215
Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chc VMS Lê Văn Thái Thư Viện MS Christian Le PhD

Bốn Mươi Sáu Năm - hoidongphuchunglienhiep.org · ban hàng Sắc lệnh cấm chỉ việc truyền bá Gia-tô giáo tại Đông Dương. Bởi giao thiệp với các Giáo

  • Upload
    others

  • View
    5

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ

MS Lê Văn Thái

Thư Viện MS Christian Le PhD

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 2

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

2

MỤC LỤC

LỜI TỰA 3

CHƯƠNG 1: TỪ TỐI QUA SÁNG 7

CHƯƠNG 2: NHỮNG DIỄN TIẾN TRONG CHỨC VỤ 20

CHƯƠNG 3: HỘI TRUYỀN GIÁO PHƯỚC ÂM LIÊN HIỆP VÀ GIÁO HỘI TIN LÀNH ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM

54

CHƯƠNG 4: CAO TRÀO PHỤC HƯNG GIÁO HỘI VÀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN LỊCH SỬ

95

CHƯƠNG 5: CHIỀU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP

135

CHƯƠNG 6: KẾ HOẠCH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG CƠ SỞ HẠ TẦNG CỦA GIÁO HỘI

160

CHƯƠNG 7: THỜI KỲ VỀ HƯU 190

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 3

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

3

LỜI TỰA

Như những dòng nước sống mang tình yêu tuôn tràn vào sa mạc, ân sủng và tình yêu thương của Cứu Chúa Jêsus Christ đã đến với dân tộc Việt Nam thật rất dư dật và lạ lùng. Chỉ trong một thời gian ngắn, ảnh hưởng của Tin Lành đã lan rộng khắp ba miền Trung, Nam, Bắc và điều đáng ngợi khen Chúa hơn hết là sự hiện diện của Hội Thánh Ngài trên phần đất bé nhỏ nầy như là một phép lạ- vì từ một số người ít ỏi, bé nhỏ Hội Thánh đã tiến nhanh đến chỗ có thể kết hợp được một tập thể rộng rãi, đông đảo như ngày nay.

Nói như thế không có nghĩa là những nhà truyền đạo tiền phong cũng như những người nối tiếp trách nhiệm thực thi sứ mệnh thánh, có thể hoạt động dễ dàng trong một bối cảnh lịch sử cởi mở và khách quan, được chính quyền thông cảm và được quần chúng ủng hộ. Sự thật hoàn toàn trái ngược. Tin Lành được truyền đến Việt Nam tính đến nay (1970) đã gần 3 phần tư thế kỷ. Trong khoảng thời gian đó, các đầy tớ của Chúa đã phải hoạt động song song với những sự ngăn trở. Ngày nay, chúng ta tương đối được dễ dàng trong việc rao truyền ơn cứu rỗi, nhưng ngày xưa - Hội Thánh đã phải chiến đấu gian khổ để trưởng thành trong những hoàn cảnh hết sức bi đát, cô đơn cùng cực - nếu không có sự gìn giữ và bảo hộ của Chúa, thì chắc rằng không thể nào tồn tại được. Thái độ của Chính quyền Pháp Việt lúc bấy giờ rất khắt khe đối với Tin Lành. Thêm vào đó là nạn kỳ thị tôn giáo do một số đồng bào thủ cựu chủ xướng. Cho nên Giáo sĩ luôn luôn bị ngược đãi và những nhà truyền đạo đầu tiên phải thường xuyên sống trong sự đe dọa, bắt bớ và tù đày. Tuy nhiên, tạ ơn Đức Chúa Trời, vì trên hết mọi điều đó - có cánh tay của Chúa giơ ra và Hội Thánh của Ngài vẫn sống.

Ngày nay, nhìn trở lại những chặng đường đã qua trong chức vụ, tôi tự nhận có thể ngẩng đầu lên, lớn tiếng ngợi khen và tôn vinh Ba Ngôi Đức Chúa Trời về những việc mà Ngài đã làm trên đất nước chúng ta. Và đó cũng là một trong những lý do khiến tôi viết lại tập Hồi ký nầy. Mong rằng quý độc giả có thể xem đây như là một nhân chứng của lịch sử. Sau hơn bốn mươi năm hầu việc Chúa, tôi muốn được cùng quý vị ôn lại quá trình hoạt động của Hội Thánh từ những ngày đầu tiên, để quy vinh Danh Chúa, và đồng thời cũng để nhớ lại những tấm gương sáng chói của những bậc đàn anh - là những người đã đi trước chúng ta và cũng đã hi sinh trọn vẹn cho công cuộc rao truyền Tin Lành.

Làm công việc nầy, tôi nhận thấy là khó có thể tránh được những thiếu sót, nhất là đối với việc sưu tầm và san định những tài liệu lịch sử liên quan trực tiếp đến vận mệnh Giáo hội, vì sự hạn hẹp của ký ức gây nên, nhưng mục đích chính của tôi qua tập Hồi ký nầy là - góp một phần rất nhỏ trong việc tổng hợp những tài liệu lịch sử, làm bàn đạp cho những nghiên cứu bao quát, sâu sắc hơn - ngỏ hầu có thể tiến đến việc soạn thảo một quyển “Lịch Sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam” đầy đủ và súc tích.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 4

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

4

Tôi cũng xin chân thành cám ơn cố Giáo sĩ E. F. Irwin về những tài liệu liên quan đến công cuộc truyền giáo của Hội Phước Âm Liên Hiệp tại Đông Dương, cùng tất cả quý vị Mục sư, Truyền đạo và tín hữu xa gần đã giúp tôi những tài liệu thiết thực, bổ túc cho những thiếu sót trong việc thực hiện công tác nầy. Cầu xin Đức Chúa Trời Toàn Năng ban phước lại trên quý vị cách dư dật. A-men.

Nha Trang, ngày 1 tháng 5 năm 1970

Mục sư LÊ VĂN THÁI

Mục Sư Lê văn Thái

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 5

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

5

Ba Giáo sĩ trong những Giáo sĩ đầu tiên

Từ trái sang phải: I. R. STEBBINS, D. I. JEFFREY, E. F. IRWIN

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 6

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

6

MS Lê Văn Thái và gia đình Hà Nội 28.09.1948

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 7

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

7

CHƯƠNG 1: TỪ TỐI QUA SÁNG

TIN LÀNH đã được truyền giảng tại Đà Nẵng từ năm 1911. Nhưng lúc bấy giờ mọi người trong gia đình chúng tôi đều ở trong sự TỐI TĂM đúng như lời Thánh Kinh đã chép: “Sự sáng đã soi trong tối tăm, song tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng”(Gi 1:5).

Chúng tôi không quan tâm đến Chân lý của Lời Sự Sống. Nhưng thật ra đó không phải là quan niệm riêng của chúng tới mà là khuynh hướng chung của tất cả mọi người trong mọi thời đại - điều mà Thánh Kinh đã dự ngôn từ ngàn xưa: “Thế gian đã làm nên bởi Ngài, nhưng thế gian chẳng từng nhận biết Ngài, Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy”(Gi 1:10,11). Lý do của sự khước từ ấy cũng đã được Thánh Kinh giải bày minh bạch: “Sự sáng đã đến thế gian mà người ta ưa sự tối tăm hơn sự sáng vì việc làm của họ là xấu xa” (Gi 3:19).

Về sau, khi đã trở nên môn đồ của Chúa, tôi mới có dịp suy nghĩ - hậu quả việc làm của gia đình tôi lúc bấy giờ chẳng qua chỉ là một chiếc áo nhơ nhớp ở trước mặt Chúa mà thôi.

A. GIAI ĐOẠN CHỐNG ĐỐI CƠ ĐỐC GIÁO

Năm 1914 chiến tranh giữa Đức và Pháp bùng nổ. Người Pháp không muốn cho người Mỹ ở Đông Dương, nên các Giáo sĩ phải bán lại vật liệu xây cất để về đất nước. Nhờ đó tôi có dịp giao thiệp với họ để mua các vật liệu ấy về xây cất nhà. Tình hình chiến sự ngày càng khẩn trương, nên nhằm đề phòng mọi mưu toan khuynh đảo – khoảng tháng 12 năm 1915, toàn quyền Đông Pháp ở Hà Nội cho ban hàng Sắc lệnh cấm chỉ việc truyền bá Gia-tô giáo tại Đông Dương.

Bởi giao thiệp với các Giáo sĩ và đọc được những sách báo của các nhà Truyền giáo, tôi được biết từ ngữ Gia-tô Cơ Đốc là JÊSUS CHRIST – tên của vị Chúa mà các Giáo hội Thiên Chúa đang thờ phượng hết sức cung kính. Khi đã phối kiểm và đã biết chắc được điều đó là đúng, thì lòng căm thù của tôi đối với Cơ Đốc giáo lại càng gia tăng bội phần.

Lý do của sự căm thù nầy là vì một vài biến cố lịch sử hàm chứa những sắc thái chính trị lẫn tôn giáo xảy đến cho gia đình chúng tôi. Theo lời ông thân tôi kể lại thì đêm 4-7-1885 tức 22-5 năm Ất Dậu, sau khi kinh thành Huế thất thủ, vua Hàm Nghi phải chạy ra Cam Lộ, Quảng Trị. Một số người theo vua, một số người phải bỏ kinh thành đi lánh nạn. Trong số người rời bỏ kinh thành đi lánh nạn. Trong số người rời bỏ kinh thành Huế có gia đình chúng tôi.

Ông thân tôi đưa người mẹ già (tức bà nội tôi) vào tá túc trong nhà thờ Phú Cam (Huế) gần 6 tháng. Sau đó lại đưa bà vào Đà Nẵng tìm người chị bị lưu đày biệt xứ bởi tội gia đình làm cách mạng trong đời vua Tự Đức.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 8

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

8

Ngần ấy sự kiện, nào là chuyện kinh thành Huế thất thủ nào là chuyện tá túc trong nhà thờ Phú Cam, nào là chuyện có người trong gia đình làm cách mạng thời Tự Đức phải bị phân thây hoặc bị tù đày biệt xứ gây cho tôi lòng căm thù Cơ Đốc giáo không tưởng được. Tinh thần ái quốc vùng dậy mãnh liệt trong tôi. Những truyền thống lâu đời của tổ tiên cần được triệt để bảo vệ. Không ai có quyền phá hủy di tích của tiền nhân để đem vào đất nước nầy những “mê hoặc” của ngoại bang. Xin nói rõ là gia đình tôi lúc bấy giờ theo thờ Ông Bà, một hình thức tôn giáo mang tính chất thuần túy Phương Đông. Tôi nhận thấy mình có nhiệm vụ phải bảo vệ những truyền thống tinh thần của dân tộc, nên mỗi khi nghe giảng đạo Gia-tô, phân phát sách báo Gia-tô hoặc gặp phải những người theo đạo Gia-tô, tôi liền chống trả mãnh liệt. Tôi đã áp dụng tất cả mọi phương tiện để đối phó ngay cả việc ném đá vào đầu các Giáo sĩ tôi cũng không từ nan.

Chẳng những thế thôi, ròng rã mấy năm, tôi vẫn cứ theo tranh luận với các Giáo sĩ và phá tán những người rao truyền Tin Lành, chung quy chỉ vì lý do huyền thoại “Vì đạo mà mất nước” (ám chỉ một giáo hội lớn tại Việt Nam).

Nhưng lạ lùng thay, ân sủng và lòng yêu thương vô lượng của Chúa đã chuẩn bị cứu tôi. Khởi điểm khiến tôi đi sâu vào việc nghiên cứu chân lý Tin Lành và tìm được ơn cứu rỗi, là do vấn đề một ông truyền đạo nêu lên sau đây: “TIN THEO ĐẠO TIN LÀNH BỎ ÔNG BÀ, HAY KHÔNG THEO ĐẠO TIN LÀNH BỎ ÔNG BÀ?” Vấn đề có vẻ thích thú. Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố tìm những luận cứ vững chắc, sắc bén ngỏ hầu có thể bẻ gãy dễ dàng những lý lẽ của “đối phương.” Tôi tin chắc rằng tôi sẽ thắng.

Một đêm kia, tại tòa giảng Hải Châu ông Truyền đạo nầy quả quyết: “AI KHÔNG THEO TIN LÀNH, KHÔNG TIN NHẬN ĐỨC CHÚA JÊSUS, KHÔNG THỜ ĐỨC CHÚA TRỜI LÀ BỎ ÔNG BÀ.” Để chứng minh, ông đọc luôn một câu chữ Hán: “Mộc hữu bổn, thủy hữu nguyên, nhân sanh hồ tổ.” Rồi ông lớn tiếng giải thích: “Cây có cội, nước có nguồn, người có tông có tổ. Cây không cội, nước không nguồn, người không có tông tổ thì sao gọi là có ông bà được? Đức Chúa Trời dựng nên loài người, nhưng người không thờ phượng Ngài. Thánh Kinh chép rằng: “Đức Chúa Trời dựng nên loài người… Ngài dựng nên người nam cùng người nữ” (Sa 1:27), không tin nhận Đức Chúa JÊSUS là Con Đức Chúa Trời và không tin theo Tin Lành của Ngài thì khác nào cây mất cội, nước mất nguồn, người mất ông bà!” Ông cứ theo cái đà ấy mà giải thích thao thao bất tuyệt. Rồi ông lại đặt câu hỏi: “QUÝ VỊ BIẾT MÌNH THỜ ÔNG BÀ MẤY ĐỜI KHÔNG?” Chúng tôi chưa kịp phản ứng thì ông lại bắt sang vấn đề phổ hệ thờ ông bà, cách biên mục lục trên bài vị đặt ở bàn thờ để thờ ngũ đại mai thần chủ tức là ông CAO, TẰNG, TỔ, KHẢO, HIỂN. Ông giải thích: Khi có một người trong tộc qua đời, muốn giữ cho đúng câu NGŨ ĐẠI MAI THẦN CHỦ phải sửa lại bài vị, tức nhiên là phải xóa tên ông CAO, đem tên ông TẰNG vào chỗ ông CAO ông KHẢO vào chỗ ông TỔ, đem tên ông HIỂN vào chỗ ông KHẢO và biên tên ông

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 9

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

9

mới qua đời vào chỗ ông HIỂN. Như vậy là bỏ ông bà chứ không phải thờ ông bà. Nhìn vào thính giả ông tiếp tục đặt một câu hỏi khác: “Như vậy muốn thờ ông bà phải làm sao?” Rồi ông lại giải thích: “Muốn thờ ông bà cho thật đúng nghĩa phải giữ nguồn, tìm gốc, tưởng nhớ và tôn kính đấng sinh thành mình mãi mãi. Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hóa dựng nên loài người, nên hễ ai tìm kiếm Ngài tức là tìm nguồn giữ gốc, là thờ Tông thờ Tổ vậy.

Ngồi trong nhà giảng nghe những lời nầy, đầu tôi nóng bừng lên. Tâm can tôi sục sôi như lửa bốc, vì mọi người trong gia đình tôi đều theo thuyết thờ cúng ông bà rất mực cung kính. Không ai có quyền xúc phạm đến một hình thức thờ phượng đã ăn sâu vào lòng dân tộc, phỉ báng đạo giáo của tổ tiên là một điều sỉ nhục không thể tha thứ được. Sự căm tức của tôi càng lúc càng lên cao. Tôi muốn đứng lên tranh luận với ông Truyền đạo nầy, nhưng tôi ngần ngại không biết ông trưng dẫn có đúng hay không. Nếu đúng thì sao? Tôi tự nhủ không cần phải gấp, đợi giảng xong về hỏi lại ông thân tôi xem gia đình chúng tôi thờ được mấy đời, rồi sẽ “chỉnh” ông ta sau.

Về đến nhà, ông thân tôi đã ngủ. Nhưng không thể đợi sáng hôm sau được, tôi bèn đánh thức ông cụ dậy và hỏi ngay: “Thưa thầy, gia đình ta thờ ông bà được mấy đời?” Ông thân tôi vừa khó chịu vừa lấy làm lạ hỏi lại: “Mầy làm cái gì mà gấp vậy?” Tôi bèn thuật lại cho ông cụ nghe tất cả những điều ông truyền đạo đã giảng giải về sự thờ cúng tổ tiên. Cụ bảo: “Tao không nhớ phổ hệ gia đình ta ghi chép phải thờ ông bà mấy đời. Chờ ít lâu nữa sẽ có ngày GIỖ TỔ tại Huế, về xem mới biết được.”

Tôi cũng xin nói thêm là trước đó không lâu, gia đình tôi có nhận được một quyển sách nhan đề: TRUNG HỌC TRI THỦ PHẬN,” không biết của ai gởi tặng. Tác giả quyển sách là Pierre Lục, in tại nhà in Quy Nhơn, xuất bản 27-11-1908. Nội dung sách gồm 9 chương, luận về đạo hiếu của con cái đối với ông bà. Chương I có bốn tiết mục như sau:

1 - Con cái phải yêu mến cha mẹ

2 - Con cái phải tôn kính cha mẹ

3 - Con cái phải vâng lời cha mẹ

4 - Con cái phải giúp đỡ cha mẹ.

Tôi xin trích nguyên văn một đoạn, để chúng ta cùng hiểu qua đại ý: “Sách vở thánh hiền để lại, đều chỉ việc hiếu thảo làm trọng nhứt: Như có lời rằng: Thiên kinh, vạn điển, hiếu nghĩa vi tiên.” Nghĩa là ngàn cuốn sách chép muôn vạn thiên, thì cũng lấy việc hiếu thảo làm đầu nhứt. Lại trong đại học rằng: “Vi nhơn tử chỉ ư hiếu” nghĩa là đạo làm con, thì phải lấy sự hiếu thảo cha mẹ làm gốc.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 10

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

10

Vả lại sách vở cũng kể tội thất hiếu là tội nặng lắm, chẳng có hình phạt nào cho cân xứng mà phạt tội ấy, dầu xử trảm quyết là chém đầu, dầu xử lăng trì là bó chai rái làm đèn mà đốt sống, dầu xử bá đao là phân thây ra trăm tấm, thì cũng chưa cân xứng tội quái gở ấy. Theo như lời Phu Tử rằng: “NGŨ HÌNH CHI THUỘC TAM THIÊN, TỘI MẠC ĐẠI Ư BẤT HIẾU,” nghĩa là giống tội trọng phải luật phạt theo ngũ hình, thì kể hơn ba ngàn giống tội, mà chẳng có tội nào hơn tội bất hiếu” (trang 8 THTTP).

Gia đình chúng tôi rất quý trọng những tư tưởng chứa đựng trong quyển “Trung Học Tri Thủ Phận” nầy. Những lời đã được trích dẫn trên đây kể như khuôn vàng thước ngọc cho đời sống chúng tôi. Bởi đó, hễ ai đụng đến sự thờ cúng ông bà thì chúng tôi quyết định chống đối đến cùng, nhất là đối với những người giảng đạo Gia-tô Cơ Đốc. (Thật chúng tôi là những người mù đang dò dẫm trong bóng tối).

Sau khi ông thân đi dự ngày Giỗ Tổ ở Huế về, có đem theo bản SAO LỤC PHỔ HỆ tộc LÊ VĂN của chúng tôi. Sau khi nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy điều ông truyền giảng nói về việc biên bài vị đặt trên bàn thờ, về Ngũ – Đại – Mai – Thần – Chủ là đúng, nhưng đối với bản Gia phả tộc Lê Văn chúng tôi ghi mười đời chứ không phải năm đời như ông Truyền đạo đã nói.

Thế là chúng tôi tin chắc mình có những lý lẽ vững chắc để đánh đổ ông Truyền đạo. Tôi liền sửa soạn những câu hỏi “hóc búa” và đi ngay đến nhà giảng. Khi gặp ông Truyền đạo tôi liền vào đề ngay: “Thưa ông, ông nói theo đạo Tin Lành, nhận Đức Chúa Jêsus và thờ Đức Chúa Trời là có nguồn gốc, có căn nguyên là tìm được Tông được Tổ, tại sao không thấy người Tin Lành đặt bàn thờ để thờ phượng?” Ông Truyền đạo liền giở quyển sách đang cầm trên tay ra, và đọc cho tôi nghe một câu thế này: “Các ngươi thờ lạy sự các ngươi không biết, chúng ta thờ lạy sự chúng ta biết… Khi những kẻ thờ phượng thật lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng… Đức Chúa Trời là thần, nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy Ngài” (Gi 4:22-24). Ông nhắc lại những điểm quan trọng, nào là “CÁC NGƯƠI THỜ LẠY SỰ CÁC NGƯƠI KHÔNG BIẾT,” nào là “Phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy.” Rồi ông vặn lại tôi: “Vấn đề không phải là đặt ra bàn thờ và bày lễ cúng tế, mà là hiểu biết, tôn kính, vâng giữ lời giáo huấn. Thờ phượng thật là lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ, tôn kính và vâng lời răn dạy của Đấng mình thờ, thầy có thờ như vậy hay không?” Tôi không trả lời, nhưng lại hỏi một câu khác: “Ông nói Đức Chúa Trời dựng nên vạn vật, dựng nên loài người, như vậy thì ai dựng nên Đức Chúa Trời?” Ông Truyền đạo lại giở và đọc một câu khác trong quyển sách đang còn cầm nơi tay: “Đức Chúa Trời phán rằng: Ta là Đấng Tự Hữu Hằng Hữu” (Xu 3:14). Để tôi có thể hiểu rõ hơn, ông giải thích: “Tự Hữu Hằng Hữu nghĩa là Ngài tự nhiên mà có, có từ trước vô cùng và nhất là còn đến đời đời vô cùng. Bởi đó, Ngài là Chủ tể của trời đất muôn vật. Ngài dựng nên trời đất muôn vật, nhưng không ai dựng nên Ngài cả, vì như tôi đã nói (lời ông Truyền đạo) sự hiện hữu của Ngài ở ngoài thời gian.”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 11

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

11

Tôi lại đặt câu hỏi thứ ba: “Ông bảo là thờ ông bà theo mục lục của bài vị thì chỉ có năm đời thôi, nhưng thực sự gia phổ của tộc tôi ghi tới mười đời kia mà?” Sau câu hỏi nầy tôi đinh ninh ông Truyền đạo sẽ bí lối và không thể nào trả lời được. Tôi tin chắc thế nào cũng thắng. Nhưng ông Truyền đạo tươi cười và hỏi lại tôi một câu: “Được rồi, gia đình thầy thờ mười đời, vậy cái tên thứ mười một ở đâu?” Tôi không trả lời được. Tôi không ngờ ông Truyền đạo đã đưa tôi vào thế “kẹt” như vậy. Phải, CÒN ÔNG THỨ MƯỜI MỘT Ở ĐÂU? Tôi bàng hoàng cả người, đành phải đánh lãng ra về…

Từ đó, tôi cứ bâng khuâng mãi… Tâm hồn tôi luôn luôn bị dày vò câu thúc đối với những vấn đề ông Truyền đạo đã đặt ra. Đâu là sự thật, đâu là chân lý? Tôi bắt đầu suy nghĩ, cố gắng đi sâu vào dòng sinh hóa của vũ trụ và vạn vật. Nếu có Tổ thứ mười thì phải có ông thứ mười một rồi đến ông cao hơn, đến dòng giống, đến thân tộc và nhân loại. Như vậy phải có một Đấng dựng nên loài người, Đấng ấy chính là Đức Chúa Trời của đạo Gia tô. Khi đạt đến ý nghĩ Đức Chúa Trời là nguồn gốc của muôn loài, vạn vật, linh hồn tôi như đang nhận được ánh sáng của chân lý cứu rỗi. Nhưng trong chính giờ phút ấy, bằng một tâm linh bàng hoàng xúc động, tôi nhận thấy quá khứ mình như trở lộn về với bản ngã trần trụi đầy dẫy những ô uế, xấu xa, giả dối, ôm ấp dục vọng và tội lỗi thấp hèn. Làm thế nào có thể thờ phượng Đức Chúa Trời cho được? Tôi hết sức lo âu gần như hoảng hốt trong trạng thái tinh thần đau khổ và căng thẳng cùng tột ấy. Tôi tự hỏi: Phải làm sao để được tha tội? Làm sao để được cứu rỗi? Làm sao để được thuận hòa cùng Đức Chúa Trời?

Ánh sáng chân lý đã đến với tôi, sau những năm tháng dò dẫm trong bóng tối. Vào mùa xuân năm 1919, tại nhà giảng Hải Châu (Đà Nẵng), tôi đã quỳ gối tin nhận Đức Chúa JÊSUS làm Cứu Chúa của đời mình, vì Ngài đã gánh vác tội lỗi tôi và chết trên cây thập tự giá vì tôi.

Lúc ấy, có Giáo sĩ E. F. Irwin là người mấy năm trước đã bị tôi ném đá, chứng kiến.

B. NHỮNG CHẬP CHỮNG TRONG ÁNH SÁNG CỦA LỜI CƠ ĐỐC

Tôi đã thực sự trở nên người mới trong Chúa. Gã thanh niên lúc trước ương ngạnh, thường hay làm ồn ào giữa đám đông, khuấy rối cản trở bằng mọi cách không cho người khác vào nghe giảng hoặc cãi vã la lối làm mất trật tự mỗi khi rao giảng xong - bây giờ trở nên sốt sắng đến dự các buổi giảng Tin Lành - thường ngồi ở hàng ghế thứ hai trong các buổi nhóm cầu nguyện hoặc thờ phượng. Gã thanh niên ấy chính là tôi. Tay tôi không còn lăm le những đá, nhưng chỉ có một quyển Tin Lành Giăng lúc nào cũng kề cận bên mình, (vì lúc bấy giờ những sách khác chưa được phiên dịch sang Việt ngữ).

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 12

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

12

Từ ngày công khai trở lại cùng Chúa, tôi được người ta gán cho một cái tên mới: “Thầy Gia-tô”… “Anh Gia-tô”… có khi “Thằng Gia-tô.” Tại miền Trung, lúc bấy giờ người ta gọi các Giáo sĩ giảng Tin Lành là ông Gia-tô… người theo đạo Tin Lành là người Gia-tô, bởi JÊSUS CHRIST được dịch sang Hán văn là Gia-tô Cơ Đốc. Trong khi giảng, nhiều lúc các Giáo sĩ cũng sử dụng từ ngữ “Gia-tô Cơ Đốc”… hoặc “Đạo Gia-tô” có quyền cứu rỗi” v.v... (Sau nầy tôi tự nghĩ, người ta gọi tôi là “NGƯỜI GIA-TÔ” cũng không có lạ, vì trong đời các sứ đồ - tại thành An-ti-ốt - người ta cũng bắt đầu gọi những người theo Chúa là “Chrétien” (Cong 11:26).

Ở miền Bắc, trái lại người ta gọi Tin Lành là “Đạo Rối.” Đi đến đâu cũng đều nghe dân chúng áp dụng một lối gọi như vậy. Nguyên nhân có lẽ do ác ý của một nhóm người bảo thủ, có thành kiến – muốn đánh lạc chân lý của Tin Lành, dùng hai chữ “Đạo Rối” để xuyên tạc gây một tiếng vang không tốt đối với đạo Chúa giữa các giới đồng bào chăng?

Khác với miền Trung và miền Bắc, đồng bào miền Nam gọi Đạo Tin Lành là “Đạo Hoa Kỳ.” Không hiểu bởi lý do nào mà họ đã Mỹ hóa đạo Chúa như vậy, mặc dù những tấm bảng treo trước các phòng giảng đều được đề là Hội Thánh Tin Lành hoặc Eglise Evangelique. Có lẽ họ thấy phần đông các Giáo sĩ giảng Tin Lành đều là người Hoa Kỳ, nên đã gọi như vậy cũng nên.

Ngay từ buổi đầu, việc xưng hô danh hiệu của Tin Lành đã gặp nhiều khó khăn. Ba miền dùng ba từ ngữ khác nhau, mà mỗi từ ngữ đều mang ít nhiều tính chất khinh thường hoặc châm biếm, xuyên tạc sự thật. Những người có ác ý với Giáo hội Tin Lành lợi dụng triệt để tình trạng bất lợi ấy để gieo rắc nghi ngờ, chia rẽ nhằm mục đích bất chính là ngăn trở công việc đầu tiên của Chúa ở Việt Nam. Nhưng Thánh Linh của Đức Chúa Trời đã sắp đặt cách lạ lùng cho Hội Thánh Ngài, “Hội Thánh chỉ có một Thánh Linh, Đức Chúa Trời tỏ ra trong mỗi một người, cho ai nấy đều được ích chung” (ICo 12:7 IICo 12:4).

Tôi xin mở dấu ngoặc ở đây, để trình bày rõ hơn tại sao Hội Thánh Chúa tại Việt Nam lại được Đức Chúa Trời ban cho một cái tên kỳ diệu là “Hội Thánh Tin Lành Việt Nam” như ngày nay.

Trong khoảng thời gian từ năm 1912 đến 1928, người Pháp gọi Hội Truyền giáo là La Mission Evangelique; do đó các phòng giảng hoặc nhà giảng phải treo tấm bảng với hàng chữ: MISSION EVANGÉLIQUE hoặc EGLISE EVANGÉLIQUE. Đến năm 1928, Hội Thánh chúng ta đã trình bảng Điều lệ lên Hoàng đế Việt Nam, để xin thành lập Hội Thánh riêng. Bản điều lệ đó đã được dịch chữ Eglise Evangélique du Vietnam ra chữ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Từ đó, từ ngữ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được phổ biến và trở nên quen thuộc chẳng phải chỉ đối với mọi người trong nước mà cả hải ngoại nữa.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 13

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

13

Thật Chúa đã chọn tên đó cho Hội Thánh của Ngài tại Việt Nam, khác hẳn với hai mươi ba xứ mà Hội Truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp đã đến để rao truyền Tin Lành. Hội Thánh tại những quốc gia này đều mang chung một tên là Hội Thánh Liên Hiệp. Năm 1957, khi tôi đến New York, có một nhân viên của Hội Truyền giáo tại đó hỏi tôi: “Sao Hội Thánh tại Việt Nam không lấy tên chung là Phước Âm Liên Hiệp, mà lại lấy tên là Hội Thánh Tin Lành Việt Nam?” Tôi trả lời rằng: “Tôi cũng không biết nữa. Nhưng chắc Chúa biết, vì từ trước đến nay không có một Hội đồng nào hoặc một Ban Trị sự nào quyết nghị đặt tên đó cho Hội Thánh Việt Nam.”

1. Tạm Rời Gia Đình

Bây giờ tôi xin trở lại những ngày đầu tiên tôi mới tin nhận Chúa. Thật, khi đức tin vừa chớm nở và niềm hy vọng đang lên, thì những sự bắt bớ cũng từ khắp nơi tràn về nhằm ngăn cản và phá tan những mầm mống ấy.

Sự bắt bớ khởi đi từ bạn bè tôi lúc trước đã từng sống chung trong tính hư tật xấu, đến những người trong họ ngoài làng. Tôi đi đâu cũng nghe người ta xầm xì to nhỏ: “Cậu Thái trước chống báng Gia-tô dữ lắm mà bây giờ lại theo Gia-tô rồi. Tại sao nó lại theo đạo nhỉ? Nó có biết theo đạo là bỏ ông bà không nhỉ? Nó có biết dân tộc mình vì đạo ấy mà vong gia thất quốc không nhỉ? Thật tội nghiệp cái gia đình đó. Tội nghiệp ông cụ già có hai thằng con trai bất hiếu, chúng theo đạo hết, sau nầy ai cúng giỗ ông bà? Nhà vô phước!.” Đó là đại khái những câu nói thường nhật nơi cửa miệng của những người trong thành phố hoặc trong xóm tôi ở.

Trong thời gian ấy, tại vùng tôi ở có một thanh niên tên H. mới trở lại cùng Chúa, cũng bị gia đình bắt bớ nặng nề. Ban đầu ông thân sinh anh nầy không cho đi nhà giảng. Nhưng anh cứ trốn đi nghe giảng và thờ phượng Chúa. Anh bị đánh đập nặng nề và ông cấm không cho đọc Thánh Kinh. Nhưng anh cứ tìm cách đi nhà thờ và đọc Thánh Kinh. Vì thế, anh bị đánh nặng hơn. Hai tay bị trói chặt bằng dây gai vào cột nhà để anh không được đi ra ngoài. Tuy nhiên, dù thân thể bị bầm giập, anh vẫn cứ tin kính Chúa bằng cách cầu nguyện và hát thơ thánh. Ông thân sinh anh càng giận hơn. Ông lấy ra một con dao, đoạn nói với anh bằng một giọng quyết liệt: “Bỏ đạo hay phải chết.” Sau trận đòn thập tử nhất sinh đó mấy ngày, chúng tôi nhận được tin anh H. đã bỏ nhà trốn đi biệt xứ. Nhận được tin ấy, một mặt chúng tôi rất buồn vì không còn thấy bóng người bạn chung đức tin, nhưng một mặt chúng tôi mừng cho anh H. thoát khỏi được hình phạt nặng nề của gia đình. Chúng tôi cầu nguyện xin Chúa nâng đỡ anh, che chở và gìn giữ đức tin anh trong ơn Chúa. Tuy nhiên, càng nghĩ đến anh, chúng tôi càng lo sợ cho số phận của chúng tôi.

Khi anh H. đi rồi, sự bắt bớ trong vùng trút vào gia đình tôi tất cả. Ông cụ Đ. thân sinh anh H. là bạn thân của cha chúng tôi, nên bất cứ chuyện gì xảy ra trong gia đình, cụ ấy cũng đều đem đến bàn luận cùng ông thân chúng tôi. Việc anh H.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 14

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

14

theo đạo thế nào, cụ ngăn cấm, đánh đập ra sao, bắt anh H. phải bỏ đạo hay chết cách nào, nhất nhất cụ đều kể hết cho ông thân chúng tôi nghe. Cụ nói một cách quả quyết: “Bây giờ nó bỏ đi, tôi kể như nó chết rồi. Chứ nó còn sống mà theo đạo thì thế nào tôi cũng giết nó.” Rồi cụ lại hỏi ông thân tôi: “Còn anh nghĩ sao về hai thằng con anh?”

- Ông thân chúng tôi buồn rầu nói từng tiếng một “Tôi cũng buồn lắm nhưng chưa biết tính sao! Từ ngày chúng nó theo đạo, tôi thấy chúng nó không làm gì bậy bạ như trước. Chúng nó thường ngồi xem sách. Đôi khi thấy chúng nó quỳ gối nói cái gì lầm thầm trong miệng, tôi cũng không rõ. Chúng không đi đánh bạc, không xem hát cũng không hút thuốc lá nữa. Tôi có lòng mừng nhưng phiền một cái là chúng theo đạo. Tôi đang theo dõi hành động của chúng và nghĩ cách đối xử đây chú ạ!”

- Ông cụ Đ. lại tiếp: “Chắc anh nghe rồi, vụ thằng H. của tôi đó. Nó trốn đi tôi không tìm kiếm làm gì cho mệt. Nó đi đâu mặc kệ, tôi không muốn thấy nó nữa. Thà nó chết cho khuất mắt tôi, chứ sống mà theo đạo thì không được. Tôi dứt khoát như vậy.”

Chúng tôi chẳng dám hé môi nói một lời nào, chỉ âm thầm thưa với Chúa. Xin Chúa bảo vệ chúng tôi, cứu ông thân và gia đình chúng tôi. Chúng tôi cảm thấy mừng và hy vọng, vì ông thân chúng tôi ít ra cũng đã thấy một phần nào quyền năng của Chúa đổi mới đời sống chúng tôi.

Nhà chúng tôi ở rất xa nhà thờ, nên việc đi nhóm lại thờ phượng Chúa thật vất vả. Chúng tôi phải đi thật sớm mà về thì luôn trễ. Có khi tới mười giờ đêm mới về đến nhà. Những lúc như vậy thường phải nhịn đói không có cơm ăn. Người nhà chúng tôi bảo rằng: “Chúng nó theo đạo có Chúa no rồi, để cơm làm gì!” Chúng tôi cố gắng chịu đựng. Một tối mùa đông, anh em chúng tôi về trễ, cổng đóng kín không vào nhà được, phải ẩn mình trong bụi cây chịu đói chịu lạnh cả đêm.

Tuy nhiên, không gì làm chúng tôi đau khổ bằng những ngày gia đình có cúng giỗ ông bà, nhất là cúng giỗ mẹ chúng tôi. Các chị tôi sắm sửa cỗ bàn, thắp đèn hương, đoạn vừa khóc vừa kể lễ: “Mẹ ơi mẹ, mẹ sinh hai thằng con trai, nay chúng nó đã theo đạo bỏ ông bỏ bà, không cúng giỗ để hương tàn khói lạnh, mẹ ơi!” Mỗi lần cúng giỗ hai ba ngày, là mỗi lần như diễn lại một đám tang trong gia đình. Nhìn nét mặt buồn phiền của ông thân chúng tôi, chúng tôi hết sức chua xót. Chúng tôi biết ông đau khổ lắm. Chúng tôi thấy rõ những băn khoăn của ông trước những áp lực của bạn hữu và người trong xóm làng.

Bởi đó, ngoài việc gia tăng thì giờ cầu nguyện đặc biệt xin Chúa cưu ông thân tôi và gia đình, tôi nài xin Chúa mở đường cách nào, để tôi khỏi nhìn thấy cảnh đau lòng hằng ngày và có thể giữ được đức tin. Tôi thiết tha xin Chúa giúp tôi tạm rời khỏi gia đình ít lâu. Trước là để tránh sự bắt bớ của bạn hữu xóm làng, sau để khỏi

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 15

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

15

nhìn nét mặt buồn phiền của ông thân tôi. Nhiều đêm nước mắt tôi hòa với mồ hôi trong những giờ cầu nguyện. Trước khi đi, tôi lặp đi lặp lại câu này với Chúa: “Xin Chúa giúp đỡ con, gìn giữ và dẫn dắt con trong lúc còn tuổi trẻ phải lìa gia đình để vững đức tin.”

Vào lúc năm giờ chiều ngày 28-5-1919 tôi xuống tàu thủy đậu ở bến Đà Nẵng. Tám giờ sáng hôm sau tôi đến Huế. Mặc dù ở Huế có nhiều bà con, nhưng tôi không đến nhà một người nào cả. Tôi cương quyết chỉ nhờ cậy sự giúp đỡ của Chúa và theo sự dẫn dắt của Ngài mà thôi. Lên khỏi tàu, trong khi đang rảo bước về hướng chợ Đông Ba (Huế), thì một người lạ đến bắt tay niềm nở mời tôi về nhà chơi. Vừa theo người ấy, tôi vừa suy nghĩ không biết ông ta là ai. Về đến nhà, nhờ sự giải thích của ông, tôi mới biết ông là một nhà thầu khoán. Ông có một người cháu đã làm việc với ông thân của tôi rất nhiều năm nên rất quen biết tôi. Khi thầu được công trường xây cất trường trung học Khải Định (Huế), chú cháu bàn với nhau mời tôi cộng tác, và họ đã viết thư cho người vào Đà Nẵng gọi tôi. Khi gặp tôi tại Huế, họ tưởng tôi đã nhận được thư rồi, nên đón tiếp rất niềm nở. Lúc bấy giờ tôi chỉ nói được một câu: “CÁM ƠN CHÚA,” vì tôi biết rằng: “CHÚA, Đức Chúa Trời chỉ dẫn các bước của tôi” (Ch 16:9b).

Từ đó chẳng những Chúa giúp tôi giải quyết được những khó khăn của vấn đề tài chánh, nhưng Ngài còn cho tôi có cơ hội phát triển sung túc nữa là khác. Sau giờ làm việc, tôi vẫn cầu nguyện và xem đi xem lại quyển Tin Lành Giăng, quyển sách duy nhất mà tôi có. Vào những ngày Chúa nhật tôi nhớ rất kỹ những giờ thờ phượng tại nhà thờ, đến nỗi hằng đêm tôi thường nằm mơ thấy vị Giáo sĩ đã giảng dạy mình khi trước. Tâm linh tôi buồn bã trước những thú vui đời nầy và luôn luôn cảm thấy cô quạnh giữa một xã hội náo nhiệt. Do đó, tôi quyết định rời bỏ công trường mà công việc làm ăn đang thịnh vượng để đi tìm một công trường khác - công trường thuộc linh.

Tôi sắp đặt công việc trao trả cho chủ thầu và trở lại quê nhà sau gần một năm xa cách. Chúa giúp đỡ tôi thi hành mọi sự đều được may mắn. Chúa nhìn thấy mọi ước vọng của lòng tôi, đúng như lời Ngài đã phán cùng Sa-mu-ên khi được sai đi xức dầu cho Đa-vít: “Loài người xem bề ngoài, nhưng CHÚA, Đức Chúa Trời nhìn thấy trong lòng.” Vâng, Chúa biết lòng tôi tha thiết muốn đưa nhiều người đến với Ngài. Chúa biết tôi nặng lòng đối với công trường thuộc linh hơn là công trường thế gian, nên khi tôi đi cũng như lúc tôi về, Ngài đều giúp đỡ tôi luôn luôn được may mắn và dễ dàng.

Khi về đến nhà, tôi được mọi người vui mừng tiếp đón. Tuy nhiên, giữa cảnh vườn cũ nhà xưa, cái vẻ lạnh lùng chống đối sự tin kính vẫn còn. Nhưng dù gặp khó khăn, tôi vẫn không chán nản - trái lại rất vui thỏa phấn khởi, mạnh tiến trên đường đức tin. “Lời Chúa (đã) là ngọn đèn cho chơn tôi, ánh sáng cho đường lối tôi.” Giữa giao điểm cuối cùng của sự tối tăm và khởi điểm của sự sáng, tôi cương quyết xây lưng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 16

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

16

lại với màn đêm dày đặc, mắt nhìn thẳng vào khung trời đầy hy vọng của tương lai. Bình minh đã hiện ra với những tia nắng ấm áp, trong trẻo. Tôi phấn khởi đọc lại những câu nầy trong Tin Lành Giăng: “Sự sáng soi trong nơi tối tăm, tối tăm chẳng hề nhận lấy sự sáng... Sự sáng nầy là sự sáng thật, khi đến thế gian, soi sáng cho mọi người. Ngôi Lời ở thế gian và thế gian đã dựng nên bởi Ngài. Nhưng thế gian chẳng từng nhận biết Ngài. Ngài đã đến trong xứ mình, song dân mình chẳng hề nhận lấy. Nhưng hễ ai đã nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Gi 1:5,9-12).

Khi đọc đến chuyện người mù tên Ba-ti-mê được Chúa chữa cho sáng mắt, tôi sung sướng nghĩ rằng Ba-ti-mê đã bắt gặp một dịp tiện quý hơn vàng. Ông không bỏ lỡ. Ông đã kêu xin sự thương xót của Chúa vừa lúc Ngài đi ngang qua chỗ mình ngồi. Khi nghe Chúa hỏi: “Ngươi muốn ta làm chi cho ngươi?” Ông chỉ thưa một điều: “XIN CHO TÔI ĐƯỢC SÁNG MẮT.” Thật đúng như Lời Chúa phán, đức tin ông đã cứu ông! Tôi rất cảm động, trình xin với Ngài: Lạy Chúa, con là Ba-ti-mê (ngày nay). Xin Chúa mở mắt con, cho con ra khỏi địa vị tội lỗi, khỏi sự tối tăm của ma quỷ, khỏi lễ giáo sai lầm và khỏi những sự thờ phượng mà mình không biết.”

Sau những lần thử nghiệm, đức tin, tôi trở nên vững chắc hơn trong ánh sáng của Lời Sự Sống. Bởi ơn yêu thương và sự dẫn dắt của Chúa, tôi có thể cùng nói như Đa-vít rằng: “Chúa thắp ngọn đèn tôi, CHÚA, Đức Chúa Trời tôi soi sáng sự tối tăm” (Thi 18:28).

2. Học Phước Âm Yếu Chỉ.

Bước đầu trong cuộc hành trình theo Đức Chúa JÊSUS của tôi là trở lại học “Phước âm yếu chỉ” để chịu báp-tem. Tôi hành động như những người thuở trước, sau khi nghe Phi-e-rơ giảng đã cảm động nên hỏi: “ Chúng tôi phải làm chi?” Phi-e-rơ trả lời rằng: “Hãy hối cải, ai nấy phải nhơn danh Đức Chúa Jêsus chịu báp-tem để được tha tội mình, rồi sẽ được lãnh sự ban cho của Đức Chúa Trời”(Cong 2:37-38). Tôi muốn được tha tội. Tôi ham thích sự ban cho của Đức Chúa Trời, bởi đó, hằng tuần tôi đều để thì giờ đi học giáo lý.

Quy tắc học Phước âm yếu chỉ của các Giáo sĩ lúc bấy giờ là: Mỗi học viên phải học liên tục mười hai tuần lễ, sau đó, qua ban khẩu vấn, xong rồi mới được nhận làm báp-tem. Ai không theo liên tục mười hai tuần, nếu muốn chịu phép báp-tem phải học lại từ đầu. (Thí dụ, một học viên theo học được năm tuần rồi nghỉ một tuần thì tuần tiếp theo đó kể như là tuần thứ nhất, thay vì là tuần thứ sáu. Năm tuần học trước kể như bỏ). Tôi đã bị xóa một kỳ sau khi đã học bảy tuần vì lý do nêu trên nên tôi lo lắm. Lần thứ hai nầy tôi cố gắng đi học liên tục mười hai tuần, không gián đoạn một tuần nào cả. Sau khi được Ban Trị sự hỏi về yếu lý, tôi được nhận cho làm báp-tem. Lễ báp-tem của tôi do cụ Giáo sĩ I. R. Stebbins cử hành ở bờ biển Đà Nẵng ngày 4-7-1920.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 17

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

17

Sau khi chịu báp-tem, tôi như người mù Ba-ti-mê vừa sáng mắt, nhìn thấy cái gì cũng đẹp, cái gì cũng lạ, nhất nhất mọi sự đều vui thích đối với tôi.

Nhưng liền trong tuần lễ đó, có một việc xảy đến nhằm thử thách đức tin chúng tôi. Số là mỗi tuần lễ như vậy, Hội Thánh đều có tổ chức hai buổi giảng Tin Lành tại nhà giảng nhánh bên Hà Thân vào mỗi thứ ba và thứ sáu. Từ Đà Nẵng muốn đến nhà Hà Thân phải qua một cái đò gọi là đò Hàng. Chúng tôi thường đi với các Giáo sĩ để giúp đỡ sắp xếp buổi nhóm và làm chứng cho người chưa biết Chúa. Một tối nọ vừa ra đến khỏi sông thì giông gió nổi lên, nước tràn vào đò, mọi người đều sợ hãi. Trong đêm tối, có những tiếng kêu la thất thanh. Phần đông những người đi chuyến đò nầy đều chưa tin Chúa. Chúng tôi khuyên ai ngồi chỗ nào cứ ngồi yên chỗ nấy. Riêng tín đồ thì cầu nguyện và hát thơ thánh số 4. Nội dung bài hát như sau:

TỪ TỐI QUA SÁNG:

“Jêsus đưa tôi là sự rất vui

Là sự yên ủi lòng tôi không thôi

Không cứ đi đâu không cứ làm gì

Có tay Đức Chúa Trời thường đưa tôi đi.

Điệp khúc:

Jêsus đưa tôi, Jêsus đưa tôi

Chính tay Cứu Chúa Jêsus đưa tôi.

Muốn làm môn đồ trung tín mà thôi

Vì chính tay Chúa luôn luôn đưa tôi.

Có khi gặp nhiều đường lối khốn khổ,

Có khi được cả những sự vui thú

Bước theo nước lặng hoặc qua sông sóng nổi

Cũng là tay Cứu Chúa đưa tôi.”

Khi chúng tôi đang hát, thì nghe tiếng của những người chèo đò la hoảng: “Chết rồi, đứt một quai chèo rồi!” Nhưng chúng tôi cứ hát cho đến khi thuyền tấp vào bờ, cách xa đến độ trăm thước. Thuyền đầy ắp nước gần chìm. Mọi người nhìn chúng tôi đều ướt như chuột, nhưng tạ ơn Chúa gìn giữ, tất cả đều bình an. Sau đó có bốn người đi cùng chuyến đò ấy đã trở lại tin nhận Chúa. Thật Chúa đã dùng cơn bão làm tăng thêm đức tin chúng tôi và làm sáng danh Ngài.

3. Một Người Tin Cả Nhà Được Cứu

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 18

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

18

Tháng 5-1924 có một Hội đồng nhóm tại Đà Nẵng, được mệnh danh là Hội đồng Phục hưng lần thứ nhất. Diễn giả chính là Mục sư Hoàng Nguyên Tố, người Trung Hoa. Lúc bấy giờ tôi hầu việc Chúa ở Hội An, còn anh tôi hầu việc Chúa ở Châu Đốc. Nhơn dịp nầy, chúng tôi đều về để dự nhóm.

Từ trước đến nay, ngoài sự khẩn thiết cầu xin Chúa cứu ông thân chúng tôi và gia đình, chúng tôi còn nhờ Hội Thánh và các ông bà đã tin Chúa tìm đủ mọi cách để dẫn dắt gia đình chúng tôi trở lại với Chúa. Nhân lúc có Hội đồng do Mục sư người Trung Hoa giảng, chúng tôi nhờ một người quen đến mời ông thân tôi đi nghe. Cám ơn Chúa, ông cụ nhận lời. Và chúng tôi lại có cớ để ngợi khen Chúa hơn nữa, ấy là bài giảng và cách giảng của Mục sư Hoàng Nguyên Tố hôm đó như giảng riêng cho ông thân chúng tôi. Đề mục của ông là: “TỘI LỖI.” Ông viết chữ NHÂN lên bảng đen, sau khi đọc câu “nhân chi sơ tánh bổn thiện.” Ông giải thích rằng bản tính nguyên thủy của con người là tốt lành, đó là bản tính do Đức Chúa Trời dựng nên, nhưng “cập tương cận tánh tương viễn” - gần với tội lỗi và gian ác nên cái tính lành dần dần mất đi. Tửu, Sắc, Tài, Khí, đã phá hủy cái bản tính tốt đẹp nguyên thủy của con người. Bốn thứ vây chặt lại làm thành bốn bức tường, khiến cho chữ NHÂN bị nhốt vào trong chữ KHẨU thành ra chữ TÙ.

Hiền nhân quân tử từ xưa đến nay, từ Đông sang Tây - có ai đã nhảy qua khỏi bốn bức tường nầy không? - Xin thưa rằng không? Bốn bức tường đã được xây cao đến tận trời, và mọi người đều bị nhốt dưới tội lỗi. Không ai tự cứu lấy mình. Chỉ có Chúa từ trên trời là Đấng vô tội, đến thế gian chịu chết đền tội cho chúng ta mà thôi. Để dẫn chứng, ông đọc một câu Thánh Kinh: “Đức Chúa Jêsus đã đến trong thế gian để cứu vớt kẻ có tội, ấy là lời chắc chắn đáng đem lòng tin trọn vẹn mà nhận lấy.” Đến phần kết luận, ông tiếp tục khuyên thính giả hãy tin nhận Chúa Jêsus làm Cứu Chúa của đời mình để được tha.

Sau giờ giảng, chúng tôi cùng ông cụ về nhà ăn cơm tối. Trong bữa ăn, chúng tôi cố tình nhắc lại bài giảng để dọ ý ông cụ thế nào? Ông cụ gật đầu tỏ ý thán phục: “Họ nói phải lắm” “Nghe câu ấy chúng tôi rất mừng rỡ nên hỏi lại: “Thưa, thầy đã nhận là họ nói phải lắm, vậy thầy tưởng có nên làm theo không?” Ông cụ suy nghĩ hồi lâu mới lên tiếng: “Làm theo cách nào?” Chúng tôi trình bày thêm để ông cụ rõ là bất cứ hễ ai tin nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa thì tội lỗi được tha và linh hồn được cứu. Sau đó, chúng tôi cũng đọc cho ông cụ nghe Lời Chúa phán: “Nếu các ngươi chẳng tin ta là Đấng đó (Đấng đến thế gian cứu người khỏi tội) thì sẽ chết trong tội lỗi các ngươi” (Gi 8:24). Ngài đã nói cách quả quyết cùng mọi người rằng: “Quả thật, quả thật ta nói cùng các ngươi, ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta thì được sự sống đời đời, và không đến sự phán xét song vượt khỏi sự chết mà đến sự sống” (Gi 5:24). Đó là một sự kiện chắc chắn, vì “hễ ai tin nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép để trở nên con cái Đức Chúa Trời, là ban cho những kẻ tin danh Ngài” (Gi 1:12).

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 19

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

19

Cụ lại hỏi: “Tin là làm sao?” Chúng tôi giải thích: Tin là lấy lòng thành kính quỳ gối xuống cầu nguyện, nhận mình là người có tội, và bằng lòng tiếp nhận Jêsus Christ làm Cứu Chúa để tội ấy được tha và nhận lãnh sự yêu thương của Đức Chúa Trời. Cụ bằng lòng quỳ gối giữa nhà. Anh tôi là mục sư Lê Văn Long và tôi cầu nguyện cho cụ tin nhận Chúa.

Sau khi cầu nguyện và hát ngợi khen, chúng tôi nhìn thấy nét mặt cụ rạng rỡ và đôi mắt sáng ngời. Cụ muốn nghe nói thêm về Thánh Kinh. Chúng tôi liền phân tích để ông cụ hiểu rõ về câu chuyện thế nào là thờ phượng thật và thế nào là không thật mà Chúa nói với người đàn bà Sa-ma-ri. Chúng tôi nhắc lại câu: “Đức Chúa Trời là thần nên ai thờ lạy Ngài phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ lạy,” để xin cụ cất bỏ bàn thờ trong nhà đi. Cụ tươi cười bảo: “Bây muốn làm gì thì làm.” Chúng tôi hết sức ngợi khen Chúa và bắt tay vào việc ngay. Tất cả những đồ thờ phượng bằng gỗ trên ba bàn thờ lớn giữa ba căn đều được dọn ra ngoài sân. Nội trong đêm đó chúng tôi đập bễ và đốt hết, đến hơn mười hai giờ khuya mới xong. Trở vào nhà chúng tôi rất sung sướng cầu nguyện tạ ơn Chúa. Đó là lần cầu nguyện đầu tiên trong gia đình không bị ngăn trở bởi bàn thờ. Ha-lê-lu-gia!

Đức tin của ông thân chúng tôi ngày càng thêm mạnh mẽ, dù gặp nhiều khó khăn thử thách, nhưng vẫn cứ kiên định cho đến khi về nước Chúa.

Tiếp theo đó, bà kế mẫu chúng tôi cũng tin nhận Chúa qua cơn bạo bệnh. Sau khi đã uống nhiều thuốc của hai ông đông y, bà được đưa vào bệnh viện để được chữa bằng thuốc tây, nhưng bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Tất cả mọi người trong gia đình đều thất vọng. Trong khi đó thì chúng tôi âm thầm cầu xin Chúa cứu mẹ chúng tôi. Và quả thật, bởi ơn của Chúa, bà được chữa lành một cách lạ lùng. Do đó bà vui lòng tiếp nhận Chúa. Bởi phép lạ ấy, có mấy người trong họ ngoại chúng tôi cũng thức tỉnh ăn năn. Các chị và các em chúng tôi đều lần lượt trở lại với Chúa và dâng mình hầu việc Ngài, cho đến ngày nay vẫn còn đứng vững trong chức vụ cách đầy ơn. Thật đúng như Lời Chúa phán: “Một người tin cả nhà được cứu.”

Ngôi nhà giảng đầu tiên của HTTLVN thiết lập tại Nà Nùng (Trung Việt) 1913

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 20

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

20

CHƯƠNG 2: NHỮNG DIỄN TIẾN TRONG CHỨC VỤ

A. TRƯỜNG THÁNH KINH VÀ CHỨC VỤ ĐẦU TIÊN TẠI HỘI AN

Vào năm 1920, Hội Truyền giáo bắt đầu mở lớp dạy Thánh Kinh tại Đà Nẵng. Anh tôi (Mục sư Lê Văn Long) tình nguyện theo học lớp Thánh Kinh đầu tiên ấy. Lớp gồm có tám học viên phần đông đã có tuổi và có gia đình. Phòng học là một nơi trước kia dùng làm chỗ để xe ngựa.

Lúc ấy tôi đang giúp ông thân tôi xây cất công sở vô tuyến điện của thành phố Đà Nẵng. Công trường nầy nằm trên con đường đi ra bãi biển gần với nhà giảng và cơ sở truyền giáo là nơi anh tôi đang theo học Thánh Kinh nên lúc đi làm, thỉnh thoảng tôi có ghé lại thăm anh tôi. Đôi khi ngồi nán lại nghe các Giáo sĩ giảng bài cả tiếng đồng hồ. Tôi rất ham thích học Lời Chúa, nhưng vì công việc quá bề bộn, tôi phải thường xuyên có mặt tại công trường ông thân tôi mới thầu, nên ít có giờ rãnh.

Công việc đang tiến hành tốt đẹp, thì mùa đông năm ấy một trận bão biển rất dữ dội thình lình xảy đến tàn phá gần hết thành phố Đà Nẵng. Gió thổi mạnh và nước dâng cao với một tốc độ khủng khiếp. Sau một đêm kinh hoàng, bộ mặt thành phố trở nên hết sức thê lương. Nhiều cây cổ thụ trốc gốc nằm ngổn ngang đầy đường. Phần nhiều nhà tranh đều sụp hoặc bị cuốn trôi theo dòng nước. Nhà ngói hoặc nhà lầu cũng bị hư hại nhiều. Ghe thuyền, tàu thủy trôi tấp la liệt trên các đồi cao. Nhiều xác chết nằm ngổn ngang khắp các bờ sông bãi biển. Những người may mắn sống sót ngồi ủ rủ bên lề đường hoặc dưới gốc cây. Tang tóc bao trùm thành phố.

Chúng tôi cố gắng đi thăm công trường đang xây cất dỡ dang. Trong số bốn nhà đã xây xong, thì hai nhà bị sụp đổ. Một ngàn thùng xi măng chứa trong kho bị nước tràn vào làm hư cả, (lúc bấy giờ xi măng được đóng trong thùng bằng gỗ). Trong khuôn viên xây cất, có hai xác chết của đồng bào chài lưới trôi vào chưa được thân nhân mang đi. Sau những bức tường chưa đổ, những người còn may mắn sống sót run rẩy ngồi núp gió.

Trong khi chúng tôi yên lặng đứng nhìn quang cảnh đổ nát do thiên tai gây nên, thì một chiếc xe kéo từ xa chạy đến, trên xe có một thùng cháo. Người kéo xe đi chậm rãi và một người khác luôn tay múc từng bát cháo đưa cho những nạn nhân đang ngồi bên lề đường, dưới gốc cây hoặc những bức tường chưa đổ, để họ dùng tạm cho ấm lòng. Tôi nhìn kỹ người kéo xe và người múc cháo, thì ra chính họ là những người thường đi với các Giáo sĩ, đôi khi họ đã tự động phân phát sách báo Tin Lành cho đồng bào. Những nạn nhân lãnh từng bát cháo nóng cách vồn vã. Sau cơn bão tàn phá ruộng vườn, nhà cửa - họ không còn gì. Bát cháo nóng trở nên quý giá. Họ cám ơn rối rít và ăn rất ngon lành.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 21

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

21

Phòng học Thánh Kinh đầu tiên của HTTLVN

Đứng trước cảnh bơ vơ cùng khốn của đồng bào, tôi bỗng nhiên xúc động. Một “CƠN BÃO THIÊNG LIÊNG BẮT ĐẦU NỔI DẬY TRONG LÒNG TÔI.” Tôi nghĩ đến vô số đồng bào chưa biết lẽ thật, đang bơ vơ trên đường đời, linh hồn đói khát chân lý, suốt đời mang tâm trạng buốt lạnh cô độc vì thiếu tình yêu của Đức Chúa Trời. Họ phải lê lết trên đường như người mù Ba-ti-mê ngày xưa. Cơn bão thuộc linh thổi càng lúc càng mạnh, làm lay chuyển ý định muốn trở nên một thầu khoán danh tiếng của tôi. Tôi muốn vứt bỏ tất cả mọi ràng buộc vị kỷ để dấn thân vào con đường hầu việc Chúa - vì tôi nghĩ rằng danh vọng đời nầy chỉ là ảo ảnh mà thôi.

Tuy nhiên, mãi đến cuối năm 1922 tôi mới thu xếp xong công việc để vào trường Thánh Kinh. Lớp học của tôi chỉ có 11 người: 6 người từ miền Nam ra và 5 người từ miền Trung đến. Lúc bấy giờ thì Hội Thánh Đà Nẵng đã cất xong một cái phòng ở sau nhà thờ để làm phòng học, còn chỗ ở của học sinh thì tạm thời thuê các phòng nơi nhà những tín đồ ở gần nhà thờ.

Các Giáo sĩ là giáo sư. Họ dùng tiếng Anh vừa đọc, vừa dịch. Chúng tôi thì vừa nghe, vừa viết. Có người nghe giọng Giáo sĩ không rõ chép không được. Có người chép không kịp phát khóc trong lớp. Để giúp đỡ nhau, tối nào chúng tôi cũng nhóm lại, người nào chép đầy đủ thì đọc cho anh em khác chép lại để bài học khỏi thiếu sót. Riêng tôi cảm thấy rất được phước đối với bài học về đời sống và chức vụ của tiên tri Giê-rê-mi.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 22

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

22

Nhà giảng đầu tiên của HTTL tại Hội An, 1924

(Thuê của một người Hoa Kiều)

Tháng 6-1924, sau khi mãn khóa học tôi được bổ nhiệm chức vụ Truyền đạo đầu tiên tại Hội Thánh Hội An. (Hội An là tỉnh lỵ của tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ). Trước khi nhậm chức, tôi làm lễ thành hôn với một nữ sinh trường Thánh Kinh là cô Công Tôn Nữ Tú Oanh ngày 30-5-1924 tại nhà thờ Đà Nẵng. Cám ơn Chúa đã chọn cho tôi người vợ quý, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong chức vụ, yên lặng một cách vững vàng trên đường tin kính và tận tụy phục vụ Chúa.

Toàn tỉnh Quảng Nam lúc bấy giờ chỉ có một nơi giảng là Hội An. Nhà giảng tọa lạc giữa thành phố. Nếu từ Chùa Cầu đi vào thì nó nằm phía tay trái và chỉ cách đó mấy căn. Cơ sở rất rộng rãi mà tiền thuê lại rất rẻ, vì có tin đồn là trong ngôi nhà ấy có một người tự tử, nên không ai dám ở. Tín đồ trong Hội Thánh phần đông là những người cao tuổi, đức tin rất vững vàng và sốt sắng hầu việc Chúa. Trái lại, chúng tôi thì còn trẻ thiếu từng trải, nên rất e ngại nếu không bảo là sợ sệt. Nhưng tạ ơn Chúa, chúng tôi và Hội Thánh cùng gặp nhau trong tình yêu thương và sự chân thật của Ngài. Bởi ơn Chúa giúp đỡ, chúng tôi và các con cái Chúa hằng được “ĐẦY ĐỦ MỌI SỰ CẦN DÙNG Y THEO SỰ GIÀU CÓ CỦA NGÀI.”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 23

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

23

Nhà thờ Hội Thánh Hội An, 1950

Trước khi bắt tay vào việc, chúng tôi cùng Ban Trị sự Hội Thánh dành hai tuần lễ để nhóm họp cầu nguyện xin Chúa bày tỏ ý chỉ của Ngài đối với công việc tại đây. Tiếp theo đó, chúng tôi cùng nhau thảo chương trình hoạt động mỗi tuần lễ như sau:- - Chúa nhật: Sáng dạy bài học trường Chúa nhật, trưa giảng cho Hội chúng và chiều thì đi thăm viếng, giảng dạy tại những vùng có tín đồ hoặc những nơi có chỗ nhóm trong nhà các tín đồ, như Phong Thử, Hạ Nông, Nông Sơn, Lạc Thành, Ngọc Trâm, An Tế, Trường An, Đại An, Hà Tân, Hà Dục, Hà Nha, An Điềm, Non Tiên… Có khi đi Bà Rén, Duy Xuyên và Tam Kỳ, v.v… Tối đến sẽ giảng một chỗ trong các nơi đó.

- Ngày thứ hai: Tiếp tục đi thăm viếng tín đồ và chứng đạo những nơi mới hoặc chỗ có người mời đi.

- Ngày thứ ba: Về Đà Nẵng coi sóc việc xây cất cho trường Thánh Kinh. Dãy nhà mới cất nầy được gọi là Tịnh tâm và Thanh tu.

- Ngày thứ tư: Từ Đà Nẵng trở về Hội An để lo cho buổi nhóm cầu nguyện tối thứ tư. Tất cả những cuộc di chuyển như vậy phần nhiều là dùng xe đạp, thỉnh thoảng dùng thuyền cho những địa điểm không thuận tiện cho việc đi bộ.

- Ngày thứ năm: Tổ chức chương trình giảng dạy nhi đồng, vì ngày thứ năm học sinh ở các trường công và tư đều được nghỉ.

- Ngày thứ sáu: Đi chứng đạo trong thành phố. Chúng tôi chia thành phố ra làm nhiều khu vực và hỏi thăm cho biết tên và địa chỉ của từng người một. Mục đích của chúng tôi là gởi sách báo đến biếu cho họ trước, rồi sau đó mới đến thăm để

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 24

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

24

cắt nghĩa Tin Lành, đồng thời mời họ đến nhóm lại tại nhà thờ và khuyên họ tin nhận Chúa.

- Ngày thứ bảy: Cầu nguyện đặc biệt và soạn bài giảng cho chương trình ngày Chúa nhật.

Trải qua mười lăm tháng phục vụ tại Hội An, tuần lễ nào chúng tôi cũng hoạt động đều đặn như vậy. Bởi sự giúp đỡ và dẫn dắt của Đức Thánh Linh, Hội Thánh đã gặt hái được những thành quả hết sức tốt đẹp. Chúa đã giấu chúng tôi trong ơn quyền của Ngài. Trong khi thi hành chức vụ, chúng tôi luôn luôn nương theo lời nhắn nhủ của Phao-lô đối với Ti-mô-thê: “Hãy chăm chỉ đọc sách, khuyên bảo, dạy dỗ cho đến chừng ta đến. Đừng bỏ quên ơn ban trong lòng con, là ơn bởi lời tiên tri, nhơn hội trưỡng lão đặt tay mà đã ban cho con vậy. Hãy săn sóc chuyên lo những việc đó, hầu cho thiên hạ thấy sự tấn tới của con. Hãy giữ chính mình con và sự dạy dỗ của con, phải bền đỗ trong mọi sự đó, vì làm như vậy thì con và kẻ nghe con sẽ được cứu” (ITi 4:13-16).

1. Sự Tin Nhận Chúa Của Một Nhà Giáo Và Chàng Thanh Niên Da Trắng

Trong những ngày hầu việc Chúa tại Hội An, có những việc xảy ra rất lạ lùng đến nỗi chúng tôi phải sửng sờ ngợi khen Chúa vì biết đó chính là quyền năng của Ngài. Một trưa Chúa nhật nọ từ Hội An lên huyện Đại Lộc thay vì dùng xe đạp, tôi lại dùng thuyền vì nghĩ rằng có hai chỗ trong vùng Phong Thử và Ái Nghĩa dùng thuyền ghé thăm thuận tiện hơn. Khi thuyền vừa qua khỏi Ái Nghĩa, tôi thấy phía sau có chiếc đò nhỏ chèo theo, kế có tiếng người hỏi: “Có phải thuyền ông truyền đạo đó không?” – Tôi trả lời: “Phải,” đoạn bảo người chèo thuyền chậm lại một chút để chờ chiếc thuyền nhỏ ấy đến. Trên thuyền đó có một người đàn ông, ông ta vừa đứng lên vừa nói: “Tôi muốn gặp ông.” Tôi mời ông ta qua thuyền. Trong khi chúng tôi đàm đạo với nhau thì thuyền vẫn tiếp tục chèo trên dòng nước ngược. Qua vài câu đối đáp tôi được biết ông là một giáo viên tư thục, đang dạy học tại nhà một ông phú hộ ở làng Đại An. Nhờ hỏi thăm tín đồ, ông biết được Chúa nhật đó tôi lên huyện bằng thuyền nên thuê đò ra sông đón tôi để hỏi cho biết tường tận những điều ông đang thắc mắc. Ông yêu cầu tôi giải thích về: “Về căn nguyên của Tin Lành - phương pháp cứu chuộc và cách thức thờ phượng Đức Chúa Trời.”

Thể theo những câu hỏi ấy, tôi lần lượt giải bày cho ông biết căn nguyên của Tin Lành là bởi Đức Chúa Trời yêu thương thế gian. Phương pháp cứu chuộc là sự chết đền tội của Đức Chúa Jêsus trên thập tự giá. Cách thức thờ phượng là phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thờ phượng. Vì Đức Chúa Trời là Thần. Hình ảnh Ngài không thể được biểu thị bằng bất cứ một hình thức ngẫu tượng nào cả. Cách thờ phượng duy nhất mà Ngài chấp nhận là phải lấy tâm thần và lẽ thật mà thôi. Trước khi thuyền đến bến, ông giáo nầy bằng lòng quỳ gối tin nhận Jêsus Christ làm cứu Chúa. Ha-lê-lu-gia!

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 25

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

25

Liền sau đó ông mời tôi đến làm chứng cho gia đình ông chủ điền là sáng lập viên ngôi trường mà ông đang dạy đó. Tôi đến nhà ông chủ điền nầy thì trời vừa tối. Chúng tôi bắt đầu làm chứng về Tin Lành cho gia đình ông. Những người ở gần đó kéo nhau đến xem và nghe có trên 20 người. Kết quả có 7 người tin nhận Chúa mà đứng đầu trong số đó là ông phú hộ giàu có nổi tiếng trên đây. Riêng về phần ông giáo, sau khi tin nhận Chúa ít lâu, đã xin đi học Thánh Kinh và trở nên chứng nhân đắc lực cho nhà Chúa. Ông hoạt động rất hăng say, dẫn dắt nhiều người đến với Ngài. Còn 7 người tin Chúa tại nhà ông điền chủ thì vẫn đứng vững. Họ rất sốt sắng lo công việc Chúa. Có thể bảo đó là những cột trụ Hội Thánh. Họ đã tình nguyện gia nhập Ban Trị sự và khởi công xây cất nhà thờ đầu tiên tại Đại An.

Sáng hôm sau qua làng Hà Tấn, tôi giảng tại nhà ông Phan Nhứt Thuyên, cựu chánh tổng nổi danh thời đó. Số người đến nghe rất đông. Trong khi giảng tôi thấy ngoài sân có một người thanh niên ngồi trên lưng ngựa, vừa cho ngựa rảo bước vừa nghe giảng nhưng một lúc sau thì người ấy cho ngựa dừng lại bên hiên cửa và theo dõi rất chăm chú. Khi giảng xong, tôi bước ra tiếp, mới hay anh ta là người da trắng. Tôi mời anh ta vào nhà. Anh thảo luận rất gay go về những vấn đề như: Tin kính, linh hồn bất diệt và tương lai của nhân loại. Rồi đó, mặc dù trời đã tối, anh vẫn nằng nằng nhất quyết mời tôi về nhà anh ở An Điềm để làm chứng Tin Lành cho những người trong vùng đó. Nhận thấy không thể từ chối, nên sau khi cầu nguyện cho 14 người mới tin Chúa tại nhà ông Phan Nhứt Thuyên, tôi liền đến An Điềm để thăm cơ sở đồn điền của chàng thanh niên này, đồng thời để làm chứng Tin Lành. Kết quả có hai người tin nhận Chúa, mà người thứ nhất là chàng thanh niên chủ đồn điền, ngồi trên lưng ngựa nghe giảng hồi sáng và một người khác trong vòng bà con bên vợ của anh. Về sau cả hai đều cảm động xin đi học trường Thánh Kinh và trở nên hai vị mục sư đầy ơn, đã từng dự phần vào nhiều công việc lớn lao của Hội Thánh và trung tín trọn đời trong chức vụ.

2. Những Giai Thoại Bên Dòng Sông Ái Nghĩa

Ngoài câu chuyện ông giáo Tấn tìm gặp Chúa cách lạ lùng, dòng sông Ái Nghĩa còn mang tính chất đặc thù của nhiều giai thoại, cho đến ngày nay vẫn còn được lưu truyền trong vòng tín đồ tại tỉnh Quảng Nam. Số là ông Biện Toản (một tín đồ trung tín trong vùng đó) có hai đứa con đi tắm sông bị chết trôi, ông Biện Toản nóng lòng nhảy xuống cứu con nên cũng chết luôn. Cái chết của ba cha con ông Biện Toản trên sông Ái Nghĩa là dịp tiện để cho những người không ưa Tin Lành cũng như không ưa gia đình ông bịa chuyện, làm thơ đặt vè, cố ý làm hại lòng tin kính của những người còn lại trong gia đình ông Toản và những tín đồ trong vùng đó. Có người độc ác mượn lời vợ ông Biện Toản để làm bài thơ xuyên tạc như sau:

“Theo đạo chồng tôi thật rất mầu

Báp-tem làm lễ dưới sông sâu

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 26

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

26

Đường trời lặn lội nên quên thở

Nước thánh mênh mông rưới một bầu

Đáng phận Tin Lành khôn trách đó,

Lỡ duyên cầu nguyện biết gì đâu,

Phải chi Chúa giúp đôi mươi nữa

Khỏi quỷ Sa-tan đến đụng đầu.”

Ông Phan Nhứt Thuyên là một tín đồ trung kiên tại làng Hà Tâm (thuộc huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam) liền họa lại bài ấy và gửi lại cho gia đình ông Biện Toản. Bài họa như vầy:

“Muốn học Mô-se hóa phép mầu

Dắt dìu con đỏ khỏi làn sâu

Mở lòng hà hải thêm ba thước

Thâu lụy tan thương lại một bầu

ÁI NGHĨA thêm trong dòng nước đó,

Anh hùng nào phụ núi sông đâu,

Gẫm thương mấy kẻ chìm trên cạn

Ngọn sóng trần ai phủ lút đầu.”

Cho đến ngày nay, bài thơ Ái Nghĩa trên đây vẫn còn truyền tụng giữa vòng tín đồ vùng Đại Lộc tỉnh Quảng Nam. Nhắc lại bài thơ này tôi bỗng nhớ lại một bài thơ khác- bài TƠI NÓN cũng do cụ Phan Nhứt Thuyên tức Chánh Tuận cảm tác tại nhà Bá Giám ở Non Tiên. Ngày nọ tôi từ Hội An lên huyện Đại Lộc thăm Hội Thánh và giảng Tin Lành, cụ Chánh Tuận liền mời tôi đến Non Tiên để làm chứng cho nhà cụ Bá Tiên. Dọc đường trời mưa lớn nên chúng tôi đều bị ướt. Đến nơi, cụ Chánh Tuận liền nói: “Vì tôi mà ông ướt hết.” Tôi cười và trả lời: “Tôi cũng có thể nói vì tôi mà ông Chánh ướt hết”… Thôi thì chúng ta có thể nói: “Vì những linh hồn chưa biết Chúa mà chúng ta ướt hết.” Ông Chánh ứng khẩu đọc bài thơ “ TƠI NÓN” sau đây:

“Xưa từng ẩn dật chốn thâm san

Mưa nắng vì ai phải đảm đang

Thiết thực đành hơn trăm áo ấm

Vinh hoa chỉ kém một cây tàng

Mặc ai xe ngựa thường coi rẻ

Miễn lũ bùn lầy khỏi thở than

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 27

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

27

Đằng đẵng bốn mùa gìn một tiết

Biết chăng kẻ đội với người mang.”

Tôi hỏi đùa ông Chánh: “Có lẽ ông Chánh muốn khỏi ướt…” và tôi nói thêm: “Sự thật chúng ta mong mỏi tất cả những linh hồn tội nhân đều khỏi bị lấm ướt vì cớ tội lỗi.”

Chúa đã ban ơn cách lạ lùng cho công việc Ngài tại tỉnh Quảng Nam. Càng lúc càng có thêm nhiều người trở lại với Chúa, trong số đó có nhiều nhà trí thức giàu sang có địa vị trong xã hội bằng lòng tiếp nhận Tin Lành nên có nhiều Hội Thánh nhánh được mở thêm như: Phong Thử, Lạc Thành, Trường An và Đại An. Những nơi nầy lần lượt khởi công xây cất nhà giảng và đi lần tới chỗ tự trị, tự lập. Một số những nhà trí thức có danh vọng và địa vị tin Chúa trong lúc đó, dâng mình đi học Thánh Kinh để hầu việc Chúa. Họ đã trở nên những Mục sư, Truyền đạo đầy ơn. Lớp đầu có các ông Duy Cách Lâm, Lê Nguyên Anh, Trần Mai, Nguyễn Tấn và lớp kế tiếp có các ông Lê Tấn Đặng, Nguyễn Ưng, Nguyễn Đốc, Đỗ Phượng, Nguyễn Đích, Trần Tủng. Hội Thánh Chúa tại những nơi nầy trưởng thành rất nhanh chóng và đứng vững cho đến ngày nay. Tạ ơn Chúa!

B.CHỨC VỤ TẠI HỘI THÁNH MỸ THO

Tháng 9-1925, tôi phải sắp xếp công việc để trở lại nếp sống của một học viên trường Thánh Kinh. Khóa này năm thứ nhất có 25 người, và năm chúng tôi vẫn 11 người như cũ. Trường bấy giờ tương đối đông đảo nên vui hơn trước nhiều. Lớp chúng tôi được học thêm hai thư Cô-rinh-tô, môn học này giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về tình trạng chung của Hội Thánh trong thời sứ đồ Phao-lô.

Khóa học mãn vào cuối tháng 4-1926, chúng tôi được bổ nhiệm hầu việc Chúa tại Hội Thánh Mỹ Tho (miền Nam). Ngày 2-5-1926 chúng tôi phải lên đường đi nhậm chức, vì có nhiều việc bất ngờ xảy ra trong Hội Thánh và vì ông Trần Xuân Phan bị bệnh nặng. Sau một ngày đi xe hơi từ Đà Nẵng vào Nha Trang, và một ngày đi xe lửa từ Nha Trang vào Sài Gòn, năm giờ chiều ngày 5-5-1926 chúng tôi đến thành phố Mỹ Tho.

Khi đi, bà con tín hữu Hội Thánh Hội An, túc trực tại Đà Nẵng từ đêm đến sáng để tiễn chúng tôi lên đường trong sự yêu thương, luyến tiếc bùi ngùi bao nhiêu, thì khi đến ga xe lửa Mỹ Tho chúng tôi lại rơi vào sự bỡ ngỡ, buồn tẻ, lạnh nhạt bấy nhiêu. Nhìn quanh chẳng thấy ai đến đón chúng tôi cả, mặc dù Hội Thánh Mỹ Tho là Hội Thánh đông tín đồ nhất miền Nam lúc bấy giờ.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 28

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

28

Nhà giảng đầu tiên ở miền nam Việt Nam tại chỗ của Mỹ Tho 1927

Đến tư thất, tôi gặp ông Trần Xuân Phan đang nằm trên giường (ông bị bệnh thương hàn nặng). Bà Phan đi chợ, nhưng có việc xô xát xảy ra ngoài chợ, thành thử những tín đồ trong thành phố đến tư thất sửa soạn ra ga đón chúng tôi, phải đổ xô ra ngoài chợ để can thiệp. Sáu giờ sáng ngày 6-5-1926, gia đình ông Trần Xuân Phan rời Mỹ Tho lên Sài Gòn. Quang cảnh tại sân ga sáng ngày 6-5-1926 tiễn đưa gia đình ông Trần Xuân Phan cũng như quang cảnh đón tiếp chúng tôi hồi năm giờ chiều hôm trước (5-5-1926). Chúng tôi không bàn giao, không tiếp đón cũng không tiễn đưa gì cả.

Trưa thứ sáu ngày 7-5-1926, tôi gặp ông Giáo sĩ G. C. Ferry, dù chưa biết đủ tiếng Việt , nhưng ông cũng bập bẹ nói với tôi: “Chào thầy mạnh giỏi, thầy Phan đi rồi. Chúa nhật thầy giảng, Chúa ban phước thầy.”

Tôi không ngờ lời cầu chúc đơn sơ của Giáo sĩ G. C. Ferry lại hiệu nghiệm rất nhiều. Tín đồ các nơi tề tựu đông đủ từ chiều thứ bảy. Họ đi thuyền từ các địa điểm như: Kinh Ông Lớn (Gò Công), Long Hựu, Quới Sơn, An Hữu, Lộc Thuận, Bình Đại, An Hóa, Phú Thành, Giao Long, Giao Hòa, Rạch Miễu, Tân An, Bến Tranh, Cai Lậy, Chợ Gạo. Đến sáng Chúa nhật vẫn có người rải rác kéo về Mỹ Tho. Họ đi từng gia đình, từng đoàn, từng nhóm như đi trảy hội, đem theo đầy đủ thức ăn cho ba ngày: Thứ bảy đi, Chúa nhật ở lại nhóm và thứ hai về. Cứ tới mỗi chiều thứ bảy là ghe

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 29

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

29

thuyền tín đồ các nơi tới tấp nập đậu đầy mé sông phía cầu Quây, hướng về Chợ Gạo. Do đó cả thành phố đều bàn ra tán vào về những người theo đạo Tin Lành (lúc bấy giờ họ thường gọi là đạo Hoa Kỳ - đạo Mỹ).

Nơi giảng là một ngôi nhà lớn, thuê của một hãng buôn, có chỗ ở cho Giáo sĩ, có nơi biệt riêng để thờ phượng rất rộng, và một dãy dùng làm tư thất. Chúa đã ban ơn cách lạ lùng cho buổi nhóm Chúa nhật đầu tiên của chúng tôi tại Hội Thánh Mỹ Tho. Sáng hôm đó có hơn một ngàn người đến nhóm. Tôi đã giảng một bài giảng với đề mục đơn sơ là “Hội Thánh của Đức Chúa Trời.” Nhiều người nhận được Lời Chúa, thổn thức nghẹn ngào trong phòng nhóm cho đến quá trưa.

1 Chương Trình Hoạt Động Trong Khu Vực Trách Nhiệm.

Phạm vi hoạt động truyền giáo của chúng tôi lúc bấy giờ rất rộng. Chẳng những tại thành phố Mỹ Tho mà còn bao gồm cả tỉnh Định Tường, Tân An và Gò Công. Số người đã tin nhận Chúa có hơn một ngàn ở rải rác nhiều nơi. Trong số đó, phần đông có lòng thành thật tin kính rất tốt, biết kính sợ Chúa, ham mến Lời Ngài và quý trọng những ân tứ thuộc linh. Trái lại, một số theo đạo vì ưa thích những sự mới lạ. Chỉ cái tên “đạo Hoa Kỳ - đạo Mỹ” thôi, cũng là một chiêu bài hấp dẫn lôi cuốn những người hiếu kỳ gia nhập Hội Thánh. Có người gia nhập giáo hội vì mục đích chính trị với đôi kính đen cố hữu, nguyên do mọi tưởng tượng và nghi ngờ! Nhưng sau khi đi sâu vào giáo lý của Tin Lành và chủ trương của giáo hội, đối đầu với tất cả mọi khía cạnh của Hội Thánh, họ không bắt gặp một sắc thái chính trị nào cả. Đạo Tin Lành không phải là một hình thức đảng phái trá hình với những chủ trương mờ ám. Bởi đó, họ trở nên những người lạc lỏng trong một thế giới xa lạ, ngỡ ngàng trước những đổi mới trong đời sống tín đồ và quyền năng sinh động của Thánh linh. Họ chưa tìm được lối thoát - dù có tên trong giáo hội - nhưng hoàn toàn xa lạ với Chúa Jêsus. Có thể bảo đó là những tội nhân bị vây trong cái lưới vô hình của Tạo hóa.

Những người nầy đã nhiều lần đến tranh luận với tôi, họ cố dùng những quan niệm sai lầm của mình để bóp méo chân lý của Thánh Kinh, nhằm chủ trương sửa đổi mọi hình thức sinh hoạt của giáo hội. Nhưng lần nào cũng vậy, tôi chỉ nương theo Lời Chúa đã dùng Phao-lô để dạy cho Ti-mô-thê ngày xưa mà xử sự với họ: “Hãy cự những lời biện luận điên dại và trái lẽ, vì biết rằng chỉ sanh ra sự tranh cạnh mà thôi. Vả tôi tớ của Chúa không nên ưa tranh cạnh, nhưng phải ở tử tế với mọi người, có tài dạy dỗ, nhịn nhục, dùng cách mềm mại, sửa dạy những kẻ chống trả, mong rằng Đức Chúa Trời ban cho sự ăn năn để nhìn biết lẽ thật và họ tỉnh ngộ mà gỡ mình khỏi lưới ma quỷ, vì đã bị ma quỷ bắt lấy đặng làm theo ý nó” (IITi 2:23-26).

Phương cách hoạt động của chúng tôi ở Mỹ Tho lúc bấy giờ là làm thế nào hướng dẫn những người đã tin Chúa trở lại với đức tin thuần túy của Tin Lành. Làm công việc ấy, chúng tôi chỉ nương trên Lời của Chúa nhất là các thư tín của Phao-lô

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 30

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

30

và nhờ sự soi sáng của Thánh Linh, vì khi ấy Địa hạt chưa thành hình, Tổng Liên Hội chưa tổ chức, chưa có điều lệ hoặc quy tắc chỉ đạo nào cả. Quyển giáo mục cũng chưa được in.

Tín đồ rất đông lại ở rải rác khắp ba tỉnh, thành thử chúng tôi phải cậy ơn Chúa hoạch định một chương trình bốn điểm để hoạt động nhằm giúp đỡ tín đồ nâng cao trình độ thuộc linh và lập nền tảng cho Hội Thánh. Chương trình đó được tóm tắt như sau:

1- Chia những nơi có người tin Chúa ba tỉnh (Định Tường, Gò Công, Tân An) thành mười hai khu vực. Cứ mỗi khu vực cử một người làm đại biểu với tư cách chấp sự của Hội Thánh để thăm viếng và giúp đỡ tín đồ. Những người nầy họp lại với chúng tôi mỗi tuần một lần để cầu nguyện, học Thánh Kinh và thảo luận kế hoạch giúp đỡ tín đồ trong khu vực mình.

2- Dành riêng chiều và tối thứ bảy làm giờ cầu nguyện chung và dạy Thánh Kinh Tiết Yếu rút trong các bài Thánh Kinh Bửu Huấn. (Lúc bấy giờ chưa có Phước Âm Yếu Chỉ).

3- Trong các bài giảng hoặc bài dạy Thánh Kinh, chúng tôi đều cậy ơn Chúa hướng dẫn cách ăn nết ở của các tín đồ theo tinh thần của Co 3:1-15. “Vậy nếu anh em được sống lại trong Đấng Christ, hãy tìm các sự ở trên trời, là nơi Đấng Christ ngồi bên hữu Đức Chúa Trời. Hãy ham mến các sự ở trên trời, đừng ham mến các sự ở dưới đất, vì anh em đã chết, sự sống mình đã giấu với Đấng Christ trong Đức Chúa Trời. Khi nào Đấng Christ là sự sống của anh em sẽ hiện ra, bấy giờ anh em cũng sẽ hiện ra với Ngài trong sự vinh hiển. Vậy hãy làm chết các chi thể của anh em ở nơi hạ giới tức là tà dâm, ô uế, tình dục, ham muốn xấu xa, tham lam, tham lam chẳng khác gì thờ hình tượng. Bởi những sự ấy cơn giận của Đức Chúa Trời giáng trên các con không vâng phục, lúc trước anh em sống trong những nếp xấu đó, và ăn ở như vậy. Nhưng bây giờ anh em nên từ bỏ hết những sự đó, tức là sự thạnh nộ, buồn giận và hung ác. Đừng nói hành ai, chớ có một lời tục tĩu nào ra từ miệng anh em. Chớ nói dối nhau, vì đã lột bỏ người cũ cùng công việc nó. Mà mặc lấy người mới là người đang đổi ra mới theo hình tượng Đấng dựng nên người ấy, đặng đạt đến sự hiểu biết đầy trọn. Tại đây không còn phân biệt người Gờ-réc hoặc người Giu-đa, người chịu cắt bì hoặc người không chịu cắt bì, người dã man hoặc người Sy-the. Người tôi mọi hoặc người tự chủ, nhưng Đấng Christ là mọi sự trong mọi sự. Vậy anh em là kẻ chọn lựa của Đức Chúa Trời là người thánh và rất yêu dấu của Ngài, hãy có lòng thương xót. Hãy mặc lấy sự nhơn từ, khiêm nhường, mềm mại, nhịn nhục. Nếu một người trong anh em có sự phàn nàn với kẻ khác, thì hãy nhường nhịn nhau và tha thứ nhau, như Chúa đã tha thứ anh em thế nào, thì anh em cũng phải tha thứ thể ấy. Nhưng trên hết mọi sự đó, phải mặc lấy sự yêu thương, vì là dây liên lạc của sự trọn lành. Nguyền xin sự bình an của Đấng Christ cai trị trong lòng anh em, là bình an mà anh em đã được gọi đến đặng hiệp nên một thể, lại phải biết ơn.”

