44
HỢP TÁC & PHÁT TRIỂN Tạp chí ILACAED HAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA ISSN 1859-3518 COOPERATION AND DEVELOPMENT REVIEW CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG CỦA HỘI PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM-LÀO-CAMPUCHIA Trang 30+31 Số 27+28 Tháng 9-12/2014 Hợp tác đầu tư VIệT NAM - ASEAN và triển vọng NâNG CấP, Mở RộNG khuôn khổ hợp tác Khu vực Tam giác phát triển Thành phố của các ngôi chùa LUANG PRABANG- Trang 39+40 Trang 20+21 Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển lần thứ 8(11-2014)

Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

HỢP TÁC& PHÁT TRIỂNTạp chí

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

ISSN 1859-3518

COOPERATION AND DEVELOPMENT REVIEW

CƠ QUAN TRUNG ƯƠNG CỦA HỘI PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM-LÀO-CAMPUCHIA

Trang 30+31

Số 27+28Tháng 9-12/2014

Hợp tác đầu tư Việt nam - asean và triển vọng

nâng cấp, mở rộng khuôn khổ hợp tác Khu vực tam giác phát triển

Thành phố của các ngôi chùa

Luang Prabang-

Trang 39+40 Trang 20+21

Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển lần thứ 8(11-2014)

Page 2: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

Mục lục in this issue

HỢP TÁC& PHÁT TRIỂNTạp chí HỢP TÁC& PHÁT TRIỂN

Tạp chí

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

ISSN 1859-3518

COOPERATION AND DEVELOPMENT REVIEWCƠ QUAN TRUNG ƯƠNG CỦA HỘI PHÁT TRIỂN HỢP TÁC KINH TẾ VIỆT NAM-LÀO-CAMPUCHIA

Trang 30+31

Số 27+28Tháng 9-12/2014

Hợp tác đầu tư Việt nam - asean và triển vọng

nâng cấp, mở rộng khuôn khổ hợp tác Khu vực tam giác phát triển

Thành phố của các ngôi chùa

Luang Prabang-

Trang 39+40

Trang 20+21

Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự Hội nghị Cấp cao

Khu vực Tam giác phát triển lần thứ 8(11-2014)

Cơ quan trung ương Của hội phát triểnhợp táC kinh tế việt nam-lào-CampuChia

Năm thứ NămSố 27+28 (Tháng 9-12/2014)

Tổng biên tập: PGS. TS. Vũ Đình TíchTrình bày: thu Hằng

giấy phép hoạt động báo chí số 1768/GP-BTTTT, ngày 14-12-2009

giấy phép hoạt động báo chísố 289/GP-BTTTT, ngày 22-9-2014

Địa chỉ tòa soạnPhòng 708,

Trụ sở Bộ Kế hoạch & Đầu tư,Số 65 Phố Văn Miếu,

Quận Đống Đa, TP. Hà NộiĐiện thoại: 080.43470

Fax: 080.43470Email: [email protected]

Webtise: http://www.vilacaed.org.vn

giá bán: 22.000 đồng

Hoạt động của Hội +++: Diễn đàn MEKONG 2014 – Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015: Cơ hội và thách thức ....................................................................................... 1+++: Phát biểu Khai mạc của Chủ tịch Hội VILACAED ................................... 2

ngHiên cứu - Diễn đànThS. Nguyễn Thế Tâm: Hoàn thiện chính sách tôn vinh ở việt nam từ kinh nghiệm của nước ngoài .......................................................................... 2PGS. TS. Nguyễn Hồng Thái: Kinh nghiệm của các nước trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức PPP trong đầu tư và bài học cho Việt Nam ........................................................................................................ 6TS. Đỗ Đức Chi: Bàn thêm về năng suất lao động ở Việt Nam ..................... 10 Th.s Lê Thị Tuệ Khanh, Th.s Trần Hương Giang: Nghiên cứu sự tác động của môi trường kinh tế đến sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam ...................................................................................................... 12 Vũ Bắc Hà: Những vấn đề lý luận về phòng chống tham nhũng .................. 15ThS. Nguyễn Thị Nga: Tính tất yếu của việc phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay ....................................... 19

Hướng tới cộng đồng kinH tế aSEan 2015+++: Hợp tác đầu tư VIỆT NAM-ASEAN và triển vọng ................................ 20 +++: Cam kết hợp tác về luân chuyển vốn trong AEC và định hướng chính sách quản lý ngoại hối ......................................................................................... 22+++: Hội nhập lao động trong công đồng kinh tế ASEAN ........................... 25

Quan Hệ Hợp tác Việt nam-Lào-campucHia+++: Nâng cấp, mở rộng khuôn khổ hợp tácKhu vực Tam giác phát triển ......................................................................... 30 +++: Việt Nam-Campuchia hướng tới mục tiêu đạt kim ngạch 5 tỷ USD .... 32+++: Việt-Lào nhất trí sớm ký Hiệp định thương mại mới .......................... 33

tổng Hợp kinH tế -Xã Hội Lào tHáng 10-2014 ..................................................................................................................... 34

giao Lưu Văn Hóa +++: Luang Prabang, thành phố của các ngôi chùa ................................... 39

actiVitiES of tHE ViLacaED+++: MEKONG Forum 2014 - ASEAN Economic Community in 2015:Opportunities and challenges .................................................................... 1+++: Opening Remarks by Chairman VILACAED....................................... 2

RESEaRcH - foRumThS. Nguyen The Tam: Improving policy in Vietnam honors from foreign experience ................................................................................................. 2PGS. TS. Nguyen Hong Thai: The experience of countries in developing infrastructure road PPP in investment and lessons for Vietnam ................................................................................................ 6TS. Do Duc Chi: More on labor productivity in Vietnam ........................... 10Th.s Le Thi Tue Khanh, Th.s Tran Huong Giang: Research on the impact of the economic environment on the development of small and medium businesses Vietnam .................................................................................. 12Vu Bac Ha: The theoretical issues of anti-corruption ............................... 15ThS. Nguyen Thi Nga: The necessity of upholding the human factor in the development of productive forces in Vietnam today ................................ 19

towaRDS tHE aSEan Economic community in 2015+++: Investor Relations VIETNAM-ASEAN and prospects ....................... 20+++: Commitment to cooperate on capital flows in the AEC and policy-oriented foreign exchange management ...................................... 22+++: Labor integration in ASEAN economic community ........................ 25

paRtnERSHipS ViEtnam-LaoS-camboDia+++: Upgrading and expanding cooperation frameworkTriangle Area .......................................................................................... ..30+++: Vietnam-Cambodia aims to achieve turnover of 5USD billion ....... 32+++: Vietnam-Laos agreed to soon sign a new trade agreement .......... 33

Socio-Economic SyntHESiS LaoS 10-2014 ................................................................................................................ 34

cuLtuRaL EXcHangE+++: Luang Prabang, the city of temples .............................................. 39

Mục lục contents

Page 3: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 1

hoạt động Của hội

Mục lục in this issue

HỢP TÁC& PHÁT TRIỂNTạp chí

Mục đích Diễn đàn năm nay là tạo cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước được nghe báo cáo và trao đổi với các Bộ, Ban Ngành hữu quan, các Chuyên gia đàm phán của Việt Nam về vấn đề hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN; thông qua đó các doanh nghiệp có thể thấy rõ hơn những thuân lợi, khó khăn, những cơ hội, thách thức…khi hội nhập vào cộng đồng kinh tế ASEAN 2015, từ đó các doanh nghiệp sẽ có những biện pháp điều chỉnh thích hợp có lợi nhất cho mình để chủ động hội nhập.

Diễn đàn được tổ chức tại Khách sạn Daewoo Hà Nội.

Đến dự và phát biểu tại Diễn đàn gồm có:- Ông Vũ Khoan, nguyên phó Thủ tướng Chính

phủ. - Ông Nguyễn Văn Trung, thứ trưởng Bộ Kế

hoạch và Đầu tư.Đại diện của các Bộ, ngành, các đơn vị, tổ chức

tham gia đàm phán, hoạch định những chính sách hội nhập ASEAN, như : Lãnh đạo Cục Đầu tư nước ngoài, lãnh đạo Vụ Kinh tế đối ngoại, Bộ Kế hoạch và Đầu tư; Lãnh đạo Vụ Chính sách thương mại đa biên, Bộ Công thương; Lãnh đạo Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội; Lãnh đạo Phòng Hội nhập

kinh tế quốc tế - Vụ Hợp tác quốc tế, Bộ Tài chính; Lãnh đạo Phòng quản lý vay và cho vay nước ngoài - Vụ Quản lý ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam…

Đến dự còn có đại diện của 3 Đại sứ quán Myanmar, Lào và Campuchia hơn 100 trăm doanh nghiệp đầu tư trong và ngoài nước, như: Tập đoàn Việt Phương, Công ty cổ phần thực phẩm hữu nghị, Công ty cổ phần COMMA 18, Công ty tin học Thanh Tâm, Công ty ô tô An Thái, Tập đoàn dầu khí Việt Nam, Công ty đầu tư và phát triển thương mại Á - Âu, Công ty TNHH vận tải quốc tế, Công ty truyền thông Minh Châu, Công ty CPXD cơ điện Thái Bình, Công ty đầu tư xây dựng và PT Vạn Xuân, Công ty CP kỹ thuật quốc phòng; Công ty Hồng Việt; Công ty luật RCI&P Law; Công ty CJSC; Chứng khoán quốc gia và nhiều doanh nghiệp khác.

Đại diện các hiệp hội và tổ chức khác, như: Hiệp hội doanh nghiệp Đầu tư nước ngoài; Hội Doanh nhân trẻ Việt Nam; Hội Nữ doanh nhân Thái Bình; Hiệp Hội các nhà bán lẻ Việt Nam; Hiệp hội siêu thị Hà Nội; Hội doanh nghiệp trẻ Tuyên Quang; Các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà quản lý, các hội viên, các Sở Kế hoạch và Đầu tư của 1 số tỉnh, như Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Hải Dương…cũng đã đến dự.

Nhiều phóng viên báo chí, truyền hình của 23 cơ

quan đài báo đã đến dự và đưa tin về diễn đàn (VTV4 Đài truyền hình VN, INFO TV, VITV, Truyền hình TTXVN, Thời báo MeKong, VTV1, Tạp chí thương mại và bán lẻ, Tạp chí Kinh tế và Dự báo…).

Nguyên Phó Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam – Vũ Khoan đã phát biểu nêu rõ những điểm giống và khác nhau về nhận thức, về thế và lực của ta hiện nay so với những năm đầu hội nhập vào ASEAN. Đồng thời, nguyên Phó Thủ tướng cũng chỉ ra những thuận lợi, khó khăn, những lĩnh vực cần xem xét chuẩn bị khi tham gia hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN và đưa ra một số khuyến nghị, giải pháp với các cơ quan nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp để việc hội nhập đạt hiệu quả cao nhất. Những ý kiến của ông Vũ Khoan đã được các đại biểu nhiệt liệt hoan nghênh và đánh giá cao.

Sau khi nghe các bài tham luận,nhiều đại biểu dự Diễn đàn đã nêu các câu hỏi, bình luận về các nội dung nóng hổi đang được nhiều người quan tâm. Đại diện Hội Vilacaed đã giải đáp và giới thiệu địa chỉ liên lạc với Hội qua Văn phòng Hội, hoặc qua email và trang website của Hội.

Kết thúc Diễn đàn,thay mặt Đoàn Chủ tịch, ông Phương Hữu Việt – Chủ tịch Hội Vilacaed, Chủ tịch đoàn phát biểu kết luận:

Diễn đàn MeKong 2014 đã tổ chức thành công tốt đẹp. Diễn đàn đã cung cấp được những thông tin hữu ích về Cộng đồng kinh tế ASEAN cho các doanh nghiệp tham gia Diễn đàn, đồng thời thu hút được sự quan tâm đưa tin của đông đảo các báo, đài, phương tiện thông tin đại chúng để phổ biến tới các doanh nghiệp trên cả nước.

Quá trình thảo luận tại Hội trường đã diễn ra sôi nổi, các doanh nghiệp đã đưa ra được nhiều vấn đề rất sâu sắc, những khó khăn của các doanh nghiệp trước vấn đề hội nhập, những thắc mắc về chủ trương, chính sách hỗ trợ của Đảng, Nhà nước cho doanh nghiệp khi hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN. Đoàn Chủ tịch đã tập hợp các câu hỏi, các thắc mắc của doanh nghiệp và đã được đại diện các Bộ, ngành giải đáp một cách khúc chiết các câu hỏi đặt ra.

Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia sẽ tiếp tục phát huy những kinh nghiệm thu được qua tổ chức Diễn đàn MeKong 2014, để tổ chức các chương trình MeKong thường niên vào những năm tiếp theo một cách hiệu quả và thực sự hữu ích đối với cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam.

Diễn đàn Mekong thường niên 2014 đã được tổ chức thành công, đã đạt được mục tiêu đề ra, nội dung của diễn đàn rất thiết thực đáp ứng yêu cầu của doanh nghiệp đang đòi hỏi, được các nhà quản lý, các chuyên gia, các doanh nghiệp đánh giá cao, được các cơ quan báo chí truyền thông đưa tin kịp thời. Nhiều chuyên gia cho rằng Hội PTHTKT Việt Nam-Lào-Campuchia đã tổ chức diễn đàn năm nay rất chất lượng, có tác dụng tích cực cho các cộng đồng, doanh nghiệp trong thời điểm hội nhập cộng đồng kinh tế ASEAN đã đến gần. Những việc làm như thế này cần được tiếp tục phát huy.

DIỄN ĐÀN MEKONG 2014 - CộNG ĐồNG KINh tế ASEAN 2015:

cơ hội và thách thứcChủ tịch Phương Hữu Việt cùng chủ trì Diễn đàn.

Ngày 17/10/2014, Hội PHát triểN HợP tác kiNH tế Việt Nam-Lào-camPucHia (ViLacaED) đã PHối HợP Với cục đầu tư Nước Ngoài - Bộ kế HoạcH Và đầu tư tổ cHức DiễN đàN kEkoNg tHườNg NiêN 2014 Với cHủ đề: Cộng đồng kinh tế ASEAn 2015- Cơ hội và tháCh thứC.

Page 4: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/20142

nghiên Cứu - diễn đàn

Kính thưa đồng chí Vũ Khoan, nguyên Phó Thủ tướng nước CHXHCN Việt Nam

Kính thưa đồng chí Nguyễn Văn Trung, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Kính thưa quý vị quan kháchKính thưa các vị đại biểuDiễn đàn Mekong 2014 do Hội Phát triển Hợp tác Kinh tế Việt Nam –

Lào – Campuchia và Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) chủ trì tổ chức diễn ra lần này là lần thứ 6 và đã trở thành một sự kiện thường niên của Hội. Diễn đàn xác định mục tiêu chính là thúc đẩy hợp tác, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển kinh tế cùng có lợi giữa các nước Campuchia, Lào, Myanmar, Thái Lan, Việt Nam cùng hai tỉnh Vân Nam và Quảng Tây (Trung Quốc); đưa Tiểu vùng Mekong mở rộng nhanh chóng trở thành vùng phát triển nhanh và thịnh vượng ở Đông Nam Á.

Trong thời gian qua, Hội Phát triển Hợp tác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia (Vilacaed) đã phối hợp tổ chức nhiều hoạt động thiết thực, tích cực, tạo cơ hội giao thương, làm cầu nối cho doanh nghiệp các nước trong tiểu vùng tìm hiểu lẫn nhau, cùng nhau phát triển. Ngoài ra, Hội còn mở rộng hoạt động sang các nước khác tại Đông Nam Á trong khi vẫn thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị - xã hội với các nước bạn. Hội Vilacaed đang dần trở thành một kênh kết nối hiệu quả và uy tín giữa các nước Tiểu vùng Mekong. Sự kết hợp chặt chẽ giữa các văn phòng đại diện của Hội tại các tỉnh cũng như các nước bạn với Hội đã tạo điều kiện cho hội viên nắm bắt thông tin kịp thời, có sự am hiểu nhanh chóng với mỗi thay đổi của môi trường kinh tế, và nhờ đó đạt được những thành công nhất định.

Năm nay, được Bộ Kế hoạch và Đầu tư bảo trợ, Hội Vilacaed tổ chức Diễn đàn MeKong 2014 với chủ đề “ Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015 – Cơ hội và thách thức”, nhằm mục đích giúp các doanh nghiệp trong nước có cơ hội trao đổi với các Bộ, Ban ngành hữu quan, các chuyên gia đàm phán của Việt Nam về vấn đề hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN; thông qua đó các doanh nghiệp có thể thấy rõ hơn những thuận lợi, khó khăn, những cơ hội và thách thức khi hội nhập, từ đó các doanh nghiệp sẽ có những biện pháp điều chỉnh cho phù hợp để chủ động hội nhập có hiệu quả.

Tôi mong rằng, với tinh thần hỗ trợ và tích cực, Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia nói chung và diễn đàn Hợp tác phát triển Tiểu vùng MeKong nói riêng sẽ nhận được sự ủng hộ của Đảng, Nhà nước, các Bộ, Ban ngành và các doanh nghiệp. Tôi cũng tin tưởng diễn đàn lần này sẽ phần nào đem lại những lợi ích cụ thể cho cộng đồng doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp có hoạt động đầu tư vào thị trường các nước ASEAN, đồng thời giúp doanh nghiệp trao đổi, chia sẻ thông tin, đóng góp nhiều ý kiến cho công tác chuẩn bị hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN.

Tôi thay mặt Ban lãnh đạo Hội Phát triển hợp tác kinh tế Việt Nam – Lào – Campuchia khai mạc Diễn đàn MeKong 2014. Xin chúc các doanh nghiệp sẽ tìm được cầu nối, qua đó tìm được cơ hội giao thương và phát triển kinh tế, nắm bắt nhiều thông tin hữu ích để có bước chuẩn bị tốt nhất trong thời gian đầu hội nhập Cộng đồng kinh tế ASEAN vào năm 2015. Xin chúc toàn bộ quý vị quan khách, đại biểu sức khỏe, và chúc Diễn đàn MeKong diễn ra hôm nay, ngày 17 tháng 10 năm 2014 tại Thành phố Hà Nội thành công tốt đẹp!

Phát biểu khai mạc của Chủ tịch Hội VILACAED

Trên cơ sở các quy định của Luật Thi đua, Khen thưởng, vai trò quản lý nhà nước về thi đua, khen thưởng được tăng cường. Công tác

thi đua, khen thưởng dần đi vào nề nếp, các phong trào thi đua đã thực sự góp phần vào thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, của các bộ, ngành, địa phương. Công tác khen thưởng đã kịp thời động viên, khích lệ, biểu dương, tôn vinh các tập thể, cá nhân có thành tích trong lao động, sản xuất, công tác…

Luật Thi đua, Khen thưởng quy định rõ thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cấp, các ngành và lãnh đạo từ Trung ương đến địa phương, nâng cao trách nhiệm của toàn bộ hệ thống chính trị đối với công tác thi đua, khen thưởng trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Từ khi có Luật Thi đua, Khen thưởng, nhận thức về vị trí, vai trò, tác dụng của công tác thi đua, khen thưởng trong cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng lên một bước. Từ nhận thức đúng, việc triển khai thực hiện công tác thi đua, khen thưởng, đã được các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể quần chúng tích cực quan tâm hơn trong công tác xây dựng củng cố bộ máy tổ chức và cán bộ, xây dựng các văn bản lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức phát động phong trào thi đua. Các bộ, ban, ngành, địa phương đã chỉ đạo, đôn đốc, kiểm tra phong trào thi đua; tổ chức ký giao ước thi đua, đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện sơ kết, tổng kết, rút ra những bài học kinh nghiệm; biểu dương, khen thưởng kịp thời tập thể, cá nhân có thành tích. Qua đó, phong trào thi đua đã có những tác dụng thiết thực, trở thành động lực thúc đẩy việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng bộ, ngành, địa phương.

Qua hơn 8 năm thực hiện, bên cạnh những kết quả đã đạt được, việc tổ chức thực hiện Luật Thi đua, Khen thưởng cũng gặp những khó khăn, vướng mắc, như sau:

- Tổ chức chỉ đạo thực hiện phong trào thi đua chưa đồng đều ở các vùng miền và các thành phần kinh tế (đặc biệt vùng nông thôn, địa bàn dân cư, khu vực kinh tế ngoài nhà nước chưa được quan tâm chỉ đạo tổ chức các phong trào thi đua). Nhiều nơi phong trào thi đua còn hình thức, chưa tạo được động lực thi đua từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân; hiệu quả, tác dụng của các phong trào thi đua còn

HOÀn tHiện cHÍnH sÁcH tÔn VinH ở Việt nam tỪ KinH ngHiệm cỦa nƯỚc ngOÀi

Page 5: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 3

nghiên Cứu - diễn đàn

chưa cao. - Luật Thi đua, Khen thưởng có

đối tượng điều chỉnh khá rộng, nhưng tiêu chuẩn khen thưởng cho từng đối tượng còn mang tính khái quát, chưa cụ thể hóa, chủ yếu tập trung trong cán bộ, công chức, công nhân viên nhà nước; vì vậy, trong thực hiện còn lúng túng, vướng mắc, đặc biệt chưa quy định rõ việc khen thưởng đối với người lao động trực tiếp, công nhân, nông dân; khen thưởng trong cơ quan của Đảng, cơ quan dân cử, cơ quan tư pháp, lập pháp, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội.

- Trước sự phát triển nhanh về kinh tế, xã hội của đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn về công tác tôn vinh trong những năm qua chưa được coi trọng và đầu tư đúng mức, công tác tôn vinh chậm được đổi mới và chưa theo kịp sự phát triển của đất nước.

Hiện nay, nhìn chung nhiều nước trên thế giới không tổ chức phong trào thi đua cấp Nhà nước hoặc toàn quốc như ở Việt Nam , mà tập trung xây dựng chính sách tôn vinh, khen thưởng và thực hiện tôn vinh, khen thưởng. Các tập thể, cá nhân tự có trách nhiệm hoàn thành nhiệm vụ và nỗ lực thực hiện công việc được giao. Nếu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ hoặc có thành tích tiêu biểu điển hình sẽ được xã hội, nhà nước, chính quyền ghi nhận bằng các hình thức khen thưởng tương xứng. Chế độ khen thưởng ở các nước được thực hiện hết sức công bằng, chặt chẽ, khách quan và nghiêm túc. Việc trao tặng khen thưởng được tổ chức định kỳ hàng năm (2 – 3 đợt) rất uy nghiêm, trang trọng, các cá nhân được khen thưởng được nhà nước tôn vinh và vinh danh. Chế độ đãi ngộ, quyền lợi tinh thần của những người được khen thưởng

được các nước coi trọng. Có quy định chính sách cụ thể như được miễn phí đi lại trên các phương tiện giao thông công cộng, bảo trợ tiền khám chữa bệnh, bảo vệ sức khỏe về mặt vật chất cũng như tinh thần , nâng lương, thăng chức, được cử đi đào tạo, bồi dưỡng, tham quan, nghỉ dưỡng, ….. Điển hình cho công tác khen thưởng có nhiều ưu điểm nói trên hiện nay là: Pháp, Liên bang Nga, Úc, Trung Quốc, Nhật…

- Ở nước Cộng hòa Pháp hiện nay thành lập các trung tâm giáo dục của Ban khen thưởng Bắc đẩu bội tinh Saint – Denis và Loges, nhằm bảo đảm việc “giáo dục con gái, cháu gái và chắt gái của các thành viên Huy đoàn Bắc đẩu bội tinh”. “Những người là con gái, cháu gái, chắt gái của các cá nhân được tặng thưởng huân chương công trạng quốc gia có thể được nhận vào học tại các trung tâm giáo dục của Huy đoàn Bắc đẩu bội tinh”. Mục đích của việc giáo dục tại các trung tâm này là khơi dậy trong các em học sinh tình yêu Tổ quốc và yêu tự do cũng như ý thức về nghĩa vụ công dân và đối với gia đình của mình. Đồng thời qua việc dạy dỗ và rèn luyện tính cách cho các em, giúp các em xây dựng được một cuộc sống độc lập và có nhân cách.

- Việc tổ chức trao tặng các hình thức khen thưởng được tiến hành uy nghiêm, trang trọng và hoành tráng. Như ở Liên bang Nga, việc tổ chức trao tặng khen thưởng rất long trọng cả phần nội dung và hình thức, họ muốn tạo dấu ấn cho người được tặng thưởng, qua đó tác động đến tất cả các cá nhân chưa được thưởng. Việc khen thưởng và trao tặng của Nhà nước Liên Xô trước đây là một trong những tác nhân kích thích đạo đức quan trọng nhất trong sự nghiệp phát triển các hoạt động chính trị, xã

hội, sản xuất và trong cuộc đấu tranh vệ quốc, nhằm thực hiện các nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa cộng sản của công dân Liên Xô, giáo dục người lao động theo tinh thần luôn sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc.

Tổ chức Lễ trao tặng khen thưởng chủ yếu tại văn phòng thị trưởng, tỉnh trưởng hoặc bộ trưởng. Đặc biệt trong từng đợt tổ chức khen thưởng các hội đồng của thị trưởng, tỉnh trưởng hoặc bộ trưởng chọn ra 50 cá nhân tiêu biểu nhất được vào Điện Kremly và chính Tổng thống Liên bang Nga trực tiếp trao thưởng. Tổng thống cũng có thể ủy quyền cho lãnh đạo bộ, ngành của liên bang, của chủ thể liên bang, lãnh đạo tỉnh, thành phố, đại diện của tổng thống tại các đặc khu, hai viện Quốc hội, Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Nga tại nước ngoài, Cục trưởng Cục cán bộ thuộc Văn phòng Tổng thống, sỹ quan cấp tư lệnh từ sư đoàn trở lên, thực thi quyết định trao tặng.

- Việc khen thưởng của Úc thường xuyên được tuyên bố vào các ngày lễ trong năm, như: Quốc khánh, sinh nhật Nữ hoàng… Huân chương Dũng cảm của Úc được trao tặng vào tháng 4 hoặc tháng 8 hàng năm. Công tác khen thưởng được áp dụng hạn ngạch (cota) ở nhiều nước theo số lượng hoặc tỷ lệ % các hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân để hạn chế việc khen thưởng, cào bằng tràn lan. Như các nước Pháp, Nga, Bỉ chỉ được xét khen thưởng theo số lượng được cấp. Các bộ căn cứ vào cota được cấp (việc cấp cota do Tổng thống ban hành sắc lệnh thời hạn 3 năm) và căn cứ hồ sơ thành tích để xét, đề nghị khen thưởng. Bên cạnh đó, một số nước chỉ xét khen thưởng theo định kỳ (Nhật Bản, Nga, Pháp) và không xét khen thưởng đột xuất để hạn chế số lượng. Tuy nhiên, tuỳ theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị và các nhu cầu bức xúc của xã hội,

HOÀn tHiện cHÍnH sÁcH tÔn VinH ở Việt nam tỪ KinH ngHiệm cỦa nƯỚc ngOÀi

ThS. NguyễN Thế Tâm

Page 6: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/20144

nghiên Cứu - diễn đàn

họ đề ra chính sách khen thưởng đáp ứng ngay yêu cầu bức xúc của xã hội. Ví dụ đất nước Nga hiện nay cần phải tăng dân số, họ đề ra bộ huân chương danh dự bố mẹ dành cho những gia đình sinh 4 con trở lên và nuôi dạy con tốt thì được thưởng huân chương và 50.000 rúp. Ở Pháp thì tặng thưởng Huân chương hạng I, II, III cho những gia đình sinh 4, 5, 6 con và chăm sóc nuôi dưỡng tốt chúng. Ở Úc, các hình thức khen thưởng mới sẽ được hình thành khi có một lĩnh vực mới cần được vinh danh, ví dụ Huy chương phòng cháy Australia năm 1988, hoặc cần vinh danh những công dân đã phục vụ trong một chiến dịch quân sự cụ thể nào đó như Huy chương Lực lượng Quốc tế phục vụ tại Đông Timor năm 2000.

Đối với thủ tục trình khen, việc lựa chọn suy tôn những người được khen thưởng đều xuất phát từ cơ sở, từ quần chúng nhân dân. Việc kê khai thành tích do bộ phận làm công tác khen thưởng độc lập làm hồ sơ, người được đề nghị không nhất thiết phải tự kê khai thành tích.

Hiện nay có một số nước chưa ban hành Luật Khen thưởng như: Trung Quốc, Nhật bản,

Australia... (Trung Quốc đang nghiên cứu dự thảo Luật Khen thưởng) song công tác khen thưởng được Nhà nước và Chính phủ quan tâm chỉ đạo. Có cơ quan hoặc bộ phận làm công tác khen thưởng chuyên trách. Công tác khen thưởng được tổ chức chặt chẽ, đối tượng khen thưởng chủ yếu hướng về cơ sở và người lao động trực tiếp. Tập trung phát hiện công chức và người lao động để khen, không khen cho lãnh đạo từ cấp vụ trở lên (Trung quốc). Hàng năm đều phân bố chỉ tiêu, hạn mức cho mỗi hình thức khen thưởng (Pháp). Trên cơ sở đó mà chọn những người thật sự ưu tú, xuất sắc được nhân dân, cộng đồng thừa nhận để khen. Gắn công tác khen thưởng với đề bạt cán bộ (Trung Quốc, Nhật Bản). Coi trọng tôn vinh tinh thần và lợi ích vật chất. Khi phát hiện những người được khen thưởng có vi phạm thì hủy bỏ việc phê chuẩn.

Ở một số nước như: Pháp, Úc, Nhật Bản, khen thưởng nhưng không

kèm theo tiền thưởng đối với tập thể mà chỉ thưởng tiền hoặc vật chất kèm theo đối với cá nhân hoặc bằng chế độ chính sách như ở Pháp, Úc, Bỉ, khen thưởng thực hiện theo tuần tự từ mức hạng thấp lên mức hạng liền kề cao hơn (không nhảy hạng). Mọi công dân của Pháp (trừ thượng nghị sĩ và đại biểu Quốc hội) bao gồm cả dân sự, quân sự nếu có thành tích xứng đáng đóng góp cho quốc gia đều được xem xét, đề nghị khen thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh (trước đây chỉ có trong quân đội).

Hệ thống tổ chức bộ máy làm công tác khen thưởng ở các nước đều có cơ quan thường trực trực thuộc Phủ Tổng thống, một số nước có cơ quan thuộc Bộ Ngoại giao làm đầu mối. Các tổ chức, bộ phận làm công tác khen thưởng được bố trí từ trung ương tới địa phương, tận cấp cơ sở.

Các tổ chức bộ máy khen thưởng cấp trung ương thường trực thuộc Văn phòng Tổng thống (Nga), Phủ Tổng thống (Pháp); Ban thư ký khen thưởng trực thuộc Phủ Toàn quyền (Úc). Vấn đề này tạo điều kiện cho công tác khen thưởng được nhanh chóng, phát huy ngay, tác dụng ngay hiệu quả công tác khen thưởng và đây là biện pháp để giảm biên chế cho các khâu xét duyệt, thẩm định, giảm các tầng nấc, thủ tục trung gian xét duyệt, thẩm định.

Đối với tổ chức của Hội đồng ở Pháp thì dưới Tổng thống là Trưởng ban khen thưởng.

