Upload
lymien
View
224
Download
2
Embed Size (px)
Citation preview
Bản dịch 5/2008
1
CẨM NANG VỀ LUẬT CẠNH TRANH VIÊT NAM
Tác giả: Alice Phạm, CUTS (2007)
Lược dịch: Hoàng Lệ Quyên
Nội dung
1. Mở đầu Tóm lược về Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam
2. Nền kinh tế thị trường
2.1 Thị trường và giá cả - Hai nhân tố này làm việc thế nào?
2.2 Chính phủ và qui định của luật pháp đối với các Thị trường tự do
3. Thị trường và Cạnh tranh
3.1 Cạnh tranh
3.2 Thị trường liên quan
3.3 Thị phần và Cấu trúc thị trường
3.4 Luật và chính sách cạnh tranh
4. Các hành vi hạn chế cạnh tranh 4.1 Sức mạnh thị trường
4.2 Quy tắc có lí và Quy tắc Per se
4.3 Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
4.4 Các thỏa thuận ngang giữa các đối thủ cạnh tranh
4.5 Các thỏa thuận dọc trong phân phối và bán sản phẩm
4.6 Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
5. Tăng cường vai trò của Luật Cạnh tranh đối với Các hành vi hạn chế cạnh tranh
5.1 Phát hiện ra các sai phạm
5.2 Nắm giữ các bằng chứng về sai phạm
5.3 Gìn giữ bằng chứng về các sai phạm
6. Sáp nhập và Mua lại
6.1 Sự khác biệt giữa Sáp nhập và Mua lại doanh nghiệp
6.2 Các hình thức Sáp nhập và Mua lại doanh nghiệp
6.3 Một số vấn đề liên quan tới việc Sáp nhập và Mua lại doanh nghiệp
6.4 Thụ lý hồ sơ sáp nhập
6.5 Thông tin trong việc thụ lý các vụ sáp nhập
6.6 Các biện pháp khắc phục sai phạm trong sáp nhập
6.7 Liên doanh
7. Các hành vi thương mại không lành mạnh: Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng
7.1 Các hành vi thương mại không lành mạnh
7.2 Quảng cáo sai lệch
7.3 Bán hàng đa cấp bị cấm
8. Những vấn đề xuyên biên giới
8.1. Sức mạng thị trường trên thị trường xuất khẩu hay thị trường thế giới
8.2. Những rào cản đối với Cạnh tranh nhập khẩu
8.3. Những vấn đề về cạnh tranh liên quan tới đầu tư nước ngoài
Bản dịch 5/2008
2
8.4. Những vấn đề cạnh tranh liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ
8.5. Việc giải quyết các vấn đề xuyên biên giới theo Luật Cạnh tranh của Việt Nam
9. Cạnh tranh và Luật Sở Hữu Trí Tuệ
9.1. Các tiêu chuẩn của quyền sở hữu trí tuệ như là việc điều chỉnh tính cạnh tranh
9.2. Điều chỉnh việc thực thi quyền sở hữu trí tuệ thông qua Luật Cạnh tranh
9.3. Các vấn đề cạnh tranh trong các hiệp định cấp phép
9.4. Quyền sở hữu trí tuệ và việc vi phạm các vị trí thống lĩnh thị trường
9.5. Quyền ưu tiên
9.6. Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế
9.7. Hàng nhập khẩu tương tự
10. Các nhân tố cần thiết để thành công
10.1 Trình tự thực hiện Luật Cạnh tranh
10.2 Xây dựng một thể chế cạnh tranh lành mạnh
11. Khuôn khổ kì vọng dành cho Việt Nam
11.1 Tổng kết về các qui định phù hợp của Luật Cạnh tranh
11.2 Sự phân biệt rõ ràng giữa hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và chiều ngang
11.3 Xuất bản hướng dẫn về việc thực thi Luật Cạnh tranh dễ đọc, dễ hiểu
11.4 Xem xét toàn diện hơn về Luật Cạnh tranh
11.5 Những qui định đặc biệt về cạnh tranh liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ
11.6 Thẩm quyền mở rộng vượt ra ngoài biên giới quốc gia
11.7 Tăng cường năng lực của nguồn nhân lực
11.8 Tính độc lập của cơ quan cạnh tranh
11.9 Sự tham gia tích cực của người tiêu dùng và các tổ chức xã hội dân sự khác
Danh sách Hộp
Hộp 1: Các - ten của các nhà sản xuất xi măng và hành động của MCA
Hộp 2: Hệ thống nghiệp đoàn trong ngành vận tải
Hộp 3: Lịch Bloc – Thỏa thuận các-ten hay thỏa thuận làm tăng tính hiệu quả
Của một hoạt động kinh tế
Hộp 4: Một trường hợp về đấu giá gian lận tại Việt Nam
Hộp 5: Đấu giá bổ sung tại các xưởng in
Hộp 6: Tập đoàn bán lẻ dược phẩm Ấn Độ
Hộp 7: Tòa án Nam Phi giảm việc duy trì giá bán lẻ thấp nhất
Hộp 8: Sự cố của các nhà phát hành sách tại Hungari
Hộp 9: Doanh nghiệp Ceylon Oxygen thoát tội độc quyền giao dịch
Hộp 10: Chiến lược quảng cáo tước quyền gia nhập vào thị trường Bia Việt Nam
Hộp 11: Ghana: Các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau
Hộp 12: Bán kèm bếp ga cùng với việc cung cấp ống dẫn gas
Hộp 13: Các hành vi bán kèm trên thị trường Việt Nam
Hộp 14: Doanh nghiệp địa phương đối đầu với doanh nghiệp Sasol
Hộp 15: Chiến lược khuyến mãi hay cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ:
Liệu Viettel có vi phạm Luật Cạnh tranh hay không?
Hộp16: Các hoạt động kinh doanh loại bỏ đối thủ cạnh tranh
ra khỏi thị trường trong ngành bia ở Zimbabwe
Hộp 17: Hãng di động Viettel phải đối mặt với phá sản vì sự độc quyền của VNPT
Hộp 18: Vi phạm quyền sở hữu trí tuệ trên chương trình truyền hình hường dẫn hàng tuần
Hộp 19: Sáp nhập dẫn tới độc quyền trong ngành truyền hình cáp
Bản dịch 5/2008
3
Hộp 20: Sáp nhập ngành dược phẩm ở Nam Phi: những điều kiện cho Aspen
Hộp 21: Nhãn hiệu Rothmans của tập đoàn Pall Mall/ Sáp nhập công ty thuốc
lá của Anh-Mỹ tại Zimbabwe
Hộp 22: Phân phối chung Sản phẩm nắp nhựa tổng hợp
Hộp 23: Quảng cáo sai lệch và thủ đoạn treo đầu dê bán thịt chó
Hộp 24: Hệ thống siêu thị lớn lừa dối người tiêu dùng tại Argentina
Hộp 25: Doanh nghiệp bán hàng đa cấp không bị cấm đối mặt với điều tra gian lận
Hộp 26: Thỏa thuận các-ten của các nhà sản xuất điện cực than chì và ảnh hưởng
của nó tới các nhà sản xuất thép của quốc gia đang phát triển
Hộp 27: Luật Văn bằng sáng chế gây khó khăn cho các nước đang phát triển
Hộp 28: Tập đoàn Microsoft lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Hộp 29: Chile cho phép nhập khẩu hàng hóa tương tự nhằm thúc đẩy cạnh tranh
Hộp 30: Bộ Y tế điều chỉnh giá cả thuốc men nước ngoài
Hộp 31: Nhập khẩu và bán lẻ Đĩa compact
Bảng 1: Các giai đoạn khác nhau trong sự phát triển thể chế cạnh tranh quốc gia
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ACCC: Ủy ban cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Australia
AIOCD: Tổ chức của dược sĩ Ấn Độ
APCMA: Hiệp hội các nhà sản xuất xi măng Pakistan
BTAs: Các Hiệp định thương mại song phương
CAD: Cục quản lí cạnh tranh
COL: Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn Oxi ceylon
COPRA: Đạo luật bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ
CSOs: Các tổ chức dân sự xã hội
Dọ: Bộ luật pháp
EU: Liên minh Châu Âu
EULA: Thỏa thuận cấp phép sử dụng cuối cùng
FDI: Đầu tư trực tiếp nước ngoài
FTC: Ủy ban thương mại công bằng
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội
HLL: Doanh nghiệp Hindu Lever
IBC: tập đoàn truyền thông quốc tế
ICN: Mạng lưới cạnh tranh quốc tế
IGL: Doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn Gas công nghiệp
IPRs: Quyền sở hữu trí tuệ
ITP: Doanh nghiệp truyền thông độc lập
KFTC: Ủy ban thương mại Hàn Quốc
M&As: Sáp nhập và Mua lại
MCOT: Tổ chức Thông tin liên lạc lớn của Thái Lan
MDGs: Mục tiêu thiên niên kỷ
MLM: Bán hàng đa cấp không bị cấm
MNC: Doanh nghiệp đa quốc gia
