Upload
dinhhuong
View
215
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN
TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN
(Tái bản lần thứ 1)
Tác giả: JEAN PIAGET
Người dịch: NGUYỄN DƯƠNG KHƯ
LỜI TỰA
Một cuốn sách về "Tâm lí học trí khôn" có thể đã bao trùm một nửa lĩnh
vực của tâm lí học. Những trang sau đây chỉ hạn chế trong việc phác họa một
quan điểm, quan điểm của sự tạo thành "các thao tác" và đặt nó một cách
khách quan nhất trong toàn bộ các quan điểm đã được đề xướng. Vấn đề
trước tiên là nêu đặc tính của vai trò trí khôn, có tính đến những quá trình
thích nghi nói chung (chương 1); đoạn bằng việc xem xét "tâm lí học của tư
duy" chỉ rõ rằng hành vi trí khôn bao hàm chủ yếu việc "nhóm họp" các thao
tác theo một số cấu trúc xác định (chương 2). Được hình dùng như là hình
thức cân bằng mà mọi quá trình nhận thức hướng tới, trí khôn nêu ra vấn đề
của các quan hệ của này với sự tri giác (chương 3), với thói quen (chương 4)
cùng như những vấn đề về sự phát triển của nó (chương 5) và sự xã hội hóa
của nó (chương 6).
Mặc dầu đã có những công trình nổi tiếng phong phú và có giá trị, lí
thuyết tâm lí học về những cơ chế của trí tuệ cũng chỉ mới ở những bước
khởi đầu, và người ta hầu như mới thoáng thấy mức độ chính xác mà lí
thuyết đó chứa đựng. Chính là tôi cố gắng biểu đạt cái ý thức tìm tòi đang
thịnh hành này.
Tập sách nhỏ này gồm chất liệu các bài giảng mà tôi đã được may mắn
trình bày năm 1942 ở Pháp quốc Học hiệu, vào một thời điểm mà những giáo
chức đại học cảm thấy cần thiết phải nêu bật tình đoàn kết của họ trước bạo
lực và lòng trung thành của họ với những giá trị vĩnh cửu.
Viết lại những trang này, tôi thật khó quên được sự đón nhận của cử
tọa và những giao tiếp mà tôi có được thời gian đó với người thầy P.Janet
của tôi và với các bạn H.Piéron, H.Wallon, P.Guillaume, G. Bachelard, P.
Masson – Oursel, M. Mauss và nhiều bạn khác của tôi. Tôi cũng không quên
I. Meyerson thân mến của tôi đang "chống đỡ" ở nơi khác.
LỜI TỰA LẦN XUẤT BẢN THỨ NHẤT
Tác phẩm này đã được đón tiếp nói chung thuận lợi, nên tôi mạnh dạn
cho in lại không thay đổi gì cả. Tuy nhiên, thường có một điều chỉ trích đối với
quan điểm của chúng tôi về trí khôn: đó là không dựa vào hệ thần kinh và
không dựa vào cả sự thuần thục của nó trong tiến trình phát triển của cá
nhân. Ở đây, chúng tôi nghĩ là đã có một sự hiểu nhầm. Vì khái niệm "đồng
hóa" lẫn sự chuyển từ những nhịp điệu sang những điều tiết và từ những điều
tiết sang thao tác có thể nghịch đảo đòi hỏi một sự giải thích thần kinh học
đồng thời tâm lí học (và lôgich học). Mà hai lối giải thích này không hề mâu
thuẫn nhau mà chỉ có thể là hòa hợp với nhau. Chúng tôi sẽ trình bầy vấn đề
chính yếu đó ở chỗ khác, nhưng không bao giờ thấy mình có quyền đề cập
đến nó trước khi kết thúc những tìm tòi chi tiết về tâm lí học phát sinh, mà
chính quyển sách nhỏ này thể hiện sự tổng hợp.
Phần 1. BẢN CHẤT CỦA TRÍ KHÔN
Chương 1. TRÍ KHÔN VÀ SỰ THÍCH NGHI SINH HỌC
Mọi giải thích tâm lí học sớm hay muộn cuối cùng cũng dựa vào sinh
học hoặc lôgich học (hay dựa vào xã hội học, nhưng khoa học này bản thân
nó cũng kết thúc ở cùng cái thế hai chọn một ấy). Đối với một số người, các
hiện tượng tinh thần chỉ trở nên hiểu được khi chúng gắn liền với cơ thể. Lối
suy nghĩ này là thực sự cần thiết trong việc nghiên cứu những chức năng sơ
đẳng (tri giác, vận động v.v...) mà trí khôn phụ thuộc lúc khởi đầu. Nhưng
người ta không hề thấy khoa thần kinh học giải thích tại sao 2 cộng 2 thành 4
và cũng không giải thích tại sao các quy luật của sự diễn dịch được đặt ra cho
trí óc một cách cần thiết. Từ đó mà có xu hướng thứ hai, coi những quan hệ
lôgich và toán học là không thể bỏ được và gắn sự phân tích chúng với việc
phân tích những chức năng trí tuệ cao cấp. Vấn đề chỉ là nắm xem lôgich học,
được quan niệm như là thoát khỏi mưu toan giải thích của tâm lí học thực
nghiệm, có thể ngược trở lại, giải thích một cách chính đáng cái gì đó trong
sự thử nghiệm tâm lí học với tư cách như thế hay không. Lôgich học hình
thức hoặc lôgistích đơn giản tạo thành việc nghiên cứu theo thuyết tiền đề
những trạng thái cân bằng của tư duy và khoa học thực tại tương ứng với
thuyết tiền đề này, không là gì khác hơn bản thân tâm lí học của tư duy.
Những nhiệm vụ đã được phân bố như thế, tâm lí học trí khôn tất phải tiếp tục
tính đến những khám phá lôgistích, nhưng những khám phá này không bao
giờ đi đến việc áp đặt cho nhà tâm lí học những giải pháp riêng của mình;
chúng chỉ hạn chế trong việc đặt ra cho ông ta các vấn đề.
Chính là từ bản chất kép ấy của trí khôn: sinh học và lôgich học mà
chúng ta phải xuất phát. Hai chương tiếp theo có mục đích ấn định phạm vi
của những vấn đề tiên quyết đó và nhất là tìm cách quy vào một sự thống
nhất lớn hơn cả, trong tình hình các hiểu biết hiện nay, hai mặt cơ bản, mà bề
ngoài có vẻ không dung hòa được của đời sống tư duy.
* VỊ TRÍ CỦA TRÍ KHÔN TRONG TỔ CHỨC TINH THẦN
Mọi cư xử, dù là một hành vi triển khai ra bên ngoài hoặc nội hiện thành
ý nghĩa, đều được biểu hiện như một sự thích nghi hoặc, nói đúng hơn, như
một sự tái thích nghi. Cá nhân chỉ hành động nếu nó cảm nhận một nhu cầu,
tức là nếu sự cân bằng tạm thời bị phá vỡ giữa môi trường và cơ thể, và hành
động nhằm lặp lại sự cân bằng, tức đúng là để tái thích nghi cơ thể
(Claparède). Một "cư xử" vậy là một trường hợp đặc biệt của sự trao đổi giữa
thế giới bên ngoài và chủ thể, nhưng trái với những trao đổi sinh lí học mang
tính vật chất và giả định một sự biến đổi nội tại của những vật thể hiện diện,
các "cư xử" được tâm lí học nghiên cứu mang tính chức năng và được thực
hiện ở những khoảng cách ngày càng lớn, trong không gian (tri giác, v.v...) và
trong thời gian (trí nhớ, v.v...), cũng như theo những quỹ đạo ngày càng phức
hợp (trở về, vòng quanh v.v...). Sự cư xử, được quan niệm như vậy thành
những quan hệ trao đổi có tính chức năng, bản thân nó cũng giả định hai mặt
chủ yếu và phụ thuộc chặt chẽ lẫn nhau: mặt xúc cảm và mặt nhận thức.
Người ta đã bàn cãi nhiều về các quan hệ giữa tính xúc cảm và sự hiểu
biết. Theo P. Janet, phải phân biệt "hành động sơ cấp", hoặc quan hệ giữa
chủ thể và khách thể (trí khôn, v.v..) và "hành động thứ cấp" hoặc sự phản
ứng của chủ thể đối với hành động của bản thân mình: sự phản ứng này, tạo
thành những tình cảm sơ đẳng, bao hàm những điều tiết của hành động sơ
cấp và bảo đảm lưu lượng của những năng lượng nội tại sẵn có. Nhưng,
cạnh các điều tiết thực sự xác định năng lượng học hoặc kết cấu bên trong
của cư xử, dường như chúng ta phải dành một chỗ cho những điều tiết điều
chỉnh tính mục đích và các giá trị của cư xử, và những giá trị như vậy (đặc
trưng cho một sự trao đổi có tính năng lượng học, hoặc tiết kiệm, với môi
trường bên ngoài. Theo Claparède, các tình cảm định một mục đích cho cư
xử, còn trí khôn chỉ hạn chế trong việc cung cấp những phương tiện (cái "kĩ
thuật". Nhưng có một sự nắm hiểu các mục đích cũng như các phương tiện,
và sự nắm hiểu đó không ngừng thay đổi cả tính mục đích của hành động.
Trong chừng mực mà tình cảm điều khiển cư xử bằng cách gắn một giá trị
cho những mục tiêu của nó, thì chỉ nên hạn chế ở việc nói ằng nó cung cấp
những năng lượng cần thiết cho hành vi, trong khi sự hiểu biết ấy cho nó một
cấu trúc. Từ đó mà có giải pháp do tâm lí học gọi là tâm lí học hình thức đưa
ra: sự cư xử giả định một "trường tổng thể" bao trùm chủ thể với các khách
thể, và động lực của trường đó tạo thành các cảm xúc (Lewin), còn sự cấu
trúc hóa của nó được bảo đảm bởi những tri giác, chức năng vận động và trí
khôn. Chúng tôi theo một công thức tương tự, trừ việc phải nêu rõ rằng cả
cảm xúc lẫn những hình thức nhận thức không chỉ duy nhất phụ thuộc vào
"trường" hiện có, mà phụ thuộc cả vào toàn bộ lịch sử có trước của chủ thể -
hành động. Vậy chúng tôi nói một cách đơn giản rằng mỗi cư xử giả định một
mặt năng lượng học hoặc xúc cảm và một mặt cấu trúc hoặc nhận thức, điều
đó trên thực tế tụ hội những quan điểm đa dạng đã nêu trước.
Quả vậy, tất cả các cảm xúc bao gồm hoặc những điều tiết các năng
lượng nội tại ("cảm xúc nền tảng" của P. Janet, "hứng thú" của Claparède
v.v...) hoặc những điều chỉnh các trao đổi năng lượng với bên ngoài ("giá trị"
mọi loại, thực tại hoặc giả định, từ những "ao ước" riêng đến "trường tổng
thể" của K. Lewin, và những "hóa trị" của E. S. Russell cho đến những giá trị
liên cá nhân hoặc xã hội). Bản thân ý chí cũng phải được quan niệm như một
tác động của những thao tác xúc cảm, tức là có tính năng lượng học thuộc
những giá trị cao cấp và làm cho chúng có khả năng đảo ngược và bảo toàn
(tình cảm đạo đức, V.V...), song hành với hệ thống những thao tác lôgich
trong quan hệ với các khái niệm.
Nhưng nếu mọi cư xử không loại trừ một cái nào bao hàm một sự trù
tính năng lượng hoặc một sự "tiết kiệm” tạo thành mặt xúc cảm của nó thì
những trao đổi mà nó gây ra với môi trường cũng bao gồm một hình thức
hoặc một cấu trúc quy định những chu trình có thể có được thiết lập giữa chủ
thể và các khách thể. Chính sự cấu trúc hóa này của cư xử bao hàm mặt
nhận thức của nó. Một tri giác, một tập luyện cảm giác - vận động (thói quen
v.v...), một hành vi nắm hiểu, một lập luận v.v... tất cả đều quay về việc cấu
trúc hóa, cách này hay cách khác, những quan hệ giữa môi trường và cơ thể.
Chính là ở điều này mà chúng có những sự thân thuộc giữa chúng với nhau,
đối lập chúng với những hiện tượng thuộc về xúc cảm. Chúng tôi nói về
chúng như những chức năng nhận thức theo nghĩa rộng (kể cả những thích
nghi cảm giác - vận động).
Đời sống xúc cảm và đời sống nhận thức vậy là không tách rời nhau
mặc dầu là khác biệt nhau. Chúng không tách rời nhau bởi vì mọi trao đổi với
môi trường giả định đồng thời một sự cấu trúc hóa và một sự đánh giá, nhưng
chúng vẫn không kém phần khác biệt, vì hai mặt đó của cư xử không thể nào
thu gọn mặt này vào mặt kia. Vì vậy, người ta không thể lập luận, ngay ở toán
học thuần túy, mà không cảm nhận những xúc cảm nào đó và ngược lại
không thể có xúc cảm mà không có một tối thiểu nắm hiểu và phân biệt.
Vậy một hành vi trí khôn bản thân nó giả định một sự điều tiết năng
lượng học bên trong (hứng thú, nỗ lực, sự dễ dàng v.v...) và bên ngoài (giá trị
những giải pháp tìm thấy và những mục tiêu mà sự tìm kiếm nhằm tới) nhưng
hai sự điều chỉnh này đều mang tính chất xúc cảm và vẫn so sánh được với
mọi sự điều tiết khác cùng loại. Ngược lại, những yếu tố tri giác hoặc trí tuệ
mà người ta tìm thấy lại trong mọi biểu hiện xúc cảm đều liên quan đến đời
sống nhận thức, như bất cứ phản ứng tri giác hoặc trí tuệ nào khác. Cái mà
lương tri thông thường gọi là "tình cảm" và "trí tuệ" bằng cách coi chúng là hai
"năng khiếu" đối lập nhau đều đơn giản chỉ là những cư xử liên quan đến các
con người và những cư xử liên quan đến các ý tưởng và các sự vật: nhưng ở
mỗi một cư xử đó, cùng những mặt cảm xúc và nhận thức ấy của hành động
can thiệp vào, những mặt này luôn tụ hội lại trên thực tế và vì vậy hoàn toàn
không đặc trưng cho những năng khiếu độc lập.
Hơn nữa, bản thân trí khôn không bao hàm một phạm trù riêng rẽ và
đứt đoạn của các quá trình nhận thức. Nói đúng ra, nó không phải là một sự
cấu trúc hoá trong số các cấu trúc hóa khác: nó là nhận thức cân bằng mà
mọi cấu trúc đều hướng tới, những cấu trúc là sự hình thành phải được tìm
kiếm ngay từ sự tri giác, thói quen là các cơ chế cảm giác - vận động sơ
đẳng. Quả vậy, phải hiểu thật rằng nếu trí khôn không phải là một năng khiếu
(năng lực), sự phủ định đó mang theo một sự liên tục cơ bản có tính chức
năng giữa những hình thức cao cấp của tư duy và toàn bộ những loại hình
cấp thấp của sự thích nghi tri giác hoặc vận động: vậy trí khôn chỉ có thể là
hình thức cân bằng mà những hình thức và loại hình này hướng tới. Điều đó
tất nhiên không có nghĩa là một lập luận bao gồm một sự kết hợp các cấu trúc
tri giác và cũng không có nghĩa là tri giác quay trở lại thành lập luận một cách
vô thức (mặc dầu cả hai luận điểm đó đều đã được ủng hộ), vì sự liên tiếp về
chức năng không hề loại bỏ sự đa dạng và ngay cả sự không đồng đều của
các cấu trúc. Mỗi cấu trúc phải được quan niệm như là một hình thức đặc biệt
của sự cân bằng, ít nhiều ổn định trong trường chật hẹp của nó và trở thành
bấp bênh ở các giới hạn của trường đó. Nhưng các cấu trúc này, được xếp
từng chặng theo các nấc, phải được xem như nối tiếp nhau theo một quy luật
tiến hóa sao cho mỗi cấu trúc bảo đảm một sự cân bằng rộng hơn và ổn định
hơn cho các quá trình đã từng xẩy ra trong lòng của cấu trúc trước. Vậy trí
khôn là một thuật ngữ phát sinh, chỉ những hình thức cao cấp của tổ chức
hoặc cân bằng của những sự cấu trúc hóa nhận thức.
Cách trình bày này có nghĩa là trước tiên nhấn mạnh vai trò cơ bản của
trí khôn trong đời sống của trí tuệ và của cả bản thân cơ thể nữa: là sự cân
bằng về cấu trúc uyển chuyển nhất và đồng thời lâu dài nhất của sự cư xử, trí
khôn chủ yếu là một hệ thống thao tác sống động và hoạt động. Nó là sự
thích nghi tinh thần tiên tiến nhất, tức là dụng cụ cần thiết của những trao đổi
giữa chủ thể và vũ trụ, khi mà vòng quay của chúng vượt những tiếp xúc tức
thì và nhất thời để đạt đến những quan hệ rộng rãi và ổn định. Nhưng, mật
khác, cũng cách trình bày đó không cho phép chúng tôi ấn định phạm vi của
trí khôn về phần điểm xuất phát của nó: nó là điểm đạt tới, và nguồn gốc của
nó trùng hợp với nguồn gốc của sự thích nghi cảm giác - vận động nói chung,
cũng như vượt quá sự thích nghi này, trùng hợp với nguồn gốc của bản thân
sự thích nghi sinh học.
* TÍNH CHẤT THÍCH NGHI CỦA TRÍ KHÔN
Nếu trí khôn là sự thích nghi thì trước hết, nên định nghĩa sự thích nghi.
Mà để tránh những khó khăn của ngôn ngữ mục đích luận, sự thích nghi phải
được nêu đặc tính như là một sự cân bằng giữa các hành động của cơ thể
lên môi trường và các hành động ngược lại. Người ta có thể gọi là sự "đồng
hóa", nếu lấy từ này ở nghĩa rộng nhất của nó, hoạt động của cơ thể lên
những khách thể xung quanh nó, với tư cách là hoạt động này phụ thuộc vào
các cư xử trước đó liên quan đến cùng những khách thể đó hoặc những
khách thể khác tương tự. Quả vậy, mọi quan hệ giữa một sinh thể với môi
trường của nó mang tính chất đặc thù này là sinh thể thay vì thụ động phục
tùng môi trường, biến đổi nó bằng cách áp đặt cho nó một cấu trúc riêng nào
đó. Chính là bằng cách ấy mà, vẻ mặt sinh lí học, cơ thể hấp thu các chất và
biến đổi chúng căn cứ vào chất của mình. Mà về mặt tâm lí học, vấn đề cũng
là như vậy ngoại trừ một điều là những biến đổi nói đến lúc này không còn
mang tính chất chất liệu mà đơn thuần mang tính chất chức năng và được
xác định bởi tính vận động, sự tri giác hoặc tác động của những hành động
thực tại hoặc tiềm tàng (thao tác mang tính quan niệm v.v...). Sự đồng hóa
tinh thần do vậy là sự sáp nhập các khách thể vào trong các sem của sự cư
xử, những sem này không gì khác là cái sườn của những hành động có khả
năng được lặp lại một cách tích cực.
Ngược lại, môi trường tác động đến cơ thể, và người ta có thể gọi, theo
như các nhà sinh học thường gọi, hoạt động nghịch đảo này bằng thuật ngữ
"điêu ứng”, vì đã thống nhất rằng sinh thể không bao giờ chịu sự tác động của
những vật thể chung quanh nguyên xi như chúng là như vậy, mà nó đơn giản
biến đổi chu kì đồng hóa bằng cách sửa đổi chu kì đó cho thích hợp với các
vật thể. Về mặt tâm lí học, người ta tìm thấy lại cùng quá trình ấy, với nghĩa là
sức ép các sự vật luôn dẫn đến không phải là một sự phục tùng thụ động, mà
một sự biến đổi đơn giản của hành động hướng về các sự vật. Điều đó nói
lên rằng người ta có thể định nghĩa sự thích nghi như là một sự cân bằng
giữa đồng hóa và điều ứng, tức cũng có nghĩa là một sự cân bằng của những
trao đổi giữa chủ thể và các khách thể.
Trong trường hợp của sự thích nghi cơ thể, những trao đổi này, vì có
tính chất vật chất, giả định một sự thâm nhập lẫn nhau giữa một bộ phận nào
đó của cơ thể sống với một khu vực nào đó của môi trường bên ngoài. Trái lại
đời sống tâm lí khởi đầu như chúng ta đã thấy với những trao đổi có tính chất
chức năng, tức là ở điểm mà sự đồng hóa không còn biến đổi một cách lí -
hóa những khách thể được đồng hóa, mà đơn giản sáp nhập chúng vào
những dạng của hoạt động riêng (và ở điểm mà sự điều ứng chỉ biến đổi hoạt
động đó). Lúc này người ta hiểu ra rằng cùng với sự xâm nhập trực tiếp lẫn
nhau của cơ thể và môi trường, còn có thêm, với đời sống tinh thần, những
trao đổi gián tiếp giữa chủ thể và các khách thể, sự trao đổi đó được thực
hiện ở những khoảng cách không gian luôn luôn lớn hơn và theo những
đường đi luôn luôn phức tạp hơn. Tất cả sự phát triển của hoạt động tinh
thần, từ sự tri giác và thói quen đến biểu tượng và trí nhớ cũng như đến các
thao tác cao cấp của lập luận và tư duy hình thức, đều tùy thuộc như thế vào
khoảng cách tuần tự tăng lên đó của các trao đổi, tức là vào sự cân bằng
giữa sự đồng hóa các thực tế ngày càng xa hơn với hoạt động riêng và một
sự điều ứng của hoạt động với các thực tế.
Chính trong ý nghĩa đó mà trí khôn, với những thao tác lôgích của nó
tạo thành một sự cân bằng cơ động và bền lâu giữa vũ trụ và tư duy, kéo dài
và kết thúc toàn bộ những quá trình thích nghi. Sự thích nghi của cơ thể quả
là chỉ bảo đảm một sự cân bằng trực tiếp và vì vậy hạn chế giữa sinh thể và
môi trường hiện tại. Các chức năng nhận thức sơ đẳng như tri giác, thói quen
và trí nhớ kéo dài sự thích nghi theo hướng của mặt rộng đang có (sự tiếp
xúc tri giác với những khách thể cách xa) và những sự đón trước hoặc tái tạo
gần kề. Chỉ có trí khôn với khả năng về tất cả các vòng quanh và các trở về
bằng hành động và bằng tư duy, hướng đến một sự cân bằng hoàn toàn
nhằm vào việc đồng hóa toàn bộ thực tại và điều ứng hành động mà nó giải
thoát khỏi sự phụ thuộc vào cái ở đây và bây giờ bạn đầu.
* ĐỊNH NGHĨA TRÍ KHÔN
Nếu người ta muốn định nghĩa trí khôn, điều chắc hẳn là quan trọng để
phân định lĩnh vực mà người ta chăm sóc tới dưới cái tên gọi đó. chỉ cần
thống nhất với nhau về mức độ phức hợp của các trao đổi ở cách xa mà từ
những trao đổi đó người ta thỏa thuận gọi chúng là "thông minh" (là thuộc trí
khôn). Nhưng ở đây nổi lên những khó khăn bởi vì cái đường ranh giới ở bên
dưới vẫn là võ đoán. Đối với một số người như Claparède và Stern, trí khôn
là một sự thích nghi của tinh thần vào các hoàn cảnh mới. Như vậy,
Claparède đối lập trí khôn với bản năng và với thói quen, là những thích nghi,
di truyền hoặc thụ đắc, với những hoàn cảnh lặp đi lặp lại, nhưng ông cho trí
khôn khởi đầu ngay từ sự mầy mò kinh nghiệm chủ nghĩa sơ đẳng nhất
(nguồn gốc của những mầy mò nội hiện đặc trưng về sau cho sự tìm kiếm giả
thuyết). Theo Buhler, người đã phân bố các cấu trúc thành ba loại (trực giác,
tập luyện và trí khôn), định nghĩa đó quá rộng: trí khôn chỉ xuất hiện với
những hành vi nắm hiểu đột ngột (Aha-Erlebris), còn sự mầy mò thì thuộc
việc luyện tập. Hochler cũng vậy, dành thuật ngữ trí khôn cho những hành vi
cấu tạo lại đột ngột và loại trừ khỏi nó sự mầy mò. Không thể chối cãi là sự
mầy mò xuất hiện ngay từ sự hình thành những thói quen đơn giản nhất,
những thói quen này bản thân chúng vào thời điểm cấu thành cũng là những
thích nghi vào các hoàn cảnh mới. Mật khác, câu hỏi, giả thuyết và sự kiểm
tra mà sự tụ hội cũng là đặc trưng cho trí khôn theo Claparède, đã là có mầm
mống trong các nhu cầu, các thử và sai và hình phạt kinh nghiệm chủ nghĩa
riêng cho những thích nghi cảm giác - vận động tiến bộ nhất. Vậy hai cái chọn
một: hoặc bằng lòng với một định nghĩa có tính chức năng, với nguy cơ bao
quát hầu hết toàn bộ những cấu trúc tri giác; hoặc chọn làm tiêu chí một cấu
trúc đặc biệt, nhưng sự lựa chọn vẫn là ước lệ và có nguy cơ xem nhẹ tính
liên tục thực tại.
Tuy nhiên còn có thể định nghĩa trí khôn bằng cái hướng theo: sự phát
triển của nó đã định, không nhấn mạnh đến các vấn đề ranh giới, những vấn
đề này trở thành công việc của các giai đoạn hoặc các hình thức liên tiếp của
sự cân bằng. Lúc đó người ta có thể đồng thời đứng trên quan điểm của tình
huống chức năng và của cơ chế cấu trúc. Từ cái thứ nhất của những quan
điểm ấy, người ta có thể nói ràng một cư xử là càng "khôn ngoan" hơn khi
quỹ đạo giữa chủ thể và các khách thể của hành động không còn đơn giản và
đòi hỏi một sự cấu tạo tiệm tiến. Tri giác như vậy chỉ bao gồm những đường
đi đơn giản, ngay khi khách thể được tri giác khá xa. Một thói quen có thể
hình như phức hợp hơn, nhưng những khớp nối không gian - thời gian được
gán lại thành một tổng thể duy nhất, không có bộ phận độc lập hoặc có thể
cấu tạo riêng rẽ. Trái lại, một hành vi của trí khôn, như tìm thấy lại một đồ vật
bị giấu hoặc ý nghĩa của một hình ảnh, giả định một số các đoạn đường đi
(trong không gian và trong thời gian) vừa có thể phân cách riêng ra vừa có
khả năng cấu tạo lại. Trên quan điểm của cơ chế cấu trúc, vì vậy, những thích
nghi cảm giác - vận động sơ đẳng vừa là cứng cỏi vừa là có hướng độc nhất,
còn trí khôn thì đi vào chiều cơ động đảo nghịch. Chúng ta sẽ thấy rằng chính
ngay đó là tính chất chủ yếu của các thao tác đặc trưng cho lôgich học sống
động đang hành động. Nhưng người ta thấy ngay rằng tính chất chủ yếu của
tính có khả năng đảo nghịch không gì khác hơn là tiêu chí của sự cân bằng
(như những nhà vật lí đã dạy chúng ta). Định nghĩa trí khôn bằng tính có khả
năng đảo nghịch tiệm tiến của các cấu trúc cơ động mà nó tạo dựng nên tức
là nói lại dưới một hình thức mới rằng trí khôn tạo dựng trạng thái cân bằng
mà tất cả những thích nghi liên tiếp thuộc dạng cảm giác vận động và tri giác
hướng tới, cũng như tất cả những trao đổi đồng hóa và điều ứng giữa cơ thể
và môi trường.
* PHÂN LOẠI NHỮNG GIẢI THÍCH CÓ THỂ CÓ VỀ TRÍ KHÔN
Trên quan điểm sinh học, trí khôn hiện ra như là một trong những hoạt
động của cơ thể, còn những khách thể mà nó tự thích nghi tạo thành một khu
vực đặc biệt của môi trường xung quanh. Song, trong chừng mực mà những
tri thức do trí khôn luyện được thực hiện một sự cân bằng có lợi, bởi vì là sự
kết thúc cần thiết của những trao đổi cảm giác - vận động và biểu tượng vào
lúc những khoảng cách trong không gian và trong thời gian được mở rộng vô
hạn, trí khôn để ra ngay cả tư duy khoa học, bao gồm cả tri thức sinh học.
Vậy là rất tự nhiên rằng những í thuyết tâm lí học trí khôn đến đan xen vào
giữa những lí thuyết sinh học về sự thích nghi và những lí thuyết về tri thức
nói chung. Thế thì không lấy gì làm ngạc nhiên là có sự thân thuộc giữa các lí
thuyết tâm lí học và các học thuyết trí học (khoa học luận) bởi vì nếu tâm lí
học đã tự thoát ra khỏi những bảo trợ của triết học, vẫn thật may mắn còn
một sự liên hệ nào đó giữa việc nghiên cứu các chức năng tinh thần và việc
nghiên cứu các quá trình của tri thức khoa học. Nhưng điều còn thú vị hơn là
có một sự song hành, và khá chặt chẽ, giữa những học thuyết lớn của sinh
học về sự thay đổi mang tính tiến hóa (tức là về sự thích nghi) và các lí thuyết
chật hẹp về trí khôn với tính cách là sự kiện tâm lí học: thường các nhà tâm lí
học quả là không ý thức được những dòng cảm hứng sinh học nuôi dưỡng
những giải thích của họ; vả lại cũng vậy các nhà sinh học đôi khi đã theo mà
không biết một quan điểm tâm lí học riêng biệt trong số các quan điểm có thể
có (xem vai trò của thói quen ở Lamarck, hoặc của sự cạnh tranh và sự đấu
tranh ở Darwin); hơn nữa vì các vấn đề có quan hệ thân thuộc với nhau, có
thể xảy ra sự hội tụ đơn giản của các giải pháp, và lúc đó giải pháp này xác
nhận giải pháp kia.
Trên quan điểm sinh học, các quan hệ giữa cơ thể và môi trường, bao
gồm sáu cách giải thích có thể được, theo những cách phối hợp sau đây (đều
tất cả đưa lại những giải pháp riêng biệt, cổ điển hoặc hiện đại): hoặc người
ta loại bỏ ý tưởng về một sự tiến hóa thực sự (I) hoặc người ta thừa nhận sự
tổn tại của nó (II); mặt khác trong cả hai trường hợp (I và II) người ta quy các
thích nghi hoặc cho những yếu tố bên ngoài cơ thể (1) hoặc cho những yếu tố
bên trong (2) hoặc cho sự tác động qua lại giữa hai yếu tố (3). Trên quan
điểm của thuyết cố định (I), người ta có thể quy sự thích nghi cho một sự hòa
hợp được thiết lập từ trước giữa cơ thể và các đặc tính của môi trường (I.1)
cho một thuyết tiền tạo cho phép cơ thể ứng đáp mọi hoàn cảnh bằng cách
làm cho cập nhật những cấu trúc tiềm tàng (I), hoặc nữa cho sự "đột khởi"
của các cấu trúc tổng thể không rút gọn được vào những yếu tố của chúng và
được xác định lần lượt từ bên trong và từ bên ngoài. Còn về các quan điểm
của thuyết tiến hóa (II), chúng giải thích song song các biến đổi để thích nghi
hoặc bằng sức ép của môi trường (thuyết Lamarck II.1) hoặc bằng những
thay thế nội sinh kèm theo sự chọn lựa sau đó (thuyết đột biến II.2), hoặc
bằng một sự tác động qua lại tiệm tiến của các yếu tố bên trong và bên ngoài
(II.3).
Điều lạ lùng là nhận thấy người ta tìm lại được biết bao cùng những
dòng suy nghĩ ấy trong việc giải thích bản thân tri thức với tính cách là quan
hệ giữa chủ thể suy tư và các khách thể. Với sự hòa hợp được thiết lập trước
đặc trưng cho thuyết sức sống sáng tạo tương ứng thuyết hiện thực của
những học thuyết nhìn thấy ở lí trí một sự thích đáng bẩm sinh với những
hình thức và những bản chất vĩnh cửu (I.1); với thuyết tiến tạo tương ứng
thuyết tiên nghiệm, giải thích tri thức bằng những cấu trúc bên trong có trước
kinh nghiệm (I.2) và tương ứng với thuyết "đột khởi" của các cấu trúc không
được tạo dựng là hiện tượng luận đương thời, phân tích đơn giản các hình
thức khác nhau của tư duy bằng cách từ chối đồng thời rút một cách phát
sinh những cái này từ những cái kia và tách riêng ở chúng phần của chủ thể
và phần của các khách thể (I.3). Mặt khác, những giải thích theo thuyết tiến
hóa được tìm thấy lại trong những trào lưu trí học góp một phần vào sự tạo
dựng dần dần lí trí: với thuyết Lamarck tương ứng chủ nghĩa kinh nghiệm, nó
giải nghĩa tri thức bằng sức ép các sự vật (III); với thuyết đột biến tương ứng
thuyết quy ước và chủ nghĩa thực dụng, chúng gán sự thích đáng của trí tuệ
đối với thực tại cho sự sáng tạo tự do những khái niệm chủ quan được chọn
lựa sau đó theo một nguyên tắc của sự thuận tiện đơn giản (II.2). Cuối cùng
thuyết tác động qua lại kéo theo một thuyết tương đối nó làm cho tri thức trở
thành sản phẩm của một sự cộng tác không thể tách rời giữa thí nghiệm và
sự diễn dịch (II.3).
Không nhấn mạnh vào sự song hành đó, dưới hình thức chung của nó,
cần nhận xét bây giờ rằng các lí thuyết đương thời và thực sự tâm lí học về trí
khôn được gợi ý từ cùng những dòng suy nghĩ khác nhau, hoặc giọng điệu
sinh học chiếm ưu thế, hoặc biểu hiện những ảnh hưởng của triết học trong
quan hệ với việc nghiên cứu bản thân tri thức.
Đầu tiên, không phải chỉ có một sự đối lập chủ yếu phân cách hai loại
giải thích: những giải thích mà trong khi vẫn thừa nhận sự tồn tại của các sự
kiện về phát triển, không thể tự ngăn cản mình coi trí khôn như một dữ kiện
đầu tiên, và như vậy rút gọn sự tiến hóa tinh thần thành một thứ nhận thức
dần dần, không có sự tạo dựng chân chính, và những giải thích mưu toan
định nghĩa trí khôn bằng ngay sự phát triển của nó. Chúng ta cũng nên ghi
nhận thêm rằng hai trường phái cộng tác với nhau trong việc khám phá và
phân tích bản thân các sự kiện thực nghiệm, vì vậy nên phân loại một cách
khách quan tất cả những giải thích tổng quát hiện tại trong chừng mực mà
chúng phục vụ cho việc soi sáng mặt này hay mặt khác riêng biệt của những
sự việc cần giải thích: đường ranh giới giữa các lí thuyết tâm lí học và các
học thuyết triết lí quả phải được tìm kiếm trong sự ứng dụng vào thí nghiệm
này chứ không trong các giả thuyết xuất phát.
Trong số những lí thuyết của thuyết cố định, trước hết có những lí
thuyết dù sao vẫn giữ sự trung thành với ý tưởng về một trí khôn - năng
khiếu, một thứ tri thức trực tiếp về những tồn tại vật thể và những ý tưởng
lôgich hoặc toán học, do sự hòa hợp đã được thiết lập từ trước giữa trí tuệ và
thực tại (I.1). Phải thú nhận rằng ít nhà tâm lí học thực nghiệm còn gắn bó với
giả thuyết này. Nhưng những vấn đề mà các ranh giới chung cho tâm lí học
và cho việc phân tích tư duy toán học đã nêu lên tạo dịp cho một số nhà
lôgistich, như B. Russell, xác định một quan niệm như vậy về trí khôn và còn
muốn áp đặt nó cho bản thân tâm lí học (xem "Phân tích Trí tuệ" của ông).
Thông dụng hơn là giả thuyết (I.2) theo đó trí khôn được xác định bởi
những cấu trúc nội tại, những cấu trúc này cũng không tự tạo dựng nên, mà
tự bộc lộ ra dần dà trong tiến trình phát triển, nhờ một sự phản chiếu của tư
duy lên bản thân mình. Dòng tiên nghiệm này trên thực tế đã được gợi ý một
phần lớn bởi những công trinh của Tâm lí học Đức và do vậy nằm ở nguồn
gốc của nhiều tìm tòi bằng thực nghiệm về sự suy nghĩ bằng phương tiện của
các phương pháp nổi tiếng về sự nội quan được gây nên, những phương
pháp ấy ngay từ những năm 1900 - 1905 đến nay đã đổi thay nhiều. Tất nhiên
là không thể nói rằng mọi sử dụng các phương cách tìm tòi nghiên cứu đó
dẫn đến sự giải thích trí khôn như vậy: công trình của Binet chứng thực cái
trái lại. Song, ở K. Buhler, Selz và nhiều người khác, trí khôn rốt cuộc trở
thành như một "tấm gương của lôgich học”, nó tự áp đặt từ bên trong không
thể có sự giải thích nguyên nhân nào cả.
Ở hàng thứ ba (I.3), với các quan điểm về thuyết đột hiện và hiện
tượng luận (với ảnh hưởng lịch sử hữu hiệu của hiện tượng luận) tương ứng
một lí thuyết mới đây về trí khôn, nó đã đổi mới các vấn đề một cách đầy ấn
tượng: lí thuyết về hình thức (gestalt). Xuất phát từ những tìm tòi thực nghiệm
về sự tri giác, khái niệm "hình thức tổng quát" bao hàm việc thừa nhận rằng
một toàn bộ là không thể rút thành các yếu tố tạo nên nó, trong chừng mực nó
được những quy luật riêng về tổ chức và cân bằng điều chỉnh. Thế là sau khi
đã phân tích các quy luật của cấu trúc hóa này trong lĩnh vực tri giác và tìm
thấy lại chúng trên địa hạt của tính vận động, của trí nhớ v.v.. lí thuyết về hình
thức được áp dụng vào cả bản thân trí khôn, và dưới các mặt suy ngẫm (tư
duy lôgich) cũng như cảm giác - vận động (trí khôn loài vật và trẻ em chưa
biết nói). Chính là do vậy mà Koehler về các con Hắc tinh tinh; Wertheimer về
tam đoạn luận, đã nói đến "sự cấu trúc hóa lại tức thì”, tìm cách giải thích
hành vi nắm hiếu bằng sự "hàm súc” có cấu trúc được tổ chức tốt. Chúng
không là nội sinh cũng không là ngoại sinh, mà bao quát chủ thể và các khách
thể bằng một chu trình toàn bộ. Hơn nữa các hình thức (gestalt) đó, chung
cho tri giác, tính vận động và trí khôn không tiến hóa, mà biểu hiện những
hình thức bền vững của sư cân bằng, độc lập với sự phát triển trí tuệ (người
ta có thể về mặt này tìm ra tất cả những thuyết trung gian giữa thuyết tiên
nghiệm và thuyết hình thức, mặc dầu thuyết sau thường được đặt trong viễn
cảnh của một chủ nghĩa hiện thực vật lí học hoặc sinh lí học của các "cấu
trúc").
Ba lí thuyết chính không mang tính phát sinh về trí khôn là như thế đấy.
Người ta nhận ra rằng thuyết thứ nhất quy sự thích nghi tri giác về một sự
điều ứng thuần túy, bởi vì với nó, tư duy chỉ là tấm gương những "ý tưởng" có
sẵn; thuyết thứ hai quy sự thích nghi thành một sự đồng hóa đơn thuần vì các
cấu trúc trí tuệ được nó xem xét như là tuyệt đối nội sinh; và thuyết thứ ba
hỗn hợp đồng hóa và điều ứng thành một tổng thể duy nhất bởi vì theo quan
điểm của tâm lí học Gestalt, chỉ tồn tại cái chu trình nối liền các khách thể với
chủ thể, không có hoạt động của chủ thể và cũng không có sự tồn tại riêng
biệt của các khách thể.
Còn về các giải thích phát sinh, người ta tìm thấy những thuyết giải
thích trí khôn duy nhất bằng môi trường bên ngoài (chủ nghĩa kinh nghiệm
liên tưởng tương ứng với thuyết Lamarck), bằng hoạt động của chủ thể (lí
thuyết của sự mầy mò tương ứng, trên bình diện của các thích nghi cá nhân
với thuyết đột biến trên bình diện những biến đổi di truyền) và bằng quan hệ
giữa chủ thể và các khách thể (thuyết thao tác).
Chủ nghĩa kinh nghiệm (II.1) không hề còn được ủng hộ dưới hình thức
theo thuyết liên tưởng thuần túy của nó, trừ một vài tác giả có xu hướng sinh
lí học là chủ yếu, họ nghĩ có thể đưa trí khôn quay trở về một trò chơi cư xử
được "điều kiện hóa". Nhưng dưới những dạng mềm mại hơn, người ta tìm
thấy lại chủ nghĩa kinh nghiệm trong những giải thích của Rignaro, người đã
quy sự lập luận về kinh nghiệm trí tuệ, và nhất là trong lí thuyết thú vị của
Spearman, vừa mang tính thống kê học phân tích những yếu tố của trí khôn
vừa mang tính miêu tả: bằng quan điểm thứ hai này, Spearman quy những
thao tác của trí khôn về việc "thâu tóm kinh nghiệm" và về việc "rút ra" những
quan hệ và những "tương liên", tức là về một việc đọc ít nhiều phức hợp
những tương quan được cung cấp trong thực tại. Vậy những tương quan này
không được tạo dựng mà được khám phá do sự điều ứng đơn giản với thực
tế bên ngoài.
Khái niệm thử và sai (II.2) đã đưa đến nhiều giải thích về việc học tập
và về bản thân trí khôn. Lí thuyết về sự mầy mò, do Claparède xây dựng, bao
hàm về mặt đó sự hiệu chỉnh sâu sắc nhất: sự thích nghi khôn ngoan (có trí
khôn) gồm những thử hoặc giả thuyết có được do hoạt động của chủ thể và
do sự tuyển lựa chúng được tiến hành sau đó dưới sức ép của kinh nghiệm
(thành công hay thất bại). Sự kiểm soát kinh nghiệm chủ nghĩa đó, nó lúc đầu
lựa chọn những cái thử của chủ thể, sau đó nội hiện dưới dạng những đón
trước do ý thức được những quan hệ, cũng như sự mầy mò khởi động tự kéo
dài thành mầy mò biểu tượng hoặc tưởng tượng ra những giả thuyết.
Cuối cùng, việc nêu bật các tác động qua lại giữa cơ thể và môi trường
dẫn tới lí thuyết thao tác về trí khôn (II.3). Theo quan điểm này, các thao tác
trí tuệ mà hình thức cao cấp là lôgich học và toán học bao hàm những hành
động thực tại, dưới phương diện kép của một sự sản xuất riêng của chủ thể
và một kinh nghiệm có thể có về thực tế. Vấn đề lúc này là hiểu được những
thao tác được xây dựng cách thế nào từ hành động vật chất và sự tiến hóa
của chúng được những quy luật cân bằng nào điểu khiển như vậy các thao
tác được quan niệm như nhóm họp một cách tất yếu thành những hệ thống
tổng thể so sánh được với những "hình thức" của lí thuyết Gestalt, nhưng
hoàn toàn không tĩnh tại và có sẵn ngay từ đầu khi xuất phát, mà là cơ động,
có thể nghịch đảo và chỉ khép lại trên bản thân mình lúc kết thúc quá trình
phát sinh vừa cá nhân vừa xã hội làm đặc trưng cho chúng.
Quan điểm thứ sáu này là quan điểm mà chúng tôi sẽ triển khai. Còn về
các lí thuyết của sự mầy mò và các quan niệm kinh nghiệm chủ nghĩa, chúng
tôi bàn cãi về chúng khi nói tới trí khôn cảm giác - vận động và quan hệ của
nó với thói quen (chương 4). Lí thuyết và hình thức đòi hỏi một sự bàn cãi
riêng mà chúng tôi sẽ tập trung vào vấn đề chủ yếu của các tương quan giữa
tri giác và trí khôn (chương 3). Cuối cùng, về những gì thuộc hai học thuyết
của một trí khôn được thích nghi từ trước vào các sinh thể lôgich còn tồn tại ở
bản thân hoặc của một tư duy phản ánh một lôgich - tiên nghiệm, chúng ta sẽ
tìm thấy lại chúng ở đầu chương sau. Cả hai học thuyết đó quả là nêu lên cái
mà người ta có thể gọi là “vấn đề tiên quyết" của việc nghiên cứu mặt tâm lí
học của trí tuệ: người ta phải chăng có thể hi vọng một sự giải nghĩa thực sự
về tri khôn hoặc phải chăng trí khôn bao hàm một sự việc khởi đầu không rút
gọn được, với tính cách là tấm gương của một thực tế có trước mọi kinh
nghiệm và nó sẽ là lôgich học?
Chương 2. "TÂM LÍ HỌC TƯ DUY" VÀ BẢN CHẤT TÂM LÍ HỌC CỦA NHỮNG THAO TÁC LÔGICH
Khả năng của một giải thích tâm lí học về trí khôn tùy thuộc ở cách thức
mà người ta giải thích những thao tác lôgich: chúng là sự phản ánh của một
thực tế có sẵn hay là biểu hiện của một hoạt động thực sự. Chỉ khái niệm của
một lôgich học mang tính tiền đề học mới chắc chắn cho phép thoát khỏi cái
thế hai chọn một này bằng cách bắt những thao tác thực tại của tư duy phải
chịu sự giải thích phát sinh, trong khi vẫn giữ lại tính chất không thể quy của
những nối kết hình thức của chúng, khi những nối kết này được phân tích một
cách tiền đề học: nhà lôgich học lúc đó tiến hành như nhà hình học đối với
những không gian mà ông ta tạo dựng một cách diễn dịch, còn nhà tâm lí học
lại có thể đồng nhất với nhà vật lí học tự mình đo không gian của thế giới thực
tại. Nói cách khác, nhà tâm lí học nghiên cứu cách thức mà sự cân bằng trên
thực tế của các hành động và các thao tác được tạo dựng, trong khi nhà
lôgich học phân tích cũng sự cân bằng ấy trong hình thức lí tưởng của nó, tức
là như nó sẽ là như thế nếu nó được thực hiện nguyên vẹn và như nó tự áp
đặt bằng cách đo một cách chuẩn tác vào trí óc.
* SỰ GIẢI THÍCH CỦA B. RUSSELL
Chúng ta đi từ lí thuyết về trí khôn của B. Russell, nó đánh dấu tối đa
sự phụ thuộc có thể có của tâm lí học vào khoa lôgistich (lôgich tư biện). Khi
chúng ta tri giác một bông hồng trắng, Russell nói, chúng ta quan niệm đồng
thời các khái niệm hoa hồng và màu trắng, và điều đó bằng một quá trình
tương đồng với quá trình của tri giác: chúng ta nắm bắt trực tiếp và như từ
bên ngoài những "cái phổ biến" tương ứng với những khách thể có cảm giác
và "tồn tại" không phụ thuộc vào tư duy của chủ thể. Nhưng, thế những ý
tưởng sai thì sao? Đó là những ý tưởng như những ý tưởng khác, và các
phẩm chất đúng và sai được áp dụng vào các khái niệm cũng như có những
bông hồng trắng và những bông hồng đỏ. Còn như các quy luật điều khiển
các phổ biến và điều chỉnh các tương quan của chúng thì chúng thuộc về
lôgich học duy nhất và tâm lí học chỉ có thể cúi mình trước cái tri thức tiên
quyết này, được cung cấp cho nó ở dạng có sẵn.
Giả thuyết là như vậy đó. Đánh giá nó là siêu hình hoặc siêu tâm lí học
thật không ích lợi gì, vì nó vấp phải lương tri thông thường những người thực
nghiệm: lương tri của nhà hóa học hòa hợp rất tốt với nó và tâm lí học phải
tính toán với các nhà toán học. Một luận điểm triệt để như vậy thật đáng để
làm ta suy nghĩ. Trước tiên nó loại trừ khái niệm thao tác bởi vì nếu người ta
nắm bắt các cái phổ biến từ bên ngoài, người ta không tạo dựng nên chúng.
Trong biểu thức 1 + 1 = 2, dấu + lúc đó chỉ một quan hệ giữa hai đơn vị mà
thôi chứ hoàn toàn không chỉ một hoạt động tạo nên số 2: như Conturat đã
nói rất rõ, khái niệm thao tác là chủ yếu "nhân hình học". Lí thuyết của Russell
như vậy là chia cắt một cách võ đoán các yếu tố chủ quan của tư duy (niềm
tin v.v...) khỏi những yếu tố khách quan (nhu cầu, khả năng v.v...). Cuối cùng
nó loại trừ quan điểm phát sinh: một người theo trường phái Russell một ngày
nọ đã nói để chứng tỏ sự vô bổ của sự nghiên cứu tư duy của trẻ em rằng
nhà "lôgich học" quan tâm đến những ý tưởng đúng, còn nhà tâm lí học tìm
thấy niềm vui trong việc mô tả những ý tưởng sai?
Nhưng nếu chúng tôi đã muốn bắt đầu chương này bằng một sự nhắc
lại các ý kiến của Russell chính là để chỉ ngay tức khắc ra rằng đường ranh
giới giữa tri thức môn lôgistich và tâm lí học không thể do môn lôgistich vượt
qua mà không bị trừng phạt. Ngay cả nếu như trên quan điểm tiền đề học,
thao tác hiện ra như không có ý nghĩa gì, "thuyết nhân hình" một mình nó
cũng tạo cho thao tác thành một thực tế của trí tuệ. Trên quan điểm phát sinh,
những thao tác quả là nhưng hành động thực sự, chứ không chỉ là những sự
nhận thấy hay nắm bắt các quan hệ. Khi 1 được cộng vào 1, chính là chủ thể
họp hai đơn vị thành một tổng thể trong khi nó có thể giữ chúng riêng rẽ.
Chắc hẳn hành động đó, được tiến hành trong óc đạt một tính chất đặc thù
phân biệt nó với những hành động thông thường: nó có thể đảo nghịch, nghĩa
là sau khi họp hai đơn vị chủ thể có thể tách chúng ta ra và bằng cách đó tự
thấy mình ở lại điểm xuất phát. Nhưng nó không hề kém phần là một hành
động thực sự, rất khác với việc đọc đơn giản một quan hệ như 2>1. Mà về
việc này, những người theo trường phái Russell chỉ trả lời bằng một luận
chứng ngoài tâm lí học đó là một hành động ảo bởi vì 1 + 1 đã hợp thành 2 từ
muôn đời (hoặc như Carnap và von Wittgenstein nói, bởi vì 1 + 1 = 2 chỉ là
một hằng đề, đặc trưng của ngôn ngữ "cú pháp lôgich" và không liên quan
đến bản thân tư duy, mà các phương pháp tiến hành là đặc biệt thực
nghiệm). Một cách khái quát, tư duy toán học tự lừa dối mình khi nó tưởng
rằng nó tạo dựng hoặc sáng tạo, trong khi nó chỉ hạn chế trong việc khám phá
những mặt khác nhau của một thế giới có sẵn (và những người thành Vienne
còn dặn thêm: hoàn toàn trùng lặp). Duy có điều là dẫu người ta từ chối
không cho tâm lí học trí khôn quyền chăm sóc đến bản chất những sinh thể
lôgich - toán học, vẫn còn là tư duy cá nhân không thể giữ thụ động trước các
ý (hoặc các dấu hiệu của một ngôn ngữ lôgich học), càng không hơn trước
những vật thể vật lí và vẫn còn là để đồng hóa chúng, nó tạo dựng lại chúng
nhờ vào những thao tác thực tại về mặt tâm lí học.
Chúng tôi nói thêm rằng trên quan điểm hoàn toàn lôgistich học, những
lời khẳng định của B. Russell và của câu lạc bộ Vienne về sự tồn tại độc lập
những sinh thể lôgich - toán học, đối với những thao tác dường như đẻ ra
chúng, cũng võ đoán như theo quan điểm tâm lí học: những khẳng định đó
luôn vấp phải khó khăn cơ bản của tính hiện thực các lớp, các quan hệ và các
số, nó là khó khăn của những tương phản liên quan đến lớp "của tất cả các
lớp" và đến số vô hạn hiện tại. Trái lại trên quan điểm thao tác, những sinh
thể vô hạn chỉ là sự biểu hiện những thao tác có khả năng lặp lại vô cùng tận.
Cuối cùng trên quan điểm phát sinh, giả thuyết về sự nắm bắt trực tiếp
(tổng giác) bằng tư duy những cái phổ biến tồn tại độc lập đối với tư duy lại
càng hảo huyễn hơn nữa. Hãy thừa nhận rằng những ý tưởng sai của người
lớn có một cuộc sống so sánh được với đời sống của các ý tưởng đúng. Vậy
nghĩ gì về những khái niệm lần lượt được trẻ em tạo dựng nên trong tiến trình
các giai đoạn không đồng đều của sự phát triển của nó? Và những "sem" của
trí khôn thực hành tiền ngôn ngữ có tồn tại bên ngoài chủ thể không? Và
những "sem" của trí khôn loài vật? Nếu người ta dành sự "tồn tại" vĩnh cửu
cho duy nhất những ý đúng thì vào lứa tuổi nào bắt đầu sự nắm bắt chúng ?
Và ngay cả, một cách khái quát, nếu các giai đoạn của sự phát triển đơn giản
đánh dấu những sự phỏng chừng liên tiếp của trí khôn trong sự chinh phục
những "ý tưởng" không đối của nó, chúng ta có chứng cứ nào tỏ ra rằng
người lớn bình thường hoặc những nhà lôgich học của trường phái Russell
đạt đến sự nắm hiểu chúng và sẽ không thường xuyên bị những thế hệ tương
lai vượt qua?
* TÂM LÍ HỌC TƯ DUY: BUHLER VÀ SELZ
Những khó khăn mà chúng ta vừa gặp trong cách giải thích về trí khôn
của B. Russell cũng được tìm thấy lại một phần trong cách giải thích mà tâm lí
học Đức đã dẫn tới, mặc dầu lần này đây là công trình của những nhà tâm lí
học thuần túy. Đúng là đối với các tác gia của trường phái này, lôgich học
được áp đặt vào trí óc không phải từ bên ngoài mà từ bên trong; những xung
đột giữa "những câu thúc của việc giải thích có tính chất tâm lí học và những
câu thúc của sự diễn dịch riêng cho những nhà lôgich học đã nhờ vậy mà
chắc chắn đã giảm bớt. Nhưng như chúng ta sẽ thấy, nó không được hoàn
toàn loại bỏ và bóng của lôgich học hình thức tiếp tục bay lượn, như một cái
cho sẵn không rút gọn được, trên sự tìm tòi cách giải thích và nguyên nhân
của nhà tâm lí học, trong chừng mực ông ta không đứng trên quan điểm triệt
để phát sinh. Mà những "nhà tâm lí học tư duy" Đức trên thực tế đã được gợi
ý bởi hoặc những dòng tuyệt đối tiên nghiệm hoặc những dòng hiện tượng
luận (ảnh hưởng của Husserl đã là đặc biệt rõ rệt), với tất cả những trung
gian giữa hai cái đó.
Với tính cách là một phương pháp, tâm lí học tư duy xuất hiện lần lượt
ở Pháp và ở Đức. Hoàn toàn quay trở lại từ thuyết liên tưởng mà ông bênh
vực trong quyển sách nhỏ của mình về Tâm lí học lập luận, Binet đã lấy lại
vấn đề về các tương quan của tư duy và các hình ảnh bằng một cách thức lí
thú của sự nội quan được gây ra và đã nhờ cách thức đó mà khám phá ra sự
tồn tại của một tư duy không có những hình ảnh các quan hệ, các phán đoán,
các thái độ v.v... đã tràn ra ngoài sự tạo hình và tư duy không tự quy vào việc
"ngắm nghía từ trung tâm triển lãm tạo hình dân gian" - ông đã khẳng định
như vậy năm 1903 trong Nghiên cứu thực nghiệm về trí khôn của ông. Còn
như muốn biết những hành vi tư duy đó chống lại sự giải thích bằng thuyết
liên tưởng, bao hàm những gì, Binet giữ thái độ thận trọng, tự hạn chế trong
việc ghi nhận sự thân thuộc giữa các "tư thế" trí tuệ và vận động và kết luận
rằng trên quan điểm của một mình sự nội quan, "tư duy là một hoạt động vô
thức của trí óc". Bài học bổ ích vô hạn, nhưng chắc chắn là gây thất vọng về
mặt những vốn của một phương pháp đã tỏ ra là sinh sôi về bản thân việc đặt
ra các vấn đề hơn là về các giải pháp cho những vấn đề ấy.
Năm 1900 Marbe (Experimentalle Untersuchungen uber das Urteil)
cũng tự hỏi sự phán đoán khác gì với một liên tưởng và hi vọng giải quyết vấn
đề bằng một phương pháp nội quan được gây ra. Marbe lúc đó gặp những
trạng thái ý thức đa dạng nhất: biểu tượng bằng lời, hình ảnh, cảm xúc về các
cử động, thái độ (hoài nghi v.v...), nhưng không có gì là cố định. Trong khi vẫn
đã nhận xét rằng điều kiện cần của phán đoán là tính chất được mong muốn
hoặc cố tình của tương quan, ông không coi điều kiện đó là đủ và kết luận
bằng một sự phủ định nó làm nhớ lại công thức của Binet: không có trạng thái
ý thức liên tục gắn liền với phán đoán và có thể được coi là cái quyết định.
Nhưng ông nói thêm, và điều phụ thêm này dường như đã đè nặng trực tiếp
hoặc gián tiếp lên toàn bộ tâm lí học tư duy Đức, mà sự phán đoán do đó bao
hàm sự can thiệp của một yếu tố ngoài tâm lí học vì gắn chặt với lôgich học
thuần túy. Người ta thấy rằng chúng đã không cường điệu khi báo sự tái hiện
trên bình diện mới này những khó khăn không thể tách rời với chủ nghĩa
lôgich của bản thân những người theo học thuyết Platông.
Sau đó đến các công trình của Watt, của Hesser và của Buhler, do
Kiilpe gợi cảm hứng và đã làm rạng danh "trường phái Wurzbourg". Watt khi
nghiên cứu luôn luôn bằng sự nội quan được gây ra, những liên tưởng do chủ
thể cung cấp bằng sự áp dụng một mệnh lệnh đã cho (chẳng hạn liên tưởng
do siêu lệnh v.v...) khám phá ra rằng mệnh lệnh có thể hoạt động hoặc có
kèm theo hình ảnh, hoặc ở trạng thái ý thức không hình ảnh (Bewusstheit)
hoặc cuối cùng ở trạng thái vô thức. Lúc đó ông đưa ra giả thuyết rằng "ý
định" của Marbe đúng là kết quả của những mệnh lệnh (bên ngoài hoặc bên
trong) và nghỉ giải quvết vấn đề phán đoán bằng cách biến ảo thành một
chuỗi liên tiếp các trạng thái được điều kiện hóa bởi một yếu tố tâm linh có ý
thức từ trước và phát huy ảnh hưởng lâu dài.
Messer cho rằng sự miêu tả của Watt quá mơ hồ vì nó được áp dụng
vào một trò chơi có điều khiển cũng như vào sự phán đoán và lấy lại vấn đề
bằng một kỉ thuật tương tự: ông phân biệt sự liên tưởng có điều khiển với bản
thân sự phán đoán, nó là một tương quan được chấp nhận hoặc bị bác bỏ và
dành phần chủ yếu các công trình của mình để phân tích những loại hình tinh
thần khác nhau của phán đoán.
Cuối cùng K. Buhler đánh dấu sự kết thúc các công trình của trường
phái Wurzbourg. Sự nghèo nàn của các kết quả ban đầu của phương pháp
nội quan được gây ra dường như theo ông là kết quả của sự việc này: các
vấn đề được đặt ra thuộc về những quá trình rất đỗi đơn giản, và từ đó ông
say mê phân tích cùng những người cộng tác giải pháp của các vấn đề thực
sự. Những yếu tố của tư duy có được bằng phương thức đó được phân bố
thành ba phạm trù: các hình ảnh, mà vai trò là phụ chứ không chủ yếu như
thuyết liên tưởng mong muốn, những tình cảm trí tuệ và những thái độ; sau
cùng và nhất là bản thân những "ý nghĩ". Những ý nghĩ này về phần mình
được biểu hiện dưới hình thức hoặc "ý thức về tương quan" (ví dụ A < B)
hoặc "ý thức về các quy tắc" (chẳng hạn, nghĩ về số nghịch của bình phương
khoảng cách mà không rõ về khách thể nào và khoảng cách nào được nói tới
ở đây), hoặc về các ý định (theo nghĩa kinh viện) "thuần túy hình thức" (ví dụ:
suy nghĩ về kiến trúc của một hệ thống). Được quan niệm như vậy, tâm lí học
tư duy cuối cùng đi đến sự mô tả đúng và thường rất tinh tế các trạng thái trí
tuệ, nhưng song hành với sự phân tích lôgich học và không giải nghĩa tí nào
các thao tác với tư cách chúng là như thế.
