208
sách: Cách mạng Văn hoá liệt truyện-Tập 3 Tác giả: Thiên Đảo Hồ Người dịch: Nguyễn Duy Chiếm Nhà xuất bản: Mũi Cà Mau Năm xuất bản: 2008 Số hoá: ptlinh, chuongxedap THIÊN ĐẢO HỒ Người dịch: NGUYỄN DUY CHIẾM CÁCH MẠNG VĂN HÓA LIỆT TRUYỆN (THỰC LỤC) * Ghi chép đặc biệt về một thời kỳ lịch sử. * Mọi điều cấm kỵ đã được xóa bỏ hoàn toàn TẬP 3 + ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀO TRUNG NAM HẢI LẦN THỨ HAI + CUỘC CHIẾN SỐNG MÁI + NGẪM SUY SAU KIẾP NẠN Chương I ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀO TRUNG NAM HẢI LẦN THỨ HAI 1 Bức thư Đặng Tiểu Bình gửi từ ngoài ngàn dặm Những người dự quốc yến trố mắt ngạc nhiên

Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

sách: Cách mạng Văn hoá liệt truyện-Tập 3Tác giả: Thiên Đảo HồNgười dịch: Nguyễn Duy ChiếmNhà xuất bản: Mũi Cà MauNăm xuất bản: 2008Số hoá: ptlinh, chuongxedap

THIÊN ĐẢO HỒ

Người dịch: NGUYỄN DUY CHIẾM

CÁCH MẠNG VĂN HÓA LIỆT TRUYỆN(THỰC LỤC)

* Ghi chép đặc biệt về một thời kỳ lịch sử.

* Mọi điều cấm kỵ đã được xóa bỏ hoàn toàn

TẬP 3

+ ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀO TRUNG NAM HẢI LẦN THỨ HAI

+ CUỘC CHIẾN SỐNG MÁI

+ NGẪM SUY SAU KIẾP NẠN

Chương I

ĐẶNG TIỂU BÌNH VÀO TRUNG NAM HẢI LẦN THỨ HAI

1

Bức thư Đặng Tiểu Bình gửi từ ngoài ngàn dặm

Những người dự quốc yến trố mắt ngạc nhiên

1. Lựa chọn người nối nghiệp

Gọi Giang Thanh là “Hồng đô nữ hoàng” (Nữ hoàng của kinh đô đỏ - N.D), thật không có gì xác đáng hơn.

“Mộng Nữ hoàng” của bà ta, đến năm 1972 càng ngày càng đẹp. Tháng 1 năm 1972, Mao Trạch Đông đột ngột bị sốc, chứng tỏ những năm cuối đời của Mao Trạch Đông chỉ còn đếm trên đầu ngón tay; ông nói: “Tôi đã nhận được giấy mời của Thượng đế rồi”.

Page 2: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Không lâu sau khi Mao Trạch Đông bị sốc, vào tháng 4 năm 1972, trong lần kiểm tra sức khỏe định kỳ, đã phát hiện Chu Ân Lai bị ung thư giai đoạn đầu! Điều đó chứng tỏ những năm cuối đời của Chu Ân Lai cũng không còn nhiều!

Như vây là ba người đứng hàng trước Giang Thanh là Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai và Khang Sinh đều đang bị bệnh, Giang Thanh “nhân vật thứ 4” tràn đầy tin tưởng, hình như Chủ tịch Đảng trong tương lai không ai khác ngoài bà ta!

Mao Trạch Đông suy nghĩ, đắn đo, lần thứ ba lựa chọn người nối nghiệp mình...

Từ sớm, Mao Trạch Đông đã chú ý đến vấn đề người nối nghiệp. Năm 1961, khi Nguyên soái nước Anh là Mông-gơ-ma-li thăm Trung Quốc, Mao Trạch Đông đã nói chuyện với ông ta về vấn đề này.

Mao Trạch Đông đã chú ý đến việc Sta-lin đã không giải quyết tốt vấn đề người nối nghiệp. Ông nói: “Sta-lin là lãnh tụ có uy quyền nhất, nhưng thiếu nhìn xa thấy rộng, không giải quyết vấn đề người kế thừa, làm ba chiếc xe ngựa, nhưng chỉ biết dùng giày da gõ vào bàn”.

Mao Trạch Đông lại nói: “Không phải là ba chiếc xe ngựa mà là ba ngựa kéo một xe, lại không có người cầm cương, không loạn mới lạ! Khơ-rút-sốp tháo giày da gõ vào bàn, là phái hai mặt. Lúc Sta-lin còn sống và sau khi chết, hoàn toàn là hai bộ mặt”.

Mông-gơ-ma-li hỏi: “Tương lai ai là người nối nghiệp Mao Trạch Đông? Ông phải có những “quan sát chiến lược” về việc này”.

Mao Trạch Đông đáp: “Ai sẽ làm Chủ tịch? Trong mấy vị Phó Chủ tịch thì Lưu Thiếu Kỳ là người thứ nhất. Năm kia họp được bầu làm Chủ tịch nước. Vốn trước đây hai Chủ tịch đều họ Mao (Người dẫn chú: Chỉ Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc và Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa) bây giờ một người họ Mao, một người họ Lưu. Vài năm nữa hai chủ tịch sẽ đều là họ Lưu. Ai là người nối nghiệp tôi, cần gì phải có quan sát chiến lược?”

Lời của Mao Trạch Đông đã nói rõ ràng không sai, người mà ông chọn để nối nghiệp là Lưu Thiếu Kỳ.

Về sau Mao Trạch Đông dần dần không bằng lòng với Lưu Thiếu Kỳ, trong cách mạng văn hóa đã đánh đổ Lưu Thiếu Kỳ.

Thế là, Lâm Bưu được Mao Trạch Đông chọn và trở thành người nối nghiệp thứ hai.

“Sự kiện 13 tháng 9” xảy ra, Lâm Bưu thịt nát xương tan, lần thứ hai Mao Trạch Đông chọn người nối nghiệp thất bại.

Trước mắt, Mao Trạch Đông không thể không suy nghĩ một cách nghiêm túc lựa chọn người nối nghiệp lần thứ ba.

Tuy Giang Thanh tự cho là người nối nghiệp thứ ba, và không ai khác ngoài bà ta, nhưng trong tầm mắt của Mao Trạch Đông không có bà ta. Từ trước Đại hội Đảng khóa 9, khi Giang Thanh muốn làm Phó Chủ tịch Đảng, Mao Trạch Đông đã nói rõ: “Giang Thanh không thể làm Phó Chủ tịch!”.

Cũng chính vì vậy, sau này khi Lưu Tùng Lâm hỏi đến việc Giang Thanh có trở thành Chủ tịch Đảng hay không, Mao Trạch Đông đã phủ định ngay: “Không được, bà ấy không làm được!”. Vì thế, mặc dù Giang Thanh nổi giận đùng đùng, bắt Lưu Tùng Lâm giam vào ngục, nhưng Mao Trạch Đông vẫn không thay đổi.

Mao Trạch Đông hiểu một cách sâu sắc rằng, dù là về trình độ lý luận, năng lực lãnh đạo, quá trình cách mạng, phẩm cách cá nhân, Giang Thanh đều không đủ để làm lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Chính vì vậy, khi Mao Trạch Đông chọn người nối nghiệp lần thứ ba, hoàn toàn không nghĩ đến Giang Thanh. Huống hồ Giang Thanh là vợ ông, ngay đến việc có

Page 3: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

người đề nghị Giang Thanh đảm nhiệm chức vụ ủy viên Bộ Chính trị, Mao Trạch Đông cũng chưa đồng ý.

Tất nhiên, ngoài Giang Thanh ra, Trương Xuân Kiều cũng là nhân vật rất có khả năng được chọn. Vị trí trong Đảng của ông ta kề sát ngay sau Giang Thanh, hơn nữa trong Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa 9, ông ta đã lập được “công lớn”. Nhưng có lẽ vì quan hệ của ông ta với Giang Thanh quá thân mật, nên Mao Trạch Đông cũng không nghĩ đến việc cho Trương Xuân Kiều nối nghiệp.

Mao Trạch Đông lại suy nghĩ đắn đo. Trước đây, khi ông ta chọn người nối nghiệp lần thứ nhất, xác định không ai ngoài Lưu Thiếu Kỳ; khi ông chọn người nối nghiệp lần thứ hai, vị trí của Lâm Bưu cũng đã rõ ràng. Nhưng, giờ đây chọn người nối nghiệp lần thứ ba lại không dễ dàng như thế, không có một người nào thật nổi bật!

Mao Trạch Đông bắt tay vào tiến hành các công việc điều chỉnh. Sau khi Lâm Bưu sụp đổ, công tác của Quân ủy do Diệp Kiếm Anh, Phó Chủ tịch Quân ủy chủ trì.

Ngày 24 tháng 4 năm 1972, “Nhân dân nhật báo” đăng bài “Ngăn trước ngừa sau, trị bệnh cứu người”, nhấn mạnh những cán bộ cũ đã trải qua rèn luyện trong cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài là tài sản quý báu của Đảng”, “Không những phải thấy được từng lúc từng việc của cán bộ, mà còn phải thấy toàn bộ lịch sử và toàn bộ công tác của cán bộ”. Thế là, ngày 1 tháng 8 năm 1972, trong cuộc chiêu đãi kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Quân đội do Bộ Quốc phòng tổ chức, Trần Vân, Vương Chấn đã xuất hiện một cách nổi bật. Họ phải “hạ phóng” (xuống địa phương làm việc - N.D.) xuống Giang Tây, đã hơn ba năm chưa xuất hiện.

Cũng chính vào ngày thứ tư sau khi Trần Vân và Vương Chấn xuất hiện, Mao Trạch Đông nhận được một bức thư từ Giang Tây gửi đến. Bức thư này đã làm cho mắt Mao Trạch Đông bừng sáng...

Một buổi sáng tháng 11 năm 1971, ở một vùng “giám sát và quản lý”, gần Nam Xương tỉnh Giang Tây, hai người thợ nguội Đặng Tiểu Bình và Trác Lâm đã hết giờ làm việc. Thời gian về nhà ăn cơm, cũng có nhân viên giám sát đi kèm, nhưng Trác Lâm không sao kiềm chế nổi tâm trạng xúc động trong lòng mình. Khi thu dọn bát đĩa, Trác Lâm kéo con gái vào bếp, dùng ngón tay trỏ viết lên tay mấy chữ: “Lâm Bưu đã chết”. Sau khi nhân viên giám sát đi xa, bà mới kể lại sự việc một cách ngắn gọn, “Lâm Bưu muốn lật đổ Mao Trạch Đông, làm đảo chính”. Lúc này Đặng Tiểu Bình ngồi bên bàn không nói một lời, một lúc lâu sau, ông chỉ nói một câu: “Lâm Bưu không chết, lẽ trời không dung”.

Không lâu sau đó, trên bàn của Mao Trạch Đông có một bức thư, khi thấy nét bút quen thuộc của người bạn cũ, Mao Trạch Đông có phần xúc động, bức thư này viết gửi Trung ương Đảng và Mao Trạch Đông.

Tôi không hiểu kỹ Lâm Bưu cho lắm, nhưng mặc dù vậy, tôi sẵn sàng tham gia phong trào phê phán ông ta. Trước đây tôi cũng có thực hiện đường lối xét lại, tường phạm sai lầm... Bây giờ, tôi đã khỏe mạnh, mong Đảng giao cho tôi một chức vụ bình thường, để tôi có thể phục vụ Đảng và nhân dân những năm còn sức lực.

Sau khi xem xong bức thư ký tên “Đặng Tiểu Bình” này, Mao Trạch Đông cầm bút viết:

Đề nghị Thủ tướng sau khi đọc xong, giao cho chủ nhiệm Uông in và phát cho các đồng chí. Những sai lầm mà đồng chí Đặng Tiểu Bình mắc phải là nghiêm trọng. Nhưng cần phân biệt với Lưu Thiếu Kỳ: 1) Khu Xô viết Trung ương đồng chí ấy đã bị phê phán, tức là một trong bốn tội nhân Đặng, Mao, Tạ, Cổ, là người cầm đầu của cái gọi là phe Mao. Tài liệu phê phán đồng chí ấy thấy có hai đường lối, từ Đại hội khóa 6 đến nay có hai cuốn sách, người đứng ra phê phán đồng chí ấy là Trương Văn Thiên; 2) Đồng chí ấy không có vấn đề lịch sử. Tức là chưa đầu hàng địch; 3) Đồng chí ấy đã hiệp trợ đắc lực cho đồng chí Lưu Bá Thừa đánh địch, có chiến công. Ngoài cái đó ra, sau khi vào thành, cũng không làm một việc gì xấu, ví dụ dẫn đầu đoàn

Page 4: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

đại biểu đến Mạc Tư Khoa đàm phán, đồng chí ấy đã không khuất phục xét lại Liên Xô. Những việc này trước đây tôi đã nói nhiều lần, bây giờ nhắc lại lần nữa.

Mao Trạch Đông

Ngày 14 tháng 8 năm 72

Thực ra, chẳng cần Mao Trạch Đông phải nói bao nhiêu lần, chỉ cần đưa ra quyết định, bằng một câu là có thể giải quyết được vấn đề. Trong những năm tháng bất thường ấy, Mao Trạch Đông có đủ quyền uy để quyết định tiền đồ chính trị của những người lãnh đạo cao cấp chung quanh ông. Một đoạn chưa đầy 200 chữ đã có sự đánh giá khẳng định đối với Đặng Tiểu Bình, mặc dù sự khẳng định này lấy tiền đề của cái gọi là “những sai lầm mà Đặng mắc phải là nghiêm trọng”, hơn nữa, quả thực còn xa mới có thể nói là sự khẳng định đầy đủ, nhưng xét cho cùng nó đã “giải phóng” cho vị Tổng Bí thư trước của Đảng, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện và “nhân vật số 2 của Trung Quốc đi theo con đường tư bản chủ nghĩa”. Đây là một quyết đoán quan trọng mà Mao Trạch Đông đưa ra sau sự kiện Lâm Bưu.

2. Sự trông chờ lặng lẽ

Ngày 20 tháng 2 năm 1973, Đặng Tiểu Bình kết thúc cuộc đời làm thợ nguội ở Giang Tây, lại trở về Trung Nam Hải, lại làm cái nghề của nhà cách mạng, mặc dù hai nhiệm vụ đều đảm nhiệm được, nhưng rốt cuộc thì công việc sau đã làm ông say sưa hơn. Lần này ông không dọn nhà vào ở Trung Nam Hải.

Ngay đêm khuya hôm quay trở về Bắc Kinh, Đặng Tiểu Bình rất lâu không ngủ được, chuyện đã qua cứ hiện lại trước mắt ông như một cuộn phim...

Mùa đông năm 1952, Đặng Tiểu Bình rời quê hương Tứ Xuyên, cả gia đình ông đến ở trong một ngôi nhà rộng rãi tại Trung Nam Hải. Sau đó không lâu, ông trở thành Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vào thập kỷ 80 của thế kỷ 20, Đảng Cộng sản Trung Quốc hủy bỏ vị trí Chủ tịch Đảng, Tổng Bí thư trở thành người lãnh đạo cao nhất của Đảng. Nhưng lúc đó vẫn không phải như vậy, lúc ấy Đặng Tiểu Bình xếp hàng thứ 6 trong những người lãnh đạo cao cấp của Trung Quốc. Khi ông còn chưa có quyền phát ngôn, ông luôn luôn rất khéo léo giữ sự im lặng, cho mãi đến năm 74 tuổi ông mới tỏ rõ tài năng.

Nhà văn viết truyện ký của Đức là U-li Phơ-ran-sơ nói: “Dù là Phương Đông hay Phương Tây, tôi không biết trong thế kỷ này có một nhà chính trị nào có thể giống như Đặng đã đi qua một quá trình rắc rối phức tạp, quanh co, gập ghềnh, nhưng lại có những thành tích tuyệt vời hay không”.

Có người lấy làm lạ, vì sao Đặng Tiểu Bình lại bền gan vững chí như thế, không kìm được đã về tận quê Đặng Tiểu Bình để tìm câu trả lời.

Từ Thành Đô đi xe hơi qua Toại Ninh, Nam Sung, hành trình dài hơn 400 cây số, đến huyện Quảng An ở miền Đông Bắc tỉnh Tứ Xuyên, đó là quê hương Đặng Tiểu Bình.

Huyện Quảng An nằm ở vùng đồi gò đoạn giữa dãy Hoa Oanh, sông Cừ Giang chảy qua địa phận của huyện, đường xe lửa Tương Du chạy xuyên qua miền đông. Đặng Tiểu Bình ra đời ở thôn Bài Phường cách huyện lỵ 3,5 cây số. Nghe nói, tổ tiên của Đặng Tiểu Bình đã từng có người làm thầy giáo cho Hoàng đế Càn Long, vì vậy Hoàng đế Càn Long đã ban cho họ Đặng một thẻ Hàn lâm bài, “Thôn Bài Phường” được đặt tên từ đó. Tên thôn cùng với sự chìm nổi của Đặng Tiểu Bình mà đã từng mấy lần đổi tên. Trong cách mạng văn hóa đổi là đại đội sản xuất “Phản tu” (chống xét lại - N.D.) năm 1977, mới khôi phục lại tên cũ.

Khu nhà nơi Đặng Tiểu Bình ra đời, dân địa phương gọi là “Đặng gia lão viện tử” (Khu nhà cũ họ Đặng - N.D.). Nhà ở cũ là kiểu tam hợp viện (kiểu kiến trúc Trung Quốc ba phía là

Page 5: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

nhà, giữa là sân, một phía là tường có cổng ra vào - N.D.), có kết cấu gỗ thông thường, thường thấy ở nông thôn vùng Đông Bắc Tứ Xuyên, lợp ngói màu xám, tường đắp bằng đất bùn, nổi bật trong rừng trúc. Nghe nói, ba ngôi nhà lần lượt do ba đời cụ ông và bố của Đặng Tiểu Bình xây nên, khu sân là một mảnh đất bằng nhỏ khoảng hơn 200 mét vuông, chủ yếu dùng để phơi lương thực. Tổ tiên của Đặng Tiểu Bình cũng giống như rất nhiều người Tứ Xuyên khác là từ ngoài di cư vào. Khoảng năm Hồng Vũ thời nhà Minh, dân di cư từ các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Đông đến đây, nghe nói, họ Đặng là người Khách Gia, từ Ma Thành tỉnh Hồ Bắc di cư đến, mấy trăm năm nay, họ Đặng luôn luôn là một họ thịnh vượng.

Ngày 22 tháng 8 năm 1904, Đặng Tiểu Bình đã ra đời ở cái làng có phong cảnh tươi đẹp này. Đến nay tại gian phòng ông ra đời vẫn còn giữ được chiếc giường gỗ chạm hoa lúc mẹ ông sinh ra ông. Bấm đốt ngón tay, chiếc giường đã có lịch sử hơn 90 năm.

Phụ thân Đặng Tiểu Bình là Đặng Văn Minh, cuối đời nhà Thanh đã từng học ở Trường Pháp chính Thành Đô, ông cương nghị hơn người, đã từng làm Cục trưởng, cục Đoàn luyện ở huyện; sau đó mưu sự ở bên ngoài khá lâu. Mẹ ông họ Đàm, qua đời từ sớm, mẹ kế họ Hạ là con gái phu thuyền ở sông Gia Lăng. Đặng Tiểu Bình là con trai trưởng, ông còn ba người em trai, một chị gái và hai em gái.

Thời niên thiếu, Đặng Tiểu Bình có tên là Đặng Tiên Thánh, tên chính thức khi đi học là Đặng Hy Hiền, 5 tuổi vào học trường Tư thục Phát Mông, 7 tuổi vào học Trường Tiểu học Tân Thức, ông đã sống 15 năm tuổi thơ ấu và tuổi niên thiếu trong ngôi nhà này. Theo một số cụ già nhớ lại lúc nhỏ ông rất thông minh, đọc sách ba lượt là có thể thuộc lòng.

Nơi ở cũ của Đặng Tiểu Bình là ngôi nhà nông dân miền Nam điển hình, ba dãy nhà tạo thành hình chữ U, bốn chung quanh là những bụi trúc xanh tươi. Hiện nay trong ngôi nhà này, ngoài ngôi nhà chính giữa treo mấy chục bức ảnh về các thời kỳ lịch sử của ông, các nhà khác vẫn nguyên như cũ. Vùng này khá hẻo lánh, giao thông không thuận tiện, nhưng hằng ngày có rất nhiều người đến tham quan, chiêm ngưỡng. Họ lặng lẽ ngắm nhìn, lặng lẽ suy nghĩ, trong cuốn sổ ghi cảm tưởng rất dày có hai điều:

Vĩ đại sinh ra từ bình thường. Nhân dân sẽ mãi mãi ghi nhớ những kết quả thiết thực mà ông mang lại.

Năm 1920, Đặng Tiểu Bình 16 tuổi, rời khỏi quê hương thuận theo dòng Trường Giang xuôi về phía Đông, mang tư tưởng “công nghiệp cứu quốc” sang Pháp vừa học vừa làm, bắt đầu cuộc đời cách mạng. Hơn 70 năm đã qua, Đặng Tiểu Bình không quay trở về quê hương nữa, nhưng mọi người ở quê không thể quên ông, họ coi hai cây vạn tuế ở Quảng An Môn bình thường rất hiếm nở hoa, nhưng từ năm 1979 lại liên tục 9 năm liền nở hoa là tượng trưng vận nước bắt đầu hưng thịnh từ sau khi Đặng Tiểu Bình lên cầm quyền, cho rằng đối diện với nơi ở cũ của Đặng Tiểu Bình có dãy núi Bút Giá (giống giá để bút lông - N.D.) có ba ngọn nhấp nhô là báo trước ba lần nổi lên và ba lần chìm xuống trong cuộc đời của Đặng Tiểu Bình. Và cái thế của ngọn núi cuối cùng là cao nhất, chứng tỏ thời kỳ huy hoàng nhất trong cuộc đời Đặng Tiểu Bình. Mọi người theo thói quen truyền thống đã tạo nên màu sắc thần thoại đẹp cho lãnh tụ mà họ yêu mến.

Xưởng cơ khí nông nghiệp của huyện Tân Kiến là một xưởng nhỏ không nói gì là toàn quốc mà ngay trong tỉnh Giang Tây cũng không có gì nổi trội nhưng ở đây đã lưu truyền một truyền thuyết về người thợ nguội già thần bí.

Đó là một buổi sáng mùa hè, nóng nực trùm khắp đất trời, những người dân Trung Quốc chịu thương chịu khó húp xong bát cháo với mấy miếng ca la thầu vào buổi sáng vội vã đến xưởng làm việc. Đây là một công xưởng rất bình thường, nhà xưởng làm bằng gạch xanh, lớn và rộng nhưng thiết bị là nhà máy của Liên Xô vào những năm 50, công nhân chỉ vùi đầu vào làm việc bên máy, còn việc tiêu thụ sản phẩm là việc công nhân không quản lý được và cũng không muốn quản lý.

Page 6: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Tiểu Vương một công nhân học việc là một thanh niên rất hoạt bát, thích hát những vở kịch mẫu, buổi tối thường thích viết bài biểu dương người tốt việc tốt trong phân xưởng và gửi đến phòng tuyên truyền của Đảng ủy xí nghiệp, hơn một năm trôi qua, phòng tuyên truyền của Đảng ủy xí nghiệp đã sử dụng 15 bài viết của anh ta, hôm qua lại sử dụng một bài, bây giờ khỏi phải nói anh ta mừng biết nhường nào.

Anh ta vừa khẽ hát kịch mẫu, vừa làm việc, bỗng cảm thấy có cái gì đó hơi khác thường, đến bên anh ta có hai công nhân già, một nam một nữ. Nhìn mặt thì người đàn ông sắp 70, còn người đàn bà thì đã hơn 60, chẳng phải là nam 60, nữ 55 thì có thể nghỉ hưu rồi hay sao? Hai vị này định diễn vở kịch gì đây. Nhìn kỹ lại, dáng người đàn ông không cao, nhưng vai lại rất rộng, cổ hơi ngắn, trên khuôn mặt là ánh mắt bình thản, khuôn mặt trông quen quen, tim Tiểu Vương bất ngờ đập rộn lên, ông ta, ông ta chẳng phải là nhân vật thứ hai trong Bộ Tư lệnh tư sản Lưu, Đặng, tên khốn kiếp Đặng Tiểu Hình ư?

Anh ta không thể nào bình tĩnh để làm việc được nữa, anh ta cứ luôn nhìn trộm “người bạn” mới đến ở bên cạnh; anh ta phát hiện thấy ông Tổng Bí thư trước của Đảng Cộng sản này đứng bên chiếc máy tiện ren, làm rất thành thạo, tỏ ra rất giống một công nhân già, còn người đàn bà ở bên cạnh người công nhân già - rõ ràng là Trác Lâm vợ của Đặng Tiểu Bình cũng đang tháo rửa và lắp ráp. Thánh thật! Trong lòng Tiểu Vương rất thán phục, không biết là anh ta thán phục một “nhân vật lớn” như vậy đã từ trên trời giáng xuống bên cạnh anh ta hay thán phục ông già này là một thợ nguội xứng với chức vụ, anh ta không biết rằng Đặng Tiểu Bình đã từng học làm thợ nguội từ rất sớm ở Cơ-lô-xô và ở Rê-nô. Bản thân Tiểu Bình cũng không ngờ rằng tay nghề mà ông học được khi sang Pháp vừa học vừa làm xưa kia đến lúc trên dưới 70 tuổi lại có chỗ để dùng. Đời người ta quả là phong phú và phức tạp.

Năm 1920, mang trong lòng niềm mong ước thiết tha, “vừa làm thuê vừa đi học, học để có chút năng lực trở về nước”, Đặng Tiểu Bình cùng tám chín mươi anh chị em trai trẻ đã ngồi trong khoang chở hàng của chiếc tàu thủy “Ăng-đrê-pen” sau 40 ngày lênh đênh trên biển đã đến cảng Mác-xây của Pháp.

Lúc ấy Đặng Tiểu Bình vừa đầy 16 tuổi, là người trẻ nhất trong những thanh niên Trung Quốc đi chuyến tàu ấy.

Sau khi đến nước Pháp, tình hình thực tế ở đây trái ngược với nguyện vọng của ông, phần lớn thời gian chỉ có thể dùng vào việc đi tìm việc làm, kiếm tiền nuôi miệng, hơn nữa những công việc làm đều là những việc lao động nặng nhọc chẳng học được bao nhiêu kỹ thuật. Đầu tiên ông vào làm việc lặt vặt ở nhà máy gang thép Cơ-lô-xô, về sau vào làm thợ nguội ở nhà máy Biêng-cô-rây-nô ở Pa-ri; còn đến làm ở cửa hàng ăn và công nhân đốt lò đầu máy xe lửa; thu nhập cực kỳ ít ỏi. Ông chỉ có ít thời gian vào trường ngôn ngữ ở vùng này để học.

Lúc này Đại chiến thứ nhất vừa kết thúc, nền kinh tế nước Pháp đang ở thời kỳ tiêu điều, việc làm vô cùng khó khăn. Người Trung Quốc dù có đến làm ở một số nhà máy lớn tương đối tốt thì tiền công cũng chỉ bằng nửa tiền công của công nhân Pháp. Gia đình Đặng Tiểu Bình cũng không còn đủ lực để gửi tiền cho ông nữa. Do vậy cuộc sống hằng ngày rất khó khăn.

Sau hơn 60 năm, ông hồi tưởng lại: “(Thời kỳ ấy) mỗi khi mua được một mẩu bánh mì to bằng cái sừng dê và một cốc sữa, tôi luôn cảm thấy rất vui”.

Hiện thực tàn khốc làm cho nguyện vọng ra nước ngoài học tập trước đây của Đặng Tiểu Bình trở thành bong bóng.

Nhưng, một lý tưởng mới càng ngày càng thu hút mạnh mẽ người thanh niên này. Ở nước Pháp lúc ấy, phong trào công nhân rầm rộ khắp nơi, chủ nghĩa Mác và các trào lưu tư tưởng xã hội chủ nghĩa khác lưu hành rộng rãi, một lớp lưu học sinh Trung Quốc tiên tiến lần lượt tiếp thu chủ nghĩa Mác mà đi vào con đường cách mạng.

Page 7: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Những ngày sống đồng cam cộng khổ với công nhân các nước khác, đã làm cho Đặng Tiểu Bình hiểu một cách sâu sắc giai cấp vô sản; do ảnh hưởng của các nhà cách mạng lớn tuổi hơn của Trung Quốc như Triệu Thế Viêm, Chu Ân Lai v.v... Ông tích cực học tập chủ nghĩa Mác, bắt đầu các hoạt động tuyên truyền chính trị của chủ nghĩa cộng sản.

Năm 1922, Đặng Tiểu Bình tham gia Đảng Cộng sản thiếu niên Trung Quốc du học ở châu Âu (sau đổi thành chi bộ du học ở châu Âu của Đoàn thanh niên xã hội chủ nghĩa Trung Quốc). Hai năm sau, ông lại chuyển thành đảng viên cộng sản, ít lâu sau ông được ủy nhiệm trọng trách lãnh đạo công tác Đảng đoàn và phong trào công nhân người Hoa ở Ly-ông.

Từ năm 16 tuổi đến năm 21 tuổi, Đặng Tiểu Bình sống ở Pháp hơn 5 năm, từ một thanh niên yêu nước, trở thành người mác-xít, từ một lưu học sinh trở thành một nhà cách mạng chuyên nghiệp. Một điều làm người ta cười ra nước mắt là hơn 50 năm sau, Đặng Tiểu Bình lại từ một nhà cách mạng chuyên nghiệp trở thành một người công nhân già khi đã quá tuổi về hưu từ lâu.

Đó là vào mùa hè năm 1970, Đặng Tiểu Bình đã rời khỏi Trung Nam Hải chưa đầy một năm rưỡi. Khi ngọn lửa “đại cách mạng văn hóa” bùng cháy khắp Trung Quốc, Đặng Tiểu Bình với tư cách là kẻ thù thứ hai của nhân dân cả nước chỉ sau Lưu Thiếu Kỳ, và cũng như Lưu Thiếu Kỳ phải cách ly với gia đình vợ con, giam lỏng tại nơi ở của ông trong Trung Nam Hải.

Khác với Lưu Thiếu Kỳ, Đặng Tiểu Bình yên ổn vượt qua tình cảnh khó khăn này, sức khỏe không bị hao tổn chút nào, cho đến 10 năm sau, qua ti-vi, Giang Thanh bị giam trong ngục Tần Thành khi nhìn thấy Đặng Tiểu Bình với tư cách là người lãnh đạo cao nhất của quân đội Trung Quốc duyệt binh đã ngạc nhiên kêu lên: “Ông ta trẻ thế!”.

Ngày 2 tháng 3 năm 1969, Liên Xô nổ súng khiêu khích vào bộ đội biên phòng của ta ở đảo Trân Bảo trên sông U-xu-ri (Ô Tô Lý) dẫn đến sự đối địch giữa hai bên Trung - Xô. Theo Cục tình báo Trung ương Mỹ sau này xác nhận, Liên Xô muốn dùng vũ khí hạt nhân chiến thuật và vũ khí hạt nhân dự trữ có mức độ để tấn công xâm lược Trung Quốc. Lúc ấy với tư cách là nhân vật thứ hai của Đảng Cộng sản và quân đội Trung Quốc, Lâm Bưu đã ra lệnh cho quân Giải phóng nhân dân bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp 1, trong kế hoạch khẩn cấp của ông ta còn bao gồm, đầu não của Đảng, nội trong 24 giờ phải rời khỏi Bắc Kinh, Lưu Thiếu Kỳ bị giam tại nơi ở đang thở thoi thóp đã phải nằm trên cáng bay đến Khai Phong, “Cha đẻ của Hồng quân” Chu Đức đã đi Quảng Đông, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đi Trường Sa, Đặng Tiểu Bình và Trác Lâm cùng một đội cảnh vệ vũ trang lên máy bay đi Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Vừa đến Nam Xương, Đặng Tiểu Bình đã hiểu ngay rằng, đây là nơi thế lực của Lâm Bưu mạnh nhất. “Phó Chủ tịch Lâm” muốn ông giống như Lưu Thiếu Kỳ sẽ ốm đau, sầu muộn mà chết, tự sinh tự diệt.

“Quyết không thể để cho âm mưu của họ được thực hiện”, Đặng Tiểu Bình nghĩ thầm, “Trung Quốc vẫn cần mình, mình phải sống, cần phải bền bỉ đợi chờ!”.

Và thế là, do sự bức hại của Lâm Bưu và “bọn bốn tên”, Đặng Tiểu Bình và Trác Lâm phải rời đến ở một căn nhà đơn độc tại ngoại ô Nam Xương. Chung quanh ngôi nhà là hàng rào tre cao hơn đầu người, khuôn viên hoạt động rất hẹp. Đặng Tiểu Bình không chịu ngồi yên, ngôi nhà hai tầng mà họ ở nước máy không lên được tầng hai, đã hơn 60 tuổi nhưng Đặng Tiểu Bình vẫn thường tự xách nước lên lầu. Ngoài việc hằng ngày đi bộ 40 vòng trong sân, ông còn cùng Trác Lâm cuốc một mảnh đất trồng rau, nuôi một đàn gà. Đặng Tiểu Bình múc nước, xách thùng, tưới phân việc gì cũng làm. Lao động cần cù đã tạo nên những luống rau xanh, rau cải, rau chân vịt, hành tây, tỏi v.v... trông thật mát mắt.

Thời kỳ ở vùng ngoại ô Nam Xương, cấp trên quy định là hằng ngày Đặng Tiểu Bình phải đến lao động tại một xí nghiệp gần đó. Lộ trình khoảng nửa tiếng. Ông kiên trì đi bộ. Mới đầu, ông làm một số việc nhẹ, nhưng ông lại chủ động đề xuất được làm việc nặng. Về sau, ông đảm nhiệm giũa đinh ốc, hơn nữa tự mình còn định mức lao động hằng ngày.

Page 8: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

3. Gia đình Đặng Tiểu Bình

Sau khi trở lại làm việc, gia đình Đặng Tiểu đình lại được đoàn tụ, nhưng mỗi người đều mang những vết thương do đại cách mạng văn hoá để lại.

Ông sinh được hai trai ba gái, con trai cả là Phác Phương, con trai thứ là Chất Phương, ba cô con gái là Lâm, Nam, Dung.

Con trai cả sinh trong doanh trại quân đội của Lưu (Bá Thừa) Đặng (Tiểu Bình). Đặng Tiểu Bình khiêm tốn mời Lưu Bá Thùa đặt tên cho con. Lưu Bá Thừa cũng không khiêm nhượng nói, Trung Quốc có một câu nói tốt lành là “Thuần phác phương chính”, vậy gọi là “Phác Phương” có được không? Đặng Tiểu Bình đồng ý. Đã đặt tên Phác Phương mở đầu, sau khi đứa con thứ hai ra đời, Đặng Tiểu Bình liền lấy “chất phác” để sánh đôi, cũng không nhờ ai, tự đặt cho con là “Chất Phương”.

Đặng Tiểu Bình chú ý đến nam nữ bình đẳng, con trai đã do mình đặt tên, thì con gái sẽ do Trác Lâm vợ ông đặt tên.

Nói chung tất cả các danh nhân thì đều được mọi người chú ý. Con gái lớn của Đặng Tiểu Bình gọi là Đặng Lâm. Có nhà khảo cứu khẳng định tên này có trong “Sơn Hải kinh”, vì trong “Khen cha từng ngày” có câu “Đi đường khát mà chết, bò chiếc gậy của mình, rồi hóa thành rừng Đặng”. Nhưng Trác Lâm nói, bà chưa từng đọc “Sơn Hải kinh”. Cháu gái này lại sinh đúng vào thời kỳ khó khăn của cuộc kháng chiến, sau khi sinh Trác Lâm chỉ nuôi được con có 7 ngày, rồi giao cho bà con ở khu căn cứ nuôi nấng, tạm thời không nghĩ ra tên gì khác, nên dùng chữ Lâm của tên mình đặt cho con, cũng là để tiện sau này tìm con cho dễ. Ai dè Đặng Lâm ghét cái chữ Lâm viết nhiều nét, nên đã bỏ chữ “ngọc” ở trước chữ “lâm” là “ngọc đẹp” thành chữ “lâm” là “rừng”. Về sau sinh thêm hai cô con gái, Trác Lâm liền đặt tên có chữ “mộc” mà không dùng chữ “ngọc” một cô tên là “Nam”, một cô tên là “Dung”. Nam (là cây lim), Dung (là cây đa) hai loại cây thường thấy ở rừng trên khắp đất nước Trung Hoa, nếu đoán nghĩa của nó, có thể là mong muốn con cái thành tài.

Trong lần đoàn tụ này, con trai cả Đặng Phác Phương đã trở thành người tàn phế bị liệt hai chân, không thể tự lo liệu sinh hoạt cho bản thân. Còn cô con gái thứ hai Đặng Nam thì đã “gả” cho người con trai học đại học của Trương Tịnh một nông dân ở Giang Tô.

Ở vùng Thái Châu, Giang Tô lưu truyền rộng rãi câu chuyện hôn nhân có ý nghĩa sâu xa này.

Ở ngoài thành Thái Châu tỉnh Giang Tô, có một thôn nhỏ rất bình thường, gọi là thôn Kỳ Lâm. Ở đây có một gia đình “đặc biệt”. Chủ hộ chính là thông gia của Đặng Tiểu Bình! Mọi người nhìn ông già Trương Tịnh gày gò nhưng luôn luôn nhã nhặn nói toàn giọng địa phương Thái Châu trong lòng tự hỏi: ông ấy là thông gia của Đặng Tiểu Bình ư? Đúng thế, con gái Đặng Tiểu Bình là Đặng Nam đã lấy Trương Hồng con trai thứ hai của ông.

Trương Tịnh là một ông già bình thường, ông không phải vì là thông gia của Đặng Tiểu Bình mà trở nên có giá, ông vẫn sống không có tiếng tăm gì giữa bà con thôn xóm.

Nhà tuy nghèo, nhưng Trương Tịnh hiểu được ý nghĩa của học vấn, nên luôn luôn thúc giục con cái chăm chỉ học hành. Con trai cả thi đỗ vào Đại học Thiên Tân, nhưng vì sức khỏe yếu, nên anh không được học, người con trai thứ hai thi đỗ vào Đại học Bắc Kinh.

Trương Hồng đỗ vào khoa Vật lý, cùng lớp với Đặng Nam. Lúc đó, Trương Hồng là ủy viên Ban chấp hành chi đoàn lớp, còn Đặng Nam là Bí thư chi đoàn. Không biết có phải do mối liên hệ trong công tác hay sự bàn luận trong học tập đã khiến cho Đặng Nam một cô gái được “cưng chiều” nhiều như vậy lại vừa ý Trương Hồng, một “chàng trai quê mùa” hay không? Ông già Trương Tịnh tiết lộ hai điều: một là lúc ấy ở trong lớp, Trương Hồng nói tiếng Thái Châu,

Page 9: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

các bạn học không hiểu được, duy chỉ có Đặng Nam có thể nghe được, thế là cô trở thành “phiên dịch nghĩa vụ” của Trương Hồng, hai là, Trương Hồng học tập chăm chỉ, thành tích cũng nổi trội, nhưng không có tiền mua sách, Đặng Nam thường xuyên mua sách cho Trương Hồng “mượn”...

Một ngày sau khi trở lại học tập để làm cách mạng “trong thời kỳ cách mạng văn hóa”, Đặng Nam chính thức đưa Trương Hồng về nhà giới thiệu với mọi người. Quan hệ của họ đã được xác định. Khi tốt nghiệp hai người được phân công về thôn Cao Trại, một thôn ở vùng núi, huyện Lâm Cường, tỉnh Thiểm Tây. Lúc ấy Đặng Tiểu Bình bị giam lỏng ở xưởng cơ khí nông nghiệp thuộc Nam Xương, tỉnh Giang Tây. Một năm sau Trương Hồng và Đặng Nam được chuyển đến ở với Đặng Tiểu Bình. Họ tổ chức đám cưới đơn giản, không cỗ bàn. Lúc đó họ đã 26 tuổi. Nghe nói đôi vợ chồng mới cưới về quê để hưởng tuần trăng mật, Trương Tịnh và vợ buồn lắm: nhà tranh, phản gỗ, cơm rau… liệu có đáng để đón cô con dâu tôn quý không? Lúc mới gặp mặt, bà mẹ chồng thấy Đặng Nam xách lễ mễ một bọc to tướng, vội chạy đến xách giúp. Đặng Nam nói với mẹ: “Chúng con đã được rèn luyện ở vùng núi rồi, gánh hàng trăm cân (1 cân bằng 0,5 kg - N.D.) vượt đồi vượt núi quen rồi mẹ ạ! Con khỏe lắm!”

Vào đến cửa, bà mẹ chồng ngượng ngùng nói: “Bố mẹ ở nhà quê, ngôi nhà tranh này sẽ làm con khó chịu không biết là con có quen không...”. “Mẹ ạ, còn tốt hơn nhiều vùng nông thôn chúng con đến lao động”.

Mẹ chồng nấu cơm thì Đặng Nam đi nhóm bếp, ăn xong lại tranh đi rửa bát, giặt quần áo. Trên con người cô không tìm thấy một chút “đặc biệt” nào. Cuối năm 1971, Đặng Nam sắp đến ngày sinh nở, cô chuẩn bị đến Giang Tây với bố mẹ đẻ, muốn mẹ chồng cùng đi. Vừa nghe con dâu nói, bà cụ đã đắn đo phân vân: “Chỉ lo mẹ là một bà già nhà quê, chữ nghĩa chẳng biết, đến nhà con...” Đặng Nam thấy mẹ chồng nói vậy, cô ấm ức muốn khóc: “Bây giờ đã là người trong một nhà rồi, mẹ còn phân vân nhà mẹ nhà con làm gì?...” Bà mẹ chồng rất cảm động nên mới quyết định đi cùng. Hồi tưởng lại những này sống không bình thường ấy, bà vợ ông Trương thường hay nhắc đến mấy việc. Lúc gặp Đặng Tiểu Bình, tôi thấy ông ấy rất điềm đạm, ôn tồn, ông ấy nói với tôi: “Chúng ta là gia đình cách mạng, không có khuôn phép gì, bà cứ tự nhiên, muốn ăn gì thì xin cứ tùy ý làm...”.

Một lần tôi nấu hai con cá, Đặng Tiểu Bình ăn xong khen ngon, còn nói làm ngon hơn Trác Lâm và bảo sau này vẫn mời tôi nấu”... Bây giờ, ông bà Trương Tịnh đã dọn đến một khu dân cư bình thường ở Thái Châu một căn hộ 30 mét vuông đã cũ. Ông Trương Tịnh đã nghỉ hưu, nhưng vẫn đi làm ở một cửa hàng bách hóa, một tháng được 30 đồng thù lao. Bà vợ ông không có việc làm, Trương Hồng mỗi tháng gửi về cho mẹ 50 đồng tiền ăn.

Bốn người con của Trương Tịnh, ngoài Trương Hồng là Phó chủ nhiệm Phòng kỹ thuật Vật lý, ủy viên Học bộ Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc ra, Trương Hòa người con trai cả dạy học tại trường Phổ thông trung học ở nông thôn. Con trai nhỏ Trương Lương hộ khẩu ở nông thôn, nhưng làm công nhân hợp đồng ở xưởng dệt Thái Châu. Con gái là Trương Trân hiện đang công tác ở Trường Y tế Thái Châu.

Có lẽ vì có một gia đình thông gia như vậy, nên vận mệnh của Đặng Tiểu Bình và nhân dân Trung Quốc càng gắn bó chặt chẽ hơn.

4. Cảnh tượng kịch tính

Ngày 12 tháng 4 năm 1973, sau khi Đặng Tiểu Bình trở lại chính trường, lần đầu tiên xuất hiện công khai trong một trường hợp quan trọng.

Hôm ấy, tại Đại lễ đường Nhân dân, các nhà lãnh đạo Trung Quốc tổ chức chiêu đãi trọng thể Hoàng thân Nô-rô-đôm Xi-ha-núc Nguyên thủ Nhà nước Cam-pu- chia.

Page 10: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Bữa tiệc chưa chính thức bắt đầu, những người đến dự tiệc còn chưa ngồi vào chỗ, mọi người còn đang đợi Hoàng thân Xi-ha-núc vui vẻ ngồi vào chỗ, thì lúc này Đặng Tiểu Bình xuất hiện. Một người Hung-ga-ri tên là Pa-ra-xi Đa-nây-si đến dự tiệc đã chú ý đến cảnh tượng kịch tính xảy ra trước mắt. Với ánh mắt nhạy cảm nghề nghiệp riêng, ông ta đã nhanh chóng thu vào trí nhớ mình hình ảnh quan trọng này. Sau 14 năm cuốn sách “Đặng Tiểu Bình” ra đời. (Bản Trung văn do Nhà xuất bản Quân Giải phóng xuất bản năm 1988). Có một đoạn như sau:

Ông (chỉ Đặng Tiểu Bình) đơn độc đứng giữa gian phòng lớn. Vóc dáng ông rõ ràng là nhỏ thấp, nhưng đôi vai rộng, tỏ rõ sự cương nghị mạnh mẽ. Trên người mặc bộ quần áo đại cán màu sẫm, nhưng đi tất màu trắng. Lúc này, tất nhiên ông biết, từ xa bên rất nhiều bàn tiệc hình tròn, trong phòng lớn tại Đại lễ đường Nhân dân có mấy trăm cặp mắt hiếu kỳ đang chăm chú nhìn ông, vì từ sau khi ông mất hút, lại từ cái góc bị lãng quên đột ngột xuất hiện trước mắt mọi người. Trong những người mà 7 năm về trước đã bị cơn động đất chính trị “đại cách mạng văn hóa” vô sản vĩ đại đè rạp xuống đất, sau này, trong những người được khôi phục danh sự xuất hiện trở lại chính trường thì ông là một người có địa vị cao nhất.

Trong buổi chiêu đãi làm người ta khó quên ấy, những nhà lãnh đạo Trung Quốc đang chờ bữa tiệc bắt đầu, đang túm năm tụm ba hàn huyên trò chuyện thì ông lại chỉ đơn độc một mình lặng lẽ không nói. Nhưng đôi mắt to gần giống mắt người châu Âu, đang nhìn lướt tất cả mọi người có mặt trong phòng, hình như sự đơn độc không một chút nào làm ông cảm thấy hổ thẹn băn khoăn, trái lại, ông đang quan sát địa thế, ngắm nghía bạn bè, chuẩn bị đón nhiệm vụ và cuộc đấu tranh mới. Cạnh tượng trước mắt là: đứng bên kia là một số anh hùng của “đại cách mạng văn hóa”, không lâu trước đấy họ đã tước mất tất cả quyền lực của ông; còn bên này là những người hy sinh chính trị, nhưng bây giờ ông lại đứng trong phòng lớn quyền lực, là một trong các phó thủ tướng. Trong giờ phút này họ có thể xét nét những điều gì về nhau.

Đúng, “bên này” là kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa số 2 đã từng bị đánh nhào xuống đất, và “bên kia” là những anh hùng của “đại cách mạng văn hóa” giờ phút này họ có thể xét đoán những điều gì về nhau. Pa-ra-xi Đa-nây-si không suy đoán quá sâu. Có lẽ trong trường hợp long trọng thanh cao như thế, không có ai lại thất thố nhìn chằm chằm vào đối phương để thăm dò - Đặng Tiểu Bình nhất định rất bình thản, ông không nghĩ đến những rắc rối mới sau này; tức là ông dự cảm tới cuộc đọ sức mới sau khi được khôi phục lại là không thể tránh khỏi. Cho dù biết cuộc đời chính trị không bằng phẳng của mình còn phải trải qua thêm một đoạn khúc khuỷu nữa, ông cũng sẽ không run sợ và bối rối, ông là “công ty gang thép”.

Sau khi được khôi phục sinh hoạt tổ chức 5 tháng, Đặng Tiểu Bình được cử làm ủy viên Trung ương. Ông được bầu làm ủy viên Trung ương trong Đại hội Đảng khóa 10, triệu tập vào tháng 8 năm 1973. Từ “kẻ thứ hai đi theo con đường tư bản chủ nghĩa” lại trở thành Phó Thủ tướng Quốc vụ viện, ủy viên Trung ương Đảng, đây là một bước ngoặt khá lớn, thậm chí có thể nói là không thể nghĩ tới. Nhưng sự việc không dừng ở đây. Mao Trạch Đông còn phải giao trách nhiệm nặng nề hơn cho Đặng Tiểu Bình.

Page 11: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

2

Tấm thảm đỏ, Chu Ân Lai dụng tâm vất vả

Không được gặp, Giang Thanh căm giận “cái gai”

1. Chu Ân Lai thứ hai

Giữa lúc Chu Ân Lai đang bị bệnh nặng, Đặng Tiểu Bình lại đứng dậy, chia gánh nặng với Chu Ân Lai, trở thành “Chu Ân Lai thứ hai”, trở thành kẻ thù chính trị thứ hai của Giang Thanh.

Ngày 10 tháng 3 năm 1973, Đặng Tiểu Bình đã được khôi phục chức vụ Phó Thủ tướng, bắt đầu trở thành phó của Chu Ân Lai.

Hiềm vì do được phục hồi không lâu, trong Đại hội Đảng khóa 9 Đặng Tiểu Bình chỉ là ủy viên Trung ương Đảng, trong hội nghị Trung ương lần thứ 1, khóa 10, Đặng Tiểu Bình “không thể vào Bộ Chính trị”.

Đại hội Đảng khóa 10 kết thúc mới được hơn 3 tháng, vào ngày 12 tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông đã phê bình: “Bộ Chính trị không bàn chính trị, Quân ủy không bàn quân sự, không bàn chính trị!”.

Mao Trạch Đông đề xuất: Đặng Tiểu Bình giữ chức ủy viên Quân ủy, ủy viên Bộ Chính trị. Mao Trạch Đông nói: “Đặng Tiểu Bình trở lại Bộ Chính trị - Đồng chí ấy vốn là ủy viên Bộ Chính trị. Lần này, Bộ Chính trị mời đồng chí ấy về chứ không phải là một mình tôi mời đồng chí ấy về”.

Đó là vì Mao Trạch Đông đã bàn trước với Chu Ân Lai v.v... và được sự đồng ý của đại đa số ủy viên Bộ Chính trị đồng ý, ủng hộ. Thế là ngày ngày 22 tháng 12, Trung ương Đảng ra thông báo: “Theo đề nghị của Chủ tịch Mao Trạch Đông, Trung ương quyết định: Đặng Tiểu Bình làm ủy viên Bộ Chính trị, tham gia công tác lãnh đạo của Trung ương, đợi Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa 10 họp sẽ truy nhận; Đặng Tiểu Bình là ủy viên Quân ủy Trung ương, tham gia công tác lãnh đạo Quân ủy.

Vậy là, sau khi Đặng Tiểu Bình xuất hiện trở lại, đã bước lên bậc thứ 2; từ Phó Thủ tướng Quốc vụ viện đến ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Quân ủy Trung ương, kiêm Tổng Tham mưu trưởng. Cả ba mặt Đảng, chính quyền, quân đội Đặng Tiểu Bình đều đảm nhiệm những chức vụ quan trọng.

Tháng 3 năm 1974, nước ta nhận được thông báo, Đại hội đồng Liên hợp quốc sẽ họp hội nghị đặc biệt lần thứ 6, yêu cầu Trung Quốc với tư cách là nước ủy viên Thường trực Liên hợp quốc, cử đoàn đại biểu tham gia, đồng thời phát biểu trong Đại hội. Sau khi Trung Quốc nhận được yêu cầu này, Chu Ân Lai đã bàn bạc với Mao Trạch Đông, cử ai dẫn đầu đoàn đại biểu này. Chu Ân Lai đang bị ốm nặng, không thể đi được. Trong các Phó Thủ tướng, Đặng Tiểu Bình được phân công phụ trách công tác đối ngoại, tư cách, tài năng của ông đều thích hợp với việc thay mặt Trung Quốc dẫn đầu đoàn. Mao Trạch Đông quyết định Đặng Tiểu Bình dẫn đầu đoàn đại biểu đi dự. Vậy là, Chu Ân Lai theo gợi ý của Mao Trạch Đông chính thức viết báo cáo gửi Trung ương nêu rõ việc Đại hội đồng Liên hợp quốc họp hội nghị đặc biệt vào tháng 4, nước ta sẽ do Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình làm trưởng đoàn dẫn đoàn đi dự. Chu Ân Lai chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị, thảo luận báo cáo này của Bộ Ngoại giao, cho rằng Đặng Tiều Bình đảm nhận trưởng đoàn là thích hợp.

Trong Hội nghị, Giang Thanh phản đối không đồng ý Đặng Tiểu Bình làm trưởng đoàn dẫn đoàn đi, lấy cớ là công việc trong nước bận, Đặng Tiểu Bình không đi được.

Page 12: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Tình hình được phản ánh đến Mao Trạch Đông, ngày 25 tháng 3, Mao Trạch Đông nói với Chu Ân Lai: “Đặng Tiểu Bình tham gia dự họp Đại hội đồng Liên hợp quốc là ý của tôi, nếu các đồng chí trong Bộ Chính trị đều không đồng ý thì thôi”.

Ngay lập tức Chu Ân Lai hoàn toàn đồng ý ý kiến của Mao Trạch Đông.

Thế là, Chu Ân Lai lại triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị một lần nữa. Trong Hội nghị ông nói: “Về việc cử Đoàn đại biểu đi dự Đại hội đồng Liên hợp quốc, Mao Chủ tịch nói, đồng chí Tiểu Bình đi dự Đại hội Liên hợp quốc là ý kiến của Chủ tịch, nếu các đồng chí trong Bộ Chính trị đều không đồng ý thì thôi. Tuy Hội nghị lần trước, đa số các đồng chí trong Bộ Chính trị đều không có ý kiến, bây giờ Chủ tịch đã nói là ý kiến của Chủ tịch, vậy chúng ta đồng ý ý kiến của Chủ tịch”.

Trong Hội nghị, mọi người đồng ý ý kiến của Mao Trạch Đông, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên cũng không dám nói gì nữa, chỉ có Giang Thanh kiên trì phản đối.

Ngày 27 tháng 3, Mao Trạch Đông viết một bức thư cho Giang Thanh.

“Giang Thanh, đồng chí Đặng Tiểu Bình ra nước ngoài là ý kiến của tôi, cô không nên phản đối mới phải. Nên chú ý cẩn thận, không nên phản đối đề nghị của tôi”.

Vậy là, cuối cùng đã xác định Đặng Tiểu Bình dẫn đoàn đi dự họp Hội nghị đặc biệt Liên hợp quốc. Bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong Hội nghị đặc biệt được Bộ Chính trị thảo luận thông qua, đồng thời được Mao Trạch Đông đọc duyệt và tán thành.

Ngày 10 tháng 4, bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong Hội nghị đặc biệt Liên hợp quốc khóa 6, đã trình bày toàn diện “Ba thế giới” tồn tại trên thế giới do Mao Trạch Đông nêu ra, đồng thời nêu rõ chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Phát biểu của ông nhận được sự phản ứng rất tốt.

Vì sao Giang Thanh và phe lũ lại phản đối Đặng Tiểu Bình đi dự hội nghị đặc biệt Đại hội đồng Liên hợp quốc? Tất nhiên không phải là do quan tâm đến sức khỏe của ông cũng không phải vì công việc của ông bận, mà là lo lắng địa vị chính trị của Đặng Tiểu Bình lại tăng cao hơn nữa, ảnh hưởng sẽ mở rộng ra trong và ngoài nước, sẽ ảnh hưởng đến việc cướp quyền nối nghiệp của họ sau khi đánh đổ được Chu Ân Lai.

2. Tấm thảm đỏ - Dụng tâm vất vả của Chu Ân Lai

Chu Ân Lai và mọi người kiên trì để Đặng Tiểu Bình dẫn đoàn đại biểu đi, một là do nhu cầu công tác, hai là danh phận thích hợp, ba là thực sự muốn làm cho Đặng Tiểu Bình sau khi được khôi phục có ảnh hưởng rộng rãi hơn ở trong và ngoài nước, nhằm bước tiếp theo sẽ đảm nhiệm công tác quan trọng hơn, cách làm này đã được Mao Trạch Đông ủng hộ.

Lúc này, bệnh ung thư của Chu Ân Lai đã tái phát. Theo yêu cầu của bệnh viện cần phải vào nằm viện điều trị sớm. Nhưng thấy rằng Đặng Tiểu Bình phải đi Liên hợp quốc họp, cần chuẩn bị tốt vì vậy phải giảm bớt công việc trong nước của Đặng Tiểu Bình, do đó Chu Ân Lai phải làm nhiều việc hơn, mặt khác, Chu Ân Lai phải đề phòng Giang Thanh và đồng bọn sẽ giở trò gì đó trong thời gian Đặng Tiểu Bình ở nước ngoài, nên ông không thể rời công việc. Có lúc ban ngày làm việc, ban đêm chữa bệnh; có lúc dựa vào việc tiếp máu hoặc các biện pháp khác để duy trì, nhưng không vào nằm viện. Ông phải đợi Đặng Tiểu Bình an toàn quay về, rồi mới vào viện điều trị.

Sau khi quyết định Đặng Tiểu Bình đi dự Đại hội đặc biệt Liên hợp quốc, Chu Ân Lai triệu tập người phụ trách Bộ Ngoại giao họp, nghiên cứu công tác chuẩn bị trước cuộc họp, chỉ rõ nhất định phải mở thông đường để đồng chí Tiểu Bình hoàn thành nhiệm vụ trọn vẹn và vẻ

Page 13: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

vang. Còn quyết định nghi thức tiễn khi Đặng Tiểu Bình ra nước ngoài, phải tiến hành lễ tiễn long trọng. Chu Ân Lai chỉ thị phải trải thảm đỏ. Trải thảm đỏ là quy cách cao nhất trong lễ nghi. Chu Ân Lai còn nói, nghi thức đón lúc về nước cũng phải long trọng như vậy.

Ngoài ra, các mặt phải tăng cường bố trí, để bảo đảm sự an toàn cho Đặng Tiểu Bình ra nước ngoài.

Đối với người phụ trách ngành hàng không, Chu Ân Lai cũng mời đến họp riêng. Để đảm bảo đường bay thông suốt, Chu Ân Lai yêu cầu tổ bay hàng không dân dụng bay thử, hơn nữa bay thử phải sắp xếp hai tuyến bay đông tây. Đúng giờ nếu một tuyến gặp sự cố không bay được thì có thể bay theo tuyến khác.

Chu Ân Lai tiến hành sắp xếp chu đáo, không để sai sót một chút nào.

Sau khi Đặng Tiểu Bình đi họp Liên hợp quốc thắng lợi trở về, Chu Ân Lai mới vào Bệnh viện 305 Giải phóng quân điều trị.

Sau khi Đặng Tiểu Bình trở về, trên vũ đài chính trị Trung Quốc càng sục sôi. Ông theo Chu Ân Lai tiếp đón hết vị nguyên thủ nước ngoài này đến vị nguyên thủ nước ngoài khác đến thăm Trung Quốc. Mao Trạch Đông tiếp kiến khách nước ngoài, Đặng Tiểu Bình cũng thường ngồi bên cạnh.

Sau khi Chu Ân Lai nằm viện, công việc hằng ngày của Bộ Chính trị do Vương Hồng Văn chủ trì, công việc của Quốc vụ viện do Đặng Tiểu Bình chủ trì, công việc của Quân ủy do Diệp Kiếm Anh chủ trì, hình thành nên cục diện của thế “chân vạc” mới Đảng, chính quyền, quân đội.

Có điều Vương Hồng Văn tuy là Phó Chủ tịch Đảng, chức vụ cao hơn Đặng Tiểu Bình, nhưng nói về kinh nghiệm chính trị, năng lực công tác, trình độ lý luận thì anh ta làm sao có thể so được với Đặng Tiểu Bìn?

Ngoài ra, cá tính của Đặng Tiểu Bình khác hẳn Chu Ân Lai, Phóng viên Hung-ga-ri Pa-ra-xi Đa-nây-si đã đánh giá Đặng Tiểu Bình: “Dám phát biểu ý kiến, bất cứ lúc nào cũng không chạy theo mốt khẩu hiệu”. “Đặng Tiểu Bình không phải là Chu Ân Lai, tác phong của ông khác Chu Ân Lai, Chu Ân Lai chú ý sách lược, làm cho mình có thể dừng trên mặt nước, nhưng không thể thay đổi phương hướng chủ yếu của dòng nước chảy xiết. Đặng Tiểu Bình lại không thuận theo dòng nước xiết, mà là lập tức đắp đập ngăn dòng nước ấy lại”. Chu Ân Lai vô cùng tin tưởng Đặng Tiểu Bình. Hồi ấy, khi đang vừa học vừa làm, Chu Ân Lai quen Đặng Tiểu Bình ở Pa-ri. Nửa thế kỷ quen thân, hai người thân thiết gắn bó. Chính vì vậy, tháng 8 năm 1980 khi trả lời phỏng vấn của nhà báo nữ nổi tiếng của Italia Ô rin-ai-na Phơ-ra-si, Đặng Tiểu Bình đã nói: “Thủ tướng Chu Ân Lai là một người suốt đời làm việc cần cù chăm chỉ, không từ khó nhọc... Đối với tôi ông luôn luôn là một người anh”.

Tuy Chu Ân Lai buộc phải nằm viện, nhưng Đặng Tiểu Bình lại trở thành “Chu Ân Lai” mới; hơn nữa ông không thuận theo “dòng nước xiết” ấy của Giang Thanh. Thế là trong Bộ Chính trị lại tạo nên cuộc xung đột mới. Một bên là Đặng Tiểu Bình, một bên là Giang Thanh. Giang Thanh liên kết với Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên...

3. Vương Hồng Văn làm trò cười cho thiên hạ, Giang Thanh không nhổ được “cái gai”

Sau khi Đặng Tiểu Bình xuất hiện trở lại, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên rất buồn chán, thất vọng. Chu Ân Lai bị bệnh nan y, Giang Thanh và đồng bọn vốn dĩ muốn đợi khi ông vào nằm viện, lúc ấy quyền lực của chính phủ không thuộc về tay họ thì về tay ai. Ai ngờ Chu Ân Lai vẫn chưa đi thì Đặng Tiểu Bình đã đến. Không hiểu vì sao, Giang Thanh không sợ Chu Ân Lai, mà lại sợ Đặng Tiểu Bình. Vào những năm 50, nhiều lần bà ta được nghe

Page 14: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mao Trạch Đông nói: “Cái anh chàng bé nhỏ ấy, bên ngoài thì mềm mỏng mà bên trong thì rất cứng rắn, tiền đồ sẽ vô cùng”. Đặng Tiểu Bình vào Quốc vụ viện, vẫn chưa nói một câu nào, mà Giang Thanh đã hoang mang lo sợ.

Ngày 24 tháng 8 năm 1973, Đại hội Đảng khóa 10 của Trung Quốc họp tại Đại lễ đường Nhân dân. Điều làm cho các đại biểu ngạc nhiên là, khác với bất cứ Đại hội nào trước đây, Mao Trạch Đông đã không xuất hiện cùng với tiếng nhạc Đông Phương hồng, mà ông đã ngồi trên ghế Chủ tịch đoàn từ lâu. Sau khi Đại hội kết thúc, các đại biểu ra khỏi hội trường trước, sau đó y tá đỡ Mao Trạch Đông đứng dậy đi ra - vốn dĩ Mao Trạch Đông bị bệnh đã không thể đứng dậy được nữa, lại không muốn các đại biểu biết ông bị ốm, nên đành phải vào ngồi trước và ra về cuối cùng.

Trong Đại hội Đảng khóa 10 này, điều làm Mao Trạch Đông vừa ý nhất là đã chọn được người nối nghiệp. Ông gập ngón tay nói với các ủy viên Bộ Chính trị: “Vương Hồng Văn xuất thân là nông dân, lại tham gia quân đội, cuối cùng lại làm công nhân trong nhà máy, công nông binh đều trải qua, là một chiến sĩ có kinh nghiệm thực tiễn!”. Mao Trạch Đông có thể không biết Vương Hồng Văn xuất thân là nông dân, mà không biết làm ruộng cấy trồng. Còn hai năm đi bộ đội vì quậy phá nên phải phục viên; có làm việc mấy năm trong nhà máy nhưng là Phó phòng bảo vệ, đã từng cưỡng hiếp mấy nữ công nhân dệt. Con người này giỏi phá phách, còn trong đầu thì chẳng có chữ nào, được cái là Mao Trạch Đông cũng không yêu cầu. Thế là, phần tử xấu này do có công phá hoại, nên 38 tuổi đã được làm Phó Chủ tịch thứ hai Trung ương Đảng, trong 5 Phó Chủ tịch do Đại hội khóa 10 bầu ra, anh ta đứng sau Chu Ân Lai và đứng trên những người khác.

Mao Trạch Đông cũng thật sự chú ý bồi dưỡng người nối nghiệp này, thường xuyên kéo anh ta tham gia các cuộc tiếp kiến khách nước ngoài, để anh ta tăng thêm kiến thức. Tháng 9 năm ngoái Thủ tướng Nhật Bản Ta-na-ca đã đến thăm Trung Quốc, thực hiện việc bình thường hóa quan hệ bang giao Trung - Nhật. Sau đó đến Thủ tướng Tây Đức Bô-ran-đơ đến thăm, Trung Quốc và Tây Đức thiết lập quan hệ ngoại giao cấp đại sứ, những sự việc trọng đại này Vương Hồng Văn chưa kịp tham gia. May vào dịp dòng sông băng của quan hệ Trung - Mỹ được khai thông, nguyên thủ, những người đứng đầu chính phủ các nước đến thăm không ngớt, đã cho Vương Hồng Văn không ít dịp thực tập. Hiềm một nỗi cậu học sinh này thật không xứng đáng, lần nào thực tập cũng nộp giấy trắng.

Mao Trạch Đông rất vừa lòng về người nối nghiệp trẻ trung mà ông mới lựa chọn. Đại hội Đảng khóa 10 vừa kết thúc. Tổng thống Pháp Pông-pi-đu đến thăm Trung Quốc, Mao Trạch Đông chỉ vào Vương Hồng Văn nói: “Ngài hãy nhìn anh ta, rất có tiền đồ”. Không ngờ Pông-pi-đu chẳng thèm để ý đến Vương Hồng Văn. Vương Hồng Văn rất bực bội, quyết tâm sẽ thể hiện thật tốt khi tiếp khách nước ngoài ở lần sau.

Cuối cùng cơ hội đã đến, tháng 11 năm 1973, Thủ tướng Ôt-xtrây-lia Hu-tơ-ra-mu đến thăm Trung Quốc, Chu Ân Lai tiếp ông ta tại Đại lễ đường Nhân dân. Hai Thủ tướng nói chuyện được một lúc, một quan chức ngoại giao Trung Quốc đến bên cạnh Chu Ân Lai đưa cho ông một mảnh giấy. Chu Ân Lai hỏi Hu-tơ-ra-mu: “Chúng ta có thể nói mấy câu chuyện riêng được không?” Hu-tơ-ra-mu dự đoán là sẽ đi gặp Mao Trạch Đông. Quả nhiên, Chu Ân Lai đã cùng ông ta lên xe Hồng Kỳ đi tới Trung Nam Hải.

Trương Ngọc Phượng đỡ Mao Trạch Đông bắt tay Hu-tơ-ra-mu, miệng phàn nàn: “Chân tôi đi lại khó khăn, tai nghe cũng không thính lắm”. Hu-tơ-ra-mu chú ý đến Vương Hồng Văn còn trẻ đứng bên cạnh Mao Trạch Đông. Anh ta đứng đó, chân tay không biết để ở đâu, cứ lúng túng mất tự nhiên, như một cậu học trò nhỏ luôn thi không đạt trung bình vào phòng thầy giáo.

Nói chung những người nước ngoài đến thăm rất ít hỏi đến việc của Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng Hu-tơ-ra-mu lại khác, ông ta hỏi nhiều đến tình hình Đại hội Đảng khóa 10 vừa kết thúc, trong đó liên quan rất nhiều đến tư liệu. Phàm khi có liên

Page 15: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

quan đến những vấn đề này, đều do Chu Ân Lai trả lời thay. Vương Hồng Văn cũng muốn nói, nhưng không xen vào được.

Đột nhiên Hu-tơ-ra-mu hỏi về Vương Hồng Văn: “Thưa Chủ tịch, sự thăng tiến nhảy vọt của Vương sau đại hội khóa 10, đã nổi tiếng thế giới, ngài đã phát hiện anh ta ở đâu?” Mọi người nhất loạt quay đầu về phía Mao Trạch Đông, xem ông trả lời như thế nào. Mao Trạch Đông không vui về câu hỏi này, hất đầu trả lời một cách gượng ép: “Không biết”. Hu-tơ-ra-mu nói vui: “Khi ngài và ông Chu đi trường chinh, theo tôi biết, thì anh Vương chưa đẻ”. Vương Hồng Văn mấp máy đôi môi như muốn nói gì đó, lập tức Chu Ân Lai nói xen ngắt lời của ông ta.

Vương Hồng Văn muốn biểu hiện mình, nhưng chưa có dịp nào. Khi hội đàm sắp kết thúc, khó khăn làm anh ta mới tìm được chỗ trống để nói xen vào, nói mấy lời khiến người đời không sao nhịn được cười: “Đúng là tôi sinh ra vào lúc trường chinh, năm ấy tôi 1 tuổi, nhưng cũng giống như Mao Chủ tịch và Chu Thủ tướng, đã bắt đầu làm cách mạng rồi”. Sự thổ lộ của anh ta như vậy, khiến những người tham dự ngớ người. Sắc mặt Mao Trạch Đông bỗng thay đổi. Sau khi Đường Văn Sinh dịch xong câu này, Hu-tơ-ra-mu tỏ ra ngạc nhiên và buồn cười, những người phiên dịch đều bĩu môi. Tay Vương Hồng Văn này quả đã đi lên từ tạo phản, nói những lời như thế mà không thấy ngượng mồm, đến đứa trẻ lên 5 cũng hiểu được rằng một đứa trẻ sơ sinh 1 tuổi e rằng đến từ “cách mạng” cũng còn chưa biết nói là khác.

Mao Trạch Đông thấy Vương Hồng Văn chẳng ra sao như vậy, trong lòng rất buồn. Hu-tơ-ra-mu muốn làm cho không khí nhộn nhịp lên một chút nên nói sang vấn đề tiền đồ của cách mạng Trung Quốc, Mao Trạch Đông thì không còn lòng dạ nào để mà bàn, thẳng thắn nói: “Tôi và Chu đều không sống được đến ngày cách mạng kết thúc, tôi đã bị bệnh, tôi đã báo cho Mác biết rồi”.

Chu Ân Lai nhìn đồng hồ, ra hiệu cho khách biết là cuộc nói chuyện nên kết thúc. Mao Trạch Đông chỉ Vương Hải Dung nói đùa: “Cô ấy quản lý tôi rất chặt, không bao giờ cho tôi nói nhiều”. Sau khi cuộc tiếp kiến kết thúc, Mao Trạch Đông cảm thấy sự nông cạn của Vương Hồng Văn, liền cử anh ta cùng Đặng Tiểu Bình đến các nơi trong toàn quốc điều tra nghiên cứu. Trình độ của Vương Hồng Văn rất thấp, lại không muốn vất vả, nào có chịu cố gắng điều tra nghiên cứu đâu, anh ta coi cơ hội học tập hiếm có này là một lần du sơn ngoạn thủy thoái mái, đến chỗ nào cũng ăn chơi cho đã, thưởng thức những loài hoa nổi tiếng. Còn Đặng Tiểu Bình thì ngày nào cũng tiếp những người phụ trách các địa phương, bàn công việc, giải quyết các vấn đề, tìm hiểu tình hình cơ sở.

Cuộc chu du toàn quốc kết thúc, Đặng Tiểu Bình và Vương Hồng Vãn phải báo cáo với Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai những thu hoạch về cuộc điều tra nghiên cứu. Vương Hồng Văn chẳng có gì để nói, chỉ nói mấy câu báo cáo kết quả hoàn thành nhiệm vụ sáo rỗng. Đặng Tiểu Bình thì lại nói rất nhiều vấn đề, nêu ra biện pháp giải quyết và kiến nghị tiến hành điều chỉnh toàn quốc. Khi họ báo cáo, Mao Trạch Đông rất ít nói, báo cáo xong, Mao Trạch Đông đã nêu ra một vấn đề mà chẳng ai ngờ tời: “Sau khi tôi chết Trung Quốc sẽ như thế nào?”. Mao Trạch Đông chỉ vào Vương Hồng Văn: “Đồng chí nói trước đi”.

Vương Hồng Văn chẳng cần nghĩ ngợi đáp: “Nhân dân cả nước sẽ theo sát đường lối cách mạng Mao Trạch Đông, đoàn kết nhất trí tiến hành cách mạng đến cùng”.

Trong lòng Mao Trạch Đông chợt bật ra tiếng “hừ”, đây là một câu nói mà các học sinh tiểu học thuộc lòng. Ông quay lại hỏi Đặng Tiểu Bình: “Đồng chí nói sao? Sau khi tôi chết rồi thì tình hình Trung Quốc sẽ như thế nào?” Đặng Tiểu Bình nói một cách gay gắt: “Một cuộc nội chiến sẽ bùng nổ, cả nước sẽ hỗn loạn”.

Lời của Đặng Tiều Bình làm những người có mặt rất sững sờ, sắc mặt Mao Trạch Đông chuyển sang màu trắng bệch, Chu Ân Lai mím chặt môi, Vương Hồng Văn thì tỏ vẻ tức giận, còn Đặng Tiểu Bình thì không có thay đổi gì, thái độ rất ung dung.

Page 16: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Vương Hồng Văn rất đắc ý, cho rằng Đặng Tiểu Bình nhất định sẽ bị Mao Trạch Đông quở trách nghiêm khắc, ông ta dám miêu tả Trung Quốc sau khi Mao Trạch Đông qua đời đáng sợ như vậy. Không ngờ Mao Trạch Đông đã châm một điếu thuốc lá nhãn hiệu Gấu Mèo thong thả hút, sau khi hút mấy hơi liền mới gật đầu nói với Đặng Tiểu Bình: “Tiểu Bình, đồng chí nói đúng đấy. Sau khi tôi chết, khẳng định là Trung Quốc sẽ xảy ra nội chiến. Ôi, nhân tài hiếm thấy!”.

Vương Hồng Văn bị gạt sang một bên, Mao Trạch Đông không để ý nhiều đến anh ta; xem ra con người này phá thì có thể nhưng xây thì không được; làm việc vặt thì có thể, việc nghiêm túc đứng đắn thì không thể làm được. Sự nông cạn của Vương Hồng Văn đã làm Mao Trạch Đông cụt hứng, đã đánh vào mặt Mao Trạch Đông. Chu Ân Lai sợ Vương Hồng Văn bẽ mặt không có chỗ lui, bèn khuyên anh ta: “Sau này nên cố gắng học tập. Làm Phó Chủ tịch trách nhiệm rất lớn, không như trước đây...”. Vương Hồng Văn tiu nghỉu, không nói một câu nào.

4. Một câu nói của Đặng Tiểu Bình Tư lệnh của tám Đại quân khu thay đổi vị trí

Từ đó về sau, Mao Trạch Đông càng ngày càng coi trọng Đặng Tiểu Bình, đối với Vương Hồng Văn ngày càng lạnh nhạt. Vương Hồng Văn thấy địa vị của mình nguy hiểm nên ra sức dựa vào Giang Thanh, Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên, bốn người hình thành nên một bọn, một số văn kiện vốn phải báo cáo lên Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai thì bốn người bọn họ phê duyệt rồi đưa xuống dưới. Mao Trạch Đông luôn nghĩ đến câu nói của Đặng Tiểu Bình, thực ra từ lâu ông đã lo lắng đến vấn đề này, sau khi Đặng Tiểu Bình đã nói đúng tâm sự của ông, càng làm ông lo lắng sốt ruột, làm thế nào để tránh được viễn cảnh đáng sợ ấy? Biện pháp duy nhất là chuyển đổi lẫn nhau giữa các tư lệnh đại quân khu, trọng dụng các tướng lĩnh cao cấp của quân đội mà trước đây đã giáng chức họ và để Đặng Tiểu Bình tham gia công tác lãnh đạo của Trung ương và Quân ủy Trung ương.

Ở đây nếu muốn hiểu vì sao Mao Trạch Đông lại làm như vậy thì trước tiên phải xem cơ cấu tổ chức của quân đội Trung Quốc. Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc trong thời kỳ chiến tranh, vẫn chia bộ đội thành Dã chiến quân và bộ đội địa phương. Như vậy có 5 đạo quân dã chiến gồm Dã chiến quân thứ 1, thứ 2, thứ 3, thứ 4 và Hoa dã. Sau khi dựng nước, các Dã chiến quân giải phóng nhân dân Trung Quốc, chủ yếu chia thành 8 đại quân khu, 8 đại quân khu này đều lấy thành phố nơi đại quân khu đóng quân để đặt tên, đó là: Quân khu Bắc Kinh, Quân khu Thẩm Dương, Quân khu Nam Kinh, Quân khu Quảng Châu, Quân khu Vũ Hán, Quân khu Tế Nam, Quân khu Phúc Châu, Quân khu Lan Châu. Trong đại cách mạng văn hóa, tư lệnh các quân khu bị điều động liên tục. Nhưng có mấy tư lệnh của quân khu vẫn không thay đổi, các tư lệnh quân khu được điều động cũng đã yên vị được mấy năm. Mao Trạch Đông cảm thấy họ quá quen thuộc đối với bộ đội trong quân khu của mình, còn đối với bộ đội các quân khu khác thì không quen thuộc lắm, không có lợi cho việc chuẩn bị chiến tranh, thế là ông đề nghị với Bộ Chính trị đưa ra việc chuyển đổi lẫn nhau giữa các tư lệnh quân khu. Qua thảo luận, dĩ nhiên là Bộ Chính trị đã đồng ý.

Tư lệnh của 8 quân khu được tập trung ở Bắc Kinh, mệnh lệnh chuyển đổi do Mao Trạch Đông trực tiếp tuyên bố. Lúc này Vương Hồng Văn cũng được cử làm công tác lãnh đạo Quân ủy, Mao Trạch Đông muốn tạo dựng uy tín cho Vương Hồng Văn trước mặt các tướng soái, liền ủy nhiệm cho Vương Hồng Văn điểm danh. Vương Hồng Văn chẳng biết nếp tẻ, cũng cao giọng điểm danh.

“Hứa Thế Hữu!”

Không có ai đáp lại. Vương Hồng Văn nhìn hội trường, sắc mặt Hứa Thế Hữu tím bầm, mắt nhìn lên trần nhà, chẳng để ý đến anh ta. Vương Hồng Văn khi còn ở Thượng Hải sợ nhất là

Page 17: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

phải giáp mặt với vị Tư lệnh Quân khu Nam Kinh sát gần Thượng Hải này. Vương Hồng Văn đánh bạo, đọc lại một lần nữa: “Hứa Thế Hữu!”. Bỗng mọi người nghe thấy một tiếng “thình”, té ra là Hứa Thế Hữu đã dàn mạnh chén nước trà xuống bàn, nên phát ra tiếng động đó. Vương Hồng Văn ngước mắt nhìn, không chỉ có Hứa Thế Hữu mà còn các vị lão tướng khác như Dương Đắc Chí, Bì Định Quân đều nhìn anh ta bằng con mắt khinh thường. Vương Hồng Văn sợ hãi, ngoái đầu nhìn Mao Trạch Đông như cầu xin trợ giúp. Mặt Mao Trạch Đông tím bầm, không nói một lời. Bây giờ Vương Hồng Văn mới được nếm sự ghê gớm của quân đội.

Chu Ân Lai bắt đầu ra tay cứu giúp. Ông cầm lấy bản danh sách nhưng không xem, mà đọc tên từ các vị tư lệnh khác: Lý Đức Sinh, Trần Tích Liên, Hứa Thế Hữu... các vị tướng này vừa nãy còn rất ngạo mau, bây giờ rất ngoan ngoãn, từng người đáp vang. Điểm danh xong Chu Ân Lai tuyên bố: “Bây giờ xin mời Chủ tịch tuyên bố mệnh lệnh chuyển đổi các tư lệnh của 8 đại quân khu”.

8 tư lệnh được chuyển đổi như sau: Lý Đức Sinh ở Quân khu Bắc Kinh được điều đến Quân khu Thẩm Dương; Trần Tích Liên ở Quân khu Thẩm Dương được điều đến Quân khu Bắc Kinh; Hứa Thế Hữu ở Quân khu Nam Kinh được điều đến Quân khu Quảng Châu; Đinh Thịnh ở Quân khu Quảng Châu được điều đến Quân khu Nam Kinh; Tằng Tư Ngọc ở Quân khu Vũ Hán được điều đến Quân khu Tế Nam; Dương Đắc Chí ở Quân khu Tế Nam được điều đến Quân khu Vũ Hán; Hàn Tiên Sở ở Quân khu Phúc Châu được điều đến Quân khu Lan Châu; Bì Định Quân ở Quân khu Lan Châu được điều đến Quân khu Phúc Châu. Sau khi mệnh lệnh ban bố, hạn trong 10 ngày, tư lệnh các quân khu đem theo một số ít thư ký và chiến sĩ cảnh vệ đến cương vị tư lệnh mới. Tư lệnh quân khu đã chuyển đổi cho nhau, họ đến đơn vị bộ đội không quen thuộc làm việc, muốn hiểu nhau phải có một quá trình tương đối dài. Làm như vậy có lợi cho việc chuẩn bị chiến tranh hay không thực sự là một vấn đề. Thời kỳ Bắc Tống, Chính phủ trung ương tăng cường tập quyền trung ương, làm suy yếu thế lực địa phương, thường xuyên điều động quan chỉ huy đến làm việc với những đơn vị quân đội mới, tạo nên cục diện lính không biết tướng, tướng không biết lính, kết quả là chỉ huy không hiệu nghiệm, tướng sĩ nghi kỵ nhau, đánh trận nào thua trận ấy.

Sau khi mệnh lệnh chuyển đổi lẫn nhau được công bố, Mao Trạch Đông lại nói chuyện xưa và nay, nội dung không ngoài việc thuyết phục các tướng lĩnh phục tùng mệnh lệnh, nói mãi, nói mãi, chợt Mao Trạch Đông nói đến Hạ Long: “Về Hạ Long xem ra đã làm sai rồi, đó là do Lâm Bưu gây nên, tôi chịu trách nhiệm khôi phục danh dự cho đồng chí ấy, đối với La Thụy Khanh, Lâm Bưu cũng thực hiện cái trò tập kích bất ngờ, Lâm Bưu bảo là La Thụy Khanh định tập kích bất ngờ, tôi đã nghe lời của Lâm Bưu, chỉnh La Thụy Khanh, tôi đã phạm sai lầm. Đều phải xét lại án đối với Dương, Dư, Phó, vấn đề của các đồng chí này đều do Lâm Bưu gây ra, có rất nhiều vấn đề chỉ nghe một phía, như vậy là không hay, tôi xin tự phê bình trước các đồng chí”.