Chức danh này được lựa chọn từ những người đã có Huân chương Bắc đẩu bội tinh hạng nhất. Từ năm 1969, nhiệm kỳ của Trưởng ban là 6 năm. Kể từ Trưởng ban đầu tiên được phong là Bernard Germain Estienne de Laville-sur-Illon, Bá tước Lacépède đến nay, vị trí này chỉ được trao cho những người trong giới quân sự. Người giữ vị trí Trưởng ban có trách nhiệm giải quyết mọi vấn đề liên quan tới việc xét tặng Bắc đẩu Bội tinh, giúp việc cho người này là Hội đồng Khen thưởng Trung ương gồm 17 thành viên do Tổng thống bổ nhiệm theo đề xuất của Trưởng ban, đại diện cho tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục, quốc phòng an

ninh. Hội đồng Khen thưởng Trung ương (hoặc Hội đồng khen thưởng quốc gia):

Hội đồng Khen thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh: gồm 17 thành viên, tiêu chuẩn quy định các thành viên đều phải có Huân chương Bắc đẩu bội tinh (trong đó 14 thành viên có Huân chương Bắc đẩu Bội tinh đệ nhất, đệ nhị, đệ tam). Hội đồng Khen thưởng Huân chương Công trạng quốc gia. Trưởng ban Khen thưởng Quốc gia là Chủ tịch của 2 hội đồng nêu trên. Tổng thống là người có quyền cao nhất trong vấn đề trao tặng, quyết định tặng thưởng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh và Huân chương Công trạng. Ban Khen thưởng Quốc gia là cơ quan giúp việc trực tiếp cho Tổng thống, Trưởng ban Khen thưởng là tướng trong quân đội, được Tổng thống bổ nhiệm với nhiệm kỳ 6 năm, giúp việc cho Trưởng ban có Tổng thư ký và bộ máy nghiệp vụ khoảng trên 80 công chức.

Về sử dụng đào tạo, bồi dưỡng, quản lý cán bộ làm khen thưởng ở cấp trung ương được đào tạo bài bản, bồi dưỡng thường xuyên, hàng năm đều được đưa xuống các bộ, cục, tỉnh, quận để am hiểu thực tế và đề xuất phát hiện những vấn đề mới, bức xúc, kiến nghị, bổ sung hoặc bãi bỏ. Do vậy, cán bộ công chức làm khen thưởng có chuyên môn rất sâu, tính chuyên nghiệp cao và am hiểu rộng. Có chế độ chính sách ưu tiên, trọng dụng đãi ngộ riêng đối với cán bộ thực hiện khen thưởng để đảm bảo tính khách quan, tính giá trị, tôn vinh và tính minh bạch đối với các hình thức khen thưởng của Nhà nước…

một số đề xuất vận dụng ở Việt NamỞ Việt Nam hiện nay, việc đổi mới

chính sách, pháp luật về thi đua, khen thưởng, tôn vinh phải nhằm mục tiêu động viên được cả hệ thống chính trị vào việc thực hiện thành công công cuộc đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước.

Hệ thống hóa lại các quy định về danh hiệu để tôn vinh cho phù hợp với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, theo hướng: Giảm các hình thức khen thưởng cấp nhà nước (hiện nay nước ta có 25 hình thức khen

Page 7: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIAnghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 5

thưởng cấp nhà nước với 42 cấp độ khen), nhằm khắc phục xu hướng đề nghị khen lên cấp quốc gia. Nga có 22 bộ huân chương, 15 bộ huy chương; Singapo có 5 hình thức khen thưởng. Trong đó, Huy chương Hành chính công có 3 hạng, gồm: Huy chương Vàng để tặng cho cấp thứ trưởng trở lên, có thành tích nổi bật trong công tác; Huy chương Bạc để tặng cho cấp vụ trưởng trở lên và Huy chương Đồng để tặng cho cán bộ cấp vụ phó trở lên có thành tích nổi bật trong công tác (Singapo không có các hình thức khen thưởng các danh hiệu thi đua).

- Thực hiện phân cấp mạnh và mở rộng thẩm quyền quyết định các hình thức khen thưởng phù hợp cho các bộ, ngành, địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp; các tổ chức có quy mô lớn, đặc thù (như Đại học Quốc gia, cấp Quân khu, Quân chủng, Quân đoàn, Binh chủng thuộc Bộ Quốc phòng, tập đoàn kinh tế, cấp tổng cục của các bộ, ngành) để tạo được động lực trực tiếp và khen thưởng được kịp thời, chính xác. Ở Bỉ thẩm quyền quyết định khen thưởng được thực hiện là: Cấp toàn quốc, trên danh nghĩa nhà nước tặng thưởng huân, huy chương, nhưng thẩm quyền là Thủ tướng quyết định khen thưởng. Cấp tỉnh, thành phố có huy chương và các phần thưởng danh dự khác do Thống đốc thành phố quyết định. Cấp quận, huyện có thư khen, giấy khen. Ở Pháp có 3 loại huân, huy chương cấp quốc gia là Huân chương Bắc đẩu Bội tinh, Huân chương Công trạng Quốc gia và Huy chương Quân công (chỉ tặng trong quân đội); có 4 loại huân chương cấp bộ, như Huân chương Cành cọ Hàn lâm (Bộ Giáo dục), Huân chương Văn hóa nghệ thuật (của Bộ Văn hóa). Các tỉnh, thành phố có huy chương, huy hiệu, trong đó có huy chương cho các gia đình đông con (khuyến khích các gia đình có từ 4 con trở lên…).

- Bổ sung các quy định để đảm bảo thi đua, khen thưởng được áp dụng thực thi trong toàn hệ thống chính trị và toàn xã hội, bao gồm: Các cơ quan, tổ chức của Đảng, Nhà nước (cơ quan

dân cử, cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp), Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân; các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp, các tổ chức kinh tế thuộc các thành phần kinh tế… theo hướng quy định thống nhất các hình thức khen thưởng và thẩm quyền trong Luật Thi đua, Khen thưởng phù hợp với quy định của Hiến pháp. Ở Nga, Trung Quốc đều có quy định cụ thể cho các tổ chức này.

- Chuyển hướng khen thưởng cho đối tượng là các tập thể nhỏ; khen thưởng cho công nhân, người lao động trực tiếp sản xuất, công tác. Quan tâm khen thưởng cơ sở, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo và vùng dân tộc thiểu số. Ở Nhật Bản có Huy chương Xanh để dành tặng cho những người tình nguyện vùng xa, vùng sâu; ở Trung Quốc có hình thức khen thưởng riêng cho các cá nhân là người dân, công nhân, trí thức trực tiếp lao động sản xuất....trong các tỉnh, thành phố, khu tự trị …

- Chuyển dần việc đề nghị khen thưởng theo thủ tục hành chính các cấp sang đề nghị khen thưởng thông qua phát hiện, lựa chọn các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc để khen thưởng kịp thời, chính xác. Đề cao vai trò của đơn vị, cá nhân trong phát hiện, giới thiệu những điển hình tiên tiến để khen thưởng hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền khen thưởng theo mô hình khen thưởng của Pháp và Nhật thì cơ quan khen thưởng hoặc chính quyền phát hiện phối hợp thực hiện và viết thành tích đề nghị khen thưởng đối với cá nhân đề nghị nếu thấy xứng đáng.

- Thực hiện cải cách hành chính về hồ sơ, thủ tục khen thưởng, quy định rõ về quy trình, tuyến trình khen thưởng, lấy ý kiến nhân dân về một số hình thức khen thưởng bậc cao trên các phương tiện thông tin đại chúng, đảm bảo công khai, minh bạch trong công tác khen thưởng như ở Nga. Cơ quan làm thi đua, khen thưởng có bộ phận theo dõi xem xét đề nghị và thư của nhân dân về các vấn đề khen thưởng; quy trình khen thưởng của Trung Quốc được thực hiện từ cơ sở bình xét theo tiêu chuẩn gửi cho tiểu ban xét duyệt (gồm một số

ngành chức năng) sau khi được cấp có thẩm quyền xét duyệt thì đóng dấu cấp khen thưởng (không ký vào bằng, giấy chứng nhận).

- Đối với hình thức khen thưởng đối ngoại (dành cho nguyên thủ quốc gia): Luật Thi đua, Khen thưởng hiện hành tuy chưa quy định, nhưng trong nghị định của Chính phủ hướng dẫn thi hành luật quy định tặng Huân chương Sao vàng cho nguyên thủ quốc gia, trong thực tế mới chỉ trao tặng cho các nguyên thủ quốc gia các nước XHXN trước đây; trong quá trình hội nhập quốc tế toàn diện và mở rộng hiện nay rất cần có hình thức phù hợp để trao tặng cho các nguyên thủ quốc gia các nước nhằm tranh thủ sự ủng hộ và ghi nhận công lao to lớn đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và phát triển của nước ta trong thời kỳ mới.

Các nước như Pháp đã dành riêng Huân chương Bắc đẩu Bội tinh (đệ tam và đệ tứ) - huân chương cao quý nhất của Nhà nước Pháp để tặng cho nguyên thủ quốc gia các nước có quan hệ và công lao đối với Pháp. Do vậy, nước ta nên dành Huân chương Sao vàng là huân chương cao quý nhất của Nhà nước ta để trao tặng cho các nguyên thủ quốc gia có quan hệ đặc biệt và công lao lớn đóng góp cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của ta.

Tóm lại, từ những kinh nghiệm cụ thể, quan trọng của một số nước trên thế giới nêu trên,

chúng ta đang trong quá trình đổi mới công tác thi đua, khen thưởng cần nghiên cứu những kinh nghiệm hữu ích, cách làm hiệu quả, phù hợp từ đó áp dụng một cách sáng tạo vào thực tiễn của công tác thi đua, khen thưởng ở Việt Nam thời kỳ CNH – HĐH và hội nhập quốc tế. Bởi vì, hiện nay, công tác thi đua, khen thưởng đang là một trong những phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền, một công cụ quản lý nhà nước hữu hiệu, góp phần quan trọng, tích cực vào công cuộc đổi mới, xây dựng một Nhà nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã đề ra.

Page 8: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

nghiên Cứu - diễn đàn

6

1. Kinh nghiệm các nước trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức hợp tác công tư

1.1. Trung QuốcỞ Trung Quốc các vấn đề quan

tâm đối với khu vực kinh tế tư nhân vận hành PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là các rủi ra phê duyệt, quy định và pháp luật. Những quan tâm này nhấn mạnh thực tế là việc thiếu một khuôn khổ pháp lý nhất quán, các thủ tục rõ ràng và một khuôn khổ thể chế phát triển tốt, làm hạn chế các khả năng phát triển của PPP ở Trung Quốc và hiện nay ở Trung Quốc, không có đơn vị PPP chuyên trách.

Các bài học phù hợp cho Việt Nam

- Việc dự tính chính xác về thu từ phí là cực kỳ quan trọng, có thể áp dụng: dự tính thực tế về lưu lượng giao thông, đánh giá khả năng chi trả và sự chấp nhận sử dụng đường

có thu phí, và đánh giá xác thực các lợi ích kinh tế

- Việc thiếu một “đơn vị PPP” trong điều kiện các văn bản luật, quy định, quy tắc chưa thống nhất chặt chẽ với nhau có thể cản trở sự phát triển của thị trường cho PPP

- Do nguồn vốn nước ngoài bằng ngoại tệ tạo ra mức rủi ro về tỷ giá, rủi ro này có thể đáng kể với nhà nước hoặc làm tăng chi phí cho dự án nếu bên tư nhân chấp nhận rủi ro này. (Bên tư nhân cần phải có giao dịch phòng ngừa rủi ro này bởi vì bản thân họ không thể chấp nhận được rủi ro có thể phát sinh chi phí đáng kể này)

- Việc các DNNN chuyển sang hoạt động thực chất theo cơ chế thị trường là rất quan trọng trong việc giảm thiểu sự không minh bạch

- Việc nhìn nhận rủi ro cao về luật pháp và quy định, và quy trình phê duyệt làm hạn chế khu vực tư nhân đầu tư vào một nước.

1.2. Hàn Quốc Hàn Quốc đã bắt đầu chương

trình PPP của rmình năm 1994 với Đạo luật Thúc đẩy Vốn Tư nhân Đầu tư vốn Toàn xã hội. Chương trình này, nhằm xây dựng một chính sách Chính phủ nhất quán trong các khu vực khác nhau. Đã có 100 dự án hạ tầng đã được thiết lập để thực hiện với hình thức PPP. Ở Hàn Quốc, nguyên tắc người thụ hưởng trả cho hạ tầng là điểm xuất phát để thu phí. Đồng thời, mức phí không cao lắm, điều đó có nghĩa là cần có khoản thanh toán đáng kể từ nguồn ngân sách của Chính phủ (trợ cấp) để bù vào doanh thu từ phí do khu vực tư nhân tạo nên.

Theo luật PPI mới năm 1999, và với sự thành lập Trung tâm Quản lý Đầu tư Hạ tầng Nhà nước và Tư nhân tại Hàn Quốc đã làm tốc độ của các dự án PPP tăng lên nhanh chóng, cũng nhờ các gói khuyến khích được tạo nên cho khu vực tư nhân và thực tế là các thủ tục đấu thầu rất đơn giản. Trung tâm Quản lý Đầu tư Hạ tầng Nhà nước và Tư nhân tại Hàn Quốc có chức năng chính như sau:

- Hỗ trợ phối hợp kế hoạch tổng thể cho PPP

- Đánh giá đấu thầu- Xây dựng hợp đồng- Đánh giá các đơn thầu đơn lẻ- Áp dụng giấy phép cần cho dự

án PPP- Xúc tiến PPP/ Thu hút đầu tư tư

nhân (nước ngoài)- Nghiên cứu khả thi

Kinh nghiệm của các nước về phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức hợp tác công tư trong đầu tư và những bài học rút ra cho Việt nam

PgS.TS NguyễN hồNg Thái – Trường Đại học GTVT

+NgHiêN cứu kiNH NgHiệm các Nước troNg đầu tư PHát triểN cơ sở Hạ tầNg tHEo HìNH tHức PPP, để Lựa cHọN Bài Học tHàNH côNg, tHất Bại để áP

DụNg PHù HợP Với điều kiệN PHát triểN kiNH tế - xã Hội Việt Nam, có ý NgHĩa quaN trọNg Vì NHu cầu đầu tư cHo PHát triểN csHt giao tHôNg Là rất LớN. troNg kHi kHả NăNg NguồN Lực tài cHíNH của NHà Nước kHôNg tHể đáP ứNg được tHì Việc kHuyếN kHícH đầu tư PPP Là mô HìNH HợP tác tối ưu Hoá Hiệu quả đầu tư Và cuNg cấP DịcH Vụ côNg cộNg cHất LượNg cao Là Hết sức cầN tHiết.

Page 9: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 7

nghiên Cứu - diễn đàn

- Đào tạo và giáo dục trong PPPCác bài học phù hợp cho Việt

Nam- Đơn vị PPP ở Hàn Quốc đóng

góp rất lớn cho thị trường PPP ở Hàn Quốc, cả qua các hoạt động xúc tiến đầu tư cùng như qua việc đáp ứng nhu cầu về kiến thức thiếu hụt trong bộ máy chính phủ

- Các hình thức khuyến khích khác nhau đối với khu vực tư nhân hỗ trợ nhiều cho sự thành công của thị trường PPP. Tuy nhiên, các biện pháp này cần phải được áp dụng một cách thận trọng. Các khuyến khích luỹ kế sẽ làm tăng gánh nặng của ngân sách nhà nước, vì:

+ Rủi ro của việc phải bù đắp cho khu vực tư nhân thông qua các hình thức bảo lãnh của chính phủ

+ Để bảo đảm cho sự tham gia của tư nhân là khả thi, các khoản trợ cấp cần rất lớn do mức phí đường thấp

+ Việc ưu đãi thuế cho khu vực tư nhân tham gia PPP làm giảm thu ngân sách nhà nước.

- Các gói khuyến khích do nhà nước đưa ra làm cho thị trường trở nên hấp dẫn đối với khu vực tư nhân, nhưng điều này cũng tạo ra nguy cơ về tính bền vững của các khoản này dưới góc độ ngân sách nhà nước

- Các nhà thầu trong nước lớn mạnh chứng tỏ năng lực trở thành các đối tác PPP ở Hàn Quốc. Với sự thiếu các nhà thầu mạnh ở Việt Nam, cần có các giải pháp thay thế, hoặc bằng chuyển đổi các DNNN hoặc bằng thu hút các nhà thầu nước ngoài

- Các xúc tiến đầu tư nước ngoài đã thu hút sự quan tâm của các nhà đầu tư nước ngoài đối với PPP ở Hàn Quốc.

- Một khuôn khổ pháp lý tốt là công cụ quan trọng để phát triển thị trường cho PPP.

1.3. Vương quốc AnhVương quốc Anh đi đầu trong

PPP ở châu Âu, với tên là Sáng kiến Tài trợ Tư nhân (PFI). PFI được chính phủ công bố năm 1992 nhằm có được sự tham gia nhiều hopưn của khu vực tư nhân trong cung cấp dịch vụ công.

Đầu tiên, động cơ chính của chính

phủ Anh là thu hút tài trợ của tư nhân cho hạ tầng, vì các đầu tư khẩn cấp là cần thiết, nhưng ngân sách của khu vực công là không đủ. Ngày nay, tương tự như Hà Lan, về nguyên tắc, Anh không thực hiện PPP nếu không có giá trị bổ sung của tiền được chứng minh.

Tới nay, gần 500 dự án đang hoạt động, kể cả các cơ sở y tế, các dự án trường học và giao thông. Các dự án PFI đóng góp và sẽ tiếp tục chiếm 10-15% đầu tư trong dịch vụ công.

Cơ quan đường quốc lộ Anh là một chính quyền quản lý hợp đồng cho các dự án quốc lộ ở Anh. Hơn 10 dự án đã được ký hợp đồng, đặc trưng trên cơ sở Thiết kế - Xây dựng – Tài trợ - Vận hành. Các dự án này bình quân tiết kiệm khoảng 15% so với chi phí lĩnh vực công của dự án.

Điểm hay ở đây là các tiết kiệm giá thành này không phải là mục tiêu chính khi các mục tiêu của Thiết kế - Xây dựng – Tài trợ - Vận hành được Cơ quan đường quốc lộ Anh quyết định năm 1994. Các mục tiêu này phù hợp với các mục tiêu đầu tiên của PFI, về huy động vốn khu vực tư nhân. Năm 1994, các mục tiêu của Thiết kế - Xây dựng – Tài trợ - Vận hành như sau:

- Đảm bảo rằng đường được thiết kế, bảo trì và vận hành an toàn và thoả mãn nhằm tối thiểu hoá bất cứ tác động xấu nào về môi trường và tối ưu hoá các lợi ích cho người sử dụng.

- Chuyển giao ở mức độ phù hợp các rủi ro cho khu vực tư nhân. Thúc đẩy sáng kiến, không chỉ về mặt kỹ thuật và vận hành, mà cả những thu xếp về tài chính và thương mại.

- Hỗ trợ phát triển ngành vận hành phát triển CSHTGTĐB của khu vực tư nhân.

- Tối thiểu hoá đóng góp tài chính của khu vực công.

Ở nước Anh sử dụng cơ quan PUK (Cơ quan Hợp danh Anh) là một liên doanh giữa các bên tư nhân và Bộ Ngân khố Hoàng gia. Vốn chủ yếu là của tư nhân. Đó là đơn vị kế nhiệm của Nhóm Chuyên gia Công tác Dự án. Vai trò của Cơ quan Hợp danh

Anh là cung cấp cho chính phủ và khu vực tư nhân kiến thức về khu vực tư nhân cần thiết để xây dựng cộng tác tốt hơn. Cơ quan Hợp danh Anh không phải là cố vấn, mà là nhà thiết kế PPP. Các hoạt động của đơn vị này gồm:

- Phát triển chính sách PPP- Tiêu chuẩn hoá hợp đồng- Đánh giá Dự án- Hỗ trợ thực hiện- Đồng tài trợ các dự án PPPCác bài học phù hợp cho Việt

Nam- Các khoản thanh toán của chính

phủ cho các dự án khác nhau về dài hạn có thể tạo nên sức ép cho ngân sách do cam kết dài hạn của chính phủ đối với khu vực tư nhân

- Mặc dù các PPP ở Anh ban đầu nhằm giải quyết vấn đề ngân sách (thu hút tiền tư nhân cho đầu tư), sau đó, vấn đề về hiệu quả đồng tiền đầu tư ngày càng trở nên quan trọng

- Đánh giá và định giá rủi ro và hiệu quả là then chốt trong việc xác định giá trị của giải pháp của khu vực tư nhân

- Hợp đồng trên cơ sở kết quả và thanh toán theo hoạt động góp phần vào việc đạt được giá trị đầu tư cao

- Đơn vị PPP hỗ trợ trong việc soạn thảo các quy trình và tài liệu chuẩn hoá, trong khi một đơn vị có tính thương mại hơn (PUK) hỗ trợ trong phát triển các PPP cụ thể.

2. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ các nước trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức hợp tác công tư

Để đảm bảo sự thành công cho phát triển CSHT giao thông đường bộ theo hình thức PPP, Chính phủ Việt Nam cần:

- Phân loại, xác định nhanh những đoạn phát triển CSHT giao thông đường bộ cần Nhà nước tham gia đầu tư; Những đoạn cao tốc Nhà nước cùng với tư nhân hợp tác đầu tư; Những đoạn kêu gọi tư nhân trực tiếp đầu tư. Những đoạn đường phát triển CSHT giao thông đường bộ cần sớm đầu tư, song chờ nhà đầu tư thấy lợi

Page 10: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

nghiên Cứu - diễn đàn

8

bỏ tiền ra đầu tư thì sẽ phải chờ lâu. Những đoạn này, cần dùng vốn nhà nước như “vốn mồi” để tăng sức hấp dẫn cho dự án. Nhà nước có thể đầu tư một giai đoạn để tạo sức hấp dẫn rồi bán cho tư nhân đầu tư tiếp, hoặc đầu tư xong bán cho tư nhân để lập tức thu tiền tái đầu tư. Những đoạn có tính hấp dẫn lớn, khả năng hoàn vốn nhanh (ví dụ những đoạn cao tốc nằm sát các khu kinh tế trọng điểm, các trung tâm kinh tế như Hà Nội và TP HCM) có thể đưa vào danh sách dự án kêu gọi tư nhân đầu tư 100%.

- Hình thành một tổ chức hoặc cơ quan phát triển mạng lưới phát triển CSHT giao thông đường bộ cao tốc có thu phí, với chức năng chính như sau:

(1) Thứ nhất, tạo lập khuôn khổ pháp lý và chính sách thực thi luật định. Để đảm bảo sự thành công cho mô hình PPP nói chung và mô hình PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng nói riêng cần hội đủ hai yếu tố cơ bản sau: "hợp đồng hiệu quả" để tăng giá trị vốn đầu tư và "môi trường thuận lợi" để quản lý PPP, trong đó một trong những nội dung cơ bản nhất của nhân tố môi trường chính là khung thể chế, pháp lý đầy đủ và ổn định. Điều này sẽ góp phần giảm chi phí giao dịch,

tăng tính minh bạch cho các mô hình PPP và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân tham gia tích cực hơn.

Theo kinh nghiệm các nước đều thành lập cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp về việc phát triển, giám sát và quản lý đường cao tốc và nắm giữ trách nhiệm pháp lý thông qua các văn bản pháp qui qui định quá trình thực hiện dự án. Đây chính là điểm còn thiếu rõ ràng và gây ảnh hưởng đến tiến độ phát triển đường cao tốc tại Việt nam. Để thực hành biện pháp kiểm soát phát triển đường cao tốc có thu phí, Chính phủ các nước tạo lập mô hình giám sát (cơ quan điều tiết là cơ quan Bộ, trực tiếp hoặc thông qua các Ban, Vụ của Bộ đó - trong đó Thái Lan và Việt Nam),với ba chức năng điều tiết chính:

- Nhượng quyền hoặc cấp phép và thu hồi giấy phép, ví dụ về kiểm soát tiếp cận lĩnh vực có liên quan;

- Điều tiết kinh tế dưới hình thức kiểm soát “đầu ra”, giá cả hoặc lợi nhuận, và trong một số trường hợp kiểm soát chi tiêu "đầu vào" của cơ quan phát triển/ nhà đầu tư;

- Qui định chất lượng dịch vụ, kỹ thuật - chất lượng kỹ thuật như điều kiện phát triển CSHT GTĐB, số giờ hoặc số ngày vận hành, khai thác,

cung cấp các dịch vụ cho người đi đường - kiểm soát chất lượng dịch vụ khách hàng, như thời gian trả lời yêu cầu và khiếu nại của khách hàng.

Nhằm mục tiêu: Hiệu quả, công bằng, minh bạch và chia sẻ rủi ro cho bên gánh chịu tốt nhất, theo bảng (1)

(2) Thứ hai, giám sát và đánh giá cung cấp dịch vụ: Cơ quan giám sát và đánh giá việc cung cấp dịch vụ với tư cách là cơ quan giám sát phụ trách mạng lưới phát triển CSHT giao thông đường bộ, phải bao quát hai lĩnh vực:

+ Lĩnh vực thứ nhất là chức năng hoạt động hiệu quả của toàn bộ mạng lưới đường đảm bảo lợi ích của người sử dụng và lợi ích công.

+ Lĩnh vực thứ hai là giám sát các hạng mục / phần cụ thể trong mạng lưới đường do một tổ chức cụ thể vận hành khai thác - có thể là doanh nghiệp nhà nước hoặc là công ty tư nhân.

Nhiều nước đã thành lập các đơn vị PPP để cung cấp nguồn lực cần thiết quản lý các chương trình PPP hiệu quả. Kinh nghiệm gợi ý rằng sự tồn tại của một đơn vị PPP có thể là một yếu tố quan trọng trong thực hiện thành công các dự án PPP. Ở mỗi nước đơn vị PPP có nhiều chức năng

Bảng 1: Mức độ phân bổ rủi ro của mỗi hình thức PPP

Nguồn: Tổng hợp của tác giả

Rủi roHợp đồng Vận hành và Bảo trì

Chìa khoátrao tay

(Thiết kế &Xây dựng)

Hợp đồng giaoquyền Vận hành

và Bảo trì

Công tyliên

doanhDBFM BOT

Thiết kế Nhà nước Tư nhân Nhà nước Chia sẻ Tư nhân Tư nhân

Xâu dựng Nhà nước Tư nhân Nhà nước Chia sẻ Tư nhân Tư nhân

Tài trợ Nhà nước

Tư nhân trong thời gian xây

dựng, sau đó là Nhà nước

Nhà nước trong thời gian xây dựng & Tư nhân nếu tiền yêu cầu thuê trả ngay

từ đầu

Chia sẻ Tư nhân Tư nhân

Bảo trì Tư nhân Nhà nước Tư nhân Chia sẻ Tư nhân Tư nhânDoanh

thu Nhà nước Nhà nước Tư nhân Chia sẻ Nhà nước Tư nhân

Page 11: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

nghiên Cứu - diễn đàn

9

khác nhau. Các chức năng có thể chia làm 3 tiêu chí:

(a) thông tin và hướng dẫn (b) hỗ trợ tư vấn và tài trợ (c) phê duyệt. Như ghi nhận bên dưới, hầu hết

các đơn vị PPP thực hiện các chức năng liệt kê theo mục (a), nhưng một số ít hơn cũng thực hiện chức năng theo mục (b). Các chức năng phê duyệt chỉ được thực hiện bởi rất ít các đơn vị PPP, do các lý do dưới đây. (Xem bảng 2).

Hầu hết các đơn vị PPP tập trung chủ yếu vào vai trò thông tin và hướng dẫn. Các hướng dẫn bao gồm các quy định tiêu chuẩn cho các hợp đồng PPP và hướng dẫn về chuẩn bị

dự án, đánh giá và chuẩn bị.Các đơn vị PPP nói chung cũng

tham gia vào tư vấn dự án cụ thể như là một phần của vai trò tư vấn nói chung (tư vấn giao dịch hoặc thậm chí thực hiện việc chuẩn bị cho các dự án theo hình thức PPP (như ở Airelen)). Trong một số trường hợp như Ở Victoria, đơn vị PPP giám sát quản lý hợp đồng của các bộ và tham gia vào các vấn đề chính.

Lĩnh vực hoạt động cuối cùng cho vài đơn vị PPP là phê duyệt dự án. Đây là lĩnh vực các xung đột tiềm năng về lợi ích có thể nảy sinh, đặc biệt nếu đơn vị đó cũng tham gia xác định và chuẩn bị dự án.

3. KẾT LUẬN:

Có thể khẳng định từ kinh nghiệm phát triển CSHT giao thông đường bộ là cần thiết, và để đảm bảo nâng cao khả năng thu hút và hiệu quả của hình thức PPP trong đầu tư phát triển CSHT giao thông đường bộ, các nước đều hình thành đơn vị PPP với chức năng, nhiệm vụ phụ thuộc vào nhu cầu và khuôn khổ thể chế hiện hành của mỗi quốc gia.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:1. PPP in Toll Roads in PRC -

Worldbank 2002.2. Private Praticipation in

Infrastructure Projects of the republic of Kerea - Worldbank 2005.\

3. India- Building Capacities for PPP- Worldbank 2006.

Bảng 2: Các chức năng do các đơn vị PPP thực hiện ở nhiều nước khác nhau

Thông tin và hướng dẫn Hỗ trợ tư vấn và tài trợ Phê duyệt

Trung tâm Thông tin

Tài liệu hướng

dẫn PPP

Tư vấnDự án cụ

thể

Tài trợ cho

chuẩn bị dự

án PPP

Vai trò phát

triển dự án

Vai trògiám sáthợp đồng

Quyền hạn phê duyệt

thực tế PPP

Châu Á/ Thái Bình Dương

AndraPradesh,Ấn Độ

Gujarat,Ấn Độ Philippines Victoria, Úc

Châu Âu

Ireland Ý Hà Lan Anh

Châu Phi Nam Phi

Bắc MỹAnh Columbia, Canada

Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2006)

Page 12: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

nghiên Cứu - diễn đàn

10

Trong những ngày đầu tháng 10 năm 2014 vừa qua, Tổ chức Lao động quốc tế

(ILO) công bố: Năng suất lao động (NSLĐ) của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thấp hơn Singapore 15 lần, thấp hơn Nhật Bản 11 lần và thấp hơn Hàn Quốc 10 lần....

Vấn đề NSLĐ là vấn đề nhậy cảm nên lập tức nhận được một loạt ý kiến ở các góc độ khác nhau. Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin tổng hợp tình hình một số nhận xét, đánh giá, bình luận, xung quanh vấn đề này và đưa ra suy nghĩ riêng của mình từ góc độ thực tiễn của Việt Nam , như sau

1. Ở cấp Chính phủThủ tướng Nguyễn Tấn Dũng

nhấn mạnh: “Bản chất kinh tế là năng suất lao động, vậy thì nguyên nhân như thế nào? Chúng ta cải cách được gì? Khắc phục cái gì? Chúng ta cần nhìn nhận thẳng và phân tích vấn đề này. Tôi đề nghị Chính phủ phải thảo luận theo hướng đó. Chúng ta hạn chế ở khâu nào, do đào tạo kỹ năng lao động hay do công nghệ lạc hậu, hay do cách tính? Cần phải phân tích tổng thể, để đưa ra kế hoạch cải tiến, nâng cao năng suất lao động”.