4- Xúc tiến việc xây cất một giảng đường mới, vì nhà đang thuê sắp bị đòi lại. Chúa cho chúng tôi thuê được một miếng đất rộng tại chợ cũ (Mỹ Tho), nhờ đó có

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 31

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

31

thể cất được một nhà thờ dài hai mươi tám thước, rộng mười một thước bằng gỗ lợp ngói, đủ chỗ cho bảy trăm người ngồi. Có người nhìn ngôi nhà vừa cất xong liền ví nó như một kho chứa lúa, lời mô tả có tính chất mỉa mai đó có lẽ cũng không sai mấy. Nó giống như một kho chứa lúa, thật đúng, vì đó là kho chứa những hạt giống sống của Tin Lành. Đây là nhà giảng thứ nhất tại miền Nam được dựng nên do sự quyên góp của tín đồ.

Ở An Hóa (Định Tường), lúc đầu, giảng tại nhà ông Trần Văn Phương, về sau bởi sự chung lưng đâu cật của tín đồ, một nhà giảng riêng biệt đã được xây cất tại đó. Phú Thành cũng vậy, lúc đầu giảng trong nhà ông Bồi Kiền, nhưng lần lần cũng được một nhà giảng riêng. Ở Tân Thạch, các buổi giảng dạy được tổ chức tại nhà ông Võ Văn Tụy.

Riêng tỉnh Gò Công ngoài việc thuê một nhà giảng tại tỉnh lỵ, chúng tôi còn thường xuyên tổ chức giảng dạy tại nhà ông Lê Tập ở làng Long Hựu nữa. Mỗi tuần vào chiều thứ năm, tôi đến Gò Công phân phát sách báo và mời đồng bào tối đến nghe giảng. Tại đây kết quả rất tốt, có nhiều người trở lại với Chúa, trong số ấy có người dòng Thích Lý rất sốt sắng, bà đã đưa nhiều người khác đến với Chúa. Vị Mục sư đầu tiên của chi hội Gò Công lúc mới bắt đầu tự trị là ông Lê Đình Tươi.

Ở Tân An vì chưa có nhà giảng, nên phải giảng tạm ở nhà bà Tư tín đồ. Thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm Bình Đại, Lộc Thuận và giảng tại nhà bà Lầu. Ngoài ra chúng tôi cũng cố gắng tìm những chỗ giảng mới tại nhà Thủ Thừa và Bến Lức.

Tất cả những bài giảng của tôi trong giai đoạn nầy đều nhằm mục đích làm thế nào cho tín đồ thoát khỏi những tập quán cũ, những thành kiến sai lạc và những ý tưởng viễn vông huyền hoặc trói buộc từ nhiều năm qua.

2. Phát Huy Ý Thức Thuộc Linh Mới.

Sau khi hầu việc Chúa trong Hội Thánh Mỹ Tho ít lâu, quan sát tình hình và nhận định thực trạng tín đồ, tôi nhận thấy có một số, sở dĩ gia nhập vào Hội Thánh lúc đó chỉ vì bài giảng dạy rất quyến rũ của một vị Mục sư. Phần nhiều các bài giảng của ông đều dựa vào một vài câu trong thư Thê-sa-lô-ni-ca I và II, nói nhiều về ngày Chúa tái lâm, khi nghe giải thích Thánh Kinh, số người ấy lại nghĩ đến những đường lối mờ ám của thế gian và ma quỷ - vì như tôi đã nói một số không nhỏ những người nhập hội lúc đầu chỉ vì cái tên “đạo Hoa Kỳ - đạo Mỹ,” và một phần vì những tư tưởng chính trị mà thôi.

Mỗi tối thứ bảy sau khi nhóm cầu nguyện và học Thánh Kinh anh em thường nghỉ đêm tại nhà giảng. Một tối nọ có hai đại biểu khu vực, cũng là chấp sự của Hội Thánh, nằm gần tôi. Thình lình hai ông nầy hỏi: “Thầy Năm ơi (đây là cách xưng hô thân mật của anh em tín đồ đối với tôi) thầy có biết chuyện xảy ra ở Lộc Thuận không? Tôi hỏi chuyện gì, thì họ kể: “Tại nhà một tín đồ nọ có mấy con gà đang ấp, chủ nhà bỗng nhiên lấy ổ trứng xuống luộc ăn hết. Nhà khác thì đốn mấy buồng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 32

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

32

chuối già nấu ăn. Họ không đợi gà nở hoặc chuối chín vì sợ Chúa tái lâm phải đi, bỏ lại không ai ăn” (tôi có nghe chuyện xảy ra nhiều như thế, nhưng chỉ cắt nghĩa và sửa sai cho những người kể, mà không thuật lại cho người khác nghe, bởi đó họ tưởng tôi không biết). Tôi trả lời hai ông nầy là tôi có nghe chuyện đó, tôi đã giúp đỡ anh em bằng cách sửa sai cho họ rồi. Trông đợi Chúa tái lâm là một việc tốt nhưng hành động như vậy là sai.

Hai ông vẫn chưa hiểu nên sau khi nghe kể thêm một vài chuyện lầm lẫn nữa, liền hỏi tôi: “Thầy Năm ơi! Thầy làm ơn cho em biết ngày nào Chúa giáng lâm, thầy?” Tôi bảo là tôi đâu có biết. Họ năn nỉ: “Tội nghiệp chúng em mà thầy, thầy truyền đạo mà không biết thì ai biết, thầy nói giùm em, cám ơn thầy nhiều lắm.” Tôi phải ngồi dậy lấy Thánh Kinh đọc Cong 1:7 cho họ nghe Lời Chúa Jêsus phán: “Kỳ hạn và ngày giờ mà Cha đã tự quyền định lấy, ấy là việc các ngươi chẳng nên biết.” Tôi đọc đi đọc lại nhiều lần câu Thánh Kinh nầy và cắt nghĩa cho họ biết, đó chính là lời tuyên bố của Chúa Jêsus trước khi thăng thiên đối với những người cật vấn Ngài về ngày tái lâm. Tôi cũng đọc tiếp cho họ nghe câu 8: “Nhưng khi Đức Thánh Linh giáng trên các ngươi thì các ngươi sẽ nhận lấy quyền phép và làm chứng về ta tại thành Giê-ru-sa-lem, cả xứ Giu-đê, xứ Sa-ma-ri cho đến cùng trái đất.” Nương theo sự dạy dỗ của câu Thánh Kinh nầy, tôi khuyến khích họ hãy sửa soạn lòng nhận quyền phép của Đức Thánh Linh để làm chứng Tin Lành cho tất cả mọi người. Tiếc thay, họ không vui, không ham thích quyền năng của Đức Thánh Linh, cũng như không muốn làm chứng Tin Lành cho người khác.

Nhưng tạ ơn Chúa, đã có một số nhận được PHẦN GIỐNG TỐT, lớn lên bởi quyền năng của Thánh Linh, can đảm bước ra khỏi sự tối tăm để hướng về ánh sáng của sự sống mới. Bằng chứng là gia đình của hai ông Trần văn Chuông và Trần văn Bi cảm động dâng mình hầu việc Chúa. Về sau, cả hai đều trở nên hai vị Mục sư đầy ơn. Tiếp theo đó, có nhiều thanh niên khác tình nguyện theo học Thánh Kinh, hiện nay một số đã trở nên Mục sư đang dự phần vào các công việc quan trọng của Giáo hội như Mục sư Võ Thạnh Thời, Mục sư Phạm Văn Thâu, Mục sư Trương Văn Tốt, Mục sư Nguyễn Văn Long v.v...

Nhà giảng Mỹ Tho lúc bấy giờ thường bị những người xung quanh gọi một cách mỉa mai là cái lẫm lúa hoặc kho lúa, nhưng Đức Chúa Trời đã biến những sự mỉa mai xuyên tạc ấy thành ích lợi cho công việc nhà Ngài. Chẳng khác nào tại quốc gia Ai Cập thời xưa, một quốc gia theo đa thần giáo mà Chúa lại đưa Giô-sép lên làm tể tướng, và biến đất nước đầy tội lỗi đó trở thành một kho lúa nuôi cả thế gian. Hội Thánh Mỹ Tho đã là nơi xuất phát của nhiều người hầu việc Chúa, và những người tín đồ đầu tiên của Hội Thánh nầy đã trở nên cột trụ của những Hội Thánh nhánh tự trị, tự lập khác như: Hội Thánh Long Hựu, Hội Thánh Bến Tre, Hội Thánh An Hóa, Hội Thánh Quới Sơn, Hội Thánh Tân Thạch, Hội Thánh Bình Đại, Hội Thánh Tân An, Hội Thánh Thủ Thừa. Tuy nhiên sau thời “cực thịnh,” Hội Thánh Mỹ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 33

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

33

Tho đã lui vào cảnh lu mờ, đến nỗi có người cho rằng “MỘT MẸ ĐÃ SINH BẢY CON RỒI MẸ GIÀ SỨC YẾU.” Nhưng hiện nay khi tôi viết những dòng chữ nầy (20-11-68), Hội Thánh Mỹ Tho đã lấy lại được phong độ cũ, tự trị tự lập rất vững vàng, Hội Thánh đã gầy dựng được một cơ sở Cô Nhi viện và một trường trung tiểu học. Nhà thờ được kiến trúc rất tráng lệ tọa lạc giữa trung tâm thành phố. Tạ ơn Chúa.

Nhà thờ Hội Thánh Mỹ Tho, xây cất 1968

C. TRỞ LẠI TRƯỜNG THÁNH KINH ĐÀ NẲNG

Đầu tháng 5, 1927 chúng tôi nhận được tin tháng 8 phải trở về Đà Nẵng để học khóa tốt nghiệp khai giảng vào thượng tuần tháng 9 năm 1927. Hội Thánh dao động nhiều. Ban Trị sự chi hội gởi thư yêu cầu lưu nhiệm chúng tôi vì lý do nầy hoặc lý do khác, nhưng không được chấp thuận. Cuối cùng, trưa thứ hai ngày 15-8-1927 chúng tôi rời Mỹ Tho để trở về trường cũ. Ban Trị sự Hội Thánh tổ chức một buổi lễ trọng thể để tiễn đưa chúng tôi và tiếp rước ông bà Mục sư Lê văn Long (được bổ nhiệm thay thế chúng tôi). Sau khi bày tỏ lòng chân thành luyến tiếc chúng tôi và hoan nghinh ông bà Lê Văn Long tân mục sư, Hội Thánh đã tặng chúng tôi một tấm trướng thêu hình Phước Lộc Thọ trên có đề ba chữ SỐNG CHO CHÚA và dưới bảy chữ: ĐỨC TIN, TRÔNG CẬY, TÌNH YÊU THƯƠNG, (ICo 13:13). Hành khách trên chuyến xe lửa Mỹ Tho Sài Gòn trưa ngày 15-8-1927 đều lấy làm lạ, vì trên sân ga đông nghẹt tín đồ đưa tiễn chúng tôi, khác hẳn với quan cảnh tiêu điều chiều ngày 5-5-1926 khi chúng tôi mới đến.

Trưa hôm ấy, trời đang nắng bỗng mây đen kéo đến và tiếp theo là một cơn mưa ào ào đổ xuống, ngay khi con tàu bắt đầu chuyển mình trên đường sắt. Những người tiễn đưa chúng tôi vẫn đứng yên trên sân ga, mặc cho những hạt mưa tới tấp rơi trên tóc, trên áo, mắt đăm đăm hướng về phía con tàu, lúc lúc lại đưa tay lên đầu xoa những hạt mưa và gạt những dòng lệ chảy dài trên má. Chúng tôi hết sức

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 34

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

34

bùi ngùi cảm động. Xe lửa đã chạy đến Trung Lương nhưng chúng tôi vẫn còn đứng nhìn về phía Mỹ Tho, thành phố thân yêu mà chúng tôi đã từng sống với nhiều kỷ niệm đẹp. Tai chúng tôi như vẫn còn nghe tiếng hát êm đềm của những người bạn tiễn đưa chúng tôi trên sân ga: “Anh em ta chia tay, mong sẽ gặp nhau. Yêu thương không phai, tâm linh giao cảm, xin Cha chăn nuôi anh em ta cả. Nguyện nguồn phước thêm đượm nhuần linh hồn hoài. Nơi chân Chúa sẽ thấy nhau luôn cho thỏa lòng nầy. Nơi chân Chúa sẽ thấy nhau. Dẫu ta chia tay tạm biệt nhưng lại gặp” (Thơ Thánh số 238).

Trường Thánh Kinh khai giảng vào thượng tuần tháng 9 năm 1927. Khóa nầy gồm có năm dự bị, năm thứ nhất, năm thứ hai và năm tốt nghiệp nên số học sinh đông hơn và rộn rịp hơn. Phương tiện của nhà trường lúc bấy giờ cũng khả quan hơn những năm trước. Trường đã có cư xá cho học sinh gồm ba dãy Thanh Tu, Tịnh Tâm và An Lạc. Chúng tôi ở dãy An Lạc. Ngoài ra, một nhà ăn cũng được xây trong khuôn viên nhà trường đẹp đẽ và khang trang. Một lễ đường cũng sắp được dựng lên để dùng làm nơi thờ phượng và nhóm họp hàng ngày cho học sinh.

Lúc bấy giờ các Giáo sĩ muốn cách tổ chức của nhà trường phải giống như cách tổ chức của các trường Thần học ngoại quốc, nên chỉ định một ban trật tự lo về ẩm thực của học sinh, một ban vừa là giám thị vừa có nhiệm vụ sắp đặt học sinh có công việc làm phù hợp khả năng để làm quen với công việc, đồng thời có tiền chi tiêu hoặc phụ thêm vào phạn phí của nhà trường. Chỉ vì cách phân công này mà nhiều người cười ra nước mắt. Năm chúng tôi học tốt nghiệp có một ông chủ tiệm trữ âu dược (Dépôt de Pharmacie) xin vào học năm thứ nhất. Ông đã đóng đủ phạn phí lại có dư tiền tiêu nên không chịu làm việc gì cả, mặc dù theo nguyên tắc của nhà trường, tất cả học sinh ngoài giờ học đều phải làm việc. Thấy vậy ông Đốc học bèn sắp cho ông này công tác lau dọn nhà thờ chiều thứ tư và chiều thứ bảy. Khi mới bắt tay vào việc ông khóc ròng, nhưng vì ham thích học Lời Chúa nên ông đã cố ở lại cho đến hết niên khóa.

Bắt đầu niên học này, ban giáo sư được tăng cường đông hơn trước. Giáo sĩ J. D. Olsen được cử làm Đốc học. Nhiều môn mới cũng được bổ sung. Lớp chúng tôi phải học thêm các môn như: Hê-bơ-rơ, Sử ký Hội Thánh cận đại, Khải Thị và cuối năm thêm triết lý cứu thục. Mọi người trong lớp chúng tôi đều nhận được nhiều ơn phước.

Nhưng đến cuối khóa học ma quỷ đã tạo nên một đám mây mù để làm rối nhà trường và đánh lạc mục tiêu chúng tôi. Nguyên nhân là khi khóa học sắp mãn có nhiều sự hiểu lầm xảy ra và tiếp theo đó có vài hành động thiếu tự trọng và kém ngay thẳng. Tôi cảm thấy buồn và hết sức chán nản. Trong khi đó, có nhiều thư và điện tín của những người quen gởi đến mời tôi cộng tác việc này việc nọ. Ý muốn trở thành một nhà thầu danh vọng lại trở về với tôi. Tôi muốn bỏ trường Thánh

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 35

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

35

Kinh để trở về gây dựng một sự nghiệp mới, nhưng cám ơn Chúa - bởi câu: Quyết noi theo Cứu Chúa, sống chết với Ngài mà chúng tôi đã đắc thắng.

D. CHỨC VỤ TẠI HỘI THÁNH HÀ NỘI

Khóa học mãn vào cuối tháng 4, 1928. Tôi phải ở lại nhà trường để coi sóc việc xây cất Lễ Đường. Ban Trị sự chung nhóm lại tại Đà Nẵng. Lúc bấy giờ chúng tôi chưa biết được chỉ định hầu việc Chúa ở đâu. Có người thì nói rằng chúng tôi sẽ trở lại Mỹ Tho vì Ban Trị sự Hội Thánh đó có thư xin tôi (sự thật chúng tôi cũng nhận được một thư viết từ Mỹ Tho, người viết đã cố tình nhắc lại một câu trong bài hát khi từ biệt chúng tôi tại ga xe lửa Mỹ Tho trưa ngày 15-8-1927: “Dầu Ta Chia Tay Tạm Biệt Nhưng Lại Gặp”). Có người thì lại nói rằng chúng tôi đi Đà Lạt, vì trên đó đang kiến thiết cơ sở truyền giáo và xây cất trường học cho các con Giáo sĩ. Có người nói chúng tôi đi Hà Nội.

Tôi không thích Hà Nội, nên tôi không muốn nghe bất cứ một ai nói về Hà Nội. Cho nên khi cái tin ông Lê Văn Thái đi Hà Nội được tung ra từ văn phòng Ban Trị sự, chúng tôi hết sức sửng sốt. Tôi không bao giờ nghĩ đến điều ấy. Không thể có một hoạch định trái ngược như vậy. Tôi không muốn đi. Ngay trưa hôm ấy, chúng tôi liền nhóm lại quỳ gối cầu hỏi ý Chúa, xin Chúa đổi ý Ban Trị sự, xin thương xót cách nào để chúng tôi khỏi đi, vì chúng tôi thấy mình không xứng hiệp với Hội Thánh Hà Nội và nhất là đối với công việc Chúa tại miền Bắc.

Gần cả tuần lễ đó, chúng tôi cầu nguyện nhiều lần, nài xin, trình bày, giải thích, thảo luận, tỏ bày duyên cớ, nhưng bất cứ giờ phút nào tâm linh tôi cũng luôn được nhắc nhở một câu trong Es 55:8-9 “Ý tưởng Ta chẳng phải ý tưởng các ngươi… đường lối ngươi chẳng phải đường lối Ta. Vì các từng trời cao hơn đất bấy nhiêu, thì ý tưởng Ta cao hơn ý tưởng các ngươi cũng bấy nhiêu.”

Cuối cùng, chúng tôi không thể làm cách nào khác hơn là vâng phục ý Chúa. Chúng tôi phải đi con đường mà chính mình không muốn đi. Lúc bấy giờ thay vì cầu nguyện xin Chúa đổi ý Ban Trị sự, thì trái lại, với một tâm trạng khắc khoải, tôi van xin Chúa cho tôi có đủ khả năng, thích hợp với Hội Thánh Hà Nội và với miền Bắc thân yêu theo ý muốn Ngài. Xin Chúa ban ân tứ và đồng công với tôi trong mọi sự đúng như tinh thần câu nói của Thánh Phao-lô trong thư IICo 6:1 “Chúng tôi làm việc với Chúa.” Kể từ giờ phút ấy, hình ảnh Hà Nội cả ngày lẫn đêm chiếm trọn tâm hồn tôi. Tôi miên man nghĩ đến cảnh trí hùng vĩ của Thăng Long thành. Nào chùa Một Cột nằm ở phía Tây thành phố, nào Hồ Tây ở phía Bắc, nào hồ Hoàn Kiếm ở phía Đông. Tôi hình dung đến gò Đống Đa một thắng tích oai hùng của thời Quang Trung Nguyễn Huệ, cầu Long Biên nước chảy xuôi dòng…

Rồi bỗng nhiên tôi suy nghĩ đến “CẢNH TIÊU ĐIỀU CỦA ĐẾ THIÊN ĐẾ THÍCH” (sách của Lê Văn Chương), với những hoang tàn cỏ mọc rêu phong. Thành quách, cung điện theo thời gian đi vào lịch sử. Những vần thơ hoài cổ của bà Huyện Thanh

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 36

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

36

Quan đem đến cho tôi ít nhiều xúc động bùi ngùi. Thăng Long ơi, còn đâu nữa những hình ảnh oai hùng và thơ mộng của một thời vàng son trong lịch sử. Tất cả chỉ còn là dĩ vãng xa xôi, lắng chìm ngưng đọng:

“Dấu xưa xe ngựa hồn thu thảo,

Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.”

Hiện tại chỉ còn là đau khổ chết chóc. Tội lỗi đang tàn phá tâm hồn của con người. Tôi bàng hoàng nghĩ đến thực trạng của đồng bào miền Bắc. Còn biết bao người đang sống trong tối tăm, thiếu ánh sáng của Lời Sự Sống. Ai sẽ đem Tin Lành đến cho họ? Chúng tôi quỳ gối xuống cầu nguyện, khóc với Chúa và sau đó sửa soạn lên đường…

Bảy giờ rưỡi sáng ngày 1-8-1928 chúng tôi đến ga xe lửa Hà Nội bằng một chuyến tàu suốt khởi hành từ Đà Nẵng chiều hôm trước. Đến nơi, có ông Nguyễn Duy Tiếu vừa là chấp sự của Hội Thánh Hà Nội vừa là nhân viên cao cấp của sở Hỏa xa tiếp đón chúng tôi, đưa chúng tôi về tư thất tại số 2 đường Ngõ Trạm. Tư thất là một cái nhà một mái, dài mười hai thước rộng bốn thước chia làm ba căn. Căn bốn thước vuông vức dùng làm phòng đọc sách. Căn bốn thước là tư thất mục sư và phần còn lại để cho ba cậu thanh niên ở vừa đi học vừa làm việc cho nhà in. Chúng tôi quét dọn thu xếp chỗ ở độ một giờ thì xong. Chiều hôm ấy có hai bà cụ tín đồ đến thăm và chào mừng chúng tôi. Hai cụ là người hiền đức phúc hậu và có lòng tin kính tốt. Trong suốt thời gian phục vụ ở Hà Nội, nhờ có hai bà cụ nầy và ông Nguyễn Duy Tiếu mà chúng tôi được an ủi nhiều. Tối đó chúng tôi nhóm cầu nguyện. Buổi nhóm đầu tiên trong chức vụ chúng tôi tại Hà Nội gồm có năm người: Hai bà cụ, ông Tiếu và vợ chồng chúng tôi.

1. Xúc Tiến Chương Trình Cá Nhân Chứng Đạo.

Nhà thờ Hà Nội lúc ấy tọa lạc tại một vị trí rất đẹp ở góc đường Phạm Phú Thứ và Ngõ Trạm. Tuy chỉ là một ngôi nhà nhỏ dài mười một thước rộng sáu thước nhưng rất ấm cúng. Sáng Chúa nhật ngày 5-8-1928, Giáo sĩ W. C. Cadman giới thiệu chúng tôi với Hội Thánh. Hôm ấy chỉ có hai mươi bốn người kể cả lớn nhỏ nhóm lại. Tuy ít ỏi, nhưng phần lớn anh em trong Hội Thánh là những người có địa vị trong xã hội, như ông Nguyễn Đức Thục giáo sư trường Trung học Mỹ thuật (Ecole des Beaux Arts), ông Giáo Đức giáo sư trường Trung học Hà Nội, ông Trịnh Văn Nhi thủ ngân cho Ngân hàng Đông Dương (ông ít nhóm), ông Nguyễn Duy Tiếu Phán sự sở Hỏa xa (từ Vinh mới đổi ra Hà Nội…)

Đây là Hội Thánh đầu tiên tự trị tự lập và là Hội Thánh duy nhất tại miền Bắc, do đó, tôi là Mục sư đầu tiên và duy nhất được bổ nhiệm hầu việc Chúa tại miền này. Mỗi ngày tôi sắp đầy một cặp da sách, lên xe đạp đi khắp thành phố để làm chứng và phân phát cho những người trên đường, trong các cửa hàng, trong quán

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 37

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

37

ăn, nơi bến xe đò, ga xe lửa, các phòng sở và ngay cả trong các khách sạn. Vừa phân phát tôi vừa cầu xin Chúa cho Lời Ngài gieo ra được kết quả tốt.

Ở Hội An, năm 1924 tôi có chương trình bảy ngày cho mỗi tuần lễ. Ở Mỹ Tho năm 1926 tôi có kế hoạch bốn điểm để hướng dẫn tín đồ theo nếp sống mới và đặt nền tự trị tự lập cho Hội Thánh. Nhưng đến Hà Nội, vì phải vâng phục theo ý Chúa ĐI CON ĐƯỜNG MÀ MÌNH KHÔNG MUỐN, nên tôi không có chương trình kế hoạch gì cả, chỉ có một tấm lòng kiên quyết phục vụ Chúa và bám lấy lời hứa của Ngài. Tôi luôn luôn khẩn nguyện: “Xin Chúa giúp đỡ con và làm việc với con tại Hà Nội và cả miền Bắc.”

Đến cuối năm 1928 ở Hà Nội và cả miền Bắc chỉ có hai vợ chồng chúng tôi là người Việt Nam giảng Tin Lành (hai cụ Quốc Phục Hòa và Dương Tự Ấp đã đi trường Thánh Kinh). Chắc hẳn mọi người chúng ta đều biết rằng vài con én không thể nào làm nên mùa Xuân. Vả lại én là loài chim không thể nào sống ở những vùng cực Bắc nơi có khí hậu quá lạnh! Vợ chồng chúng tôi cầu xin Chúa cho chúng tôi một “nơi ở” tại Hà Nội hoặc nếu Chúa kể chúng tôi là đôi chim én thì xin Chúa cho một “chỗ để sanh nở con” đúng như lời phán dạy của Ngài trong Thi 84:3 “Con chim sẻ tìm được một nơi ở, và chim én tìm được một ổ đặng đẻ con nó, tức là bàn thờ của Chúa.” Chúng tôi tha thiết cầu xin Chúa ở với chúng tôi, giúp đỡ chúng tôi, làm việc với chúng tôi và che chở chúng tôi dưới bóng cánh toàn năng của Ngài. Chúa đã sai chúng tôi đến đây, chắc chắn Chúa không để chúng tôi bơ vơ, và nếu có Ngài đồng công với chúng tôi thì hai linh hồn bé bỏng này, sẽ có chỗ ở tại Hà Nội - đôi chim én đó nhất định sẽ có “chỗ đẻ con” ở Bắc Việt. Lòng chúng tôi rất phấn khởi khi nghiên cứu sách Ê-sai, nhất là khi đọc đến câu: “Nầy ta sắp làm một việc mới, việc này sẽ hiện ra ngay, các ngươi há chẳng biết sao? Ấy là ta sẽ vạch một con đường trong đồng vắng, và khiến những sông chảy trong sa mạc.” Chúng tôi tin chắc Chúa sẽ làm thành ý định Ngài tại miền “băng lạnh” đông đúc dân cư này.

Sau chúng tôi, Ban Trị sự chung đã bổ nhiệm thêm hai gia đình nữa ra Bắc, đó là ông Nguyễn Xuân Diệm đi làng Tự Nhiên, thuộc phủ Thường Tín (tỉnh Hà Đông) và ông bà Đặng Ngọc Cầu đi Hải Phòng. Như vậy, kể luôn gia đình chúng tôi, có tất cả ba gia đình người Việt Nam giảng Tin Lành cho toàn miền Bắc. Chúng tôi cảm thấy bớt cô đơn hơn.

Nhưng cảnh trạng mỗi tối thứ tư chỉ có ba người nhóm cầu nguyện kéo dài đến tuần lễ thứ sáu sau ngày nhậm chức đã làm cho chúng tôi cảm thấy lạnh lẽo, nhất là vào mùa đông. Giờ cầu nguyện tương giao với Chúa sao vắng vẻ quá. Đã từng nhóm trong nhà thờ đông người, nên đứng trước cảnh này, tôi thấy tâm hồn nao nao tê buốt làm sao ấy. Buồn quá, tôi bèn dời chỗ nhóm từ nhà thờ sang phòng xem sách để buổi nhóm ấm cúng hơn. Cám ơn Chúa, thật vậy, căn phòng nầy dần trở nên cái lò sưởi cho Hội Thánh Hà Nội giữa mùa đông. Sau đó không lâu, số người nhóm cầu nguyện mỗi tối thứ tư tăng lên từ bảy đến mười lăm rồi hai mươi

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 38

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

38

người. Đến nỗi phòng đọc sách không còn đủ chỗ nhóm, chúng tôi lại phải dời lên nhà thờ. Bắt đầu từ đấy, có nhiều biến chuyển mới đầy ơn trong Hội Thánh, vì Lời Chúa đã sưởi ấm và bùng cháy trong lòng anh em. Ngọn lửa thuộc linh bộc phát nhanh chóng. Tất cả tín đồ đều sốt sắng làm chứng về Chúa nên đã đưa được hai thanh niên làm việc tại Viện Viễn Đông Bác Cổ trở về với Ngài. Sau đó, ba thanh niên khác làm việc tại một Cơ xưởng trong thành phố cũng nhận được ánh sáng của chân lý và bằng lòng quỳ gối ăn năn. Phòng xem sách lúc bấy giờ còn là chỗ để mọi người đến nghiên cứu Lời Chúa, nhất là một số anh em tín đồ ở xa thành phố, trưa đi làm và ghé lại đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và nghỉ ngơi.

Vì cớ lòng sốt sắng của nhóm thanh niên mới trở lại tin Chúa, chúng tôi thành lập ban chứng đạo đầu tiên cho Hội Thánh Hà Nội. Đó khởi điểm của cao trào chứng đạo tại miền Bắc. Từ khi thành lập được ban chứng đạo, mọi người trong Hội Thánh dường như cảm thấy nguồn sống mới. Tình yêu mến Chúa thấm nhuần trên mỗi đời sống mỗi tín đồ từ trong gia đình đến các buổi nhóm thờ phượng.

Ban chứng đạo đầu tiên của Hội Thánh Hà Nội, 1930

Cũng trong thời gian này, có những phép lạ liên tiếp xảy đến khiến chúng tôi hết sức phấn khởi, nức lòng ngợi khen Chúa. Lúc ấy vào khoảng thượng tuần tháng 11-1928. có một người từ Gia Thượng, huyện Gia Lâm ở bên kia cầu Long Biên thình lình đến nhà thờ tìm tôi. Ông tự giới thiệu ông tên là Hoàng Văn Ngô, muốn đến nhờ tôi can thiệp giùm cho việc gia đình ông. Ông kể cho tôi biết, ông có một người em gái bị bà gia bức tử phải nhảy xuống giếng chết, ông đến tìm sự an ủi nơi Chúa và xin sự giúp đỡ của Mục sư. Tôi an ủi ông và lấy lời Thánh Kinh giải bày cho ông rõ về lẽ đạo cứu rỗi, và luôn tiện báo cho ông hay là linh hồn ông đang bị ma quỷ bức bách, cố đẩy vào hố sâu của tội lỗi. Nhận thức được tình yêu thương của

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 39

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

39

Chúa, ông Ngô bằng lòng tin nhận Jêsus Christ làm Cứu Chúa của mình. Sau đó ông chỉ đường cho tôi đến nhà ông (vì nhà ông ở trong làng nên không có địa chỉ rõ rệt).

a) Cứ điểm làng Gia Thượng

Qua ngày sau, tôi đạp xe đạp qua cầu Long Biên, rẽ vào con đường đê đến làng Gia Thượng để tìm nhà ông Hoàng Văn Ngô, người tín đồ vừa mới tin nhận Chúa. Trong lúc đi tìm, tôi lại gặp một bô lão trong làng, tôi dừng lại hỏi thăm thì cụ ân cần mời tôi về nhà cụ để hỏi thêm về đạo Chúa.

Nếu ông Hoàng Văn Ngô không đến Hà Nội mời tôi, thì biết đến bao giờ tôi mới có dịp đến làng Gia Thượng. Đến nhà cụ thì trời đã chiều, tôi liền lấy Thánh Kinh giải bày Tin Lành và chân lý cứu rỗi cho gia đình cụ nghe. Cụ hăng hái đem luân lý Khổng Giáo và triết lý Phật giáo ra thảo luận với tôi. Tôi bèn đọc và cắt nghĩa Ro 6:23 cho cụ rõ: “Vì mọi người đều đã phạm tội thiếu mất sự vinh hiển của Đức Chúa Trời” và “Tiền công của tôi lỗi là sự chết, nhưng sự ban cho của Đức Chúa Trời là sự sống đời đời trong Đức Chúa Jêsus Christ, Chúa chúng ta.” Sau một hồi thảo luận, cuối cùng tôi hỏi cụ: “Đức Chúa Jêsus là Tin Lành, là ơn cứu rỗi đối với gia đình cụ. Vậy cụ có bằng lòng tin nhận Chúa không?” Cụ tỏ ý bằng lòng và hôm ấy chín người trong gia đình cụ đều quỳ gối cầu nguyện tin nhận Chúa. Cụ già đây chính là cụ Nguyễn Thiện Đạo thân sinh của các Mục sư Nguyễn Thiện Mân, Mục sư Nguyễn Thiện Sỹ và là nhạc phụ của Truyền đạo Đặng Đức Thụ sau này. Sự kiện xảy ra trên đây thật chẳng khác nào câu chuyện Chúa sắp đặt đưa Phi-e-rơ đến thành Sê-sa-rê để gặp gia đình Cọt-nây vậy.

Chúng tôi ngợi khen Chúa và sau đó từ giã gia đình cụ để về Hà Nội vì trời đã tối. Trên đường đê qua cầu Long Biên, dù bị gió ngược, nhưng tôi cảm thấy như có người đẩy, nên đạp xe không biết mệt. Sáng Chúa nhật ngày 18-11-1928, sau giờ giảng tôi thuật lại cho Hội Thánh nghe câu chuyện trên đây. Tất cả đều phấn khởi nhất là đoàn thanh niên trong ban Chứng đạo, họ sốt sắng đòi đi thăm gia đình cụ Nguyễn Thiện Đạo ngay buổi chiều hôm đó. Chúng tôi liền tổ chức xe cộ để đi, mỗi người một chiếc xe đạp.

Cuộc viếng thăm chiều hôm ấy ít ra cũng tạo được hai lợi điểm cho công việc Chúa tại Hà Nội. Về phần tín đồ khi nhìn thấy dinh cơ của cụ, nhận biết ngay cụ là bô lão có uy tín trong làng và nhất là nghe cụ tin nhận Chúa, khiến mọi người đều phấn khởi, mừng rỡ nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc phân phát sách báo chứng đạo. Về phần gia đình cụ Nguyễn Thiện Đạo, khi thấy đoàn người đến thăm cụ là những học sinh trung học, phán sự, giáo sư, thương gia, những người từng sống trên nhung lụa lại có lòng chiếu cố lặn lội đến thăm cụ, khiến cụ rất cảm động và nhận thấy tình yêu của Chúa thể hiện trong con người. Từ đó, sáng Chúa nhật nào gia đình cụ Nguyễn Thiện Đạo cũng trung tín vượt con đường dài hơn

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 40

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

40

năm cây số để đến Hà Nội nhóm thờ phượng Chúa. Đôi khi cũng đến dự các buổi nhóm cầu nguyện vào tối thứ tư nữa.

Câu chuyện gia đình cụ Nguyện Thiện Đạo làng Gia Thượng theo đạo Tin Lành đồng một lúc với những người trong các làng khác, đã trở nên một biến động không những người trong làng trong huyện mà còn lan ra cả tỉnh Bắc Ninh và thành phố Hà Nội. Mỗi tuần hai lần, chúng tôi qua Gia Thượng giảng và chứng đạo. Chúa đã gọi một số người trong vùng đó đến với Ngài. Trước tiên là các bô lão, rồi kế đến là ông Lý Trưởng làng Gia Thượng, ông Tham tá điền địa và bà mẹ, cụ Mai Hiên vị lương y nổi tiếng trong vùng, ông Ngô Thạch Đính giáo học và là em ruột nhà văn nổi tiếng Ngô Tất Tố, cùng một số cựu quân nhân cầu nguyện tin nhận Chúa. Về sau có người trở nên nhà truyền đạo rất đầy ơn. Tiếp đến, các ông Hội đồng xã lân cận đến nghe và tất cả đều tiếp nhận Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ.

Nhà cụ Nguyễn Thiện Đạo bấy giờ trở nên nhà giảng tạm. Hai cụ Nguyễn Thiện Đạo và Lê Văn Khánh thì trở nên hai nhà truyền đạo không có bổ chức và không lĩnh lương tại vùng Gia Lâm lúc đó (tôi rất vui mừng viết những dòng nầy nhắc lại công việc Chúa tại quê hương cụ Nguyễn Thiện Đạo và cụ Lê Văn Khánh. Hiện nay, gia đình cụ Nguyễn Thiện Đạo đang sống ở Khánh Hội và gia đình cụ Khánh cũng đang ở Sài Gòn).

Sỡ dĩ công việc có kết quả mau chóng và lớn lao như vậy là vì một biến động xảy ra trong gia đình cụ Nguyễn Thiện Đạo. Ấy là cụ cố, thân sinh cụ Nguyễn Thiện Đạo qua đời sau khi cụ Nguyễn Thiện Đạo tin Chúa hai tuần lễ. Chiều Chúa nhật hôm đó trong chương trình thăm viếng thường lệ, chúng tôi rất ngạc nhiên khi thấy trong nhà cụ có rất đông người lại có các nhà sư đang tụng kinh và có quan tài đặt giữa nhà. Cụ Nguyễn Thiện Đạo chạy ra tiếp đón chúng tôi và cho biết cụ cố qua đời trưa thứ sáu. Cụ chưa biết thể lệ Hội Thánh ra sao. Cụ định cất đám chiều nay theo thể lệ cũ, có họ hàng làng xóm đưa đón và các sư sãi tụng kinh. Sau khi thay mặt Hội Thánh có lời chia buồn cùng gia đình, tôi xin phép tang gia cùng quý vị sư được nói vài lời. Mọi người đồng ý. Tôi liền tiến đến cạnh bàn thờ, trước mặt các vị sư ngồi tụng kinh để giảng một bài giảng ngắn. Tôi dùng Ro 6:10-11, lấy ba chữ “NGÀI ĐÃ CHẾT” làm đề mục, nhằm giải bày cho tang gia cùng mọi người đến dự về ý nghĩa sự chết của Chúa Jêsus. Ngài đã chết cho tội lỗi một lần đủ cả, nhưng hiện nay Ngài sống, ấy là sống cho Đức Chúa Trời. Cụ cố đây đã chết, chúng ta mỗi người rồi đây cũng chịu chung một hoàn cảnh như cụ, không ai có thể thoát khỏi. Tôi nài xin tất cả mọi người hiện diện hôm ấy hãy kể mình như chết đối với tội lỗi bởi đức tin, tin nhận Đức Chúa Jêsus Christ là Đức Chúa Trời hằng sống. Hãy dứt bỏ tội lỗi, để sống một đời sống xứng hiệp với mệnh lệnh và dạy dỗ của Ngài. Sau bài giảng mọi người đều lo đưa đám nên không ai tin Chúa nhưng những ngày kế tiếp có nhiều người lần lượt đến với Ngài.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 41

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

41

Khi đã có nhiều người trong vùng tin nhận Chúa thì ngôi nhà của cụ Nguyễn Thiện Đạo trở nên nhà giảng đầu tiên của huyện Gia Lâm. Nhưng đó cũng chính là khởi điểm của phong trào bắt bớ đạo Chúa. Số là sau cuộc cách mạng chống Pháp do Nguyễn Thái Học bùng nổ, nhà cầm quyền lúc bấy giờ trở nên dè dặt nghi ngờ, nhất là đối với những cuộc hội họp ban đêm. Trong khi đó tất cả các tín đồ đều hăng say phục vụ Chúa, nên các buổi nhóm ngày càng đông. Dân làng lời ra tiếng vào thấu đến tay huyện đường rồi đến công sứ tỉnh Bắc Ninh. Chính quyền địa phương muốn ngăn cản việc giảng đạo tại làng Gia Thượng bằng cách áp dụng sắc lệnh của toàn quyền Đông Dương ký vào thượng tuần tháng 11-1915. Sắc lệnh này nhằm mục đích cấm các Hội Truyền giáo hoạt động giữa người bản xứ. Người trực tiếp thi hành lệnh cấm đó tại làng Gia Thượng không ai ngoài ông lý trưởng. Vì ông lý trưởng đã cầu nguyện tin Chúa rồi, nên chúng tôi cứ tổ chức giảng chiều Chúa nhật và tối thứ năm như thường. Một tối nọ, tôi giảng cho một nhà gần nhà ông lý trưởng có rất đông người đến dự (đông hơn thường lệ). Khi giảng xong tôi bỗng nghe có tiếng tù và thổi và tiếp theo đó có tiếng mỏ và tiếng trống. Tôi đang suy nghĩ không biết chuyện gì thì có bốn người cầm gậy và dây đến nói với tôi: “Ông lý mời ông lên trên điếm (tức điếm canh).” Đến nơi tôi thấy có rất đông người tề tựu, có nhiều người cầm gậy và dây đứng vòng tròn. Ông Lý trưởng đang ngồi trên bộ ván giữa. Tôi đi thẳng vào chào ông và hỏi: “Sao tối nay ông không đi nhóm thờ phượng Chúa?.” Ông ngồi yên không trả lời. Tôi ngồi trên ván đối diện với ông (dù ông không mời tôi ngồi), ông Lý có vẻ tức lắm nên hỏi tôi: “Ông là ai?” - Tôi trả lời: “Tôi là mục sư Tin Lành ở Hà Nội và bạn ông Lý Phát.” Ông Lý có vẻ càng tức hơn nên hỏi vặn tôi:

- Ông có biết lệnh quan Tổng đốc và quan Công sứ cấm không được giảng đạo trong làng không?

- Tôi có nghe, nhưng lệnh đó không cấm tôi. Ông ngạc nhiên:

- Sao vậy?

Tôi giải thích cho ông rõ, lệnh đó chỉ cấm người ngoại quốc và bảo hộ chứ không cấm dân thuộc địa Pháp, mà tôi là dân thuộc địa Pháp. Tôi đưa cho ông xem giấy thông hành của tôi, sinh trưởng tại Tourane (Đà Nẵng). Tourane lúc bấy giờ là nhượng địa của Pháp (Terre de concession Francaise). Như vậy tôi là dân thuộc địa chứ không phải dân bảo hộ (Protectorat). Do đó giấy thông hành của tôi được hưởng quy chế hành chánh rộng rãi hơn, không quá lệ thuộc vào triều đình Huế. Đây là lần thứ nhất – như Phao-lô ngày xưa – tôi dùng quyền công dân của mình để phủ nhận cách thức thi hành luật lệ của ông Lý trưởng làng Gia Thượng. Ông Lý không biết làm cách nào khác hơn nên nói: “Vậy ông phải về Hà Nội chớ không được ở đây.” Rồi quay sang dân làng, ông ra lệnh: “Anh em đưa ông ra khỏi làng đi.” Lúc đó hơn mười một giờ đêm. Tôi đứng dậy bắt tay ông Lý và nói: “Rất cám ơn ông, bây giờ tôi về. Thứ năm sau tôi đến giảng, mời ông đi nhóm.”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 42

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

42

Tối hôm đó, các cụ già và một số anh em tín đồ cùng đi Hà Nội với tôi, sáng hôm sau mới trở về làng. Trước khi đi ngủ tất cả chúng tôi đều nhóm nhau để cầu nguyện cho ông Lý Phát và những người nghe giảng.

Anh em Hội Thánh Hà Nội đi thăm làng Gia Thượng

Như thường lệ, thứ năm sau chúng tôi trở lại làng Gia Thượng để giảng. Không ai ra mặt bắt bớ, nhưng họ ngầm ngăn trở không cho đồng bào đến nghe. Nhưng thói thường, hễ cái gì cấm đoán thì người ta lại thích, nên đồng bào lén lút đến nhóm ngày càng đông hơn. Lúc bấy giờ không biết nghĩ sao, nhà cầm quyền lại khuyên chúng tôi nên giảng chỗ nào đã có tín đồ và giảng nơi có nhà giảng riêng chứ không được mỗi tuần giảng một nơi khác nhau. Do đó, chúng tôi phải cất một cái nhà riêng trong vườn cụ Nguyễn Thiện Đạo để mỗi chiều Chúa nhật chúng tôi đến giảng và tổ chức các buổi nhóm cầu nguyện. Nhưng mỗi lần như vậy đều có lính khố xanh do người Pháp điều khiển phái đến coi chừng. Sự kiện đó đã khiến cho dân làng ở những vùng lân cận e ngại không dám đến nghe giảng nữa.

Một buổi chiều Chúa nhật nọ, không biết các mật báo viên báo cáo với quan trên thế nào mà lính khố xanh đến rất đông, dân làng cầm dây và gậy đến vây nhà giảng. Chúng tôi nghe họ xầm xì với nhau là ông đồn trưởng người Pháp từ Bắc Ninh sẽ đến. Nhưng không biết ai cho ông Giáo sĩ Cadman hay, nên ông từ Hà Nội đến bảo tôi: “Ông để tôi giảng hôm nay.” Khi Giáo sĩ Cadman đang giảng, tín đồ chăm chú ngồi nghe, thì dân làng và lính khố xanh vây quanh nhà giảng, còn ông đồn trưởng người Pháp thì đến đứng ngay cửa ra vào. Khi giảng xong, chúng tôi đến chào ông thì ông hỏi: “Số người ngồi trong nhà giảng hết thảy là tín đồ phải không?.” Chúng tôi trả lời phải. Ông lại hỏi: “ Những người đứng quanh nhà giảng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 43

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

43

có phải là tín đồ không?.” Chúng tôi trả lời không. Ông quay ra bảo họ: “Không phải tín đồ thì đi chỗ khác, về nhà - đứng đây làm gì.” Tức thì lính khố xanh dồn lại một góc, dân làng cầm gậy và dây ra về. Ông Lý Phát đứng gần ông đồn trưởng vẻ mặt tư lự . Tôi nhận thấy ông đang ở trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Nếu bước vào nhà giảng để tỏ mình là tín đồ thì sợ làng, sợ dân, sợ quan huyện cất chức. Ông nhìn tôi và khi nghe ông đồn trưởng người Pháp ra lệnh ai là tín đồ vào nhà giảng, còn ai không phải đi về, ông bước ra đi luôn tôi buồn rầu nghĩ đến chuyện người trai trẻ chép trong Mat 19:22: “Khi người trẻ nghe xong lời này, thì đi vì chàng có của cải nhiều lắm.” Hai người này tuy có cùng một trường hợp nhưng nguyên nhân khác nhau: Một người vì của cải và một người vì quyền lợi.

b) Nới rộng vùng hoạt động.

Sau đó ít lâu, Hội Thánh mướn một căn nhà tại phố Gia Lâm, để cho việc giảng Tin Lành được phổ biến rộng rãi hơn, và anh em tín đồ trong những vùng lân cận giao thông với nhau cũng dễ dàng hơn. Hai cụ Nguyễn Thiện Đạo và Lê Văn Khánh phụ trách thăm viếng và chứng đạo, mỗi tuần chúng tôi qua giảng hai lần. Ít lâu sau, Ban Trị sự chung bổ nhiệm ông bà mục sư Nguyễn Thiện Sỹ đến làm mục sư cho Hội Thánh này một thời gian.

Bấy giờ Chúa biết công việc ở Hà Nội cần được phát triển hơn nữa, nên Ngài chuẩn bị đưa bà H. H. Dixon đến. Lúc đầu Hội truyền giáo gởi bà H. H. Dixon sang Việt Nam làm giáo sư dạy Giáo sĩ Đà Lạt. Được biết Đức Thánh Linh đang nhen lại ngọn lửa giữa đống tro tàn tại miền Bắc nên bà ra thăm Hà Nội. Khi đến nơi bà bỗng cảm động và tình nguyện ở lại giúp đỡ chúng tôi phục vụ Chúa. Năm lần bảy lượt, và hết viết thư cho Hội Truyền giáo ở Đông Dương, lại viết cho văn phòng Hội Truyền giáo ở NewYork. Rốt cuộc, Ban Trị sự phải chấp thuận theo ý Chúa, vì bà quyết ở lì tại Hà Nội và không về Đà Lạt nữa.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 44

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

44

Lớp Thánh Kinh Tiểu Học do bà Homera Homer Dixom mở tại Hà Nội

Từ đó, cái lò sưởi của Hội Thánh Hà Nội (giờ cầu nguyện) như được tăng thêm củi, ơn Chúa gia tăng gấp bội không những đủ sức ấm cho Hà Nội mà còn có thể lan ra khắp các tỉnh miền Bắc nữa. Mùa thu năm 1929, bà H. H. Dixon khởi sự lo tài chánh để mở các nhà giảng nhánh tại thành phố Hà Nội, thuê một nhà giảng mới ở phố Route de Huế gần nhà diêm nằm ở phía Nam thành phố, một nhà ở Hàng Than phía Bắc, một nhà ở phố Ô Cầu Giấy phía Tây và mở một phòng đọc sách ở phòng tín đồ cạnh bờ sông phía Đông Hà Nội. Rồi bà lại mở một nhà giảng khác ở phố Khâm Thiên (Khu phố ăn chơi nhất Hà Thành) nằm về phía Tây Nam Hà Nội và một nhà giảng nữa tại phố Hàng Bột cũng thuộc vùng này.

Như vậy, chúng tôi có cả thảy một nhà thờ, tám nhà giảng và hai phòng đọc sách. Tại những địa điểm trên đây, mỗi tuần phải mở cửa giảng hai lần và một lần cầu nguyện. Như vậy, trung bình chúng tôi có cả thảy (9x3=27) 27 buổi nhóm. Công việc thật bề bộn, mà chúng tôi chỉ có hai người - bà H. H. Dixon và tôi - nên phải nhờ Ban chứng đạo và những người làm việc trong nhà in phụ giúp.

Về sau, Hội Thánh bổ nhiệm ông truyền đạo Đặng Đức Thụ đi Route de Huế. Chúng tôi nhờ cụ Lê Văn Cúc phụ trách ở phố Hàng Than, cụ Lê Văn Khánh ở Khâm Thiên, ông Đỗ Như Bảo ở Cầu Giấy một thời gian. Còn tôi và bà H. H. Dixon thì đi giảng mỗi đêm. Có đêm phải giảng hai chỗ, chỗ này từ bảy đến bảy rưỡi, nơi khác từ tám đến tám rưỡi. Vì thời gian eo hẹp nên bài giảng của chúng tôi chỉ từ hai mươi đến hai mươi lăm phút. Kết quả thật quý báu, hạt giống Tin Lành được gieo ra khắp thành phố đến các vùng ngoại ô hẻo lánh như Gia Lâm, Bạch Mai, Ô Cầu

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 45

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

45

Giấy, Ô Yên Phụ, Thái Hà Ấp, Ô Cầu Đền và Hà Nông. Nơi nơi đều có hạt giống Tin Lành và có nhiều người trở lại tin nhận Chúa.

Nhà thờ Hà Nội ở góc đường Phạm Phú Thứ và Ngõ Trạm Mới (Bourret cũ) không còn thích hợp với tình trạng mới của Hội Thánh. Mỗi Chúa nhật các tín đồ đến nhóm đông đảo đến nỗi không còn chỗ đứng. Chúng tôi đề nghị nới rộng nhà thờ. Mọi người đều hưởng ứng cách vui vẻ. Chúng tôi quyết định mở sổ lạc quyên và đồng thời khởi sự bắt tay vào việc bằng cách đập phá bức tường phía sau chỗ đứng giảng, làm một ngôi nhà mới chiều dài mười thước, chiều rộng bảy thước, thành thử nhà thờ lúc bấy giờ có hình thập tự giá rất đẹp - phần dưới sáu thước x mười thước, phần trên bảy thước x mười thước (đây là lần nới rộng đầu tiên). Khi công việc hoàn tất cụ Mục sư Hoàng Trọng Thừa viết thư chúc mừng, trong thư cụ nhắc lại lời nói của tôi trong ngày tôi thụ phong Mục sư tại Hà Nội, ngày 28-11-1928. Số là sau lễ phong chức, ban Hội đồng còn đang đứng trong nhà thờ nói chuyện thì có một người hỏi tôi: “Nhà thờ hẹp quá, nếu có thêm tín đồ thì ông tân Mục sư nghĩ sao?” Tôi trả lời: “Nới rộng nhà thờ.” Cụ Thừa nhắc lại câu hỏi ấy, và tiếp: “Chúa đã làm thành sự ước nguyện của ông.”

Trong thời gian ấy, cụ Mục sư Nguyễn Xuân Diệm đến hầu việc Chúa tại làng Tự Nhiên, phủ Thường Tín, tỉnh Hà Đông. Đến mùa đông 1929 cụ đi Nam Định để thuê một căn nhà ở phố Hàng Đồng để làm nhà giảng vì có một số người mới tin Chúa. Những người này tiếp nhận chân lý, một phần do các người bán sách và làm chứng trên tàu thủy đường Nam Định - Hải Phòng, một phần có người nhà là tín đồ nên thúc đẩy họ đến với Chúa như gia đình làm việc ở nhà bác Cổ, thư ký sở hỏa xa Hà Nội hoặc phán sự tòa sứ Quảng Yên.

c) Phát động phong trào truyền giáo tại Bắc Việt

Vào cuối tháng 6-1929, tôi được đề cử giữ thêm chức vụ Phái viên Trung Bắc Hạt. Công việc đã đa đoan lại còn phải góp thêm vào nhiều thì giờ với các Ban Trị sự để mở mang các chi hội trong Hạt.

Tháng 5-1931, Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ 9 nhóm và biểu quyết chia Trung Bắc Hạt ra làm hai Hạt vì sự lớn mạnh nhanh chóng của các chi hội. Cách thức phân chia lúc bấy giờ là làm thế nào để hoạt động cho thuận tiện chớ không theo địa dư hành chánh, nên tỉnh Thanh Hóa (miền Trung) lại tùy thuộc phạm vi hoạt động của Bắc Hạt. Tôi (Mục sư Lê Văn Thái) được cử làm Chủ nhiệm Bắc hạt trong kỳ Hội đồng này.

Như chúng ta đã biết, tháng 8-1928 chỉ có hai người Việt Nam được giáo hội bổ chức giảng Tin Lành cho cả miền Bắc. Nhưng tạ ơn Chúa, từ cuối năm 1929 đến đầu năm 1933 có đến bốn mươi gia đình Mục sư Truyền đạo được giáo hội sai phái ra Bắc để rao truyền chân lý của Tin Lành. Kết quả sơ khởi của đoàn người này, vào tháng 7-1934 đã khai trình trước Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ 12 nhóm tại

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 46

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

46

Tourane là năm trăm bảy mươi người tin Chúa sau bốn năm hoạt động tích cực. Sự kiện này đương nhiên nói lên ý nghĩa của câu: “Những bàn chân kẻ rao truyền Tin Lành tốt đẹp biết bao” (Ro 16:15). Chúng tôi thật sự được khích lệ trong công tác rao truyền Tin Lành. Lúc bấy giờ, sinh lực của Hội Thánh như tuôn tràn bất tận. Tất cả mọi người đều hăng say phục vụ, kiên nhẫn và tha thiết với công việc nhà Ngài.

Quang cảnh Đại hội đồng Tổng Liên, nhóm tại Hà Nội, tháng 4 năm 1936

Sau hai khóa hầu việc Chúa tại Hà Nội và nhất là sau khi nhận lãnh trọng trách của Địa hạt, chúng tôi được Chúa ban khải tượng mới. Hội Thánh Hà Nội lúc bấy giờ đã vững về cả hai phương diện: tự trị và tài chánh. Trong khi đó thì tôi nhận thấy đồng bào miền Bắc chẳng khác nào một trũng hài cốt khô, có da, có thịt, có gân chỉ cần hơi thở nữa là sống (Ê-xê-chi-ên 37), nên tôi tình nguyện biệt riêng để giảng Tin Lành cho đồng bào miền Bắc và mở Hội Thánh mới (lúc bấy giờ ông Mục sư Huỳnh Văn Ngà đã được biệt riêng để giảng Tin Lành cho miền Nam).

Được chấp thuận, chúng tôi liền rời Hà Nội để đi Bắc Giang (năm 1933). Lúc đầu, chúng tôi thuê một căn nhà ở phố Nghĩa Long nằm khoảng giữa dinh Tổng đốc và dinh Công sứ. Khởi sự, chúng tôi mở giảng bố đạo liên tiếp hai tuần lễ vào mỗi tối. Một số đông đồng bào trong tỉnh và những vùng phụ cận đến dự thính, trong số đó có cả mật thám và nhân viên chính quyền. Phòng giảng Tin Lành tại đây trở nên chỗ thảo luận rất thoải mái về giáo lý, luân lý, tín ngưỡng cùng cách thờ phượng của đạo Tin Lành. Trong dịp này, đặc biệt có ký giả Minh Tước viết báo ở Hà Nội, mỗi lần về thăm gia đình ở phủ Lạng Giang đều ghé với chúng tôi vài ngày. Có lần ông đã mời nhà văn Nhất Linh đến thăm chúng tôi. Gia đình nhà văn Lê Văn Chương cũng mới về Bắc Giang ở gần nhà giảng nên thường tới lui đàm đạo với chúng tôi luôn.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 47

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

47

Sau ba tháng giảng Tin Lành, kết quả có bảy mươi hai người tin nhận Chúa. Trong số đó có mười lăm người thích xem Thánh Kinh, biết cầu nguyện và khởi sự dâng tiền hầu việc Chúa - trong đó có ký giả Minh Tước. Lúc bấy giờ một mặt tôi xúc tiến chương trình đi giảng phục hưng và bố đạo, một mặt lo củng cố Hội Thánh Bắc Giang. Nhận thấy công việc Chúa quá bề bộn, nên giáo hội bổ ông Trần Viết Dụ đến Bắc Giang phụ tá cho tôi lo việc giảng dạy và chăm nom phòng sách. Chúng tôi quay sang xúc tiến việc mua đất để cất nhà thờ. Lúc bấy giờ cụ Đô Kỳ thân sinh nhà văn Lê Văn Chương có một khoảng đất rất tốt, rộng hai mươi bảy thước và dài ba mươi lăm thước nằm dọc theo đường Nghĩa Long cùng phố với căn nhà chúng tôi đang thuê để giảng. Vì là chỗ quen biết nên chúng tôi đến điều đình xin mua rất dễ dàng. Cụ bằng lòng bán giá tượng trưng cho Hội Thánh. Chúng tôi khởi sự xây cất nhà thờ trên khoảng đất mới ấy.

Tuy nhiên, trọng tâm của tôi lúc bấy giờ là làm thế nào thực hiện cho kỳ được chương trình khai quật “TRŨNG ĐẦY HÀI CỐT” (Exe 37:1-3) để đem sinh lực thuộc linh đến cho những thân người bất động của miền này. Thế là tôi hoạch định một chương trình để hoạt động. Chương trình ấy có thể giản lược như sau: Tôi đi liên tiếp suốt bốn tuần lễ để giảng phục hưng và bố đạo tại bốn tỉnh giáp liền nhau như Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên và Hải Dương. Ban ngày cầu nguyện và giảng cho tín đồ, ban đêm giảng cho người chưa tin Chúa. Tỉnh nào có một hoặc hai nhà giảng nhánh thì phân chia thì giờ nhóm chung lại một chỗ để vừa phục hưng vừa bố đạo. Sau bốn tuần đi các tỉnh trên đây, tôi trở lại Bắc Giang một tuần, rồi lại đi bốn tuần nữa theo một hướng khác như: Thanh Hóa, Ninh Bình, Nam Định, Thái Bình. Tuần tự như vậy tôi đến Lạng Sơn, Cao Bằng, Nước Hai, Tiên Yên rồi trở về Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh. Công việc tiến hành đều đặn, như vậy gần hai năm thì nhà thờ Bắc Giang cũng vừa xây xong. Ban Trị sự Tổng Liên Hội liền bổ nhiệm ông Lưu Văn Mão đến làm mục sư tại đây. Cám ơn Chúa.

Đến cuối mùa hạ năm 1935 tôi được lệnh phải trở về Hà Nội vì Hội Thánh ở đây có thư mời, hơn nữa có nhiều việc phải giải quyết. (Đây là lần thứ hai tôi làm mục sư tại Hà Nội). Như vậy, một mình tôi kiêm nhiệm ba công tác vừa lo công việc cho Địa hạt, vừa truyền đạo lưu hành vừa là mục sư Hội Thánh Hà Nội. Chờ khi tình hình Hội Thánh được ổn định, tôi lại tiếp tục xúc tiến chương trình đã được khải tượng “TRŨNG ĐẦY HÀI CỐT KHÔ.” Kiểm điểm lại quá trình sau mấy năm hoạt động truyền đạo lưu hành, tôi nhận thấy Chúa đã ban ơn rất nhiều. Từ Hà Nội theo đường Gia Lâm, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An đến Quảng Yên giáp biển đều có nhà giảng và tín đồ ở rải rác. Nếu theo hướng Bắc Ninh, Đấp Cầu, Bắc Giang, Đồng Mô, Lạng Sơn, Cao Bằng lên đến Nước Hai tiếp giáp Trung Hoa thì cũng gặp nhà giảng và những người tin Chúa. Còn từ Hà Nội theo quốc lộ vào Nam, qua Thường Tín, Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa đến Bái Thượng tiếp giáp dãy Hoàng Sơn đều có nhà thờ và tín đồ. Giảng đường mọc lên như nấm dọc theo đường Cầu Giấy, Đền Voi Phục, Sơn Tây, Hưng Hóa. Từ Hà Nội đi Chùa Hương thì có nhà giảng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 48

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

48

ở Hà Đông, Chợ Bờ, [1]. Chỉ còn lại con đường rẽ từ cầu Sông Đuống qua Yên Viễn, Đông Anh qua Nội Duệ, Cổ Loa Thành đến Phúc Yên, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên Bái, Lao Kay, Sa Pa là chưa có nhà giảng và chưa có người tin Chúa, (ngoại trừ ba người ở làng Nội Duệ làm việc tại ga Gia Lâm, và ngôi nhà của bà H. H. Dixon dùng làm nhà giảng cho người Mèo, ở Sa Pa).

Ngày nọ, chúng tôi tìm dịp đến thăm mấy anh em trong làng Nội Duệ rồi sau đó lên thẳng Yên Bái thuê nhà để giảng. Nhìn thành phố Yên Bái tôi bỗng nhớ lại những chiến tích oai hùng của thời cách mạng năm 1930. Yên Bái đã đi vào lịch sử. Yên Bái đã đi vào lòng người với những cảm tình rất đậm không bao giờ phai. Khi xe lửa về đến Đông Anh, nhìn về hướng tây, tôi bỗng thấy một gò đất cao nổi lên giữa cánh đồng bao la bát ngát, đó là nền của thành Cổ Loa ngày xưa. Nhìn những di tích lịch sử, tôi bỗng nhớ lại cảnh tượng “Điêu Tàn Của Đế Thiên Đế Thích” cảnh tượng mà Chúa đã cảm động lòng tôi, bắt buộc tôi phải đi Hà Nội để truyền “SỰ SỐNG CHO NHỮNG BỘ XƯƠNG KHÔ TRONG TRŨNG HÀI CỐT.”

Lịch sử trở về với tôi bằng những hình ảnh hào hùng, kích thích từng tế bào trong mạch máu. Đất nước tôi, dân tộc tôi, nòi giống tôi! Tôi sung sướng sống trong niềm kiêu hãnh đó, nhưng linh hồn tôi không thể lìa xa con đường dẫn đến Gô-gô-tha. Con đường Thập tự giá, con đường của sự chết để được sống. Tôi thích bài ca của Mục Sư Tống Thượng Tiết vị bác sĩ bằng lòng vứt bỏ tất cả những mảnh bằng để theo Chúa Jêsus. Bài đoản ca nhưng có đủ năng lực để thúc đẩy tôi tiến trên con đường mà tôi đang đi:

“Đông hư không,

Tây hư không,

Nam hư không,

Bắc hư không,

Thay thảy luống hư không

Chỉ linh công còn hoài.”

Đến giữa năm 1935-36, bỗng nổi lên một phong trào thật sôi động mệnh danh là phong trào Phục Hưng miền Bắc. Nơi đây xảy ra biến cố nằm giữa hai tỉnh Hà Đông và Sơn Tây, ngay chỗ có dòng nước xoáy con sông Hát (tức sông Hát Giang). Tục truyền rằng Hai Bà Trưng đã tự ải tại đó. Gần đấy là làng Hát Môn – giữa làng có một nhà giảng Tin Lành với sáu, bảy gia đình tín đồ, thỉnh thoảng họ đi Hà Nội hoặc Sơn Tây để nhóm. Làng nầy ở vùng ngoại đê nên không có gì bảo đảm đối với mực độ nước lên xuống bất thường tại miền Bắc. Cho nên, mùa nước nầy thấy cả một làng trù mật đó, thì mùa nước sau có lẽ sẽ biến thành ruộng dâu cồn bắp cũng nên. Vì thế, dân làng luôn luôn sống trong phập phồng lo sợ. Phần đông là những người dân cần cù lam lũ nên rất dễ bị lợi dụng lừa bịp.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 49

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

49

Nhận thấy trong vùng đó, tại những làng Thọ Lão, Thượng Mỗ và Hạ Mỗ có người tin Chúa khá đông, nên một số người ở các làng lân cận tự động đứng lên tổ chức dựng rạp, treo cờ, bày hương án rồi đi mời Giáo sĩ W. A. Pruett ở Hà Nội đến giảng. Trong vòng ba tháng họ đưa ra một bản danh sách hơn ba trăm người cầu nguyện tin Chúa. Có điều mờ ám là không hiểu họ lợi dụng hoặc tuyên truyền cách nào mà mỗi người dân trong hạn tuổi đóng thuế thân đều nộp cho họ hai đồng để nhờ đóng hộ. Lúc bấy giờ chính quyền thu thuế thân mỗi người hai đồng ba cắc thay vì hai đồng, nên dân chúng được lời ba cắc lại khỏi phải đến làng xã mất công, nên họ sốt sắng nộp tiền không cần suy nghĩ thiệt hơn gì cả. Thu tiền xong, thay vì đem đóng thuế cho chính quyền theo luật định, những tay hoạt đầu tôn giáo nầy lươn lẹo với nhau, bằng cách đến nhờ Giáo sĩ can thiệp với viên Công sứ Pháp xin miễn thuế cho “tín đồ” với lý do nước dâng cao, hoa màu bị thiệt hại.

Ông Đỗ Phương lúc bấy giờ là truyền đạo ở Sơn Tây rất vất vả về vụ nầy. Hay tin, tôi đã về đó nhiều lần, một mặt khuyên giải anh em, mặt khác tuyên bố không công nhận bản danh sách tín đồ do họ đưa ra. Tôi xin mỗi người hãy tin nhận Chúa cách cá nhân – nếu ai thật sự biết mình có tội và bằng lòng lìa bỏ tội bởi tiếp nhận Đức Chúa Jêsus làm Cứu Chúa và thờ phượng Đức Chúa Trời thì chúng tôi cầu nguyện cho và biên tên vào danh sách mới. Còn việc đóng thuế chúng tôi không thể lo, nhưng mỗi người tự lo lấy bằng cách đóng thẳng cho chính quyền. Sau khi nghe chúng tôi giải thích rõ ràng, những người đã lỡ đưa tiền liền đi tìm những người kia để đòi lại. Không ăn được tiền, còn bị bẻ mặt, những người nầy đâm ra tức, do đó họ lập mưu để giết tôi bằng cách cho người đón tôi trên đê. Họ biết chắc mỗi tháng tôi đều về thăm và giảng trong vùng đó, và hơn nữa họ còn biết rõ chương trình từng giờ của tôi, nên tổ chức ám sát không có gì khó khăn cả.

Sáu giờ chiều hôm đó, tôi giảng ở Thọ Lão. Đến bảy giờ rưỡi ông Đỗ Phương và tôi định sẽ dùng xe đạp để đến Hạ Mỗ khánh thành phòng giảng tại nhà một ông nguyên chánh tổng. Nhưng khi giảng gần xong thì một cơn mưa to ào ào trút xuống. Chúng tôi đợi một giờ rưỡi, hai giờ đồng hồ – mãi đến chín giờ tối mà trời vẫn còn mưa lớn. Vì đã hứa với cụ chánh tổng ở Hạ Mỗ nên chúng tôi quyết phải đi, nhưng thay vì đạp xe theo đường đê, chúng tôi lại vác xe lội băng đồng từ Thọ Lão đến Hạ Mỗ. Ông Phương đi trước tôi đi sau té tới, té lui bì bỏm giữa mưa và nước, nhưng chúng tôi không chán nản, trái lại lòng cảm thấy rất hân hoan, nên chúng tôi vừa đi vừa hát: “Đi từng bước, bước thẳng đi, có Chúa nữa không can chi...” Mãi tới mười giờ đêm chúng tôi mới đến nhà ông Chánh Tổng. Nghe tiếng chúng tôi, mọi người trong nhà đều chạy ra ôm lấy chúng tôi với nét mặt sợ hãi, hỏi chúng tôi đi bằng cách nào. Nhìn thái độ mọi người, tôi rất ngạc nhiên không hiểu có chuyện gì xảy ra. Cụ Chánh Tổng liền thuật lại âm mưu của bọn người rắp tâm ám sát tôi. Họ đã cho nhiều người mai phục với đầy đủ dao mác trên đường đê từ Thọ Lão đến Hạ Mỗ, chỗ phía dưới điếm canh một chút. Tôi hỏi sao cụ biết, thì cụ nói các cháu định đến Thọ Lão để nhóm. Khi đi qua điếm canh, chúng tôi thấy

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 50

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

50

nhiều người núp sẵn sau điếm canh dao mác hẳn hòi, bảo là chờ Mục sư Lê Văn Thái đi qua thì ra tay. Sắp nhỏ, chúng hỏi dân làng, họ cũng cho biết như vậy. Nghe xong câu chuyện chúng tôi thật cám ơn Chúa. Chúa đã cho cơn mưa để bảo vệ đầy tớ Ngài.

Dù kết quả tại các nhà giảng nhánh trong thành phố rất khiêm nhường, nhưng cũng đủ để khiến cho các buổi nhóm Chúa nhật tại nhà thờ Hà Nội diễn lại cảnh trạng của năm 1930 – nghĩa là tín đồ đến không có đủ chỗ đứng. Chúng tôi bèn đề cập đến việc nới rộng nhà thờ lần thứ hai (1935). Các con cái Chúa ủng hộ nhiệt liệt, nhất là anh em trong ban Chứng Đạo. Chúng tôi liền xúc tiến công việc theo đề án đã được dự liệu, cho đến năm 1936 thì nhà thờ mới hoàn thành. Hai bức tường trước được phá bỏ, đưa ra mỗi bên hai thước thành ra bề rộng mười thước. Trong khi đó thì bề sâu cũng tăng thêm bảy thước. Như vậy sau hai lần nới rộng, nhà thờ Hà Nội có kích thước mới: rộng mười thước, sâu hai mươi bốn thước và một tháp chuông. Dưới tháp chuông là một phòng sách, cửa mở ra đường Ngõ Trạm Mới và Hà Trung. Nhà thờ đó cho đến ngày nay vẫn còn nguyên vẹn giữa lòng thành phố Hà Nội. Theo Thánh ý của Chúa, dường như cho phép dừng lại để rồi tiến lên mạnh hơn.

Hội đồng Địa hạt Bắc nhóm tại Hà Nội 1937

Trong khi công việc đang tiến hành hết sức tốt đẹp, thì tôi bị bệnh đau phổi rất nặng. Sau khi chiếu điện, bác sĩ Paterson bảo tôi phải nghỉ việc ngay, ông nói riêng với Giáo sĩ Cadman là tôi sẽ qua đời trong ba tháng. Thật là một bất ngờ riêng cho chúng tôi và cũng là một sự thử thách chung cho cả địa hạt. Hội Thánh một mặt cầu nguyện đặt biệt xin Chúa chữa bệnh phổi cho tôi, một mặt sắp đặt cho chúng tôi nghỉ mát một tháng ở biển Sầm Sơn (Thanh Hóa). Ra dến nơi, nhà cửa rất khó tìm, nên chúng tôi thuê một chỗ ở trong căn nhà của đồng bào chài lưới dùng để

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 51

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

51

vá lưới. Căn nhà đó ở ngay bờ biển. Đêm đầu tiên tại một nơi vắng vẻ, chỉ có vợ chồng chúng tôi và cháu Hồng Ân, chúng tôi thắp đèn sáp để cầu nguyện và đọc Thi Thiên 31. Tôi ghi nhận câu Đa-vít nói để an ủi mình: “Kỳ mạng tôi ở nơi Chúa… Chúa giấu tại nơi ẩn bí ở trước mặt Chúa, cách xa mưu kế của loài người, Chúa che khuất họ trong một cái lều cách xa sự tranh giành của lưỡi.”

Chúng tôi yên lặng nhờ cậy Chúa, mỗi ngày cầu nguyện đọc Thánh Kinh, ăn uống và đi tắm biển. Sau ba tuần lễ, tôi trở về thăm Hà Nội và nhờ bác sĩ khám lại. Sau khi chiếu điện, ông tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi tôi có uống thuốc gì không, có đi bác sĩ nào khác không. Tôi trả lời không. Ông bảo như vậy là một phép lạ, vì hai cái lỗ thủng trong phổi tôi bắt đầu liền lại. Ông chụp hình, rồi sau đó lấy tấm hình trước và sau đưa lên chỉ cho chúng tôi chỗ đau và chỗ lành. Tạ ơn Chúa. Tôi trở lại Sầm Sơn nghỉ hai tuần nữa rồi về Hà Nội khám bệnh và chiếu điện lại. Lần này bác sĩ la lên là bệnh tôi đã lành hẳn rồi, tốt lắm. Lòng tôi hết sức vui thỏa vì biết rằng: “Không việc gì Jêsus không làm được, không có ai như Ngài.” Tôi xin in hai bức hình sau đây để minh xác quyền năng chữa bệnh của Chúa.

Bị Bệnh Phổi(1937) Lành Bịnh Phổi (1938)

Bởi ơn Chúa, công việc Địa hạt về một khía cạnh đã tiến bộ rất nhiều, tuy nhiên, chưa phải là thỏa mãn. Hội Thánh cần phải được cải thiện một cách hữu hiệu hơn về cả hai phương diện thuộc linh và tổ chức. Bởi đó, chúng tôi khởi sự bắt tay vào việc bằng cách thăm viếng, giảng phục hưng, bố đạo, khích lệ các Mục sư Truyền đạo rán sức khuyên nhủ tín đồ đọc Thánh Kinh và củng cố nền tự trị tự lập cho Hội Thánh. Câu Thánh Kinh: “Chúng nó sống và đứng dậy trên chân mình” (Exe 37:10) trở thành câu kinh nhật tụng trong các giai đoạn đó.

Tuy nhiên, muốn xúc tiến chương trình này một cách hữu hiệu, Chủ nhiệm cần phải có thì giờ, nên năm 1939 Hội Thánh Hà Nội mời ông Trần Văn Đệ làm phó Mục sư để đảm trách công việc thường xuyên của Hội Thánh. Từ đó, chương trình của Hội Thánh Hà Nội và chương trình của Địa hạt đều được Chúa ban phước.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 52

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

52

Nhà thờ Hội Thánh Hà Nội sau khi trùng tu lần thứ hai, năm 1938

Năm 1940, Chủ nhiệm chính thức ra riêng để có đủ thì giờ lo cho Địa hạt. Hội Thánh Hà Nội mời ông Trần Văn Đệ làm Mục sư. Công việc Chúa đang tiến hành tốt đẹp bỗng nhiên sức khỏe tôi lại sút hẳn đi. Bác sĩ khuyên tôi cần phải nghỉ ngơi để bồi dưỡng. Sau thời gian cầu nguyện thăm hỏi ý Chúa, chúng tôi quyết định cứ lo công việc Địa hạt và giảng lưu hành, nhưng dọn nhà vào Thanh Hóa (1941) để gần với bãi biển Sầm Sơn, hầu cho tôi vừa làm việc vừa có thì giờ ôn lại bài học năm 1937- nhờ quyền năng của Chúa trừ tiệt bệnh phổi trong tôi. Chương trình này đẹp ý Chúa, nên công việc Địa hạt được phước nhiều và chúng tôi cũng nhận được nhiều ơn như lời sứ đồ Giăng nói với Gai-út: “Hỡi kẻ rất yêu dấu, tôi cầu nguyện cho anh em được thạnh vượng trong mọi sự và được khỏe mạnh phần xác anh cũng như đã được thạnh vượng về phần linh hồn anh vậy. Vì tôi rất lấy làm vui vẻ mà thấy anh em đến đây, làm chứng về anh yêu mến lẽ thật, và về cách anh làm theo lẽ thật ấy thế nào” (IIIGi 1:2-3).

Trong thời gian này việc giảng Tin Lành phát triển mạnh về các vùng quê như: làng Hoành Nha, Hoàng Nhị (tỉnh Nam Định), làng Khả Cảnh (tỉnh Thái Bình), làng Hoàng Dương (tỉnh Hà Nam), làng Đồng Yên (tỉnh Hưng Yên), làng Tứ Ky (tỉnh Hải Dương), làng Thượng Trang (tỉnh Kiến An), làng Thọ Lão, Thượng Mỗ (tỉnh Hà Đông và Sơn Tây).

Giữa năm 1941 và 1942 quân đội Nhật từ Trung Hoa tràn qua chiếm Lạng Sơn, nên có nhiều biến chuyển xảy ra. Hội Thánh cần sự có mặt của tôi ở Hà Nội. Chúng tôi vâng lời thu xếp hành lý lên đường… Một lần nữa, trong tinh thần Áp-ra-ham, chúng tôi đi mà không biết mình đi đâu.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 53

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

53

e) Đảm nhiệm chức vụ Hội trưởng Tổng Liên Hội

Ngày 19-8-1942 Hội đồng Tổng Liên Hội lần thứ mười chín nhóm tại Đà Nẵng, tôi được đắc cử giữ chức vụ Hội trưởng Tổng Liên Hội, kiêm cả Chủ nhiệm Bắc Hạt. Tôi sợ hãi không dám nhận vì cảm thấy trách nhiệm quá nặng nề. Chỉ lo cho một hạt cũng là quá đuối sức rồi nay gánh cả công việc Tổng Liên Hội thì làm thế nào kham nổi. Chức vụ Hội trưởng lúc bấy giờ phải trách nhiệm cả Đông Dương (gồm có Nam, Trung, Bắc, Cao Miên và Ai Lao). Tôi hết sức từ nan, nhưng Hội đồng khuyên tôi nên nhận chức vụ một năm vì ông Mục sư Lê Đình Tươi (đương kim Hội trưởng) đang thọ trọng bệnh. Không thể làm cách nào khác hơn, tôi phải đứng ra gánh vác công việc nương cậy ơn và quyền của Chúa. Sau khi cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ, tôi đọc được những lời an ủi này: “Người nào để trí mình nương dựa nơi Ngài, Ngài sẽ gìn giữ người trong sự bình yên trọn vẹn.”

Sau khi Hội đồng bế mạc, tôi bắt tay ngay vào công việc Tổng Liên Hội. Trong lúc ngồi trong phòng chờ nhân viên Ban Trị sự đến họp, tôi dở Thánh Kinh và đọc được những lời khích lệ quý báu này: “Đừng sợ, vì ta ở với ngươi, chớ khinh khiếp vì ta là Đức Chúa Trời ngươi. Ta sẽ bổ sức cho ngươi, phải, ta sẽ giúp đỡ ngươi” (Es 41:10). Linh hồn tôi như đượm nhuần sức mới. Tôi cúi đầu thầm nguyện: “Lạy Chúa, vì danh vinh hiển của Ngài và vì cớ Hội Thánh mà Ngài đã mua chuộc bằng huyết, xin giúp con, nâng đỡ con, hướng dẫn con như Lời Ngài đã hứa với dân Y-sơ-ra-ên và chọn Gia-cốp vào công cuộc thuộc hậu tự Ngài. Bởi đức tin con vâng lời Chúa dạy và chỉ nương nhờ Ngài. Xin Chúa ban ơn và quyền của Ngài trên con, để con làm trọn công việc lớn và khó mà Hội Thánh đang đợi chờ. A-men!”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 54

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

54

CHƯƠNG 3: HỘI TRUYỀN GIÁO PHƯỚC ÂM LIÊN HIỆP VÀ GIÁO HỘI TIN LÀNH ĐẦU TIÊN TẠI VIỆT NAM

Sứ điệp cuối cùng của Đức Chúa Jêsus trước khi Ngài thăng thiên đã được chép trong Mac 16:15 như sau: “Hãy đi khắp thế gian giảng Tin Lành cho mọi người.” Trải qua gần hai mươi thế kỷ, mệnh lệnh ấy cũng ngày càng ăn sâu vào tâm thức những người truyền giáo nói chung và Tiến sĩ A. B. Simpson, người sáng lập nên Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp (CMA) nói riêng. Ông thiết tha với hoài vọng làm thế nào đem Tin Lành đến miền đất Việt Nam xa xôi này. Lòng Tiến sĩ A. B. Simpson chua xót không ít khi nghĩ đến hàng ngày có biết bao nhiêu linh hồn chưa nhận được ánh sáng của Lời Sự Sống, nối tiếp nhau ngã gục xuống vì cớ tội lỗi. Đồng một lúc ông cũng nghĩ đến lời cảnh cáo của Thánh Kinh: “Họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thế nào mà tin? Lại nếu chẳng ai được sai đi rao giảng thể nào” (Ro 10:14-15).

Cho nên ông quyết định dân tộc Việt Nam phải được cứu rỗi. Người Việt Nam phải nhận được ánh sáng của Tin Lành. Khải tượng về một cuộc Truyền giáo tại Đông Dương đã làm cho tâm hồn Giáo sĩ bùng cháy. Họ không thể thờ ơ nín lặng. Con đường truyền giáo chắc chắn sẽ gặp nhiều khó khăn, nhưng tất cả đều ý thức rằng “bàn chân kẻ rao Tin Lành là tốt đẹp.” Nhóm người lãnh đạo Hội Phước Âm Liên Hiệp một mặt “cầu xin Chúa mở cửa Truyền giáo tại Đông Dương, một mặt vận động phương tiện và cơ hội để gởi Giáo sĩ sang truyền giáo.

A. QUÁ TRÌNH CỦA HỘI TRUYỀN GIÁO PHƯỚC ÂM LIÊN HIỆP

1. Giai Đoạn Đầu Tiên Từ Năm 1880-1915

Để quý độc giả có thể hiểu rõ hơn giai đoạn chuẩn bị cho công cuộc truyền giáo tại Việt Nam, tôi xin trích một đoạn trong quyển WITH CHRIST IN INDOCHINA của Giáo sĩ E. F. Irwin, một trong những Giáo sĩ tiền phong tại Việt Nam, như sau:

“Tiến sĩ W. M. TURNBULL, Phó Hội trưởng Hội Phước Âm Liên Hiệp đã có lần nói rằng: Bất cứ nơi nào mà việc truyền giảng bị khóa chặt, nghĩa là một nơi chưa được nghe rao giảng Tin Lành của Đấng Christ, thì sẽ thấy Giáo sĩ thuộc Hội Phước Âm Liên Hiệp đến đóng trại trước ngạch cửa để chờ đợi, hễ có cơ hội là bước vào, câu nói đó rất đúng với trường hợp nước Việt Nam. Tại Đông Dương thuộc Pháp, Việt Nam là mục tiêu đầu tiên của Tiến sĩ A. B. Simpson ngay từ khi ông mới sáng lập Hội Phước Âm Liên Hiệp. Các Giáo sĩ của Hội Phước Âm Liên Hiệp ở miền Hoa Nam (Trung Hoa) luôn luôn hướng tầm mắt vào Việt Nam.”

Năm 1887 Tiến sĩ A. B. Simpson đã viết trong tờ tạp chí “Word and World” như vầy: Miền Bán đảo Đông Nam Á đã bị lãng quên từ lâu. Quốc gia Việt Nam cần được soi sáng Tin Lành của Đấng Christ. Tại sao những người phục vụ Chúa không

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 55

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

55

đặt Việt Nam ngang hàng với Tây Tạng, thiết lập chiến trường thuộc linh mới, hầu tranh thủ nhiều linh hồn tội nhân về với Ngài.

Mùa hè năm 1893, Tiến sĩ David Leclaccheuz, cộng sự viên của Tiến sĩ A. B. Simpson đến thăm Sài Gòn. Trên đường về ngang qua Tân Gia Ba, ông gặp Tiến sĩ Simpson và cho biết cánh cửa tại Việt Nam cũng như toàn xứ Đông Dương thuộc Pháp đã mở cho việc giảng Tin Lành. Bắt đầu từ đó, danh từ Việt Nam như đã nhập tâm Tiến sĩ Simpson, trong các thư từ và tác phẩm của ông đều nhắc đến Việt Nam. Năm 1894, trong một bài xã thuyết đăng trên tuần báo “Christian Alliance and Foreign,” ông cho rằng Sudan, Tây Tạng và Việt Nam là ba địa hạt truyền giáo quan trọng chưa được khai thác để quy sự vinh hiển về cho Cứu Chúa.

Tuy nhiên, mãi đến năm 1897 mới chỉ có một Giáo sĩ của Hội Phước Âm Liên Hiệp được phép bước chân vào Đông Dương thuộc Pháp để thăm viếng và chỉ vỏn vẹn thăm viếng mà thôi, không được truyền giáo. Đó là Giáo sĩ C. H. Reeves, từ Long Châu vượt biên giới Hoa Nam (Trung Hoa) vào Bắc Kỳ rồi đến Lạng Sơn. Khi trở về ông đã phúc trình với giáo hội: “Tôi được các sĩ quan và binh sĩ Pháp tiếp đãi rất lịch sự. Họ ở đây (binh sĩ Pháp) rất đông, nơi nào có độ một trăm người dân thì có một đồn lính. Trong suốt thời gian ở Bắc Kỳ, tôi được các binh sĩ Việt Nam và Pháp hộ tống.”

Năm 1889, Giáo sĩ R. A. Jaffray tuy là tân Giáo sĩ ở Hoa Nam, nhưng lại đóng một vai trò rất đắc lực trong việc mở mang rao giảng Tin Lành tại Đông Dương. Giáo sĩ R. A. Jaffray cũng vượt biên giới Hoa Việt theo cách của Giáo sĩ Reeves, đi tàu thủy theo sông Hồng Hà xuống tận thủ đô Hà Nội. Nhưng ông cũng chưa đặt được điểm tựa nào cho công cuộc truyền giáo. Năm 1901 về nghỉ hạn ở Mỹ Quốc, ông tìm gặp ông bà Lylvan Dayan người Gia Nã Đại thuộc Pháp, với hy vọng đề cử ông bà này sang Việt Nam, vì người nói tiếng Pháp vào xứ thuộc Pháp dễ dàng hơn người nói tiếng Anh. Sau đó Hội Truyền giáo sai phái ông bà Lylvan Dayan qua Việt Nam. Năm 1902 họ vào hải cảng Hải Phòng với kế hoạch nhằm mở một trụ sở giảng Tin Lành tại Bắc Kỳ, nhưng không gặp thời, năm sau họ phải trở lại Hoa Nam.

Năm 1905 tỉnh Long Châu được địa hạt Hoa Nam dùng làm trung tâm truyền giáo. Họ hy vọng trạm nầy có thể dùng làm bàn đạp để đưa Tin Lành vượt biên giới Hoa Việt vào miền Bắc Việt Nam. Nhưng về sau Hội Truyền giáo nhận thấy cách nầy chỉ có thể giảng Tin Lành cho những người di cư sang lập nghiệp ở Trung Hoa, chứ không giảng trực tiếp cho dân tộc Việt Nam được. Vả lại người Pháp cũng không thích để Hội Truyền giáo đi vào cửa sau bằng cách ấy, nên họ đã cho phép Giáo sĩ vào một trong các hải cảng lớn ở Việt Nam.

Mùa xuân năm 1911 một cuộc hành trình mới bắt đầu cho các Giáo sĩ. Các ông R. A. Jaffray, Paul M. Hosler và G. Lloyd Huglers đến hải cảng Tourane, ở Trung Phần Việt Nam. Họ mua được một sở nhà góc đường Khải Định, số 66 và đường

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 56

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

56

Nguyễn Hoàng, số 67 để làm trụ sở truyền giáo. Đây là trụ sở đầu tiên của Hội Truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp tại Việt Nam. Sau khi hoàn tất công tác họ trở lại Hoa Nam. Ông R. A. Jaffray không được phép làm Giáo sĩ thường xuyên tại Việt Nam, nên tất cả hy vọng đều đặt nơi hai ông Hosler và Huglers. Nhưng đến mùa hè năm ấy (1911) ông Huglers được gọi về Nữu Ước để lãnh nhiệm vụ cao trọng hơn, nên chỉ còn Giáo sĩ Hoslers trở lại Đông Dương một mình. Ông Hosler khởi sự học tiếng Việt và cũng đồng thời bắt đầu giảng Tin Lành.

Câu chuyện lý thú sau đây tỏ ra ơn dự bị của Chúa và óc sáng kiến của đoàn truyền giáo tiền phong, nhờ đó mà ông R. A. Jaffray và các bạn không trễ mất hai tuần lễ tăng thêm tổn phí ăn ở tại Tourane sau khi hoàn tất công tác.

Số là chiếc tàu thủy chở thư của Pháp chạy thường xuyên giữa Pháp Quốc và Á Đông cứ hai tuần lễ ghé lại Tourane một lần. Khi đã làm xong nhiệm vụ, các Giáo sĩ được biết sắp có chuyến tàu sắp ghé Tourane rồi đi Hồng Kông, nên họ sắp đặt mua vé để đi chuyến tàu ấy. Họ được báo tin tàu nhổ neo vào buổi chiều. Họ cũng được cho biết chắc rằng họ có đủ thì giờ để ăn trưa. Xin nói rõ là tại hải cảng Tourane lúc đó các tàu lớn thường đậu cách bờ chừng năm cây số. Hành khách ra vào bằng xà-lúp. Và từ chỗ xà-lúp đậu đến chỗ các Giáo sĩ ăn trưa là ba cây số.