Ngừng một lát, Mao Trạch Đông lại nói tiếp: “Từ nay trở đi, Đặng Tiểu Bình tham gia công tác lãnh đạo Quân ủy, giữ chức Tổng Tham mưu trưởng”.

Lời của Mao Trạch Đông là một điều an ủi lớn đối với các tư lệnh quân khu. Năm tướng soái được sửa lại án sai là sự khẳng định thành tích của họ cũng là của quân đội. Đặng Tiểu Bình làm Tổng Tham mưu trưởng càng làm cho họ tin phục và phấn khởi. Nên biết là trong 8 tư lệnh đại Quân khu, có một nửa vốn thuộc các Dã chiến quân thứ 2 và thứ 3, trong chiến dịch Hoài Hải, chiến dịch vượt Trường Giang tiến về phía Nam, Đặng Tiểu Bình là Bí thư Đảng ủy của Tổng Chỉ huy mặt trận, trực tiếp dẫn dắt và chỉ huy Dã chiến quân thứ 2 và thứ 3, Đặng Tiểu Bình là cấp trên trực tiếp của họ.

Đáng tiếc là, việc sửa lại án sai của Mao Trạch Đông hơi muộn, Hạ Long đã qua đời trong trại giam từ năm 1969, Dương, Dư, Phó, La Thụy Khanh coi như là còn sống và được ngẩng đầu, họ được Quân uỷ Trung ương đón về Bắc Kinh. Ngày 30 tháng 9 năm 1974. Dương,

Page 18: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Dư, Phó, đã tham gia buổi chiêu đãi nhân ngày Quốc khánh lần thứ 25, họ gặp nhau trong ánh đèn rực rỡ của Đại lễ đường Nhân dân.

Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn nhìn thấy Dương, Dư, Phó, nhưng họ không đến chào hỏi. Sau khi về Điếu Ngư Đài, Trương Xuân Kiều lo lắng nói: “Quân đội khó làm nhất”. Diêu Văn Nguyên cũng nói: “Quân đội nguy hiểm nhất”. Giang Thanh nghiến răng nói: “Tôi rất mong có được con dao giết người”. Trương Xuân Kiều gập ngón tay tính: “Trong 8 đại quân khu ngoài Đinh Thịnh ra, họ đều không nghe theo chúng ta. Cái chức Tư lệnh Quân khu Nam Kinh của Đinh Thịnh cũng như không, chỉ huy các đơn vị ở Quân khu Nam Kinh đối với Đinh Thịnh chỉ là ứng phó, có việc gì đều đi hỏi Hứa Thế Hữu ở Quảng Châu. Đặc biệt là Quân đoàn 62 ở tuyến Vô Tích, Tô Châu, là chủ lực của Quân khu Nam Kinh, trang bị đầy đủ vũ khí cực tốt, quân đoàn trưởng và chính ủy đều là cảnh vệ và thư ký cơ yếu của Hứa Thế Hữu, hoàn toàn không để ý gì đến Đinh Thịnh, uy hiếp Thượng Hải rất mạnh”. Diêu Văn Nguyên nghĩ một lúc rồi nói: “Hồng Văn bây giờ tham gia lãnh đạo Quân ủy, để anh ấy nghĩ cách xem thế nào?” Trương Xuân Kiều với vẻ mặt đầy coi khinh: “Anh ta ư? Gây ra cái sự kiện An Đình thì được, ở Quân ủy thì chỉ có thể là anh điếc, nghe theo sự xếp đặt. Ở Quân ủy vốn đã có lão Diệp, bây giờ lại thêm Đặng Tiểu Bình, một người là Phó Chủ tịch Quân ủy trung ương chủ trì công tác Quân ủy, một người là Tổng Tham mưu trưởng nắm thực quyền. Nói thực đến tư cách dự thính của Hồng Văn cũng chẳng có”.

3

Mao Trạch Đông ốm nặng bảo với Giang Thanh:

“Kẻ cầm đầu tập đoàn phản cách mạng là tôi”

Chu Ân Lai nhân thời cơ cứu sống nhiều người

1. Cấp cứu Mao Trạch Đông

Con người ta rồi cũng phải già, vất vả quá độ, sinh hoạt không có quy luật, ăn uống tùy tiện, tất cả những cái đó làm cho Mao Trạch Đông ngày càng già yếu.

Năm 1965, một nhà văn nước ngoài An-đơ-rê Ma-rô sau khi được Mao Trạch Đông tiếp kiến đã rất lạnh lùng viết rằng:

Từ khi bắt đầu nói chuyện, Mao chỉ đưa điếu thuốc lá vào miệng hoặc để trên chiếc gạt tàn, ngoài ra không có một động tác gì khác. Đợi đến khi cuộc nói chuyện kết thúc, Mao uể oải phẩy tay, rồi hai tay vịn vào tay vịn của chiếc ghế đứng dậy. Thân thể ông ta thẳng hơn tất cả chúng ta, giống như một khối đá lớn. Theo sau ông ta là một nữ y tá, đi từng bước từng bước, cứng đờ như không có khớp gối.

Đây không phải là bệnh tật, mà là sự già yếu và còn khó chịu hơn cả bệnh tật.

Năm 1972, Mao Trạch Đông bị ốm nặng, vào trước ngày Tổng thống Ních-xơn đến thăm Trung Quốc, một ngày tháng giêng. Do vất vả quá mức, Mao Trạch Đông đã bị bệnh. Vì bị ốm đột ngột, các nhân viên công tác, bác sĩ, y tá bên cạnh ông đều không ngờ tới. Do bệnh phế tâm thiếu dưỡng khí nghiêm trọng, nên Mao Trạch Đông bị sốc. Sau khi Ngô Húc Quân đang trực ban phát hiện, lập tức mở toang cửa kính vốn vẫn đóng kín, gọi thất thanh: “Nhanh lại đây!”.

Page 19: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Lúc này, nữ thư ký Trương Ngọc Phượng đang ở phòng trực ban của cán bộ cảnh vệ, nghe thấy tiếng gọi, mấy người cùng chạy đến phòng khách của Mao Trạch Đông (lúc ấy đã trở thành phòng ngủ và phòng chữa trị) bác sĩ cũng đến ngay để khám bệnh cho Mao Trạch Đông.

Mao Trạch Đông nằm nghiêng trên giường như “đang ngủ say”, Ngô Húc Quân vội xem mạch cho Mao Trạch Đông. Cũng không rõ là vì nóng ruột hay vì căng thẳng nên Ngô Húc Quân nói với bác sĩ có mặt trong phòng rằng “không sờ thấy mạch”.

Đây là lần đầu tiên trong đời Trương Ngọc Phượng nhìn thấy người bị bệnh nặng phải được cấp cứu. Bác sĩ chữa chính lập tức thực hiện biện pháp cấp cứu, nói những thứ thuốc tiêm và dược liệu ứng dụng. Y tá trưởng Ngô nhắc lại tên các dược liệu rồi vào phòng tiêm lấy thuốc, tiêm cho Mao Trạch Đông hết lần này đến lần khác.

Lúc này, Mao Trạch Đông đã hoàn toàn hôn mê, không khí căng thẳng trong phòng, ông không hề hay biết tí gì. Khi cấp cứu, Ngô Húc Quân chuyên gia tim mạch đỡ Mao Trạch Đông dậy, đấm vào lưng ông theo từng nhịp và liên tục gọi: “Mao Chủ tịch, Mao Chủ tịch”. Trương Ngọc Phượng cũng gọi: “Chủ tịch, Chủ tịch”...

Sức sống của Mao Trạch Đông quả là ngoan cường, qua cấp cứu căng thẳng, ông từ từ mở hai mắt. Nhìn thấy tất cả, ông hơi ngạc nhiên và khó hiểu như muốn hỏi: Các anh đang làm gì vậy? Bởi việc vừa xảy ra. Ông không hay biết một tí gì.

Những người có mặt trong phòng lúc ấy vô cùng vui mừng vì Mao Trạch Đông đã yên ổn tỉnh lại. Mọi người đều có ý thức tỏ rõ sự nhẹ nhõm, sợ ông căng thẳng. Khi Mao Trạch Đông biết vừa rồi ông bị sốc, với dáng vẻ khoan thai ông nói: “Hình như tồi vừa ngủ một giấc”.

Mao Thạch Đông bị ốm nặng, hơn ai hết Chu Ân Lai thấy nặng nề, sốt ruột. Sau này cảnh vệ kể lại, khi Chu Ân Lai biết tin Mao Trạch Đông bị nguy kịch, ngồi trên xe từ Tây Hoa Sảnh nơi ở của ông đến Du Vịnh Trì, rất lâu ông không xuống được xe. Khi ông đến phòng cấp cứu, mọi người đều có thể thấy tình cảm của ông, cái gánh nặng mà ông phải gánh...

Sau lần Mao Trạch Đông bị bệnh nặng, Trung ương quyết định bốn vị lãnh đạo là Chu Ân Lai, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Uông Đông Hưng phụ trách công tác điều trị của Mao Trạch Đông. Nhưng, Giang Thanh lại không bằng lòng với kết quả cấp cứu, chụp mũ cho những bác sĩ hội chẩn là tập đoàn đặc vụ phản cách mạng, đồng thời đưa ra ví dụ “Âm mưu áo choàng trắng” ở Liên Xô để đe doạ, vụ án này đã đăng trên tờ “Sự Thật” ngày 13 tháng 1 năm 1953:

Trước đây không lâu, ngành An ninh quốc gia đã phát hiện một tập đoàn khủng bố do các bác sĩ tổ chức thành, họ thông qua cách chữa trị có hại để đạt tới mục đích rút ngắn sinh mệnh của một số nhà lãnh đạo Liên Xô nào đó.

Lúc ấy có 5 bác sĩ bị bắt.

Lúc này, Giang Thanh người vợ đã không sống chung Mao Trạch Đông nhiều năm đã là “nhân vật lớn” đứng trên đỉnh cao quyền lực lãnh đạo chính trị của Nhà nước, nên câu nói này của bà ta đủ để cho các bác sĩ rơi đầu.

May mà Mao Trạch Đông biết việc này, ông yếu ớt cựa mình, chỉ vào Giang Thanh hỏi: “Cô nói những bác sĩ này là tập đoàn đặc vụ phản cách mạng à? Cô có biết tên cầm đầu cái tập đoàn ấy là ai không?”

Giang Thanh há hốc mồm, không dám trả lời:

“Tôi biết”. Mao Trạch Đông bỗng chỉ vào mũi mình, “Chính là tôi!”.

Một câu nói đã cứu mạng các bác sĩ hội chẩn, làm cho bi kịch của các bác sĩ Liên Xô không diễn lại ở Trung Quốc.

Page 20: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

2. Mao Trạch Đông nói: Án Hạ Long là giả

Bắc Kinh đã biến đổi, tháng 12 năm 1972, thanh tra lại tập đoàn Lâm Bưu, đã sửa lại những án oan, án giả, án sai do “cách mạng văn hóa” gây nên trong thời kỳ đầu, công tác thực hiện chính sách cán bộ cuối cùng đã được đưa vào chương trình nghị sự.

Trong thư phòng của Mao Trạch Đông ở Trung Nam Hải, một cuộc nói chuyện có liên quan đến vận mệnh của hàng chục triệu người đang tiến hành.

Mao Trạch Đông đập bàn đứng dậy: “Xem ra án của đồng chí Hạ Long là giả. Làm sao lại đánh đổ nhiều cán bộ như thế? Tôi cũng vô tình đánh đổ họ!”

Chu Ân Lai nắm chắc thời cơ kiến nghị với Mao Trạch Đông: “Xem ra có một vấn đề là phải thực hiện chính sách cán bộ”.

Mao Trạch Đông gật gù, hạ quyết tâm: “Đúng vấn đề này do đồng chí tổ chức thực hiện thôi!”

Chu Ân Lai tuyên bố, thực hiện công tác chính sách cán bộ, Trung ương do Ban Tổ chức Trung ương phụ trách, thực hiện chính sách cán bộ từ Thường vụ Tỉnh ủy trở lên, Quốc vụ viện do Văn phòng Thủ tướng phụ trách thực hiện chính sách cán bộ từ thứ trưởng trở lên. Quân đội do Tổng cục Chính trị phụ trách, thực hiện chính sách cán bộ từ cấp quân đoàn chính quy trở lên.

Chu Ân Lai còn quy định “báo cáo thẩm tra cán bộ giải phóng” đều phải gửi lên Bộ Chính trị thảo luận quyết định cuối cùng.

Hồi đầu “cách mạng văn hóa” trong quân đội có mấy trăm cán bộ từ cấp quân đoàn trở lên bị đánh đổ và bị giam cầm. Cấp bậc cao nhất là hai Nguyên soái Bành Đức Hoài và Hạ Long. Tổng cục Chính trị suy xét đến lời của Mao Trạch Đông là án của đồng chí Hạ Long là giả. Thế là cử Cục trưởng Cục bảo vệ Tưởng Nhuận Quan cầm thư giới thiệu đến Văn phòng 1 Tổ chuyên án Trung ương lấy hồ sơ của Nguyên soái Hạ Long.

Người phụ trách Văn phòng 1 của tổ chuyên án đáp: “Đồng chí Hạ Long phải được sửa lại án sai. Nhưng Mao Chủ tịch và Chu Thủ tướng không nói đến án của đồng chí Hạ Long để Tổng cục Chính trị các anh sửa lại án sai”.

Tưởng Nhuận Quan giải thích: “Chúng tôi cân nhắc đồng chí Hạ Long là Nguyên soái, Phó Chủ tịch Quân ủy nên việc của Nguyên soái Hạ Long, Tổng cục Chính trị chúng tôi phải làm”.

Người phụ trách kia lại nói: “Đồng chí Hạ Long không chỉ là Nguyên soái, đồng chí ấy còn là một ủy viên Bộ Chính trị, Phó Thủ tướng Quốc vụ viện. Trung ương không nói đến án của Hạ Long để cho các anh sửa lại án sai, nên tài liệu không thể giao cho các anh”.

Cục trưởng Cục bảo vệ lúc đi thì cao hứng nhưng lúc về lại thất vọng. Thực hiện chính sách cán bộ bắt đầu từ chỗ nào đây?

Đúng lúc này, Chu Ân Lai đã đích thân chọn đột phá khẩu cho họ. Một ngày đầu năm 1973, Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Điền Duy Tân đang tham gia một cuộc họp ở khách sạn Kinh Tây, nhận được điện thoại của Văn phòng Thủ tướng Chu Ân Lai nói là Thủ tướng có việc muốn gặp. Điền Duy Tân vội vã đến Đại lễ đường Nhân dân.

Chu Ân Lai lại nói: “Hôm nay tôi mời đồng chí đến để bàn về vấn đề cán bộ, chỉ nói với một mình đồng chí thôi thì không hay, đồng chí tìm thêm một đồng chí nữa thì tốt”.

Ngay lúc ấy, Điền Duy Tân lập tức dùng điện báo gọi Cục trưởng Cục cán bộ Tổng cục Chính trị Nguỵ Bá Đình đến ngay.

Chu Ân Lai nói với họ: “Mời các đồng chí đến để bàn vấn đề của đồng chí Trần Tái Đạo và đồng chí Chung Hán Hoa”.

Page 21: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Thượng tướng Trần Tái Đạo và Trung tướng Chung Hán Hoa đã từng giữ chức tư lệnh và chính ủy thứ 2 của Quân khu Vũ Hán, bị đánh đổ bởi cái gọi là “sự kiện 720” vào năm 1967, đã phải hàm oan 6 năm.

Dựa vào tinh thần cuộc nói chuyện với Chu Ân Lai, sau khi Điền Duy Tân và Ngụy Bá Đình trở về Tổng cục Chính trị, qua điều tra xem xét, đã viết báo cáo, đưa Bộ Chính trị thảo luận. Khi thảo luận, tranh luận rất gay gắt, tuy Giang Thanh và đồng bọn chụp một đống mũ, nhưng lại không có một căn cứ xác thực nào.

Sau khi Thượng tướng Trần Tái Đạo được “giải phóng” nếu lại quay về làm Tư lệnh quân khu Vũ Hán thì sẽ tương đối khó khăn. Cân nhắc sắp xếp cho ông một chức vị tương đương với cấp cũ, nhưng lúc ấy chức trưởng loại một ở các đại quân khu đã có người, vậy là gặp khó khăn. Điền Duy Tân liền thỉnh thị Chu Ân Lai, cuối cùng kết luận: Đành phải để Trần Tái Đạo đi đường vòng, sắp xếp vào chức vụ Phó Tư lệnh một quân khu.

Tướng Điền Duy Tân gọi điện thoại cho một tư lệnh đại quân khu, xem xét để Trần Tái Đạo đến làm Phó Tư lệnh Quân khu ấy. Tư lệnh đáp: “Đồng chí ấy là cấp trên cũ của tôi đấy!”. Tuy chỉ có một câu, nhưng ý thì rất rõ ràng. Để một cấp trên cũ làm phó thì việc triển khai công tác sẽ không tốt lắm. Nhưng, chỗ khác cũng khó sắp xếp. Điền Duy Tân lại gọi điện cho vị Tư lệnh này, vị Tư lệnh này nói một cách dứt khoát: “Đồng chí Điền ạ, dù sao cũng không nên đưa đồng chí ấy về đây”. Thế là, tìm đi tìm lại cuối cùng tìm được Tư lệnh Quân khu Phúc Châu Hàn Tiên Sở.

Lúc ấy Hàn Tiên Sở là Phó Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng kiêm Tư lệnh Quân khu Phúc Châu, Bí thư thứ nhất Tỉnh ủy tỉnh Phúc Kiến. Ít thấy thái độ trong sáng ở ông: “Hoan nghênh Trần Tái Đạo đến Phúc Châu. Vậy mới coi là giải quyết được một vấn đề khó”.

Sau này Trần Tái Đạo còn đảm nhiệm cố vấn của Quân ủy Trung ương. Tư lệnh bộ đội Đường sắt.

Chung Hán Hoa sau khi được “giải phóng” lần lượt đảm nhiệm các chức vụ Phó Chính ủy Quân khu Quảng Châu, Chính ủy Binh chủng Tăng thiết giáp và Chính ủy Quân khu Thành Đô.

Năm 1955, khi Quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc phong quân hàm, có 57 vị tướng được phong quân hàm Thượng tướng. Thượng tướng là quân hàm cấp thứ ba sau 10 nguyên soái và 10 đại tướng. Những vị tướng có thể tiến lên hàng thượng tướng đều là những tướng tài đứng đầu ba quân, có thể một mình đảm đương một mặt công tác.

Đầu những năm 70, đã có mấy vị trung tướng đảm nhận Tư lệnh Đại Quân khu. Nhưng Quân khu Phúc Châu lại tập hợp đến 4 thượng tướng. Quân khu Phúc Châu quả là một mảnh đất thần tiên.

Số là sau khi Thượng tướng Trần Tái Đạo đến nhậm chức Phó Tư lệnh Quân khu Phúc Châu không lâu, thì Thượng tướng Vương Kiến An cũng được “giải phóng”, và cũng phải đối mặt với vấn đề sắp xếp công tác. Cũng giống như Tướng Trần Tái Đạo, tư cách của Vương Kiến An cũng là bậc lão tướng. Ông là Phó Tư lệnh Quân khu Tế Nam, bị đánh đổ vì cái gọi là “thực hiện chủ nghĩa xét lại”. Tư lệnh các Quân khu đương nhiệm rất nhiều người là cấp dưới của ông. Gặp phải vấn đề khó như vậy, Điền Duy Tân lại phải xin ý kiến của Chu Ân Lai. Chu Ân Lai bảo: “Đồng chí hãy nói chuyện với Hàn Tiên Sở một lần nữa”.

Điền Duy Tân lại nói chuyện với Hàn Tiên Sở “ở đây tôi đã có một đồng chí cũ rồi, cũng có thể sắp xếp vào các quân khu khác mà”.

Lại gặp trắc trở, Điền Duy Tân nửa nói đùa: “Đồng chí Hàn ạ, tôi trưng cầu ý kiến đồng chí, nhưng đây là Thủ tướng bảo tôi trưng cầu ý kiến đồng chí đấy”.

Hàn Tiên Sở vẫn không bằng lòng.

Page 22: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Điền Duy Tân cảm thấy rất gay go, lại báo cáo tình hình với Chu Ân Lai. Chu Ân Lai trầm ngâm một lúc: “Vẫn cứ xếp vào chỗ Hàn Tiên Sở, khi họp tôi sẽ nóichuyện với đồng chí ấy”.

Mấy ngày sau Hàn Tiên Sở được lệnh về Bắc Kinh. Điền Duy Tân trông thấy Hàn Tiên Sở liền vẫy gọi “Đồng chí Hàn, lần này Thủ tướng nói chuyện với đồng chí, đồng chí có thể không nể mặt Thủ tướng chăng?”

“Gặp thủ tướng, tôi vẫn cứ có khó khăn”. Hàn Tiên Sở nói: “Vương Kiến An là cấp trên cũ của tôi! Các đồng chí cũ nhiều, tôi cũng sẽ khó làm việc”.

Điều mà Hàn Tiên Sở nói là thực lòng. Thời kỳ Hồng quân, Vương Kiến An là Chính ủy quân đoàn, còn Hàn Tiên Sở lúc ấy là Sư đoàn trưởng. Ai ngờ sau khi gặp Chu Ân Lai nói chuyện, Hàn Tiên Sở đã vui vẻ đồng ý. Thế là Quân khu Phúc Châu lại thêm một Thượng tướng Phó Tư lệnh.

Thượng tướng Lý Chí Dân giữ chức Chủ nhiệm Cục chính trị thời kỳ Hồng quân, sau khi được trở lại công tác, cũng đến Quân khu Phúc Châu làm Chính ủy Quân khu.

Bốn vị Thượng tướng đã cùng đến với nhau là như vậy.

3. Chu Ân Lai khéo léo điểm tên các tướng lĩnh.

Lúc ấy, trong tình hình chính trị tế nhị, công tác “giải phóng” các tướng lĩnh cao cấp trong quân đội trên cơ bản là Chu Ân Lai điểm tên người nào thì giải quyết người ấy. Cách điểm của Chu Ân Lai luôn rất khéo léo.

Một lần, Bộ Chính trị họp, Chu Ân Lai đột ngột hỏi Lý Đức Sinh và Điền Duy Tân một vấn đề: “Dương Dũng và Liêu Hán Sinh bị đánh đổ như thế nào?”

Lý Đức Sinh và Điền Duy Tân đưa mắt nhìn nhau, hai người cũng chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành phải thú thật: “Không biết”.

“Các đồng chí đi điều tra đi”. Chu Ân Lai bảo. Đó là nghệ thuật lãnh đạo của Chu Ân Lai, điểm tên đó nhưng không bao giờ vạch ra khuôn mẫu, kết luận do các đồng chí làm công tác cụ thể thông qua điều tra nghiên cứu đưa ra.

Tổng cục Chính trị lập tức cử người đi điều tra.

Thượng tướng Dương Dũng và Trung tướng Liêu Hán Sinh đang giữ chức tư lệnh và chính ủy Quân khu Bắc Kinh, đầu thời kỳ cách mạng văn hoá không hiểu vì sao lại bị đánh đổ. Được Chu Ân Lai điểm tên, công việc “giải phóng” hai vị tướng này tuy có vấp váp nhưng cuối cùng cũng được giải quyết.

Sau khi Liêu Hán Sinh được phục hồi lần lượt đảm nhiệm Chính ủy Viện Khoa học Quân sự, Chính ủy thứ nhất Quân khu Nam Kinh, Chính ủy thứ nhất Quân khu Thẩm Dương, còn đảm nhiệm Phó ủy viên trưởng Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc (Phó chủ tịch Quốc hội - N.D.)

Tướng Dương Dũng sau khi được phục hồi, cũng đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo Quân khu. Do sự rộng lượng của ông, làm cho kết luận về ông phải lật đi lật lại, nhưng từ đó cũng thể hiện tấm lòng yêu quý cán bộ của Chu Ân Lai.

Khi tướng Dương Dũng bị đánh đổ, Lâm Bưu và đồng bọn thổi phồng thành vấn đề đường lối chính trị, thậm chí lấy cả những chuyện của tham mưu, trưởng phòng, những người dưới quyền của Dương Dũng gắn vào tội của Dương Dũng.

Sau khi kết luận về việc thẩm tra Dương Dũng của Tổng cục Chính trị đưa ra, Chu Ân Lai đã phê: “Đề nghị đồng chí Điền Duy Tân nói chuyện với đồng chí Dương Dũng, trưng cầu ý kiến của bản thân đồng chí Dương Dũng đối với những kết luận này”.

Page 23: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Điền Duy Tân đích thân đến nơi ở của Dương Dũng, trưng cầu ý kiến của Dương Dũng đối với các kết luận. Dương Dũng nói một cách rất độ lượng: “Kết luận của Tổng cục Chính trị, tôi không có ý kiến”. Điền Duy Tân nói: “Kết luận là do chúng tôi nêu ra, nhưng chúng tôi không hiểu rõ lắm về tình hình của anh, nên Thủ tướng bảo tôi trao đối với anh, anh có ý kiến gì, Thủ tướng sẽ rất coi trọng!” Dương Dũng vẫn nói: “Kết luận của Tổng cục Chính trị tôi không có ý kiến”.

Sau khi đưa ra kết luận, Dương Dũng phải đợi nửa năm, mới được điều đến làm Phó Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương. Ít lâu sau, Trung ương lại điều Dương Dũng đến làm Tư lệnh Quân khu Tân Cương. Sau khi Dương Dũng nhậm chức, trên kết luận đối với Dương Dũng, Chu Ân Lai một lần nữa lại ghi: “Đồng chí Điền Duy Tân, kết luận của chúng ta đối với Dương Dũng hình như hơi nghiêm quá, đề nghị đồng chí trưng cầu ý kiến đồng chí Dương Dũng một lần nữa”.

Mặc dù lời phê của Chu Ân Lai rất êm dịu nhưng Điền Duy Tân cảm thấy rất rõ trọng lượng của nó. Một lần nữa ông lại cùng một trưởng phòng của Tổng cục Chính trị đến thăm Dương Dũng ở khách sạn Kinh Tây. Không ngờ Dương Dũng vẫn nói là không có ý kiến gì. Điền Duy Tân lại phải thuyết phục hồi lâu, Dương Dũng mới nói, trong kết luận có nói đến một vấn đề, là một trưởng phòng làm nhưng mình là người có trách nhiệm lãnh đạo. “Viết sự việc này lên đầu tôi cũng được”.

Trung tướng Ngô Khắc Hoa là chiến sĩ hồng quân cũ tham gia cách mạng từ năm 1929. Vào đầu thời kỳ cách mạng văn hóa, ông bị đánh đổ khi đang là Tư lệnh Pháo binh và mất tích.

“Ngô Khắc Hoa đi đâu rồi?” Chu Ân Lai hỏi, khi Bộ Chính trị thảo luận về việc thực hiện chính sách cán bộ.

Tổng cục Chính trị căn cứ vào chỉ thị của Chu Ân Lai, lập tức triển khai điều tra. Nhưng cán bộ của Bộ Tư lệnh Pháo binh và một số nhóm tạo phản đều nói là không biết. Về sau có một trợ lý nói: “Ngô Khắc Hoa bị giam bí mật dưới một hầm ngầm”.

Biết được manh mối, nhưng lại có một vấn đề khó được đặt ra, làm thế nào để đón Ngô Khắc Hoa an toàn? Vì Tổng cục Chính trị không nắm được chứng cứ trực tiếp. Nhỡ bọn giam giữ Ngô Khắc Hoa biết tin sẽ từ chối không giao hoặc chuyển chỗ giam, như vậy sẽ làm cho vấn đề trở nên phức tạp.

Lý Đức Sinh nghe báo cáo xong, bỗng nảy ra sáng kiến, ông viết ngay một mệnh lệnh: “Đưa ra xét hỏi Ngô Khắc Hoa” và ra lệnh cho cục Bảo vệ Tổng cục Chính trị ngay đêm ấy phải đi đưa Ngô Khắc Hoa về. Bọn giam giữ Ngô Khắc Hoa, vừa thấy lệnh viết tay của Lý Đức Sinh, cho là Tổng cục Chính trị có cùng quan điểm với họ, thoải mái dẫn Ngô Khắc Hoa ra giao cho chiến sĩ bảo vệ.

Người đã được đưa đến, nhưng lại có chuyện hiểu lầm.

Chiến sĩ bảo vệ đưa Ngô Khắc Hoa đến một phòng khách ở khách sạn Kinh Tây, báo với Chủ nhiệm Lý Đức Sinh và Phó Chủ nhiệm Điền Duy Tân đang ngồi trên ghế xa lông: “Báo cáo thủ trưởng, Ngô Khắc Hoa đã được dẫn tới”.

Lý Đức Sinh khoát tay ra hiệu: “Biết rồi!” Chiến sĩ bảo vệ liền đi ra. Lý Đức Sinh nhổm người ra xa-lông: “Đồng chí Ngô Khắc Hoa mời ngồi”.

Tướng Ngô Khắc Hoa nghe nói lại phải “đưa ra xét xử” cho là mình lại bị hỏi cung, ông không hề nhận ra sự thay đổi trong khẩu khí và sử dụng từ của Lý Đức Sinh nên không dám ngồi.

Lý Đức Sinh biết Ngô Khắc Hoa hiểu lầm, liền giải thích: “Đồng chí Ngô Khắc Hoa, chúng tôi theo lệnh của Thủ tướng Chu Ân Lai đến tìm đồng chí nói chuyện”.

Page 24: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngô Khắc Hoa vẫn không dám tin sự thay đổi to lớn đầy kịch tính này. Từ “đưa ra xét hỏi” bỗng biến thành cuộc nói chuyện giữa các đồng chí. Mấy năm cách mạng văn hóa bị phê phán bị đấu tố, bị lừa quá nhiều, nên nhất thời ông phản ứng không kịp.

Thấy đêm đã khuya, lại thấy Ngô Khắc Hoa rõ ràng là chưa thể thích ứng với sự biến đổi đột ngột trái ngược hẳn nhau trong một thời gian ngắn. Lý Đức Sinh đành phải chờ đợi, ông mời Ngô Khắc Hoa ăn cơm tối, rồi nghỉ ngơi, sau đó sẽ nói chuyện... Trải qua mấy lần trắc trở, cuối cùng Ngô Khắc Hoa đã được “giải phóng”. Sau khi được phục hồi, ông đã lần lượt nhận chức Tư lệnh bộ đội Đường sắt, Tư lệnh Quân khu Thành Đô, Tư lệnh Quân khu U-rum-xi (Ô Lỗ Mộc Tề - N.D.) và Tư lệnh Quân khu Quảng Châu.

Lại có cuộc họp của Bộ Chính trị, Chu Ân Lai hỏi: “Tần Cơ Vĩ, Lý Thành Phương đi đâu rồi?”.

Tần Cơ Vĩ và Lý Thành Phương đều là chiến sĩ cũ của Phương diện quân thứ 4, đều đã đảm nhiệm chức vụ Quân đoàn trưởng của Đại quân Lưu (Bá Thừa) Đặng (Tiểu Bình) và bộ đội chí nguyện quân, đều được phong quân hàm Trung tướng năm 1955. Thời kỳ đầu cách mạng văn hóa Tần Cơ Vĩ là Tư lệnh Quân khu Côn Minh, Lý Thành Phương là Chính ủy.

Sau khi Nguyên soái Hạ Long bị hãm hại, Tần Cơ ẫi và Lý Thành Phương lập tức bị bắt giam.

Tần Cơ Vĩ là một dũng tướng, chiến công hiển hách, chiến dịch Thượng Cam Lĩnh trong thời kỳ kháng Mỹ viện Triều là do ông chỉ huy.

Để đánh đổ dũng tướng Tần Cơ Vĩ, Lâm Bưu và đồng bọn rêu rao khắp nơi rằng Tần Cơ Vĩ là người của Hạ Long.

Nếu cố lôi ra một quan hệ gì đó giữa Nguyên soái Hạ Long và Tướng Tần Cơ Vĩ thì đó là sau khi chí nguyện quân về nước, Tần Cơ Vĩ lần lượt nhậm chức Phó Tư lệnh Quân khu Vân Nam, Phó Tư lệnh Quân khu Côn Minh, Tư lệnh Quân khu Côn Minh, mà quân khu Côn Minh là một trong hai quân khu sau khi xóa bỏ Quân khu Tây Nam vào thời kỳ đầu mới dựng nước để xây dựng thành hai quân khu (một quân khu khác là Quân khu Thành Đô) do Nguyên soái Hạ Long làm Tư lệnh Quân khu Tây Nam.

Điền Duy Tân báo cáo tình hình điều tra với Chu Ân Lai khi nói đến tình hình Tần Cơ Vĩ và Lý Thành Phương bị đánh đổ, Chu Ân Lai chỉ rõ: “Vậy là cả một nồi, Quân khu có 6 người lãnh đạo chủ yếu đều bị cách chức”.

Điền Duy Tân báo cáo: “Theo tình hình điều tra mà chúng tôi nắm được thì Tân Cơ Vĩ bị giam ở Hồ Nam, do Quân khu Quảng Châu phụ trách. Tình hình cụ thể vẫn chưa rõ lắm”.

Chu Ân Lai chỉ thị ngay: “Điều đồng chí ấy về!”.

Sau khi Tần Cơ Vĩ về tới Bắc Kinh, ở trong chiêu đãi sở thứ nhất của kho vận tải biển Kinh Đông. Lúc ấy lầu phía sau chiêu đãi sở này trở thành nơi ở của các tướng lĩnh vừa được “giải phóng”. Các tướng lĩnh đã được trả lại tự do, có thể đi chơi đây đó, thăm người thân, bè bạn.

Một hôm, Chu Ân Lai thông báo cho Điền Duy Tân biết, ông muốn gặp Tần Cơ Vĩ. Lúc này Tổng cục Chính trị chưa có kết luận về Tần Cơ Vĩ, việc sắp xếp công tác cho Tần Cơ Vĩ vẫn chưa định. Trong ấn tượng của Điền Duy Tân, Chu Ân Lai hẹn gặp một vị tướng vẫn chưa có kết luận thì chỉ có một mình Tần Cơ Vĩ.

Sau khi nhận được chỉ thị của Chu Ân Lai, Điền Duy Tân lập tức gọi điện thoại đến chiêu đãi sở, nhân viên phục vụ ở lầu phía sau đáp là Tần Cơ Vĩ đi dạo. Điền Duy Tân bảo nhân viên phục vụ: “Đồng chí đi tìm ngay Tư lệnh Tần bảo đồng chí ấy gọi điện thoại ngay cho tôi, Thủ tướng muốn gặp đồng chí ấy”.

Page 25: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Một lúc sau, điện thoại của Tần Cơ Vĩ gọi đến. Ông nghe nói Thủ tướng Chu Ân Lai muốn gặp ông, nên rất xúc động, nói trong điện thoại: “Thủ tướng muốn gặp tôi, tôi mặc quần áo gì?” Điền Duy Tân đáp: “Mặc quân phục”. Tần Cơ Vĩ hỏi: “Vậy tôi có đeo phù hiệu không?” Điền Duy Tân đáp: “Tất nhiên là đeo”.

Quân trang và nhất là phù hiệu là tiêu chí của một quân nhân. Nhưng Tần Cơ Vĩ bị bức hại 7 năm trong cách mạng văn hóa bị tước mất quyền đeo phù hiệu 7 năm. Lúc này ông vừa mới được khôi phục tự do nhưng vẫn chưa được khôi phục công tác. Vì vậy ông không thể không hỏi việc này.

Điền Duy Tân sau khi đưa Tần Cơ Vĩ vào văn phòng của Chu Ân Lai liền đi ngay. Chu Ân Lai và Tần Cơ Vĩ nói chuyện riêng rất lâu.

Sau khi thực hiện chính sách, Lý Thành Phương được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Công nghiệp cơ giới thứ 5. Tần Cơ Vĩ lần lượt giữ chức Tư lệnh Quân khu Thành Đô, Chính ủy thứ hai, Chính ủy thứ nhất rồi Tư lệnh Quân khu Bắc Kinh, sau này là Bộ trưởng Quốc phòng.

4. “Bọn bốn tên” chống lại

Việc “giải phóng” các tướng soái cũ, trên đại thể có một trình tự làm việc.

Bước thứ nhất, do Tổng cục Chính trị thẩm tra phân biệt các kết luận mà trước đây đã làm khi đánh đổ các tướng lĩnh cũ, xác nhận những điều gì là bịa đặt, điều gì là đảo lộn trắng đen, điều gì là quy chụp chính trị.

Sau đó, Tổng cục Chính trị đưa ra kết luận thẩm tra, còn phải được ý kiến nhất trí trên đại thể của đơn vị cũ nơi vị tướng ấy bị đánh đổ.

Khâu khó nhất là Bộ Chính trị, theo quy định, mỗi một tướng lĩnh được “giải phóng” cuối cùng đều phải được Bộ Chính trị thảo luận thông qua.

Hội nghị Bộ Chính trị thường họp từ 7 giờ rưỡi tối, mỗi lần họp thông thường thảo luận kết luận thẩm tra về 4 tướng lĩnh. Mỗi một vị tướng đều có một tập hồ sơ bao gồm quá trình của bản thân, tình hình bị đánh đổ, xem xét giám định tốt xấu, kết luận thẩm tra của Tổng cục Chính trị. Cá biệt còn phụ thêm tài liệu chứng minh cần thiết. Những tài liệu này đều phân phát cho mỗi ủy viên Bộ Chính trị đến dự hội nghị một bản, trước khi thảo luận phải đọc trước một lượt. Cho nên mỗi lần Bộ Chính trị thảo luận về việc “giải phóng” các tướng lĩnh cũ, Điền Duy Tân đều phải xách một gói lớn đem vào hội trường.

Hồi ấy, các cuộc họp Bộ Chính trị đều do Chu Ân Lai chủ trì. Sau khi tài liệu phát xong, Chu Ân Lai tuyên bố: “Mọi người đọc trước tài liệu”.

Khi Điền Duy Tân nói về các tài liệu, những người chống lại đều là “bọn bốn tên”, ghê gớm nhất là Giang Thanh và Trương Xuân Kiều.

Thế là, Hội nghị bắt đầu họp từ 7 giờ rưỡi tối, thường thường đến 12 giờ đêm cũng không kết thúc được, thường sau bữa ăn đêm thảo luận mãi cho đến 3 giờ sáng mới kết thúc.

Điền Duy Tân nhớ lại: “Trong Hội nghị Bộ Chính trị thảo luận vấn đề giải phóng các tướng lĩnh cũ tranh luận rất gay gắt, thời gian dài dằng dặc, quả thật là đã làm cho người ta khó mà chịu đựng. Về sau tranh luận với Giang Thanh nhiều lần rồi cũng quen, không sợ nữa, chẳng qua cũng chỉ thêm mấy cái mũ thôi”.

Trong ký ức của các vị tướng lĩnh cũ, Chu Ân Lai chủ trì Hội nghị Bộ Chính trị như vậy, nói rất ít, chỉ nói một hai câu ở chỗ then chốt. Có điều chỉ với một hai câu ông nói ra, Giang Thanh và đồng bọn không thể cãi lại được, sự việc đã được định đoạt. Chu Ân Lai tuy nói không

Page 26: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

nhiều, nhưng thái độ đối với từng người rõ như mười đầu ngón tay. Một vấn đề nào đó, ông cảm thấy cần ai ủng hộ, liền kịp thời điểm tên “Kiếm Anh ý đồng chí thế nào?”

Chu Ân Lai chưa bao giờ công khai tranh luận với Giang Thanh trong hội nghị. Nhưng nếu Giang Thanh vu cáo quá mức, mũ chụp quá nhiều thì Chu Ân Lai kịp thời đứng ra nói. Ông thường dùng lời lẽ ngắn gọn sáng sủa, nói lại đầu đuôi ngọn ngành của sự việc một lượt, sau đó hỏi lại một câu: “Việc này có thể chụp cái mũ này được không?” Mỗi khi Chu Ân Lai hỏi lại, Giang Thanh thường ngậm tăm không nói.

Nếu gặp một cán bộ nào được “giải phóng” mà thực sự có khuyết điểm sai lầm, thì Giang Thanh và đồng bọn, nhân cơ hội để quy chụp. Lúc này Chu Ân Lai thường nói mấy câu: “Đây không thể coi là sai lầm được, đây là vấn đề trong công tác, ai cũng sẽ có vấn đề như vậy”. Vài câu nhẹ nhàng, đem những chiếc mũ lớn của Giang Thanh và đồng bọn ung dung hất trả lại bọn chúng.

Đến khi ý kiến của mọi người đã phát biểu hòm hòm, Chu Ân Lai còn hỏi thêm một câu: “Các đồng chí còn ý kiến gì không?” Nếu không có người phát biểu ý kiến Chu Ân Lai mới tuyên bố: “Việc này sẽ như thế”. Sau đó lại chuyển sang thảo luận vấn đề “giải phóng” của vị tướng tiếp sau.

Do sự chống đối của Giang Thanh và đồng bọn, việc “giải phóng” cho 175 vị tướng khi thảo luận trong Bộ Chính trị chẳng có mấy người được thuận lợi. Trong ký ức của Điền Duy Tân, tướng Nhan Kim Sinh là một người tương đối thuận lợi, nhưng cũng phải vượt qua ba cửa ải do Giang Thanh dựng lên.

Thiếu tướng Nhan Kim Sinh là người huyện Trà Lăng tỉnh Hồ Nam, năm 1932 tham gia Hồng quân công nông Trung Quốc. Sau khi thành lập nước, đã lần lượt đảm nhiệm chức vụ Tư lệnh kiêm Chính ủy Pháo binh của Quân khu Tây Bắc, Chính ủy Quân đoàn Quân chí nguyện nhân dân Trung Quốc, Chủ nhiệm Cục Chính trị Quân khu Vũ Hán, không lâu trước khi cách mạng văn hóa bắt đầu, ông chuyển ngành làm Thứ trưởng Bộ Văn hóa Quốc vụ viện.

Thứ trưởng Bộ Văn hóa sao lại do Tổng cục Chính trị thẩm tra để “giải phóng”.

Điền Duy Tân giới thiệu trong Hội nghị Bộ Chính trị: “Nhan Kim Sinh là cán bộ quân đội chuyển ngành, thời gian công tác ở Bộ Văn hóa không nhiều, không có sai lầm gì”.

Lý do chỉ có một câu, thời gian đến công tác ở Bộ Văn hoá không nhiều. Thực ra, hệ thống Bộ Văn hóa lúc ấy, bị khống chế trong tay Giang Thanh và đồng bọn. Điều Nhan Kim Sinh ra khỏi hệ thống Bộ Văn hóa, do quân đội sắp xếp như vậy là thoát khỏi nanh vuốt của Giang Thanh và đồng bọn. Đây là một nước cờ tuyệt vời trong việc “giải phóng” các tướng lĩnh của Chu Ân Lai.

Giang Thanh vừa nghe thấy đã chống lại: “Nhan Kim Sinh có sai lầm, ông ta đã thực hiện đường lối văn nghệ tư sản”.

Điền Duy Tân nói: “Nhan Kim Sinh là cán bộ công nông, chữ biết không nhiều, không thể đưa ra một đường lối văn nghệ gì được”. Câu nói ấy có căn cứ. Trên tài liệu phát cho các ủy viên Bộ Chính trị viết rõ ràng: Nhan Kim Sinh, sinh năm 1918, năm 1932, 14 tuổi gia nhập Quân đội Nhân dân, ông ta có thể học được mấy năm?!

Nguyên soái Chu Đức vừa nghe thấy Giang Thanh gây sự một cách vô lý, nói một cách từ tốn: “Nhan Kim Sinh chẳng biết mấy chữ to đâu”. Tổng tư lệnh nói vài câu cho tướng lĩnh, một lời bằng chín đỉnh, Giang Thanh bỗng câm bặt.

Có thể thấy là cửa này đã qua, Điền Duy Tân lại giới thiệu: “Chuẩn bị cử đồng chí Nhan Kim Sinh đến Thiểm Tây...”

Page 27: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Chưa dứt lời, Giang Thanh đã phản đối: “Đồng chí để cho Nhan Kim Sinh đến Thiểm Tây thuộc Phương diện quân thứ 2, để kết bè kéo cánh hẳn. Không nên cử ông ta đến Tây Nam, nên cử ông ta đến Đông Nam”.

Bản thân Giang Thanh kết bè kéo cánh, nên đã lấy việc “kết bè kéo cánh” để đánh giá người khác.

Để đối phó với lòng dạ đố kỵ đó, Điền Duy Tân nói: “Tư lệnh Quân khu Thiểm Tây, Hoàng Kinh Dược là Phó tư lệnh Quân khu tỉnh Hắc Long Giang được điều đến đây”.

Lý Đức Sinh nói: “Hiện nay tình hình đã có sự thay đổi rất lớn, các đồng chí thuộc Phương diện quân thứ 2 ở Thiểm Tây đã không còn nhiều”.

Trải qua một hồi giải thích như vậy, việc đi Tây Bắc của Nhan Kim Sinh mới được thông qua.

Giang Thanh lại phản đối một lần nữa: “Ông ta phạm sai lầm lớn như vậy, giữ chức trưởng là không thích hợp”. Đây là lần thứ ba Giang Thanh chống đối.

Điền Duy Tân nói: “Quân khu Thiểm Tây vốn có một chính ủy. Cử đồng chí Nhan Kim Sinh đến Thiểm Tây là tính đến việc cử đồng chí ấy quan lý các xí nghiệp quân sự. Hiện nay đang chuẩn bị đối phó với chiến tranh. Xí nghiệp quốc phòng ở Quân khu Thiểm Tây rất nhiều”.

Nguyên soái Diệp Kiếm Anh cũng phát biểu: “Hiện nay phải chuẩn bị đối phó với chiến tranh, đạn, pháo đều rất thiếu, cần phải khẩn trương nắm thật tốt”.

Cuối cùng Chu Ân Lai tỏ thái độ: “Tôi thấy việc điều đồng chí Nhan Kim Sinh rút khỏi Bộ Văn hóa đến Thiểm Tây làm Chính ủy quản công nghiệp quân sự là thích hợp”.

Có tiếng nói quyết định của Chu Ân Lai, nên việc của Nhan Kim Sinh coi như trót lọt.

Trải qua hơn một năm làm việc gian nan căng thẳng, 175 vị tướng lĩnh cao cấp bị đánh đổ trong toàn quân cuối cùng đã được “giải phóng” toàn bộ, lại trở lại cương vị lãnh đạo. Chu Ân Lai đã dốc hết tâm huyết vào việc này.

5. Tôi đã mời các vị lãnh đạo cấp trên của các đồng chí trở về

Ngày 12 tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông chủ trì cuộc hội nghị Bộ Chính trị. Hội nghị họp tại thư phòng kiêm phòng khách của Mao Thạch Đông.

Mao Trạch Đông đề nghị các ủy viên Bộ Chính trị có mặt hát “Ba điều kỷ luật, tám điểm chú ý”.

Thế là, các ủy viên Bộ Chính trị cùng hát: “Mỗi một quân nhân đều phải nhớ kỹ, ba điều kỷ luật tám điểm chú ý, thứ nhất, tất cả mọi hành động phải nghe chỉ huy, hành động nhất trí mới có thể thắng lợi...”

Sau Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa 9, khi họp hoặc tiếp kiến cấp dưới, Mao Trạch Đông không chỉ một lần, cùng những người lãnh đạo Trung ương và địa phương hát bài này. Mao Trạch Đông hy vọng toàn Đảng hành động nhất trí, trước tiên là Bộ Chính trị phải nhất trí. Thực ra ở thời kỳ rối loạn ấy, đừng nói đến toàn Đảng hành động nhất trí mà hành động của Bộ Chính trị cũng khó mà nhất trí mặc dù trước mặt Mao Trạch Đông cùng hát, nhưng chỉ nhất trí trên ca từ mà thôi.

Hát xong, Mao Trạch Đông lại nói: “Trâu bò mọc sừng để làm gì? Chẳng qua là để húc nhau!”. Mao Trạch Đông chủ trương đấu tranh triết học.

Page 28: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Một người làm việc lâu ở một nơi thì không được. Làm lâu rồi sẽ ranh mãnh!” Đó là nói về Tư lệnh của Đại quân khu. Ông cho rằng một người ngồi trấn lâu ở một chỗ, đến 20 năm, sẽ xuất hiện nhân tố tiêu cực.

Dừng lại trong chốc lát, Mao Trạch Đông tuyên bố quyết định quan trọng. Ông chỉ vào Đặng Tiểu Bình vừa mới được phục hồi. “Bây giờ, mời một quân sư, tên là Đặng Tiểu Bình. Ra một thông báo làm ủy viên Bộ Chính trị, ủy viên Quân ủy, Bộ Chính trị quản lý tất cả Đảng, chính quyền, quân đội, dân chúng, học sinh, Đông Nam Tây Bắc giữa. Tôi muốn Bộ Chính trị thêm một Tổng thư ký, đồng chí không cần danh nghĩa này, vậy thì làm Tham mưu trưởng vậy”.

Các ủy viên Bộ Chính trị lặng lẽ ngồi nghe, từ nét mặt của họ, hình như không thấy có biểu hiện gì khác nhau về quyết định mà Mao Trạch Đông vừa công bố, nhưng trong lòng họ thì có người vỗ tay thích thú, có người lại giậm chân tức giận.

“Bây giờ chúng ta mời một Tham mưu trưởng. Về đồng chí này, có một số người sợ đồng chí ấy, nhưng đồng chí ấy làm việc tương đối quyết đoán. Cuộc đời của đồng chí ấy đại khái là ba chìm bảy nổi. Là cấp trên của các đồng chí, tôi đã mời về. Bộ Chính trị đã mời về, không phải là một mình tôi mời về”.

Mao Trạch Đông lại quay người nói với Đặng Tiểu Bình: “Đồng chí thế nào, người ta hơi sợ đồng chí, tôi tặng đồng chí hai câu, trong nhu có cương, trong tơ mềm phải có kim nhọn, bề ngoài mềm mỏng một chút, bên trong là công ty gang thép. Khuyết điểm trước đây sửa chữa dần dần”.

Câu này chẳng thà nói là phê bình còn hơn nói là ca ngợi.

Mao Trạch Đông nói chuyện thường là mạn đàm, đề tài câu chuyện rất rộng, nhưng luôn luôn quán xuyến quan điểm và tư tưởng mà ông muốn nói rõ. Bây giờ ông lại đổi sang đề tài khác.

“Bây giờ nhiều người coi thường đoàn nhi đồng, tôi cũng từ đoàn nhi đồng đến, các đồng chí cũng thế”. Mao Trạch Đông vừa nói vừa nhìn khắp lượt những người có mặt, “thời kỳ thanh niên ấy của các đồng chí mười mấy tuổi, hai mươi mấy tuổi đã tài giỏi như thế, tôi thì không tin”. Ông nhấn mạnh không nên coi thường lớp trẻ.

Căn cứ vào quyết định của Bộ Chính trị, Trung ương triệu tập Hội nghị tư lệnh 8 đại quân khu chuyển đổi lẫn nhau. Ngày 20 tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông đã tiếp kiến toàn thể tướng lĩnh cao cấp tham gia hội nghị.

Mao Trạch Đông ngồi giữa thư phòng, ngồi bên trái là Tổng Tư lệnh Chu Đức, ngồi bên phải là Đặng Tiểu Bình vừa tham gia công tác quân ủy, Chu Ân Lai, Giang Thanh, v.v... và mấy ủy viên Bộ Chính trị lần lượt đứng sau phía bên phải Mao Trạch Đông. Vương Hải Dung đứng phía sau bên trái làm “phiên dịch” cho Mao Trạch Đông, dịch những câu phương ngôn ra tiếng phổ thông.

Cuộc tiếp kiến bắt đầu, Mao Trạch Đông vỗ vai Chu Đức: “Đây là vị Tư lệnh giỏi, đây là vị Tư lệnh đỏ của chúng ta, không phải là Tư lệnh đen”.

Sau khi Mao Trạch Đông nói mấy câu ngắn gọn, liền nắm tay trò chuyện với bốn vị tướng lĩnh cao cấp Tiêu Kình Quang, Trần Sĩ Củ, Điền Duy Tân và Mã Ninh.

Người thứ nhất là Đại tướng Tiêu Kình Quang, Tư lệnh Hải quân, Mao Trạch Đông bắt tay Tiêu Kình Quang hỏi: “Khỏe không?”

Khi bắt tay Thượng tướng Trần Sĩ Củ, Mao Trạch Đông hỏi: “Sức khỏe thế nào”. Trần Sĩ Củ đứng nghiêm đáp: “Nhờ phúc của Chủ tịch, sức khỏe vẫn tốt”.

“Những người từ tỉnh Cương Sơn về không còn nhiều nữa”. Mao Trạch Đông cảm thán.

Page 29: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Người thứ ba Mao Trạch Đông bắt tay là Thiếu tướng Điền Duy Tân Phó Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Mao Trạch Đông hỏi: “Đồng chí Điền Duy Tân, đồng chí là người ở đâu?”

“Người Đông A, Sơn Đông”. Điền Duy Tân đáp.

“Tào Thực chôn ở chỗ nào?” Mao Trạch Đông lại hỏi.

“Ngư Sơn ạ!” Điền Duy Tân vừa trả lời, vừa nghĩ Chủ tịch có chuẩn bị!

Mao Trạch Đông lại hỏi: “Bên trái có cái hồ, là hồ gì?”

Điền Duy Tân ngẫm nghĩ đáp: “A, nói đến hồ, thì cách Ngư Sơn còn xa, là hồ Đông Bình ạ!”

“Ồ, vậy thì đúng rồi!” Mao Trạch Đông hỏi thử xong, lại chuyển sang ý khác: “Tổng cục Chính trị sẽ giao cho đồng chí phụ trách!”.

Nghe Mao Trạch Đông nói, Điền Duy Tân không có một chút chuẩn bị nào, cảm thấy rất đột ngột. Có điều ông vẫn nhanh chóng có phản ứng: “Đồng chí Đức Sinh đi rồi, Tổng cục Chính trị chỉ còn một mình tôi là Phó Chủ nhiệm, để tôi tiếp tục ở lại công tác ở Tổng cục Chính trị là cần thiết. Xin Chủ tịch cử chủ nhiệm”. “Không, đồng chí sẽ phụ trách!” Mao Trạch Đông nói với một giọng rất rõ ràng.

Điền Duy Tân nói: “Quá trình công tác và kinh nghiệm của tôi đều không đủ, vẫn mong Chủ tịch cử một chủ nhiệm!”.

Mao Trạch Đông không trả lời nữa, bắt đầu bắt tay và nói chuyện với vị tướng thứ tư, Tư lệnh Không quân Mã Ninh.

Sau khi nói chuyện một cách dí dỏm với Mã Ninh, Mao Trạch Đông lại một lần nữa bắt đầu nói chuyện với mọi người. Ông hỏi Hứa Thế Hữu ngồi ở hàng đầu: “Tôi bảo đồng chí đọc “Hồng Lâu mộng”, đồng chí đã đọc chưa?”

“Đọc rồi ạ!” - Hứa Thế Hữu trả lời rất dứt khoát.

“Đọc mấy lần rồi?”

“Đọc một lần ạ!”

“Một lần chưa đủ, phải đọc ba lần”. Mao Trạch Đông thuận miệng đọc một đoạn dài trong Chương thứ nhất của “Hồng Lâu mộng”.

Từ khi khi Mao Trạch Đông yêu cầu Hứa Thế Hữu đọc “Hồng Lâu mộng”, hầu như các tướng lĩnh có mặt đều đã đọc bộ tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng này. Nhưng, bất kể là người công tác quân sự, hay người công tác chính trị, chẳng có ai có thể đọc một đoạn dài trong “Hồng Lâu mộng”. Vậy mà Mao Trạch Đông đã 80 tuổi vẫn đọc thuộc một đoạn dài trong “Hồng Lâu mộng”, làm cho các tướng lĩnh ai ai cũng phải thán phục.

Đọc xong “Hồng Lâu mộng” Mao Trạch Đông còn bảo Hứa Thế Hữu học Chu Bột. Chu Bột là một danh tướng dưới quyền của Lưu Bang trong những năm đầu thời Tây Hán là cột trụ diệt Lữ Hậu giữ yến cho họ Lưu sau khi Lưu Bang chết.

Sáng hôm sau, hội nghị chia tổ thảo luận.

Điền Duy Tân được chia vào tổ có Chu Ân Lai. Tham gia thảo luận ở tổ này có Kỷ Đăng Khuê cùng Tư lệnh và Chính ủy ba đại quân khu Bắc Kinh, Nam Kinh, Thẩm Dương cùng với Đường Văn Sinh, Vương Hải Dung và Mao Viễn Tân v. v...

Khi thảo luận kết thúc, Kỷ Đăng Khuê ủy viên Bộ Chính trị chủ quản công tác tổ chức lúc ấy hỏi Chu Ân Lai: “Mệnh lệnh viết thế nào?” Chu Ân Lai chỉ vào Điền Duy Tân: “Đồng chí hỏi Điền Duy Tân”. Nói xong đi ngay.

Page 30: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Điền Duy Tân bảo: “Tôi cũng chưa trải qua việc chuyển đổi tư lệnh các đại quân khu”.

“Vậy sáng mai hội ý ở phòng Hà Bắc”. Kỷ Đăng Khuê nói.

Sáng hôm sau, Kỷ Đăng Khuê, Quách Ngọc Phong (Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng), Điền Duy Tân v.v… đến phòng Hà Bắc tại Đại lễ đường Nhân dân khởi thảo mệnh lệnh chuyển đổi các tư lệnh 8 đại quân khu.

Buổi chiều hôm ấy, Bộ Chính trị họp thảo luận việc bổ nhiệm và miễn nhiệm. Mặc dù trước đó Mao Trạch Đông đã tỏ thái độ. Chu Ân Lai chủ trì công việc hằng ngày của Bộ Chính trị và Diệp Kiếm Anh chủ trì công tác Quân ủy Trung ương đều đã ủng hộ Điền Duy Tân giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị tại hội nghị. Nhưng Giang Thanh và đồng bọn kiên quyết phản đối, đồng thời đề cử Trương Xuân Kiều là ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị. Ngày 5 tháng 1 năm 1975, Văn kiện số 1 (1975) của “Trung ương Đảng bổ nhiệm Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham mưu trưởng, bổ nhiệm Trương Xuân Kiều làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị.

Chương II

CUỘC CHIẾN SỐNG MÁI

1

Chu Ân Lai biến mất, Mao Trạch Đông trở mặt

Cuộc gặp đặc biệt làm Trương, Vương hớn hở vui mừng

1. Thủ tướng đột ngột biến mất

Mặt trời lặng lẽ chiếu những tia nắng ấm áp vào khu nhà Tây Hoa Sảnh yên tĩnh và cũ kỹ trong Trung Nam Hải. Gió đã ngừng từ lâu, mây cũng ngừng trôi. Tựa hồ như vạn vật không sinh mệnh đều có linh tính lo ngại cho chủ nhân Tây Hoa Sảnh chưa bao giờ biết mệt mỏi nhưng đã rất mệt mỏi ấy.

Ông đã già, gày gò, hốc hác. Tóc mai của ông đã bạc, trên mặt, trên tay đã sinh ra rất nhiều chấm đồi mồi của người già. Cuộc “đại cách mạng văn hóa” dây dưa mãi không xong đã làm ông cạn kiệt hết tâm sức, làm tâm lực ông mệt nhọc quá độ. Giai điệu của cuộc đời ông đã gần đến phần cuối. Ông bị bệnh ung thư.

Đầu năm 1972, có lẽ là còn sớm hơn một chút, Chu Ân Lai đi ngoài ra máu. Từ đó, Chu Ân Lai càng ra sức làm việc ngày đêm. Mỗi ngày ngủ nhiều thì ba bốn tiếng, ít thì hai ba tiếng, thậm chí mấy chục tiếng đồng hồ không chợp mắt.

Bác sĩ khuyên ông đi kiểm tra toàn diện, nhưng ông không nghe. Ông nhìn bác sĩ với ánh mắt buồn rầu lặng lẽ, mang chút đăm chiêu và nỗi buồn man mác khẽ cầu khẩn: “Các đồng chí chớ vội, hãy để cho tôi qua thời gian bận bịu này đã. Hơn nữa, tìm ra bệnh ung thư thì cũng có cách gì chữa đâu. Tuổi tôi đã cao rồi, có thể làm việc được thêm ít ngày, giải quyết thêm được một số việc là được rồi”.

Page 31: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Hãy để cho tôi qua thời gian bận bịu này đã”.

Thế nào là “hết bận bịu” thế nào là “một thời gian”...

Hôm ấy, Chu Ân Lai đã hơn 30 tiếng đồng hồ chưa được chợp mắt. Rốt cuộc đã xử lý được bao nhiêu văn kiện, tiếp được bao nhiêu người? E rằng thư ký cũng không rõ. Hơn 1 giờ đêm, hình như ông muốn nghỉ một chút, thư ký xem đồng hồ nhắc: “Thưa Thủ tướng, còn 14 phút nữa”.

“Ô, các đồng chí chuẩn bị, tôi đi cạo râu”. Thân thể ông hơi động đậy, rồi nhanh chóng hồi phục lại với những bước đi nhanh nhẹn vốn có. Một vệ sĩ khi mới đến làm nhiệm vụ ở bên cạnh Chu Ân Lai, Đặng Dĩnh Siêu luôn dặn một câu: “Ân Lai đi nhanh, các đồng chí nên chú ý, đừng rớt lại sau nhé”. Đúng như vậy, ông đi bộ thường làm cho người ta liên tưởng đến hành động quân sự khẩn cấp. Trước hết là vì sự sắp xếp hoạt động của ông hằng ngày đều rất chặt chẽ xít xao, thời gian tính từng giây từng phút. Khi một việc bị lỡ, sẽ liên quan tới mấy việc thậm chí mười mấy việc. Bây giờ Chu Ân Lai cạo râu, chứng tỏ có hoạt động ngoại vụ ông chú ý dáng vẻ gọn gàng sạch sẽ. Ông coi đó là sự lễ phép. Thời gian còn lại không nhiều, xem ra không kịp ăn cơm. Nhân viên công tác liền gọi điện thoại cho Lý Duy Tín người phụ trách công tác chiêu đãi.

Trước đây, hễ Chu Ân Lai không kịp ăn cơm, nhân viên công tác thường gọi điện cho Lý Duy Tín đề nghị anh ta chuẩn bị một cốc cháo bột ngô hoặc mấy chiếc bánh bao chay để ăn trên đường đi. Lần này do tình hình sức khỏe của Chu Ân Lai, họ đề nghị Lý Duy Tín làm một bát mì sợi. Tất nhiên, Chu Ân Lai ăn cơm uống trà ở bên ngoài đều trả tiền. Sau khi thành lập nước, những người lãnh đạo trung ương và các nhân viên công tác bên cạnh họ ở Trung Nam Hải đều đã từng nhiều lần kiểm điểm về các vấn đề này, nhưng Chu Ân Lai và những nhân viên công tác bên ông đều không có bất cứ một hiện tượng vi phạm nào.

Gọi xong điện thoại trở về, phòng ngoài phòng trong rối tung: Thủ tướng Chu đã “mất tích!”, mọi người khẩn trương tìm kiếm, bỗng có người nói: “Ôi giời, chẳng phải là Thủ tướng bảo phải cạo râu ư?”

Mọi người lập tức vào phòng rửa mặt, vừa mở cửa mọi người đều sững lại: Tay trái ông buông thõng, còn cầm chiếc khăn mặt, tay phải hơi khuỳnh, trong tay vẫn cầm hờ chiếc chổi bôi xà phòng và bàn cạo râu; ông không nói cũng không động đậy, hình như đã ngừng thở, ông đã ngủ nghiêng bên chiếc gương!

Khuôn mặt khôi ngô của ông đã từng làm cho mọi người Trung Quốc tự hào, bây giờ gày hóp vàng xạm, đôi môi vẫn lộ ra sự hiền lành nhân ái, nhưng hai mắt ông đã trũng sâu...

Đừng lên tiếng, mọi người đưa mắt nhìn nhau ra hiệu. Nhưng máu trong người họ cuộn trào, dâng lên tắc nghẹn nơi cổ họng. Họ chỉ có thể để cho những giọt nước mắt lăn trên gò má.

Phút chốc, đôi vai Chu Ân Lai động đậy, đôi mi nhấp nháy miệng bật ra một tiếng “Ôi chà!”, Chu Ân Lai đứng thẳng dậy sờ mặt rồi đi vội ra ngoài, vừa giơ tay xem đồng hồ, vừa lẩm bẩm: “Hỏng rồi, sao tôi lại ngủ được nhỉ, đến muộn mất rồi, đến muộn rồi, lần này là do tôi...”

“Thưa Thủ tướng!” Vệ sĩ vừa gọi vừa đuổi theo, nhưng không dám đến trước mặt mà chỉ theo sau, vì nước mắt anh đang chảy.

Đến Tân Lục Sở nơi tiếp khách, khuôn mặt vàng xạm của Chu Ân Lai đã như một kỳ tích biến thành hồng hào tươi vui của tuổi thanh xuân. Các nhân viên công tác từ lâu đã phát hiện ra một điều bí mật: chỉ có công việc mới làm cho Chu Ân Lai trẻ trung. Cuộc hội đàm bắt đầu. Đó là cuộc hội đàm với Thủ tướng Việt Nam Phạm Văn Đồng từ 2 giờ sáng đến lúc mặt trời mọc...

Như vậy là, với tâm trạng cực kỳ bình tĩnh đón cái chết đến gần. Thực ra, có lẽ cái chết đối với ông là một sự giải thoát. Mấy chục năm làm việc không ngừng, trong sự rối loạn hết năm này qua năm khác, phải sống trong tình cảnh hiểm nguy phức tạp không có lấy một chút thư giãn con người, sự đả kích ngấm ngầm và công khai ở bên trong tầng lớp lãnh đạo cao nhất và lời phê

Page 32: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

bình không phải là ác ý nhưng lại làm cho người ta khó tiếp thu của người lãnh đạo cao nhất. Áp lực nặng nề về tinh thần chỉ có thể nhẫn nhục gánh chịu mà không có chỗ nào có thể thổ lộ tâm trạng đau khổ của mình... Tất cả những cái đó, đều sẽ theo chiếc thuyền của cuộc sống đi đến bờ bên kia và biến đi tất cả, đến lúc ấy ông có thể nghỉ ngơi yên tĩnh. Ông quá cần được nghỉ ngơi. Ông đã nợ sinh mạng mình quá nhiều, quá nhiều sự nghỉ ngơi. Nhưng ông lại yêu quý quyến luyến vô hạn đất nước và nhân dân mình, ông không sao có thể rời xa. Điều làm cho ông không thể yên tâm mà ra đi với nỗi lo lắng như thiêu như đốt là đất nước đang từng bước đi tới sự sụp đổ. Ông cố hết sức chống đỡ thân thể mình, chống đỡ đất nước đang rối loạn. Điều làm ông cảm thấy thư thái là Mao Trạch Đông đã dùng lại Đặng Tiểu Bình, đồng thời có ý dùng Đặng Tiểu Bình để thay thế ông. Ông gửi hy vọng vào Đặng Tiểu Bình. Nhưng sự phát triển của tình hình sau này đã không giản đơn như ông dự đoán.

2. Không tìm Ân Lai mà tìm Trương, Vương

Tập đoàn chính trị Lâm Bưu tuy đã biến mất khỏi vũ đài chính trị Trung Quốc, nhưng Mao Trạch Đông vẫn tiến hành “đại cách mạng văn hoá” lại thêm những hành động ngang ngược của tập đoàn Giang Thanh, tình hình cả nước căn bản không có gì sáng sủa.

Ngày 4 tháng 7 năm 1973, tại nơi ở trong Trung Nam Hải, Mao Trạch Đông đã triệu kiến Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều. Hơn nửa năm trước, Vương Hồng Văn được chuyển từ Thượng Hải lên Trung ương. Trong hội nghị công tác Trung ương họp vào tháng 5, Mao Trạch Đông chỉ thị Hoa Quốc Phong và Vương Hồng Văn cùng tham gia hội nghị Bộ Chính trị đồng thời tham gia công tác Bộ Chính trị. Theo đề nghị của Mao Trạch Đông, Trung ương giao cho Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn phụ trách chuẩn bị văn kiện cho Đại hội đại biểu toàn quốc khóa 10 của Đảng Cộng sản Trung quốc.

Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều cung kính ngồi bên cạnh Mao Trạch Đông.

Năm ấy Vương Hồng Văn 39 tuổi, là Phó Chủ nhiệm ủy ban Cách mạng Thượng Hải, sau Đại hội Đảng khóa 10 họp vào tháng 8 được bầu làm Phó Chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc. Vương Hồng Văn trẻ, mặt mũi cũng khá, sau khi đến Trung ương công tác, càng chú ý làm dáng, nhìn thì có dáng vẻ chững chạc uy nghi, rất có phong độ. Trương Xuân Kiều lớn hơn Vương Hồng Văn 17 tuổi, trên sống mũi lại có cặp kính cận dày cộp, hình như tinh thần không đủ nhưng trên thực tế ông ta là một con người giỏi suy nghĩ, túc kế đa mưu. Trương là Tổ phó Tổ cách mạng văn hóa Trung ương, ủy viên Bộ Chính trị. Sau Đại hội khóa 10, ông ta được bầu làm ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị.

“Hai người các anh phụ trách làm báo cáo và Điều lệ Đảng. Hôm nay gọi các anh đến để nói mấy việc. Gần đây Bộ Ngoại giao có một số vấn đề không làm cho người ta vừa lòng lắm, đại khái là các anh cũng đã biết”.

Việc không bằng lòng với công tác ngoại giao, không gặp Chu Ân Lai mà lại gặp Trương, Vương, hàm ý trong đó là rất rõ ràng. Mao Trạch Đông bàn luận rất thú vị.

Ông lại nói chuyện tới vấn đề nước Mỹ.

“Hai cô từ Liên hợp quốc trở về đều nói là thịt và thức ăn của nước Mỹ ăn không ngon. Bản thân Ních-xơn cũng thừa nhận thịt kẹp ở giữa, có ba miếng khó xơi: Trung Quốc, châu Âu và Nhật Bản. Đây không nói đến cái khác, Thế giới thứ ba”.

Hai cô mà Mao Trạch Đông nhắc đến là chỉ hai người đang có mặt Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh.

Tiếp đó ông lại nói tới cuộc đấu tranh đường lối trong lịch sử của Đảng, rằng xưa nay cứ có một cơn gió thổi tới là theo ngay, “Ví dụ như đường lối của Vương Minh ở các căn cứ địa, các khu trắng, quyền lãnh đạo chủ yếu họ đều giữ cả. Chưa đầy 4 năm đã đi tong... Một cơn gió

Page 33: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

tới, là xoay theo ngay, nhiều đấy, không phải ít đâu. Giơ đầu ra mà chống lại, là thiểu số. May mà Đằng Đại Viễn vẫn chưa chết, chỉ còn một phiếu của kẻ hèn này. Đã sợ bị cô lập vì sao lại xoay theo chiều gió?”

Mao Trạch Đông lại nói đến vấn đề sách lược cách mạng, nói cách mạng không thể không có thỏa hiệp, đồng thời lấy việc Lê-nin ký hòa ước Bơ-rét Sli-tốp làm ví dụ, nói đến việc Lê-nin chủ trương hoàn toàn chiến bại, chủ trương quân đội Nga đánh nhau với Trung Quốc và Nhật Bản, hoàn toàn bị thất bại, càng triệt để càng tốt, như vậy cách mạng sẽ nổi lên.

“Những ví dụ như thế nhiều lắm, bao gồm Đại chiến thế giới thứ hai, Uy-liêm thứ mấy của nước Đức nhỉ?”

“Uy-liêm thứ 2”. Có người nói xen vào, “tạm thời gọi Uy-liêm thứ x đã, oai phong lẫm liệt, sát khí đằng đằng, đánh đông đánh tây, kết quả hoàng đế cũng không biết đi đằng nào. Bị giết, bị chết, chạy trốn, tôi không tra cứu rõ được toàn bộ quân đội bị tiêu diệt”.

“Đại chiến thế giới thứ hai, Hít-le càng hung hãn, càng hung hãn càng tốt, anh có tin không? Càng giết người thì càng phải cách mạng. Biện pháp của nó rất giản đơn, anh giết được người thì sao tôi không giết được người? Lỗ Tấn viết trong “AQ chính truyện”: “Hòa thượng động được, sao tôi không động được?””

Những lời nói của Mao Trạch Đông có thể nói là sự phát huy cao hứng, đầu đề câu chuyện rất rộng, có một số không có quan hệ trực tiếp đến việc phê bình Bộ Ngoại giao. Cuối cùng, ông quay trở lại chuyện chính.

“Kết luận có 4 câu: Việc lớn thì không báo cáo, việc nhỏ ngày nào cũng đưa, chuyện này mà không sửa chữa, có xét lại là tất nhiên. Tương lai có chủ nghĩa xét lại, thì chớ bảo tôi không nói trước...”

Khi Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều từ nơi ở của Mao Trạch Đông đi ra thì bầu trời đã đây sao. Xe Hồng Kỳ của họ rời khỏi nơi ở của Mao Trạch Đông chầm chậm men theo con đường đất quanh hồ Trung Nam Hải đi ra.

Người mà Mao Trạch Đông phê bình là Chu Ân Lai, điều đó không còn gì rõ ràng hơn. Bốn câu Mao Trạch Đông nói cuối cùng là kết luận của cuộc nói chuyện, cũng là chỗ quan trọng nhất. Việc phê bình tất nhiên là khá quan trọng.

Thực ra, đối với Chu Ân Lai không thể nói là Mao Trạch Đông không tín nhiệm và nhờ cậy, nhưng một số điều nào đó không bằng lòng của Mao đối với Chu thực sự là đã có từ lâu, sự không bằng lòng này, về khách quan là do Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên liên tục tấn công Chu Ân Lai tạo đủ dũng khí cho ông.

Mặt hồ Trung Nam Hải sóng gợn lấp lánh, những cành dương liễu ven hồ đung đưa nhè nhẹ.

Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn rất đắc ý. Hy vọng sắp biến thành hiện thực, cách mạng có thể thay đổi tất cả.

3. Một tấm lòng không thể bình yên

Tháng 11 năm 1973, Bộ Chính trị họp phê bình Chu Ân Lai. Cuộc họp này được triệu tập theo đề nghị của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông cho rằng, trong cuộc hội đàm với Kít-xin-gơ, Quốc vụ khanh của Hoa Kỳ, Chu Ân Lai đã phạm sai lầm hữu khuynh.

Cuộc hội đàm giữa Chu Ân Lai và Diệp Kiếm Anh với Kít-xin-gơ kết thúc không lâu. Phiên dịch lập tức báo cáo tình hình hội đàm với Mao Trạch Đông, trong đó có nói đến Thủ

Page 34: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

tướng Chu Ân Lai có vấn đề không báo cáo với Chủ tịch, không xin ý kiến Chủ tịch, Chu và Diệp đã bị bom nguyên tử của Mỹ làm cho khiếp đảm.

Mao Trạch Đông tin lời của phiên dịch; cho rằng Chu và Diệp đã hữu khuynh đầu hàng Mỹ.

Đứng trước vấn đề này, ngày 17 tháng 11, Mao Trạch Đông nói với một số ít người rằng: “Nói vấn đề Đài Loan có hai khả năng là sai, phải đánh. Khi ở Thiểm Bắc, đến một khu nhỏ tí xíu, không đánh nó cũng không chịu đầu hàng”.

“Nói trước mặt các đồng chí, Bộ Chính trị họp, các đồng chí có thể đến, đặt một hàng ghế ở phía sau. Ai định thực hiện chủ nghĩa xét lại thì phải phê phán. Các đồng chí phải có dũng khí, chẳng qua chỉ là xóa bỏ chức vụ của mình”.

Trong hội nghị Bộ Chính trị họp tháng 11, Giang Thanh tỏ ra rất sốt sắng phấn khích.

“Đây là cuộc đấu tranh đường lối lần thứ 11!”

Diêu Văn Nguyên cũng nói theo như vậy.

Giang Thanh còn công khai chỉ trích Chu Ân Lai, là “vội vã muốn thay thế Mao Chủ tịch!”. Bà ta biết phải dùng lời lẽ như thế nào để có thể làm tổn thương nhiều nhất đến Chu Ân Lai. Bà ta biết Chu Ân Lài đang ốm nặng.

Chu Ân Lai thản nhiên, ông bình tĩnh ngồi trên ghế lắng nghe Giang Thanh phát biểu.

Nhưng trong lòng Chu Ân Lai thấy băn khoăn.

Cuộc hội đàm với Kít-xin-gơ là hoàn toàn làm theo ý đồ của Mao Trạch Đông, lẽ nào lại hiểu sai ý đồ của Mao Trạch Đông? Lẽ nào đã xuất hiện sự sai lệch hữu khuynh trong hội đàm? Nói không xin ý kiến, không báo cáo, thì đó không phải là sự thật. Trong vấn đề xin ý kiến và báo cáo, Chu Ân Lai thường xuyên rất chú ý, rất thận trọng, không cho phép sơ suất một chút. “Việc lớn thì không thảo luận, việc nhỏ ngày nào cũng đưa”. Có những việc lớn nào cần thảo luận (“thảo luận” ở đây nên hiểu là “báo cáo”) mà không thảo luận (báo cáo)? Những việc nào nhỏ không nên quấy rầy Chủ tịch mà ngày nào cũng đưa đến để quấy rầy? Phiên dịch có thể trực tiếp báo cáo tình hình với Chủ tịch trước và nói ý kiến cá nhân, trong hoàn cảnh này rốt cuộc công việc sẽ phải tiến hành như thế nào?

Chu Ân Lai cầm tách trà, chậm rãi uống một hớp.

Nước trà đắng!

Có điều, Giang Thanh không được Mao Trạch Đông ủng hộ vô điều kiện.

Ngày 9 tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông tiếp kiến quốc vương Nê-pan Pi-ran-đơ-ra và hoàng hậu. Cuộc tiếp kiến kết thúc, Mao Trạch Đông đưa tiễn Quốc vương và hoàng hậu đến từ sườn núi Hy-ma-lay-a, lần lượt nói chuyện với ba tốp: Chu Ân Lai, Vương Hồng Văn, Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh.

Mao Trạch Đông nói với Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh: “Cuộc họp này rất tốt, rất tốt”. Đó là chỉ cuộc họp của Bộ Chính trị phê bình Chu Ân Lai vào tháng 11.

Ý kiến này của Mao Trạch Đông cũng được nhắc lại khi nói chuyện với Chu Ân Lai và Vương Hồng Văn.

Ở một số mặt nào đó Mao Trạch Đông không vừa ý với Chu Ân Lai nhưng ông không cho rằng Chu sẽ “vội vã”. Mao Trạch Đông hiểu Chu Ân Lai và cũng hiểu Giang Thanh chỉ có Giang Thanh mới “vội vã”.

Lần công kích này đối với Chu Ân Lai tạm thời lắng xuống. Tất nhiên, sự việc không và cũng không thể kết thúc ở đây.

Page 35: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

2

Giang Thanh thiêu quân đội cũng thiêu luôn cả bọn

Mao Trạch Đông đánh phe cánh Thượng Hải, đánh vào chỗ hiểm của “bọn bốn tên”

1. Xây dựng lực lượng vũ trang thứ hai

Quân đội là một lực lượng hùng mạnh có ảnh hưởng lớn, nó đứng ở bên nào, bên ấy sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối. Đối với trận quyết chiến trong tương lai, trong lòng Giang Thanh đầy mâu thuẫn. Bà ta thấy sức khỏe của Chu Ân Lai mỗi ngày mỗi khác, thân thể ngày càng gầy yếu, không đủ hơi để nói. Theo thông tin của bác sĩ, bệnh của ông khá nghiêm trọng. “Hay!” Bà ta vui sướng vỗ tay vào đùi. “Hay tuyệt, sẽ dùng ba mũi tiến công Chu Ân Lai: một là, về tinh thần, sẽ tìm mọi cách đày đọa ông ta; hai là, tăng nặng công việc hằng ngày làm cho ông ta sức cùng lực kiệt; ba là, tăng thêm bệnh”. Mấy mũi giáp công này sẽ đủ để làm cho Chu Ân Lai sớm đi chầu ông bà ông vải. Đến lúc ấy, Quốc vụ viện, cơ quan quyền lực hành chính cao nhất này, tự nhiên sẽ rơi vào tay bà ta. Công lớn hoàn thành, giành được thiên hạ, bà ta đang mơ giấc mơ nữ hoàng nay mai.

Bà ta tìm mọi cách nắm quyền quân sự. Để xây dựng lực lượng vũ trang của mình hầu như đã hao tổn hết tâm huyết. Hôm ấy, bà ta mời Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên đến để thổ lộ tâm tư của mình với mấy người tâm phúc.

“Trên danh nghĩa tôi tuy là Chủ nhiệm Tổng cục chính trị, nắm quyền nhân sự của toàn quân”. Trương Xuân Kiều nhíu lông mày nói, “nhưng trong việc bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quan trọng thì tôi không có một chút quyền hành nào. Hễ Thường vụ Quân ủy họp thì họ chiếm đa số, họ lại quen nhau, đằng sau còn có sự khống chế của Chu Ân Lai, tôi chỉ là một Tư lệnh đơn thương độc mã, không thể nào chống lại được bọn họ”. Ông ta lo lắng sốt ruột: “Quyền quân sự không ở trong tay, đó là nhược điểm chí mạng của chúng ta. Chúng ta tuy có trong tay hàng ngàn hàng vạn phái tạo phản, nhưng lại phân tán, tạo phản thì còn được, nhưng khi đụng đến gươm súng thật thì họ đâu có là đối thủ của quân đội?!”

“Bây giờ chúng ta làm thế nào để nắm được quân đội?” Giang Thanh bắt chéo hai tay, chậm rãi bước, nói: “Đây là một nước cờ then chốt quyết định thắng bại, bây giờ mới nắm có phần hơi muộn”.

Bà ta phấn khích vung nắm tay: “Người ta không thể nào để bí đái mà chết, chúng ta phải tổ chức lực lượng vũ trang thứ hai thôi. Phái tạo phản vẫn nghe theo chúng ta. Tổ chức lại dân binh, phát súng đạn, tiến hành huấn luyện quân sự, đến giờ phút then chốt, đưa đội ngũ này ra, sẽ có thể đọ cao thấp với họ”. Nói đến đây, bà ta nhìn Vương Hồng Văn: “Lực lượng vũ trang thứ hai, anh sẽ tổ chức trước ở Thượng Hải, đó là căn cứ địa của anh, quen người quen đất và có cơ sở quần chúng”.

“Đúng”, Vương Hồng Văn hiểu ý gật gật đầu, “giao vũ khí cho dân binh, phải hiện đại hóa, súng máy, pháo, thậm chí cả tên lửa, đều phải chuẩn bị đủ, khi quyết chiến thật sự, hạ lệnh một tiếng, có thể đưa ra ngay quyết một trận tử chiến với quân chính quy của Diệp Kiếm Anh!”. Vương Hồng Văn nghiễm nhiên trở thành Tổng Tư lệnh chỉ huy thiên binh vạn mã.