Với các công trình của Selz, trái lại, các kết quả của trường phái
Wurzbourg được vượt sang hướng của một sự phân tích ngay động cơ của
tư duy, chứ không còn chỉ là những trạng thái riêng lẻ. Selz cũng như Buhler,
nghiên cứu lời giải của bản thân các vấn đề, nhưng ông ít mô tả các yếu tố
của tư duy hơn là nắm bắt cách thức đạt được của Lời giải. Sau khi nghiên
cứu vào năm 1913 "tư duy tái tạo", ông mưu toan vào năm 1922 (Zur
Psychologie des produktiven Denkens und des irrtums) chọc thủng tấm màn
bí mật của sự tạo dựng trong óc. Thật thú vị khi nhận ra rằng trong chừng
mực mà những tìm tòi được hướng như vậy vào hoạt động với tính cách như
vậy của tư duy, chúng chính vì thế mà đi xa ra khỏi thuyết nguyên tử lôgich
mà nội hàm là xếp loại các quan hệ, phán đoán và sem riêng lẻ và đi gần lại
những tổng thể sống, theo mẫu hình được tâm lí học hình thức minh họa mà
chúng ta sẽ tìm thấy lại chốc nữa một mẫu hình khác biệt về cái có liên quan
đến các thao tác. Theo Selz, mọi công việc của tư duy bao gồm việc bổ sung
cho đủ một tổng thể (lí thuyết của Komplexerg anzung): lời giải của một bài
toán (vấn đề) không để quy về một sơ đồ kích thích - đáp ứng, mà bao hàm
việc lấp đầy các lỗ hổng tồn tại ở bên trong những "phức hợp" khái niệm và
quan hệ. Khi một vấn đề được đặt ra, hai trường hợp có thể xẩy ra. Hoặc đây
chỉ là một vấn đề tái tạo, không đòi hỏi một sự tạo dựng mới và lời giải chỉ là
đơn giản sử dụng những "phức hợp" đã có: lúc này có sự cập nhật hóa sự
hiểu biết, đó là tư duy "tái tạo" một cách đơn giản. Hoặc đây là một bài toán
thực sự, chứng tỏ sự tồn tại những lỗ hổng ở bên trong những "phức hợp" đã
được thừa nhận cho đến lúc đó, và cần thiết phải cập nhật hóa không phải là
sự hiểu biết nữa, mà những phương pháp lời giải (vận dụng những phương
pháp đã biết vào trường hợp mới), hoặc cả trừu xuất những phương pháp
mới từ những phương pháp cũ: trong hai trường hợp cuối này, đó là tư duy
"tạo dựng" và chính kiểu tư duy này bao hàm thực sự việc bổ sung cho đủ
những tổng thể hay phức hợp đã có. Còn về việc "lấp lỗ hổng" này, nó luôn
được định hướng bằng những "sem đón trước" (có thể so sánh với "sem
năng động" của Bergson, chúng dệt nên, giữa những dự kiến mới và tổng thể
của phức hợp tương ứng, một hệ thống những quan hệ thời toàn bộ tạo nên
sườn của lời giải cần tìm (tức là giả thuyết chủ đạo). Những quan hệ này, bản
thân chúng cuối cùng cũng được chi tiết hóa, theo một cơ chế tuân thủ những
quy luật xác định: những quy luật này không gì khác hơn là những quy luật
của lôgich mà tư duy tóm lại là một tấm gương.
Chúng tôi cũng xin nhắc đến tác phẩm của Lindworski xen giữa hai
công trình của Selz và báo trước những kết luận của vị này. Còn việc nghiên
cứu của Claparèle về sự phát sinh của giả thuyết, chúng tôi sẽ nói lại khi nói
về sự mầy mò (chương 4).
* PHÊ PHÁN TÂM LÝ HỌC TƯ DUY
Rõ ràng là các công trình nêu trên đã phục vụ nhiều cho việc nghiên
cứu trí khôn. Chúng ta giải phóng tư duy khỏi hình ảnh được quan niệm như
là yếu tố tạo dựng và đã khám phá lại sau Descarles rằng phán đoán là một
hành vi. Chúng đã mô tả chính xác những trạng thái khác nhau của tư duy và
bằng cách đó chỉ ra, chống lại Wundt rằng nội quan có thể nâng lên bằng
phương pháp tích cực khi nó được gây ra, tức là khi trên thực tế nó được một
người quan sát kiểm soát.
Nhưng trước hết, nên ghi nhận rằng ngay trên bình diện của sự mô tả
đơn giản, các tương quan giữa hình ảnh và tư duy đã bị trường phái
Wurxbourg đơn giản hóa quá đáng. Ắt vẫn còn cái đạt được là hình ảnh
không tạo nên một yếu tố của bản thân tư duy. Duy chỉ có điều là nó đi kèm
và dùng làm biểu tượng cho tư duy, biểu tượng cá nhân bổ sung những kí
hiệu tập thể của ngôn ngữ. Trường phái Meaning xuất phát từ lôgich học của
Bradley, chỉ đúng ra rằng mọi tư duy là một hệ thống các nghĩa, và chính khái
niệm ấy mà Delacroix và đồ đệ của ông, đặc biệt là Meyerson, đã phát triển
thành những gì liên quan đến các tương quan giữa tư duy và hình ảnh. Quả
vậy các ý nghĩa bao gồm những cái được biểu đạt là tư duy với tư cách như
thế, mà cả "cái biểu đạt" được tạo thành bởi những kí hiệu của lời nói hoặc
những biểu tượng bằng hình ảnh được tạo dựng trong mối tương quan chặt
chẽ với bản thân tư duy.
Mặt khác, hiển nhiên là phương pháp ngang của tâm lí học Đức ngăn
cản nó vượt quá sự mô tả thuần túy và nó thất bại trong việc giải thích trí
khôn ở những cơ chế thực chất là tạo dựng, bởi vì nội quan cả khi được kiểm
soát chắc chắn liên quan đến chỉ những sản phẩm của tư duy mà thôi chứ
không đến sự hình thành ra nó. Hơn nữa, nội quan được dành cho các chủ
thể có khả năng suy nghĩ: mà có thể ta phải tìm kiếm bí mật của trí khôn
trước 7-8 tuổi.
Thiếu viễn cảnh phát sinh như vậy, "tâm lí học tư duy" chuyên phân tích
những giai đoạn kết thúc của sự tiến hóa trí tuệ. Nói bằng các thuật ngữ trạng
thái và cân bằng hoàn chỉnh, không lấy làm lạ là tâm lí học tư duy kết thúc ở
một thuyết phiếm lôgich và bị bắt buộc phải ngưng sự phân tích tâm lí học
trước cái đã được coi là bất khả quy của những quy luật lôgich học. Từ Marbe
- người viện dẫn không thêm gì nữa quy luật lôgich học với tính cách là yếu tố
ngoại-tâm lí học chi phối một cách nhân quả và lấp các lỗ hổng của tính nhân
quả trí tuệ, đến Selz - người đã cuối cùng đi đến một thứ song hành lôgich -
tâm lí học bằng cách biến tư duy thành tấm gương của lôgich học - sự việc
lôgich học đối với các tác gia này vẫn còn là không thể giải thích nổi bằng lời
lẽ tâm lí học.
Không nghi ngờ là Selz đã phần nào tự giải thoát khỏi phương pháp
quá chật hẹp của việc phân tích các trạng thái và các yếu tố, để tìm cách theo
dõi tính năng động của hành vi trí khôn, vì vậy, ông đã khám phá ra những
toàn bộ xác định đặc trưng của các hệ thống tư duy cũng như vai trò của
những sem đón trước trong lời giải các vấn đề. Nhưng, trong khi thường
xuyên ghi nhận các tương đồng giữa những quá trình ấy và những cơ chế
hữu cơ và vận động, ông không tạo dựng lại sự hình thành có tính phát sinh
của chúng. Vì vậy ông cũng đi theo thuyết phiếm Lôgich của trường phái
Wurzbourg và ông làm điều đó một cách nghịch lí, mà tấm gương là rất quý
để suy ngẫm cho ai muốn giải thoát tâm lí học khỏi những ảnh hưởng của
thuyết tiên nghiệm lôgistich học, trong khi vẫn tìm cách giải thích sự việc
lôgich học.
Quả vậy, khám phá ra vai trò chủ yếu của các toàn bộ trong sự vận
hành của tư duy, Selz lẽ ra đã có thể từ đó rút ra kết luận rằng lôgich học
không có khả năng thể hiện lập luận thành hành động, như nó hiện ra và tạo
thành trong "tư duy tạo dựng”. Lôgich học cổ điển, ngay cả dưới hình thức
được mém hóa vô hạn bởi kĩ thuật tinh vi và chính xác của phép tính lôgistich
vẫn theo thuyết nguyên tử; các lớp, các quan hệ, các mệnh đề được phân
tích ở đó trong các thao tác sơ đẳng của chúng (cộng và nhân lôgich học,
quan hệ liên can và sự không tương hợp, v.v...). Để thể hiện tác động của các
sem đón trước và của Complexerganzung, tức là những toàn bộ trí tuệ can
thiệp vào tư duy tích cực và sống động, trái lại lẽ ra phải có cho Selz một
lôgich học của bản thân các toàn bộ, và lúc đó các tương quan giữa trí khôn,
với tính cách là sự việc tâm lí học và lôgich học với tính cách như thế sẽ được
đặt thành những thuật ngữ mới có thể đã đưa đến một lời giải phát sinh một
cách thực chất. Trái lại Selz quá tôn trọng những khung lôgich tiên nghiệm,
mặc cho tính chất đứt quãng và nguyên tử luận của chúng, tất yếu kết thúc
bằng việc tìm thấy lại chúng nguyên như vậy với tính cách cái sót lại của sự
phân tích tâm lí học và bằng việc viện dẫn chúng trong chi tiết của những
luyện xây trí tuệ.
Nói tóm lại, "tâm lí học tư duy" cuối cùng đã đi đến việc biến tư duy
thành tấm gương của lôgich học, và chính đó là nguồn gốc của những khó
khăn mà nó không thể vượt qua được. Vấn đề lúc này là biết được xem nên
chăng đảo lại không thêm gì nữa các số hạng và biến lôgich học thành tấm
gương của tư duy, điều đó khôi phục lại cho tư duy tính độc lập tạo dựng của
nó.
* LÔGICH HỌC VÀ TÂM LÍ HỌC
Lôgich học là tấm gương của tư duy chứ không phải ngược lại, đó là
quan điểm mà chúng tôi đã đi đến (Lớp, quan hệ và số - Tiểu luận về những
nhóm hợp của lôgistich học và tính có thể đảo nghịch của tư duy, 1942) bằng
việc nghiên cứu sự hình thành các thao tác ở trẻ em, và điều đó sau khi đã
được thuyết phục ở điểm xuất phát về tính đúng đắn của định đề về tính bất
khả quy mà các "nhà tâm lí học tư duy" đã dựa theo. Điều đó cũng có nghĩa là
lôgich học là một thuyết nguyên tử về lí trí mà tâm lí học trí khôn là khoa học
thực nghiệm tương ứng. Chúng tôi nghĩ cần thiết phải nhấn mạnh một ít đến
điểm phương pháp đó.
Một thuyết tiên nghiệm là một khoa học chuyên suy diễn giả thuyết, tức
là nó rút gọn đến tối thiểu những chỗ dựa vào kinh nghiệm (nó còn có tham
vọng loại bỏ hoàn toàn những chỗ dựa đó) để tạo dựng lại một cách tự do
khách thể của nó nhờ vào những mệnh đề không chứng minh được (tiên đề),
mà vấn đề là phối hợp chúng với nhau theo mọi khả năng và theo cách chặt
chẽ nhất. Chính bằng cách đó mà hình học đã đạt được những tiến bộ lớn khi
trừu xuất mọi trực giác, nó xây dựng những không gian rất đa dạng bằng
cách định nghĩa đơn giản những yếu tố đều được thừa nhận bằng giả thuyết
và những thao tác mà các yếu tố này bị chi phối bởi chúng, vì vậy phương
pháp tiên đề là phương pháp toán học tiêu biểu nhất và nó tìm thấy nhiều ứng
dụng, không chỉ trong toán học thuần túy mà cả trong nhiều lĩnh vực khác
nhau của toán học ứng dụng (từ vật lí học lí thuyết đến bản thân kinh tế học
toán học). Quả vậy, ích lợi của thuyết tiên đề vượt ích lợi của việc chứng
minh (tuy rằng trên địa bàn này nó tạo thành phương pháp chặt chẽ duy
nhất): trước những thực tế phức hợp và chống lại sự phân tích triệt để, nó
cho phép tạo dựng những mẫu hình được đơn giản hóa của thực tại và cung
cấp cho việc nghiên cứu thực tại những dụng cụ phân tích không gì thay thế
được. Một cách khái quát, một thuyết tiện đề tạo thành, như F. Gonseth đã
chỉ ra rất đúng, một "lược đồ" của thực tế và do sự việc là một trừu xuất dẫn
đến một sự lược đồ hóa, phương pháp tiên đề tóm lại là phương pháp của
bản thân trí khôn.
Nhưng đúng là do tính chất sơ đồ hóa của nó mà một thuyết tiên đề
không thể có tham vọng sáng lập và nhất là thay thế khoa học thực nghiệm
tương ứng, tức là thuộc lĩnh vực thực tế mà thuyết tiên đề tạo thành cái sơ đồ
(lược đồ). Chính vì vậy mà hình học tiên đề luận bất lực trong việc cho chúng
ta biết không gian của thế giới thực tại là cái gì (và kinh tế học thuần túy hoàn
toàn không thấu hết tính phức hợp của những sự việc kinh tế cụ thể). Thuyết
tiên đề không thể thay thế được khoa học quy nạp tương ứng với nó vì lẽ
chính yếu là sự thuần túy riêng của nó chỉ là một giới hạn không bao giờ đạt
được một cách hoàn toàn. Như Gonseth còn nói, luôn sót lại một chút cận
trực giác trong lược đồ thuần túy nhất (cũng vậy đã lọt vào một yếu tố sơ đồ
hóa trong mọi trực giác). Chỉ lí do duy nhất đó đủ để cho hiểu tại sao thuyết
tiên đề không bao giờ "lập ra" khoa học thực nghiệm và tại sao với mọi thuyết
tiên đề đều có thể tương ứng một khoa học như thế (chắc hẳn cái đảo nghịch
cũng vậy).
Điều đó nói lên rằng vấn đề về những tương quan giữa lôgich học hình
thức và tâm lí học trí khôn là có khả năng tiếp nhận một giải pháp so sánh
được với giải pháp kết thúc sau nhiều thế kỉ tranh cãi cuộc xung đột giữa hình
học diễn dịch và hình học thực tại hoặc vật thể. Như chính trường hợp của
hai loại bộ môn kia, lôgich học và tâm lí học trí khôn đã bắt đầu bị trùng khớp
hoặc không được phân biệt. Aristote nghĩ rằng đã viết một lịch sử tự nhiên
của trí tuệ (và lại cũng như của bản thân thực tại vật thể) khi phát biểu những
luật của tam đoạn luận. Khi tâm lí học được xây dựng thành một khoa học
độc lập, những nhà tâm lí học đã hiểu rõ (tuy đã bỏ vào đó không ít thời gian)
rằng những suy nghĩ trong các sách lôgich học về khái niệm, phán đoán và
lập luận không miễn trừ cho họ việc tìm tòi để làm sáng tỏ cơ chế nhân quả
của trí khôn. Duy có điều là do kết quả còn sót lại của sự không chia cách ban
đầu, họ tiếp tục coi lôgich học là một khoa học của thực tế, dù tính chất chuẩn
mực của nó vẫn được đặt trên cùng một bình diện với tâm lí học, nhưng
chuyên chăm lo sự suy nghĩ đúng, đối lập với sự suy nghĩ nói chung không kể
đến chuẩn mực nào. Từ đó mà có viễn cảnh hão huyền của
Denkpsychologize, theo viễn cảnh đó tư duy với tính cách là sự việc tâm lí
học tạo thành cái phản ánh của những luật lôgich học. Trái lại nếu lôgich học
là một thuyết tiên đề, cái sai của những quan hệ đan chéo lẫn nhau đó tan
biến đi do sự đảo nghịch các vị trí.
Mà dường như hiển nhiên là trong chừng mực mà lôgich học từ bỏ tính
không chính xác của ngôn ngữ nói để tạo thành, dưới cái tên lôgich học, một
algorit mà sự chặt chẽ ngang tầm sự chặt chẽ của ngôn ngữ toán học, nó đã
tự biến đổi thành một kĩ thuật theo thuyết tiên đề. Mặt khác người ta biết kĩ
thuật đó đã giao thoa nhanh chóng đến thế nào với những phần chung nhất
của toán học, đến mức lôgistich ngày nay đã có được một giá trị khoa học
độc lập với những triết học đặc biệt của những nhà lôgistich học (chủ nghĩa
Platông của Russell hoặc thuyết duy danh của câu lạc bộ Vienne). Ngay sự
việc những giải thích triết học để cho kĩ thuật bên trong của nó không thay
đổi, chỉ riêng sự việc đó, cũng chỉ ra rằng kĩ thuật này đã đạt trình độ của
thuyết tiên đề: vậy là lôgistich học tạo thành, không thêm gì nữa, một hình
mẫu lí tưởng của tư duy.
Vậy mà các tương quan giữa lôgich học và tâm lí học cùng được đơn
giản hóa. Lôgistich học không phải nhờ cậy ở tâm lí học bởi vì một vấn đề
thuộc về sự việc không thể can thiệp vào một học thuyết giả thiết - diễn dịch.
Ngược lại, thật là phi lí viện dẫn lôgistich học để giải quyết dứt điểm một vấn
đề thuộc về kinh nghiệm, như vấn đề cơ chế thực tại của trí khôn. Tuy nhiên,
trong chừng mực tâm lí học gắn bó với việc phân tích những trạng thái cân
bằng cuối cùng của tư duy, không có sự song hành mà có sự tương ứng giữa
tri thức thực nghiệm ấy với lôgistich học như có sự tương ứng giữa một lược
đồ và thực tế nó biểu hiện. Mỗi vấn đề mà một trong hai bộ môn nêu lên lúc
đó tương ứng với một vấn đề của bộ môn kia, mặc dầu phương pháp của
chúng lẫn giải pháp riêng của chúng không thể giao thoa.
Sự độc lập này của các phương pháp có thể được minh họa bằng một
ví dụ rất đơn giản, mà sự bàn bạc sẽ ích lợi cho chúng tôi về sau (phương 5
và 6). Là thông dụng nói rằng tư duy (thực tại) "áp dụng nguyên tác mâu
thuẫn", điều đó nếu hiểu đúng từng li từng tí giả định sự can thiệp của một
yếu tố lôgich học trong bối cảnh nhân quả của các sự việc tâm lí học và như
vậy mâu thuẫn với điều mà chúng ta vừa bênh vực. Mà nếu nắm cho chặt các
lời lẽ một sự khẳng định như vậy là hoàn toàn không có ý nghĩa. Quả vậy,
nguyên tắc mâu thuẫn hạn chế ở việc cấm đồng thời khẳng định và phủ định
một tính chất đã cho: A là không thế tương hợp với không A. Nhưng đối với
tư duy hữu hiệu của một chủ thể thực tại khó khăn bắt đầu khi chủ thể tự hỏi
xem anh ta có quyền hay không khẳng định đồng thời A và B, vì không bao
giờ lôgich học quy định trực tiếp xem B bao hàm A hay không. Chẳng hạn
người ta có thể nói về một quả núi chỉ cao 100 mét hay không, hoặc đó là
mâu thuẫn? Người ta có thể vừa cộng sản vừa yêu nước không? Người ta có
thể hình dung một hình vuông có góc không bằng nhau không? v.v... Để biết
điều đó, chỉ có hai cách thức. Cách thức lôgich học gồm việc xác định A và B
một cách hình thức và tìm xem B có bao hàm không - A không. Nhưng lúc đó
việc ”áp dụng" "nguyên tắc" mâu thuẫn chỉ liên quan thuần túy đến các định
nghĩa, tức là đến những khái niệm đã được tiên đề hóa chứ không phải đến
những khái niệm sống động mà tư duy dùng đến trong thực tế. Cách thức mà
tư duy thực tại tuân theo trái lại gồm không phải việc lập luận chỉ trên cái định
nghĩa mà thôi, điều đó không ích lợi gì cho nó (định nghĩa về phương diện đó
chỉ là một nhận thức nhìn về dĩ vãng và không đầy đủ mã hành động và thao
tác bằng cách xây dựng các khái niệm theo các khả năng cấu tạo của những
hành động hay những thao tác đó. Mọi khái niệm quả thật chỉ là một sem
hành động hay thao tác và chính là hàng cách thực hiện các hành động đẻ ra
A và B mà người ta nhận ra xem chúng có tương hợp hay không. Hoàn toàn
không phải "áp dụng một nguyên tắc" mà các hành động được tổ chức tùy
theo những điều kiện bên trong của sự mạch lạc, và chính là cấu trúc của tổ
chức này tạo thành sự việc tư duy thực tại tương ứng với cái mà trên bình
diện theo thuyết tiên đề, người ta gọi "nguyên tắc mâu thuẫn".
Quả thật là ngoài sự liên kết cá nhân của những hoạt động, còn xảy ra
trong tư duy những tác động qua lại mang tính chất tập thể và do đó những
"chuẩn mực" được ngay sự cộng tác này áp đặt. Nhưng sự hợp tác chỉ là một
hệ thống hành động hoặc cả thao tác thực hiện chung, và người ta có thể làm
lại lập luận trước đó về những biểu tượng tập thể mà bản thân chúng cũng
vẫn nằm trên bình diện những cấu trúc thực tại đối lập với những sự tiên đề
hóa có tính chất hình thức.
Vậy vấn đề vẫn còn lại toàn vẹn đối với tâm lí học, phải hiểu bằng cơ
chế nào trí khôn đi đến chỗ xây dựng những cấu trúc mạch lạc có khả năng
cấu tạo thao tác; và không ích lợi gì viện dẫn những "nguyên tắc" mà trí khôn
đó sẽ áp dụng một cách hồn nhiên vì những nguyên tác lôgich học là sự việc
của lược đồ lí thuyết được phát biểu sau đó. khi tư duy đã được tạo dựng,
chứ không phải sự việc của bản thân sự tạo dựng sống động đó. Trí khôn,
Brunschvig đã nói rất sâu sắc, thắng các trận hoặc hiến thân như thơ ca cho
một sự sáng tạo liên tục trong khi sự suy diễn lôgistich chỉ có thể so sánh
được với các sách về chiến lược và các "thi pháp" quy tắc hóa những chiến
thắng đã qua của hành động hay của trí tuệ, nhưng không bảo đảm những
chiến trận tương lai.
Tuy nhiên, và chính bởi vì thuyết tiên đề lôgich học sau đồ lược đó hóa
công việc thực tại của trí tuệ, mọi khám phá trên một trong hai bình diện có
thể tạo ra một vấn đề trên bình diện kia. Không nghi ngờ rằng những lược đồ
lôgich học thường hay giúp đỡ, bằng sự tinh tế của chúng, sự phân tích của
các nhà tâm lí học. Tâm lí học tư duy của Đức là một ví dụ tốt. Nhưng ngược
lại, khi các nhà tâm lí học khám phá với Selz, với các nhà "Hình thức học” và
nhiều người khác, vai trò các toàn bộ và các tổ chức tổng thể trong công việc
của tư duy, không có một lí do nào để coi lôgich học cổ điển hoặc ngay cả
lôgistich học hiện tại, vẫn còn ở một thể thức mô tả gián đoạn và theo thuyết
nguyên tử, như là không thể động chạm đến và cuối cùng, cũng không thể
biến chúng thành một mẫu hình mà tư duy sẽ là tấm gương; hoàn toàn trái lại,
vấn đề là tạo dựng một lôgich học của các toàn thể, nếu người ta muốn dùng
nó làm lược đồ thích đáng cho các trạng thái cân bằng của trí tuệ, và phân
tích các thao tác mà không quy chúng về những yếu tố riêng rẽ không đầy đủ
theo quan điểm của những đòi hỏi tâm lí học.
* CÁC THAO TÁC VÀ NHỮNG "NHÓM HỢP" CỦA CHÚNG
Tảng đá ngầm lớn của một lí thuyết về trí khôn xuất phát từ sự phân
tích tư duy dưới những hình thức cao cấp của nó, đó là nỗi ám ảnh mà những
sự dễ dàng của tư duy bằng lời ảnh hưởng đến ý thức. P. Janet đã chỉ ra một
cách tuyệt vời ngôn ngữ đã thay thế một phần hành động như thế nào, đến
mức mà sự nội quan cảm thấy nỗi khó khăn lớn nhất trong việc phân định
bằng những phương tiện duy nhất của nó rằng nó còn là một ứng xử thực
thụ: sự cư xử bằng lời là một hành động, chắc chắn là đã bị giảm đi và vẫn
giữ tinh chất nội hiện, một phác thảo hành động có nguy cơ luôn luôn vẫn ở
trạng thái dự định, nhưng dẫu sao cũng là một hành động chỉ đơn giản thay
thế các sự vật bằng kí hiệu và những cử động bằng sự gợi chúng ra, nhưng
vẫn còn thao tác, trong ý nghĩ, bằng phương tiện của những môi giới. Mà coi
nhẹ mặt tích cực đó của tư duy bằng lời, sự nội quan chỉ thấy ở tư duy có sự
suy nghĩ, sự suy lí và biểu tượng khái niệm: từ đó mà các nhà tâm lí học nội
quan có ảo tưởng rằng trí khôn tự rút gọn lại thành những trạng thái kết thúc
có lợi thế và những nhà lôgich học có ảo tưởng rằng sơ đồ lôgistich thích
đáng nhất phải là chủ yếu một lí thuyết của các "mệnh đề".
Để đạt được sự hành chức thực tại của trí khôn, điều quan trọng vậy là
đảo ngược sự vận động tự nhiên của trí tuệ và đặt mình vào trong viễn cảnh
của bản thân hành động: chỉ lúc đó vai trò của hành động bên trong - là thao
tác mới hiện ra đầy đủ dưới ánh sang. Và ngay bằng sự việc, được đặt ra sự
liên tục nối liền thao tác với hành động thực thụ - nguồn gốc và môi trường
của trí khôn. Không gì chuyên nhất hơn cho việc soi sáng viễn cảnh đó bằng
sự suy ngẫm về thứ ngôn ngữ đó - cũng còn là ngôn ngữ, nhưng thuần túy trí
tuệ, trong suốt và xa lạ với những lừa phỉnh của hình ảnh - là ngôn ngữ toán
học. Trong một biểu thức nào đó, như X² + Y = z.a (mỗi vế xét đến cùng chỉ
một hành động: cái dấu (=) biểu thị khả năng của một sự thay thế, kí hiệu (+)
biểu thị một sự tụ họp, kí hiệu (-) một sự xa cách; số bình phương (X²), hành
động nhân X lần X, và mỗi trong các giá trị a, x, y và z hành động nhân một số
lần đơn vị. Mỗi một trong các tượng trưng đó được quy chiếu vào một hành
động có thể là thực tại nhưng mà tư duy toán học hạn chế ở việc chỉ ra một
cách trừu tượng dưới hình thức những hành động nội hiện, tức là thao tác
của tư duy.
Mà nếu sự vật là hiển nhiên trong trường hợp của tư duy toán học, nó
không kém phần thực tại trong trường hợp của tư duy lôgich học và ngay cả
của ngôn ngữ thông thường, trên quan điểm kép của sự phân tích lôgistich
học và sự phân tích tâm lí học. Chính bằng cách đó mà hai lớp có thể được
cộng lại như hai số. Trong: "Các loài có xương sống và các loài không có
xương sống tất cả đều là loài vật", từ "và" (hoặc kí hiệu lôgistich +) biểu thị
một hành động tụ họp có thể được thực hiện một cách vật chất, trong việc
xếp thứ bậc (phân loại) một bộ các đồ vật nhưng mà tư duy cũng có thể thực
hiện nhẩm trong óc. Cũng như người ta có thể phân loại cùng một lúc theo
nhiều quan điểm, như trong một cái bảng có hai lối vào và phép tính đó (mà
lôgistieh học gọi là phép nhân lôgich: kí hiệu X) quá tự nhiên đối với trí tuệ tới
mức nhà tâm lí học Spearman đã biến nó dưới cái tên "giáo dục các phép đối
xạ", một trong những đặc tính của hành vi trí khôn. "Paris đối với nước Pháp
như Luân Đôn đối với nước Anh". Người ta có thể chia loại các tỉ số: A < B; B
< C và tỉ số kép đó nó cho phép kết luận rằng C lớn hơn A, là sự tái tạo trong
ý nghĩ hành động mà người ta có thể thực hiện một cách vật thể bằng cách
xếp thành hàng ba đồ vật theo các đại lượng càng lớn lên của chúng. Người
ta cũng có thể sắp xếp thứ tự theo nhiều tỉ số cùng một lúc và người ta lại rơi
vào một dạng khác của phép nhân lôgich học hoặc của sự tương quan đối xạ
v.v...
Nếu bây giờ người ta xem xét các số hạng như chúng là như vậy, tức
là những cái gọi là yếu tố của tư duy, khái niệm về lớp hoặc quan hệ, người
ta còn thấy lại ở chúng cùng một tính chất thao tác như trong các kết hợp của
chúng. Một khái niệm về lớp, về mặt tâm lí học chỉ là sự diễn đạt tính đồng
nhất trong phản ứng của chủ thể đối với khách thể mà nó tụ họp lại thành một
lớp: theo lôgich học, sự đồng hóa tích cực đó được thể hiện bằng sự tương
đương định tính của tất cả các yếu tố của lớp. Cũng vậy một tỉ số bất đối
xứng (± nặng hoặc lớn) diễn tả những cường độ khác nhau của hành động,
tức là những khác biệt do đối lập với những cái tương đương, và được thể
hiện về mặt lôgich học bằng những cấu trúc chia loại.
Tóm lại, đặc tính cơ bản của tư duy lôgich là có tính chất thao tác, tức
là kéo dài hành động bằng cách nội hiện nó. Về điểm đó, người ta liên minh
những ý kiến xuất phát từ những trường phái rất khác nhau, từ những lí
thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa và thực dụng chủ nghĩa hạn chế trong sự khẳng
định sơ đẳng đó bằng cách dành cho tư duy hình thức của một "thử nghiệm
tinh thần" (Mach, Rignano, Chaslin) cho đến những giải thích theo tinh thần
tiên nghiệm (Delacroix). Hơn nữa, giả thiết đó phù hợp với những sơ đồ hóa
lôgistich khi chúng hạn chế trong việc tạo dựng một kĩ thuật và không kéo dài
thành một thứ triết học phủ nhận sự tồn tại của cùng những thao tác mà trên
thực tế chúng không ngừng sử dụng.
Tuy nhiên, không phải là đã nói hết tất cả như vậy, vì thao tác không
thu gọn lại thành một hành động tầm thường nào đó, và nếu hành vi thao tác
được rút ra từ hành vi hữu hiệu, khoảng cách phải vượt vẫn còn khá lớn giữa
hai thứ hành vi, mà chúng ta sẽ xem xét chi tiết khi nói về sự phát triển của trí
khôn (các chương 4 và 5).
Thao tác duy lí chỉ có thể đem so sánh với một hành động đơn giản với
điều kiện xem xét nó ở trạng thái riêng rẻ, nhưng chính cái sai cơ bản của các
lí thuyết kinh nghiệm chủ nghĩa của "thử nghiệm tinh thần" là lợi dụng những
thao tác riêng rẽ: một thao tác độc nhất không phải là một thao tác, mà vẫn
nằm ở trạng thái của biểu tượng trực giác đơn giản. Tính chất đặc thù của
các thao tác so sánh với các hành động kinh nghiệm chủ nghĩa là trái lại ở
chỗ chúng không bao giờ tồn tại ở trạng thái đứt quãng. Chính là với một sự
trừu tượng hóa hoàn toàn không chính đáng mà người ta nói tới "một" thao
tác: một thao tác độc nhất không thể là một thao tác, vì cái riêng biệt của các
thao tác là tạo thành những hệ thống. Ở đây phải phản ứng kiên quyết với
thuyết nguyên tử lôgich học, mà sơ đồ đè nặng lên tâm lí học tư duy. Để nắm
bắt tính chất thao tác của tư duy duy lí, phải đạt đến những hệ thống với tư
cách chúng là như vậy và nếu các sơ đồ lôgich học tầm thường che lắp sự
tồn tại của chúng, phải tạo dựng một lôgich học của những toàn bộ.
Chính bằng cách đó, để bắt đầu từ trường hợp đơn giản nhất, mà tâm lí
học cũng như lôgich học cổ điển nói về khái niệm với tính cách là yếu tố của
tu duy. Mà một "lớp" không thể tồn tại bởi tự nó và điều này không phụ thuộc
vào sự việc là định nghĩa của nó nhờ cậy tới những khái niệm khác. Với tính
cách là công cụ của tư duy thực tại và không kể đến định nghĩa lôgich học
của nó, nó chỉ là một yếu tố được "cấu trúc hóa" chứ không phải là yếu tố "tạo
nên những cấu trúc" hoặc ít nhất nó đã được "cấu trúc hóa" trong chừng mực
nó tạo nên những cấu trúc: nó chỉ có thực tế khi phụ thuộc vào tất cả những
yếu tố mà nó chống lại hoặc trong đó nó bị lồng vào (hoặc bản thân nó lồng
vào). Một lớp giả định một sự "phân loại” (phân lớp) và sự việc khởi đầu được
tạo nên bởi sự phân loại này vị chính các thao tác phân loại đẻ ra các lớp
riêng biệt. Độc lập với một sự phân loại tổng thể, một thuật ngữ phát sinh
không chỉ một lớp, mà một bộ sưu tập trực giác.
Cũng vậy, một quan hệ bất đối xứng bắc cầu, như A < B không tồn tại
với tính cách là quan hệ (mà chỉ với tính cách là tỉ số tri giác hoặc trực giác)
không có khả năng tạo dựng cả một chuỗi những quan hệ khác được chia
loại như A < B < C <... vì khi chúng ta nói nó không tồn tại với tinh cách là
quan hệ phải hiểu sự phủ định đó trong nghĩa cụ thể nhất của thuật ngữ vì
chúng ta sẽ thấy (chương 5) rằng trẻ em đúng là không có khả năng suy nghĩ
bằng những quan hệ trước khi biết chia loại. Vậy sự chia loại là thực tế thứ
nhất mà một quan hệ bất đối xứng nào đó chỉ là một yếu tố trừu tượng nhất
thời.
Những ví dụ khác: một "đối xạ" theo nghĩa của Spearman (Con chó đối
với con sói như con mèo đối với con hổ) chỉ có ý nghĩa phụ thuộc vào một
bảng có hai lối vào. Một quan hệ thân thuộc (anh – em, chú v.v....) quy chiếu
vào tập hợp đó một cây phả hệ tạo thành, v.v... Nên chăng cũng nhắc lại rằng
một số nguyên chỉ tồn tại với tính cách yếu tố của một dãy các số được sinh
ra bằng thao tác + 1), rằng một quan hệ không gian giả định cả một không
gian, một quan hệ thời gian bao hàm sự nắm bắt thời gian với tính cách sem
độc nhất. Và trên một địa hạt khác, nên chăng nhấn mạnh sự việc là một giá
trị chỉ có giá trị tùy thuộc ở một "thang" đầy đủ các giá trị, nhất thời hay ổn
định ?
Tóm lại, trong bất cứ lĩnh vực nào của tư duy được tạo dựng (đối lập
đúng với các trạng thái mất cân bằng đặc trưng cho sự phát sinh của nó),
thực tế tâm lí học bao hàm những hệ thống thao tác tổng thể chứ không phải
những thao tác riêng rẽ được quan niệm như những yếu tố, có trước so với
những hệ thống này; vậy chính là chỉ với tư cách những hoạt động hoặc
những biểu tượng trực giác được tổ chức thành những hệ thống như vậy mà
chúng (những hoạt động và những biểu tượng) có được (và chúng có được là
nhờ bản thân sự việc) tính chất "thao tác". Vấn đề chủ yếu của tâm lí học tư
duy lúc này là rút ra những quy luật cân bằng từ những hệ thống ấy cũng như
vấn đề trung tâm của một lôgich học muốn thích đáng với công việc thực tại
của trí óc đối với chúng tôi dường như là trình bày những quy luật của các
toàn bộ ấy với tư cách chúng là như vậy.
Mà sự phân tích mang tính chất toán học từ lâu đã khám phá ra sự phụ
thuộc lẫn nhau của các thao tác tạo thành một số hệ thống rất xác định: khái
niệm "nhóm", được áp dụng cho dãy các số nguyên cho các cấu trúc không
gian, thời gian, vào các phép tính đại số v.v... như vậy trở thành một khái
niệm trung tâm ngay trong sự sắp xếp của tư duy toán học. Trong trường hợp
những hệ thống định tính riêng của tư duy lôgich học đơn thuần như những
việc phân loại đơn giản, những bảng hai lối vào, những sự chia loại các quan
hệ, những cây phả hệ, v.v...; chúng tôi gọi "những nhóm hợp", những hệ
thống tổng thể tương ứng. Về mặt tâm lí học, "nhóm hợp" bao hàm một số
hình thức cân bằng các thao tác, tức là những hành động đã được nội hiện và
được tổ chức thành cấu trúc tổng thể và vấn đề là nêu tính chất của sự cân
bằng đó, vừa tỉ lệ với những trình độ phát sinh khác nhau chuẩn bị cho sự
cân bằng đó, vừa đối lập với những dạng cân bằng riêng của các chức năng
khác với trí khôn (các cấu trúc tri giác hoặc vận động v.v...). Trên quan điểm
lôgich học, "nhóm hợp" có một cấu trúc rất xác định (bà con – với cấu trúc của
"nhóm" nhưng có khác ở một vài điểm chủ yếu) và biểu hiện một chuỗi liên
tiếp các khác biệt lưỡng phân: những quy tác thao tác của nó vậy là tạo thành
đúng là các lôgich của các toàn bộ thể hiện thành một sơ đồ, theo thuyết tiên
đề hoặc hình thức, công việc hữu hiệu của trí tuệ ở trình độ thao tác của sự
phát triển của nó tức là ở hình thức cân bằng cuối cùng của nó.
* Ý NGHĨA CHỨC NĂNG VÀ CẤU TRÚC CỦA CÁC "NHÓM HỢP"
Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc nối trong một lúc những suy nghi vừa
trình bày với những gì mà "tâm lí học tư duy" đã bày cho chúng ta. Theo Selz,
lời giải của một vấn đề giả định trước hết một "sem đón trước” nối lièn mục
đích phải đạt với một "phức hợp" khái niệm, mà so với phức hợp này nó tạo
ra một lỗ hổng, và thứ đến sự "lấp đầy" cái sem đón trước đó bằng những
khái niệm và quan hệ đến bổ sung đầy đủ cái phức hợp và được sắp xếp
theo các quy luật lôgich học. Từ đó một loạt câu hỏi: Những luật tổ chức của
"phức hợp" tổng số là gì ? Tính chất của sem đón trước là gì? Có thể loại bỏ
hay không sự nhị nguyên hình như đang tồn tại giữa sự hình thành sem đón
trước và chi tiết các quá trình quy định sự lấp đầy của nó ?
Chúng ta hãy lấy làm ví dụ một thí nghiệm lí thú nhờ vào cộng tác viên
André của chúng tôi. Một hình vuông được vẽ lên một tờ giấy cũng hình
vuông (có cạnh 10 đến 15 cm), người ta bảo chủ thể vẽ cái hình vuông nhỏ
nhất có thể được bằng bút chì, cũng như hình vuông lớn nhất mà người ta có
thể hình dung (vẽ) được trên một tờ giấy như thế. Thế là trong khi người lớn
(và những trẻ từ 7 - 8 tuổi) đạt đến tức khắc việc cung cấp một hình vuông có
cạnh 1 - 2mm cũng như một hình vuông cạnh chạy sát mép tờ giấy, những trẻ
dưới 6-7 tuổi trước tiên chĩ vẽ những hình vuông hơi nhỏ hơn hay hơi lớn
hơn hình mẫu một ít, rồi tiến hành bằng mầy mò liên tiếp và thường không kết
quả, làm như chúng không một lúc nào đón trước những lời giải cuối cùng.
Người ta thấy ngay trong trường hợp này sự can thiệp của một "nhóm hợp"
của các quan hệ bất đối xứng (A<B<C<...) hiện diện ở người lớn và hình như
không có ở trẻ dưới 7 tuổi: cái hình vuông được tri giác nằm trong ý nghĩ ở
một loạt hình vuông ảo giác càng ngày càng lớn và càng ngày càng nhỏ so
với cái đầu tiên. Lúc đó người ta có thể chấp nhận: 1) rằng cái sem đón trước
chỉ là cái sem của ngay bản thân "nhóm hợp", tức là ý thức về chuỗi liên tiếp
những thao tác có thể có; 2) rằng sự lấp đầy của sem là cách sử dụng đơn
giản các phép tính ấy. 3) rằng sự tổ chức của "phức hợp" các khái niệm có
trước dựa ngay vào các quy luật của "nhóm hợp". Nếu lời giải đó khái quát,
khái niệm "nhóm hợp" như vậy là đưa sự thống nhất vào giữa hệ thống có
trước của các khái niệm, cái sem đón trước và sự lấp đầy có kiểm soát của
nó.
Bây giờ chúng ta hãy suy nghĩ đến tập hợp những vấn đề cụ thể mà trí
óc đang vận động luôn đặt ra: cái này là cái gì? Hơn hay kém (lớn, nặng, xa
v.v...)? Ở đâu ? Khi nào ? Do nguyên nhân gì ? Nhằm mục đích gì ? Bao
nhiêu ? v.v và v.v... Chúng ta nhận ra rằng mỗi câu hỏi đó là tất vếu tùy thuộc
vào một "nhóm hợp" hoặc một nhóm; mỗi cá nhân đều sẵn có những phân
loại, chia loại, hệ thống giải thích, không gian và niên đại riêng, thang các giá
trị v.v... cũng như không gian và thời gian được toán học hóa những dãy số.
Mà những nhóm hợp này không sinh ra khi có câu hỏi đặt ra mà kéo dài suốt
cả đời; ngay từ tuổi thơ, chúng ta phân loại, so sánh (khác nhau hay tương
đương), xếp sắp thứ tự trong không gian và trong thời gian, giải thích, đánh
giá mục đích và phương tiện của chúng ta, đếm v.v... chính trong quan hệ với
các hệ thống tổng thể đó mà các bài toán được đặt ra đúng trong chừng mực
mà những sự việc mới nổi lên mà chưa được phân loại, chia hạng v.v... Cái
câu hỏi định hướng cái sem đón trước vậy là tiến hành từ cái nhóm hợp có
trước, và cái sem đón trước bản thân nó không gì khác là cái hướng mã câu
trúc của nhóm hợp ấy cho sự tìm kiếm. Mỗi bài toán, cả về cái liên quan đến
giải thích đón trước của lời giải cũng như về sự kiểm tra chi tiết cái này (lời
giải) chi bao gồm một hệ thống đặc biệt các phép tính cần thực hiện trong nội
bộ của nhóm hợp tổng thể tương ứng. Để tìm ra đường đi, không cần thiết
phải tạo dựng lại toàn bộ không gian, mà chỉ đơn giản bổ sung sự lấp đầy ở
một khu vực nhất định. Để đoán trước một sự cố sửa chữa chiếc xe đạp của
mình, lập quy hoặc lập chương trình hoạt động, không cần thiết phải đúc lại
tất cả tính nhân quả và thời gian, ôn lại tất cả những giá trị đã được công
nhận v.v...: lời giải cần tìm chỉ kéo dài và hoàn chỉnh những tỉ số đã được
nhóm lại, dù phải sửa cái nhóm hợp khi có những sai sót chi tiết và đặc biệt là
chia nhỏ nó ra và phân biệt hóa nó đi, nhưng không phải là xây dựng lại toàn
bộ. Còn về việc thử lại, nó chỉ có thể có được tùy theo những quy tắc của bản
thân nhóm hợp: bằng sự hòa hợp của những quan hệ mới với hệ thống
trước.
Sự việc đáng chú ý trong sự đồng hóa liên tục từ thực tại đến trí khôn,
đó là "quả vậy", sự cân bằng của các khung đồng hóa được nhóm hợp tạo
dựng. Trong toàn bộ sự hình thành ra nó, tư duy ở trong trạng thái mất cân
bằng hoặc có cân bằng không ổn định: mọi thụ đắc mới thay đổi các khái
niệm có trước hoặc có nguy cơ đem đến mâu thuẫn.
Trái lại ngay ở trình độ thao tác, các khung để phân loại và chia hạng,
các khung không gian và thời gian. v.v... được xây dựng dần dần, đến sáp
nhập vào mà không hề có va chạm giữa những yếu tố mới: cái giá nhiều ngăn
đặc biệt cần tìm, cần bổ sung hoặc đưa thêm hoàn toàn không làm lung lay
sự vững chắc của tổng thể, mà hòa hợp với tổng thể. Chính là vì vậy, để lấy
một ví dụ tiêu biểu nhất của sự cân bằng các khái niệm đó mà một khoa học
chính xác mặc cho tất cả những "khủng hoảng" và những sự soạn lại mà nó
muốn ảo tưởng để chứng thực sức sống của mình, không kém phần tạo nên
một bộ khái niệm mà chi tiết các tương quan được gìn giữ và thắt chặt lại nữa
mỗi khi có sự bổ sung mới những sự việc hoặc nguyên tác, vì những nguyên
tác mới dù có cách mạng đến mấy, gìn giữ các nguyên tác cũ với tính cách là
những sự phỏng chừng đầu tiên liên quan đến một thang nhất định: sự sáng
tạo liên tục và không dự đoán trước được mà khoa học chứng tỏ, không
ngừng sát nhập vào quá khứ riêng của mình. Người ta tìm thấy lại cùng một
hiện tượng ây, nhưng thu nhỏ lại, trong tư duy của mọi người có đầu óc cân
bằng.
Hơn nữa, so sánh với sự cân bằng bộ phận của các cấu trúc tri giác
hoặc vận động, sự cân bằng các nhóm hợp là chủ yếu một sự "cân bằng cơ
động": các thao tác là những hành động, sự cân bằng của tư duy thao tác
không phải là sự nghỉ yên mà là một hệ thống những trao đổi bù chì cho
nhau, những biến đổi luôn được những biến đổi khác đến cho. Đó là sự cân
bằng của một loại nhạc phức điệu chứ không phải của hệ thống những khối
trơ ì, không có gì liên quan đến sự ổn định giả, đôi khi là kết quả do tuổi tác
của sự chậm chạp lại của các nỗ lực trí tuệ.
Vậy vấn đề là, và chính đó là nội hàm của mọi vấn đề nhóm hợp, xác
định những điều kiện của sự cân bằng để sau đó có thể tìm thấy, trên quan
điểm phát sinh, nó được tạo thành như thế nào. Mà những điều kiện đó có
thể đồng thời được khám phá ra bằng quan sát và thử nghiệm tâm lí học và
được phát triển theo loại chính xác mà một sơ đồ theo thuyết tiên đề chứa
đựng. Những điều kiện đó, dưới góc độ tâm lí học, tạo thành những yếu tố có
tính chất nhân quả, giải thích cơ chế của trí khôn, đồng thời sự sơ đồ hóa
theo thuyết lôgistich của chúng cung cấp những quy tắc của lôgich học các
toàn bộ.
Những điều kiện đó gồm có 4 trong trường hợp các "nhóm" có tính chất
toán học và có 5 trong trường hợp của các "nhóm hợp" có tính chất định tính.
1. Hai yếu tố bất kì của một nhóm hợp có thể được so sánh với nhau và
như vậy chúng đẻ ra một yếu tố mới của cùng nhóm hợp đó: hai lớp riêng biệt
có thể hợp lại thành một lớp tổng thể lồng khít các lớp kia; hai quan hệ A < B
và B < C có thể nối lại thành một quan hệ A < C chứa đựng các quan hệ kia
v.v... Về mặt tâm lí học, điều kiện đầu tiên này biểu thị sự phối hợp có thể
được của các thao tác.
2. Mọi biến đổi đều có thể đảo nghịch. Chính vì vậy mà hai lớp hoặc hai
quan hệ hợp lại ngay lập tức có thể được tách riêng ra và trong tư duy toán
học mỗi thao tác trực tiếp của một nhóm chứa đựng một thao tác ngược lại
(phép trừ cho phép cộng, phép nhân cho phép chia v.v,...). Sự có thể đảo
nghịch đó chắc hẳn là tính chất đặc thù nhất của trí khôn, vì nếu tính vận
động và sự tri giác biết đến sự bố cục, chúng là không thể đảo nghịch. Một
thói quen vận động có hướng độc nhất, và học thực hiện các cử động theo
một hướng khác bao gồm việc đạt được một thói quen mới. Một tri giác tổng
thể đảo nghịch bởi vì khi mỗi xuất hiện của một yếu tố khách quan mới trong
trường tri giác, có việc "chuyển dịch sự cân bằng" và nếu khôi phục lại một
cách khách quan tình huống xuất phát sự tri giác được biến đổi bằng những
trạng thái trung gian. Trí khôn trái lại có thể xây dựng các giả thuyết rồi loại bỏ
chúng trở về điểm xuất phát, đi một đoạn đường và đi lại đoạn đường đó theo
chiều ngược lại mà không thay đổi các khái niệm được sử dụng. Mà tư duy
của trẻ em đúng là, như chúng ta sẽ thấy ở chương 5, càng không thể đảo
nghịch lúc đứa trẻ càng nhỏ và gần hơn với những sem tri giác - vận động,
hoặc trực giác, của trí khôn ban đầu: tính có thể đảo nghịch như vậy là đặc
trưng cho không chỉ những trạng thái cân bằng cuối cùng mà còn cho bản
thân những quá trình tiến hóa nữa.
3. Sự Cấu tạo các thao tác là có thể "kết hợp" (theo nghĩa lôgich học
của thuật ngữ); tức là tư duy luôn vẫn tự do làm những khúc vòng quanh, và
một kết quả đạt được bằng hai con đường khác nhau vẫn giữ là như nhau
trong cả hai trường hợp. Tính chất đó hình như cũng là riêng của trí khôn. Sự
tri giác cũng như tính vận động chỉ biết mỗi một con đường duy nhất, bởi vì
thói quen là thuộc chứng lặp lại một cách máy móc và trong sự tri giác, hai
con đường khác nhau dẫn đến những kết quả khác nhau (ví dụ, cùng một
nhiệt độ được tri giác sau những thời hạn so sánh khác nhau hình như không
cùng là như nhau nữa). Sự xuất hiện các khúc vòng quanh là đặc trưng của
trí khôn cảm giác vận động và tư duy càng tích cực và cơ động bao nhiêu,
các khúc vòng quanh càng có vai trò ở đó, nhưng chỉ trong một hệ thống
thường xuyên cân bằng chúng mới để cho thời hạn cuối cùng của sự tìm
kiếm không đổi.
4. Một thao tác kết hợp với cái nghịch của nó là bị triệt tiêu (ví + 1-1 = 0
hoặc x 5: 5 = x 1. Trong những dạng ban đầu của tư duy trẻ em, trái lại, sự
quay trở lại điểm xuất phát không đi kèm với một sự bảo toàn cái này: ví dụ,
sau khi làm một giả thiết mà sau đó trẻ vứt bỏ đứa trẻ không tìm thấy lại
nguyên xi những dữ kiện của bài toán bởi vì chúng còn bị biến dạng bởi giả
thiết tuy đã bị vứt bỏ.
5. Trong địa hạt các số, một đơn vị thêm vào cho bản thân nó tạo ra
một số mới, do áp dụng sự cấu tạo (1): có sự lặp lại. Trái lại, một yếu tố định
tính được lặp lại không biến đổi: lúc đó có sự "trùng ý" A + A = A
Nếu người ta biểu thị năm điều kiện đó của nhóm hợp thành một sơ đồ
lôgistich, người ta cuối cùng đi đến những công thức đơn giản sau đây: 1/
Cấu tạo: x + x’ = y; y + y’ = z v.v... 2/ Đảo nghịch: y - x = x’ hoặc y - x’ = x 3/
Kết hợp: (x + x’) + y’ = x(x’ + y’) = (z) 4/ Thao tác đồng nhất chung: x - x = 0; y
- y = 0; v.v... 5/ Trùng ý hoặc đồng nhất riêng: x + x = x; y + y = y; v.v... Lẽ
đương nhiên một sự tính toán các biến đổi lúc đó trở thành có thể được,
nhưng nó đòi hỏi, do sự có mặt những trùng ý, một số quy tắc nào đó mà ta
không cần đi vào chi tiết (xem tác phẩm của chúng tôi: Lớp, quan hệ và số,
Paris, Vrin (1942).
* PHÂN LOẠI CÁC "NHÓM HỢP" VÀ CÁC THAO TÁC CƠ BẢN CỦA TƯ DUY
Việc nghiên cứu những vận động của tư duy đang tiến hóa, ở trẻ em,
dẫn đến sự thừa nhận không chi sự tồn tại của các nhóm hợp mà còn sự liên
kết lẫn nhau của chúng, tức là những tương quan cho phép xếp loại chúng và
kiểm kê chúng. Sự tồn tại tâm lí học của một nhóm hợp được nhận thấy dễ
dàng qua các thao tác rõ ràng mà một chủ thể có thể làm được. Nhưng còn
có hơn thế: hễ không có nhóm hợp, không thể có sự bảo toàn các tập hợp và
các toàn bộ, còn sự xuất hiện một nhóm hợp được chứng thực bằng sự xuất
hiện một nguyên tắc bảo toàn. Chẳng hạn, chủ thể có khả năng lập luận bằng
thao tác với cấu trúc của nhóm hợp sẽ được bảo đảm trước rằng một toàn bộ
được bảo toàn độc lập với sự sắp xếp của các bộ phận, trong khi chủ thể
trước đó còn đặt vấn đề nghi ngờ. Chúng ta sẽ nghiên cứu ở chương 5 sự
hình thành của các nguyên tác bảo toàn ấy để nêu rõ vai trò của nhóm hợp
trong sự phát triển của lí trí.
Nhưng để sự trình bày được sáng tỏ, điều quan trọng là mô tả trước
các trạng thái cân bằng cuối cùng của tư duy, để mà sau đó xem xét các yếu
tố phát sinh có khả năng giải thích sự cấu tạo của tư duy. Để tránh nguy cơ
của một sự liệt kê trừu tượng và có tính lược đồ, chúng tôi hoàn chỉnh các
suy nghĩ trước bằng cách kể ra những nhóm hợp chính, khi đã đồng ý với
nhau rằng bảng này chỉ đơn giản trình bày cấu trúc kết thúc của trí khôn và
rằng vấn đề phải tìm hiểu sự hình thành của chúng vẫn còn là nguyên vẹn.
Một hệ thống đầu tiên của nhóm hợp được lập thành bởi những thao
tác được gọi là lôgich, tức là bởi những thao tác xuất phát từ những yếu tố cá
nhân được coi là không đổi và chỉ hạn chế do việc xếp loại chúng, chia hạng
chúng v.v...
1. Sự nhóm hợp lôgich đơn giản nhất là sự nhóm hợp phân loại, hoặc
việc lồng vào nhau theo cấp bậc các lớp. Nó dựa trên một thao tác cơ bản
đầu tiên: sự hội họp các cá nhân thành lớp, và các lớp với nhau. Mẫu hình
hoàn chỉnh được tạo thành bởi những sự phân loại động vật hoặc thực vật,
nhưng mọi phân loại định tính được tiến hành theo cùng một sơ đồ lưỡng
phân:
Giả định một loại A, bộ phận của loài B, của họ C, v.v... Loài B chứa
đựng những loại khác ngoài A: chúng ta gọi chúng là A’ (cho là A’ = B – A).
Họ C chứa đựng những loài khác ngoài B: chúng ta gọi chúng B’ (cho là B’ =
C - B) v.v... Lúc đó ta có cấu tạo A + A’ = B, B + B’ = C; C + C’ = D, v.v...; khả
năng đảo nghịch: B - A’ = A v.v...; tính kết hợp: (A + A’) + B’ = A + (A’ + B’) =
C và tất cả các tính chất khác của nhóm hợp. Chính sự nhóm hợp đầu tiên
này đẻ ra tam đoạn luận cổ điển.
2. Một nhóm hợp sơ đẳng thứ hai sử dụng thao tác nó không còn bao
hàm việc tụ hội với nhau những cá nhân được xem là tương đồng (như ở 1)
mà bao hàm việc nối các quan hệ bất đối xứng biểu hiện những khác biệt của
chúng. Sự tụ hội của những khác biệt đó lúc này giả định một trật tự của dãy
liên tiếp và các nhóm hợp do đó tạo thành một sự "chia hạng định tính".
Chúng ta hãy gọi a quan hệ 0 < A,; b quan hệ 0 < B; c quan hệ 0 < C.
Người ta có thể lúc đó gọi a’ quan hệ A < B; b’ quan hệ B < C; v.v... và người
ta có cái nhóm hợp a + a’ = b; b + b’ = c; v.v... Thao tác đảo là phép trừ của
một quan hệ, điều đó giá trị ngang với phép cộng của số nghịch của nó. Cái
nhóm họp là song song với cái nhóm hợp trước, với một khác biệt duy nhất là
phép tính cộng bao hàm một trật tự của dãy liên tiếp (và do vậy không thể
giao hoán); chính là trên sự bắc cầu riêng cho sự chia hạng này mà lập luận
A < B; B < C; vậy A < C lấy làm chỗ dựa.
3. Một phép tính thứ ba rất cơ bản là phép thay thế, cơ sở của sự
tương đồng tụ hội những cá nhân khác biệt của một lớp hoặc những lớp khác
biệt đơn giản thành một lớp phức hợp.
Quả vậy, giữa hai yếu tố A1 và A2 của cùng một lớp B không có sự
bằng nhau như giữa các đơn vị toán học. Chỉ đơn giản có sự tượng đồng
định tính, tức là có thể thay thế nhau, nhưng trong chừng mực người ta cũng
thay thế cho những A’1, tức là cho những yếu tố "khác" so với A1, những A’2;
tức là những yếu tố "khác" so với A2. Từ đó có nhóm hợp A1 + A’1 = A2 + A’2
<=>, B1 + B’1 = B2 + B’2 = C= C1 v.v...
4. Thể hiện bảng các quan hệ, những phép tính trước đẻ ra sự hỗ
tương riêng cho các quan hệ đối xứng. Các quan hệ này quả thật chỉ là
những quan hệ nối liền với nhau những yếu tố của cùng một lớp, tức là
những quan hệ tương đồng (đối lập với những quan hệ bất đối xứng đánh
dấu sự khác biệt). Các quan hệ đối xứng (chẳng hạn anh em, anh em, chú
bác v.v...) nhóm lại theo mẫu hình của nhóm hợp trước, nhưng phép tính đảo
là đồng nhất với phép tính thuận, đó chính là định nghĩa về sự đối xứng (y =
z) = (z = y). Bốn nhóm hợp nêu trên là thuộc tính cộng, hai trong chúng (1 và
3) liên quan đến các lớp, còn hai nhóm kia là những quan hệ. Ngoài ra còn có
bốn nhóm hợp dựa trên các phép nhân, tức là chúng xét đến hơn một hệ
thống đồng thời các lớp hoặc các quan hệ. Các nhóm hợp này tương ứng
từng số hạng một với bốn nhóm trước.
5. Trước hết cho hai dãy lớp được lồng vào nhau A1 B1 C1 và A2 B2
C2, người ta có thể phân bố các cá nhân theo hai dòng cùng một lúc: đó là
phương thức các bảng hai lối vào. Mà "phép nhân các lớp", nó tạo thành
phép tính riêng cho loại nhóm hợp này đóng một vai trò chủ yếu trong cơ chế
của tri khôn: chính nó mà Spearman đã mô tả bằng lời lẽ tâm lý học dưới cái
tên: "sự rút gọn của tương quan”.
Phép tính thuận là, đối với hai lớp B1 và B2, tích số B1x B2= B1.B2
(=A1A2 + A1A'2 + A'1A2 + A’1A’2). Phép tính đảo là phép chia lôgich học
B1B2 = B2 = B1, điều đó tương ứng với sự trừu xuất (B1B2) không kể đến B2
(trừu xuất B2 đi) là B1.