Vào khoảng mười một giờ trưa họ bỗng ngạc nhiên nghe tiếng còi tàu nên chạy ra nhìn về phía hải cảng thì thấy chiếc tàu đang sửa soạn nhổ neo. Họ liền gọi xe kéo chạy đến cầu tàu thì chiếc xà-lúp đã đi rồi. Các Giáo sĩ nhìn quanh tìm phương cách để ra tàu. Họ thấy chỉ còn một cách là mướn chiếc thuyền gỗ. Muốn bắt kịp chiếc tàu đã nhổ neo mà làm cách này thật khốn đốn không ít. Nó chỉ là một chiếc thuyền nhỏ có gió thì chạy bằng buồm, không gió thì chèo. Lúc đó trời đứng gió mà nước thủy triều lại ngược, tuy nhiên, họ cố gắng đi, vì ông Jaffray thường có một câu châm ngôn là: “Tôi đi đúng đường thì Chúa sẽ giúp đỡ và dẫn dắt tôi.” Trong khi họ hơi tuyệt vọng vì chiếc thuyền quá chậm chạp, thì chiếc xà-lúp quay trở lại bờ. Họ ra dấu xin trả năm đồng nhờ đưa tàu. Người trên xà-lúp thấy họ là người da trắng, hơn nữa cũng có ít tiền trà nước nên bằng lòng. Nhưng khi các Giáo sĩ qua xà-lúp thì gặp một trở ngại khác làm cho họ gần tiêu tan hy vọng vì chiếc tàu đã nổ neo mà xà-lúp lại thiếu hơi không thể chạy nhanh. Tiếng còi càng lúc càng nhỏ dần. Họ nghĩ rằng chỉ còn có quyền năng của Chúa giúp đỡ mới hy vọng kịp tàu. Thế rồi họ phân công nhau, ông Huglers xuống hầm xúc than cho vào lò để có thêm sức nóng, ông Hosler quỳ gối cầu nguyện, ông Jaffray ngồi kéo còi xà-lúp. Công việc của họ lúc đó chẳng khác nào những người xây vách thành Giê-ru-sa-lem trong đời Ê-xơ-ra.

Khi viên thuyền trưởng trông thấy chiếc xà-lúp có cắm cờ Pháp của viên công sứ thành phố Tourane phóng theo hết tốc lực và tiếng còi ré vang ông tưởng là có việc gì quan trọng nên cho tàu dừng lại. Khi chiếc xà-lúp đến sát mạn tàu, một chiếc thang thả xuống. Ba Giáo sĩ bước lên trình bày cái vé hạng nhì trước vẻ ngạc

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 57

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

57

nhiên tột độ của viên thuyền trưởng. Riêng đối với ba Giáo sĩ, đó là việc Đức Chúa Trời bắt chiếc tàu dừng lại cho họ đi đúng với chương trình đã định.

Lúc mới mở khu vực truyền giáo, Việt Nam được coi như là chi nhánh của Hoa Nam (Trung Hoa). Bốn năm sau (1915) ông Tổng thư ký ngoại vụ truyền giáo là Tiến sĩ H. Glover đến thăm Đông Dương và khi số Giáo sĩ ở Việt Nam được chín người, họ liền mở một nơi giảng là Faifo (Hội An, thuộc tỉnh Quảng Nam, ở phía Nam Đà Nẵng).

Sau đó, một Hội đồng khu vực truyền giáo ở Việt Nam được tổ chức. Giáo sĩ Issac Hess chủ nhiệm của trụ sở truyền giáo Hoa Nam được bầu làm chủ nhiệm địa hạt mới này. Thành phần các Giáo sĩ được phân phối như sau. Bốn người ở tại Trung Kỳ lo cho cơ sở Tourane và Faifo, năm người đi Bắc Kỳ lo cơ sở mới, trước tiên là Hải Phòng rồi đến Hà Nội.

Việc tổ chức tạm hoàn tất. Hầu hết các Giáo sĩ đều biết nói tiếng Việt bập bẹ và sẵn sàng đem ánh sáng Tin Lành vào những vùng tối tăm. Nhưng mọi sự không phải dễ dàng đâu, vì đúng như Lời Thánh Kinh: “Chúng ta đánh trận không phải cùng thịt và huyết, bèn là cùng chủ quyền, cùng thế lực, cùng vua chúa của thế gian mờ tối này, cùng các thần dữ ở miền trên trời vậy.” Cho nên khi các Giáo sĩ rộn rịp trang bị, thì Satan cũng bận rộn không kém.

Vào khoảng đầu thế chiến thứ nhất (1914). Chính quyền Pháp rất nghi ngờ những người ngoại quốc ở Đông Dương. Giáo sĩ luôn luôn bị mật thám theo dõi và các cuộc giao thiệp với người bản xứ đều bị canh chừng chặt chẽ. Sự kiện này riêng đối với cá nhân đoàn truyền giáo không có nghĩa gì, vì họ không có gì để giấu diếm cả, chỉ công bố Tin Lành cứu rỗi của Chúa Jêsus thôi. Tuy nhiên, ngay lúc đầu tình trạng không được tốt đẹp, kẻ thù của Tin Lành tung ra nhiều tin đồn thất thiệt rất tai hại. Họ bảo các Giáo sĩ là gián điệp của Đức Quốc, lời vu khống ấy càng được tô đậm hơn khi có một Giáo sĩ sinh tại Đức Quốc. Sự thật ông ấy là công dân Hoa Kỳ, đã rời bỏ nước Đức đến Hiệp chủng quốc sinh cơ lập nghiệp với cha mẹ từ thuở ấu thơ. Nhưng người Pháp lúc bấy giờ không cần tìm hiểu lai lịch cặn kẽ, khi xét giấy thông hành thấy ông sinh tại Đức thì cho ông là gián điệp. Nhiều người khác, dù là công dân Hoa Kỳ chính cống, nhưng nếu mang một cái tên có vẻ Đức thì sớm muộn cũng bị nghi ngờ.

Hậu quả của sự ngờ vực ấy là sắc lệnh cấm các Giáo sĩ hoạt động truyền giáo giữa người bản xứ, do Toàn quyền Đông Dương ký vào tháng chạp năm 1915. Các nhà thờ bị đóng cửa. Các Giáo sĩ có tên trong sổ bìa đen phải lập tức rời khỏi Việt Nam. Do đó có bốn trong số chín người phải đi. Còn lại năm người cũng không được phép tiếp tục hoạt động nữa. Ngoại cảnh lúc đó thật đen tối, nhưng các Giáo sĩ luôn luôn nhớ Lời Chúa phán: “Nầy ta thường ở cùng các ngươi luôn,” nên không nản chí sờn lòng…

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 58

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

58

2. Giai Đoạn Thứ Hai Từ Năm 1915-1929

Sau khi sắc lệnh trên đây được ban hành, việc truyền giảng Tin Lành trở nên khó khăn hơn. Chính quyền Pháp Việt luôn luôn rình rập các Giáo sĩ. Họ quyết tâm làm thế nào ngăn trở không cho Tin Lành truyền bá ở Việt Nam và Đông Dương bằng cách dựa vào Hòa ước Việt-Pháp ký ngày 6-6-1884, trong đó có khoảng cho phép giáo hội La Mã truyền giáo tại Việt Nam. Mặc dù hòa ước ấy không đá động gì đến giáo hội Tin Lành, nhưng họ lý luận cách méo mó là cho phép giáo hội La Mã truyền giáo có nghĩa là không cho phép Giáo hội Tin Lành vì chỉ cho phép một mình Giáo hội La Mã mà thôi. Thâm ý của họ là muốn bóp nghẹt Tin Lành cứu rỗi, nhưng ý định đó không thành, vì một số người tin nhận Tin Lành đầu tiên - bởi Đức Thánh Linh - đã làm ứng nghiệm những Lời đã được chép trong Thánh Kinh: “Nhưng hễ ai nhận Ngài thì Ngài ban cho quyền phép trở nên con cái Đức Chúa Trời là ban cho những kẻ tin danh Ngài, là kẻ chẳng phải sanh bởi khí huyết, hoặc bởi tình dục hoặc bởi ý người, nhưng sanh bởi Đức Chúa Trời” (Gi 1:12-13). Đức tin của họ rất vững chắc. Tôi xin trích một đoạn nói về “Đức tin của tín đồ đầu tiên” trong quyển ĐẤNG CHRIST TẠI ĐÔNG DƯƠNG của cụ Irwin để được chứng thực điều ấy: Đức tin tín đồ đầu tiên rất lớn nơi Đức Chúa Trời. Họ lìa bỏ hình tượng và sự sợ hãi đối với ma quỷ để trở về thờ phượng Đức Chúa Trời là Đấng Hằng Sống. Chúng ta (các Giáo sĩ) cần phải có đức tin như vậy đối với Chúa.”

Người Việt Nam biết và tin có ma quỷ. Khi đã tiếp nhận Chúa họ vẫn còn tin và biết có ma quỷ, nhưng họ biết rằng Đức Chúa Jêsus đã chiến thắng ma quỷ. Ngài lớn hơn bất cứ tà thần nào nghịch với tín đồ. Đức tin ấy xứng hiệp với lời của thánh Giăng đã nói: “Đấng ở trong anh em lớn hơn kẻ ở trong thế gian.” Người tín đồ đầu tiên tin những lời ấy, nên họ không sợ Satan và không thờ lạy nó nữa. Họ chỉ tin cậy vào quyền năng của Chúa Jêsus.

Những việc lạ lùng như đã chép trong sách Công Vụ thường xảy ra giữa chúng ta. Không phải đức tin của các Giáo sĩ, mà là bởi đức tin của những “hài nhi Việt Nam này trong Đấng Christ.” Đó là những người mới tìm được Cứu Chúa duy nhất, Đấng có quyền lớn hơn ma quỷ - kẻ thù của họ.

Một lần nọ, có một tín đồ chưa chịu báp-tem, đến cho Giáo sĩ hay là con gái của ông đang hấp hối, thầy thuốc đã bó tay, không còn hy vọng gì nữa. Ông xin Giáo sĩ cầu nguyện cho con gái mình. Giáo sĩ bảo: “Chúng tôi sẽ đến nhà ông.” Nhưng ông ta đáp: “Không cần đến nhà, chúng ta cầu nguyện tại đây, Chúa sẽ làm việc ở đó.” Rồi ông nhắc lại câu nói thầy đội trưởng thưa với Chúa Jêsus như sau: “Xin thầy chỉ phán một lời thì đầy tớ tôi sẽ lành.” Cầu nguyện xong ông đi làm việc (ông ta là thư ký của sở Hỏa xa). Trưa về đi ngang qua nhà Giáo sĩ nhưng ông không ghé lại. Qua ngày sau cũng thế, đi làm rồi về thẳng nhà. Giáo sĩ rất phân vân không biết tình trạng của em bé ra sao. Sự phân vân đó chứng tỏ đức tin của Giáo sĩ và đức tin của “hài nhi trong Christ” thật quá cách biệt. Với năm ba khúc sách

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 59

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

59

Tin Lành, người tín đồ này có đủ đức tin để tin rằng quyền năng của Chúa từ trước đến giờ vẫn sung mãn không hề thay đổi. Vị Giáo sĩ trên đây thì trái lại, rất băn khoăn, cuối cùng phải ra đường đón ông tín đồ để hỏi thăm em bé ra sao. Người tín đồ tỏ vẻ rất ngạc nhiên đáp: “Nó khỏi hẳn rồi, ông không biết sao? Tôi tưởng khi lấy đức tin cầu nguyện thì ông biết chắc cháu đã được chữa lành rồi chứ.”

Giai thoại trên đây cho chúng ta một khái niệm về đức tin. Vâng, “đức tin là sự biết chắc của những điều mình chưa xem thấy.” Với lòng tin tưởng đơn sơ nhưng chân thật ấy mà có nhiều người đau yếu được chữa lành, nhiều kẻ bị tà ma ám ảnh được đuổi ra khỏi, nhiều người điên, bởi quyền năng của Chúa được bình thường. Nhiều phép lạ đã được tỏ ra trong vòng Hội Thánh đầu tiên.

Trở lại vấn đề truyền giáo của Hội Phước Âm Liên Hiệp tại Việt Nam, chúng ta có cớ để ngợi khen sự thành tín của Chúa và lòng hăng say hoạt động của các Giáo sĩ tiền phong. Giai đoạn dò dẫm nghi ngờ của chính quyền Pháp và của Hoàng triều đã qua. Bắt đầu từ năm 1916 việc cấm đạo đã bớt khắc nghiệt. Các Giáo sĩ xung phong hoạt động trở lại tại các tỉnh miền duyên hải và các đô thị nhượng địa như Tourane, Hải Phòng, Hà Nội. Bằng mọi cách họ quyết đem Tin Lành ánh sáng của Lời Sự Sống vào những vùng tăm tối của quốc gia Việt Nam.

Ngôi nhà thờ nhỏ bé bằng tranh cất năm 1913 tại Tourane đã xơ xác mái, nhưng những người tin Chúa lúc ban đầu vẫn vững vàng, trầm lặng lớn lên trong đức tin. Giáo sĩ mặc dù được phép trở lại Việt Nam nhưng mọi hoạt động của họ đều bị hạn chế. Họ chỉ được tự do rao giảng Tin Lành trong thành phố Đà Nẵng thôi, không được ra khỏi Châu Thành. Tuy nhiên, Đức Thánh Linh đã làm một việc rất lạ, là khi nhà thờ ở Châu Thành được mở cửa lại thì dân chúng trong các vùng ngoại ô đến nghe giảng rất đông, viên thị trưởng thành phố Đà Nẵng lúc bấy giờ tuy là người Pháp nhưng rất có thiện cảm với các Giáo sĩ, ông đã dùng hết quyền hạn của mình để giúp đỡ cho việc truyền giảng Tin Lành được kết quả tốt đẹp.

Lúc bấy giờ tuy các Giáo sĩ đã nói tiếng Việt khá hơn nhưng vẫn chưa có thể giảng một cách thông suốt, do đó khó lôi cuốn được thính giả. Viên thị trưởng đã phải giúp đỡ bằng cách ra lệnh cho Cảnh sát trưởng hễ khi nào thấy nhà thờ mở cửa thì giúp đồng bào vào nghe giảng. Thật Chúa đã dự bị mọi cách để phát triển Tin Lành trong giai đoạn nầy. Ngài cũng đã sửa soạn và trang bị cho mọi người, ngay khi ông này còn là tín đồ ngoại giáo, trở nên môn đồ đắc lực lúc bấy giờ. Đó là vị giáo sư riêng của các Giáo sĩ. Ông thuộc gia đình khá giả, đã theo học chữ Hán mười lăm năm, nên rất quen thuộc với các pho sách Hán học. Môn thuyết giáo học mà ông có dịp nghiên cứu rất kỹ trước khi trở thành môn đồ Đấng Christ đã giúp ông rất nhiều trong chức vụ hầu việc Ngài.

Lúc đầu ông dạy tiếng Việt cho các Giáo sĩ, đến khi trở nên tín đồ và quyết dâng mình hầu việc Chúa thì các Giáo sĩ lại giúp ông làm bố cục bài giảng để giảng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 60

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

60

trong các buổi nhóm họp. Ông là nhà truyền đạo đầu tiên gây dựng công việc Chúa tại Đà Nẵng. Mỗi buổi nhóm do ông chủ tọa đều có rất đông người đến dự, trong số đó cũng có rất nhiều nhà trí thức. Tâm trạng của họ chẳng khác nào tâm trạng của người Pha-ra-si trong thời Chúa Jêsus. Họ thích đặt nhiều câu hỏi “hiểm hóc” để hạ nhục Chúa. Nhưng bao giờ họ cũng giải đáp cách dễ dàng và thỏa đáng. Kết quả là những người tự kiêu, những kẻ hay chế nhạo lần lần thức tỉnh phục thiện, bằng lòng cầu nguyện tin nhận Chúa. Sau ba tháng làm việc như vậy, Chúa đã đồng công nên có mười tám người trở lại với Ngài và cũng từ đó Hội Thánh Tourane được khai sinh. Nơi đây cũng là chi hội tự trị tự lập đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam kể cả Đông Dương.

Trong số hơn hai mươi thuộc viên của Hội Thánh bé nhỏ đầu tiên này, có bốn người thuộc hoàng tộc Việt Nam, ba người là phán sự của chánh phủ Pháp và ba người là nhân viên quan thuế. Nhắc lại việc này, chúng tôi không có ý phân biệt giai cấp, vì những nhân vật này về sau có liên quan mật thiết với những biến chuyển dồn dập của Hội Thánh.

Hội Thánh Chúa tại miền Trung phát triển rất mau. Số tín đồ tăng gấp đôi hằng năm và chẳng bao lâu thì số tín đồ tại Tourane và các vùng lân cận lên đến số một ngàn người. Thật chẳng khác nào cơn DỊCH TIN LÀNH truyền nhiễm vậy. Người tín đồ Tin Lành đi đến đâu thì có những cuộc thảo luận về Tin Lành đến đó. Phong trào truyền giáo Tin Lành lúc bấy giờ hết sức sôi nổi. Hầu hết những ai chăm chú thảo luận đều bị quyền năng Chúa bắt phục trở lại tin nhận Ngài.

Trong số tín đồ mới đó có một cụ bà thuộc gia đình khá giả ở Tourane. Bà cụ này vốn là một nhà kinh doanh đã gầy dựng rất nhiều sản nghiệp. Lúc đầu nghe tin các Giáo sĩ muốn mở một chi nhánh trong thành phố gần nhà bà cư trú để giảng đạo. Sẵn có một miếng đất muốn bán nên bà thường tới lui giao thiệp với các Giáo sĩ nhưng việc không thành, vì Giáo sĩ xin được một miếng đất tại làng Hải Châu (quê hương của chúng tôi). Bù lại, bà được Chúa bắt phục để trở nên môn đồ Ngài cách lạ lùng. Mặc dù gia đình cực lực phản đối nhưng bà cương quyết trung tín, nhờ cậy Chúa đổi mới đời sống. Chẳng bao lâu cụ đưa cả gia đình hai mươi lăm người gồm con trai, con gái, nàng dâu và các cháu chắt trở lại với Chúa. Những người nầy sau khi lìa bỏ đời sống cũ liền hăng hái xông pha vào chiến trường thuộc linh để làm chứng quyền năng của Chúa dẫn đưa những người khác đến với Ngài. Chiến thuật “vết dầu loang” đã được áp dụng hết sức tự nhiên với tất cả nhiệt thành nóng cháy. Do đó, có người cho rằng Tin Lành là một thứ Đạo “Cứu rỗi truyền nhiễm.” Và cũng vì thế mà Tin Lành được truyền ra cách nhanh chóng và kết quả mỹ mãn.

Trong số những người tin nhận Chúa đầu tiên, cũng có một người trước kia làm nghề phù thủy. Ông ta cũng là thủ từ tại một ngôi miếu trong làng. Một ngày nọ, ông cùng một số dân làng đến nhà nghe giảng Tin Lành, và sau khi nghe giảng, ông

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 61

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

61

chất vấn cặn kẽ về lẽ đạo cứu rỗi. Cuối cùng ông tin nhận Chúa trong khi đang say rượu. Giáo sĩ nghĩ rằng hột giống khó bề bắt rễ trên miếng đất chưa sửa soạn này. Nhưng ít lâu sau, ông được Chúa dạy dỗ và lần lần hiểu biết chân lý cứu rỗi. Ông khởi sự làm chứng cho dân làng về quyền phép của Chúa Jêsus, trừ ma đuổi quỷ rất phi thường hơn hẳn phù thủy. Đồng thời ông cũng chứng tỏ cho mọi người thấy hình tượng chỉ là những vật vô tri không có quyền năng chi cả! Dân làng thách thức ông phá hủy một hình tượng, ông không do dự đập bễ hàng loạt bỏ nằm ngổn ngang mà không hề sợ hãi. Dân làng chờ đợi một hình phạt của thần thánh giáng trên ông ta, nhưng một tháng qua ông vẫn khỏe mạnh và đời sống cảm thấy hạnh phúc hơn bao giờ hết. Dân làng rất lấy làm lạ và từ chỗ ngạc nhiên ấy họ bắt đầu thay đổi thái độ đối với ông. Chẳng bao lâu ông đưa đoàn đại biểu dân làng đến nhà giảng, trong đó có viên Lý trưởng và các hào mục chức sắc. Những người này thành thật xác nhận là họ đã nhận thấy bằng cớ chứng tỏ là Chúa Jêsus có quyền năng hơn ma quỷ và thần tượng, hơn nữa nếp sống của người tín đồ Tin Lành rất xứng đáng nên họ đến để tin nhận Chúa. Sau đó ít lâu, vị phù thủy này tình nguyện theo học trường Thánh Kinh ở Tourane và trở nên một trong số những Mục sư đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Ngoài ra còn có những năng lực đức tin rất lớn lạ trong Chúa, coi sự chết và nghĩa địa là cái cửa trần gian bước vào thiên đàng. Một trong những dẫn chứng là câu chuyện một chàng thanh niên mới trở lại tin Chúa tại Tourane. Người trai trẻ này sau khi tin nhận được ân cứu rỗi, đã sống một đời sống mới, hàng ngày rất ham mến Lời Chúa. Người quyết tâm dâng đời mình đi học Thánh Kinh với ý nguyện trở thành con gặt. Nhưng bởi ý Chúa, sau một cơn bệnh sơ sài người qua đời cách bất ngờ. Trước khi từ giã cõi đời, nét mặt người tươi sáng lạ thường, nói năng bình thản như một người sắp đi xa, căn dặn vợ ở nhà hãy trung tín với Chúa: “Tôi về với Chúa trước, rồi mình sẽ về sau – đừng buồn, nên vui mừng đón chào sự chết.” Sau đó từ giã những người thân yêu, và anh em tín đồ với một giọng rất tự nhiên: “Cửa thiên đàng đã mở, tôi đi.” Rồi tắt thở như người ngủ. Đám tang cử hành theo nghi lễ Hội Thánh, có nhiều người đồng hương đến dự. Đấy là lần đầu tiên họ chứng kiến một đám tang bao hàm ý nghĩa hy vọng chứ không phải tuyệt vọng. Quan niệm nầy thật đúng như lời Phao-lô đã nói: “Đối với tôi sống là Đấng Christ, và chết là ích lợi.” Người Cơ Đốc tin chắc sự chết chỉ là ngưỡng cửa bước vào một cuộc sống mới bình an và không còn đau khổ. Sự chết chính là niềm sung sướng cho những người trong Chúa, vì chết trong trường hợp nầy không có nghĩa là vĩnh biệt mà là còn hy vọng để gặp lại nhau theo lời hứa của Thánh Kinh: “Trong Đấng Christ mọi người đều sẽ sống lại”(ICo 15:22). Ngày xưa, ý nghĩa của cái chết như là một đổ vỡ, tuyệt vọng, nhưng hiện nay trong Chúa, chết là phương tiện để được sống. Sau đám tang nầy, có bốn mươi bốn người trong vòng bà con của chàng thanh niên trở lại tin nhận Chúa.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 62

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

62

Lúc bấy giờ, những người Tin Lành đi đến đâu thì Tin Lành cứu rỗi như dồn đến đó. Chỉ trong thời gian ngắn, một nhà thờ bằng tranh hoặc ngói sẽ mọc lên. Nhất là trong các vùng Hòa Vang, Duy Xuyên, Đại Lộc và Tam Kỳ thuộc tỉnh Quảng Nam. Mặc dù các Giáo sĩ bị cầm chân trong các thành phố nhượng địa, nhưng Tin Lành vẫn được truyền ra vì mỗi tín đồ là một chứng nhân đắc lực. Họ trung tín nhóm lại thờ phượng Chúa mỗi Chúa nhật, sau đó trở về làng làm chứng ơn Chúa đưa dắt nhiều gia đình đồng bào đến với Ngài. Làn sóng Tin Lành mạnh như thác lũ. Cách ăn nết ở của tín đồ là những bài giảng sống đầy năng lực biện chứng cho đức tin. Chỉ một thời gian ngắn tiếng nói của Tin Lành đã lan rộng toàn tỉnh Quảng Nam và các vùng lân cận. Lửa Thánh Linh bùng cháy trong lòng mỗi cá nhân tín đồ. Ánh sáng đã bừng lên trong đêm tối...

3. Tin Lành Trong Những Cơn Bắt Bớ.

Ánh bình minh vừa ló dạng thì những áng mây mù cũng lần lượt kéo đến mịt mù trên nền trời giáo hội Việt Nam. Giữa những năm 1926-1928 nhà cầm quyền ra mặt bắt bớ Tin Lành tại miền Trung, nhất là tại các tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa. Viên Tổng Đốc tỉnh Quảng Nam ra lệnh triệt hạ một nhà thờ đang xây tại huyện Quế Sơn trong khi anh em tín đồ đang sửa soạn lợp mái. Ông truyền đạo có trát đòi đến huyện đường rồi sau đó được giải đến viên Công sứ tại Faifo (Hội An) để thẩm vấn, ông đã bị làm khó dễ đủ điều. Đầu tháng 5, 1928 các ông Mục sư Ông Văn Huyên và Truyền đạo Đặng Ngọc Cầu sau khi tốt nghiệp trường Thánh Kinh liền đến cù lao Lý Sơn (tức cù lao Ré) để làm chứng và phân phát Lời Chúa cũng bị viên Tổng Đốc Quảng Nam ra lệnh bắt đưa về giam ở nhà lao Quảng Ngãi, sau đưa về nhà giam Quảng Nam với bản án ba tháng tù ở, vì lý do vi lệnh. Nhưng hai ông đã bị giam hai tháng trước rồi nên tháng thứ ba được phép trả tiền thục để ra.

Biến cố nặng nề nhất và cũng làm chấn động dư luận nhất là vụ cụ Mục sư Phan Đình Liệu bị bắt tại Nha Trang Thành ( Khánh Hòa). Lúc đó toàn tỉnh Khánh Hòa chỉ có một nhà giảng, thuê tại Nha Trang Thành và số tín đồ chỉ vỏn vẹn có ba gia đình. Cụ mục sư Phan Đình Liệu đi làm chứng và thăm tín đồ, viên Tuần Vũ liền cho lính bắt giải về nguyên quán ở tỉnh Quảng Nam. Tại đó, trước mặt các viên chức chính quyền, cụ mạnh dạn đứng lên tự biện hộ cho mình. Cụ đã trình bày rõ ràng về mục đích hoạt động của cụ chỉ nhằm làm chứng Tin Lành cứu rỗi và tình yêu thương của Đức Chúa Trời đối với thế gian. Chính Chúa Jêsus là Đấng Cứu Thế, bằng lòng chịu chết trên cây thập tự giá vì tội mọi người, nên hễ ai tin nhận Ngài tức khắc trở nên người mới, thoát khỏi xiềng xích tội lỗi.

Thấy không có lý do để buộc tội cụ, họ liền thả cụ ra với lời đe dọa “không nên giảng đạo nữa.” Nhưng khi về đến Nha Trang Thành cụ lại tiếp tục hoạt động rao truyền ơn cứu rỗi và hăng hái làm chứng về Chúa Jêsus. Nhà cầm quyền càng căm tức nhất là viên Tuần Vũ tỉnh Khánh Hòa nên tìm cách bắt và đưa về giam tại nhà

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 63

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

63

giam Nha Trang với bản án sáu tháng tù ở cũng vì lý do vi lệnh. Họ đối xử với cụ như những thường phạm và hơn nữa cố bạc đãi như một trọng phạm để làm nhục cụ. Nhưng cụ Mục sư Phan Đình Liệu chẳng buồn phiền chi cả, trái lại rất thản nhiên vui sống với tất cả các tù nhân và tìm dịp làm chứng Tin Lành cho họ. Cụ sẵn sàng làm tất cả những công việc nặng nhọc lao khổ mà chẳng hề phản đối.

Nơi giam giữ cụ Mục sư Phan Đình Liệu, ảnh của cụ ở góc trên

Nhưng cái tin một vị Mục sư bị kết án sáu tháng tù ở vì cớ giảng Tin Lành từ miền Trung lan ra chẳng những làm xôn xao tín đồ Tin Lành tại Việt Nam mà còn làm chấn động tín đồ Tin Lành thế giới nhất là tín đồ Tin Lành Pháp. Nhân dịp nầy cụ Phan Nhứt Thuyên, một tín đồ Tin Lành ở huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam có sáng tác một bài thơ như sau:

“Ma tha quan bắt nghĩ mà phiền

Cái kiếp phong trần khéo đảo điên

Hai chữ Tin Lành Âu, Á cũng,

Một cơn sấm sét đất trời riêng.

Nhớ ơn cứu rỗi quên gươm súng,

Nặng gánh yêu thương nhẹ xích xiềng.

Dầu tội dầu tù tuy cũng sướng,

Còn hơn nạn Phật với tai Tiên.”

Phan Nhứt Thuyên

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 64

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

64

Trong khi đó thì cụ Mục sư Phan Đình Liệu vẫn bình thản sống trong lao tù. Cụ vui sướng được dự phần trong sự thương khó của Đấng Christ. Cụ không quên câu chuyện Phi-e-rơ bị giam trong tù và sự cầu nguyện thiết tha của Hội Thánh. Cụ tin chắc Hội Thánh đang cầu nguyện cho mình, do đó hằng ngày cụ kiên nhẫn làm chứng về tình yêu thương của Đức Chúa Trời và ân sủng của Chúa Jêsus cho từng tù nhân trong khám. Kết quả có mười chín người trong lao tin nhận Chúa, cụ sửa soạn lập một Hội Thánh trong nhà giam. Việc đó đã làm cho nhà cầm quyền căm tức hơn nhưng đồng thời điều đó cũng chứng tỏ cho họ thấy rằng họ có thể gông cùm tay chân, nhưng không thể khóa miệng một người đã biết ơn cứu rỗi của Chúa.

Trong nhà giam, cụ Mục sư Phan Đình Liệu đã cảm tác bài thơ sau đây:

Tra xem lịch sử trải nghìn thu

Mới thấy trong lao Hội Thánh tù [2]

Sở bãi [3] lui về ăn dưới cỏ

Ngủ rồi thức dậy tiểu trong lu [4]

Cùm săn chơn cứng vừa in khít

Cơm vắt [5] trời nuôi cũng mập ù

Cánh cửa lao lung dù khóa chặt

Khôn ngăn lòng đến Chúa Jêsus.

Ý nghĩa bài thơ nầy chứng tỏ không gì có thể phân rẽ chúng ta khỏi sự yêu thương của Đấng Christ.

Ngày 15-10-1968 chúng tôi từ Hà Nội vào Sài Gòn bằng xe hơi theo Quốc lộ I. Tiện đường chúng tôi ghé lại lao xá thăm cụ Mục sư Phan Đình Liệu và trao tặng cái “rề-xô” dầu, ngay trước cửa nhà lao. Khi tôi trao cái rề-xô cho cụ, thì bà W. C. Cadman đứng bên kia đường chụp ngay được một tấm ảnh. Tấm ảnh đó làm bằng chứng cho việc Tin Lành bị bắt bớ và vị Mục sư bị cầm tù tại Việt Nam. Về đến Sài Gòn bà Cadman liền viết một bài tường thuật với đầy đủ chi tiết gởi cho một Nghị Sĩ Quốc Hội Pháp kèm theo tấm ảnh bà đã chụp được. Ít lâu sau hồ sơ về vụ bắt bớ nầy được đưa ra thảo luận sôi nổi tại Quốc hội Pháp. Nhiều câu hỏi được nêu lên để chất vấn chính phủ, đại khái như: Tại sao Tin Lành bị bắt bớ tại Việt Nam? Tại sao Mục sư bị giam cầm?

Sau cuộc tranh luận ấy tại Quốc Hội Pháp, ngày 5-12-1929 chính phủ Pháp và Nam Triều ban hành một sắc lệnh mới. Sắc lệnh nầy nhằm thu hồi sắc lệnh của Toàn Quyền Đông Dương đã ký vào tháng chạp, 1915. Như vậy, trên lý thuyết, Tin Lành không còn bị ngăn cấm nữa, nhưng trên thực tế Mục sư Truyền đạo vẫn luôn luôn bị theo dõi gắt gao. Nếu vấp phải một sơ hở nào thì liền bị bắt giữ hoặc làm

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 65

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

65

khó dễ ngay. Đơn xin cấp giấy phép cất nhà giảng hoặc mở phòng giảng phải chờ hằng năm vẫn chưa được trả lời.

Theo án lệnh, thì cụ Mục sư Phan Đình Liệu phải ở tù sáu tháng, nhưng mới hơn ba tháng cụ được “ân xá.” Vừa ra khỏi nhà tù cụ lại bị trục xuất khỏi vùng đất bảo hộ, nghĩa là ra khỏi miền Trung. Cụ vào Nam tiếp tục giảng Tin Lành cho đến năm 1935 mới được trở về quê quán.

3. Chứng Thực Quyền Chúa

(Của cụ Mục Sư PHAN ĐÌNH LIỆU) thuật lại việt cụ bị bắt bớ.

Kính gởi ông Nguyên Hội Trưởng

Mục sư Lê Văn Thái

Cuộc bắt bớ dữ dội và sự khó khăn của tôi tại miền Nam Trung phần như sau đây:

- Tháng chạp năm 1927, mướn được một căn nhà tại thị tứ Ninh Hòa, sắm sửa bàn ghế, tôi và các tín đồ nhóm lại cầu nguyện. Ông Cò (họ nói ông nầy xuất thân từ nhà mồ côi Thiên Chúa Giáo) tay cầm gậy đập bàn giảng và đánh đuổi chúng tôi, không cho họp tại đây nữa.

- Chúng tôi phải bỏ chỗ này, trở về nhóm tại nhà ông Thừa như cũ.

- Đầu năm 1928, có một người quen tên là Xã Lợi từ Phan Rí ra Nha Trang nghe giảng rồi mời tôi vào đó giảng đạo Chúa cho nhiều người nghe, ở tại Phan Rí hai ngày làm chứng và bán sách.

Ông Đồn Phan Rí (người Pháp) bắt tôi còng tay lại giao cho hai tên lính tập giải vào Phan Thiết làm án, vì tôi đi chậm một chút thì hai tên lính đó lấy nịt da quất ngang đầu cổ. Khi giải đến quan Công Sứ, coi tờ trình của quan Đồn rồi, quan sứ cười rồi bảo lính mở còng cho tôi. Đoạn ông Sứ an ủi tôi rằng: Thầy ơi, người Pháp không bao giờ bắt đạo Tin Lành đâu. Chuyện rắc rối nầy xảy ra vì Đạo ghét Đạo đó thôi, thầy cứ an tâm trở về Nha Trang hành đạo.

- Mùa hè năm 1928, tại Nha Trang, tuy giảng đã năm rồi, nhưng quan Sứ cho phép bằng miệng chứ không có minh văn đành rành. Thừa lúc ông Travis đi vắng, quan huyện Vĩnh Xương và quan Bang Tá đồng đến nhà giảng hỏi tôi và bảo cho coi giấy phép được thiết lập Hội Thánh Tin Lành tại Nha Trang. Tôi thưa, quan Khâm Sứ cho phép Giáo sĩ Hội Trưởng Irwin mở giảng tại đây đã hai năm rồi, tôi mới đến sau không có nắm giữ giấy phép (kỳ thực cho bằng miệng thôi).

Quan huyện: không có giấy phép thì phải dẹp bàn ghế đi và hạ tấm bảng Hội Thánh Tin Lành xuống.

- Bẩm quan, tôi không có phép hạ tấm bảng đó xuống, vì lệnh quan Khâm Sứ cho ông Irwin treo lên đã hai năm rồi.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 66

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

66

Hai ông nầy bắt ép tôi đủ cách phải hạ bảng xuống.

- Bẩm quan, tôi không dám hạ, vì là chẳng những phạm lỗi với Hội Thánh, mà còn trái lệnh của quan Khâm sứ nữa.

Quan huyện sai lính giải tôi về giam trong lao hai ngày, ép tôi phải hạ bảng Hội Thánh Tin Lành xuống, tôi cứ hát thơ thánh và cầu nguyện tại lao, kêu Chúa cứu tôi, nước mắt sa dầm dề. Quan huyện cảm động, bảo tôi làm tờ khai: Đạo nầy từ nước nào? Ai sai ông đến giảng tại đây?

Tôi khai rằng: Nguồn đạo từ Đức Chúa Trời và chính Ngài sai tôi đến đây giảng Tin Lành để cứu linh hồn đồng bào ở Nha Trang.

Cuối tờ khai thường lệ phải viết rằng: “Vì thử tư tờ khai,” năm chữ ấy tôi thay vì hai chữ “A-men.”

1. Quan huyện tức cười tha tôi về Nha Trang.

Trục Xuất Khỏi Phan Rang

Cùng lúc (1928) tôi vào đây thuyết giảng tại nhà tín đồ tên là Nguyễn Thanh (thợ may, tín đồ Đà Nẵng). Quan Công Sứ kêu tôi vào phòng riêng kéo thập tự giá đeo trong cổ đưa tôi xem và bảo rằng: tôi dù là người Thiên Chúa, mà tôi không bắt Đạo Tin Lành. Thầy nghe rõ nầy: Ông Nguyễn Hữu Bài, viện trưởng Viện Cơ Mật ở Huế, ông có sứ về cấm đạo Tin Lành, chính tôi là người dưới quyền Cơ Mật, nhưng theo lương tâm của mỗi người Pháp, tôi không bắt đạo được. Thầy là người nước Nam, không thể trái lệnh. Giờ tôi khuyên thầy vô Nam Kỳ giảng tự do hơn. Chúc thầy mạnh khỏe.

2. Hai Lần Tù Tại Khánh Hòa Và Nha Trang

Dầu có sự bắt bớ tại Nha Trang và Ninh Hòa như ở trên đã nói. Từ mùa hè năm 1927, 1928 nhờ ơn Chúa mở được hai Hội Thánh mới tại chợ Thành, Phan Rang. Chỗ nầy là một khu vực riêng của Đạo kia, vì cớ đó, tôi và ông bà Travis cùng sáu tín đồ đang nhóm cầu nguyện buổi chiều. Thình lình tỉnh sai Quản Cơ đem một tiểu đội đến vây, dùng roi mây đánh trên đầu chúng tôi, chỉ trừ ông bà Travis không bị đánh. Họ giải tôi và sáu anh em tín đồ về lao. Tôi bảo họ, là tôi chịu trách nhiệm vì Tin Lành, còn sáu anh em đây nghe tôi giảng mà tin Chúa. Vì vậy, tối lại họ trả tự do cho mấy anh em tín đồ. Còn tôi bị giam luôn hai tháng. Quan tỉnh cắt hai tên lính giải tôi về Quảng Nam! Sau đó một tháng, tôi cùng ông Mục sư Lê Văn Thái, cụ Cadman (bấy giờ cụ Cadman là chủ nhiệm Thánh Kinh Báo, hợp tác với Thánh thơ Công Hội do cụ Tôn Thất Thùy và làm Chủ Nhiệm Hội Truyền Giáo Liên Hiệp cùng ông Jackson anh, cụ Van Hine và các Truyền Đạo Việt Nam đang tận tụy hầu việc Chúa tại Bắc Việt) đi dự Đại Hội Đồng Tổng Liên tại Nam Phần, ghé lại Nha Trang hai ngày. Ban ngày chúng tôi phân phát sách ngoài phố và làm chứng đạo. Tối lại, tôi và cụ Cadman, ông Mục sư Lê Văn Thái giảng tại nhà giảng hơn một tiếng đồng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 67

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

67

hồ, lính áp lại bắt chúng tôi giải đến quan Công sứ. Ông Sứ thả cụ Cadman và ông Mục sư Lê Văn Thái đi lại tự do. Còn tôi, họ giải lên tỉnh Khánh Hòa rồi tống giam. Họ lên án vi lệnh, phạt giam tôi năm tháng khổ sai. Hai tháng đầu giam tại lao tỉnh, tôi cầu nguyện suốt đêm, hát thánh ca lớn tiếng vang dội vô dinh các quan, có lẽ vì mất giấc ngủ nên quan án ra lệnh giải Phan Đình Liệu xuống Nha Trang cho gần Hội Thánh Tin Lành! Kỳ thật, họ muốn tống tôi xuống lao chính cho đội đề lao người Thượng có tiếng hung dữ, để trị tội tôi cho bỏ ghét. Song đường lối của Chúa là khác, Ngài đã dùng tôi ở đó để cứu mười hai phạm nhân, mỗi tuần chúng tôi nhóm, giảng và cầu nguyện. Ở trong lao nầy thật như một Hội Thánh nhỏ ở đây vui quá, bà đội đề lao và thầy đội dầu chưa có đức tin nhưng có vẻ kính sợ Chúa và yêu mến tôi lắm. Khi tôi mãn tù ra, ông bà bảo tôi rằng: “Phải chi được phép, tôi nguyện lưu ông Ha-lê-lu-gia (họ đặt tên tôi) ở lại đây ít tháng nữa cho đỡ buồn! Thật mâu thuẫn đến tức cười. Tôi được ra, còn họ muốn lưu lại.”

Nghiệm xét lại sự tù đày ở đây, không phải tự tay người ta mà là do ý Chúa đặt tôi ở đó để làm ba điều quan trọng sau đây:

1. Nếu tôi không vô lao ở bảy tháng, thì ai được phép vào đó mà giảng đạo. Dịp nầy tôi làm chứng cho hai người lính và mười hai người tù tin Chúa. Cứ mỗi ngày đều nhóm lại học Phước Âm Yếu Chỉ, và các ngày lễ cũng đều có nhóm họp thật vui, thành ra một Hội Thánh nhỏ trong nhà lao.

2. Toàn cõi Việt Nam trước đây chưa có phép giảng Tin Lành tự do. Nhân dịp tôi bị tống giam tại lao Khánh Hòa lần thứ hai, ông mục sư Lê Văn Thái tay bưng chiếc đèn nấu nước (rề-sô) tặng tôi tại cửa lao, cụ Cadman chụp một tấm ảnh nầy đăng lên các báo Pháp, Mỹ, Gia-nã-đại.

3. Tại Pháp, họ đem việc nầy đạt đến Thượng Nghị viện Pháp nên Thượng Nghị viện Pháp biểu quyết xin chính phủ Pháp cho Hội Thánh Tin Lành được tự do giảng đạo ở toàn Đông Dương, từ nay không còn ai được phép bắt bớ như trước nữa.

Tôi làm mấy bài ca số 68 và 329 để tập cho anh em trong lao hát và dịch bộ Thần đạo học bằng chữ Hán ra chữ Quốc ngữ cho ông Đốc học Olsen tham khảo đặng trước tác thành cho bộ Thần đạo học hiện đại.

Ngày 22 tháng 10, năm 1969

Mục sư Trí sự Phan Đình Liệu tường thuật

Câu chuyện bỏ tù một Mục sư Tin Lành An Nam và tinh thần kiên trung của ông khi bị bắt bớ đã đến tai các nhà lãnh đạo Tin Lành ở Pháp. Lúc chúng tôi bị cấm đoán ở Trung Kỳ, các anh em đó chưa đủ sức để bảo trợ công tác truyền giáo ở ngoại quốc, nhưng Hội Thánh Tin Lành An Nam đã trở thành một yếu tố trong sự phát triển Tin Lành. Họ đưa vấn đề ấy ra trước Quốc hội ở Paris và chẳng bao lâu, Hoàng đế An Nam đã có một sắc thư như sau:

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 68

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

68

Chiếu Hiệp ước ngày 6-6-1884:

Điều 1- Các Mục sư Tin Lành Pháp không bị hạn chế trong việc thờ phượng và truyền Tin Lành.

Điều 2- Một giấy phép sơ khởi sẽ được cấp cho các Hội Truyền giáo ngoại quốc thuộc mọi tín ngưỡng và các hàng giáo phẩm ngoại quốc thuộc mọi tín ngưỡng.

Điều 3- Đơn xin phép sẽ do các đương sự đệ nạp cho Tòa Khâm sứ và được xét tại cuộc họp của Viện Cơ mật để đệ trình lên Hoàng thượng duyệt xét, hay quan Phụ chánh duyệt xét, nếu Hoàng thượng còn vị thành niên. Quyết định sẽ được trao Tòa Khâm sứ ban hành.

Điều 4- Mọi thể thức đang áp dụng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với thể thức nầy.

Điều 5- Thượng thơ Bộ Lễ và Đổng lý văn phòng Tòa Khâm sứ chiếu nhiệm vụ thi hành sắc lệnh này. Sắc lệnh nầy tương đương với sắc chiếu của Hoàng Đế.

Đã đọc và chấp thuận:

Giám đốc

Huế, 5-12-1929 Huế, 4-12-1929

Ký tên Ký tên

TÔN THẤT HÂN JABOUILLE

B. DIỄN TIẾN CỦA CÔNG CUỘC TRUYỀN GIÁO

Thể theo đà tiến triển ấy, cao trào truyền giảng Tin Lành cuồn cuộn dâng lên như thác lũ. Công việc Chúa chẳng những phát triển mạnh ở miền Trung mà còn tiến lần vào Nam với những thành quả rất đáng khích lệ.

Song song với sự hỗ trợ đặc biệt bởi ơn và quyền của Thánh Linh, tinh thần hăng say hoạt động vì Chúa vì người của những Giáo sĩ tiền phong đã khiến cho toàn thể các con cái Chúa thức tỉnh, sốt sắng tham gia công việc truyền giáo, cố gắng vượt qua tất cả mọi đều khó khăn, gian khổ, với quyết tâm đem Tin Lành đến toàn cõi Việt Nam trong một thời gian ngắn nhất. Ý chí ấy đã được Thánh Linh nung nóng và bảo tồn cho đến ngày nay.

Để quý vị độc giả có thể biết rõ hơn về những hoạt động của đoàn truyền giáo tiền phong, tôi xin trích thêm một đoạn trong quyển: “ĐẤNG CHRIST TẠI ĐÔNG DƯƠNG” của cụ E. F. Irwin nhằm kể lại những diễn tiến của công việc Chúa cùng với những giai thoại xảy ra tại miền Trung và miền Nam Việt Nam, sau khi hoàn thành công tác tại Đà Nẵng và các vùng lân cận.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 69

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

69

1. Cứ Điểm Hội An:

“Các Giáo sĩ đến Hội An tìm địa điểm lập nhà thờ. Họ đã chuẩn bị một số tiền khá lớn để thuê nhà, nhưng tìm kiếm khắp nơi trong nhiều ngày, vẫn không tìm được một chỗ nào thích hợp. Cuối cùng khi sắp quay về Đà Nẵng, họ có dịp đi ngang qua cổng ngôi nhà của một người Trung Hoa đang bỏ trống. Họ vào xem thử và không thấy có ai ở đó cả. Nhà gồm ba căn: căn ngoài khá rộng, kế đó là một sân lộ thiên, rồi đến một nhà lầu. Tầng dưới của căn này có thể làm một giảng đường chứa được hai trăm người. Phía sau lại còn một căn nhà khác nữa với miếng vườn khá rộng. Thật là một địa điểm lý tưởng cho công việc của giáo hội, có đủ chỗ để làm một nhà thờ và nơi cư trú cho một gia đình truyền giáo.

Đây là ngôi nhà của một người Trung Hoa chuyên nghề nấu rượu; nhưng không biết lý do vì sao ông ta thắt cổ tại đó. Người hàng xóm rất sợ căn nhà này bảo là trong đó có ma. Khi các Giáo sĩ ngõ ý muốn thuê thì người chủ sẵn lòng với giá tượng trưng. Toàn thể tín đồ khi hay tin đều lấy làm vui mừng, vì đây là dịp tiện chứng tỏ cho bạn bè ngoài đạo của họ thấy rằng, họ không còn sợ ma quỷ nữa. Hội Thánh lớn lên và phát triển mau lẹ. Cho đến khi mãn hạn sáu tháng và đến lúc số tiền dự bị cho công việc mở mang ở đây đã cạn, thì các tín đồ đã đủ sức để trả hết tất cả mọi chi phí.

Song song với công việc Chúa tại Hội An, một nhóm người khác trở về làng Phong Thử (cách Hội An ba mươi cây số) để làm chứng về Chúa. Phần đông những người này đều tiếp nhận Chúa tại Hội An khi có dịp đến nghe giảng. Lúc số tín đồ tại đây lên đến năm mươi người, vị Giáo sĩ liền đến viên Khâm sứ để xin cho họ được đặc ân nhóm lại thờ phượng Chúa tại làng của mình. Cũng như lần trước, viên Khâm sứ thấy không có gì trở ngại nên bằng lòng cho phép ngầm, không có giấy tờ chính thức. Các tín đồ hiệp lực xây cất nhà thờ, nhưng khi xong, dù phải đợi một thời gian khá lâu, họ vẫn không được làm lễ khánh thành, vì viên chức sở tại không có thiện cảm với Tin Lành, nên trong thời gian này họ cho phép một vị Linh mục mở một nhà thờ Công giáo tạm ở đó. Khi các Giáo sĩ đến thông báo ngày mở cửa nhà thờ, thì người này bảo là đã có một nhà thờ Công giáo ở đó rồi, không nên mở nhà thờ Tin Lành ở chung một chỗ.

Vị Giáo sĩ liền trở lại gặp viên Khâm sứ để trình bày tất cả sự việc. Viên Khâm sứ rất ngạc nhiên, ông bảo là có nghe nói về một nhà thờ mới ở Phong Thử và tưởng đó là nhà thờ mà ông chấp thuận. Khi biết rõ đầu đuôi câu chuyện, ông rất bất bình, nhưng chuyện đã dĩ lỡ rồi ông khuyên vị Giáo sĩ tốt hơn là nên khoan mở nhà thờ Tin Lành tại đó một thời gian. Trong lúc đó thì vị Linh mục Công giáo cố thuyết phục các tín đồ Phong Thử nhập vào nhà thờ ông ta, nhưng rốt cuộc ông ta phải thất vọng vì không một ai chịu đổi ý cả. Họ cứ tiếp tục đi bộ hai mươi cây số để đến nhóm họp thờ phượng Chúa mỗi Chúa nhật tại Hội An. Mãi đến hai năm sau,

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 70

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

70

họ mới được phép làm một nhà thờ riêng ở làng Lạc Thành kế cận chớ không được lập ở Phong Thử.

Trong số tín đồ này có hai vợ chồng cụ già kia, chồng tám mươi mốt tuổi còn bà vợ nhỏ hơn vài tuổi, cả hai rất trung tín. Mỗi Chúa nhật họ đi bộ ba mươi cây số đến nhà thờ rồi khi thờ phượng Chúa lại trở về. Một Chúa nhật nọ, cụ già đến với vị Giáo sĩ xin cầu nguyện đặc biệt cho cụ. Cụ nói: “Sáng Chúa nhật nào đến nhà thờ tôi cũng cảm thấy mệt.” Vị Giáo sĩ nghĩ rằng sức mình còn trẻ cũng phải mệt nếu đi bộ ba mươi cây số dưới trời nắng gay gắt. Tuy nhiên, các Giáo sĩ cũng hiệp nhau lại cầu nguyện cho cụ. Sáng Chúa nhật tuần sau trở lại, cụ cảm tạ Chúa vì không thấy mệt chút nào. Đức tin đơn thuần nhưng mãnh liệt như thế đã khiến chúng ta là những tín đồ lâu năm phải hổ thẹn. Đó là niềm tin của một em bé và Chúa Jêsus bảo một đức tin như vậy có thể dời núi được.

Khởi điểm từ Hội An, Chúa cũng đã cho phép mở một chi nhánh tại Tam kỳ, cách Hội An chừng bảy mươi cây số về phía Nam. Tại đây Chúa dùng một bà cụ trở lại với Ngài bởi lời làm chứng của một bà bán thuốc. Đầu đuôi câu chuyện như sau: Một ngày nọ, trong lúc bà chủ tiệm đang trông coi cửa hàng, bỗng thấy một bà lão đi ngang qua, dáng điệu rất bực tức pha lẫn buồn rầu. Những người quen biết qua đường, hiếu kỳ đứng lại hỏi thăm. Bà cụ già liền than thở cho rằng mình bạc phước. Số là bà có một người con trai, đã lấy của bà một số tiền lớn đem đi đánh bạc thua hết, rồi trốn đi biệt. Cho nên bà đi tìm và hễ gặp ai bà liền bảo rằng nếu gặp thằng con bất hiếu, bà sẽ đánh cho chết. Thâm tâm bà không có ý định giết cậu con, nhưng nhất định sẽ đánh cho một trận nên thân. Xin nói rõ là cậu con trai ấy ít nhất cũng đã hai mươi lăm tuổi, đã có gia đình và ở riêng.

Bà tín đồ liền mời bà cụ vào tiệm nghỉ chân và chăm chỉ nghe bà kể lể các chuyện đau buồn xảy ra trong gia đình bà. Nhân cơ hội ấy, bà tín đồ liền kể cho bà cụ nghe những sự buồn bã, hoạn nạn trong đời mình, nhưng sung sướng thay khi đã tìm được Đấng giúp đỡ. Bà thuật lại đầu đuôi câu chuyện thể nào Chúa đã cứu bà. Đây là lần đầu tiên bà cụ già nghe được một câu chuyện lạ lùng như vậy nên rất chú ý. Cuối cùng bà cụ già tỏ ý muốn có một Cứu Chúa. Thế là hai bà liền quỳ gối ngay trong tiệm thuốc để cầu nguyện. Ngay trong giờ phút ấy, bà cụ đã nhận được tình yêu thương và sự tha thứ của Chúa Jêsus.

Sau một hồi chuyện vãn, người nữ tín đồ nói lại: “Bây giờ cụ đã là con cái của Chúa, nên cụ có thể đem những công việc khó khăn trình với Ngài. Ngài sẽ lấy tình Cha con mà giúp đỡ cho.” Hai người lại quỳ gối cầu nguyện xin cho người con trai ấy trở về. Bấy giờ lòng bà mẹ không còn muốn đánh con nữa. Trái lại, bà muốn dẫn cậu con đến gặp Chúa của bà, là Đấng có thể giải cứu cậu khỏi tội lỗi và cờ bạc. Khi cầu nguyện xong, hai bà nhìn lên thì thấy người con trai đang đứng ngoài đường. Bà cảm động thấy lời cầu nguyện của mình được nhậm một cách lạ lùng như vậy, nên nói: “Đây mới thật là Đức Chúa Trời.”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 71

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

71

Hai bà liền gọi người thanh niên vào nhà và kể cho chàng biết về Cứu Chúa mà mẹ chàng đã gặp. Sau đó người thanh niên bằng lòng tiếp nhận Ngài. Rất có thể, khi gặp mẹ, thấy bà không tỏ vẻ giận dữ nên chàng mới sẵn sàng tin nhận Chúa như vậy. Nhưng sau đó chàng bị bắt phục bởi ơn của Chúa và hai mẹ con vui vẻ trở về làng làm chứng về Đấng đã cứu mình và sẵn sàng nghe lời cầu xin của mình.

Mấy tuần sau, vị Giáo sĩ đặc trách vùng đó, vị Mục sư Hội Thánh Hội An cùng người nữ tín đồ trên đây được mời đến Tam Kỳ để thăm gia đình bà cụ. Trong nhà bà, những bạn hữu và thân nhân tụ tập rất đông đảo để nghe về Chúa Jêsus. Ở lại hoạt động trong ba ngày và khi ba người trở về đã có năm mươi người nam và nữ tiếp nhận Chúa. Họ hiệp nhau lại thành lập một Hội Thánh. Về sau, chính quyền cũng cho phép ngầm để mở một chi nhánh tại đây.

Tiếp theo, một chi nhánh lớn khác được mở tại Đại An huyện Đại Lộc. Một chi nhánh nhỏ hơn được mở tại Nam Ô gần Đà Nẵng. Các chi phí cho chi nhánh Nam Ô đều do Hội Thánh Đà Nẵng đài thọ. Lúc bấy giờ Hội Thánh Đà Nẵng chẳng những có thể gánh vác lấy mọi chi phí mà còn có thể tán trợ hữu hiệu cho công cuộc truyền bá Tin Lành tại các vùng phụ cận. Sau đó ít lâu, ba chi nhánh khác được mở tại Trung Kỳ, một chi nhánh ở miền cực Bắc là Vinh và hai chi nhánh ở miền cực Nam là Nha Trang và Ninh Hòa. Tất cả các chi nhánh này được mở do sự can thiệp trực tiếp của quyền năng Chúa, vì Hội Truyền giáo lúc đó vẫn còn bị cấm hoạt động trong vùng đất bảo hộ. Mặc dù ngay từ lúc đầu, giáo hội được các viên chức trong chính quyền chấp thuận ngầm, nhưng mãi tới khi tín đồ lên đến hơn hai ngàn người mới được phép hoạt động chính thức.

2. Khu Vực Miền Tây Nam Phần

Song song với đà tiến triển nhanh chóng tại miền Trung và miền Bắc, công việc Chúa tại miền Nam cũng đã gặt được những thành quả rất khả quan. Số tín đồ ở các chi nhánh gia tăng đều đặn, do đó số chi nhánh cũng tăng theo gần như hàng loạt. Tuy kết quả vượt bực như thế nhưng không phải là chẳng gặp những ngăn trở khó khăn. Bất cứ nơi nào hễ có người quy đạo, họ thường bị bà con làng nước bắt bớ dữ tợn lắm.

Một trong những trở ngại khác nữa là người Việt Nam lúc bấy giờ thường có quan niệm sai lầm cho rằng Tin Lành là Đạo của người Mỹ. Do đó những kẻ thù nghịch Tin Lành dựa vào lý do ấy để tuyên truyền rằng hễ ai tin nhận Đấng Christ sẽ được tặng hai mươi Mỹ Kim và được gởi du học bên Mỹ. Chiến dịch tuyên truyền này càng lan rộng, các Giáo sĩ càng gặp nhiều phiền phức. Vì huyền thoại về nước Mỹ và vì tính ưa phiêu lưu để học biết những điều mới lạ của người bản xứ, lúc đầu họ đến từng người, sau đó từng đoàn hàng chục người với những chiếc va-li hoặc những gói hành lý sẵn sàng xuất dương. Các Giáo sĩ muốn điên đầu với họ vì không biết đối phó cách nào. Họ tuyên bố sẵn sàng tin bất cứ thứ gì, sẵn sàng chấp nhận

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 72

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

72

bất cứ hình thức tín ngưỡng nào, miễn là có hai mươi đô-la và được đi Mỹ. Sự thật, huyền thoại Mỹ Châu hùng vĩ đã được những người lính Việt Nam từng dự trận đệ nhị thế chiến trở về thổi phồng lên khiến mọi người có tính hiếu kỳ say mê. Họ nghĩ rằng “nước Mỹ” có nghĩa là “xứ đẹp.” Cho nên tất cả những gì của người Mỹ đều hoàn toàn đẹp… Dĩ nhiên những người tin tưởng như vậy không phải thuộc phần trí thức trong xã hội. Ngược lại, câu chuyện bịa đặt về các Giáo sĩ tung tiền mua chuộc người ta đã khiến cho giai cấp thượng lưu có thành kiến không tốt đối với Tin Lành.

Sau đây là một câu chuyện cười ra nước mắt: Có một vị Giáo sĩ đã yết trước cửa nhà thờ một tấm bảng nội dung như sau: “Không biếu tặng cho người đến tin Chúa một thứ gì cả.” Tác dụng của tấm bảng ấy đã chặn đứng được số người lũ lượt kéo tới vì một niềm tin bất chính, nhưng lại là một dịp để cho những kẻ thù của Tin Lành có cơ hội gây rối. Theo luật lệ hiện hành tất cả những bảng niêm yết như vậy đều phải dán tem của nhà nước, nhưng vị Giáo sĩ không biết nên không thi hành đúng đắn. Thế là có người ác ý đem việc đó báo cho một viên chức không có cảm tình với Tin Lành. Sau cùng, việc đó tới tai viên Thống đốc miền Nam. Tấm bảng bị gỡ xuống. Tuy được miễn nghị, nhưng vị Giáo sĩ này vẫn bị dân làng làm khó dễ, họ tìm hết cách để tố cáo Giáo sĩ có những hành vi chống đối chính quyền. Thỉnh thoảng khi nào muốn gây sự, họ lại đem câu chuyện này ra để nói.

Sự bắt bớ tiếp tục xảy ra dưới nhiều hình thức. Dân làng tìm hết cách để ngược đãi những người vừa tin đạo Chúa, như trường hợp sau đây:

Tại Mỹ Tho, ngày nọ có người đến với vị Giáo sĩ và cho biết mấy năm trước ông có nhận được một phần sách Tin Lành. Ông đã đọc thật kỹ và nhận thấy đoạn sách ấy đã phản ánh đúng con đường sống thật. Ông có ý định tìm người để xem thử cho biết thêm về Chúa Jêsus nhưng không có. Khi nghe nói nhà thờ Tin Lành đã mở cửa, ông liền đến để xem thử có phải đúng là Tin Lành mà ông đã đọc trong đoạn sách trước đó không. Ông rất mừng khi biết đó chính là Tin Lành mà ông đã đọc. Ông vui vẻ tiếp nhận Chúa. Sau đó ông từ bỏ tất cả mọi hình tượng và trở nên tín đồ chân thật trong Đấng Christ.

Cũng nên nói rõ ông này là người có nhiều thế lực và tiền của. Có thể bảo đây là hạng người rường cột mà Chúa thường tìm kiếm khi khởi sự mở một chi nhánh hay một nhà thờ mới. Ông cũng là một trong những nhân vật có địa vị cao khi dân làng tổ chức những cuộc tế lễ. Và dĩ nhiên, ông phải gánh phần lớn những chi phí về tiệc tùng ăn uống trong các cuộc lễ ấy. Khi trở thành tín đồ Đấng Christ, ông từ chối tất cả những tham dự như cũ. Do đó, dân làng rất bất bình.

Họ tìm đủ cách để thuyết phục ông đừng theo những “người ngoại quốc.” Danh từ này họ thường ám chỉ các Giáo sĩ. Khi nhận thấy ông cương quyết chối bỏ đời sống cũ, họ liền kiện ông về tội trốn thuế. Họ lý luận rằng phần đóng góp vào các

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 73

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

73

nghi lễ tôn giáo cũng là một hình thức đóng thuế của dân làng: Ông không “đóng thuế” họ có quyền bắt ông giam giữ và đánh đập. Họ giải ông từ nhà lao này đến nhà lao khác. Mỗi lần đổi chỗ như vậy họ lại đánh ông thêm một trận. Cuối cùng, nội vụ được đưa đến viên Chánh án người Pháp tại Mỹ Tho. Dĩ nhiên là ông được trắng án, vì tin Chúa không phải là một tội đối với pháp lý. Nhưng sự bắt bớ không dừng lại ở đó. Dân làng cố bới lông tìm vết để gây khốn khổ cho ông, nhưng nhờ đó ông đã tìm được cuộc sống thuộc linh với Chúa trong một không gian cao hơn, có thể giúp ông vượt qua tất cả mọi cảnh ngộ.

Ông là người được Đức Chúa Trời đại dụng để xây dựng Hội Thánh Ngài tại Mỹ Tho. Ông đã dâng phần lớn tiền bạc cho công việc Chúa. Những tín đồ khác lần lượt noi theo gương ông. Chẳng bao lâu họ xây được nhà thờ. Đó là nhà thờ đầu tiên do người Việt Nam xây cất ở miền Nam. Hầu như bất cứ lúc nào người ta cũng thấy ông ở nhà thờ cầu nguyện xin Chúa ban phước cho Hội Thánh. Do đó chúng ta không lấy làm lạ khi thấy Hội Thánh phát triển nhanh chóng. Hội Thánh Mỹ Tho đã nẩy nở thêm mười Hội Thánh khác là Tân An, Thủ Thừa, Gò Công, Long Hựu, An Hóa, Phú Thành, Bình Đại, Quới Sơn, Tân Thạch và Cai Lậy, với số thuộc viên hơn một ngàn người. Hội Thánh tại đây có nhà thờ riêng và tự trị về tài chánh, không lệ thuộc vào Hội Truyền giáo. Trong các Hội Thánh tại miền Nam, có rất nhiều người được Chúa chọn như ông ấy.

Chúng ta có thể gọi những người ấy là thành phần tuyển chọn vì chẳng những họ là tín đồ tốt, mà còn được Chúa dùng làm rường cột để xây Hội Thánh Ngài. Nhưng đôi khi cũng có những áng mây mù giăng mắc trên đời sống thuộc linh của họ. Trong trường hợp tín đồ ở Mỹ Tho này cũng vậy. Ông sa sút một thời gian, không đi nhà thờ đều đặn vì bất bình với Hội Truyền giáo về một vài vấn đề nào đó. Có lẽ ông cầu nguyện ở nhà, nhưng không thấy ông cầu nguyện ở nhà thờ như thường làm. Chẳng bao lâu ông sa ngã hẳn. Dầu vậy, Chúa vẫn thành tín và không loại bỏ ông.

Chúa có sẵn một đoàn thiên sứ để bảo vệ con cái Ngài khỏi nanh vuốt kẻ thù, nhưng đồng thời Ngài cũng có một con roi để sửa trị họ. Người tín đồ trên đây có một chiếc đò máy để đưa khách qua sông Cửu Long. Không biết nghĩ sao ông cầm ruộng cố đất để mua một cái máy mạnh hơn ráp vào đó. Khi máy được gởi tới thì lại lớn quá nên ông phải đóng một chiếc thuyền khác cho thích hợp. Như vậy, là ông có hai chiếc đò, nhưng số lợi tức thu ở bến đò không đủ để trang trải các chi phí.

Sau đó ít lâu, có một toán cướp vào đánh cướp một làng kế cận. Cùng trong đêm đó, một chiếc đò của ông biến mất. Nhưng rồi người ta tìm lại được cách đó mấy cây số với một số đồ ăn cắp còn trên thuyền. Rõ ràng là bọn cướp đã chiếm đoạt chiếc đò trong đêm ấy, nhưng những kẻ thù nghịch thấy đây là một cơ hội tốt để làm khó người tín đồ này. Ông đã chứng minh là mình đi những chỗ nào trong

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 74

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

74

đêm đó và quả quyết mình không phải kẻ cướp. Nhưng các chức việc trong làng vẫn bắt và giam giữ ông vì tình nghi. Có những bức thư nặc danh gởi thẳng cho các vị quan cao cấp và cho viên chánh án người Pháp, đại ý nói rằng: Người này rất nguy hiểm vì ngoài tội đang bắt giữ, ông ta còn phạm nhiều tội khác nữa. Hậu quả của những lời vu cáo ấy là ông bị giam luôn mấy tháng không được xét xử.

Trong thời gian bị giam giữ tại lao xá, Chúa đã đến với ông và đem ông trở lại sự thân hữu ngọt ngào với Ngài. Bởi đó lời làm chứng của ông rất có hiệu lực đến nỗi có nhiều bạn đồng tù được cứu. Họ thường họp nhau lại thờ phượng và hát ngợi khen Chúa trong nhà giam. Khi nội vụ được đem ra xét xử, tòa không tìm thấy một bằng chứng nhỏ nhặt nào khả dĩ kết tội ông, nên ông được ra về.

Trong suốt thời gian ông bị giam giữ, chiếc đò nằm ụ một chỗ. Cái máy trước đó ông mua rất đắt tiền, đến nay bị hư hỏng gần như vô dụng. Sự nghiệp ông kể như tiêu tan. Về sau có lần ông đã làm chứng trước Hội Thánh: “Tôi chỉ còn đôi bàn tay trắng, nhưng điều rủi ro này đã đem lại cho tôi cái may mắn khác, là nhờ đó tôi trở lại cùng Cứu Chúa.” Bây giờ Chúa thực sự ở với ông. Ông đang ở trong một sự tương giao không có gì so sánh được. Trong những ngày còn lại của cuộc đời, ông đã góp phần rất đắc lực trong việc xây dựng Hội Thánh Tân Thạch, nhà thờ tọa lạc trên vùng đất đối diện với Mỹ Tho bên kia bờ Cửu Long Giang. Điều an ủi sau cùng đối với ông là ông vẫn được sống trên sản nghiệp mà ông đã cầm cố vì chủ nợ thương tình nên không nở trục xuất.

Tại Sa Đéc, lúc đó cũng có một nông dân quê quán ở Cao Lãnh, cách xa thị trấn này độ một ngày đường về phía thượng lưu sông Cửu Long. Ông ta có dịp đến nghe các Giáo sĩ giảng Tin Lành và ông rất thích. Cho nên lần sau, ông trở lại và rủ theo rất nhiều bạn bè thân hữu. Sau nhiều lần tiếp xúc để biết rõ hơn về chân lý của Đạo Cứu rỗi họ bằng lòng tiếp nhận Jêsus làm Cứu Chúa của mình. Do những người này, một chi hội tại Cao Lãnh được thành lập trước cả Sa Đéc. Ít lâu sau, chi hội này trở thành Hội Thánh tự trị tự lập và được nhiều chi nhánh khác nữa. Một số đông tín đồ tại Cao Lãnh cũng đã dâng mình hầu việc Chúa cách đầy ơn.

Tại Cần Thơ, có một người thợ vàng quy đạo, cùng với gia đình. Sau đó ông trở thành một tín đồ nòng cốt góp phần đắc lực trong việc phát triển Hội Thánh vững mạnh hơn hết tại miền Nam. Chính Hội Thánh này đã gây dựng được nhiều chi nhánh khác. Tại một trong các chi nhánh ấy, có một tín đồ bị què một chân. Theo như người thế gian, người này là bất hạnh, nhưng trái lại, bất cứ ai đến cùng ông này đều nhận được nhiều ơn vì những lời làm chứng của ông. Bất cứ vị Giáo sĩ nào đến giảng tại Cần Thơ đều cảm thấy phấn khởi vì những tiếng “A-men” của ông luôn luôn phát ra từ góc nhà thờ.

Người tín đồ này đã có một kinh nghiệm rất đặc biệt. Trước khi nghe Tin Lành, ông đã nhận được khải tượng về một người ngoại quốc giảng đạo mới. Giấc mơ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 75

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

75

cho ông biết đó chính là Đấng mình nên thờ phượng. Ông tự ý loại bỏ tất cả hình tượng và thực hiện đúng theo những điều đã được chỉ dẫn trong giấc mơ. Đến khi gặp được vị Giáo sĩ đầu tiên đến mở Hội Thánh tại thị trấn này, thì ông nói ra ngay rằng đây chính là người ông đã thấy trong giấc mơ. Ông sung sướng nghe theo theo sứ điệp Tin Lành và trở thành một trong những tín đồ đầu tiên tại Tây Đô.

Tại thành phố Châu Đốc, công việc Chúa không tiến bộ mấy, nhưng ở Bình Long - một làng cách đó hai mươi lăm cây số, có một ông thầy pháp tin nhận Chúa và một Hội Thánh mới được thành lập tại đây. Sau đó, thầy thư ký của viên Tỉnh trưởng Châu Đốc cũng trở lại cùng Đấng Christ. Người này ít lâu sau đã xin nghỉ việc để theo học trường Thánh Kinh và đã trở thành một nhà truyền đạo. Cũng tại Châu Đốc, Tin Lành được truyền bá cho người Miên sống dọc biên giới Miên - Việt. Có một số người Việt gốc Miên được cứu và trong số này đã có người khi Tin Lành mở cửa tại Cambodge đã cộng tác rất đắc lực với các Giáo sĩ để truyền ơn cứu rỗi cho đồng bào họ.

Cùng với cao trào phát triển nhanh chóng đó, nhiều Hội Thánh được mở tại Long Xuyên, Rạch Giá, Thủ Dầu Một, Biên Hòa cũng như tại Vĩnh Long và Bạc Liêu. Tất cả những Hội Thánh đó đều sớm trở thành tự trị tự lập và gây dựng được rất nhiều chi nhánh.

Ở Cà Mau, vùng cực Nam nước Việt, viên Công sứ Pháp không chịu cho phép các Giáo sĩ đến giảng Tin Lành. Ông ta bảo rằng: “Đây không phải là chỗ để mở Hội Thánh. Dân cư ở đây rất độc ác. Miền này lại nằm đối diện với đảo Côn Lôn, quê hương lưu đày của người dân phạm pháp. Thỉnh thoảng có những can nhân tẩu thoát bơi vào đất liền và biến mất trong vùng đầm lầy Cà Mau. Nhiều người trong vùng lại là bà con hay là bạn bè của những tù nhân đang bị giam giữ trên đảo.” Vị Giáo sĩ liền nói ngay cho viên Công sứ biết: “Đó chính là hạng người mà chúng tôi cần đem Tin Lành đến cho họ. Vì Thánh Kinh chép rằng: “Đấng Christ đến trong thế gian để cứu vớt những kẻ có tội.” Ngài không phải đến để lập một nhà thờ cho những người công chính đến thờ phượng Đức Chúa Trời.” Về sau viên Công sứ miễn cưỡng cho phép. Và khi Tin Lành được đem đến giữa vòng những người này, thì Chúa tỏ ra quyền năng của Ngài, để chứng thật cho những lời mà Giáo sĩ đã nói. Chỉ trong một thời gian ngắn Chúa đã đem nhiều người đến với Ngài. Đức Thánh Linh đã hành động tại đây như Ngài đã hành động tại những tỉnh khác. Qua bao nhiêu biến thiên của thời cuộc, Hội Thánh Chúa tại Cà Mau vẫn đứng vững và bành trướng mạnh mẽ cho đến ngày nay.

3. Khu Vực Miền Đông Nam Phần

Trong khi công việc phát triển rất nhanh tại miền Tây Nam phần, thì trái lại - tại khu vực miền Đông Nam phần, nhất là vùng Sài Gòn - Chợ Lớn, công tác truyền giáo thật rất khó khăn. Đây là một thành phố lớn rất văn minh với tất cả những tiện

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 76

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

76

nghi xa hoa vật chất, nhưng lại không có Đấng Christ. Tình trạng văn minh mà không có Đấng Christ thì thật nguy hại hơn tình trạng ngoại giáo sơ khai. Vì những người ngoại giáo trong xã hội văn minh đã làm tăng thêm những cái xấu cố hữu của mình và tình trạng sau này của con người còn bại hoại hơn tình trạng trước kia nữa.

Nhưng Chúa đã sắm sẵn cho Ngài những người ở đó. Tại một thành phố kế cận có một điền chủ tin nhận Chúa. Có thể bảo ông là một trong số những người tín đồ đầu tiên. Tại đây một Hội Thánh được dựng nên trước khi Hội Thánh tại Sài Gòn được thành hình. Có một công chức trước kia là cai ngục ở Tourane và một người thợ hớt tóc tin nhận Chúa trước tiên. Họ trở thành những chấp sự trong Hội Thánh. Nhưng rất tiếc đời sống những người này chưa được nên thánh và Hội Thánh chậm tiến vì cớ họ. Những người ngoại giáo đến với Chúa trong các thành phố duyên hải - nơi văn minh và tội ác đã đi trước Tin Lành - là những kẻ cần được tẩy sạch tội lỗi và cần được đầy dẫy Thánh Linh trước tiên. Thật sự, họ là những tín đồ sốt sắng. Họ sẵn sàng chiến đấu vì lẽ thật, nhưng họ không sống trong khải hoàn. Họ cãi vả với nhau và hay gây gỗ với những người vừa mới quy đạo. Đó là điều những người hầu việc Chúa nản lòng hơn hết. Nhiều người đến hỏi đạo rồi bỏ đi. Cũng có nhiều người đến tin Chúa nhưng trình độ thuộc linh của họ chẳng khác gì những kẻ mà Chúa Jêsus đã phán trong bài ví dụ về người gieo giống: “Một số rơi nhằm bụi gai, gai mọc lên và làm cho nghẹt ngòi.”

Nhưng một ngày nọ, có một thanh niên bước vào nhà thờ và tỏ ra rất chăm chú về đạo lý. Người thanh niên này tên là Lê, trưởng Ga của công ty hỏa xa. Những lúc rỗi rảnh, thầy hay đến thăm trụ sở của Hội Truyền giáo để hỏi cặn kẽ về đường sự sống. Cuối cùng thầy bằng lòng đầu phục Chúa. Hội Thánh tổ chức một lễ báp-tem với nhiều người khác. Thầy hầu việc Chúa rất sốt sắng. Nhưng ngày kia thầy Lê bị cảm nặng không đi làm được. Các Giáo sĩ rất thất vọng. Họ cầu nguyện tha thiết với Chúa cho thầy được chữa lành, nhưng bệnh đã không giảm lại còn nặng thêm. Cuối cùng thầy phải đi nhà thương. Bác sĩ cho biết bị lao phổi. Đây là một bệnh nan y. Nhưng các Giáo sĩ đã từng thấy Chúa chữa lành những bệnh hiểm nghèo nên họ biết không có sự gì khó khăn đối với Ngài. Họ cứ tiếp tục cầu nguyện, nhưng bệnh trạng của người thanh niên này ngày càng trầm trọng hơn. Các Giáo sĩ nghĩ rằng dường như trong lúc này Đức Chúa Trời không cùng làm việc với họ. Nhưng thật ra Đức Chúa Trời đang hành động cách kín nhiệm để bày tỏ quyền năng Ngài.

Ít lâu sau người thanh niên này phải ra khỏi nhà thương vì bác sĩ đã chạy. Thầy về ở với bà gia tại làng kế cận (Bình Trị Đông). Bà cụ này rất sùng kính thần tượng. Bà cúng bái rất nhiều, với hy vọng nhờ đó rể bà được cứu khỏi. Bà cho rằng thầy đã bị các thần trừng phạt vì đã lìa bỏ hình tượng để thờ một thần ngoại quốc.

Sau đó ít lâu, các Giáo sĩ được tin thầy Lê chết. Họ tự cảm thấy đây là một thất bại. Họ đã phải chiến đấu gian khổ nhiều ngày. Người thanh niên này đến với tất cả

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 77

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

77

hứa hẹn đối với họ. Nhưng bây giờ, thay vì được thấy quyền năng Đức Chúa Trời tỏ ra trong sự chữa lành chứng bệnh nan y - thì đau đớn thay chàng lại chết. Tuy nhiên, có điều khích lệ là bà cụ già đến yêu cầu các Giáo sĩ cử hành lễ an táng cho chàng theo nghi lễ Cơ Đốc giáo. Nhân cơ hội này họ có dịp giảng Tin Lành cho một đám rất đông dân chúng, vì tất cả nhân viên sở hỏa xa, họ hàng thân thích và bạn bè chàng đều có mặt ở đó.

Vài hôm sau đó bà cụ già sai người đến mời các Giáo sĩ và cho biết cả gia đình bà đều muốn tin nhận Chúa. Bà cũng đã thuật lại trước khi thầy Lê chết, thầy đã làm chứng về niềm vui, về sự bình an và niềm tin tuyệt đối về sự sống đời đời - những vấn đề mà từ trước kia bà chưa từng biết. Trước khi chết, thầy đã nhìn thấy Chúa và gọi cả gia đình lại để giải thích về tình yêu kỳ lạ của Ngài. Thầy khuyên mọi người nên tiếp nhận Chúa Jêsus làm Cứu Chúa mình. Rồi dường như thầy thấy sự hiện diện của Chúa trong phòng. Mắt thầy ngời sáng và khuôn mặt phản chiếu những tia vui mừng sẵn sàng lìa bỏ trần thế để về với Chúa đời đời.

Vị Giáo sĩ hết sức vui mừng vì cùng một lúc đã cử hành lễ báp-tem cho hai mươi người trong làng đó. Và đó chính là khởi đểm của một giai đoạn mới - sáng sủa hơn của Hội Thánh Sài Gòn. Ban đầu, mỗi sáng Chúa nhật họ đến nhóm tại nhà thờ trong thành phố bằng một xe ngựa nhỏ. Nhưng ít lâu sau, họ quyết định lập một nhà thờ riêng. Bà cụ bằng lòng dâng một miếng đất và những người khác thì dâng công dâng của. Chẳng bao lâu, trong làng mọc lên một ngôi nhà thờ xinh xắn. Cả làng đã nghe danh Chúa, vì những lời làm chứng nhiệt thành của thầy Lê trước kia đã gây trong họ một ấn tượng. Hội Thánh ở đây lớn mau lẹ đến nỗi nhà thờ trở nên quá nhỏ không đủ chỗ cho tín đồ ngồi. Họ phải dở ra để xây một nhà thờ lớn hơn, lợp ngói rất khang trang, bên cạnh có cả tư thất cho Mục sư. Tổng Liên Hội đã phái đến một vị Mục sư Việt Nam và chức vụ của ông tại đây được Chúa ban phước rất nhiều. Bấy giờ mọi người mới nhận thấy rằng sự chết của thầy Lê có ý nghĩa hơn sự sống của thầy. Chúa đã đem thầy về trong nơi vinh hiển. Sự chết của thầy đã khiến mọi người đồng thời ước ao: “Chúng tôi không mong gì hơn là được như vậy.” Các Giáo sĩ tưởng sự chết đó là một tai họa nhưng Đức Chúa Trời đã khiến nó trở thành một nguồn phước lớn cho nhiều người.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 78

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

78

Nhà thờ Hội Thánh Bình Trị Đông

Ngay lúc đầu, khi nhà thờ nầy mới mở, chính quyền địa phương không đòi hỏi giấy tờ phép tắc gì cả. Nhưng về sau một nhóm công chức trong thành phố nghe được tin đó, liền báo cáo việc thiếu giấy tờ cho chính quyền Pháp ở tỉnh. Họ là những kẻ chống nghịch Tin Lành. Tại đây cũng như các nơi khác, tín đồ Đấng Christ đều bị những kẻ không tin bắt bớ. Viên Công Sứ cũng là một người chống đạo, ông ta lập tức gởi văn thư cho các Giáo sĩ bảo phải xuất trình đủ giấy tờ, bằng không nhà thờ sẽ bị đóng cửa.

Vị Giáo sĩ tại đây không biết phải làm sao. Nhà thờ đã mở từ mấy năm rồi, có gặp sự rắc rối như thế nầy đâu. Ông trải bức thư ra trước mặt Chúa và giao phó việc ấy cho Ngài. Mấy hôm sau, ông vào dinh thì được tin Viên Công Sứ thù nghịch kia đã bị đổi đi nơi khác, Viên Công Sứ mới là một người có lập trường khác hẳn. Vị Giáo sĩ trình bày những khó khăn của mình với ông và nói tiếp là từ khi công cuộc truyền giáo bắt đầu ở Nam Kỳ, Hội Truyền giáo chỉ được cấp một văn thư duy nhất đại khái cho phép các Giáo sĩ hoạt động tại Sài Gòn và các vùng lân cận. Viên Công Sứ liền cho biết ông chỉ cần một bản sao của văn thư trên đây thôi. Sau đó, ông nầy gởi phó bản văn thư đó cho các chức viên địa phương và cho họ biết là mọi việc đã được thu xếp ổn thỏa.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 79

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

79

Nhà giảng Tin Lành tại căn phố góc đường Cống Quỳnh – Nguyễn Cư Trinh 1919

Trở lại vấn đề phát triển công cuộc truyền giáo, trước đó mấy năm có một Giáo sĩ ở Sài Gòn cảm thấy cần phải làm thế nào để có thể truyền Tin Lành cho tất cả mọi người ở trung tâm thành phố. Lúc bấy giờ nhà thờ ở một nơi khá xa, nên những người không cố tâm tìm kiếm thì không thể đến được. Nhưng nhà ở trung tâm thành phố Sài Gòn giá rất đắt, Hội Ttruyền giáo không có ngân quỹ để mua. Mọi người đều cầu nguyện để nếu đẹp ý Chúa, xin Ngài sớm mở cho một con đường. Ít lâu sau, bỗng có một ngân phiếu một nghìn Mỹ kim từ Mỹ gởi đến nhằm mục đích xúc tiến công cuộc truyền giáo tại Sài Gòn. Nhận được tiền, Hội truyền giáo liền tìm kiếm khắp nơi với hy vọng có một địa điểm thuận tiện cho việc giảng đạo. Cuối cùng, họ thuê một địa điểm rất tốt, nằm đối diện với khu chợ trung ương, gần bên nhà ga chính và bến xe buýt đô thành. Họ liền mở một Hội Thánh trên địa điểm ấy. Tại đây, khách bộ hành không ngớt qua lại, khung cảnh rất náo nhiệt. Luôn luôn có hàng trăm người túc trực chờ đợi xe buýt, xe lửa hoặc dạo phố.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 80

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

80

Phòng giảng Tin Lành ở tầng lầu 2, góc đường Hàm Nghi – Phó Đức Chính, 1927

Phòng giảng Tin Lành là một nơi rất rộng rãi, thoáng khí, nằm trên tầng thứ nhì căn nhà bìa của một khách sạn nửa tây nửa ta, tọa lạc nơi góc đường Hàm Nghi (số 141) và Phó Đức Chính. Phía dưới dùng làm phòng đọc sách và giải nghĩa đạo. Các cuộc nhóm được tổ chức tại đó suốt bốn năm. Trong thời gian ấy, có mấy trăm người nam lẫn nữ xưng nhận mình đã được cứu. Không đêm nào là chẳng có người ngoại đạo đến nghe Tin Lành. Họ từ khắp các nơi đến thủ đô, có dịp nghe giảng về tình yêu của Chúa, và thường trở về nhà với niềm vui vừa chớm nở trong lòng. Chính những người ấy đã góp một phần không nhỏ trong sứ mệnh rao truyền Tin Lành tại các vùng chung quanh.

Nhà thờ Tin Lành đầu tiên tại đường Trần Hưng Đạo số 155, xây cất năm 1934

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 81

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

81

Đến năm 1970, Nhà thờ được tái thiết như trên

Bằng chứng là một đêm nọ, có hai chàng thanh niên sang trọng, con nhà quý phái. Sau khi nghe giảng, liền quy đạo và sốt sắng nhóm lại thường xuyên. Bỗng một đêm họ biến mất. Trong mấy tuần lễ không ai nhận được tin tức của họ ở đâu cả. Sau đó, có người từ Bạc Liêu, cách Sài Gòn hai trăm cây số về phía Nam, lên cho biết hai chàng thanh niên nầy đã đem Tin Lành về quê nhà tại một làng gần thành phố. Một trong hai người nầy thuộc trong gia đình rất giàu có nên đã dâng một số tiền lớn để xây một nhà thờ cho người đồng hương. Hội Thánh tại đó đã tăng trưởng rất nhanh chóng. Số tín đồ ngày càng đông.

Quyền năng cứu chuộc của Chúa không phân biệt một ai cả. Do đó, người bồi bàn khách sạn cũng được cứu. Nhà hàng ở tầng lầu ba, ngay bên trên giảng đường. Sứ điệp Tin Lành vang ra ngoài các cửa sổ nhà thờ và vọng vào nhà hàng. Một ngày kia, người bồi đến phòng đọc sách và cho biết ý định muốn tin nhận Chúa. Ông kể lại, chính ông đã nghe nói về Chúa mỗi đêm khi đứng phía trên cửa sổ nhà thờ. Sau khi tiếp nhận Jêsus Christ làm Cứu Chúa, người nầy đã đem Tin Lành về làng mình, cách Sài Gòn một trăm cây số phía hướng Tây. Chẳng bao lâu tại đó có một chi nhánh mới được mọc lên.

Đúng ra số tiền một nghìn Mỹ kim trên đây chỉ đủ chi phí cho việc thiết lập ngọn hải đăng năm đầu tiên tại Sài Gòn. Nhưng tạ ơn Chúa, suốt bốn năm tiếp theo đó, không tháng nào là không có một món tiền đặc biệt được gởi đến để trả tiền thuê nhà.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 82

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

82

Một trong những hình thức chứng tỏ Chúa luôn luôn giúp đỡ tài trợ cho công việc nầy được kể lại như sau: Số là mỗi đầu tháng, các Giáo sĩ thường kiểm điểm ngân quỹ để vừa trả tiền thuê nhà vừa chi phí các công việc linh tinh khác. Một tháng nọ, sau khi kiểm điểm số tiền hiện có, các Giáo sĩ nhận thấy họ còn thiếu mười tám đồng. Tình thế lúc đó rất khó khăn. Số tiền phụ cấp cho các Giáo sĩ tháng ấy chỉ có năm mươi phần trăm. Họ chẳng biết phải làm cách nào khác hơn là cầu xin Chúa giúp đỡ.

Cách đó mấy tuần, một người bạn của một vị Giáo sĩ đến nói rằng có một người Pháp sắp bán hết dụng cụ ở đây để trở về Pháp, vì khủng hoảng kinh tế. Luôn tiện ông cũng cho biết là trong các cuộc bán đấu giá tổ chức một tuần hai lần tại Sài Gòn, nhiều cây đàn dương cầm được bán với giá gần như cho không. Các Giáo sĩ hằng mong ước có một cây đàn dương cầm cho con cái học, nên dặn người bạn, khi nào thấy giá rẻ như vậy thì mua giùm. Ngay tuần lễ họ đang hụt ngân quỹ, cạn tiền thì bạn kia đến báo cho biết đã mua được một cây đàn với giá hai mươi đồng. Giá thật rẻ, nhưng ngoài số tiền ấy, các Giáo sĩ còn phải trả thêm ba mươi tám đồng nữa. Không có cách nào xoay trở, vì không đủ tiền, phải nhờ phòng đấu giá bán cây đàn một lần nữa. Ít hôm sau, họ rất ngạc nhiên khi biết cây đàn bán được bốn mươi hai đồng. Thế là sau khi thanh toán tiền hoa hồng mua và bán, họ còn lại đúng mười tám đồng. Đó là một trong những cách Chúa dùng để quân bình ngân sách thời buổi khó khăn.” (“With Christ in Indochina” trang 84).