“Chúng ta sẽ tiến công theo hai đường”. Giang Thanh nói tiếp: “Tôi cũng không thể để cho Diệp Kiếm Anh yên, phải phóng hỏa khai hoang, cổ vũ phái tạo phản trong quân đội nổi lên, gây rắc rối cho Diệp Kiếm Anh, cũng hay!” Bà ta nhìn Trương Xuân Kiều nói: “Anh lợi dụng

Page 36: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

địa vị Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, cũng phải tìm hiểu một số người của chúng ta, trọng thưởng một chút, tất sẽ có người dũng cảm. Tôi không tin không có người theo chúng ta! Không cần nhiều, ở khu vực gần Bắc Kinh, có binh lực khoảng một hai sư đoàn đứng ở bên chúng ta thì đủ để có thể giành được cả thiên hạ...”

Vương Hồng Văn về Thượng Hải ăn chơi lu bù, ra sức hưởng lạc, bọn kết nghĩa anh em của anh ta bám theo sau.

“Đồng chí Hồng Văn!” Vương Tú Trân hôm ấy ngồi bên cạnh anh ta vội vã hỏi: “Hãy cho biết trước một số tin đã!”

“Tin tức ư!” Vương Hồng Văn làm ra vẻ chau mày nói: “Căn cứ tình hình sức khỏe của Chủ tịch và Thủ tướng thì trong bố trí chiến lược, chúng ta phải bắt tay vào chuẩn bị sớm. Người ta không tính xa thì tất sẽ có mối lo gần. Tình hình sức khỏe của Chủ tịch và Thủ tướng đều không được tốt. Qua 8 năm đọ sức, khi Chủ tịch còn sống rất khó đánh đổ được Chu Ân Lai, Chủ tịch không phải là không muốn đánh đổ Chu Ân Lai, nhưng có một lần ông thổ lộ: “Chống Chu tất sẽ loạn”. Ông sợ lật đổ Chu Ân Lai sẽ dẫn đến thiên hạ đại loạn, đây là điều sâu xa khiến chậm trễ không dám ra tay đối với Chu Ân Lai nhưng họ đều đã quá tuổi cổ lai hy rồi, Chủ tịch đã 81 tuổi, Chu Ân Lai cũng 76, 77 tuổi. Theo báo cáo chính xác của bác sĩ, thời gian mà họ quản lý triều chính sẽ không còn dài nữa”.

“Căn cứ tình hình này”, Vương Hồng Văn cố ý dừng lại làm ra vẻ: “Nếu Chủ tịch qua đời trước, chúng ta sẽ có một cuộc đọ sức giáp lá cà với Chu Ân Lai, nếu cá không chết thì lưới sẽ rách, có họ thì không có chúng ta. Có chúng ta thì không có họ. Đó là mâu thuẫn một mất một còn, nói một cách khẳng định, khả năng thay ca trong hòa bình là rất ít, còn khả năng cực lớn là dùng vũ lực để thay ca. Trừ phi khi Chủ tịch vẫn chưa qua đời, để cho chúng ta thay ca trước, bãi bỏ hết mọi chức vụ của Chu Ân Lai. Xem ra bây giờ khả năng này rất ít. Quyền lực, phải khẳng định là không thể do người khác ban cho, mà phải dựa vào bản thân chúng ta để giành lấy. Không thể dựa vào thần thánh và hoàng đế”. Anh ta nhìn lũ bạn, với hàm ý sâu xa “dựa vào tài năng của chúng ta”.

Nói đến đây, anh ta trầm ngâm suy nghĩ, rồi lại tiếp tục: “Nếu Chu Ân Lai đi trước, Chủ tịch qua đời sau Chu Ân Lai, thì việc thay ca sẽ có hai khả năng, trực tiếp giao quyền Đảng, chính quyền và quân sự cho chúng ta, như vậy có thể tiếp quản hòa bình. Một khả năng khác, đem quyền lực giao cho người khác, tạo nên mặt đối lập cho chúng ta, thì đó sẽ là một cuộc chiến sống mái. Cho dù xuất hiện tình hình gì, chúng ta cũng cần có lực lượng vũ trang của mình. Lần này tôi về đây là vì việc này”.

“Sự bố trí chiến lược này, suy tính thật chu đáo, kịp thời, chính xác”. Từ Cảnh Hiền trầm ngâm một lúc rồi nói: “Phải đề phòng trước thì không lo việc bất trắc, nếu không đến lúc quyết chiến thật sự, chúng ta sẽ tay không, sẽ như trứng chọi với đá, ngồi chờ chết!”.

“Thượng Hải là nơi bắt nguồn của đại cách mạng văn hóa, Vương Tú Trân mặt đã hơi đỏ vì rượu xúc động nói: “Chúng ta đều xách đầu mình đi làm đại cách mạng văn hóa, cũng đều là con chim sẻ của hồ Động Đình, đã thấy sóng to gió lớn”. Nói đến đây, cô ta vỗ vào ngực, giơ tờ cam đoan, nói thánh nói tướng: “Đồng chí yên tâm. Thượng Hải sẽ chuẩn bị lực lượng vũ trang thứ hai trước, chúng ta có hàng triệu công nhân, tổ chức những công nhân trung thành với chúng ta lại, tiến hành huấn luyện quân sự, phát cho họ vũ khí hiện đại, đó là một lực lượng xoay chuyển càn khôn đấy”. Cô ta vung nắm tay, thề: “Chúng ta thề chết bảo vệ Tổ cách mạng văn hóa Trung ương do đồng chí Giang Thanh đứng đầu dù phải vào nơi nước sôi lửa bỏng, dù chết cũng không chối từ”. Chúng ta phải tìm lý do để có danh chính ngôn thuận khi tổ chức lực lượng vũ trang thứ hai. Từ Cảnh Hiền rất có tính toán, nói một cách chừng mực: “Phải tuyệt đối giữ bí mật, đừng để tin tức lọt ra ngoài không thể rút dây động rừng, chúng ta phải ngầm cố gắng”.

Page 37: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Vương Hồng Văn ngồi trấn ở Thượng Hải, trong tình hình cực kỳ bí hiểm, lấy danh nghĩa tăng cường quốc phòng ven biển, bắt đầu tổ chức dân binh, tăng cường huấn luyện quân sự, đồng thời phát vũ khí từng đợt và từng thời kỳ.

2. Thái độ của Mao Trạch Đông với Giang Thanh

Đối với những việc làm của Giang Thanh, không phải Mao Trạch Đông không quản một tí gì. Từ cuối năm 1973 đến nay, sự không bằng lòng của ông đối với Giang Thanh ngày càng nhiều, đã từng nhiều lần phê bình Giang Thanh.

Ngày 25 tháng 11 năm 1973, Mao Trạch Đông đã phê vào một bức thư gửi để phê bình Giang Thanh như sau:

In và phát cho các đồng chí trong Bộ Chính trị. Có một số ý kiến tốt, phải cho phép phê bình.

Mao Trạch Đông

25-11-1973

Cuộc hôn nhân giữa Mao Trạch Đông và Giang Thanh, dù là từ lợi ích cá nhân hay lợi ích của Đảng mà nói, đều là một cuộc hôn nhân bất hạnh. Hẹp hòi, ghen ghét, điên cuồng, độc ác, những tính cách đó Giang Thanh đều có đủ, hơn nữa bà ta còn có tham vọng quyền lực rất lớn. Cái mà bà ta thiếu nhất là sự lương thiện và tình cảm đối với mọi người. Mao Trạch Đông và Giang Thanh đã ở riêng từ nhiều năm nay. Mấy năm cuối khi Mao Trạch Đông còn sống, hai người ít gặp nhau, Giang Thanh biết, không thể để mất cái lá cờ Mao Trạch Đông. Phàm những lúc có việc hoặc Giang Thanh cho rằng cần gặp Mao Trạch Đông, bà ta đều phải xin phép người phụ trách Văn phòng Trung ương trước và được Mao Trạch Đông cho phép mới được gặp.

Lần xin gặp này không được. Mao Trạch Đông không muốn gặp bà ta nhiều.

Có một số việc đã làm Mao Trạch Đông rất đau lòng. Ví dụ một năm trước, Mao Trạch Đông cho phép Giang Thanh đến gặp ông, ai ngờ bà ta đến xin tiền. Mao Trạch Đông cho bà ta 30 ngàn đồng. “Bà ta thấy sức khỏe của tôi xấu đi, nên đã tính đường lui, muốn cướp tiền nhuận bút là di sản của tôi”. Sau khi Giang Thanh đi, Mao Trạch Đông đã rơi nước mắt.

Giang Thanh biết Mao Trạch Đông sẽ không cắt đứt triệt để với bà ta. Hơn nữa cũng không thể nói là Mao Trạch Đông không có một chút tình cảm nào với Giang Thanh, cùng ở trong một cái hang, cùng ngồi trên lưng một con ngựa, quá trình cùng ở bên Diên Hà đến Trung Nam Hải, làm sao có thể xóa bỏ tất cả? Nhưng điều chủ yếu hơn là bà ta có cái vốn chính trị. Tên của Giang Thanh gắn chặt với đại cách mạng văn hoá. Mao Trạch Đông cho là Giang Thanh có công phê phán Lưu Thiếu Kỳ và Lâm. Bưu, chỉ cần Mao Trạch Đông không phủ định đại cách mạng văn hóa thì sẽ không dễ dàng phủ định Giang Thanh.

Giang Thanh dựa vào tư cách đặc biệt và “cống hiến” đặc biệt, thường chẳng kiêng nể gì ai cả. Buổi đầu cách mạng văn hóa thì chẳng cần phải nói; năm 1974 “phê Lâm, phê Khổng” bà ta lấy danh nghĩa cá nhân viết thư cho Quân ủy và toàn quân, đưa tư liệu cử liên lạc viên đến Tổng cục Chính trị quân giải phóng để “phóng lửa khai hoang”, kích động đánh đổ Phó Chủ tịch Trung ương Đảng khóa 10 Lý Đức Sinh, tiếp sau đó lấy danh nghĩa phê phán Lâm Bưu và Khổng Khâu chĩa mũi nhọn vào Chu Ân Lai.

Giang Thanh đã phấn chấn, trở về với uy phong khét tiếng một vùng trong buổi đầu đại cách mạng văn hóa.

Cục diện chính trị sau “sự kiện 13 tháng 9” đã hơi ổn định, lại bắt đầu hỗn loạn, nền kinh tế quốc dân lại bắt đầu hạ thấp.

Page 38: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mao Trạch Đông đã tức giận, ông không để cho Giang Thanh muốn làm gì thì làm.

Ngày 17 tháng 7 năm 1974, trời nóng như lửa, buổi chiều, trong phòng họp ở Tử Quang Các trong Trung Nam Hải, đang có cuộc họp. Đây là Hội nghị Bộ Chính trị do Mao Trạch Đông chủ trì. Các uỷ viên Bộ Chính trị đều có mặt.

“Việc “phê Lâm, phê Khổng” không đi sâu, không phải chúng ta không có cái để phê, mà có Nho, các đơn vị đều có và còn có cả đại Nho nữa”. Giang Thanh khảng khái hùng hồn, thao thao bất tuyệt nói bóng nói gió, “bọn Nho lớn bé không phê phán cho nó đổ cho nó thối ra thì đại cách mạng văn hóa không thể nào đi sâu hơn được. Chúng ta phải dấy lên một cao trào nữa”.

“Tôi đồng ý ý kiến của đồng chí Giang Thanh”. Vương Hồng Văn tiếp ứng ngay, “Việc phê Lâm phê Khổng lần này, vì sao không đi sâu được?” Anh ta tự hỏi tự đáp, “chính là vì tầng nào cũng có trở ngại, mà trở ngại lớn nhất lại không phải là hạ tầng mà là thượng tầng, ở cơ quan lãnh đạo, đã vấp phải một số người lãnh đạo cao cấp nào đó”.

“Một số người lãnh đạo cao cấp nào đó của chúng ta”, Diêu Văn Nguyên đưa ánh mắt lạnh như băng nhìn Chu Ân Lai đang ngồi thản nhiên: “Từ khi đại cách mạng văn hóa bắt đầu, đó là chướng ngại vật, đã hơn 8 năm, trên đường luôn không theo kịp, ngăn cản đại cách mạng văn hóa tiến hành thuận lợi, còn bản thân ông ta vẫn không tự giác, cũng chưa bao giờ kiểm thảo một cách nghiêm chỉnh”.

“Cũng không thể nói loại người này không tích cực đối với đại cách mạng văn hóa”, Trương Xuân Kiều trợ sức, mỉa mai, chế giễu, “ông ta cũng tích cực, hơn nữa còn rất ngoan cường, tính tích cực và tính ngoan cường của ông ta không phải là ủng hộ đại cách mạng văn hóa như thế nào, mà là tìm mọi cách phá hoại đại cách mạng văn hóa, cản trở đại cách mạng văn hóa!”.

Giang Thanh xung phong, ba người còn lại tiếp ứng, đánh phối hợp, từ các mặt khác nhau cùng tiến công.

“Đồng chí Giang Thanh”, một vị uỷ viên Bộ Chính trị từ lâu đã nghe không lọt tai, đây lại là một cuộc bao vây công kích có tổ chức, có kế hoạch, có mục đích, phương hướng chủ công là Chu Ân Lai. Vị ủy viên Bộ Chính trị này đã sớm tính đến việc sớm muộn sẽ xảy ra trận giao tranh, giáp lá cà mặt đối mặt này, thời gian gần đây, báo chí sặc sụa mùi thuốc súng, sát khí đằngđằng đòi lôi ra tên “đại Nho”. Ông không thể kìm chế nổi nữa, hỏi một cách đanh thép: “Đồng chí Giang Thanh, xin đồng chí hãy nói cho rõ ra, rốt cuộc trong chúng tôi những người ngồi đây ai là đại Nho? Tất nhiên sẽ không phải mấy vị các người và tất nhiên phải là người ngoài mấy vị các người, hà tất phải nói cạnh nói khoé, phỉ báng hại người? Rốt cuộc thì ai là đại Nho, đặt lên bàn chẳng phải là càng tốt hơn hay sao? Nếu ai đó quả là đã phạm những sai lầm như mấy vị đã phê bình, đáng phải kiểm thảo thì kiểm thảo, đáng phải phê phán thì phê phán”.

“Ai là đại Nho thì trong lòng người ấy biết rõ, phải tự biết mình, cần gì phải ai nói! Lẽ nào đến một chút tự giác cũng không có hay sao?” Giang Thanh tức tối mặt tím bầm, tiếng nói cũng to hơn, định gây ra cuộc cãi lộn long trời lở đất.

“Tôi cho rằng ý kiến của đồng chí Giang Thanh là đúng đắn, là rất dũng cảm, mình có sai lầm thì nên thành thật mà nhận, đừng có làm ra vẻ ngây ngô nữa!” Phái trai trẻ Vương Hồng Văn đã không còn là tiếp ứng nữa mà là từ phía sau xông lên phía trước. ““Phê Lâm phê Khổng”, là do lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch đích thân quyết định”, Diêu Văn Nguyên dùng ánh mắt xun xoe bợ đỡ liếc nhìn Mao Trạch Đông đang ngồi đối diện nói. “Đối với chỉ thị của Mao Chủ tịch có người chậm trễ án binh bất động. Đó không phải là sai lầm bình thường, mà là vấn đề thái độ đối với lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch”.

Mao Trạch Đông chau mày, hút những hơi thuốc lá dài, đây là kiểu rót nước vào đĩa nông, người có một chút đầu óc tỉnh táo thì chỉ nhìn qua đã thấy đáy, đây không chỉ làm cho Chu Ân Lai bị bao vây tấn công lúng túng, mà cũng làm cho Mao Trạch Đông lâm vào thế bí. Giang

Page 39: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Thanh cứ quấy rầy, điêu toa thô bỉ, như vậy thì chẳng phải là bôi tro trát trấu lên mặt ông hay sao? Một cuộc hội nghị nghiêm chỉnh, nghiên cứu một số việc lớn của đất nước, lại bị Giang Thanh và mấy người quấy rối đến mức không họp được! Mặt ông biến sắc, ông đã nổi giận.

“Đồng chí Giang Thanh, đồng chí phải chú ý! Người khác cũng có ý kiến với đồng chí đấy, nói trước mặt đồng chí thì không tiện, đồng chí cũng không biết sao”.

Bị Mao Trạch Đông phê bình trực diện công khai, Giang Thanh rất không thoải mái, mặc dù tỏ ra dè dặt nhưng không còn vẻ cao ngạo và khí thế của vai chính nữa.

Mao Trạch Đông lại nói: “Không nên xây hai nhà máy, một cái gọi là nhà máy gang thép, một cái gọi là nhà máy làm mũ, động một tí là chụp cho người ta cái mũ to tướng, không hay đâu! Cái công xưởng ấy của đồng chí không cần nữa”.

“Không cần nữa, thì xin tặng nhà máy gang thép cho đồng chí Tiểu Bình vậy!” Giang Thanh nói. Có thể hiểu, Giang Thanh nói câu này là rất không cam chịu, hơn nữa còn bao hàm một sự bất mãn, không chỉ đối với Mao mà còn đối với Đặng.

Về con người Đặng Tiểu Bình, bề ngoài ít nói, nhưng rất cứng rắn, trước mặt bà ta rất ít nhượng bộ. Chả trách Mao Trạch Đông bảo ông ta “bên trong là công ty gang thép”. Mao Trạch Đông đã ca ngợi ông ta như vậy, thì tặng nó cho Đặng Tiểu Bình.

“Nói trước mặt mọi người!” Mao Trạch Đông hỏi đế ngay một câu.

“Đúng là như thế!” Giang Thanh cũng trả miếng ngay.

“Khổng Lão nhị nói, nói thì tất phải tin, làm thì tất phải có kết quả”. Mao Trạch Đông nói đến đây liền quay lại nói với các ủy viên Bộ Chính trị có mặt: “Nghe rõ chưa, đồng chí ấy không đại biểu cho tôi, đồng chí ấy đại biểu cho bản thân mình. Đối với đồng chi ấy thì phải là một chia thành hai, một phần thì tốt, một phần thì không tốt lắm!”

Giang Thanh: “Không tốt lắm thì phải sửa”.

Mao Trạch Đông: “Đồng chí cũng khó sửa”.

Giang Thanh: “Bây giờ nhà máy gang thép của tôi không mở nữa”.

Mao Trạch Đông: “Không mở nữa thì tốt”.

Hai vợ chồng đối đáp nhau chan chát.

Nhà máy gang thép không mở nữa, còn cửa hàng mũ, Giang Thanh nói: “Đúng là có một bộ phim mang tên “Trung Quốc”, cực xấu, nhưng cái mũ Hán gian vẫn chưa chụp, vì vẫn chưa biết rõ ai làm”. Thực ra, Giang Thanh biết rõ bộ phim này là do một người I-ta-lia tên là An-đôn-ni-ô-ni quay và Chu Ân Lai là người cho phép nhà quay phim này vào Trung Quốc. Dụng ý đích thực của Giang Thanh không phải là phê người nước ngoài này mà là đả kích Chu Ân Lai. Bây giờ bà ta nêu vấn đề này với Mao Trạch Đông rất rõ ràng: một là mách với Mao Trạch Đông, hai là nói cho Chu Ân Lai có mặt tại đây nghe.

“Tôi nhất định sẽ chú ý đặc biệt, xin Chủ tịch yên tâm”. Giang Thanh lại nói tiếp một câu.

Những người khác không ai nói gì.

“Các đồng chí ấy không nói gì”. Mao Trạch Đông nhìn vào mặt Giang Thanh nói.

Chu Ân Lai tiếp lời, có một số việc ông cũng phải chịu trách nhiệm. Ông đã nói về tình hình của cuộc mít tinh ngày 25 tháng 1.

“Người này chạm vào là nhảy dựng lên”. Người mà Mao Trạch Đông nói đến là Giang Thanh.

Page 40: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Tôi không nhảy dựng lên. Tôi vốn không muốn đi, về sau Thủ tướng bảo mọi người đều phải đi, tôi không có cách gì khác, nên mới đi”. Cuộc mít tinh “25 tháng 1” rõ ràng là tác phẩm đắc ý của Giang Thanh, là một cuộc tập kích bất ngờ đối với Chu Ân Lai. Ở đây Giang Thanh đã hoàn toàn đổi trắng thay đen.

“Tôi nói tính nết của đồng chí”. Mao Trạch Đông nói với Giang Thanh, sau đó quay mặt nói với mọi người: “Nói tóm lại, đồng chí ấy đại biểu cho bản thân mình”.

Mọi người vẫn im lặng không nói năng gì.

Cuối cùng, Mao Trạch Đông nói với mọi người:

“Đồng chí ấy được coi là bọn Thượng Hải! Các đồng chí phải chú ý, không nên tụ tập thành bè phái nhỏ bốn người”.

Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn đều từ Thượng Hải đến. “Bọn Thượng Hải” mà Mao Trạch Đông nói là từ đây mà ra.

“Bây giờ Đăng Khuê cũng dọn vào đấy”. Giang Thanh nói. Ý của bà ta là những người trong nhóm họ không phải đều từ Thượng Hải đến, hơn nữa số người cũng không ít, không phải là một bè phái nhỏ.

“Đồng chí ở đấy phải cẩn thận, không nên biến thành 5 người”. Mao Trạch Đông nói.

Sau khi Hột nghị kết thúc, các ủy viên Bộ Chính trị từ nơi ở của Mao Trạch Đông đi ra, có mấy người sắc mặt rất xấu, họ là Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn. “Bọn Thượng Hải”, hôm nay lần đầu tiên Mao Trạch Đông sử dụng khái niệm như vậy đối với mấy người này.

3. Mồi lửa thứ nhất đốt cháy giáo dục

Giang Thanh cảm thấy sức mình có hạn nên lại nghĩ đến quân đội. Giang Thanh hung tợn kêu gào: “Phóng lửa đốt, quân đội là bãi hoang vẫn chưa từng phóng lửa, phải phóng lửa để khai hoang”. Trương Xuân Kiều gật gật đầu: “Đúng, bây giờ là cơ hội tốt, tôi sẽ bảo các đồng chí”.

Vì sao Trương Xuân Kiều nói bây giờ là cơ hội tốt? Có nguyên nhân của nó. Vốn là vào năm ngoái, tức là tháng 5 năm 1973, Mao Trạch Đông gặp Giang Thanh đã đọc một bài thơ cho Giang Thanh nghe, trong đó có hai câu: ... “Danh nghĩa là Đảng Cộng sản, mà lại sùng bái Khổng Khâu”. Đề ra việc phê phán Lâm Bưu thì phải phê phán Khổng Tử.

Hai tháng sau, Mao Trạch Đông lại gặp Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều để nói chuyện, lần này lại... trực tiếp phê phán Chu Ân Lai, ông lại đọc cho Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều nghe một bài thơ phê bình Bộ Ngoại giao do ông viết. Giang Thanh ghi lại bài thơ này, cho rằng có thể lợi dụng thời cơ đem về đưa cho Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, ba người lập tức bàn bạc kế hoạch hành động.

Thực ra, trước đó một tháng, Giang Thanh và một số người đã bắt đầu phê trở lại. Để bảo vệ “sự nghiệp đốt (sách) và chôn (nhà nho)”, phủ định công tác khôi phục trật tự giáo dục do Chu Ân Lai lãnh đạo. Họ tìm được một hòn đá ở Đông Bắc, ném vào Chu Ân Lai, hòn đá này là sự kiện nộp bài thi để trắng nổi tiếng cả nước. Mua xuân năm ấy, tỉnh Liêu Ninh tiến hành kiểm tra văn hóa để vào các trường Đại học và Cao đẳng. Có một thanh niên tên là Trương Thiết Sinh, thành tích kiểm tra văn hóa rất kém: Vật lý: 0 điểm, Hóa học: 6 điểm, Ngữ văn: 38 điểm, Toán: 60 điểm. Trương Thiết Sinh biết trước là trình độ của mình quá thấp, không thể vào trường được, nên trên mặt sau bài thi đã viết một bức thư, chửi bới những thí sinh khác là chỉ mê đại học, thổi phồng mình chẳng khác một con bò già, cầu xin trường đại học nhận anh ta. Bức thư này đã được chuẩn bị trước, để vào một tấm bìa ni lông của một quyển vở, giở sách ra là có thể chép ngay được.

Page 41: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Lúc này Bí thư Tỉnh ủy tỉnh Liêu Ninh là Mao Viễn Tân, bố anh ta là Mao Trạch Dân em ruột Mao Trạch Đông. Mao Trạch Dân hy sinh ở Tân Cương thời kỳ kháng chiến. Sau khi thành lập nước, Mao Viễn Tân vẫn sống với Mao Trạch Đông, sau thi đỗ vào Học viện Công trình quân sự Cáp Nhĩ Tân. Trường này do Đại tướng Trần Canh lập ra, có điều khi Mao Viễn Tân vào học thì Trần Canh đã bị bệnh qua đời rồi.

Cách mạng văn hóa vừa bắt đầu, Mao Viễn Tân vẫn đang học thì được lệnh làm phản, được Mao Trạch Đông gợi ý, nên trình độ làm phản của anh ta tất nhiên là rất cao. Ít lâu sau, Mao Viễn Tân tốt nghiệp, bắt đầu bước lên cương vị lãnh đạo, chỉ trong vài năm ngắn ngủi, một đứa nhãi ranh hai mươi mấy tuổi đã được thăng lên chức Bí Thư tỉnh ủy Liêu Ninh, Chính ủy Quân khu Thẩm Dương.

Mao Viễn Tân từ sớm đã được chỉ thị bí mật của “bọn bốn tên”, lúc này nhận được bức thư của Trương Thiết Sinh, đã công bố ngay lên “Liêu Ninh nhật báo” ngày 19 tháng 7. “Lời Tòa soạn” viết Trương Thiết Sinh hình như đã nộp bài thi trắng, nhưng đối với toàn bộ vấn đề đường lối chiêu sinh đại học thì lại nộp một bài thi rất có kiến giải, làm cho người ta phải tỉnh ngộ sâu sắc, lên án việc thi văn hóa là cổ vũ thanh niên trí thức đóng cửa đọc sách. “Bọn bốn tên” như vớ được vàng. lập tức thêm ngay “Lời tòa soạn” đăng trên “Nhân dân nhật báo”, nói bức thư này đã nêu ra một vấn đề lớn về hai đường lối, hai cuộc đấu tranh tư tưởng trên mặt trận giáo dục.

Sau đó, “bọn bốn tên” lại công bố trên báo nhật ký của một học sinh tiểu học. Học sinh tiểu học này có tên là Hoàng Súy, vì bị thầy giáo phê bình, viết nhật ký bày tỏ sự bất mãn, điều này cũng khó mà trách học sinh này. Ai dè việc này đã bị Tạ Tĩnh Nghi một cốt cán của “bọn bốn tên” phát hiện, hắn lập tức chữa nhật ký của em học sinh này, công bố trên “Bắc Kinh nhất báo” ra sức phê phán sự tôn nghiêm của đạo làm thầy... Rồi không biết vì sao “bọn bốn tên” lại biết “Sự kiện Mã Chấn Phù” ở tỉnh Hà Nam, bọn chúng lập tức thổi bùng lên.

“Bọn bốn tên” ca ngợi Trương Thiết Sinh là anh hùng nộp bài thi trắng, bài thi trắng có thể làm anh hùng thì học hành tất nhiên là vô dụng. Sau khi nhật ký của em học sinh tiểu học được công bố đã làm trật tự giảng dạy ở Trường Tiểu học số 1 Trung Quan Thôn Bắc Kinh nơi em học sinh tiểu học học tập rối loạn, học sinh tiểu học cả nước cũng ầm ầm mô phỏng theo, chẳng thể nói gì đến giảng dạy nữa. Nhưng những việc này vẫn chưa trực tiếp làm nguy hiểm đến sự an toàn thân thể của các thầy giáo. Sự kiện Mã Chấn Phù được “bọn bốn tên” tuyên truyền rất rùm beng, mọi thầy giáo đều thấy nguy hiểm.

Huyện Đường Hà tỉnh Hà Nam có một công xã là Mã Chấn Phù. Công xã có một Trường Trung học, trong trường có một nữ sinh cấp 2 tên là Trương Ngọc Cẩn. Trong thi tiếng Anh, Trương Ngọc Cẩn không trả lời được, nên cũng viết vào mặt sau bài thi một số cảm nhận của mình. Những điều cô ta viết không phải là thư mà là một bài vè: “Tôi là người Trung quốc, Hà tất phải học tiếng nước ngoài, không biết a, b, c vẫn làm được cách mạng”. Thầy giáo thấy bài vè liền phê bình cô ta mấy câu. Cô học sinh này bị thầy phê bình nên không vui, lại thêm một số nguyên nhân khác nên đã nhảy xuống nước tự tử, những tay chân đắc lực của “bọn bốn tên” là Trì Quần và Tạ Tĩnh Nghi thao túng ở Đại học Thanh Hoa vội vàng báo cáo với Giang Thanh. Giang Thanh bèn viết bài nói đây là sự phản công trả đũa điên cuồng vào giai cấp vô sản. Trung ương thông báo tình hình sơ lược đến mọi nơi trong cả nước, yêu cầu Tỉnh ủy Hà Nam nghiêm túc soát xét lại, nghiêm khắc xử lý hậu quả nghiêm trọng về việc phục hồi đường lối giáo dục xét lại. Vương Hồng Văn đích thân gọi điện thoại yêu cầu phải xử nặng hiệu trưởng và thầy giáo. Kết quả Hiệu trưởng Trường Trung học thuộc Công xã Mã Chấn Phù và thầy giáo chủ nhiệm lớp của Trương Ngọc Cần bị xử hình phạt nặng.

Vụ án này được đưa ra, cả nước xôn xao, thầy giáo, hiệu trưởng đều lâm nguy. Có hiệu trưởng nào thầy giáo nào không gánh vác trách nhiệm dạy dỗ hướng dẫn? Đã dạy dỗ hướng dẫn thì tất nhiên phải nói, vì dạy dỗ học sinh mà bị xử phạt nặng thì chẳng phải là tất cả các hiệu trưởng thầy giáo đều phải vào tù hay sao? Xem ra, “sự nghiệp đốt sách giết thầy” phải bàn rồi.

Page 42: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

May mà sau này số lượng thầy giáo vào tù có hạn, nhưng việc giảng dạy trong trường không sao thực hiện được. Số thầy giáo bị phê phán bị đấu tố đến chết hoặc tàn phế không biết là bao nhiêu.

4. Mồi lửa thứ hai đốt cháy quân đội

“Bọn bốn tên” dùng mấy mồi lửa lớn này thiêu trụi những mầm mống của sự nghiệp giáo dục đang sắp được phục hồi.

Tháng 12 năm 1973, Mao Trạch Đông lại phê bình “Bộ Chính trị không bàn luận về chính trị, Quân ủy không bàn về quân sự” trong Hội nghị Bộ Chính trị. Lần phê bình này gồm cả Diệp Kiếm Anh, vì Bộ Chính trị do Chu Ân Lai chủ trì, còn Quân ủy thì do Diệp Kiếm Anh chủ trì.

Chính lúc Mao Trạch Đông liên tiếp phê bình Chu Ân Lai, thì Chu Ân Lai phải đi kiểm tra và đã phát hiện ung thư vùng gan, phải vào nằm tại Bệnh viện 301, Giang Thanh và đồng bọn sướng đến phát điên, viết bài đăng trên các báo phê Lâm, phê Khổng, phê Chu Công.

Trương Xuân Kiều phân tích tình hình trong giai đoạn này, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên đều cảm thất tình hình rất tốt, mấy mồi lửa đã thiêu trụi sự phục hưng của nền giáo dục, bây giờ cần thiêu cháy quân đội. Họ đều biết quyền quân sự là quyền trong quyền. Không có quyền quân sự, ngộ nhỡ Thái Sơn sụp đổ, trong tay không tấc sắt, thì không biết sẽ ra sao. Mấy người bàn nhau một hồi, lại gọi điện cho Vương Hồng Văn và bắt đầu hành động. Tháng 1 năm 1974, đúng vào những ngày rét sau tiết Đông chí, thời tiết lạnh một cách khác thường. “Bọn bốn tên” gọi Lỗ Anh và mấy người khác ở “Nhân dân nhật báo” đến họp. Sau khi mọi người tề tựu, Giang Thanh hỏi Lỗ Anh: “Bài viết mà “Giải phóng quân báo” đăng đồng chí đã xem chưa?” Lỗ Anh ngây ra không hiểu đầu của tai nheo ra sao, hỏi: “Bài viết nào ạ?” Giang Thanh giận quá, hổn hển nói: “Chẳng trách người ta bảo anh là “đồ ăn hại”, đọc một bản thảo cũng không nên hồn, việc lớn như vậy mà anh không hay biết”. Bà ta lấy ra tờ “Giải phóng quân báo” ném cho Lỗ Anh: “Anh xem đi!”, Lỗ Anh cầm lấy xem, đó là một tờ “Giải phóng quân báo” ra ngày 17 tháng 1 năm 1974 trong chuyên mục “Sinh hoạt Đảng” trên trang 3 đăng một bài viết ngắn chưa đầy một ngàn rưởi chữ với tựa đề “Vừa phải phê bình vừa phải thông cảm”. Bài viết đã giới thiệu kinh nghiệm làm công tác đoàn kết của Đảng ủy Không quân theo tinh thần có liên quan trong tác phẩm của Mao Trạch Đông có tựa đề “Phương pháp công tác của Đảng ủy” và tinh thần bài nói chuyện của Thủ tướng Chu Ân Lai và phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương Diệp Kiếm Anh năm ngoái, tại Hội nghị Đảng ủy Không quân năm 1973. Lỗ Anh xem xong nhưng cũng không nhận ra là có vấn đề gì. Giang Thanh tức giận: “Bài viết này đã xuyên tạc sự dạy bảo của Mao Chủ tịch, ra sức nói thông cảm. Trông bề ngoài là toàn diện, nhưng trên thực tế là tuyên truyền chủ nghĩa chiết trung và con đường trung dung. Khi cả nước đang triển khai đấu tranh phê Lâm phê Khổng mà tuyên truyền sai lầm như vậy, chẳng phải là muốn thủ tiêu cuộc đấu tranh chính trị nghiêm trọng này hay sao?” Trương Xuân Kiều phê bình Lỗ Anh: “Khướu giác chính trị của anh kém đến thế hay sao? Anh xem bài viết phê phán Khổng Tử của Lương Hiệu hay biết chừng nào, Khổng Tử đến lúc già bị bệnh nặng, nâng cánh tay phải chạy đi chạy lại, chỗ nào cũng bị thất bại”. Nói xong ông ta đứng dậy, nâng cánh tay phải lên đi đi lại lại trong phòng, bắt chước giọng Hoài An (quê Chu Ân Lai - N.D.) nói to: “Chào các đồng chí”. Giang Thanh và Diêu Văn Nguyên đều cười. Giang Thanh chỉ vào Lỗ Anh: “Hiểu chưa, ông ta sợ rồi nên nói phải thông cảm”. Bây giờ Lỗ Anh mới hiểu nguồn gốc của việc Giang Thanh phê Lâm phê Khổng, vội vàng đáp: “Thủ trưởng yên tâm, tôi biết phải làm thế nào”.

Sau khi Lỗ Anh về Tòa soạn Nhân dân nhật báo, tìm mấy phóng viên tâm phúc, nói với họ: “Bài viết của “Giải phóng quân báo” nói đến sự thông cảm là có vấn đề, Hồng Văn chỉ thị phải viết bài phê phán, Xuân Kiều chỉ thị bài viết này rất kỳ quái. Các anh đến đơn vị tổ chức tọa đàm, để các chiến sĩ đứng ra phát biểu. Bây giờ tôi truyền đạt cho các anh biết ý kiến phê phán của đồng chí Giang Thanh đối với bài viết này…”

Page 43: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Các phóng viên vâng lệnh đến Đại đội 6 của một đơn vị thuộc khu Vệ Thú Bắc Kinh, triệu tập 4 chiến sĩ, truyền đạt ý kiến phê bình của Giang Thanh đối với “Giải phóng quân báo” cho họ, yêu cầu họ học tập chỉ thị của Giang Thanh, viết thư phê bình báo quân đội. Các chiến sĩ không biết đầu đuôi, nhưng đã là nhiệm vụ của cấp trên giao cho thì họ viết. Thư phê bình được gửi đến chỗ Diêu Văn nguyên, Diêu Văn Nguyên cảm thấy hỏa lực chưa đủ nên sau khi bàn với Trương Xuân Kiều và Giang Thanh, liền tự tay sửa chữa phần lớn, “bọn bốn tên” cũng chẳng thèm đưa cho các chiến sĩ đã viết thư xem lại, liền phê duyệt vào bức thư. Giang Thanh vừa phê vừa nói với Trương và Diêu: “Tôi biến bài viết này thành con dao găm sắc nhọn”. Diêu Văn Nguyên đề nghị: “Yêu cầu báo quân đội phải viết lời tòa soạn để công bố bức thư này”. Bức thư có lời phê được gửi cho Vương Hồng Văn. Vương Hồng Văn liền ra lệnh cho báo quân đội: “Tòa soạn phải thảo luận một cách nghiêm chỉnh bức thư này, yêu cầu quần chúng “mở cái nắp” của cuộc đấu tranh giai cấp tại báo quân đội”.

Sau khi đã chuẩn bị xong xuôi, Lỗ Anh gọi điện thoại cho lãnh đạo Tòa soạn báo Quân giải phóng: “Bài viết “Vừa phê bình vừa thông cảm” ra ngày 11 tháng 1 của các đồng chí, sau khi xem xong đã có mấy chiến sĩ nêu ý kiến của mình gửi cho các đồng chí. Các đồng chí lãnh đạo xem xong, cho rằng mấy chiến sĩ này dũng cảm và đúng. Đề nghị báo quân đội viết lời tòa soạn tự phê bình và phát biểu trên “Giải phóng quân báo”. Đó là chỉ thị của Giang Thanh, Xuân Kiều, Văn Nguyên, đó là sự yêu mến và chăm sóc đối với báo quân đội”.

Dưới sức ép rất mạnh từ trên xuống “Giải phóng quân báo” buộc phải viết lời nói đầu, “bọn bốn tên” lại ra sức sửa chữa, coi như là viết lại lời tòa soạn, chỉ định là phải đăng trên trang nhất với cỡ chữ lớn nổi bật. “Giải phóng quân báo” không biết làm thế nào, đành phải đăng lời tòa soạn và thư phê bình vào ngày 15 tháng 2.

Thư vừa đăng, Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều nhận được thông báo đến Trung Nam Hải tham gia Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị. Cuộc họp bắt đầu rất muộn, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên biết có sự biến động quan trọng, nên không ngủ, đợi Trương Xuân Kiều về. Có điều lạ là Vương Hồng Văn cũng đến cùng. Giang Thanh và Diêu Văn nguyên vội chạy ra đón, Giang Thanh sốt ruột hỏi Vương Hồng Văn: “Họp muộn thế, đã bàn bạc những vấn đề gì?” Vương Hồng Văn hớn hở nói: “Tin tốt lành, chúng ta thắng lợi rồi. Trung ương đã bãi miễn chức vụ Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị của Lý Đức Sinh, Xuân Kiều đảm nhiệm chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị”. Trương Xuân Kiều cười: “Không phải là bãi miễn mà là Trung ương phê chuẩn đề nghị từ chức của đồng chí Lý Đức Sinh, yêu cầu tôi lấp chỗ trống”. Vương Hồng Văn khoát tay: “Như nhau cả, như nhau cả”. Giang Thanh thở hồng hộc, nghiến răng nghiến lợi: “Hay, bây giờ chúng ta có thể phóng lửa khai hoang rồi”. Vương Hồng Văn nói: “Bây giờ chúng ta đã giành được Tổng cục Chính trị, bước sau chúng ta phải giành cho được Bộ Tổng Tham mưu”. Diêu Văn Nguyên lo lắng: “Ở Bộ Tổng Tham mưu chúng ta không có người!”. Trương Xuân Kiều mách nước: “Điều Tôn Ngọc Quốc về, trong trận ở đảo Trân Bảo, anh ta đã từ một đại đội trưởng trở thành Phó Tư lệnh Quân khu Thẩm Dương. Chẳng phải là do đồng chí Giang Thanh tiến cử ư, bây giờ nên đến lượt anh ta ra tay rồi”. Vương Hồng Văn khoát tay: “Đúng, điều Tôn Ngọc Quốc về Bộ Tổng Tham mưu, để anh ta đập vỡ nắp”.

Ngày 5 tháng 3, Giang Thanh gọi Vu Hội Vinh, Lưu Khánh Đường cùng với Trần Á Đinh và mấy người trong quân đội đến, để giao trọng trách. Trần Á Đinh vốn là Cục phó Cục Văn hóa Tổng cục Chính trị, lúc này ông ta không có chức vụ gì trong quân đội, Trần Á Đinh vừa đến, Giang Thanh đã đon đả bắt tay thân thiết: “Tôi đánh bạo, không dám làm mất lòng quân đội, hôm nay tôi mời đồng chí Trần Á Đinh đến đây, để cùng bàn việc chỉnh đốn lại quân đội”.

Sau khi cuộc báo cáo bắt đầu, Giang Thanh giận dữ nói: “Vấn đề của quân đội nghiêm trọng nhất, nguy hiểm nhất, họ hoàn toàn không nghe lời tôi, quân đội chấp hành không phải là đường lối văn nghệ của Mao Trạch Đông, họ không phổ cập những vở kịch mẫu, chỉ xem những phim đã cất vào kho, là rất nghiêm trọng”. Tiếp đó bà ta chửi từ lãnh đạo quân ủy đến tư lệnh quân khu, cuối cùng kết luận: “Bọn người này toàn làm việc xấu!”

Page 44: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Nói đến đây, Giang Thanh quay đầu lại nói với Trần Á Đinh: “Á Đinh, anh hãy đi giành lại quyền, nắm cho được công tác văn nghệ của quân đội”. Trần Á Đinh vội vàng đồng ý: “Tôi nhất định sẽ truyền đạt lời của Thủ trưởng xuống dưới”. Giang Thanh vừa lòng gật gật đầu nói với mọi người: “Xem ra không cướp quyền không được, phải cướp quyền. Các đồng chí phải phóng lửa khai hoang, phải phóng lửa. Bây giờ tôi phải nắm quân đội, tôi có quân tịch mà, tôi đã đi lĩnh quân trang rồi”. Sau khi tan họp, Trần Á Đinh đi gặp mấy người, truyền đạt những lời của Giang Thanh trong ngày 5 tháng 3, yêu cầu họ phóng lửa khai hoang. Thế là những lời nói này được truyền đi trong cả nước và toàn quân một cách rất nhanh chóng. Một số người làm công tác văn nghệ trong quân đội bắt đầu dán đại tự báo phê phán lãnh đạo các quân khu và các binh chủng, trong quân đội bắt đầu hỗn loạn.

Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn cũng không có lúc nào rỗi rãi.

Tối ngày 5 tháng 3, sau khi cùng Giang Thanh đến nói chuyện, Trương Xuân Kiều ra sức mò mẫm đi chỉnh báo quân đội. Lúc này ông ta đã là Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị, ông ta sai người xuống các đại đội để kích động, yêu cầu các chiến sĩ chú ý theo dõi báo quân đội, có một số chiến sĩ theo sự giật dây của họ, hôm nào cũng đến dán đại tự báo ở Tòa soạn báo quân đội, Trương Xuân Kiều nắm chắc sự kiện này, phê đi phê lại. Ngày 31 tháng 3, Trương Xuân Kiều thấy thời cơ đã chín muồi, ra lệnh cho “Giải phóng quân báo” đình chỉ đăng các bài viết của mình, nhất loạt đăng các tin điện của Tân Hoa xã, bỗng chốc cắt đứt con đường chỉ đạo công tác toàn quân thông qua báo quân đội của lãnh đạo quân ủy.

Còn Vương Hồng Văn thì sao? Ngày hôm thứ hai sau khi Giang Thanh nói chuyện liền tới Bộ Tổng Tham mưu để kích động làm loạn, triệu tập cán bộ Bộ Tổng Tham mưu họp, yêu cầu mọi người “mở nắp đậy”, không mở được thì đập, nếu đập không được thì cho “nổ bom”. Lúc này Tôn Ngọc Quốc tham gia học tập lớp đọc sách của Trung ương, lớp này đều là những tướng lĩnh trẻ, được mệnh danh là “lớp học hổ”, Vương Hồng Văn đích thân quản lý. Anh ta đưa các tướng trẻ trong “lớp học hổ” về Bộ Tổng Tham mưu, bảo họ dùng bom đánh tan Bộ Tổng Tham mưu. Các tướng lĩnh trẻ này biết là nếu đập tan Bộ Tổng Tham mưu, họ sẽ có thể thay thế, nên ai cũng xắn tay áo xoa tay, cố sức đập tan Bộ Tổng Tham mưu.

5. Mồi lửa thứ ba đốt mông mình

“Bọn bốn tên” có những động tác lớn như vậy, tất nhiên là không giấu nổi Mao Trạch Đông. Lúc này MaoTrạch Đông không những không đứng lên nổi, mà mắt còn bị bệnh đục thuỷ tinh thể, không nhìn thấy gì cả. Sau khi nghe Quân ủy báo cáo, cảm thấy chẳng ra sao cả. Bản thân ông đã là người già, đã 80 tuổi rồi, lại bị ốm nặng. Giang Thanh cũng chẳng thông cảm cứ gây rắc rối. Hai tháng trước, Giang Thanh đã đem đến cho Mao Trạch Đông một rắc rối lớn, ngày 15 tháng 1 bà ta đột ngột tổ chức một cuộc mít tinh hàng vạn người, xúi giục Trì Quần, Tạ Tĩnh Nghi, nói lung tung trong cuộc mít tinh. Bản thân Giang Thanh thỉnh thoảng cũng nã pháo, ba mũi tên cùng bắn vào lãnh đạo quân đội. Diệp Kiếm Anh lập tức viết thư ngay cho Mao Trạch Đông kể tội, Mao Trạch Đông lúc ấy đã mắng cho Giang Thanh một trận, giữ băng ghi âm bài phát biểu của Giang Thanh. Sao bây giờ cô ta có thể làm càn như thế được nhỉ?

Ý kiến phê Lâm phê Khổng của Mao Trạch Đông là để ngăn ngừa việc phục hồi, ngăn ngừa việc phủ định cách mạng văn hóa, không hề muốn gây một cuộc đại loạn trong cả nước nữa, ông đã nói đi nói lại, cách mạng văn hóa đã tiến hành 8 năm rồi, nên kết thúc thôi, nhưng Giang Thanh không nghe. Bây giờ bà ta lại làm càn trong quân đội, thực sự là muốn tìm đến cái chết. Điều mà Đặng Tiểu Bình nói là sau khi ông chết sẽ có loạn, nhưng bây giờ bản thân ông đã bị bệnh như thế này, nếu Giang Thanh làm quân đội tan rã, e rằng lời của Đặng Tiểu Bình sẽ ứng nghiệm trước thời hạn. Nghĩ đến đây, Mao Trạch Đông tức giận nói: “Nói chuyện cái gì? Nói láo!”. Trương Ngọc Phượng hỏi: “Thưa Chủ tịch, Chủ tịch nói gì ạ?” Mao Trạch Đông đáp: “Bài nói chuyện của Giang Thanh phải thu lại, thẩm tra lại sự kiện này”. Trương Ngọc Phượng nói:

Page 45: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Thủ tướng đã nằm bệnh viện rồi ạ, lời của Chủ tịch truyền cho ai?”. Mao Trạch Đông đáp: “Đặng Tiểu Bình, từ bây giờ trở đi, Đặng Tiểu Bình sẽ giúp đỡ Thủ tướng làm việc”.

Dưới sự chủ trì của Đặng Tiểu Bình, Trung ương bắt đầu truy xét sự kiện phóng lửa khai hoang. Giang Thanh cuống quýt, vẫn là Trương Xuân Kiều lắm mưu nhiều kế, ông ta nói với Giang Thanh: “Giải quyết tận gốc”. Giang Thanh ngẫm nghĩ và đã hiểu ra, gọi ngay Trần Á Đinh, Vu Hội Vinh đến rồi cùng với Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn làm công tác tư tưởng với họ. Trương Xuân Kiều nói: “Trần Á Đinh, lúc ấy đồng chí Giang Thanh có nói những điều ấy đâu, tất cả đều do anh nói linh tinh, hiểu không?”. Trần Á Đinh đã sớm biết hôm nay đến đây để chuẩn bị nói cho khớp, nên vội vã gật đầu thừa nhận: “Vâng, tôi đã truyền đạt sai là do tôi nói lung tung”. Trương Xuân Kiều an ủi: “Anh chỉ phải cái hay nói lung lung, nhưng thực ra là một đồng chí tốt, tôi và Giang Thanh đều hiểu anh”.

Ngày 21 tháng 3, Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều, dẫn Vu Hội Vinh và Trần Á Đinh đến Di Niên Đường trong Trung Nam Hải, một số uỷ viên Bộ Chính trị đã đợi sẵn ở đây. Trương Xuân Kiều vừa vào đã nói: “Hôm nay tôi đưa những người có mặt hôm ấy đến đây, mọi người có thể hỏi họ. Thực ra, tối ngày 5 tháng 3, đồng chí Giang Thanh không nói những điều ấy, cũng không thể nói như vậy, có một số điều cũng không phải như sau này đồn đại”. Nói đến đây Trương Xuân Kiều chỉ vào Vu Hội Vinh: “Tôi có mặt, họ cũng có mặt, tôi không nghe thấy, các anh có nghe thấy không?” Vu Hội Vinh vội vàng nói: “Không nghe thấy, không nghe thấy”. Lưu Khánh Đường cũng nói: “Chúng tôi đều không nghe thấy”.

Vương Hồng Văn nói: “Đồng chí Giang Thanh đã không nói, làm sao sau này lại đồn đại như vậy?” Trần Á Đinh cúi đầu nói: “Đấy đều là do tôi nói, trong khi truyền đạt tôi đã nói những suy nghĩ của mình”. Vương Hồng Văn cố ý tỏ ra tức giận: “Đây là anh bịa đặt?”, Trần Á Đinh gật đầu lia lịa: “Tôi bịa đặt, tôi đáng chết”. Trương Xuân Kiều ngăn lại: “Thôi được, bây giờ anh hãy nhanh chóng đi xóa bỏ ảnh hưởng của nó”. Trần Á Đinh vâng dạ liên hồi. Những người trong Bộ Chính trị biết họ đang đóng “kịch” nhưng cũng không biết nói gì. Nhưng Mao Trạch Đông không bằng lòng, nhất định phải truy xét vấn đề cho rõ ràng. “Bọn bốn tên” không biết làm thế nào, đành gợi ý cho Trần Á Đinh viết một bản cải chính gồm 6 điểm. Sau khi “bọn bốn tên” thẩm tra, giao cho Trung ương cho xong chuyện.

Trần Á Đinh gánh tội để bảo vệ cho Giang Thanh, Giang Thanh cũng không muốn để anh ta chịu tội. Sau khi giao bản cải chính 6 điều cho Trung ương, ngày hôm sau, Giang Thanh đến Nhà hát Thiên Kiều ở phía nam Tiền Môn tham gia một cuộc mít tinh, đã bảo riêng Trần Á Đinh cùng đi. Tại nhà hát Thiên Kiều, sau khi nói một chặp về phê Lâm, phê Khổng, Giang Thanh lại nói đến sự kiện phóng lửa khai hoang. “Thực ra, lúc ấy tôi không nói như thế, những điều ấy tôi hoàn toàn không nói, cũng không thể nói như thế. Sau này làm sao lại có thể có sự đồn đại sai lệch như thế được? Bây giờ Trung ương đã thẩm tra rõ ràng, là do đồng chí Trần Á Đinh truyền đạt sai. Đồng chí Trần Á Đinh là một đồng chí tốt, chỉ tội không giữ mồm giữ miệng. Á Đinh đã đến chưa?”

Trần Á Đinh đứng ở dưới sân khấu để chờ câu nói ấy, đứng ngay dậy đáp: “Đến rồi ạ!” Giang Thanh gọi một cách thân mật. “Đồng chí lên đây!”. Trần Á Đinh bước lên lễ đài, Giang Thanh nắm tay anh ta hỏi: “Á Đinh? Đồng chí còn nói linh tinh nữa hay không?” Trần Á Đinh vội vàng đáp: “Không nói linh tinh nữa ạ!” Giang Thanh nói: “Bản kiểm điểm của đồng chí tôi đã xem, được rồi, sau này đừng bao giờ nói linh tinh như thế nữa, hãy phấn khởi lên mà làm cho tốt”.

Sau khi Giang Thanh trở về Điếu Ngư Đài, vừa tức vừa sợ. Tức vì bị Mao Trạch Đông phê bình, sợ vì phóng lửa khai hoang không được, còn bị lửa đốt vào mông.

Page 46: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

3

Vương Hồng Văn hấp tập đến Trường Sa kể tội

Mao Trạch Đông chậm chạp sắp “rơi mất” quyền hành

1. Mao Trạch Đông bắt đầu thay đổi chiều hướng

“Đặng Tiểu Bình không phải là Chu Ân Lai, tác phong của ông không giống. Chu Ân Lai chú ý sách lược, làm cho mình có thể đứng trên mặt nước, nhưng không thể thay đổi phương hướng chủ yếu của dòng nước xiết. Đặng Tiểu Bình lại không thuận theo dòng nước xiết ấy, mà lập tức đắp đập ngăn lại”.

Đây là quan điểm của Pa-ra-xi Đa-nây-si.

Thực sự là như vậy, Đặng Tiểu Bình bắt đầu đắp đập, định ngăn dòng nước hung dữ.

Ngày 4 tháng 10 năm 1974, Mao Trạch Đông đề nghị Đặng Tiểu Bình giữ chức Phó Thủ tướng thứ nhất Quốc vụ viện. Rõ ràng đây là việc sắp xếp người được lựa chọn làm Thủ tướng Quốc vụ viện sau Chu Ân Lai.

Ngày 11 tháng 10, Trung ương Đảng ra thông báo: Trong thời gian sắp tới sẽ họp Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4. Thông báo còn truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông: Đại cách mạng văn hoá vô sản đã được 8 năm. Hiện nay, giữ yên ổn là tốt. Toàn Đảng toàn quân phải đoàn kết.

Đại loạn đại trị, chỉ có đại loạn mới có thể đại trị. Đây là quan điểm của Mao Trạch Đông. Đại cách mạng văn hóa đã làm loạn 8 năm, nhưng không đạt được mục đích đại trị. 8 năm trước, sắc mặt hồng hào, hân hoan phấn khởi, hả hê bơi trên dòng Trường Giang, bơi giữa dòng sông thuyền bay rẽ sóng, rảo bước lên lễ đài Thiên An Môn, vẫy tay chào trăm vạn Hồng vệ binh, trời long đất lở. Mà nay, bước đi tập tễnh, ủ rũ về già. Không thể loạn thêm nữa, phải ổn định đoàn kết. Trị quốc yên dân, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, cả bọn đều chẳng ra sao, Giang Thanh càng không được. Vẫn cứ phải dựa vào Chu, Đặng. Hội nghị Đại biểu nhân dân toàn quốc đã ngừng họp 7 năm, không thể kéo dài hơn nữa. Phải họp Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc tổ chức lại “nội các”. Đất nước phải đi vào quỹ đạo đúng đắn.

Dòng suy nghĩ của Mao Trạch Đông phát triển theo hướng có lợi cho Chu và Đặng. So sánh lực lượng hai bên, tất nhiên đang phát triển theo chiều hướng bất lợi cho Giang Thanh và đồng bọn.

Đại hội Đại biểu nhân dân khóa 4 là một hiệp rất then chốt. Nếu sau Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, Quốc vụ viện hình thành thể chế của Chu, Đặng, thì tình hình sẽ rất không hay. Điều này, Giang Thanh và đồng bọn hiểu rất rõ. Hiệp này không thể thua. Phải tiến công, chỉ có tiến công mới nắm được chủ động. Quyết không thể để Đặng Tiểu Bình giữ chức Phó Thủ tướng thứ nhất.

Tháng 6 năm 1974, Chu Ân Lai bắt đầu nằm viện, Giang Thanh và đồng bọn tăng cường hoạt động cướp quyền. Biện pháp mà họ dùng vẫn là biện pháp cũ: Trước tiên là gây dư luận. Tạp chí “Hồng kỳ” số tháng 10 năm 1974, công bố bài “Nghiên cứu kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia” do Diêu Văn Nguyên sắp đạt và sửa chữa. Ngày 5 tháng 6, Diêu Vãn Nguyên bố trí viết bài này đến ngày 1 tháng 10 thì phát hành, kéo dài gần 4 tháng. Ban biên tập tạp chí “Hồng kỳ” quán triệt ý đồ của Diêu Văn Nguyên nói rằng chủ đề của bài viết phải đặt ở việc nghiên cứu ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia đối với cách mạng và chuyên chính vô sản, mục đích của bài viết là vì cuộc đấu tranh giai cấp thực tại, cho nên phải “nhằm thẳng vào vấn đề chủ yếu trước mắt để viết”, phải chú trọng viết những “bài học kinh nghiệm” của việc “phục hồi và chống phục hồi”.

Page 47: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngày 5 tháng 8, Diêu Văn Nguyên nói: “Dứt khoát đó là ý nghĩa của cuộc đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia đối với hôm nay”. Bài viết lấy danh nghĩa nghiên cứu kinh nghiệm lịch sử của cuộc đấu tranh giữa Nho gia và Pháp gia thời Tây Hán, mượn xưa để nói nay. Bài viết nêu: “Giai cấp địa chủ mới xuất hiện, có thể giữ được chính quyền hay không mấu chốt là ở chỗ có thể bảo đảm tiếp tục chấp hành đường lối của Pháp gia hay không”. Còn nói: “Khi Tần Thủy Hoàng đang say sưa với cảnh tượng thái bình. Dân chúng yên ổn, chẳng cần binh đao” thì nhân vật đại biểu cho thế lực phục hồi của chủ nô là Triệu Cao đã khoác áo Pháp gia chui vào tim của vương triều Tần, tiến hành “cuộc chiến moi ruột” đối với chính quyền của giai cấp địa chủ. Tần Thủy Hoàng vừa chết, Triệu Cao liền phát động cuộc chính biến phản cách mạng Sa Khâu. Dùng đường lối Nho gia “thu nạp và tiến cử những dân chúng còn lại làm cho người hèn mọn được tôn quý, người nghèo thì làm cho giàu có, người ở xa thì làm cho gần lại”, thay cho đường lối Pháp gia của Tần Thủy Hoàng, tiến hành cuộc trả thù đẫm máu đối với những đại biểu chính trị của giai cấp địa chủ. Bài viết nói: “Thời kỳ đầu và giữa vương triều Tây Hán sở dĩ có thể giành thắng lợi trong cuộc đấu tranh chống phục hồi, chính là vì sau khi Hán Cao Tổ chết, đường lối của Pháp gia đã được giữ vững trên căn bản qua 6 đời vua Lữ Hậu, Hán Văn Đế, Hán Cảnh Đế, Hán Vũ Đế, Hán Chiêu Đế, Hán Tuyên Đế”. “Do ở trung ương có một tập đoàn lãnh đạo Pháp gia tương đối liên tục và xuyên suốt nên mới bảo đảm được đường lối của Pháp gia”. Còn sách lược của “Thanh Quân Trắc” là muốn thông qua việc làm “sụp đổ tập đoàn lãnh đạo Pháp gia Trung ương” để thay đổi đường lối Pháp gia. Bài viết còn đi sâu nêu rõ bản ý: “Trong điều kiện chuyên chính vô sản, những nhân vật tiêu biểu của giai cấp tư sản chui vào Đảng cũng thường dùng sách lược phản cách mạng của thanh Quân Trắc” này để “đả kích lực lượng cách mạng kiên trì đường lối đúng đắn của Mao Chủ tịch”.

Dụng ý của họ là làm toát lên hai điều: một là ám chỉ công kích Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình v.v... là Triệu Cao, Lưu Tỵ đã chui vào nội bộ Đảng; hai là, tán tụng họ là “tập đoàn lãnh đạo Pháp gia Trung ương” kiên trì đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch phải để cho những nhân vật của Pháp gia “chủ trì công tác ở Trung ương”. Từ đó về sau, rất nhiều bài viết của nhóm sáng tác ở Thành phố Thượng Hải và hai trường đã tâng bốc cho cái gọi là “tập đoàn lãnh đạo Pháp gia Trung ương”. Những bài viết này vừa là để cho dân chúng xem và càng là để cho Mao Trạch Đông xem. Họ góp ý kiến với Mao Trạch Đông: Chỉ có đề cho “tập đoàn lãnh đạo Pháp gia Trung ương” chủ trì chính sự, mới có thể giữ vững đường lối cách mạng của Mao Chủ tịch. Trong lòng đã có dự kiến trước, Mao Trạch Đông biết Giang Thanh đã “tích oán quá nhiều” nên ông chẳng hề để ý đến điều này.

2. Đặng Tiểu Bình giận dữ bỏ đi

Ngày 12 tháng 10 năm 1974, “Văn hối báo” và “Giải phóng nhật báo” đã đăng trên trang đầu bài của người bình luận, mượn đề tài chiếc tàu thủy 1 vạn tấn mang tên “Phong Khánh” do Trung Quốc đóng sau chuyến viễn dương trở về, công kích bóng gió Chu Ân Lai và các đồng chí lãnh đạo hữu quan.

Sự kiện tàu “Phong Khánh” đại khái như sau:

Năm 1974, Trưởng phòng Tổ chức Lý Quốc Đường và cán sự tuyên truyền Cố Quảng Văn của Tổng Công ty vận tải Viễn dương Trung quốc, được cử đến giúp đỡ tàu “Phong Khánh” lần đầu tiên đến châu Âu, Lý làm chính ủy, còn Cố làm cán sự chính trị. Sau khi tàu “Phong Khánh” nhổ neo, có một số người muốn Lý và Cố phê phán cái gọi là “sùng bái nước ngoài” và “chủ nghĩa bán nước” trong vấn đề đóng tàu và mua tàu. Lý và Cố đã từ chối đồng thời nêu rõ: Quốc vụ viện và Bộ Giao thông luôn luôn ủng hộ ngành công nghiệp đóng tàu trong nước, nhưng trong điều kiện hiện nay, ngành công nghiệp đóng tàu trong nước còn chưa thể thỏa mãn việc vận tải viễn dương, việc tận dụng một số điều kiện có lợi, mua một số “tàu thuyền của nước ngoài một cách thỏa đáng” là hoàn toàn cần thiết. Điều đó có lợi cho việc đẩy nhanh tốc độ phát

Page 48: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

triển các đội tàu viễn dương độc lập của nước ta, cũng có thể nhanh chóng thay đổi tình hình do tàu thuyền không đủ dẫn đến việc phải dùng số lớn ngoại tệ thuê tàu nước ngoài. Một số luận điệu hoang đường về vấn đề này là chĩa mũi nhọn vào Chu Ân Lai và những người lãnh đạo khác của Quốc vụ viện. Họ còn bàn luận về những vở “kịch mẫu” trong các thủy thủ. Lũ thân tín của “bọn bốn tên” dựa vào đó đã viết một bức thư dài hơn một vạn chữ, vu cáo Lý, Cố là “bọn giặc Tây giả”, tiêu biểu cho một đường lối xét lại. Ở lời phê của Giang Thanh trong bức thư đã công kích Bộ Giao thông là “sùng hàng ngoại”, là “sự chuyên chính của giai cấp tư sản mại bản”. Trương Xuân Kiều và Diêu Văn Nguyên cũng vu cáo Lý Quốc Đường là đại biểu của “giai cấp tư sản mại bản”. Vương Hồng Văn phê: “Trước tiên giữ Lý Quốc Đường ở lại Thượng Hải, phát động thuyền viên trên tàu “Phong Khánh” tiến hành tố cáo phê phán một cách triệt để”. “Bộ Giao thông cần phải xử lý nghiêm khắc Lý Quốc Đường, đồng thời báo cáo tình hình xử lý lên Trung ương”. Trước ngày Quốc khánh sau khi tàu “Phong Khánh” trở về Thượng Hải. Lý và Cố bị bắt giữ và đấu tố tại Thượng Hải. “Sự kiện Lý, Cố” được gọi là “sự kiện chính trị phản động”. Bài viết của người bình luận “Văn hối báo” và “Giải phóng quân báo” nói nào là: “Lịch sử phát triển của ngành công nghiệp đóng tàu thời kỳ cận đại ở nước ta là một bộ lịch sử đầy những cuộc đấu tranh tôn vinh Nho gia, sùng bái nước ngoài và yêu nước chống Khổng Tứ”, nào là “Giở lại lịch sử phát triển ngành công nghiệp đóng tàu của Trung Quốc có thể thấy rất rõ kẻ cầm đầu phái tôn vinh Khổng Tử đều trực tiếp nhúng tay vào ngành công nghiệp đóng tàu”. Bài viết còn nói: “Tăng Quốc Phan, Lý Hồng Chương, Viên Thế Khải, Tưởng Giới Thạch, Lưu Thiếu Kỳ v. v... đều theo triết học nô lệ phương Tây: “Đóng tàu không bằng mua tàu, mua tàu không bằng thuê tàu”, thi hành đường lối bán nước chủ nghĩa”. Còn nói: “Kinh nghiệm lịch sử thật đáng chú ý”.

Không những thế, Giang Thanh và đồng bọn còn gây nên cuộc tranh cãi trong Bộ Chính trị. Ngày 1 tháng 6, sau khi Chu Ân Lai phải nằm viện vì ốm, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn bày sẵn mưu kế khiêu khích Đặng Tiểu Bình nhiều lần trong Bộ Chính trị. Ngày 4 tháng 10, Mao Trạch Đông đề nghị Đặng Tiểu Bình giữ chức Phó Thủ tướng thứ nhất Quốc vụ viện, trên thực tế là chủ trì công việc của Quốc vụ viện. “Bọn bốn tên” càng tăng cường công kích Đặng Tiểu Bình. Tối ngày 17 tháng 10, “bọn bốn tên” chuẩn bị trước, đưa cái gọi là vấn đề “sùng bài nước ngoài” trong sự kiện tàu “Phong Khánh” ra Hội nghị Bộ Chính trị, muốn Đặng Tiểu Bình phải lập tức tỏ thái độ để tập kích bất ngờ đối với Đặng Tiểu Bình. Giang Thanh hỏi Đặng Tiểu Bình một cách khiêu khích: “Đồng chí có thái độ thế nào đối với vấn đề này?” Đặng Tiểu Bình trả lời Giang Thanh một cách nghiêm túc: “Tôi phải điều tra”. Giang Thanh và đồng bọn làm ầm ĩ. Đặng Tiểu Bình nói: “Bộ Chính trị thảo luận vấn đề phải bình đẳng chứ không thể dùng thái độ đó để đối xử với người khác”. Giang Thanh và cả bọn cùng gào lên: “Sớm biết là đồng chí sẽ nhảy ra, quả nhiên hôm nay đồng chí đã nhảy ra rồi”. Đặng Tiểu Bình khinh bỉ nhìn họ, tức giận bỏ hội nghị đi ra.

3. Hai ống cùng một lúc thổi gió vào hai tai Mao Trạch Đông

Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn như trong không khí căng thẳng, nghiêm trọng của một cuộc quyết chiến sắp đến, đã nghiên cứu phương án hành động của bước tiếp theo. Địa điểm tại lầu số 17 Điếu Ngư Đài.

Bốn người nhất trí cho rằng, cần phải tranh thủ sự ủng hộ của Mao Trạch Đông. Vương Hồng Văn nhanh chóng về Trường Sa, báo cáo tình hình với Mao Trạch Đông. Ngày hôm sau, tức ngày 18 tháng 10, Vương Hồng Văn đáp chuyên cơ đến Trường Sa. Ngay tối hôm ấy Mao Trạch Đông đã tiếp kiến anh ta.

Khi báo cáo tình hình trù bị Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4, Vương Hồng Văn đã báo cáo với Mao Trạch Đông:

Page 49: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Thủ tướng tuy bị bệnh nằm viện, nhưng vẫn bận rộn gọi người đến nói chuyện tới nửa đêm. Hầu như ngày nào cũng có người đến. Thường xuyên đến chỗ Thủ tướng có các đồng chí Tiểu Bình, Kiếm Anh, Tiên Niệm v. v...”

Mao Trạch Đông lặng lẽ lắng nghe. Vương Hồng Văn nói tiếp: “Các đồng chí này qua lại trao đổi với nhau liên tục lúc này có liên quan đến nhân sự của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4”

Mao Trạch Đông vẫn im lặng không nói.

“Bắc Kinh hiện nay rất đậm mùi vị của Hội nghị Lư Sơn!”

Câu nói này của Vương Hồng Văn là nét bút điểm nhãn. Nếu Mao Trạch Đông coi trọng đồng thời ủng hộ báo cáo của anh ta, liên hệ sự kiện với Hội nghị Lư Sơn tức Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 2 khóa 9, thì tính chất vấn đề sẽ rất rõ ràng.

Vương Hồng Văn chờ đợi sự ủng hộ của Mao Trạch Đông. Nhưng sự hy vọng của anh ta tan vỡ.

Cùng ngày hôm đó, tại nhà số 10 ở Điếu Ngư Đài, Bắc Kinh, Giang Thanh gọi Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh đến nói chuyện.

Vương, Đường như hai chị em gái, quần áo, trang điểm đến vóc dáng đều na ná như nhau luôn mặc quần áo giản dị, đi giày vải mũi vuông, tóc cắt ngắn đến tai, đeo kính, hình tượng của những trí thức điển hình. Hai người một người là cháu gái họ gọi Mao Trạch Đông bằng ông, một người là con gái của Đường Minh Chiếu một quan chức của Bộ Ngoại giao. Chức vụ của họ là phiên dịch của Bộ Ngoại giao, nhưng có địa vị đặc biệt trong tầng lớp lãnh đạo cao cấp của Đảng. Họ không chỉ làm phiên dịch khi Mao Trạch Đông tiếp khách nước ngoài, mà còn là khách thường xuyên trong nhà Chủ tịch Đảng. Vào những năm cuối đời của Mao Trạch Đông, nhất là giai đoạn cuối của đại cách mạng văn hóa, khách trong nhà ông không nhiều. Các nhà lãnh đạo khác có lúc hàng nửa năm hoặc vài tháng cũng khó được gặp mặt Mao một lần, chỉ khi ông triệu tập Bộ Chính trị hoặc tiếp khách nước ngoài mới gặp mặt các ủy viên Bộ Chính trị hoặc những người lãnh đạo khác. Mao Trạch Đông rất tín nhiệm Vương và Đường, muốn hai cô gái trẻ này tham gia Hội nghị Bộ Chính trị sau đó trực tiếp nghe báo cáo của hai người về tình hình trong nội bộ của Bộ Chính trị cùng những phản ánh tình hình các mặt trong nước. Có một số văn kiện phát cho ủy viên Bộ Chính trị đọc đã ghi cả tên của hai người. Mao Trạch Đông biết nội bộ Bộ Chính trị chia làm hai trận tuyến, tình hình mà hai phía báo cáo ông không dễ dàng tin ngay, ông cần tình hình mà ông cho là chân thực. Trong điều kiện đặc biệt này, Vương và Đường trở thành cầu nối đặc biệt giữa Mao Trạch Đông và các ủy viên Bộ Chính trị khác. Mao Trạch Đông không chỉ có được những tình hình mà ông muốn tìm hiểu qua hai cô gái trẻ này, mà chỉ thị của ông có lúc phải thông qua hai người này truyền đạt đến Bộ Chính trị hoặc những người lãnh đạo khác trong Trung ương và Quốc vụ viện.

Hôm nay, Giang Thanh mời hai cô này đến, là muốn họ tâu với Mao Trạch Đông về Chu và Đặng.

Giang Thanh đã nói với Vương và Đường những ý sau:

Mao Trạch Đông sắp tiếp kiến khách nước ngoài ở Trường Sa, có một tình hình quan trọng nhờ các cô khi đi cùng khách nước ngoài thì báo cáo với Chủ tịch. Tối ngày 17 tháng 10, Bộ Chính trị họp thảo luận vấn đề “tàu Phong Khánh”, Tiểu Bình và tôi đã tranh cãi với nhau, sau đó ông ta khinh khỉnh bỏ đi, làm cho Hội nghị của Bộ Chính trị không tiếp tục họp được. Các đồng chí lãnh đạo của Quốc vụ viện thường xuyên lấy cớ bàn công việc để xâu chuỗi. Thủ tướng đang nằm viện cũng rất bận, không hoàn toàn là dưỡng bệnh. Tiểu Bình và Thủ tướng, Nguyên soái Diệp Kiếm Anh thường xuyên ở bên nhau. Thủ tướng là kẻ ủng hộ sau lưng.

Page 50: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Việc này tôi nói không thật rõ ràng, đợi đến tối tôi mời Hồng Văn, Xuân Kiều, Văn Nguyên cùng tới, sẽ giới thiệu thêm tình hình”. Giang Thanh nói.

Bà ta còn tiết lộ, Vương Hồng Văn sẽ báo cáo việc này với Mao Trạch Đông.

Ngay tối hôm ấy khi Vương Hải Dung, Đường Văn Sinh đến ngôi nhà số 17 Điếu Ngư Đài theo sự sắp xếp của Giang Thanh, thì Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên đã đợi họ ở đó rồi. Trước tiên Giang Thanh để Trương Xuân Kiều “giới thiệu tình hình trong nước hiện nay”.

Trước hết Trương Xuân Kiều nói về vấn đề thu chi tài chính trong nước và việc xuất hiện nhập siêu trong ngoại thương, rằng đó là do Quốc vụ viện “sùng bái phương Tây” gây nên.

“Trong vấn đề “tàu Phong Khánh”, Tiểu Bình nhảy ra không phải là ngẫu nhiên, trước đại cách mạng văn hóa ông ta đã chủ trương “đóng tàu không bằng mua tàu, mua tàu không bằng thuê tàu”. Trương Xuân Kiều nói.

Ý kiến về tính chất của vấn đề, Trương Xuân Kiều so sánh Hội nghị Bộ Chính trị họp vào tối ngày 17 tháng 10 với “dòng nước ngược tháng Hai”.

Ngày hôm sau, Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh đi bệnh viện, báo cáo tình hình việc Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên nói chuyện với họ cho Chu Ân Lai biết.

Chu Ân Lai nghe xong báo cáo, trầm ngâm một lúc, nói: “Tôi đã biết vấn đề của Hội nghị Bộ Chính trị. Những tình hình mà tôi được biết, không giống những gì Giang Thanh đã nói, mà là bốn người họ đã sắp sẵn kế hoạch để chỉnh Tiểu Bình, họ đã nhiều lần làm như thế với Tiểu Bình, Tiểu Bình đã nhịn họ rất lâu rồi”. Chu Ân Lai biết rõ sự việc rắc rối trong Hội nghị Bộ Chính trị ngày 17 tháng 10, đã làm cho cuộc đấu tranh rõ ràng hơn, tiêu điểm của cuộc tranh luận là việc sắp xếp nhân sự trong Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4. Vấn đề đã được đưa đến chỗ Mao Trạch Đông, giải quyết thế nào phải xem thái độ của Mao Trạch Đông.

Cuối cùng, Chu Ân Lai nói với Vương và Đường: “Tôi đang làm việc, định tìm hiểu tình hình thêm nữa, rồi giải quyết vấn đề dần dần”. Ngày 20 tháng 10, Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh đến Trường Sa báo cáo với Mao Trạch Đông tình hình xảy ra mấy ngày nay ở Bắc Kinh, đồng thời đã bày tỏ sự bất mãn đối với Giang Thanh và mấy người... Vương và Đường đi theo Thủ tướng Đan Mạch Ha-đơ-lin sang thăm Trung Quốc đến Trường Sa.

Mao Trạch Đông đã chỉ thị cho Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh như sau: Vì Thủ tướng vẫn là Thủ tướng, vấn đề công tác trù bị và sắp xếp nhân sự của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khoá 4 phải do Thủ tướng và Vương Hồng Văn cùng giải quyết, đề nghị Đặng Tiểu Bình giữ chức Phó Chủ tịch Đảng, Phó Thủ tướng thứ nhất, Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng Tham mưu trưởng, chuyển lời tới Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên bảo họ không nên theo sau Giang Thanh để phê duyệt.

Thái độ của Mao Trạch Đông đã làm cho đợt tấn công này do Giang I'hanh và đồng bọn gây ra bị thất bại nghiêm trọng.

4. Công ty gang thép chọi với công ty gang thép

Một chiếc máy bay phản lực sơn dấu hiệu máy bay quân dụng của Trung Quốc cất cánh từ sân bay quân sự Tây Giao Bắc Kinh, loáng một cái đã mất hút trong những đám mây trắng đang bồng bềnh trôi trên nền trời xanh.

Đặng Tiểu Bình đến Trường Sa gặp Mao Trạch Đông.

Page 51: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngày 12 tháng 11 năm 1974, Mao Trạch Đông tiếp kiến Đặng Tiểu Bình tại Trường Sa, cuộc nói chuyện trong bầu không khí cực kỳ thân mật. Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh cùng có mặt trong buổi tiếp kiến.

“Đồng chí cũng biết ạ?” Đặng Tiểu Bình nói. Ông biết rằng, điều mà Mao Trạch Đông nói là sự đối đầu giữa hai bên trong hội nghị Bộ Chính trị họp ngày 17 tháng 10.

“Tốt!” Mao Trạch Đông tỏ ra rất vui.

“Quả thực là tôi không nhịn nổi! Không chỉ một lần!”

“Tôi tán thành đồng chí!”

“Trong Bộ Chính trị đồng chí ấy gây ra bảy tám lần rồi”.

“Áp đặt cho người khác, tôi cũng không vui”.

Mao Trạch Đông chỉ vào Vương và Đường: “Các cô ấy cũng không vui”.

“Chủ yếu là tôi cảm thấy sinh hoạt của Bộ Chính trị không bình thường, cuối cùng tôi đã đến chỗ đồng chí ấy. Công ty gang thép chọi với công ty gang thép” Đặng Tiểu Bình nói.

“Điều đó tốt”. Mao Trạch Đông rất vui.

Đặng Tiểu Bình lại nói đến vấn đề công tác của mình, ông bày tỏ với Mao Trạch Đông:

“Về quyết định công tác của tôi gần đây, Chủ tịch đã nói rồi, không nên nêu ý kiến gì nữa, nhưng xem ra trách nhiệm có phần quá nặng”. Phó Chủ tịch Đảng, Phó Thủ tướng thứ nhất, Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Tổng Tham mưu trưởng, trách nhiệm quả thực là nặng nề.

“Chẳng có cách nào khác đâu, đành phải gánh vác thôi”, Mao Trạch Đông nói.

Cùng ngày, trong một bức thư Giang Thanh gửi cho ông, Mao Trạch Đông phê như sau;

“Đừng lộ mặt nhiều; không nên phê văn kiện; cô không nên tổ chức nội các (làm đầu sỏ giấu mặt). Cô tích oán quá nhiều, phải đoàn kết với đa số. Lời dặn chí tình.

Con người quý nhất là tự mình hiểu lấy.

Mao Trạch Đông

Ngày 12 tháng 11”

Giang Thanh không thỏa mãn với cái chức vụ chỉ là ủy viên Bộ Chính trị của mình. Bà ta muốn thò tay vào Quốc vụ viện. Việc sắp xếp nhân sự của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4, bà ta cũng can dự. Trong bức thư gửi Mao Trạch Đông, bà ta nêu: “Để Tạ Tĩnh Nghi làm Phó ủy viên trưởng, Trì Quần làm Bộ trưởng Giáo dục, Kiều Quán Hoa làm Phó Thủ tướng, Mao Viễn Tân, Trì Quần, Tạ Tĩnh Nghi, Kim Tổ Mẫn cùng vào Bộ Chính trị để bồi dưỡng làm “người nối nghiệp”. Kim Tổ Mẫn là nữ công nhân dệt ở Thành phố Thanh Đảo. Trong thời gian họp Đại hội Đảng khóa 10, đột ngột dùng máy bay đón cô ta lên Bắc kinh, vì trúng cử ủy viên Dự khuyết Trung ương Đảng.

8 ngày sau, Mao Trạch Đông viết cho Giang Thanh một bức thư:

Giang Thanh:

Có thể đọc thư của Lý Cố gửi cho Hoàng Quỳnh. Về tư tưởng và tài văn chương mà nói, đều là một bài văn hay. Chức vụ của cô chính là nghiên cứu động thái trong và ngoài nước, đây đã là nhiệm vụ lớn rồi. Việc này tôi đã nói với cô nhiều lần, không nên nói là không có công việc. Dặn như vậy.

Mao Trạch Đông

Ngày 20 tháng 11 năm 1974

Page 52: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Lý Cố và Hoàng Quỳnh là người thời Đông Hán. Lý Cố vốn vẫn ngưỡng mộ Hoàng Quỳnh, đã từng khuyến khích ông ta ra làm quan. Vào năm Thủy Kiến thứ 2 đời Hán Thuận Đế, Hoàng Quỳnh được triệu vào kinh, giữa đường bị ốm nên không chịu đi, được triều đình thúc giục mới tiếp tục đến kinh thành. Khi HoàngQuỳnh đến gần ngoại ô Lạc Dương, Lý Cố viết cho ông ta một bức thư tức là “bức thư của Lý Cố gửi Hoàng Quỳnh” mà Mao Trạch Đông nói tới. Bức thư này đã gợi ý và khuyên Hoàng Quỳnh hai mặt, một là phê phán sự cô độc và kiêu ngạo của các danh sĩ lúc ấy, mặt khác nhằm vào khuyết điểm của các danh sĩ lúc ấy chỉ dựa vào danh tiếng, mà thực ra là không phù hợp nên dẫn đến việc dễ bị người ta công kích. Mao Trạch Đông rất thích bài viết này của Lý Cố. Giang Thanh viết thư cho Mao Trạch Đông nói là: “Từ sau Đại hội Đảng khóa 9 hoàn toàn là một người nhàn rỗi”, hy vọng Mao Trạch Đông giao việc cho bà ta, tức là cho bà ta thực quyền chỉ huy. Thư của Mao Trạch Đông trên thực tế đã phủ định yêu cầu này của bà ta.

5. Lần gặp mặt quan trọng

Hạ tuần tháng 12 năm 1974, bước vào những ngày mùa đông lạnh giá, gió lạnh buốt thấu xương từ bình nguyên Hoa Bắc ù ù thổi trên bầu trời. Chu Ân Lai đi Trường Sa gặp Mao Trạch Đông. Diệp Kiếm Anh biết tin Chu Ân Lai sẽ đi Trường Sa vừa mừng lại vừa lo, mừng vì có Chu Ân Lai đích thân đứng ra kiến nghị với Mao Trạch Đông, thì sẽ có hy vọng giành thắng lợi trong việc đánh bại âm mưu “lật đổ nội các” của Giang Thanh. Lo là sức khỏe của Chu Ân Lai có chịu nổi hay không? Theo bác sĩ nói với ông: “Tình trạng sức khỏe của Thủ tướng rất không tốt, phải đáp máy bay đi Trường Sa, sợ...”, bác sĩ nói không hết câu, Diệp KiếmAnh liền nói một cách quả quyết: “Các đồng chí phải dùng tất cả các biện pháp bảo đảm an toàn cho Thủ tướng, đó là nhiệm vụ chính trị”.

