguyên

nhân khác so với sự không đổi về chiều sâu: chính vị trí ưu đãi của số hạng

giữa bảo đảm sự không biến đổi của nó (nó bị tất cả các số hạng cao hơn nó

phá giá và được các số hạng thấp hơn khôi phục lại giá trị, do đó có sự ổn

định của nó). Những số đo được tiến hành trên những số hạng khác chứng tỏ

ở đây nữa rằng sự không đổi đặc thù về chiều sâu không tồn tại ở trẻ nhỏ

trong khi người ta quan sát thấy một sự tăng trưởng đáng kể với lứa tuổi của

những điều tiết hướng về sự không đổi đó.

4. Người ta biết rằng Beyrl khi phân tích sự không đổi các độ lớn ở

những học sinh, đã tìm thấy, về phía ông, một sự tăng trưởng trung bình các

trường hợp không đổi cho đến khoảng 10 tuổi, nấc từ đó đứa trẻ phản ứng

theo cách người lớn (một sự tiến hóa song song cũng được E. Brunswich tim

ra về những gì liên quan đến những sự không đổi của hình dạng và màu sắc).

Sự tồn tại của một sự tiến hóa theo tuổi của những cơ chế kết thúc

bằng những sự không đổi tri giác (và sau này chúng ta thấy rất nhiều biến đổi

phát sinh của tri giác) chắc chắn dẫn đến một sự xem lại những giải thích của

lí thuyết hình thức. Trước hết, nếu có sự tiến hóa thực tại của các cấu trúc tri

giác, người ta không còn có thể gạt cả vấn đề về sự hình thành chúng lẫn vai

trò có thể có của thí nghiệm trong tiến trình sự phát sinh ra chúng. Về điểm

Page 61: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

cuổi này, E. Brunswich đã nêu bật sự thường có của "các hình thức" (Gestalt)

kinh nghiệm chủ nghĩa bên cạnh những "hình thức hình học". Chính vì vậy

mà một hình trung gian giữa hình ảnh một bàn tay để mở và một sơ đồ hình

học năm nhánh hoàn toàn đối xứng đã cho, khi nhìn nhanh, ở người lớn 50%

chiếu cố đến bàn tay (hình thức kinh nghiệm chủ nghĩa) và 50% chiếu cố đến

"hình thức đúng quy cách" của hình học.

Còn về sự phát sinh của những "hình thức”, nó nêu một vấn đề thiết

yếu ngay từ lúc người ta loại bỏ giả thuyết "những hình thức vật thể" thường

trực, nên nhận xét trước về sự không chính đáng của song đề: hoặc những

"toàn bộ" hoặc nguyên tử luận về những cảm xúc riêng lẻ. Trên thực tế có ba

số hạng có thể: hoặc một tri giác là một tổng hợp các yếu tố, hoặc nó tạo

thành một toàn bộ của người nắm giữ, hoặc nó là một hệ thống các quan hệ

(mối quan hệ bản thân nó cũng là một toàn thể, nhưng cái toàn thể tổng thể

trở thành có thể phân tích được mà không vì vậy trở lại với thuyết nguyên tử.

Điều đó nói lên không gì ngăn cản việc quan niệm những cấu trúc toàn bộ

như sản phẩm của một sự tạo dựng tiên tiến, tiến hành không phải bằng

"những tổng hợp", mà bằng những sự phân biệt điều ứng và những đồng hóa

kết hợp; và đặt sự tạo dựng đó trong tương quan với trí khôn có năng khiếu

hoạt động thực sự đối lập với trò chơi những cấu trúc đã được xác lập từ

trước.

Về những gì liên quan đến tri giác, điểm mấu chốt là điểm "chuyển vị".

Nên chăng với học thuyết Hình thức giải thích các chuyển vị (của một giai

điệu từ một cung này sang một cung khác hoặc của một hình thức thị giác

bằng cách phóng to lên) như những mối tái hiện đơn giản của cùng một hình

thức cân bằng giữa các yếu tố mới mà các tương quan được giữ vững (liên

hệ với những nấc ngang của một hệ thống cống) hoặc nên chăng nhìn thấy ở

đó sản phẩm của một hoạt động đồng hóa sát nhập những yếu tố so sánh

được vào cùng một sem? Ngay sự tăng lên sự dễ dàng chuyển vị tùy thuộc ở

tuổi (xem cuối chương 3) dường như áp đăt cho chúng ta lời giải thứ hai này.

Hơn nữa, cùng với sự chuyển vị được thường thường xem xét là ở bên ngoài

Page 62: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

so với các hình, chắc chắn nên đưa thêm những chuyển vị bên trong giữa các

yếu tố của cùng một hình, chúng giải thích vai trò các yếu tố điều tiết, bằng

nhau, đối xứng v.v... gắn liền với những "hình thức đúng quy cách".

Mà hai cách giải thích có thể có đó về sự chuyển vị bao gồm những ý

nghĩa rất khác về những gì liên quan đến các quan hệ giữa tri giác và trí khôn

mà nhất là tính chất của trí khôn.

Bằng việc tìm cách quy các cơ chế của trí khôn về những cơ chế đặc

trưng cho các cấu trúc tri giác, bản thân những cấu trúc này có thể được quy

về những "hình thức vật thể", lí thuyết Hình thức trở về, mặc dầu bằng những

con đường tinh vi hơn nhiều, với chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển. Sự khác biệt

độc nhất (và dẫu là đáng kể đến đâu, nó ít có trọng lượng bên cạnh một sự

quy về như vậy) là học thuyết mới thay thế những "kết hợp" bằng những

"toàn thể" được cấu trúc hóa. Nhưng trong cả hai trường hợp, hoạt động thao

tác bị tan biến vào trong cái cảm năng, có lợi cho sự thụ động của những cơ

chế tự động.

Người ta không thể quá nhấn mạnh sự việc là nếu các cấu trúc thao tác

được một loạt liên tiếp các trung gian nối liền với cấu trúc tri giác (và chúng tôi

thừa nhận điều đó không khó khăn), tuy nhiên có một sự đảo hướng cơ bản

giữa sự cứng cỏi của một "hình thức" được tri giác và sự cơ động có thể đảo

nghịch của các thao tác. Sự so sánh mà Wertheimer cố làm giữa tam đoạn

luận và các "hình thức tĩnh của tri giác có nguy cơ vẫn là không đầy đủ. Cái

cốt yếu trong cơ chế một nhóm hợp (mà từ đó người ta rút ra những tam

đoạn luận) không phải là cấu trúc do những tiền đề che đậy hoặc cấu trúc đặc

trưng cho những kết luận, mà đúng là quá trình cấu tạo cho phép chuyển từ

những cấu trúc này sang những cấu trúc khác. Mà quá trình đó chắc chắn

kéo dài những cấu trúc hóa lại và tập trung hóa lại tri giác, cũng như những

cái đó (tập trung hóa lại và cấu trúc hóa lại) cho phép nhìn thấy xen kẽ sự lõm

xuống hoặc lối lên một hình vẽ "mơ hồ". Nhưng nó còn hơn thế nữa, vì nó

được cấu tạo bởi tập hợp những thao tác cơ động và có thể đảo nghịch của

sự lồng vào và tháo ra (A + A’ = B; A = B - A’; A’ = B - A; B – A - A’ = 0 v.v...

Page 63: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Vậy không còn là những hình thức tĩnh được kể tới trong trí khôn, cũng không

phải sự chuyển đơn giản theo một chiều độc nhất từ trạng thái này sang trạng

thái khác (hoặc nữa sự dao động giữa hai trạng thái); chính sự cơ động và

tính đảo nghịch chung của các thao tác đề ra những cấu trúc. Và kết quả là

các cấu trúc đang trong cuộc bản thân chúng cũng khác nhau trong cả hai

trường hợp: một cấu trúc tri giác được đặc trưng, như chính lí thuyết Hình

thức nhấn mạnh, bởi tính không thể quy về sự cấu tạo cộng: vậy nó là không

thể đảo nghịch và không kết hợp được. Vậy là có nhiều hơn một sự "tái tập

trung" (Umzentrierung) trong một hệ thống các lập luận: có một sự phi tập

trung hóa chung, nó giả định một sự hòa tan hoặc một sự tan băng của

những hình thức tri giác tĩnh có lợi cho tính cơ động thao tác và vì vậy, có một

khả năng tạo dựng vô hạn những cấu trúc mới, có thể tri giác hoặc vượt

những giới hạn của mọi tri giác thực tại.

Còn về trí khôn cảm giác - vận động mà Koehler mô tả thì rõ ràng là

các cấu trúc tri giác đóng ở đó một vai trò lớn hơn nhiều. Nhưng vì chính sự

việc là học thuyết Hình thức tự bắt buộc coi chúng như đột hiện trực tiếp từ

những tình huống bởi tính cách là như thế, không có phát sinh lịnh sử,

Koehler tự thấy bắt buộc phải loại trừ khỏi địa hạt trí khôn một mặt, sự mầy

mò đi trước việc khám phá các lời giải và mặt khác, những sửa chữa và kiểm

soát tiếp sau nó. Việc nghiên cứu hai năm đầu của đứa trẻ đã dẫn chúng tôi

về mặt đó đến một cách nhìn sự vật khác: quả là cũng có những cấu trúc tổng

thể hoặc "hình thức” trong trí khôn cảm giác - vận động của đứa hài nhi,

nhưng chúng hoàn toàn không tĩnh và không phải không có lịch sử; chúng tạo

thành những "sem" hành động với nhau bằng những sự phân hóa và những

sự sát nhập liên tiếp và chúng phải không ngừng thích nghi với hoàn cảnh,

bằng mầy mò và sửa chữa đồng thời đồng hóa chúng. Sự cư xử với cái gậy

được chuẩn bị bởi một loạt sem có trước như sem kéo về mình mục tiêu bằng

trung gian của những kéo dài của nó (sợi dây hay giá đỡ) hoặc sem đánh một

đồ vật vào đồ vật khác.

Page 64: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Cần thiết lúc này tiến hành với luận đề của Duncker những dè dặt sau.

Chắc hẳn một hành vi trí khôn chỉ được xác định bằng kinh nghiệm có trước

trong chừng mực mà nó cấu viện đến kinh nghiệm này. Nhưng sự đặt quan

hệ này đòi hỏi phải có những sem đồng hóa bản thân chúng xuất phát từ

những sem có trước mà nó phát sinh do phân biệt hóa hay kết hợp. Các sem

vậy là có một lịch sử: có phản ứng lẫn nhau giữa kinh nghiệm có trước và

hành vi trí khôn hiện tại, chứ không phải là hành vi một chiều từ quá khứ đến

hiện tại, như Duncker hằng muốn thế. Cũng có thể xác định những tương

quan đó giữa hiện tại và quá khứ bằng cách nói rằng sự cân bằng đạt được

khi tất cả những sem có trước được lồng vào những sem hiện tại và trí khôn

lúc đó có thể, không phân biệt, tái tạo những sem cũ nhờ những sem mới và

ngược lại.

Tóm lại, người ta thấy rằng tuy đúng trong việc mô tả những hinh thức

cân bằng hoặc những toàn thể cấu trúc tốt, lí thuyết Hình thức tuy nhiên đã

xem nhẹ, cả trong lĩnh vực tri giác lẫn trong lĩnh vực trí khôn, thực tế của sự

phát triển có tính phát sinh và sự tạo dựng có hiệu quả đặc trưng cho trí thông

minh.

* NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA TRI GIÁC VÀ TRÍ KHÔN

Lí thuyết Hình thức đã đổi mới vấn đề về các tương quan giữa trí khôn

và tri giác bằng cách chỉ ra sự liên tục nối các cấu trúc đặc trưng của hai lĩnh

vực này. Không phải vì thế mà không cần, để giải quyết vấn đề bằng cách tôn

trọng tính phức hợp của các sự việc phát sinh, kiểm kê bản thân những khác

biệt trước khi trở lại với những cái tương đồng dẫn đến những giải thích có

thể có.

Một cấu trúc tri giác là một hệ thống các tương quan phụ thuộc lẫn

nhau. Dù là những hình hình học, những trọng lượng, những màu sắc hoặc

âm thanh, người ta luôn có thể thể hiện những toàn bộ thành những tương

quan mà không phá hoại sự thống nhất của cái toàn thể với tính cách là như

vậy. Để rút ra những khác biệt cũng như những giống nhau giữa các cấu trúc

tri giác và các cấu trúc thao tác, chỉ cần biểu đạt những tương quan đó trong

Page 65: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

ngôn ngữ của "nhóm hợp" theo cách mà các nhà vật lí khi trình bày bằng các

số hạng có thể nghịch đảo những hiện tượng nhiệt động, nhận ra rằng chúng

không thể thể hiện trong một ngôn ngữ như vậy, bởi vì là không thể nghịch

đảo, sự không tương ứng của các biểu trưng nêu bật như vậy càng tốt hơn

những khác biệt đang tác động. Về mặt đó, chỉ cần lấy lại những ảo giác hình

học khác nhau mà ai cũng biết bằng cách làm biến đổi những yếu tố hiện

diện, hoặc lấy lại những sự việc thuộc định luật Weber v.v... và trình bày bằng

những số hạng của nhóm hợp tất cả các tương quan cũng như những biến

đổi của chúng tùy thuộc vào những thay đổi bên ngoài.

Mà những kết quả đạt được như vậy là rất rõ ràng: không một điều kiện

nào trong nắm điều kiện của "nhóm hợp" được thực hiện ở trình độ các cấu

trúc tri giác, và ở nơi mà chúng tỏ ra là gần đạt được hơn cả, như ở trên địa

bàn các "sự không đổi" báo tin sự bảo toàn thao tác, thì thao tác bị thay thế

bằng những điều tiết đơn giản, không hoàn toàn nghịch đảo (và do vậy ở giữa

đoạn đường từ sự nghịch đảo tự nhiên đến bản thân sự điều chỉnh thao tác).

Chúng ta hãy lấy làm ví dụ thứ nhất một hình thức đơn giản hóa của ảo

giác Delboeuf): một hình tròn A1 bán kính 12mm nội tiếp trong một hình tròn

B bán kính 15mm trông có vẻ lớn hơn một hình tròn đứng riêng rẽ A2 bằng

A1. Chúng ta làm biến đổi hình tròn ngoài B bằng cách cho chúng có đường

bán kính lần lượt từ 15 đến 13mm, và từ 15 đến 40 hoặc 80mm; ảo giác bớt

đi từ 15 đến 13mm; nó cũng bớt đi từ 15 đến 36mm để trở thành 0 vào

khoảng 36mm (tức là lúc đường kính của A1 bằng chiều rộng của khu vực

nằm giữa B và A1) và trở thành âm khí vượt quá 36 mm (đánh giá nhỏ hơn

hình tròn bên trong A1). Thế là:

1) Thể hiện bằng ngôn ngữ thao tác các tương quan đang tác động

trong những biến đổi tri giác này, trước hết hiển nhiên là sự cấu tạo của

chúng không thể là cộng, vì thiếu sự bảo toàn các yếu tố của hệ thống. Vả lại

đó là sự khám phá chủ yếu của lí thuyết Hình thức và là cái theo lí thuyết đó,

đặc trưng cho khái niệm "toàn bộ của tri giác". Nếu chúng ta gọi A’ khu vực

lồng vào giữa đánh dấu sự khác biệt giữa những đường tròn A1 và B, người

Page 66: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

ta không thể viết A1 + A = B bởi vì A1 bị biến dạng do sự xen của nó vào giữa

Bz, và B bị biến dạng vì bao bọc A1 và vì khu vực A’ bị giãn nở ra hay ép hẹp

lại ít nhiều tùy các tương quan giữa A1 và B. Người ta có thể chứng tỏ sự

không bảo toàn của cái toàn bộ bằng cách sau đây: Nếu bằng cách xuất phát

từ một giá trị nào đó của A1, của A’ và B, người ta nới rộng (một cách khách

quan) A1 bằng cách do đó làm hẹp lại A’, nhưng để B không đổi, có thể cái

toàn bộ B được nhìn thấy bé hơn trước: vậy là đã có mất đi một cái gì đó

trong tiến trình biến đổi, hoặc trái lại nó sẽ được nhìn thấy lớn hơn và có cái

gì đó đã can thiệp vào quá mức. Vấn đề lúc đó là tìm một cách trình bày

những "biến đổi không được bù đó".

2) Chúng ta hãy thể hiện vì mục đích đó những biến đổi thành các số

hạng cấu tạo nên các tỉ số và chúng ta nhận ra tính chất không nghịch đảo

của cấu tạo này; sự không nghịch đảo này biểu hiện dưới một hình thức khác

sự thiếu vắng của cấu tạo cộng. Hãy gọi r sự tăng lên về tính giống nhau (về

kích thước) giữa A1 và B và d sự tăng lên về tính khác nhau (về kích thước)

giữa cùng các số hạng ấy. Hai tỉ số đó sẽ phải là và vẫn là số nghiệm của

nhau, tức là +r = -d và +d = -r (dấu - chỉ sự giảm tính giống nhau hoặc khác

nhau). Nếu chúng ta đi từ ảo giác không (A1 = 12mm và B = 36mm), chúng ta

nhận ra rằng bằng cách tăng các tính giống nhau khách quan (= bằng cách

thu hẹp các hình tròn), chủ thể còn tri giác chúng như được tăng thêm: do đó,

tri giác đã quá tăng các tính giống nhau trong tiến trình tăng khách quan của

chúng và đã không giữ lại đủ những tính khác nhau của chúng trong tiến trình

giảm khách quan của chúng. Cũng vậy, nếu người ta tăng sự khác nhau

khách quan (bằng cách đặt sít các hình tròn), sự tăng thêm cũng được thổi

phồng. Thế là xẩy ra một sai lầm trong đền bù trong tiến trình các biến đổi.

Chúng tôi quy ước viết những biến đổi này dưới hình thức sau đây, nhằm

đánh dấu tính chất không thể cấu tạo của chúng trên quan điểm lôgich học.

r > -d hoặc d > -r

Quả vậy nếu ở mỗi hình lấy riêng ra các tỉ số của các tính giống nhau

tất nhiên luôn luôn là số nghịch của các tỉ số của các tính khác nhau, sự

Page 67: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chuyển từ một hình sang hình khác không giữ tổng các tính giống nhau và

các tính khác nhau không đổi bởi vì các toàn thể không tự bảo toàn được

(xem dưới 1)). Chính là theo ý nghĩa đó mà người ta có thể chính đáng xem

những tăng thêm tính giống nhau như thặng hơn những giảm bớt tính khác

nhau, hoặc ngược lại.

Trong trường hợp đó có thể biểu đạt cùng ý ấy một cách ngắn gọn hơn

bằng cách nói đơn giản rằng sự biến đổi các tỉ số là không thể nghịch đảo bởi

vì kèm theo một sự biến đổi không được đền bù P như sau: n = -d + Prd hoặc

d = -r + Prd

3) Hơn nữa không một cấu tạo nào của các tỉ số tri giác là độc lập với

đoạn đường đã đi (tính kết hợp), nhưng mỗi tỉ số được tri giác là phụ thuộc

vào những tỉ số đi ngay kể trước nó. Vì vậy mà sự tri giác cùng một hình tròn

A cho những kết quả khác nhau trông thấy tùy theo nó được so sánh với

những hình tròn quy chiếu được chia hạng theo trật tự tăng hoặc giảm dần.

Số đo khách quan nhất trong trường hợp này là có tính chất đồng tâm, tức là

tiến hành theo yếu tố khi thì lớn hơn khi thì bé hơn A, để mà bù trừ các biến

dạng lẫn nhau, do những so sánh trước đó.

4) và 5). Vậy tất yếu cùng một yếu tố không giữ đồng nhất với bản thân

mình, tùy theo nó được so sánh với những yếu tố khác, khác biệt với nó hoặc

cùng những kích thước như nhau: giá trị của nó không ngừng thay đổi căn cứ

vào những quan hệ đã cho, hiện nay hoặc trước đây.

Vậy không thể quy một hệ thống tri giác về một "nhóm hợp", trừ phi

đem những bất đẳng thức quay về những đẳng thức bằng cách đưa vào

những "biến đổi không được đền bù" P, chúng tạo thành số đo những biến

dạng (ảo giác) và chứng thực cho tính không cộng được và không bắc cầu

được của các tỉ số tri giác, tính không nghịch đảo được, không kết hợp được

và không đồng nhất được của chúng.

Sự phân tích này (nó ngoài ra còn cho chúng ta biết tư duy sẽ là thế

nào nếu các thao tác của nó không được "nhóm hợp" lại!) chứng tỏ rằng dạng

cân bằng gắn chặt với các cấu trúc tri giác khác xa với dạng cân bằng của

Page 68: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

các cấu trúc thao tác ở những cấu trúc sau, sự cân bằng vừa cơ động vừa

thường trực, những biến đổi ở bên trong hệ thống không thay đổi hệ thống vì

chúng luôn được đền bù đúng đắn nhờ những thao tác ngược thực tại hoặc

huyễn tưởng (tính đảo nghịch được). Trong trường hợp các tri giác, trái lại

mỗi thay đổi giá trị của một trong những tỉ số đang tác động mang theo một

biến đổi của tổng thể, cho đến khi tự tạo dựng một cân bằng mới, khác với cái

cân bằng đặc trưng cho trạng thái trước: vậy là có "chuyển dịch sự cân bằng"

(như người ta nói trong vật lí học, trong việc nghiên cứu những hệ thống

không thể nghịch đảo như những hệ thống nhiệt động học), chứ không còn là

sự cân bằng thường xuyên. Đó là trường hợp, chẳng hạn, đối với mỗi giá trị

mới của hình tròn bên ngoài B, trong ảo giác đã được trình bày vừa qua: ảo

giác, lúc đó, tăng hoặc giảm nhưng không còn giữ giá trị ban đầu nữa.

Hơn nữa, những "chuyển dịch cân bằng" này tuân thủ những quy luật

của "tối đa": một tỉ số đã cho không đẻ ra một ảo giác, tức là không sản sinh

ra một sự biến đổi không được đền bù P, và đến một giá trị nào đó, vì có tính

đến giá trị các tỉ số khác. Đi quá giá trị đó, ảo giác giảm bởi vì sự biến dạng

lúc đó được bù một phần do những tỉ số mới của tổng thể: vậy là các chuyển

dịch cân bằng gây nên những "điều tiết", hoặc đền bù bộ phận, mà người ta

có thể xác định bằng việc thay đổi dấu của đại lượng P (chẳng hạn khi hai

vòng tròn đồng tâm gần nhau quá hay xa nhau quá, ảo giác Delboeuf giảm).

Mà những điều tiết này, mà hiệu quả là hạn chế hoặc "giảm bớt" (như người

ta nói trong vật lí học) những chuyển dịch của sự cân bằng, so sánh được về

một số phương diện nào đó với những thao tác của trí khôn. Nếu hệ thống

mang tính chất thao tác, mọi sự tăng của một trong các giá trị tương ứng với

sự giảm của giá trị khác và ngược lại (vậy là có nghịch đảo, tức là người ta sẽ

có P = 0); nếu mặt khác, có sự biến dạng không hãm được lúc xẩy ra mỗi

biến đổi bên ngoài, hệ thống sẽ không tồn tại với tính cách nó là như thế nữa:

sự hiện diện những điều tiết biểu lộ bằng cách đó sự hiện diện của một hệ

thống trung gian giữa tính không nghịch đảo hoàn toàn và sự nghịch đảo thao

tác.

Page 69: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Nhưng làm sao cắt nghĩa sự đối lập tương đối (kèm theo một sự gắn

bó tương đối) giữa các cơ chế tri giác và các cơ chế trí khôn? Các tương

quan mà bởi chúng một cấu trúc tổng thể được cấu tạo như cấu trúc của một

tri giác thị giác biểu đạt các quy luật của một không gian chủ quan, hoặc

không gian tri giác mà người ta có thể phân tích và so sánh với không gian

hình học hoặc không gian thao tác. Các ảo giác (hoặc biến đổi không được

bù của hệ thống các tỉ số) lúc đó có thể được quan niệm như những biến

dạng của không gian đó theo chiều của sự giãn nở hoặc sự co hẹp lại.

Từ quan điểm đó, một sự việc cơ bản chế ngự toàn bộ các quan hệ

giữa tri giác và trí khôn. Khi trí khôn so sánh hai số hạng số hạng này với số

hạng kia, cả cái so sánh và cái được so sánh (nói cách khác cả cái mét lẫn

cái được đo bằng mét) không bị biến dạng bởi bản thân sự so sánh. Trái lại

trong trường hợp của sự so sánh tri giác, và nhất là khi một yếu tố dùng làm

chuẩn cố định trong việc đánh giá các yếu tố thay đổi, diễn ra một sự biến

dạng có hệ thống mà chúng tôi đã cùng Lambercier gọi là "cái sai của chuẩn":

yếu tố mà mắt chú ý nhìn nhiều hơn (tức thường là bản thân cái chuẩn, khi

mà cái biến đổi bị xa nó, mà đôi khi cũng là cái biến đổi khi chuẩn gán với cái

biến đổi và đã được biết) được đánh giá cao một cách có hệ thống, và điều

đó xảy ra trong những so sánh được; thực hiện trên bình diện song song

chính diện cũng như ở chiều sâu).

Những sự việc như vậy chỉ tạo thành những trường hợp đặc biệt của

một quá trình rất chung. Nếu chuẩn được đánh giá quá cao (hoặc là trong một

số trường hợp, cái biến đổi), đó đơn giản là vì yếu tố được nhìn lâu nhất

(hoặc thường được nhìn nhất, được nhìn mãnh liệt nhất) đã vì vậy mà lớn

thêm, làm như đồ vật hoặc miền trên đó cái nhìn đạt tới đã gây ra một sự giãn

nở của không gian tri giác. Chỉ cần, về mặt này nhìn lần lượt hai yếu tố bằng

nhau để thấy rằng người ta mỗi lần tăng các kích thước của cái mà người ta

nhìn chăm chú, dù những biến dạng liên tiếp đó được bù vào tổng số. Không

gian tri giác vậy là không đồng đều, nó từng lúc bị tập trung và khu vực tập

trung tương ứng với một sự giãn nở không gian, còn vùng xung quanh của

Page 70: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

khu vực trung tâm đó càng bị thu hẹp khi người ta đi ra xa trung tâm. Vai trò

đó của sự tập trung và cái sai của chuẩn được tìm thấy lại trong lĩnh vực xúc

giác.

Nhưng nếu sự "tập trung" là nguyên nhân của các biến dạng, nhiều sự

tập trung riêng biệt sửa lại những hiệu quả của mỗi sự tập trung. Sự "phi tập

trung hóa" hoặc sự kết hợp các tập trung khác nhau là do vậy yếu tố của sự

sửa sai. Người ta thấy ngay, lúc đó, nguyên tắc của một sự giải thích có thể

có những biến dạng nghịch đảo và những điêu tiết mà chúng tôi vừa nói đến

lúc nãy. Những ảo giác của tri giác bằng mắt có thể được giải thích bằng cơ

chế của các tập trung khi mà các yếu tố của hình là (tương đối) quá gần nhau

để có được sự phi tập trung hóa. Tất cả sự tiến hóa của tư duy trẻ em, mà

các hình thức trực giác ban đầu đúng là gần với những cấu trúc tri giác, được

đặc trưng bởi sự chuyển từ một sự duy kì chung (mà chúng tôi sẽ nói lại ở

chương 5) sang sự phi tập trung hóa trí tuệ, tức là bởi một quá trình có thể so

sánh với quá trình mà chúng ta nhận thấy ở đây các hiệu quả. Nhưng vấn đề

lúc này là nắm bắt sự khác biệt giữa tri giác và trí khôn hoàn thiện, và vẻ mặt

đó, các sự việc đã đến trước cho phép nắm chặt hơn cái chính của những đối

lập đó: cái đối lập của những gì mà người ta có thể gọi là "tính tương đối tri

giác" với tính tương đối của trí khôn (tính tương đối trí tuệ).

Quả vậy, nếu những tập trung hóa được thể hiện bằng những biến

dạng mà chúng ta đã thấy, người ta có thể trình bày chúng như thế nào trong

quy chiếu (và bằng tương phản) với các nhóm hợp, vấn đề ngoài ra còn là do

chúng khi có thể được, và giải thích sự thẩm định đó. Mà sự việc là dễ dàng

trong trường hợp mà hai yếu tố đồng đều được so sánh với nhau, giống như

hai đường thẳng kéo dài lẫn nhau. Lúc đó người ta có thể xác lập một quy

luật của những "tập trung hóa tương đối", độc lập với giá trị tuyệt đối của các

hiệu quả của sự tập trung hóa, và biểu đạt các biến dạng tương đối dưới hình

thức một giá trị đơn giản có thể xẩy ra, tức là bằng tỉ số những tập trung hóa

thực tại với số các tập trung hóa có thể có.

Page 71: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Người ta biết rằng một đường A, so sánh với một đường khác A’, là bị

giảm giá trị bởi đường này nếu đường này là lớn hơn đường thứ nhất (A < A’)

và được tăng giá trị trong trường hợp ngược lại (A > A’). Nguyên tắc tính toán

lúc đó là xét trong mỗi một của hai trường hợp đó, những tập trung hóa lần

lượt vào A và vào A’ như là làm giãn nở xen kẽ những đường đó tỉ lệ với độ

dài của chúng: sự khác biệt của những biến dạng ấy, biểu đạt bằng độ lớn

tương đối của A và của A’, cung cấp bằng cách đó sự tăng giá trị hoặc giảm

giá trị thô của A, những độ lớn này sau đó được đem chia cho chiều dài toàn

bộ những đường nối tiếp nhau A + A’, bởi vì sự phi tập trung hóa là tỉ lệ với

độ lớn của hình tổng thể. Vậy người ta có:

Ngoài ra, nếu việc đó được thực hiện trên A, phải nhân những quan hệ

đó với A²/(A + A’)², tức là với bình phương tỉ số giữa bộ phận được đo với

toàn bộ.

Đường cong lí thuyết có được bằng cách đó tương ứng sát sao với các

số đo kinh nghiệm chủ nghĩa của các biến dạng và hơn nữa, nối tiếp khá

đúng các số đo của ảo giác Delboeuf (nếu A được chèn vào giữa hai A’ và

nếu người ta lúc này gấp đôi giá trị A’ này trong công thức).

Quy luật này của những tập trung hóa tương đối, diễn đạt bằng ngôn

ngữ định tính, có nghĩa đơn giản rằng mọi khác biệt khách quan được tri giác

làm nổi bật một cách chủ quan, cả trong trường hợp mà các yếu tố được so

sánh đều được cái nhìn tập trung vào như vậy. Nói cách khác, mọi tương

phản đều được tri giác thổi phồng, điều đó chứng tỏ tức khắc sự can thiệp

của một tính tương đối đặc biệt đối với tri giác và khác biệt với tính tương đối

của trí khôn. Điều này dẫn ta đến luật của Weber, mà sự bàn cãi là về mặt

này đặc biệt bổ ích. Hiểu theo nghĩa chặt chẽ luật của Weber biểu đạt, như

người ta biết, rằng độ lớn của những "thềm sai biệt" (những khác biệt nhỏ

nhất tri giác được) là tỉ lệ với độ lớn những yếu tố được so sánh: nếu một chủ

thể phân biệt được chẳng hạn 10 và 11 cm, chứ không phải 10 và 10.5mm,

nđ cũng chỉ sẽ phân biệt được 10 và 11cm và không phải 10 và 10,5cm.

Page 72: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Như vậy, chúng ta hãy giả định rằng các đường nêu trên A và A’ được

giữ giá trị rất gần nhau hoặc bằng nhau. Nếu chúng bằng nhau, sự tập trung

vào A làm giãn nở A và giảm giá B; đoạn sự tập trung vào A’ làm giãn nở A’

và giảm giá A với cùng những tỉ lệ như nhau; do đó có sự triệt tiêu các biến

dạng. Trái lại, nếu chúng hơi không bằng nhau một chút, nhưng sự không

bằng nhau đó vẫn thấp hơn những biến dạng do sự tập trung; sự tập trung

vào A cung cấp sự tri giác A > A’ và sự tập trung vào A’ cho nhìn thấy A’ > A.

Trong trường hợp này có mâu thuẫn giữa những đánh giá (trái với trường

hợp chung trong đó một bất bình đẳng chung cho cả hai quan điểm, hiện ra

đơn giản mạnh hơn hay yếu hơn tùy theo người ta chú mục vào A hay A’). Sự

mâu thuẫn đó được thể hiện bằng một sự dao động (so sánh được với sự

cộng hưởng trong vật lí học) chỉ có thể kết thúc ở sự cân bằng tri giác bằng

sự làm cho bằng nhau A = A’. Nhưng sự làm bằng nhau đó vẫn giữ tính chủ

quan và do vậy có tính ảo giác, tức cũng như nói rằng hai giá trị gần bằng

nhau được tri giác làm cho lẫn lộn. Mà sự không phân hóa ấy đúng là cái đặc

trưng cho sự tồn tại cái "thềm sai biệt" và vì nó là tỉ lệ do luật các sự tập trung

tương đối với các độ dài của A và của A’ người ta tìm thấy lại luật Weber.

Luật của Weber, áp dụng vào các thềm sai biệt, được giải thích bằng

luật các sự tập trung tương đối. Hơn nữa, vì nó cùng tràn đến các khác biệt

bất kì (hoặc các giống nhau nổi trội hơn các khác biệt như ở bên trong thềm,

hoặc ngược lại như trong trường hợp bàn cãi trên) người ta có thể xem xét nó

trong tất cả các trường hợp như đơn thuần biểu đạt yếu tố tỉ lệ gắn liền với

các tỉ số của những tập trung tương đối (và đối với xúc giác và trọng lượng

v.v... cũng như đối với thị giác).

Vậy chúng tôi đang có khả năng phát biểu rõ ràng hơn sự đối lập chắc

hẳn là chủ yếu ngăn cách trí khôn với sự tri giác. Người ta thường thể hiện

luật Weber bằng cách nói rằng mọi tri giác là "tương đối". Người ta không

nắm bắt được những khác biệt tuyệt đối vì 1 gr được thêm vào 10 gr có thể

được tri giác, còn không thể tri giác được nữa khi thêm vào 100 gr. Mặt khác,

khi các yếu tố khác biệt đáng kể, những tương phản lúc đó được nêu bật lên

Page 73: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

như các trường hợp thông thường của những sự tập trung tương đối chỉ rõ,

và sự tăng thêm đó là một lần nữa tương đối so với các đại lượng đang tác

động (một căn phòng do đó có thể nóng hay lạnh tùy theo người ta đến từ

một nơi nhiệt độ thấp hơn hoặc cao hơn). Dù vấn đề là những giống nhau

hão huyền (thềm của sự bằng nhau) hoặc những khác biệt hão huyền (những

tương phản), tất cả vậy là "tương đối" qua tri giác. Nhưng phải chăng vấn đề

cũng là như vậy trong trí khôn ? Một lớp phải chăng là tương đối đối với một

sự phân loại? Và một quan hệ đối với toàn bộ những quan hệ khác? Trên

thực tế, từ tương đối giới thiệu một ý nghĩa rất khác biệt trong hai trường hợp.

Tính tương đối tri giác là một tính tương đối biến dạng, trong ý nghĩa

mà ngôn ngữ thông dụng nói "tất cả đều tương đối" để phủ nhận khả năng

của tính khách quan: tỉ số tri giác làm thay đổi các yếu tố mà nó nối liền và

ngày nay chúng ta hiểu tại sao. Trái lại tính tương đối của trí khôn chính là

điều kiện của tính khách quan: vì vậy, tính tương đối của không gian và thời

gian là điều kiện của sự đo đạc riêng của chúng. Vậy tất cả diễn ra như là nếu

tri giác bị bắt buộc tiến hành từng bước, bằng tiếp xúc, trực tiếp, nhưng từng

phần với khách thể của nó, biến dạng nó ngay bằng hành vi tập trung vào nó,

dù phải giảm nhẹ những biến dạng ấy bằng những sự phi tập trung hóa cũng

bộ phận; còn trí khôn bao quát thành một cái toàn thể duy nhất một số lớn

hơn rất nhiều các thực tế, theo những đoạn đường đi cơ động và mềm mại,

đạt tới tính khách quan bằng một sự phi tập trung hóa rộng lớn hơn nhiều.

Mà hai tính tương đối đó, một cái biến dạng và cái kia khách quan,

chắc hẳn là sự biểu hiện đồng thời một sự đối lập sâu sắc giữa các hành vi trí

khôn và những tri giác và mặt khác, một sự tiếp nối giả định sự tồn tại của

những cơ chế chung. Quả vậy, tại sao, nếu tri giác cũng như trí khôn bao

hàm sự cấu trúc hóa và đặt thành tỉ số, những tỉ số ấy lại làm biến dạng trong

một trường hợp và không làm biến dạng trong trường hợp kia ? Phải chăng

rằng những tỉ số đầu là không chỉ không hoàn chỉnh mà còn không có đầy đủ

khả năng kết hợp trong khi những tỉ số thứ hai dựa trên một sự kết hợp có

khả năng khái quát vô hạn? Và nếu cái "nhóm hợp" là nguyên tắc của sự kết

Page 74: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hợp đó, và sự cấu tạo có thể nghịch đảo kéo dài những điều tiết và những phi

tập trung hóa tri giác, nên chăng thừa nhận rằng các sự tập trung làm biến

dạng bởi vì quá ít, phần nào ngẫu nhiên và như vậy, là kết quả của một thứ

rút thăm trong số toàn bộ những sự tập trung hóa cần thiết để bảo đảm một

sự phi tập trung hóa hoàn toàn và bảo đảm tính khách quan?

Vậy là chúng ta được dắt dẫn đến chỗ tự hỏi xem sự khác biệt chủ yếu

giữa trí khôn và tri giác không nằm ở sự việc là cái này là một quá trình có

tính chất tĩnh, gắn liền với một thang nào đó, còn các quá trình có tính chất trí

tuệ xác định những tỉ số tổng thể gắn liền với một thang cao cấp. Tri giác so

với trí khôn cũng như trong vật lí học lĩnh vực của cái không thể đảo nghịch

(tức đúng là của ngẫu nhiên) và của những di chuyển của cân bằng so với

lĩnh vực của cơ học thực sự.

Mà cấu trúc xác suất của các luật tri giác mà chúng tôi vừa nói tới rơi

đúng vào giác quan và cắt nghĩa tính chất không thể đảo nghịch của các quá

trình tri giác, đối lập với các cấu tạo thao tác, vừa rất xác định vừa có thể đảo

nghịch. Quả vậy, tại sao cảm giác xuất hiện như lôgarit của sự kích thích

(điều mà tính tỉ lệ, do luật của Weber phát biểu, diễn đạt không có gì thêm)?

Người ta biết rằng luật Weber không chỉ áp dụng vào sự việc của tri giác hoặc

vào sự việc của kích thích sinh lí học, mà cả, trong số những cái khác, việc in

một phim kính của nhiếp ảnh: trong trường hợp cuối này nó có nghĩa đơn

giản là các cường độ in tùy thuộc ở tính xác suất của sự gặp gỡ giữa các

quang tử ném xuống tấm kính và những phần tử muối bạc tạo nên tấm kính

(từ đó có hình thức lôgarit của luật: tỉ số giữa việc nhận các xác suất và việc

cộng các cường độ). Trong trường hợp của tri giác, rất dễ dàng cũng như

vậy, quan niệm một đại lượng như độ dài một đường như là tập hợp của

những điểm chú mục có thể có của cái nhìn (hoặc của những đoạn dành cho

sự tập trung). Khi người ta so sánh hai đường không bằng nhau, các điểm

tương ứng tạo ra những phối hợp hoặc kết hợp (theo nghĩa toán học) của sự

giống nhau, và những điểm không tương ứng tạo ra những kết hợp của sự

khác biệt (những kết hợp tăng theo cấp độ nhân còn độ dài các đường tăng

Page 75: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

theo cấp độ cộng). Nếu sự tri giác tiến hành theo tất cả các phối hợp có thể

có, lúc đó sẽ không có một sự biến dạng nào (các kết hợp kết thúc ở một tỉ số

không đổi và người ta có r = -d). Nhưng mọi việc diễn ra trái lại như là cái

nhìn thực tại tạo nên một thứ rút thăm và như là nó chỉ chú mục vào một số

điểm trong cái hình được tri giác, mà bỏ qua các điểm khác. Lúc này dễ dàng

giải thích các luật trước căn cứ vào các xác suất mà theo đo những sự tập

trung hướng vào một chiều mà không vào chiều khác. Trong trường hợp có

sự khác biệt đáng kể giữa hai đường, tất nhiên là đường lớn hơn trong hai

đường thu hút cái nhìn nhiều hơn do đó có sự thặng lên của những kết hợp

của sự khác biệt (luật những tập trung tương đối theo chiều của sự tương

phản), còn trong trường hợp của những khác biệt cực tiểu, những kết hợp

của sự giống nhau trội hơn các cái khác, do đó có thềm của Weber) (Người ta

còn có thể tính những phối hợp khác nhau đó và tìm thấy lại những công thức

đã chỉ ra ở trên).

