Upload
others
View
0
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 1/56
TRƯỜNG ĐH CÔNG NGHIỆP TP. HỒ CHÍ MINH
TRUNG TÂM THÔNG TIN – THƯ VIỆN
BẢN TIN SỐ 12/2019
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Startup Việt ra mắt thiết bị khám xe thông minh Micas
VinaPhone hợp tác Disney đê số hóa thế giới cổ tích trên nền tảng di động
Lớp học đặc biệt SHub Classroom
Lạc Việt Vebrary phiên bản 5.0 của Công ty Lạc Việt
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
FPT thử nghiệm thành công cấp độ 3 xe tự hành
Thiết kế bộ điều khiên bền vững cho cần cẩu container hoạt động trên biên
Sáng chế xe lăn biến hình
Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo lắp đặt thiết bị kiêm tra hệ số phản xạ gương ô tô
“Chợ online”cho máy công nghiệp và phương tiện vận tải: Xây dựng tư duy
kinh doanh mới
Đốt dầu thải không khói nhờ thiết bị đốt lò áp lực
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Kỹ thuật in laser sản xuất vải số hoá chống thấm nước trong vài phút
Chế tạo và ứng dụng thành công các dung môi sinh học trong sản xuất năng lượng mới
Nghiên cứu công nghệ tuyên và chế biến sâu quặng graphit mỏ Bảo Hà tỉnh Lào Cai
Nghiên cứu thu hồi thiếc trong bùn tuyên nổi của nhà máy tuyên quặng gốc Suối Bắc, Quỳ
Hợp, Nghệ An
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Sáng chế thành công máy sấy muối ớt ướt
Máy sấy cá
Máy sấy bánh tráng bằng năng lượng mặt trời
Giải pháp đồng vị vân tay giúp xác thực nguồn gốc thực phẩm
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 2/56
Nghiên cứu sản xuất các sản phẩm từ trái quách
Y DƯỢC
Hệ thống giúp người bệnh giao tiếp bằng cử động mắt
Kỹ thuật mổ nội soi giúp hạn chế việc cắt bỏ thận của Bệnh viện Bình Dân TP.HCM
Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất vắc xin cúm mùa ở quy mô công nghiệp
Nghiên cứu biêu hiện protein tái tổ hợp của virut PCV2 đê chế tạo sinh phẩm chẩn đoán và
làm nguyên liệu tiến tới sản xuất vắc xin
Xác định “dấu vân tay hóa học” cho dược liệu đặc sản của dãy Hoàng Liên
Phòng khám đa khoa không giấy trong hệ sinh thái y tế thông minh
NÔNG NGHIỆP
Độc đáo máy bay không người lái dùng trong nông nghiệp “made in Vietnam”
Ra mắt Bệnh viện Cây ăn quả ở Đồng bằng sông Cửu Long
Hiện đại hóa công nghệ sản xuất cá biên quy mô công nghiệp ở Việt Nam
Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp cà phê đạt hiệu quả, bền vững và được chứng nhận
tại Tây Nguyên
Khai thác và phát triên nguồn gen sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.)
Ứng dụng công nghệ khí canh trong nhân giống một số cây dược liệu có giá trị kinh tế cao
Nghiên cứu nâng cao tỷ lệ sống của tôm hùm (Panulirus Ornatus) giống giai đoạn ương nuôi
Gạo Việt Nam ngon nhất thế giới
MÔI TRƯỜNG
Công nghệ lọc nước siêu hấp thu xử lý nước đa ô nhiễm
Mạng cảm biến không dây hỗn hợp ứng dụng cho giám sát quản lý rừng
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 3/56
A.THÔNG TIN THÀNH TỰU
ĐIỆN - ĐIỆN TỬ - CÔNG NGHỆ THÔNG TIN
Startup Việt ra mắt thiết bị khám xe thông minh Micas
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 4/56
Thiết bị mới mang dáng dấp của một y bạ điện tử
Hiện ở Việt Nam có khoảng 4 triệu xe
ô tô đang lưu hành. Ô tô đang dần trở thành
phương tiện đi lại quen thuộc của người dân.
Tuy nhiên, có một thực trạng đang diễn ra là
rất ít tài xế được trang bị kiến thức đầy đủ đê
hiêu về xe và biết cách chăm sóc xe đúng
cách, từ đó dẫn đến những hệ lụy xấu trong
quá trình vận hành và lưu thông xe trên
đường. Xuất phát từ chính lý do đó, một
nhóm startup đến từ Công ty TNHH Micas
tập hợp những chuyên gia hàng đầu trong
ngành ô tô, cơ điện tử, phần mềm IT đã cùng
nhau nghiên cứu và cho ra đời thiết bị khám
xe thông minh mang tên Micas.
Đại diện Micas cho biết, sự kiện lần
này không chỉ ra mắt thiết bị khám xe thông
minh Micasđến với cộng đồng ô tô mà còn
đánh dấu bước đột phá mới trong ngành công
nghiệp hỗ trợ ô tô tại Việt Nam, giải được bài
toán về tiết kiệm thời gian và chi phí cho
người dùng xe.
Micas ra đời như một giải pháp đê
giúp chủ xe hiêu xe của mình hơn, biết cách
chăm sóc xe chủ động giảm thiêu rủi ro và
các sự cố. Biến chiếc xe hơi từ một vật vô tri
vô giác trở thành người bạn đường tin cậy từ
đó sẽ mang lại sự an tâm mỗi khi vận hành và
sự an toàn trong những chuyến hành trình dài
xuyên suốt.
Tất cả những thông tin về lỗi hay tình
trạng thông số xe tức thời đều được hiên thị
ngay lập tức trên ứng dụng Micas được cài
đặt trên smartphone (chạy iOS và Android),
giúp chủ xe dễ dàng kiêm soát tình trạng.
Thậm chí Micas còn có thê cảnh báo sớm lỗi
sẽ phát sinh trong thời gian ngắn sắp tới dựa
trên phân tích của trí tuệ nhân tạo AI với cơ
sở dữ liệu lớn của hệ sinh thái.
Micas mang đến khái niệm mới ”y bạ
điện tử” giúp các garage nắm rõ tiền sử bệnh
và thông tin những lần sửa chữa gần nhất của
xe đê tiết kiệm thời gian, kinh phí cho người
dùng, nhắc nhở bảo dưỡng… Micascũng tích
hợp nhiều chức năng, tiện ích mang tính cộng
đồng như tính năng gọi SOS từ các đội cứu
hộ, cứu nạn gần nhất; nhờ trợ giúp từ các xe
gần đó đê được hỗ trợ trong các tình huống
hỏng nhẹ như hết bình, hết xăng, hỏng lốp…
Ứng dụng Micas cung cấp đầy đủ danh
sách các trạm dịch vụ, địa điêm, xếp hạng
đánh giá, giá cả theo thứ tự uy tín nhất và gần
nhất; cập nhật tức thời các thông tin về pháp
luật đê tránh sai phạm, được cảnh báo tốc độ
giới hạn đê tránh đi quá tốc độ và luôn được
hỗ trợ tức thời từ cộng đồng, tổng đài của
Micas. Một điêm đặc biệt của ứng dụng này
là hoàn toàn không thu thập các dữ liệu liên
quan đến các chủ xe.
Trải nghiệm sản phẩm Micas nhằm
giúp sản phẩm Micas tới tay những chủ xe ô
tô một cách nhanh nhất, thuận tiện nhất, đại
diện ông Võ Công Khải – Tổng giám đốc
Micas cùng 5 đối tác phân phối đã ký kết hợp
tác toàn diện. Được biết sau khi ra mắt phiên
bản beta, phiên bản chính thức của ứng dụng
Micas sẽ chính thức ra mắt tại TP Hồ Chí
Minh đầu năm tới. Mức giá chính thức cho
sản phẩm MicasS là 1.490.000 đồng, tuy
nhiên trong thời gian ra mắt phiên bản beta,
giá bán ưu đãi sẽ chỉ là 990.000.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 5/56
Nguồn: Quang Lộc,
congthuong.vn,15/11/2019
Trở về đầu trang
*************
VinaPhone hợp tác Disney đê số hóa thế giới cổ tích trên nền tảng di động
Khách hàng trải nghiệm dịch vụ số hóa của VinaPhone
tại buổi công bố hợp tác tối ngày 23/11
VinaPhone vừa công bố bắt tay hợp tác
với Disney - tập đoàn giải trí hàng đầu thế giới
với nhiều sản phẩm nội dung chất lượng và thu
hút được sự quan tâm của nhóm khách hàng
trẻ tuổi toàn cầu.
Trong hợp tác này, VinaPhone đóng
vai trò cung cấp nền tảng, xây dựng hệ thống
website, cơ sở hạ tầng, trong khi đó, The Walt
Disney Company Southeast Asia Pte.Limited
sẽ là bên cung cấp kho nội dung hấp dẫn như
Frozen, Marvel, Star Wars...
Với mức chi phí hợp lý, khách hàng có
thê thỏa sức trải nghiệm nhiều nội dung cao
cấp trên thế giới do nhà sản xuất Disney xây
dựng. Từ những câu chuyện cổ tích thần tiên
dành cho khách hàng từ 3 tuổi cho tới thế giới
của những siêu anh hùng Marvel làm bao
thanh niên mong ngóng, tất cả đều sẽ được
VinaPhone số hóa trên nền tảng di động
thông qua website:
https://store.vinaphone.vn/disney. Ngoài ra,
khách hàng cũng có thê download và thanh
toán dễ dàng nội dung đặc biệt từ Disney.
Đặc biệt, theo VinaPhone, sử dụng sản
phẩm hợp tác này, các bậc phụ huynh hoàn
toàn có thê yên tâm về chất lượng nội dung
khi con cái truy cập Internet bởi kho nội dung
này đều mang khuynh hướng giáo dục, được
kiêm định chặt chẽ và hoàn toàn thân thiện
với trẻ nhỏ.
Không chỉ dừng lại ở những sản phẩm
liên quan tới di động, VinaPhone dự định sẽ
bắt tay với Disney đê mang những format sự
kiện, lễ hội đẳng cấp quốc tế về cho khách
hàng trong nước.
Ông Nguyễn Trường Giang - Phó
Tổng giám đốc VNPT VinaPhone - khẳng
định: Việc hợp tác giữa VinaPhone và Disney
là bước tiến lớn bởi chúng tôi là đơn vị viễn
thông đầu tiên của Việt Nam hợp tác với tập
đoàn giải trí số 1 thế giới về sản phẩm và
thương hiệu nhằm mang lại nhiều tiện ích cho
khách hàng.
Dịp này, VinaPhone cũng cho ra mắt
dòng sim và gói cước đồng thương hiệu Hey
Disney kèm theo nhiều ưu đãi hấp dẫn với
mức giá là 89.000 VND/tháng. Mục tiêu của
dòng sản phẩm này là đáp ứng những nhu cầu
sở thích khác nhau của đối tượng cá nhân
hoặc hộ gia đình trẻ với việc truy cập miễn
phí kho nội dung Disney và lưu lượng data
tháng là 8GB data.
Nguồn: Mai Ca, congthuong.vn, 25/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Lớp học đặc biệt SHub Classroom
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 6/56
Khi học tập, các học sinh, sinh viên
thường gặp nhiều thắc mắc về bài vở, tốn
nhiều công sức đê giải đáp, mà không hẳn lúc
nào bạn bè cùng lớp, thầy cô, hay cả Google
cũng có thê hỗ trợ. Từ nhu cầu thực tiễn này,
'lớp học đặc biệt' SHub Classroom đã ra đời.
Theo Nguyễn Đăng An - người sáng
lập dự án, SHub Classroom là hệ thống tạo ra
cộng đồng học tập mở trên môi trường
Internet, ở đó trước tiên người dùng sẽ đăng
ký quyền truy cập với các vai trò là giáo viên,
học sinh hay phụ huynh.
Dự án đã giành được nhiều giải thưởng
trong các chương trình khởi nghiệp cho sinh
viên, trong đó mới nhất là giải thưởng "Tri
thức trẻ vì giáo dục" do Trung ương Đoàn, Bộ
Giáo dục và đào tạo, báo Tuổi Trẻ, Công ty cổ
phần Tập đoàn Thiên Long phối hợp tổ chức.
Tiện ích cho học sinh, giáo viên
Nếu là giáo viên, bạn có thê lập những
lớp học ảo cho học sinh tham gia. Thầy cô
được cung cấp các công cụ giúp tạo nhanh và
dễ dàng các bài tập trực tuyến, giống xu
hướng ra các bài thi, kiêm tra trên máy tính
hiện nay.
Sau các bài tập, ngoài việc cho điêm
ngay lập tức, ứng dụng giúp đưa ra các số liệu
thống kê tổng thê như số câu đúng, số câu sai,
đâu là lỗi mà các bạn thường mắc... từ đó
thầy cô nắm được và có hướng củng cố kiến
thức trong giờ học tiếp theo.
SHub Classroom còn tạo môi trường
giúp học sinh có thê học hỏi lẫn nhau nhờ vào
nền tảng giống như các mạng xã hội ngày nay,
nhưng thay vì viết các dòng trạng thái trên
Facebook hay Twitter, học sinh sẽ đăng tải các
câu hỏi, những thắc mắc từ các bài tập, bài
kiêm tra và cộng đồng sẽ hỗ trợ tìm ra lời giải.
Đăng An cho biết đến nay chỉ sau 4
tháng, phần mềm đã có 90.000 người đăng
ký, trong đó có hơn 5.000 giáo viên. Trung
bình mỗi ngày, SHub đăng đến hơn 100 câu
hỏi từ học sinh, ở mọi lĩnh vực và cấp bậc.
"SHub Classroom có thêm 10 cộng tác
viên là các thủ khoa, á khoa từ các kỳ thi
THPT quốc gia trước đây, giúp hỗ trợ giải
đáp những câu hỏi khó kén người trả lời. Các
bạn cũng là những người hỗ trợ dự án khi số
lượng người tham gia chưa đủ đông để tự vận
hành" - Đăng An nói.
Thầy trò đều có lợi
Thầy Nguyễn Tất Thu - giáo viên toán
Trường THPT chuyên Lương Thế Vinh
(Đồng Nai) - cho biết hiện có các lớp học với
trên 200 học sinh trên SHub Classroom. Thầy
thường giao nhiều bài tập về nhà cho học sinh
thông qua hệ thống này, nhờ đó có thê kiêm
soát được những ai có làm bài tập, thay vì
trước đây chỉ có thời gian kiêm tra vở của
một, hai học sinh trong giờ dạy.
Ngoài ra, nhờ phần mềm có khả năng
thống kê, thầy Thu biết số đông các em làm
sai ở câu nào, từ đó có thê nhấn mạnh ở giờ
dạy tiếp theo.
Bạn Nguyễn Thị Kim Hồng - sinh viên
năm 1 khoa báo chí và truyền thông Trường
ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, ĐH Quốc
gia TP.HCM, thủ khoa khối C kỳ thi THPT
quốc gia tại tỉnh Đắk Lắk năm 2019 - là một
trong 10 cộng tác viên của dự án.
Hồng cho biết mỗi tuần hỗ trợ giải đáp
trên SHub Classroom khoảng 150 - 200 câu
hỏi ở các môn văn - sử - địa, trong đó phần
lớn ở mức độ trung bình khá.
Hồng chia sẻ thường chỉ giải đáp
những câu chắc chắn biết đáp án, những câu
không chắc thì phải tra lại thật kỹ trước khi
ghi đáp án. Ngoài ra, khi giải chỉ ghi những ý
cơ bản, còn lại đê các bạn tự phát triên, đê
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 7/56
tránh tình trạng làm mất đi tinh thần tự học
của các bạn.
Làm bài tập được... tặng quà
SHub Classroom là một trong nhiều
dự án dưới tên chung SHub do các sinh
viên, cựu sinh viên Trường ĐH Khoa học tự
nhiên, ĐH Quốc gia TP.HCM thực hiện.
Hiện tại, SHub Classroom đang phát triên
theo mô hình start-up tại Khu công nghệ
phần mềm ĐH Quốc gia TP.HCM với hơn
10 thành viên. Định hướng hiện nay của
nhóm là sử dụng công nghệ tạo ra các sản
phẩm giúp hỗ trợ những quá trình đổi mới
giáo dục ở Việt Nam, đặc biệt hướng đến
xây dựng cộng đồng học tập trên môi trường
trực tuyến.
Ông Nguyễn Cảnh Dương - người
sáng lập ứng dụng Meete, cũng là mentor
cho dự án SHub Classroom - cho biết sắp tới
SHub Classroom vẫn giữ định hướng phát
triên thành sản phẩm phục vụ miễn phí cho
học sinh và giáo viên, đồng thời sẽ liên kết
với các công ty làm trong lĩnh vực giáo dục
vừa đê trao những phần quà nho nhỏ cho các
bạn tham gia giải bài tập thường xuyên, vừa
kiếm thu nhập cho dự án.
Nguồn: tuoitre.vn,11/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Lạc Việt Vebrary phiên bản 5.0 của Công ty Lạc Việt
Vebrary là giải pháp thư viện điện tử
tích hợp của Công ty Lạc Việt đáp ứng mọi
nghiệp vụ quản lý thư viện hiện đại, có khả
năng tùy biến cao, linh hoạt, khả năng kế thừa
dữ liệu của các chương trình cũ (như
CDS/ISIS, Smilib).
Vebrary đã được triên khai thành công
tại nhiều thư viện và trung tâm thông tin với
quy mô và loại hình khác nhau. Sản phẩm trợ
giúp các thư viện, trung tâm thông tin số hóa
những quy trình nghiệp vụ quản lý các loại
hình tài liệu trong thư viện; tự động hóa trong
việc phục vụ tài liệu đến bạn đọc thông qua
việc kết nối và tích hợp các thiết bị mượn trả
sách tự động.
Bạn đọc có thê sử dụng sản phẩm, dịch
vụ thư viện mọi lúc, mọi nơi qua môi trường
Internet nhanh chóng, hiệu quả. Đây là một
trong nhiều sản phẩm dự thi Giải thưởng
CNTT-TT TPHCM 2019 của nhóm 1.
Nguồn: T.BA, sggp.org.vn,14/11/2019
Trở về đầu trang
*************
CƠ KHÍ – CHẾ TẠO MÁY
FPT thử nghiệm thành công cấp độ 3 xe tự hành
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 11/2019 8/56
Trải nghiệm xe tự hành của FPT
FPT Software (thành viên của Tập đoàn
FPT) và Tập đoàn Ecopark vừa thử nghiệm
thành công xe tự hành trong khuôn viên khu đô
thị Ecopark.
Theo đó, xe điện Yamaha tích hợp công
nghệ xe tự hành do FPT phát triên đã chạy thử
nghiệm thành công trên quãng đường 4 km,
qua 5 trạm xe buýt và nhiều điêm cua, nút giao
cắt trong khuôn viên khu đô thị Ecopark.
Đặc biệt, người dùng có thê đặt xe từ xa
thông qua ứng dụng trên điện thoại thông minh
do FPT Software phát triên. Đê đặt xe, người
dùng chỉ cần chọn điêm khởi hành, điêm kết
thúc trên ứng dụng, hệ thống tự động tính toán
cung đường tối ưu đê điều phối xe đón khách
theo thứ tự thời gian gọi xe.
Trong thời gian di chuyên, xe tự động
dừng, tránh các vật cản cố định và các vật cản
xuất hiện bất ngờ cũng như các phương tiện
cùng tham gia giao thông trên cung đường và
dừng, đón trả khách tại các trạm chờ cố định
với độ chính xác 100%. Khi kết thúc hành trình
và không có khách xe tự động di chuyên về bãi
đỗ xe.
Đây là một cột mốc quan trọng đánh dấu
những thành công của FPT Software trong
nghiên cứu và phát triên công nghệ tự động hóa
nói chung và công nghệ xe tự hành nói riêng,
đồng thời mở ra cơ hội đưa công nghệ xe tự
hành phục vụ việc vận chuyên người, hàng hóa
trong các khu du lịch, sân golf, khu đô thị, sân
bay cũng như các nhà máy.
Trước đó, tháng 10/2017, FPT là công
ty đầu tiên ra mắt công nghệ xe tự hành tại Việt
Nam và là một trong số ít các công ty tiên
phong trong lĩnh vực xe tự hành tại khu vực
Đông Nam Á.
Nguồn: BT, baochinhphu.vn,
25/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Thiết kế bộ điều khiên bền vững cho cần cẩu container hoạt động trên biên
Thiết bị quan trọng nhất được trang bị
trên các cảng di động là một cần cẩu container
có sức nâng lớn. Cần cẩu container bao gồm
một cấu trúc khung hỗ trợ chuyên động dọc
theo chiều dài của bến cảng di động, một xe
đẩy, và ngàm kẹp. Xe đẩy chạy dọc theo đường
ray, nằm phía trên cần cẩu đê chuyên container
giữa bến cảng di động và tàu container. Ngàm
kẹp có thê được hạ xuống từ phía trên của
container và khóa cứng với container bằng các
chốt khoá ở bốn góc. Container sau đó được
nâng lên và vận chuyên giữa bến cảng di động
và tàu container. Cần cẩu thường vận chuyên
được một container duy nhất cho một lượt di
chuyên, tuy nhiên, một số cần cẩu mới có khả
năng bốc dỡ hàng lên đến bốn container 20-feet
cùng một lúc.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 9/56
Trong quá trình xếp dỡ container trên
biên, chuyên động của xe đẩy (đặc biệt là khi
bắt đầu di chuyên hoặc khi dừng lại, cùng với
dao động của tàu do sóng gây ra) tác động đến
chuyên động con lắc của container đang treo lơ
lửng. Điều này không chỉ dẫn đến việc tăng
mức độ nguy hiêm, gây thiệt hại nghiêm trọng
mà còn kéo dài thời gian cần thiết đê xác định
vị trí chính xác của container. Một phương
pháp điều khiên thỏa đáng đê loại bỏ chuyên
động không mong muốn của container được
vận chuyên là một điều rất cần thiết cho các hệ
thống cần cẩu.
Nhóm nghiên cứu do Cơ quan chủ quản
Qũy Phát triên Khoa học và Công nghệ phối
hợp cùng Chủ nhiệm đề tài TS. Ngô Quang
Hiếu thực hiện nghiên cứu đề tài “Thiết kế bộ
điều khiên bền vững cho cần cẩu container hoạt
động trên biên”. Với mục tiêu những nghiên
cứu mới dự kiến sẽ cải thiện chất lượng việc
điều khiên và nâng cao hiệu quả hoạt động của
cần cẩu container hoạt động trên biên. Khi cần
cẩu container hoạt động trên biên được ứng
dụng rộng rãi trong dịch vụ hậu cần cảng (port
logistics), chất lượng điều khiên được cải tiến
bởi bộ điều khiên được đề xuất sẽ tăng năng
suất và chất lượng của quá trình bốc dỡ
container tại các cảng container.
Với phương pháp nghiên cứu là Phương
trình EulerLagrange là một công cụ mạnh mẽ
trong việc xác định phương trình chuyên động
của các hệ thống động lực học. Vì vậy, phương
trình EulerLagrange cũng sẽ được sử dụng đê
xác định các phương trình chuyên động của cần
cẩu container trên biên trong đề tài nghiên cứu
này. Phương trình EulerLagrange được xây
dựng trên cơ sở động năng và thế năng của hệ
thống cần cẩu trên biên. Việc hiêu biết về năng
lượng của hệ thống trong việc thiết lập các
phương trình chuyên động cũng sẽ là cơ sở đê
thiết kế hệ thống điều khiên sử dụng công cụ
phân tích ổn định Lyapunov.
Sau thời gian nghiên cứu, đề tài thu
được những kết quả như sau: Đề tài được đề
xuất đóng góp vào việc phát triên lý thuyết điều
khiên cho các cần cẩu container trên biên và
các ứng dụng trong công nghiệp của chúng
trong việc vận chuyên hàng hoá trên biên và tại
các cảng container. Đề tài được đề xuất sẽ đóng
góp các ấn phẩm có chất lượng cao trong lĩnh
vực điều khiên cần cẩu container trên biên.
(1) Xuất bản hai bài báo khoa học
đăng trên tạp chí quốc tế có trong danh mục
của ISI (SCI) với tiêu đề như sau: (i) Fuzzy
sliding mode control of an offshore container
crane (Ocean Engineering SCI) ; (ii) Fuzzy
sliding mode control of container crane
(International Journal of Control, Automation
and System SCIE).
(2) Công bố hai báo cáo tại hội thảo
quốc tế.
(3) Xuất bản một bài báo trong tạp chí
trong nước.
(4) Công bố năm báo cáo tại hội thảo
quốc gia.
Nguồn: Đ.T.V, vista.gov.vn,
25/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 10/56
Sáng chế xe lăn biến hình
Quốc Thông và Hồng Ngọc đang điều khiển chiếc xe lăn
bằng ứng dụng điện thoại
Với sản phẩm vô cùng sáng tạo này,
hai em học sinh đến từ trường THPT Phan
Văn Trị (huyện Phong Điền, Cần Thơ) đã
xuất sắc giành giải đặc biệt tại “Cuộc thi sáng
tạo thanh thiếu niên, nhi đồng toàn quốc
2019”.