Bản dịch 5/2008
4
MRTPC: Ủy ban về các hành vi hạn chế thương mại và vấn đề độc quyền
NUPH-HCM: Nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh
OECD: Tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế
OEMs: Nhà sản xuất trang thiết bị
PC/OS: Hệ điều hành máy tính cá nhân
RBPs: Các hành vi hạn chế cạnh tranh
RTE: Hãng truyền thông Radio Telefís Eireann
RTPs: Các hoạt động thương mại hạn chế
SMEs: Doanh nghiệp vừa và nhỏ
SoEs: Doanh nghiệp nhà nước
TNCs: Doanh nghiệp xuyên quốc gia
TOMCO: Doanh nghiệp dầu lửa Tata
TRIPs: Thương mại liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ
UBC: Tập đoàn truyền thông thống nhất
UTPs: Các hành vi thương mại không lành mạnh
UTV: Mạng lưới truyền hình thống nhất
VINASTAS: Hiệp Hội Tiêu chuẩn và Bảo vệ Người tiêu dùng Việt Nam
VNPT: Tập đoàn bưu chính Viễn thông Việt Nam
WB: Ngân hàng Thế giới
WIPO: Tổ chức Sở Hữu Trí Tuệ Thế giới
WTO: Tổ chức thương mại Thế giới
Bản dịch 5/2008
5
1. MỞ ĐẦU
Việt Nam đã duy trì một nền kinh tế vĩ mô tương đối phát triển trong suốt 15 năm qua. Tổng
thu nhập quốc nội (GDP) tăng ở mức cao và tương đối ổn định, với tỷ lệ 7% một năm đã đưa
Việt Nam trở thành một trong các nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất thế giới.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao cùng với sự ổn định của nền kinh tế vĩ mô thể hiện ở mức lạm
phát thấp, thâm hụt ngân sách thấp, phát triển tín dụng tốt và các khoản nợ nước ngoài vẫn ở
mức cho phép. Qui mô thương mại quốc tế phát triển một cách nhanh chóng. Tỷ lệ tổng thu
nhập quốc nội trong thương mại của Việt Nam nằm trong số các nước cao nhất thế giới. Tỷ lệ
thâm hụt hiện tại đang ở mức có thể kiểm soát được và được đảm bảo bởi dòng vốn đầu tư
tăng đáng kể, đặc biệt là đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Kết quả là không có bất kỳ sự
thay đổi bất thường nào trong tỷ giá hối đoái. Tăng trưởng kinh tế đã thúc đẩy việc thực hiện
các mục tiêu xã hội và hỗ trợ cho tiến bộ đáng kể trong việc theo đuổi các mục tiêu Thiên
Niên kỷ (MDGs).
Những thành tựu kể trên là nhờ vào việc triển khai thành công công cuộc cải cách kinh tế
toàn diện được khởi xướng từ năm 1986. Trước mốc quan trọng này, Việt Nam thực hiện mô
hình kinh tế tập trung, đặc trưng ở sự can thiệp sâu rộng của nhà nước vào các vận động của
thị trường. Theo mô hình kinh tế này, thị trường hầu như không phát triển và khái niệm “cạnh
tranh” thậm chí còn không được chấp nhận một cách chính thức. Chiến lược cải cách kinh tế
được khởi xướng từ năm 1996 đã đưa ra hàng loạt các biện pháp bình ổn và tái thiết kinh tế
nhằm phục vụ cho quá trình chuyển hướng nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, những thuận lợi mà nền kinh tế thị trường mang lại chưa được tận dụng một cách
triệt để tại Việt Nam do thể chế còn yếu kém và những qui định luật pháp cho việc điều hành
thị trường một cách suôn sẻ vẫn còn thiếu hoặc chưa hoàn thiện. Hình thái độc quyền vẫn còn
tồn tại ở một số ngành mũi nhọn trong khi các hành vi hạn chế cạnh tranh (RBPs) và các
hành vi thương mại không lành mạnh (UTPs) vẫn gia tăng không ngừng và chưa có cách giải
quyết triệt để. Vì vậy một Bộ Luật Cạnh tranh hiệu quả sẽ giải quyết được những vấn đề này.
Ngày 03 tháng 12 năm 2004, kỳ họp Quốc hội lần thứ XI, khóa họp thứ 6 đã phê chuẩn Luật
Cạnh tranh. Bộ luật có hiệu lực vào tháng 7 năm 2005, và sau đó được giao cho Cục quản lí
cạnh tranh của Bộ Thương Mại Việt Nam (nay là Bộ Công Thương) quản lí.
Việc ban hành Luật Cạnh tranh 2004 cũng với các qui định liên quan thể hiện cam kết của
chính phủ nhằm bảo đảm một môi trường kinh doanh lành mạnh trong nền kinh tế. Tuy
nhiên, vẫn còn nhiều thách thức trong đó là hàng loạt những khó khăn lớn trong việc đưa Bộ
luật này vào quá trình thực thi.
Cuốn sách này được Tổ chức CUTS nghiên cứu và biên soạn trong bối cảnh Việt Nam. Đây
là một cuốn sách ngắn gọn nhằm xem xét một số vấn đề chính xung quanh việc thực thi Luật
Cạnh tranh 2004. Cuốn sách này cũng đưa ra một số hướng giải quyết phù hợp với thị trường
Việt Nam hiện nay đối với RBPs và UTPs cùng với những trường hợp nghiên cứu thực tế.
Bản dịch 5/2008
6
Một số trường hợp tương tự ở các nước đang phát triển cũng được đưa vào bài viết nhằm
giúp cho độc giả có thể hiểu được vấn đề thông qua các trường hợp nghiên cứu cụ thể này.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, cuốn sách này sẽ phân tích những áp lực và
thách thức mà cơ quan cạnh tranh của Việt Nam có thể phải đối mặt trong qúa trình xây dựng
một thể chế cạnh tranh lành mạnh tại đất nước này, đồng thời cũng đưa ra một khuôn khổ cho
vấn đề này.
Cuốn sách này dành cho các nhà chức trách và các nhà quản lí cạnh tranh tham khảo. Tuy
nhiên các nhà hoạt động, báo chí, và các học giả…v.v cũng có thể sử dụng cuốn sách này như
là một công cụ tuyên truyền và các doanh nghiệp cũng có thể dùng cuốn sách này cho việc
tập huấn và quản lí. Cuối cùng, cuốn sách này cũng có thể được sử dụng với mục đích tăng
thêm hiểu biết về các vấn đề cạnh tranh cho các nhóm liên quan và có lợi ích trong vấn đề
này.
Tổng quan về Luật Cạnh tranh 2004
Bộ luật này áp dụng cho tất cả thành phần kinh tế hoạt động tại Việt Nam, trong đó bao gồm
các hiệp hội ngành hàng và hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức, các nhân kinh doanh bao gồm
cả các doanh nghiệp sản xuất, cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, các doanh nghiệp hoạt
động trong các ngành, lĩnh vực thuộc độc quyền nhà nước và các doanh nghiệp nước ngoài
hoạt động tại Việt Nam. Bộ luật này sẽ thay thế cho toàn bộ các luật liên quan của Việt Nam
tới RBPs và UTPs.
Hai cơ quan nhà nước được thành lập nhằm triển khai việc thực hiện Bộ luật này là Cục
Quản lí Cạnh tranh (với chức năng điều tra) thuộc Bộ Thương Mại và Ủy Ban Cạnh tranh
(với chức năng xét xử).
Luật Cạnh tranh cấm 5 loại hành vi hạn chế cạnh tranh như sau:
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ( Điều 8)
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và độc quyền (Điều 13&14)
Tập trung kinh tế gây hạn chế cạnh tranh (Điều 18)
Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh (Điều 39); và
Các quyết định và hành vi hạn chể cạnh tranh, lợi dụng chức quyền của cán bộ, công
chức hay các cơ quan quản lí nhà nước (Điều 120).
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bao gồm các thỏa thuận sau: Thỏa thuận ấn định giá hàng
hóa,dịch vụ, phân chia thị trường, hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất,
mua, bán hàng hóa dịch vụ, hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư; áp đặt
cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng; ngăn cản, kìm hãm không cho doanh
nghiệp khác tham gia thị trường; và đầu thầu gian lận.