Đi cùng với Chu Ân Lai còn có Vương Hồng Văn vì Mao Trạch Đông bảo ông ta cùng Chu Ân Lai phụ trách công tác trù bị Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4.

Trường Sa, tình cảm của Mao Trạch Đông đối với nơi này cực kỳ sâu nặng, đó là tỉnh lỵ của tỉnh Hồ Nam quê ông. Thời trai trẻ, ông đã học tập ở đây, đã trải qua thời gian khó quên... Mao Trạch Đông đến Trường Sa lần này đã lưu lại khá lâu.

Chu Ân Lai, Vương Hồng Văn đến Trường Sa nghỉ ngơi chút ít, liền đến gặp Mao Trạch Đông.

“Không nên tụ tập thành “bọn bốn tên”. Đoàn kết lại, bốn nglrời tụ tập lại sẽ không hay!” Mao Trạch Đông vừa vung tay vừa nói với Vương Hồng Văn.

“Sau này không tụ tập nữa ạ”. Vương Hồng Văn đỏ mặt, đỏ một cách rất rõ ràng.

Khi Mao Trạch Đông tiếp kiến Chu Ân Lai và Vương Hồng Văn, Vương Hải Dung và Đường Văn Sinh đều có mặt.

“Bắt đầu từ tháng 1 sang năm, tôi không tiếp khách nước ngoài nữa. Có muốn gặp, tôi cũng không gặp. Tôi ăn và ngủ không tốt, bơi 5 lần. Chỉ nói chuyện, phổi, chân”. Mao Trạch Đông kể tình hình sức khỏe của mình cho Chu và Vương nghe.

Đề tài nói chuyện chuyển sang Đặng Tiểu Bình.

“Tư tưởng chính trị của đồng chí ấy khá”. Mao Trạch Đông dùng ngón tay chỉ vào đầu.

“Polities khá hơn đồng chí ấy”, Mao Trạch Đông chỉ vào Vương Hồng Văn.

Polities, tiếng Anh là “chính trị”. Tất nhiên Chu Ân Lai hiểu. “Đồng chí ấy không khá bằng Đặng Tiểu Bình”. Mao Trạch Đông vừa nói vừa viết chữ “khá” lên giấy.

Vương Hồng Văn rất ngượng và cũng rất căng thẳng.

Page 53: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Tiếp đó Chu Ân Lai báo cáo với Mao Trạch Đông về việc sắp xếp nhân sự Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4, khi nói đến Diệp Kiếm Anh làm Phó Chủ tịch Quân ủy kiêm Bộ trưởng Quốc phòng, Đặng Tiểu Bình làm Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Tổng Tham mưu trưởng, Mao Trạch Đông cắt ngang lời Chu Ân Lai, nói rõ từng chữ từng câu: “Tôi thấy Đặng Tiểu Bình làm được Phó Chủ tịch Quân ủy. Phó Chủ tịch Quân ủy, Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Tổng Tham mưu trưởng”.

Mao Trạch Đông lai cầm lấy bút viết ba chữ lên giấy: “Nhân tài khó1”.

Chu Ân Lai nói: “Nhân tài khó kiếm”.

Mao Trạch Đông đặt bút xuống.

Chu Ân Lai báo cáo danh sách Phó Thủ tướng đọc: “Đặng, Trương, Lý...” tức Đặng Tiểu Bình, Trương Xuân Kiều, Lý Tiên Niệm.

Mao Trạch Đông lại cắt ngang lời Chu Ân Lai nói một chữ “Trần”, tức Trần Tích Liên.

Ngày 28 tháng 12, Chu Ân Lai, Vương Hồng Văn rời Trường Sa trở về Bắc Kinh. Máy bay bay ổn định. Bên trên là bầu trời xanh vô tận, bên dưới là đồng bằng mênh mông. Thế giới và vũ trụ rộng lớn sâu thẳm biết nhường nào.

Tâm trạng của hai người lúc này thật khác nhau. Tâm trạng của Vương Hồng Văn không vui, còn Chu Ân Lai lại thấy vui vẻ thư thái.

Chủ đề mà Mao Trạch Đông nói với họ rất rõ ràng, phê bình Giang Thanh và “bọn bốn tên” của họ, khen ngợi Đặng Tiểu Bình đồng thời giao cho Tiểu Bình trách nhiệm nặng nề hơn.

Lần này đến Trường Sa, trong các ngày 23, 24, 25, 27 tháng 12, Mao Trạch Đông đã bốn lần nói chuyện với Chu Ân Lai và Vương Hồng Văn.

Ngày 23, Mao Trạch Đông muốn Chu Ân Lai và Vương Hồng Văn ở lại Trường Sa ba ngày để nói chuyện. Ngày 24 lại bảo họ ở lại nói chuyện, còn công việc ở Bắc Kinh do Tiểu Bình chủ trì. Ngày 25 lại bảo họ ở lại hai ngày. Đến ngày 27 nói, bây giờ chẳng còn gì để nói nữa.

Trong 4 lần nói chuyện Mao Trạch Đông chủ yếu nói về mấy vấn đề. Không nên lập “bọn bốn tên”. Trung ương có nhiều người như vậy nên phải đoàn kết. Giang Thanh và một số người đã lập công trong phong trào phê Lâm, phê Khổng, nhưng không nên lập bè phái, lập bè phái sẽ bị ngã, có thể bò dậy được thì tốt. Đồng thời kể ra những ví dụ trong lịch sử đấu tranh của Đảng.

Vấn đề đánh giá và việc đảm nhiệm chức vụ mới đối với Đặng Tiểu Bình, cũng như người được lựa chọn làm Phó Thủ tướng là nội dung chủ yếu của cuộc nói chuyện ngày 23.

Việc phê bình đối với Giang Thanh, Mao Trạch Đông nói là ông đang làm công tác tư tưởng với Giang Thanh, khuyên bà ta ba điều không nên: một là không nên phê phán lung tung, hai là không nên xuất đầu lộ diện khoe khoang, ba là không nên tham gia tổ chức chính phủ (nội các). Giang Thanh nói không có công việc để làm, Mao Trạch Đông bảo đọc tư liệu, nghiên cứu vấn đề quốc tế và trong nước, sau đó nêu ý kiến, bản thân ông nhiều năm nay cũng làm như vậy. Mao Trạch Đông nói, đối với Giang Thanh tất nhiên có thể một chia làm hai, trong vấn đề phê Lưu (Thiếu Kỳ), Lâm là đúng nhưng nói sai lầm của Thủ tướng là cuộc đấu tranh đường lối thứ 11 là không đúng. Lúc ấy Chu Ân Lai báo cáo với Mao Trạch Đông, điều nay chỉ nói trong Thường vụ Bộ Chính trị, không nêu ở Bộ Chính trị nữa.

Phê Lâm phê Khổng, phê phán đi cửa sau trở thành 3 chủ đề, đã làm loạn lên. Mao Trạch Đông nói, làm loạn lên rồi, cũng không bảo cho ông biết. Chu Ân Lai nói vào khoảng tháng 1, tháng 2, Giang Thanh đưa chỉ thị ấy xuống, họp các cuộc mít tinh như vậy, các đồng chí ấy cũng

Page 54: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

có trách nhiệm. Bộ Chính trị cũng không thảo luận nghiêm túc, cho nên trước khi Chủ tịch rời Bắc Kinh hẹn nói chuyện với các đồng chí trong Bộ Chính trị, tôi đã nói, có một số việc do chúng ta sợ hãi. Mao Trạch Đông nói, phê Lâm thì dễ nhưng phê Khổng thì khó. Bây giờ Tứ thư Ngũ kinh cũng phê cả, Khổng Phu Tử là Văn thánh đã bị đánh đổ, Quan Vân Trường là Võ thánh cũng bị đánh đổ. Nói phê Lâm phê Khổng là đại cách mạng văn hóa lần thứ hai là không đúng.

Nói về tình hình quốc tế, Mao Trạch Đông cho rằng càng nói hoà hoãn thì càng chuẩn bị chiến tranh, bây giờ có thể không nêu khuynh hướng chủ yếu của thế giới hiện nay là cách mạng, mà phải nhấn mạnh sự căng thẳng của việc chuẩn bị chiến tranh, nhân dân các nước phải có sự chuẩn bị đối với việc này. Mao Trạch Đông cho rằng phải hiểu rõ ý đồ thật sự đối với việc Liên Xô thăm dò nước ta. Mao Trạch Đông hỏi, nếu Brê-giơ-nhép muốn đến nói chuyện thì nên như thế nào? Chu Ân Lai nói, nếu ông ta thực sự muốn đến nói chuyện, thì có thể xem xét, nhưng chúng ta không thể đi mời ông ta. Mao Trạch Đông gật đầu.

Chu Ân Lai sắp xếp chỉnh lý nội dung của mấy lần nói chuyện thành một đề cương, chuẩn bị sau khi về Bắc Kinh sẽ lập tức truyền đạt lại cho Thường vụ Bộ Chính trị.

Chu Ân Lai mỉm cười. Thái độ của Mao Trạch Đông đã làm cho lần tấn công này của Giang Thanh và đồng bọn bị thất bại nghiêm trọng. Cuộc đọ sức xoay quanh việc sắp xếp nhân sự trước Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4, đã có kết quả làm cho mọi người được khích lệ: Địa vị của Đặng Tiểu Bình trong Đảng được nâng cao thêm một bước, có kẻ nhúng tay để “tổ chức nội các” nhưng không thành công. Nếu tình hình cứ tiếp tục phát triển như vậy thì có thể tương đối yên tâm.

Máy bay bắt đầu hạ dần độ cao. Đã tới Bắc Kinh!

Chu Ân Lai vừa lên đường đi Trường Sa, Giang Thanh đã luống cuống, bà ta rất mẫn cảm: “Đây là cuộc du thuyết Chủ tịch, đi “tổ chức nội các”. Trước khi ông ta chết còn đọ sức với chúng ta, có đến tám chín phần mười Chủ tịch chấp thuận ý kiến của ông ta”. Trương Xuân Kiều càng ý thức được rằng đây là một tín hiệu nguy hiểm.

Quả thực không ngoài dự đoán, ngày 5 tháng 1 năm 1975, Trung ương Đảng công bố văn kiện số 1: Trung ương quyết định bổ nhiệm Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham mưu trưởng Quân giải phóng, bổ nhiệm Trương Xuân Kiều làm Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân giải phóng.

Từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 1, Hội nghị Trung ương lần thứ 2 khóa 10 họp tại Bắc Kinh. Hội nghị đã nghiên cứu công tác chuẩn bị Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 đưa “Dự thảo sửa đổi Hiến pháp nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa”, “Về Báo cáo sửa đổi Hiến pháp”, “Báo cáo công tác của Chính phủ” và danh sách ứng cử ủy viên thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc là thành viên Quốc vụ viện để trình Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc thảo luận.

Trong Hội nghị này đã bầu Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Đảng, ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị, phê chuẩn đơn xin từ chức của Phó Chủ tịch Đảng và ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị của Lý Đức Sinh.

Từ ngày 13 đến ngày 17 tháng 1, Hội nghị Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 được cử hành tại Bắc Kinh. Từ khóa 3 đến khóa 4 đã phải trải qua tròn 10 năm. Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, tượng trưng của chính quyền Nhà nước, cơ cấu quyền lực cao nhất về pháp luật, đã bị xóa bỏ trên thực tế 8 năm rưỡi.

Page 55: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

4

“Bọn bốn tên” hạ độc thủ giương lên cạm bẫy

Đặng Tiểu Bình khéo lập ra chỉ thị ba điều

1. “Bọn bốn tên” đột nhiên cung kính đối với Chu Ân Lai

Vương Hồng Văn đi Trường Sa kể tội, bị Mao Trạch Đông phê bình. Đến cuối năm, Vương Hồng Văn lại cùng Chu Ân Lai đến Trường Sa báo cáo với Mao Trạch Đông. Vì ngủ quên đến chậm lại bị Mao Trạch Đông phê bình. Sau khi Mao Trạch Đông nghe xong báo cáo của Chu Ân Lai. Ngay tại chỗ phê chuẩn Chu Ân Lai làm Thủ tướng nội các, giấc mơ của “bọn bốn tên” mưu toan để Giang Thanh tổ chức nội các hoàn toàn tan vỡ.

Bị đả kích như vậy, nhưng Vương Hồng Văn không những không suy nghĩ hối cải, trái lại trong lòng lại nảy ra một kế, chuẩn bị hạ độc thủ đối với Chu Ân Lai. Sau khi về đến Bắc Kinh, anh ta lập tức đến ngay Điếu Ngư Đài, báo cáo với Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên về chuyến đi Trường Sa. Giang Thanh và đồng bọn nghe thấy Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 còn do Chu Ân Lai tổ chức nội các, Đặng Tiểu Bình chính thức làm Phó Thủ tướng thứ nhất, Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham mưu trưởng. Quốc vụ viện ngoài Trương Xuân Kiều làm Phó Thủ tướng ra, Giang Thanh, Diêu Văn Nguyên và Vương Hồng Văn đều không có liên quan, không nén được đã nhảy dựng lên. Vương Hồng Văn nói một cách bí hiểm: “Chúng ta nên tôn trọng quyết định của Chủ tịch, tích cực ủng hộ công tác của Thủ tướng. Ở Trường Sa lần này, Chủ tịch đã nói, muốn chúng ta không nên theo Giang Thanh phê gì cả. Vậy chúng ta không phê nữa, xin mời Thủ tướng phê, như vậy là được”. Trương Xuân Kiều cười, gật gật đầu nói: “Rất hay, theo tôi Hồng Văn phải đến chỗ Thủ tướng để thỉnh thị cho nhiều, bất kể việc to việc nhỏ đều phải xin ý kiến. Còn tôi theo chỉ thị của Chủ tịch lần này sẽ học lý luận về chuyên chính vô sản. Văn Nguyên thì nắm việc phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm”. Giang Thanh vỗ tay ca ngợi: “Xuân Kiều nhiều mưu kế thật, anh chính là Tiêu Hà và Trần Bình của tôi”. Cả bốn người cùng cười ha hả, họ chia nhau thực hiện...

Sau khi Chu Ân Lai từ Trường Sa trở về, chủ trì việc triệu tập Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4, lúc này đã là tháng 1 năm 1975. Ngày 13 tháng 1, Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 khai mạc và bế mạc vào ngày 17 tháng 1. Chu Ân Lai thay mặt Quốc vụ viện đọc “Báo cáo công tác của Chính phủ”, Trương Xuân Kiều đọc “Báo cáo sửa đổi Hiến pháp”. Đại hội bầu Chu Đức làm ủy viên trưởng ủy ban thường vụ khóa 4, thông qua danh sách đề cử vào Quốc vụ viện, bổ nhiệm Chu Ân Lai làm Thủ tướng. Phó Thủ tướng và đại bộ phận Bộ trưởng đều do các đồng chí cũ đảm nhiệm, “bọn bốn tên” vào Quốc vụ viện chỉ có một mình Trương Xuân Kiều (phó Thủ tướng). Ngoài ra có thân tín của Giang Thanh là Vu Hội Vmh giữ chức Bộ trưởng Văn hóa chỉ có vậy mà thôi. Một bộ có tính chất then chốt là Bộ Quốc phòng thì do Diệp Kiếm Anh đảm nhiệm, ngoài ra có bộ quan trọng là Bộ Công an, thì do nguyên Bí thư Tỉnh ủy Hồ Nam, ủy viên Bộ Chính trị khóa 10 mới được điều lên Trung ương là Hoa Quốc Phong làm Bộ trưởng, đồng thời Hoa Quốc Phong còn đảm nhiệm chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện.

Trong báo cáo công tác của Chính phủ, Chu Ân Lai trịnh trọng tuyên bố đến cuối thế kỷ đất nước phải thực hiện 4 hiện đại hóa: Công nghiệp, nông nghiệp, khoa học Kỹ thuật và quốc phòng! Các đại biểu vỗ tay nhiệt liệt biểu thị ý nguyện của 8 trăm triệu nhân dân Trung Quốc.

Có lẽ vì mệt, gần đây Chu Ân Lai luôn luôn cảm thấy tiêu hóa không tốt, đại tiện khó khăn. Sau khi Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 kết thúc, ông lại vào Viện 301, bác sĩ cho kiểm tra có chuẩn bị, các bộ phận khác không có gì khác thường, nhưng trong đại tràng gần vị trí của gan phát hiện một khối u bằng quả hạch đào. Nếu khối u này phát triển sẽ chèn đường tiêu hóa.

Page 56: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Sau khi kiểm tra kết thúc, Chu Ân Lai hỏi bác sĩ: “Các đồng chí phát hiện được cái gì?”. Bác sĩ cúi đầu không dám trả lời. Chu Ân Lai sốt ruột nói: “Các đồng chí phải nói thật với tôi, tôi phải sắp xếp công việc, các đồng chí cứ giấu tôi thì sẽ lỡ việc”. Bác sĩ không biết làm thế nào, đành phải nói thật với ông. Chu Ân Lai chợt hiểu ra, vị trí này chính là vị trí ông bị bệnh sưng gan khi vượt thảo nguyên trong cuộc trường chinh 40 năm về trước. Hồi ấy bệnh này đã khỏi, không ngờ 40 năm sau chính nơi này lại mọc ra khối u. Nguyên nhân là do công việc quá bận rộn, không có thời gian chữa trị tận gốc, lại thêm tức giận và mệt mỏi mà dẫn đến.

Biết nguyên nhân bị bệnh nên các bác sĩ đã quyết định mổ, nhưng sau hai lần mổ, Chu Ân Lai rất yếu, trước tiên phải truyền dịch nếu không sẽ không chịu nổi cuộc mổ.

Các bác sĩ chuẩn bị mổ, nhưng đầu giường của Chu Ân Lai chất đầy văn kiện, Diêu Văn Nguyên đưa đến những bài viết đầy chữ sai, nội dung chẳng đâu ra đâu cũng đưa đến cho ông sửa chữa. Chu Ân Lai ra lệnh cho thư ký: “Nói với họ rằng, từ nay về sau văn kiện đều đưa đến chỗ Tiểu Bình, bây giờ Tiểu Bình đã gánh vác trách nhiệm rồi”.

Chu Ân Lai đã có ý kiến nên “bọn bốn tên” không dám đưa văn kiện đến chỗ Chu Ân Lai nữa, nhưng họ lại sợ Đặng Tiểu Bình thấp lùn khỏe mạnh và thâm trầm, không dám làm khó dễ đối với ông, Vương Hồng Văn muốn lợi dụng việc Chu Ân Lai bị ốm nặng thực hiện âm mưu nhưng đã đổ bể.

Nhưng Vương Hồng Văn không chịu cam tâm, sau khi bàn bạc với Giang Thanh động một tí là gọi điện thoại đến bệnh viện, yêu cầu Chu Ân Lai đích thân chủ trì Hội nghị. Chu Ân Lai biết là họ cố ý gây rối, nhưng ông muốn trước khi chết giải quyết một số vấn đề, để cho Đặng Tiểu Bình làm việc dễ dàng hơn, nên đã rút kim truyền dịch đi dự hội nghị.

Hôm ấy, Vương Hồng Văn lại gọi điện thoại đến yêu cầu Chu Ân Lai lậptlức tham gia một cuộc họp do Giang Thanh chủ trì, các bác sĩ trả lời, Thủ tướng đang truyền dịch, Vương Hồng Văn ngang ngược hạ lệnh: “Truyền dịch cũng phải đến?” Chu Ân Lai kiên quyết rút kim truyền nói với thư ký: “Chuẩn bị xe”.

Đến phòng họp, chỉ thấy '“bọn bốn tên” cười cười nói nói, chẳng có việc gì để bàn, Chu Ân Lai quay đầu đi ra. Giang Thanh hỏi với theo: “Thủ tướng, chúng tôi đã phê Lâm phê Khổng hồi lâu rồi, thái độ của đồng chí sao vậy?” Chu Ân Lai lạnh lùng đáp: “Thời kỳ Phong trào Ngũ Tứ chúng tôi đã nêu ra khẩu hiệu đánh đổ cửa hiệu Khổng Gia rồi!”.

Một câu thôi đã làm Giang Thanh tắc nghẹn không nói được câu nào. Sau khi Đặng Tiểu Bình biết chuyện, lập tức báo cáo với Mao Trạch Đông những hoạt động của “bọn bốn tên”, đồng thời hạ lệnh ủy viên Bộ Chính trị không được gây rối việc dưỡng bệnh của Chu Ân Lai nữa, cần họp gì thì sẽ do ông thông báo cho Chu Ân Lai. Giang Thanh sợ Đặng Tiểu Bình nên cũng không dám tùy tiện đến chỗ Chu Ân Lai gây rối nữa.

Giang Thanh bị Chu Ân Lai đốp cho một câu, muốn ăn vạ, nhưng Chu Ân Lai đã lên xe đi. Bà ta liền diễn lại trò cũ, kêu khóc ầm ĩ, Diêu Văn Nguyên ngạc nhiên nói: “Trước đây ông ta đều cúi đầu nhẫn nhục, rất ít đốp chát người khác sao hôm nay lại ghê gớm thế?” Vương Hồng Văn hí hửng: “Các anh không biết đấy thôi, đã phát hiện khối u ở vùng gan của ông ta, các bác sĩ nói là còn độ một năm nữa”. Diêu Văn Nguyên chợt hiểu ra: “Chẳng trách, nổi giận đùng đùng”. Giang Thanh lại gầm lên “73, 84 rồi mà Diêm vương còn không mời họ đi”. Trương Xuân Kiều xem đồng hồ, cười: “Trong “bọn bốn tên” chúng ta, tôi phải rút khỏi cuộc họp này thôi, để đến giảng cho các cán bộ Cục Chính trị của các đơn vị lớn trong toàn quân về vấn đề chuyên chính toàn diện của giai cấp vô sản”. Giang Thanh dặn: “Xuân Kiều, anh nên nói kỹ, không áp đảo thì chúng không biết sự lợi hại của bà già này đâu”. Trương Xuân Kiều cầm cặp da nói: “Nhiệm vụ này tôi đảm bảo rồi. Văn Nguyên, việc phê phán chủ nghĩa kinh nghiệm của anh nên nhanh chóng bắt đầu đi!”. Giang Thanh oang oang: “Đúng, bắt đầu nhanh lên, Thủ tướng là đại biểu của chủ nghĩa kinh nghiệm”.

Page 57: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

2. Sự chỉnh đốn toàn diện của Đặng Tiểu Bình

Sở dĩ “bọn bốn tên” tức tối, gây khó dễ khắp nơi, hạ độc thủ là do sự phát triển của tình hình quá bất lợi đối với họ.

Việc triệu tập Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 chứng tỏ sự nỗ lực của thế lực đúng đắn trong Đảng, muốn làm cho đất nước đi đúng đường đã có kết quả bước đầu.

Ê kíp lãnh đạo trong Quốc vụ viện được sản sinh ra từ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 4 được sắp xếp: Thủ tướng vẫn là Chu Ân Lai, Phó Thủ tướng: Đặng Tiểu Bình, Trương Xuân Kiều, Lý Tiên Niệm, Trần Tích Liên, Kỷ Đăng Khuê, Hoa Quốc Phong, Trần Vĩnh Quý, Ngô Quế Hiền, Vương Chấn, Dư Thu Lý, Cốc Mục, Tôn Kiện. Từ kết cấu này, có thể thấy, cuộc đọ sức trong việc tổ chức nội các, âm mưu cướp quyền của “bọn bốn tên” đã thất bại.

Từ đó về sau, Chu Ân Lai bệnh nặng, Đặng Tiểu Bình làm Quyền Thủ tướng chủ trì công tác của Quốc vụ viện, đồng thời trên thực tế chủ trì công việc hằng ngày của Trung ương Đảng.

Mao Mao (Đặng Dung) con gái của Đặng Tiểu Bình trong cuốn sách “Những ngày ở Giang Tây” đã nói: “Trong thời gian ở Giang Tây, cha tôi có một thói quen, mỗi ngày trước buổi hoàng hôn, luôn luôn đi bộ chung quanh mảnh sân nhỏ bé trong nhà chúng tôi rất có quy luật ông trầm ngâm suy nghĩ không nói năng gì, bước đi rất nhanh... chính trong mỗi bước đi ấy, tư tưởng của ông, niềm tin của ông, ý chí của ông càng ngày càng được xác định rõ, càng kiên định vững vàng hơn theo từng bước, sự hàm súc và đi tới chín muồi của những tư tưởng này có phải là đã chuẩn bị đầy đủ nhất cho cuộc đấu tranh gay gắt hơn sau này hay không?”. Mao Trạch Đông biết đáp án là khẳng định.

Từ tháng 1 năm 1975, Đặng Tiểu Bình biết rõ là núi có hổ, nhưng ông lại đi vào nơi có hổ ấy. Với một khí thế anh hùng không biết sợ, ông nắm chắc công tác chấn chỉnh toàn diện một cách kiên định theo từng bước. Năm ấy nền kinh tế quốc dân từ đình trệ giảm sút nhanh chóng chuyển hướng đi lên. Tổng sản lượng công nông nghiệp cả năm là 450,4 tỷ Nhân dân tệ, so với năm trước (ở dưới cũng vậy) tăng trưởng 11,9%. Trong đó Tổng sản lượng công nghiệp chiếm 321,9 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng 15,1%, Tổng sản lượng nông nghiệp 128,5 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng 4,6%. Sản lượng sản phẩm công nông nghiệp: lương thực 284,5 triệu tấn, tăng trưởng 3,4%, bông 2,381 triệu tấn, giảm 3,4%; thép 23,09 triệu tấn, tăng trưởng 13,2%, than thô 482 triệu tấn, tăng trưởng 16,7%; dầu thô 77,06 triệu tấn, tăng trưởng 18,8%, lượng điện 195,8 tỷ kw/h tăng trưởng 16%. Tổng số đầu tư xây dựng cơ bản 40,932 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng 17,7%, lượng vận tải đường sắt 867 triệu tấn, tăng trưởng 12,9%. Tổng số bán lẻ của hàng hóa xã hội 127,11 tỷ Nhân dân tệ, tăng trưởng 12,9%. Tổng thu nhập tài chính quốc gia 81,56 tỷ nhân dân tệ, tổng chi là 82,09 tỷ Nhân dân tệ, thâm hụt 530 triệu Nhân dân tệ.

Điều quan trọng hơn là, chấn chỉnh toàn diện là một cuộc đấu tranh quan trọng của Đảng và nhân dân chống lại sai lầm “tả” khuynh và “bọn bốn tên”, đã thức tỉnh sự giác ngộ chưa từng có trong nhân dân cả nước đã đẩy nhanh tiến trình đi tới diệt vong của “bọn bốn tên”. Về một ý nghĩa nào đó mà nói, nếu không có sự chấn chỉnh toàn diện năm 1975 thì sẽ không có “Phong trào ngày 5 tháng 4” vĩ đại năm 1976. Chấn chỉnh toàn diện lại là người dẫn đường cho cuộc đấu tranh vĩ đại dẹp loạn ổn định trật tự mà Đảng tiến hành sau này, là sự chuẩn bị quan trọng về các mặt tư tưởng và tổ chức v. v...

Dưới sự chủ trì của Đặng Tiểu Bình, từ ngày 10 tháng 2, Quốc vụ viện lần lượt triệu tập một loạt hội nghị như Hội nghị Bí thư công nghiệp giải quyết vấn đề đường sắt trong cả nước. Tọa đàm công nghiệp gang thép, Hội nghị các xí nghiệp trọng điểm của công nghiệp quốc phòng, Hội nghị Bí thư Tỉnh ủy 22 tỉnh miền Nam và Hội nghị Bí thư một số địa khu (đơn vị hành chính lớn hơn huyện nhỏ hơn tỉnh - địa khu thường gồm một số huyện - N.D.) v. v... trong

Page 58: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

các bài phát biểu hội nghị này, Đặng Tiểu Bình đã đề ra tư tưởng chấn chỉnh toàn diện, với các điểm chính là:

1) Phải đưa nền kinh tế quốc dân đi lên. “… Tính từ hôm nay còn 25 năm nữa, phải xây dựng nước ta thành một nước xã hội chủ nghĩa có nông nghiệp hiện đại, công nghiệp hiện đại, quốc phòng hiện đại và khoa học kỹ thuật hiện đại. Toàn Đảng toàn dân đều phải phấn đấu để thực hiện mục tiêu vĩ đại này. Đó chính là toàn cục. “Trong nước có rất nhiều việc phải làm, đặc biệt là phải đưa nền kinh tế quốc dân đi lên”.

2) Các mặt trong cả nước tồn tại vấn đề chấn chỉnh. Công nghiệp, nông nghiệp, thương nghiệp, tài chính mậu dịch, văn hóa giáo dục, khoa học kỹ thuật đều phải chấn chỉnh, cốt lõi của việc chấn chỉnh là việc chấn chỉnh Đảng, mấu chốt là ban lãnh đạo. Vấn đề hiện nay là có một số ban lãnh đạo “mềm”, “lười”, “rời rạc”. Qua chấn chỉnh phải xây dựng một ban lãnh đạo vững mạnh đặt chữ “dám” lên hàng đầu.

3) Phải ổn định đoàn kết. Phải kiên quyết đấu tranh chống bè phái. Những người gây bè phái ít nhiều đều có dã tâm. Tranh quyền đoạt lợi, giở âm mưu quỷ kế, làm cho xã hội không ổn định, phải giành từng tấc đất, không nhường một bước đối với bè phái, đối với người gây bè phái, cần điều đi thì điều đi, cần phê bình thì phê bình, cần đấu tranh thì đấu tranh.

4) Trong chấn chỉnh phải thực hiện chính sách giải phóng nhanh và sử dụng các cán bộ cũ, phát huy tác dụng của cán bộ cũ. Cán bộ trung niên có khá nhiều kinh nghiệm, phải phát huy tác dụng của họ. Đề bạt cán bộ thanh niên phải theo từng bậc một, nếu không thì không phải là chăm sóc họ. Đối với những người gương mẫu lao động, công nhân cũ phải chú ý thực hiện chính sách. Phải phát huy tác dụng của trí thức, không nên gọi họ là bọn xấu xa.

5) Phải nắm chế độ quy tắc. Đó là điều cần thiết để bảo đảm chất lượng sản phẩm, không thể chỉ quản, chặn, ép. Sau khi chấn chỉnh công nghiệp, lợi nhuận vẫn phải nắm. Vừa phải nắm chính trị, vừa phải nắm lợi nhuận.

6) Phải coi trọng giáo dục. Giáo dục nhà trường phải luôn yêu cầu lấy học là chính, trung tâm là giáo dục, không thể hạ thấp toàn bộ trình độ giáo dục hiện đại hóa. Phải nâng cao địa vị của người thầy.

7) Phải phát triển tốt khoa học kỹ thuật. Khoa học kỹ thuật là lực lượng sản xuất, khoa học lạc hậu sẽ kéo lùi toàn bộ nền kinh tế quốc dân.

8) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy tác phong tốt đẹp của Đảng. “Thực hiện tốt việc ổn định đoàn kết, phát triển nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, cần phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phải phát huy tác phong tốt đẹp của đảng ta và giữ vững mãi mãi. Đó là một vấn đề vô cùng quan trọng. “Không có sự lãnh đạo của Đảng sao được? Đảng nói mà không kết quả sao được?”.

9) Học tập trước tác Mao Trạch Đông phải học thực chất tinh thần. Phải chống lại cách làm sai lầm của Lâm Bưu dung tục hóa tư tưởng Mao Trạch Đông, cắt rời tư tưởng Mao Trạch Đông. “E rằng trong khá nhiều lĩnh vực tồn tại vấn đề làm thế nào để học tập, tuyên truyền, quán triệt một cách toàn diện tư tưởng Mao Trạch Đông... chúng ta nhất định phải học tập, tuyên truyền và thực hiện một cách toàn diện”.

Trên đây là tư tưởng chỉ đạo và phương châm chính sách đúng đắn để chấn chỉnh toàn diện.

3. Vận tải dường sắt và 3 phương châm

Việc chấn chỉnh toàn diện lấy chấn chỉnh vận tải đường sắt làm điểm khởi đầu. Lúc ấy Đặng Tiểu Bình đề xuất: “Làm thế nào mới có thể đẩy nền kinh tế quốc dân đi lên? Kết quả phân

Page 59: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

tích, khâu yếu nhất hiện nay là đường sắt. Vấn đề vận tải đường sắt không giải quyết thì việc sắp xếp sản xuất đều bị rối loạn, toàn bộ kế hoạch sẽ đổ vỡ. Nên Trung ương hạ quyết tâm giải quyết vấn đề này”.

Từ ngày 15 tháng 2 đến ngày 8 tháng 3, Trung ương triệu tập Hội nghị Bí thư Công nghiệp toàn quốc tại Bắc Kinh. Dựa vào tình hình do Hội nghị phản ánh và ý kiến thảo luận, ngày 5 tháng 3, Trung ương đã ra quyết định về tăng cường công tác đường sắt” (Văn kiện số 9 của Trung ương). Quyết định nêu rõ: tất cả các đơn vị đường sắt trong cả nước, đều cần phải kiên quyết quán triệt chấp hành phương châm “ổn định đoàn kết tốt” do Mao Chủ tịch đề ra, phải cải tiến thể chế quản lý đường sắt, “Đường sắt trong cả nước phải do Bộ Đường sắt thống nhất quản lý, vận tải đường sắt phải do Bộ Đường sắt tập trung chỉ huy. Công nhân viên chức đường sắt phải do Bộ Đường sắt thống nhất điều phối; công tác chính trị và công tác chỉ huy vận chuyển của đường sắt phải được thống nhất”; “xây dựng và kiện toàn quy tắc chế độ cần thiết”, “trước tiên là phải xây dựng và kiện toàn chế độ trách nhiệm theo cương vị, quy trình thao tác kỹ thuật, chế độ kiểm nghiệm chất lượng, chế độ quản lý và duy tu thiết bị v.v… tăng cường tính tổ chức kỷ luật, bảo đảm chắc chắn vận chuyển an toàn đúng giờ”.

“Đối với số ít người lãnh đạo và người đứng đầu bè phái tư sản nghiêm trọng, qua phê bình giáo dục vẫn không sửa chữa, phải kịp thời điều đi nơi khác. Không nên kéo dài không giải quyết, tránh gây cản trở toàn cục. Đối với những người vi phạm pháp luật làm loạn kỷ cương phải thi hành kỷ luật; phải đấu tranh với những hành vi phá hoại, “bất kỳ ai cũng không được lấy bất cứ cớ gì để cản trở công tác bình thường của các nhân viên công tác đang tiến hành chỉ huy, điều độ và các loại phục vụ”. Ngăn chặn tàu, làm gián đoạn vận chuyển, làm tổn hại đến đoàn tàu và các thiết bị cơ sở đường sắt, đều là phạm pháp, cần phải kiên quyết chặn đứng. Tình tiết nghiêm trọng, phải xử lý nghiêm khắc. Đối với số ít công nhân viên chức, lợi dụng chức quyền, câu kết trong ngoài, thực hiện những hành vi tư bản chủ nghĩa, phải kiên quyết phản đối, nghiêm khắc phê bình, đối với những phần tử phản cách mạng và phần tử xấu hiện hành, gây ra sự cố, giết người cướp của, kích động đình công ngừng sản xuất, kích động lừa đảo trộm cướp vật tư, trộm cắp khí tài đường sắt, phải kiên quyết đánh trả, trừng trị theo pháp luật”.

Nói chuyện với Hội nghị Bí thư Công nghiệp toàn quốc họp ngày 5 tháng 3, Đặng Tiểu Bình đã chú trọng nhấn mạnh phải kiên trì tăng cường lãnh đạo tập trung thống nhất, xây dựng và kiện toàn ba phương châm, chế độ quy tắc và tăng cường tính tổ chức kỷ luật, kiên quyết chống bè phái. Ông còn chỉ rõ: “Kinh nghiệm giải quyết vấn đề đường sắt, sẽ giúp cho các ngành công nghiệp khác”. Sau hội nghị, Bộ trưởng Bộ Đường sắt Vạn Lý đã dẫn đầu đoàn công tác lần lượt đi các nơi Từ Châu, Thái Nguyên, Trịnh Châu, Trường Sa v.v… tiến hành chấn chỉnh trọng điểm đối với các Cục đường sắt có vấn đề nghiêm trọng. Tổ chức những cuộc mít tinh mấy ngàn người, mấy vạn người, mười mấy vạn người tuyên truyền nhiều lần tinh thần Văn kiện 9 của Trung ương, phát động quần chúng phê phán bè phái, thực hiện chính sách cửa Đảng, kêu gọi đông đảo cán bộ công nhân viên chức chú ý đến toàn cục, chú ý đến tính Đảng, chú ý đến đoàn kết, chú ý đến kỷ luật. Tập trung giải quyết vấn đề ban lãnh đạo, đối với cán bộ lãnh đạo, bè phái đặc biệt nghiêm trọng tiến hành phê phán nghiêm khắc định thời hạn sửa chữa, đến hạn không sửa thì dùng biện pháp tổ chức cương quyết cách chức hoặc điều khỏi đơn vị cũ, sắp xếp lại ban lãnh đạo. Đối với những kẻ xấu rất cá biệt kích động gây bè phái, đánh nhau, đình công, ngừng sản xuất thì kiên quyết tấn công bắt giữ. Chú ý phân biệt nghiêm khắc và xử lý đúng đắn hai loại mâu thuẫn có tính chất khác nhau, ngăn ngừa diện đánh quá rộng. Những biện pháp này rất được lòng người.

Trải qua một hai tháng chấn chỉnh, tình hình vận chuyển đường sắt đã thay đổi toàn diện. Đến tháng 4, những đoạn đường sắt bị tắc nghẽn nghiêm trọng đã được giải tỏa thông suốt toàn bộ, 20 cục đường sắt trong cả nước trừ Nam Xương ra đều hoàn thành vượt mức kế hoạch Nhà nước, số lượng tàu được bốc xếp hàng hóa bình quân ngày của đường sắt trong cả nước đã sáng tạo nên trình độ cao nhất trong lịch sử, tỷ lệ tàu đúng giờ cũng được nâng cao rất nhanh. Phân cục đường sắt Từ Châu có vấn đề nghiêm trọng nhất, 21 tháng không hoàn thành kế hoạch Nhà

Page 60: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

nước, nhưng đến tháng 4 đã hoàn thành kế hoạch Nhà nước trước thời hạn 3 ngày. Sự chấn chỉnh đối với đường sắt đã có kết quả trông thấy, được quần chúng nhân dân nhiệt liệt hoan nghênh, có ảnh hưởng quan trọng đối với mặt trận giao thông công nghiệp trong cả nước.

4. Việc làm quan trọng để giải phóng cán bộ

Đồng thời với những công việc trên, về phương diện thực hiện chính sách giải phóng cán bộ, Trung ương đã có những bước đi quan trọng. Dựa vào ý kiến của Mao Trạch Đông về việc nhanh chóng kết thúc việc thẩm tra các chuyên án, thả những người bị bắt. Được Chu Ân Lai và Đặng Tiểu Bình thúc giục vào cuối tháng 4, Trung ương đã ra quyết định; Ngoài những đối tượng thẩm tra có liên quan đến tập đoàn Lâm Bưu và một số rất ít người khác ra, phóng thích tuyệt đại đa số người bị bắt giữ bị thẩm tra, trong đó thuộc mâu thuẫn địch ta: người có năng lực lao động thì phân phối công tác hoặc lao động, người mất sức lao động thì phải nuôi dưỡng, người có bệnh phải sắp xếp vào các bệnh viện để chữa chạy. Thuộc mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân thì sắp xếp ổn thỏa, phát tiền lương bổ sung, phân phối công tác thích hợp, đảng viên thì khôi phục sinh hoạt trong tổ chức. Làm sai thì sửa sai. Đối với những người còn chưa thể có kết luận, thì để treo vấn đề trong nội bộ, do các cơ quan hữu quan của Ban Tổ chức Trung ương hoặc Tổng cục Chính trị xem xét kết luận. Đợi sau khi kết thúc công việc, tổ chuyên án Trung ương sẽ tự bãi bỏ.

Dựa vào quyết định trên, hơn 300 cán bộ cao cấp bị bắt giam trong một thời gian dài được giải phóng, trong đó có một số người được phân công công tác. Đây là một việc làm quan trọng thực hiện chính sách cán bộ, “giải phóng cán bộ” trong đại cách mạng văn hoá. Việc thực hiện chính sách cán bộ này rất không triệt để, nhưng rốt cuộc thì đã thả được người, đã thúc đẩy tình hình tiếp tục phát triển theo chiều hướng tương đối có lợi, có tác dụng tích cực. Đặng Tiểu Bình lại đem bức thư của con gái Hạ Thành viết cho ông yêu cầu phân công công tác cho cha cô đưa cho Mao Trạch Đông đồng thời sắp xếp công việc cho Hạ Thành. Ngày 17 tháng 5, trong báo cáo của Quân ủy về việc nhậm chức của Hạ Thành, Mao Trạch Đông đã phê duyệt: “Hạ Thành vô tội, cần phân phối công tác, tất cả những lời cáo buộc sai trái đều phải hủy bỏ”. Phó Liên Chương đã bị hại chết “phải rửa sạch nỗi oan. Hạ Thành may còn sống, Phó thì đã phải vùi trong đất. Thật đáng thương!” Mao Trạch Đông cũng rất đau lòng. Sự phê duyệt này lại thúc đẩy việc thực hiện công tác chính sách cán bộ.

5. Cứu sinh mạng của những người trí thức

Đứng trước tình cảnh tiêu điều của văn nghệ trong đại cách mạng văn hóa, Mao Trạch Đông đề xuất phải điều chỉnh chính sách cán bộ và chính sách trí thức.

Ngày 3 tháng 5, trong bài phát biểu tại Hội nghị Bộ Chính trị, ông nêu rõ: “Giới giáo dục, giới khoa học, giới văn nghệ, giới báo chí, giới y tế, những nơi đông trí thức, trong đó cũng có người tốt, những người mác-xít - Lê-nin-nít”. Trước việc đại cách mạng văn hóa coi trí thức là “bọn xấu xa”, ông nêu rõ: “Những người ấy không thể để họ đi”. Ngày 2 tháng 7, trong lời phê duyệt bức thư của Lâm Mặc Hàm chỉ rõ: “Án của Chu Dương, có thể xử lý nới tay hơn, phân phối công tác, người ốm thì nuôi dưỡng chữa bệnh”. Đầu tháng 7, khi nói chuyện với Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông chỉ rõ: “Kịch mẫu quá ít, hơn nữa hơi có một chút sai sót là bị phê phán. Trăm hoa đua nở không còn nữa. Người khác không được phê bình là không tốt”. Ngày 14 tháng 7, Mao Trạch Đông nói chuyện bằng văn bản về vấn đề văn nghệ, nêu rõ: “Chính sách văn nghệ của Đảng nên điều chỉnh lại, một năm, hai năm, ba năm, từng bước từng bước mở rộng tiết mục văn nghệ. Thiếu thơ ca, thiếu tiểu thuyết, thiếu tản văn, thiếu bình luận văn nghệ”. “Đối với nhà văn phải ngăn trước ngừa sau trị bệnh cứu người. Nếu không phải là những phần tử phản cách mạng có hành vi phản cách mạng nghiêm trọng giấu mặt, thì phải giúp đỡ”. “Nếu Lỗ Tấn còn

Page 61: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

sống thì sẽ không tán thành giam giữ bọn Chu Dương lâu như vậy. Xa rời quần chúng”. Ông còn nói: “Thi hành kỷ luật ai thì phải chú ý, hơi một tí là cách chức, hơi một tý là bắt giam biểu hiện đó là thần kinh suy nhược. Lâm Bưu không chạy thì chúng ta cũng sẽ không giết ông ta, nhưng phê thì phải phê”.

Tháng 2 Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên ra sức chỉ trích bộ phim “Sáng nghiệp” phản ánh sự sáng tạo sự nghiệp một cách gian khổ của công nhân Đại Khánh, đòi Bộ Văn hóa phải có báo cáo vào ngày 10 tháng 3, quy cho phim “Sáng nghiệp” 10 tội về “chính trị, nghệ thuật, cũng có những sai lầm nghiêm trọng v.v... hơn nữa còn cấm chiếu trong cả nước và tổ chức phê phán”. Ngày 18 tháng 7, tác giả phim “Sáng nghiệp” là Trương Thiên Dân viết thư cho Mao Trạch Đông và Đặng Tiểu Bình đưa ra những ý kiến khác đối với việc Giang Thanh và tổ cốt cán của Bộ Văn hóa trong phê phán “Sáng nghiệp” đồng thời đề nghị cho chiếu tiếp. Ngày 24 tháng 7, trong bức thư của Trương Thiên Dân, Mao Trạch Đông chỉ thị: “Phim này không có sai lớn, kiến nghị cho phát hành, không nên cầu toàn trách bị, hơn nữa tội danh quy tới mười điều là quá đáng, không có lợi cho việc điều chỉnh chính sách văn nghệ của Đảng”.

Những lời phát biểu, lời phê duyệt không phải điều nào cũng hoàn toàn chính xác (như vụ án Chu Dương là án sai, chứ không có vấn đề “xử lý nới tay”); nhưng từ đó có thể thấy, ở một số vấn đề cụ thể, Mao Trạch Đông có thể sửa chữa sai lầm.

Từ ngày 8 đến ngày 29 tháng 5, Trung ương đã lần lượt tổ chức cuộc tọa đàm về công nghiệp gang thép, gồm 17 tỉnh, thành, khu tự trị và 11 xí nghiệp gang thép lớn với người phụ trách các cơ quan hữu quan của Quốc vụ viện. Trong cuộc họp, Vạn Lý đã giới thiệu những kinh nghiệm của việc chấn chỉnh ngành đường sắt. Ngày 21 tháng 5, trong cuộc họp của Quốc vụ viện, Đặng Tiểu Bình đã phát biểu những ý kiến quan trọng về việc chấn chỉnh ngành gang thép. Ngày 29 tháng 5, Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm đều có những phát biểu quan trọng trong cuộc tọa đàm. Dựa vào những kinh nghiệm chấn chỉnh của ngành đường sắt và những vấn đề nghiêm trọng còn tồn tại trong sản xuất gang thép, trong hai lần nói chuyện, Đặng Tiểu Bình đã nêu ra 4 biện pháp để chấn chỉnh ngành công nghiệp gang thép:

Xây dựng ban lãnh đạo kiên cường, kiên quyết chống bè cánh, thực hiện chính sách, xây dựng chế độ quy tắc cần thiết, xây dựng cơ cấu chỉ huy sản xuất độc lập mạnh mẽ.

Trong lời phát biểu ngày 29 tháng 5, lần đầu tiên Đặng Tiểu Bình nêu: “Lấy ba chỉ thị làm cương lĩnh” một khẩu hiệu nổi tiếng để đấu tranh với sai lầm “tả” khuynh và “bọn bốn tên”. Ông nói: “Ba chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch gần đây, một chỉ thị quan trọng về vấn đề lý luận phải chống xét lại và phòng ngừa xét lại một chỉ thị là ổn định đoàn kết và một điều nữa là đẩy nền kinh tế quốc dân đi lên, đây là cương lĩnh công tác từ nay về sau của chúng ta. Ba chỉ thị quan trọng này có liên quan với nhau, không thể tách rời, không được quên một điều nào”.

Xét về mặt lịch sử, lúc ấy không nêu chỉ thị về vấn đề lý luận là tuyệt đối không thể được. Trên thực tế là Đặng Tiểu Bình lấy việc đẩy nền kinh tế quốc dân đi lên làm cương lĩnh.

Page 62: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Chương III

ĐẨY NGÃ ĐẶNG TIỂU BÌNH

1

Trước lúc lìa đời Khang Sinh phun nọc độc

Đặng Tiểu Bình bị lật đổ lần thứ ba

1. Giang Thanh lại giở nghề cũ: ám chỉ sử học

Cơ hội để Giang Thanh nhổ cái “gai trong mắt” cuối cùng đã đến! Sự việc xảy ra rất ngẫu nhiên:

Đó là ngày 26 tháng 5 năm 1975, một nữ giảng sư 44 tuổi, được gọi vào Trung Nam Hải, làm việc bên cạnh Mao Trạch Đông.

Chị ta tên là Lô Địch. Nguyên tên là Lư Tố Cầm, sinh năm 1931 ở Liêu Dương, Đông Bắc, đã từng học ở khoa Trung văn Trường Đại học Bắc Kinh. Về sau vào khu giải phóng, đổi tên thành Lô Địch. Năm 1954, giảng dạy tại trường Đại học Nhân dân, trong thời kỳ cách mạng văn hóa được điều về Khoa Trung văn Trường Đại học Bắc Kinh.

Từ khi Mao Trạch Đông bị đau mắt, tuy có Trương Ngọc Phượng đọc văn kiện và thư từ cho ông. Nhưng ông vẫn là người rất yêu văn sử, tay không rời sách, bảo Trương Ngọc Phượng đọc sách cổ thì sẽ làm cho cô ấy gặp khó khăn. Vì vậy, Mao Trạch Đông yêu cầu Văn phòng Trung ương chọn cho ông một giáo viên đại học giỏi văn học cổ điển, để đọc sách văn học cổ cho ông nghe. Văn phòng Trung ương Đảng đến Đại học Bắc Kinh chọn ở khoa Trung văn bốn giáo viên trong đó có Lô Địch. Sau khi nghe giới thiệu sơ lược lý lịch bốn giáo viên này, Mao Trạch Đông đã chọn Lô Địch. Nguyên nhân là Mao Trạch Đông đã từng đọc cuốn sách “Tuyển tập Văn học các đời”, do Nhà xuất bản Thanh niên xuất bản năm 1963. Lô Địch là một trong những người tham gia tuyển chọn, nên ông đã nhớ tên chị.

Do một cơ hội và duyên phận cực kỳ ngẫu nhiên được vào Trung Nam Hải. Đến đêm, chị đọc cho Mao Trạch Đông nghe. Đọc xong Mao Trạch Đông thường bàn bạc với chị về văn học cổ điển, có lúc kéo dài đến hai ba tiếng đồng hồ. Những năm cuối đời của Mao Trạch Đông, rất ít người có thể nói chuyện lâu một cách thường xuyên với Mao Trạch Đông như vậy.

Hai giờ sáng ngày 14 tháng 8 năm 1975, Lô Địch nhận được điện thoại của Mao Trạch Đông bảo chị đến đọc cho ông nghe. Chị lập tức đạp xe từ nơi trọ cách đó không xa đến chỗ Mao Trạch Đông. Hôm ấy, Mao Trạch Đông nói về “Hồng Lâu mộng”, rồi “Tam Quốc diễn nghĩa” cuối cùng đến “Thủy Hử”.

Mao Trạch Đông nói: “Bộ sách “Thủy Hử” hay là hay ở chỗ đầu hàng, là một giáo trình phản diện, làm cho nhân dân đều biết phái đầu hàng”.

““Thủy Hử” chỉ chống tham quan, không chống hoàng đế. Gạt bỏ Tiều Cái ra ngoài 108 người. Tống Giang đầu hàng, thực hiện chủ nghĩa xét lại, đổi Trụ Nghĩa Đình của Tiều Cái thành Trung Nghĩa Đường, cho mọi người chiêu an...”.

Khi Mao Trạch Đông nói chuyện, theo thói quen, Lô Địch ghi vào sổ của mình.

Vốn đây chỉ là cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông với Lô Địch. Do trong nói chuyện, Mao Trạch Đông đã nói tới “Thủy Hử” mà nay mai sẽ xuất bản và sẽ in lời bình của Lỗ Tấn về “Thủy Hử” ở đầu sách.

Page 63: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Trương Ngọc Phượng nghe thấy, vì xuất phát từ suy nghĩ về chức trách của một thư ký cơ mật, cô phải chấp hành chỉ thị này của Mao Trạch Đông. Cô muốn Lô Địch chỉnh lý lại những ghi chép cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông về “Thủy Hử” để cho ngành xuất bản chấp hành. Tất cả những việc này đều tiến hành theo trình tự thông thường.

Diêu Văn Nguyên vừa thấy bản ghi chép cuộc nói chuyện về “Thủy Hử” của Mao Trạch Đông, ngay tức khắc đề xuất “in và phát cho các đồng chí Bộ Chính trị có mặt ở Bắc Kinh và phát cho Cục Xuất bản, Nhân dân nhật báo; Hồng Kỳ, Quang Minh nhật báo, cùng đồng chí Tạ Tĩnh Nghi ở Tổ phê phán Đại học Bắc Kinh và tổ viết bài của Thành ủy Thượng Hải, đồng thời “tổ chức hoặc đăng lại bài viết”. Mao Trạch Đông phê duyệt: “Đồng ý”.

Thế là, Giang Thanh và đồng bọn của bà ta nắm lấy cơ hội này, lợi dụng ưu thế của họ về mặt tuyên truyền, phát động một phong trào mới gọi là: “Bình “Thủy Hử”“!

Ngày 28 tháng 8, tạp chí “Hồng kỳ” số 9 đã phát biểu bài “Coi trọng việc bình luận đối với “Thủy Hử”“. Ngày 4 tháng 9, “Nhân dân nhật báo” phát biểu bài “Triển khai việc bình luận đối với “Thủy Hừ”“.

“Thủy Hử” là một trong bốn bộ tiểu thuyết cổ điển nổi tiếng của Trung Quốc, việc bình luận đối với bộ tiểu thuyết này đã được phát biểu không ít. Sao lại phải do tạp chí “Hồng kỳ” và “Nhân dân nhật báo” đứng ra “kêu gọi”? Bài viết nêu rõ: “Bình luận “Thủy Hử” lại là một cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị tư tưởng ở nước ta, là bộ phận hợp thành của việc quán triệt chấp hành chỉ thị của Mao Chủ tịch về học tập lý luận, chống xét lại và phòng xét lại”. Những lời nói ấy khiến rất nhiều độc giả cảm thấy khó hiểu.

Giang Thanh nói chuyện hết lần này đến lần khác, đã nói rõ những điều bí ẩn trong đó.

Cuối tháng 8, Giang Thanh triệu tập Vu Hội Vinh cùng một số người họp. Bà ta nói thẳng ra rằng:

“Việc phê duyệt của Chủ tịch đối với “Thủy Hử” có ý nghĩa hiện thực. Bình luận chỗ quan trọng của “Thủy Hử” là bề ngoài tôn sùng bên trong vô hiệu hóa Tiều Cái, hiện nay có một số người trong Bộ Chính trị cũng bề ngoài tôn sùng bên trong vô hiệu hóa đối với Chủ tịch”.

Hóa ra cũng giống như “cuộc phê phán Khổng Tử”, thủ đoạn mà Giang Thanh quen dùng vẫn là “ám chỉ sử học”.

Ngày 17 tháng 9, khi nói chuyện với hơn một trăm người thuộc các đơn vị xưởng phim Bắc Kinh, xưởng phim Trường Xuân, Tân Hoa xã, Nhân dân nhật báo, Tổ chú thích trước tác Pháp gia, tổ viết bài Đại học Bắc Kinh và Đại học Thanh Hoa ở Đại Trại, Giang Thanh càng đắc ý:

“Bình “Thủy Hử” chính là có chủ ý. Tống Giang đã cho Tiều Cái “đi máy bay”. Bây giờ có ai bề ngoài tôn sùng bên trong vô hiệu hóa Chủ tịch hay không? Theo tôi có đấy!”

Giang Thanh còn nói việc phê bình của Bộ Chính trị đối với bà ta hết lần này đến lần khác là “bức hại” bà ta.

Giang Thanh muốn mượn việc bình “Thủy Hử” để phản kích lại Đặng Tiểu Bình.

Bà ta yêu cầu “Hội nghị Nông nghiệp học tập Đại Trại trong cả nước” khai mạc tại Đại Trại, phải in và phát bài nói của bà ta, phát băng ghi âm bài nói của bà ta.

Hoa Quốc Phong chủ trì hội nghị chưa dám định đoạt, vội vàng đến xin ý kiến Mao Trạch Đông.

Mao Trạch đông quở mắng bài nói của Giang Thanh là “vớ vẩn, văn chương không ăn nhập với nội dung”!

Page 64: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mao Trạch Đông dặn: “Bài viết không công bố, băng ghi âm không phát, bài nói chuyện không in”.

2. Giang Thanh cử liên lạc viên đến bên cạnh Mao Trạch Đông

Chính lúc Giang Thanh hăng hái dấy lên làn sóng “Bình “Thủy Hử”“ thì bệnh của Chu Ân Lai không thể cứu được nữa.

Ngày 7 tháng 9 năm 1975, tại bệnh viện, Chu Ân Lai tiếp Bí thư Trung ương Đảng Ru-ma-ni I-li-na Vê-đê sơ. Đây là lần cuối cùng trong đời ông tiếp khách nước ngoài.

Chu Ân Lai nói: “Giấy mời của Mác, tôi đã nhận được rồi. Điều đó không sao cả, đó là quy luật tự nhiên không thay đổi theo ý muốn của con người”.

Chu Ân Lai rất cảm khái nhớ lại năm xưa. “Thời gian trôi đi nhanh thật, 10 năm trước, khi tham gia tang lễ Giooc-giơ Đô-che tại Bu-ca-rét không mặc pan-tô, tối đã đi bộ hơn bốn tiếng đồng hồ. Bây giờ tôi có thể nói với đồng chí là chỉ bốn phút tôi cũng không đi nổi!”.

Sau lần hội kiến này, bệnh tình Chu Ân Lai nguy cấp, ngày 20 tháng 9, phải phẫu thuật lần thứ tư, đây là lần đại phẫu thuật. Nếu xảy ra bất ngờ thì ông sẽ nằm trên bàn mổ mãi mãi không bao giờ dậy được nữa. Ông đã ý thức được điều này, cũng ý thức được rằng Giang Thanh đang dùng hổ dọa người. Để đề phòng hậu hoạn, trước khi vào phòng mổ, ông bảo thư ký đem bản thảo được chỉnh lý từ băng ghi âm bài nói chuyện về chuyên đề sự kiện Ngũ Hào ngày 23 tháng 6 năm 1972 đến cho ông, ông dùng bàn tay run run ký vào trang đầu của bản thảo và còn viết thêm: “Khi vào phòng mổ, ngày 20 tháng 9 năm 1975”. Vì bị bệnh nặng ông đã viết sót một chữ “trước” trong câu: “Trước khi vào phòng mổ”. Trong những giờ phút như vậy, ông vẫn không quên bản thảo cuộc nói chuyện ấy, chứng tỏ ông vô cùng lo lắng đối với Giang Thanh. Ông biết, Giang Thanh sẽ gây chuyện sẽ bôi nhọ ông khi tung ra sự kiện Ngũ Hào.

Khi bệnh tình của Chu Ân Lai xấu đi thì bệnh của Mao Trạch Đông cũng nặng thêm. Một mắt của Mao Trạch Đông do Đường Do Chi một bác sĩ trạc tuổi trung niên ở Khoa Mắt Bệnh viện Quảng An Môn Bắc Kinh tiến hành phẫu thuật. Thời gian mổ, theo hồi ức của Trương Ngọc Phượng vào trung tuần tháng 8 năm 1975, còn Lô Địch thì nói với tác giả sách này là ngày 29 tháng 7 - phải nói là hồi ức của Lô Địch chính xác hơn.

Phẫu thuật ngay tại nơi ở của Mao Trạch Đông. Khi mổ, Chu Ân Lai bất chấp bệnh tật đã cùng Đặng Tiểu Bình ngồi chờ ở bên ngoài. Mổ rất thuận lợi. Ít lâu sau, mắt của Mao Trạch Đông sáng trở lại.

Nhưng bệnh phế khí của Mao Trạch Đông lại chuyển thành bệnh phế tâm và ngày càng nghiêm trọng. Việc nói năng của ông trở nên khó khăn, phát âm không rõ. Có lúc, Trương Ngọc Phượng phải dựa vào hình dáng của đôi môi và biểu cảm để đoán rồi nói ý của ông. Nếu ông gật đầu, chứng tỏ là đã đoán đúng, và cái ý đoán ấy liền trở thành “chỉ thị tối cao”.

Vào lúc này, tháng 9 năm 1975, bên cạnh Mao Trạch Đông có thêm một người đàn ông khoảng hơn 30 tuổi thân thể khoẻ mạnh. Anh ta thường xuyên đến thăm Mao Trạch Đông. Ít lâu sau, anh ta biến thành một “liên lạc viên” đặc biệt. Anh ta làm liên lạc cho Mao Trạch Đông và Bộ Chính trị.

Người ấy là Mao Viễn Tân, cháu của Mao Trạch Đông.

Mao Viễn Tân học hết trung học, thi đỗ vào Học viện Công trình Quân sự Cáp Nhĩ Tân. Mao Viễn Tân khỏe mạnh, đẹp trai, dáng cao lớn.

Kỳ nghỉ hè năm 1964, Mao Viễn Tân ở tại Trung Nam Hải. Mao Trạch Đông đối với anh ta như cha với con. Mao Viễn Tân thì sùng bái Mao Trạch Đông như một ông thần thật sự. Ngày 5 tháng 7, Mao Trạch Đông nói chuyện với Mao Viễn Tân. Sau đó, Mao Viễn Tân ghi lại cuộc

Page 65: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

nói chuyện này. Ngày 9 tháng 11 năm 1964, Bộ Giáo dục cao đẳng đã chuyển đăng “Kỷ yếu cuộc nói chuyện của Mao Chủ tịch với Mao Viễn Tân”, từ đó Mao Viễn Tân nổi tiếng khắp cả nước. Trong “Kỷ yếu cuộc nói chuyện” có ý kiến của Mao Trạch Đông về vấn đề giáo dục.

“Đấu tranh giai cấp là một môn học chính của các cháu. Trường của các cháu nên đến nông thôn để thực hiện “tứ thanh”, đến nhà máy để thực hiện “ngũ phản”. Đấu tranh giai cấp mà không biết thì sao có thể coi là tốt nghiệp đại học? Chống lại cách dạy học kiểu nhồi nhét, ngay cả những nhà giáo dục tư sản cũng đã từ lâu nêu ra trong phong trào “Ngũ Tứ”. Vì sao chúng ta lại không chống lại. Vấn đề cải cách giáo dục chủ yếu là vấn đề giáo viên”.

Năm 1965, Mao Viễn Tân tốt nghiệp. Theo tinh thần cuộc nói chuyện với Mao Trạch Đông anh ta xuống đơn vị làm lính. Ít lâu sau, cách mạng văn hóa bắt đầu. Lúc ấy quy định là những sinh viên tốt nghiệp năm 1965 có thể về trường tham gia phong trào, Mao Viễn Tân cũng trở lại trường.

Trong cách mạng văn hóa, “Kỷ yếu cuộc nói chuyện của Mao Chủ tịch với Mao Viễn Tân” được Hồng vệ binh in thành truyền đơn phân phát khắp nơi, thân phận đặc biệt Mao Viễn Tân cũng được nhiều người biết đến.

Mao Viễn Tân tham gia Đoàn tạo phản đỏ của Học viện Công trình Quân sự Cáp Nhĩ Tân và trở thành thủ lĩnh.

Năm 1968, ủy ban cách mạng tỉnh Liêu Ninh thành lập, Mao Viễn Tân được bổ nhiệm làm Phó Chủ nhiệm. Ít lâu sau anh ta lại đảm nhiệm chức Phó Chủ nhiệm Chính trị Quân khu rồi Chính ủy Quân khu.

Quan hệ giữa Mao Viễn Tân và Giang Thanh rất thắm thiết, anh ta coi Giang Thanh như mẹ đẻ và gọi Giang Thanh là mẹ. Coi bà ta là thần hộ mệnh của mình. Giang Thanh thì coi anh ta như con trai. Mao Viễn Tân theo sát Giang Thanh về chính trị.

Ở Liêu Ninh, Mao Viễn Tân đã gây nên hai sự kiện chấn động cả nước:

Một là, vào năm 1973, khi các Trường đại học khôi phục lại việc chiêu sinh, Trương Thiết Sinh nộp bài thi trắng lại được Mao Viễn Tân phong cho làm “anh hùng chống lại trào lưu”, khiến Giang Thanh rất tán thưởng.

Hai là, sáng tạo ra “Kinh nghiệm Triêu Nông” “Triêu Nông” tức là Học viên Nông nghiệp Triêu Dương (tiền thân của Học viên Nông nghiệp Thẩm Dương), thực hiện “mở cửa dạy học”. Năm 1974, được dựng thành “Điển hình tiên tiến” của “cuộc cách mạng giáo dục” trong cả nước.

Tháng 9 năm 1975, bệnh tình Mao Trạch Đông thêm trầm trọng, nói năng không rõ ràng, Giang Thanh bố trí cho Mao Viễn Tân làm “liên lạc viên”, phút chốc nắm được quyền công bố “chỉ thị tối cao”.

Mấy lần đến Bắc Kinh, Mao Viễn Tân được bác trai, bác gái chăm sóc, nên đã tự cho mình là “Đông cung Thái tử”, kiêu ngạo ngang ngược, tưởng như là nhất thiên hạ. Anh ta ngồi trấn ở Liêu Ninh, sau đó điều khiển từ xa hai tỉnh Cát Lâm và Hắc Long Giang, trên thực tế là “vương” của ba tỉnh Đông Bắc. Có người phong cho anh ta là “Thái Thượng hoàng ở Đông Bắc”. Anh ta cũng dần dần biết lợi dụng chức quyền ở trong tay và chỉ huy người khác. Trong sinh hoạt anh ta học Giang Thanh, từ tàu bè nước ngoài ở cảng Đại Liên đã nhập khẩu thuốc lá ngoại, phim, băng hình ngoại, Giang Thanh thấy đứa cháu trai đã khôn lớn như vậy, mà mừng thầm. Từ khi bà ta không ở chung với Mao Trạch Đông, luôn luôn lo lắng không có cách gì để tiếp cận và thao túng Mao Trạch Đông đang bị bệnh, để lấp “chỗ trống” bà ta đã có được Mao Viễn Tân. Cũng là để cách ly những người con của vợ trước của chồng tiếp cận với Mao Trạch Đông, tất nhiên là vì nhu cầu chính trị dối trên lừa dưới, thao túng tình thế, bà ta đã cùng ba “Nam thần” dày công bày mưu tính kế, nên đến tháng 9 năm 1975, đã đưa được Mao Viễn Tân

Page 66: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

đến nơi ở của Mao Trạch Đông làm “liên lạc viên” đặc biệt. Mao Trạch Đông lúc ấy đã 83 tuổi, bệnh tình ngày một nặng, dáng vẻ già nua, đừng nói đến việc tuần du Đại Giang Nam Bắc hay lên lầu thành Thiên An Môn “vẫy cánh tay to lớn” mà ngay cả việc nói năng, đi lại ăn uống cũng ngày một khó khăn. Tham gia hội nghị, tiếp khách nước ngoài cũng càng ngày càng ít. Thực sự cần có một liên lạc viên. Thế là Mao Viễn Tân trở thành người được lựa chọn tốt nhất.

3. Mao Viễn Tân tiết lộ

Võ Tắc Thiên nữ hoàng thời Đường đầy dã tâm đã từng coi cháu trai Võ Tam Tư như Thái tử. Giang Thanh “nữ hoàng” của thập kỷ 70 trong thế kỷ 20, cũng phỏng theo Vũ Hậu, coi cháu trai mới xuất đầu lộ diện Mao Viễn Tân như “Thái tử” của mình. Mao Viễn Tân được yêu chiều mà sợ, hoàn toàn cúi gập dưới chân của “mẹ”, bảo sao nghe vậy, trở thành trợ thủ đắc lực của bà ta và là cốt cán của lũ phản động lén lút. Sau khi Mao Viễn Tân vào Trung Nam Hải, trong phòng của Mao Trạch Đông đã lắp thêm một máy điện thoại, thuộc máy chuyên dụng của “liên lạc viên”, một đầu là Mao Trạch Đông một đầu là Bộ Chính trị. Phàm mọi việc đều do anh ta truyền đạt.

Đối với việc Mao Viễn Tân vào Trung Nam Hải và công tác bên cạnh Mao Trạch Đông, lúc ấy có rất nhiều ủy viên Bộ Chính trị không đồng ý. Tình trạng không bình thường trong sinh hoạt nội bộ Đảng này chưa từng có. Nhưng lại không thể ngăn chặn được. Đúng như Diệp Kiếm Anh sau này nói, sau khi Mao Trạch Đông ốm nặng, ngoài “bọn bốn tên” ra, lại có một Mao Viễn Tân “liên lạc viên”. Tình hình Bộ Chính trị do anh ta chuyển lên, chỉ thị của Mao Trạch Đông do anh ta chuyển xuống. Lúc ấy các đồng chí trong Bộ Chính trị đã phải dùng thái độ kiềm chế đối với tình hình không bình thường này vì chiếu cố đến toàn cục, đến sức khoẻ của Mao Trạch Đông.

Tháng 11, Bắc Kinh đã bước sang mùa đông, chân tay lạnh cóng. Trong phòng ngủ của Mao Trạch Đông bên cạnh hồ bơi Trung Nam Hải đã được cung cấp hơi nóng để sưởi, nhưng chủ nhân của ngôi nhà già nua lắm bệnh vẫn cảm thấy thân thể không thích nghi, không thể ra ngoài hoạt động.

Sáng ngày 2, sau khi Mao Viễn Tân đến không lâu, Mao Trạch Đông tỉnh giấc, nghe thấy tiếng gió thổi từng cơn bên ngoài, hơi động đậy thân thể, ho khan mấy tiếng.

Ở đây chăm sóc Mao Trạch Đông có nữ thư ký, bác sĩ, y tá và nhân viên phục vụ. Nhưng người thân thì ngoài Mao Viễn Tân ra không còn ai khác nữa. Con trai, con gái và con rể, cháu nội đều ở rất xa chỉ qua “phê chuẩn” mới được đến thăm. Người vợ đã ở riêng từ lâu, từ lâu đã hưởng phúc riêng ở Điếu Ngư Đài. Dù có đến Trung Nam Hải thì cũng có nơi ở riêng, hơn nữa cũng “không qua” phê chuẩn thì “không được đến”, tất nhiên nếu không vì để vòi tiền và gây sự, thì bà ta cũng chẳng bao giờ đến.

“Bên ngoài lạnh lắm phải không?... Lại nổi gió rồi à?” Tiếng nói rất nhỏ, rất chậm hơn nữa âm không rõ ràng. Mao Viễn Tân nghe quen, nên cũng hiểu ra, nhưng anh ta không muốn nói nhiều đến thời tiết tự nhiên, mà nghĩ đến việc tuân theo lời của “bà mẹ” đã dặn dò anh ta nhiều lần là phải nói đến thời tiết chính trị.

“Thưa Chủ tịch, hôm nay gió ở bên ngoài không to, nhưng người ta cảm thấy có một cơn gió khác”.

“Gió gì?”

Mặc dù sức nghe đã giảm, nhưng cái đầu quen suy nghĩ của Mao Trạch Đông vẫn rất tỉnh táo, rất mẫn cảm. Ông lập tức ngửi thấy ngay đây có thể là một chiều hướng chính trị mới.

“Cơn gió này, khi cháu đang công tác ở tỉnh đã cảm thấy rồi, chủ yếu là phủ định đại cách mạng văn hóa”.

Page 67: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mao Trạch Đông vừa nghe thấy nói đến đại cách mạng văn hóa lập tức cảnh giác. Đây là việc lớn cuối cùng trong hai việc lớn mà ông đã làm trong đời, hơn nữa đây là “tác phẩm đắc ý” cuối đời của ông. Tuy ông đã phát hiện ra một số vấn đề, nhưng xét cho cùng thì công lớn hơn tội, vẫn có thể xem là biện pháp thành công để “chống xét lại và ngăn ngừa xét lại” long trời lở đất “chưa từng có trong lịch sử”. Cho dù có sai thì cũng phải do ông tự thừa nhận, không cho phép người khác chỉ trích, càng không cho phép người khác sửa chữa! Ông cựa quậy thân mình, nửa nằm nửa ngồi, chăm chú nghe Mao Viễn Tân kể tiếp những chi tiết. “Liên lạc viên” đã có được một cơ hội hiếm hoi, thế là đem ngay “tờ kể tội trạng” đã được chuẩn bị từ lâu, từng điều kể ra bằng hết.

Thứ nhất, đánh giá như thế nào về cách mạng văn hóa? Xu hướng chính, xu hướng phụ, 10 ngón tay, ba bảy hay đảo ngược là bảy ba, khẳng định hay là phủ định?

Thứ hai, đánh giá như thế nào về phong trào phê Lâm phê Khổng? Xu hướng chính, xu hướng phụ, hình như do những lời nói sai đi cửa sau mà Trì Quần, Tiểu Tạ đã nói làm nhiễu loạn, không nói đến thành tích phê Lâm phê Khổng. Ngoài miệng thì cũng nói đôi câu, nhưng bên trong thì nói xấu đủ điều.

Thứ ba, việc phê phán đường lối Lưu Thiếu Kỳ và Lâm Bưu có cần tiếp tục nữa hay không. Đường lối Lưu Thiếu Kỳ hình như cũng không nói đến nhiều nữa.

Thứ tư, hiện đại hóa công nghiệp chủ yếu là nhấn mạnh và tăng cường quản lý xí nghiệp chế độ quy tắc, nhưng mâu thuẫn chủ yếu của mặt trận công nghiệp và giao thông là gì?

Thứ năm, mặt trận nông nghiệp, tài chính mậu dịch cũng có những vấn đề tương tự, xu hướng chính của cách mạng giáo dục và thành tích là gì?... Xu hướng chính, xu hướng phụ của cách mạng văn nghệ v.v... và v.v… Tóm lại, đường lối phê phán Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu trong đại cách mạng văn hóa, phê phán đường lối xét lại trên các mặt trận trong 17 năm qua có nên kiên trì nữa hay không? Mao Trạch Đông nghe đến đây, đã cảm thấy sự nghiêm trọng của vấn đề, nhưng thói quen phân tích vấn đề đã được bồi dưỡng nhiều năm nay, ông vẫn muốn tìm hiểu nguồn gốc của cơn gió cũng như quy mô lớn đến đâu.

“Cơn gió này thổi có ghê gớm không?”

“Cơn gió này hình như còn dữ dội hơn cuộc phê cực tả năm 1972”. Tất nhiên Mao Trạch Đông hiểu rõ cơn gió năm 1972 là chỉ Chu Ân Lai. Ông nghe nói nó dữ hơn lần ấy, liền nhíu đôi mày theo thói quen, hai mắt chăm chú, bảo Mao Viễn Tân tiếp tục nói.

“Cháu rất chú ý lời phát biểu của đồng chí Tiểu Bình”. Mao Viễn Tân hạ thấp giọng, với vẻ căng thẳng nói ra lời then chốt: “Cháu cảm thấy có một vấn đề, đồng chí ấy rất ít nói đến thành tích của đại cách mạng văn hoá, rất ít nhắc đến đường lối xét lại Lưu Thiếu Kỳ”.

“Ba chỉ thị mà Chủ tịch nói”, Mao Viễn Tân ngừng lại một chút rồi nói tiếp, “thực ra chỉ còn một chỉ thị, tức là đẩy sản xuất lên thôi”. Cuối cùng, anh ta nói đến sự lo lắng của mình: “Bên ngoài lo Trung ương sẽ xảy ra sự thay đổi”.

Tim Mao Trạch Đông đập nhanh hơn, mặt xị ra, bắt đầu thở mạnh. Ông không thể dung thứ việc xuyên tạc ba “chỉ thị tối cao” của ông. Phải học tập lý luận, hiểu rõ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chống xét lại, đề phòng xét lại; phải ổn định đoàn kết, phải đưa nền kinh tế quốc dân đi lên. Làm sao Đặng Tiểu Bình lại có thể nắm sản xuất mà không nắm những cái khác, đó là không cần đấu tranh giai cấp, thực chất vẫn là phủ định đại cách mạng văn hóa. Vấn đề này, từ lâu ông đã nhận ra, trước đây không lâu, Giang Thanh đã nhờ Khang Sinh đang bị bệnh đến “kể tội”, đã nói Đặng Tiểu Bình “phủ định đại cách mạng văn hóa” là “xử lại án hữu khuynh”. Sau đó ông ta lại liên tục tiết lộ, cung cấp “tình báo”... Người khác nói ông còn có chút hoài nghi, nhưng “anh Khang” bệnh đã trầm trọng lại đến “khuyến cáo thẳng thắn” thì không thể không suy nghĩ. Vì việc này, gần đây Mao Trạch Đông đã nói chuyện với Đặng Tiểu Bình hai lần. Đặng Tiểu Bình có ý kiến riêng của mình, là một con người trong ngoài nhất trí, là “công ty gang thép” chưa bao

Page 68: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

giờ giấu giếm quan điểm của mình. Mao Trạch Đông tin những tình hình mà cháu mình đã kể. Có một số điều đúng. Có điều, đối với Đặng Tiểu Bình ông vẫn ôm một tia hy vọng, hy vọng ông ta thay đổi ý nghĩ trở lại “đường lối đúng đắn”, vì việc này mà tối qua ông lại gọi ông ta đến nói chuyện không biết thái độ có thay đổi gì không?...

Mao Trạch Đông nghĩ đến đây, lẩm bẩm một mình: “Có hai thái độ, một là không bằng lòng đối với cách mạng văn hóa, hai là muốn trả thù, tính nợ với đại cách mạng văn hóa. Rốt cuộc là thái độ nào?”. Ông còn phải xem.

Mao Trạch Đông nói với Mao Viễn Tân bằng giọng ra lệnh:

“Cháu gặp Đặng Tiểu Bình, Uông Đông Hưng, Trần Tích Liên nói chuyện, nói rằng Bác bảo cháu gặp họ. Nói trực diện, đừng ấp úng, nói toạc móng heo. Nói tất cả những ý kiến này!” Sau khi nói xong, ông lại ngẫm nghĩ, rồi nói tiếp: “Cứ như vậy, cháu gặp Tiểu Bình, Tích Liên, Đông Hưng họp một cuộc họp nhỏ trước, nói tất cả những ý kiến của cháu, nói xong thì đến đây”.

Vừa qua 11 giờ, Mao Viễn Tân từ nơi ở của Mao Trạch Đông đi ra. Anh ta vội vội vàng vàng, vẻ mặt tỏ ra xúc động, nghiêm nghị, đồng thời cũng lại lộ ra vẻ phấn khởi không kìm nén được.

“Liên lạc viên” mang “chỉ thị tối cao” thực hiện ngay. Không ngờ, trong cuộc hội nghị tối hôm ấy, Đặng Tiểu Bình vẫn kiên trì quan điểm của mình, không hề nhận sai. Mao Viễn Tân họp xong, lại thêm dấm thêm ớt đến báo cáo với Mao Trạch Đông.

4. Nọc độc cuối cùng của Khang Sinh

Mỗi vụ án lịch sử quan trọng trong đại cách mạng văn hóa hầu như Khang Sinh đều nhúng tay vào, thậm chí là kẻ chủ mưu với tác dụng nòng cốt. Trước khi ông ta chết, nhìn thấy “cơ nghiệp” mà ông ta dựng nên đang ngày càng tàn lụi, rất không cam lòng. Khi chỉ còn hơn hai tháng trước khi xuôi tay, ông ta đã lợi dụng dịp Đặng Tiểu Bình rời Bắc Kinh, đột nhiên gắng gượng tinh thần tự mình xuất trận, lò dò đến nơi ở của Mao Trạch Đông để gièm pha nói xấu Đặng Tiểu Bình rằng Đặng Tiểu Bình muốn “xử lại án đại cách mạng văn hóa” quả đúng là lòng gian không chừa. Sau đó, do sự bày mưu tính kế của Khang Sinh đang trong tình trạng ngọn đèn leo lét trước gió, Giang Thanh và đồng bọn đã nhanh chóng dấy lên cơn sóng hung dữ. “Phê Đặng, chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh”, ngay lập tức lan khắp cả nước.

Qua hai ngày sau (tối ngày 4 tháng 11), Mao Trạch Đông lại gọi Mao Viễn Tân đến, bảo bố trí họp Bộ Chính trị, xác định ngay rằng: Đối với đại cách mạng văn hóa, ý kiến chung là: trận cơ bản là đúng đắn, nhưng có chỗ chưa đủ, điều đáng nghiên cứu hiện nay là mặt chưa đủ, ý kiến chưa hẳn đã nhất trí”.

Mao Viễn Tân lĩnh hội ý định, nhắc lại: “Ở hội nghị này sẽ tranh thủ nhận thức thống nhất bước đầu đối với vấn đề cách mạng văn hóa và có lợi cho đoàn kết. Mục đích là thông qua thảo luận, đoàn kết lại, làm tốt công tác. Như vậy phải không ạ?” Mao Trạch Đông gật đầu: “Đúng!” Sau đó dặn riêng: “Điều này không nên nói với Giang Thanh, không nói gì cả”.

Nhưng Mao Viễn Tân lại hỏa tốc đem “chỉ thị mới nhất” tiết lộ cho Giang Thanh và đồng bọn. “Bọn bốn tên” như chết đuối vớ được cọc, vui mừng vì mình lại được cứu thoát khỏi nguy cơ chính trị. Thế là Điếu Ngư Đài họp ngày họp đêm, bàn bạc làm thế nào “giẫm một chân” nữa lên thân Đặng Tiểu Bình, làm cho hắn ta sụp đổ hoàn toàn, “suốt đời không ngóc đầu lên được!”.

Bộ Chính trị căn cứ vào chỉ thị của Mao Trạch Đông do “liên lạc viên” truyền đạt, triệu tập Hội nghị khẩn cấp tiến hành phê bình một cách sai lầm đối với Đặng Tiểu Bình.

Page 69: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Bọn bốn tên” thoắt đổi lốt, nhảy lên cao vót thành kẻ tiền phong trong phê phán Đặng Tiểu Bình.

5. Người trong Đào Hoa Nguyên không phục tùng Mao Trạch Đông

Theo ý của Mao Trạch Đông, vẫn hy vọng có thể thống nhất nhận thức trên vấn đề đại cách mạng văn hóa để có cái “ba bảy” (nghĩa là bảy phần thành tích, ba phần sai lầm). Mao Trạch Đông đề xuất Đặng Tiểu Bình sẽ chủ trì đưa ra một quyết nghị, khẳng định thành tích của đại cách mạng văn hóa. Trên vấn đề nguyên tắc Đặng Tiểu Bình không chịu nhượng bộ. Ông nói, tôi là người trong Đào Hoa Nguyên, “không biết có Hán, không bàn Ngụy Tấn”, bày tỏ rằng ông viết quyết định này là không thích hợp, khéo léo từ chối.

Do sự công kích của “bọn bốn tên”, Bộ Chính trị đã quyết định đình chỉ công tác của Đặng Tiểu Bình.