'Siêu' xe lăn với nhiều tính năng ưu việt
Giải thưởng không đến từ sự may mắn
mà là cả một hành trình nghiên cứu nghiêm
túc và miệt mài của Nguyễn Quốc Thông và
Nguyễn Hoàng Hồng Ngọc, cùng với sự
hướng dẫn của thầy giáo - thạc sĩ Nguyễn
Phúc Thịnh. Đến giờ, Hồng Ngọc vẫn bồi hồi
khi nhớ lại khoảnh khắc nhóm được xướng
tên: “Chính em và cả Thông cũng không ngờ
bản thân có thê đi xa đến vậy”.
Xe lăn của hai bạn có thê điều khiên đa
dạng bằng 3 phương thức: cử chỉ, giọng nói
hoặc thao tác trên ứng dụng điện thoại. Đặc
biệt, chiếc xe có thê chuyên đổi dễ dàng thành
giường nằm khi cần thiết và có giá thành rẻ
hơn những sản phẩm có chức năng tương tự.
Hai em học sinh đã lên ý tưởng lập
trình phần mềm trên điện thoại thông minh
với ứng dụng RemoteWheelChairs có thê
điều khiên tốc độ di chuyên của xe; điều
chỉnh chế độ nằm, ngồi theo ý muốn. Đối với
những người bị khuyết tật ở tay hay người già
không thê sử dụng điện thoại thông minh, các
em còn sáng tạo thêm thiết bị giống như một
chiếc đồng hồ đeo tay, điều khiên bằng cử chỉ
tay đê xe hoạt động theo ý muốn.
Tương tự, người dùng còn có thê điều
khiên xe lăn ở các chế độ tiến, lùi, nằm... theo
ý của mình với phần mềm điều khiên bằng
giọng nói gắn trên chiếc mũ bảo hiêm có
micro và được kết nối bluetooth giữa thiết bị
điều khiên từ xa và thiết bị xử lý trong xe.
Xe có thể chuyển đổi giữa chế độ ngồi và nằm tùy ý.
Ngoài ra, chiếc xe lăn thông minh này
được thiết kế với khung sắt được phủ đệm,
bên trong có gắn thiết bị xử lý trung tâm đê
nhận tín hiệu điều khiên từ xa. Bên cạnh
những chức năng chính, xe còn được trang bị
đèn báo, còi báo động, đèn led hỗ trợ di
chuyên trong bóng tối...
“Ý tưởng này của chúng em xuất phát
từ thực tế cuộc sống với những người khuyết
tật ở địa phương. Nếu dùng xe lắc thông
thường, khi di chuyển họ sẽ mệt và gặp nhiều
khó khăn. Nếu có thiết bị vừa dễ dàng điều
khiển vừa dễ dàng di chuyển, ít tốn sức thì sẽ
hỗ trợ tốt hơn cho người khuyết tật, người già
và ốm đau. Em tin là sản phẩm này sẽ giúp
mọi người dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống,
thành một bông hoa giúp đỡ cho đời”, Hồng
Ngọc chia sẻ.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 11/56
Gia đình và bạn bè của Thông và Ngọc
cũng vô cùng ủng hộ ý tưởng của hai em,
giúp các em tự tin với sản phẩm của mình.
Hiện sản phẩm đã được nhóm ứng dụng thử
nghiệm tại bệnh viện Đa Khoa huyện Phong
Điền (Cần Thơ) và nhận được nhiều phản hồi
tích cực từ các bệnh nhân.
Ngọc cho biết, trong thời gian tới,
nhóm sẽ tiếp tục cải tiến chiếc xe đê tính năng
điều khiên bằng giọng nói an toàn và dễ sử
dụng hơn, đồng thời thiết kế chiếc xe thon
gọn, đẹp mắt hơn hiện tại.
Nguồn: Mi Trần, khampha.vn,
19/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo lắp đặt thiết bị kiêm tra hệ số phản xạ gương ô tô
Hiện nay, thiết bị kiêm tra hệ số phản xạ
gương ô tô đã được sản xuất và bán tại các
nước có nền công nghiệp phát triên, tuy nhiên
giá thành rất cao trong khi ở Việt Nam chưa có
một đơn vị nào chế tạo được. Nhằm tiết kiệm
kinh phí khi nhập khẩu thiết bị nhưng vẫn đảm
bảo được các yêu cầu kỹ thuật phù hợp với tiêu
chuẩn quốc tế, khu vực và Việt Nam, việc
nghiên cứu chế tạo thiết bị kiêm tra hệ số phản
xạ gương ô tô là rất cần thiết.
Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn như vậy,
Cơ quan chủ trì đề tài Cục Đăng kiêm Việt
Nam phối hợp cùng Chủ nhiệm đề tài Đặng
Việt Hà thực hiện “Nghiên cứu, thiết kế, chế
tạo lắp đặt thiết bị kiêm tra hệ số phản xạ
gương ô tô”.
Sau thời gian nghiên cứu, thiết kế chế
tạo thiết bị kiêm tra độ méo quang học kính
chắn gió ô tô, nhóm nghiên cứu đã hoàn thành
đề tài và thu được những kết quả như sau:
1) Nghiên cứu một cách tổng quát về
thiết bị kiêm tra số phản xạ gương ô tô;
2) Tìm hiêu một cách hệ thống các tiêu
chuẩn, tài liệu quốc tế và Việt Nam về thiết bị
kiêm tra độ méo quang học kính chắn gió ô tô
và ứng dụng của nó;
3) Nghiên cứu lựa chọn phương án, thiết
kế, chế tạo và lắp đặt hoàn chỉnh 01 thiết bị phù
hợp yêu cầu của thuyết minh đề cương và đáp
ứng quy chuẩn thử nghiệm QCVN
33:2011/BGTVT, có ứng dụng công nghệ đo
lường điều khiên hiện đại và công nghệ kỹ
thuật số;
4) ứng dụng thiết bị đã chế tạo đê thử
nghiệm 10 mẫu gương ô tô theo Quy chuẩn
QCVN 33:2011/BGTVT;
5) Thiết bị đã nhận được Tổng cục Tiêu
chuẩn đo lường chất lượng hiệu chuẩn và cấp
giấy chứng nhận hiệu chuẩn số
V11.CN5.255.16 ngày 03/11/2016
6) Có bài báo khoa học đăng trên tạp chí
Cơ khí số tháng 11/2016
Đây là thiết bị kiêm tra hệ số phản xạ
gương ô tô đầu tiên ở trong nước được nhóm
nghiên cứu chế tạo và lắp đặt, đo thử nghiệm
thành công và không trùng lặp với bất kỳ công
trình khoa học nào đã công bố ở Việt Nam.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 12/56
Bằng các nghiên cứu lý thuyết và áp
dụng các tiêu chuẩn quốc tế, thiết bị có ứng
dụng công nghệ tự động hóa sử dụng linh kiện
điện tử hiện đại của Nhật Bản, Hàn Quốc có thê
khẳng định những kết quả đó có độ tin cậy.
Về ý nghĩa thực tiễn, thiết bị có thê sử
dụng phục vụ công tác thử nghiệm linh kiện xe
cơ giới; sản xuất lắp ráp theo tiêu chuẩn, quy
chuẩn hiện hành. Ngoài ra thiết bị còn phục vụ
công tác nghiên cứu khoa học, nghiên cứu phát
triên sản phẩm gương ô tô của các doanh
nghiệp và quá trình kiêm tra thử nghiệm xe cơ
giới phục vụ công tác quản lý chất lượng
phương tiện.
Nguồn: Đ.T.V, vista.gov.vn,
20/11/2019
Trở về đầu trang
*************
“Chợ online”cho máy công nghiệp và phương tiện vận tải: Xây dựng tư duy kinh doanh mới
Ông Phạm Quang Đức - nhà sáng lập, kiêm Giám đốc
điều hành Công ty CP iLott, đơn vị sở hữu nền tảng
Hanoma.vn
Nhu cầu cấp thiết
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là cơ
hội giúp các doanh nghiệp Việt Nam tiến sâu
hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu và đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Ông Đặng Hoàng Hải - Cục trưởng Cục
Thương mại điện tử và Kinh tế số (Bộ Công
Thương) - cho biết, thương mại điện tử
(TMĐT) đang là điêm sáng của Cuộc cách
mạng công nghiệp 4.0 với tốc độ phát triên cao
từ 20 - 30% mỗi năm. Năm 2018, giá trị thị
trường TMĐT Việt Nam đạt khoảng 8 tỷ USD,
tăng hơn 30% so với năm 2017 và sẽ tăng lên
33 tỷ USD vào năm 2025.
Bên cạnh đó, số lượng người tham gia
mua sắm trực tuyến cũng có sự tăng trưởng
hàng năm, năm 2018 đạt mức gần 40 triệu
người dân, trung bình hơn 2 người dân thì có 1
người mua hàng online. Chính vì vậy, thời gian
gần đây, cùng với nhu cầu mua sắm và mở rộng
phương thức kinh doanh đa phương tiện, nhiều
doanh nghiệp tìm đến sàn TMĐT đê “gửi gắm”
sản phẩm của mình đến tay người tiêu dùng.
Số liệu thống kê hiện nay cho thấy,
trong tổng số hơn 800.000 doanh nghiệp ở Việt
Nam thì có đến hơn 30.000 doanh nghiệp hoạt
động trong lĩnh vực máy móc, thiết bị công
nghiệp và 170.000 công ty hoạt động trong lĩnh
vực xây dựng và khai khoáng. Mặc dù, đã có
các sàn TMĐT như vatgia, chotot… nhưng các
sàn này đăng bán sản phẩm chung. Còn máy
móc, thiết bị công nghiệp chưa có trang chuyên
ngành với đầy đủ các thông tin đê người bán,
người mua giao lưu với nhau.
Ông Phạm Quang Đức - nhà sáng lập,
kiêm Giám đốc điều hành Công ty CP iLott,
đơn vị sở hữu nền tảng Hanoma.vn – cho biết:
“Trước đây, vừa là người sử dụng máy móc,
vừa là người buôn bán, có thời điểm, tôi phải
mò mẫm, mất hàng tuần để tìm máy móc, phụ
tùng thiết bị mình cần, nhưng để tìm được lại
rất khó. Trong khi đó, hiện nay, TMĐT Việt
Nam đã phát triển, có thể mua bán trên mạng
một cách dễ dàng. Tuy nhiên, sản phẩm có giá
trị lớn như máy móc, thiết bị công nghiệp,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 13/56
phương tiện vận tải lại ít, thậm chí chưa được
lên “sàn” tại Việt Nam”.
Đổi mới tư duy
Hiện nay, Nhà nước tạo mọi điều kiện
đê doanh nghiệp phát triên tiếp cận công nghệ,
doanh nghiệp có thê “thỏa sức” quảng bá, phát
triên sản phẩm của mình trên mạng Internet.
Theo ông Phạm Quang Đức, sở dĩ chưa có sàn
chuyên ngành về các loại máy móc công
nghiệp, phương tiện vận tải… do đây là mặt
hàng đặc thù, bán hàng online rất khó. Nhất là
đặc trưng kinh doanh của người Việt Nam càng
khó hơn, đó là người tiêu dùng, doanh nghiệp
Việt vẫn có thói quen đến tận nơi đê xem hàng.
Tuy nhiên, không phải sản phẩm nào
cũng dễ tìm đê đến tận nơi xem và kiêm tra
chất lượng. Trong bối cảnh TMĐT phát triên
mạnh mẽ và nhu cầu tìm kiếm lớn của người
tiêu dùng hiện nay, sàn TMĐT về máy móc,
thiết bị công nghiệp và phương tiện vận tải lớn
là nhu cầu cấp thiết của các doanh nghiệp,
người tiêu dùng Việt. Trên cơ sở đó, ý tưởng về
sàn TMĐT về mặt hàng này cũng được một số
doanh nghiệp “bắt tay” vào triên khai. Đơn cử
như Công ty CP iLott với cơ sở nền tảng
Hanoma.vn.
Theo nhà sáng lập, kiêm Giám đốc điều
hành Công ty CP iLott, thực tế hiện nay trình
độ công nghệ trong giới chủ kinh doanh đến
thợ, người lao động chưa cao. Họ hiêu công
nghệ và ứng dụng ở mức đơn giản. Có một số
chủ doanh nghiệp mới chỉ hiêu công nghệ ở
việc gửi email, kiêm tra nhận hàng. Cách
marketing sản phẩm còn hạn chế.
“Để giúp doanh nghiệp khắc phục
những điểm yếu đó và người mua hàng có các
thông tin chính xác, nhanh chóng về sản phẩm
cần tìm, hệ sinh thái Hanoma.vn sẽ cung cấp
kiến thức kinh doanh online, hướng dẫn đưa
sản phẩm lên web, zalo, facebook… Đồng thời
kết nối cung cấp thợ lái xe, thợ lái máy xúc,
cẩu, thợ xây dựng… đến doanh nghiệp cần tìm
người lao động” – ông Phạm Quang Đức chia
sẻ thêm.
Ngoài ra, thị trường máy xây dựng thế
giới hiện rất sôi động, bài bản, chuyên nghiệp.
Nhiều nước mua bán máy móc qua đấu thầu
chứ không có bãi bán lẻ như ở Việt Nam. Một
công ty xây dựng sử dụng máy cũ nay không có
nhu cầu dùng nữa cũng có khả năng tự đăng
bán sản phẩm trên Hanoma.vn, tiết kiệm thời
gian và chi phí trung gian.
Với những ưu điêm đó, đến nay,
Hanoma.vn đã có khoảng trên 1.100 doanh
nghiệp, cửa hàng đăng ký đưa thông tin bán
hàng. Tại đây, người bán có thê cung cấp
thông tin đầy đủ chuẩn xác máy móc cần bán
từ hãng, xuất xứ, model… đến giá cả, chất
lượng. Hiện Hanoma.vn đang nỗ lực đê các
doanh nghiệp này xuất hiện trên Google Map,
Web, Zalo, Facebook, Youtube và trên gian
hàng của Hanoma.vn; giúp người mua xem
xét, đánh giá kỹ trước khi mua. Đồng thời có
địa chỉ, số điện thoại người bán hàng nên
người mua và người bán có thê liên lạc, trao
đổi trực tiếp đê mua bán.
“Thời gian tới, chúng tôi hướng đến có
đơn vị thẩm định chất lượng (là bên thứ 3) để
thẩm định chất lượng sản phẩm và giá của các
sản phẩm đăng trên Hanoma.vn. Điều này ở
nước ngoài họ đã làm rất tốt nhưng ở Việt Nam
thì tương đối mới mẻ. Chúng tôi cùng doanh
nghiệp từng bước xây dựng văn hóa kinh doanh
online trong lĩnh vựa máy móc, thiết bị và
thuyết phục khách hàng bằng lợi ích của chính
họ. Từ lời nói - chất lượng sản phẩm đều cam
kết chuẩn” - ông Phạm Quang Đức nhấn mạnh.
Nguồn: Phương Hường,
congthuong.vn, 04/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 14/56
Đốt dầu thải không khói nhờ thiết bị đốt lò áp lực
Ông Huỳnh Tấn Kiệt giới thiệu thiết bị lò đốt áp lực tại
Techmart Y tế TPHCM 2019.
Ông Huỳnh Tấn Kiệt (TPHCM) đã
nghiên cứu và chế tạo thành công thiết bị lò
đốt áp lực, dùng đê đốt các loại chất thải lỏng
mà không phát tán khói và khí thải làm ô
nhiễm môi trường.
Ông Kiệt cho biết, hàng năm một
lượng rất lớn lượng nhớt thải (chất thải nguy
hại) bị thải ra làm ô nhiễm môi trường trong
khi lượng nhớt thải này có thê tận dụng làm
chất đốt được.
Tuy nhiên, nếu đốt theo cách truyền
thống thì sẽ thải ra nhiều khói và khí thải độc.
“Với kinh nghiệm 30 năm làm việc trong
nghề cơ khí, tôi thấy rằng cần phải thay đổi
cách hòa trộn chất đốt và hòa khí trong thiết
bị đốt mà nguyên tắc gọi là hòa khí hoàn toàn
thì sẽ cho sự đốt cháy hoàn toàn không phát
sinh khói” – ông Kiệt chia sẻ ý tưởng đầu tiên
của mình.
Sau khi sử dụng các thiết bị đốt trong
nước và ngoại nhập, ông nhận ra áp lực gió
không đủ sức phân tán nhuyễn giọt dầu, nhất
là không thê sử dụng được nhớt thải. Vì vậy,
cần phải có lực gió lớn hơn và hệ thống phân
tán nhuyễn giọt dầu nhiều hơn. Với ý tưởng
đó, ông đã nghiên cứu và chế tạo thiết bị lò
đốt áp lực dùng gió áp lực cao hay gió turbo
thay cho gió cánh quạt.
“Dầu được cung cấp vào ống ở trung
tâm và gió thổi bao quanh trong ống với áp
lực cao sẽ cuốn dầu đi theo và phân tán
nhuyễn dầu theo cấp số nhân và được đốt
cháy hoàn toàn” – ông Kiệt nói và cho biết,
nhờ nguyên lý này, thiết bị không chỉ đốt
được dầu DO mà còn sử dụng trong việc đốt
cả nhớt thải mà các thiết bị khác không đốt
được.
Theo ông Kiệt, một trong những ưu
điêm nổi trội của thiết bị lò đốt này là sử dụng
nhớt thải ô tô, xe máy làm nhiên liệu với hiệu
suất cao. Chỉ cần 1 lít nhớt thải đê đốt lò
nung, sấy trong vòng 1 giờ đồng hồ với mức
nhiệt có thê lên tới 1.000ºC. Thiết bị có thê
được ứng dụng trong ngành nấu nhôm, nhựa
phế liệu, đốt chất thải lỏng nguy hại, sấy, tiệt
trùng nông sản sau thu hoạch, chưng cất các
loại tinh dầu,…
Ông Lê Phong Phú, Hợp tác xã Thái
Dương (Bình Lợi, Bình Chánh, TPHCM), đã
sử dụng thiết bị lò đốt áp lực không khói của
ông Kiệt trong việc sấy xơ dừa, lá cọ dầu. Kết
quả khí thải do Viện Khoa học an toàn vệ
sinh lao động TPHCM phân tích tại ống thoát
khí của hệ thống sấy bằng thiết bị lò đốt áp
lực dùng nhớt thải đạt yêu cầu theo quy định
tại QCVN 19:2009/BTNMT.
Hiện thiết bị còn được sử dụng trong
sản xuất đậu hũ, chưng cất tinh dầu, sấy nông
sản ở Tân Phú, Củ Chi (TPHCM).
Nguồn: Kiều Anh,khoahocphattrien.vn,
12/11/2019
Trở về đầu trang
*************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 15/56
VẬT LIỆU – HÓA CHẤT
Kỹ thuật in laser sản xuất vải số hoá chống thấm nước trong vài phút
Các nhà khoa học từ Đại học RMIT đã
phát triên một phương pháp giá cả hợp lý và
có thê sản xuất hàng loạt, đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về chất liệu có thê dùng trong
các thiết bị lưu trữ năng lượng.Trong chỉ ba
phút, phương pháp này có thê tạo ra được
miếng vải kích cỡ 10x10cm chống thấm
nước, co dãn và có khả năng tích hợp công
nghệ thu hoạch năng lượng ngay lập tức.
Công nghệ này cho phép in laser
graphene supercapacitors - “siêu pin” tuổi thọ
cao có thê dễ dàng kết hợp với miếng năng
lượng mặt trời hoặc các nguồn năng lượng
khác - trực tiếp vào vải.Trong sản phẩm thử
nghiệm, các nghiên cứu viên đã kết nối siêu tụ
điện với một miếng năng lượng mặt trời, cho
ra loại vải thông minh hiệu quả, có thê giặt
được và tự tạo năng lượng, cải thiện các yếu
điêm chính của công nghệ lưu trữ năng lượng
trong loại vải thông minh hiện có.
Ngành chất liệu thông minh đang nổi
có nhiều ứng dụng khác nhau trong lĩnh vực
thiết bị thông minh đeo được cho khách hàng,
chăm sóc sức khoẻ và bảo vệ - từ theo dõi các
chỉ số quan trọng của bệnh nhân, đến theo dõi
vị trí và tình trạng sức khoẻ của binh sĩ nơi
chiến tuyến, và kiêm soát độ mệt mỏi ở phi
công và tài xế. Tiến sĩ Rajkishore Nayak -
giảng viên Khoa Truyền thông và Thiết kế
RMIT Việt Nam - cho biết, việc phát triên loại
công nghệ này ở Việt Nam sẽ “thúc đẩy ngành
dệt may”.
“Thị trường thời trang và dệt may toàn
cầu có thể chia thành hai nhóm: vải may quần
áo dùng hàng ngày và vải công nghệ ngày
càng có thêm nhiều ứng dụng. Hiện Việt Nam
đóng góp lớn vào sản xuất ra vải quần áo
thông dụng, nhưng sản xuất chất liệu công
nghệ thì còn rất thấp dù nhu cầu trên thế giới
ngày càng tăng”, tiến sĩ Nayak cho biết.
“Phát triển công nghệ này ở Việt Nam -
để thêm tính năng vào thời trang thông dụng ở
Việt Nam - sẽ tăng lợi nhuận cho ngành dệt
may. Vậy nên, ngành thời trang và dệt may
phải tìm kiếm và ứng dụng công nghệ tiên tiến
vào dây chuyền sản xuất”.
Tiến sĩ Nayak tiếp tục đề cập đến thành
quả của nhóm nghiên cứu từ RMIT Melbourne
- tạo ra nguyên liệu có hai tính năng song hành
gồm chống thấm nước và thu hoạch năng
lượng - là một nghiên cứu mới mẻ và là thành
tựu hết sức tuyệt vời. “Công nghệ năng lượng
tái tạo tạo cú hích cho việc dùng chất liệu
thông minh và thiết bị điện tử đeo được trên
người. Với tốc độ phát triển chóng mặt các
thiết bị điện tử đeo được trên người, lĩnh vực
lưu trữ năng lượng thu hút rất nhiều nghiên
cứu nhằm phát triển thiết bị lưu trữ năng
lượng phù hợp. Đến nay vẫn còn thiếu các
thiết bị lưu trữ năng lượng đeo được trên
người, an toàn, đáng tin cậy và giá cả hợp lý”,
tiến sĩ Nayak cho biết thêm.
Nguồn: Thu Huyền, congthuong.vn,
20/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 16/56
Chế tạo và ứng dụng thành công các dung môi sinh học trong sản xuất năng lượng mới
Một số sản phẩm của tiểu dự án.
Theo bà Vũ Thị Thu Hà - Giám đốc
KEYLAB PRT, dự án thực hiện với mục tiêu
nhằm nâng cao năng lực nghiên cứu của đơn
vị và thiết kế công nghệ chế tạo và ứng dụng
vật liệu xúc tác dị thê trong sản xuất dung
môi sinh học (DMSH) và vật liệu nano trong
sản xuất pin nhiên liệu sử dụng ethanol trực
tiếp, đạt trình độ tiên tiến trong khu vực và
quốc tế, vì sự phát triên bền vững. Đây là
Tiêu dự án thuộc Hợp phần 2a - Hỗ trợ
chuyên đổi các tổ chức KH&CN công lập của
Dự án “Đẩy mạnh đổi mới sáng tạo thông qua
nghiên cứu, KH&CN (FIRST)”, do Ngân
hàng Thế giới tài trợ và Bộ KH&CN là cơ
quan quản lý. Dự án được thực hiện từ tháng
6/2017 đến tháng 5/2019.
Sau 2 năm triên khai, đến nay
KEYLAB PRT đã ươm tạo thành công công
nghệ chế tạo và ứng dụng vật liệu xúc tác dị
thê trong sản xuất DMSH, đạt trình độ tiên
tiến trong khu vực và quốc tế, sản xuất và
thương mại hóa thử nghiệm thành công một
số sản phẩm mẫu DMSH và thiết lập được
các hợp đồng liên kết triên khai công nghệ ở
quy mô công nghiệp. Đồng thời, KEYLAB
PRT đã phát triên thành công công nghệ chế
tạo và ứng dụng vật liệu nano trong sản xuất
pin nhiên liệu DEFC, thiết kế và làm chủ các
công nghệ mở rộng khác liên quan đến xúc
tác dị thê và quá trình lọc dầu sinh học, tạo ra
những dòng sản phẩm mở rộng của Tiêu dự
án và đã được thương mại hóa thành công.
Với nguồn kinh phí từ Dự án FIRST,
KEYLAB PRT đã đầu tư mua sắm trang thiết
bị đê tạo cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, đạt
trình độ tiên tiến trong khu vực và quốc tế,
phục vụ nghiên cứu, triên khai công nghệ và
sản xuất sản phẩm của Tiêu dự án; đồng thời
nâng cấp, duy tu trang thiết bị sẵn có của
KEYLAB PRT đê không những đáp ứng nhu
cầu triên khai sản xuất thử nghiệm trong quá
trình thực hiện Tiêu dự án mà còn đáp ứng
nhu cầu mở rộng sản phẩm của Tiêu dự án
trong lĩnh vực vật liệu mới.