Ngoại trừ ba loại thỏa thuận cuối bị cấm hoàn toàn trong mọi trường hợp thì các thỏa thuận
khác chỉ bị cấm khi các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên
quan từ 30% trở lên.
Các cơ quan quản lí cạnh tranh sẽ có thẩm quyền áp dụng các miễn trừ khi họ thấy rằng thiệt
hại của một thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tới nền kinh tế và tới tiền trình phát triển cạnh
tranh là không vượt quá các lợi ích tiềm năng mà nó đem lại trong việc hợp lý hóa cơ cấu tổ
Bản dịch 5/2008
7
chức, thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật công nghệ, tăng cường tính cạnh tranh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (SMEs), đồng thời tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam trên các
thị trường quốc tế, v.v...
Trong Luật Cạnh tranh, nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có
tổng thị phần từ 50% trở lên (đối với hai doanh nghiệp); 65% (đối với ba doanh nghiệp);
75% (đối với 4 doanh nghiệp) trên thị trường liên quan. (Điều 11) Doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên hay doanh nghiệp đó phải là những
doanh nghiệp có “khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể”. Các doanh nghiệp có
vị trí thống lĩnh thị trường không được phép thực hiện hành vi bán hàng hóa, cung ứng dịch
vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh, phân biệt đối xử giữa các doanh
nghiệp khác nhau đối với cùng một lệnh cấm, ngăn cản việc tham gia thị trường của các
doanh nghiệp khác và tiến hành các hành vi khác nhằm hạn chế cạnh tranh như áp đặt các
điều kiện bất lợi thông qua các qui định về luật (Điều 13).
Doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về
hàng hóa, dịch vụ, mà doanh nghiệp đó kinh doanh hay cung cấp (Điều 12). Cấm các doanh
nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện các hành vi được liệt kê ở đoạn trên liên quan đến các
doanh nghiệp có vị trí chiếm lĩnh thị trường, cũng như là áp đặt các điều kiện bất lợi cho
người tiêu dùng; lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã
giao kết mà không có lý do chính đáng; từ chối tiến hành hoạt động kinh doanh hay phân
biệt đối xử với người tiêu dùng mà không có lí do chính đáng; và bất cứ hành vi nào bị cấm
khác theo luật định. (Điều 14)
Các hoạt động tập trung kinh tế được tiến hành bởi một doanh nghiệp nhằm quản lí hoạt
động của các doanh nghiệp khác bao gồm sáp nhập, mua lại và hợp nhất và các hành vi tập
trung kinh tế khác theo mục đích này. (Điều 16 – 17)
Cấm tập trung kinh tế nếu thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế
chiếm 50% hoặc hơn trừ trường hợp (1) kết quả sau khi thực hiện tập trung kinh tế doanh
nghiệp vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ hoặc vừa (khái niệm doanh nghiệp nhỏ hoặc vừa
không được qui định tại Bộ luật này) hay (2) Thủ tướng Chính phủ cho phép hưởng miễn
trừ. (Điều 18 – 19)
Các doanh nghiệp có thị phần kết hợp từ 30- 50% bắt buộc phải thông báo cho cơ quan quản
lí cạnh tranh trong vòng 30 ngày trước khi tiến hành tập trung kinh tế.
Đối với các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, Luật Cạnh tranh cấm: Chỉ dẫn thương mại
gây nhầm lẫn; xâm phạm bí mật kinh doanh; các hành vi đút lót, mua chuộc hay ép buộc
trong kinh doanh; dèm pha doanh nghiệp khác; gât rối hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp khác; quảng cáo, khuyến mãi nhằm cạnh tranh không lành mạnh; phân biệt đối xử
của hiệp hội; và bán hàng đa cấp bất chính. (Điều 39)
Luật Cạnh tranh cũng qui định các nguyên tắc và thủ tục cụ thể liên quan tới khiếu nại, điều
tra, các quyết định tạm thời của các cơ quan quản lí cạnh tranh, việc xem xét các hành vi
lạm dụng và biện pháp trừng phạt các hành vi đó. Một doanh nghiệp bị thiệt hại hay cả Cục
Quản lí Cạnh tranh cũng đều có thể tiến hành một vụ kiện và khi xác định được rằng cơ
quan này có thẩm quyền pháp lí đối với một khiếu nại (trong vòng 7 ngày kể từ khi nhận
được khiếu nại), Cục Quản lí cạnh tranh có thể tiến hành điều tra.
Bản dịch 5/2008
8
Trong các trường hợp được chứng minh có vi phạm về Luật Cạnh tranh, các cơ quan quản lí
cạnh tranh có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm
trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi phạm; phạt cảnh cáo; thu hồi giấy chứng
nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép, chứng chỉ hành nghề; tịch thu tang vật hoặc
phương tiện được sử dụng để vi phạm pháp luật về cạnh tranh; yêu cầu cơ cầu lại doanh
nghiệp hoặc sắp xếp lại hợp đồng; hay tiến hành bất kỳ biện pháp cưỡng nào để khắc phục
thiệt hại.
Bản dịch 5/2008
9
2. NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
2.1 Thị trường và Giá cả - Hai nhân tố này làm việc thế nào?
Trong kinh doanh hay thế giới kinh tế, thuật ngữ “thị trường” thường được sử dụng để nhắc
tới một cơ chế trong đó cho phép mọi người được kinh doanh, nó được điều chỉnh bởi qui
luật cung cầu, do đó việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế được cơ bản tiến hành thông
qua một cơ chế định giá và đấu giá và đáp ứng yêu cầu đối với những ai sẵn sàng mua và
những ai sẵn sàng bán.1
Thị trường = Hàng hóa/ Dịch vụ + Người cung cấp + Người tiêu dùng
Cung và cầu bị tác động bởi rất nhiều yếu tố khác nhau, ví dụ như Cầu chịu ảnh hưởng bởi sự
thay đổi trong giá cả liên quan tới hàng hóa, thay đổi trong thu nhập, thị hiếu, dân số hay kì
vọng, v.v… Trong khi đó thì Cung chịu tác động bởi sự thay đổi giá cả đầu vào, thay đổi kỹ
thuật, số lượng nhà cung cấp, v.v… Trong một mô hình kinh tế đơn giản, đường cong Cung
và Cầu có thể cùng thể hiện hoạt động của thị trường.2
Theo nguyên tắc chung, thị trường sẽ đạt tới trạng thái cân bằng, một tình huống mà trong đó
không một bên nào có được ưu thế hơn từ việc tiến hành một chiến lược khác. Một thị trường
cạnh tranh đạt trạng thái cân bằng khi mà giá cả đạt tới mức tại đó Cầu về lượng của một
hàng hóa cân bằng với Cung về lượng của loại hàng hóa đó. Theo giá đó thì không một bên
bán nào có thể thu được lợi nhuận cao hơn nhờ việc bán nhiều hoặc ít hơn hàng hóa đó và
ngược lại không một người mua nào có thể được lợi từ việc mua ít hay nhiều hàng hóa đó.
Giá cả đáp ứng được Cung và Cầu về lượng là giá cân bằng, thường được gọi là Giá cân
bằng thị trường – mức giá có thể làm cân bằng thị trường thông qua việc đảm bảo rằng tất cả
người mua sẵn sàng trả giá đó có thể gặp được người bán sẵn sàng bán với giá đó và ngược
lại.
Có một vài thị trường mà hàng hóa tương tự có thể bán với các mức giá khác nhau, phụ thuộc
vào người bán và người mua. Ví dụ, bạn đã bao giờ mua một món đồ kỷ niệm trong một cửa
hàng dành cho khách du lịch và sau đó nhìn thấy món đồ giống hệt như vậy được bán ở một
nơi nào đó (có thể là cửa hàng ngay bên cạnh) với một mức giá thấp hơn? Tuy nhiên tại bất
kỳ một thị trường nào thì người mua và người bán cũng đều tham khảo xung quanh và như
vậy thì việc bán và mua hàng hóa có xu hướng được qui về một giá cả đồng bộ chung, như
vậy chúng ta có thể nói một cách thận trọng về giá cả thị trường. Rất dễ dàng để hiểu về vấn
đề này. Giả sử một người bán đưa ra cho người mua một mức giá đáng chú ý mà cao hơn
mức giá mà người mua biết rằng có người khác đang mua. Người mua sẽ được lợi hơn nếu
mua ở bất cứ nơi nào khác nếu như người bán không đưa ra một mức giá tốt hơn. Đổi lại, một
người bán sẽ không sẵn sàng bán với giá thấp hơn nhiều so với giá mà anh ta biết rằng hầu
hết người mua sẵn sàng trả; anh ta sẽ được lợi hơn nếu như chờ đợi những người tiêu dùng
tiềm năng hơn. Vì vậy mà ở bất kỳ thị trường năng động được thiết lập tốt nào thì tất cả bên
Bản dịch 5/2008
10
bán cũng như bên mua đều nhận được và phải trả một mức giá hợp lí giống nhau- như thế gọi
là giá cả thị trường. Nếu như giá cả vượt mức cân bằng, sẽ có một sự cắt giảm kéo giá giảm
xuống. Cũng tương tự như vậy, nếu như giá cả thấp hơn mức cân bằng thì sẽ có một phần
thặng dư xuất hiện điều chỉnh giá cả tăng lên.