C. SỰ HÌNH THÀNH CỦA HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM

Mức độ tín đồ tăng lên rất nhanh chóng trong toàn cõi Việt Nam. Cao trào truyền giáo được phát động hết sức mạnh mẽ. Chiến thuật vết dầu loang từ thời tín đồ Phao-lô đã được tín hữu Việt Nam áp dụng trở lại một cách rất tự nhiên. Người nầy hăm hở làm chứng cho người kia. Nhất là những người mới tin nhận Chúa, cảm xúc sâu xa về tình yêu kỳ diệu của Ngài nên đã không quản ngại khó khăn, cố gắng bằng mọi cách để làm chứng Tin Lành cho những người quen biết. Nhờ đó công việc Chúa đã tiến triển vượt bực trong thời gian ngắn. Chẳng bao lâu, hầu hết các tỉnh trong nước đều có nhà thờ Tin Lành.

Những tín đồ đầu tiên lại rất sốt sắng đối với công việc chung. Đức tin họ tuy đơn sơ nhưng thành thật, chẳng những vui lòng dâng công, dâng của để xây cất nhà thờ mà hàng tháng lại còn trung tín dâng phần mười cách đều đặn để tài trợ cho những chi phí cần thiết của chi hội. Trong số tín hữu đầu tiên ấy, cũng có nhiều người được Chúa kêu gọi đặc biệt nên đã dâng mình vào học trường Thánh Kinh tại Đà Nẵng. Sau khi tốt nghiệp một số người trong họ được các chi hội hân hoan mời đến hợp tác hầu việc Chúa. Một số khác được đề cử đến những địa điểm mới để tiếp tục công việc truyền giáo. Trong công trường thuộc linh nầy, họ đã tỏ ra là những con gặt đầy ơn.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 83

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

83

Số tín đồ ngày càng đông đảo thêm nhiều khắp Trung Nam Bắc. Nhận thấy đã đến lúc cần phải thống nhất mọi hoạt động của các chi hội, đồng thời chính thức xác nhận sự hiện diện của mình trong tập thể quốc gia, nên toàn thể Mục sư, Truyền đạo và Tín hữu quyết tâm nhờ cậy Chúa xây dựng cho mình một giáo hội vững mạnh đầy đủ tư cách pháp nhân và hoàn toàn tự trị tự lập. Với chủ trương không chịu lệ thuộc như vậy, nên ngay từ lúc đầu, thay vì lấy chung một tên là Phước Âm Liên Hiệp như những quốc gia khác đã làm, toàn thể giáo hữu Việt Nam đều đồng một lòng chung một ý, mặc nhiên chấp nhận danh hiệu của Giáo Hội là HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM. Như tôi đã có dịp đề cập đến ở phần đầu tập hồi ký nầy, đây là một danh hiệu lạ lùng do sự đặt để của Chúa vì Hội Thánh đã thành hình trước khi có những văn kiện quy lập.

Để quý độc giả có thể biết rõ hơn về những cơ cấu sơ khởi của giáo hội, tôi xin trình tóm lược những định thức căn bản làm nền tảng cho việc tổ chức Tổng Liên Hội đầu tiên tại Việt Nam.

1. Từ Hội Đồng Bồi Linh Đến Hội Đồng Lập Pháp

Sau khi Tin Lành đã ăn sâu vào những thành phố, làng mạc khắp ba miền Trung Nam Bắc và nhất là khi tình hình các chi hội đã được ổn định, giáo hội liền nghĩ ngay đến việc tổ chức những kỳ hội đồng thường niên để tín đồ toàn quốc có thể tham dự. Hội đồng đầu tiên được tổ chức năm 1924, lần thứ nhì, năm 1925 và lần thứ ba, 1926. Cả ba lần đều nhóm tại Đà Nẵng và hoàn toàn có tính cách Bồi Linh Hiệp Nguyện. Mục đích của sự nhóm lúc bấy giờ là để thờ phượng, đọc Thánh Kinh, cầu nguyện và nghe giảng dạy Lời Chúa.

Hội đồng lần thứ tư cũng tổ chức tại Đà Nẵng, từ ngày 5 đến 13 tháng 3, 1927 và được chính thức gọi là Hội Đồng Tổng Liên Hội, vì ngoài sự thờ phượng, học Thánh Kinh, cầu nguyện và nghe giảng Lời Chúa, Hội Đồng còn có phần thảo luận và quyết nghị. Sau đây là năm điểm nghị quyết của Hội Đồng Tổng Liên Hội đầu tiên.

1- Cử một thủ quỹ giữ tiền bạc và lo sổ sách chi thu của Hội Thánh (Tổng Liên Hội).

2- Cử một ủy ban hiệp với các Giáo sĩ lo soạn thảo quyển Điều lệ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

3- Cử một Ban Trị sự Tổng Liên Hội để điều hành công việc của Hội Thánh chung và để ra mắt chính quyền đồng thời trình bản Điều lệ của Hội Thánh để xin chính quyền công nhận.

4- Kiểm điểm tiền bạc đã dâng cho Hội Đồng.

5- Dự định xây cất trường Thánh Kinh và ký túc xá cho học sinh.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 84

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

84

Thể theo điều ba của bản quyết nghị trên đây, một Ban Trị sự lâm thời được đề cử để lo công việc chung.

Năm sau, Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ năm cũng nhóm tại Đà Nẵng, từ ngày 26 tháng 6 đến 5 tháng 7, 1928. Bản quyết nghị của Hội Đồng kỳ nầy gồm mười khoản, trong đó có những khoản rất quan trọng làm nền tảng cho Tổng Liên Hội cho đến ngày nay, như:

Khoản I.- Biểu quyết: Công nhận số chính thức là bảy mươi ba vị đại biểu của các Hội Thánh tham dự Hội Đồng.

Khoản II.- Biểu quyết: Phân chia các hạt (mỗi hạt có một Ban Trị sự riêng và Chủ nhiệm là người đứng đầu để lo công việc trong hạt).

Khoản VII.- Biểu quyết: Công nhận bản Điều lệ mà ủy ban đã soạn thảo và đã trình Hội Đồng.

Khoản X.- Biểu quyết: Giao quyền quản thủ sản nghiệp của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cho một ủy ban chịu trách nhiệm.

Theo sự ủy thác của Hội Đồng, sau khi bế mạc, Tân Ban Trị sự Tổng Liên Hội liền xin yết kiến Hoàng Đế Bảo Đại và trình bản Điều lệ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam để xin lập Hội.

Ban Trị sự Tổng Liên hội yết kiến Hoàng đế Bảo Đại và

trình Bản Điều lệ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 85

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

85

2. Cơ Cấu Tổng Liên Hội

1. Chi Hội.- Bất cứ nơi nào có một số người Việt Nam tin nhận Đức Chúa Jêsus Christ và thờ phượng Đức Chúa Trời Ba Ngôi theo sự dạy dỗ Thánh Kinh và tuân theo Điều lệ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thì đều được công nhận là một chi hội của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Mục sư hoặc Truyền đạo chủ tọa của Chi Hội hiệp với Ban Trị sự Hội Thánh điều hành những công việc của chi hội như: thăm viếng, dìu dắt tín hữu trên đường tin kính và mở mang Hội Thánh.

Mỗi tín đồ đều được tham dự Hội đồng thường niên của chi hội, nhưng chỉ những tín đồ chính thức mới được phép bầu cử và ứng cử các chức chấp sự hoặc đại biểu. Thành phần Ban Trị sự Hội Thánh gồm có Thư ký, Thủ quỹ và các Nghị viên do các chấp sự công cử bằng phiếu kín. Chức vụ đại biểu do Hội Đồng chi hội ủy nhiệm dưới hình thức đầu phiếu đương nhiên được quyền bàn luận và biểu quyết tại Hội đồng Địa hạt hoặc Tổng Liên Hội.

2. Địa hạt Liên Hội.- Tất cả những chi hội trong cùng một khu vực được tổ hiệp lại thành Địa hạt Liên Hội. Ban Trị sự Địa Hạt Liên Hội gồm có: Chủ nhiệm, Phó Chủ nhiệm, Thư ký, Tư hóa và Nghị viên do Hội Đồng Địa Hạt Liên Hội công cử bằng phiếu kín. Nhiệm vụ của Ban Trị sự nầy là thi hành các quyết nghị của Hội Đồng Địa Hạt, cai quản công việc Hội Thánh, soạn thảo kế hoạch, mỗi năm khai trình thành tích hoạt động và kết quả thu lượm được lên Hội Đồng Địa Hạt. Nhiệm kỳ các chức viên Ban Trị sự là hai năm, ngoại trừ trường hợp chức nghị viên, mỗi năm phải bầu lại một lần.

3.Tổng Liên Hội.- Các Địa Hạt Liên Hội trong toàn quốc kết hiệp lại thành Tổng Liên Hội. Đây là cơ quan đầu não của Giáo hội, có nhiệm vụ điều hành quản trị tất cả những công việc của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Thành phần Ban Trị sự Tổng Liên Hội gồm có: Hội Trưởng, Phó Hội Trưởng, Thư Ký, Tư Hóa và Nghị Viên do Hội Đồng Tổng Liên Hội bầu cử bằng phiếu kín. Tổng số Nghị viên tùy thuộc vào tổng số Địa hạt được phân định theo điều kiện địa lý. Chủ nhiệm của các hạt cũng đương nhiên được sung vào thành phần Ban Trị sự Tổng Liên Hội. Nhiệm vụ của Ban Trị sự được quy định theo Thánh Kinh và Điều lệ của Giáo hội, quản trị tổng quát những công việc của Hội Thánh và chấp hành những quyết nghị của Đại Hội Đồng thường niên. Đồng thời phải khai trình trước Đại Hội thành tích hoạt động và kết quả thu hoạch được trong năm qua. Nhiệm kỳ của mỗi nhân viên Ban Trị sự Tổng Liên Hội là hai năm, chỉ riêng các nghị viên là mỗi năm phải bầu lại một lần.

Với hình thức tổ chức căn bản trên đây, chúng ta có thể kết luận: Tổng Liên Hội là cơ quan đầu não nắm vai trò lãnh đạo tổng quát. Địa Hạt Liên Hội chịu trách nhiệm từng Giáo khu và Chi Hội là phần địa phương nòng cốt của Hội Thánh.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 86

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

86

Sau khi đệ trình bản Điều lệ lên Hoàng đế Bảo Đại (năm 1928) để xin lập Hội, Hội Thánh đã gởi nhiều văn thư kế tiếp cho chính quyền Đông Pháp lúc bấy giờ, nhắc họ xét đơn của Giáo Hội. Nhưng mãi đến ngày 19 tháng 1, 1942, toàn quyền Jean Decoux mới ký văn thư chính thức công nhận thành phần Ban Quản Trị của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Như vậy, đối với Hội Truyền giáo và đối với chính quyền, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đang tiến dần đến chỗ hoàn toàn tự trị tự lập. Quyền cao cả của Giáo Hội ở trong tay của giáo hữu. Mỗi đại biểu tại các Hội Đồng đều có quyền biểu quyết hoặc phủ quyết những dự thảo luật. Dĩ nhiên là nguyên tắc đa số tương đối vẫn được áp dụng. Khi một dự án hoặc một đề nghị đã được Hội Đồng Tổng Liên Hội biểu quyết, bản văn ấy liền được chuyển qua Ban Trị sự Tổng Liên Hội để thi hành. Đại Hội Đồng Tổng Liên Hội mang tính chất của một cơ quan lập pháp và Ban Trị sự Tổng Liên Hội giữ chức vụ hành pháp.

Về việc quản trị tài sản của Hội Thánh, Ban Trị sự Tổng Liên Hội đề cử một ban quản trị riêng biệt chịu trách nhiệm trước giáo hội và chính quyền. Ban quản trị này thay mặt Tổng Liên Hội đứng tên hoặc được sát nhập vào tài sản giáo hội bởi sự lạc hiến của các tín hữu v.v... Về phương diện tài chánh cũng vậy, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tuy không có những tổ chức kinh tài, nhưng mỗi Hội Thánh đều có công quỹ riêng do lòng sốt sắng dâng giúp của mọi tầng lớp tín hữu yêu mến Chúa. Tiền bạc trong Hội Thánh được giao cho viên Tư hóa có nhiệm vụ cất giữ, còn quyền thu xuất do Ban Trị sự quyết định. Hình thức phân công nầy đã được thi hành một cách đứng đắn từ trung ương đến địa phương. Nơi nơi đều thống nhất trong hành động, mỗi người một trách nhiệm để phát triển công việc chung. Ngay từ khởi điểm, tuy không có những văn kiện chính thức quy định, nhưng tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng chính thể của giáo hội (về phương diện tổ chức) là chính thể dân chủ và chế độ của giáo hội là chế độ phân quyền. Thể chế nầy đã được minh định rõ rệt dựa theo những truyền thống của Thánh Kinh và ý thức trách nhiệm của toàn thể tín hữu.

Tóm lại, dựa theo những định chế căn bản trên đây, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được thành lập. Và sự thành lập Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đánh dấu một khúc quanh quan trọng của giáo hội Cơ Đốc tại Việt Nam. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam hoàn toàn tự trị tự lập về phương diện pháp lý, quy chế và tài chánh. Hội Thánh hoạt động bên cạnh Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp, nhưng không còn lệ thuộc Hội Truyền Giáo như trước nữa.

3. Chủ Quyền Trên Giáo Hội:

a) Đấng sáng lập Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Về phương diện tổ chức, những quyết nghị liên tiếp của Tổng Liên Hội đánh dấu sự thành hình của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Nhưng vấn đề đối với chúng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 87

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

87

ta - trong lúc ấy cũng như ngay bây giờ - ai là “Người” sáng lập Hội Thánh? Chắc hẳn mọi người chúng ta đều quả quyết rằng: “Chính Thánh Linh của Chúa.” Tuy những thắc mắc có thể có, nhưng bởi ơn của Chúa và bởi sự dạy dỗ của Thánh Kinh, chúng ta có thể giải thích không có gì khó khăn.

Trong lúc Đấng Christ còn tại thế, Hội Thánh chưa được thành lập dù có số khá đông người bằng lòng theo Ngài. Nhưng Ngài đã có sẵn một chương trình về việc thiết lập Hội Thánh và ý định của Ngài là sẽ thiết lập Hội Thánh trên Vầng Đá của các thời đại. Bởi ý định đó mà có lần Ngài đã phán cùng sứ đồ Phi-e-rơ: “Còn ta lại bảo ngươi rằng: Ngươi là Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội Thánh ta trên đá nầy, cửa Âm Phủ chẳng thắng nó được”(Ma 16:18).

Tuy nhiên, trọng tâm của sứ mệnh Ngài là đến thế gian chịu chết để cứu chuộc nhân loại. Nên sau khi từ kẻ chết sống lại và trước khi thăng thiên, Ngài đã ân cần dặn dò các môn đồ: “Chớ ra khỏi thành Giê-ru-sa-lem, nhưng hãy chờ đợi Đấng Cha đã hứa... Các ngươi sẽ chịu báp-tem bằng Thánh Linh...” (Cong 1:4,5,8).

Những lời phán bảo của Ngài trên đây còn bao hàm một ý nghĩa ủy thác. Một giai đoạn của sứ mệnh đã hoàn tất và bây giờ đến giai đoạn thứ hai. Đấng đảm trách sứ mệnh trực tiếp trong giai đoạn nầy không phải là Jêsus Christ, Cứu Chúa yêu dấu của chúng ta, mà là Đức Thánh Linh, Đấng Cha đã hứa... Đấng An ủi...

Giai đoạn mới thật sự bắt đầu trong ngày lễ Ngũ tuần. Khi tất cả môn đồ đồng tâm hiệp lực nhóm nhau để khẩn nguyện thì Đức Thánh Linh giáng xuống trên họ. Thánh Kinh kể lại rằng: “Vào ngày lễ Ngũ tuần, tất cả môn đồ nhóm lại một chỗ. Thình lình có trận gió lốc thổi ào ào, đầy cả nhà họ ngồi. Lại có lưỡi như lửa hiện đến, chia nhau đậu trên mỗi người trong họ. Hết thảy đều được đầy dẫy Đức Thánh Linh khởi sự nói các thứ tiếng khác, theo như Thánh Linh cho họ nói” (Cong 2:1-4). Thế là sau biến động, Hội Thánh được thành lập. Chúng ta có thể bảo rằng ngày lễ Ngũ tuần cũng là ngày Hội Thánh được khai sinh.

Hội Thánh được thành lập bởi Thánh Linh. Đó là điều rõ ràng không ai chối cải được. Khởi điểm của đức tin bắt nguồn từ đó và nhờ đó, người Do thái hoặc ngoại bang có thể đến tin nhận Đức Chúa Jêsus. Hàng triệu người nhập vào Hội Thánh, được tái sinh và được công nhận làm con cái Đức Chúa Trời. Lẽ mầu nhiệm đó được hiển lộ lần lần qua sách Công Vụ. Đến đoạn 5 câu 11, thì công việc thành lập Hội Thánh kể như đã hoàn tất. Danh từ Hội Thánh tuy mới xuất hiện lần đầu tiên qua câu: “Cả Hội Thánh đều sợ hãi quá đổi, cho đến người nghe tin cũng vậy”(2:11). Nhưng ý nghĩa của nó đã bàng bạc từ trước. Trong nguyên văn Hy Lạp, hai chữ Hội Thánh được mô tả bằng từ ngữ EKKLESIA có nghĩa là một nhóm người được kêu gọi ra khỏi thế gian để làm tuyển dân cho Đức Chúa Trời. Để có thể tìm cho từ ngữ nầy một định nghĩa chính xác, công việc đầu tiên của chúng ta là nghiên cứu câu Thánh Kinh sau đây: “Si môn vừa thuật lại thế nào lúc ban đầu Đức Chúa Trời đã thăm người ngoại

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 88

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

88

bang, để từ trong họ lấy ra một dân cho danh Ngài” (Cong 15:14). Qua tinh thần của câu Thánh Kinh trên đây, về một phương diện Hội Thánh có ý nghĩa như một cách biệt, một giả từ đối với thế gian, đưa một số người từ trạng thái nầy (mù mờ) sang trạng thái khác (trong sáng, cao khiết) bởi nhịp cầu thông cảm của thập tự giá. Ngoài ra, Hội Thánh còn bao hàm ý nghĩa của một sự tôn vinh. Trong cá nhân tín hữu, dù được tái sanh, được nên thánh, vẫn còn có chỗ bất toàn, nhưng trong tập thể của những người được chuộc, sự toàn bích đương nhiên được thể hiện, và sự toàn bích đó là một viên ngọc làm sáng danh Cha.

Sau biến động có một không hai của lễ Ngũ tuần, tinh thần truyền giáo cuồn cuộn dâng lên như mây ngàn thác lũ. Từ giã kinh thành Giê-ru-sa-lem chật hẹp, các sứ đồ bắt đầu ra đi. Các tín hữu nơi nơi đều sốt sắng làm chứng về Chúa. Âm hưởng của Tin Lành bắt đầu lan dần khắp miền Tiểu Á Châu. Những vòng truyền giáo đã đem lại rất nhiều kết quả. Thánh Linh đã cùng đi với họ, hành động bên cạnh họ, do đó Hội Thánh được mọc lên khắp nơi.

Hai mươi thế kỷ qua, công việc của Đức Chúa Trời vẫn được tiếp tục và phát triển nhanh chóng. Mục tiêu truyền giáo không còn giới hạn trong một phạm vi nhỏ hẹp mà là hướng về toàn thể địa cầu. Công việc của Đức Thánh Linh vẫn không thay đổi. Bởi vậy, khi Hội Truyền Giáo Cơ Đốc và các Giáo sĩ Liên Hiệp dự định đến xứ nầy để truyền giáo thì Đức Thánh Linh đã đi trước để mở đường cho họ. Ngài đã đồng công với họ trong đồng lúa tại Việt Nam và chính Ngài đã sáng lập nên Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Ngần ấy sự kiện đã chứng minh cho ta thấy rằng, chính Thánh Linh vừa là Đấng sáng lập nên Hội Thánh vô hình và chính Ngài cũng là Đấng sáng lập nên Hội Thánh địa phương. Trách nhiệm sáng tạo của Ngài có thể được hiểu qua ý nghĩa của câu Thánh Kinh nầy: “Ấy chẳng phải bởi quyền thế, cũng không phải bởi năng lực, bèn là bởi thần Ta, CHÚA, Đức Chúa Trời vạn quân phán vậy.” (Xa 4:6)

Thánh Linh đã sáng lập Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Ngài đã đồng công với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam bắt đầu từ khởi thủy và chắc chắn Ngài đồng công với chúng ta cho đến khi nào sự hiện diện của Hội Thánh trên thế gian không còn cần thiết nữa.

4. Nền Tảng Của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam

Ý niệm về Đấng sáng lập Giáo hội đã được phác họa sơ lược ở phần trên. Về phương diện hình thức, như thế cũng đủ tạm để chúng ta không bỡ ngỡ về sự xuất hiện của Hội Thánh Chúa trên mặt địa cầu. Nhưng nếu nhìn xa hơn để truy tầm nguồn gốc, tức động lực phát hiện hay là nền tảng căn bản để xây dựng giáo hội, thì nếu dừng lại ở đây, chúng ta sẽ thiếu sót. Vì một tổ chức Giáo hội dù có những lễ nghi trang nghiêm, hình thức nhóm lại dù có long trọng thế nào đi nữa, nhưng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 89

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

89

không có một nền tảng vững chắc thì cũng không thể nào đứng nỗi trước những tấn công dồn dập của ma quỷ và những cám dỗ của thế gian tội lỗi.

Do đó, nền tảng của Hội Thánh phải là cái nền bằng Đásống, không bị tàn phá bởi thời gian, trái lại sẵn sàng đối phó với tất cả mọi hoàn cảnh. Thế đứng của Hội Thánh phải là thế đứng vững mạnh, vươn lên cao và tỏa ra muôn vạn hào quang rực rỡ. Nói cách khác, Hội Thánh phải có năng lực chủ động trong mọi tương quan lịch sử, ở trong thế gian nhưng tách rời khỏi thế gian. Hội Thánh không thể bị chi phối bởi thế gian, trái lại sự hiện diện của Hội Thánh còn làm cho thế gian khỏi bại hoại hoàn toàn.

Trong Kinh Cựu Ước, có nhiều lần nói đến một Vầng đá là nơi ẩn náu của dân Do Thái. Và Vầng đá đó chính là Đức Chúa Trời hằng sống. Bản chất “Tự Hữu Hằng Hữu” của Ngài được mô tả như sự oai nghiêm sừng sững của một Hòn Đá. Không lệ thuộc vào bất cứ một hiện tượng chuyển biến nào của thiên nhiên. Chính vì ý nghĩa đó mà Mô-se đã nói: “Hãy tôn sự oai nghiêm cho Đức Chúa Trời chúng tôi. Công việc của hòn đá là trọn vẹn” (Phu 3:3). Tiên tri Ê-sai cũng đã thuật lại lời CHÚA, Đức Chúa Trời phán: “Nay ta đặt tại Si-ôn một hòn đá để làm nền, là đá đã thử nghiệm, là đá góc quý báu, làm nền bền vững. Ai tin sẽ chẳng gấp rút” (Es 28:16).

Ngoài ra, hòn đá ấy còn là biểu tượng của một sự bao bọc che chở: “Ngài là nơi bền vững cho kẻ nghèo, đồn lũy cho kẻ thiếu thốn trong lúc khó khăn, chỗ đụt cho khỏi bão, chỗ bóng mát cho khỏi nắng, khi những kẻ cuồng bạo thổi hơi ra như bão, xông vào tường thành” (Es 25:4).

Trong khi Cựu Ước mạc khải cho chúng ta biểu tượng về nền tảng của Hội Thánh, thì chính Tân Ước đã làm ứng nghiệm ý nghĩa đích thực của lời tiên tri. Đức Chúa Jêsus Christ đã đến thế gian và chính Ngài là Vầng Đá ấy. Ngài là nền tảng của Hội Thánh. Thực thể của Jêsus Christ là hiện thân của CHÚA, Đức Chúa Trời ngày xưa. Nói cách khác, Ngài là Đức Chúa Trời thành nhục thể. Trong các buổi giảng, sứ đồ Phi-e-rơ luôn luôn sốt sắng kêu mọi người: “Hãy đến cùng Ngài là Hòn đá sống thật, bị người ta loại ra, song đối với Đức Chúa Trời thì được lựa chọn và quý trọng” (IPhi 2:4). Và cũng vì có cùng một quan niệm như vậy, nên thánh Phao-lô đã quả quyết rằng: “Chẳng ai có thể lập một nền khác ngoài nền đã lập là Jêsus Christ” (ICo 3:11). Jêsus Christ là nền tảng của Hội Thánh vô hình và chính Ngài cũng là nền tảng của Hội Thánh Tin Lành tại Việt Nam.

Chân lý này chẳng những đã được Thánh Kinh và các sứ đồ minh giải mà chính Cứu Chúa chúng ta cũng đã xác nhận, như Lời Ngài đã phán với Phi-e-rơ: “Còn ta lại bảo ngươi rằng: ngươi là Phi-e-rơ, ta sẽ lập Hội Thánh ta trên Vầng Đá này, cửa Âm phủ chẳng thắng nó được” (Mat 16:18). Câu Thánh Kinh trên đây đã có một số đông người hiểu lầm, cho rằng Chúa lập Phi-e-rơ làm nền tảng Hội Thánh. Nhưng ý nghĩa đích thực của nó không phải như vậy, Ngài không ám chỉ Phi-e-rơ, vì chữ Vầng Đá ở đây

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 90

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

90

là Vầng Đá lớn – nguyên văn Hy Lạp là Pétra – còn tên Phi-e-rơ, hiểu theo nguyên ngữ là một “hòn đá nhỏ” (Pétros). Sỡ dĩ Chúa phán điều này, là vì trước đó Phi-e-rơ đã xưng nhận Ngài là Đấng Christ, là Con Đức Chúa Trời hằng sống. Vì chỉ Con Đức Chúa Trời hằng sống mới có thể là nền tảng của Hội Thánh thôi. Phi-e-rơ dù là một sứ đồ được ơn nhiều, nhưng trước mặt Chúa, ông chỉ là một con người với tất cả yếu đuối, lầm lẫn có thể có. Thật sự quá trình hoạt động của Phi-e-rơ đã chứng minh cho chúng ta điều đó.

Đấng Christ chẳng những là nền tảng của Hội Thánh mà Ngài còn là đầu của Hội Thánh nữa. Cho nên Hội Thánh Tin Lành Việt Nam dù trải qua biết bao giai đoạn khó khăn, Tin Lành bị bắt bớ bằng nhiều hình thức, nhưng Đạo của Chúa vẫn cứ tồn tại và vững mạnh cho đến ngày nay. Trong quá khứ có nhiều người đã vì chân lý phải ngã gục xuống, nhưng liền theo đó có những cánh tay rắn chắc khác vươn cao lên. Ngọn đuốc Tin Lành vẫn cháy sáng qua mọi thời đại và đức tin nơi Christ của những môn đồ trung kiên vẫn không thay đổi. Ngoài Christ không ai có đủ khả năng lãnh đạo Hội Thánh. Không ai có đủ tư cách đại diện cho Ngài ở trần gian. Chẳng ai trong vòng các sứ đồ được cử làm đầu Hội Thánh. Trước khi thăng thiên, Ngài chỉ ủy thác cho họ một sứ mệnh duy nhất là rao truyền Tin Lành. Vâng, theo sứ mệnh nầy họ bắt tay ngay vào công cuộc truyền giáo và hai mươi thế kỷ qua, nhiệm vụ cao quý nầy của họ vẫn được tiếp tục và chắc chắn sẽ được tiếp tục mãi cho đến ngày Cứu Chúa Jêsus tái lâm.

5. Hội Thánh Thuộc Về Ai?

Với những kinh nghiệm thu thập được trong đời sống đức tin và bởi sự mạc khải của Thánh Kinh, chúng ta biết chắc rằng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đã được Đức Thánh Linh sáng lập và Jêsus Christ, Chúa yêu dấu của chúng ta, là nền tảng. Nhưng Hội Thánh thuộc về ai? Đó là điểm thắc mắc cuối cùng có thể có của những người vừa mới bước chân ra khỏi vùng bóng tối, và cũng là một trong những điểm tế nhị nhất của Thần Học Cơ Đốc. Huyền nhiệm về Đức Chúa Trời Ba Ngôi tuy vẫn còn là một huyền nhiệm rất cao siêu mà trí óc hữu hạn của con người khó có thể nhận thức thấu đáo được, nhưng về phương diện nầy trong tương quan giữa Ba Thân Vị, và trong trật tự lãnh đạo tối thượng - sự phân nhiệm đã được minh định rõ rệt.

Thánh Linh là Đấng sáng lập Hội Thánh và Jêsus Christ là Đầu Hội Thánh. Với tư cách là Đầu Hội Thánh Ngài có thể ví chính mình như là gốc của một thân cây và Đức Chúa Trời là Đấng trồng cây ấy. Chẳng những biểu tượng của chân lý nầy đã được Ngài dạy dỗ nhiều lần bằng những ví dụ, mà chính Ngài cũng trình bày cặn kẽ trong giờ tương giao trực tiếp với Cha: “Con đã tỏ danh Cha ra cho những người Cha giao cho con từ giữa thế gian; họ vốn thuộc về Cha”(Gi 17:6). Danh từ “Cha” trong giao ước trên đây của Christ là Thân vị của Đấng Sáng Tạo, Chủ tể của trời đất muôn vật và loài người. Đó là một trong những lẽ thật bất di bất dịch mà Thánh Kinh đã nhiều

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 91

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

91

lần nhắc đi nhắc lại: “Muôn vật đều là từ Ngài, bởi Ngài và hướng về Ngài. Vinh hiển cho Ngài đời đời vô cùng” (Ro 11:36).

“Họ vốn thuộc về Cha.” Jêsus Christ xác nhận như vậy và Ngài cũng đã nói rõ hơn: “Phàm mọi điều thuộc về Con tức là thuộc về Cha, mọi điều thuộc về Cha tức thuộc về Con” (Gi 17:10). Tiêu đề của giao ước trên đây không phải là các thiên sứ hoặc thiên sứ trưởng - mà là Hội Thánh tức “những người biệt riêng Cha ban cho Con” đã được tách khỏi thế gian tội lỗi và mọi xiềng xích của ma quỷ. Dân sự của Đấng Christ, thân thể của Đấng Christ là cơ nghiệp của Cha Ngài. Hội Thánh thuộc về Đức Chúa Trời và chỉ một mình Đức Chúa Trời là chủ tể của Hội Thánh. Hội Thánh không thuộc về thế gian hoặc một giáo chủ nào khác ngoài Ngài. Trong Ngài, chúng ta thừa hưởng tất cả mọi phước hạnh, vì chúng ta là thân thể của Đấng Christ thuộc về Đức Chúa Trời. Không có gì cao quý hơn Hội Thánh ở trước mặt Chúa, kể cả những vương quốc tuyệt đỉnh, những vinh quang của thiên đàng và sự uy nghi của các thiên sứ. Bởi đó, một nhà thần học Cơ Đốc trong khi nghiên cứu những lời cầu nguyện của Chúa Jêsus, đã viết như sau: “Các thiên sứ được dựng nên vì cớ Đấng Christ, không một thiên sứ nào có thể tung cánh trong khoảng không vô tận theo đường lối của riêng mình, trừ phi Giê-hô-va muốn cho con Ngài có những kẻ tùy tùng; trong trường hợp ấy Tân phụ vẫn quý trọng hơn những tùy tùng gấp bội.” Dù cho Đấng Christ có thống lãnh mọi vương quốc, chiếm hữu mọi quyền lực, cai quản trên tất cả mọi kẻ cầm quyền đi nữa, thì Ngài cũng sẽ ban cho chúng ta được ngồi với Ngài trên ngôi, như chính Ngài đã thắng và ngồi với Cha Ngài trên ngôi Ngài...

“Tất cả mọi sáng tạo khác đều bắt nguồn từ bên ngoài, nhưng Hội Thánh được sáng lập từ bên trong bằng một đường lối rất huyền nhiệm được mạc khải lần đầu tiên trong vườn Ê-đen. Khi A-đam - hình bóng về Đấng Christ - được Đức Chúa Trời dựng nên, người được ban cho quyền bính trên mọi sinh vật, người đặt tên chúng nó, “ nhưng về phần A-đam thì chẳng tìm được một ai giúp đỡ giống như mình hết.” CHÚA, Đức Chúa Trời bèn khiến cho A-đam ngủ mê và trong khi người ngủ, Ngài lấy ra một xương sườn để nắn nên một người nữ và ban nàng cho người. Do đó, A-đam có thể nói: Người nầy là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi. Đây là mầu nhiệm lớn trong tương quan giữa Đấng Christ và Hội Thánh.”

Cho đến hôm nay và mãi về sau, Chúa vẫn luôn luôn phò hộ gìn giữ những kẻ thuộc về Ngài. Đó là niềm an ủi và sự khích lệ lớn đối với chúng ta. Lắm khi chúng ta phải trải qua những giờ phút gần như tuyệt vọng nhất vì những ngược đãi của người đời, xin hãy nhớ lại những lời hứa sắc son của Chúa: “Đừng sợ, vì ta đã chuộc ngươi. Ta đã lấy tên ngươi gọi ngươi; ngươi thuộc về ta. Khi ngươi vượt qua các dòng nước, ta sẽ ở cùng; khi ngươi lội qua sông, sẽ chẳng che lấp. Khi ngươi bước qua lửa, sẽ chẳng bị cháy, ngọn lửa chẳng đốt ngươi”(Es 43:1-2).

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 92

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

92

Nhìn lại những đoạn đường Hội Thánh Chúa tại Việt Nam đã đi qua, chúng ta có cớ để cảm tạ sự thành tín của Ngài. Chúa Jêsus hôm qua, ngày nay cho đến đời đời không hề thay đổi, nên những lời hứa của Ngài cũng không đổi thay. Thiết tưởng không có gì vui sướng hơn lúc phải sống trong những giờ phút đen tối nhất lịch sử, tai chúng ta được nghe tiếng phán êm dịu của Ngài: “Ngươi chớ sợ, vì ta ở cùng ngươi”(Gie 46:28). Có biết bao lời hứa tương tự như vậy đã được ra từ miệng của Đấng Christ.

6. Trường Thánh Kinh Và Thánh Kinh Thần Học Viện

Mùa thu năm 1911 Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp đã được phép đặt cơ sở Truyền giáo thứ nhất tại Việt Nam là Đà Nẵng. Tới tháng 9 năm 1921 các Giáo sĩ mở lớp dạy Thánh Kinh tại Đà Nẵng, bắt đầu lớp học chỉ có 4 người, sau được 7 người, đến cuối niên học 1921-1922 số học viên là 9 người. Khi đó lớp học là một cái phòng trước dùng để xe ngựa. Vì vậy đã có lời chế nhạo rằng: “Học sinh Trường Thánh Kinh Tin Lành học trong chuồng ngựa.” Nhưng các học viên vẫn hãnh diện mà đáp lại rằng “phải rồi, Chúa chúng tôi đã giáng sinh trong chuồng bò mà!”

Vị Đốc học của Trường Thánh Kinh là Giáo sĩ D. I. Jeffrey. (xem ảnh ở đầu sách)

Đầu năm 1923 đã có một phòng học khá rộng tọa lạc tại phía sau nhà thờ Đà Nẵng. Phòng học này có đầy đủ chỗ cho 50 học viên. Tháng 12-1924 hoàn thành thêm một phòng lớn hơn dùng làm lễ đường và 4 lớp học tọa lạc trong khuôn viên Trường Thánh Kinh. Những phòng ốc này đã dùng để làm Trường Thánh Kinh liên tiếp trong các niên học cho tới niên khóa chót của Trường Thánh Kinh tại Đà Nẵng (1959-1960).

Lễ đường và phòng học Thánh Kinh tại Đà Nẳng 1924

Tháng 7 năm 1960 Trường Thánh Kinh được thiên di vào Nha Trang và đổi tên là Thánh Kinh Thần Học Viện.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 93

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

93

Tạ ơn Đức Chúa Trời là Đấng Toàn tri, Ngài đã biết trước sự cần dùng của Hội Thánh và biết rõ đường lối của loài người! Ngài đã dự bị công việc phổ biến Thánh Kinh được tiến triển một cách kịp thời và đúng lúc. Sau đây là quá trình của Thánh Kinh Thần Học Viện, do ơn Chúa chuẩn bị.

Vào khoảng năm 1948-1949, tôi cảm thấy công việc Chúa ở miền Nam càng ngày càng phát triển mạnh, trái lại, công việc Chúa tại miền Bắc càng ngày càng khó khăn hơn. Nên tôi cầu nguyện với Chúa và được sự thúc giục phải có Trường Thánh Kinh ở giữa vùng có đông Hội Thánh. Sau một thời gian cầu nguyện, tôi đã ngỏ ý này với cụ Mục sư Ông Văn Huyên lúc ấy đang là Giáo sĩ Trường Thánh Kinh Đà Nẵng. Khi ý này được tỏ ra, thì liền gặp sự chống đối mãnh liệt và dai dẵng. Đến nỗi có người tại Trường Thánh Kinh Đà Nẵng đã nói với tôi rằng: “Mỗi lần ông ấy về đây (Đà Nẵng) là làm chúng tôi mệt trí thêm, tốt hơn ông đừng thăm chúng tôi nữa (khi ấy tôi đang ở Hà Nội), vì mỗi lần ông đến là như ném lựu đạn vào chúng tôi.”

Tháng 5-1951 văn phòng Tổng Liên Hội từ Hà Nội dời vào Đà Lạt. Từ ngày ở Đà Lạt, tôi thường gặp ông Ourgaud là người tín đồ Pháp làm đồn điền Di Linh. Ông Ourgaud có miếng đất tại Nha Trang (hiện nay là Thánh Kinh Thần Học Viện) muốn bán cho Hội Thánh để ông thu xếp về Pháp. Tôi lại đem ý thiên di Trường Thánh Kinh bàn với cụ Mục sư Duy Cách Lâm và cụ Mục sư Ông Văn Huyên. Chúng tôi đồng ý đưa vấn đề này cho Tổng Liên Hội thảo luận. Nhưng chúng tôi lại vướng phải vấn đề vô cùng khó khăn là không có tài chánh. Trong khi đó, chúng tôi vẫn tiếp tục cầu nguyện và chờ ý Chúa được nên trong công việc này. Trong thời gian ấy, ông Ourgaud về Pháp, ông đã giao chủ quyền miếng đất lại cho ông Mục sư Nguyễn Văn Tầm là vị truyền giáo tại Di Linh nơi làm việc của ông Ourgaud.

Vào khoảng cuối năm 1957, Giáo sĩ J. H. Revelle, lúc bấy giờ là Hội Trưởng Hội Truyền Giáo, đến thăm Nha Trang. Tôi nhắc lại ý định thiên di trường Thánh Kinh vào Nha Trang với ông và mời ông đi xem sở đất của ông Ourgaud, nơi mà chúng tôi có ý định mua để thiên di trường Thánh Kinh vào. Ông Giáo sĩ J. H. Revelle sốt sắng hưởng ứng và cổ động với thư ký Hải Ngoại là ông L. L. King. Ông King cũng sẵn lòng tán trợ, tạ ơn Chúa, ý Ngài đã được nên. Chúng tôi liền xúc tiến mua miếng đất mà ông Ourgaud đã hứa bán cho Hội Thánh. Mùa hè năm 1958 Thánh Kinh Thần Học Viện khởi công xây cất dưới sự điều khiển của cụ Mục sư Duy Cách Lâm và cụ Mục sư Ông Văn Huyên. Thánh Kinh Thần Học Viện đã khai giảng niên khóa đầu tiên tại Nha Trang ngày 5-5-1960.

Lễ Khánh thành đã được cử hành ngày 9-7-1961.

Cảm tạ Đức Chúa Trời là Đấng dự bị mọi sự cần cho Hội Thánh của Ngài tại Việt Nam.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 94

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

94

Thánh Kinh Thần Học Viện Tin Lành Nha Trang

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 95

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

95

CHƯƠNG 4: CAO TRÀO PHỤC HƯNG GIÁO HỘI VÀ NHỮNG CHUYỂN BIẾN LỊCH SỬ

Như tôi đã có dịp trình bày cùng quý độc giả, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam ngay từ lúc khởi đầu đã trải qua những giờ phút hết sức khó khăn. Nếu không có sự gìn giữ và bảo hộ của Chúa, thì chắc chắn không thể nào đứng vững. Giữa năm 1941 và 1942 quân đội Nhật đổ bộ ở Lạng Sơn, gây nên nhiều biến chuyển mới. Hội Thánh nhận thấy cần sự có mặt của tôi ở Hà Nội, nên tôi phải rời Thanh Hóa để trở về dù công việc Chúa tại nơi đây đang tiến triển rất khả quan.

Trong giai đoạn này, công việc Hội Thánh tại Bắc hạt vẫn tiến triển đều đặn. Nhiều hội đồng phục hưng liên tiếp được tổ chức khắp nơi. Tôi tha thiết cầu xin Chúa sự giúp đỡ để có thể vừa phát triển vừa củng cố Hội Thánh, nuôi dưỡng tinh thần anh em tín hữu bằng linh lực để có đủ khả năng ứng phó với những khó khăn của tình thế. Trong khi chúng tôi đang dốc toàn lực cho miền Bắc, thì ngày 10-2-1942 tôi bỗng nhận được thư của ông Mục sư Kiều Công Thảo, chủ nhiệm Nam hạt mời tôi vào giảng cho Hội đồng Nam hạt nhóm tại Cần Thơ, thay cho Hội trưởng Mục sư Lê Đình Tươi thọ bệnh bất ngờ. Thoạt tiên tôi nghĩ là không thể đi được vì hai lẽ: Thứ nhất, tôi không thể rời Bắc hạt trong lúc ấy; thứ hai, tôi chưa chuẩn bị và không biết ý Chúa muốn mình nói những gì với Hội đồng. Vả lại, ngày 14-2-1942 tôi phải có mặt tại Cao Bằng để giảng bố đạo và phục hưng tại đó, nên tôi trả lời là không thể đi được.

A. THỜI KỲ PHỤC HƯNG TOÀN DIỆN

1. Khải Tượng Trong Chiêm Bao

Sau khi gởi điện văn từ chối không thể đến Cần Thơ, tôi liền nhận được một điện tín khác từ Nam hạt gởi ra, nội dung hết sức ép nài, mong mỏi tôi đến bằng mọi cách. Các Giáo sĩ và mục sư tại Hà Nội cũng khuyên giục tôi nên đi. Không thể làm cách nào hơn, tôi liền trải bức thư của ông Chủ nhiệm Nam hạt trên giường ngủ để cầu hỏi ý Chúa và xin Chúa giúp tôi quyết định hiệp ý muốn Ngài. Đêm ấy, trong giấc ngủ, tôi nằm chiêm bao. Khải tượng trong giấc chiêm bao ấy và sự dạy dỗ của Lời Chúa trong Sa 46:4 giúp tôi có một quyết định hợp lý là ĐI. Cũng xin nói thêm là ngay khi mới bắt đầu chức vụ, tôi đã sắm sẵn một cái HỘP trong đó đựng ba trăm sáu mươi lăm câu Thánh Kinh được chép trên ba trăm sáu mươi lăm miếng giấy nhỏ có đề ngày tháng cẩn thận, dùng để làm kim chỉ nam cho trọn năm. Tôi rút một miếng giấy nhỏ trong hộp ấy và đọc những lời này: “Chính ta sẽ xuống đến đó với ngươi và chính ta cũng sẽ dẫn ngươi về chẳng sai” (Sa 14:4). Căn cứ vào ý nghĩa của câu Thánh Kinh này, tôi gởi ngay tín điện cho ông Mục sư Kiều Công Thảo: Tôi sẽ đến Cần Thơ 20-2-1942.

Câu chuyện về giấc chiêm bao trên đây, ít lâu sau, được đăng tải trên vài tờ báo Anh bên Mỹ. Rồi một tờ báo Pháp cũng tường thuật lại với nhan đề: “Le Rêve du

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 96

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

96

Pasteur Thái.” Sở dĩ một giấc mơ thông thường như vậy được loan đi khắp nơi trên thế giới, vì đó chính là khởi điểm của một biến động do Chúa cho phép xảy ra để giúp đức tin tín đồ và nuôi sống Hội Thánh miền Bắc từ năm 1942 đến đầu năm 1946. để tiện việc nghiên cứu, tôi xin dịch bài báo Pháp trên đây đăng trong tờ “Le Christianisme au XXe Siècle” số ra ngày 20-9-1945.

LE CHRISTIANISME

Chiêm bao của Mục sư Thái

Chiêm bao của Mục sư Thái, mới nghe như nhan đề của một câu chuyện đời xưa được kể vào buổi tối. Nhưng đây là một câu chuyện thật chúng tôi muốn thuật lại. Mục sư Thái hành chức tại Hà Nội và là một trong các vị Mục sư cao niên nhất của Hội Thánh Việt Nam trẻ trung mà độc giả của báo này từng quen biết.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 97

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

97

Khi nước Nhật khai chiến với Hoa Kỳ, các Hội Thánh xứ Đông Dương đang chuẩn bị tổ chức Hội đồng thường niên tại Việt Nam, Mục sư Tươi Hội Trưởng Tổng Liên Hội, được cử làm Chủ tọa và chủ tọa Hội đồng. Chẳng may, Mục sư Tươi mắc bệnh bại nên Ban Trị sự ngỏ lời với Mục sư Thái, xin ông vui lòng đảm nhận trách nhiệm ấy. Tình hình lúc ấy thật là nghiêm trọng, nhiều vấn đề quan trọng cần phải giải quyết. Hội Thánh là thành quả của công lao mà các Giáo sĩ (Hoa Kỳ) sắp phải trải qua những giờ khủng khiếp dưới quyền người Nhật Bản. Mục sư Thái cảm thấy mình không đủ khả năng bèn từ khước. Ban Trị sự cố nài nỉ, Mục sư Thái ngần ngại chưa dám quyết định.

Một đêm, ông ấy thấy chiêm bao: ông thấy mình đương giảng trước Hội đồng, khi đang giảng, một thanh niên đứng dậy cởi áo choàng để trên bàn mà rằng: “Tôi xin dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Tức thì một người thiếu phụ cũng đứng dậy tiến về phía bàn, gỡ đôi bông tai vàng mà đặt trên bàn và nói: “Tôi xin dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Sự cảm kích làm cho Mục sư thức giấc và đến sáng, sau khi cầu nguyện, ông nhận lời của Ban Trị sự.

Hội Đồng được phước nhiều, nhất là phiên nhóm của thanh niên Hội Thánh. Sau đó vào ngày chót, ông giảng cho toàn thể Hội Đồng. Đang khi ông giảng - tuy không hề ngỏ lời kêu gọi xin giúp tài chánh cho Hội Thánh Bắc Kỳ - một thanh niên đứng lên, tiến về phía bàn, cởi áo choàng đặt lên đó mà rằng: “Tôi xin dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Tức thì một thiếu phụ đứng dậy, tiến về phía bàn, lột đôi bông tai vàng nói như lời người thanh niên mà rằng: “Tôi xin dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Ngạc nhiên, Mục sư Thái nhận biết đó là hai người mình đã thấy trong chiêm bao. Các giáo hữu khác cũng theo gương họ, số người dâng cứ tăng thêm mãi, đến nỗi phải mượn hai cái rương để đựng các lễ vật.

Trên đường về, Mục sư Thái ghé lại Hội đồng địa hạt chung việc. Ông cũng giảng cho Hội đồng và cho trường Thánh Kinh Tourane. Cả hai nơi đều có một số người tự động dâng hiến những lễ vật, Mục sư trở về Hà Nội với bốn va-li đầy. Nhưng lễ vật này chính là một phần cứu trợ lớn lao cho Hội Thánh Bắc Kỳ trong hai năm trường gian khổ.

Có phải Đức Chúa Trời bao giờ cũng dùng chiêm bao để bày tỏ ý muốn Ngài và dẫn đường chỉ lối cho ta không? Chắc là không, nhưng câu chuyện ngắn này có thật và được thuật đúng từng chi tiết, đã chứng tỏ rằng các chuyện tích trong Thánh Kinh phù hợp với kinh nghiệm của loài người đến mức nào. Hoài nghi những việc đã xảy ra với các nhân vật trong Thánh sử, trong khi Đức Chúa Trời vẫn còn tái diễn những việc ấy cho những người đồng thời với ta thì thật là khinh bạc biết là chừng nào.

G. Debot

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 98

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

98

(Trích dịch báo ‘Le Christianisme au XXe siècle’ ra nhằm ngày 20 tháng Septembre năm 1946).

“Chiêm bao của mục sư Thái.” Mới nghe như nhan đề của một câu chuyện đời xưa được kể vào buổi tối. Nhưng đây quả là một chuyện thật mà chúng tôi muốn thuật lại. Mục sư Thái hành chức tại Hà Nội, là một trong những vị mục sư niên trưởng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam trẻ trung mà quý độc giả đã từng biết qua.

Trong khi nước Nhật giao chiến với Hoa Kỳ, thì các Hội Thánh tại Đông Dương lo chuẩn bị Hội đồng thường niên (danh từ địa phương gọi là Địa hạt Liên hội) tại Cần Thơ, Mục sư Tươi, Hội trưởng Tổng Liên Hội được ủy nhiệm triệu tập và chủ tọa Hội đồng. Nhưng chẳng may, Mục sư Tươi mắc bệnh bại. Ban Trị sự liền ngõ lời với Mục sư Thái, xin ông vui lòng đảm nhận trách nhiệm thay cho. Tình hình lúc bấy giờ đang nghiêm trọng, có nhiều vấn đề cần giải quyết. Hội Thánh - bông trái lành của các Giáo sĩ (Hoa Kỳ) - sắp phải trải qua những giờ khủng khiếp dưới quyền người Nhật. Mục sư Thái cảm thấy mình không đủ khả năng bèn từ chối. Ban Trị sự cố nài, nhưng Mục sư Thái vẫn ngần ngại và chưa dám quyết định.

Một đêm kia nằm chiêm bao. Ông thấy mình đứng giảng trước Hội đồng. Trong khi ông đang giảng thì có một người trẻ tuổi đứng dậy cởi áo choàng để trên bàn và nói rằng: “Vì công việc Chúa ở Bắc Kỳ, tôi xin dâng món nầy.” Tiếp đến, một người thiếu phụ cũng đứng dậy tiến về phía bàn, gỡ đôi bông tai vàng mà đặt trên bàn và nói: “Tôi xin dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Sự cảm kích làm cho Mục sư thức giấc và đến sáng, sau khi cầu nguyện, ông nhận lời của Ban Trị sự.

Hội Đồng được phước nhiều, nhất là phiên nhóm cho thanh niên Hội Thánh. Sau đó vào ngày chót, ông giảng cho toàn thể Hội Đồng. Đang khi giảng - tuy ông không hề tỏ lời kêu gọi xin giúp tài chánh cho Hội Thánh Bắc Kỳ – nhưng một thanh niên đứng lên, tiến về phía bàn, cởi áo choàng đặt trên bàn và nói: “Tôi muốn dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Tức thì một thiếu phụ cũng đứng dậy, tiến về phía bàn, lột đôi bông bằng vàng và lập lại: “Tôi muốn dâng món này cho công việc Chúa ở Bắc Kỳ.” Mục sư Thái rất ngạc nhiên vì nhận ra đó chính là hai người mình đã thấy trong chiêm bao. Các giáo hữu khác cũng làm theo như vậy, số người dâng cứ tăng thêm mãi, đến nỗi phải mượn hai va-li để chở các lễ vật.

Trên đường về, mục sư Thái cũng ghé lại Hội đồng Linh tu tại Địa hạt Trung Kỳ. Ông có dịp giảng dạy ở đó và kế tiếp là ở trường Thánh Kinh Tourane. Khắp nơi đều có một số người tự ý dâng lễ vật như vậy, và mục sư trở về Hà Nội với bốn va-li đầy. Những tặng vật này thật đã là một phần cứu trợ lớn cho Hội Thánh Bắc Kỳ trong bốn năm trường gian khổ...

Có phải bao giờ Đức Chúa Trời cũng dùng chiêm bao để bày tỏ ý muốn Ngài và dẫn đường chỉ lối cho ta không? Chắc là không, nhưng câu chuyện ngắn này có thật và được thuật đúng từng chi tiết, đã chứng tỏ rằng các chuyện tích trong

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 99

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

99

Thánh Kinh phù hợp với kinh nghiệm của loài người đến mức nào. Hoài nghi những việc đã xảy ra cho các nhân vật trong Thánh sử, trong khi Đức Chúa Trời vẫn còn tái diễn những việc ấy cho những người đồng thời với ta thì thật là khinh bạc biết chừng nào.”

(Trích dịch báo ‘Le Christianisme au XXe siècle’ ra nhằm ngày 20 tháng 9 năm 1946).

Sau khi gởi điện tín cho ông Mục sư Chủ nhiệm Nam hạt, tôi sửa soạn để đi giảng phục hưng bố đạo ở Cao Bằng, tổ chức liên tiếp hai ngày 14 và 15-2-1942. Ngày 16-2 tôi đến Na Sầm. Tại đây tuy chưa có Hội Thánh nhưng đã có một phòng đọc sách và một người tín đồ là ông Phán Hỏa là Trưởng ty Quan thuế, mới tin nhận Chúa nhưng rất sốt sắng. Việc nhóm họp hàng tuần hoặc do Mục sư từ Lạng Sơn đến hoặc chúng tôi từ Hà Nội lên. Theo chương trình, tôi định tối 16-2 nhóm tại Hội Thánh Lạng Sơn và sáng 17-2 từ Lạng Sơn về Hà Nội, để đáp chuyến xe lửa tối hôm ấy vào Sài Gòn (19-2) và đến Cần Thơ đúng ngày 20-2-1942.

Tôi cố gắng áp dụng đúng theo thời khắc biểu đã hoạch định, nhưng vào giờ chót suýt chút nữa chương trình đã hỏng vì một tai nạn nhỏ. Nếu không có sự can thiệp của Chúa thì không thể nào tôi đến Cần Thơ đúng ngày. Số là sáu giờ sáng ngày 16-2, tôi bỏ Cao Bằng đến Na Sầm, định trưa, sau khi nhóm thờ phượng Chúa với anh em xong, tôi sẽ đáp xe lửa từ Na Sầm về Lạng Sơn để nhóm tối. Nhưng sau khi giảng và thăm viếng anh em, ra đến ga thì chuyến xe lửa chót đã chạy rồi, xe hơi thì cũng hết. Không thể làm cách nào khác hơn, tôi liền mượn một chiếc xe đạp của tín đồ để theo đường tắt về ga Kỳ Lừa với hy vọng đón được xe lửa. Đó là phương cách duy nhất khả dĩ giúp tôi thành công. Muốn đến Kỳ Lừa phải vượt qua một khoảng đường rừng với nhiều đồi núi. Không may chiếc xe đạp quá cũ, hành lý cồng kềnh, khi xuống dốc xe đứt thắng đâm vào núi, tôi bị thương ở đầu và cánh tay, nằm bất tỉnh giữa rừng. Khi tỉnh dậy, nhớ lại cảnh trạng vừa xảy ra, tôi hơi thất vọng, vì xe lửa chắc đã chạy lâu rồi. Ngồi một hồi lâu, tôi cột lại hành lý. Xe đạp hư không đi được đành phải dắt xuống núi. Đang khi đi, tôi bỗng nghe còi tiếng xe lửa. Mừng quá, tôi cố vác xe đạp và hành lý lên vai chạy đến xe lửa thì trời vừa tối. Lên xe tôi vừa thở vừa hỏi thăm mới hay, đáng lẽ chiếc tàu này đã qua khỏi đây một giờ rưỡi rồi. Nhưng vì bị hỏng máy nên phải nằm ở ga Đồng Đăng một giờ rưỡi để sửa chữa. Tôi lớn tiếng ngợi khen Chúa, vì biết chắc rằng Chúa đã giữ con tàu này lại cho tôi. Chúa đã cứu mạng tôi khi gặp nạn và Ngài chuẩn bị mọi phương tiện cho tôi đi. Nhờ đó, tôi đến Lạng Sơn kịp buổi nhóm. Sáng 17-2-1942 tôi về Hà Nội rồi tối hôm đó tôi đáp xe lửa vào Sài Gòn. Sáng 19-2-1942 tôi đến Sài Gòn và đi ngay xuống Cần Thơ để kịp dự Hội đồng Nam hạt ngày 20-2-1942 như đã hoạch định.

2. Lửa Thánh Linh Bùng Cháy

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 100

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

100

Quang cảnh nhộn nhịp tưng bừng của ngày Đại Hội cùng với vẻ tươi vui trong tình yêu Chúa của toàn thể Mục sư, Truyền đạo và tín hữu làm cho lòng tôi thêm phấn khởi.

Chiều hôm đó (19-2-1942) tôi dành thời giờ biệt riêng cầu nguyện trong phòng. Tâm trí tôi xoay chung quanh hình ảnh: Con lừa con của con lừa cái, đưa Chúa đi giữa sự hoan hô của đoàn dân đông. Tôi tự nhiên nhận thấy mình đơn sơ như con lừa con và tôi đã cúi đầu thầm nguyện: “Lạy Chúa, nếu Chúa dùng, xin Ngài ngự vào lòng con, cho con những ý tốt đẹp và những lời đầy ơn để nói với Hội đồng hầu cho danh Chúa được vinh hiển.” Trong đêm tối, ý tưởng trên quấn quýt lấy tôi, tôi không ngớt cầu xin với Chúa: “Con là con lừa ngây dại, nhưng xin Chúa dùng con trong dịp này để tôn cao danh Ngài.”

Hội đồng qua một ngày với nhiều phước hạnh. Phần đông ăn nuốt Lời Chúa cách sốt sắng lạ thường. Chiều hôm sau là giờ nhóm riêng cho thanh niên. Tôi dùng Thi 119:9 để làm nền tảng cho bài giảng. Chúa giúp tôi khai thác sâu rộng ý nghĩa của tiêu đề: “PHẢI LÀM SAO CHO ĐƯỜNG LỐI MÌNH ĐƯỢC TRONG SẠCH.” Giải đề cho tiền đề trên đây là: “PHẢI CẨN THẬN THEO LỜI CHÚA.” Mục đích của bài giảng này nhằm khuyến khích thanh niên đọc Lời Chúa và vâng giữ lời Ngài. Bổ túc cho giải đề của tiền đề là tiêu đề của Vua Đa-vít: “TÔI ĐÃ GIẤU LỜI CHÚA TRONG LÒNG TÔI, ĐỂ TÔI KHỎI PHẠM TỘI CÙNG CHÚA.”

Trong khi đang giảng, thì một thanh niên đứng lên khỏi ghế mình, tiến về phía tòa giảng, nước mắt trào ra, cởi áo ngoài đặt lên bàn và nói: “Vì công việc Chúa tại Bắc hạt, tôi xin dâng vật này.” Tiếp đến là một thiếu phụ tiến về phía tòa giảng vừa đi vừa khóc, cởi đôi bông tai để lên bàn và lặp lại câu nói của người thanh niên: “Vì công việc Chúa tại miền Bắc, tôi xin dâng vật này.”

Không phải như câu chuyện vua Nê-bu-cát-nết-sa thấy chiêm bao rồi quên hẳn đi như đã được chép ở trong Đa-ni-ên đoạn 2. Nhưng, thật sự tôi đã quên lững những gì tôi đã thấy trước khi vào dự Hội đồng. Bây giờ thái độ hành động của thanh niên và thiếu phụ nầy bỗng nhắc tôi nhớ lại một đoạn phim đã được xem qua… “trong giấc mơ.” Những người bằng xương bằng thịt đang đứng trước mặt tôi, đây chính là những người tôi đã thấy trong khải tượng. Tiếp đó, người cởi giày, kẻ cởi áo, bông tai, đồng hồ chen lấn nhau tiến về tòa giảng để dâng vật tốt lành nhất mà mình đang có cho công việc Chúa ở miền Bắc. Trong số những người dâng có trên đây, có bà Giáo sĩ D. I. Jeffrey dâng một cái đồng hồ đeo tay rất quý giá.

Những tặng vật trên đây tôi giao cho một ủy ban kiểm kê và lập phiếu trình gởi ra Hà Nội. Sau cùng, chúng tôi phải dùng hai va-li lớn mới đựng hết những món đồ cứu trợ này.

Sau Hội đồng Cần Thơ, tôi ra thăm các Hội Thánh Trung hạt và giảng cho Hội đồng Linh tu tại Đức Phổ (Quảng Ngãi) ngày 24-2-1942. Tôi dùng Eph 3:14-19 làm

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 101

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

101

nền tảng cho bài giảng. Khi tôi đang đọc đến câu: “ĐẾN NỖI ĐẤNG CHRIST NHƠN ĐỨC TIN MÀ NGỰ TRONG LÒNG ANH EM,” bỗng nghe có những tiếng khóc từ các hàng ghế nổi lên rồi lần lần lan rộng khắp nhà thờ. Một cô truyền đạo trẻ tuổi bước ra khỏi chỗ ngồi tiến về phía tòa giảng, vừa khóc vừa tháo đôi bông tai đặt lên bàn, nói trong màn lệ: “Tôi xin dâng vật tốt nhất mà tôi có thể góp phần hầu việc Chúa ở Bắc hạt.” Quang cảnh cảm động khóc lóc giữa Hội đồng Cần Thơ mấy hôm trước đây bây giờ lại tái diễn tại Hội đồng Đức Phổ. Tôi sửng sờ không biết nói gì khác hơn là nức lòng ngợi khen quyền năng cao cả của Chúa Thánh Linh. Từng loạt người đứng lên, chen lấn nhau trong tiếng khóc. Những đôi giày, những cái khăn, cái áo, những đồng hồ, nón nỉ, va-li được toàn thể anh em tín hữu tình nguyện hiến dâng cho công việc Chúa tại miền Bắc. Chúa đang giục giã lòng anh em. Tất cả đều nôn nả sốt sắng. Lửa Thánh Linh cuồn cuộn dâng cao. Tình yêu thương thật tràn ngập tâm hồn mọi người.

Tối thứ tư, ngày 25-2-42 tôi giảng tại trường Thánh Kinh Đà Nẵng. Chúa nhắc nhở tôi một đoạn ngắn trong thư IITi 1:13-14, rồi tôi dùng hai câu Thánh Kinh nầy để làm nền tảng cho bài giảng. Chúa giúp đỡ tôi khai triển đầy trọn ý nghĩa mệnh đề sau đây: “HÃY LẤY LÒNG TIN VÀ YÊU TRONG ĐỨC CHÚA JÊSUS CHRIST MÀ GIỮ LẤY MẪU MỰC CỦA CÁC SỰ DẠY DỖ CÓ ÍCH” Tôi đã trình bày với tất cả nhiệt thành. Lời Chúa do đó đã đâm thấu vào lòng toàn thể anh chị em sinh viên, học sinh. Cũng như tại Hội đồng Linh tu Đức Phổ, trong khi tôi đang giảng bỗng có tiếng khóc từ giữa lễ đường vang lên, rồi một học sinh đứng dậy tiến về phía tòa giảng, cởi chiếc đồng hồ đeo tay đặt lên bàn, vừa khóc vừa nói: “Tôi dâng vật này để góp phần hầu việc Chúa ở Bắc hạt.” Tiếp theo đó, người này vừa đi xuống, người khác tiến lên, kẻ dâng đôi giày, người dâng cái nón, kẻ dâng chiếc nhẫn cưới, người dâng chiếc vòng hứa hôn. Có người chạy ngay về phòng trọ mang cây đàn, người khác lại mang chiếc va-li và cả những bộ quần áo đem dâng cho Chúa. Đức Thánh Linh làm việc rất lạ, đến nỗi người cư ngụ gần trường Thánh Kinh có dịp vào nghe giảng cũng cảm động, chạy về nhà lấy tiền bạc và đồ vật đến dâng. Mọi người nhìn nhau, ánh mắt ngời lên trong một niềm tin yêu thông cảm hết sức đậm đà. Trong giờ phút vui mừng tột độ ấy, tôi không biết làm gì khác hơn cúi đầu thầm nguyện: “LẠY CHÚA, XIN CHÚA LÀM VIỆC THEO THÁNH Ý NGÀI.” Sau đó tôi giao cho một ủy ban lo kiểm kê các tặng vật, niêm phong cẩn thận và gởi ra Hà Nội ngày 27-2-42 chung với một bản kê khai đầy đủ các món đã dâng, như tôi đã làm mấy hôm trước ở Cần Thơ và Đức Phổ. Ngày hôm đó (27-2-42) cũng là ngày tôi lên xe lửa về Hà Nội.

Đến sáng Chúa nhật, ngày 1-3-42, sau khi thờ phượng Chúa và giảng Thánh Kinh, tôi bắt đầu tường thuật cho Hội Thánh Hà Nội nghe những biến động trong cuộc hành trình vào Nam vừa qua của tôi. Những việc lạ lùng Chúa đã làm ở Cần Thơ, Đức Phổ cũng như ở trường Thánh Kinh Đà Nẵng. Tức thì như có một luồng điện mạnh chạm vào lòng tất cả những con cái Chúa đang dự nhóm trong nhà thờ.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 102

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

102

Tâm hồn họ như tan vỡ, và bừng cháy bởi sự kính mến Chúa và tình yêu thương linh hồn đồng bào. Những tiếng NGỢI KHEN CHÚA vang lên hòa lẫn trong tiếng khóc. Sự xúc động dâng trào mãnh liệt. Có thể bảo LỬA THÁNH LINH đã phát khởi ở Cần Thơ, rồi sau đó cháy lan ra khắp các miền Đức Phổ, Đà Nẵng rồi đến Hà Nội một cách hết sức nhanh chóng.

Đa số anh em tín đồ đều nôn nóng muốn nhìn tận mắt những vật mà con cái Chúa khắp nơi đã dâng, nên chúng tôi tổ chức một buổi nhóm ngay vào tối hôm đó. Để có thể sắp xếp và kê khai đầy đủ, chúng tôi đề cử ngay một ủy ban để lo kiểm điểm những vật từ các nơi gởi về, để riêng ra từng loại và ghi rõ xuất xứ ở Cần Thơ, Đức Phổ hay Đà Nẵng. sau đó, bày tất cả những của dâng ấy lên tòa giảng.

Tối nhóm lại, sau khi hát Thánh ca và cầu nguyện tôi thuật lại một lần nữa chuyến đi Nam của tôi với những chi tiết đầy đủ hơn, Tôi nói rõ cho Hội Thánh biết lý do tại sao tôi phải vào Nam và những gì đã xảy ra lúc chuẩn bị, khi đi cũng như lúc trở về. Hội Thánh cũng biết sơ lược về việc Hội Trưởng Mục sư Lê Đình Tươi đau, nên tôi nói thêm là lần thứ nhất ông chủ nhiệm Nam hạt gởi điện tín mời tôi đến chủ tọa và giảng cho Hội đồng thay cho Mục sư Lê Đình Tươi, nhưng tôi không muốn đi vào và đã gởi điện văn từ chối. Nhưng một điện tín khác lại gởi ra với nội dung rất thành khẩn, thêm vào đó Mục sư Truyền đạo lại khuyên giục tôi nên đi… Không biết phải quyết định ra sao, tôi bèn đem mọi việc ấy trình bày với Chúa và xin Chúa cho tôi biết ý định của Ngài. Kết quả, sau khi cầu nguyện đọc Thánh Kinh và chờ đợi, tôi đã nhận được khải tượng lạ lùng của Chúa. Chúa cho tôi thấy CHIÊM BAO…

Trong CHIÊM BAO tôi thấy mình đang giảng cho Hội đồng, trong khi đang giảng, bỗng có một chàng thanh niên tiến lên phía tôi vừa đi vừa khóc nức nở. Anh cởi chiếc áo ngoài đặt lên bàn rồi nói giọng nghẹn ngào: “Tôi xin dâng vật này để góp phần hầu việc Chúa tại Bắc hạt.” Người thanh niên quay gót trở xuống thì một thiếu phụ tiến lên, cởi đôi bông tai đặt lên bàn nói trong màn lệ: “Tôi cũng xin dâng vật này để dùng vào công việc Chúa tại Bắc hạt.” Tiếp theo đó, nhiều người khác chen lấn nhau đem dâng cho Chúa những vật tốt nhất mà mình hiện có…

Khi tỉnh giấc tôi không chú ý về những việc đã xảy trong chiêm bao. Do đó những ngày kế tiếp vì công việc bận rộn nên tôi quên phứt đi. Mãi đến khi vào Cần Thơ giảng cho Hội Đồng, chứng kiến việc làm của chàng thanh niên và thiếu phụ trên đây, tôi liền nhớ lại đúng là dáng điệu của hai người mà tôi đã thấy trong chiêm bao, từ quang cảnh Hội đồng đến màu áo và ngôn ngữ của họ đều y hệt, chẳng khác nào tôi được xem lại một khúc phim chiếu lại lần thứ hai.

Khi thuật chuyện, tôi cầm cái áo chàng thanh niên và đôi bông tai của người thiếu phụ đưa cao lên cho mọi người thấy. Tức thì một biến động xảy ra ngay trong lúc đó. Hội chúng đồng loạt khóc to lên vì cảm động và một số người nhận được sự

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 103

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

103

thúc giục mãnh liệt của Chúa nên cởi nào áo, bông tai, vàng vòng, bút máy, đồng hồ, tiền bạc đem dâng cho Chúa để phát triển công việc nhà Ngài. Thậm chí có những cụ già sẵn sàng hiến dâng cả cây gậy, chiếc dù đang cầm trên tay. Lúc đó đang còn lạnh nhưng vẫn có người hăng hái dâng luôn cả tấm áo ngự hàn độc nhất của mình bất chấp mưa sa gió lạnh. Tinh thần cương quyết hy sinh cho công việc chung đồng một lúc lan tràn từ Nam chí Bắc. Thánh Linh thật sự thăm viếng từng cá nhân tín đồ. Ngọn lửa yêu thương ngùn ngụt dâng cao. Có thể bảo đây chính là giai đoạn vàng son nhất, phước hạnh nhất trong lịch sử giáo hội. Sự hợp nhất của toàn thể tín hữu ba miền hoàn toàn tự nhiên, không màu mè, không giả tạo. Mọi người không ai nhìn ai mà tất cả đều nhìn về một hướng, theo đuổi chung cùng một mục đích với cùng một ý thức, trách nhiệm là phải làm thế nào rao truyền Lời Sự Sống cho toàn cõi Việt Nam trong một thời gian ngắn nhất.

Quyết tâm đó của toàn thể tín hữu được thể hiện bằng những hành động tiêu biểu sau đây của Hội Thánh Hà Nội. Số là sau khi nhận được những tặng phẩm từ các nơi gởi về để cứu trợ cho công việc Chúa tại miền Bắc, Hội Thánh Hà Nội liền phát động phong trào mua các vật đã dâng để tặng lại cho người dâng. Tín hữu khắp các vùng lân cận đều nhiệt liệt hưởng ứng. Họ sẵn sàng tranh nhau mua nhưng món đồ rất tầm thường với giá rất đắt. Nhờ đó, Hội Thánh có được một ngân quỹ tương đối dồi dào để cung ứng cho những đòi hỏi cấp thiết của tình hình. Công việc bán đấu giá lạ lùng này phải kéo dài nhiều đêm mới xong. Mọi người hăm hở chen lấn nhau, mong mỏi sao cho hành động của mình được gần với những tấm lòng đã hy sinh vì công việc Chúa. Nhất là chiếc áo của chàng thanh niên, đôi bông tai của cô Truyền đạo Đức Phổ và chiếc đồng hồ đeo tay của bà Jeffrey, ai ai cũng muốn giành nhau mua cho kỳ được. Rốt lại, một bà cụ giàu lòng bác ái đã bằng lòng trả một số tiền cao nhất để nhận chiếc áo của chàng thanh niên. Bà rất sung sướng đối với nghĩa cử cao đẹp của mình, và liền sau đó, bà gởi tặng lại chiếc áo đó lại cho chàng thanh niên trên đây. Thật Chúa đã dùng chàng thanh niên này để khơi mào cho công cuộc phục hưng lớn trong toàn cõi Việt Nam. Có thể bảo lửa Thánh Linh đã ngún cháy tại Cần Thơ, lan rộng ra miền Trung và cuối cùng bốc cháy mãnh liệt tại Hà Nội. Chính chàng thanh niên trên đây về sau đã trở thành một Mục sư đầy ơn và đã làm Đoàn trưởng Thanh niên trong nhiều năm. Trong khi tôi viết những dòng nầy thì Mục sư Nguyễn Sơn Hà đang là Chủ tọa của một Hội Thánh lớn tại miền Nam.

Khi giai đoạn bán đấu giá vừa xong, đến giai đoạn giao hoàn tặng vật cũng được phát động hết sức sôi nổi. Của ai đã dâng đều được tặng lại đúng cho người ấy, nhưng có ít món không được như ý. Sự kiện nầy lại gây một biến động lớn và sâu rộng trong toàn thể Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Người này truyền miệng cho người kia những việc lạ lùng mà Chúa đã làm. Chẳng bao lâu tất cả tín hữu từ thành thị đến thôn quê đều biết rõ: Người dâng món đồ trong trường hợp đặc biệt nào và

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 104

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

104

người mua để tặng lại ra làm sao. Khi nghe câu chuyện nầy, ai nấy đều hết lòng ngợi khen Chúa. Bắt đầy từ đó, mọi người hết lòng hết sức góp phần hầu việc Ngài.

Lúc bấy giờ, Bắc hạt có mười chín chi hội kể từ Thanh Hóa đến Cao Bằng, nhưng chỉ có hai chi hội tự trị tự lập là Hà Nội và Nam Định. Những chi hội còn lại do Hội Truyền giáo trợ cấp. Đến năm 1942, quân đội nhật tràn sang Đông Dương, các Giáo sĩ lần lượt bị đưa vào trại giam ở Mỹ Tho. Tiền tiếp tế hàng tháng bị đình chỉ, do đó, mười bảy chi hội tân lập không được trợ cấp nữa. Về phương diện tài chánh thì lúc bấy giờ Bắc hạt yếu kém hơn các Hạt khác, vì phần đông các Hội Thánh đều mới mở.

3. Tinh Thần Tương Trợ Tiếp Tục Lan Rộng.

Do biến động nầy, các Hội Thánh Chúa ở Nam, Trung và Bắc đồng loạt thức tỉnh, tất cả đều ý thức được trách nhiệm của mình là phải làm sao cho Hội Thánh được tự trị tự lập cách bền vững. Trong dịp nầy một số con cái Chúa ở Nam và Trung hạt được Thánh Linh cảm thúc nên vui lòng dâng một số tiền hằng tháng để cung cấp cho Mục sư Truyền đạo ở miền Bắc trong suốt thời gian gần bốn năm kể từ tháng 6, 1942 đến tháng 4, 1946. Sau giai đoạn nầy, Hội Truyền giáo mới bắt đầu trợ cấp trở lại. Trong khi tín đồ ở Nam và Trung hạt cố gắng giúp đỡ công việc Chúa tại miền Bắc, thì tín đồ Bắc hạt lại càng cố gắng bội phần hơn. Đối với họ, số tiền một phần mười quá ít nên đã bằng lòng dâng từ mười lăm đến hai mươi phần trăm hoặc hơn nữa để giúp đỡ cho các tôi tớ Chúa. Thậm chí có người sau khi khấu trừ các chi phí cho gia đình, đem dâng tất cả số tiền còn lại để phát triển Hội Thánh. Vả lại, tinh thần của Mục sư Truyền đạo lúc bấy giờ rất cao, bằng lòng chấp nhận mọi hy sinh gian khổ để duy trì Hội Thánh và rao truyền Tin Lành.

Mẫu đối thoại ngắn sau đây có thể xem như là một điển hình cho sự quyết tâm ấy. Có một truyền đạo trẻ nhận được thư mẹ từ miền Trung gởi ra, trong đó có câu: “mẹ nghe vợ chồng con và các cháu khổ, mẹ thương lắm. Mẹ không muốn con và các cháu đói khổ. Con đem các cháu về đây mẹ nuôi. Chúa cho nhà ta cũng đủ ăn.” (Ông truyền đạo liền viết ngay một phúc thư cho mẹ:) “Thưa mẹ, con đọc thư mẹ con rất cảm động biết mẹ rất thương vợ chồng con và các cháu, nhưng con không thể bỏ Hội Thánh mà về. Chúa thương chúng ta, mẹ ạ. Hội Thánh ở đây thương chúng con và chúng con thương Hội Thánh….”

Hai bức thư trên đây, tôi được hân hạnh đọc trước bữa ăn tối tại tư thất Hà Nội. Tôi rất cảm động, do đó quyết định kiêng ăn bữa tối hôm ấy, dùng thì giờ để cầu nguyện và tạ ơn Chúa về tinh thần của Mục sư Truyền đạo và của toàn thể tín hữu trong những giờ phút khó khăn đen tối nhất lịch sử Giáo hội.

Đến tháng 2, 1944 Hội Đồng Bắc hạt được tổ chức họp tại Thái Bình và Mục sư Kiều Công Thảo, Chủ nhiệm Nam hạt là giảng giả. Lúc bấy giờ, nền kinh tế tại miền Bắc bị khủng hoảng kinh khiếp. Nạn đói thường xuyên đe dọa mọi người. Chính vì

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 105

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

105

thế mà Hội Thánh miền Bắc phải trải qua những hoàn cảnh hết sức khó khăn. Nếu không có sự che chở và đùm bọc bởi ơn thần hựu của Chúa thì không thể nào đứng vững và tồn tại cho đến ngày nay. Sự kiện ấy chẳng những làm cho người đời ngạc nhiên, và ngay cả các đầy tớ của Chúa cũng phải lấy làm lạ. Trong thì giờ biệt riêng nhóm với các Mục sư, Truyền đạo miền Bắc, ông Mục sư Kiều Công Thảo đã thành thật bày tỏ sự “thắc mắc” của mình. Ông nhìn thẳng các vị Mục sư, Truyền đạo rồi nói: “Tôi có một sự khó hiểu, xin hỏi thật anh em. Lúc còn ở trong Nam, tôi nghe ngoài Bắc đói khổ và thiếu thốn lắm. Tôi đã hết sức khuyên Hội Thánh trong Nam dâng tiền giúp Hội Thánh ngoài nầy, nhưng khi ra đến đây tôi thấy tất cả anh em đều khỏe mạnh, quần áo đàng hoàng quá, khiến tôi không hiểu tại sao?” Có một vị Mục sư vui vẻ đứng lên trả lời: “Cảm ơn Chúa, câu hỏi của ông rất đúng. Chính chúng tôi cũng tự hỏi như vậy, vì không biết tại sao chúng tôi có thể sống và có đầy đủ đến ngày nay.” Nghe sự trình bày của người bạn không đủ yếu tố để làm cho người ngoại cuộc có thể hiểu được tường tận, một vị Mục sư khác đứng lên tường thuật lại cách thức Chúa dùng để nuôi gia đình mình với một giọng cảm động như sau: “Một ngày kia gia đình tôi không còn gì để ăn. Chúng tôi không biết nhờ đâu để có gạo ăn qua ngày. Đám con chúng tôi đói lã. Đến trưa không biết phải làm cách nào khác hơn, chúng tôi đi cầu nguyện. Một lúc sau, có tiếng người gõ cửa. Khách của chúng tôi là một bà tín đồ từ tỉnh khác đến. Theo bà có một người với một gánh nặng trên vai. Gặp chúng tôi bà nói ngay: Tôi có chút việc qua đây nhân tiện ghé thăm ông bà và mua gánh BÚN biếu ông bà và các cháu. Chúng tôi hết sức mừng rỡ và cảm tạ ơn Chúa. Trong suốt hai ngày, gia đình tôi sống bởi gánh bún mà Chúa đã sai “ CON QUẠ” của Ê-li ngày xưa và của chúng tôi ngày nay mang tới. Rồi ông chỉ ngay vào mình và nói: “Như bộ đồ tôi đang mặc đây cũng do một con quạ khác đem đến hai tuần trước.”

Buổi nhóm họp bỗng trở thành một cuộc làm chứng đầy ơn. Các vị Mục sư Truyền đạo hiện diện luân phiên nhau thuật lại sự giúp đỡ, nuôi dưỡng của Chúa đối với gia đình mình. Những “con quạ” của Đức Chúa Trời luôn luôn đến kịp lúc để giải tỏa những khó khăn và cung cấp mọi nhu cầu cho đời sống ngoài sức tưởng tượng của họ. Chúng tôi vui mừng nhìn nhau, hát Ha-lê-lu-gia, ngợi khen Chúa. Ngài đã dự bị cho Hội Thánh xưa cũng như nay, một đàn quạ tiếp trợ, chớ không phải một đàn quạ chỉ chuyên tìm xác chết.

B. CUỘC HÀNH TRÌNH LỊCH SỬ SAU CÁCH MẠNG 1945

Bắt đầu giữa năm 1945, tình hình đất nước trở nên sôi động vì những chuyển biến bất ngờ. Âm vang của cuộc chiến tại Việt Nam không còn ở trong phạm vi quốc nội, trái lại ngày càng lan rộng khắp các quốc gia láng giềng vì ảnh hưởng cuộc tranh chấp quốc tế giữa chủ nghĩa “phát xít” và của phe Trục và chủ nghĩa tự do của phe Đồng minh. Do đó Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một lần nữa lại phải đối đầu với những khó khăn mới, trong đó vấn đề liên kết hay không liên kết. Lúc

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 106

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

106

bấy giờ tôi và toàn thể quý vị Mục sư trong Ban Trị sự Tổng Liên Hội hết sức lo lắng vì nhận thấy Hội Thánh của Đức Chúa Trời đang bị đặt trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan. Tuy nhiên, có nhiều điều nâng đỡ đức tin chúng tôi trong những hoàn cảnh như vậy, chúng tôi và toàn thể tín hữu mới thấy rõ sự bảo vệ trọn lành của Chúa. Chúa không bao giờ để cho Hội Thánh Ngài bị sa lầy, nếu chúng ta thật sự quyết tâm nhờ cậy Ngài.

1. Hội Kiến Tại Bắc Bộ Phủ.

Sau hai vụ nổ bom nguyên tử tại Okinawa và Nagasaki, ngày 15-8-1945, nước Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Chế độ quân phiệt suy tàn cùng với giấc mộng thôn tính toàn cõi Đại Đông Á của con cháu Thái dương Thần nữ.

Nhân cơ hội nầy, ngày 23-8-1945 mặt trận Việt Minh đứng lên cướp chính quyền trong tay người Nhật. Đến 2-9-1945 tại công viên Ba Đình, ông Hồ Chí Minh với tư cách chủ tịch, đã tuyên bố Việt Nam Độc Lập. Thế là, lịch sử quốc gia lại bắt đầu một giai đoạn mới với những thể chế khác biệt hơn. Trong những ngày đầu, toàn dân hân hoan đều chào mừng chiến thắng. Cuộc tranh đấu trường kỳ giành độc lập kể như đã thành công. Lúc bấy giờ, cũng như những đoàn thể tôn giáo khác, vào ngày 8-9-1945, tôi cùng ông Mục sư Trần Văn Đệ và ông Bùi Hoành Thử đại diện cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đến chào mừng cụ Hồ tại Bắc bộ phủ. Trong buổi tiếp xúc đầu tiên với vị chủ tịch nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, vấn đề sau đây đã được đem ra thảo luận: “HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM CÓ NÊN LẬP TIN LÀNH CỨU QUỐC HAY KHÔNG VÀ CÁC NHÀ THỜ TIN LÀNH CÓ PHẢI TREO CỜ HAY KHÔNG?” Ngay từ lúc đầu cụ Hồ Chí Minh đã nhìn thẳng vào tôi và nói: “Ông nên lập Tin Lành Cứu Quốc trong Hội Thánh.” Tôi nhận thấy đề nghị đó không thể chấp nhận được vì không hiệp với tôn chỉ của Hội Thánh, nên đã trình bày đại để như sau: “Toàn thể tín đồ đều hòa mình với dân, họ thuộc đoàn thể nào xin cứ để họ giữ nguyên đoàn thể ấy. Chẳng hạn như thanh niên, lao công, thợ thuyền, công chức, giáo giới, mỗi tổ chức đều có đoàn thể cứu quốc riêng. Nếu chúng tôi lập Tin Lành Cứu quốc, thì phải rút những người tín đồ trong các giới kia ra, như vậy e có phần xáo trộn và phân tán chăng? Vả lại tôn chỉ của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam là Tin Lành phải thuần túy không có màu sắc chính trị, không dung nạp chính trị và không chịu ai tuyên truyền chính trị.” Cụ Hồ hỏi tại sao? Tôi liền thưa “Vì lịch sử đã chứng minh, nếu tôn giáo đi đôi với chính trị thì khi tôn giáo mạnh, sẽ chi phối chính trị và ngược lại, chính trị mạnh sẽ chi phối tôn giáo. Trong hai cái đó, luôn luôn có cái nầy hoặc cái kia chi phối nhau. Thí dụ như nước và lửa, nhân loại đều cần cả hai, nhưng phải tách riêng ra chứ không để chung nhau được, vì nước đổ trên lửa thì lửa tắt mà lấy lửa nấu nước thì nước khô.

Cụ Hồ chăm chỉ nghe tôi trình bày và sau cuộc hội kiến nầy, ông đồng ý cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được giữ nguyên tình trạng cũ. Chúng tôi thật vui mừng tạ ơn Chúa!

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 107

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

107

Nhân cơ hội nầy, tôi cũng trình cụ Chủ Tịch bức điện tín của Hội Trưởng Giáo sĩ E. F. Irwin mời tôi vào Mỹ Tho gấp (vì ông đã được trả tự do và sắp về Mỹ) để xin cụ cấp cho một giấy thông hành từ Bắc vào Nam. Cụ vui vẻ nhận lời và mấy hôm sau tôi nhận được một giấy phép của Bộ Nội vụ, nội dung như sau: “Mục sư Lê Văn Thái, Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được phép đi từ Bắc vào Nam lo công việc của Đạo Tin Lành.” Nhờ tấm giấy thông hành này và bởi ơn Chúa tôi đã vượt qua nhiều giai đoạn khó khăn nguy hiểm rồi trở về bình an.

2. Tình Trạng Di Chuyển Trong Thời Chiến.

Sau khi dự đêm Trung thu năm Ất Dậu (20-9-1945) tổ chức tại Hồ Hoàn Kiếm rất tưng bừng với những trận giặc giả dành riêng cho thanh thiếu niên chơi, bằng cách dùng vỏ bưởi làm đạn đánh đắm các chiếc tàu bằng giấy từ giữa hồ tiến vào mệnh danh là tàu xâm lăng. Sáng ngày 21-9-1945 tôi lên đường vào Sài Gòn để sau đó xuống Mỹ Tho gặp ông Hội trưởng Giáo sĩ E. F. Irwin bàn công việc Hội Thánh thời hậu chiến.

Trong thời bình, đi Hà Nội đến Mỹ Tho nhiều lắm chỉ mất ba ngày. Nhưng lúc đó mất mười bảy ngày tôi mới đến Mỹ Tho. Vì chiến tranh vừa chấm dứt, quân đội Nhật phần lớn còn ở trên đất Việt. Đường sá chưa được khai thông sau bao năm bị tàn phá. Đồng minh đang bận rộn với vấn đề tiếp thu. Ngày 15-9-1945 quân đội Trung Hoa do tướng Lữ Hán cầm đầu tới Vân Nam kéo qua Lạng Sơn để tiến vào Hà Nội giải giới quân đội Nhật. Và sau đó, ngày 19-9-1945 quân đội Anh cũng đổ bộ Sài Gòn. Việc đi lại, vì thế trở nên hết sức khó khăn. Việt Minh vừa nắm chính quyền, hệ thống hành chánh chưa được ổn định, các ủy ban hành chánh địa phương chỉ làm việc theo sáng kiến của họ, vì vậy việc di chuyển từ Bắc vào Nam hồi đó thật là chuyện thiên nan vạn nan. Xe lửa cũng chỉ bán vé từng đoạn đường ngắn mà không bán vé suốt như trước vì không bảo đảm hôm sau có xe tiếp tục.