2. Ở cấp Bộ, Ngành (mang tính tổng hợp, liên quan đến chỉ số NSLĐ) và chuyên gia quốc tế

Thứ nhất, về cách tính NSLĐ:Đại diện Bộ Kế hoạch và Đầu

tư, ông Nguyễn Thế Phương, (Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư) nhận xét: Cách tính năng suất lao động của Tổ chức Lao động Tổ chức lao động thế giới (ILO) là lấy tổng thu nhập quốc nội (GDP) chia cho số lao động làm việc. Trong khi, cũng theo cách tính về tỷ lệ thất nghiệp, mỗi nước một khác. Tại Việt Nam, lao động không coi là thất nghiệp được tính bằng việc người lao động đó trong 1 tuần, ít nhất có 1 giờ làm việc tạo ra thu nhập chính đáng.

Do đó, chỉ số thất nghiệp của Việt Nam rất thấp, có 1,84%, trong khi các nước khác là 7 đến 8%. Ngoài ra, Ông Nguyễn Thế Phương nêu rõ: Với cách tính này, không có gì đáng ngạc nhiên khi năng suất lao động của Việt Nam lại quá thấp so với những nước phát triển như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, nơi có GDP bình quân đầu người đều cao hơn chục lần so với Việt Nam. Vì vậy, con số này là chưa sát với thực tế, cũng như đánh giá đúng bản chất năng suất lao động của Việt Nam hiện nay.

Bên cạnh đó, ông Nguyễn Thế Phương cũng trình bày cách tính NSLĐ của Việt Nam: “Theo Quyết định 43 của Chính phủ, năng suất lao động của Việt Nam được tính là giá trị tổng sản phẩm quốc nội chia cho tổng số người làm việc bình quân. Rõ ràng, tỷ lệ thất nghiệp ít (1,84%) thì mẫu số ít, tử số tăng với các chỉ số 5,3%, 5,5%, và năm nay dự kiến là 5,8%. Tuy nhiên, việc

phân tích chỉ số năng suất lao động cho sát thực còn phụ thuộc nhiều vào các yếu tố khác. Việc lấy GDP chia cho tổng số người làm việc nên sẽ thấp”

Thứ hai, về so sánh NSLĐ của Việt Nam với các nước:

Đại diện Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (Thứ trưởng Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Doãn Mậu Diệp) nêu rõ: Hiện người Việt Nam làm việc trong các doanh nghiệp tại Hàn Quốc thì năng suất lao động không thua gì năng suất lao động của Hàn Quốc. Để đánh giá chính xác chỉ số về năng suất lao động của người trong độ tuổi lao động thì cách tính xem đóng góp của người lao động trong việc tạo ra GDP sẽ chính xác hơn vì GDP ít nhất phải có 3 yếu tố: Chỉ số lao động, vốn đầu tư và trình độ công nghệ. Trong khi, thời gian qua, Việt Nam đã và đang nỗ lực cải thiện chất lượng nguồn lao động, gia tăng giá trị lao động qua việc tái cơ cấu

Bàn thêm về năng suất laO độngở Việt nam

TS. Đỗ Đức chi

Page 13: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIAnghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 11

nền kinh tế từ chiều rộng theo chiều sâu, đầu tư khoa học công nghệ, đào tạo nâng cao trình độ người lao động. Đặc biệt là chuyển đổi hoạt động sản xuất hướng vào những ngành có giá trị gia tăng cao đã từng bước góp phần nâng cao chất lượng, năng suất lao động. Hiện, chúng ta đang tái cơ cấu nền kinh tế, đầu tư từ chiều rộng sang chiều sâu, đầu tư vào công nghệ, đào tạo nâng cao chất lượng lao động, tiến tới năng suất lao động sẽ được cải thiện.

Thứ ba, về đặc điểm riêng của NSLĐ của Việt Nam:

Ông Phạm Văn Sơn, Thư ký Ban chỉ đạo Quốc gia thực hiện quy hoạch phát triển nguồn nhân lực và đào tạo theo nhu cầu xã hội, Bộ Giáo dục và Đào tạo , cho rằng: “Việt Nam có điểm mạnh là có số lượng nhân lực đáp ứng theo nhu cầu xã hội, Tuy nhiên kỹ năng, chất lượng là điểu phải bàn. Thể hiện cơ cấu nhân lực về Đại học, Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp trình độ còn vênh nhau, phân bố chưa đều, có những nơi thừa thầy thiếu thợ, chưa theo quy luật về năng lực kinh doanh. Chúng ta phải có quy hoạch phát triển nhân lực, trình độ ngoại ngữ và khai thác thông tin của công nghệ thông tin để phục vụ cho vị trí việc làm”. Vấn đề năng suất lao động cần xem xét ở mọi khía cạnh, để có kết quả chính xác. Tuy vậy, đây cũng là dịp để các ngành chức năng cùng nhau nhìn vào thực tế, khắc phục những hạn chế, yếu kém nguồn lao động trong nước, để từng bước có giải pháp đồng bộ khắc phục tình trạng này. Bởi, những bất cập tồn tại hạn chế về nguồn lao động là có, nhưng điều đó không đánh giá hay nói lên toàn bộ bản chất về chất lượng, cũng như năng suất lao động của Việt Nam hiện nay. Do vậy, hướng tương lai là khi ngành nông nghiệp được hiện đại hóa, các ngành công nghiệp chủ đạo có công nghệ cao hơn, tham gia vào

các chuỗi giá trị toàn cầu thì chắc chắn năng suất lao động Việt Nam sẽ tăng lên theo chỉ số của ILO. Một trong những bất cập trong thị trường lao động hiện nay là mất cân bằng giữa cung và cầu. Càng trình độ cao thì càng thất nghiệp nhiều, càng ít cơ hội tiếp cận việc làm. Theo thống kê do Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cùng Tổng cục thống kê công bố, trong quý IV năm 2013 cả nước có 900.000 người thất nghiệp, trong đó có tới 72.000 cử nhân, thạc sĩ. Sở dĩ có sự tồn kho cử nhân, thạc sĩ lớn như vậy, một trong những nguyên nhân quan trọng nhất là công tác phân luồng đào tạo nhằm định hướng cho học sinh về nghề nghiệp ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường còn hạn chế.

Cùng với đó, hậu quả của việc “mạnh ai người ấy đào tạo” đã thấy rõ. Nhiều sinh viên ra trường phải làm trái ngành, trái nghề, không có chuyên môn trong lĩnh vực hoạt động của ngành mà minh được đào tạo.

Mặt khác trong đội ngũ đã được tuyển chọn (vào hệ thống đang hoạt động điều hành đất nước) vẫn có nhiều người năng lực kém, không làm được việc lại nhũng nhiễu doanh nghiệp và người dân, khiến cả hệ thống tắc nghẽn ở nhiều khâu.( Riêng lĩnh vực thuế, hải quan, Thủ tướng đã phải dành nhiều thời gian để làm việc với lãnh đạo hai ngành này và yêu cầu phải giảm mạnh thời gian làm thủ tục hành chính thuế và hải quan xuống hàng trăm giờ trong thời hạn của năm 2014).

Thứ tư, ý kiến một số chuyên gia nước ngoài về NSLĐ của một quốc gia

Ông Malte Luebker, chuyên gia cao cấp của Tổ chức Lao động Quốc tế tại Châu Á-Thái Bình Dương khẳng định: Năng suất lao động của một quốc gia hầu như không thể phản ánh mức độ chuyên cần và khả năng của người lao động

của quốc gia đó. Năng suất lao động của một quốc gia trước hết phụ thuộc vào mức độ hiệu quả sử dụng lao động kết hợp với các yếu tố sản xuất khác, như máy móc và công nghệ, và lượng máy móc và công nghệ mà một người lao động của quốc gia đó được sử dụng. Bởi vậy, nếu từ các thống kê năng suất lao động mà kết luận rằng người lao động ở Malaysia hoặc Singapore có thể tạo ra một sản phẩm cụ thể nào đó nhanh hơn người lao động ở Việt Nam là chưa chính xác

3. Một số suy nghĩ về NSLĐ gắn với thực tiễn Việt nam

Qua câu chuyện về NSLĐ như trên, gắn với vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế, NSLĐ có những ý nghĩa mới hơn so với nhận thức chung mà Việt Nam nên chú ý:

- Một là, dù là từ lý thuyết hay từ thực tiễn thì NSLĐ có bản chất kinh tế rất rõ và được tính toán, tổng hợp từ các ngành kinh tế khác nhau. Chính vì vậy, với Việt Nam cơ cấu ngành có ý nghĩa quyết định đến NSLĐ.

- Hai là, Việt Nam vẫn đang trong quá trình chuyển đổi và tiến hành công nghiệp hóa xuất phát từ trình độ phát triển thấp nên phân bổ và phân bổ lại nguồn lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu ngành theo hướng công nghiệp hóa gắn với triển khai hội nhập quốc tế phải tạo ra đóng góp xứng đáng cho tăng NSLĐ của những ngành được ưu tiên và tổng thể nền kinh tế.

- Ba là, ở cấp vĩ mô Việt Nam nên chú trọng đến việc thực hiện đồng thời ( không phải từng chính sách riêng lẻ) mà là các tập hợp chính sách ( như đào tạo, thu hút đầu tư, đổi mới công nghệ, chuyển giao công nghệ…) vừa tăng NSLĐ, vừa tăng được tỷ trọng trong ngành để tạo ra được các ngành kinh tế thực sự năng động với các doanh nghiệp năng động đóng góp cụ thể thiết thực vào tăng trưởng năng suất.

Page 14: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA nghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201412

1. Thực trạng tác động của môi trường kinh tế đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam.

Năng lực cạnh tranh quốc gia ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của DNVVN, được thể hiện qua các chỉ số cơ bản đánh giá năng lực cạnh tranh của tỉnh, gồm chín chỉ số thành phần:

1) Chi phí gia nhập thị trường thấp;

2) Doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đất đai và có mặt bằng kinh doanh ổn định;

3) Môi trường kinh doanh công khai, minh bạch, doanh nghiệp dễ dàng và thuận lợi tiếp cận các thông tin phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình;

4) Chi phí không chính thức thấp ở mức tối thiểu;

5) Chi phí thời gian mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện các thủ tục hành chính và thanh tra kiểm tra của Nhà nước thấp nhất;

6) Lãnh đạo tỉnh năng động và tiên phong trong giải quyết các vấn đề của doanh nghiệp;

7) Các dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp phát triển và có chất lượng;

8) Chính sách đào tạo lao động của tỉnh tốt;

9) Hệ thống tòa án và cơ quan giải quyết khiếu nại hành chính trong tỉnh công bằng và hiệu quả, giúp doanh nghiệp giải quyết các tranh chấp của mình;

Chính sách kinh tế vĩ mô tác

động mạnh đến khả năng tiếp cận các nguồn lực và thị trường của doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam . Theo báo cáo chỉ số cạnh tranh toàn cầu giai đoạn 2012-2013, trong cuộc khảo sát ý kiến các chuyên gia, thiếu lao động có trình độ là một trong 3 yếu kém nhất của Việt Nam, và ảnh hưởng đến quá trình phát triển của doanh nghiệp (Hình 1). Trên đồ thị dạng “mạng nhện” của Việt Nam (Hình 2), một trong 3 “vùng lõm” của Việt Nam là giáo dục và đào tạo đại học.

Một số hạn chế và tác động:- Một là, tiếp cận thị trường

lao động có kỹ năng và trình độ vẫn là hạn chế lớn nhất của thị trường lao động Việt Nam. Báo cáo của VNCI (2012) cho thấy lao động và nguồn nhân lực chất lượng cao là một trong 3 khó khăn lớn nhất mà các doanh nghiệp phải đối mặt.

- Hai là, tiếp cận nguồn vốn. Theo Báo cáo tổng quan kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2013, 32% DNVVN gặp khó khăn về nguồn tài chính, tín dụng. Việc các ngân hàng yêu cầu phải cung cấp kế hoạch kinh doanh và các DNVVN phải chứng minh được quyền sở hữu tài sản cũng là một trong những lý do chính cản trở DNVVN tiếp cận được các nguồn vốn. Đó là chưa kể sự thiếu minh bạch và không thống nhất trong

ngHiÊn cỨu sỰ tÁc động cỦa mÔi trƯỜng KinH tẾ đẾn sỰ pHÁt triỂn cỦa

cÁc DOanH ngHiệp VỪa VÀ nHỎ Việt namTh.S Lê Thị Tuệ KhaNh - Đại học GTVT

Th.S TrầN hươNg giaNg – Học viện BCVT

+DoaNH NgHiệP Vừa Và NHỏ (DNVVN) LuôN Là một Bộ PHậN quaN trọNg troNg NềN kiNH tế quốc DâN. Nó đóNg góP đáNg kể Vào tăNg trưởNg kiNH

tế, tạo côNg ăN Việc Làm góP PHầN tăNg tHu NHậP cHo DâN cư, ổN địNH xã Hội, LấP đầy NHữNg kẽ Hở mà các DoaNH NgHiệP LớN kHôNg Làm được. tuy NHiêN troNg NHữNg Năm gầN đây, môi trườNg kiNH tế đaNg có sự BiếN độNg rất LớN qua các yếu tố NHư Lãi suất, tốc đô tăNg trưởNg, Lạm PHát…..sự BiếN độNg Này gây LêN kHôNg ít kHó kHăN cHo các DoaNH NgHiệP, đặc Biệt Là các DoaNH NgHiệP Vừa Và NHỏ. Bài Viết tậP truNg PHâN tícH tHực trạNg, đáNH giá các tác độNg tiêu cực đối Với sự PHát triểN DNVVN, qua đó đề xuất giải PHáP Vĩ mô để tạo LậP môi trườNg kiNH tế tHúc đẩy sự PHát triểN BềN VữNg cHo DNVVN Việt Nam, troNg môi trườNg Hội NHậP kiNH tế tHế giới. Từ khóa: DNVVN; doanh nghiệp vừa và nhỏ

Page 15: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIAnghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 13

thủ tục và quyết định cho vay của các ngân hàng đối với loại hình doanh nghiệp này.

- Ba là, tiếp cận đất đai. Trong khi một số DNNN được giao đất và sử dụng chưa thực sự hiệu quả, các DNVVN lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm mặt bằng kinh doanh. Ngay cả khi DN có mặt bằng sản xuất thì việc lo đủ các thủ tục cần thiết để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cũng tốn nhiều công sức và tiền bạc. Những quy hoạch đất đai không được công khai minh bạch, thủ tục đất đai rối rắm, quy định khác nhau ở các địa phương đã gây không ít khó khăn cho DN trong việc thuê đất để sản xuất kinh doanh.

- Bốn là, tiếp cận cơ sở hạ tầng. Theo báo cáo năng lực cạnh tranh toàn cầu GCI của WEF, cơ sở hạ tầng là một trong 3 điểm yếu nhất của môi trường kinh doanh, ảnh hưởng rất lớn đến cạnh tranh của các doanh nghiệp. Sự phát triển của cơ sở

hạ tầng chưa theo kịp sự phát triển của kinh tế và đầu tư của nước ngoài. Rất nhiều dự án lớn bị chậm trễ hoặc thậm chí hủy bỏ do nhiều nguyên nhân trong đó có vấn đề giao thông, cũng như sự phát triển không đồng bộ như có đường chưa có cầu, chưa có bến cảng, kho bãi.

- Năm là, tiếp cận thị trường. Thị trường lớn nhất của những DNVVN Việt Nam hiện tại chủ yếu là thị trường trong nước, việc mở rộng thị trường quốc tế đối với khu vực này là rất khó khăn. Do chi phí tiếp cận thị trường nước ngoài rất cao, nên chỉ rất ít những DNVVN tiếp cận được thị trường nước ngoài. Tỷ lệ phần trăm các DNVVN của Việt Nam có xuất khẩu trực tiếp rất nhỏ, còn phần lớn là không có chiến lược tận dụng cơ hội mở cửa và hội nhập của nền kinh tế.

2. Vấn đề đặt ra đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam trong môi trường hội nhập kinh tế thế giới.

Thứ nhất, khi gia nhập WTO,

Việt Nam phải điều chỉnh, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho phù hợp với cam kết hội nhập và các chuẩn mực kinh tế thị trường.

Thứ hai, gia nhập WTO, các DNVVN Việt Nam có cơ hội tiếp cận thị trường toàn cầu trên cơ sở cạnh tranh bình đẳng, không bị rào cản thuế quan và phi thuế quan, điều mà bất cứ doanh nghiệp nào cũng mong muốn.

Thứ ba, trở thành thành viên của WTO, các DNVVN của Việt Nam có lợi hơn trong các tranh chấp thương mại do tiếp cận được hệ thống giải quyết tranh chấp công bằng và hiệu quả của WTO, tránh tình trạng bị các nước lớn gây sức ép trong các tranh chấp thương mại quốc tế.

Thứ tư, WTO hoạt động dựa trên mục tiêu chính là nâng cao mức sống của nhân dân các nước thành viên, đảm bảo việc thúc đấy tăng trưởng kinh tế, thương mại và sử dụng hiệu quả nhất nguồn nhân lực của thế giới.

Thứ năm, việc tham gia các cam kết trong khuôn khổ WTO

Nguồn:[1] Nguồn:[1]

Hình 1: Biểu đồ ý kiến của các doanh nghiệp về những “vấn đề lo ngại nhất”

Hình 2: Sơ đồ mạng nhện điểm mạnh và điểm yếu của môi trường kinh doanh Việt Nam

Page 16: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA nghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201414

cũng đặt ra những thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế và các DNVVN Việt Nam: WTO là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu, các doanh nghiệp Việt Nam buộc phải tuân theo những luật chơi, mà ở đó người thắng cuộc là những doanh nghiệp mạnh và hoạt động có hiệu quả hơn.

3. Các giải pháp hoàn thiện chính sách phát triển DNVVN Việt Nam

3.1. Hoàn thiện chính sách đất đai

- Ban hành luật về giao dịch bất động sản điều chỉnh các giao dịch về quyền sử dụng đất và tài sản gắn trên đất, dùng các công cụ thuế đánh vào các giao dịch về đất để tránh đầu cơ đất và tăng thu cho ngân sách nhà nước.

- Xây dựng bản tin về giá đất ở địa phương theo định kỳ và công bố rộng rãi ra công chúng để lành mạnh hoá thị trường bất động sản, tránh đầu cơ về giá.

- Đổi mới chính sách về đền bù, bồi thường giải phóng mặt bằng nhằm tháo gỡ những khó khăn khi Nhà nước thu hồi đất, chuyển mục đích sử dụng đất, giải phóng về cơ sở pháp lý cho các DNVVN tiếp cận và thực hiện nhanh chóng thu hồi đất để tạo mặt bằng sản xuất kinh doanh. Đồng thời cải thiện năng lực quản lý nhà nước về đất đai của các cơ quan có thẩm quyền từ cấp Trung ương xuống địa phương, giảm thiểu tệ quan liêu, nhũng nhiễu và tham nhũng.

- Sửa đổi qui định theo hướng cho khách hàng vay vốn được bảo đảm bằng căn hộ đã mua trong các dự án xây dựng chung cư hoặc quyền sử dụng đất đã trúng thầu như là một tài sản hình thành trong tương lai cho

phù hợp với thực tế. Cần có qui định rõ về tài sản đảm bảo để đất thuê 20, 50 năm được thế chấp để vay vốn.

3.2. Đẩy mạnh chính sách hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.

- Đẩy mạnh hoạt động của Quỹ bảo lãnh tín dụng cho DNVVN nhằm tạo điều kiện cho DN tiếp cận được các khoản vay ngắn, trung hạn và dài hạn đối với các dự án kinh doanh từ các tổ chức tín dụng thông qua các hình thức bảo lãnh, tái bảo lãnh tín dụng nhằm hỗ trợ các DNVVN khi gặp rủi ro không trả được nợ vay.

- Nhà nước cần có các biện pháp hợp tác với các tổ chức tài chính tín dụng quốc tế thực hiện các hoạt động bảo lãnh tín dụng cho DNVVN. Đây là một hoạt động cần được đẩy mạnh.

- Đổi mới tư duy về việc sử dụng thế chấp là công cụ chính trong chính sách cho vay của các Ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng. Mở rộng các hình thức xem xét cho vay không cần thế chấp, đồng thời xoá bỏ việc hình sự hoá các quan hệ tín dụng của ngân hàng, tổ chức tín dụng với các DNVVN. Mặt khác nhà nước nên có định chế chính sách nhằm chuyển vai trò ngân hàng từ doanh nghiệp cho vay sang nhà đầu tư.

- Hình thành và phát triển thị trường tài chính để hạ thấp chi phí cho các DNVVN khi vay vốn. Cùng với việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của ngành ngân hàng, cần tạo thêm các kênh để các DNVVN tự bổ sung vốn mở rộng nhiều hình thức thu hút vốn trong dân và vốn đầu tư nước ngoài.

3.3. Hoàn thiện chính sách

thuếChính sách thuế cần phải phù

hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện bảo hộ hợp lý, có chọn lọc, có thời hạn, có điều kiện, tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và tạo môi trường pháp lý bình đẳng, công bằng, minh bạch, công khai.

3.4. Tạo lập môi trường kiềm chế lạm phát và tăng giá các yếu tố đầu vào của doanh nghiệp.

“Cần có sự kiểm soát giá trong chính sách vĩ mô”. Giá các loại năng lượng tăng khi lạm phát tăng làm chi phí đầu vào của Doanh nghiệp tăng trên cả hai góc độ: Một là chi phí sử dụng tăng lượng của doanh nghiệp trực tiếp bị tăng do tăng giá. Hai các nhà cung ứng vật tư nguyên liệu, dịch vụ vận tải… cũng tăng giá, do sản phẩm, dịch vụ của họ cũng bị tăng chi phí năng lượng. Việc các yếu tố đầu vào tăng giá ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động SXKD và hiệu quả kinh doanh.

Việt Nam gia nhập WTO từ năm 2007, hơn 7 năm qua những biến động kinh tế, tài chính của nền kinh tế thế giới đã tác động không nhỏ đến nền kinh tế Việt Nam, tình hình lạm phát, lãi suất ngân hàng tăng cao đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của DNVVN. Trước tình này nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách ổn định nhằm hỗ trợ, khuyến khích DNVVN phát triển bền vững.

TÀI LIỆU THAM KHẢO:1. Tổng quan kinh tế Việt

Nam năm 2011, 2012,2013.2. Phạm Văn Hồng (2007),

Phát triển DNVVN ở Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, Luận án tiến sĩ kinh tế, trường ĐH KTQD, Hà Nội.

Page 17: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIAnghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 15

Khi xã hội phân chia giai cấp và hình thành các tập đoàn quyền lực cũng là lúc “căn bệnh” tham nhũng xuất hiện trong đời sống xã hội. Là một hiện tượng xã hội tiêu

cực, tham nhũng ăn sâu vào trong mọi chế độ xã hội, không phân biệt chế độ chính trị, không phân biệt nước lớn hay nhỏ, không phân biệt mức độ giàu nghèo, phát triển hay kém phát triển ở các quốc gia. Một số nơi trên thế giới, tham nhũng làm "suy kiệt cơ thể" xã hội, gây xáo trộn, mất ổn định chính trị. Phòng, chống tham nhũng là công việc khó khăn, phức tạp, cần sự quyết liệt và kiên trì, là chính sách ưu tiên của nhiều quốc gia và sự nỗ lực của cả cộng đồng quốc tế. Nhận thức đầy đủ tính nghiêm trọng và sự nguy hại của tham nhũng, trải qua các thời kỳ, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra và thực hiện nhiều chủ trương, giải pháp tích cực để phòng, chống tham nhũng.

Tuy nhiên, để xây dựng được một chính sách pháp luật hoàn chỉnh về phòng chống tham nhũng cũng như để công tác phòng, chống tham nhũng thực sự đạt được kết quả tốt nhất trước hết cần có sự nhất quán trong cách hiểu về khái niệm tham nhũng, pháp luật về phòng, chống tham nhũng và có những đánh giá khách quan nhất về vai trò cũng như chức năng của pháp luật trong công tác phòng chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.

1. Đồng nhất trong cách hiểu về tham nhũngTrong khoa học và thực tiễn đã có nhiều quan

niệm khác nhau về tham nhũng.Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng châu Âu đã

đưa ra khái niệm tham nhũng: “Tham nhũng bao gồm những hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của những người được giao thực hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước hoặc tư nhân, nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc cho người khác”.

Theo tổ chức minh bạch Thế giới (TI), tham nhũng là hành vi “của người lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá nhân”. Ngân hàng Thế giới (WB) cho

rằng tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ công để

tư lợi”.Ban Tổng thư ký Liên hợp quốc cho rằng:

“Tham nhũng bao hàm: Một là: Hành vi của những người có chức, có quyền ăn cắp, tham ô và chiếm đoạt tài sản của Nhà nước. Hai là: Lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua việc sử dụng các uqy chế chính thức một cách không chính thức. Ba là: Sự mâu thuẫn, không cân đối giữa các lợi ích chính đáng do thực hiện nghĩa vụ xã hội với những món tư lợi riêng”.

Ở Việt Nam cũng có nhiều quan niệm về tham nhũng.

Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói về tham ô – biểu hiện đặc trưng nhất của tham nhũng, theo Người: “Tham ô là gì? Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công làm của tư, đục khoét của nhân dân, ăn bớt của bộ đội. Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô. Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là: Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế”.

Theo Từ điển Tiếng Việt, “tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của”. Theo quy định tại Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005: “tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi”.

Nghiên cứu tham nhũng dưới góc độ đạo đức xã hội, có quan điểm cho rằng: Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử xuất hiện và tồn tại trong xã hooij phân chia giai cấp và hình thành nhà nước, được thể hiện bằng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cho cá nhân hoặc người khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây thiệt hại tài sản của nhà nước, của tập thể, của công dân hoặc đe doạn gây thiệt hại cho hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc quyền, lợi ích hợp pháp của công nhân.

Có quan điểm lại cho rằng: Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, trong đó các tổ chức, tập đoàn, cá nhân,…lợi dụng những ưu thế về chức vụ, cương vị, uy tín, nghề nghiệp, hoàn cảnh của mình hoặc người khác, lợi dụng những sơ hở của

pháp luật để trục lợi bất chính.Cũng có quan điểm cho rằng tham nhũng là

hành vi được thực hiện bởi người có chức vụ quyền hạn và thường gắn với nhiệm vụ công, hay thường gắn với quá trình quản lý nhà nước. Song, lại có quan điểm cho rằng tham nhũng không chỉ giới hạn bởi các hành vi thuộc các cơ quan nhà nước mà nó còn tồn tại trong nhiều các mối quan hệ ngoài nhà nước khác hay còn gọi là trong khu vực tư.

Như vậy, mặc dù diễn giải khác nhau song hầu hết các quan điểm trên đều giống nhau ở chỗ cho rằng: Tham nhũng là hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ đó để vụ lơi cá nhân, làm thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

Từ cách hiểu trên về tham nhũng, nhìn dưới góc độ là một hành vi vi phạm pháp luật, tham nhũng có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn. Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3, Điều 1, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005). Nhìn chung, nhóm đối tượng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối tượng khác như: họ thường là những người có quá trình công tác và cống hiến nên có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ thống, là những chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy tín xã hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.

Thứ hai, chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao. “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Khi thực hiện hành vi tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó thì không thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của

NHữNG VấN Đề Lý LUậN về phòng chống tham nhũng

Vũ Bắc hà

Page 18: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA nghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201416

người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng với các hành vi vi phạm pháp luật khác.

Thứ ba, mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông qua hành vi tham nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham nhũng phải đạt được lợi ích. Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất khó phân biệt; ví dụ như: việc dùng tài sản của Nhà nước để khuyếch trương thanh thế, gây dựng uy tín hay các mối quan hệ để thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi ích vật chất, vừa là lợi ích tinh thần... Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có những sự điều chỉnh nhất định. Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc khu vực tư cấu kết, móc nối với những người thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng ảnh hưởng của những người này để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi người có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành

Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:

- Tham ô tài sản.- Nhận hối lộ.- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt

tài sản.- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi

hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ,

công vụ vì vụ lợi.- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng

với người khác để trục lợi.- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi

người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.

- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.

- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho

người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi.

Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung ngày năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010; hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới được bổ sung do đây là những hành vi đã phát sinh và đang trở nên phổ biến trên thực tế, cần được quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý. So với những hành vi tham nhũng tại Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và các tội phạm về tham nhũng trong Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Luật phòng, chống tham nhũng có bổ sung 5 hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến trong thời gian gần đây. Việc quy định thêm 5 loại hành vi mới này là cần thiết và là cơ sở pháp lý để đấu tranh với những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng đều bị xử lý về hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong Bộ luật hình sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự, (các hành vi được quy định từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 3 của Luật) còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến khoản 12, Điều 3 của Luật) được xác định là hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì được xử lý bằng biện pháp kỷ luật.

2. tác hại của tham nhũngTham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả

nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng ở những điểm chính sau:

Thứ nhất, tác hại về chính trị. Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Quan điểm và tư duy đổi mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham nhũng làm cho méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế, chính sách để thực hiện hành vi tham nhũng. Ngược lại, kẻ tham nhũng lại lợi dụng yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và các biện pháp khác để doạ dẫm, đòi hối lộ của các đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách đã trở thành công cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân.

Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nếu chúng ta không có biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mặc dù Việt Nam được coi là quốc gia ổn định, an toàn về chính trị, xã hội. Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo động. Tham nhũng không chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án lớn mà còn xuất hiện nhiều trong các cấp chính quyền cơ sở - là cơ quan tiếp xúc với nhân dân hằng ngày, giải quyết những công việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc thực hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước. Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân dân mất niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to lớn, thậm chí có tính chất quyết định đối với sự nghiệp cách mạng. Do đó nếu không đẩy lùi được tham nhũng thì nó sẽ trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe dọa sự tồn vong của chế độ.

Thứ hai, tác hại về kinh tế. Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân. Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời gian, công sức của nhân dân. Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy nhà nước hoặc lợi dụng những quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho để thực hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể hoặc cá nhân. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà nước, của tập thể, của công dân. Vì lợi ích cá nhân mà những kẻ tham nhũng sẵn sàng nhập cả một dây chuyền sản xuất đã lạc hậu hay một con tàu mua về chỉ có thể bán sắt vụn, những công trình xây dựng chưa sử dụng đã hư hỏng... Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình như xin cấp các loại giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác. Nếu xét từng trường hợp một thì giá trị vật chất bị lãng phí có thể không quá lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra thường xuyên, liên tục trong cuộc

Page 19: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIAnghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 17

sống hằng ngày thì con số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm trọng.

Thứ ba, tác hại về xã hội. Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ, công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng. Cán bộ, công chức khi thực hiện hành vi tham nhũng đã không còn làm việc vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục vụ nhân dân mà hướng tới việc thu được các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà còn có xu hướng lan sang các lĩnh vực mà từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo dục, thể dục, thể thao. Điều đáng báo động là một số cán bộ, công chức coi việc tham nhũng trở thành bình thường. Họ cho rằng, đối tượng quản lý đương nhiên phải "bồi dưỡng" khi muốn thực hiện các công việc thuộc trách nhiệm của người cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, khi người thực hiện hành vi tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.