Đến nay, KEYLAB PRT đã đảm bảo
được kinh phí cho hoạt động của đơn vị từ
các nguồn thu, thông qua việc trực tiếp sản
xuất một số sản phẩm thương mại như vật
liệu xúc tác dị thê, DMSH, phụ gia đa năng
tiết kiệm nhiên liệu và giảm khí thải; liên kết
với doanh nghiệp triên khai công nghệ, sản
xuất và thương mại hóa sản phẩm của Tiêu
dự án và sản phẩm mở rộng của Tiêu dự án;
thực hiện dịch vụ nghiên cứu khoa học, khai
thác quyền sở hữu trí tuệ về vật liệu nano
trong pin nhiên liệu DEFC. Dự kiến
KEYLAB PRT sẽ đảm bảo 100% kinh phí
hoạt động, không phải phụ thuộc vào đầu tư
của Nhà nước từ năm 2022.
Hỗ trợ chuyên đổi các tổ chức KH&CN
công lập là một trong những chính sách thí
điêm khi Ngân hàng Thế giới và Bộ KH&CN
triên khai Dự án FIRST với mục đích tạo “đòn
bẩy”, “cú hích” cho các tổ chức KH&CN nâng
cao năng lực nghiên cứu và thương mại hóa
các sản phẩm, tạo nguồn thu cho đơn vị.
Thành công của Tiêu dự án do KEYLAB PRT
thực hiện nói riêng và các tiêu dự án khác
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 17/56
thuộc Hợp phần 2a nói chung đã phần nào
khẳng định hướng đi đúng đắn, hiệu quả trong
việc thí điêm các cơ chế, chính sách này.
Nguồn: khoahocphattrien.vn,
18/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu công nghệ tuyên và chế biến sâu quặng graphit mỏ Bảo Hà tỉnh Lào Cai
Hiện nay, nền công nghiệp nước ta trên
đà phát triên mạnh, nguyên liệu graphit sẽ
ngày càng được sử dụng rộng rãi trong nhiều
lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân. Đê sử dụng
graphit một cách có hiệu quả, nâng cao giá trị
kinh tế, tiềm năng của tài nguyên và đáp ứng
nhu cầu về chất lượng của nguyên liệu, việc
nghiên cứu một công nghệ tuyên và chế biến
sâu hợp lý đê có được sản phẩm graphit với
chất lượng cao, phục vụ nhu cầu của nhiều
ngành công nghiệp là hết sức cần thiết.
Đề tài độc lập cấp quốc gia: “Nghiên
cứu công nghệ tuyên và chế biến sâu quặng
graphit mỏ Bảo Hà tỉnh Lào Cai” do ThS.
Trần Thị Hiến, công tác tại Viện Khoa học và
Công nghệ Mỏ - Luyện kim thực hiện với sự
phối hợp của các cơ quan, đơn vị trong nước
như Công ty Cổ phần Khai thác và Chế biến
Khoáng sản Sông Đà, Viện Vật liệu Xây
dựng - Bộ Xây dựng, Viện Khoa học Vật liệu
- Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt
Nam... Đề tài tiến hành với các mục tiêu sau:
- Xây dựng quy trình công nghệ tuyên
hợp lý đảm bảo chất lượng quặng tinh và thu
hồi tối đa tài nguyên cho mỏ graphit Bảo Hà,
tỉnh Lào Cai.
- Xây dựng quy trình công nghệ chế
biến sâu quặng tinh thu được sản phẩm
graphit chất lượng cao làm nguyên liệu sản
xuất gạch chịu lửa và pin.
- Thử nghiệm, chế tạo mẫu sản phẩm
pin và gạch chịu lửa từ graphit 95 ÷ 99% C là
sản phẩm của đề tài: Tối thiêu mỗi loại 10 mẫu.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, có thê
đưa ra một số kết luận sau:
1. Quặng graphit Bảo Hà có thành
phần vật chất chính gồm: Cacbon: 11,28 ÷
11,8%; Al2O3: 10,72%, Fe2O3: 5,85 ÷
7,55%, và SiO2: 57,1 ÷ 59,58%. Ngoài ra,
hàm lượng chất bốc: 1,00%. Thành phần
khoáng vật chính trong mẫu là graphit, thạch
anh, felspat, ilit… Graphit tồn tại dưới dạng
các tấm kéo dài, vảy hoặc dạng sợi, xen kẹp
giữa các tấm phi quặng, kích thước từ (0,05 x
0,2) đến (0,15 x 1,5). Có chỗ tập trung thành
ổ. Ngoài ra, cũng phát hiện một lượng nhỏ
graphit ở dạng kết tinh vô định hình, xâm
nhiễm cùng với pyrotin, pyrit và phi quặng,
chủ yếu gồm các hạt thạch anh, mica (biotit),
granat, bên cạnh đó còn một số khoáng vật
chứa sunfua như pyrit, pyrotin và các oxyt sắt
như hematit, limonit.
2. Sơ đồ công nghệ tuyên hợp lý cho
quặng graphit Bảo Hà, Lào Cai phối hợp
nghiền, tuyên nổi và phân cấp bao gồm các
khâu:1 lần nghiền chính, 3 lần nghiền lại
quặng tinh, 1 lần nghiền lại trung gian và 12
nguyên công tuyên (1 tuyên chính, 6 lần
tuyên tinh kết hợp với sàng phân cấp, 2 tuyên
vét, 3 tuyên lại trung gian).
Các chế độ tuyên nổi tối ưu cho khâu
tuyên chính như sau:
- Độ mịn nghiền 29,47 % cấp -0,074 mm
tương đương d = -0,5 mm. - Với pH: 7 ÷ 7,5.
- Không cần sử dụng thuốc đè chìm.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 18/56
- Thuốc tập hợp là dầu hỏa với chi phí
90 g/t.
- Thuốc tạo bọt là Montanol 800 với
chi phí là 50 g/t.
- Ở khâu tuyên vét 1 bổ sung 40 g/t
dầu hỏa và 25 g/t thuốc tạo bọt Montanol 800.
- Ở khâu tuyên vét 2 bổ sung 20 g/t
thuốc tâp hợp dầu hỏa và 10 g/t thuốc tạo bọt
Montanol 800.
- Khâu tuyên tinh bổ sung thêm thủy
tinh lỏng với chi phí: tuyên tinh 1: 150 g/t;
tuyên tinh 2: 150 g/t; tuyên tinh 3: 100 g/t;
tuyên tinh 4: 50 g/t; tuyên tinh 5: 30 g/t. 269
- Chế độ nghiền - chà xát: Tỷ lệ bi
nghiền/quặng: 5/1; Hàm lượng phần rắn vào
nghiền: 35% rắn; thời gian nghiền: 5 phút; tốc
độ khuấy: 35 ÷ 45m/s.
- Khâu tuyên trung gian với chế độ
như sau :
+ Độ mịn nghiền 87% - 0,074 mm.
+ pH : 7 ÷ 7,5.
+ Thuốc đè chìm thủy tinh lỏng là 200 g/t.
+ Thuốc tập hợp dầu hỏa: 20 g/t
+ Thuốc tạo bọt Montanol 800: 10 g/t
- Công nghệ tuyên đã xác lập thê hiện
tính ổn định cao ở quy mô pilot. Thí nghiệm
liên tục trên dây chuyền thiết bị công suất 100
kg/h với quặng nguyên khai có hàm lượng
cacbon 11,80% đã thu được 550 kg quặng
tinh graphit bao gồm: quặng tinh graphit vảy
thô có khối lượng 185 kg hàm lượng cacbon
(C ) đạt 94,17% ứng với thực thu là 33,52%;
quặng tinh graphit mịn có khối lượng 365 kg
với hàm lượng C là 82,09% ứng với thực thu
là 59,79%. Tổng thực thu quặng tinh là
93,31%. Đáp ứng hoàn toàn mục tiêu nghiên
cứu của đề tài.
3. Nghiên cứu công nghệ đã xác lập và
đề xuất sơ đồ công nghệ chế biến sâu hợp lý
cho mẫu quặng tinh graphit mỏ Bảo Hà, tỉnh
Lào Cai bao gồm các công đoạn chính: Nung
với NaOH, hòa tách với nước, hòa tách với
axit.
- Các chế độ công nghệ hợp lý cho
công đoạn nung như sau: Nhiệt độ: 450oC,
thời gian nung: 60 phút; tỷ lệ NaOH/quặng
tinh = 1/3.
- Các chế độ công nghệ hợp lý cho
công đoạn hòa tan sản phẩm sau nung bằng
nước ở nhiệt độ phòng và thời gian 35 phút,
tỷ lệ R/L = 1/5, sau đó lọc rửa 5 lần bằng
nước sạch tỉ lệ nước/graphit = 7 đê loại bỏ
kiềm dư.
- Các chế độ công nghệ hợp lý cho
công đoạn hòa tách trong dung dịch H2SO4
như sau: Nhiệt độ phòng, thời gian: 120 phút,
tỷ lệ R/L = 1/5, nồng độ dung dịch H2SO4
10%, tốc độ khuấy 1,05 m/s.
- Sản phẩm graphit gồm 2 loại: Tinh
khiết 1 đạt > 98% C; tinh khiết 2 đạt >
99,40% C. Hiệu suất thu hồi đối với graphit
tinh khiết 1 đạt > 93%; đối với graphit tinh
khiết 2 đạt > 96%. Khối lượng sản phẩm của
tinh khiết 1 đạt 55 kg và tinh khiết 2 đạt 110 -
270 kg
- Trong quá trình nghiên cứu, đã xác
định một số nguồn chất thải lỏng, khí phát
sinh ra môi trường, từ đó đưa ra định hướng
xử lý một số chất thải này nhằm hạn chế ảnh
hưởng đến môi trường.
- Tổng thực thu của công nghệ tuyên
và chế biến sâu quặng graphit mỏ Bảo Hà,
Lào Cai đạt ≥ 87%.
4. Sản xuất thử nghiệm gạch chịu lửa
MgO - C mác MC-18A với số lượng 20 viên
vượt cả về tiêu chuẩn chất lượng và số lượng.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 19/56
5. Thử nghiệm thành công lõi pin mác
JXR2 cả về chất lượng và số lượng. Ngoài ra,
còn sử dụng sản phẩm của đề tài cho thử
nghiệm chế tạo vật liệu graphen làm điện cực
cho siêu tụ điện và thử nghiệm đê đánh bóng
đồng xu trong vỏ pin. Các kết quả thử nghiệm
cho kết quả rất tốt.
6. Khái toán sơ bộ chi phí khâu tuyên
và chế biến tính cho một tấn sản phẩm đều
cho lợi nhuận khả quan.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
14/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu thu hồi thiếc trong bùn tuyên nổi của nhà máy tuyên quặng gốc Suối Bắc, Quỳ Hợp, Nghệ An
Công ty Cổ phần Kim loại màu Nghệ
Tĩnh là đơn vị thành viên của Tổng công ty
Khoáng sản TKV- tiền thân là Xí nghiệp
Liên hợp Thiếc Quỳ Hợp, Nghệ An, được
thành lập từ năm 1980. Thời kỳ đầu Công ty
khai thác và chế biến quặng thiếc sa khoáng
tại các mỏ Châu Hồng, Châu Cường, Châu
Thành v.v… Đến nay, nguồn quặng thiếc sa
khoáng đã gần hết. Đê ổn định sản xuất sản
phẩm thiếc lâu dài cho Công ty, phục vụ nhu
cầu trong nước cũng như xuất khẩu, trong
nhiều năm qua, Tổng công ty khoáng sản
TKV đã cho phép công ty đầu tư thăm dò
quặng gốc mỏ Suối Bắc. Kết quả cho thấy
mỏ thiếc gốc Suối Bắc, Quỳ Hợp có trữ
lượng và chất lượng quặng tương đối tốt và
đủ điều kiện khai thác và chế biến. Việc
nghiên cứu chọn được công nghệ tuyên thu
hồi thiếc trong bùn tuyên nổi của nhà máy
tuyên quặng gốc Suối Bắc, Quỳ Hợp là rất
cần thiết. Xuất phát từ thực tế trên, TS.
Nguyễn Thị Minh, Trung tâm Khoa học
Công nghệ Chế biến và Sử dụng khoáng sản
Hội Tuyên khoáng Việt Nam cùng các đồng
nghiệp đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên
cứu thu hồi thiếc trong bùn tuyên nổi của nhà
máy tuyên quặng gốc Suối Bắc, Quỳ Hợp,
Nghệ An”. Mục tiêu chủ yếu của đề tài là
nhằm xác lập được sơ đồ công nghệ tuyên
hợp lý đê thu hồi tinh quặng thiếc trong bùn
tuyên nổi nhà máy tuyên quặng gốc Suối
Bắc, Quỳ Hợp, Nghệ An nhằm nâng cao hiệu
quả sản xuất của nhà máy.
Từ những kết quả nghiên cứu thành
phần vật chất, công nghệ tuyên mẫu bùn quặng
đuôi tuyên nổi tại Công ty Kim loại màu Nghệ
Tĩnh có thê đưa ra một số kết luận sau:
1- Bùn bọt tuyên nổi của nhà máy
tuyên quặng gốc Suối Bắc là đối tượng khó
tuyên vì hàm lượng thiếc trong bùn không cao
(1,17-1,2%Sn), chủ yếu nằm ở cấp hạt mịn -
0,125mm và chứa nhiều tạp chất, ảnh hưởng
xấu đến chất lượng quặng tinh thiếc (Fe =
44,49%, S = 33,51%; As = 17,62%; SiO2 =
1,93%, Pb = 0,009%).
2- Đê tuyên tận thu được tinh quặng
thiếc từ bùn bọt, đảm bảo chất lượng theo yêu
cầu của đề tài, đã nghiên cứu thí nghiệm và
quyết định chọn phương pháp tuyên nổi và
tuyên từ ướt với cường độ từ trường cao. Sau
khi nghiên cứu thí nghiệm và điều chỉnh các
thông số kỹ thuật về công nghệ tuyên nổi và
tuyên từ, đã lựa chọn được sơ đồ công nghệ
tuyên thích hợp. Với sơ đồ công nghệ đề xuất
đã tuyên được hơn 3 kg tinh quặng thiếc có
chất lượng: Sn ≥ 60%; Fe ≤ 2,4%; S ≤ 1,4%;
As ≤ 0,5%), thực thu Sn=50,09%. Với chất
lượng này, quặng thiếc đủ điều kiện làm
nguyên liệu cho khâu luyện kim.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 20/56
3- Nhà máy tuyên quặng thiếc gốc
Suối Bắc được đầu tư năm 2012 và đầu tư cải
tiến (thay đổi một số thiết bị đập, nghiền và
đầu tư thêm máy tuyên nổi) từ năm 2013.
Hiện nay nhà máy đang sản xuất ổn định với
năng lực tuyên 29.000 tấn quặng thiếc
(Sn≥0,4%) và thu được khoảng 174 tấn tinh
quặng thiếc với hàm lượng Sn ≥ 50%, tỷ lệ
thực thu là 75%. Có thê áp dụng kết quả
nghiên cứu của đề tài vào thực tiễn sản xuất
tại xưởng tuyên Suối Bắc của công ty. Khi áp
dụng kết quả nghiên cứu vào sản xuất chỉ cần
đầu tư thêm công đoạn tuyên tận thu bằng
tuyên nổi và tuyên từ. Mỗi năm có thê đưa
vào tuyên tận thu khoảng 2000 tấn bùn bọt
(1000 tấn trực tiếp từ nhà máy tuyên; 1000
tấn từ bãi thải quặng đuôi) và khả năng sẽ thu
được khoảng 20 tấn tinh quặng thiếc có chất
lượng: Sn ≥ 60%; Fe ≤ 2,4%; S ≤ 1,4%; As ≤
0,5%. Khi đầu tư công đoạn tuyên tận thu có
thê tăng thêm thực thu kim loại thiếc của nhà
máy trên 5%. Qua tính khái toán về hiệu quả
kinh tế cho thấy việc đầu tư thêm công đoạn
tuyên tận thu thiếc từ bùn tuyên nổi là có
hiệu quả.
4- Hiện nay, bãi thải quặng đuôi của
nhà máy tuyên quặng gốc Suối Bắc của công
ty KLM Nghệ tĩnh được xếp vào loại bãi thải
độc hại, phải có cơ chế quản lý nghiêm ngặt
đuôi thải (phải chôn lấp). Có thê áp dụng
công nghệ tuyên tận thu đê tuyên lại toàn bộ
bãi thải với mục đích tách các tạp chất độc
hại ra khỏi đuôi thải tuyên nổi (kim loại nặng,
các khoáng vật chứa sunfua, các khoáng vật
độc hại như asenopirit vv) và tận thu thêm
khoáng vật có ích như thiếc. Tạp chất độc hại
sau khi tách được chôn lấp theo quy trình về
bảo quản chất thải. Chất thải không độc hại
có thê tái sử dụng.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
05/11/2019
Trở về đầu trang
**************
CÔNG NGHỆ THỰC PHẨM
Sáng chế thành công máy sấy muối ớt ướt
Ông Huỳnh Văn Bé, chủ cơ sở muối
sấy Ngọc Yến (thị trấn Thanh Bình, huyện
Thanh Bình) đã nghiên cứu, chế tạo thành
công chiếc máy sấy muối ớt ướt.
Chiếc máy sấy muối ớt ướt này hoạt
động theo cơ chế gia nhiệt từ khay đốt than đá
từ bên dưới, sức nóng của than đá làm nóng
trực tiếp dạ dưới của mâm muối ở bên trên,
thông qua việc sử dụng mô tơ giúp mâm muối
di chuyên vòng tròn làm cho nhiệt lượng cung
cấp một cách đều đặn, chất lượng của hạt
muối được đồng đều hơn. Ngoài việc gia
nhiệt từ bên dưới, ông còn bố trí than dẫn khí
nóng lên phía trên giúp muối nhanh khô hơn.
Cứ định kỳ vài phút, các công nhân sẽ dùng
dụng cụ chuyên dùng đảo chiều và trộn đều
muối, không đê muối bám chặt vào mặt mâm,
nhờ đó muối vẫn được sấy đều và không bị
cháy khét vì dư lửa.
Đặc biệt, máy sấy của cơ sở sản xuất
có chi phí thấp hơn gần 20 lần so với thiết bị
đặt hàng (khoảng 50 triệu đồng), không cần
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 21/56
phải đầu tư thêm nguồn điện đê sử dụng riêng
biệt, thời gian sấy được rút ngắn xuống còn
khoảng 45 phút/mẻ 50 kg) và nhiên liệu sử
dụng là than đá với khoảng 2 kg/lần sấy
(khoảng 1.200 đồng). Sau khi sấy, muối
không bị dính thành máy sấy, công nhân có
thê lấy ra dễ dàng. Thiết bị nhẹ, dễ di chuyên
(khoảng 300 kg), máy sử dụng vật liệu inox
nên đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm. Sử
dụng thiết bị này hoàn toàn bỏ qua khâu phơi
muối truyền thống, nên dù thời tiết như thế
nào máy vẫn cho năng suất ổn định.
Từ thành công của chiếc máy sấy muối
ớt ướt này, ông Bé đã nhân rộng ra hàng chục
chiếc máy sấy đặt tại cơ sở. Hiện nay, với 12
chiếc máy sấy, mỗi ngày cơ sở có thê cho ra
hơn 5 tấn muối sấy (có thê tăng sản lượng nếu
tăng lên ca 2, ca 3 trong ngày). Điều này, giải
quyết được bài toán sản lượng của cơ sở.
Nguồn: Đ.T,
khoahocphothong.com.vn, 06/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Máy sấy cá
Trước đây, việc phơi cá sặc rằn theo
phương pháp phơi nắng tự nhiên bộc lộ nhiều
hạn chế như: thời gian kéo dài, tiêu tốn nhân
công, sản lượng thấp, mất dinh dưỡng, dễ bị
nhiễm vi sinh và chất lượng không đồng đều…
Trong khi đó, việc sấy cá sặc bằng lò
sấy thủ công (hay lò sấy công nghiệp) tuy rút
ngắn thời gian, giảm tiêu tốn nhân công với
sản lượng vượt trội nhưng cá dễ bị tươm mỡ
và ảnh hưởng đến môi trường. Bên cạnh đó,
khi sấy bằng máy, ẩm độ cá đầu vào khoảng
68 - 70%, sau khi sấy giảm còn 38 - 40% (với
thời gian sấy là 30 giờ) song chất lượng cá
sau sấy chưa cao: Màu sắc không đảm bảo về
mặt cảm quan, thịt cá xơ cứng, không đạt độ
ngọt và độ dai.
Từ những hạn chế này, ThS. Phan Văn
Hiệp cùng nhóm cộng sự ở Trường đại học
Văn Hiến (TP.HCM) đã nghiên cứu sáng chế
thành công thiết bị sấy cá sặc rằn, ứng dụng
năng lượng mặt trời với nguyên lý hiệu ứng
nhà kính.
Theo ThS. Phan Văn Hiệp, thiết bị sấy
này gồm buồng sấy với các dàn sấy chuyên
động quay quanh trục cố định và sử dụng
dòng không khí sấy hồi lưu; các bộ phận điều
chỉnh tự động tốc độ quay của dàn sấy và tốc
độ dòng không khí theo nhiệt độ đo được bên
trong buồng sấy; mức điều chỉnh tự động độ
ẩm theo thông số cảm biến độ ẩm…
Thiết bị sấy này chỉ cần một nhân công
vận hành, quá trình hoạt động không phụ
thuộc vào thời tiết; hoạt động không tạo ra
chất thải, do vậy rất thân thiện với môi
trường. Chất thải từ quá trình sơ chế cá được
sử dụng làm nguồn thức ăn nuôi cá. Nguồn
nước thải từ việc vệ sinh buồng phơi sấy
(không đáng kê) được đưa vào hệ thống nước
thải sinh hoạt chung, đảm bảo vệ sinh và an
toàn cho môi trường.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 22/56
Sản phẩm cá sặc rằn phơi sấy đảm bảo
các yếu tố vệ sinh an toàn thực phẩm nhờ quy
trình phơi sấy hạn chế tối đa sự xâm nhập của
vi sinh và diệt vi sinh ngay trong quá trình
phơi sấy. Sản phẩm cá sau khi sấy khô đã
được kiêm nghiệm tại Trung tâm dịch vụ
phân tích thí nghiệm TP.HCM, cho kết quả
đạt yêu cầu vi sinh, đảm bảo các yếu tố dinh
dưỡng trong thịt cá cũng như đảm bảo về mặt
cảm quan.
ThS. Phan Văn Hiệp cho biết, thiết bị
sấy cá ứng dụng năng lượng mặt trời này đã
được đưa vào vận hành thử nghiệm và cho kết
quả bước đầu rất tốt. Theo đó, thiết bị giúp
giảm chi phí điện cho sản xuất (chủ yếu sử
dụng năng lượng mặt trời), giảm chi phí nhân
công làm việc trực tiếp cho quá trình phơi
sấy, tăng hiệu quả và chất lượng phơi sấy…
Sản lượng phơi sấy tăng lên gấp 3 lần so với
quy trình phơi tự nhiên..
Nguồn: Tuyết Mai – Vân Ly,
khampha.vn, 21/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Máy sấy bánh tráng bằng năng lượng mặt trời
Mô hình máy sấy bánh tráng
Nối tiếp thành công của giàn sấy động
trục ngang dùng đê sấy các loại cá, nông sản,
thực phẩm, ThS. Phan Văn Hiệp thuộc Trường
đại học Văn Hiến (TP.HCM) đã chế tạo thành
công máy sấy bánh tráng ứng dụng năng lượng
mặt trời với giàn sấy động trục đứng.
Thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời đê
gia nhiệt trong buồng sấy bằng hai giải pháp:
Hiệu ứng nhà kính trực tiếp: Ánh sáng
mặt trời xuyên qua lớp kính polycarbonate
đặc ruột (cho ánh sáng xuyên thấu đến 95%),
tạo ra hiệu ứng nhà kính bên trong buồng sấy,
giúp gia nhiệt lên từ 5 đến 20 độ C tùy thời
điêm ban ngày.
Bẫy nhiệt mặt trời: Ánh sáng mặt trời
chiếu qua lớp kính polycarbonate đặc ruột,
gặp tấm tole màu đen mờ (có tác dụng hấp
thụ nhiệt tối ưu) được uốn lượn sóng (đê tăng
diện tích tiếp xúc), đốt nóng luồng không khí
sau khi đi qua cửa lọc bụi và thổi luồng khí
nóng này xuống đáy buồng sấy.
Ưu điêm của việc kết hợp hai giải pháp
này, theo ThS. Hiệp là nhiệt độ trong buồng
sấy được đẩy lên rất nhanh, thậm chí lúc nắng
yếu như sáng sớm hay chiều tối vẫn dễ dàng
đạt được nhiệt độ sấy cho bánh tráng.
Khi trời mưa hay ban đêm, bạt che
cũng sẽ tự động kéo ra che buồng sấy lại. Nếu
nhiệt độ trong buồng sấy giảm xuống dưới
ngưỡng cài đặt, các điện trở sẽ được tự động
cấp điện đê bù nhiệt cho buồng sấy.