Trong chuyến đi này tôi chỉ có một va-li hành lý và một cặp da lớn hồ sơ của Tổng Liên Hội và các Địa hạt. Bảy giờ sáng ngày 21-9-1945, tôi bỏ Hà Nội vào Vinh rồi ở đó đến mười giờ sáng hôm sau mới có chuyến đi Huế. Nhưng đến cầu Đồng Hới phải sang xe vì cầu hư. Qua bên kia cầu, đợi mãi đến bốn giờ chiều mà xe từ Huế vẫn chưa ra, hành khách đành phải tìm quán hoặc thuyền để nghỉ đêm tại đó. Nhân dịp nầy tôi gặp ông Nguyễn Đình Thuần người Hà Đông là một nhà thầu kiêm họa sĩ và cũng là một thương gia ở Hà Nội. Tôi cắt nghĩa và biếu sách cho ông xem. Từ đó hai chúng tôi luôn luôn đi chung, ăn và nghỉ chung tại các trạm nghỉ. Cho đến sáu giờ chiều ngày 27-9-1945, chúng tôi mới đến ga Đà Nẵng. Đêm đó, chúng tôi nghỉ tại nhà cụ Đốc học Trường Thánh Kinh là Mục sư Ông Văn Huyên. Suốt đêm và cả ngày hôm sau nữa, tôi và cụ Huyên hiệp nhau thảo luận cặn kẽ về tình hình Hội Thánh và những chương trình dự liệu trong tương lai. Sáng 29-9-1945, tôi và ông Thuần từ giã cụ Huyên để đáp xe lửa đi Nha Trang. Cùng đi trong cuộc hành trình dài, chúng tôi có dịp nói chuyện nhiều về tình yêu thương của Chúa, nên khi

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 108

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

108

đến Nha Trang, ông Nguyễn Đình Thuần bằng lòng tiếp nhận Jêsus Christ làm Cứu Chúa của mình. Đêm đó, tôi đã cầu nguyện cho ông tại Nha Trang. Sáng hôm sau chúng tôi đáp xe lửa đi Phan Thiết, nhưng khi tôi vừa trình vé xe và giấy thông hành xong, bước ra khỏi cửa thì bị một người cướp cái ví đựng tiền và tất cả giấy tờ của tôi. Tôi thấy người ấy chạy nhưng không theo được vì cửa ga đã đóng. Tôi đành phải dừng lại vì giấy thông hành mất thì không thể đi được.

Sau khi cầu nguyện, tôi và ông Thuần bắt tay từ biệt nhau, ông tiếp tục hành trình đến Sài Gòn, còn tôi trở lại tư thất Hội Thánh Nha Trang đợi Chúa mở đường, khi có giấy tờ sẽ đi. Khi gặp ông Mục sư và một vài người trong Hội Thánh, tôi thuật lại câu chuyện và xin họ cầu nguyện: “NẾU CHÚA CHO TÔI ĐI, XIN CHO TÔI ĐƯỢC LẠI GIẤY PHÉP ĐÃ MẤT BẰNG KHÔNG, TÔI SẼ TRỞ VỀ HÀ NỘI.” Tôi xin họ tha thiết khẩn nguyện với Chúa, nhưng ông Mục sư và anh em tín hữu ai nấy đều không để ý. Vì hôm đó (30-9-1945) là ngày ông Trần như T… tuyên bố Chúa tái lâm. Phần đông tín đồ đều say mê thuyết ấy. Những ai có tài sản đều viết sẵn giấy dán ngoài cửa, đại khái: “Khi tôi đi, nhà nầy dâng vào… hoặc chúng tôi về trời, nhà đất này dâng vào cơ quan… v.v..” Đêm 30-9-1945 họ nhóm cả tại nhà thờ để cầu nguyện và chờ đợi Chúa đến. Theo dự đoán của họ, thì đúng một giờ sáng ngày 1-10-1945 Chúa sẽ tái lâm. Đêm ấy tôi trú tại tư thất Hội Thánh Nha Trang, số 57 đường Hoàng Tử Cảnh, nay vẫn còn đó. Khoảng mười giờ đêm, trong tư thất Mục sư, ngoài tôi ra, không còn có một người nào cả. Tôi biết họ lên nhà thờ cầu nguyện và chờ đợi Chúa đến, nhưng tôi không tin, bởi vì ngay từ phút đầu tôi đã phản đối thuyết nầy bởi nó sai hẳn với Thánh Kinh. Đến bốn giờ sáng ngày 1-10-1945 vẫn không có gì xảy ra. Tôi nghe tiếng thở dài của vị Mục sư và có tiếng người đi vội về nhà lo gỡ những tấm giấy đã dán trước cửa. Trong quá trình của lịch sử giáo hội, đây là một đổ vỡ thê thảm nhất đối với những người chủ trương tà thuyết xác định ngày giờ Chúa tái lâm và những người lầm lẫn tin theo thuyết ấy. Cũng xin nói rõ là trước ngày rời Hà Nội vào Nam, tôi nhận được điện tín của một vị Mục sư Chủ nhiệm Địa hạt gởi cho tôi, nội dung: “kính gởi cụ Mục sư Lê Văn Thái, xin cụ tuyên bố ngày 1-10-1945 Chúa tái lâm, nếu không, huyết của người sa ngã đổ trên đầu cụ.” Tôi trả lời: “Tôi không tin. Nguyện Chúa giúp người theo tà thuyết trở lại con đường của Ngài.” Nguyên nhân phát sinh tà thuyết này sẽ trình bày rõ hơn trong những chương kế tiếp. Bây giờ, tôi xin trở lại với cuộc hành trình vào Nam.

Khoảng bốn giờ chiều ngày 2-10-1945, trong khi tôi đang ngồi tại tư thất Hội Thánh Nha Trang, có một phu xích lô bước vào và hỏi: “Có Mục sư Lê Văn Thái ở đây không?” Tôi nói “có.” Ông ta đưa cái ví rồi hỏi tôi: “Cái này có phải của ông.” Khi thấy cái ví bị đánh cướp của mình đang nằm trong tay người phu xích lô, tôi mừng rỡ khôn tả xiết, chỉ nói được một lời: “Chúa ôi, tạ ơn Chúa.” Giấy thông hành của bộ Nội vụ còn nguyên vẹn. Tôi nắm lấy tay người phu xích lô và hết lời cảm ơn anh ta. Chúa đã đáp lời tôi, Ngài thật sự trả lời tôi, sau hai ngày tôi tha thiết cầu

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 109

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

109

nguyện. Vấn đề đã được giải quyết, bởi ý định của Chúa, tôi tiếp tục hành trình bất chấp mọi hiểm nguy.

Sáng ngày 3-10-1945 từ Nha Trang lên Thành để đón xe lửa đi Phan Thiết. Trên khoảng đường dài mười cây số này, đã phải dùng cả ba thứ xe đạp, xe ngựa, và xe xích lô, còn phải vượt qua những trạm gác của quân đội Nhật, dân quân tự vệ và lính Việt Minh rất khó khăn. Đến Phú Vinh, phải chờ tại ga Cây Cày tới ba giờ rưỡi chiều mới có chuyến xe lửa quân sự đi Phan Rang. Chuyến tàu này không chở hành khách và thường dân, nhưng nhờ giấy phép của ông Đặng Phúc Thông Giám đốc Hỏa xa Việt Nam cấp, cho phép tôi được di chuyển bằng xe lửa dân lẫn quân sự, vì thế người trưởng xa cho tôi đi. Trên xe, tôi có dịp làm chứng đạo Chúa cho anh em quân nhân. Đến Phan Rang, xe lửa nghỉ đêm tại đó.

Sáng hôm sau (1-10-45) tôi đáp chuyến xe lửa khác đi Phan Thiết. Khoảng đường này bị kiểm soát rất gắt gao. Có người được cho lên xe rồi nhưng sau lại bị bắt xuống và giữ lại để điều tra. Chính tôi cũng bị xét tới ba lần và bị vặn hỏi tại sao tôi có được giấy của Bộ Nội vụ. Tôi phải giải thích năm lần bảy lượt mới được cho đi. Sở dĩ có chuyện hỏi lôi thôi vì chính quyền ở đây bắt được tin là hình như có một đoàn quân từ Lào hay Cao Miên do Phan Lượng kéo về đóng ở ngoại thành Phan Thiết, mà chưa biết đoàn quân ấy thuộc quyền sử dụng của ai, và khuynh hướng nào. Để ngăn ngừa trường hợp nội tuyến hoặc nối giáo cho giặc, chính quyền ở đây ra lệnh kiểm soát thật kỹ lưỡng những hành khách vào Phan Thiết. Đại khái lý do được viện dẫn là như vậy, tôi không rõ đúng hay sai.

Bốn giờ chiều hôm ấy, xe đến ga Ma Lâm, tôi phải dùng xe ngựa vào Phan Thiết. Trên đường vào thành phố, nghe dân chúng bàn tán xôn xao về đoàn quân của Phan Lượng, đồng thời thấy nhiều dân võ trang để kháng chiến. Khi đến tư thất Hội Thánh thì ông Mục sư Lê Khắc Hòa đi Mũi Né. Hỏi thăm đường đi, thì đường giao thông Phan Thiết - Biên Hòa bị gián đoạn. Biết như thế, nhưng tôi không chán nản. sau khi cầu nguyện xin Chúa giúp đỡ phương tiện cho ngày mai, tôi đi ăn tối. Đang lúc ngồi trong tiệm ăn, tôi gặp một người bạn đồng hương mà tôi bặt tin từ năm 1928 (năm tôi đi Hà Nội). Chúng tôi gặp nhau tay bắt mặt mừng, anh bạn hỏi tôi: “Anh định đi đâu vậy?” Tôi cho anh hay là mình đi Biên Hòa. Anh bạn cho hay không có cách nào cả, ngoại trừ trường hợp ngoại giao với ông trưởng xa chuyến năm giờ sáng mai, đi từ Phan Thiết đến Biên Hòa để rước phái đoàn chính phủ. Tôi nghĩ rằng đã mười giờ rưỡi đêm rồi làm sao gặp trưởng xa được, đành để bốn giờ rưỡi sáng mai tôi ra ga đón. Đúng bốn giờ rưỡi ngày 5-10-45 tôi đến ga Phan Thiết, được người bạn giới thiệu, đồng thời tôi cũng trình giấy phép của Giám đốc Hỏa xa Việt Nam cho trưởng xa để xin một chỗ trên xe đó. Ông trưởng xa ngần ngại hồi lâu, nhưng sau cùng ông ta cho tôi lên xe. Đoàn xe này có sáu toa gồm hai toa hạng nhất, hai toa hạng nhì, một toa giường ngủ và một toa phòng ăn. Không một hành khách nào cả. trước khi lên giường ngủ, tôi đã quỳ gối cầu nguyện: “Tạ ơn

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 110

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

110

Chúa đã dự bị đoàn xe nầy cho con và cũng đã giúp con đi đến đây kịp thời. Xin Chúa giúp con từ bước nầy đến Mỹ Tho bình an. Cảm ơn Chúa.” Đến ga Xuân Lộc tôi giật mình thức giấc, bước xuống khỏi giường và đi dạo một lượt suốt sáu toa xe. Đoàn tàu chỉ có bốn nhân viên hỏa xa và tôi. Tất cả đều yên lặng mỗi người một ý nghĩ.

Khoảng sáu giờ chiều ngày hôm ấy, đoàn xe dừng lại ở sân ga cuối cùng. Tôi bước đi cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới. Vào đến tư thất Hội Thánh Biên Hòa, tôi gặp ngay ông Mục sư Trần Văn Chuông và anh em trong Hội Thánh, chúng tôi vui mừng lẫn lo sợ quấn quýt lấy nhau, hàn thuyên đủ điều. Ai nấy đều hỏi thăm rối rít: “Sao ông đi được?” “Ông đi bằng cách nào?” Tôi từ tốn trả lời: “Chúa cho tôi đi, đi từng bước bởi Chúa dẫn dắt.” Sau một lúc chuyện trò với nhau, tôi bày tỏ ý định của mình cho ông Mục sư Chuông và anh em trong Hội Thánh để xin cầu nguyện và tìm cách giúp tôi đến Mỹ Tho. Đêm ấy cả Hội Thánh cầu nguyện, nhưng xem chừng ai nấy tỏ vẻ lo ngại vì không có cách nào đi được. Có người thẳng thắn khuyên tôi đừng đi, e nguy đến tính mạng, vì quân đội Anh đã đổ bộ Sài Gòn, vùng ven đô thị quân đội Nhật vẫn còn chiếm đóng. Trong khi đó Việt Minh cũng đang ráo riết võ trang nhân dân để chuẩn bị cướp chính quyền, bằng chứng là đoàn quân do ông Trần Văn Giàu chỉ huy đã võ trang đầy đủ và hiện đóng bản doanh tại Chợ Đệm (Ngoại ô Chợ Lớn).

Sáng ngày 6-10-45, anh em trong Hội Thánh Biên Hòa vẫn họp nhau cầu nguyện như thường lệ. Sau đó, phần đông đều khuyên tôi không nên đi trong lúc hổn quan hổn quân nầy. Trước sự can gián tận tình của anh em tôi không biết phải làm sao nên tỏ ý muốn gặp ông chủ tịch Ủy ban Hành chánh để hỏi ý kiến. Chủ tịch Ủy ban Hành chánh Miền tây lúc đó là ông Dương Bạch Mai, hiện có mặt tại Biên Hòa. Tôi định chín giờ sáng hôm ấy đến gặp ông. Ông Mục sư Chuông cùng đi với tôi. Trước khi đi chúng tôi tha thiết cầu xin Chúa sử dụng chúng tôi theo ý muốn Ngài: “Nếu Chúa muốn cho con tiếp tục hành trình, xin Chúa mở đường, bằng không xin ngăn trở. Xin Chúa cũng đặt những lời xứng hiệp và đầy quyền năng trong miệng con đồng thời lấy vinh quang Ngài bao phủ chúng con, khi chúng con gặp đại diện chính quyền.”

Sau đó chúng tôi đến văn phòng ông Chủ tịch, lúc bấy giờ đóng tại dinh Công sứ Bảo hộ. Ông Dương Bạch Mai vui vẻ đón tiếp chúng tôi và vồn vã hỏi thăm tin tức miền Bắc, miền Trung và cách nào chúng tôi đi vào trong nầy. Theo thứ tự, tôi tường thuật cho ông từng chi tiết và luôn tiện tôi cũng tỏ cho ông biết mục đích tôi đến đây là để xin phương tiện đi Mỹ Tho. Vừa nói tôi vừa xuất trình cho ông xem giấy thông hành của Bộ Nội vụ cấp luôn cả điện tín của Giáo sĩ E. F. Irwin. Sau khi suy nghĩ, ông trả lời là không có cách nào đi cả. Ông cũng nói thêm là muốn giúp lắm nhưng hiện không có phương tiện. Bàn qua nói lại khá lâu, cuối cùng định từ giã, thì Chúa đặt những lời này vào miệng tôi rồi tôi nói ngay: “Nếu ông Chủ tịch

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 111

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

111

không thể giúp phương tiện đến Mỹ Tho, thì tôi sẽ tìm nhờ quân đội Nhật hoặc quân đội Anh. Nhưng ông Chủ tịch nhận cho rằng tôi có đến xin ông giúp phương tiện mà ông không thể giúp, chớ không phải tôi là Việt gian lén đi nhờ quân đội ngoại quốc.” Ông Dương Bạch Mai nhìn tôi hết sức chăm chú, sau mấy giây yên lặng, ông mời chúng tôi ngồi để ông xem. Đoạn ông nhắc điện thoại lên, tôi nghe ông hỏi: “Cái xe của anh Nâu từ Mỹ Tho đến còn đó không…? Nhờ giữ xe ấy lại cho tôi có việc cần.” Rồi quay sang tôi, ông nói: “Thôi Mục sư về nghỉ, một giờ chiều sẽ có xe đến nhà thờ đón Mục sư.” Tôi cảm thấy nhẹ nhỏm lạ lùng nên hết lời cảm ơn Chúa và ông Chủ tịch Uỷ ban Hành chánh. Nhân dịp nầy ông Mục Sư Trần Văn Chuông cũng muốn cùng đi với tôi đến Mỹ Tho, tôi tỏ ý đó thì được ông Chủ tịch chấp thuận. Về đến nhà, cả Hội Thánh nghe tin ấy đều mừng rỡ reo lên cảm ơn Chúa.

Đúng mười ba giờ, như đã hứa, xe đến nhà thờ đón ông Mục sư Chuông và tôi. Tôi chỉ đem theo một ít hành lý, còn va-li, sổ sách và tài liệu của Tổng Liên Hội và các hạt đều để lại Biên Hòa. Ra khỏi thành phố, xe đi đường Lái Thiêu, ngoại ô Sài Gòn - Chợ Lớn vì lúc bấy giờ quân đội Anh đã chiếm đóng thủ đô Sài Gòn và kiểm soát thành phố rất chặt chẽ. Có đi như vậy mới biết lời ông Dương Bạch Mai nói là đúng. Tất cả cầu cống trên đường đã bị dỡ phá hết. Tại mỗi địa điểm chướng ngại, đều có dân quân tự vệ canh gác. Khi xe chúng tôi đến những chỗ có cầu, cống bị phá hủy đó, thì anh em liền chạy ra để chận lại. Người hướng dẫn phải xuống xe trình bày sự việc và giấy tờ cho họ xem. Khi người trưởng trạm cho đi thì có một toán người ráp cầu ván và gỗ cho xe qua, khi xe qua khỏi cầu, cống, họ lại tháo gỡ đem chôn cất. Từ Biên Hòa đến Chợ Đệm, chúng tôi qua sáu trạm như vậy.

Khoảng mười tám giờ cùng ngày, chúng tôi đến Chợ Đệm, nơi đặt Tổng Hành dinh của quân đội nhân dân do ông Trần Văn Giàu lãnh đạo. Họ đưa chúng tôi xuống đò và khi vào đến giữa rừng thì vừa tối. Người hướng dẫn cho chúng tôi biết, ông Trần Văn Giàu mời chúng tôi dùng cơm tối, rồi sau đó xe cho người đưa chúng tôi đến Mỹ Tho. Nửa giờ sau, chúng tôi gặp ông Trần Văn Giàu, ông tiếp chúng tôi rất vui vẻ. Ông hỏi thăm tin tức Miền Bắc và miền Trung cùng cách nào chúng tôi đi từ Bắc vào v.v… Sau đó, ông cho biết cụ Tôn Đức Thắng sẽ đưa chúng tôi đến Mỹ Tho đêm nay, và ông cũng cho hay là tình hình nghiêm trọng lắm, cho nên ngoài cụ Tôn Đức Thắng thì không ai có thể đưa chúng tôi đi được.

Bữa cơm vừa xong thì cụ Tôn Đức Thắng cũng vừa đến. Cụ rất vui vẻ, ân cần mời chúng tôi lên xe. Tôi xem đồng hồ thấy đã hai mươi hai giờ mười lăm (6-10-45). Ra đi trong đêm, nên tôi không biết đường hướng, chỉ phân biệt được một điều là chiếc xe hơi nầy khác với chiếc xe đã đưa chúng tôi đi lúc ban chiều.

Đến không giờ ba mươi ngày 7-10-45, chúng tôi mới vào thành phố Mỹ Tho. Vì đã quá khuya nên chúng tôi tìm đến khách sạn của người Trung Hoa gần ga xe lửa để nghỉ tạm. Lúc trước có dịp vào Mỹ Tho tôi đều đến trọ tại đây. Đêm đó, cụ Tôn

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 112

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

112

Đức Thắng cũng nghỉ chung với chúng tôi một phòng trong khách sạn. Trước khi ngủ, tôi đọc cho cụ nghe một đoạn trong Ê-phê-sô (4:1-16) rồi giải nghĩa rõ cho cụ về Hội Thánh của Chúa, về đức tin và Thánh Linh, đồng thời giải thích cho cụ rõ là chỉ có một Chúa duy nhất cho mọi người. Sau đó chúng tôi đồng quỳ gối cầu nguyện. Khi đứng lên, cụ Tôn Đức Thắng vui vẻ nói: “Trong đời tôi, đêm nay tôi cảm thấy vui thỏa và lòng nhẹ nhàng.” Chúng tôi hứa sẽ cầu nguyện để cụ biết nhiều hơn về Chúa.

Sáng ngày 7-10-45 tôi đến giảng tại nhà thờ Mỹ Tho vì hôm ấy là Chúa nhật. Gặp lại nhau trong hoàn cảnh đặc biệt nầy, ai nấy đều hết sức vui mừng lẫn cảm động. Dù phải sống trong những giờ phút ngột ngạt của chiến tranh, nhưng đức tin của hầu hết con cái Chúa vẫn không có gì thay đổi. Họ vẫn vui vẻ trong hoạn nạn và hết lòng nhờ cậy Chúa.

Khi giảng xong, ông Mục sư Bùi Trí Hiền (Chủ tọa Hội Thánh Mỹ Tho) đưa ông Mục sư Trần Văn Chuông và tôi về khách sạn. Lúc ấy cụ Tôn Đức Thắng cũng vừa đến cho chúng tôi biết là ông Chủ Tịch Nam bộ Phạm Văn Bạch mời chúng tôi ăn cơm vào sáu giờ chiều. Tôi hết sức từ chối nhưng cụ Tôn cho biết đó là ý muốn của ông Chủ Tịch Nam bộ. Bữa ăn đặt tại khách sạn Mỹ Tho. Hiện diện về phía “chủ” gồm có ông Phạm Văn Bạch, cụ Tôn Đức Thắng, ông Hoàng Quốc Việt, về phía “khách” có ông Mục sư Bùi Trí Hiền, Mục sư Trần Văn Chuông và tôi. Những mẫu chuyện qua lại trong bữa ăn phần lớn đều xoay quanh vấn đề rao truyền Tin Lành. Nhân cơ hội này tôi đã cố gắng trình bày thật rõ về sinh hoạt của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam - trong mọi tương quan xã hội và chính trị - đều theo đúng đường lối của Thánh Kinh.

Khách sạn Mỹ Tho nơi Ùy ban tổ chức bữa tiệc ngày 7-10-45

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 113

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

113

Tôn chỉ đã được quy định trong bản Điều lệ của Giáo hội, và bản Điều lệ đó do Hội đồng lập pháp của Giáo hội biểu quyết, được chính quyền Pháp cũng như triều đình Huế công nhận. Mục đích của chính quyền lúc bấy giờ là muốn tìm hiểu Hội Thánh, nên khi nghe chúng tôi trình bày rành mạch từng chi tiết một, họ đã tỏ ra rất thông cảm và hiểu biết. Sau này, khi tôi đã về được Hà Nội và cụ Tôn Đức Thắng có dịp ra Bắc, tôi có mời cụ đến nhà chúng tôi ở số 1 đường Nguyễn Trãi (Hà Nội), dùng cơm để đáp lễ hôm ấy Giáo sĩ W. C. Cadman cũng có mặt và chúng tôi cũng nhân cơ hội này để giải bày rõ hơn về Tin Lành. Có người nghe tin này liền gán cho tôi là Việt Minh, cũng như khi tôi nhờ quân đội Anh đưa lên Biên Hòa để lấy sổ sách và hồ sơ của Tổng Liên Hội và của các Hạt, thì có người cũng gán cho tôi là Việt gian. Đối với hai nguồn dư luận trái ngược nầy, tôi chỉ trả lời: “Tôi không là Việt Minh mà cũng không là Việt gian, chỉ là người Việt yêu mến Chúa và phục vụ Chúa mọi nơi mọi cách.”

Chiều ngày 9-10-45, tôi thả bộ ra bờ sông trước bưu điện Mỹ Tho hóng mát, nhìn khung cảnh quen thuộc này tôi bỗng nhớ lại trước đây một năm, Chúa đã cứu tôi thoát chết một cách hết sức lạ lùng. Tại chỗ này, tôi bị hiến binh Nhật bắt vì đưa tiền tiếp tế cho các Giáo sĩ. Nguyên do là vì lúc bấy giờ các Giáo sĩ trong trại giam đã hết tiền tiêu, cụ E. F. Irwin (Hội trưởng Hội Truyền giáo) và cụ W. C. Cadman nhờ tôi thông báo cho ban quản trị nhà in ở Hà Nội, bảo họ bán cái máy in do cụ Cadman sắm rồi gởi tiền vào cho các Giáo sĩ dùng. Cái máy bán được mười sáu ngàn đồng, họ giao tiền cho tôi đem vào cho các Giáo sĩ. Để có đủ giấy tờ chứng minh hợp lý theo thủ tục hành chính, họ cũng nhờ tôi xin các Giáo sĩ một biên nhận để lưu vào hồ sơ. Tôi trở vào Mỹ Tho để trao số tiền ấy cho cụ Irwin và trong khi chờ lấy biên nhận, tôi đến ngồi ở bờ sông như đã nói trên. Khi trao giấy cho tôi xong, cụ Cadman trở về trại thì hai chiến binh Nhật đi xe đạp từ hai ngã đến bắt tôi. Họ buộc tôi phải theo họ vào Hiến binh. Tôi lạnh cả người, hai đầu gối run lên cầm cập, bước đi cơ hồ như không vững. Họ đã từng cấm chúng tôi không được đưa thư từ hoặc tiếp tế gì cho Giáo sĩ. Nếu bắt được ai tiếp tế gì cho Giáo sĩ thì họ sẽ xử tử bằng cách mổ bụng. Bởi thế tôi bước đi giữa hai người Nhật mà trí thì nghĩ là mình sắp được về với Chúa. Sự chết chắc chắn sẽ đến với tôi. Hai lần trước cũng bị quân Nhật bắt nhưng tôi không sợ hãi vì không làm điều gì trái luật, nhưng lần này thì khác. Vừa bước đi, tôi thầm nguyện trong lòng: “Lạy Chúa, xin Chúa cứu con, ban cho con sự bình tĩnh và ở với con trong giờ này. A-men.” Liền đó, chân tôi bỗng thấy hết run và tôi cảm thấy bình tĩnh, dạn dĩ hơn bao giờ hết. Thi Thiên 23 đã làm cho tinh thần phấn khởi và đức tin tôi mạnh mẽ: “Dù khi tôi đi trong trũng bóng chết cũng sẽ chẳng sợ tai họa nào vì Chúa ở cùng tôi.”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 114

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

114

Tôi bị Hiến binh Nhật bắt tại chỗ nầy sau khi Giáo sĩ W. C. Cadman giao giấy nhận tiền

Khi đến văn phòng hiến binh Nhật, một đại úy ra tiếp tôi. Họ vẫn thường làm như vậy và sau đó giao qua cho phòng điều tra để khám xét. (Lần trước tôi đã bị họ lật cả giày, vớ và lộn cả bâu áo ra xem. Họ đã khen tôi tốt vì không tìm được gì cả). Đại úy hiến binh mời tôi ngồi và nói chuyện rất tử tế. Ông hỏi tôi đến ngày nào, Hà Nội ra sao cùng công việc Hội Thánh. Ở đây bao lâu rồi sau đó sẽ đi đâu v.v... Khi đang vui với câu chuyện thì chuông điện thoại reo vang. Ông nầy ngừng nói rồi bốc điện thoại lên nghe. Không biết có chuyện gì xảy đến mà gương mặt ông biến đổi khác thường. Ông ta đứng lên có vẻ vội vã rồi nói với tôi: “Thôi được, mời Mục sư về giờ khác tôi sẽ gặp lại Mục sư.” Đoạn ông gọi những người trong văn phòng và nói bằng tiếng Nhật tôi không hiểu gì cả. Những người có nhiệm vụ khám xét chỉ tôi vào phòng khám, ông khoác tay bảo không, để Mục sư ra về. Thế là tôi thoát nạn một cách dễ dàng không thể nào ngờ trước được. Ngoài sân những người lính đang vội vã chuẩn bị súng đạn, tiếng còi tập hợp ré lên. Tôi bước đi giữa họ mà lòng cảm thấy nhẹ nhàng thơ thới ngợi khen Chúa. Về tới khách sạn tôi thấy hai cụ Irwin và Cadman đang đứng đợi, thấy tôi hai người liền chạy đến hỏi thăm. Tôi thuật lại đầu đuôi câu chuyện, từ khi bị bắt đến lúc được tự do ra về cho hai cụ nghe. Không ai có thể ngờ sự kiện có thể dễ dàng như vậy, nên đồng dâng lời ngợi khen và tạ ơn Chúa đã cứu tôi cách lạ lùng. Vài ngày sau chúng tôi biết hôm đó có đoàn quân Nhật di chuyển từ Chợ Lớn đến Mỹ Tho, khi qua khỏi cầu Tân An bị Việt Minh phục kích, nên họ xin viện binh Mỹ Tho đến giải vây. Về phần tôi, tin chắc rằng Chúa đã dùng cơ hội nầy để giải cứu tôi khỏi tay người Nhật và đưa tôi về bình an.

3. Cuộc Đổ Bộ Của Quân Đội Anh Tại Mỹ Tho

Chiều ngày 10-10-45, các ông Mục sư Kiều Công Thảo và Nguyễn Tấn Lộc từ Sa Đéc đến thăm tôi thì tối hôm đó quân đội Anh đổ bộ chiếm Mỹ Tho. Qua mười hai giờ đêm tiếng súng nổ vang khắp nơi và chừng một giờ sau đó, tôi nghe tiếng chân

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 115

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

115

người dồn dập trên đường. Người chủ khách sạn đến cho tôi biết quân đội Anh đã chiếm thành phố và bây giờ họ đang lùng bắt những người khả nghi và lục soát các khách sạn. Do đó, khách sạn nầy cũng phải mở cửa cho họ vào. Trong khi ấy thì tiếng súng vẫn nổ dữ dội tại nhiều nơi cho đến khoảng năm giờ sáng ngày 11-10-45 mới yên dần. Tôi đứng trên lầu khách sạn nhìn xuống, thấy quân đội Anh đang di chuyển từng toán nhỏ trong thế sẵn sàng chiến đấu. Những chiếc xe còn đậu ngoài đường đều bị họ bắn bể các lốp nên không thể chạy được, trong số đó có xe của hai ông Mục sư Kiều Công Thảo và Nguyễn Tấn Lộc đến thăm tôi lúc ban chiều. Một toán lính Anh vào lục soát khách sạn, tôi mở toang các cửa. Nhưng có điều rất lạ là họ không vào phòng tôi. Mặc cho mọi biến chuyển của tình thế, tôi bình thản ngồi đọc Thánh Kinh và cầu nguyện xin Chúa gìn giữ và giúp đỡ tất cả con cái Chúa trong giai đoạn nhiễu nhương nầy.

Nơi giam các Giáo sĩ tại Mỹ Tho trong thời Nhật, 1945

Đến tám giờ sáng, hai cụ Irwin và Cadman ra tìm tôi và đưa tôi vào trại tập trung tù binh ở Mỹ Tho để sống với họ. Mãi đến ngày 15-1-46 tôi mới quá giang một tàu đổ bộ của người Anh về Sài Gòn. Như vậy, tôi được hân hạnh ngồi tù với các Giáo sĩ trong trại giam tù Đồng minh tính từ 11-10-45 đến 15-1-46 là ba tháng sáu ngày. Trong chuyến đi từ Mỹ Tho lên Sài Gòn lần nầy, có ông bà cụ Irwin, ông bà Cadman, cụ Jeffrey, ông Franklin, ông bà Huỳnh Minh Ý và tôi.

Khi về đến Sài Gòn, thành phố vẫn còn hoang vắng, nhà thờ không ai nhóm lại. Có lần tôi đến thăm Mục sư Trần Xuân Hỉ tại nhà thờ Sài Gòn, chúng tôi đang ngồi nói chuyện thì quân đội Anh đi bố ráp tràn vào nhà thờ, thấy chúng tôi họ toan bắn. Chúng tôi la lên cho họ biết đây là nhà thờ và chúng tôi là Mục sư. Chừng ấy họ mới chịu khám xét giấy tờ rồi rút đi. Có lần chúng tôi đi từ khoảng đường

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 116

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

116

Gallienie (Trần Hưng Đạo) đến chợ Bến Thành mà không gặp một người nào cả. Một lần khác, tôi và ông Huỳnh Minh Ý đi từ nhà hội ở đường Võ Tánh đến Chợ Lớn quang cảnh cũng thê lương như vậy, thỉnh thoảng nghe tiếng súng bắn trả lại bằng những tràng dài.

Tôi rất nôn nả muốn trở về Hà Nội, nhưng không thể nào đi được. Khi tìm được phương tiện ở Sài Gòn thì lại bị Hà Nội làm khó dễ, nên cứ phải chờ ngày nầy qua ngày khác. Mãi đến ngày 22-2-46 mới có một máy bay Hồng thập tự quốc tế đi Hà Nội, tôi xin tháp tùng và may mắn được chấp thuận như vậy tôi phải chờ ở Sài Gòn tất cả là một tháng bảy ngày mới đi được. Máy bay đến phi trường Gia Lâm lúc bốn giờ chiều. Tại đây tôi thấy toàn là quân đội Trung Hoa, không thấy một người Việt nào cả. Một chiếc xe Hồng thập tự chạy đến, tài xế là người da trắng, tôi đoán là người Anh. Ông ta đưa tôi đến cầu Long Biên rồi bỏ tôi tại đó. Sau khi nói mấy lời cảm ơn, tôi xách hành lý đến chợ Đồng Xuân rồi gọi xe xích lô về nhà. Cửa nhà tôi lúc bấy giờ đang khép kín. Tôi đẩy cửa bước vào, vợ con tôi chưng hửng la lên, họ ngỡ là chiêm bao. Thật sự, họ hết sức cầu nguyện cho tôi được về với gia đình và lo công việc Chúa, nhưng khi Chúa đưa tôi về với người bằng xương bằng thịt thì vợ tôi, con tôi đều bỡ ngỡ khó tin. Hoàn cảnh chúng tôi chẳng khác gì câu chuyện được chép trong Cong 12:1-19. Phi-e-rơ bị cầm tù trong khám. Hội Thánh cầu nguyện cho người luôn, nhưng khi Phi-e-rơ về, con đòi Rô-đơ tuy hết sức mừng rỡ, nhưng lại bỏ chạy không dám mở cửa, còn Hội Thánh tưởng nàng Rô-đơ lãng trí nên la hoảng chớ làm gì có chuyện “lạ lùng” như vậy. Hiện tượng bất định nầy có thể do lòng thương nhớ quá đổi gây nên chớ gì. Họ tiếp tục đưa ra nhiều giả thuyết, nhưng sự thật thì Phi-e-rơ đã về. Chúa đã giải cứu con người bằng xương bằng thịt của ông bằng một phương thức huyền nhiệm và đưa ông về với Hội Thánh bình an.

Tôi rời Hà Nội sáng ngày 21-9-45, mãi đến chiều ngày 22-2-46 mới trở về. Trong khoảng thời gian hơn năm tháng ấy gia đình tôi và Hội Thánh Bắc hạt không hề nhận được một tin tức nào cả. Họ đã nghe ông Nguyễn Đình Thuần là người đã cùng đi với tôi từ Hà Nội đến Nha Trang rồi chia tay kể lại, ngoài ra không biết thêm gì khác nữa. Do đó, trong suốt thời gian tôi vắng mặt, có nhiều phỏng đoán được nêu lên. Có người cho rằng tôi đã bị Việt Minh bắt. Có người tưởng tôi bị giết chết trên đường vào Sài Gòn, vì lúc đó tại Phan Thiết có loạn lớn. Cũng có người đoán tôi còn sống nhưng không biết hiện ở đâu v.v... Ngần ấy giả thuyết được lặp đi lặp lại ngày nầy qua ngày kia làm cho vợ và con tôi rất đau khổ, không biết tôi sống chết ra sao. Trong khi ấy cũng có người khuyên vợ con tôi nên thu xếp để về quê hương, vì ở bên cạnh cha mẹ dù sao cũng được an ủi và đỡ buồn phần nào. Vợ tôi phân vân không biết nên liệu tính thế nào… Tuy nhiên, vì chờ mãi không thấy tôi về, đã bán lần các món đồ dùng của tôi. Thậm chí những sách vở của tôi cũng đã có người đặt mua nữa.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 117

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

117

Khi thình lình tôi trở về thì cả nhà đều chưng hửng tuy không nói ra nhưng mọi người trong gia đình đều đinh ninh tôi chết rồi. Vợ tôi muốn ngất đi vì mừng rỡ. Con tôi cũng vậy. Ai nấy đều xem tôi như người chết SỐNG LẠI, hiện về từ cõi hư vô. Mà thật cũng gần đúng như vậy, so với hoàn cảnh đặc biệt lúc bấy giờ, tôi chẳng khác nào người chết được sống lại. Nhờ đó, mà tôi đã hiểu được rất nhiều về “nhân tình thế thái.”

Kể lại chuyến đi nầy, mục đích của tôi là để nhắc lại ơn dẫn dắt của Chúa đối với riêng tôi, và sự bảo bọc của Ngài đối với toàn thể Hội Thánh trải qua những giờ phút hết sức khó khăn của lịch sử đất nước. Chúa ở mọi nơi, Chúa biết tất cả, đó là nguồn an ủi vô biên của hết thảy những ai kính mến Ngài.

TIN LÀNH ĐẾN CỐ ĐÔ HUẾ

Mặc dù khi các Giáo sĩ vừa đặt chân đến Việt Nam đã chú ý đến cố đô Huế, nhưng Tin Lành đến cố đô nầy rất chậm. Nguyên nhân sự chậm trễ nầy một phần do óc bảo thủ cực đoan của đồng bào địa phương, một phần do sự ngăn trở của chính quyền. Chúng ta không lấy làm lạ, vì từ trước đến nay cố đô Huế vẫn được xem như thành trì của những tập quán cũ, Phật giáo gần như là quốc giáo, cho nên tất cả mọi hình thức du nhập khác đều bị quyết liệt chống đối.

Tuy nhiên, chúng tôi không ngã lòng. Càng gặp nhiều khó khăn chúng tôi càng phấn khởi, vì tin chắc rằng bên cạnh chúng tôi còn có sự hiện diện của Chúa. Đến tháng giêng năm 1928, trường Thánh Kinh Đà Nẵng phái tám Truyền đạo vừa tốt nghiệp đi Huế để làm chứng và phân phát sách báo Tin Lành cùng những truyền đơn giải luận chân lý cứu rỗi của Chúa Jêsus. Đây là lần đầu tiên có một số người Tin Lành đông đảo nhất vào cố đô Huế để làm chứng về Chúa và cũng để trắc nghiệm thái độ của chính quyền Pháp Việt và quan niệm của đồng bào địa phương đối với Tin Lành ra sao.

Tám anh em chúng tôi đến cố đô Huế trên một chuyến xe lửa sáu giờ chiều và suốt đêm ấy chúng tôi tha thiết cầu nguyện với Chúa để cho toàn bộ kế hoạch được thực hiện tốt đẹp. Sáng hôm sau, theo chương trình đã được ấn định, chúng tôi phân từng toán hai người với hy vọng trong vòng năm ngày có thể đi qua một lượt từ thành ngoại đến thành nội để mọi nơi đều có dịp nghe Tin Lành và biết có bàn chân của những kẻ rao truyền Tin Lành đến Huế.

Năm ngày trôi qua, tạ ơn Chúa cho chúng tôi thành công và bình an. Lòng mỗi người đều rất phấn khởi. Chúng tôi đã bán hết những sách Tin Lành mang theo. Có nhiều người chăm chỉ nghe chúng tôi làm chứng về Chúa mặc dù họ có vẻ sợ sệt người khác nhìn thấy. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều người không muốn nghe nên khi thấy chúng tôi liền tránh đi chỗ khác hoặc xô đuổi một cách khéo, chẳng hạn như: “Chúng tôi bận việc qua mời thầy đi chỗ khác.” Điều khiến cho Hội Thánh Đà Nẵng và chúng tôi lo ngại nhất khi đi đã không xảy ra. Không ai có một thái độ khiếm

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 118

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

118

nhã nào đối với chúng tôi như bắt giữ hoặc kêu cảnh sát mặc dù họ có thể làm như vậy mà chúng tôi không có quyền phản đối, vì tại Huế lúc bấy giờ chính quyền không cho phép mở phòng giảng Tin Lành và hơn nữa đây là kinh đô của Triều đình, không ai có thể khinh xuất làm khuấy động sự yên tĩnh của nhà Vua. Chúng tôi đinh ninh chính quyền sẽ không để cho tự do, nhưng cảm ơn Chúa, Ngài đưa chúng tôi đi và dẫn chúng tôi về không gặp một sự khó khăn nào cả.

Suốt năm ngày tại đó chúng tôi có dịp nghe tận tai những tin đồn thất thiệt từ các nơi đưa đến nhằm loại trừ ảnh hưởng của Tin Lành, gây hoang mang trong quần chúng để dễ bề khuynh đảo. Chẳng hạn như họ tuyên truyền rằng Tin Lành là đạo Phản thệ, và tệ hại hơn nữa, họ dựng đứng những sự kiện không có thật cùng cắt nghĩa sai lệch về nhà cải chánh Martin Luther. Ngoài ra, một số người còn cho rằng Tin Lành là đạo của Mỹ, ai theo đạo sẽ được cấp hai mươi dollars (Mỹ kim). Tin nầy đã khiến cho những người tử tế trọng danh dự khinh dễ và xa lánh Tin Lành, gây ngăn trở không ít cho công việc rao giảng Lời Chúa. Với chủ tâm phá hủy tận gốc mọi mầm mống của đức tin tín đồ, nên song song với những tin đồn bất lợi trên đây họ lại cố gắng tận dụng mọi khả năng để phát huy chiến dịch tuyên truyền rỉ tai: Tin Lành là đạo quốc cấm, rồi họ trưng bằng cớ là có ba vị Mục sư trong tỉnh Quảng nam bị bắt giữ và bị đưa ra tòa với bản án bị sáu tháng khổ sai (sự thật này xảy ra trong thời ông Ngô Đình Khôi làm tổng đốc Quảng Nam, óc kỳ thị cá nhân hơn hơn là chủ trương của nhà nước). Họ còn xuyên tạc một cách trắng trợn rằng những người theo đạo Tin Lành toàn là hạng nghèo khổ, theo Mỹ để nhờ nuôi sống rồi để được đưa về Mỹ làm đầy tớ. Mặc dù bấy giờ đã có một số nhân vật hữu danh sinh trưởng tại Huế trở lại với Chúa như cụ Trần Dĩnh và cụ Trần Ích, một người theo Nho học và một người theo Tây học, đang làm Phán sự Sở Hỏa xa. Ngoài ra cũng có một người khác là cụ Hoàng Trọng Thừa một nho sĩ nỗi tiếng bằng lòng đầu phục Chúa và đang làm giáo sư Việt văn cho các Giáo sĩ. Về phía hoàng tộc, cũng có mấy người theo Tin Lành như các bà Công Tôn Nữ Thị Hầu và Công Tôn Nữ Tú Oanh là hai cháu nội của vua Minh Mạng, những người đương thời đều biết cả. Nhưng vì hai người trên đây so với những nhân vật hoàng tộc khác thì họ không có quyền hành, không có thế lực cũng như không giàu có nên người ta cố ý ém nhẹm để dễ bề bôi lọ Đạo Chúa. Bao nhiêu đó cũng cho chúng ta thấy đa số người dân cố đô lúc bấy giờ chỉ nghĩ đến người có quyền thế và giàu sang mà không quan tâm đến những người có lòng tìm kiếm chân lý và phương pháp cứu rỗi linh hồn đồng bào.

Mãi đến năm 1931, Huế mới được phép mở một phòng nhóm cầu nguyện. Hội Thánh thuê một căn nhà lầu bên cầu Đông Ba sát đầu đường Gia Hội. Bên kia sông là chợ Đông Ba. Địa điểm nầy rất tốt vì là nơi thị tứ có đông người qua lại ngày đêm. Hội Thánh cử cụ Hoàng Trọng Thừa là Mục sư lão thành và cũng là người Thừa Thiên đảm nhiệm chức vụ Mục sư tại Huế. Hội Truyền giáo cũng cử ông bà D. I. Jeffrey làm Giáo sĩ tại đó. Đà Nẵng lúc bấy giờ được xem như là một trung tâm

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 119

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

119

truyền giáo lớn, nên thỉnh thoảng phái các Mục sư đầy ơn đến Huế tổ chức những buổi giảng đặc biệt. Có nhiều người trở lại tin nhận Chúa, nhưng có lẽ họ tin để mà tin hoặc để dò xét Tin Lành đó có thật đúng với những tin đồn mà tôi đã tóm lược trên đây hay không, thế thôi. Cho nên số tín đồ tại Huế chẳng khác nào câu chuyện về người gieo giống mà Chúa đã kể ba phần mất đi chỉ còn lại một. Nhưng tệ hại hơn, Huế không còn lại được một phần trăm!

Năm 1933 ông bà Mục sư Ông Văn Huyên được Hội Thánh cử đến thay cụ Hoàng Trọng Thừa làm Mục sư tại Huế. Tôi từ Hà Nội vào và lưu lại một tuần để hợp tác giảng Tin Lành cho đồng bào. Nhân dịp nầy, chúng tôi tìm cách đến thăm một số nhân vật trong hoàng tộc một số thương gia, quan lại và một vài nhà chí sĩ tại cố đô Huế để làm chứng về Chúa và mở rộng phạm vi rao truyền Tin Lành.

Nhân vật hoàng tộc đầu tiên mà chúng tôi có dịp tiếp xúc là ông Ưng Khoa giữ chức vụ Trợ Quốc Khanh trong hoàng triều. Sau đó tôi cùng ông nầy đến thăm Quận công Hường Oai ở phủ Hòa Thạnh Quận Vương, cuối đường Gia Hội. Cụ là cháu nội của vua Minh Mạng. Khi chúng tôi đến biếu sách và nói về Chúa cho cụ nghe thì cụ rất lấy làm lạ. Cầm quyển sách trong tay, cụ vui vẻ nói: “tôi chưa hề được nghe một Tin Lành cứu chuộc đơn giản như thế.” Mặc dù trong gia đình đã có mấy người cháu gọi cụ bằng chú đã tin nhận Chúa rồi, nhưng chưa có ai dám nói về Tin Lành cho cụ nghe cả.

Buổi sáng ngày hôm sau, cụ Huyên và tôi sắp đặt chương trình để làm chứng đạo Chúa cho cụ Huỳnh Thúc Kháng, là một chí sĩ hiện đang điều khiển tờ báo Tiếng Dân tại phố Hàng Bè, Huế trong dịp này cụ Giáo sĩ Stebbins cùng đi với chúng tôi. Chúng tôi gặp ngay cụ Kháng tại văn phòng tòa soạn. Cụ rất vui tiếp chúng tôi, nhưng khi biết qua mục đích cuộc thăm viếng nầy là chỉ để làm chứng về Tin Lành cứu rỗi, thì thái độ của cụ bỗng đổi khác. Từ cách nói chuyện đến cách cụ nhìn khói thuốc bay tỏa trong văn phòng không mấy rộng, khiến chúng tôi có cảm nghỉ rằng cụ cho chúng tôi ngây thơ quá chỉ làm phí thì giờ của cụ. Nhận thấy không thể nói thêm trong lúc nầy, chúng tôi tặng vài quyển sách rồi từ giã. Ra đường, tôi và cụ Huyên đã nói với nhau: “Ông già thật kiêu hãnh!.” Nhưng vẻ kiêu hãnh đó không còn nữa trong những lần gặp gỡ sau, nhất là vào khoảng năm 1946-47, tôi thường có dịp tiếp xúc với cụ Huỳnh Thúc Kháng khi cụ làm Bộ trưởng Nội vụ tại Bắc bộ phủ. Trong những lần như vậy, tôi thường nói chuyện với cụ về Tin Lành và ơn cứu chuộc của Chúa Jêsus. Tôi cũng đã biếu cụ một bộ Thánh Kinh Tân Cựu Ước, rồi ít lâu sau gặp lại, tôi hỏi cụ có xem không, thì cụ cho hay là đang xem và rất vui khi xem Thánh Kinh. Hồi nầy thái độ kiêu hãnh của ông già trong tòa soạn báo Tiếng Dân khi xưa không thấy nữa. Hiện diện trước mặt tôi là một nhà chí sĩ, một cách mạng gia lão thành khiêm nhường khả kính. Tôi đã cầu nguyên thật nhiều để Lời Chúa trở nên ánh sáng cho đường lối của cụ.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 120

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

120

Chiều hôm đó, cụ Huyên và tôi đến thăm cụ Phan Bội Châu để tặng Thánh Kinh và làm chứng Tin Lành. Đồng bào ở Huế thời đó thường gọi cụ là ông già Bến Ngự, vì sau khi bị bắt và bị kết án, người Pháp đã quản thúc cụ Phan trong một chiếc thuyền lớn trang bị đầy đủ tiện nghi và thuyền nầy thường đậu tại Bến Ngự. Nhưng sau đó ít lâu họ không để cụ ở dưới thuyền nữa mà dời lên một căn nhà trên đường đi Nam Giao gọi là đường Ba Dốc (Huế). Nhà nầy cũng do người Pháp xây cất để cụ ở, lương thực cũng do họ cung cấp và dĩ nhiên mọi hoạt động của cụ đều có người theo dõi cẩn thận. Vì tính cách biệt cư đó, cho nên đồng bào không mấy ai dám giao thiệp với cụ. Tôi và cụ Huyên vì vô tình nên không hay cớ sự như vậy. Vả lại mục đích của chúng tôi là đem Tin Lành đến cho cụ Phan mà thôi. Mọi chi tiết khác đều không đáng kể.

Khoảng ba giờ chiều chúng tôi đến căn nhà nói trên, được cụ Phan ra tiếp. Nhìn quanh nhà không thấy ai khác ngoài cụ. Nhưng khi ngồi xuống nghế thì một người đàn ông lực lưỡng mang súng lục từ ngoài bước vào. Cụ Phan giới thiệu: “Đây là người bạn ngày đêm ở gần tôi theo lệnh của người Pháp, vì họ kể tôi như là một thứ vi trùng hay lây nên sợ ai đến gần sẽ bị lây.” Trong khi ấy thì anh chàng nầy thản nhiên tay cởi súng đặt lên bàn, miệng nói: “Tôi ở đây giúp cụ và hầu chuyện cho cụ vui.” Chúng tôi tự giới thiệu là Mục sư Tin Lành xin đến thăm cụ và tặng cụ quyển Thánh Kinh có lời của sự sáng và cũng có lời của sự sống. Cụ Phan đứng lên hai tay đưa ra nhận quyển Thánh Kinh và nói: “Trong đời lưu vong của tôi, tôi chỉ có một người có thể gọi là bạn, là một vị Mục sư Trung Hoa khi tôi ở bên Quảng Tây, vị Mục sư ấy cũng có đọc Thánh Kinh cho tôi nghe.”

Chúng tôi giãi bày Lời Chúa là Lời Sự Sống và cũng là Lời Sự Sáng cho cụ. Thái độ của cụ rất khiêm tốn và những câu hỏi của cụ tỏ ra cụ đang muốn tìm con đường giải thoát. Sau khi trình bày cặn kẽ về sự chết của Chúa Jêsus trên thập tự giá và quyền năng phục sinh của Ngài cho cụ, chúng tôi từ giã cụ ra về.

Cụ tiễn chúng tôi ra ngoài sân, thấy tôi chăm chú nhìn ngôi mộ mới ở góc vườn. Dường như cụ đã đoán được tôi đang để ý ngôi mộ mới ấy. Cụ chỉ tay vào ngôi mộ rồi nói: Đây là cái mộ của con chó Vá của tôi chết vài tuần nay. Tôi có bài thơ định viết trên lòng bia để nhớ nó, nhưng chưa có bia, tôi đọc để cụ nghe, rồi cụ đọc:

“Vì có dũng nên liều chết phấn đấu.

Vì có nghĩa nên trung thành chủ.

Nói thời dễ, làm thực khó.

Người còn vậy, huống gì chó!

Ôi! Con Vá nầy đủ hai đức đó.

Há như ai kia, mặt người lòng thú

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 121

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

121

Nghĩ thế mà đau.

Dựng bia mộ nó.

PHAN BỘI CHÂU

Tôi ghi lại đây để nhớ cuộc gặp gỡ của chúng tôi với cụ Phan.

Rồi cụ tiếp: Con chó Vá của tôi nó rất trung tín mặc dù chủ nghèo! Tôi chưa có dịp mô tả tính nết của nó trên bia. Đang khi nói, cụ nhìn người công an với cái nhìn đầy ý nghĩa. Chúng tôi nghĩ thật là mỉa mai, một nhà chí sĩ cách mạng như cụ Phan Bội Châu, suốt đời vào tù ra khám, đến lúc tuổi già lại phải sống biệt cư. Người ta đày ải cụ chỉ vì lòng cụ thiết tha yêu nước. Cái bia của con chó Vá cũng là ý nghĩa của sự tận trung. Cụ Phan đã đặt quê hương lên trên mạng sống. Chúng tôi rất kính phục cụ và hằng ngày cầu nguyện xin Chúa giúp cụ tìm được ánh sáng của sự cứu rỗi qua lời Thánh Kinh.

Năm 1940 phòng giảng Tin Lành được dời về căn nhà lầu trước vườn hoa chợ Đông Ba. Thật là một địa điểm lý tưởng cho việc rao truyền Tin Lành. Nhưng kết quả tại Huế rất khiêm nhượng. Số người tin rất đông nhưng số người đứng vững, trung tín nhóm lại thì rất ít.

Năm 1950 Hội Thánh mua được một ngôi nhà đẹp đẽ và khang trang, ở số 14 đường Ngự Viên Huế cùng với một sở đất khá rộng. Bắt đầu từ đó, Hội Thánh Huế như nhận được những luồng sinh khí mới, anh em phấn đấu tinh thần và số tín đồ nhóm lại mỗi Chúa nhật ngày càng đông hơn. Đến năm 1964, Hội Thánh khởi xây cất một nhà thờ mới trên cơ sở nầy. Đường Ngự Viên nay được đổi tên là đường Nguyễn Du, tuy nhiên số 14 vẫn giữ như cũ. Đây chính là nhà thờ Hội Thánh ngày nay.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 122

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

122

Nhà thờ Huế, 1963

C. NHỮNG BIẾN CỐ LIÊN QUAN TRỰC TIẾP ĐẾN HỘI THÁNH

1. Tà Thuyết Chúa Tái Lâm.

Trong khi công việc Chúa ở khắp mọi nơi đang trên đà tiến triển tốt đẹp thì một số biến cố nhỏ nhưng rất đặc biệt bỗng xảy ra trong Hội Thánh, đó là tà thuyết định ngày và giờ Chúa tái lâm. Có thể bảo đây là một đổ vỡ đáng buồn trong lịch sử Giáo hội, vì ảnh hưởng của nó đã làm giao động tinh thần một số khá đông tín hữu vốn nhẹ dạ, dễ tin và đồng thời cũng gây một tiếng vang không tốt đối với Tin Lành giữa vòng dân chúng lúc bấy giờ.

Trong phần ghi lại cuộc hành trình năm tháng từ Hà Nội vào Nam ngang qua Nha Trang, tôi có dịp đề cập đến biến cố nầy một cách sơ lược với những hậu quả chua xót, tuyệt vọng xảy ra trong Hội Thánh. Nay xin được trở lại một lần nữa với những chi tiết đầy đủ hơn để quý độc giả có thể nhận thức tường tận về thực chất của lý thuyết nầy ngay từ khởi điểm đến giai đoạn kết thúc.

Có thể bảo đây là một lầm lẫn hết sức tai hại, bắt nguồn từ những luận lý thuần túy hoàn toàn chủ quan, đi ra ngoài sự dạy dỗ của Thánh Kinh. Thật ra, sự kiện về Chúa tái lâm là một điều chắc chắn, một chân lý cố hữu không ai có thể chối cãi, nhưng trình bày về thuyết tái lâm như một bài toán khẳng định dựa vào những dẫn chứng phi thực thì không thể chấp nhận được, nếu không bảo là vô cùng nguy

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 123

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

123

hiểm chẳng khác nào một thứ độc dược cực mạnh có năng lực phá hủy tất cả mọi mầm mống, mọi sinh lực của đức tin.

Người chủ trương tà thuyết này là ông Trần Như Tuân, một truyền đạo trẻ tuổi có học thức rộng. Ông đã từng chứng tỏ khả năng suy luận bén nhạy của mình trong các buổi giảng và trong những lúc giải bày giáo lý cho những người chưa tin. Thường nhật ông rất sốt sắng lo công việc Chúa, cũng như rất ham thích nghiên cứu Thánh Kinh qua những sách giải nghĩa, nhất là sách viết bằng tiếng Anh. Ông có dịp làm quen với các nhà thần học tân phái và lần lần trở nên say mê họ vì những biên khảo về Cơ Đốc giáo lý rất hấp dẫn của họ mà ông cho là chính xác nhất, thực tế nhất khác hẳn với những luận giải rườm rà, đầy dẫy những “sự kiện không thể hiểu được” của những nhà thần học cổ điển, chuyên dùng Thánh Kinh để giải nghĩa Thánh Kinh và dùng Thánh Kinh để làm nền tảng cho đức tin. Ông Tuân không muốn bị gò bó trong một khuôn khổ “cố định” như vậy, nên sau khi đã nghiền ngẫm những tư tưởng tân kỳ của những nhà thần học tân phái tây phương, ông liền xoay qua nghiên cứu Sấm Trạng Trình, vì ông cho rằng Sấm Trạng Trình, có những tương quan lạ lùng đối với những lối tiên tri trong Thánh Kinh.

Thế là sau khi phân tích từng tiếng từng chữ những lời sấm hiểm hóc của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông không ngần ngại bước sang giai đoạn tổng hợp, bằng cách áp dụng những phương thức suy luận của các nhà thần học tân phái và những ẩn ngữ trong Sấm Trạng Trình để khảo cứu Thánh Kinh. Đó là một việc làm cực kỳ nguy hiểm, nhưng ông Tuân bất chấp mọi cản ngăn, ông cương quyết bảo vệ lập trường của mình vì ông tin rằng với phương pháp biên khảo vừa kể, ông có thể thấu triệt được tất cả những lẽ mầu nhiệm của Thánh Kinh. Ông chắc chắn mình có thể tuyên bố đúng ngày và giờ mà Chúa Jêsus sẽ tái lâm.

Để bắt đầu cho giai đoạn lập thuyết, ông viết một tập sách nhỏ, trong đó trình bày tóm lược những khám phá của ông dựa theo Sấm Trạng Trình và một số lời tiên tri trích trong Cựu Ước. Sau khi đã dẫn chứng những mấu chốt lịch sử trải qua các thời đại ông liền công bố: “CÓ LẼ NGÀY 7-9-1944 CHÚA TÁI LÂM.”

Lúc bấy giờ có rất nhiều tín đồ giữ vững được đức tin đến khuyên ông Tuân đừng giảng Thánh Kinh theo cách ấy, cũng đừng lấy Sấm Trạng Trình mà đoán định ngày Chúa tái lâm. Chẳng những ông không nghe lời khuyên, mà sau ngày 7-9-1944 Chúa chưa tái lâm, ông lại tuyên bố tiếp: “CHẮC NGÀY 30-9-1944 CHÚA TÁI LÂM.” Nhưng rồi đến ngày 30-9-1944 Chúa vẫn chưa tái lâm. Qua hai lần thất bại đáng lẽ ông thức tỉnh, ăn năn trở lại nẻo chánh, nhưng ông vẫn tiếp tục giữ vững lập trường và tuyên bố đại khái như thế nầy: “CHÚA TÁI LÂM RỒI NHƯNG CÒN Ở TRÊN KHÔNG TRUNG, CHƯA RƯỚC HỘI THÁNH LÊN.”

a. Những Vùng Bị Ảnh Hưởng Trực Tiếp.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 124

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

124

Phần đông tín đồ trong toàn quốc không quan tâm đến tà thuyết nguy hại nầy. Chỉ có những Hội Thánh gần nơi ông Tuân ở, bị ảnh hưởng bởi những bài ông quây ronéo cùng với những bản đồ các THỜI ĐẠI mà ông đã gởi cho, nên một số người nhẹ dạ tin theo, một số người hưởng ứng nghiên cứu, gây nên những cuộc tranh luận cãi vã hết sức sôi nổi. Có vài vị mục sư ngã theo tà thuyết nầy. Nhưng tai hại hơn cả có một vị Chủ nhiệm một Địa hạt bị mê hoặc, xem ông Tuân như là thần thánh và những lý thuyết do ông nầy đặt ra chẳng khác nào chân lý của sự cứu rỗi, nên đã gởi cho tôi một điện tín nội dung như sau:

“Xin ông tuyên bố ngày 30-9-1944 Chúa tái lâm, nếu không làm, huyết vô tội đổ trên đầu ông.”

Tôi liền trả lời: “Tôi không tin ngày 30-9-1944 Chúa tái lâm. (Cong 1:7). Cầu Chúa cứu ông và anh em khỏi tà thuyết.”

Đáng lẽ sau ngày 30-9-1944 Chúa chưa tái lâm, những người lầm lạc có dịp thức tỉnh, ăn năn hối lỗi quay về với Chúa để suy ngẫm những lời mà Ngài đã phán với các môn đồ ngày xưa: “kỳ hạn và ngày giờ mà Cha đã kỳ hạn định lấy, ấy là việc các ngươi chẳng nên biết” (Cong 1:7). Nhưng như trên đã nói, ông Tuân không cho đó là một sự cảnh cáo của Chúa đối với mình, nên lập trường của ông càng ngày càng cứng rắn hơn. Mục sư truyền đạo trong các vùng phụ cận có người bảo trái, kẻ bảo phải, gây nên những cuộc cãi vã liên tiếp từ ngày nầy qua ngày kia. Công việc Chúa do đó bị đình trệ, và tín đồ bị hoang mang không ít.

Theo tin tức nhận được, chúng tôi biết chắc Hội Thánh tại Vinh đang ráo riết học tập tà thuyết nầy, vì lúc bấy giờ ông Trần Như Tuân là đương kim chủ tọa tại đây. Nhận thấy không thể để cho mầm mống nguy hại lan tràn xa hơn, có thể đầu độc tinh thần tín hữu, nên tôi tức tốc từ Hà Nội vào và cụ Mục sư Lê Văn Long - đại diện cho Trung hạt - từ Đà Nẵng ra Vinh cùng một ngày. Mục đích của chúng tôi - với tư cách nhân viên Tổng Liên Hội - là muốn gặp ông Tuân cầu nguyện, khuyên lơn và giải thích những sai lầm của ông. Mặc dù có gởi điện tín báo tin là chúng tôi sẽ đến bằng xe lửa. Nhưng khi tàu đến ga chúng tôi vẫn không thấy một ai đến đón cả. Chúng tôi liền tìm xe để đến tư thất Hội Thánh Vinh, tại đây có người cho chúng tôi biết ông bà truyền đạo đang tổ chức nhóm họp tại một địa điểm mới. Chúng tôi đi ngay đến đó thì thấy có độ 20 người nhóm lại. Ông truyền đạo lấy cớ đang phải bận giúp đỡ tín hữu học tập các THỜI ĐẠI trong Thánh Kinh nên từ chối, không chịu tiếp rước chúng tôi. Nhưng chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi để gặp ông. Với tất cả tình và lý, chúng tôi tha thiết khuyên ông hãy trở lại với sự dạy dỗ chân chính của Thánh Kinh. Ông không muốn nghe, nhưng chúng tôi vẫn đọc thư ITe 5:1-11 IITe 2:1-17 Cong 1:7 và Mac 13:32 để đoan chắc Chúa tái lâm. Đó là một lẽ mầu nhiệm vượt quá sự hiểu biết của con người.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 125

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

125

Nhưng trước sau ông Tuân vẫn nhất quyết không nghe chúng tôi. Và hơn thế nữa, ông còn cho biết là ông sẽ tuyên bố một ngày khác và lần này ông tin quyết điều mình suy tính chắc chắn sẽ đúng. Đêm đó ông Tuân lấy cớ bận việc không tiếp chúng tôi và cũng không tỏ ý không muốn một gia đình tín đồ nào ở Vinh tiếp đón chúng tôi cả, do đó, chúng tôi buộc lòng phải trở về thành phố Vinh để tìm phòng trọ mặc dù lúc ấy đã hơn 10 giờ đêm. Về đến nơi thì đã gần 11 giờ. Chúng tôi cố gắng đi tìm một nơi trú ngụ qua đêm, nhưng phần nhiều nhà trọ trong thành phố đã hết phòng, còn một vài nơi có phòng nhưng chúng tôi thấy không tiện ở. Không biết tính sao, nhưng từ chiều tới giờ chưa ăn gì nên Mục sư Long và tôi vào quán để ăn tối. Trước khi dùng bữa, chúng tôi cầu nguyện tạ ơn Chúa về những thức ăn trước mặt và xin Ngài chỉ dẫn một chỗ trọ qua đêm. Khi đang ăn, chúng tôi bỗng thấy Vũ Đăng Chinh từ ngoài cửa bước vào. Gặp chúng tôi ông chào mừng rối rít, hỏi thăm đến hồi nào và nghỉ ở đâu .v.v... (Ông Chinh lúc trước có đi hầu Chúa và hiện đang làm việc thu phát thư trên xe lửa). Tôi cho biết ông Mục sư Long từ Đà Nẵng ra và tôi từ Hà Nội vào để gặp ông Tuân về vụ “tái lâm” ăn xong chưa biết phải nghỉ ở đâu. Ông Chinh liền vui vẻ mời chúng tôi lên xe lửa nghỉ với ông. Đây là lần đầu tiên trong chức vụ, chúng tôi được hân hạnh trải chiếu nằm ngủ trên sàn xe lửa.

Sáng hôm sau, ông Mục sư Lê Văn Long về Đà Nẵng và tôi trở ra Hà Nội. Tâm thần chúng tôi rất nặng nề, nên trước khi chia tay đã nói với nhau: “Phải cầu nguyện thật nhiều cho ông Tuân và anh em để họ khỏi vấp ngã vì quá tự tin vào kiến thức của mình.”

Ít lâu sau, ông Tuân phổ biến một lời tuyên bố thứ ba lần nầy ông xác định chắc chắn ngày giờ, năm tháng Chúa sẽ đến. Nội dung lời tuyên bố ấy như thế nầy: “CHẮC CHẮN 1 GIỜ NGÀY 1 THÁNG 10-1945 CHÚA TÁI LÂM.” Sự xáo trộn đức tin sau một thời gian lắng dịu bỗng khuấy động trở lại, khiến cho những người có lòng lo cho công việc Chúa và Hội Thánh không khỏi buồn. Chúng tôi chỉ biết cầu nguyện nài xin Chúa giúp đỡ để Hội Thánh tránh khỏi tình trạng sa lầy nguy hiểm, có thể làm sụp đổ lâu đài đức tin vốn được vun quén từ nhiều năm qua.

Ảnh hưởng của tà thuyết trên đây đã gây đổ vỡ nhiều nhất tại các Hội Thánh Tam Kỳ, Huế và Nha Trang. Hầu hết tín đồ tại các nơi nầy đều say mê đến độ mù quáng. Có nhiều người đã tính từng ngày từng giờ để rồi sau đó đi báo cáo cho bà con, xóm làng là còn mấy ngày nữa Chúa đến, chắc chắn như thế không thể nào lầm lẫn được. Ngay chiều ngày 30-9 khoảng 7 giờ tối mà cũng còn có người đến gõ cửa nhà bạn hữu cam đoan là còn 5 tiếng đồng hồ nữa Chúa tái lâm. Người người đều nôn nả chuẩn bị ráo riết. Nhà cửa họ được niêm lại cẩn thận, trước cửa dán sẵn những tấm giấy đại khái như: “Đất và nhà nầy tôi dâng vào cơ quan Cứu tế xã hội Tỉnh,” hoặc “Nhà nầy tôi tặng cho…” v.v…

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 126

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

126

Có người lại dắt cả gia đình đi chào từ giã bà con quen biết, khóc lóc khuyên họ mau mau tin nhận Chúa kẻo chết mất. Trong số người quá sốt sắng nầy có bà cụ L.T.C, bao nhiêu của cải gom góp đều đem phân phát cho người ta hết, còn đôi vòng và bông tai thì đem cho con dâu để kỷ niệm. Bà chỉ mặc vỏn vẹn một bộ đồ mà bà cho là đẹp nhất để đến nhà thờ chờ đợi Chúa tiếp ruớc.

Đêm 30-9 rạng ngày 1-10-1945 tất cả những người tin theo thuyết nầy đều có mặt đầy đủ tại nhà thờ hoặc tại một địa điểm nào đó để cầu nguyện, đọc Thánh Kinh và hát Thánh ca trong tư thế sẵn sàng đi với Chúa…

b. Hậu Quả

Nhưng rồi sự phải đến đã đến thời gian ấn định cho một biến động vĩ đại nhất lịch sử trên đây, lại trôi qua một cách bình thường như muôn ngàn đêm khác. Bao nhiêu người hồi hộp trông chờ, nhưng từ đầu hôm cho đến sáng không có một hiện tượng nhỏ nhặt nào xảy ra chứng tỏ Chúa tái lâm. Hy vọng trong khoảnh khắc đã trở thành thất vọng. Lần trắc nghiệm sau cùng này đã đem lại cho họ nhiều đỗ vỡ đau thương. Khoảng bốn giờ sáng ngày ấy, không thấy gì nên nhiều người đã chạy vội về nhà gỡ tấm giấy dán trước cửa và phần đông đều ra về lúc trời chưa sáng. Khi đã thực sự bừng tĩnh. Nhận thấy lý thuyết của ông Tuân chỉ là một tà thuyết nguy hại thì sự việc đã lỡ cả rồi. Sự hổ thẹn đã khiến cho một số người không dám xuất hiện. Vùng Tam Kỳ có nhiều việc buồn xảy ra và một số mục sư truyền đạo vì hậu quả của tà thuyết này đã phải gián đoạn chức vụ một thời gian. Riêng ông Trần Như Tuân bắt đầu sa ngã hẳn từ đó và cho đến khi sắp từ giã cõi đời, ông vẫn giữ lập trường của mình và cho rằng Thánh Kinh có nhiều dữ kiện không thật…

Ngày 1-10-1945 tôi có mặt tại Nha Trang và đã phải chứng kiến những cảnh trạng đau lòng của Hội Thánh. Trước đó tôi đã cố gắng cản ngăn bằng mọi cách trưng dẫn hầu hết những câu Thánh Kinh liên quan đến sự kiện Chúa tái lâm nhưng không ai nghe, tiếng nói của tôi như chìm vào sa mạc… Đến 5 giờ sáng thì sự thất vọng và chán nản đã hiện rõ trên mặt mọi người. Tôi nghe được tiếng thở dài của vị Mục sư và đã tha thiết cầu nguyện cho ông cùng tất cả anh em trong Hội Thánh. Cầu xin Chúa gúp đỡ họ thức tỉnh và giữ vững được đức tin sau biến cố nầy.

Trưa ngày 2-10-1945 có nhiều người đã đến với tôi, trong số đó có bà cụ L.Th.Ch trên đây. Nhà cửa của bà cụ đã có người khác ở nên khi bà trở về họ không cho vào, đôi vòng và bông tai của bà, người con dâu cũng không trả lại, do đó bà cụ phải bơ vơ một thời gian. Không riêng gì bà cụ Ch, mà có nhiều người khác cũng đồng một hoàn cảnh như vậy. Tôi đã phải hết sức an ủi khuyên lơn và dùng Lời Chúa để giục lòng họ trong đức tin.

Tôi chép lại bài của Tiến sĩ G. Campbell Morgan đề tài:

Sứ điệp hiện tại cho Hội Thánh là gì? Để chúng ta cùng suy ngẫm

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 127

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

127

Sứ điệp hiện tại cho Hội Thánh là gì? “Này, Ngài đến” (ITe 4:1). Chúng ta cần hiểu biết cái thật sự rằng thái độ chính xác của Hội Thánh đã được Phao-lô tuyên bố khi ông viết thư tín thứ nhất cho tín đồ Thê-sa-lô-ni-ca, và nói rằng họ là kẻ đã xây bỏ thần tượng để hầu việc Đức Chúa Trời và chờ đợi con Ngài. (ITe 1:9-10). Đó là ba thật sự và thái độ của Hội Thánh và thái độ của mọi người thật lòng tin Chúa Jêsus.

“Trở lại cùng Đức Chúa Trời, bỏ hình tượng đặng thờ Đức Chúa Trời hằng sống và chân thật đặng chờ đợi Con Ngài từ trên trời” (ITe 1:9-10a). Con Đức Chúa Trời hiện đến lần thứ hai, đó là biến cố sắp xảy ra trong lịch sử thế giới. Anh em tưởng Ngài gần tái lâm chăng? Trong ngữ vựng của tôi, chẳng có danh từ nào luận về các phương thức Đức Chúa Trời là gần hay xa, chính lúc đem quyển niên giám hoặc quyển lịch vào vấn đề nầy thì anh em làm hại tinh thần và ý định của nó. Thí dụ, anh em có thể chứng minh tuyệt đối chắc chắn với tôi rằng Chúa Jêsus tái lâm một năm sau đây, theo lịch của loài người, thì tôi sẽ nài xin anh em đừng bảo tôi như vậy, vì tôi chẳng muốn sự tái lâm của Chúa mình bị dời lại 12 tháng. Tôi mong chờ Ngài ngay bây giờ vì Ngài truyền bảo tôi như vây. Ôi! Sự sáng chói lọi trên trời khi có một người thấy điểm này! Anh chị em hỏi “Ông có thất vọng vì Ngài chẳng ngự đến, không?” Không, tôi sung sướng là khác. Tại sao vậy? Vì Ngài chưa ngự đến và Ngài biết chính xác hơn hết. Tôi sung sướng nếu Ngài ngự đến, và cũng sung sướng nếu Ngài trì hoãn. Đó là thái độ xứng đáng đối với sự tái lâm của Chúa. Hỡi anh em, là người lo lắng về Chúa tái lâm đến nỗi luôn luôn nghĩ tới, viết về và nói đến biến cố ấy nhưng chẳng làm chi hết để cứu người đời, hãy nghe sứ điệp của các thiên sứ truyền cho mình: “Hỡi người Ga li lê, sao các ngươi đứng ngóng lên trời làm chi? Ngài sắp tái lâm. Hãy đi làm công việc Ngài để lại cho mình làm.” Phương pháp chánh đáng để chờ Chúa tái lâm là trong “khoảng ngắn ngủi mong đợi,” hãy lo rao giảng Tin Lành, để dắt đem người ta đến cùng Đấng Christ. Tôi chẳng ngần ngại nói rằng sứ điệp cuối cùng của chế độ Cựu Ước là: “Này, Ngài đến” và “mặt trời” thể nào tôi cũng thể ấy, sứ điệp cuối cùng của chế độ Tân Ước là: “Này, Ta đến mau chóng và đem phần thưởng theo với Ta” (Kh 22:11). Tôi xin hiến một cách thử nghiệm rất sâu sắc để tìm ra mối liên quan của anh em với Đấng Christ. Chúa Jêsus phán với anh em, là con cái yêu dấu của Ngài rằng: “Này, Ta đến mau chóng.” Anh em trả lời thế nào? Nếu nói: “Phải lạy Chúa, tôi muốn Ngài ngự đến, nhưng xin đừng đến ngay. Tôi muốn giảng thêm mấy lần nữa, hoặc làm việc này việc kia trước đã,” thì anh em chưa gần Ngài như đáng phải gần. Nếu chẳng ước muốn đợi chờ và hy vọng Ngài ngự đến và khuấy động mình lúc làm việc hoặc lúc chơi, thì chúng ta chưa có thái độ chính đáng. Dầu hết thảy chương trình chúng ta bị bị tan vỡ và kế hoạch bị hư hỏng, nhưng nguyện chương trình Ngài tiến hành và kế hoạch Ngài được thực thi! Ôi! Ánh sáng chói lọi chiếu trên đường lối nếu chúng ta hiểu rằng Ngài sắp tái lâm!

G. Campbell Morgan

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 128

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

128

2. Hội Thánh Sau Ngay Hiệp Định Genève Ký Kết

Trong khi toàn thể con cái Chúa từ thành thị đến thôn quê đang phấn khởi trước những thành quả rất tốt đẹp của Hội Thánh về phương diện xã hội cũng như giáo dục, thì ngày 20-7-1954 Hiệp Định Genève được ký kết giữa Pháp và Việt Minh khiến mọi người bàng hoàng ngơ ngác. Thiết tưởng không có gì làm cho người dân Việt lúc bấy giờ đau lòng hơn là phải chứng kiến thảm trạng đất nước bị chia đôi.

Lịch sử Quốc gia cũng như lịch sử Giáo hội đã đi vào một ngõ rẽ quan trọng. Trong cuộc di cư vĩ đại năm 1954 gần một triệu người đã quyết định lìa bỏ nơi chôn nhau cắt rốn tại Miền Bắc để vào Nam. Hội Thánh của Đức Chúa Trời cũng bị xáo trộn rất nhiều vì những biến chuyển của thời cuộc. Cảm thông được điều ấy nên trước ngày di cư, Tổng Liên Hội đã phổ biến một bảng thông báo khẩn cấp đại thể như sau:

1. Xin quý vị Mục sư, Truyền đạo và tín hữu hãy để nhiều thì giờ tĩnh tâm cầu nguyện đặc biệt cho dân tộc, cho đất nước và cho Hội Thánh sắp bước vào những ngày phân chia đau buồn.

2. Mỗi vị Mục sư, Truyền đạo cũng như mỗi tín hữu, hãy thiết tha cầu nguyện xin Chúa cho biết rõ ý muốn mình di cư hoặc ở lại. Khi đã nhận biết rõ ràng ý muốn của Chúa và quyết định dứt khoát cho tương lai của mình xong (di cư hoặc ở lại), xin cho Tổng Liên Hội biết ngay. Chúng tôi luôn luôn cầu nguyện cho quý vị và sẽ hết sức giúp đỡ quý vị theo những phương tiện mà Tổng Liên Hội có.

Sau thông báo ấy, chúng tôi nhận được bảng danh sách 17 gia đình Mục sư, Truyền đạo tình nguyện ở lại miền Bắc. Chúa đã dùng các đầy tớ của Ngài ở lại đó để duy trì công việc, nhờ đó Tin Lành vẫn được rao truyền ở Miền Bắc ngay trong lúc tình hình đất nước căng thẳng nhất.

Có thể bảo năm 1954 và những năm kế tiếp là thời kỳ có nhiều chuyển biến hết sức quan trọng trong lịch sử. Hội Thánh bị thử thách rất nặng nề, nhưng tạ ơn Đức Chúa Trời vì trên hết mọi điều đó, cánh tay của Chúa vẫn hằng giơ ra để cứu giúp toàn thể tôi tớ, con cái Ngài trong những giờ phút nghiêm trọng nhứt, chẳng khác nào CHÚA, Đức Chúa Trời đã dẫn đưa dân Y-sơ-ra-ên ra khỏi Ai Cập thời xưa.

Họ bước đi trong sự dìu dắt của Chúa, cả đoạn đường chỉ toàn phép lạ. Sự thành tín của Ngài được thể hiện từng giờ từng phút, do dó dù phải gặp nhiều khó khăn, phải đối đầu với biết bao mưu kế của ma quỷ, thì chung quy Hội Thánh vẫn đắc thắng.

a) Một vụ án không thành án.

Câu chuyện “ Cười ra nước mắt “ sau đây có thể xem như là điển hình của một trong muôn ngàn âm mưu nhằm làm lũng đoạn tinh thần đoàn kết gắn bó giữa Mục sư, Truyền đạo cùng toàn thể con cái Chúa trong Hội Thánh. Mục đích của hành

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 129

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

129

động đó là để phá hoại công việc Chúa ngay trong những giờ phút nghiêm trọng nhứt của đất nước. Đối với lịch sử Gíáo Hội, đây là một hành động vô trách nhiệm không thể tha thứ được của những tâm hồn vị kỷ, và đối với riêng tôi là một kỷ niệm buồn trong đời sống chức vụ.

Câu chuyện được khởi đầu bằng những sự kiện sau đây: vào khoảng tháng 3 năm 1955, chúng tôi nhận được tin Tiến sĩ Mục sư Van Beyna ở Genève có gởi giúp cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một số tiền là 160.000$00, số tiền này thoạt tiên được gởi cho Mục sư Bertrand de LUZE thuộc Hội Thánh Tin Lành Pháp tại Sài Gòn, nhờ chuyển cho ông D. I. Jeffrey Hội Trưởng Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp để giao cho Ông Tư Hóa Tổng Liên Hội, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam lúc bấy giờ là Mục sư Duy Cách Lâm. Lịch trình chuyển tiếp số tiền ấy đã được thực hiện đúng như đã hoạch định và không có gì đáng tiếc xảy ra. Đến tháng 9 năm 1955, Hội Đồng Tổng Liên Hội nhóm lại tại Gia Định và Ban Trị sự đã phân phối số tiền ấy đồng đều cho toàn thể các Chi Hội tại Miền Nam Việt Nam thể theo ý muốn của Hội Thánh Genève (Thụy Sĩ).

Vấn đề vỏn vẹn chỉ có thế, nên khi phân phối xong chúng tôi vui mừng như vừa làm xong một sứ mệnh. Nhưng không ngờ lúc ấy có một tín đồ tu nghiệp ở Pháp có dịp qua Genève, và khi về thuật lại thế nào chúng tôi không rõ khiến có đôi người tín đồ đến hỏi thẳng chúng tôi: “Nghe nói Hội Thánh Genève có gởi một số tiền để giúp tín đồ Bắc Việt di cư, sao không thấy Tổng Liên Hội phân phát?”

Chúng tôi rất đổi ngạc nhiên không hiểu tại sao có chuyện như vậy. Hồ sơ phân phối còn đó, chúng tôi có làm gì gian dối đâu. Nhưng một số tín đồ không tin, họ cứ nằng nặc cho rằng Hội Thánh Genève có gởi một số tiền giúp đỡ anh em người Bắc di cư. Do đó, một số anh em mới từ Bắc vào muốn được chia tiền nên đến hỏi Ban Trị sự Tổng Liên Hội. Chúng tôi liền trả lời chung cho tất cả là Hội Thánh Genève có gởi 160.000$00 để giúp cho toàn thể Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, chứ không phải giúp riêng cho tín đồ Bắc di cư. Số tiền ấy Ban Trị sự Tổng Liên Hội đã phân phối đúng theo ý muốn của người gởi tiền là Tiến sĩ Van Beyna rồi.

Nhưng những anh em này không bằng lòng và bảo Tổng Liên Hội đã làm sai. Chúng tôi cố gắng trình bày và chứng minh đủ mọi cách, nhưng làm thế nào thì làm, anh em vẫn không chịu hiểu. Sự bất bình càng lúc càng dâng cao. Cuối cùng họ phát đơn kiện với chính quyền đòi chia số tiền đó. Thậm chí có những người quá nóng nảy, thiếu bình tĩnh đã nói những lời mất cả tình yêu thương trong Chúa. Trong số ấy có thể kể ông Nh… đã hành động một cách mù quáng, xách dao đến nhà thờ Nguyễn Tri Phương đòi giết Hội Trưởng trong khi ông đang giảng khai mạc Hội Đồng Địa hạt vào hạ tuần tháng 2 năm 1956 tại đó.

Nhưng rồi hậu quả của toan tính ấy một lần nữa chứng thực quyền năng siêu việt của Chúa để bảo vệ Hội Thánh Ngài. Khi ông ấy cầm dao đến nhà thờ thì Hội

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 130

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

130

Trưởng đang giảng trên tòa giảng. Ông ta đứng ngoài cửa nghe một hồi lâu rồi không hiểu sao lại quay trở về nhà lên giường nằm ngủ. Hôm ấy Chúa cho phép ông ngủ luôn. Bà vợ đi chợ về, lo nấu cơm mời ông dậy dùng thì thấy ông đã chết rồi. Chắc Chúa thương ông nên tiếp về trong nước của Ngài để ông khỏi lầm lạc.

Nhưng đó là một điều quá bất ngờ cho bà. Khi được tin cấp báo, anh em trong Hội Thánh chẳng những không ghét bỏ mà còn tận tình lo mai táng ông trong tình yêu thương của Chúa. Sau vụ nầy, một số người vì lời xuyên tạc trên đây đã hiểu sai việc làm của Tổng Liên Hội, trở nên thức tỉnh và đặt lòng tin cậy Hội Thánh có sự hiện diên của Đức Chúa Trời Ba Ngôi.

Tuy nhiên đơn kiện của anh em nơi chánh quyền vẫn chưa xong, và người bị kiện là Hội Trưởng Tổng Liên Hội phải ra tòa. Đứng trước vấn đề nầy chúng tôi không biết phải làm cách nào khác hơn là cầu nguyện xin Chúa làm sáng tỏ mọi việc để cho những đám mây mù tan đi. Đồng thời cũng cầu xin Chúa cho nhân viên công quyền có dịp biết nhiều hơn về Hội Thánh Ngài và cho những người lầm lạc được trở lại con đường sáng.

Trong câu chuyện này ma quỷ thật rất mưu mô và khôn khéo, dùng trăm phương nghìn cách để phá hoại công việc nhà Đức Chúa Trời. Trước ngày 1-8-1956 là ngày Hội Đồng Tổng Liên Hội tại Đà Nẵng khai mạc một số người lợi dụng những tín đồ xác thịt đòi chia số tiền của Hội Thánh Genève trên đây, thuê năm tờ báo hằng ngày đăng tin ông Hội Trưởng Tổng Liên Hội biển thủ 160.000$00 (có tờ còn đăng 1.600.000$00) của tín đồ di cư. Tung ra nguồn tin thất thiệt nầy, mục đích của họ là làm rối Hội Đồng Tổng Liên Hội và phá hủy tận cùng mọi mầm mống đức tin của một số người.

Chúng tôi rất đau lòng trước hành động thiếu suy nghĩ của anh em. Sự ganh tị và ghen ghét đã làm cho họ trở nên mù quáng. Ca-in ngày xưa chỉ vì ghen tức với A-bên mà đã đi đến chỗ giết người. (Sa 4:1-16). Ma quỷ muốn dùng lời nói sai của một người để tạo nên nhiều ý nghĩ bất chánh nhằm làm hại chức vụ của những đầy tớ Chúa và công việc Hội Thánh.

Nhưng Đức Chúa Trời là Đấng hằng sống. Ngài biết tất cả mọi sự và do đó, Ngài có thể dùng sự ganh ghét của mọi người để làm vinh hiển danh Ngài giữa Hội Thánh và cũng để làm sáng tỏ công việc mà các tôi tớ Ngài đã làm đối với các Hội Thánh bạn và chánh quyền.

Sự kiện trên đây giúp chúng ta có được một bài học kinh nghiệm rất quý báu: “NGHE KHÔNG RÕ, THUẬT LẠI KHÔNG ĐÚNG, SUY NGHĨ KHÔNG CHÍNH CHẮN mà đã hành động thì chẳng những làm hại cho mình mà còn tổn thương đến Hội Thánh của Chúa nữa.”

b)Thông cáo của Tổng Liên Hội và các cơ quan liên hệ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 131

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

131

Để có đủ tài liệu tham khảo về vụ án không thành án nầy, tôi xin mạng phép chép lại nguyên văn bản thông cáo của Tổng Liên Hội (gồm ba thông cáo của những cơ quan có liên hệ đến vụ nầy).

THÔNG CÁO VỀ VỤ VU KHỐNG ÔNG HỘI TRƯỞNG MỤC SƯ LÊ VĂN THÁI BIỂN THỦ SỐ BẠC MỘT TRĂM SÁU CHỤC NGÀN ĐỒNG DO MỘT SỐ NGƯỜI VU KHỐNG MÀ CÁC BÁO ĐÃ ĐĂNG.

Chúng tôi xin nhắc lại và thanh minh cho toàn thể con cái Chúa được rõ:

Số bạc 160.000$00 ấy do Hội Thánh Tin Lành Quốc Tế Genève ở Thụy Sĩ gởi đến cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam qua tay ông Mục sư Hội Thánh người Pháp ở Sài Gòn là ông BERTRAND DE LUZE chuyển lại ông Hội Trưởng Giáo sĩ D. I. JEFFREY trao qua cho ông Tư hóa Tổng Liên Hội Mục sư DUY CÁCH LÂM để sử dụng theo ý muốn của Hội Thánh Genève gởi đến Ban Trị sự Tổng Liên Hội và theo quyết nghị của Hội Đồng Tổng Liên Hội họp tại Gia Định vào hạ tuần tháng 9-1955. Tuyệt nhiên ông Hội Trưởng Mục sư LÊ VĂN THÁI không nhận một xu nào trong số bạc nói trên, vụ nầy ông Tư hóa Tổng Liên Hội là Mục sư DUY CÁCH LÂM đã gởi bài đính chính trên các báo. Lời đính chính ấy như sau:

“Tôi, Mục sư DUY CÁCH LÂM ở Hội Thánh Tin Lành tại Đà Lạt là Tư hóa Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam gởi lời thanh minh sau đây, xin quý báo vui lòng cho đăng tải. Tôi xin thành thật cảm ơn trước:

Về số tiền 160.000$00 của Hội Thánh Tin Lành cứu tế ở Genève (Thụy sĩ) gởi đến chúng tôi qua tay ông Mục sư BERTRAND DE LUZE (Hội Thánh người Pháp) ở Sài Gòn. Ông DE LUZE giao qua cho ông Giáo sĩ D. I. JEFFREY ở Sài Gòn rồi ông D. I. JEFFREY giao lại cho tôi là Tư hóa của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam phân phát ra theo ý muốn của Hội Thánh Genève và theo quyết nghị của Hội Đồng Tổng Liên Hội họp tại Gia Định vào hạ tuần tháng 9-1955. Ông Hội Trưởng Mục sư LÊ VĂN THÁI không hề cầm đến một đồng bạc nào trong số ấy. Nội vụ chúng tôi đã giao cho một trạng sư ở Sài Gòn, mọi người sẽ biết rõ sự thật. Con ông VŨ CHÂN HIỀN không phải là đại diện của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam và ông ấy cũng không phải là tín đồ chính thức của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.”