Chúng ta hãy ghi nhận rằng tính chất xác suất đó của những cấu tạo tri

giác, đối lập với tính chất xác định của những cấu tạo thao tác, không giải

thích duy nhất tính tương đối có tính chất biến dạng của những cấu tạo thứ

nhất và tính tương đối khách quan của những cấu tạo thứ hai. Nó giải thích

chủ yếu sự việc cơ bản mà tâm lí học hình thức nhấn mạnh: là trong một cấu

trúc tri giác, cái toàn bộ là không thể quy về tổng của các bộ phận. Quả vậy,

trong mức độ mà ngẫu nhiên can thiệp vào trong một hệ thống, hệ thống này

không thể là có thể nghịch đảo, bởi vì sự can thiệp đó của ngẫu nhiên luôn

luôn thể hiện bằng cách này hay cách khác, sự tồn tại của một hỗn hợp, và

một hỗn hợp là không thể nghịch đảo. Kết quả là một hệ thống bao gồm một

mặt ngẫu nhiên không có khả năng có cấu tạo cộng (cũng như vậy, thực tế bỏ

rơi những phối hợp cực kì ít có khả năng xẩy ra), đối lập với các hệ thống xác

định, chúng là có thể đảo nghịch và có thể cấu tạo bằng thao tác.

Tóm lại, vậy chúng ta có thể nổi rằng tri giác khác trí khôn ở chỗ các

cấu trúc cùa nó không có tính chất bắc cầu, không thể nghịch đảo v.v... tức là

không thể cấu tạo theo các quy luật của nhóm hợp và như thế là vì tính tương

Page 76: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đối biến dạng gắn chặt với nó thể hiện bản chất tính tuyệt đối của nó. Sự cấu

tạo tính này, riêng cho các tỉ số tri giác, chỉ là một với tính không đảo nghịch

được và tính không thể cộng được của những tỉ số đó, trong khi trí khôn

hướng về sự cấu tạo hoàn chỉnh, tức là có thể nghịch đảo.

* NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HOẠT ĐỘNG TRI GIÁC VÀ TRÍ KHÔN

Thế thì làm sao giải thích sự thân thuộc không thể chối cãi giữa hai thứ

cấu trúc mà cả hai bao hàm một hoạt động xây dựng của chủ thể và tạo thành

những hệ thống tổng thể các quan hệ, mà một số kết thúc trong cả hai lĩnh

vực, ở những "sự không đổi" hoặc ở những khái niệm của sự bảo toàn? Nhất

là làm sao trình bày về sự hiện diện của vô số trung gian nối liền những sự

tập trung và phi tập trung hóa sơ đẳng, cũng như những điều tiết do các tập

trung và phi tập trung này tạo nên, với bản thân những thao tác trí tuệ ?

Dường như phải phân biệt, trong lĩnh vực tri giác, sự tri giác với tính

cách là như thế - tập hợp những tỉ số được tạo ra toàn thể và trực tiếp, trong

mỗi sự tập trung - và hoạt động tri giác can thiệp ngoài những cái khác vào

trong ngay sự việc tập trung cái nhìn hoặc thay đổi tập trung. Rõ ràng là sự

phân biệt đó chỉ là tương đối, nhưng điều đặc biệt là môi trường phải bị bắt

buộc phải thừa nhận nó dưới hình thức này hay hình thức khác. Chính vì vậy

mà lí thuyết hình thức, mà tất cả tinh thần dẫn đến việc thu hẹp hoạt động của

chủ thể vì lợi ích của các cấu trúc tổng thể, chúng khống chế nhờ các luật

vừa vật lí học vừa sinh lí học của sự cân bằng, đã buộc phải chia một phần

cho các thái độ của chủ thể: "thái độ phân tích" được viện dẫn để giải thích

như thế nào các toàn thể có thể tách ra từng phần, và nhất là Einstellung

hoặc định hướng tinh thần của chủ thể được thừa nhận như là nguyên nhân

của nhiều biến dạng của tri giác căn cứ vào những trạng thái có trước. Còn

trường phái của Von Weizsacker, Auersperg và Buhrmester việc dẫn những

đón trước và những tái tạo tri giác, chung đòi hỏi sự can thiệp cần thiết của

tính vận động trong mọi tri giác v.v...

Page 77: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Mà nếu một cấu trúc tri giác trong bản thân nó thuộc bản chất tĩnh, vật

không thể cấu tạo theo cấp số cộng, dĩ nhiên là mọi hoạt động điều khiển và

phối hợp các sự tập trung liên tiếp giảm bớt phần của ngẫu nhiên và biến cấu

trúc đang tác động theo hướng của sự cấu tạo thao tác (ở những mức độ

khác nhau, tất nhiên là thế, và không bao giờ đạt được hoàn toàn). Cạnh

những khác biệt rõ rệt giữa hai lĩnh vực, thế là có những tương đồng không

kém phần hiển nhiên, đến mức khó có thể nói chính xác ở đâu hoạt động tri

giác ngừng lại và ở đâu bắt đầu trí khôn. Vì vậy ngày nay người ta không thể

nói tới trí khôn mà không xác định những quan hệ của nó với tri giác.

Về mặt đó, sự việc cơ bản là sự tồn tại của một sự phát triển các tri

giác phụ thuộc vào sự tiến hóa tinh thần nói chung. Tâm lí học hình thức đã

nhấn mạnh một cách có lí đến sự không thay đổi tương đối của một vài cấu

trúc tri giác: phần lớn các ảo giác tìm thấy lại ở mọi lứa tuổi, và ở loài vật như

ở người; các yếu tố quy định những "hình thức" tổng thể dường như cùng

chung cho mọi trình độ v.v... Song những cơ chế chung này liên quan chủ yếu

đến sự tri giác với tính cách là như vậy, phần nào thụ cảm và trực tiếp, trong

khi hoạt động tri giác bản thân nó và các hiệu quả của nó biểu lộ những biến

đổi lớn tùy thuộc vào trình độ tinh thần. Hơn nữa, những "sự không đổi" của

đại lượng v.v... mà thí nghiệm chứng thực, mặc cho lí thuyết Hình thức, rằng

chúng được tạo dựng dần dần căn cứ vào những điều tiết luôn luôn chính xác

hơn sự đo đơn giản các ảo giác chứng tỏ sự tồn tại của những thay đổi với

lứa tuổi, những thay đổi đó là không thể giải thích nếu không có một quan hệ

chặt chẽ của tri giác với hoạt động trí óc nói chung.

Ở đây phải phân biệt hai trường hợp, tương ứng trên đại thể với cái mà

Binet gọi là những ảo giác bẩm sinh và đạt được, mà tốt hơn nên gọi không

thêm gì nữa ảo giác sơ cấp và thứ cấp. Những ảo giác sơ cấp có thể quy

được về những yếu tố đơn giản của sự tập trung và do vậy thuộc quy luật của

những sự tập trung tương đối. Mà chúng giảm giá trị khá đều đặn với lứa tuổi

("sai lầm của chuẩn", cái ảo giác của Delboeuf của Oppel của Miiller - Lyer.

v.v.... điều đó được giải thích dễ dàng bởi những sự phi tập trung hóa và

Page 78: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những điều tiết mà chúng bao gồm, căn cứ vào hoạt động của chủ thể khi có

mặt các hình. Quả vậy đứa bé giữ thụ động ở nơi mà người lớn và những trẻ

lớn so sánh, phân tích và như vậy lao vào ruột sự phi tập trung hóa tích cực

được định hướng vào tính có thể nghịch đảo của thao tác. Nhưng mặt khác

có những ảo giác tăng cưòng độ với tuổi hoặc với sự phát triển, như ảo giác

về trọng lượng, không có ở những người khuyết tật nặng và cứ lớn lên cho

đến lúc kết thúc tuổi thơ để rồi sau đó giảm đi phần nào. Nhưng người ta biết

rằng ảo giác đó đúng là bao gồm một thứ đón trước các quan hệ trọng lượng

và thể tích, và rõ ràng là sự đón trước đó đòi hỏi một hoạt động mà bản thân

nó tự nhiên tăng trưởng cùng với sự tiến triển của trí tuệ. Là sản phẩm của

một sự giao thoa giữa các yếu tố tri giác sơ cấp và hoạt động tri giác, một ảo

giác như vậy có thể được gọi là thứ cấp và chúng ta sẽ thấy lát nữa những ảo

giác khác cùng một loại hình.

Điều đó nói lên, hoạt động tri giác trước tiên được đánh dấu bằng sự

can thiệp của phi tập trung hóa, nó sửa chữa các hậu quả của sự tập trung và

như vậy tạo nên một sự điều tiết các biến dạng tri giác. Mặc dầu rất sơ đẳng

và phụ thuộc vào các chức năng cảm giác vận động mà những sự phi tập

trung hóa và điếu tiết này vẫn giữ, rõ ràng là chúng tạo nên cả một hoạt động

so sánh và phối hợp gần gũi với hoạt động của trí khôn: nhìn một đồ vật đã là

một hành vi và tùy theo đứa trẻ nhỏ để cái nhìn của mình chăm chú vào điểm

đầu tiên đến với mình hoặc điều khiển cái nhìn sao cho bao quát toàn bộ các

quan hệ, người ta gần như đã có thể phán đoán trình độ trí tuệ của đứa trẻ.

Khi vấn đề là đối chiếu các đồ vật quá xa để có thể lồng vào trong cùng

những sự tập trung chung, hoạt động tri giác kéo dài dưới hình thức "những

vận chuyển" trong không gian, làm cho sự nhìn một trong những vật được áp

dụng vào vật khác. Những vận chuyển ấy, tạo thành như vậy những sự xích

lại gần (ảo) của các sự tập trung, gây nên những "so sánh" thực sự hoặc

những vận chuyển kép phi tập trung hóa, bởi những đi và về của chúng,

những biến dạng do sự vận chuyển một chiều độc nhất. Sự nghiên cứu các

vận chuyển này quả đã chỉ ra cho chúng ta một sự giảm sụt rõ rệt các biến

dạng với tuổi, tức là một tiến bộ rõ rệt trong việc đánh giá các đại lượng từ xa

Page 79: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

và điều đó tự giải thích lấy do chỗ hệ số hoạt động thực sự can thiệp vào ở

đây.

Thật dễ dàng chỉ ra rằng chính những phi tập trung hóa và những vận

chuyển kép này với những điều tiết đặc trưng mà những khác biệt đa dạng

của chúng mang lại; bảo đảm cho những "sự không đổi" nổi tiếng của tri giác

hình dạng và độ lớn. Quả vậy, điều rất đặc biệt là người ta hầu như không

bao giờ đạt được ở phòng thí nghiệm những sự không đổi tuyệt đối của độ

lớn: trẻ em đánh giá thấp các đại lượng ở xa (do tính đến cái "sai của

chuẩn"), nhưng người lớn hầu như luôn luôn đánh giá cao chúng một ít!

Những "siêu không thay đổi" này mà các tác giả thường đã quan sát thấy trên

thực tế, nhưng thường họ lướt qua như những ngoại lệ gây phiền hà, đối với

chúng tôi hình như tạo nên quy tắc, và không một sự việc nào có thể chứng

thực tốt hơn sự can thiệp của các điều tiết thực sự trong việc tạo dựng những

sự không đổi. Như khi người ta thấy trẻ nhỏ, vào lứa tuổi mà đúng là ở lứa

tuổi đó người ta đã báo sự khởi đầu của sự không đổi này (trong khi cường

điệu nhiều giá trị của sự chính xác của nó) lao vào những sự thử thực sự,

chúng bao hàm việc đưa lại gần hoặc đẩy ra xa một cách có dụng ý khỏi mắt

mình những đồ vật chúng nhìn (người ta được dắt dẫn đặt hoạt động tri giác

của những vận chuyển và những so sánh trong quan hệ với những biểu lộ

của bản thân trí khôn cảm giác - vận động (mà Không vì vậy quay trở lại với

những "lập luận vô thức" của Helmholtz). Mặt khác dường như hiển nhiên

rằng sự không thay đổi về hình dạng cái đồ vật gắn liền, với bản thân sự cấu

tạo của đồ vật; chúng tôi còn trở lại vấn đề này trong chương sau.

Tóm lại, những "sự không thay đổi" tri giác dường như là sản phẩm của

những hoạt động thực sự bao hàm việc di chuyển thực hay ảo cái nhìn hoặc

những cơ quan đang tác động: các vận động được kết hợp thành những hệ

thống mà sự tổ chức có thể thay đổi, từ sự mầy mò đơn giản có điều khiển

đến những cấu trúc làm nhớ lại "sự nhóm hợp". Trong một thí nghiệm lí thú

trên những tương đồng thị giác của ảo giác trọng lượng, Usnadze) giới thiệu

với các chủ thể của ông hai hình tròn đường kính 2 và 28mm trong một vài

Page 80: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

phân số của giây, đoạn hai hình tròn 24mm. Hình tròn 24mm nằm ở chỗ

trước đó là hình tròn 28mm lúc đó được nhìn thấy bé hơn cái kia, (và cái

24mm thay thế cái 20mm, được đánh giá cao) do một hiệu quả của sự tương

phản mà sự vận tải trong thời gian gây ra (mà Usnadze gọi là Einstellung).

Lấy lại cùng Lambercier những số đo của ảo giác đó trên những trẻ 5 - 7 tuổi

và trên những người lớn, chúng tôi tìm thấy hai kết quả sau đây, mà sự tụ hội

là rất gợi cảm về các quan hệ của tri giác với trí khôn: một mặt hiệu quả

Usnadze mạnh hơn đáng kể ở người lớn so với ở trẻ em (như bản thân các

ảo giác về trọng lượng), nhưng mặt khác, nó biến mất nhanh hơn. Sau nhiều

trình bày của 24 + 24mm, người lớn dần dần trở về cái nhìn khách quan còn

trẻ em kéo theo sau mình một hiệu quả còn sót lại.

Vậy người ta không thể giải nghĩa sự khác biệt kép ấy bằng những dấu

vết liên quan đến trí nhớ, trừ phi bị bó buộc phải nói rằng trí nhớ người lớn

mạnh hơn nhưng mau quên hơn! Trái lại mọi việc diễn ra dường như một

hoạt động chuyển vị và đón trước phát triển với tuổi, theo chiều kép của sự

cơ động và tính nghịch đảo, điều đó tạo nên một ví dụ mới của sự tiến hóa tri

giác hướng vào chiều của thao tác.

Một thí nghiệm sang trọng của Auersperg và Buhrmester bao gồm việc

giới thiệu một hình vuông đơn giản vẽ bằng nét trắng mà người ta cho vận

động vòng quanh trên một đĩa đen. Với tốc độ nhỏ người ta nhìn thấy trực

tiếp hình vuông mặc dầu hình trên võng mạc lúc này đã gồm một chữ thập đôi

có bốn vạch được xếp vuông góc bao quanh. Với tốc độ lớn, người ta chỉ thấy

hình trên võng mạc, nhưng với tốc độ trung bình người ta thấy một hình

chuyển tiếp được hình thành bằng một dấu thập đơn có bốn cạnh bao bọc.

Như các tác giả đã nhấn mạnh, chác hẳn có sự can thiệp trong hiện tượng

này của một sự đón trước cảm giác - vận động cho phép chủ thể tái tạo hình

vuông toàn bộ (giai đoại đầu), một phần (giai đoạn hai) hoặc bị hỏng, vì bị tốc

độ quá nhanh làm cho lan ra. Mà với Lambercier và Demeriade, chúng tôi đã

tìm thấy rằng đo trên những đứa trẻ 5 đến 12 tuổi, giai đoạn hai (chữ thập

đơn) xuất hiện ngày càng chậm (tức là với một số vòng luôn luôn lớn hơn);

Page 81: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tùy thuộc ở lứa tuổi: sự tái tạo hoặc sự đón trước hình vuông đang vận động

vậy là càng tốt hơn (tức là được thực hiện với những tốc độ luôn luôn lớn

hơn) khi chủ thể là phát triển hơn.

Nhưng còn có hơn thể nữa. Người ta trình bày với chủ thể hai cái cọc

phải so sánh về chiều sâu, A cách 1m và C cách 4m. Người ta trước tiên đo

sự tri giác C (đánh giá thấp hoặc cao V.V...), rồi người ta đặt ở bên này của C

(một cọc bằng A với khoảng cách chiều ngang 50cm, hoặc người ta còn đặt

giữa A và C một loạt cọc "trung gian B1, B2, B3, tất cả đều bằng A (với

khoảng cách chiều ngang như nhau). Người lớn hoặc trẻ em trên 8-9 tuổi

thấy ngay A = B — C (hoặc A = B1 = B2 = B3 = C, bởi vì anh ta chuyển vị

ngang những đẳng thức tri giác A = B và B = C sang tỉ số C = A bằng cách

đóng lại như vậy cái hình trên bản thân nó. Những trẻ nhỏ, trái lại, nhìn thấy A

= B; B = C và A khác C, làm như chúng không chuyển vị các đẳng thức được

nhìn thấy dọc theo đường vòng ABC trên tỉ số trực tiếp AC. Trước 6-7 tuổi

đứa trẻ cũng chưa có khả năng cấu tạo thao tác những quan hệ bắc cầu A =

B; B = C vậy A = C. Nhưng, điều hiếu kì tồn tại giữa 7 và 8 - 9 tuổi một giai

đoạn chuyển tiếp mà đứa trẻ chủ thể kết luận tức khắc, bằng trí khôn, đẳng

thức A = C, trong khi vẫn thấy bằng tri giác C hơi khác với A một ít! Qua ví dụ

này (rõ ràng sự chuyển vị bản thân nó cũng (nó là việc "vận chuyển" các

tương quan, đối lập với việc vận chuyển những giá trị riêng rẽ) thuộc về hoạt

động tri giác chứ không phải sự cấu trúc hóa tự động chung cho mọi lứa tuổi

và giữa sự chuyển vị tri giác và sự bắc cầu có tính chất thao tác có những

quan hệ còn phải xác định.

Mà sự chuyển vị không phải đơn giản là ở bên ngoài các hình, tri giác

được: cạnh sự chuyển vị bên ngoàị, phải phân biệt những chuyển vị bên

trong cho phép nhận ra ở ngay bên trong các hình, những tỉ số lặp đi lặp lại,

những đối xứng (hoặc ti số đảo nghịch) v.v... Ở đây nữa, có nhiều điều để nói

về vai trò của sự phát triển trí tuệ, những trẻ nhỏ hoàn toàn không có khả

năng đến như vậy trong việc cấu trúc các hình phức hợp như người ta muốn

khẳng định.

Page 82: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Từ tất cả những sự việc trên, ta được phép kết luận như sau: Sự phát

triển các tri giác chứng tỏ sự tồn tại của một hoạt động tri giác nguồn gốc của

những phi tập trung hóa, những chuyển vị, những đón trước và, nói một cách

khái quát, sự phân tích ngày càng cơ động và hướng về tính nghịch đảo.

Hoạt động đó tăng trưởng với tuổi và chính vì thiếu sự nắm vững nó ở một

mức độ đầy đủ mà các trẻ nhỏ tri giác theo cách "hổ lốn" (hỗn hợp) hoặc

"tổng thể" hoặc còn bằng tích tụ các chi tiết không gắn liền với nhau.

Trong khi sự tri giác với tính cách như thế được đặc trưng bởi những

hệ thống không thể nghịch đảo và có tính chất tĩnh, hoạt động tri giác trái lại

đưa vào trong những hệ thống như vậy được điều kiện hóa bởi một sự phân

tán ngẫu nhiên hoặc đơn thuần xác suất của những sự tập trung hóa, một sự

mạch lạc gắn bó và một năng lực cấu tạo tiên tiến. Hoạt động đó phải chăng

đã tạo nên một hình thức của trí khôn? Chúng ta đã thấy (chương I và cuối

chương II) cái ý nghĩa ít ỏi mà một vấn đề thuộc loại đó bao hàm. Tuy nhiên

người ta có thể nói rằng ở điểm xuất phát của chúng, các hoạt động bao gồm

việc phối hợp những cái nhìn theo chiều phi tập trung, hóa, việc chuyển vận,

so sánh, đón trước và đặc biệt chuyển vị đều hiển nhiên gắn bó với trí khôn

cảm giác - vận động mà chúng tôi sẽ nói tới ở chương sau. Đặc biệt sự

chuyển vị, bên trong hoặc bên ngoài, tóm tắt tất cả những hành vi có tính chất

tri giác, là rất có thể so sánh với sự đồng hóa đặc trưng cho các sem cảm

giác - vận động và nhất là sự đồng hóa tổng quát hóa nó cho phép chuyển

dịch những sem này.

Nhưng nếu người ta có thể đưa lại gần nhau hoạt động tri giác và trí

khôn cảm giác - vận động, sự phát triển của nó dẫn nó đến bên thềm các thao

tác. Trong chừng mực mà dần dà những điều tiết tri giác nhờ những so sánh

và chuyển vị hướng về tính nghịch đảo, chúng tạo nên một trong những cái

giá cơ động cho phép sự khởi động của cơ chế thao tác. Cơ chế này, mỗi khi

được tạo dựng, sau đó tác động đến những điều tiết bằng cách sát nhập

chúng vào mình, bằng một cú sốc quay trở lại tương tự với cú sốc mà chúng

tôi vừa nêu một ví dụ về việc chuyển vị các đẳng thức. Nhưng trước phản

Page 83: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

ứng này, chúng chuẩn bị thao tác bằng cách luôn luôn đưa nhiều tính chất cơ

động hơn vào trong các cơ chế cảm giác - vận động tạo thành hạ tầng cơ sở

cho những cơ chế này: quả vậy chỉ cần hoạt động tạo sinh khí cho tri giác

vượt qua sự tiếp xúc trực tiếp với khách thể và áp dụng vào những khoảng

cách lớn dần trong không gian và trong thời gian để nó tràn ra ngoài phạm vi

(trường) của bản thân tri giác và thoát khỏi những hạn chế cản trở nó đạt đến

sự cơ động và tính nghịch đảo hoàn chỉnh.

Tuy nhiên, hoạt động tri giác không phải là môi trường ấp ủ duy nhất

mà các thao tác của trí khôn sẵn có trong sự sinh thành của chúng: còn phải

xét đến vai trò các chức năng vận động sản sinh ra các thói quen và, hơn

nữa, gắn rất chặt với bản thân sự tri giác.

Chương 4. THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG

Chính là do nhu cầu của sự phân tích mà ta được phép phân biệt các

chức năng vận động với các chức năng tri giác. Như V.Weizsacber đã rất sâu

sắc chỉ ra, sự phân chia cổ điển các hiện tượng thành những kích thích thuộc

giác quan và những đáp ứng vận động mà sơ đồ cung phản xạ thừa nhận là

lừa dối và thuộc về các sản phẩm của phòng thí nghiệm cũng giả tạo như

khái niệm bản thân cung phản xạ được quan niệm ở trạng thái riêng rẽ: Ngay

từ lúc khởi đầu, tri giác bị ảnh hưởng bởi vận động cũng như vận động bởi tri

giác. Đó là điều chúng tôi đã biểu đạt, về phía chúng tôi, khi nói đến các

"sem" cảm giác - vận động để mô tả sự đồng hoá vừa là tri giác vừa là vận

động đặc trưng cho những cư xử của đứa hài nhi.

Vậy vấn đề quan trọng là đặt lại trong bối cảnh phát sinh thực tại những

gì việc nghiên cứu các tri giác mới cho ta biết và hỏi ta trí khôn trước ngôn

ngữ được tạo dựng như thế nào. Ngay khi nó vượt qua trình độ các lắp ráp

thuần tuý di truyền mà các phản xạ là thế, đứa hài nhi đạt được những thói

quen tuỳ theo kinh nghiệm. Những thói quen này có chuẩn bị cho trí khôn

không hay là không có gì dính dáng với trí khôn? Đó là vấn đề song song với

Page 84: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

vấn đề mà chúng tôi đã đặt ra khi nói về tri giác. Câu trả lời có nguy cơ cũng

là cùng một câu ấy, điều đó sắp cho phép chúng ta tiến nhanh hơn và định vị

sự phát triển của trí khôn cảm giác - vận động trong toàn bộ các quá trình sơ

đẳng tạo điều kiện cho nó.

* THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN

I. Độc lập hay phát sinh trực tiếp

Không gì là đặc trưng hơn cho việc làm cảm thấy sự liên tục nối liền

vấn đề về sự phát sinh của trí khôn với vấn đề về sự hình thành những thói

quen bằng sự đối chiếu những lời giải khác nhau dành cho hai vấn đề ấy: các

giả thiết là giống nhau, làm như trí khôn kéo dài những cơ chế mà sự tự động

hoá tạo nên thói quen.

Quả vậy, về vấn đề thói quen, người ta tìm thấy lại các sơ đồ phát sinh

của sự kết hợp, những thử và sai hoặc của sự cấu trúc tự động hoá. Trên

quan điểm những tương quan giữa thói quen và trí khôn thuyết liên tưởng trở

lại biến thói quen thành một sự việc đầu tiên giải thích trí thông minh; quan

điểm của những thử và sai đưa thói quen về một sự tự động hoá những vận

động được chọn lựa sau sự mầy mò, sự mầy mò này là đặc trưng của bản

thân trí khôn; quan điểm đồng hoá hình dung trí khôn như một hình thức cân

bằng của cùng hoạt động đồng hoá ấy, mà cái hình thức khởi đầu tạo nên

thói quen. Còn về các giải thích không phát sinh, chúng tôi tìm thấy lại ba sự

phối hợp tương ứng với thuyết sức sống, thuyết tiên đề và quan điểm hình

thức: thói quen rút ra từ trí khôn, thói quen không có quan hệ với trí khôn và

thói quen tự giải thích, như trí khôn và tri giác, bằng những cấu trúc hoá mà

các quy luật giữ độc lập với sự phát triển.

Dưới góc độ các tương quan giữa thói quen và trí khôn (vấn đề duy

nhất làm chúng ta quan tâm ở đây), cần trước hết xét xem hai chức năng có

độc lập không hay cái này phát sinh từ cái kia và cuối cùng xem từ những

hình thức tổ chức chung nào chúng phát ra những trình độ khác. Cái lôgich

của sự giải thích tiên nghiệm về những thao tác trí tuệ là phủ nhận mọi tương

quan của chúng với các thói quen bởi vì chúng xuất phát từ một cấu trúc bên

Page 85: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

trong độc lập với kinh nghiệm, còn thói quen là đạt được do tiếp xúc với kinh

nghiệm. Và sự thật là khi khảo sát thật kĩ hai loại thực tế ở trạng thái kết thúc

của chúng, sự đối lập của chúng tỏ ra sâu sắc và sự tương đồng của chúng là

hời hợt. H.Delacroix đã tinh tế ghi nhận cả những đối lập lẫn những tương

đồng: áp dụng vào những hoàn cảnh đổi mới, một vận động do thói quen

dường như bao bọc một thứ khái quát hoá; nhưng trí khôn đã thay vào sự tự

động hoá vô thức của thứ khái quát hoá đó một sự khái quát chất lượng hoàn

toàn khác, làm bằng những lựa chọn có ý định và bằng hiểu biết. Tất cả

những cái đó đều hoàn toàn đúng, nhưng người ta càng phân tích sự hình

thành một thói quen, bằng đối lập với sự tập luyện tự động hoá của nó, người

ta nhận thấy sự phức hợp của các hoạt động nhập cuộc lúc khởi đầu. Mặt

khác, khi đi ngược lên đến các ngọn nguồn cảm giác vận động của trí khôn,

người ta tìm thấy lại bối cảnh của learning nói chung. Vậy điều cần thiết là

trước khi kết luận về tính không thể quy lại với nhau hai loại cấu trúc, tự hỏi

xem bằng cách phân biệt theo chiều dọc một loạt các cư xử có những trình độ

khác nhau và bằng cách tính đến theo chiều ngang trình độ mới mẻ và tự

động hoá của chúng, có chăng một sự nối tiếp nào đó giữa những phối hợp

ngắn và tương đối cứng mà người ta có tập quán gọi là thói quen và những

phối hợp có những số hạng cuối; cùng xa hơn và có tính cơ động lớn hơn,

đặc trưng cho trí khôn.

Đó là điều Buytendifk đã thấy rõ khi phân tích một cách sáng suốt sự

hình thành các thói quen loài vật sơ đẳng, nhất là ở những động vậtkhông

xương sống. Nhưng, càng phát hiện ra tốt hơn sự phức hợp của các yếu tố

của thói quen, tác giả này càng có xu hướng, bằng vào hệ thống giải thích

theo thuyết sức sống của ông, đặt sự phối hợp đặc thù cho thói quen phụ

thuộc vào bản thân trí khôn, năng khiếu gắn chặt với cơ thể với tính cách là

như vậy. Thói quen luôn luôn đòi hỏi, để tự tạo thành, một quan hệ cơ bản từ

phương tiện đến mục đích: một hoạt động không bao giờ là một chuỗi những

cử động được kết hợp một cách máy móc mà nó được hướng vào một sự

thoả mãn như sự tiếp xúc với thức ăn hoặc như sự giải thoát, như ở những

con ốc ao bị lật ngửa ra và chúng tìm lại được càng lúc càng nhanh hơn thể vi

Page 86: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bình thường của mình. Mà quan hệ phương tiện X mục đích đặc trưng cho

những hành động của trí khôn: vậy thói quen sẽ là sự biểu đạt của một tổ

chức thông minh, bao trùm mọi cấu trúc sống. Cũng như Helmholtz giải thích

tri giác bằng sự can thiệp của một lập luận vô thức, chủ nghĩa sức sống như

vậy là kết thúc ở chỗ biến thói quen thành kết quả của một trí khôn hữu cơ vô

thức.

Nhưng nếu phải cho rằng Buytendifk hoàn toàn có lí về tính phức hợp

của những thụ đắc đơn giản nhất và về tính bất khả quy của tương quan giữa

nhu cầu và sự thoả mãn, ngọn nguồn chứ không phải kết quả của những kết

hợp, là đi quá nhanh trong công việc khi giải nghĩa tất cả bằng một trí khôn

được đặt với tính cách sự việc đầu tiên. Một luận đề như thế kéo theo một

loạt các khó khăn, đúng là cùng những khó khăn ấy mà sự giải thích song

song, trong lĩnh vực của tri giác, gặp phải. Một mặt, thói quen, cũng như tri

giác, là không thể đảo nghịch bởi vì luôn luôn được điều khiển một chiều về

cùng một mục đích, trong khi trí khôn là có thể đảo nghịch: đảo ngược một

thói quen (viết ngược hoặc từ phải sang trái v.v..) bao hàm việc thụ đắc một

thói quen mới, trong khi một "thao tác ngược" của trí khôn là được nắm bắt về

mặt tâm lí cùng một lúc với thao tác xuôi (và về mặt lôgich học bao gồm cùng

một sự biến đổi nhưng ở chiều khác). Mặt khác, cũng như sự nắm bắt (am

hiểu) thông minh chỉ thay đổi ít thôi một tri giác (hiểu biết không hề ảnh hưởng

đến một ảo giác như Hering đã trả lời Helmholtz) và ngược lại, sự tri giác sơ

đẳng không kéo dài thêm gì nữa thành hành vi trí khôn, cũng vậy trí khôn chỉ

thay đổi ít thôi một thói quen đã có và nhất là sự hình thành một thói quen

không tức khắc được tiếp theo bằng sự phát triển trí khôn. Cũng vậy có cả

một khoảng cách đáng kể, trong trật tự phát sinh, giữa sự xuất hiện của hai

thứ cấu trúc. Những quỳ biển của Piéron, khép vỏ lại khi thuỷ triều xuống và

bằng cách đó giữ nước mà chúng cần dùng, không biểu lộ một trí khôn rất cơ

động, và đặc biệt giữ lại trong bể kính thói quen của chúng vài ngày trước khi

thói quen đó tự tắt đi. Những con cá bống của Goldschmidt học, để ăn, chui

qua cái lỗ của một tấm kính và giữ hành trình của chúng mỗi khi tấm kính đã

được cất đi: người ta có thể gọi sự cư xử đó là trí khôn không thuộc vỏ não,

Page 87: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

nhưng nó vẫn rất thấp hơn những gì mà thông thường người ta gọi trống trơn

trí khôn.

Từ đó có giả thuyết đã tỏ ra đơn giản nhất trong một thời gian lâu: thói

quen tạo nên một sự việc ban đầu, giải thích được, bằng những số hạng kết

hợp phải chịu một cách thụ động, và trí khôn từ đó phát sinh dần dần, nhờ

tính phức hợp đang tăng lên của những kết hợp đã thụ đắc. Chúng tôi không

lên án ở đây thuyết liên tưởng, những chống đối lại cách giải thích đó đã là

thông thường như những sự hồi sinh của nó dưới những hình thức đa dạng

và thường là trá hình. Tuy nhiên rất cần thiết, để đạt được những cấu trúc của

trí khôn ở sự phát triển thực tại của chúng, nhắc lại rằng biết bao nhiêu thói

quen sơ đẳng nhất vẫn là bất khả quy vào sơ đồ của sự kết hợp thụ động.

Mà khái niệm về phản xạ được điều kiện hoá hoặc về sự điều kiện hoá

nói chung đã cung cấp một sức sống mới cho thuyết liên tưởng bằng cách

cùng một lúc tạo cho nó một hình mẫu sinh lí học chính xác và một hệ thống

thuật ngữ được đổi mới. Từ đó mà có một loạt những áp dụng mà các nhà

tâm lí học đã thử làm trong việc giải thích các chức năng trí tuệ (ngôn ngữ

v.v..) và đôi khi cả bản thân hành vi trí khôn.

Nhưng, nếu sự tồn tại những cư xử được điều kiện hoá là một sự việc,

thậm chí là rất quan trọng, sự giải thích chúng không bao hàm thuyết liên

tưởng logich phản xạ mà người ta quy hay gắn với nhau. Khi một vận động

được kết hợp với một tri giác, còn có, trong sự liên kết này, hơn là một sự kết

hợp thụ động, tức là được khắc sâu đơn thuần căn cứ vào sự lặp lại: ở đây

đã có một sự nhập cuộc của các ý nghĩa và sự kết hợp chỉ được tạo nên tuỳ

thuộc vào một nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu đó. Mọi người biết được điều

đó trong thực tế nhưng quá quên đi trong lí luận, rằng một phản xạ được điều

kiện hoá được củng cố chỉ trong chừng mực nó được xác nhận và thừa nhận:

một tín hiệu kết hợp với một thức ăn không gây ra một phản ứng lâu dài nếu

các thức ăn thực tại không được định kì lại đưa ra cùng một lúc với tín hiệu.

Sự kết hợp như vậy đều lồng vào trong một cư xử tổng thể mà điểm xuất phát

là nhu cầu và điểm đến là sự thoả mãn nhu cầu đó (thực tại, đón trước hoặc

Page 88: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

còn có vẻ trò chơi v.v...). Cũng như nói rằng vấn đề ở đây không phải là một

kết hợp theo nghĩa cổ điển của từ ấy, mà đúng là sự tạo dựng một tổng thể

gắn liền với một ý nghĩa. Hơn nữa, nếu người ta nghiên cứu một hệ thống

các cư xử được điều kiện hoá trong sự nối tiếp lịch sử của chúng (và các cư

xử mà tâm lí học quan tâm luôn luôn có một sự nối tiếp như vậy để đối lập với

những điều kiện hoá sinh lí học quá đơn giản) người ta còn thấy rõ hơn vai

trò của sự cấu trúc hoá toàn bộ. Chính vì vậy mà AndréRey, khi để một con

chuột lang vào hộc A của một cái hộp có ba hộc liên tiếp A. B. C. cho nó một

chấn động bằng điện có một tín hiệu đi trước: khi tín hiệu trở lại, con chuột

lang nhảy sang hộc B rồi trở lại hộc A. nhưng chỉ cần một vài kích thích thêm

nữa để nó nhảy từ A sang B, từ B sang C và trở lại từ C sang B rồi sang A.

Sự cư xử được điều kiện hoá ở đây không phải là sự chuyển vị đơn giản các

vận động khởi đầu nhờ vào phản xạ đơn giản, mà là một cư xử mới chỉ đạt

đến sự ổn định bằng một sự cấu trúc hoá của toàn bộ môi trường.

Mà nếu các loại hình sơ đẳng nhất của thói quen là như vậy, thì huống

chi những "chuyển kết hợp" ngày càng phức hợp dẫn nó đến bên thềm của trí

khôn cũng như vậy. Khắp nơi ở đâu có kết hợp giữa vận động và tri giác, cái

gọi là kết hợp đó trên thực tế bao gồm việc sát nhập yếu tố mới vào một sem

có trước của hoạt động. Dù cái sem có trước đó là có tính chất phản xạ như

trong phản xạ được điều kiện hoá hoặc thuộc những trình độ luôn luôn cao

hơn. Ở đâu sự kết hợp cũng là trên thực tế sự đồng hoá, đến mức không bao

giờ giây nối kết hợp là bản vẽ phóng lại đơn giản của một tương quan có sẵn

đã cho trong thực tế bên ngoài.

Vì vậy việc xem xét sự hình thành cái thói quen cũng như xem xét cấu

trúc các tri giác liên quan trước tiên và nhiều nhất đến vấn đề trí khôn. Nếu trí

khôn đang nảy sinh chỉ bao hàm việc thực hiện sự hoạt động đến chậm và

nằm ở một thang cao hơn của nó trên một thế giới hoàn chỉnh các kết hợp và

quan hệ, tương ứng từng số hạng một với các tỉ số đã được ghi một lần cho

mãi mãi trong môi trường bên ngoài, hoạt động đó trên thực tế sẽ chỉ là hão

huyễn. Trái lại trong chừng mực mà sự đồng hoá tổ chức, nó cuối cùng sẽ kết

Page 89: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thúc ở các thao tác đặc thù cho trí tuệ, can thiệp ngay từ lúc xuất phát vào

hoạt động trí giác và vào sự nảy sinh các thói quen, những sơ đồ kinh nghiệm

chủ nghĩa mà người ta tìm cách gán cho trí khôn hoàn chỉnh là không đầy đủ

cho mọi trình độ bởi vì bỏ qua sự tạo dựng đồng hoá.

Người ta biết chẳng hạn rằng Mach và Rignano quan niệm lập luận như

là một "thí nghiệm trí tuệ". Sự mô tả đó, đúng trên nguyên tắc, sẽ mang ý

nghĩa của một lời giải thích nếu thử nghiệm là bản sao của một thực tại bên

ngoài có sẵn. Nhưng vì không phải thế và vì ngay trên bình diện của thói

quen, sự điều ứng với thực tại đòi hỏi một sự đồng hoá của thực tại vào các

sem của chủ thể, sự giải thích lập luận bằng thử nghiệm trí tuệ tự nhốt mình

vào trong một hình tròn: phải có tất cả hoạt động trí khôn để làm một thí

nghiệm có thực hay trí tuệ (trong trí, trong óc).

Ở trạng thái hoàn chỉnh, một thử nghiệm trí tuệ là sự tái tạo trong tư

duy không phải cái thực tế, mà những hoạt động hay thao tác dựa trên nó

(thực tế) và vấn đề về sự sản sinh ra chúng (hoạt động, thao tác) vẫn tồn tại

nguyên vẹn. Chỉ ở trình độ nhưng khởi đầu của tư duy trẻ em là người ta có

thể nói đến thử nghiệm trí tuệ theo nghĩa của một sự bắt chước đơn giản bên

trong của thực tại: nhưng trong trường hợp này, lập luận đúng là chưa có tính

lôgich.

Cũng vậy, khi Spearman quy trí khôn về ba yếu tố chủ yếu: sự "nắm bắt

kinh nghiệm", sự "rút ra những quan hệ" và sự "rút ra những tương quan",

phải nói thêm rằng kinh nghiệm không thể nắm bắt được nếu không có sự

trung gian của sự đồng hoá tạo dựng. Những cái gọi là "rút ra" những quan

hệ lúc này phải được quan niệm như những thao tác thực sự (chia hạng hoặc

lồng ghép những quan hệ đối xứng). Còn như việc rút ra những tương quan

(sự trình bày một đặc tính gắn với một quan hệ có xu hướng gợi ra tức khắc

sự hiểu biết cái đặc tính tương quan, nó gắn bó với các nhóm hợp rất xác

định, đó là những nhóm hợp của phép nhân các lớp hoặc các quan hệ

(chương 2).

* THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN

Page 90: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

II. Sự mầy mò và sự cấu trúc hoá

Vậy nếu thói quen lẫn trí khôn không thể giải thích được bằng một hệ

thống các phối hợp kết hợp tương ứng không thêm gì nữa với những tỉ số đã

có sẵn trong thực tế bên ngoài, nhưng cả hai (thói quen và trí khôn) giả định

một sự hoạt động của bản thân chủ thể, thì sự giải thích đơn giản nhất phải

chăng bao hàm việc quy hoạt động đó về một loạt thứ triển khai một cách

ngẫu nhiên (tức là không quan hệ trực tiếp với môi trường), nhưng được chọn

lựa dần dần nhờ có những thành công hoặc thất bại mà chúng kết thúc?

Chính vì vậy mà Thordike để nắm bắt được cơ chế của việc học tập, đặt các

con vật vào một mê lộ và đo sự thụ đắc ở số lượng giảm của các sai. Con vật

trước tiên mầy mò, tức là lao vào những cuộc thử ngẫu nhiên, nhưng những

sai lầm dấn dà được loại bỏ và những thử đúng được ghi nhớ, cho đến khi

xác định được những đường đi về sau. Nguyên tắc của sự lựa chọn bằng kết

quả thu được mang tên "luật của hiệu quả". Giả thuyết là hấp dẫn: hoạt động

của chủ thể can thiệp vào các cuộc thử, hoạt động của môi trường vào các

lựa chọn và luật của hiệu quả giữ vai trò của các nhu cầu và các thoả mãn

làm khung cho mọi cư xử tích cực.

Hơn thế nữa, một sơ đồ giải thích như vậy là nhằm trình bày sự liên tục

nối liền những thói quen sơ đẳng nhất với trí khôn tiến triển nhất: Claparède

đã lấy lại những khái niệm: mầy mò và kiểm soát bằng kinh nghiêm ngay tức

khắc để làm nguyên tắc của một lí thuyết về trí khôn, được áp dụng lần lượt

cho trí khôn loài vật, trí khôn thực hành ở đứa trẻ cho đến vấn đề "Sự nảy

sinh ra giả thuyết", trong tâm lí học của tư duy người lớn. Nhưng trong nhiều

bài viết của nhà tâm lí học Genève, người ta nhận thấy có một sự tiến hoá

đáng kể từ những bài viết đầu tiên đến những bài viết cuối cùng, đến mức chỉ

riêng với một mình ông, việc xem xét sự phát triển đó cũng đã tạo nên một sự

phê phán khá đầy đủ khái niệm mầy mò.

Claprède bắt đầu bằng việc đối lập trí khôn - chức năng thay thế của sự

thích nghi mới - với thói quen (được tự động hoá) và bản năng, những thích

nghi vào những hoàn cảnh lặp lại. Mà chủ thể ứng xử như thế nào trước

Page 91: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những hoàn cảnh mới? Từ những trùng cỏ của Jennings đến con người (và

đến cả nhà bác học đứng trước cái bất ngờ) đều mầy mò. Sự mầy mò đó có

thể là thuần tuý cảm giác vận động hoặc từ nội hiện dưới hình thức "thử" của

một mình ý nghĩa, nhưng chức năng của nó bao giờ cũng là một: sáng tạo ra

những lời giải, mà kinh nghiệm sẽ lựa chọn ngay sau đó.

Hành vi đầy đủ của trí khôn giả định ba yếu tố chủ yếu: câu hỏi định

hướng sự tìm tòi, giả thuyết đón trước các lời giải và sự kiểm tra chọn lựa

những lời giải đó. Tuy nhiên người ta có thể phân biệt hai hình thức trí khôn:

một thực hành hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa và cái kia có suy nghĩ (hoặc "có

hệ thống"). Trong trí khôn thứ nhất, câu hỏi hiện ra dưới những dạng của một

nhu cầu đơn giản, giả thuyết, dưới dạng một sự mầy mò cảm giác vận động

và sự kiểm tra, dưới dạng một dãy thuần túy những thất bại và thành công.

Chính trong trí khôn thứ hai mà nhu cầu được phản chiếu thành câu hỏi, sự

mầy mò được nội hiện thành những tìm kiếm giả thuyết và sự kiểm tra đón

trước sự thừa nhận của kinh nghiệm bằng phương tiện của một "ý thức về

các quan hệ" đủ để loại trừ các giả thuyết sai và giữ lại những giả thuyết

đúng.

Cái khung lí luận là như vậy khi Claparède tiếp cận vấn đề về sự phát

sinh giả thuyết trong tâm lí học tư duy. Bằng cách vẫn nhấn mạnh vai trò hiển

nhiên mà sự mầy mò giữ trong những hình thức tư duy biến hoá nhất,

Claparède đã được dát dẫn, bằng phương pháp "suy nghĩ nói" của mình, đến

việc không đặt nó ở ngay điểm xuất phát của sự tìm tòi thông minh, mà có thể

nói là đặt nó bên lề hoặc ở vị trí tiên phong và chỉ khi nào các dữ kiện vượt

quá xa sự hiểu biết của chủ thể. Đối với ông, trái lại sự khởi đầu dường như

được một thái độ, mà cho đến lúc đó ông không nhận thấy tầm quan trọng,

cung cấp: Trước những dữ kiện của vấn đề (của bài toán) và mỗi khi sự tìm

kiếm được nhu cầu hay là câu hỏi định hướng (nhờ một cơ chế được coi là

còn bí hiểm), trước hết có một sự nắm bắt một tập hợp các quan hệ bằng một

sự "liên can" đơn giản. Những "liên can" đó có thể đúng hoặc sai. Đúng,

chúng sẽ được kinh nghiệm giữ lại. Sai, chúng sẽ bị kinh nghiệm phản bác,

Page 92: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

và chi lúc này mới bắt đầu sự mầy mò. Sự mầy mò này chỉ can thiệp với tính

cách là cái thay thế hoặc cái phụ thêm, tức là cái cư xử rút ra từ những "liên

can" ban đầu. Vậy là sự mầy mò không bao giờ là thuần tuý, Claparède kết

luận, nó được câu hỏi và các cái liên can ề khiển một phần, và nó thực sự trở

nên ngẫu nhiên chỉ trong trường hợp các dữ kiện tràn ra thực quá các sem

đón trước.

Sự "liên can" bao gồm những gì? Chính ở đây học thuyết có một ý

nghĩa rộng lớn nhất và nối liền với vấn đề thói quen cũng như vấn đề của bản

thân trí khôn. Thực chất sự "liên can" gắn như là cái "kết hợp"cũ của các nhà

tâm lí học cổ điển, nhưng cặp đôi với một cảm xúc về nhu cầu toát ra từ bên

trong chứ không phải từ bên ngoài. Nó là sự biểu lộ của một "khuynh hướng

sơ khai" mà bên ngoài khuynh hướng đó chủ thể không thể, ở bất luận trình

độ nào, tận dụng kinh nghiệm (trang 84). Nó không do "sự lặp lại của một cặp

yếu tố" mà trái lại nguồn gốc của sự lập lại cái đồng dạng và "nảy sinh ngay

vào dịp gặp gỡ đầu tiên của hai yếu tố trong cặp đó". Kinh nghiệm chỉ có thể

hoặc bẻ gãy nó hoặc xác nhận nó chứ không sáng tạo ra nó. Nhưng chính lúc

nào kinh nghiệm áp đặt một sự kéo lại gần thì chủ thể cặp đôi nó với một sự

liên can: quả vậy gốc rễ của nó phải được tìm kiếm trong "luật hợp dính" của

W.James (cái luật mà qua đó James giải thích đúng là sự kết hợp: "luật hợp

dính đẻ ra sự liên can trên bình diện hoạt động và sự hỗn hợp trên bình diện

của sự biểu hiện". Claparèđe bằng cách đó đã đi đến chỗ giải thích phản xạ

được điều kiện hoá dựa vào sự liên can: con chó của Palov tiết nước bọt khi

có tiếng chuông sau khi đã nghe tiếng chuông đồng thời nhìn thấy thức ăn bởi

vì lúc đó tiếng chuông "liên can" đến thức ăn.

Sự đảo ngược dần dần đó của lí thuyết về sự mầy mò đáng được xem

xét kĩ lưỡng. Bắt đầu từ một điểm có vẻ thứ yếu, có lẽ không có vấn đề để tự

hỏi bằng cách nào câu hỏi hoặc nhu cầu định hướng sự tìm kiếm, làm như

chúng tồn tại độc lập với sự tìm kiếm đó? Câu hỏi và nhu cầu bản thân chúng

là sự hiểu hiện các cơ chế đã được tạo dựng từ trước, và đơn giản là đang ở

trong tình trạng mất cân bằng tạm thời! Nhu cầu bú giả định tổ chức hoàn

Page 93: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chỉnh những bộ máy để mút, và cực kia, những câu hỏi như "cái gì ?", "ở đâu"

là sự biểu đạt các sự phân loại, các cấu trúc không gian v.v... đã được tạo

thành toàn bộ hay bộ phận (xem chương 2). Ngay từ đó, cái sem định hướng

sự tìm kiếm là cái mà sự tồn tại đã là cần thiết để giải thích sự xuất hiện của

nhu cầu hay của câu hỏi: những nhu cầu hay câu hỏi này, cũng như sự tìm

kiếm mà chúng đánh dấu sự nhận thức được, thể hiện mỗi một hành vi đồng

hoá thực tại vào cái sau đó.

Điều đó nói lên: là chính đáng không việc quan niệm sự liên can như

một sự việc ban đầu, vừa cảm giác - vận động vừa trí tuệ, nguồn gốc của thói

quen cũng như của sự hiểu thấu? Đó trước tiên chính là với điều kiện, tất

nhiên, không hiểu thuật ngữ đó trong nghĩa lôgích học của mỗi liên hệ cần

thiết giữa các phán đoán mà trong một nghĩa rất chung của một tương quan

cần thiết nào đó. Mà hai yếu tố, được nhìn thấy cùng nhau lần đầu tiên có tạo

ra một tương quan như vậy không? Một con mèo đen được một em bé nhìn

thấy, để lấy lại một ví dụ của Claparède, có đem lại thêm gì nữa, so với lần tri

giác đầu tiên, cái tương quan "mèo liên can đến đen" không ? Nếu hai yeu tố

được thực sự nhìn thấy lần đầu tiên không có những tương đồng và đón

trước nào, chúng chắc chắn sẽ được lồng vào nhau thành một toàn thể tri

giác, thành một gestalt, điều mà luật hợp dính của James hoặc thuyết hỗn

hợp do Claparède viện dẫn biểu đạt dưới một hình thức khác.

Ở đó có cái gì hơn là một kết hợp, điều đó còn là rõ ràng trong chừng

mực mà cái toàn thể là kết quả không phải của sự tụ hội của hai yếu tố được

tri giác trước tiên mỗi cái riêng, mà đúng là của sự hợp nhất tức thì bằng sự

cấu trúc hoá tổng thể. Tuy nhiên đây không phải là một mối liên hệ vì sự cần

thiết: đây là sự khởi đầu của một sem có thể có nhưng không đẻ ra những

quan hệ được cảm nhận như là cần thiết chỉ với điều kiện được tạo dựng với

tính cách là sem thực tại bằng một sự chuyển vị hoặc một sự tổng quát hóa

(vậy là một ứng dụng vào những yếu tố mới), tóm lại bằng cách tạo ra một sự

đồng hoá. Chính sự đồng hoá là ngọn nguồn của cái mà Claparède gọi là sự

liên can: Để diễn đạt bằng sơ đồ, chủ thể không, do vậy, kết thúc ở tương

Page 94: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

quan "A liên can X” vào lúc cái A đầu tiên được tri giác với chất lượng X,

nhưng nó được dắt dẫn đến tương quan "A liên can X" trong chừng mực nó

đồng hoá A2 vào sem (A), cái sem này đúng là được tạo ra bằng sự đồng hoá

A2 = A. Con chó tiết nước bọt khi nhìn thấy thức ăn của nó sẽ chỉ tiết nước

bọt như vậy khi nghe tiếng chuông nếu nó đồng hoá tiếng chuông, với tính

cách là dấu hiệu hay là bộ phận của hành vi toàn thể, vào sem của hoạt động

đó. Claparède có lí do để nói rằng không phải sự lặp lại đẻ ra sự liên can mà

chính là chỉ trong tiến trình của sự lặp lại mà sự liện can xuất hiện vì sự liên

can là sản phẩm bên trong của sự đồng hoá, cái bảo đảm sự lặp lại của hành

vi bên ngoài.

Sự can thiệp cần thiết đó của sự đồng hoá đã làm mạnh thêm nữa

những giữ gìn ý tứ mà bản thân Claparède đã buộc phải đưa ra đối với vai trò

chung của sự mầy mò. Trước hết, hiển nhiên là sự mầy mò khi nó xẩy ra

không thể được giải thích bằng những lời lẽ máy móc. Một cách máy móc,

tức là trong giả thuyết của một sự khai thông đơn giản, những sai sót phải xảy

ra ngang bằng với các cuộc thử thành công. Nếu không nằm trong trường

hợp đó, tức là nếu "luật hiệu quả" tác động, đó là lúc diễn ra các lặp lại, chủ

thể đón trước những thất bại và những kết quả. Nói cách khác, mỗi cái thử

tác động đến cái tiếp theo không như một kênh mở đường cho những vận

động mới, mà như một sem cho phép gắn những ý nghĩa cho những cái thử

tiếp sau. Sự mầy mò vậy là không hề loại bỏ sự đồng hoá.

Nhưng còn hơn thế. Những cái thử đầu tiên bản thân chúng khó được

quy về một sự ngẫu nhiên đơn thuần. D.K.Ađams tìm thấy trong các thí

nghiệm về mê lộ những sự vận động tức khắc có định hưóng. w.Dennis, rồi J.

Dashiell nhấn mạnh sự tiếp tục các hướng đã được theo lúc khởi đầu.

Tolman và Krechewsky nói cả về các "giả thiết" để mô tả những chuyển động

của chuột v.v... Từ đó có những giải thích quan trọng mà C.Hull và

C.E.Tolman đã được dẫn tới. Hull nhấn mạnh sự đối lập của các hình mẫu

tâm thần bao gồm phương tiện và mục đích với các mô hình máy móc của sự

khai thông: trong khi ở những mẫu hình sau đường thẳng chiếm ưu thế,

Page 95: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những mẫu hình đầu có sẵn một số con đường có thể theo, số lượng đó càng

nhiều khi hành vi càng phức hợp. Điều đó cũng có nghĩa là ngay ở trình độ

những cư xử cảm giác - vận động làm cầu nối giữa sự tập luyện và trí khôn,

phải dành phần cho cái sẽ thành "tính kết hợp" các thao tác trong những

"nhóm hợp" kết thúc của chúng (chương 2). Còn về phần Tolman, ông làm

nổi bật vai trò của sự khái quát hoá trong việc hình thành bản thân các thói

quen: chính vì vậy mà trước một mê lộ khác với cái mà con vật đã biết, nó tri

giác những tương đồng tổng thể và áp dụng vào trường hợp mới này những

cư xử đã làm nó thành công trong mê lộ trước (đường đi đặc biệt). Vậy luôn

luôn có sự cấu trúc hoá tổng thể, nhưng các cấu trúc đang tác động đối với

Tolman không phải là những "hình thức" đơn giản theo nghĩa của lí thuyết

Koehler: đó là những "Sign-Gestalt”, tức là những sem có ý nghĩa. Tính chất

kép: khái quát hoá được và có ý nghĩa của các cấu trúc mà Tolman xem xét

chứng tỏ đủ rằng đây là cái mà chúng ta gọi là các sem đồng hoá.

Như vậy, từ việc tập luyện sơ đẳng đến trí khôn, sự thụ đắc dường như

bao hàm một hoạt động đồng hoá, cũng cần thiết cho sự cấu trúc hoá những

hình thức thụ động nhất của thói quen (những cư xử điều kiện hoá và những

chuyển tải kết hợp) cũng như cho sự triển khai những biểu lộ tích cực rõ rệt

(sự mầy mò được định hướng). Về mặt này, vấn đề về những quan hệ giữa

thói quen và trí khôn là rất song song với vấn đề các quan hệ giữa trí khôn và

tri giác. Cũng như hoạt động tri giác không đồng nhất với trí khôn nhưng gắn

liền với nó mỗi khi tri giác giải thoát được khỏi sự tập trung vào đồ vật trực

tiếp và hiện tại, cũng vậy hoạt động đồng hoá đẻ ra các thói quen không trùng

khớp với trí khôn nhưng kết thúc ở trí khôn mỗi khi các hệ thống cảm giác -

vận động không thể nghịch đảo và liền nhau được phân hoá và kết hợp lại

thành những khớp nối cơ động. Vả lại, sự gần gũi của hai loại hoạt động sơ

đẳng ấy là tất nhiên, bởi vì tri giác và các vận động thông thường bao giờ

cũng tụ hội thành sem tổng thể không tách ra được và sự "chuyển tải" hoặc

khái quát hoá đặc thù cho thói quen là cái tương đồng đúng trong trật tự vận

hành của sự chuyển vị trên bình diện những hình không gian, cả hai giả định

một sự đồng hoá khái quát hoá như nhau.

Page 96: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

* SỰ ĐỒNG HOÁ CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG VÀ SỰ NẢY SINH TRÍ KHÔN Ở TRẺ EM

Tìm hiểu trí khôn nảy sinh như thế nào từ hoạt động đồng hoá đã đẻ ra

trước đó các thói quen, chính là chỉ ra cách thế nào sự đồng hoá cảm giác -

vận động đó được thực hiện thành những cấu trúc luôn luôn cơ động hơn và

có ứng dụng luôn luôn rộng rãi hơn, xuất phát từ điểm mà ở đó đời sống tinh

thần tách khỏi đời sống thể chất.

Ngay từ những lắp ráp di truyền, người ta chứng kiến, bên cạnh tổ

chức bên trong và có tính chất sinh lí học của các phản xạ, những hiệu quả

tích tụ của sự luyện tập và những khởi đầu của sự tìm tòi đánh dấu những

khoảng cách đầu tiên nhờ đó chúng tôi đã định nghĩa sự "cư xử”, (chương I).

Một trẻ sơ sinh được nuôi bằng thìa sau đó có khó khăn trong việc bú vú mẹ.

Khi nó bú vú mẹ ngay từ lúc bắt đầu, sự khéo léo tăng đều đặn; đặt cạnh vú

mẹ, nó tìm vị trí tốt và luôn luôn tìm ra vị trí đó nhanh hơn. Mút bất cứ cái gì,

nhưng nó nhanh chóng vứt bỏ ngón tay mà giữ lại cái vú. Giữa các bữa ăn,

nó mút trống không v.v... Những quan sát nhàm chán đó chứng tỏ rằng ngay

ở bên trong trường khép kín của các cơ chế được sắp xếp theo di truyền, đã

nổi lên một khởi đầu đồng hoá tái tạo kiểu chức năng (tập luyện), đồng hoá

khái quát hoá hay chuyển vị (mở rộng sem phản xạ tới những khách thể mới)

và đồng hoá xác nhận (phân biệt các tình huống).

Chính là trong bối cảnh đã tích cực này mà những thụ đắc đầu tiên đến

lồng vào nhờ kinh nghiệm (vì sự tập phản xạ chưa dẫn đến một sự thụ đắc

thực tại mà chỉ dẫn đến một sự củng cố giản đơn). Dù là một sự kết hợp bề

ngoài thụ động, như một sự điều kiện hoá (chẳng hạn một dấu hiệu khởi động

một thể vị đón trước việc bú) hoặc là một sự mở rộng hồn nhiên trường áp

dụng các phản xạ (chẳng hạn mút có hệ thống ngón tay cái bằng cách kết

hợp các cử động của cánh tay và tầm tay với các cử động của miệng), các

hình thức sơ đẳng của thói quen bắt nguồn từ một sự đồng hoá những yếu tố

mới vào các sem có trước, là một loại sem phản xạ. Nhưng điéu quan trọng là

hiểu ràng sự mở rộng sem phản xạ bằng cách sáp nhập những yếu tố mới sẽ

Page 97: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mang lại do ngay điều đó sự hình thành một sem cao cấp hơn (thói quen với

tính cách như thế), nó hòa nhập với sem cấp thấp hơn (phản xạ). Sự đồng

hoá một yếu tố mới vào một sem có trước vậy là bao hàm sự hoà nhập sem

này vào một sem cao cấp hơn.

Tuy nhiên, ắt hẳn là ở trình độ của những thói quen đầu tiên, người ta

chưa thể nói tới trí khôn. So sánh với các phản xạ, thói quen có một trường

ứng dụng có khoảng cách lớn hơn trong không gian và thời gian. Nhưng ngay

cả được nới rộng, những sem đầu tiên này vẫn còn là liền một cái, chưa có

tính cơ động bên trong và cũng chưa có kết hợp cái này với cái kia. Những

khái quát hoá mà các sem này có thể có cũng chỉ mới là những chuyển tải

vận động cơ thể so sánh với những chuyển vị tri giác đơn giản nhất và dù

chúng có sự liên tiếp chức năng với các giai đoạn sau, chưa có gì cho phép

so sánh chúng với bản thân trí khôn qua cấu trúc của chúng.

Ở một trình độ thứ ba, trái lại trình độ này bắt đầu sự kết hợp giữa thị

giác và sự cầm nắm (giữa 3 và 6 tháng, thường vào khoảng 4,6) - nổi lên

những cư xử mới chuyển tiếp giữa thói quen đơn giản và trí khôn. Giả định

một hài nhi trong nôi, đình màn được cuốn lên và từ đó treo lủng lẳng cả một

dây các lúc lắc cùng với một sợi dây tự do: đứa trẻ chộp lấy sợi dây và lúc đó

làm rung động toàn bộ bộ sậu mà không chờ đợi và cũng không hiểu về chi

tiết các quan hệ không gian và thời gian. Ngạc nhiên về kết quả, bé tìm sợi

dây và bắt đầu lại tất cả trong nhiều lần. J.M.Baldwin gọi là "phản ứng vòng

tròn" sự tái tạo tích cực này của một kết quả đạt được lần đầu do tình cờ.

Phản ứng vòng tròn như vậy là một ví dụ điển hình của sự đồng hoá tái tạo.

Cử động đầu tiên được thực hiện kèm theo kết quả của nó, tạo thành một

hoạt động tổng thể, nó tạo ra một nhu cầu mới mỗi khi các đồ vật (khách thể)

mà nó có liên quan đã trở về trạng thái ban đầu của chúng: những khách thể

này lúc đó được đồng hoá vào hoạt động trước (đã vì thế được nâng lên

hàng sem), điều đó khởi động sự tái tạo ra nó và cứ thế tiếp diễn... Mà cơ chế

này là đồng nhất với cơ chế đã nằm ở điểm xuất phát của các thói quen sơ

đẳng, trừ phi ở trường hợp này phải ứng vòng tròn thuộc về chính cơ thể (vậy

Page 98: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chúng ta hãy gọi phản ứng vòng tròn sơ cấp cái phản ứng ở trình độ trước,

như cái sem mút ngón tay cái) còn như từ nay, nhờ có sự cầm nắm nó thuộc

về các khách thể bên ngoài (chúng ta hãy gọi là phản ứng vòng tròn thứ cấp

những cư xử liên quan đến các khách thể này, trong khi vẫn nhớ rằng chúng

chưa hề được đứa trẻ cụ thể hóa).

Phản ứng vòng tròn thứ cấp vậy là còn tham gia, ở điểm xuất phát của

nó, trừ những cấu trúc riêng, đến những thói quen đơn giản. Là cư xử liền

một mẻ lặp lại thành một khối không có mục đích đặt trước, và với việc sử

dụng những ngẫu nhiên đột hiện trên đường đi, chúng không có gì của một

hành vi trí khôn hoàn chỉnh, và hãy đề phòng đừng phản chiếu vào trí óc của

chủ thể những khác biệt mà chúng ta sẽ làm thay nó giữa một phương tiện

khởi đầu (khéo sợi dây) và một mục đích kết thúc (lay đỉnh màn) và đừng gắn

cho nó những khái niệm khách thể và khoảng cách mà chúng ta gắn với một

tình huống đối với nó là không được phân tích và là tổng thể. Tuy nhiên ngay

khi cư xử được tái tạo vài lần, người ta thoáng thấy rằng nó có một xu hướng

kép: làm trật khớp và lắp khớp lại, ở bên trong, các yếu tố của nó và khái quát

hoá hoặc chuyển vị tích cực trước những dữ kiện mới không có quan hệ trực

tiếp với những dữ kiện trước đó. Về điểm thứ nhất, quả là người ta nhận thấy

rằng sau khi theo dõi các sự cố theo thứ tự sợi dây - sự rung chuyển - các lúc

lắc, sự cư xử trở nên có khả năng khởi đầu sự phân tích: việc nhìn thấy các

lúc lắc đứng yên và đặc biệt sự khám phá ra một đồ vật mới được treo lên

đình màn sắp phát động việc tìm kiếm sợi dây. Tuy chưa có ở đó sự nghịch

đảo thực thụ, rõ ràng là có liên hệ trong sự cơ động và hầu như có khớp nối

của cư xử thành một phương tiện (được tạo dựng lại sem đó) và một mục

đích (được đặt ra sau đó). Mặt khác nếu người ta đặt đứa trẻ trước một tình

huống hoàn toàn mới, như cảnh tượng của một sự vận động ở cách trẻ 2 -

3m hoặc cả việc nghe một tiếng động nào đó trong phòng, xẩy ra việc đứa trẻ

tìm và kéo cùng một sợi dây đó, như để làm cho cảnh tượng bị ngắt quãng

tiếp tục ở xa. Mà cư xử mới này (nó xác nhận sự thiếu vắng những tiếp xúc

không gian và tính nhân quả hiểu được) chắc chắn tạo thành một khởi đầu

tổng quát hóa thực sự.

Page 99: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Trong trình độ thứ tư, quả là sự vật trở thành sáng tỏ. Từ khoảng 8-10

tháng, những sem được tạo dựng bởi những phản ứng thứ cấp trong tiến

trình của giai đoạn trước, trở nên có khả năng tự kết hợp lại với nhau, những

cái này được sử dụng làm phương tiện và những cái khác định một mục đích

cho hành động. Chính vì vậy mà muốn nắm bắt một mục tiêu đặt sau một

màn che toàn bộ hoặc một phần mục tiêu đó, đầu tiên đứa bé gạt màn che

(bằng cách sử dụng những sem nắm bắt hoặc đánh đập v.v...), đoạn nó

chiếm lấy mục tiêu. Từ đó trở đi, do vậy, mục đích được đặt ra trước các

phương tiện, bởi vì chủ thể có ý định tóm lấy mục tiêu trước khi có ý định

chuyển chỗ cái trở ngại, điều đó giả định một sự khớp nối cơ động các sem

sơ đẳng tạo nên cái sem tổng thể. Mặt khác, cái sem tổng thể mới trở nên có

khả năng tổng quát hoá rộng lớn hơn nhiều so với trước đó. Tính cơ động đó,

nối với sự tiến bộ trong sự khái quát hoá, được đánh dấu bởi sự việc là trước

một đồ vật mới, đứa trẻ lần lượt thử các sem cuối cùng có được trước đó

(nắm bắt, đánh đập, lay, cọ xát v.v...), những cái này như thế là được sử

dụng với tính cách là khái niệm cảm giác - vận động, nếu người ta có thể nói,

làm như chủ thể tìm hiểu khách thể (đồ vật) mới bằng việc sử dụng (theo kiểu

những "định nghĩa do công dụng" mà mãi lâu về sau người ta mới tìm thấy lại

trên bình diện lời nói).

Các cư xử của trình độ bốn này chứng thực một sự biểu lộ kép theo

hướng của sự cơ động và sự mở rộng trường ứng dụng của các sem. Những

đoạn đường mà hành động đã đi qua, nhưng cả các đón trước và các tái tạo

cảm giác - vận động đã đi qua, giữa chủ thể và các khách thể không còn như

ở các giai đoạn trước của những đoạn đường trực tiếp và đơn giản: thẳng

như trong tri giác hoặc lắp lái máy móc và một chiều như trong những phản

ứng vòng tròn. Các hành trình bắt đầu biến đổi và việc sử dụng các sem có

trước bắt đầu đi qua những khoảng cách lớn hơn trong thời gian. Chính đó là

cái đặc trưng cho sự nối liền các phương tiện và các mục đích từ nay đã

được phân hoá và chính vì vậy mà người ta có thể bắt đầu nói về trí khôn

thực thụ. Nhưng ngoài sự liên tục nó nối liền trí khôn với các cư xử trước đó,

phải nhận thấy sự hạn chế của trí khôn đang nảy nở: không có sáng tạo,

Page 100: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

không có khám phá những phương tiện mới mà chỉ đơn giản áp dụng những

phương tiện đã biết vào các hoàn cảnh không dự kiến trước.

Hai sự thụ đắc đặc trưng cho trình độ tiếp theo, cả hai điều có quan hệ

đến việc sử dụng kinh nghiệm. Các sem đồng hoá được mô tả cho đến nay

tất nhiên được điều ứng một cách liên tục với các dữ kiện bên ngoài. Nhưng

sự điều ứng này có thể nói là phải bị chịu hơn là được tìm kiếm: chủ thể hoạt

động theo những nhu cầu của mình và hoạt động đó hoà hợp với thực tại

hoặc gặp những chống đối mà nó tìm cách quay đi. Những cái mới tình cờ

xuất hiện đều hoặc bị xem nhẹ hoặc đồng hoá vào những sem có trước và

được tái tạo bằng phản ứng vòng tròn. Trái lại, đến một lúc mà cái mới tự nó

gây hứng thú, điếu đó tất yếu giả định một sự trang bị đầy đủ các sem để có

thể các so sánh xẩy ra và sự việc mới khá tương hỗ với cái đã biết để làm

chú ý và khá khác để tránh được sự bão hoà. Các phản ứng vòng tròn lúc

này bao gồm việc tái tạo sự việc mới nhưng với những biến đổi và những

thực nghiệm tích cực nhằm từ đó chính xác là để rút ra những khả năng mới.

Đã khám phá ra bằng cách đó đường rơi của một vật, đứa bé tìm cách quăng

nó theo nhiều cách khác nhau hoặc từ những điểm xuất phát khác nhau.

Người ta có thể gọi là "phản ứng vòng tròn cấp thứ ba" sự đồng hoá tái tạo

này với sự điều ứng có phân hoá và có ý định

Từ đó, khi các sem được kết hợp với nhau trên tính cách phương tiện

và mục đích, đứa trẻ không còn giới hạn trong việc áp dụng các phương tiện

đã biết vào những tình huống mới; nó phân hoá cái sem này dùng làm

phương tiện bằng một thứ phản ứng vòng tròn cấp thứ ba, và do đó đi đến

chỗ tìm ra những phương tiện mới. Chính bằng cách đó mà một loạt cư xử

được luyện thành, tính chất trí khôn của những cư xử này không một người

nào đặt vấn đề nghi ngờ: kéo về cho mình mục tiêu nhờ trung gian của cái giá

mà mục tiêu nằm trên đó, của sợi dây tạo nên cái kéo dài hoặc cả một cái gậy

dùng làm trung gian độc lập. Nhưng dù cư xử cuối cùng phức hợp đến đâu,

phải hiểu rõ rằng trong những trường hợp thông thường nó không xuất hiện

đột ngột, và trái lại được chuẩn bị bằng cả một chuỗi những quan hệ và

Page 101: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những ý nghĩa do hoạt động của các sem: tương quan phương tiện và mục

đích, khái niệm của một đồ vật có thể làm một vật khác vận động V.V.. Cư xử

bằng cái giá về mặt này là đơn giản nhất: không trực tiếp với tới mục tiêu, chủ

thể móc các đầ vật đặt giữa hai (cái thân trên đó được đặt cái đồ chơi mong

ước v.v...). Những chuyển động mà sự cầm nắm tấm thảm ấy cho mục tiêu

vẫn chưa có ý nghĩa ở các trình độ trước; có được những tương quan cần

thiết, chủ thể trái lại hiểu tức khắc việc sử dụng có thể có của cái giá. Trong

những trường hợp như vậy, người ta biết vai trò thật của sự mầy mò trong

hành vi trí khôn; được điều khiển vừa bởi cái sem gán một mục đích cho hành

động, vừa bởi cái sem được chọn làm phương tiện ban đầu, và lại sự mầy

mò không ngừng được định hướng, trong tiến trình những cuộc thử liên tiếp,

bởi những sem có khả năng cung cấp một ý nghĩa cho các sự cố ngẫu nhiên

được sử dụng như vậy một cách thông minh. Sự mầy mò thế là không bao

giờ thuần tuý mà chỉ tạo thành cái lề điều ứng tương hợp tích cực với những

kết hợp đồng hoá, chính những kết hợp này mới tạo thành cái chủ yếu của trí

khôn.

Cuối cùng, một trình độ thứ sáu choán một phần của năm thứ hai đánh

dấu sự kết thúc của trí khôn cảm giác - vận động: trong khi mà những

phương tiện mới đều được chuyên nhất khám phá bằng thực nghiệm tích

cực, như ở trình độ trước, từ nay có thể có sự sáng tạo bằng kết hợp, bên

trong và nhanh chóng, những cách thức mà chủ thể còn chưa biết. Chính là

thuộc về loại hình cuối cùng này những sự việc tái cấu tạo đột ngột mà

Koehler mô tả trên những con hắc tinh tinh và Aha.Erlebnis của K.Buhler cũng

mô tả, hoặc cảm giác của một sự thấu hiểu đột ngột. Ở những đứa bé chưa

có dịp thực nghiệm trên những cái gậy trước đó, xảy ra tình hình là sự tiếp

xúc lần đầu với cái gậy khởi động sự thấu hiểu về những quan hệ có thể có

của nó với mục tiêu phải đạt tới và điều đó, không có sự mầy mò thực tại. Mặt

khác dường như hiển nhiên là một số trong các chủ thể của Koehler đã sáng

tạo ra việc sử dụng gậy có thể nói là dưới mắt ông và không có luyện tập

trước.

Page 102: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Vấn đề lớn lúc này là nắm bắt cơ chế của những phối hợp bên trong

này, chúng giả định đồng thời sự sáng tạo không mầy mò và một sự đón

trước của trí óc gắn với biểu tượng. Chúng ta đã thấy lí thuyết hình thức giải

thích vấn đề không viện dẫn đến kinh nghiệm đã thu được và bằng một sự tái

cấu trúc tri giác đơn giản.

Nhưng ở đứa hài nhi, không thể không thấy trong những ứng xử của

giai đoạn thứ sáu này sự kết thúc của toàn bộ sự phát triển đặc thù cho năm

giai đoạn trước. Quả vậy, rõ ràng là khi đã quen với các phản ứng vòng tròn

cấp thứ ba và với những mầy mò thông minh tạo thành một thực nghiệm tích

cực thực sự, sớm hay muộn đứa trẻ có khả năng có một sự nội hiện các cư

xử đó. Khi thôi hành động trước những dữ kiện của bài toán, chủ thể tỏ ra suy

nghĩ (một trong những đứa con của chúng tôi, sau khi đã mầy mò không có

kết quả để làm to một khe mở của bao diêm, ngừng hoạt động của nó lại,

nhìn chăm chú khe hở đoạn mở và khép cái mồm của chính mình), tất cả như

chỉ ra rằng nó tiếp tục tìm tòi, nhưng bằng các cuộc thử bên trong hoặc bằng

hành động nội hiện (những cử động bắt chước của mồm trong ví dụ trước là

một dấu hiệu rất rõ của thứ suy nghĩ vận động này). Cái gì đã xảy ra lúc đó và

cắt nghĩa như thế nào sự sáng tạo mà ở đó bao hàm lời giải đột ngột? Các

sem cảm giác vận động, đã trở thành đủ cơ động và có khả năng kết hợp với

nhau, gây nên những đồng hoá qua lại khá hồn nhiên để không còn cần đến

những mầy mò hữu hiệu và khá nhanh để tạo nên cảm tưởng của những cấu

trúc lại tức thì. Sự phối hợp bên trong các sem đối với sự phối hợp bên ngoài

của các trình độ trước cũng như ngôn ngữ bên trong, phác thảo đơn giản

được nội hiện và nhanh chóng của lời nói đơn giản, so với ngôn ngữ bên

ngoài.

Nhưng sự hồn nhiên và tốc độ lớn hơn của sự kết hợp đồng hoá giữa

các sem đã đủ hay chưa để giải thích sự nội hiện các cư xử, hoặc một khởi

đầu của biểu tượng phải chăng đã xảy ra ở trình độ hiện tại, báo trước sự

chuyển tiếp từ trí khôn cảm giác - vận động sang tư duy thực sự? Độc lập với

sự xuất hiện của ngôn ngữ mà trẻ con bắt đầu thụ đắc ở những lứa tuổi này

Page 103: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

(nhưng thiếu cho hắc tinh tinh mặc dầu con này có năng lực sáng tạo đặc biệt

thông minh) có hai loại sự việc ở lứa tuổi này chứng tỏ một sự mầm mống

cho biểu tượng, nhưng một mầm móng chưa hề vượt quá trình độ của biểu

tượng khá thô sơ đặc thù cho con hắc tinh tinh. Một mặt đứa bé trở nên có

khả năng của sự bắt chước hoãn lại, tức là của một bản sao xuất hiện lần đầu

tiên sau sự biến mất về mặt tri giác của mẫu: mà dù cho sự bắt chước được

hoàn lại phát sinh từ biểu tượng có hình ảnh hoặc nó là nguyên nhân, nó

chắc chắn gắn liền chặt chẽ với hiện tượng có hình vẽ (chúng tôi sẽ trở lại

vấn đề này ở chương 5). Mặt khác cùng trong thời gian đó, trẻ đi đến hình

thức sơ đẳng nhất của trò chơi tượng trưng, bằng cách gợi lên nhờ vào cơ

thể riêng một hành động xa lạ với bối cảnh hiện thời (chẳng hạn, giả vờ ngủ

để đùa chơi trong lúc vẫn hết sức tỉnh), ở đây một lần nữa xuất hiện một thứ

hình ảnh để chơi tức là biết vận động, nhưng đã là hầu như biểu tượng.

Những hinh ảnh bằng hành động, đặc trưng cho sự bắt chước bị hoãn lại và

cho biểu trưng trò chơi đang nảy nở không can thiệp, với tính cách là những

cái biểu đạt, hay sao vào sự kết hợp được nội hiện của những sem? Đó là

điều mà hình như ví dụ vừa đưa ra lúc nãy đã chỉ rõ; ví dụ này là về đứa trẻ

bắt chước bằng mồm cách mở rộng cái khe hở trông thấy trên một cái hộp

mà nó đang thực sự tìm cách mở.

* SỰ TẠO DỰNG KHÁCH THỂ VÀ CÁC TƯƠNG QUAN KHÔNG GIAN

Người ta vừa mới ghi nhận sự nối tiếp chức năng đáng chú ý gắn liền

các cấu trúc liên tiếp mà đứa trẻ tạo dựng xuất phát từ sự hình thành các thói

quen sơ đẳng cho đến những hành vi sáng tạo hồn nhiên và đột ngột đặc thù

cho những hình thức cao nhất của trí khôn cảm giác - vận động. Như vậy sự

gần gũi của thói quen và trí khôn trở nên rõ rệt, cả hai đều bắt nguồn từ sự

đồng hoá cảm giác - vận động, nhưng ở những trình độ khác nhau. Điều còn

lại bây giờ là trở lại với những gì chúng ta đã nói ở trên (chương III) về sự

gần gũi giữa trí khôn và hoạt động tri giác, cả hai đều cùng dựa vào sự đồng

hoá cảm giác - vận động và ở những trình độ khác nhau: cái này mà sự đồng

Page 104: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hoá làm nảy sinh sự chuyển vị tri giác (bà con thân thuộc của sự chuyển tải

những vận động quen thuộc) và cái kia được đặc trưng bởi sự khái quát hoá

đặc biệt thông minh.

Mà không gì có tính chất chuyên biệt để nêu bật những mối liên hệ, vừa

rất đơn giản ở nguồn gốc chung của chúng và rất phức tạp ở sự phân hoá đa

dạng của chúng, của tri giác, thói quen và trí khôn bằng phân tích sự tạo

dựng cảm giác - vận động của những sem cơ bản của đồ vật và của không

gian (và lại không thể tách rời với tính nhân quả và thời gian). Quả vậy, sự tạo

dựng này là tương liên chặt chẽ với sự phát triển mà chúng tôi vừa nhắc lại

khi nói đến trí khôn trước lời nói. Nhưng mặt khác sự tạo dựng đó đòi hỏi ở

mức độ cao một tổ chức của những cấu trúc trí giác và của những cấu trúc

hoàn toàn gắn bó với tính vận động triển khai thành thói quen.

