Upload
tttt999
View
439
Download
5
Embed Size (px)
DESCRIPTION
TTTT
Citation preview
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
MÔN: THỊ TRƯỜNG TIỀN TỆ
Thảo luận:
THỊ TRƯỜNG LIÊN NGÂN HÀNG
MỘT SỐ NƯỚC VÀ VIỆT NAM
HÀ NỘI, THÁNG 5 NĂM 2013
MỤC LỤC
Chương 1 : Cơ sở lý luận về thị trường liên ngân hàng......................................................3
I. Khái niệm, bản chất của thị trường liên ngân hàng......................................................3
II. Đặc điểm của thị trường liên ngân hàng.....................................................................3
III. Các chủ thể tham gia thị trường liên ngân hàng........................................................4
IV. Các giao dịch chủ yếu trên thị trường liên ngân hàng...............................................5
V. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.......................................................................5
VI. Thanh toán trên thị trường liên ngân hàng................................................................5
VII. Vai trò của thị trường liên ngân hàng.......................................................................6
Chương 2 : Thị trường liên ngân hàng một số nước và Việt Nam......................................7
I. Thị trường liên ngân hàng Trung Quốc....................................................................7
1. Quá trình hình thành và phát triển thị trường liên ngân hàng Trung Quốc.......7
2. Các bộ phận cấu thành thị trường liên ngân hàng Trung Quốc............................8
3. Các chủ thể tham gia trên thị trường.....................................................................9
4. Thực trạng hoạt động thị trường liên ngân hàng Trung Quốc..............................9
II. Thị trường liên ngân hàng Nhật Bản...................................................................14
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường liên ngân hàng Nhật Bản.........14
2. Các bộ phận cấu thành thị trường liên ngân hàng Nhật Bản..............................15
3. Các chủ thể tham gia...........................................................................................16
4. Thực trạng hoạt động thị trường liên ngân hàng Nhật Bản................................17
III. Thị trường liên ngân hàng Việt Nam..................................................................21
1. Quá trình phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam..................21
2. Các bộ phận cấu thành thị trường liên ngân hàng Việt Nam..............................24
3. Thực trạng hoạt động thị trường liên ngân hàng Việt Nam................................24
4. Một số tồn tại và nguyên nhân............................................................................30
Chương 3: Một số giải pháp phát triển thị trường liên ngân hàng ở Việt Nam.................32
1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý................................................................................32
2. Phát triển thị trường repo........................................................................................32
3. Nâng cao vai trò quản lý, điều hành của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với
thị trường liên ngân hàng...............................................................................................33
2
3
Chương 1 : Cơ sở lý luận về thị trường liên ngân hàng
I. Khái niệm, bản chất của thị trường liên ngân hàng
Thị trường liên ngân hàng là nơi các ngân hàng hoặc các TCTD vay mượn nhau
các khoản dự trữ dư thừa nhằm bù đắp nhu cầu ngân quỹ tạm thời cho các nghĩa vụ tài
chính thường xuyên.
Hiểu theo nghĩa rộng, thị trường liên ngân hàng là nơi thực hiện các giao dịch cơ
bản(Money Base – MB) giữa các ngân hàng, thông thường các giao dịch này thực hiện
thông qua tài khoản tiền gửi của các ngân hàng tại ngân hàng trung ương. Đây là thị
trường thực hiện các giao dịch vốn ngắn hạn dưới nhiều hình thức giữa các ngân hàng và
các tổ chức trung gian tài chính khác. Hiểu theo nghĩa hẹp, thị trường liên ngân hàng là
nơi thực hiện việc cho vay và đi vay lẫn nhau giữa các ngân hàng nhằm bù đắp nhu cầu
gây quỹ của mình.
II. Đặc điểm của thị trường liên ngân hàng
Một là, thị trường liên ngân hàng là thị trường vốn ngắn hạn: Tuy các quốc gia
không quy định thị trường liên ngân hàng là thị trường vốn ngắn hạn nhưng trong thực tế
các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng chủ yều là giao dịch ngắn hạn.
Hai là, thị trường liên ngân hàng chủ yếu là thị trường bán buôn: Hàng hóa giao
dịch ở thị trường liên ngân hàng là mua bán tiền gửi ngân hàng, tức là khỏan dự trữ dư
thừa tạm thời với những giao dịch lớn trị giá hơn 1 triệu USD (tức là bán buôn). Ngòai ra,
các loại giấy tờ có giá ngắn hạn là hàng hóa được mua bán thường xuyên và khối lượng
lớn trên thị trường này.
Ba là, thị trường liên ngân hàng là thị trường vay mượn vay mượn với độ rủi ro
cao. Các giao dịch ở đây hầu như không có tài sản bảo đảm, các thủ tục pháp lý cực kỳ
đơn giản. Vì vậy, để trở thành thành viên của thị trường, các ngân hàng và các tổ chức
trung gian tài chính đáp ứng được các yêu cầu về vốn, ký quỹ, chuyên môn, đạo đức nghề
nghiệp và có giấy phép hành nghề.
4
Bốn là, thị trường liên ngân hàng là thị trường cực kỳ nhạy cảm và là thị trường
thông tin: Thị trường liên ngân hàng là một mạng lưới các quan hệ ngân hàng đại lý,
trong đó ngân hàng thương mại mở tài khỏan tiền gửi thanh tóan tại ngân hàng thương
mại khác. Hệ thống tài khỏan giữa các ngân hàng đại lý giúp cho thị trường liên ngân
hàng họat động hiệu quả.
Năm là, thị trường liên ngân hàng là thị trường vô hình, liên kết toàn cầu: Thông
qua hệ thống giao dịch hiện đại, các doanh vụ mua bán trên thị trường liên ngân hàng
được thực hiện trên cơ sở liên kết tòan cầu giữa các ngân hàng, các nhà kinh doanh phi
ngân hàng và một môi giới tiền tệ.
Sáu là, thị trường liên ngân hàng thực hiện giao dịch thông qua các công cụ hiện
đại: Thị trường liên ngân hàng là thị trường giao dịch mà chủ thể tham gia là các ngân
hàng, các nhà kinh doanh (dealers) và nhà môi giới (brockers). Trên thị trường liên ngân
hàng, người môi giới (đa số là ngân hàng) mua bán tiền gửi qua điện thoại, máy tính…
bằng các công cụ phái sinh như quyền lựa chọn, hợp đồng tương lai…
III. Các chủ thể tham gia thị trường liên ngân hàng.
1. Các tổ chức TD, chủ yếu là các NHTM:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường
xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để
cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán
Mục đích:
- Kinh doanh tiền tệ từ nguốn vốn tạm thời nhàn rỗi.
- Đảm bảo khả năng thanh khoản khi khách hàng rút tiền hoặc giải ngân, tăng tính
thanh khoản trên thị trường.
- Huy động nguồn vốn với chi phí thấp để kinh doanh .NHTM huy động và tập
trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế; mặt khác với số vốn này NHTM
sẽ đáp ứng được nhu cầu vốn của nền kinh tế để sản xuất kinh doanh. Qua đó nó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển
- Giảm thiểu chi phí cơ hội do phải duy trì dự trữ bắt buộc.
5
2. Ngân hàng trung ương:
Ngân hàng trung ương là một định chế công cộng, có thể độc lập hoặc trực thuộc
Chính phủ, thực hiện chức năng độc quyền phát hành tiền, là ngân hàng của các ngân
hàng, ngân hàng của Chính phủ và chịu trách nhiệm trong việc quản lý Nhà nước về các
hoạt động về tiền tệ, tín dụng cho mục tiêu phát triển và ổn định của cộng đồng.
Mục đích: điều tiết thị trường thông qua các công cụ chính sách tiền tệ để duy trì các
điều kiện tiền tệ trên thị trường liên ngân hàng phù hợp với mục tiêu hoạt động
IV. Các giao dịch chủ yếu trên thị trường liên ngân hàng.
1. Gửi tiền và nhận tiền gửi ở ngân hàng khác
2. Vay và cho vay ngân hàng khác
3. Mua bán hẳn hoặc có kỳ hạn các giấy tờ có giá
V. Lãi suất trên thị trường liên ngân hàng.
Lãi suất trên thị trường nội tệ liên ngân hàng là lãi suất thỏa thuận, thay đổi theo
thời gian và phù hợp với chính sách lãi suất của NHTW. Nói cách khác, sự thay đổi lãi
suất liên ngân hàng phụ thuộc vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành cung - cầu vốn khả
dụng.