Ông Hội Trưởng D. I. JEFFREY đã gởi lời đính chính sau đây:

“Tôi, Giáo sĩ D. I. JEFFREY, Hội Trưởng Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp ở Việt Nam xin đính chính như sau đây:

Số tiền một trăm sáu chục ngàn đồng (160.000$00) của Hội Thánh Tin Lành GENÈVE, gởi đến cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam qua ông Mục sư DE LUZE (Hội Thánh Tin Lành Pháp tại Sài Gòn). Số tiền tôi đã nhận và trao lại cho ông Tư hóa Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam là Mục sư DUY CÁCH LÂM để chia ra theo ý của Hội Thánh bên GENÈVE và theo quyết nghị của Hội Đồng Tổng Liên Hội

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 132

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

132

Hội Thánh Tin Lành Việt Nam nhóm tại Gia Định vào hạ tuần tháng 9 năm 1955. Còn ông Hội Trưởng Mục sư LÊ VĂN THÁI không nhận số tiền ấy, đó chỉ là lời vu khống mà thôi.

Nội vụ chúng tôi đã trình tất cả hồ sơ cho Công an đặc vụ và đã ủy thác cho một Trạng sư ở Sài Gòn, mọi người sẽ biết rõ sự thật.

Đúng theo đạo luật 1881 về báo chí, xin ông cho đăng lại lời đính chính nầy cùng trang nhất và cùng một thứ chữ với bài báo ra ngày 24-7-1956.”

Ông Mục sư DU MARTHERAY Đại Diện Hội Thánh Tin Lành Quốc Tế ở GENÈVE và Ông Mục sư BERTREND DU LUZE Hội Thánh Tin Lành Pháp ở Sài Gòn đã gởi lời đính chính trên các báo như sau đây:

“Nhân danh Đại Diện Hội Thánh Tin Lành toàn quốc Việt Nam, chúng tôi xin trân trọng trình bày rõ nỗi ngạc nhiên của chúng tôi sau khi đọc bài đăng trong quý báo ngày 24-7-1956 về việc ông LÊ VĂN THÁI, Hội Trưởng Hội Thánh Tin Lành, biển thủ tiền bạc và bị thưa trước biện lý cuộc. Quý báo còn quan trọng hóa vấn đề và tuyên truyền cho một việc thất thiệt và hoàn toàn vu khống.

Theo quyết định của Ủy Ban Lãnh Đạo Hội Tin Lành Quốc Tế, chúng tôi có gởi cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam món tiền là 160.000 đồng bạc. Số tiền nầy đã được sử dụng theo đề án của Uỷ Ban đệ trình và đã được Hội Nghị thông qua. Như vậy sự kết tội và vu khống cho ông LÊ VĂN THÁI hoàn toàn vô căn cứ, và chỉ làm tổn thương đến sự hỗ tương giữa các Hội Tin Lành trên toàn cầu và nước Việt Nam.

Kính thưa Ông Chủ Nhiệm,

Chúng tôi khẩn thiết yêu cầu ông cho đăng trên quý báo mấy lời đính chính nầy, vào đúng chỗ mà quý báo đã đăng lời kết tội vu khống kể trên.

Chúng tôi xin ông nhận nơi đây tấm lòng thành thật biết ơn của chúng tôi.”

C) Án Lệnh Miễn Tố của Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn.

Nội vụ trên đây đã được công lý làm cho sáng tỏ, và sau đây là bản sao nguyên văn Án Lệnh Miễn Tố của Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn, ngày 30-10-1956:

VIỆT NAM CỘNG HÒA

BẢN SAO

Cấp Cho Hội Thánh TRÍCH LỤC BẢN ÁN PHÒNG LỤC SƯ

Tin Lành Việt Nam TÒA SƠ THẨM SÀI GÒN

SÀI GÒN ÁN LỆNH MIỄN TỐ

VỤ SỐ 7658 B.L. 50 DT1

Chúng tôi NGUYỄN HUY ĐẪU, Dự Thẩm (Phòng nhứt) Tòa Sơ Thẩm Sài Gòn;

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 133

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

133

Chiếu hồ sơ Công Tố Viện kháng vô danh bị truy tố về tội sang đoạt;

Chiếu án lệnh thông tri của chúng tôi ngày 4-9-1956 và quyết tố án lệnh trạng của ông Biện lý sở tại ngày 24-10-1956; chiếu chỉ ông LÊ VĂN THÁI là Hội Trưởng Hội Tin Lành Việt Nam; nhân có cuộc di cư đại quy mô từ Bắc vào Nam sau Genève, Uỷ ban tế trợ di cư các nhà thờ Tin Lành trên thế giới (World Council of Churches Division of Interchurch Aid and Service to Refugees) tại Genève có tặng một món quà 4.000 đô la Mỹ cho các đồng bào Việt Nam; số bạc đó giao cho Mục sư B. DE LUZE, Mục sư Tuyên Uý nhà thờ Tin Lành Pháp ở Việt Nam qua Ông JEFFREY, Mục sư Gia Nã Đại, là người đã làm trung gian để quyên món tiền đó từ Gia Nã Đại để chuyển cho ông LÊ VĂN THÁI là Hội Trưởng Hội Tin Lành Việt Nam;

Chiếu chỉ một nhóm người có đạo không được chia tiền nên ganh tị, có viết thư qua Genève hỏi hoặc tìm kiếm các nhà chức sắc tại Sài Gòn cật vấn, rồi sau chót tố cáo ông LÊ VĂN THÁI đã biển thủ món tiền đó đáng lẽ về phần họ được hưởng;

Chiếu chỉ xét ra điều nầy rất vô lý, tiền giúp của Hội nầy cho Hội khác trên thế giới, việc phân phối là do Hội nhận lãnh định đoạt với sự thỏa thuận của các người tặng, chớ không phải do các cá nhân đồng đạo;

Chiếu chỉ các ông DE LUZE, JEFFREY điều ra khai trước tòa là mọi việc đều làm hợp thức, cả đến ông DU MARTHERAY là đại diện Hội Thánh (Conseil Ecumenique des Eglises) phải về nước trước ngày ấn định ra khai tại bản phòng cùng viết thơ để lại quả quyết LÊ VĂN THÁI bị vu cáo;

Chiếu chỉ xét kỹ vụ nầy là vụ tranh giành ảnh hưởng và chức vị trong nhà thờ, lợi dụng chính trị của một nhóm người muốn mượn tay Tòa án để loại trừ những đạo hữu đương tại chức;

Chiếu chỉ chính cơ quan bỏ tiền ra trợ giúp cũng đã đồng ý việc đưa tiền cho ông LÊ VĂN THÁI và về CÁCH SỬ DỤNG 4.000 đô la trên, (xem thư của World Council of Churches ngày 27-6-1956 của ông Uh. Van BEYNA, Secretary Countries Outside Europe, gởi cho Ô. DU LUZE, trong có câu: “let me assure you that we entirely agree with you giving the funds to Mr. LÊ VĂN THÁI, and not only that but we approve the use that is made of the funds”;

Chiếu chỉ như vậy xét không đủ tội chứng và suy định rằng tại Sài Gòn Chợ Lớn, trong vòng năm 1956 vô danh đã sang đoạt của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một số bạc 160.000$00; nghĩ nên miễn tố vô danh về tội sang đoạt nầy;

Bởi các lẽ ấy:

Tuyên cáo

Miễn tố vô danh về tội sang đoạt của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một số bạc 160.000$00 và ra lịnh tồn trử hồ sơ vụ nầy tại phòng Lục sư Tòa Sơ Thẩm sở tại.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 134

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

134

Làm tại Sài Gòn, ngày 30 tháng 10 dl 1956

DỰ THẨM

Ký tên: NGUYỄN HUY ĐẪU

SAO Y BẢN CHÍNH

Sài Gòn, ngày 7 tháng Giêng dl 1957

Chánh Lục sự

Ký tên: không rõ (đóng dấu)

PHÊ Y:

Sài Gòn, ngày 7 tháng Giêng dl 1957

TM. BIÊN LÝ

PHÓ BIỆN LÝ

Ký tên: không rõ (đóng dấu)

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 135

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

135

CHƯƠNG 5: CHIỀU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CỦA GIÁO HỘI TRONG GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP

Thể theo quyết nghị của Đại Hội Đồng thường niên lần thứ 19, bắt đầu từ tháng tám, năm 1942 tôi được chính thức đắc cử giữ chức Hội Trưởng Tổng Liên Hội, thay thế Mục sư Lê Đình Tươi đang lâm trọng bệnh, cần nhiều thời gian nghỉ ngơi. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy run rẩy trước một nhiệm vụ quá to lớn mà Chúa và Hộ i Thánh đã giao phó. Công việc Chúa riêng tại miền Bắc đã đa đoan, bây giờ phải gánh luôn cho cả nước thì thật không thể nào kham nổi. Hơn nữa, vùng lãnh thổ trách nhiệm của Giáo Hội lúc bấy giờ không chỉ có ba miền Trung, Nam, Bắc nhưng bao gồm Ai Lao và Cao Miên nữa, nên tôi và toàn thể anh em trong Ban Trị sự rất lo âu.

Lúc mới nhậm chức vụ nầy, tôi đinh ninh là mình chỉ tạm giữ trong vòng một năm thôi. Sau thời gian đó sẽ có người khác thay thế. Nguyện ước của tôi là muốn dùng hết thì giờ mình có để phát triển công việc Chúa tại Hà Nội và các vùng phụ cận. Trong ba miền thì miền Bắc tương đối gần gũi với tôi hơn vì nơi đây tôi đã đổ rất nhiều mồ hôi và nước mắt. Nhưng Chúa không cho phép tôi toại nguyện, vì thế tôi đã phải đảm nhiệm chức Hội Trưởng liên tục từ tháng 8 năm 1942 đến tháng 8 năm 1960, là mười tám năm tất cả. Trong suốt thời gian dài đăng đẳng ấy, có biết bao biến chuyển xảy ra trong Hội Thánh. Toàn thể con cái Đức Chúa Trời phải chịu chung số phận với vận nước ngữa nghiêng. Có biết bao giai đoạn thăng trầm phong ba bão táp. Tôi chỉ biết nương nhờ ơn và quyền của Chúa và bước đi với Ngài từng phút từng giây. Mặc cho những khó khăn dồn dập, đức tin tôi luôn luôn hướng về Chúa và lòng tôi vẫn như Vua Đa Vít, không ngớt ngợi khen Ngài: “…Miệng tôi hết sức cảm tạ CHÚA, Đức Chúa Trời, ngợi khen Ngài ở giữa đoàn dân, vì NGÀI ĐỨNG BÊN HỮU NGƯỜI THIẾU THỐN” (Thi 109:30-31a). Trong mọi cảnh ngộ, tôi hằng nhắc đi nhắc lại câu: “Ngài đứng bên hữu người thiếu thốn,” để hầu việc Chúa với tất cả tấm lòng, vì tôi thật biết mình “THIẾU THỐN.” Nhưng đồng thời tôi cũng biết chắc Chúa sẽ giúp đỡ tôi, hướng dẫn tôi trong công trường thuộc linh của Ngài.

A. THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN ĐẠO SÂU RỘNG

Trọng tâm mọi hoạt động của tôi sau ngày nhậm chức Hội Trưởng Tổng Liên Hội và cũng là mục tiêu của con cái Chúa sau Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1942 là phải làm thế nào để các chi hội được vững mạnh và việc truyền bá Tin Lành được rộng rãi hơn.

Lúc bấy giờ cuộc phục hưng từ Bắc chí Nam do Tiến sĩ Mục sư Tống Thượng Tiết phát khỏi từ cuối năm 1938 còn đang lan rộng. Nhưng theo kinh nghiệm chung của Hội Thánh thì cơn phục hưng nào cũng có lúc kết thúc, như chúng ta đã có dịp chứng kiến trong lịch sử quốc gia Do Thái, và gần đây hơn cơn phục hưng ở Cao Ly (Đại Hàn) trong thời Tiến sĩ Jonathan Goforh chẳng hạn. Cho nên ước vọng của

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 136

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

136

chúng tôi là phải làm thế nào để Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được như NGƯỜI NỮ ĐỒNG TRINH luôn luôn sẵn sàng chờ đợi Tân lang đến đón (Mat 25:4), nghĩa là chẳng những giữ được sức nóng của cơn phục hưng vừa qua không tàn, mà còn có thể làm cho nó bùng cháy khắp mọi nơi, không riêng ở Việt Nam, mà lan rộng ra các quốc gia láng giềng nữa.

Có thể bảo, tinh thần truyền giáo đã quật khởi mãnh liệt giữa vòng tín đồ trong giai đoạn nầy. Muôn người như một, ai nấy đều nhận thức được tầm quan trọng của việc đem Tin Lành đến cho đồng loại, bởi đó Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1942 đã thỏa thuận và biểu quyết những điểm sau đây:

Khoản 20. “Biểu quyết: Ủy quyền cho Ban Trị sự (Tổng Liên Hội) sẽ hiệp với ba hạt lo chấn chỉnh lại BAN CHỨNG ĐẠO trong Hội Thánh. Xin ông Hội Trưởng tạm quyền chức Tổng Trưởng ban, nhân tiện những lúc đi hành chức, Hội Trưởng hiệp với 3 Chủ nhiệm để lo lập Đại Trưởng ban cho các chi hội v.v... Nếu bất tiện thì tìm cách hợp tác bằng thư từ để các Ban Chứng Đạo trong các chi hội sớm được chấn chỉnh. Cũng gắng tìm các phương tiện giúp cho việc ấy. Trình lại Hội Đồng năm tới quyết định.”

Nội dung quyết nghị trên đây cho chúng ta thấy rằng chẳng những hiện nay mà ngay từ năm 1942, Hội Thánh đã quan tâm đặc biệt đến vấn đề Chứng Đạo. Hội Đồng đã biểu quyết đặc cử ông Hội Trưởng Tổng Liên Hội tạm quyền chức vụ Tổng Trưởng ban Chứng Đạo, như vậy chẳng khác nào biến cả Tổng Liên Hội (tức toàn thể Hội Thánh) thành ban TRUYỀN ĐẠO SÂU RỘNG rồi.

Phong trào đáng khích lệ nầy sở dĩ có được, như trên đã nói, một phần lớn là do công lao phát khởi và duy trì của Mục sư Tiến sĩ Tống Thượng Tiết. Do đó thiết tưởng chúng ta cũng cần đề cập đến vài nét đặc biệt về con người lạ lùng nầy.

Mục sư Tống Thượng Tiết là người Trung Hoa, sanh ngày 27 tháng 9 năm 1901 tại làng Hon Chek, tỉnh Phúc Kiến. Ông lớn lên trong một gia đình thế phiệt với rất nhiều cao vọng. Ngày 10 tháng 2, 1920 ông từ giã quê hương xuống tàu sang Hoa kỳ du học. Trong những năm phiêu bạc xứ người, ông đã chứng kiến nhiều sự việc ly kỳ, nhưng điều ly kỳ nhất đối với ông là ông gặp được Cứu Chúa. Ban đầu ông theo học hóa học, nhưng cuối cùng ông lấy được bằng Tiến sĩ Thần Khoa, ngày 30 tháng 8, 1927. Hơn một tháng sau, tức ngày 4 tháng 10, 1927 ông xuống tàu trở về Thượng Hải. Trong những ngày lênh đênh trên biển cả ông rõ được tiếng Chúa gọi, nên khi tàu gần cặp bến ông xuống phòng mở va-li và lấy những văn bằng cao học, những huy chương đã thâu đạt trong các khóa học cùng chiếc chìa khóa vàng thân hữu đem liệng tất cả xuống biển. Ông chỉ giữ lại ít tiền và cái bằng Tiến sĩ Thần Khoa. Về đến nhà, việc đầu tiên khiến cha mẹ ông ngạc nhiên là cách phục sức của ông. Ông chẳng giống bất cứ một người Trung Hoa nào đi du học ngoại quốc về. Ông chỉ mặc vỏn vẹn chiếc áo dài trắng kiểu Trung Hoa và không có gì thay đổi.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 137

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

137

Trong khi gia đình ông băn khoăn không hiểu tại sao có những biến chuyển lạ lùng như vậy, thì ông yên lặng lấy bằng Tiến sĩ Thần Khoa tặng cho cha mẹ, đoạn trao cho vợ con một ít tiền và nói: “CÒN THÂN HỒN TÔI DÂNG CHO CHÚA ĐỂ PHỤC VỤ NGÀI.” (Song thân ông rất thất vọng vì nguyện ước của họ là mong ông có thể trở thành một giáo sư khoa học để phục vụ cho Trung Hoa).

Bắt đầu từ đấy, Mục sư Tiến sĩ Tống Thượng Tiết chẳng những hầu việc Chúa kết quả rất lớn tại Trung Hoa mà cả ở Việt Nam nữa.

Tiến sĩ Tống Thượng Tiết

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 138

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

138

Ban chứng đạo do TS Tống Thượng Tiết thành lập tại Hội Đồng TLH tại vĩnh Long năm 1936

Mỗi khi ông giảng đều có một bài hát ngắn, được hát đi hát lại nhiều lần trong giờ giảng để làm nổi bậc đại ý bài giảng đồng thời thúc đẩy người nghe. Tôi xin sưu tập một số những bài hát ngắn của ông sau đây:

1. Hãy kíp về, mau mau về

Lạc lối mãi làm chi

Đức Chúa Cha mong anh về nhà

Dang tay tiếp rước anh.

2. Tôi yêu nhà trên trời về nhà Cha

Chừa ham mê thế gian

Tôi yêu nhà trên trời về nhà Cha

Thôi yêu chuộng đời nầy

3. Muôn tội lăn xa ta tràn nước sóng

Đấng Christ đổ huyết cứu ta

Đổi mới tâm tôi bửu huyết Jêsus

Rửa tội tôi được sạch trong

4. Quyết sống cho Christ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 139

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

139

Quyết sống cho Ngài

Vì Ngài đã cứu linh hồn tôi

Quyết sống cho Christ

Quyết sống cho Ngài

Vì Ngài đã cứu linh hồn tôi

5. Mau mau sanh lại nên mới

Mới mới hết bởi ơn Chúa

Quả thật, quả thật này là lời ta nên ghi nhớ

Hãy tái sanh ngay bây giờ.

6. Thập giá Chúa, thập giá Chúa

Vinh hiển tôi muôn muôn đời

Cho đến qua bên kia bờ rồi

Ngày đêm hoan lạc thảnh thơi

Cuối năm 1938, Tiến sĩ Mục sư Tống Thượng Tiết đến Việt Nam. Những bài giảng của ông có năng lực đâm thấu vào lòng người. Những bài hát ngắn trên đây cũng đã được phần nhiều Hội Thánh phổ biến trong các buổi nhóm thờ phượng Chúa, bằng cách viết trên khung vải treo trước tòa giảng, để hội chúng có thể hát đi hát lại nhiều lần

Vấn đề chứng đạo được ông quan tâm đặc biệt. Nên sau mỗi buổi giảng ông đều kêu gọi những người đã thức tỉnh, những người đã ăn năn về lỗi lầm của mình cùng những người có lòng yêu thương linh hồn người hư mất, hãy quy tụ lại để lập thành một ban chứng đạo. Đoạn ông phát cho ban viên mỗi người một lá cờ hình tam giác trắng có thập tự đỏ ở giữa và khuyên mỗi người nên cắm lá cờ đó chỗ xứng đáng nhất trong nhà mình. Ngoài ra, mỗi khi chứng đạo có thể mang lá cờ ấy theo để dạn dĩ tỏ cho người khác biết mình là chứng nhân của Tin Lành.

Sau khi thiết lập được ban chứng đạo tại Hội Đồng Vĩnh Long rồi ông liền chia ra những ban chứng đạo của các Địạ hạt và những ban của các Chi hội song song với những ban trong khu vực. Mỗi nơi đều cử ra một trưởng ban để đôn đốc việc nhóm lại cầu nguyện cùng phân phối các ban viên đến các địa điểm chỉ định để làm chứng và phát sách, đồng thời khuyến khích thêm người gia nhập vào ban.

Điều khoảng 20 trong bản quyết nghị của Đại Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 19 tại Đà Nẵng (từ 15-19 tháng 8 năm 1942) trên đây nhằm mục đích khích lệ các ban chứng đạo sốt sắng phất cao lá cờ thập tự giá mà mình đã lãnh, qua khắp các nẻo đường đất nước. Công việc truyền giảng Tin Lành không những được phát

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 140

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

140

động cho người Việt Nam mà luôn cả những bộ lạc Thượng Du nữa. Bởi đó, ngoài điều thứ 20, còn những khoảng khác như sau:

Khoảng 10. “Biểu quyết thuận y cho các ông Truyền đạo Thượng Du mỗi năm nhân cơ hội thuận tiện nhóm (Hội Truyền giáo thượng du) một lần trước Tổng Liên Hội mấy ngày, để trao đổi ý kiến giúp nhau về công việc truyền giáo được thêm may mắn.”

Khoảng 11. “Biểu quyết xin mỗi Chi hội trong Đông Dương hằng năm để riêng một kỳ đặc biệt trong Hội Đồng thường niên mà cổ vũ cho công cuộc truyền giáo trên các bộ lạc, gọi là ngày Hội Đồng về việc Chúa trên Thượng Du.”

Khoảng 12. “Biểu quyết xin các Mục sư Truyền đạo trong Đông Dương để riêng ít nhất là mỗi ba tháng một lần giảng khuyến khích về truyền giáo giữa các bộ lạc.”

Khoảng 13. “Biểu quyết thuận y xin mỗi chi hội trong Đông Dương lập một ủy ban hoặc một tư hóa lo riêng về tài chánh cho công việc Thượng Du.”

Khoảng 14. “Biểu quyết thuận y xin các Giáo sĩ Hội Truyền giáo trong địa phương cùng Chủ Nhiệm Địa Hạt tìm gặp, thăm viếng, giúp đỡ các anh em truyền giáo Thượng Du nhiều hơn.

Khoảng 15. “Biểu quyết thuận y xin các Ban Trị sự tìm cách giúp đỡ thêm cho các anh em truyền giáo Thượng Du nào là tiền mướn giáo sư dạy tiếng, phụ cấp khu vực, cứu tế bệnh nhân mùa Đông và nuôi học sinh Thượng Du v.v..”

Đọc xong sáu khoảng biểu quyết nầy và khoảng thứ 20 của Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1942, chắc hẳn chúng ta điều thấy tinh thần của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam trong giai đoạn này, chẳng những muốn duy trì cơn phục hưng cuối năm 1938 mà còn ước mong cho các Ban Chứng Đạo thành lập sau đó, được phát triển mạnh mẽ hầu cho lửa Thánh Linh có thể bùng cháy lan tràn khắp Đông Dương, như ý nghĩa của bài hát mà Mục Sư Tống Thượng Tiết sáng tác và ông thường hát trong các buổi giảng:

Tôi xin gió Thánh Linh

Gió Thánh Linh vô lòng

Tôi xin hơi thở từ Đấng Christ cho sống

Tôi xin gió Thánh Linh

Gió Thánh Linh vô lòng

Tôi xin hơi thở từ Đấng Christ vào lòng

Ban Trị sự Tổng Liên Hội ngoài việc để thì giờ cầu nguyện đặc biệt cho công việc truyền giáo tại Thượng Du, còn lo chọn các vị Mục sư và Truyền đạo thích hợp để bổ nhiệm đến các nơi như: Sơn La, Lai Châu, Đồng Mổ, Đồng Khê (Bắc Việt); An

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 141

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

141

Điền, Pleiku, Cheo Reo, Ban Mê Thuột, Di Linh, La Ba v.v… Công cuộc truyền giáo lúc bấy giờ phát triển hết sức mạnh mẽ. Một phần lớn công tác của các Mục sư, Truyền đạo tại các Chi hội đều xoay quanh vấn đề nầy. Mỗi Hội Thánh đều có đóng một cái hộp treo chỗ dễ nhìn thấy nhất trong nhà thờ, trên hộp có đề hai chữ “THƯỢNG DU” để tín đồ muốn dâng tiền đặc biệt cho công cuộc truyền giáo cho đồng bào Thượng có thể bỏ vào đó. Mỗi tháng ông chủ tọa cùng tư hóa Thượng Du mở hộp tiền ấy ra rồi gởi về cho ủy ban truyền giáo Thượng Du để sử dụng vào công việc đặc biệt của Thượng Du. Trong khi đó, cũng có người viết bài đăng báo cổ động, hoặc sáng tác những bài thánh ca khích lệ anh em tín đồ dâng tiền bạc cũng như đời sống cá nhân cho công cuộc truyền giáo. Một trong những bài thánh ca phổ thông nhất là bài của Cố Hội Trưởng Mục Sư Lê Đình Tươi mà tôi đã nhờ bà Mục Sư Phạm Văn Năm chép lại nguyên tác như sau:

1. Kìa người khốn khổ ở nơi non cao

Cùng một huyết tánh giống như ta nay

Khuất lấp bóng tối biết đâu tương lai

Chung với cầm thú sinh nhai

2. Kìa tình cảnh ấy có ai lưu tâm

Đồng lòng quyết chí kiếp lên sơn lâm,

Đốt đuốc thiêng lên soi nơi âm u

Bao quãng đường sá nguy nan.

Điệp Khúc:

Ai lên Thương Du cứu giùm,

Vô số người đang khổ đau

Nửa sống nửa chết cả thân cùng hồn.

Ta nở đành bỏ hay sao?

Cảm ơn Chúa thật đúng như lòng mong ước của toàn thể tín hữu, cơn phục hưng ấy đã được duy trì và lan rộng giữa xứ sở chúng ta từ miền đồng bằng đến các miền hoang vu trên cao nguyên. Ngày nay, có thể bảo Tin Lành đã đi sâu vào lòng dân tộc. Biên cương của đạo Chúa không chỉ quy định cho người Việt Nam mà là chung cho tất cả. Để quý vị độc giả có thể nhận định rõ hơn về những tiến triển của công cuộc truyền giáo cho các bộ lạc Thượng, tôi xin trích một đoạn ngắn trong bài thuyết trình của ông Mục Sư Truyền Giáo Trương Văn Tốt tại Thần học viện vào tháng giêng, 1969:

“Y như Lời Chúa đã phán hứa và thực hiện cho Giô-suê xưa: “phàm nơi nào bàn chân các ngươi đạp đến thì ta ban cho các ngươi” (Gios 1:3), thì Ngài cũng đã thành toàn

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 142

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

142

lời hứa ấy cho những bàn chân xinh đẹp nói trên, khi họ đạp đến những vùng núi cao rừng rậm của cao nguyên Đà Lạt, khiến cho những bàn chân xinh đẹp kia trở thành những bàn chân đắc thắng.

Những bàn chân tiền phong đạp lên vùng cao nguyên Đà Lạt là vào năm 1926, tức đã được bốn mươi năm nay. Trong những năm đầu họ gặp ngăn trở một ít, không được phép đi truyền giáo trong các thôn ấp xa xôi, chỉ làm chứng cho những người Thượng đến Đà Lạt làm xâu buôn bán mà thôi. Chúa đã đưa những người Ngài chọn đến Đà Lạt để tin nhận Ngài, dâng mình cho Ngài và chuẩn bị ra đi làm chứng nhân cho Ngài. Chỉ trong vòng có năm năm mà trường Thánh Kinh Kơho Đà Lạt được thành lập với mười gia quyến học sinh như quý ông Ha Sol, Ha Sao A, Ha Kar, Ha Chu A, Ha Bang A v.v... Để cho họ bước những bước đắc thắng trong chức vụ truyền giáo, Chúa cho họ một trải phấn hưng và nhận được quyền năng của Thánh Linh. Việc nầy xảy ra vào cuối năm 1938, khi trường Thánh Kinh Đà Lạt được điều khiển bởi cụ Giáo sĩ H. A. Jackson và ông Mục Sư Truyền Giáo Nguyễn Văn Tầm. Số học sinh gồm mười gia quyến như đã nói trên. Do chức vụ của Tiến sĩ Tống Thượng Tiết, Chúa có ban phấn hưng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, nhất là về phương diện chứng đạo. Giáo sĩ Jackson và Mục sư Nguyễn Văn Tầm về thuật lại cho học sinh nghe thế nào Chúa đã thăm viếng và phấn hưng Hội Thánh Việt Nam. Mười gia quyến học sinh nói trên rất khao khát được Chúa viếng thăm nên họ để rất nhiều thì giờ cầu nguyện và tìm kiếm Chúa. Sau ba ngày cầu nguyện họ khởi sự ăn năn tội, xưng ra và cứ cầu nguyện xưng tội cho đến ngày thứ năm. Ai nấy khóc lóc đến nỗi sưng cả mắt lên. Qua ngày thứ sau họ đem trả đồ vật không thuộc về mình, họ đã ăn cắp hoặc đã lượm được. Giáo sĩ Jackson đọc Ma 3:10b: “Khá thử ta, CHÚA, Đức Chúa Trời vạn quân phán, xem ta có mở các cửa sổ trên trời cho các ngươi và đổ phước cho các ngươi đến nỗi không chỗ chứa chăng.” Họ cứ tiếp tục cầu nguyện xưng tội hoặc đền bù hoặc trả lại những vật không thuộc về mình. Các học sinh trường Alliance và Hội Thánh Việt Nam Đà Lạt nghe tin Chúa thăm viếng trường Thánh Kinh thì họ cũng đến nhóm chung và một bà Việt Nam cũng xưng tội và trả lại tiền bạc bà đã ăn cắp. Sau khi họ đã xưng hết tội và trả lại tất cả những vật không thuộc về họ rồi thì họ không cầu nguyện khóc lóc nữa, nhưng họ khởi sự hát thánh ca ngợi khen Chúa và ai nấy đều vui mừng cả thể. Một học sinh đứng lên nói: “Chúa ơi, xin đừng ban ơn thêm nữa, đã đủ rồi, chúng con không thể nhận lãnh thêm nữa.” Thật là ơn phước không chỗ chứa. Một Giáo sĩ nói: “Lúc đó cả khu đất của trường Thánh Kinh đã trở nên đất Thánh, ai nấy đều cảm biết có sự hiện diện của Chúa khắp nơi.” Qua ngày sau họ cầu nguyện đuổi quỷ ra khỏi một người Việt Nam trong xóm gần trường Thánh Kinh và đến ngày Chúa nhật sau một buổi nhóm đầy phước hạnh họ xin phép về làng để rao ra ơn Chúa. Chỉ trong vòng một tháng, họ đã đem hơn hai trăm người đến với Chúa và họ khởi sự bước những bước đắc thắng trong việc truyền giáo từ lúc đó, lúc họ đã nhận lãnh được quyền năng của Đức Thánh Linh…

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 143

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

143

B. QÚA TRÌNH TRUYỀN GIÁO CỦA HỘI PHƯỚC ÂM LIÊN HIỆP VÀ HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM

1. Công Cuộc Truyền Giáo Tại Những Vùng Cao Nguyên

Khu vực cuối cùng mà đoàn truyền giáo Phước Âm Liên Hiệp phải tiến vào là các vùng cao nguyên.

Từ nhiều thế kỷ trước, thổ dân tại những vùng nầy đã bị đẩy lên núi, khi người Việt Nam vì muốn xa lánh ảnh hưởng của người Trung Hoa nên tiến lần về phương Nam. Toàn xứ có tất cả tám mươi bộ lạc và mỗi bộ lạc đều có những phong tục tập quán riêng, cho nên từ cách ăn mặc đến ngôn ngữ của họ đều mang những sắc thái rất đặc biệt. Có thể bảo là một trong số những dân tộc, Đức Chúa Jêsus đã phán: “Trước hết Tin Lành phải được rao cho mọi dân.” Nói như thế chắc hẳn có nhiều người không đồng ý vì cho rằng những bộ lạc nầy không đủ lớn để có thể gọi là những dân tộc. Nhưng trong Kh 5:9 Chúa cho chúng ta biết rằng những đoàn thể tụ hợp quanh ngai khi Ngài mở ấn quyển sách sự phán xét sẽ trút xuống đất và sẽ đến “Từ mọi bộ lạc mọi tiếng, mọi dân, mọi nước.” Trong số đồng bào Thượng sống rải rác trên các miền cao nguyên Việt Nam, gồm có nhiều chi phái khác nhau với những đường lối cai trị riêng biệt dựa theo những quy luật của núi rừng. Họ có những ngôn ngữ riêng và những đời sống riêng.

Khi đoàn truyền giáo bắt đầu hoạt động ở Đông Pháp đường đi đến các bộ lạc nầy rất khó khăn, vì họ không thuận phục ai cả. Cuộc sống của họ hoàn toàn tự do và hoang dã. Ánh sáng văn minh chưa đến những vùng nầy, nên dù là con người, nhưng trình độ của họ rất thấp kém, nếu không bảo là rừng rú dã man. Làng mạc được dựng lên tại những nơi rất hiểm trở và thường xê dịch luôn nên người ngoài cuộc khó có thể theo dõi được. Chỉ có những người Thượng chính cống mới biết được nhựng lối đi nhỏ hẹp từ làng nầy sang làng kia nhưng đi như vậy rất nguy hiểm vì rừng đầy dẫy rắn độc và thú dữ, đó là chưa kể trường hợp bị tấn công vì hiểu lầm.

Phương tiện rất hữu hiệu dùng để di chuyển qua rừng lúc trước là voi. Tại nhiều bộ lạc, thổ dân bắt voi rừng về nuôi dạy lâu ngày và chúng trở nên rất thuần thục. Nhưng về sau, người Pháp đã mở cửa xứ Thượng bằng cách cho những nhà trồng tỉa đến lập nghiệp như mở đồn điền trà, cà phê, đồng thời cũng cho phép các nhà săn bắn chuyên nghiệp từ khắp các nơi đến họ bắt đầu thiết lập những đường sá rất tốt cho nên việc đi đến các bộ lạc ở Trung Kỳ, Nam Kỳ, và Cam-bốt tương đối dễ dàng hơn. Lúc bấy giờ họ cũng đang phóng một con đường sang Lào. Nhờ con đường ấy mà các Giáo sĩ ấy có thể đến để tiếp xúc với các bộ lạc cô lập. Nhưng nói như thế không có nghĩa là đã hết khó khăn đâu. Trái lại những nguy hiểm và chướng ngại thiên nhiên vẫn dày đặc khi họ muốn đến với các bộ lạc tại những vùng xa xôi hẻo lánh hơn.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 144

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

144

Lần đầu tiên là cuộc tiếp xúc giữa đoàn truyền giáo với các bộ lạc ở vùng núi đồi phía sau Tourane. Có một vị Mục sư tự cảm thấy được Chúa kêu gọi đến thăm xứ người Thượng. Sau một cuộc hành trình đầy khó khăn, ông đến được một làng nọ. Tại đó ông gặp một người biết nói tiếng Việt Nam nên có thể nhờ làm thông ngôn. Trong lần tiếp xúc đó, ông đã nói cho họ tình yêu của Đức Chúa Trời dự bị cho nhân loại để mọi người có thể trở thành con cái Ngài bởi đức tin nơi Chúa Jêsus. Những người Thượng có mặt hôm ấy lắng nghe rất chăm chỉ, sau buổi giảng, người tù trưởng đứng lên phát biểu ý kiến: “Nếu ông biết rõ Đức Chúa Trời như ông nói, ông có thể xin Ngài ban mưa cho vùng chúng tôi không? Năm vừa rồi hạn hán nên chúng tôi mất mùa lúa núi. Năm nay tới bây giờ vẫn chưa có mưa. Nếu không có mưa sớm chúng tôi sẽ chết đói.”

Đó là một thử thách to lớn mà nhiều tín đồ Cơ Đốc có thể sẽ lưỡng lự trong một hoàn cảnh như vậy. Lúc bấy giờ là ban đêm. Đêm trong rừng như trầm hẳn xuống với một sự tĩnh mịch buốt lạnh. Trước cảnh hùng vĩ của thiên nhiên, niềm tin của con người có thể bị hóa giải vì mặc cảm tự thấy mình quá bé nhỏ. Hoàn cảnh của ông Mục sư này cũng vậy. Nếu cầu nguyện mà không kết quả thì dân chúng sẽ cho rằng ông lừa gạt họ, và như vậy nếu không bị giết thì cũng tức tốc bị đưa đi ra khỏi làng làm mồi cho thú dữ. Đức tin ông đang được trắc nghiệm, để quyết định sự thành bại của Tin Lành. Trong giờ phút cực kỳ nghiêm trọng ấy, ông nhớ lại lời hứa của Chúa và tinh thần ông trở nên phấn khởi vì ông biết chắc rằng Chúa là Đấng thành tín.

Để đáp lại lòng mong mỏi của dân làng, vị Mục sư liền quỳ gối xuống cầu nguyện, xin Chúa tỏ chính mình Ngài ra và làm thỏa mãn nhu cầu của những người nầy bởi vì chính Chúa đã phán: “Nầy, ta hằng ở cùng các ngươi luôn,” nên dù là một làng mạc xa xôi, cũng xin Chúa đoái thương.

Quả đúng như vậy, Chúa không bao giờ thất tín. Ngài đã từng phán: “Các ngươi cầu xin bất cứ đều gì hãy tin sẽ được,” ông Mục sư Thừa đã tin, vâng, vị Mục sư trên đây chính là Mục Sư Hoàng Trọng Thừa và Chúa đã làm trọn. Đêm đó trời mưa to và mưa tiếp tục luôn trong nhiều ngày. Mưa nhiều đến nỗi khi cụ Thừa trở về Đà Nẵng đường xá trở nên lầy lội khó đi. Mặc cho những vất vả gian nan, cụ ôm trọn niềm vui trong lòng. Ba mươi ba người Thượng được chứng kiến quyền năng Chúa đêm ấy bằng lòng tin nhận Jêsus Christ làm Cứu Chúa.

Rồi bẵng đi một thời gian, hai năm sau mới có người trở lại làng cũ. Nhưng khi đến nơi thì cả làng gần như bị tiêu diệt vì bệnh đậu mùa. Trong số những người quay về với Chúa chỉ còn bốn người sống sót và họ vẫn trung thành với Chúa. Những người kia dĩ nhiên là đã đi trước để nhập vào đám đông hội họp chung quanh Ngai khi Chúa mở quyển sách có ấn thứ bảy.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 145

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

145

Vòng truyền giáo thứ hai được thực hiện tại một bộ lạc ở miền Nam. Một Giáo sĩ và một nhân viên Việt rời Sài Gòn để đến thăm một bộ lạc ở vùng Xuân Lộc gần biên giới Việt Miên. Dân chúng ở đó đã tỏ ra ham thích Lời Chúa và cũng có người ăn năn tin nhận, nhưng công việc phải bỏ dở trước khi thu hoạch được những kết quả lâu dài. Nguyên do là những làng trên đây nằm trong nhượng địa của người Pháp để lập đồn điền cao su, người quản lý đồn điền rất ghét công cuộc truyền giáo nên đã ra lệnh cho đoàn phải ra khỏi lãnh thổ ông ta. Các Giáo sĩ khiếu nại với viên thống đốc Nam Kỳ, nhưng được trả lời rằng các nhượng địa nầy là những vùng đất tư, nếu người quản lý không cho phép giảng Tin Lành ở đó, thì chỉ có cách là tránh xa đi. Ở đồn điền nầy cũng như những đồn điền khác, thái độ của các ông chủ đều giống nhau. Họ có quyền kiểm soát sinh hoạt của dân Thượng trong toàn lãnh thổ đã được quy định.

Năm 1929, một chi nhánh truyền giáo được mở giữa vòng người Thổ, ở Lạng Sơn. Đây là thành phố miền Bắc mà trước kia các Giáo sĩ Hoa Nam có dịp đến thăm bằng cách vượt biên giới. Họ có ý định đưa Giáo sĩ vào Việt Nam bằng con đường nầy, nhưng việc không thành. Thành phố Lạng Sơn nằm kế cận biên giới Việt Hoa. Là nơi đồn trấn nên chính quyền Bảo hộ đã cử một trung đoàn lính Pháp đến đóng tại đó để bảo vệ toàn vùng khỏi nạn giặc Tàu. Đó cũng là một trung tâm thương mại của miền Bắc. Dân chúng phần đông là người Việt và người Pháp, nên đây là một địa điểm thuận tiện cho các Giáo sĩ để làm bàn đạp “chiến lược” xâm nhập bộ lạc Thổ, một bộ lạc rất đông dân số tại Đông Dương.

Ban đầu mọi hoạt động đều quanh quẩn giữa vòng người Việt, nhưng ít lâu sau lan rộng đến người Thổ. Những người nầy từ các vùng chung quanh đến buôn bán các sản phẩm thủ công nghệ. Các Giáo sĩ có nhiều dịp tiếp xúc với họ ngoài đường phố hoặc trong nhà thờ. Nhưng vấn đề không chỉ có thế. Mục đích của đoàn truyền giáo là phải làm thế nào đi sâu vào các làng mạc của họ. Nhờ có những cuộc tiếp xúc ngắn ở nhà thờ mà mục đích nầy có thể đạt được. Có nhiều người Thổ được nghe Tin Lành, nên ít lâu sau trở lại mời các Giáo sĩ đến giảng tại làng của họ cách đó hàng chục cây số.

Trong bản phúc trình của một Giáo sĩ ở Lạng Sơn, có kể lại trường hợp sau đây: “Từ lâu, chúng tôi đã cầu nguyện xin Chúa mở đường để giảng Tin Lành tại Đồng Mổ. Một đêm kia sau buổi nhóm tại nhà thờ Lạng Sơn, có một người Thổ muốn tin nhận Chúa Jêsus Christ. Ngày hôm sau, ông ta trở lại Đồng Mổ kể cho vợ con nghe sự vui mừng của mình khi được tha tội. Ít lâu sau, ông trở lại và hỏi chúng tôi có thể đi đến nhà ông để giảng giải cặn kẽ hơn về con đường cứu rỗi không? Chúng tôi sung sướng nhận lời. Khi đến nơi chúng tôi rất ngạc nhiên thấy có độ năm mươi người đã tụ họp, nóng nảy nghe Tin Lành. Họ chăm chỉ nghe trong hơn hai tiếng đồng hồ và cuối cùng buổi nhóm có mười hai người tiếp nhận Chúa. Họ đã mời chúng tôi ở lại hàng tuần và chúng tôi trung tín nói về Chúa cho họ. Người chủ nhà

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 146

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

146

dâng ngôi nhà ấy để làm nhà thờ và đồng thời cũng đẳng gỗ làm ghế dài, ghế dựa cho người đến nhóm được ngồi thoải mái hơn, thay vì phải ngồi bệt dưới đất như thưở trước. Đây là một nhà thờ lý tưởng có thể chứa được chừng một trăm người. Số dự nhóm trung bình là sáu mươi người.”

Đến tháng 10-1932, một chi nhánh truyền giáo khác được mở cửa tại Hòa Bình (Bắc Việt) cho người Mường và các bộ lạc lân cận. Vùng nầy khí hậu rất độc địa. Nhưng tạ ơn Chúa công việc truyền giáo vẫn tiến hành đều đặn và trong năm đầu đã có nhiều người trở lại với Chúa. Mùa hạ năm 1934, khi các Giáo sĩ về nghỉ hạn thì một Truyền đạo sinh Việt Nam, được đề cử đến phụ trách công việc tại đó. Đến năm 1963 các Giáo sĩ trở lại thì chẳng những làng nầy mà các làng phụ cận cũng đều được nghe Tin Lành và có nhiều người trở thành môn đồ Đấng Christ. Nhìn chung, trong mười sáu làng chung quanh địa điểm truyền giáo đều có gia đình tín đồ.

Mục tiêu kế tiếp đó là Đà Lạt, một nơi nghỉ mát nổi tiếng thuộc Cao Nguyên Lang-bi-an, nằm trên cao độ một ngàn năm trăm thước so với mặt biển, đây là một thành phố văn minh, có đường tráng nhựa, điện nước và các tiện nghi tân thời. Có thể bảo đây là một kiệt tác của những kỹ sư người Pháp. Những con đường đi từ Đà Lạt vào Nam hoặc ra Trung đều rất rộng rãi, đẹp đẽ bên cạnh những khung cảnh thiên nhiên hết sức thơ mộng ít khi thấy được ở những nơi khác. Những loại tre, dừa và những thứ cây nhiệt đới um tùm của vùng rừng đồng bằng lần lần biến đổi dọc theo con đường quanh co tiến lên cao nguyên. Diện tích vùng nầy rất rộng lớn với những loại thảo mộc đặc biệt như cây thông, cây ngô và cỏ cao rất thích hợp với các loại thú lớn. Ngay trên cao nguyên và một vài vùng thấp hơn là nơi ở của nhiều bộ lạc chưa hề nghe danh Chúa Jêsus. Họ là những người có một thân hình rất đẹp, rắn chắc, thích hợp với đời sống hoang dã. Tánh tình họ rất ngang ngược không chịu khuất phục bất cứ một luật lệ nào từ đâu đến. Quanh năm họ sống bằng nghề săn thú rừng.

Trong khi lên xuống Đà Lạt để xúc tiến chương trình xây cất trường học, các Giáo sĩ tự cảm thấy có trách nhiệm đối với nhu cầu tâm linh của những người Thượng mà họ có dịp gặp gỡ hằng ngày. Trong số đó có một Giáo sĩ thấy rõ ơn kêu gọi đặc biệt phải đến với những người nầy để đem ánh sáng của Lời Sự Sống cho họ. Mặc dầu đang hoạt động có kết quả tại miền Nam, nhưng ông tin rằng Đức Chúa Trời sắp dẫn ông vào một chức vụ mới. Sau đó, con ông bị đau gan, khiến ông phải lìa vùng đồng bằng nóng bức để đến một vùng khí hậu mát mẻ hơn. Đối với ông, đây cũng là một dấu hiệu Chúa chỉ hướng về Đà Lạt. Nên năm 1930 ông xin Hội Truyền giáo thuyên chuyển ông đến vùng mới nầy. Ban đầu Hội Đồng rất lưỡng lự vì chức vụ của ông giữa vòng người Việt rất có kết quả, nhưng sự hướng dẫn của Chúa rõ rệt quá, nên cuối cùng ông được bổ nhiệm đến đó. Như vậy, từ giờ phút ấy, Đà Lạt là trụ sở chính thứ hai được mở cho người Thượng ở Đông

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 147

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

147

Dương nhưng cũng có thể gọi là trụ sở Truyền giáo thứ nhất cho người miền núi vì người Thổ ở Lạng Sơn tương đối văn minh.

Chúa sớm đóng ấn cho công việc mới nầy bằng cách đem về cùng Ngài một thanh niên để dự bị làm nhà truyền đạo đầu tiên cho người Thượng Du. Vâng, chỉ có Chúa mới có thể tìm được giữa vòng người man rợ trần trụi sống cuộc đời hoang dã trong chốn rừng núi - một người biết được năm thứ tiếng. Một trong những thứ tiếng mà chàng thanh niên Thượng Du nầy biết được là tiếng Việt. Nhờ đó Tin Lành đến với chàng. Sau đó chàng trở nên một viên thông ngôn và là thầy dạy tiếng Việt cho các Giáo sĩ. Kế tiếp một trường Thánh Kinh được thành lập và và chàng trở thành một học viên đầu tiên. Thế là chưa đầy bốn năm sau ngày lìa bỏ rừng rậm, chàng thanh niên yêu quý nầy là Ha Sol có thể tự đứng lên để giảng Tin Lành cho đồng bào mình.

Chính cuộc sống đổi mới và lời làm chứng hùng hồn của ông ta đã đem nhiều người Thượng đến quy đạo, trong đó có cha mẹ ông. Đây là một điều lạ, vì kinh ngiệm cho biết rằng đối với những người Thượng trẻ tuổi việc theo dõi và tin nhận đạo còn đôi chút hy vọng, chứ những người già cả thì là một việc khó có thể thực hiện được vì gần hết quãng đời của họ dành cho rừng rú, nên tâm hồn trở nên chai đá lì lợm không còn cảm xúc gì nữa. Ông cụ già lắm, có lẽ đã hơn sáu mươi tuổi bằng lòng nhận Jêsus làm cứu Chúa. Không ai có thể biết được tuổi thật của người Thượng là bao nhiêu, vì họ không biết cách tính tuổi, nhưng có điều chắc chắn là đời sống họ đã thực sự thay đổi và tâm hồn tràn ngập niềm vui.

Chẳng bao lâu tại đó có một Hội Thánh với hơn hai mươi tín đồ Thượng. Sự tương phản rõ rệt giũa hai lối sống của họ với những người Thượng lân cận khác, chứng tỏ rằng vai trò của nhà truyền giáo chẳng những đem cho nhân loại chân lý của sự cứu rỗi mà còn có nhiệm vụ khai hóa dân trí. Người quy đạo đầu tiên xử lý chức vụ Mục sư tại Hội Thánh nhỏ nầy. Trong đó cũng có những trưởng lão và chấp sự. Trong số người nầy có một người đàn ông thân hình vạm vỡ đẹp đẽ và uy nghi như một cây kè, tên ông ta là Krai. Lần đầu tiên đến trụ sở Truyền giáo, ông ta chỉ đóng một chiếc khố và đầu búi tóc ngược có dắt một ống điếu bằng thân cây bắp. Vỏn vẹn chỉ có thế thôi, nhưng trông ông có vẻ uy vệ lắm. Công việc của ông ta lúc bấy giờ là đánh xe bò đi lấy nước cho trường. Trong một thời gian khá lâu, ông Krai chẳng để ý gì đến Tin Lành, nhưng theo nội quy của nhà trường, tất cả những người làm việc trong khuôn viên Hội Truyền giáo đều phải dự các buổi nhóm mỗi ngày hai lần. Do đó họ có dịp nghe nhiều lần sứ điệp của Chúa. Quả thật, lời Ngài ban ra chẳng trở về luống nhưng, Chúa luôn luôn làm trọn điều Ngài ưa thích. Tâm hồn ông Krai ngày càng được dầm thấm bởi ân sủng và tình thương nên ít lâu sau ông bằng lòng quỳ gối ăn năn tiếp nhận Chúa. Phong thái của ông vẫn chửng chạc uy nghi, nhưng trên khuôn mặt lạnh lùng trước kia, nay đã phản chiếu được niềm vui

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 148

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

148

tươi và hy vọng. Chỉ trừ vẻ kiêu hãnh không thể xóa bỏ được, vì đó chính là một đặc tính của những người miền núi.

Công việc truyền giáo Thượng Du ngày càng phát triển mạnh mẽ. Một học viên trường Thánh Kinh Việt Nam cảm thấy được Chúa kêu gọi đem Tin Lành đến cho những bộ lạc thiểu số, nên năm 1935 ông đến Đà Lạt để hợp tác làm việc với một Giáo sĩ. Và hai người này nhờ sự cộng tác của ông Ha Sol truyền đạo Thượng hợp chung nhau đặt chữ cho một thứ tiếng Thượng và phiên dịch sách Tin Lành Mác ra thứ tiếng đó. Nhờ vậy, Lời Chúa được phổ biến nhanh chóng. Lần lượt hết tù trưởng nầy đến tù trưởng khác đến với Giáo sĩ yêu cầu giảng Tin Lành cho đồng bào họ.

Trong khi đó thì vấn đề phép tắc hoạt động tại các bộ lạc Thượng vẫn dằng dai chưa ngã ngũ. Viên toàn quyền pháp miễn cưỡng đồng ý trên nguyên tắc nhưng buộc mỗi chương trình hoạt động đều phải được sự chấp thuận của chính quyền địa phương. Đó là một điều khó cho Giáo sĩ, vì chính quyền có thể đưa ra lý do nầy hoặc lẽ khác không cho phép hoạt động.

Tại Đà Lạt lúc đầu các Giáo sĩ cũng chỉ được phép giảng trong thành phố. Về sau được nới rộng cho đi thăm vài buôn Thượng, nhưng không được phép mở chi nhánh.

Lúc đó có một số người tin Chúa cư ngụ chung quanh đồn lính Pháp ở Djiring. Các Giáo sĩ xin phép mở một nhà thờ tại đó, nhưng viên chức địa phương nhất quyết từ chối. Các Giáo sĩ thử đến xin nhiều lần, nhưng lần nào kết quả cũng như nhau.

Tuy nhiên, Chúa có đủ cách để phát triển công việc nhà Ngài, nên dù kẻ thù có quỷ quyệt cách mấy cũng không thể nào ngăn cản được. Một lần nọ, vì có một cuộc họp được triệu tập ở Đà Lạt, nên ông Hội Trưởng Giáo sĩ cùng với gia đình lái xe từ Sài Gòn lên. Khi đi hơn một trăm rưỡi cây số đường núi rừng, họ phải dừng lại để mua xăng tại một trạm xăng trước khách sạn của người Pháp ở Djiring. Nơi đây là địa điểm duy nhất có đầy đủ tiện nghi trong khoảng đường bảy cây số. Khi xăng nhớt đầy đủ, vị Giáo sĩ định tiếp tục hành trình, nhưng máy không nổ. Sau khi xem xét cẩn thận, mới hay một bộ phận quan trọng trong máy đã bị gãy mặc dù suốt đoạn đường rừng núi vắng vẻ nó vẫn chạy rất tốt. Không có cách nào để sữa chữa ngoài việc phải thay cái mới, nên ông phải đánh điện tín cho người bạn đem xe xuống đón.

Trong lúc chờ đợi, họ ăn bữa tối tại khách sạn Pháp. Lúc họ mới vừa ngồi vào bàn thì có một người Pháp bước vào. Vài phút sau họ được biết đó là ông chủ một xưởng sửa xe duy nhất ở Đông Pháp có thể thay được bộ phận hư trong xe. Ông ta hứa sẽ gởi lên ngay. Quả thật là một dự trù kỳ diệu trong lúc cấp bách. Nó xảy ra đúng chỗ, đúng lúc mà Chúa đã sắm sẵn cho con cái tôi tớ Ngài một lối thoát lạ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 149

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

149

lùng. Tuy nhiên, câu chuyện chưa kết thúc. Hôm ấy là ngày thứ sáu mà bộ phận ráp vào xe sẽ được gởi lên Djiring vào ngày thứ hai theo lời người kia đã hứa. Nhưng, khi vị Giáo sĩ bị hư xe và người bạn từ Đà Lạt xuống, thì mới hay chiếc xe chở đồ phụ tùng bị hỏng máy dọc đường, đợi đến ngày hôm sau mới tới. Như vậy hai người phải chờ ít nhất hai mươi bốn tiếng đồng hồ nữa trong khách sạn nhỏ ở miền núi, số chi phí phải trả quá nhiều so với túi tiền của họ.

Nên sau khi bàn định, vị Giáo sĩ ở Đà Lạt đề nghị lợi dụng thì giờ đó đến thăm một chủ đồn điền cà phê người Pháp ở cách đó mười cây số. Khi đến, họ thấy ông đang cầu nguyện. Sự kiện rất bất ngờ đối với các Giáo sĩ, vì các chủ đồn điền không phải là hạng người cầu nguyện. Khi biết được khách đến thăm mình có sứ mệnh đặc biệt, chủ đồn điền nầy dâng lời tạ ơn Chúa vì Ngài đã nhậm lời cầu nguyện của ông. Các Giáo sĩ lúc ấy hay ông chủ đồn điền đã cầu nguyện xin Chúa mở đường để trên sáu trăm người Thượng làm công trong sở của ông có thể nghe Tin Lành. Ông cũng cho hay là có bốn làng người Thượng nằm trên khu đất tư của ông, vì vậy, chính quyền có cấm đoán cũng không được.

Hai Giáo sĩ hết sức mừng rỡ. Họ sắp đặt cứ hai tuần lễ thì có một Truyền đạo Thượng từ Đà Lạt đến thăm đồn điền. Ông chủ đồn điền lo tất cả phí tổn, đồng thời cho công nhân nghỉ việc ngày Chúa nhật để nhóm khi có ông Truyền đạo đến giảng. Như vậy Tin Lành vẫn được giảng ở Djiring mặc dù chính quyền từ chối. Đó là cách Chúa mở cánh cửa đã bị đóng và giá duy nhất phải trả là số tiền khách sạn khoảng mười Mỹ kim và thay một bộ phận bị hư trong xe của Giáo sĩ. Vài năm sau, lệnh cấm của chính phủ được bãi bỏ, một ngôi nhà thờ khiêm tốn liền được dựng lên ở Djiring.

Song song với đà tiến triển ấy, hội đồng Trung hạt năm 1929 phái ông bà Truyền giáo Ngô Văn Lái đến bộ lạc Katu ở phía Tây Bắc kinh thành Huế. Viên khâm sứ đồng ý cho bổ nhiệm, nhưng nói rằng họ chưa được phép giảng đạo ít nhất là một năm. Ông ta đề nghị họ đến một địa điểm nào đó để học tiếng, cho đến khi nào quen biết nhiều với dân chúng, lúc ấy có lẽ sẽ được phép thường xuyên. Trước tình thế như vậy, việc đài thọ phí khoản để mở một trụ sở truyền giáo thật không có lợi ích gì. Tuy nhiên, vì cảm thấy Chúa dẫn dắt nên ông bà nầy cứ đi đến nơi và ngụ tại Khe Sanh mấy ngày trước ngày lễ của chính phủ Pháp. Viên chức địa phương người Việt dự định tổ chức một lễ long trọng, mướn gánh hát bội và mời tất cả người Katu đến dự.

Nhưng đến ngày lễ, gánh hát bội không đến. Trong khi đó đồng bào Thượng họp về rất đông. Viên chức ở đây lính quýnh chẳng biết làm cách nào giúp vui cho họ. Biết tìm ai thay thế? Cuối cùng ông đến mời vị truyền đạo của chúng ta. Qua trung gian của một người thông ngôn, ông Lái đã giảng kiên tiếp trong ba ngày. Ba ngày ấy Tin Lành được rao truyền cho dân Katu dưới sự bảo trợ của chính quyền

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 150

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

150

địa phương. Đó chính là một trong những cách Chúa dùng để giới thiệu sứ giả của Ngài.

Kết quả trong ngày đầu, nhà của vị truyền giáo Việt Nam đã đầy những người hỏi đạo và trong sáu tháng đã có một số người trong bộ lạc được Chúa biến cải. Một Hội Thánh nhỏ được thành lập mặc dù vị truyền đạo chưa được phép tổ chức nhóm họp thường xuyên. Trong khi đó thì các Giáo sĩ cũng tích cực hoạt động không kém. Họ đã nhiều lần đến thăm một bộ lạc khác tại vùng nầy. Tuy nhiên,vẫn còn nhiều bộ lạc trong khu vực Huế và xa hơn về phía tây, vẫn chưa được nghe về danh Chúa Jêsus.

Các Giáo sĩ tại Kratie (Cam-bốt) thì lo cho người Mnông. Bộ lạc Mnông sống giữa biên thùy Việt Miên và chuyên nghề săn bắn. Có một Giáo sĩ đã chiếm được cảm tình của họ. Với cây súng, ông bắn được nhiều thú rừng hơn người Mnông chỉ dùng cung tên. Khi săn được nhiều thịt ông liền đem tất cả cho Thổ dân, nhờ đó ông được phép đi vào làng của họ. Bằng cách ấy ông có dịp nói về tình yêu thương của Cứu Chúa và nhiều người đến nghe ông cách thích thú. Vì những làng nầy ở xa Kratie, nên năm 1933 ông và gia đình được thúc giục trở về Ban Mê Thuột tại đây có thể bảo là trung tâm của bộ lạc Mnông. Tuy nhiên, Ban Mê Thuột cũng là giang sơn của những bộ lạc khác nữa. Viên Khâm sứ Pháp sẵn lòng cho mở trụ sở truyền giáo tại đây và lúc đầu viên chức địa phương cũng tỏ vẻ sốt sắng. Nhưng viên chức nầy bị đổi đi trước khi vị Giáo sĩ đưa gia đình đến Ban Mê Thuột. Người kế nhiệm không có thái độ thân thiện với Tin Lành nên ra chỉ thị cấm giảng đạo. Ngoài ra, việc tìm nhà ở cho các Giáo sĩ cũng bị làm khó dễ đủ cách. Cuối cùng họ phải cất một nhà tranh để ở cho đến khi về nghỉ hạn. Trong thời gian nầy, Giáo sĩ không làm được gì khác hơn là tiếp tục học tiếng và phiên dịch ra Thổ ngữ một vài phần sách Tin Lành.

Đầu năm 1936, khi các Giáo sĩ trở qua thì tình thế đã đổi khác. Chúa đã làm việc cho họ trong thời gian họ vắng mặt. Một tín đồ Pháp xây một ngôi nhà theo kiểu tây phương rồi dành cho họ một căn. Lệnh cấm giảng đạo cũng được bãi bỏ. Con đường trước mắt họ ngày càng mở rộng, họ sẵn sàng phóng những đợt tấn công mới vào những lực lượng của ma quỷ. Trên cao nguyên ĐăkLăk còn nhiều bộ lạc, họ tha thiết cầu xin Đức Chúa Trời cho Tin Lành sớm được rao truyền tại những bộ lạc ấy. Không phải chỉ cho thiểu số nầy mà thôi, nhưng cho cả dân tộc trong toàn cõi Đông Pháp. Đó là một sứ mệnh quan trọng, không kém phần khó khăn nhưng họ tin rằng luôn luôn kề cận bên họ có Đức Chúa Trời là Đấng hằng sống.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 151

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

151

Đoàn Truyền giáo hội kiến với Tổng Thống Ngô Đình Diệm và thảo luận công việc truyền giáo ở Cao Nguyên đang bị trở ngại trong năm 1956

Quả đúng như vậy, Đức Chúa Trời toàn năng đã ở cùng đoàn tuyền giáo tại các bộ lạc. Điển hình cho những thành quả tốt đẹp tại những vùng Cao Nguyên, bản phúc trình năm 1968 của Thượng hạt được chép lại sau đây:

HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM

ĐỊA HẠT THƯỢNG DU

KHAI TRÌNH

Công việc Chúa năm 1967-1968

I. Số Hội Thánh:

1. Hội chánh

2. Hội nhánh

109

35

Cộng: 144

II. Số người hầu việc Chúa

1. Mục sư

2. Truyền đạo

3. Truyền đạo sinh

19

42

44

Cộng: 105

III. Sản nghiệp:

1. Nhà thờ tôn ván

2. Tư thất tôn ván

92

62

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 152

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

152

3. 92 nhà thờ trị giá

4. 62 tư thất trị giá

5. Khí mệnh nhà thờ

6. Khí mệnh tư thất

10.498.878 đ

1.835.444 đ

1.576.742 đ

265.700 đ

Cộng: 14.176.764 đ

IV. Số tín đồ:

1. Cuối năm 1966 có

2. Năm 1967 đến 1968 dứt phép

3. Năm 1967 đến 1968 qua đời

4. Cuối năm 1968 có

5. Số thêm lên trong 2 năm 1967 đến 1968

(Số thêm nầy gồm có số người mới tin, số trẻ con mới sinh

Và số tín đồ khai sót trong mấy năm trước)

19.518 người

3 người

366 người

29.901 người

10.842 người

V. Số tín đồ đã chịu báp-tem:

1. Cuối năm 1966 có

2. Trong năm 1967-1968 qua đời

3. Cuối năm 1968 có

4. Số thêm lên trong năm

5.579 người

256 người

9.156 người

1967-1968 3.833 người

VI. Trường Chúa nhật:

1. Số lớp

2. Số học viên

3.Số thường nhóm

119 lớp

3.182 người

3.025 người

VII. Ban chứng đạo:

1. Số ban

2. Số ban viên

3. Số lần đến

4. Số người nghe

330 ban

98 làng

10.808 người

1.000 cuốn

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 153

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

153

5. Số sách phát

VIII. Ban thanh niên:

1. Số ban

2. Số ban viên

3. Số thường nhóm

64 ban

3.797 người

2.046 người

IX. Các khoảng khác:

1. Phép giao (hôn phối)

2. Số dâng con

3. Hội đồng Bồi Linh

4. Học sinh Trung Tiểu học

5. Học sinh Trường Thánh Kinh Đà Lạt Và Ban-mê-thuột

59

704

24

924

124

X. Tiền Dâng:

1. Tổng số thu

2. Tổng số xuất

3. Còn lại

3.110.904 đ

3.102.168 đ

8.736 đ

Nay khai trình

Đà Lạt, ngày 27 tháng 1 năm 1969

Chủ nhiệm

(ấn ký)

Mục sư Y HĂM

2. Truyền Gáo Cho Người Cam-Bốt

Tại Cam-bốt, Phật giáo được chọn làm quốc giáo và Quốc Vương là nhà sư Thượng Phẩm. Khi đặt nền bảo hộ tại Cam-bốt nhà cầm quyền Pháp vẫn duy trì tình trạng nầy. Cho nên tuy có rất nhiều hội Truyền Giáo cố gắng xin phép đặt căn cứ trên lãnh thổ Cam-bốt, nhưng tất cả đều bị nhà Vua từ chối không chấp nhận.

Lúc bấy giờ có một Giáo sĩ cảm biết, được kêu gọi đi Cam-bốt để rao truyền Tin Lành, nên đã trình bày nguyện vọng với Hội Truyền giáo. Năm 1922, ông được hội đồng Giáo sĩ Phước Âm Liên Hiệp chấp nhận cho sang Nam Vang để tìm cách thiết lập căn cứ. Một Giáo sĩ khác cũng đi với ông đến viên Khâm sứ để xin cấp chiếu khán. Viên Khâm sứ tỏ vẻ không thích chút nào cả, ông ta cố làm nản lòng hai Giáo

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 154

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

154

sĩ, nhưng không hiểu sao, cuối cùng ông lại bảo, nếu các Giáo sĩ khăng khăng đòi đến Nam Vang thì ông không thể ngăn trở. Đây quả thật là một việc lạ vì các viên Khâm sứ trước kia đã nhiều lần bác bỏ lời yêu cầu của Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp và các Hội Truyền giáo khác.

Thế là khoảng tháng 2, 1923, ông bà Giáo sĩ Daniel Ellison dọn đến Nam Vang và mở căn cứ phổ biến Tin Lành đầu tiên tại Vương Quốc Cam-bốt. Tiếp đến tháng 10 năm ấy, ông bà Giáo sĩ A.L. Hammond được phái đến Battambang, cách thủ đô Nam Vang một trăm tám mươi dặm về phía Bắc, để mở căn cứ Truyền giáo thứ hai. Hai nhà Truyền giáo nầy không bị các nhà cầm quyền làm khó dễ chi cả.

Tại Campuchia một chi hội đã được thành lập ở Kompongcham năm 1950

Mãi nhiều năm sau, các Giáo sĩ mới biết vì sao Chúa mở cửa giảng Tin Lành cho họ một cách dễ dàng như thế tại một quốc gia có thể bảo là “thành trì của Phật giáo” như vậy. Số là một thời gian trước khi hai Giáo sĩ Hội Phước Âm Liên Hiệp trên đây đến đặt căn cứ tại Nam Vang, có một nhân viên Thánh Kinh Hội Mỹ Quốc tại Bangkok (Thái Lan) đến xin nhà cầm quyền Cam-bốt cho phép hoạt động tại xứ nầy. Nhưng ông đã bị từ chối quyết liệt. Không biết làm cách nào khác hơn nên ông đã gởi đăng trong bản thông tin của Thánh Kinh Hội lời kêu gọi Hội Thánh Đức Chúa Trời trên toàn thế giới hãy cầu nguyện xin Chúa sớm mở cửa giảng đạo tại Cam-bốt. Liền sau đó có một con cái Chúa đang đau nằm liệt trong phòng tại miền Nam tiểu bang California tình nguyện đáp ứng lời kêu gọi ấy và ông đã chuyên tâm cầu nguyện cho đến khi Chúa nhậm lời.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 155

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

155

Sau khi ông về với Chúa, vợ ông có dịp gặp một Giáo sĩ Hội Phước Âm Liên Hiệp. Họ có dịp nhắc lại câu chuyện ấy và đem so sánh ngày tháng với nhau thì thấy rằng “ngày người chiến sĩ cầu nguyện cảm thấy gánh nặng về Cam-bốt được cất khỏi lòng mình” chính là ngày mà Giáo sĩ Hội Phước Âm Liên Hiệp được phép đặt chân lên lãnh thổ quốc gia ấy.

Khi đã học vừa đủ tiếng Cam-bốt, các Giáo sĩ liền bắt tay vào việc phiên dịch Thánh Kinh. Công tác nầy được thực hiện song song với việc tổ chức giảng Tin Lành cho khối dân cư đông đúc tại thủ đô. Hai giảng đường lần lượt được thiết lập, một cho người Cam-bốt và một cho người Việt. Tổng Liên Hội cử một truyền đạo Việt đến hợp tác với các Giáo sĩ trong kế hoạch rao truyền Tin Lành. Lúc bấy giờ cũng có một tín đồ Cam-bốt ở biên giới Việt Miên, trong phạm vi lãnh thổ Châu Đốc. Tuy mới tin Chúa nhưng hoạt động rất sốt sắng, ông ta giúp đỡ các Giáo sĩ rất đắc lực. Nhờ đó, nhiều người Miên có dịp nghe Tin Lành và tiếp nhận Jêsus Christ làm Cứu Chúa.

Mặc dù viên Khâm sứ đã quả quyết rằng các Giáo sĩ đừng hòng thu hoạch được kết quả trong vòng người Cam-bốt, nhưng thật sự trái hẳn, chẳng những có nhiều người tin Chúa tại Nam Vang mà các đô thị, làng mạc cũng được nghe Tin Lành do sự sốt sắng của một số đông tín hữu người bản xứ. Nhiều nhà thờ được mọc lên tại thủ đô và các vùng lân cận. Ngay tỉnh Kampot, một tỉnh lẽ ở miền cực Nam vương quốc cũng có nhiều người tin Chúa và chẳng bao lâu trở thành trụ sở chính yếu của đoàn truyền giáo.

Khoảng tháng 2, 1927 có hai vợ chồng người Miên, là H. Hênh đến Đà Nẵng học Thánh Kinh với nguyện ước có thể trở về giảng Tin Lành tại Nam Vang. Sau đó vì nhu cầu cán bộ, năm 1931 các Giáo sĩ bắt đầu mở trường Thánh Kinh tại thủ đô nầy. Mấy năm sau đó, cung cấp mười gia đình Mục sư Truyền đạo người Miên. Thể theo những điều kiện địa lý lúc bấy giờ, quốc gia Cam-bốt được xem như là một Hạt của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Hạt Cam-bốt cũng có chủ nhiệm và văn phòng. Ban Trị sự được đặt tại Nam Vang.

Trong khi công việc đang tiến hành tốt đẹp thì vào năm 1945, quân đội Nhật tràn đến rồi chiến tranh khốc liệt xảy ra. Các Giáo sĩ phải rời khỏi xứ mình đang phục vụ và công việc Chúa vì thế bị ngăn trở. Phần đông các nhà truyền đạo rút lui. Chỉ còn một gia đình Giáo sĩ, một gia đình Truyền đạo người Miên và một gia đình Mục sư người Trung Hoa.

Về phần Hội Thánh của Việt kiều trên đất Miên từ năm 1927 đã có truyền đạo người Việt đến giảng tại Nam Vang, sau đó hai chi nhánh khác được mở tại Battambang và Takeo. Đến năm 1950, Hội Thánh tại Battambang đã có khá đông tín đồ và bắt đầu lo tự trị tự lập.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 156

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

156

Khi các Giáo sĩ rút khỏi Cam-bốt thì anh em tín đồ tại Nam Vang hiệp nhau kẻ công người của để duy trì công việc Chúa. Đức tin con cái Chúa nhờ đó được nâng đỡ nhiều trong hoàn cảnh hết sức khó khăn. Bởi lòng sốt sắng lo cho Hội Thánh dù thiếu thốn, anh em vẫn thắt lưng buộc bụng quyên góp tiền bạc để thuê nhà giảng và cung cấp cho truyền đạo. Công khó của anh em được Chúa ban phước nhiều, còn Hội Thánh lớn lên rất nhanh chóng. Số tín đồ ngày càng đông nên Ban Trị sự Hội Thánh đã đứng ra xin chính phủ Cam-bốt cho phép mua đất xây cất nhà thờ. Chúa đã giúp đỡ chương trình ấy được hoàn thành tốt đẹp. Đây là nhà thờ duy nhất thuộc Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tọa lạc trên đất Miên. Hiện nay Hội Thánh Nam Vang đã được tự trị tự lập và đang trên đường phát triển.

3. Truyền Giáo Cho Người Ai Lao

Trong các xứ thuộc Pháp tại Đông Dương chỉ có vương quốc Lào là có Giáo sĩ Tin Lành đến hoạt động trước khi Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp đặt chân đến.

Hội “Anh em Thụy Sĩ” đã lập ba căn cứ truyền giáo tại miền hạ Lào. Trong lúc ấy Giáo sĩ Hội Trưởng lão ở Thái Lan cũng sang thăm viếng và truyền giáo tại “Vương quốc Luang Brabang.” Đã có mấy trăm người Kha (một sắc tộc ở Lào) tin nhận Chúa. Tuy nhiên còn rất nhiều vùng rộng lớn và nhiều bộ lạc chưa hề nghe Tin Lành.

Năm 1929, ông bà Giáo sĩ G. E. Roffe đến Luang Brabang để học tiếng và làm chứng về Chúa đến năm 1932 đã có một số Việt kiều tại Ai Lao tiếp nhận Chúa. Vợ của người lãnh đạo nhóm tín hữu nầy là người Lào. Bà nầy tin nhận Chúa rồi sau đó dẫn người em gái đến với Ngài. Đây là hai người Lào tin nhận Chúa trước tiên kể từ khi Hội Phước Âm Liên Hiệp đến Ai Lao.

Năm 1933, một Truyền đạo người Lào (thuộc hội truyền giáo anh em Thụy Sĩ) cùng vợ từ Savannakhet đến Luang Brabang để giúp đỡ các Giáo sĩ trong công cuộc truyền giáo. Các tôi tớ Chúa bắt đầu mở một phòng nhóm và tổ chức các buổi giảng Tin Lành, nên có thêm nhiều tín hữu mới. Một “trường Thánh Kinh” được mở riêng cho một thầy cô Ttruyền đạo Lào. Đến mùa thu năm 1934, khi các Giáo sĩ phải trở về nước nghỉ hạn, thì thầy cô ấy đã tiếp tục xúc tiến công việc Chúa cách tốt đẹp.

Trong thời gian nầy Chúa đã dùng một người Lào là ông Saly Kounthapanya cách đặc biệt. Ngay sau khi trở lại với Chúa, ông bắt đầu làm chứng về lòng yêu thương của Ngài với gia đình ông. Chính ông đã thể hiện được quyền năng đổi mới của Chúa. Bằng chứng mạnh nhất là cách ăn nết ở giữa vòng đồng bào ông. Họ nhận thấy ông thật đổi mới, nên có nhiều người đến tin nhận Chúa. Ông nầy về sau trở thành một vị Mục sư đầy ơn. Sau đây là những cảm nghĩ của ông đối với công việc Chúa tại Lào từ lúc mới bắt đầu cho đến những năm cận đại:

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 157

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

157

“Khi suy nghĩ về sự bành trướng của đạo mà các Giáo sĩ đã đem đến và truyền bá, thì tôi nhớ lại, ban đầu các Giáo sĩ cư trú tại Luang Brabang và Vạn Tượng. Năm 1931, khi các Giáo sĩ mới bắt đầu nói được tiếng Lào, họ yêu cầu Giáo hội anh em ở hạ Lào cộng tác với họ bằng cách phái một số anh em đến giúp đỡ mở mang công việc truyền bá Tin Lành. Giáo hội ở miền Nam liền phái hai Truyền đạo lên Luang Brabang để phụ giúp trong ba tháng. Đó là hai thầy Nai Sita và Nai Saly. Trên đường đến Luang Brabang họ ghé lại Vạn Tượng và ở lại với các Giáo sĩ tại đó. Họ nhận thấy chỉ có một số ít người mới tin Chúa mà các Giáo sĩ thì chưa nói được tiếng Lào. Những tín đồ hầu hết là người giúp việc trong nhà các Giáo sĩ. Những buổi nhóm chỉ có cầu nguyện và hát. Hai gia đình đó là gia đình của Nai Si và Chan None.

“Tại Luang Brabang, có một tín đồ tên là Chao Souvana Phalom. Người nầy đã tin Chúa ngay từ ban đầu lúc các Giáo sĩ ở Mương Nan đi qua khu vực ấy để giảng Tin Lành. Dường như lúc ấy hai nơi có tín đồ; có vài ba làng ở vùng Mương Sai và một làng ở khu vực Sayaboury. Vùng nầy toàn là những dân tộc thiểu số.

Qua hai năm sau, năm 1933, một vài truyền đạo ở hạ Lào quay lên thượng Lào để giúp các Giáo sĩ tại Luang Brabang. Khi những truyền đạo nầy giảng Tin Lành cho dân chúng, họ gặp sự chống trả mãnh liệt. Đại đa số dân chúng từ chối không chịu nghe giảng. Chương trình hoạt động chỉ có thể tập trung trong thành phố và những buổi nhóm bắt đầu mỗi tối: đồng thời ban ngày cũng đi ra để tiếp xúc với dân chúng tại các vùng phụ cận. Trong khi thi hành chức vụ thì các anh em truyền đạo nầy cũng học hỏi Lời Chúa vì những đôi vợ chồng nầy đều son trẻ cả.

Công việc cứ tiếp tục tiến hành trong bốn năm năm nhưng rất ít người xưng nhận Chúa và phần đông họ là khách qua đường, chỉ ra phố để tìm việc làm. Cũng có một số ít làng ở những miền quê chung quanh xưng nhận Chúa, mà đa số họ là những dân tộc thiểu số. Chỉ có một số rất ít người Lào tin nhận Chúa vì hễ ở đâu có người xưng nhận đức tin của mình tức thì bà con của người ấy sẽ tìm hết cách bắt bớ cho đến khi bỏ Chúa.

Khoảng thời gian độ mười năm qua, Hội Truyền giáo phái thêm Giáo sĩ đến để mở mang công việc bằng cách lập cơ sở tại Xiêng Khoang. Đồng thời (năm 1939) một trường Thánh Kinh được khởi lập tại Vạn Tượng. Đến cuối năm 1940, trường Thánh Kinh vẫn chưa dạy xong khóa thứ hai vì chiến tranh bùng nổ giữa Thái Lan và Ai Lao. Lúc đó trong trường có hai mươi học sinh và vì tình hình khó khăn nên mỗi người chạy về làng mình. Khi chiến tranh kết thúc họ lại tiếp tục học, lần nầy tới học tại Luang Brabang. Hội Truyền giáo mở rộng công việc bằng cách phái những học sinh ra hầu việc Chúa trong những tháng họ nghỉ hè, vì nhà trường không dạy luôn trọn năm.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 158

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

158

Không thể nói đã có một Hội Thánh xây cất tại thành phố. Hễ nơi nào Mục sư Truyền đạo ở thì có tổ chức những buổi nhóm lại thường. Các tôi tớ Chúa cũng cố gắng sắp đặt để có thể giảng tại mỗi làng trong thành phố dầu kết quả không có gì khả quan. Hơn nữa nơi nào có tổ chức những buổi lễ long trọng, thì nơi ấy cũng có tổ chức những chỗ bán sách và giảng Tin Lành. Cũng có những cuộc đi giảng thường thường trên các sông rạch và phân phát sách Tin Lành.

Khi chiến cuộc với Nhật Bản bùng nổ phần đông Giáo sĩ phải về xứ, tuy nhiên, vẫn có một số ở lại và chịu bao nỗi khó khăn. Các học sinh và Truyền đạo đều quay trở về làng của mình. Sau khi chiến tranh kết thúc, các Giáo sĩ trở lại Ai Lao, trường Thánh Kinh cũng mở cửa trở lại và có những Giáo sĩ mới cùng qua mở trụ sở tại Xiêng Khoang. Trong vài ba năm sau, công việc tiến bộ khả quan. Tại Vạn Tượng và Luang Brabang dường như có nhiều gia đình tin Chúa bởi nhiều làng có nhà thờ.

Lúc đó các học sinh thường được phái ra với tư cách như Truyền đạo. Kết quả của việc bán sách và làm chứng của một thanh niên truyền đạo, ấy là năm 1950 có nhiều người tin Chúa tại Xiêng Khoang. Trong khoảng thời gian đặc biệt ấy, các Giáo sĩ đã qua Đà Lạt nghỉ hè và nhóm hội đồng Giáo sĩ thường niên. Khi họ trở lại Ai Lao thì được tin một nhóm đông người kể cả hàng ngàn trong nhiều làng đã tin nhận đạo Tin Lành của Đức Chúa Jêsus Christ.

Giáo sĩ phụ trách khu vực ấy bèn yêu cầu Giáo sĩ Hội trưởng phải trở lại những nơi truyền đạo để tổ chức sự giảng dạy và trông nom săn sóc những người mới tin Chúa. Cuối năm 1950, công việc dường như không có đầu đuôi chi cả, vì lẽ những người tin Chúa là người Mèo một dân tộc sống trong vùng sơn cước. Họ không có thói quen nhóm họp chung với nhau. Họ thường sống cách biệt, ít có sự liên hiệp với nhau, ai lo phần nhà nấy. Khi tin Chúa họ chỉ thích có một điều ấy là Jêsus Christ, Đấng đã đắc thắng mọi tà thần. Họ muốn được giải thoát khỏi ách tôi mọi các tà thần, vì đó, họ bằng lòng tin nhận Chúa. Nhưng họ mù tịt đối với những giáo lý về Đức Chúa Trời, lẽ đạo căn bản của đức tin. Kết quả chỉ có vài ba người đến nhóm trong ngày Chúa nhật hoặc các buổi nhóm cầu nguyện, thật rất khó tổ chức những buổi họp thờ phượng Chúa hay là giảng dạy.

Thứ nữa, có sự khó khăn về ngôn ngữ. Người phụ trách giảng cho họ, luôn luôn phải có một thông ngôn kể cả lúc thăm viếng. Trước đó khá lâu, có một số đông người sơn cước trong nhiều làng đã trở lại cùng Chúa. Hai chi phái khác nhau nầy có nhiều phong tục tương đồng; họ nói thứ tiếng cổ lỗ, ít người biết đọc và viết. Đối với họ, nhất là đàn bà, rất khó trong sự học hỏi bằng tâm trí.

Sau hai năm, Hội Truyền giáo đã mở được trường Thánh Kinh hàng tỉnh tại Xiêng Khoang, mục đích để tuyển trạch trong số những tín đồ nầy, những học sinh để đào tạo cho sự hầu việc Chúa. Hiện nay số tín đồ Đấng Christ tại Xiêng Khoang đã tăng lên cách rất khả quan, có hơn bốn ngàn người, số đã chịu báp-tem cũng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 159

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

159

lên đến gần một ngàn người. Hơn hai mươi làng có nhà thờ và có tín đồ ở trong tám mươi làng.

Khoảng đầu năm nay (1955) đã tổ chức được một Hội Thánh hàng tỉnh (tại Xiêng Khoang). Có hy vọng một ngày gần đây cũng có thể sẽ tiến những bước tương tự trong tất cả các tỉnh tại thượng Lào. Ở khắp nơi số tín hữu đều tăng lên rất nhanh chóng và trong nhiều tỉnh khác có những tập sự được đào tạo để giúp đỡ việc truyền bá Tin Lành.

Chúng tôi tin với một niềm hy vọng quả quyết không chút nghi ngờ rằng chính Đức Chúa Trời là Đấng Nguyên Thủ Thuộc Linh của thánh đạo, sẽ làm cho dễ dàng bằng mọi cách để dự định nầy có được những tiến triển trường cửu”

Mục sư Saly Khounthapanya

Cho đến nay (1969), số tín đồ tại Lào có hơn mười ba ngàn người. Toàn thể các chi hội tại Lào đều tự trị tự lập. Phần đông thuộc chi phái người Mèo. Người lãnh đạo Hội Thánh Lào hiện nay là Mục sư Seng Pao Thao, cũng thuộc chi phái người Mèo: năm 1962 Hội Thánh Tin Lành Việt Nam cử ông bà Mục sư Nguyễn Hậu Nhương sang truyền giáo tại Vạn Tượng. Công việc Chúa tiến triển rất tốt đẹp. Cầu xin Chúa ban phước nhiều cho chương trình truyền giáo của Hội Thánh chúng ta tại vương quốc nầy.

Thánh dường HTTLVN kiến thiết tại Vạn Tượng (Ai Lao) khoảng 1969-1970

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 160

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

160

CHƯƠNG 6: KẾ HOẠCH XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN NHỮNG CƠ SỞ HẠ TẦNG CỦA GIÁO HỘI

Sau khi Hội Thánh Tin Lành Việt Nam có hơn bốn mươi ngàn tín đồ chịu báp-tem và hơn một trăm gia đình Mục sư Truyền đạo hoạt động rải rác trong toàn xứ thì vấn đề tổ chức Hội Thánh không chỉ đơn thuần trong phạm vi truyền giáo mà còn bao gồm nhiều lãnh vực khác nữa như văn hóa, giáo dục và xã hội để giúp đỡ và nâng cao đời sống tín hữu. Nói như thế không có nghĩa là việc rao truyền Tin Lành bị xếp thành thứ yếu, trái lại mọi công tác khác đều hỗ trợ cho công cuộc truyền giáo để Lời Chúa sớm được mọi người Việt Nam nhận biết.

Trong khi thi hành chức vụ chung của Hội Thánh, việc thiết lập chương trình cho những mục tiêu cấp bách trên đây luôn luôn đè nặng tâm hồn tôi. Làm thế nào để có thể thành lập cho Giáo hội một Cô Nhi viện để nuôi dưỡng những đứa trẻ mồ côi? Làm thế nào để ít ra trong một thời gian ngắn, Hội Thánh sẽ được một trường Trung Tiểu học cho con em tín hữu và đồng bào đến học. Chúng tôi nhận thức được sự hữu ích của chương trình nầy một cách rõ rệt, nhưng muốn thực hiện phải cần có sự hợp tác của toàn thể tín hữu. Cái khó lúc bấy giờ là làm thế nào gây được một ý thức sâu rộng trong Hội Thánh vì phần đông đều có những quan niệm rất thiển cận, nên chẳng những không hưởng ứng mà còn tỏ ra chống đối quyết liệt với những lời lẽ hết sức chua chát nặng nề! Tuy nhiên, tôi không ngã lòng, nguyện ước của tôi còn xa hơn nữa, ấy là phải làm thế nào nâng trường Thánh Kinh Đà Nẵng lên ngang hàng với các Thần Học Viện ngoại quốc. Để có thể đạt được mục đích, một mặt tôi khẩn thiết cầu xin sự giúp đỡ của Chúa, một mặt tôi đưa các vấn đề ấy ra thảo luận với các vị Mục sư, Giáo sĩ mà tôi nhận thấy có lòng cho tương lai Hội Thánh trên đất nước Việt Nam.

A. NHỮNG CƠ QUAN TỪ THIỆN VÀ CỨU TRỢ XÃ HỘI.

1. Cô Nhi Viện Tin Lành

Tại sao Hội Thánh cần có những cơ quan cứu tế và những tổ chức xã hội từ thiện? Hỏi tức là đã gián tiếp trả lời: vì lúc bấy giờ có nhiều gia đình con mất cha, vợ mất chồng và những trẻ thơ vô tội phải sống côi cút thiếu người chăm sóc. Đã có nhiều đêm tôi không thể chợp mắt được khi nghĩ đến những đau khổ tang tóc mà con cái, tôi tớ Chúa phải chịu. Chắc hẳn không ai có thể dững dưng được trước sự gục ngã vì bom đạn, của ông bà Truyền đạo Trần Mỹ Bê tại Hội Thánh Châu Đốc (Nam hạt), để lại một cháu gái tuổi còn măng sữa. Trên đường chức vụ, Mục sư Trịnh An Mẹo (Thượng hạt) phải hy sinh mạng sống, để lại cho bà Mẹo một gánh nặng gia đình và một đàn con thơ nheo nhóc. Rồi đến ông bà Truyền đạo Lê Thiện Thị, ông bà và người con trai đầu lòng bị sát hại khi chiến cuộc tràn đến làng Thanh Quýt, Điện Bàn Tỉnh Quảng Nam nơi ông bà đã hầu việc Chúa, để lại ba cháu gái còn thơ dại. Ngoài những tai nạn do chiến tranh gây ra, một số đông con cái tôi tớ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 161

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

161

Chúa vì đau yếu bệnh tật sớm từ giã cõi đời như ông bà Truyền đạo Đặng Đức Thụ chẳng hạn, ông bà về với Chúa để lại hai cháu nhỏ. Và còn nhiều nhiều lắm chẳng những con cái của Mục sư Truyền đạo, mà con cái của tín đồ và đồng bào cũng chịu chung sự khắc nghiệt của chiến tranh. Cho nên sự giúp đỡ vì thế trở nên tối cần thiết. Trách nhiệm nuôi dưỡng và dạy dỗ những mầm non bé bỏng trên đây được đặt trên vai chúng tôi là những người lãnh đạo Giáo hội.

Lòng mến Chúa yêu người không ngớt thúc giục chúng tôi thi hành sứ mệnh cao đẹp ấy, mặc dù ngân quỹ của Tổng Liên Hội lúc bấy giờ kể như không có gì cả. Mọi sự được bắt đầu bằng đức tin.