Quả vậy, cái sem của khách thể là gì ? Đó là chủ yếu một sem của trí

khôn: có khái niệm về khách thể tức là gắn cái hình ảnh tri giác được vào một

cái giá có tính thực thể, làm sao để hình ảnh và thực thể mà nó là dấu hiệu

bằng cách đó tiếp tục tồn tại ở bên ngoài trường tri giác. Sự bền lâu (tính

thường trực) của khách thể, xét dưới góc độ này là không chỉ một sản phẩm

của trí khôn, mà bao hàm cái khái niệm đầu tiên trong những khái niệm cơ

bản của sự bảo toàn, mà chúng ta sẽ thấy sự phát triển trong lòng của tư duy

(chương 5). Nhưng do sự việc là nó tự bảo toàn và nó tự quy ngay vào sự

bảo toàn đó với tính cách là như thế, vật rắn (cái duy nhất phải xét tới lúc

đầu) cũng giữ lại kích thước và hình dạng của nó: mà tính thường trực của

các hình dạng và độ lớn là một sem thuộc về tri giác ít nhất cũng bằng thuộc

về trí khôn. Cuối cùng, hiển nhiên là cả dưới những loại của tính thường trực

tri giác cũng như dưới những loại của sự bảo toàn ở phía bên kia của trường

tri giác hiện thời, khách thể (đồ vật) gắn liền với một loạt thói quen vận động,

vừa là nguồn gốc vừa kết quả của sự tạo dựng cái sem đó. Như vậy, người ta

thấy là đương nhiên biết mấy việc làm sáng tỏ những tương quan thật giữa trí

khôn, sự tri giác và thói quen.

Page 105: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Mà cái sem của khách thể được tạo dựng như thế nào? Ở trình độ

phản xạ, chắc chắn là không có khách thể, vì phản xạ là sự ứng đáp với một

tình huống, và nếu cái kích thích và cả hành vi được phát động không đòi hỏi

gi khác ngoài những phẩm chất dành cho các bức tranh tri giác, không cần có

tầng nền là một thực thể: khi đứa hài nhi tìm và tìm thấy cái vú, không cần nó

làm cái vú thành một khách thể mà tình huống chính xác của việc bú cũng

như sự thường trực của cái thể vị, đủ để không cần sự can thiệp của các sem

phức hợp hơn trình bày những ứng xử này. Ở trình độ những thói quen đầu

tiên, sự kiểm nhận cũng không bao hàm khách thể, vì nhận ra một bức tranh

tri giác không đòi hỏi một sự tin tưởng nào về sự tồn tại của yếu tố được tri

giác ngoài những tri giác và kiểm nhận hiện tại; mặt khác gọi bằng tiếng kêu

một người vắng mặt chỉ đơn giản yêu cầu sự đón trước khả năng trở về của

người đó, với tính cách là bức tranh tri giác đã biết, chứ không phải sự định vị

về không gian trong một thực tế được tổ chức, của người đó với tư cách là

một khách thể có tính thực thể. Trái lại, theo dõi bằng mắt một hình đang

chuyển động và tiếp tục tìm vào lúc nó đã biến mất; quay đầu để nhìn về phía

một tiếng động v.v... tạo thành những khởi đầu của sự thường trực thực hành

nhưng chỉ duy nhất gắn với hành động đang tiến hành: đó là những đón trước

tri giác - vận động và những mong đợi, nhưng được tri giác và cử động ngay

kể trước xác định, chứ hoàn toàn chưa phải là những tìm kiếm tích cực khác

biệt với cử động đã được phác ra, hoặc được xác định bởi sự tri giác hiện tại.

Trong tiến trình của giai đoạn thứ ba (phản ứng vòng tròn thứ cấp) sự

việc đứa trẻ trở thành có khả năng nắm lấy cái gì nó thấy cho phép kiểm tra

những giải thích đó. Theo Ch.Buhler, chủ thể ở trình độ này đạt kết quả lấy đi

cái khăn mà người ta dùng để bao bọc mặt nó. Nhưng chúng ta cũng có thể

chỉ ra rằng ở cùng trình độ đó đứa bé không hề tìm cách loại bỏ cái khăn đặt

trên đồ vật nó ưa thích và điều đó ngay cả khi nó đã phải ra một cử động nắm

bắt đối với mục tiêu còn thấy được: trẻ cư xử như đồ vật tan đi trong cái khăn

và thôi không còn tồn tại vào đúng lúc đồ vật đó ra khỏi trường tri giác; hoặc

nữa, điều này cũng là thế thôi, trẻ không có một cư xử nào cho phép nó tìm

lại bằng hành động (lấy màn che đi) hoặc bằng ý nghĩ (tưởng tượng) đồ vật

Page 106: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đã biến mất. Tuy nhiên, ở trình độ này hơn ở trình độ trước, trẻ dành cho mục

tiêu của một hành động đang tiến hành một thứ tính thường trực thực hành

hoặc một thứ nối tiếp tạm thời: trở lại với một đồ chơi sau khi đã xao lãng nó

(phản ứng vòng tròn hoãn lại), đón trước vị trí của đồ vật trong trường hợp rơi

v.v... Nhưng thế là chính hành động đem lại cho đồ vật một sự bảo toàn nhất

thời và đồ vật thôi không còn sự bảo toàn đó sau khi hành động đang tiến

hành kết thúc.

Trái lại, ở giai đoạn thứ tư (sự kết hợp những Sem đã biết), trẻ bắt đầu

tìm đồ vật sau cái màn che, điều đó tạo thành sự khởi đầu của những cư xử

có phân biệt liên quan đến đồ vật đã biến mất, và do đó sự bằt đầu của sự

bảo toàn thực thể. Nhưng người ta thường quan sát một phản ứng lí thú

chứng tỏ rằng thực tế mới nảy sinh này chưa được cá thể hoá, và do đó vẫn

còn gắn liền với hành động với tính cách là như thế: nếu đứa trẻ tìm một đồ

vật ở A (chẳng hạn dưới cái đệm ở bên phải nó) và nếu nguời ta di chuyển

dưới mắt nó cùng đồ vật đó sang B (cái đệm khác, nhưng ở bên trái nó), trẻ

quay trở về A trước tiên, làm như đồ vật bị biến đi ở B sắp được tìm thấy lại ở

vị trí ban đầu của đồ vật đó! Nói cách khác, đồ vật còn gắn bó với một hoàn

cành tổng thế được đặc trưng bởi hành động vừa mới thành công, và không

luôn luôn bao gồm cả sự cá thể hoá thực thể lẫn sự kết hợp các cử động liên

tiếp.

Ở giai đoạn thứ năm, những giới hạn này biến mất, trừ trong trường

hợp mà một biểu tượng của những đoạn đường đi không nhìn thấy là cần

thiết cho lời giải của bài toán, và ở giai đoạn thứ sáu ngay cả điều kiện đó

cũng không còn là trở ngại cơ bản.

Vậy hiển nhiên rằng, được chuẩn bị bằng sự nối tiếp những cử động

thông thường, sự bảo toàn đồ vật là sản phẩm của những kết hợp các sem,

mà cái đó bao hàm trí khôn cảm giác - vận động. Trước tiên là sự kéo dài

những kết hợp dành riêng cho thói quen, khách thể vậy là được bản thân trí

khôn tạo dựng, mà khách thể đó tạo thành cái không biến đổi đầu tiên: cái

không biến đổi cần thiết để xây dựng không gian, tính nhân quả được không

Page 107: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

gian hoá, và một cách khái quát, cần thiết cho mọi hình thức đồng hoá vượt

quá trường tri giác hiện tại.

Nhưng nếu những giây liên hệ đó với thói quen và trí khôn là hiển

nhiên, những quan hệ của đồ vật với các sự không đổi của tri giác về hình

dáng và độ lớn cũng không kém phần hiển nhiên.

Ở giai đoạn thứ ba trong các giai đoạn được phân biệt trên kia, một

đứa trẻ được đưa cho cái bầu sữa lật ngược thử mút cái đáy bằng chai nếu

nó không nhìn thấy ở phía kia cái núm vú bằng cao su. Nếu nó thấy, nó xoay

bầu sữa lại (chứng tỏ không có sự cản trở thuộc loại vận động), nhưng nếu

sau khi đã bú cái đầu sai nó nhìn toàn bộ bầu sữa (mà người ta đưa cho nó

theo chiều thẳng đứng) và tham dự vào sự quay vòng của nó, nó vẫn không

xoay ngược được nó lại, ngay khi cái núm vú trở nên không thể nhìn thấy: đối

với nó hình như cái núm vú tan vào cái lọ bằng chai, trừ phi nó nhìn thấy cái

núm vú đó. Sự ứng xử điển hình của sự không bảo toàn của đồ vật kéo theo

một sự không bảo toàn của hình dáng, ở giai đoạn sau, trái lại, tương liên với

sự tạo dựng đồ vật thường trực, cái bầu sữa tức khắc bị lật ngược lại, và vì

vậy được tri giác như một hình dáng trên đại thể vẫn là không thay đổi mặc

cho những quay vòng của nó. Mà cùng ở trình độ đó, người ta cũng thấy đứa

trẻ chú ý, bằng cách di chuyển dần dần cái đầu, đến những thay đổi của hình

dạng đồ vật, dưới ảnh hưởng của phối cảnh.

Còn về sự không đổi của các độ lớn mà Brunswick gần đây đã thử lại

sự vắng mặt trong những tháng đầu tiên, nó cũng được xây dựng trong tiến

trình của giai đoạn thứ tư và chủ yếu là trong giai đoạn thứ năm. Người ta

thấy đứa bé đưa ra xa và xích lại gần mắt mình một đồ vật cầm trong tay, như

để xem xét những thay đổi tuỳ thuộc ở chiều sâu. Vậy là có sự tương liên

giữa sự xây dựng các sự không đổi này của tri giác và sự bảo toàn đồ vật do

trí khôn.

Mà dễ dàng nắm bắt được cái quan hệ nối liền hai thứ thực tế này. Nếu

các sự không đổi đúng là sản phẩm của những sự chuyển tải, những sự

chuyển vị và của sự điều tiết của chúng, điều rõ ràng là những cơ chế điều

Page 108: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tiết đó liên quan đến tính vận động cũng ngang bằng với sự tri giác. Những

sự không đổi về tri giác của hình dạng và độ lớn sẽ được bảo đảm như thế

bằng một sự đồng hoá cảm giác - vận động bằng cách chuyển tải hoặc

chuyển vị các tỉ số đang tác động trong khi có những thay đổi về vị trí hoặc về

độ xa của những đồ vật được tri giác, cũng như cái sem của đồ vật thường

trực là do một sự đồng hoá cảm giác - vận động gây nên việc tìm kiếm đồ vật

mỗi khi đồ vật này ra khỏi trường tri giác, và do vậy gắn cho nó một sự bảo

toàn phát sinh từ sự nối tiếp của hành động riêng rồi phản chiếu thành những

đặc tính bên ngoài. Vậy người ta có thể thừa nhận rằng chính là cùng những

sem đồng hoá ấy, điều chỉnh, bằng những vận chuyển và những chuyển vị,

sự không thay đổi của các hình dạng và các độ lớn của đồ vật được tri giác

và quy định sự tìm kiếm nó khi nó thôi không là nó nữa: vậy là vì đồ vật được

tri giác không thay đổi mà nó được tìm kiếm sau khi nó biến mất, và chính vì

nó gây ra một sự tìm kiếm tích cực khi nó không còn có thể tri giác mà nó

được tri giác không đổi khi nó lại trở thành có thể tri giác được. Hai mặt hoạt

động tri giác và trí khôn quả là ít bị phân hoá hơn nhiều trên bình diện cảm

giác - vận động so với trường hợp giữa sự tri giác và trí khôn ngẫm nghĩ, bởi

vì trí khôn ngẫm nghĩ này dựa trên những cái biểu đạt gồm những từ hoặc

những hình, ảnh trong khi trí khôn cảm giác - vận động chỉ dựa trên bản thân

những tri giác và trên các cử động.

Vậy người ta có thể quan niệm hoạt động tri giác, nói chung và cũng

như trong ví dụ về những sự không đổi như là một trong những mặt của bản

thân trí khôn cảm giác - vận động: mặt bị hạn chế trong trường hợp mà đồ vật

đi vào các quan hệ trực tiếp và hiện tại với chủ thể trong khi trí khôn cảm giác

- vận động, bằng cách tràn ra ngoài trường tri giác, đón trước và tái tạo các

quan hệ sẽ phải tri giác về sau hoặc đã được tri giác trước đây. Sự thống

nhất của các cơ chế liên quan đến sự đồng hoá cảm giác - vận động như vậy

là hoàn chỉnh, điều mà lí thuyết hình thức có công nêu bật, nhưng là điều phải

giải thích theo hướng của hoạt động của chủ thể, tức là theo hướng của sự

đồng hoá chứ không phải theo hướng của các hình thức tĩnh tại bị áp đặt

không phụ thuộc vào sự phát triển của trí tuệ.

Page 109: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Nhưng một vấn đề lúc này xuất hiện mà sự bàn cãi dẫn đến việc nghiên

cứu không gian. Các sự không đổi của tri giác là sản phẩm của những điều

tiết đơn giản và người ta đã thấy (ở chương 3) rằng sự thiếu vắng, ở mọi lứa

tuổi, những sự không đổi tuyệt đối và sự tồn tại những sự "siêu không đổi"

của người lớn chứng tỏ tính chất điều tiết chứ không phải tính chất thao tác

của hệ thống, huống chi tình hình là như vậy trong hai năm đầu tiên. Sự xây

dựng không gian không kết thúc, trái lại, khá nhanh hay sao ở một cấu trúc

của các nhóm hợp và cả các nhóm, phù hợp với giả thuyết nổi tiếng của

Poincaré về ảnh hưởng, đầu tiên về mặt tâm lí học, của "nhóm các sự chuyển

chỗ"?.

Sự phát sinh của không gian trong trí khôn cảm giác - vận động bị chế

ngự hoàn toàn bằng sự tổ chức luỹ tiến của các vận động và những vận động

này hướng thực sự về một cấu trúc “nhóm". Nhưng trái với những gì Poincaré

suy nghĩ về tính chất tiên nghiệm của nhóm các sự chuyển chỗ, nhóm được

xây dựng dần dần với tính cách là hình thức cân bằng cuối cùng của tổ chức

vận động này: đó là những sự kết hợp liên tiếp (sự cấu tạo), những sự quay

về (tính nghịch đảo) những sự quay vòng (tính kết hợp) và những sự bảo

toàn vị trí (sự đồng nhất), tất cả những cái đó dần dần đẻ ra cái nhóm với tính

cách là sự cân bằng cần thiết của các hành động.

Ở trình độ của hai giai đoạn đầu (phản xạ và thói quen sơ đẳng) người

ta không thể nói đến một không gian chung cho những lĩnh vực tri giác khác

nhau vì có bao nhiêu không gian không đồng đều với nhau thì có bấy nhiêu

trường khác nhau về chất (bằng mồm, thị giác, xúc giác v.v...) Chính trong

tiến trình của giai đoạn thứ ba thôi mà sự đồng hoá qua lại của những không

gian khác nhau đó trở thành có hệ thống, do việc kết hợp thị giác với sự nắm

bắt. Dần dà cùng với sự kết hợp đó, người ta chứng kiến sự tạo thành những

hệ thống không gian sơ đẳng, đã báo trước sự cấu tạo riêng của nhóm: chính

vì vậy mà trong trường hợp phản ứng vòng tròn bị ngắt quãng, chủ thể trở về

điểm xuất phát để bắt đầu lại; khi đưa mắt nhìn theo một vật di động vượt nó

Page 110: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bằng tốc độ (sự rơi v.v...), chủ thể đôi khi đến với mục tiêu bằng những

chuyển chỗ riêng sửa chữa các chuyển chỗ của vật di động bên ngoài.

Nhưng phải hiểu rõ rằng, khi đặt mình ở quan điểm của chủ thể chứ

không chỉ ở quan điểm của người quan sát - toán học, sự tạo dựng một cấu

trúc nhóm đòi hỏi ít nhất hai điều kiện: khái niệm đồ vật và sự phi tập trung

hoá các cử động bằng sửa chữa và cả bằng sự chuyển đổi tính duy kỷ ban

đầu. Quả thật rõ ràng là khả năng nghịch đảo riêng cho nhóm giả định khái

niệm đồ vật và hơn nữa, một cách đảo ngược, vì tìm lại một đồ vật, tức là tự

cho mình khả năng của một sự trở lại (do chuyển chỗ hoặc của bản thân đồ

vật hoặc của thân thể riêng của chủ thể) đồ vật không là gì khác cái không

biến đổi do sự cấu tạo nghịch đảo của nhóm. Mặt khác, như Poiacaré đã chỉ

ra rất đúng, khái niệm chuyển chỗ với tính cách như thế đòi hỏi sự phân hệt

hoá có thể có giữa các thay đổi trạng thái, không trở lại, và những thay đổi vị

trí đúng là được đặc trưng bởi tính nghịch đảo cùa chúng (hoặc bởi sự sữa

chữa có thể được của chúng nhờ những vận động của cơ thể bản thân). Vậy

tất nhiên là không có sự bảo toàn của các đồ vật thì không thể có "nhóm" bởi

vì như vậy mọi cái hiện ra là "thay đổi trạng thái": đồ vật và nhóm các chuyển

chỗ vậy là không thể tách rời cái này tạo thành mặt tĩnh tại và cái kia mặt

năng động của cùng một thực tế. Nhưng còn hơn thế: một thế giới không đồ

vật là một thế giới sao cho không hề có một sự phân hoá có hệ thống nào

giữa những thực tế chủ quan và bên ngoài, một thế giới do vậy "phi nhị

nguyên" (J.M.Baldwin). Do bản thân sự việc, thế giới đó sẽ tập trung vào hoạt

động riêng, chủ thể vẫn càng bị chế ngự hơn nữa bởi cái phối cảnh duy kỉ đó,

vì cái tôi của nó hãy còn vô thức đối với bản thân. Mà cái nhắm đúng là đòi

hỏi một thái độ ngược lại: một sự phi tập trung hoá hoàn toàn, sao cho cái cơ

thể riêng với tính cách là yếu tố nằm giữa các cơ thể khác trong một hệ thống

những sự chuyển chỗ cho phép phân biệt các vận động của chủ thể với các

vận động của bản thân các đồ vật.

Điều đó nói lên rằng rõ ràng là trong tiến trình của các giai đoạn đầu và

cả ở giai đoạn thứ ba không có cái nào trong hai điều kiện sau đây được thoả

Page 111: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mãn: đồ vật không được tạo nên, và các không gian, rồi cái không gian độc

nhất có xu hướng kết hợp những không gian kia lại, hãy còn tập trung vào

chủ thể. Ngay từ đó, trong những trường hợp mà ở đó hình như có sự trở lại

(thực hành) và sự kết hợp thành hình thức nhóm, thật không khó gì trong việc

tách rời bề ngoài của thực tế vì thực tế này luôn luôn hiểu là một sự tập trung

được ưu đãi. Chính vì vậy mà một đứa bé thuộc trình độ thứ ba, nhìn thấy

một vật di động đi qua theo đường thẳng AB để rồi đi vào ở B sau một màn

che, không tìm vật di động đó ở C ở phía bên kia màn che, mà lại tìm một lần

nữa ở A. v.v... Vật di động như vậy chưa phải là một "đồ vật" độc lập đi một

đoạn đường thẳng, tách rời với chủ thể, mà nó vẫn còn phụ thuộc vào vị trí có

lợi thế A ở đấy chủ thể thấy nó lần đầu tiên. Còn về phần sự quay vòng,

chúng ta đã thấy ở trên ví dụ của bầu sữa lật ngược, được mút ngược thay vì

được lộn lại, điều đó chứng tỏ một lần nữa vị trí hàng đầu của viễn cảnh duy

kỉ và sự thiếu vắng khái niệm đồ vật giải thích sự thiếu vắng của "nhóm".

Với sự tìm kiếm các đồ vật bị biến mất sau các màn che (giai đoạn 4),

khởi đầu sự khách quan hoá các phối hợp, tức là sự tạo dựng nhóm cảm giác

- vận động. Nhưng ngay sự việc là đứa trẻ (chủ thể) không tính đến những

chuyển chỗ liên tiếp của mục tiêu và sự tìm kiếm dưới cái thứ nhất trong

những màn che (xem ở trên) cũng đủ tỏ rằng cái nhóm đang ra đời đó vẫn

còn "chủ quan", tức là tập trung vào hoạt động riêng, bởi vì đồ vật bản thân

nó cũng còn phụ thuộc vào hoạt động đó và đang ở giữa chừng của sự tạo

dựng riêng của mình.

Chỉ ở trình độ thứ năm, tức là khi đồ vật được tìm kiếm căn cứ vào

những sự chuyển chỗ liên tiếp của nó mà cái nhóm được thực sự khách thể

hoá: sự cấu tạo các chuyển chỗ, tính nghịch đảo của chúng và sự bảo toàn vị

trí ("sự đồng nhất") đã đạt được. Chỉ khả năng quay đi (tính kết hợp) còn thiếu

vắng vì chưa có sự đón trước đầy đủ nhưng nó tự khái quát hoá trong tiến

trình của giai đoạn sáu. Hơn nữa, trong sự tương liên với các tiến bộ đó, một

tập hợp các quan hệ giữa bản thân các đồ vật được tạo dựng nhờ các tương

quan "đặt trên", "ở bên trong" hoặc "ở ngoài", "ở phía trước" hoặc "ở phía

Page 112: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

sau" (với sự sắp xếp các bình diện theo chiều sâu tương quan với sự không

đổi của các độ lớn) v.v...

Vậy được phép kết luận rằng sự xây dựng các sự không đổi trong tri

giác đồ vật, do những điều tiết cảm giác - vận động, đi đôi với sự tạo dựng

dần dần những hệ thống cũng cảm giác - vận động, nhưng vượt quá lĩnh vực

tri giác và hướng về sự cấu trúc nhóm - hoàn toàn thực hành chứ không

mang tính biểu tượng, tất nhiên. Vậy tại sao bản thân tri giác không hưởng

cái cấu trúc đó và phải chăng nó vẫn còn ở trình độ những điều tiết đơn giản?

Lí do của điều đó bây giờ đã rõ; dẫu "phi tập trung hoá" đến đâu, so với

những sự tập trung ban đầu của cái nhìn hay của cơ quan đặc biệt của nó,

một sự tri giác bao giờ cũng là duy kỉ và tập trung vào một đồ vật hiện diện,

tùy thuộc vào sự phối cảnh riêng của chủ thể. Hơn nữa, loại phi tập trung hoá

đặc trưng cho tri giác, tức là loại phối hợp giữa các sự tập trung liên tiếp, chi

kết thúc ở một cấu tạo có tính chất tĩnh, tức là không đầy đủ (chương 3).

Sự cấu tạo tri giác vậy là không thể vượt quá trình độ của cái mà chúng

tôi đã gọi lúc nãy là nhóm "chủ quan", tức là một hệ thống tập trung căn cứ

vào hành động riêng, và cùng lắm có khả năng có những sửa chữa và những

điều tiết. Và điều đó vẫn đúng cả ở trình độ mà chủ thể khi vượt quá trường tri

giác để đón trước và tái tạo những vận động và đồ vật không nhìn thấy được,

đạt đến một cấu trúc được khách quan hoá về nhóm trong lĩnh vực của không

gian thực hành gần.

Một cách khái quát, chúng ta có thể kết luận về sự thống nhất sâu sắc

của các quá trình cảm giác - vận động đẻ ra hoạt động tri giác sự hình thành

các thói quen và bản thân trí khôn trước - lời nói hoặc trước - biểu tượng. Trí

khôn vậy là không xuất hiện như một năng lực mới nằm chồng một cách đột

ngột lên các cơ chế có trước hoàn toàn sẵn sàng, mà nó chỉ là sự biểu hiện

của cùng những cơ chế ấy khi, vượt qua sự tiếp xúc hiện tại và trực tiếp với

sự vật (tri giác) cũng như những mối liên hệ ngắn và mau được tự động hoá

giữa các tri giác và các vận động (thói quen), chúng dấn vào, ở những

khoảng cách luôn luôn lớn hơn và theo nhiều đoạn đường đi luôn luôn phức

Page 113: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hợp hơn, vào con đường của sự cơ động và sự nghịch đảo. Trí khôn đang

nảy sinh chỉ là hình thức cân bằng cơ động mà các cơ chế riêng của tri giác

và thói quen hướng tới, nhưng những cơ chế này chỉ đạt đến nó bằng cách đi

ra ngoài trường áp dụng ban đầu và tương ứng. Hơn nữa, ngay ở nấc cảm

giác - vận động của trí khôn, nó đã đạt đến việc tạo dựng, trong trường hợp

có lợi thế về không gian, cái cấu trúc cân bằng là cái nhóm của các sự

chuyển chỗ, dưới một hình thức hoàn toàn thực hành hoặc kinh nghiệm chủ

nghĩa, đúng thế, và tất nhiên vẫn còn ở trên bình diện rất hạn chế của không

gian gần. Nhưng dĩ nhiên là tổ chức đó, được bản thân các giới hạn của hoạt

động hạn chế phạm vi, chưa tạo thành một hình thức tư duy. Tất cả sự phát

triển của tư duy, từ việc xuất hiện ngôn ngữ vào cuối tuổi thơ ấu, là trái lại cần

thiết để cho các cấu trúc cảm giác - vận động hoàn chỉnh và ngay cả những

cấu trúc kết hợp dưới hình thức nhóm kinh nghiệm chủ nghĩa, kéo dài thành

thao tác thực thụ, tạo nên hoặc tái tạo nên các nhóm hợp ấy và các nhóm

trên bình diện của biểu tượng và của sự lập luận có ngẫm nghĩ./.

Phần 3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ DUY

Chương 5. VIỆC LUYỆN TƯ DUY - TRỰC GIÁC VÀ CÁC THAO TÁC

Chúng tôi đã ghi nhận, trong phần đầu của tác phẩm này, rằng các thao

tác tư duy đạt hình thức cân bằng của chúng khi chúng tự tạo thành những hệ

thống tổng thể được đặc trưng bởi bố cục có thể nghịch đảo (các nhóm hợp

hoặc các nhóm). Nhưng nếu một hình thức cân bằng đánh dấu sự kết thúc

của một sự tiến hoá, nó không giải thích cả các bước khởi đầu lẫn cơ chế tạo

dựng của sự tiến hoá đó.

Phần thứ hai cho phép chúng tôi sau đó phân định trong các quá trình

cảm giác - vận động khởi điểm của các thao tác, những sem của trí khôn cảm

giác - vận động tạo nên cái tương đương thực hành của những khái niệm và

những quan hệ và sự phối hợp chúng thành các hệ thống không gian - thời

gian đồ vật và vận động kết thúc, dưới một hình thức hoàn toàn thực hành và

Page 114: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

kinh nghiệm chủ nghĩa, ngay ở sự bảo toàn của đồ vật cũng như ở một cấu

trúc tương liên của nhóm (nhóm thực nghiệm của các sự chuyển chỗ, của H.

Poincaré). Nhưng hiển nhiên là cả nhóm cảm giác - vận động đó đơn giản tạo

thành một sem ứng xử, tức là hệ thống được cân bằng hoá của những cách

thức khác nhau có thể có di chuyển một cách vật thể trong không gian gần, và

hệ thống đó không hề đạt tới hạng của một công cụ tư duy. Quả vậy, trí khôn

cảm giác - vận động là ở ngọn nguồn của tư duy, và tiếp tục tác động lên nó

suốt đời qua sự trung gian của các tri giác và các thái độ thực hành. Vai trò

của các tri giác đối với tư duy tiến hoá nhất đặc biệt không được xem nhẹ,

như một số tác giả đã làm như vậy khi họ nhảy quá nhanh từ thần kinh học

sang xã hội học, và nó đủ để xác nhận ảnh hưởng bền lâu của các sem khởi

đầu. Nhưng còn một con đường rất dài phải đi giữa trí khôn trước lời nói và trí

khôn thao tác để rồi các nhóm hợp suy ngẫm được tạo thành, và nếu có sự

tiếp nối chức năng giữa các cực, việc tạo dựng một loạt các cấu trúc trung

gian vẫn là cần thiết trên nhiều nấc không đồng đều.

* NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ CẤU TRÚC GIỮA TRÍ KHÔN KHÁI NIỆM VÀ TRÍ KHÔN CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG

Để nắm được cơ chế hình thành các thao tác, điều quan trọng trước

tiên là hiểu được những gì phải tạo dựng thêm, tức là những gì còn thiếu đối

với trí khôn cảm giác - vận động để kéo dài thành tư duy khái niệm. Không gì

sẽ là hời hợt hơn nêu giả định rằng sự tạo dựng trí khôn đã là hoàn tất trên

bình diện thực hành và lúc đó chỉ đơn giản nhờ cậy đến ngôn ngữ và sự biểu

tượng bằng hình ảnh để giải thích làm thế nào cái trí khôn đã có tính tạo dựng

sẽ nội hiện thành tư duy lôgích.

Trên thực tế, chính tuyệt đối trên quan điểm chức năng mà có thể tìm

thấy lại trong trí khôn cảm giác - vận động cái tương đương thực hành của

các lớp, các quan hệ, các lập luận và ngay của các nhóm chuyển chỗ dưới

hình thức kinh nghiệm chủ nghĩa của bản thân các sự chuyển chỗ. Trên quan

điểm cấu trúc và đó trên quan điểm của sự gây hiệu quả, vẫn có giữa các

phối hợp cảm giác - vận động và các phối hợp khái niệm những khác biệt vcơ

Page 115: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bản, cả về tính chất của bản thân các phối hợp lẫn về những quãng cách mà

hành động đã đi qua, tức là về độ rộng của trường áp dụng của nó.

Trước tiên, các hành vi cảm giác - vận động vì bao hàm duy nhất việc

phối hợp với nhau những tri giác liên tiếp và những cử động thực tại cũng là

liên tiếp nên chúng chỉ có thể quy về những dãy liên tiếp các trạng thái nối liền

với nhau bằng những sự đón trước và tái tạo ngắn, nhưng không bao giờ kết

thúc ở một biểu tượng tổng thể: biểu tượng này chỉ có thể được tạo dựng với

điều kiện làm cho các trạng thái được cùng lúc trong ý nghĩ và do đó loại trừ

chúng khỏi sự diễn biến trong thời gian của hành động. Nói cách khác, trí

khôn cảm giác - vận động tiến hành như một cuộn phim quay chậm mà người

ta thấy liên tiếp các bức tranh nhưng không trộn lẫn vào nhau, tức là không có

cái nhìn liên tục cần thiết cho sự hiểu biết tổng thể.

Thứ hai, và do ngay ở sự việc, một hành vi trí khôn cảm giác - vận

động chỉ hướng vào sự thoả mãn thực hành, tức là vào kết quả của hành

động chứ không vào sự hiểu biết với tính cách là như thế. Nó không tìm kiếm

sự giải thích lẫn sự phân loại lẫn sự nhận ra cho bản thân chúng và chỉ nối

liền bằng thuyết nhân quả, chỉ phân loại và nhận ra nhằm một mục đích chủ

quan xa lạ với việc tìm kiếm chân lý. Vậy trí khôn cảm giác - vận động là một

trí khôn được trải qua, chứ hoàn toàn không là trí khôn suy ngẫm.

Còn như về trường áp dụng của nó, trí khôn cảm giác - vận động chỉ

làm việc ngày trên những thực tế, mỗi một trong những hành vi của nó như

chỉ bao hàm những khoảng cách rất ngắn giữa chủ thể và các khách thể.

Chắc chắn là nó có khả năng quay đi và trở lại, nhưng đây luôn luôn chỉ là

những cử động được thực hiện trong thực tại với những khách thể thực tại.

Duy nhất tư duy là được giải thoát khỏi những khoảng cách ngắn và những

đoạn đường đi thực tại đó để tìm cách bao quát toàn bộ thế giới đến tận cái

không nhìn thấy và đôi khi cả cái không hề hình dung được: chính là ở sự

nhân lên vô định các khoảng cách không gian - thời gian giữa chủ thể và các

khách thể mà ta tìm thấy cái mới chính của trí khôn khái niệm và sức mạnh

đặc trưng nó làm cho trí khôn khái niệm có khả năng đẻ ra các thao tác.

Page 116: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Những điều kiện để chuyển từ bình diện cảm giác - vận động sang bình

diện suy ngẫm gồm ba điểm chính: trước hết, một sự tăng tốc độ cho phép

đúc thành một tổng thể đồng thời những hiểu biết gắn liền với những giai

đoạn hành động liên tiếp. Sau đó, một sự nhận thức, không phải là đơn giản

về những kết quả mong muốn của hành động, mà vì ngay những phương

pháp tiến hành cho phép nhân đôi sự tìm kiếm kết quả bằng sự nhận ra. Cuối

cùng, một sự nhân các khoảng cách lên cho phép kéo dài những hành động

liên quan đến bản thân cái thực tế bằng những hành động tượng trưng thuộc

về các biểu tượng và như vậy vượt qua cái giới hạn của không gian và thời

gian gần.

Lúc này người ta nhìn thấy rằng tư duy không thể là một sự thể hiện

hoặc một sự tiếp nối từ cảm giác - vận động sang tính biểu tượng. Đây là

nhiều hơn nhiều so với việc trình bày hay theo đuổi công trình đã bắt đầu:

trước hết cần thiết phải tái tạo lại toàn bộ trên một kế hoạch mới: Duy chỉ có

tri giác và sự vận động có hiệu quả tiếp tục hoạt động như cũ, dù phải khoác

cho mình những ý nghĩa mới và sáp nhập vào những hệ thống mới của sự

hiểu biết. Nhưng các cấu trúc của trí khôn hoàn toàn phải được xây dựng lại

trước khi có thể được bổ sung: biết lật ngược lại một đồ vật (xem cái bầu sữa

được nêu ở chương 4) không bao hàm rằng người ta có thể hình dung trong

ý nghĩ một chuỗi quay vòng; chuyển dịch bằng vật thể theo những đường

vòng phức tạp, và trở lại điểm xuất phát không kéo theo sự hiểu biết một hệ

thống cái chuyển dịch chỉ đơn giản tưởng tượng ra, và ngay cả việc đón trước

sự bảo toàn một đồ vật, trong hành động, không dẫn đến thêm nữa trí khôn

của các bảo toàn liên quan tới một hệ thống yếu tố.

Hơn nữa, muốn tái tạo những cấu trúc đó trong óc, chủ thể sẽ gặp phải

cùng những khó khăn đó, nhưng chuyển tải lên cái bình diện mới, như những

khó khăn mà nó đã làm chủ được trong hành động tức thời. Để tạo dựng một

không gian, một thời gian, một vũ trụ các nguyên nhân và các khách thể cảm

giác - vận động hoặc thực hành, đứa bé đã phải tự giải thoát khỏi tính duy kỉ

tri giác và vận động của nó, chính là bằng một loạt phi tập trung hoá liên tiếp

Page 117: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mà nó đạt đến việc tổ chức một nhóm kinh nghiệm chủ nghĩa các chuyển chỗ

vật thể bằng cách định vị cơ thể và các cử động của riêng nó giữa tổng thể

những chuyển chỗ khác. Việc tạo dựng các nhóm hợp và các nhóm thao tác

của tư duy sẽ đòi hỏi một sự đảo ngược cùng chiều, nhưng trong chu trình

phức hợp hơn vô hạn; vấn đề là phi tập trung hoá tư duy, không chỉ trong

quan hệ với sự tập trung tri giác hiện tại, mà trong quan hệ với toàn bộ hoạt

động riêng. Tư duy, nảy sinh từ hành động, quả là duy kỉ ở điểm xuất phát

của nó chính xác vì cùng những lí do mà trí khôn cảm giác - vận động là

trước tiên tập trung, vào những tri giác hay những cử động hiện tại mà nó tiến

hành. Việc tạo dựng những thao tác bắc cầu phối hợp và nghịch đảo giả định

một sự chuyển đổi tính duy kỉ ban đầu này thành một hệ thống các quan hệ

và cái lớp đã được phi tập trung hoá so với cái tôi và sự phi tập trung hoá trí

tuệ này (không nói đến mặt xã hội của nó, mà chúng ta sẽ tìm thấy lại ở

chương 6) trên thực tế chiếm cả thời bé thơ.

Sự phát triển của tư duy vậy là chứng kiến trước tiên sự lặp lại, theo

một hệ thống rộng rãi những chênh lệch, của một tiến triển dường như đã kết

thúc trên địa hạt cảm giác - vận động, trước khi triển khai trên một trường

rộng hơn vô hạn trong không gian và cơ động hơn trong thời gian cho đến sự

cấu trúc hoá bản thân các thao tác.

* CÁC GIAI ĐOẠN TẠO DỰNG NHỮNG THAO TÁC

Để nắm bắt cơ chế của sự phát triển này, mà sự nhóm hợp có tính thao

tác tạo thành dạng cân bằng cuối cùng, chúng tôi phân biệt (bằng cách đơn

giản hoá và lược đồ hóa sự vật) bốn thời kì chính tiếp theo sau thời kì được

đặc trưng bởi sự tạo thành trí khôn cảm giác - vận động.

Ngay khi xuất hiện tiếng nói hoặc, chính xác hơn chức năng tượng

trưng làm cho sự thụ đắc nó có thể đạt được (1,6 đến 2 tuổi), khởi đầu một

thời kì trải dài đến khoảng 4 tuổi và thấy phát triển một tư duy tượng trưng và

tiền quan niệm.

Page 118: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Từ 4 đến 7 hoặc 8 tuổi, nối tiếp mật thiết với thời kì trước, một tư duy

trực giác được tạo thành, mà những khớp nối liên tiếp dẫn đến bên thềm của

thao tác.

Từ 7-8 tuổi đến 11-12 tuổi, được tổ chức những "thao tác cụ thể", tức là

những nhóm hợp thao tác của tư duy thuộc về những đồ vật có thể điều khiển

bằng tay hoặc có thể được trực giác hoá.

Ngay từ 11 - 12 tuổi và suốt trong thời niên thiếu, cuối cùng tư duy hình

thức được luyện thành, mà các nhóm hợp là đặc trưng cho trí khôn suy ngẫm

hoàn chỉnh.

* TƯ DUY TƯỢNG TRƯNG VÀ TIỀN KHÁI NIỆM

Ngay từ những giai đoạn cuối của thời kì cảm giác - vận động, đứa trẻ

đã có khả năng bắt chước một số tiếng và gán cho chúng một ý nghĩa tổng

thể, nhưng chỉ duy nhất vào khoảng cuối năm thứ hai mới bắt đầu sự thụ đắc

ngôn ngữ một cách có hệ thống.

Sự quan sát trực tiếp đứa trẻ cũng như sự phân tích một số rối loạn

tiếng nói đã nêu bật sự kiện là việc sử dụng hệ thống những kí hiệu lời nói là

nhờ ở việc tập luyện một "chức năng tượng trưng" tổng quát hơn, mà các đặc

thù là cho phép biểu hiện cái thực tại bằng sự trung gian của những "cái biểu

đạt" khác biệt với những sự vật "được biểu đạt".

Quả vậy, nên phân biệt các tượng trưng và các kí hiệu ở một mặt, và ở

mặt khác, các dấu hiệu và các tín hiệu. Không những mọi tư duy mà mọi hoạt

động nhận thức và vận động, từ sự tri giác và thói quen đến tư duy khái niệm

và suy ngẫm, đều bao hàm việc nối liền các ý nghĩa, và mọi ý nghĩa giả định

một quan hệ giữa một cái biểu hiện và một thực tế được biểu hiện. Tuy nhiên,

trong trường hợp của dấu hiệu, cái biểu đạt tạo thành một bộ phận hoặc một

mặt khách quan của cái được biểu đạt, hoặc vừa được nói với nó bằng một

sự liên hệ nhân quả: những dấu vết trên tuyết là đối với người thợ săn, dấu

hiệu của thú rừng, và đầu mút thấy được của một vật bị che kín, đối với đứa

trẻ, là dấu hiệu của sự hiện diện của đồ vật. Cũng vậy, tín hiệu dù là được

Page 119: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

người làm thực nghiệm gây ra một cách nhân tạo, đối với chủ thể là một mặt

có tính chất bộ phận đơn giản của sự cố mà nó tiên báo (trong một cư xử

được điều kiện hoá, dấu hiệu được coi là một tiền lệ khách quan). Trái lại, cái

tượng trưng và cái kí hiệu bao hàm một sự phân biệt hoá, ngay từ quan điểm

của bản thân chủ thể, giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt: đối với đứa trẻ

đang chơi trò cho búp bê ăn, một viên sỏi biểu diễn một cái kẹo được thừa

nhận một cách hữu thức như là cái tượng trưng và cái kẹo như là cái được

tượng trưng; và khi cùng một đứa bé, do "sự dính chặt của kí hiệu”, coi một

cái tên như là dính liền với sự vật được nêu tên, tuy nhiên nó coi cái tên đó

như một cái biểu đạt dẫu nó có biến cái biểu đạt đó thành một thứ nhãn dành

riêng cho đồ vật được biểu đạt.