6. Người ta cũng có thể nhân với nhau như vậy hai loạt quan hệ, tức là
tìm ra tất cả những tương quan tồn tại giữa đồ vật được chia hạng theo hai
thứ quan hệ cùng một lúc. Trường hợp đơn giản nhất không gì khác là sự
"tương ứng một đổi một" định tính.
7 và 8. Người ta cuối cùng có thể nhóm các cá nhân, không phải theo
nguyên tắc các bảng có hai lối vào như trong hai trường hợp trước, mà bằng
cách làm cho một số hạng tương ứng với nhiều số hạng, như người cha
tương ứng với các con trai. Sự nhóm hợp này như vậy lấy dạng một cây phả
hệ và biểu đạt hoặc bằng lớp (7) hoặc bằng quan hệ (8), những cái sau lúc
này là bất đối xứng theo một trong hai hướng (cha, v.v….) và đối xứng theo
hướng kia (anh em v.v,...).
Như vậy người ta có được theo những cách kết hợp đơn giản nhất tám
nhóm hợp lôgich học căn bản, những nhóm hợp này là cộng (1 — 4) những
nhóm hợp khác là nhân (5 - 8), những cái này liên quan đến các lớp và những
cái khác liên quan đến các quan hệ: những cái này triển khai thành nhưng sự
lồng vào nhau, sự chia hạng hoặc sự tương ứng đơn giản (1, 2 và 5, 6),
những cái khác thành những cái đảo và những tương ứng theo kiểu một với
nhiều (3, 4 và 7, 8). Từ đó có tất cả 2 x 2 x 2 khả năng.
Chúng ta còn nên ghi nhận rằng chính cái tốt nhất của tính chất tự
nhiên của các toàn bộ được tạo thành bởi những nhóm hợp thao tác là chỉ
cần gộp vào nhau các nhóm hợp của sự lồng đơn giản các lớp (1) và của sự
chia hạng (2) để có được, không còn là một nhóm hợp định tính, mà cái
"nhóm" được tạo thành bởi dãy những số nguyên âm và dương. Quả vậy tụ
hợp các cá nhân thành lớp bao gồm việc xem chúng như tương đương, còn
như chia hạng chúng theo một quan hệ bất đối xứng nào đó là biểu đạt những
khác biệt của chúng. Mà khi xem xét các phẩm chất của các đồ vật, người ta
không thể nhóm chúng lần lượt như là tương đượng và khác biệt cùng một
lúc. Nhưng nếu người ta không kể đến các phẩm chất, người ta bằng sự việc
đó làm cho nó tương đương với nhau và có thể chia hạng theo một trật tự liệt
kê bất kỳ: người ta biến đổi chúng thành những "đơn vị" được xếp theo thứ tự
và thao tác cộng hợp thành của số nguyên bao hàm đúng điều đó. Cũng vậy,
bằng cách gộp các nhóm nhân các lớp (5) và các quan hệ (6), người ta có
được nhóm nhân các số dương (nguyên và phân số).
II. Những hệ thống khác nhau nêu trên không bao gồm hết tất cả những
thao tác sơ đẳng của trí khôn. Trí khôn, quả vậy không hạn chế ở việc thao
tác trên các đồ vật để tụ hội chúng thành lớp, chia hạng chúng hoặc đếm
chúng. Hoạt động của nó còn thuộc việc tạo dựng đồ vật với tư cách như thế,
và như chúng ta sẽ thấy (chương IV), công việc đó bắt đầu ngay ở trí khôn
cảm giác - vận động. Tháo một đổ vật và lắp nó lại tạo thành bằng cách đó
công việc riêng cho một tập hợp thứ hai các nhóm hợp mà các thao tác cơ
bản có thể do đó được gọi là "ngoại lôgich". Bởi vì các thao tác lôgich kết hợp
những đồ vật được coi là không đổi. Các thao tác ngoại lôgich có một tầm
quan trọng lớn ngang với các thao tác lôgich, bởi vì chúng mang tính chất
hợp thành của những khái niệm không gian và thời gian, mà sự luyện xây
choán hầu hết tuổi thơ ấu. Nhưng mặc dầu rất khác biệt với các thao tác
lôgich, chúng hoàn toàn song hành với những thao tác ấy. Vấn đề về các
tương quan phát triển giữa hai tập hợp thao tác đó tạo thành như vậy một
trong những vấn đề lí thú nhất liên quan đến sự phát triển của trí khôn:
1. Với sự lồng các lớp vào nhau tương ứng việc lồng các phần hợp
thành những toàn bộ theo cấp bậc mà số hạng cuối cùng là đồ vật hoàn chỉnh
(ở bất cứ thang nào, kể cả bản thân vũ trụ không gian - thời gian). Chính là
cái nhóm hợp đầu tiên này của việc cộng từng bộ phận đã cho phép trí tuệ
quan niệm sự cấu tạo theo thuyết nguyên tử trước mọi kinh nghiệm thực sự
khoa học.
2. Với sự chia hạng các quan hệ bất đối xứng tương ứng những thao
tác đặt chỗ (trật tự không gian hoặc thời gian) và dời chỗ định tính (thay trật
tự đơn giản, độc lập với số đo).
3. 4. Những thay thế và những quan hệ đối xứng không gian - thời gian
tương ứng với những thay thế và những đối xứng lôgich học.
5-8. Các thao tác nhân phối hợp đơn giản những thao tác trước theo
nhiều hệ thống và kích thước.
Như nhiều thao tác bằng số có thể được xem như là biểu đạt một sự
gộp đơn giản các nhóm hợp của các lớp và các quan hệ bất đối xứng, cũng
vậy các thao tác đo đạc thể hiện sự tụ hội thành một cái toàn bộ duy nhất
những thao tác phân chia và dời chỗ.
III. Người ta có thể tìm thấy lại cùng những phân bố về các thao tác
thuộc các giá trị, tức là biểu đạt những tương quan về phương tiện và mục
đích, chúng đóng một vai trò thiết yếu trong trí khôn thực hành (mà sự định
lượng thể hiện giá trị kinh tế).
IV. Cuối cùng, toàn bộ ba hệ thống thao tác đó (I đến III) có thể được
biểu hiện dưới dạng những mệnh đề đơn giản, từ đó mà có một lôgich học
của những mệnh đề trên cơ sở những quan hệ liên can và những sự không
tương hợp giữa các chức năng theo tỉ lệ: chính nó tạo nên lôgich học theo
nghĩa thông thường của thuật ngữ cũng như những lí thuyết giả thiết - diễn
dịch riêng của toán học.
* SỰ CÂN BẰNG VÀ SỰ PHÁT SINH
Trong chương này, chúng tôi tự đề ra cho mình việc tìm một sự giải
thích về tư duy không va chạm với lôgich học như với một dữ kiện đầu tiên và
không giải nghĩa được, nhưng nó tôn trọng tính chất cần thiết hình thức đặc
trưng cho lôgich học tiên đề trong khi vẫn giữ cho trí khôn bản chất tâm lí học
hết mực hoạt động và tạo dựng của nó.
Mà sự tồn tại những nhóm hợp và khả năng tiên đề hóa chặt chẽ của
chúng thỏa mãn cái thứ nhất của hai điều kiện đó: lí thuyết nhóm hợp có thể
đạt được sự chính xác dứt khoát, trong khi vẫn sắp xếp tập hợp các yếu tố
lôgistich và các thao tác thành những toàn bộ so sánh được với các hệ thống
chung mà toán học dùng tới.
Mặt khác, trên quan điểm tâm lí học, vì các thao tác vừa là những hành
động có thể tạo dựng được và đảo nghịch được, mà còn là những hành động,
sự liên tục giữa hành vi trí khôn và toàn bộ các quá trình thích nghi vẫn còn
được bảo đảm bằng cách đó.
Nhưng vấn đề của trí khôn chỉ mới bằng cách đó đơn giản được đặt ra,
và còn hoàn toàn phải tìm tòi lời giải của nó. Tất cả những gì sự tồn tại và sự
mô tả các nhóm hợp dạy cho ta là: ở một trình độ nào đó, tư duy đạt được
trạng thái cân bằng. Chúng chắc chắn cho chúng ta biết sự cân bằng đó là cái
gì: một sự cân bằng vừa cơ động vừa thường trực, cũng như cấu trúc của
toàn thể thao tác tự bảo toàn khi chúng đồng hóa những yếu tố mới. Chúng ta
hơn nữa còn biết rằng sự cân bằng cơ động đó giả định sự đảo nghịch, đó
chính là định nghĩa của một trạng thái cân bằng theo những nhà vật lí học
(chính là theo mẫu hình vật lí thực tại ấy chứ không phải theo tính nghịch đảo
trừu tượng của sơ đồ lôgistich mà ta phải quan niệm tính nghịch đảo của các
cơ chế của trí khôn được tạo dựng). Nhưng cả sự nhận ra trạng thái cân
bằng ấy lẫn bản thân sự phát triển những điều kiện cần thiết chưa tạo thành
một giải nghĩa.
Giải nghĩa trí khôn trên quan điểm tâm lí học bao gồm việc vạch ra sự
phát triển của nó bằng cách chỉ rõ bằng cách nào sự phát triển này tất yếu kết
thúc ở sự cân bằng được mô tả. Theo quan điểm đó, công việc của tâm lí học
là so sánh được với công việc của phôi học, công việc trước hết là miêu tả,
bao hàm sự phân tích các bước và các thời kì của sự phát sinh hình thái cho
đến sự cân bằng sau cùng do hình thái học người lớn tạo thành, nhưng là
công việc tìm tòi trở thành "nhân quả" ngay khi các yếu tố bảo đảm sự chuyển
từ giai đoạn này sang giai đoạn sau được làm sáng tỏ. Công việc của chúng
tôi là rõ ràng: vấn đề bây giờ là tạo dựng lại sự phát sinh hoặc các bước của
sự hình thành trí khôn, cho đến lúc có thể trình bày trình độ thao tác kết thúc
mà chúng tôi vừa mô tả các dạng cân bằng. Và vì người ta không quy trình độ
trên và trình độ dưới, trừ phi làm què quặt trình độ trên hoặc làm phong phú
trước trình độ dưới - sự giải thích phát sinh chỉ có thể bao gồm việc chỉ rõ
cách thế nào, ở mỗi nấc mới, cơ chế những yếu tố hiện diện dắt dẫn đến một
sự cân bằng còn chưa hoàn chỉnh, thì ngay sự cân bằng hóa đó của chúng
dẫn đến trình độ tiếp sau. Chính bằng cách đó mà dần dần chúng ta hi vọng
trinh bày được việc tạo dựng từng bước sự cân bằng thao tác mà không hình
thành nó trước ngay lúc bắt đầu hoặc làm cho nó đột ngột hiện lên từ hư
không ở giữa đường đi.
Tóm lại, giải nghĩa trí khôn vậy là trở thành đặt những thao tác cao cấp
trong sự tiếp nối với toàn bộ sự phát triển, sự phát triển này được hình dung
như một tiến hóa được điều khiển bởi những nhu cầu bên trong của sự cân
bằng. Mà sự nổi tiếng có tính chức năng này liên minh rất chặt chẽ với sự
phân biệt những cấu trúc liên tiếp. Như chúng ta đã thấy, người ta có thể tự
hình dung ra cấp bậc các cư xử, của phản xạ và của các tri giác tổng thể ban
đầu như một sự mở rộng dần các khoảng cách và một sự phức hợp hóa dần
những đoạn đường đặc trưng cho những trao đổi giữa cơ thể (chủ thể) và
môi trường (các khách thể): mỗi một trong những mở rộng hoặc phức hợp
hóa đó biểu hiện một cấu trúc mới, còn dãy liên tiếp của những mở rộng và
phức hợp hóa đó phục tùng những nhu cầu của một cân bằng luôn luôn phải
là cơ động hơn, căn cứ vào sự phức hợp. Sự cân bằng thao tác thực hiện
các điều kiện đó vào lúc có tối đa những khoảng cách có thể có (bởi vì trí
khôn tìm cách ôm trùm vũ trụ) và sự phức hợp các đoạn đường (vì sự diễn
dịch có khả năng làm những "đường vòng" lớn nhất): vậy sự cân bằng đó
phải được quan niệm như là sự kết thúc một quá trình tiến hóa mà ta còn phải
vạch ra lại những giai đoạn.
Tổ chức của các cấu trúc thao tác như vậy là đâm sâu các rễ của nó
vào phía bên này của tư duy suy ngẫm và đến nguồn gốc của bản thân hành
động. Và do sự việc là các thao tác được nhóm hợp lại thành những toàn thể
được cấu trúc hóa thì vấn đề là so sánh chúng với tất cả các "cấu trúc" ở trình
độ thấp hơn - những cấu trúc tri giác và vận động. Con đường phải theo đã
được vạch rõ: phân tích các tương quan của trí thông minh với tri giác
(chương 3), với thói quen vận động (chương 4), đoạn nghiên cứu sự hình
thành các thao tác trong tư duy trẻ em (chương 5) và sự xã hội hóa của nó
(chương 6). Chỉ lúc đó cấu trúc của "nhóm hợp" đặc trưng cho lôgich học
sống động đang hành động mới bộc lộ bản chất thật của nó, hoặc bẩm sinh,
hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa và đơn thuần bị môi trường áp đặt, hoặc cuối
cùng sự thể hiện những trao đổi ngày càng nhiều và càng phức hợp giữa chủ
thể và các khách thể: những trao đổi lúc đầu không đầy đủ, không ổn định và
không thể đảo nghịch, nhưng dấn dần, do chính nhu cầu của sự cân bằng mà
chúng bị bó buộc, có được hỉnh thức cấu tạo có khả năng đảo nghịch riêng
cho nhóm hợp.
Phần 2. TRÍ KHÔN VÀ CÁC CHỨC NĂNG CẢM GIÁC – VẬN ĐỘNG
Chương 3. TRÍ KHÔN VÀ TRI GIÁC
Tri giác là sự hiểu biết mà chúng ta có được từ những đồ vật, hoặc từ
sự vận động của chúng, do tiếp xúc trực tiếp và hiện tại, còn trí khôn là một
sự hiểu biết tồn tại khi những vòng quanh can thiệp vào và khi những khoảng
cách giữa chủ thể và các khách thể về không gian và thời gian tăng lên. Vậy
có thể là các cấu trúc trí tuệ và nhất là các nhóm hợp thao tác, đặc trưng cho
sự cân bằng cuối cùng của sự phát triển của trí khôn, đã có trước, toàn bộ
hay từng phần, ngay lúc xuất phát dưới hình thức những tổ chức chung cho
cả tri giác lẫn tư duy. Đó đặc biệt là ý tưởng trung tâm của "lí thuyết hình
thức", lí thuyết này nếu nó không biết đến khái niệm về cái nhóm hợp có tính
đảo nghịch, đã mô tả những quy luật của cấu trúc hóa tổng thể điều khiển liên
tiếp, theo lí thuyết đó, cả tri giác, tính vận động và những chức năng sơ đẳng
lẫn bản thân sự lập luận và đặc biệt là tam đoạn luận (Wertheimer). Vậy cần
thiết là chúng ta đi từ những cấu trúc tri giác để xét xem người ta có thể rút ra
từ đấy một giải nghĩa về toàn bộ tư duy, bao gồm cả những nhóm hợp với tư
cách là như vậy.
* MỘT CHÚT LỊCH SỬ
Giả thuyết về một mối tương quan chặt chẽ giữa tri giác và trí khôn
được số người này ủng hộ ở mọi thời và cũng bị một số người khác ở mọi
thời bác bỏ. Chúng tôi chỉ nêu ở đây những tác giả của các công trình nghiên
cứu thực nghiệm, đối lập với vô số triết gia chỉ hạn chế ở việc "suy ngẫm" về
đê tài đó mà thôi. Và chúng tôi trình bày cả quan điểm những nhà thực
nghiệm muốn giải thích tri giác bằng sự can thiệp của trí khôn lẫn quan điểm
của những người tìm cách tách trí khôn và tri giác ra.
Hemholz chắc hẳn là người đầu tiên đã đặt vấn đề về những tương
quan giữa các cấu trúc tri giác và các cấu trúc thao tác, dưới hình thức hiện
đại của nó. Người ta biết rằng tri giác thị giác có khả năng đạt dưới một số
"tính không đổi" đã gây ra và còn gây ra mãi mãi một loạt công việc: một đại
lượng được tri giác gần đúng về chiều sâu, dù có sự thu nhỏ lại đáng kể của
hình ảnh ở võng mạc và sự giảm bớt do phối cảnh; một hình dạng được nhận
rõ dù có những đảo ngược một màu sắc được nhận ra trong bóng tối cũng
như được ánh sáng đầy đủ; v.v... Helmholtz tìm cách giải thích những tính
không đổi đó của tri giác bằng sự can thiệp của một "lập luận vô thức" đến
sửa cảm giác tức thì dựa vào những tri thức đã có. Khi người ta nhớ lại
những lo toan của Helmholtz về sự hình thành khái niệm không gian, người ta
tưởng tượng rõ rằng giả thuyết đó phải có một ý nghĩa xác định trong sự suy
nghĩ của ông, và Cassirer đã giả định (bằng cách tự mình chịu trách nhiệm về
ý tưởng trên) rằng nhà sinh lí học, vật lí học và hình học tìm cách trình bày về
những tính không đổi của tri giác bằng sự can thiệp của một thứ "nhóm" hình
học tự tại trong trí khôn vô thức đang hoạt động trong sự tri giác. Sự việc đó
ích rất lớn cho sự đối sánh những cơ chế trí tuệ với những cơ chế tri giác mà
chúng tôi đang làm ở đây. Quả vậy, những "tính không đổi" thuộc tri giác có
thể đem so sánh, trên bình diện cảm giác - vận động, với những gì là những
khái niệm khác nhau của sự "bảo toàn", đặc trưng cho những chiếm lĩnh đầu
tiên của trí khôn (sự bảo toàn các tập hợp, chất liệu, trọng lượng, thể tích
v.v... lúc có những biến dạng trực giác): mà các khái niệm về bảo toàn đều
luôn luôn do sự can thiệp của một "nhóm hợp" hay một "nhóm" các thao tác,
nếu những tính không đổi thị giác bản thân chúng đều có thể gán cho một lập
luận vô thức ở dạng "nhóm", sẽ có bằng cách đó sự liên tục về cấu trúc trực
tiếp giữa tri giác và trí khôn.
Duy có điều là Hering đã trả lời cho Helmholtz, rằng sự can thiệp của tri
thức trí tuệ không biến đổi một tri giác: người ta cảm nhận rõ rệt cùng ảo giác
thị giác ấy, hoặc trọng lượng v.v... khi người ta biết các giá trị khách quan
những dữ kiện đã được tri giác. Vậy người ta từ đó kết luận rằng lập luận
không can thiệp vào tri giác, và những "tính không đổi" là do những điều tiết
thuần túy sinh lí học.
Nhưng Helmholtz và Hering cả hai đều tin ở sự tồn tại của những cảm
giác có trước tri giác và lúc đó họ quan niệm "tính không đổi" tri giác như là
một sự sửa lại các cảm giác, bằng cách gán nó, người này cho trí khôn còn
người kia cho các cơ chế thần kinh. Vấn đề được đổi mới sau khi Von
Ehrenfels đã khám phá ra năm 1891 những phẩm chất tri giác tổng thể
(Gestaltqualitảten), như phẩm chất của một giai điệu có thể nhận ra được
mặc dầu có một sự chuyển vị biến đổi tất cả các nốt (không một cảm giác sơ
đẳng nào có thể được giữ nguyên như cũ). Từ khám phá này mà xuất phát
hai trường phái, một kéo dài Helmholtz trong việc dựa vào trí khôn và trường
phái kia của Hering phủ định vai trò của trí khôn. "Trường phái Gratz"
(Meinong, Benussi), quả vậy, tiếp tục tin vào các giác quan và giải thích phẩm
chất tổng thể như là sản phẩm của một tổng hợp: phẩm chất này do có thể
mang đi được, được quan niệm như là do trí khôn, với tính cách là như vậy
Meinong còn đi đến xây dựng trên giải thích này cả một lí thuyết về tư duy
dựa trên ý tưởng của sự toàn bộ (những "đồ vật tập thể” bảo đảm sự nối liền
(cái tri giác và cái thuộc khái niệm). "Trường phái Berlin", trái lại, là ở điểm
xuất phát của "tâm lí học hình thức" đã đảo ngược các vị trí: các cảm giác đối
với nó không còn tồn tại với tính cách những yếu tố có trước tri giác hoặc độc
lập đối với tri giác (đó là những cái "được chứa đựng đã bị cấu trúc hóa” chứ
không còn là "cấu trúc hóa") và hình thức tổng thể, mà khái niệm lúc này
được khái quát hóa cho mọi tri giác, không còn được quan niệm như là kết
quả của một tổng hợp, mà đúng như là một sự việc đầu tiên, thuộc sự sản
xuất vô thức và thuộc bản chất sinh lí học cũng như tâm lí học: những "hình
thức (Gestalt) được tìm thấy lại ngay ở tất cả các tầng của thang cấp bậc trí
tuệ, và người ta có thể hi vọng, theo trường phái Berlin, một sự giải thích về
trí khôn xuất phát từ những cấu trúc tri giác, thay vì cho sự lập luận trong sự
tri giác với tính cách là như vậy, can thiệp vào một cách không thể hiểu nổi.
Trong sự nối tiếp các tìm tòi, một trường phái gọi là Gestalt- kreis (von
Weizsacker, Auersperg) mưu toan mở rộng ý tưởng cấu trúc tổng thể bằng
cách ngay từ điểm xuất phát thâu tóm vào đó tri giác và sự vận động được
quan niệm như là tất yếu gắn bó với nhau: tri giác lúc đó sẽ giả định sự can
thiệp của những đón trước và những tái tạo vận động tuy không bao hàm trí
khôn nhưng báo trước nó. Vậy người ta có thể coi trào lưu này như đổi mới
truyền thống của Helmholtz trong khi những công trình hiện đại khác vẫn
dừng lại ở gợi ý của Hering về một sự giải thích tri giác bằng sinh lí học thuần
túy (Pieron v.v...)
* LÍ THUYẾT HÌNH THỨC VÀ SỰ GIẢI THÍCH VỀ TRÍ KHÔN CỦA NÓ
Một sự quan tâm đặc biệt phải được dành cho quan điểm về cái hình
thức, không chỉ vì nó đổi mới vị trí của một số lớn các vấn đề, mà chủ yếu là
vì nó cung cấp một lí thuyết hoàn chỉnh về trí khôn, nó sẽ còn là, ngay đối với
những kẻ chống lại, một mẫu mực giải thích tâm lí học mạch lạc.
Ý tưởng trung tâm của lí thuyết hình thức là các hệ thống tinh thần
không bao giờ được cấu tạo bằng sự tổng hợp hoặc kết hợp những yếu tố
được cung cấp ở trạng thái riêng rẽ trước sự tụ hội của chúng, mà luôn bao
gồm những toàn thể được tổ chức ngay từ lúc xuất phát dưới một ”hình thức"
hay cấu trúc tổng thể. Chính vì vậy mà một tri giác không là sự tổng hợp các
cảm giác có trước; nó được quản lí ở mọi trình độ bởi một "trường" mà các
yếu tố phụ thuộc lẫn nhau do ngay sự việc là chúng được tri giác cùng một
lúc. Ví dụ một điểm đen duy nhất nhìn thấy trên một tờ giấy lớn không thể nào
được tri giác như yếu tố riêng rẽ, dù nó duy nhất đến mấy, vì nó nổi bật lên
với tính cách là "hình" trên một "nền" do tờ giấy tạo nên, và tương quan hình
X nền giả định sự tổ chức của trường thị giác đầy đủ. Điều đó lại càng đúng
hơn nữa khi người ta có thể cùng ra thì đành tri giác tờ giấy như một đồ vật
(cái "hình") và điểm đen như một lỗ, tức là như phần duy nhất có thể nhìn
thấy của "nền". Tại sao người ta thích cách thức tri giác thứ nhất ? Và tại sao,
nếu thay vì một điểm duy nhất, người ta nhìn thấy ba hoặc bốn điểm khá gần
kề nhau, người ta không thể nhìn nối chúng lại thành những dạng ảo ảnh hình
tam giác hoặc hình tứ giác hay sao? Chính là vì những yếu tố tri giác trong
cùng một trường lập tức được nối lại thành cấu trúc tổng thể tuân theo những
quy luật chính xác, chúng là những "quy luật tổ chức".
Những quy luật tổ chức ấy, điều khiển tất cả các tương quan của một
trường, không gì khác hơn trong giả thuyết của những nhà "Hình thức học"
(Gestaltestes), là những quy luật cân bằng cùng một lúc điều khiển các dòng
thần kinh được khởi động bởi sự tiếp xúc tâm linh với các đồ vật bên ngoài,
và bởi bản thân các đồ vật, được tụ hội lại thành một đường vòng bao bọc lần
lượt cơ thể và môi trường gần kề. Trên quan điểm đó, một "trường tri giác
(hoặc vận động v.v...) là có thể so sánh với một trường sức mạnh (điện từ
v.v...) và được những nguyên tác tương tự về cái tối thiểu, về hành động bé
nhất... điều khiển. Trước sự có mặt của số nhiều các yếu tố, chúng ta ấn cho
chúng một hình thức tổng thể nó không phải là một hình thức bất kì, mà là
hình thức đơn giản nhất có thể được biểu thị cấu trúc của trường: vậy đó là
những quy tắc về sự đơn giản, sự đều đặn, sự gần kề, sự đối xứng v.v...
chúng xác định hình thức được tri giác. Từ đó một quy luật thiết yếu (gọi là
của sự hàm súc): trong tất cả những hình thức có thể có, hình thức được áp
đặt bao giờ cũng là cái "tốt nhất" tức là cái cân bằng hơn cả. Hơn nữa một
hình thức tốt bao giờ cũng đều có khả năng chuyển vị như một giai điệu mà
người ta đổi tất cả các nốt. Nhưng sự chuyển vị đó, nó chứng minh sự độc
lập của cái toàn vẹn so với các bộ phận, bản thân nó cũng được giải thích,
bởi những luật cân bằng: đó là cùng những tương quan ấy giữa những yếu tố
mới, chúng kết thúc ở cùng một hình thức tổng thể với các tương quan giữa
những yếu tố trước, không phải chờ một hành vi so sánh, mà do một sự hình
thành lại sự cân bằng, như nước trong một con kênh lấy lại cùng hình thức
nằm ngang, nhưng ở những mức khác nhau, sau khi mở mỗi cống. Sự xác
định đặc trưng của những "hình thức tốt" này và việc nghiên cứu những
"chuyển vị" này đã gây ra một loạt công việc thực nghiệm có lợi ích chắc chắn
mà ở đây đi sâu vào chi tiết của chúng chỉ là vô ích.
Trái lại, cái mà ta phải ghi nhận cẩn thận, như là thiết yếu đối với học
thuyết, đó là cái "quy luật tổ chức" được quan niệm như độc lập với sự phát
triển và do đó chung cho tất cả các trình độ. Sự khẳng định này là tự nhiên
nếu người ta hạn chế nó ở sự tổ chức chức năng, hoặc cân bằng "đồng đại"
của các cư xử, vì sự cần thiết của sự cân bằng này chế ngự trên tất cả các
nấc, từ đó mà có sự liên tục chức năng mà chúng tôi đã nhấn mạnh. Nhưng
người ta thường đối lập với sự hành chức không thay đổi này những cấu trúc
liên tiếp được xem xét trên quan điểm lịch đại và biến đổi từ nấc này sang nấc
khác. Mà cái riêng của tâm lí học Hình thức là tụ hội thành một cái toàn thể
chức năng và cấu trúc, dưới cái tên "tổ chức" và xem các quy luật của những
cái này (chức năng và cấu trúc) như không thay đổi. Chính vì vậy mà các nhà
tâm lí học Hình thức đã nỗ lực, với một khối tích tụ các tư liệu đáng ngạc
nhiên, chứng minh rằng các cấu trúc tri giác là giống nhau ở trẻ em và người
lớn, nhất là ở những loài có xương sống thuộc mọi loại; chỉ có khác nhau,
giữa trẻ em và người lớn tầm quan trọng tương đối của một số yếu tố chung
về tổ chức, về sự gắn kết chẳng hạn, nhưng toàn bộ các yếu tố vẫn giữ là
cùng những cái ấy, và những cấu trúc từ đó sinh ra tuân theo cùng những quy
luật ấy.
Đặc biệt, vấn đề nổi tiếng của "những tính không đổi" thuộc tri giác đã
tạo nên một lời giải có hệ thống mà hai điểm sau đây đáng nêu. Trước hết,
một tính không đổi như tính không đổi về đại lượng không tạo thành sự sửa
lại một cảm giác ban đầu làm biến dạng, nối liền với một hình thu nhỏ ở võng
mạc, bởi vì không có cảm giác ban đầu riêng rẽ, và hình ảnh ở võng mạc chỉ
là một khâu không có đặc ân trong dây chuyền, mà đường vòng toàn bộ nối
các đồ vật lên não do sự trung gian của những dòng thần kinh liên quan: vậy
là tức khắc và trực tiếp mà người ta bảo đảm cho đồ vật nhìn thấy ở chiều
sâu độ lớn thực tại của nó do nhờ đơn thuần những quy luật tổ chức làm cho
cấu trúc ấy là tốt hơn cả. Thứ hai, những tính không đổi về thị giác không phải
tự có được mà được cung cấp y nguyên ở tất cả các trình độ, ở loại vật và trẻ
sơ sinh, cũng như ở người lớn. Những ngoại lệ bề ngoài trong thực nghiệm là
do sự việc trường tri giác không phải bao giờ cũng được cấu trúc hẳn hoi tính
không đổi tốt nhất đã tìm ra khi mục tiêu thuộc một "hình dáng" tổng thể, như
một dãy liên tiếp các đồ vật được chia hạng.
Nếu chúng ta quay về với trí khôn, nó đã nhận từ quan điểm này một
sự giải thích đặc biệt đơn giản và có khả năng, nếu nó là đúng, gắn hầu như
trực tiếp các cấu trúc cao cấp (và nhất là những "nhóm hợp thao tác" mà
chúng tôi đã mô tả) với các ”hình thức" sơ đẳng nhất có tính chất cảm giác
vận động và ngay cả tri giác. Ba ứng dụng của lí thuyết Hình thức vào việc
nghiên cứu trí khôn đặc biệt đáng nêu: ứng dụng của Kochler vào trí khôn
cảm giác - vận động, ứng dụng của Wertheimer vào cấu trúc của tam đoạn
luận và ứng dụng của Duncker vào hành vi trí khôn nói chung.
Với Kochler, trí khôn xuất hiện khi tri giác không kéo dài trực tiếp thành
những cử động có khả năng bảo đảm chiếm lĩnh mục tiêu. Một con hắc tinh
tinh trong chuồng tìm cách với tới một quả nằm ngoài tầm với tới của cánh
tay: một trung gian lúc đó là cần thiết, mà việc sử dụng xác định tính phức
hợp riêng của hành động thông minh. Hành động thông minh bao hàm cái
gì ? Nếu một chiếc gậy được để sẵn cho con vật, nhưng ở một vị trí bất kì, nó
được nhìn thấy như một đồ vật vô tình; đặt song song với cánh tay nó bỗng
chốc được tri giác như sự kéo dài có thể được của cánh tay. Đến lúc đó là
trung tính, cái gậy như thể là nhận một ý nghĩa do được sát nhập vào trong
cấu trúc tổng thể. Trường được cấu tạo lại và chính những sự cấu tạo lại đột
ngột này theo Kochler là đặc trưng cho hành vi trí khôn: sự chuyển từ một cấu
trúc kém tốt hơn sang một cấu trúc tốt hơn là bản chất của sự nắm hiểu, một
sự tiếp nối đơn giản nhưng trung gian hoặc gián tiếp của bản thân tri giác.
Chính nguyên tác giải thích ấy được tìm thấy lại ở Wertheimer trong sự
giải thích "theo thuyết Hình thức" về tam đoạn luận. Vế lớn là một hình thức
có thể so sánh với một cấu trúc tri giác: "tất cả những con người" như vậy tạo
thành một tập hợp mà người ta hình dung tập trung ở bên trong tập hợp
những "người (có thể chết)". Vế nhỏ cũng theo thể thức như vậy "Socrate là
một cá nhân tập trung trong giới những "con người" cái thao tác rút ra kết luận
từ những sự việc bắt đầu đó: "vậy Socrate là có thể chết" vậy là trở lại một
cách đơn giản cấu tạo lại tập hợp bằầng cách làm biến mất cái vòng trung
gian ở giữa (những con người) sau khi đã định vị nó với nội dung của nó
trong vòng lớn (những người có thể chết). Lập luận là một sự "tập trung lại".
"Socrate” như bị phi tập trung hóa trong lớp "những con người" để tự thấy lại
được tập trung trong cái lớp những "người có thể chết". Cái tam đoạn luận
như vậy không thêm gì nữa thuộc về tổ chức chung các cấu trúc: ở điểm đó
nó tương tự những tái cấu trúc đặc trưng cho trí khôn thực hành của Kochler,
nhưng tiến hành bằng tư duy chứ không còn bằng hành động.
Cuối cùng Duncker nghiên cứu sự tương quan của những thấu hiểu đột
ngột đó (Einsicht) hoặc tái cấu trúc thông minh với kinh nghiệm, để mà đánh
đòn kết liễu chủ nghĩa kinh nghiệm liên tưởng, mà khái niệm Gestalt (Hình
thức) nói trái lại từ trong nguyên tắc.
Nhằm hiệu quả đó, ông phân tích những vấn đề khác nhau của trí khôn
và tìm thấy ở mọi lĩnh vực rằng kinh nghiệm có được đóng một vai trò chỉ là
phụ trong lập luận: Kinh nghiệm bao giờ cũng chỉ có ý nghĩa đối với tư duy tùy
thuộc ở tổ chức hiện thời. Chính tổ chức này, tức là cấu trúc của trường hiện
tại, quy định những khêu gợi có thể có đối với những kinh nghiệm đã qua,
hoặc bằng cách làm cho chúng vô bổ, hoặc nó chỉ huy một sự khêu gợi và
một sự sử dụng các kỉ niệm. Lập luận như vậy là "cuộc chiến đấu rèn vũ khí
của riêng mình" và mọi cái ở đây được giải thích bởi những quy luật tổ chức,
độc lập với lịch sử của cá nhân và đảm bảo cho cái tổng thể sự thống nhất
bản chất của những cấu trúc ở mọi trình độ, từ những "hình thức" tri giác sơ
đẳng đến những hình thức của tư duy cao nhất.
* PHÊ PHÁN TÂM LÝ HỌC HÌNH THỨC
Người ta chỉ có thể dành cho tâm lý học Hình thức tính chất có căn cứ
của những mô tả của nó: đặc trưng "toàn bộ" riêng của các cấu trúc tinh thần,
cả tri giác lẫn trí khôn, sự tồn tại và các quy luật của "hình thức đúng quy
cách", sự quy những biến đổi cấu trúc về những dạng cân bằng v.v... đều
được biện minh bằng nhiều công trình thực nghiệm đến mức những khái
niệm ấy đã có được sự thừa nhận trong toàn bộ tâm lí học hiện đại. Đặc biệt
cách thức phân tích bao hàm việc luôn luôn thể hiện các sự việc và lời lẽ của
"trường" toàn bộ là duy nhất chính đáng vì việc thu gọn thành yếu tố theo
thuyết nguyên tử bao giờ cũng làm biến chất sự thống nhất của thực tại.
Nhưng phải hiểu rõ rằng nếu các "quy luật tổ chức" không phái sinh, ở
bên kia tâm lí học và sinh học từ những "hình thức vật thể" tuyệt đối chung
(Koehler), lúc đó ngôn ngữ các toàn bộ chỉ là một cách thức mô tả và sự tồn
tại những cấu trúc toàn bộ đòi hỏi một sự giải thích không hề nằm trong sự
việc của bản thân cái toàn bộ. Đó là điều mà chúng tôi đã thừa nhận đối với
những "nhóm hợp" của riêng chúng tôi và phải thừa nhận đối với các "hình
thức" hoặc cấu trúc sơ đẳng.
Mà sự tồn tại chung và thậm chí "vật thể" nữa của những "quy luật tổ
chức" bao hàm ít nhất - và các lí luận gia của thuyết hình thức là những người
đầu tiên khẳng định điều đó - sự không biến đổi trong tiến trình của sự phát
triển tinh thần. Vấn đề tiên quyết đối với học thuyết chính thống của Hình thức
(ở đây chúng tôi bám vào sự chính thống đó, nhưng phải nêu lên rằng một số
môn đồ thận trọng hơn của thuyết Gestalt, như Gelb và Goldstein, đã bác bỏ
giả thuyết về những hình thức vật thể) vậy là vấn đề của sự thường trực,
trong tiến trình của sự phát triển tinh thần, của một số hình thức thiết yếu về
tổ chức: đặc biệt hình thức của những "cái không đổi" trong tri giác.
Tuy nhiên về điểm cơ bản, chúng tôi tưởng có thể bảo vệ rằng trong
tình trạng hiện nay của những hiểu biết, các sự việc chống lại một khẳng định
như vậy. Không đi vào chi tiết và đứng trên mảnh đất của tâm lí học trẻ em và
của sự không đổi các đại lượng, phải nêu lên một số điểm sau:
1. H. Franck đã tưởng có thể xác lập sự không đổi của các đại lượng ở
những trẻ nhỏ 11 tháng. Kĩ thuật của những thí nghiệm của ông quả đã gây
nên sự tranh cãi (Beyrl) và sự việc trên đại thể là đúng 11 tháng đã có một sự
phát triển đáng kể về trí khôn cảm giác - vận động. E. Brunswick và
Cruikshank đã nhận thấy một sự phát triển tiệm tiến của sự không đổi đó
trong sáu tháng đầu.
2. Một số thí nghiệm mà chúng tôi đã làm cùng với Lambercier trên
những trẻ 5 đến 7 tuổi và bao gồm những so sánh (hai đứa một) về những
chiều cao bề sâu đã cho phép chúng tôi rọi ánh sáng vào một yếu tố mà cái
nhà làm thí nghiệm không tính đến: có ở mọi lứa tuổi một "sai lầm có hệ thống
về chuẩn", như nguyên tố dùng làm chuẩn được đánh giá quá cao so với
những biến số mà nó đo, do ngay cái chức năng làm chuẩn của nó trong
trường hợp mà nó nằm ở chiều sâu hay trong tình huống gần kề. Sai lầm có
hệ thống đó của chủ thể kết hợp với những đánh giá của chủ thể về chiều sâu
có thể gây ra một sự không đổi bề ngoài (và ảo giác). Thực hiện sự khấu trừ
"sai lầm của chuẩn" các chủ thể 5-7 tuổi đã đưa ra một sự đánh giá thấp bình
quân đáng kể, về chiều sâu, trong khi những người lớn kết thúc, tính đổ đồng,
ở một sự "siêu không đổi".
3. Burslaff, người cũng đã đạt được những biến đổi với lứa tuổi trong
những so sánh từng hai đứa một, tưởng đã có thể giữ vững giả thuyết "Hình
thức" về một sự thường trực của sự không đổi các đại lượng trong trường
hợp mà ở đó các yếu tố phải so sánh bị đưa vào một "hình dáng" tổng thể, và
nhất là khi chúng bị chia hạng. Bằng những thí nghiệm tỉ mỉ, Lambecier đã lấy
lại, theo yêu cầu của chúng tôi, vấn đề đó của các so sánh chia hạng chiều
sâu và đã có thể chỉ ra rằng chỉ tồn tại một sự không đổi tương đối độc lập với
tuổi trong một trường hợp duy nhất (trường hợp duy nhất mà đúng là Burzlaff
đã xem xét): trường hợp trong đó chuẩn là bằng số hạng giữa của các yếu tố
phải so sánh. Trái lại, ngay khi người ta chọn một chuẩn lớn hơn hay bé hơn
số hụt nữa, người ta quan sát thấy những sự biến chất có hệ thống về chiều
sâu. Từ đó, rõ ràng là sự không đổi của số hạng giữa thuộc những nguyên
nhân khác so với sự không đổi về chiều sâu: chính vị trí ưu đãi của số hạng
giữa bảo đảm sự không biến đổi của nó (nó bị tất cả các số hạng cao hơn nó
phá giá và được các số hạng thấp hơn khôi phục lại giá trị, do đó có sự ổn
định của nó). Những số đo được tiến hành trên những số hạng khác chứng tỏ
ở đây nữa rằng sự không đổi đặc thù về chiều sâu không tồn tại ở trẻ nhỏ
trong khi người ta quan sát thấy một sự tăng trưởng đáng kể với lứa tuổi của
những điều tiết hướng về sự không đổi đó.
4. Người ta biết rằng Beyrl khi phân tích sự không đổi các độ lớn ở
những học sinh, đã tìm thấy, về phía ông, một sự tăng trưởng trung bình các
trường hợp không đổi cho đến khoảng 10 tuổi, nấc từ đó đứa trẻ phản ứng
theo cách người lớn (một sự tiến hóa song song cũng được E. Brunswich tim
ra về những gì liên quan đến những sự không đổi của hình dạng và màu sắc).
Sự tồn tại của một sự tiến hóa theo tuổi của những cơ chế kết thúc
bằng những sự không đổi tri giác (và sau này chúng ta thấy rất nhiều biến đổi
phát sinh của tri giác) chắc chắn dẫn đến một sự xem lại những giải thích của
lí thuyết hình thức. Trước hết, nếu có sự tiến hóa thực tại của các cấu trúc tri
giác, người ta không còn có thể gạt cả vấn đề về sự hình thành chúng lẫn vai
trò có thể có của thí nghiệm trong tiến trình sự phát sinh ra chúng. Về điểm
cuổi này, E. Brunswich đã nêu bật sự thường có của "các hình thức" (Gestalt)
kinh nghiệm chủ nghĩa bên cạnh những "hình thức hình học". Chính vì vậy
mà một hình trung gian giữa hình ảnh một bàn tay để mở và một sơ đồ hình
học năm nhánh hoàn toàn đối xứng đã cho, khi nhìn nhanh, ở người lớn 50%
chiếu cố đến bàn tay (hình thức kinh nghiệm chủ nghĩa) và 50% chiếu cố đến
"hình thức đúng quy cách" của hình học.
Còn về sự phát sinh của những "hình thức”, nó nêu một vấn đề thiết
yếu ngay từ lúc người ta loại bỏ giả thuyết "những hình thức vật thể" thường
trực, nên nhận xét trước về sự không chính đáng của song đề: hoặc những
"toàn bộ" hoặc nguyên tử luận về những cảm xúc riêng lẻ. Trên thực tế có ba
số hạng có thể: hoặc một tri giác là một tổng hợp các yếu tố, hoặc nó tạo
thành một toàn bộ của người nắm giữ, hoặc nó là một hệ thống các quan hệ
(mối quan hệ bản thân nó cũng là một toàn thể, nhưng cái toàn thể tổng thể
trở thành có thể phân tích được mà không vì vậy trở lại với thuyết nguyên tử.
Điều đó nói lên không gì ngăn cản việc quan niệm những cấu trúc toàn bộ
như sản phẩm của một sự tạo dựng tiên tiến, tiến hành không phải bằng
"những tổng hợp", mà bằng những sự phân biệt điều ứng và những đồng hóa
kết hợp; và đặt sự tạo dựng đó trong tương quan với trí khôn có năng khiếu
hoạt động thực sự đối lập với trò chơi những cấu trúc đã được xác lập từ
trước.
Về những gì liên quan đến tri giác, điểm mấu chốt là điểm "chuyển vị".
Nên chăng với học thuyết Hình thức giải thích các chuyển vị (của một giai
điệu từ một cung này sang một cung khác hoặc của một hình thức thị giác
bằng cách phóng to lên) như những mối tái hiện đơn giản của cùng một hình
thức cân bằng giữa các yếu tố mới mà các tương quan được giữ vững (liên
hệ với những nấc ngang của một hệ thống cống) hoặc nên chăng nhìn thấy ở
đó sản phẩm của một hoạt động đồng hóa sát nhập những yếu tố so sánh
được vào cùng một sem? Ngay sự tăng lên sự dễ dàng chuyển vị tùy thuộc ở
tuổi (xem cuối chương 3) dường như áp đăt cho chúng ta lời giải thứ hai này.
Hơn nữa, cùng với sự chuyển vị được thường thường xem xét là ở bên ngoài
so với các hình, chắc chắn nên đưa thêm những chuyển vị bên trong giữa các
yếu tố của cùng một hình, chúng giải thích vai trò các yếu tố điều tiết, bằng
nhau, đối xứng v.v... gắn liền với những "hình thức đúng quy cách".
Mà hai cách giải thích có thể có đó về sự chuyển vị bao gồm những ý
nghĩa rất khác về những gì liên quan đến các quan hệ giữa tri giác và trí khôn
mà nhất là tính chất của trí khôn.
Bằng việc tìm cách quy các cơ chế của trí khôn về những cơ chế đặc
trưng cho các cấu trúc tri giác, bản thân những cấu trúc này có thể được quy
về những "hình thức vật thể", lí thuyết Hình thức trở về, mặc dầu bằng những
con đường tinh vi hơn nhiều, với chủ nghĩa kinh nghiệm cổ điển. Sự khác biệt
độc nhất (và dẫu là đáng kể đến đâu, nó ít có trọng lượng bên cạnh một sự
quy về như vậy) là học thuyết mới thay thế những "kết hợp" bằng những
"toàn thể" được cấu trúc hóa. Nhưng trong cả hai trường hợp, hoạt động thao
tác bị tan biến vào trong cái cảm năng, có lợi cho sự thụ động của những cơ
chế tự động.
Người ta không thể quá nhấn mạnh sự việc là nếu các cấu trúc thao tác
được một loạt liên tiếp các trung gian nối liền với cấu trúc tri giác (và chúng tôi
thừa nhận điều đó không khó khăn), tuy nhiên có một sự đảo hướng cơ bản
giữa sự cứng cỏi của một "hình thức" được tri giác và sự cơ động có thể đảo
nghịch của các thao tác. Sự so sánh mà Wertheimer cố làm giữa tam đoạn
luận và các "hình thức tĩnh của tri giác có nguy cơ vẫn là không đầy đủ. Cái
cốt yếu trong cơ chế một nhóm hợp (mà từ đó người ta rút ra những tam
đoạn luận) không phải là cấu trúc do những tiền đề che đậy hoặc cấu trúc đặc
trưng cho những kết luận, mà đúng là quá trình cấu tạo cho phép chuyển từ
những cấu trúc này sang những cấu trúc khác. Mà quá trình đó chắc chắn
kéo dài những cấu trúc hóa lại và tập trung hóa lại tri giác, cũng như những
cái đó (tập trung hóa lại và cấu trúc hóa lại) cho phép nhìn thấy xen kẽ sự lõm
xuống hoặc lối lên một hình vẽ "mơ hồ". Nhưng nó còn hơn thế nữa, vì nó
được cấu tạo bởi tập hợp những thao tác cơ động và có thể đảo nghịch của
sự lồng vào và tháo ra (A + A’ = B; A = B - A’; A’ = B - A; B – A - A’ = 0 v.v...
Vậy không còn là những hình thức tĩnh được kể tới trong trí khôn, cũng không
phải sự chuyển đơn giản theo một chiều độc nhất từ trạng thái này sang trạng
thái khác (hoặc nữa sự dao động giữa hai trạng thái); chính sự cơ động và
tính đảo nghịch chung của các thao tác đề ra những cấu trúc. Và kết quả là
các cấu trúc đang trong cuộc bản thân chúng cũng khác nhau trong cả hai
trường hợp: một cấu trúc tri giác được đặc trưng, như chính lí thuyết Hình
thức nhấn mạnh, bởi tính không thể quy về sự cấu tạo cộng: vậy nó là không
thể đảo nghịch và không kết hợp được. Vậy là có nhiều hơn một sự "tái tập
trung" (Umzentrierung) trong một hệ thống các lập luận: có một sự phi tập
trung hóa chung, nó giả định một sự hòa tan hoặc một sự tan băng của
những hình thức tri giác tĩnh có lợi cho tính cơ động thao tác và vì vậy, có một
khả năng tạo dựng vô hạn những cấu trúc mới, có thể tri giác hoặc vượt
những giới hạn của mọi tri giác thực tại.
Còn về trí khôn cảm giác - vận động mà Koehler mô tả thì rõ ràng là
các cấu trúc tri giác đóng ở đó một vai trò lớn hơn nhiều. Nhưng vì chính sự
việc là học thuyết Hình thức tự bắt buộc coi chúng như đột hiện trực tiếp từ
những tình huống bởi tính cách là như thế, không có phát sinh lịnh sử,
Koehler tự thấy bắt buộc phải loại trừ khỏi địa hạt trí khôn một mặt, sự mầy
mò đi trước việc khám phá các lời giải và mặt khác, những sửa chữa và kiểm
soát tiếp sau nó. Việc nghiên cứu hai năm đầu của đứa trẻ đã dẫn chúng tôi
về mặt đó đến một cách nhìn sự vật khác: quả là cũng có những cấu trúc tổng
thể hoặc "hình thức” trong trí khôn cảm giác - vận động của đứa hài nhi,
nhưng chúng hoàn toàn không tĩnh và không phải không có lịch sử; chúng tạo
thành những "sem" hành động với nhau bằng những sự phân hóa và những
sự sát nhập liên tiếp và chúng phải không ngừng thích nghi với hoàn cảnh,
bằng mầy mò và sửa chữa đồng thời đồng hóa chúng. Sự cư xử với cái gậy
được chuẩn bị bởi một loạt sem có trước như sem kéo về mình mục tiêu bằng
trung gian của những kéo dài của nó (sợi dây hay giá đỡ) hoặc sem đánh một
đồ vật vào đồ vật khác.
Cần thiết lúc này tiến hành với luận đề của Duncker những dè dặt sau.
Chắc hẳn một hành vi trí khôn chỉ được xác định bằng kinh nghiệm có trước
trong chừng mực mà nó cấu viện đến kinh nghiệm này. Nhưng sự đặt quan
hệ này đòi hỏi phải có những sem đồng hóa bản thân chúng xuất phát từ
những sem có trước mà nó phát sinh do phân biệt hóa hay kết hợp. Các sem
vậy là có một lịch sử: có phản ứng lẫn nhau giữa kinh nghiệm có trước và
hành vi trí khôn hiện tại, chứ không phải là hành vi một chiều từ quá khứ đến
hiện tại, như Duncker hằng muốn thế. Cũng có thể xác định những tương
quan đó giữa hiện tại và quá khứ bằng cách nói rằng sự cân bằng đạt được
khi tất cả những sem có trước được lồng vào những sem hiện tại và trí khôn
lúc đó có thể, không phân biệt, tái tạo những sem cũ nhờ những sem mới và
ngược lại.
Tóm lại, người ta thấy rằng tuy đúng trong việc mô tả những hinh thức
cân bằng hoặc những toàn thể cấu trúc tốt, lí thuyết Hình thức tuy nhiên đã
xem nhẹ, cả trong lĩnh vực tri giác lẫn trong lĩnh vực trí khôn, thực tế của sự
phát triển có tính phát sinh và sự tạo dựng có hiệu quả đặc trưng cho trí thông
minh.
* NHỮNG KHÁC BIỆT GIỮA TRI GIÁC VÀ TRÍ KHÔN
Lí thuyết Hình thức đã đổi mới vấn đề về các tương quan giữa trí khôn
và tri giác bằng cách chỉ ra sự liên tục nối các cấu trúc đặc trưng của hai lĩnh
vực này. Không phải vì thế mà không cần, để giải quyết vấn đề bằng cách tôn
trọng tính phức hợp của các sự việc phát sinh, kiểm kê bản thân những khác
biệt trước khi trở lại với những cái tương đồng dẫn đến những giải thích có
thể có.
Một cấu trúc tri giác là một hệ thống các tương quan phụ thuộc lẫn
nhau. Dù là những hình hình học, những trọng lượng, những màu sắc hoặc
âm thanh, người ta luôn có thể thể hiện những toàn bộ thành những tương
quan mà không phá hoại sự thống nhất của cái toàn thể với tính cách là như
vậy. Để rút ra những khác biệt cũng như những giống nhau giữa các cấu trúc
tri giác và các cấu trúc thao tác, chỉ cần biểu đạt những tương quan đó trong
ngôn ngữ của "nhóm hợp" theo cách mà các nhà vật lí khi trình bày bằng các
số hạng có thể nghịch đảo những hiện tượng nhiệt động, nhận ra rằng chúng
không thể thể hiện trong một ngôn ngữ như vậy, bởi vì là không thể nghịch
đảo, sự không tương ứng của các biểu trưng nêu bật như vậy càng tốt hơn
những khác biệt đang tác động. Về mặt đó, chỉ cần lấy lại những ảo giác hình
học khác nhau mà ai cũng biết bằng cách làm biến đổi những yếu tố hiện
diện, hoặc lấy lại những sự việc thuộc định luật Weber v.v... và trình bày bằng
những số hạng của nhóm hợp tất cả các tương quan cũng như những biến
đổi của chúng tùy thuộc vào những thay đổi bên ngoài.
Mà những kết quả đạt được như vậy là rất rõ ràng: không một điều kiện
nào trong nắm điều kiện của "nhóm hợp" được thực hiện ở trình độ các cấu
trúc tri giác, và ở nơi mà chúng tỏ ra là gần đạt được hơn cả, như ở trên địa
bàn các "sự không đổi" báo tin sự bảo toàn thao tác, thì thao tác bị thay thế
bằng những điều tiết đơn giản, không hoàn toàn nghịch đảo (và do vậy ở giữa
đoạn đường từ sự nghịch đảo tự nhiên đến bản thân sự điều chỉnh thao tác).
Chúng ta hãy lấy làm ví dụ thứ nhất một hình thức đơn giản hóa của ảo
giác Delboeuf): một hình tròn A1 bán kính 12mm nội tiếp trong một hình tròn
B bán kính 15mm trông có vẻ lớn hơn một hình tròn đứng riêng rẽ A2 bằng
A1. Chúng ta làm biến đổi hình tròn ngoài B bằng cách cho chúng có đường
bán kính lần lượt từ 15 đến 13mm, và từ 15 đến 40 hoặc 80mm; ảo giác bớt
đi từ 15 đến 13mm; nó cũng bớt đi từ 15 đến 36mm để trở thành 0 vào
khoảng 36mm (tức là lúc đường kính của A1 bằng chiều rộng của khu vực
nằm giữa B và A1) và trở thành âm khí vượt quá 36 mm (đánh giá nhỏ hơn
hình tròn bên trong A1). Thế là:
1) Thể hiện bằng ngôn ngữ thao tác các tương quan đang tác động
trong những biến đổi tri giác này, trước hết hiển nhiên là sự cấu tạo của
chúng không thể là cộng, vì thiếu sự bảo toàn các yếu tố của hệ thống. Vả lại
đó là sự khám phá chủ yếu của lí thuyết Hình thức và là cái theo lí thuyết đó,
đặc trưng cho khái niệm "toàn bộ của tri giác". Nếu chúng ta gọi A’ khu vực
lồng vào giữa đánh dấu sự khác biệt giữa những đường tròn A1 và B, người
ta không thể viết A1 + A = B bởi vì A1 bị biến dạng do sự xen của nó vào giữa
Bz, và B bị biến dạng vì bao bọc A1 và vì khu vực A’ bị giãn nở ra hay ép hẹp
lại ít nhiều tùy các tương quan giữa A1 và B. Người ta có thể chứng tỏ sự
không bảo toàn của cái toàn bộ bằng cách sau đây: Nếu bằng cách xuất phát
từ một giá trị nào đó của A1, của A’ và B, người ta nới rộng (một cách khách
quan) A1 bằng cách do đó làm hẹp lại A’, nhưng để B không đổi, có thể cái
toàn bộ B được nhìn thấy bé hơn trước: vậy là đã có mất đi một cái gì đó
trong tiến trình biến đổi, hoặc trái lại nó sẽ được nhìn thấy lớn hơn và có cái
gì đó đã can thiệp vào quá mức. Vấn đề lúc đó là tìm một cách trình bày
những "biến đổi không được bù đó".
2) Chúng ta hãy thể hiện vì mục đích đó những biến đổi thành các số
hạng cấu tạo nên các tỉ số và chúng ta nhận ra tính chất không nghịch đảo
của cấu tạo này; sự không nghịch đảo này biểu hiện dưới một hình thức khác
sự thiếu vắng của cấu tạo cộng. Hãy gọi r sự tăng lên về tính giống nhau (về
kích thước) giữa A1 và B và d sự tăng lên về tính khác nhau (về kích thước)
giữa cùng các số hạng ấy. Hai tỉ số đó sẽ phải là và vẫn là số nghiệm của
nhau, tức là +r = -d và +d = -r (dấu - chỉ sự giảm tính giống nhau hoặc khác
nhau). Nếu chúng ta đi từ ảo giác không (A1 = 12mm và B = 36mm), chúng ta
nhận ra rằng bằng cách tăng các tính giống nhau khách quan (= bằng cách
thu hẹp các hình tròn), chủ thể còn tri giác chúng như được tăng thêm: do đó,
tri giác đã quá tăng các tính giống nhau trong tiến trình tăng khách quan của
chúng và đã không giữ lại đủ những tính khác nhau của chúng trong tiến trình
giảm khách quan của chúng. Cũng vậy, nếu người ta tăng sự khác nhau
khách quan (bằng cách đặt sít các hình tròn), sự tăng thêm cũng được thổi
phồng. Thế là xẩy ra một sai lầm trong đền bù trong tiến trình các biến đổi.
Chúng tôi quy ước viết những biến đổi này dưới hình thức sau đây, nhằm
đánh dấu tính chất không thể cấu tạo của chúng trên quan điểm lôgich học.
r > -d hoặc d > -r
Quả vậy nếu ở mỗi hình lấy riêng ra các tỉ số của các tính giống nhau
tất nhiên luôn luôn là số nghịch của các tỉ số của các tính khác nhau, sự
chuyển từ một hình sang hình khác không giữ tổng các tính giống nhau và
các tính khác nhau không đổi bởi vì các toàn thể không tự bảo toàn được
(xem dưới 1)). Chính là theo ý nghĩa đó mà người ta có thể chính đáng xem
những tăng thêm tính giống nhau như thặng hơn những giảm bớt tính khác
nhau, hoặc ngược lại.
Trong trường hợp đó có thể biểu đạt cùng ý ấy một cách ngắn gọn hơn
bằng cách nói đơn giản rằng sự biến đổi các tỉ số là không thể nghịch đảo bởi
vì kèm theo một sự biến đổi không được đền bù P như sau: n = -d + Prd hoặc
d = -r + Prd
3) Hơn nữa không một cấu tạo nào của các tỉ số tri giác là độc lập với
đoạn đường đã đi (tính kết hợp), nhưng mỗi tỉ số được tri giác là phụ thuộc
vào những tỉ số đi ngay kể trước nó. Vì vậy mà sự tri giác cùng một hình tròn
A cho những kết quả khác nhau trông thấy tùy theo nó được so sánh với
những hình tròn quy chiếu được chia hạng theo trật tự tăng hoặc giảm dần.
Số đo khách quan nhất trong trường hợp này là có tính chất đồng tâm, tức là
tiến hành theo yếu tố khi thì lớn hơn khi thì bé hơn A, để mà bù trừ các biến
dạng lẫn nhau, do những so sánh trước đó.
4) và 5). Vậy tất yếu cùng một yếu tố không giữ đồng nhất với bản thân
mình, tùy theo nó được so sánh với những yếu tố khác, khác biệt với nó hoặc
cùng những kích thước như nhau: giá trị của nó không ngừng thay đổi căn cứ
vào những quan hệ đã cho, hiện nay hoặc trước đây.
Vậy không thể quy một hệ thống tri giác về một "nhóm hợp", trừ phi
đem những bất đẳng thức quay về những đẳng thức bằng cách đưa vào
những "biến đổi không được đền bù" P, chúng tạo thành số đo những biến
dạng (ảo giác) và chứng thực cho tính không cộng được và không bắc cầu
được của các tỉ số tri giác, tính không nghịch đảo được, không kết hợp được
và không đồng nhất được của chúng.