NHTW là người chi phối sự biến động của lãi suất liên ngân hàng mặc dù nó là lãi
suất thị trường và được hình thành do quan hệ cung cầu vốn khả dụng trên thị trường liên
ngân hàng. NHTW có thể thường xuyên tác động vào lãi suất nội tệ liên ngân hàng theo
yêu cầu của chính sách tiền tệ thông qua việc thiết kế một hệ thống lãi suất chủ đạo và sử
dụng để điều chỉnh lãi suất liên ngân hàng hàng ngày.
VI. Thanh toán trên thị trường liên ngân hàng.
Trên thị trường liên ngân hàng, các giao dịch liên ngân hàng đựơc thanh toán liên
ngân hàng hoặc qua hệ thống Chips (Clearing House Interbank Payments System). Đây là
6
hệ thống thanh toán được vi tính hóa với chủ sở hữu là các ngân hàng thanh toán bù trừ
lớn. Thông thường thanh toán giữa 2 ngân hàng liên quan được thực hiện thông qua Tung
tâm thanh toán bù trừ (Clearing House). Đây là một tổ chức mà tại đó các ngân hàng duy
trì một lượng tiền trên tài khoản của các ngân hàng khác nhằm thanh toán những giao
dịch liên ngân hàng.
Cũng có thể thực hiện thanh toán liên ngân hàng qua hệ thống Swipt ( có từ năm
1977) và thay thế cho bưu điện và điện tín. Hệ thống này được liên kết với nhau bằng vệ
tinh và các bức điện được chuyển hóa giữa các ngân hàng đựơc tiêu chuẩn hóa nhằm tối
đa hóa các sai sót do tập quán và ngôn ngữ. Hầu hết các ngân hàng trên thế giới, kể cả
Nga, các nước Đông Âu, Việt Nam… đều đã tham gia thị trường này.
VII. Vai trò của thị trường liên ngân hàng
1. Đối với NHTM
- Đảm bảo cho nguồn vốn của toàn hệ thống ngân hàng được điều hòa và phân bổ có hiệu
quả
- Thị trường liên ngân hàng tạo tính lỏng cho các khoản ngân quỹ nói riêng và các khoản
mục tài sản khác của NHTM
- Tác động tích cực đến yêu cầu quản lý vốn khả dụng của hệ thống NHTM
- Giảm chi phí cơ hội của việc duy trì dự trữ thường xuyên cho các NHTM
2. Đối với NHTW
- Thị trường nội tệ liên ngân hàng là nơi cung cấp thông tin về tình trạng vốn khả dụng
của hệ thống các tổ chức tín dụng
- Tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
7
Chương 2 : Thị trường liên ngân hàng một số nước và Việt Nam
I. Thị trường liên ngân hàng Trung Quốc
1. Quá trình hình thành và phát triển thị trường liên ngân hàng Trung Quốc
Thị trường liên ngân hàng Trung Quốc được thành lập vào năm 1996, tuy nhiên, các
ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng đã bắt đầu giao dịch với nhau từ những năm
80 của thế kỷ 20, khi chưa có sự quản lý điều hành của Ngân hàng Trung ương Trung
Quốc. Ban đầu, mối quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng được hình thành chủ yếu nhằm
cân đối các nguồn vốn trung và dài hạn. Vào năm 1993, thị trường liên ngân hàng trở nên
hỗn loạn do các doanh nghiệp và tổ chức phi tài chính sử dụng một lượng lớn nguồn vốn
vay (kỳ hạn ngắn) trên thị trường liên ngân hàng để đầu tư vào những tài sản rủi ro trên
thị trường chứng khoán hoặc bất động sản. Bên cạnh đó, giao dịch trên thị trường liên
ngân hàng còn không tuân theo khuôn khổ lãi suất của ngân hàng Trung ương Trung
Quốc (PBC). Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu gây ra lạm phát cao ở Trung
Quốc thời kỳ đó. Do vậy, xây dựng một thị trường liên ngân hàng có sự quản lý của Ngân
hàng Trung ương là mục tiêu quan trọng nhất trong quá trình cải cách thị trường tài
chính. Ngay từ năm 1996, Ngân hàng trung ương Trung Quốc đã đề ra các biện pháp cải
cách:
Thứ nhất, chất lượng của các tổ chức tài chính đã được xếp hạng.
Thứ hai, tất cả các thành viên giao dịch trên thị trường liên ngân hàng phải thực hiện
thông qua hệ thống giao dịch điện tử của Ngân hàng trung ương giúp cho Ngân hàng
Trung ương Trung Quốc nắm bắt kịp thời thông tin về cung cầu vốn khả dụng của hệ
thống ngân hàng.
Thứ ba, Ngân Hàng Trung ương Trung Quốc giới hạn kỳ hạn đáo hạn và số lượng
cho vay, đi vay đối với tất cả các tổ chức tài chính. Theo đó thì đối với các ngân hàng
thương mại thời hạn đáo hạn lớn nhất của các khoản cho vay lẫn nhau trên thị trường liên
ngân hàng là không được vượt quá 4 tháng và số lượng cho vay, đi vay phải dựa trên
khoản mục cân dối tiền gửi. Còn đối với các Tổ chức tài chính phi ngân hàng thì kỳ hạn
đáo hạn ít hơn 7 ngày và số lượng cho vay, đi vay dựa trên khả năng của nguồn vốn.
8
2. Các bộ phận cấu thành thị trường liên ngân hàng Trung Quốc
Thị trường tiền tệ Trung Quốc được hình thành bởi các thị trường cấp dưới sau: Thị
trường liên ngân hàng, thị trường hợp đồng mua lại trái phiếu, thị trường trái phiếu, thị
trường tiền tệ và nghiệp vụ thị trường mở, thị trường tín phiếu). Sự phát triển của các thị
trường cấp dưới này cho thấy sự phát triển của thị trường tiền tệ Trung Quốc.
Từ tháng1/1996: Thị trường liên ngân hàng Trung quốc (được điều hành bởi NIFC)
bao gồm các thị trường bộ phận:
- Thị trường CHIBOR (Thị trường vay- cho vay LNH): Lãi suất liên ngân hàng
Trung Quốc – China Interbank Offered Rate (CHIBOR) là lãi suất thả nổi trên thị
trường tín dụng liên ngân hàng. Tháng 2/2007, Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC)
chính thức cho ra mắt hệ thống lãi suất cho vay liên ngân hàng mới SHIBOR áp dụng
trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng. Theo Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc, đây là kết
quả của những nỗ lực nhằm đẩy mạnh tự do hoá tỷ lệ lãi suất theo hướng thị trường và
củng cố hệ thống lãi suất chuẩn trên thị trường tiền tệ Trung Quốc. SHIBOR được tính
cho tất cả các ngày trong tuần kể cả ngày nghỉ bao gồm 16 kì hạn từ qua đêm cho đến 1
năm. Trong khi đó, CHIBOR chỉ có 7 kì hạn: qua đêm, 7 ngày, 14 ngày, 1tháng, 2 tháng,
3 tháng, 4 tháng. Sự đa dạng về kì hạn này đã tạo ra hàng loạt sản phẩm phái sinh giao
dịch trên thị trường liên ngân hàng từ đó thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân
hàng Trung Quốc.
- Thị trường trái phiếu LNH (Bond market) và thị trường mua lại trái phiếu (Repo
Bon market): Hoạt động repo trái phiếu ở Trung Quốc chính thức bắt đầu từ năm 1991.
Tuy nhiên, giai đoạn từ năm 1991 đến tháng 6/1997 hoạt động này mới chỉ diễn ra trên Sở
giao dịch chứng khoán Thượng Hải. Vào đầu năm 1997, nhằm ngăn chặn nguồn vốn từ các
ngân hàng thương mại chảy vào thị trường chứng khoán quá nhiều, PBC buộc các ngân
hàng thương mại phải rút vốn từ các giao dịch repo trái phiếu trên Sở giao dịch chứng
khoán về thực hiện trên thị trường trái phiếu liên ngân hàng.
- Thị trường ngoại hối liên ngân hàng.
9
3. Các chủ thể tham gia trên thị trường
3.1. Các tổ chức tín dụng
Bộ phận quan trọng các tổ chức tín dụng tham gia thị trường tiền tệ liên
ngân hàng Trung Quốc chính là các ngân hàng thương mại. Hiện nay, có thể nói số lượng
các ngân hàng thương mại của Trung Quốc khá lớn với nhiều hình thức ngân hàng như:
Ngân hàng chính sách (Ngân hàng Phát triển Nông nghiệp Trung Quốc, Ngân hàng phát
triển Trung Quốc, Ngân hàng xuất nhập khẩu Trung Quốc), Ngân hàng thương mại cấp
một: Ngân hàng Trung Quốc, các Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, các Ngân hàng
nông nghiệp của Trung Quốc, và Ngân hàng Công thương Trung Quốc, Ngân hàng
thương mại cấp hai (gồm các ngân hàng thương mại nhỏ hơn), Ngân hàng thương mại
thành phố (chủ yếu được thành lập trên cơ sở hợp tác xã tín dụng đô thị) và Ngân hàng
nước ngoài.