Gần như đồng thời, từ Đại học Thanh Hoa bắt đầu lan ra cả nước, dấy lên một trận cuồng phong chính trị to lớn hơn. Đầu tháng 11, với sự thúc đẩy và thao túng của bọn Giang Thanh, Đảng ủy Đại học Thanh Hoa triệu tập Hội nghị Thường vụ Đảng ủy mở rộng truyền đạt lời phê duyệt của Mao Trạch Đông đối với bức thư của Lưu Băng cùng 4 người khác... dùng bút chì viết trên văn kiện phê duyệt như sau: “Lưu Băng và một số người ở Đại học Thanh Hoa gửi thư tố cáo Trì Quần và Tiểu Tạ. Mũi nhọn trong thư của họ chĩa vào tôi”. Sau này Mao Trạch Đông lại phê bình: “Tôi ở Bắc Kinh, viết thư sao không trực tiếp gửi cho tôi, mà lại nhờ Tiểu Bình chuyển. Tiểu Bình bênh vực Lưu Băng”.

Vấn đề Đại học Thanh Hoa đề cập đến không phải là riêng rẽ mà là sự phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai đường lối hiện nay. “Bọn bốn tên” như vớ được vàng, vui mừng như điên, nắm ngay lấy “chiếc lông gà làm thẻ lệnh”, lấy việc truyền đạt lời phê duyệt này làm khởi điểm, bắt đầu cái gọi là “phản kích lại xu hướng xử lại án hữu khuynh” và cái gọi là “cuộc đại biện luận về cách mạng giáo dục”. Người phụ trách thành ủy Bắc Kinh đích thân ra trận chỉ huy, Phó Thủ tướng Trương Xuân Kiều phụ trách về công tác giáo dục giao trách nhiệm cho Chu Vinh Hâm phải kiểm thảo. Đại học Thanh Hoa tổ chức cuộc Hội nghị Đảng ủy mở rộng và cuộc mít tinh toàn trường gồm hơn 1300 người phê phán Chu Vinh Hâm và Lưu Băng v.v… chĩa mũi nhọn vào Đặng Tiểu Bình. Công khai chỉ trích: “Đặng Tiểu Bình là Tổng đạo diễn của Lưu Băng, Lưu Băng là người đại diện của Đặng Tiểu Bình ở Thanh Hoa”. Trong phút chốc sóng dữ cuồn cuộn, đại tự báo “phản kích xu hướng đòi xử lại án hữu khuynh”, rợp trời rợp đất. Thanh Hoa Viên xinh đẹp phút chốc trở thành chiến trường “phê Đặng”. “Bọn bốn tên” nhanh chóng tổ chức cán bộ và quần chúng đi tham quan.

Hạ tuần tháng 11 năm 1975, theo chỉ thị của Mao Trạch Đông, Bộ Chính trị triệu tập Hội nghị thông báo tin gồm hơn 130 đồng chí cũ phụ trách các cơ quan Đảng, chính quyền, quân đội tham gia tại Bắc Kinh, tuyên đọc “những điểm chính của bài nói chuyện thông báo tin” do Mao Viễn Tân chỉnh lý và Mao Trạch Đông phê chuẩn. Những điểm chính của bài nói chuyện đã truyền đạt bài nói chuyện nêu trên của Mao Trạch Đông về bức thư của Lưu Băng, hơn nữa nêu rõ: “Đây là một xu hướng xử lại án hữu khuynh”. Có một số người tỏ ra không bằng lòng đối với đại cách mạng văn hoá, luôn muốn tính sổ đối với cách mạng văn hóa, luôn luôn muốn xử lại án. Tiếp đó Trung ương Đảng, công bố “Thông báo về việc chuyển phát những điểm chính của bài nói chuyện thông báo tin” cho Bí thư Thứ nhất các tỉnh, thành, khu tự trị, Bí thư thứ nhất Đảng ủy các đại quân khu, những người phụ trách Đảng ủy các bộ thuộc cơ quan Trung ương và Nhà nước, Bí thư thứ nhất Đảng ủy các Tổng cục thuộc Quân ủy và các quân binh chủng, yêu cầu truyền đạt và thảo luận trong Thường vụ Đảng ủy.

Thế là “thông báo tin” trở thành thuật ngữ chính trị lưu hành phổ biến nhất.

Page 70: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

2

Mao Trạch Đông nói một lời Thiên An Môn tắm máu

Hoa Quốc Phong hềnh hệch cười, “bọn bốn tên” ngơ ngác đứng trông

1. Ngôi sao lớn đã rơi

6 giờ 30 phút ngày 9 tháng 1 năm 1976 Đài phát thanh Nhân dân Trung ương truyền đi bản nhạc tang làm mọi người sợ hãi, phát thanh viên dùng âm điệu trầm thấp đọc từng câu từng chữ trong cáo phó:

Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, Thủ tướng Quốc vụ viện nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đồng chí Chu Ân Lai vì bị bệnh được điều trị nhưng vô hiệu, đã qua đời lúc 9 giờ 57 phút sáng ngày 8 tháng 1 năm 1976. Thọ 78 tuổi.

Mọi người kinh hãi. Những người đang ùn ùn đi trên đường đều dừng bước, những người đang bận bịu công việc đều dừng tay, những người còn đang ngủ say chợt tỉnh giấc; hầu như tất cả mọi người đều không tin ở đôi tai của mình, lẽ nào đó là sự thật? Cây cột đá chống trời đã đổ, đất nước đang lung lay trong phong ba bão táp, dân tộc Trung Hoa đắm chìm trong tai họa sẽ làm sao đây! Cây cột trụ của đất nước Đặng Tiểu Bình sắp có nguy cơ bị trúng tên ngã ngựa. Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên một bọn bốn người đang nhìn chòng chọc, súng gươm sẵn sàng, âm mưu tiếp quản thiên hạ. Đất nước họa vô đơn chí này đang ở trong giờ phút nguy nan ngàn cân treo sợi tóc, ông từ biệt cuộc đời quả là không phải lúc...

Điều làm mọi người nhớ nhất là sau giải phóng, đặc biệt là trong những năm tháng đen tối của đại cách mạng văn hóa, bọn gian thần ngang nhiên làm điều ác, trung thần bị cảnh tai ương, ông đã nhẫn nhục gánh vác trách nhiệm nặng nề, vất vả chống đỡ cho ngôi nhà sắp đổ nghiêng. Tất cả đều hiện ra trước mắt.

Ngày 6 tháng 12 năm 1975, Chu Ân Lai lại mổ lần nữa. Đến đây, Chu Ân Lai đã trải qua 13 lần mổ lớn nhỏ. “13” là con số dữ. Sau khi phẫu thuật này, bác sĩ đã phát hiện ra rằng không thể nào cứu vãn được nữa.

Diệp Kiếm Anh ngày đêm giữ mối liên hệ với bác sĩ Ngô Giai Bình, luôn luôn chỉ thị: “Phải nghĩ cách, có thể kéo dài được một ngày thì kéo dài một ngày, cho dù chỉ kéo dài được một giờ một phút. Chỉ cần có thể thì phải đem tất cả mọi cố gắng và trách nhiệm để chữa trị!”.

Trước đấy, từ sau khi Chu Ân Lai ốm nặng, đặc biệt là từ nửa cuối năm 1975, sau khi Chu Ân Lai phải nằm liệt giường, Diệp Kiếm Anh hầu như ngày nào cũng đến, đặc biệt là trước và sau khi phải xử lý những vấn đề lớn lao, đều phải đến để xin ý kiến và báo cáo.

Mới đầu, ông thường nói chuyện với Chu Ân Lai đến 3 tiếng đồng hồ.

Sau vài tháng, chuyện trò giảm xuống còn độ 2 tiếng.

Lần cuối cùng họ nói chuyện với nhau, Diệp Kiếm Anh bảo nhân viên công tác ra ngoài hết, dù là đưa nước hay đưa thuốc, không bấm chuông thì không được vào. Ông báo cáo với Chu Ân Lai về các vấn đề có liên quan đến Trung ương, liên quan đến Đặng Tiểu Bình, liên quan đến “bọn bốn tên” cùng các mặt quân sự. Sau khi Diệp Kiếm Anh ra khỏi bệnh phòng, gọi các nhân viên công tác đến bên cạnh rất nhẹ nhàng, nghiêm túc dặn dò: “Các đồng chí chuẩn bị giấy bút, 24 giờ phải ở bên cạnh Thủ tướng, không được một phút nào vắng người. Tính nguyên tắc của

Page 71: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Thủ tướng rất cao, rất nhiều việc, rất nhiều điều uẩn khúc, còn giữ trong lòng không nói ra, đặc biệt là đối với một số người trong Trung ương, trong giờ phút cuối cùng Thủ tướng có điều gì muốn thổ lộ, thì các đồng chí nhất định phải ghi lại...”

Diệp Kiếm Anh không thể ngày nào cũng ở bên cạnh Chu Ân Lai, nhân viên công tác thay phiên nhau trực, lúc nào cũng chuẩn bị bút giấy để ghi chép, nhưng môi Chu Ân Lai vẫn mím chặt. Mấy ngày cuối cùng, vẫn rứt khoát mím chặt môi, tuyệt nhiên không nói tới chính trị, cho đến khi ngừng thở.

Sau khi ông qua đời, nhân viên công tác mang những tờ giấy trắng đến giao cho Diệp Kiếm Anh, nhìn tờ giấy trắng tinh khiết, nước mắt ông trào ra, lẩm bẩm: “Suốt cả đời ông luôn vì toàn cục”...

Người ta đều nói cơn đau ung thư là sự đau đớn ghê gớm lâu dài hơn bất cứ nhục hình nào. Trong cuộc sống thực tế và miêu tả văn học, chúng ta đã từng thấy rất nhiều người quằn quại trong cơn đau đớn.

Có người kêu rên, tiếng kêu thảm thiết xé lòng, quằn quại lăn lộn trên giường. Có người nghiến răng đến vỡ cả hàm, cắn đứt cả đầu lưỡi, để cho nước mắt trào ra, mà không kêu rên một tiếng. Có người mở to đôi mắt đã bị cơn đau giày vò biến dạng đến hung dữ, kêu gào gầm thét cầu xin người khác cho mình được kết thúc cuộc đời một cách thoải mái...

Chu Ân Lai không như thế, từ đầu đến cuối ông chỉ nằm yên trên giường, toàn bộ thời gian đau bệnh, không có một tiếng rên, không chảy một giọt nước mắt, nếu anh cứ luôn nhìn vào ông, thì khi cơn đau đến thậm chí ông không chịu co quắp thân thể.

Nhưng, cơn đau ập đến, mà hoàn toàn không có phản ứng là điều không thể. Không biết bao nhiêu lần, nhân viên y tế dự cảm thấy cơn đau ghê gớm ập đến, nhưng chỉ thấy sắc mặt Chu Ân Lai bỗng biến đổi trở nên u ám xám ngắt, rồi lại chuyển sang màu xám đỏ, mồ hôi vã ra ướt đẫm, để tránh nhìn các đồng chí chung quanh, ông nhìn lên trần nhà. Mỗi lần hít thở hai cánh mũi ông lại nở to, đôi môi cũng chỉ hơi khẽ mở để cho mọi người khỏi chú ý, thở gấp mấy hơi rồi lại ngừng, ông đã dùng nghị lực siêu nhân để chịu đựng những cơn đau ghê gớm kéo dài...

Vì sao ông không kêu rên, không chảy nước mắt, dù là co dãn khuôn mặt hay nhếch mép? Ông không muốn lộ ra sự đau đớn có lẽ là vì muốn giữ lại cái hình tượng đẹp đẽ vốn có?

Cuối tháng 12, sau khi Chu Ân Lai biết tin bác Chu người thợ cắt tóc ở khách sạn Bắc Kinh đã từng cắt cho ông 20 năm qua muốn đến cắt tóc cho ông, liền dặn nhân viên công tác: “Bác Chu đã cắt tóc cho tôi 20 năm nay, nhìn thấy tôi ốm đau như thế này, chắc bác ấy sẽ buồn, cảm ơn bác ấy và đừng để bác ấy đến”.

Các đồng chí lãnh đạo Trung ương: Chu Đức, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm đều đến thăm Chu Ân Lai. Lúc ấy Trung ương quy định, chỉ có các đồng chí lãnh đạo từ Bộ Chính trị trở lên mới được đến thăm, nhưng rất nhiều đồng chí đã từng công tác bên cạnh ông đều năn nỉ yêu cầu được đến thăm Thủ tướng. Về sau Đặng Dĩnh Siêu đã đồng ý, nhưng chỉ cho phép mọi người nhìn Thủ tướng mà không để Thủ tướng nhìn thấy mọi người và một quy định được đặt ra chỉ khi Chu Ân Lai hôn mê mọi người mới được vào thăm và tuyệt đối không được khóc...

Hôm ấy khi Chu Ân Lai tỉnh lại sau hôn mê ông mấp máy miệng hỏi thăm tình hình sức khỏe của Mao Trạch Đông.

“Bác sĩ, Bác sĩ Ngô, tiêm, tiêm một mũi...” Chu Ân Lai cất lên tiếng cầu khẩn làm mọi người ngạt thở. Mỗi lần ông không còn đủ sức để giữ vẻ bình thường khi cơn đau ập tới, ông bèn cầu khẩn như thế.

Ông không muốn để bất cứ ai chia sẻ cơn đau của mình.

Cuộc hôn nhân giữa Đặng Dĩnh Siêu và Chu Ân Lai là một mẫu mực nhân thế. Đặng Dĩnh Siêu nói với bác sĩ Biện bằng một giọng run run: “Đau đớn như vậy, khó chịu lắm, anh ấy

Page 72: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

khó chịu lắm...” Bác sĩ rưng rưng nước mắt: “Chị ơi, Thủ tướng quan trọng lắm, sống thêm một ngày là có lợi cho Đảng, cho đất nước, cho toàn thể nhân dân cả nước một ngày, dù là một phút một giây cũng có ý nghĩa quan trọng...

Diệp Kiếm Anh cũng nói như vậy.

11 giờ đêm ngày 7 tháng 1, khi bác sĩ đến bên giường, đúng lúc Chu Ân Lai vừa tỉnh lại sau cơn hôn mê, ông khe khẽ mở đôi mắt, nhìn một lúc, nhận ra bác sĩ Ngô Giai Bình trong số đó, ông nói bằng một giọng yếu ớt: “Tôi ở đây không có việc gì nữa đâu, các đồng chí hãy đi chăm sóc cho các đồng chí bị bệnh khác, ở đấy cần các đồng chí”.

Đó là câu nói cuối cùng của Chu Ân Lai.

9 giờ 57 phút sáng ngày 8 tháng 1 năm 1976, Chu Ân Lai đã từ biệt thế gian.

2. Mao Trạch Đông bảo: Tôi cũng không đi dược nữa rồi

Khi bệnh tình của Chu Ân Lai ngày một trầm trọng, thì tình hình sức khỏe của Mao Trạch Đông cũng khiến mọi người lo lắng. Ông nói năng khó khăn, chỉ có thể nói ra một số câu chữ không rõ ràng từ họng. Do công tác lâu dài bên cạnh Mao Trạch Đông, nên thư ký Trương Ngọc Phượng vẫn có thể nghe hiểu được lời của Mao Trạch Đông. Mỗi khi Mao Trạch Đông nói chuyện với các đồng chí lãnh đạo khác, chị đều phải có mặt, để nói lại lời của Mao Trạch Đông. Nhưng đến khi ông nói và phát âm không rõ ràng thì chị chỉ có thể nhìn miệng và biểu cảm để đoán và nếu được ông gật đầu là được. Khi trở ngại ngôn ngữ của Mao Trạch Đông đến bước nghiêm trọng nhất thì ông đành dùng bút viết lên giấy những điều ông suy nghĩ. Sau này, việc đi đứng của Mao Trạch Đông đã rất khó khăn, nếu không có người đỡ thì cũng không thể đi nổi một bước. Trong mười mấy tiếng đồng hồ trước khi tim Chu Ân Lai ngừng đập, báo cáo về bệnh tình của ông không ngừng được đưa tới chỗ Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông lặng lẽ xem hết báo cáo về bệnh tình nguy cấp đến các phương án chữa trị và phương án cấp cứu.

Nhân viên công tác bên cạnh Mao Trạch Đông là Trương Diệu Từ được biết tin Chu Ân Lai qua đời liền đến ngay phòng của Mao Trạch Đông, báo cho Tiểu Vu y tá trực ban ở bên ngoài. Tiểu Vu cầm bút chì viết lên giấy trắng tin buồn này rồi để tờ giấy lên bàn.

Y tá Mạnh Cẩm Vân lúc này đang trực ban ở phòng của Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông đang nằm trên giường xem Tuyển tập Lỗ Tấn. Tiểu Mạnh nghe có tiếng chân người đến, biết là có người đến đưa đồ, cô rón rén đi ra ngoài, nhìn thấy tờ giấy, một hàng chữ rõ ràng hiện ra trước mắt. Tiểu Mạnh gấp tờ giấy lại rồi bỏ vào túi quay lại phòng của Mao Trạch Đông, như không có chuyện gì xảy ra.

Khoảng hơn 3 giờ chiều, Bộ Chính trị cử người đến đưa bản in thử Cáo phó Chu Ân Lai tạ thế cho Mao Trạch Đông. Tiểu Mạnh thấy Mao Trạch Đông tỉnh lại, tinh thần tạm được, liền quyết định tìm cơ hội báo tin cho ông biết việc Chu Ân Lai tạ thế.

Theo thói quen, lúc này Tiểu Mạnh phải đọc báo, văn kiện cho Mao Trạch Đông. Cô đọc một số nội dung khác rồi hơi ngừng lại một chút, liền cầm lấy bản in thử “cáo phó”, đọc với một giọng trầm trầm, chậm rãi: “Đồng chí Chu Ân Lai nhà cách mạng vô sản vĩ đại, người chiến sĩ cộng sản kiệt xuất của nhân dân Trung Hoa, vì bị bệnh ung thư, chữa trị không kết quả, đã mất vào…” Mao Trạch Đông đang nghe, chậm rãi khép đôi mắt, đôi mày nhíu lại, một loáng sau từ đôi mắt nhắm nghiền trào ra những giọt nước mắt. Tiểu Mạnh cũng thổn thức nhưng vẫn tiếp tục đọc hết cáo phó. Mao Trạch Đông không nói một câu nào, chỉ để cho nước mắt chảy lặng lẽ, nước mắt lăn trên má, chảy xuống khóe miệng rồi chảy xuống cổ, nhưng từ đầu đến cuối vẫn không nói một lời.

Page 73: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mấy hôm sau, Trung ương dự thảo bản quy định có liên quan đến lễ truy điệu của Chu Ân Lai, số người gồm Bộ Chính trị cùng những người phụ trách Đảng, chính quyền, quân đội tham gia lễ truy điệu và điếu văn để Mao Trạch Đông đọc duyệt.

Trung ương cân nhắc bệnh tình của Mao Trạch Đông, nên không bố trí ông tham gia tất cả mọi hoạt động có liên quan sau khi Chu Ân Lai mất.

Khi Mao Trạch Đông đọc duyệt báo cáo, Trương Ngọc Phượng luôn đứng ở bên cạnh. Không biết vì sao trong lòng chị, một người bình thường luôn tồn tại một tia hy vọng, có lẽ sẽ có một quyết định đột ngột giống như lần tham gia lễ truy điệu Trần Nghị như 4 năm về trước, có lẽ cũng có thể tham gia lễ truy điệu của Chu Ân Lai. Một câu nói vẫn giữ kín trong lòng rất lâu bất giác bật ra khỏi miệng, như một đứa trẻ cô mạo muội hỏi Mao Trạch Đông: “Có tham gia lễ truy điệu Thủ tướng không ạ?” Mao Trạch Đông vẫn đang buồn rầu, một tay cầm văn kiện vẫn chưa kịp đặt xuống, tay kia vỗ vào cái chân hơi co, đau đớn và mệt nhọc nói với chị: “Tôi không đi được nữa rồi”.

Từ sau Đại hội khóa 10, nhiều lần Mao Trạch Đông đã tỏ ý né tránh không muốn để cho mọi người nhìn thấy tình trạng già nua của mình làm cho Trương Ngọc Phượng hiểu được rằng ông không đồng ý, cũng không nỡ để mọi người nhìn thấy tâm trạng đau khổ và bệnh trạng trong những năm cuối đời của ông.

Tiếp đó Mao Trạch Đông nói như xin lỗi: “Lễ truy điệu của mấy người ấy, tôi cũng không thể đi được”. Mấy người ấy, Trương Ngọc Phượng sau này khi nhớ lại đã phân tích có thể là chỉ Đổng Tất Vũ, người đã cùng ông tham gia Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ nhất, đã qua đời tháng 4 năm 1975, cùng lễ truy điệu của mấy đồng chí lão thành khác.

Một ngày trước lễ truy điệu, cũng tức là chiều ngày 14 tháng 1 lại là thời gian Mạnh Cẩm Vân đọc báo cho Mao Trạch Đông. Chị đã đọc bản in thử lời điếu do Đặng Tiểu Bình đọc trong lễ truy điệu. Mao Trạch Đông lắng nghe, ông không còn im lặng nữa mà nước mắt giàn giụa, khóc thất thanh. Ông vẫn như mọi khi không nói một lời.

Một thời gian rất lâu sau khi Chu Ân Lai mất, tâm trạng của Mao Trạch Đông đều bao trùm một nỗi thương cảm. Trên mặt ông gần như đã không còn nét vui tươi, thường lặng lẽ.

3. “Bọn bốn tên” hành động điên cuồng rồ dại

“Bọn bốn tên” lợi dụng công cụ dư luận và sức mạnh chính quyền mà chúng nắm trong tay, ra sức quấy rối, phá hoại hoạt động tưởng nhớ ở thủ đô và khắp nơi trong cả nước. Đến bản tin của Tân Hoa xã phát ngày 11 tháng 1 năm 1976 về việc nhân dân thủ đô từ biệt di thể của Chu Ân Lai cũng bị cắt xén và ỉm đi. Trong đó có một đoạn ghi lại cảnh nhân dân thủ đô gồm già trẻ gái trai, ngay buổi chiều hôm ấy đổ ra Trường An, khóc lóc tiễn đưa linh xa của Chu Ân Lai, đã bị cắt hết không để lại một chữ! Để tái hiện cảnh bi tráng này hồi ấy, xin chép lại đoạn văn đầy máu và nước mắt này:

Buổi chiều, thi hài của Chu Ân Lai được đưa đến Bát Bảo Sơn để hỏa thiêu, khoảng không xám ngắt bị che phủ bởi những đám mây âm u, cả thành Bắc Kinh lặng lẽ trang nghiêm và kính cẩn. Từ bệnh viện Bắc Kinh đến Bát Bảo Sơn, mọi người đứng rất lâu hai bên đường dài đến mấy chục dặm, bất chấp giá buốt đứng đợi hết giờ này đến giờ khác... Sẩm tối, tiếng nhạc tang bi tráng đã đưa xe tang của Chu Ân Lại đến. Nhân dân không kìm được nỗi đau, khóc nức nở trong gió lạnh, từ đáy lòng cùng cất lên tiếng nói: “Chu Thủ tướng, chúng tôi không thể xa Người!” Chiếc xe tang chầm chậm đi trong hàng người nước mắt như mưa. Ôi xe tang, hãy dừng lại một chút, để chúng tôi có thể ngắm nhìn khuôn mặt hiền từ thân thiện của Chu Thủ tướng lần nữa. Đồng chí lái xe hãy hãm phanh lại, để chúng tôi bày tỏ nỗi đau với Chu Thủ tướng. Đêm đã về khuya, gió càng thổi mạnh, xe tang của Thủ tướng đã đi qua mấy tiếng đồng hồ, nhưng đám đông vẫn đứng nguyên hai bên đường dài mấy chục dặm, vẫn lặng lẽ đứng đợi,

Page 74: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

đợi xe tang quay trở lại. Nhưng chỉ thấy xe tang lại mà không thấy Thủ tướng về. Những dòng nước mắt nóng hổi lại ròng ròng rơi ướt mấy chục dặm đường... Đây là cảnh tượng đưa tang mà cổ kim đông tây chưa từng thấy!

Không chỉ có thế, ngay những tấm ảnh chụp cảnh đưa tang của hàng triệu người suốt dọc đường cũng không được đăng! Chỉ trong một ngày 13 tháng 1, Diêu Văn Nguyên đã ba lần gọi điện đến Tân Hoa xã để chỉ thị, ngăn cản việc tổ chức tang lễ và tuyên truyền công lao to lớn của Chu Ân Lai.

“Bọn bốn tên” điên cuồng rồ dại, biết trước trận cuồng phong tưởng niệm sẽ đến, nên ngày 14 tháng 1 đã tranh trước công bố bài viết dài trên đầu trang nhất “Nhân dân nhật báo”: “Biện luận lớn đưa đến thay đổi lớn”. Bọn phản động giấu mặt muốn dựng con đập này để ngăn biển nước mắt. Nó đã làm mọi người nổi giận, họ xé tan tờ báo, hết cú điện thoại này đến cú điện thoại khác, tới tấp gọi đến Tòa báo. Tất cả mọi người nổi giận không thể nào nhẫn chịu sự được sự phỉ báng độc ác đối với Thủ tướng Chu Ân Lai kính yêu được nữa, cũng không thể cho phép sự cản trở ngang ngược đối với việc tưởng niệm Thủ tướng Chu Ân Lai. Họ lau khô nước mắt, thét lên: “Chống Chu thì dân sẽ chống lại, phê Đặng dân không theo”.

3 giờ chiều ngày 15 tháng 1, tại Đại lễ đường Nhân dân đã tổ chức truy điệu có hơn 5 ngàn người dự. Mít tinh do Vương Hồng Văn chủ trì, Đặng Tiểu Bình thay mặt Trung ương Đảng đọc lời điếu.

Để viết được lời điếu, còn có một cuộc đấu tranh nhỏ, một cuộc tranh luận trong Hội nghị Bộ Chính trị. “Bọn bốn tên” sợ Đặng Tiểu Bình nổi bật, khi gặp đông đảo cán bộ và quần chúng, nên đã đưa ra rất nhiều lý do “bịa đặt dựng đứng” cố sức gạt bỏ Đặng Tiểu Bình. Giang Thanh chủ trương để Vương Hồng Văn hoặc Trương Xuân Kiều đọc lời điếu. Trương Xuân Kiều tự biết mình chưa đủ tư cách, Vương Hồng Văn lại quá non, liền đẩy cho Diệp Kiếm Anh. “Hiện nay cả nước đang phản kích lại xu hướng xử lại án hữu khuynh, Đặng Tiểu Bình đọc lời điếu là không thích hợp, để Nguyên soái Diệp Kiếm Anh đọc!” Diệp Kiếm Anh hiểu rõ dụng tâm của ông ta, nên nói như đanh đóng cột “Tôi không thấy có điều gì là không thích hợp! Đồng chí ấy đường đường chính chính là một Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, lại là Phó Thủ tướng thứ nhất Quốc vụ viện thay Thủ tướng chủ trì công tác, lẽ đương nhiên là đồng chí ấy phải đọc lời điếu. Hơn nữa tâm trạng của tôi quá buồn, cũng không đọc nổi”. Trương Xuân Kiều bị tẽn tò, nên đành phải thôi. Như vậy là, Diệp Kiếm Anh đã suy nghĩ đến hoàn cảnh khó khăn của Đặng Tiểu Bình lúc ấy nên đã cố sức chủ trương để Đặng Tiểu Bình đọc lời điếu, nhân cơ hội này để Đặng Tiểu Bình được gặp mặt với đông đảo quần chúng nhân dân. Trong giờ phút then chốt phải ủng hộ rất mạnh đồng chí ấy về mặt chính trị. Quả nhiên, khi mọi người nhìn thấy Đặng Tiểu Bình xuất hiện trên màn hình ti vi, thì hàng ngàn hàng vạn tấm lòng căm ghét việc “phê Đặng” lo lắng cho vận mệnh của Đặng Tiểu Bình phút chốc lắng xuống.

Hôm nay, với tâm trạng cực kỳ đau đớn, tưởng niệm đồng chí Chu Ân Lai, người đảng viên ưu tú của Đảng Cộng sản Trung Quốc, nhà cách mạng vô sản vĩ đại, chiến sĩ cách mạng kiệt xuất, người lãnh đạo Đảng và Nhà nước xuất sắc từng trải của nhân dân Trung Quốc...

Biểu cảm nghiêm túc, giọng nói đau xót, truyền cảm đến đông đảo quần chúng nhân dân trong và ngoài hội trường. Rất nhiều cán bộ cũ hồi lâu đứng đó như mọi người dân, nước mắt giàn giụa như mưa. Họ hy vọng biết nhường nào từ nay Đặng Tiểu Bình sẽ thay thế Chu Ân Lai, lãnh đạo đất nước!

Nhưng nguyện vọng lành hiền của mọi người thường bị kẻ xấu khiêu khích. Quần chúng nhân dân càng yêu quý Đặng Tiểu Bình thì “bọn bốn tên” càng sợ hãi, càng cố sống cố chết kéo ông xuống. Vậy là đồng thời với việc ngăn cản thô bạo những hoạt động của quần chúng nhân dân tưởng niệm Chu Ân Lai, “bọn bốn tên” càng vu cáo hãm hại Đặng Tiểu Bình ghê gớm hơn. Một ngày cũng không thể để Đặng Tiểu Bình thay Chu Ân Lai chủ trì công tác hằng ngày của Trung ương, điều hành chính sự. Khi đả kích Đặng Tiểu Bình không một phút nào quên Diệp

Page 75: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Kiếm Anh, người vẫn đang chủ trì công tác hằng ngày của Quân ủy, người nắm giữ binh quyền. Hai người này là trở ngại lớn nhất ngăn cản họ cướp Đảng giành quyền từ sau khi Chu Ân Lai qua đời, bị họ coi là “cái gai trong mắt”, “cái xương trong họng” phải trừ bỏ cho bằng được.

Với sự điều khiển của “bọn bốn tên” các nơi như Thượng Hải, Liêu Ninh đã tổ chức các cuộc họp kích động chống lại “xu hướng xấu xử lại án hữu khuynh”. Đồng thời Trung ương tích cực mở cuộc “họp thông báo phê Đặng”. Vương Hồng Văn tự tiện chuẩn bị một bán báo cáo dài “chống lại xu hướng xử án hữu khuynh” để đọc trong hội nghị, để lộ rằng Đặng Tiểu Bình là đoàn trưởng Hoàn Hương đoàn(*), còn Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm v. v... là phân đội trưởng của Hoàn Hương đoàn...

Diêu Văn Nguyên đã đích thân đọc duyệt văn kiện tham khảo nội bộ của Tân Hoa xã, công nhiên chỉ tên công kích Diệp Kiếm Anh. Để tranh giành “ngôi báu” Thủ tướng, “bọn bốn tên” đã cổ vũ tay chân ở Thượng Hải, dựng lên cái gọi là: “tư tưởng Trương Xuân Kiều”, thổi phồng nó là “phát hiện mới”, “quan điểm mới”, “vượt qua” chủ nghĩa Lê-nin, đã “phát triển” tư tưởng Mao Trạch Đông, đó là “cột mốc thứ tư”, cùng sổng chuồng còn có “tư tưởng văn nghệ Giang Thanh”, “Con đường Diêu Văn Nguyên”, “Đại sự ký Vương Hồng Văn”.

Thành ủy Thượng Hải nổi chiêng trống rùm beng nào là họp, nào là tọa đàm, nào là “Báo cáo tình hình”, gây dư luận, đòi để Trương Xuân Kiều làm thủ tướng. Vương Hồng Văn cũng không kém, trong một số khác của “Báo cáo tình hình” đã phản ánh “tiếng lòng” của nhân dân Thượng Hải: “Trương Xuân Kiều làm thủ tướng chúng tôi một trăm lần yên tâm, Vương Hồng Văn làm thủ tướng chúng tôi càng yên tâm”. “Người nối nghiệp” mơ làm thủ tướng, nắm lại việc chủ trì công tác hằng ngày của Trung ương, phút chốc trở nên bận bịu, thu gom cần câu và súng săn, từ bỏ khiêu vũ và rong chơi, chuyên tâm chí thú chuẩn bị “cương lĩnh thực thi chính quyền” của mình. Anh ta bảo thư ký và “bọn tú tài” chuẩn bị diễn văn cho mình. Từ ngày 23 tháng 1 đến ngày 3 tháng 2, lần lượt in ba lần bản sửa chữa để đợi một ngày in toàn văn trên “Nhân dân nhật báo”!

4. Cuộc đối thoại giữa hai ông già. Mây đen trùm kín, giông bão nổi lên

Đúng giờ phút nghiêm trọng ở không gian tầng cao của Trung Quốc, tình hình Bộ Chính trị nảy sinh đột biến. Trong một ngôi nhà ở đại lộ phía đông Địa An Môn, Bắc Kinh có hai ông già lặng lẽ ngồi trên xa-lông đối diện với nhau.

Lúc này, rõ ràng họ vẫn còn chìm đắm trong nỗi đau đớn vô bờ, sự qua đời của Chu Ân Lai, tạo nên vết thương lớn trong tâm linh họ. Họ có cái cảm giác mất mát không gì bù đắp được, như mất đi chỗ dựa chính, trong phút chốc, trong lòng cảm thấy trống rỗng.

Hai người lúc thì nói chuyện đôi câu, lúc thì đứng lên đi ra ngoài cửa, vừa đi vừa trò chuyện. Khu nhà tứ hợp viện rộng rãi, cũng trống không. Bức tường màu xám vây quanh và chiếc cổng màu xanh ngăn tầm nhìn của họ, đường phố bên ngoài gọi là “đường rộng” nhưng thực tế không rộng, trên con đường đi thẳng đến Địa An Môn, luôn luôn có tiếng ồn ào vọng tới, càng làm cho ruột gan họ rối bời.

Im lặng; im lặng, im lặng hồi lâu, trong im lặng ấp ủ những đóa hoa lửa của trí tuệ.

“Anh thấy tình hình hiện nay thế nào?” Cả hai gần như cùng một lúc nêu ra cùng một vấn đề.

Hai ông già với những kinh nghiệm đấu tranh phong phú và với sức nhìn thấu suốt, dự cảm thấy một trận bão táp chính trị lớn hơn sắp sửa ập tới và đều đang suy xét đến kết cục và sách lược ứng phó khẩn cấp đối với trận bão táp ấy.

Hai ông già ấy không phải ai khác mà chính là hai nhà cách mạng tiền bối Đặng Tiểu Bình và Diệp Kiếm Anh. Đây là hai người bạn chiến đấu cũ với sự tín nhiệm sâu sắc được xây

Page 76: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

dựng và trải qua những thử thách sống chết trong những năm tháng của cuộc cách mạng lâu dài của Trung Quốc. Từ nhiều năm nay Đặng Tiểu Bình rất yêu quý Diệp Kiếm Anh, nhất là trong giờ phút nguy nan, Chu Ân Lai qua đời, “bọn bốn tên” cố sức cướp quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước, càng cảm thấy cần phải dựa vào vị Nguyên soái già luôn trung thành với Đảng và tài trí hơn người này. Diệp Kiếm Anh tuy lớn hơn Đặng Tiểu Bình 7 tuổi, gần bát tuần, nhưng ông hiểu tính cách và tài năng của Đặng Tiểu Bình, rất tôn trọng người lãnh đạo xuất sắc của Đảng và Nhà nước đã mấy lần nổi mấy lần chìm này.

Hai nhà cách mạng lão thành nhìn tình hình xấu đi nhanh chóng mà cảm thấy quá đột ngột, thật không sao hiểu nổi. Diệp Kiếm Anh nhìn Đặng Tiểu Bình tức giận nói: “Bọn này bắt nạt người quá đáng, từng bước lấn tới, chúng lợi dụng lúc Thủ tướng qua đời, Chủ tịch ốm nặng, càng làm càng dữ, tiếp theo không biết chúng còn định giở trò ma gì nữa đây, chúng ta phải nhanh chóng đưa ra đối sách!”.

“Chẳng có gì đáng sợ cả? Từ lâu tôi đã có sự chuẩn bị tư tưởng rồi, chẳng qua là bị đánh đổ lần thứ hai. Điều đáng tiếc là còn rất nhiều việc chưa làm xong, kinh tế chưa có chuyển biến tốt, rất nhiều đồng chí cũ chưa được giải phóng”. Đặng Tiểu Bình nói một cách tiếc rẻ.

“Vấn đề lớn nhất hiện nay là Chủ tịch không nghe được ý kiến của chúng ta. Bọn Giang Thanh xúi Mao Viễn Tân ngầm kể tội với ông”.

“Đúng. Nhưng cũng không hoàn toàn đúng. Cuối năm ngoái, mấy lần tôi đến chỗ Chủ tịch nói chuyện riêng vào một buổi tối, tôi còn hỏi riêng Chủ tịch, phương châm chính sách công tác trong giai đoạn này như thế nào? Chủ tịch vẫn khẳng định. Sau đó Chủ tịch bảo Mao Viễn Tân gặp tôi nói chuyện, nói là tôi xử lại án đại cách mạng văn hóa. Tôi nêu ý kiến của mình, nhiều lần giải thích nhưng không có tác dụng gì!”.

Những điều này, nếu được nói ra từ miệng người khác có lẽ Diệp Kiếm Anh không tin. Gần hai năm nay, không phải chỉ một lần, ông nghe thấy Mao Trạch Đông nói về Đặng Tiểu Bình “nhân tài hiếm có”, “tư tưởng chính trị vững”, yêu cầu ông làm Phó Chủ tịch Quân ủy, Phó Thủ tướng thứ nhất kiêm Tổng Tham mưu trưởng. Hơn nữa từ khi Đặng Tiểu Bình trở lại chủ trì công tác đến nay, mọi việc đều xin ý kiến Mao Trạch Đông, đồng ý mới làm, thành tích nổi bật, rất được lòng người, đó là chuyện mọi người đều thấy. Làm sao trong phút chốc lại quay ngoắt một trăm tám mươi độ được? Xem ra, vấn đề căn bản là việc đánh giá đối với đại cách mạng văn hóa. Đặng Tiểu Bình đã tỏ thái độ rõ ràng, trên vấn đề căn bản này không có đất cho sự dàn xếp. Điều mà Diệp Kiếm Anh lo nhất là Đặng Tiểu Bình xuống dẫn đến việc “bọn bốn tên” thừa cơ cướp quyền Quốc vụ viện.

“Làm thế nào đây?” Diệp Kiếm Anh bàn: “Chúng ta có nên đi gặp Chủ tịch lần nữa không?”

“Đã gặp rồi, chẳng ăn thua gì”. Đặng Tiểu Bình đã có sự chuẩn bị tư tưởng, vì lợi ích của Đảng và Nhà nước, phải kiên trì đấu tranh với “bọn bốn tên” vì nghĩa không thể rút lui. Ông trả lời một cách kiên định: “Tính tình ở con người tôi chắc anh biết, quyết không nhượng bộ trên vấn đề nguyên tắc!”.

“Chỉ cần còn một tia hy vọng, thì chúng ta phải cố mà giành lấy”.

“Bộ Chính trị trên thực tế đã đình chỉ công tác của tôi, tôi dự đoán, Chủ tịch đã hạ quyết tâm, sẽ “thay ngựa!””

Tâm trạng Diệp Kiếm Anh trở nên nặng nề, nếu cục diện ấy xuất hiện thật thì làm thế nào? Ông hy vọng biết bao, trách nhiệm mà Chu Ân Lai để lại sẽ do Đặng Tiểu Bình gánh vác!

“Tôi nghĩ rằng “thay ngựa” cũng không phải là chuyện dễ, nếu muốn thay, chỉ có hai khả năng: Một là rút lui có trật tự, hai là “một là phê hai là bảo vệ”, chí ít vẫn tiếp tục dùng một thời

Page 77: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

gian nữa, vì có một số sự việc, Chủ tịch sẽ không hoàn toàn giao cho họ, ông sẽ không yên tâm!”.

Đặng Tiểu Bình đồng ý với nhận định đó: “Tôi đã chuẩn bị khả năng xấu nhất, nhưng tôi tin, sự nghiệp của chúng ta sẽ có người kế tục. Đảng của chúng ta có hy vọng”. Ông ngừng lại, trầm ngâm một lúc, nói một cách nghiêm túc: “Tôi không giữ cương vị lãnh đạo nữa, cũng không sao, chỉ cần anh, vị nguyên soái già còn, và có các đồng chí cũ khác còn thì chẳng sợ gì bọn nhãi nhép gây sự cả!”

Diệp Kiếm Anh nghe thấy những lời gửi gắm nặng tình nặng nghĩa, trong người bỗng cảm thấy như tăng thêm gánh nặng ngàn cân, lập tức bày tỏ: “Thấy sự phát triển của tình hình, có thể tôi cũng không giữ được. Nhưng dù thế nào, chỉ cần tôi còn một chút hơi thở, cũng sẽ tiếp tục đấu với chúng!”.

Đặng Tiểu Bình thấy vị Nguyên soái già kiên cường như vậy, tự đáy lòng cảm thấy rất vui, lại nhắc: “Có điều phải chú ý phương pháp đấu tranh, đây là lời dặn dò của Thủ tướng trước lúc lâm chung”.

Hai nhà cách mạng lão thành lại rơi vào tâm trạng thương nhớ Chu Ân Lai.

5. Người mà “phái thực tế” và phái cấp tiến đều có thể chấp nhận ra sân khấu

Sự việc quả không ngoài dự đoán, Mao Trạch Đông trong lúc bị bệnh cũng đang rất đau đầu vì việc lựa chọn người làm Thủ tướng Quốc vụ viện. Qua quan sát cân nhắc nhiều lần, ông vừa không bằng lòng với Đặng Tiểu Bình người đã cùng ông chiến đấu nhiều năm và được ông coi trọng, càng không yên tâm với “bọn bốn tên” đã từng bị ông phê bình là có dã tâm. Cuối cùng người thầy của biện chứng pháp giỏi giải quyết mâu thuẫn đã chọn được một người khác ngoài dự kiến của mọi người.

Người ấy là Hoa Quốc Phong. Ngày 21 tháng 1 năm 1976, Mao Viễn Tân báo cáo với Mao Trạch Đông, nói đến Hoa Quốc Phong, Kỷ Đăng Khuê v.v… nêu ra việc Quốc vụ viện đề nghị Chủ tịch xác định một đồng chí phụ trách chủ yếu dẫn đầu để họ làm công tác cụ thể. Mao Trạch Đông trả lời: “Đề nghị Hoa Quốc Phong dẫn đầu. Anh ta tự nhận là người có trình độ chính trị không cao. Tiểu Bình chuyên quản lý công việc ngoại vụ”. Chí ít, từ nay về sau, Hoa Quốc Phong đã bắt đầu chủ trì công tác của Quốc vụ viện.

Ngày 2 tháng 2, Trung ương đưa ra “Văn kiện số 1” thông báo toàn Đảng:

Theo đề nghị của lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch, Bộ Chính trị Trung ương Đảng nhất trí thông qua Hoa Quốc Phong giữ chức Quyền Thủ tướng Quốc vụ viện.

Đối với bối cảnh chính trị của quyết định này, lúc ấy một nhà văn viết truyện ký nước ngoài đã viết:

“Bọn bốn tên” mưu toan thao túng Mao Trạch Đông đang bị ốm nặng, tất nhiên không phải là muốn mở đường cho Hoa Quốc Phong một chính trị gia “tỉnh lẻ” không quen thuộc lắm với mọi người nắm quyền hành. Nhưng họ điên cuồng chống Đặng Tiểu Bình không còn nghi ngờ gì nữa đã có lợi cho việc thăng chức của Hoa Quốc Phong. Tinh thần thực tế kiên định không thay đổi của Đặng Tiểu Bình làm cho Mao Trạch Đông không yên tâm, vì vậy, từ mùa thu năm 1975 lại một lần nữa chĩa mũi nhọn vào Đặng Tiểu Bình. Nhưng ông đã hiểu rõ phu nhân của mình cũng như những người ủng hộ về hình thái, ý thức ở Thượng Hải đang âm mưu hoạt động ở hậu trường, đồng thời có dã tâm chính trị. Bản ngữ lục công bố sau khi “bọn bốn tên” sụp đổ đã chứng thực điều đó. Trong tình hình này, điều kiện có lợi của Hoa Quốc Phong chính là ở chỗ không tham gia một phái nào, mà là trung thành lâu dài với Mao Trạch Đông.

Page 78: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Nhà văn này sau khi nêu ra thân thế và chức vụ của Hoa Quốc Phong, đã đặc biệt đề cập đến:

Điều quan trọng là, ông ta là người mà phái thực tế và phái cấp tiến đều có thể chấp nhận. Vì vậy, vào khoảng tháng 4, Chủ tịch Đảng đã nhờ ông ta phụ trách thẩm tra “vụ án Đặng Tiểu Bình”.

Người nước ngoài bàn luận về chính trị hiện đại ở Trung Quốc luôn thích phân thành “phái thực tế”, “phái cấp tiến” gì đó. Đây là quan điểm và thói quen của họ, tạm không bình luận nhiều về chuyện đó, nhưng gọi “bọn bốn tên” là “phái cấp tiến” rõ ràng là không thỏa đáng.

Phép biện chứng của lịch sử là lớp sóng sau đẩy lớp sóng trước, người mới vượt người cũ. Nhưng sự “vượt trội” ấy thường thường có hai tình huống: “Một là sự vượt trội thông thường. Người mới đức tài đều đủ, trai tráng khỏe mạnh, khiêm tốn thận trọng, là những người nối nghiệp ưu tú đáng tin cậy, làm cho người giao phó yên tâm, thậm chí thấy ngượng vì không bằng. Đúng như Diệp Kiếm Anh đã nói trong một bài thơ: “Một thời anh hùng muôn đời sự nghiệp, Ai dám nói tiền hiền kém hậu sinh”. Một tình huống khác hoàn toàn trái với tình huống trên.

Mọi người trông mong có nhiều người nối nghiệp như loại trên biết chừng nào!

Về thân thế của Hoa Quốc Phong, ở Trung Quốc cho đến hôm nay vẫn chưa có một cuốn sách nào giới thiệu chính thức được xuất bản. Nhưng người nước ngoài lại có không ít sách và bài viết ra mắt bạn đọc. Như cuốn “Hoa Chủ tịch” do Nhà xuất bản Hơ-stơ ở Luân Đôn xuất bản năm 1980, “Hoa Quốc Phong trước đại cách mạng văn hóa (1949- 1966) ở Hồ Nam, sự trưởng thành của một tài năng chính trị” của Ô-cơ-lin-pô-kơ và Dương Trại Cường. Ngoài ra còn có “Truyện Hoa Quốc Phong” xuất bản ở Hương Cảng, cùng “Cuộc hội đàm của Hoa Quốc Phong với Phơ-ri-cớt Cô-lin” v. v… và v. v… Những tác phẩm này có khen có chê, tin đồn nhảm rất nhiều.

Hoa Quốc Phong đã giội bom đạn trong cuộc chiến tranh chống Nhật để đi vào con đường cách mạng. Khi quê hương huyện Giao Thành tỉnh Sơn Tây bị quân Nhật giày xéo, ông vác súng kíp lên rừng đánh du kích, vẫn là một thanh niên tràn đầy nhiệt huyết 17 tuổi đời chưa rõ thế sự, lần đầu tiên nghe thấy tên của những người lãnh đạo Đảng và các tướng lĩnh kháng Nhật như Mao Trạch Đông, Chu Đức, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh v.v... lòng ông tràn đầy một niềm sùng kính. Nằm mơ cũng không ngờ tới có ngày mình lại có thể vinh dự bước vào hàng ngũ những nhân vật lãnh tụ của Đảng Cộng sản Trung Quốc, để ngồi ngang hàng với những “nhân vật lớn” này. “Người cùng lứa” với Đảng Cộng sản Trung Quốc mãi đến năm 1940 mới đến với Đảng. Vận mệnh của một con người, tự mình rất khó nắm được, mà thường thường do những nhân tố mang tính ngẫu nhiên sắp đặt. Trước khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập, Trung ương Đảng ra lệnh cho tỉnh Sơn Tây rút một bộ phận cán bộ và quân nhân ở địa phương xuống phía nam. Lúc ấy Hoa Quốc Phong đang đảm nhiệm chức vụ Bí thư huyện ủy huyện Giao Thành kiêm nhiệm chính ủy của Đại đội vũ trang là người ghi tên đầu tiên, đầu tiên đến huyện Tương Âm tỉnh Hồ Nam, sau giữ chức Bí thư huyện ủy Tương Đàm. “Hoa Chính ủy” nổi danh từ đó. Năm 1954 lên giữ chức Bí thư huyện ủy Tương Đàm. Trung Quốc có câu danh ngôn “nhân kiệt địa linh” hoặc “địa linh nhân kiệt”. Tương Đàm cái “địa linh” quê hương Mao Trạch Đông đã bồi dưỡng nên một loạt “nhân kiệt”, trong đó có Hoa Quốc Phong. Trải qua mấy năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, trải qua những năm đại nhảy vọt rồi lại qua đại cách mạng văn hóa tên tuổi Hoa Quốc Phong đi song song với cái tên quê hương Mao Trạch Đông và ngày càng nổi bật cùng với tiếng tăm của vị lãnh tụ vĩ đại.

Hoa Quốc Phong ít nói, suy nghĩ thâm trầm, giỏi nắm bắt ý đồ của Mao Trạch Đông, thường có dịp đến Bắc Kinh để báo cáo và xin ý kiến Mao Trạch Đông. Nhiệt tình “ba trung thành” chất phác, tác phong làm việc tỉ mỉ chắc chắn vẻ thực thà khiêm tốn của ông đã để lại cho Mao Trạch Đông ấn tượng hoàn toàn có thể tin cậy. Vì thế sau khi “người nối nghiệp” Lâm Bưu

Page 79: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

phản bội và bị tan xác năm 1971, cùng với việc điều động Vương Hồng Văn từ Thượng Hải là điều động Hoa Quốc Phong từ Trường Sa về Trung ương. Sau Đại hội Đảng khóa 10, Vương Hồng Văn trở thành Phó Chủ tịch Đảng, Hoa Quốc Phong trở thành ủy viên Bộ Chính trị. Lúc ấy ông đã thay thế Tạ Phú Trị vừa bị bệnh qua đời giữ chức Bộ trưởng Công an. Ít lâu sau đảm nhiệm chức Phó Thủ tướng Quốc vụ viện cho đến cuối cùng mấy lần đảm nhiệm quyền Thủ tướng Quốc vụ viện.

6. “Bọn bốn tên” tạm thời bị mất một quân cờ, nhưng rồi lại ăn được hai quân

Việc bổ nhiệm Hoa Quốc Phong là một đòn giáng vào đầu “bọn bốn tên”. Vương Hồng Văn chẳng thèm giở lại xem bản đề cương (sửa lần thứ ba) nói chuyện đã chuẩn bị từ lâu của mình và vứt vào ngăn kéo, về sau trở thành một trong những tội trạng của y. Trương Xuân Kiều kẻ đã tự cho là đã nắm chắc “ngôi báu” thủ tướng oán hận cùng cực đã viết những điều bực bội trong “Cảm xúc về ngày 2 tháng 3”:

Lại là một văn kiện thứ nhất.

Năm ngoái đã ra một văn kiện thứ nhất.

Thật là đắc chí càng hung hăng.

Đến thật nhanh, đến rất dữ mà tan cũng rất nhanh.

Đường lối sai lầm sẽ không sao thực hiện được, có thể một thời đắc ý, tựa hồ như thiên hạ là của ông ta, phải bắt đầu một thời đại mới gì đó thôi. Họ luôn đánh giá quá cao sức mạnh của mình.

Nhân dân là nhân tố quyết định.

Đại diện cho lợi ích của nhân dân, mưu lợi cho đại đa số, trong bất kỳ tình huống nào, đều đứng về phía quần chúng nhân dân, đứng về phía những phần tử tiên tiến thì sẽ thắng lợi. Làm ngược lại tất nhiên sẽ thất bại. Đúng là:

Muôn nhà vạn hộ trông ngày ấy,

Sẽ đổi bùa xưa lấy đào hoa”.

Trương Xuân Kiều là kẻ giỏi tính toán. Trong bài “Hữu cảm” ông ta nói đến “Văn kiện thứ nhất” năm ngoái là chỉ cái gì. Đó là “Văn kiện thứ nhất” của Trung ương năm 1975. Chính là văn kiện đã bổ nhiệm Đặng Tiểu Bình làm Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương kiêm Tổng Tham mưu trưởng quân Giải phóng nhân dân Trung Quốc. Ở đây Trương Xuân Kiều đã “bắn một mũi tên trúng hai đích”. Tức là nhằm vào Hoa Quốc Phong nhưng lại gắn thêm Đặng Tiểu Bình. Ông ta muốn có một cuộc thanh toán chung để thực hiện dã tâm phản cách mạng “thay đổi triều đại” của ông ta.

Đúng lúc này, trên đường phố Thượng Hải xuất hiện một biểu ngữ lớn “Kiên quyết yêu cầu Trương Xuân Kiều làm thủ tướng”, chống đối với Trung ương, Trương Xuân Kiều có tật giật mình. “Đây chẳng phải là giúp chẳng bõ phiền hay sao?” Nên ông ta đã lập tức ra lệnh che đi! Còn truyền đi một câu chuyện cười, có người đã lặng lẽ xé ba chữ “Trương Xuân Kiều” dán lên đầu biểu ngữ thế là biểu ngữ biến thành “Trương Xuân Kiều kiên quyết yêu cầu làm thủ tướng!”

Trong ván cờ tranh giành vị trí thủ tướng, “bọn bốn tên” tạm thời bị mất một quân, nhưng ở một ván cờ khác họ lại ăn được hai quân, một quân là chặn được con đường Đặng Tiểu Bình làm thủ tướng, một quân khác là lôi được Diệp Kiếm Anh xuống ngựa.

Trong “Văn kiện thứ nhất” của Trung ương này có một điều thông báo quan trọng khác.

Page 80: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Trong thời gian đồng chí Diệp Kiếm Anh bị bệnh, thì đồng chí Trần Tích Liên phụ trách chủ trì công tác của Quân ủy Trung ương”.

Lấy hình thức văn kiện Trung ương để thông báo cho toàn đảng việc treo chức vị nguyên soái của nước Cộng hòa vì “bị bệnh” thì đây quả là lần đầu tiên chưa từng có bao giờ, nó đến rất đột ngột. Nhưng Diệp Kiếm Anh đã có sự chuẩn bị tư tưởng. Đối với sự vinh nhục thăng giáng của cá nhân từ lâu ông đã gạt ra ngoài, điều mà ông lo lắng là vận mệnh của đất nước và quân đội. Ông nghĩ, Mao Trạch Đông rút cuộc đã không trao quyền cho “bọn bốn tên” mà lại giao cho Hoa Quốc Phong, dù thế nào cũng là một việc tốt, có thể an ủi linh hồn của Chu Ân Lai ở nơi chín suối.

Đối với việc “treo chức” của Diệp Kiếm Anh, “bọn bốn tên” tung mũ reo vui cười khẩy. Còn tất cả mọi người lương thiện, chính trực đều lo lắng vô cùng. Rất nhiều đồng chí quan tâm đến quốc gia đại sự, yêu quý Diệp Kiếm Anh đều tới tấp gọi điện viết thư đến Văn phòng Diệp Kiếm Anh thăm hỏi bệnh tình. “Diệp soái mắc bệnh gì?” “Sức khỏe có yếu lắm không?” Các đồng chí ở văn phòng đành lặng lẽ kể lại sự thực: Vẫn khỏe như xưa và rất khỏe. Nhưng mọi người vẫn bán tín bán nghi.

Ngày 5 tháng 2, Trung ương thông báo là sẽ truyền đạt rộng “Những điểm chính của bản thông báo” cho quần chúng trong và ngoài Đảng. Ngày 6 tháng 2, Trung ương phê chuẩn và chuyển cho Quân ủy Trung ương về việc ngừng học tập và quán triệt chấp hành báo cáo tại cuộc Hội nghị “Quân ủy mở rộng” của Đặng Tiểu Bình và Diệp Kiếm Anh tháng 7 năm 1975. Ngày 25 tháng 2, Trung ương triệu tập hội nghị những người phụ trách các tỉnh, thành phố, khu tự trị và các đại quân khu trong hội nghị đã truyền đạt “Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch”, tức là những lời nói chuyện của Mao Trạch Đông trong nhiều lần từ tháng 10 năm 1975 đến tháng 1 năm 1976 về “Phê Đặng và phản kích lại xu hướng xử lại án hữu khuynh” do Mao Viễn Tân chỉnh lý. “Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch” được Mao Trạch Đông đọc duyệt và phê chuẩn. Trích lục như sau:

“Xã hội xã hội chủ nghĩa có đấu tranh giai cấp hay không? “Lấy ba chỉ thị làm cương lĩnh” là gì? Ổn định đoàn kết không phải là không cần đấu tranh giai cấp. Đấu tranh giai cấp là cương, điều còn lại là mục. Trên vấn đề này Sta-lin đã mắc sai lầm lớn. Lê-nin không như vậy, ông nói sản xuất nhỏ hằng ngày hằng giờ nảy sinh ra chủ nghĩa tư bản. Lê-nin nói, xây dựng một nhà nước tư sản không có nhà tư bản, để đảm bảo cho pháp quyền tư sản. Chúng ta sẽ xây dựng một nhà nước như vậy, na ná như xã hội cũ, phân đẳng cấp, có 8 bậc lương, phân phối theo lao động, trao đổi ngang giá. Phải dùng tiền để mua gạo, mua than, mua mỡ, mua rau. 8 bậc lương chẳng kể anh người nhiều hay ít.

Đại cách mạng văn hóa là gì? Là đấu tranh giai cấp đấy.

Vì sao có một số người không nhận rõ vấn đề mâu thuẫn trong xã hội xã hội chủ nghĩa?... Vấn đề là bản thân họ thuộc giai cấp tiểu tư sản, tư tưởng dễ hữu. Bản thân họ đại diện cho giai cấp tư sản, nên nói không thấy rõ mâu thuẫn giai cấp.

Một số đồng chí, chủ yếu là các đồng chí cũ, tư tưởng vẫn dừng lại ở giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản không hiểu chủ nghĩa xã hội, có sự đối lập thậm chí phản đối. Đối với đại cách mạng văn hóa có hai thái độ một là không bằng lòng, hai là muốn tính sổ, tính sổ với đại cách mạng văn hóa.

Đã làm quan to thì phải bảo vệ lợi ích của các vị quan to. Họ có nhà cao cửa rộng, có xe hơi, lương cao, còn có nhân viên phục vụ, còn ghê gớm hơn nhà tư bản. Cách mạng xã hội chủ nghĩa đến bản thân, khi hợp tác hóa, trong Đảng có người phản đối, phê phán pháp quyền tư sản, họ có phản cảm. Làm cách mạng xã hội chủ nghĩa nhưng không biết giai cấp tư sản ở đâu, nó ở ngay trong Đảng Cộng sản, phái cầm quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng. Phái đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vẫn đang đi.

Page 81: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Đối với đại cách mạng văn hóa, nhìn chung: cơ bản là đúng đắn, nhưng còn có chỗ chưa đủ. Điều phải nghiên cứu hiện nay là ớ mặt chưa đủ. Tính thành ba bảy, bảy phần thành tích, ba phần sai lầm, cách nhìn chưa chắc đã nhất trí Đại cách mạng văn hóa đã phạm hai sai lầm: một là đánh đổ tất cả; hai là nội chiến toàn quốc. Đánh đổ tất cả trong đó có một bộ phận đánh đúng, như tập đoàn Lưu, Lâm, một bộ phận đánh sai, như rất nhiều đồng chí cũ, những người này cũng có sai lầm, phê phán là được. Không có kinh nghiệm chiến tranh đã hơn 10 năm rồi, nội chiến toàn diện, cướp đoạt, đại đa số là tự phát, đánh nhau một chút cũng là một sự rèn luyện.

Tiểu Bình... đồng chí ấy không nắm đấu tranh giai cấp, xưa nay không nhắc đến cương lĩnh này. Vẫn cứ là “mèo trắng, mèo đen” chẳng kể là chủ nghĩa đế quốc hay chủ nghĩa Mác.

Tiểu Bình... đồng chí ấy vẫn là mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân, dẫn dắt tốt có thể sẽ không đi tới mặt đối lập như Lưu, Lâm... Phê thì phải phê nhưng không nên phủ định tất cả.

“Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch” trên một loạt vấn đề đã lộn sòng phải trái. “Lấy đấu tranh giai cấp làm cương lĩnh” là không đúng đắn. Hạn chế và phê phán “pháp quyền tư sản” là không đúng đắn. “Tư tưởng của các đồng chí cũ vẫn dừng ở giai đoạn cách mạng dân chủ tư sản”, hiện tượng này nói chung không tồn tại. Đối với “các vị quan to” phải được phân tích, quyết không thể phủ định tất cả. Có “nhà cao cửa rộng” v. v... không thể rút ra kết luận “còn ghê gớm hơn... nhà tư bản”. “Đánh đổ tất cả” và “nội chiến toàn quốc” không phải là vấn đề “ba phần sai lầm”. Sai lầm nghiêm trọng nhất là đã đưa ra nhận định vấn đề đối tượng cách mạng: “giai cấp tư sán” “ở ngay trong Đảng Cộng sản”, đó là “phái cầm quyền đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng”. Những lời nói này của Mao Trạch Đông đã phản ánh nguyên nhân căn bản việc ông phát động “phê Đặng và phản kích xu hướng xử lại án hữu khuynh”. Ông không thể khoan dung việc Đặng Tiểu Bình đã sửa chữa một cách hệ thống những sai lầm của đại cách mạng văn hóa. “Phê Đặng” không chỉ là sự phê phán một cách sai lầm một cá nhân, mà là phủ định một cách sai lầm một chủ trương đúng đắn do Đặng Tiểu Bình đại biểu.

Lúc ấy có rất nhiều đồng chí tư tưởng không thông. Trong hội nghị, dựa vào tinh thần của những lời nói chuyện kể trên của Mao Trạch Đông, đòi tố giác, phê phán Đặng Tiểu Bình, giải quyết vấn đề “rẽ ngoặt”. Hoa Quốc Phong thay mặt Trung ương Đảng nói chuyện với hội nghị, yêu cầu mọi người sau khi trở về phải đặt lên hàng đầu việc học tập chỉ thị của Mao Trạch Đông và văn kiện của Trung ương, trên cơ sở học tập, “đi sâu tố giác phê phán sai lầm của đường lối xét lại của đồng chí Đặng Tiểu Bình”. “Trong quá trình tố giác phê phán rẽ ngoặt cho tốt”, phải “triển khai cuộc đấu tranh chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh”. Bài nói chuyện đã nêu ra giới hạn chính sách: “Mao Chủ tịch nói, có điều gì sai Trung ương chịu trách nhiệm. Bộ Chính trị cho rằng, chủ yếu là đồng chí Đặng Tiểu Bình phải chịu trách nhiệm”. Yêu cầu không nên bắt những người đại diện ở các nơi của Đặng Tiểu Bình, đối với những đồng chí phạm sai lầm, không nên bắt rồi không thả. Phong trào phải do đảng ủy lãnh đạo, không xâu chuỗi, không tổ chức đội chiến đấu. Ngày 3 tháng 3, Trung ương Đảng ra “Thông báo về việc học tập Chỉ thị quan trọng của Mao Chủ tịch”, truyền đạt lời nói của Mao Trạch Đông về “phê Đặng và chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh”, yêu cầu tổ chức học tập cho các cán bộ. Cùng ngày, Trung ương cũng truyền đạt bài nói của Hoa Quốc Phong trong Hội nghị các cán bộ phụ trách tỉnh thành, khu tự trị và các đại quân khu.

Vấn đề “phê Đặng” chính thức công khai trong Đảng.

Page 82: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

3

Màn kịch vụng về Vương, Trương, Giang, Diêu khó rời sân khấu

Quảng trường nổi sóng Đặng Tiểu Bình khó tránh khỏi vạ gió tai bay

1. Màn kịch vụng về

Sau khi Mao Trạch Đông chọn Hoa Quốc Phong làm Quyền Thủ tướng, “bọn bốn tên” đã dựng lên một màn kịch vụng về. Lúc ấy. Mao Trạch Đông đã quyết định, Mao Viễn Tân nhanh chóng đến gặp Vương Hồng Văn, đề nghị anh ta triệu tập hội nghị Bộ Chính trị để truyền đạt chỉ thị quan trọng của Mao Trạch Đông. Vương Hồng Văn không dám chậm trễ, vội vàng mời các uỷ viên Bộ Chính trị đang có mặt ở Bắc Kinh đến. Tại Di Nên Đường, 16 vị ủy viên Bộ Chính trị ngồi ngay ngắn. Mọi người đều biết, hôm nay Mao Viễn Tân sẽ truyền đạt chỉ thị của Mao Trạch Đông về người được làm quyền thủ tướng. Ai sẽ thay Thủ tướng, sẽ có liên quan mật thiết tới tiền đồ chính trị của mỗi người. Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều đều tự cho là người làm quyền thủ tướng không ai khác là mình, nên càng căng thẳng không yên.

Mao Viễn Tân mở sổ ghi, truyền đạt người được chọn làm quyền thủ tướng: “Mao Chủ tịch chỉ thị đề nghị đồng chí Hoa Quốc Phong đảm nhiệm Quyền Thủ tướng Quốc vụ viện”. Hội trường không có một tiếng động, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, kinh ngạc há hốc mồm. Mao Viễn Tân lại đọc to một lần nữa: “Mao Chủ tịch chỉ thị đề nghị đồng chí Hoa Quốc Phong đảm nhiệm Quyền Thủ tướng Quốc vụ viện”.

Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều vẫn chưa kịp phản ứng, Đặng Tiểu Bình, Lý Tiên Niệm, Trần Vân, Diệp Kiếm Anh, Trần Tích Liên dẫn đầu vỗ tay, đối với họ mà nói, đây là việc lựa chọn người lý tưởng nhất thống tình hình hiện nay.

Trương Xuân Kiều đỏ bừng mặt, lộ ra nét thất vọng. Giang Thanh vẫn không muốn tin đây là thật, hỏi Mao Viễn Tân: “Chủ tịch nói như vậy phải không?” Mao Viễn Tân cười gượng: “Ai dám đùa với vấn đề này? Tôi xin đọc lại một lần nữa chỉ thị của Chủ tịch: Mao Chú tịch chỉ thị đề - nghị - đồng - chí - Hoa - Quốc - Phong - đảm - nhiệm - Quyền - Thủ - tướng - Quốc - vụ - viện”. Giang Thanh chẳng còn điều gì để nói. Đặng Tiểu Bình tranh trước bày tỏ: “Tôi thực lòng ủng hộ quyết định sáng suốt của Chủ tịch”. Giang Thanh không biết làm thế nào cũng nói: “Tôi kiên quyết ủng hộ quyết định của Chủ tịch”. Vương HồngVăn, Trương Xuân Kiều, cũng lập cập, miễn cưỡng ủng hộ quyết định của Mao Trạch Đông.

Hội nghị quyết định lập tức gửi Văn kiện của Trung ương thông báo cho toàn Đảng và cả nước. Trung ương đã quyết định, đồng chí Hoa Quốc Phong đảm nhiệm Quyền Thủ tướng Quốc vụ viện. Trong thời gian đồng chí Diệp Kiếm Anh bị bệnh, do đồng chí Trần Tích Liên chủ trì công tác hằng ngày của Quân ủy Trung ương.

Bề ngoài Trương Xuân Kiều giơ tay tán thành quyết định của Trung ương, nhưng khi về Điếu Ngư Đài lại buồn rười rượi. Thư ký báo cáo: “Bọn anh Mã ở Thượng Hải đã đến, ở khách sạn Kinh Tây, thủ trưởng có muốn đến thăm họ không ạ?” Trương Xuân Kiều gật đầu: “Đến tối đi”. Thư ký nói: “Vâng, tôi đi chuẩn bị”.

2. Hoạt động hậu trường căng thẳng

Tối ngày 12 tháng 2, có hai người đi ra từ một ngôi nhà nhỏ trong Điếu Ngư Đài, một cao một thấp, đều mặc áo bành tô quân đội, mũ đội thấp, miệng đeo khẩu trang lớn, trong bóng tối

Page 83: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

ngoài cửa, họ bước lên chiếc xe con. Chiếc xe từ từ chạy ra cổng Điếu Ngư Đài, chạy thẳng về phía tây, sau mười mấy phút, chiếc xe dừng lại trước cổng khách sạn Kinh Tây, người gác cổng nhìn số xe, vẫy tay cho xe vào.

Chiếc xe dừng lại trước tòa nhà lớn của khách sạn, người có tầm thước trung bình nói với một người khác: “Đồng chí ở lại đây đợi, tôi lên trước một chút”. Nói xong đóng cửa xe đi lên lầu. Người gác cửa yêu cầu cho xem giấy tờ, người này nói: “Các anh gọi điện thoại cho Mã Thiên Thủy ở Thượng Hải bảo là phóng viên Tân Hoa xã đến đưa tài liệu”. Người gác cửa gọi điện cho Mã Thiên Thủy, nói vài câu, sau đó gác máy; “Xin mời vào”.

Mã Thiên Thủy, Từ Cảnh Hiền, Vương Tú Trân nhận được điện thoại của người gác cửa, ngồi đợi phóng viên vào phòng. Sau khi người phóng viên vào phòng. Mã Thiên Thủy hỏi: “Tài liệu đâu?” Người phóng viên gỡ bỏ khẩu trang, Mã Thiên Thủy kinh ngạc mừng rỡ reo lên: “A, đồng chí Xuân Kiều”.

Trương Xuân Kiều cởi bỏ áo khoác ngoài, ngồi xuống xa-lông: “Trong khách sạn có nhiều người tham gia hội nghị thông báo của Trung ương ở, người nhiều lộn xộn nên không thể không hóa trang một chút”. Tiếp đó hạ thấp giọng: “Trong cuộc họp lần này, Trung ương chuẩn bị triển khai thêm việc phê Đặng chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh, Đặng Tiểu Bình đã bị đình chỉ công tác để thẩm tra. Nhưng những người đồng tình với Đặng Tiểu Bình trong Trung ương còn nhiều, đấu tranh vẫn rất phức tạp, dự đoán tình hình sẽ còn có thể có những thay đổi lớn hơn, các đồng chí phải chuẩn bị tư tưởng cho tốt. Vương Tú Trân, nữ công nhân chiến sĩ thi đua của nhà máy sợi Thượng Hải, trong đại cách mạng văn hóa theo Vương Hồng Văn tạo phản mà làm nên, nay là Bí thư Thành ủy Thượng Hải bất bình thay cho Trương Xuân Kiều: “Vì sao Trung ương lại để cho Hoa Quốc Phong làm Quyền Thủ tướng? Xét về trình độ năng lực, cống hiến đều nên là đồng chí Xuân Kiều. Đồng chí Xuân Kiều làm Quyền Thủ tướng là sự mong muốn của mọi người”. Trương Xuân Kiều nghiêm nghị nói: “Không thể nói như vậy được, chúng ta đều phải phục tùng, quyết định của Trung ương”. Vương Tú Trân đập bàn, nói một cách phẫn nộ: “Dù phải chặt đầu hay ngồi tù tôi cũng chủ trương để đồng chí Trương Xuân Kiều làm Quyền Thủ tướng, tôi đã viết thư cho Trung ương, tôi sẽ còn viết”.

Trương Xuân Kiều nhân người nữ công nhân với vẻ tán thưởng, phẩy phẩy tay: “Đừng nói nữa, đừng nói nữa. Thượng Hải thế nào? Có động tĩnh gì mới không?” Từ Cảnh Hiền đáp: “Có một sự biến động nhỏ, có điều họ chẳng nên trò trống gì”. Trương Xuân Kiều nhắc anh ta: “Không thể sơ suất. Cần bắt thì bắt, cần giết thì giết, giết mấy đứa để xem kẻ nào dám ho he?” Từ Cảnh Hiền nói: “Chỉ thị của đồng chí Xuân Kiều rất quan trọng, sau khi về chúng tôi sẽ bắt”.

Sau khi Hội nghị thông báo Trung ương kết thúc, Diêu Văn Nguyên cũng đến khách sạn Kinh Tây gặp bọn Mã Thiên Thủy. Vừa vào đến phòng, Diêu Văn Nguyên với dáng vẻ căng thẳng hỏi: “Các đồng chí còn ở lại đây làm gì? Về Thượng Hải nhanh lên, về ngay đi!” Mã Thiên Thủy kinh ngạc hỏi: “Xảy ra chuyện gì rồi?” Diêu Văn Nguyên vứt mấy tập tài liệu lên bàn với vẻ nghiêm nghị: “Hiện nay tình hình đấu tranh vô cùng căng thẳng, Bắc Kinh đã phát hiện nhiều sự kiện căng biểu ngữ phản đối. Những phần tử phản cách mạng này công khai căng biểu ngữ, kêu oan cho Đặng Tiểu Bình. Tin bịa đặt chính trị ngày càng nhiều, một số thơ từ phản động lưu truyền khắp nơi. Các đồng chí xem đi, nào là ủng hộ lấy ba chỉ thị làm cương lĩnh, ủng hộ chấn chỉnh toàn diện, nào là chặt đầu cũng chẳng sao, phải ủng hộ Đặng Tiểu Bình. Kẻ đi theo chủ nghĩa tư bản lớn nhất trong đảng chết rồi, nhưng kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa chết không hối cải được ông ta nâng đỡ lên cầm quyền đang rất điên cuồng. Xu hướng này không đơn độc, Thượng Hải cũng đã có động tĩnh. Các đồng chí về nhanh, phải đón cuộc đấu tranh lớn”. Bọn Mã Thiên Thủy nghe Diêu Văn Nguyên nói, phút chốc trở nên căng thẳng, vội vã đáp máy bay về Thượng Hải.

Thượng Hải, Nam Kinh lúc này, gió núi mưa ngàn đang ập đến. Bọn Mã Thiên Thủy ở Thượng Hải ra sức áp chế nhân dân Thượng Hải tưởng niệm Chu Ân Lai. “Văn hối báo” của Thượng Hải không những không đưa tin về hoạt động tưởng niệm của nhân dân, trái lại liên tục

Page 84: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

đăng các bài viết công kích bóng gió Chu Ân Lai. Nhân dân Thượng Hải không nén nổi giận, chép truyền cho nhau những bài thơ và từ. Gửi gắm tấm lòng tiếc thương đối với Chu Ân Lai, nêu tội ác tày trời hại nước hại dân của “bọn bốn tên”. Bọn Mã Thiên Thủy về đến Thượng Hải, lập tức bố trí truy xét những tin truyền chính trị, bố trí nhiệm vụ phê Đặng, phê duyệt truy cứu ngọn nguồn. Họ muốn Thượng Hải phải chú ý ngọn nguồn của xu hướng xét lại án hữu khuynh là kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa lớn nhất vừa chết cách đó không lâu ở trong Đảng, chính là kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa được ông ta nâng đỡ đưa lên nắm quyền không chịu hối cải. Các xưởng in lớn nhỏ ở Thượng Hải chạy hết công suất in thông báo của Thành ủy Thượng Hải, một ngày một đêm in 5 triệu bản, khẩn cấp đưa đến các đơn vị.

3. Sự phẫn nộ của mọi người cuối cùng đã bùng nổ

Thông tri này đã làm nhân dân Thượng Hải phẫn nộ, bão táp cách mạng bắt đầu dấy lên từ bờ sông Hoàng Phố Thượng Hải, như một kho thuốc nổ. Sự bất mãn và phẫn nộ của nhân dân đã lên đến cực điểm, hễ châm lên là bùng nổ. Cuối cùng thì sự phẫn nộ đã bùng nổ vào ngày 5 tháng 3.

Ngày 5 tháng 3 là ngày ấm áp, ngạt ngào hương thơm trong lịch sử. Vào ngày này 13 năm trước, Mao Trạch Đông đã đề từ “Học tập đồng chí Lôi Phong” cho phong trào toàn quốc học Lôi Phong. Để kỷ niệm ngày này, Tân Hoa xã đã phát tin. Một đơn vị bộ đội Thẩm Dương Quân giải phóng nhân dân học tập lời đề từ viết về đồng chí Lôi Phong của Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, kiên quyết học tập sự tích tiên tiến của Lôi Phong. Thực ra, đại cách mạng văn hóa đã coi tất cả những đạo đức xã hội tốt đẹp là phong kiến, tư sản, xét lại và đánh đập, phá phách, cướp bóc trở thành thời thượng, phong trào học tập Lôi Phong đã bị phá sạch từ lâu. Sau khi Đặng Tiểu Bình được phục hồi, đã từng phê bình gay gắt sự bại hoại, nếp sống đạo đức xã hội: “Chú Lôi Phong không thấy nữa”. điều này cũng chẳng cần bàn. Vấn đề là “Văn hối báo” sau khi sao lại bản thảo của Tân Hoa xã, đã đưa ý kiến của Thành ủy Thượng Hải vào, công nhiên cắt bỏ đề từ của Chu Ân Lai và đăng trên “Văn hối báo” số ra ngày 5 tháng 3.

Đây là sự chà đạp ngang nhiên của “bọn bốn tên” và thành ủy Thượng Hải đối với tình cảm thiêng liêng của nhân dân, công nhiên công kích Chu Ân Lai. Sự việc không chỉ có thế, “Văn hối báo” còn đăng tiếp bài báo “Kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa vẫn đang đi, chúng ta phải đấu với hắn”, bài viết công nhiên chỉ thẳng: “Kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng ấy đã vực dậy kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa bị đánh đổ nhưng chưa chịu hối cải!”

Cuối cùng đã lộ chân tướng, dã tâm lang sói của “bọn bốn tên” đã phơi bày hết giữa thanh thiên bạch nhật. Thượng Hải và nhân dân cả nước đã khẩn trương hành động, lên án tội ác phản cách mạng của “bọn bốn tên”. Bắt đầu từ ngày 5 tháng 3, những cú điện thoại kháng nghị của nhân dân như gió táp mưa sa, làm chấn động tòa soạn “Văn hối báo” tiếng chuông điện thoại ngoại tuyến của tòa báo, ngày đêm không ngớt reo, thư, điện báo kháng nghị hợp thành một làn sóng dữ, xô ào vào Ban Biên tập “Văn hối báo”. Tiếp đó mấy vạn quần chúng đến từ Thượng Hải và các nơi trong cả nước tập trung trước tòa soạn “Văn hối báo” phẫn nộ lên án “Văn hối báo”, những khẩu biệt “Bảo vệ Chu Thủ tướng”, “Bắt bọn đứng ở hậu trường đen của “Văn hối báo””, “kẻ nào chống Chu Thủ tướng thì đánh đổ kẻ đó”, “cảnh giác với nhân vật kiểu Khơ-rút-sốp lên cầm quyền!” ầm vang đường phố, như những cơn sóng lớn của biển cả không thể ngăn cản được.

Có một sự việc thật sự khôi hài, mấy người dán một bài đại tự báo lên cổng Tòa soạn “Văn hối báo”, mọi người đổ xô đến xem, hóa ra là tờ đại tự báo đã chép lại bài xã luận của “Nhân dân nhật báo” viết năm 1957 khi chống phái hữu có tựa đề: “Về phương diện giai cấp tư sản của Văn hối báo cần phê phán”. Lời đề tựa của người chép như sau: “Cuộc đấu tranh chống phái hữu hồi ấy, “Văn hối báo” là cái lưỡi của giai cấp tư sản. Bây giờ “Văn hối báo” lại diễn lại

Page 85: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

trò cũ, đi theo vết xe đổ, lại trở thành công cụ dư luận của bọn có dã tâm của giai cấp tư sản mới nhằm cướp quyền của Đảng”.

Thành ủy Thượng Hải biết tin Tòa soạn “Văn hối báo” bị bao vây, lập tức họp hội nghị khẩn cấp bàn đối sách. Mã Thiên Thủy căng thẳng nói: “Khi ở Bắc Kinh, Văn Nguyên, Xuân Kiều đã nhắc chúng ta phải đón cuộc đấu tranh mới, bây giờ quả nhiên Thượng Hải đã xảy ra bạo loạn phản cách mạng. Mọi người xem nên làm thế nào?” Vương Tú Trân được phân công phụ trách công tác dân binh, lập tức đề nghị: “Đối với bọn phản cách mạng không thể nương tay, lập tức điều dân binh và bộ đội trấn áp”. Từ Cảnh Hiền nói: “Tôi đồng ý, có điều không nên điều động bộ đội, chỉ cần dùng dân binh là có thể giải quyết vấn đề”. Mã Thiên Thủy nói: “Được, mọi người không có ý kiến gì nữa thì cứ thế mà làm”.

Ngay hôm ấy Mã Thiên Thủy và Vương Tú Trân đã điều động mấy ngàn dân binh, đầu đội mũ sắt, tay cầm gậy lớn, xông vào đám đông quần chúng đang vây chặt Tòa soạn “Văn hối báo” đánh đập bắt bớ bừa bãi, đánh chết và đánh bị thương nhiều người, quần chúng bị bắt giam chặt nhà ngục Đề Lam Kiều.

4. Nhân dân Nam Kinh kết thành đoàn để kháng nghị.

Thảm án Thượng Hải đã làm nhân dân Giang Nam phẫn nộ. Quần chúng nhân dân Nam Kinh kết thành từng đoàn xuống đường, khiêng ảnh Chu Ân Lai và vòng hoa giương biểu ngữ lớn tuần hành. Quần chúng vừa tuần hành vừa hô khẩu hiệu: “Chúng tôi muốn dân chủ xã hội chủ nghĩa thật sự, không muốn chuyên chính phát xít”. “Nhân dân là chủ nhân không phải là nô lệ”. “Lương Hiệu, Lương Hiệu chuyên bịa chuyện!” Quần chúng tuần hành thị uy ngày càng đông, cuối cùng lên tới mấy chục vạn. Đoàn người rầm rập kéo đến tập trung ở Vũ Hoa Đài (Đây là nơi Quốc dân đảng đã tàn sát các đảng viên cộng sản trước khi thành lập nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa, sau khi nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa thành lập đã trở thành nơi mọi người đến tưởng niệm các liệt sĩ) đặt vòng hoa diễn thuyết, đọc thơ từ, tưởng niệm Chu Ân Lai, lên án bọn giặc nước.

Bí thư Tỉnh ủy Giang Tô Bành Xung nghe tin đến ngay trước nhiệt tình yêu nước của nhân dân, nước mắt lưng tròng, ông ôm chặt từng quần chúng, xúc động nói: “Các đồng chí, tấm lòng của các đồng chí tôi hoàn toàn hiểu”.

Cùng lúc ấy, mấy chục ngàn công nhân, học sinh, cán bộ cơ quan đến ga xe lửa Nam Kinh, dán những băng biểu ngữ dài trên những toa xe hành khách đang chuẩn bị khởi hành, “Lôi ra kẻ có dã tâm kiểu Khơ-rút-sốp ở Trung ương!”. “Kẻ nào chống Chu Thủ tướng thì toàn Đảng cùng tiêu diệt nó! Cả nước cùng tiêu diệt nó!” “Đồng chí Dương Khai Tuệ(*) kính mến, chúng tôi mãi mãi tưởng nhớ đến đồng chí”, “Văn hối báo phải công khai tạ tội với nhân dân cả nước!”, “Đả đảo kẻ có dã tâm, âm mưu, kẻ xét lại mang nhãn hiệu mới XXX!”, “Lôi tên trùm hậu đài đen của “Văn hối báo” là XXX ra!”