Sự phân tích này (nó ngoài ra còn cho chúng ta biết tư duy sẽ là thế
nào nếu các thao tác của nó không được "nhóm hợp" lại!) chứng tỏ rằng dạng
cân bằng gắn chặt với các cấu trúc tri giác khác xa với dạng cân bằng của
các cấu trúc thao tác ở những cấu trúc sau, sự cân bằng vừa cơ động vừa
thường trực, những biến đổi ở bên trong hệ thống không thay đổi hệ thống vì
chúng luôn được đền bù đúng đắn nhờ những thao tác ngược thực tại hoặc
huyễn tưởng (tính đảo nghịch được). Trong trường hợp các tri giác, trái lại
mỗi thay đổi giá trị của một trong những tỉ số đang tác động mang theo một
biến đổi của tổng thể, cho đến khi tự tạo dựng một cân bằng mới, khác với cái
cân bằng đặc trưng cho trạng thái trước: vậy là có "chuyển dịch sự cân bằng"
(như người ta nói trong vật lí học, trong việc nghiên cứu những hệ thống
không thể nghịch đảo như những hệ thống nhiệt động học), chứ không còn là
sự cân bằng thường xuyên. Đó là trường hợp, chẳng hạn, đối với mỗi giá trị
mới của hình tròn bên ngoài B, trong ảo giác đã được trình bày vừa qua: ảo
giác, lúc đó, tăng hoặc giảm nhưng không còn giữ giá trị ban đầu nữa.
Hơn nữa, những "chuyển dịch cân bằng" này tuân thủ những quy luật
của "tối đa": một tỉ số đã cho không đẻ ra một ảo giác, tức là không sản sinh
ra một sự biến đổi không được đền bù P, và đến một giá trị nào đó, vì có tính
đến giá trị các tỉ số khác. Đi quá giá trị đó, ảo giác giảm bởi vì sự biến dạng
lúc đó được bù một phần do những tỉ số mới của tổng thể: vậy là các chuyển
dịch cân bằng gây nên những "điều tiết", hoặc đền bù bộ phận, mà người ta
có thể xác định bằng việc thay đổi dấu của đại lượng P (chẳng hạn khi hai
vòng tròn đồng tâm gần nhau quá hay xa nhau quá, ảo giác Delboeuf giảm).
Mà những điều tiết này, mà hiệu quả là hạn chế hoặc "giảm bớt" (như người
ta nói trong vật lí học) những chuyển dịch của sự cân bằng, so sánh được về
một số phương diện nào đó với những thao tác của trí khôn. Nếu hệ thống
mang tính chất thao tác, mọi sự tăng của một trong các giá trị tương ứng với
sự giảm của giá trị khác và ngược lại (vậy là có nghịch đảo, tức là người ta sẽ
có P = 0); nếu mặt khác, có sự biến dạng không hãm được lúc xẩy ra mỗi
biến đổi bên ngoài, hệ thống sẽ không tồn tại với tính cách nó là như thế nữa:
sự hiện diện những điều tiết biểu lộ bằng cách đó sự hiện diện của một hệ
thống trung gian giữa tính không nghịch đảo hoàn toàn và sự nghịch đảo thao
tác.
Nhưng làm sao cắt nghĩa sự đối lập tương đối (kèm theo một sự gắn
bó tương đối) giữa các cơ chế tri giác và các cơ chế trí khôn? Các tương
quan mà bởi chúng một cấu trúc tổng thể được cấu tạo như cấu trúc của một
tri giác thị giác biểu đạt các quy luật của một không gian chủ quan, hoặc
không gian tri giác mà người ta có thể phân tích và so sánh với không gian
hình học hoặc không gian thao tác. Các ảo giác (hoặc biến đổi không được
bù của hệ thống các tỉ số) lúc đó có thể được quan niệm như những biến
dạng của không gian đó theo chiều của sự giãn nở hoặc sự co hẹp lại.
Từ quan điểm đó, một sự việc cơ bản chế ngự toàn bộ các quan hệ
giữa tri giác và trí khôn. Khi trí khôn so sánh hai số hạng số hạng này với số
hạng kia, cả cái so sánh và cái được so sánh (nói cách khác cả cái mét lẫn
cái được đo bằng mét) không bị biến dạng bởi bản thân sự so sánh. Trái lại
trong trường hợp của sự so sánh tri giác, và nhất là khi một yếu tố dùng làm
chuẩn cố định trong việc đánh giá các yếu tố thay đổi, diễn ra một sự biến
dạng có hệ thống mà chúng tôi đã cùng Lambercier gọi là "cái sai của chuẩn":
yếu tố mà mắt chú ý nhìn nhiều hơn (tức thường là bản thân cái chuẩn, khi
mà cái biến đổi bị xa nó, mà đôi khi cũng là cái biến đổi khi chuẩn gán với cái
biến đổi và đã được biết) được đánh giá cao một cách có hệ thống, và điều
đó xảy ra trong những so sánh được; thực hiện trên bình diện song song
chính diện cũng như ở chiều sâu).
Những sự việc như vậy chỉ tạo thành những trường hợp đặc biệt của
một quá trình rất chung. Nếu chuẩn được đánh giá quá cao (hoặc là trong một
số trường hợp, cái biến đổi), đó đơn giản là vì yếu tố được nhìn lâu nhất
(hoặc thường được nhìn nhất, được nhìn mãnh liệt nhất) đã vì vậy mà lớn
thêm, làm như đồ vật hoặc miền trên đó cái nhìn đạt tới đã gây ra một sự giãn
nở của không gian tri giác. Chỉ cần, về mặt này nhìn lần lượt hai yếu tố bằng
nhau để thấy rằng người ta mỗi lần tăng các kích thước của cái mà người ta
nhìn chăm chú, dù những biến dạng liên tiếp đó được bù vào tổng số. Không
gian tri giác vậy là không đồng đều, nó từng lúc bị tập trung và khu vực tập
trung tương ứng với một sự giãn nở không gian, còn vùng xung quanh của
khu vực trung tâm đó càng bị thu hẹp khi người ta đi ra xa trung tâm. Vai trò
đó của sự tập trung và cái sai của chuẩn được tìm thấy lại trong lĩnh vực xúc
giác.
Nhưng nếu sự "tập trung" là nguyên nhân của các biến dạng, nhiều sự
tập trung riêng biệt sửa lại những hiệu quả của mỗi sự tập trung. Sự "phi tập
trung hóa" hoặc sự kết hợp các tập trung khác nhau là do vậy yếu tố của sự
sửa sai. Người ta thấy ngay, lúc đó, nguyên tắc của một sự giải thích có thể
có những biến dạng nghịch đảo và những điêu tiết mà chúng tôi vừa nói đến
lúc nãy. Những ảo giác của tri giác bằng mắt có thể được giải thích bằng cơ
chế của các tập trung khi mà các yếu tố của hình là (tương đối) quá gần nhau
để có được sự phi tập trung hóa. Tất cả sự tiến hóa của tư duy trẻ em, mà
các hình thức trực giác ban đầu đúng là gần với những cấu trúc tri giác, được
đặc trưng bởi sự chuyển từ một sự duy kì chung (mà chúng tôi sẽ nói lại ở
chương 5) sang sự phi tập trung hóa trí tuệ, tức là bởi một quá trình có thể so
sánh với quá trình mà chúng ta nhận thấy ở đây các hiệu quả. Nhưng vấn đề
lúc này là nắm bắt sự khác biệt giữa tri giác và trí khôn hoàn thiện, và vẻ mặt
đó, các sự việc đã đến trước cho phép nắm chặt hơn cái chính của những đối
lập đó: cái đối lập của những gì mà người ta có thể gọi là "tính tương đối tri
giác" với tính tương đối của trí khôn (tính tương đối trí tuệ).
Quả vậy, nếu những tập trung hóa được thể hiện bằng những biến
dạng mà chúng ta đã thấy, người ta có thể trình bày chúng như thế nào trong
quy chiếu (và bằng tương phản) với các nhóm hợp, vấn đề ngoài ra còn là do
chúng khi có thể được, và giải thích sự thẩm định đó. Mà sự việc là dễ dàng
trong trường hợp mà hai yếu tố đồng đều được so sánh với nhau, giống như
hai đường thẳng kéo dài lẫn nhau. Lúc đó người ta có thể xác lập một quy
luật của những "tập trung hóa tương đối", độc lập với giá trị tuyệt đối của các
hiệu quả của sự tập trung hóa, và biểu đạt các biến dạng tương đối dưới hình
thức một giá trị đơn giản có thể xẩy ra, tức là bằng tỉ số những tập trung hóa
thực tại với số các tập trung hóa có thể có.
Người ta biết rằng một đường A, so sánh với một đường khác A’, là bị
giảm giá trị bởi đường này nếu đường này là lớn hơn đường thứ nhất (A < A’)
và được tăng giá trị trong trường hợp ngược lại (A > A’). Nguyên tắc tính toán
lúc đó là xét trong mỗi một của hai trường hợp đó, những tập trung hóa lần
lượt vào A và vào A’ như là làm giãn nở xen kẽ những đường đó tỉ lệ với độ
dài của chúng: sự khác biệt của những biến dạng ấy, biểu đạt bằng độ lớn
tương đối của A và của A’, cung cấp bằng cách đó sự tăng giá trị hoặc giảm
giá trị thô của A, những độ lớn này sau đó được đem chia cho chiều dài toàn
bộ những đường nối tiếp nhau A + A’, bởi vì sự phi tập trung hóa là tỉ lệ với
độ lớn của hình tổng thể. Vậy người ta có:
Ngoài ra, nếu việc đó được thực hiện trên A, phải nhân những quan hệ
đó với A²/(A + A’)², tức là với bình phương tỉ số giữa bộ phận được đo với
toàn bộ.
Đường cong lí thuyết có được bằng cách đó tương ứng sát sao với các
số đo kinh nghiệm chủ nghĩa của các biến dạng và hơn nữa, nối tiếp khá
đúng các số đo của ảo giác Delboeuf (nếu A được chèn vào giữa hai A’ và
nếu người ta lúc này gấp đôi giá trị A’ này trong công thức).
Quy luật này của những tập trung hóa tương đối, diễn đạt bằng ngôn
ngữ định tính, có nghĩa đơn giản rằng mọi khác biệt khách quan được tri giác
làm nổi bật một cách chủ quan, cả trong trường hợp mà các yếu tố được so
sánh đều được cái nhìn tập trung vào như vậy. Nói cách khác, mọi tương
phản đều được tri giác thổi phồng, điều đó chứng tỏ tức khắc sự can thiệp
của một tính tương đối đặc biệt đối với tri giác và khác biệt với tính tương đối
của trí khôn. Điều này dẫn ta đến luật của Weber, mà sự bàn cãi là về mặt
này đặc biệt bổ ích. Hiểu theo nghĩa chặt chẽ luật của Weber biểu đạt, như
người ta biết, rằng độ lớn của những "thềm sai biệt" (những khác biệt nhỏ
nhất tri giác được) là tỉ lệ với độ lớn những yếu tố được so sánh: nếu một chủ
thể phân biệt được chẳng hạn 10 và 11 cm, chứ không phải 10 và 10.5mm,
nđ cũng chỉ sẽ phân biệt được 10 và 11cm và không phải 10 và 10,5cm.
Như vậy, chúng ta hãy giả định rằng các đường nêu trên A và A’ được
giữ giá trị rất gần nhau hoặc bằng nhau. Nếu chúng bằng nhau, sự tập trung
vào A làm giãn nở A và giảm giá B; đoạn sự tập trung vào A’ làm giãn nở A’
và giảm giá A với cùng những tỉ lệ như nhau; do đó có sự triệt tiêu các biến
dạng. Trái lại, nếu chúng hơi không bằng nhau một chút, nhưng sự không
bằng nhau đó vẫn thấp hơn những biến dạng do sự tập trung; sự tập trung
vào A cung cấp sự tri giác A > A’ và sự tập trung vào A’ cho nhìn thấy A’ > A.
Trong trường hợp này có mâu thuẫn giữa những đánh giá (trái với trường
hợp chung trong đó một bất bình đẳng chung cho cả hai quan điểm, hiện ra
đơn giản mạnh hơn hay yếu hơn tùy theo người ta chú mục vào A hay A’). Sự
mâu thuẫn đó được thể hiện bằng một sự dao động (so sánh được với sự
cộng hưởng trong vật lí học) chỉ có thể kết thúc ở sự cân bằng tri giác bằng
sự làm cho bằng nhau A = A’. Nhưng sự làm bằng nhau đó vẫn giữ tính chủ
quan và do vậy có tính ảo giác, tức cũng như nói rằng hai giá trị gần bằng
nhau được tri giác làm cho lẫn lộn. Mà sự không phân hóa ấy đúng là cái đặc
trưng cho sự tồn tại cái "thềm sai biệt" và vì nó là tỉ lệ do luật các sự tập trung
tương đối với các độ dài của A và của A’ người ta tìm thấy lại luật Weber.
Luật của Weber, áp dụng vào các thềm sai biệt, được giải thích bằng
luật các sự tập trung tương đối. Hơn nữa, vì nó cùng tràn đến các khác biệt
bất kì (hoặc các giống nhau nổi trội hơn các khác biệt như ở bên trong thềm,
hoặc ngược lại như trong trường hợp bàn cãi trên) người ta có thể xem xét nó
trong tất cả các trường hợp như đơn thuần biểu đạt yếu tố tỉ lệ gắn liền với
các tỉ số của những tập trung tương đối (và đối với xúc giác và trọng lượng
v.v... cũng như đối với thị giác).
Vậy chúng tôi đang có khả năng phát biểu rõ ràng hơn sự đối lập chắc
hẳn là chủ yếu ngăn cách trí khôn với sự tri giác. Người ta thường thể hiện
luật Weber bằng cách nói rằng mọi tri giác là "tương đối". Người ta không
nắm bắt được những khác biệt tuyệt đối vì 1 gr được thêm vào 10 gr có thể
được tri giác, còn không thể tri giác được nữa khi thêm vào 100 gr. Mặt khác,
khi các yếu tố khác biệt đáng kể, những tương phản lúc đó được nêu bật lên
như các trường hợp thông thường của những sự tập trung tương đối chỉ rõ,
và sự tăng thêm đó là một lần nữa tương đối so với các đại lượng đang tác
động (một căn phòng do đó có thể nóng hay lạnh tùy theo người ta đến từ
một nơi nhiệt độ thấp hơn hoặc cao hơn). Dù vấn đề là những giống nhau
hão huyền (thềm của sự bằng nhau) hoặc những khác biệt hão huyền (những
tương phản), tất cả vậy là "tương đối" qua tri giác. Nhưng phải chăng vấn đề
cũng là như vậy trong trí khôn ? Một lớp phải chăng là tương đối đối với một
sự phân loại? Và một quan hệ đối với toàn bộ những quan hệ khác? Trên
thực tế, từ tương đối giới thiệu một ý nghĩa rất khác biệt trong hai trường hợp.
Tính tương đối tri giác là một tính tương đối biến dạng, trong ý nghĩa
mà ngôn ngữ thông dụng nói "tất cả đều tương đối" để phủ nhận khả năng
của tính khách quan: tỉ số tri giác làm thay đổi các yếu tố mà nó nối liền và
ngày nay chúng ta hiểu tại sao. Trái lại tính tương đối của trí khôn chính là
điều kiện của tính khách quan: vì vậy, tính tương đối của không gian và thời
gian là điều kiện của sự đo đạc riêng của chúng. Vậy tất cả diễn ra như là nếu
tri giác bị bắt buộc tiến hành từng bước, bằng tiếp xúc, trực tiếp, nhưng từng
phần với khách thể của nó, biến dạng nó ngay bằng hành vi tập trung vào nó,
dù phải giảm nhẹ những biến dạng ấy bằng những sự phi tập trung hóa cũng
bộ phận; còn trí khôn bao quát thành một cái toàn thể duy nhất một số lớn
hơn rất nhiều các thực tế, theo những đoạn đường đi cơ động và mềm mại,
đạt tới tính khách quan bằng một sự phi tập trung hóa rộng lớn hơn nhiều.
Mà hai tính tương đối đó, một cái biến dạng và cái kia khách quan,
chắc hẳn là sự biểu hiện đồng thời một sự đối lập sâu sắc giữa các hành vi trí
khôn và những tri giác và mặt khác, một sự tiếp nối giả định sự tồn tại của
những cơ chế chung. Quả vậy, tại sao, nếu tri giác cũng như trí khôn bao
hàm sự cấu trúc hóa và đặt thành tỉ số, những tỉ số ấy lại làm biến dạng trong
một trường hợp và không làm biến dạng trong trường hợp kia ? Phải chăng
rằng những tỉ số đầu là không chỉ không hoàn chỉnh mà còn không có đầy đủ
khả năng kết hợp trong khi những tỉ số thứ hai dựa trên một sự kết hợp có
khả năng khái quát vô hạn? Và nếu cái "nhóm hợp" là nguyên tắc của sự kết
hợp đó, và sự cấu tạo có thể nghịch đảo kéo dài những điều tiết và những phi
tập trung hóa tri giác, nên chăng thừa nhận rằng các sự tập trung làm biến
dạng bởi vì quá ít, phần nào ngẫu nhiên và như vậy, là kết quả của một thứ
rút thăm trong số toàn bộ những sự tập trung hóa cần thiết để bảo đảm một
sự phi tập trung hóa hoàn toàn và bảo đảm tính khách quan?
Vậy là chúng ta được dắt dẫn đến chỗ tự hỏi xem sự khác biệt chủ yếu
giữa trí khôn và tri giác không nằm ở sự việc là cái này là một quá trình có
tính chất tĩnh, gắn liền với một thang nào đó, còn các quá trình có tính chất trí
tuệ xác định những tỉ số tổng thể gắn liền với một thang cao cấp. Tri giác so
với trí khôn cũng như trong vật lí học lĩnh vực của cái không thể đảo nghịch
(tức đúng là của ngẫu nhiên) và của những di chuyển của cân bằng so với
lĩnh vực của cơ học thực sự.
Mà cấu trúc xác suất của các luật tri giác mà chúng tôi vừa nói tới rơi
đúng vào giác quan và cắt nghĩa tính chất không thể đảo nghịch của các quá
trình tri giác, đối lập với các cấu tạo thao tác, vừa rất xác định vừa có thể đảo
nghịch. Quả vậy, tại sao cảm giác xuất hiện như lôgarit của sự kích thích
(điều mà tính tỉ lệ, do luật của Weber phát biểu, diễn đạt không có gì thêm)?
Người ta biết rằng luật Weber không chỉ áp dụng vào sự việc của tri giác hoặc
vào sự việc của kích thích sinh lí học, mà cả, trong số những cái khác, việc in
một phim kính của nhiếp ảnh: trong trường hợp cuối này nó có nghĩa đơn
giản là các cường độ in tùy thuộc ở tính xác suất của sự gặp gỡ giữa các
quang tử ném xuống tấm kính và những phần tử muối bạc tạo nên tấm kính
(từ đó có hình thức lôgarit của luật: tỉ số giữa việc nhận các xác suất và việc
cộng các cường độ). Trong trường hợp của tri giác, rất dễ dàng cũng như
vậy, quan niệm một đại lượng như độ dài một đường như là tập hợp của
những điểm chú mục có thể có của cái nhìn (hoặc của những đoạn dành cho
sự tập trung). Khi người ta so sánh hai đường không bằng nhau, các điểm
tương ứng tạo ra những phối hợp hoặc kết hợp (theo nghĩa toán học) của sự
giống nhau, và những điểm không tương ứng tạo ra những kết hợp của sự
khác biệt (những kết hợp tăng theo cấp độ nhân còn độ dài các đường tăng
theo cấp độ cộng). Nếu sự tri giác tiến hành theo tất cả các phối hợp có thể
có, lúc đó sẽ không có một sự biến dạng nào (các kết hợp kết thúc ở một tỉ số
không đổi và người ta có r = -d). Nhưng mọi việc diễn ra trái lại như là cái
nhìn thực tại tạo nên một thứ rút thăm và như là nó chỉ chú mục vào một số
điểm trong cái hình được tri giác, mà bỏ qua các điểm khác. Lúc này dễ dàng
giải thích các luật trước căn cứ vào các xác suất mà theo đo những sự tập
trung hướng vào một chiều mà không vào chiều khác. Trong trường hợp có
sự khác biệt đáng kể giữa hai đường, tất nhiên là đường lớn hơn trong hai
đường thu hút cái nhìn nhiều hơn do đó có sự thặng lên của những kết hợp
của sự khác biệt (luật những tập trung tương đối theo chiều của sự tương
phản), còn trong trường hợp của những khác biệt cực tiểu, những kết hợp
của sự giống nhau trội hơn các cái khác, do đó có thềm của Weber) (Người ta
còn có thể tính những phối hợp khác nhau đó và tìm thấy lại những công thức
đã chỉ ra ở trên).
Chúng ta hãy ghi nhận rằng tính chất xác suất đó của những cấu tạo tri
giác, đối lập với tính chất xác định của những cấu tạo thao tác, không giải
thích duy nhất tính tương đối có tính chất biến dạng của những cấu tạo thứ
nhất và tính tương đối khách quan của những cấu tạo thứ hai. Nó giải thích
chủ yếu sự việc cơ bản mà tâm lí học hình thức nhấn mạnh: là trong một cấu
trúc tri giác, cái toàn bộ là không thể quy về tổng của các bộ phận. Quả vậy,
trong mức độ mà ngẫu nhiên can thiệp vào trong một hệ thống, hệ thống này
không thể là có thể nghịch đảo, bởi vì sự can thiệp đó của ngẫu nhiên luôn
luôn thể hiện bằng cách này hay cách khác, sự tồn tại của một hỗn hợp, và
một hỗn hợp là không thể nghịch đảo. Kết quả là một hệ thống bao gồm một
mặt ngẫu nhiên không có khả năng có cấu tạo cộng (cũng như vậy, thực tế bỏ
rơi những phối hợp cực kì ít có khả năng xẩy ra), đối lập với các hệ thống xác
định, chúng là có thể đảo nghịch và có thể cấu tạo bằng thao tác.
Tóm lại, vậy chúng ta có thể nổi rằng tri giác khác trí khôn ở chỗ các
cấu trúc cùa nó không có tính chất bắc cầu, không thể nghịch đảo v.v... tức là
không thể cấu tạo theo các quy luật của nhóm hợp và như thế là vì tính tương
đối biến dạng gắn chặt với nó thể hiện bản chất tính tuyệt đối của nó. Sự cấu
tạo tính này, riêng cho các tỉ số tri giác, chỉ là một với tính không đảo nghịch
được và tính không thể cộng được của những tỉ số đó, trong khi trí khôn
hướng về sự cấu tạo hoàn chỉnh, tức là có thể nghịch đảo.
* NHỮNG TƯƠNG ĐỒNG GIỮA HOẠT ĐỘNG TRI GIÁC VÀ TRÍ KHÔN
Thế thì làm sao giải thích sự thân thuộc không thể chối cãi giữa hai thứ
cấu trúc mà cả hai bao hàm một hoạt động xây dựng của chủ thể và tạo thành
những hệ thống tổng thể các quan hệ, mà một số kết thúc trong cả hai lĩnh
vực, ở những "sự không đổi" hoặc ở những khái niệm của sự bảo toàn? Nhất
là làm sao trình bày về sự hiện diện của vô số trung gian nối liền những sự
tập trung và phi tập trung hóa sơ đẳng, cũng như những điều tiết do các tập
trung và phi tập trung này tạo nên, với bản thân những thao tác trí tuệ ?
Dường như phải phân biệt, trong lĩnh vực tri giác, sự tri giác với tính
cách là như thế - tập hợp những tỉ số được tạo ra toàn thể và trực tiếp, trong
mỗi sự tập trung - và hoạt động tri giác can thiệp ngoài những cái khác vào
trong ngay sự việc tập trung cái nhìn hoặc thay đổi tập trung. Rõ ràng là sự
phân biệt đó chỉ là tương đối, nhưng điều đặc biệt là môi trường phải bị bắt
buộc phải thừa nhận nó dưới hình thức này hay hình thức khác. Chính vì vậy
mà lí thuyết hình thức, mà tất cả tinh thần dẫn đến việc thu hẹp hoạt động của
chủ thể vì lợi ích của các cấu trúc tổng thể, chúng khống chế nhờ các luật
vừa vật lí học vừa sinh lí học của sự cân bằng, đã buộc phải chia một phần
cho các thái độ của chủ thể: "thái độ phân tích" được viện dẫn để giải thích
như thế nào các toàn thể có thể tách ra từng phần, và nhất là Einstellung
hoặc định hướng tinh thần của chủ thể được thừa nhận như là nguyên nhân
của nhiều biến dạng của tri giác căn cứ vào những trạng thái có trước. Còn
trường phái của Von Weizsacker, Auersperg và Buhrmester việc dẫn những
đón trước và những tái tạo tri giác, chung đòi hỏi sự can thiệp cần thiết của
tính vận động trong mọi tri giác v.v...
Mà nếu một cấu trúc tri giác trong bản thân nó thuộc bản chất tĩnh, vật
không thể cấu tạo theo cấp số cộng, dĩ nhiên là mọi hoạt động điều khiển và
phối hợp các sự tập trung liên tiếp giảm bớt phần của ngẫu nhiên và biến cấu
trúc đang tác động theo hướng của sự cấu tạo thao tác (ở những mức độ
khác nhau, tất nhiên là thế, và không bao giờ đạt được hoàn toàn). Cạnh
những khác biệt rõ rệt giữa hai lĩnh vực, thế là có những tương đồng không
kém phần hiển nhiên, đến mức khó có thể nói chính xác ở đâu hoạt động tri
giác ngừng lại và ở đâu bắt đầu trí khôn. Vì vậy ngày nay người ta không thể
nói tới trí khôn mà không xác định những quan hệ của nó với tri giác.
Về mặt đó, sự việc cơ bản là sự tồn tại của một sự phát triển các tri
giác phụ thuộc vào sự tiến hóa tinh thần nói chung. Tâm lí học hình thức đã
nhấn mạnh một cách có lí đến sự không thay đổi tương đối của một vài cấu
trúc tri giác: phần lớn các ảo giác tìm thấy lại ở mọi lứa tuổi, và ở loài vật như
ở người; các yếu tố quy định những "hình thức" tổng thể dường như cùng
chung cho mọi trình độ v.v... Song những cơ chế chung này liên quan chủ yếu
đến sự tri giác với tính cách là như vậy, phần nào thụ cảm và trực tiếp, trong
khi hoạt động tri giác bản thân nó và các hiệu quả của nó biểu lộ những biến
đổi lớn tùy thuộc vào trình độ tinh thần. Hơn nữa, những "sự không đổi" của
đại lượng v.v... mà thí nghiệm chứng thực, mặc cho lí thuyết Hình thức, rằng
chúng được tạo dựng dần dần căn cứ vào những điều tiết luôn luôn chính xác
hơn sự đo đơn giản các ảo giác chứng tỏ sự tồn tại của những thay đổi với
lứa tuổi, những thay đổi đó là không thể giải thích nếu không có một quan hệ
chặt chẽ của tri giác với hoạt động trí óc nói chung.
Ở đây phải phân biệt hai trường hợp, tương ứng trên đại thể với cái mà
Binet gọi là những ảo giác bẩm sinh và đạt được, mà tốt hơn nên gọi không
thêm gì nữa ảo giác sơ cấp và thứ cấp. Những ảo giác sơ cấp có thể quy
được về những yếu tố đơn giản của sự tập trung và do vậy thuộc quy luật của
những sự tập trung tương đối. Mà chúng giảm giá trị khá đều đặn với lứa tuổi
("sai lầm của chuẩn", cái ảo giác của Delboeuf của Oppel của Miiller - Lyer.
v.v.... điều đó được giải thích dễ dàng bởi những sự phi tập trung hóa và
những điều tiết mà chúng bao gồm, căn cứ vào hoạt động của chủ thể khi có
mặt các hình. Quả vậy đứa bé giữ thụ động ở nơi mà người lớn và những trẻ
lớn so sánh, phân tích và như vậy lao vào ruột sự phi tập trung hóa tích cực
được định hướng vào tính có thể nghịch đảo của thao tác. Nhưng mặt khác
có những ảo giác tăng cưòng độ với tuổi hoặc với sự phát triển, như ảo giác
về trọng lượng, không có ở những người khuyết tật nặng và cứ lớn lên cho
đến lúc kết thúc tuổi thơ để rồi sau đó giảm đi phần nào. Nhưng người ta biết
rằng ảo giác đó đúng là bao gồm một thứ đón trước các quan hệ trọng lượng
và thể tích, và rõ ràng là sự đón trước đó đòi hỏi một hoạt động mà bản thân
nó tự nhiên tăng trưởng cùng với sự tiến triển của trí tuệ. Là sản phẩm của
một sự giao thoa giữa các yếu tố tri giác sơ cấp và hoạt động tri giác, một ảo
giác như vậy có thể được gọi là thứ cấp và chúng ta sẽ thấy lát nữa những ảo
giác khác cùng một loại hình.
Điều đó nói lên, hoạt động tri giác trước tiên được đánh dấu bằng sự
can thiệp của phi tập trung hóa, nó sửa chữa các hậu quả của sự tập trung và
như vậy tạo nên một sự điều tiết các biến dạng tri giác. Mặc dầu rất sơ đẳng
và phụ thuộc vào các chức năng cảm giác vận động mà những sự phi tập
trung hóa và điếu tiết này vẫn giữ, rõ ràng là chúng tạo nên cả một hoạt động
so sánh và phối hợp gần gũi với hoạt động của trí khôn: nhìn một đồ vật đã là
một hành vi và tùy theo đứa trẻ nhỏ để cái nhìn của mình chăm chú vào điểm
đầu tiên đến với mình hoặc điều khiển cái nhìn sao cho bao quát toàn bộ các
quan hệ, người ta gần như đã có thể phán đoán trình độ trí tuệ của đứa trẻ.
Khi vấn đề là đối chiếu các đồ vật quá xa để có thể lồng vào trong cùng
những sự tập trung chung, hoạt động tri giác kéo dài dưới hình thức "những
vận chuyển" trong không gian, làm cho sự nhìn một trong những vật được áp
dụng vào vật khác. Những vận chuyển ấy, tạo thành như vậy những sự xích
lại gần (ảo) của các sự tập trung, gây nên những "so sánh" thực sự hoặc
những vận chuyển kép phi tập trung hóa, bởi những đi và về của chúng,
những biến dạng do sự vận chuyển một chiều độc nhất. Sự nghiên cứu các
vận chuyển này quả đã chỉ ra cho chúng ta một sự giảm sụt rõ rệt các biến
dạng với tuổi, tức là một tiến bộ rõ rệt trong việc đánh giá các đại lượng từ xa
và điều đó tự giải thích lấy do chỗ hệ số hoạt động thực sự can thiệp vào ở
đây.
Thật dễ dàng chỉ ra rằng chính những phi tập trung hóa và những vận
chuyển kép này với những điều tiết đặc trưng mà những khác biệt đa dạng
của chúng mang lại; bảo đảm cho những "sự không đổi" nổi tiếng của tri giác
hình dạng và độ lớn. Quả vậy, điều rất đặc biệt là người ta hầu như không
bao giờ đạt được ở phòng thí nghiệm những sự không đổi tuyệt đối của độ
lớn: trẻ em đánh giá thấp các đại lượng ở xa (do tính đến cái "sai của
chuẩn"), nhưng người lớn hầu như luôn luôn đánh giá cao chúng một ít!
Những "siêu không thay đổi" này mà các tác giả thường đã quan sát thấy trên
thực tế, nhưng thường họ lướt qua như những ngoại lệ gây phiền hà, đối với
chúng tôi hình như tạo nên quy tắc, và không một sự việc nào có thể chứng
thực tốt hơn sự can thiệp của các điều tiết thực sự trong việc tạo dựng những
sự không đổi. Như khi người ta thấy trẻ nhỏ, vào lứa tuổi mà đúng là ở lứa
tuổi đó người ta đã báo sự khởi đầu của sự không đổi này (trong khi cường
điệu nhiều giá trị của sự chính xác của nó) lao vào những sự thử thực sự,
chúng bao hàm việc đưa lại gần hoặc đẩy ra xa một cách có dụng ý khỏi mắt
mình những đồ vật chúng nhìn (người ta được dắt dẫn đặt hoạt động tri giác
của những vận chuyển và những so sánh trong quan hệ với những biểu lộ
của bản thân trí khôn cảm giác - vận động (mà Không vì vậy quay trở lại với
những "lập luận vô thức" của Helmholtz). Mặt khác dường như hiển nhiên
rằng sự không thay đổi về hình dạng cái đồ vật gắn liền, với bản thân sự cấu
tạo của đồ vật; chúng tôi còn trở lại vấn đề này trong chương sau.
Tóm lại, những "sự không thay đổi" tri giác dường như là sản phẩm của
những hoạt động thực sự bao hàm việc di chuyển thực hay ảo cái nhìn hoặc
những cơ quan đang tác động: các vận động được kết hợp thành những hệ
thống mà sự tổ chức có thể thay đổi, từ sự mầy mò đơn giản có điều khiển
đến những cấu trúc làm nhớ lại "sự nhóm hợp". Trong một thí nghiệm lí thú
trên những tương đồng thị giác của ảo giác trọng lượng, Usnadze) giới thiệu
với các chủ thể của ông hai hình tròn đường kính 2 và 28mm trong một vài
phân số của giây, đoạn hai hình tròn 24mm. Hình tròn 24mm nằm ở chỗ
trước đó là hình tròn 28mm lúc đó được nhìn thấy bé hơn cái kia, (và cái
24mm thay thế cái 20mm, được đánh giá cao) do một hiệu quả của sự tương
phản mà sự vận tải trong thời gian gây ra (mà Usnadze gọi là Einstellung).
Lấy lại cùng Lambercier những số đo của ảo giác đó trên những trẻ 5 - 7 tuổi
và trên những người lớn, chúng tôi tìm thấy hai kết quả sau đây, mà sự tụ hội
là rất gợi cảm về các quan hệ của tri giác với trí khôn: một mặt hiệu quả
Usnadze mạnh hơn đáng kể ở người lớn so với ở trẻ em (như bản thân các
ảo giác về trọng lượng), nhưng mặt khác, nó biến mất nhanh hơn. Sau nhiều
trình bày của 24 + 24mm, người lớn dần dần trở về cái nhìn khách quan còn
trẻ em kéo theo sau mình một hiệu quả còn sót lại.
Vậy người ta không thể giải nghĩa sự khác biệt kép ấy bằng những dấu
vết liên quan đến trí nhớ, trừ phi bị bó buộc phải nói rằng trí nhớ người lớn
mạnh hơn nhưng mau quên hơn! Trái lại mọi việc diễn ra dường như một
hoạt động chuyển vị và đón trước phát triển với tuổi, theo chiều kép của sự
cơ động và tính nghịch đảo, điều đó tạo nên một ví dụ mới của sự tiến hóa tri
giác hướng vào chiều của thao tác.
Một thí nghiệm sang trọng của Auersperg và Buhrmester bao gồm việc
giới thiệu một hình vuông đơn giản vẽ bằng nét trắng mà người ta cho vận
động vòng quanh trên một đĩa đen. Với tốc độ nhỏ người ta nhìn thấy trực
tiếp hình vuông mặc dầu hình trên võng mạc lúc này đã gồm một chữ thập đôi
có bốn vạch được xếp vuông góc bao quanh. Với tốc độ lớn, người ta chỉ thấy
hình trên võng mạc, nhưng với tốc độ trung bình người ta thấy một hình
chuyển tiếp được hình thành bằng một dấu thập đơn có bốn cạnh bao bọc.
Như các tác giả đã nhấn mạnh, chác hẳn có sự can thiệp trong hiện tượng
này của một sự đón trước cảm giác - vận động cho phép chủ thể tái tạo hình
vuông toàn bộ (giai đoại đầu), một phần (giai đoạn hai) hoặc bị hỏng, vì bị tốc
độ quá nhanh làm cho lan ra. Mà với Lambercier và Demeriade, chúng tôi đã
tìm thấy rằng đo trên những đứa trẻ 5 đến 12 tuổi, giai đoạn hai (chữ thập
đơn) xuất hiện ngày càng chậm (tức là với một số vòng luôn luôn lớn hơn);
tùy thuộc ở lứa tuổi: sự tái tạo hoặc sự đón trước hình vuông đang vận động
vậy là càng tốt hơn (tức là được thực hiện với những tốc độ luôn luôn lớn
hơn) khi chủ thể là phát triển hơn.
Nhưng còn có hơn thể nữa. Người ta trình bày với chủ thể hai cái cọc
phải so sánh về chiều sâu, A cách 1m và C cách 4m. Người ta trước tiên đo
sự tri giác C (đánh giá thấp hoặc cao V.V...), rồi người ta đặt ở bên này của C
(một cọc bằng A với khoảng cách chiều ngang 50cm, hoặc người ta còn đặt
giữa A và C một loạt cọc "trung gian B1, B2, B3, tất cả đều bằng A (với
khoảng cách chiều ngang như nhau). Người lớn hoặc trẻ em trên 8-9 tuổi
thấy ngay A = B — C (hoặc A = B1 = B2 = B3 = C, bởi vì anh ta chuyển vị
ngang những đẳng thức tri giác A = B và B = C sang tỉ số C = A bằng cách
đóng lại như vậy cái hình trên bản thân nó. Những trẻ nhỏ, trái lại, nhìn thấy A
= B; B = C và A khác C, làm như chúng không chuyển vị các đẳng thức được
nhìn thấy dọc theo đường vòng ABC trên tỉ số trực tiếp AC. Trước 6-7 tuổi
đứa trẻ cũng chưa có khả năng cấu tạo thao tác những quan hệ bắc cầu A =
B; B = C vậy A = C. Nhưng, điều hiếu kì tồn tại giữa 7 và 8 - 9 tuổi một giai
đoạn chuyển tiếp mà đứa trẻ chủ thể kết luận tức khắc, bằng trí khôn, đẳng
thức A = C, trong khi vẫn thấy bằng tri giác C hơi khác với A một ít! Qua ví dụ
này (rõ ràng sự chuyển vị bản thân nó cũng (nó là việc "vận chuyển" các
tương quan, đối lập với việc vận chuyển những giá trị riêng rẽ) thuộc về hoạt
động tri giác chứ không phải sự cấu trúc hóa tự động chung cho mọi lứa tuổi
và giữa sự chuyển vị tri giác và sự bắc cầu có tính chất thao tác có những
quan hệ còn phải xác định.
Mà sự chuyển vị không phải đơn giản là ở bên ngoài các hình, tri giác
được: cạnh sự chuyển vị bên ngoàị, phải phân biệt những chuyển vị bên
trong cho phép nhận ra ở ngay bên trong các hình, những tỉ số lặp đi lặp lại,
những đối xứng (hoặc ti số đảo nghịch) v.v... Ở đây nữa, có nhiều điều để nói
về vai trò của sự phát triển trí tuệ, những trẻ nhỏ hoàn toàn không có khả
năng đến như vậy trong việc cấu trúc các hình phức hợp như người ta muốn
khẳng định.
Từ tất cả những sự việc trên, ta được phép kết luận như sau: Sự phát
triển các tri giác chứng tỏ sự tồn tại của một hoạt động tri giác nguồn gốc của
những phi tập trung hóa, những chuyển vị, những đón trước và, nói một cách
khái quát, sự phân tích ngày càng cơ động và hướng về tính nghịch đảo.
Hoạt động đó tăng trưởng với tuổi và chính vì thiếu sự nắm vững nó ở một
mức độ đầy đủ mà các trẻ nhỏ tri giác theo cách "hổ lốn" (hỗn hợp) hoặc
"tổng thể" hoặc còn bằng tích tụ các chi tiết không gắn liền với nhau.
Trong khi sự tri giác với tính cách như thế được đặc trưng bởi những
hệ thống không thể nghịch đảo và có tính chất tĩnh, hoạt động tri giác trái lại
đưa vào trong những hệ thống như vậy được điều kiện hóa bởi một sự phân
tán ngẫu nhiên hoặc đơn thuần xác suất của những sự tập trung hóa, một sự
mạch lạc gắn bó và một năng lực cấu tạo tiên tiến. Hoạt động đó phải chăng
đã tạo nên một hình thức của trí khôn? Chúng ta đã thấy (chương I và cuối
chương II) cái ý nghĩa ít ỏi mà một vấn đề thuộc loại đó bao hàm. Tuy nhiên
người ta có thể nói rằng ở điểm xuất phát của chúng, các hoạt động bao gồm
việc phối hợp những cái nhìn theo chiều phi tập trung, hóa, việc chuyển vận,
so sánh, đón trước và đặc biệt chuyển vị đều hiển nhiên gắn bó với trí khôn
cảm giác - vận động mà chúng tôi sẽ nói tới ở chương sau. Đặc biệt sự
chuyển vị, bên trong hoặc bên ngoài, tóm tắt tất cả những hành vi có tính chất
tri giác, là rất có thể so sánh với sự đồng hóa đặc trưng cho các sem cảm
giác - vận động và nhất là sự đồng hóa tổng quát hóa nó cho phép chuyển
dịch những sem này.
Nhưng nếu người ta có thể đưa lại gần nhau hoạt động tri giác và trí
khôn cảm giác - vận động, sự phát triển của nó dẫn nó đến bên thềm các thao
tác. Trong chừng mực mà dần dà những điều tiết tri giác nhờ những so sánh
và chuyển vị hướng về tính nghịch đảo, chúng tạo nên một trong những cái
giá cơ động cho phép sự khởi động của cơ chế thao tác. Cơ chế này, mỗi khi
được tạo dựng, sau đó tác động đến những điều tiết bằng cách sát nhập
chúng vào mình, bằng một cú sốc quay trở lại tương tự với cú sốc mà chúng
tôi vừa nêu một ví dụ về việc chuyển vị các đẳng thức. Nhưng trước phản
ứng này, chúng chuẩn bị thao tác bằng cách luôn luôn đưa nhiều tính chất cơ
động hơn vào trong các cơ chế cảm giác - vận động tạo thành hạ tầng cơ sở
cho những cơ chế này: quả vậy chỉ cần hoạt động tạo sinh khí cho tri giác
vượt qua sự tiếp xúc trực tiếp với khách thể và áp dụng vào những khoảng
cách lớn dần trong không gian và trong thời gian để nó tràn ra ngoài phạm vi
(trường) của bản thân tri giác và thoát khỏi những hạn chế cản trở nó đạt đến
sự cơ động và tính nghịch đảo hoàn chỉnh.
Tuy nhiên, hoạt động tri giác không phải là môi trường ấp ủ duy nhất
mà các thao tác của trí khôn sẵn có trong sự sinh thành của chúng: còn phải
xét đến vai trò các chức năng vận động sản sinh ra các thói quen và, hơn
nữa, gắn rất chặt với bản thân sự tri giác.
Chương 4. THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG
Chính là do nhu cầu của sự phân tích mà ta được phép phân biệt các
chức năng vận động với các chức năng tri giác. Như V.Weizsacber đã rất sâu
sắc chỉ ra, sự phân chia cổ điển các hiện tượng thành những kích thích thuộc
giác quan và những đáp ứng vận động mà sơ đồ cung phản xạ thừa nhận là
lừa dối và thuộc về các sản phẩm của phòng thí nghiệm cũng giả tạo như
khái niệm bản thân cung phản xạ được quan niệm ở trạng thái riêng rẽ: Ngay
từ lúc khởi đầu, tri giác bị ảnh hưởng bởi vận động cũng như vận động bởi tri
giác. Đó là điều chúng tôi đã biểu đạt, về phía chúng tôi, khi nói đến các
"sem" cảm giác - vận động để mô tả sự đồng hoá vừa là tri giác vừa là vận
động đặc trưng cho những cư xử của đứa hài nhi.
Vậy vấn đề quan trọng là đặt lại trong bối cảnh phát sinh thực tại những
gì việc nghiên cứu các tri giác mới cho ta biết và hỏi ta trí khôn trước ngôn
ngữ được tạo dựng như thế nào. Ngay khi nó vượt qua trình độ các lắp ráp
thuần tuý di truyền mà các phản xạ là thế, đứa hài nhi đạt được những thói
quen tuỳ theo kinh nghiệm. Những thói quen này có chuẩn bị cho trí khôn
không hay là không có gì dính dáng với trí khôn? Đó là vấn đề song song với
vấn đề mà chúng tôi đã đặt ra khi nói về tri giác. Câu trả lời có nguy cơ cũng
là cùng một câu ấy, điều đó sắp cho phép chúng ta tiến nhanh hơn và định vị
sự phát triển của trí khôn cảm giác - vận động trong toàn bộ các quá trình sơ
đẳng tạo điều kiện cho nó.
* THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN
I. Độc lập hay phát sinh trực tiếp
Không gì là đặc trưng hơn cho việc làm cảm thấy sự liên tục nối liền
vấn đề về sự phát sinh của trí khôn với vấn đề về sự hình thành những thói
quen bằng sự đối chiếu những lời giải khác nhau dành cho hai vấn đề ấy: các
giả thiết là giống nhau, làm như trí khôn kéo dài những cơ chế mà sự tự động
hoá tạo nên thói quen.
Quả vậy, về vấn đề thói quen, người ta tìm thấy lại các sơ đồ phát sinh
của sự kết hợp, những thử và sai hoặc của sự cấu trúc tự động hoá. Trên
quan điểm những tương quan giữa thói quen và trí khôn thuyết liên tưởng trở
lại biến thói quen thành một sự việc đầu tiên giải thích trí thông minh; quan
điểm của những thử và sai đưa thói quen về một sự tự động hoá những vận
động được chọn lựa sau sự mầy mò, sự mầy mò này là đặc trưng của bản
thân trí khôn; quan điểm đồng hoá hình dung trí khôn như một hình thức cân
bằng của cùng hoạt động đồng hoá ấy, mà cái hình thức khởi đầu tạo nên
thói quen. Còn về các giải thích không phát sinh, chúng tôi tìm thấy lại ba sự
phối hợp tương ứng với thuyết sức sống, thuyết tiên đề và quan điểm hình
thức: thói quen rút ra từ trí khôn, thói quen không có quan hệ với trí khôn và
thói quen tự giải thích, như trí khôn và tri giác, bằng những cấu trúc hoá mà
các quy luật giữ độc lập với sự phát triển.
Dưới góc độ các tương quan giữa thói quen và trí khôn (vấn đề duy
nhất làm chúng ta quan tâm ở đây), cần trước hết xét xem hai chức năng có
độc lập không hay cái này phát sinh từ cái kia và cuối cùng xem từ những
hình thức tổ chức chung nào chúng phát ra những trình độ khác. Cái lôgich
của sự giải thích tiên nghiệm về những thao tác trí tuệ là phủ nhận mọi tương
quan của chúng với các thói quen bởi vì chúng xuất phát từ một cấu trúc bên
trong độc lập với kinh nghiệm, còn thói quen là đạt được do tiếp xúc với kinh
nghiệm. Và sự thật là khi khảo sát thật kĩ hai loại thực tế ở trạng thái kết thúc
của chúng, sự đối lập của chúng tỏ ra sâu sắc và sự tương đồng của chúng là
hời hợt. H.Delacroix đã tinh tế ghi nhận cả những đối lập lẫn những tương
đồng: áp dụng vào những hoàn cảnh đổi mới, một vận động do thói quen
dường như bao bọc một thứ khái quát hoá; nhưng trí khôn đã thay vào sự tự
động hoá vô thức của thứ khái quát hoá đó một sự khái quát chất lượng hoàn
toàn khác, làm bằng những lựa chọn có ý định và bằng hiểu biết. Tất cả
những cái đó đều hoàn toàn đúng, nhưng người ta càng phân tích sự hình
thành một thói quen, bằng đối lập với sự tập luyện tự động hoá của nó, người
ta nhận thấy sự phức hợp của các hoạt động nhập cuộc lúc khởi đầu. Mặt
khác, khi đi ngược lên đến các ngọn nguồn cảm giác vận động của trí khôn,
người ta tìm thấy lại bối cảnh của learning nói chung. Vậy điều cần thiết là
trước khi kết luận về tính không thể quy lại với nhau hai loại cấu trúc, tự hỏi
xem bằng cách phân biệt theo chiều dọc một loạt các cư xử có những trình độ
khác nhau và bằng cách tính đến theo chiều ngang trình độ mới mẻ và tự
động hoá của chúng, có chăng một sự nối tiếp nào đó giữa những phối hợp
ngắn và tương đối cứng mà người ta có tập quán gọi là thói quen và những
phối hợp có những số hạng cuối; cùng xa hơn và có tính cơ động lớn hơn,
đặc trưng cho trí khôn.
Đó là điều Buytendifk đã thấy rõ khi phân tích một cách sáng suốt sự
hình thành các thói quen loài vật sơ đẳng, nhất là ở những động vậtkhông
xương sống. Nhưng, càng phát hiện ra tốt hơn sự phức hợp của các yếu tố
của thói quen, tác giả này càng có xu hướng, bằng vào hệ thống giải thích
theo thuyết sức sống của ông, đặt sự phối hợp đặc thù cho thói quen phụ
thuộc vào bản thân trí khôn, năng khiếu gắn chặt với cơ thể với tính cách là
như vậy. Thói quen luôn luôn đòi hỏi, để tự tạo thành, một quan hệ cơ bản từ
phương tiện đến mục đích: một hoạt động không bao giờ là một chuỗi những
cử động được kết hợp một cách máy móc mà nó được hướng vào một sự
thoả mãn như sự tiếp xúc với thức ăn hoặc như sự giải thoát, như ở những
con ốc ao bị lật ngửa ra và chúng tìm lại được càng lúc càng nhanh hơn thể vi
bình thường của mình. Mà quan hệ phương tiện X mục đích đặc trưng cho
những hành động của trí khôn: vậy thói quen sẽ là sự biểu đạt của một tổ
chức thông minh, bao trùm mọi cấu trúc sống. Cũng như Helmholtz giải thích
tri giác bằng sự can thiệp của một lập luận vô thức, chủ nghĩa sức sống như
vậy là kết thúc ở chỗ biến thói quen thành kết quả của một trí khôn hữu cơ vô
thức.
Nhưng nếu phải cho rằng Buytendifk hoàn toàn có lí về tính phức hợp
của những thụ đắc đơn giản nhất và về tính bất khả quy của tương quan giữa
nhu cầu và sự thoả mãn, ngọn nguồn chứ không phải kết quả của những kết
hợp, là đi quá nhanh trong công việc khi giải nghĩa tất cả bằng một trí khôn
được đặt với tính cách sự việc đầu tiên. Một luận đề như thế kéo theo một
loạt các khó khăn, đúng là cùng những khó khăn ấy mà sự giải thích song
song, trong lĩnh vực của tri giác, gặp phải. Một mặt, thói quen, cũng như tri
giác, là không thể đảo nghịch bởi vì luôn luôn được điều khiển một chiều về
cùng một mục đích, trong khi trí khôn là có thể đảo nghịch: đảo ngược một
thói quen (viết ngược hoặc từ phải sang trái v.v..) bao hàm việc thụ đắc một
thói quen mới, trong khi một "thao tác ngược" của trí khôn là được nắm bắt về
mặt tâm lí cùng một lúc với thao tác xuôi (và về mặt lôgich học bao gồm cùng
một sự biến đổi nhưng ở chiều khác). Mặt khác, cũng như sự nắm bắt (am
hiểu) thông minh chỉ thay đổi ít thôi một tri giác (hiểu biết không hề ảnh hưởng
đến một ảo giác như Hering đã trả lời Helmholtz) và ngược lại, sự tri giác sơ
đẳng không kéo dài thêm gì nữa thành hành vi trí khôn, cũng vậy trí khôn chỉ
thay đổi ít thôi một thói quen đã có và nhất là sự hình thành một thói quen
không tức khắc được tiếp theo bằng sự phát triển trí khôn. Cũng vậy có cả
một khoảng cách đáng kể, trong trật tự phát sinh, giữa sự xuất hiện của hai
thứ cấu trúc. Những quỳ biển của Piéron, khép vỏ lại khi thuỷ triều xuống và
bằng cách đó giữ nước mà chúng cần dùng, không biểu lộ một trí khôn rất cơ
động, và đặc biệt giữ lại trong bể kính thói quen của chúng vài ngày trước khi
thói quen đó tự tắt đi. Những con cá bống của Goldschmidt học, để ăn, chui
qua cái lỗ của một tấm kính và giữ hành trình của chúng mỗi khi tấm kính đã
được cất đi: người ta có thể gọi sự cư xử đó là trí khôn không thuộc vỏ não,
nhưng nó vẫn rất thấp hơn những gì mà thông thường người ta gọi trống trơn
trí khôn.
Từ đó có giả thuyết đã tỏ ra đơn giản nhất trong một thời gian lâu: thói
quen tạo nên một sự việc ban đầu, giải thích được, bằng những số hạng kết
hợp phải chịu một cách thụ động, và trí khôn từ đó phát sinh dần dần, nhờ
tính phức hợp đang tăng lên của những kết hợp đã thụ đắc. Chúng tôi không
lên án ở đây thuyết liên tưởng, những chống đối lại cách giải thích đó đã là
thông thường như những sự hồi sinh của nó dưới những hình thức đa dạng
và thường là trá hình. Tuy nhiên rất cần thiết, để đạt được những cấu trúc của
trí khôn ở sự phát triển thực tại của chúng, nhắc lại rằng biết bao nhiêu thói
quen sơ đẳng nhất vẫn là bất khả quy vào sơ đồ của sự kết hợp thụ động.
Mà khái niệm về phản xạ được điều kiện hoá hoặc về sự điều kiện hoá
nói chung đã cung cấp một sức sống mới cho thuyết liên tưởng bằng cách
cùng một lúc tạo cho nó một hình mẫu sinh lí học chính xác và một hệ thống
thuật ngữ được đổi mới. Từ đó mà có một loạt những áp dụng mà các nhà
tâm lí học đã thử làm trong việc giải thích các chức năng trí tuệ (ngôn ngữ
v.v..) và đôi khi cả bản thân hành vi trí khôn.
Nhưng, nếu sự tồn tại những cư xử được điều kiện hoá là một sự việc,
thậm chí là rất quan trọng, sự giải thích chúng không bao hàm thuyết liên
tưởng logich phản xạ mà người ta quy hay gắn với nhau. Khi một vận động
được kết hợp với một tri giác, còn có, trong sự liên kết này, hơn là một sự kết
hợp thụ động, tức là được khắc sâu đơn thuần căn cứ vào sự lặp lại: ở đây
đã có một sự nhập cuộc của các ý nghĩa và sự kết hợp chỉ được tạo nên tuỳ
thuộc vào một nhu cầu và sự thoả mãn nhu cầu đó. Mọi người biết được điều
đó trong thực tế nhưng quá quên đi trong lí luận, rằng một phản xạ được điều
kiện hoá được củng cố chỉ trong chừng mực nó được xác nhận và thừa nhận:
một tín hiệu kết hợp với một thức ăn không gây ra một phản ứng lâu dài nếu
các thức ăn thực tại không được định kì lại đưa ra cùng một lúc với tín hiệu.
Sự kết hợp như vậy đều lồng vào trong một cư xử tổng thể mà điểm xuất phát
là nhu cầu và điểm đến là sự thoả mãn nhu cầu đó (thực tại, đón trước hoặc
còn có vẻ trò chơi v.v...). Cũng như nói rằng vấn đề ở đây không phải là một
kết hợp theo nghĩa cổ điển của từ ấy, mà đúng là sự tạo dựng một tổng thể
gắn liền với một ý nghĩa. Hơn nữa, nếu người ta nghiên cứu một hệ thống
các cư xử được điều kiện hoá trong sự nối tiếp lịch sử của chúng (và các cư
xử mà tâm lí học quan tâm luôn luôn có một sự nối tiếp như vậy để đối lập với
những điều kiện hoá sinh lí học quá đơn giản) người ta còn thấy rõ hơn vai
trò của sự cấu trúc hoá toàn bộ. Chính vì vậy mà AndréRey, khi để một con
chuột lang vào hộc A của một cái hộp có ba hộc liên tiếp A. B. C. cho nó một
chấn động bằng điện có một tín hiệu đi trước: khi tín hiệu trở lại, con chuột
lang nhảy sang hộc B rồi trở lại hộc A. nhưng chỉ cần một vài kích thích thêm
nữa để nó nhảy từ A sang B, từ B sang C và trở lại từ C sang B rồi sang A.
Sự cư xử được điều kiện hoá ở đây không phải là sự chuyển vị đơn giản các
vận động khởi đầu nhờ vào phản xạ đơn giản, mà là một cư xử mới chỉ đạt
đến sự ổn định bằng một sự cấu trúc hoá của toàn bộ môi trường.
Mà nếu các loại hình sơ đẳng nhất của thói quen là như vậy, thì huống
chi những "chuyển kết hợp" ngày càng phức hợp dẫn nó đến bên thềm của trí
khôn cũng như vậy. Khắp nơi ở đâu có kết hợp giữa vận động và tri giác, cái
gọi là kết hợp đó trên thực tế bao gồm việc sát nhập yếu tố mới vào một sem
có trước của hoạt động. Dù cái sem có trước đó là có tính chất phản xạ như
trong phản xạ được điều kiện hoá hoặc thuộc những trình độ luôn luôn cao
hơn. Ở đâu sự kết hợp cũng là trên thực tế sự đồng hoá, đến mức không bao
giờ giây nối kết hợp là bản vẽ phóng lại đơn giản của một tương quan có sẵn
đã cho trong thực tế bên ngoài.
Vì vậy việc xem xét sự hình thành cái thói quen cũng như xem xét cấu
trúc các tri giác liên quan trước tiên và nhiều nhất đến vấn đề trí khôn. Nếu trí
khôn đang nảy sinh chỉ bao hàm việc thực hiện sự hoạt động đến chậm và
nằm ở một thang cao hơn của nó trên một thế giới hoàn chỉnh các kết hợp và
quan hệ, tương ứng từng số hạng một với các tỉ số đã được ghi một lần cho
mãi mãi trong môi trường bên ngoài, hoạt động đó trên thực tế sẽ chỉ là hão
huyễn. Trái lại trong chừng mực mà sự đồng hoá tổ chức, nó cuối cùng sẽ kết
thúc ở các thao tác đặc thù cho trí tuệ, can thiệp ngay từ lúc xuất phát vào
hoạt động trí giác và vào sự nảy sinh các thói quen, những sơ đồ kinh nghiệm
chủ nghĩa mà người ta tìm cách gán cho trí khôn hoàn chỉnh là không đầy đủ
cho mọi trình độ bởi vì bỏ qua sự tạo dựng đồng hoá.
Người ta biết chẳng hạn rằng Mach và Rignano quan niệm lập luận như
là một "thí nghiệm trí tuệ". Sự mô tả đó, đúng trên nguyên tắc, sẽ mang ý
nghĩa của một lời giải thích nếu thử nghiệm là bản sao của một thực tại bên
ngoài có sẵn. Nhưng vì không phải thế và vì ngay trên bình diện của thói
quen, sự điều ứng với thực tại đòi hỏi một sự đồng hoá của thực tại vào các
sem của chủ thể, sự giải thích lập luận bằng thử nghiệm trí tuệ tự nhốt mình
vào trong một hình tròn: phải có tất cả hoạt động trí khôn để làm một thí
nghiệm có thực hay trí tuệ (trong trí, trong óc).
Ở trạng thái hoàn chỉnh, một thử nghiệm trí tuệ là sự tái tạo trong tư
duy không phải cái thực tế, mà những hoạt động hay thao tác dựa trên nó
(thực tế) và vấn đề về sự sản sinh ra chúng (hoạt động, thao tác) vẫn tồn tại
nguyên vẹn. Chỉ ở trình độ nhưng khởi đầu của tư duy trẻ em là người ta có
thể nói đến thử nghiệm trí tuệ theo nghĩa của một sự bắt chước đơn giản bên
trong của thực tại: nhưng trong trường hợp này, lập luận đúng là chưa có tính
lôgich.
Cũng vậy, khi Spearman quy trí khôn về ba yếu tố chủ yếu: sự "nắm bắt
kinh nghiệm", sự "rút ra những quan hệ" và sự "rút ra những tương quan",
phải nói thêm rằng kinh nghiệm không thể nắm bắt được nếu không có sự
trung gian của sự đồng hoá tạo dựng. Những cái gọi là "rút ra" những quan
hệ lúc này phải được quan niệm như những thao tác thực sự (chia hạng hoặc
lồng ghép những quan hệ đối xứng). Còn như việc rút ra những tương quan
(sự trình bày một đặc tính gắn với một quan hệ có xu hướng gợi ra tức khắc
sự hiểu biết cái đặc tính tương quan, nó gắn bó với các nhóm hợp rất xác
định, đó là những nhóm hợp của phép nhân các lớp hoặc các quan hệ
(chương 2).
* THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN
II. Sự mầy mò và sự cấu trúc hoá
Vậy nếu thói quen lẫn trí khôn không thể giải thích được bằng một hệ
thống các phối hợp kết hợp tương ứng không thêm gì nữa với những tỉ số đã
có sẵn trong thực tế bên ngoài, nhưng cả hai (thói quen và trí khôn) giả định
một sự hoạt động của bản thân chủ thể, thì sự giải thích đơn giản nhất phải
chăng bao hàm việc quy hoạt động đó về một loạt thứ triển khai một cách
ngẫu nhiên (tức là không quan hệ trực tiếp với môi trường), nhưng được chọn
lựa dần dần nhờ có những thành công hoặc thất bại mà chúng kết thúc?