3.2. Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC)
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc thành lập ngày 11 tháng 12 năm 1948 trên cơ sở
hợp nhất các ngân hàng Hoa Bắc, ngân hàng Bắc Hải và ngân hàng nông dân Tây Bắc.
Ngân hàng nhân dân Trung Quốc có quyền kiểm soát chính sách tiền tệ và quản lý các
định chế tài chính, tham gia vào thị trường tiền tệ liên ngân hàng với tư cách là Người
điều tiết thị trường thông qua các công cụ chính sách tiền tệ. Đây cũng là ngân hàng có
lượng tài sản tài chính nhiều hơn bất cứ định chế tài chính công cộng nào trong lịch sử.
3.3. Người môi giới và các trung gian giao dịch
4. Thực trạng hoạt động thị trường liên ngân hàng Trung Quốc
Thị trường cho vay và thị trường repo giữa các TCTD có sự tham gia của Ngân
hàng Nhân dân Trung Quốc và các tổ chức tín dụng trong đó NHTM chiếm phần lớn.
Dòng chảy của nguồn vốn giữa các tổ chức tài chính biểu thị theo các đặc điểm: thứ
nhất, các ngân hàng lớn đóng vai trò là nhà cung cấp quỹ ròng trên cả thị trường repo và
thị trường cho vay liên ngân hàng, và số tiền cho vay ròng của họ tiếp tục tăng. Thứ hai,
các ngân hàng nhỏ và vừa, các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ và các tổ
chức tài chính khác có nhu cầu tài chính ngày càng tăng. Cụ thể là các ngân hàng nhỏ và
10
vừa và các tổ chức tài chính gây quỹ nước ngoài trở thành người đi vay ròng trên thị
trường cho vay liên ngân hàng, chứ không phải là người cho vay ròng trong năm ngoái.
Bảng 4.1: Dòng vốn trong các tổ chức tài chính năm 2012
Đơn vị: 100 triệu nhân dân tệ
RepoCho vay
liên ngân hàng
2012 2011 2012 2011
Ngân hàng lớn tài trợ trong nước -550,748 -289,596 -73,486 -18,514
Ngân hàng vừa và nhỏ tài trợ trong nước 242,558 118,134 5,112 -32,644
Công ty chứng khoán và công ty quản lý quỹ 130,067 66,659 34,889 10,237
Công ty bảo hiểm 53,270 24,926 - -
Tổ chức tài chính tài trợ nước ngoài 20,734 10,079 9,972 -9,571
Tổ chức tài chính khác 104,120 69,798 23,513 13,464
Nguồn: Hệ thống thương mại ngoại hối Trung Quốc CFETS
Lãi suất liên ngân hàng
11
Đồ thị 4.1: Lãi suất qua đêm liên ngân hàng năm 2010-2012
Từ cuồi quý III năm 2010 đến đầu năm 2011, lãi suất SHIBOR biến động liên tục,
có những thời điểm biến động mạnh. Những kì hạn dài như 6 tháng, 9 tháng, 1 năm
SHIBOR có xu hướng tăng. Những kì hạn ngắn hơn thì có xu hướng tăng trong quý IV
năm 2010 và đang giảm dần trong quý I năm 2011. Các biểu đồ dưới đây đều cho thấy
vào thời điểm cuối năm 2010 lãi suất SHIBOR của tất cả các kì hạn đều tăng cao. Chính
phủ Trung Quốc cho biết chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 10 của nước này đã tăng 4,4%
so với cùng kỳ 2009, cao nhất trong vòng 2 năm qua. Con số này cũng cao hơn nhiều so
với dự báo được giới phân tích đưa ra trước đó cũng như mức lạm phát của Trung Quốc
trong thánh 9 (3,6%). Để kiềm chế lạm phát, Chính phủ Trung Quốc đã đưa ra hàng loạt
các giải pháp nhằm kiểm soát giá cả như tăng lãi suất cơ bản, hạn chế tăng trưởng tín
dụng và tăng trưởng nóng,… Như vậy lãi suất SHIBOR trong quý IV năm 2010 chính là
hệ quả của chính sách tiền tệ nước này.
Từ đầu năm 2011, nhìn chung lãi suất thị trường tiền tệ cao hơn trong những năm
trước. Sau khi lãi suất bình quân hàng tháng của trái phiếu cam kết repo và cho vay liên
ngân hàng tương ứng hàng năm đạt mức cao 4,94% và 4,56% vào tháng 6 thì đều sụt
giảm ngay sau đó. Vì một số yếu tố, như khối lượng tiền rút ra trước ngày lễ quốc khánh
và đánh giá hiệu quả cuối cùng theo quý của ngân hàng thương mại, lãi suất đã leo cao
đáng kể vào tháng 9 trên tương quan so sánh với tháng 6 và tháng 8. Tại thời điểm cuối
tháng 9, lãi suất qua đêm, lãi suất Shibor kì hạn 7 ngày, và 3 tháng tương ứng giậm chân
tại 4,8925%; 5,0025%; và 5,6466%, giảm 11; 160 và 75 điểm cơ bản từ cuối tháng 6.
Trong năm 2012, lãi suất trên thị trường tăng vào thời gian chuẩn bị cho Tết Nguyên
đán và giảm ngay sau đó, nhưng nhìn chung lãi suất vẫn ổn định và thấp hơn so với năm
trước. Trong tháng 12, lãi suất vay liên ngân hàng là 2,61%, giảm 72 điểm cơ bản so với
cùng kỳ năm ngoái. Vào cuối năm 2012, lãi suất qua đêm và lãi suất Shibor kì hạn 7 ngày
cố định tương ứng tại mức 3,87% và 4,58%, giảm 113 và 175 điểm cơ bản so với cuối
năm 2011; lãi suất Shibor kì hạn 3 tháng và 1 năm tương ứng là 3,90% và 4,40%, giảm
157 và 84 điểm.
12
So sánh giữa các năm, ta thấy lãi suất liên ngân hàng thể hiện tính mùa vụ của thị
trường liên ngân hàng Trung Quốc, luôn ở mức cao vào các dịp lễ tết Nguyên đán. Lãi
suất ngắn hạn có biên độ dao động lớn hơn so với lãi suất dài hạn chứng tỏ các giao dịch
cho vay, gửi tiền ở các kỳ hạn ngắn chủ yếu đáp ứng nhu cầu thanh khoản của các ngân
hàng.
Doanh số giao dịch trên thị trường liên ngân hàng
Tổng khối lượng giao dịch năm 2010 tăng mạnh so với năm 2009. So với hoạt động
vay mượn, hoạt động repo trái phiếu tỏ ra linh hoạt, an toàn và có lãi suất ổn định hơn. Vì
thế khối lượng giao dịch của hoạt động này trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng cũng lớn
hơn nhiều so với hoạt động vay mượn. Tổng khối lượng giao dịch repo trái phiếu trên thị
trường tiền tệ năm 2010 của Trung Quốc tăng mạnh so với năm 2009 từ 677007.32 triệu
NDT lên 846533.48 triệu NDT tương đương với mức tăng 25.04%.
Ở cả 2 hoạt động, khối lượng giao dịch không phải tăng ở tất cả các kì hạn mà chỉ tăng ở
các kì hạn: qua đêm, 7 ngày, 1 tháng, 2
tháng, 3 tháng, 4 tháng, 6 tháng, 9 tháng.
Các kì hạn còn lại khối lượng giao dịch
giảm 1 lượng nhỏ. Ở hoạt động vay, cho
vay các ngân hàng khác, các kỳ hạn ngắn
được giao dịch với khối lượng lớn. Khối
13
0.48%0.58%
1.82%
87.86%
8.71%
O/N 7ngày 14 ngày 20 ngày 30 ngày 60 ngày 90 ngày
120 ngày 6 tháng 9 tháng 1 năm
Khối lượng giao dịch cho vay các kỳ hạn trên 2010
lượng giao dịch kỳ hạn qua đêm lên đến 244862 trăm triệu nhân dân tệ, chiếm 87,86%
tổng khối lượng giao dịch.