Việc sử dụng tấm polycarbonate đặc
ruột, theo lý giải của ThS. Hiệp là có các ưu
điêm cách nhiệt tốt, nên sẽ hạn chế điện năng
tiêu thụ cho các điện trở bù nhiệt trong điều
kiện thiếu nhiệt độ (ban đêm hay trời mưa).
Thời quan qua, thiết bị đã thử nghiệm
thành công tại số 195 đường Nguyễn Thị Nê,
ấp Cây Trâm, xã Phú Hòa Đông, huyện Củ
Chi, TP.HCM.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 23/56
Thiết bị sấy bánh tráng ứng dụng năng
lượng mặt trời với giàn sấy động trục đứng đã
được ThS Hiệp đăng ký độc quyền sáng chế
với Cục Sở hữu trí tuệ Việt Nam.
Hiện các loại máy do Ths Hiệp sáng
chế đang được triên khai tại các địa điêm cụ
thê tại TP.HCM như: Hệ thống sấy cá sặc rằn
với công suất 160 kg cá khô thành phẩm, tại
HTX thủy sản Tương Lai, ấp Cây Trôm, xã
Phước Hiệp, huyện Củ Chi; Hệ thống sấy cá
dứa, cá đù, cá lưỡi trâu, cá thu một nắng với
công suất 200 kg cá thành phẩm, tại Công ty
thủy sản Lam Điền, thị trấn Cần Thạnh,
huyện Cần Giờ; Hệ thống sấy cá dứa, cá rô
phi, cá đù, cá tra và tôm khô với công suất
250 kg cá thành phẩm, tại HTX Cần Giờ
Tương Lai, xã Bình Khánh, huyện Cần
Giờ…Tại Long An, hệ thống cũng được ứng
dụng tại một số địa phương khác như huyện
Cần Giuộc và Cần Đước. Hệ thống này cũng
được tùy biến và ứng dụng tại Cà Mau,
Quảng Trị, Trà Vinh, Gia Lai,…
Phan Văn Hiệp sinh năm 1977. Tốt
nghiệp kỹ sư Điện tử - Viễn thông tại ĐH
Bách khoa TP.HCM năm 2001, năm 2002,
Phan Văn Hiệp bắt đầu giảng dạy đại học.
Vừa giảng dạy thầy Phạm Văn Hiệp vừa ‘bổ
túc’ chuyên môn, năm 2004, Phan Văn Hiệp
tốt nghiệp thạc sỹ ngành Vô tuyến điện tử
tại ĐH Bách khoa TP.HCM. Lĩnh vực
nghiên cứu và chế tạo của giảng viên Phan
Văn Hiệp tập trung chính ở các lĩnh vực
gồm: Nông nghiệp công nghệ cao, năng
lượng tái tạo, IoT. Phan Văn Hiệp hiện là
tác giả của nhiều sản phẩm đã được thử
nghiệm và thương mại hóa ở nhiều địa
phương trong đó, chủ yếu là dòng sản phẩm
máy sấy chạy bằng năng lượng mặt trời.
Nguồn: Tuyết Mai – Vân Ly,
khampha.vn, 21/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Giải pháp đồng vị vân tay giúp xác thực nguồn gốc thực phẩm
Nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp nuôi
trồng, chế biến và phân phối thực phẩm kiêm
soát được nguồn gốc cũng như chất lượng sản
phẩm và tiết kiệm chi phí sản xuất, Trung tâm
thông tin và thống kê KH&CN TP.HCM phối
hợp với Công ty Hoàn Vũ tổ chức hội thảo:
“Giải pháp vân tay đồng vị xác thực nguồn
gốc thực phẩm”.
Đây là giải pháp giúp doanh nghiệp
kiêm soát chặt chẽ quá trình chế biến thực
phẩm và có biện pháp can thiệp kịp thời các
tình huống xấu, góp phần tiết kiệm chi phí
đầu vào và gia tăng chất lượng thực phẩm, từ
đó dễ dàng đảm bảo sự toàn vẹn của chuỗi
cung ứng toàn cầu.
Các loại thực phẩm và đồ uống được
xác định qua một dấu hiệu hóa học đặc trưng
như là một dấu vân tay. Công ty Hoàn Vũ đã
sử dụng phương pháp tỷ lệ đồng vị EA-IRMS
đê xác định đồng vị dấu vân tay của mỗi loại
sản phẩm.
Theo ông Henry Bùi - tổng giám đốc
Hoàn Vũ, vân tay đồng vị được xem như một
khu vực hoặc một quá trình cụ thê, nghĩa là
sản phẩm được phân biệt dựa trên khu vực địa
lý (phô mai, cà phê, đường, cá và động thực
vật), quy trình thực vật (đậu, hạt, dầu olive,
vanilla), đất và quy trình bón phân (trái cây
và rau quả) và những gian lận pha trộn trên
thực tế (đường mía bổ sung cho mật ong, pha
trộn các sản phẩm rượu)…
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 24/56
Phương pháp EA-IRMS được Hoàn
Vũ sử dụng sẽ giúp phát hiện rau quả dùng
phân bón hữu cơ hay pha trộn phân bón vô cơ
vào quá trình canh tác; nhận dạng tôm sú nuôi
hay tôm sú đánh bắt thiên nhiên; truy tìm
nguồn gốc địa lý cà phê bằng phương pháp tỷ
lệ đồng vị; gạo hữu cơ và nguồn gốc địa lý;
phát hiện mật ong pha trộn…
Một số gian lận trong thực phẩm hiện
nay có thê kê đến: nước ép trái cây, rượu (pha
loãng, tăng độ ngọt, độ thơm, trộn đường khi
lên men…); giấm (xác định nguồn gốc bắp,
ngô, rượu táo, nho…); bia (xác định nguồn
gốc ngũ cốc, mạch nha…); đồ uống có cồn
(nhãn hiệu sai, xác định nguồn gốc); mật ong
(pha trộn đường tổng hợp và đường mía); dầu
olive (pha trộn các loại dầu rẻ hơn); trà, cà
phê (nguồn gốc địa lý); sữa, thịt, cá, trái cây,
rau quả (nguồn gốc…).
Nguồn:Mai Thy,
khoahocphothong.com.vn, 11/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Nghiên cứu sản xuất các sản phẩm từ trái quách
Nguyễn Thành Gia đang thuyết trình về trái quách -
nguyên liệu mà nhóm sinh viên chọn để sản xuất các sản
phẩm sạch phục vụ tiêu dùng.
Với mong muốn đưa trái quách – một
đặc sản của quê hương Trà Vinh trở thành
những thực phẩm sạch, an toàn, tiếp cận
người tiêu dùng, Nguyễn Thành Gia - hiện là
sinh viên Trường Đại học Khoa học Xã hội
và nhân văn (KHXH&NV), Đại học Quốc gia
TPHCM (ĐH KHXH&NV TP.HCM), cùng
với người bạn Diệp Phước Trung đã nghiên
cứu sản xuất các sản phẩm từ trái quách như:
Mứt đông, kẹo dẻo, bột quách, trà túi lọc...
Thành Gia chia sẻ, trong quá trình
nghiên cứu nhóm nhận thấy: Trái quách là
một loại trái cây đặc sản của dân tộc Khmer
và chỉ có ở một số ít tỉnh thành trong cả nước,
tuy nhiên loại trái cây đặc biệt này đến nay
vẫn chưa được phổ biến như những đặc sản
khác. Trái quách có chứa hàm lượng
polyphenol rất cao - gấp 3 lần trà xanh, là
chất chống oxy hóa, kháng viêm và làm đẹp
rất tốt, ngoài ra theo dân gian thì trái quách
còn giúp trị bệnh về táo bón, tiêu hóa, xương
cốt,...
Ý tưởng chế biến thực phẩm sạch từ
trái quách bắt đầu từ những ngày Thành Gia
còn học cấp ba tại Trường Thực hành Sư phạm
Trà Vinh, khi đó bạn trẻ này tiến hành nghiên
cứu khoa học kĩ thuật với nội dung: “Nghiên
cứu sản xuất các sản phẩm từ trái quách”.
Thành Gia cho hay:“Tính đột phá ở
đây là tận dụng những nguyên liệu có sẵn,
những thứ bỏ đi để tạo ra những sản phẩm
hoàn toàn mới để đưa đến người tiêu dùng.
Thứ hai, dự án còn có tính nhân văn ở chỗ
không chỉ giúp nâng tầm trái quách, có một
giá trị mới mà còn giúp cho người tiêu dùng
có được thực phẩm an toàn và chất lượng,
song song việc giải quyết việc làm cho người
dân. Thứ ba là sự trải nghiệm văn hóa, ví dụ
khi ta uống một ly rượu từ trái quách thì đây
không chỉ là sản phẩm dinh dưỡng tốt cho
sức khỏe, nó còn chứa đựng cả không gian
văn hóa Nam Bộ”
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 25/56
Chính những yếu tố trách nhiệm xã hội
này đã mang dự án khởi nghiệp từ trái quách
giành chiến thắng cuộc thi “Người Nhân Văn
khởi nghiệp” do trường ĐH KHXH&NV
TP.HCM tổ chức.
Thạc sĩ Trần Nam - Trưởng phòng
Truyền thông và Quan hệ doanh nghiệp ĐH
KHXH&NV TP.HCM, Trưởng Ban tổ chức
cuộc thi đánh giá: Ban tổ chức đưa ra những
tiêu chí đề cao trách nhiệm xã hội của công
dân, của người trẻ trong việc biến các sản
phẩm đang thiếu hụt thành những sản phẩm có
thê ứng dụng trong thị trường. Dự án về trái
quách sẽ giúp cho sản phẩm trái quách từ Trà
Vinh trở thành thành phẩm, có thê áp dụng
trong những khu du lịch khu vực Tây Nam Bộ.
Có thê thấy đó là ý tưởng độc đáo đê giúp cho
những cá nhân trong xã hội có thêm dịch vụ,
văn hóa bản địa cũng được phát huy.
Thành Gia cũng cho hay, nhóm kỳ
vọng sẽ đem đến cho thị trường một loại đặc
sản mới mang thương hiệu Trà Vinh với giá
trị dinh dưỡng cao.
Các sản phẩm được nghiên cứu và sản
xuất với tiêu chí các sản phẩm an toàn và
mang lại sức khỏe tốt cho người tiêu dùng.
Hiện các sản phẩm này đã được kiêm nghiệm
vi sinh với kết quả đạt chuẩn.
Một giá trị khác mà dự án mang lại, đó
là góp phần tăng cường sức khỏe và đưa trái
quách đến gần hơn với người tiêu dùng.
Ngoài ra còn góp phần tạo thêm thu
nhập cho bà con đồng bào dân tộc Khmer từ
cây quách gia đình Hơn hết, là lồng ghép văn
hóa dân tộc Khmer vào trong sản phẩm đê
đem đến những giá trị tinh thần, trải nghiệm
văn hóa cho người tiêu dùng, góp phần liên
kết văn hóa và phát triên du lịch địa phương.
Nguồn: Thiên An, khampha.vn,
16/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Y DƯỢC
Hệ thống giúp người bệnh giao tiếp bằng cử động mắt
Giúp người bệnh giao tiếp cơ bản
Nhóm sinh viên ĐH Công nghiệp
TP.HCM gồm: Trần Đăng Khoa, Trần Văn
Phúc vừa thiết kế thành công hệ thống có
chức năng hỗ trợ giao tiếp bằng mắt cho bệnh
nhân mắc hội chứng Hội chứng khóa trong
(Lock in Syndrome).
Hội chứng này là một tình trạng thần
kinh trong đó cơ thê bị tê liệt hoàn toàn, ngoại
trừ mắt. Những người này thường có ý thức
về môi trường xung quanh nhưng họ “bị khóa
chặt”, không thê di chuyên bất kỳ nhóm cơ
nào của cơ thê, chỉ còn giữ lại các cử động
mắt. Khả năng nói của họ cũng bị tổn thương
và cách giao tiếp hiệu quả nhất của họ là
thông qua nháy mắt.
Sau 2 tháng tiến hành nghiên cứu và
phát triên, dự án bước đầu đã giúp cho bệnh
nhân có thê giao tiếp cơ bản với người xung
quanh như: trả lời câu hỏi có/không, yêu cầu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 26/56
đi vệ sinh, gọi người nhà đến bên cạnh...
thông qua cử động của mắt.
Hiện dự án đang bắt đầu thực hiện giai
đoạn 2, đó là áp dụng trí tuệ nhân tạo vào
thiết bị, đê tự động chuẩn đoán sức khỏe của
bệnh nhân, dự đoán tương thích với bệnh
nhân (nhiệt độ phòng, ánh sáng phù hợp với
bệnh nhân), dự đoán thời điêm đi vệ sinh...
Trái với hình dung của số đông là khi
sử dụng phải đeo gắn thiết bị cồng kềnh, thiết
bị của nhóm thì tách biệt hoàn toàn, tức là
không chạm vào người dùng. Theo đó, hệ
thống được thiết kế gồm một màn hình giao
diện, kích cỡ của màn hình sẽ tùy vào vị trí
chăm sóc bệnh nhân, tương đương với màn
hình máy tính bảng hoặc máy tính bàn. Người
bệnh chỉ cần nhìn vào giao diện, camera sẽ
ghi lại, lúc này hệ thống sẽ tự động chuyên
thành tín hiệu điều khiên nhờ công nghệ thị
giác máy tính.
Ngoài các trường hợp của hội chứng
Khóa trong, dự án áp dụng cho các bệnh nhân
bị liệt, không nói được, người lớn tuổi, bị tai
biến, bị hạn chế khả năng giao tiếp... đê gọi
người nhà từ vị trí xa bệnh nhân đến kịp thời.
Giá thành rẻ
Một ưu điêm nữa cũng theo Đăng
Khoa, nhận thấy hầu hết các gia đình có bệnh
nhân mắc những hội chứng trên đều có kinh
tế khó khăn, nên nhóm đã nỗ lực trong việc
giảm giá thành sản phẩm thấp nhất có thê.
So với một công nghệ tương tự trên
thế giới là EMOTIV (công nghệ đo sóng
não), người dùng phải luôn đeo thiết bị đó đê
đọc được sóng não và có giá thành rất cao
(gần 1.000 USD), thiết bị của nhóm sử dụng
camera đê phát hiện khuôn mặt bệnh nhân và
phân tích mắt, không tiếp xúc trực tiếp với
bệnh nhân và có giá thành thấp hơn hoàn
toàn. Thời gian tới, nếu được đưa vào khai
thác thương mại hóa, thiết bị sẽ chỉ bằng 1/5
giá sản phẩm nhập ngoại cùng loại.
Dự án mới thử nghiệm trên người bình
thường, phân tích qua những cử động cử động
mắt và đã đưa ra những kết quả chính xác.
Trước đó, nhóm đã đến bệnh viện Gò Vấp
(đường Quang Trung, TP.HCM) nhưng nơi
đây không tiếp nhận những ca nặng nên
không có bệnh nhân phù hợp đê xin thử
nghiệm.
Trong thời gian tới, nhóm tác giả
mong mong muốn sẽ nhận được sự hỗ trợ của
các đơn vị liên quan đê có thê tiếp xúc với
nhiều bệnh nhân đê tìm ra những đối tượng
phù hợp, giúp cho việc đưa ra kết quả thực
nghiệm chính xác hơn, thực tế hơn.
Đề tài đã đạt giải đồng giải thưởng
Thiết kế - Chế tạo - Ứng dụng 2019 do Thành
Đoàn TP.HCM tổ chức. Sắp tới, hệ thống này
sẽ tiếp tục được tranh tài tại vòng chung kết
cuộc thi Sinh viên nghiên cứu khoa học
Euréka 2019 tại TP.HCM.
Nguồn: Mai Dung, khampha.vn,
15/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 27/56
Kỹ thuật mổ nội soi giúp hạn chế việc cắt bỏ thận của Bệnh viện Bình Dân TP.HCM
Các bác sỹ Bệnh viên Bình Dân mổ nội soi thị phạm
tại Ấn Độ.
Đây là kỹ thuật mà các bác sỹ Khoa
niệu A, Bệnh viện Bình Dân TPHCM đã
nghiên cứu, áp dụng đê thuật phẫu cho các
bệnh nhân bị bướu thận, nhằm bảo tồn nhu
mô thận, hạn chế việc phải cắt bỏ thận.
Đây cũng là công trình nghiên cứu
khoa học “Phẫu thuật nội soi cắt một phần
thận trong điều trị bướu thận nhỏ” vừa đoạt
giải Nhất hạng mục Kiến tạo của Giải thưởng
KOVA lần thứ 17 năm 2019.
TS.BS Phạm Phú Phát, thành viên
nhóm nghiên cứu, cho biết, từ trước đến nay,
người ta thường nghĩ ung thư ở bộ phận nào
là phải cắt bỏ bộ phận đó trong cơ thê. Tuy
nhiên, những năm gần đây, kỹ thuật y tế hiện
đại có thê tạo ra các phương pháp chỉ cắt bỏ
những mô ác và giữ những mô lành. Phẫu
thuật nội soi cắt một phần thận cũng ngày
càng được áp dụng, đặc biệt đối với bướu
thận nhỏ, có kích thước dưới 4cm, giúp bệnh
nhân chỉ 2 – 3 ngày sau có thê đi lại được.
Đối với phẫu trị bướu thận, việc bảo
tồn tối đa phần mô thận còn lại luôn được đặt
lên hàng đầu nhằm duy trì các chức năng của
thận như lọc máu, sản xuất nội tiết tố trong cơ
thê,... Nhóm tác giả đã nghiên cứu thực hiện
kỹ thuật này hơn 10 năm nay và cho thấy hiệu
quả, an toàn và mang lại lợi ích cho người
bệnh, nhất là các bướu thận nhỏ. Ngoài ra,
việc sử dụng chất chỉ thị ICG-Fluorescence
trong quá trình phẫu thuật cũng giúp các bác
sĩ xác định mạch máu nuôi bướu, các hạch di
căn, từ đó tăng khả năng phẫu thuật triệt đê
lấy trọn khối bướu và nạo hạch, đồng thời bảo
tồn tối đa phần mô thận lành. Nhờ đó, tiên
lượng sống còn của người bệnh được cải thiện
và tỷ lệ tái phát được giảm thiêu đáng kê.
Theo BS Phát, đây là kỹ thuật khó, đòi
hỏi chuyên môn cao và chịu áp lực nhiều hơn
trước áp lực thiếu máu nóng của thận trong
quá trình phẩu thuật. "Thận là một tạng chứa
máu giống như gan, tính từ lúc cắt ra đến khi
khâu lại cầm máu không quá 30 phút, áp lực
phải làm nhanh gọn, không được kéo dài thời
gian, để lâu quá sẽ chết thận" - BS Phát nói
và cho biết, kỹ thuật này đã được chuyên giao
đào tạo cho nhiều kíp phẫu thuật trong và
ngoài nước. Vừa qua, Bệnh viện Bình Dân
được mời đến Ấn Độ mổ thị phạm điều trị các
bệnh lý tiết niệu với 4 trường hợp kỹ thuật
mới và khó, trong đó có kỹ thuật cắt bướu bảo
tồn thận.
“Chúng tôi muốn chuyển giao kỹ thuật
này đến các cơ sở y tế ở vùng sâu vùng xa để
nhiều bệnh nhân có thể điều trị hơn. Các bạn
trẻ mới ra trường nên thực hiện theo hướng
nghiên cứu này để phát triển các kỹ thuật cao,
theo kịp với kỹ thuật y khoa của thế giới”.
Nguồn: Kiều Anh,
khoahocphattrien.vn, 19/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 28/56
Hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất vắc xin cúm mùa ở quy mô công nghiệp
Thực hiện chủ trương của nhà nước và
của ngành, IVAC đã chủ động tiếp cận công
nghệ, tranh thủ các nguồn lực và sự hỗ trợ
của các tổ chức quốc tế đê nghiên cứu quy
trình công nghệ sản xuất vắc xin cúm, hướng
đến tự chủ sản xuất vắc xin cúm trong nước.
Đây là định hướng mang tính chủ động nhằm
đảm bảo tính sẵn sàng đê ứng phó với nguy
cơ đại dịch cúm đồng thời tạo ra sản phẩm có
tính thương mại đê đa dạng hóa dòng sản
phẩm, phát triên công nghệ và định hướng
phát triên bền vững.
Năm 2007, Sau những thành công
trong nghiên cứu sản xuất vắc xin cúm ở quy
mô phòng thí nghiệm, Viện Vắc xin và Sinh
phẩm Y tế (IVAC) đã được Tổ chức Y tế thế
giới (TCYTTG) hỗ trợ kinh phí và công nghệ
đê xây dựng một dây chuyền sản xuất vắc xin
cúm hiện đại theo công nghệ trên trứng gà có
phôi, với quy mô 1,5 - 3,0 triệu liều/năm, làm
công nghệ nền đê sẵn sàng áp dụng sản 2 xuất
nhanh khi có các biến thê vi rút cúm mới xuất
hiện. Năm 2010, IVAC đã thiết lập được quy
trình lõi sản xuất vắc xin cúm trên trứng gà có
phôi và sản xuất thành công các vắc xin cúm
toàn hạt vi rút dự phòng cho đại dịch như vắc
xin cúm A/H1N1, A/H7N9 và A/H5N1trên
dây chuyền này. Đây là bước phát triên quan
trọng hướng tới nghiên cứu sản xuất vắc xin
cúm mùa.
Từ những thành công ban đầu tạo ra
vắc xin cúm đại dịch dạng toàn hạt vi rút bất
hoạt bất hoạt bằng formalin theo công nghệ
nuôi cấy trên trứng gà có phôi ở quy mô công
nghiệp, IVAC tiếp tục nghiên cứu phát triên
vắc xin cúm mùa dạng mảnh, đa giá với
phương pháp phá vỡ cấu trúc hạt vi rút bằng
triton-X100, sau đó dùng các kỹ thuật tinh
chế, hấp phụ đê thu được kháng nguyên đơn
chủng. Năm 2014, IVAC đã nghiên cứu thành
công vắc xin cúm mùa 3 chủng dạng mảnh ở
quy mô thí nghiệm làm tiền đề cho việc phát
triên lên quy mô lớn.
Trên cơ sở đó, ThS. Dương Hữu Thái,
Phó Viện trưởng Viện Vắc xin và Sinh phẩm
Y tế (IVAC) cùng các đồng nghiệp đã xây
dựng dự án “Hoàn thiện quy trình công nghệ
sản xuất vắc xin cúm mùa ở quy mô công
nghiệp” với các mục tiêu nhằm sản xuất vắc
xin cúm mùa đa giá trị (3 hoặc 4 chủng tùy
theo khuyến cáo hàng năm của WHO), dạng
mảnh ở quy mô công nghiệp, công suất
1.000.000 liều/năm đạt tiêu chuẩn chất lượng
của WHO sử dụng cho người.
Từ kết quả nghiên cứu của dự án sản
xuất thử nghiệm "Hoàn thiện quy trình công
nghệ sản xuất vắc xin cúm mùa ở quy mô
công nghiệp", nhóm chuyên gia đã rút ra
được một số kết luận sau:
1. Hoàn thiện quy trình tạo chủng sản
xuất vắc xin cúm mùa từ chủng gốc, sản xuất
50 ống chủng mỗi loại đạt tiêu chuẩn chất
lượng dùng cho sản xuất.
Đã xây dựng được quy trình tạo các
chủng sản xuất (WSL) vắc xin cúm mùa từ
chủng gốc do NIBSC cung cấp, được
TCYTTG khuyến cáo theo mùa dịch hàng
năm ở khu vực bắc bán cầu. Quy trình sản
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 29/56
xuất chủng WSL được thực hiện bằng cách
cấy chuyền nhiều đời trên trứng gà SPF có
phôi, các giai đoạn của quy trình bao gồm:
liều gây nhiễm chủng là 0,2 ml, nuôi cấy
chủng ở 35 độ C đến 36 độ C trong vòng 48
giờ - 72 giờ, thu dịch và phân ống 1ml sau đó
bảo quản ở -70 độ C đến -80 độ C. Quy trình
sản xuất chủng được thiết lập phù hợp với
khuyến cáo của nhà cung cấp đối với chủng
sản xuất vắc xin cúm mùa.
Đã xây dựng được tiêu chuẩn chất
lượng cơ sở cho chủng sản xuất vắc xin cúm
mùa gồm 6 tiêu chí được thiết lập cho cho
từng chủng cúm A/H1N1, A/H3N2 và cúm B
làm cơ sở cho việc cập nhật chủng sản xuất
cúm mùa hàng năm. Tiêu chuẩn chất lượng
chủng xây dựng dựa trên khuyến cáo của
TCYTTG trong WHO-TRS 927, 2005 và
DĐVN IV, tập bổ sung 2015.
Đã cập nhật và sản xuất được 6 lô
chủng WSL vắc xin cúm mùa được khuyến
cáo cho khu vực bắc bán cầu đạt tiêu chuẩn
chất lượng dùng trong sản xuất. Các lô chủng
WSL được đánh giá chất lượng tại NICVB và
đạt các tiêu chuẩn chất lượng đã được thiết
lập, đủ số lượng sử dụng trong nghiên cứu.
2. Hoàn thiện qui trình sản xuất vắc
xin cúm mùa đa giá trị (3 thành phần) dạng
mảnh bằng công nghệ nuôi cấy trên trứng gà
có phôi, số lượng sản phẩm 180.000 đến
280.000 liều đạt tiêu chuẩn chất lượng
TCYTTG.