Đó là những gì xảy ra trong nền kinh tế thị trường, được điều khiển bởi lực lượng thị trường,
mà chính lực lượng này sẽ phân bổ các nguồn lực khan hiếm có thể dự đoán được và hàng
hóa và ấn định giá cả. Một nền kinh tế thị trường vì vậy khác với một nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, mô hình kinh tế đã từng tồn tại ở Việt Nam trước công cuộc cải cách được khởi
xướng vào năm 1986, trong mô hình kinh tế thị trường, tập hợp phản ứng của người mua,
người bán, nhà sản xuất và người tiêu dùng trong một xã hội xác định xem các thị trường
khác nhau hoạt động như thế nào trong một nền kinh tế thị trường, trong khi một hệ thống kế
hoạch hóa tập trung thì được quyết định bởi các quyết định điều hành của một bộ máy quan
liêu.
2.2. Chính phủ và qui định của luật pháp đối với thị trường tự do
Trong một mô hình kinh tế đơn giản ở trên, chúng ta chỉ xem xét hai nhân tố của thương
trường là người mua và người bán hay người tiêu dùng và nhà sản xuất. Trong tất cả các nền
kinh tế, một hệ thống tuân theo hoặc dựa trên lực lượng thị trường hay hệ thống kế hoạch hóa
tập thì vai trò của chính phủ cũng không thể bị lãng quên. Chính phủ có thể hoạt động như
những nhà cung cấp hàng hóa công cộng, hay là các nhà sản xuất của rất nhiều loại hàng hóa
và dịch vụ. Một điều quan trọng hơn là vai trò của họ như là một bộ máy điều tiết nền kinh tế.
Có điều này là bởi vì các thị trường đều có rất nhiều điểm không hiệu quả.
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tính không hiệu qủa của thị trường. Những nguyên nhân
nói chung của tính không hiệu quả của thị trường bao gồm sức mạnh độc quyền, các nhân tố
bên ngoài như ô nhiễm, tính không đối xứng của thông tin, tính không chắc chắn, và các hình
thức khác nhau của các hành vi chiến lược và hành vi cơ hội. Chính phủ có thể tăng cường
luật pháp và thể chế, cung cấp hàng hóa công cộng, hay nắm được và phổ biến thông tin một
cách hiệu quả.
Không may là trong nhiều trường hợp, chính phủ thường vượt quá vai trò của mình như một
cơ quan điều tiết hay nhà cung cấp hàng hóa và dịch vụ công. Can thiệp trung gian hay can
thiệp quá sâu vào các hoạt động bình thường của thị trường, thiên vị đối với các doanh
nghiệp nhà nước (SoEs), v.v… vì vậy, điều quan trọng là đảm bảo nguyên tắc của luật pháp
chiếm ưu thế.
Nguyên tắc pháp luật có hai chức năng kinh tế chính. Trước tiên, nó điều chỉnh và hạn chế
can thiệp tùy ý của nhà nước vào các hoạt động kinh tế. Thứ hai, nó điều chỉnh các hành vi
kinh tế của cá nhân, doanh nghiệp nhằm tạo ra một môi trường ổn định với sự cạnh tranh lành
mạnh, xác định một cách rõ ràng và bảo vệ tốt quyền sở hữu trí tuệ, và các hợp đồng được
tăng cường một cách có hiệu qủa.3
Bản dịch 5/2008
11
Trong bối cảnh tại Việt Nam, mặc dù đã có một số cải cách được tiến hành từ năm 1986
nhưng vẫn còn cách rất xa với mô hình kinh tế lý tưởng này. Khuôn khổ luật pháp hiện chưa
được hoàn thiện; thể chế luật pháp còn thiếu hoặc mới ở giai đoạn hình thành. Hiểu biết về
thị trường và cách thức thị trường hoạt động vẫn còn bị ám ảnh bởi lịch sử lâu dài của một
nền kinh tế tập trung. Các nhà chính trị và những người hoạch định chính sách vẫn còn hoài
nghi đối với khu vực tư nhân; vì vậy mà khu vực nhà nước vẫn được coi trọng và được hưởng
nhiều thuận lợi. Khu vực kinh doanh không chính thức còn lớn, thiếu thông tin, thiếu có sở
dữ liệu, đang làm cho việc điều chỉnh một nền kinh tế lành mạnh trở nên khó khăn hơn.
Bản dịch 5/2008
12
3. THỊ TRƯỜNG VÀ CẠNH TRANH
3.1. Cạnh tranh
Trong một mô hình được lí tưởng hóa, cạnh tranh thị trường (hay thương mại) là một quá
trình ganh đua theo đó các nhà sản xuất/ nhà cung cấp cố gắng đưa ra các lựa chọn về giá cả
và chất lượng hấp dẫn nhất nhằm có được doanh thu mới và nhóm người tiêu dùng mới.
Như đã đề cập tới ở phần 2, có một số nhân tố ảnh hưởng tới các quyết tiêu thụ và cung cấp
của người tiêu dùng và nhà sản xuất trong thị trường tự do. Nhu cầu của người tiêu dùng có
thể bị chi phối bởi giá cả, ví dụ như giá cả tăng, thì cầu sẽ giảm. Khi giá bánh mỳ đắt hơn,
người tiêu dùng sẽ chuyển sang các loại hàng hóa khác, có thể mua nhiều bánh nướng xốp
hay bánh ngọt nhiều hơn để thay thế. Cũng tương tự như vậy, nhu cầu của người tiêu dùng về
một hàng hóa hay dịch vụ cụ thể phụ thuộc vào mức độ thu nhập của họ, giá cả liên quan tới
hàng hóa và thị hiếu của họ. Các quyết định cung cấp hàng hóa của người sản xuất cũng phụ
thuộc vào giá cả. Có thể nói rằng, giá của một ổ bánh mỳ càng cao thì số lượng mà các doanh
nghiệp sẵn sàng cung cấp càng lớn, bởi vì giá cả cao sẽ mang lại lợi nhuận cho các doanh
nghiệp để tạo ra nhiều đầu ra hơn. Cũng giống như vậy, Cung phụ thuộc vào giá cả đầu vào
và các điều kiện của quá trình sản xuất, v.v…
Theo đó, trong một thị trường mang tính cạnh tranh, nơi có nhiều hàng hóa và dịch vụ có
chủng loại đa dạng và có thể thay thế cho nhau, có mặt trên thị trường với một mức giá phù
hợp, người tiêu dùng có thể luôn luôn thay đổi mua những hàng hóa/dịch vụ có tính cạnh
tranh hơn, chính điều này kích thích nhà sản xuất cạnh tranh với đối thủ của mình nhằm đáp
ứng được thị hiếu của khách hàng. Vì vậy, cạnh tranh là một xu hướng tất yếu giữa các nhà
sản xuất có hàng hóa tương tự và liên quan liên quan tới các yếu tố như giá cả, chất lượng,
hay các dịch vụ sau khi bán, v.v… đặc biệt là thông qua giá cả.4 Tuy nhiên, trong thực tế, có
thể xảy ra những tình huống khác, ví dụ như, trong trường hợp của độc quyền, chỉ có duy
nhất một nhà sản xuất/một nhà cung ứng của một loại hàng hóa/dịch vụ cụ thể trên thị trường,
không có hàng hóa thay thế, chính điều này đã tạo ra sức mạnh thị trường độc tôn cho người
tham gia mà có thể vượt qua mọi qui luật thị trường.