Đầu năm 2011, thị trường tiền tệ liên ngân hàng Trung Quốc có nhiều tín hiệu sụt
giảm so với năm 2010. Thứ nhất, về giao dịch cho vay: trong tháng 1/2011, khối lượng
giao dịch đạt 1.7 nghìn tỷ NDT giảm 36.8% so với tháng trước (12/2010). Trong đó,
giao dịch cho vay qua đêm đã chiếm khối lượng khoảng 1.4 nghìn tỷ NDT. Thứ hai, về
giao dịch repo: khối lượng giao dịch trong tháng 1/2011 đạt 6.9 nghìn tỷ NDT giảm
9.58% so với tháng 12/2010. Như vậy, có thể thấy rằng cùng với sự biến động thường
xuyên của lãi suất thì khối lượng giao dịch trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Trung
Quốc cũng biến động liên tục. Các tác động từ chính sách tiền tệ hay những biến động
của nền kinh tế đều sẽ ảnh hưởng đến lãi suất liên ngân hàng cũng như khối lượng giao
dịch trên thị trường này.
Giao dịch repo và giao dịch cho vay liên ngân hàng trên thị trường phát triển mạnh
và khối lượng giao dịch tăng. Trong 3 quý đầu năm 2011, doanh thu của trái phiếu repo
đạt tổng cộng là 71,8 nghìn tỷ nhân dân tệ, với doanh thu trung bình ngày là 384,2 tỷ
nhân dân tệ, tăng 11,1% so với cùng kỳ. Doanh thu của giao dịch cho vay liên ngân hàng
đạt mức 23,9 nghìn tỷ nhân dân tệ, với doanh thu trung bình ngày là 127,6 tỷ nhân dân tệ,
tăng 18,4% so với cùng kỳ. Thị trường giao dịch vẫn tập trung vào các giao dịch qua
đêm, với trái phiếu repo qua đêm và giao dịch liên ngân hàng tương ứng chiếm 75,5% và
84,2% tổng doanh số, giảm 4,5 và 3,5 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng
doanh số của hoạt động mua lại chứng khoán chính phủ tăng trên thị trường chứng khoán
tăng vọt lên 202,2% so với năm trước đạt tới 13,6 tỷ nhân dân tệ.
Trong năm 2012, doanh số của các hợp đồng mua trái phiếu trên thị trường trái
phiếu liên ngân hàng đạt 141,7 nghìn tỷ nhân dân tệ, với doanh số trung bình hàng ngày
569,1 tỷ nhân dân tệ, tăng 43,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Doanh thu của các khoản
vay liên ngân hàng đạt 46,7 nghìn tỷ nhân dân tệ, với doanh thu trung bình hàng ngày đạt
187,6 tỷ nhân dân tệ, tăng 40,2% so với cùng kỳ. Kỳ hạn qua đêm chiếm tới 80,7% -
86,3% doanh số tương ứng trên thị trương repo và thị trường cho vay liên ngân hàng,
tăng 5,9 và 4,6 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm ngoái.
14
Giấy tờ có giá được giao dịch trên thị trưởng liên ngân hàng Trung Quốc ngày càng
đa dạng. Nhiều loại chứng khoán phái sinh như: hợp đồng hoán đổi lãi suất, hợp đồng lãi
suất kì hạn, các sản phẩm quản lý lợi nhuận tài chính,… bắt đầu được sử dụng trong thời
gian gần đây. Khối lượng giao dịch các loại chứng khoán này tăng nhanh chóng qua các
năm, nhất là giao dịch hoán đổi lãi suất.
Bảng 4.2: Khối lượng giao dịch phái sinh, 2006-2012
Nguồn: Hệ thống thương mại ngoại hối Trung Quốc
II. Thị trường liên ngân hàng Nhật Bản
1. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường liên ngân hàng Nhật Bản
Trước chiến tranh thế giới thứ 2, thị trường tiền tệ liên ngân hànglà thị trường
duy nhất có thể tồn tại và đáng lưu ý trong thời kì này. Thực chất đây là thị trường các
ngân hàng vay mượn, gửi tiền lẫn nhau. Thị trường này được thành lập bởi những nhà
ngân hàng tiên phong, khi mà chính phủ cố gắng giảm sự phụ thuộc của các ngân hàng
vào việc vay từ Ngân Hàng Trung Ương Nhật.
Từ sau sau chiến tranh thế giới thứ 2, hai cơ quan chức năng nắm vai trò điều
hành trên thị trường tiền tệ Nhật Bản là Bộ tài chính và Ngân hàng trung ương Nhật Bản
(BOJ). Lãi trên thị trường đã được điều chỉnh theo kiểu hành chính dựa trên những số
liệu suất của các nước khác trên thế giới mà không tuân theo luật cung cầu trong nước.
Trong giai đoạn này thị trường tiền tệ Nhật Bản hoạt động gặp rất nhiều hạn chế. Chỉ có
thị trường tiền tệ liên ngân hàng là phát triển tốt. Hoạt động này chỉ giới hạn trong giao
15
dịch giữa các tổ chức tài chính. Lãi
suất trên thị trường này tương đối là
lỏng so với hầu hết các loại lãi suất
ngắn hạn và dài hạn khác.
Năm 1985, thị trường liên
ngân hàng chiếm 68% thị trường tiền
tệ còn 32 % của thị trường mở.
Đến năm 1989, thị trường mở
chiếm tỷ trọng lớn hơn 54% so 46%
của thị trường liên ngân hàng
Giao dịch repo, bắt đầu từ năm
1996, đã trở thành nòng cốt trong thị trường tiền tệ.
Thị trường liên ngân hàng, thị trường đã từng nắm giữ vị trí chủ đạo, thì lại thu hẹp
một chút. Nguyên nhân chính của sự thay đổi này là sự suy giảm lan rộng của kinh tế
trong nước.
2. Các bộ phận cấu thành thị trường liên ngân hàng Nhật Bản
2.1. Thị trường vay mượn tiền tệ (Call Market):
Có 2 loại giao dịch trên Call Market: có đảm bảo và không có đảm bảo. Các hối
phiếu, các khoản nợ ngắn hạn của chính phủ và các loại chứng khoán khác được chấp
nhận là vật đảm bảo trong các giao dịch có đảm bảo. Các giao dịch có kỳ hạn trong nửa
ngày làm việc được gọi là các “giao dịch nửa ngày” (half-day call transaction). Các giao
dịch có kỳ hạn đến ngày làm việc tiếp theo được gọi là giao dịch qua đêm (overnight call
transaction), và các giao dịch có ngày đáo hạn dài hơn qua đêm được gọi là giao dich kì
hạn (term call transaction). Các giao dịch trên được thực hiện chủ yếu bởi các công ty tư
bản “tanshi”. Việc thanh toán được thực hiện hoặc vào ngày ghi trên hợp đồng hoặc vào
các ngày sau đó. Các giao dịch được thanh toán vào ngày ghi trên hợp đồng được gọi là
các giao dịch “cùng ngày” (same-day-start transaction) đối với các giao dịch có đảm bảo,
16
Khối lượng giao dịch của các thị trường giai đoạn 1980 - 1988
và giao dịch tiền mặt (cash transaction) đối với các giao dịch không có đảm bảo. Chủ yếu
các giao dịch là qua đêm, chịu ảnh hưởng mạnh bởi việc tổ chức thị trường tiền tệ của
NHTW Nhật Bản.
2.2 Thị trường mua, bán chi phiếu (general collateral (GC) repo)
là việc thực hiện mua, bán các chứng từ có giá của các ngân hàng với nhau, ngân hàng
cho vay bằng cách mua chi phiếu của ngân hàng đi vay.
Đồ thị2.1: Dòng vốn giữa thị trường vay mượn có bảo đảm và thị trường thu mua chi phiếu
3. Các chủ thể tham gia
Theo ước tính, có khoảng 500 ngân hàng và công ty tham gia vào thị trường liên ngân
hàng, bao gồm:
Ngân hàng trung ương Nhật Bản
Các ngân hàng trong nước được cấp phép:
Ngân hàng thành phố: Ngân hàng Mizuho, ngân hàng Tokyo-Mitsubishi
UFJ, Sumitomo Mitsui Banking Corporation, Ngân hàng Resona, Mizuho Corporate
Bank, Saitama Ngân hàng Resona.
Các ngân hàng khu vực: Các ngân hàng thành viên của Hiệp hội các ngân
hàng khu vực.
17
Các ngân hàng khu vực II: các ngân hàng thành viên của Hiệp hội thứ hai
của các ngân hàng khu vực.
Ngân hàng tín thác: là các quỹ tín thác có thêm hoạt động kinh doanh ngân
hàng thông thường.
Các ngân hàng nước ngoài tại Nhật Bản
Các nhà đầu tư có tổ chức như các công ty đầu tư tín thác,công ty bảo hiểm
nhân thọ
Công ty tư bản ngắn hạn (Tanshi) là tổ chức trung gian huy động vốn ngắn hạn của các
thành viên sau đó sử dụng vốn đó cho các thành viên có nhu cầu vay vốn. Công ty tư bản
ngắn hạn thực chất là công ty môi giới. Công ty này do Bộ Tài chính chỉ định, chịu sự
giám sát và chỉ đạo của Bộ Tài chính và NHTW Nhật Bản. Công ty tư bản ngắn hạn hoạt
động với 2 chức năng:
Thực hiện môi giới, kết nối các thông tin nhận được do các thành viên cung cấp.