Chúng tôi xin nói rõ thêm rằng theo sự thông dụng của các nhà ngôn

ngữ học mà tâm lí học áp dụng là rất có lợi, một biểu trưng phải được định

nghĩa như bao hàm một sự liên hệ về sự giống nhau giữa cái biểu đạt và cái

được biểu đạt, còn cái kí hiệu là "vô đoán" và cần thiết phải dựa vào một quy

ước. Kí hiệu do vậy đòi hỏi đời sống xã hội để được tạo thành, trong khi cái

biểu trưng có thể được xây dựng bởi duy nhất cá nhân con người (như trong

trò chơi các trẻ nhỏ). Vả lại, tất nhiên là các biểu trưng có thể được xã hội

hoá; một biểu trưng tập thể lúc đó sẽ là nói chung vừa là kí hiệu vừa là tượng

trưng; còn một kí hiệu thuần tuý trái lại bao giờ cũng là tập thể.

Sau khi đã nói như vậy, điều quan trọng là nhận thấy rằng ở đứa trẻ sự

thụ đắc ngôn ngữ, tức là hệ thống những kí hiệu tập thể trùng khớp với sự

hình thành cái biểu trưng, tức là hệ thống những cái biểu đạt cá nhân. Quả là

người ta không thể nói mà không lạm dụng về những trò chơi tượng trưng

trong thời kì cảm giác - vận động, và K.Gross đã đi hơi xa khi trao cho các

loài vật ý thức về sự hư cấu. Trò chơi nguyên thuỷ chỉ là một trò chơi luyện

tập và cái biểu trưng chân chính chỉ bắt đầu khi một đồ vật hay một cử chỉ

biểu hiện, ngay đối với chủ thể, cái gì khác hơn là những dữ kiện có thể tri

giác được. Theo quan điểm đó, người ta thấy xuất hiện ở giai đoạn thứ sáu

của trí khôn cảm giác - vận động, những "sem tượng trưng", tức là những

Page 120: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

sem hoạt động đã đi ra ngoài bối cảnh của nó và gợi lên một tình huống

không có mặt (chẳng hạn giả vờ ngủ). Nhưng cái biểu trưng chỉ bắt đầu với

sự biểu hiện tách khỏi bản thân sự hoạt động: ví dụ ru ngủ một con búp bê

hay một con gấu. Mà chính xác là ở trình độ trong đó cái biểu trưng với nghĩa

chặt chẽ hiện ra trong trò chơi, ngôn ngữ mặt khác phát triển sự thấu hiểu các

kí hiệu.

Còn về phần sự nảy sinh cái biểu trưng cá nhân, nó được soi sáng

bằng sự phát triển của sự bắt chước. Trong thời kì cảm giác - vận động, sự

bắt chước chỉ là một sự kéo dài của sự điều ứng riêng đối với các sem đồng

hoá: khi biết thực hiện một cử chỉ, chủ thể khi tri giác một cử dộng tương tự

(trên người khác hoặc trên những sự vật) đồng hoá nó với cử động của mình,

và sự đồng hoá đó vì là vừa vận động vừa tri giác, phát động cái sem riêng.

Sau đó, cái hình mẫu mới gây ra một ứng đáp đồng hoá tương tự, nhưng cái

sem được tích cực hoá lúc này thích ứng với những đặc điểm mới: ở giai

đoạn thứ sáu, sự điều ứng bắt chước này trở nên có thể có được trong trạng

thái hoãn lại, điều đó báo trước sự biểu tượng. Sự bắt chước thực sự có tính

biểu tượng trái lại chỉ bắt đầu ở trình độ của trò chơi tượng trưng bởi vì, như

trò chơi, nó đòi hỏi hình ảnh. Những hình ảnh là nguyên nhân hay kết quả của

sự nội hiện cái cơ chế bắt chước? Hỉnh ảnh của trí óc không phải là một sự

việc đầu tiên như thuyết liên tưởng đã tưởng từ lâu: nó như bản thân sự bắt

chước một sự điều ứng các sem cảm giác - vận động, tức là một bản sao tích

cực chứ không phải là một dấu vết hay một cái còn sót lại trong giác quan của

những đồ vật tri giác được. Vậy nó là một sự bắt chước nội tại và nó kéo dài

sự điều ứng các sem đích thực vào hoạt động tri giác (đối lập với tri giác với

tính cách là như thế), cũng như sự bắt chước bên ngoài ở các trình độ trước

kéo dài sự điêu ứng các sem cảm giác - vận động (những sem này chính xác

là ở ngọn nguồn của bản thân hoạt động tri giác).

Từ đấy, sự hình thành cái biểu trưng có thể được giải thích như sau: sự

bắt chước được hoãn lại, tức là sự điều ứng kéo dài thành phác thảo bắt

chước, cung cấp những cái biểu đạt, mà trò chơi hoặc trí khôn áp dụng vào

Page 121: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những cái được biểu đạt khác nhau theo những phương thức đồng hoá tự do

hoặc mô phỏng (được thích ứng), đặc trưng cho những cư xử ấy. Trò chơi

tượng trưng luôn luôn bao gồm một yếu tố bắt chước, hành chức như cái

biểu đạt, và trí khôn ở những bước đầu cũng sử dụng như vậy, hình ảnh làm

cái biểu trưng hoặc cái biểu đạt.

Lúc đó người ta hiểu tại sao ngôn ngữ (bản thân nó cũng được học tập

bằng bắt chước, nhưng bằng một sự bắt chước các kí hiệu có sẵn, trong khi

sự bắt chước các hình dáng v.v... cung cấp đơn giản vật liệu biểu đạt của sự

biểu trưng cá nhân) được thụ đắc trong cùng một thời gian mà cái biểu trưng

được tạo dựng: chính là vì việc sử dụng các kí hiệu cũng như các biểu trưng

đòi hỏi cái thái độ - hoàn toàn mới nếu đem đối lập với những cư xử cảm giác

- vận động) - nó bao hàm việc biểu hiện một sự vật nào đó bằng một sự vật

khác. Vậy người ta có thể áp dụng vào trẻ em cái khái niệm của một "chức

năng tượng trưng” chung, mà người ta đôi khi đã đặt giả thuyết khi nói về

chứng mất ngôn ngữ vì chính sự hình thành một cơ chế như thế nó đặc trưng

cho, nói vắn tắt, sự xuất hiện đồng thời sự bắt chước có tính biểu tượng, trò

chơi tượng trưng, sự biểu hiện bằng hình ảnh và sự suy nghĩ bằng lời

Nói tóm lại, tư duy đang nảy sinh, trong khi tiếp tục trí khôn cảm giác -

vận động, tiến hành phân biệt hoá cái biểu đạt với cái được biểu đạt, và do

vậy dựa vào sự chế tạo các biểu trưng và tự khám phá các kí hiệu cùng một

lúc. Nhưng hiển nhiên là đứa bé càng nhỏ thì các hệ thống các kí hiệu tập thể

có sẵn càng ít thoả mãn nó, vì những kí hiệu lời nói đó, phần nào khó với tới

và khó chế ngự, vẫn còn khá lâu không có khả năng diễn đạt cái cá thể trên

đó chủ thế tập trung vào. Vì vậy, chừng nào sự đóng hoà duy ngả của thực tại

vào hoạt động riêng còn chế ngự đứa trẻ còn cần dùng những cái tượng

trưng: từ đó mà có trò chơi tượng trưng hoặc trò chơi tưởng tượng hình thức

thuần tuý nhất của tư duy duy kỉ và biểu trưng, sự đồng hoá thực tại vào các

lợi ích riêng và sự biểu đạt thực tại nhờ vào việc sử dụng những hình ảnh do

cái tôi tạo nên

Page 122: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Nhưng ngay trên địa bàn của tư duy đươc thích ứng, tức là của những

khởi đầu của trí khôn biểu tượng gắn hoặc gần hoặc xa với các kí hiệu lời nói,

điều quan trọng là ghi nhân vai trò của những biểu trưng có hình ảnh và nhận

thấy chủ thể còn xa biết bao nhiêu để đạt tới, trong những năm đầu, những

khái niệm thực sự. Từ sự xuất hiện của ngôn ngữ cho đến khoảng 4 tuổi, quả

là phải phân biệt một thời kì đầu của trí khôn tiền - khái niệm được đặc trưng

bởi những tiền - khái niệm hoặc những sự tham gia và, trên bình diện của lập

luận đang nảy nở, bởi sự "chuyển đổi" hoặc lập luận tiền - khái niệm

Những tiền - khái niệm là những khái niệm mà đứa trẻ gắn vào những

kí hiệu lời nói đầu tiên mà nó thụ đắc việc sử dụng – đặc trưng riêng của

những sem đó là ở nửa chừng giữa tính khái quát của khái niệm và tính cá

thể của những yếu tố tạo nên nó, mà không đạt tới cái này hay cái kia. Trẻ 2 -

3 tuổi nói không phân biệt con ốc sên (la limace) hoặc những con ốc sên (les

limaces), cũng như cái trăng (la lune) hoặc những cái trăng (les lunes), không

quyết đoán được xem những con ốc sên gặp trong cùng một cuộc đi dạo

hoặc những cái đĩa nhìn thấy lúc này lúc khác trên bầu trời, đều là một cá thể

duy nhất, ốc sên và mặt trăng độc nhất, hoặc một lớp những cá thể khác biệt.

Một mặt, trẻ chưa sử dụng các lớp khái quát vì thiếu sự phân biệt "tất cả” và

“một vài". Mặt khác, nếu khái niệm của đồ vật cá thể thường trực là hoàn

chỉnh ở trường hoạt động gần; nhưng, chưa có gì như vậy đối với không gian

xa hoặc đối với các sự xuất hiện lại ở các khoảng thời gian cách biệt: một trái

núi còn được xem biến dạng đi thực sự trong vòng một cuộc đi dạo (như

trước kia cái bầu sữa trong vòng quay của nó) và "con" ốc sên xuất hiện lại ở

những điểm khác nhau. Từ đó mà đôi khi có những sự "tham gia" đích thực

giữa những đồ vật khác biệt và cách xa nhau: cả ở 4 tuổi, cái bóng mà người

ta tạo nên trên cái bàn, trong một phòng cửa đóng kín, nhờ một cái màn che,

được giải thích bằng những cái bóng tìm thấy dưới các cây vườn hoặc trong

đêm (và chủ thể không tìm để hiểu rõ cái "thế nào" của hiện tượng).

Rõ ràng là như vậy một sem ở tại nửa chừng của cái cá thể và cái khái

quát chưa phải là một khái niệm lôgích và vẫn luôn luôn thuộc một phần ở cái

Page 123: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

sem hoạt động đã có tính biểu tượng và đặc biệt đạt đến mức gợi ra một số

lớn các đồ vật nhờ những yếu tố được lợi thế và được coi là mẫu - điển hình

của bộ sưu tập tiền - khái niệm. Những cá thể - điển hình đó vì bản thân

chúng được cụ thể hoá bằng hình ảnh ngang với hay là hơn bằng từ, tiền -

khái niệm, mặt khác, thuộc về cái biểu trưng trong chừng mực nó nhờ đến

những thứ bản mẫu phát sinh này. Tóm lại, nó là một sem nằm ở nửa đường

của sem cảm giác - vận động và khái niệm, đối với phương thức đồng hoá

của nó, và tham gia vào cái biểu trưng bằng hình ảnh đối với cấu trúc biểu

tượng của nó.

Mà sự lập luận, bao hàm việc nối những tiền - khái niệm như thế, đúng

là chứng tỏ cùng những cấu trúc đó. Stem đã gọi là "chuyển đổi" những lập

luận sơ khai đó; chúng không bắt nguồn từ sự diễn dịch, mà từ những loại

suy tức thời. Song, còn hơn thế nữa: lập luận tiền - khái niệm, sự chuyển đổi

không dựa vào những lồng ghép không hoàn chỉnh và bằng cách đó thất bại

trong mọi cấu trúc thao tác đảo nghịch. Mặt khác, nếu sự chuyển đổi thành

công trong thực hành, chính là vì nó chỉ bao gồm một chuỗi các hoạt động

đựợc tượng trưng hoá trong ý nghĩ, một "kinh nghiệm trí tuệ" ở nghĩa đen, tức

là một sự bắt chước bên trong các hành vi và những kết quả của chúng, với

tất cả những giới hạn mà thứ kinh nghiệm chủ nghĩa này của trí tưởng tượng

bao hàm. Như vậy là người ta tìm thấy lại trong sự chuyển đổi, vừa sự thiếu

tính khái quát gắn liền với tiền khái niệm vừa tính chất tượng trưng hoặc hình

tượng của nó cho phép chuyển tải các hành động thành ý nghĩ.

* TƯ DUY TRỰC GIÁC

Chỉ có sự quan sát mới cho phép phân tích các hình thức tư duy vừa

được mô tả, bởi vì trí khôn các trẻ nhỏ vẫn còn rất không ổn định để người ta

có thể phỏng vấn chúng một cách bổ ích. Trái lại, vào khoảng 4 tuổi, những

thí nghiệm ngắn ngủi tiến hành với chủ thể bằng cách cho nó điều khiển bằng

tay những đồ vật mà những thí nghiệm này có liên quan, cho phép thu được

những câu trả lời đều đặn và tiếp tục cuộc đối thoại. Chỉ riêng một điều đó

cũng đã tạo nên dấu hiệu của một sự cấu trúc hoá mới.

Page 124: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Quả vậy, từ 4 đến 7 tuổi, người ta chứng kiến một sự phối hợp tuần tự

của các tương quan mang tính biểu tượng, tức là một sự khái niệm hóa tăng

dần nó dẫn đứa trẻ từ giai đoạn tượng trưng hoặc tiền - khái niệm đến bên

thềm các thao tác. Nhưng, điều rất đặc biệt, trí khôn này, mà người ta có thể

theo dõi sự tiến bộ thường là nhanh, vẫn luôn luôn là tiền – lôgích, và điều đó

ở những địa hạt mà nó đạt đến cực điểm của sự thích ứng: cho đến lúc mà

cái "nhóm hợp" đánh dấu sự kết thúc của chuỗi cân bằng hoá liên tiếp này, nó

còn thay thế những thao tác không hoàn chỉnh bằng một hình thức bán -

tượng trưng của tư duy, đó là sự lập luận bằng trực giác, và hình thức tư duy

này chỉ kiểm soát các phán đoán bằng phương tiện của những "điều tiết" qua

trực giác tương tự như, trên bình diện của sự biểu tượng, những điều tiết tri

giác trên bình diện cảm giác - vận động.

Chúng tôi lấy làm ví dụ một thí nghiệm mà chúng tôi đã tiến hành trước

kia cùng với A.Szeminska. Hai cái cốc nhỏ A và A2 hình dáng và kích thước

bằng nhau chứa một số lượng hạt cườm bằng nhau, sự bằng nhau này được

đứa trẻ thừa nhận vì chính nó bỏ các hạt cườm vào lọ, chẳng hạn bằng cách

một tay bỏ một hạt vào A thì tay khác cùng lúc đó bỏ một hạt vào A2. Sau đó,

để cốc A làm chứng cứ, người ta đổ A2 vào một cốc B có hình dạng khác.

Những trẻ 4-5 tuổi lúc đó kết luận rằng số lượng hạt cườm đã thay đổi

dẫu là chúng biết chắc chắn người ta đã không thêm hay bớt một hạt nào:

nếu cốc B nhỏ và cao, chúng bảo là "có nhiều hạt cườm hơn trước" bởi vì

"đúng là cao hơn" hoặc có ít hạt cườm hơn bởi vì "là bé hơn", nhưng chúng

đồng ý thừa nhận sự không bảo toàn của cái toàn thể.

Chúng ta hãy ghi nhận sự tiếp nối của phản ứng này với những phản

ứng của các trình độ trước. Có được khái niệm về sự bảo toàn của một đồ

vật cá thể, chủ thể chưa có được khái niệm của một tập hợp đồ vật: cái lớp

toàn thể vậy là chưa được xây dựng, bởi vì nó không phải bao giờ cũng là

không thay đổi, và sự không bảo toàn này như vậy kéo dài cùng một lúc

những phản ứng ban đầu đến đồ vật (với sự chênh lệch do sự việc là đây

không phải là một yếu tố riêng rẻ, mà cả một tập hợp) và sự thiếu vắng cái

Page 125: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tổng thể chung mà chúng ta đã nói tới khi nói về các tiền - khái niệm. Mặt

khác, rõ ràng là các lí do của sự sai lầm là thuộc phạm vi bán - tri giác; chính

sự nâng cao mức (các hạt cườm), đánh lừa đứa trẻ hoặc độ nhỏ của cái cột

(hạt cườm) v.v... Tuy nhiên đây không phải là những ảo ảnh của tri giác: sự tri

giác các quan hệ trên đại thể là đúng, nhưng nó là dịp của sự tạo dựng trí tuệ

không hoàn chỉnh - chính tính sơ lược tiền - lôgích này, vừa bắt chước rất sát

các dữ kiện tri giác, vừa tập trung chúng theo cách riêng của nó, mà người ta

có thể gọi là tư duy trực giác. Người ta tức khắc thấy những quan hệ của nó

với tính chất hình ảnh của tiền - khái niệm và những kinh nghiệm trí tuệ đặc

trưng cho lập luận chuyển đổi.

Tuy nhiên, tư duy trực giác này là tiến bộ hơn so với tư duy tiền - khái

niệm hoặc tượng trưng; dựa chủ yếu vào các hình thể tổng thể chứ không

còn dựa vào các hình đơn giản bán - cá nhân, bán - phát sinh, trực giác dẫn

đến một phần thô thiển của lôgích học, nhưng dưới dạng những điều tiết có

tính biểu tượng chứ chưa mang tính chất thao tác. Từ quan điểm đó, tồn tại

những tập trung hoá và phi tập trung hoá trực giác tương tự với những cơ

chế mà chúng ta đã nói tới khi nói về những sem cảm giác - vận động của tri

giác (chương 3). Giả sử một đứa trẻ cho rằng ở B các hạt cườm có số lượng

lớn hơn ở A bởi vì mức đã được nâng cao hơn: nó "tập trung" như vậy tư duy

hoặc sự chú ý của mình vào quan hệ giữa độ cao ở B và ở A và xem nhẹ

chiều rộng. Nhưng chúng ta hãy đổ B vào cái cốc C và D còn nhỏ hơn và cao

hơn nữa tất yếu đến một lúc đứa trẻ trả lời: "ít hạt cườm hơn, bởi vì là quá

hẹp". Như vậy là có sự sửa chữa việc tập trung vào chiều cao bằng một sự

phi tập trung hoá sự chú ý vào chiều rộng trong trường hợp chủ thể đánh giá

số lượng nhỏ hơn ở B so với ở A do sự nhỏ của cái lọ, sự kéo dài ra của lọ ở

C và D v.v... trái lại dẫn đến việc lật ngược phán đoán của nó có lợi cho chiều

cao. Mà sự chuyển từ một việc tập trung duy nhất thành hai tập trung liên tiếp

báo trước thao tác, khi chủ thể lập luận trên hai quan hệ cùng một lúc, nó suy

diễn ra sự bảo toàn. Tuy nhiên ở đây còn chưa có cả sự suy diễn lẫn thao tác

thực tại: chỉ đơn giản là một sai lầm được sửa chữa, nhưng bị chậm và do

phản ứng với ngay cả sự cường điệu của nó (như trong lĩnh vực các ảo giác

Page 126: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tri giác) và hai quan hệ được xem xét xen kẽ thay vì được nhân lên một cách

lôgích. Vậy là một thứ điều tiết trực giác can thiệp vào chứ không phải là một

cơ chế thực sự có tính thao tác.

Còn hơn thế. Để nghiên cứu đồng thời những khác biệt giữa trực giác

và thao tác, và sự chuyển từ cái này sang cái kia, người ta có thể xét không

chỉ việc đặt thành quan hệ các chất lượng theo hai kích thước, mà chính bản

thân sự tương ứng dưới một hình thức hoặc lôgích (định tính) hoặc toán học.

Người ta giới thiệu tức khắc với chủ thể những cái cốc hình dạng khác nhau

A và B và người ta bảo nó đặt lần lượt một hạt cườm vào mỗi cốc; cốc này

với tay trái và cốc kia với tay phải. Khi số cườm còn ít (4 hoặc 5), đứa trẻ tức

thì tin ở sự tương đương của hai tập hợp, điều đó dường như báo trước thao

tác, nhưng khi hình dạng thay đổi quá nhiều, trong chừng mực mà sự tương

hợp tiếp tục, đứa trẻ từ chối thừa nhận sự đồng đẳng (bằng nhau). Thao tác

còn tiềm tàng lúc này chịu thua bởi những câu thúc quá đáng của trực giác.

Bây giờ chúng ta xếp thẳng hàng 6 cái que đỏ lên bàn, chúng ta hãy

trao cho trẻ một bộ que xanh và bảo trẻ đặt que xanh bằng que đỏ, khoảng từ

5 đến 6 tuổi, trẻ không tạo dựng sự tương ứng và bằng lòng với một hàng

cùng độ dài (có các yếu tố khít hơn hình mẫu), Trung bình khoảng 5-6 tuổi,

chủ thể xếp thẳng hàng sáu que xanh đối diện với sáu que đỏ. Thế thao tác

lúc này đã đạt được như nó hình như thế chăng? Hoàn toàn không! chỉ cần

nới rộng các yếu tố của một trong các dãy, hoặc đặt chúng thành đống v.v...

để chủ thể từ chối không còn tin ở sự đồng đẳng nữa. Cho tới khi sự tương

ứng thị giác kéo dài, sự đồng đẳng là hiển nhiên: ngay khi sự tương ứng đầu

thay đổi thi sự đồng đẳng sau biến mất, điều này dẫn ta đến sự không bảo

toàn của tổng thể.

Mà sự phản ứng trung gian này là đầy lí thú. Cái sem trực giác đã trở

thành khá mềm mại để cho phép sự đón trước và sự tạo dựng một hình thể

đúng đắn của những sự tương ứng, điều đó đối với một người quan sát

không chín chắn có tất cả các mặt của một thao tác. Tuy nhiên, một lần cái

sem trực giác được biến đổi, quan hệ lôgích của sợ cân bằng - sản phẩm cần

Page 127: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thiết của một thao tác - tỏ ra không hiện diện. Vậy là người ta đứng trước một

hình thái trực giác cao cấp hơn hình thức trước đó mà người ta có thể gọi là

"trực giác có khớp" để đối lập với những trực giác giản đơn. Nhưng cái trực

giác có khớp này trong khi vẫn xích lại gần thao tác (và đi theo nó trong thời

gian sau qua những giai đoạn thường là không rõ rệt) cần phải giữ tính chất

cứng rắn và không thể nghịch đảo như tư duy trực giác hoàn toàn: vậy nó chỉ

là sản phẩm của những điều tiết liên tiếp, chúng cuối cùng khớp nối với các

quan hệ tổng quát và không thể phân tích của bước khởi đầu và chưa phải là

một "nhóm hợp" thực sự.

Người ta có thể bám sát hơn nữa sự khác biệt này giữa các phương

pháp trực giác và các phương pháp thao tác bằng cách gán sự phân tích với

những lồng ghép của các lớp và các sự chia loại của những quan hệ phi đối

xứng, tạo dựng những nhóm hợp sơ đẳng nhất. Nhưng tất nhiên, vấn đề là

trình bày vấn đề ở ngay trên địa bàn trực giác, duy nhất có thể đạt được trình

độ đó, đối lập với lĩnh vực hình thức chỉ gắn liền với ngôn ngữ. Còn đối với

các lồng ghép của các lớp, người ta đặt trong một hộp vài chục hạt cườm mà

chủ thể nhận ra là tất cả chúng "đều bằng gỗ" và tạo thành như vậy một toàn

thể B. Phần lớn các hạt cườm đều nâu và tạo thành bộ phận A và một vài hạt

trắng tạo thành bộ phận bổ sung A’. Để xác định xem đứa trẻ có thể hiểu thao

tác A + A’ = B, tức là sự tụ hội các bộ phận vào trong cái toàn thể, người ta có

thể đặt câu hỏi đơn giản sau: trong hộp này (các hạt cườm vẫn có thể trông

thấy) có chăng nhiều hạt cườm bằng gỗ hơn hoặc nhiều hạt cườm nâu hơn,

vậy A < B ?

Cho đến bảy tuổi, đứa trẻ hầu như lúc nào cũng trả lời rằng có nhiều

hạt cườm nâu hơn "vì chỉ có hai hoặc ba hạt cườm trắng". Lúc đó người ta

nói rõ thêm: Các hạt nâu bằng gỗ chăng? - Đúng.

Nếu tôi lấy đi tất cả các hạt cườm bằng gỗ để đặt chúng ở đây (cái hộp

thứ hai), có còn hạt cườm trong cái hộp (thứ nhất) không? - không, vì tất cả

chúng đều bằng gỗ. Nếu tôi lấy đi các hạt cườm nâu, có còn hạt cườm

không? - Có, còn các hạt trắng. Đoạn, người ta lặp lại câu hỏi ban đầu và chủ

Page 128: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thể lại bắt đầu khẳng định trong hộp có nhiều hạt cườm nâu hơn hạt cườm

bằng gỗ, bởi vì chỉ có hai hạt cườm trắng.

Cơ chế của loại hình phản ứng này dễ được tháo gỡ: chủ thể dễ dàng

tập trung sự chú ý của mình vào cái tổng thể B riêng ra, hoặc vào các bộ

phận A và A’ mỗi khi bị tách riêng bằng ý nghĩ, nhưng cái khó khăn là bằng

cách tập trung vào A, trẻ phá huỷ bằng ngay sự việc đó cái toàn thể B, đến

nỗi các bộ phận A lúc này chỉ còn được so sánh với bộ phận kia A’. Thế là lại

có sự không bảo toàn cái toàn thể, vì thiếu sự cơ động trong các tập trung

hoá liên tiếp của tư duy. Nhưng còn hơn thế nữa. Khi bắt trẻ tưởng tượng cái

gì sẽ xảy ra khi tạo dựng một cái vòng cổ hoặc với các hạt cườm bằng gỗ B,

hoặc với các hạt nâu A, người ta tìm thấy lại những khó khăn trước, nhưng

phải nói rõ thêm như sau: nếu tôi làm một vòng đeo cổ với các hạt nâu đôi khi

đứa trẻ trả lời, tôi không thể làm một chiếc vòng khác với cùng những hạt

cườm đó và chiếc vòng gốm những hạt bằng gỗ chỉ có những hạt cườm

trắng! Lối suy nghĩ như vậy, không có gì là phi lí, nhưng nêu rõ sự khác biệt

còn ngăn cách tư duy trực giác với tư duy thao tác: trong chừng mực mà lối

tư duy đầu bắt chước những hoạt động thực tại bằng những thử nghiệm trí

tuệ có hình ảnh, nó gặp phải trở ngại là trên thực tế người ta không thể làm

hai chiếc vòng với cùng những yếu tố, trong khi, ở chừng mực mà lối tư duy

thứ hai tiến hành bằng hành động nội hiện hoàn toàn có thể nghịch đảo,

không gì cản trở nó làm đồng thời hai giả thiết và so sánh chúng với nhau.

Việc phân hạng các đoạn A, B, C v.v... có kích thước khác nhau, nhưng

ở gần nhau và phải được so sánh từng đôi một cũng gây nên những bài học

bổ ích. Những trẻ nhỏ 4-5 tuổi chỉ đạt tới việc tạo dựng những cặp không

được phối hợp với nhau: BD, AC, EG, v.v... Đoạn, đứa trẻ tạo dựng những

dãy ngắn và chỉ đạt đến sự phân hạng 10 yếu tố bằng những mầy mò liên

tiếp. Hơn nữa, khi hàng của nó kết thúc, nó không có khả năng xen vào giữa

những số hạng mới mẻ mà không tháo tung tất cả ra. Phải đợi đến trình độ

thao tác để sự phân hạng đạt kết quả tức khắc, bằng một phương pháp bao

gồm chẳng hạn việc tìm kiếm số nhỏ nhất trong các số hạng, rồi số nhỏ nhất

Page 129: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

trong những số hạng còn lại v.v... Mà cũng chính ở trình độ này mà lập luận(A

< B)+(B < C)=(A < C) có thể có được, trong khi ở trình độ trực giác chủ thể từ

chối việc rút ra từ hai bất đẳng thức đã được nhận ra bằng tri giác A < B và B

< C dự đoán A < C.

Những khớp nối liên tiếp của trực giác và những khó khăn còn tách biệt

nó với thao tác là đặc biệt rõ rệt trong các lĩnh vực không gian và thời gian,

hơn nữa là rất bổ ích về phía các so sánh có thể có giữa các phản ứng trực

giác và các phản ứng cảm giác - vận động. Người ta nhớ lại việc đứa bé thụ

đắc hành động lật ngược cái bầu sữa. Mà lật ngược một đồ vật bằng một

hành động thông minh không dẫn đến việc biết lật ngược nó trong ý nghĩ và

các giai đoạn của sự trực giác về việc quay vòng cũng bao hàm một sự lặp lại

trên những nét đại thể của những trực giác của việc quay vòng trong thực tế

hoặc cảm giác - vận động: trong cả hai trường hợp, người ta tìm thấy lại cùng

một quá trình phi tập trung hoá dần dần xuất phát từ sự phối cảnh duy ngã,

sự phi tập trung hoá này là đơn thuần tri giác và vận động trong trường hợp

thứ nhất, và biểu tượng trong trường hợp thứ hai.

Về mặt này, người ta có thể tiến hành theo hai cách: hoặc bằng việc

quay vòng, trong ý nghĩ, của chủ thể quanh đồ vật hoặc việc quay vòng trong

ý nghĩ của bản thân đồ vật. Để thực hiện tình huống thứ nhất, người ta giới

thiệu, chẳng hạn: với đứa trẻ những quả núi bằng bìa cứng trên một bàn

vuông và người ta bảo nó chọn trong số những hình vẽ rất đơn giản những

hình nào phù hợp các phối cảnh có thể có (đứa trẻ ngồi ở một trong các cạnh

của bàn và nhìn thấy một con búp bê thay đổi vị trí và phải tìm thấy lại những

tranh tương ứng với chúng): thế là đứa trẻ nhỏ luôn bị chế ngự bởi chỗ nhìn

là chỗ nhìn của bé vào lúc lựa chọn, ngay cả khi bản thân nó trước đó đã đi

quanh từ cạnh này sang canh khác của bàn. Những sự đảo lại trước - sau,

bên phải - bên trái là một khó khăn lúc đầu không vượt qua nổi và trẻ chỉ có

thể nắm được dần dần vào khoảng 7-8 tuổi, do những điều tiết trực giác.

Sự quay vòng của đồ vật quanh bản thân nó, mặc khác, có thể đưa lại

những nhận xét thú vị liên quan đến trực giác về trật tự. Dọc cùng một sợi

Page 130: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

giây thép người ta xâu, chẳng hạn ba hình người màu khác nhau A, B và C

hoặc người ta nhét vào một ống bằng bìa cứng (không cho đè lên nhau) ba

hòn A, B và C.

Người ta bảo trẻ vẽ toàn bộ cái đó với tính cách trợ kí ức. Đoạn người

ta cho các yếu tố A, B. C đi qua đằng sau một màn che hoặc xuyên qua một

cái ống và bảo trẻ đoán trật tự xuôi của sự đi ra (ở đầu mút kia) và trật tự

ngược của sự quay trở lại. Bọn trẻ đều dự kiến đúng trật tự xuôi. Trái lại trật

tự ngược chỉ được tiếp thu vào khoảng 4-5 tuổi, vào cuối thời kì tiền - khái

niệm. Sau các việc trên, người ta cho toàn bộ sậu đó chịu một vận động quay

vòng 180° (sợi giây thép hoặc cái ống) và người ta bảo trẻ dự kiến việc đi ra

(vậy là đã được đảo lại). Trẻ đã tự mình kiểm soát kết quả. Người ta làm lại;

đoạn thực hiện hai nửa vòng quay (tất cả 360°), đoạn ba v.v...

Chính bài làm trên cho phép theo dõi từng bước tất cả những tiến bộ

của trực giác, cho đến lúc nảy sinh thao tác từ 4 đến 7 tuổi chủ thể bắt đầu từ

chỗ không dự kiến được rằng một nửa vòng quay thay đổi ABC thành CBA;

đoạn khi đã nhận ra điều đó, nó thừa nhận rằng hai nửa vòng quay cùng cho

kết quả là CBA; được thí nghiệm làm tỉnh ngộ, nó không còn biết dự kiến kết

quả của ba nửa vòng quay. Hơn nữa các trẻ nhỏ (4-5 tuổi) sau khi đã thấy khi

thi A khi thì C ra ở đầu hàng, tưởng tượng rằng bản thân B sẽ có lượt được

ưu tiên (không biết rằng tiền đề Hilbert đã nêu rõ nếu B "ở giữa" A và C, nó

tất yếu cùng "ở giữa" C và A, khái niệm về sự không thay đổi của vị trí "ở

giữa" cũng có được do những điều tiết liên tiếp, nguồn gốc của những khớp

nối của trực giác. Chỉ vào khoảng 7 tuổi, tập hợp các thay đổi mới được nhận

thức, và thường khá đột ngột ở giai đoạn thứ hai, do một "nhóm hợp" chung

các quan hệ đang tác động. Chúng ta hãy ghi nhận ngay tức khắc rằng thao

tác cũng bắt nguồn từ trực giác theo cách đó, không chỉ khi trật từ xuôi (+) có

thể được đảo ngược lại bằng ý nghĩ (-) bởi một khớp nối trực giác đầu tiên,

mà còn cả khi hai trật tự đảo nhau cho lại trật tự xuôi (- nhân - cho + điều này,

trong trường hợp đặc biệt, sẽ được hiểu vào lúc 7-8 tuổi).

Page 131: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Các quan hệ thời gian cũng tạo ra những nhận xét cùng loại. Thời gian

trực giác là một thời gian gắn liền với các đồ vật và các vận động đặc biệt,

không có sự đồng đều hoặc sự trôi chảy đồng nhất. Khi hai vật di động xuất

phát từ cùng một điểm A đến hai nơi khác nhau B và B’, trẻ 4-5 tuổi thừa

nhận sự đồng thời của các xuất phát, nhưng đặt vấn đề nghi ngờ sự đồng

thời của các việc đến mặc dầu sự đồng thời đó dễ được tri giác. Trẻ thừa

nhận rằng một trong những vật di động không chạy nữa khi vật kia dừng lại,

nhưng nó từ chối việc nhận thức rằng các vận động kết thúc "cùng một lúc",

vì đúng là chưa có thời gian chung cho những tốc độ khác nhau. Cũng vậy,

trẻ đánh giá "trước” và "sau" theo một sự nối tiếp về không gian chứ chưa về

thời gian. Về phương diện các khoảng cách thời gian "nhanh hơn" kéo theo

"nhiều thời gian hơn”, cả khi không có sự tập dượt về lời nói và chỉ bằng sự

kiểm tra đơn thuần các dữ kiện (vì nhanh hơn = xa hơn = nhiều thời gian

hơn). Khi những khó khăn đầu tiên này được khắc phục bởi một sự khớp nối

các trực giác (nhờ ở các phi tập trung hoá của tư duy nó quen so sánh hai hệ

thống vị trí cùng một lúc, từ đó mà có một sự điều tiết dần dần các đánh giá),

tuy nhiên vẫn tồn tại một sự bất lực có hệ thống trong việc tụ hội các thời gian

cục bộ thành một thời gian duy nhất. Hai lượng nước bằng nhau chảy với lưu

lượng bằng nhau qua hai nhánh của một ống hình chữ Y vào những bình có

hình dạng khác nhau, gây ra, chẳng hạn, những phán đoán như sau: trẻ 6-7

tuổi thừa nhận sự đồng thời của các xuất phát và các ngừng lại, nhưng tỏ ra

nghi ngờ rằng nước đã chảy lâu như nhau vào bình này và bình kia. Những ý

kiến liên quan đến tuổi cũng gây ra cùng những nhận xét như nhau: Nếu A

sinh ra trước B, điều đó không có nghĩa là nó già hơn, và nếu nó già hơn,

điều đó không loại trừ rằng B đuổi kịp nó về tuổi và ngay cả vượt nó nữa!

Các khái niệm trực giác song hành với những khái niệm mà người ta

gặp trong lĩnh vực của trí khôn thực hành. André Rey đã chứng tỏ rằng các

chủ thể cùng tuổi đương đầu với các vấn đề về việc phối hợp các dụng cụ

(dùng móc lấy đồ vật ra từ một ống, kết hợp các sự chuyển dời những bản

tiếp xúc, các vòng quay v.v...) cũng có biết bao cư xử phi lí trước khi tìm ra

những lời giải thích hợp. Còn về những biểu tượng không có những vận hành

Page 132: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bằng tay, như việc giải thích sự vận động của các con sông, của các đám

mây, của sự trôi nổi các thuyền bè v.v.. chúng ta đã có thể nhận ra rằng

những quan hệ nhân - quả kiểu đó được để lại từ bản thân hoạt động: các

vận động vật thể chứng tỏ tính mục đích của một sức mạnh tích cực bên

trong: con sông "lấy đà" để đi qua sỏi đá, những đám mây làm ra gió, gió trở

lại đẩy mây đi v.v...

Tư duy trực giác là thế đấy. Nhờ tư duy tượng trưng thuộc loại tiền -

khái niệm, mà nó phát sinh trực tiếp, tư duy trực giác kéo dài về một hướng trí

khôn cảm giác - vận động. Cũng như trí khôn cảm giác - vận động đồng hoá

các đồ vật với những sem của hoạt động, trực giác bao giờ cũng là, trước

hết, một thứ hoạt động được tiến hành trong ý nghĩ: trút sang bình khác, làm

cho tương ứng, lồng ghép, chia hạng, chuyển chỗ v.v... còn là những sem

hoạt động qua đó biểu tượng đồng hoá thực tại. Nhưng sự điều ứng các sem

đồ vật này thay vì giữ tính thực hành, cung cấp những cái biểu đạt bắt chước

hoặc có hình ảnh cho phép sự đồng hoá này được thực hiện trong ý nghĩ.

Vậy trực giác là, thứ nữa, một ý nghĩ có hình ảnh, tinh tế hơn ở giai đoạn

trước, vì nó liên quan đến những hình thế tổng thể chứ không còn liên quan

đến những bộ hỗn hợp đơn giản được tượng trưng bởi những biểu mẫu;

nhưng nó còn dùng sự tượng trưng có tính biểu tượng và như vậy luôn có

một phần những hạn chế gắn chặt với nó.

Những hạn chế đó là rõ ràng. Tương quan trực tiếp giữa một sem hoạt

động nội hiện và sự tri giác các đồ vật trực giác chỉ kết thúc ở những hình thể

"tập trung" vào tương quan đó. Vì thiếu khả năng vượt quá giới hạn này của

những hình thể có hình ảnh, những quan hệ mà nó tạo dựng do vậy là không

thể cấu tạo được giữa chúng. Chủ thể không đạt đến sự đảo nghịch bởi vì

một hành động được chuyển thành kinh nghiệm được đơn thuần tưởng

tượng ra vẫn giữ tính chất một chiều và một sự đồng hoá tập trung vào một

hình thể tri giác tất nhiên cũng là như vậy. Do đó mà thiếu tính bắc cầu, bởi vì

mỗi sự tập trung biến dạng hoặc làm hư hỏng các sự tập trung khác và thiếu

tính kết hợp bởi vì các tương quan phụ thuộc vào con đường mà tư duy phải

Page 133: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đi qua để xây dựng nên chúng. Vậy tóm lại, là do thiếu sự cấu tạo bắc cầu,

đảo nghịch và kết hợp mà không có cả sự đồng nhất được bảo đảm của các

yếu tố lẫn sự bảo toàn của cái toàn bộ. Như vậy, người ta cũng có thể nói

rằng trực giác vẫn mang tính chất biểu tượng học, bởi vì bắt chước các

đường biên của thực tại mà không sửa chữa chúng, và duy kỉ bởi vì thường

xuyên bị tập trung tuỳ thuộc vào hoạt động của thời điểm: nó do vậy thiếu sự

cân bằng giữa sự đồng hoá các sự vật vào cái sem của tư duy và sự điều

ứng của những sem đó vào thực tế.