3. Nhất quán trong quan điểm về phòng, chống tham nhũngPhòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ được

các quốc gia trên thế gới quan thâm thực hiện. Có thể hiểu: Phòng, chống tham nhũng là các biện pháp mà nhà nước áp dụng để phòng ngừa, ngăn chặn sự phát sinh các hành vi tham nhũng, phát hiện được và xử lý các hành vi tham nhũng. Theo như cách hiểu này, công tác phòng, chống tham nhũng bao gồm các hoạt động sau:

Thứ nhất, hoạt động phòng ngừa tham nhũng. Phòng ngừa tham nhũng là biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa sự phát sinh các hành vi tham nhũng. Tùy theo điều kiện hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nước có những cách thực, biện pháp phòng ngừa khác nhau. Trong đó đáng kể nhất là tăng cường tính công khai, minh bạch đối với các hoạt động của Nhà nước; minh bạch tài sản, thu nhập của công chức; kiểm soát chặt chẽ tài sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn; cải cách thủ tục hành chính, đưa ứng dụng công nghệ vào quản lý; thực hiện tốt thanh toán không dùng tiền mặt, nâng cao trách nhiệm của người

đứng đầu, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp; tăng cường công tác quản lý nhà nước, quản lý kinh tế xã hội trên các lĩnh vực. Việc thực hiện các biện pháp này là điều kiện cần thiết để đề phòng, ngăn ngừa các hành vi tham nhũng nẩy sinh trên thực tế.

Thứ hai, hoạt động phát hiện tham nhũng. Phát hiện tham nhũng là quá trình tìm ra các hành vi tham nhũng được thực hiện bởi các chủ thể cụ thể. Do chủ thể tham nhũng thường là những người có chức vụ, quyền hạn và một số trường hợp được che đậy bởi những thủ đoạn hết sức tinh vi, thậm chí còn được các công cụ quyền lực che chắn, do đó việc phát hiện tham nhũng là một trong những công việc hết sức khó khăn. Hiện nay tham nhũng thường được phát hiện thông qua các hoạt động như: thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát. Bên cạnh đó, không thể không nhắc tới vai trò phát hiện và cung cấp thông tin của các cơ quan, tổ chức đặc biệt là các cơ quan thông tấn báo chí và sự giám sát của đông đảo quần chúng nhân dân.

Thứ ba, hoạt động xử lý tham nhũng. Xử lý tham nhũng là áp dụng các biện pháp trừng phạt của nhà nước đối với người có hành vi tham nhũng. Việc xử lý tham nhũng không chỉ nhằm mục đích trừng trị người có hành vi tham nhũng mà còn có mục đích răn đe, giáo dục những người khác để họ không dám thực hiện hành vi tham nhũng. Việc kết luận một người có hành vi tham nhũng hay không và trách nhiệm pháp lý như thế nào, chế tài xử lý ra sao căn cứ vào tính chất, mức độ và hậu quả của hành vi tham nhũng. Thông thường nhà nước áp dụng các biện páp xử lý kỷ luật, hành chính, trừng phạt về kinh tế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự, trong đó việc truy cứu trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với những hành vi tham nhũng ở mức độ nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Đối với các hành hành vi tham nhũng gây nguy hiểm cho xã hội không lớn thì pháp luật quy định các biện pháp xử lý hành chính. Trong trường hợp hành vi tham nhũng gây thiệt hại về tài sản, quyền tài sản thì buộc khắc phục hậu quả hoặc bồi thường thiệt hại, những tài sản do tham nhũng mà có thì được thu hồi nộp vào ngân sách nhà nước hoặc trả lại cho chủ sở hữu.

4. Pháp luật về phòng, chống tham nhũngTrong khoa học pháp lý, pháp luật về phòng,

chống tham nhũng chưa được coi là một ngành luật độc lập với dối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng biệt.

Theo nghĩa rộng, pháp luật về phòng, chống tham nhũng có thể hiểu là các quy định góp phần vào việc phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa này thì khó có thể hệ thống hóa một cách đầy đủ và rút ra được

những đặc điểm riêng của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Theo nghĩa hẹp, pháp luật về phòng chống tham nhũng là tổng thể các quy phạm pháp luật được thể hiện trong luật phòng chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nhưng hiểu theo nghĩa này thì cũng có điểm không hoàn toàn chính xác vì bên cạnh Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật phòng chống tham nhũng, còn rất nhiều văn bản thuộc nhiều ngành luật khác nhau cũng có tác dụng phòng chống tham nhũng và có thể được xem là pháp luật về phòng, chống tham nhũng.

Theo cấu trúc logic, pháp luật về phòng chống tham nhũng bao gồm các nguyên tắc chung, các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trong đó có chứa đựng các quy tắc xử sự chung được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật về phòng chống tham nhũng theo ý chí của nhà nước.

Từ những cách hiểu trên, có thể định nghĩa: Pháp luật về phòng, chống tham nhũng là tổng thể các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm xác định các biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; tổ chức, hoạt động của cơ quan phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong phòng, chống tham nhũng; hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng và các biện pháp bảo đảm nhằm phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.

Từ định nghĩa trên, có thể thấy, pháp luật về phòng, chống tham nhũng có những đặc điểm sau:

Thứ nhất, pháp luật về phòng, chống tham nhũng xác định rõ những hành vi nào là hành vi tham nhũng và những biện pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng đối với các chủ thể có hành vi đó. Các biện pháp được áp dụng có thể là biện pháp hình sự, hành chính hoặc kinh tế, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng.

Thứ hai, pháp luật về phòng, chống tham nhũng điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng ngừa tham nhũng và các quan hệ giữa các cơ quan chức năng của nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong việc phát hiện, xử lý các hành vi tham nhũng; quy định các biện pháp được áp dụng để phòng ngừa tham nhũng, đồng thời, quy định vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phòng, chống tham nhũng.

Thứ ba, pháp luật về phòng chống tham nhũng sử dụng các cách thưc, phương pháp tác động nhằm hạn chế, ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng để bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Các phương pháp điều chinh của nó mang tính quyền uy, phục tùng, nuộc mọi chủ thể pháp

Page 20: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA nghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201418

luật phải tuân theo.5. Vai trò của pháp luật về phòng, chống tham nhũngPháp luật đóng vai trò vô cùng quan trọng

trong đời sống xã hội nói chung, trong lĩnh vực phòng, chống tham nhũng nói riêng. Vai trò của pháp luật về phòng, chống tham nhũng có thể được khái quát qua một số các điểm như sau:

Thứ nhất, pháp luật về phòng, chống tham nhũng là cơ sở pháp lý để nhận diện tham nhũng. Sở dĩ pháp luật là cơ sở pháp lý để nhận diện tham nhũng là bởi chính các quy định của pháp luật đã đưa ra khái niệm tham nhũng và các dấu hiệu đặc thù của tham nhũng; pháp luật quy định cụ thể các hành vi tham nhũng với các dấu hiệu đặc trưng của nó và sự phân hóa về tính chất. Tùy theo thực trạng tham nhũng và mục tieu, yêu cầu của việc đấu tranh phòng chống tham nhũng mà Nhà nước ban hành các quy định để nhận diện tham nhũng thông qua các dấu hiệu đặc thù của tham nhũng. Có thể nói, với việc quy định các hành vi tham nhũng, pháp luật đã tạo điều kiện nhận diện tham nhũng, nhận biết được các hành vi tham nhũng xẩy ra trên thực tế, đồng thời, phân biệt được hành vi tham nhũng với hành vi vi phạm pháp luật khác, giữa hành vi tham nhũng này với hành vi tham nhũng khác.

Thứ hai, pháp luật tạo lập khuôn khổ pháp lý để phòng ngừa tham nhũng. Để có tác dụng trong việc phòng ngừa tham nhũng, một mặt các quy định của pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cần phải đảm bảo sự chặt chẽ cả về nội dung lẫn hình thức nhằm hạn chế sự lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục lợi hoặc nếu có lợi dụng thì cũng có đủ điều kiện để phát hiện ra. Bên cạnh đó, pháp luật quy định rõ các biện pháp phòng ngừa tham nhũng cụ thể, trong đó nêu rõ cách thức, nội dung và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đối với việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Thời gian qua, pháp luật về phòng chống tham nhũng ở nước ta đã rất coi trọng phòng ngừa tham nhũng và thực tế các quy phạm pháp luật về phòng ngừa tham nhũng chiếm tỷ lệ rất lớn trong Luật phòng chống tham nhũng nhằm tạo lập khioon khổ và xây dựng ý thức phòng ngừa tham nhũng trong các đối tượng và lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao trong xã hội.

Thứ ba, pháp luật về phòng chống tham nhũng tạo lập khuôn khổ pháp lý để phát hiện, xử lý tham nhũng.

- Pháp luật là cơ sở pháp lý cho quá trình phát hiện tham nhũng hay nói cách khác là tìm ra những vụ việc tham nhũng để trên cơ sở đó có biện pháp khắc phục thiệt hại xảy ra, xem xét, ra quyết định xử lý những người có hành vi tham nhũng và tài sản tham nhũng. Thông qua việc quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thẩm quyền của các cư quan chức năng

trong việc phát hiện hành vi tham nhũng cũng như các quy định bảo vệ, khuyến khích các cá nhân, tổ chức cung cấp thông tin tố giác tội phạm tham nhũng. Pháp luật đã và đang tạo ra hành lang pháp lý căn bản cho quá trình phát hiện tham nhũng.

- Pháp luật là căn cứ pháp lý để các cơ quan có thẩm quyền xem xét, kết luận các hành vi tham nhũng, xác định tài sản tham nhũng, để từ đó ra các quyết định xử lý đối với những người có hành vi tham nhũng, những người có liên quan và tài sản tham nhũng. Tùy theo tính chất, mức độ của hành vi vi phạm để có hình thức xử lý vi phạm kỷ luật hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự.

Dễ dàng nhận thấy, so với các quy định về phòng ngừa thì các quy định về phát hiện và xử lý tham nhũng thường it hơn, nhưng lại mang tính cưỡng chế rất cao. Các biện pháp chế tài xử lý, các hành vi tham nhũng cũng như tài sản tham nhũng thường là nghiêm khắc hơn. Chế tài đối với những người có hành vi tham nhũng được pháp luật quy định rõ trong pháp luật hình sự hoặc trong các quy định về xử lý kỷ luật, hành chính đối với cán bộ, công chức, viên chức và những người có liên quan, trong đó, hình thức xử lý hình sự đối với hành vi tham nhũng hiện nay là tương đối nghiêm khắc, cao nhất là tử hình. Biện pháp xử lý tài sản tham nhũng được áp dụng là thu hồi, tịch thu tài sản tham nhũng và trả lại tài sản cho chủ sở hữu, người quản lý hợp pháp hoặc sung quỹ nhà nước.

Thứ tư, pháp luật về phòng chống tham nhũng là cơ sở pháp lý để các cơ quan phòng chóng tham nhũng thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của mình trong phòng chống tham nhũng. Việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng có liên quan đến hoạt động của các cơ quan nhà nước, do đó pháp luật về phòng chống tham nhũng với các quy định cụ thể về trình tự, thủ tục, cách thức tiến hành trong công tác phòng chống tham nhũng là cơ sở pháp lý quan trọng để các cơ quan chức năng áp dụng các biện pháp phòng ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng, xử lý những người có hành vi tham nhũng. Bên cạnh đó, mỗi cơ quan trong bộ máy nhà nước đều có chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn riêng nên pháp luật phòng chống tham nhũng với các quy định về trình tự, thủ tục, chức năng, nhiệm vụ quyền hạn, cơ cấu tổ chức của từng cơ quan chức năng trong phòng chống tham nhũng giúp các cơ quan chức năng triển khai các hoạt động, nhiệm vụ phòng chống tham nhũng một cách tập chung, chủ động và có hiệu quả hơn. Đồng thời, pháp luật cũng là căn cứ pháp lý để cán bộ, công chức nhà nước hiểu rõ thẩm quyền, trách nhiệm của mình trong việc quyết định các vấn đề có liên quan đến công tác phòng chống tham nhũng.

Thứ năm, pháp luật về phòng chống tham nhũng là cơ sở pháp lý để phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong phòng chống

tham nhũng. Pháp luật quy định vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong phòng chống tham nhũng. Căn cứ vào các quy định của pháp luật, công dân và các tổ chức trong xã hội chủ động tham gia vào công tác phòng chống tham nhũng bằng nhiều cách khách nhau, hoặc thực hiện quyền giám sát đối với các hoạt động của các cơ quan của nhà nước và các tổ chức cá nhân trong xã hội nhằm phát hiện các hành vi tham nhũng; cung cấp thông tin về tham nhũng cho các cơ quan chức năng của nhà nước trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tram điều tra để phát hiện và xử lý tham nhũng.

Thứ sáu, pháp luật về phòng chống tham nhũng là chuẩn mực để các chủ thể lựa chọn những xử sự phù hợp trong đời sống pháp lý. Pháp luật bao gồm những quy tắc xử sự chung được nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện; các quy phạm pháp luật chứa đựng rất nhieuf giá trị chuẩn mực. từ việc hiểu pháp luật mà các tô chức, cá nhân trong xã hội có sự lựa chọn cho mình cách ứng xử phù hợp và không bị vi phạm pháp luật. Đối với các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước à những người có chức vụ, quyền hạn cần phải có sự lựa chọn xử sự của mình theo nguyên tắc chỉ được làm những gì mà pháp luật quy định, cho phép, theo đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục; đối với các tổ chức, cá nhân khác trong xã hội thì lựa chọn những xử sự mà pháp luật không cấm hoặc bắt buộc phải làm.

Thứ bảy, pháp luật về phòng chống tham nhũng là cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền cn người, bảo đảm công bằng xã hội, phát triển bền vững. Xuất phát việc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo vệ lợi ích chung của xã hội, tránh sự xâm hại của các chủ thể, nhất là những người có chức, có quyền trong xã hội, pháp luật về phòng chóng tham nhũng đã đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người cũng như tạo lập sự bình đẳng, bảo đảm được công bằng trong xã hội và phát triển bền vững.

Thứ tám, pháp luật về phòng chống tham nhũng là cơ sở pháp lý để tiến hành các hoạt động hợp tác quốc tế phòng chống tham nhũng. Chống tham nhũng không chỉ là công việc riêng của bất cứ một quốc gia nào mà còn là trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Thực tế, có những hành vi tham nhũng được thực hiện xuyên quốc gia, đòi hỏi phải có sự phối hợp giữa các nước trong việc phát hiện và xử lý tham nhũng. Để tạo lập khuôn khổ pháp lý trong đâu tranh chống tham nhũng, các nước trên thế gới đã chung tay xây dựng công ước của liên hợp quốc về chống tham nhũng. Trong khuôn khổ hợp tác quốc tế song phương, đa phương, các nước có quan hệ ngoại giao cũng đã thống nhất xây dựng các thỏa thuận hoặc điều ước quốc tế về nghiên cứu, đào tạo, xây dựng chính sách, trao dổi thông tin, hỗ trợ tài chính, trợ giúp kỹ thuật, trao đổi kinh nghiệm, tương trợ tư pháp trong phòng chống tham nhũng.

Page 21: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIAnghiên Cứu - diễn đàn

hợp tác & phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 19

Đề cập đến vấn đề lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định sự vận động của nền sản xuất xã hội. V.I Lênin từng khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng

đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là người lao động”1. Như vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin trong các yếu tố của quá trình sản xuất thì yếu tố con người giữ vai trò quyết định bậc nhất. Con người tồn tại với tư cách là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị lịch sử. Do đó, nghiên cứu quá trình vận động và phát triển của lực lượng sản xuất không thể không nghiên cứu vai trò và vị trí của nhân tố con người.

Có thể thấy, trong số các nhân tố để tạo ra nguồn lực chung thúc đẩy nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia thì nhân tố con người giữ vị trí đặc biệt quan trọng, là yếu tố năng động quyết định sự phát triển của xã hội. Tuy nhiên, nhân tố con người tự nó không thể tạo ra được sức mạnh to lớn nếu không được phát huy hiệu quả. Trong từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “phát huy” được hiểu là “làm cho cái tốt, cái hay toả tác dụng và tiếp tục nảy nở thêm”2. Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất là làm cho nhân tố con người ngày càng có tác dụng lớn và tích cực trong sự phát triển của nền sản xuất xã hội.

Quán triệt những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò to lớn của nhân tố con người và khẳng định sự cần thiết phải chăm lo, bồi dưỡng, phát huy nhân tố con người trong bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, xem đó là vấn đề có ý nghĩa quyết định đến sự thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Người nói: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”3; “muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có những con người XHCN”4. Con

người XHCN, theo Hồ Chí Minh là những con người có ý thức, trình độ và năng lực làm chủ, có đạo đức, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, có kiến thức khoa học – kĩ thuật, có tinh thần sáng tạo và thường xuyên có ý thức nâng cao năng lực, trình độ về mọi mặt, ra sức rèn luyện.

Ở Việt Nam, thời kì trước đổi mới, do chưa nhân thức đầy đủ về vai trò của việc phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất là yếu tố quyết định sự phát triển của xã hội Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách nhằm cách mạng hóa các quan hệ sản xuất trong khi trình độ của lực lượng sản xuất còn thấp kém. Do đó đất nước ta rơi vào một cuộc khủng hoảng trong lĩnh vực kinh tế – xã hội, sản xuất kém phát triển, đời sống nhân dân gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Nguyên nhân là do chúng ta đã áp dụng dập khuôn, máy móc các chủ trương, đường lối phát triển đất nước của Liên Xô mà không căn cứ vào đặc điểm tình hình đất nước. Sau đổi mới, Đảng và Nhà nước ta đã chú trọng đề cập đến vấn đề phát huy nội lực, tiềm năng con người trong phát triển lực lượng sản xuất đưa đất nước vững bước đi lên. Hội nghị lần IV Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VII cũng nhấn mạnh: “Chúng ta cần hiểu sâu sắc những giá trị lớn lao và những ý nghĩa quyết định của nhân tố con người, chủ thể của mọi sáng tạo, mọi nguồn của cải vật chất và văn hóa, mọi nền văn minh của các quốc gia”5.

Tuy nhiên, khác với các quốc gia trong khu vực Việt Nam tiến lên CNXH từ một nước thuộc địa nửa phong kiến, có nền kinh tế nông nghiệp nghèo nàn, lạc hậu, các nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú song chưa được coi là lợi thế về nguồn lực. Trong bối cảnh đó, nhân tố con người đã và đang trở thành nhân tố quan trọng trong

sự nghiệp xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất mới theo định hướng XHCN. Muốn vậy, phải xây dựng và phát triển cho được đội ngũ những người lao động có đủ sức khỏe, kĩ năng, trình độ, sức sáng tạo, lòng yêu nghề… đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát huy nhân tố con người ở Việt Nam hiện nay thực chất là phát huy những thế mạnh của nội lực đất nước trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.

Đảng ta khẳng định rằng: “Ở Việt Nam nguồn lực con người là nguồn lực quan trọng hàng đầu đối với quá trình phát triển lực lượng sản xuất trong thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát huy nhân tố con người là môt trong những nhiệm vụ quan trọng của phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh chính trị, thiết lập trật tự, kỉ cương xã hội”6. Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đang có sự tác động mạnh mẽ, sâu sắc đến sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất cả về tốc độ, quy mô, tính chất và hình thức thể hiện (khoa học kĩ thuật trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp” như C. Mác từng dự báo), song yếu tố con người, yếu tố người lao động trong hệ thống sản xuất vẫn là yếu tố cơ bản quyết định. Sự phân tích trên cho thấy, để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, kể cả lực lượng sản xuất hiện đại thì yếu tố tác động có tính quyết định không phải là tư liệu sản xuất, cũng không phải là khoa học – kĩ thuật mà chính là yếu tố con người bởi suy cho cùng máy móc kĩ thuật đều do con người sáng tạo ra và dù máy móc có hiện đại đến đâu cũng cần có sự điều khiển của hoạt động, ý thức con người. Khoa học kĩ thuật càng phát triển thì con người càng giữ một vai trò then chốt trong việc phát triển lực lượng sản xuất. Như vậy, chúng ta cần nhận thức được rằng để thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa tất yếu cần phát huy tối đa thế mạnh về con người của từng địa phương, từng khu vực và trong cả nước nhằm phát triển đất nước theo hướng văn minh, hiện đại.

TÍNH TấT YẾU CỦA VIỆC PHÁT HUY NHÂN TỐ CON NGƯỜI trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt nam hiện nay

ThS. NguyễN Thị Nga

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2004, tập 41, tr.430. (2) Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2004, tr.768. (3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội 2002, tập 9, tr.222 (4) Nt, tr.310(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII, 1993, tr.5.(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.210

Page 22: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

20

1. Đầu tư của các nước ASEAN tại Việt Nam

Tính đến nay, các nhà đầu tư thuộc khu vực ASEAN đã đầu tư tại 55/63 tỉnh, thành phố của Việt Nam, với 2.431 dự án đầu tư tại Việt Nam, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 51,8 tỷ USD, chiếm 14,2% số dự án FDI và trên 21,4% tổng vốn FDI đăng ký tại Việt Nam. Quy mô vốn bình quân 1 dự án của ASEAN là 21,3 triệu USD/dự án, cao hơn so với mức bình quân chung là 14,45 triệu USD/dự án.

Phân theo ngành: Đến nay, các nhà đầu tư thuộc khu vực ASEAN đã đầu tư vào 18 trong tổng số 21 ngành kinh tế theo hệ thống phân ngành của Việt Nam, trong đó lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo đứng thứ nhất với 950 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 20,07 tỷ USD (chiếm 39,08% tổng số dự án và chiếm 38,72% tổng vốn đầu tư); tiếp theo là lĩnh vực kinh doanh bất động sản với 92 dự án, với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 16,48 tỷ USD (chiếm 3,78% tổng số dự án và 31,81% tổng vốn đầu tư). Lĩnh vực xây dựng có 166 dự án với số vốn đầu tư đăng ký là 3,03 tỷ USD (chiếm 6,8% tổng số dự án và 5,85% tổng vốn đầu tư). Còn lại là các lĩnh vực khác.

Phân theo đối tác: Hiện có 8 trong số 9 quốc

gia thuộc ASEAN (trừ Myanmar) đã có hoạt động tại Việt Nam. Trong đó có 3 quốc gia nằm trong danh sách 10 nước và vùng lãnh thổ có hoạt động đầu tư lớn nhất tại Việt Nam, gồm: Singapore (vị trí thứ 3), Malaysia (vị trí thứ 8) và Thái Lan (vị trí thứ 10).

Đứng đầu các nước ASEAN đầu tư vào Việt Nam là Singapore, với 1.312 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 31 tỷ USD (chiếm 53,9% tổng số dự án và 59,87% tổng vốn đầu tư đăng ký). Đứng thứ hai là Malaysia, với 473 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 11,83 tỷ USD (chiếm 19,4% tổng số dự án và 22,8% tổng vốn đầu tư đăng ký). Đứng thứ ba là Thái Lan có 365 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký là 6,63 tỷ USD (chiếm 15,01% tổng số dự án và 12,8 % tổng vốn đầu tư đăng ký). Thứ tự còn lại là các nước Brunei, Indonesia, Philippines, Lào và Campuchia.

Có thể khẳng định rằng, đầu tư của các nước ASEAN đã, đang và tiếp tục giữ vị trí quan trọng tại Việt Nam. Không những thế, ASEAN còn là cửa ngõ, cấu nối quan trọng để thu hút FDI từ các đối tác lớn khác vào Việt Nam.

2. Đầu tư của Việt Nam sang các nước ASEAN

Tính đến tháng 9 năm 2014, các nhà đầu tư

Việt Nam đã đầu tư sang 8 quốc gia ASEAN (trừ Philippines), với 522 dự án và tổng vốn đầu tư đăng ký là 9,74 tỷ USD, chiếm 58,1% số dự án và 51,2% tổng vốn đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài. Quy mô dự án đầu tư của Việt Nam sang ASEAN có vốn đầu tư đăng ký là 18,6 triệu USD. Các dự án đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam tập trung phần lớn vào các lĩnh vực nông lâm nghiệp, năng lượng, khai khoáng, bất động sản, tài chính, ngân hàng, viễn thông, chế tạo… đó là những lĩnh vực mà doanh nghiệp Việt Nam có thế mạnh và có nhiều tiềm năng hợp tác với các nước trong khu vực.

Về địa bàn đầu tư: hiện có 4 quốc gia ASEAN nằm trong danh sách 10 quốc gia có hoạt động đầu tư lớn của doanh nghiệp Việt Nam, gồm Lào, Campuchia, Malaysia và Myanmar. Dẫn đầu là Lào với 248 dự án, tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 4,73 tỷ USD vốn đăng ký (chiếm 48,15% tổng số dự án và 48,97% tổng vốn đầu tư đăng ký). Đứng thứ hai Campuchia, với 161 dự án, tổng vốn đăng ký đạt 3,45 tỷ USD (chiếm 31,26% tổng số dự án và 35,6% tổng vốn đầu tư đăng ký). Đứng thứ ba là đầu tư sang Malaysia với 10 dự án và 754,68 triệu USD vốn đăng ký (chiếm 1,9% tổng số dự án và 7,8% tổng vốn đầu tư đăng ký). Thứ tư là Myamar, với 22 dự án, tổng vốn đầu dư đạt 450 triệu USD. DHứ Tự còj lại là cÁc nước Singapkre, Indolesia, Thái Lan và Brunei.

Như vậy, các nước ASEAN là địa bàn đầu tư quan trọng của các doanh nghiệp Việt Nam và là cửa ngõ để các doanh nghiệp Việt Nam mở rộng các hoạt động đầu tư, kinh doanh ra nước ngoài.

3. triển vọng hợp tác đầu tư Việt Nam-ASEAN

a. Cơ hội và thuận lợi- Việc trở thành một một không gian sản xuất

chung, một thị trường chung rộng lớn, thống nhất, với dân số trên 600 triệu người và quy mô GDP hiện nay khoảng 2.400 tỷ USD, AEC sẽ trở thành nên kinh tế đứng thứ 7 thế giới, là khu vực xuất khẩu đứng thứ 4 thế giới sẽ tạo điều kiện để hàng hóa, dịch vụ, vốn, công nghệ và lao động có tay nghề được tự do lưu chuyển trong các nước thành viên ASEAN mà không chịu sự phân biệt đối xử. Nhờ đó, người tiêu dùng Việt Nam có nhiều lựa chọn về hàng hóa và dịch vụ với giá cả thấp và chất lượng cao hơn. Các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội hưởng lợi nhờ phát huy hiệu quả kinh tế theo quy mô để tăng năng suất và giảm chi phí sản xuất, dẫn tới giá cả hàng hóa cạnh tranh hơn.

- AEC tạo nên sự liên kết chuỗi giữa các doanh nghiệp ASEAN, bao gồm cả các doanh nghiệp Việt Nam, thông qua phân công lao động và trao đổi hàng hóa, dịch vụ trung gian, từ đó tạo ra nhiều cơ hội kinh doanh hơn cho doanh nghiệp Việt Nam, thậm chí hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam cùng phát triển, tạo ra sức cạnh tranh cao của khu vực ASEAN, đáp ứng nhu cầu lớn không chỉ trong khu

Hợp tác đầu tư Việt nam - asean và triển vọng +cộNg đồNg kiNH tế asEaN (gọi tắt Là aEc) Với 4

mục tiêu trụ cột Là* (1) xây DựNg một tHị trườNg cHuNg Và cơ sở sảN xuất tHốNg NHất; (2) kHu Vực

kiNH tế có kHả NăNg cạNH traNH cao; (3) PHát triểN kiNH tế đồNg đều; (4) Hội NHậP Hiệu quả Vào NềN kiNH tế toàN cầu. troNg đó, mục tiêu trở tHàNH một tHị trườNg cHuNg Và cơ sở sảN xuất tHốNg NHất đaNg được asEaN tHúc đẩy mạNH, Bao gồm 5 yếu tố cơ BảN: (i) tự Do Lưu cHuyểN HàNg Hóa; (ii) tự Do Lưu cHuyểN DịcH Vụ; (iii) tự Do Lưu cHuyểN đầu tư; (iV) tự Do Lưu cHuyểN VốN; Và (V) tự Do Lưu cHuyểN Lao độNg có kỹ NăNg. Năm yếu tố trêN Là độNg Lực cHíNH tHúc đẩy gia tăNg các Hoạt độNg HợP tác đầu tư của Việt Nam - asEaN cũNg NHư giữa Việt Nam Với các đối tác của asEaN troNg tHời giaN tới.

Page 23: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

21

vực ASEAN mà đặc biệt là hướng ra người tiêu dùng của các khu vực phát triển hơn như EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Hàn Quốc…

- Cơ hội được trông đợi nhất từ tất cả các nước ASEAN, trong đó có Việt Nam là sự đầu tư và hợp tác đến từ các nền kinh tế lớn, phát triển. Việc kết nối và xây dựng một ASEAN thống nhất, bớt chia cắt hơn, sẽ khiến các nhà đầu tư lớn nhìn ASEAN như một sân chơi chung, một công xưởng chung ở đó có khối nguồn lực thống nhất, đặc biệt là nguồn lực có kỹ năng với giá còn tương đối rẻ. Thực tế các tập đoàn đa quốc gia kinh doanh, đầu tư trên phạm vi toàn cầu cũng nhìn nhận Việt Nam là một cửa ngõ quan trọng vào ASEAN, đều coi trọng việc tìm hiểu đối tác doanh nghiệp Việt Nam để thực hiện đầu tư, kinh doanh trong ASEAN. Đây được coi là lợi ích dài hạn mà các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhắm đến.

- Với khẩu hiệu vì một ASEAN chung và thịnh vượng, các quốc gia thành viên của khối đều phải có trách nhiệm đóng góp vào sự thịnh vượng chung của khối. Do đó, sự phát triển của ASEAN và Việt Nam sẽ tác động qua lại lẫn nhau. Các nước cũng luôn tìm những cơ hội, dành những ưu tiên cho nhau trong hợp tác đầu tư. Trong quá trình phát triển, Việt Nam cũng là một nước đi sau về thành tựu phát triển so với một số nước khác trong khu vực. Vì vậy, những bài học phát triển của các nước đi trước cũng đã được Việt Nam nhìn thấy, từ đó khắc phục các nhược điểm. Những vấn đề về chính sách, hệ thống luật pháp... đã được Việt Nam hoàn thiện tương đối nhanh, tạo ra sự minh bạch, thuận lợi, phù hợp nhất với thông lệ làm ăn quốc tế cũng như trong khu vực. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng biết sử dụng tốt các nguồn lực của mình.

- Bên cạnh cơ chế đa phương, Việt Nam cũng đã xây dựng cơ chế hợp tác song phương với các đối tác trong ASEAN. Đến nay, Việt Nam đã ký Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư với 8/9 quốc gia trong ASEAN (đang đàm phán với Brunei). Hiện Việt Nam cũng đã ký Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với 8/9 quốc gia trong khối ASEAN (đang đàm phán với Campuchia). Đặc biệt, Việt Nam đã ký Nghị định thư năm 2012 với Campuchia và với Lào năm 2013 về việc sửa đổi, bổ sung các Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư đã ký Campuchia và Lào trước đó. Theo đó, hai bên đã thành lập cơ quan hợp tác hỗn hợp, đầu mối hỗ trợ cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh của doanh nghiệp hai nước.

- Singapore hiện đang là đối tác đầu tư lớn của Việt Nam. Hai nước đã có thỏa thuận kết nối 2 nền kinh tế và áp dụng cơ chế chấp thuận nhanh đối với các dự án đầu tư của Singapore tại Việt Nam. Do vậy, hợp tác đầu tư song phương giữa Việt Nam với Siangapore nói riêng và các nước ASEAN sẽ tiếp tục phát triển.