Thiết lập được quy trình sản xuất vắc
xin cúm mùa dạng mảnh gồm 10 giai đoạn
chính. Các thông số kỹ thuật chủ yếu được
thiết lập riêng cho từng chủng trên cơ sở quy
trình lõi sản xuất vắc xin cúm theo công nghệ
nuôi cấy trên trứng gà có phôi. Phát triên
được công nghệ sản xuất từ quy mô phòng thí
nghiệm lên quy mô 100% công suất thiết kế
đạt tiêu chuẩn khuyến cáo của TCYTTG và
DĐVN.
Xây dựng được tiêu chuẩn chất lượng
cơ sở cho vắc xin cúm mùa đơn chủng dạng
mảnh gồm 11 chỉ tiêu. Xây dựng được tiêu
chuẩn chất lượng cho vắc xin cúm mùa thành
phẩm gồm 10 chỉ tiêu theo khuyến cáo của
TCYTTG trong WHO-TRS 927(2005) và của
Việt Nam quy định trong DĐVN IV (2009 và
tập bổ sung 2015).
Đã sản xuất các vắc xin cúm mùa đơn
chủng dạng mảnh sử dụng chủng cúm mùa
2014-2015, 2016-2017 và 2017-2018 với
tổng số tương ứng 180.000 liều vắc xin
IVACFLU-S dưới dạng nước cốt đơn chủng
dạng mảnh và 45.000 141 liều vắc xin cúm
mùa thành phẩm đạt tiêu chuẩn chất lượng
dùng trong các nghiên cứu tiền lâm sàng, thử
nghiệm lâm sàng và đăng ký lưu hành Kết
quả kiêm định chất lượng và nghiên cứu tiền
lâm sàng trên các mô hình động vật thí
nghiệm cho thấy vắc xin cúm IVACFLU- S
do IVAC sản xuất đạt tiêu chuẩn chất lượng
theo khuyến cáo của TCYTTG trong WHO-
TRS 927(2005) và của Việt Nam quy định
trong DĐVN IV (2009 và 2015).
Kết quả nghiên cứu tiền lâm sàng cho
thấy vắc xin đạt yêu cầu về an toàn, dung nạp
tốt theo đường tiêm bắp và tạo được đáp ứng
miễn dịch tốt trên động vật thí nghiệm phù
hợp với khuyến cáo của TCYTTG và quy
định của Việt Nam.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
06/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 30/56
Nghiên cứu biêu hiện protein tái tổ hợp của virut PCV2 đê chế tạo sinh phẩm chẩn đoán và làm nguyên liệu tiến tới sản xuất vắc xin
Trên thế giới, việc ứng dụng công
nghệ protein tái tổ hợp đã phát triên mạnh mẽ
trong nhiều thập kỷ qua, tuy nhiên ở Việt
Nam nó chỉ thực sự được quan tâm tới trong
vòng 15 năm trở lại đây. Cho đến nay, các
nghiên cứu về protein tổ hợp tại Việt Nam
đang phát triên mạnh mẽ, từ nghiên cứu đến
ứng dụng đã đạt được nhiều thành tựu. Đây
được xem là sự khởi đầu tiềm năng, thúc đẩy
nước ta trên con đường phát triên công nghệ
sinh học nói chung và protein tái tổ hợp nói
riêng nhằm phát triên sản phẩm phục vụ trong
và tiến tới ngoài nước. Nhiều hệ thống biêu
hiện protein đã được phát triên và ứng dụng
đê tái tổ hợp các protein quan trọng dùng làm
chế phẩm sinh học chẩn đoán và vắc xin tái tổ
hợp như hệ thông biêu hiện E.Coli, nấm men,
thực vật hay gần đây là hệ thống biêu hiện tế
bào côn trùng.
Hệ thống tế bào côn trùng bao gồm hệ
thống biêu hiện baculovirus được xem là phổ
biến và được sử dụng rất rộng rãi với mục
đích sản xuất protein tái tổ hợp ở nhiều nước
trên thế giới. Trong hệ thống biêu hiện
baculovirus, ngoài tế bào côn trùng (insect
cell), ấu trùng và nhộng cũng được sử dụng
đê sản xuất protein tái tổ hợp. Ưu điêm nổi
bật của hệ thống biêu hiện này là baculovirus
không có khả năng nhân lên (replication) trên
tế bào động vật và chúng được xem như là rất
an toàn với động vật, chim và cá. Chính vì
vậy, công nghệ tái tổ hợp protein sử dụng
baculovirus đã được ứng dụng đê sản xuất
vắc xin thương mại cho người và động vật.
Tuy nhiên, việc ứng dụng công cụ hữu ích
này trong thú y và nhân y tại Việt Nam còn
rất hạn chế.
Hiện nay, vắc xin phòng các bệnh có
liên quan đến PCV2 đã được sử dụng rộng rãi
trên thực địa, trong đó phải kê đến 2 nhóm
vắc xin thương mại: vắc xin vô hoạt và văc
xin thế hệ mới như vắc xin tiêu phần sản xuất
trên hệ thống biêu hiện baculovirus. Điều này
cho thấy những ưu điêm vượt trội của hệ
thống biêu hiện này trong sản xuất vắc xin
phòng các bệnh có liên quan đến PCV2 ở
Việt Nam cũng như trên thế giới.
Xuất phát từ yêu cầu thực tiễn trong
công tác phòng chống các bệnh có liên quan
với PCV2 và những thành công đã đạt được
trong việc sử dụng hệ thống baculovirus
nhằm sản xuất protein tái tổ hợp, TS. Đặng
Vũ Hoàng, Viện Thú y cùng các đồng nghiệp
đã tiến hành đề tài “Nghiên cứu biêu hiện
protein tái tổ hợp của vi rút PCV2 đê chế tạo
sinh phẩm chẩn đoán và làm nguyên liệu tiến
tới sản xuất vắc xin”.
Sau một thời gian nghiên cứu, đề tài đã
thu được một số kết quả sau:
- Đề tài đã tái tổ hợp thành công
protein ORF2 của vi rút PCV2 trên tế bào côn
trùng bằng hệ thống biêu hiện Baculovirus.
Protein ORF2 tái tổ hợp dạng thô và dạng
tinh khiết mang hoạt tính sinh học tự nhiên
(được nhận diện bởi kháng thê kháng vi rút
PCV2)
- Thiết lập thành công phương pháp
ELISA sử dụng kháng nguyên ORF2 tái tổ
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 31/56
hợp bằng hệ thống biêu hiện Baculovirus.
ELISA sử dụng kháng nguyên ORF2 tái tổ
hợp của vi rút PCV2 có độ đặc hiệu (97.16%)
và độ nhạy (100%) khi so sánh với hai
phương pháp tham chiếu, kít ELISA thương
mại và IPMA, và hoàn toàn phù hợp cho công
tác chẩn đoán huyết thanh học phát hiện
kháng thê kháng vi rút PCV2 trong huyết
thanh lợn, điều tra dịch tễ các bệnh có liên
quan tới vi rút PCV2 tại Việt Nam.
- Sản xuất đủ lượng kháng nguyên tái
tổ hợp dùng cho ELISA chẩn đoán đê phát
hiện kháng thê kháng vi rút PCV2 (tương
đương 775 bộ kít hoặc 31.000 phản ứng), So
với yêu cầu của đề tài là 1,6 mg protein ORF2
tái tổ hợp (tương đương 8.000 phản ứng hoặc
200 kít)
- Kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp bằng
hệ thống biêu hiện baculovirus có tính sinh
miễn dịch cao. Cụ thê: Kháng thê kháng lại
kháng nguyên ORF2 tái tổ hợp có khả năng
bảo hộ chống lại vi rút PCV2, giảm mạnh
lượng vi rút PCV2 trong tổ chức lympho và
trong máu của lợn khi thử thách cường độc
với PCV2 thực địa (giá trị p< 0,05). Kháng
nguyên ORF2 tái tổ hợp bằng hệ thống
baculovirus hoàn toàn phù hợp và là ứng cử
viên tiềm năng đê phát triên vắc xin tái tổ hợp
phòng bệnh do PCV2 gây ra tại Việt Nam. 77
- Sản xuất đủ lượng protein ORF2 tái
tổ hợp (1000 ml ở nồng độ 107 pfu/ml) có
tính kháng nguyên cao, tương đương đủ đê
sản xuất 1000 liều vắc xin PCV2 tái tổ hợp.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
06/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Xác định “dấu vân tay hóa học” cho dược liệu đặc sản của dãy Hoàng Liên
Những cơ sở khoa học căn bản đầu
tiên về Sâm vũ diệp và Tam thất hoang đã đặt
nền móng đầu tiên cho một bước phát triển
mới của loài cây đặc hữu trên dãy Hoàng
Liên Sơn này: phát triển nguồn thuốc và thực
phẩm bổ sung, với nhu cầu rất lớn từ thị
trường.
Xác định “dấu vân tay hóa học” của
loài dược liệu quý bị lãng quên
Sâm vũ diệp (Panax bipinnatifidus
Seem.) và Tam thất hoang (Panax
stipuleanatus H.Tsai et K.M.Feng) được phát
hiện ở Việt Nam từ năm 1964 tại tỉnh Lào
Cai. Nhưng sau 55 năm, khác với nước láng
giềng là Trung Quốc - đẩy mạnh các nghiên
cứu phân tích và tách chiết các thành phần
hóa học của loài cây này phân bố tại Trung
Quốc, thì các nghiên cứu tương tự ở Việt
Nam vẫn rất ít ỏi và tản mạn. Việc sử dụng
hai loại dược liệu này mới chỉ dừng lại ở...
truyền miệng với tác dụng làm thuốc bổ
“chung chung” giống như các loài sâm khác
nhằm giảm đau, bổ huyết, cầm máu.
Theo thông tin từ Viện Dược liệu (Bộ
Y tế), hai loài đặc hữu có phạm vi phân bố rất
hạn chế trong một số khu vực có địa hình heo
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 32/56
hút ở vùng dãy Hoàng Liên này đang đối diện
với nguy cơ tuyệt chủng.
Một câu hỏi lớn đặt ra với các nhà
nghiên cứu là nếu như thông thường chi
Panax, họ Nhân sâm (Araliacea) có thành
phần chính là saponin - đã được chứng minh
là có tác dụng chống đông máu và chống
ngưng tập tiêu cầu, “thì liệu các thành phần
saponin trong Sâm vũ diệp, Tam thất hoang -
thuộc chi Panax này, có tác dụng chống đông
máu, chống ngưng tập tiêu cầu tương tự
không? Liệu các thành phần saponin trong
Sâm vũ diệp, Tam thất hoang có tác dụng
phòng chống tắc nghẽn mạch, huyết khối
không?”, TS. BS. Dương Thị Ly Hương,
Khoa Y Dược - Đại học Quốc gia Hà Nội nói.
Việc trả lời những câu hỏi này không chỉ đem
lại ý nghĩa cho nghiên cứu cơ bản mà còn đê
ứng dụng vào thực tiễn.
Vì vậy, nghiên cứu “Ứng dụng các giải
pháp khoa học công nghệ đê phát triên nguồn
nguyên liệu và tạo sản phẩm từ hai loài cây
thuốc Sâm vũ diệp và Tam thất hoang vùng
Tây Bắc” mới đây do TS Dương Thị Ly
Hương chủ nhiệm, Khoa Y Dược - Đại học
Quốc gia Hà Nội phối hợp với Viện Dược
liệu - Bộ Y tế và Công ty Nam Dược thực
hiện, đã đặt mục tiêu giải quyết những câu
hỏi căn bản trên đê từ đó phối hợp với Công
ty Nam Dược đưa ra các phương án phát triên
sản phẩm cho thị trường thuốc và thực phẩm
chức năng.
Nhóm nghiên cứu đã xác định dấu
“vân tay hóa học” của Sâm vũ diệp và Tam
thất hoang - xây dựng phương pháp định
lượng chất đánh dấu stipuleanosid R2, là chất
hóa học đặc trưng, góp phần quan trọng vào
việc xây dựng tiêu chuẩn cơ sở và tiêu chuẩn
hóa hai dược liệu cũng như tiêu chuẩn hóa
các sản phẩm từ hai dược liệu sau này. Kết
quả, năm hợp chất tinh khiết từ Sâm vũ diệp
đã chiết xuất, phân lập và xác định cấu trúc
hóa học gồm: β-sitosterol (1), oleanolic acid
(2), daucosterol (3), stipuleanoside R2 (4) và
araloside A methyl ester (5). Trong đó trong
đó các chất oleanolic acid (2), stipuleanoside
R2 (4) và araloside A methyl ester (5) lần đầu
tiên được phân lập từ Sâm vũ diệp. Các hợp
chất phân lập từ Tam thất hoang gồm: 3-O-α-
L-arabinopyranosyl-(1→4)-β-
Dglucuropyranosid-28-β-D-glucopyranosid
oleanolic acid hay chikusetsusaponin IV
(PS01), 28-β-D-glucopyranosyloleanolic-
acid-3-O-β-D-xylopyranosyl(1→2)-[α-L-
arabinopyranosyl-(1→3)]-β-D-
glucuropyranosid-6-O-methyl este (PS02), 3-
O-β-D-glucopyranosyl-(1→3)-β-D-
glucuropyranosid-28-β-D-glucopyranosyl
oleanolic acid methyl este (PS04),
stipuleanosid R2 (PS05), stipuleanosid R1
(PS06). Trong đó hợp chất PS01 và PS02 lần
đầu tiên được phân lập từ tam thất hoang.
Trong bối cảnh đang thiếu các quy
chuẩn, tiêu chuẩn trong quy trình nuôi trồng,
sản xuất và chế biến sản phẩm mới, việc tiêu
chuẩn hóa dược liệu đê đưa vào Dược điên
Việt Nam rất quan trọng Phần lớn các đề tài
nghiên cứu đầu tư hiện nay mới tập trung vào
mục đích bảo tồn còn kiêm định phân biệt
dược liệu thật - giả, quy trình trồng theo
GACP (tiêu chuẩn thực hành tốt trồng trọt và
thu hái của Tổ chức Y tế thế giới) mới dừng
lại ở quy mô phòng thí nghiệm, thử nghiệm,
gần như chưa áp dụng rộng rãi trên quy mô
lớn. Tại Hội nghị “Khoa học và Công nghệ
phục vụ phát triên dược liệu vùng Tây Nguyên
và các tỉnh Nam Trung Bộ” tháng 6 vừa qua,
ông Phạm Vũ Khánh, Cục trưởng Cục quản lý
Y dược Cổ truyền, Bộ Y tế cho biết, hiện nay
“các quy định về chất chuẩn (loại đo lường đặc
biệt có độ đồng nhất và ổn định nhất định với
một hoặc một số thuộc tính) chỉ có ở thuốc
Tây còn Đông dược thì có nhiều vị không có
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 33/56
chất chuẩn, có trường hợp có chất chuẩn
nhưng không có ý nghĩa gì, còn thực phẩm
chức năng thì gần như thả nổi”.
Chất chỉ dấu, được đánh giá là một
trong những đóng góp quan trọng nhất của đề
tài, đã là một thông tin khoa học rất quan
trọng. Nhưng mối quan tâm của các công ty
nam dược và người tiêu dùng là loại dược liệu
này có thê dùng đê tạo ra sản phẩm gì, đê điều
trị hoặc phòng ngừa những căn bệnh nào?
Cần đầu tư dài hơi
Nghiên cứu bước đầu cho thấy cả hai
dược liệu Sâm vũ diệp và Tam thất hoang có
tác dụng ức chế kết tập tiêu cầu tốt, có tiềm
năng ứng dụng đối với việc bảo vệ thành
mạch, phòng ngừa huyết khối và các biến
chứng tim mạch khác. Do đó, nhóm nghiên
cứu đã lựa chọn tìm hiêu hướng nghiên cứu
ứng dụng về tác dụng chống đông, chống kết
tập tiêu cầu, chống huyết khối, bước đầu sản
xuất được 2000 viên nang mềm bào chế từ
Sâm vũ diệp và Tam thất hoang đạt tiêu
chuẩn cơ sở. Trên cơ sở này, các đơn vị
nghiên cứu phát triên sản phẩm từ dược liệu
khác muốn nghiên cứu và phát triên sản phẩm
theo hướng đông máu và nghẽn mạch thì
hoàn toàn có thê sử dụng các mô hình nghiên
cứu in vitro và in vivo - là kết quả được xây
dựng từ đề tài đê triên khai nghiên cứu. Tuy
nhiên cần phải tiếp tục nghiên cứu sâu thêm
“về tác dụng dược lý và nghiên cứu lâm sàng
để có thêm bằng chứng về hiệu quả, và lợi ích
của sản phẩm đối với các bệnh tim mạch”,
TS Dương Thị Ly Hương lưu ý. Những gì
hiện nay nhóm nghiên cứu đang có “mới là
những tác dụng rất ban đầu, rất căn bản, còn
muốn ứng dụng thành sản phẩm thì phải
nghiên cứu kỹ hơn”.
Công ty Nam Dược, đơn vị rất “lăn lộn
với vùng cao và chủ động muốn tham gia đề
tài này”, lại có nguyện vọng nghiên cứu tác
dụng an thần và tác dụng tăng cường sinh dục
nam của dược liệu, bởi đường ra thị trường
rộng mở hơn. “Doanh nghiệp hiện nay không
mặn mà lắm với việc phát triển thành sản
phẩm chống đông máu, vì quá khó để đưa vào
thị trường, mặc dù rất có ý nghĩa”, TS.
Dương Thị Ly Hương nói.
Vì vậy, nếu nhà nước không có định
hướng tiếp tục đầu tư bài bản và dài hơi,
nhóm nghiên cứu buộc phải trông chờ hoàn
toàn vào các doanh nghiệp trong việc ứng
dụng dược liệu, thì rất có thê chúng ta sẽ có
thêm nhiều loại thực phẩm chức năng dễ bán,
dễ quảng cáo ở các mảng thị trường “dễ tính”
nhưng chưa phải là sản phẩm dựa trên những
tính chất quan trọng nhất của hai loài dược
liệu này.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
06/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Phòng khám đa khoa không giấy trong hệ sinh thái y tế thông minh
Tại TP.HCM, Công ty VietCAS phối
hợp cùng với VNPT TP.HCM giới thiệu mô
hình phòng khám đa khoa không giấy, như là
một nỗ lực thúc đẩy y tế thông minh tại cơ sở
khám chữa bệnh tư nhân.
Được biết, mô hình phòng khám đa
khoa không giấy có trọng tâm là phần mềm
Bệnh án điện tử và Sổ khám bệnh điện tử đáp
ứng theo Thông tư 46, giúp liên thông bệnh
nhân với tất cả các dịch vụ của phòng khám
một cách đơn giản nhất và từ bất kỳ đâu.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 34/56
Phòng khám đa khoa không giấy cơ hội và thách thức
trong hệ sinh thái y tế thông minh
Phần mềm Bệnh án điện tử của
VietCAS hướng đến khả năng tương thích với
nhiều phần mềm quản lý bệnh viện giúp việc
chuyên đổi số dễ dàng và phù hợp với nhiều
mô hình phòng khám. Điều này giúp các cơ
sở y tế tiết kiệm được chi phí khi đầu tư vào
hệ thống đa khoa không giấy.
Xu hướng bệnh án điện tử hiện cũng
đang được triên khai tại nhiều bệnh viện
tuyến quận huyện như Bệnh viện quận Thủ
Đức (tháng 3/2019). Xu hướng này cũng
được nhiều cơ quan thúc đẩy như Bộ Y tế với
hội thảo bệnh án điện tử tại TP.HCM vào
tháng 5 và tháng 7/2019.
Hiện tại, VietCAS đang mở rộng hợp
tác cùng VNPT TP.HCM đê triên khai mô
hình “Phòng khám đa khoa không giấy” cho
khối y tế tư nhân. VNPT cũng đang là nhà
cung cấp phần mềm quản lý bệnh viện (HIS)
đầu ngành, với kinh nghiệm triên khai cho
hơn 6.000 cơ sở khám chữa bệnh toàn quốc,
kết nối cổng bảo hiêm y tế v2.0 và là đối tác
đáng tin cậy trong dài hạn.
"Lấy bệnh nhân làm trung tâm” sẽ là
xu thế dài hạn trong ngành y tế nói chung và
y tế tư nhân nói riêng. Điều này đòi hỏi các
cơ sở y tế tư nhân cần đầu tư theo hướng
chuẩn hóa và tinh gọn quy tình hoạt động.
Trong đó, việc giảm bớt giấy tờ trong quản
lý cơ sở y tế và trong việc trả kết quả khám
cho bệnh nhân một việc làm rất cần thiết",
ông Đào Mạnh Hiếu, Giám đốc VietCAS
chia sẻ.
"VNPT là nhà cung cấp phần mềm
quản lý bệnh viện (HIS) có số lượng khách
hàng lớn nhất cả nước. Vì vậy, sự hợp tác
giữa VietCAS và VNPT mang đến cơ hội
chuyển đổi số cho phần lớn các cơ sở y tế
toàn quốc, đặc biệt là các cơ sở có dịch vụ
khám chữa bệnh bảo hiểm y tế", ông Hiếu
cho biết thêm.
Nguồn: Tấn Tuấn, sggp.org.vn,
04/11/2019
Trở về đầu trang
**************
NÔNG NGHIỆP
Độc đáo máy bay không người lái dùng trong nông nghiệp “made in Vietnam”
Máy bay NOBA AQ 10 do nhóm
nghiên cứu của TS. Vũ Ngọc Ánh, Trường
đại học bách khoa TP.HCM nghiên cứu chế
tạo, đến nay đã có thê thương mại hóa với giá
rẻ hơn nhiều so với máy bay nước ngoài, dễ
dàng sửa chữa, thay thế linh kiện do được chế
tạo trong nước, có thê điều khiên từ xa hoặc
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 35/56
tự động bay theo lập trình từ trước, tự động
tránh chướng ngại vật…
Hiệu quả về kinh tế, kỹ thuật,sức
khỏe và môi trường
Máy bay NOBA AQ 10 có trọng lượng
tối đa: 25 kg, thời gian hoạt động: 15 - 20
phút, tốc độ: 0 - 10 m/s, độ cao bay tối đa:
2.000 m, khi sử dụng đê phun thuốc trừ sâu
có diện tích phun: 1 ha/10 phút (nhanh gấp 50
lần phun thủ công và 5 lần máy kéo), lượng
thuốc hoặc phân bón mang theo: 10 lít, tiết
kiệm chi phí nhân công lao động 40 - 50%,
tiết kiệm lượng nước tới 97%, tiết kiệm thuốc
hoặc phân bón 60% do sử dụng đúng liều,
đúng lực và nhanh chóng.
Hiệu quả là dập dịch bệnh nhanh
chóng. Máy bay được khấu hao trong 6 tháng
- l năm. Bảo hành 1 năm.
Máy bay được điều khiên từ xa hoặc tự
động bay theo đường bay nhờ hệ thống định
vị GPS có độ chính xác cao, được xác định
sẵn trên phần mềm NOBA Cham 18.1 cài đặt
trên điện thoại, máy tính bảng, máy tính xách
tay... Máy bay có giá thành vừa phải (120
triệu đồng) với hiệu năng cao góp phần thúc
đẩy việc cơ giới hóa khâu phun thuốc, bón
phân trong nông nghiệp ở Việt Nam.
Máy bay sử dụng 2 vòi loại đầu phun
quạt với góc mở 110 độ. Tính toán số lượng
hạt phun và kích thước hạt ứng với bình chứa
10 lít khi sử dụng máy bay.
Hạt phun càng nhỏ thì hạt càng dễ bị
bay đi xa. Số lượng hạt tăng lên 8 lần khi kích
thước đường kính giảm 1/2. Với mật độ phun
là 20 hạt/cm2 với 10 1ít/ha thì số lượng hạt
cần tạo ra là 2.109 hạt/ha. Đường kính của 1
hạt phun được tính toán là 212 đê đảm bảo
diện tích phun phủ là tương đương với cách
phun truyền thống.
Nói về lợi ích khi sử dụng máy bay
không người lái đê phun thuốc trừ sâu, TS.
Vũ Ngọc Ánh cho biết, việc này đem lại rất
nhiều lợi ích về mặt kinh tế, hiệu quả kỹ
thuật, sức khỏe và môi trường.
Về mặt kinh tế, máy bay phun thuốc
trừ sâu có thê sử dụng cho đa dạng cây trồng
phổ biến ở nước ta có chiều cao khác nhau:
cây lương thực như lúa, bắp, đậu, đậu phộng;
rau màu các loại; cây đặc sản như trà, cà phê,
mía, quế, keo và cây ăn trái như cam, bưởi,
thanh long, nhãn, xoài, vải. Việc sử dụng các
loại máy móc có công suất lớn đòi hỏi diện
tích canh tác cũng phải rất lớn (hàng trăm
ngàn hecta) đê mang đến hiệu quả kinh tế cao
cả về đầu tư máy móc thiết bị ban đầu và chi
phí hoạt động của máy móc, vì vậy sử dụng
máy bay có năng suất vừa phải sẽ phù hợp
hơn với điều kiện canh tác thiếu tập trung và
nhỏ của nước ta.