Ví dụ trong trường hợp của ba hệ thống siêu thị Big C, Metro và Intimex hiện nay đang hoạt
động tại Hà Nội. Những siêu thị này bán các sản phẩm giống nhau như: thực phẩm, quần áo,
đồ chơi, v.v… hay các sản phẩm mà có thể thay thế được cho nhau như: bánh Hăm - bơ – gơ
và bánh Sandwiches, Coca Cola và Sprite hay trà đá Nestle. Vì vậy mà các siêu thị này phải
cạnh tranh để có được sự lui tới thường xuyên của khách hàng/người tiêu dùng ở Hà Nội
bằng việc đưa ra giá cả thấp hơn, các sự lựa chọn tốt hơn, đưa ra các loại hình dịch vụ trả tiền
nhanh và thuận tiện hơn, v.v…
3.2 Thị trường liên quan
Cạnh tranh không đồng nhất tại tất cả thị trường. Hai siêu thị tại Hà Nội cạnh tranh với nhau
chỉ để thu hút khách hàng tại Hà Nội chứ không phải khách hàng tại thành phố Hồ Chí Minh.
Hay là hai nhà cung cấp dịch vụ di động cạnh tranh với nhau để cung cấp dịch vụ điện thoại
Bản dịch 5/2008
13
tốt hơn chứ không phải là dịch vụ bưu điện. Sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp này cũng
khác nhau theo thời gian, ví dụ cạnh tranh giữa hai nhà sản xuất bia trong mùa hè hay trong
mùa giải World Cup sẽ sôi nổi hơn trong mùa đông.
“Thị trường liên quan” là khái niệm trước tiên phải hiểu để nắm được hầu hết mọi phân tích
về cạnh tranh. “Thị trường liên quan” xác định mức độ cạnh tranh hiệu quả trên thị trường,
liên quan tới hàng hóa/dịch vụ, thời gian và địa điểm. 5 Để xác định được thị trường liên quan
cho một trường hợp cạnh tranh cụ thể, người ta thường xem xét tới “ thị trường hàng hoá liên
quan” và “thị trường địa lý liên quan” trong một “giai đoạn” cụ thể.
Thị trường hàng hoá liên quan: là thị trường hàng hoá bao gồm tất cả các hàng hoá, dịch vụ
có thể thay thế cho nhau cả về tiêu dùng lẫn sản xuất.6
Trong một ví dụ đơn giản, người ta có thể cố gắng xác định liệu các chai thủy tinh có cùng thị
trường hàng hoá liên quan với chai nhựa hay không. Trong trường hợp này, người ta xem xét
xem liệu rằng khi giá của chai thủy tinh tăng có dẫn tới những thay đổi đáng kể trong lượng
tiêu thụ của cả hai loại sản phẩm này không. Nếu như sự tăng giá này dẫn tới việc người tiêu
dùng sẽ chuyển sang mua một lượng đáng kể chai nhựa thì chai nhựa sẽ được coi là nằm
trong thị trường hàng hoá liên quan với chai thủy tinh.
Thị trường địa lý liên quan: một thị trường địa lý liên quan cũng tương tự, được xác định dựa
trên cơ sở khách hàng hay “khả năng của người tiêu dùng” thay đổi sức mua giữa các nhà
cung cấp sản phẩm thay thế trong trường hợp có sự tăng giá. Nếu như vé máy bay của chuyến
thành phố Hồ Chí Minh và Phnom Penh (Cam-pu-chia) của hãng hàng không Việt Nam
Airlines tăng và hành khách có thể chuyển sang đi hãng hàng không Air Cambodia hay Thai
Airway International với những thuận tiện nhiều hơn, thì tất cả các hãng hàng không này mặc
dù nằm ở các nước khác nhau nhưng vẫn có thể được coi là cạnh tranh trong cùng một thị
trường địa lý liên quan, ở đây là tuyến thành phố Hồ Chí Minh – Phnom Penh.
Trong một trường hợp khác, ngay cả khi có sự thuận tiện khác cho một người mua một chiếc
ôtô từ Singgapo, thì thuế nhập khẩu cao tại Việt Nam đã làm nản chí cho người tiêu dùng tại
Việt Nam khi mua một chiếc xe từ nước ngoài. Vì vậy mà theo quan điểm của những người
sử dụng ôtô Việt Nam, thì Việt Nam là thị trường địa lý liên quan.
Ngoài thuế nhập khẩu cao và các biện pháp bảo hộ phức tạp, còn nhiều yếu tố khác như là
luật pháp bảo vệ sức khỏe và an toàn hay các yêu cầu về giấy phép, hay chi phí vận chuyển,
là những yếu tố tạo nên rào cản đối với cạnh tranh và do đó giúp cho sự xác định các thị
trường địa lý liên quan.7
Thị trường liên quan, vì vậy, thường được xác định từ quan điểm của người tiêu dùng. Một ví
dụ đơn giản cho thị trường liên quan do đó có thể nói là: “doanh nghiệp A và doanh nghiệp B
là những đối thủ cạnh tranh trên thị trường dịch vụ điện thoại (di động, đường dây cố định, vệ
tinh, v.v…) tại Hà Nội”.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam (sau đây sẽ gọi là Luật CT) định nghĩa thị trường liên
quan bao gồm “ thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan”; trong đó “thị
Bản dịch 5/2008
14
trường sản phẩm liên quan có nghĩa là thị trường của những hàng hóa,dịch vụ có thể thay thế
cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả”, và “thị trường địa lý liên quan có nghĩa là
một khu vực địa lý cụ thể trong đó có những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với
các điều kiện cạnh tranh tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận”.8
Thêm vào đó, Nghị định số 116/2005/ND-CP được Chính phủ ban hành nhằm hướng dẫn cụ
thể việc thực hiện Luật CT (sau đây sẽ gọi là Nghị định số 116/2005) cũng qui định một vài
yếu tố để xem xét thế nào là một thị trường sản phẩm và địa lý liên quan bao gồm sự thay thế
của sản phẩm (Điều 4 của Nghị định), cấu trúc thị trường và hành vi của người tiêu dùng, thị
trường đối với các sản phẩm hỗ trợ cho sản phẩm tương tự (Điều 5 của Nghị định), khả năng
thay thế liên quan tới nguồn Cung (Điều 6 của Nghị định), điều kiện cạnh tranh và các rào
cản thâm nhập thị trường (Điều 7&8 của Nghị định). Các cuộc thăm dò người tiêu dùng có
thể được sử dụng trong suốt quá trình (Điều 4(5) của Nghị định).9
Nghị định này rẩt phù hợp với khái niệm chung của thị trường liên quan và các biện pháp
chung của việc xác định thị trường liên quan. Tuy nhiên ở đây có thể có sức ép về nguồn lực
đối với một thể chế cạnh tranh non trẻ như tại Việt Nam, hiện đang cần thêm nguồn nhân lực
không kể tới các nguồn lực khác như tài chính, thời gian, v.v… Ngoài ra, tính không tương
xứng của thông tin và thiếu cơ sở có thể cũng đẳt ra nhiều sự hạn chế nghiêm trọng.
Khoảng thời gian: Xu hướng có thể thứ 3 đối với việc xác định thị trường là thời gian. Những
ví dụ về việc thời điểm sản xuất và buôn bán có thể tác động tới thị trường bao gồm: 10
Những dịch vụ vào mùa cao điểm và mùa không cao điểm: đây có thể là một nhân tố
trong dịch vụ vận chuyển hoặc các dịch vụ thiết thực khác như cung cấp điện.
Mức độ biến đổi theo mùa, ví dụ như mùa hè so với những tháng mùa đông: điều này có
thể ảnh hưởng đáng kể tới sức mua của người tiêu dùng khi mùa đó tới đối với các loại
hàng hóa như quần áo, điều hòa hay lò sưởi,v.v…
Các sản phẩm thường xuyên được cải tiến/đổi mới: khách hàng có thể trì hoãn chi tiêu đối
với các sản phẩm hiện tại bởi vì họ cho rằng sự đổi mới sẽ sớm tạo ra các sản phẩm tốt
hơn hay bởi vì họ đang sở hữu một phiên bản cũ của một sản phẩm mà họ cho là một sản
phẩm gần như thay thế được cho phiên bản hiện tại. Một số ví dụ như là các sản phẩm
may mặc hợp thời trang hay các loại phần mềm máy tính,v.v…
Khả năng thâm nhập của các nhân tố mới trong tương lai: Ngoài các nhà sản xuất đã có
mặt trên thị trường (giả định là họ cũng sẽ vẫn có mặt trên thị trường trong tương lai) thì
một số nhà sản xuất khác có thể và sẽ có mặt trên thị trường nhằm đáp trả lại một hành vi
hạn chế cạnh tranh.