Là người đi vay với các ngân hàng thừa vốn, người cho vay ngân hàng thiếu vốn.
Hiện nay ở Nhật Bản đang có 6 công ty tư bản ngắn hạn hoạt động làm trung gian chuyển
vốn trong thị trường tiền tệ liên ngân hàng.
4. Thực trạng hoạt động thị trường liên ngân hàng Nhật Bản
4.1. Hoạt động vay mượn tiền tệ
4.1.1. Lãi suất liên ngân hàng
Ngân hàng Nhật Bản (BOJ) theo đuổi chính sách tiền tệ nới lỏng suốt những
năm đầu của thập kỷ 2000, giữ lãi suất cho vay ở mức 0%. Nhật Bản thậm chí thả lỏng
chính sách tiền tệ hơn nữa khi BOJ thực hiện chính sách nới lỏng cho vay cả về khối
lượng, khiến cho hệ thống tài chính tràn ngập tiền mặt, với hy vọng phục hồi tốc độ tăng
tín dụng và nhu cầu của tư nhân trong nước. Môi trường kinh tế thay đổi nhanh chóng
cũng xóa nhòa những nguy cơ tiềm ẩn của chính sách tiền tệ tự do của BOJ. Bức tranh
lạc quan này càng khuyến khích BOJ kéo dài chính sách thả lỏng tiền tệ.
18
Năm 2010, do nguồn quỹ dồi dào, lãi suất vay mượn qua đêm dao động quanh
mức 0.1%, đứng tại mốc 0.096% vào cuối tháng 6 và 0.113% cuối tháng 9.
Tháng 5/2010, BOJ tiếp tục nới lỏng chính sách tiền tệ, hướng lãi suất vay mượn
qua đêm không có bảo đảm thay đổi trong khoảng từ 0%-0.1% thay vì dao động quanh
0.1% như trước đây. BOJ quy định lãi suất tiền gửi tại ngân hàng trung ương
(complementary deposit facility) bằng 0.1%. Đây được coi là mức lãi sàn (floor) vì khi
vay mượn với mức lãi suất trong khoảng 0% - 0.1%, các tổ chức tài chính có thể đem số
vốn đó gửi vào tài khoản tại BOJ và kiếm lợi nhuận. Công cụ này giúp duy trì chức năng
của thị trường tiền tệ dù lượng tiền trong nền kinh tế đã dư thừa.
Tháng 12, lãi suất vay mượn qua đêm vẫn theo xu hướng giảm, có ngày đã xuống
mốc 0.07% .
Trong năm tài khóa 2011, Ngân hàng tiếp tục theo đuổi chính sách nới lỏng tiền tệ
mạnh mẽ bằng cách duy trì chính sách lãi suất gần như bằng không và liên tục tăng số
tiền qua chương trình mua tài sản trên một quy mô đáng kể từ khoảng 40 đến 65 nghìn tỷ
yên.
11/3/2011, động đất và sóng thần xảy ra ở Nhật Bản đã gây ảnh hưởng to lớn đến
nền kinh tế. Những người cho vay bán tháo chứng khoán, các khoản vay... khiến giá
chứng khoán nhanh chóng giảm xuống, lãi suất nói chung và lãi suất vay mượn qua đêm
19
Đồ thị 4.1 :Diễn biến lãi suất vay mượn không có bảo đảm và lãi suất repo
nói riêng đều tăng. Dự đoán trước được tình hình này, ngay ngày 14/3, BOJ đã 3 lần bơm
ra nền kinh tế tổng cộng 21.8 nghìn tỷ yên. Lãi suất vay mượn qua đêm nhờ đó đã giảm
về dưới 0.1%.
4.1.2. Doanh số giao dịch
Đồ thị 4.2 Khối lượng giao dịch vay mượn liên ngân hàng thông qua công ty tư bản “tanshi”
Số lượng giao dịch trên thị trường nhìn chung ở mức thấp. Điều này cho thấy tại
các ngân hàng có nguồn vốn dự trữ dồi dào và không cần vay mượn liên ngân hàng để bù
đắp thanh khoản. Tỷ trọng các khoản vay mượn có bảo đảm ngày càng tăng.
Đồ thị 4.3: Khối lượng giao dịch vay mượn tiền tệ không có bảo đảm
Khối lượng giao dịch không có bảo đảm được thực hiện qua công ty tư bản
“tanshi” năm 2011 duy trì quanh mức 3-5 nghìn tỷ yên. Cũng giống như năm 2010, chủ
20
thể cho vay chính là các ngân hàng tín thác (chủ yếu là các quý tương hỗ) và công ty bảo
hiểm nhân thọ với lãi suất cho vay nhỏ hơn 0.1%. Trong số các chủ thể đi vay chính,
ngân hàng thành phố và ngân hàng khu vực chiếm tỷ lệ đáng kể.
Đồ thị4.4 : Khối lượng giao dịch vay mượn tiền tệ có bảo đảm
Trong khi đó, khối lượng giao dịch có bảo đảm năm 2011 tăng, trong năm khối
lượng giao dịch có nhiều biến động. Bên đi vay, ta thấy sự tăng lên của khối lượng giao
dịch được thực hiện bởi công tư tư bản “tanshi”, trong khi đó các ngân hàng và công ty
chứng khoán lại đi vay ít đi trên thị trường vay mượn có bảo đảm. Với bên cho vay, các
ngân hàng tín thác luôn chiếm tỷ trọng lớn trong số các tổ chức tín dụng cho vay. Trong
năm 2011, ngân hàng tín thác và các ngân hàng khu vực đều tăng khối lượng tiền cho
vay.
4.2 Hoạt động mua bán chi phiếu
Lãi suất vay mượn không có đảm bảo thường nhỏ hơn lãi suất repo. Tuy nhiên khi
cộng các khoản chi phí khác như phí môi giới thì có thể lớn hơn, nhỏ hơn, hoặc tương
đương. Lãi suất repo được đẩy lên quanh ngưỡng 0.13% giữa tháng 11 năm 2010 khi các
ngân hàng bán trái phiếu chính phủ (JGBs). Điều này dẫn đến tồn 1 lượng chứng khoán
21
lớn tại các công ty chứng khoán khiến giá chứng khoán giảm, đẩy lãi suất trong đó có lãi
suất repo GC tăng lên. Tuy nhiên từ cuối tháng 11, áp lực tăng đã rút bớt. Sang tháng 12,
lãi suất GC nằm trong khoảng 0.1%-0.11%. Tháng 4/2011, lãi suất repo GC cũng giảm
sâu xuống dưới 0.1% do cung tiền tăng lên sau thảm họa động đất.
5. Đánh giá thị trường liên ngân hàng Nhật Bản
Thứ nhất, quy mô giao dịch lớn, tuy đã giảm nhiều so với giai đoạn trước những vẫn
đóng vai trò quan trọng với các ngân hàng cũng như nền kinh tế.
Thứ hai, áp dụng 2 phương thức giao dich: Trực tiếp giữa các ngân hàng và gián tiếp
thông qua môi giới là các công ty tư bản ngắn hạn “tanshi”.
Thứ ba, quan hệ tín dụng giữa các ngân hàng có thể được đảm bảo, cũng có thể
không cần đảm bảo. Hiện nay, vay và cho vay có đảm bảo đang có xu hướng tăng.
Thứ tư, cơ chế điều hoà vốn thị trường, có sự điều tiết của NHTW.
III. Thị trường liên ngân hàng Việt Nam
1. Quá trình phát triển của thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam
1.1. Giai đoạn 1992-1998
Ngày 7/10/1992 Chỉ thị số 07/CT- NH do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban
hành đã xác nhận và xác lập quan hệ cho vay và đi vay giữa các tổ chức tín dụng
(TCTD). Có thể nói đây là văn bản pháp lý đầu tiên cho phép TTLNH tồn tại và phát
triển ở Việt Nam tuy nhiên chỉ đề cập đến quan hệ cho vay/ đi vay mà chưa đề cập tới
quan hệ gửi tiền/ nhận tiền gửi, vay vốn giữa các TCTD phải có tài sản đảm bảo cũng
gây trở và chưa phù hợp với hoạt động của TTLNH và vốn cho vay chỉ được thực hiện
bằng Việt Nam đồng”
Để thúc đẩy giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, ngày 21/6/1993, Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên
ngân hàng kèm theo Quyết định số 114/QĐ-NH14. Theo quy chế này thì hàng tuần các
TCTD là thành viên của TTLNH do NHNN tổ chức cùng gặp nhau tại NHNN để đưa ra
nhu cầu vay/ cho vay của mình trên thị trường, từ đó, hình thành nên khối lượng giao
22
dịch và lãi suất giao dịch. Điều này tạo cơ hội cho các TCTD hiểu biết lẫn nhau, đồng
thời còn được sự hỗ trợ của NHNN với vai trò người cho vay cuối cùng khi cần thiết.