Lúc này hành khách cũng ùa xuống sân ga, giúp dán biểu ngữ. Đột nhiên có một đoàn học sinh đi tới, dán biểu ngữ lên đoàn tàu đi Bắc Kinh. Biểu ngữ chỉ có 5 chữ: “Đả đảo Trương Xuân Kiều!” Mọi người bỗng reo vang, tài xế tàu kéo còi kính chào nhân dân anh hùng.

Bỗng, một thanh niên có dáng vẻ cán bộ chạy đến trước mặt một cán bộ công an đang trực ban trên sân ga, chỉ vào biểu ngữ, tuôn ra những lời tục tĩu: “Chúng nó dán biểu ngữ phản động, mẹ kiếp vì sao bọn bay không quản?”. Một cảnh sát trực ban rút súng, chửi lại: “Mẹ kiếp, mày dám chống lại Chu Thủ tướng, mày ở đơn vị nào?” Người thanh niên vênh váo hung hăng: “Tao là người của Thành ủy Thượng Hải, tao ra lệnh cho bọn bay bắt ngay bọn chúng!” Cán bộ cảnh sát gào lên: “Xem ra mày là phần tử xấu giả danh cán bộ Thành ủy Thượng Hải, xích nó lại!” Hai cảnh sát bước lên chẳng nói năng gì khóa tay người thanh niên dẫn đi, mọi người vỗ tay vui sướng.

Page 86: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

5. Đoàn tàu phẫn nộ chạy thẳng tới Bắc Kinh

Tiếng còi tàu kéo một hồi dài, đoàn tàu rùng rùng chuyển bánh, đem theo tấm biểu ngữ nổi bật: “Đả đảo Trương Xuân Kiều” ra khỏi ga chạy thẳng đến Bắc Kinh. Tấm biểu ngữ này như một bó đuốc, tức khắc châm ngòi đốt lên ngọn lửa đấu tranh khắp vùng Nam Bắc Trường Giang. Ngày 1 tháng 4, 70 vạn nhân dân Nam Kinh khiêng tấm ảnh lớn của Chu Ân Lai, tổ chức cuộc tuần hành tưởng niệm rầm rộ. Bành Xung và những người lãnh đạo tỉnh Giang Tô lại một lần nữa bày tỏ thái độ: “Tưởng niệm Chu Thủ tướng hợp pháp”, “chúng tôi và nhân dân cùng đứng bên nhau”. Mấy vạn người ở Thượng Hải lại bao vây Tòa soạn “Văn hối báo”, hô to khẩu hiệu: “Nhân dân cả nước ủng hộ Đặng Tiểu Bình”. “Kiên quyết đuổi bọn Thượng Hải ra khỏi Trung ương!” Nhân dân Hàng Châu hàn một khung thép làm vòng hoa lớn tới 5 mét, làm một biểu ngữ lớn dài mấy chục mét: “Thủ tướng vĩ đại! Tiểu Bình không đổ! Nếu đánh đổ Tiểu Bình thì thiên hạ sẽ không thái bình”. Vòng hoa đặt giữa đại lộ lớn, biểu ngữ treo lên lầu Bách hóa, đội ngũ tuần hành mấy vạn người nối tiếp. Tại Vũ Hán, ở hai đầu cầu Vũ Hán bắc qua Trường Giang, nhân dân đã bày mấy vạn vòng hoa lớn chừng 4 mét. Bộ đội bảo vệ cầu cử tiêu binh đứng gác suốt ngày đêm không để kẻ xấu phá hoại. Mấy vạn quần chúng tập hợp trên cầu tổ chức lễ tưởng niệm, hô vang khẩu hiệu: “Đả đảo Trương Xuân Kiều!” “Đả đảo Diêu Văn Nguyên!”, “Đả đảo Giang Thanh!”. Đoàn tàu chạy qua địa phận 6 tỉnh đều được dán lên biểu ngữ lớn.

Đoàn tàu vẫn tiếp tục lao về phía Bắc, trước tiết Thanh minh, khi đoàn tàu ấy đến ga Bắc Kinh, thì ở Quảng trường Thiên An Môn đã là một biển hoa biển người, Trên bia tưởng niệm anh hùng nhân dân dán đầy biểu ngữ: “Kiên quyết ủng hộ hành động cách mạng của nhân dân Nam Kinh đập tan triệt để người phát ngôn của chính khách tư sản - Văn hối báo!” “Phó Thủ tướng thứ nhất yêu nhân dân, nhân dân yêu Phó Thủ tướng thứ nhất!” Xen vào những chỗ hở giữa các biểu ngữ là rất nhiều bài đại tự báo, thơ và từ chữ nhỏ: “Trái tim hồng đã kết thành quả thắng lợi; Máu đào lại nở những cánh hoa cách mạng; Vẫn còn lũ ma quỷ phun ra lửa độc; Nhưng sẽ có, có người bắt được lũ yêu ma”. “Kẻ có dã tâm hại nước hại dân, sống không bằng chết. Người cách mạng cúc cung tận tụy tuy chết nhưng lại sống mãi muôn đời”.

6. Giải phóng quân - Hãy về đi!

Đến đêm ngày 3 tháng 4, hoạt động tưởng niệm ở quảng trường Thiên An Môn đạt tới cao trào, khi đến ngày Quốc khánh, quảng trường Thiên An Môn có thể chứa mấy chục vạn người, nhưng hôm nay ít nhất có đến 1 triệu người. Một người đàn ông thấp đội chiếc mũ dạ đen, mặc chiếc áo bành tô, cổ áo dựng đứng bị xô đi xô lại trên quảng trường, dạt theo dòng người lúc sang đông lúc sang tây. Trên quảng trường chỗ nào cũng là lời diễn thuyết sôi nổi. Hai quả khí cầu lớn cố định trên khoảng không của quảng trường, trên đó treo hai biểu ngữ lớn: “Tưởng nhớ Thủ tướng”, “Tự do dân chủ”. Trên thảm cỏ và cành cây đầy những bông hoa nhỏ màu trắng. Mỗi một cột đèn, cột cờ đều treo đầy vòng hoa và lẵng hoa. Trên bia kỷ niệm anh hùng nhân dân treo một bức ảnh chân dung Chu Ân Lai cực lớn, chung quanh ảnh chất đầy vòng hoa. Từ bia kỷ niệm anh hùng nhân dân đến cột cờ ở phía nam Kim Thủy Kiều, đã dựng lên mười mấy cổng hoa, trên cổng hoa treo những biểu ngữ lớn. Trên bệ cột cờ làm bằng đá hoa cương đặt một vòng hoa lớn. Trên bệ có người đang diễn thuyết: “Vùng lên, không cam tâm làm ngựa trâu ngu dân, đem hòa xương trong máu sốt xây nên trường thành mới cho muôn dân, khốn nguy là đây tới đây lúc dân Trung Quốc nguy khốn...” (lời bài Quốc ca Trung Quốc).

Đột nhiên, từ phía Nam quảng trường truyền lại tiếng kêu khủng khiếp: “Đồng bào ơi, quân đội đến đấy, mọi người hãy đi bảo vệ vòng hoa!” Phút chốc tiếng người kêu gào như trời long đất lở: “Đi thôi, đi bảo vệ Chu Thủ tướng!”

Page 87: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Trên bệ bia kỷ niệm anh hùng nhân dân, đã đứng đầy binh lính tay lăm lăm súng đã giương lê, họ cầm ngang súng, thái độ căng thẳng. Một sĩ quan trẻ đứng ở phía trước, dùng loa pin nói: “Theo lệnh của Trung ương, ở đây phải sửa chữa, mời mọi người về nhà nghỉ”. Trả lời anh ta là tiếng thét theo từng nhịp của mấy chục vạn người trên quảng trường. “Giải phóng quân - Hãy về đi!”, tiếng hô vang lên như sấm mùa xuân. Tiếng kêu gào của viên sĩ quan trẻ bị chìm hoàn toàn trong tiếng gầm thét như núi lửa phun trào.

Ông già thấp nhỏ vừa đến quảng trường, không tự chủ được đã bị xô đẩy đến trước bia kỷ niệm anh hùng nhân dân. Ông tận mắt chứng kiến cảnh tượng hùng tráng, chợt nhớ đến cảnh đấu tranh của công nhân mà ông đã được nhìn thấy ở Pa-ri, nhớ lại cảnh đấu tranh của mình cùng Chu Ân Lai, Trần Nghị, Triệu Thế Viêm, Thái Hòa Sâm, Thái Xướng, Hướng Cảnh Dư, Lý Phú Xuân, Nhiếp Vinh Trăn và những biện pháp vô lý của chính phủ Pháp đuổi những học sinh vừa học vừa làm lưu học tại Pháp. Trong lòng ông cảm thán: “Nhân dân là chủ nhân của lịch sử, kẻ nào định lừa gạt nhân dân kẻ ấy sẽ bị lịch sử trừng phạt”.

Đột nhiên có một chàng trai đầu húi cua, tay cầm loa phóng thanh nhảy lên bệ, nhìn về những chiếc lưỡi lê sáng quắc và những họng súng đen ngòm, khảng khái nói với binh lính: “Hỡi các anh em binh sĩ, các anh quá vất vả, tôi tên là Hầu Ngọc Lương, là công nhân của nhà máy cơ khí hạng nặng ở Bắc Kinh, hôm nay, hàng triệu nhân dân thủ đô đến quảng trường để tưởng niệm Chu Ân Lai kính yêu, các anh là bộ đội con em của nhân dân, mũi súng của các anh nên nhằm trúng vào những tên giặc tiếm quyền lãnh đạo hại nước hại dân, sao lại có thể nhằm vào bà con anh em của các anh? Các anh hãy nghe tiếng hô của nhân dân!”

Trên quảng trường ầm vang dậy trời tiếng hô của hàng triệu người khí thế vang dội non sông:

Kính cáo những chiến sĩ quân đội con em nhân dân,

Xin các anh hãy lắng nghe,

Hôm nay nhân dân tưởng niệm Thủ tướng Chu,

Hôm nay mọi người tranh đấu cho dân chủ tự do,

Thị phi các anh nên nhìn cho rõ,

Đừng giúp kẻ khác làm điều phi nghĩa,

Xin đừng quên, lưỡi lê của các anh,

Do đôi tay của những người công nhân chế tạo!

Xin đừng quên, thân thể các anh,

Do lương thực của nông dân làm ra nuôi lớn,

Cha mẹ anh chị em của các anh đang hướng về các anh.

Hãy xông lên tranh đấu với kẻ thù,

Sao nỡ chĩa lưỡi lê sắc nhọn

Vào quảng trường thiêng liêng Thiên An Môn,

Hỡi các chiến sĩ con em công nông,

Hãy nghe tiếng thét của nhân dân

Ai muốn trấn áp nhân dân quần chúng,

Xin các anh hãy quay súng nhằm vào chúng mà bắn.

Binh lính nghe tiếng thét của hàng triệu người, cúi đầu, nhưng vẫn cầm ngang súng. Một quân nhân cũ nhảy phắt lên bệ, xé tan chiếc áo bộ đội, để lộ bộ ngực đầy vết sẹo, hướng về các

Page 88: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

binh sĩ: “Các đồng chí, xin các đồng chí hãy nhìn tôi. Những vết thương này ai gây nên, đó là bọn Nhật, là bọn Quốc dân Đảng. Ai cứu sống tôi? Đó là nhân dân, họ đã dùng máu, dùng sữa để cứu tôi, các đồng chí chẳng phải đã từng xem cuốn sách “Người chị đỏ”, tôi chính là người lính Bát lộ quân đã được Người chị đỏ dùng sữa của mình cứu sống. Tôi là sư đoàn phó Quân khu Bắc Kinh, các đồng chí không thuộc bộ đội của tôi, nhưng tôi khẩn thiết cầu xin các đồng chí, rút đi!”.

Người chỉ huy trẻ cúi đầu, lẩm bẩm: “Tôi cũng rất yêu quý Chu Thủ tướng”. Anh ta quay người ra lệnh cho bộ đội: “Tập hợp, rút!”. Quần chúng vỗ tay, nhường đường cho họ đi. Người đàn ông thấp nhỏ cũng vỗ tay. Một người quay đầu lại, bất chợt nhìn thấy, cảm thấy người này quen quen, nhưng lại không nghĩ ra là đã gặp ở đâu. Đến khi người này được hai thanh niên bảo vệ đưa đi rồi, anh ta mới vỗ đùi phấn khởi gào lên: “Đặng Tiểu Bình đến rồi!” Mọi người nhìn quanh ngạc nhiên hỏi: “Ở đâu? Ở đâu?” Người này nói: “Ở bên cạnh tôi, tôi thấy quen quen nhưng không nghĩ ra là ông, ôi!”.

7. Sóng gió khi Đặng Tiểu Bình đến quảng trường

Đặng Tiểu Bình đến quảng trường rồi! Mọi người truyền cho nhau tin vui làm phấn chấn lòng người này.

Tin Đặng Tiểu Bình đến quảng trường rất nhanh chóng đến tai Trương Xuân Kiều, ông ta nhắc nhở mọi người trong hội nghị Bộ Chính trị họp ngay tối hôm đó: “Việc gây sự trên quảng trường Thiên An Môn có hoạt động đằng sau của nhân vật lớn, các đồng chí biết không? Đặng Tiểu Bình đã đến quảng trường”. Diêu Văn Nguyên tiếp lời ngay: “Có người diễn thuyết ở quảng trường, nói là Chủ tịch muốn đuổi đồng chí Giang Thanh khỏi Bộ Chính trị, may được Chu Ân Lai giữ lại”. Giang Thanh đỏ mặt bạnh cổ cãi: “Khốn kiếp, bắt thằng phản động đó lại đem bắn”.

Hoa Quốc Phong gật đầu: “Tình hình quả thực là rất nghiêm trọng, rất ác liệt, cần phải nghĩ ra một biện pháp thỏa đáng, trước hết mời đồng chí Ngô Đức nói một số tình hình”. Ngô Đức nói: “Được, tôi giới thiệu một chút, hiện nay trước bia kỷ niệm có 2073 vòng hoa, đơn vị ghi trên vòng hoa có 1400. Hôm qua trước khi trời sáng đã dọn một đợt, đưa đến 5000 dân binh, 3000 nhân viên công an, nhân viên công an đều mặc thường phục. Số người trên quảng trường ngày hôm nay tới 1 triệu”. Giang Thanh hung hăng vênh váo chỉ vào mặt Ngô Đức răn dạy: “Bọn phản cách mạng điên cuồng như thế, vì sao không phản kích? Một Bí thư Thành ủy như anh làm cái gì? Anh phải dọn sạch toàn bộ vòng hoa ở quảng trường Thiên An Môn!”. Ngô Đức lắp bắp đáp: “Vâng, vâng”. Hoa Quốc Phong ngẫm nghĩ nói: “Hôm nay là tiết Thanh minh, làm như vậy có làm cho quần chúng bất mãn hay không? Để thêm hai ngày nữa, qua tiết Thanh minh sẽ dọn dẹp có tốt hơn không?” Trương Xuân Kiều phản đối: “Đáng ngăn không ngăn, thì sẽ loạn, cần phải hành động ngay”. Giang Thanh vỗ tay tán thành: “Đúng, nhanh chóng điều ngay số lớn bộ đội vào thành”. Trương Xuân Kiều lắc đầu: “Không được, không thể điều bộ đội, không thể nổ súng. Điều động dân binh, dựa vào dân binh để giải quyết vấn đề”. Lý Tiên Niệm lắc đầu: “Vẫn phải thận trọng một chút, cố gắng tránh xung đột với quần chúng”. Giang Thanh lập tức bác ý kiến của Lý Tiên Niệm, Lý Tiên Niệm lại bác ý kiến của Giang Thanh. Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên bâu vào bao vây công kích Lý Tiên Niệm; Trần Vĩnh Quý, Ngô Quế Hiền thì chỉ cảm thấy hai bên đều có lý, không biết ngả về bên nào.

Hoa Quốc Phong nghe các vị ủy viên tranh cãi, cuối cùng mọi người không tranh cãi nữa, ông ta mới nói: “Theo ý kiến của mọi người: 1) Sự kiện quảng trường Thiên An Môn là một sự kiện phản cách mạng có tổ chức có mưu tính trước; 2) Sáng sớm mai sẽ dọn dẹp toàn bộ vòng hoa; 3) Bộ Công an sẽ phụ trách việc truy xét những lời bịa đặt trong cả nước; 4) Phải chuẩn bị tốt có thể tình hình sẽ mở rộng hơn, điều 5 vạn dân binh vào Công viên Trung Sơn và Cung Văn hóa Nhân dân chờ lệnh. Khu Vệ Thú ở Bắc Kinh điều thêm 5 tiểu đoàn bộ đội, dân binh và bộ đội đều đội mũ cứng hoặc mũ sắt, mỗi người đem theo một dùi cui. Quân khu Bắc Kinh phải có

Page 89: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

bộ đội cơ động chờ lệnh. Mọi người xem như vậy có được không?” Đa số ủy viên cho rằng phương án này là được. Thế là sự việc được quyết định.

Sau khi tan họp, Trần Tích Liên, Ngô Đức, Vương Hồng Văn đi điều bộ đội và dân binh, Diêu Văn Nguyên chuẩn bị đưa tin, mọi người đều chia nhau hành động.

Giang Thanh trở về Điếu Ngư Đài, vừa xuống xe đã lệnh cho Cục trưởng Cục Công an thành phố Bắc Kinh, Lưu Truyền Tân lập tức đến Điếu Ngư Đài, Lưu Truyền Tân buông điện thoại đến ngay. Giang Thanh rất nhiệt tình, mời ông ta ngồi, ra vẻ quan tâm hỏi: “Truyền Tân, đồng chí muốn lập công không?” Giang Thanh nói một cách bí hiểm: “Sáng mai, đồng chí điều động hai xe phát thanh, đến quảng trường Thiên An Môn đi vòng một lượt, hô một số khẩu hiệu: phê Đặng, chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh, phê Lâm phê Khổng, phê Chu Công, phê kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng, thế là nhiệm vụ của đồng chí đã hoàn thành”. Lưu Truyền Tân lo lắng: “Làm như thế sẽ làm cho quần chúng phẫn nộ, họ đập phá xe phát thanh thì làm thế nào?” Giang Thanh cười nhạt hai tiếng: “Chỉ sợ họ không đập thôi, họ đập thì hay. Tức nước sẽ vỡ bờ”. Lưu Truyền Tân ngẫm nghĩ chợt hiểu ra: “Tôi hiểu rồi!”.

8. Cuộc trấn áp đẫm máu bắt đầu

Đêm khuya ngày 4 tháng 4, người ở trên quảng trường Thiên An Môn phần lớn đã đi về, chỉ còn lại vài ngàn người bảo vệ những vòng hoa. Đột nhiên, từ Cung Văn hóa Nhân dân lao động, Công viên Trung Sơn, Đại lễ đường Nhân dân, Viện Bảo tàng Lịch sử Trung Quốc, Bộ Chỉ huy “Tam liên” đổ ra 2 vạn dân binh, 1 vạn cảnh sát, 500 bộ đội, họ bao vây các khu đã được chia sẵn trên quảng trường, xua tan mấy ngàn người trên quảng trường, tiếp theo là những chiếc xe tải, xe cần cẩu ầm ầm chạy vào quảng trường, dân binh và cảnh sát khiêng tất cả vòng hoa, lẵng hoa, cổng chào, biểu ngữ bao gồm cả ảnh của Chu Ân Lai vứt lên xe tải. Xe cần cẩu vươn cần trục dài nâng khung vòng hoa lớn hàn bằng thép đặt lên xe tải, thơ từ dán trên quảng trường đều bị dọn sạch. Đến 12 giờ đêm, trên quảng trường chỉ còn là bãi trống không, một cảnh tượng hoang tàn sau trận cướp phá.

Đúng lúc này, một chiếc xe con mang nhãn hiệu Hồng Kỳ, từ Trung Nam Hải từ từ đi ra, dừng lại trước tòa nhà Bộ chỉ huy “Tam liên” ở phía Đông Nam Quảng trường. Đó là một cơ cấu chuyên chính vừa được thành lập có tên là “Bộ chỉ huy liên hợp ba phương diện Dân binh, cảnh sát, quân đội”. Những người chỉ huy hành động ở đây là Ngô Trung, Tư lệnh khu Vệ Thú Bắc Kinh, Lưu Truyền Tân Cục trưởng Công an thành phố Bắc Kinh, Mã Tiểu Ngũ, Tổng chỉ huy dân binh công nhân thủ đô. Sau khi chiếc xe dừng lại, từ trong xe bước ra một thanh niên có thân hình to lớn, tướng mạo khôi ngô, đó là Vương Hồng Văn. Ngô Trung và mọi người nghe nói Vương Hồng Văn đến, vội vã đón vào nhà, báo cáo chiến quả với anh ta. Thực ra chẳng cần báo cáo, khi đi đến đây Vương Hồng Văn đã thấy cả, điều mà anh ta quan tâm không phải là những cái đó, mà là số lượng bộ đội vũ trang tập kết chung quanh quảng trường. Anh ta hỏi Ngô Trung và mọi người: “Bộ đội tập kết ở quảng trường có bao nhiêu?”. Ngô Trung đáp: “Dân binh có 2 vạn, bộ đội có 2 tiểu đoàn, cảnh sát có 1 vạn”. Vương Hồng Văn nói ngay: “Quá ít, quá ít, số người ít ỏi ấy làm sao đủ được? Điều ngay dân binh đến, ít nhất phải là 5 vạn dân binh, 5 tiểu đoàn bộ đội mới được. Ngày mai có thể có cuộc đấu tranh quyết liệt hơn”. Ngô Trung báo cáo, lệnh điều động đã đưa xuống rồi, dân binh bộ đội đang ùn ùn kéo về quảng trường, 8 vạn chiếc dùi cui đã làm xong, đang chuyển đến. Vương Hồng Văn rất hài lòng, dặn dò: “Tất cả mọi hành động phải nghe chỉ huy, hành động phải cương quyết”.

Sáng sớm hôm sau, mấy chục vạn người đổ về quảng trường, thấy toàn bộ vòng hoa đã bị dọn sạch, phút chốc nổi giận, họ kéo đến vây chặt Bộ Chỉ huy Tam liên, hô to khẩu hiệu: “Trả lại dân chủ cho chúng tôi!”, “Trả lại vòng hoa cho chúng tôi!”, “Chúng tôi cần Đặng Tiểu Bình!” Mấy trăm dân binh và cảnh sát giơ dùi cui đánh lùi đoàn người đang kéo tới.

Page 90: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Đột nhiên, một chiếc xe phát thanh của công an chạy vào quảng trường. “Kẻ đi theo con đường tư bản chủ nghĩa trong Đảng là lão Khổng Tử!” “Chống lại xu hướng xử lại án hữu khuynh!” “Chu Công là cái gốc chính của sự ngóc đầu dậy!” Những hành động và lời nói trắng trợn công kích Chu Ân Lai đã làm mọi người phẫn nộ, họ ào đến vây chặt lấy xe ô tô, lật đổ xe và châm lửa đốt, khói đen lửa bốc lên ngùn ngụt, lầu nhỏ ở Bộ Chỉ huy Tam Liên cũng bị đốt cháy, trên quảng trường phút chốc lửa khói bốc lên, tiếng thét của hàng triệu người kháng nghị, mấy vạn người tay nắm tay ào đến Đại lễ đường Nhân dân, đòi đối thoại với Bộ Chính trị, mấy ngàn bộ đội tay nắm tay tạo nên một bức tường người trên bậc thềm, chiếm ưu thế, chặn đám người ào đến.

9. Quân tử mồm nói tay đánh.

Trong phòng họp của Đại lễ đường Nhân dân, các ủy viên Bộ Chính trị kéo rèm cửa ngó xuống cảnh tượng hãi hùng trên quảng trường. Trương Xuân Kiều chỉ xuống quảng trường nói với Đặng Tiểu Bình: “Sự kiện quảng trường Thiên An Môn, đồng chí phải chịu trách nhiệm!”. Kỷ Đăng Khuê gầm lên: “Đó là phạm tội!” Hoa Quốc Phong gọi mọi người: “Thôi đừng xem nữa, lại đây họp”. Trương Xuân Kiều đi đến nói với Hoa Quốc Phong như dạy dỗ: “Không thể mềm tay được nữa, cần phải dùng biện pháp cương quyết”. Diêu Văn Nguyên liên tục gõ lên bàn: “Điều bộ đội, nhanh chóng điều bộ đội đến, giết một số trên quảng trường, họ sẽ phải ngoan ngoãn!”. Hoa Quốc Phong chưa có chủ định gì, Vương Hồng Văn nói: “Cứ theo phương án như tối hôm qua đã quyết định, do dân binh và bộ đội dùng dùi cui giải quyết vấn đề, tối qua tôi đã hỏi lại, dân binh bộ đội đều đã đến đủ”. Hoa Quốc Phong vẫn do dự: “Trên quảng trường có một triệu người cơ mà...” Trương Xuân Kiều kẻ lắm mưu nhiều kế, mắt đảo một vòng mưu kế bật ra ngay, ông ta nói với Hoa Quốc Phong: “Ban ngày không thể dùng vũ lực, ban đêm là hay nhất. Trước hết hãy để đồng chí Ngô Đức kêu gọi, số đông nghe lời kêu gọi sẽ rời khỏi quảng trường, số còn lại sẽ là những phần tử cốt cán, như vậy chúng ta sẽ có thể ra tay được, cũng không hại đến phụ nữ và trẻ em”. Hoa Quốc Phong thấy kế hay liền hỏi mọi người: “Cứ như vậy nhé, mọi người có ý kiến gì không?” Trần Vĩnh Quý, Ngô Quế Hiền là người đồng ý trước tiên, những người khác cũng không có ý kiến bổ sung, Hoa Quốc Phong nói lớn: “Được, quyết định như vậy, đề nghị đồng chí Viễn Tân báo cáo với Chủ tịch!”

Mao Trạch Đông nằm trên giường trong gian phòng mờ tối, Mao Viễn Tân ngồi trên một chiếc ghế nhỏ bên cạnh giường, nói với Mao Trạch Đông: “Thưa Chủ tịch ở quảng trường Thiên An Môn đã xảy ra một sự kiện nghiêm trọng, một số người lấy lý do là tưởng niệm Thủ tướng, đã dán truyền đơn phản động trên quảng trường, xúi giục hoạt động phản cách mạng, hôm nay họ đã phá một xe ô tô phát thanh của công an, đốt Bộ chỉ huy của dân binh, tụ tập hơn 1 triệu người ở quảng trường, Bộ Chính trị họp hôm nay quyết định dùng biện pháp cương quyết”.

Mao Trạch Đông với vẻ mặt không vui, sau khi Chu Ân Lai chết, dân gian tự phát tổ chức các hoạt động tưởng niệm đã làm ông rất khó chịu, ông ngầm cảm thấy trong đó bao hàm sự bất mãn và sự phản đối sâu sắc đối với đại cách mạng văn hóa do ông đích thân phát động và lãnh đạo, cũng chính là sự bất mãn và phản đối với bản thân ông. Điều đặc biệt làm ông không vui là người Trung Quốc bắt đầu không nghe lời, Trung ương biết rõ ràng, các nơi không nên tiến hành các hoạt động tưởng niệm, nhưng mọi người không nghe. Đây chẳng phải là cố ý đối lập với mình hay sao? Đối với tính chất và việc xử lý sự kiện Thiên An Môn, Mao Trạch Đông đã có một suy nghĩ cơ bản. Hôm qua ông đã ký duyệt kiến nghị điều động binh lính của Bộ Chính trị, sáng nay Giang Thanh khi đến thăm ông đã báo cáo tình hình tiến triển của sự việc, trên cơ bản ông đồng ý với kiến nghị của Giang Thanh là dùng vũ lực trấn áp sự kiện Thiên An Môn, nhưng lại phủ quyết kiến nghị của bà ta về việc khai trừ Đặng Tiểu Bình ra khỏi Đảng. Sau khi nghe Mao Viễn Tân báo cáo, Mao Trạch Đông lập tức nói một câu làm người ta đau lòng: “Quân tử mồm nói tay đánh!”.

Page 91: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Nhưng đối với Đặng Tiểu Bình, Mao Trạch Đông để một cửa, ông dùng bút chì đỏ viết lên giấy: “Đồng ý phải bảo lưu đảng tịch, để xem kết quả sau này”.

Sau khi Bộ Chính trị thảo luận chỉ thị của Mao Trạch Đông, nhất trí ủng hộ, lập tức mấy quân nhân đến dẫn Đặng Tiểu Bình đi cách ly thẩm tra. Trương Xuân Kiều gào lên: “Phản kích, lập tức phản kích”. Hoa Quốc Phong hạ lệnh, bộ đội, dân binh bắt đầu sửa soạn trang bị chuẩn bị xuất kích. Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên ở lại Đại lễ đường Nhân dân hiệp trợ với Hoa Quốc Phong chỉ huy, thỉnh thoảng họ lại xem đồng hồ, sốt ruột chờ đợi giờ phút ấy đến.

10. Thiên An Môn đẫm máu

6 giờ 25 phút chiều ngày 5 tháng 4 các loa phóng thanh lắp trên các cột đèn hoa đăng ở quảng trường Thiên An Môn và đại lộ Trường An vang lên, Ngô Đức không ngừng lặp đi lặp lại... “Hôm nay trên quảng trường Thiên An Môn có kẻ xấu phá hoại gây rối, tiến hành hoạt động phản cách mạng, quần chúng cách mạng nên lập tức rời khỏi quảng trường, không nên để chúng lừa bịp. Hôm nay ở quảng trường Thiên An Môn có bọn xấu tiến hành phá hoại gây rối, quần chúng cách mạng nên lập tức rời khỏi quảng trường...” Những người trên quảng trường lần lượt rời khỏi quảng trường, nhưng vẫn còn mấy ngàn người đứng lại ở chung quanh bia kỷ niệm Anh hùng nhân dân.

9 giờ 25 phút tối, đèn trên quảng trường bỗng vụt tắt 5 vạn dân binh, lính của 5 tiểu đoàn bộ đội, 3 ngàn cảnh sát tay cầm dùi cui gỗ, từ bốn phía quảng trường xông ra, một bộ phận phong tỏa quảng trường, còn phần lớn xông vào quảng trường, dùng dùi cui gỗ đánh tới tấp vào đám người tay không. Cả quảng trường Thiên An Môn chìm trong tiếng kêu thảm thiết.

Lúc bình minh, trên quảng trường Thiên An Môn ngoài dân binh, bộ đội và cảnh sát ra không còn một người nào nữa, mười mấy chiếc xe phun nước lượn vòng quanh để rửa những bãi máu, họ phải làm cho đến khi trời sáng rõ mới cơ bản rửa sạch.

Ngày hôm sau, Mao Viễn Tân, Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn đều đến Du Vịnh Trì, báo cáo quá trình hành động với Mao Trạch Đông. Mao Trạch Đông khen ngợi: “Sĩ khí phấn chấn, hay! Hay! Hay!” Mao Viễn Tân nói: “Hội nghị Bộ Chính trị hôm kia, đồng chí Xuân Kiều đã nói thẳng vào mặt Đặng Tiểu Bình, anh hãy xem tình hình ở Thiên An Môn, người ta muốn anh ra để nạp thái (nghi lễ đính hôn thời xưa)”. Mao Trạch Đông gật gật đầu: “Đúng, lần này, một là thủ đô, hai là quảng trường, ba là đốt phá, ba việc ấy rất rõ, tính chất đã thay đổi rồi, dựa vào đó mà đuổi đi!” Vừa nói vừa phất mạnh tay.

Vương Hồng Văn lại nhắc tới Ngô Đức và Ngô Trung; “Đồng chí Ngô Đức và Ngô Trung lần này có tác dụng quan trọng...” Mao Trạch Đông cười nói: “Bắc Kinh có hai Ngô, Ngô Đức có đức, Ngô Trung có trung”. Câu này sau khi truyền đến dân gian đã biến thành: “Bắc Kinh có hai Ngô, Ngô Đức vô đức, Ngô Trung vô trung”. (Chữ “ngô” và chữ “vô” cùng âm đọc – N.D.). Mao Trạch Đông lại đề nghị Hoa Quốc Phong chính thức đảm nhiệm chức vụ thủ tướng, đồng thời giữ chức Phó Chủ tịch thứ nhất của Trung ương Đảng, Trương Xuân Kiều trong lòng không vui, nhưng bề ngoài lại tỏ ra rất phấn khởi, mọi người thấy việc lớn đã được định đoạt liền cáo từ Mao Trạch Đông ra về.

8 giờ tối hôm ấy, Đài phát thanh Nhân dân Trung ương chính thức công bố mấy quyết định của Trung ương Đảng: 1) Trung ương Đảng nhận định sự kiện quảng trường Thiên An Môn là sự kiện phản cách mạng; 2) Hoa Quốc Phong đảm nhiệm Phó Chủ tịch thứ nhất Trung ương Đảng, Thủ tướng Quốc vụ viện; 3) Bãi bỏ mọi chức vụ trong và ngoài Đảng của Đặng Tiểu Bình, giữ lại đảng tịch để xem xét sau này.

Ra khỏi Du Vịnh Trì, Giang Thanh phấn chấn, phất tay: “Đi, chúng ta đi ăn một bữa, chúc mừng thắng lợi!” Cả bọn cười nói vui vẻ đi theo Giang Thanh dự tiệc mừng thắng lợi. Sau

Page 92: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

khi họ đi, Du Vịnh Trì lại im phăng phắc, nhân viên chiếu phim, chiếu cho Mao Trạch Đông xem bộ phim mới “Cuộc chiến đấu không thể nào quên” do Đạt Thức Thương đóng vai chính. Mao Trạch Đông chăm chú xem nước mắt trào ra. Trên màn hình hiện ra cảnh tượng tưng bừng Giải phóng quân vào giải phóng Thượng Hải, thấy rất nhiều nữ sinh leo lên xe tăng tặng hoa cho các chiến sĩ, Mao Trạch Đông vừa khóc vừa hỏi y tá trưởng Ngô Húc Quân: “Đồng chí là người Thượng Hải, hồi ấy đồng chí có tặng hoa không?” Ngô Húc Quân đáp: “Có ạ, hồi ấy tôi trèo lên xe tăng tặng hoa cho Giải phóng quân, cảnh tượng ấy giống hệt như trên phim ạ!” Mao Trạch Đông lắng nghe, bỗng bật khóc hu hu.

Chương IV

“BỌN BỐN TÊN” CHUI VÀO CŨI

1

Đất lở trời long sáu bảy năm trời Mao Trạch Đông khó lòng sống nổi

Nắm chắc quân đội “mệnh lệnh của Diệp Kiếm Anh” được công bố lúc nguy nan

1. Trận mưa thiên thạch trên thế giới, Mao Trạch Đông thở dài: Xem ra tôi khó qua nổi năm nay

Sau sự kiện quảng trường Thiên An Môn, trong lòng Mao Trạch Đông buồn tẻ gấp bội, những người cùng ông mấy chục năm giành lại giang sơn, bây giờ hầu hết đã bị ông đánh đổ, nhưng điều đó không hề nói lên sự thắng lợi của ông, mà chỉ chứng tỏ, phần lớn các đồng chí trong Đảng và quần chúng nhân dân cả nước không chỉ nghĩ trong lòng nữa mà là đã trực tiếp dùng hành động để phủ định đại cách mạng văn hóa. Sự nhượng bộ theo tỷ lệ ba và bảy của ông đã không thể đạt được sự lượng thứ của toàn đảng và nhân dân cả nước. Mình đang sống đây, còn như thế này thì sau khi trăm tuổi, sẽ như thế nào? Nhìn khắp các ủy viên Bộ Chính trị hiện nay, có mấy người có thể gửi gắm được, vì thế khi xem “Cuộc chiến đấu không thể nào quên”, cuộc đời sáng lập sự nghiệp sôi động thuở xưa đã đưa đến niềm thương cảm trong lòng ông. Mao Trạch Đông một đời trên lưng ngựa chiến chinh, một nhà cách mạng có ý chí kiên cường như thép, đã phải khóc hu hu... bộ phim không thể tiếp tục chiếu được nữa, mọi người vừa khóc vừa khiêng Mao Trạch Đông đã ngất lịm về phòng ngủ.

Cuộc phê Đặng, phản kích xu hướng xử lại án hữu khuynh triển khai ngày càng tệ hại hơn, các đơn vị đều truy xét những người đã đến quảng trường Thiên An Môn, điều tra xem ai đã viết thơ, từ, điều tra xem ai đã nói tốt nói hay cho Chu Ân Lai. Cả nước chìm trong không khí khủng bố, trên bầu trời Trung Quốc mây đen trùm kín, khắp đất nước Trung Quốc vang lên tiếng còi xe cảnh sát. Sản xuất ngừng trệ, quốc khố trống không, hàng hóa thiếu thốn, chạy nạn xin ăn nhan nhản, cư dân thành thị ở rất nhiều tỉnh chỉ có thể dựa vào cung cấp định lượng ba lạng(*) dầu mỡ một tháng để sống qua ngày, không ít nơi nhân viên còn có những cái tên “đẹp” như Nhị Lượng, Tam Lượng như Trần Nhị Lượng (Trần hai lạng), Lưu Nhị Lượng (Lưu hai lạng) v.v… Lòng dân oán trách sục sôi, tiếng chửi rủa đầy đường, thiên tai dồn dập đến.

Ngày thứ 17 sau khi sự kiện quảng trường Thiên An Môn qua đi, cũng tức là ngày 22 tháng 4 năm 1976, y tá Tiểu Mạnh đến đọc cho Mao Trạch Đông nghe một tin vừa công bố. Đây

Page 93: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

là bản tin của Tân Hoa xã nói về việc đột ngột xảy ra trận mưa thiên thạch ở khu vực Cát Lâm vùng Đông Bắc, Tiểu Mạnh vừa đọc một đoạn, Mao Trạch Đông cảnh giác ngồi nhỏm dậy, đây là chuyện xưa nay chưa bao giờ có, ông giục Tiểu Mạnh: “Đọc tiếp đi, tôi nghe đây”. Tiểu Mạnh lại đọc lần nữa.

Tin điện ngày 21 tháng 4 năm 1976 của Tân Hoa xã tại Trường Xuân (thủ phủ tỉnh Cát Lâm - N.D.). Gần đây tại khu vực Cát Lâm, vùng Đông Bắc nước ta, đã có một trận mưa thiên thạch hiếm thấy trong lịch sử thế giới. Chiều ngày 13 tháng 8 năm nay, trên không gian vũ trụ có một ngôi sao băng bay theo phương hướng của trái đất quay quanh mặt trời với tốc độ mỗi giây mười mấy ki-lô-mét đi vào tầng khí quyển trái đất. Vì ngôi sao băng này bị ma sát mạnh trong tầng khí quyển dày đặc, nên khi đến bầu trời vùng Cát Lâm thì bốc cháy, phát sáng, trở thành quả cầu lửa khổng lồ vào lúc 15 giờ lẻ 1 phút 59 giây ngày 8, đã phát nổ trên bầu trời công xã Kim Châu ngoại ô thành phố Cát Lâm (thuộc tỉnh Cát Lâm - N.D.). Sau khi sao băng phát nổ bắn tóe ra bốn bề theo hướng bức xạ.

Rất nhiều thiên thạch nhỏ rơi vãi khắp vùng ngoại ô thành phố Cát Lâm, ba thiên thạch lớn nhất theo hướng bay vốn có bay về hướng tây chếch nam. Cuối cùng khi một khối thiên thạch lớn nhất rơi xuống đất lúc 15 giờ 2 phút 36 giây đã phá vỡ lớp đất đông cứng dày 1,7 mét, xuyên sâu vào lòng đất 6,5 mét, tạo nên trên mặt đất một hố lớn sâu 3 mét, đường kính hơn 2 mét. Lúc ấy đã làm bật tung đất đá cao tới mấy chục mét và văng ra xa đến hàng trăm mét. Ba thiên thạch lớn nhất, mỗi viên nặng hơn 100 kg, khối lượng lớn nhất có trọng lượng 1700 kg, vượt quá trọng lượng 1078 kg của khối thiên thạch lớn nhất trên thế giới hiện đang được cất giữ tại nước Mỹ. Trận mưa thiên thạch này bất kể là về số lượng, trọng lượng và phạm vi tỏa rộng khi rơi đều hiếm thấy trên thế giới.

Tiểu Mạnh đọc xong tin này, Mao Trạch Đông lại nằm xuống giường, mở to mắt, nhìn lên trần nhà, hai giọt nước mắt trào ra từ hai mắt. Tiểu Mạnh hốt hoảng, vội vã hỏi: “Thưa Chủ tịch, Chủ tịch thấy khó chịu ở chỗ nào?” Mao Trạch Đông thở dài, “Xem ra tôi không qua nổi năm nay”. Tiểu Mạnh cảm thấy buồn, an ủi Mao Trạch Đông: “Chủ tịch chớ nghĩ nhiều, Chủ tịch sẽ sống lâu”. Mao Trạch Đông cười gượng: “Con người ta ăn ngũ cốc hoa màu, có ai không chết. Tôi hỏi cô, cô có nghe thấy dân chúng bàn luận thế nào không?” Tiểu Mạnh lắc đầu: “Không biết ạ, để ý đến cái đó làm gì?” Mao Trạch Đông lẩm bẩm một mình: “Đúng vào lúc này lại rơi những hòn đá ấy, dân chúng nhất định sẽ bàn luận”. Tiểu Mạnh nói: “Chẳng qua chỉ là một ngôi sao băng rơi xuống thôi, có gì mà Chủ tịch phải quan tâm?”. Mao Trạch Đông lắc đầu: “Cô còn nhỏ, không biết đâu”.

Mao Trạch Đông nghĩ gì? Ông nghĩ đến lịch sử, trong các sách của Trung Quốc thường ghi chép những tin về các thiên thạch rơi, đồng thời cho rằng đó là điểm báo hiệu đất nước sẽ có những sự biến to lớn xảy ra. Trong kinh điển Nho gia có một lý thuyết là “Thiên nhân cảm ứng” (cảm ứng giữa trời và người), học thuyết này cho rằng: Nhân gian có thay đổi gì, “Trời” sẽ có điềm báo tương ứng. Nếu quốc gia trăm họ yên lành thái bình thì sẽ có chim phượng hoàng bay lượn, kỳ lân nhảy múa, mưa thuận gió hòa, bảo bối xuất hiện, đó đều là điềm lành; Nếu đất nước có gian thần nắm quyền, quốc chính không sửa đổi, thì lụt lội hạn hán sẽ xảy ra liên tiếp, sự hung ác quái đản đầy rẫy, đó là điềm tai họa. Trên trời rơi xuống ngôi sao lớn, mỗi ngôi đều có nghĩa là đất nước sẽ có một nhân vật lớn qua đời. Xem trong các tiểu thuyết lịch sử như “Tam Quốc diễn nghĩa” v.v.. viết về Gia Cát Lượng, Triệu Vân, những danh tướng qua đời đều có báo trước: trên trời có những ngôi sao băng vào ban đêm. Thời thanh niên Mao Trạch Đông không tin những điều ấy, nhưng giờ đây sao ông không thể rũ được những bóng đen về trận mưa thiên thạch ấy. Ba khối đá lớn ấy, điềm ai sẽ chết đây? Lẽ nào là điềm báo về cái chết của Chu Thủ tướng, Tổng Tư lệnh và bản thân mình, Thủ tướng đã qua đời, Tổng Tư lệnh cũng đã thọ 90, sức khỏe không tốt, bệnh tình cũng ngày càng nặng. Lẽ nào Tổng Tư lệnh và mình không qua nổi năm nay?

Page 94: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mao Trạch Đông ngẫm nghĩ mà lòng dạ rối bời, ông cầm lấy tờ báo xem lại lần nữa. “Rất nhiều mảnh thiên thạch nhỏ rơi xuống khu ngoại ô thành phố Cát Lâm, điều đó có ý nghĩa gì? Vì sao lại xuất hiện mưa thiên thạch? Ông nghĩ mãi mà không ra...

Có thể là một sự trùng hợp, có thể là sự ứng nghiệm của thuyết thiên nhân cảm ứng, tai nạn lớn ở Trung Quốc xảy ra hết lần này đến lần khác, sau khi Chu Ân Lai qua đời thì ủy viên trưởng Chu Đức cũng ra đi.

Sau khi Chu Ân Lai mất, Chu Đức thường ngồi khóc một mình, miệng lẩm bẩm: Ân Lai, Ân Lai”. Thường xuyên không ăn được cơm và cũng không ngủ được. Ông đã 90 tuổi, vẫn thường xuyên xem văn kiện, tiếp kiến khách nước ngoài. Phu nhân của ông là Khang Khắc Thanh khuyên ông nên giữ gìn sức khỏe, ông thở dài: “Ân Lai mất rồi, tôi phải làm thêm một chút, nếu không, bọn ấy sẽ càng điên cuồng”. Vì quá căng thẳng và mệt mỏi, bệnh phổi của Chu Đức tái phát, nhưng ông vẫn kiên trì làm việc. Ít lâu sau, do một sự sai sót trong việc sắp xếp cố ý hoặc vô ý, đã làm cho bệnh của Chu Đức nặng thêm.

Ngày 21 tháng 6 Chu Đức tiếp kiến thủ tướng liên bang Ôt-xtrây-lia Mác-cô-mơ Phơ-rây-dơ, do sai sót trong việc sắp xếp, Chu Đức phải đợi trong phòng khách rất lâu, nên đã bị cảm, sau khi vào viện, lại đồng thời phát hiện bệnh viêm dạ dày và ruột cùng bệnh thận, sốt cao không giảm. Lúc mê sảng, ông vẫn còn kêu: “Cách mạng đến cùng!”.

3 giờ chiều ngày 6 tháng 7, Chu Đức qua đời. Bắc Kinh đã tổ chức lễ truy điệu long trọng.

Ba khối thiên thạch nếu quả là điềm dữ, thì hai khối thiên thạch đã ứng nghiệm, còn điềm dữ của khối thứ ba, cũng chính là điềm dữ của khối thiên thạch lớn nhất có một không hai trên thế giới sẽ rơi vào ai đây? Trận mưa thiên thạch như trút này sẽ báo điềm gì? Dân gian đồn đại ầm ĩ, lãnh đạo trung ương vô cùng căng thẳng.

2. Một tai họa lớn lặng lẽ giáng xuống

Đúng lúc này Trương Diệu Từ, Phó Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương đến Du Vịnh Trì, khuyên Mao Trạch Đông chuyển đến ngôi nhà mới xây số 202, đây là ngôi nhà do Mao Trạch Đông bỏ tiền nhuận bút ra xây, nhưng Mao Trạch Đông không muốn chuyển. “nhất động chẳng bằng nhất tĩnh”, ở đây rất tốt.

Vì sao Trương Diệu Từ luôn muốn Mao Trạch Đông chuyển nhà? Vốn là từ sau khi có trận động đất lớn ở Hình Đài đến nay, Trung Quốc liên tiếp xảy ra các trận động đất lớn. Ngày 4 tháng 2 năm 1975, khu vực Hải Thành lại xảy ra động đất lớn. Trung ương xem xét tới sự an toàn của Mao Trạch Đông, đã xây dựng ngôi nhà 202 ở Trung Nam Hải. Nhưng Mao Trạch Đông ở Du Vịnh Trì đã quen rồi, không muốn chuyển nhà. Trương Diệu Từ, thấy Mao Trạch Đông không muốn chuyển, nên cũng không khuyên nữa, vì theo tin tức báo chí, khoa học dự báo động đất, các nhà khoa học địa chấn công nông binh của Trung Quốc đã hoàn toàn nắm được khoa học dự báo động đất, tin là họ cũng có thể dự báo chính xác về tai nạn động đất ở Bắc Kinh.

Tin tức của các báo không phải là phịa, ngày 8 tháng 3 năm 1966, khu vực Hình Đài tỉnh Hà Bắc Trung Quốc đã xảy ra trận động đất mạnh 6,8 độ rích-te, nhà cửa sụp đổ, thương vong nặng nề. Sau khi xảy ra động đất, Chu Ân Lai đã đáp trực thăng đến thăm nhân dân vùng bị nạn, ông đã nói một cách thấm thía với các nhà khoa học địa chấn rằng: “Lần động đất này, phải trả giá rất đắt, hy vọng thế hệ các đồng chí có thể giải quyết được vấn đề dự báo động đất”.

Đây là một mục tiêu không thể nào thực hiện được. Tự cổ chí kim, nhân loại vẫn chưa nghĩ ra được biện pháp để chế ngự con quỷ dữ này. Nhưng các nhà địa chấn trẻ Trung Quốc đã ghi nhớ lời dặn dò của Chu Ân Lai, điều tra nghiên cứu những hiện tượng khác thường trong quá

Page 95: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

trình địa chấn ở Hình Đài, nhanh chóng tìm ra một hệ thống biện pháp, lúc đó đã dự đoán được một lần dư chấn lớn của trận động đất Hình Đài.

Sau hơn một năm, Đội địa chấn Bắc kinh, đã đưa ra một cảnh báo khẩn cấp cho Trung tâm Dự báo Cục Địa chấn Nhà nước vào ngày 24 tháng 7 như sau: Khu vực Đường Sơn ở vùng Bắc Kinh - Thiên Tân, có thể có trận động đất mạnh khoảng 7 độ rich-te xảy ra ngày 28 tháng 7.

Sau khi báo cáo dự báo kết thúc, người phụ trách phòng dự báo đã cử một số người đi Đường Sơn để tiến hành điều tra thêm, ở đó đã xuất hiện một số hiện tượng khác thường về sinh vật và khí hậu vùng sinh thái.

Đội viên địa chấn đi ô-tô đến Đường Sơn, trên đường đi nóng nực kinh người, oi bức khác thường. Bên đường có bán dưa hấu, họ xuống xe mua dưa ăn cho đỡ khát. Họ vừa ăn vừa nói chuyện với một lão nông, lão nông là người từng trải, nói năng dí dỏm. Mấy đội viên trong đoàn hỏi: “Gần đây có tin gì mới không ạ?” Lão nông lấy tàu lá chuối rách vừa đuổi ruồi vừa đáp: “Thời gian gần đây, chuyện mới có nhiều lắm, hôm qua chuột trong nhà tôi đều chui từ trong hang ra, ngơ ngác đứng ở giữa sân. Ở Đông Trang có một chuyện kỳ lạ hơn, có mười mấy con chồn, ở dưới cây lớn đầu thôn chạy cuống cuồng kêu liên tục, cứ như tai họa sắp đến. Giếng nước ở đầu thôn tôi cũng có yêu quái, nước giếng lúc cao lúc thấp, có thể dùng tay xách nước, lúc thấp phải dùng dây dài mấy trượng (1 trượng bằng 3,33 mét) cũng không múc được”.

Lão nông đang nói, thì bỗng có tiếng ù ù, mọi người đều nhìn lên bầu trời, vô số chuồn chuồn đang bay thành một đám rộng chừng 1 dặm, dài 2 dặm ù ù bay về phía tây mọi người ngơ ngác nhìn, lão nông lại nói một cách rất hờ hững: “Có gì lạ đâu, mấy ngày trước có một đàn bay qua đây đông hơn thế này nhiều, tôi còn nghĩ là tiếng máy bay phản lực của bọn xét lại Liên Xô bay qua đây cơ. Ầy, không biết vì sao, bây giờ nhiều chuyện kỳ quái thế. Những người đi biển về đều nói là tận mắt nhìn thấy rồng lửa, lóe lên rồi biến mất”.

Anh em trong đội địa chấn nhìn nhau, cảm thấy vấn đề nghiêm trọng, vội lên xe tăng tốc độ về thành phố Đường Sơn.

Vừa vào thành phố, họ phát hiện ra một hiện tượng khiến mọi người rất vui, thành phố Đường Sơn xưa nay thực phẩm rất hiếm, mà nay cá tươi bán ê hề, đường phố chỗ nào cũng bán cá, giá tiền cũng rất rẻ, ngư dân vừa bán cá vừa nói: “Lạ lắm mấy ngày nay cá cứ tranh nhau đâm vào lưới, đuổi không chạy, quả là kỳ lạ”. Một cụ già thở dài: “Không ai không cho là cá trốn chạy tai hoạ, mong sao đừng xảy ra chuyện gì!”.

Chuyện lạ không ngừng xảy ra, buổi tối đi ngủ các đội viên địa chấn tắt đèn nhưng đèn tuýp vẫn sáng, một đống thép sợi để ở ngoài khách sạn thỉnh thoảng lại tóe lửa sáng bừng, cả đội vì vất vả trên đường và quá mệt, họ chẳng còn hơi sức đâu để nghĩ tới những chuyện lạ, cũng như sự dự đoán, những câu chuyện mà dân gian đang kể, họ xé tờ lịch ngày 27 tháng 7 năm 1976, ngày mai sẽ là ngày 28 tháng 7, sau khi họ ghi xong mấy việc cần làm lên tờ lịch ngày 28, liền lên giường đi ngủ.

Họ đâu có biết, thiên nhiên đã phát ra lời cảnh báo đối với con người, tai họa lớn đang lặng lẽ đến gần.

Tối ngày 27 tháng 7, gà vịt trong chuồng vỗ cánh liên hồi, lừa, ngựa giằng đứt dây cương, hí vang và cuống cuồng chạy đi. Toàn bộ Đường Sơn tiếng chó kêu ầm ĩ. Cả thành phố đang trong sự náo loạn và bất an thì rạng sáng ngày 28 tháng 7 trên bầu trời âm u, màn trời xuất hiện một đám mây kỳ quái đỏ và đen. Đột nhiên bừng sáng, rồi trong chớp mắt lại tối đen.

Kim đồng hồ chỉ đúng 3 giờ 40 phút, bỗng trên bầu trời xuất hiện một luồng sáng đỏ dài, sáng bừng như ánh lửa, tiếp đó là một tiếng “xẹt” quái lạ từ trên trời lướt qua, trên mặt đất lóe lên ánh sáng điện bắn lên màn đêm. Tiếng ù ù vang dậy từ lòng đất truyền đến, cả mặt đất lắc lư chao đảo rồi phát ra tiếng nổ lớn, tiếp đó lại chao đảo rùng rùng run rẩy, cả Đường Sơn ầm ầm

Page 96: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

cuồn cuộn, lửa điện lóe sáng từng trận cuồng phong và phút chốc Đường Sơn biến thành bình địa.

3. Mao Trạch Đông dặn dò việc hậu sự

Sau trận động đất Đường Sơn, ngày nào Mao Trạch Đông cũng nghe báo cáo về tình hình động đất. Khi ông nghe thấy Đường Sơn có 24 vạn người chết trong trận động đất, òng đã không kìm được nước mắt, hỏi thư ký: “Các đồng chí có thấy dân chúng nói gì không?” Thư ký lắc đầu. Mao Trạch Đông lại hỏi: “Có phải dân chúng nói: 24 vạn người ở Đường Sơn là ứng với trận mưa thiên thạch không?” Các thư ký sợ tái mặt, vội nói: “Không biết ạ!” Mao Trạch Đông lại thở dài: “Các đồng chí không nói tôi cũng đoán ra. Thiên hạ sẽ đại loạn”.

Nói đến đây, Mao Trạch Đông thở gấp, một lúc sau lại nói: “Một chuyện khác, các đồng chí đều biết, chính là phát động đại cách mạng văn hóa. Người ủng hộ việc này không nhiều, người phản đối không ít. Hai việc này vẫn chưa xong, di sản này phải giao lại cho thế hệ sau thôi. Giao như thế nào? Sẽ là núi xương sông máu, các đồng chí như thế nào chỉ có trời mới biết”.

Trương Xuân Kiều biết đây là Mao Trạch Đông dặn dò hậu sự, sau khi trở về Điếu Ngư Đài, ông ta mời Diêu Văn Nguyên, Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Mao Viễn Tân đến, bí mật bàn đối sách.

“Chủ tịch đã dặn dò chuyện hậu sự”. Trương Xuân Kiều ngồi xuống nói: “Chủ tịch rất không yên tâm về những chuyện sau khi ông trăm tuổi, chúng ta cũng phải có sự chuẩn bị”. Giang Thanh nói: “Đúng, phải nghĩ tới vấn đề này. Người ấy bề ngoài thì tỏ ra thật thà, trong lòng nghĩ thế nào, trên một số chuyện lớn ông ta luôn luôn chậm chạp, tôi rất lo”. Trương Xuân Kiều gật đầu: “Phải chú ý, có điều tôi lo nhất là quân đội, sau khi Chủ tịch trăm tuổi, tình hình khẳng định là sẽ có thay đổi lớn, lúc ấy quân đội sẽ có tác dụng lớn. Nhưng quân đội là lực lượng kim đâm không thủng nước đổ không thấm, sau khi Chủ tịch trăm tuổi, người nắm quyền thực sự là nhân vật lớn nắm quyền quân đội trong tay”.

Giang Thanh không biết làm thế nào lắc đầu: “Đối với quân đội tạm thời không nghĩ ra biện pháp nào hay, biện pháp duy nhất là nắm bộ đội 8341. Sau khi Sta-lin qua đời, Ma-len-cốp lên nắm quyền, chính là đã nắm được bộ đội cảnh vệ, giải quyết được Bê-ri-a, Uông Đông Hưng và tôi có quan hệ bạn bè lâu, tôi có thể nghĩ cách”.

Trương Xuân Kiều nói: “Trình độ của đồng chí Giang Thanh rất cao, đã nắm được vấn đề trọng yếu, có điều là ở bên ngoài chúng ta vẫn cần có quân đội chi viện. Hoàng đế Khang Hy qua đời, các con tranh nhau ngôi vua, người con thứ tư là Ung Chính nhiều năm sắp xếp kế hoạch và tổ chức, trong kinh thành được sự ủng hộ của Đề đốc Cửu Môn Long Khoa Đa, chế phục được những người anh em khác, nên đã giành được ngôi hoàng đế. Kinh nghiệm này chúng ta phải nghiên cứu cẩn thận”.

Vương Hồng Văn vỗ bàn, vẫn cái câu nói cũ rích: “Không nắm được quân đội thì nắm dân quân, tôi vừa từ Thượng Hải về, ở đó không có vấn đề gì cả, chúng ta hoàn toàn có thể tổ chức quân đội chính quy trên cơ sở dân binh, tiến hành xây dựng lực lượng vũ trang thứ hai”.

Diêu Vãn Nguyên không thạo lắm đối với chuyện quân đội, không nói năng gì, thấy mọi người bàn về vấn đề này đã hòm hòm, liền đề nghị: “Theo tôi việc phân công trong tương lai chúng ta nên bàn một chút, từ bây giờ nên bắt đầu chuẩn bị”. Trương Xuân Kiều nói: “Điều này dễ thôi, đồng chí Giang Thanh tất nhiên là Chủ tịch Trung ương, đồng chí Hồng Văn sẽ chủ trì công tác của Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, làm ủy viên trưởng. Văn Nguyên tất nhiên là Phó Chủ tịch phụ trách ngoại giao, tuyên truyền, văn hóa giáo dục. Còn Viễn Tân? Thích hợp nhất là làm Bộ trưởng Quốc phòng”. Giang Thanh ra vẻ khiêm nhường: “Theo tôi Chủ tịch Trung ương để Xuân Kiều làm sẽ tốt hơn”. Vương Hồng Văn nói: “Đồng chí Giang

Page 97: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Thanh không nên khiêm nhường như vậy, Xuân Kiều sẽ làm Thủ tướng”. Trương Xuân Kiều gật đầu: “Theo tôi chúng ta phân công như vậy là rất tốt, dưới sự lãnh đạo của đồng chí Giang Thanh, chúng ta nhất định sẽ giành được thắng lợi”.

Sau khi “bọn bốn tên” bí mật bàn bạc, Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn lại đến nhà 202 trực ban. Sau khi xảy ra động đất ở Đường Sơn, Mao Trạch Đông đã từ Du Vịnh Trì đến ngôi nhà mới 202 có thể chịu được động đất 8 độ rích-te. Các Ủy viên Bộ Chính trị trực ban ở phòng khách nhà 202.

Hạ tuần tháng 8 bệnh của Mao Trạch Đông đã bước vào giai đoạn cuối, các ủy viên Bộ Chính trị phải luân phiên đến bên giường bệnh của Mao Trạch Đông để từ biệt. Ngày 8 tháng 9, Diệp Kiếm Anh đến nhà 202. Sau sự kiện quảng trường Thiên An Môn, ông bị Mao Trạch Đông tuyên bố “bị ốm”, đình chỉ tham gia hội nghị Bộ Chính trị cho nên đến cuối cùng mới đến lượt ông tới từ biệt Mao Trạch Đông.

Diệp Kiếm Anh đi tới trước giường bệnh của Mao Trạch Đông thì dừng lại, nhìn một cách thương xót Mao Trạch Đông đang hôn mê, sắc mặt vàng bệch, hình dáng tiều tuỵ, hai mắt nhắm nghiền, miệng hơi há. Trong lòng Diệp Kiếm Anh thấy buồn, lẽ nào đây là Mao Trạch Đông kiên cường không nao núng trên đường trường chinh năm xưa, là vị thống soái tràn đầy sức sống đã chỉ huy thiên binh vạn mã giành lại giang sơn thuở trước? Tình bạn chiến đấu hơn 50 năm qua bỗng trào lên như sóng biển.

Bỗng, Mao Trạch Đông mở mắt, ánh mắt lướt trong không trung, cuối cùng dừng lại ở Diệp Kiếm Anh đang đứng bên giường, đôi mắt lờ đờ đục bỗng mở to, mồm mấp máy, như muốn nói gì đó, tiếc là đôi mắt của Diệp Kiếm Anh đã nhòa nước mắt nên không nhìn thấy sự biểu lộ tình cảm ấy của Mao Trạch Đông, ông đi ra ngoài.

Cuối cùng do đã quen với những biểu lộ của Mao Trạch Đông nên Trương Ngọc Phượng đã nhận ra là Mao Trạch Đông muốn nói chuyện với Diệp Kiếm Anh, vội chạy theo báo cáo: “Nguyên soái Diệp, Chủ tịch có lời muốn nói với đồng chí”. Lập tức Diệp Kiếm Anh quay người đi nhanh về phía giường bệnh: “Chủ tịch, có điều gì muốn nói thì nói đi”. Ông cúi người chuẩn bị nghe Mao Trạch Đông nói điều gì đó, nhưng Mao Trạch Đông đã không thể nói ra điều gì nữa, chỉ có đôi mắt tràn đầy hy vọng nhìn dán vào Diệp Kiếm Anh, như có nhiều điều gì đó muốn nói với ông. Diệp Kiếm Anh biết Mao Trạch Đông đang nghĩ gì, liền nói lớn: “Chủ tịch, hãy yên tâm, tôi nhất định sẽ giúp cho đồng chí ấy thật tốt”. Trên mặt Mao Trạch Đông chợt biểu lộ một cảm xúc vui vẻ và yên tâm, từ từ nhắm mắt lại.

Diệp Kiếm Anh vừa đi, Giang Thanh hấp tấp đi vào. Sau khi Mao Trạch Đông bị ốm nặng không nói được nữa, bà ta liền từ Điếu Ngư Đài dọn đến nhà mới 201 sát cạnh nhà 202. Hơi một tý là chạy đến hoa chân múa tay. Bây giờ bà ta nghi ngờ các y tá không lau lưng cho Mao Trạch Đông, nên đã kiên quyết bảo trở mình cho Mao Trạch Đông. Bác sĩ y tá bảo bà ta, tình hình của Mao Trạch Đông hiện nay tuyệt đối không được trở mình, hễ trở mình là xảy ra chuyện. Giang Thanh ngang ngược hạ lệnh: “Tôi mà lại nghe những lời ma quỷ của các người sao, tôi đích thân lau lưng cho Chủ tịch”. Bác sĩ y tá không biết làm thế nào, đành trở mình cho Mao Trạch Đông dưới sự giám sát của Giang Thanh. Giang Thanh cầm khăn ướt nước ấm, bắt đầu lau lưng cho Mao Trạch Đông. Ngực của Mao Trạch Đông bị ép thở gấp, sắc mặt tím tái, Giang Thanh thấy chuyện không hay, vội tìm cớ chuồn mất. Các bác sĩ y tá vội vàng cấp cứu, một lúc sau Mao Trạch Đông mới lại thở bình thường.

Mạnh Cẩm Vân đến, Trương Ngọc Phượng giao ban, rồi đi về nghỉ, ở hành lang Uông Đông Hưng đang trực ban, Trương Ngọc Phượng nói với ông: “Chủ tịch sắp đi rồi, các đồng chí cũng nên có chuẩn bị”. Uông Đông Hưng nói: “Tôi sẽ thông báo ngay cho các đồng chí ấy đến”. Trương Ngọc Phượng nói xong định đi, thì Uông Đông Hưng ngăn cô ta lại, chìa tay ra và ra lệnh: “Đưa thìa khóa cho tôi!” Trương Ngọc Phượng ngạc nhiên hỏi: “Thìa khóa gì?” Uông Đông Hưng nghiêm nghị nói: “Những chiếc chìa khóa của tủ văn kiện của Chủ tịch”. Trương

Page 98: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngọc Phượng không muốn giao: “Chủ tịch còn chưa chết!” Uông Đông Hưng cười nhạt: “Đúng thế, nhưng Chủ tịch không cần làm việc nữa theo chế độ của Trung ương, những văn kiện này phải do Văn phòng Trung ương tiếp thu và xử lý!” Nói đến đây, Uông Đông Hưng lại khuyên cô ta: “Những thứ ấy sẽ dẫn đến tai hoạ, đồng chí giữ lại chỉ có hại mà chẳng có chút ích lợi gì, chi bằng sớm giao lại, tách khỏi quan hệ để tránh cái họa chết người”. Trương Ngọc Phượng ngạc nhiên hỏi: “Nghiêm trọng đến thế hay sao?” Uông Đông Hưng mỉm cười dè dặt: “Đồng chí suốt ngày ở bên Chủ tịch, lẽ nào lại quên, Chủ tịch nói trình độ của Đặng Tiểu Bình, là do đâu?” Trương Ngọc Phượng ngẫm nghĩ kể cũng phải, liền giao tất cả chùm thìa khoá, Uông Đông Hưng vỗ vai cô: “Được rồi, đồng chí về ngủ một giấc cho ngon. Sau này đồng chí làm công tác gì tôi sẽ bố trí”.

Sau khi Trương Ngọc Phượng đi, Uông Đông Hưng lập tức gọi một tiểu đội cảnh vệ và mấy cán bộ Cục Cơ yếu Văn phòng đến niêm phong tất cả các tủ văn kiện ở Du Vịnh Trì và nhà 202, khóa trái, bất kỳ ai cũng không được đụng đến.

Làm xong việc này, Uông Đông Hưng mới gọi điện thoại mời Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, Giang Thanh v.v.. cùng các ủy viên Bộ Chính trị đến nhà 202. Sau khi họ đến, từ cửa nhìn thấy Mao Trạch Đông vẫn nằm yên trên giường, Mạnh Cẩm Vân ngồi trên chiếc ghế bên cạnh giường, chăm chú theo dõi sự thay đổi thần sắc của Mao Trạch Đông, Hoa Quốc Phong khẽ phẩy tay mọi người rón rén đi ra phòng khách ngồi đợi, lắng nghe động tĩnh trong phòng.

4. Ngày 9 tháng 9 - một ngày khó quên

Ngày 9 tháng 9 là ngày làm cho người ta khó quên. Ngày này 49 năm về trước, Mao Trạch Đông còn trẻ trung đã ra lệnh khởi sự cuộc bạo động Thu Thu (Khởi nghĩa vào Vụ thu hoạch mùa thu - N.D.), từ đó ông bước lên con đường xây dựng quân đội cách mạng vũ trang giành chính quyền và cũng từ đó ông đi tới sự huy hoàng của sự nghiệp trở thành lãnh tụ vĩ đại. 49 năm sau, lại là ngày 9 tháng 9 ông phải kết thúc con đường đã trải qua của cuộc đời. Đây là sự trùng hợp hay là sự an bài cố ý của số phận nào đó trong cõi u minh?

Mắt Mao Trạch Đông đã nhắm nghiền ba ngày ba đêm, bỗng mở ra, trong mắt lóe lên một tia lửa của sự sống, yết hầu động đậy lên xuống, miệng hơi há ra, Trương Ngọc Phượng cúi người muốn nghe xem ông nói gì, nhưng Mao Trạch Đông không nói được điều gì nữa, chỉ nắm chặt tay Trương Ngọc Phượng, nhìn cô rồi nhắm mắt lại. Đôi mắt ông đã vĩnh viễn nhắm lại!

Trương Ngọc Phượng rút khỏi bàn tay lạnh dần của Mao Trạch Đông, đi ra ngoài. Các ủy viên Bộ Chính trị đồng loạt đứng dậy, Uông Đông Hưng hỏi: “Thế nào?” Trương Ngọc Phượng không trả lời, nép vào một góc khóc nức nở. Hoa Quốc Phong, Vương Hồng Văn, Uông Đông Hưng phút chốc hiểu ra, lập tức vào phòng của Mao Trạch Đông, thấy các bác sĩ vẫn đang cố gắng cấp cứu, nhưng không đủ sức để xoay chuyển trời đất, sóng điện tâm đồ trên máy đã thành một đường màu vàng thẳng tắp, không còn một chút dao động nào nữa. Sau mấy phút, các bác sĩ ngừng cấp cứu và đưa cho Hoa Quốc Phong bản chẩn đoán tử vong, đề nghị ông ta ký. Hoa Quốc Phong xem xong nước mắt giàn giụa, miên cưỡng ký vào tờ giấy.

Hoa Quốc Phong ký xong cứ đứng ngây ra đó, khóc mấy tiếng, như một nông dân ở nông thôn miền Bắc. Vương Hồng Văn nghĩ tới Mao Trạch Đông đã đưa anh ta từ một phó phòng của một xí nghiệp không có bậc trong hệ thống hành chính phút chốc trở thành Phó Chủ tịch thứ hai Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc lãnh đạo cả đất nước, nên lòng cảm kích trào dâng, anh ta quỳ xuống bên giường của Mao Trạch Đông, gào lên một tiếng: “Chủ tịch ơi!” rồi tắc nghẹn không thành tiếng. Giang Thanh ở bên cạnh, nghe tiếng khóc ầm ĩ ở nhà 202 biết là Mao Trạch Đông đã qua đời, hớt hải chạy đến, quả nhiên Mao Trạch Đông đã nằm im trên giường, các ủy viên Bộ Chính trị, nhân viên công tác, y bác sĩ đều đang khóc tức tưởi. Tình nghĩa vợ chồng mấy

Page 99: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

chục năm phút chốc trào dâng trong lòng đồng thời nỗi sợ hãi mất đi chỗ dựa chính trị vững chắc đã làm cho bà ta thương tiếc Mao Trạch Đông gấp bội, bà ta phủ phục trên thi thể của Mao Trạch Đông, đau đớn gào khóc. Dáng vẻ đau đớn của bà ta như một phụ nữ nông thôn nghèo khổ đông con mất đi người chồng là chỗ dựa chính để nuôi sống gia đình.

Các ủy viên Bộ Chính trị và ủy viên dự khuyết Bộ Chính trị đều đến phòng họp để họp.

Quyết định mấy việc: Thông qua danh sách ủy ban tang lễ Mao Trạch Đông, thông qua bản “Thông báo gửi toàn Đảng, toàn quân và nhân dân các dân tộc cả nước”; thông qua Quân ủy Trung ương ra mệnh lệnh cho quân đội trong cả nước bước vào chuẩn bị chiến đấu cấp 1; thông qua Trung ương thông báo cho các tỉnh thành, khu tự trị định thời gian công bố cáo phó, quyết định qua 16 tiếng đồng hồ, Đài phát thanh nhân dân Trung ương sẽ phát cáo phó.

5. Bước một nắm chắc quân đội

Hội nghị kết thúc, các ủy viên Bộ Chính trị phân công thực hiện như đã bàn. Sau sự kiện quảng trường Thiên An Môn, Mao Trạch Đông tuyên bố Diệp Kiếm Anh “Bị ốm” Trần Tích Liên chủ trì công tác hằng ngày của Quân ủy. Lúc này Trần Tích Liên cảm thấy cần phải mời Diệp Kiếm Anh đứng ra chủ trì công tác của Quân ủy, ông ta cũng không hỏi Hoa Quốc Phong, cũng không thỉnh thị Bộ Chính trị, mà chủ động đến nói với Diệp Kiếm Anh: “Thưa đồng chí Nguyên soái, quân đội vẫn phải do đồng chí chỉ huy mới được”. Diệp Kiếm Anh tủm tỉm cười, vui vẻ lên xe, đến khách sạn Kinh Tây. Các vị tướng soái tham dự Hội nghị Quân ủy thấy Diệp Kiếm Anh được phục hồi trông nom công việc, không ai không vui vẻ hân hoan.

Tại Hội trường khách sạn Kinh Tây những cán bộ lãnh đạo các Tổng cục của Quân ủy, các quân binh chủng, các đại quân khu đều ngồi kín, Diệp Kiếm Anh ngồi giữa bàn chủ tọa, uy nghiêm chắc chắn. Trần Tích Liên đứng dậy tuyên bố: “Thưa các đồng chí, đầu tiên xin tuyên bố với các đồng chí một tin vui, sức khỏe của Nguyên soái Diệp rất tốt. Bắt đầu từ ngày hôm nay, Nguyên soái Diệp sẽ lãnh đạo công tác quân đội của chúng ta. Bây giờ xin mời Nguyên soái Diệp nói chuyện!” Diệp Kiếm Anh đưa ánh mắt nghiêm trang nhìn khắp lượt các vị tướng soái ngồi bên dưới hội trường, chậm rãi mà nghiêm trang ra lệnh: “Các đồng chí bắt đầu từ hôm nay, công tác của Quân ủy vẫn do tôi chủ trì. Tôi ra lệnh, toàn quân lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp 1. Tôi ra lệnh Dương Thành Vũ giữ chức Quyền Tổng Tham mưu trưởng. Toàn quân phải đề cao cảnh giác hơn nữa, kiên quyết phục tùng sự chỉ huy của Quân ủy Trung ương, phải giữ kỷ luật nghiêm minh...” Cả hội trường vỗ tay nhiệt liệt tỏ rõ sự nhất trí với mệnh lệnh của Nguyên soái.

Tiếp đó, Trần Tích Liên truyền đạt tin Mao Trạch Đông tạ thế và quyết định của Trung ương, các vị tướng đều là những cán bộ cao cấp trong Đảng từ lâu đã biết việc Mao Trạch Đông không thể qua khỏi. Mặc dù vậy, khi họ nghe tin Mao Trạch Đông tạ thế vẫn không cầm được nước mắt. Nhưng quân nhân cuối cùng vẫn là quân nhân, họ hiểu gánh nặng mà họ đang phải gánh trên vai, biết bây giờ không phải là lúc khóc, sau khi tan họp, lần lượt từng người đến gặp Diệp Kiếm Anh để xin ý kiến về kế hoạch và sách lược toàn cục, Diệp Kiếm Anh cũng liên tục triệu tập các cuộc họp lớn nhỏ, điều chỉnh cán bộ, cải tổ cơ cấu. Nguyên soái Từ Hướng Tiền, Nguyên soái Nhiếp Vinh Trăn, cũng giúp Diệp Kiếm Anh gặp mọi người nói chuyện. Qua cuộc sắp xếp bố trí khẩn trương, được sự giúp đỡ của Từ Hướng Tiền và Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh đã nắm chắc được quyền lãnh đạo quân đội.

Thực ra Diệp Kiếm Anh vẫn nắm được quyền lãnh đạo quân đội, từ sau khi đứng ngoài rìa do “bị bệnh”, khi gặp việc gì Trần Tích Liên đều đến xin ý kiến ông, Dương Thành Vũ Quyền Tổng Tham mưu, liên tục đến Tây Sơn xin ý kiến báo cáo công việc. Các tư lệnh khu như Hứa Thế Hữu, Dương Đắc Chí, Lý Đức Sinh, Hàn Tiên Sở, cũng liên tục cử người đến Tây Sơn báo cáo tình hình công tác. Trước đó không lâu, mấy người này đã đến Bắc Kinh, Diệp Kiếm

Page 100: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Anh đã gặp và nói chuyện với từng người. Trần Tích Liên biết các vị tướng ở các địa phương đều không phục ông ta, chi bằng chủ động mời Diệp Kiếm Anh trở lại làm việc, dù thế nào thì Mao Trạch Đông cũng đã qua đời, nên “bệnh” của Diệp Kiếm Anh đã đến lúc khỏi.

Sau khi họp, các tướng lĩnh đáp máy bay, tàu hỏa trở lại cương vị công tác của mình. Diệp Kiếm Anh mời Tư lệnh Quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu lưu lại cùng nói chuyện với Nhiếp Vinh Trăn và Từ Hướng Tiền một lần nữa.

“Tiểu Hứa”, Diệp Kiếm Anh hỏi Hứa Thế Hữu, “việc điều chỉnh sắp xếp ở Quân khu Quảng Châu ra sao rồi?” Hứa Thế Hữu, gật mạnh đầu, nói như đinh đóng cột: “Không có vấn đề gì, tôi đã nắm chắc bộ đội Đinh Thịnh vốn ở đó cũng chẳng có bao nhiêu thế lực”. Diệp Kiếm Anh nhìn Nhiếp Vinh Trăn và Từ Hướng Tiền, thấy cả hai đều gật đầu. Diệp Kiếm Anh vỗ vào đầu gối: “Được rồi, tôi hỏi thêm, bộ đội ở Quân khu Nam Kinh anh có còn chỉ huy được không?”

Hứa Thế Hữu ngần ngừ một chút, vấn đề này không dễ trả lời. Nói rằng bộ đội Quân khu Nam Kinh không nghe sự chỉ huy của mình là không nói thực, nói rằng họ không nghe sự chỉ huy cửa mình, chẳng phải là có chút nghi ngờ vượt quyền ư? Ngẫm nghĩ một lúc, Hứa Thế Hữu trả lời đúng sự thực: “Quân đoàn 60, là bộ đội cơ bản của Quân khu Nam Kinh, tất nhiên là tôi có quan hệ với họ khá sâu sắc”. Diệp Kiếm Anh, Từ Hướng Tiền, Nhiếp Vinh Trăn cùng cười hiểu ý. Từ Hướng Tiền cười nói: “Quân đoàn trưởng Quân đoàn 60 là Nhiếp Phượng Chí, Chính ủy là Ngụy Kim Sơn, một người là cảnh vệ, một người là thư ký của Tiểu Hứa, tất nhiên là họ nghe theo sự chỉ huy của Tiểu Hứa”.

Diệp Kiếm Anh lại vỗ đầu gối nói: “Được, bây giờ chúng ta xem tình hình bố phòng của quân đoàn này”. Tham mưu vào, trải tấm bản đồ lên bàn, Hứa Thế Hữu chỉ vào bản đồ mới: “Quân đoàn 60 hiện nay bố phòng trên tuyến Tô Châu, Vô Tích, Nam Kinh, toàn bộ có 10 vạn người”. Nói xong chỉ vào bản đồ giới thiệu số người, trang bị và tình hình bố phòng của các sư đoàn và bộ đội trực thuộc của Quân đoàn 60.

Nghe Hứa Thế Hữu giới thiệu xong, Diệp Kiếm Anh thở phào, ngồi xuống xa-lông nghỉ một lát, đột nhiên ông ngồi nhỏm dậy nói với Hứa Thế Hữu: “Tiểu Hứa, tôi giao cho đồng chí một nhiệm vụ”. Diệp Kiếm Anh ra lệnh. “Từ hôm nay, quân đoàn 60 do đồng chí chỉ huy, lập tức ra lệnh cho Nhiếp Phượng Chí cắt đứt mọi liên hệ chỉ huy với Quân khu Nam Kinh. Nhiệm vụ của quân đoàn 60 là giám sát Thượng Hải, ngăn chặn Thượng Hải xảy ra bạo loạn, nếu Thượng Hải có bạo loạn thì lập tức dùng biện pháp cương quyết và cần thiết trấn áp nó!” Hứa Thế Hữu hiểu tầm quan trọng của nhiệm vụ này, đứng dậy đáp lễ, nói to: “Xin các vị nguyên soái yên tâm, có Hứa Thế Hữu tôi, thì mấy đứa khốn kiếp ấy đừng hòng gây sóng gió”.

Đúng lúc này, Quyền Tổng Tham mưu trưởng Dương Thành Vũ đi vào, ông đến tìm Diệp Kiếm Anh ký vào mệnh lệnh toàn quân lập tức bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp 1. Diệp Kiếm Anh cầm mệnh lệnh xem một lượt, ký ba chữ “Diệp Kiếm Anh” vào tờ mệnh lệnh.

6. Bước vào tình trạng chuẩn bị chiến đấu cấp 1

Trong phòng tác chiến của Bộ Tổng Tham mưu, lập tức sáng lên đèn cảnh báo, chuông điện reo vang, mệnh lệnh của Diệp Kiếm Anh được điện thoại vô tuyến, điện báo truyền đạt đến toàn quân. Việc liên lạc trong doanh trại quân đội, trên đường bộ, xe gíp, xe mô-tô đưa văn kiện mệnh lệnh không ngớt.

Lại một giờ phút then chốt của sự phát triển trong lịch sử Trung Quốc. Diệp Kiếm Anh đã quyết đoán trở lại cương vị thống soái toàn quân.

Page 101: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Sau khi Hội nghị Quân ủy kết thúc, Diệp Kiếm Anh nói với Từ Hướng Tiền và Nhiếp Vinh Trăn: “Tôi đến Tây Sơn, các đồng chí cũng thải cẩn thận một chút, không ngừng thay đổi chỗ ở, đừng để chúng bắt gọn cả bọn”.

Theo quyết định của Trung ương Đảng, ngày 11 tháng 9, bắt đầu cử hành lễ truy điệu. Thi hài của Mao Trạch Đông được quàn tại Đại lễ đường Nhân dân, nằm trong các vòng hoa, trên người phủ một lá cờ Đảng cỡ lớn, 8 chiến sĩ mặc lễ phục bảo vệ chung quanh thi hài. Ủy viên Bộ Chính trị chia thành các nhóm, mỗi nhóm 4 người, đứng túc trực bên linh cữu Mao Trạch Đông, số còn lại họp trong phòng họp ở gần đó.

Bây giờ phải thảo luận ai sẽ chủ trì lễ truy điệu Mao Trạch Đông, ai sẽ đọc điếu văn. Việc này có vẻ giản đơn, nhưng thực ra rất phức tạp, người đọc điếu văn phải là người lãnh đạo cao nhất của Đảng, ai đọc điếu văn thì địa vị cao nhất trong Đảng của người ấy được xác định.