Chính vì vậy mà Thordike để nắm bắt được cơ chế của việc học tập, đặt các
con vật vào một mê lộ và đo sự thụ đắc ở số lượng giảm của các sai. Con vật
trước tiên mầy mò, tức là lao vào những cuộc thử ngẫu nhiên, nhưng những
sai lầm dấn dà được loại bỏ và những thử đúng được ghi nhớ, cho đến khi
xác định được những đường đi về sau. Nguyên tắc của sự lựa chọn bằng kết
quả thu được mang tên "luật của hiệu quả". Giả thuyết là hấp dẫn: hoạt động
của chủ thể can thiệp vào các cuộc thử, hoạt động của môi trường vào các
lựa chọn và luật của hiệu quả giữ vai trò của các nhu cầu và các thoả mãn
làm khung cho mọi cư xử tích cực.
Hơn thế nữa, một sơ đồ giải thích như vậy là nhằm trình bày sự liên tục
nối liền những thói quen sơ đẳng nhất với trí khôn tiến triển nhất: Claparède
đã lấy lại những khái niệm: mầy mò và kiểm soát bằng kinh nghiêm ngay tức
khắc để làm nguyên tắc của một lí thuyết về trí khôn, được áp dụng lần lượt
cho trí khôn loài vật, trí khôn thực hành ở đứa trẻ cho đến vấn đề "Sự nảy
sinh ra giả thuyết", trong tâm lí học của tư duy người lớn. Nhưng trong nhiều
bài viết của nhà tâm lí học Genève, người ta nhận thấy có một sự tiến hoá
đáng kể từ những bài viết đầu tiên đến những bài viết cuối cùng, đến mức chỉ
riêng với một mình ông, việc xem xét sự phát triển đó cũng đã tạo nên một sự
phê phán khá đầy đủ khái niệm mầy mò.
Claprède bắt đầu bằng việc đối lập trí khôn - chức năng thay thế của sự
thích nghi mới - với thói quen (được tự động hoá) và bản năng, những thích
nghi vào những hoàn cảnh lặp lại. Mà chủ thể ứng xử như thế nào trước
những hoàn cảnh mới? Từ những trùng cỏ của Jennings đến con người (và
đến cả nhà bác học đứng trước cái bất ngờ) đều mầy mò. Sự mầy mò đó có
thể là thuần tuý cảm giác vận động hoặc từ nội hiện dưới hình thức "thử" của
một mình ý nghĩa, nhưng chức năng của nó bao giờ cũng là một: sáng tạo ra
những lời giải, mà kinh nghiệm sẽ lựa chọn ngay sau đó.
Hành vi đầy đủ của trí khôn giả định ba yếu tố chủ yếu: câu hỏi định
hướng sự tìm tòi, giả thuyết đón trước các lời giải và sự kiểm tra chọn lựa
những lời giải đó. Tuy nhiên người ta có thể phân biệt hai hình thức trí khôn:
một thực hành hoặc kinh nghiệm chủ nghĩa và cái kia có suy nghĩ (hoặc "có
hệ thống"). Trong trí khôn thứ nhất, câu hỏi hiện ra dưới những dạng của một
nhu cầu đơn giản, giả thuyết, dưới dạng một sự mầy mò cảm giác vận động
và sự kiểm tra, dưới dạng một dãy thuần túy những thất bại và thành công.
Chính trong trí khôn thứ hai mà nhu cầu được phản chiếu thành câu hỏi, sự
mầy mò được nội hiện thành những tìm kiếm giả thuyết và sự kiểm tra đón
trước sự thừa nhận của kinh nghiệm bằng phương tiện của một "ý thức về
các quan hệ" đủ để loại trừ các giả thuyết sai và giữ lại những giả thuyết
đúng.
Cái khung lí luận là như vậy khi Claparède tiếp cận vấn đề về sự phát
sinh giả thuyết trong tâm lí học tư duy. Bằng cách vẫn nhấn mạnh vai trò hiển
nhiên mà sự mầy mò giữ trong những hình thức tư duy biến hoá nhất,
Claparède đã được dát dẫn, bằng phương pháp "suy nghĩ nói" của mình, đến
việc không đặt nó ở ngay điểm xuất phát của sự tìm tòi thông minh, mà có thể
nói là đặt nó bên lề hoặc ở vị trí tiên phong và chỉ khi nào các dữ kiện vượt
quá xa sự hiểu biết của chủ thể. Đối với ông, trái lại sự khởi đầu dường như
được một thái độ, mà cho đến lúc đó ông không nhận thấy tầm quan trọng,
cung cấp: Trước những dữ kiện của vấn đề (của bài toán) và mỗi khi sự tìm
kiếm được nhu cầu hay là câu hỏi định hướng (nhờ một cơ chế được coi là
còn bí hiểm), trước hết có một sự nắm bắt một tập hợp các quan hệ bằng một
sự "liên can" đơn giản. Những "liên can" đó có thể đúng hoặc sai. Đúng,
chúng sẽ được kinh nghiệm giữ lại. Sai, chúng sẽ bị kinh nghiệm phản bác,
và chi lúc này mới bắt đầu sự mầy mò. Sự mầy mò này chỉ can thiệp với tính
cách là cái thay thế hoặc cái phụ thêm, tức là cái cư xử rút ra từ những "liên
can" ban đầu. Vậy là sự mầy mò không bao giờ là thuần tuý, Claparède kết
luận, nó được câu hỏi và các cái liên can ề khiển một phần, và nó thực sự trở
nên ngẫu nhiên chỉ trong trường hợp các dữ kiện tràn ra thực quá các sem
đón trước.
Sự "liên can" bao gồm những gì? Chính ở đây học thuyết có một ý
nghĩa rộng lớn nhất và nối liền với vấn đề thói quen cũng như vấn đề của bản
thân trí khôn. Thực chất sự "liên can" gắn như là cái "kết hợp"cũ của các nhà
tâm lí học cổ điển, nhưng cặp đôi với một cảm xúc về nhu cầu toát ra từ bên
trong chứ không phải từ bên ngoài. Nó là sự biểu lộ của một "khuynh hướng
sơ khai" mà bên ngoài khuynh hướng đó chủ thể không thể, ở bất luận trình
độ nào, tận dụng kinh nghiệm (trang 84). Nó không do "sự lặp lại của một cặp
yếu tố" mà trái lại nguồn gốc của sự lập lại cái đồng dạng và "nảy sinh ngay
vào dịp gặp gỡ đầu tiên của hai yếu tố trong cặp đó". Kinh nghiệm chỉ có thể
hoặc bẻ gãy nó hoặc xác nhận nó chứ không sáng tạo ra nó. Nhưng chính lúc
nào kinh nghiệm áp đặt một sự kéo lại gần thì chủ thể cặp đôi nó với một sự
liên can: quả vậy gốc rễ của nó phải được tìm kiếm trong "luật hợp dính" của
W.James (cái luật mà qua đó James giải thích đúng là sự kết hợp: "luật hợp
dính đẻ ra sự liên can trên bình diện hoạt động và sự hỗn hợp trên bình diện
của sự biểu hiện". Claparèđe bằng cách đó đã đi đến chỗ giải thích phản xạ
được điều kiện hoá dựa vào sự liên can: con chó của Palov tiết nước bọt khi
có tiếng chuông sau khi đã nghe tiếng chuông đồng thời nhìn thấy thức ăn bởi
vì lúc đó tiếng chuông "liên can" đến thức ăn.
Sự đảo ngược dần dần đó của lí thuyết về sự mầy mò đáng được xem
xét kĩ lưỡng. Bắt đầu từ một điểm có vẻ thứ yếu, có lẽ không có vấn đề để tự
hỏi bằng cách nào câu hỏi hoặc nhu cầu định hướng sự tìm kiếm, làm như
chúng tồn tại độc lập với sự tìm kiếm đó? Câu hỏi và nhu cầu bản thân chúng
là sự hiểu hiện các cơ chế đã được tạo dựng từ trước, và đơn giản là đang ở
trong tình trạng mất cân bằng tạm thời! Nhu cầu bú giả định tổ chức hoàn
chỉnh những bộ máy để mút, và cực kia, những câu hỏi như "cái gì ?", "ở đâu"
là sự biểu đạt các sự phân loại, các cấu trúc không gian v.v... đã được tạo
thành toàn bộ hay bộ phận (xem chương 2). Ngay từ đó, cái sem định hướng
sự tìm kiếm là cái mà sự tồn tại đã là cần thiết để giải thích sự xuất hiện của
nhu cầu hay của câu hỏi: những nhu cầu hay câu hỏi này, cũng như sự tìm
kiếm mà chúng đánh dấu sự nhận thức được, thể hiện mỗi một hành vi đồng
hoá thực tại vào cái sau đó.
Điều đó nói lên: là chính đáng không việc quan niệm sự liên can như
một sự việc ban đầu, vừa cảm giác - vận động vừa trí tuệ, nguồn gốc của thói
quen cũng như của sự hiểu thấu? Đó trước tiên chính là với điều kiện, tất
nhiên, không hiểu thuật ngữ đó trong nghĩa lôgích học của mỗi liên hệ cần
thiết giữa các phán đoán mà trong một nghĩa rất chung của một tương quan
cần thiết nào đó. Mà hai yếu tố, được nhìn thấy cùng nhau lần đầu tiên có tạo
ra một tương quan như vậy không? Một con mèo đen được một em bé nhìn
thấy, để lấy lại một ví dụ của Claparède, có đem lại thêm gì nữa, so với lần tri
giác đầu tiên, cái tương quan "mèo liên can đến đen" không ? Nếu hai yeu tố
được thực sự nhìn thấy lần đầu tiên không có những tương đồng và đón
trước nào, chúng chắc chắn sẽ được lồng vào nhau thành một toàn thể tri
giác, thành một gestalt, điều mà luật hợp dính của James hoặc thuyết hỗn
hợp do Claparède viện dẫn biểu đạt dưới một hình thức khác.
Ở đó có cái gì hơn là một kết hợp, điều đó còn là rõ ràng trong chừng
mực mà cái toàn thể là kết quả không phải của sự tụ hội của hai yếu tố được
tri giác trước tiên mỗi cái riêng, mà đúng là của sự hợp nhất tức thì bằng sự
cấu trúc hoá tổng thể. Tuy nhiên đây không phải là một mối liên hệ vì sự cần
thiết: đây là sự khởi đầu của một sem có thể có nhưng không đẻ ra những
quan hệ được cảm nhận như là cần thiết chỉ với điều kiện được tạo dựng với
tính cách là sem thực tại bằng một sự chuyển vị hoặc một sự tổng quát hóa
(vậy là một ứng dụng vào những yếu tố mới), tóm lại bằng cách tạo ra một sự
đồng hoá. Chính sự đồng hoá là ngọn nguồn của cái mà Claparède gọi là sự
liên can: Để diễn đạt bằng sơ đồ, chủ thể không, do vậy, kết thúc ở tương
quan "A liên can X” vào lúc cái A đầu tiên được tri giác với chất lượng X,
nhưng nó được dắt dẫn đến tương quan "A liên can X" trong chừng mực nó
đồng hoá A2 vào sem (A), cái sem này đúng là được tạo ra bằng sự đồng hoá
A2 = A. Con chó tiết nước bọt khi nhìn thấy thức ăn của nó sẽ chỉ tiết nước
bọt như vậy khi nghe tiếng chuông nếu nó đồng hoá tiếng chuông, với tính
cách là dấu hiệu hay là bộ phận của hành vi toàn thể, vào sem của hoạt động
đó. Claparède có lí do để nói rằng không phải sự lặp lại đẻ ra sự liên can mà
chính là chỉ trong tiến trình của sự lặp lại mà sự liện can xuất hiện vì sự liên
can là sản phẩm bên trong của sự đồng hoá, cái bảo đảm sự lặp lại của hành
vi bên ngoài.
Sự can thiệp cần thiết đó của sự đồng hoá đã làm mạnh thêm nữa
những giữ gìn ý tứ mà bản thân Claparède đã buộc phải đưa ra đối với vai trò
chung của sự mầy mò. Trước hết, hiển nhiên là sự mầy mò khi nó xẩy ra
không thể được giải thích bằng những lời lẽ máy móc. Một cách máy móc,
tức là trong giả thuyết của một sự khai thông đơn giản, những sai sót phải xảy
ra ngang bằng với các cuộc thử thành công. Nếu không nằm trong trường
hợp đó, tức là nếu "luật hiệu quả" tác động, đó là lúc diễn ra các lặp lại, chủ
thể đón trước những thất bại và những kết quả. Nói cách khác, mỗi cái thử
tác động đến cái tiếp theo không như một kênh mở đường cho những vận
động mới, mà như một sem cho phép gắn những ý nghĩa cho những cái thử
tiếp sau. Sự mầy mò vậy là không hề loại bỏ sự đồng hoá.
Nhưng còn hơn thế. Những cái thử đầu tiên bản thân chúng khó được
quy về một sự ngẫu nhiên đơn thuần. D.K.Ađams tìm thấy trong các thí
nghiệm về mê lộ những sự vận động tức khắc có định hưóng. w.Dennis, rồi J.
Dashiell nhấn mạnh sự tiếp tục các hướng đã được theo lúc khởi đầu.
Tolman và Krechewsky nói cả về các "giả thiết" để mô tả những chuyển động
của chuột v.v... Từ đó có những giải thích quan trọng mà C.Hull và
C.E.Tolman đã được dẫn tới. Hull nhấn mạnh sự đối lập của các hình mẫu
tâm thần bao gồm phương tiện và mục đích với các mô hình máy móc của sự
khai thông: trong khi ở những mẫu hình sau đường thẳng chiếm ưu thế,
những mẫu hình đầu có sẵn một số con đường có thể theo, số lượng đó càng
nhiều khi hành vi càng phức hợp. Điều đó cũng có nghĩa là ngay ở trình độ
những cư xử cảm giác - vận động làm cầu nối giữa sự tập luyện và trí khôn,
phải dành phần cho cái sẽ thành "tính kết hợp" các thao tác trong những
"nhóm hợp" kết thúc của chúng (chương 2). Còn về phần Tolman, ông làm
nổi bật vai trò của sự khái quát hoá trong việc hình thành bản thân các thói
quen: chính vì vậy mà trước một mê lộ khác với cái mà con vật đã biết, nó tri
giác những tương đồng tổng thể và áp dụng vào trường hợp mới này những
cư xử đã làm nó thành công trong mê lộ trước (đường đi đặc biệt). Vậy luôn
luôn có sự cấu trúc hoá tổng thể, nhưng các cấu trúc đang tác động đối với
Tolman không phải là những "hình thức" đơn giản theo nghĩa của lí thuyết
Koehler: đó là những "Sign-Gestalt”, tức là những sem có ý nghĩa. Tính chất
kép: khái quát hoá được và có ý nghĩa của các cấu trúc mà Tolman xem xét
chứng tỏ đủ rằng đây là cái mà chúng ta gọi là các sem đồng hoá.
Như vậy, từ việc tập luyện sơ đẳng đến trí khôn, sự thụ đắc dường như
bao hàm một hoạt động đồng hoá, cũng cần thiết cho sự cấu trúc hoá những
hình thức thụ động nhất của thói quen (những cư xử điều kiện hoá và những
chuyển tải kết hợp) cũng như cho sự triển khai những biểu lộ tích cực rõ rệt
(sự mầy mò được định hướng). Về mặt này, vấn đề về những quan hệ giữa
thói quen và trí khôn là rất song song với vấn đề các quan hệ giữa trí khôn và
tri giác. Cũng như hoạt động tri giác không đồng nhất với trí khôn nhưng gắn
liền với nó mỗi khi tri giác giải thoát được khỏi sự tập trung vào đồ vật trực
tiếp và hiện tại, cũng vậy hoạt động đồng hoá đẻ ra các thói quen không trùng
khớp với trí khôn nhưng kết thúc ở trí khôn mỗi khi các hệ thống cảm giác -
vận động không thể nghịch đảo và liền nhau được phân hoá và kết hợp lại
thành những khớp nối cơ động. Vả lại, sự gần gũi của hai loại hoạt động sơ
đẳng ấy là tất nhiên, bởi vì tri giác và các vận động thông thường bao giờ
cũng tụ hội thành sem tổng thể không tách ra được và sự "chuyển tải" hoặc
khái quát hoá đặc thù cho thói quen là cái tương đồng đúng trong trật tự vận
hành của sự chuyển vị trên bình diện những hình không gian, cả hai giả định
một sự đồng hoá khái quát hoá như nhau.
* SỰ ĐỒNG HOÁ CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG VÀ SỰ NẢY SINH TRÍ KHÔN Ở TRẺ EM
Tìm hiểu trí khôn nảy sinh như thế nào từ hoạt động đồng hoá đã đẻ ra
trước đó các thói quen, chính là chỉ ra cách thế nào sự đồng hoá cảm giác -
vận động đó được thực hiện thành những cấu trúc luôn luôn cơ động hơn và
có ứng dụng luôn luôn rộng rãi hơn, xuất phát từ điểm mà ở đó đời sống tinh
thần tách khỏi đời sống thể chất.
Ngay từ những lắp ráp di truyền, người ta chứng kiến, bên cạnh tổ
chức bên trong và có tính chất sinh lí học của các phản xạ, những hiệu quả
tích tụ của sự luyện tập và những khởi đầu của sự tìm tòi đánh dấu những
khoảng cách đầu tiên nhờ đó chúng tôi đã định nghĩa sự "cư xử”, (chương I).
Một trẻ sơ sinh được nuôi bằng thìa sau đó có khó khăn trong việc bú vú mẹ.
Khi nó bú vú mẹ ngay từ lúc bắt đầu, sự khéo léo tăng đều đặn; đặt cạnh vú
mẹ, nó tìm vị trí tốt và luôn luôn tìm ra vị trí đó nhanh hơn. Mút bất cứ cái gì,
nhưng nó nhanh chóng vứt bỏ ngón tay mà giữ lại cái vú. Giữa các bữa ăn,
nó mút trống không v.v... Những quan sát nhàm chán đó chứng tỏ rằng ngay
ở bên trong trường khép kín của các cơ chế được sắp xếp theo di truyền, đã
nổi lên một khởi đầu đồng hoá tái tạo kiểu chức năng (tập luyện), đồng hoá
khái quát hoá hay chuyển vị (mở rộng sem phản xạ tới những khách thể mới)
và đồng hoá xác nhận (phân biệt các tình huống).
Chính là trong bối cảnh đã tích cực này mà những thụ đắc đầu tiên đến
lồng vào nhờ kinh nghiệm (vì sự tập phản xạ chưa dẫn đến một sự thụ đắc
thực tại mà chỉ dẫn đến một sự củng cố giản đơn). Dù là một sự kết hợp bề
ngoài thụ động, như một sự điều kiện hoá (chẳng hạn một dấu hiệu khởi động
một thể vị đón trước việc bú) hoặc là một sự mở rộng hồn nhiên trường áp
dụng các phản xạ (chẳng hạn mút có hệ thống ngón tay cái bằng cách kết
hợp các cử động của cánh tay và tầm tay với các cử động của miệng), các
hình thức sơ đẳng của thói quen bắt nguồn từ một sự đồng hoá những yếu tố
mới vào các sem có trước, là một loại sem phản xạ. Nhưng điéu quan trọng là
hiểu ràng sự mở rộng sem phản xạ bằng cách sáp nhập những yếu tố mới sẽ
mang lại do ngay điều đó sự hình thành một sem cao cấp hơn (thói quen với
tính cách như thế), nó hòa nhập với sem cấp thấp hơn (phản xạ). Sự đồng
hoá một yếu tố mới vào một sem có trước vậy là bao hàm sự hoà nhập sem
này vào một sem cao cấp hơn.
Tuy nhiên, ắt hẳn là ở trình độ của những thói quen đầu tiên, người ta
chưa thể nói tới trí khôn. So sánh với các phản xạ, thói quen có một trường
ứng dụng có khoảng cách lớn hơn trong không gian và thời gian. Nhưng ngay
cả được nới rộng, những sem đầu tiên này vẫn còn là liền một cái, chưa có
tính cơ động bên trong và cũng chưa có kết hợp cái này với cái kia. Những
khái quát hoá mà các sem này có thể có cũng chỉ mới là những chuyển tải
vận động cơ thể so sánh với những chuyển vị tri giác đơn giản nhất và dù
chúng có sự liên tiếp chức năng với các giai đoạn sau, chưa có gì cho phép
so sánh chúng với bản thân trí khôn qua cấu trúc của chúng.
Ở một trình độ thứ ba, trái lại trình độ này bắt đầu sự kết hợp giữa thị
giác và sự cầm nắm (giữa 3 và 6 tháng, thường vào khoảng 4,6) - nổi lên
những cư xử mới chuyển tiếp giữa thói quen đơn giản và trí khôn. Giả định
một hài nhi trong nôi, đình màn được cuốn lên và từ đó treo lủng lẳng cả một
dây các lúc lắc cùng với một sợi dây tự do: đứa trẻ chộp lấy sợi dây và lúc đó
làm rung động toàn bộ bộ sậu mà không chờ đợi và cũng không hiểu về chi
tiết các quan hệ không gian và thời gian. Ngạc nhiên về kết quả, bé tìm sợi
dây và bắt đầu lại tất cả trong nhiều lần. J.M.Baldwin gọi là "phản ứng vòng
tròn" sự tái tạo tích cực này của một kết quả đạt được lần đầu do tình cờ.
Phản ứng vòng tròn như vậy là một ví dụ điển hình của sự đồng hoá tái tạo.
Cử động đầu tiên được thực hiện kèm theo kết quả của nó, tạo thành một
hoạt động tổng thể, nó tạo ra một nhu cầu mới mỗi khi các đồ vật (khách thể)
mà nó có liên quan đã trở về trạng thái ban đầu của chúng: những khách thể
này lúc đó được đồng hoá vào hoạt động trước (đã vì thế được nâng lên
hàng sem), điều đó khởi động sự tái tạo ra nó và cứ thế tiếp diễn... Mà cơ chế
này là đồng nhất với cơ chế đã nằm ở điểm xuất phát của các thói quen sơ
đẳng, trừ phi ở trường hợp này phải ứng vòng tròn thuộc về chính cơ thể (vậy
chúng ta hãy gọi phản ứng vòng tròn sơ cấp cái phản ứng ở trình độ trước,
như cái sem mút ngón tay cái) còn như từ nay, nhờ có sự cầm nắm nó thuộc
về các khách thể bên ngoài (chúng ta hãy gọi là phản ứng vòng tròn thứ cấp
những cư xử liên quan đến các khách thể này, trong khi vẫn nhớ rằng chúng
chưa hề được đứa trẻ cụ thể hóa).
Phản ứng vòng tròn thứ cấp vậy là còn tham gia, ở điểm xuất phát của
nó, trừ những cấu trúc riêng, đến những thói quen đơn giản. Là cư xử liền
một mẻ lặp lại thành một khối không có mục đích đặt trước, và với việc sử
dụng những ngẫu nhiên đột hiện trên đường đi, chúng không có gì của một
hành vi trí khôn hoàn chỉnh, và hãy đề phòng đừng phản chiếu vào trí óc của
chủ thể những khác biệt mà chúng ta sẽ làm thay nó giữa một phương tiện
khởi đầu (khéo sợi dây) và một mục đích kết thúc (lay đỉnh màn) và đừng gắn
cho nó những khái niệm khách thể và khoảng cách mà chúng ta gắn với một
tình huống đối với nó là không được phân tích và là tổng thể. Tuy nhiên ngay
khi cư xử được tái tạo vài lần, người ta thoáng thấy rằng nó có một xu hướng
kép: làm trật khớp và lắp khớp lại, ở bên trong, các yếu tố của nó và khái quát
hoá hoặc chuyển vị tích cực trước những dữ kiện mới không có quan hệ trực
tiếp với những dữ kiện trước đó. Về điểm thứ nhất, quả là người ta nhận thấy
rằng sau khi theo dõi các sự cố theo thứ tự sợi dây - sự rung chuyển - các lúc
lắc, sự cư xử trở nên có khả năng khởi đầu sự phân tích: việc nhìn thấy các
lúc lắc đứng yên và đặc biệt sự khám phá ra một đồ vật mới được treo lên
đình màn sắp phát động việc tìm kiếm sợi dây. Tuy chưa có ở đó sự nghịch
đảo thực thụ, rõ ràng là có liên hệ trong sự cơ động và hầu như có khớp nối
của cư xử thành một phương tiện (được tạo dựng lại sem đó) và một mục
đích (được đặt ra sau đó). Mặt khác nếu người ta đặt đứa trẻ trước một tình
huống hoàn toàn mới, như cảnh tượng của một sự vận động ở cách trẻ 2 -
3m hoặc cả việc nghe một tiếng động nào đó trong phòng, xẩy ra việc đứa trẻ
tìm và kéo cùng một sợi dây đó, như để làm cho cảnh tượng bị ngắt quãng
tiếp tục ở xa. Mà cư xử mới này (nó xác nhận sự thiếu vắng những tiếp xúc
không gian và tính nhân quả hiểu được) chắc chắn tạo thành một khởi đầu
tổng quát hóa thực sự.
Trong trình độ thứ tư, quả là sự vật trở thành sáng tỏ. Từ khoảng 8-10
tháng, những sem được tạo dựng bởi những phản ứng thứ cấp trong tiến
trình của giai đoạn trước, trở nên có khả năng tự kết hợp lại với nhau, những
cái này được sử dụng làm phương tiện và những cái khác định một mục đích
cho hành động. Chính vì vậy mà muốn nắm bắt một mục tiêu đặt sau một
màn che toàn bộ hoặc một phần mục tiêu đó, đầu tiên đứa bé gạt màn che
(bằng cách sử dụng những sem nắm bắt hoặc đánh đập v.v...), đoạn nó
chiếm lấy mục tiêu. Từ đó trở đi, do vậy, mục đích được đặt ra trước các
phương tiện, bởi vì chủ thể có ý định tóm lấy mục tiêu trước khi có ý định
chuyển chỗ cái trở ngại, điều đó giả định một sự khớp nối cơ động các sem
sơ đẳng tạo nên cái sem tổng thể. Mặt khác, cái sem tổng thể mới trở nên có
khả năng tổng quát hoá rộng lớn hơn nhiều so với trước đó. Tính cơ động đó,
nối với sự tiến bộ trong sự khái quát hoá, được đánh dấu bởi sự việc là trước
một đồ vật mới, đứa trẻ lần lượt thử các sem cuối cùng có được trước đó
(nắm bắt, đánh đập, lay, cọ xát v.v...), những cái này như thế là được sử
dụng với tính cách là khái niệm cảm giác - vận động, nếu người ta có thể nói,
làm như chủ thể tìm hiểu khách thể (đồ vật) mới bằng việc sử dụng (theo kiểu
những "định nghĩa do công dụng" mà mãi lâu về sau người ta mới tìm thấy lại
trên bình diện lời nói).
Các cư xử của trình độ bốn này chứng thực một sự biểu lộ kép theo
hướng của sự cơ động và sự mở rộng trường ứng dụng của các sem. Những
đoạn đường mà hành động đã đi qua, nhưng cả các đón trước và các tái tạo
cảm giác - vận động đã đi qua, giữa chủ thể và các khách thể không còn như
ở các giai đoạn trước của những đoạn đường trực tiếp và đơn giản: thẳng
như trong tri giác hoặc lắp lái máy móc và một chiều như trong những phản
ứng vòng tròn. Các hành trình bắt đầu biến đổi và việc sử dụng các sem có
trước bắt đầu đi qua những khoảng cách lớn hơn trong thời gian. Chính đó là
cái đặc trưng cho sự nối liền các phương tiện và các mục đích từ nay đã
được phân hoá và chính vì vậy mà người ta có thể bắt đầu nói về trí khôn
thực thụ. Nhưng ngoài sự liên tục nó nối liền trí khôn với các cư xử trước đó,
phải nhận thấy sự hạn chế của trí khôn đang nảy nở: không có sáng tạo,
không có khám phá những phương tiện mới mà chỉ đơn giản áp dụng những
phương tiện đã biết vào các hoàn cảnh không dự kiến trước.
Hai sự thụ đắc đặc trưng cho trình độ tiếp theo, cả hai điều có quan hệ
đến việc sử dụng kinh nghiệm. Các sem đồng hoá được mô tả cho đến nay
tất nhiên được điều ứng một cách liên tục với các dữ kiện bên ngoài. Nhưng
sự điều ứng này có thể nói là phải bị chịu hơn là được tìm kiếm: chủ thể hoạt
động theo những nhu cầu của mình và hoạt động đó hoà hợp với thực tại
hoặc gặp những chống đối mà nó tìm cách quay đi. Những cái mới tình cờ
xuất hiện đều hoặc bị xem nhẹ hoặc đồng hoá vào những sem có trước và
được tái tạo bằng phản ứng vòng tròn. Trái lại, đến một lúc mà cái mới tự nó
gây hứng thú, điếu đó tất yếu giả định một sự trang bị đầy đủ các sem để có
thể các so sánh xẩy ra và sự việc mới khá tương hỗ với cái đã biết để làm
chú ý và khá khác để tránh được sự bão hoà. Các phản ứng vòng tròn lúc
này bao gồm việc tái tạo sự việc mới nhưng với những biến đổi và những
thực nghiệm tích cực nhằm từ đó chính xác là để rút ra những khả năng mới.
Đã khám phá ra bằng cách đó đường rơi của một vật, đứa bé tìm cách quăng
nó theo nhiều cách khác nhau hoặc từ những điểm xuất phát khác nhau.
Người ta có thể gọi là "phản ứng vòng tròn cấp thứ ba" sự đồng hoá tái tạo
này với sự điều ứng có phân hoá và có ý định
Từ đó, khi các sem được kết hợp với nhau trên tính cách phương tiện
và mục đích, đứa trẻ không còn giới hạn trong việc áp dụng các phương tiện
đã biết vào những tình huống mới; nó phân hoá cái sem này dùng làm
phương tiện bằng một thứ phản ứng vòng tròn cấp thứ ba, và do đó đi đến
chỗ tìm ra những phương tiện mới. Chính bằng cách đó mà một loạt cư xử
được luyện thành, tính chất trí khôn của những cư xử này không một người
nào đặt vấn đề nghi ngờ: kéo về cho mình mục tiêu nhờ trung gian của cái giá
mà mục tiêu nằm trên đó, của sợi dây tạo nên cái kéo dài hoặc cả một cái gậy
dùng làm trung gian độc lập. Nhưng dù cư xử cuối cùng phức hợp đến đâu,
phải hiểu rõ rằng trong những trường hợp thông thường nó không xuất hiện
đột ngột, và trái lại được chuẩn bị bằng cả một chuỗi những quan hệ và
những ý nghĩa do hoạt động của các sem: tương quan phương tiện và mục
đích, khái niệm của một đồ vật có thể làm một vật khác vận động V.V.. Cư xử
bằng cái giá về mặt này là đơn giản nhất: không trực tiếp với tới mục tiêu, chủ
thể móc các đầ vật đặt giữa hai (cái thân trên đó được đặt cái đồ chơi mong
ước v.v...). Những chuyển động mà sự cầm nắm tấm thảm ấy cho mục tiêu
vẫn chưa có ý nghĩa ở các trình độ trước; có được những tương quan cần
thiết, chủ thể trái lại hiểu tức khắc việc sử dụng có thể có của cái giá. Trong
những trường hợp như vậy, người ta biết vai trò thật của sự mầy mò trong
hành vi trí khôn; được điều khiển vừa bởi cái sem gán một mục đích cho hành
động, vừa bởi cái sem được chọn làm phương tiện ban đầu, và lại sự mầy
mò không ngừng được định hướng, trong tiến trình những cuộc thử liên tiếp,
bởi những sem có khả năng cung cấp một ý nghĩa cho các sự cố ngẫu nhiên
được sử dụng như vậy một cách thông minh. Sự mầy mò thế là không bao
giờ thuần tuý mà chỉ tạo thành cái lề điều ứng tương hợp tích cực với những
kết hợp đồng hoá, chính những kết hợp này mới tạo thành cái chủ yếu của trí
khôn.
Cuối cùng, một trình độ thứ sáu choán một phần của năm thứ hai đánh
dấu sự kết thúc của trí khôn cảm giác - vận động: trong khi mà những
phương tiện mới đều được chuyên nhất khám phá bằng thực nghiệm tích
cực, như ở trình độ trước, từ nay có thể có sự sáng tạo bằng kết hợp, bên
trong và nhanh chóng, những cách thức mà chủ thể còn chưa biết. Chính là
thuộc về loại hình cuối cùng này những sự việc tái cấu tạo đột ngột mà
Koehler mô tả trên những con hắc tinh tinh và Aha.Erlebnis của K.Buhler cũng
mô tả, hoặc cảm giác của một sự thấu hiểu đột ngột. Ở những đứa bé chưa
có dịp thực nghiệm trên những cái gậy trước đó, xảy ra tình hình là sự tiếp
xúc lần đầu với cái gậy khởi động sự thấu hiểu về những quan hệ có thể có
của nó với mục tiêu phải đạt tới và điều đó, không có sự mầy mò thực tại. Mặt
khác dường như hiển nhiên là một số trong các chủ thể của Koehler đã sáng
tạo ra việc sử dụng gậy có thể nói là dưới mắt ông và không có luyện tập
trước.
Vấn đề lớn lúc này là nắm bắt cơ chế của những phối hợp bên trong
này, chúng giả định đồng thời sự sáng tạo không mầy mò và một sự đón
trước của trí óc gắn với biểu tượng. Chúng ta đã thấy lí thuyết hình thức giải
thích vấn đề không viện dẫn đến kinh nghiệm đã thu được và bằng một sự tái
cấu trúc tri giác đơn giản.
Nhưng ở đứa hài nhi, không thể không thấy trong những ứng xử của
giai đoạn thứ sáu này sự kết thúc của toàn bộ sự phát triển đặc thù cho năm
giai đoạn trước. Quả vậy, rõ ràng là khi đã quen với các phản ứng vòng tròn
cấp thứ ba và với những mầy mò thông minh tạo thành một thực nghiệm tích
cực thực sự, sớm hay muộn đứa trẻ có khả năng có một sự nội hiện các cư
xử đó. Khi thôi hành động trước những dữ kiện của bài toán, chủ thể tỏ ra suy
nghĩ (một trong những đứa con của chúng tôi, sau khi đã mầy mò không có
kết quả để làm to một khe mở của bao diêm, ngừng hoạt động của nó lại,
nhìn chăm chú khe hở đoạn mở và khép cái mồm của chính mình), tất cả như
chỉ ra rằng nó tiếp tục tìm tòi, nhưng bằng các cuộc thử bên trong hoặc bằng
hành động nội hiện (những cử động bắt chước của mồm trong ví dụ trước là
một dấu hiệu rất rõ của thứ suy nghĩ vận động này). Cái gì đã xảy ra lúc đó và
cắt nghĩa như thế nào sự sáng tạo mà ở đó bao hàm lời giải đột ngột? Các
sem cảm giác vận động, đã trở thành đủ cơ động và có khả năng kết hợp với
nhau, gây nên những đồng hoá qua lại khá hồn nhiên để không còn cần đến
những mầy mò hữu hiệu và khá nhanh để tạo nên cảm tưởng của những cấu
trúc lại tức thì. Sự phối hợp bên trong các sem đối với sự phối hợp bên ngoài
của các trình độ trước cũng như ngôn ngữ bên trong, phác thảo đơn giản
được nội hiện và nhanh chóng của lời nói đơn giản, so với ngôn ngữ bên
ngoài.
Nhưng sự hồn nhiên và tốc độ lớn hơn của sự kết hợp đồng hoá giữa
các sem đã đủ hay chưa để giải thích sự nội hiện các cư xử, hoặc một khởi
đầu của biểu tượng phải chăng đã xảy ra ở trình độ hiện tại, báo trước sự
chuyển tiếp từ trí khôn cảm giác - vận động sang tư duy thực sự? Độc lập với
sự xuất hiện của ngôn ngữ mà trẻ con bắt đầu thụ đắc ở những lứa tuổi này
(nhưng thiếu cho hắc tinh tinh mặc dầu con này có năng lực sáng tạo đặc biệt
thông minh) có hai loại sự việc ở lứa tuổi này chứng tỏ một sự mầm mống
cho biểu tượng, nhưng một mầm móng chưa hề vượt quá trình độ của biểu
tượng khá thô sơ đặc thù cho con hắc tinh tinh. Một mặt đứa bé trở nên có
khả năng của sự bắt chước hoãn lại, tức là của một bản sao xuất hiện lần đầu
tiên sau sự biến mất về mặt tri giác của mẫu: mà dù cho sự bắt chước được
hoàn lại phát sinh từ biểu tượng có hình ảnh hoặc nó là nguyên nhân, nó
chắc chắn gắn liền chặt chẽ với hiện tượng có hình vẽ (chúng tôi sẽ trở lại
vấn đề này ở chương 5). Mặt khác cùng trong thời gian đó, trẻ đi đến hình
thức sơ đẳng nhất của trò chơi tượng trưng, bằng cách gợi lên nhờ vào cơ
thể riêng một hành động xa lạ với bối cảnh hiện thời (chẳng hạn, giả vờ ngủ
để đùa chơi trong lúc vẫn hết sức tỉnh), ở đây một lần nữa xuất hiện một thứ
hình ảnh để chơi tức là biết vận động, nhưng đã là hầu như biểu tượng.
Những hinh ảnh bằng hành động, đặc trưng cho sự bắt chước bị hoãn lại và
cho biểu trưng trò chơi đang nảy nở không can thiệp, với tính cách là những
cái biểu đạt, hay sao vào sự kết hợp được nội hiện của những sem? Đó là
điều mà hình như ví dụ vừa đưa ra lúc nãy đã chỉ rõ; ví dụ này là về đứa trẻ
bắt chước bằng mồm cách mở rộng cái khe hở trông thấy trên một cái hộp
mà nó đang thực sự tìm cách mở.
* SỰ TẠO DỰNG KHÁCH THỂ VÀ CÁC TƯƠNG QUAN KHÔNG GIAN
Người ta vừa mới ghi nhận sự nối tiếp chức năng đáng chú ý gắn liền
các cấu trúc liên tiếp mà đứa trẻ tạo dựng xuất phát từ sự hình thành các thói
quen sơ đẳng cho đến những hành vi sáng tạo hồn nhiên và đột ngột đặc thù
cho những hình thức cao nhất của trí khôn cảm giác - vận động. Như vậy sự
gần gũi của thói quen và trí khôn trở nên rõ rệt, cả hai đều bắt nguồn từ sự
đồng hoá cảm giác - vận động, nhưng ở những trình độ khác nhau. Điều còn
lại bây giờ là trở lại với những gì chúng ta đã nói ở trên (chương III) về sự
gần gũi giữa trí khôn và hoạt động tri giác, cả hai đều cùng dựa vào sự đồng
hoá cảm giác - vận động và ở những trình độ khác nhau: cái này mà sự đồng
hoá làm nảy sinh sự chuyển vị tri giác (bà con thân thuộc của sự chuyển tải
những vận động quen thuộc) và cái kia được đặc trưng bởi sự khái quát hoá
đặc biệt thông minh.
Mà không gì có tính chất chuyên biệt để nêu bật những mối liên hệ, vừa
rất đơn giản ở nguồn gốc chung của chúng và rất phức tạp ở sự phân hoá đa
dạng của chúng, của tri giác, thói quen và trí khôn bằng phân tích sự tạo
dựng cảm giác - vận động của những sem cơ bản của đồ vật và của không
gian (và lại không thể tách rời với tính nhân quả và thời gian). Quả vậy, sự tạo
dựng này là tương liên chặt chẽ với sự phát triển mà chúng tôi vừa nhắc lại
khi nói đến trí khôn trước lời nói. Nhưng mặt khác sự tạo dựng đó đòi hỏi ở
mức độ cao một tổ chức của những cấu trúc trí giác và của những cấu trúc
hoàn toàn gắn bó với tính vận động triển khai thành thói quen.
Quả vậy, cái sem của khách thể là gì ? Đó là chủ yếu một sem của trí
khôn: có khái niệm về khách thể tức là gắn cái hình ảnh tri giác được vào một
cái giá có tính thực thể, làm sao để hình ảnh và thực thể mà nó là dấu hiệu
bằng cách đó tiếp tục tồn tại ở bên ngoài trường tri giác. Sự bền lâu (tính
thường trực) của khách thể, xét dưới góc độ này là không chỉ một sản phẩm
của trí khôn, mà bao hàm cái khái niệm đầu tiên trong những khái niệm cơ
bản của sự bảo toàn, mà chúng ta sẽ thấy sự phát triển trong lòng của tư duy
(chương 5). Nhưng do sự việc là nó tự bảo toàn và nó tự quy ngay vào sự
bảo toàn đó với tính cách là như thế, vật rắn (cái duy nhất phải xét tới lúc
đầu) cũng giữ lại kích thước và hình dạng của nó: mà tính thường trực của
các hình dạng và độ lớn là một sem thuộc về tri giác ít nhất cũng bằng thuộc
về trí khôn. Cuối cùng, hiển nhiên là cả dưới những loại của tính thường trực
tri giác cũng như dưới những loại của sự bảo toàn ở phía bên kia của trường
tri giác hiện thời, khách thể (đồ vật) gắn liền với một loạt thói quen vận động,
vừa là nguồn gốc vừa kết quả của sự tạo dựng cái sem đó. Như vậy, người ta
thấy là đương nhiên biết mấy việc làm sáng tỏ những tương quan thật giữa trí
khôn, sự tri giác và thói quen.
Mà cái sem của khách thể được tạo dựng như thế nào? Ở trình độ
phản xạ, chắc chắn là không có khách thể, vì phản xạ là sự ứng đáp với một
tình huống, và nếu cái kích thích và cả hành vi được phát động không đòi hỏi
gi khác ngoài những phẩm chất dành cho các bức tranh tri giác, không cần có
tầng nền là một thực thể: khi đứa hài nhi tìm và tìm thấy cái vú, không cần nó
làm cái vú thành một khách thể mà tình huống chính xác của việc bú cũng
như sự thường trực của cái thể vị, đủ để không cần sự can thiệp của các sem
phức hợp hơn trình bày những ứng xử này. Ở trình độ những thói quen đầu
tiên, sự kiểm nhận cũng không bao hàm khách thể, vì nhận ra một bức tranh
tri giác không đòi hỏi một sự tin tưởng nào về sự tồn tại của yếu tố được tri
giác ngoài những tri giác và kiểm nhận hiện tại; mặt khác gọi bằng tiếng kêu
một người vắng mặt chỉ đơn giản yêu cầu sự đón trước khả năng trở về của
người đó, với tính cách là bức tranh tri giác đã biết, chứ không phải sự định vị
về không gian trong một thực tế được tổ chức, của người đó với tư cách là
một khách thể có tính thực thể. Trái lại, theo dõi bằng mắt một hình đang
chuyển động và tiếp tục tìm vào lúc nó đã biến mất; quay đầu để nhìn về phía
một tiếng động v.v... tạo thành những khởi đầu của sự thường trực thực hành
nhưng chỉ duy nhất gắn với hành động đang tiến hành: đó là những đón trước
tri giác - vận động và những mong đợi, nhưng được tri giác và cử động ngay
kể trước xác định, chứ hoàn toàn chưa phải là những tìm kiếm tích cực khác
biệt với cử động đã được phác ra, hoặc được xác định bởi sự tri giác hiện tại.
Trong tiến trình của giai đoạn thứ ba (phản ứng vòng tròn thứ cấp) sự
việc đứa trẻ trở thành có khả năng nắm lấy cái gì nó thấy cho phép kiểm tra
những giải thích đó. Theo Ch.Buhler, chủ thể ở trình độ này đạt kết quả lấy đi
cái khăn mà người ta dùng để bao bọc mặt nó. Nhưng chúng ta cũng có thể
chỉ ra rằng ở cùng trình độ đó đứa bé không hề tìm cách loại bỏ cái khăn đặt
trên đồ vật nó ưa thích và điều đó ngay cả khi nó đã phải ra một cử động nắm
bắt đối với mục tiêu còn thấy được: trẻ cư xử như đồ vật tan đi trong cái khăn
và thôi không còn tồn tại vào đúng lúc đồ vật đó ra khỏi trường tri giác; hoặc
nữa, điều này cũng là thế thôi, trẻ không có một cư xử nào cho phép nó tìm
lại bằng hành động (lấy màn che đi) hoặc bằng ý nghĩ (tưởng tượng) đồ vật
đã biến mất. Tuy nhiên, ở trình độ này hơn ở trình độ trước, trẻ dành cho mục
tiêu của một hành động đang tiến hành một thứ tính thường trực thực hành
hoặc một thứ nối tiếp tạm thời: trở lại với một đồ chơi sau khi đã xao lãng nó
(phản ứng vòng tròn hoãn lại), đón trước vị trí của đồ vật trong trường hợp rơi
v.v... Nhưng thế là chính hành động đem lại cho đồ vật một sự bảo toàn nhất
thời và đồ vật thôi không còn sự bảo toàn đó sau khi hành động đang tiến
hành kết thúc.
Trái lại, ở giai đoạn thứ tư (sự kết hợp những Sem đã biết), trẻ bắt đầu
tìm đồ vật sau cái màn che, điều đó tạo thành sự khởi đầu của những cư xử
có phân biệt liên quan đến đồ vật đã biến mất, và do đó sự bằt đầu của sự
bảo toàn thực thể. Nhưng người ta thường quan sát một phản ứng lí thú
chứng tỏ rằng thực tế mới nảy sinh này chưa được cá thể hoá, và do đó vẫn
còn gắn liền với hành động với tính cách là như thế: nếu đứa trẻ tìm một đồ
vật ở A (chẳng hạn dưới cái đệm ở bên phải nó) và nếu nguời ta di chuyển
dưới mắt nó cùng đồ vật đó sang B (cái đệm khác, nhưng ở bên trái nó), trẻ
quay trở về A trước tiên, làm như đồ vật bị biến đi ở B sắp được tìm thấy lại ở
vị trí ban đầu của đồ vật đó! Nói cách khác, đồ vật còn gắn bó với một hoàn
cành tổng thế được đặc trưng bởi hành động vừa mới thành công, và không
luôn luôn bao gồm cả sự cá thể hoá thực thể lẫn sự kết hợp các cử động liên
tiếp.
Ở giai đoạn thứ năm, những giới hạn này biến mất, trừ trong trường
hợp mà một biểu tượng của những đoạn đường đi không nhìn thấy là cần
thiết cho lời giải của bài toán, và ở giai đoạn thứ sáu ngay cả điều kiện đó
cũng không còn là trở ngại cơ bản.
Vậy hiển nhiên rằng, được chuẩn bị bằng sự nối tiếp những cử động
thông thường, sự bảo toàn đồ vật là sản phẩm của những kết hợp các sem,
mà cái đó bao hàm trí khôn cảm giác - vận động. Trước tiên là sự kéo dài
những kết hợp dành riêng cho thói quen, khách thể vậy là được bản thân trí
khôn tạo dựng, mà khách thể đó tạo thành cái không biến đổi đầu tiên: cái
không biến đổi cần thiết để xây dựng không gian, tính nhân quả được không
gian hoá, và một cách khái quát, cần thiết cho mọi hình thức đồng hoá vượt
quá trường tri giác hiện tại.
Nhưng nếu những giây liên hệ đó với thói quen và trí khôn là hiển
nhiên, những quan hệ của đồ vật với các sự không đổi của tri giác về hình
dáng và độ lớn cũng không kém phần hiển nhiên.
Ở giai đoạn thứ ba trong các giai đoạn được phân biệt trên kia, một
đứa trẻ được đưa cho cái bầu sữa lật ngược thử mút cái đáy bằng chai nếu
nó không nhìn thấy ở phía kia cái núm vú bằng cao su. Nếu nó thấy, nó xoay
bầu sữa lại (chứng tỏ không có sự cản trở thuộc loại vận động), nhưng nếu
sau khi đã bú cái đầu sai nó nhìn toàn bộ bầu sữa (mà người ta đưa cho nó
theo chiều thẳng đứng) và tham dự vào sự quay vòng của nó, nó vẫn không
xoay ngược được nó lại, ngay khi cái núm vú trở nên không thể nhìn thấy: đối
với nó hình như cái núm vú tan vào cái lọ bằng chai, trừ phi nó nhìn thấy cái
núm vú đó. Sự ứng xử điển hình của sự không bảo toàn của đồ vật kéo theo
một sự không bảo toàn của hình dáng, ở giai đoạn sau, trái lại, tương liên với
sự tạo dựng đồ vật thường trực, cái bầu sữa tức khắc bị lật ngược lại, và vì
vậy được tri giác như một hình dáng trên đại thể vẫn là không thay đổi mặc
cho những quay vòng của nó. Mà cùng ở trình độ đó, người ta cũng thấy đứa
trẻ chú ý, bằng cách di chuyển dần dần cái đầu, đến những thay đổi của hình
dạng đồ vật, dưới ảnh hưởng của phối cảnh.
Còn về sự không đổi của các độ lớn mà Brunswick gần đây đã thử lại
sự vắng mặt trong những tháng đầu tiên, nó cũng được xây dựng trong tiến
trình của giai đoạn thứ tư và chủ yếu là trong giai đoạn thứ năm. Người ta
thấy đứa bé đưa ra xa và xích lại gần mắt mình một đồ vật cầm trong tay, như
để xem xét những thay đổi tuỳ thuộc ở chiều sâu. Vậy là có sự tương liên
giữa sự xây dựng các sự không đổi này của tri giác và sự bảo toàn đồ vật do
trí khôn.
Mà dễ dàng nắm bắt được cái quan hệ nối liền hai thứ thực tế này. Nếu
các sự không đổi đúng là sản phẩm của những sự chuyển tải, những sự
chuyển vị và của sự điều tiết của chúng, điều rõ ràng là những cơ chế điều
tiết đó liên quan đến tính vận động cũng ngang bằng với sự tri giác. Những
sự không đổi về tri giác của hình dạng và độ lớn sẽ được bảo đảm như thế
bằng một sự đồng hoá cảm giác - vận động bằng cách chuyển tải hoặc
chuyển vị các tỉ số đang tác động trong khi có những thay đổi về vị trí hoặc về
độ xa của những đồ vật được tri giác, cũng như cái sem của đồ vật thường
trực là do một sự đồng hoá cảm giác - vận động gây nên việc tìm kiếm đồ vật
mỗi khi đồ vật này ra khỏi trường tri giác, và do vậy gắn cho nó một sự bảo
toàn phát sinh từ sự nối tiếp của hành động riêng rồi phản chiếu thành những
đặc tính bên ngoài. Vậy người ta có thể thừa nhận rằng chính là cùng những
sem đồng hoá ấy, điều chỉnh, bằng những vận chuyển và những chuyển vị,
sự không thay đổi của các hình dạng và các độ lớn của đồ vật được tri giác
và quy định sự tìm kiếm nó khi nó thôi không là nó nữa: vậy là vì đồ vật được
tri giác không thay đổi mà nó được tìm kiếm sau khi nó biến mất, và chính vì
nó gây ra một sự tìm kiếm tích cực khi nó không còn có thể tri giác mà nó
được tri giác không đổi khi nó lại trở thành có thể tri giác được. Hai mặt hoạt
động tri giác và trí khôn quả là ít bị phân hoá hơn nhiều trên bình diện cảm
giác - vận động so với trường hợp giữa sự tri giác và trí khôn ngẫm nghĩ, bởi
vì trí khôn ngẫm nghĩ này dựa trên những cái biểu đạt gồm những từ hoặc
những hình, ảnh trong khi trí khôn cảm giác - vận động chỉ dựa trên bản thân
những tri giác và trên các cử động.
Vậy người ta có thể quan niệm hoạt động tri giác, nói chung và cũng
như trong ví dụ về những sự không đổi như là một trong những mặt của bản
thân trí khôn cảm giác - vận động: mặt bị hạn chế trong trường hợp mà đồ vật
đi vào các quan hệ trực tiếp và hiện tại với chủ thể trong khi trí khôn cảm giác
- vận động, bằng cách tràn ra ngoài trường tri giác, đón trước và tái tạo các
quan hệ sẽ phải tri giác về sau hoặc đã được tri giác trước đây. Sự thống
nhất của các cơ chế liên quan đến sự đồng hoá cảm giác - vận động như vậy
là hoàn chỉnh, điều mà lí thuyết hình thức có công nêu bật, nhưng là điều phải
giải thích theo hướng của hoạt động của chủ thể, tức là theo hướng của sự
đồng hoá chứ không phải theo hướng của các hình thức tĩnh tại bị áp đặt
không phụ thuộc vào sự phát triển của trí tuệ.
Nhưng một vấn đề lúc này xuất hiện mà sự bàn cãi dẫn đến việc nghiên
cứu không gian. Các sự không đổi của tri giác là sản phẩm của những điều
tiết đơn giản và người ta đã thấy (ở chương 3) rằng sự thiếu vắng, ở mọi lứa
tuổi, những sự không đổi tuyệt đối và sự tồn tại những sự "siêu không đổi"
của người lớn chứng tỏ tính chất điều tiết chứ không phải tính chất thao tác
của hệ thống, huống chi tình hình là như vậy trong hai năm đầu tiên. Sự xây
dựng không gian không kết thúc, trái lại, khá nhanh hay sao ở một cấu trúc
của các nhóm hợp và cả các nhóm, phù hợp với giả thuyết nổi tiếng của
Poincaré về ảnh hưởng, đầu tiên về mặt tâm lí học, của "nhóm các sự chuyển
chỗ"?.
Sự phát sinh của không gian trong trí khôn cảm giác - vận động bị chế
ngự hoàn toàn bằng sự tổ chức luỹ tiến của các vận động và những vận động
này hướng thực sự về một cấu trúc “nhóm". Nhưng trái với những gì Poincaré
suy nghĩ về tính chất tiên nghiệm của nhóm các sự chuyển chỗ, nhóm được
xây dựng dần dần với tính cách là hình thức cân bằng cuối cùng của tổ chức
vận động này: đó là những sự kết hợp liên tiếp (sự cấu tạo), những sự quay
về (tính nghịch đảo) những sự quay vòng (tính kết hợp) và những sự bảo
toàn vị trí (sự đồng nhất), tất cả những cái đó dần dần đẻ ra cái nhóm với tính
cách là sự cân bằng cần thiết của các hành động.
Ở trình độ của hai giai đoạn đầu (phản xạ và thói quen sơ đẳng) người
ta không thể nói đến một không gian chung cho những lĩnh vực tri giác khác
nhau vì có bao nhiêu không gian không đồng đều với nhau thì có bấy nhiêu
trường khác nhau về chất (bằng mồm, thị giác, xúc giác v.v...) Chính trong
tiến trình của giai đoạn thứ ba thôi mà sự đồng hoá qua lại của những không
gian khác nhau đó trở thành có hệ thống, do việc kết hợp thị giác với sự nắm
bắt. Dần dà cùng với sự kết hợp đó, người ta chứng kiến sự tạo thành những
hệ thống không gian sơ đẳng, đã báo trước sự cấu tạo riêng của nhóm: chính
vì vậy mà trong trường hợp phản ứng vòng tròn bị ngắt quãng, chủ thể trở về
điểm xuất phát để bắt đầu lại; khi đưa mắt nhìn theo một vật di động vượt nó
bằng tốc độ (sự rơi v.v...), chủ thể đôi khi đến với mục tiêu bằng những
chuyển chỗ riêng sửa chữa các chuyển chỗ của vật di động bên ngoài.
Nhưng phải hiểu rõ rằng, khi đặt mình ở quan điểm của chủ thể chứ
không chỉ ở quan điểm của người quan sát - toán học, sự tạo dựng một cấu
trúc nhóm đòi hỏi ít nhất hai điều kiện: khái niệm đồ vật và sự phi tập trung
hoá các cử động bằng sửa chữa và cả bằng sự chuyển đổi tính duy kỷ ban
đầu. Quả thật rõ ràng là khả năng nghịch đảo riêng cho nhóm giả định khái
niệm đồ vật và hơn nữa, một cách đảo ngược, vì tìm lại một đồ vật, tức là tự
cho mình khả năng của một sự trở lại (do chuyển chỗ hoặc của bản thân đồ
vật hoặc của thân thể riêng của chủ thể) đồ vật không là gì khác cái không
biến đổi do sự cấu tạo nghịch đảo của nhóm. Mặt khác, như Poiacaré đã chỉ
ra rất đúng, khái niệm chuyển chỗ với tính cách như thế đòi hỏi sự phân hệt
hoá có thể có giữa các thay đổi trạng thái, không trở lại, và những thay đổi vị
trí đúng là được đặc trưng bởi tính nghịch đảo cùa chúng (hoặc bởi sự sữa
chữa có thể được của chúng nhờ những vận động của cơ thể bản thân). Vậy
tất nhiên là không có sự bảo toàn của các đồ vật thì không thể có "nhóm" bởi
vì như vậy mọi cái hiện ra là "thay đổi trạng thái": đồ vật và nhóm các chuyển
chỗ vậy là không thể tách rời cái này tạo thành mặt tĩnh tại và cái kia mặt
năng động của cùng một thực tế. Nhưng còn hơn thế: một thế giới không đồ
vật là một thế giới sao cho không hề có một sự phân hoá có hệ thống nào
giữa những thực tế chủ quan và bên ngoài, một thế giới do vậy "phi nhị
nguyên" (J.M.Baldwin). Do bản thân sự việc, thế giới đó sẽ tập trung vào hoạt
động riêng, chủ thể vẫn càng bị chế ngự hơn nữa bởi cái phối cảnh duy kỉ đó,
vì cái tôi của nó hãy còn vô thức đối với bản thân. Mà cái nhắm đúng là đòi
hỏi một thái độ ngược lại: một sự phi tập trung hoá hoàn toàn, sao cho cái cơ
thể riêng với tính cách là yếu tố nằm giữa các cơ thể khác trong một hệ thống
những sự chuyển chỗ cho phép phân biệt các vận động của chủ thể với các
vận động của bản thân các đồ vật.
Điều đó nói lên rằng rõ ràng là trong tiến trình của các giai đoạn đầu và
cả ở giai đoạn thứ ba không có cái nào trong hai điều kiện sau đây được thoả
mãn: đồ vật không được tạo nên, và các không gian, rồi cái không gian độc
nhất có xu hướng kết hợp những không gian kia lại, hãy còn tập trung vào
chủ thể. Ngay từ đó, trong những trường hợp mà ở đó hình như có sự trở lại
(thực hành) và sự kết hợp thành hình thức nhóm, thật không khó gì trong việc
tách rời bề ngoài của thực tế vì thực tế này luôn luôn hiểu là một sự tập trung
được ưu đãi. Chính vì vậy mà một đứa bé thuộc trình độ thứ ba, nhìn thấy
một vật di động đi qua theo đường thẳng AB để rồi đi vào ở B sau một màn
che, không tìm vật di động đó ở C ở phía bên kia màn che, mà lại tìm một lần
nữa ở A. v.v... Vật di động như vậy chưa phải là một "đồ vật" độc lập đi một
đoạn đường thẳng, tách rời với chủ thể, mà nó vẫn còn phụ thuộc vào vị trí có
lợi thế A ở đấy chủ thể thấy nó lần đầu tiên. Còn về phần sự quay vòng,
chúng ta đã thấy ở trên ví dụ của bầu sữa lật ngược, được mút ngược thay vì
được lộn lại, điều đó chứng tỏ một lần nữa vị trí hàng đầu của viễn cảnh duy
kỉ và sự thiếu vắng khái niệm đồ vật giải thích sự thiếu vắng của "nhóm".
Với sự tìm kiếm các đồ vật bị biến mất sau các màn che (giai đoạn 4),
khởi đầu sự khách quan hoá các phối hợp, tức là sự tạo dựng nhóm cảm giác
- vận động. Nhưng ngay sự việc là đứa trẻ (chủ thể) không tính đến những
chuyển chỗ liên tiếp của mục tiêu và sự tìm kiếm dưới cái thứ nhất trong
những màn che (xem ở trên) cũng đủ tỏ rằng cái nhóm đang ra đời đó vẫn
còn "chủ quan", tức là tập trung vào hoạt động riêng, bởi vì đồ vật bản thân
nó cũng còn phụ thuộc vào hoạt động đó và đang ở giữa chừng của sự tạo
dựng riêng của mình.