Tuy nhiên giao dịch theo hình thức này chỉ họp 1 tuần 1 phiên nên không đáp ứng được
nhu cầu phát sinh hàng ngày của các TCTD.
Khắc phục những tồn tại này ngày 6/10/1993, Thống đốc NHNN ban hành Quyết
định số 190/QĐ- NH14 về việc sửa đổi, bổ sung một số Điều trong Quyết định số
114/QĐ- NH14. Điểm sửa đổi quan trọng là chuyển từ hình thức giao dịch (1tuần 1
phiên) tại trung tâm thị trường sang giao dịch trực tiếp với nhau vào tất cả các ngày
trong tuần với trung tâm thị trường bằng điện thoại, fax. Các thành viên có thể trao đổi
trực tiếp với nhau để thỏa thuận các điều kiện của khoản vay hoặc có thể giao dịch bằng
điện thoại với trung tâm giao dịch để trung tâm “kết nối” giữa thành viên có nhu cầu
cho vay và đi vay lại với nhau, sau đó các thành viên sẽ tự thỏa thuận các điều kiện của
khoản vay với nhau.
Cùng ngày 6/10/1993, NHNN đã ban hành Quy chế bảo lãnh vay vốn trên thị
trường liên ngân hàng, kèm theo Quyết định số 189/QĐ- NH14 của Thống đốc NHNN.
Theo quy chế này thì các giao dịch cho vay/ đi vay lẫn nhau giữa các TCTD chưa có sự
“tin tưởng” lẫn nhau có thể được NHNN xem xét bảo lãnh. Sự ra đời của Quyết định số
189/QĐ- NH14 thực sự đã thúc đẩy các giao dịch trên thị trường liên ngân hàng, đặc
biệt là các giao dịch vốn bằng ngoại tệ.
Trong thời kỳ này, thị trường liên ngân hàng có 1 số đặc điểm sau:
Các giao dịch được thực hiện thông qua NHNN, NHNN vừa là người tổ chức, vừa
là thành viên của thị trường.
Lãi suất có hai loại: một do Thống đốc NHNN chỉ định, một do sự thỏa thuận của
các TCTD.
Các giao dịch thường dựa trên cơ sở tín chấp giữa các NHTM quốc doanh.
Khi nhìn nhận tổng quát thì hoạt động của thị trường liên ngân hàng trong giai đoạn này
có một số thành tựu sau:
NHNN đã đảm nhiệm được vai trò trung gian trên thị trường liên ngân hàng, tạo
điều kiện cho các TCTD có điều kiện tìm hiểu và tin tưởng lẫn nhau.
23
NHNN đã kịp thời thay đổi các cơ sở pháp lý phù hợp với thị trường.
Tuy nhiên hoạt động của TTLNH vẫn còn kém hiệu quả, manh mún, các thành viên
chưa thực sự tin tưởng nhau và thị trường chưa thực sự sôi động còn mang tính tập dượt
là chủ yếu.
1.2. Giai đoạn 1998 đến nay
Trong giai đoạn này môi trường pháp lý cho hoạt động liên ngân hàng đã được
cải thiện rõ rệt. Ngày 15/10/2001, NHNN ban hành Quy chế về cho vay lẫn nhau giữa các
TCTD kèm theo Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN của Thống đốc NHNN. Theo đó
các tổ chức cho vay/đi vay có thể thỏa thuận mức vay, lãi suất, thời hạn, điều kiện cho
vay.
Tuy nhiên, khủng hoảng tài chính Mỹ đã khiến TTLNH xuất hiện rất nhiều bất
cập, nguồn vốn của xã hội không được chảy về đúng nơi thiếu vốn (nền kinh tế) mà luẩn
quẩn trong hệ thống các TCTD với nhau. Đáng lẽ, ngân hàng là trung gian tài chính phân
bổ nguồn vốn từ tiết kiệm đến đầu tư và tín dụng phải đi vào sản xuất để tạo nhiều hơn
của cải và giải quyết việc làm. Nhưng thực tế lại khác, chính việc làm này của các
NHTM đã làm lãi suất cho vay liên ngân hàng có thời điểm bị đẩy lên 43%năm (năm
2008) kéo theo lãi suất huy vốn trên thị trường 1 (thị trường dân cư) cũng cao theo, cuộc
đua lãi suất diễn ra ngày một mạnh, gây ảnh hưởng xấu đến toàn bộ nền kinh tế. Đến
tháng 6 năm 2012 NHNN chính thức ban hành Thông tư số 21/2012/TT-NHNN quy định
về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn GTCG giữa các TCTD, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài. Tiếp đó đến đầu tháng 01/2013, NHNN tiếp tục ban hành Thông tư số
01/2013/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 21. Thông tư 01 đã nới
lỏng quy định về hoạt động nhận và gửi tiền của TCTD hơn so với Thông tư 21, cụ thể đã
bổ sung quy định TCTD được thực hiện các hoạt động gửi tiền, nhận tiền gửi thanh toán
và các giao dịch gửi tiền, nhận tiền gửi có kỳ hạn tối đa là 3 tháng tại các TCTD khác.
Đây chính là bước thay đổi tạo điều kiện cho TTLNH có nhiều điều kiện phát triển hơn.
Như vậy, TTLNH trong giai đoạn này có những đặc điểm sau:
Cách thức giao dịch liên ngân hàng trong giai đoạn này rất đa dạng và phù hợp, cụ
thể là các TCTD có thể mở tài khoản tiền gửi lẫn nhau, khi có nhu cầu vay/ đi vay thì các
24
bên có thể thỏa thuận (qua điện thoại hoặc mạng vi tính), nhờ đó giảm được chi phí giao
dịch. Ngoài ra các TCTD còn có thể thực hiện chuyển giao vốn thông qua mua, bán
GTCG với nhau.
Thời hạn của các giao dịch liên ngân hàng cũng phong phú và linh động hơn. Thời
hạn giao dịch có thể là qua đêm, 3 ngày, 1 tuần, 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 12 tháng
Đây là bước phát triển rất phù hợp với tiến trình hội nhập và phát triển của nền kinh
tế nói chung và thị trường tiền tệ nói riêng.
2. Các bộ phận cấu thành thị trường liên ngân hàng Việt Nam
Tính đến hiện tại thì thị trường tiền tệ Việt Nam được phân chia thành 4 thị trường,
bao gồm:
Thị trường cho vay, gửi tiền giữa các TCTD;
Thị trường mua, bán có kỳ hạn giấy tờ có giá (GTCG) giữa các TCTD với
NHNN;
Thị trường mua bán có kỳ hạn GTCG giữa các TCTD;
Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng.
Các chủ thể tham gia trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng Việt Nam gồm có hai chủ
thể chính là NHNN và các TCTD.
Hàng hóa trên TTLNH, về bản chất đó chính là các khoản dự trữ dư thừa thể hiện trên
số dư tài khoản tiền gửi của các TCTD tại NHNN, có thể cả nội tệ và ngoại tệ. Xét trên
từng thị trường thành phần cụ thể thì có một số quy định và đặc điểm riêng biệt, như trên
thị trường mua bán các GTCG, thì các GTCG được phép mua, bán là : Tín phiếu Ngân
hàng Nhà nước; Trái phiếu Chính phủ; Trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh; Trái phiếu
Chính quyền địa phương; Giấy tờ có giá do các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài phát hành (bao gồm cả giấy tờ có giá do chính tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài đó phát hành) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước; các loại tín
phiếu, kỳ phiếu, trái phiếu do tổ chức khác phát hành.