Ai sẽ đọc điếu văn? Đúng ra phải là Hoa Quốc Phong, nhưng Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn đều muốn đọc. Vậy nhưng một số người không dám nói, anh nhìn tôi, tôi nhìn anh, lặng im. Diệp Kiếm Anh lại có sẵn ý định, tuyệt đối không thể cho bọn Thượng Hải đọc lời điếu, đây là việc lớn có liên quan đến Đảng, Nhà nước và dân tộc. Ông đã không do dự đề nghị: “Đồng chí Quốc Phong là phó Chủ tịch thứ nhất, tất nhiên đồng chí Quốc Phong phải đọc điếu văn, đồng chí Hồng Văn sẽ chủ trì buổi lễ truy điệu”.

Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều không bằng lòng, nhưng các Ủy viên Bộ Chính trị khác đã đồng thanh tán thành. Trương Xuân Kiều cười khẩy hai tiếng nhìn Hoa Quốc Phong nghĩ bụng, đừng có mừng quá sớm. Ông ta đẩy đẩy kính đeo mắt, chậm rãi hỏi: “Đồng chí Quốc Phong, đồng chí là Phó Chủ tịch thứ nhất, tôi xin hỏi đồng chí, thi hài của Chủ tịch đồng chí định như thế nào?” Hoa Quốc Phong đáp: “Chẳng phải là Trung ương đã quyết định rồi sao? Thi hài của Chủ tịch sẽ được bảo tồn vĩnh viễn, để sau này mọi người chiêm ngưỡng”.

Đôi mắt của Trương Xuân Kiều loé sáng một cách nham hiểm, hỏi vặn: “Nhưng tôi nghe chuyên gia nói, tất cả những thi thể không được xử lý chống thối rữa quá ba ngày thì không thể bảo tồn vĩnh viễn được. Đồng chí Quốc Phong chủ trì công việc, vì sao không dùng biện pháp xử lý chống thối rữa? Bác sĩ nói là thi thể của Chủ tịch đã biến chất, không có cách gì giữ được”.

Không bảo tồn được, tức là phải thiêu, Mao Chủ tịch lãnh tụ vĩ đại, sẽ mãi mãi không còn tồn tại nữa, thì hỏng to, Trần Vĩnh Quý, Ngô Quế Hiền bỗng khóc hu hu. Giang Thanh hiểu ngay ý của Trương Xuân Kiều, đứng phắt dậy chỉ vào mặt Hoa Quốc Phong mắng: “Hoa Quốc Phong, vì sao đồng chí muốn hủy thi hài của Chủ tịch, đồng chí có mưu tính gì? Việc này đồng chí phải nói rõ”. Trương Xuân Kiều căm giận đến cực điểm: “Đồng chí Quốc Phong, Chủ tịch tín nhiệm đồng chí như vậy, mà tình cảm của đồng chí đối với Chủ tịch lại nhạt nhẽo như thế. Thi hài của Chủ tịch vì đồng chí mà bị hủy hoại, Bộ Chính trị chúng ta biết giải thích thế nào với toàn Đảng và nhân dân cả nước, một sai lầm không thể tha thứ! Ngô Đức, Trần Tích Liên, Vương Hồng Văn, cũng theo nhau trách hỏi Hoa Quốc Phong, yêu cầu ông ta phải nói rõ rốt cuộc là chuyện gì.

Hoa Quốc Phong biết Trương Xuân Kiều là có ý của lão say không vì rượu, nhưng nói ra không phải dễ mà chỉ thành khẩn giải thích rằng vì bận quá mà nhất thời không nghĩ được chu đáo v.v… Vương Hồng Văn lại hỏi vặn: “Đồng chí đừng nói với chúng tôi những điều ấy, mời đồng chí hãy lên ti vi giải thích cho nhân dân cả nước”. Hoa Quốc Phong bỗng nổi giận, phút chốc bỗng nảy ra một kế, chi bằng lấy lùi để tiến. Ông ta đập bàn quát: “Trách nhiệm này tôi không đảm đương được, các đồng chí có ý kiến thì tôi sẽ từ chức”. Nói xong, ông ta đứng dậy xô ghế định bỏ đi. Diệp Kiếm Anh giơ tay ngăn ông ta lại: “Đồng chí không thể từ chức, đồng chí phải chủ trì công tác của Trung ương, đây là quyết định của Mao Chủ tịch, để tôi xem ai dám vứt bỏ quyết định của Chủ tịch?” Ông nhìn khắp lượt cử toạ, lập tức đè được Trương Xuân Kiều và đồng bọn.

Diệp Kiếm Anh nhìn Hoa Quốc Phong đang mồ hôi nhễ nhại: “Đồng chí cũng không nên căng thẳng, thi hài của Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Việt Nam, đã qua ba ngày sau, Bộ Chính trị của

Page 102: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Đảng Việt Nam, mới quyết định bảo tồn, bây giờ chẳng phải là rất tốt hay sao? Huống hồ thi hài của Chủ tịch còn chưa đến ba ngày”.

Trương Xuân Kiều, Giang Thanh phút chốc há mồm cứng lưỡi không nói gì được.

Diệp Kiếm Anh phải đi túc trực bên linh cữu, Hoa Quốc Phong đưa ông ra. Diệp Kiếm Anh thấy bên ngoài không có người, liền nhắc Hoa Quốc Phong: “Phải lập tức thực hiện mọi biện pháp bảo vệ thi hài Chủ tịch, bây giờ có người muốn mượn vấn đề này để gây sự”. Hoa Quốc Phong cảm động nói: “Tôi sẽ hộ tống thi hài Chủ tịch đến bệnh viện, sau này mong được đồng chí giúp đỡ nhiều”. Diệp Kiếm Anh gật gật đầu: “Đồng chí yên tâm, ngoài mấy người ấy ra, chúng tôi đều ủng hộ đồng.chí. Sau này đồng chí phải cẩn thận hơn, chú ý an toàn”.

Uông Đông Hưng đã đến, ông hộ tống Diệp Kiếm Anh đi túc trực linh cữu. Diệp Kiếm Anh dặn Uông Đông Hưng: “Đông Hưng, đồng chí chú ý bảo vệ sự an toàn cho đồng chí Quốc Phong”. Uông Đông Hưng gật đầu: “Đồng chí yên tâm, tôi bảo đảm hoàn thành nhiệm vụ”. Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh, Uông Đông Hưng bắt tay từ biệt. Trong khoảnh khắc bắt tay làm cho họ cảm thấy trách nhiệm của mình và cũng trong phút giây ấy giữa họ đã gây dựng được sự tín nhiệm bước đầu.

2

Tranh giành “di sản” Giang Thanh quả là đáo để

Quốc Phong, Diệp soái cùng hợp mưu bắt “bọn bốn tên”

1. Cuộc sống “bình tĩnh” của Đặng Tiểu Bình

Đặng Tiểu Bình sau lần cuối cùng bị đánh đổ cho đến khi trở lại nắm quyền, ông vẫn ở tại Bắc Kinh.

Nhà cách mạng lão thành này từ tháng 4 sau khi được “vinh thăng” làm “Tổng chỉ huy hậu trường của sự kiện Thiên An Môn”, trên cơ bản bị “giam lỏng” ở trong một khu nhà cũ tại một phố rộng thuộc Bắc Kinh. Mặc dù thói quen bơi lội đã có từ lâu phải ngừng lại, nhưng ông vẫn kiên cường khỏe mạnh, hằng ngày vẫn kiên trì đi bộ, tập bài thể dục do ông tự sáng tác. Mùa hè đã đến, cây cối trong vườn mọc um tùm cao hàng thước. Ông thấy hay hay bèn bảo con gái đi mua một chiếc liềm, ngày nào cũng cắt cỏ. Cuộc sống hằng ngày của ông vẫn đầy ắp sự hứng thú, ông vẫn xem sách trước khi đi ngủ, ăn cơm xong nghe con cái nói cười, ông lạnh lùng bình tĩnh, chí khí dồi dào đã xua đi những bóng đen trong cuộc sống của cả gia đình.

Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, Trung Quốc trải qua một cuộc chấn động về chính trị “bọn bốn tên” có lẽ vì bận với việc tranh cướp quyền lãnh đạo nên đã chĩa mũi dùi chủ yếu vào Hoa Quốc Phong; có lẽ vì cho rằng Đặng Tiểu Bình đã bị “sụp đổ, tan nát” trở thành “con hổ chết” rồi nên có phần nới lỏng đối với một người mà bọn họ vẫn sợ hãi nhất.

Hôm ấy, sau khi ăn sáng xong, Đặng Tiểu Bình vẫn đi dạo quanh sân như cũ. Đột nhiên có mấy con chim khách bay đến đậu trên cành cây hót ríu rít.

Lúc này còn hót cái gì, chắc có người đến báo tin vui?

Quả nhiên ông trời đã cho toại nguyện, nhân viên công tác thông báo, có tướng Vương Chấn đến.

Page 103: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Vương Chấn là bạn chiến đấu cũ của Đặng Tiểu Bình, hồi mới thành lập nước, Đặng Tiểu Bình giữ chức Bí thư Cục Tây Nam, Vương Chấn giữ chức Bí thư Cục Tân Cương, họ đã có tình bạn sâu đậm trong công tác. Vương Chấn rất khâm phục tài năng làm việc của Đặng Tiểu Bình. Năm 1969, Vương Chấn lại cùng Đặng Tiểu Bình và Trần Vân bị đưa xuống nông thôn lao động ở Giang Tây. Vương Chấn sau khi được khôi phục công tác, đã từng lợi dụng lúc báo cáo công tác, ra sức giới thiệu Đặng Tiểu Bình trước mặt Mao Trạch Đông đã góp công lao to lớn vào việc đưa Đặng Tiểu Bình trở lại nắm quyền.

Người chủ ngôi nhà lúc này đang sống cuộc sống “giam lỏng”, tin tức bị bưng bít, rất mong có một người quen đến trò chuyện, huống hồ đấy lại là người bạn cũ? Ông vui mừng ra mặt, đích thân ra tận cửa đón khách.

Theo lệ Vương Chấn cung kính cúi chào, thăm hỏi tình hình sức khỏe và đời sống của Đặng Tiểu Bình. Sau khi hàn huyên, chủ nhân lo lắng hỏi thăm tình hình “bên ngoài”, câu chuyện thay đổi, ông đột ngột hỏi thăm Diệp Kiếm Anh.

“Chỗ Diệp soái, gần đây đồng chí có đến không?”

“Thường xuyên đến”.

Đặng Tiểu Bình ngẫm nghĩ một chút rồi đưa ra một loạt câu hỏi: “Diệp soái hiện nay thường ở chỗ nào?”

“Sinh hoạt hằng ngày và hoạt động của đồng chí ấy được sắp xếp ra sao?”

“Sức khỏe thế nào?”

Vương Chấn cố gắng báo cáo chi tiết từng sự việc theo sự hiểu biết của mình. Ông kể lại tình hình trước và sau khi Mao Trạch Đông qua đời, Diệp Kiếm Anh đã từ Tây Sơn xuống, thường xuyên ở Tiểu Tường Phượng.

Đặng Tiểu Bình gật gật đầu, không nói gì nữa.

Còn việc vì sao Đặng Tiểu Bình lại quan tâm đến Diệp Kiếm Anh như vậy, hỏi cặn kẽ như vậy, Vương Chấn không thăm dò, nên không biết dụng ý. Nhưng sau sự việc ông được biết, ngày hôm sau Đặng Tiểu Bình không gọi điện thoại mà một mình đến thăm Diệp Kiếm Anh.

Hôm ấy, Đặng Tiểu Bình chọn thời gian tốt nhất rồi đánh tiếng là “ra thăm phố” rất mạo hiểm lặng lẽ tới Tiểu Tường Phượng nơi ở của Diệp Kiếm Anh.

Hai nhà cách mạng lão thành gặp gỡ trong tình hình nghiêm trọng như vậy quả là không dễ dàng!

Sau khi Đặng Tiểu Bình bị cách toàn bộ chức vụ trong và ngoài Đảng và bị đánh đổ một lần nữa, Diệp Kiếm Anh tuy bị tuyên bố “bị bệnh” để đình chỉ công tác, nhưng ông đã lợi dụng quyền lực và ảnh hưởng do chưa chính thức “bãi quan”, tìm hết cách bao gồm cả sự giao thiệp qua lại của con cái cùng Đặng Tiểu Bình thông tin bí mật cho nhau biết, cố gắng hết sức bảo vệ Đặng Tiểu Bình. Kiên trì phản đối và ngăn chặn âm mưu của Giang Thanh và đồng bọn định khai trừ đảng tịch để bức hại hơn nữa đối với Đặng Tiểu Bình. Chính vì vậy hôm nay Đặng Tiểu Bình mới có thể “lủi” ra ngoài để gặp mặt Diệp Kiếm Anh. Hai nhà cách mạng lão thành ngồi trong thư phòng của Diệp Kiếm Anh ở Tiểu Tường Phượng bàn bạc.

Hai ông trao đổi về sự phát triển của tình hình đấu tranh và việc giải quyết vấn đề “bọn bốn tên” như thế nào, Đặng Tiểu Bình bị Mao Trạch Đông gọi là mở “công ty gang thép” trải qua trận cuồng phong chính trị, tuy trở nên thận trọng hơn, nhưng đối với việc Diệp Kiếm Anh người có thể “giải quyết tàn cục”, ông có một kỳ vọng rất lớn.

Page 104: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

2. “Việc đến thăm” của tam lão tứ soái

Vào một hôm sau đó ít lâu, một vị lão thành cách mạng khác là Trần Vân cũng đến Tiểu Tường Phượng, ông cũng do Vương Chấn đến “xâu chuỗi”, Diệp Kiếm Anh đã cho xe đến đón ông đến. Người có công dựng nước này cũng mấy lần lên xuống, bị Mao Trạch Đông gọi là “lão cơ” (lão già cơ hội), “lão hữu” (lão già hữu khuynh), bị xếp vào một chỗ, bỏ rất lâu không dùng. Tuy ông mang cái hàm hàng đầu trong các vị Phó ủy viên trưởng ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc, dưới con mắt của những kẻ bợ đỡ nịnh hót thì đã là không chức không quyền, không ai để ý. Nhưng trong lòng những người đảng viên cộng sản chân chính và nhân dân cả nước thì ông không hề bị lãng quên. Trái lại, ông càng bị đối xử lạnh nhạt, càng bị bọn Lâm Bưu và “bọn bốn tên” bức hại, mọi người càng quan tâm đến ông nhiều hơn, uy tín của ông trái lại càng cao hơn. Đây cũng là phép biện chứng của lịch sử.

Khi gặp mặt câu đầu tiên mà Trần Vân hỏi là “Tình hình này phải làm thế nào?”

Diệp Kiếm Anh luôn rất kính trọng nhà cách mạng lão thành này, coi ông là người lãnh đạo cũ. Diệp Kiếm Anh nhớ lại, trong thời gian Mao Trạch Đông bị bệnh nặng, Trần Vân đã cất công đến nhà mình trao đổi ý kiến về thời cuộc, ông cảm thấy rất bổ ích. Trước mắt, ông rất muốn nghe lại ý kiến của Trần Vân. Thế là ông trình bày tình hình đấu tranh hiện nay và những vấn đề hóc búa đang gặp phải: “Hiện nay tình hình các mặt rất phức tạp, có rất nhiều công tác phải làm, thời gian lại rất gấp, không cho phép kéo dài nữa”.

Trần Vân cũng có sự đồng cảm: “Đúng vậy! Thực sự là cuộc đấu tranh rất phức tạp, Chủ tịch vừa qua đời, bước ngoặt rất khó chuyển? Phải cố gắng tranh thủ giải quyết hợp pháp mới được. Chấn động phải nhỏ một chút”.

Làm thế nào chú ý đến tính hợp pháp của cuộc đấu tranh. Đây là vấn đề vô cùng khó khăn. Hai nhà cách mạng lão thành trao đổi ý kiến, nêu ra một số suy nghĩ. Trong tình hình các điều kiện còn chưa đầy đủ và thời cơ còn chưa chín muồi lúc ấy, thì đây cũng chỉ là những “suy nghĩ” mà thôi.

“Kiếm Anh, bây giờ chỉ có địa vị của đồng chí là “nửa hợp pháp”, rốt cuộc làm thế nào, chủ kiến lớn đều do đồng chí định đoạt, tôi tin tưởng là đóng chí sẽ giải quyết tốt”. Khi từ biệt, Trần Vân đã nói như vậy, làm cho Diệp Kiếm Anh cảm thấy gánh này càng nặng thêm...

Đặng Dĩnh Siêu cũng đến nhà Diệp Kiếm Anh.

Hôm đầu tiên, Diệp Kiếm Anh nhận được điện thoại nghe nói Đặng Dĩnh Siêu sẽ đến, lập tức ông bảo thư ký nói với Đặng Dĩnh Siêu là cứ ở nhà đợi, ông sẽ đích thân đến thăm bà. Đặng Dĩnh Siêu biết công việc của Diệp Kiếm Anh nhiều nên vẫn rời Trung Nam Hải đến Tây Sơn thăm Diệp Kiếm Anh.

Trong thời gian từ khi Chu Ân Lai mất, Đặng Dĩnh Siêu rất ít đi thăm thú, bà ở nhà một mình trong Tây Hoa Sảnh, Trung Nam Hải, đắm chìm trong nỗi đau thương to lớn kéo dài.

Diệp Kiếm Anh biết ý định đến nhà của Đặng Dĩnh Siêu, không đợi bà nói, ông đã nói tất cả ý kiến của mình về tình hình trong thời gian gần đây.

“Tương đối khó khăn là “diễn viên” ấy. Con người này rất biết diễn kịch, bà ta sẽ lợi dụng quan hệ với Chủ tịch để sắm vai. Bà ta còn biết lợi dụng tình cảm của quần chúng đối với Chủ tịch để đổ vấy, vu oan giá họa cho người khác!”, Đặng Dĩnh Siêu đã quá quen với trò diễn và kỹ thuật diễn của “diễn viên” này.

“Đúng, có điều đối phó với “ba giọt nước” này cũng không khó, muốn tháo chuông phải tìm người buộc chuông, chẳng phải là Chủ tịch đã từng nhiều lần phê bình nghiêm khắc bà ta ư? Chỉ cần công bố sự thực trước quần chúng thì màn kịch của bà ta sẽ không thể tiếp tục được nữa”. Diệp Kiếm Anh đã sẵn có mưu kế.

Page 105: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Còn cái “kính” ấy, hắn lắm mưu nhiều kế, cũng rất khó đối phó”. Đặng Dĩnh Siêu lại nêu ra một thằng hề.

“Tú tài làm phản, ba năm chẳng thành”. Câu ngạn ngữ ấy phải giải thích lại. Diệp Kiếm Anh đáp: “Điều tôi lo là lực lượng vũ trang thứ 2” ở Thượng Hải, còn có Bộ chỉ huy dân binh ở Bắc Kinh. Đã biểu diễn một lần ở sự kiện Thiên An Môn. Có điều chỉ cần ba quân đứng yên không động đậy thì một chút “ngự lâm quân” sẽ chẳng làm nên trò trống gì”.

Đặng Dĩnh Siêu vô cùng khâm phục thao lược của Diệp Kiếm Anh. Có điều, bà vẫn chưa yên tâm về một việc, nên nhắc: “Diệp soái, đồng chí nói là cố tranh thủ hợp pháp, đó là thượng sách. Muốn hợp pháp thì trước tiên phải có một người đứng ra”.

Diệp Kiếm Anh biết “người” mà Đặng Dĩnh Siêu nói là ai, nên khẽ nói với bà: “Xin đồng chí cứ yên tâm, tôi đang tiến hành làm công tác với người này. Dự đoán khi tới lúc, sẽ đứng ra”.

Đặng Dĩnh Siêu cũng nói nhỏ với Diệp Kiếm Anh: “Từ hồi xảy ra động đất, lều chống động đất cùng ở trong một sân, nên tôi đã nói chuyện với ông ta rằng người ta đang quấy phá nên phải đề cao cảnh giác”.

Nói đến đây hai người bạn chiến đấu cũ nhìn nhau mỉm cười hiểu ý.

Ánh mắt của họ tập trung vào một nơi trước mắt hình như xuất hiện “bức tranh Chung Quỳ bắt ma”.

3. Tranh thủ Hoa Quốc Phong

Trải qua suy nghĩ chuẩn bị trong một thời gian dài, cùng các nhà lão thành cách mạng và các đồng chí cũ bí mật tiếp xúc và bàn bạc, Diệp Kiếm Anh đã thấy vững dạ, tăng thêm lòng tin đối với việc giải quyết “bọn bốn tên” đồng thời cũng ý thức được trách nhiệm nặng nề của mình.

Nhưng, đập tan “bọn bốn tên” không phải là hành động riêng biệt của một ai, mà là một cuộc đấu tranh trong nội bộ tổ chức cao cấp nhất của Đảng.

Diệp Kiếm Anh cho rằng trong cuộc đấu tranh này, trước tiên phải có sự ủng hộ mạnh mẽ của Hoa Quốc Phong. Đó là điều kiện tất yếu để cố gắng giải quyết hợp pháp “bọn bốn tên”. Thế là, Diệp Kiếm Anh lại gặp Hoa Quốc Phong một lần nữa, từ cuộc trao đổi ông đã phát hiện ra Hoa Quốc Phong cũng đang lúng túng khổ sở vì “bọn bốn tên”.

“Đồng chí Hoa Quốc Phong, hiện nay có mấy người đang cố đưa ra những vấn đề hóc búa, cản trở quá lớn, hội nghị của Bộ Chính trị có lúc không họp được, cứ tiếp tục như vậy thì không được, phải nghĩ cách thôi”. Diệp Kiếm Anh đặt vấn đề.

“Đúng vậy, nhưng Chủ tịch vừa qua đời, việc khắc phục hậu quả chưa làm xong”.

“Nhưng không thể đợi được nữa, chúng hoạt động càng ngày càng ghê gớm!”. Diệp Kiếm Anh nói toạc móng heo, vạch rõ thêm những âm mưu hoạt động gần đây của bọn Giang Thanh, đồng thời liên hệ đến những bài học kinh nghiệm của các cuộc đấu tranh trong Đảng và của Liên Xô sau khi Sta-lin qua đời: “Bây giờ, họ không chịu thua, gấp rút muốn cướp quyền lãnh đạo, Chủ tịch không còn nữa, đồng chí phải đứng ra, đấu với họ”.

Hoa Quốc Phong không tỏ thái độ ngay mà tiếp tục suy nghĩ.

“Gần đây tôi cứ nhắm mắt là nghĩ đến cảnh lúc Chủ tịch lâm chung...” Diệp Kiếm Anh với nỗi lòng đau đớn cùng Hoa Quốc Phong nhớ lại, khi còn sống Mao Trạch Đông đã nhiều lần phê bình “Bang Thượng Hải” và chỉ thị phải giải quyết vấn đề bọn chúng, tha thiết hy vọng Hoa Quốc Phong không phụ kỳ vọng của Mao Trạch Đông, đoàn kết mọi người đấu tranh với chúng, gánh vác trách nhiệm lãnh đạo cuộc đấu tranh này. Những lời nói của Diệp Kiếm Anh đã làm cho Hoa Quốc Phong vô cùng cảm động. Hoa Quốc Phong đã thành thực nói: “Đồng chí biết cơ

Page 106: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

sở của tôi, trước các đồng chí cũ, tôi là thế hệ sau, không phải là tôi không dám đấu tranh với mấy người ấy, nhưng chỉ lo các đồng chí cũ không ủng hộ”. Diệp Kiếm Anh nói một cách khẩn thiết: “Xin đồng chí cứ yên tâm, tôi ủng hộ đồng chí, các đồng chí cũ ủng hộ đồng chí, chỉ cần đồng chí đứng ra, mọi người sẽ đều ủng hộ đồng chí!” Hơn nữa còn khuyên Hoa Quốc Phong năng đến chơi nhà các đồng chí cũ, còn bảo với ông ta rằng muốn gặp ai thì báo trước.

Nghe những lời nói ấy, tinh thần Hoa Quốc Phong phấn chấn hẳn lên, ông ta bày tỏ, chỉ cần các đồng chí cũ ủng hộ thì sẽ dễ dàng. Cuối cùng ông ta nói: “Có điều, sự việc rất phức tạp, rốt cuộc làm thế nào, để cho ông ta nghĩ thêm chút nữa”.

4. Sự chuẩn bị tư tưởng của Uông Đông Hưng

Khướu giác của những kẻ có âm mưu thường rất thính. Để giám sát hành động của Diệp Kiếm Anh, trải qua một cuộc bày mưu tính kế bí mật ở lầu 17 tại Điếu Ngư Đài, quyết định cử Vương Hồng Văn người mới từ Thượng Hải đến Bắc Kinh, một lần nữa vào ở Tây Sơn. Vị Phó Chủ tịch Đảng này đã chọn nhà số 25 có trình độ kiến trúc hiện đại rất cao, một mặt thể hiện sự cao quý của anh ta, mặt khác, điều quan trọng nhất là gần Diệp Kiếm Anh tiện cho việc tăng cường giám sát. Nhà số 25 nằm trên lưng chừng núi Tây Sơn, ở cách ngôi nhà số 15 mà Diệp Kiếm Anh ở mấy chục mét về phía Đông Nam. Vương Hồng Văn ở đây có thể lén lút quan sát hành tung của những người qua lại lên núi và quan sát động tĩnh của nhà số 15.

Diệp Kiếm Anh hiểu rõ ý đồ đến ở của anh ta, bảo với tham mưu cảnh vệ “Mã Đầu”: “Đồng chí chú ý điểm ấy nhé!”

5. “Hội nghị Thường vụ” của Giang Thanh

Ngày 2 tháng 9, Giang Thanh gọi điện cho Hoa Quốc Phong yêu cầu triệu tập họp Thường vụ khẩn cấp, Hoa Quốc Phong bị bà ta quấy rầy quá mức, bèn hỏi bà ta: “Vì sao phải họp Thường vụ khẩn cấp?” Tiếng nói hùng hổ qua điện thoại truyền đến:

“Vì sao họp không thể nói trước”.

“Vậy Hội nghị cần thảo luận vấn đề gì?”

“Vấn đề cần thảo luận nhiều, rất phức tạp... đồng chí mới vào Trung ương không lâu, đồng chí không hiểu, cũng không thể hiểu!”...

Giang Thanh giập điện thoại, nổi giận đùng đùng đi tới Đại lễ đường Nhân dân.

Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn đón bà ta như một vị “tôn thần” mời bà ta ngồi xuống ghế.

Hoa Quốc Phong mời bà ta phát biểu ý kiến.

Thế là, không phải “cuộc họp Thường vụ” của Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng theo luật định đã bắt đầu. Giang Thanh ngang nhiên làm ra vẻ “Chủ tịch Trung ương Đảng” diễn thuyết, nói trời nói đất, chẳng ra đầu đuôi xuôi ngược gì cả, nói một hồi, mới lộ ra cái ý chính là muốn giao văn kiện và sách vở của Mao Trạch Đông cho bà ta và Mao Viễn Tân chỉnh lý kiểm kê. Lý do ư, vì bà ta là vợ kiêm thư ký của Chủ tịch, vợ chỉnh lý bảo tồn, văn kiện, sách vở, bài viết của chồng là lẽ đương nhiên, hơn nữa trên ghế giới cũng đã có tiền lệ như tài liệu bài viết của Lê-nin đều do Cơ-rúp-skai-a chỉnh lý là chính!

Uông Đông Hưng nói: “Văn kiện của Chủ tịch, chẳng phải đã nói là niêm phong bảo tồn rồi hay sao? Bây giờ việc bảo tồn di thể còn chưa giải quyết, thì thời giờ đâu mà chỉnh lý!”.

Page 107: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Hoa Quốc Phong thấy mụ điên này sẽ gây chuyện không biết bao giờ mới kết thúc, đành phải tuyên bố tạm thời kết thúc hội nghị: “Hội nghị hôm nay, đến đồng chí Kiếm Anh cũng không tham gia, không thể coi là hội nghị Thường vụ. Đợi lần sau đồng chí ấy đến, đủ người, sẽ thảo luận”.

Ông ta muốn dùng thanh kiếm sắc của Diệp Kiếm Anh để trừ tà, ông ta nói tiếp: “Đồng chí Uông Đông Hưng đã theo Chủ tịch mấy chục năm, đối với mọi thứ của Chủ tịch đều rất quen thuộc. Theo quyết định của Trung ương trước đây văn kiện của Chủ tịch thuộc cơ mật quốc gia, phải do Văn phòng phụ trách chỉnh lý, rồi viết báo cáo cho Trung ương. Hiện nay mọi người đều bận việc tang lễ, không kịp chỉnh lý, tạm thời vẫn do đồng chí Uông Đông Hưng niêm phong bảo tồn”.

Giang Thanh ngớ người, không ngờ Hoa Quốc Phong còn có tài nghệ này? Bà ta đang định nổi cáu thì Trương Xuân Kiều đứng dậy giơ tay ngăn lại.

Xét cho cùng thì “quân sư” vẫn lắm mưu nhiều kế. Trương Xuân Kiều với giọng như một thầy phù thủy: “Theo tôi có thể như thế này được không, chúng ta không rảnh tay được, nên để Mao Viễn Tân giúp Tiểu Trương (Ngọc Phượng) đăng ký trước”.

Giang Thanh cảm phục sâu sắc chiêu tuyệt vời của “quân sư” lập tức nói: “Tôi cũng tham gia”. Sau đó lại khoác lác: “Mao Viễn Tân là thích hợp nhất, cậu ấy hiểu tư tưởng Mao Trạch Đông nhất, thường đến chỗ tôi hỏi điều này điều nọ. Tôi tin cậu ta”.

Hoa Quốc Phong không đồng ý.

“Hội nghị” tranh cãi mãi đến bốn năm tiếng đồng hồ, cuối cùng Hoa Quốc Phong vẫn kiên trì tất cả văn kiện, tài liệu và sách vở của Mao Trạch Đông đều do Uông Đông Hưng phụ trách tạm thời niêm phong bảo tồn.

“Cuộc hội nghị” phi pháp này, tuy Diệp Kiếm Anh không tham gia, nhưng sau đó Uông Đông Hưng đã báo cáo lại với ông. Diệp Kiếm Anh cảm thấy Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng đã đối chọi rất tốt, trên con đường chống lại sự quấy rầy của “bọn bốn tên” cuối cùng đã tiến thêm được một bước. Mặt khác, ông cũng thấy lo lắng và căm phẫn. “Bọn bốn tên” hung hăng, ức hiếp người khác quá đáng! Dám cưỡng bức Phó Chủ tịch thứ nhất của Đảng phải triệu tập “Hội nghị Thường vụ khẩn cấp”, dám gạt bỏ cả ông, một Phó Chủ tịch Trung ương Đảng và các ủy viên Thường vụ khác ra ngoài! Càng không thể khoan dung việc Giang Thanh còn khăng khăng đòi để bà ta và Mao Viễn Tân được tham gia “cuộc họp thường vụ” bao vây công kích Hoa Quốc Phong, bà ta đã trắng trợn coi mình cao hơn Trung ương Đảng! Như vậy đâu còn nội quy kỷ luật Đảng nữa? Diệp Kiếm Anh càng nghĩ càng thấy sự việc nghiêm trọng, nhất định phải nghĩ cách để giải quyết bọn phá hoại này.

6. Chen vai thích cánh trong cuộc “chiến tranh” cướp quyền

Tình hình vẫn đang phát triển, “cuộc đại chiến văn kiện” vẫn chưa thu quân.

Ngày 21 tháng 9, khi văn phòng Trung ương thanh tra văn kiện, phát hiện Giang Thanh và Mao Viễn Tân lấy danh nghĩa là “xem một chút” đã lừa lấy được hai văn kiện từ chỗ Trương Ngọc Phượng mà chưa trả lại. Một văn kiện là phụ bản ghi cuộc nói chuyện của Giang Thanh với một phóng viên nước ngoài, một văn kiện khác là bản ghi chép cuộc nói chuyện của Mao Trạch Đông với Dương Đắc Chí, Vương Lục Sinh ở Vũ Hán năm 1974. Đây là hai văn kiện mang tính chất cơ mật quan trọng, nhất định phải truy đòi lại.

Giang Thanh và Mao Viễn Tân ì ra không trả. Trải qua một “cuộc tranh giành”, Giang Thanh đành phải trao trả văn kiện và nói đây là một sự “hiểu lầm”, nhưng lại đưa ra một điều kiện: đòi sau khi Hoa Quốc Phong xem xong chính thức phê duyệt rồi chuyển cho Vương Hồng

Page 108: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Văn và Trương Xuân Kiều đọc. Bà ta viết một mẩu giấy gửi cho Hoa Quốc Phong, đưa ra yêu cầu này. Hoa Quốc Phong không trả lời bà ta, giữ văn kiện lại.

Kết quả là văn kiện trả lại đã bị Giang Thanh sửa chữa be bét. Một đoạn dài ghi những lời bà ta ca ngợi mình, công kích người khác khi nói chuyện với phóng viên nước ngoài đã bị xóa bỏ; một đoạn ghi chép cuộc nói chuyện khác đã được làm giả. Trong đó đã nói: Năm 1974 Mao Trạch Đông bảo Dương Đắc Chí và Vương Lục Sinh phải “giúp đỡ Diệp Quần”, người mà 3 năm trước đã chết vì rơi máy bay ở Ôn-đu-han v. v... và v.v… chẳng phải là những lời bịp bợm hay sao?

Kẻ xảo quyệt nhất cũng là kẻ ngu xuẩn nhất. Bọn Giang Thanh vốn cho rằng lừa lấy được văn kiện trong tay thì có thể bí mật sửa chữa, mưu đồ mượn tay Mao Trạch Đông để chỉnh cán bộ lãnh đạo quân đội, sau này bị buộc phải trả lại, lại cuống chân cuống tay lấy giả làm thật, đã sửa năm 1974, Mao Trạch Đông nói chuyện thành “năm 1976”. Càng vô lý hơn là Giang Thanh đã ghi thêm chú thích vào bản ghi chép và ký tên mình.

Sự mở đầu và kết thúc cuộc “đại chiến văn kiện này”, thư ký Trương Ngọc Phượng đã tố cáo như sau:

“Giang Thanh âm mưu lừa để lấy trộm bản thảo và văn kiện của Mao Chủ tịch. Sau khi Chủ tịch mất, Giang Thanh tỏ ra khác thường, hằng ngày đấn chỗ ở của Mao Chủ tịch tìm tôi. Nhiều lần muốn xem 9 bản thảo gốc cùng bản thảo đã sửa chữa và một số bút tích của Mao Chủ tịch. Tôi cảm thấy không thỏa đáng, vì nó không hợp với thủ tục của tổ chức. Sau khi Chủ tịch mất, Trung ương vẫn chưa quyết định văn kiện sẽ làm như thế nào, tôi không thể tùy tiện đưa cho bà ta, tôi thoái thác là bản thảo gốc không có ở chỗ tôi. Giang Thanh, Mao Viễn Tân thấy không thể lấy được văn kiện ở chỗ tôi, nên đã vu cho tôi tội: “lấy cắp văn kiện”, muốn dùng “biện pháp khẩn cấp” để bức hại tôi, nhằm đạt được mục đích lừa lấy trộm văn kiện. Sau lễ truy điệu, Giang Thanh lại tìm tôi để đòi, đòi rất gấp. Tôi rất khó xử. Sau khi Giang Thanh đi, tôi lập tức gọi điện thoại cho đồng chí Uông Đông Hưng, đề nghị cần phải giải quyết như thế nào, đồng thời mời đồng chí ấy đến. Sau khi đồng chí Đông Hưng đến, tôi báo cáo việc Giang Thanh đòi văn kiện và việc Giang Thanh, Mao Viễn Tân lấy danh nghĩa xem một chút để lừa lấy hai bản ghi cuộc nói chuyện của Mao Chủ tịch và Dương Đắc Chí cùng Vương Lục Sinh. Chủ nhiệm Uông Đông Hưng chỉ thị, phải đòi lại hai văn kiện này. Đồng thời truyền đạt cho tôi biết là Bộ Chính trị đã nghiên cứu chuẩn bị niêm phong văn kiện để bảo tồn”.

Đây là tội chứng của Giang Thanh lấy cắp bản thảo viết tay và văn kiện của Mao Trạch Đông.

Cuộc “chiến tranh” cướp quyền mà “bọn bốn tên” phát động không chỉ một nơi.

Đồng thời với cái gọi là tiến hành cuộc “đại chiến văn kiện” trong “Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị”, về mặt bảo vệ thi hài Mao Trạch Đông họ liên tục đưa ra những vấn đề hóc búa, gây trở ngại. Tối ngày 19 tháng 9 quyết định di chuyển thi hài Mao Trạch Đông; Giang Thanh và Mao Viễn Tân vốn nói là phải tham gia nhưng sau khi họ nghe nói việc bảo tồn thi thể về thời gian và kỹ thuật đều có vấn đề, nên đã kiếm cớ nói rằng, đã không để cho họ bảo quản văn kiện thì cũng không tham gia việc bảo tồn thi hài. Vì sao lại nhiệt tình với “văn kiện” như thế, còn với “thi hài” thì lại lạnh nhạt? Đó chẳng phải là điều đáng suy nghĩ hay sao? Không phải là độc nhất vô nhị, ngày 21 tháng 9, ngày niêm phong bảo tồn văn kiện, Vương Hồng Văn đã chuyển “chiến trường” lặng lẽ trở về Thượng Hải. Anh ta lấy tư cách là Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, đồng thời với việc cố gắng tổ chức “lực lượng vũ trang thứ 2”, còn ra sức gây dư luận, rêu rao khắp nơi: “Việc bảo vệ thi hài Mao Chủ tịch không dễ dàng. Về vấn đề này, Giang Thanh, Xuân Kiều và tôi rất có ý kiến đối với sự sơ suất của một số người”. “Một số người” mà anh ta nói là chỉ Hoa Quốc Phong và một số người. Khi mọi người quan tâm hỏi làm thế nào thì anh ta đẩy toàn bộ trách nhiệm cho “Trung ương”, rằng “bước tiếp theo các đồng chí sẽ nghe sự sắp xếp thống nhất của Trung ương”. Đồng thời mượn cớ này để kéo dài thời gian của đơn vị tiếp nhận xử lý

Page 109: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

thi hài, nhằm mục đích hễ thi hài xử lý không tốt ảnh hưởng tới việc bảo tồn sẽ đem tội danh chống Mao Trạch Đông chụp lên đầu Hoa Quốc Phong và những người lãnh đạo khác. Đây là một mũi tên độc bắn từ chiến trường Thượng Hải, cũng có thể cói là “một mũi tên trúng hai đích”.

7. Quyết sách cuối cùng trong tình trạng khẩn cấp

Sự tiến sát từng bước của “bọn bốn tên” đặc biệt là sự quấy rầy về vấn đề niêm phong bảo tồn văn kiện và xử lý thi hài v.v... một cách vô lý, liên tục chống đối, làm cho Hoa Quốc Phong ăn không ngon ngủ không yên, ông ta hiểu sâu sắc rằng sự kiêu căng ngạo mạn chống Đảng của “bọn bốn tên” ngày càng dữ, không thể nhân nhượng mãi được nữa, đã đến lúc phải chống lại rồi.

Hoa Quốc Phong, người lãnh đạo chủ yếu của Đảng và Nhà nước này đã nghiêm chỉnh suy nghĩ về những ý kiến của Diệp Kiếm Anh, suy nghĩ đi suy nghĩ lại về sách lược đối phó như thế nào với “bọn bốn tên”.

Đúng, nên đến chơi các đồng chí cũ nhiều hơn. Ông đã đến gặp một số đồng chí cũ. Đặng Dĩnh Siêu, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng, Tô Chấn Hoa, Trần Tích Liên v.v… đều đã nêu ra một số kiến nghị với ông ta, hình thành nên kế sách lớn trị quốc an bang.

Tối ngày 21 tháng 9, Hoa Quốc Phong đi xe đến nhà Lý Tiên Niệm. Hoa Quốc Phong vào trong nhà, vẫn chưa ngồi xuống ghế đã vội vội vàng vàng nói, đằng sau có người theo dõi, chỉ có thể ngồi một lúc. Ông nói khái quát về những hoạt động điên cuồng cướp quyền lãnh đạo của “bọn bốn tên” và tình cảnh khó khăn của mình: “Xem ra một cuộc đấu tranh giữa chúng ta và họ là không thể tránh khỏi!” Lý Tiên Niệm cũng đang lo lắng sâu sắc về việc này.

Hoa Quốc Phong nghĩ tới việc lúc này ông ra mặt gặp Diệp Kiếm Anh sẽ không tiện lắm, liền đề nghị Lý Tiên Niệm thay mặt ông đi gặp: “Đồng chí Tiên Niệm, có lẽ đồng chí đến Tây Sơn một chuyến, nói lại với Diệp soái về ý kiến của tôi, nhất thiết phải mời đồng chí ấy tìm biện pháp giải quyết”.

Lý Tiên Niệm đã vui vẻ nhận sứ mệnh trọng đại này.

Tục ngữ có câu: “Không có sự trùng hợp thì không thành sách”. Cái sự “trùng hợp” này quá nửa là do người viết sách viết ra. Có điều nói ở đây thì hoàn toàn là thật. Lịch sử quả có sự trùng hợp ấy.

Gần như cùng một thời gian, Hoa Quốc Phong đến gặp Lý Tiên Niệm đề nghị ông đến nói lại với Diệp Kiếm Anh, thì Nhiếp Vinh Trăn cũng gặp Dương Thành Vũ và cũng đề nghị Dương Thành Vũ nói lại với Diệp Kiếm Anh.

Từ sau khi Mao Trạch Đông bị bệnh nặng, Nhiếp Vinh Trăn đã chuyển từ Tây Sơn vào ở trong thành. Trước khi xuống núi, ông đến từ biệt Diệp Kiếm Anh hẹn với nhau có tin tức gì thì thông báo và liên hệ nhiều hơn. Với nhãn quang của nhà chiến lược chính trị luôn luôn chăm chú theo dõi sự thay đổi của cục diện chính trị Trung Quốc, càng ngày ông càng cảm thấy “mấy cái đó” giày vò quá mức. Hôm ấy ông mời Quyền Tổng Tham mưu trưởng Dương Thành Vũ đến nhà, để nói trực tiếp về những biện pháp cần thiết. Dương Thành Vũ là chiến sĩ cũ của Hồng quân Mẫn Tây (Tây Phúc Kiến), sinh ra ở nông thôn vùng Trường Giang Phúc Kiến là nhà quân sự hiện đại nổi tiếng của Trung Quốc, sau khi chiến tranh kháng Nhật bùng nổ, đã chiến đấu dưới sự lãnh đạo của Nhiếp Vinh Trăn trong một thời gian dài, đã dẫn quân bắn chết viên tướng nổi tiếng có “Danh hiệu chi hoa” của quân Nhật. Sau khi thành lập nước 1949, trong một thời gian dài đã công tác ở Quân khu Bắc Kinh và Bộ Tổng Tham mưu, không những có tình cảm đặc biệt với Nhiếp Vinh Trăn mà cũng giữ mối liên hệ mật thiết với Diệp Kiếm Anh và các vị nguyên soái khác. Sau khi Mao Trạch Đông qua đời, vì quan hệ công tác, ông thường xuyên ở

Page 110: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Tây Sơn, nên việc tiếp xúc với hai nguyên soái Diệp Kiếm Anh và Nhiếp Vinh Trăn nhiều hơn và chặt chẽ hơn. Sau khi Nhiếp Vinh Trăn không ở Tây Sơn, rất tự nhiên ông trở thành “liên lạc viên” của hai vị nguyên soái.

“Tôi rời Tây Sơn đã rất lâu rồi, tình hình ở đấy gần đây như thế nào? Diệp Soái có khỏe không?” Vừa thấy Dương Thành Vũ, Nhiếp Vinh Trăn đã vồn vã hỏi thăm.

Dương Thành Vũ vẫn ở nhà số 5 trong khu Tây Sơn, cách nhà số 15 nơi Diệp Kiếm Anh ở cũng chỉ vài chục mét, ông thường đi đường tắt tới thăm Diệp Kiếm Anh. Dương Thành Vũ đáp: “Hôm kia tôi có tới thăm đồng chí ấy, tinh thần rất tốt”.

Nhiếp Vinh Trăn vui mừng gật gật đầu, lại hỏi tiếp: “Người ấy đã đi chưa?” Ông thấy Dương Thành Vũ ngơ ngác, nên nói thêm ba chữ với vẻ khinh bỉ: “Vương Hồng Văn”

Dương Thành Vũ vỡ lẽ liền trả lời: “Người này lúc đến lúc đi, hành tung bất định”.

Nhiếp Vinh Trăn nói: “Cần phải cảnh giác! Mấy đứa ấy đều là bọn phản cách mạng. Việc gì xấu xa chúng cũng có thể làm, đề phòng chúng ra tay trước. Nếu chúng ám hại được Tiểu Bình, giam lỏng được Diệp soái, trừ bỏ được Hoa Quốc Phong, thì sẽ rất phiền. Ông ta dùng biện pháp thông thường đấu tranh trong Đảng để giải quyết vấn đề của chúng thì chẳng ăn thua gì, chỉ có chúng ta ra tay trước, dùng biện pháp cương quyết mới có thể phòng ngừa được bất ngờ”.

Tiếp đó Nhiếp Vinh Trăn dặn Dương Thành Vũ, nhanh chóng về Tây Sơn ngay, nói lại ý đó với Diệp Kiếm Anh và dặn đi dặn lại là phải giữ bí mật: “Ý này lần trước ở Tây Sơn tôi đã bàn rồi, việc không nên trì hoãn!”

Dương Thành Vũ từ biệt Nhiếp Vinh Trăn ngay đêm ấy lên Tây Sơn đến nhà số 15, Diệp Kiếm Anh nghe có “liên lạc viên” đến chuyển lời, ông sợ tai vách mạch rừng nên dẫn Dương Thành Vũ ra vườn hoa trước nhà, sau khi nghe xong báo cáo, ông vui vẻ: “Nghe rõ rồi, nghe rõ rồi”.

Đêm Tây Sơn, lặng lẽ thanh bình.

Diệp Kiếm Anh ngồi bên bể nước trong sân, nhìn những trái táo trĩu nặng trên cành cây trước mặt, tự nghĩ: Chín rồi, chín rồi, sắp chín rồi.

Một lúc sau, ông đến gần Dương Thành Vũ, trong mắt lóe lên những tia sáng khác thường, phấn chấn nói: “Đồng chí nói với đồng chí Vinh Trăn, xin đồng chí ấy yên tâm, đồng chí ấy và tôi đã cùng chung ý nghĩ rồi, có việc gì thì thông báo bàn bạc ngay bất kỳ lúc nào”.

Chiều ngày 24 tháng 9, trời thu trong xanh cao vút, trời nắng ấm, đúng là ngày đẹp trời. Nhà cách mạng lão thành Lý Tiên Niệm lấy danh nghĩa là đi thăm Vườn thực vật Tây Sơn đi xe về phía Hương Sơn, qua Di Hòa Viên, chùa Ngọa Phật, sắp sửa đến vườn Thực vật, ông khẽ bảo lái xe rẽ ngoặt về phía bắc đi thẳng vào Tây Sơn. Xe dừng lại ở Tượng Tỵ Tử Câu. Ông dặn những người đi cùng thông báo cho nhà số 15, có việc muốn gặp Diệp soái.

Tham mưu cảnh vệ nhận điện thoại, lập tức báo cáo thủ trưởng. Diệp Kiếm Anh cảm thấy rất đột ngột. “Chó săn đang rình mò ở bên cạnh. Có nên gặp không? Vốn không muốn gặp, nhưng lại thấy không thỏa đáng. Ông do dự. Sau khi Diệp Kiếm Anh bị tuyên bố “bị ốm” không lâu, Lý Tiên Niệm cũng bị “bọn bốn tên” theo dõi giám sát cũng “nghỉ vì bị ốm”. Ông đã mạo hiểm đến thăm Diệp Kiếm Anh, khuyên ông nên “dưỡng bệnh” ở Bắc Kinh không nên đi lại tuỳ tiện. Sau khi hai nhà cách mạng lão thành bí mật bàn bạc, Diệp Kiếm Anh bảo ông, sau này không nên đến nhà, cũng không nên gọi điện thoại, để tránh rắc rối. Từ đó về sau, trong một thời gian dài hai người chẳng có liên hệ gì.

Bây giờ đã bao nhiêu lâu Lý Tiên Niệm mới lại đến nhà, lại lên núi dưới sự giám sát của Vương Hồng Văn!

“Mã Đầu” lại đến báo cáo: “Thủ trưởng, đồng chí Tiên Niệm đã đến rồi ạ!”

Page 111: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Diệp Kiếm Anh ra đón.

“Trời ơi, cơn gió nào đã đưa anh đến đây?” Diệp Kiếm Anh ra đến hành lang đón hóm hỉnh hỏi.

Người hỏi người đáp rồi cùng đi vào phòng.

Diệp Kiếm Anh đoán người bạn chiến đấu cũ mạo hiểm đến đây hẳn là có chuyện gì quan trọng cần bàn, bèn trịnh trọng hỏi:

“Đồng chí đến đây thăm tôi vì quan hệ cá nhân hay vì vâng lệnh mà đến”.

“Vì cả hai”. Lý Tiên Niệm nhìn chung quanh vui vẻ nói.

“A, rõ rồi”. Theo thói quen Diệp Kiếm Anh quay người bật máy thu thanh, mở tiếng khá to, “Tiếng hát” của vở kịch “Chiếc đèn đỏ” oang oang.

Lý Tiên Niệm hạ thấp giọng, truyền đạt lại ý kiến của Hoa Quốc Phong, đồng thời nhắc đi nhắc lại: “Ý của đồng chí ấy là đề nghị đồng chí cân nhắc dùng phương thức gì và thời gian nào giải quyết mới tốt”.

“Hay lắm!” Diệp Kiếm Anh không kìm được niềm xúc động trong lòng. Ông chờ mong giờ phút này đã rất lâu rồi! Đòi hỏi ông phải hạ quyết tâm cuối cùng, giờ phút quyết định đã đến. Ông bực tức nói: “Cuộc đấu tranh giữa chúng ta với chúng là cuộc đấu tranh sinh tử, không có chỗ cho dàn xếp”.

Lý Tiên Niệm cũng nói dự đoán đối với tình hình, tán thành ý kiến của Diệp Kiếm Anh. Họ bí mật bàn bạc với nhau một lúc, cảm thấy sự việc trọng đại, cần có sự xử trí thỏa đáng, sắp xếp chu đáo, quả quyết dứt khoát. Mặc dù thời gian và hoàn cảnh không cho phép họ bàn nhiều, nhưng cuộc gặp gỡ trong giờ phút then chốt này có tác dụng quan trọng đối với việc thúc đẩy Diệp Kiếm Anh đưa ra quyết sách cuối cùng và thực thi.

Đưa tiễn Lý Tiên Niệm, Diệp Kiếm Anh mang theo tâm trạng phấn chấn xuống núi đến nhà số 2. Ở đây, ông đã triệu kiến riêng các vị tướng Túc Dụ, Tống Thời Luân. Thông báo cho họ biết: “Phải tăng cường canh phòng, trong lúc này mắt phải sáng, tai phải thính, miệng phải kín!”.

Hai hôm sau, Dương Thành Vũ phải xuống núi, trước khi đi, ông đến gặp Diệp Kiếm Anh. Diệp Kiếm Anh mỉm cười nói: “Đồng chí nói lại với đồng chí Vinh Trăn là Tiên Niệm đã đến đây. Tôi đang cân nhắc ý kiến mà đồng chí Vinh Trăn nói lần trước”. Đồng thời nói thêm một cách khôi hài: “Thỏ khôn phải có nhiều chỗ ở, tôi sẽ lập tức chuyển nhà, đồng chí nói với đồng chí Vinh Trăn cũng phải chú ý an toàn!”

Nhưng, cuối cùng phải dùng biện pháp gì để giải quyết “bọn bốn tên”, Diệp Kiếm Anh chưa định được ván cờ. Ông căn nhắc đắn đo, lật đi lật lại, từng người đối với “kính mắt” ba giọt nước v.v… Dựa vào tình hình khác nhau của từng người, tính toán các biện pháp khác nhau, đã tính tới việc “giải quyết chung” và cũng tính tới việc “xử trí cá biệt”, đã tính tới việc dùng biện pháp khẩn cấp, từ “cách ly để thẩm tra” đến việc bắt giam công khai, cũng nghĩ tới biện pháp quá độ, lần lượt điều họ khỏi Trung ương đến các tỉnh, rồi xem tình hình, từ từ giải quyết. Cuối cùng vẫn nghiêng về cách “vét sạch trong một mẻ lưới”.

Ông lại cho người mời “tham mưu liên lạc”.

Vương Chấn luôn luôn có mặt ngay sau khi có lệnh của Diệp Kiếm Anh. Đã đến là rất tận tuỵ.

“Anh Râu này, nhiệm vụ của anh vẫn chưa hoàn thành”.

“Vâng, tôi sẽ đi hát “Nhị tiến Cung”!”

Page 112: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Diệp Kiếm Anh khẽ nói với ông chuyện Lý Tiên Niệm vừa đến đây, sự việc không thể kéo dài dược nữa. Vương Chấn tức khắc đến nhà Trần Vân để xin ý kiến.

Trần Vân trầm ngâm hồi lâu, chậm rãi nói: “Cũng đành như vậy”. Tiếp đó lại bổ sung thêm một câu: “Chỉ có thể giải quyết như vậy một lần thôi!” Và dặn đi dặn lại là Diệp Kiếm Anh phải nhanh chóng hạ quyết tâm lấy chắc chắn làm thượng sách.

8. “Bọn bốn tên” đại náo Bộ Chính trị

Cùng lúc này, “bọn bốn tên” ra sức củng cố “căn cứ địa” Thượng Hải.

Ngày 27 tháng 9, Trương Xuân Kiều đích thân xuất trận, đưa ra “chỉ thị ba điểm” cho Thượng Hải: 1) Phải cảnh giác Trung ương có chủ nghĩa xét lại; 2) Từ nay về sau Trung ương sẽ thực hiện lãnh đạo tập thể; 3) Không xuất bản “Mao tuyển” tập 5, nhưng có thể xuất bản bản in lẻ, đưa ra trước 5 điều kiện để chọn người nối nghiệp. “Lãnh đạo tập thể mà ông ta nói chính là lãnh đạo của “bọn bốn tên”, điều kiện của “người nối nghiệp” là điều kiện để “bọn bốn tên” lên cầm quyền.

Ngày 28 tháng 9, Trương Xuân Kiều không yên tâm, lại cử Tiêu Mộc nhắn miệng cho những người lãnh đạo Thành ủy Thượng Hải rằng: “Phải thường xuyên nghiên cứu tình hình đấu tranh giai cấp. Một mặt phải đề cao cảnh giác, một mặt phải nâng cao lòng tin... Tất nhiên phải nhìn thấy trắc trở, phải thấy được giai cấp tư sản vẫn còn lực lượng. Vấn đề là ai cầm đầu... Nói thực, Thượng Hải vẫn chưa trải qua thử thách nghiêm trọng thực sự, Lâm Bưu, Đặng Tiểu Bình muốn thực hiện ở Thượng Hải nhưng không thực hiện được. Nếu Lâm Bưu thực hiện được, Thượng Hải sẽ có thử thách lớn, phải giao chiến”.

Trương Xuân Kiều là một kẻ có âm mưu lớn, phù thủy ma quái, giỏi “nói lóng”. Ở đây đã mập mờ bảo Thượng Hải chuẩn bị sự “thử thách nghiêm trọng” thực sự, phải chuẩn bị “giao chiến”. Ông ta nêu rằng: “Vấn đề là ai cầm đầu?” Chính là ám chỉ vấn đề “cầm đầu”, muốn ra tay cướp quyền lãnh đạo cao nhất! “Lời nhắn miệng” này của Trương Xuân Kiều trên thực tế là tín hiệu của “bọn bốn tên” muốn dùng vũ trang cướp quyền, cũng là ra lệnh động viên cho đồng đảng ở Thượng Hải tiến hành bạo loạn vũ trang phản cách mạng.

Tối ngày 28 tháng 9, Trương Xuân Kiều lặng lẽ lủi đến nhà 201 nơi ở của Giang Thanh trong Trung Nam Hải. Trong “Tiêu Dao Cương” cao cấp, kết hợp giữa cổ sức cổ hương với thiết bị hiện đại phương Tây, một người đàn ông và một người đàn bà của bãi Thượng Hải năm xưa lại thầm thì to nhỏ, chuẩn bị phát động một “chiến dịch cướp quyền” mới.

Ngày 29 tháng 9, “chiến dịch” đã phát nổ trong sự ầm ĩ của cuộc đại náo Bộ Chính trị.

Tham dự cuộc họp này có Diệp Kiếm Anh, Lý Tiên Niệm, Uông Đông Hưng v.v... những người có mặt ở Bắc Kinh và một số ủy viên ở các nơi. Nửa đêm, đồng hồ báo giờ điểm 11 tiếng. Hội nghị vừa bắt đầu, không khí đã rất căng thẳng. Vấn đề mà người chủ trì là Hoa Quốc Phong muốn thông qua hội nghị giải quyết là việc “bọn bốn tên” ngày nào cũng cãi cọ gây rối, muốn đè bẹp sự ngang ngược của chúng. Trải qua sự chuẩn bị đầy đủ “bọn bốn tên” đại náo một trận, mưu đồ cướp cho được quyền lãnh đạo cao nhất của Đảng. Giang Thanh rất có lòng tin đối với việc này, bà ta tức giận đứng lên chống lại trước tiên, nêu thẳng thừng: “Mao Chủ tịch qua đời rồi, lãnh đạo Trung ương Đảng làm thế nào?” Công kích một cách láo xược Hoa Quốc Phong về cái gọi là “vấn đề bảo đảm ổn định” do dự không dám quyết định, không có năng lực. Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều kẻ xướng người hoạ, đòi tăng cường lãnh đạo tập thể, sắp xếp công tác cho Giang Thanh. Cái mà họ gọi là “sắp xếp công tác” chính là để Giang Thanh làm Chủ tịch Đảng. Đây là vấn đề lớn đầu tiên họ suy nghĩ chuẩn bị đã lâu sốt ruột muốn giải quyết từ sau khi Mao Trạch Đông qua đời. “Bọn bốn tên” hiểu rằng chỉ có phất ngọn cờ Giang Thanh mới có thể đè bẹp được Hoa Quốc Phong.

Page 113: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Nhưng họ đã đánh giá sai tình hình. Trong lòng đa số các ủy viên, trước đây ngại vì “đánh chuột vỡ bình” đã quan tâm và thông cảm với Giang Thanh, nhưng bây giờ tình hình đã khác rồi, “bọn bốn tên” giương ngọn cờ Giang Thanh, gây rối một cách vô lý, lẽ tất nhiên bị Diệp Kiếm Anh và Lý Tiên Niệm cùng đa số các ủy viên phản đối và phủ quyết.

“Bọn bốn tên” thấy phát súng đầu tiên không nổ, liền phá đám bằng cách nêu ra vấn đề Mao Viễn Tân có về Liêu Ninh hay không. Đây hoàn toàn là có mưu tính trước. Trước đó họ đã bày mưu cho Mao Viễn Tân gửi cho Hoa Quốc Phong một bức thư nói về việc này, nói Mao Viễn Tân với tư cách là “liên lạc viên” của Mao Trạch Đông, nay đã không còn việc gì để làm ở lại Bắc Kinh hay về Liêu Ninh? Nếu có việc, anh ta có thể ở lại. Bức thư này là để “dò đường”. Muốn thăm dò Hoa Quốc Phong, đòi ông tỏ thái độ, ý đồ đích thực của họ là muốn Mao Viễn Tân tiếp tục ở lại Bắc Kinh. Hoa Quốc Phong đã đọc bức thư của Mao Viễn Tân trong hội nghị, đồng thời nói rõ ràng là đồng ý để Mao Viễn Tân về Liêu Ninh. Việc này đã đập tan tính toán của “bọn bốn tên” họ vừa nghe đã nhảy dựng lên, tức giận kêu la: “Mao Viên Tân cần phải ở lại!”. Giang Thanh nói: “Mao Viễn Tân ở lại còn phải xử lý hậu sự của Mao Chủ tịch!”.

Hoa Quốc Phong cũng không chịu lép: “Chẳng phải là đồng chí đã nói là việc hậu sự của Mao Chủ tịch đồng chí không tham gia và Mao Viên Tân cũng không tham gia ư? Sao bây giờ lại nói Mao Viễn Tân ở lại tham gia hậu sự?”

Giang Thanh bị đuối lý, lập tức giở giọng đàn bà đanh đá, lớn tiếng cãi chày cãi cối, phủ nhận lời mình đã nói. Nhưng Giang Thanh đã quên là khi bà ta nói điều ấy thì Uông Đông Hưng, Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều cũng có mặt, nhưng bà ta vẫn cãi là bà ta không nói.

Uông Đông Hưng đã phải đứng ra làm chứng, còn Vương Hồng Văn và Trương Xuân Kiều thì ngậm tăm! Giang Thanh lập tức khóc lóc ầm ĩ vu vạ: “Các anh muốn đuổi tôi đi, tôi không đi, tôi cứ ở lại đấy!”.

Hội nghị chìm trong không khí tẻ nhạt.

Một lúc sau, Trương Xuân Kiều kẻ giỏi nịnh lại đứng lên hoà giải: “Thế này vậy, để Mao Viễn Tân tạm thời ở lại đây, đồng chí ấy quen thuộc tình hình, những điều mà Chủ tịch viết chỉ có đồng chí ấy hiểu được”.

Giang Thanh tự biết mình đuối lý, liền lau nước mắt, thôi không đối đầu nữa, nói như vẹt: “Đúng đấy! Cứ giao văn kiện, tài liệu của Mao Chủ tịch cho Mao Viễn Tân. Làm như vậy, tôi yên tâm”. Diệp Kiếm Anh nghe tận tai nhìn tận mắt, ông vẫn quan sát sự biểu diễn của “bọn bốn tên”. Ông hiểu rất rõ: Mao Viễn Tân là một người tiếp xúc nhiều nhất với Chủ tịch trong thời gian Chủ tịch bị bệnh nặng, nắm rất nhiều cơ mật quan trọng, “bọn bốn tên” muốn giữ anh ta lại, để cùng gây sự, như vậy sao được? Huống hồ khi Mao Trạch Đông còn sống đã dặn Mao Viễn Tân không nên theo Giang Thanh, nhưng anh ta cứ theo Giang Thanh! Nghĩ đến đây, ông nói như đinh đóng cột: “Tôi đồng ý ý kiến của đồng chí Quốc Phong, Mao Viễn Tân nên về Liêu Ninh, văn kiện vẫn do văn phòng Trung ương phụ trách bảo quản”. Lý Tiên Niệm và mấy đồng chí ủy viên khác cũng đều đồng ý như vậy, đều ủng hộ Hoa Quốc Phong.

“Bọn bốn tên” tiếp tục gây rối, đưa ra đủ thứ lý do, kiên quyết giữ Mao Viễn Tân ở lại.

Hội nghị căng thẳng, từ nửa đêm đến sáng hôm sau, tranh cãi kịch liệt, gây rối vô lý, làm cho mọi người mệt mỏi vô cùng. Đột nhiên, Giang Thanh điên cuồng nổi giận, vừa khóc vừa gây sự, nói ầm ĩ: “Ừ, các đồng chí không muốn thảo luận nữa! Được, ai có liên quan thì ở lại, ai không có liên quan thì đi hết!” Bà ta hoàn toàn không coi người chủ trì hội nghị ra gì, nghiễm nhiên coi mình là “nữ hoàng”, để ra lệnh.

Ai “có liên quan”? Ai “không liên quan”? Nói cho rõ, trong con mắt của Giang Thanh chỉ có mấy người bọn họ là “có liên quan” còn những người khác đều “không có liên quan” sẽ đi hết. Chỉ còn lại Hoa Quốc Phong, họ sẽ dễ “bắt nạt”!

Page 114: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Tiếp đó mấy tên nam thần cũng phụ họa với “nữ hoàng”.

Hoa Quốc Phong bị ép buộc, đành phải nói: “Phó Chủ tịch Diệp, tuổi đã cao, đồng chí Tiên Niệm bị bệnh, hai đồng chí có thể về trước, các đồng chí khác không nên về”.

Giang Thanh không nhượng bộ một chút nào: “Không được”.

Vương Hồng Văn cũng dùng quyền uy của Phó Chủ tịch Đảng quát: “Những người không có liên quan đều về hết!”

Diệp Kiếm Anh thấy người chủ trì hội nghị đã rơi vào cảnh khốn đốn, hơn nữa đã tuyên bố là ông rút khỏi cuộc họp, nếu kiên quyết không về sẽ ảnh hưởng đến uy tín của Hoa Quốc Phong và thế tất sẽ xung đột trực diện với bọn Giang Thanh. Hội nghị như thế này sẽ chẳng hay ho gì, nếu tiếp tục tham gia, sẽ chẳng có chút ý nghĩa nào. Xuất phát từ toàn cục ông đứng phắt dậy ra về, tiếp đó có mấy ủy viên khác cũng đứng dậy, hội trường chỉ còn lại sáu bảy người.

Hoa Quốc Phong bảo mọi người ngồi xuống tiếp tục họp.

Giang Thanh vẫn khóc ầm ĩ và giục mọi người về.

Để bảo vệ Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng ngồi yên không động đậy.

Hội nghị lại trở nên căng thẳng.

Một ủy viên ngồi đợi ngoài phòng họp một lúc thấy không có kết quả, lại vào hội trường, nói sức khỏe của Hoa Quốc Phong không tốt, hội nghị họp kéo dài không lợi, đề nghị giải tán.

“Bọn bốn tên” kiên quyết không giải tán.

Giang Thanh thấy Diệp Kiếm Anh và một số người quả là đã “bị đuổi” về, càng hí hửng đắc ý. Tiếp tục nói bừa bãi, thao thao bất tuyệt, lúc nói Mao Viễn Tân không thể đi, lúc nói cần Mao Viễn Tân giúp chỉnh lý văn kiện lưu trữ, tất cả văn kiện nên để bà ta bảo quản, lúc lại nói phải triệu tập hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Trung ương. Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, theo giọng điệu của Giang Thanh, kẻ hô người ứng, phụ họa cho nhau. Hoa Quốc Phong, Uông Đông Hưng v.v… vừa nói xen vào đã bị bà ta cướp lời, cắt ngang. Về sau, họ ngồi yên nhìn nhau, rứt khoát ngồi nghe đối phương nói, không hé răng. Đây đâu còn là Hội nghị Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc nữa. Mà đây là hội nghị đấu tranh của “phái tạo phản” bao vây công kích “phái theo con đường tư bản chủ nghĩa” một trăm phần trăm.

Hoa Quốc Phong kiên nhẫn đợi “bọn bốn tên” nói đã mệt, không nói nữa, cuối cùng hỏi Giang Thanh: “Rốt cuộc thì đồng chí muốn làm gì?”

“Muốn thảo luận dự thảo Báo cáo chính trị của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 3” Giang Thanh đã để lộ thiên cơ.

Phó Chủ tịch Diệp Kiếm Anh và một số ủy viên không có mặt, hoàn toàn không thể thảo luận vấn đề hội nghị toàn thể Ban chấp hành Trung ương. Cuối cùng Hoa Quốc Phong nói: “Dù Hội nghị Trung ương lần thứ 3 muốn có Báo cáo chính trị, cũng phải do tôi làm, phải do tôi chuẩn bị, còn việc sắp xếp nhân sự của Trung ương, phải do Bộ Chính trị thảo luận quyết định”. Nói xong đứng dậy tuyên bố giải tán.

9. Hành động trước

Qua hội nghị này đã làm cho Hoa Quốc Phong cảm thấy hội nghị Bộ Chính trị không có cách gì giải quyết được vấn đề của “bọn bốn tên”. Vậy thì, triệu tập Hội nghị Trung ương sẽ như thế nào? Sau khi cân nhắc cẩn thận, ông đã từ bỏ ý nghĩ này. Có thể dùng biện pháp giản đơn công khai dùng vũ lực “bắt hết” có được không? Ông tìm gặp Diệp Kiếm Anh bàn bạc, cuối cùng hai người cho rằng biện pháp này cũng không thể dùng được. Rút cuộc phải làm thế nào?

Page 115: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Diệp Kiếm Anh nghĩ đến hội nghị có liên quan mà ông đã tham gia xử trí Hoàng Vĩnh Thắng và “bốn đại kim cương”, sau khi Lâm Bưu phản bội Trung ương đã đợi 10 ngày, “bốn đại kim cương” ngoan cố chống lại đến cùng. Cuối cùng trong hội nghị đột ngột tuyên bố tội trạng của họ, kiên quyết xử trí. Đối với “bọn bốn tên” liệu có thể tham khảo kinh nghiệm đó hay không? Cuối cùng Diệp Kiếm Anh nói ý kiến của mình: “Lấy phương thức triệu tập hội nghị “mời” họ đến dự, tuyên bố thực hiện “cách ly thẩm tra” đối với họ, sau đó lập tức triệu tập Hội nghị Bộ Chính trị thảo luận quyết định.

Vậy, họp hội nghị gì? Hội nghị do ai chủ trì? Sẽ có những ai tham gia? Thời gian nào? Địa điểm ở đâu?...

Đối với một loạt vấn đề, Diệp Kiếm Anh và Hoa Quốc Phong đã nghiên cứu rất thận trọng tỉ mỉ, xác định là lấy danh nghĩa triệu tập, Hội nghị Thường vụ Bộ Chính trị, thảo luận quyển 5 “Mao Trạch Đông tuyển tập”, mời cả Diêu Văn Nguyên tham gia, đối với Giang Thanh sẽ xử trí riêng. Hoa Quốc Phong đích thân chủ trì hội nghị, Diệp Kiếm Anh ngồi chỉ huy, địa điểm tại Hoài Nhân Đường trong Trung Nam Hải. Cân nhắc tới Uông Đông Hưng là người tương đối am hiểu tình hình, lại nắm Văn phòng Trong ương và bộ đội cảnh vệ nên mọi việc có liên quan đều do Uông Đông Hưng phụ trách thực hiện, về thời gian, dự định là qua Quốc khánh chuẩn bị 10 ngày, xem tình hình sẽ quyết định sau.

10. Giai đoạn quyết chiến

Tháng 10 năm 1976, là một tháng 10 bão táp sôi động, một tháng 10 gươm súng sẵn sàng.

Trong tháng này, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc và “bọn bốn tên” bước vào giai đoạn quyết chiến.

“Ý định cuối cùng đã lộ rõ”. “Bọn bốn tên” mài dao mài kiếm, bố trí sắp xếp tiến hành vũ trang bạo loạn đã đâu vào đó.

Cương lĩnh “giết người”. “Làm thế nào để củng cố chính quyền” do Trương Xuân Kiều nêu ra sắp được thực thi. Theo lời của ông ta: “Lịch sử và hiện thực”, “cách mạng và chuyên chính”, “phê Đặng” và “trấn áp phản cách mạng”, “giết người”, thì hàng triệu cái đầu người sẽ rơi xuống đất. Diêu Văn Nguyên đã nói: “Vì sao không xử bắn một loạt phần tử phản cách mạng nhỉ? Chuyên chính xét cho cùng không phải là thêu hoa”. Vương Hồng Văn kêu gào: “Ở Thượng Hải tìm 100 con chó thì khó, nhưng bắt 1 vạn phản cách mạng thì dễ. Thượng Hải sẽ lựa chọn kỹ 10 vạn dân binh, cấp cho mỗi người 40 viên đạn”.

“Bọn bốn tên” thông qua bốn tuyến để truyền đạt “tinh thần của họ” đến Thượng Hải, luôn luôn giữ mối liên hệ ở mức “chuẩn bị chiến tranh cấp 1” với đồng đảng ở Thượng Hải. Mấy tháng nay “liên hệ đường dây nóng” giữa đồng đảng ở Thượng Hải với Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều có tới 146 lần.

“Bọn bốn tên” đã chuẩn bị thư gửi nhân dân cả nước, sau khi chính biến lập tức thông báo cho Đài phát thanh công bố ra toàn thế giới. Họ dựa vào “hậu thuẫn vững mạnh” là lực lượng vũ trang “dân binh” của Thượng Hải và Bắc Kinh, bắt đầu cuộc biểu diễn xấu xa của cuộc tranh cướp cuối cùng trên vũ đài chính trị.

Lép Tôn-xtôi đã nói: “Thượng đế muốn những kẻ nào chết thì trước hết làm cho chúng nổi cơn điên!”. “Bọn bốn tên” sắp diệt vong đã hoàn toàn điên cuồng rồ dại!

11. Chúng đã nổ phát súng đầu tiên

Page 116: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngày 1 tháng 10, ngày lễ Quốc khánh. Giang Thanh đến Đại học Thanh Hoa nói chuyện, vu cáo Đặng Tiểu Bình “bức hại Mao Chủ tịch”, hò hét đòi khai trừ đảng tịch của Đặng Tiểu Bình, đồng thời thề “nhất định phải rèn luyện thân thể” để tiếp tục “đấu” với họ, phải đề cao cảnh giác.

Ngày 4 tháng 10, “bọn bốn tên” lấy danh nghĩa “Lương Hiệu” phát biểu bài viết chống đảng trên trang đầu dòng đầu “Quang Minh nhật báo” với tựa đề “Mãi mãi làm theo phương châm đã định của Mao Chủ tịch”, công nhiên đưa ra tín hiệu cướp quyền lãnh đạo cao nhất. Đây là sự kiện phản cách mạng mà họ đã rắp tâm từ lâu. Ngày 16 tháng 9, sau khi tung ra cái gọi là “làm theo phương châm đã định” in bằng chữ đen, ngày hôm sau 17 tháng 9, trong bản tin “Tham khảo nội bộ” của Tân Hoa xã phát đi toàn quốc đã nêu: ““Làm theo phương châm đã định” là lời dặn dò của Mao Chủ tịch lúc lâm chung”.

Bắt đầu từ hôm ấy, hầu như hôm nào Diêu Văn Nguyên cũng gọi điện thoại hoặc chỉ thị miệng cho Tân Hoa xã, nhấn mạnh phải tuyên truyền nhiều lần “không sợ lặp lại”, quy định xử lý các bài viết quan trọng và việc tỏ thái độ trong lễ truy điệu ở các tỉnh thành phố: “phàm có những câu này đều phải trích đưa vào bản tin, nếu bản nào không có thì phải có những lời tương tự”. Thế là các loại báo tạp chí như súng liên thanh công bố các bài viết quảng cáo rùm beng. Tính đến ngày 30 tháng 9, theo thống kê không đầy đủ chỉ trong 6 loại báo và tạp chí đã đăng 236 bài viết các loại tuyên truyền rộng rãi “làm theo phương châm đã định” chiếm 59% toàn bộ bản tin và bài viết về lễ truy điệu Mao Trạch Đông. Rất nhiều báo đã lấy “làm theo phương châm đã định” làm đầu đề suốt các cột báo, có báo coi là “Trích lời Mao Chủ tịch” để đăng lên đầu báo, có báo đăng thành áp phích lớn... làm cho người đọc đọc không xuể, để cho người đọc dễ hiểu, báo chí còn đăng những tiêu đề nổi bật để tuyên truyền, “làm theo phương châm đã định” là “kiên trì đường lối cách mạng vô sản và các chính sách của Mao Chủ tịch” là “phải kiên trì đấu tranh với phái theo con đường tư bản chủ nghĩa”, là “phải kiên trì học tập, đi sâu phê Đặng...”. Nói gọn một câu, “làm theo phương châm đã định” là làm theo phương châm của cách mạng văn hóa, là làm theo “cương lĩnh chung” của “bọn bốn tên”.

Hoa Quốc Phong nhanh chóng nhận ra âm mưu này của “bọn bốn tên”. Vào ngày 2 tháng 10, ông ta đã phê duyệt đặc biệt trên “Bài phát biểu của trưởng đoàn dại biểu Trung Quốc tại Đại hội đồng Liên hợp quốc khóa 31” do Bộ trưởng Ngoại giao Kiều Quán Hoa trình: “Trong bài viết có dẫn lời dặn của Mao Chủ tịch, tôi đã đối chiếu có ba chữ sai so với những chữ viết tay của Mao Chủ tịch. Những chữ mà Mao Chủ tịch viết và những chữ tôi truyền đạt trong Bộ Chính trị đều là “làm theo phương châm trước đây”, để tránh truyền đạt sai sót thêm nữa, tôi đà xóa bỏ đi”. Không ngờ sự “xóa” này đã làm “bọn bốn tên” tức giận. Chúng khẩn cấp bàn mưu để Trương Xuân Kiều ra mặt ngăn cản việc truyền đạt chỉ thị của Hoa Quốc Phong, ông ta công nhiên phê trên văn kiện: “Việc phê chú của đồng chí Hoa Quốc Phong, kiến nghị không truyền đạt xuống cấp dưới để tránh gây nên sự tranh chấp không cần thiết”. Giang Thanh đích thân ra tay, bà ta gặp Trì Quân, Tạ Tĩnh Nghi, trực tiếp truyền đạt biện pháp cần thiết, tìm căn cứ trong sách kinh điển, nói bừa rằng: sau khi Mác qua đời, Ang-ghen trước sau không mệt mỏi kiên trì “phương châm đã định” của Mác. Còn sau khi Ăng-ghen mất, Lê-nin đã kiên trì “phương châm đã định” của Mác - Ăng-ghen, hài hước hơn là bà ta còn bảo người khác viết bài nói rằng sau khi Lưu Bang chết, Lữ Hậu đã kiên trì “phương châm đã định” của Lưu Bang như thế nào. Quả nhiên, ngày 4 tháng 10, bọn bồi bút “Lương Hiệu” theo ý chỉ của Trương Xuân Kiều và Giang Thanh nặn ra bài viết dài “Mãi mãi làm theo phương châm đã định của Mao Chủ tịch” đã nêu ở trên.

Diệp Kiếm Anh nhận ra “động cơ phía sau” của bài xã luận này, lộ liễu, độc ác! Đây không phải là bài “xã luận” bình thường không phải là “bài viết đen” thông thường, mà là một “bài hịch” chiến đấu mà “bọn bốn tên” đưa ra cho bọn lâu la lớn bé, cho bọn lính tráng của “lực lượng vũ trang thứ 2” và các thần dân trung thành với “nữ hoàng” một hiệu lệnh tiến quân khẩn cấp. Chúng đã nổ phát súng đầu tiên! Chúng ta phải làm thế nào?

Page 117: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

“Bài hịch” này đã làm cho Hoa Quốc Phong kinh hãi. Ông ta đọc hết lần này đến lần khác, “Tên đầu sỏ xét lại”, mà bài đó nói là ai? Phải chuẩn bị cuộc đấu tranh đường lối hai mươi lần, ba mươi lần là đấu tranh với ai? Ông ta càng phát hiện ra rằng cuộc đấu tranh này đang xảy ra trước mắt và không thể tránh khỏi!

Mấy máy điện thoại ở nơi ở của Diệp Kiếm Anh, đỏ có, đen có, trắng có, reo vang liên tục, thư ký tham mưu, tùy viên tiếp không ngớt. Quá nửa số này là điện thoại của những nhà lãnh đạo cao cấp của Đảng và các đồng chí cũ, hầu như chỉ có một câu: “Diệp soái đã xem xã luận hôm nay chưa?”

“Thủ trưởng đã thẩm tra bài xã luận này chưa?”

“Phó Chủ tịch Diệp có ý kiến gì về bài xã luận hôm nay”.

Câu cuối cùng của các cú điện thoại này đều là: “Chúc Diệp soái mạnh khoẻ sống lâu!”

Bài xã luận như một cơn gió lốc u ám trời đất, thổi khắp đất nước Trung Hoa. Những người lương thiện đã phải chịu đủ kiếp nạn trong 10 năm nay lại một lần nữa bị cuộc khủng bố tập kích.

Các nhà cách mạng lão thành và những người gặp nạn đang sốt ruột lo lắng, đang trăn trở suy nghĩ chuẩn bị sách lược ứng biến. Hàng triệu hàng triệu cán bộ và quần chúng vốn có đầu óc chính trị và tu dưỡng văn hóa dự cảm về một trận giông bão lớn hơn đang đến gần.

12. Chúng ta chơi trò “Khoa phụ đuổi theo mặt trời”

Hoàng hôn, ráng chiều lay động, Diệp Kiếm Anh ngồi vào chiếc xe Hồng Kỳ, quay lại phía sau nhìn mặt trời đang xuống thấp, nói nhỏ: “Chúng ta phải chơi trò “Khoa phụ đuổi theo mặt trời!”, nhắc lái xe tăng tốc, phải chạy thi với mặt trời đang lặn, đi tắt đến khu dân cư ở ngoại ô phía đông”.

Chiếc xe con nhãn hiệu Hồng Kỳ chạy như bay. Trước khi mặt trời khuất sau núi phải đến gần mục tiêu, cố ý rẽ ngoặt mấy chỗ tiến vào khu nhà số 8.

Đó là chỗ ở mới của Hoa Quốc Phong, đã từng là nơi ở cũ sang trọng của Xi-ha-núc.

Hoa Quốc Phong đi đi lại lại trong phòng khách rộng lớn, đang nhức óc vì chuyện “bọn bốn tên” phát động cuộc truy bức sau Quốc khánh. Diệp Kiếm Anh đột ngột đến đã xua tan bầu không khí bức bối, chủ nhà phút chốc thấy phấn chấn tinh thần.

“Nhìn thấy tín hiệu mà bọn chúng phát ra chưa?”

Sau khi chủ và khách cùng ngồi, hầu như cùng một lúc cả hai đầu nêu ra vấn đề ấy.

Thế là câu chuyện được bắt đầu từ đây. Diệp Kiếm Anh kể lại toàn bộ tin tức đáng tin cậy mà chính ông nhìn thấy và nghe thấy cũng như các tin tức qua các nguồn khác.

Hoa Quốc Phong tập trung toàn bộ tinh thần lắng nghe, thinh thoảng lại gật đầu, nói xen vào và nói lại tình hình mà mình hiểu cho Diệp Kiếm Anh biết, hai bên trao đổi ý kiến.

“Đồng chí Quốc Phong, xem ra sự phát triển của tình thế, không cho phép chúng ta chờ đợi thêm nữa. Cần phải quyết định ngay!”, “Đúng, vốn theo dự định còn mấy ngày nữa, nhưng e rằng không kịp”.

“Điều mà nhà quân sự tối kỵ là lỡ thời cơ. Bây giờ phải dựa vào tình hình thay đổi sự bố trí trước đây chúng ta phải “đánh trước để áp đảo đối phương, lấy nhanh đánh chậm”! Nếu không sẽ để mất cơ hội tốt, rơi vào thế bị động”. Diệp Kiếm Anh sợ đối phương chưa nghe rõ, lại nhắc lại lần nữa: “Phải lấy nhanh đánh chậm, nhanh đánh chậm!”

Page 118: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Rất rõ ràng, đây là sự bố trí chiến lược mới nhằm đập tan “bọn bốn tên”. Diệp Kiếm Anh đang thúc giục người lãnh đạo chủ yếu này thì thời gian cũng trôi đi nhanh chóng.

Trên mặt Hoa Quốc Phong để lộ nét nghiêm túc, trầm ngâm chốc lát rồi nói: “Diệp soái, đồng chí xem ngày nào ra tay tốt? Xin đồng chí quyết định!”.