Vào năm 1950 chúng tôi chính thức đặt vấn đề thành lập một Cô Nhi viện và một trường Trung Tiểu học Tin Lành với Hội Thánh và xin hỗ trợ bằng sự cầu nguyện đặc biệt để công việc sớm bắt đầu. Chúng tôi cố gắng bằng mọi cách nhằm gây một ý thức mới trong vòng tín hữu vì như trên đã nói, phần đông tín hữu lúc bấy giờ có những quan niệm rất thiển cận nếu không bảo là sai lầm, luôn luôn khước từ hoặc chống đối tất cả những đề nghị hợp lý, thực tiễn, chỉ chăm tìm và thực hiện những sinh hoạt tâm linh có tính cách thiêng liêng. Cho nên để có thể gieo vào lòng tín hữu trong Hội Thánh một khái niệm mới mẻ về những vấn đề xã hội, cô Lê Thị Hồng Ân (nay là Mục sư Nguyễn Châu Chánh) đã liên tiếp viết bài trên Thánh Kinh Báo để khích lệ về việc nầy. Tiếng kêu của chúng tôi không vang vào sa mạc. Chính bài “MỘT VIỄN ẢNH CÔ NHI VIỆN HỘI THÁNH TIN LÀNH VIỆT NAM” đã gây xúc động nhiều con cái Chúa. Hội Thánh có dịp nhìn thấy rõ hơn về sự cần thiết của những tổ chức xã hội bên cạnh những hoạt động truyền bá Cơ Đốc Giáo.

Sau ba năm cầu nguyện, cổ động và chờ đợi, Chúa cho cơ hội lập Cô Nhi viện xảy đến. Số là Hội Thánh vừa mua được sở đất rộng hơn bảy mẫu tây tại Hòn Chồng Nha Trang, một mặt nằm dọc Quốc lộ I và mặt kia tiếp giáp với bờ biển. Thửa đất nầy thoạt tiên có ý định dùng để xây cất một chỗ dưỡng sức cho các Mục sư Truyền đạo nhưng một số vị ở miền Nam không đồng ý vì xa quá. Anh em muốn có một chỗ dưỡng sức tại Vũng Tàu, gần và tiện lợi hơn. Xin nói rõ là số tiền mua miếng đất ấy là do Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp dâng bốn mươi ngàn đồng. Nên sau đó, ban giám đốc Cô Nhi viện phải trả bốn mươi ngàn đồng cho Nam hạt để mua một miếng đất khác tại Vũng Tàu thay cho miếng đất trên đây.

Đã có đất nhưng đào đâu ra tiền để tiếp tục công tác? Chúng tôi tiếp tục cầu nguyện và một lần nữa Chúa lại dự bị cách lạ lùng. Ông bà Giáo sĩ W. C. CADMAN là công dân Anh quốc, nhưng suốt đời hầu việt Chúa tại Việt Nam. Ông bà đã xuôi ngược suốt từ Nam chí Bắc. Đôi bàn chân đẹp của hai kẻ truyền giáo Tin Lành nầy đã trải khắp Đông Dương. Ông bà chỉ có một con gái qua đời lúc 12 tuổi xác gởi tại nghĩa trang thành phố Hà Nội. Năm 1946 bà CADMAN qua đời tại Sài Gòn và thi hài của người nữ truyền giáo khả kính này được gói ghém trong lòng nghĩa địa Mạc

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 162

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

162

Đỉnh Chi. Hai năm sau, vào ngày 7-12-1948, ông CADMAN lại theo bà để về cùng Chúa, thân xác cụ được gởi tại nghĩa trang thành phố Đà Lạt. Để tỏ lòng biết ơn một vị Giáo sĩ đã sống cho Việt Nam và chết cũng cho Việt Nam, Tổng Liên Hội đã xuất tiền để xây mộ cho cụ. Mộ chí được khắc những hàng chữ sau đây: “Cụ W. C. CADMAN, sinh ngày 4-4-1883, ngủ yên trong Chúa ngày 7-12-1948.” Phía dưới có được ghi thêm “NGƯỜI TRUNG TÍN CHO ĐẾN CHẾT.” Cho đến ngày nay, những bậc lão thành trong Hội Thánh chắc hẳn không ai có thể quên được những hình ảnh khả kính ấy. Tôi còn nhớ có người đã bảo, ông bà cụ CADMAN lúc sống có tinh thần chung lo phục vụ Hội Thánh Việt Nam, khi chết, ba người trong gia đình chia ra nằm ba xứ (con nằm ở Bắc, bà cụ ở miền Nam và ông cụ ở miền Trung).

Lúc sanh tiền, ông bà CADMAN có một ít tài sản riêng tại Hà Nội có bốn gian nhà nhỏ tại đường Ngõ Trạm và ba gian tại đường Hòa Mã. Ông bà đã làm di chúc là sau khi chết sẽ để tài sản nầy lại cho Hội ThánhTin Lành Việt Nam do ông Mục sư Lê Văn Thái nhận và quản nhiệm.

Giấy tờ vỏn vẹn chỉ có thế, nhưng khi Hội Thánh muốn chính quyền thực hiện đúng theo di chúc của người quá cố, thì lại gặp không biết bao nhiêu là những chuyện trở ngại khó khăn. Chẳng hạn như luật của nhà nước Anh cho phép người viết di chúc có thể đánh máy và ký tên nhưng luật của nước Pháp thì tờ di chúc muốn có giá trị phải viết bằng tay và ký tên. Đó là chưa kể trường hợp khi bà cụ CADMAN qua đời, ông cụ lại tục huyền với một người khác cũng người Anh. Như vậy phải vận động cách nào để cho tòa Đại sứ Anh ở Ba Lê, tòa Đại sứ Pháp ở Luân Đôn và viên toàn quyền Đông Dương tại Hà Nội hợp thức hóa tờ di chúc trên đây. Chúng tôi phải tốn rất nhiều công cũng như thì giờ mới lo xong được thủ tục. Nhưng tiếp đó lại vướng phải một trở ngại khác, đó là bà kế hiện còn sống. Liệu bà ta có tranh dành những tài sản nầy hay không? Luật pháp bắt buộc nếu bà ưng thuận thì phải làm tờ cam kết là sẽ không đòi và vui lòng đặt thuộc quyền sử dụng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vĩnh viễn.

Sau đó tất cả giấy tờ từ các tòa Đại sứ được gởi hết về tòa án Hà Nội để ban án lệnh. Thể theo bản án ngày 11-5-1957 của tòa án, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam được phép nhận di sản của hai cụ W. C. CADMAN qua tên Mục sư Lê Văn Thái.

Khi việc chuyển giao hoàn tất, ước tính tổn phí nội vụ khoảng ba mươi mốt phần trăm, vì tất cả những việc qua lại giữa các tòa Đại sứ, giữa Hội Truyền giáo và các tòa án, chúng tôi đều nhờ luật sư lo. Ngoài ra theo luật lệ hiện hành, người hưởng di tặng phải đóng thuế từ hai mươi hai đến năm mươi bảy phần trăm giá trị của tài sản như vậy Hội Thánh chỉ còn hưởng được khoảng mười hai phần trăm mà thôi, một số lợi tức quá ít so với sự lao nhọc quá nhiều. Cho nên có người đề nghị với tôi là nên xin Chính phủ miễn thuế thụ hưởng di sản trên đây. Nhận thấy đề nghị hợp lý, nên sau khi cầu nguyện, tôi liền đến xin yết kiến Thủ tướng. Thủ tướng chính phủ lúc bấy giờ là ông Nguyễn Văn Tâm. Thủ tướng Tâm vui lòng ủng hộ

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 163

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

163

nguyện vọng xin miễn thuế nầy, nhưng buộc phải dùng tiền ấy vào việc cứu tế xã hội mới được. Tôi liền xuất trình dự án xây cất Cô Nhi viện Tin Lành trên sở đất Hội Thánh đã mua tại Nha Trang. Sau khi xem xét cẩn thận, Thủ tướng Tâm tỏ ý chấp thuận và ông nói thêm là sẽ làm giấy tờ cho đánh thuế tượng trưng từ hai đến bốn phần trăm mà thôi.

Mộ phần cố Giáo sĩ Cadman tại Đà Lạt, Giáo sĩ đã nghỉ yên ngày 7-2-48. Tổng Liên Hội xây mộ nầy để tỏ lòng kính trọng vị Giáo sĩ đã tận tụy với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam và cả gia đình đều qua đời tại đất Việt.

Thế là việc đối ngoại kể như tạm xong. Để tranh thủ thời gian, tôi trình ngay kế hoạch nầy cho Ban Trị sự Tổng Liên Hội để lấy biểu quyết, kết quả tất cả nhân viên đều đồng ý. Quyết nghị trên đây được Hội Đồng Tổng Liên Hội lần thứ 22 nhóm tại Sài Gòn tháng 7-1952 thông qua. Như vậy trên nguyên tắc, tôi được phép dùng số tiền phát mãi tài sản của cố Giáo sĩ W.C.CADMAN (phần lớn do chính phủ miễn thuế) hiệp với Hội Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc Tế để xây cất Cô Nhi viện Tin Lành tại Hòn Chồng (Nha Trang).

Ngay khi tin nầy được tung ra, chúng tôi liền gặp phải phản ứng của hai luồng dư luận trái ngược, một bên thì mừng và hoan nghinh, còn một bên thì buồn và chống đối. Chúng tôi yên lặng làm việc. Để tăng cường nhân lực, Tổng Liên Hội liền cử hai ông Mục sư Duy Cách Lâm và Trần Trọng Thục vào Ban Quản Trị xây cất cơ sở, vì lúc bấy giờ tôi đang ở Đà Lạt. Thoạt tiên, chúng tôi có ý định xây bốn nhà

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 164

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

164

nhỏ, mỗi nhà được 12 giường và một phòng dành riêng cho người coi sóc. Ước vọng ban đầu của chúng tôi là có thể thu nhận bốn mươi tám em. Ngoài ra chúng tôi cũng định xây một nhà ăn, nhà này có thể vừa làm chỗ cho các em học vừa để nhóm lại thờ phượng Chúa và một căn nhà khác làm văn phòng cho ban Giám Đốc.

Việc xây cất được thực hiện rất nhanh chóng bởi sự tận tâm của Ban Quản trị và những anh em tín hữu phụ trách công trường. Trong khi ấy, để cho mọi hoạt động được liên tục, tôi liền ra thông cáo để nhận cô nhi. Về phía con các Mục sư, Truyền đạo thuộc Bắc Trung hạt quy tụ tại Đà Nẵng được mười một em, vùng Đà Lạt có mười ba em. Riêng Hà Nội có hai và Cà Mau có một em. Như vậy, cô nhi con Mục sư Truyền đạo gồm có hai mươi bảy em tất cả. Về phía tín hữu có mười một cô nhi. Cộng chung là ba mươi tám em nhập viện lần đầu tiên ngày 4-9-1953.

Nhận được tin nầy hầu hết các Hội Thánh đều hoan nghinh và nhất là quý vị Mục sư Truyền đạo phần lớn tỏ ra khích lệ đối với thành quả buổi đầu. Con cái của những người hy sinh hầu việc Chúa cũng như của những tín hữu không đến nỗi bị bỏ quên khi gặp hoạn nạn. Do đó ai nấy đều vui mừng ngợi khen Chúa và phấn khởi cầu nguyện cho cơ quan từ thiện đầu tiên này của Hội Thánh ngày càng đem lại nhiều kết quả tốt đẹp cho việc rao giảng Tin Lành.

Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là chúng tôi không bị chống đối, trái lại trong khi làm công việc nầy chúng tôi đã bị một số không nhỏ có tư tưởng thiển cận phiền trách, xuyên tạc. Có người lại còn viết thư cho tôi với những lời lẽ rất hằn học như: “Cha chúng nó đây chưa biết sống chết ra sao, sao không lo mà lo cho con làm gì.” Sở dĩ có sự chống đối như thế buổi đầu giữa Hội Thánh, nguyên do là vì ảnh hưởng của Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp. Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp là hội chuyên rao giảng Tin Lành khắp thế giới mà không lo việc xã hội và giáo dục. Giáo sĩ của hội nầy không bao giờ đề cập đến vấn đề xã hội và giáo dục. Một số người bị ảnh hưởng, nên không ủng hộ chương trình do chúng tôi đề ra. Trước những phản ứng bất lợi ấy, chúng tôi không biết phải làm cách nào khác hơn là đặt đoàn trẻ thơ trước mặt Chúa và cầu nguyện: “Xin Chúa thương xót các em, cho Viện được đủ dùng và ban phước cho các em lớn khôn trong Lời của Chúa để đời sống các em trở nên hữu ích cho nhà của Ngài.” Cảm ơn Chúa đã nhậm lời cầu xin của chúng tôi, Cô Nhi viện được cải thiện lần lần và số cô nhi nội trú ngày càng đông hơn. Cho đến ngày 1-7-1968 là ngày tôi bàn giao chức vụ Giám đốc Cô Nhi viện, số cô nhi nội trú đã lên đến hai trăm bốn mươi hai em, không kể những em xuất viện và những em sống ở ngoài. Cơ sở gồm có mười nhà cho các em ở, một nhà thờ, bốn nhà cho nhân viên, một văn phòng, một nhà cho Giám đốc, một nhà ăn, một hội trường cũng là cho thường ngày dùng làm nơi cho các em chơi thường ngày, hai dãy nhà phụ thuộc, một trường ốc hai dãy mỗi dãy tám lớp và một văn phòng trường Bết-lê-hem. Ngoài ra còn có ba biệt thự cho thuê lấy lợi tức nuôi cơ nhi. Cầu xin Chúa là Đấng an ủi những kẻ mồ côi và người góa bụa giúp đỡ Hội

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 165

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

165

Thánh chúng ta để mọi người đều ý thức được trách nhiệm của mình đối với những kẻ kém may mắn.

2. Trường Trung Tiểu Học Bết-Lê-Hem.

Sau khi tạm hoàn tất dự án xây cất Cô Nhi viện trên đây, chúng tôi bắt tay ngay vào việc tạo dựng một trường Trung Tiểu học lấy tên là trường BẾT-LÊ-HEM. Ngôi trường nầy cũng tọa lạc trên phần đất của Cô Nhi viện cạnh Quốc lộ 1, nên rất tiện lợi cho các em ở trong cũng như ngoài Viện.

Chẳng bao lâu, số học sinh nội trú tăng lên năm mươi hai em cộng với trên năm mươi học sinh từ ngoài vào học, vị chi trường có trên một trăm học sinh tất cả. Viện cũng có được một nhà thờ riêng, nên ngoài những giờ học truyện tích Thánh Kinh tại lớp, mỗi sáng Chúa nhật các em còn có dịp nhóm lại để thờ phượng chung. Nhờ đó Lời Chúa ngày càng đi sâu vào trong những bộ óc non nớt. Nếp sống của các em ở trong cũng như ở ngoài Viện đều thực sự được đổi mới. Cách thức tổ chức Hiệu đoàn cũng như những hình thức sinh hoạt tự trị đã được Viện và trường Bết-lê-hem áp dụng từ năm 1953 và gặt hái được những thành quả rất tốt đẹp. Tên tuổi của Cô Nhi viện cũng như của trường Trung Tiểu học Bết-lê-hem ngày càng được nhiều người biết đến. Học sinh của trường đã khép mình trong kỉ luật tự giác ngay từ tuổi thơ. Nên chẳng những tại khu vực Hòn Chồng mà cả thành phố Nha Trang nữa, các em đều nhận được những cảm tình rất đặc biệt của đồng bào. Mỗi khi đi du ngoạn trong thành phố hoặc ngoài bãi biển, các em đều mặc đồng phục do Viện cấp phát các em gái mặc áo trắng quần trắng và các em trai áo trắng quần đùi xanh với phù hiệu Cô Nhi viện bằng đồng hình quả tim đeo trước ngực, nên không thể lầm lẫn với những học sinh của những trường khác. Vả lại mỗi khi xuất viện các em đều đi có hàng lối theo người hướng dẫn, nên từ đằng xa người ta có thể nhận ra ngay đó là đoàn học sinh của trường Bết-lê-hem. Nhưng đều đáng ngợi khen Chúa hơn hết là nếp sống của các em. Các em đã sớm tỏ ra mình thực sự được đổi mới vì luôn luôn chăm chỉ học hành.

Khi Cô Nhi viện và trường Bết-lê-hem được tám tuổi thì đã có một số cô nhi và học sinh ngoại trú đậu bằng Trung học. Hai năm kế tiếp lại có một số đậu tú tài bán phần và đến khi trường được mười ba tuổi thì đã có một số cô nhi vào Thần Học Viện, một số khác tốt nghiệp bằng khả năng sư phạm và trở thành những giáo học cấp bổ túc tại các trường công lập trong nước. Ngoài ra còn một số em đến tuổi động viên nên đã vào trường bộ binh Thủ Đức. Một số khác chọn binh nghiệp và đã trở thành sĩ quan Hải quân, không quân. Đó là chưa kể những cựu cô nhi đang du học ngoại quốc và những tình nguyện ở lại làm giáo viên và nhân viên cho Viện.

Kiểm điểm lại những thành quả đã thu lượm được từ ngày Cô Nhi viện và trường Bết-lê-hem được thành lập, chúng tôi thật không đủ tiếng để ngợi khen những ân

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 166

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

166

huệ lạ lùng mà Chúa đã ban cho. Riêng về phần những em cô nhi có thân thể yếu đuối, kém thông minh hoặc không được may mắn trong việc học hành, chúng tôi không bao giờ quên cầu nguyện cho các em. Xin Chúa ban tình thương dồi dào và ân tứ cách đặc biệt trên các em, để các em có đủ năng lực và sự thông sáng trên bước đường phục vụ Chúa. Tôi cầu mong sao cho cơ quan từ thiện đầu tiên nầy cũng như những cơ quan kế tiếp của Hội Thánh luôn được tồn tại và phát triển mãi cho đến ngày Chúa đến.

Đó là hoài bão của chúng tôi ngay từ lúc mới bắt đầu chức vụ. Nên khi nhắc lại quá trình hoạt động của trường Trung Tiểu học Bết-lê-hem, cơ quan giáo dục văn hóa đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, tôi không thể quên dự án xây cất trường Trung Tiểu học THIÊN PHƯỚC tại Vinh vào những năm 1928-1929. Lúc bấy giờ tôi đã quy tụ được một số anh em có lòng nghĩ đến tương lai Hội Thánh và cũng là những người có hằng sản như ông Mục sư Duy Cách Lâm, ông Mạ Nhặc, ông Tư Hiên, ông Lê Khắc Tương, ông Mục sư Lê Khắc Hòa (lúc ấy hầu việc Chúa tại Vinh): Trường ốc, bàn ghế đã được lo xong tất cả, chỉ còn chờ giáo sư BÙI HUY THÊM từ Hà Nội vào đứng tên làm hiệu trưởng nữa là có thể khai trương. Nhưng một việc bất ngờ, ông Bùi Huy Thêm không vào Vinh được vì trường Gia Long ở Hà Nội mời ông ở lại dạy. Ông Thêm là tín đồ ở Hà Nội, việc đi vào Vinh đối với ông có nhiều bất tiện nên sẵn việc nầy ông từ chối không đi. Thế là mọi cố gắng của chúng tôi bị tan vỡ, vì tìm một người đủ điều kiện đứng tên làm hiệu trưởng trong những năm nầy không phải là chuyện dễ. Hơn nữa nhân tài trong Hội Thánh lúc bấy giờ cũng rất hiếm, mà chúng tôi thì muốn người làm hiệu trưởng phải là tín đồ mới được. Nguyện ước lần đầu không đạt được, nhưng chúng tôi không chán nản cứ chờ đợi và cầu nguyện. Ít năm sau có ông Phạm Khắc Minh một giáo sư trung học đã từng làm hiệu trưởng và bà cũng là giáo viên trường công tại Sài Gòn. Chúng tôi tưởng cơ hội đã đến bèn bàn với nhau xúc tiến công việc mở trường một lần nữa không phải tại Vinh mà là tại Sài Gòn. Trong số người sẵn sàng tham dự gồm có ông bà Phạm Khắc Minh, ông Phạm Đình Khương, ông Trần Hà Thanh, ông Huỳnh Minh Y, ông Nguyễn Đình Khoan v.v… chúng tôi hăng hái chuẩn bị ráo riết. Nhưng rồi, trường Trung Tiểu học Tin Lành tưởng như sắp được mở cửa đến nơi một lần nữa lại không thành vì những lý do ngoài ý muốn.

Chúng tôi lại phải cầu nguyện chờ đợi Chúa ban cho cơ hội khác. Mãi đến gần hai mươi năm sau (1953) trường Trung Tiểu học Tin Lành đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam mới được chính thức thành lập song song với Cô Nhi viện. Trở ngại của những lần đầu đã được vượt qua. Hội Thánh chẳng những có người đủ điều kiện đứng tên làm hiệu trưởng mà số nhân viên giảng huấn cũng được trang bị đầy đủ.

Thời gian đã lần lượt đào thải tất cả những gì không thích hợp với nhịp sống của nhân loại. Nên công việc của giáo hội và những tổ chức của Hội Thánh cũng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 167

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

167

không thể vượt ra ngoài định luật thiên nhiên ấy. Sở dĩ tôi có thể quả quyết như vậy, vì cho đến nay (1969) Hội Thánh chúng ta đã có gần sáu mươi trường văn hóa gồm cả trung lẫn lẫn tiểu học, bốn Cô Nhi viện và bốn chẩn y viện. Những tổ chức xã hội nầy chẳng những được tín hữu mà ngay cả đồng bào trên toàn quốc cũng nhiệt liệt hoan nghinh và khuyến khích mở nhiều thêm nữa. Ngày nay, việc thực hiện những công tác xã hội, thiết tưởng không có gì khó khăn, nhưng trước đây không lâu, vẫn có thể coi là những trở ngại đáng kể. Vào năm 1957 vẫn còn có Giáo sĩ đứng giữa nhà giảng Sài Gòn tuyên bố; “Chúa Jêsus không mở nhà trường, không lập Cô Nhi viện, cũng không lo chẩn y viện. Ngài chỉ giảng Tin Lành.”

Sự kiện nầy không ai chối cãi nhưng nếu xét cho kỹ thì đương nhiên có những vấn đề cần phải được thương xót. Ấy là khi Đức Chúa Jêsus thi hành chức vụ giảng Tin Lành Ngài không chỉ nói suông mà còn mở mắt cho người mù được sáng, chữa cho kẻ què được đi, kẻ câm được nói và hóa bánh cho người đói được no lòng. Trong Ngài quyền năng và tình thương được thể hiện một cách trọn vẹn. Chính vì mục đích ấy mà thánh Gia-cơ đã cáo giác những người chỉ lý thuyết suông mà sự thực không làm một điều gì cả. Thánh Kinh đã chép: “Sự tin đạo thanh sạch không vết, trước mặt Đức Chúa Trời Cha chúng ta, là: thăm viếng kẻ mồ côi, người góa bụa trong cơn khốn khó của họ và giữ mình khỏi sự ô uế của thế gian” (Gia 1:27). Đức tin phải được xác chứng bằng hành động đó là điều cần thiết, cho nên thánh Gia-cơ cũng đã nhắc nhở thêm: “Hỡi anh em nếu ai nói mình có đức tin, song không có việc làm, thì có ích gì chăng, đức tin cứu người ấy được chăng? Ví thử có anh em hoặc chị em nào không có quần áo mặc, thiếu của ăn uống hằng ngày, và một kẻ trong anh em nói với họ rằng: Hãy đi bình an, hãy sưởi cho ấm, hãy ăn cho no, nhưng không cho họ đồ cần dùng về phần xác thì có ích gì chăng? Về đức tin cũng một thể ấy; nếu đức tin không sinh ra việc làm, thì tự mình nó chết… hoặc có kẻ nói: ngươi có đức tin còn ta có việc làm. Hãy chỉ đức tin của ngươi không có việc làm rồi ta sẽ chỉ cho ngươi đức tin bởi việc làm của ta” (Gia 2:14-18)

Dựa trên nền tảng ấy, chúng tôi đã mạnh dạn xúc tiến mọi việc, mặc cho những xuyên tạc chống đối và những tuyên truyền bất lợi của một số người bảo thủ, có những quan niệm hẹp hòi và thiển cận. Tạ ơn Chúa do lòng cương quyết ấy Hội Thánh đã gặt hái được những thành quả tốt đẹp như ngày nay.

3. Chẩn Y Viện Tin Lành.

Khi những hoạt động của Cô Nhi viện và trường Trung Tiểu học Bết-lê-hem được điều hòa và công việc xây cất kể như tạm hoàn tất, chúng tôi liền nghĩ ngay đến việc thiết lập một chẩn y viện cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Chung quanh khu vực Hòn Chồng lúc bấy giờ tuy dân cư đông đúc nhưng chưa có một cơ quan y tế nào cả. Bởi đó, việc thực hiện công tác nầy chẳng những giúp ích rất nhiều cho cô nhi và học sinh nghèo mà còn có một mục đích cao cả hơn, ấy là đem tình thương của Cứu Chúa và tiếng nói chân thật của Tin Lành đến với những đồng bào đau khổ ở vùng duyên hải này.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 168

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

168

Bên cạnh Cô Nhi viện, lại còn một khoảng đất của Hội Thánh khá rộng, rất thuận tiện cho việc xây cất một cơ sở y tế, nên tôi liền đem dự án nầy thảo luận với ông Hội trưởng Hội Mennonite Central Committee và bác sĩ John B. Dick của Hội nầy, yêu cầu họ hợp tác với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam lập một chẩn y viện tại Nha Trang. Sau một năm nghiên cứu tỉ mỉ, chương trình hoạt động và trách nhiệm quy định cho mỗi bên, chúng tôi ký với nhau một thỏa ước, đồng ý thiết lập tại Hòn Chồng Nha Trang một chẩn y viện. Đó là chẩn y viện đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Thỏa ước trên đây được ký tại Sài Gòn ngày 1-3-1960 giữa Đại diện Ban Trị sự Tổng Liên Hội Hội Thánh Tin Lành Việt Nam Mục sư Lê Văn Thái, Hội Trưởng và Đại diện Hội Mennonite Central Committee là ông Glenn B. Stolzfus Giám Đốc Hành Chánh và Bác sĩ John b. Dick, Giám Đốc y tế.

Hình nhà thờ riêng của Viện

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 169

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

169

Khuôn viên Cô Nhi viện từ trên phi cơ chụp xuống

Lễ bản giao Cô Nhi viện, trên toà giảng tại nhà thờ, nguyên Giám đốc, Mục sư Lê Văn Thái

và tân Giám đốc, Mục sư Nguyễn Văn Đê (người ẵm một cô nhi)

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 170

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

170

Cơ quan trên đây chính thức hoạt động kể từ ngày 9-7-1961 và tiếp tục tiến mạnh cho đến ngày nay như tất cả các con cái Chúa đều biết.

B. NHỮNG CƠ QUAN PHÁT HUY VÀ PHỔ BIẾN GIÁO LÝ

1. Tin Lành Qua Các Làn Sóng Điện.

Mãi đến năm 1950, vấn đề ghi âm, thu phát thanh, phóng thanh đối với Hội Thánh Tin Lành Việt Nam vẫn còn là một vấn đề xa lạ, nếu không bảo là hoàn toàn mới mẻ. Tình trạng chậm tiến ấy một phần vì sự thiếu tích cực của Hội Truyền Giáo

Hiện nay, đứng trước những tiến bộ vĩ đại của khoa học, nhất là khoa học không gian, hình thức của chiếc máy thu thanh hoặc vô tuyến truyền hình đối với chúng ta thật không có gì mới lạ, nhưng vào khoảng năm 1951, ông là Giáo sĩ Chester Travis đến Đà Lạt với chiếc máy ghi âm đã làm ngạc nhiên nhiều người. Ông quy tụ được một số thanh niên, tổ chức các ban hát Thánh Ca và mời Mục Sư đến giảng. Ông thu tất cả vào băng nhựa và sau đó đem phát giữa đám đông khiến ai nấy đều thích thú.

Khái niệm đầu tiên về công cuộc rao truyền Tin Lành qua các làn sóng điện được mạnh dạn từ lúc ấy. Trong khi ông Giáo sĩ Travis bận rộn trong việc thu và phát thanh bằng chiếc máy ghi âm, thì Chúa cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một dịp tiện lớn lao hơn, rộng rãi hơn. Ông John. C. Proger, Giám đốc đài phát thanh Tin Lành Viễn đông tại Ma-ní viết thư mời tôi và Giáo sĩ Travis qua Phi Luật Tân để bàn về vấn đề phát thanh trên đài nầy, đồng thời để sắp xếp chương trình phân phối thì giờ sao cho thuận tiện tùy theo địa phương.

a) Hội nghị Ma-ní.

Hội nghị nầy khai mạc vào ngày 1-10-1951 và kéo dài đến ngày 7-10-1951, gồm có đại diện của chín quốc gia tham dự, đó là Miến Điện, Hồng Kông (Trung Hoa), Việt Nam, In-đô-nê-si-a (Nam Dương), Nhật Bản, Mã Lai, Phi Luật Tân, Lào, và Thái Lan. Đề tài tổng quát của hội nghị dựa tên Gi 8:32,36: “CÁC NGƯƠI SẼ BIẾT LẼ THẬT VÀ LẼ THẬT SẼ BUÔNG THA CÁC NGƯƠI… VẬY NẾU CON BUÔNG THA CÁC NGƯƠI, CÁC NGƯƠI SẼ THẬT ĐƯỢC TỰ DO.”

Trong bảy ngày thảo luận, toàn thể đại biểu đều nhận thức một cách sâu xa rằng chỉ có Đấng Christ mới là nguồn cứu rỗi của nhân loại, chỉ khi nào Ngài tha tội thì loài người mới được tự do. Kết thúc hội đồng là một quyết nghị gồm những điều căn bản sau đây:

Đài phát thanh Ma-ní sẽ tăng cường mạnh gấp ba lần.

Giờ phát thanh của mỗi thứ tiếng đều được tăng thêm.

Mỗi Quốc gia phải có chương trình riêng và gởi người của Hội Thánh mình đến Phi Luật Tân để điều hành và cũng làm xướng ngôn viên cho Giáo hội tại đó, (Thể

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 171

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

171

theo tinh thần của quyết nghị nầy. Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đã gởi người qua Ma-ní ngay sau đó để điều hành chương trình và công việc vẫn được liên tục cho đến ngày nay).

Đến giờ chót của cuộc hội thảo, vị Mục Sư chủ tọa đã đọc một câu trong Cac 17:6 “Trong lúc đó không có Vua nơi Y-sơ-ra-ên, mọi người cứ làm theo ý mình tưởng là phải.” Đoạn ông tiếp tục giải thích: nói về Vua Y-sơ-ra-ên thì có nhiều phương diện, nhưng tất cả đều có chung một hình bóng là Đấng Christ là Đấng Mê-si và cũng là Vua vị lai của cả nhân loại. Chúng ta đang lo giới thiệu Đấng Christ cho thế gian để mọi người biết Ngài và rước Ngài làm Vua lòng mình, hầu cho đời sống họ được TỰ DO. Nhưng một vấn đề khác được đặt ra ở đây là chúng ta phải tự xét lấy mình để xem chúng ta thực sự tự do chưa? Đấng Christ đã làm Vua trong đời sống chúng ta chưa?

Trước khi chia tay, đêm 7-10-1951 ban tổ chức đã thiết lập một lễ Tiệc Thánh long trọng cho toàn thể đại biểu tại phòng Khách tiết của một khách sạn lớn nhất thủ đô, nằm cạnh bờ biển Manille. Trong căn phòng lộng lẫy nầy, một bức hình Chúa Jêsus rất lớn được treo cao trên tường với hàng chữ nổi: “CHRIST FOR ASIA” (Đấng Christ cho Á châu), khiến cho vẻ trang nghiêm của căn phòng lại càng trang nghiêm hơn, giữa phòng là một chiếc bàn dài phủ khăn trắng, ban tổ chức đã cẩn thận sắp xếp bảng tên của những quốc gia có đại biểu tham dự Hội nghị, sau bảng tên có đặt sẵn một cây đèn cầy chưa thắp. Các đại biểu lần lượt đứng vào chỗ có tên của Quốc gia mình. Khi mọi người tề tựu đông đủ thì cây đèn trong phòng tắt hết và cây đèn nơi chân dung Chúa bắt đầu sáng lên. Sau đó vị chủ tọa tự tay thắp sáng cây đèn của mình và toàn thể đại biểu đều lần lượt làm theo y như vậy. Sau đó tất cả đồng loạt đứng lên cùng đọc chung ICo 11:24-26 và đồng nói: “ LÀM ĐIỀU NÀY ĐỂ NHỚ CHÚA.” Không khí trong căn phòng trở nên yên lặng khác thường, ánh sáng của những ngọn đèn bạch lạp chỉ đủ cho mọi người nhìn thấy chân dung Chúa Jêsus mà thôi. Giữa khung cảnh trang nghiêm ấy, bỗng có những tiếng khóc nhè nhẹ nổi lên từ cuối phòng và truyền đi rất nhanh. Mọi người đều cảm động khi để lòng mình hướng về Chúa. Những vướng bận thường nhật được lắng đọng để nhường chỗ cho tình thương và tinh thần nhất quyết rao truyền Tin Lành. Dưới chân Cứu Chúa trong giờ phút ấy biên cương của quốc gia và chủng tộc không còn nữa. Toàn thể đại biểu có mặt trong buổi lễ đều nhận thức được nhiệm mạng trọng yếu của mình đối với Chúa và đối với đồng bào…

Hội nghị đã gặt được những thành quả to tát ngoài sức tưởng tượng. Đêm tiệc thánh kéo dài đến khuya và ba chữ CHRIST FOR ASIA đối với riêng tôi là một ấn tượng không thể nào quên được trong đời hầu việc Chúa. Trải qua gần hai mươi năm rồi, nhưng đến nay tôi vẫn nhớ và nhớ rất rõ chân dung Chúa Jêsus trong đêm Tiệc Thánh ấy cùng với những khải tượng mà Chúa đã truyền cho tại hội Ma-ní năm 1951.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 172

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

172

b) Một dịp tiện bằng vàng cho việc truyền giảng Tin Lành.

Sau ngày đó, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chính thức mở chiến dịch giảng Tin Lành qua các làn sóng điện. Một ủy ban được đề cử để xúc tiến việc thu băng các bản thánh ca, những bài giảng luận và giải nghĩa Thánh Kinh gởi qua Ma-ní. Một phòng ghi âm tạm thời được thiết lập sau tòa giảng Hội Thánh Gia Định và mang tên là phòng Ghi Âm J. D. OLSEN, để kỷ niệm cụ cố Giáo sĩ J. D. Olsen, là một trong những vị Giáo sĩ tiền phong tại Việt Nam, hoạt động rất tích cực và có rất nhiều công khó trong việc thiết lập và điều khiển trường Thánh Kinh Tourane. Cụ đã về với Chúa vào mùa hè năm 1954 trong một tai nạn xe hơi tại góc đường Biên Hòa và tỉnh lỵ Gia Định. Về sau, phòng ghi âm nầy dược dời ra Nha Trang và thiết lập trong khuôn viên Thánh Kinh Thần Học Viện cho đến ngày nay (1969).

Chương trình phát thanh Tin Lành tại các đài phát thanh quốc nội cũng được thực hiện song song với công cuộc trên đây. Thoạt tiên Chính quyền chấp thuận cho Hội Thánh mỗi tuần ba mươi phút trên đài phát thanh Sài Gòn để giảng Tin Lành. Rồi tiếp đến các đài địa phương như Đà Lạt, Nha Trang, Huế, Quy Nhơn, Cần Thơ cũng sẵn lòng dành cho Hội Thánh một số giờ phát thanh. Hầu hết các chương trình hàng tuần trên đây đều dùng băng thu sẵn tại phòng ghi âm Nha Trang. Ngoài việc giảng Tin Lành qua các làn sóng điện, Hội Thánh còn xúc tiến việc vận động với các phòng thông tin địa phương để mượn phương tiện phóng thanh các bài giảng Tin Lành cho đồng bào trong các khu phố. Nhờ sự giúp đỡ của chính quyền về phương diện nầy, nên một số đông đồng bào có dịp nghe Tin Lành và thức tỉnh ăn năn trở lại đầu phục Chúa.

Sau đây tôi xin trích một đoạn trong bản phúc trình của Mục sư PHẠM VĂN NĂM tại Hội Đồng Tổng Liên Hội năm 1964 về việc giảng Tin Lành qua các làn sóng điện:

“Chúng ta nên lớn tiếng hết lòng ngợi khen Chúa vì Ngài đã và đang ban cho chúng ta có thể thực hiện sứ điệp của Cứu Chúa và trả nợ yêu thương cho đồng bào bằng sự giảng Tin Lành cứu rỗi trên mười lăm đài phát thanh Việt Nam Cộng Hòa cách miễn phí (trong khi tại các nước khác, Hội Thánh phải trả một số tiền khá lớn). Ấy là chưa kể sự phát thanh mỗi ngày ba mươi phút trên đài vô tuyến Viễn Đông Ma-Ní và phóng thanh hàng tuần trên hơn mười lăm phòng thông tin ở các tỉnh và quận. Mỗi đài phát thanh quốc gia dành riêng cho chương trình phát thanh Tin Lành ba mươi phút hàng tuần. Số thính giả mỗi tuần được nghe Tin Lành trên các làn sóng điện khắp nơi từ năm mươi đến tám mươi ngàn người. Các thư từ ban chúng ta nhận được, thì phần đông thính giả là thương gia, công chức, quân nhân, học sinh và sinh viên. Một chương trình đặc biệt cho thanh niên được phát thanh mỗi tuần đầu tháng do Mục sư Lê Hoàng Phu phụ trách, thu hút một số thính giả thanh niên đáng kể.” Và sau đây là:

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 173

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

173

DANH SÁCH CÁC ĐÀI QUỐC GIA VIỆT NAM

PHÁT THANH CHƯƠNG TRÌNH TIN LÀNH

1. Tân An 2. Quy Nhơn 3. Hội An 4. Sài Gòn 5. Ba Xuyên 6. Tuy Hòa 7. Huế 8. Quảng Ngãi 9. Đông Hà

10. Kiến Hòa 11. Đà Lạt 12. Nha Trang 13. Ban Mê Thuột 14. Quân Đội Sài Gòn 15. Mỹ Tho 16. Viễn Đông Ma-ní

Với những thành quả đã thu lượm được trong những năm qua, chúng tôi thật có cớ ngợi khen Chúa. Trong lúc tình hình đất nước đang nghiêng ngửa vì nạn chiến tranh, việc giảng Tin Lành trên các làn sóng điện thật rất cần thiết. Bằng phương tiện nầy, Lời của Chúa có thể đến tận những nơi mà các nhà truyền đạo của chúng ta không thể đến được, và sự bình an của Ngài có thể sưởi ấm sự buốt lạnh của lòng người. Chắc hẳn mọi người chúng ta đều tin rằng đây là một chương trình tốt đẹp và trong niềm tin tưởng ấy, xin Hội Thánh cứ cầu nguyện thật nhiều về việc giảng Tin Lành qua làn sóng điện được tiến triển mạnh hơn và được kết quả khả quan hơn.

2. Đoàn Tuyên Úy Tin Lành

Thể theo chính sách phát huy và phổ biến giáo lý, nhu cầu về việc thiết lập một ĐOÀN TUYÊN ÚY TIN LÀNH trong quân đội ngày càng trở nên cấp thiết song song với đà tiến triển của Hội Thánh và nhất là khi số thanh niên tín đồ đến tuổi quân dịch càng ngày càng thêm nhiều.

Nhận thức được tầm quan trọng của việc truyền giảng Tin Lành trong các đơn vị quân đội và việc nâng đỡ tinh thần anh em tín hữu trong quân ngũ, nên vào khoảng đầu năm 1951, Ban Trị sự Tổng Liên Hội đã gởi văn thư đến Quốc Trưởng và Thủ Tướng Chính Phủ để xin thành lập một đoàn Tuyên Úy Tin Lành trong quân đội. Ít lâu sau, chúng tôi được văn phòng Quốc Trưởng Bảo Đại trả lời cho biết là

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 174

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

174

hiện chưa có quy chế về Tuyên Úy Tin Lành Trong Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa, thành thử vấn đề trên đây rất tiếc không thể chấp thuận được.

Gặp trở ngại như vậy, chúng tôi liền đến thảo luận sự việc với ông Lê Tài Trường, Đổng lý Văn phòng của Quốc Trưởng Bảo Đại và ông Phan Huy Quát, Bộ Trưởng Quốc Phòng lúc bấy giờ để xin xuất tiến việc soạn thảo quy chế Tuyên Úy Tin Lành. Sau đó một ủy ban hỗn hợp được thành lập. Tổng Liên Hội biểu quyết đề cử cụ Mục sư Ông Văn Huyên, thư ký Tổng Liên Hội và ông Victor Phạm, sinh viên luật, hiệp với nhân viên của Bộ Quốc Phòng trong ủy ban soạn thảo quy chế đoàn Tuyên Uý Tin Lành Việt Nam.

Sau mấy tháng làm việc ráo riết, quy chế trên đây được lập xong vào cuối năm 1952. Chúng tôi liền đệ trình lên chính quyền và chờ đợi. Nhưng không hiểu tại sao nó vẫn nằm ỳ một chỗ không nhúc nhích. Chúng tôi đi lại năm lần bảy lượt thường xuyên theo dõi và nhắc nhở tất cả những nơi liên hệ, nhưng kết quả đâu vẫn vào đó, không có một chút tiến bộ nào đáng kể.

Tuy nhiên, chúng tôi không ngã lòng, vẫn cứ cầu nguyện xin Chúa can thiệp để quy chế Tuyên Uý sớm được ban hành. Đồng thời cũng tha thiết xin Chúa lựa chọn một vị Tuyên Úy Trưởng xứng hiệp và đầy ơn để đại diện cho Hội Thánh trong Quân đội, ngỏ hầu có thể giảng Tin Lành và nâng đỡ đức tin anh em quân nhân. Đây có thể bảo là một vấn đề khó cho Tổng Liên Hội lúc bấy giờ (1952), tuy nhiên, chúng tôi tin rằng Đức Chúa Trời của chúng ta là CHÚA, Đức Chúa Trời Di-rê, Ngài đã dự bị cho Áp-ra-ham một con chiên để làm của lễ trên núi Mô-ri-a (Sa 22:13-14) thì chắc chắn Ngài cũng sẽ dự bị cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một đoàn Tuyên Uý và một Tuyên Uý Trưởng xứng hiệp khi cần.

Quả đúng như vậy, hai năm sau Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ký sắc lệnh số 51-QP. Ngày 8-6-1945 nhằm thiết lập các đoàn Tuyên Uý trong Quân Lực Việt Nam Công Hòa. Và tiếp theo đó, ngày 8-12-1954, Thủ Tướng Chính Phủ lại ban hành nghị định số 1103-QP. Về việc tổ chức và điều hành các đoàn Tuyên Uý.

Thể theo tinh thần hai sắc lệnh và nghị định dẫn thượng, Nha Tuyên Úy Tin Lành chính thức được thành lập do sự vụ lệnh văn thư số 680-TTM-I-MK ngày 8-3-1955 của Bộ Tổng Tham Mưu Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa và thông tư số 3225-VP-QP-BB ngày 21-7-1955 của Bộ Quốc Phòng. Như vậy, kể từ ngày vận động cho các vị Mục sư có thể phục vụ Chúa giữa anh em quân nhân tín hữu và binh sĩ Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa cho đến khi nhận được văn thư cho phép thành lập ĐOÀN TUYÊN ÚY TIN LÀNH là bốn năm có dư. Một thời gian quá dài cho sự mong đợi, tuy nhiên, sự kiên nhẫn trong đức tin đã không trở thành luống nhưng. Chúa là Đấng Thành Tín và chúng tôi đã thành công bởi ơn và quyền của Ngài.

Quả thật đúng như Lời Chúa phán, ai trông đợi CHÚA, Đức Chúa Trời không hề hổ thẹn. Chẳng những Ngài cho phép đoàn Tuyên Uý Tin Lành được thành hình mà

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 175

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

175

trong buổi giao thời, Ngài còn dự bị một người từ phương xa trở về để nhận lãnh chức vụ Tuyên Uý Trưởng. người ấy là ông Đoàn Mười. Ông Đoàn Mười tin nhận Chúa ở bên Pháp, có bằng Cử nhân văn chương và đã từng tình nguyện làm Mục sư Tuyên Uý trong đoàn quân viễn chinh Việt Nam tại Pháp. Gia đình ông mới về nước vài năm trước đó. Khoảng năm 1948-1949 tôi có dịp gặp ông ở Hà Nội và năm 1951 và tôi lại gặp ông ở Đà Lạt. Lúc bấy giờ ông đang làm việc tại văn phòng Quốc Trưởng Bảo Đại ở Đà Lạt cùng với ông Nguyễn Đệ. Chính ông Đoàn Mười đã giúp ý kiến chúng tôi rất nhiều trong việc soạn thảo quy chế Tuyên Úy.

Sau thời gian cầu nguyện xin Chúa lựa chọn một vị Tuyên Úy Trưởng, Tổng Liên Hội nhận thấy ông Đoàn Mười có đủ tư cách để nhận lãnh chức vụ nầy. Tôi liền đem vấn đề nầy bàn với ông, thì ông vẫn giữ sự dè dặt thường lệ và trả lời là xin cầu nguyện để biết rõ ý Chúa. Chúng tôi kiên nhẫn chờ đợi và ít lâu sau, ông tỏ ý thuận nhậm chức vụ Tuyên Úy Trưởng do Hội Thánh giao phó. Chúng tôi vui mừng ngợi khen Chúa và đệ trình Bộ Quốc Phòng tên ông Đoàn Mười trong chức vụ Tuyên Úy Trưởng. Ông là vị Tuyên Úy Trưởng đầu tiên của Đoàn Tuyên Úy Tin Lành với cấp bậc Thiếu tá đồng hóa, được bổ dụng bởi quyết định số 1083-QP-NV ngày 30-12-1955 của Bộ Quốc Phòng do ông Bộ Trưởng Phụ Tá Quốc Phòng Trần Trung Dung ký.

Chúng tôi rất mừng tưởng công việc kể như tạm xong và gánh nặng tinh thần đối với anh em quân nhân tín hữu đã có người gánh vác, nhưng không ngờ trong khi ông Đoàn Mười lo xúc tiến việc thiết lập văn phòng và tuyển chọn Tuyên Úy thì một sự ngăn trở khác lại xảy ra. Chính quyền đề cử ông Đoàn Mười kiêm nhiệm chức vụ giám đốc phòng Thính thị Anh ngữ ở đường Thành Thái Chợ Lớn và ít lâu sau, ông lại nhận được lệnh thuyên chuyển lên Đà Lạt để làm giáo sư Anh ngữ tại trường Võ Bị Quốc Gia.

Thế là mong ước của Hội Thánh một lần nữa kể như không thành, mặc dù đã hết sức cầu nguyện và lo lắng từ bao năm qua. Tuy đã nhận lãnh chức vụ Tuyên Úy Trưởng, nhưng với một hoàn cảnh như vậy ông Đoàn Mười cũng như Ban Trị sự Tổng Liên Hội không thể làm cách nào khác hơn.

Trước khi ông Đoàn Mười rời chức vụ trên đây, tôi có được một người đến cho biết rằng: “Tổng Thống đã bổ nhiệm ông Đoàn Mười làm giáo sư Anh văn tại trường Võ Bị Đà Lạt, ông Hội Trưởng hãy tìm người khác thay thế ông Đoàn Mười đi.” Nghe được tin nầy tôi liền đến gặp ông Bộ trưởng phụ tá Quốc Phòng Trần Trung Dung và được ông cho biết là; “văn phòng Tổng Thống muốn như vậy.” trở về, tôi liền trình ngay việc nầy với Ban Trị sự Tổng Liên Hội và xin cầu nguyện để Chúa chỉ định người khác thay thế. Sau một thời gian khá lâu dò hỏi ý Chúa, toàn thể Ban Trị sự Tổng Liên Hội đều đồng ý đề cử ông Mục sư Nguyễn Văn Tống giữ chức vụ Tuyên Úy Trưởng Đoàn Tuyên Uy Tin Lành thay thế ông Đoàn Mười.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 176

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

176

Thi hành quyết định ấy của Ban Trị sự Tổng Liên Hội, tôi đệ trình tên Mục sư Tống lên Bộ Quốc Phòng và trong khi chờ đợi lệnh bổ nhiệm của Chính Phủ, chúng tôi tha thiết cầu nguyện xin Chúa cho việc thành lập đoàn Tuyên Úy Tin Lành sớm hoàn tất trong ý chỉ thánh của Ngài. (Thi Thiên 37) giúp chúng tôi bình an và tâm hồn không còn bồn chồn lo lắng. Mọi sự tin chắc rằng Chúa sẽ lo. Chúng tôi phó thác trọn vẹn cho Ngài. Lúc bấy giờ chúng tôi quyết noi theo gương của vua Đa-vít: “Chớ phiền lòng về kẻ làm dữ cũng đừng ghen tị kẻ tập tành sự gian ác. Hãy tin cậy nơi CHÚA, Đức Chúa Trời và làm điều lành; khá ở trong xứ và nuôi mình bằng sự thành tín của Ngài. Cũng hãy khoái lạc nơi CHÚA, Đức Chúa Trời thì Ngài sẽ ban cho các ngươi điều lòng mình ao ước. Hãy phó thác đường lối mình cho CHÚA, Đức Chúa Trời nhờ cậy nơi Ngài thì Ngài sẽ làm thành việc ấy” (Thi 37:1-5). Ngày xưa, vua Đa- vít đã gặp nhiều trở ngại và ông đã phó thác mọi sự cho Chúa. Ngày nay chúng tôi cũng vậy. Cchúng tôi quyết định giao phó mọi việc cho Ngài.

Sau hơn một năm kể từ ngày ông Đoàn Mười giã từ chức vụ Tuyên Úy Trưởng, chúng tôi nhận được một Quyết định khác của Bộ Quốc Phòng số 2944-QP-NV-LQ ký ngày 15-11-1957 nội dung như sau; “Mục sư Nguyễn Văn Tống, tình nguyện gia nhập Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa với cấp bậc Thiếu Tá đồng hóa để giữ chức vụ Tuyên Úy Tin Lành Việt Nam.”

Thể theo Quyết định ấy, một mặt ông Mục sư Tống lo tổ chức văn phòng và một mặt lo tuyển chọn các vị Mục sư Tuyên Úy vùng để đệ trình Bộ Quốc Phòng ban hành quyết định bổ dụng. Một năm sau, các ông Mục sư Dương Kỳ, Trần Trọng Thục và Đặng Văn Lục chính thức được chấp thuận gia nhập đoàn Tuyên Úy Tin Lành với cấp bậc Đại Úy đồng hóa, bởi quyết định số 620-QP ngày 28-1958. Ba vị Tuyên Úy đầu tiên trên đây sau khi được Bộ Quốc Phòng chấp thuận cho gia nhập quân đội lại phải lo hoàn tất giấy tờ và thủ tục nhập ngũ đến cuối năm 1958 mới xong. Như vậy, kể từ lúc thai nghén (1951) cho đến khi Đoàn Tuyên Úy thực sự được thành hình (1958), Hội Thánh phải chịu dựng một thời gian vừa vặn tám năm tất cả.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 177

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

177

Ảnh Đoàn Tuyên Uý đầu tiên

Hầu hết tín hữu lúc bấy giờ đều mừng rỡ khi hay tin Hội Thánh có được một Đoàn Tuyên Úy trong quân đội. Có gì sung sướng hơn sau những ngày hành quân vất vả hoặc những lúc phải trấn giữ những tiền đồn hẻo lánh xa xôi, anh em quân nhân được vị Mục sư Tuyên Úy của mình đến thăm để an ủi và nâng đỡ đức tin bằng tình thương và lời sự sống. Ngoài ra, anh em cũng đinh ninh rằng vị Mục sư Tuyên Úy còn có thể đem Tin Lành đến cho các đơn vị trong quân đội, một công tác rất cấp thiết mà các vị Mục sư dân sự trước đây thiếu hẳn phương tiện để hoạt động cho nên từ anh lính quân trường đến những gương mặt sạm nắng thuộc tất cả những Quân Binh Chủng, hễ là tín đồ Tin Lành thì hết thảy đều có chung một hoài vọng là chờ đợi những chiến công thuộc linh đầu tiên.

Tuy nhiên, với một số người quá ít ỏi, bốn vị Mục sư Tuyên Úy trên đây không thể đáp ứng đúng mức nhu cầu quá to lớn của quân đội nên có rất nhiều dự án chưa thể hoặc không thể thực hiện được. Do đó có nhiều anh em quân nhân phàn nàn là ít được gặp các vị Mục sư Tuyên Úy, còn các vị Mục sư Tuyên Úy thì than thở là không thể làm trọn nhiệm vụ quá bao quát, trong khi mọi phương tiện đều không có hoặc nếu có thì cũng bị hạn chế đến mức tối đa. Hội Thánh tỏ vẻ không vui vì Đoàn Tuyên Úy không thực sự hữu hiệu đúng như lòng mong ước.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 178

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

178

Dầu vậy tình trạng trên đây cũng được kéo dài trên mười năm (từ ngày 15-11-1957 đến 13-4-1968). Trong khoảng thời gian ấy, mặc dù có thêm bốn vị Mục sư Tuyên Úy khác như các ông Mục sư Phạm Xuân Hiển, Nguyễn Lĩnh, Nguyễn Văn Thái, Phan Văn Phùng tăng cường, nhưng kết quả vẫn không thấm vào đâu cả. Nhận thấy tình thế không thể kéo dài thêm nữa, nên đại Hội Đồng thường niên Tổng Liên Hội lần thứ 35 nhóm lại tại Đà Nẵng vào tháng 5 năm 1967, đã thảo luận sôi nổi về vấn đề nầy. Hầu hết các đại biểu tham dự Hội Đồng dường như có chung một nhận định là: “NẾU CÓ MỘT ĐOÀN TUYÊN ÚY NHƯ VẬY THÀ KHÔNG CÓ THÌ HƠN.”

Vấn đề được đặt ra để biện minh là những ngăn trở. Phải chăng Đoàn Tuyên Úy Tin Lành khởi thủy được thành lập trên sự ngăn trở, rồi tiếp đến hoạt động trên sự ngăn trở và luôn luôn phải đối đầu với những ngăn trở, chúng ta tin rằng Chúa biết và trên tất cả mọi sự, chương trình và ý định của Ngài phải được hoàn thành. Nhắc lại việc nầy, tôi bỗng nhớ lại câu chuyện xin lập hội cũng như xin chính quyền thừa nhận thành phần Ban Quản Trị đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Đơn gởi đi từ năm 1928 mà mãi đến ngày 19-1-1941 Hội Thánh mới nhận được văn thư chính thức của toàn Quyền JEAN DECOUX trả lời chấp thuận. Nhìn lại những chặng đường Hội Thánh đã đi qua, tôi nhận thấy thật đúng với tinh thần của bài thánh ca sau đây:

“Đi tường bước, bước thẳng đi

Có Chúa nữa, không can chi

Đi từng bước, Chúa cũng đi,

Cho đến mãi, vô tận kỳ.”

Tạ ơn Chúa, bởi sự kiên trì và cương quyết của Hội Thánh, Đoàn Tuyên Úy Tin Lành đã được cải tổ với những thành phần rộng rãi hơn. Ông Mục sư Dương Kỳ được cử giữ chức vụ Tuyên Úy Trưởng và được bổ dụng bởi nghị định số 230- ND ngày 13-4-1968 của Bộ Quốc Phòng, thay thế Mục sư Nguyễn Văn Tống. Tiếp theo đó, các ông Mục sư Bùi Khương, Nguyễn Thành Mác, Nguyễn Hữu Tươi đồng loạt được bổ nhiệm chức Trưởng Phòng Tuyên Úy vùng chiến thuật thay thế các Mục sư xuất ngũ do nghị định số 060-QP-ND ngày 28-1-1968. Binh chủng hải quân cũng bắt đầu có Tuyên Úy và vị Hải Quân Tuyên Úy đầu tiên là Mục sư Nguyễn Châu Chánh, được bổ nhiệm hoạt động bên cạnh Bộ Tư Lệnh Hải Quân. Ngoài ra cũng có một số Truyền đạo Tuyên Úy được phái đến tận các Khu Chiến Thuật để phục vụ bên cạnh các sư đoàn Bộ Binh. Trong tương lai, nếu được Chúa cho phép, số Tuyên Úy Tin Lành trong Quân Đội sẽ tăng thêm để cung ứng cho nhu cầu đang đòi hỏi tại hầu hết các Khu Chiến Thuật và Tiểu Khu. Hiện nay, trong khi chờ đợi bổ sung quân số đầy đủ, Bộ Tổng Tham Mưu tạm thời chấp thuận cho phép các vị

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 179

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

179

Mục sư dân sự có thể vào thăm các Quân trường, Quân lao, Quân xá… để thăm viếng các anh em quân nhân tín hữu và rao truyền Tin Lành.

Công việc của Đoàn Tuyên Úy hiện nay đang tiến hành tốt đẹp và người ngoài cuộc có thể nhìn vào với một cái nhìn lạc quan hơn. Mọi khó khăn đã vượt qua. Những đám mây mù không còn nữa. Hội Thánh đang đứng trước một bình minh đầy hứa hẹn và sự kiện ấy là một trong những nguyên động lực nhắc nhở chúng ta nhớ lại Lời Chúa phán: “HÃY PHÓ THÁC ĐƯỜNG LỐI MÌNH CHO ĐỨC GIÊ-HÔ-VA, THÌ NGÀI SẼ LÀM THÀNH VIỆC ẤY.”

C. SƠ LƯỢC VỀ CHUYẾN DU HÀNH QUAN SÁT TẠI MỸ QUỐC

Vấn đề du hành quan sát để học hỏi nằm trong chính sách chung của Giáo Hội, nên thể theo lời mời của Ban Trị sự Trung Ương Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp Tại Nữu Ước, ngày 21-4-1957, tôi lên đường sang Hoa Kỳ để dự Đại Hội Truyền Giáo thường niên tổ chức tại Charlotte và cũng để thăm viếng một số Hội Thánh Chúa tại Mỹ Quốc. Mục đích chính của tôi trong chuyến công du nầy là để thu thập kinh nghiệm, trao đổi quan điểm với những nhà lãnh đạo Hội Thánh bạn, ngỏ hầu có thể phục vụ Chúa tại nước nhà một cách hữu hiệu hơn. Cho nên song song với việc giảng dạy và làm chứng về ơn phước Chúa đối với Hội Thánh Việt Nam tôi đã cố gắng thực hiện nguyện ước của mình bằng cách thăm viếng thật nhiều và quan sát thật kỹ những phương thức tổ chức cũng như những từng trải thuộc linh trong đời sống tín hữu tại quốc gia văn minh nầy.

Trong suốt thời gian ba tháng tại Mỹ Quốc, tôi có dịp đi và hầu việc Chúa chung với ba vị Giáo sĩ. Người thứ nhất là ông HERMAN H. HAZLETT, đã từng làm Giáo sĩ ở Việt Nam và dạy tại Trường Thánh Kinh Đà Nẵng. Khi tôi sang Mỹ thì ông HAZLETT đang làm giáo sư tại một trường cao đẳng thần học ở San Francisco. Người thứ hai là ông J. J. VAN HINE, một Giáo sĩ kỳ cựu ở miền Bắc Việt Nam. Lúc bấy giờ ông là nhân viên trong văn phòng Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp tại Nữu Ước. Và người thứ ba là Giáo sĩ P. E. CARLSON, một trong số những Giáo sĩ thân mến nhất tại Việt Nam, đang về nước nghỉ hạn.

Nhờ sự cộng tác đắc lực của những vị Giáo sĩ nầy, nên kết quả của chuyến công du thật rất tốt đẹp. Đây là những người đã biết nhiều về Việt Nam và có thể diễn đạt tư tưởng tiếng Việt Nam một cách trôi chảy, nên ngoại trừ những cuộc tiếp xúc riêng rẽ, tôi luôn luôn dùng tiếng Việt Nam và ba vị Giáo sĩ nầy đã nói tiếng Anh thay tôi như A-rôn đã nói thay cho Mô-se. Báo chí Mỹ nhất là những tờ báo có khuynh hướng Cơ Đốc Giáo đã nói nhiều về chuyến công du nầy. Có nhiều phóng viên đến gặp tôi sau buổi giảng và tôi có dịp nói cho họ biết về sự bình đẳng của con người trước mặt Đức Chúa Trời và đồng loại. Ân sủng cũng như sự cứu chuộc được thực hiện bởi quyền năng từ trên cao và tình yêu đích thực không phân biệt chủng tộc. Tôi đã loại ra ngoài tất cả những câu hỏi liên quan đến chính trị, vì tôi

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 180

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

180

nghĩ rằng chính trị và tôn giáo không thể đi đôi với nhau. Tôi không muốn bị chụp mũ cũng không muốn bị hiểu lầm. Tuy nhiên, những câu trả lời gần như không trả lời gì cả của tôi đã gây một tiếng vang không nhỏ trên các báo phát hành tại Mỹ Quốc.

Sau khi trở về nước, có nhiều người ở xa viết thư hỏi thăm và xin tôi tường thuật lại chuyến công du ấy. Tôi rất muốn trả lời tất cả nhưng số thư đến nhiều quá thành thử không thể thực hiện được đúng như lòng mong ước. Chắc anh em thông cảm mà thứ lỗi cho tôi rồi. Nay nhân tập Hồi ký nầy, tôi xin chép lại nguyên văn những bản phúc trình (cho Văn Phòng Hội Truyền Giáo tại Nữu Ước) của ba vị Giáo sĩ từng hầu việc Chúa chung với tôi trong suốt thời gian ở bên Mỹ để tặng bạn đọc. Mong rằng với những tài liệu chân thật và khách quan ấy, các bạn có thể hiểu rõ hơn về những phước hạnh mà Chúa đã dành cho cuộc thăm viếng nầy.

1. Lịch Trình Thăm Viếng

Lịch trình thăm viếng và giảng dạy của tôi trong suốt thời gian ba tháng tại Mỹ Quốc được tóm lược trong những bản phúc trình sau đây:

a. Phúc trình của Giáo sĩ Herman H. Hazlett

“Lịch trình thăm viếng Mỹ Quốc của ông Mục sư Lê Văn Thái từ ngày 24-4 đến ngày 25-5-1957:

26-4 Tại Lễ Đường Trường Thánh Kinh Simpson.

Cử tọa:160 người

“Chính các ngươi hãy cho họ ăn.” (Mac 6:37).

Một bài giảng hay, nhấn mạnh về trách nhiệm của tín đồ Đấng Christ phải đem hoặc truyền Tin Lành cho những người đang đói khát Bánh Hằng Sống.

28-4 Berkeley, Hội CMA (tức Phước Âm Truyền Giáo Hội)

Cử tọa: 33 người

(Ro 12:1-2). Nhấn mạnh về sự dâng mình.

Piodmont (Oakland). Cử tọa: 200 người

“Năng lực của tình thương yêu.” Câu gốc (ICo 13:13).

1-5. North Seatle: Cử tọa: 83 người

“Trong tay ngươi cầm vật chi” (Xu 4:2)

Chỉ điều gì chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời sẽ được ban lại cho chúng ta để sử dụng với năng lực của Ngài và vì sự vinh hiển của Ngài.

2-5 Portland: Cử tọa: 150 người

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 181

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

181

“Quyền năng kèm theo đức tin” (IIVua 4:1-7). Chúng ta ngăn trở Chúa bởi sự vô tín của chúng ta. Quyền năng ngưng lại khi chúng ta không còn đủ để chứa nữa.

Trong buổi nhóm nầy có đại biểu từ Silverton, Salem, Dallas và Bend đến dự. Hai ngày trước khi ông Thái đến đây đã có một cuộc họp báo của các nữ Giáo sĩ trong khu vực, nên có báo cáo trước về tin ông Thái sẽ đến. Do đó, có nhiều người đến thăm.

5-5 Sacramento: Cử tọa: 127 người

“Lữ khách và kiều dân” (IPhi 2:11).

Ông Thái nhấn mạnh rằng vì đây không phải là đất trường cửu của chúng ta, nên chúng ta phải “kiêng cử tư dục của xác thịt, là điều tranh chiến với linh hồn.”

San Jose. AYF.

Sự quan hệ của việc đặt lời Đức Chúa Trời vào lòng ta đang khi ta còn thanh xuân. (IITi 3:15).

San Jose. Cử tọa: 200 người

“Chính các ngươi hãy cho họ ăn.” (Mac 6:37). Đề mục rất giống với bài giảng đầu đã giảng cho Trường Thánh Kinh Simpson, nhưng đã rất khéo đổi thành ra thích hợp và Hội Thánh hơn là với các Sinh viên Trường Thánh Kinh. Ông có một sự nhận thức thuộc linh rất sáng suốt, nên có nhiều ý kiến hay. Khi được biết có một số người chưa tin Chúa trong nhà thờ tức thì cuối bài giảng ông khẩn thiết kêu gọi họ đến cùng Chúa, dùng thí dụ chứng minh cụ thể về việc nhân loại đang tiến nhanh đến cái chết, là cái mà người ta không thể tránh, và đến cuối cùng nó sẽ bắt lấy mọi người không tha một ai cả!

8-5 American Canyon Alliance Church (giữa Vallejo và Napa)

Cử tọa: 25 người

Đây là địa điểm nhỏ hơn hết trong các nơi đến thăm. Hội chúng phải nhóm lại trong nhà Mục sư vì nhà giảng mới đang xây cất. Tín đồ làm việc suốt ngày thứ bảy. Có 25 người hiện diện. Một công tác đáng khuyến khích trong một thị trấn chưa có nhà thờ.

Ông dùng chuyện tích Đức Chúa Jêsus được xức dầu tại Bê-tha-ni (Gi 12:1-9) mà giảng một bài giảng rất hiệp nghi, đề cập đến sự kiện Đức Chúa Jêsus thích làng nhỏ nầy hơn là kinh thành Giê-ru-sa-lem. Ông cũng nhấn mạnh rằng, ngày nay thiên hạ sẽ kéo đến xem những cuộc đời được đổi mới, cũng như ngày xưa người Do Thái kéo đến xem La-xa-rơ sống lại.

10-5 Trường Thánh Kinh Simpson, buổi nhóm của ban Truyền Giáo.

Cử tọa: 250 người.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 182

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

182

Đây là một ngày dành riêng để thăm viếng nhà trường, có chừng bảy mươi thanh thiếu nhi học trong các trường trung học và đại học đến nhóm. Đề mục: “Mang thập tự.” Đây là một bài giảng rất hay. Ông nhắc lại sự qua đời mới đây của một vị Mục sư Việt Nam trong trận giặc tại Việt Nam, và sự qua đời của Tiến sĩ Jaffray trong trận thế giới đại chiến thứ nhì để nêu gương sáng của những người đã liều bỏ mọi sự để mang Thập tự giá và theo gót Chúa Jêsus. Có tám sinh viên dự nhóm, mà một vài người trong bọn họ đã chống lại tiếng kêu gọi của Chúa trong suốt những buổi nhóm đặc biệt trước lễ Phục sinh, khi nghe ông kêu gọi đã tiến lên trước tòa giảng.

12-5. Glendale: Cử tọa:175 người

“Quan điểm thuộc linh.” (Mat 6:22). Ba thí dụ trong Thánh Kinh:

Áp ra ham nhìn thấy những sự vật chính đáng. Lót thì không thấy.

Y sác đã làm một việc rất sai lầm. Ấy là khi mắt đã mờ, người bèn vận dụng thính giác để bổ cứu cho thị giác.

Ê-li-sê đã cầu nguyện để đầy tớ người được thấy đạo binh của Đức Chúa Trời sai đến để bảo vệ cho hai thầy trò khỏi tay của quân Si-ri.

Pasadena: Cử tọa:250 người

“ Giô-na-than và Đa-vít.” (ISa 18:1-4 20:12-17 23:14-18 IISa 1:26). Ông đặc biệt nhấn mạnh sự kiện, dầu Giô-na-than đã lập một giao ước lạ lùng với Đa-vít, người vẫn không chịu bỏ cuộc đời nhàn hạ trong cung điện để đồng hành với Đa-vít trong những nỗi cơ cực; bởi cớ đó ông đã chết với Sau-lơ ngoài chiến trường thay vì trở nên Thủ Tướng của vua Đa Vít. Chỉ những tín đồ nào đồng chịu khổ với Đấng Christ thì mới được đồng trị với Ngài.

Bình Luận:

Theo ý tôi, cuộc hành trình giảng dạy này có rất nhiều ích lợi. Tôi rất thích những bài giảng mà anh em chúng ta (tức ông Thái ) đã giảng. Ông chỉ giảng trùng đề mục có một lần. Ngoài ra ông luôn nhờ cậy Đức Thánh Linh giúp đỡ để có thể giảng những bài mới hoặc soạn lại những bài giảng cũ cho thích hợp với từng hoàn cảnh. Thật tôi rất vui mà thấy rằng nơi nào ông Thái đến thì cũng được đón tiếp cách niềm nở. Nhiều người lấy làm lạ thấy một người ngoại quốc mà lại giảng hay đến thế. Một bà già nói: “Tôi đoán rằng mọi người trong các ông học thuộc lòng bài giảng ngắn, rồi cứ tới đâu cũng bổn cũ soạn lại.” Tôi rất sung sướng mà trả lời cho bà biết rằng cho đến ngày ấy, ông Thái chưa nói trùng lần nào. Ông rất thận trọng giữ đúng giờ mà các vị Mục sư yêu cầu (theo một thời hạn nào đó). Được hầu việc Chúa bằng cách thông ngôn cho ông ta, tôi tự kể là một vinh hạnh thực sự vậy.”

Herman H. Hazlett

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 183

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

183

b. Phúc trình của Giáo sĩ J. J. Van Hine

26-5 Nyack, N. Y. và White Plains, N. Y.

29-5 Chatam, N. Y.

1-6 Hội kiến với nhân viên của Quốc Tế Cơ Đốc Thanh Niên Đoàn (YMCA) tại trụ sở của họ NYC.

2-6 Giảng buổi tối tại Hội Thánh của Tiến sĩ Tozer. (có lẽ tại Hội Thánh Aurora vào buổi sáng).

3-6 Thăm khu vực Chicago.

4-6 Từ giã Chicago.

5-6 Đến Omaha

6-6 Giảng trong Hội Thánh của Tiến sĩ Brown tại Omaha, và cũng có dịp giảng tại Lincoln.

7-6 Giảng tại Hội Thánh Dayton.

8-6 Từ giã Dayton đến Toledo.

9-6 Giảng buổi sáng tại Hội Thánh Toledo, buổi tối trong Hội Thánh của ông Thompson.

10-6 Khu vực Toledo, Opeu, windsor, Canada.

11-6 Giảng tại Hội Thánh Royal Oaks.

12-6 Giảng tại Hội Thánh Claussen, Hội Thánh Michigan.

13-6 Giảng tại Wyndotte, Mich.

14-6 Giảng tại Akron, Hội Thánh Ohio ông Kenyon là Mục sư

15-6 Từ giã Akron, đến Pittsburgh.

16-6 Giảng buổi sáng trong Hội Thánh của ông Paul, buổi tối trong Hội Thánh của ông Fraser.

17-6 Thăm viếng một vài Hội Thánh nhỏ trong khu vực Pittsbourgh.

18-6 Từ giã Pittsbourgh đến Nữu Ước.

19-6 22-6 Ở tại Nữu Ước.

23-6 Mt. Vermon, N. Y. và Brooklyn, N. Y. London.

25-6 Paris.

26-6 Rome.

27-6 Sài Gòn.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 184

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

184

Được tham dự chương trình chuẩn bị cho ông Lê Văn Thái thực là một thích thú. Làm thông ngôn cho ông chẳng khác nào đem tôi đến gần Việt Nam một lần nữa. Chúng tôi không thể trở lại xứ này, nhưng qua ông Thái, xứ này lại đến với tôi. Tôi có cảm tưởng như sống trở lại những ngày cùng hầu việc Chúa với ông.

Dầu ông Thái không biết trước phải giảng trong những Hội Thánh nào, nhưng những bài giảng của ông luôn luôn rất hiệp nghi, chứng tỏ Chúa thật có dẫn dắt ông. Mọi người không lấy sự thông dịch làm khó chịu. Họ nói luôn luôn rằng thời giờ qua mau quá, tôi thấy họ nghe rất chăm chỉ. Bất cứ nơi nào chúng tôi đi đến đều biết rõ có sự hiện diện của Chúa, và mỗi lòng đều được phước.

Cuộc thăm viếng các Hội Thánh của ông Lê Văn Thái đã làm cho mọi người cảm xúc một tinh thần sốt sắng truyền giáo mới mẻ và đức tin được nâng đỡ bằng cách cầu nguyện. Hiện nay họ đã thấy tận mắt kết quả mỹ mãn những sự hy sinh trước đây của các nhà truyền giáo. Ông Thái đã căn cứ trên Lời Chúa để giảng, sự kiện ấy đã khiến cho họ cảm biết rằng trong khi hầu việc Ngài, chỉ có Lời Chúa là đáng kể mà thôi.

Tất cả các Mục sư đều nói rằng cuộc thăm viếng của ông Thái rất bổ ích, đã phấn khởi hội chúng càng hầu việc Chúa nhiều hơn, và đã đem về cho họ một tiếng gọi cao cả mới mẻ về những nhiệm vụ của Phước Âm Truyền Giáo Hội.

Trên đây chỉ là một vài cảm tưởng mà tôi thiết nghĩ sẽ bổ ích cho các bạn và nhiều người khác.”

J.J. VAN HINE

c. Phúc trình của Giáo sĩ P.E. Carlson:

“ Việc đưa ông Mục Sư Lê Văn Thái, Hội Trưởng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, qua dự Hội đồng thường niên của chúng ta tại Charlotte ở Mỹ Quốc, đã hoàn toàn đạt được mục đích của nó, càng thắt chặt mối tình thân hữu giữa Hội Thánh nhà và các Hội Thánh hải ngoại. Nếu phước hạnh rõ ràng do sự thăm viếng này là một tiêu chuẩn đặc biệt, thì thiết tưởng năm tới nên tái diễn sự thí nghiệm ấy, để cho một vị Hội trưởng bản xứ của một nước khác đến nhóm với tư cách một đại biểu có quyền bỏ phiếu và nhắc chúng ta về phạm vi bao la cả hoàn cầu của Phước Âm Truyền Giáo Hội.

Sự kiện ông Thái được hoan nghinh tại Hội đồng không chi khác hơn là một sự hiển nhiên. Có vô số lần chúng tôi cố chen lấn giữa đám đông để hướng dẫn ông, thì ông bị ngăn lại bằng những câu: “Tôi mừng quá vì được gặp ông” hoặc “Tôi chỉ muốn được hân hạnh bắt tay ông.” Sau khi ông Thái giảng ở Hội Đồng thì ông càng được mọi người hâm mộ hơn nữa, và thật khó làm thỏa lòng tất cả những người đang ao ước mời ông Thái đến viếng Hội Thánh mình.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 185

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

185

Cuộc hành trình của ông Thái đã đưa ông đến 5 tiểu bang và chừng mười sáu Hội Thánh. Trong tất cả những Hội Thánh ấy ông đều giảng những bài giảng duy nhất bằng tiếng Việt Nam do Giáo sĩ P. E. Carlson thông dịch. Mọi lòng ở mọi nơi đều sung sướng khi họ được nghe nhân vật này vốn là một sản phẩm của công cuộc truyền giáo của chúng ta ở xứ mà trước đây được mệnh danh là Đông Pháp. Là một sinh viên tốt nghiệp trường Thánh Kinh Đà Nẵng, ông Thái đã chứng minh trong các bài giảng của ông sự huấn luyện chu đáo về Thần đạo học, cũng như truyền đạo pháp. Ít người quên được sự giải bày rất linh động của ông về Thi Thiên 23, hoặc sự ứng dụng mới mẻ về câu chuyện Giô-na-than và Đa-vít. Người ta đã nói rất đúng rằng chức vụ của ông Lê Văn Thái là một bằng chứng hùng biện về sự công hiệu của sự đào tạo trong trường Thánh Kinh Việt Nam của chúng ta.

Ông Thái có dịp tiện tiếp xúc với các nhà báo, đạo cũng như đời. Tại Chicago ông đã tiếp chuyện với bộ biên tập báo Christan Life Magazine và cũng đã được ông chủ bút của báo Moody Monthly phỏng vấn. Phóng viên của nhiều tờ báo trong nhiều thành phố cố tìm gặp ông để phỏng vấn ông về nhiều vấn đề. Những phóng viên thì luôn luôn săn những tin tức sốt dẻo, cho nên họ cố tìm cách gợi cho nhân vật đến từ Việt Nam tuyên bố một vài điều về các vấn đề như: Chủ Nghĩa Cộng Sản, Giáo Hội Công Giáo,v.v… nhưng họ thấy ông không phải ngây thơ như họ tưởng. Những câu ông Thái trả lời luôn luôn được một thượng vị thuộc linh, đôi khi làm cho các nhà báo phỏng vấn ông phải ngạc nhiên. Đáp lại câu hỏi: “Đại đề của những bài giảng của ông là gì?,” ông đã thuyết trình một bài giảng ngắn cho họ về Đức Chúa Jêsus, Cứu Chúa chúng ta, là Đấng làm cho nên thánh, Đấng chữa lành và là Vua Vị Lai. Chẳng có lúc nào mà một nhà báo có thể thành công trong sự đánh lừa để đưa ông đến chỗ tuyên bố một lời có phương hại đến công cuộc truyền giáo của bổn hội. Trước những câu trả lời hóc búa, ông vừa sáng ý nhận thấy lại vừa trả lời cách khôn khéo, sự ấy chứng tỏ ông không tự cậy sự khôn ngoan của mình, mà là nhờ cậy sự khôn ngoan từ Thiên Thượng.

Biết bao lần người anh em chúng ta được hỏi đi hỏi lại rằng cái gì đã làm cho ông cảm xúc nhất tại Mỹ Quốc. Câu trả lời không thay đổi của ông là: không phải những đô thị lớn, những tòa nhà chọc trời, những đại lộ những cầu cống và những nông trại rộng lớn bao la của chúng ta, mà chính là cuộc nhóm họp của một số rất đông những con cái chân thực của Đức Chúa Trời. Chúng ta tin chắc rằng cảm tưởng này của ông Thái sẽ được đề cập đến trong lúc ông phúc trình lại cho các Mục sư, Truyền đạo của ông khi ông trở về Việt Nam. Vậy chúng ta hãy cầu nguyện cho mối tình hữu nghị giữa chúng ta và ông Thái (xin đọc tên ông là TIE có nghĩa là sợi dây), có thể là sợi dây để thắt chặt những tâm hồn của anh em chúng ta tại Mỹ Quốc cũng như Việt Nam trong chuỗi dây yêu thương của Đấng Christ.

P. E. CARLSON

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 186

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

186

2. Những Kỷ Niệm Sâu Đậm Nhất Trong Chuyến Công Du.

Ba bản phúc trình đặc biệt trên đây của ba vị Giáo sĩ, thiết tưởng cũng tạm đủ để nói lên những gì đáng nói. Đó là những lời làm chứng vắn tắt, nhưng phản ánh rất trung thực những thành quả tốt đẹp mà chúng tôi đã thâu hoạch được trong suốt cuộc hành trình dài ba tháng tại Mỹ Quốc.

Bên cạnh những buổi thuyết trình và làm chứng ơn Chúa tại Hội Đồng cũng như tại các Hội Thánh thuộc năm tiểu bang, chúng tôi còn có dịp tổ chức những cuộc thăm viếng, tiếp xúc riêng với các Giáo sĩ và các nhà truyền giáo Mỹ. Chính những lần tiếp xúc, thăm viếng như vậy, đã ghi lại trong tôi những kỷ niệm khó quên.

a. Xuyên đường hầm sang Gia Nã Đại.

Ngày 10-5-1957, sau khi giảng hai lần tại nhà thờ của Mục sư Paul và Praser ở tiểu bang Detroit, tôi được Giáo sĩ Jean Fune mời sang thăm gia đình của ông ở Windsor (Canada).

Tôi vui vẻ nhận lời vì chẳng những Giáo sĩ Jean Fune đối với tôi là chỗ quen biết cũ mà phương tiện di chuyển bằng đường hầm đến Gia Nã Đại là điều khiến tôi ưa thích. Từ Mỹ muốn sang Canada nếu di chuyển bằng đường xe phải xuyên qua đường hầm dưới lòng sông Detroit, thật là một công trình kiến tạo kỳ diệu.

Ngồi trên xe với Giáo sĩ P. E. Carlson, nhưng tâm trí tôi cứ miên man suy nghĩ. Không hiểu người ta làm cách nào mà khiến nước không tràn hoặc thấm vào hầm trong khi sông rất rộng và lòng sông rất sâu; trên sông lại có những tàu lớn qua lại không ngớt. Đường hầm rất rộng, xe chạy hai chiều và quang cảnh cũng náo nhiệt như trên mặt đất, thỉnh thoảng cũng có những ông cảnh binh, cảnh sát lảng vảng hai bên lề đường một cách thản nhiên. Tâm trí tôi xoay tròn chung quanh những vấn đề sáng tạo, phát minh do sự khôn ngoan của loài người, nên xe đến lãnh thổ Canada lúc nào cũng không nhớ rõ.

Gia đình Giáo sĩ Jean Fune tiếp đón chúng tôi rất niềm nở, nhưng vì thời gian có hạn nên không lưu lại được lâu. Lúc trở về chúng tôi vẫn phải chui qua đường hầm ấy. Trong khi đó, tôi bỗng nhớ lại Lời Chúa phán trong Xu 14:29 “Dân Y-sơ-ra-ên đi giữa biển như đi trên đất khô; nước làm thành vách ngăn bên hữu và bên tả.” Quyền năng của Chúa thật vô cùng cao diệu. Ngài có thể gom trọn vũ trụ trong lòng bàn tay. Nên khi xuyên qua đường hầm, tôi rất phấn khởi nghĩ về ý nghĩa của Thi 77:19 “Con đường của Chúa ở trong biển, các lối của Chúa ở trong nước sâu. Còn các dấu Chúa không ai biết đến.”

Đứng trước sự toàn bích vĩ đại của Đức Chúa Trời, khả năng của loài người trở nên quá nhỏ nhen. Con đường hầm kia chẳng qua chỉ là phản quang của một tia sáng nhỏ trong vầng hào quang rực rỡ của Chúa. Tâm trí tôi bình thản trở lại, và lòng tôi lúc ấy chỉ muốn nói như tác giả Thi Thiên: “Hỡi CHÚA, Đức Chúa Trời, xin hãy

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 187

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

187

chỉ dạy cho tôi biết đường lối Ngài, thì tôi sẽ đi theo sự chân thật của Ngài. Xin khiến tôi một lòng kính sợ danh Ngài.” (Thi 86:11)

b. Buổi nhóm cầu nguyện tại Madison Square Garden (N. Y.)

Thể theo chương trình đã được hoạch định, tôi lưu lại Nữu Ước mấy ngày để cùng ông bà Giáo sĩ J. J. Van Hine đi thăm trường Thánh Kinh Nyack và Hội Thánh White Plains của Mục sư Gorden Cathay. Lúc bấy giờ (tháng 5-1957) chiến dịch giảng Tin Lành của Mục sư Billy Graham đang phát động mạnh mẽ ở New York. Nhân cơ hội ấy, tôi được hân hạnh quen Mục sư Billy Graham qua sự giới thiệu của Giáo sĩ V. Van Hine. Sau đó chúng tôi có dịp thảo luận với nhau về nhiều vấn đề, và ngày 15-5-1957 tôi được Tiến sĩ Billy Graham mời dự buổi nhóm cầu nguyện tại MADISON SQUARE GARDEN cùng với sáu người trong ban cầu nguyện của ông. Điều làm tôi cảm động nhiều nhất là trước giờ Mục sư Billy Graham giảng, tôi được mời lên tòa giảng để làm chứng về công việc Chúa tại Việt Nam. Nhân cơ hội ấy tôi đã tường thuật sơ lược lịch sử Hội Thánh nhà và làm chứng về những ơn phước đặc biệt mà Chúa đã ban cho Hội Thánh trong những năm qua trước hai mươi bốn nghìn người tham dự buổi nhóm. Tôi cũng không quên kêu gọi Hội Thánh Quốc Tế hãy cầu nguyện cho Việt Nam sớm có hoà bình, cho Hội Thánh Việt Nam được thịnh vượng và cho toàn thể tín hữu có lòng sốt sắng để đem thật nhiều linh hồn về với Chúa.

c. Bức chân dung Chúa từ bên kia bờ Thái Bình Dương.

Ngày 26-5-1957, trong khi tôi đang ở tại văn phòng của Hội Truyền Giáo, thì Tiến sĩ Harry L. Turner (Hội Trưởng Hội Phước Âm Liên Hiệp lúc bấy giờ) bước vào báo tin ông J. H. Revelle vừa đắc cử chức vụ HỘI TRƯỞNG đoàn Truyền Giáo tại Việt Nam. Gặp tôi, Tiến sĩ Turner rất mừng rỡ và ngồi lại thảo luận rất lâu về công việc Chúa. Cuối cùng, trước khi bắt tay từ giã, ông bỗng hỏi tôi nghĩ thế nào đối với việc một thanh niên vừa đắc cử Hội Trưởng. (xin nói thêm là Tiến sĩ Turner lúc bấy giờ đã ngoài 70 tuổi). Tôi liền trả lời ngay: “Hiện nay là thời đại của tuổi trẻ, và những người trẻ tuổi thường nghĩ rằng họ có thể đưa hai cánh tay ra ôm trọn quả đất và sức họ có thể bưng nổi quả đất lên. Nhưng khi bắt tay vào việc, họ mới thấy mình nhỏ bé quá và họ quay nhìn lại những người già.”

Tiến sĩ Turner liền đứng lên lấy một số tiền (tôi không biết là bao nhiêu) để tặng cho câu trả lời mà ông cho là rất DUYÊN DÁNG VÀ ĐẦY Ý NGHĨA ấy. Tôi từ chối không nhận tiền, nhưng vui lòng nhận những lời khen ngợi của ông.

Về sau, khi tôi đã trở lại Việt Nam, Tiến sĩ Turner có gởi qua tặng tôi bức chân dung Chúa Jêsus có đèn thắp sáng ban đêm. Tôi rất thích bức chân dung ấy. Cho đến nay tôi vẫn còn dùng để treo trong nhà và tôi vẫn thắp đèn sáng chẳng những để tưởng nhớ Chúa mà còn để kỷ niệm cái tình tri kỷ của Tiến sĩ Turner.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 188

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

188

d. Thăm mộ Tiến sĩ A. B. Simpson.

Sáng ngày 27-5-1957, tôi đến thăm trường Thánh Kinh Nyack (lúc bấy giờ ông Mục sư Lê Hoàng Phu đang học tại đó). Đây là cơ hội giúp tôi có thể đi thăm mộ chí Tiến sĩ A. B. Simpson, vị Mục sư có công sáng lập Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp.

Mục sư Simpson có thể bảo là người được ơn Chúa cách đặc biệt, chẳng những ông đã nhận được những khải tượng sâu rộng về truyền giáo, mà còn có đặc ân viết những bài giảng luận Thánh Kinh rất súc tích. Ngoài ra ông cũng còn xuất bản nhiều sách biên khảo hữu ích để lưu lại cho người đời sau.

Phần mộ của Tiến sĩ được xây trên một ngọn đồi trong khuôn viên trường Thánh Kinh Nyack. Quang cảnh nơi đây tuy đơn sơ nhưng hùng vĩ. Dưới chân đồi, một dòng suối nhỏ lượn quanh hai dãy nhà lầu ấm cúng của trường. Ngôi mộ được kết thành bởi hai mươi bốn tảng đá sắp liền nhau. Mỗi tảng đá đều có khắc tên Quốc gia mà Hội Truyền Giáo Phước Âm Liên Hiệp đã đem đạo cứu rỗi của Chúa đến nơi đó, chẳng hạn như Việt Nam, Thái Lan, Phi Luật Tân, v.v….

Tôi chụp tại đây một tấm hình để làm kỷ niệm nơi an nghỉ tạm thời của vị anh hùng đức tin đã có nhiều công lao đối với nhân loại, trong đó có dân tộc thân yêu của chúng ta.

Hình ngôi mộ của Tiến sĩ A B Simpson

e. Ngôi nhà chọc trời và lá thư từ quê hương.

Ngày 19-6-1957, tôi trở lại New York lần thứ hai để chuẩn bị đi Luân Đôn (Anh Quốc) thăm trụ sở của Thánh Kinh Hội, trung tâm ấn hành Thánh Kinh cho toàn thế giới. Lần thứ nhất đến New York, tôi đã có dịp đến thăm trụ sở Thanh niên Cơ Đốc Quốc Tế (YMCA) và cũng đã thảo luận nhiều với những nhà lãnh đạo của họ về việc thiết lập một chi nhánh tại Việt Nam, công việc tiến hành rất tốt đẹp. Hiện nay văn phòng của Hội được đặt tại số 8 đường Trần Nhật Duật, Tân Định Sài Gòn.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 189

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

189

Trở lại New York lần này, tôi được một người bạn hướng dẫn đi quan sát tổng quát ngôi nhà chọc trời sừng sững cao vút ở giữa lòng thành phố Nữu Ước. Đứng trên tầng thứ 102 nhìn xuống đất, tôi nhận thấy con người chẳng khác gì đàn kiến li ti đang di chuyển một cách vội vã trên vỉa hè. So với khung trời bao la trước mắt thì thân phận con người đúng như lời Pascal đã nói là một cây sậy không hơn không kém. Sự xúc động bỗng tràn ngập tâm hồn tôi khi tôi suy nghĩ về tình thương vô bờ bến của Chúa. Ơn cứu chuộc đến với con người không phải bởi những kỳ công vĩ đại mà là bởi tình thương của Đức Chúa Con, một thứ tình thương vô điều kiện.