Trong một chừng mực nào đó thì yếu tố thời gian chỉ đơn giản là một yếu tố mở rộng của thị
trường sản phẩm liên quan. Ví dụ: Thị trường sản phẩm liên quan có thể được xác định như
là việc cung ứng dịch vụ trên tàu tại một khoảng thời gian cụ thể trong ngày.
Bản dịch 5/2008
15
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam chỉ xác định thị trường liên quan mà không đề cập tới
yếu tố thời gian. Tuy nhiên, điều 6 của Nghị đinh 116/2005 có đề cập tới vấn đề này khi nhắc
tới các yếu tố như “khoảng thời gian cung cấp hàng hóa hay dịch vụ vào thị trường khi có
một sự tăng đột biến về Cầu”, hay “khoảng thời gian sử dụng của hàng hóa/dịch vụ”, hay
“khả năng thay thế Cung”. Mặc dù có những định nghĩa này nhưng yếu tố tương lai vẫn
không hề rõ ràng.
3.3 Thị phần và cấu trúc thị trường
Thị phần trong tiếp thị và quản lí chiến lược là tỷ lệ phần trăm hoặc tỷ lệ của tổng thị trường
hay thị phần hiện có mà một doanh nghiệp đang nắm giữ.11
Trong thế giới cạnh tranh, thị
phần của một doanh nghiệp sẽ thay đổi cùng với việc xác định thị trường liên quan. Thị
trường liên quan được xác định càng nhỏ đối với một trường hợp cụ thể thì một doanh nghiệp
có thể có thị phần càng cao tại thị trường đó.
Theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam, “thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng
hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với
tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị
trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng
doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị
trường liên quan theo tháng, quí, năm”.12
Trong kinh tế, các thị trường được phân loại theo cấu trúc của ngành công nghiệp trong thị
trường. Cấu trúc công nghiệp được phân loại dựa trên các biến số cấu trúc thị trường được
cho là để xác định qui mô và đặc trưng của tính cạnh tranh trong đó. Các biến số này hầu hết
là phổ biến là số lượng người bán và người mua, qui mô của sự thay thế sản phẩm, giá cả, sự
giảm đầu vào và ra, và qui mô của sự phụ thuộc nhiều bên. Trong khuôn khổ truyền thống,
những biến số cấu trúc này được đưa vào phép phân loại cấu trúc thị trường dưới đây:
Cạnh tranh hoàn hảo: một cấu trúc thị trường trong đó tất cả mọi doanh nghiệp đều tạo ra
một kết quả phân chia hoàn hảo và đồng đều; người sản xuất và người tiêu dùng có đầy đủ
thông tin, gánh chịu các chi phí giao dịch và là những người nhận đề nghị về giá cả; và không
hề có các yếu tố bên ngoài.13
Cạnh tranh hoàn hảo khog tồn tại ở thế giới thực, nó chỉ có ở
mô hình đề cập ở đây nhằm để so sánh với các loại cấu trúc thị trường khác.
Cạnh tranh thông thường: một cấu trúc thị trường trong đó một số lượng khá lớn các doanh
nghiệp cạnh tranh với nhau thông qua các hành vi giống nhau chỉ khác một chút về các sản
phẩm.14
Mỗi doanh nghiệp đếu có một vài sự kiểm soát đối với giá cả mà nó đưa ra bởi vì các
sản phẩm đều được phân biệt. Tuy nhiên, bởi vì không có bất cứ rào cản đáng kể nào đối với
việc thâm nhập thị trường và các sản phảm có thể thay thế được cho nhau, không ai có thể chi
phối lên toàn bộ thị trường. Loại cấu trúc thị trường này thường được gọi là “cạnh tranh có
thể làm việc được” hay “bình thường”. Có rất nhiều thị trường có thể được nhắc tới như ví dụ
ở đây: thị trường sách, quần áo, ngành công nghiệp dịch vụ và phim ảnh ở các thành phố lớn.
Bản dịch 5/2008
16
Thị trường độc quyền nhóm bán: một cấu trúc thị trường mà trong đó một nhóm nhỏ người
mua và người bán (những người độc quyền nhóm15
) chi phối thị trường. Do có một số người
cùng tham gia vào loại thị trường này, mỗi thành viên độc quyền nhóm đều thấy rằng họ có
thể tác động tới giá cả thị trường và vì vậy có thể ảnh hưởng tới cả lợi nhuận của đối thủ cạnh
tranh. Ví dụ, hãng Ford không thể phớt lờ hãng Honda khi đưa ra những quyết định liên quan
tới việc sản xuất xe hơi của mình. Thị trường độc quyền nhóm bán, vì vậy có thể nói là được
đặc trưng bởi mối quan hệ liên kết giữa những người tham gia vào thị trường đó. Một doanh
nghiệp có thể xem xét tới các hành vi của đối thủ cạnh tranh nhằm xác định chính sách tốt
nhất cho doanh nghiệp của mình. Thị trường dịch vụ điện thoại di động tại Việt Nam là một
ví dụ của thị trường độc quyền nhóm bán.
Độc quyền: Đây là cấu trúc thị trường được đặc trưng bởi một doanh nghiệp duy nhất bán
một loại sản phẩm mà không có hàng hóa thay thế hay không có rào cản nào cho việc thâm
nhập vào thị trường của loại sản phẩm này.16
Trong trường hợp này, nhà độc quyền có thể tối
đa hóa lợi nhuận bằng cách tăng giá lên mức cao nhất mà thị trường có thể chịu đựng được.
3.4 Luật và chính sách cạnh tranh
Cạnh tranh ngày càng được coi như là một động lực tiềm ẩn để phát triển mọi nền kinh tế trên
toàn thế giới.17
Nó cần thiết cho việc phân bổ một cách có hiệu quả nguồn lực, thúc đẩy đổi
mới, tăng năng suất, tạo ra nhiều công ăn việc làm và cơ hội kiếm thêm thu nhập, tạo điều
kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) có thể tham gia vào thị trường. Do vậy Cạnh
tranh là một công cụ hữu ích để tăng trưởng và giảm nghèo.18
Cạnh tranh được phát huy tốt nhất trong một thị trường không bị bóp méo. Tuy nhiên như đã
đề cập ở trước đó, cạnh tranh hoàn hảo không tồn tại trong cuộc sống thực tại, vì vậy mà lợi
ích đầy đủ mà cạnh tranh mang lại thường không được cụ thể hóa.19
Tiến trình cạnh tranh
thường không được thúc đẩy và không lành mạnh bởi vì các lí do liên quan tới lợi ích đặc
biệt, chính phủ, và sự hiểu biết yếu kém về kinh tế của người dân. Khi thị trường không cạnh
tranh, bất kể là vì sự bóp méo thị trường do các chính sách gây ra, đặc thù kĩ thuật hay các
hành vi hạn chế cạnh tranh của những người tham gia thị trường, thì nền kinh tế có thể mất đi
rất nhiều lợi ích tiềm năng dành cho người dân. Hơn nữa, các nỗ lực bãi bỏ các qui định
không hợp lí của chính phủ nhằm mang lại lợi ích cho người tiêu dùng thậm chí có thể phản
tác dụng.
Hậu quả là ngoài các chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh của người tham gia thị
trường, các biện pháp khác cũng cần thiết nhằm tăng cường các chính sách thúc đẩy các
doanh nghiệp cạnh tranh (hoặc là ngăn chặn các doanh nghiệp khỏi hành động chống lại đối
thủ cạnh tranh), từ đó để cải thiện tính hiệu qủa của việc phân bổ nguồn lực. Vì vậy, các lợi
ích mà cạnh tranh mang lại không chỉ giới hạn ở việc duy trì giá cả cận biên có lợi cho người
tiêu dùng, đây là hiệu qủa tĩnh, mà còn ở chỗ tạo ra một môi trường kinh doanh mới có hiệu
quả để gia nhập và phát triển trong khi đó thúc ép các doanh nghiệp đã có mặt trên thị trường
phải tiếp tục cải thiện công việc kinh doanh tốt hơn.
Bản dịch 5/2008
17
Chính sách cạnh tranh là những biện pháp của chính phủ có ảnh hưởng trực tiếp tới hành vi
của doanh nghiệp và cấu trúc của nền công nghiệp. Nó là một phần không thể thiếu của chính
sách kinh tế, và có thể bao quát các yếu tố như chính sách tự do hóa thương mại, chính sách
công nghiệp, chính sách đầu tư, và chính sách cổ phần hóa, với mục tiêu chính là việc duy trì
và thúc đẩy cạnh tranh như là một phương tiện để đảm bảo cho phân bổ một cách hiệu quả
các nguồn lực trong một nền kinh tế, dẫn tới kết quả là có được sự lựa chọn tốt nhất có thể
trong chất lượng sản phẩm, giá cả thấp nhất và nguồn cung đủ cho người tiêu dùng.