Chỉ ở trình độ thứ năm, tức là khi đồ vật được tìm kiếm căn cứ vào
những sự chuyển chỗ liên tiếp của nó mà cái nhóm được thực sự khách thể
hoá: sự cấu tạo các chuyển chỗ, tính nghịch đảo của chúng và sự bảo toàn vị
trí ("sự đồng nhất") đã đạt được. Chỉ khả năng quay đi (tính kết hợp) còn thiếu
vắng vì chưa có sự đón trước đầy đủ nhưng nó tự khái quát hoá trong tiến
trình của giai đoạn sáu. Hơn nữa, trong sự tương liên với các tiến bộ đó, một
tập hợp các quan hệ giữa bản thân các đồ vật được tạo dựng nhờ các tương
quan "đặt trên", "ở bên trong" hoặc "ở ngoài", "ở phía trước" hoặc "ở phía
sau" (với sự sắp xếp các bình diện theo chiều sâu tương quan với sự không
đổi của các độ lớn) v.v...
Vậy được phép kết luận rằng sự xây dựng các sự không đổi trong tri
giác đồ vật, do những điều tiết cảm giác - vận động, đi đôi với sự tạo dựng
dần dần những hệ thống cũng cảm giác - vận động, nhưng vượt quá lĩnh vực
tri giác và hướng về sự cấu trúc nhóm - hoàn toàn thực hành chứ không
mang tính biểu tượng, tất nhiên. Vậy tại sao bản thân tri giác không hưởng
cái cấu trúc đó và phải chăng nó vẫn còn ở trình độ những điều tiết đơn giản?
Lí do của điều đó bây giờ đã rõ; dẫu "phi tập trung hoá" đến đâu, so với
những sự tập trung ban đầu của cái nhìn hay của cơ quan đặc biệt của nó,
một sự tri giác bao giờ cũng là duy kỉ và tập trung vào một đồ vật hiện diện,
tùy thuộc vào sự phối cảnh riêng của chủ thể. Hơn nữa, loại phi tập trung hoá
đặc trưng cho tri giác, tức là loại phối hợp giữa các sự tập trung liên tiếp, chi
kết thúc ở một cấu tạo có tính chất tĩnh, tức là không đầy đủ (chương 3).
Sự cấu tạo tri giác vậy là không thể vượt quá trình độ của cái mà chúng
tôi đã gọi lúc nãy là nhóm "chủ quan", tức là một hệ thống tập trung căn cứ
vào hành động riêng, và cùng lắm có khả năng có những sửa chữa và những
điều tiết. Và điều đó vẫn đúng cả ở trình độ mà chủ thể khi vượt quá trường tri
giác để đón trước và tái tạo những vận động và đồ vật không nhìn thấy được,
đạt đến một cấu trúc được khách quan hoá về nhóm trong lĩnh vực của không
gian thực hành gần.
Một cách khái quát, chúng ta có thể kết luận về sự thống nhất sâu sắc
của các quá trình cảm giác - vận động đẻ ra hoạt động tri giác sự hình thành
các thói quen và bản thân trí khôn trước - lời nói hoặc trước - biểu tượng. Trí
khôn vậy là không xuất hiện như một năng lực mới nằm chồng một cách đột
ngột lên các cơ chế có trước hoàn toàn sẵn sàng, mà nó chỉ là sự biểu hiện
của cùng những cơ chế ấy khi, vượt qua sự tiếp xúc hiện tại và trực tiếp với
sự vật (tri giác) cũng như những mối liên hệ ngắn và mau được tự động hoá
giữa các tri giác và các vận động (thói quen), chúng dấn vào, ở những
khoảng cách luôn luôn lớn hơn và theo nhiều đoạn đường đi luôn luôn phức
hợp hơn, vào con đường của sự cơ động và sự nghịch đảo. Trí khôn đang
nảy sinh chỉ là hình thức cân bằng cơ động mà các cơ chế riêng của tri giác
và thói quen hướng tới, nhưng những cơ chế này chỉ đạt đến nó bằng cách đi
ra ngoài trường áp dụng ban đầu và tương ứng. Hơn nữa, ngay ở nấc cảm
giác - vận động của trí khôn, nó đã đạt đến việc tạo dựng, trong trường hợp
có lợi thế về không gian, cái cấu trúc cân bằng là cái nhóm của các sự
chuyển chỗ, dưới một hình thức hoàn toàn thực hành hoặc kinh nghiệm chủ
nghĩa, đúng thế, và tất nhiên vẫn còn ở trên bình diện rất hạn chế của không
gian gần. Nhưng dĩ nhiên là tổ chức đó, được bản thân các giới hạn của hoạt
động hạn chế phạm vi, chưa tạo thành một hình thức tư duy. Tất cả sự phát
triển của tư duy, từ việc xuất hiện ngôn ngữ vào cuối tuổi thơ ấu, là trái lại cần
thiết để cho các cấu trúc cảm giác - vận động hoàn chỉnh và ngay cả những
cấu trúc kết hợp dưới hình thức nhóm kinh nghiệm chủ nghĩa, kéo dài thành
thao tác thực thụ, tạo nên hoặc tái tạo nên các nhóm hợp ấy và các nhóm
trên bình diện của biểu tượng và của sự lập luận có ngẫm nghĩ./.
Phần 3. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ DUY
Chương 5. VIỆC LUYỆN TƯ DUY - TRỰC GIÁC VÀ CÁC THAO TÁC
Chúng tôi đã ghi nhận, trong phần đầu của tác phẩm này, rằng các thao
tác tư duy đạt hình thức cân bằng của chúng khi chúng tự tạo thành những hệ
thống tổng thể được đặc trưng bởi bố cục có thể nghịch đảo (các nhóm hợp
hoặc các nhóm). Nhưng nếu một hình thức cân bằng đánh dấu sự kết thúc
của một sự tiến hoá, nó không giải thích cả các bước khởi đầu lẫn cơ chế tạo
dựng của sự tiến hoá đó.
Phần thứ hai cho phép chúng tôi sau đó phân định trong các quá trình
cảm giác - vận động khởi điểm của các thao tác, những sem của trí khôn cảm
giác - vận động tạo nên cái tương đương thực hành của những khái niệm và
những quan hệ và sự phối hợp chúng thành các hệ thống không gian - thời
gian đồ vật và vận động kết thúc, dưới một hình thức hoàn toàn thực hành và
kinh nghiệm chủ nghĩa, ngay ở sự bảo toàn của đồ vật cũng như ở một cấu
trúc tương liên của nhóm (nhóm thực nghiệm của các sự chuyển chỗ, của H.
Poincaré). Nhưng hiển nhiên là cả nhóm cảm giác - vận động đó đơn giản tạo
thành một sem ứng xử, tức là hệ thống được cân bằng hoá của những cách
thức khác nhau có thể có di chuyển một cách vật thể trong không gian gần, và
hệ thống đó không hề đạt tới hạng của một công cụ tư duy. Quả vậy, trí khôn
cảm giác - vận động là ở ngọn nguồn của tư duy, và tiếp tục tác động lên nó
suốt đời qua sự trung gian của các tri giác và các thái độ thực hành. Vai trò
của các tri giác đối với tư duy tiến hoá nhất đặc biệt không được xem nhẹ,
như một số tác giả đã làm như vậy khi họ nhảy quá nhanh từ thần kinh học
sang xã hội học, và nó đủ để xác nhận ảnh hưởng bền lâu của các sem khởi
đầu. Nhưng còn một con đường rất dài phải đi giữa trí khôn trước lời nói và trí
khôn thao tác để rồi các nhóm hợp suy ngẫm được tạo thành, và nếu có sự
tiếp nối chức năng giữa các cực, việc tạo dựng một loạt các cấu trúc trung
gian vẫn là cần thiết trên nhiều nấc không đồng đều.
* NHỮNG KHÁC BIỆT VỀ CẤU TRÚC GIỮA TRÍ KHÔN KHÁI NIỆM VÀ TRÍ KHÔN CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG
Để nắm được cơ chế hình thành các thao tác, điều quan trọng trước
tiên là hiểu được những gì phải tạo dựng thêm, tức là những gì còn thiếu đối
với trí khôn cảm giác - vận động để kéo dài thành tư duy khái niệm. Không gì
sẽ là hời hợt hơn nêu giả định rằng sự tạo dựng trí khôn đã là hoàn tất trên
bình diện thực hành và lúc đó chỉ đơn giản nhờ cậy đến ngôn ngữ và sự biểu
tượng bằng hình ảnh để giải thích làm thế nào cái trí khôn đã có tính tạo dựng
sẽ nội hiện thành tư duy lôgích.
Trên thực tế, chính tuyệt đối trên quan điểm chức năng mà có thể tìm
thấy lại trong trí khôn cảm giác - vận động cái tương đương thực hành của
các lớp, các quan hệ, các lập luận và ngay của các nhóm chuyển chỗ dưới
hình thức kinh nghiệm chủ nghĩa của bản thân các sự chuyển chỗ. Trên quan
điểm cấu trúc và đó trên quan điểm của sự gây hiệu quả, vẫn có giữa các
phối hợp cảm giác - vận động và các phối hợp khái niệm những khác biệt vcơ
bản, cả về tính chất của bản thân các phối hợp lẫn về những quãng cách mà
hành động đã đi qua, tức là về độ rộng của trường áp dụng của nó.
Trước tiên, các hành vi cảm giác - vận động vì bao hàm duy nhất việc
phối hợp với nhau những tri giác liên tiếp và những cử động thực tại cũng là
liên tiếp nên chúng chỉ có thể quy về những dãy liên tiếp các trạng thái nối liền
với nhau bằng những sự đón trước và tái tạo ngắn, nhưng không bao giờ kết
thúc ở một biểu tượng tổng thể: biểu tượng này chỉ có thể được tạo dựng với
điều kiện làm cho các trạng thái được cùng lúc trong ý nghĩ và do đó loại trừ
chúng khỏi sự diễn biến trong thời gian của hành động. Nói cách khác, trí
khôn cảm giác - vận động tiến hành như một cuộn phim quay chậm mà người
ta thấy liên tiếp các bức tranh nhưng không trộn lẫn vào nhau, tức là không có
cái nhìn liên tục cần thiết cho sự hiểu biết tổng thể.
Thứ hai, và do ngay ở sự việc, một hành vi trí khôn cảm giác - vận
động chỉ hướng vào sự thoả mãn thực hành, tức là vào kết quả của hành
động chứ không vào sự hiểu biết với tính cách là như thế. Nó không tìm kiếm
sự giải thích lẫn sự phân loại lẫn sự nhận ra cho bản thân chúng và chỉ nối
liền bằng thuyết nhân quả, chỉ phân loại và nhận ra nhằm một mục đích chủ
quan xa lạ với việc tìm kiếm chân lý. Vậy trí khôn cảm giác - vận động là một
trí khôn được trải qua, chứ hoàn toàn không là trí khôn suy ngẫm.
Còn như về trường áp dụng của nó, trí khôn cảm giác - vận động chỉ
làm việc ngày trên những thực tế, mỗi một trong những hành vi của nó như
chỉ bao hàm những khoảng cách rất ngắn giữa chủ thể và các khách thể.
Chắc chắn là nó có khả năng quay đi và trở lại, nhưng đây luôn luôn chỉ là
những cử động được thực hiện trong thực tại với những khách thể thực tại.
Duy nhất tư duy là được giải thoát khỏi những khoảng cách ngắn và những
đoạn đường đi thực tại đó để tìm cách bao quát toàn bộ thế giới đến tận cái
không nhìn thấy và đôi khi cả cái không hề hình dung được: chính là ở sự
nhân lên vô định các khoảng cách không gian - thời gian giữa chủ thể và các
khách thể mà ta tìm thấy cái mới chính của trí khôn khái niệm và sức mạnh
đặc trưng nó làm cho trí khôn khái niệm có khả năng đẻ ra các thao tác.
Những điều kiện để chuyển từ bình diện cảm giác - vận động sang bình
diện suy ngẫm gồm ba điểm chính: trước hết, một sự tăng tốc độ cho phép
đúc thành một tổng thể đồng thời những hiểu biết gắn liền với những giai
đoạn hành động liên tiếp. Sau đó, một sự nhận thức, không phải là đơn giản
về những kết quả mong muốn của hành động, mà vì ngay những phương
pháp tiến hành cho phép nhân đôi sự tìm kiếm kết quả bằng sự nhận ra. Cuối
cùng, một sự nhân các khoảng cách lên cho phép kéo dài những hành động
liên quan đến bản thân cái thực tế bằng những hành động tượng trưng thuộc
về các biểu tượng và như vậy vượt qua cái giới hạn của không gian và thời
gian gần.
Lúc này người ta nhìn thấy rằng tư duy không thể là một sự thể hiện
hoặc một sự tiếp nối từ cảm giác - vận động sang tính biểu tượng. Đây là
nhiều hơn nhiều so với việc trình bày hay theo đuổi công trình đã bắt đầu:
trước hết cần thiết phải tái tạo lại toàn bộ trên một kế hoạch mới: Duy chỉ có
tri giác và sự vận động có hiệu quả tiếp tục hoạt động như cũ, dù phải khoác
cho mình những ý nghĩa mới và sáp nhập vào những hệ thống mới của sự
hiểu biết. Nhưng các cấu trúc của trí khôn hoàn toàn phải được xây dựng lại
trước khi có thể được bổ sung: biết lật ngược lại một đồ vật (xem cái bầu sữa
được nêu ở chương 4) không bao hàm rằng người ta có thể hình dung trong
ý nghĩ một chuỗi quay vòng; chuyển dịch bằng vật thể theo những đường
vòng phức tạp, và trở lại điểm xuất phát không kéo theo sự hiểu biết một hệ
thống cái chuyển dịch chỉ đơn giản tưởng tượng ra, và ngay cả việc đón trước
sự bảo toàn một đồ vật, trong hành động, không dẫn đến thêm nữa trí khôn
của các bảo toàn liên quan tới một hệ thống yếu tố.
Hơn nữa, muốn tái tạo những cấu trúc đó trong óc, chủ thể sẽ gặp phải
cùng những khó khăn đó, nhưng chuyển tải lên cái bình diện mới, như những
khó khăn mà nó đã làm chủ được trong hành động tức thời. Để tạo dựng một
không gian, một thời gian, một vũ trụ các nguyên nhân và các khách thể cảm
giác - vận động hoặc thực hành, đứa bé đã phải tự giải thoát khỏi tính duy kỉ
tri giác và vận động của nó, chính là bằng một loạt phi tập trung hoá liên tiếp
mà nó đạt đến việc tổ chức một nhóm kinh nghiệm chủ nghĩa các chuyển chỗ
vật thể bằng cách định vị cơ thể và các cử động của riêng nó giữa tổng thể
những chuyển chỗ khác. Việc tạo dựng các nhóm hợp và các nhóm thao tác
của tư duy sẽ đòi hỏi một sự đảo ngược cùng chiều, nhưng trong chu trình
phức hợp hơn vô hạn; vấn đề là phi tập trung hoá tư duy, không chỉ trong
quan hệ với sự tập trung tri giác hiện tại, mà trong quan hệ với toàn bộ hoạt
động riêng. Tư duy, nảy sinh từ hành động, quả là duy kỉ ở điểm xuất phát
của nó chính xác vì cùng những lí do mà trí khôn cảm giác - vận động là
trước tiên tập trung, vào những tri giác hay những cử động hiện tại mà nó tiến
hành. Việc tạo dựng những thao tác bắc cầu phối hợp và nghịch đảo giả định
một sự chuyển đổi tính duy kỉ ban đầu này thành một hệ thống các quan hệ
và cái lớp đã được phi tập trung hoá so với cái tôi và sự phi tập trung hoá trí
tuệ này (không nói đến mặt xã hội của nó, mà chúng ta sẽ tìm thấy lại ở
chương 6) trên thực tế chiếm cả thời bé thơ.
Sự phát triển của tư duy vậy là chứng kiến trước tiên sự lặp lại, theo
một hệ thống rộng rãi những chênh lệch, của một tiến triển dường như đã kết
thúc trên địa hạt cảm giác - vận động, trước khi triển khai trên một trường
rộng hơn vô hạn trong không gian và cơ động hơn trong thời gian cho đến sự
cấu trúc hoá bản thân các thao tác.
* CÁC GIAI ĐOẠN TẠO DỰNG NHỮNG THAO TÁC
Để nắm bắt cơ chế của sự phát triển này, mà sự nhóm hợp có tính thao
tác tạo thành dạng cân bằng cuối cùng, chúng tôi phân biệt (bằng cách đơn
giản hoá và lược đồ hóa sự vật) bốn thời kì chính tiếp theo sau thời kì được
đặc trưng bởi sự tạo thành trí khôn cảm giác - vận động.
Ngay khi xuất hiện tiếng nói hoặc, chính xác hơn chức năng tượng
trưng làm cho sự thụ đắc nó có thể đạt được (1,6 đến 2 tuổi), khởi đầu một
thời kì trải dài đến khoảng 4 tuổi và thấy phát triển một tư duy tượng trưng và
tiền quan niệm.
Từ 4 đến 7 hoặc 8 tuổi, nối tiếp mật thiết với thời kì trước, một tư duy
trực giác được tạo thành, mà những khớp nối liên tiếp dẫn đến bên thềm của
thao tác.
Từ 7-8 tuổi đến 11-12 tuổi, được tổ chức những "thao tác cụ thể", tức là
những nhóm hợp thao tác của tư duy thuộc về những đồ vật có thể điều khiển
bằng tay hoặc có thể được trực giác hoá.
Ngay từ 11 - 12 tuổi và suốt trong thời niên thiếu, cuối cùng tư duy hình
thức được luyện thành, mà các nhóm hợp là đặc trưng cho trí khôn suy ngẫm
hoàn chỉnh.
* TƯ DUY TƯỢNG TRƯNG VÀ TIỀN KHÁI NIỆM
Ngay từ những giai đoạn cuối của thời kì cảm giác - vận động, đứa trẻ
đã có khả năng bắt chước một số tiếng và gán cho chúng một ý nghĩa tổng
thể, nhưng chỉ duy nhất vào khoảng cuối năm thứ hai mới bắt đầu sự thụ đắc
ngôn ngữ một cách có hệ thống.
Sự quan sát trực tiếp đứa trẻ cũng như sự phân tích một số rối loạn
tiếng nói đã nêu bật sự kiện là việc sử dụng hệ thống những kí hiệu lời nói là
nhờ ở việc tập luyện một "chức năng tượng trưng" tổng quát hơn, mà các đặc
thù là cho phép biểu hiện cái thực tại bằng sự trung gian của những "cái biểu
đạt" khác biệt với những sự vật "được biểu đạt".
Quả vậy, nên phân biệt các tượng trưng và các kí hiệu ở một mặt, và ở
mặt khác, các dấu hiệu và các tín hiệu. Không những mọi tư duy mà mọi hoạt
động nhận thức và vận động, từ sự tri giác và thói quen đến tư duy khái niệm
và suy ngẫm, đều bao hàm việc nối liền các ý nghĩa, và mọi ý nghĩa giả định
một quan hệ giữa một cái biểu hiện và một thực tế được biểu hiện. Tuy nhiên,
trong trường hợp của dấu hiệu, cái biểu đạt tạo thành một bộ phận hoặc một
mặt khách quan của cái được biểu đạt, hoặc vừa được nói với nó bằng một
sự liên hệ nhân quả: những dấu vết trên tuyết là đối với người thợ săn, dấu
hiệu của thú rừng, và đầu mút thấy được của một vật bị che kín, đối với đứa
trẻ, là dấu hiệu của sự hiện diện của đồ vật. Cũng vậy, tín hiệu dù là được
người làm thực nghiệm gây ra một cách nhân tạo, đối với chủ thể là một mặt
có tính chất bộ phận đơn giản của sự cố mà nó tiên báo (trong một cư xử
được điều kiện hoá, dấu hiệu được coi là một tiền lệ khách quan). Trái lại, cái
tượng trưng và cái kí hiệu bao hàm một sự phân biệt hoá, ngay từ quan điểm
của bản thân chủ thể, giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt: đối với đứa trẻ
đang chơi trò cho búp bê ăn, một viên sỏi biểu diễn một cái kẹo được thừa
nhận một cách hữu thức như là cái tượng trưng và cái kẹo như là cái được
tượng trưng; và khi cùng một đứa bé, do "sự dính chặt của kí hiệu”, coi một
cái tên như là dính liền với sự vật được nêu tên, tuy nhiên nó coi cái tên đó
như một cái biểu đạt dẫu nó có biến cái biểu đạt đó thành một thứ nhãn dành
riêng cho đồ vật được biểu đạt.
Chúng tôi xin nói rõ thêm rằng theo sự thông dụng của các nhà ngôn
ngữ học mà tâm lí học áp dụng là rất có lợi, một biểu trưng phải được định
nghĩa như bao hàm một sự liên hệ về sự giống nhau giữa cái biểu đạt và cái
được biểu đạt, còn cái kí hiệu là "vô đoán" và cần thiết phải dựa vào một quy
ước. Kí hiệu do vậy đòi hỏi đời sống xã hội để được tạo thành, trong khi cái
biểu trưng có thể được xây dựng bởi duy nhất cá nhân con người (như trong
trò chơi các trẻ nhỏ). Vả lại, tất nhiên là các biểu trưng có thể được xã hội
hoá; một biểu trưng tập thể lúc đó sẽ là nói chung vừa là kí hiệu vừa là tượng
trưng; còn một kí hiệu thuần tuý trái lại bao giờ cũng là tập thể.
Sau khi đã nói như vậy, điều quan trọng là nhận thấy rằng ở đứa trẻ sự
thụ đắc ngôn ngữ, tức là hệ thống những kí hiệu tập thể trùng khớp với sự
hình thành cái biểu trưng, tức là hệ thống những cái biểu đạt cá nhân. Quả là
người ta không thể nói mà không lạm dụng về những trò chơi tượng trưng
trong thời kì cảm giác - vận động, và K.Gross đã đi hơi xa khi trao cho các
loài vật ý thức về sự hư cấu. Trò chơi nguyên thuỷ chỉ là một trò chơi luyện
tập và cái biểu trưng chân chính chỉ bắt đầu khi một đồ vật hay một cử chỉ
biểu hiện, ngay đối với chủ thể, cái gì khác hơn là những dữ kiện có thể tri
giác được. Theo quan điểm đó, người ta thấy xuất hiện ở giai đoạn thứ sáu
của trí khôn cảm giác - vận động, những "sem tượng trưng", tức là những
sem hoạt động đã đi ra ngoài bối cảnh của nó và gợi lên một tình huống
không có mặt (chẳng hạn giả vờ ngủ). Nhưng cái biểu trưng chỉ bắt đầu với
sự biểu hiện tách khỏi bản thân sự hoạt động: ví dụ ru ngủ một con búp bê
hay một con gấu. Mà chính xác là ở trình độ trong đó cái biểu trưng với nghĩa
chặt chẽ hiện ra trong trò chơi, ngôn ngữ mặt khác phát triển sự thấu hiểu các
kí hiệu.
Còn về phần sự nảy sinh cái biểu trưng cá nhân, nó được soi sáng
bằng sự phát triển của sự bắt chước. Trong thời kì cảm giác - vận động, sự
bắt chước chỉ là một sự kéo dài của sự điều ứng riêng đối với các sem đồng
hoá: khi biết thực hiện một cử chỉ, chủ thể khi tri giác một cử dộng tương tự
(trên người khác hoặc trên những sự vật) đồng hoá nó với cử động của mình,
và sự đồng hoá đó vì là vừa vận động vừa tri giác, phát động cái sem riêng.
Sau đó, cái hình mẫu mới gây ra một ứng đáp đồng hoá tương tự, nhưng cái
sem được tích cực hoá lúc này thích ứng với những đặc điểm mới: ở giai
đoạn thứ sáu, sự điều ứng bắt chước này trở nên có thể có được trong trạng
thái hoãn lại, điều đó báo trước sự biểu tượng. Sự bắt chước thực sự có tính
biểu tượng trái lại chỉ bắt đầu ở trình độ của trò chơi tượng trưng bởi vì, như
trò chơi, nó đòi hỏi hình ảnh. Những hình ảnh là nguyên nhân hay kết quả của
sự nội hiện cái cơ chế bắt chước? Hỉnh ảnh của trí óc không phải là một sự
việc đầu tiên như thuyết liên tưởng đã tưởng từ lâu: nó như bản thân sự bắt
chước một sự điều ứng các sem cảm giác - vận động, tức là một bản sao tích
cực chứ không phải là một dấu vết hay một cái còn sót lại trong giác quan của
những đồ vật tri giác được. Vậy nó là một sự bắt chước nội tại và nó kéo dài
sự điều ứng các sem đích thực vào hoạt động tri giác (đối lập với tri giác với
tính cách là như thế), cũng như sự bắt chước bên ngoài ở các trình độ trước
kéo dài sự điêu ứng các sem cảm giác - vận động (những sem này chính xác
là ở ngọn nguồn của bản thân hoạt động tri giác).
Từ đấy, sự hình thành cái biểu trưng có thể được giải thích như sau: sự
bắt chước được hoãn lại, tức là sự điều ứng kéo dài thành phác thảo bắt
chước, cung cấp những cái biểu đạt, mà trò chơi hoặc trí khôn áp dụng vào
những cái được biểu đạt khác nhau theo những phương thức đồng hoá tự do
hoặc mô phỏng (được thích ứng), đặc trưng cho những cư xử ấy. Trò chơi
tượng trưng luôn luôn bao gồm một yếu tố bắt chước, hành chức như cái
biểu đạt, và trí khôn ở những bước đầu cũng sử dụng như vậy, hình ảnh làm
cái biểu trưng hoặc cái biểu đạt.
Lúc đó người ta hiểu tại sao ngôn ngữ (bản thân nó cũng được học tập
bằng bắt chước, nhưng bằng một sự bắt chước các kí hiệu có sẵn, trong khi
sự bắt chước các hình dáng v.v... cung cấp đơn giản vật liệu biểu đạt của sự
biểu trưng cá nhân) được thụ đắc trong cùng một thời gian mà cái biểu trưng
được tạo dựng: chính là vì việc sử dụng các kí hiệu cũng như các biểu trưng
đòi hỏi cái thái độ - hoàn toàn mới nếu đem đối lập với những cư xử cảm giác
- vận động) - nó bao hàm việc biểu hiện một sự vật nào đó bằng một sự vật
khác. Vậy người ta có thể áp dụng vào trẻ em cái khái niệm của một "chức
năng tượng trưng” chung, mà người ta đôi khi đã đặt giả thuyết khi nói về
chứng mất ngôn ngữ vì chính sự hình thành một cơ chế như thế nó đặc trưng
cho, nói vắn tắt, sự xuất hiện đồng thời sự bắt chước có tính biểu tượng, trò
chơi tượng trưng, sự biểu hiện bằng hình ảnh và sự suy nghĩ bằng lời
Nói tóm lại, tư duy đang nảy sinh, trong khi tiếp tục trí khôn cảm giác -
vận động, tiến hành phân biệt hoá cái biểu đạt với cái được biểu đạt, và do
vậy dựa vào sự chế tạo các biểu trưng và tự khám phá các kí hiệu cùng một
lúc. Nhưng hiển nhiên là đứa bé càng nhỏ thì các hệ thống các kí hiệu tập thể
có sẵn càng ít thoả mãn nó, vì những kí hiệu lời nói đó, phần nào khó với tới
và khó chế ngự, vẫn còn khá lâu không có khả năng diễn đạt cái cá thể trên
đó chủ thế tập trung vào. Vì vậy, chừng nào sự đóng hoà duy ngả của thực tại
vào hoạt động riêng còn chế ngự đứa trẻ còn cần dùng những cái tượng
trưng: từ đó mà có trò chơi tượng trưng hoặc trò chơi tưởng tượng hình thức
thuần tuý nhất của tư duy duy kỉ và biểu trưng, sự đồng hoá thực tại vào các
lợi ích riêng và sự biểu đạt thực tại nhờ vào việc sử dụng những hình ảnh do
cái tôi tạo nên
Nhưng ngay trên địa bàn của tư duy đươc thích ứng, tức là của những
khởi đầu của trí khôn biểu tượng gắn hoặc gần hoặc xa với các kí hiệu lời nói,
điều quan trọng là ghi nhân vai trò của những biểu trưng có hình ảnh và nhận
thấy chủ thể còn xa biết bao nhiêu để đạt tới, trong những năm đầu, những
khái niệm thực sự. Từ sự xuất hiện của ngôn ngữ cho đến khoảng 4 tuổi, quả
là phải phân biệt một thời kì đầu của trí khôn tiền - khái niệm được đặc trưng
bởi những tiền - khái niệm hoặc những sự tham gia và, trên bình diện của lập
luận đang nảy nở, bởi sự "chuyển đổi" hoặc lập luận tiền - khái niệm
Những tiền - khái niệm là những khái niệm mà đứa trẻ gắn vào những
kí hiệu lời nói đầu tiên mà nó thụ đắc việc sử dụng – đặc trưng riêng của
những sem đó là ở nửa chừng giữa tính khái quát của khái niệm và tính cá
thể của những yếu tố tạo nên nó, mà không đạt tới cái này hay cái kia. Trẻ 2 -
3 tuổi nói không phân biệt con ốc sên (la limace) hoặc những con ốc sên (les
limaces), cũng như cái trăng (la lune) hoặc những cái trăng (les lunes), không
quyết đoán được xem những con ốc sên gặp trong cùng một cuộc đi dạo
hoặc những cái đĩa nhìn thấy lúc này lúc khác trên bầu trời, đều là một cá thể
duy nhất, ốc sên và mặt trăng độc nhất, hoặc một lớp những cá thể khác biệt.
Một mặt, trẻ chưa sử dụng các lớp khái quát vì thiếu sự phân biệt "tất cả” và
“một vài". Mặt khác, nếu khái niệm của đồ vật cá thể thường trực là hoàn
chỉnh ở trường hoạt động gần; nhưng, chưa có gì như vậy đối với không gian
xa hoặc đối với các sự xuất hiện lại ở các khoảng thời gian cách biệt: một trái
núi còn được xem biến dạng đi thực sự trong vòng một cuộc đi dạo (như
trước kia cái bầu sữa trong vòng quay của nó) và "con" ốc sên xuất hiện lại ở
những điểm khác nhau. Từ đó mà đôi khi có những sự "tham gia" đích thực
giữa những đồ vật khác biệt và cách xa nhau: cả ở 4 tuổi, cái bóng mà người
ta tạo nên trên cái bàn, trong một phòng cửa đóng kín, nhờ một cái màn che,
được giải thích bằng những cái bóng tìm thấy dưới các cây vườn hoặc trong
đêm (và chủ thể không tìm để hiểu rõ cái "thế nào" của hiện tượng).
Rõ ràng là như vậy một sem ở tại nửa chừng của cái cá thể và cái khái
quát chưa phải là một khái niệm lôgích và vẫn luôn luôn thuộc một phần ở cái
sem hoạt động đã có tính biểu tượng và đặc biệt đạt đến mức gợi ra một số
lớn các đồ vật nhờ những yếu tố được lợi thế và được coi là mẫu - điển hình
của bộ sưu tập tiền - khái niệm. Những cá thể - điển hình đó vì bản thân
chúng được cụ thể hoá bằng hình ảnh ngang với hay là hơn bằng từ, tiền -
khái niệm, mặt khác, thuộc về cái biểu trưng trong chừng mực nó nhờ đến
những thứ bản mẫu phát sinh này. Tóm lại, nó là một sem nằm ở nửa đường
của sem cảm giác - vận động và khái niệm, đối với phương thức đồng hoá
của nó, và tham gia vào cái biểu trưng bằng hình ảnh đối với cấu trúc biểu
tượng của nó.
Mà sự lập luận, bao hàm việc nối những tiền - khái niệm như thế, đúng
là chứng tỏ cùng những cấu trúc đó. Stem đã gọi là "chuyển đổi" những lập
luận sơ khai đó; chúng không bắt nguồn từ sự diễn dịch, mà từ những loại
suy tức thời. Song, còn hơn thế nữa: lập luận tiền - khái niệm, sự chuyển đổi
không dựa vào những lồng ghép không hoàn chỉnh và bằng cách đó thất bại
trong mọi cấu trúc thao tác đảo nghịch. Mặt khác, nếu sự chuyển đổi thành
công trong thực hành, chính là vì nó chỉ bao gồm một chuỗi các hoạt động
đựợc tượng trưng hoá trong ý nghĩ, một "kinh nghiệm trí tuệ" ở nghĩa đen, tức
là một sự bắt chước bên trong các hành vi và những kết quả của chúng, với
tất cả những giới hạn mà thứ kinh nghiệm chủ nghĩa này của trí tưởng tượng
bao hàm. Như vậy là người ta tìm thấy lại trong sự chuyển đổi, vừa sự thiếu
tính khái quát gắn liền với tiền khái niệm vừa tính chất tượng trưng hoặc hình
tượng của nó cho phép chuyển tải các hành động thành ý nghĩ.
* TƯ DUY TRỰC GIÁC
Chỉ có sự quan sát mới cho phép phân tích các hình thức tư duy vừa
được mô tả, bởi vì trí khôn các trẻ nhỏ vẫn còn rất không ổn định để người ta
có thể phỏng vấn chúng một cách bổ ích. Trái lại, vào khoảng 4 tuổi, những
thí nghiệm ngắn ngủi tiến hành với chủ thể bằng cách cho nó điều khiển bằng
tay những đồ vật mà những thí nghiệm này có liên quan, cho phép thu được
những câu trả lời đều đặn và tiếp tục cuộc đối thoại. Chỉ riêng một điều đó
cũng đã tạo nên dấu hiệu của một sự cấu trúc hoá mới.
Quả vậy, từ 4 đến 7 tuổi, người ta chứng kiến một sự phối hợp tuần tự
của các tương quan mang tính biểu tượng, tức là một sự khái niệm hóa tăng
dần nó dẫn đứa trẻ từ giai đoạn tượng trưng hoặc tiền - khái niệm đến bên
thềm các thao tác. Nhưng, điều rất đặc biệt, trí khôn này, mà người ta có thể
theo dõi sự tiến bộ thường là nhanh, vẫn luôn luôn là tiền – lôgích, và điều đó
ở những địa hạt mà nó đạt đến cực điểm của sự thích ứng: cho đến lúc mà
cái "nhóm hợp" đánh dấu sự kết thúc của chuỗi cân bằng hoá liên tiếp này, nó
còn thay thế những thao tác không hoàn chỉnh bằng một hình thức bán -
tượng trưng của tư duy, đó là sự lập luận bằng trực giác, và hình thức tư duy
này chỉ kiểm soát các phán đoán bằng phương tiện của những "điều tiết" qua
trực giác tương tự như, trên bình diện của sự biểu tượng, những điều tiết tri
giác trên bình diện cảm giác - vận động.
Chúng tôi lấy làm ví dụ một thí nghiệm mà chúng tôi đã tiến hành trước
kia cùng với A.Szeminska. Hai cái cốc nhỏ A và A2 hình dáng và kích thước
bằng nhau chứa một số lượng hạt cườm bằng nhau, sự bằng nhau này được
đứa trẻ thừa nhận vì chính nó bỏ các hạt cườm vào lọ, chẳng hạn bằng cách
một tay bỏ một hạt vào A thì tay khác cùng lúc đó bỏ một hạt vào A2. Sau đó,
để cốc A làm chứng cứ, người ta đổ A2 vào một cốc B có hình dạng khác.
Những trẻ 4-5 tuổi lúc đó kết luận rằng số lượng hạt cườm đã thay đổi
dẫu là chúng biết chắc chắn người ta đã không thêm hay bớt một hạt nào:
nếu cốc B nhỏ và cao, chúng bảo là "có nhiều hạt cườm hơn trước" bởi vì
"đúng là cao hơn" hoặc có ít hạt cườm hơn bởi vì "là bé hơn", nhưng chúng
đồng ý thừa nhận sự không bảo toàn của cái toàn thể.
Chúng ta hãy ghi nhận sự tiếp nối của phản ứng này với những phản
ứng của các trình độ trước. Có được khái niệm về sự bảo toàn của một đồ
vật cá thể, chủ thể chưa có được khái niệm của một tập hợp đồ vật: cái lớp
toàn thể vậy là chưa được xây dựng, bởi vì nó không phải bao giờ cũng là
không thay đổi, và sự không bảo toàn này như vậy kéo dài cùng một lúc
những phản ứng ban đầu đến đồ vật (với sự chênh lệch do sự việc là đây
không phải là một yếu tố riêng rẻ, mà cả một tập hợp) và sự thiếu vắng cái
tổng thể chung mà chúng ta đã nói tới khi nói về các tiền - khái niệm. Mặt
khác, rõ ràng là các lí do của sự sai lầm là thuộc phạm vi bán - tri giác; chính
sự nâng cao mức (các hạt cườm), đánh lừa đứa trẻ hoặc độ nhỏ của cái cột
(hạt cườm) v.v... Tuy nhiên đây không phải là những ảo ảnh của tri giác: sự tri
giác các quan hệ trên đại thể là đúng, nhưng nó là dịp của sự tạo dựng trí tuệ
không hoàn chỉnh - chính tính sơ lược tiền - lôgích này, vừa bắt chước rất sát
các dữ kiện tri giác, vừa tập trung chúng theo cách riêng của nó, mà người ta
có thể gọi là tư duy trực giác. Người ta tức khắc thấy những quan hệ của nó
với tính chất hình ảnh của tiền - khái niệm và những kinh nghiệm trí tuệ đặc
trưng cho lập luận chuyển đổi.
Tuy nhiên, tư duy trực giác này là tiến bộ hơn so với tư duy tiền - khái
niệm hoặc tượng trưng; dựa chủ yếu vào các hình thể tổng thể chứ không
còn dựa vào các hình đơn giản bán - cá nhân, bán - phát sinh, trực giác dẫn
đến một phần thô thiển của lôgích học, nhưng dưới dạng những điều tiết có
tính biểu tượng chứ chưa mang tính chất thao tác. Từ quan điểm đó, tồn tại
những tập trung hoá và phi tập trung hoá trực giác tương tự với những cơ
chế mà chúng ta đã nói tới khi nói về những sem cảm giác - vận động của tri
giác (chương 3). Giả sử một đứa trẻ cho rằng ở B các hạt cườm có số lượng
lớn hơn ở A bởi vì mức đã được nâng cao hơn: nó "tập trung" như vậy tư duy
hoặc sự chú ý của mình vào quan hệ giữa độ cao ở B và ở A và xem nhẹ
chiều rộng. Nhưng chúng ta hãy đổ B vào cái cốc C và D còn nhỏ hơn và cao
hơn nữa tất yếu đến một lúc đứa trẻ trả lời: "ít hạt cườm hơn, bởi vì là quá
hẹp". Như vậy là có sự sửa chữa việc tập trung vào chiều cao bằng một sự
phi tập trung hoá sự chú ý vào chiều rộng trong trường hợp chủ thể đánh giá
số lượng nhỏ hơn ở B so với ở A do sự nhỏ của cái lọ, sự kéo dài ra của lọ ở
C và D v.v... trái lại dẫn đến việc lật ngược phán đoán của nó có lợi cho chiều
cao. Mà sự chuyển từ một việc tập trung duy nhất thành hai tập trung liên tiếp
báo trước thao tác, khi chủ thể lập luận trên hai quan hệ cùng một lúc, nó suy
diễn ra sự bảo toàn. Tuy nhiên ở đây còn chưa có cả sự suy diễn lẫn thao tác
thực tại: chỉ đơn giản là một sai lầm được sửa chữa, nhưng bị chậm và do
phản ứng với ngay cả sự cường điệu của nó (như trong lĩnh vực các ảo giác
tri giác) và hai quan hệ được xem xét xen kẽ thay vì được nhân lên một cách
lôgích. Vậy là một thứ điều tiết trực giác can thiệp vào chứ không phải là một
cơ chế thực sự có tính thao tác.
Còn hơn thế. Để nghiên cứu đồng thời những khác biệt giữa trực giác
và thao tác, và sự chuyển từ cái này sang cái kia, người ta có thể xét không
chỉ việc đặt thành quan hệ các chất lượng theo hai kích thước, mà chính bản
thân sự tương ứng dưới một hình thức hoặc lôgích (định tính) hoặc toán học.
Người ta giới thiệu tức khắc với chủ thể những cái cốc hình dạng khác nhau
A và B và người ta bảo nó đặt lần lượt một hạt cườm vào mỗi cốc; cốc này
với tay trái và cốc kia với tay phải. Khi số cườm còn ít (4 hoặc 5), đứa trẻ tức
thì tin ở sự tương đương của hai tập hợp, điều đó dường như báo trước thao
tác, nhưng khi hình dạng thay đổi quá nhiều, trong chừng mực mà sự tương
hợp tiếp tục, đứa trẻ từ chối thừa nhận sự đồng đẳng (bằng nhau). Thao tác
còn tiềm tàng lúc này chịu thua bởi những câu thúc quá đáng của trực giác.
Bây giờ chúng ta xếp thẳng hàng 6 cái que đỏ lên bàn, chúng ta hãy
trao cho trẻ một bộ que xanh và bảo trẻ đặt que xanh bằng que đỏ, khoảng từ
5 đến 6 tuổi, trẻ không tạo dựng sự tương ứng và bằng lòng với một hàng
cùng độ dài (có các yếu tố khít hơn hình mẫu), Trung bình khoảng 5-6 tuổi,
chủ thể xếp thẳng hàng sáu que xanh đối diện với sáu que đỏ. Thế thao tác
lúc này đã đạt được như nó hình như thế chăng? Hoàn toàn không! chỉ cần
nới rộng các yếu tố của một trong các dãy, hoặc đặt chúng thành đống v.v...
để chủ thể từ chối không còn tin ở sự đồng đẳng nữa. Cho tới khi sự tương
ứng thị giác kéo dài, sự đồng đẳng là hiển nhiên: ngay khi sự tương ứng đầu
thay đổi thi sự đồng đẳng sau biến mất, điều này dẫn ta đến sự không bảo
toàn của tổng thể.
Mà sự phản ứng trung gian này là đầy lí thú. Cái sem trực giác đã trở
thành khá mềm mại để cho phép sự đón trước và sự tạo dựng một hình thể
đúng đắn của những sự tương ứng, điều đó đối với một người quan sát
không chín chắn có tất cả các mặt của một thao tác. Tuy nhiên, một lần cái
sem trực giác được biến đổi, quan hệ lôgích của sợ cân bằng - sản phẩm cần
thiết của một thao tác - tỏ ra không hiện diện. Vậy là người ta đứng trước một
hình thái trực giác cao cấp hơn hình thức trước đó mà người ta có thể gọi là
"trực giác có khớp" để đối lập với những trực giác giản đơn. Nhưng cái trực
giác có khớp này trong khi vẫn xích lại gần thao tác (và đi theo nó trong thời
gian sau qua những giai đoạn thường là không rõ rệt) cần phải giữ tính chất
cứng rắn và không thể nghịch đảo như tư duy trực giác hoàn toàn: vậy nó chỉ
là sản phẩm của những điều tiết liên tiếp, chúng cuối cùng khớp nối với các
quan hệ tổng quát và không thể phân tích của bước khởi đầu và chưa phải là
một "nhóm hợp" thực sự.
Người ta có thể bám sát hơn nữa sự khác biệt này giữa các phương
pháp trực giác và các phương pháp thao tác bằng cách gán sự phân tích với
những lồng ghép của các lớp và các sự chia loại của những quan hệ phi đối
xứng, tạo dựng những nhóm hợp sơ đẳng nhất. Nhưng tất nhiên, vấn đề là
trình bày vấn đề ở ngay trên địa bàn trực giác, duy nhất có thể đạt được trình
độ đó, đối lập với lĩnh vực hình thức chỉ gắn liền với ngôn ngữ. Còn đối với
các lồng ghép của các lớp, người ta đặt trong một hộp vài chục hạt cườm mà
chủ thể nhận ra là tất cả chúng "đều bằng gỗ" và tạo thành như vậy một toàn
thể B. Phần lớn các hạt cườm đều nâu và tạo thành bộ phận A và một vài hạt
trắng tạo thành bộ phận bổ sung A’. Để xác định xem đứa trẻ có thể hiểu thao
tác A + A’ = B, tức là sự tụ hội các bộ phận vào trong cái toàn thể, người ta có
thể đặt câu hỏi đơn giản sau: trong hộp này (các hạt cườm vẫn có thể trông
thấy) có chăng nhiều hạt cườm bằng gỗ hơn hoặc nhiều hạt cườm nâu hơn,
vậy A < B ?
Cho đến bảy tuổi, đứa trẻ hầu như lúc nào cũng trả lời rằng có nhiều
hạt cườm nâu hơn "vì chỉ có hai hoặc ba hạt cườm trắng". Lúc đó người ta
nói rõ thêm: Các hạt nâu bằng gỗ chăng? - Đúng.
Nếu tôi lấy đi tất cả các hạt cườm bằng gỗ để đặt chúng ở đây (cái hộp
thứ hai), có còn hạt cườm trong cái hộp (thứ nhất) không? - không, vì tất cả
chúng đều bằng gỗ. Nếu tôi lấy đi các hạt cườm nâu, có còn hạt cườm
không? - Có, còn các hạt trắng. Đoạn, người ta lặp lại câu hỏi ban đầu và chủ
thể lại bắt đầu khẳng định trong hộp có nhiều hạt cườm nâu hơn hạt cườm
bằng gỗ, bởi vì chỉ có hai hạt cườm trắng.
Cơ chế của loại hình phản ứng này dễ được tháo gỡ: chủ thể dễ dàng
tập trung sự chú ý của mình vào cái tổng thể B riêng ra, hoặc vào các bộ
phận A và A’ mỗi khi bị tách riêng bằng ý nghĩ, nhưng cái khó khăn là bằng
cách tập trung vào A, trẻ phá huỷ bằng ngay sự việc đó cái toàn thể B, đến
nỗi các bộ phận A lúc này chỉ còn được so sánh với bộ phận kia A’. Thế là lại
có sự không bảo toàn cái toàn thể, vì thiếu sự cơ động trong các tập trung
hoá liên tiếp của tư duy. Nhưng còn hơn thế nữa. Khi bắt trẻ tưởng tượng cái
gì sẽ xảy ra khi tạo dựng một cái vòng cổ hoặc với các hạt cườm bằng gỗ B,
hoặc với các hạt nâu A, người ta tìm thấy lại những khó khăn trước, nhưng
phải nói rõ thêm như sau: nếu tôi làm một vòng đeo cổ với các hạt nâu đôi khi
đứa trẻ trả lời, tôi không thể làm một chiếc vòng khác với cùng những hạt
cườm đó và chiếc vòng gốm những hạt bằng gỗ chỉ có những hạt cườm
trắng! Lối suy nghĩ như vậy, không có gì là phi lí, nhưng nêu rõ sự khác biệt
còn ngăn cách tư duy trực giác với tư duy thao tác: trong chừng mực mà lối
tư duy đầu bắt chước những hoạt động thực tại bằng những thử nghiệm trí
tuệ có hình ảnh, nó gặp phải trở ngại là trên thực tế người ta không thể làm
hai chiếc vòng với cùng những yếu tố, trong khi, ở chừng mực mà lối tư duy
thứ hai tiến hành bằng hành động nội hiện hoàn toàn có thể nghịch đảo,
không gì cản trở nó làm đồng thời hai giả thiết và so sánh chúng với nhau.
Việc phân hạng các đoạn A, B, C v.v... có kích thước khác nhau, nhưng
ở gần nhau và phải được so sánh từng đôi một cũng gây nên những bài học
bổ ích. Những trẻ nhỏ 4-5 tuổi chỉ đạt tới việc tạo dựng những cặp không
được phối hợp với nhau: BD, AC, EG, v.v... Đoạn, đứa trẻ tạo dựng những
dãy ngắn và chỉ đạt đến sự phân hạng 10 yếu tố bằng những mầy mò liên
tiếp. Hơn nữa, khi hàng của nó kết thúc, nó không có khả năng xen vào giữa
những số hạng mới mẻ mà không tháo tung tất cả ra. Phải đợi đến trình độ
thao tác để sự phân hạng đạt kết quả tức khắc, bằng một phương pháp bao
gồm chẳng hạn việc tìm kiếm số nhỏ nhất trong các số hạng, rồi số nhỏ nhất
trong những số hạng còn lại v.v... Mà cũng chính ở trình độ này mà lập luận(A
< B)+(B < C)=(A < C) có thể có được, trong khi ở trình độ trực giác chủ thể từ
chối việc rút ra từ hai bất đẳng thức đã được nhận ra bằng tri giác A < B và B
< C dự đoán A < C.
Những khớp nối liên tiếp của trực giác và những khó khăn còn tách biệt
nó với thao tác là đặc biệt rõ rệt trong các lĩnh vực không gian và thời gian,
hơn nữa là rất bổ ích về phía các so sánh có thể có giữa các phản ứng trực
giác và các phản ứng cảm giác - vận động. Người ta nhớ lại việc đứa bé thụ
đắc hành động lật ngược cái bầu sữa. Mà lật ngược một đồ vật bằng một
hành động thông minh không dẫn đến việc biết lật ngược nó trong ý nghĩ và
các giai đoạn của sự trực giác về việc quay vòng cũng bao hàm một sự lặp lại
trên những nét đại thể của những trực giác của việc quay vòng trong thực tế
hoặc cảm giác - vận động: trong cả hai trường hợp, người ta tìm thấy lại cùng
một quá trình phi tập trung hoá dần dần xuất phát từ sự phối cảnh duy ngã,
sự phi tập trung hoá này là đơn thuần tri giác và vận động trong trường hợp
thứ nhất, và biểu tượng trong trường hợp thứ hai.
Về mặt này, người ta có thể tiến hành theo hai cách: hoặc bằng việc
quay vòng, trong ý nghĩ, của chủ thể quanh đồ vật hoặc việc quay vòng trong
ý nghĩ của bản thân đồ vật. Để thực hiện tình huống thứ nhất, người ta giới
thiệu, chẳng hạn: với đứa trẻ những quả núi bằng bìa cứng trên một bàn
vuông và người ta bảo nó chọn trong số những hình vẽ rất đơn giản những
hình nào phù hợp các phối cảnh có thể có (đứa trẻ ngồi ở một trong các cạnh
của bàn và nhìn thấy một con búp bê thay đổi vị trí và phải tìm thấy lại những
tranh tương ứng với chúng): thế là đứa trẻ nhỏ luôn bị chế ngự bởi chỗ nhìn
là chỗ nhìn của bé vào lúc lựa chọn, ngay cả khi bản thân nó trước đó đã đi
quanh từ cạnh này sang canh khác của bàn. Những sự đảo lại trước - sau,
bên phải - bên trái là một khó khăn lúc đầu không vượt qua nổi và trẻ chỉ có
thể nắm được dần dần vào khoảng 7-8 tuổi, do những điều tiết trực giác.
Sự quay vòng của đồ vật quanh bản thân nó, mặc khác, có thể đưa lại
những nhận xét thú vị liên quan đến trực giác về trật tự. Dọc cùng một sợi
giây thép người ta xâu, chẳng hạn ba hình người màu khác nhau A, B và C
hoặc người ta nhét vào một ống bằng bìa cứng (không cho đè lên nhau) ba
hòn A, B và C.
Người ta bảo trẻ vẽ toàn bộ cái đó với tính cách trợ kí ức. Đoạn người
ta cho các yếu tố A, B. C đi qua đằng sau một màn che hoặc xuyên qua một
cái ống và bảo trẻ đoán trật tự xuôi của sự đi ra (ở đầu mút kia) và trật tự
ngược của sự quay trở lại. Bọn trẻ đều dự kiến đúng trật tự xuôi. Trái lại trật
tự ngược chỉ được tiếp thu vào khoảng 4-5 tuổi, vào cuối thời kì tiền - khái
niệm. Sau các việc trên, người ta cho toàn bộ sậu đó chịu một vận động quay
vòng 180° (sợi giây thép hoặc cái ống) và người ta bảo trẻ dự kiến việc đi ra
(vậy là đã được đảo lại). Trẻ đã tự mình kiểm soát kết quả. Người ta làm lại;
đoạn thực hiện hai nửa vòng quay (tất cả 360°), đoạn ba v.v...
Chính bài làm trên cho phép theo dõi từng bước tất cả những tiến bộ
của trực giác, cho đến lúc nảy sinh thao tác từ 4 đến 7 tuổi chủ thể bắt đầu từ
chỗ không dự kiến được rằng một nửa vòng quay thay đổi ABC thành CBA;
đoạn khi đã nhận ra điều đó, nó thừa nhận rằng hai nửa vòng quay cùng cho
kết quả là CBA; được thí nghiệm làm tỉnh ngộ, nó không còn biết dự kiến kết
quả của ba nửa vòng quay. Hơn nữa các trẻ nhỏ (4-5 tuổi) sau khi đã thấy khi
thi A khi thì C ra ở đầu hàng, tưởng tượng rằng bản thân B sẽ có lượt được
ưu tiên (không biết rằng tiền đề Hilbert đã nêu rõ nếu B "ở giữa" A và C, nó
tất yếu cùng "ở giữa" C và A, khái niệm về sự không thay đổi của vị trí "ở
giữa" cũng có được do những điều tiết liên tiếp, nguồn gốc của những khớp
nối của trực giác. Chỉ vào khoảng 7 tuổi, tập hợp các thay đổi mới được nhận
thức, và thường khá đột ngột ở giai đoạn thứ hai, do một "nhóm hợp" chung
các quan hệ đang tác động. Chúng ta hãy ghi nhận ngay tức khắc rằng thao
tác cũng bắt nguồn từ trực giác theo cách đó, không chỉ khi trật từ xuôi (+) có
thể được đảo ngược lại bằng ý nghĩ (-) bởi một khớp nối trực giác đầu tiên,
mà còn cả khi hai trật tự đảo nhau cho lại trật tự xuôi (- nhân - cho + điều này,
trong trường hợp đặc biệt, sẽ được hiểu vào lúc 7-8 tuổi).
Các quan hệ thời gian cũng tạo ra những nhận xét cùng loại. Thời gian
trực giác là một thời gian gắn liền với các đồ vật và các vận động đặc biệt,
không có sự đồng đều hoặc sự trôi chảy đồng nhất. Khi hai vật di động xuất
phát từ cùng một điểm A đến hai nơi khác nhau B và B’, trẻ 4-5 tuổi thừa
nhận sự đồng thời của các xuất phát, nhưng đặt vấn đề nghi ngờ sự đồng
thời của các việc đến mặc dầu sự đồng thời đó dễ được tri giác. Trẻ thừa
nhận rằng một trong những vật di động không chạy nữa khi vật kia dừng lại,
nhưng nó từ chối việc nhận thức rằng các vận động kết thúc "cùng một lúc",
vì đúng là chưa có thời gian chung cho những tốc độ khác nhau. Cũng vậy,
trẻ đánh giá "trước” và "sau" theo một sự nối tiếp về không gian chứ chưa về
thời gian. Về phương diện các khoảng cách thời gian "nhanh hơn" kéo theo
"nhiều thời gian hơn”, cả khi không có sự tập dượt về lời nói và chỉ bằng sự
kiểm tra đơn thuần các dữ kiện (vì nhanh hơn = xa hơn = nhiều thời gian
hơn). Khi những khó khăn đầu tiên này được khắc phục bởi một sự khớp nối
các trực giác (nhờ ở các phi tập trung hoá của tư duy nó quen so sánh hai hệ
thống vị trí cùng một lúc, từ đó mà có một sự điều tiết dần dần các đánh giá),
tuy nhiên vẫn tồn tại một sự bất lực có hệ thống trong việc tụ hội các thời gian
cục bộ thành một thời gian duy nhất. Hai lượng nước bằng nhau chảy với lưu
lượng bằng nhau qua hai nhánh của một ống hình chữ Y vào những bình có
hình dạng khác nhau, gây ra, chẳng hạn, những phán đoán như sau: trẻ 6-7
tuổi thừa nhận sự đồng thời của các xuất phát và các ngừng lại, nhưng tỏ ra
nghi ngờ rằng nước đã chảy lâu như nhau vào bình này và bình kia. Những ý
kiến liên quan đến tuổi cũng gây ra cùng những nhận xét như nhau: Nếu A
sinh ra trước B, điều đó không có nghĩa là nó già hơn, và nếu nó già hơn,
điều đó không loại trừ rằng B đuổi kịp nó về tuổi và ngay cả vượt nó nữa!
Các khái niệm trực giác song hành với những khái niệm mà người ta
gặp trong lĩnh vực của trí khôn thực hành. André Rey đã chứng tỏ rằng các
chủ thể cùng tuổi đương đầu với các vấn đề về việc phối hợp các dụng cụ
(dùng móc lấy đồ vật ra từ một ống, kết hợp các sự chuyển dời những bản
tiếp xúc, các vòng quay v.v...) cũng có biết bao cư xử phi lí trước khi tìm ra
những lời giải thích hợp. Còn về những biểu tượng không có những vận hành
bằng tay, như việc giải thích sự vận động của các con sông, của các đám
mây, của sự trôi nổi các thuyền bè v.v.. chúng ta đã có thể nhận ra rằng
những quan hệ nhân - quả kiểu đó được để lại từ bản thân hoạt động: các
vận động vật thể chứng tỏ tính mục đích của một sức mạnh tích cực bên
trong: con sông "lấy đà" để đi qua sỏi đá, những đám mây làm ra gió, gió trở
lại đẩy mây đi v.v...
Tư duy trực giác là thế đấy. Nhờ tư duy tượng trưng thuộc loại tiền -
khái niệm, mà nó phát sinh trực tiếp, tư duy trực giác kéo dài về một hướng trí
khôn cảm giác - vận động. Cũng như trí khôn cảm giác - vận động đồng hoá
các đồ vật với những sem của hoạt động, trực giác bao giờ cũng là, trước
hết, một thứ hoạt động được tiến hành trong ý nghĩ: trút sang bình khác, làm
cho tương ứng, lồng ghép, chia hạng, chuyển chỗ v.v... còn là những sem
hoạt động qua đó biểu tượng đồng hoá thực tại. Nhưng sự điều ứng các sem
đồ vật này thay vì giữ tính thực hành, cung cấp những cái biểu đạt bắt chước
hoặc có hình ảnh cho phép sự đồng hoá này được thực hiện trong ý nghĩ.
Vậy trực giác là, thứ nữa, một ý nghĩ có hình ảnh, tinh tế hơn ở giai đoạn
trước, vì nó liên quan đến những hình thế tổng thể chứ không còn liên quan
đến những bộ hỗn hợp đơn giản được tượng trưng bởi những biểu mẫu;
nhưng nó còn dùng sự tượng trưng có tính biểu tượng và như vậy luôn có
một phần những hạn chế gắn chặt với nó.
Những hạn chế đó là rõ ràng. Tương quan trực tiếp giữa một sem hoạt
động nội hiện và sự tri giác các đồ vật trực giác chỉ kết thúc ở những hình thể
"tập trung" vào tương quan đó. Vì thiếu khả năng vượt quá giới hạn này của
những hình thể có hình ảnh, những quan hệ mà nó tạo dựng do vậy là không
thể cấu tạo được giữa chúng. Chủ thể không đạt đến sự đảo nghịch bởi vì
một hành động được chuyển thành kinh nghiệm được đơn thuần tưởng
tượng ra vẫn giữ tính chất một chiều và một sự đồng hoá tập trung vào một
hình thể tri giác tất nhiên cũng là như vậy. Do đó mà thiếu tính bắc cầu, bởi vì
mỗi sự tập trung biến dạng hoặc làm hư hỏng các sự tập trung khác và thiếu
tính kết hợp bởi vì các tương quan phụ thuộc vào con đường mà tư duy phải
đi qua để xây dựng nên chúng. Vậy tóm lại, là do thiếu sự cấu tạo bắc cầu,
đảo nghịch và kết hợp mà không có cả sự đồng nhất được bảo đảm của các
yếu tố lẫn sự bảo toàn của cái toàn bộ. Như vậy, người ta cũng có thể nói
rằng trực giác vẫn mang tính chất biểu tượng học, bởi vì bắt chước các
đường biên của thực tại mà không sửa chữa chúng, và duy kỉ bởi vì thường
xuyên bị tập trung tuỳ thuộc vào hoạt động của thời điểm: nó do vậy thiếu sự
cân bằng giữa sự đồng hoá các sự vật vào cái sem của tư duy và sự điều
ứng của những sem đó vào thực tế.