Về đến văn phòng Hội Truyền Giáo, tôi vui mừng nhận được bức thư của ĐOÀN CÔ NHI từ Nha Trang gởi sang. Thư viết ngày 25-5-1957. Nội dung bức thư chỉ vỏn vẹn mấy dòng chữ nguệch ngoạc như sau: “Kính Ông, chúng con kính lời thăm ông, cầu Chúa thêm sức cho ông. Vắng ông lâu quá chúng con nhớ ông lắm và rất buồn. Chúng con mong ông mau về. Cầu Chúa ở cùng ông. Kính thư.”

Lòng tôi bỗng nhiên cảm động. Sức mạnh của tình thương và ý thức trách nhiệm đối với ĐOÀN TRẺ, khiến tôi không muốn kéo dài cuộc công du thêm nữa. Chiều hôm đó, tôi tuyên bố hủy bỏ chuyến đi Luân Đôn và quyết định trở về Sài Gòn ngày 26-6-1957 mặc dầu vé đi Luân Đôn đã mua rồi.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 190

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

190

CHƯƠNG 7: THỜI KỲ VỀ HƯU

Trong chuyến công du ba tháng tại Mỹ Quốc năm 1957, tôi được hân hạnh cùng Giáo sĩ Herman H. Hazlett đến thăm thành phố Washington North, kinh đô miền Bắc nước Mỹ. Tại đây, chúng tôi có dịp lưu lại hai ngày trong nhà DƯỠNG LÃO, cơ quan từ thiện của Giáo Hội dành riêng cho các Giáo sĩ Ngoại quốc khi về hưu không có chỗ ở hoặc không có thân nhân cấp dưỡng. Trại dưỡng lão nầy trước kia là một viện bài lao của thành phố, tọa lạc trên một ngọn đồi thật đẹp với bốn tòa nhà lớn, giữa có nhà thờ và nhà ăn. Dọc triền đồi lại có những dãy nhà xinh xắn xen lẫn với những hàng cây râm mát.

Nơi đây giờ giấc được chia đều cho mỗi ngày. Cứ 8 giờ sáng có một hồi chuông mời điểm tâm, 12 giờ có hồi chuông ăn trưa và 6 giờ chiều lại có hồi chuông ăn tối. Ngày nào cũng đều đặn như vậy. Sống hai ngày hai đêm tại đây, tôi có dịp quan sát rất kỹ về những bữa ăn, những chỗ ngồi, thì giờ tiêu khiển cũng như thì giờ thờ phượng Chúa của các cụ ông, cụ bà Giáo sĩ về hưu. Tiếng chuông thay cho lời mời. Tôi đứng trên lầu nhìn xuống, thấy các cụ từ những dãy nhà dưới triền đồi cắp tay nhau bước lên những bực thang để tiến đến nhà ăn, người thì tay chống gậy, bước đi trong dáng điệu hết sức mệt nhọc. Quãng đường từ chỗ trọ đến nhà ăn tuy không xa lắm, nhưng dường như được chia làm hai đoạn. Họ phải dừng lại nghỉ mệt vài phút dưới gốc cây rồi mới tiếp tục đi.

Trước giờ ăn chiều, tôi lại thấy các cụ dìu nhau từng đôi một ra ngồi trên những chiếc ghế đá dưới bóng cây như để nhìn trời, nhìn chim bay, nhìn lá rụng, nhìn hoa tàn, nhìn tuyết rơi… Để mà nghĩ về thân phận mình! Cũng có cụ ngồi một mình, tay run run mở Thánh Kinh ra đọc.

A. NHỮNG ÁM ẢNH VỀ HIỆN TƯỢNG GIÀ NUA TRONG CUỘC SỐNG

Hình ảnh tiều tụy của những cụ già trên đây đã lưu lại trong tôi những nét hằn rất đậm không thể nào tẩy xóa được. Lòng tôi nao nao, tâm tư tôi luôn luôn vướng bận khi suy nghĩ về hiện tượng cằn cỗi trong cuộc sống. Đành rằng đã là con người thì không ai có thể thoát khỏi sự chi phối của định luật thiên nhiên này, nhưng không hiểu sao tôi vẫn cứ băn khoăn mãi. Ngay trong lúc thiếu thời, tôi vẫn thường thố lộ với bạn bè là rất sợ sống trong tuổi già, vì khi ấy những người cùng nhịp sống với mình đã lần lượt đi vào cõi đời đời, còn những người đang sống với mình thì lại không có cùng một tâm trạng như mình. Có lẽ chính vì thế sứ đồ Phao-lô trong lúc tuổi già đã nói: “Tôi muốn đi ở với Chúa là hơn.”

Năm 1963, tôi được nghe anh em thuật lại lễ hưu trí của cụ Mục sư Nguyễn Văn Trình do Tổng Liên Hội và Nam hạt tổ chức tại nhà thờ Phan Thanh Giản Sài Gòn ngày 30-5-63, tôi tự hỏi, lễ hưu trí là gì nhỉ? Phải chăng đó là một an ủi, hoặc một khích lệ có tính cách nhất thời đối với những người đã từng lao nhọc trong công trường Thuộc Linh của nhà Chúa? Hay là nó chỉ mang một ý nghĩa thông thường

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 191

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

191

như là bắt đầu giai đoạn không làm việc nữa, sống để dưỡng già chờ chết, hay là hư trí cũng có nghĩa là hưu trí như lời nói đùa của một Giáo sĩ mà tôi có dịp nghe.

Dù hiểu theo nghĩa nào đi nữa thì tuổi già cũng là một đày ải của thân phận. Thời gian của tuổi già là một thời gian để thọ ơn. Chính vì thế mà tôi không thích sống trong tuổi già, không thích hưu trí. Mùa thu năm 1922 tôi đã tình nguyện vào trường Thánh Kinh Đà Nẵng để học biết lẽ thật, để sống theo lẽ thật và làm chứng về chân lý cứu rỗi cho đồng bào một cách hăng hái thế nào, thì cho đến ngày nay (1969), tâm trí tôi vẫn còn sốt sắng và nóng nảy như vậy. Mặc dù sức khỏe có kém đi, nhưng lòng ham thích học Lời Chúa và làm chứng về Chúa vẫn không thay đổi. Có thể bảo còn trội hơn nữa là đằng khác. Trong tác phẩm LES MISERABLES của văn hào Victor Hugo, nhân vật mà tôi thích nhất là anh chàng Jean Valjean. Lương tâm và cuộc đời con người cần phải được đổi mới và như vậy, hễ còn sống trên đất ngày nào thì tôi phải sống cho đúng nghĩa ngày nấy, có như thế, cuộc đời mới đẹp. Trước khi buông xuôi hai tay, lão Ngư ông của Earnest Heminway vẫn còn thừa năng lực để chiến đấu và chiến thắng… “Thuyền về đến bến đã khuya, Ngư ông vác các vật cần thiết về nhà, ngủ rồi không thức dậy nữa.” Một hình ảnh như vậy thật hào hùng biết bao! Suy nghĩ về những câu chuyện trên đây tôi thấy mình có thêm lý do để không thích sống trong tuổi già hoặc sợ sống trong tuổi già cũng thế.

Tuy nhiên, sợ là một lẽ mà buộc phải đối đầu với định luật bất di bất dịch này lại là một lẽ khác. Cho nên những khi đọc những tạp chí hoặc sách báo, nếu gặp những bài CẢO LUẬN liên quan đến vấn đề này, chẳng hạn như: CHUẨN BỊ CHO TUỔI GIÀ, PHẢI BIẾT SỐNG TRONG TUỔI GIÀ, PHẢI THỰC TẾ BIẾT MÌNH GIÀ. v.v… Tôi đều cắt và dán lại thành một tập để nghiên cứu và nhớ ơn Chúa giúp mình trong cuộc sống hiện tại. Chính quyển “Một Quan Niệm về Sống Đẹp” của Nguyễn Hiến Lê dịch từ nguyên tác Anh ngữ của nhà văn nổi tiếng Lâm Ngữ Đường đã đem lại cho tôi nhiều khích lệ. Những tư tưởng của ông rất có giá trị, vì đó chính là những kinh nghiệm sống. Tôi rất hâm mộ nhà văn lão thành này, nhưng dù nói thế nào đi nữa thì tôi vẫn không thích hưu trí. Những từ ngữ HƯU TRÍ, TRÍ SỰ, VỀ HƯU, NGHỈ VIỆC hoặc HƯ TRÍ (mặc dù đùa bỡn) đối với tôi vẫn là một xúc phạm, hay nói đúng hơn đó là một mặc cảm không tốt đẹp. Tôi không muốn bị đặt bên lề cuộc sống như một thừa thãi đối với tất cả mọi sinh hoạt của Giáo Hội và của cuộc đời. Tôi không muốn sống chỉ để thụ hưởng hoặc chỉ để nhận lãnh những sự cung phụng của người khác. Chính vì thế mà tôi không thích nghe đến hai chữ Hưu Trí cũng như không thích nói đến hai chữ HƯ TRÍ. Tôi mang nặng một thành kiến không mấy đẹp đối với hai chữ này.

Nhưng khi học lại sách Dân Số Ký, nhất là những đoạn nói về cuộc hành trình dài bốn mươi năm trong đồng vắng của dân Y-sơ-ra-ên đến Đất Hứa, về mười điều răn trên núi Si-nai và vấn đề phân nhiệm công tác cho mười hai chi phái đóng trại chung quanh đền tạm, tôi bỗng nhận được những sự dạy dỗ mới, Thánh Kinh chép:

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 192

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

192

“CHÚA, Đức Chúa Trời phán cùng Mô-se rằng: Này là luật định về người Lê-vi. Từ hai mươi tuổi sắp lên, người Lê-vi phải đến nhập ban trong công việc Hội mạc. Nhưng đến năm mươi tuổi, người sẽ ra ban, chẳng làm công việc nữa; người phải giúp đỡ anh em mình trong Hội mạc, coi sóc việc chi đã giao cho, nhưng không nên làm công việc nữa. Ngươi phải đối cùng người Lê-vi, mà làm như vậy về chức phận của họ.” (Dan 8:23-26). Đây là luật lệ Chúa đã dành cho người Lê-vi, Chi phái được biệt riêng cho đền tạm để lo việc thờ phượng và Môi se có nhiệm vụ thi hành đứng đắn mệnh lệnh ấy. “Hai mươi tuổi vào ban làm công việc, năm mươi tuổi ra ban không làm công việc nữa. Nhưng phải cứ giúp đỡ anh em trong Hội mạc,” như vậy không phải là hoàn toàn không làm công việc nữa, mà chỉ không nắm giữ quyền hành, không tiếp tục chức vụ lãnh đạo nữa mà thôi. Người “hưu trí” trong trường hợp này có nghĩa là trở về với vai trò phụ giúp hoặc coi sóc việc chi mà người khác đã giao cho mình.

Nhận được sự dạy dỗ này lòng tôi rất vui thích, tuy nhiên, không phải vui thích vì thời gian phục vụ Chúa của người Lê-vi mà là vui thích “ngươi phải cứ giúp đỡ anh em mình trong Hội mạc, coi sóc việc chi đã giao cho, nhưng không nên làm công việc nữa.” Câu Thánh Kinh ngắn ngủi này đã giải đáp những thắc mắc của tôi nhiều năm qua. Tâm trí tôi không còn băn khoăn khi nghĩ đến lúc phải về hưu nữa trái lại, lòng rất thỏa mãn với ý nghĩa của sự HƯU TRÍ trong Dân Số Ký đoạn 8 trên đây.

Thế là sau nhiều ngày suy nghĩ và cầu hỏi ý Chúa, tôi nhận thấy đã đến lúc mình xin về hưu để nhường chỗ cho người khác. Tuy nhiên, để công việc khỏi bị đình trệ, một mặt tôi trình bày vấn đề này với ban Giám Đốc Cô Nhi viện và ông Hội Trưởng Tổng Liên Hội Mục sư Đoàn Văn Miêng (Ông Mục sư Miêng đã chính thức thay thế tôi trong chức vụ Hội Trưởng kể từ năm1960), một mặt tôi viết thư cho Tiến sĩ Kemp, Chủ Tịch Hội CCF (Cơ quan Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc Tế) và thảo luận với ông V. J. Mills, đại diện của CCF tại Việt Nam để xin thu xếp những công việc liên quan đến Viện. Sau đó, tôi gởi một văn thư chính thức lên Ban Trị sự Tổng Liên Hội (vào khoảng cuối năm 1965) để xin HƯU TRÍ.

Trong khi chờ đợi quyết định của trung ương, tôi vẫn vui với những công việc thường nhật. Hơn hai trăm khuôn mặt trẻ thơ trong Viện là nguồn an ủi to tát đối với tôi trong lúc tuổi già. Có thể bảo đây là một tổ ấm của những con chim non côi cút không cha không mẹ thiếu vắng tình thương. Mỗi khi nhìn chúng tung tăng chạy nhảy tôi cảm thấy như lòng mình trẻ lại. Lạy Chúa xin Chúa cho đoàn trẻ thơ này lớn lên trong ý muốn Ngài!

Đến tháng 3-1966 một cuộc nhóm đặc biệt cho các Mục sư Truyền đạo được tổ chức tại Đà Lạt (từ 28-2 đến 4-3-1966). Diễn giả trong dịp này là Tiến sĩ O. J. Sanders hơn 70 tuổi, có Quốc tịch Anh và hiện đang làm Giáo sĩ tại Tân Tây Lan. Tôi rất sung sướng được đến để nghe ông giảng. Suốt chương trình 5 ngày, ngoài những bài giải nghĩa Thánh Kinh rất sâu nhiệm về lẽ đạo Ba Ngôi, Mục sư Sanders

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 193

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

193

còn đề cập nhiều đến tư thế của Mục sư trong chức vụ và chương trình phục vụ Chúa của Mục sư trong Hội Thánh.

Trong phần nói về tư thế của Mục sư trong chức vụ, ông đã nhận định: “người cao tuổi phải rút lui, nhường chỗ cho những người trẻ. Nhưng rút lui, nhường chỗ không có nghĩa là bỏ việc, nghỉ việc, không làm việc nữa, mà là phải đứng ra phía sau để cầu nguyện, giúp ý kiến cho đàng hậu tiến và sẵn lòng đảm nhiệm những chức vụ giao phó mà mình tự cảm thấy có đủ khả năng. Mục sư truyền đạo phải có ý thức rõ rệt về chức vụ của mình đối với Hội Thánh. Hãy cầu nguyện xin Chúa cho chúng ta biết TIẾN đúng lúc và cũng biết THOÁI đúng lúc. Có nhiều người thi hành chức vụ lúc đầu có vẻ như đắc lực nhưng sau cũng thất bại, chính vì không nhận thức được tình thế, hành sự không đúng lúc. Nếu mỗi người chúng ta đều có một nhãn quan Thuộc Linh bén nhạy, biết khi nào nên làm và khi nào không nên làm thì hậu trường của Hội Thánh sẽ mạnh và vui, vì chúng ta biết huy động nhân lực một cách tương xứng trong công trường của nhà Chúa.” Nghe được diều ấy, tôi liền lớn tiếng A-men nhiều lần trong giờ giảng. Khi thấy tôi làm như vậy, thì một số anh em Mục sư Truyền đạo liền nhìn tôi với một NỤ CƯỜI. Sự thật, họ đâu biết được tôi vốn có ý nghĩ như vậy từ lâu nhưng chưa có dịp nói ra.

Sau khi ở Đà Lạt về, vào cuối tháng 3 năm 1966 tôi gởi một văn thư khác cho Tổng Liên Hội để nhắc lại đơn xin hưu trí của tôi trước đây. Trong văn thư này, một lần nữa tôi tha thiết xin Ban Trị sự Tổng Liên Hội cho phép tôi được về hưu bắt đầu từ ngày1-7-1968, đồng thời cũng xin Ban Trị sự Tổng Liên Hội đề cử người khác thay thế tôi trong chức vụ Giám Đốc Cô Nhi viện kể từ ngày nói trên. Sở dĩ tôi phải dự trù một thời gian khá dài như vậy là để cho Ban Trị sự Tổng Liên Hội và Cơ quan Bảo Trợ Nhi Đồng Quốc Tế có đủ thì giờ lo liệu công việc.

B. LỄ HƯU TRÍ VÀ BÀN GIAO CHỨC VỤ GIÁM ĐỐC CÔ NHI VIỆN

Y theo đơn xin, ngày 21-5-1968 Ban Trị sự Tổng Liên Hội nhóm lại và đồng ý chấp thuận cho tôi được về hưu do biên bản số 3-68-TLH-167, đồng thời đặt cử ông Mục sư Trần Văn Đệ giữ chức vụ Giám đốc Cô Nhi viện thay tôi. Khi nhận được biên bản ấy, tôi liền mời ban Giám Đốc Cô Nhi viện nhóm lại để kiểm điểm sổ sách, tiền bạc và soạn thảo văn thư bàn giao giữa tôi và Mục sư Tân Giám đốc. Lễ bàn giao chính thức được tổ chức tại nhà thờ Cô Nhi viện lúc 16 giờ chiều ngày 30-6-1968 do Mục sư Trần Trọng Thục Chủ nhiệm Địa hạt Nam Trung phần chủ tọa.

1. Diễn Từ Của Mục sư Phó Hội trưởng Tổng Liên Hội.

Ông Mục sư Vũ Văn Cư Phó Hội Trưởng Tổng Liên Hội thay mặt Mục sư Hội Trưởng Tổng Liên Hội trình bày đại cương về việc thành lập Cô Nhi viện và tuyên đọc biên bản của Tổng Liên Hội, nguyên văn như sau:

Kính thưa quý vị quan khách.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 194

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

194

Được một khải tượng về công việc của Chúa là một đặc ân của Ngài. Biến khải tượng thành một thực sự ấy là công việc của đức tin neo mình trong tay Chúa cùng với ý chí quyết theo sự dẫn dắt của Thánh Linh.

Đang khi chúng ta ngồi trong nhà thờ của khu cô nhi viên, hãy hồi tưởng đến khoảng thời gian 15 năm trước đây, khuôn viên nầy chỉ là một miếng đất hoang vắng và lạnh lẽo như cái nghĩa địa ở bên kia Quốc lộ số 1 đối diện với nó. Lúc ấy cụ Mục sư Lê Văn Thái giữ chức Hội Trưởng của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, đã được khải tượng về công tác mới của Hội Thánh, công tác xã hội, để bày tỏ các thực tế của Cơ Đốc Giáo cho đồng bào. Năm 1952-1953, cuộc chiến tranh Việt Pháp đang hồi quyết liệt, gieo tang tóc cho nhiều gia đình tín hữu. Hình ảnh các em thiếu nhi không cha, thiếu mẹ, nheo nhóc, đã gây xúc động cho đầy tớ Ngài khi đi thăm đây đó. Đức Chúa Trời đã dùng những hình ảnh sống động ấy mà ban cho cụ khải tượng về sự thành lập một Cô Nhi viện. Để thúc đẩy đầy tớ Chúa trong công tác nầy Ngài đã cảm động Cố Giáo sĩ W. C. Cadman, trước khi qua đời để lại một chúc thư, di tặng tài sản của mình cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Chính tài sản ấy đã được dùng để xây cất những cơ sở đầu tiên của Cô Nhi viện. Buổi đầu của một công tác mới thì tránh sao cho khỏi những khó khăn ngăn trở từ bên ngoài lẫn bên trong! Nhưng với ý chí cương quyết và lòng tin vững vàng, cụ đã vượt qua mọi chặng đường ấy. Sau 15 năm kiên trì hoạt động của cụ, chúng ta đều thấy Cô Nhi viện đã được mở mang đồ sộ như ngày nay về phần cơ sở cũng như số lượng các em cô nhi. Thật, cụ Mục sư Lê Văn Thái đã gây đựng cho Hội Thánh Tin Lành Việt Nam một tài sản đáng giá hàng chục triệu đồng, để lại cho chúng ta một gương sáng về tinh thần hầu việc Chúa, hướng theo một mục đích cao cả, rất khích lệ chúng ta.

Hiện nay tuổi cụ đã cao, sức khỏe không được thường, cụ đã gởi đơn lên Ban Trị sự Tổng Liên Hội xin nghỉ chức vụ Giám Đốc Cô Nhi viện và hồi hưu. Trong kỳ họp từ ngày 21-25 tháng 5 năm 1968, Ban Trị sự đã đồng thanh chấp thuận để cụ nghỉ chức Giám đốc và hồi hưu. Vậy, thay mặt cho Ban Trị sự Tổng Liên Hội tôi xin tuyên đọc biên bản:

Biên bản số 3-68-TLH-167, nhóm từ ngày 21-25 tháng 5 năm 1968.

Khoản 6. Biểu quyết chấp thuận đơn của cụ Mục sư Lê Văn Thái đề ngày 20-3-1968, xin nghỉ chức Giám Đốc Cô Nhi viện Tin Lành Nha Trang kể từ đầu tháng 7 năm 1968. Thông qua.

Khoản 7. Biểu quyết chấp thuận đơn của Mục sư Lê Văn Thái đề ngày 20-3-1968 xin hưu trí kể từ đầu tháng 7 năm 1968. Thông qua.

Khoản 8. Biểu quyết thuận cử Mục sư Trần Văn Đệ giữ nhiệm vụ Giám Đốc Cô Nhi viện Tin Lành Nha Trang một nhiệm kỳ 2 năm kể từ đầu tháng 7 năm 1968 thay

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 195

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

195

cho Mục sư Lê Văn Thái xin nghỉ. Đồng thời Mục sư Đệ kiêm nhiệm chức vụ trưởng ban phát thanh Tin Lành cho đến khi có sự sắp đặt mới. Thông qua.

Trước khi cụ Mục sư Giám Đốc từ giã chức vụ, tôi thay mặt cho Ban Trị sự Tổng Liên Hội chân thành cảm ơn cụ đã để lại cho Hội Thánh một công tác thật tốt đẹp. Chúa hẳn chẳng khi nào quên công khó của cụ. Theo hình thức tổ chức của Hội Thánh chúng ta thì nhiệm vụ của cụ sắp chấm dứt, song theo tinh thần phục vụ Chúa thì tôi tin rằng cụ chưa được nghỉ cho đến khi Chúa chấp thuận.

Thưa ông Mục sư tân Giám Đốc Cô Nhi viện, tôi thay mặt cho Ban Trị sự Tổng Liên Hội, vui mừng hoan nghinh ông vào chức vụ mới, một chức vụ không thiếu khó khăn và cần sự tế nhị. Nguyện Chúa ban trên ông ân sủng dồi dào để hoàn thành nhiệm vụ. A-men.

Nha Trang, Chúa nhật 30 tháng 6 năm 1968

2. Lời Tri Ân Của Một Em Cô Nhi.

Sau khi ông Mục sư Phó Hội trưởng dứt lời, một em bé cô nhi từ tốn bước ra đứng trước chúng tôi và đọc những lời tri ân sau đây với một giọng nhỏ nhẹ cảm động:

Kính thưa cụ Giám Đốc,

Thưa ông bà rất quý mến của chúng con,

Hôm nay là lễ HƯU TRÍ của ông và cũng là ngày ông bàn giao chức vụ Giám Đốc. Chúng con vô cùng bùi ngùi cảm xúc. Không phải giờ phút này, chúng con mới thấy nỗi buồn nhớ của chúng con. Nhưng từ mấy tháng nay nghe ông sắp về hưu, lòng chúng con đã bối rối và buồn rầu vô hạn.

Chúng con được biết rằng, nơi đây xưa kia chỉ là một bãi cát hoang; thế mà, ông đã cậy ơn Chúa, với bao công lao khó nhọc và lo lắng, xây dựng cho Viện mỗi ngày một phát triển thêm. Nhờ đó mà ngày nay, Viện mới có được quang cảnh tốt đẹp như vậy. Trải 15 năm qua, ông bà đã hao tâm, tổn trí, lo lắng xây dựng cho biết bao anh chị cô nhi chúng con, trong số đó đã có nhiều người đã thành gia thất và đã chiếm được những địa vị khả quan trong xã hội. Ông bà lại còn luôn lo lắng cho chúng con từng li từng tí, nào là áo cơm, nào là nơi ăn chỗ ngủ, nơi thờ phượng Chúa, chỗ học. Nhưng không phải ông bà chỉ lo cho chúng con có vậy thôi đâu, chúng con còn nhận nơi ông bà một tình thương mà chúng con không tìm đâu thấy, một tình thương làm ấm áp lòng chúng con, một tình thương làm sống lại nơi chúng con là những trẻ xấu số, một niềm hy vọng tươi mới.

Hàng ngày thấy bóng dáng ông, lòng chúng con cảm thấy vững vàng, trí chúng con được tươi vui.

Thưa ông bà quý mến của chúng con.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 196

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

196

Tuổi trẻ chúng con thường hay mắc lỗi lầm, ưa làm trái kỷ luật, nhưng khi nghĩ đến ông bà, chúng con lại sợ ông bà buồn, nên chúng con thường bảo nhau, cố gắng sống ngoan ngoãn để ông bà vui trong tuổi già mà lo lắng cho chúng con. Một vài ngày vắng bóng ông, thiếu nụ cười hiền hòa của ông, lòng chúng con đã cảm thấy trống vắng quá nhiều. Thế mà nay ông lại nghỉ luôn, thì kể sao cho xiết nỗi nhớ thương của chúng con được. Chúng con là những kẻ thiếu cha, mất mẹ, Chúa đã thương chúng con, cho chúng con sống trong Viện đây, và chúng con cảm thấy được hưởng tình thương ấm áp như trong một gia đình. Ông bà chính là cha mẹ, là ông bà của chúng con, nhưng chúng con biết rằng, thời gian trôi qua không ngừng, và chúng con có sức gì để níu kéo thời gian lại. Thật vậy, tuổi ông bà mỗi ngày một cao, và bao nhiêu năm ông bà đã tận tụy lo gây dựng công việc nhà Chúa, hơn nữa, những năm sau này, ông bà đã để hết tâm lực lo lắng cho đoàn cô nhi chúng con. Bây giờ là lúc ông bà đáng phải được nghỉ ngơi, với niềm vui là nhìn thấy những hạt giống của ông bà đã gieo ra được mọc lên, và đương đâm bông kết quả tốt đẹp cho nhà Chúa. Ông chính là người đã sáng lập ra Viện này, tinh thần vị tha và lòng yêu thương cao quý của ông bà sẽ là ngọn lửa bất diệt bừng sáng mãi nơi đây. Vì vậy, con xin thay lời cho các anh em cô nhi đã xuất viện, cho anh chị em chúng con hiện đang sống tại Viện, và những lớp cô nhi sẽ vào sống trong Viện sau này. Chân thành nói lên lòng biết ơn vô bờ bến của chúng con đối với ông bà rất quý mến của chúng con. Để tỏ lòng biết ơn ông bà, chúng con chỉ biết gắng sức học hành, hết lòng kính sợ Chúa, để trở nên người ích lợi cho nhà Chúa và mai sau. Chúng con biết ông bà chỉ mong ước nơi chúng con có vậy mà thôi.

TÔ THỊ NHỎ

Đọc tại nhà thờ Cô Nhi viện

Ngày 30-6-1968

3. Những Lời Chúc Mừng Của Anh Em Tín Hữu Và Các Bạn Hữu Đồng Lao.

Trong buổi lễ bàn giao hôm ấy, cụ Mục sư ÔNG VĂN HUYÊN, Viện Trưởng Thánh Kinh Thần Học Viện Nha Trang có cảm tác một bài thơ tặng tôi với tư cách một người bạn đồng song và đồng lao, ý thơ của cụ chân thành và cảm động. Mặc dù cùng một lúc, tôi đã nhận được rất nhiều thư từ, điện tín của quý vị Mục sư Truyền đạo, tín hữu và thân nhân của các em Cô nhi từ khắp nơi gởi về chúc mừng, nhưng tôi chỉ xin mạn phép chép lại bài thơ của cụ Huyên để gọi là đặc biệt kỷ niệm một tình bạn. Hơn bốn mươi năm trước (1922), chúng tôi đã cùng nhau bước chân vào trường Thánh Kinh Đà Nẵng để học hỏi Lời Chúa, và từ ngày ấy đến nay chúng tôi luôn luôn kề cận bên nhau trong những giờ phút khó khăn nhất của lịch sử Giáo Hội. Cụ tiễn tôi với giọng bùi điệu bùi ngùi và tôi bắt tay cụ với những mối cảm hoài không tả được. Sau đây là nguyên văn bài thơ của cụ:

“LỄ HƯU TRÍ cảm tạ ơn Cha,

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 197

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

197

BÀN thạch tay thiên vững nếp nhà.

GIAO hối trẻ côi ÂN đức trọng,

GIÁM minh son sắt CHÁNH trung hòa.

ĐỐC đôn mười lẽ năm năm trọn

CÔ đãi năm nay bảy chục già.

NHI ấu bùi ngùi nhìn núi THÁI.

VIỆN tiền ĐỆ tử tủi mừng ca.”

Đồng song và đồng lao

Mục sư ÔNG VĂN HUYÊN.

Sau lễ bàn giao chức vụ Giám Đốc trong phạm vi Cô Nhi viện ngày 30-6-1968, Địa hạt Nam Trung phần và Tổng Liên Hội quyết định chính thức lễ HƯU TRÍ của chúng tôi tại nhà thờ Hội Thánh Tin Lành Nha Trang vào lúc mười sáu giờ ngày 8-8-1968. Đây là một ưu ái, một danh dự đặc biệt mà Hội Thánh đã dành cho chúng tôi. Buổi lễ hôm ấy do ông Mục sư Trần Trọng Thục Chủ nhiệm Địa Hạt Nam Trung phần chủ tọa.

Chúng tôi bước vào nhà thờ dự lễ hưu trí, lòng hân hoan như ngày lãnh bằng TỐT NGHIỆP tại trường Thánh Kinh Đà Nẵng (27-4-1928) Hơn bốn mươi năm qua rồi, cái bằng tốt nghiệp bằng giấy của tôi, vì chiến tranh nó đã thất lạc nơi nào tôi cũng không còn nhớ nữa. Nhưng tôi tin chắc rằng không có gì mất đi trước mặt Chúa. Ngài đã ghi tất cả trong quyển sách rồi. Khi Chúa đến, QUYỂN SÁCH ấy sẽ mở ra.

Quang cảnh buổi lễ hôm ấy tuy đơn sơ nhưng không kém phần long trọng. Trong những ngày còn lại trên đất này, đối với tôi đây chính là một trong những kỷ niệm khó quên. Quá khứ đã trở về với tôi một cách êm đềm và lặng lẽ. Nhìn lại những đoạn đường đã qua, tôi thật có cớ để ngợi khen sự gìn giữ và bao bọc của Chúa. Đại cương buổi lễ đã được ông Lạc Giao ghi lại như sau:

Lễ Hưu Trí của cụ Mục sư Lê Văn Thái.

Chiếu theo quyết nghị Tổng Liên Hội vừa lúc đề cập đến một nghi lễ cần được cử hành để TẠ ƠN CHÚA và sau là để tôn quý các vị Mục sư Truyền đạo đã đáo hạn và đủ điều kiện, khi các vị ấy xin Hồi Hưu như câu khẩu hiệu có IN ở chương trình buổi lễ hôm nay:

“Nếu ai hầu việc TA thì CHA TA ắt tôn quý người” (Gi 12:26)

Địa hạt Nam Trung phần, lần này chiếu theo quyết nghị đó mà cử hành lễ HƯU TRÍ cho cụ Mục sư LÊ VĂN THÁI. Tuy nhiên, cụ Mục sư THÁI không phải làvị hồi

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 198

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

198

hưu đầu tiên ở Nam Trung hạt, nhưng lễ HƯU TRÍ này là lần đầu tiên, vì buổi lễ được cử hành ngay sau khi có quyết nghị Tổng Liên Hội ban hành.

Lễ cử hành tại nhà thờ chi hội Nha Trang vào lúc mười sáu giờ ngày 8-8-1968 và đặt dưới quyền chủ tọa của Mục sư TRẦN TRỌNG THỤC chủ nhiệm Nam Trung phần.

Bên ngoài nhà thờ chiều nay, bỗng trở nên rộn rịp đông đảo khác thường. Và bên trong được trang trí tôn nghiêm. Ngay trước giảng đài, một tấm băng màu trắng chạy suốt bề ngang, viết bằng chữ màu đỏ “LỄ HƯU TRÍ CỦA CỤ MỤC SƯ LÊ VĂN THÁI.”

Khung cảnh nhà thờ nghiễm nhiên đứng trong tư thế huy hoàng náo nhiệt. Nhưng hình như bầu không khí bao trùm đâu đây… thấm đượm những nỗi ngậm ngùi, khó tả. Gần hết các vị Mục sư, Truyền đạo của Nam Trung phần về đủ. Có sự hiện diện của các quý ông Hội Trưởng Tổng Liên Hội, Hội Trưởng Truyền Giáo, các quý ông bà trong ban Giáo sư Thần Học viện, các quý ông Giám Đốc Cô Nhi viện, Chẩn y viện, Mục sư đại diện Hội Thánh Mỹ Tho, Giám Đốc Nha Tuyên Úy Tin Lành…

Về các ban hát của biệt lễ ca như ban thanh niên Nha Trang, Cô Nhi viện và Mục sư, Truyền đạo trong hạt. Rồi một thiên bút ký lược trình về chức vụ của Mục sư LÊ VĂN THÁI do thư ký địa hạt tuyên đọc. Bản lược trình, đã rút gọn, thể theo lời, thời gian hữu hạn của buổi lễ, nhưng cũng vừa đủ để nói lên đại ý một cuộc đời, vừa sâu đậm vừa uẩn khúc đã lướt qua bao độ thăng trầm! Một cuộc đời từng hiến dâng cho Đức Chúa Trời để phục vụ Hội Thánh, quả là một cuộc đời đẹp đẽ biết bao!...

Suốt trong bốn mươi sáu năm đằng đẵng của chức vụ, lại xen vào một khoảng khá lâu dài của thời chinh chiến, Tổ Quốc lâm nguy, thời thế tô đậm màu lửa, máu!!.

Không thể quên rằng cụ Mục sư LÊ VĂN THÁI đã từng là Truyền đạo, là Mục sư, là Chủ Nhiệm, là Hội Trưởng (suốt mười tám năm) là Giám Đốc, sáng lập Cô Nhi viện (liên tiếp cả mười lăm năm). Cụ là một chiến sĩ lão thành của Thập Tự Giá, đã từng gan dạ, xông pha trên các mặt trận, giong ruổi trên linh trình, đã gót nửa thế kỷ như mới thoáng qua!!

Ông thư ký chấm dứt bản lược trình, thì có những lời chúc mừng, bày tỏ cảm tưởng kính mến đối với cụ là một người được Chúa đại dụng, do các quý ông Hội Trưởng Tổng Liên Hội, Chủ Nhiệm Nam Trung Phần, các quý Giám Đốc Cô Nhi viện và Chẩn y viện, quý ông Viện Trưởng Thần học viện và nhất là những lời luyến tiếc nồng nhiệt của đàn trẻ mồ côi cũng như thố lộ tâm ý cách não nùng để tiễn đưa cụ Giám Đốc sáng lập Cô Nhi viện về hưu. Chính cụ Mục sư Lê Văn Thái, nhân dịp này cũng bày tỏ tâm sự, khiến ai nấy nghe qua, cũng phải ngậm ngùi mến phục.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 199

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

199

Rồi đến số đông tín hữu xa gần từ Sài Gòn và các nơi có mặt cũng ngõ lời tri ân sâu xa với Cụ, đã có công dắt dìu họ từ lâu.

Rồi các tặng phẩm, lần lượt kính tặng cụ để làm món quà kỷ niệm của các cơ quan như Tổng Liên Hội, Địa hạt, Thần học viện, Cô Nhi viện, cùng các tín hữu tư nhân…

Một số khá nhiều các điện tín, thư, thiệp gởi đến chúc mừng cụ Mục sư trong buổi lễ này.

Sau hết là một vòng hoa Danh Dự, tượng trưng cuộc chiến thắng do đại diện của Tổng Liên Hội là Mục sư Phạm Văn Năm choàng ngang lên vai và cổ của vị Lãnh Đạo Tinh Thần đã tận tụy hiến dâng đời sống để phục vụ Hội Thánh Tin Lành Việt Nam.

Tất cả Hội trường đứng dậy, chào mừng và buổi lễ chấm dứt trong tiếng ca vang, tôn vinh danh Chúa. Sau khi vị Giáo sĩ Hội Trưởng E. R. IRWIN giơ tay chúc phước vào lúc mười bảy giờ hai mươi ngày tháng như trên.

Lạc Giao ký thuật.

Cũng như trong buổi lễ tổ chức tại nhà thờ Cô Nhi viện hơn tháng trước, lần này thư từ và điện tín từ khắp các nơi gởi về nhiều quá, tôi không thể trả lời cũng như không thể chép hết lại được. Để lưu niệm, xin phép quý vị độc giả cho tôi được chọn mỗi thành phần một bài mà thôi. Đó là những bài thơ tiêu biểu của những người đã từng “góp mặt” với tôi trong những quãng đường dài hầu việc Chúa, với chủ tâm đó, nên trong giới bạn hữu biết nhau từ thuở nhỏ, tôi hân hoan ghi lại đây bài thơ của ông Nguyễn Văn Hạng, người đã cùng tôi sống chung trong một Hội Thánh lúc thiếu thời và cùng gia đình bị bắt bớ khủng khiếp. Cảm ơn Chúa ông đã giữ vững được đức tin và điều vui sướng hơn hết là cho đến ngày nay ông và tôi vẫn thường có dịp gặp nhau chung trong một nhà thờ. Tôi rất cảm động nhìn thấy ông có mặt trong buổi lễ HƯU TRÍ. Ông đã sốt sắng đến dự và chúc mừng tôi với những lời lẽ chân thành. Riêng về các con cái Chúa, tôi xin chọn bài thơ của cụ Nguyễn Thiện Đạo, một tín hữu lão thành quê quán ở miền Bắc, hiện cư trú tại miền Nam. Cụ Đạo là người đã từng cộng tác đắc lực của tôi trong việc rao truyền Tin Lành cho đồng bào miền Bắc như tôi đã có dịp đề cập đến nhiều lần ở những phần trước. Trong giới phụ nữ, có bài thơ của bà Mục sư Phạm Văn Năm hiện hầu việc Chúa tại Thánh Kinh Thần học viện Nha Trang. Và sau cùng là bài thơ của cụ Mục sư Ông Văn Huyên đọc trong bữa ăn chung sau lễ HƯU TRÍ. (Đây là bài thơ thứ hai cụ Huyên đã cảm tác để tặng tôi).

Bài thơ ứng khẩu của cụ Mục sư Ông Văn Huyên

“Mừng anh HƯU TRÍ trí chưa HƯU

Cùng bạn đồng lao cộng lạc ưu

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 200

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

200

Tiệc lớn cười kêu vang núi THÁI

Nghìn thu ơn Chúa sử di lưu.”

Bạn, Mục sư Ông Văn Huyên

Bài thơ của ông Nguyễn Văn Hạng

“Chúc mừng hai cụ sống cho Ngài

Phước Chúa xưa nay đã láng lai

Gia đình các cháu càng nẩy nở

Tuổi tác ông bà vẫn bền giai

Chức vụ thành tâm không thiếu sót

Ơn trên thỏa mãn chẳng hề sai

Nay còn nguyện Chúa ban thêm sức

Để được tùy theo ý muốn Ngài.”

Nguyễn Văn Hạng

Tín đồ Nha Trang

Bài thơ của cụ Nguyễn Thiện Đạo

“Hai cụ LÊ VĂN THÁI Mục sư

Hy sinh phục vụ Chúa nhân từ

Thánh Kinh cõi Việt rao truyền khắp [6]

Cô viện Hòn Chồng vững lập như [7]

Bốn sáu năm trường, công tác trọn

Bảy mươi tuổi thọ phúc phần dư

Triều thiên mão đội ca khen Chúa,

Vạn thuở danh còn tại thánh thư.”

Khánh Hội ngày 1-8-1968

Chân sinh Nguyễn Thiện Đạo kính tặng

Bài thơ của bà Mục sư Phạm Văn Năm.

“Đường trời trải bước lắm gian nan!

Noi dấu Chiên Con thật vẻ vang

Bốn sáu năm trường trong trận chiến,

Bảy mươi tuổi thọ vẫn an toàn

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 201

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

201

Linh công rực rỡ người ghi nhận

Mão miện huy hoàng Chúa sẵn ban

Mừng cụ HỒI HƯU tròn nhiệm vụ,

Đôi dòng sử liệu điểm thêm trang.”

Bà Mục sư Phạm Văn Năm.

Thần học viện Nha Trang.

C. SINH HOẠT TRONG NHỮNG NGÀY CÒN LẠI

Thắm thoát tôi đã về HƯU được hơn một năm. Trong thời gian này, một biến cố hết sức chua xót bỗng xảy đến cho gia đình tôi; NHÀ TÔI QUA ĐỜI! Đây có thể bảo là thử thách to lớn nhất đối với tôi trong những ngày còn lại trên đất.

Nhà tôi một người đàn bà mảnh khảnh, hiền hòa và chân thật, luôn luôn lấy sự mình có làm đủ, kiên nhẫn, trung tín với Chúa và trung tín với mọi người. Bà đã vượt lên trước tôi và đã chiếm được: “SỰ YÊN NGHĨ ĐỜI ĐỜI TRONG NƯỚC CHÚA” lúc mười chín giờ ba mươi ngày 24-2-1969 tại nhà riêng ở số 80 đường Nguyễn Hoàng, Nha Trang. Tang lễ cử hành lúc mười sáu giờ ngày 28-2-1969 tại nhà thờ Hội Thánh Nha Trang do cụ Mục sư Ông Văn Huyên làm chủ lễ. Sau đó, thân xác của nhà tôi tạm gởi trong lòng nghĩa trang Thần học viện Nha Trang.

Trước giờ di quan, cụ Mục sư Huyên đã mời ông Mục sư Vũ Văn Cư, với tư cách một con cái Chúa ở Hà Nội, đã biết chúng tôi lâu năm nói vài lời về tiểu sử của bà Lê Văn Thái. Tôi xin mạn phép ghi lại những lời của ông, để nhớ lại nhà tôi một người đàn bà đã hy sinh trọn đời giúp đỡ tôi trong chức vụ hầu việc Chúa.

“Kính thưa quý vị,

Đức Chúa Trời đã đẹp lòng đem một người yêu dấu giữa chúng ta là cụ bà Mục sư Lê Văn Thái về yên nghỉ trong nước của Ngài.

Cụ bà Mục sư Lê Văn Thái nhủ danh là Công Tôn Nữ Tú Oanh, một người thuộc Hoàng phái, nhờ ơn thương xót của Cứu Chúa, đã sớm trở thành một “người nhà của Đức Chúa Trời.” Đó là vào khoảng năm 1920, như vậy, chúng ta phải coi cụ như một trong những tín đồ đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam. Sau khi tin Chúa, cụ đã dắt đem người chị đến với Chúa. Đến năm 1921, cụ đi học trường Thánh Kinh tại Đà Nẵng. Năm 1922 cụ ra Hà Nội hầu việc Chúa năm 1923 cụ về học lại và chính tại đây cụ đã gặp cụ ông, sau đó hai người đã thành hôn năm 1924 và ra đi hầu việc Chúa lần đầu tiên tại Hội An năm 1925, Mỹ Tho năm 1926. Đến năm 1927 cụ ông về học năm tốt nghiệp, rồi được bổ nhiệm ra Bắc hầu việc Chúa từ năm 1928 đến năm 1951. Phần lớn thời gian này là làm Mục sư của Hội Thánh Hà Nội. Hai cụ đã đến phủ Lạng Thương thành lập Hội Thánh tại đây rồi trở về Hà Nội. Hình ảnh cụ bà như khó phai mờ trong lòng các con cái Chúa tại Hội Thánh

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 202

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

202

Hà Nội. Phải, làm sao họ có thể mau quên được cái dáng người dịu dàng hiền hậu, cái nét mặt chân thành chất phát với tấm lòng chứa đựng tình cảm bén nhạy: vui với người vui, buồn với người buồn, xót xa với người đau khổ,v.v… Cái hình ảnh ấy tạo một không khí đầm ấm, chân thật đậm đà của cảnh một đại gia đình êm ấm. Dẫu khi cụ ông đã ra khỏi Hội Thánh để lãnh chức vụ Chủ Nhiệm của một hạt thì cái tình giữa cụ với các con cái Chúa ở Hà Nội vẫn không kém đầm thấm. Thêm vào đó, trong cụ, chúng tôi cũng nhận thấy một mẫu người phụ nữ Á Đông, mặc dầu đã chịu rất nhiều ảnh hưởng của Cơ Đốc giáo: Lặng lẽ chăm sóc chồng, chăm nuôi con, coi sóc gia đình là trọng hơn chính bản thân. Khi cụ ông lên chức Hội Trưởng của Hội Thánh, cụ đã tâm tình rằng: “Tôi không thích ai gọi tôi là bà Hội Trưởng, gọi tôi là bà Mục sư, tôi vui hơn.” Chính những tháng chót của đời cụ, cụ vẫn lo lắng cho sức khỏe của cụ ông hơn là chính mình. Bởi vậy, trong chức vụ Hội Trưởng, đầy khó khăn và đau khổ, cụ đã được an ủi rất nhiều từ nơi cụ bà.

Năm 1951 cụ cùng với cụ ông phải lìa Hà Nội để lên Đà Lạt vì cớ công việc chung của Hội Thánh; việc này đã khiến cho cụ bà cảm xúc buồn bã như phải giã từ quê hương yêu dấu với các người thân thích vậy. Vào năm 1960, cụ ông không chịu ra ứng cử Hội Trưởng nữa, lui về giữ chức Giám đốc Cô Nhi viện, nên hai cụ đã xuống Nha Trang để hầu việc Chúa. Dầu ở Hà Nội, Đà Lạt hay Nha Trang thì cụ bà vẫn đóng vai trò “nội tướng” đảm đang, chia sẻ với cụ ông trong các công việc chung cũng như ở gia đình riêng, khiến cụ ông được an lòng gánh vác công việc Chúa. Vào mùa đông vừa qua như được linh tính báo trước những ngày ở trên đất sắp chấm dứt, cụ đã có những lời trối lại cho cụ ông và con gái là bà Nguyễn Châu Chánh. Sau ngày tết nguyên đán Kỷ Dậu, cụ thấy sức yếu hơn thường, dầu bác sĩ đã tận tình chạy chữa, song vẫn không khả quan hơn, cứ suy nhược hơn! Anh em, bà con thân thích nghe tin cụ đau nặng, đã đến thăm, cụ vẫn tỉnh táo nói chuyện với mọi người. Thế rồi vào lúc mười chín giờ mười lăm, ngày 24 tháng 2 năm 1969 tức là ngày 8 tháng giêng năm Kỷ Dậu, cụ bà đã nghỉ yên trong Chúa, hưởng thọ bảy mươi tuổi.

Cụ bà Mục sư Lê Văn Thái đã ra đi, còn để lại cụ ông, bà Nguyễn Châu Chánh là con gái của cụ, hiện nay là hiệu trưởng trường Bết-lê-hem, rễ là Mục sư Tuyên Uý Đại Uý Nguyễn Châu Chánh, hiện là Tuyên Uý Trưởng trong quân chủng Hải quân của Quân lực Việt Nam Cộng Hòa, với các cháu ngoại.

Cụ bà Mục sư Lê Văn Thái mất đi để lại một chỗ trống trong gia đình, một mối tiếc thương trong quyến thuộc, cho thân hữu, và từ đây Hội Thánh cũng vắng bóng một người thân yêu. Trong những nỗi bùi ngùi thương nhớ người đã khuất, chúng ta cũng có những cớ để ngợi khen Chúa. Chúng ta ngợi khen Chúa vì đã ban cho đầy tớ Ngài một giấc ngủ êm đềm trong cánh tay thương yêu của Ngài; từ đây, những gì của trần tục này không con quấy rầy người nữa. Lòng trung tín của một đầy tớ, tình thương yêu của người chăn, sự đảm đang của một người vợ, lòng hy

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 203

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

203

sinh của một người mẹ, lúc nào cũng quên mình vì người khác, quả đã để lại cho chúng ta một gương tốt đẹp; đây là một sự kỳ diệu của ân sủng Đức Chúa Trời. Và trong nỗi bùi ngùi đau xót của cảnh kẻ mất người còn, đồng thời cũng bùng lên trong chúng ta một niềm hy vọng an ủi lòng chúng ta. Chúng ta sẽ gặp lại người yêu dấu của chúng ta trong ngày Chúa lấy đại quyền đại vinh, ngự trên mây trời mà xuống. Lúc ấy, hết thảy chúng ta sẽ ở cùng Chúa luôn luôn.” A-men

Mục sư Vũ Văn Cư

D. BỨC THƯ BỎ NGÕ

Trước ngày bàn giao chức vụ Giám đốc Cô Nhi viện tôi cũng có gởi đến bạn đồng lao và tín hữu trong cũng như ngoài nước một bức thư ngỏ nhằm mục đích tôn vinh Chúa và cảm tạ sự ủng hộ nhiệt thành của hầu hết con cái yêu dấu của Chúa đối với CÔ NHI VIỆN trong những năm qua. Trong bức thư ấy tôi đã kể lại sơ lược từ những ngày đầu tiên thành lập Viện và bây giờ tôi xin ghi lại một lần nữa chúng ta có dịp nhớ đến công lao của những người đã góp phần đắc lực trong việc kiến tạo cơ sở từ thiện tốt đẹp này:

Nha Trang, ngày 20 tháng 6 năm 1968

Thư ngỏ của Mục sư Lê Văn Thái

Giám Đốc Cô Nhi viện Tin Lành Nha Trang

Kính gởi các bạn đồng lao, quý tín hữu trong nước và hải ngoại.

Suốt bốn mươi sáu năm trong chức vụ hầu việc Chúa (từ năm 1922 đến 1968), vì tuổi cao, sức yếu, tôi xin Ban Trị sự Tổng Liên Hội nghỉ chức Giám Đốc Cô Nhi viện và về trí sự. Vừa đây, tôi đã được Ban Trị sự Tổng Liên Hội chấp thuận cho tôi được nghỉ chức Giám Đốc Cô Nhi viện tại Nha Trang, đồng thời cũng được về trí sự. (Biên bản Tổng Liên Hội số 3-68-TLH-167 khoản 6 và 7 ngày 21 đến ngày 25 tháng 5 năm 1968).

Trước khi rời chức vụ Giám Đốc Cô Nhi viện tôi xin ghi lại nơi đây lòng biết ơn sâu xa của tôi đối với Cụ Cố Giáo sĩ W. C. Cadman (các cơ sở đầu tiên của Cô Nhi viện tại Nha Trang được kiến thiết do tài sản của hai cụ để lại), Mục sư V. J. R. Mills, Cụ Cố Giáo sĩ E. F. Irwin, ông bà Giáo sĩ D. F. Irwin, cụ cố Mục sư Duy Cách Lâm và ông Mục sư Trần Trọng Thục, là những vị đã đặc biệt giúp đỡ tôi trong những ngày Viện mới thành lập.

Tôi cũng xin chân thành tri ân ông Hội Trưởng và Ban Trị sự Tổng Liên Hội, quý vị Chủ Nhiệm và Ban Trị sự các hạt, quý vị Mục sư Truyền đạo cùng quý tín hữu trong toàn quốc và hải ngoại đã nồng nhiệt ủng hộ tôi từ khi thành lập Cô Nhi viện này và cứ tiếp tục ủng hộ về tinh thần cũng như vật chất trải suốt mười lăm năm qua. Tôi cũng xin thành thật cảm ơn ông Tổng Trưởng Xã Hội, ông Tỉnh Trưởng Khánh Hòa, ông Ty Trưởng Xã Hội Khánh Hòa, ông Quận Trưởng Vĩnh Xương, các vị

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 204

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

204

Đại diện Xã và Thôn, khu vực Cô Nhi viện các Bác sĩ Việt, Mỹ và Đại Hàn, các cơ quan cứu tế xã hội các nước bạn đã nhiệt tình ủng hộ và giúp đỡ tôi trong những năm qua.

Hiện nay số các em cô nhi đang sống tại viện là hai trăm ba mươi hai em, số các em đã xuất viện trong mười lăm năm qua là hai trăm ba mươi tám em. Xin quý vị cứ cầu nguyện và tiếp tục ủng hộ các em mồ côi của chúng ta đang sống tại Cô Nhi viện Nha Trang hầu danh Chúa được vinh hiển mãi mãi.

Ban Trị sự Tổng Liên Hội đã cử ông Mục sư Trần Văn Đệ làm Giám Đốc Cô Nhi viện Tin Lành Nha Trang. Vậy kể từ ngày1 tháng 7 năm 1968 quý vị chủ tọa các Hội Thánh, thân quyến các em cô nhi và chính quyền có việc gì liên hệ đến Cô Nhi viện Tin Lành Nha Trang, xin liên lạc với ông Mục sư Trần Văn Đệ, Giám Đốc Cô Nhi viện Tin Lành Nha Trang, hộp thư 130, Nha Trang

Một lần nữa xin chân thành tri ân quý vị và xin trân trọng kính chào quý vị và các bạn trong thân ái Cứu Chúa.

Nay Kính thư

Mục sư LÊ VĂN THÁI

80, Nguyễn Hoàng Nha Trang

Hiện nay tôi đang sống với vợ chồng người con gái duy nhất của chúng tôi là bà Mục sư Nguyễn Châu Chánh cùng bốn cháu nhỏ trong ơn che chở của Chúa. Tại đây tôi thường có dịp gặp gỡ và hàn huyên vui vẻ với những anh em Mục sư, Truyền đạo cùng những bạn bè thân hữu trước kia. Chúng tôi có thể thông công với nhau trong tình yêu thương và ân huệ của Chúa. Hằng ngày tôi vẫn nhận được rất nhiều thư từ của các bạn ở trong cũng như ở ngoài nước ân cần hỏi han về sức khỏe của tôi. Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn nhiều lắm. Tuy nhiên, trong số ấy cũng có nhiều người vị sợ tôi “thất nghiệp” nên hỏi thăm lâu nay tôi làm gì? Có thư tôi đã trả lời rồi một cách vắn tắt, có thư chưa, xin các bạn thứ lỗi. Tiện đây tôi xin mạn phép trả lời chung cho tất cả các bạn.

Từ ngày HƯU TRÍ đến nay, tôi vẫn không nghỉ việc. Có chăng chỉ thay đổi việc làm mà thôi. Công việc thứ nhất mà tôi hăng say theo đuổi hằng ngày là đọc Thánh Kinh để tìm kiếm những sự dạy dỗ mới cho linh hồn. Lời Chúa phán: “Ta sẽ dạy dỗ ngươi, chỉ cho ngươi con đường phải theo; mắt ta sẽ chăm chú ngươi mà khuyên dạy ngươi” (Thi 31:8). Tôi nắm chắc lấy lời hứa này và tự nhủ rằng nếu tôi không có thì giờ như hiện nay thì đời sống tôi không thể nào nếm trải được phước hạnh của sự học Lời Chúa.

Ngoài công tác trên đây, tôi vẫn không quên để nhiều thì giờ cầu nguyện đặc biệt cho công việc Hội Thánh mà các đầy tớ của Chúa đang gánh vác trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay. Bởi sự dẫn dắt của Chúa, tôi tự nguyện sẽ đứng sau lưng

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 205

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

205

những nhà lãnh đạo Giáo Hội và sẵn sàng góp ý kiến với họ trong tất cả những vấn đề liên quan đến vận mệnh Hội Thánh, như tôi đã từng làm đối với những tôi tớ Chúa tại Cô Nhi viện, Chẩn y viện, Thần học viện, Địa hạt và các Hội Thánh lân cận. Với ý định đóng góp tích cực khả năng của mình cho công việc nhà Chúa, tôi đã nhận dạy mỗi tuần vài giờ bài NGƯỜI TRUYỀN ĐẠO CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI” tại Thánh Kinh Thần học viện và thỉnh thoảng đi thăm các Hội Thánh để cùng học Thánh Kinh chung với anh em. Viết xong tập hồi kí này tôi sẽ bắt đầu soạn bộ “Lược giải Thi Thiên.” Đó là chương trình của tôi trong những ngày sắp tới.

Tâm trí tôi lúc nào cũng quyết hướng về Chúa và lòng tôi luôn luôn suy nghĩ về Hội Thánh của Ngài. Nguyện ước của tôi trong giai đoạn này có thể được gom tóm trong Phi 3:7-16 “Vì cớ Đấng Christ tôi đã coi sự lời cho tôi như là sự lỗ vậy. Tôi cũng coi hết thảy mọi sự như là sự lỗ, vì sự nhận biết Đức Chúa Jêsus Christ là quý hơn hết, Ngài là Chúa tôi, và tôi vì Ngài mà liều bỏ mọi điều lợi đó. Thật tôi xem những sự đó như rơm rác, hầu cho được Đấng Christ và được ở trong Ngài, được sự công chính, không phải công chính của tôi bởi luật pháp mà đến, bèn là bởi tin Đấng Christ mà được, tức là công chính bởi Đức Chúa Trời và đã lập lên trên đức tin, cho đến nỗi tôi được biết Ngài và quyền phép sự sống lại của Ngài, và sự thông công thương khó của Ngài, làm cho tôi nên giống như Ngài trong sự chết Ngài, mong cho tôi được đến sự sống lại từ trong kẻ chết.

“Ấy không phải tôi đã giựt giải rồi, hay là đã đến nơi trọn lành rồi đâu, nhưng tôi đang chạy hầu cho giựt được, vì chính tôi đã được Đức Chúa Jêsus Christ giựt lấy rồi. Hỡi anh em, về phần tôi không tưởng rằng đã đạt được mục đích, nhưng tôi cứ làm một điều: quên lững sự ở đằng sau, mà bươn theo sự ở đằng trước, tôi nhắm mục đích mà chạy, để giựt giải về sự kêu gọi trên trời của Đức Chúa Trời trong Đức Chúa Jêsus Christ. Vây, hễ những người trọn vẹn trong chúng ta, phải có ý tưởng đó, và nếu anh em tưởng đàng khác, Đức Chúa Trời cũng lấy sự đó soi sáng cho anh em. Duy chúng ta đã đạt đến bậc nào thì chúng ta phải đồng đi vậy.”

Hơn bốn mươi năm qua tôi đã đi với Chúa và Chúa đã đồng sống với tôi. Đức Chúa Trời là THÀNH TÍN. Trong niềm tin tưởng đó, tôi xin kết thúc tập hồi ký này bằng bài Thánh ca số 464 để thay cho lời cầu nguyện:

1. Trường nhật tôi với Jêsus cặp nhau

Đi mỗi bước không phân trước sau,

Ngài được theo dấu chân, vui vẻ bấy!

Qua hết cả khi khu thế đồ.

2. Mình được đi với Jêsus sợ chi,

Chân bước vững khỏi cơn hiểm nguy:

Ngày một, tôi náo nương trong cánh Chúa

Nay Chúa dẫn không kinh hãi gì.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 206

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

206

3. Từ một giây phút, Jêsus cặp theo,

Theo mỗi bước, chỗ ngay, khúc eo,

Dầu là không cánh, tôi bay bỗng tới

Chân Chúa dẫn đi, thong thả trèo.

4. Ngày một giây phút, Jêsus Ngài ôi,

Xin mỗi bước, dẫn tôi đến nơi

Hầu kịp chân Chúa đi theo mãi mãi.

Cho hết nẻo mênh mông cõi đời.

ĐIỆP KHÚC

Đi từ bước, bước thẳng đi

Có Chúa nữa, không can chi,

Đi từng bước, Chúa cùng đi,

Cho đến mãi, vô tận kỳ.”

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 207

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

207

Mục sư LÊ VĂN THÁI (1890 - 1985)

Tóm tắt

- Mục sư Lê Văn Thái sinh năm 1890 tại làng Văn La, huyện Phú Lộc, tỉnh Quảng Bình.

- 1919, tin nhận Chúa tại nhà thờ Hải Châu – Đà Nẵng.

- 1922, vào học tại Trường Thánh Kinh Đà Nẵng.

- 30/5/1924, lập gia đình với cô Công Tôn Nữ Tú Oanh.

- 6/1924, Truyền đạo, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hội An, Quảng Nam.

- 9/1925, về học tiếp tục tại Trường Thánh Kinh tại Đà Nẵng.

- 5/1926, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Mỹ Tho.

- 8/1927, tiếp tục học trường Thánh Kinh tại Đà Nẵng

- 8/1928, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hà Nội (Hội Thánh đầu tiên tại miền Bắc Việt Nam).

- 28/11/1928, thụ phong Mục sư tại Hà Nội.

- 6/1929, kiêm nhiệm chức Phái viên địa hạt Trung - Bắc Việt Nam.

- 5/1931, đảm nhiệm chức vụ Chủ nhiệm Địa hạt Miền Bắc.

- 1933, hầu việc chúa tại Bắc Giang.

- 1935, hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hà Nội.

- 1941, chuyển đến Thanh Hóa, chuyên trách công việc Địa hạt miền Bắc.

- 1942, chuyển về Hội Thánh Hà Nội.

- 19/8/1942, đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin lành Việt Nam, kiêm Chủ nhiệm địa hạt miền Bắc. Tổng Liên hội bao gồm các Hội Thánh Tin lành ở Cao Miên và Ai Lao (tức Campuchia và Lào hiện nay).

- 1945, dẫn đầu Phái bộ Tin Lành Việt Nam hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh tại miền Bắc.

- 1951, chuyển vào Đà Lạt, tiếp tục giữ chức vụ Hội trưởng, phụ trách công việc Chúa chung của Việt Nam.

- 1953, đứng ra thành lập Cô Nhi Viện Tin Lành và Trường Trung Tiểu Học Bết-lê-hem ở Hòn chồng Nha trang. Cô nhi viện Nha Trang hoạt động đến năm 1975.

- Từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1957, tham gia và là diễn giả của Hội đồng Thường niên của Hội Truyền giáo Phúc Âm Liên hiệp tại New York (Hoa Kỳ).

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 208

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

208

- 1960, thôi giữ chức vụ Hội trưởng tại Hội đồng Tổng liên ở Vĩnh Long.

- 1960 - 1968, giám đốc Cô nhi viện Tin Lành Nha Trang.

- 7/1968, hưu trí và sống tại Nha Trang.

- 1970, xuất bản cuốn Hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ.”

- 1985, ông về nước Chúa.

Thời niên thiếu

Mục sư Lê Văn Thái gọi thời chưa biết và chưa tin nhận Chúa của đời mình là “khoảng tối.” Chính từ “khoảng tối,” Thiên Chúa đã giúp ông nhận ra một “khoảng sáng” rất khác, một con đường đến với Chúa Jêsus, tin nhận Chúa và đầu phục Ngài đề rồi trở thành một con người trọn đời hiến dâng cho công việc truyền giảng Tin Lành trên đất nước Việt Nam. Sự kiện tin nhận Chúa của ông xảy ra vào mùa Xuân năm 1919 tại nhà thờ Hải Châu, Đà Nẵng.

Xã hội Việt Nam vào những thập niên đầu thế kỷ XX vẫn còn bao rối ren, đầy biến động. Trước cảnh bị ngoại xâm thống trị, nhiều sĩ phu yêu nước đã đứng lên đấu tranh nhằm hướng đến một cuộc sống tự do. Người dân cũng đau đáu về một cuộc sống không còn cảnh cơ hàn, lầm than. Chàng thanh niên Lê Văn Thái với nguồn gốc của dòng họ thuộc kinh thành Huế với qua bao biến cố đã khắc ghi trong lòng niềm căm hận đối với những gì được gọi là “ngoại bang.” Vì vậy, khi nghe đến đạo Tin Lành, lúc bấy giờ gọi là Gia tô, nhìn thấy những con người truyền giảng đạo ấy từ một đất nước xa lạ đến, chàng thanh niên Lê Văn Thái đã không từ những hành động chống đối. Những việc làm thuở ấy theo chính ông cho biết là để “bảo vệ những truyền thống tinh thần của dân tộc.” Ông đã không ngần ngại “làm ồn ào giữa đám đông, khuấy rối bằng mọi cách không cho người khác vào nghe giảng hoặc cãi vã la lối làm mất trật tự” khi có buổi rao giảng Tin Lành. Thậm chí, có những lúc ông đã chuẩn bị “tay lăm le những đá” để sẵn sàng ném vào các giáo sĩ đang truyền đạo. Không những thế, ông còn trang bị, thủ sẵn cho mình những kiến thức, triết lý nhằm bắt bẻ, hạ bệ những người truyền đạo.

Thế nhưng, quyền năng của Đức Chúa Trời đã bắt phục chàng thanh niên đầy cá tính Lê Văn Thái trong kế hoạch của Ngài để gieo hạt Tin Lành trên nước Việt thân yêu. Lê Văn Thái trở thành một tín đồ Tin Lành – người của “Gia tô Cơ đốc” trước những thử thách, bắt bớ, khinh miệt của gia đình, dòng họ, bạn bè và của làng xóm lúc bấy giờ. Ông đã chứng kiến người bạn cùng niềm tin Cơ đốc của mình chấp nhận những trận đòn thừa chết thiếu sống, bị nghe nguyền rủa thà chết đi còn hơn để sống của thân sinh người ấy. Ông lẳng lặng chịu đựng tội bất hiếu với “cảnh gia đình như có tang” khi bao người thân không tin nhận Chúa ai oán trách móc khi trong nhà có tổ chức cúng tế. Trong hoàn cảnh như thế, thanh niên Lê Văn Thái “cương quyết chỉ nhờ cậy sự giúp đỡ và theo sự dẫn dắt của Ngài mà thôi.” Đức tin của ông

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 209

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

209

được Chúa bù đắp. Trong thử thách gian nan, Ngài luôn che chở và gìn giữ ông trên các bước đường theo Chúa. Trước tình yêu và sự quan phòng của Ngài, ông đã thốt lên “Cám ơn Chúa - Đức Giê hô va đã chỉ dẫn các bước của tôi.”

Những năm tháng hầu việc Chúa

Tại Hội An – miền Trung Năm 1922, đánh dấu một bước chuyển lớn trong tín đồ Lê Văn Thái. Cơn bão

thiêng liêng đã đánh động trong lòng ông về những đồng bào đang chìm trong biển đời tội lỗi, chưa nhận thấy ánh sáng cứu rỗi từ Thiên thượng. Năm đó, ông vào học trường Thánh Kinh tại Đà Nẵng.

30.5.1924, ông lập gia đình với người vợ yêu quý của ông là bà Công Tôn Nữ Tú Oanh, một nữ sinh của trường Thánh Kinh. Trước khi vào chức vụ, ông đã thổ lộ: “Cám ơn Chúa đã chọn cho tôi người vợ quý, đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong chức vụ, yên lặng một cách vững vàng trên đường tin kính và tận tụy hầu việc Chúa.”

Tháng 6.1924, ông được bổ nhiệm chức vụ truyền đạo tại Hội Thánh Hội An, lúc bấy giờ là tỉnh lỵ Quảng Nam. Tại Hội An – truyền đạo Lê Văn Thái sốt sắng trong việc chăn bầy của mình; đặc biệt quan tâm đến công tác truyền giáo. Ông đã đẩy mạnh công tác chứng đạo trên khắp địa bàn chung quanh Hội An. Bằng xe đạp, bằng thuyền, ông đã đến các vùng Phong Thử, Ái Nghĩa, Lạc Thành, Đại An, Trường An… để làm chứng cho nhiều người tin nhận Chúa, mở thêm những những Hội Thánh nhánh. Những lớp người đầu tiên tin nhận Chúa tại địa phương không chỉ là người dân bình thường mà còn có cả những ông giáo, điền chủ, chánh tổng… của xã hội thời bấy giờ. Nhiều người sau này trở thành mục sư, truyền đạo tiếp bước theo con đường rao giảng Tin Lành.

Tháng 9.1925, ông lại về trường Thánh Kinh học tiếp.

Tại Mỹ Tho – miền Nam

Tháng 5.1926, sau một thời gian về trường Thánh Kinh, truyền đạo Lê Văn Thái được bổ nhiệm hầu việc Chúa tại Hội Thánh Mỹ Tho (nay thuộc tỉnh Tiền Giang), một nơi thật xa xôi khác lạ so với miền Trung thân quen. Nhưng thuận phục ý Chúa, ông sẵn sàng đến nơi Chúa kêu gọi. Dẫu rằng, những ngày đầu ở Mỹ Tho đầy cám cảnh và không ít những bộn bề của tình thế xã hội. Hội Thánh Mỹ Tho đang đối diện với tình hình số tín hữu tăng vọt do có nhiều người theo đạo vì hiếu kỳ và theo đạo để quan sát, theo dõi. Thế nhưng, cậy vào sức Chúa, đặt niềm tin nơi Ngài, ông “ngay thẳng trình bày Sứ điệp đơn sơ như thấy trongThánh Kinh, chối bỏ những lời ám chỉ chính trị mà người đến trước ông đã khôn khéo gợi ý trong bài giảng mình.” Ông cùng con cái Chúa cấp tốc mở các lớp học Thánh Kinh, duy trì sinh hoạt của Hội Thánh với hàng ngàn tín đồ từ các nơi: Kinh Ông Lớn (Gò Công), Long Hựu, Qưới Sơn, An Hữu, Lộc Thuận, Bình Đại, An Hóa, Phú Thành, Giao Long, Giao Hòa, Rạch

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 210

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

210

Miễu, Tân An, Bến Tranh, Cai Lậy, Chợ Gạo. Tinh thần nhóm lại của tín đồ ở Mỹ Tho với hình ảnh “từng gia đình, từng đoàn, từng nhóm như đi trẩy hội,” đi từ thứ bảy, ở lại nhóm Chúa nhật, sáng thứ hai mới về đã khích lệ ông rất nhiều trong chức vụ hầu việc Chúa. Từ nhà giảng thuê ban đầu, Hội Thánh Mỹ Tho xây được nhà giảng mới - đây là nhà giảng đầu tiên tại miền Nam, xây bằng gạch do tiền của con cái Chúa trong Hội Thánh dâng. Sau đó là nhà thờ bằng gạch thứ hai, nhà thờ Bến Tre.Nhiều địa bàn lúc ban đầu tổ chức nhóm tại nhà tín đồ lần hồi cũng xây được nhà giảng riêng, thuận lợi cho công việc truyền giảng đạo của Chúa. Chỉ sau một năm hầu việc Chúa tại Mỹ Tho đã có 565 người lớn chịu lễ Báp-têm, Hội Thánh tách thành 3 Hội Thánh tự lập là Mỹ Tho, Bến Tre và Gò Công.

Tháng 8.1927, do phải về học tiếp tại trường Thánh Kinh, truyền đạo Lê Văn Thái rời Mỹ Tho, chia tay con cái Chúa trong tình thương yêu, quyến luyến đầy cảm động. Hội Thánh Mỹ Tho ghi dấu trong truyền đạo Lê Văn Thái “nhiều kỷ niệm đẹp.”

Tại Hà Nội – miền Bắc

1928, Hội đồng Tổng Liên chia xứ làm 2 địa hạt: Bắc Trung bộ (bao gồm Bắc kỳ và Trung kỳ) và Nam bộ (bao gồm Nam kỳ và các Hội Thánh người Việt ở Campuchia).

Tháng 8 cùng năm đó, sau khi tốt nghiệp trường Thánh Kinh, truyền đạo Lê Văn Thái nhận lãnh trách nhiệm hầu việc Chúa tại Hội Thánh Hà Nội. Đây là Hội Thánh đầu tiên tự trị tự lập và là Hội Thánh duy nhất tại miền Bắc lúc bấy giờ. Lúc ông đến, Hội Thánh nhóm lại chưa đến 30 tín hữu. Ông đã được Chúa khải tượng biệt riêng cho công việc rao giảng Tin Lành cho đồng bào toàn miền Bắc và mở nhiều Hội Thánh mới. Tại đây, ông đã miệt mài làm công tác chứng đạo mỗi ngày. Ông đã dùng “xe đạp đi khắp thành phố làm chứng và phân phát sách về Tin Lành cho những người trên đường trong các cửa hàng, trong quán ăn, nơi bến xe đò, ga xe lửa, các phòng sở và ngay cả trong khách sạn.” Hiệp cùng với con cái Chúa, được sự hỗ trợ từ các giáo sĩ của Hội Truyền giáo, công tác làm chứng về Chúa mỗi ngày được đẩy mạnh. Hàng tuần có đến 27 buổi nhóm được tổ chức tại nhà thờ chính, 8 giảng đường và 2 phòng đọc sách ở các vùng phụ cận. Hội thánh Chúa tại Hà Nội phát triển thêm. Nhiều địa bàn tại Hà Nội và các vùng ngoại vi mở được các điểm nhóm mặc dầu có không ít sự ngăn cấm xảy ra.

Ngày 28.11.1928, ông được thụ phong Mục sư tại Hà Nội.

Tháng 6.1929, ông nhận lãnh thêm chức vụ Phái viên đặc trách địa hạt Bắc Trung bộ.

Hội đồng Tổng Liên năm 1931 thành lập 2 Địa hạt riêng rẽ là Bắc kỳ và Trung kỳ. Tháng 5.1931 Mục sư Lê Văn Thái được cử làm Chủ nhiệm Bắc Hạt kiêm nhiệm Chủ tọa Hội Thánh Hà Nội. Công việc truyền giảng được Chúa ban phước phát triển bội phần.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 211

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

211

Năm 1933, để toàn tâm toàn ý cho chức vụ Chủ nhiệm, ông xin từ chức chủ tọa Hội Thánh Hà Nội và lên Bắc Giang, với sự hợp tác của các giáo sĩ, ông bắt đầu một chiến dịch Tin Lành mạnh mẽ. Trong vòng 3 tháng, có 72 người trở lại cùng Chúa và ông lập Hội Thánh mới. Sau khi xây được nhà thờ cho Hội Thánh, ông tiếp tục đi ra giảng Tin Lành cho 4 tỉnh lân cận, cứ mỗi tỉnh 1 tuần. Sau mấy năm truyền đạo lưu động, nhiều nơi như Bắc Giang, Lạng Sơn, Cao Bằng, Sơn Tây, Hải Dương, Hải Phòng, Kiến An, Quảng Yên, Thường Tín, Phủ Lý, Nam Định, Ninh Bình, Thanh Hóa, Hà Đông, Sơn La, Lai Châu … thuộc địa phận miền Bắc đều có tín đồ, hình thành các nhà giảng Tin Lành. Tính đến cuối năm 1934, đã có 38 Hội Thánh và giảng đường.

Năm 1935 ông trở về Hội Thánh Hà Nội hầu việc Chúa. Từ giữa năm 1935 đến năm 1936, tại miền Bắc nổi lên phong trào sôi động được mệnh danh là Phong trào Phục hưng.

Năm 1941, ông dời vào Thanh Hóa chuyên trách công việc Địa Hạt miền Bắc.

Năm 1942, ông lại trở về Hội Thánh Hà Nội.

Ngày 19.8.1942, ông đắc cử chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam, kiêm Chủ nhiệm Địa hạt miền Bắc.

Năm 1945, ông dẫn đầu Phái bộ Tin Lành Việt Nam hội kiến Chủ tịch Hồ Chí Minh tại miền Bắc để tỏ rõ Hội Thánh và đường lối của Hội Thánh.

Tại Đà Lạt và Nha Trang

Tháng 5 năm 1951, Văn phòng Tổng liên hội từ Hà Nội chuyển vào Đà Lạt. Gia đình mục sư Lê Văn Thái cũng giã từ Hà Nội sau một thời gian dài gắn bó để vào Đà Lạt. Hiệp với các đầy tớ Chúa, ông chuyên trách công việc Chúa chung của cả nước. Ông tiếp tục được Chúa khải tượng về phát triển những cơ sở giáo dục, công tác văn hóa xã hội chung của giáo hội trên đất nước Việt Nam trong tình hình mới.

Từ năm 1952, mặc dù gặp không ít khó khăn, ngăn trở lúc ban đầu nhưng ông đã cùng các đầy tớ Chúa trong Tổng Liên hội và Hội Truyền giáo cậy sức từ nơi Chúa thành lập cơ sở xã hội, giáo dục đầu tiên của Hội Thánh Tin Lành là Cô nhi viện Tin Lành và Trường Trung Tiểu học Bết-lê-hem tại Nha Trang, thành lập Đoàn Tuyên úy Tin Lành để lo cho tín hữu trong quân đội lưu động đây đó, thực hiện các chương trình truyền giảng trên sóng phát thanh.

Ngay từ năm 1958 ông đã cùng với các đầy tớ Chúa và các Giáo sĩ khởi động việc xây dựng cơ sở Thánh Kinh Thần học viện khang trang và rộng rãi hơn. Đến tháng 7.1960, Trường Thánh Kinh Đà Nẵng được dời vào Nha Trang và tiếp tục khai giảng khóa đầu tiên vào tháng 9 năm 1960. Từ cơ sở này, công việc Chúa được đẩy mạnh phát triển.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 212

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

212

Năm 1960, Mục sư Lê Văn Thái thôi giữ chức vụ Hội trưởng Hội Thánh Tin Lành Việt Nam tại kỳ Hội đồng Toàn quốc tổ chức tại Vĩnh Long. Chúa vẫn đại dụng ông trong công tác chăm lo cho Cô Nhi viện Tin Lành tại Nha Trang trên cương vị giám đốc cho đến khi hưu hạ vào tháng 7 năm 1968.

Khi hưu hạ, Mục sư Lê Văn Thái cùng gia đình sống tại Nha Trang.

Ngày 24 tháng 02 năm 1969, bà Mục sư Lê Văn Thái về nước Chúa. Ông mất đi một nguồn an ủi lớn mà Chúa đã ban tặng cho ông “Nhà tôi – một người đàn bà mảnh khảnh, hiền hòa và chân thật, luôn luôn lấy sự mình có làm đủ, kiên nhẫn, trung tín với Chúa và trung tín với mọi người” trên cuộc đời tận hiến hầu việc Ngài.

Năm 1975, ông yếu nhiều và được con cháu đón sang Mỹ để chăm sóc. Sau đó, Chúa đón ông về nước Ngài ngày 21.01.1985 tại San Gabriel, California, chấm dứt 95 năm gian khó trên đất.

Những trải nghiệm trong chức vụ

Khải tượng sống động và niềm tin nơi Chúa Trên suốt con đường theo Chúa, mở mang vương quốc của Đức Chúa Trời trên

nước Việt, Mục sư Lê Văn Thái đã nếm trải cả niềm vui lẫn buồn khổ. Ông vui vì công việc Chúa phát triển, đem lại nhiều linh hồn cho Chúa và trải nghiệm những dấu kỳ, phép lạ mà Chúa ban cho. Thế nhưng, có những giai đoạn, thời khắc, ông lâm cảnh buồn đau, đối diện với những khó khăn, thử thách, bắt bớ với những hiểm nguy rình rập, phủ vây, cận kề cái chết.

Năm 1928, khi chuẩn bị kết thúc khóa học tại trường Thánh Kinh, ông đã “buồn và hết sức chán nản, muốn bỏ trường Thánh Kinh để trở về gây dựng một sự nghiệp mới” trước những biến cố chung quanh. Nhưng trong phút giây bi quan, với tấm lòng “Quyết noi theo Cứu Chúa, sống chết với Ngài,” ông đã vượt qua được nỗi tuyệt vọng để theo chân Cứu Chúa mà ông đã chọn cho cuộc đời mình.

Khi được điều động đến hầu việc Chúa tại Hà Nội, một nơi quá xa và lạ lẫm, ban đầu, ông đã “cầu nguyện nhiều lần, nài xin, giải thích, thảo luận, trình bày duyên cớ” để được ở lại. Rồi Chúa đã dạy dỗ, chỉ cho ông nhận biết ý chỉ cao cả trong kế hoạch của Ngài. Ông vâng phục Chúa “đi con đường mà chính mình không muốn đi.” Và, ông đã cầu xin Chúa cho bản thân “có đủ khả năng, thích hợp với Hội Thánh Hà Nội, với miền Bắc thân yêu theo ý muốn Ngài.” Trên cánh đồng xa lạ này, ông mới hiểu được kế hoạch cao cả mà Ngài giao cho ông. Ông không chỉ mang trên mình trọng trách công việc nhà Chúa của Hà Nội mà cả miền Bắc rộng lớn với bao linh hồn chưa nhận thấy chân lý, chưa nhận được sự cứ rỗi từ nơi Thiên thượng.

Năm 1942, lúc còn ở miền Bắc, đang chuẩn bị vào Nam tham dự Hội đồng tại Cần Thơ, một khải tượng từ nơi Chúa đến với ông trong giấc chiêm bao về những tín hữu dâng của cải cho việc phát triển nhà Ngài tại miền Bắc. Tại Hội đồng ở Cần

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 213

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

213

Thơ và cả miền Trung khi ông đến chia xẻ, làm chứng về công việc Chúa, đã dấy lên một tinh thần dâng hiến cho công việc Chúa ở miền Bắc.

Trong bóng cánh của Đấng Toàn Năng

Bao nhiêu lần đối diện với bắt bớ, nhưng Chúa luôn ở bên và gìn giữ ông diệu kỳ. Trước cảnh chỉ huy người Pháp, những lính khố xanh, dân làng với gậy gộc, dây trói tại làng Gia Thượng, Hà Nội chực chờ trước nhà giảng, sẵn sàng xông vào bắt trói người giảng Tin Lành, Chúa dự phòng cho ông một giáo sĩ “thay thế” để bảo đảm sự bình yên cho con cái Ngài ngày đầu tin theo Chúa. Tại đây, Mục sư Lê Văn Thái cũng từng chứng kiến những cảnh tượng đến nao lòng khi người tín hữu giữ chức Lý trưởng ở làng Gia Thượng, Gia Lâm (Hà Nội) đã đầu phục Ngài lại quay gót chối bỏ đạo khi bị cường quyền đe dọa.

Trên đường đê Thọ Lão - Hạ Mỗ của vùng Sơn Tây, nhiều người vì thành kiến và cái lợi riêng đã cầm dao, mác phục sẵn trên đường đê đợi cơ hội hạ sát Mục sư Lê Văn Thái. Chúa đã khiến một cơn mưa kéo dài ở vùng Sơn Tây khiến ông đổi lộ trình đi theo một con đường khác để âm mưu sát hại tôi tớ Ngài bất thành. Nanh vuốt của kẻ dữ giương ra, gài bẫy nhưng Chúa đã giải cứu đầy tớ Ngài một cách diệu kỳ.

Năm 1936, khi công việc Chúa tại Hà Nội đang phát triển nhiều mặt, một cơn bạo bệnh đã làm ông suy sụp sức khỏe. Ông bị bệnh phổi nặng đến nỗi bác sĩ Paterson cho rằng ông sẽ qua đời trong vòng ba tháng. Thế nhưng, Chúa đã chữa bệnh ông cách lạ kỳ đến mức y học hiện đại lúc đó không thể lý giải. Đó là một trong những phép lạ của Chúa dành cho ông.

Năm 1945, với tư cách là người đứng đầu Giáo hội Tin lành, Mục sư Lê Văn Thái đã nương cậy Lời Thánh Kinh và sự soi sáng của Thánh Linh để ngăn chặn những tuyên bố về sự kiện đoán định được thời gian “Chúa tái lâm.” Tà thuyết này do ông Trần Như Tuân khởi xướng đi ngược với Thánh Kinh, gây nên hậu quả khá nghiêm trọng đối với những tín hữu không nắm vững Lời Chúa, làm ảnh hưởng nhiều đến đạo của Ngài ở miền Trung. Sau khi đã dùng Lời Chúa để khuyên can, ông chứng kiến được hậu quả là những cảnh trạng đau lòng của Hội Thánh.

Lo công việc Chúa, Mục sư Lê Văn Thái đã thực hiện chuyển hành trình Bắc - Nam vào thời điểm đầy biến động ở Việt Nam sau biến cố lịch sử tháng Tám năm 1945. Đây là thời điểm đầy khó khăn đối với công việc Chúa. Khi thì đối diện với chính quyền, các lực lượng vũ trang trong và ngoài nước trên chặng đường đầy thử thách, ông đã nhờ cậy Chúa ban cho sự khôn ngoan để gặp gỡ các bậc cầm quyền, đối đáp bày tỏ cách khôn ngoan về công việc của đạo để quy vinh hiển cho danh Ngài. Khi thì mất giấy tờ tuỳ thân, giấy thông hành tại Nha Trang nhưng Chúa dự bị cho người tìm lại được. Chúa dự liệu những điều mà chính ông không hề nghĩ tới khi đưa ông đến Biên Hòa hay Mỹ Tho một cách an toàn. Lúc ông bị hiến binh

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 214

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

214

Nhật bắt tại Mỹ Tho, tưởng chừng như cái chết chực chờ nhưng Chúa giải cứu ông ra khỏi một cách bất ngờ, bình an. Chúa đã đem ông về với gia đình, với Hội Thánh tại Hà Nội sau “Chuyến đi lịch sử” kéo dài 5 tháng, khi mà mọi người tưởng chừng như tuyệt vọng vì không nhận được một tin tức mảy may nào.

Khi công việc Chúa đang phát triển ở miền Nam, trên cương vị chức vụ Hội trưởng, ông cũng trải qua bao lần bị vu oan, giá họa. Thế nhưng, Chúa cũng đã đưa ông ra khỏi những đám mây u ám, bao quanh vì những sự không thông hiểu kỹ càng. Đó là những câu chuyện mà ông gọi là “Cười ra nước mắt” và “Án không thành án.” Trước những tình cảnh ấy, ông đã “Không biết phải làm cách nào khác hơn là cầu nguyện xin Chúa làm sáng tỏ mọi việc để cho những đám mây mù tan đi. Đồng thời cũng cầu xin Chúa cho nhân viên công quyền biết nhiều hơn về Hội Thánh Ngài và cho những người lầm lạc được trở lại con đường sáng.”

Khi đọc Hồi ký “Bốn mươi sáu năm chức vụ” của cố Mục sư Lê Văn Thái, tôi bỗng nhớ đến hình ảnh của Sau-lơ, một con người hung hăng từng bắt bớ những ai tin Chúa, trấn áp đạo Cứu rỗi của Đấng Chirst đã bị Đức Chúa Trời bắt phục, trở nên một sứ đồ tận tụy rao giảng Phúc âm của Thiên thượng. Thời niên thiếu của chàng thanh niên Lê Văn Thái cũng có những việc làm giống như vậy trong thời còn bầu nhiệt huyết chống đạo Cứu rỗi, khi được truyền bá đến Việt Nam. Nhưng, Đức Chúa Trời của Tin Lành cứu rỗi có kế hoạch của Ngài. Người đã “bắt phục” chàng thanh niên Lê Văn Thái trở thành một tín hữu trung tín, một người truyền đạo được ơn và một mục sư cần mẫn trên con đường hầu việc Chúa tại Việt Nam.

Trên đất nước Việt Nam của thế kỷ XX, Chúa đã đưa dấu chân Mục sư Lê Văn Thái - người hầu việc Ngài trải khắp từ miền Trung, miền Nam, miền Bắc thân yêu. Đó là những cánh đồng thuở ban đầu mà những giáo sĩ truyền giáo, các tín hữu đầu tiên, các truyền đạo, mục sư khi Tin Lành mới truyền đến Việt Nam đi “khai khẩn, vỡ hoang và gieo hạt” trong nước mắt. Ngài đã tôi luyện ông trong mọi hoàn cảnh để rồi trao cho ông những trọng trách lớn thực hiện kế hoạch gây dựng vương quốc của Ngài tại Việt Nam.

Ông và gia đình đã trọn đời dâng hiến cho công việc của Chúa, cùng góp phần để Tin Lành có những mùa gặt lớn trên những cánh đồng thuộc linh ở Việt Nam. Chính sách của Hội Thánh Tin Lành Việt Nam đối với quốc gia có sự đóng góp vô cùng quan trọng của Mục sư Lê Văn Thái. Khi đối diện với bao vấn đề nan giải, đầy biến động nhưng vẫn giữ được nguyên vẹn của tinh thần truyền giảng thuần túy đạo Cứu rỗi của Đấng Chirst, không can dự vào chính trị. Trên hành trình của chức vụ, mục sư Lê Văn Thái đã “Vâng lời Chúa dạy và chỉ nương nơi Ngài” và ông “Đi với Chúa và Chúa đồng sống” với ông.

Bốn Mươi Sáu Năm Trong Chức Vụ 215

Thư Viện MS Christian Le PhD | [email protected]

215

Tài liệu tham khảo

1. Lê Văn Thái. Hồi ký Bốn mươi sáu năm chức vụ. Tác giả xuất bản, giữ bản quyền, năm 1970.

2. Lê Hoàng Phu. Lịch sử Hội Thánh Tin Lành Việt Nam 1911 – 1965. Chương trình Thần học Phúc Âm, TEE, 1996.

3. http://www.mytnpa.org/index.

4. http://Wikipedia.

5. http://www.vietcampus.net/modules.

* Những chữ in nghiêng, đóng ngoặc kép của bài viết này được trích từ Hồi ký của Mục sư Lê Văn Thái.

Đình Dũng