3. Thực trạng hoạt động thị trường liên ngân hàng Việt Nam
3.1 Thị trường cho vay và gửi tiền (giữa các TCTD với nhau và với NHTW)
25
3.1.1 Lãi suất liên ngân hàng
0
5
10
15
20
25
Tháng
1/2
011
Tháng
2/2
011
Tháng
3/2
011
Tháng
4/2
011
Tháng
5/2
011
Tháng
6/2
011
Tháng
7/2
011
Tháng
8/2
011
Tháng
9/2
011
Tháng
10/
2011
Tháng
11/
2011
Tháng
12/
2011
Tháng
1/2
012
Tháng
2/2
012
Tháng
3/2
012
Tháng
4/2
012
Tháng
5/2
012
Tháng
6/2
012
Tháng
7/2
012
Tháng
8/2
012
O/N
1W
1M
3M
6M
12M
Đồ thị3.1 : Lãi suất liên ngân hàng các kỳ hạn 2011-2012
Lãi suất trên thị trường LNH có những thay đổi lớn, liên tục do NHNN điều chỉnh cặp
LS chỉ đạo nhằm thực hiện các mục tiêu CSTT của NHNN. Như trong năm 2008, cầu về
vốn của các TCTD tăng cao đã gây nên một cuộc chạy đua lãi suất trên thị trường LNH,
đẩy lãi suất BQ LNH lên rất cao, NHNN đã phải từng bước giảm LSTCK và LSTCV
nhằm tạo thêm VLD cho các TCTD có thể bù đắp khả năng thanh toán và cung cấp vốn
cho nền kinh tế. Hay khi nền kinh tế rơi vào khủng hoảng (2009-2010), lạm phát ở mức
quá cao, để kiềm chế lạm phát, NHNN thực thi chính sách tiền tệ thắt chặt, liên tục nâng
LSTCK, LSTCV (LSTCK từ 6% (cuối 2009) lên 13% (năm 2010), LSTCV từ 8% (cuối
2009) lên 15% (năm 2010). Vào năm 2012, NHNN 6 lần hạ trần lãi suất. LSTCK,
LSTCV cũng giảm xuống kéo theo xu hướng giảm của lãi suất liên ngân hàng.
Lãi suất trên thị trường LNH cũng biến động theo mùa vụ, ví dụ như vào những tháng
cuối năm, giáp Tết nguyên đán, nhu cầu VLĐ của các TCTD tăng cao, đẩy lãi suất trên
thị trường LNH tăng theo.
26
%
Lãi suất kỳ hạn ngắn thường có biên độ dao động lớn hơn so với lãi suất các kỳ hạn
dài chứng tỏ các giao dịch cho vay, gửi tiền LNH chủ yếu để bù đắp thanh khoản bị thiếu
hụt.
Doanh số giao dịch
Trên thị trường này, có sự tham gia của cả NHTW và các trên 100 TCTD (trong đó
NHTM chiếm trên 90%). Các TCTD xác định hạn mức tín dụng cho đối tác (dựa trên
mức độ tín nhiệm, quy mô…). Các giao dịch vay, nhận tiền gửi trong phạm vi hạn mức
tín dụng thì ko phải thế chấp, ngoài hạn mức thì thường phải có thế chấp bằng GTCG
hoặc ký quỹ.
Thời hạn cho vay, gửi tiền phổ biến là dưới 3 tháng, chủ yếu là thời hạn dưới 1 tháng
(chiếm trên 80% tổng doanh số giao dịch, giao dịch qua đêm khoảng 40 – 50% tổng
doanh số giao dịch).
Đồ thị3.2: Doanh số giao dịch kỳ hạn dưới 1 tháng năm 2012
Hình thức giao dịch chủ yếu là gửi và nhận tiền gửi (khoảng 80-90% tổng doanh số giao
dịch hàng tháng của các TCTD), mang tính mùa vụ cao, đặc biệt vào cuối năm. Doanh số
giao dịch bình quân tháng tăng với tốc độ khá nhanh và ổn định cho thấy một sự tăng
trưởng khá ổn định của thị trường cho vay và nhận tiền gửi liên ngân hàng, và rộng hơn
là thị trường tiền tệ Việt Nam. Có được điều này cũng nhờ chính sách điều hành khá linh
hoạt của NHNN
27
Trong giai đoạn 2009 – 2011, nhu cầu thanh khoản đã khiến lãi suất trên thị
trường LNH có lúc đã vọt lên 30% cho kỳ hạn 1 tháng. Để ngân hàng tránh bị thua thiệt
lãi suất tín dụng cho vay ra cho đối với nền kinh tế (doanh nghiệp, cá nhân) cũng bị đẩy
lên cao hơn. Các DN không thanh toán được nợ làm phát sinh nợ xấu, vốn bị ứ đọng
trong các khoản nợ này làm phát sinh nhu cầu lớn về VKD, và dẫn đến một cuộc chạy
đua lãi suất trên TTLNH.
Năm 2009 2010 2011 2012 04 tháng 2013
Tháng 1 206,238 309,998 501,055 562,340 247,022
Tháng 2 254,617 227,825 377,518 665,063 166,977
Tháng 3 281,914 355,343 528,917 777,123 352,558
Tháng 4 220,437 349,317 470,084 565,148 338,920
Tháng 5 281,084 352,963 402,512 519,021
Tháng 6 281,084 453,386 565,677 508,420
Tháng 7 299,774 438,846 636,743 534,585
Tháng 8 258,254 428,347 540,926 498,428
Tháng 9 293,222 377,245 477,253 277,980
Tháng 10 314,020 525,645 702,269 290,287
Tháng 11 362,983 549,923 740,965 227,768
Tháng 12 493,130 667,627 952,487 276,168
Tổng 3538,867 5,036,465 6,896,406 5,702,331 1,105,477
BQ tháng 294,906 419,705 574,701 475,194 276,369
Bảng3.1: Khối lượng giao dịch cho vay, gửi tiền 2009-2011
Trong điều kiện nền kinh tế khó khăn nhưng LS tiền gửi cao, nảy sinh nguy cơ các
TCTD cho nhau vay để kiếm lời thay vì cung cấp vốn cho nền kinh tế. Do đó thông tư
21/2012/TT-NHNN được ban hành, theo đó, cấm các TCTD gửi và nhận tiền giử của
nhau trừ khi tiền đó phục vụ mục đích thanh toán. Với quy định mới này, thị trường liên
ngân hàng (LNH) ít nhiều bị ảnh hưởng khi hoạt động gửi tiền lẫn nhau mang lại nhiều
lợi ích cho các bên chính thức bị cấm cửa. Nhiều TCTD dư thừa vốn cũng không thể sử
28
dụng vốn để kinh doanh, trong khi một số TCTD yếu kém không thể bổ sung thanh
khoản bằng hình thức nhận tiền gửi trong điều kiện không đáp ứng được các yêu cầu vay
vốn. Chính vì vậy, chỉ trong vòng 3 tháng cuối năm 2012, nhiều TCTD yếu kém lộ rõ
thực chất quá trình hoạt động đã phải cầu cứu hỗ trợ của NHNN qua thị trường OMO.
Đồ thị3.3: Doanh số giao dịch LNH sau Thông tư 21 (nguồn số liệu NHNN)
Thông tư 21 đã đem lại nhiều kết quả tích cực, tuy nhiên, do việc cấm gửi và nhận
tiền gửi giữa các TCTD đã ảnh hưởng nhiều đến lợi ích của các TCTD khiến cho các
TCTD tìm nhiều cách lách luật để có thể tiếp tục gửi tiền lẫn nhau.
Sau 4 tháng thực hiện thông tư 21, theo đánh giá thị trường LNH đã trở lại quỹ đạo và
nằm trong tầm kiểm soát của NHNN, NHNN đã nhanh chóng ban hành TT 01/2013 cho
phép các TCTD, chi nhánh NH nước ngoài được thực hiện các hoạt động gửi tiền và nhận
tiền gửi có kỳ hạn tối đa 3 tháng tại các TCTD, chi nhánh NH nước ngoài khác” nhờ đó
các TCTD có thểm một nguồn để tìm kiếm lợi nhuận từ các khoản ngân quỹ dư thừa.
3.2. Thị trường mua bán giấy tờ có giá giữa NHTW và các TCTD (OMO)
Nhờ tính linh hoạt, tác động nhanh chóng, chính xác, có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ
nào và có thể sửa chữa nếu như thị trường chuyển biến không như dự tính… công cụ
OMO được NHNN VN sử dụng thường xuyên để điều hành chính sách tiền tệ. Thị
trường mở ngày càng phát triển, mở rộng về số lượng các thành viên đủ điều kiện tham
gia thị trường, khối lượng giao dịch, hình thức giao dịch cũng ngày càng hiện đại, chuyên
nghiệp. Hình thức giao dịch phát triển từ giao dịch tập trung khi mới thành lập lên giao
29
dịch qua phần mềm giao dịch AFD. Quy trình thanh toán cũng được rút ngắn, đến nay đã
có thể thanh toán ngay trong ngày.
Với sự phát triển của TTTT, giao dịch song phương trên OMO ngày nay hầu như
không còn được sử dụng. NHNN chủ yếu sử dụng hình thức đấu thầu để tăng tính cạnh
tranh trên thị trường.