Máy bay sử dụng các thiết bị chính xác
như GPS, GIS, các hệ thống dự báo thời tiết
thời gian thực, các hệ thống kiêm soát lượng
phun thuốc nên việc sử dụng thuốc bảo vệ thực
vật được giảm thiêu và thực hiện đúng mục
tiêu, phun đúng vị trí bị sâu bệnh, nâng cao
hiệu quả xử lý dịch bệnh, đáp ứng thời gian
nhanh nhất cho việc phun thuốc bảo vệ thực
vật, đặc biệt hữu ích cho việc xử lý dịch bệnh
những vùng xa xôi, với diện tích rộng lớn.
Một số loại cây trồng có đất canh tác
bùn lầy, nước và mật độ trồng dày đặc
đòi hỏi sử dụng máy bay hoặc biện
pháp thủ công vì sử dụng xe chuyên dùng là
không khả thi. Đối với đất ruộng nước thì
việc tiếp xúc với đất của máy nông nghiệp
dẫn tới giảm nitrogen, potassium và ức chế hô
hấp rễ do giảm không khí đất.
Máy bay xử lý dịch bệnh bằng cách
bay phía trên mà không chạm đến cây trồng
và đất canh tác nên không làm ảnh hưởng tới
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 36/56
năng suất của cây vì hư hại do va chạm gây
ra, còn việc sử dụng các loại máy chuyên
dùng với cần phun sẽ làm giảm sản lượng từ
1,5 - 5%.
Ngoài ra, sử dụng máy bay rất phù hợp
cho việc bón phân trễ khi mà cây trồng vào
giai đoạn trưởng thành, cần bón phân nhất
nhưng không thê áp dụng các biện pháp thủ
công làm đạp đổ hoặc làm rơi hoa khi thực
hiện. Một máy bay năng suất tương đương 28
người công. Ví dụ cụ thê, một máy bay mang
bình thuốc khoảng 10 lít mất từ 10 - 15 phút
thao tác là có thê phun hết 1 ha, trong khi
người dùng bình xịt tay mất trung bình
khoảng 7 giờ lội bộ ngoài đồng với tổng cộng
gần 400 lít dung dịch thuốc mang vác trên
người. Với chế độ phun sương siêu tiết kiệm,
máy bay có thê giúp tiết kiệm 90% nước và
30% thuốc so với phun tay, trong khi vẫn
đảm bảo hiệu quả diệt trừ sâu bệnh.
Về hiệu quả kỹ thuật, theo TS. Vũ
Ngọc Ánh, nhờ hệ thống điều khiên thông
minh, máy bay vẫn hoạt động ổn định trong
các điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Hệ
thống phun thường có kiêm soát kích thước
hạt phun và cường độ phun trong thời gian
thực tế, giúp việc phun tưới chính xác và hiệu
quả trong quá trình hoạt động. Hệ thống
radar, cảm biến cho phép máy bay cảm nhận
và phát hiện đa hướng chướng ngại vật, bay
tự động theo địa hình, hoạt động cả vào ban
ngày và ban đêm.
Nhiều ứng dụng mở rộng của máy
bay trong tương lai
TS. Vũ Ngọc Ánh cho rằng, bước ứng
dụng tiếp theo là dùng máy bay chụp hình
hồng ngoại tạo cơ sở dữ liệu các trường hợp,
các giai đoạn bị sâu bệnh. Bằng cách dựa vào
cơ sở dữ liệu này sẽ giúp chúng ta chẩn đoán
khám bệnh cho khu vực đồng ruộng có nghi
ngờ bị sâu bệnh.
Trong tương lai, việc phun thuốc sẽ
tiến tới trình độ cao hơn. Đầu tiên, máy bay
sẽ bay và chụp hình cả khu vực theo định kỳ.
Dữ liệu hình ảnh chụp hồng ngoại sẽ được so
sánh với cơ sở dữ liệu hình ảnh của các
trường hợp có sâu, bệnh đê đối chiếu.
Máy bay sẽ xử lý chính xác khu vực bị
sâu bệnh. Sau khi xử lý đối chiếu so sánh, nếu
phát hiện một vùng nhỏ của ruộng lúa bị sâu
bệnh thì chúng ta sẽ chỉ tiến hành phun thuốc
xử lý cho riêng khu vực cục bộ đó, tránh phun
thuốc tất cả các vùng khác không bị sâu bệnh.
Cách làm này sẽ giúp tiết kiệm chi phí và góp
phần bảo vệ môi trường do những tác hại từ
việc phun thuốc gây ra.
Nguồn: N.Hoa,
khoahocphothong.com.vn, 19/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Ra mắt Bệnh viện Cây ăn quả ở Đồng bằng sông Cửu Long
Ra mắt hệ thống Bệnh viện Cây ăn quả vào sáng 15-11,
tại Tiền Giang
Ngày 15-11, Viện Cây ăn quả miền
Nam (SOFRI) phối hợp cùng Tập đoàn Lộc
Trời và các ngành liên quan tổ chức lễ ra mắt
“Bệnh viện Cây ăn quả”, đặt trên địa bàn tỉnh
Tiền Giang.
Theo đó, hệ thống Bệnh viện Cây ăn
quả có đội ngũ khoảng 57 bác sĩ cây trồng,
bao gồm các chuyên gia của SOFRI và lực
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 37/56
lượng kỹ sư nông nghiệp “3 cùng” của Tập
đoàn Lộc Trời.
Bệnh viện Cây ăn quả thực hiện nhiều
hoạt động chuyên giao kiến thức canh tác,
dinh dưỡng, tư vấn kịp thời cho nhà vườn về
cách phòng trị sâu bệnh trên cây ăn quả. Thiết
lập kênh tiếp nhận và phản hồi thông tin về
dịch bệnh trên cây ăn quả với nông dân; đặc
biệt là triên khai ứng dụng trên điện thoại di
động nhằm cung cấp kịp thời cho nông dân
những thông tin hữu ích về các giống cây
thông dụng, tình hình dịch bệnh, việc sản xuất
và tiêu thụ cây ăn quả…
Tiến sĩ Nguyễn Văn Hòa, Phó Viện
trưởng SOFRI, kiêm Giám đốc hệ thống Bệnh
viện Cây ăn quả, cho biết: “Trước đây,
SOFRI có Bệnh viện cây trồng để tư vấn kỹ
thuật miễn phí cho nông dân ĐBSCL. Nay,
SOFRI phối hợp cùng Tập đoàn Lộc Trời ra
mắt hệ thống Bệnh viện Cây ăn quả, nhằm
tận dụng thế mạnh của từng đơn vị, để hỗ trợ
nhiều hơn nữa cho các nông dân ĐBSCL thực
hiện tốt quản lý dịch hại tổng hợp trên cây ăn
quả; hướng tới phát triển cây ăn quả an toàn,
sạch bệnh, chất lượng cao. Trước mắt, bệnh
viện tập trung trên một số chủng loại cây thế
mạnh ở vùng ĐBSCL; sau đó sẽ mở rộng ra
nhiều đối tượng cây trồng khác nhau và triển
khai rộng đến các tỉnh thành phía Nam và
Tây Nguyên...”.
Ông Huỳnh Văn Thòn, Chủ tịch
HĐQT Tập đoàn Lộc Trời, bộc bạch: “Hệ
thống Bệnh viện Cây ăn quả nhằm cung cấp
các dịch vụ nông nghiệp tốt nhất, giúp nông
dân gia tăng lợi nhuận trong canh tác cây ăn
quả. Bên cạnh đó, thúc đẩy chuỗi giá trị nông
nghiệp bền vững và triển khai giải pháp khoa
học công nghệ tiên tiến đến nhiều nông dân
ứng dụng, nhằm hiện thực ước vọng nâng cao
vị thế và chất lượng cuộc sống của nông dân,
góp phần xây dựng những vùng nông thôn
đáng sống”.
Ông Lê Văn Thiệt, Cục phó Cục Bảo
vệ thực vật (Bộ NN-PTNT) đánh giá cao sự
hợp tác của 2 đơn vị trong việc phát triên hệ
thống Bệnh viện Cây ăn quả. Vấn đề này rất
có ý nghĩa vì góp phần trang bị kiến thức về
cây ăn quả cho nhiều nông dân; đồng thời
giúp bà con điều trị bệnh trên cây ăn quả một
cách hiệu quả, nâng cao chất lượng cây ăn
trái, đáp ứng tốt nhu cầu xuất khẩu rau quả
ngày càng cao.
Cũng theo ông Thiệt, mấy năm qua
xuất khẩu rau quả của Việt Nam tăng trưởng
ấn tượng, thị trường liên tục được mở rộng.
Ngoài ra, trong đề án tái cơ cấu ngành nông
nghiệp thì Bộ NN-PTNT chủ trương mở rộng
diện tích cây ăn trái, đáp ứng nhu cầu tiêu thụ
nội địa và tăng cường xuất khẩu. Do đó, với
sự ra đời hệ thống Bệnh viện Cây ăn quả là
rất cấp thiết,…
Cũng trong lễ ra mắt, các ngành chức
năng đã tổ chức trình diễn phun thuốc bảo vệ
cây ăn quả bằng thiết bị bay không người lái
(drone); giúp nông dân ứng dụng công nghệ
cao vào canh tác đê nâng cao hiệu quả sản xuất.
Nguồn: Nguyễn Thanh, sggp.org.vn,
15/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Hiện đại hóa công nghệ sản xuất cá biên quy mô công nghiệp ở Việt Nam
Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản
I vừa hoàn thiện công nghệ sản xuất cá biên
công nghiệp với đối tượng là cá chim vây
vàng Trachinotus spp, nâng cao năng lực
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 38/56
nghiên cứu thông qua hiện đại hóa công nghệ
sản xuất cá biên chất lượng cao, đảm bảo vệ
sinh an toàn thực phẩm, an toàn sinh học ở
quy mô công nghiệp theo chuỗi liên kết giá trị
từ sản xuất giống tới thương mại hóa sản
phẩm và chuyên giao công nghệ. Điều đó đã
góp phần giúp Viện sớm trở thành đơn vị tự
chủ tài chính theo Nghị định 115 trước đây và
nay là Nghị định 54 của Chính phủ.
Đó là những kết quả nổi bật của tiêu
dự án “Hiện đại hóa công nghệ sản xuất cá
biên quy mô công nghiệp ở Việt Nam nhằm
nâng cao sản lượng, chất lượng và vệ sinh an
toàn thực phẩm” do Bộ Khoa học và Công
nghệ (KH&CN) tài trợ cho Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng Thủy sản I thực hiện.
Tiêu dự án thuộc Hợp phần 2a -
"Khoản tài trợ cho các tổ chức khoa học và
công nghệ công lập về khoa học, công nghệ
và đổi mới sáng tạo”, thuộc Dự án “Đẩy
mạnh đổi mới sáng tạo thông qua nghiên cứu,
khoa học và công nghệ" (FIRST). Dự án
FIRST do Ngân hàng Thế giới tài trợ và Bộ
KH&CN là cơ quan quản lý.
Cá chim vây vàng là một đối tượng
nuôi quan trọng và có tiềm năng kinh tế cao.
Cá có tốc độ tăng trưởng tương đối nhanh,
sau 7-8 tháng cá có thê đạt cỡ từ 0,5 -
0,7kg/con, từ năm thứ 2 trở đi, cá đạt trọng
lượng 1,5kg/con. Loài cá này là một trong
bốn loài cá biên ngon nhất (tứ quý ngư) được
dân gian hay nhắc đến “Chim, Thu, Nhụ, Đé”
- là những loài cá lành tính, nhiều nạc, ít
xương, dễ chế biến, nhiều dinh dưỡng.
Nhận thức được giá trị của loài cá,
xuất phát từ năng lực và thực tiễn hoạt động
của đơn vị, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng
Thủy sản I đã đề xuất và được Bộ KH&CN
phê duyệt thực hiện tiêu dự án nói trên.
Trong thời gian từ tháng 6/2018 đến
tháng 5/2018, nhóm nghiên cứu đã nâng cao
năng lực nghiên cứu thông qua hiện đại hóa
công nghệ sản xuất cá biên chất lượng cao,
đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm, an toàn
sinh học, ở quy mô công nghiệp theo chuỗi
liên kết giá trị từ sản xuất giống tới thương
mại hóa sản phẩm và chuyên giao công nghệ
nhằm phát triên Viện trở thành đơn vị tự chủ
tài chính theo Nghị định 115 trước đây và nay
là Nghị định 54 của chính phủ. Cụ thê, đã
hoàn thiện và hiện đại hóa công nghệ sản xuất
cá biên công nghiệp với đối tượng là cá chim
vây vàng Trachinotus spp với quy mô sản
xuất cá giống đạt 1 triệu con giống/vụ, quy
mô nuôi thương phẩm bằng lồng biên đạt 200
tấn/vụ, giá thành sản xuất đạt <70.000
đồng/1kg. Qua thử nghiệm đã thê hiện tính
hiệu quả của quy mô và công nghệ nuôi, giảm
các rủi ro, đạt các tiêu chuẩn về vệ sinh an
toàn thực phẩm và bao gồm các quy trình: sản
xuất giống, nuôi thương phẩm, dinh dưỡng-
thức ăn, di truyền-chọn giống, quản lý môi
trường và bệnh.
Viện cũng đã tạo được công thức thức
ăn viên công nghiệp đáp ứng được nhu cầu
dinh dưỡng của cá chim vây vàng ở giai đoạn
nuôi thương phẩm, đảm bảo chất lượng dinh
dưỡng cá nuôi tương đương cá tự nhiên, giảm
hệ số thức ăn và cạnh tranh về giá bán; hoàn
thiện quy trình quản lý môi trường và phòng
ngừa bệnh, chăm sóc sức khỏe cá áp dụng
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 39/56
cho trang trại nuôi cá biên nhằm đảm bảo sản
phẩm cá chất lượng, sạch bệnh và đạt các tiêu
chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm.
Với sự đầu tư từ Bộ KH&CN thông
qua triên khai tiêu dự án, Viện đã trang bị các
thiết bị nghiên cứu, thí nghiệm quan trọng,
cốt lõi liên quan đến công nghệ sản xuất cá
biên và 3 phòng thí nghiệm. Các phòng thí
nghiệm đều đã được cấp giấy chứng nhận và
thực hiện quản lý theo tiêu chuẩn
ISO/IEC17025:2017.
Cùng với đó, nhiều cán bộ đã được cử
đi đào tạo nhiều chuyên ngành như dinh
dưỡng, công nghệ nghiên cứu di truyền-chọn
giống, nghiên cứu quản lý môi trường và
phòng ngừa bệnh động vật thủy sản, nuôi cá
lồng biên quy mô công nghiệp.
Đặc biệt, Viện đã chuyên giao được
công nghệ sản xuất cá biên quy mô công
nghiệp và các quy trình, công nghệ phụ trợ
khác và hợp tác xây dựng công thức thức ăn
cho cá chim vây vàng. Nhờ đó, doanh thu của
Viện đã tăng lên đáng kê, dự kiến theo kế
hoạch có thê trở thành đơn vị tự chủ hoàn
toàn về tài chính vào năm 2023.
Nguồn: Trung tâm Nghiên cứu và Phát
triển truyền thông KH&CN, vista.gov.vn,
15/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Xây dựng mô hình thâm canh tổng hợp cà phê đạt hiệu quả, bền vững và được chứng nhận tại Tây Nguyên
Sản xuất cà phê có chứng nhận nhằm
mục đích đảm bảo thực hiện đúng quy trình
sản xuất, cải thiện thu nhập điều kiện sống
của người dân thông qua việc giảm chi phí
sản xuất, tăng năng suất chất lượng sản phẩm,
tối ưu hóa chuỗi cung ứng, đồng thời thúc đẩy
sự bền vững cả ba mặt: xã hội, môi trường và
kinh tế. Tuy nhiên sản xuất cà phê có chứng
nhận tại Việt Nam bước đầu còn rất nhiều hạn
chế, đến nay cả nước có trên 102.150 hộ gia
đình tham gia sản xuất cà phê có chứng nhận
với tổng diện tích trên 172.417 ha. Sản lượng
mỗi năm đạt 622.706 là 3.000 tấn. Như vậy,
cà phê có chứng nhận chiếm khoảng 30%
tổng sản lượng cà phê cả nước, tỷ lệ trên còn
quá thấp so với cà phê hiện có của Việt Nam.
Những năm gần đây, với tình hình diễn
biến thời tiết ngày càng có nhiều bất lợi, ngành
sản xuất cà phê ở Tây Nguyên đang phải đối
đầu với một thách thức rất lớn: thiếu nước tưới
trong mùa khô dẫn đến việc sụt giảm năng suất
nghiêm trọng, nhiều vùng tưới không đúng
quy trình hướng dẫn gây lãng phí 2 nước. Vì
vậy, vấn đề tưới nước là một trong những mối
quan tâm hàng đầu của các cơ quan, ban ngành
trung ương cũng như địa phương.
Từ năm 2010 cho đến nay, Viện Khoa
học Kỹ thuật Nông Lâm nghiệp Tây Nguyên,
đã tiến hành thực hiện các đề tài nghiên cứu
kỹ thuật tưới nước tiết kiệm kết hợp bón phân
qua nước cho cây cà phê mang lại hiệu quả
cao. Từ những lý do trên, việc xây dựng mô
hình thâm canh tổng hợp cà phê đạt hiệu quả,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 40/56
bền vững và được chứng nhận tại Tây
Nguyên là điều hết sức cần thiết đê phát triên
ngành cà phê Việt Nam được ổn định hiệu
quả và bền vững. Đó cũng chính là nội dung
của dự án “Xây dựng mô hình thâm canh tổng
hợp cà phê đạt hiệu quả, bền vững và được
chứng nhận tại Tây Nguyên” do TS. Trần
Vinh, công tác tại Viện khoa học kỹ thuật
nông lâm nghiệp Tây Nguyên, Viện Khoa học
Nông nghiệp Việt Nam thực hiện.
Sau một thời gian thực hiện, dự án đã
thu được một số kết quả chính như sau:
- Dự án đã xây dựng được 3 mô hình:
Mô hình trồng tái canh cà phê vối, mô hình sản
xuất cà phê theo tiêu chuẩn chứng nhận, mô
hình tưới tiết kiệm nước với diện tích 415 ha tại
5 tỉnh Tây Nguyên (Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia
Lai, Lâm Đồng, Kon Tum). Trong đó:
+ Mô hình tái canh cà phê vối: 80 ha
(tại Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai, Lâm Đồng)
với 119 hộ dân tham gia. Sau gần 3 năm trồng
các mô hình cho thấy:
* Tỷ lệ cây sống ở mô hình trung bình
95,2% cao hơn ngoài sản xuất đại trà
(92,0%), chưa thấy có sự khác biệt rõ về tỷ lệ
cây sống giữa các vườn có thời gian luân
canh và không luân canh.
* Các vườn mô hình cà phê già cỗi
năng suất thấp < 2 tấn nhân/ha có tỷ lệ cây
vàng lá do nhiễm bệnh thấp có thê trồng ngay
không cần luân canh.
+ Mô hình sản xuất cà phê theo tiêu
chuẩn chứng nhận: 308 ha (tại 5 tỉnh Tây
Nguyên) với 425 hộ dân tham gia. Tất cả 308
ha với 425 hộ tham gia đã được xác nhận sản
xuất cà phê chứng nhận Rainforest
Alliance/4C/ UTZ certified. Mô hình đạt kết
quả cao hơn so với mục tiêu đặt ra (mục tiêu
là 60% diện tích được xác nhận sản xuất cà
phê chứng nhận Rainforest Alliance/4C/ UTZ
certified) và năng suất trung bình đạt 4,2 tấn
nhân/ha, hiệu quả cao hơn 31% so với sản
xuất đại trà.
- Mô hình tưới tiết kiệm nước: 27 ha
(tại Đăk Lăk, Đăk Nông, Gia Lai) với 27 hộ
dân tham gia. Các mô hình tưới nước này tiết
kiệm được 20% lượng nước tưới, 22,9%
lượng phân bón và 16,1% chi phí công lao
động so với sản xuất đại trà.
- Tập huấn kỹ thuật cho 2.115 người
trong và ngoài mô hình, 3.094 người tham gia
hội thảo, tham quan tổng kết tại các điêm
triên khai mô hình. Các hộ tham gia đều vận
dụng vào sản xuất cho gia đình và hướng dẫn
cho người dân trong vùng đê nhân rộng mô
hình.
- Đào tạo huấn luyện (TOT) cho 1.069
học viên về kỹ thuật trồng chăm sóc, chế
biến, bảo quản cà phê. Các học viên đều nắm
vững kiến thức và có khả năng đứng lớp
truyền đạt những kiến thức đã được học lại
cho người dân sản xuất cà phê.
- Công tác quản lý, tổ chức thực hiện
được phối hợp chặt chẽ với sở nông nghiệp và
phát triên nông thôn các tỉnh, cán bộ khuyến
nông và cán bộ địa phương nơi xây dựng mô
hình hàng năm đều có biên bản nghiệm thu cơ
sở tại địa phương.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
14/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 41/56
Khai thác và phát triên nguồn gen sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et Grushv.)
Sâm Ngọc Linh là loài đặc hữu hẹp
của Miền trung Việt Nam. Đã có khá nhiều
nghiên cứu về thành phần hoá học, tác dụng
sinh học và bước đầu nghiên cứu phát triên
sản phẩm của Sâm Ngọc linh. Các nghiên cứu
về điều tra sự phân bố, trữ lượng, nghiên cứu
bảo tồn cũng được tiến hành từ suốt những
năm 1980 - 2000. Tuy nhiên, nghiên cứu về
trồng trọt loài này, nhất là về nhân giống, sản
xuất giống (từ hạt) còn hạn chế. Như vậy,
chính nhờ sự hoàn thiện công nghệ sản xuất
giống, chủ động về nguồn giống (chủ yếu từ
hạt) nên nhiều loài sâm đã được các nước
phát triên thành hàng hóa cung cấp cho thị
trường thế giới. Đây cũng là con đường tất
yếu đối với các sâm Ngọc Linh (P.
vietnamensis) của Việt Nam.
Xuất phát từ thực tế trên, PGS. TSKH.
Nguyễn Minh Khởi, hiện đang công tác tại
Viện Dược liệu cùng các đồng nghiệp đã thực
hiện đề tài “Khai thác và phát triên nguồn gen
sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et
Grushv.)” với mục tiêu chung là nhằm: xây
dựng được quy trình kỹ thuật chọn lọc và nhân
thuần tạo vườn giống gốc sâm Ngọc Linh; xây
dựng được quy trình trồng trọt, chăm sóc và
thu hoạch hạt giống sâm Ngọc Linh.
Từ các kết quả nghiên cứu của nhiệm
vụ và đối chiếu với các mục tiêu đề ra, nhóm
nghiên cứu rút ra một số kết luận như sau:
(1) Đã mô tả được đầy đủ, chi tiết đặc
điêm nông sinh học của cây sâm Ngọc Linh:
Cây sâm Ngọc Linh là cây thảo sống nhiều
năm, thân rễ có hình dạng khác nhau, có thê
phân thành 2-3 nhánh. Thân khí sinh mọc
chồi lên trên mặt đất, cao khoảng 40-60cm,
mang 3- 5 lá kép, mỗi lá gồm từ 3-5 là chét
hình chân vịt. Cụm hoa hình tán mọc ở đầu
cành. Cụm hoa có thê đơn tán hoặc có 1-4 tán
phụ. Mỗi cụm hoa có 50-120 hoa. Hoa nhỏ
màu vàng nhạt, đường kính 3-4mm, gồm 5 lá
đài hợp thành chuông, trên chia thành 5 răng
cưa nhỏ hình tam giác, dài 1-1,5 mm, 5 cánh
hoa, 5 nhị dài 1,5-2 mm. Bao phấn đính lưng
hình trái xoan, đĩa hoa hơi lồi. Bầu cao 1-1,5
mm, có 2 lá noãn, thường 1 lá phát triên. Quả
mọng, hình trứng, dài 0,8-1 cm, rộng 0,5-0,6
cm. Khi chín có màu đỏ với 1 chấm đen ở
đỉnh. Mỗi quả chứa 1-2 hạt. Thường từ cuối
tháng 2 đến đầu tháng 3 thân khí sinh bắt đầu
nảy chồi và phát triên. Đến tháng 4-6 hoa bắt
đầu xuất hiện và nở. Sâm Ngọc Linh là loài tự
thụ nhờ côn trùng và gió. Quả sâm phát triên
từ tháng 6-8 và chín rộ vào cuối tháng 8 và
nửa đầu tháng 9. Từ tháng 10-12 thân khí
sinh và lá vàng và rụng (lụi sinh lý). Sâm
Ngọc Linh là cây ưa ẩm, mát và ưa bóng,
nhiệt độ dưới 22 độ C, thường mọc dưới tán
rừng ẩm, độ cao từ 1.800-2.000 m. Thường
ưa đất ẩm, xốp, có tầng mùn hữu cơ dày.