- Việt Nam có lợi thế so với các nước ASEAN khác trong quan hệ cạnh tranh thu hút FDI. Thái

Lan có lợi thế nhưng một phần thị trường đã bão hòa, nhân công có chi phí ngày càng cao và thiếu về số lượng. Bất ổn chính trị cũng ảnh hưởng đáng kể tới dòng FDI. Indonesia có thị trường lớn nhưng lại có vấn đề về tôn giáo, văn hóa, chính trị. Myanmar là địa bàn mới nổi lên trong thu hút FDI nhưng với thực trạng yếu kém về chính sách và hạ tầng hiện nay thì phải 3-5 năm nữa nước này mới có thể cải thiện được môi trường đầu tư.

b. Khó khăn và thách thức- Thách thức của hội nhập kinh tế là vấn đề

cạnh tranh của Việt Nam. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam sẽ gặp khó trên thị trường nội địa và khó có khả năng vươn ra, chiếm lĩnh trên thị trường các nước thành viên ASEAN khác, thậm chí có nhiều doanh nghiệp sẽ phải đóng cửa. Doanh nghiệp năng lực kém sẽ không được chọn để tham gia các khâu có lợi nhuận cao của chuỗi cung ứng, chỉ có thể tham gia các công đoạn gia công. Người lao động trình độ thấp sẽ khó vươn lên các vị trí quản lý hay trở thành các chuyên gia có mức lương cao.

- Chúng ta cũng cần ý thức rằng, những gì là cơ hội với AEC cũng có thể là thách thức đối với Việt Nam. Một khi việc giao lưu hàng hóa trở nên thuận tiện hơn và rẻ hơn giữa các nước, các nhà đầu tư sẽ cân nhắc đầu tư sản xuất tập trung tại những địa điểm thuận lợi nhất về môi trường kinh doanh, tính nhất quán của chính sách, kinh tế vĩ mô ổn định, dồi dào nguồn lực con người và nguồn nguyên liệu, sau đó phân phối sản phẩm đến những vùng khác nhau trong ASEAN. Điều này, đòi hỏi Việt Nam phải duy trì được những lợi thế đã có và nhanh chóng tạo ra những lợi thế mới để cạnh tranh được với các đối thủ trong việc thu hút dòng vốn FDT quy mô lớn, có chất lượng cho Việt Nam.

- Việc hình thành AEC 2015 sẽ tạo điều kiện để các nhà đầu tư trong và ngoài ASEAN quan tâm và tham gia đầu tư vào một số địa bàn mới nổi như Myanmar, Lào, Campuchia... Điều này, sẽ gây khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi phải cạnh tranh với nhiều đối thủ mới trên các địa bàn này.

4. Giải pháp của Chính phủ và các Bộ, ngành

Để nền kinh tế Việt Nam nói chung và hoạt động hợp tác đầu tư Việt Nam nói riêng khi hội nhập AEC có hiệu quả, hiện Chính phủ và các Bộ ngành liên quan đang tập trung vào một số giai pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục khẳng định chủ trương tích cực và chủ động hội nhập kinh tế ASEAN sâu rộng. Theo đó, ưu tiên thực hiện Kế hoạch, lộ trình hình thành AEC vào 2015; tổ chức triển khai nghiêm túc và có hiệu quả các cam kết ASEAN đã ký kết. Đồng thời, tăng cường hợp tác ngoài khối cả đa phương và song phương nhằm tận dụng tối đa cơ hội từ hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng mang lại cho Việt Nam..

Thứ hai, đẩy nhanh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tư, kinh doanh thông qua việc sửa đổi, bổ sung nhiều đạo Luật quan trọng như: Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật đầu tư kinh doanh vốn nhà nước tại doanh nghiệp.. nhằm huy động và khai thác có hiệu quả nhất nguồn lực trong và ngoài nước phục vụ cho mục tiêu phát triển.

Thứ ba, đẩy nhanh quá trình tái cách cơ cấu nền kinh tế, trong đó tập trung vào 4 trụ cột chính là tái cơ cấu đầu tư công, tái cơ cấu hệ thống doanh nghiệp nhà nước và tái cơ cấu hệ thống ngân hàng và có chính sách nâng đỡ, hỗ trợ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Thứ tư, thực hiện quyết liệt và triệt để cải cách thủ tục hành chính liên quan đến việc hình thành doanh nghiệp, ra nhập thị trường; các thủ tục liên quan đến xây dựng, đất đai, hải quan, thuế, bảo hiểm xã hội, tuyển dụng lao động... bảo đảm giảm tối đa chi phí và thời gian cho doanh nghiệp, nhà đầu tư.

Thứ năm, tập trung phát triển ngành công nghiệp phụ trợ để góp phần thu hút đầu tư, đảm bảo hiệu ứng lan tỏa của đầu tư, mang lại lợi ích trực tiếp và thiết thực cho doanh nghiệp và người dân địa phương, đồng thời xây dựng năng lực dài hạn cho doanh nghiệp.

Thứ sáu, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp thông qua việc tăng cường hiệu quả cung ứng đầu vào cho sản xuất và dịch vụ: như tập trung đầu tư hệ thống hạ tầng sân bay, bến cảnh, thông vận tải, điện, viễn thông, tài chính, ngân hàng... để nền kinh tế có được đầu vào sản xuất và dịch vụ với chi phí thấp hơn và chất lượng phục vụ cao hơn. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam thông qua các kênh hợp tác kinh tế, xúc tiến đầu tư tìm hiểu, thâm nhập và phát triển thị trường.

Thứ bảy, nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Ngày 23/5/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 761/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển trường nghề chất lượng cao đến năm 2020. Theo đó, 45 trường nghề chất lượng cao sẽ đào tạo những nghề đạt chuẩn cấp khu vực và thế giới.

Thứ tám, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền về AEC 2015 nhằm nâng cao nhận thức của doanh nghiệp và người dân về những lợi ích và thách thức của AEC.

Tóm lại, việc tham gia AEC 2015 sẽ mở ra rất nhiều cơ hội lớn cho Việt Nam, nhưng chúng ta cũng phải đối diện với không ít khó khăn, thách thức. Song, với quyết tâm của Chính phủ, cộng với sự đồng lòng của doanh nghiệp và người dân, chúng ta sẽ vượt qua thách thức, nhanh chóng đón nhận những cơ hội mới, thực hiện thành công công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Nguồn: Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ KH&ĐT

Page 24: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

22

Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) là một trong ba trụ cột chính, không thể thiếu trong tiến trình xây dựng Cộng đồng

ASEAN. Mục tiêu cốt lõi của AEC là phát triển kinh tế ổn định, thịnh vượng, có tính cạnh tranh cao và hội nhập nền kinh tế toàn cầu. Năm 2015 sẽ đánh dấu cột mốc quan trọng trong tiến trình hợp tác ASEAN nói chung cũng như hội nhập kinh tế khu vực nói riêng. Sự thành lập của Cộng đồng kinh tế ASEAN sẽ đưa ASEAN trở thành một thị trường chung thống nhất với sự tự do dịch chuyển hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động và sự luân chuyển vốn tự do hơn.

Để chuẩn bị sẵn sàng cho việc tham gia vào AEC, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam - với vai trò là đồng chủ trì Ủy ban công tác về Tự do hóa Tài khoản vốn - luôn tích cực trong việc điều phối công tác nghiên cứu, đánh giá và đề xuất tiến trình tự do hóa tài khoản vốn trong khu vực, đồng thời chủ động xây dựng chính sách tiền tệ, chính sách quản lý ngoại hối phù hợp và kiện toàn hệ thống ngân hàng, góp phần nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế.

Trong khuôn khổ Diễn đàn MeKong 2014, nhằm cung cấp thông tin về tiến trình hợp tác khu vực về tự do hóa các giao dịch vốn, bài viết dưới đây tập trung phân tích một số nội dung liên quan đến: (i) cam kết hợp tác về luân chuyển vốn trong AEC mà trọng tâm là cập nhật tiến trình tự do hóa tài khoản vốn trong khu vực; (ii) Hiện trạng và chủ trương của Việt Nam về chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực quản lý các giao dịch vốn; (iii) Những cơ hội và thách thức của quá trình tự do hóa dòng vốn; và (iv) Một số khuyến nghị.

I. Cam kết hợp tác về luân chuyển vốn trong AEC - tiến trình tự do hóa tài khoản vốn trong khu vực

Tự do hoá tài khoản vốn là một trong các nội dung của Lộ trình hội nhập tiền tệ và tài chính khu vực ASEAN được thông qua tại Hội

nghị Bộ trưởng Tài chính ASEAN (AFMM) lần thứ 7 vào tháng 8/2003 với mục tiêu là tự do hóa hơn các luồng chu chuyển vốn vào năm 2020. Nhằm thúc đẩy việc triển khai các kế hoạch đã được đề ra trong Lộ trình tự do hoá tài khoản vốn, Nhóm công tác về tự do hóa tài khoản vốn đã được thành lập với thành phần tham gia bao gồm đại diện cấp kỹ thuật của các nước ASEAN.

Tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 13 ở Singapore tháng 11/2007, các nguyên thủ quốc gia ASEAN đã thông qua kế hoạch tổng thể để xây dựng AEC vào năm 2015. Chính vì vậy, trong lĩnh vực tài chính tiền tệ, lộ trình phát triển thị trường vốn, tự do hoá tài khoản vốn, tự do hoá dịch vụ tài chính cũng sẽ được rút ngắn từ năm 2020 xuống năm 2015. Để đạt được mục tiêu trên, hiện nay, các Uỷ ban công tác trong đó có Nhóm công tác tự do hóa tài khoản đang nỗ lực triển khai các kế hoạch và tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các quốc gia nhằm đẩy nhanh tiến trình tự do hóa tài khoản vốn và hội nhập khu vực.

Tiến trình tự do hóa giao dịch vốn bao gồm những nội dung chính sau đây:

1. Nguyên tắc của việc tự do hóa dòng vốn:

Tự do hóa dòng vốn được thực hiện dựa trên các nguyên tắc nền tảng bao gồm: (i) Đảm bảo tính tương thích giữa tự do hóa dòng vốn một cách trình tự với lộ trình thực hiện các mục tiêu quốc gia và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế; (ii) cho phép sử dụng các biện pháp phòng vệ chính đáng để đối phó với những yếu tố tiềm tàng về mất cân đối vĩ mô và rủi ro hệ thống có thể phát sinh trong tiến trình tự do hóa, bao gồm quyền được sử dụng các biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo ổn định cân đối vĩ mô; và (iii) bảo đảm lợi ích từ việc tự do hóa được chia sẻ cho tất cả các quốc gia ASEAN.

Mặc dù các chương trình quốc gia về tự do hóa dòng vốn được kỳ vọng mang đến cơ chế

tự do hóa hơn cho các nước trong khu vực, song không nhất thiết phải tiến đến việc tự do hóa hoàn toàn tài khoản vốn vào cuối năm 2015.

Lộ trình hội nhập tài chính của khu vực ASEAN đã đề ra những kết quả chung mà các quốc gia thành viên cần đạt được; tuy nhiên, các quốc gia thành viên đều nhận thức được những khác biệt về nền tảng ban đầu về kinh tế và thể chế cũng như sự đáp ứng các điều kiện tiên quyết của mỗi quốc gia. Vì vậy, việc đặt ra các mốc trọng tâm và lộ trình thực hiện qua từng giai đoạn của tiến trình tự do hóa dựa trên đặc điểm và điều kiện đặc thù của mỗi quốc gia là cần thiết.

2. Các mốc trọng tâm và lộ trình thực hiện

- Đánh giá và xác định các quy tắc tự do hóa: Từ năm 2009 đến 2012, thực hiện đánh giá và xác định các quy tắc tự do hóa giao dịch vãng lai, việc chuyển vốn vào, ra và tính lỏng của các dòng vốn đầu tư trực tiếp (FDI), vốn đầu tư gián tiếp (PI) và các dòng vốn khác (như dòng vay nợ, tiền gửi,…);

- Tự do hóa giao dịch vãng lai: Đến năm 2011, mục tiêu đặt ra là tất cả các nước thành viên ASEAN đều thực hiện theo Điều VIII Điều lệ Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF; theo đó, các nước cam kết gỡ bỏ những rào cản về thanh toán chuyển tiền cho các giao dịch vãng lai, phân biệt đối xử đối với các loại tiền tệ.

- Tăng dần mức độ tự do hóa giao dịch vốn: Đến năm 2013, xây dựng Biểu đánh giá hiện trạng tự do hóa tài khoản vốn (CAL Heatmap), Kế hoạch quốc gia về tự do hóa tài khoản vốn (CAL Blueprint) dựa trên mức độ sẵn sàng của từng quốc gia. Mục tiêu từ 2015 đến 2020 trở về sau, tiếp tục mở rộng tiến trình tự do hóa tài khoản vốn thông qua việc tiến tới thực hiện các mốc mục tiêu về tự do hóa các dòng vốn FDI (bắt đầu từ năm 2008), PI (bắt đầu từ năm 2009) và các dòng vốn khác (bắt đầu từ năm 2011) đã được đề xuất tại Heat map và Blueprint.

- Các biện pháp bảo đảm an toàn cho việc tự do hóa giao dịch vốn: Đến năm 2015, các quốc gia thành viên thống nhất phát triển chương trình đối thoại nhằm trao đổi thông tin về tiến trình tự do hóa dòng vốn của từng quốc gia thành viên và các chính sách bảo đảm an toàn cho việc tự do hóa giao dịch vốn, đem lại lợi ích cho tất cả các thành viên ASEAN.

3. Một số kết quả thực hiện đến giai đoạn hiện nay

Đến nay, việc thực hiện các mốc trọng tâm nêu trên đã đạt được một số kết quả, cụ thể:

- Các quốc gia thành viên đã thực hiện tự do hóa giao dịch vãng lai, ngoại trừ Myanmar

cam KẾt HỢp tÁc VỀ luân cHuYỂn VỐn trOng aec VÀ đỊnH HƯỚng cHÍnH sÁcH QuẢn lÝ ngOẠi HỐi

Page 25: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

23

chưa thực hiện tự do hóa hoàn toàn;- Hoàn thành quá trình đánh giá và xác

định các nguyên tắc thực hiện tự do hóa các giao dịch vốn. Các quốc gia thành viên tiếp tục xây dựng và cập nhật Biểu đánh giá hiện trạng tự do hóa tài khoản vốn để đề xuất lộ trình tự do hóa giao dịch vốn một cách phù hợp với điều kiện thực tế tại các nước thành viên.

- Hoàn thành bản thảo Kế hoạch quốc gia về tự do hóa giao dịch vốn (Blueprints) của từng quốc gia thành viên. Việc cập nhật tiến trình thực hiện Blueprints được tiến hành đồng thời với việc cập nhật và rà soát lại Biểu đánh giá hiện trạng tự do hóa tài khoản vốn.

- Cơ chế đối thoại chính sách về tự do hóa giao dịch vốn đã được hình thành và lần đầu tiên, tại kỳ họp của Ủy ban tự do hóa tài khoản vốn lần thứ 27 năm 2014 tại Myanmar, Bản báo cáo tổng hợp đã được công bố. Các quốc gia thành viên đã trình bày và cập nhật xu hướng của dòng vốn tại các quốc gia thành viên cũng như những giải pháp quản lý dòng vốn để thực hiện cơ chế phòng vệ;

- Các quốc gia thành viên đã tham gia vào các Sáng kiến hỗ trợ phát triển năng lực phục vụ quá trình tự do hóa giao dịch vốn.

II. Chính sách quản lý ngoại hối trong lĩnh vực quản lý các giao dịch vốn

1. Chủ trương về quản lý ngoại hối đối với các giao dịch vốn

Việt Nam là một trong những quốc gia tích cực tham gia vào tiến trình tự do hóa giao dịch vốn trong khuôn khổ Cộng đồng kinh tế ASEAN. Xuất phát từ những đánh giá tổng thể về tác động tích cực và tiêu cực của việc tự do hóa giao dịch vốn, Việt Nam đã xây dựng chủ trương rõ ràng về việc tự do hóa tài khoản vốn và xác định lộ trình thực hiện các mục tiêu này. Theo đó, Việt Nam chủ trương thứ tự ưu tiên tự do hóa các dòng vốn vào so với các dòng vốn ra; tự do hóa dòng vốn trung, dài hạn trước các dòng vốn ngắn hạn và mở cửa dòng vốn đầu tư trực tiếp trước các dòng vốn đầu tư gián tiếp. Chủ trương này một mặt tạo điều kiện cho các dòng vốn được chu chuyển tự do hơn, mặt khác vẫn đảm bảo các nguyên tắc tự do hóa dòng vốn như đề cập ở trên như tính tương thích với điều kiện và mức độ sẵn sàng của nền kinh tế, đảm bảo cân bằng kinh tế vĩ mô cũng như sự cân bằng về lợi ích giữa các quốc gia.

2. Hiện trạng các chính sách quản lý ngoại hối liên quan đến dòng vốn

Trong thời gian qua, các chính sách quản lý ngoại hối liên quan đến dòng vốn đã được xây dựng trên cơ sở bám sát chủ trương và định

hướng tự do hóa giao dịch vốn nêu trên. Sự ra đời của Pháp lệnh Ngoại hối năm

2005 và Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi năm 2013, Nghị định số 70/2014/NĐ-CP hướng dẫn Pháp lệnh Ngoại hối và Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi cũng như các Thông tư của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư trực tiếp, hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam, hoạt động đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài, hoạt động vay trả nợ nước ngoài; cho vay, thu hồi nợ nước ngoài… phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ và tuân thủ các cam kết quốc tế của Việt Nam về tự do hóa giao dịch vốn.

Về chính sách quản lý ngoại hối liên quan đến hoạt động đầu tư: ngoài các quy định về nguyên tắc nêu tại Pháp lệnh Ngoại hối, Pháp lệnh Ngoại hối sửa đổi và Nghị định 70 nêu trên, NHNN đã ban hành các Thông tư hướng dẫn về quản lý ngoại hối đối với các hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam; hoạt động đầu tư trực tiếp của Việt Nam ra nước ngoài; và hoạt động đầu tư gián tiếp nước ngoài vào Việt Nam. Các Thông tư này đã quy định rõ các nội dung về yêu cầu mở tài khoản vốn đầu tư tương ứng với các hình thức đầu tư, các nội dung thu chi của tài khoản, trách nhiệm của các tổ chức tín dụng cung ứng dịch vụ tài khoản; đồng thời luật hóa các trường hợp phức tạp phát sinh nhiều trên thực tế như việc chuyển tiền ra và vào lãnh thổ trong các trường hợp đặc biệt khi chưa được cấp giấy chứng nhận đầu tư, khi dự án đầu tư không được hoàn thành; việc chuyển đổi từ đầu tư trực tiếp thành đầu tư gián tiếp và ngược lại;…

Các quy định này đã góp phần tích cực cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, môi trường pháp lý, tạo sự thống nhất trong hệ thống pháp luật về đầu tư và tạo sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư; đơn giản hoá thủ tục đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để thu hút và sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư; đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.

Về chính sách quản lý hoạt động vay, trả nợ nước ngoài, cho vay thu hồi nợ nước ngoài: khuôn khổ pháp lý về hoạt động vay, trả nợ nước ngoài từng bước được hoàn thiện và đổi mới thông qua việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật mới như Nghị định 219/2013/NĐ-CP về quản lý vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh và các Thông tư hướng dẫn về điều kiện; thủ tục đăng ký, đăng ký thay đổi khoản vay nước ngoài; Thông tư hướng dẫn về quản lý ngoại hối

đối với hoạt động cho vay ra nước ngoài, thu hồi nợ bảo lãnh của người không cư trú;...Theo các quy định này, khi thực hiện vay nước ngoài theo phương thức tự vay, tự trả, các doanh nghiệp có quyền tự chủ đàm phán, ký kết với đối tác nước ngoài các thỏa thuận vay nước ngoài không trái với quy định của pháp luật Việt Nam; NHNN - với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động vay nước ngoài tự vay, tự trả đã quy định các điều kiện vay nước ngoài; trình tự, thủ tục đăng ký khoản vay nước ngoài và thực hiện xác nhận đăng ký; thu thập báo cáo phục vụ công tác thống kê, giám sát hoạt động này; đồng thời hướng dẫn các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài trong việc cung ứng dịch vụ tài khoản vay trả nợ nước ngoài cho bên đi vay.

Về chính sách liên quan đến sự chu chuyển của các dòng tiền kiều hối do lao động di chuyển tự do: Đón trước những dòng kiều hối có thể gia tăng từ xu hướng tự do luân chuyển lao động trong khối AEC, chính sách thu hút ngoại tệ từ nước ngoài chuyển về của Việt Nam đã được xây dựng theo hướng thông thoáng và phù hợp với xu thế hội nhập, tạo điều kiện thuận lợi cho cả người gửi tiền lẫn người nhận tiền. Nguồn kiều hối chuyển về nước không phải chịu thuế thu nhập, người nhận kiều hối được lựa chọn nhận bằng ngoại tệ hoặc đồng Việt Nam, được gửi vào tài khoản tiền gửi tiết kiệm bằng ngoại tệ hoặc rút ra bằng ngoại tệ tiền mặt. Ngoài ra, dịch vụ ngân hàng cũng thuận tiện hơn, ngoài các ngân hàng thương mại còn có hàng chục công ty kiều hối cung cấp dịch vụ chuyển tiền từ nước ngoài về Việt Nam với mạng lưới rộng, công nghệ hiện đại cho phép xử lý giao dịch kiều hối tập trung với mức độ tự động cao.

Như vậy, các chính sách về quản lý ngoại hối liên quan đến dòng vốn trong thời gian qua đã được xây dựng trên nguyên tắc tạo điều kiện thuận lợi và bảo đảm lợi ích hợp pháp cho tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước tham gia vào các hoạt động đầu tư vào Việt Nam; hoạt động đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài; hoạt động vay, trả nợ nước ngoài và các hoạt động chuyển tiền khác; góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, thực hiện các cam kết của Việt Nam trong lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về ngoại hối và hoàn thiện hệ thống quản lý ngoại hối của Việt Nam.

Trong thời gian tới, NHNN sẽ tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý về quản lý ngoại hối nói chung bám sát định hướng xây dựng một khuôn khổ pháp lý về đầu tư mở và tự do đối với lưu chuyển dòng vốn thông qua cải cách các quy

Page 26: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

24

định điều tiết thị trường theo hướng minh bạch hơn, nhất quán và có hiệu lực hơn. Đồng thời, NHNN sẽ phối hợp với các Bộ, Ngành xây dựng cơ chế chia sẻ dữ liệu về dòng vốn nhằm chủ động phân tích, đánh giá biến động dòng vốn.

III. Cơ hội và thách thức trong tiến trình tự do hóa tài khoản vốn

Việc tham gia vào cộng đồng kinh tế chung ASEAN và thực hiện các cam kết tự do hóa tài khoản vốn là xu hướng tất yếu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và cũng là một nhu cầu khách quan để Việt Nam tận dụng những thời cơ và điều kiện thuận lợi nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

Tuy nhiên, cũng như các cam kết hợp tác khác, cam kết về tự do hóa tài khoản vốn mang lại cả cơ hội và thách thức cho các nước thành viên; đòi hỏi Việt Nam phải có những đánh giá sâu sắc, khách quan về các khía cạnh này, từ đó có các giải pháp phù hợp để nắm bắt triệt để các cơ hội và đối phó hiệu quả với thách thức phát sinh.

1. Về cơ hội từ việc tự do hóa tài khoản vốn

Tự do hóa tài khoản vốn mang lại cơ hội tiếp cận với nguồn vốn lớn từ hệ thống tài chính quốc tế. Với việc đổi mới cơ chế chính sách về vay, trả nợ nước ngoài theo hướng tăng tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của các doanh nghiệp trong nước và bổ sung, hoàn thiện chính sách đối với các giao dịch vay nợ nước ngoài mới phát sinh, các doanh nghiệp Việt Nam có điều kiện đàm phán và vay vốn từ nước ngoài để đáp ứng các nhu cầu hợp lý, hợp pháp trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. Đồng thời, các chính sách cởi mở về hoạt động đầu tư cũng làm gia tăng các dòng vốn đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp vào Việt Nam.

Cơ chế “mở” hơn đối với các giao dịch vốn cũng tạo điều kiện đa dạng hóa các kênh huy động vốn và hoạt động tài chính. Bên cạnh các kênh huy động vốn truyền thống như vay nước ngoài, doanh nghiệp Việt Nam ngày càng có điều kiện gia tăng vốn thông qua hoạt động phát hành công cụ nợ, niêm yết cổ phiếu trên thị trường quốc tế; phát hành công cụ nợ cho người không cư trú trong nước,...Các hoạt động bảo lãnh của người không cư trú dưới nhiều hình thức như bảo lãnh phát hành trái phiếu trong nước được mở rộng nhằm tăng độ tin cậy và giảm chi phí phát hành trái phiếu huy động vốn cho các doanh nghiệp trong nước.

Tự do hóa giao dịch vốn cùng với việc triển khai các cam kết tự do hóa về đầu tư của các nước thành viên AEC là một cơ hội tốt để các doanh nghiệp Việt Nam vươn ra thị trường khu vực tìm

kiếm lợi nhuận từ những thị trường mới. Khi tham gia hoạt động đầu tư ở nước ngoài, nhờ có tiến trình tự do hóa các giao dịch vốn, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ được tận dụng tối đa các cơ hội phát triển sản xuất kinh doanh mà không phải quan ngại về các hạn chế về dịch chuyển các dòng vốn (chuyển vốn đầu tư ra, chuyển lợi nhuận và vốn đầu tư về nước...).

Tự do hóa tài khoản vốn giúp tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh hơn, góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống tài chính trong nước. Việc dỡ bỏ các rào cản trong việc cung ứng các dịch vụ tài chính và tự do hóa các giao dịch vốn đã dẫn tới việc tăng lên về quy mô của khu vực tài chính. Sự tham gia của các tổ chức tài chính quốc tế vào Việt Nam làm tăng tính cạnh tranh trong việc cung cấp các dịch vụ tài chính; thúc đẩy các tổ chức tài chính trong nước tăng cường đổi mới hoạt động, nâng cao chất lượng dịch vụ và tăng tính kỷ luật nhằm tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh đa dạng.

2. Thách thức từ việc tự do hóa giao dịch vốn

Sự đa dạng hóa các sản phẩm đầu tư, các hình thức thương mại quốc tế, các nghiệp vụ phái sinh tài chính phức tạp xuất phát từ sự thâm nhập của các nhà đầu tư nước ngoài và định chế tài chính quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần phải tăng cường tìm hiểu thông tin, sử dụng các biện pháp phòng ngừa rủi ro cần thiết trong quá trình hợp tác về thương mại, đầu tư quốc tế. Xu hướng này cũng đặt ra yêu cầu cho các ngân hàng thương mại trong việc tăng cường hệ thống phòng ngừa rủi ro và cảnh báo sớm.

Việc các định chế tài chính quốc tế tăng cường tham gia hoạt động tại thị trường Việt Nam làm tăng tính cạnh tranh cho hệ thống tài chính, ngân hàng trong nước; trong khi năng lực cạnh tranh các định chế tài chính trong nước còn chưa đủ mạnh, hệ thống phòng ngừa rủi ro đang trong quá trình xây dựng, đòi hỏi tiếp tục hoàn thiện và đổi mới để tồn tại và phát triển.

Tự do hóa dòng vốn có thể gây ra những biến động bất thường của dòng vốn, tác động bất lợi đến cung cầu ngoại tệ trong nước và tạo sức ép lên tính ổn định của đồng bản tệ. Trong khi đó, chính sách tiền tệ của Việt Nam chưa thực sự độc lập, cơ chế lãi suất chưa thực sự được tự do hóa theo quy luật thị trường, tính linh hoạt của tỷ giá còn hạn chế. Chính sự bất ổn của thị trường tiền tệ, tỷ giá hối đoái do tác động của việc luân chuyển các dòng vốn quốc tế giữa các quốc gia có thể là một yếu tố bất lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh

nghiệp, đặc biệt trong điều kiện việc cung cấp các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá, lãi suất cho doanh nghiệp còn chưa thực sự phát triển.

IV.Một số khuyến nghị1. Đối với doanh nghiệp:- Cần tăng cường tìm hiểu pháp luật của

Việt Nam nói riêng và các quốc gia có quan hệ hợp tác nói chung để đảm bảo thực hiện các giao dịch với đối tác nước ngoài không trái với pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế;

- Chủ động tìm hiểu, theo dõi sát sao các thông tin, lộ trình cam kết về tự do hóa dòng vốn, từ đó đưa ra định hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược đầu tư hợp lý.

- Chủ động thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

2. Đối với các cơ quan quản lý:- Hoàn thiện khung pháp lý cơ bản như

Luật Đầu tư, Luật doanh nghiệp, trên cơ sở đó NHNN tiếp tục hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư; hoạt động vay, trả nợ nước ngoài; cho vay thu hồi nợ nước ngoài và các giao dịch vốn khác.

- Từng bước cải thiện môi trường kinh tế vĩ mô, hướng tới sự linh hoạt của chính sách tỷ giá và độc lập của chính sách tiền tệ, mà cụ thể là khả năng linh hoạt hóa lãi suất trước các biến động của dòng vốn.

- Xây dựng chính sách hỗ trợ, thúc đẩy thị trường tài chính và các định chế tài chính ngân hàng ngày một phát triển, với hệ thống quản trị rủi ro đủ tốt; tăng tính kỷ luật của các khu vực tài chính nhằm tăng khả năng phòng ngừa rủi ro và chống đỡ trước những biến động lớn của dòng vốn nước ngoài.

- Tăng cường công tác giám sát thị trường thông qua việc hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động quản trị và giám sát, minh bạch thông tin nhằm hạn chế các rủi ro của việc tự do hóa dòng vốn.

- Tăng cường công tác phối hợp giữa các Bộ, ngành trong việc hoàn thiện thể chế về quản lý hoạt động đầu tư, giám sát sự chu chuyển các dòng vốn.

- Cân nhắc đề xuất cơ chế chia sẻ thông tin từ quá trình nghiên cứu, thảo luận về tự do hóa dòng vốn của các nước trong khu vực, giúp doanh nghiệp trong nước có thêm thông tin về cơ chế quản lý ngoại hối của các nước, hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng được tối đa lợi thế của việc tự do hóa dòng vốn khi mở rộng hoạt động thương mại, đầu tư với các nước thành viên.

Nguồn : Vụ QL ngoại hối, Ngân hàng Nhà nước

Page 27: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

25

I. tổNG quAN hợp táC lAO ĐộNG trONG ASEAN

1. Cơ sở pháp lýTrong bối cảnh ASEAN đang thúc đẩy hình

thành 3 trụ cột của mình hướng tới một Cộng đồng ASEAN vào năm 2015, các nước ASEAN cũng ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của lĩnh vực hợp tác về lao động trong đó có việc dịch chuyển của lao động di cư trong khu vực và gia đình của họ. Những vấn đề phát sinh trong quá trình lao động di, việc bảo vệ cho quyền lợi hợp pháp của họ đã được ASEAN ngày càng chú trong.