Nhưng trạng thái ban đầu này nó được tìm thấy lại ở mỗi lĩnh vực của

tư duy trực giác, được dần dần sửa chữa nhờ một hệ thống các điều tiết báo

trước những thao tác. Bị chế ngự trước tiên bởi quan hệ trực tiếp giữa hiện

tượng và chỗ đứng nhìn của chủ thể, trực giác tiến hoá theo hướng của sự

phi tập trung hoá. Mỗi biến dạng đẩy đến cực điểm mang theo sự can thiệp lại

của những tương quan đã bị xem nhẹ. Mỗi sự đặt quan hệ tạo thuận lợi cho

khả năng của một sự trở về. Mỗi quay đi kết thúc ở những sự giao thoa làm

phong phú thêm các quan điểm. Mọi sự phi tập trung hoá của một trực giác

được chuyển dịch bằng cách đó thành một sự điều tiết nó hướng theo chiều

của tính nghịch đảo, của sự cấu tạo bắc cầu và của sự phối hợp, tức là nói

tóm tắt, của sự bảo toàn do tính kết hợp các quan điểm (điểm nhìn). Do đó

mà có các trực giác được khớp nối, sự tiến bộ của chúng đi vào hướng của

tính cơ động có thể nghịch đảo và chuẩn bị cho thao tác.

* CÁC THAO TÁC CỤ THỂ

Sự xuất hiện các thao tác lôgích - số học và không gian - thời gian đặt

ra một vấn đề có tầm quan trọng lớn về các cơ chế đặc trưng cho sự phát

triển của tư duy. Quả là không phải bằng một quy ước giản đơn dựa trên

những định nghĩa được chọn lựa từ trước mà người ta phải định ranh giới

của thời điểm lúc các trực giác đã được khớp nối biến thành những hệ thống

thao tác. Có cái đáng làm hơn là ngắt sự nối tiếp của quá trình phát triển

thành những giai đoạn nhận thấy được qua những tiêu chí bên ngoài nào đó:

trong trường hợp của sự khởi đầu các thao tác, bước ngoặt quyết định được

Page 134: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

biểu hiện bằng một thứ cân bằng luôn nhanh chóng và đôi khi đột ngột nó làm

ảnh hưởng đến tổng thể những khái niệm của cùng một hệ thống, và vấn đề

là giải thích từ nội bộ sự cân bằng đó. Ở đó có cái gì so sánh được với những

cấu trúc hoá tổng thể đột ngột được lí thuyết hình thức mô tả, trừ phi là có

trường hợp nó sản sinh ra cái đối lập của một sự kết tinh bao quát toàn bộ

những tương quan thành một mạng tĩnh tại duy nhất: các thao tác trái lại nảy

sinh từ một thứ dịu đi của các cấu trúc trực giác và của sự cơ động đột ngột

nó làm sinh động và kết hợp các hình thể cho đến lúc đó cứng nhắc đến một

mức độ nào đó, mặc dù chúng có những khớp nối tiên tiến. Như vậy là thời

điểm mà các quan hệ thời gian được tụ hội thành ý niệm của một thời gian

duy nhất, hoặc mà các yếu tố của một tổng thể được quan niệm như bao gồm

một toàn thể không thay đổi, hoặc còn là lúc mà các bất đẳng thức đặc trưng

cho một phức hợp các tương quan được chia hạng thành một thang duy nhất,

và tạo thành những thời điểm rất dễ nhận ra trong sự phát triển: nối tiếp vào

trí tưởng tượng mò mẫm, đôi khi đột ngột, là một cảm giác gắn bó mạch lạc

và cảm giác về nhu cầu, sự hài lòng đạt đến, cuối cùng, một hệ thống tự nó

khép kín và có thể mở rộng ra đến vô hạn.

Do đó vấn đề là tìm hiểu xem theo quá trình bên trong nào mà diễn ra

sự chuyển từ một giai đoạn cân bằng hóa tiên tiến sang một sự cân bằng cơ

động được đạt tới ở giới hạn của giai đoạn đầu (các thao tác). Nếu khái niệm

"nhóm hợp" được mô tả ở chương II thực sự có một ý nghĩa tâm lí học, thì

chính là nó phải biểu hiện ra trên điểm này.

Vậy vì giả thuyết là các tương quan trực giác của một hệ thống được

xem xét, vào một thời điểm nhất định, được đột ngột "nhóm hợp", vấn đề đầu

tiên là tìm biết xem người ta nhận ra sự nhóm hợp bằng tiêu chí bên trong

hoặc trí tuệ nào. Câu trả lời là hiển nhiên: ở đâu có cái "nhóm hợp" thì có sự

bảo toàn cái toàn thể, và sự bảo toàn đó bản thân nó không chỉ đơn giản là

được chủ thể giả định với tính cách là quy nạp có thể có, mà chủ thể khảng

định như một sự chắc chắn của tư duy nó.

Page 135: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Chúng ta hãy lấy lại ví dụ đầu đã được nêu ra về tư duy trực giác: sự

đổ các hạt cườm từ bình này sang bình khác. Sau một thời gian dài mà mỗi

sự thay đổi bình được coi như thay đổi số lượng, sau một giai đoạn trung gian

(trực giác được khớp nối) ở đó một số thay đổi bình được coi là thay đổi cái

toàn thể trong khi một số thấy bình khác, giữa các bình ít khác nhau, dẫn chủ

thể đến việc giả định rằng cái toàn thể đã được bảo toàn: bao giờ cũng đến

một lúc (giữa 6; 6 và 7; 8 tuổi) đứa trẻ thay đổi thái độ: nó không cần nghĩ

ngợi nữa, nó quyết định, nó có vẻ ngạc nhiên sao người ta lại đặt câu hỏi đó

ra cho nó, nó chắc chắn về sự bảo toàn. Cái gì đã xẩy ra? Nếu người ta hỏi

nó lí do, nó trả lời rằng người ta đã không thêm hoặc bớt gì cả; nhưng các trẻ

nhỏ cũng biết điều đó, nhưng chúng không kết luận về sự đồng nhất; sự đồng

nhất không phải là một quá trình đầu tiên, mặc cho E.Meyerson, mà là kết quả

của sự đồng hoá bởi các nhóm hợp đầy đủ (sản phẩm của thao tác trực tiếp

bởi cái đảo nghịch của nó). Hoặc nó trả lời rằng độ rộng mà cái bình mới mất

đi được bù bằng độ cao v.v...; nhưng trực giác được khớp nối đã dẫn đến

những sự phi tập trung hoá của một tương quan đã cho, mà không kết thúc ở

sự phối hợp đồng thời những quan hệ hoặc ở sự bảo toàn cần thiết. Hoặc là

chủ yếu, nó trả lời rằng một sự thay đổi bình từ A sang B có thể được sửa lại

bởi sự thay đổi bình ngược lại, và sự nghịch đảo này chắc chắn là thiết yếu,

nhưng các trẻ nhỏ đôi khi đã thừa nhận một sự trở về lại có thể có ở điểm

xuất phát, mà "sự trở về kinh nghiệm chủ nghĩa" đó còn tạo nên một tính

nghịch đảo trọn vẹn. Vậy chỉ có một câu trả lời chính đáng: những thay đổi

khác nhau được dẫn ra - tính nghịch đảo, sự cấu tạo các quan hệ đền bù, sự

đồng nhất v.v... trên thực tế dựa vào nhau, và bởi vì chúng đúc lại thành một

toàn thể có tổ chức mà mỗi cái là thực sự mới mặc dầu sự gắn bó thân thuộc

với tương quan trực giác tương ứng đã được xây dựng ở trình độ trước.

Ví dụ khác. Trong trường hợp các yếu tố được xếp theo thứ tự ABC mà

người ta cho chịu một nửa vòng quay (180°), đứa trẻ khám phá một cách trực

giác, và dần dần hầu hết tất cả các tương quan: rằng B vẫn nằm không thay

đổi "giữa" A và C và giữa C và A; một vòng đổi ABC thành CAB và hai vòng

đem trở lại ABC v.v... Nhưng cái tương quan khám phá ra những cái này sau

Page 136: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những cái kia vẫn là những trực giác không có liên hệ lẫn nhu cầu. Khoảng 7-

8 tuổi, trái lại người ta tìm thấy những chủ thể dự kiến được trước mọi sự thử:

1. rằng ABC đảo ngược lại thành CBA; 2. rằng hai sự đảo ngược đem lại trật

tự xuôi, 3. rằng ba sự đảo ngược giá trị bằng một sự đảo ngược; v.v... Có ở

đây nữa mỗi tương quan có thể tương ứng với một sự khám phá trực giác;

nhưng tổng hoà tất cả chúng lại, chúng tạo thành một thực tế mới bởi vì

chúng trở thành diễn dịch và không còn bao gồm những thí nghiệm liên tiếp,

có thực hoặc trong óc.

Dễ dàng thấy rằng trong mọi trường hợp và các trường hợp đó là vô

số, sự cân bằng cơ động đạt được khi những biến đổi sau đây xảy ra đồng

thời: 1. hai hành động liên tiếp có thể được phối hợp thành một; 2. sem hành

động, đã hoạt động trong tư duy trực giác, trở thành có thể đảo nghịch; 3.

cùng một điểm có thể được đạt tới không bị thay đổi bằng hai con đường

khác nhau; 4. việc trở về điểm xuất phát cho phép tìm thấy lại điểm đó đồng

nhất với bản thân nó; 5. cùng một hành động trong khi lặp lại thì hoặc không

thêm gì cho bản thân nó, hoặc là một hành động mới với hiệu quả luỹ tích.

Người ta nhận ra ở đó sự cấu tạo bắc cầu, tính nghịch đảo, tính phối hợp và

sự đồng nhất với (ở điểm 5) hoặc sự trùng lặp lôgích học, hoặc sự lặp lại

bằng số, đặc trưng cho các "nhóm hợp” lôgích học hoặc các "nhóm" số học.

Nhưng điều phải hiểu cho kỹ để đạt tới tính chất thực sự tâm lí học của

cái nhóm hợp, đối lập với cách trình bày của nó trong ngôn ngữ lôgích học,

đó là những thay đổi khác nhau gắn bó với nhau trên thực tế là sự biểu hiện

của cùng một hành vi tổng thể, nó là một hành vi phi tập trung hoá hoàn toàn

hoặc là một hành vi bảo toàn trọn vẹn của tư duy. Cái riêng của sem cảm giác

- vận động (tri giác v.v...), của cái biểu trưng tiền khái niệm, của cả bản thân

hình thể trực giác, là chúng luôn “tập trung" vào một trạng thái đặc biệt của đồ

vật và ở một điểm nhìn đặc biệt của chủ thể, vậy là chúng luôn luôn biểu lộ ra

đồng thời, vừa là một sự đồng hoá duy kĩ với chủ thể, vừa là một sự điều ứng

mang tính hiện tượng luận với đồ vật (khách thể). Cái riêng của sự cân bằng

cơ động đặc trưng cho cái nhóm hợp là, trái lại sự tập trung hoá, đã được

Page 137: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chuẩn bị do những điều tiết và những khớp nối lũy tiến của trực giác, bỗng

chốc trở thành có hệ thống khi đạt đến giới hạn của nó: tư duy không còn gắn

bó lúc này vào các trạng thái đặc biệt của đồ vật, nhưng nó tự bắt buộc tuân

thủ bản thân những biến đổi liên tiếp, tuỳ theo những quay đi và những trở về

có thể có; và nó không còn bắt nguồn từ một điểm nhìn đặc biệt của chủ thể

mà kết hợp tất cả những điểm nhìn riêng biệt thành một hệ thống những sự

hỗ tương khách quan. Cái nhóm hợp thực hiện như vậy, lần đầu tiên, sự cân

bằng giữa việc đồng hoá các sự vật vào hoạt động của chủ thể và sự điều

ứng các sem chủ quan vào những biến đổi của các sự vật. Lúc xuất phát, quả

vậy, sự đồng hoá và sự điều ứng tác động ở chiều trái ngược nhau, do đó mà

có đặc tính biến dạng của sự đồng hoá và đặc tính hiện tượng luận của sự

điều ứng. Nhờ có những đón trước và những tái tạo kéo dài theo hai chiều

những hành động ở các khoảng cách luôn luôn lớn hơn, trừ những đón trước

và những tái tạo ngắn riêng biệt đối với sự tri giác, thói quen và trí khôn cảm

giác - vận động đến các sem đón trước được sự biểu tượng trực giác xây

dựng nên, sự đồng hoá và sự điều ứng dần dần tự cân bằng lại. Chính sự kết

thúc của sự cân bằng này giải thích tính nghịch đảo, giới hạn cuối cùng (kết

thúc) của các việc đón trước và tái tạo cảm giác - vận động và trí tuệ, và cùng

với tính đảo nghịch, sự cấu tạo đảo nghịch, đặc trưng cho các nhóm hợp: cái

chi tiết của các thao tác nhóm hợp lại chỉ biểu hiện, quả vậy, những điều kiện

đã tụ hội được vừa là của sự kết hợp các chỗ đứng nhìn liên tiếp của chủ thể

(với sự trở về có thể có trong thời gian và sự đón trước cái nối tiếp của

chúng) vừa là sự kết hợp những biến đổi có thể tri giác hoặc có thể biểu hiện

được của các đồ vật (khách thể) - trước đây, hiện nay và bằng sự diễn biến

về sau.

Trên thực tế, các nhóm hợp thao tác, được tạo dựng vào khoảng 7

hoặc 8 tuổi (đôi khi sớm hơn một ít) kết thúc ở các cấu trúc sau đây: Trước

hết chúng dẫn đến những thao tác lôgích học của sự lồng ghép các lớp (vấn

đề về các hạt cườm nâu A ít hơn những hạt cườm bằng gỗ B được giải quyết

vào khoảng 7 tuổi) và của sự chia hạng của các quan hệ phi đối xứng. Từ đó

có sự khám phá tính bắc cầu làm cơ sở cho các suy diễn: A = B; B = C vậy A

Page 138: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

= C; hoặc A < B; B < C vậy A < C, vả lại, mỗi khi những nhóm hợp cộng được

lĩnh hội thì những nhóm hợp nhân cũng được thấu hiểu ngay dưới hình thức

các tương hợp: biết chia hạng các đồ vật theo các quan hệ A1 < B1 < C1, chủ

thể không còn cảm thấy khó khăn hơn việc chia hạng hai hoặc nhiều tập hợp

như cách A2 < B2 < C2 tương ứng với nhau từng số hạng một với một dãy

những hình người có kích thước tăng dần mà trẻ đã sắp xếp, trẻ 7 tuổi biết

làm tương ứng một dãy cái gậy hay cái túi và cả tìm thấy lại khi người ta đã

trộn lẫn tất cả, với yếu tố nào của dãy này tương ứng yếu tố nào của dãy kia

(tính chất nhân của nhóm hợp này không tạo thêm khó khăn nào cho các thao

tác cộng về chia hạng vừa mới được khám phá).

Hơn nữa, việc tạo dựng đồng thời những nhóm hợp của việc lồng ghép

các lớp và của việc chia hạng định tính mang đến sự xuất hiện của hệ thống

các số. Hẳn là đứa trẻ nhỏ không đợi sự khái quát hoá có tính chất thao tác

đó để tạo dựng những số đầu tiên (theo A.Descoeudres, trẻ mỗi năm xây

dựng một số mới giữa 1 và 6 tuổi), nhưng các số từ 1 đến 6 còn là trực giác,

bởi vì gắn liền với các hình thế tri giác. Mặt khác, người ta có thể dạv cho trẻ

đếm, nhưng kinh nghiệm đã chỉ cho chúng ta thấy rằng việc sử dụng lời nói

tên các số vừa không có quan hệ gì lớn với bản thân của phép tính với các

số; các phép này đôi khi đi trước sự đếm bằng lời hoặc đi sau nó mà không

có liên hệ cần thiết. Còn về các thao tác tạo dựng số, tức là về sự tương ứng

một đối một (với sự bảo toàn của sự tương đương đạt được, mặc dầu có

những thay đổi của hình hoặc về lặp lại đơn giản của đơn vị (1 + 1 = 2; 2 +1

=3). Chúng không đòi hỏi gì khác ngoài các nhóm hợp cộng của sự lồng ghép

các lớp và sự chia hạng các quan hệ phi đối xứng (thứ tự) nhưng đúc lại

thành một toàn thể có tính chất thao tác; làm sao để đơn vị 1 là đồng thời yếu

tố của lớp (1 bao hàm trong 2, 2 trong 3 v.v..) và của dãy <1 đầu tiên trước 1

thứ hai v.v...) Chừng nào mà chủ thể còn xem xét các yếu tố cá thể trong sự

đa dạng định tính của chúng, nó có thể, quả vậy, hoặc tụ hội chúng theo các

tính chất tương đương của chúng (lúc đó nó tạo dựng các lớp) hoặc sắp xếp

thứ tự chúng theo hiệu số của chúng (lúc đó nó tạo dựng những quan hệ phi

đối xứng), nhưng trẻ không thể tụ hội chúng đồng thời với tính cách vừa là

Page 139: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những cái tương đương vừa là những cái khác biệt. Số, trái lại, là một tập

hợp các đồ vật được quan niệm như cùng một lúc tương đương và có thể xếp

hạng; cái khác nhau duy nhất của chúng lúc đó thu lại ở vị trí thứ tự của

chúng: sự tụ hội cái khác biệt và cái tương đương trong trường hợp này giả

định sự loại bỏ các tính chất, từ đó đúng là giả định sự cấu tạo của đơn vị

đồng đều 1 và sự chuyển từ lôgích học sang toán học. Mà thật thú vị khi nhận

ra rằng sự chuyển này được thực hiện một cách phát sinh ngay vào lúc tạo

dựng những thao tác lôgích: lớp, quan hệ và số như vậy tạo thành một toàn

thể không tách rời về mặt tâm lí học và lôgích học mà mỗi số hạng trong ba

số hạng bổ sung cho hai số hạng kia.

Nhưng các thao tác lôgích học - số học ấy chỉ bao gồm một mặt của

các nhóm hợp cơ bản mà sự tạo dựng là đặc trưng của tuổi trung bình 7-8

tuổi. Với những thao tác này, là những thao tác tụ hội các đồ vật để xếp lớp,

chia hạng hoặc đếm số, tương ứng những thao tác hợp thành của bản thân

các đồ vật, các đồ vật phức hợp, nhưng độc nhất như không gian, thời gian

và các hệ thống vật thể. Mà không có gì đáng ngạc nhiên là những thao tác

đó, lôgích hạ tầng hoặc không gian - thời gian, nhóm hợp lại trong sự tương

hợp với những thao tác lôgích học – số học, bởi vì đó cũng là cùng những

thao tác ấy nhưng ở một thang bậc khác: sự lồng ghép các đồ vật thành lớp

và các lớp với nhau ở đây trở thành sự lồng ghép các bộ phận hay mảnh

thành một toàn thể; sự chia hạng diễn đạt những khác biệt giữa các đồ vật

được biểu hiện dưới hình thức những quan hệ thứ tự (thao tác đặt chỗ) và

chuyển chỗ và số ở đây tương ứng với số đo. Mà trên thực tế, trong khi các

lớp, các quan hệ và các số được xây dựng, người ta thấy được tạo dựng một

cách song song đặc biệt những nhóm hợp định tính phát sinh từ thời gian và

không gian. Chính là vào khoảng 8 tuổi mà các quan hệ về thời gian (trước và

sau) tự kết hợp với các quãng thời gian (lâu nhiều hay ít), trong khi hai hệ

thống khái niệm vẫn độc lập trên bình diện trực giác: ngay khi được nối liền

thành một toàn thể độc nhất, chúng đẻ ra khái niệm của một thời gian chung

cho nhiều vận động khác nhau với tốc độ khác nhau (ở bên trong cũng như ở

bên ngoài). Cũng là vào khoảng 7-8 tuổi mà đặc biệt được tạo dựng nhiều

Page 140: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những thao tác định tính cấu trúc hoá không gian: thứ tự kế tiếp trong không

gian và lồng ghép các khoảng cách về thời gian hay không gian; sự bảo toàn

các độ dài, các diện tích v.v...; sự tạo dựng một hệ thống các toạ độ; những

phối cảnh và những mặt cắt v.v... Về mặt này, việc nghiên cứu sự đo tự

nhiên, nó bắt nguồn từ những đánh giá đầu tiên do những "xúc cảm" tri giác

để kết thúc vào khoảng 7-8 tuổi, ở tính bắc cầu của các sự tương đẳng có

tính thao tác (A = B, B = C vậy A = C.) và ở sự xây dựng đơn vị (do tổng hợp

sự chia cắt và sự chuyển chỗ), chứng minh một cách rõ ràng nhất cách thức

mà sự diễn biến liên tục của các thụ đắc tri giác, rồi trực giác kết thúc ở các

thao tác có tính nghịch đảo cuối cùng cũng như ở hình thức cân bằng cần

thiết của chúng.

Nhưng điều quan trọng là nên ghi nhớ rằng các nhóm hợp khác nhau

có tính chất lôgích học - số học hoặc không gian - thời gian đó còn xa mới tạo

thành một lôgích học hình thức áp dụng được cho mọi khái niệm và mọi lập

luận. Ở đó có một điểm cơ bản phải nêu lên, cả đối với lí thuyết về trí khôn

lẫn những ứng dụng sư phạm, nếu người ta muốn làm cho giáo dục thích hợp

với các kết quả nghiên cứu của tâm lí học phát triển, đối lập với chủ nghĩa

lôgích của truyền thống trường học. Quả vậy, cũng những đứa trẻ ấy, đạt

được những thao tác vừa mới được mô tả thường lại không có khả năng về

những thao tác đó nữa nếu chúng thôi không điều khiển bằng tay những đồ

vật và được mời lập luận đơn thuần bằng mệnh đề lời nói. Những thao tác nói

đến ở đây vậy là những "thao tác cụ thể" chứ chưa phải là thao tác hình thức:

luôn luôn gắn liền với hành động, chúng cấu trúc những thao tác này một

cách lôgích, bao gồm cả những lời nói đi kèm, song chúng không hề bao hàm

khả năng xây dựng một bài nói lôgích độc lập với hành động, vì vậy mà việc

đưa các lớp vào được hiểu ngay từ lúc trẻ 7-8 tuổi trong vấn đề cụ thể về

những hạt cườm (xem ở trên) trong khi một trắc nghiệm (text) bằng lời có cấu

trúc đồng nhất chỉ được giải quyết rất lâu về sau (xem một trong những text

của Burt: "Một vài bông hoa của bó hoa của tôi là vàng", một bé trai nói với

các chị (em) của nó. Đứa thứ nhất trả lời: Vậy tất cả các hoa của em (chị) là

Page 141: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

vàng: đứa thứ hai trả lời: "Một bộ phận là vàng" và đứa thứ ba: "Không hoa

nào (là vàng). Ai có lý).

Nhưng còn hơn thế nữa: Cũng những lập luận "cụ thể” như nhau, như

những lập luận dẫn đến sự bảo toàn cái toàn thể, đến tính bắc cầu của các

đẳng thức (A = B = C) hoặc những khác biệt (A < B < C), có thể được vận

hành dễ dàng trong trường hợp một hệ thống xác định của các khái niệm

(như đại lượng vật chất) lại vẫn là không có ý nghĩa ở cùng những chủ thể ấy,

đối với một hệ thống khác của các khái niệm (như trọng lượng). Chính chủ

yếu trên quan điểm đó mà thật không chính đáng nói đến lôgích hình thức

trước khi tuổi thơ kết thúc: các "nhóm hợp" vẫn giữ quan hệ với các loại hình

khái niệm cụ thể (tức là những hành động đã được tinh thần hoá) mà chúng

ta cấu trúc hoá một cách có hiệu quả, nhưng sự cấu trúc hoá những loại hình

khác của các khái niệm cụ thể, có tính chất trực giác phức hợp hơn bởi vì

dựa trên những hành động khác nữa, đòi hỏi một sự tạo dựng lại cùng những

nhóm hợp ấy với một sự xê xích trong thời gian;

Một ví dụ đặc biệt rõ ràng là ví dụ về các khái niệm của sự bảo toàn cái

toàn thể (các dấu hiệu của bản thân việc nhóm hợp). Người ta giới thiệu cho

chủ thể hai cục bột nặn cùng hình dáng, kích thước và trọng lượng, đoạn

người ta thay đổi một trong hai cục đó (thành hình dồi lợn v.v...) và hỏi xem

cái vật chất (cùng một khối lượng bột), cái trọng lượng và cái thể tích (cái này

được đánh giá ở sự chuyển chỗ của nước trong hai cốc mà ở đó người ta

nhấn chìm các đồ vật) có được bảo toàn không. Từ 7-8 tuổi, khối lượng vật

chất được thừa nhận là nhất thiết phải được bảo toàn, căn cứ vào những lập

luận đã được mô tả khi nói về sự bảo toàn các tổng thể. Nhưng cho đến 9-10

tuổi, cùng những chủ thể ấy đặt vấn đề nghi ngờ sự bảo toàn của trọng

hướng, với những lập luận trực giác mà chúng đã đưa ra vào tuổi 7 - 8 để

biện minh cho sự không bảo toàn của vật chất. Còn về các lập luận mà chúng

đưa ra (thường chỉ một chốc lát trước đó) để chứng minh sự bảo toàn của vật

chất, chúng không đem áp dụng vào sự bảo toàn của trọng lượng: nếu cái dồi

là mỏng hơn cục bột, vật chất được bảo toàn bởi vì sự mỏng đi được đền

Page 142: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bằng sự kéo dài ra, nhưng trọng lượng giảm vì bởi về phương diện này, sự

mỏng đi đã tác động một cách tuyệt đối. Vào khoảng 9-10 tuổi, sự bảo toàn

trọng lượng trái lại, được thừa nhận căn cứ vào cùng những lập luận như đối

với sự bảo toàn của vật chất, song sự bảo toàn của thể tích còn bị phủ nhận

trước 11-12 tuổi, và căn cứ vào những lập luận trực giác đảo lại! Hơn nữa,

những sự chia hạng, những cấu tạo đẳng thức, v.v... theo đúng cùng một trật

tự phát triển ấy: lúc 8 tuổi, hai khối lượng vật chất bằng một khối lượng thứ ba

là bằng nhau, nhưng hai trọng lượng thì không thế (độc lập với sự tri giác thể

tích, là tất nhiên), v.v... lí do của sự xê xích đó tất nhiên phải tìm kiếm trong

các đặc tính trực giác của vật chất, của trọng lượng và của thể tích, chúng

làm dễ dàng hoặc làm chậm từ những cấu tạo của các thao tác: Vậy ở tuổi

dưới 11 - 12, cùng một hình thức lôgích học chưa độc lập với cái nội dung cụ

thể của nó.

* CÁC THAO TÁC HÌNH THỨC

Những chênh lệch mà chúng ta vừa xét qua một ví dụ là có quan hệ

đến các thao tác của cùng những phạm trù như nhau, nhưng áp dụng vào

những lĩnh vực khác nhau về hành động và về khái niệm có mặt trong cùng

một thời kì. Vậy chúng có thể được gọi là "những chênh lệch ngang". Trái lại,

sự chuyển từ những kết hợp cảm giác - vận động sang các kết hợp biểu

tượng tạo ra, như chúng ta đã thấy, những tái tạo tương tự, với những chênh

lệch, nhưng những chênh lệch này vì không còn quan hệ với cùng những nấc

như nhau, người ta có thể gọi chúng là "chênh lệch dọc”. Mà sự cấu thành

những thao tác hình thức bắt đầu vào khoảng 11 -12 tuổi, cũng cần có cả một

sự tái tạo dành để chuyển vị các nhóm hợp "cụ thể" lên một bình diện mới về

tư duy, và sự tái tạo này được đặc trưng bởi một loạt các chênh lệch dọc.

Tư duy hình thức nở rộ trong thời niên thiếu. Người thiếu niên, trái

ngược với đứa trẻ thơ, là một cá thể suy ngẫm ngoài thời hiện tại và luyện

dựng các lí thuyết về mọi sự vật, vui thích đặc biệt với những nhận xét phi

thời sự. Đứa trẻ thơ trái lại chỉ suy ngẫm vào dịp hoạt động đang diễn tiến và

không luyện dựng các lí thuyết, ngay cả nếu người quan sát, ghi nhận sự trở

Page 143: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

về định kì của các phản ứng tương tự, có thể phân định một sự hệ thống hoá

tự nhiên trong các ý tưởng của mình. Sự suy nghĩ chín chắn đặc trưng cho

người thiếu niên nảy nở ngay vào tuổi 11 - 12, kể từ lúc chủ thể trở nên có

khả năng lập luận theo cách giả thuyết - diễn dịch, tức là trên những bổ trợ

đơn giản không có quan hệ cần thiết với thực tế hoặc với những tín ngưỡng

của chủ thể và bằng cách tin ở sự cần thiết của bản thân lập luận, đối lập với

sự hoà hợp các kết luận với kinh nghiệm.

Mà lập luận theo hình thức và trên những mệnh đề thuần tuý giả định

những thao tác khác với việc lập luận trên hành động hoặc trên thực tế. Lập

luận dựa trên thực tế cũng bao gồm một nhóm hợp các thao tác ở cấp độ thứ

nhất, có thể nói như vậy, tức là các hành động được nội hiện trở thành có thể

hợp nén và nghịch đảo. Tư duy hình thức, trái lại, bao gồm việc suy ngẫm

(theo nghĩa đen) các thao tác, tức là thao tác trên các thao tác hoặc trên

những kết quả của chúng, và do đó nhóm hợp các thao tác ở cấp độ thứ hai.

Chắc hẳn đây cũng cùng những nội hàm có tính thao tác: vấn đề vẫn bao

hàm việc xếp lớp, chia hạng, đếm số, đo, đặt hoặc chuyển chỗ trong không

gian và trong thời gian v.v... Nhưng, không phải là những lớp, hạng, bản thân

quan hệ không gian - thời gian, với tính cách là những cấu trúc hoá hoạt động

và thực tế, được các thao tác hình thức nhóm hợp lại mà chính là những

mệnh để diễn đạt hoặc "suy ngẫm" các thao tác ấy. Các thao tác hình thức

vậy là bao gồm chủ yếu những "liên lụy" (theo nghĩa hẹp của từ đó) và những

"xung khắc" được thiết lập giữa các mệnh đề, những mệnh đề này bản thân

chúng biểu đạt nhưng sự xếp lớp, chia hạng v.v...

Vậy người ta hiểu tại sao có chênh lệch dọc giữa các thao tác cụ thể và

các thao tác hình thức, ngay cả khi những thao tác hình thức dường như lặp

lại nội hàm của những thao tác cụ thể: quả thế, ở đây hoàn toàn không phải là

những thao tác có cùng sự khó khăn tâm lí học. Chỉ cần như vậy chuyển dịch

thành mệnh đề một bài toán đơn giản về chia hạng giữa ba số hạng được

trình bày một cách lộn xộn để cho việc cộng chia hạng đó trở nên đặc biệt khó

chịu, trong khi nó thật là đề ngay ở tuổi lên 7 dưới hình thức chia hạng cụ thể

Page 144: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

và ngay cả các kết hợp bắc cầu những suy nghĩ về hành động trong số các

text của Burt, người ta tìm thấy cái ví dụ xinh đẹp sau đây:

Edith có tóc sáng (hoặc vàng) hơn Suzanne. Edith có tóc sẫm (hoặc

nâu) hơn Lili, ai có tóc sẫm hơn cả trong ba cô? Chỉ vào khoảng 12 tuổi câu

hỏi này mới được giải đáp. Trước tuổi đó, thường có những lập luận như:

Edith và Suzanne tóc sáng; Edith và Lili tóc sẫm, vậy tóc Lili sẫm hơn cả.

Suzanne tóc sáng hơn và Edith tóc có mầu giữa hai người kia. Nói cách khác,

trẻ mười tuổi lập luận, trên bình diện hình thức, như những trẻ nhỏ đối với các

gậy cần chia hạng, và chỉ lúc lên 12 trẻ nắm được bằng thuật ngữ hình thức

những gì nó biết làm lúc 7 tuổi bằng thuật ngữ cụ thể về các đại lượng; và

nguyên nhân đơn giản là các tiền đề được cung cấp với tính cách là những

giả thiết thuần tuý bằng lời nói và kết luận phải được tìm thấy viformae, không

nhờ đến các thao tác cụ thể.

Như vậy, người ta thấy tại sao lôgích hình thức và sự diễn dịch toán

học không vừa tầm đứa trẻ và tưởng như tạo một lĩnh vực tự quản: lĩnh vực

của tư duy "thuần tuý", độc lập với hành động và trên thực tế, đây là vấn đề

của cái ngôn ngữ đặc biệt này - phải học như mọi ngôn ngữ khác - là những

kí hiệu toán học (kí hiệu không có gì là những tượng trưng, theo nghĩa đã

được định trên kia) hoặc của hệ thống khác của các dấu hiệu - là các từ biểu

đạt những mệnh đề đơn giản, những thao tác giả thiết - diễn dịch nằm ở một

bình diện khác với cái lập luận cụ thể, bởi vì một hành động được thực thi

trên những dấu hiệu tách rời khỏi thực tại là vấn đề hoàn toàn khác với một

hành động liên quan đến một thực tế với tính cách là như vậy hoặc đến

những dấu hiệu gắn liền với thực tế đó. Vì vậy lôgich học, vì tách giai đoạn

cuối cùng này khỏi tổng thể của tiến hoá tinh thần, chỉ hạn chế ở việc tiên đề

hoá các thao tác đặc trưng, thay vì đặt chúng vào trong bối cảnh sống động

của chúng. Vả lại chính đó là vai trò của nó, nhưng vai trò đó chắc chắn có lợi

hơn khi được đóng một cách hữu thức. Mặt khác, lôgích học được khuyên

khích trong con đường đó bởi ngay cái tính chất của những thao tác hình

thức, những thao tác này, thuộc cấp độ thứ hai chỉ tiến hành trên những dấu

Page 145: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hiệu, bản thân chúng cũng dấn thân vào con đường sơ đồ hoá riêng của

thuyết tiên đề. Nhưng chính vai trò của tâm lí học trí khôn là đặt lại khẩu đại

bắc những thao tác hình thức vào trong viễn cảnh thực tại của nó và chỉ ra

rằng nó chỉ có thể có ý nghĩa trí tuệ bằng cách dựa vào những thao tác cụ thể

mà nó tiếp nhận cả sự chuẩn bị lẫn nội hàm của nó. Từ quan điểm đó, lôgich

học hình thức không phải là một sự mô tả thích đáng của mọi tư duy sống

động: các thao tác hình thức tạo thành chỉ cái cấu trúc của sự cân bằng kết

thúc mà các thao tác cụ thể hướng tới khi chúng tự phản chiếu thành những

hệ thống chung hơn bằng cách phối hợp những mệnh đề mà chúng biểu đạt

với nhau.

HỆ THỐNG CẤP BẬC CÁC THAO TÁC VÀ SỰ PHÂN HOÁ LŨY TIẾN CỦA CHÚNG

Một cư xử, như chúng ta đã thấy, là một sự trao đổi có tính chức năng

giữa chủ thể và các khách thể và người ta có thể chia hạng các cư xử theo

một thứ tự liên tiếp phát sinh dựa trên những khoảng cách càng lớn dần trong

không gian và thời gian, những khoảng cách đó đặc trưng cho những đoạn

đường đi luôn luôn phức tạp hơn mà những trao đổi đó đã theo.

Sự đồng hoá và sự điều ứng tri giác chỉ giả định bằng cách đó một sự

trao đổi trực tiếp, có đường đi thẳng. Thói quen có những đường đi phức hợp

hơn, song ngắn hơn, lặp lại một cách máy móc và đơn chiều. Trí khôn cảm

giác - vận động đưa vào những trở về và những quay đi: nó vươn tới đồ vật ở

ngoài trường tri giác và những lối đi thông thuộc, và bằng cách đó mở rộng

những khoảng cách ban đầu trong không gian và trong thời gian, nhưng nó

vẫn bị giới hạn ở trường của hoạt động riêng. Với những khởi đầu của tư duy

biểu tượng và nhất là với những tiến bộ của tư duy trực giác, trí khôn trở

thành có khả năng gợi lên những đồ vật vắng mặt và do đó gắn bó với những

thực tế không nhìn thấy, đã qua và phần nào sắp tới. Nhưng nó chỉ mới tiến

hành bằng những hình ít nhiều tĩnh tại, những hình ảnh bán - cá thể, bán -

phát sinh trong trường hợp của tiền khái niệm, những hình thể biểu tượng

tổng thể luôn luôn được nối khớp hơn trong thời kì trực giác, nhưng luôn luôn

Page 146: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

là hình ảnh, tức là những tấm ảnh chụp chớp nhoáng trên thực tế di động và

chỉ biểu hiện một vài trạng thái hoặc một vài hành trình trong toàn bộ những

đoạn đường đi có thể có; tư duy trực giác, như vậy, cung cấp một bản đồ của

thực tại (cái mà trí khôn cảm giác - vận động bản thân dần vào thực tại gần

gũi không làm được), nhưng hay còn thuộc hình ảnh, có nhiều khoảng trống

và không có đủ những kết hợp để chuyển từ điểm này sang điểm khác. Với

những nhóm hợp của các thao tác cụ thể, những hình này lan đi hoặc hoà

vào trong bình diện tổng thể, và một tiến bộ quyết định đã đạt được trong việc

chinh phục các quãng cách và trong sự phân hoá các đoạn đường đi: tư duy

không còn nắm bắt những trạng thái hay những hành trình cố định, mà nắm

bắt bản thân các biến đổi sao cho từ một điểm người ta có thể luôn luôn

chuyển qua một điểm khác, và ngược lại. Chính là thực tế trọn vẹn trở nên có

thể đạt tới được. Nhưng cũng chỉ mới là thực tế được biểu tượng: với các

thao tác hình thức thậm chí còn hơn cả thực tế bởi vì thế giới của các cơ thể

mở ra cho sự tạo dựng và tư duy trở nên tự do đối với thế giới thực tại. Sự

sáng tạo toán học là một minh hoạ cho năng lực cuối cùng này.

Xem xét lúc này cái cơ chế của sự tạo dựng đó chứ không còn chỉ xem

xét sự mở rộng dần dần của nó, người ta nhận thấy rằng mỗi nấc được đặc

trưng bởi một sự kết hợp mới các yếu tố được cung cấp - đã ở trạng thái

những tổng thể, nhưng ở cấp dưới - bởi những quá trình của trình độ kề

trước.

Cái sem cảm giác - vận động, đơn vị riêng của hệ thống trí khôn tiền -

tượng trưng, sáp nhập vào mình cái sem tri giác và cái sem thuộc hành động

theo thói quen (những sem của tri giác và của thói quen đều ở cấp bên dưới,

những cái này gắn chặt với trạng thái hiện tại của mục tiêu và những cái kia

gắn với những biến đổi sơ đẳng của các trạng thái). Cái sem tượng trưng sáp

nhập vào mình những sem cảm giác - vận động với sự phân hoá các chức

năng: sự điều ứng bắt chước tự kéo dài thành những cái biểu đạt có hình ảnh

và sự đồng hoá xác định những cái được biểu đạt. Cái sem trực giác là cùng

một lúc một sự kết hợp và một sự phân hóa những sem có hình ảnh. Cái sem

Page 147: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thao tác cấp cụ thể là một nhóm hợp của những sem trực giác, do ngay việc

những nhóm hợp của chúng được nâng lên hàng những thao tác có tính

nghịch đảo. Cái sem hình thức, cuối cùng, không là gì khác như chúng ta vừa

thấy, hơn một hệ thống thao tác ở cấp độ thứ hai, tức là một nhóm hợp thao

tác trên những nhóm hợp cụ thể.

Mỗi một bước chuyển từ một trong các trình độ sang trình độ tiếp sau

được đặc trưng cùng một lúc bởi một sự kết hợp mới và một sự phân hoá các

hệ thống tạo thành sự thống nhất ở trình độ trước. Mà nhưng phân hoá liên

tiếp này trở lại làm sáng tỏ cho tính chất không phân hoá được của các cơ

chế ban đầu và như vậy người ta có thể đồng thời hình dung một phả hệ các

nhóm hợp thao tác do phân hóa dần dà, và một sự giải thích các trình độ tiền

- thao tác bởi sự không phân hoá của các quá trình đang tác động.

Chính như vậy mà trí khôn cảm giác - vận động kết thúc như chúng ta

thấy ở chương 4, ở một thứ nhóm hợp kinh nghiệm chủ nghĩa các vận động,

được đặc trưng bởi những cư xử trở về và quay đi về mặt tâm lí học, và về

mặt hình học bởi cái mà H.Poincaré gọi là nhóm (thực nghiệm) các sự chuyển

chỗ. Và dĩ nhiên là ở trình độ sơ đẳng này, trước mọi tư duy, người ta không

thể hình dung cái nhóm hợp này như một hệ thống thao tác, bởi vì nó là hệ

thống những vận động được hoàn thành trên thực tế, vậy nó là, qua sự việc,

không bị phân hoá, những chuyển chỗ này luôn luôn là, đồng thời những vận

động hướng về một mục đích và có cứu cánh thực hành. Vậy người ta có thể

nói rằng ở trình độ này, các nhóm hợp không gian - thời gian, lôgích học - số

học và thực hành (các phương tiện và các mục đích) tạo thành một toàn bộ

tổng thể và rằng, thiếu sự phân hoá, cái hệ thống tổng thể này không thể tạo

thành một cơ chế thao tác.