(2) Đã tiến hành giải trình tự DNA của
các mẫu giống sâm Ngọc Linh vùng gen ITS
và vùng gen matK làm cơ sở đánh giá giá trị
nguồn gen và khẳng định tính đồng nhất cho
các mẫu giống sau khi chọn lọc. Đã mô tả chi
tiết các đặc điêm vi phẫu và đặc điêm vi học
bột thân rễ sâm Ngọc Linh làm cơ sở đê tiêu
chuẩn hóa dược liệu. Tiến hành đánh giá hàm
lượng saponin trong thân rễ sâm Ngọc Linh có
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 42/56
sử dụng 03 chất đánh dấu là MR2, 52 Rg1 và
Rb1 cho thấy các mẫu sâm (từ vườn gốc cho
đến vườn sản xuất) đều có hàm lượng saponin
toàn phần khá cao (khoảng 13%), tỷ lệ hàm
lượng các saponin đánh dấu là phù hợp.
(3) Đã xây dựng được quy trình kỹ
thuật chọn lọc và nhân thuần tạo vườn giống
gốc sâm Ngọc Linh, từ đây nhân những cá thê
tốt, cho hệ số nhân giống cao, cây con khỏe
mạnh và đồng nhất về di truyền. Đã chọn lọc
được và mô 02 giống (SNL. QN1 và SNL.
KT1). Đã đăng ký bảo hộ giống tại Văn
phòng bảo hộ giống - Cục trồng trọt - Bộ
Nông nghiệp và phát triên nông thôn.
(4) Đã xây dựng được Quy trình sản
xuất hạt giống sâm Ngọc Linh: Thời vụ trồng
thích hợp nhất là tháng 8 (dương lịch) hàng
năm. Khoảng cách trồng: 30 x 40cm. Mật độ
trồng 83.000 cây/ha. Trồng hai hàng/luống,
theo kiêu nanh sấu. Độ sâu trồng 2cm. Không
trồng quá sâu, làm thối củ vào mùa mưa.
Lượng mùn núi: 200m3/ha.Khi quả chuyên
sang màu đỏ tươi, thu hái toàn bộ các quả có
chấm đen ở đỉnh, đem về ủ 1-2 ngày, làm
sạch vỏ. Phơi âm can 2-3 ngày, ẩm độ hạt 80-
85%, trộn với cát ẩm 50%, bảo quản hạt trong
điều kiện lạnh từ 5-12 độ C.
(5) Đã xây dựng vườn sản xuất giống
sâm Ngọc Linh tại mỗi tỉnh 1ha ở nhiều cấp
tuổi khác nhau. Từ các cây mẹ này cho hạt
giống đầu dòng đã thu thập chọn lọc và xây
dựng được quy trình kỹ thuật chọn lọc và
nhân thuần tạo vườn giống gốc sâm Ngọc
Linh. Nhiệm vụ đã hoàn thiện hệ thống vườn
ươm, diện tích 01ha, đủ điều kiện sản xuất
100.000 cây giống/ năm.
(6) Xây dựng tiêu chuẩn giống: Hạt
sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis Ha et
Grushv.) là dạng hạt chắc, hình thận, có màu
trắng ngà hoặc vàng nhạt, dài 5-9mm, rộng 4-
8 mm, dày 2-2,5 mm. Bề mặt hạt có nhiều
chỗ lồi lõm. Tỷ lệ hạt chắc: ≥ 95%. Tỷ lệ tạp
chất: ≤ 5% (Chủ yếu là hạt lửng, hạt lép).
Khối lượng 1.000 hạt tươi: 85-95g. Nhiệt độ
bảo quản: 5-12 độ C. Tỷ lệ mọc mầm: ≥ 80%.
Đã công nhận và ban hành tiêu chuẩn giống
cấp cơ sở; Từ các kết quả đó đã xây dựng và
đang hoàn thiện hồ sơ xin công nhận đặc cách
giống cây trồng mới tại Cục trồng trọt - Bộ
Nông nghiệp và phát triên nông thôn.
(7) Đã theo dõi phát hiện sâu bệnh và
tăng cường biện pháp phòng trừ. Xây dựng
được quy trình bảo vệ thực vật đê theo dõi,
đánh giá và chủ động phòng trừ sâu bệnh hại
cho cây giống và cây trồng đại trà.
Nguồn: P.K.L, vista.gov.vn,
13/11/2019
Trở về đầu trang **************
Ứng dụng công nghệ khí canh trong nhân giống một số cây dược liệu có giá trị kinh tế cao
Khí canh (aeroponics): là công nghệ
nuôi trồng cây bằng dinh dưỡng tiên tiến nhất
trong nền sản xuất hiện đại. Công nghệ này
cho phép nhân được nhiều loại cây trồng, chu
kỳ nhân giống nhanh (Richard, 1983; Soffer
& Burger, 1988). Có thê khắc phục được một
số nhược điêm như: có thê trồng được những
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 43/56
loại cây có thời gian sinh trưởng dài (trên 3
tháng) và củ giống rất bức thiết của sản xuất
khoai tây giống sạch bệnh cũng như một số
cây ăn củ, cây ăn quả khác cà chua, dưa...).
Nguyên lý của công nghệ này là phun dinh
dưỡng dạng sương mù vào bộ rễ, kích thích
cây ra rễ mà không cần đến sự tham gia của
đất. Bộ rễ hoàn toàn nằm trong không khí,
chất dinh dưỡng và nước được phun theo chu
kỳ lên toàn bộ bộ rễ. Dung dịch thừa được thu
lại, lọc, bổ sung đê tiếp tục sử dụng. Theo
tính toán, áp dụng công nghệ khí canh có thê
giảm 90% chi phí về nước, 95% phân bón và
99% thuốc bảo vệ thực vật.
Từ năm 2018 đến năm 2019, theo
khuôn khổ của đề tài “Nghiên cứu ứng dụng
công nghệ khí canh trong nhân giống và sản
xuất thử nghiệm một số loại cây trồng có giá
trị kinh tế cao trên địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc”,
Trung tâm Ứng dụng tiến bộ KH&CN Vĩnh
Phúc đã thử nghiệm nhân giống bằng công
nghệ khí canh một số cây dược liệu như: Giảo
cổ lam 5 lá, lan Thạch hộc tía, lan kim tuyến,
trà hoa vàng, cây dâu tây và sản xuất trồng
thử nghiệm dưa lưới Nhật Bản trong nhà kính
250m2. Qua thử nghiệm nhân giống trong các
bồn khí canh, theo dõi, đo đếm các số liệu
bước đầu đã cho kết quả, cụ thê:
Cây giảo cổ lam invitro cao 2cm được
chuyên ra bồn khí canh, sau 5-7 ngày rễ khí
canh mới xuất hiện thay thế các rễ nuôi cấy
mô và sau khoảng 10-12 ngày, cành giảo cổ
lam có 6-7 đốt thì tiến hành cắt ngọn. Đoạn
cành cắt cắm vào bồn khí canh từ 3-5 ngày
cành bắt đầu ra rễ, sau 7-10 ngày xuất hiện lá
mới và tiếp tục nhân đợt tiếp theo khi các
cành xuất hiện 6-7 đốt hoặc chuyên cây ra
bầu đê triên khai trồng ra đồng ruộng.
Từ tháng 10 dương lịch trong năm khi
nhiệt độ môi trường chuyên lạnh, ngoài việc
nhân giống trên bồn khí canh có thê tiến
hành nuôi dưỡng và thu sinh khối của cây
giảo cổ lam.
Cây dâu tây invitro có 5 - 6 lá thật
được chuyên ra bồn khí canh, sau 10-15 ngày
rễ khí canh mới xuất hiện thay thế các rễ nuôi
cấy mô và sau khoảng 40-45 ngày, cây dâu
tây ra ngó, khi ngó được 3 lá thật, tiến hành
cắt ngó và cắm vào các bồn khí canh, sau cắm
ngó từ 3 đến 5 ngày ngó xuất hiện rễ, khi ngó
có khoảng 5-6 lá thì ra bầu cây con.
Cây Lan Thạch Hộc Tía invitro có 4-5
lá được chuyên ra bồn khí canh. Sau khi ra
bồn khí canh khoảng 20 ngày, cây Lan Thạch
Hộc Tía xuất hiện rễ mới, sau 30-35 ngày cây
đẻ nhánh mới. Khi nhánh mới có 4-5 lá thì
tiến hành tách nhánh ra bồn khí canh khác,
tiến hành luyện cây và chăm sóc cây.
Cây Lan Kim Tuyến invitro có 4-5 lá
được chuyên ra bồn khí canh. Qua theo dõi thí
nghiệm, sau 15 ngày ra cây, cây ổn định và rễ
cây bắt đầu phát triên. Sau 30 ngày cây bắt đầu
ra rễ mới. Trong thời gian tới nhóm nghiên
cứu tiếp tục theo dõi sinh trưởng, phát triên và
hệ số nhân đối với cây Lan Kim Tuyến.
Cây Trà Hoa vàng: Tiến hành cắt 2 đốt
trực tiếp trên cây trà, sau đó cắm vào bồn khí
canh. Nhóm nghiên cứu thử 2 phương pháp
(có sử dụng thuốc kích thích ra rễ và cắm
luôn không chấm thuốc), qua theo dõi, sau
khi cắm cành: Cành cây Trà Hoa vàng không
chấm thuốc kích thích ra rễ sau 40-45 ngày
mới ra rễ, còn cành được chấm thuốc ra rễ sau
30-35 ngày bắt đầu ra rễ và rễ cây ra nhiều,
phát triên nhanh hơn. Trong thời gian tới,
nhóm nghiên cứu chuyên cây ra bầu và theo
dõi sinh trưởng, phát triên của cây ở bầu và
khi trồng xuống đất.
Đối với cây dưa lưới Nhật Bản, nhóm
nghiên cứu tiến hành gieo hạt và khi cây dưa
xuất hiện cành nhánh, tiến hành cắt cành
nhánh (2 đốt), sau đó chấm thuốc kích thích
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 44/56
ra rễ và cắm vào các bồn khí canh. Qua theo
dõi thí nghiệm, sau cắm 7-10 ngày các cành
dưa bật mầm mới và sau 10-12 ngày bắt đầu
ra rễ và các rễ này phát triên rất nhanh đê hấp
thu dinh dưỡng trong bồn khí canh.
Sau khi các đốt dưa ra rễ khoảng 5-7
ngày, nhóm nghiên cứu tiến hành ra bầu,
bước đầu thấy cây sinh trưởng, phát triên tốt.
Trong thời gian tiếp theo, nhóm nghiên
cứu tiếp tục theo dõi, đánh giá các thí nghiệm,
từ đó đưa ra được các kết luận và xây dựng
quy trình nhân giống bằng phương pháp khí
canh đối với từng loại cây.
Nguồn: Sở KH&CN Vĩnh Phúc,
vista.gov.vn, 10/11/2019
Trở về đầu trang **************
Nghiên cứu nâng cao tỷ lệ sống của tôm hùm (Panulirus Ornatus) giống giai đoạn ương nuôi
Trong số họ tôm hùm gai nhiệt đới
trong vùng biên Ấn Độ Dương - Tây Thái
Bình Dương, loài tôm hùm bông được nuôi
tập trung nghiên cứu ở nhiều nước. Sở dĩ
nghề nuôi tôm hùm lồng phát triên mạnh
trong vài thập niên qua, bởi nhu cầu tiêu thụ
lớn, giá cao, khả năng cung cấp giống từ tự
nhiên cũng như khả năng thích nghi tốt trong
điều kiện nuôi lồng của loài tôm hùm này.
Tôm hùm bông (Panulirus ornatus) là
1 trong 7 loài tôm hùm phân bố ở vùng biên
Việt Nam, tập trung nhiều nhất ở các tỉnh ven
biên miền Trung từ Quảng Bình đến Bình
Thuận. Với những ưu điêm nổi trội như: tăng
trưởng nhanh, kích thước lớn, chất lượng thịt
thơm ngon, giàu dinh dưỡng, có giá trị kinh tế
cao so với các loài khác, tôm hùm bông được
xem là đối tượng nuôi mang lại hiệu quả cao
cho nuôi lồng.
Tôm hùm lồng bắt đầu được nuôi vào
năm 1992 và phát triên mạnh vào năm 2000 ở
các tỉnh Nam miền Trung, trong đó có: Bình
Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Ninh Thuận.
Sản phẩm tôm hùm lồng gia tăng đáng kê từ
năm 2000 đến 2006, xấp xỉ 1.900 tấn vào
năm 2006. Tuy nhiên, cuối 2006, bệnh sữa
xuất hiện đã làm giảm đáng kê sản phẩm nuôi
lồng, chỉ đạt 1.400 tấn vào năm 2007. Bằng
nỗ lực trong phương pháp phòng và trị bệnh
sữa, những năm sau đó sản lượng tôm hùm
nuôi gia tăng trở lại và duy trì Việt Nam vẫn
là quốc gia đứng đầu về sản lượng nuôi tôm
hùm lồng: năm 2014 có khoảng 43.000 lồng
nuôi và sản lượng đạt hơn 1.550 tấn, giá trị
sản lượng khoảng 3.000 tỷ đồng. Nuôi tôm
hùm lồng trở thành một nghề chính mang lại
thu nhập, giải quyết việc làm cho đông đảo bà
con ngư dân vùng ven biên.
Tuy nhiên cho đến nay, công đoạn
ương nuôi tôm hùm giống còn nhiều bất cập
trong việc sử dụng thức ăn, mật độ nuôi cũng
như chế độ quản lý, chăm sóc. Tỷ lệ sống tôm
ương chưa cao, không ổn định cũng như sự
tiềm ẩn mầm bệnh trong tôm ương. Điều này
làm thất thoát đi nguồn lợi tự nhiên, gây tổn
thất về kinh tế cho người nuôi tôm một khi
dịch bệnh xảy ra. Do đó, cần thiết phải nghiên
cứu nâng cao tỷ lệ sống và kiêm soát môi
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 45/56
trường, dịch bệnh của tôm ương đồng thời
xây dựng quy trình, xây dựng mô hình ương
nuôi đê đảm bảo yêu cầu về chất lượng, số
lượng con giống phục vụ cho nuôi tôm hùm
lồng thương phẩm. Xuất phát từ thực tế trên,
ThS. Đinh Tấn Thiện, Viện Nghiên cứu Nuôi
trồng Thủy sản III đã cùng với các đồng
nghiệp thực hiện đề tài: “Nghiên cứu nâng
cao tỷ lệ sống của tôm hùm (Panulirus
ornatus) giống giai đoạn ương nuôi”.
Sau một thời gian thực hiện, đề tài của
nhóm nghiên cứu đã thu được các kết quả
đáng chú ý như sau:
1. Có ba biện pháp kỹ thuật đê khai
thác tôm hùm giống ngoài tự nhiên, mỗi biện
pháp được sử dụng phụ thuộc vào đặc điêm
địa hình mà con giống phân bố. Nơi tương
đối sóng gió, độ sâu khoảng 10-15 m khai
thác chính là sử dụng lưới kéo. Nơi ít sóng
gió, độ sâu chỉ khoảng 1-2 m hình thức khai
thác chủ yếu là bằng bẫy. Ở các vùng rạn
nông gần bờ, độ sâu chỉ khoảng 0,5-3 m
thường khai thác bằng lặn bắt. Khai thác bằng
lưới là hình thức khai thác mang lại hiệu quả
nhất. Độ dài lưới dao động khoảng 100– 150
m, độ cao 4–6 m. Sử dụng ánh sáng đèn neon
có cường độ 1.000–2.000 W đê kích thích
tôm hùm giống tập trung vào.
2. Tôm hùm giống sau khai thác được
lưu giữ trong 24-72 giờ cho tỷ lệ sống cao
trong lưu giữ, trên 95 % mặc dù không thay
nước trong suốt quá trình lưu giữ.
3. Có ba yếu tố ảnh hưởng lớn đến tỷ
lệ sống ương tôm hùm giống ở các tỉnh Bình
Định, Phú Yên và Khánh Hòa, đó là chất
lượng tôm hùm giống ban đầu cho ương nuôi,
thức ăn sử dụng trong ương nuôi và mật độ
ương nuôi.
4. Bằng việc thay nước mới hoàn toàn
cứ sau 24 giờ lưu giữ đã đảm bảo được chất
lượng tôm hùm giống sau khai thác, tỷ lệ
sống của tôm hùm giống rất cao sau 30 ngày
ương nuôi: từ 70,33 % lên 95,67 %.
5. Mật độ thích hợp cho ương nuôi tôm
hùm giống là 60 con/m3 lồng nuôi.
6. Thức ăn thích hợp trong ương nuôi
tôm hùm giống đó là: hai tháng đầu cho ăn
100% giáp xác, những tháng ương nuôi sau
đó tiếp tục cho ăn 70 % giáp xác + 10 % cá
biên + 10 % thân mềm + 10 % ốc bươu vàng.
7. Quy trình công nghệ ương nuôi tôm
hùm giống bằng lồng ngoài biên từ tôm trắng
(0,25-0,3 g/con) lên giống (15-20 g/con) đạt
tỷ lệ sống trên 85% và sạch một số bệnh
thường gặp đã được xây dựng trên ba giải
pháp nâng cao tỷ lệ sống trong ương nuôi tôm
hùm giống: chất lượng giống, mật độ và thức
ăn ương nuôi. Cùng với chất lượng Kết luận
và đề nghị 62 giống ban đầu, thức ăn cho
ương nuôi như Quy trình công nghệ ương
nuôi tôm hùm lồng ngoài biên và mật độ
ương nuôi 15 con/m3 bê nuôi, Quy trình công
nghệ ương nuôi tôm hùm giống trong bê có
mái che từ tôm trắng (0,25-0,3 g/con) lên
giống (15- 20 g/con) đạt tỷ lệ sống trên 85%
và sạch một số bệnh thường gặp đã được xây
dựng. Song, tỷ lệ sống và tăng trưởng của
tôm ương thấp hơn so với Quy trình công
nghệ ương nuôi tôm hùm giống bằng lồng
ngoài biên nhưng lại đảm bảo an toàn môi
trường và an toàn trong mùa mưa bão hơn.
8. Mô hình ương nuôi tôm hùm giống
bằng lồng ngoài biên từ giai đoạn tôm trắng
lên giống và Mô hình ương nuôi tôm hùm
giống trong bê có mái che từ giai đoạn tôm
trắng lên giống đã được xây dựng. Sản phẩm
mô hình đạt được có tỷ lệ sống >85 %, 5.159
tôm hùm giống được tạo ra có khối lượng
17,6-20,9 g/con sau 90 ngày nuôi. So với sản
phẩm cùng loại trên thị trường hiện đang được
ngư dân áp dụng, mô hình ương nuôi tôm hùm
giống bằng lồng ngoài biên từ giai đoạn tôm
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 46/56
trắng lên giống của đề tài mang về lợi nhuận
cao hơn: 17,4 % (đề tài) so với 3,7 % (Khánh
Hòa) và 9,9 % (Phú Yên); đồng thời cho tỷ lệ
sống cao, tăng trưởng tốt và không xuất hiện
các loại bệnh thường gặp khi tiếp tục được
nuôi thương phẩm trong 90 ngày.
9. Các yếu tố môi trường trong ương
nuôi: nhiệt độ, độ mặn, pH, DO, COD, BOD5,
H2S, NH3 và NO2 đều phù hợp cho sự sinh
trưởng và phát triên của tôm hùm giống (Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lượng nước
biên - QCVN 10-MT: 2015/BTNMT). Trong
quá trình lưu giữ tôm hùm giống sau khai
thác, phương pháp truyền thống thì oxy giảm
dần theo thời gian lưu giữ, trong khi đó NH3
xuất hiện sau 24 giờ lưu giữ và tăng gấp 2,7
lần mức cho phép trong sản xuất giống thủy
sản (<0,1 mg/lít) sau 72 giờ lưu giữ. Cứ sau
24 giờ lưu giữ được thay nước mới hoàn toàn
thì các yếu tố môi trường lưu giữ đều nằm
trong giới hạn cho phép, đảm bảo được chất
lượng tôm hùm giống lưu giữ, vì vậy cho tỷ lệ
sống cao trong ương nuôi (Quy chuẩn kỹ
thuật Quốc gia về chất lượng nước biên -
QCVN 10-MT: 2015/BTNMT).
Nguồn: P.K.L , vista.gov.vn,
30/10/2019
Trở về đầu trang
**************
Gạo Việt Nam ngon nhất thế giới
ST25 là loại gạo thuộc nhóm hảo hạng,
nằm trong dòng ST nổi tiếng trên thị trường
gạo hiện nay. Gạo hạt dài, trong, không bạc
bụng. Cơm khi nấu dẻo, thơm, hương vị ngọt
dẻo đặc biệt rất thu hút. Gạo thuộc loại dẻo
thơm nên nấu ít nước, cơm vẫn dẻo dù không
xới khi nấu.
Đặc biệt, loại gạo này có hàm lượng
đạm cao nên phù hợp với người mắc bệnh đái
tháo đường, cả người già và trẻ em. Đây cũng
là loại đặc sản nổi tiếng ở Sóc Trăng, sánh
ngang với loại gạo Nàng thơm chợ Đào, được
người tiêu dùng rất ưa chuộng.
Trước đó, một loại gạo thuộc dòng ST
khác là ST24 cũng tạo được tiếng vang lớn tại
Hội nghị quốc tế lần thứ 9 về thương mại gạo
tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) khi vinh dự
lọt vào top 3 loại gạo ngon nhất thế giới vào
năm 2017. Loại gạo này cũng đạt giải nhất tại
Festival lúa gạo lần thứ III - năm 2018 diễn ra
tại Long An.
Tại Hội thi Gạo ngon Việt Nam lần
đầu tiên được tổ chức tại TP. Hồ Chí Minh
ngày 4/11 mới đây, gạo ST24 cũng xuất sắc
đạt giải nhất và giành quyền dự thi Hội nghị
Gạo thế giới.
Giống lúa ST24 do nhóm kỹ sư Hồ
Quang Cua, tiến sỹ Trần Tấn Phương và thạc
sỹ Nguyễn Thị Thu Hương tại tỉnh Sóc Trăng
nghiên cứu lai tạo. Giống lúa thơm này được
khởi nguồn nghiên cứu từ cách đây 10 năm.
Năm 2014, giống được đưa vào khảo nghiệm
và đến năm 2016 bắt đầu trồng thử. Đây là
giống lúa ngắn ngày, có tính kháng bệnh hơn
hẳn một số giống lúa cổ truyền, cho sản lượng
đạt tới 7 tấn một ha. Ngoài là giống lúa đặc
sản, ST24 còn được coi là giống lúa thích ứng
với biến đổi khí hậu tại Đồng bằng sông Cửu
Long do sinh trưởng tốt tại vùng đất mặn,
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 47/56
phèn. Đặc biệt ST24 rất thích hợp cho vùng
xen canh lúa, tôm.
Hiện lúa ST24 chủ yếu tiêu thụ trong
nước và xuất khẩu đến một số thị trường như
Trung Quốc, Canada, EU… nhưng số lượng
còn hạn chế. Năm 2018, có thời điêm, gạo
ST24 xuất khẩu đi Trung Quốc tại chợ gạo Bà
Đắc có giá 800 USD/tấn, cao gần gấp đôi các
gạo thường. Gạo ST24 được ưa chuộng vì có
đặc điêm hạt dài trắng tinh, dẻo, có mùi thơm
dứa, cơm đê nguội cũng vẫn giữ được độ dẻo
thơm.
Xuất khẩu gạo của nước ta đang gặp
nhiều khó khăn do nhu cầu sụt giảm ở các thị
trường truyền thống. 10 tháng năm 2019, khối
lượng xuất khẩu gạo ước đạt 5,56 triệu tấn
với 2,43 tỷ USD, tăng 6,1% về khối lượng
nhưng giảm 9,1% về giá trị so với cùng kỳ
năm 2018. Tuy nhiên các loại gạo chất lượng
cao và có thương hiệu như ST24, gạo Hạt
Ngọc trời… vẫn tìm được chỗ đứng riêng và
cung không đủ cầu. Do đó, định hướng xuất
khẩu gạo của nước ta trong thời gian tới là
bên cạnh việc mở rộng các thị trường mới,
các thị trường mà ta đã có hiệp định thương
mại tự do, cần tập trung vào việc khuyến
khích người dân sản xuất các chủng loại gạo
chất lượng cao và xây dựng thương hiệu cho
các sản phẩm gạo xuất khẩu chủ lực.
Nguồn: Ngọc Bảo , congthuong.vn,
14/11/2019
Trở về đầu trang
**************
MÔI TRƯỜNG
Công nghệ lọc nước siêu hấp thu xử lý nước đa ô nhiễm
TS Nguyễn Hữu Quyết giới thiệu về công nghệ lọc nước
CDI tại Hội thảo "Phân tích xu hướng công nghệ lọc
nước siêu hấp thụ xử lý nước đa ô nhiễm, nước mặn,
sinh hoạt và sản xuất" do Trung tâm Thông tin và
Thống kê KH&CN TPHCM tổ chức ngày 15/11.
Thu hồi được 95% nước, trên 50%
khoáng chất, khử trên 99% vi khuẩn là
những ưu điêm nổi bật của công nghệ lọc
nước siêu hấp thụ CDI do TS Đỗ Hữu Quyết,
Trung tâm Nghiên cứu và triên khai Khu
Công nghệ cao TPHCM và cộng sự vừa
nghiên cứu thành công.