Nhưng trạng thái ban đầu này nó được tìm thấy lại ở mỗi lĩnh vực của
tư duy trực giác, được dần dần sửa chữa nhờ một hệ thống các điều tiết báo
trước những thao tác. Bị chế ngự trước tiên bởi quan hệ trực tiếp giữa hiện
tượng và chỗ đứng nhìn của chủ thể, trực giác tiến hoá theo hướng của sự
phi tập trung hoá. Mỗi biến dạng đẩy đến cực điểm mang theo sự can thiệp lại
của những tương quan đã bị xem nhẹ. Mỗi sự đặt quan hệ tạo thuận lợi cho
khả năng của một sự trở về. Mỗi quay đi kết thúc ở những sự giao thoa làm
phong phú thêm các quan điểm. Mọi sự phi tập trung hoá của một trực giác
được chuyển dịch bằng cách đó thành một sự điều tiết nó hướng theo chiều
của tính nghịch đảo, của sự cấu tạo bắc cầu và của sự phối hợp, tức là nói
tóm tắt, của sự bảo toàn do tính kết hợp các quan điểm (điểm nhìn). Do đó
mà có các trực giác được khớp nối, sự tiến bộ của chúng đi vào hướng của
tính cơ động có thể nghịch đảo và chuẩn bị cho thao tác.
* CÁC THAO TÁC CỤ THỂ
Sự xuất hiện các thao tác lôgích - số học và không gian - thời gian đặt
ra một vấn đề có tầm quan trọng lớn về các cơ chế đặc trưng cho sự phát
triển của tư duy. Quả là không phải bằng một quy ước giản đơn dựa trên
những định nghĩa được chọn lựa từ trước mà người ta phải định ranh giới
của thời điểm lúc các trực giác đã được khớp nối biến thành những hệ thống
thao tác. Có cái đáng làm hơn là ngắt sự nối tiếp của quá trình phát triển
thành những giai đoạn nhận thấy được qua những tiêu chí bên ngoài nào đó:
trong trường hợp của sự khởi đầu các thao tác, bước ngoặt quyết định được
biểu hiện bằng một thứ cân bằng luôn nhanh chóng và đôi khi đột ngột nó làm
ảnh hưởng đến tổng thể những khái niệm của cùng một hệ thống, và vấn đề
là giải thích từ nội bộ sự cân bằng đó. Ở đó có cái gì so sánh được với những
cấu trúc hoá tổng thể đột ngột được lí thuyết hình thức mô tả, trừ phi là có
trường hợp nó sản sinh ra cái đối lập của một sự kết tinh bao quát toàn bộ
những tương quan thành một mạng tĩnh tại duy nhất: các thao tác trái lại nảy
sinh từ một thứ dịu đi của các cấu trúc trực giác và của sự cơ động đột ngột
nó làm sinh động và kết hợp các hình thể cho đến lúc đó cứng nhắc đến một
mức độ nào đó, mặc dù chúng có những khớp nối tiên tiến. Như vậy là thời
điểm mà các quan hệ thời gian được tụ hội thành ý niệm của một thời gian
duy nhất, hoặc mà các yếu tố của một tổng thể được quan niệm như bao gồm
một toàn thể không thay đổi, hoặc còn là lúc mà các bất đẳng thức đặc trưng
cho một phức hợp các tương quan được chia hạng thành một thang duy nhất,
và tạo thành những thời điểm rất dễ nhận ra trong sự phát triển: nối tiếp vào
trí tưởng tượng mò mẫm, đôi khi đột ngột, là một cảm giác gắn bó mạch lạc
và cảm giác về nhu cầu, sự hài lòng đạt đến, cuối cùng, một hệ thống tự nó
khép kín và có thể mở rộng ra đến vô hạn.
Do đó vấn đề là tìm hiểu xem theo quá trình bên trong nào mà diễn ra
sự chuyển từ một giai đoạn cân bằng hóa tiên tiến sang một sự cân bằng cơ
động được đạt tới ở giới hạn của giai đoạn đầu (các thao tác). Nếu khái niệm
"nhóm hợp" được mô tả ở chương II thực sự có một ý nghĩa tâm lí học, thì
chính là nó phải biểu hiện ra trên điểm này.
Vậy vì giả thuyết là các tương quan trực giác của một hệ thống được
xem xét, vào một thời điểm nhất định, được đột ngột "nhóm hợp", vấn đề đầu
tiên là tìm biết xem người ta nhận ra sự nhóm hợp bằng tiêu chí bên trong
hoặc trí tuệ nào. Câu trả lời là hiển nhiên: ở đâu có cái "nhóm hợp" thì có sự
bảo toàn cái toàn thể, và sự bảo toàn đó bản thân nó không chỉ đơn giản là
được chủ thể giả định với tính cách là quy nạp có thể có, mà chủ thể khảng
định như một sự chắc chắn của tư duy nó.
Chúng ta hãy lấy lại ví dụ đầu đã được nêu ra về tư duy trực giác: sự
đổ các hạt cườm từ bình này sang bình khác. Sau một thời gian dài mà mỗi
sự thay đổi bình được coi như thay đổi số lượng, sau một giai đoạn trung gian
(trực giác được khớp nối) ở đó một số thay đổi bình được coi là thay đổi cái
toàn thể trong khi một số thấy bình khác, giữa các bình ít khác nhau, dẫn chủ
thể đến việc giả định rằng cái toàn thể đã được bảo toàn: bao giờ cũng đến
một lúc (giữa 6; 6 và 7; 8 tuổi) đứa trẻ thay đổi thái độ: nó không cần nghĩ
ngợi nữa, nó quyết định, nó có vẻ ngạc nhiên sao người ta lại đặt câu hỏi đó
ra cho nó, nó chắc chắn về sự bảo toàn. Cái gì đã xẩy ra? Nếu người ta hỏi
nó lí do, nó trả lời rằng người ta đã không thêm hoặc bớt gì cả; nhưng các trẻ
nhỏ cũng biết điều đó, nhưng chúng không kết luận về sự đồng nhất; sự đồng
nhất không phải là một quá trình đầu tiên, mặc cho E.Meyerson, mà là kết quả
của sự đồng hoá bởi các nhóm hợp đầy đủ (sản phẩm của thao tác trực tiếp
bởi cái đảo nghịch của nó). Hoặc nó trả lời rằng độ rộng mà cái bình mới mất
đi được bù bằng độ cao v.v...; nhưng trực giác được khớp nối đã dẫn đến
những sự phi tập trung hoá của một tương quan đã cho, mà không kết thúc ở
sự phối hợp đồng thời những quan hệ hoặc ở sự bảo toàn cần thiết. Hoặc là
chủ yếu, nó trả lời rằng một sự thay đổi bình từ A sang B có thể được sửa lại
bởi sự thay đổi bình ngược lại, và sự nghịch đảo này chắc chắn là thiết yếu,
nhưng các trẻ nhỏ đôi khi đã thừa nhận một sự trở về lại có thể có ở điểm
xuất phát, mà "sự trở về kinh nghiệm chủ nghĩa" đó còn tạo nên một tính
nghịch đảo trọn vẹn. Vậy chỉ có một câu trả lời chính đáng: những thay đổi
khác nhau được dẫn ra - tính nghịch đảo, sự cấu tạo các quan hệ đền bù, sự
đồng nhất v.v... trên thực tế dựa vào nhau, và bởi vì chúng đúc lại thành một
toàn thể có tổ chức mà mỗi cái là thực sự mới mặc dầu sự gắn bó thân thuộc
với tương quan trực giác tương ứng đã được xây dựng ở trình độ trước.
Ví dụ khác. Trong trường hợp các yếu tố được xếp theo thứ tự ABC mà
người ta cho chịu một nửa vòng quay (180°), đứa trẻ khám phá một cách trực
giác, và dần dần hầu hết tất cả các tương quan: rằng B vẫn nằm không thay
đổi "giữa" A và C và giữa C và A; một vòng đổi ABC thành CAB và hai vòng
đem trở lại ABC v.v... Nhưng cái tương quan khám phá ra những cái này sau
những cái kia vẫn là những trực giác không có liên hệ lẫn nhu cầu. Khoảng 7-
8 tuổi, trái lại người ta tìm thấy những chủ thể dự kiến được trước mọi sự thử:
1. rằng ABC đảo ngược lại thành CBA; 2. rằng hai sự đảo ngược đem lại trật
tự xuôi, 3. rằng ba sự đảo ngược giá trị bằng một sự đảo ngược; v.v... Có ở
đây nữa mỗi tương quan có thể tương ứng với một sự khám phá trực giác;
nhưng tổng hoà tất cả chúng lại, chúng tạo thành một thực tế mới bởi vì
chúng trở thành diễn dịch và không còn bao gồm những thí nghiệm liên tiếp,
có thực hoặc trong óc.
Dễ dàng thấy rằng trong mọi trường hợp và các trường hợp đó là vô
số, sự cân bằng cơ động đạt được khi những biến đổi sau đây xảy ra đồng
thời: 1. hai hành động liên tiếp có thể được phối hợp thành một; 2. sem hành
động, đã hoạt động trong tư duy trực giác, trở thành có thể đảo nghịch; 3.
cùng một điểm có thể được đạt tới không bị thay đổi bằng hai con đường
khác nhau; 4. việc trở về điểm xuất phát cho phép tìm thấy lại điểm đó đồng
nhất với bản thân nó; 5. cùng một hành động trong khi lặp lại thì hoặc không
thêm gì cho bản thân nó, hoặc là một hành động mới với hiệu quả luỹ tích.
Người ta nhận ra ở đó sự cấu tạo bắc cầu, tính nghịch đảo, tính phối hợp và
sự đồng nhất với (ở điểm 5) hoặc sự trùng lặp lôgích học, hoặc sự lặp lại
bằng số, đặc trưng cho các "nhóm hợp” lôgích học hoặc các "nhóm" số học.
Nhưng điều phải hiểu cho kỹ để đạt tới tính chất thực sự tâm lí học của
cái nhóm hợp, đối lập với cách trình bày của nó trong ngôn ngữ lôgích học,
đó là những thay đổi khác nhau gắn bó với nhau trên thực tế là sự biểu hiện
của cùng một hành vi tổng thể, nó là một hành vi phi tập trung hoá hoàn toàn
hoặc là một hành vi bảo toàn trọn vẹn của tư duy. Cái riêng của sem cảm giác
- vận động (tri giác v.v...), của cái biểu trưng tiền khái niệm, của cả bản thân
hình thể trực giác, là chúng luôn “tập trung" vào một trạng thái đặc biệt của đồ
vật và ở một điểm nhìn đặc biệt của chủ thể, vậy là chúng luôn luôn biểu lộ ra
đồng thời, vừa là một sự đồng hoá duy kĩ với chủ thể, vừa là một sự điều ứng
mang tính hiện tượng luận với đồ vật (khách thể). Cái riêng của sự cân bằng
cơ động đặc trưng cho cái nhóm hợp là, trái lại sự tập trung hoá, đã được
chuẩn bị do những điều tiết và những khớp nối lũy tiến của trực giác, bỗng
chốc trở thành có hệ thống khi đạt đến giới hạn của nó: tư duy không còn gắn
bó lúc này vào các trạng thái đặc biệt của đồ vật, nhưng nó tự bắt buộc tuân
thủ bản thân những biến đổi liên tiếp, tuỳ theo những quay đi và những trở về
có thể có; và nó không còn bắt nguồn từ một điểm nhìn đặc biệt của chủ thể
mà kết hợp tất cả những điểm nhìn riêng biệt thành một hệ thống những sự
hỗ tương khách quan. Cái nhóm hợp thực hiện như vậy, lần đầu tiên, sự cân
bằng giữa việc đồng hoá các sự vật vào hoạt động của chủ thể và sự điều
ứng các sem chủ quan vào những biến đổi của các sự vật. Lúc xuất phát, quả
vậy, sự đồng hoá và sự điều ứng tác động ở chiều trái ngược nhau, do đó mà
có đặc tính biến dạng của sự đồng hoá và đặc tính hiện tượng luận của sự
điều ứng. Nhờ có những đón trước và những tái tạo kéo dài theo hai chiều
những hành động ở các khoảng cách luôn luôn lớn hơn, trừ những đón trước
và những tái tạo ngắn riêng biệt đối với sự tri giác, thói quen và trí khôn cảm
giác - vận động đến các sem đón trước được sự biểu tượng trực giác xây
dựng nên, sự đồng hoá và sự điều ứng dần dần tự cân bằng lại. Chính sự kết
thúc của sự cân bằng này giải thích tính nghịch đảo, giới hạn cuối cùng (kết
thúc) của các việc đón trước và tái tạo cảm giác - vận động và trí tuệ, và cùng
với tính đảo nghịch, sự cấu tạo đảo nghịch, đặc trưng cho các nhóm hợp: cái
chi tiết của các thao tác nhóm hợp lại chỉ biểu hiện, quả vậy, những điều kiện
đã tụ hội được vừa là của sự kết hợp các chỗ đứng nhìn liên tiếp của chủ thể
(với sự trở về có thể có trong thời gian và sự đón trước cái nối tiếp của
chúng) vừa là sự kết hợp những biến đổi có thể tri giác hoặc có thể biểu hiện
được của các đồ vật (khách thể) - trước đây, hiện nay và bằng sự diễn biến
về sau.
Trên thực tế, các nhóm hợp thao tác, được tạo dựng vào khoảng 7
hoặc 8 tuổi (đôi khi sớm hơn một ít) kết thúc ở các cấu trúc sau đây: Trước
hết chúng dẫn đến những thao tác lôgích học của sự lồng ghép các lớp (vấn
đề về các hạt cườm nâu A ít hơn những hạt cườm bằng gỗ B được giải quyết
vào khoảng 7 tuổi) và của sự chia hạng của các quan hệ phi đối xứng. Từ đó
có sự khám phá tính bắc cầu làm cơ sở cho các suy diễn: A = B; B = C vậy A
= C; hoặc A < B; B < C vậy A < C, vả lại, mỗi khi những nhóm hợp cộng được
lĩnh hội thì những nhóm hợp nhân cũng được thấu hiểu ngay dưới hình thức
các tương hợp: biết chia hạng các đồ vật theo các quan hệ A1 < B1 < C1, chủ
thể không còn cảm thấy khó khăn hơn việc chia hạng hai hoặc nhiều tập hợp
như cách A2 < B2 < C2 tương ứng với nhau từng số hạng một với một dãy
những hình người có kích thước tăng dần mà trẻ đã sắp xếp, trẻ 7 tuổi biết
làm tương ứng một dãy cái gậy hay cái túi và cả tìm thấy lại khi người ta đã
trộn lẫn tất cả, với yếu tố nào của dãy này tương ứng yếu tố nào của dãy kia
(tính chất nhân của nhóm hợp này không tạo thêm khó khăn nào cho các thao
tác cộng về chia hạng vừa mới được khám phá).
Hơn nữa, việc tạo dựng đồng thời những nhóm hợp của việc lồng ghép
các lớp và của việc chia hạng định tính mang đến sự xuất hiện của hệ thống
các số. Hẳn là đứa trẻ nhỏ không đợi sự khái quát hoá có tính chất thao tác
đó để tạo dựng những số đầu tiên (theo A.Descoeudres, trẻ mỗi năm xây
dựng một số mới giữa 1 và 6 tuổi), nhưng các số từ 1 đến 6 còn là trực giác,
bởi vì gắn liền với các hình thế tri giác. Mặt khác, người ta có thể dạv cho trẻ
đếm, nhưng kinh nghiệm đã chỉ cho chúng ta thấy rằng việc sử dụng lời nói
tên các số vừa không có quan hệ gì lớn với bản thân của phép tính với các
số; các phép này đôi khi đi trước sự đếm bằng lời hoặc đi sau nó mà không
có liên hệ cần thiết. Còn về các thao tác tạo dựng số, tức là về sự tương ứng
một đối một (với sự bảo toàn của sự tương đương đạt được, mặc dầu có
những thay đổi của hình hoặc về lặp lại đơn giản của đơn vị (1 + 1 = 2; 2 +1
=3). Chúng không đòi hỏi gì khác ngoài các nhóm hợp cộng của sự lồng ghép
các lớp và sự chia hạng các quan hệ phi đối xứng (thứ tự) nhưng đúc lại
thành một toàn thể có tính chất thao tác; làm sao để đơn vị 1 là đồng thời yếu
tố của lớp (1 bao hàm trong 2, 2 trong 3 v.v..) và của dãy <1 đầu tiên trước 1
thứ hai v.v...) Chừng nào mà chủ thể còn xem xét các yếu tố cá thể trong sự
đa dạng định tính của chúng, nó có thể, quả vậy, hoặc tụ hội chúng theo các
tính chất tương đương của chúng (lúc đó nó tạo dựng các lớp) hoặc sắp xếp
thứ tự chúng theo hiệu số của chúng (lúc đó nó tạo dựng những quan hệ phi
đối xứng), nhưng trẻ không thể tụ hội chúng đồng thời với tính cách vừa là
những cái tương đương vừa là những cái khác biệt. Số, trái lại, là một tập
hợp các đồ vật được quan niệm như cùng một lúc tương đương và có thể xếp
hạng; cái khác nhau duy nhất của chúng lúc đó thu lại ở vị trí thứ tự của
chúng: sự tụ hội cái khác biệt và cái tương đương trong trường hợp này giả
định sự loại bỏ các tính chất, từ đó đúng là giả định sự cấu tạo của đơn vị
đồng đều 1 và sự chuyển từ lôgích học sang toán học. Mà thật thú vị khi nhận
ra rằng sự chuyển này được thực hiện một cách phát sinh ngay vào lúc tạo
dựng những thao tác lôgích: lớp, quan hệ và số như vậy tạo thành một toàn
thể không tách rời về mặt tâm lí học và lôgích học mà mỗi số hạng trong ba
số hạng bổ sung cho hai số hạng kia.
Nhưng các thao tác lôgích học - số học ấy chỉ bao gồm một mặt của
các nhóm hợp cơ bản mà sự tạo dựng là đặc trưng của tuổi trung bình 7-8
tuổi. Với những thao tác này, là những thao tác tụ hội các đồ vật để xếp lớp,
chia hạng hoặc đếm số, tương ứng những thao tác hợp thành của bản thân
các đồ vật, các đồ vật phức hợp, nhưng độc nhất như không gian, thời gian
và các hệ thống vật thể. Mà không có gì đáng ngạc nhiên là những thao tác
đó, lôgích hạ tầng hoặc không gian - thời gian, nhóm hợp lại trong sự tương
hợp với những thao tác lôgích học – số học, bởi vì đó cũng là cùng những
thao tác ấy nhưng ở một thang bậc khác: sự lồng ghép các đồ vật thành lớp
và các lớp với nhau ở đây trở thành sự lồng ghép các bộ phận hay mảnh
thành một toàn thể; sự chia hạng diễn đạt những khác biệt giữa các đồ vật
được biểu hiện dưới hình thức những quan hệ thứ tự (thao tác đặt chỗ) và
chuyển chỗ và số ở đây tương ứng với số đo. Mà trên thực tế, trong khi các
lớp, các quan hệ và các số được xây dựng, người ta thấy được tạo dựng một
cách song song đặc biệt những nhóm hợp định tính phát sinh từ thời gian và
không gian. Chính là vào khoảng 8 tuổi mà các quan hệ về thời gian (trước và
sau) tự kết hợp với các quãng thời gian (lâu nhiều hay ít), trong khi hai hệ
thống khái niệm vẫn độc lập trên bình diện trực giác: ngay khi được nối liền
thành một toàn thể độc nhất, chúng đẻ ra khái niệm của một thời gian chung
cho nhiều vận động khác nhau với tốc độ khác nhau (ở bên trong cũng như ở
bên ngoài). Cũng là vào khoảng 7-8 tuổi mà đặc biệt được tạo dựng nhiều
những thao tác định tính cấu trúc hoá không gian: thứ tự kế tiếp trong không
gian và lồng ghép các khoảng cách về thời gian hay không gian; sự bảo toàn
các độ dài, các diện tích v.v...; sự tạo dựng một hệ thống các toạ độ; những
phối cảnh và những mặt cắt v.v... Về mặt này, việc nghiên cứu sự đo tự
nhiên, nó bắt nguồn từ những đánh giá đầu tiên do những "xúc cảm" tri giác
để kết thúc vào khoảng 7-8 tuổi, ở tính bắc cầu của các sự tương đẳng có
tính thao tác (A = B, B = C vậy A = C.) và ở sự xây dựng đơn vị (do tổng hợp
sự chia cắt và sự chuyển chỗ), chứng minh một cách rõ ràng nhất cách thức
mà sự diễn biến liên tục của các thụ đắc tri giác, rồi trực giác kết thúc ở các
thao tác có tính nghịch đảo cuối cùng cũng như ở hình thức cân bằng cần
thiết của chúng.
Nhưng điều quan trọng là nên ghi nhớ rằng các nhóm hợp khác nhau
có tính chất lôgích học - số học hoặc không gian - thời gian đó còn xa mới tạo
thành một lôgích học hình thức áp dụng được cho mọi khái niệm và mọi lập
luận. Ở đó có một điểm cơ bản phải nêu lên, cả đối với lí thuyết về trí khôn
lẫn những ứng dụng sư phạm, nếu người ta muốn làm cho giáo dục thích hợp
với các kết quả nghiên cứu của tâm lí học phát triển, đối lập với chủ nghĩa
lôgích của truyền thống trường học. Quả vậy, cũng những đứa trẻ ấy, đạt
được những thao tác vừa mới được mô tả thường lại không có khả năng về
những thao tác đó nữa nếu chúng thôi không điều khiển bằng tay những đồ
vật và được mời lập luận đơn thuần bằng mệnh đề lời nói. Những thao tác nói
đến ở đây vậy là những "thao tác cụ thể" chứ chưa phải là thao tác hình thức:
luôn luôn gắn liền với hành động, chúng cấu trúc những thao tác này một
cách lôgích, bao gồm cả những lời nói đi kèm, song chúng không hề bao hàm
khả năng xây dựng một bài nói lôgích độc lập với hành động, vì vậy mà việc
đưa các lớp vào được hiểu ngay từ lúc trẻ 7-8 tuổi trong vấn đề cụ thể về
những hạt cườm (xem ở trên) trong khi một trắc nghiệm (text) bằng lời có cấu
trúc đồng nhất chỉ được giải quyết rất lâu về sau (xem một trong những text
của Burt: "Một vài bông hoa của bó hoa của tôi là vàng", một bé trai nói với
các chị (em) của nó. Đứa thứ nhất trả lời: Vậy tất cả các hoa của em (chị) là
vàng: đứa thứ hai trả lời: "Một bộ phận là vàng" và đứa thứ ba: "Không hoa
nào (là vàng). Ai có lý).
Nhưng còn hơn thế nữa: Cũng những lập luận "cụ thể” như nhau, như
những lập luận dẫn đến sự bảo toàn cái toàn thể, đến tính bắc cầu của các
đẳng thức (A = B = C) hoặc những khác biệt (A < B < C), có thể được vận
hành dễ dàng trong trường hợp một hệ thống xác định của các khái niệm
(như đại lượng vật chất) lại vẫn là không có ý nghĩa ở cùng những chủ thể ấy,
đối với một hệ thống khác của các khái niệm (như trọng lượng). Chính chủ
yếu trên quan điểm đó mà thật không chính đáng nói đến lôgích hình thức
trước khi tuổi thơ kết thúc: các "nhóm hợp" vẫn giữ quan hệ với các loại hình
khái niệm cụ thể (tức là những hành động đã được tinh thần hoá) mà chúng
ta cấu trúc hoá một cách có hiệu quả, nhưng sự cấu trúc hoá những loại hình
khác của các khái niệm cụ thể, có tính chất trực giác phức hợp hơn bởi vì
dựa trên những hành động khác nữa, đòi hỏi một sự tạo dựng lại cùng những
nhóm hợp ấy với một sự xê xích trong thời gian;
Một ví dụ đặc biệt rõ ràng là ví dụ về các khái niệm của sự bảo toàn cái
toàn thể (các dấu hiệu của bản thân việc nhóm hợp). Người ta giới thiệu cho
chủ thể hai cục bột nặn cùng hình dáng, kích thước và trọng lượng, đoạn
người ta thay đổi một trong hai cục đó (thành hình dồi lợn v.v...) và hỏi xem
cái vật chất (cùng một khối lượng bột), cái trọng lượng và cái thể tích (cái này
được đánh giá ở sự chuyển chỗ của nước trong hai cốc mà ở đó người ta
nhấn chìm các đồ vật) có được bảo toàn không. Từ 7-8 tuổi, khối lượng vật
chất được thừa nhận là nhất thiết phải được bảo toàn, căn cứ vào những lập
luận đã được mô tả khi nói về sự bảo toàn các tổng thể. Nhưng cho đến 9-10
tuổi, cùng những chủ thể ấy đặt vấn đề nghi ngờ sự bảo toàn của trọng
hướng, với những lập luận trực giác mà chúng đã đưa ra vào tuổi 7 - 8 để
biện minh cho sự không bảo toàn của vật chất. Còn về các lập luận mà chúng
đưa ra (thường chỉ một chốc lát trước đó) để chứng minh sự bảo toàn của vật
chất, chúng không đem áp dụng vào sự bảo toàn của trọng lượng: nếu cái dồi
là mỏng hơn cục bột, vật chất được bảo toàn bởi vì sự mỏng đi được đền
bằng sự kéo dài ra, nhưng trọng lượng giảm vì bởi về phương diện này, sự
mỏng đi đã tác động một cách tuyệt đối. Vào khoảng 9-10 tuổi, sự bảo toàn
trọng lượng trái lại, được thừa nhận căn cứ vào cùng những lập luận như đối
với sự bảo toàn của vật chất, song sự bảo toàn của thể tích còn bị phủ nhận
trước 11-12 tuổi, và căn cứ vào những lập luận trực giác đảo lại! Hơn nữa,
những sự chia hạng, những cấu tạo đẳng thức, v.v... theo đúng cùng một trật
tự phát triển ấy: lúc 8 tuổi, hai khối lượng vật chất bằng một khối lượng thứ ba
là bằng nhau, nhưng hai trọng lượng thì không thế (độc lập với sự tri giác thể
tích, là tất nhiên), v.v... lí do của sự xê xích đó tất nhiên phải tìm kiếm trong
các đặc tính trực giác của vật chất, của trọng lượng và của thể tích, chúng
làm dễ dàng hoặc làm chậm từ những cấu tạo của các thao tác: Vậy ở tuổi
dưới 11 - 12, cùng một hình thức lôgích học chưa độc lập với cái nội dung cụ
thể của nó.
* CÁC THAO TÁC HÌNH THỨC
Những chênh lệch mà chúng ta vừa xét qua một ví dụ là có quan hệ
đến các thao tác của cùng những phạm trù như nhau, nhưng áp dụng vào
những lĩnh vực khác nhau về hành động và về khái niệm có mặt trong cùng
một thời kì. Vậy chúng có thể được gọi là "những chênh lệch ngang". Trái lại,
sự chuyển từ những kết hợp cảm giác - vận động sang các kết hợp biểu
tượng tạo ra, như chúng ta đã thấy, những tái tạo tương tự, với những chênh
lệch, nhưng những chênh lệch này vì không còn quan hệ với cùng những nấc
như nhau, người ta có thể gọi chúng là "chênh lệch dọc”. Mà sự cấu thành
những thao tác hình thức bắt đầu vào khoảng 11 -12 tuổi, cũng cần có cả một
sự tái tạo dành để chuyển vị các nhóm hợp "cụ thể" lên một bình diện mới về
tư duy, và sự tái tạo này được đặc trưng bởi một loạt các chênh lệch dọc.
Tư duy hình thức nở rộ trong thời niên thiếu. Người thiếu niên, trái
ngược với đứa trẻ thơ, là một cá thể suy ngẫm ngoài thời hiện tại và luyện
dựng các lí thuyết về mọi sự vật, vui thích đặc biệt với những nhận xét phi
thời sự. Đứa trẻ thơ trái lại chỉ suy ngẫm vào dịp hoạt động đang diễn tiến và
không luyện dựng các lí thuyết, ngay cả nếu người quan sát, ghi nhận sự trở
về định kì của các phản ứng tương tự, có thể phân định một sự hệ thống hoá
tự nhiên trong các ý tưởng của mình. Sự suy nghĩ chín chắn đặc trưng cho
người thiếu niên nảy nở ngay vào tuổi 11 - 12, kể từ lúc chủ thể trở nên có
khả năng lập luận theo cách giả thuyết - diễn dịch, tức là trên những bổ trợ
đơn giản không có quan hệ cần thiết với thực tế hoặc với những tín ngưỡng
của chủ thể và bằng cách tin ở sự cần thiết của bản thân lập luận, đối lập với
sự hoà hợp các kết luận với kinh nghiệm.
Mà lập luận theo hình thức và trên những mệnh đề thuần tuý giả định
những thao tác khác với việc lập luận trên hành động hoặc trên thực tế. Lập
luận dựa trên thực tế cũng bao gồm một nhóm hợp các thao tác ở cấp độ thứ
nhất, có thể nói như vậy, tức là các hành động được nội hiện trở thành có thể
hợp nén và nghịch đảo. Tư duy hình thức, trái lại, bao gồm việc suy ngẫm
(theo nghĩa đen) các thao tác, tức là thao tác trên các thao tác hoặc trên
những kết quả của chúng, và do đó nhóm hợp các thao tác ở cấp độ thứ hai.
Chắc hẳn đây cũng cùng những nội hàm có tính thao tác: vấn đề vẫn bao
hàm việc xếp lớp, chia hạng, đếm số, đo, đặt hoặc chuyển chỗ trong không
gian và trong thời gian v.v... Nhưng, không phải là những lớp, hạng, bản thân
quan hệ không gian - thời gian, với tính cách là những cấu trúc hoá hoạt động
và thực tế, được các thao tác hình thức nhóm hợp lại mà chính là những
mệnh để diễn đạt hoặc "suy ngẫm" các thao tác ấy. Các thao tác hình thức
vậy là bao gồm chủ yếu những "liên lụy" (theo nghĩa hẹp của từ đó) và những
"xung khắc" được thiết lập giữa các mệnh đề, những mệnh đề này bản thân
chúng biểu đạt nhưng sự xếp lớp, chia hạng v.v...
Vậy người ta hiểu tại sao có chênh lệch dọc giữa các thao tác cụ thể và
các thao tác hình thức, ngay cả khi những thao tác hình thức dường như lặp
lại nội hàm của những thao tác cụ thể: quả thế, ở đây hoàn toàn không phải là
những thao tác có cùng sự khó khăn tâm lí học. Chỉ cần như vậy chuyển dịch
thành mệnh đề một bài toán đơn giản về chia hạng giữa ba số hạng được
trình bày một cách lộn xộn để cho việc cộng chia hạng đó trở nên đặc biệt khó
chịu, trong khi nó thật là đề ngay ở tuổi lên 7 dưới hình thức chia hạng cụ thể
và ngay cả các kết hợp bắc cầu những suy nghĩ về hành động trong số các
text của Burt, người ta tìm thấy cái ví dụ xinh đẹp sau đây:
Edith có tóc sáng (hoặc vàng) hơn Suzanne. Edith có tóc sẫm (hoặc
nâu) hơn Lili, ai có tóc sẫm hơn cả trong ba cô? Chỉ vào khoảng 12 tuổi câu
hỏi này mới được giải đáp. Trước tuổi đó, thường có những lập luận như:
Edith và Suzanne tóc sáng; Edith và Lili tóc sẫm, vậy tóc Lili sẫm hơn cả.
Suzanne tóc sáng hơn và Edith tóc có mầu giữa hai người kia. Nói cách khác,
trẻ mười tuổi lập luận, trên bình diện hình thức, như những trẻ nhỏ đối với các
gậy cần chia hạng, và chỉ lúc lên 12 trẻ nắm được bằng thuật ngữ hình thức
những gì nó biết làm lúc 7 tuổi bằng thuật ngữ cụ thể về các đại lượng; và
nguyên nhân đơn giản là các tiền đề được cung cấp với tính cách là những
giả thiết thuần tuý bằng lời nói và kết luận phải được tìm thấy viformae, không
nhờ đến các thao tác cụ thể.
Như vậy, người ta thấy tại sao lôgích hình thức và sự diễn dịch toán
học không vừa tầm đứa trẻ và tưởng như tạo một lĩnh vực tự quản: lĩnh vực
của tư duy "thuần tuý", độc lập với hành động và trên thực tế, đây là vấn đề
của cái ngôn ngữ đặc biệt này - phải học như mọi ngôn ngữ khác - là những
kí hiệu toán học (kí hiệu không có gì là những tượng trưng, theo nghĩa đã
được định trên kia) hoặc của hệ thống khác của các dấu hiệu - là các từ biểu
đạt những mệnh đề đơn giản, những thao tác giả thiết - diễn dịch nằm ở một
bình diện khác với cái lập luận cụ thể, bởi vì một hành động được thực thi
trên những dấu hiệu tách rời khỏi thực tại là vấn đề hoàn toàn khác với một
hành động liên quan đến một thực tế với tính cách là như vậy hoặc đến
những dấu hiệu gắn liền với thực tế đó. Vì vậy lôgich học, vì tách giai đoạn
cuối cùng này khỏi tổng thể của tiến hoá tinh thần, chỉ hạn chế ở việc tiên đề
hoá các thao tác đặc trưng, thay vì đặt chúng vào trong bối cảnh sống động
của chúng. Vả lại chính đó là vai trò của nó, nhưng vai trò đó chắc chắn có lợi
hơn khi được đóng một cách hữu thức. Mặt khác, lôgích học được khuyên
khích trong con đường đó bởi ngay cái tính chất của những thao tác hình
thức, những thao tác này, thuộc cấp độ thứ hai chỉ tiến hành trên những dấu
hiệu, bản thân chúng cũng dấn thân vào con đường sơ đồ hoá riêng của
thuyết tiên đề. Nhưng chính vai trò của tâm lí học trí khôn là đặt lại khẩu đại
bắc những thao tác hình thức vào trong viễn cảnh thực tại của nó và chỉ ra
rằng nó chỉ có thể có ý nghĩa trí tuệ bằng cách dựa vào những thao tác cụ thể
mà nó tiếp nhận cả sự chuẩn bị lẫn nội hàm của nó. Từ quan điểm đó, lôgich
học hình thức không phải là một sự mô tả thích đáng của mọi tư duy sống
động: các thao tác hình thức tạo thành chỉ cái cấu trúc của sự cân bằng kết
thúc mà các thao tác cụ thể hướng tới khi chúng tự phản chiếu thành những
hệ thống chung hơn bằng cách phối hợp những mệnh đề mà chúng biểu đạt
với nhau.
HỆ THỐNG CẤP BẬC CÁC THAO TÁC VÀ SỰ PHÂN HOÁ LŨY TIẾN CỦA CHÚNG
Một cư xử, như chúng ta đã thấy, là một sự trao đổi có tính chức năng
giữa chủ thể và các khách thể và người ta có thể chia hạng các cư xử theo
một thứ tự liên tiếp phát sinh dựa trên những khoảng cách càng lớn dần trong
không gian và thời gian, những khoảng cách đó đặc trưng cho những đoạn
đường đi luôn luôn phức tạp hơn mà những trao đổi đó đã theo.
Sự đồng hoá và sự điều ứng tri giác chỉ giả định bằng cách đó một sự
trao đổi trực tiếp, có đường đi thẳng. Thói quen có những đường đi phức hợp
hơn, song ngắn hơn, lặp lại một cách máy móc và đơn chiều. Trí khôn cảm
giác - vận động đưa vào những trở về và những quay đi: nó vươn tới đồ vật ở
ngoài trường tri giác và những lối đi thông thuộc, và bằng cách đó mở rộng
những khoảng cách ban đầu trong không gian và trong thời gian, nhưng nó
vẫn bị giới hạn ở trường của hoạt động riêng. Với những khởi đầu của tư duy
biểu tượng và nhất là với những tiến bộ của tư duy trực giác, trí khôn trở
thành có khả năng gợi lên những đồ vật vắng mặt và do đó gắn bó với những
thực tế không nhìn thấy, đã qua và phần nào sắp tới. Nhưng nó chỉ mới tiến
hành bằng những hình ít nhiều tĩnh tại, những hình ảnh bán - cá thể, bán -
phát sinh trong trường hợp của tiền khái niệm, những hình thể biểu tượng
tổng thể luôn luôn được nối khớp hơn trong thời kì trực giác, nhưng luôn luôn
là hình ảnh, tức là những tấm ảnh chụp chớp nhoáng trên thực tế di động và
chỉ biểu hiện một vài trạng thái hoặc một vài hành trình trong toàn bộ những
đoạn đường đi có thể có; tư duy trực giác, như vậy, cung cấp một bản đồ của
thực tại (cái mà trí khôn cảm giác - vận động bản thân dần vào thực tại gần
gũi không làm được), nhưng hay còn thuộc hình ảnh, có nhiều khoảng trống
và không có đủ những kết hợp để chuyển từ điểm này sang điểm khác. Với
những nhóm hợp của các thao tác cụ thể, những hình này lan đi hoặc hoà
vào trong bình diện tổng thể, và một tiến bộ quyết định đã đạt được trong việc
chinh phục các quãng cách và trong sự phân hoá các đoạn đường đi: tư duy
không còn nắm bắt những trạng thái hay những hành trình cố định, mà nắm
bắt bản thân các biến đổi sao cho từ một điểm người ta có thể luôn luôn
chuyển qua một điểm khác, và ngược lại. Chính là thực tế trọn vẹn trở nên có
thể đạt tới được. Nhưng cũng chỉ mới là thực tế được biểu tượng: với các
thao tác hình thức thậm chí còn hơn cả thực tế bởi vì thế giới của các cơ thể
mở ra cho sự tạo dựng và tư duy trở nên tự do đối với thế giới thực tại. Sự
sáng tạo toán học là một minh hoạ cho năng lực cuối cùng này.
Xem xét lúc này cái cơ chế của sự tạo dựng đó chứ không còn chỉ xem
xét sự mở rộng dần dần của nó, người ta nhận thấy rằng mỗi nấc được đặc
trưng bởi một sự kết hợp mới các yếu tố được cung cấp - đã ở trạng thái
những tổng thể, nhưng ở cấp dưới - bởi những quá trình của trình độ kề
trước.
Cái sem cảm giác - vận động, đơn vị riêng của hệ thống trí khôn tiền -
tượng trưng, sáp nhập vào mình cái sem tri giác và cái sem thuộc hành động
theo thói quen (những sem của tri giác và của thói quen đều ở cấp bên dưới,
những cái này gắn chặt với trạng thái hiện tại của mục tiêu và những cái kia
gắn với những biến đổi sơ đẳng của các trạng thái). Cái sem tượng trưng sáp
nhập vào mình những sem cảm giác - vận động với sự phân hoá các chức
năng: sự điều ứng bắt chước tự kéo dài thành những cái biểu đạt có hình ảnh
và sự đồng hoá xác định những cái được biểu đạt. Cái sem trực giác là cùng
một lúc một sự kết hợp và một sự phân hóa những sem có hình ảnh. Cái sem
thao tác cấp cụ thể là một nhóm hợp của những sem trực giác, do ngay việc
những nhóm hợp của chúng được nâng lên hàng những thao tác có tính
nghịch đảo. Cái sem hình thức, cuối cùng, không là gì khác như chúng ta vừa
thấy, hơn một hệ thống thao tác ở cấp độ thứ hai, tức là một nhóm hợp thao
tác trên những nhóm hợp cụ thể.
Mỗi một bước chuyển từ một trong các trình độ sang trình độ tiếp sau
được đặc trưng cùng một lúc bởi một sự kết hợp mới và một sự phân hoá các
hệ thống tạo thành sự thống nhất ở trình độ trước. Mà nhưng phân hoá liên
tiếp này trở lại làm sáng tỏ cho tính chất không phân hoá được của các cơ
chế ban đầu và như vậy người ta có thể đồng thời hình dung một phả hệ các
nhóm hợp thao tác do phân hóa dần dà, và một sự giải thích các trình độ tiền
- thao tác bởi sự không phân hoá của các quá trình đang tác động.
Chính như vậy mà trí khôn cảm giác - vận động kết thúc như chúng ta
thấy ở chương 4, ở một thứ nhóm hợp kinh nghiệm chủ nghĩa các vận động,
được đặc trưng bởi những cư xử trở về và quay đi về mặt tâm lí học, và về
mặt hình học bởi cái mà H.Poincaré gọi là nhóm (thực nghiệm) các sự chuyển
chỗ. Và dĩ nhiên là ở trình độ sơ đẳng này, trước mọi tư duy, người ta không
thể hình dung cái nhóm hợp này như một hệ thống thao tác, bởi vì nó là hệ
thống những vận động được hoàn thành trên thực tế, vậy nó là, qua sự việc,
không bị phân hoá, những chuyển chỗ này luôn luôn là, đồng thời những vận
động hướng về một mục đích và có cứu cánh thực hành. Vậy người ta có thể
nói rằng ở trình độ này, các nhóm hợp không gian - thời gian, lôgích học - số
học và thực hành (các phương tiện và các mục đích) tạo thành một toàn bộ
tổng thể và rằng, thiếu sự phân hoá, cái hệ thống tổng thể này không thể tạo
thành một cơ chế thao tác.
Cuối thời kì này và đầu thời kì sau của tư duy biểu tượng, sự xuất hiện
của cái tượng trưng cho phép, trái lại, có một sự phân hoá đầu tiên: những
nhóm hợp thực hành một bên (các mục đích và các phương tiện) và bên kia
là biểu tượng. Nhưng biểu tượng này còn chưa được phân hoá, các thao tác
lôgích - số học chưa thể tự tách khỏi các thao tác không gian - thời gian. Ở
trình độ trực giác, không có cả lớp lẫn quan hệ thực thụ, cả hai vẫn giữ mình
ở mức đồng thời là những tập hợp không gian hoặc những tương quan không
gian - thời gian: từ độ mà có tính chất trực giác và tiền - thao tác của chúng ở
trình độ 7 - 8 tuổi, trái lại, sự xuất hiện các nhóm hợp thao tác đúng là được
đặc trưng bởi sự phân hoá rõ rệt của các thao tác lôgích học - số học trở
thành độc lập (lớp, quan hệ và các số đã được phi không gian hoá) và những
thao tác không gian thời gian hoặc lôgich - hạ tầng. Cuối cùng trình độ của
những thao tác hình thức những đánh dấu một sự phân hóa cuối cùng hành
động thực tại và những thao tác giả thiết - diễn dịch, dựa vào những liên lụy
thuần tuý giữa các mệnh đề đã được phát biểu với tính cách là những bổ trợ.
SỰ XÁC ĐỊNH "TRÌNH ĐỘ TRÍ TUỆ"
Những tri thức có được về tâm lí học tri khôn đã tạo ra ba thứ ứng dụng
không thuộc về đề tài của chúng tôi với tư cách là như thể, nhưng phải chỉ ra
những bài học bổ ích của nó nhằm kiểm tra các giả thuyết lí luận.
Ai cũng biết cách thế nào Binet với mục đích xác định mức độ chậm
tiến những người có khuyết tật đã đi đến việc tưởng tượng ra một thang đo
tuyệt vời để đo trí khôn. Là người phân tích tinh tế những quá trình của tư
duy, Binet biết hơn ai hết những khó khăn đạt tới, bằng việc đo, ngay cái cơ
chế của trí khôn. Nhưng chính là vì tình cảm tế nhị đó mà ông đã nhờ đến
một thứ thuyết hồn nhiên tâm lí học, tụ hội cùng Aimon những bài thi đa dạng
nhất và tìm cách xác định tần số những thành công căn cứ vào lứa tuổi: trí
khôn lúc đó được đánh giá ở những sự đi trước hoặc những chậm trễ tương
quan với tuổi thống kê trung bình của những lời giải đúng.
Không thể chối cãi rằng những text trình độ đó đã đem lại trên đại thể
những gì mà người ta chờ đợi ở chúng: một sự đánh giá nhanh chóng và
thực tế trình độ tổng thể của một con người. Song không kém phần hiển
nhiên là các text đó đo đơn thuần một "hiệu suất" mà không đạt tới những
thao tác tạo dựng với tính cách như thế. Như Pieron đã nói rất đúng, trí khôn
được quan niệm như vậy biểu đạt chủ yếu một phán đoán về giá trị đưa ra
cho một cư xử phức hợp.
Mặt khác, sau Binet người ta đã nhân các text lên, và người ta đã tìm
cách phân hoá chúng căn cứ vào những năng khiếu đặc biệt khác nhau.
Trong lĩnh vực riêng của trí khôn, người ta đã bằng cách đó xây dựng những
text về lập luận, về thấu hiểu, về các tri thức v.v... Vấn đề lúc này là rút ra
những tương hợp giữa các kết quả thống kê đó, với hi vọng tách ra và đo các
yếu tố khác nhau đang tác động trong cơ chế sâu xa của tư duy. Spearman
và trường phái của ông đã đặc biệt tận dụng với công việc này, với những
phương pháp thống kê chính xác và họ đã cuối cùng đi đến một giả thuyết về
sự can thiệp của một số yếu tố không đổi. Yếu tố chung nhất được Spearman
gọi là "yếu tố g", và giá trị của nó có quan hệ với trí khôn của cá nhân. Song,
như tác giả đó đã tự mình nhấn mạnh, yếu tố g chỉ biểu đạt đơn thuần "trí
khôn chung", tức là mức độ hiệu quả chung cho toàn bộ những năng lực cửa
chủ thể, người ta hầu như có thể nói tới chất lượng tổ chức thần kinh và tâm
linh làm cho một cá nhân có nhiều sự dễ dàng hơn những người khác trong
việc hoàn thành một công việc trí tuệ.
Cuối cùng người ta đã tìm cách phản ứng bằng một cách thức khác
chống lại chủ nghĩa kinh nghiệm của những sự đo đơn giản hiệu suất bằng
mưu toan xác định ngay những thao tác mà một cá nhân nào đó có sẵn: thuật
ngữ thao tác lúc này được hiểu theo một nghĩa hạn chế và liên quan đến sự
tạo dựng phát sinh, như chúng tôi đã làm trong tác phẩm này. Chính như vậy
mà B.Inhelder đã sử dụng khái niệm "nhóm hợp" trong sự chẩn đoán về lập
luận. Bà đã có thể chứng minh rằng ở những người trí tuệ suy yếu (những
người thộn), trật tự thụ đắc các khái niệm bảo toàn chất liệu, trọng lượng và
thể tích được tìm thấy lại một cách nguyên vẹn: người ta không gặp cái cuối
cùng của ba cái bất biến đó (vả lại, chỉ có mặt ở những người chỉ đơn thuần
chậm tiến và xa lạ với người thộn) mà không có hai cái kia, cũng không tìm
thấy cái thứ hai mà không có cái đầu, trong khi người ta tìm thấy sự bảo toàn
chất liệu mà không có sự bảo toàn trọng lượng và thể tích và sự bảo toàn của
chất liệu và trọng lượng mà không có sự bảo toàn của thể tích. Bà đã có thể
đối lập sự suy yếu với sự đần độn bởi sự có mặt của những nhóm hợp cụ thể
(mà kẻ đần độn không có khả năng) và với sự chậm tiến đơn thuần, bởi sự
bất lực về lập luận hình thức, tức là bởi sự kết thúc của việc tạo dựng thao
tác ở đó có một sự ứng dụng đầu tiên của một phương pháp có thể được
phát triển trong việc xác định các trình độ trí khôn nói chung.
Chương 6. NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRÍ KHÔN
Ngay từ lúc mới sinh ra, con người được ném vào một môi trường xã
hội nó tác động đến con người với cùng một tính cách như môi trường vật
thể. Ở một ý nghĩa nào đó, hơn cả môi trường vật thể, xã hội biến đổi con
người ở ngay cấu trúc của nó bởi vì xã hội không chỉ bó buộc con người phải
thừa nhận những sự việc, mà xã hội còn cung cấp một hệ thống hoàn toàn
được xây dựng sẵn những kí hiệu chúng làm biến đổi tư duy con người, nó
đề nghị với con người những giá trị mới và áp đặt cho con người một dãy vô
tận các bổn phận. Vậy thật là hiển nhiên rằng đời sống xã hội biến đổi trí khôn
bởi một trung gian ba bộ phận: ngôn ngữ (các kí hiệu), nội dung những trao
đổi (các giá trị tinh thần) và những quy tác áp đặt cho tư duy (chuẩn mực tập
thể lôgích học hoặc tiền lôgích học).
Ắt hẳn xã hội học cần xem xét xã hội như là một tổng thể, tuy rằng cái
tổng thể đó rất khác với tổng số các cá nhân, chỉ là tập hợp những quan hệ
hoặc những tác động qua lại giữa các cá nhân. Mỗi quan hệ giữa các cá nhân
(khởi đầu từ 2) quả là biến đổi những cá nhân đó và đã tạo ra một tổng thể,
sao cho cái tổng thể do toàn bộ xã hội hình thành là một hệ thống các quan
hệ chứ không phải là một sự vật, một sinh thể hay một sự nghiệp. Nhưng các
quan hệ đó cực nhiều và cực phức tạp, bởi vì chúng trên thực tế tạo thành
một màng liên tục trong lịch sử, bằng tác động của các thế hệ, thế hệ này lên
thế hệ khác, như một hệ thống đồng đại của sự cân bằng ở mỗi thời điểm của
lịch sử. Vậy điều chính đáng là tuân thủ một ngôn ngữ thống kê và nói về "xã
hội" như về một toàn thể gắn bó mạch lạc (theo cách mà một gestalt là kết
quả tổng hợp của một hệ thống kể về các quan hệ). Tuy nhiên, điều thiết yếu
là nhớ lại tính chất thống kê của các biểu đạt của ngôn ngữ xã hội học,vì nếu
quên điều đó, người ta gắn cho các từ một ý nghĩa thần thoại. Trong xã hội
học của tư duy, người ta còn có thể tự hỏi xem có lợi hơn chăng thay thế
ngôn ngữ tổng thể thường dùng bằng việc nêu lên những quan hệ đang tác
động (những loại hình cũng có tính thống kê - lẽ tất nhiên).
Trái lại, khi nói đến tâm lí học, tức là khi mà đơn vị quy chiếu mà cá thể
được các quan hệ xã hội biến đổi chứ không còn là tập hợp hoặc những tập
hợp quan hệ với tư cách như thế, thật hoàn toàn không chính đáng nếu bằng
lòng với những thuật ngữ thống kê quá khái quát. "Tác động của đời sống xã
hội" là một khái niệm đúng là mơ hồ như khái niệm "tác động của môi trường
vật thể" nếu người ta từ chối đi vào chi tiết. Từ lúc sơ sinh đến cuộc sống
người lớn, sinh thể người là đối tượng của những áp lực xã hội, điều đó là rõ
ràng, song những áp lực ấy là thuộc loại hình cực kì đa dạng và phát huy ảnh
hưởng theo một trật tự phát triển nào đó. Cũng như môi trường vật thể không
chế ngự một lần và thành một khối đến trí khôn đang tiến hoá, mà người ta có
thể theo dõi từng bước các thụ đắc căn cứ vào kinh nghiệm, cũng vậy môi
trường xã hội gây ra những tác động qua lại, giữa cá nhân đang phát triển và
những người xung quanh, cực kì khác biệt nhau mà sự kế tục tuân theo các
quy luật. Chính là những loại hình tác động qua lại đó và những quy luật đó
của sự kế tục mà nhà tâm lí học phải thiết lập một cách cẩn thận, nếu không
thì sẽ tự giản lược công việc đến mức trút bỏ nó cho công việc của ngành xã
hội học. Mà thực không có một lí do nào cho sự xung đột giữa khoa học này
và tâm lí học ngay từ khi mà người ta thừa nhận cấu trúc của cá nhân được
các tác động qua lại đó biến đổi biết bao nhiêu: cả hai bộ môn khoa học đó sẽ
được lợi với một sự nghiên cứu vượt quá sự phân tích tổng thể để đi vào con
đường phân tích các quan hệ.
SỰ XÃ HỘI HÓA TRÍ KHÔN CÁ NHÂN
Tùy theo trình độ phát triển của cá nhân, những trao đổi mà nó nuôi
dưỡng với môi trường xã hội đều có tính chất rất đa dạng, và do đó quay lại
biến đổi cấu trúc tinh thần của cá nhân một cách cũng rất khác biệt.
Trong thời kì cảm giác - vận động, đứa hài nhi tất nhiên đã là đối tượng
của những ảnh hưởng xã hội nhiều mặt: người ta phân phát cho nó những
thú vui lớn nhất mà kinh nghiệm non trẻ của nó biết được - từ thức ăn đến hơi
ấm tình thương xung quanh - người ta vây quanh bé, mỉm cười với bé, an ủi
bé, người ta khắc sâu vào tâm trí bé những thói quen và những nền nếp gắn
liền với những dấu hiệu và những lời nói, người ta đã cấm bé một số cư xử,
người ta mắng mỏ bé. Tóm lại, nhìn từ bên ngoài, đứa hài nhi là trung tâm
của vô số quan hệ báo trước những kí hiệu, những giá trị và những quy tác
của cuộc sống xã hội về sau. Nhưng, theo cách nhìn của bản thân chủ thể,
môi trường xã hội chưa khác biệt gì nhiều lắm với môi trường vật thể, chí ít
cho đến giai đoạn thứ năm mà chúng ta đã phân biệt trong trí khôn cảm giác -
vận động (chương 4). Nhưng kí hiệu mà người ta dùng đối với nó, theo nó,
chỉ là những chỉ dẫn hay những dấu hiệu. Những quy tắc áp đặt cho nó chưa
phải là những bổn phận của lương tâm mà đối với nó trùng khớp với những
nền nếp đặc trưng cho thói quen. Còn về những con người, đó là những bức
tranh tương tự với mọi bức tranh tạo nên thực tế, nhưng đặc biệt sinh động,
bất ngờ và là nguồn gốc của những tình cảm mãnh liệt nhất. Đứa hài nhi tác
động lên họ như lên các đồ vật, bằng những cử chỉ có hiệu quả làm họ tiếp
tục những hoạt động thú vị và bằng những tiếng kêu khác nhau, nhưng ở đó
chưa có sự trao đổi ý nghĩ nào cả, vì bé ở lứa tuổi đó chưa biết đến tư duy,
và do đó chưa có một sự thay đổi sâu sắc nào của các cấu trúc trí tuệ bởi đời
sống xã hội xung quanh.
Với sự nắm được ngôn ngữ, tức là với những thời kì tượng trưng và
trực giác, những quan hệ xã hội mới xuất hiện; chúng làm phong phú và thay
đổi tư duy của cá nhân. Nhưng phải phân biệt về mặt này ba vấn đề:
Hệ thống những dấu hiệu tập thể, trước tiên, không tạo nên chức năng
tượng trưng, nhưng lẽ tất nhiên phát triển nó ở những tỉ lệ mà cá nhân riêng
rẽ một mình không biết đến. Tuy nhiên, kí hiệu với tư cách như thế, quy ước
(võ đoán) và làm sẵn, không đủ để trở thành phương tiện biểu đạt tư duy của
đứa bé: bé không bằng lòng với chỉ sự nói; nó phải "chơi" những gì nó nghĩ,
tượng trưng ý tưởng của mình bằng sự bắt chước, hình vẽ và xây dựng. Tóm
lại, về phương diện bản thân sự biểu đạt, đứa bé lúc đầu ở trong một tình
huống trung gian giữa việc sử dụng những dấu hiệu tập thể và việc sử dụng
các tượng trưng cá nhân, cả hai luôn luôn đều là cần thiết, nhưng cái thứ hai
thật cần thiết hơn cho đứa trẻ so với người lớn.
Điểm thứ hai, ngôn ngữ trao cho cá nhân một hệ thống được chuẩn bị
sẵn những khái niệm, những phân loại, những quan hệ, tóm lại một tiềm năng
vô tận các khái niệm được dựng tạo ở mỗi người theo mẫu mà các thế hệ đi
trước đã luyện nên qua nhiều thế kỉ. Nhưng lẽ dĩ nhiên là ở tập hợp đó, đứa
bé bắt đầu chỉ mượn những gì hợp với nó, bỏ qua một cách ngạo mạn tất cả
những gì vượt quá trình độ trí tuệ của nó. Còn một điều nữa là những gì nó
vay mượn được đồng hoá theo cơ cấu trí tuệ của nó: một từ dành để chuyển
tải một khái niệm chung chỉ sản sinh ra một tiền - khái niệm, nửa - cá nhân và
nửa - xã hội hoá (như vậy từ "chim" gợi lên con hoàng yến thân thuộc).
Điểm thứ ba, còn lại là bản thân những quan hệ mà chủ thể nuôi dưỡng
với những người xung quanh, tức là những quan hệ đương đại đối lập với
những quá trình "lịch đại" mà đứa trẻ chịu ảnh hưởng khi thụ đắc ngôn ngữ
và các cách suy nghĩ gắn bó với nó. Mà các quan hệ đương đại này trước
tiên là cái chủ yếu: Khi nói chuyện với những người thân thấy ở mỗi lúc
những suy nghĩ của mình được tán thành hoặc phản đối, và nó khám phá ra
một thế giới mông mênh những suy nghĩ ở bên ngoài nó, chúng giáo dưỡng
nó hoặc gây ấn tượng cho nó bằng nhiều cách. Về phương diện trí khôn (là
cái duy nhất làm chúng ta quan tâm ở đây) trẻ được dẫn dắt đến một sự trao
đổi luôn luôn lớn hơn về những sự thật bắt buộc (ý kiến có sẵn hoặc chuẩn
mực thực sự của lập luận).
Tuy nhiên, cả ở đây nữa, không nên cường điệu và cũng không nên lẫn
lộn những năng lực đồng hoá riêng cho tư duy trực giác với cái mà chúng sẽ
trở thành ở trình độ thao tác. Quả vậy chúng ta đã thấy, ở những gì liên quan
đến sự thích nghi của tư duy với môi trường vật thể, rằng tư duy trực giác,
chiếm ưu thế cho đến khi kết thúc thời kì thơ bé (7 tuổi), được đặc trưng bởi
một sự mất cân bằng chưa thu hẹp lại được giữa sự đồng hóa và sự điều
ứng. Một quan hệ trực giác luôn luôn là kết quả của một "sự tập trung" của tư
duy căn cứ vào hoạt động thực thụ, đối lập với "nhóm hợp" của tất cả các
quan hệ đang tác động: như vậy, tương quan giữa hai loại đồ vật chỉ được
công nhận trong sự tương quan với hành động làm cho chúng phù hợp và
mất đi ngay khi hành động đó được thay thế bằng một hành động khác. Vậy
tư duy trực giác luôn chứng tỏ một sự duy kỉ đang biến dạng, vì quan hệ
được công nhận là tương quan với hành động của chủ thể chứ không phải
phi tập trung hoá thành một hệ thống khách quan. Ngược lại và do chính sự
việc là tư duy trực giác là mỗi lúc "tập trung” vào môt quan hệ đã cho; nó là có
tính hiện tượng luận và chỉ có cái bề ngoài tri giác của nó là đạt tới cái thực
tại: vậy nó bị phó mặc cho những gợi ý của kinh nghiệm trực tiếp, mà nó sao
chép và bắt chước thay vì sửa chữa. Mà phản ứng của trí khôn ở trình độ này
với bản thân môi trường xã hội là hoàn toàn song song với phản ứng của nó
với môi trường vật thể, điều đó vả lại là đương nhiên, bởi vì hai thứ kinh
nghiệm ấy là không tách rời nhau trong thưc tế.
Một mặt, dù phụ thuộc đến mấy vào những ảnh hưởng trí tuệ xung
quanh, đứa bé đồng hoá chúng theo cách của nó. Nó quy chúng vào cách
nhìn của nó và vì vậy biến dạng chúng mà không biết, do một sự việc duy
nhất là nó chưa phân biệt cách nhìn đó với cách nhìn của những người khác,
vì thiếu sự kết hợp hoặc "nhóm hợp" bản thân các quan điểm. Nó duy kỉ do
sự vô thức về tính chủ thể của nó trên bình diện xã hội cũng như trên bình
diện vật thể. Ví dụ: trẻ có thể chỉ ra bàn tay phải của mình, nhưng lẫn lộn các
quan hệ với đối tác ngồi trước mặt nó, vì đã không đặt mình vào chỗ đứng để
nhìn khác, về mặt xã hội cũng như về mặt hình học; chúng ta đã nhận ra rằng
cũng như vậy trong các vấn đề phối cảnh trước tiên nó cho người khác mượn
cách nhìn sự vật của bản thân nó; trong các vấn đề về thời gian còn xảy ra cả
việc, là một đứa bé, trong khi tuyên bố ba nó già hơn nó nhiều, tin rằng ba
sinh ra "sau" nó, vì không "nhớ" trước đó nó đã làm gì! Tóm lại sự tập trung
của trực giác đối lập với sự phi tập trung hoá của thao tác, được nhân đôi lên
như vậy bằng tính trội nhất của vô thức và càng có tính hệ thống hơn về chỗ
đứng nhìn riêng. Tính duy kĩ trí tuệ đó trong cả hai trường hợp không là gì
hơn một khuyết tật của sự phối hợp, một sự thiếu sự "nhóm hợp" các quan hệ
với những cá nhân khác cũng như với các sự vật. Ở đó chỉ là điều hết sức tự
nhiên: tính trội nhất của chỗ đứng nhìn riêng, cũng như sự tập trung trực giác
căn cứ vào hành động riêng, chỉ là sự biểu hiện của một sự phi phân hoá ban
đầu, của một sự đồng hoá biến dạng, vì được chỗ đúng nhìn duy nhất có thể
có khi xuất phát. Một sự phi phân hoá như vậy quả là tất yếu, bởi vì sự phân
biệt các chỗ đứng nhìn và sự kết hợp của chúng đòi hỏi cả một công việc của
trí khôn.