Qua bảng trên, có thể thấy thị trường mở hoạt động khá sôi động với khối lượng đặt
thầu luôn lớn hơn khối lượng dự kiến rất nhiều. Đặc biệt trong các giai đoạn hệ thống
ngân hàng thiếu hụt VLĐ nghiêm trọng như những năm 2008, 2009 (KL đặt thầu thậm
chí gấp gần 3 lần khối lượng dự kiến). NHNN chủ yếu thực hiện các giao dịch nhằm
cung ứng VLĐ cho TCTD, các phiên giao dịch hấp thụ vốn dư thừa chiếm tỉ trọng nhỏ.
Điều này xuất phát từ thực tế của hệ thống NH là thường xuyên thiếu hụt vốn để đáp ứng
nhu cầu tín dụng và thanh toán của nền kinh tế.
3.3. Thị trường mua bán giấy tờ có giá giữa các TCTD
Bảng 3.2: Khối lượng giao dịch trên thị trường mở
30
Giao dịch mua bán giấy tờ có giá giữa các TCTD được thực hiện theo phương thức tự
thỏa thuận hoặc giao dịch trên Sở GDCK Hà Nội (HNX).
Các GTCG tham gia giao dịch phải được lưu ký tại Trung tâm lưu ký chứng khoán
(VSD) hoặc tại một công ty chứng khoán là thành viên lưu ký của VSD.
Tại HNX, giao dịch repo trái phiếu được tách bạch với giao dịch mua bán hẳn. theo
khảo sát của chuyên gia ADB (4/2009), phần lớn các giao dịch có kỳ hạn GTCG tại VN
là các giao dịch bán/mua lại chứ chưa phải là giao dịch repo.
3.4. Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng
Hiện có khoảng 65 TCTD là thành viên của thị trường. Các giao dịch được thực hiện
qua trang giao dịch điện tử do Reuters cung cấp. các thông tin giao dịch trên Reuters
không cung cấp thông tin giao dịch của khách hàng cho NHNN do yêu cầu bảo mật đối
với khách hàng. Do vậy, NHNN có thể đánh giá cân bằng cung cầu ngoại tệ thông qua tỷ
giá trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng và cả trên thị trường tự do để có biện pháp can
thiệp nhằm ổn định tỷ giá hay thực hiện các mục tiêu kinh tế đã đặt ra.
Vào ngày 11/2/2011 NHNN điều chỉnh tỷ giá BQ LNH từ 18.932 lên 20.693 (tăng
9,3%) do sự chênh lệch quá lớn giữa thị trường LNH và thị trường tự do. Sau đó, cũng
trong năm 2011, NHNN đã nhiều lần điều chỉnh tỷ giá nhưng biên độ ko quá 1% để đảm
bảo ổn định tỷ giá. Sang năm 2012, lần đầu tiên sau 20 năm, Việt Nam xuất siêu 284 triệu
USD đã cung cấp nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào cho NHNN để tiến hành can thiệp vào
thị trường ngoại tệ, nhờ vậy, tỷ giá USD/VND năm 2012 - 2013 đang được giữ rất ổn
định, chênh lệch giữa tỷ giá trên thị trường tự do và thị trường liên ngân hàng cũng ko
lớn.
4. Một số tồn tại và nguyên nhân
Một là, TTLNH Việt Nam còn phát triển ở trình độ thấp so với khu vực và thế giới, bị
phân khúc, manh mún, chia nhóm. Các giao dịch trên TTLNH, nhất là giao dịch repo
chưa thực sự sôi động; việc theo dõi, xử lý thông tin TTLNH còn nhiều bất cập, ảnh
hưởng không nhỏ đến thực hiện chức năng giám sát TTLNH và điều hành CSTT của
31
NHNN. Bên cạnh đó, hoạt động của TTLNH Việt Nam mang tính chuyên nghiệp chưa
cao. Các TCTD tham gia thị trường chủ yếu nhằm mục đích bảo đảm tính thanh khoản,
chưa quan tâm nhiều đến nhu cầu kinh doanh sinh lời trên thị trường vì thế chưa đảm bảo
vai trò là người tạo lập thị trường. Quy tắc ứng xử trênTTLNH chưa được ban hành.
Hai là, hệ thống môi giới tiền tệ chưa hình thành, mặc dù đã ban hành Quyết định số
351/2004/QĐ-NHNN ngày 07/4/2004 về môi giới tiền tệ (Thực tế có một công ty môi
giới tiền tệ Singapore đến Việt Nam tìm hiểu về khả năng cho phép công ty này vào hoạt
động tại Việt Nam, NHTM Cổ phần Tiên phong được cấp phép hoạt động môi giới tiền tệ
tại Việt Nam nhưng cũng không phát sinh bất kỳ hoạt động môi giới tiền tệ nào); thiếu
những nhà tạo lập thị trường; chưa có công ty định mức tín nhiệm có uy tín tại Việt Nam
nên chưa tạo điều kiện cho việc phát triển và sử dụng các công cụ chuyển nhượng trong
các giao dịch trên TTLNH.
Ba là, chưa có hệ thống giao dịch tập trung/hệ thống thông tin tập trung giữa các thị
trường bộ phận của TLNH/nhà môi giới tiền tệ chuyên nghiệp.
Bốn là,chưa có quy định toàn diện cho thị trường repo.
Năm là, công bố thông tin về thị trường liên ngân hàng còn nhiều bất cập.
Sáu là, hạn chế về công cụ tài chính trên TTLNH.
Bảy là, về chính sách lãi suất: hiện nay, NHNN đang quy định và công bố lãi suất trần
cho vay liên ngân hàng. Thực tế, lãi suất qua đêm có thể cao hơn nhiều so với lãi suất cơ
bản, đặc biệt khi thị trường kém thanh khoản, có thể cản trở việc xây dựng một đường
cong lãi suất chuẩn đáng tin cậy cho trái phiếu chính phủ.
Chương 3: Một số giải pháp phát triển thị trường liên
ngân hàng ở Việt Nam
1. Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý
Tiến tới áp dụng các thông lệ và chuẩn mực quốc tế trong hoạt động ngân hàng,
đặc biệt là chuẩn mực về kế toán, kiểm toán, thanh toán quốc gia và các chuẩn mực về
thanh tra, giám sát ngân hàng; xây dựng khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh và phù hợp với
32
luật lệ quốc tế để tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam cùng
phát triển và cạnh tranh lành mạnh…
Sớm ban hành và hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để mở rộng áp dụng
các công cụ (chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu thương mại) trên thị trường; tiếp tục chuẩn hoá
để tạo điều kiện cho các công cụ hiện có trên thị trường được giao dịch trên thị trường
thứ cấp.
Rà soát lại khuôn khổ pháp lý và điều tiết hiện hành đối với hoạt động cho vay,
gửi tiền trên TTLNH.
Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định quản lý an toàn hoạt động ngân hàng về cấu
trúc và giới hạn nguồn, sử dụng nguồn vốn hoạt động của TCTD theo hướng tăng cường
quản trị rủi ro hơn là áp dụng biện pháp hành chính.
2. Phát triển thị trường repo
NHNN cần phối hợp với Bộ Tài chính và các đơn vị liên quan thành lập nhóm
công tác liên Bộ để triển khai các công việc cần thiết để phát triển thị trường repo, xây
dựng một kế hoạch phát triển thị trường repo.
NHNN cần rà soát khuôn khổ pháp lý và điều tiết hiện hành cho hoạt động repo.
Thời gian đầu, các quy định về thế chấp, các tổ chức, định chế được phép tham gia
hoạt động repo nên tương đối chặt, dần dần sẽ nới lỏng hơn khi có kinh nghiệm và tự tin
hơn.
Bộ Tài chính cần xem xét lại các quy định về thuế, hạch toán kế toán, phí giao
dịch,... để tạo điều kiện và hỗ trợ cho các giao dịch repo; cần xây dựng và áp dụng thống
nhất một Hợp đồng repo chuẩn (MRA) cho giao dịch mua lại GTCG của đối với tất cả
thành viên TTTT trên TTTT.
3. Nâng cao vai trò quản lý, điều hành của Ngân hàng Nhà nước VN
Tăng cường sự phối kết hợp giữa các đơn vị tại ngân hàng theo hướng:
(1) Chuyển nhiệm vụ ban hành cơ chế chính sách liên quan đến TTLNH sang Vụ
Chính sách tiền tệ.
33
(2) Chuyển nhiệm vụ theo dõi số liệu, phân tích, đánh giá tình hình hoạt động
TTLNH sang Sở Giao dịch NHNN.
Tăng cường và cải thiện cách thức điều hành TTLNH của NHNN:
Tiếp tục hoàn thiện NVTTM, từng bước hình thành lãi suất định hướng, chuyển
dần sang điều tiết lãi suất và chuẩn bị các điều kiện cần thiết chuyển sang điều hành
CSTT theo khuôn khổ lạm phát mục tiêu.
34