Theo TS. Đỗ Hữu Quyết, hiện nay
46% mẫu nước sinh hoạt TP HCM không đạt
tiêu chuẩn, gần 3 triệu người dân Hà Nội
chưa có nước sạch dùng, trên 65% nước
ngầm đồng bằng sông Hồng bị ô nhiễm.
Trong khi đó, các công nghệ lọc nước hiện
nay như lọc thô (than, cát, sỏi) tuy giảm
được chất bẩn, hữu cơ, phèn Fe, Mn, một
phần As, chi phí đầu tư thấp, nhưng phải xả
ngược, thay vật liệu định kỳ, không lọc được
vi khuẩn và hầu hết các chất hòa tan khác.
Công nghệ lọc trao đổi ion (dùng muối ăn
trong hạt nhựa đê trao đổi với các ion khác
như Ca2+, Mg2+, Fe3+ ... chứa trong nước đầu
vào) có ưu điêm như loại ion vô cơ hiệu quả,
có thê tái sinh, đầu tư ban đầu không quá
cao. Tuy nhiên, công nghệ này không loại
được chất lơ lửng, vi sinh, các hạt nhựa có
thê bong ra gây độc nước, là chỗ dựa cho vi
khuẩn phát triên. Ngoài ra, chi phí vận hành
cao, dễ bị thoái hóa dần, cần muối đậm đặc
tái sinh, làm ô nhiễm nguồn nước, đất và
không lọc được nước lợ.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 48/56
Cấu trúc modul của công nghệ CDI
Đối với các công nghệ như lọc cơ học,
lọc micro (UF), lọc nano, lọc RO là sử dụng
lực đê ép nước nguồn qua một màng có các
lỗ nhỏ đê loại chất bẩn lớn, cho các chất nhỏ
hơn và nước đi qua. Ưu điêm chung của các
công nghệ này là có kết cấu đa dạng từ đơn
giản đến phức tạp, có tính tùy chọn cao đê
phù hợp với từng loại nước, chi phí thấp.
Nhưng nhược điêm chung là không giữ
khoáng (trừ UF, nhưng không lọc được vi
sinh), chưa điều chỉnh được lượng khoáng,
tuổi thọ thấp, phải thay lõi thường xuyên.
Sau 5 năm nghiên cứu công nghệ CDI
nền tảng bên Mỹ, TS Đỗ Hữu Quyết và cộng
sự tiếp tục nghiên cứu trong nước khoảng 2
năm đê sản xuất ra máy lọc nước Vietdream
bằng công nghệ siêu hấp thụ tĩnh điện CDI
đầu tiên tại Việt Nam.
TS Quyết cho biết, CDI là công nghệ
mới nhất hiện nay trên thế giới đê xử lý các
chất hòa tan trong nước, bao gồm muối và
các chất gây ô nhiễm. CDI dùng phương
pháp điện phân, dùng điện cực đê hút các ion
hòa tan trong nước như ion kim loại nặng,
các chất độc,…
Nguyên lý của CDI là cho nước đi
song song với màng điện cực, nên không gây
áp lực cao làm rách màng gây thất thoát vi
khuẩn và chất độc hại, vì thế tuổi thọ màng
khá cao (khoảng 10 năm). Nước qua màng
điện cực được lọc sạch chất lơ lửng (> 1µm),
hấp thu 100% các chất độc như thuốc trừ
sâu, phân bón, kim loại nặng, chất oxi hóa
gây ung thư, loại trên 99% vi khuẩn, trung
tính hóa độ pH. Ngoài ra, CDI còn giúp lưu
giữ trên 50% các dưỡng chất cần thiết như
Na, K, Li, một phần Ca, Mg, Fe, P,…
“Nước lọc đầu ra theo công nghệ này
có thể uống trực tiếp và có thể xử lý được
nhiều loại nước đầu nguồn như nước sinh
hoạt, nông nghiệp, nước thải công nghiệp,
nước nhiễm mặn, nước lợ,… mà theo công
nghệ RO không giải quyết được” – TS Quyết
nói và cho biết, do được nghiên cứu và sản
xuất trong nước nên thiết bị lọc có giá thành
giảm hơn 50% so với ngoại nhập.
TS Quyết cho biết thêm, so với công
nghệ RO, mặc dù đầu tư ban đầu đắt hơn
khoảng 2 lần, tuy nhiên, do tuổi thọ màng
RO thấp (1 – 1,5 năm), trong khi màng CDI
là trên 10 năm, chi phí điện năng thấp, lượng
nước thu hồi trên 95% (RO là 30%) nên chi
phí xử lý giảm 7 – 8 lần.
Nguồn: Kiều Anh,
khoahocphattrien.vn, 15/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Mạng cảm biến không dây hỗn hợp ứng dụng cho giám sát quản lý rừng
Đề tài “Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo
mạng cảm biến không dây hỗn hợp ứng dụng
cho giám sát quản lý rừng” do TS. Nguyễn
Trung Dũng, Trường đại học bách khoa làm
chủ nhiệm, đã nghiên cứu và triên khai thành
công hệ thống mạng cảm biến không dây
phục vụ cảnh báo cháy rừng, trợ giúp bộ phận
kiêm lâm, những người quản lý rừng… có thê
lấy thông tin, quản lý các nút cảm biến một
cách tương đối thuận tiện.
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 49/56
Đề tài với các hoạt động nghiên cứu
phát triên, sản phẩm phần cứng và phần mềm
thường xuyên được thử nghiệm tại khuôn
viên trường đê kịp thời phát hiện lỗi và tiến
hành hiệu chỉnh. Sau khi sản phẩm đã đảm
bảo đủ các tính năng, nhóm nghiên cứu tiến
hành tích hợp hệ thống và đem cài đặt thử
nghiệm và vận hành tại Vườn quốc gia Cúc
Phương trong nhiều tháng. Ngoài ra, nhóm
nghiên cứu cũng đã đưa sản phẩm đi đo kiêm
và đạt chứng chỉ công nhận các chỉ tiêu kỹ
thuật theo đề xuất do Cục tiêu chuẩn đo lường
- chất lượng thuộc Bộ quốc phòng cấp.
Tại Vườn quốc gia Cúc Phương, nhóm
nghiên cứu đã triên khai kịch bản thử nghiệm
trong các vườn bảo tồn có diện tích tổng cộng
khoảng 200 m x 200 m với số lượng 40 nút
mạng cảm biến không dây. Số lượng nút này
thuộc về các ứng dụng khác nhau: tưới cây,
báo cháy, phát hiện di chuyên, chụp ảnh. Hệ
thống cũng bao gồm các hệ nhúng cổng điều
khiên và các cơ cấu điều khiên camera, thiết
bị thu thập dữ liệu (phục vụ tuần tra), và bơm
tưới tự động.
Nhóm nghiên cứu đã trao đổi với cán
bộ kiêm lâm đê nắm rõ nhu cầu sử dụng thiết
bị di động vào mục đích tuần tra canh gác
cũng như chăm sóc và bảo vệ rừng, nhằm
hướng đến nhu cầu chuyên giao công nghệ và
ứng dụng thực tiễn. Trong quá trình khảo sát,
nhóm thu thập các số liệu thực địa đê trợ giúp
cho việc phát hiện các sự kiện như cháy, khô
hạn, động vật và người di chuyên cùng với
việc đo đạc chi tiết và kiêm thử các điều kiện
về đất đai, không khí… nhằm đưa ra sơ đồ
lắp đặt các cảm biến không dây, máy tính
nhúng điều khiên cổng (gateway) đê thiết kế
được sản phẩm làm việc đúng như mong
muốn.
Nhóm thực hiện đã thiết kế cập nhật
cho hệ thống mạng cảm biến không dây hỗn
hợp ứng dụng cho giám sát quản lý rừng.
Nhóm tiến hành các nghiên cứu đê đảm bảo
thành công về lâu dài, đánh giá hiệu năng
hoạt động và tối ưu hóa hệ thống; triên khai
ứng dụng thử nghiệm tại thực địa với các
sensor cảm biến, thiết lập các chỉ tiêu kỹ thuật
và đánh giá tiền khả thi.
Nguồn: Như Quỳnh,
khoahocphothong.com.vn,19/11/2019
Trở về đầu trang
**************
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 50/56
B. MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ
I. Sở Khoa học và Công nghệ TP. Hồ Chí Minh
TT Tên đề tài/Dự án Chủ nhiệm/CQ chủ trì
1
Nghiên cứu, thiết kế, chế tạo và ứng dụng hệ thống thoát
hiêm cho nhà phố liền kề khi hỏa hoạn xảy ra.
TS. Nguyễn Ngọc Hải - Viện
Khoa học An toàn Vệ sinh lao
động TP.HCM
2
Nghiên cứu ứng dụng huyết tương giàu tiêu cầu (PRP)
trong điều trị viêm nha chu.
TS.BS. Phạm Anh Vũ Thụy -
Đại học Y dược Thành phố
Hồ Chí Minh
3 Đổi mới tổ chức và hoạt động công an xã trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh.
TS. Phùng Văn Hào - Học
viện Cảnh sát Nhân dân
II. Các đơn vị trong nước: Nghiệm thu đề tài/Dự án
TT Ngày Tên đề tài/ Dự án Chủ nhiệm/ CQ chủ trì
Ngành Kinh tế
1 8/11/2019
Nghiên cứu, đánh giá tác động của cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ 4 đối với ngành
Dệt may Việt Nam nhằm đề xuất định hướng
chiến lược, chính sách và các giải pháp phát
triên trong giai đoạn 2019-2030.
ThS. Lê Tiến Trường - Tập
đoàn Dệt may Việt Nam
2 12/11/2019
Nghiên cứu xây dựng phương pháp chuyên
đổi năm gốc 2010 sang năm gốc 2020 đê tính
các chỉ tiêu thống kê theo giá so sánh.
ThS. Nguyễn Đình Khuyến
- Vụ Phương pháp chế độ
Thống kê và Công nghệ
thông tin, Tổng cục Thống
kê
3 12/11/2019
Giải pháp gia tăng số lượng người lao động
tham gia bảo hiêm xã hội tự nguyện trên địa
bàn tỉnh Quảng Ngãi.
ThS. Lê Thị Tuyết Thoa và
ThS. Phạm Thị Minh Việt -
Phân hiệu Trường Đại học
Tài chính - Kế toán tại
Thừa Thiên Huế
4 14/11/2019
Nhận diện và xác định các giải pháp cụ thê
nhằm thúc đẩy kinh tế tỉnh Thái Nguyên và
phát triên bền vững đến năm 2015, tầm nhìn
đến 2030.
Liên hiệp các Hội KH&KT
tỉnh Thái Nguyên
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 51/56
5 15/11/2019
Nghiên cứu ảnh hưởng của các đánh giá trực
tuyến đến doanh số bán hàng trên các trang
web bán hàng trực tuyến tại Việt Nam.
ThS. Mai Thị Thanh Thúy
và ThS. NCS. Nguyễn Thị
Như Mai - Trường Đại học
Tài chính - Kế toán
6 18/11/2019
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến
hoạt động ngân hàng xanh trên địa bàn tỉnh
Quảng Ngãi.
ThS. Nguyễn Thị Thu
Trinh và ThS. Lê Hoàng
Như Nguyện - Phân hiệu
Trường Đại học Tài chính -
Kế toán tại Thừa Thiên Huế
7 21/11/2019 Nghiên cứu đánh giá tiềm năng phát triên
khởi nghiệp và thu hút đầu tư tỉnh An Giang.
TS. Trần Thị Út - Trường
Đại học Hoa Sen
Ngành Khoa học tự nhiên và Kỹ thuật
8 06/11/2019
Nghiên cứu quy trình canh tác cây mè có
năng suất cao phục vụ cho việc luân canh
cây lúa.
Quang Văn Khương - Viện
lúa đồng bằng sông Cửu
Long
9 07/11/2019 Nghiên cứu khả năng ra hoa, tạo hạt của cây
Sâm Ngọc Linh in vitro tại Đà Lạt.
Ban quản lý Khu Công
nghệ sinh học và Nông
nghiệp ứng dụng công nghệ
cao Đà Lạt
10 12/11/2019
Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản
xuất giống nhân tạo, thử nghiệm nuôi thương
phẩm Điệp Seo Comptompallium Radula tại
Khánh Hòa.
ThS. Phan Thị Thương
Huyền - Viện Nghiên cứu
Nuôi trồng thủy sản III
11 13/11/2019
Xác định các chỉ tiêu và tiêu chí quy hoạch,
kiến trúc kiêm soát phát triên đối với công
trình cao tầng trong khu vực nội đô lịch sử.
TS Lý Văn Vinh - Viện
Kiến trúc Quốc gia
12 13/11/2019 Nghiên cứu xây dựng quy trình kỹ thuật sản
xuất giống nhân tạo ốc nhảy tại Khánh Hòa.
ThS. Vũ Trọng Đại -
Trường Đại học Nha Trang
13 14/11/2019
Nghiên cứu ứng dụng kết hợp công nghệ xúc
tác quang hóa và hoạt hóa điện hóa đê tăng
cường chống nhiễm khuẩn ở các bệnh viện
tỉnh Trà Vinh.
ThS. Phạm Hoàng Long -
Viện Công nghệ môi
trường và UBND tỉnh Trà
Vinh
14 14/11/2019
Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quyền
đối với bất động sản liền kề ở Việt Nam
hiện nay.
ThS. Nguyễn Thị Hường -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 52/56
15 14/11/2019
Ứng dụng KHCN cao phát triên chăn nuôi bò
thịt theo hướng sản xuất hàng hóa nhằm
nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm trên
địa bàn tỉnh Thái Nguyên.
PGS.TS Trần Văn Quy -
Công ty Cổ phần Nam Việt
16 15/11/2019
Nghiên cứu một số biện pháp kỹ thuật
chăm sóc cây hoa theo nguyên tắc hữu cơ tại
Khu vực Lăng Bác và Quảng trường Ba
Đình.
ThS. Đoàn Thị Anh Tú và
TS. Hoàng Xuân Lam -
Trung tâm Khoa học, công
nghệ và môi trường
17 15/11/2019 Xây dựng nhãn hiệu tập thê cho sản phẩm
khoai lang Lộc Bình.
Phòng Kinh tế và Hạ tầng -
UBND huyện Lộc Bình
18 16/11/2019
Nghiên cứu công nghệ sản xuất keo và chất
chống dính theo tiêu chuẩn cho lò hoàn
nguyên sắt xốp.
Công ty Cổ phần Khoáng
sản và Luyện kim Việt
Nam (Mirex)
19 19/11/2019
Nghiên cứu diễn biến xâm nhập mặn trong
nước mặt và nước vùng ven biên tỉnh Quảng
Nam.
TS. Hoàng Thanh Sơn -
Viện Địa lý - Viện Hàn lâm
KH-CN Việt Nam
20 21/11/2019 Thử nghiệm nuôi tôm chân trắng thâm canh
bằng công nghệ Biofloc. Công ty TNHH Phước Tịnh
21 21/11/2019
Nghiên cứu, xây dựng hệ thống thông tin
đất đai trực tuyến phục vụ công tác quản lý
đất đai của các tổ chức trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang.
PGS. TS Phan Thị Thanh
Huyền - Học viện Nông
nghiệp Việt Nam
22 22/11/2019
Nghiên cứu ứng dụng công nghệ cao trong
sản xuất mai cảnh tại các vùng chuyên canh,
làng nghề trồng mai ở tỉnh Bình Định.
TS Lại Đình Hòe - Viện
KHKT Nông nghiệp Duyên
hải Nam Trung bộ
Ngành Giáo dục đào tạo
23 07/11/2019
Nghiên cứu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả đào tạo nghề cho lao động nông thôn
tỉnh Đắk Lắk.
PGS.TS Mai Thanh Cúc -
Học viện Nông nghiệp Việt
Nam
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 53/56
24 12/11/2019 Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ
nghệ sĩ quân đội.
Thượng tá, PGS.TS Nhâm
Cao Thành - Trường Đại
học Văn hóa Nghệ thuật
Quân đội
25 12/11/2019
Nâng cao chất lượng giảng dạy tại Khoa Văn
hóa cơ bản, Trường Đại học Văn hóa Nghệ
thuật Quân đội.
Thượng tá, ThS Chu Hải
Ninh - Trường Đại học Văn
hóa Nghệ thuật Quân đội
26 14/11/2019 Giải pháp về đào tạo tiếng Anh đạt trình độ
B1 với 20 tín chỉ.
ThS. Phạm Minh Cường -
Trường Đại học Kinh
doanh và Công nghệ Hà
Nội
27 14/11/2019
Nâng cao chất lượng đào tạo cán bộ an ninh
Lào tại các trường Công an nhân dân
Việt Nam.
Đại úy, TS Lê Quang Mạnh
- Viện Nghiên cứu lý luận
chính trị Công an nhân dân
28 15/11/2019
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt
động đào tạo, bồi dưỡng của Trường Cán bộ
Thanh tra trong giai đoạn hiện nay.
ThS. Dương Mạnh Hùng -
Trường Cán bộ Thanh tra
29 21/11/2019
Thiết kế một số chương trình học phần nhạc
cụ tự chọn, chương trình đào tạo giáo viên
âm nhạc trình độ cao đẳng Trường Cao đẳng
Sư phạm Trung ương - Nha Trang đáp ứng
đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
môn Âm nhạc.
Ông Nguyễn Văn Hảo -
Trường Cao đẳng Sư phạm
Trung ương Nha Trang
30 22/11/2019
Nâng cao chất lượng dạy nghề gắn kết với
các doanh nghiệp tại trường cao đẳng Phát
thanh Truyền hình I.
TS Nguyễn Đức Uyên -
Trường cao đẳng Phát
thanh Truyền hình I
31 25/11/2019
Nghiên cứu tổ chức hoạt động ngoại khóa tại
trung tâm Giáo dục quốc phòng và an ninh -
Đại học Thái Nguyên cho học sinh tiêu học,
trung học cơ sở trên địa bàn tỉnh
Thái Nguyên.
Trung tâm Giáo dục quốc
phòng và an ninh - Đại học
Thái Nguyên
Ngành Y dược
32 08/11/2019
Nghiên cứu quy trình chế tạo bộ sinh phẩm
phát hiện đột biến gen trong một số bệnh
máu ác tính.
PGS.TS. Lê Hữu Song -
Bệnh viện Trung ương
Quân đội 108
33 13/11/2019 Ứng dụng phương pháp giảm đau trong Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 54/56
chuyên dạ đẻ cho sản phụ bằng kỹ thuật gây
tê màng cứng tại Bệnh viện Sản - Nhi tỉnh
Hà Nam.
Hà Nam
Ngành văn hóa xã hội
34 05/11/2019
Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông
ngăn ngừa ảnh hưởng của "Tin lành Đêga"
trong đồng bào dân tộc thiêu số ở
Tây Nguyên.
ThS. Đào Huy Cường - Vụ
Tin lành, Ban Tôn giáo
Chính phủ
35 07/11/2019
Nghiên cứu thực trạng và đề xuất giải pháp
giải quyết khiếu nại hành chính trong lĩnh
vực đất đai trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
TS. Đỗ Văn Dương -
Trường Chính trị
36 08/11/2019 Nghiên cứu và xây dựng mô hình du lịch dựa
vào cộng đồng tại tỉnh Lâm Đồng.
TS. Nguyễn Tấn Vinh -
Học viện Chính trị khu vực
II
37 08/11/2019
Đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp phát
triên nguồn nhân lực dân tộc thiêu số trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng giai đoạn 2017-2025,
định hướng đến năm 2030.
TS. Nguyễn Thị Bích Thu -
Học viện Dân tộc
38 11/11/2019 Giải pháp cung ứng lao động cho các doanh
nghiệp FDI tỉnh Thái Nguyên.
TS. Đàm Thanh Thủy -
Trường Đại học Kinh tế &
QTKD, Đại học Thái
Nguyên
39 11/11/2019
An ninh xã hội, an ninh con người trong điều
kiện mới ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng,
vấn đề đặt ra và giải pháp.
Trung tướng GS.TS
Nguyễn Xuân Yêm - Học
viện Cảnh sát nhân dân
40 12/11/2019
Đời sống của đồng bào dân tộc thiêu số theo
chuẩn nghèo đa chiều trên địa bàn tỉnh Đắk
Lắk, thực trạng và giải pháp.
TS. Nguyễn Thị Bích Thu -
Học viện Dân tộc
41 13/11/2019
Biên niên sự kiện lịch sử Phòng Tổ chức cán
bộ Công an tỉnh An Giang, giai đoạn 1976 -
2015.
Công an tỉnh An Giang
42 14/11/2019
Hoàn thiện thê chế đánh giá công chức lãnh
đạo, quản lý trong các cơ quan hành chính
nhà nước ở nước ta hiện nay.
ThS. Đào Thị Lanh - Viện
Khoa học tổ chức nhà nước
43 14/11/2019
Nội dung, giải pháp nâng cao chất lượng hoạt
động của chi bộ quân sự xã, phường, thị trấn
trên địa bàn Quân khu 5 trong tình hình mới
Đại tá Vũ Văn Túc -
Trường Quân sự Quân khu
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 55/56
44 14/11/2019 Giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước ở
nước ta hiện nay.
ThS. Mai Thị Minh Ngọc -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
45 14/11/2019 Tố tụng hành chính một số nước trên thế giới
và kinh nghiệm cho Việt Nam.
ThS. Lê Thương Huyền -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
46 14/11/2019 Nguyên tắc quốc tịch theo pháp luật
Việt Nam.
TS. Nguyễn Thu Hương -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
47 14/11/2019 Pháp luật về bảo đảm quyền trẻ em ở Việt
Nam hiện nay.
ThS. Bùi Thị Hường - Viện
Nhà nước và Pháp luật
48 15/11/2019 Thi hành các bản án, quyết định dân sự của
tòa án nhân dân ở Việt Nam.
TS. Dương Quỳnh Hoa -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
49 15/11/2019 Pháp luật về đa dạng sinh học ở Việt Nam
hiện nay.
TS. Phạm Thị Hương Lan -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
50 15/11/2019 Những vấn đề lý luận về so sánh mô hình tài
phán hiến pháp trên thế giới.
ThS. Lê Phương Hoa -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
51 15/11/2019 So sánh chế định hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam và một số quốc gia trên thế giới.
ThS. Lê Thị Hồng Xuân -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
52 15/11/2019 Vai trò của luật tục trong quản lý nhà nước ở
Việt Nam hiện nay.
TS. Trương Vĩnh Khang -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
53 15/11/2019 Pháp luật về xử lý bảo đảm tiền vay tại ngân
hàng thương mại ở Việt Nam.
ThS. Phạm Thị Hiền -
Viện Nhà nước và Pháp
luật
54 15/11/2019 Pháp luật về quản lý lao động nước ngoài tại
Việt Nam: Thực trạng và giải pháp.
ThS. Phạm Thị Hương
Giang - Viện Nhà nước và
Pháp luật
55 19/11/2019 Nghiên cứu xây dựng Từ điên về lĩnh vực
Công tác dân tộc.
PGS. TS. Lại Văn Hùng -
Viện Từ điên và Bách khoa
thư Việt Nam
Bản tin Thành tựu KHCN Việt Nam số 12/2019 56/56
56 21/11/2019
Nâng cao năng lực cạnh tranh của du lịch
sinh thái gắn với văn hóa Khmer tỉnh
Sóc Trăng.
TS. Nguyễn Thành Long -
Trường Đại học Công
nghiệp Thành phố Hồ Chí
Minh
57 21/11/2019
Nghiên cứu, biên soạn các công trình: Văn
kiện Đảng về Mặt trận Dân tộc Thống nhất
Việt Nam (MTDTTN Việt Nam) từ năm
2004 - 2014; Biên niên sự kiện lịch sử
MTDTTN Việt Nam từ năm 2000 - 2014;
Lịch sử MTDTTN Việt Nam từ năm
2004 - 2014.
TS Nguyễn Hữu Dũng - Ủy
ban Trung ương Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam
58 23/11/2019
Đánh giá sự phát triên văn hóa, xây dựng
người Hà Nội thanh lịch, văn minh, đảm bảo
an sinh xã hội nhiệm kỳ Đại hội XVI (2015 -
2020) và định hướng phát triên đến năm
2025, tầm nhìn 2030.
Sở Văn hóa và Thê thao Hà
Nội
59 25/11/2019
Văn hóa trong sự nghiệp phát triên bền vững
tỉnh Khánh Hòa giai đoạn 2016 - 2025, định
hướng đến năm 2030.
PGS.TS Vũ Thị Phương
Hậu - Viện Văn hóa và
Phát triên
Trở về đầu trang
**************
https://www.google.com/search?q=%C4%91%E1%BB%81+t%C3%A0i+nghi%E1%BB%87m+thu&tbs=c
dr:1,cd_min:11/1/2019,cd_max:11/26/2019&ei=y_ncXeDYIdum9QPqmJHwBw&start=70&sa=N&ved=2
ahUKEwig6siU0YfmAhVbU30KHWpMBH44PBDy0wN6BAgLEDk&cshid=1574763122492940&biw=1
252&bih=860