“Theo tình hình chuẩn bị của chúng ta, tôi nghĩ chậm nhất là vào ngày kia phải ra tay, đồng chí thấy thế nào?”

“Vậy cứ như thế”. Hoa Quốc Phong vẫn không yên tâm lắm, ông nghĩ đến tình hình cuộc nói chuyện với Uông Đông Hưng cách đây không lâu, nói: “Nhưng không biết chỗ Đông Hưng chuẩn bị ra sao, không biết có kịp không?”

Đang nói thì, thư ký vào báo cáo, Tô Chấn Hoa muốn tới gặp. Diệp Kiếm Anh nghe xong đứng dậy: “Bây giờ tôi đến chỗ Đông Hưng”.

Uông Đông Hưng báo cáo với Diệp Kiếm Anh tình hình thực hiện công tác chuẩn bị. Cuối cùng qua trao đổi khẩn cấp, xác định là hành động vào 8 giờ tối ngày 6 tháng 10, trước thời hạn dự định. “Hội nghị” được Văn phòng Trung ương thông báo trước. Chủ yếu có hai vấn đề cần bàn: 1. Nghiên cứu bản in thử “Tuyển tập Mao Trạch Đông” quyển 5; 2. Nghiên cứu phương án nhà kỷ niệm Mao Chủ tịch và việc sắp xếp nơi ở cũ của Chủ tịch Mao Trạch Đông tại Trung Nam Hải. Theo quy định, các Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị sẽ tham gia, chỉ có Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh và Vương Hồng Văn, Trương Xuân Kiều, còn Diêu Văn Nguyên không phải là ủy viên thường vụ thì làm thế nào? Để cho ông ta tham gia với danh nghĩa là sửa chữa văn kiện, thông báo cho ông ta tham gia hội nghị. Diêu Văn Nguyên không ở Điếu Ngư Đài, ông ta ở trong thành thuộc phạm vi quản lý của khu Vệ Thú Bắc Kinh. Để đề phòng bất trắc, chuẩn bị cả hai tay, thông báo trước cho ông ta đến Hoài Nhân Đường họp. Đưa con cá sấu này đến Trung Nam Hải nhỡ không thành thì sẽ tạm thời thông báo cho lãnh đạo khu Vệ Thú phụ trách giải quyết tại chỗ. Đối với nhân vật đặc biệt Giang Thanh, cùng một số phần tử thuộc bè cánh của chúng, cũng đưa ra phương án xử trí đáng tin cậy.

Để chỉ huy “chiến dịch” cuối cùng giải quyết “bọn bốn tên”, để bảo đảm cho “chiến dịch” này toàn thắng, không xảy ra một sai sót nào, Diệp Kiếm Anh lại về Tây Sơn.

Ở đây, Vương Hồng Văn đang bận chụp ảnh chuẩn nên đã đi từ lâu.

Ở đây, thiết bị chuẩn bị chiến tranh ngầm dưới đất rất nghiêm ngặt và bí mật.

Ở đây đồi núi trập trùng, mây mù bao phủ, còn kín đáo hơn Ngọc Tuyền Sơn.

Ở đây Diệp Kiếm Anh đã gặp gỡ với Phó chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Lương Tất Nghiệp, báo cho Lương Tất Nghiệp biết là gần đây ông đã bàn với Hoa Quốc Phong và một số người khác về tình thế trong nước có phần căng thẳng, cơ quan Tổng cục Chính trị phải đề cao cảnh giác, giữ vững ổn định, đồng thời phải tăng cường giáo dục quản lý bộ đội.

Lương Tất Nghiệp “thằng nhóc đỏ” từ khi còn ở khu Xô viết Trung ương đã quen với Diệp “tham tọa” trong Quân đoàn 1, nhất là trong thời gian công tác ở Cục Chính trị Dã chiến quân thứ 4, thường xuyên gặp Diệp Kiếm Anh và nghe ông chỉ thị.

Hôm nay trong giờ phút then chốt này, ông lại được nghe sự chỉ báo trực tiếp và nhận nhiệm vụ. Hiện nay trên thực tế ông là người chủ trì công tác của Tổng cục Chính trị chịu đủ những đòn kín và ức hiếp của Chủ nhiệm “danh nghĩa” Trương Xuân Kiều, nóng lòng mong muốn gạt bỏ ngay “bọn bốn tên”. Nghe Diệp Kiếm Anh nói ông đã hiểu ý đồ, cảm thấy trách nhiệm vô cùng nặng nề, ngay lập tức ông bày tỏ là sẽ đem hết sức kiên quyết quán triệt chấp hành.

Ở đây Diệp Kiếm Anh lại một lần nữa mời Dương Thành Vũ đến nói chuyện.

Page 119: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Vừa gặp, ông đã quan tâm hỏi thăm tình hình của Nhiếp Vinh Trăn, sau đó nói: “Đồng chí có thể nói với đồng chí Nhiếp Vinh Trăn là đã bàn bạc xong xuôi, mong đồng chí ấy cứ yên tâm”.

Dương Thành Vũ còn muốn hỏi thêm một số chi tiết nữa, nhưng chưa kịp hỏi thì Diệp Kiếm Anh đã đặt ra một loạt câu hỏi:

“Hiện nay cơ quan Tổng Tham mưu thế nào?”

“Việc chuẩn bị chiến đấu của quân đội ra sao?”

“Không có vấn đề gì”. Dương Thành Vũ trả lời một cách rất chắc chắn.

“Đồng chí nên cùng bàn bạc riêng với một số đồng chí đáng tin cậy, nắm chắc ba Tổng cục, Lục quân, Không quân và Biên phòng, nhất thiết phải thực hiện tốt việc chuẩn bị chiến đấu, dù thế nào cũng phải bảo đảm quân đội không có vấn đề”.

Như tiếp nhận mệnh lệnh chiến đấu, Dương Thành Vũ đứng dậy: “Xin Diệp soái yên tâm, quân đội mãi mãi nghe lời Đảng, nghe chỉ huy của Quân ủy!”.

Ở đây, Diệp Kiếm Anh đã cầm điện thoại đích thân nói chuyện với cấp dưới đáng tin cậy có liên quan đến công việc.

Một người lãnh đạo Không quân, đêm khuya trong phòng ngủ đột ngột nhận được điện thoại của Diệp Kiếm Anh, nghe giọng nói thân thiết của ông, đã bày tỏ một cách kiên quyết: “Đề cao cảnh giác, nghe theo mệnh lệnh, phục tùng chi huy”.

13. Ngày 6 tháng 10 ngày tận thế của Vương, Trương, Giang, Diêu

Ngày 6 tháng 10, thứ 4. Trời râm sau chuyển nhiều mây. Sức gió cấp 2 cấp 3. Nhiệt độ cao nhất 180C. Hướng gió bắc chuyển nam. Đây là một ngày bình thường trong cuốn lịch.

Nhưng lịch sử đã chọn cái ngày bình thường này.

Ngày hôm ấy tất cả đều bình thường.

Chủ nhân của ngôi nhà số 9 Ngọc Tuyền Sơn giống như mọi ngày, ngủ dậy ăn sáng, đi dạo, xem báo, đọc sách... tất cả đều tiến hành tuần tự.

10 giờ sáng, các thư ký lên núi lần lượt báo cáo, đưa công văn để phê duyệt. Động thái của Trung ương, của Quân ủy, của các Tổng cục, trong nước và nước ngoài và các bản tin vắn...

Diệp Kiếm Anh rất quan tâm đến động thái quân sự, chăm chú lắng nghe, phê duyệt tỉ mỉ.

Buổi trưa, đến lượt báo cáo về động thái quốc tế của “Teacher” (thầy giáo), Diệp Kiếm Anh vừa ăn cơm vừa nghe. Sau khi ăn, như mọi khi ông lại mời thầy dạy tiếng Anh.

Văn kiện đã xử lý xong, ngoại ngữ cũng đã học, hình như không còn việc gì nữa? Không, Diệp Kiếp Anh còn một việc, một việc kinh thiên động địa! Ông đang đợi điện thoại thông báo. Nhưng chiếc máy điện thoại màu đỏ trên bàn vẫn nằm im phăng phắc. Một tiếng đồng hồ trôi qua, rồi hai tiếng đồng hồ trôi qua...

3 giờ 30 phút, điện thoại đột ngột đổ chuông.

“8 giờ tối, Bộ Chính trị họp Thường vụ, mời Phó Chủ tịch Diệp đến Hoài Nhân Đường trước một tiếng”.

“Mã Đầu” nhận điện thoại, lập tức báo cáo với Diệp Kiếm Anh. “Được, chuẩn bị cho tốt!” Diệp Kiếm Anh hạ lệnh.

Page 120: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Cả buổi chiều, Diệp Kiếm Anh chờ đợi ở nhà số 9, tâm trạng rất không yên, nhưng lại tỏ ra rất bình tĩnh. Đó là sự bình tĩnh trước trận “quyết chiến”! Ông đã sớm nhận được báo cáo của Uông Đông Hưng tất cả đều theo sắp đặt tiến hành bình thường. Kết quả ra sao? Chỉ có thể chờ đợi. Ông nghĩ tới một câu danh ngôn của Na-pô-lê-ông: Sẽ thấy rõ trên chiến trường. Đúng, chỉ vài tiếng đồng hồ nữa sẽ thấy rõ ràng. Đó sẽ là cảnh tượng như thế nào? Kẻ phải đối phó tuy chỉ có mấy người, nhưng nó có liên quan đến hàng trăm triệu nhân dân, quan hệ đến vận mệnh của Đảng và Nhà nước! Mỗi khi nghĩ đến đây, Diệp Kiếm Anh thấy lo lắng, làm sao có thể yên lòng được?

6 giờ 15 phút tối, Diệp Kiếm Anh thay quần áo thường phục màu xám, đem theo cảnh vệ thư ký ung dung xuất phát.

Chiếc xe con nhãn hiệu Hồng Kỳ màu đen, đi ngược với phương mặt trời lặn ở phía Tây Sơn, lao thẳng về phía Trung Nam Hải.

Ráng chiều rọi khắp bầu trời, gió vàng mát rượi. Chiếc xe Hồng Kỳ lao như một mũi tên.

Trên xe, với dáng vẻ nghiêm nghị, Diệp Kiếm Anh nhắc cảnh vệ tham mưu và lái xe Triệu chuẩn bị ứng phó kịp thời. “Mã Đầu” lập tức nắm chặt súng, phát hiện ra rằng tối nay có chút gì đó khác thường, tinh thần có chút căng thẳng, nhưng không biết sẽ xảy ra chuyện gì.

“Trên đường đi, các đồng chí phải lưu tâm để ý, xem có động tĩnh gì không!”

Đôi mắt Diệp Kiếm Anh nhìn thẳng ra ngoài xe nhắc nhở cảnh vệ tham mưu và lái xe Triệu. Xe sắp đến sân bay Tây Giao (sân bay quân sự ở ngoại ô phía tây Bắc Kinh - N.D.), Diệp Kiếm Anh lại nhắc: “Mã Đầu” xem số máy bay trên sân bay có gì thay đổi không?” Lái xe Triệu cho xe chạy chậm, đến nơi, cảnh vệ và thư ký nhẩm đếm từng chiếc báo cáo: “Có 19 chiếc trên sân bay, trước đây vốn có 20 chiếc, nhưng gần đây bị rơi hỏng một chiếc”.

Xe mở hết tốc lực, đi qua Ngũ Khỏa Tùng, lại thấy Diệp Kiếm Anh hỏi: “Có thay đổi gì không? Trước mặt đến Mộc Tê Địa phải đặc biệt chú ý!”.

Vì sao phải chú ý đến Mộc Tê Địa? “Mã Đầu” và lái xe Triệu cảm thấy hơi khó hiểu.

“Không có gì khác thường”.

Diệp Kiếm Anh vươn dài cổ, hai mắt luôn nhìn về phía bắc. Đến đường tiếp giáp với Mộc Tê Địa, lại dặn: “Nhìn kỹ, phía bắc có xe đi tới không?”

“Không thấy”.

Diệp Kiếm Anh thở phào: “Được rồi, chúng ta đi tới phía trước”. Hóa ra “phía bắc” mà ông nói là Điếu Ngư Đài, điều ông quan tâm là xe của Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn có đuổi kịp hoặc vượt qua mình hay không.

Chiếc xe Hồng Kỳ chạy vào đại lộ Tây Trường An, giám tốc độ chạy chầm chậm, tiếp tục quan sát không thấy gì khác thường. Đến Lục Bộ Khẩu thì theo hướng bắc đi thẳng vào cửa tây Trung Nam Hải.

““Mã Đầu” đồng chí am hiểu Hoài Nhân Đường lắm phải không? Gần đây có thay đổi gì không?”

“Mã Đầu” được điều từ Cục Cảnh vệ Trung ương tới, anh rất thuộc Hoài Nhân Đường. Trước đó ít lâu, anh đã đến đây, chẳng thấy gì mới, liền báo cáo vắn tắt cho Diệp Kiếm Anh nghe, nhưng anh vẫn không hiểu vì sao thủ trưởng lại nêu ra vấn đề này.

Đang nói chuyện thì xe đã tới Trung Nam Hải. Trời đêm rất đẹp, trời cũng thuận theo ý người. Đêm thu Trung Nam Hải còn đẹp hơn cả cảnh xuân. Vầng trăng đầu trung tuần tháng 8 xuyên qua đám mây xám soi tỏ cả nhân gian.

Page 121: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Trong giờ phút đẹp đẽ này, ở nơi “đất thánh” trang nghiêm sẽ xảy ra một cuộc chiến đấu đặc biệt ư? Đúng như thế! Trên chiến trường ầm ầm tiếng súng năm ấy. Diệp Kiếm Anh đã từng cùng Mao Trạch Đông, Chu Ân Lai, Chu Đức bày mưu tính kế, quyết thắng ở ngoài ngàn dặm, tối nay lại đích thân ra tiền tuyến. Có điều ông không đem theo thiên binh vạn mã, cũng không chuẩn bị để tiêu diệt đại quân của địch, mà chỉ là để xử trí mấy tên nhãi ranh, trừ hại cho dân, một lần nữa lại đến chiến trường. Đây là một chiến trường rất đặc biệt. Ở đây không có chiến hào, không có tiếng pháo, không có dàn quân của hai bên, nghiêm túc trang trọng, lặng lẽ thanh bình, điện đèn rực rỡ. Dưới ánh trăng mờ ảo chỉ có số ít nhân viên chấp hành nhiệm vụ đặc biệt, đảm nhiệm cảnh vệ. Tất cả đều hài hoà, yên tĩnh, bình thường.

7 giờ tối, chiếc xe Hồng Kỳ mà Diệp Kiếm Anh ngồi dừng trước cửa Hoài Nhân Đường.

Diệp Kiếm Anh xuống xe, nói với các nhân viên tùy tùng: “Các đồng chí không nên đi lại tùy tiện, nghe chỉ huy!”. Ông nhìn tòa Hoài Nhân Đường trang nghiêm lặng lẽ và đi nhanh vào cửa, hai sư tử đá đứng cung kính hai bên cửa vẫn oai phong lẫm liệt, rất sống động.

Nhân viên cảnh vệ đến chào Diệp Kiếm Anh, đồng thời ngăn “Mã Đầu” không cho vào trong. Lúc này các tùy tùng mới cảm thấy tình hình không bình thường. Trên mặt nước hồ lặng lẽ của “Thái Dịch Trì” hơi lăn tăn sóng. Rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì?

Theo lệ thường, tham mưu cảnh vệ cầm cặp tài liệu, phải đưa thủ trưởng vào phòng họp rồi mới ra ngoài. Đây vừa là bảo vệ an toàn cho thủ trưởng cũng là bảo vệ an toàn cho văn kiện. “Mã Đầu” cầm cặp văn kiện màu đen, tiếp tục theo sát thủ trưởng đi vào. Trưởng phòng cảnh vệ đột ngột “ngăn lại”, nói thế nào cũng không cho vào. “Mã Đầu” không biết làm thế nào, đành vội vàng đưa cặp văn kiện cho thủ trưởng. Đang giằng co, Diệp Kiếm Anh sốt ruột, sợ trễ thời gian, buông cặp văn kiện, một mình đi vào. Trưởng phòng cảnh vệ thấy cặp văn kiện rơi xuống đất mới để cho “Mã Đầu” cầm lên, bước nhanh theo Diệp Kiếm Anh, đồng thời nói nhỏ với “Mã Đầu” đưa đến phòng chính thì lập tức ra ngay, đó là kỷ luật.

Diệp Kiếm Anh một mình đến phòng chính Hoài Nhân Đường, Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng đã ở đó. Họ gặp nhau, dùng mắt ra hiệu, không nói năng gì nhiều. Phòng chính Hoài Nhân Đường, đây là bảo điện mà Từ Hy Thái hậu thời Thanh đã dùng rất nhiều bạc trắng xây dựng nên.

Từ khi nước Trung Hoa mới ra đời, đến nay trở thành nơi nghị sự quan trọng của Đảng và Nhà nước, tất cả bàn ghế trong phòng đã được dọn đi hết nên gian phòng trở nên trống trải, chỉ có hai chiếc ghế xa-lông có tựa cao đặt ở giữa gian phòng. Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm Anh đã ngồi ở đó. Giờ phút này Diệp Kiếm Anh nghiễm nhiên là một vị đại tướng quân ngồi chỉ huy, đã có sẵn kế hoạch trong đầu. Uông Đông Hưng và các cảnh vệ nấp phía sau bức bình phong ở giữa phòng theo dõi phía cửa, phụ trách sự an toàn của “Hội nghị”.

Trong phòng chính im phăng phắc. Kim đồng hồ chỉ hướng 8 giờ. Coi như đúng giờ, Trương Xuân Kiều cắp cặp nghênh ngang bước vào. Vừa vào cửa, hình như ông ta cảm thấy sự việc không bình thường, miệng không ngớt hỏi: “Có chuyện gì vậy?” Chỉ một mình Hoa Quốc Phong đứng dậy nghiêm nghị thay mặt Trung ương Đảng tuyên bố với ông ta: “Trương Xuân Kiều, ông đã phạm tội không thể tha thứ”. Tiếp đó đọc quyết định “cách ly để thẩm tra” đã được viết sẵn và lập tức chấp hành ngay, đôi chân Trương Xuân Kiều run rẩy như người sàng gạo, tay sờ lên kính đeo mắt, không có bất cứ một phản ứng gì, nhân viên giám hộ đưa ông ta đến nơi chờ thẩm vấn. Người đến tiếp sau là Vương Hồng Văn. Nhân vật lớn “văn võ toàn tài” này từ trên chiếc xe hơi sang trọng đậu ngoài cửa Hoài Nhân Đường bước xuống, hai tay đút túi áo, vênh váo tự đắc bước vào cửa. Ngoài dự đoán của anh ta, một người phụ trách của tổ hành động dẫn mấy vệ sĩ từ phía bên đi tới. Tên lưu manh chính trị thấy tình hình không bình thường, lập tức lên mặt Phó Chủ tịch Trung ương Đảng, nói với giọng nghiêm khắc: “Tôi đến họp, các anh muốn gì?” Tiếp đó dùng ngay sức lực toàn thân của vị tư lệnh phái tạo phản, tay đấm chân đá, liều chết chống cự, nhưng cuộc đấu võ của anh ta xem ra không phải con nhà nghề, nên nhanh

Page 122: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

chóng bị khống chế. Lần này “lực lượng vũ trang thứ 2” và bọn đàn em ở Thượng Hải không giúp được một chút gì cho “tư lệnh”, quả là đáng tiếc! Các nhân viên cảnh vệ đưa anh ta vào phòng chính. Từ chỗ cách đó mấy mét, anh ta nhìn thấy Hoa Quốc Phong, Diệp Kiếm Anh đang ngồi ở đó, dự cảm thấy ngày tận số đã đến, hai mắt anh ta bắn ra nhiều tia lửa căm hờn, như một con mãnh thú điên cuồng lao đến. Nhân viên cảnh vệ đẩy anh ta ngã xuống đất. Đợi lúc anh ta bò dậy, đại khái là đã tỉnh lại từ giấc mộng tít trời xanh, mất hết uy thế, đành ngoan ngoãn đứng đó nghe Hoa Quốc Phong tuyên bố tội trạng và quyết định “cách ly để thẩm tra”.

Đối với tên nhãi ranh vô lại, kẻ đầu cơ chính trị, Diệp Kiếm Anh chỉ có thể nhìn với con mắt khinh ghét còn biết nói gì được! Nhưng cho đến lúc này, bọn chống Đảng chống chủ nghĩa xã hội vẫn không chịu thua. Vương Hồng Văn chỉ hối hận một điều đó là đã “ra tay” muộn, nếu sớm một bước thì màn kịch ở Hoài Nhân Đường hôm nay sẽ đảo ngược lại, người đóng vai chính ở đây là chính anh ta mà không phải là người khác. Lúc anh ta bị dẫn đi chờ thẩm vấn rời khỏi phòng chính, nhân viên cảnh vệ nghe thấy anh ta khe khẽ than thở: “Không ngờ lại nhanh đến thế!”. Đáng tiếc, đến bước này thì nhanh cũng thế mà chậm cũng thế, đối với anh ta chẳng ăn thua gì nữa. Điều này chỉ có thể chứng minh ngược lại một chân lý, đó chính là dùng phương châm chiến lược “lấy nhanh đánh chậm” để đối phó với chúng là thích hợp và chính xác biết nhường nào.

Lúc đưa Trương Xuân Kiều và Vương Hồng Văn đi, kim đồng hồ đã chỉ 8 giờ 15 phút.

Vẫn chưa thấy Diêu Văn Nguyên đến. “Con cá sấu” vì sao chưa mắc câu? Những người ngồi đợi trong phòng chính thấy sốt ruột. Phải chăng khu Vệ Thú đã giải quyết rồi? Hay là các mặt khác đã xảy ra trở ngại gì? Sự việc không thể chậm trễ, tạm thời quyết định gọi điện thoại lại thông báo cho Diêu Văn Nguyên đến họp. “Mời” ông ta nhanh chóng đến Hoài Nhân Đường dự họp Thường vụ Bộ Chính trị...

Thực ra, Diêu Văn Nguyên đã sớm muốn đến họp, “vị đại bút” này của “bọn bốn tên” đã ngứa tay từ lâu rồi. Từ sau khi tung ra “kiệt tác”: “Mãi mãi làm theo phương châm đã định của Mao Chủ tịch”, ông ta dương dương tự đắc, trong một bài viết khác quan trọng hơn do ông ta sửa chữa ba lần và trên đó có ghi: In trang đầu “Nhân dân nhật báo” số ra ngày 9 tháng 10. Hôm nay là ngày 6, ông ta đương chờ đợi mọi người thưởng thức “kiệt tác” này. Hôm nay đến chậm rốt cuộc là có “trở ngại” ở chỗ nào; cũng chẳng cần truy cứu ông ta nhận được điện thoại, miệng văng tục: “Làm cái chó gì, kéo dài mãi không họp, đáng lẽ phải họp từ lâu rồi!”. Miệng thì nói như vậy nhưng trong lòng lại càng vội. Cái đầu hói của ông ta, thông thường khi ra ngoài, đều phải đội mũ, nhưng hôm nay nghe nói mời ông ta họp, vội quá nên đã quên không đội, cũng quên cả gọi cảnh vệ chỉ cắp chiếc cặp chạy ù lên xe, vội vội vàng vàng đến Trung Nam Hải.

Ơn trời ơn đất! Tự xưng là “vua không vương miện” Văn Nguyên cuối cùng đã xuất hiện ở Hoài Nhân Đường. Không biết có phải vì ông ta đến muộn mà “bị phạt” hay vì nguyên nhân gì, nên đã xử trí hạ một cấp đối với ông ta: Thứ nhất: Không để ông ta vào phòng chính mà chỉ ở phòng đợi lớn tại hành lang phía đông chờ lệnh. Thứ hai, không do Hoa Quốc Phong tuyên bố quyết định “cách ly thẩm tra” mà là qua thỉnh thị, do một Cục phó Cục Cảnh vệ Trung ương tuyên bố. Đến khi Diêu Văn Nguyên nghe “quyết định” vỡ lẽ là chuyện gì thì cái “gậy vàng” lập tức mềm nhũn, gục đổ xuống đất. Không biết làm thế nào, một người phụ trách tổ hành động đành dẫn mấy vệ sĩ vực ông ta dậy rồi đưa đến nơi phải đến.

Tên bồi bút trà trộn vào văn đàn Trung Quốc này thật xứng đáng là đứa con trai của tên phản bội, tên đặc vụ Diêu Liên Tử và là đứa con nuôi của tên đầu sỏ đặc vụ Quốc dân Đảng Từ Ân Tăng đã từng cúc cung tận tuỵ phục vụ cho hai tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu và Giang Thanh bao nhiêu năm nay, là kẻ nổ súng và tổ chức dư luận phản cách mạng.

Trong nhật ký của ông ta đã từng bày tỏ với Giang Thanh: dùng “cái gậy” của ông ta để “tham chiến 10 năm” quét sạch tất cả! Đây là hung thủ luôn “dùng dao mềm” để giết người. Xét

Page 123: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

cho cùng thì ông ta là một văn nhân, “cái đầu điện tử” của ông ta cũng rất linh nghiệm: đủ 10 năm kết thúc cuộc đời hai tay buông xuôi!

Đúng lúc “hội nghị” ở Hoài Nhân Đường khẩn trương, thì một tổ hành động chấp hành nhiệm vụ như vậy tới phòng 201 Vạn Tư Lang ở Trung Nam Hải. Có một điểm khác là tổ này đặc biệt được sắp xếp có hai nữ cảnh vệ.

“Vị nữ hoàng” sống trong cung điện hào hoa, mấy hôm nay chuẩn bị lễ “lên ngôi”, thực quả là quá bận, quá phấn chấn và cũng quá mệt. Lúc này bà ta mặc bộ đồ ngủ bằng lụa, dựa vào xa-lông dài bọc bằng vải mỏng, vừa xem băng ghi hình nhập ngoại vừa giở một tập “bản in thử” dày về tình hình vừa đưa đến hôm nay, dương dương tự đắc, chìm đắm trong giấc mộng nữ hoàng đẹp đẽ.

Đột nhiên, mấy vị khách không mời mà đến không xin phép, xuất hiện trong gian phòng rộng sang trọng.

“Nữ hoàng” liếc mắt ra phía cửa, dò xét mấy người khách, nói gay gắt: “Các anh làm cái gì?”

Có điều, thần uy của bà ta lúc này không hiệu nghiệm nữa. Một vị Phó Chủ nhiệm Văn phòng Trung ương phụ trách tổ hành động và một cán bộ khác dẫn mấy cảnh vệ đã vào trong phòng, đọc quyết định “cách ly để thẩm tra” cho bà ta nghe.

Chẳng đợi đọc hết, “nữ hoàng” phút chốc đã hiểu ra chuyện gì, bỗng đứng bật dậy cao giọng quát: “Các người ra ngay!” Tiếp đó gọi liên tục: “Người đâu! Người đâu! Các người ở đâu?”

Nhưng mụ cô độc cô quả, từng tác oai tác quái đã bị mọi người xa lánh, tất cả những nhân viên công tác ở 201 đã bỏ mặc bà ta. Mặt “nữ hoàng” tái mét, phút chốc nằm lăn ra đất gào khóc: “Xác Chủ tịch còn chưa lạnh”...

Quả thực nhân viên tổ hành động chẳng có lòng dạ nào để thưởng thức cái trò khôi hài: “Giấc mộng kinh hoàng trên long sàng” này nên đã mời bà ta nhanh chóng chấm dứt và thay đổi chỗ ở khác. “Nữ hoàng” không thể không rời khỏi “ngôi báu” đi theo nhân viên cảnh vệ đến nơi bà ta phải đến. Các nhân viên phục vụ hàng ngày phải chịu đựng tính khí xấu xa của “mụ yêu tinh” lúc này trừng mắt thở phào, vỗ tay thích thú, người nhổ nước bọt, người ném giấy tống tiễn ôn thần!

Đến đây, Trung ương Đảng đứng đầu là Hoa Quốc Phong và Diệp Kiếm Anh không mất một viên đạn, không đổ một giọt máu đã đập tan được “bọn bốn tên”.

3

Mười cái cũi sắt giam tù bộ mặt xấu xa lộ rõ

Lịch sử phán xét thẳng thừng tội chết vẫn còn dư

1. Trại giam Tần Thành

Ở huyện Xương Bình ngoại ô Bắc Kinh có một kiến trúc kiểu thành cổ nhỏ rất đặc biệt. Hai cánh cửa sắt nặng nề vẫn thường đóng chặt, một hàng gạch xám xây vòm cửa càng làm cho nó thêm uy nghiêm. Bốn chung quanh cảnh vệ gác nghiêm ngặt, thiết bị đề phòng đầy đủ.

Đó là trại giam Tần Thành nổi tiếng ở Trung Quốc, nổi tiếng bởi là nơi giam những phạm nhân đặc biệt nặng. Hiện nay trại giam Tần Thành là nơi giam những thủ phạm chính của hai tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, Giang Thanh.

Page 124: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Nhưng từ năm 1967 đến năm 1971, trại giam nổi tiếng được coi là nhà ngục mẫu mực này đã trở thành nơi diễn ra những thảm kịch lịch sử. Ngô Pháp Hiến một trong những thủ phạm chính của tập đoàn Lâm Bưu từng là uỷ viên Trung ương Đảng, Tư lệnh Không quân, là người phụ trách trại giam này. Theo thống kê, trại giam này đã từng giam hơn 500 cán bộ cao cấp, trong đó có 30 người bị đánh đến chết, hơn 30 người bị hành hạ làm cho thần kinh không bình thường, còn hơn 30 người bị đánh thành thương tật.

Lịch sử quả thực có lúc làm cho người ta không thể hiểu. Ngô Pháp Hiến nằm mơ cũng không thể nghĩ là mấy năm sau mình sẽ vào nơi này.

Sau “sự kiện 13 tháng 9” năm 1971, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khâu Hội Tác bị bắt, đầu tiên họ bị giam tại một doanh trại quân đội ở huyện Thuận Nghĩa, Bắc Kinh, tháng 12 năm 1976, bị giải đến giam tại trại giam Tần Thành. Bây giờ Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên cũng bị giải đến giam ở đây. Ít lâu sau, mấy chục phạm nhân của “hai án” cũng lần lượt được đưa vào đây.

Chế độ của trại giam Tần Thành rất nghiêm khắc, mặc dù nhà giam đã được thông báo trước đưa phạm nhân ra thẩm vấn, nhưng vẫn được nghiêm khắc kiểm tra từng ly từng tý. Các sĩ quan tổ dự thẩm hai án khi bước xuống xe phải trình chứng minh thư cho phòng trực ban. Sau khi kiểm tra xác minh, mới thông báo cho cảnh vệ đưa phạm nhân ra. Tổ dự thẩm không được phép vào trong ngục, chỉ có thể đợi tại phòng thẩm vấn được thiết bị riêng. Người được dự thẩm viên đưa ra hỏi đầu tiên là Hoàng Vĩnh Thắng. Hoàng Vĩnh Thắng vẫn tỏ ra ngạo mạn không coi ai ra gì, không thèm để ý đến người sĩ quan thẩm vấn ông ta, tính cách như thầy phù thuỷ, hơn nữa còn quát tháo: “Trại giam của Đảng Cộng sản là để giam phản cách mạng, không phải là nơi giam những cán bộ cao cấp quân đội đã từng đổ máu để chiến đấu. Các anh về đưa cho Trung ương...”

Hoàng Vĩnh Thắng không những có tài năng quyết đoán quân sự nhất định, cũng là tay già đời trong chính trị... Đứng trước tổ dự thẩm hai án, nhiều lần ông ta mưu đồ quy tất cả mọi tội lỗi mà ông ta đã phạm trong cách mạng văn hóa cho vấn đề đường lối. Ông ta hiểu rất rõ, nếu chỉ là sai lầm về vấn đề “đường lối” chưa biết chừng sẽ có ngày có thời cơ trở lại!

Lý Tác Bằng không ngoan cố như Hoàng Vĩnh Thắng nhưng cũng gắng gượng một hồi rồi mới chịu nhận tội.

Ngô Pháp Hiến ở trong trại giam rất khôn khéo, vào cửa là kêu “báo cáo”, gặp ai là gọi “thủ trưởng”, trong tất cả các thành viên của tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, ông ta là một kẻ có thái độ tốt nhất.

Khâu Hội Tác cũng giở trò giống như Hoàng Vĩnh Thắng, cứ nói vòng vo với dự thẩm viên, tìm mọi cách để nói tội ác của mình là phạm sai lầm. Có điều, rất nhanh chóng thực thà bộc lộ hết tội lỗi của mình, đồng thời viết rõ từng ly từng tý những việc xấu xa, kể những tội ác tàn bạo nhất mà ông ta đã làm.

Trong thành viên “Hạm đội liên hợp” của Lâm Lập Quả, Giang Đằng Giao, Lý Vĩ Tín thừa nhận mình có tội, Vương Duy Quốc, Trần Lệ Vân v. v... gồm 12 bị cáo cũng thừa nhận mình có tội, nhưng lại nhấn mạnh bị mắc mưu Lâm Bưu, hơn nữa còn khóc vì hối hận. Vương Phi khi ký vào lệnh bắt thần kinh đã bất thường, ngây ngây ngô ngô không nói được một lời.

Đến đây, toàn bộ tội ác của tập đoàn Lâm Bưu đã điều tra rõ ràng, gồm hơn 630 bản chứng cứ. Tội ác của tập đoàn phản cách mạng Giang Thanh cũng cơ bản điều tra rõ ràng.

2. Bố trí xét xử hai án

Page 125: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngày 3 tháng 9 năm 1979, Đặng Tiểu Bình rời phòng làm việc, đi đến phòng họp để họp Thường vụ Trung ương, chuẩn bị cùng các ủy viên thường vụ khác nghe tổ trưởng Tổ “hai án” Trung ương, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Hồ Diệu Bang báo cáo về việc xét xử “hai án”.

“Hai án” tức là án của tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, và án của tập đoàn phản cách mạng Giang Thanh. Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 của Đảng Cộng sản Trung Quốc họp vào tháng 12 năm 1978 rất coi trọng việc xây dựng pháp chế, dân chủ. Tai hại lớn của cách mạng văn hóa trong 10 năm đem lại bài học đau đớn, bất chấp đạo trời phép nước, quá sâu sắc. Nhân dân Trung Quốc đã phải chịu nhiều tai họa đang đòi hỏi dân chủ và pháp chế. Hội nghị Trung ương 3 khóa 11, đã thuận theo yêu cầu của nhân dân. Tuyên bố một cách trang nghiêm: Để bảo đảm dân chủ cho nhân dân, cần phải tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, làm cho dân chủ được chế độ hóa, pháp luật hóa, làm cho uy quyền của chế độ và pháp luật này ổn định, liên tục và lớn nhất. Hội nghị Trung ương đã đề nghị tới Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc và ủy ban Thường vụ Quốc hội, nên đưa công tác lập pháp vào chương trình nghị sự, hoàn thiện các bộ luật, làm cho mọi người có thể dựa vào pháp luật.

Theo tinh thần của Hội nghị Trung ương 3 khóa 11, Trung ương quyết định nghiêm khắc xét xử theo trình tự pháp luật đối với vụ án tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu và tập đoàn phản cách mạng Giang Thanh, kiên quyết xóa bỏ phương thức xây dựng bản án của tổ chuyên án tách rời sự giám sát của Đảng và nhân dân, tách rời trình tự pháp luật trong đại cách mạng văn hoá. Do các phạm nhân chủ yếu của “hai án” này đều từng giữ chức vụ cao cấp trong Đảng, cho nên Trung ương đã chỉ định ủy ban Kiểm tra kỷ luật Trung ương vừa được thành lập tiến hành thanh lý và thẩm tra hai án này trước. Vì thế, Trung ương thành lập riêng hai tổ xét xử hai án, Tổ trưởng do Hồ Diêu Bang, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Đảng đảm nhiệm.

Qua 9 tháng làm việc, Hồ Diệu Bang đã có thể báo cáo tình hình xét xử hai án cho Thường vụ Bộ Chính trị Trung ương Đảng. Sau khi báo cáo xong, các ủy viên thường vụ đều nhìn về phía Đặng Tiểu Bình mời ông cho ý kiến.

Đặng Tiểu Bình vừa hút thuốc vừa nói ý kiến của mình: “Trong những người phải định hình phạt thì tội ác lớn nhất phải phạt tù chung thân, định hình phạt bao nhiêu, phạt mấy người, phải xem tội lỗi. Hoàng, Ngô, Lý, Khâu, riêng Trần Bá Đạt có thể coi là một án. Vương, Trương, Giang, Diêu làm một án. Coi nó là án của tập đoàn cướp quyền lãnh đạo của Đảng, âm mưu chính biến để xử lý; không định hình phạt cho từng người, mà theo tập đoàn, bản cáo trạng viết những tội lỗi của chúng. Lúc xét xử, tội ác của chúng định là tội ác hại nước hại dân là được, những tội ác nhỏ khác không nhất thiết phải kể chi tiết. Không có tội nhỏ mà là ở tội hại dân hại nước, âm mưu chính biến, cướp quyền của Đảng”.

Chủ tịch Đảng Hoa Quốc Phong chủ trì hội nghị lo lắng nói: “Khi xét xử, những người này có thể quấy rối. Ví dụ Giang Thanh, bà ta nói với anh là Mao Chủ tịch nói hoặc đấy là ai nói. Thậm chí có thể công kích một số đồng chí Trung ương”. Đặng Tiểu Bình nói một cách dứt khoát: “Giang Thanh cãi liều, có thể viết cụ thể là bà ta đã làm tổn hại đến Mao Chủ tịch như thế nào”.

Thường vụ Bộ Chính trị còn nghiên cứu một số vấn đề sẽ gặp phải khi xét xử, sắp xếp việc xét xử đối với hai án.

Sau hội nghị này, việc thanh lý và xét xử đối với hai án được đẩy nhanh rất nhiều. Sau khi điều tra xét hỏi kết thúc, ngày 28 tháng 9 năm 1980, Hội nghị lần thứ 16 của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc khóa 5 đã quyết định: xét xử thủ phạm chính là hai tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu và Giang Thanh. Hội nghị dựa vào kiến nghị của Tòa án Nhân dân tối cao và Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao “Quyết định thành lập Cục Kiểm sát Đặc biệt thuộc Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao và Tòa án Đặc biệt thuộc Tòa án Nhân dân tối cao xét xử tội phạm chủ yếu của tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, Giang Thanh”. Bổ nhiệm Viện trưởng Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao Hoàng Hỏa Thanh kiêm Cục trưởng Cục Kiểm sát đặc biệt; Chánh án Tòa án

Page 126: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Nhân dân tối cao kiêm Chánh án Tòa án Đặc biệt. Quyết định Tòa án đặc biệt lập hai tòa xét xử: Bổ nhiệm Tăng Hán Chu làm Thẩm phán trưởng Tòa xét xử thứ nhất, Ngũ Tu Quyền làm Thẩm phán trưởng Tòa xét xử thứ hai. Quyết định phán quyết của Tòa án Đặc biệt là phán quyết chung thẩm.

Cuộc xét xử thủ phạm chính của tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu Giang Thanh bắt đầu.

3. Đội xe áp giải rầm rộ.

Chiều ngày 18 tháng 11 năm 1980, một đoàn xe gồm 16 chiếc rầm rộ chạy về hướng tây bắc thành Bắc Kinh, trên đường đi qua các ngã tư đều là đèn xanh. Cách một đoạn lại thấy cảnh vệ hoặc bộ đội vũ trang đứng bên đường.

8 giờ tối, với sự bảo vệ nghiêm ngặt, đoàn xe chạy tới một kiến trúc kiểu thành cổ nhỏ ở huyện Xương Bình.

Sau khi làm xong thủ tục, đoàn xe đi vào trại giam. Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Khâu Hội Tác, Lý Tác Bằng đã ăn xong cơm tối, nhận được mệnh lệnh ra tòa họ thu dọn một số đồ dùng cá nhân và thay quần áo rồi lên xe.

Đội xe ra khỏi trại giam, chạy về hướng thành phố với tốc độ 50 km/giờ. Xe dẫn đường đi trước, xe chỉ huy ở giữa, đi cuối cùng là hai xe: một xe cơ động và một xe cấp cứu, xe của Hoàng, Ngô, Khâu, Lý ngồi đi phía trước và phía sau xe chỉ huy, mỗi tốp xe trước và sau có một xe cảnh giới.

Đội xe qua Sa Hà, Thanh Hà, Trung Quan Thôn, đi thẳng vào thành, trên đường toàn đèn xanh, dọc đường tiêu binh xếp thành hai hàng cảnh giới. Xe cảnh sát và xe quân dụng chở bộ đội vũ trang đỗ trên những đoạn đường quan trọng, bất kỳ lúc nào cũng có thể hành động. Xe tuần tra bật đèn cảnh báo, kéo còi suốt dọc đường đi. Tướng Đồ Môn chỉ huy áp giải can phạm ngồi trên xe chỉ huy, hết sức chăm chú chỉ huy đội xe hành tiến. 8 giờ 35 phút tối, đội xe đến Học viện Không quân ở Tây Giao an toàn, Tướng Đồ Môn cho điện đài báo tín hiệu “đến mực tiêu an toàn”, việc áp giải đã kết thúc thắng lợi.

Học viện Không quân nằm cách xa trung tâm thành phố, tiện cho việc cảnh giới, vì thế được chọn làm nơi mở phiên tòa xét xử thứ hai của Tòa án Đặc biệt. Tòa được mở trong lễ đường lớn của Học viện. Để bảo đảm an toàn, trước đó ba tòa nhà lễ đường, nơi giam phạm nhân và nhà ở của nhân viên công tác đã được kiểm tra tỉ mỉ nghiêm ngặt, sau đó tiêu binh vũ trang phong tỏa mấy tòa nhà này cùng toàn bộ khu doanh trại. Một đơn vị bộ đội vũ trang tinh nhuệ đi vào, nhiệm vụ của họ là bảo vệ công tác xử án, ngăn chặn việc cướp phạm nhân, đồng thời sẵn sàng chuẩn bị xử lý các sự biến bất ngờ.

Ngày hôm sau, sau khi ăn cơm chiều, Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khâu Hội Tác và sau này thêm Giang Đằng Giao được đưa từ trại giam Tần Thành đến bằng hai chiếc xe con của cảnh vệ vũ trang, họ được đưa đến một ngôi nhà hẻo lánh ở trung tâm thành Bắc Kinh. Một lúc sau đội xe vũ trang cũng đưa Giang Thanh, Trương Xuân Kiều, Diêu Văn Nguyên, Vương Hồng Văn, Trần Bá Đạt cùng đến ngôi nhà này.

Sau khi 10 phạm nhân xuống xe, bị cảnh vệ vũ trang dẫn vào ngôi nhà nhỏ. Cửa ngoài của ngôi nhà có gắn số 1A phố Chính Nghĩa là một ngôi nhà của Bộ Công an Trung Quốc. Tòa án đặc biệt xét xử hai án được lập trong Hội trường của khu nhà này.

4. Trong phiên xử án lịch sử

Page 127: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngày hôm ấy, cũng là ngày 20 tháng 11 năm 1980, vào hai giờ chiều, những người tới nghe xử án giơ tấm thẻ dự thính do Tòa án Đặc biệt cấp lần lượt vào hội trường và ngồi vào ghế dự thính, lúc này họ mới có dịp chú ý nhìn hội trường được bố trí rất trang nghiêm. Chiếc phông vải trên đài chủ tọa phiên tòa treo một tấm quốc huy lớn, dưới quốc huy là các dãy bàn và ghế xếp thành bậc đủ cho 60 người ngồi. Dưới đài Chủ tịch gần nơi bố trí dàn nhạc đặt mười ô rào sắt, đây là ghế bị cáo.

Trong hội trường vang lên tiếng chuông báo giờ xử án, mọi người phút chốc im lặng. Một lúc sau lại vang lên một hồi chuông dài, hồi chuông vừa dứt thì các vị quan tòa và kiểm soát ăn mặc đồng phục bước vào đài chủ toạ, lần lượt ngồi xuống ghế, trang phục hai màu của họ làm cho đoàn chủ tọa phân làm hai: nửa bên phải là Kiểm sát, nửa bên trái là Tòa án, thư ký tòa và luật sư bào chữa ngồi ở nơi thấp hơn đoàn chủ tọa và hai bên cánh gà.

2 giờ 56 phút chiều, Chánh án Tòa án Đặc biệt Giang Hoa, trịnh trọng tuyên bố: “Phiên tòa bắt đầu”.

Lúc này, Tòa án đặc biệt im phăng phắc, nét mặt mọi người đều tỏ ra nghiêm túc trịnh trọng.

Tiếp đó Giang Hoa ra lệnh: “Đưa bị cáo Vương Hồng Văn vào tòa! Nhân viên thư ký đưa phiếu áp giải cho cảnh sát tòa án, cảnh sát tòa án lập tức đến phòng đợi ra xét xử, áp giải Vương Hồng Văn, đi dọc theo hành lang dài của những người dự thính đưa bị cáo vào một ô rào sắt, đứng đối diện với đoàn chủ tọa phiên toà, tiếp đó theo lệnh của Giang Hoa, 10 phạm nhân chủ yếu lần lượt bị đưa ra tòa đứng trên ghế bị cáo.

Mỗi khi dẫn một bị cáo vào phòng xét xử, mọi người đều ngoái đầu nhìn những can phạm bị cảnh sát tòa án giữ hai tay đưa vào. Những người này đều là những nhân vật đã từng làm mưa làm gió trên vũ đài chính trị, đã làm đủ mọi điều xấu trong cách mạng văn hoá. Hôm nay chúng bị đưa ra xét xử trước toà, là một việc rất đáng mừng. Ngoài ra, những người này đã mất hút trên đài, trên báo, trên ti vi từ lâu, mọi người đều muốn xem hôm nay họ như thế nào.

Ngoài việc không còn vẻ ngạo mạn và hơi có vẻ già đi so với trước đây, mười phạm nhân hầu như không có gì thay đổi. Họ mặc bộ quân phục ka-ki mới (tất nhiên không có quân hiệu và phù hiệu), vẻ mặt hồng hào, tóc đen nhánh, trên ghế bị cáo, vẫn thỉnh thoảng lấy tay gạt mái tóc của mình.

Có lẽ do cuộc sống quân đội mấy chục năm nên Hoàng, Ngô, Lý, Khâu đứng thẳng hơn các bị can khác. Đến khi Giang Hoa ra lệnh cho họ ngồi xuống, họ mới ngồi vào ghế của mình.

Giang Hoa lớn tiếng đọc quyết định thành lập Tòa án Đặc biệt thuộc Tòa án Nhân dân tối cao của Đại hội Đại biểu nhân dân toàn quốc họp lần thứ 16 khóa 5 về việc xét xử những can phạm chủ yếu của hai tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu và Giang Thanh.

Theo trình tự pháp luật Giang Hoa đọc danh sách những người tham gia xét xử và mời Cục trưởng Cục Kiểm sát đặc biệt thuộc Viện Kiểm sát Nhân dân tối cao đọc bản cáo trạng.

Bản cáo trạng gồm 48 điều. Hoàng Hỏa Thanh đọc 23 điều, tiếp đó Phó Cục trưởng Cục Kiểm sát Đặc biệt Sử Tiến Tiền đọc tiếp 25 điều còn lại. Tiếp đó, Hoàng Hỏa Thanh nhận bản cáo trạng, tuyên đọc danh sách mười bị cáo, đồng thời nói rõ những thủ phạm chính của tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu và Giang Thanh như Lâm Bưu, Khang Sinh, Tạ Phú Trị, Diệp Quần, Lâm Lập Quả, Chu Vũ Trì đã chết, theo “Luật tố tụng hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, điều thứ 11 mục 5 quy định”, không truy cứu trách nhiệm hình sự nữa, những can phạm khác trong án này sẽ xử lý riêng.

Sau đó Giang Hoa tuyên bố: “Đối với 10 bị cáo trong án này, do Tòa xét xử thứ nhất và Tòa xét xử thứ hai xét xử riêng. Các bị cáo trong quá trình xét xử cần nghe theo sự chỉ huy của

Page 128: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

tòa, không được làm trái quy định của tòa. Các bị cáo có quyền biện hộ và nói lời cuối cùng, đưa bị cáo ra ngoài, tòa nghỉ”.

Hoàng, Ngô, Lý, Khâu, Giang (Đàng Giao) bị đưa trở lại Học viện Không quân. Vương, Trương, Trần, Diêu bị đưa về nơi tạm giam trong thành, Giang Thanh bị đưa về trạm giam Tần Thành.

Từ ngày 20 tháng 11, Tòa án Đặc biệt được mở đến nay trải qua gần một tháng thẩm vấn, bước vào biện luận tại tòa. Thời gian này mọi người đều có thể nhìn thấy mười thủ phạm chính biểu diễn, trong đó Giang Thanh và Trương Xuân Kiều tỏ ra rất điên cuồng cãi lại trong phiên tòa. Trương Xuân Kiều nghiến răng nghiến lợi, không nói một lời, còn Giang Thanh thì kêu gào ầm ĩ trong công đường.

5. Tội ác tầy trời trúc rừng không ghi hết tội

Ngày 24 tháng 12, Tòa xét xử thứ nhất thuộc Tòa án Đặc biệt được mở vào 9 giờ sáng, tiến hành biện luận tại tòa. Chủ tịch xét xử Tăng Hán Chu chủ trì cuộc biện luận tại toà, tuyên bố phiên tòa bắt đầu và ra lệnh đưa Giang Thanh vào phòng xét xử. Mấy nữ cảnh sát tòa án và nam cảnh sát tòa án đưa Giang Thanh vào. Tăng Hán Chu tuyên bố: “Cục Kiểm sát Đặc biệt thuộc viện Kiểm sát Nhân dân tối cao đã tố cáo sự thực phạm tội của bị cáo Giang Thanh, bản Tòa vào các ngày 26 tháng 11, ngày 3, 5, 9, 12 và sáng ngày 23 tháng 12, đã lần lượt mở sáu phiên, bây giờ tiến hành biện luận tại toà”.

Kiểm sát viên Giang Văn giơ tay: “Thưa vị Chủ tịch Hội đồng xét xử, thưa các vị thẩm phán, Công tố viên xin phát biểu”. Tăng Hán Chu nói: “Công tố viên có thể phát biểu”.

Giang Văn nhìn tờ cáo trạng dài dằng dặc, một lần nữa tố cáo Giang Thanh: “Tội ác tiếm đoạt Đảng và Nhà nước lật đổ chính quyền chuyên chính vô sản mà bị cáo Giang Thanh đã phạm phải trong thời kỳ đại cách mạng văn hóa, trải qua sáu phiên tòa điều tra, đã tiến hành thẩm vấn đối với bị cáo, đã trình và tuyên đọc các chứng cứ, lời làm chứng, nghe người làm chứng trình bày tại tòa, hoàn toàn chứng thực sự tố cáo của Cục Kiểm sát Đặc biệt đối với tội phản cách mạng của Giang Thanh là đích xác không có nghi ngờ. Giang Thanh là tội phạm chính của tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu - Giang Thanh, là kẻ cầm đầu tập đoàn phản cách mạng “bọn bốn tên”.

Hiện nay, qua điều tra có thể xác định tội chủ yếu của bị cáo Giang Thanh là: thứ nhất, Giang Thanh cùng Khang Sinh, Tạ Phú Trị v.v... đã vu cáo hãm hại Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa Lưu Thiếu Kỳ gây nên vụ án oan lớn nhất trong cả nước. Thứ hai, Giang Thanh cố tình chỉ tên hãm hại hàng loạt cán bộ lãnh đạo và quần chúng của Đảng, chính quyền và quân đội. Thứ ba, trong thời gian đại cách mạng văn hoá, Giang Thanh câu kết với Lâm Bưu tiến hành rất nhiều hoạt động phản cách mạng...

Trong đại cách mạng văn hóa Giang Thanh đã câu kết với Lâm Bưu, bức hại đến chết Hạ Long, Bành Đức Hoài, Trương Văn Thiên, Vương Gia Tường, Lưu Thiếu Kỳ v.v... một loạt vị nguyên lão. Nhiệm Bá Thời mất từ khi mới thành lập nước, Nguyên soái La Vinh Hoàn mất trước đại cách mạng văn hóa, nhưng gia đình họ vẫn bị Giang Thanh bức hại. Chu Ân Lai, Trần Nghị trên thực tế cũng bị Giang Thanh bức hại đến chết. Sự bức hại điên cuồng cũng đổ xuống đầu Mao Trạch Đông, sau khi Mao Ngạn Anh hy sinh, vợ Mao Ngạn Anh là Lưu Tư Tề 10 năm không lấy ai, Mao Trạch Đông luôn khuyên cô tái giá, đồng thời còn đích thân nhờ người giới thiệu đối tượng cho Tư Tề.

Page 129: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Lúc ấy, Phó Tư lệnh Không quân Lưu Chấn, giới thiệu với Mao Trạch Đông giáo viên Phòng Nghiên cứu máy bay cường kích thuộc Học viện Không quân là Dương Mậu Chi. Mao Trạch Đông cử người đến tìm hiểu, được biết Dương Mậu Chi xuất thân nhà nghèo, thực thà đứng đắn liền giới thiệu cho Lưu Tư Tề. Lưu Tư Tề không muốn tiếp tục để cha lo lắng vì mình, lại thêm thân thể Dương Mậu Chi cao lớn, dáng vẻ đàng hoàng, họ đã từng gặp nhau một lần ở Liên Xô, nên đã đồng ý. Tháng 2 năm 1962, hai người kết hôn, sau khi cưới, Dương Mậu Chi thường cùng Lưu Tùng Lâm (Tư Tề đổi tên) đến thăm Mao Trạch Đông, Mao Trạch Đông rất vui vì con đã có gia đình.

Trong đại cách mạng văn hóa Dương Mậu Chi và Lưu Tùng Lâm bị Giang Thanh bức hại bắt giam trong tù. Sau khi Mao Trạch Đông biết đã nổi giận, lập tức ra lệnh thả hai người.

Những người bình thường bị Giang Thanh bức hại đến chết rất nhiều, để che giấu lịch sử không trong sạch của mình ở Thượng Hái trong những năm 30, Giang Thanh đã quy tội cho các đồng chí lãnh đạo Đảng hoạt động bí mật ở Thượng Hải biết sự việc là bọn đặc vụ phản bội và bức hại đến chết, bức hại đến chết diễn viên điện ảnh nổi tiếng Thư Tú Văn và Thượng Quan Vân Châu những người biết gốc gác của Giang Thanh. Bắt giam Phó Thị trưởng thành phố Thượng Hải là Phan Hán Niên, Cục trưởng Công an Thượng Hải Dương Phàm. Vợ chồng Phan Hán Niên chết trong tù, Dương Phàm nay còn sống nhưng mắt bị mù, thần kinh không bình thường, cho mãi đến Hội nghị Trung ương 3 khóa 11 mới được sửa lại án oan. Sáng ngày 24 tháng 12 năm 1980, trong Tòa án Đặc biệt mở tại số nhà 1 đường Chính Nghĩa Bắc Kinh, Kiểm sát viên Giang Văn tiếp tục tố cáo: “Giang Thanh đã phạm vào điều 92, điều 98 và điều 144 của Luật Hình sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, đã cấu thành tội tổ chức lãnh đạo tập đoàn phản cách mạng, tội âm mưu lật đổ chính phủ, tình tiết đặc biệt nghiêm trọng, cần dựa vào điều 103 Bộ Luật Hình sự để xử phạt nặng”.

Nói đến đây, Giang Văn đặc biệt nhắc Tòa: “Ở đây cũng cần đặc biệt chỉ rõ là khi thẩm vấn tại tòa, Giang Thanh đã không nhận tội, nhiều lần công nhiên vu cáo các nhà lãnh đạo Nhà nước, công kích và vu cáo Tòa án và nhân viên công tác của Tòa án, ngang nhiên gây rối trật tự của Tòa, đã cấu thành hành vi tiếp tục phạm tội. Xin tòa khi xét hình phạt cần xử nặng”.

Giang Văn nói xong, Tăng Hán Chu nói với bị cáo: “Bị cáo Giang Thanh, căn cứ vào quy định tại điều 118 “Bộ Luật Hình sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa” bị cáo Giang Thanh có quyền trình bày và biện hộ và có quyền nói lời cuối cùng”.

Giang Thanh gào lên: “Vậy thì theo căn cứ ấy của các ông mà định tội, tôi đang nghe các ông phán xét đây. Có giỏi các ông đưa tôi ra Quảng trường Thiên An Môn để xét xử công khai và xử bắn!”. Tăng Hán Chu nghiêm nghị nói: “Có bắn hay không, Tòa sẽ căn cứ vào tội lỗi của bị cáo và phán quyết theo pháp luật”. Giang Thanh chế giễu: “Ông đừng ra vẻ diễn kịch, không có cái đạo cụ là tôi thì ông không diễn được đâu! Ông có gan thì mời người đạo diễn sau hậu trường của ông ra, tôi muốn đối chất trực diện với ông ta”. Tăng Hán Chu nghiêm khắc: “Tòa cảnh cáo bị cáo! Không cho phép bị cáo chửi mắng lung tung”. Giang Thanh càng bừa bãi: “Tôi là Hòa thượng che ô, không có tóc, không có trời” (không có kỷ cương phép tắc,) tôi không sợ ông đâu! Lưu Thiếu Kỳ, Lâm Bưu tôi chưa bao giờ sợ thì sao tôi lại sợ ông?” Tăng Hán Chu một lần nữa cảnh cáo bà ta: “Tòa đã điều tra hàng loạt sự thật, đã cho bị cáo Giang Thanh đủ thời gian biện hộ, nhưng bị cáo đã lợi dụng tòa để tuyên truyền phản cách mạng”. Giang Thanh không những không nghe cảnh cáo trái lại đã gầm gào trong công đường, lăng nhục tòa. Tăng Hán Chu rung chuông cảnh cáo: “Nếu còn gây rối tòa sẽ hủy bỏ quyền biện hộ”. Giang Thanh đứng dậy yêu cầu: “Tôi muốn đọc “một ý kiến của tôi””. Tăng Hán Chu cho phép. Giang Thanh nói: “Đánh chó phải ngó chúa, đúng vậy, đánh chó phải ngó chúa!”... lời biện hộ này của Giang Thanh đã đảo lộn trắng đen. Đến lúc này bà ta còn mê mẩn với lý thuyết “làm phản có lý”.

Cuộc biện luận trước tòa kết thúc. Tăng Hán Chu ra lệnh: “Dẫn bị cáo ra, tòa nghỉ”.

Page 130: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

6. Sự trừng phạt thích đáng

Ngày 23 tháng 1 năm 1981 sau hơn hai tháng xét xử, Tòa án Đặc biệt bắt đầu tuyên án. Chánh án Giang Hoa đứng dậy trang nghiêm tuyên án: “… Tuyên phạt Giang Thanh thủ phạm chính của vụ án tập đoàn phản cách mạng Lâm Bưu, Giang Thanh tử hình...” Giang Hoa nhìn Giang Thanh, Giang Thanh mặt tái nhợt, toàn thân run lẩy bẩy gào thét không ngớt, lộ vẻ sợ chết trong phiên tòa. Giang Hoa đọc tiếp: “hoãn chấp hành 2 năm”. Giang Thanh phút chốc tỏ ra vui mừng.

Tòa án Đặc biệt tuyên phạt Giang Thanh và Trương Xuân Kiều tử hình, hoãn chấp hành 2 năm, tước quyền lợi chính trị suốt đời; phạt Vượng Hồng Văn tù chung thân, tước quyền lợi chính trị suốt đời; phạt Diêu Văn Nguyên 20 năm tù, Trần Bá Đạt 18 năm tù, Hoàng Vĩnh Thắng 18 năm tù, Ngô Pháp Hiến 17 năm tù, Lý Tác Bằng 17 năm tù, Khâu Hội Tác 16 năm tù, Giang Đằng Giao 15 năm tù, tất cả bảy bị cáo trên bị tước quyền lợi chính trị 5 năm.

Tiếp đó, Tòa án ở Bắc Kinh, Thượng Hải mở phiên tòa xét xử Mao Viễn Tân, Nhiếp Nguyên Tử, Khoái Đại Phú, Hàn Ái Xương, Vương Đại Tân, Vương Tú Trân, Từ Cảnh Hiền v.v... và tuyên phạt tù có thời hạn dài ngắn khác nhau. Giang Thanh và chín tội phạm bị áp giải đến trại giam Tần Thành thụ án.

7. Cuối đời trong ngục

Giang Thanh bị giam trong tầng 1 của ngôi nhà ba tầng trong trại giam Tần Thành, ở đây chỉ giam một mình bà ta. Tuy bị tù, nhưng cuộc sống vẫn sống được, cũng chẳng có ai đến lôi bà ta ra đấu. Chỗ trống ở tầng dưới rất nhiều, khi dạo mát Giang Thanh thường đi lại ở đây. Chung quanh là tường cao mấy trượng có lắp lưới điện. Cuộc sống trong tù tất nhiên không dễ chịu chút nào, nhưng vào những năm 1966, 1967, bao nhiêu cán bộ cũ bị Hồng Vệ binh bắt đấu tố chỉ mong có được một chỗ yên tĩnh như thế này mà cũng không có. Chu Ân Lai nghĩ cách bảo khu Vệ Thú xây dựng một trại giam đặc biệt, đưa một loạt cán bộ cũ đến đây, nhưng họ cũng không tránh được thường xuyên bị phê phán đấu tố, bị thẩm vấn, bị đánh đến gãy xương sườn, có đâu được thoải mái như Giang Thanh bây giờ.

Sau khi Giang Thanh và Trương Xuân Kiều bị tuyên án và thụ án tại trại giam Tần Thành. Ngày 25 tháng 1 năm 1983, Tòa hình sự Tòa án Nhân dân tối cao xét định: Hai can phạm Giang Thanh và Trương Xuân Kiều trong thời gian kéo dài thi hành án tử hình, không có tình tiết xấu chống lại cải tạo nên giảm từ án tử hình hoãn thi hành 2 năm xuống mức phạt tù chung thân.

Tại nhà tù, Giang Thanh có thể đọc báo, đọc sách. Con gái bà ta là Lý Nạp thường đến trại giam thăm bà ta, đem cho bà ta rất nhiều sách và đồ ăn hợp khẩu vị. Cùng với thời gian, bệnh già của Giang Thanh ngày càng rõ ràng, tóc vẫn đen nhánh, sắc mặt vẫn trắng, nhưng cử động càng ngày càng khó khán. Lãnh đạo trại giam cho phép Giang Thanh được vào nằm viện. Bệnh viện chỉ cách phòng giam một bức tường, nhưng điều kiện ở đây tốt hơn nhiều so với phòng giam, cuộc sống được các y bác sĩ chăm sóc.

Nhưng Giang Thanh vẫn không quên được tòa nhà ở Trung Nam Hải, nhiều lần đòi về sống ở đó. Tháng 6 năm 1991, Giang Thanh bị bệnh ung thư, trong đau đớn và tuyệt vọng, bà ta đã dùng một sợi dây kết liễu cuộc sống của mình.

Vương Hồng Văn cũng bị ung thư chết trong tù.

Hoàng Vĩnh Thắng, Ngô Pháp Hiến, Lý Tác Bằng, Khâu Hội Tác đến năm 1983 được bảo lãnh ra nằm viện sống ở một nơi trong thành phố, cho phép vợ và một người con cùng sống.

Hoàng Vĩnh Thắng được an trí ở Thanh Đảo, ít lâu sau bị bệnh chết.

Page 131: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Ngô Pháp Hiến theo vợ về Tế Nam, hằng ngày viết hồi ký và cùng vợ đi chợ mua thức ăn. Quần chúng chung quanh đối với ông ta cũng tỏ ra lịch sự, nhân viên bán rau thường xuyên không để vợ chồng ông ta phải xếp hàng, được mua trước.

Lý Tác Bằng ở Thái Nguyên, mỗi tháng được 200 đồng sinh hoạt phí, ông ta ở một ngôi nhà riêng trong hai ngôi nhà do Tỉnh ủy Sơn Tây mới xây, vì làm đồ gia dụng nên đã cãi nhau với hàng xóm, hàng xóm đuổi ông ta đi, nhưng nhờ Sở Công an và Tỉnh ủy làm công tác tư tưởng mới yên được.

Khâu Hội Tác bị an trí ở Tây An, hằng ngày viết hồi ký. Vợ ông ta là Hồ Mẫn là một bác sĩ nên đã giúp ông ta trong đời sống, mỗi tháng được cấp 200 đồng sinh hoạt phí.

Hoàng, Ngô, Lý, Khâu sau khi mãn hạn tù được tha, họ đều cầm giấy phóng thích đến nơi cư trú đăng ký hộ khẩu. Giang Đằng Giao, sau khi được bảo lãnh vào viện, được an trí tại Thái Nguyên, ủy ban Thể thao tỉnh Sơn Tây đã cấp cho ông ta một ngôi nhà riêng.

Khi kết thúc công tác xét xử “hai án” đúng vào mùa xuân năm 1981. Lúc này Trung ương Đảng đang chuẩn bị họp Hội nghị Trung ương lần thứ 10 khóa 11, thảo luận “Quyết nghị về một số vấn đề lịch sử từ khi thành lập Đảng đến nay”.

Chương V

NGẪM SUY SAU KIẾP NẠN

1

Đại cách mạng văn hóa để lại hậu qủa sai lầm chồng chất

Mao Trách Đông phát động “đại cách mạng văn hóa” vốn cho rằng thông qua “thiên hạ đại loạn”, để đạt được một “thiên hạ đại trị”. Nhưng sự việc đã trái với mong muốn, 10 năm đại cách mạng văn hóa làm cho Đảng, Nhà nước và nhân dân phải chịu tổn thất nghiêm trọng kể từ khi dựng nước đến nay. “Mãi mãi không bao giờ quên đại cách mạng văn hóa! Đó là tiếng hô chung của những người đã từ từng trải qua tai họa to lớn ấy. Mọi người đều hy vọng có sự tổng kết nghiêm túc về những bài học của đại cách mạng văn hóa, khắc sâu trong lòng và truyền cho con cháu đời sau, quyết không cho phép một cuội nội loạn tương tự xảy ra một lần nữa trên đất Trung Quốc. Phơi bày đầy đủ những tổn hại mà tai họa này đưa đến, có thể làm cho mọi người rút ra bài học xương máu, khắc cốt ghi xương. Nhưng, hậu quả xấu của mười năm kiếp nạn gây nên trên nhiều mặt, nếu nói tổn thất về mặt vật chất còn chưa thể tính được thì sự tổn hại về văn hóa tinh thần, vết thương sâu thẳm nơi linh hồn, cho dù có dùng máy tính hiện đại nhất cũng không thể nào tính ra được. E rằng cần phải có sự cố gắng của các nhà kinh tế học, nhà chính trị học, nhà sử học, nhà xã hội học, nhà triết học v.v... thông qua công tác điều tra nghiên cứu khá dài mới có thể dự đoán toàn diện chính xác và thanh toán triệt để.

1. Lý luận sai lầm cùng những thực tiễn sai lầm do nó chỉ đạo, đã tạo nên sự hỗn loạn chưa từng có trong tư tưởng và sự suy yếu nghiêm trọng đến lòng tin đối với chủ nghĩa Mác – Lê-nin.

2. Tổ chức của Đảng Cộng sản Trung Quốc và cơ cấu chính quyền của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bị suy yếu nghiêm trọng.

Page 132: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

3. Nền kinh tế quốc dân bị suy yếu cực kỳ to lớn.

4. Sự nghiệp văn hóa khoa học bị tàn phá nghiêm trọng.

5. Tư tưởng và nếp sống xã hội bị đầu độc nghiêm trọng.

2

Có ý nghĩa gì khi gỡ bỏ bức chân dung khổng lồ của Mao Trạch Đông

Giữa mùa hè năm 1980, cải cách mở cửa đã bước vào năm thứ 2, nhân dân cả nước với nhiệt tình chưa từng có, lao vào công cuộc xây dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa, mọi người chịu khó đi sâu nghiên cứu, cần cù học tập, sáng tạo phát minh, thi nghiên cứu sinh ra nước ngoài, đang vui với niềm vui chung. Cũng cùng lúc ấy, Bắc Kinh đang lặng lẽ làm một việc.

Ngày 30 tháng 7, Bắc Kinh bận rộn và nóng bức, trước Đại lễ đường Nhân dân trước đây vẫn luôn không cho phép xe cộ dừng lại tùy tiện thì bỗng có hai chiếc xe ầm chạy đến một chiếc là xe cần cẩu lớn, một chiếc là xe tải rất dài. Tình hình khác thường này khiến mọi người qua đường phải dừng chân và cũng làm cho các nhân viên làm việc trong Đại lễ đường Nhân dân phải ngó đầu ra nhìn.

Chiếc cần cẩu không ngừng nâng cao, đưa người ngồi trong gầu xúc đến trước bức chân dung khổng lồ dựng trên Đại lễ đường Nhân dân, nhân viên công tác giơ tay dỡ bức chân dung.

Trong số người đi đường có người hét: “Chân dung của lãnh tụ vĩ đại Mao Chủ tịch không thể bỏ đi”, số đông người im lặng.

Tiếp đó, chiếc cần cẩu dùng dây thép buộc hai khẩu hiệu lớn được hàn vĩnh cửu trên Đại lễ đường Nhân dân, kéo mạnh, khẩu hiệu rơi xuống chân tường Đại lễ đường Nhân dân, lộ ra hai vết mới. Lại có những lời trách móc.

Những hành động như thế lần lượt được triển khai ở các nơi các ngành, các đơn vị trong cả nước.

Ảnh của Mao Trạch Đông được dỡ từ các mi cửa, các phòng học, tượng Mao Trạch Đông bị phá bỏ, trích lời Mao Trạch Đông rợp kín trời bị quét trùm lên, bị rửa sạch, tóm lại không còn một câu. Mười mấy năm trước, các nơi dựng những bức tượng Mao Trạch Đông rất kiên cố, bây giờ phá bỏ thật là rắc rối. Nghe nói ở Hà Nam, Hồ Nam v. v... có một số đơn vị phải dùng thuốc nổ để phá bỏ vì xây quá kiên cố.

Dư luận phương Tây bắt đầu bình luận tới tấp, có báo đã bình luận; “Thời đại Mao Trạch Đông kết thúc từ đây!”. Hương Cảng, Đài Loan kêu ầm ĩ: “Đại lục phê Mao, thế tất phải như thế”.

Những người đã chịu đủ sự đày đọa trong đại cách mạng văn hóa lại hiểu rằng, điều này chứng tỏ không thể nào chậm trễ trong việc xóa bỏ sùng bái cá nhân.

3

Kiên trì bốn nguyên tắc cơ bản

Sửa chữa sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh

Page 133: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Sau Hội nghị Trung ương 3 khóa 11, với khẩu hiệu giải phóng tư tưởng, thực sự cầu thị do Hội nghị Trung ương 3 nêu ra, đông đảo cán bộ và quần chúng được giải phóng từ xiềng xích sùng bái cá nhân và chủ nghĩa giáo điều thịnh hành trước đây, tư tưởng trong và ngoài Đảng sôi động, xuất hiện những hiện tượng sinh động cố gắng nghiên cứu tình hình mới và vấn đề mới.

Nhưng lúc này cũng nảy sinh một số hiện tượng đáng phải chú ý và cảnh giác. Một mặt, có một số cán bộ và quần chúng vẫn bị sự ràng buộc của tư tưởng “tả” khuynh, không hiểu biết đường lối và phương châm chính sách của Đảng từ Hội nghị Trung ương 3 đến nay, thậm chí có sự phản đối, mặt khác, một số ít người, xuyên tạc khẩu hiệu “giải phóng tư tưởng”, thổi phồng sai lầm của Đảng một cách cực đoan, phủ định sự lãnh đạo của Đảng, phủ định con đường xã hội chủ nghĩa mà Đảng đã chỉ ra. Điều nguy hiểm hơn là một số ít người trong Đảng không những không đấu tranh với trào lưu tư tưởng tự do hoá, trái lại hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp ủng hộ nó. Nếu để nó tự do phát triển, sẽ phá hoại cục diện ổn định đoàn kết mà nhân dân cả nước đã đạt được một cách không dễ dàng, gây nên hậu quả nghiêm trọng.

Nhận thấy điều đó, tháng 3 năm 1979, trong Hội nghị công tác lý luận của Đảng, Đặng Tiểu Bình đã nêu một cách rõ ràng bốn nguyên tắc cơ bản: Kiên trì con đường xã hội chủ nghĩa, kiên trì chuyên chính vô sản, tức chuyên chính dân chủ nhân dân, kiên trì sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Mao Trạch Đông.

Bài phát biểu này chứng tỏ, công cuộc cải cách mở cửa mà Đảng Cộng sản Trung Quốc thực hiện khi bắt đầu đã có phương hướng xã hội chủ nghĩa rõ ràng.

Trung ương Đảng cho rằng, để sửa chữa về căn bản khuynh hướng sai lầm “tả” khuynh và hữu khuynh cần phải hiểu đúng đắn con đường lịch sử mà Đảng đã đi qua từ khi dựng nước, tổng kết một cách khoa học những kinh nghiệm lịch sử của Đảng trong thời kỳ này. Tháng 9 năm 1979, Hội nghị Trung ương lần thứ 4 khóa 11 được triệu lập, thảo luận và thông qua bài nói chuyện tại cuộc mít tinh kỷ niệm 30 thành lập nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Diệp Kiếm Anh chuẩn bị. Bài nói chuyện này đã bước đầu tổng kết lịch sử từ sau khi dựng nước, đã khẳng định một cách đầy đủ thành tựu vĩ đại mà Đảng và Nhân dân đã giành được từ khi dựng nước đến nay, đã tự phê bình sai lầm trong công tác trước đây của Đảng, chứng minh tiền đồ xán lạn của đất nước. Tăng thêm sự thống nhất nhận thức của toàn Đảng và toàn dân.

4

Tràn đầy niềm tin vượt qua kỳ thi của Phơ-ra-si

“Nghị quyết” đã được nhóm khởi thảo đề cương tuân theo tinh thần bài nói chuyện của Đặng Tiểu Bình sửa chữa. Phút chốc đã đến cuối hè.

Hôm ấy, Đặng Tiểu Bình đang cúi mình trên bàn làm việc, thư ký đi vào báo cáo, nữ phóng viên nổi tiếng của I-ta-li-a, Ô-rin-ai-na Phơ-ra-si muốn đến phỏng vấn, hỏi Đặng Tiểu Bình có đồng ý tiếp kiến hay không. Đặng Tiểu Bình ngẫm nghĩ nói một cách dứt khoát: “Gặp, để tôi xem rốt cuộc bà ta ghê gớm đến đâu”.

Vì sao Đặng Tiểu Bình nói như vậy? Vốn dĩ Phơ-ra-si không phải là một phóng viên bình thường, mà là một phóng viên có tiếng đã đi khắp nơi trên thế giới, bà ta vốn xưa nay là người nổi tiếng hay phỏng vấn những nhân vật chìm nổi. Bà ta đặt câu hỏi rất gay gắt, phong cách năng nổ, đáo để, cái bình nào không mở thì nêu cái bình ấy, lãnh tụ chính giới nổi tiếng của các nước trên thế giới, hầu như đều đã nếm mùi ghê gớm của bà ta. Kít-xin-gơ là một nhân vật ghê gớm đến nhường nào mà cũng bị Phơ-ra-si dồn ép phải thổ lộ bí mật trong lòng, cuối cùng phải than thở: “Nhận lời phỏng vấn của Phơ-ra-si là sự việc ngu xuẩn nhất trong đời tôi”. Cho nên rất nhiều nhà lãnh đạo các nước đều coi cuộc phỏng vấn của Phơ-ra-si là một kỳ thi.

Page 134: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

Mùa hè năm 1980, các nước trên thế giới đều chú ý sự đánh giá của Trung Quốc đối với Mao Trạch Đông, những nhân vật chìm nổi ở Trung quốc, nên bà ta đã đến phỏng vấn Đặng Tiểu Bình.

Sau khi Đặng Tiểu Bình phân tích một cách chu đáo tỉ mỉ đối với tình hình và nhiệm vụ, ông tràn đầy niềm tin chuẩn bị đón “kỳ thi” của nữ phóng viên phương Tây.

Ngày 21 tháng 8, Phơ-ra-si đáp chiếc xe con cao cấp đến văn phòng của Đặng Tiểu Bình ở Trung Nam Hải.

Vị nữ phóng viên này quả là ghê gớm, sau khi bà ta ngồi xuống ghế, không một chút khách sáo, nhanh chóng nêu ra những vấn đề mà cả thế giới đang chú ý: “Ảnh của Mao Chủ tịch ở Thiên An Môn có phải là sẽ giữ lại mãi mãi không?”. Trả lời của Đặng Tiểu Bình lưu loát dứt khoát: “Mãi mãi giữ lại. Trước đây ảnh Mao Chủ tịch treo nhiều quá, đó không phải là một việc nghiêm túc, cũng không hề chứng tỏ sự tôn trọng đối với Mao Chủ tịch. Chúng tôi mãi mãi coi Mao Chủ tịch là người sáng lập Đảng và Nhà nước chúng tôi để kỷ niệm”.

Phơ-ra-si không một chút khách sáo, ngay lập tức nêu ra một vấn đề gay gắt: “Đối với người phương Tây mà nói, có rất nhiều vấn đề chúng tôi không hiểu. Nhân dân Trung Quốc khi nói về “bọn bốn tên” đã quy cho “bọn bốn tên” rất nhiều tội lỗi, nhưng họ chìa bàn tay ra thì chỉ có năm ngón”. Đặng Tiểu Bình biết ý của bà ta, không một chút mơ hồ ông giải thích rõ ràng: “Sai lầm của Mao Trạch Đông và vấn đề của Lâm Bưu và “bọn bốn tên” về tính chất có khác nhau. Phần lớn thời gian trong cuộc đời của Mao Chủ tịch đã làm những việc rất tốt, nhiều lần ông đã cứu Đảng và đất nước khỏi cơn khủng hoảng. Chúng tôi phải đánh giá một cách khách quan công và tội một đời của Mao Chủ tịch. Chúng tôi sẽ khẳng định công tích của Mao Chủ tịch là thứ nhất, sai lầm của ông là thứ hai. Chúng tôi phải nói về sai lầm vào thời kỳ cuối của Mao Chủ tịch một cách thực sự cầu thị, chúng tôi vẫn phải tiếp tục kiên trì tư tưởng Mao Trạch Đông. Tư tưởng Mao Trạch Đông là phần đúng đắn nhất trong cuộc đời của Mao Chủ tịch. Tư tưởng Mao Trạch Đông không chỉ dẫn đưa chúng tôi giành thắng lợi cách mạng trong quá khứ mà hiện tại và tương lai vẫn là tài sản quý báu của Đảng và Nhà nước”.

Phơ-ra-si tỏ ra rất hài lòng đối với cuộc nói chuyện thẳng thắn dứt khoát của Đặng Tiểu Bình. Đặng Tiểu Bình cũng muốn tiếp tục mượn ngòi bút của bà ta để tuyên truyền đường lối của Đảng ra toàn thế giới, cuộc nói chuyện tiếp tục. Phơ-ra-si trực tiếp tấn công vào chỗ yếu trong phòng tuyến của Đặng Tiểu Bình: “Nghe nói, Mao Chủ tịch thường oán trách ông là không nghe lời ông ta lắm, không thích ông, có thật như vậy không?”

Theo lý giải của người Trung Quốc, câu hỏi này của Phơ-ra-si gần như đã chạm nọc ông, nhưng Đặng Tiểu Bình không để ý, bình tĩnh trả lời: “Mao Chủ tịch nói tôi không nghe lời ông là đã từng có, nhưng cũng không phải chỉ có một mình tôi, đối với các đồng chí lãnh đạo khác cũng có tình hình như vậy. Điều này cũng phản ánh vào thời kỳ cuối Mao Trạch Đông cũng có một số tư tưởng không lành mạnh, cũng có nghĩa là có những cái mang tính chất phong kiến của chế độ gia trưởng. Ông không dễ dàng nghe những ý kiến bất đồng. Những việc mà Mao Chủ tịch phê bình không thể nói là đều không đúng. Nhưng có không ít ý kiến đúng đắn, không chỉ của tôi, mà của nhiều đồng chí khác nữa, ông không nghe lọt tai cho lắm. Chế độ dân chủ tập trung đã bị phá hoại, lãnh đạo tập thể bị phá hoại. Nếu không sẽ không thể lý giải vì sao lại nổ ra đại cách mạng văn hóa.

Phơ-ra-si cho rằng Đặng Tiểu Bình đã lơi lỏng cảnh giác nên đã ra đòn tập kích bất ngờ, đặt ra trước mặt Đặng Tiểu Bình một vấn đề gay gắt: “Ở Trung Quốc, có một người như vậy là chưa từng bị đánh đổ bao giờ...” Đặng Tiểu Bình biết người mà bà ta nói là Chu Ân Lai, ông xúc động nói: “Chu Ân Lai là người suốt một đời cần cù chăm chỉ, không từ khó nhọc. Chúng tôi quen nhau từ rất sớm, khi vừa học vừa làm ở Pháp, đã sống cùng nhau, đối với tôi mà nói trước sau ông vẫn là người anh cả. Thời kỳ đại cách mạng văn hóa, nhiều người chúng tôi đều đi xuống, may còn giữ lại được ông. Trong đại cách mạng văn hóa địa vị mà ông giữ là vô cùng

Page 135: Cach Mang Van Hoa Liet Truyen-Tap 3

khó khăn, ông cũng đã nói rất nhiều lời trái với suy nghĩ của mình, đã phải làm rất nhiều việc trái với lòng mình, nhưng nhân dân tha thứ cho ông, ông đã bảo vệ được khá nhiều người”. Đặng Tiểu Bình lại nói: “Đồng chí Mao Trạch Đông cũng không phải là muốn chỉnh đổ tất cả các cán bộ cũ trong đại cách mạng văn hóa. Tuy ai không nghe lời ông thì ông muốn chỉnh ngay, nhưng chỉnh đến mức độ nào thì ông vẫn phải suy nghĩ. Cho đến sau này càng chỉnh càng tệ hại, không thể nói là ông không có trách nhiệm, có điều cũng không thể mình ông chịu trách nhiệm. Có một số là do Lâm Bưu và “bọn bốn tên” đã tạo nên chuyện đã rồi, có một số họ đã làm sau lưng ông”.

Cuộc phỏng vấn kết thúc, Phơ-ra-si rất hài lòng, Đặng Tiểu Bình nhạy bén, thẳng thắn, tinh nhanh, tháo vát, khiến bà ta khâm phục. Vấn đề mà bà ta muốn hỏi, Đặng Tiểu Bình đều trả lời rõ ràng dứt khoát. Ở đây không có sự ân oán cá nhân, không có thoái thác trách nhiệm, có chăng chỉ là sự suy nghĩ chín chắn và sự ấp ủ tương lai của một nhà cách mạng lão thành đối với lịch sử.

Hết!