Tháng 10/2003, Lãnh đạo các nước ASEAN đã ký Tuyên bố Hòa hợp ASEAN II (hay còn gọi là Tuyên bố Ba-li II), nhất trí đề ra mục tiêu hình thành Cộng đồng ASEAN vào năm 2015 với ba trụ cột chính: Cộng đồng An ninh (ASC), Cộng đồng Kinh tế (AEC) và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC); đồng thời khẳng định ASEAN sẽ tiếp tục đẩy mạnh và mở rộng quan hệ với các đối tác bên ngoài, vì mục tiêu chung là hòa bình, ổn định và hợp tác cùng có lợi ở khu vực. Theo đó, Mục tiêu tổng quát của Cộng đồng ASEAN là xây dựng Hiệp hội thành một tổ chức hợp tác liên Chính phủ liên kết sâu rộng hơn và ràng buộc hơn trên cơ sở pháp lý là Hiến chương ASEAN, nhưng không phải là một tổ chức siêu quốc gia và không khép kín mà vẫn mở rộng hợp tác với bên ngoài.

Cộng đồng Chính trị - An ninh ASEAN (APSC) nhằm mục tiêu tạo dựng một môi trường hòa bình và an ninh cho phát triển ở khu vực Đông Nam Á thông qua việc nâng hợp tác chính trị - an ninh ASEAN lên tầm cao mới, với sự tham gia và đóng góp xây dựng của các đối tác bên ngoài; không nhằm tạo ra một khối phòng thủ chung. Các nội dung chính liên quan tới lĩnh vực lao động được đề cập trong APSC bao gồm: (i) tăng cường các ứng phó của tư pháp hình sự đối với buôn bán người; (ii) bảo vệ nạn nhân bị buôn bán người.

Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) nhằm mục tiêu tạo ra một thị trường chung duy nhất và cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề; từ đó nâng cao tính cạnh tranh và thúc đẩy sự thịnh vượng chung cho cả khu vực; tạo

sự hấp dẫn với đầu tư – kinh doanh từ bên ngoài. ASEAN đã nhất trí thông qua Kế hoạch tổng thể về AEC với những đặc điểm và nội dung sau: đến năm 2015, ASEAN sẽ trở thành : (i) một thị trường duy nhất và một cơ sở sản xuất thống nhất, trong đó có sự lưu chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, vốn và lao động có tay nghề ; (ii) Một khu vực kinh tế có sức cạnh tranh cao; (iii) Một khu vực phát triển kinh tế đồng đều, nhất là thực hiện có hiệu quả Sáng kiến liên kết ASEAN (IAI); (iv) Một khu vực ASEAN hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu. Các nội dung chính liên quan tới lĩnh vực lao động được đề cập trong APSC bao gồm: (i) hỗ trợ dịch chuyển thông quan cấp visa và thẻ lao động cho doanh nhân và người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật; (ii) hướng tới công nhận trình độ nghề; (iii) hoàn thiện các đàm phán, xây dựng mới và tiến hành việc công nhận lẫn nhau; (iv) thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực và nâng cao năng lực trong lĩnh vực dịch vụ; (v) phát triển khả năng và trình độ cơ bản trong các ngành dịch vụ ưu tiên; (vi) tăng cường khả năng thực hiện các chương trình thị trường lao động chủ động ở các nước thành viên.

Cộng đồng Văn hóa-Xã hội (ASCC) với mục tiêu phục vụ và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân ASEAN, tập trung xử lý các vấn đề liên quan đến bình đẳng và công bằng xã hội, bản sắc văn hóa, môi trường, tác động của toàn cầu hóa và cách mạng khoa học công nghệ. Tương tự như các trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh và Kinh tế, Kế hoạch tổng thể xây dựng Cộng đồng ASCC, một bộ phận của Lộ trình xây dựng Cộng đồng ASEAN, đang được ASEAN đẩy mạnh triển khai, tập trung vào một số lĩnh vực ưu tiên, đặc biệt liên quan tới lĩnh vực lao động như: (i) đầu tư phát triển nguồn nhân lực; (ii) thúc đẩy việc làm bền vững; (iii) tăng cường các kỹ năng kinh doanh; (iv) phúc lợi xã hội và bảo trợ để đối phó vơi các tác động của toàn cầu hoa; (v) bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư.

Với các ưu tiên trên, chúng ta có thể thấy rằng mục tiêu tổng thể của lĩnh vực hợp tác lao động trong ASEAN hướng tới cải thiện tốt hơn đời sống người dân, lao động hiệu quả cao, bảo vệ xã

hội cho người dân ASEAN thông qua việc nâng cao tính cạnh tranh của lực lượng lao động, tạo dựng một môi trường làm việc hài hòa và tiến bộ, và thúc đẩy việc làm bền vững.

2. Cơ chế hợp tác lao động trong ASEANHợp tác lao động trong ASEAN được thực

hiện thông qua Diễn đàn chuyên ngành cấp cao nhất là Hội nghị Bộ trưởng ASEAN phụ trách về lao động (ALMM). Diễn đàn này được họp 2 năm/lần nhằm trao đổi về các chính sách phát triển nhân lực, lao động – việc làm, bảo hiểm xã hội, quan hệ lao động, lao động di cư và các vấn đề khác liên quan đến lao động trong khu vực. Cơ quan giúp việc của Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN là Hội nghị Quan chức cao cấp về Lao động (SLOM) mỗi năm họp 1 lần. Trước đây, Hội nghị SLOM gồm 4 nhóm công tác. Tuy nhiên, từ tháng 5/2014, với mục tiêu cơ cấu lại các nhóm công tác nhằm đảm bảo sự vận hành một cách có hiệu quả, được sự phê chuẩn của Hội nghị ALMM lần thứ 23 vào tháng 5/2014 tại My-an-mar, công tác về phòng, chống và kiểm soát HIV /AIDS tại nơi làm việc đã được lồng ghép vào lĩnh vực An toàn vệ sinh lao động. Do vậy, hiện hợp tác lao động trong ASEAN được thực hiện thông qua 3 nhóm công tác, bao gồm: Nhóm công tác về các điển hình lao động tiên tiến nhằm tăng cường tính cạnh tranh trong ASEAN (SLOM-WG); Nhóm công tác về Uỷ ban ASEAN về xây dựng văn kiện nhằm thực hiện Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (ACMW); Nhóm công tác về mạng An toàn vệ sinh lao động (SLOM-OSHNET).

2.1. Nhóm công tác về các điển hình lao động tiên tiến nhằm tăng cường tính cạnh tranh trong ASEAN (SLOM-WG)

Cuộc họp SLOM-WG là sự kiện được tổ chức thường niên với sự tham dự của đầu mối về Lao động các nước ASEAN. Mục tiêu chung của cuộc họp này nhằm để các nước chủ trì các hoạt động liên quan báo cáo về các hoạt động đã được tiến hành và các hoạt động dự kiến sẽ được tiến hành trong 1 năm tới chia theo các lĩnh vực chính: Phát triển nguồn nhân lực; An sinh xã hội; Quan hệ lao động; Phát triển kỹ năng và xây dựng mạng lưới phát triển kỹ năng; Việc làm bền vững cho tất cả

Hội nhập lao động trong CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN

Page 28: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

26

mọi người; Luật lao động; Thông tin thị trường lao động; Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; Công nhận kỹ năng thuộc khuôn khổ Kế hoạch hành động của Nhóm công tác giai đoạn 2011-2015. Trong khuôn khổ hoạt động của Nhóm công tác, năm 2013-2014, Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt động của Nhóm, đã triển khai một số hoạt động cấp khu vực và được đánh giá cao. Các sự kiện có thể kể đến bao gồm: (i) chủ trì tổ chức Hội nghị khu vực lần thứ 5 về Quan hệ lao động trong ASEAN với chủ đề “Đối thoại lao động và sửa đổi Luật lao động về khuôn khổ pháp lý và quy tắc liên quan tới quan hệ việc làm” ngày 27-28/2/2013. Hội nghị đã tạo cơ hội cho các đối tác ba bên (chính phủ, người sử dụng lao động và người lao động) tại các nước thành viên ASEAN thảo luận và chia sẻ pháp luật và thực tiễn; khuyến khích phương pháp tiếp cận đối thoại xã hội để giải quyết các thách thức và tìm ra những lựa chọn phù hợp để xem xét đối với khuôn khổ pháp lý và quy định trong quan hệ lao động. Ngoài ra, thời điểm diễn ra Hội nghị cũng phù hợp với bối cảnh chung của một số nước ASEAN đang trong quá trình sửa đổi Luật lao động để phù hợp với tình hình mới; (ii) Hội thảo về An sinh xã hội và chế độ thai sản cho lao động nữ: Luật và các bài học trong ASEAN (ngày 6-7/5/2013). Hội thảo đã đưa ra các khuyến nghị ở cấp quốc gia và khu vực liên quan tới việc tăng cường chiến lược nhằm bảo vệ và thúc đẩy an sinh xã hội và chế độ thai sản cho lao động nữ trong ASEAN. Các khuyến nghị trên sẽ góp phần giúp các quốc gia trong khu vực xây dựng các chương trình, kế hoạch để giải quyết các vấn đề có liên quan; (iii) đề xuất tiến hành nghiên cứu so sánh pháp luật và thực tiễn lao động trong ASEAN đã được hoàn thành vào đầu năm 2014. Cùng tham gia với Việt Nam còn có 3 quốc gia điều phối bao gồm Lào, Myanamar và Campuchia. Hoạt động này đã tiến hành được hai pha. Với sự hỗ trợ kỹ thuật và tài chính của Văn phòng FES tại Singapore, Pha II được tiến hành nghiên cứu với bốn nội dung bao gồm: Việc làm cho phụ nữ (Myanmar); Việc làm cho người khuyết tật (Việt Nam); Việc làm thanh niên (Campuchia) và Quan hệ lao động (Lào). Với tư cách là quốc gia đưa ra sáng kiến, Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ với các quốc gia điều phối và các nghiên cứu viên theo từng chủ đề triển khai hoạt động nghiên cứu và hiện toàn bộ báo cáo đã được hoàn tất sau khi nhận được sự thống nhất của 10 nước ASEAN về mặt nội dung. Nội dung này không chỉ đưa ra một cái nhìn tổng quan về Luật lao động trong các nước ASEAN, so sánh sự khác nhau giữa Luật các nước mà còn đưa ra các bài học kinh nghiệm tốt theo từng chủ đề; (iv) Hội thảo đánh giá Chương trình làm việc của các Bộ trưởng

Lao động giai đoạn 2010-2015 (tháng 5/2014 tại Thành phố Đà Lạt, Lâm Đồng). Các khuyến nghị và ưu tiên được đưa ra tại Hội nghị này đã góp phần hiện thực hoá sáng kiến khu vực hướng tới tăng cường tác động của Chương trình Công tác tại các quốc gia thành viên; đề xuất những lĩnh vực ưu tiên mà khu vực cần hướng tới trong thời gian tới và đặc biệt khi ASEAN đang tiến tới xây dựng ALM-WP giai đoạn tiếp theo.

Trong khuôn khổ hợp tác ASEAN về lĩnh vực lao động liên quan tới phát triển thông tin thị trường lao động, mỗi quốc gia thành viên đều có một một hệ thống phát triển thông tin thị trường riêng. Tuy nhiên, với mục tiêu xây dựng Cộng đồng ASEAN thống nhất vào năm 2015, các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng hiện đang nỗ lực phát triển một hệ thống thông tin thị trường lao động đồng bộ nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu cung cấp các dữ liệu về thông tin lao động cho các nhà quản lý, người sử dụng lao động và người lao động trong ASEAN.

2.2. Nhóm công tác về an toàn vệ sinh lao động

Các hoạt động hợp tác trong ASEAN về nội dung này chủ yếu thông qua Hội nghị, Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm nhằm bảo đảm an toàn lao động cho người lao động tại nơi làm việc. Tại Hội nghị Ban điều phối mạng ASEAN về An toàn vệ sinh lao động vào tháng 5/2007, Việt Nam đã được các quốc gia thành viên Mạng An toàn vệ sinh lao động ASEAN (ASEAN –OSHNET) lựa chọn là Điều phối viên cho việc xây dựng Hồ sơ quốc gia, Chương trình quốc gia về An toàn vệ sinh lao động trong ASEAN. Ngoài ra, Việt Nam cũng kết nối hoạt động của mạng với các hoạt động hợp tác quốc tế khác, đặc biệt trong lĩnh vực ngành, nghề có nguy cơ cao.

Theo kết quả Hội nghị đánh gía giữa kồ Chương trình làm việc của các Bộ trưởng Lao động ASEAB giai đoạn 2010-2015 vào tháng 5/2014 tại Thành phố Đà Lạt, Việt Nam, các đại biểu ASEAN đã thống nhất việc lồng ghép hoạt động của Nhóm công tác về HIV vào Nhóm công tác an toàn vệ sinh lao động vì vấn đề phòng chống và kiểm soát HIV tại nơi làm việc thuộc phạm vi của an toàn vệ sinh lao động, phù hợp với mục tiêu giảm thiểu sự trùng lặp và đảm bảo sự hiệu quả các nguồn lực trong bối cảnh rộng hơn của ASEAN.

2.3. Nhóm công tác về đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài và bảo vệ quyền và lợi ích của người lao động di cư

Đây được coi là một trong những hoạt động quan trọng song cũng phát sinh nhiều vấn đề liên quan đến quản lý lao động nước ngoài tại các nước. Với việc Hiệp định ASEAN về di chuyển thể nhân đã được Bộ trưởng Bộ Công Thương thừa

ủy quyền các Chính phủ các nước ASEAN ký kết nhân Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ 21 tổ chức từ ngày 17-20/12/2012 tại Campuchia, hợp tác ASEAN trong lĩnh vực di chuyển thể nhân và lao động di cư sẽ được tăng cường hơn nữa. Trong các nước ASEAN, Việt Nam hiện đang có lao động làm việc tại Malaysia, Brunei, Singapore và Lào.

Bên cạnh việc xúc tiến hợp tác lao động trong lĩnh vực đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài, Việt Nam đã tham gia tích cực hoạt động của Nhóm công tác của Uỷ ban ASEAN về việc thực hiện Tuyên bố ASEAN về Bảo vệ và thúc đẩy quyền của người lao động di cư (ACMW-DT). Việc xây dựng văn kiện trên được khởi xướng năm 2008 với 4 nước tham gia và theo sáng kiến của Việt Nam, kể từ năm 2010, tất cả 10 nước thành viên ASEAN đã cùng tham gia xây dựng văn kiện này. Hiện đã có 13 cuộc họp Nhóm công tác (cuộc họp gần đây nhất vào ngày 1-3/9/2014 tại Naw Pyi Taw, Myanmar). Nhóm soạn thảo đã thống nhất được 2/3 trong tổng số các điều khoản của Văn kiện liên quan tới các định nghĩa về người lao động di cư, các quyền của người lao động di cư, trách nhiệm của nước phái cử, nước tiếp nhận. Riêng về tính pháp lý của Văn kiện, hiện các quốc gia thành viên ASEAN đều nhất trí Văn kiện không mang tính ràng buộc nhưng đa số các quốc gia thành viên cho rằng vẫn cần xem xét việc gắn với các đề xuất của phía Phi-líp-pin liên quan tới việc xây dựng kế hoạch thực hiện văn kiện gồm 4 nội dung sau: (a) xây dựng kế hoạch hành động kèm theo khung thời gian để thực hiện văn kiện, (b) thảo luận về các Thỏa thuận song phương giữa các nước thành viên ASEAN để thực hiện văn kiện, (c) chia sẻ và đưa ra những tài liệu về các điển hình tốt nhất; và (d) chỉ định đầu mối thực hiện văn kiện tại mỗi nước thành viên ASEAN.

Quá trình soạn thảo văn kiện đang ở giai đoạn nước rút để sớm hoàn thiện vào năm 2014 do vậy Việt Nam luôn tham gia Nhóm công tác với tinh thần chủ động, tích cực và sẵn sàng đóng góp có trách nhiệm cho hoạt động của Nhóm, phát huy hiệu quả tinh thần đoàn kết ASEAN cũng như trong tiến trình xây dựng văn kiện; giữ vững các nguyên tắc của ASEAN, linh hoạt, khéo léo bảo vệ hiệu quả lợi ích của ta; đặc biệt là hết sức nỗ lực để đạt được sự đồng thuận cao nhất ở tất cả các nội dung còn lại của Văn kiện nhằm sớm thông qua văn kiện để có thêm một cơ sở bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động di cư.

Ngoài ra, liên quan tới lĩnh vực này, Diễn đàn ASEAN về di cư lao động là một sự kiện thường niên cũng đáng được chú ý vì hoạt động này mở ra cơ hội tốt cho các đại diện Chính phủ, tổ chức người sử dụng lao động và tổ chức người lao động cùng các tổ chức xã hội có quan tâm cùng nhau

Page 29: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

27

thảo luận và trao đổi thực hành tốt nhất về các vấn đề quan trọng mà người lao động nhập cư trong khu vực phải đối mặt. Các khuyến nghị được đưa ra tại Diễn đàn góp phần không nhỏ vào việc xây dựng các sáng kiến, các hoạt động cấp quốc gia nhằm bảo vệ tốt hơn người lao động di cư trong khu vực.

Ngoài ra, ASEAN cũng có nhiều hoạt động hợp tác với các Đối tác đối thoại trong nhiều lĩnh vực như quan hệ lao động, bảo vệ xã hội, phát triển nguồn nhân lực. Các hoạt động hợp tác lao động ASEAN+3 được thiết lập từ năm 2001 với Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc với việc tổ chức Hội nghị Bộ trưởng Lao động ASEAN+3 (ALMM+3) định kỳ 2 năm/lần. ASEAN cũng hợp tác với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO).

II. thựC trạNG thị trườNG lAO ĐộNG VIệt NAM

Quá trình hợp tác lao động trong ASEAN mang đến nhiều cơ hội và thách thức đối với tiến trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam và sự thay đổi thị trường lao động. Trong quá trình hợp tác đó, thực trạng lao động của Việt Nam hiện đang còn một số bất cập có thể kể tới đó là:

- Về quy mô lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên ở Việt Nam là 53,8 triệu người, trong đó, lực lượng trong độ tuổi lao động là 47,52 triệu người. Tỷ lệ lao động tham gia vào thị trường lao động chính thức còn thấp, đạt khoảng 30%.

- Về chất lượng lao động, vẫn còn nhiều bất cập so với yêu cầu phát triển và hội nhập. Khoảng 45% lao động trong lĩnh vực nông nghiệp hầu hết chưa qua đào tạo. Hiện nay chỉ có 18,38% lao động có bằng cấp, chứng chỉ qua đào tạo. Tỷ lệ lực lượng lao động có trình độ đại học trở lên chủ yếu tập trung tại TP. Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Thêm vào đó, trình độ ngoại ngữ của lao động trình độ đại học và lao động có tay nghề ở Việt Nam còn nhiều hạn chế. Đối với lực lượng lao động Việt Nam đi làm việc tại các quốc gia trong khu vực, hầu hết lao động của ta thuộc nhóm lao động phổ thông, hạn chế về trình độ tay nghề, hưởng lương thấp hơn so với người lao động làm cùng ngành nghề của một số quốc gia trong khu vực.

- Về giá cả sức lao động, tiền lương trong các doanh nghiệp: hầu hết lao động ở khu vực phi chính thức thường có có mức lương thấp và làm việc trong điều kiện không an toàn và công việc không được đảm bảo. Hiện nay chưa là kết quả của quá trình thương lượng, thỏa thuận giữa người lao động và chủ sử dụng lao động. Tốc độ tăng lương thực tế còn thấp cho thấy kết quả tăng trưởng kinh tế chưa được chia xứng đáng cho người lao động. Nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI thực hiện chính sách tiền lương

thấp, chậm trả lương và không thực hiện trách nhiệm bảo hiểm xã hội cho người lao động. Mức tiền lương tối thiểu thấp chưa được tính đúng, tính đủ cho mức sống tối thiểu có cả nuôi con, thấp hơn nhiều so với mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.

- Bên cạnh đó, hệ thống thông tin của thị trường lao động còn nhiều yếu kém và hạn chế. Trong đó, hệ thống bị chia cắt giữa các vùng, miền; khả năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu các đối tác trên thị trường lao động, đặc biệt là người chủ sử dụng lao động và người lao động. Hệ thống chỉ tiêu về thị trường lao động tuy đã ban hành nhưng chưa hoàn thiện, đầy đủ, thiếu thống nhất và khó so sánh quốc tế. Do vậy, chưa đánh giá được hiện trạng của cung – cầu lao động, các “nút thắt” về nhu cầu nguồn nhân lực trong nước. Mặt khác, thiếu mô hình dự báo thị trường lao động tin cậy và nhất quán, thiếu đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác thống kê, phân tích, dự báo. Ngoài ra, các hoạt động giao dịch việc làm mới chỉ đáp ứng 10-15% nhu cầu thực tế. Hoạt động dịch vụ việc làm chưa thành mạng lưới; quy mô tổ chức nhỏ bé; hoạt động còn mang tính tự phát; năng lực cán bộ hạn chế; cơ chế tổ chức, chính sách tài chính cho hoạt động của các trung tâm giới thiệu việc làm chưa hợp lý; thiếu sự phối hợp, chia sẻ thông tin và hợp tác trong nội bộ dịch vụ việc làm, dịch vụ việc làm – doanh nghiệp, cơ sở dạy nghề.

Do đó, Việt Nam cũng như các quốc gia trong khu vực cần tăng cường hợp tác thúc đẩy hơn nữa các nội dung liên quan tới thông tin thị trường lao động, phát triển nghề, công nhận nghề và chứng chỉ quốc gia, thúc đẩy quan hệ lao động hài hòa….; đồng thời cần có các chiến lược và nỗ lực nhằm xây dựng lực lượng lao động năng động, sáng tạo và hiệu quả, hỗ trợ các doanh nghiệp và các ngành tạo ra việc làm tốt và môi trường làm việc hài hòa.

III. táC ĐộNG CủA CáC yếu tố hộI Nhập

Theo Báo cáo chung giữa ILO/ADB với tiêu đề “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập hướng tới việc làm tốt hơn và sự thịnh vượng chung” vừa được công bố vào tháng 5/2014, báo cáo đã đưa ra bức tranh tổng thể về các xu hướng thị trường lao động và kinh tế của ASEAN trong giai đoạn gần đây, đánh giá tác động của Cộng đồng Kinh tế ASEAN đối với các thị trường lao động thông qua các mô phỏng từ mô hình và phân tích chính sách, thực nghiệm, nhằm mục đích cung cấp khuyến nghị chính sách dựa trên cơ sở bằng chứng hướng tới tạo ra việc làm tốt hơn và tăng trưởng cân bằng, đảm bảo quyền lợi của mọi người. Báo cáo nhấn mạnh các ưu tiên chính nhằm giải quyết các

thách thức và cơ hội của Cộng đồng Kinh tế ASEAN trong việc tăng cường các cơ chế hợp tác khu vực, thúc đẩy thay đổi cơ cấu và cải thiện chất lượng việc làm, tăng cường phát triển kỹ năng, tăng năng suất lao động và tiền lương, và quản lý hiệu quả di cư lao động.

Các tác động của hội nhập liên quan tới việc làm có thể kể tới đó là:

1. Tác động tới vấn đề việc làm:Dưới tác động của Cộng đồng kinh tế ASEAN

(AEC), Việt Nam có thể sẽ chứng kiến sự gia tăng mạnh mẽ của thị trường việc làm và tăng trưởng. Tuy nhiên, việc hội nhập và kết nối trong khu vực sẽ tác động như thế nào đến cuộc sống của người Việt Nam, cũng như toàn thể công dân ASEAN? Sự kiện này sẽ giúp cải thiện mức sống của những người dân bình thường như thế nào? Những biện pháp ấy có giúp họ tìm được một công việc tốt, ổn định đi kèm thu nhập tốt và điều kiện làm việc tốt hay không? Liệu con cái của họ sau này có đạt được điều tương tự hay không? Báo cáo chỉ ra rằng, trên quy mô tổng thể, hội nhập kinh tế sẽ giúp tạo thêm 14 triệu việc làm ở khu vực ASEAN và cải thiện đời sống của 600 triệu người dân hiện sinh sống trong khu vực. Nhưng điều này chỉ có thể đạt được nếu có được sự quản lý hợp lý và quyết liệt để thực thi một cách hiệu quả.

Báo cáo cho thấy đến năm 2025, AEC có thể thúc đẩy tăng trưởng GDP của Việt Nam thêm 14,5%, đồng thời tạo ra hàng triệu việc làm mới. Sự kiện này sẽ đẩy nhanh tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đồng thời làm tăng hơn gấp đôi năng suất lao động trong thập niên tới. Thế nhưng, những lợi ích chung ấy sẽ không được chia đều cho tất cả. Trong khi một số ngành sẽ trở nên phát đạt thì một số ngành khác lại có thể phải cắt giảm việc làm. Dự báo ở Việt Nam, sự gia tăng cơ hội việc làm mạnh mẽ ở những ngành như sản xuất gạo, xây dựng, vận tải, dệt may và chế biến lương thực.

Trong giai đoạn 2010 - 2025, nhu cầu đối với việc làm cần tay nghề trung bình nói chung sẽ tăng nhanh nhất, ở mức 28% và sẽ có thêm nhiều cơ hội cải thiện cuộc sống của hàng triệu người. Tuy nhiên, những người tìm việc mà thiếu những kỹ năng và kinh nghiệm cần thiết sẽ không thể nắm bắt được những cơ hội mới ấy. Hiện nay, gần một nửa số lao động Việt Nam đang làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, có năng suất lao động, thu nhập và điều kiện lao động còn ở mức thấp điển hình so với một vài nền kinh tế ASEAN khác.

Việt Nam sẽ là một trong một số nước hưởng lợi nhiều hơn từ việc hội nhập kinh tế khu vực sâu rộng so với các nước khác do nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nhiều vào ngoại thương. Với quyết tâm

Page 30: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201428

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

và nỗ lực, năng suất lao động của Việt Nam có thể tăng hơn gấp đôi vào năm 2025 so với mức năm 2010. Cùng với sự gia tăng của các dòng đầu tư và thương mại gia tăng, tốc độ thay đổi cơ cấu kinh tế hướng tới các ngành có giá trị cao hơn sẽ được đẩy nhanh. Điều này có thể giúp Việt Nam cạnh tranh trên thị trường toàn cầu dựa trên năng suất lao động và kỹ năng nghề nghiệp tốt hơn

2. Tác động của FDI và thuế suất đến lao động và tăng trưởng:

Một yếu tố nữa cũng thể hiện mức độ hội nhập, mở cửa kinh tế khu vực và thế giới là dòng vốn FDI vào Việt Nam và mức thuế suất nhập khẩu của các ngành.

Đầu tư FDI vào Việt Nam càng tăng thì lao động và giá trị gia tăng càng tăng. Khi lượng vốn đầu tư của khu vực ASEAN vào Việt Nam tăng thêm 1% thì lao động tăng thêm 0.24% và giá trị gia tăng tăng thêm 0.06%. Khi thuế suất nhập khẩu giảm, lượng hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam sẽ tăng và làm lao động trong các ngành giảm xuống.

Theo ngành, dường như những doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào ngành chế biến lương thực thực phẩm làm tăng số lao động nhiều hơn các ngành khác.Với cùng một mức tăng FDI vào Việt Nam thì lao động ngành chế biến thực phẩm tăng nhiều hơn so với ngành khai khoáng là 0.11%, trong khi 2 ngành còn lại có xu hướng lao động tăng chậm hơn ngành khai khoáng. Tuy nhiên, đầu tư từ các nước ASEAN vào ngành khai khoáng có tác động làm tăng lao động nhiều hơn so với các ngành khác

Thuế suất có xu hướng ngược lại hoàn toàn với các yếu tố hội nhập ở trên, khi thuế suất nhập khẩu hàng hóa ở khu vực ASEAN tăng lên cùng một mức thì lao động ngành khai khoáng lại có mức tăng chậm nhất và mức tăng nhanh nhất là ngành chế biến thực phẩm với mức tăng lao động nhiều hơn ngành khai khoáng là 0.33%. Rõ ràng là thuế suất không có nhiều tác động trực tiếp đến các lao động của các ngành kinh tế như kỳ vọng.

3. Tác động của hội nhập ASEAN tới lao động kỹ năng và phi kỹ năng:

Mục tiêu của AEC là hướng tới một khu vực ASEAN ổn định, thịnh vượng, cạnh tranh cao, sự di chuyển tự do của hàng hóa, dịch vụ và đầu tư, di chuyển tự do các luồng vốn, các chuyên gia và lao động được di chuyển tự do hơn. Khi AEC hình thành sẽ tác động trực tiếp tới thị trường lao động của các nước nói riêng và của khu vực nói chung. Theo đó, việc lưu chuyển lao động trong khu vực là một yêu cầu tất yếu để tạo điều kiện thúc đẩy cho quá trình hợp tác và lưu thông thương mại giữa các nước. Do đó, vấn đề di chuyển lao động có tay nghề không chỉ là lĩnh vực thuộc phạm vi

của Cộng đồng Văn hóa – Xã hội ASEAN (ASCC) mà còn thuộc phạm vi của AEC. AEC cũng đã có những bước tiến đáng kể trong việc thúc đẩy dòng chảy tự do của lao động có tay nghề trong những năm qua. Trước thực tế việc tự do lưu chuyển lao động có tay nghề của các nước ASEAN được ký kết vào năm 2015, các quốc gia của ASEAN nên nắm vững và vận dụng các Thỏa thuận công nhận lẫn nhau (MRAs) để tạo thuận lợi cho việc di chuyển, xuất khẩu lao động trong thời điểm hiện tại. Hiện trong khu vực đã thông qua Thỏa thuận MRA cho 8 ngành bao gồm: du lịch, kiểm toán, kiến trúc, kĩ sư, nha sĩ, bác sĩ, y tá, điều tra viên được quyền tự do di chuyển tìm việc làm sẽ giúp thị trường lao động rộng mở hơn. Lúc này, lao động Việt Nam có cơ hội tìm kiếm việc làm tại các thị trường phát triển như Singapore, Thái Lan, Malaysia… nhưng đồng thời, đất nước chúng ta cũng sẽ tiếp nhận nhiều lao động chất lượng cao từ các nước bạn tới làm việc. Tuy nhiên, thực tế này sẽ có thể tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Thứ nhất, chúng ta phải cạnh tranh với lao động các nước Đông Nam Á ngay trên sân nhà. Thứ hai, thị trường mở cửa thì nhiều người mong muốn được sang nước ngoài làm việc với mức thu nhập cao, lúc đó chúng ta lại phải cạnh tranh với chính lao động trong nước, sinh viên phải cạnh tranh với chính sinh viên. Ai thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng, thiếu trình độ tay nghề tất yếu bị đào thải. Ngoài ra, nằm trong xu hướng chung đó, Việt Nam hiện đang gấp rút tiến trình xây dựng Khung trình độ quốc gia tham chiếu khung tham chiếu trình độ khu vực AQRF, tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ và kỹ năng giữa các nước trong Cộng đồng kinh tế ASEAN 2015.