Cuối thời kì này và đầu thời kì sau của tư duy biểu tượng, sự xuất hiện

của cái tượng trưng cho phép, trái lại, có một sự phân hoá đầu tiên: những

nhóm hợp thực hành một bên (các mục đích và các phương tiện) và bên kia

là biểu tượng. Nhưng biểu tượng này còn chưa được phân hoá, các thao tác

lôgích - số học chưa thể tự tách khỏi các thao tác không gian - thời gian. Ở

Page 148: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

trình độ trực giác, không có cả lớp lẫn quan hệ thực thụ, cả hai vẫn giữ mình

ở mức đồng thời là những tập hợp không gian hoặc những tương quan không

gian - thời gian: từ độ mà có tính chất trực giác và tiền - thao tác của chúng ở

trình độ 7 - 8 tuổi, trái lại, sự xuất hiện các nhóm hợp thao tác đúng là được

đặc trưng bởi sự phân hoá rõ rệt của các thao tác lôgích học - số học trở

thành độc lập (lớp, quan hệ và các số đã được phi không gian hoá) và những

thao tác không gian thời gian hoặc lôgich - hạ tầng. Cuối cùng trình độ của

những thao tác hình thức những đánh dấu một sự phân hóa cuối cùng hành

động thực tại và những thao tác giả thiết - diễn dịch, dựa vào những liên lụy

thuần tuý giữa các mệnh đề đã được phát biểu với tính cách là những bổ trợ.

SỰ XÁC ĐỊNH "TRÌNH ĐỘ TRÍ TUỆ"

Những tri thức có được về tâm lí học tri khôn đã tạo ra ba thứ ứng dụng

không thuộc về đề tài của chúng tôi với tư cách là như thể, nhưng phải chỉ ra

những bài học bổ ích của nó nhằm kiểm tra các giả thuyết lí luận.

Ai cũng biết cách thế nào Binet với mục đích xác định mức độ chậm

tiến những người có khuyết tật đã đi đến việc tưởng tượng ra một thang đo

tuyệt vời để đo trí khôn. Là người phân tích tinh tế những quá trình của tư

duy, Binet biết hơn ai hết những khó khăn đạt tới, bằng việc đo, ngay cái cơ

chế của trí khôn. Nhưng chính là vì tình cảm tế nhị đó mà ông đã nhờ đến

một thứ thuyết hồn nhiên tâm lí học, tụ hội cùng Aimon những bài thi đa dạng

nhất và tìm cách xác định tần số những thành công căn cứ vào lứa tuổi: trí

khôn lúc đó được đánh giá ở những sự đi trước hoặc những chậm trễ tương

quan với tuổi thống kê trung bình của những lời giải đúng.

Không thể chối cãi rằng những text trình độ đó đã đem lại trên đại thể

những gì mà người ta chờ đợi ở chúng: một sự đánh giá nhanh chóng và

thực tế trình độ tổng thể của một con người. Song không kém phần hiển

nhiên là các text đó đo đơn thuần một "hiệu suất" mà không đạt tới những

thao tác tạo dựng với tính cách như thế. Như Pieron đã nói rất đúng, trí khôn

được quan niệm như vậy biểu đạt chủ yếu một phán đoán về giá trị đưa ra

cho một cư xử phức hợp.

Page 149: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Mặt khác, sau Binet người ta đã nhân các text lên, và người ta đã tìm

cách phân hoá chúng căn cứ vào những năng khiếu đặc biệt khác nhau.

Trong lĩnh vực riêng của trí khôn, người ta đã bằng cách đó xây dựng những

text về lập luận, về thấu hiểu, về các tri thức v.v... Vấn đề lúc này là rút ra

những tương hợp giữa các kết quả thống kê đó, với hi vọng tách ra và đo các

yếu tố khác nhau đang tác động trong cơ chế sâu xa của tư duy. Spearman

và trường phái của ông đã đặc biệt tận dụng với công việc này, với những

phương pháp thống kê chính xác và họ đã cuối cùng đi đến một giả thuyết về

sự can thiệp của một số yếu tố không đổi. Yếu tố chung nhất được Spearman

gọi là "yếu tố g", và giá trị của nó có quan hệ với trí khôn của cá nhân. Song,

như tác giả đó đã tự mình nhấn mạnh, yếu tố g chỉ biểu đạt đơn thuần "trí

khôn chung", tức là mức độ hiệu quả chung cho toàn bộ những năng lực cửa

chủ thể, người ta hầu như có thể nói tới chất lượng tổ chức thần kinh và tâm

linh làm cho một cá nhân có nhiều sự dễ dàng hơn những người khác trong

việc hoàn thành một công việc trí tuệ.

Cuối cùng người ta đã tìm cách phản ứng bằng một cách thức khác

chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm của những sự đo đơn giản hiệu suất bằng

mưu toan xác định ngay những thao tác mà một cá nhân nào đó có sẵn: thuật

ngữ thao tác lúc này được hiểu theo một nghĩa hạn chế và liên quan đến sự

tạo dựng phát sinh, như chúng tôi đã làm trong tác phẩm này. Chính như vậy

mà B.Inhelder đã sử dụng khái niệm "nhóm hợp" trong sự chẩn đoán về lập

luận. Bà đã có thể chứng minh rằng ở những người trí tuệ suy yếu (những

người thộn), trật tự thụ đắc các khái niệm bảo toàn chất liệu, trọng lượng và

thể tích được tìm thấy lại một cách nguyên vẹn: người ta không gặp cái cuối

cùng của ba cái bất biến đó (vả lại, chỉ có mặt ở những người chỉ đơn thuần

chậm tiến và xa lạ với người thộn) mà không có hai cái kia, cũng không tìm

thấy cái thứ hai mà không có cái đầu, trong khi người ta tìm thấy sự bảo toàn

chất liệu mà không có sự bảo toàn trọng lượng và thể tích và sự bảo toàn của

chất liệu và trọng lượng mà không có sự bảo toàn của thể tích. Bà đã có thể

đối lập sự suy yếu với sự đần độn bởi sự có mặt của những nhóm hợp cụ thể

(mà kẻ đần độn không có khả năng) và với sự chậm tiến đơn thuần, bởi sự

Page 150: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

bất lực về lập luận hình thức, tức là bởi sự kết thúc của việc tạo dựng thao

tác ở đó có một sự ứng dụng đầu tiên của một phương pháp có thể được

phát triển trong việc xác định các trình độ trí khôn nói chung.

Chương 6. NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRÍ KHÔN

Ngay từ lúc mới sinh ra, con người được ném vào một môi trường xã

hội nó tác động đến con người với cùng một tính cách như môi trường vật

thể. Ở một ý nghĩa nào đó, hơn cả môi trường vật thể, xã hội biến đổi con

người ở ngay cấu trúc của nó bởi vì xã hội không chỉ bó buộc con người phải

thừa nhận những sự việc, mà xã hội còn cung cấp một hệ thống hoàn toàn

được xây dựng sẵn những kí hiệu chúng làm biến đổi tư duy con người, nó

đề nghị với con người những giá trị mới và áp đặt cho con người một dãy vô

tận các bổn phận. Vậy thật là hiển nhiên rằng đời sống xã hội biến đổi trí khôn

bởi một trung gian ba bộ phận: ngôn ngữ (các kí hiệu), nội dung những trao

đổi (các giá trị tinh thần) và những quy tác áp đặt cho tư duy (chuẩn mực tập

thể lôgích học hoặc tiền lôgích học).

Ắt hẳn xã hội học cần xem xét xã hội như là một tổng thể, tuy rằng cái

tổng thể đó rất khác với tổng số các cá nhân, chỉ là tập hợp những quan hệ

hoặc những tác động qua lại giữa các cá nhân. Mỗi quan hệ giữa các cá nhân

(khởi đầu từ 2) quả là biến đổi những cá nhân đó và đã tạo ra một tổng thể,

sao cho cái tổng thể do toàn bộ xã hội hình thành là một hệ thống các quan

hệ chứ không phải là một sự vật, một sinh thể hay một sự nghiệp. Nhưng các

quan hệ đó cực nhiều và cực phức tạp, bởi vì chúng trên thực tế tạo thành

một màng liên tục trong lịch sử, bằng tác động của các thế hệ, thế hệ này lên

thế hệ khác, như một hệ thống đồng đại của sự cân bằng ở mỗi thời điểm của

lịch sử. Vậy điều chính đáng là tuân thủ một ngôn ngữ thống kê và nói về "xã

hội" như về một toàn thể gắn bó mạch lạc (theo cách mà một gestalt là kết

quả tổng hợp của một hệ thống kể về các quan hệ). Tuy nhiên, điều thiết yếu

Page 151: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

là nhớ lại tính chất thống kê của các biểu đạt của ngôn ngữ xã hội học,vì nếu

quên điều đó, người ta gắn cho các từ một ý nghĩa thần thoại. Trong xã hội

học của tư duy, người ta còn có thể tự hỏi xem có lợi hơn chăng thay thế

ngôn ngữ tổng thể thường dùng bằng việc nêu lên những quan hệ đang tác

động (những loại hình cũng có tính thống kê - lẽ tất nhiên).

Trái lại, khi nói đến tâm lí học, tức là khi mà đơn vị quy chiếu mà cá thể

được các quan hệ xã hội biến đổi chứ không còn là tập hợp hoặc những tập

hợp quan hệ với tư cách như thế, thật hoàn toàn không chính đáng nếu bằng

lòng với những thuật ngữ thống kê quá khái quát. "Tác động của đời sống xã

hội" là một khái niệm đúng là mơ hồ như khái niệm "tác động của môi trường

vật thể" nếu người ta từ chối đi vào chi tiết. Từ lúc sơ sinh đến cuộc sống

người lớn, sinh thể người là đối tượng của những áp lực xã hội, điều đó là rõ

ràng, song những áp lực ấy là thuộc loại hình cực kì đa dạng và phát huy ảnh

hưởng theo một trật tự phát triển nào đó. Cũng như môi trường vật thể không

chế ngự một lần và thành một khối đến trí khôn đang tiến hoá, mà người ta có

thể theo dõi từng bước các thụ đắc căn cứ vào kinh nghiệm, cũng vậy môi

trường xã hội gây ra những tác động qua lại, giữa cá nhân đang phát triển và

những người xung quanh, cực kì khác biệt nhau mà sự kế tục tuân theo các

quy luật. Chính là những loại hình tác động qua lại đó và những quy luật đó

của sự kế tục mà nhà tâm lí học phải thiết lập một cách cẩn thận, nếu không

thì sẽ tự giản lược công việc đến mức trút bỏ nó cho công việc của ngành xã

hội học. Mà thực không có một lí do nào cho sự xung đột giữa khoa học này

và tâm lí học ngay từ khi mà người ta thừa nhận cấu trúc của cá nhân được

các tác động qua lại đó biến đổi biết bao nhiêu: cả hai bộ môn khoa học đó sẽ

được lợi với một sự nghiên cứu vượt quá sự phân tích tổng thể để đi vào con

đường phân tích các quan hệ.

SỰ XÃ HỘI HÓA TRÍ KHÔN CÁ NHÂN

Tùy theo trình độ phát triển của cá nhân, những trao đổi mà nó nuôi

dưỡng với môi trường xã hội đều có tính chất rất đa dạng, và do đó quay lại

biến đổi cấu trúc tinh thần của cá nhân một cách cũng rất khác biệt.

Page 152: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Trong thời kì cảm giác - vận động, đứa hài nhi tất nhiên đã là đối tượng

của những ảnh hưởng xã hội nhiều mặt: người ta phân phát cho nó những

thú vui lớn nhất mà kinh nghiệm non trẻ của nó biết được - từ thức ăn đến hơi

ấm tình thương xung quanh - người ta vây quanh bé, mỉm cười với bé, an ủi

bé, người ta khắc sâu vào tâm trí bé những thói quen và những nền nếp gắn

liền với những dấu hiệu và những lời nói, người ta đã cấm bé một số cư xử,

người ta mắng mỏ bé. Tóm lại, nhìn từ bên ngoài, đứa hài nhi là trung tâm

của vô số quan hệ báo trước những kí hiệu, những giá trị và những quy tác

của cuộc sống xã hội về sau. Nhưng, theo cách nhìn của bản thân chủ thể,

môi trường xã hội chưa khác biệt gì nhiều lắm với môi trường vật thể, chí ít

cho đến giai đoạn thứ năm mà chúng ta đã phân biệt trong trí khôn cảm giác -

vận động (chương 4). Nhưng kí hiệu mà người ta dùng đối với nó, theo nó,

chỉ là những chỉ dẫn hay những dấu hiệu. Những quy tắc áp đặt cho nó chưa

phải là những bổn phận của lương tâm mà đối với nó trùng khớp với những

nền nếp đặc trưng cho thói quen. Còn về những con người, đó là những bức

tranh tương tự với mọi bức tranh tạo nên thực tế, nhưng đặc biệt sinh động,

bất ngờ và là nguồn gốc của những tình cảm mãnh liệt nhất. Đứa hài nhi tác

động lên họ như lên các đồ vật, bằng những cử chỉ có hiệu quả làm họ tiếp

tục những hoạt động thú vị và bằng những tiếng kêu khác nhau, nhưng ở đó

chưa có sự trao đổi ý nghĩ nào cả, vì bé ở lứa tuổi đó chưa biết đến tư duy,

và do đó chưa có một sự thay đổi sâu sắc nào của các cấu trúc trí tuệ bởi đời

sống xã hội xung quanh.

Với sự nắm được ngôn ngữ, tức là với những thời kì tượng trưng và

trực giác, những quan hệ xã hội mới xuất hiện; chúng làm phong phú và thay

đổi tư duy của cá nhân. Nhưng phải phân biệt về mặt này ba vấn đề:

Hệ thống những dấu hiệu tập thể, trước tiên, không tạo nên chức năng

tượng trưng, nhưng lẽ tất nhiên phát triển nó ở những tỉ lệ mà cá nhân riêng

rẽ một mình không biết đến. Tuy nhiên, kí hiệu với tư cách như thế, quy ước

(võ đoán) và làm sẵn, không đủ để trở thành phương tiện biểu đạt tư duy của

đứa bé: bé không bằng lòng với chỉ sự nói; nó phải "chơi" những gì nó nghĩ,

Page 153: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

tượng trưng ý tưởng của mình bằng sự bắt chước, hình vẽ và xây dựng. Tóm

lại, về phương diện bản thân sự biểu đạt, đứa bé lúc đầu ở trong một tình

huống trung gian giữa việc sử dụng những dấu hiệu tập thể và việc sử dụng

các tượng trưng cá nhân, cả hai luôn luôn đều là cần thiết, nhưng cái thứ hai

thật cần thiết hơn cho đứa trẻ so với người lớn.

Điểm thứ hai, ngôn ngữ trao cho cá nhân một hệ thống được chuẩn bị

sẵn những khái niệm, những phân loại, những quan hệ, tóm lại một tiềm năng

vô tận các khái niệm được dựng tạo ở mỗi người theo mẫu mà các thế hệ đi

trước đã luyện nên qua nhiều thế kỉ. Nhưng lẽ dĩ nhiên là ở tập hợp đó, đứa

bé bắt đầu chỉ mượn những gì hợp với nó, bỏ qua một cách ngạo mạn tất cả

những gì vượt quá trình độ trí tuệ của nó. Còn một điều nữa là những gì nó

vay mượn được đồng hoá theo cơ cấu trí tuệ của nó: một từ dành để chuyển

tải một khái niệm chung chỉ sản sinh ra một tiền - khái niệm, nửa - cá nhân và

nửa - xã hội hoá (như vậy từ "chim" gợi lên con hoàng yến thân thuộc).

Điểm thứ ba, còn lại là bản thân những quan hệ mà chủ thể nuôi dưỡng

với những người xung quanh, tức là những quan hệ đương đại đối lập với

những quá trình "lịch đại" mà đứa trẻ chịu ảnh hưởng khi thụ đắc ngôn ngữ

và các cách suy nghĩ gắn bó với nó. Mà các quan hệ đương đại này trước

tiên là cái chủ yếu: Khi nói chuyện với những người thân thấy ở mỗi lúc

những suy nghĩ của mình được tán thành hoặc phản đối, và nó khám phá ra

một thế giới mông mênh những suy nghĩ ở bên ngoài nó, chúng giáo dưỡng

nó hoặc gây ấn tượng cho nó bằng nhiều cách. Về phương diện trí khôn (là

cái duy nhất làm chúng ta quan tâm ở đây) trẻ được dẫn dắt đến một sự trao

đổi luôn luôn lớn hơn về những sự thật bắt buộc (ý kiến có sẵn hoặc chuẩn

mực thực sự của lập luận).

Tuy nhiên, cả ở đây nữa, không nên cường điệu và cũng không nên lẫn

lộn những năng lực đồng hoá riêng cho tư duy trực giác với cái mà chúng sẽ

trở thành ở trình độ thao tác. Quả vậy chúng ta đã thấy, ở những gì liên quan

đến sự thích nghi của tư duy với môi trường vật thể, rằng tư duy trực giác,

chiếm ưu thế cho đến khi kết thúc thời kì thơ bé (7 tuổi), được đặc trưng bởi

Page 154: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

một sự mất cân bằng chưa thu hẹp lại được giữa sự đồng hóa và sự điều

ứng. Một quan hệ trực giác luôn luôn là kết quả của một "sự tập trung" của tư

duy căn cứ vào hoạt động thực thụ, đối lập với "nhóm hợp" của tất cả các

quan hệ đang tác động: như vậy, tương quan giữa hai loại đồ vật chỉ được

công nhận trong sự tương quan với hành động làm cho chúng phù hợp và

mất đi ngay khi hành động đó được thay thế bằng một hành động khác. Vậy

tư duy trực giác luôn chứng tỏ một sự duy kỉ đang biến dạng, vì quan hệ

được công nhận là tương quan với hành động của chủ thể chứ không phải

phi tập trung hoá thành một hệ thống khách quan. Ngược lại và do chính sự

việc là tư duy trực giác là mỗi lúc "tập trung” vào môt quan hệ đã cho; nó là có

tính hiện tượng luận và chỉ có cái bề ngoài tri giác của nó là đạt tới cái thực

tại: vậy nó bị phó mặc cho những gợi ý của kinh nghiệm trực tiếp, mà nó sao

chép và bắt chước thay vì sửa chữa. Mà phản ứng của trí khôn ở trình độ này

với bản thân môi trường xã hội là hoàn toàn song song với phản ứng của nó

với môi trường vật thể, điều đó vả lại là đương nhiên, bởi vì hai thứ kinh

nghiệm ấy là không tách rời nhau trong thưc tế.

Một mặt, dù phụ thuộc đến mấy vào những ảnh hưởng trí tuệ xung

quanh, đứa bé đồng hoá chúng theo cách của nó. Nó quy chúng vào cách

nhìn của nó và vì vậy biến dạng chúng mà không biết, do một sự việc duy

nhất là nó chưa phân biệt cách nhìn đó với cách nhìn của những người khác,

vì thiếu sự kết hợp hoặc "nhóm hợp" bản thân các quan điểm. Nó duy kỉ do

sự vô thức về tính chủ thể của nó trên bình diện xã hội cũng như trên bình

diện vật thể. Ví dụ: trẻ có thể chỉ ra bàn tay phải của mình, nhưng lẫn lộn các

quan hệ với đối tác ngồi trước mặt nó, vì đã không đặt mình vào chỗ đứng để

nhìn khác, về mặt xã hội cũng như về mặt hình học; chúng ta đã nhận ra rằng

cũng như vậy trong các vấn đề phối cảnh trước tiên nó cho người khác mượn

cách nhìn sự vật của bản thân nó; trong các vấn đề về thời gian còn xảy ra cả

việc, là một đứa bé, trong khi tuyên bố ba nó già hơn nó nhiều, tin rằng ba

sinh ra "sau" nó, vì không "nhớ" trước đó nó đã làm gì! Tóm lại sự tập trung

của trực giác đối lập với sự phi tập trung hoá của thao tác, được nhân đôi lên

như vậy bằng tính trội nhất của vô thức và càng có tính hệ thống hơn về chỗ

Page 155: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đứng nhìn riêng. Tính duy kĩ trí tuệ đó trong cả hai trường hợp không là gì

hơn một khuyết tật của sự phối hợp, một sự thiếu sự "nhóm hợp" các quan hệ

với những cá nhân khác cũng như với các sự vật. Ở đó chỉ là điều hết sức tự

nhiên: tính trội nhất của chỗ đứng nhìn riêng, cũng như sự tập trung trực giác

căn cứ vào hành động riêng, chỉ là sự biểu hiện của một sự phi phân hoá ban

đầu, của một sự đồng hoá biến dạng, vì được chỗ đúng nhìn duy nhất có thể

có khi xuất phát. Một sự phi phân hoá như vậy quả là tất yếu, bởi vì sự phân

biệt các chỗ đứng nhìn và sự kết hợp của chúng đòi hỏi cả một công việc của

trí khôn.

Nhưng, bởi sự việc là tính duy kỉ ban đầu là kết quả của một sự không

phân hoá đơn giản giữa cái tôi và người khác, chủ thể coi như phải chịu,

đúng là trong cùng một thời kì, những gợi ý và những câu thúc của những

người xung quanh mà nó tự điều ứng không phê phán, chính là vì không ý

thức được tính chất riêng của chỗ đứng nhìn của mình (như vậy thường xẩy

ra cho đứa bé là không ý thức được đương bắt chước, tưởng rằng đã có

sáng tạo ra mẫu, cũng như là xẩy ra việc cho người khác mượn những ý

tưởng vốn của riêng mình). Do đó, điểm đỉnh của tính duy kỉ trùng khớp, trong

sự phát triển với điểm đỉnh của áp lực những tấm gương và những dư luận

của những người xung quanh và sự trộn lẫn sự đồng hoá vào cái tôi với sự

điều ứng với các hình mẫu xung quanh cũng có thể giải nghĩa được như sự

trộn lẫn giữa tính duy kỉ và hiện tượng luận đặc trưng cho trực giác của

những quan hệ vật thể.

Tuy nhiên, rõ ràng là trong những điều kiện ấy (những điều kiện mà tất

cả rút lại ở sự vắng mặt cái nhóm hợp) những câu thúc của những người

xung quanh không thể đủ để sản sinh ra một lôgich học trong trí óc của đứa

trẻ, dẫu cho những sự thật mà chúng áp đặt là hợp lí ở nội dung của những

sự thật đó: lặp lại những ý kiến đúng, cả khi nghĩ rằng chúng xuất phát từ bản

thân, không có nghĩa là lập luận đúng, trái lại, để dạy cho người khác lập luận

một cách lôgich cần thiết phải thiết lập giữa họ và mình những quan hệ phân

hoá và nghịch đảo xen kẽ, đặc trưng cho sự phối hợp các quan điểm.

Page 156: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Tóm lại, ở trình độ tiền - thao tác, trải ra từ lúc xuất hiện ngôn ngữ đến

năm khoảng 7-8 tuổi, những cấu trúc riêng của tư duy đang nảy nở loại trừ sự

hình thành những quan hệ xã hội của sự hợp tác mà chỉ chúng đem lại sự tạo

thành một lôgich học: dao động giữa tính duy kỉ làm biến dạng và sự thừa

nhận thụ động những câu thúc của trí tuệ, trẻ em chưa phải là đối tượng của

một sự xã hội hoá trí khôn, nó có thể làm thay đổi sâu sắc cơ chế.

Chính ở các trình độ của sự tạo dựng những nhóm hợp các thao tác cụ

thể rồi sau đó, nhất là các thao tác hình thức, mà trong sự phát triển của tư

duy trái lại, vấn đề của những vai trò tương ứng của sự trao đổi xã hội và

những cấu trúc cá nhân được đặt ra trong toàn bộ sự gay gắt của nó. Lôgich

học chân chính, được cấu tạo trong hai thời kì đó, đi kèm với hai loại đặc tính

xã hội mà đúng là phải xác định xem chúng là kết quả của sự xuất hiện các

nhóm hợp hoặc chúng là nguyên nhân của sự xuất hiện đó. Một mặt, dần dà

theo mức mà các trực giác được khớp nối và kết thúc bằng sự nhóm hợp lại

theo thao tác, trẻ ngày càng trở nên có năng lực hợp tác hơn, mà hợp tác là

một quan hệ xã hội khác với sự câu thúc ở chỗ là nó giả định một sự nghịch

đảo giữa các cá nhân biết phân biệt các quan điểm của nhau. Trong phạm vi

trí khôn, sự hợp tác là sự thảo luận được dẫn dắt một cách khách quan, từ đó

mà có sự thảo luận được nội hiện - là sự cân nhắc và sự suy nghĩ, sự hợp tác

trong lao động, sự trao đổi ý kiến, sự kiểm soát lẫn nhau (nguồn gốc của nhu

cầu kiểm tra và sự chứng minh) v.v... Vậy rõ ràng là sự hợp tác là ở điểm

xuất phát của một loạt cư xử quan trọng để tạo dựng và phát triển lôgich học.

Mặt khác, bản thân lôgích học không đơn thuần bao gồm, trên quan điểm,

tâm lí học là quan điểm của chúng ta ở đây, một hệ thống thao tác tự do: nó

thể hiện bằng một tập hợp của trạng thái ý thức, tình cảm trí tuệ và các cư xử,

tất cả được đặc trưng bởi những nghĩa vụ nào đó mà ta khó có thể đặt vấn đề

nghi ngờ tính chất xã hội - dù nó là khởi thuỷ hoặc phát sinh. Nhìn nhận dưới

góc độ đó, lôgích học bao gồm những quy tắc trong chuẩn mực chung: nó là

một thứ đạo đức của tư duy, được những người khác áp đặt và xác nhận.

Chính vì vậy mà nghĩa vụ không nói trái lại mình không đơn giản chỉ là một sự

bắt buộc có điều kiện (một mệnh lệnh giả định) đối với ai muốn uốn mình theo

Page 157: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

những bắt buộc của trò chơi thao tác: nó cũng là một mệnh lệnh đạo đức (dứt

khoát) với tư cách là do sự trao đổi trí tuệ và sự hợp tác đòi hỏi. Và trên thực

tế, chính là đối với người khác trước tiên mà đứa trẻ tìm cách tránh sự nói trái

lại. Cũng vậy, tính khách quan, nhu cầu kiểm tra sự cần thiết giữ gìn cho các

từ và các ý nghĩa của chúng... cũng là bấy nhiêu nghĩa vụ xã hội cũng như

những điều kiện của tư duy thao tác.

Một câu hỏi được đặt ra lúc này một cách bức thiết: cái "nhóm hợp" là

nguyên nhân hay kết quả của sự hợp tác? Cái nhóm hợp là một sự kết hợp

các thao tác, tức là những hành động mà cá nhân với tới được. Sự hợp tác là

một kết hợp các quan điểm hoặc hành động xuất phát tương ứng từ các cá

nhân. Sự gần gũi của chúng là tất nhiên, nhưng phải chăng sự phát triển thao

tác bên trong của cá nhân làm cho nó có thể cộng tác với những cá nhân

khác hoặc sự hợp tác bên ngoài sau đó được nội hiện trong nó buộc nó phải

nhóm các hành động của nó thành nhưng hệ thống thao tác?

CÁC "NHÓM HỢP" THAO TÁC VÀ SỰ HỢP TÁC

Với một câu hỏi như vậy chắc phải đưa ra hai câu trả lời khác biệt và

bổ sung cho nhau. Một câu trả lời là: không có trao đổi ý nghĩa và sự hợp tác

với người khác, cá nhân không đạt được tới việc nhóm các thao tác của mình

thành một toàn thể mạch lạc: ở ý nghĩa đó sự nhóm hợp thao tác giả định đời

sống xã hội. Nhưng mặt khác, bản thân những trao đổi ý nghĩ tuân theo một

luật cân bằng, luật này lại chỉ có thể là một, nhóm hợp thao tác bởi vì cộng tác

còn là kết hợp các thao tác. Sự nhóm hợp vậy là một hình thức cân bằng các

hành động liên - cá nhân như những hành động cá nhân, và nó tìm thấy lại

bằng cách đó sự tự trị của nó ngay trong lòng của đời sống xã hội.

Quả vậy, thật khó hiểu được cách thế nào cá nhân đạt tới việc nhóm

chính xác các thao tác của mình và do đó thay đổi những biểu tượng trực

giác thành thao tác mang tính bắc cầu nghịch đảo, đồng nhất và có khả năng

kết hợp mà không có sự trao đổi các ý nghĩ. Sự nhóm hợp bao hàm chủ yếu

việc giải phóng khỏi cách nhìn duy kỉ những tri giác và trực giác hồn nhiên

của cá nhân, để tạo dựng một hệ thống các quan hệ sao cho người ta có thể

Page 158: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chuyển từ một số hạng hay tỉ số sang một số hạng hay tỉ số khác, từ bất luận

chỗ đứng nhìn nào. Cái nhóm hợp do đó trên nguyên tắc là một sự phối hợp

các quan điểm, và điều đó có nghĩa là một sự kết hợp giữa những người

quan sát, tức là một sự cộng tác của nhiều cá nhân.

Tuy nhiên hãy giả định, với lẽ thường, rằng một cá nhân cao cấp, trong

khi thay đổi vô hạn các quan điểm đạt tới việc chỉ riêng mình kết hợp các

quan điểm đó lại với nhau sao cho đảm bảo sự nhóm hợp chúng lại. Nhưng

làm sao chỉ một cá nhân duy nhất, dẫu có được một kinh nghiệm đủ vững, có

thể cuối cùng nhớ lại được những quan điểm trước của mình, tức là tập hợp

những quan hệ mà nó tri giác được nhưng hiện nó không còn tri giác nữa?

Nếu nó có khả năng làm điều đó, tức là nó đã đạt kết quả xây dựng một kiểu

trao đổi giữa những trạng thái liên tiếp và đa dạng của nó, tức là tự cho mình,

bằng những ước lệ liên tiếp với mình một hệ thống ký pháp có khả năng củng

cố những điều nhớ của mình và chuyển dịch nó thành một ngôn ngữ biểu

tượng: vậy là nó đã thực hiện được một "xã hội" giữa những cái "tôi" khác

nhau của nó! Trên thực tế, đúng là sự trao đổi thường xuyên cái ý nghĩ người

khác nó cho phép ta phi tập trung hoá như vậy và bảo đảm cho chúng ta khả

năng kết hợp ở bên trong cái quan hệ xuất phát từ những quan điểm khác

nhau. Đặc biệt người ta không thấy rõ cách thế nào, không có sự hợp tác, các

khái niệm bảo toàn nghĩa thường xuyên của chúng và định nghĩa của chúng:

tính nghịch đảo của tư duy như vậy là gắn liền với một sự bảo toàn, tập thể

mà ở ngoài nó tư duy cá nhân chỉ sẵn có một sự cơ động cực kì thu hẹp hơn.

Nói vậy và do đó thừa nhận rằng một tư duy lôgích là tất yếu có tính xã

hội, không phải vì thế mà không thấy rằng những quy luật nhóm hợp tạo

thành những hình thức cân bằng chung, biểu đạt cả sự cân bằng liên cá nhân

cũng như sự cân bằng của các thao tác mà mọi cá nhân được xã hội hoá đều

có thể đạt tới khi nó lập luận ở bên trong, theo những ý tưởng riêng tư nhất

và mới nhất của nó. Nói rằng cá nhân chỉ đạt tới lôgích học nhờ có sự cộng

tác chẳng khác nào đơn giản giả định rằng sự cân bằng của thao tác của nó

phụ thuộc vào một dung lượng vô hạn các trao đổi với người khác, tức là vào

Page 159: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

một sự có đi có lại hoàn toàn. Nhưng lời khẳng định đó chỉ là hiển nhiên, vì sự

nhóm hợp chính xác đã là ở bản thân nó một hệ thống các tính có đi có lại (hỗ

tương).

Hơn nữa, nếu hỏi một trao đổi ý nghĩ giữa các cá nhân là gì, người ta

thấy rằng nó bao hàm chủ yếu những hệ thống đặt các trao đổi giao lưu, tức

là đặt các "nhóm hợp" thật xác định: với một mối quan hệ nào đó được xác

định từ quan điểm của A tương ứng sau trao đổi một quan hệ nào đó từ quan

điểm của B, và một thao tác nào đó được A thực hiện tương ứng (dù nó là

tương đương hay chỉ đơn giản là có qua có lại (hỗ tương) với một thao tác

được B thực hiện. Chính là những sự tương hợp đó xác định, đối với mỗi vị trí

do A hoặc B phát biểu, sự hoà hợp (hoặc, vào trường hợp không có sự tương

hợp, sự bất hoà) của các đối tác, nghĩa vụ mà họ có để bảo toàn các mệnh

đề đã được thừa nhận và giá trị lâu dài của những mệnh đề này cho những

trao đổi tiếp theo. Sự trao đổi trí tuệ giữa các cá nhân vậy là có thể so sánh

với một trận đánh cờ mênh mông được tiếp tục không cố ngừng lại và sao

cho mỗi hành động được thực hiện ở một điểm kéo theo một loạt hành động

tương đương hoặc bổ sung về phía các đối tác: các quy luật của nhóm hợp

không là gì khác ngoài những quy tác khác nhau bảo đảm sự có đi có lại của

những đối thủ và sự mạch lạc của trận chơi của họ.

Chính xác hơn, mỗi nhóm hợp bên trong các cá nhân là một hệ thống

thao tác, và sự hợp tác tạo thành một hệ thống các thao tác được tiến hành

chung tức là theo nghĩa đen, những đường - thao tác, những sự hợp tác.

Tuy nhiên, sẽ là không đúng nếu kết luận rằng các quy luật của nhóm

hợp là cao hơn sự hợp tác và tư duy cá nhân: chúng chỉ tạp thành, chúng tôi

xin nhắc lại, những quy luật cân bằng và chỉ đơn giản biểu hiện hình thức cân

bằng đặc biệt này đạt được một mặt khi xã hội không còn thực hiện những

cấu trúc làm biến dạng đối với cá nhân, mà làm sống động và nuôi dưỡng tác

động tự do của những hoạt động trí tuệ của chúng và mặt khác khi tác động

tự do đó của tư duy mỗi người không làm biến dạng tư duy của những cá

nhân khác và cũng không làm biến dạng các sự vật, mà tôn trọng sự tương

Page 160: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hợp giữa các hoạt động khác nhau. Được xác định như vậy, hình thức cân

bằng này không thể được coi như kết quả của tư duy cá nhân duy nhất, càng

không thể coi là sản phẩm của riêng xã hội: hoạt động thao tác bên trong và

sự hợp tác bên ngoài chỉ là, theo nghĩa chính xác nhất của các từ, hai mặt bổ

sung nhau của cùng một tập hợp duy nhất vì sự cân bằng của cái này phụ

thuộc vào sự cân bằng của cái kia. Hơn nữa, vì một sự cân bằng không bao

giờ đạt được một cách trọn vẹn trong thực tế, còn phải xem xét hình thức lí

tưởng mà lôgích học mô tả một cách theo thuyết tiên đề. Nhà lôgích học thao

tác trong lí tưởng (do đối lập với thực tại) và có quyền lưu lại ở đó, bởi vì sự

cân bằng mà ông nghiên cứu không bao giờ hoàn toàn hoàn chỉnh và bao giờ

cũng được phản chiếu lên cao hơn nữa, dần dấn tính theo những cấu tạo

thực hiện mới. Còn về các nhà xã hội học và tâm lí học, họ chỉ có thể nhờ cậy

vào nhau khi họ tìm kiếm cách thức mà sự cân bằng hoá đó được thực hiện

trong thực tế.

Kết luận. NHỊP ĐIỆU, ĐIỀU TIẾT VÀ NHÓM HỢP

Nói tóm lại, trí khôn xuất hiện như một sự cấu trúc hóa in một số hình

thức vào các trao đổi giữa một hay nhiều chủ thể với các khách thể chung

quanh, gần hoặc xa. Sự độc đáo của nó nằm chủ yếu ở tính chất của các

hình thức mà nó tạo dựng nhằm mục đích đó.

Bản thân cuộc sống cũng đã "sáng tạo ra các hình thức", như Brachet

đã nói. Dĩ nhiên các "hình thức” sinh học đó là những hình thức của cơ thể,

của mỗi một trong các cơ quan của nó và của những trao đổi vật chất mà

chúng bảo đảm với môi trường. Nhưng, cùng với bản năng, các hình thức

sinh lí - giải phẫu tăng gấp đôi các trao đổi chức năng, tức là những "hình

thức" cư xử. Quả vậy, bản năng chỉ là một sự kéo dài chức năng của cấu trúc

cơ quan: mỏ của một cái cuốc chim tự kéo dài thành bản năng đập mạnh; một

bàn chân đào bới thành bản năng lục lọi; v.v... Bản năng là cái lôgich của các

cơ quan, và chính là với tính cách đó mà nó đạt đến những cư xử mà sự thực

Page 161: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hiện trên bình diện những thao tác thực sự, thường giả định một trí khôn kì

diệu dẫu rằng các "hình thức" có thể tỏ ra lúc mới gặp là tương tự (như trong

việc tìm đồ vật ở ngoài trường tri giác và ở các khoảng cách khác nhau).

Thói quen, sự tri giác tạo nên những "hình thức” khác như lí thuyết

Gestalt đã nhấn mạnh bằng cách rút ra những quy luật của tổ chức của

chúng. Tư duy trực giác lại còn trình bày những quy luật mới nữa. Còn về trí

khôn thao tác, nó được đặc trưng, như chúng tôi không ngừng lưu ý, bởi

những "hình thức" cơ động và có tính nghịch đảo mà các nhóm và các nhóm

hợp tạo thành.

Vì muốn đặt lại, vào trong những cân nhăc sinh học mà từ đó chúng ta

đã ra đi (chương 1), những gì mà sự phân tích các thao tác của trí khôn đã

bảo cho chúng ta, vậy vấn đề là để kết luận, đặt những cấu trúc thao tác trong

toàn bộ những "hình thức" có thể có. Mà một hành vi thao tác có thể giống

gần sát bởi nội dung của nó, với một hành vi trực giác, một hành vi cảm giác -

vận động hoặc tri giác và cả với một hành vi do bản năng: một hình hình học

có thể là sản phẩm của một sự tạo dựng lôgich học, của một trực giác tiền -

thao tác, của một tri giác, của một thói quen được tự động hóa và cả của một

bản năng xây dựng. Sự khác nhau giữa các trình độ khác nhau vậy là không

nằm ở nội dung, tức là ở các "hình thức” được như thể là vật chất hóa - là kết

quả của hành vi - mà nằm ở cái "hình thức" của bản thân hành vi và của tổ

chức dần dà của nó. Trong trường hợp của trí khôn suy ngẫm đạt đến sự cân

bằng của nó, hình thức đó bao gồm một "nhóm hợp" nào đó của các thao tác.

Trong những trường hợp nằm rải ra giữa tri giác và tư duy trực giác, hình

thức của cư xử là của một sự điều chỉnh, ít nhiều nhanh hoặc chậm (đôi khi

gần như tức thời), nhưng luôn luôn tiến hành bằng những "điều tiết". Trong

trường hợp của sự cư xử bản năng hay phản xạ, cuối cùng đây là một sự lắp

ráp - tương đối hoàn chỉnh, cứng, liền một khoảnh và vận hành bằng những

lặp lại chu kì hoặc bằng "nhịp điệu". Trật tự kế tiếp của các cấu trúc hoặc

"hình thức" cơ bản có liên quan đến sự phát triển của trí khôn sẽ như sau:

nhịp điệu, điều tiết và nhóm hợp.