Mặt khác, Luật Cạnh tranh là một thực thể bao gồm các nguyên tắc và điều khoản luật đảm
bảo sự tự do và công bằng trên thương trường thông qua việc điều chỉnh các hoạt động của
doanh nghiệp, nghiêm cấm việc các tổ chức hạn chế cạnh tranh và lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường mà có thể làm cản trở quá trình cạnh tranh và ảnh hưởng xấu tới các quyền và lợi
ích chính đáng của các thành viên khác trong thị trường trong đó có cả người tiêu dùng.
Chính sách cạnh tranh = Các chính sách kinh tế tác động tới cạnh tranh + Luật Cạnh
tranh
Bản dịch 5/2008
18
4. CÁC HÀNH VI HẠN CHẾ CẠNH TRANH
Các hành vi hạn chế cạnh tranh (RBPs) hay đơn giản là các hành vi phản cạnh tranh là hành
vi được tiến hành bởi các doanh nghiệp tư nhân hoặc các doanh nghiệp thuộc khối công cộng
nhằm hạn chế sự thâm nhập thị trường hoặc kìm hãm sự cạnh tranh trên thị trường để duy trì
và tăng cường vị thế trên thị trường và lợi nhuận của họ mà không cần phải cung cấp hàng
hóa và dịch vụ với mức giá thấp hơn hay chất lượng cao hơn.
Theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam, “hành vi hạn chế cạnh tranh […] là hành vi của
doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế”20
Có rất nhiều loại hành vi hạn chế cạnh tranh. Mỗi loại sẽ được giải thích trong một bản tóm
tắt nhỏ sau đây. Cùng với những bản tóm tắt này sẽ có những điều khoản tương ứng và các
trường hợp tại Việt Nam cũng như là các vụ việc được trích dẫn ở nhiều nơi trên thế giới.
4.1 Sức mạnh thị trường
Một khái niệm chính trong rất nhiều các phân tích về cạnh tranh là “Sức mạnh thị trường”.
Không có sức mạnh thị trường thì không một hành vi phản cạnh tranh nào của doanh nghiệp
có thể đạt được mục tiêu đã được trù tính của họ.
“Sức mạnh thị trường” là khả năng của một doanh nghiệp riêng lẻ hay một nhóm các doanh
nghiệp nâng cao và duy trì mức giá trên mức chiếm ưu thế do cạnh tranh mang lại.21
Mức độ
cao nhất của sức mạnh thị trường là độc quyền; tuy nhiên tất cả các doanh nghiệp ngoại trừ
các doanh nghiệp hoạt động trong một thị trường có cạnh tranh hoàn hảo thì đều sở hữu một
vài mức độ sức mạnh thị trường.
Thị phần cao nhìn chung là một điều kiện cần, nhưng không phải là một điều kiện đủ, để xác
lập sức mạnh thị trường.22
Ngoài ra, dù hiện tại còn nhiều tranh luận về các yếu tố cấu thành
sức mạnh thị trường tiềm năng, thì thậm chí việc xác định thị phần cũng là một vấn đề gây
tranh cãi. Ví dụ thị phần có thể xác định bởi doanh số bán hiện tại, doanh số bán lịch sử hay
thậm chí cả khả năng tiêu thụ (tiềm năng).
Một số khu vực tài phán đã xác lập các mức thị phần thực tế, hay pháp định, mà cao hơn hoặc
thấp hơn mức đó thì sức mạnh thị trường được cho là tồn tại hoặc không tồn tại.
Tuy nhiên, chưa có một kết luận rõ ràng nào về minh chứng kinh tế cho việc giả định sự tồn
tại của sức mạnh thị trường tại bất cứ thị phần nào đã định sẵn nào. Bù lại, những quan ngại
về tính hiệu quả của công tác thực thi pháp luật cho phép việc xác định một thị phần “an
toàn” mà dưới đó thì sức mạnh thị trường dường như không tồn tại.
Việc xác định xem một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp có sức mạnh thị trường
hay không là một xuất phát điểm đối với việc phân tích các trường hợp có liên quan tới việc
lạm dụng vị tri thống lĩnh thị trường. (Đây là một kiểu hành vi hạn chế cạnh tranh sẽ được
bàn luận tại phần 4.6). Ngoài thị phần, những nhân tố quan trọng có thể được xem xét trong
Bản dịch 5/2008
19
việc đánh giá sức mạnh thị trường của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp bao
gồm:
Số lượng và thị phần của các doanh nghiệp cạnh tranhl
Tính chất của sản phẩm tương đối;
Khả năng phản kháng của những doanh nghiệp tham gia thị trường khác;
Quyền sở hữu trí tuệ (IPRs);
Các đặc điểm thị trường như môi trường điều tiết, tốc độ thay đổi kỹ thuật, sự tồn tại
của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng hay cân bằng; và
Các rào cản xâm nhập thị trường
Mặc dù đứng ở vị trí cuối của danh sách, nhưng các rào cản xâm nhập thị trường thường là
nhân tố quan trọng nhất. Sự thống lĩnh thị trường sẽ không còn tồn tại nếu như việc xâm nhập
thị trường là dễ dàng. Một doanh nghiệp với thị phần chiếm tới 90% sẽ không có vị trí thống
lĩnh nếu như khi doanh nghiệp này tăng giá hàng hóa của mình, một doanh nghiệp khác sẽ
thâm nhập vào thị trường và bán hàng hóa của họ với mức giá cạnh tranh hơn. Như vậy,
muốn xác định xem doanh nghiệp đó có vị trí thống lĩnh thị trường hay không cần phải phân
tích xem liệu có bất cứ rào cản xâm nhập thị trường nào hay không.
Các rào cản xâm nhập thị trường có thể được tạo ra bởi một vài nhân tố, sự sắp xếp từ các
điều chỉnh của chính phủ, IPRs, sự tiếp cận trung tâm, chi phí đáng kể của việc gia nhập, qui
mô kinh tế cần thiết cho việc xâm nhập thị trường, hệ thống phân phối được tổ chức tốt,
quảng cáo, sự trung thành của người tiêu dùng và sự công nhận nhãn hiệu hàng hóa, v.v…
Đôi khi những rào cản xâm nhập thị trường bao gồm cả các hành vi hạn chế của các doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường cố gắng bảo vệ vị trí của họ.
Theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam, “doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị
trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế
cạnh tranh một cách đáng kể” trong khi “ Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh
thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh và thuộc một trong các trường
hợp sau đây: (a) hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên trên thị trường liên quan;
(b) Ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên trên thị trường liên quan; (c) Bốn doanh
nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị trường liên quan.”23
Mặt khác, “Một doanh
nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu không có doanh nghiệp nào cạnh tranh về hoàng
hóa, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị trường liên quan.”24
Trong khi Luật CT cũng dựa theo các phương pháp thông thường để xác định vị trí thống lĩnh
thị trường (và nhóm có vị trí thống lĩnh thị trường) dựa trên cơ sở “thị phần”, Luật này cũng
đưa ra một cơ sở khác để kiểm tra xem có phải đó là sự thống lĩnh thị trường hay không, đó
là đề cập tới khả năng của doanh nghiệp có thể tiến hành các hành vi hạn chế cạnh tranh một
cách đáng kể. Nghị định 116/2005 cũng qui định thêm rằng khả năng này sẽ được xác định
dựa trên cơ sở của cả sức mạnh tài chính và cả sức mạnh kĩ thuật của doanh nghiệp hay IPRs
và qui mô của mạng lưới phân phối.25
Đây cũng là những yếu tố cần thiết cũng giống như là
những yếu tố khác đã đề cập ở trên về sức mạnh thị trường và các rào cản xâm nhập thị
trường.
Bản dịch 5/2008
20
4.2.Quy tắc có lí và Quy tắc Per se
RBPs cũng như các hành vi khác áp đặt hạn chế cạnh tranh một cách quá mức như sáp nhập
và mua lại (M&As) sẽ được phân tích sau đều chịu sự điều chỉnh của Luật Cạnh tranh. Tuy
nhiên, sự điều chỉnh này tuân theo một số quy tắc chính sau đây.