Thêm vào đó, khi AEC hình thành chắc chắn giúp thị trường lao động ASEAN sôi động hơn, nhưng hiện nay chủ yếu di chuyển vào thị trường Singapore, Malaysia và Thái Lan. Kết quả khảo sát các chủ sử dụng lao động tại 10 quốc gia ASEAN của ILO, công bố tháng 5/2014, cho thấy các doanh nghiệp đang rất lo ngại về tình trạng thiếu hụt lực lượng lao động có kỹ năng, tay nghề. Các kỹ năng cần nhất là quản lý và lãnh đạo, tiếp đến là kỹ năng chuyên môn, tay nghề và dịch vụ khách hàng. Nhưng gần 50% chủ lao động tham gia khảo sát cho biết người lao động tốt nghiệp phổ thông không có được kỹ năng họ cần. Trong khi đó, hơn 50% nói rằng cử nhân tốt nghiệp đại học có được những kỹ năng cần. Với thực trạng lao động của Việt Nam và các điều kiện, yêu cầu của thị trường di chuyển lao động có tay nghề và đào tạo trong khu vực ASEAN, Việt Nam cần tích cực hơn trong phát triển thị trường lao động trong nước, tập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao

động khu vực cả về quy mô, chất lượng và cơ cấu ngành nghề.

4. Tác động của hội nhập tới năng suất lao động và tiền lương:

Năng suất và kỹ năng của lao động Việt Nam đang ở mức trung bình của khối ASEAN. Năng suất lao động Việt Nam chỉ cao hơn lao động tại Lào và Campuchia; tiệm cận các nước Indonexia và Philipin; thấp hơn Thái Lan, Singapore và Malaysia. Phát triển kỹ năng và cải thiện việc đào tạo nghề sẽ là một trong những nhân tố giúp nâng cao năng suất lao động, giúp lao động chuẩn bị sẵn sàng cho việc hội nhập AEC. Nhưng tăng năng suất lao động không chỉ là việc của riêng người lao động. Năng suất lao động chỉ có thể được cải thiện khi Chính phủ đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng. Đồng thời, các doanh nghiệp đầu tư hiện đại hóa trang thiết bị.

Chính phủ cần nắm bắt xem khu vực tư nhân có nhu cầu cần gì và tạo sự đổi mới cũng như xây dựng môi trường thông thoáng trong sự hợp tác. Nếu gây dựng được những nền tảng ấy, năng suất lao động có thể sẽ tăng gấp đôi vào năm 2025 so với mốc năm 2010.

Liên quan đến thị trường lao động, không thể không nhắc đến yếu tố tiền lương, giá cả sức lao động. Tiền lương trong các doanh nghiệp hiện nay chưa phải là kết quả của quá trình thương lượng, thỏa thuận giữa người lao động và chủ sử dụng lao động, chưa dựa trên năng suất, chất lượng, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tốc độ tăng lương thấp cho thấy kết quả tăng trưởng kinh tế chưa được chia xứng đáng cho người lao động, trong khi một số nhà kinh tế cho rằng, tốc độ tăng tiền lương thực tế và GDP đạt mức hợp lý khoảng 70%. Tranh chấp lao động chủ yếu là về tiền lương (hơn 80% các cuộc đình công là đòi tăng lương hoặc trả đúng lương, nhất là lương làm ngoài giờ, tiền thưởng, ăn giữa ca...) xảy ra tại các doanh nghiệp FDI. Nhiều doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp FDI ngoài thực hiện chính sách tiền lương thấp, chậm trả lương còn không thực hiện trách nhiệm bảo hiểm xã hội đối với người lao động.

IV. Một Số KhuyếN NGhịViệc hình thành cộng đồng ASEAN 2015 đã

mở ra những cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra những thách thức không hề nhỏ đối với Việt Nam trong đó có vấn đề lao động việc làm. Để theo kịp tiến trình của hội nhập, Việt Nam cần tiếp tục tích cực thực hiện các giải pháp sau:

Tiếp tục phát triển thị trường lao động trong nước:

- Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, chính sách phát triển thị trường lao động cần phải được lồng ghép trong các chiến

Page 31: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 29

hướng tới Cộng đồng kinh tế aSean 2015

lược và chính sách phát triển kinh tế-xã hội;- Các chính sách thị trường lao động chủ

động cần được thiết kế nhằm hỗ trợ sự dịch chuyển của lao động: Cộng đồng ASEAN 2015 được thành lập sẽ hình thành thị trường chung trong khu vực trong đó có việc tự do dịch chuyển lao động có trình độ trong khu vực ASEAN, dịch chuyển cơ cấu lao động theo sự dịch chuyển cơ cấu ngành nghề kinh tế đòi hỏi sự phát triển của lực lượng lao động có kỹ năng nghề. Do đó, Việt Nam cần phải tập trung nguồn lực phát triển dạy nghề, đặc biệt là dạy nghề cho lao động nông thôn;

- Có chính sách hỗ trợ đào tạo đối với lao động bị thiếu hụt kỹ năng theo kịp với sự thay đổi của cầu lao động có kỹ năng trong quá trình hội nhập: Xác định khoảng cách kỹ năng nghề để có các chính sách điều chỉnh phù hợp; hoặc hỗ trợ đào tạo đối với lao động bi thất nghiệp dài hạn, hoặc công nhân bị mất việc hàng loạt do điều chỉnh cơ cấu kinh tế, hoặc lao động mới bước vào thị trường lao động. Bên cạnh đó, cần mở rộng độ bao phủ phúc lợi xã hội, trong đó có cơ chế bảo hiểm thất nghiệp trên toàn quốc. Biện pháp này sẽ góp phần giảm bớt những tác động của chuyển dịch cơ cấu và hỗ trợ người lao động chuyển sang làm việc ở các ngành với năng suất cao hơn;

- Tăng cường vai trò của Nhà nước trong quản lý điều chỉnh trong thị trường lao động: Đổi mới cơ chế tiền lương trong khu vực doanh nghiệp gắn với năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh; dẫn dắt quan hệ lao động, các cơ chế hòa giải trong tranh chấp lao động và đình công để bảo vệ thị trường lao động trong nước trước bối cảnh hội nhập;

- Tăng cường thông tin thị trường lao động: Tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, kết nối cung-cầu lao động;

- Cần có các chính sách tạo việc làm hiệu quả đối với các ngành chịu tác động mạnh của quả trình hội nhập ASEAN như ngành dệt may, khai khoáng, chế biến thực phẩm; linh kiện điện tử;

- Khi xây dựng các chính sách phát triển thị trường lao động cần phải rà soát và tích hợp với các chính sách về Luật lao động, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp và xuất khẩu lao động, bảo trợ xã hội;

- Xây dựng hệ thống quản lý lao động nhập cư và di cư khi hội nhập ASEAN, cải thiện công tác bảo vệ nhóm lao động di cư và các hệ thống phục vụ việc công nhận kỹ năng của họ, đặc biệt là ở những ngành nghề mà trong đó các lao động với kỹ năng thấp và trung bình chiếm tỷ lệ cao;

- Việt Nam cần phải hoàn tất việc xây dựng khung trình độ quốc gia hướng tới cộng đồng ASEAN;

- Phát triển các kỹ năng nghề gắn với nhu cầu hội nhập khu vực, ưu tiên phát triển các kỹ năng mới trong lao động đáp ứng đòi hỏi của phát triển bao gồm kỹ năng lao đông trong các việc làm xanh, việc làm bền vững, việc làm trong các ngành mới, ngành công nghệ cao để bắt nhịp được sự phát triển trong khu vực;

Các giải pháp đào tạo nghề cần phải gắn với các kỹ năng mềm như ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng quản lý hiệu quả công việc, các tác phong lao động công nghiệp, kỷ luật lao động giúp người lao động có thể làm việc ở môi trường đa quốc gia. Bên cạnh đó, trong quá trình đào tạo nghề cần phải lồng ghép giáo dục phổ biến các kiến thức pháp luật của các quốc gia trong khu vực, các cam kết pháp lý trong cộng đồng ASEAN;

- Phát triển cầu lao động thông qua việc phát triển các doanh nghiệp, loại hình kinh doanh có tiềm năng phát triển trong khu vực. Bên cạnh đó chính phủ cũng cần phải có các biện pháp nhằm duy trì ổn định và phát triển hoạt động sản xuất trong nước trước sức ép của việc hội nhập kinh tế, tăng cường xuất khẩu các mặt hàng có ưu thế, kiểm soát chất lượng sản phẩm, giữ uy tín trong thị trường khu vực, áp dụng các tiêu chuẩn sản xuất trong khu vực;

Hoàn thiện hành lang pháp lý nhằm thu hút và quản lý dòng chảy đầu tư từ khu vực ASEAN vào Việt Nam

- Thúc đẩy hội nhập giáo dục đại học của Việt Nam với hệ thống giáo dục đại học khu vực:

Để lao động của Việt Nam phát triển đáp ứng được yêu cầu của hội nhập khu vực, Việt Nam cũng cần phát triển được lực lượng lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, giỏi về ngoại ngữ, thông thạo về môi trường khu vực. Để làm được điều này, Việt Nam cần tích cực trong giao lưu giáo dục, đàm phán xây dựng tiêu chuẩn giáo dục đại học chung trong khu vực ASEAN, là cơ sở cho việc áp dụng đào tạo Đại học ở các quốc gia trong khu vực. Tất nhiên, những lao động được đào tạo trong hệ thống giáo dục đại học chung của khu vực ASEAN sẽ đáp ứng được tất cả các yêu cầu của thị trường lao động tại các quốc gia trong khu vực;

- Tăng cường công tác dự báo về cầu lao động trong quá trình hội nhập và sau hội nhập:

Việt Nam cần phải làm tốt hơn nữa công tác dự báo nhu cầu lao động và kỹ năng trong tương lai; dự báo đánh giá tác động của hội nhập tới nền kinh tế nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực tới quá trình phát triển. Các kết quả dự báo sẽ

giúp Chính phủ hoàn thiện thể chế chính sách về lao động, việc làm, an sinh nhằm phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp tục hội nhập sâu rộng hơn nữa, đạt mục tiêu phát triển kinh tế cao và giải quyết tốt các vấn đề an sinh xã hội;

- Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền các nội dung hội nhập trong khu vực ASEAN:

Sau khi hình thành cộng đồng ASEAN 2015, Việt Nam sẽ phải thực hiện rất nhiều các cam kết về kinh tế, an ninh chính trị, xã hội trong khu vực. Do đó, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến các cam kết này trong khuôn khổ của các Hiệp định đã ký kết cũng như chủ trương của Nhà nước về vấn đề lao động, an sinh xã hội trong thời kỳ hội nhập. Việc làm này có tác động nâng cao nhận thức của người dân về quyền và trách nhiệm của mình khi Việt Nam gia nhập ASEAN, khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước và kiều bào nước ngoài đóng góp nguồn lực cho an sinh xã hội nói riêng và phát triển kinh tế đất nước nói chung;

- Tiếp tục xây dựng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội: Hội nhập ASEAN 2015 mang đến nhiều cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức đối với Việt Nam: Mở cửa đồng nghĩa với việc không những gia tăng cạnh tranh trong sản xuất mà còn gia tăng cạnh tranh về việc làm. Đối tượng chịu ảnh hưởng nhiều nhất của sự cạnh tranh này là lao động yếu thế như lao động nữ, lao động có trình độ chuyên môn thấp, lao động đang làm việc trong khu vực phi chính thức,… Vì vậy, chính phủ cần tiếp tục nghiên cứu xây dựng hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội có khả năng làm giảm cú sốc kinh tế cho người lao động đặc biệt là nhóm lao động yếu thế:

- Tiếp tục hoàn thành việc xây dựng chính sách “sàn an sinh” nhằm đảm bảo an sinh cho toàn bộ cộng đồng, giảm các chi phí điều chỉnh chính sách khi thay đổi kinh tế; và nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ nền kinh tế;

- Tăng cương khả năng tiếp cần của nhóm người nghèo, lao đông yếu thế đối với các chính sách an sinh xã hội;

- Nghiên cứu mở rộng đối tượng hưởng chính sách bảo trợ xã hội như: lao động có thu nhập thấp, lao động nhập cư, người già, người tàn tật, những người đã cố gắng tạo thu nhập nhưng mức thu nhập không đủ khả năng đảm bảo cho cuộc sống gia đình ở mức tối thiểu;

- Thúc đẩy giảm nghèo, tăng cường kinh phí cho công tác giảm nghèo và rà soát hộ nghèo tại các huyện nghèo, dân tộc thiểu số; khuyến khích người dân có ý chí vương lên thoát nghèo.

Nguồn: Vụ HTQT, Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội

Page 32: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201430

quan hệ hợp táC việt nam - lào - CampuChia

Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam lần thứ 8 nhất trí với đề xuất của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam về việc nâng cấp và mở rộng khuôn khổ hợp tác và giao Uỷ ban điều phối chung xây dựng Đề án về kết nối kinh tế 3 nước.

Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dự Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển lần thứ 8.

Ngày 25/11, tại Thủ đô Vientiane, Lào, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Thủ tướng CHDCND Lào Thongsinh Thammavong và Thủ tướng Vương quốc Campuchia

Hun Sen đã đồng chủ trì Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam lần thứ 8 (HNCC CLV-8).

Hội nghị đã tập trung rà soát tình hình thực hiện “Bản sửa đổi Quy hoạch phát triển kinh tế – xã hội khu vực Tam giác phát triển CLV đến năm 2020” và “Bản ghi nhớ về các chính sách ưu đãi và tạo thuận lợi cho khu vực Tam giác phát triển CLV”.

Nâng cao hiệu quả hợp tác trong khu vực tam giác phát triểnCác nhà lãnh đạo đánh giá cao

những kết quả đạt được, đặc biệt là trong phát triển hạ tầng cơ sở; xúc

tiến thương mại, đầu tư và du lịch giữa ba nước; khuyến khích tham gia của giới trẻ đối với sự phát triển của Khu vực Tam giác phát triển; hợp tác bảo đảm an ninh, an toàn và môi trường ổn định của khu vực.

Về định hướng hợp tác thời gian tới, Hội nghị đã nhất trí với đề xuất của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng về việc nâng cấp và mở rộng khuôn khổ hợp tác Tam giác phát triển và giao Uỷ ban điều phối chung xây dựng Đề án về kết nối kinh tế 3 nước để trình lên Hội nghị Cấp cao CLV lần thứ 9.

Hội nghị cũng thống nhất một số biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác như: Xây dựng danh sách các dự án hợp tác ưu tiên trong khu vực Tam giác phát triển để vận động đầu tư từ các đối tác phát triển; nghiên cứu hình thành Thoả thuận giữa 3 nước về chính sách ưu đãi đặc biệt cho khu vực Tam giác phát triển trên cơ sở kết hợp các thoả thuận song phương và đa phương hiện có; xây dựng Quy hoạch phát triển ngành du lịch khu vực Tam giác phát triển để tạo bước chuyển quan trọng cho ngành du lịch ba nước; giao các Bộ Nông nghiệp 3 nước trao đổi và hoàn thiện Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp cao su 3 nước Campuchia, Lào và Việt Nam để trình Hội nghị Uỷ ban điều phối chung lần thứ 10; tăng cường hợp tác an ninh đối ngoại, đặc biệt trong phòng chống tệ nạn buôn người, buôn ma tuý, tội phạm xuyên biên giới, ứng phó với bệnh dịch truyền nhiễm và thiên tai, rà phá vật liệu nổ còn sót lại sau chiến tranh; thúc đẩy các chương trình hợp tác chung về bảo vệ môi trường và quản lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Phát biểu tại Hội nghị, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hoan nghênh nỗ lực của Uỷ ban Điều phối chung trong triển khai “Quy hoạch tổng thể điều chỉnh phát triển kinh tế – xã hội khu vực Tam giác phát

nâng cấp, mở rộng khuôn khổ hợp tác Khu vực tam giác phát triển

Page 33: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 31

quan hệ hợp táC việt nam - lào - CampuChia

triển Campuchia-Lào-Việt Nam tới năm 2020” và đánh giá cao những thành tựu đạt được. Thủ tướng nhấn mạnh những chuyển biến tích cực trong cơ cấu kinh tế của các địa phương, trong quan hệ thương mại và đầu tư cũng như trong hợp tác an ninh-quốc phòng, du lịch, văn hoá, xã hội đã khẳng định hướng đi đúng đắn của cơ chế hợp tác này. Các kết quả thu được cũng thể hiện sự đoàn kết gắn bó, phối hợp chặt chẽ và nỗ lực, quyết tâm của 3 nước trong việc thúc đẩy hợp tác khu vực Tam giác phát triển.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đề nghị trong bối cảnh kinh tế khu vực và quốc tế chuyển biến nhanh chóng, phức tạp, Chính phủ 3 nước cần có những biện pháp triển khai linh hoạt, thiết thực, hiệu quả hơn để tạo đột phá nâng tầm hợp tác.

Hiện nay, các nước ASEAN đang nỗ lực xây dựng Cộng đồng ASEAN 2015, xu thế hội nhập và liên kết kinh tế khu vực châu Á Thái Bình Dương đang diễn ra mạnh mẽ, cần nâng cấp và mở rộng khuôn khổ hợp tác Khu vực Tam giác phát triển hiện nay thông qua tăng cường kết nối ba nền kinh tế trong nhiều lĩnh vực như giao thông vận tải, viễn thông, năng lượng, du lịch, ngân hàng,…. Do vậy, đề nghị Thủ tướng 3 nước giao Ủy ban điều phối chung nhanh chóng xây dựng Đề án kết nối 3 nền kinh tế để trình lên Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển lần 9 vào năm 2016, đồng thời, tiếp tục triển khai những kết nối hiện có và những kết nối mới có đủ điều kiện.

4 giải pháp về phương hướng hợp tácĐể triển khai các phương hướng

hợp tác trong thời gian tới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã đề nghị một số biện pháp cụ thể:

Thứ nhất, tiếp tục tạo hành lang pháp lý thông thoáng thông qua các chính sách thuế, thủ tục đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp của

ba nước, nhất là trong các lĩnh vực như giao thông; thăm dò, khai thác và chế biến khoáng sản; trồng và chế biến cao su, cà phê; đầu tư phát triển điện lực, viễn thông; du lịch…

Thứ hai, tập trung thực hiện các mục tiêu trong Quy hoạch phát triển đến năm 2020. Phấn đấu duy trì tăng trưởng GDP (của 13 tỉnh trong khu vực) đạt mức 10%/năm và mức GDP đầu người 1.500-1.600 USD năm 2015.

Thứ ba, quan tâm đến các vấn đề phát triển bền vững như bảo vệ môi trường, giáo dục đào tạo, phát triển con người và bảo đảm an sinh xã hội cho người dân trong khu vực Tam giác phát triển. Chung tay tìm kiếm và xây dựng giải pháp lâu dài cho quản lý và sử dụng bền vững các nguồn tài nguyên thiên nhiên. Phối hợp triển khai các dự án: khí tượng thuỷ văn và biến đổi khí hậu, địa chất khoáng sản, quản lý nguồn nước xuyên biên giới; quản lý đất đai… Tiếp tục tăng cường hợp tác giáo dục, đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho khu vực Tam giác phát triển.

Ba nước tăng cường hợp tác trao đổi thông tin, phối hợp chặt chẽ giải quyết các vấn đề về an ninh tại khu vực biên giới. Kiên quyết

ngăn chặn các hoạt động phi pháp, sai trái. Chú trọng công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của người dân.

Thứ tư, bên cạnh việc phát huy tối đa nguồn lực của mỗi nước, cần tranh thủ thêm nguồn lực từ các quốc gia đối tác phát triển (Nhật, Hàn Quốc,..) và các tổ chức tài chính quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB). Trong việc này, cần phối hợp chặt chẽ giữa 3 quốc gia để tạo tiếng nói chung và khai thác tối đa ưu thế về cơ chế chính sách, quy mô kinh tế khu vực Tam giác phát triển.

“Tôi tin tưởng rằng, với những bước đi phù hợp, cơ chế hợp tác ba nước Campuchia-Lào-Việt Nam sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, đóng góp quan trọng cho sự thịnh vượng của ba nước và Tiểu vùng Mê Công”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh.

Tại Hội nghị, Thủ tướng ba nước đã ký Tuyên bố chung về hợp tác Khu vực Tam giác phát triển và thống nhất tổ chức Hội nghị Cấp cao Khu vực Tam giác phát triển lần thứ 9 tại Campuchia vào năm 2016.

Thủ tướng Campuchia Hun Sen, Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Tuyên bố chung về hợp tác Khu vực Tam giác phát triển.

Page 34: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201432

quan hệ hợp táC việt nam - lào - CampuChia

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Campuchia Hun Sen khẳng định quyết

tâm đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư giữa hai nước; nhất trí quan tâm chỉ đạo việc phấn đấu đưa kim ngạch

thương mại song phương đạt 5 tỷ USD vào năm 2015.

Chiều 24/11, trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao Campuchia-Lào-Việt Nam lần thứ 8 (CLV) tổ chức tại CHDCND Lào, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có

cuộc gặp Thủ tướng Vương quốc Campuchia Hun Sen.

Nhấn mạnh ý nghĩa của Hội nghị cấp cao CLV lần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ tin tưởng Việt Nam, Campuchia và Lào ngày càng hợp tác chặt chẽ trong phát triển kinh tế, vì sự phồn vinh của nhân dân ba nước.

Trao đổi về quan hệ song phương, hai Thủ tướng khẳng định quyết tâm thúc đẩy quan hệ hai nước phát triển, duy trì tiếp xúc cấp cao và trao đổi đoàn các cấp; đẩy mạnh hợp tác kinh tế, thương mại và đầu tư; nhất trí quan tâm chỉ đạo việc phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai nước đạt 5 tỷ USD vào năm 2015.

Hai bên nhất trí tiếp tục hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực an ninh, quốc phòng; tái khẳng định nguyên tắc không cho phép bất cứ lực lượng thù địch nào sử dụng lãnh thổ của nước này làm phương hại đến an ninh và can thiệp vào công việc nội bộ của nước kia.

Hai Thủ tướng đánh giá cao những nỗ lực của cơ quan chức năng hai bên trong công tác phân giới cắm mốc biên giới đất liền giữa hai nước thời gian qua, đồng thời khẳng định quyết tâm của Chính phủ hai nước nhằm sớm hoàn thành công tác này, góp phần xây dựng đường biên giới Việt Nam-Campuchia là đường biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định và phát triển.

Hai bên nhất trí tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi và dành sự đối xử bình đẳng cho kiều dân của nhau như đối với ngoại kiều khác ở mỗi nước; đánh giá cao sự hợp tác của Chính phủ Vương quốc Campuchia trong việc đảm bảo các quyền hợp pháp của cộng đồng người Việt Nam tại Campuchia sinh sống và làm ăn bình thường như những ngoại kiều khác ở Campuchia.

VIỆT NAM - CAMPUCHIA hướng tới mục tiêu đạt kim ngạch 5 tỷ usD

Page 35: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 33

quan hệ hợp táC việt nam - lào - CampuChia

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong nhất trí việc hai bên cần sớm hoàn tất đàm phán và ký Hiệp định Thương mại mới Việt Nam-Lào, tạo khuôn khổ pháp lý

để phấn đấu đạt mục tiêu kim ngạch 2 tỷ USD vào năm 2015.Nhân Hội nghị cấp cao Khu vực Tam giác phát triển Campuchia-

Lào-Việt Nam lần thứ 8 (CLV-8) tại Thủ đô Vientiane, chiều 24/11, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc hội kiến với Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong nhằm trao đổi những biện pháp thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng bày tỏ vui mừng dẫn đầu Đoàn đại biểu cấp cao Việt Nam sang dự Hội nghị CLV-8, tin tưởng thành công của Hội nghị sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của Khu vực Tam giác phát triển. Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chúc mừng những thành tựu to lớn mà Đảng, Chính phủ, nhân dân Lào đã đạt được trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.

Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong đánh giá cao việc Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Đoàn đại biểu Việt Nam sang tham dự Hội nghị CLV-8; chân thành cảm ơn Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân

Việt Nam đã luôn dành sự ủng hộ và giúp đỡ vô cùng to lớn, quý báu, hiệu quả cho đất nước và nhân dân Lào.

Trao đổi về quan hệ song phương, hai Thủ tướng vui mừng nhận thấy quan hệ hữu nghị truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa hai nước ngày càng phát triển, đi vào chiều sâu, thiết thực và hiệu quả trên tất cả các lĩnh vực.

Hai Thủ tướng đánh giá cao việc các Bộ, ngành và địa phương hai bên đã phối hợp chặt chẽ để triển khai thực hiện tốt kết quả Kỳ họp lần thứ 36 của Ủy ban Liên Chính phủ Việt Nam-Lào và đang tích cực chuẩn bị cho Kỳ họp lần thứ 37 của Ủy ban vào đầu năm 2015. Hai Thủ tướng nhất trí hai bên sẽ tiếp tục phối hợp để triển khai các dự án mang tính kết nối chiến lược giữa hai nước.

Hai Thủ tướng bày tỏ hài lòng về những bước phát triển mới trong hợp tác giữa hai nước, nhất là trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, đầu tư; vui mừng về kim ngạch thương mại song phương hai nước dự kiến sẽ đạt mức 1,5 tỷ USD trong năm 2014.

Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước trong hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, đồng thời nhất trí cần sớm hoàn tất việc ký kết đàm phán và ký Hiệp định Thương mại mới Việt Nam-Lào, tạo khuôn khổ pháp lý để hai bên phấn đấu đạt mục tiêu kim ngạch 2 tỷ USD vào năm 2015.

Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong cảm ơn và đánh giá cao Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong bối cảnh khó khăn chung, nhưng Việt Nam vẫn ưu tiên dành viện trợ phát triển (ODA) cho Lào với mức tăng trung bình hàng năm 10%; khẳng định Chính phủ Lào sử dụng nguồn vốn này hiệu quả nhất.

Nhấn mạnh hợp tác trong lĩnh vực giáo dục đào tạo là một lĩnh vực quan trọng trong hợp tác đặc biệt Việt-Lào, Thủ tướng Thongsinh Thammavong cảm ơn Chính phủ Việt Nam đã tăng thêm học bổng cho học sinh, sinh viên Lào sang học tập tại Việt Nam.

Nhân dịp này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã cám ơn Chính phủ Lào thời gian qua đã tạo điều kiện để cộng đồng người Việt ở Lào được ổn định sinh sống, học tập và làm ăn tại Lào và đề nghị Chính phủ Lào tạo thuận lợi hơn nữa để bà con người Việt đã cư trú lâu năm tại Lào được nhập quốc tịch Lào và hòa nhập vào đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của Lào.

VIỆT NAM - LàO nhất trí sớm ký Hiệp định thương mại mới

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng và Thủ tướng Lào Thongsinh Thammavong.

Hai Thủ tướng khẳng định sẽ tiếp tục quan tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp hai nước tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực.

Page 36: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201434

tỔng hợp tin kinh tế - XÃ hội lào tháng 10-2014

Năm tài khóa 2014-2015: ChíNh Phủ CầN VốN Đầu tư 30,69 tỷ kíP Để Đảm bảo tăNg trưởNg kiNh tế

Chính phủ cần tổng số vốn đầu tư 30,69 tỷ Kíp (3,8 tỷ USD), bằng 30% GDP để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế 7,5% trong năm tài khóa 2014-15.

Trong tổng số này, Chính phủ dự kiến thu hút hơn 50% đầu tư trong nước và nước ngoài, đặc biệt là thông qua các dự án thủy điện và khai khoáng cũng như đẩy mạnh tăng trưởng ngành vực dịch vụ.

Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế vĩ mô và ngành dịch vụ TS. Bounpone Bouttanavong công bố con số nêu trên tại Hội nghị toàn quốc về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2014-15 tổ chức tuần trước tại Viêng Chăn. PTT cho rằng, đây là con số khá cao, nhưng căn cứ vào tiềm năng và những bài học rút ra từ các năm vừa qua, Lào có thể huy động được đủ nguồn vốn để đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế đề ra.

Tốc độ tăng trưởng kinh tế dự kiến sẽ chậm lại, xuống 7,5% (so với 7,6% năm tài khóa 2013-14) là do sự căng thẳng về ngân sách nhà nước, thiên tai và những tác động từ bên ngoài. TS. Boupong yêu cầu các ngành và địa phương không được tạo thêm các khoản nợ. Điều đó có thể đạt được tốt nhất bằng cách không thực hiện các dự án chưa được Quốc hội phê chuẩn. PPT nhấn mạnh rằng các ngành tạo ra nợ sẽ phải chịu trách nhiệm trả nợ, Chính phủ muốn đảm bảo rằng kinh tế vĩ mô của đất nước phải được kiểm soát.

Trong 4 năm qua nền kinh tế đã tăng trưởng khoảng 8%, với mức thu nhập bình quân đầu người đạt 1.692 USD năm 2014 và khoảng 1.700 USD năm 2015. Trong hai năm vừa qua ngành dịch vụ của Lào đã tăng rất nhanh, với tốc độ hơn 9%, trong khi của ngành công nghiệp, nông-lâm có mức tăng thấp hơn tốc độ tăng trưởng GDP.

Chính phủ cũng đặt mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo xuống 19,17% dân số vào năm 2015, giảm tỷ lệ tử vong mẹ và trẻ em.

Trong thời gian tới Chính phủ cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư để thu hút nguồn vốn từ khu vực tư nhân. Trong kế hoạch 5 năm tới, Chính phủ sẽ tập trung vào phát triển nguồn nhân lực với mục tiêu tạo ra lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng nhu cầu phát triển chung, đảm bảo người dân Lào được hưởng lợi từ dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Lào.

Hiện nay, Chính phủ đang xây dựng kế hoạch 5 năm lần thứ 8 giai đoạn 2016-2020. Đây là giai đoạn rất quan trọng đối với Lào khi đất nước nỗ lực thoát ra khỏi danh sách các nước kém phát triển vào năm 2020. Đó cũng là động lực để huy động các nguồn vốn cho

đầu tư phát triển. (Vientiane Times, 22/10/2014)

NgâN hàNg thế giới dự báo tăNg trưởNg kiNh tế Lào thấP hơN kỳ VọNg

Theo báo cáo cập nhật mới nhất của Ngân hàng Thế giới (WB) công bố ngày 6/10/2014, tăng trưởng kinh tế của Lào ước sẽ đạt mức trung bình 7,5% năm 2014, trong khi triển vọng tăng trưởng năm 2015 dự báo sẽ chậm lại.

Báo cáo cho biết, tốc độ tăng trưởng đạt mức trung bình năm 2014 là do sản lượng trực tiếp của ngành khai thác tài nguyên giảm và các giải pháp thắt chặt tài chính. Trong khi đó, triển vọng tăng trưởng năm 2015 được dự báo sẽ chậm lại với tốc độ tăng trưởng là 6,4%, phản ánh thời điểm vận hành các dự án thủy điện mới, tác động của chính sách tài chính chặt chẽ hơn, sự sụt giảm trong xuất khẩu gỗ sau khi tăng mạnh trong thời gian gần đây, cũng như tăng trưởng khiêm tốn ở các nước láng giềng.

Nhà kinh tế trưởng của WB ở Khu vực Thái Bình dương và Đông Á Sudhir Shety cho biết qua buổi họp báo trực tuyến từ Singapore, rằng các nền kinh tế nhỏ trong khu vực được khuyến nghị cắt giảm thâm hụt ngân sách và thắt chặt chính sách tiền tệ để ngăn ngừa rủi ro và theo đuổi con đường phát triển bền vững. Trong các nước ASEAN, Lào được khuyến nghị chú trọng hơn vào giáo dục và phát triển kỹ năng, cải thiện môi trường đầu tư.