Nhưng, bởi sự việc là tính duy kỉ ban đầu là kết quả của một sự không
phân hoá đơn giản giữa cái tôi và người khác, chủ thể coi như phải chịu,
đúng là trong cùng một thời kì, những gợi ý và những câu thúc của những
người xung quanh mà nó tự điều ứng không phê phán, chính là vì không ý
thức được tính chất riêng của chỗ đứng nhìn của mình (như vậy thường xẩy
ra cho đứa bé là không ý thức được đương bắt chước, tưởng rằng đã có
sáng tạo ra mẫu, cũng như là xẩy ra việc cho người khác mượn những ý
tưởng vốn của riêng mình). Do đó, điểm đỉnh của tính duy kỉ trùng khớp, trong
sự phát triển với điểm đỉnh của áp lực những tấm gương và những dư luận
của những người xung quanh và sự trộn lẫn sự đồng hoá vào cái tôi với sự
điều ứng với các hình mẫu xung quanh cũng có thể giải nghĩa được như sự
trộn lẫn giữa tính duy kỉ và hiện tượng luận đặc trưng cho trực giác của
những quan hệ vật thể.
Tuy nhiên, rõ ràng là trong những điều kiện ấy (những điều kiện mà tất
cả rút lại ở sự vắng mặt cái nhóm hợp) những câu thúc của những người
xung quanh không thể đủ để sản sinh ra một lôgich học trong trí óc của đứa
trẻ, dẫu cho những sự thật mà chúng áp đặt là hợp lí ở nội dung của những
sự thật đó: lặp lại những ý kiến đúng, cả khi nghĩ rằng chúng xuất phát từ bản
thân, không có nghĩa là lập luận đúng, trái lại, để dạy cho người khác lập luận
một cách lôgich cần thiết phải thiết lập giữa họ và mình những quan hệ phân
hoá và nghịch đảo xen kẽ, đặc trưng cho sự phối hợp các quan điểm.
Tóm lại, ở trình độ tiền - thao tác, trải ra từ lúc xuất hiện ngôn ngữ đến
năm khoảng 7-8 tuổi, những cấu trúc riêng của tư duy đang nảy nở loại trừ sự
hình thành những quan hệ xã hội của sự hợp tác mà chỉ chúng đem lại sự tạo
thành một lôgich học: dao động giữa tính duy kỉ làm biến dạng và sự thừa
nhận thụ động những câu thúc của trí tuệ, trẻ em chưa phải là đối tượng của
một sự xã hội hoá trí khôn, nó có thể làm thay đổi sâu sắc cơ chế.
Chính ở các trình độ của sự tạo dựng những nhóm hợp các thao tác cụ
thể rồi sau đó, nhất là các thao tác hình thức, mà trong sự phát triển của tư
duy trái lại, vấn đề của những vai trò tương ứng của sự trao đổi xã hội và
những cấu trúc cá nhân được đặt ra trong toàn bộ sự gay gắt của nó. Lôgich
học chân chính, được cấu tạo trong hai thời kì đó, đi kèm với hai loại đặc tính
xã hội mà đúng là phải xác định xem chúng là kết quả của sự xuất hiện các
nhóm hợp hoặc chúng là nguyên nhân của sự xuất hiện đó. Một mặt, dần dà
theo mức mà các trực giác được khớp nối và kết thúc bằng sự nhóm hợp lại
theo thao tác, trẻ ngày càng trở nên có năng lực hợp tác hơn, mà hợp tác là
một quan hệ xã hội khác với sự câu thúc ở chỗ là nó giả định một sự nghịch
đảo giữa các cá nhân biết phân biệt các quan điểm của nhau. Trong phạm vi
trí khôn, sự hợp tác là sự thảo luận được dẫn dắt một cách khách quan, từ đó
mà có sự thảo luận được nội hiện - là sự cân nhắc và sự suy nghĩ, sự hợp tác
trong lao động, sự trao đổi ý kiến, sự kiểm soát lẫn nhau (nguồn gốc của nhu
cầu kiểm tra và sự chứng minh) v.v... Vậy rõ ràng là sự hợp tác là ở điểm
xuất phát của một loạt cư xử quan trọng để tạo dựng và phát triển lôgich học.
Mặt khác, bản thân lôgích học không đơn thuần bao gồm, trên quan điểm,
tâm lí học là quan điểm của chúng ta ở đây, một hệ thống thao tác tự do: nó
thể hiện bằng một tập hợp của trạng thái ý thức, tình cảm trí tuệ và các cư xử,
tất cả được đặc trưng bởi những nghĩa vụ nào đó mà ta khó có thể đặt vấn đề
nghi ngờ tính chất xã hội - dù nó là khởi thuỷ hoặc phát sinh. Nhìn nhận dưới
góc độ đó, lôgích học bao gồm những quy tắc trong chuẩn mực chung: nó là
một thứ đạo đức của tư duy, được những người khác áp đặt và xác nhận.
Chính vì vậy mà nghĩa vụ không nói trái lại mình không đơn giản chỉ là một sự
bắt buộc có điều kiện (một mệnh lệnh giả định) đối với ai muốn uốn mình theo
những bắt buộc của trò chơi thao tác: nó cũng là một mệnh lệnh đạo đức (dứt
khoát) với tư cách là do sự trao đổi trí tuệ và sự hợp tác đòi hỏi. Và trên thực
tế, chính là đối với người khác trước tiên mà đứa trẻ tìm cách tránh sự nói trái
lại. Cũng vậy, tính khách quan, nhu cầu kiểm tra sự cần thiết giữ gìn cho các
từ và các ý nghĩa của chúng... cũng là bấy nhiêu nghĩa vụ xã hội cũng như
những điều kiện của tư duy thao tác.
Một câu hỏi được đặt ra lúc này một cách bức thiết: cái "nhóm hợp" là
nguyên nhân hay kết quả của sự hợp tác? Cái nhóm hợp là một sự kết hợp
các thao tác, tức là những hành động mà cá nhân với tới được. Sự hợp tác là
một kết hợp các quan điểm hoặc hành động xuất phát tương ứng từ các cá
nhân. Sự gần gũi của chúng là tất nhiên, nhưng phải chăng sự phát triển thao
tác bên trong của cá nhân làm cho nó có thể cộng tác với những cá nhân
khác hoặc sự hợp tác bên ngoài sau đó được nội hiện trong nó buộc nó phải
nhóm các hành động của nó thành nhưng hệ thống thao tác?
CÁC "NHÓM HỢP" THAO TÁC VÀ SỰ HỢP TÁC
Với một câu hỏi như vậy chắc phải đưa ra hai câu trả lời khác biệt và
bổ sung cho nhau. Một câu trả lời là: không có trao đổi ý nghĩa và sự hợp tác
với người khác, cá nhân không đạt được tới việc nhóm các thao tác của mình
thành một toàn thể mạch lạc: ở ý nghĩa đó sự nhóm hợp thao tác giả định đời
sống xã hội. Nhưng mặt khác, bản thân những trao đổi ý nghĩ tuân theo một
luật cân bằng, luật này lại chỉ có thể là một, nhóm hợp thao tác bởi vì cộng tác
còn là kết hợp các thao tác. Sự nhóm hợp vậy là một hình thức cân bằng các
hành động liên - cá nhân như những hành động cá nhân, và nó tìm thấy lại
bằng cách đó sự tự trị của nó ngay trong lòng của đời sống xã hội.
Quả vậy, thật khó hiểu được cách thế nào cá nhân đạt tới việc nhóm
chính xác các thao tác của mình và do đó thay đổi những biểu tượng trực
giác thành thao tác mang tính bắc cầu nghịch đảo, đồng nhất và có khả năng
kết hợp mà không có sự trao đổi các ý nghĩ. Sự nhóm hợp bao hàm chủ yếu
việc giải phóng khỏi cách nhìn duy kỉ những tri giác và trực giác hồn nhiên
của cá nhân, để tạo dựng một hệ thống các quan hệ sao cho người ta có thể
chuyển từ một số hạng hay tỉ số sang một số hạng hay tỉ số khác, từ bất luận
chỗ đứng nhìn nào. Cái nhóm hợp do đó trên nguyên tắc là một sự phối hợp
các quan điểm, và điều đó có nghĩa là một sự kết hợp giữa những người
quan sát, tức là một sự cộng tác của nhiều cá nhân.
Tuy nhiên hãy giả định, với lẽ thường, rằng một cá nhân cao cấp, trong
khi thay đổi vô hạn các quan điểm đạt tới việc chỉ riêng mình kết hợp các
quan điểm đó lại với nhau sao cho đảm bảo sự nhóm hợp chúng lại. Nhưng
làm sao chỉ một cá nhân duy nhất, dẫu có được một kinh nghiệm đủ vững, có
thể cuối cùng nhớ lại được những quan điểm trước của mình, tức là tập hợp
những quan hệ mà nó tri giác được nhưng hiện nó không còn tri giác nữa?
Nếu nó có khả năng làm điều đó, tức là nó đã đạt kết quả xây dựng một kiểu
trao đổi giữa những trạng thái liên tiếp và đa dạng của nó, tức là tự cho mình,
bằng những ước lệ liên tiếp với mình một hệ thống ký pháp có khả năng củng
cố những điều nhớ của mình và chuyển dịch nó thành một ngôn ngữ biểu
tượng: vậy là nó đã thực hiện được một "xã hội" giữa những cái "tôi" khác
nhau của nó! Trên thực tế, đúng là sự trao đổi thường xuyên cái ý nghĩ người
khác nó cho phép ta phi tập trung hoá như vậy và bảo đảm cho chúng ta khả
năng kết hợp ở bên trong cái quan hệ xuất phát từ những quan điểm khác
nhau. Đặc biệt người ta không thấy rõ cách thế nào, không có sự hợp tác, các
khái niệm bảo toàn nghĩa thường xuyên của chúng và định nghĩa của chúng:
tính nghịch đảo của tư duy như vậy là gắn liền với một sự bảo toàn, tập thể
mà ở ngoài nó tư duy cá nhân chỉ sẵn có một sự cơ động cực kì thu hẹp hơn.
Nói vậy và do đó thừa nhận rằng một tư duy lôgích là tất yếu có tính xã
hội, không phải vì thế mà không thấy rằng những quy luật nhóm hợp tạo
thành những hình thức cân bằng chung, biểu đạt cả sự cân bằng liên cá nhân
cũng như sự cân bằng của các thao tác mà mọi cá nhân được xã hội hoá đều
có thể đạt tới khi nó lập luận ở bên trong, theo những ý tưởng riêng tư nhất
và mới nhất của nó. Nói rằng cá nhân chỉ đạt tới lôgích học nhờ có sự cộng
tác chẳng khác nào đơn giản giả định rằng sự cân bằng của thao tác của nó
phụ thuộc vào một dung lượng vô hạn các trao đổi với người khác, tức là vào
một sự có đi có lại hoàn toàn. Nhưng lời khẳng định đó chỉ là hiển nhiên, vì sự
nhóm hợp chính xác đã là ở bản thân nó một hệ thống các tính có đi có lại (hỗ
tương).
Hơn nữa, nếu hỏi một trao đổi ý nghĩ giữa các cá nhân là gì, người ta
thấy rằng nó bao hàm chủ yếu những hệ thống đặt các trao đổi giao lưu, tức
là đặt các "nhóm hợp" thật xác định: với một mối quan hệ nào đó được xác
định từ quan điểm của A tương ứng sau trao đổi một quan hệ nào đó từ quan
điểm của B, và một thao tác nào đó được A thực hiện tương ứng (dù nó là
tương đương hay chỉ đơn giản là có qua có lại (hỗ tương) với một thao tác
được B thực hiện. Chính là những sự tương hợp đó xác định, đối với mỗi vị trí
do A hoặc B phát biểu, sự hoà hợp (hoặc, vào trường hợp không có sự tương
hợp, sự bất hoà) của các đối tác, nghĩa vụ mà họ có để bảo toàn các mệnh
đề đã được thừa nhận và giá trị lâu dài của những mệnh đề này cho những
trao đổi tiếp theo. Sự trao đổi trí tuệ giữa các cá nhân vậy là có thể so sánh
với một trận đánh cờ mênh mông được tiếp tục không cố ngừng lại và sao
cho mỗi hành động được thực hiện ở một điểm kéo theo một loạt hành động
tương đương hoặc bổ sung về phía các đối tác: các quy luật của nhóm hợp
không là gì khác ngoài những quy tác khác nhau bảo đảm sự có đi có lại của
những đối thủ và sự mạch lạc của trận chơi của họ.
Chính xác hơn, mỗi nhóm hợp bên trong các cá nhân là một hệ thống
thao tác, và sự hợp tác tạo thành một hệ thống các thao tác được tiến hành
chung tức là theo nghĩa đen, những đường - thao tác, những sự hợp tác.
Tuy nhiên, sẽ là không đúng nếu kết luận rằng các quy luật của nhóm
hợp là cao hơn sự hợp tác và tư duy cá nhân: chúng chỉ tạp thành, chúng tôi
xin nhắc lại, những quy luật cân bằng và chỉ đơn giản biểu hiện hình thức cân
bằng đặc biệt này đạt được một mặt khi xã hội không còn thực hiện những
cấu trúc làm biến dạng đối với cá nhân, mà làm sống động và nuôi dưỡng tác
động tự do của những hoạt động trí tuệ của chúng và mặt khác khi tác động
tự do đó của tư duy mỗi người không làm biến dạng tư duy của những cá
nhân khác và cũng không làm biến dạng các sự vật, mà tôn trọng sự tương
hợp giữa các hoạt động khác nhau. Được xác định như vậy, hình thức cân
bằng này không thể được coi như kết quả của tư duy cá nhân duy nhất, càng
không thể coi là sản phẩm của riêng xã hội: hoạt động thao tác bên trong và
sự hợp tác bên ngoài chỉ là, theo nghĩa chính xác nhất của các từ, hai mặt bổ
sung nhau của cùng một tập hợp duy nhất vì sự cân bằng của cái này phụ
thuộc vào sự cân bằng của cái kia. Hơn nữa, vì một sự cân bằng không bao
giờ đạt được một cách trọn vẹn trong thực tế, còn phải xem xét hình thức lí
tưởng mà lôgích học mô tả một cách theo thuyết tiên đề. Nhà lôgích học thao
tác trong lí tưởng (do đối lập với thực tại) và có quyền lưu lại ở đó, bởi vì sự
cân bằng mà ông nghiên cứu không bao giờ hoàn toàn hoàn chỉnh và bao giờ
cũng được phản chiếu lên cao hơn nữa, dần dấn tính theo những cấu tạo
thực hiện mới. Còn về các nhà xã hội học và tâm lí học, họ chỉ có thể nhờ cậy
vào nhau khi họ tìm kiếm cách thức mà sự cân bằng hoá đó được thực hiện
trong thực tế.
Kết luận. NHỊP ĐIỆU, ĐIỀU TIẾT VÀ NHÓM HỢP
Nói tóm lại, trí khôn xuất hiện như một sự cấu trúc hóa in một số hình
thức vào các trao đổi giữa một hay nhiều chủ thể với các khách thể chung
quanh, gần hoặc xa. Sự độc đáo của nó nằm chủ yếu ở tính chất của các
hình thức mà nó tạo dựng nhằm mục đích đó.
Bản thân cuộc sống cũng đã "sáng tạo ra các hình thức", như Brachet
đã nói. Dĩ nhiên các "hình thức” sinh học đó là những hình thức của cơ thể,
của mỗi một trong các cơ quan của nó và của những trao đổi vật chất mà
chúng bảo đảm với môi trường. Nhưng, cùng với bản năng, các hình thức
sinh lí - giải phẫu tăng gấp đôi các trao đổi chức năng, tức là những "hình
thức" cư xử. Quả vậy, bản năng chỉ là một sự kéo dài chức năng của cấu trúc
cơ quan: mỏ của một cái cuốc chim tự kéo dài thành bản năng đập mạnh; một
bàn chân đào bới thành bản năng lục lọi; v.v... Bản năng là cái lôgich của các
cơ quan, và chính là với tính cách đó mà nó đạt đến những cư xử mà sự thực
hiện trên bình diện những thao tác thực sự, thường giả định một trí khôn kì
diệu dẫu rằng các "hình thức" có thể tỏ ra lúc mới gặp là tương tự (như trong
việc tìm đồ vật ở ngoài trường tri giác và ở các khoảng cách khác nhau).
Thói quen, sự tri giác tạo nên những "hình thức” khác như lí thuyết
Gestalt đã nhấn mạnh bằng cách rút ra những quy luật của tổ chức của
chúng. Tư duy trực giác lại còn trình bày những quy luật mới nữa. Còn về trí
khôn thao tác, nó được đặc trưng, như chúng tôi không ngừng lưu ý, bởi
những "hình thức" cơ động và có tính nghịch đảo mà các nhóm và các nhóm
hợp tạo thành.
Vì muốn đặt lại, vào trong những cân nhăc sinh học mà từ đó chúng ta
đã ra đi (chương 1), những gì mà sự phân tích các thao tác của trí khôn đã
bảo cho chúng ta, vậy vấn đề là để kết luận, đặt những cấu trúc thao tác trong
toàn bộ những "hình thức" có thể có. Mà một hành vi thao tác có thể giống
gần sát bởi nội dung của nó, với một hành vi trực giác, một hành vi cảm giác -
vận động hoặc tri giác và cả với một hành vi do bản năng: một hình hình học
có thể là sản phẩm của một sự tạo dựng lôgich học, của một trực giác tiền -
thao tác, của một tri giác, của một thói quen được tự động hóa và cả của một
bản năng xây dựng. Sự khác nhau giữa các trình độ khác nhau vậy là không
nằm ở nội dung, tức là ở các "hình thức” được như thể là vật chất hóa - là kết
quả của hành vi - mà nằm ở cái "hình thức" của bản thân hành vi và của tổ
chức dần dà của nó. Trong trường hợp của trí khôn suy ngẫm đạt đến sự cân
bằng của nó, hình thức đó bao gồm một "nhóm hợp" nào đó của các thao tác.
Trong những trường hợp nằm rải ra giữa tri giác và tư duy trực giác, hình
thức của cư xử là của một sự điều chỉnh, ít nhiều nhanh hoặc chậm (đôi khi
gần như tức thời), nhưng luôn luôn tiến hành bằng những "điều tiết". Trong
trường hợp của sự cư xử bản năng hay phản xạ, cuối cùng đây là một sự lắp
ráp - tương đối hoàn chỉnh, cứng, liền một khoảnh và vận hành bằng những
lặp lại chu kì hoặc bằng "nhịp điệu". Trật tự kế tiếp của các cấu trúc hoặc
"hình thức" cơ bản có liên quan đến sự phát triển của trí khôn sẽ như sau:
nhịp điệu, điều tiết và nhóm hợp.
Các nhu cầu của cơ thể hoặc của bản năng tạo thành những động cơ
của những cư xử sơ đẳng là theo chu kì và tuân thủ một cấu trúc nhịp điệu:
cái đói, cái khát, sự khao khát tình dục, v.v... Còn như những lắp ráp phản xạ
cho phép thỏa mãn chúng và tạo thành cơ sở hạ tầng của đời sống tinh thần,
ngày nay người ta biết khá đầy đủ rằng chúng tạo thành một hệ thống tổng
thể và không là kết quả của một sự cộng các phản ứng sơ đẳng: sự đi lại của
một động vật hai chân và nhất là của động vật bốn chân (mà sự tổ chức
chứng tỏ, theo Graham Brown, một nhịp điệu tổng thể chế ngự và cả đi trước
những phản xạ đã được phân hóa), những phản xạ rất phức hợp bảo đảm
cho đứa hài nhi bú v.v... và đến cả những vận động xung động đặc trưng cho
sự ứng xử của đứa hài nhi, có một sự vận hành mà hình thức nhịp điệu là
hiển nhiên. Những ứng xử bản năng, thường được chuyên môn hóa đến thế,
của con vật bản thân chúng cũng bao gồm những chuỗi rất xác định những
vận động cung cấp hình ảnh của một nhịp điệu nào đó, bởi vì chúng lặp lại
theo chu kì với khoảng cách không đổi. Nhịp điệu vậy là đặc trưng cho những
vận hành nằm ở điểm nối của các cuộc sống cơ thể và đời sống tinh thần, và
điều đó là thật đến mức ngav trong lĩnh vực của những tri giác sơ đẳng hoặc
của các cảm xúc, sự chừng mực của tính xúc cảm nêu rõ sự tồn tại của
những nhịp điệu nguyên thủy, hoàn toàn thoát khỏi ý thức của chủ thể. Nhịp
điệu cũng là nền tảng của mọi vận động, kể cả những vận động tạo thành thói
quen vận động.
Mà nhịp điệu có một cấu trúc đáng nhớ để đặt trí khôn vào tập hợp
những "hình thức" sống động, vì kiểu liên kết mà nó đòi hỏi đã báo trước, một
cách sơ đẳng, cái sẽ là tính nghịch đảo đặc trưng cho những thao tác cao
cấp. Khi người ta xem xét những tăng cường và những ức chế phản xạ đặc
biệt, hoặc nói chung, một dãy vận động được định hướng theo những chiều
luân phiên trái ngược nhau, sơ đồ của nhịp điệu luôn luôn đòi hỏi, cách này
hay cách khác, sự xen kẽ của hai quá trình đối kháng vận hành một cái theo
hướng A — B và cái kia theo hướng ngược lại B - A. Đúng là trong một hệ
thống các điều tiết tri giác, trực giác hoặc có quan hệ với những vận động kết
hợp căn cứ vào kinh nghiệm, cùng có những quá trình được định hướng theo
chiều ngược lại: nhưng chúng lúc đó kế tiếp nhau không đều đặn và trong
quan hệ với những "chuyển chỗ cân bằng" do một tình huống mới bên ngoài
gây ra. Những vận động đối kháng đặc thù của nhịp điệu, trái lại, được điều
chỉnh bằng chính sự lắp ráp bên trong (và di truyền) và do đó có một sự đều
đặn cứng và liền khoảnh hơn nhiều. Sự khác biệt còn lớn hơn giữa nhịp điệu
và các "thao tác ngược" riêng của sự nghịch đảo thông minh, nó là cố ý và
gắn liền với những phối hợp cơ động vô cùng của "nhóm hợp".
Nhịp điệu di truyền như vậy là bảo đảm một sự bảo toàn nào đó của
các cư xử, sự bảo toàn đó hoàn toàn không loại trừ sự phức hợp của ngay cả
một sự uyển chuyển tương đối (người ta đã cường điệu sự cứng cỏi của các
bản năng). Nhưng trong chừng mực mà người ta dừng lại ở những lắp ráp
bẩm sinh, sự bảo toàn này của các sem chu kì chứng tỏ một sự phi phân hóa
triệt để giữa sự đồng hóa các khách thể với hoạt động của chủ thể, và sự
điều ứng của hoạt động này với những thay đổi có thể có của hoàn cảnh bên
ngoài.
Với những thụ đắc do kinh nghiệm, sự điều ủng trái lại được phân hóa
và trong cùng chừng mực đó các nhịp điệu sơ đẳng được hòa nhập vào
những hệ thống rộng lớn hơn không còn cung cấp những tính chu kì đều đặn.
Trái lại, một cấu trúc chung thứ hai lúc đó hiện ra, nó kéo dài tính chu kì ban
đầu và bao hàm những điều tiết: chính chúng mà chúng ta đã bắt gặp từ tri
giác đến bản thân những trực giác tiền thao tác. Một tri giác, chẳng hạn, luôn
luôn tạo thành một hệ thống tổng thể các quan hệ và như vậy có thể được
quan niệm như là hình thức cân bằng nhất thời của nhiều nhịp điệu sơ đẳng
của giác quan, tụ hội lại hoặc giao thoa theo nhiều kiểu. Hệ thống đó có xu
hướng tự bảo toàn với tính cách là một toàn bộ, trong chừng mực mà những
dữ kiện bên ngoài không thay đổi; nhưng ngay khi chúng thay đổi, sự điều
ứng vào những dữ kiện mới mang theo một "di chuyển sự cân bằng". Tuy
nhiên những di chuyển này không phải là không có giới hạn và sự cân bằng
được tái lập tùy thuộc ở sự đồng hóa vào các sem tri giác có trước, biểu lộ
một xu hướng phản ứng lại theo chiều ngược với sự thay đổi bên ngoài. Vậy
có điều tiết, tức là có sự can thiệp của các quá trình đối kháng so sánh được
với những quá trình đã biểu lộ trong những vận động theo chu kì, nhưng hiện
tượng bây giờ xẩy ra ở một quy mô cao hơn, phức hợp hơn và rộng rãi hơn
nhiều, và không có tính chu kì bắt buộc.
Cấu trúc này, mà đặc trưng là sự tồn tại của những điều tiết, không
riêng biệt cho sự tri giác. Chính người ta tìm thấy lại nó trong những "sửa
chữa" riêng cho những thụ đắc các vận động. Một cách khái quát, toàn bộ sự
phát triển cảm giác - vận động, cho đến kể cả những trình độ khác nhau của
trí khôn cảm giác - vận động, biểu lộ những hệ thống tương tự. Chỉ trong một
trường hợp có lợi thế, trường hợp của những chuyển chỗ thực sự có trở về
và có quay đi, mà hệ thống có xu hướng đạt tới tính nghịch đảo và như vậy
báo trước sự nhóm hợp. Trong những trường hợp chung, trái lại, một sự điều
tiết ttrong khi giảm bớt và sửa chữa những thay đổi gây rối và do vậy, tiến
hành ở chiều ngược lại so với những biến đổi trước, không đạt tới tính nghịch
đảo hoàn toàn, vì thiếu sự ăn khớp đầy đủ giữa đồng hóa và điều ứng.
Đặc biệt, trên bình diện của tư duy đang nảy nở, những tập trung hóa
trực giác và tính duy kỉ đặc thù cho các quan hệ được liên tiếp tạo dựng giữ
tư duy ở trạng thái không thể nghịch đảo, như chúng ta đã thấy ở chương 5
khi nói về những không - bảo toàn. Những thay đổi trực giác chỉ được "đền
bù" bởi một trò điều tiết dần dần làm cho hài hòa sự đồng hóa và sự điều tiết
và bảo đảm một mình sự điều chỉnh của tư duy phi - thao tác trong tiến trình
những mầy mò bên trong của sự biểu tượng.
Mà thật dễ thấy rằng những điều tiết đó, mà các loại hình khác nhau
xếp thành dây từ những tri giác và thói quen sơ đẳng đến bản thân của
những thao tác, bản thân chúng cũng bắt nguồn từ các "nhịp điệu" ban đầu
một cách khá liên tục. Trước tiên, nên nhớ lại rằng những thụ đắc đầu tiên, kế
tiếp ngay với sự luyện tập những lắp ráp di truyền, còn có một hình thức nhịp
điệu: những "phản ứng vòng tròn" ở điểm xuất phát của những thói quen
được nhiễm một cách tích cực, bao gồm những sự lặp lại có tính chu kì rất rõ
rệt. Những sự đo bằng tri giác thuộc về những đại lượng hoặc những hình
dạng phức hợp (và không chỉ thuộc về tính nhạy cảm tuyệt đối) chứng tỏ còn
có những dao động liên tục xung quanh một điểm cân bằng đã định. Mặt khác
người ta có thể giả định rằng những thành phần tương tự với những thành
phần xác định những bước xen kẽ hoặc đối lập đặc trưng cho nhịp điệu (A ->
B và B -> A) được tìm thấy lại trong một hệ thống tổng thể có khả năng điều
tiết, nhưng hiện ra liên tiếp và ở thế cân bằng nhất thời cái này với cái kia,
thay vì chiếm ưu thế mỗi cái luân phiên: vì vậy, khi sự cân bằng đó thay đổi,
xảy ra sự "chuyển chỗ của cân bằng" và xuất hiện một xu hướng chống lại
những thay đổi bên ngoài, tức là "giảm bớt" sự thay đổi phải chịu (như người
ta nói trong vật lí học trong trường hợp của cơ chế nổi tiếng mà Le Chatelier
đã mô tả. Vậy người ta có thể hình dung rằng khi các thành phần của hành
động tạo thành những hệ thống tĩnh tại tổng thể, những vận động định hướng
theo chiều trái ngược lẫn nhau (mà sự xen kẽ đưa lại những pha khác biệt và
nối tiếp của nhịp điệu) được đồng bộ hóa và biểu thị những yếu tố của sự cân
bằng của hệ thống. Trong trường hợp có những thay đổi bên ngoài, sự cân
bằng chuyển chỗ do sự nhấn mạnh của một trong những xu hướng đang tác
động, song sự nhấn mạnh đó sớm hay muộn sẽ bị xu hướng trái lại hạn chế:
lúc đó chính là sự đảo chiều này xác định sự điều tiết.
Bây giờ người ta hiểu tính chất của tính nghịch đảo riêng của trí khôn
thao tác và cách thức mà các thao tác ngược lại của nhóm hợp xuất phát từ
những điều tiết không chỉ trực giác, mà còn cảm giác - vận động và tri giác.
Những nhịp điệu phản xạ, trong dáng đi tổng thể của chúng, là không nghịch
đảo và được định hướng theo một chiều xác định: thực hiện một vận động
(hoặc một tổ hợp vận động), ngưng lại và trở về điểm xuất phát để lặp lại nó
theo cùng chiều, những pha liên tiếp của chúng là như vậy và nếu pha trở về
(hoặc đối lập) đảo ngược lại những vận động ban đầu, đó không phải là một
hành động thứ hai có cùng một giá trị như pha dương (thuận), mà là một sự
trở lại, nó xác định một sự bắt đầu lại được định hướng theb cùng một chiều.
Tuy nhiên, pha đối lập của nhịp điệu là ở điểm xuất phát của sự điều tiết và ở
bên kia sự điều tiết này, là những "thao tác ngược" của trí tuệ; và người ta đã
có thể hình dung mọi nhịp điệu như một hệ thống những điều tiết xen kẽ và
được tụ hội thành một toàn bộ duy nhất của sự nối tiếp. Còn vẽ sự điều tiết,
nó tạo thành sản phẩm của một nhịp điệu tổng thể mà các thành phần sẽ trở
thành đồng thời, nó đặc trưng cho những cư xử còn không nghịch đảo được,
song tính nghịch đảo đó có bước tiến so với tính nghịch đảo của các cư xử
trước. Trên bình diện tri giác, sự đảo nguợc một ảo ảnh giả định rằng một tỉ
số (chẳng hạn vẽ sự giống nhau) trội hơn tỉ số nghịch (sự khác nhau) từ một
sự cường điệu nào đó của cái sau, và ngược lại. Trong lĩnh vực của tư duy
trực giác, vấn đề còn rõ ràng hơn: tỉ số bị sự tập trung chú ý xem nhẹ khi nó
gắn bó với một tỉ số khác, chế ngự trở lại tỉ số sau khi sự sai lầm đi qua
những giới hạn nào đó. Sự phi tập trung hóa, nguồn gốc của điều tiết, trong
trường hợp này kết thúc ở một cái tương đương trực giác của những thao tác
ngược, đặc biệt khi những đón trước và những tái tạo của biểu tượng tăng
thêm độ rộng của nó và làm cho nó như là tức thời, điều sẽ ngày càng được
sản sinh ra ở trình độ những "trực giác được khớp nối" (chương 5). Vậy chỉ
cần sự điều tiết cuối cùng dẫn đến những đền bù trọn vẹn (đó chính là những
trực giác được nối khớp hướng tới) để cho thao tác xuất hiện qua ngay sự
việc: quả vậy, các thao tác không là gì ngoài một hệ thống những thay đổi
được kết hợp và trở thành có thể nghịch đảo cho dù sự phối hợp của chúng
có thế nào đi nữa.
Vậy chính là trong cái nghĩa cụ thể nhất và chính xác nhất mà người ta
có thể quan niệm các nhóm hợp thao tác của trí khôn như là "hình thức" kết
thúc mà các chức năng cảm giác - vận động về biểu tượng hướng tới trong
tiến trình phát triển của chúng, và quan niệm đó cho phép hiểu sự thống nhất
chức năng sâu sắc của sự tiến hóa của trí tuệ, trong khi vẫn ghi nhận những
khác biệt về tính chất phân biệt các cấu trúc riêng của các giai đoạn liên tiếp.
Dẫu sớm đạt được tính nghịch đảo trọn vẹn, giới hạn của một quy trình liên
tục, nhưng giới hạn có những đặc tính rất khác với những đặc tính các giai
đoạn trước bởi vì nó đánh dấu sự đi đến nơi bản thân sự cân bằng - các thể
kết tụ cho đến lúc này cứng rắn trở nên có khả năng cơ động trong cấu tạo,
nó làm cho tính ổn định của chúng được bảo đảm, bởi vì sự điều ứng với kinh
nghiệm lúc đó tỏ ra cân bằng thường xuyên, dẫu những thao tác được thực
hiện với sự đồng hóa được ngay sự việc nâng lên hàng diễn dịch cần thiết, là
thế nào đi nữa.
Nhịp điệu, điều tiết và "nhóm hợp” như vậy tạo thành ba giai đoạn
(bước, pha) của cơ chế tiến hóa nó gắn chặt trí khôn với năng lượng phát
sinh hình thái của bản thân cuộc sống và cho phép nó hoàn thành những
thích nghi vừa là vô hạn vừa là cân bằng giữa chúng với nhau, mà trên bình
diện của cơ thể không tài nào thực hiện được.
THƯ MỤC SƠ LƯỢC
CHƯƠNG MỘT
Biihler (K.) - Sự khủng hoảng của tâm lí học. Iena (Fischer), in lần 2,
1929
Claparède (Ed) - Tâm lí học trí khôn. Scientia 1917 tập 22 trg 253 - 268
Kohler (W.)
Lewin (K.) - Tâm lí học Hình thức. New York (Liveright), 1929 Những
nguyên lí của Tâm lí học tôpô. London (Mac Graw - Hill) 1935
Montpellier (G. de) - Những cư xử thông minh và Tâm thần học ở
Người và loài vật Louvain et Paris, 1946
CHƯƠNG HAI
Binet (A.) - Nghiên cứu thực nghiệm về trí khôn, Paris (Schleicher).
1903
Burloud (A) - Tư duy theo các nghiên cứu thực nghiệm của Watt,
Messer và B Buhler. Paris (Alcan) 1927
Delacroix (H.) - Tâm lí học lí trí trong sách Tâm lí học của Dumas in lần
2,. t1, trg 118 - 305 (Paris, Alan 1936)
Lindivorky (L.)- Những kết luận của tư duy Fribourgen Brisgau 1916
Piaget (J.) - Lớp, quan hệ và số. Tiểu luận về các "nhóm hợp" của
khoa logistic và tính nghịch đảo của tư duy, Paris (Vrin) 1942
Selz (O.) – Về tâm lí học tư duy sáng tạo và những thiếu sót; Bonn.
1929
CHƯƠNG BA
Duncker (K.) – Về tâm lí học của tư duy sáng tạo, Berlin. 1935
Guillaume (P.) - Tâm lí học Hình thức. Paris (Flamarion) 1937
Kohler (W.) - Trí khôn của những con khỉ cao cấp (Guillaume dịch)
Paris (Alcan) 1928.
Pilaget (J.)
và Lambercier (M.) - Những nghiên cứu về sự phát triển của tri giác, I
đến VIII, Lưu trữ tâm lí học (Genève) 1943 - 1946
Wertheimer (M) – Về quá trình kết thúc của tư duy sáng tạo, Berlin.
1920
CHƯƠNG BỐN
CLaparède (Ed) - Sự phát sinh của giả thuyết Lưu trữ tâm lí học
(Geneve) 1934
Guillaume (P.) - Sự hình thành của thói quen. Paris (Alcan) 1936
Hull (b.) - Những nguyên tắc của hành vi, New York (Appleton) 1943
Krecheski (I.) - Tính chất sai khiến của giả thuyết Tạp chí Tâm lí học
1933, t 15, trg 425 - 443
Piaget (J.) - Sự nảy sinh trí khôn ở trẻ em, Neuchatel (Delachaux và
Niestlé) 1936 - Sự tạo dựng thực tại ở trẻ em - Nht - 1937
Spearman (Ch.) - Bản chất của trí khôn, London, 1923
Tolman (C.E.) - Một lí thuyết hành vi học về tư duy Tạp chí Tâm lí học.
Thordike (E.L.) - Cơ sở của học tập t33 trg 352 - 369, New York - 1932
CHƯƠNG NĂM VÀ SÁU
Buhler (Ch.) - Thời thơ ấu và thời thanh niên. Leipzig (Hirzel) 1931
Buhler (K) - Sự phát triển trí tuệ ỏ trẻ em, Iéna (Fischer) 1981
Inhelder (B.) – Chẩn đoán về lập luận ở những người trí tuệ chậm phát
triển Neuchatel (Delachaux và. Niestlé)
Janet (P.) - Trí khôn trước lúc biết nói - Paris (Flamnarion) 1935
Những khởi đầu của trí khôn - Paris (Flamarion) 1946.
Piaget (F.) - Hình thành cái tượng trưng ở trẻ em.
Neuchatel (Delachaux và Niestlé), 1945
Sự phát triển khái niệm thời gian ở trẻ em
Paris NXB Đại học, 1946
Những khái niệm về vận động và tốc độ ở trẻ em.
-Nht- 1946
Piaget (F.)
và Sgeeminska (A.) Sự phát sinh số ở trẻ em. Neuchatel (Delachaux
và Neistlé) 1941
- và Inhelder - Sự phát triển các số lượng ở trẻ em.
- Nht - 1941
Rey (A.) - Trí khôn thực hành ở trẻ em Paris (Alcan) 1935
Wallon (H.) - Từ hành vi đến ý nghĩ, Paris (Flamarion) 1942
- Nguồn gốc của tư duy ở trẻ em, Paris (NXB Đại học) 1945
PHỤ LỤC
Để giúp bạn đọc hiểu thêm về ý tưởng của F. Piaget trong tâm lí học trí
khôn, phân định được những thành tựu rất lớn và một số điểm yếu trong học
thuyết của ông về trí khôn, chúng tôi xin giới thiệu dưới đây một mục trong tác
phẩm "Cơ cấu trí khôn - Lí thuyết về nhiều dạng trí khôn" của Howard
Gardner, một nhà tâm lí học hiện đại của Hoa Kì, nhà XB Harper Collins xuất
bản năm 1983.
Tác phẩm này do ông Phạm Toàn dịch từ tiếng Anh ra tiếng Việt và sẽ
được Nhà xuất bản Giáo dục cho ra mắt bạn đọc một ngày gần đây.
Piaget
Chính là từ một người vốn dĩ được đào tạo theo truyền thống IQ mà
chúng ta có được một cách nhìn vào trí tuệ thay thế được trào lưu test (đo
nghiệm) trí khôn trên nhiều phương diện. Nhà tâm lí học Thụy Sĩ Jean Piaget
bắt đầu sự nghiệp khoảng năm 1920 với tư cách người làm việc nghiên cứu
trong phòng thí nghiệm của Simon và ông sớm quan tâm đến những sai lầm
trẻ em thường mắc phải khi xử lí các mục của test trí khôn. Piaget đã đi đến
chỗ tin tưởng rằng, điều quan trọng không phải là câu trả lời đúng của trẻ em,
mà là những cách suy luận các em đưa ra: những cái đó có thể thấy rõ nhất
khi tập trung vào những khẳng định và những dãy lập luận làm đẻ ra các kết
luận sai lầm. Chẳng hạn như, chẳng có gì là có giá trị khám phá cả khi phát
hiện hầu hết trẻ em 4 tuổi nghĩ rằng cái búa giống cái đanh nhiều hơn giống
cái tua-nơ-vít; điều quan trọng là trẻ em đã đi đến kết luận đó vì cách các em
nhìn sự giống nhau phản ánh sự đồng-xuất hiện mang tính vật thể (búa được
tìm thấy bên cạnh cái đanh) hơn là vì nó là thành viên của cùng một phạm trù
có thứ bậc cao thấp (dụng cụ).
Bản thân Piaget chẳng bao giờ tiến hành phê phán phong trào test trí
khôn; nhưng khi nhìn vào những bước tiến khoa học do ông tạo ra, ta có thể
ngẫm nghĩ tới một số điều bất cập trong chương trình của Binet - Simon.
Trước hết, phong trào IQ mang tính kinh nghiệm một cách mù quáng. Nó đơn
giản dựa trên các test với một số khả năng tiên đoán về thành tựu học
đường, và chỉ dựa một cách bên lề, vào một lí thuyết về cách hoạt động của
trí óc. Nó không nhìn ra cả quá trình con người làm cách nào để giải một bài
toán: chỉ đơn giản có kết quả là liệu người được test có đạt tới câu trả lời
đúng hay không. Ngoài ra, các bài tập đưa ra trong bộ test IQ tỏ ra cực kì vi
mô, thường không có liên hệ với nhau và dường như là tiến hành theo
phương pháp "bắn súng" để đánh giá trí tuệ người. Các phương pháp đó
trong nhiều trường hợp xa vời khỏi đời sống hằng ngày. Chúng nặng về dựa
trên lời nói và trên kĩ năng định nghĩa từ trong việc biết đến những sự kiện
xảy ra xung quanh, trong việc tìm ra các mối liên hệ (và sự khác biệt) giữa
những khái niệm bằng lời.
Phần lớn thông tin thu được từ những test trí khôn phản ánh cái tri thức
có được trong một môi trường xã hội và giáo dục đặc thù. Chẳng hạn, định
nghĩa lầm lỗi là gì hoặc xác định ai là tác giả Iliad là điều hoàn toàn phản ánh
loại trường ai đó theo học hoặc những thị hiếu của gia đình ai đó. Ngược lại,
các test trí khôn hiếm khi đánh giá kĩ năng khi tiếp nhận thông tin mới hoặc
khi giải những bài toán mới. Cung cách ngả về kiến thức "kết tinh" thay vì kiến
thức "uyển chuyển" có thể có những hậu quả kinh hoàng. Một cá nhân có thể
bị mất hoàn toàn các thùy não trước, trong tiến trình chuyển đổi thành một
con người khác hẳn, không có khả năng có bất kì sáng kiến nào hoặc giải bài
toán mới nào - song vẫn tiếp tục cho ra chỉ số IQ kề cận mức thiên tài. Ngoài
ra test trí khôn ít cho thấy về tiềm năng của một cá nhân khi lớn lên mai sau.
Hai cá nhân có thể có cùng số đo IQ; song một người thì có thể bị gạt khỏi
khả năng đạt sự tiến vọt kinh hoàng trong chiếm lĩnh trí tuệ, còn người kia thì
có thể sử dụng tầm cao nhất các năng lực trí tuệ của mình. Nói theo lời nhà
tâm lí học Xô viết Lev Vygotsky, các test trí khôn không đẻ ra bất kì chỉ dẫn
nào về một "vùng phát triển:) tiềm tàng (hoặc "gần tâm") của một con người.
Với những cách đánh giá phê phán như thế, ít ra là tiềm ẩn trong đầu,
Piaget qua nhiều thập niên đã phát triển một cách nhìn hoàn toàn khác và cực
kì mạnh về vấn đề nhận thức của con người. Theo cách nhìn của ông, mọi
nghiên cứu về tư duy con người phải bắt đầu từ việc đặt vào vị trí một cá thể
có ý định nhận thức thế giới. Cá thể ấy liên tục tạo dựng các giả thiết và sau
đó cố sức tạo sinh ra tri thức; nó tìm cách hình dung bản chất các đồ vật vật
chất trong cuộc đời, chúng tác động qua lại nhau ra sao, cũng như hình dung
bản chất các con người trong cuộc đời, các động lực thúc đẩy chúng và các
hành vi của chúng. Cuối cùng, nó phải sắp xếp tất cả các sự vật đó lại chung
trong một câu chuyện nhạy cảm, một bản tường trình mạch lạc về bản chất
của các thế giới vật chất và xã hội.
Ban đầu, đứa trẻ cảm nhận thế giới trước hết qua các phản xạ của nó,
các tri giác bằng cảm giác của nó, và các hành động vật chất cơ thể có của
nó lên mọi vật. Sau một năm hoặc hai năm, nó đạt tới một nhận thức "thực
tiễn" hoặc "bằng sự vận động của cảm giác" đối với thế giới đồ vật tồn tại
trong thời gian và không gian. Được trang bị bằng tri thức đó, nó đã có thể đi
một cách thỏa mãn vào môi trường của mình và có thể đánh giá được là một
đồ vật tiếp tục tồn tại trong không gian và thời gian ngay cả khi đồ vật đó nằm
ngoài tầm nhìn. Tiếp theo, đứa bé chập chững ấy tiếp tục phát triển những
hành động được đưa vào bên trong hoặc những thao tác tinh thần. Dó là
những hành động có thể tiềm tàng tác động lên thế giới đồ vật; nhưng, nhờ
có cái năng lực mới được trỗi dậy, các hành động đó chỉ cần được tiến hành
bằng bộ não, bên trong đầu, có thể là thông qua hình ảnh. Thế là, chẳng hạn,
để di chuyển được từ chỗ đang đứng về điểm xuất phát quen thuộc, đứa bé
không phải thử để tìm ra những con đường khác, nó chỉ cần đơn giản tính
toán là, bằng cách quay ngược các bước trở lại, nó sẽ trở về chỗ cũ. Cùng
lúc đó, đứa bé cũng có khả năng sử dụng biểu trưng: giờ đây nó đã có thể sử
dụng các hình ảnh hoặc yếu tố khác nhau - như các từ, các cử chỉ, hoặc các
hình vẽ - thay mặt cho các đồ vật của "đời sống thực" trong cuộc sống, và có
thể trở thành khéo léo trong việc triển khai các hệ thống biểu trưng khác nhau
như ngôn ngữ hoặc vẽ.
Những năng lực đang tiến triển đó của việc nội hiện và biểu trưng hóa
đạt tới điểm cao khoảng tuổi lên 7 hoặc lên 8 khi đứa bé có khả năng tiến
hành những thao tác cụ thể. Được trang bị tập hợp những năng lực mới này,
giờ đây đứa bé đã có khả năng lập luận có hệ thống xoay quanh thế giới đồ
vật, số, thời gian, không gian, hệ nhân quả, vân vân. Không còn bị bó hẹp lâu
la hơn nữa chỉ vào cư xử vật chất thích hợp lên đồ vật, giờ đây, đứa trẻ có
thể đánh giá được những mối quan hệ thu được giữa cả loạt hành động lên
đồ vật. Thế là nó hiểu rằng các đồ vật có thể được xếp sắp lại mà vẫn giữ
nguyên số lượng; rằng một vật liệu có thể được thay đổi hình thù mà khối
lượng không vì thế mà bị ảnh hưởng; rằng một cảnh có thể được nhìn từ một
phối cảnh khác mà vẫn giữ nguyên bấy nhiêu yếu tố.
Theo Piaget, giai đoạn phát triển cuối cùng xuất hiện vào đầu thời kì
thiếu niên. Giờ đây, đã có khả năng làm các thao tác hình thức, thiếu niên có
khả năng lập luận về thế giới không chỉ qua các hành động hoặc qua những
biểu trưng đơn chiếc, mà thông qua hình dung những liên hệ thu được từ một
tập hợp các mệnh đề liên quan nhau. Người thiếu niên đó có khả năng tư duy
theo cách hoàn toàn lôgich. Giờ đây giống như một nhà bác học đang làm
việc, nó có thể diễn đạt các giả thiết thành những mệnh đề, test lại chúng, và
xem xét lại các mệnh đề dưới ánh sáng của các kết quả thực nghiệm đó. Với
những khả năng đó trong tay (hoặc trong đầu), người thiếu niên đã đạt được
trạng thái cuối của nhận thức người lớn. Giờ đây nó đã có khả năng có kiểu
tư duy lôgich - duy lí được đánh giá cao ở phương Tây và được thu nhỏ
thành hình ảnh các nhà toán học và khoa học gia. Dĩ nhiên cá nhân kia có thể
tiếp tục đi tới những khám phá cao xa hơn, nhưng sẽ chẳng trải qua những
đổi thay về chất lượng trong cách tư duy của mình nữa.
Lướt qua như trên những lời giáo huấn chủ yếu của Piaget làm hiện ra
vài điểm mạnh và vài chỗ yếu trong những phát ngôn của ông. Về mặt ưu
điểm thì Piaget đã nghiêm túc coi trọng trẻ em; ông đã đề ra cho các em
những vấn đề quan trọng (đặc biệt những vấn đề rút ra từ địa hạt khoa học)
và đã dẫn ra được các bằng chứng cho thấy là, tại mỗi giai đoạn, có thể nhận
ra được vẫn chỉ một cơ cấu tổ chức nếu thông qua hàng loạt thao tác tinh
thần. Chẳng hạn, theo cách nhìn của Piaget, đứa trẻ ở giai đoạn "thao tác - cụ
thể" có thể mó máy để thực hiện cả loạt bài tập liên quan đến bảo toàn số,
tính nhân quả, số lượng, khối lượng, vân vân, bởi vì tất cả các việc làm đó
đều suy ra từ cái hạt nhân cơ cấu tinh thần ấy. Tương tự như vậy, khi được
trang bị những thao tác hình thức người thiếu niên sử dụng cả một tổng thể
thao tác có tổ chức chặt chẽ, để lúc này em có thể suy luận một cách lôgich
đối với bất kì tập hợp mệnh đề nào đặt ra cho mình. Không giống như những
nhà kiến trúc ra các test trí khôn, Piaget cũng nghiêm túc coi trọng danh mục
những vấn đề mà các nhà triết học, đặc biệt là Immanuel Kant coi là trung tâm
cho trí tuệ người, kể cả những phạm trù cơ bản về thời gian, không gian, số
và tính nhân quả. Đồng thời Piaget đã tránh được những dạng tri thức chỉ
đơn thuần là ghi nhớ (như thể việc định nghĩa từ) hoặc chỉ thu hẹp lại nơi một
số nhóm văn hóa nào đó (như các nhóm ngả về nghệ thuật "cao siêu"). Tự
giác hay không tự giác, Piaget đã vẽ ra bức chân dung rạng rỡ về sự trưởng
thành của trí khôn người, điều đã được đánh giá cực kì cao bởi các truyền
thống khoa học và triết học phương Tây.
Nhưng các thế mạnh không chối cãi được ấy đã khiến Piaget trở thành
nhà lí thuyết về phát triển nhận thức, lại chung sống với vài điều yếu kém, mà
trải hai thập niên qua càng ngày càng trở nên rõ nét. Trước hết, trong khi
Piaget vẽ ra một bức tranh về sự phát triển đáng gờm, thì đó vẫn chỉ là một
kiểu phát triển mà thôi. Tập trung vào sổ nhật kí (sổ ghi chép) trí tuệ hướng về
nhà khoa học trẻ, mô hình phát triển của Piaget tương đối ít coi trọng các
khung cảnh không-phải-phương-Tây và trước-khi-biết chữ, và thực ra thì
thậm chí ngay cả ở phương Tây mô hình của ông cũng chỉ áp dụng được cho
một thiểu số người mà thôi. Những bước đi tiếp theo khi thực hiện những
dạng năng lực khác - của một nghệ sĩ, một nhà luật học, một lực sĩ, hoặc một
nhà lãnh đạo chính trị - đều bị Piaget làm ngơ khi nhấn mạnh một chiều vào
một kiểu tư duy nhất định.
Dĩ nhiên con đường của Piaget có thể bị hạn chế song vẫn hoàn toàn
đúng đắn trong địa hạt thu hẹp riêng của nó. Song hỡi ôi, một thế hệ nhà
nghiên cứu theo lối kinh nghiệm đã xem xét kỹ càng những điều Piaget chỉ ra
và đã thấy những điều khác nữa. Trong khi đường nét phát triển tổng quát
như Piaget vạch ra vẫn còn đáng chú ý, thì có nhiều chi tiết riêng biệt đơn
giản là không đúng. Các giai đoan của một cá thể được hoàn thiện theo một
cung cách liên tục và tuần tự hơn nhiều so với điều Piaget chỉ ra. Thực ra thì
ta ít thấy ông chỉ ra tính không liên tục (và điều đó khiến cho các đòi hỏi lí
thuyết của ông đặc biệt chặt như đinh tán). Vậy là, phần lớn việc làm đòi hỏi
các thao tác cụ thể có thể được đứa trẻ thực hiện trong những năm tiền - thao
tác, một khi các mẫu thực nghiệm được điều chỉnh, ví dụ như, giờ đây đã có
bằng chứng là trẻ em có thể nhớ số, có thể xếp loại chắc chắn, và từ bỏ tính
lấy mình làm trung tâm ngay từ tuổi lên ba - đấy là những phát hiện chưa
từng được lí thuyết của Piaget tiên báo (hoặc cho phép).
Một đòi hỏi trung tâm khác của lí thuyết Piaget cũng không thoát khỏi
bước khó khăn, Ông dám chắc rằng những thao tác khác nhau đã được ông
làm sáng tỏ có thể áp dụng vào bất kì nội dung nào. (Trong chuyện này, ông
giống như những người đã đưa ra "các khả năng hàng ngang", những người
tin tưởng vào các tiến trình toàn diện như là tri giác hoặc kí ức). Song trên
thực tế những thao tác của Piaget xuất hiện có tính từng mảnh, hoặc tản mát
hơn nhiều, chứng tỏ có hiệu quả khi gặp những vật liệu hoặc nội dung này,
nhưng lại thất bại khi đem dùng (hoặc bị dùng không hợp) với những vật liệu
khác, ví dụ như, một đứa trẻ làm tốt các thao tác bảo toàn với vài vật liệu này
sẽ lại thất bại khi thao tác bảo toàn với các vật liệu khác. Piaget biết rằng các
thao tác hẳn là sẽ chẳng được kết tinh tức thời: thậm chí ông còn phịa ra
"nhân tố tầm phào" - gọi bằng tiếng Pháp décalage - độ sai lệch - cho phép
cùng thao tác cơ bản ấy xuất hiện vào thời điểm hơi khác, với những vật liệu
khác. Nhưng cái gì đã xảy ra? Đó là độ sai lệch kia thực ra lại thành quy tắc
trong các công trình nghiên cứu sự phát triển của nhận thức. Thay vì là một
loại khả năng được kết hợp lại vào cùng một thời điểm (như Piaget mong
muốn) thì các khả năng liên quan đến lí thuyết đó lại xuất hiện vào những thời
điểm tản mát.
Người ta cũng xem xét các hạn chế khác nữa. Mặc dù Piaget tỏ ra hồ
nghi các câu hỏi đo IQ bằng lời nói, bản thân các bài tập của Piaget cho trẻ
em làm cũng lại thường tiến hành bằng lời. Và khi các việc làm đó được giao
cho trẻ em theo cách không bằng lời, thì kết quả thường khác với những điều
thu được tại các phòng thí nghiệm ở Geneve. Trong khi các việc làm của
Piaget tỏ ra phức hợp hơn và mang tính toàn khối hơn các việc làm trong các
test trí khôn, nhiều điều vẫn còn khá xa với kiểu tư duy mà hầu hết mọi con
người đều dùng đến trong cuộc sống hằng ngày. Các bài tập của Piaget vẫn
được tạo ra từ ghế và bảng đen của một nhà bác học trong phòng thí nghiệm.
Cuối cùng, và có chút gì ngạc nhiên, ấy là trong khi bức tranh đứa trẻ hoạt
động và đang khám phá của Piaget đã gây được tiếng vang hưởng ứng, thì
ông ít nói với chúng ta về tính sáng tạo hàng đầu của các khoa học, chưa nói
gì đến tính độc đáo rất được ca tụng trong nghệ thuật hoặc trong các địa hạt
khác của sự sáng tạo của con người. Ngoài sự thất bại không chuyển được
cái mô hình phổ quát về sự phát triển của nhận thức mà mọi trẻ bình thường
buộc phải trải qua, sơ đồ của Piaget - thu hẹp lại ở mức kết thúc sự trưởng
thành là những bài tập trong lớp học khoa học ở trường trung học - nổi lên
như là ít bận tâm hơn đến việc khám phá những hiện tượng mới hoặc đặt ra
những bài toán mới mà nhiều người coi là trung tâm trong cuộc sống trí tuệ.
Sơ đồ của Piaget có thể là cái tốt nhất chúng ta đã có, song những chỗ hỏng
của nó thì quá rõ ràng.
MỤC LỤC
Lời tựa
PHẦN THỨ NHẤTBẢN CHẤT CỦA TRÍ KHÔN
Chương 1. TRÍ KHÔN VÀ SỰ THÍCH NGHI SINH HỌC
• Vị trí của trí khôn trong tổ chức tinh thần
• Tính chất thích nghi của trí khôn
• Định nghĩa trí khôn
• Phân loại những giải thích có thể có về trí khôn
Chương 2. "TÂM LÍ HỌC TƯ DUY" VÀ BẢN CHẤT TÂM LÍ HỌC CỦA NHỮNG THAO TÁC LÔGICH
• Sự giải thích của B. Russell
• Tâm lí học tư duy: Buhler và Selz
• Phê phán tâm lí học tư duy
• Lôgich học và tâm lí học
• Các thao tác và những "nhóm hợp" của chúng
• Ý nghĩa chức năng và cấu trúc của các nhóm hợp
• Phân loại các "nhóm hợp” và các thao tác cơ bản của tư duy
• Sự cân bằng và sự phát sinh
PHẦN THỨ HAITRÍ KHÔN VÀ CÁC CHỨC NĂNG CẢM GIÁC - VẬN ĐỘNG
Chương 3. TRÍ KHÔN VÀ TRI GIÁC
• Một chút lịch sử
• Lí thuyết Hình thức và sự giải thích về trí khôn của nó
• Phê phán tâm lí học Hình thức
• Những khác biệt giữa tri giác và trí khôn
• Những tương đồng giữa hoạt động tri giác và trí khôn
Chương 4. THÓI QUEN VÀ TRÍ KHÔN CẢM GIÁC - VẬN DỘNG
• Thói quen và trí khôn
I. Độc lập hay phát sinh trực tiếp
• Thói quen và trí khôn
II. Sự mầy mò và sự cấu trúc hóa
• Sự đồng hóa cảm giác vận động và sự nảy sinh trí khôn ở trẻ em
• Sự tạo dựng khách thể và các tương quan không gian
PHẦN THỨ BASỰ PHÁT TRIỂN CỦA TƯ DUY
Chương 5. VIỆC LUYỆN TƯ DUY - TRỰC GIÁC VÀ CÁC THAO TÁC
• Những khác biệt về cấu trúc giữa trí khôn khái niệm và trí khôn cảm
giác - vận động
• Các giai đoạn tạo dựng những thao tác
• Tư duy tượng trưng và tiền khái niệm
• Tư duy trực giác
• Các thao tác cụ thể
• Các thao tác hình thức
• Hệ thống cấp bậc các thao tác và sự phân hóa lũy tiến của chúng
• Sự xác định "trình độ trí tuệ"
Chương 6. NHỮNG YẾU TỐ XÃ HỘI TRONG SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRÍ KHÔN
• Sự xã hội hóa trí khôn cá nhân
• Các "nhóm hợp" thao tác và sự hợp tác
Kết luận. Nhịp điệu, điều tiết và nhóm hợp
Thư mục sơ lược
Phụ lục
---//---
TÂM LÍ HỌC TRÍ KHÔN
(Tái bản lần thứ 1)
Tác giả: JEAN PIAGET
Người dịch: NGUYỄN DƯƠNG KHƯ
NHÀ XUẤT BẢN GIÁO DỤC
Chịu trách nhiệm xuất bản: GĐ PHẠM VĂN AN
Tổng biên tập: NGUYỄN NHƯ Ý
Biên tập: CẤN HỮU HẢI
Sửa bản in: THANH TRÌNH
Biên tập kĩ thuật: TRẦN THU NGA
Trình bày bìa: TIỂU LÂM
Sắp chữ: TRUNG TÂM CHẾ BẢN – ĐỒ HỌA (NXBGD)
In 3.000 bản, khổ 14,3 x 20,3cm. Tại Xí nghiệp in Hải Dương. Số in 80, số
XB: 346/11-98. In xong và nộp lưu chiểu tháng 7/1998.