Page 162: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Các nhu cầu của cơ thể hoặc của bản năng tạo thành những động cơ

của những cư xử sơ đẳng là theo chu kì và tuân thủ một cấu trúc nhịp điệu:

cái đói, cái khát, sự khao khát tình dục, v.v... Còn như những lắp ráp phản xạ

cho phép thỏa mãn chúng và tạo thành cơ sở hạ tầng của đời sống tinh thần,

ngày nay người ta biết khá đầy đủ rằng chúng tạo thành một hệ thống tổng

thể và không là kết quả của một sự cộng các phản ứng sơ đẳng: sự đi lại của

một động vật hai chân và nhất là của động vật bốn chân (mà sự tổ chức

chứng tỏ, theo Graham Brown, một nhịp điệu tổng thể chế ngự và cả đi trước

những phản xạ đã được phân hóa), những phản xạ rất phức hợp bảo đảm

cho đứa hài nhi bú v.v... và đến cả những vận động xung động đặc trưng cho

sự ứng xử của đứa hài nhi, có một sự vận hành mà hình thức nhịp điệu là

hiển nhiên. Những ứng xử bản năng, thường được chuyên môn hóa đến thế,

của con vật bản thân chúng cũng bao gồm những chuỗi rất xác định những

vận động cung cấp hình ảnh của một nhịp điệu nào đó, bởi vì chúng lặp lại

theo chu kì với khoảng cách không đổi. Nhịp điệu vậy là đặc trưng cho những

vận hành nằm ở điểm nối của các cuộc sống cơ thể và đời sống tinh thần, và

điều đó là thật đến mức ngav trong lĩnh vực của những tri giác sơ đẳng hoặc

của các cảm xúc, sự chừng mực của tính xúc cảm nêu rõ sự tồn tại của

những nhịp điệu nguyên thủy, hoàn toàn thoát khỏi ý thức của chủ thể. Nhịp

điệu cũng là nền tảng của mọi vận động, kể cả những vận động tạo thành thói

quen vận động.

Mà nhịp điệu có một cấu trúc đáng nhớ để đặt trí khôn vào tập hợp

những "hình thức" sống động, vì kiểu liên kết mà nó đòi hỏi đã báo trước, một

cách sơ đẳng, cái sẽ là tính nghịch đảo đặc trưng cho những thao tác cao

cấp. Khi người ta xem xét những tăng cường và những ức chế phản xạ đặc

biệt, hoặc nói chung, một dãy vận động được định hướng theo những chiều

luân phiên trái ngược nhau, sơ đồ của nhịp điệu luôn luôn đòi hỏi, cách này

hay cách khác, sự xen kẽ của hai quá trình đối kháng vận hành một cái theo

hướng A — B và cái kia theo hướng ngược lại B - A. Đúng là trong một hệ

thống các điều tiết tri giác, trực giác hoặc có quan hệ với những vận động kết

hợp căn cứ vào kinh nghiệm, cùng có những quá trình được định hướng theo

Page 163: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

chiều ngược lại: nhưng chúng lúc đó kế tiếp nhau không đều đặn và trong

quan hệ với những "chuyển chỗ cân bằng" do một tình huống mới bên ngoài

gây ra. Những vận động đối kháng đặc thù của nhịp điệu, trái lại, được điều

chỉnh bằng chính sự lắp ráp bên trong (và di truyền) và do đó có một sự đều

đặn cứng và liền khoảnh hơn nhiều. Sự khác biệt còn lớn hơn giữa nhịp điệu

và các "thao tác ngược" riêng của sự nghịch đảo thông minh, nó là cố ý và

gắn liền với những phối hợp cơ động vô cùng của "nhóm hợp".

Nhịp điệu di truyền như vậy là bảo đảm một sự bảo toàn nào đó của

các cư xử, sự bảo toàn đó hoàn toàn không loại trừ sự phức hợp của ngay cả

một sự uyển chuyển tương đối (người ta đã cường điệu sự cứng cỏi của các

bản năng). Nhưng trong chừng mực mà người ta dừng lại ở những lắp ráp

bẩm sinh, sự bảo toàn này của các sem chu kì chứng tỏ một sự phi phân hóa

triệt để giữa sự đồng hóa các khách thể với hoạt động của chủ thể, và sự

điều ứng của hoạt động này với những thay đổi có thể có của hoàn cảnh bên

ngoài.

Với những thụ đắc do kinh nghiệm, sự điều ủng trái lại được phân hóa

và trong cùng chừng mực đó các nhịp điệu sơ đẳng được hòa nhập vào

những hệ thống rộng lớn hơn không còn cung cấp những tính chu kì đều đặn.

Trái lại, một cấu trúc chung thứ hai lúc đó hiện ra, nó kéo dài tính chu kì ban

đầu và bao hàm những điều tiết: chính chúng mà chúng ta đã bắt gặp từ tri

giác đến bản thân những trực giác tiền thao tác. Một tri giác, chẳng hạn, luôn

luôn tạo thành một hệ thống tổng thể các quan hệ và như vậy có thể được

quan niệm như là hình thức cân bằng nhất thời của nhiều nhịp điệu sơ đẳng

của giác quan, tụ hội lại hoặc giao thoa theo nhiều kiểu. Hệ thống đó có xu

hướng tự bảo toàn với tính cách là một toàn bộ, trong chừng mực mà những

dữ kiện bên ngoài không thay đổi; nhưng ngay khi chúng thay đổi, sự điều

ứng vào những dữ kiện mới mang theo một "di chuyển sự cân bằng". Tuy

nhiên những di chuyển này không phải là không có giới hạn và sự cân bằng

được tái lập tùy thuộc ở sự đồng hóa vào các sem tri giác có trước, biểu lộ

một xu hướng phản ứng lại theo chiều ngược với sự thay đổi bên ngoài. Vậy

Page 164: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

có điều tiết, tức là có sự can thiệp của các quá trình đối kháng so sánh được

với những quá trình đã biểu lộ trong những vận động theo chu kì, nhưng hiện

tượng bây giờ xẩy ra ở một quy mô cao hơn, phức hợp hơn và rộng rãi hơn

nhiều, và không có tính chu kì bắt buộc.

Cấu trúc này, mà đặc trưng là sự tồn tại của những điều tiết, không

riêng biệt cho sự tri giác. Chính người ta tìm thấy lại nó trong những "sửa

chữa" riêng cho những thụ đắc các vận động. Một cách khái quát, toàn bộ sự

phát triển cảm giác - vận động, cho đến kể cả những trình độ khác nhau của

trí khôn cảm giác - vận động, biểu lộ những hệ thống tương tự. Chỉ trong một

trường hợp có lợi thế, trường hợp của những chuyển chỗ thực sự có trở về

và có quay đi, mà hệ thống có xu hướng đạt tới tính nghịch đảo và như vậy

báo trước sự nhóm hợp. Trong những trường hợp chung, trái lại, một sự điều

tiết ttrong khi giảm bớt và sửa chữa những thay đổi gây rối và do vậy, tiến

hành ở chiều ngược lại so với những biến đổi trước, không đạt tới tính nghịch

đảo hoàn toàn, vì thiếu sự ăn khớp đầy đủ giữa đồng hóa và điều ứng.

Đặc biệt, trên bình diện của tư duy đang nảy nở, những tập trung hóa

trực giác và tính duy kỉ đặc thù cho các quan hệ được liên tiếp tạo dựng giữ

tư duy ở trạng thái không thể nghịch đảo, như chúng ta đã thấy ở chương 5

khi nói về những không - bảo toàn. Những thay đổi trực giác chỉ được "đền

bù" bởi một trò điều tiết dần dần làm cho hài hòa sự đồng hóa và sự điều tiết

và bảo đảm một mình sự điều chỉnh của tư duy phi - thao tác trong tiến trình

những mầy mò bên trong của sự biểu tượng.

Mà thật dễ thấy rằng những điều tiết đó, mà các loại hình khác nhau

xếp thành dây từ những tri giác và thói quen sơ đẳng đến bản thân của

những thao tác, bản thân chúng cũng bắt nguồn từ các "nhịp điệu" ban đầu

một cách khá liên tục. Trước tiên, nên nhớ lại rằng những thụ đắc đầu tiên, kế

tiếp ngay với sự luyện tập những lắp ráp di truyền, còn có một hình thức nhịp

điệu: những "phản ứng vòng tròn" ở điểm xuất phát của những thói quen

được nhiễm một cách tích cực, bao gồm những sự lặp lại có tính chu kì rất rõ

rệt. Những sự đo bằng tri giác thuộc về những đại lượng hoặc những hình

Page 165: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

dạng phức hợp (và không chỉ thuộc về tính nhạy cảm tuyệt đối) chứng tỏ còn

có những dao động liên tục xung quanh một điểm cân bằng đã định. Mặt khác

người ta có thể giả định rằng những thành phần tương tự với những thành

phần xác định những bước xen kẽ hoặc đối lập đặc trưng cho nhịp điệu (A ->

B và B -> A) được tìm thấy lại trong một hệ thống tổng thể có khả năng điều

tiết, nhưng hiện ra liên tiếp và ở thế cân bằng nhất thời cái này với cái kia,

thay vì chiếm ưu thế mỗi cái luân phiên: vì vậy, khi sự cân bằng đó thay đổi,

xảy ra sự "chuyển chỗ của cân bằng" và xuất hiện một xu hướng chống lại

những thay đổi bên ngoài, tức là "giảm bớt" sự thay đổi phải chịu (như người

ta nói trong vật lí học trong trường hợp của cơ chế nổi tiếng mà Le Chatelier

đã mô tả. Vậy người ta có thể hình dung rằng khi các thành phần của hành

động tạo thành những hệ thống tĩnh tại tổng thể, những vận động định hướng

theo chiều trái ngược lẫn nhau (mà sự xen kẽ đưa lại những pha khác biệt và

nối tiếp của nhịp điệu) được đồng bộ hóa và biểu thị những yếu tố của sự cân

bằng của hệ thống. Trong trường hợp có những thay đổi bên ngoài, sự cân

bằng chuyển chỗ do sự nhấn mạnh của một trong những xu hướng đang tác

động, song sự nhấn mạnh đó sớm hay muộn sẽ bị xu hướng trái lại hạn chế:

lúc đó chính là sự đảo chiều này xác định sự điều tiết.

Bây giờ người ta hiểu tính chất của tính nghịch đảo riêng của trí khôn

thao tác và cách thức mà các thao tác ngược lại của nhóm hợp xuất phát từ

những điều tiết không chỉ trực giác, mà còn cảm giác - vận động và tri giác.

Những nhịp điệu phản xạ, trong dáng đi tổng thể của chúng, là không nghịch

đảo và được định hướng theo một chiều xác định: thực hiện một vận động

(hoặc một tổ hợp vận động), ngưng lại và trở về điểm xuất phát để lặp lại nó

theo cùng chiều, những pha liên tiếp của chúng là như vậy và nếu pha trở về

(hoặc đối lập) đảo ngược lại những vận động ban đầu, đó không phải là một

hành động thứ hai có cùng một giá trị như pha dương (thuận), mà là một sự

trở lại, nó xác định một sự bắt đầu lại được định hướng theb cùng một chiều.

Tuy nhiên, pha đối lập của nhịp điệu là ở điểm xuất phát của sự điều tiết và ở

bên kia sự điều tiết này, là những "thao tác ngược" của trí tuệ; và người ta đã

có thể hình dung mọi nhịp điệu như một hệ thống những điều tiết xen kẽ và

Page 166: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

được tụ hội thành một toàn bộ duy nhất của sự nối tiếp. Còn vẽ sự điều tiết,

nó tạo thành sản phẩm của một nhịp điệu tổng thể mà các thành phần sẽ trở

thành đồng thời, nó đặc trưng cho những cư xử còn không nghịch đảo được,

song tính nghịch đảo đó có bước tiến so với tính nghịch đảo của các cư xử

trước. Trên bình diện tri giác, sự đảo nguợc một ảo ảnh giả định rằng một tỉ

số (chẳng hạn vẽ sự giống nhau) trội hơn tỉ số nghịch (sự khác nhau) từ một

sự cường điệu nào đó của cái sau, và ngược lại. Trong lĩnh vực của tư duy

trực giác, vấn đề còn rõ ràng hơn: tỉ số bị sự tập trung chú ý xem nhẹ khi nó

gắn bó với một tỉ số khác, chế ngự trở lại tỉ số sau khi sự sai lầm đi qua

những giới hạn nào đó. Sự phi tập trung hóa, nguồn gốc của điều tiết, trong

trường hợp này kết thúc ở một cái tương đương trực giác của những thao tác

ngược, đặc biệt khi những đón trước và những tái tạo của biểu tượng tăng

thêm độ rộng của nó và làm cho nó như là tức thời, điều sẽ ngày càng được

sản sinh ra ở trình độ những "trực giác được khớp nối" (chương 5). Vậy chỉ

cần sự điều tiết cuối cùng dẫn đến những đền bù trọn vẹn (đó chính là những

trực giác được nối khớp hướng tới) để cho thao tác xuất hiện qua ngay sự

việc: quả vậy, các thao tác không là gì ngoài một hệ thống những thay đổi

được kết hợp và trở thành có thể nghịch đảo cho dù sự phối hợp của chúng

có thế nào đi nữa.

Vậy chính là trong cái nghĩa cụ thể nhất và chính xác nhất mà người ta

có thể quan niệm các nhóm hợp thao tác của trí khôn như là "hình thức" kết

thúc mà các chức năng cảm giác - vận động về biểu tượng hướng tới trong

tiến trình phát triển của chúng, và quan niệm đó cho phép hiểu sự thống nhất

chức năng sâu sắc của sự tiến hóa của trí tuệ, trong khi vẫn ghi nhận những

khác biệt về tính chất phân biệt các cấu trúc riêng của các giai đoạn liên tiếp.

Dẫu sớm đạt được tính nghịch đảo trọn vẹn, giới hạn của một quy trình liên

tục, nhưng giới hạn có những đặc tính rất khác với những đặc tính các giai

đoạn trước bởi vì nó đánh dấu sự đi đến nơi bản thân sự cân bằng - các thể

kết tụ cho đến lúc này cứng rắn trở nên có khả năng cơ động trong cấu tạo,

nó làm cho tính ổn định của chúng được bảo đảm, bởi vì sự điều ứng với kinh

nghiệm lúc đó tỏ ra cân bằng thường xuyên, dẫu những thao tác được thực

Page 167: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hiện với sự đồng hóa được ngay sự việc nâng lên hàng diễn dịch cần thiết, là

thế nào đi nữa.

Nhịp điệu, điều tiết và "nhóm hợp” như vậy tạo thành ba giai đoạn

(bước, pha) của cơ chế tiến hóa nó gắn chặt trí khôn với năng lượng phát

sinh hình thái của bản thân cuộc sống và cho phép nó hoàn thành những

thích nghi vừa là vô hạn vừa là cân bằng giữa chúng với nhau, mà trên bình

diện của cơ thể không tài nào thực hiện được.

THƯ MỤC SƠ LƯỢC

CHƯƠNG MỘT

Biihler (K.) - Sự khủng hoảng của tâm lí học. Iena (Fischer), in lần 2,

1929

Claparède (Ed) - Tâm lí học trí khôn. Scientia 1917 tập 22 trg 253 - 268

Kohler (W.)

Lewin (K.) - Tâm lí học Hình thức. New York (Liveright), 1929 Những

nguyên lí của Tâm lí học tôpô. London (Mac Graw - Hill) 1935

Montpellier (G. de) - Những cư xử thông minh và Tâm thần học ở

Người và loài vật Louvain et Paris, 1946

CHƯƠNG HAI

Binet (A.) - Nghiên cứu thực nghiệm về trí khôn, Paris (Schleicher).

1903

Burloud (A) - Tư duy theo các nghiên cứu thực nghiệm của Watt,

Messer và B Buhler. Paris (Alcan) 1927

Delacroix (H.) - Tâm lí học lí trí trong sách Tâm lí học của Dumas in lần

2,. t1, trg 118 - 305 (Paris, Alan 1936)

Lindivorky (L.)- Những kết luận của tư duy Fribourgen Brisgau 1916

Page 168: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Piaget (J.) - Lớp, quan hệ và số. Tiểu luận về các "nhóm hợp" của

khoa logistic và tính nghịch đảo của tư duy, Paris (Vrin) 1942

Selz (O.) – Về tâm lí học tư duy sáng tạo và những thiếu sót; Bonn.

1929

CHƯƠNG BA

Duncker (K.) – Về tâm lí học của tư duy sáng tạo, Berlin. 1935

Guillaume (P.) - Tâm lí học Hình thức. Paris (Flamarion) 1937

Kohler (W.) - Trí khôn của những con khỉ cao cấp (Guillaume dịch)

Paris (Alcan) 1928.

Pilaget (J.)

và Lambercier (M.) - Những nghiên cứu về sự phát triển của tri giác, I

đến VIII, Lưu trữ tâm lí học (Genève) 1943 - 1946

Wertheimer (M) – Về quá trình kết thúc của tư duy sáng tạo, Berlin.

1920

CHƯƠNG BỐN

CLaparède (Ed) - Sự phát sinh của giả thuyết Lưu trữ tâm lí học

(Geneve) 1934

Guillaume (P.) - Sự hình thành của thói quen. Paris (Alcan) 1936

Hull (b.) - Những nguyên tắc của hành vi, New York (Appleton) 1943

Krecheski (I.) - Tính chất sai khiến của giả thuyết Tạp chí Tâm lí học

1933, t 15, trg 425 - 443

Piaget (J.) - Sự nảy sinh trí khôn ở trẻ em, Neuchatel (Delachaux và

Niestlé) 1936 - Sự tạo dựng thực tại ở trẻ em - Nht - 1937

Spearman (Ch.) - Bản chất của trí khôn, London, 1923

Tolman (C.E.) - Một lí thuyết hành vi học về tư duy Tạp chí Tâm lí học.

Thordike (E.L.) - Cơ sở của học tập t33 trg 352 - 369, New York - 1932

Page 169: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

CHƯƠNG NĂM VÀ SÁU

Buhler (Ch.) - Thời thơ ấu và thời thanh niên. Leipzig (Hirzel) 1931

Buhler (K) - Sự phát triển trí tuệ ỏ trẻ em, Iéna (Fischer) 1981

Inhelder (B.) – Chẩn đoán về lập luận ở những người trí tuệ chậm phát

triển Neuchatel (Delachaux và. Niestlé)

Janet (P.) - Trí khôn trước lúc biết nói - Paris (Flamnarion) 1935

Những khởi đầu của trí khôn - Paris (Flamarion) 1946.

Piaget (F.) - Hình thành cái tượng trưng ở trẻ em.

Neuchatel (Delachaux và Niestlé), 1945

Sự phát triển khái niệm thời gian ở trẻ em

Paris NXB Đại học, 1946

Những khái niệm về vận động và tốc độ ở trẻ em.

-Nht- 1946

Piaget (F.)

và Sgeeminska (A.) Sự phát sinh số ở trẻ em. Neuchatel (Delachaux

và Neistlé) 1941

- và Inhelder - Sự phát triển các số lượng ở trẻ em.

- Nht - 1941

Rey (A.) - Trí khôn thực hành ở trẻ em Paris (Alcan) 1935

Wallon (H.) - Từ hành vi đến ý nghĩ, Paris (Flamarion) 1942

- Nguồn gốc của tư duy ở trẻ em, Paris (NXB Đại học) 1945

PHỤ LỤC

Để giúp bạn đọc hiểu thêm về ý tưởng của F. Piaget trong tâm lí học trí

khôn, phân định được những thành tựu rất lớn và một số điểm yếu trong học

thuyết của ông về trí khôn, chúng tôi xin giới thiệu dưới đây một mục trong tác

Page 170: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

phẩm "Cơ cấu trí khôn - Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn" của Howard

Gardner, một nhà tâm lí học hiện đại của Hoa Kì, nhà XB Harper Collins xuất

bản năm 1983.

Tác phẩm này do ông Phạm Toàn dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt và sẽ

được Nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt bạn đọc một ngày gần đây.

Piaget

Chính là từ một người vốn dĩ được đào tạo theo truyền thống IQ mà

chúng ta có được một cách nhìn vào trí tuệ thay thế được trào lưu test (đo

nghiệm) trí khôn trên nhiều phương diện. Nhà tâm lí học Thụy Sĩ Jean Piaget

bắt đầu sự nghiệp khoảng năm 1920 với tư cách người làm việc nghiên cứu

trong phòng thí nghiệm của Simon và ông sớm quan tâm đến những sai lầm

trẻ em thường mắc phải khi xử lí các mục của test trí khôn. Piaget đã đi đến

chỗ tin tưởng rằng, điều quan trọng không phải là câu trả lời đúng của trẻ em,

mà là những cách suy luận các em đưa ra: những cái đó có thể thấy rõ nhất

khi tập trung vào những khẳng định và những dãy lập luận làm đẻ ra các kết

luận sai lầm. Chẳng hạn như, chẳng có gì là có giá trị khám phá cả khi phát

hiện hầu hết trẻ em 4 tuổi nghĩ rằng cái búa giống cái đanh nhiều hơn giống

cái tua-nơ-vít; điều quan trọng là trẻ em đã đi đến kết luận đó vì cách các em

nhìn sự giống nhau phản ánh sự đồng-xuất hiện mang tính vật thể (búa được

tìm thấy bên cạnh cái đanh) hơn là vì nó là thành viên của cùng một phạm trù

có thứ bậc cao thấp (dụng cụ).

Bản thân Piaget chẳng bao giờ tiến hành phê phán phong trào test trí

khôn; nhưng khi nhìn vào những bước tiến khoa học do ông tạo ra, ta có thể

ngẫm nghĩ tới một số điều bất cập trong chương trình của Binet - Simon.

Trước hết, phong trào IQ mang tính kinh nghiệm một cách mù quáng. Nó đơn

giản dựa trên các test với một số khả năng tiên đoán về thành tựu học

đường, và chỉ dựa một cách bên lề, vào một lí thuyết về cách hoạt động của

trí óc. Nó không nhìn ra cả quá trình con người làm cách nào để giải một bài

toán: chỉ đơn giản có kết quả là liệu người được test có đạt tới câu trả lời

đúng hay không. Ngoài ra, các bài tập đưa ra trong bộ test IQ tỏ ra cực kì vi

Page 171: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

mô, thường không có liên hệ với nhau và dường như là tiến hành theo

phương pháp "bắn súng" để đánh giá trí tuệ người. Các phương pháp đó

trong nhiều trường hợp xa vời khỏi đời sống hằng ngày. Chúng nặng về dựa

trên lời nói và trên kĩ năng định nghĩa từ trong việc biết đến những sự kiện

xảy ra xung quanh, trong việc tìm ra các mối liên hệ (và sự khác biệt) giữa

những khái niệm bằng lời.

Phần lớn thông tin thu được từ những test trí khôn phản ánh cái tri thức

có được trong một môi trường xã hội và giáo dục đặc thù. Chẳng hạn, định

nghĩa lầm lỗi là gì hoặc xác định ai là tác giả Iliad là điều hoàn toàn phản ánh

loại trường ai đó theo học hoặc những thị hiếu của gia đình ai đó. Ngược lại,

các test trí khôn hiếm khi đánh giá kĩ năng khi tiếp nhận thông tin mới hoặc

khi giải những bài toán mới. Cung cách ngả về kiến thức "kết tinh" thay vì kiến

thức "uyển chuyển" có thể có những hậu quả kinh hoàng. Một cá nhân có thể

bị mất hoàn toàn các thùy não trước, trong tiến trình chuyển đổi thành một

con người khác hẳn, không có khả năng có bất kì sáng kiến nào hoặc giải bài

toán mới nào - song vẫn tiếp tục cho ra chỉ số IQ kề cận mức thiên tài. Ngoài

ra test trí khôn ít cho thấy về tiềm năng của một cá nhân khi lớn lên mai sau.

Hai cá nhân có thể có cùng số đo IQ; song một người thì có thể bị gạt khỏi

khả năng đạt sự tiến vọt kinh hoàng trong chiếm lĩnh trí tuệ, còn người kia thì

có thể sử dụng tầm cao nhất các năng lực trí tuệ của mình. Nói theo lời nhà

tâm lí học Xô viết Lev Vygotsky, các test trí khôn không đẻ ra bất kì chỉ dẫn

nào về một "vùng phát triển:) tiềm tàng (hoặc "gần tâm") của một con người.

Với những cách đánh giá phê phán như thế, ít ra là tiềm ẩn trong đầu,

Piaget qua nhiều thập niên đã phát triển một cách nhìn hoàn toàn khác và cực

kì mạnh về vấn đề nhận thức của con người. Theo cách nhìn của ông, mọi

nghiên cứu về tư duy con người phải bắt đầu từ việc đặt vào vị trí một cá thể

có ý định nhận thức thế giới. Cá thể ấy liên tục tạo dựng các giả thiết và sau

đó cố sức tạo sinh ra tri thức; nó tìm cách hình dung bản chất các đồ vật vật

chất trong cuộc đời, chúng tác động qua lại nhau ra sao, cũng như hình dung

bản chất các con người trong cuộc đời, các động lực thúc đẩy chúng và các

Page 172: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

hành vi của chúng. Cuối cùng, nó phải sắp xếp tất cả các sự vật đó lại chung

trong một câu chuyện nhạy cảm, một bản tường trình mạch lạc về bản chất

của các thế giới vật chất và xã hội.

Ban đầu, đứa trẻ cảm nhận thế giới trước hết qua các phản xạ của nó,

các tri giác bằng cảm giác của nó, và các hành động vật chất cơ thể có của

nó lên mọi vật. Sau một năm hoặc hai năm, nó đạt tới một nhận thức "thực

tiễn" hoặc "bằng sự vận động của cảm giác" đối với thế giới đồ vật tồn tại

trong thời gian và không gian. Được trang bị bằng tri thức đó, nó đã có thể đi

một cách thỏa mãn vào môi trường của mình và có thể đánh giá được là một

đồ vật tiếp tục tồn tại trong không gian và thời gian ngay cả khi đồ vật đó nằm

ngoài tầm nhìn. Tiếp theo, đứa bé chập chững ấy tiếp tục phát triển những

hành động được đưa vào bên trong hoặc những thao tác tinh thần. Dó là

những hành động có thể tiềm tàng tác động lên thế giới đồ vật; nhưng, nhờ

có cái năng lực mới được trỗi dậy, các hành động đó chỉ cần được tiến hành

bằng bộ não, bên trong đầu, có thể là thông qua hình ảnh. Thế là, chẳng hạn,

để di chuyển được từ chỗ đang đứng về điểm xuất phát quen thuộc, đứa bé

không phải thử để tìm ra những con đường khác, nó chỉ cần đơn giản tính

toán là, bằng cách quay ngược các bước trở lại, nó sẽ trở về chỗ cũ. Cùng

lúc đó, đứa bé cũng có khả năng sử dụng biểu trưng: giờ đây nó đã có thể sử

dụng các hình ảnh hoặc yếu tố khác nhau - như các từ, các cử chỉ, hoặc các

hình vẽ - thay mặt cho các đồ vật của "đời sống thực" trong cuộc sống, và có

thể trở thành khéo léo trong việc triển khai các hệ thống biểu trưng khác nhau

như ngôn ngữ hoặc vẽ.

Những năng lực đang tiến triển đó của việc nội hiện và biểu trưng hóa

đạt tới điểm cao khoảng tuổi lên 7 hoặc lên 8 khi đứa bé có khả năng tiến

hành những thao tác cụ thể. Được trang bị tập hợp những năng lực mới này,

giờ đây đứa bé đã có khả năng lập luận có hệ thống xoay quanh thế giới đồ

vật, số, thời gian, không gian, hệ nhân quả, vân vân. Không còn bị bó hẹp lâu

la hơn nữa chỉ vào cư xử vật chất thích hợp lên đồ vật, giờ đây, đứa trẻ có

thể đánh giá được những mối quan hệ thu được giữa cả loạt hành động lên

Page 173: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đồ vật. Thế là nó hiểu rằng các đồ vật có thể được xếp sắp lại mà vẫn giữ

nguyên số lượng; rằng một vật liệu có thể được thay đổi hình thù mà khối

lượng không vì thế mà bị ảnh hưởng; rằng một cảnh có thể được nhìn từ một

phối cảnh khác mà vẫn giữ nguyên bấy nhiêu yếu tố.

Theo Piaget, giai đoạn phát triển cuối cùng xuất hiện vào đầu thời kì

thiếu niên. Giờ đây, đã có khả năng làm các thao tác hình thức, thiếu niên có

khả năng lập luận về thế giới không chỉ qua các hành động hoặc qua những

biểu trưng đơn chiếc, mà thông qua hình dung những liên hệ thu được từ một

tập hợp các mệnh đề liên quan nhau. Người thiếu niên đó có khả năng tư duy

theo cách hoàn toàn lôgich. Giờ đây giống như một nhà bác học đang làm

việc, nó có thể diễn đạt các giả thiết thành những mệnh đề, test lại chúng, và

xem xét lại các mệnh đề dưới ánh sáng của các kết quả thực nghiệm đó. Với

những khả năng đó trong tay (hoặc trong đầu), người thiếu niên đã đạt được

trạng thái cuối của nhận thức người lớn. Giờ đây nó đã có khả năng có kiểu

tư duy lôgich - duy lí được đánh giá cao ở phương Tây và được thu nhỏ

thành hình ảnh các nhà toán học và khoa học gia. Dĩ nhiên cá nhân kia có thể

tiếp tục đi tới những khám phá cao xa hơn, nhưng sẽ chẳng trải qua những

đổi thay về chất lượng trong cách tư duy của mình nữa.

Lướt qua như trên những lời giáo huấn chủ yếu của Piaget làm hiện ra

vài điểm mạnh và vài chỗ yếu trong những phát ngôn của ông. Về mặt ưu

điểm thì Piaget đã nghiêm túc coi trọng trẻ em; ông đã đề ra cho các em

những vấn đề quan trọng (đặc biệt những vấn đề rút ra từ địa hạt khoa học)

và đã dẫn ra được các bằng chứng cho thấy là, tại mỗi giai đoạn, có thể nhận

ra được vẫn chỉ một cơ cấu tổ chức nếu thông qua hàng loạt thao tác tinh

thần. Chẳng hạn, theo cách nhìn của Piaget, đứa trẻ ở giai đoạn "thao tác - cụ

thể" có thể mó máy để thực hiện cả loạt bài tập liên quan đến bảo toàn số,

tính nhân quả, số lượng, khối lượng, vân vân, bởi vì tất cả các việc làm đó

đều suy ra từ cái hạt nhân cơ cấu tinh thần ấy. Tương tự như vậy, khi được

trang bị những thao tác hình thức người thiếu niên sử dụng cả một tổng thể

thao tác có tổ chức chặt chẽ, để lúc này em có thể suy luận một cách lôgich

Page 174: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

đối với bất kì tập hợp mệnh đề nào đặt ra cho mình. Không giống như những

nhà kiến trúc ra các test trí khôn, Piaget cũng nghiêm túc coi trọng danh mục

những vấn đề mà các nhà triết học, đặc biệt là Immanuel Kant coi là trung tâm

cho trí tuệ người, kể cả những phạm trù cơ bản về thời gian, không gian, số

và tính nhân quả. Đồng thời Piaget đã tránh được những dạng tri thức chỉ

đơn thuần là ghi nhớ (như thể việc định nghĩa từ) hoặc chỉ thu hẹp lại nơi một

số nhóm văn hóa nào đó (như các nhóm ngả về nghệ thuật "cao siêu"). Tự

giác hay không tự giác, Piaget đã vẽ ra bức chân dung rạng rỡ về sự trưởng

thành của trí khôn người, điều đã được đánh giá cực kì cao bởi các truyền

thống khoa học và triết học phương Tây.

Nhưng các thế mạnh không chối cãi được ấy đã khiến Piaget trở thành

nhà lí thuyết về phát triển nhận thức, lại chung sống với vài điều yếu kém, mà

trải hai thập niên qua càng ngày càng trở nên rõ nét. Trước hết, trong khi

Piaget vẽ ra một bức tranh về sự phát triển đáng gờm, thì đó vẫn chỉ là một

kiểu phát triển mà thôi. Tập trung vào sổ nhật kí (sổ ghi chép) trí tuệ hướng về

nhà khoa học trẻ, mô hình phát triển của Piaget tương đối ít coi trọng các

khung cảnh không-phải-phương-Tây và trước-khi-biết chữ, và thực ra thì

thậm chí ngay cả ở phương Tây mô hình của ông cũng chỉ áp dụng được cho

một thiểu số người mà thôi. Những bước đi tiếp theo khi thực hiện những

dạng năng lực khác - của một nghệ sĩ, một nhà luật học, một lực sĩ, hoặc một

nhà lãnh đạo chính trị - đều bị Piaget làm ngơ khi nhấn mạnh một chiều vào

một kiểu tư duy nhất định.

Dĩ nhiên con đường của Piaget có thể bị hạn chế song vẫn hoàn toàn

đúng đắn trong địa hạt thu hẹp riêng của nó. Song hỡi ôi, một thế hệ nhà

nghiên cứu theo lối kinh nghiệm đã xem xét kỹ càng những điều Piaget chỉ ra

và đã thấy những điều khác nữa. Trong khi đường nét phát triển tổng quát

như Piaget vạch ra vẫn còn đáng chú ý, thì có nhiều chi tiết riêng biệt đơn

giản là không đúng. Các giai đoan của một cá thể được hoàn thiện theo một

cung cách liên tục và tuần tự hơn nhiều so với điều Piaget chỉ ra. Thực ra thì

ta ít thấy ông chỉ ra tính không liên tục (và điều đó khiến cho các đòi hỏi lí

Page 175: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

thuyết của ông đặc biệt chặt như đinh tán). Vậy là, phần lớn việc làm đòi hỏi

các thao tác cụ thể có thể được đứa trẻ thực hiện trong những năm tiền - thao

tác, một khi các mẫu thực nghiệm được điều chỉnh, ví dụ như, giờ đây đã có

bằng chứng là trẻ em có thể nhớ số, có thể xếp loại chắc chắn, và từ bỏ tính

lấy mình làm trung tâm ngay từ tuổi lên ba - đấy là những phát hiện chưa

từng được lí thuyết của Piaget tiên báo (hoặc cho phép).

Một đòi hỏi trung tâm khác của lí thuyết Piaget cũng không thoát khỏi

bước khó khăn, Ông dám chắc rằng những thao tác khác nhau đã được ông

làm sáng tỏ có thể áp dụng vào bất kì nội dung nào. (Trong chuyện này, ông

giống như những người đã đưa ra "các khả năng hàng ngang", những người

tin tưởng vào các tiến trình toàn diện như là tri giác hoặc kí ức). Song trên

thực tế những thao tác của Piaget xuất hiện có tính từng mảnh, hoặc tản mát

hơn nhiều, chứng tỏ có hiệu quả khi gặp những vật liệu hoặc nội dung này,

nhưng lại thất bại khi đem dùng (hoặc bị dùng không hợp) với những vật liệu

khác, ví dụ như, một đứa trẻ làm tốt các thao tác bảo toàn với vài vật liệu này

sẽ lại thất bại khi thao tác bảo toàn với các vật liệu khác. Piaget biết rằng các

thao tác hẳn là sẽ chẳng được kết tinh tức thời: thậm chí ông còn phịa ra

"nhân tố tầm phào" - gọi bằng tiếng Pháp décalage - độ sai lệch - cho phép

cùng thao tác cơ bản ấy xuất hiện vào thời điểm hơi khác, với những vật liệu

khác. Nhưng cái gì đã xảy ra? Đó là độ sai lệch kia thực ra lại thành quy tắc

trong các công trình nghiên cứu sự phát triển của nhận thức. Thay vì là một

loại khả năng được kết hợp lại vào cùng một thời điểm (như Piaget mong

muốn) thì các khả năng liên quan đến lí thuyết đó lại xuất hiện vào những thời

điểm tản mát.

Người ta cũng xem xét các hạn chế khác nữa. Mặc dù Piaget tỏ ra hồ

nghi các câu hỏi đo IQ bằng lời nói, bản thân các bài tập của Piaget cho trẻ

em làm cũng lại thường tiến hành bằng lời. Và khi các việc làm đó được giao

cho trẻ em theo cách không bằng lời, thì kết quả thường khác với những điều

thu được tại các phòng thí nghiệm ở Geneve. Trong khi các việc làm của

Piaget tỏ ra phức hợp hơn và mang tính toàn khối hơn các việc làm trong các

Page 176: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

test trí khôn, nhiều điều vẫn còn khá xa với kiểu tư duy mà hầu hết mọi con

người đều dùng đến trong cuộc sống hằng ngày. Các bài tập của Piaget vẫn

được tạo ra từ ghế và bảng đen của một nhà bác học trong phòng thí nghiệm.

Cuối cùng, và có chút gì ngạc nhiên, ấy là trong khi bức tranh đứa trẻ hoạt

động và đang khám phá của Piaget đã gây được tiếng vang hưởng ứng, thì

ông ít nói với chúng ta về tính sáng tạo hàng đầu của các khoa học, chưa nói

gì đến tính độc đáo rất được ca tụng trong nghệ thuật hoặc trong các địa hạt

khác của sự sáng tạo của con người. Ngoài sự thất bại không chuyển được

cái mô hình phổ quát về sự phát triển của nhận thức mà mọi trẻ bình thường

buộc phải trải qua, sơ đồ của Piaget - thu hẹp lại ở mức kết thúc sự trưởng

thành là những bài tập trong lớp học khoa học ở trường trung học - nổi lên

như là ít bận tâm hơn đến việc khám phá những hiện tượng mới hoặc đặt ra

những bài toán mới mà nhiều người coi là trung tâm trong cuộc sống trí tuệ.

Sơ đồ của Piaget có thể là cái tốt nhất chúng ta đã có, song những chỗ hỏng

của nó thì quá rõ ràng.

MỤC LỤC

Lời tựa

PHẦN THỨ NHẤTBẢN CHẤT CỦA TRÍ KHÔN

Chương 1. TRÍ KHÔN VÀ SỰ THÍCH NGHI SINH HỌC

• Vị trí của trí khôn trong tổ chức tinh thần

• Tính chất thích nghi của trí khôn

• Định nghĩa trí khôn

• Phân loại những giải thích có thể có về trí khôn

Chương 2. "TÂM LÍ HỌC TƯ DUY" VÀ BẢN CHẤT TÂM LÍ HỌC CỦA NHỮNG THAO TÁC LÔGICH

Page 177: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

• Sự giải thích của B. Russell

• Tâm lí học tư duy: Buhler và Selz

• Phê phán tâm lí học tư duy

• Lôgich học và tâm lí học

• Các thao tác và những "nhóm hợp" của chúng

• Ý nghĩa chức năng và cấu trúc của các nhóm hợp

• Phân loại các "nhóm hợp” và các thao tác cơ bản của tư duy

• Sự cân bằng và sự phát sinh

PHẦN THỨ HAITRÍ KHÔN VÀ CÁC CHỨC NĂNG CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG

Chương 3. TRÍ KHÔN VÀ TRI GIÁC

• Một chút lịch sử

• Lí thuyết Hình thức và sự giải thích về trí khôn của nó

• Phê phán tâm lí học Hình thức

• Những khác biệt giữa tri giác và trí khôn

• Những tương đồng giữa hoạt động tri giác và trí khôn

Chương 4. THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN CẢM GIÁC - VẬN DỘNG

• Thói quen và trí khôn

I. Độc lập hay phát sinh trực tiếp

• Thói quen và trí khôn

II. Sự mầy mò và sự cấu trúc hóa

• Sự đồng hóa cảm giác vận động và sự nảy sinh trí khôn ở trẻ em

• Sự tạo dựng khách thể và các tương quan không gian

PHẦN THỨ BASỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ DUY

Page 178: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Chương 5. VIỆC LUYỆN TƯ DUY - TRỰC GIÁC VÀ CÁC THAO TÁC

• Những khác biệt về cấu trúc giữa trí khôn khái niệm và trí khôn cảm

giác - vận động

• Các giai đoạn tạo dựng những thao tác

• Tư duy tượng trưng và tiền khái niệm

• Tư duy trực giác

• Các thao tác cụ thể

• Các thao tác hình thức

• Hệ thống cấp bậc các thao tác và sự phân hóa lũy tiến của chúng

• Sự xác định "trình độ trí tuệ"

Chương 6. NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRÍ KHÔN

• Sự xã hội hóa trí khôn cá nhân

• Các "nhóm hợp" thao tác và sự hợp tác

Kết luận. Nhịp điệu, điều tiết và nhóm hợp

Thư mục sơ lược

Phụ lục

---//---

TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN

(Tái bản lần thứ 1)

Tác giả: JEAN PIAGET

Người dịch: NGUYỄN DƯƠNG KHƯ

NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC

Chịu trách nhiệm xuất bản: GĐ PHẠM VĂN AN

Tổng biên tập: NGUYỄN NHƯ Ý

Page 179: saomaidata.orgsaomaidata.org/library/278.TamLyHocTriKhon.docx  · Web viewTÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN. TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN (Tái bản lần thứ 1) Tác giả: JEAN PIAGET

Biên tập: CẤN HỮU HẢI

Sửa bản in: THANH TRÌNH

Biên tập kĩ thuật: TRẦN THU NGA

Trình bày bìa: TIỂU LÂM

Sắp chữ: TRUNG TÂM CHẾ BẢN – ĐỒ HỌA (NXBGD)

In 3.000 bản, khổ 14,3 x 20,3cm. Tại Xí nghiệp in Hải Dương. Số in 80, số

XB: 346/11-98. In xong và nộp lưu chiểu tháng 7/1998.