Trong năm 2014-15, các nước với quy mô nền kinh tế và dân số nhỏ sẽ phụ thuộc vào trợ giúp nước ngoài; tốc độ tăng trưởng kinh tế ở chừng mực nào đó có thể duy trì cao hơn so với các nền kinh tế lớn hơn. Theo báo cáo cập nhật về kinh tế khu vực Thái Bình Dương và Đông Á, các nước đang phát triển ở khu vực này sẽ có tốc độ tăng trưởng chậm lại trong năm nay, nhưng tăng trưởng của khu vực, không bao gồm Trung Quốc, sẽ lấy lại nhịp độ trong năm sau khi có sự hồi phục dần của các nền kinh tế thu nhập cao, giúp tăng nhu cầu về hàng hóa xuất khẩu từ khu vực.

Văn phòng WB ở Lào cũng thông báo rằng động lực tăng trưởng chủ chốt của Lào năm 2014 là sự bùng nổ của ngành xây dựng và các hoạt động lan tỏa liên quan đến xây dựng của ngành khai khoáng, xuất khẩu gỗ và các ngành dịch vụ. Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Lào đạt mức tăng trưởng với kịch bản trung bình nhưng vẫn duy trì ở mức cao là nhờ đóng góp của lĩnh vực năng lượng, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển các ngành khác.

Liên quan đến dự báo tăng trưởng kinh tế kỳ vọng sẽ thấp hơn vào năm sau, các nhà kinh tế cho rằng đó sẽ

Page 37: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 35

tỔng hợp tin kinh tế - XÃ hội lào tháng 10-2014

là giai đoạn nhất thời, tuy nhiên họ cũng cảnh báo rằng chính phủ không nên chỉ nhìn vào con số tăng trưởng kinh tế mà còn phải ưu tiên cho việc giảm nghèo.

(Vientiane Times, 7/10/2014)

Lào NhậN ĐượC ViệN trợ Phát triểN ChíNh thứC Nhiều hơN dự kiếN

Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Lào đã nhận được Viện trợ Phát triển Chính thức (ODA) với tổng số lên tới 4.920 tỷ Kíp (khoảng 613 triệu USD) trong 9 tháng đầu năm tài chính 2013-14. ODA do các nước và tổ chức tài trợ cung cấp để vượt chỉ tiêu do Chính phủ đặt ra là 600 triệu USD.

Theo Bộ KH&ĐT, vốn ODA dự kiến sẽ chiếm 25% trong tổng số 15 tỷ USD vốn đầu tư cần thiết cho Kế hoạch Phát triển Kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 7 (2011-2015).

Trong những năm gần đây, Lào đã nhận được ODA vượt chỉ tiêu đặt ra, bất chấp thực tế là nhiều nước tài trợ bị suy thoái kinh tế. Thứ trưởng Bộ KH&ĐT nói rằng, trong khi việc cung cấp ODA toàn cầu sụt giảm do kinh tế tăng trưởng chậm lại, Lào vẫn nhận được ODA nhiều hơn nhờ các chính sách hợp lý của Chính phủ.

ODA cho Lào đã tăng từ 630 triệu USD năm tài chính 2010-11 lên 704,83 triệu USD năm 2011-12 và lên 777,10 triệu USD năm 2012-13. Ông Somchith nói rằng mức tăng vốn ODA phản ánh chính sách ngoại giao đúng đắn, các mục tiêu tăng trưởng tham vọng đi đôi với chương trình hành động để đạt được các chỉ tiêu đề ra, cũng như sự minh bạch trong việc sử dụng vốn trợ giúp. Vốn ODA được sử dụng phù hợp với thủ tục, thông lệ quốc tế và hiệu quả của các dự án ODA đóng vai trò chủ chốt trong việc thu hút vốn tài trợ.

Chính phủ Lào và các đối tác phát triển tổ chức Hội nghị Bàn tròn (RTM) Cấp cao ba năm một lần để tạo điều kiện cho các bên xúc tiến hợp tác và tìm đối tác nhằm đưa ra các giải pháp phát triển có hiệu quả hơn. RTM lần thứ 11 đã được tổ chức tháng 11/2013 tại Viêng Chăn.

(Vientiane Times, 1/10/2014)

thu NhậP từ Phát ĐiệN Của Lào Chạm mốC 880 triệu uSd

Theo báo cáo của Bộ Năng lượng và Mỏ, tổng thu nhập từ bán điện trong năm tài khóa 2013-14 đạt tới 880,9 triệu USD (hơn 710 tỷ Kíp), tăng đáng kể so với năm trước, trong đó, xuất khẩu đạt 11.332 triệu Kwh với giá trị khoảng 535,47 triệu (trên 4.316 tỷ Kíp, tăng 6,62 %) so với năm trước. Xuất khẩu điện vượt kế

hoạch năm 0,04%.Doanh số bán điện cho tiêu dùng trong nước đạt

4.529 triệu Kwh, trị giá 345,46 triệu USD (hơn 2.784 triệu Kíp), tăng 49,08% so với năm trước.

Mặc dù xuất khẩu điện lớn nhưng Lào vẫn nhập khẩu điện từ các nước láng giềng để cung cấp cho các địa phương dọc biên giới nơi mạng lưới điện quốc gia Lào chưa với tới. Trong năm 2013-14 Lào đã nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Thái Lan và Việt Nam với tổng số 1.164 triệu Kwh, trị giá 63,21 triệu USD (trên 509 tỷ Kíp).

Theo Bộ Năng lượng và Mỏ, mặc dù hiện nay năng lực sản xuất điện của Lào đã vượt nhu cầu tiêu thụ trong nước nhưng trong thời gian tới Lào vẫn phải nhập khẩu điện vì nhập khẩu điện giúp tiết kiệm chi phí và hiệu quả hơn so với việc đầu tư, mở rộng mạng lưới tới các cộng đồng nông thôn nhỏ, lẻ.

Hiện nay Lào có 25 nhà máy thủy điện đang hoạt động với tổng công suất lắp đặt khoảng 3.230 Megawat, trong khi đó, tổng nhu cầu tiêu thụ trong nước là 1000 Megawat, tức chỉ bằng 1/3 tổng sản lượng.

Đến thời điểm hiện nay, khoảng 943.000 hộ gia đình, chiếm 87% tổng số hộ gia đình ở Lào đã được điện khí hóa. Lào có tiềm năng lớn để phát triển các nhà máy thủy điện với tổng công suất có thể lên tới 28.00 Megawat, bao gồm cả những nhà máy thủy điện hiện có.

(Vientiane Times, 11/10/2014)

tỷ Lệ Lạm Phát tháNg 9/2014 ở mứC 3,05%

Ngân hàng Trung ương Lào cho biết tỷ lệ lạm phát tháng 9/2014 ở mức 3,05% thấp nhất cùng kỳ trong 4 năm qua (6,35% 2011, 3,67% 2012, 6,87% 2013). Tỷ lệ lạm phát liên tục giảm từ đầu năm. Tháng 01/2014, tỷ lệ lạm phát ở mức 5,99% nhưng đã giảm còn 4,26% vào tháng 06/2014 và còn 3,62% vào tháng 08/2014.

(KPLNews – 29/10/2014)

Lào dự kiếN thu hút hơN 30.000 tỷ kíP Đầu tư

Trong bản ghi nhớ ngày 30/9, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Somdy Douangdy cho biết Bộ kỳ vọng tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 30.000 tỷ kíp trong năm tài chính 2014 – 2015. Trong đó, 15 nghìn tỷ kíp từ các công ty tư nhân trong nước và nước ngoài, 6,5 nghìn tỷ từ các tổ chức tài chính, hơn 5 nghìn tỷ kíp là viện trợ và vay từ các đối tác phát triển, 3 nghìn tỷ kíp từ ngân sách nhà nước. Để đạt được kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2014 – 2015, trước tiên cần phải tạo điều kiện

Page 38: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

tỔng hợp tin kinh tế - XÃ hội lào tháng 10-2014

36

thuận lợi cho các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài và cải thiện hơn nữa cơ chế một cửa tại cấp Trung ương và địa phương để đảm bảo hiệu quả và minh bạch. Các nỗ lực này sẽ giúp thu hút thêm đầu tư. Bản ghi nhớ cũng nêu rõ cần tập trung giám sát và thúc đẩy các dự án đầu tư cỡ vừa và lớn đã được thông qua theo đúng kế hoạch và thỏa thuận ký kết và áp dụng các chế tài chặt chẽ đối với các dự án chậm tiến độ để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.

(KPLNews – 31/10/2014)

Lào tăNg hạNg Về môi trườNg kiNh doaNh

Báo cáo xếp hạng môi trường kinh doanh năm 2015 của Ngân hàng Thế giới (Doing Business 2015: Going Beyond Efficiency) công bố ngày 29/10 cho thấy Lào đã cải thiện môi trường kinh doanh trong các năm vừa qua với thứ hạng tăng 07 bậc từ 155 lên 148 trong tổng số 189 nền kinh tế. Tuy nhiên, dù tiến bộ đáng khích lệ, các doanh nghiệp tại Lào vẫn phải đối mặt với các thách thức so với các nước láng giềng trong khu vực. Kết quả này phản ảnh hiệu quả của các biện pháp tăng cường quyền lợi hợp pháp của người đi vay và cho vay (thiết lập đăng ký tài sản thế chấp) và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư nhỏ lẻ (cải thiện tiêu chuẩn công bố thông tin của các doanh nghiệp lớn niêm yết trên sàn chứng khoán). Tuy nhiên, Lào vẫn còn cách xa xếp hạng môi trường kinh doanh của các nước như Malaysia (18), Thái Lan (26). Bà Sally Burningham, Giám đốc quốc gia của World Bank tại Lào cho biết các doanh nghiệp tại Lào vẫn còn phải chịu chi phí kinh doanh cao như chi phí đối phó với hệ thống pháp luật cồng kềnh không được thực thi một cách nhất quán. Các nỗ lực tiếp tục cải cách tại Lào rất quan trọng và giúp tiến hành kinh doanh tại nước này dễ dàng hơn. Ngân hàng Thế giới mong muốn hỗ trợ các cải cách quan trọng để đơn giản hóa thuế, thủ tục bắt đầu kinh doanh hợp lý và quá trình xuất nhập khẩu hiệu quả hơn.

(KPLNews – 30/10/2014)

CầN thúC Đẩy CáC LĩNh VựC khôNg Sử dụNg tài NguyêN

Ngày 15/10, tại thủ đô Viêng Chăn, Bộ Công thương phối hợp với các đối tác phát triển và cộng đồng doanh nghiệp đã tổ chức cuộc họp Nhóm công tác lĩnh vực tư nhân và thương mại lần 6. Bà Khemmani Pholsena, Bộ trưởng Bộ Công thương đồng chủ trì với ông Michael Grau, Đại sứ chỉ định của Đức và ông Michel Goffin, Đại biện của EU. Hơn 100 đại biểu từ các bộ liên quan, đối tác phát triển và nhà tài trợ đã tham dự và thảo luận về các thành tựu chính trong những năm qua và các hạn chế về môi trường đầu tư cản trở tăng trưởng trong

sản xuất và dịch vụ tại Lào. Phát biểu tại cuộc họp, Bộ trưởng Khemmani Pholsena nhấn mạnh cần khuyến khích các ngành không sử dụng tài nguyên để đạt được tăng trưởng bền vững và toàn diện. Sự bùng nổ khai thác tài nguyên thiên nhiên đang mang lại lợi ích đáng kể cho kinh tế Lào dưới dạng tăng trưởng kinh tế cao hơn, tăng thu thuế, phát triển cơ sở hạ tầng và cải thiện cơ chế và luật pháp về môi trường. Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc quá nhiều vào tài nguyên đặt ra các rủi ro nghiêm trọng cho tính bền vững trong phát triển của Lào. Vì vậy trọng tâm của chương trình phát triển lĩnh vực tư nhân và thương mại là tạo điều kiện hơn nữa để chuyển đổi sang lĩnh vực không sử dụng tài nguyên nhiều tiềm năng cho tăng trưởng mang tính cạnh tranh và dài hạn. Một lượng lớn người nghèo đang tham gia vào lĩnh vực này và đây là cơ hội để tham gia vào kinh tế thị trường.

Theo ông Michel Goffin, Đại biện EU, trong giai đoạn 2012 – 2018, các đối đác phát triển cam kết tài trợ khoảng 50 triệu USD hỗ trợ kỹ thuật cho các các cơ quan Chính phủ rà soát chính sách, xây dựng luật, thiết lập hệ thống thông tin và các đơn vị triển khai kỹ thuật và đáp ứng yêu cầu của ASEAN, WTO. Các đối tác cũng hỗ trợ tài chính và kỹ thuật trực tiếp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận tín dụng, tiếp nhận tài trợ và tư vấn kinh doanh. Ông Goffin nhấn mạnh cần thiết sử dụng tài trợ hiệu quả để thúc đẩy tối đa phát triển lĩnh vực tư nhân vì đây là nhân tố quan trọng đa dạng hóa kinh tế và tăng trưởng kinh tế bền vững.

Cuộc họp cũng thảo luận một số vấn đề khác như góp ý của nhóm công tác cho Hội nghị bàn tròn về triển khai thực hiện hàng năm (RTIM 2014), khái niệm chuẩn bị cho kế hoạch phát triển lĩnh vực 5 năm tới, kết quả nghiên cứu và khuyến nghị của khảo sát nhận thức doanh nghiệp và đánh giá thuận lợi giao thông thương mại do GIZ và WB trình bày.

(KPLNews – 16/10/2014)

thị trườNg VốN, hậu CầN Và ChíNh SáCh Đất Đai Là NhữNg VấN Đề ưu tiêN hàNg Đầu Của ChíNh Phủ

Chính phủ đã phê duyệt một chiến lược tổng thể về phát triển thị trường vốn nhằm xây dựng thị trường vốn, tăng cường hệ thống tài chính, huy động nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội. Chiến lược được thông qua tại Hội nghị thường kỳ tháng 10 của Chính phủ tổ chức tuần trước do Thủ tướng Thongsing Thammavong chủ trì.

Chiến lược xác định 12 chương trình, bao gồm 39 dự án nhằm đạt 8 mục tiêu. Các mục tiêu bao gồm tạo

Page 39: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014

tỔng hợp tin kinh tế - XÃ hội lào tháng 10-2014

37

ra các điều kiện thiết yếu để các doanh nghiệp có được nguồn tài chính thông qua thị trường vốn để tăng cường năng lực sản xuất kinh doanh của họ; xây dựng các văn bản pháp luật phù hợp với bối cảnh trong nước và quốc tế; phát triển thị trường chứng khoán Lào với sự vận hành và hệ thống thích hợp.

Để đạt được các mục tiêu đề ra, Chính phủ chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường phát triển thị trường chứng khoán để tạo thị trường vốn, cung cấp nguồn vốn cho phát triển kinh tế - xã hội.

Các thành viên Chính phủ cũng đã thảo luận và nhất trí về một kế hoạch chiến lược để phát triển hệ thống hậu cần nhằm xây dựng Lào từ một nước bao quanh bởi đất liền thành trung tâm trung chuyển của khu vực. Chính phủ chỉ thị cho các cơ quan chức năng đặt ưu tiên khi tiến hành các bước để triển khai hệ thống hậu cần; đảm bảo các thủ tục vận hành thông suốt và đơn giản hóa.

Hội nghị cũng đã thảo luận về dự thảo nghị quyết trình Bộ Chính trị về các vấn đề đất đai. Dự kiến, khi nghị quyết có hiệu lực sẽ là một văn bản chỉ đạo về quản lý đất đai và các vấn đề liên quan, bao gồm cả tranh chấp về đất đai. Hội nghị đã phân công các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm dự thảo nghị quyết theo những kiến nghị mà các thành viên Chính phủ đã nêu, đặc biệt là về chính sách đất đai. Một trong những điểm trọng tâm là vấn đề đền bù để lấy đất phát triển các dự án. Mục đích chính của sự thay đổi là tối đa hóa lợi ích sử dụng đất và đảm bảo quản lý hiệu quả đối với người dân và nhà nước.

Hội nghị cũng đã thảo luận sửa đổi sắc lệnh của Chủ tịch nước về phí khai thác và sử dụng tài nguyên. Mục đích là để tối đa hóa nguồn thu từ phí, đặc biệt là phí đánh vào mỏ, các tài nguyên sử dụng cho các hoạt động xây dựng và tiêu thụ nước.

Ngoài ra, Hội nghị cũng đã nghe các báo cáo về các thiệt hại gây ra bởi những thảm họa thiên nhiên. Chính phủ chỉ thị cho các cơ quan chức năng xây dựng các giải pháp trước mắt và lâu dài để giảm thiểu các rủi ro của thiên tai, ứng phó tốt hơn với vấn đề này.

(Vientiane Times, 27/10/2014)

Lào Đưa mụC tiêu Phát triểN bềN VữNg LiêN hợP quốC Vào kế hoạCh Phát triểN kiNh tế - xã hội

Ngày 24/10, tại Viêng Chăn, khoảng 50 chuyên gia của Lào đã tham dự hội thảo để trao đổi về Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ (MDGs) và về việc đưa Mục tiêu phát triển bền vững Liên hợp quốc (SDGs) vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm lần thứ 8. Ông Saleumxay Kommasith, Thứ trưởng Bộ Ngoại giao cho

biết SDGs là lộ trình phát triển sau năm 2015 gồm 17 mục tiêu. Mục tiêu phát triển bền vững là đợt triển khai MDGs thứ hai. Đợt đầu (2000 – 2015) dự kiến hoàn tất vào cuối năm 2015. Theo báo cáo của Nhóm làm việc về SDGs, các cuộc thảo luận về vấn đề này bắt đầu từ năm 2012. SDGs có 17 mục tiêu nhưng chưa được thông qua. Mục tiêu từ 1 – 6 là xóa nghèo dưới mọi hình thức và mọi nơi; chấm dứt nạn đói, thực hiện an ninh lương thực và cải thiện dinh dưỡng, khuyến khích phát triển nông nghiệp; đảm bảo đời sống khỏe mạnh và thúc đẩy hạnh phúc cho mọi người mọi lứa tuổi; đảm bảo giáo dục phổ cập và chất lượng giáo dục và khuyến khích cơ hội học tập suốt đời cho tất cả mọi người; thực hiện công bằng giới tính và trao quyền cho phụ nữ và trẻ em gái; bảo đảm sẵn có và quản lý bền vững nước sạch và vệ sinh cho mọi người. Đại hội đồng Liên hợp quốc sẽ xem xét và thông qua các mục tiêu này vào năm 2015.

(KPLNews – 27/10/2014)

CáC dự áN Đầu tư mới từ NguồN NgâN SáCh Nhà NướC Sẽ bị Cắt giảm

Một quan chức cấp cao của Chính phủ Lào cho biết, Chính phủ sẽ cắt giảm nguồn vốn ngân sách đối với các dự án đầu tư mới của nhà nước xuống gần 4 lần để nhằm tránh nguy cơ một cuộc khủng hoảng tài chính mới đối với đất nước.

Việc cắt giảm mạnh các dự án phát triển của chính phủ là do hệ quả của sự sụt giảm nguồn thu ngân sách trong hai năm liên tục, có thể ảnh hưởng lên tăng trưởng của nền kinh tế.

Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong năm tài khóa 2013-14, Chính phủ quản lý 2.420 dự án, với tổng giá trị lên tới 01 nghìn tỷ Kíp. Dự kiến, trong năm 2014-15 Chính phủ sẽ cắt giảm ngân sách nhà nước, chỉ tài trợ cho 745 dự án đầu tư của nhà nước do Viêng Chăn và các tỉnh đề xuất, với tổng giá trị là 265 tỷ Kíp. Các dự án bị tạm dừng trong năm tài khóa 2014-15 chủ yếu liên quan đến cơ sở hạ tầng như xây dựng công sở mới và các công trình cơ sở vật chất khác. Chính phủ sẽ tập trung nhiều hơn vào các dự án có tỷ lệ hoàn vốn nhanh nhằm giảm thiểu tác động tiêu cực gây ra bởi các dự án phát triển chậm tiến độ.

Chính phủ đã tổ chức việc thanh tra hiệu quả của các dự án ở các tỉnh, một số dự án dài hạn với chi phí đầu tư lớn cũng sẽ bị đình chỉ để nhằm giảm bớt sự căng thẳng ngân sách.

Chính phủ đã phải đối mặt với tình trạng sụt giảm nguồn thu từ 2012-13, buộc Chính phủ phải dừng khoản chi trợ cấp 760.000 Kíp/tháng cho công chức. Trong khi đó, nguồn thu ngân sách trong nước năm

Page 40: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201438

tỔng hợp tin kinh tế - XÃ hội lào tháng 10-2014

2013-14 dự kiến chỉ đạt 90% kế hoạch, đang làm trầm trọng thêm khó khăn về ngân sách nhà nước hiện nay. Sự sụt giảm nguồn thu ngân sách này cũng là một phần nguyên nhân của việc chậm trả lương cho cán bộ công chức ở một số tỉnh.

Ngân hàng Trung ương Lào đã giúp Chính phủ trong việc đảm bảo trả lương đúng hạn cho cán bộ công chức. Thủ tướng cũng đã có quyết định nhằm ngăn chặn việc tạo ra nợ mới bằng cách giảm số lượng các dự án đầu tư mới từ ngân sách nhà nước trong năm tài khóa 2014-15.

(Vientiane Times, 8/10/2014)

CầN xem xét Lại ChíNh SáCh NăNg LượNg

Ngày 03/10, Trong cuộc họp với Bộ Năng lượng và Mỏ, Phó Thủ tướng Somsavat Lengsavad đã đề nghị Bộ Năng lượng và Mỏ xem xét lại chính sách của mình nhằm thực hiện giảm nghèo và đưa đất nước thoát khỏi tình trạng kém phát triển nhất. Ông cũng đề nghị xem xét lại các thỏa thuận hợp tác đã ký với Chính phủ các nước láng giềng trong những năm gần đây. Lãnh đạo Bộ cần quan tâm hơn đến hợp tác với Bộ Kế hoạch và Đầu tư trong vấn đề phát triển năng lượng tại các vùng trọng điểm và phát triển nông thôn. Phó Thủ tướng cũng gợi ý xem xét các dự án đầu tư năng lượng và phát triển nhân lực trong tương lai. Bộ cần tập trung chuẩn bị sớm cho các dự án đầu tư trong lĩnh vực thủy điện trước khi chuyển cho Chính phủ và cử các chuyên gia kỹ thuật đánh giá dự án. Song hành cùng tái trồng rừng, phải bảo vệ rừng lưu vực để phát triển thủy điện bền vững. Cần cải thiện điều kiện sống của người dân chịu ảnh hưởng từ đập phù hợp với Chỉ thị ba xây. Bộ trưởng Soulivong Daravong cho biết trên cả nước hiện có 25 nhà máy điện đang hoạt động với tổng công suất 3.000 MW, nghiên cứu khả thi 71 dự án thủy điện và đang thi công 27 dự án. Đập Nam Sana công suất 14 MW và Nam Ngiep 3A 44 MW dự kiến hoàn thành cuối năm. 8 dự án xây đập khác có tổng công suất 2.200 MW dự kiến hoàn thành trong 2 năm tới. Tổng công suất phát điện của Lào dự kiến tăng 3.400 MW trong 5 năm tới (2016 – 2020).

Trong một tin khác, ông Khammany Inthilath, Thứ trưởng Bộ Năng lượng và Mỏ cho biết Chính phủ Lào có kế hoạch sản xuất điện với sản lượng hơn 15.000 kwh trong năm 2015 nhằm giảm nhập khẩu điện từ các nước láng giềng. Kế hoạch này cũng bao gồm mở rộng mạng lưới điện tới các vùng nông thôn và vùng xa nơi người dân vẫn không có điện chiếu sáng và tăng lượng điện xuất khẩu. Ông Khammany nói thêm ưu tiên của lĩnh vực năng lượng là xây dựng các nhà máy điện và

mọi hoạt động liên quan đều được các bên liên quan như xây dựng, sản xuất, makerting và cả người tiêu dùng quan tâm. Chính phủ dự kiến sẽ xuất khẩu hơn 11.700 kwh trong năm tới để đảm bảo thu về hơn 535 triệu USD. Mục tiêu nhập khẩu điện là 1.128 triệu kwh tương đương 63,21 triệu USD. Lượng điện cung cấp nội địa đạt hơn 5.700 triệu kwh thu về 130 triệu USD. Trong giai đoạn 2013 – 2014, Lào nhập khoảng 1160 triệu kwh điện với giá 63 triệu USD.

(KPLNews – 08, 14/10/2014)

mở Cửa ĐóN Lao ĐộNg NướC Ngoài Vì thiếu Lao ĐộNg troNg NướC

Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội cho biết, trong kế hoạch 5 năm tới (2016-2020), tổng số 130.000 lao động nước ngoài dự kiến sẽ được chào đón vào Lào để đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Trung bình mỗi năm sẽ bổ sung thêm 26.000 lao động nước ngoài để bù đắp thiếu hụt lao động trong các ngành thiết yếu, bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng.

Trong giai đoạn 5 năm tới, sẽ có một số lượng đáng kể lao động mới khoảng 716.000 người sẽ tham gia thị trường lao động, đưa tổng số lực lượng lao động lên 4,11 triệu người. Tuy nhiên, lực lượng bổ sung đó vẫn sẽ không đủ để đáp ứng nhu cầu lao động, đặc biệt là trong 02 ngành nêu trên.

Trong giai đoạn 2016-2020, Bộ Lao động và Phúc lợi xã hội đặt chỉ tiêu cung cấp đào tạo kỹ năng cho 658.080 lao động, trung bình 131.616 người/năm để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường lao động. Các khóa đào tạo sẽ được tổ chức dựa trên nhu cầu của thị trường đối với 25 kỹ năng nghề, bao gồm 10 kỹ năng riêng của ngành xây dựng, cùng với các khóa đào tạo về cơ khí, công nghệ tin học và viễn thông, dịch vụ và du lịch.

Hiện nay trong nước có 164 trung tâm đào tạo và phát triển kỹ năng, cung cấp đào tạo cho công nhân hiện nay và tương lai của Lào. Lào đang phải đương đầu với thách thức về đào tạo lao động vì nhiều thanh niên không muốn tham gia các khóa đào tạo nghề mặc dù thị trường có nhu cầu công nhân có kỹ năng nghề cao. Nhiều người trong số họ chỉ quan tâm đến giáo dục đại học và tìm kiếm việc làm trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, ngân hàng, luật .v.v. Xu hướng đó đang làm trầm trọng thêm sự thiếu hụt lao động, buộc Lào phải nhập lao động nước ngoài, đặc biệt là lao động có kỹ năng.

(Vientiane Times, 15/10/2014)

Page 41: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/2014 39

giao lưu văn hóa

Lào là quốc gia duy nhất ở Đông Nam Á không có biển, chỉ có núi non và cánh rừng bạt ngàn… thế nhưng nét quyến rũ của Lào không phải là những khu rừng nguyên sinh, là núi non mà là cuộc sống êm đềm thấm đẫm tinh thần Phật giáo của người dân nơi đây.

Từ Hà Nội, bạn có thể chọn xe bus đi đến Thủ đô Viên Chăn rồi từ đó đi tiếp đến Luang Prabang. Với năm cửa khẩu đường bộ tiếp giáp với Việt Nam, không cần visa và việc đi lại bằng xe bus hiện tại khá thuận tiện thì một chuyến du hành đến Lào không quá khó.

Nằm nép mình bên hai dòng sông Nậm Khan và Mê Kông, Luang Prabang có lịch sử hơn 200 năm là kinh đô của Lào trước khi kinh đô được chuyển về Viên Chăn. Tuy nhiên, thành phố này vẫn bảo tồn được địa thế của nó như một cái nôi của Phật giáo và nền văn hóa, kiến trúc đa dạng của Lào.

Thành phố của các ngôi chùaLuang Prabang-

Page 42: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

ILACAEDHAÏNH PHUÙC LAØ SEÛ CHIA

Hợp tác & Phát triển - Số 27+28 - Tháng 9-12/201440

giao lưu văn hóa

Luang Prabang được biết đến như một trung tâm Phật giáo vì ở đây hiện diện gần 40 ngôi chùa được xây dựng từ những triều đại khác nhau. Mỗi công trình đều mang nét kiến trúc riêng, đa phần vẫn được gìn giữ nguyên vẹn. Từng ngôi chùa Lào là kết tinh của niềm thành kính và bàn tay khéo léo của các người thợ, vì thế việc viếng thăm hàng loạt các ngôi chùa ở đây là một việc nên làm: Từ Vat Mai đẹp lộng lẫy đến ngôi chùa Vat Visoun cổ nhất Luang Prabang hay Vat Xieng Thong, ngôi chùa linh thiêng với nhiều tượng Phật và những bức tường trang trí tinh xảo.Kiến trúc mái ngói nhiều tầng, lấp lánh hàng cột, xà nhà sơn son thiếp vàng mang lại nét đẹp “hoàng gia“ cho các ngôi chùa ở Lào. Khác hẳn với những ngôi nhà giản dị có phần cổ kính của người dân, dường như mọi thứ đẹp đẽ trong nhân gian đều được tập hợp trong chùa. Vì thế du khách có thể thỏa thích ngắm những bức tượng Phật làm bằng ngọc khối nguyên chất hay những bức tường dát vàng được chạm khắc tỉ mỉ.

Page 43: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28

Hiện diện trên các bức tranh về Luang Prabang luôn là hình ảnh của các nhà sư trong sắc áo vàng cam ung dung giữa đời thường. Vào mỗi sáng sớm khi mặt trời còn chưa thức dậy, các nhà sư sẽ hành lễ khất thực trên các con phố. Mỗi sáng sớm người dân ở đây với tấm lòng thành kính sẽ trải một chiếc chiếu trước hiên nhà, chuẩn bị các thực phẩm cúng dường, thông thường sẽ là xôi, bánh kẹo, hoa quả.

Các nhà sư đi theo từng đoàn dài, mặc áo cà sa đỏ, tay nâng một chiếc bát to, từng bước trên đôi chân trần đi qua các con phố nơi mà người dân đang chờ đợi để được dâng lên thức ăn. Khi các nhà sư đến, những người dâng thức ăn sẽ quỳ xuống, nâng đồ ăn lên ngang trán và khấn nguyện. Mỗi nhà sư nhận một ít thức ăn rồi đọc một câu kinh hoặc một lời chúc phúc. Không nhà sư nào nhận quá nhiều thức ăn, chỉ vừa đủ, nhường lại cho nhà sư tiếp theo.

Truyền thống khất thực này đã có từ thời đức Phật và vẫn tồn tại ở các quốc gia theo truyền thống Phật giáo. Nhà sư đi khất thực không đơn giản là hành khất xin thức ăn, đó

là quá trình thực tập, hạnh nguyện của các nhà sư. Khất thực vừa là phương tiện sinh sống vừa là thời gian để các nhà sư hành đạo.

Đối với các Phật tử, hình thức cúng dường cũng là cơ hội để thực hiện công hạnh, hướng đến thiện nguyện. Vì thế, họ không bao giờ làm điều đó với thái độ ban ơn hay bị bắt buộc. Trước khi cúng dường, người ta phải sửa soạn thân thể sạch sẽ, chuẩn bị thực phẩm với tất cả tấm lòng thành kính trân trọng. Người cúng dường sẽ có những lời cầu phúc cho người thân chứ không cầu chúc cho riêng mình.

Page 44: Tạp chí Hợp tác và Phát triển số 27+28