Một vài hành vi hạn chế cạnh tranh được coi bất hợp pháp theo quy tắc per se trong một vài
khu vực tài phán. Điều này có nghĩa là các hành vi này hoàn toàn có thể bị kết luận là đã áp
đặt hạn chế không thoả đáng đối với tiến trình cạnh tranh, và do đó là phản cạnh tranh,26
hay
coi là tự thân đã bất hợp pháp, mà không cần thêm bất cứ sự biện hộ nào khác.
Trong các trường hợp khác, người ta qui định rằng chỉ có những sự kết hợp và các hợp đồng
nào mà hạn chế thương mại một cách quá mức mới bị điều chỉnh bởi Luật Cạnh tranh và qui
mô kinh tế và việc sở hữu vị trí độc quyền tự thân không phải là bất hợp pháp. Trong các
trường hợp này, các hành vi hạn chế cạnh tranh (cũng như là các vấn đề cạnh tranh khác)
được xem xét dưới phạm trù của “quy tắc có lí”.
Theo quy tắc có lí, một số hành vi chiến lược của các doanh nghiệp có thể có cả tác động hạn
chế cạnh tranh và cả các lợi ích hiệu quả năng động. Trong trường hợp các hiệu quả/lợi ích
cao hơn các tác động tiêu cực, thì hành vi đó có thể được cho phép vượt qua sự kiểm soát của
các quy định pháp luật về cạnh tranh. Một hành vi có thể được xem như là một hành vi tăng
cường hiệu quả kinh tế nếu:
(i) Có thể chứng minh được là hành vi đó có tác dụng thúc đẩy cạnh tranh (ví dụ, trong
việc thúc đẩy đổi mới và phát triển kĩ thuật, tăng xuất khẩu hay tăng tính cạnh tranh
quốc tế của đất nước, v.v…), hay
(ii) Hành vi đó được tiến hành dựa trên lợi ích công cộng (ví dụ như để giảm thất nghiệp
và bảo vệ môi trường, v.v…).
Đưọc hưởng miễn trừ trên các cơ sở này có nghĩa là một thỏa thuận được chấp nhận là có tác
động hạn chế thương mại nhưng lợi ích mà thoả thuận đó mang lại vượt quá những thiệt hại
mà bản thân hành động hạn chế cạnh tranh này gây ra.
Toàn bộ Luật Cạnh tranh của Việt Nam yêu cầu có phân tích quy tắc có lí ngoại trừ các
trường hợp dưới mức „an toàn‟ 30% thị phần, vốn được tạo ra cho các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh có thể bị coi là vi phạm điều 8 (khoản 1-5) (phần 4.3 sẽ thảo luận chi tiết về vấn
đề này). Điều khoản này giống với điều 81 của Hiệp ước Liên minh Châu Âu (EU). Điều này
cấm triệt để (per se) các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh trong khoản 2, nhưng sau đó lại đưa ra
khoản 3 một vài lý do/biện hộ có thể khiến cho các hành vi được nêu tại khoản trở nên hợp
pháp. Vì vậy, khi xem xét về tính hợp pháp và bất hợp pháp của các hành vi thương mại phải
tính đến cả những miễn trừ.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam đưa ra miễn trừ (có thời hạn) đối với “các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh” nếu các thỏa thuận này đáp ứng được một trong số các điều kiện sau đây
nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:
Bản dịch 5/2008
21
Hợp lí hóa cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, dịch vụ;
Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của
chủng loại sản phẩm;
Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan
đến giá và các yếu tố của giá;
Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế.27
Một điểm quan trọng nữa là Luật Cạnh tranh Việt Nam còn qui định rằng những hành vi hạn
chế cạnh tranh được liệt kê trong điều 8 sẽ không hợp pháp nếu như các doanh nghiệp không
đăng kí để được hưởng miễn trừ ngay từ đầu. Điều này có nghĩa là các thực thể kinh doanh
sẽ không thể tiến hành các hành vi mà thực tế vi phạm các điều cấm trong luật ngay cả khi
các giao dịch này có tác dụng kích thích cạnh tranh. Có một ngoại trừ cho loại thủ tục này
trong điều 85(d) của nghị định 116/2005 theo đó qui định rằng một quan tòa có thể coi hành
vi đó như “một tình tiết giảm nhẹ hình phạt” nếu sự vi phạm này có “một tác động tích cực
tới nền kinh tế”. Điều khoản không rõ ràng này có thể làm thay đổi hoàn toàn giả định cho
rằng các doanh nghiệp vi phạm Luật Cạnh tranh có thể không chỉ phải chờ đợi các quyết định
cho hưởng miễn trừ từ các cơ quan quản lí cạnh tranh mà còn phải đệ trình đơn xin được
hưởng miễn trừ và phải công khai hóa đơn xin này.
Yêu cầu phải công khai hóa đối với một miễn trừ có hậu quả rất lớn trong thực tiễn. Bắt buộc
các doanh nghiệp phải công bố kế hoạch kinh doanh của họ có thể loại bỏ nhiều ý tưởng cạnh
tranh nhằm đổi mới doanh nghiệp. Hơn nữa việc trì hoãn cũng khiến cho doanh nghiệp không
thể đối phó được với thách thức cạnh tranh đến từ các doanh nghiệp khác.
4.3 Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Các thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh liên quan tới giá cả, phân chia khách hàng, v.v…
là những hành vi hạn chế cạnh tranh có khả năng gây hại nặng nề nhất cho cạnh tranh và
người tiêu dùng. Những doanh nghiệp tiến hành các thỏa thuận này có thể không kiểm soát
được sức mạnh thị trường một cách đơn lẻ. Tuy nhiên họ có thể đạt được thỏa thuận thông
qua sự hiểu biết tin cậy, viết tay hoặc bằng miệng, ám chỉ hoặc bày tỏ ra ngoài những cách
thức thỏa thuận này sẽ giúp thực hiện sức mạnh thị trường tập thể của họ nhằm kiếm được lợi
ích kinh tế không xứng đáng cho tất cả mọi thành viên tham gia thỏa thuận.
Những thỏa thuận như vậy cũng có thể có ở những doanh nghiệp có mối quan hệ ngang (ví
dụ tất cả mọi doanh nghiệp cùng ở một bậc trong dây chuyền sản xuất hoặc tiếp thị, mang sản
phẩm/dịch vụ tới người tiêu dùng, ví dụ giữa các nhà sản xuất bếp ga hoặc ôtô hoặc giữa
những người bán nước ngọt, v.v…), hay giữa những doanh nghiệp có mối quan hệ dọc (ví dụ
như một doanh nghiệp là nhà cung cấp đầu vào cho hoạt động thương mại của một doanh
nghiệp khác, ví dụ thỏa thuận phân phối giữa các nhà sản xuất và các nhà phân phối)
Bản dịch 5/2008
22
4.4. Thỏa thuận ngang giữa các đối thủ cạnh tranh
Các thỏa thuận ngang hạn chế cạnh tranh, hay còn gọi là các-ten trong thuật ngữ chuyên môn
về cạnh tranh, thường được coi là những hành vi nghiêm trọng nhất trong tất cả các hành vi
phản cạnh tranh và cấu thành những loại vi phạm dễ bị phạt hình sự nhất tại nhiều khu vực tài
phán trên thế giới.
Bản chất vốn là những thỏa thuận phản cạnh tranh theo chiều ngang, các-ten là sự thoả thuận
giữa các nhóm doanh nghiệp sản xuất và bán cùng một loại sản phẩm nhằm mục đích thu và
chia chác lợi nhuận độc quyền. Nói chung hầu hết những doanh nghiệp đạt được mục đích
này thông qua sự nhất trí về giá cả chung cao nhất cho sản phẩm của họ và không một thành
viên nào của nhóm doanh nghiệp được phép hạ giá thành xuống thấp hơn (ví dụ giá thỏa
thuận cố định). Một sự lựa chọn khác là các doanh nghiệp thành viên có thể đơn giản nhất trí
để phân chia thị trường theo khu vực địa lí hay theo loại hình khách hàng, đem lại vị trí độc
quyền cục bộ cho các thành viên khác mà không cần phải ấn định một cấu trúc giá cả đồng bộ
(đây là hành vi phân bổ thị trường hay các thỏa thuận chia sẻ khách hàng).
Các-ten được coi là căn bệnh ung thư của nền kinh tế thị trường. Chúng khá phổ biến thịnh
hành, có thể có qui mô thỏa thuận toàn cầu giữa các nhà sản xuất vitamin đa quốc gia hay chỉ
là sự thỏa thuận giữa bốn hoặc năm cửa hàng bách hóa ở một tỉnh nhỏ của miền Trung Việt
Nam. Các thỏa thuận này bản chất là rất bí mật và vì vậy mà rất khó để có thể phát hiện và
điều tra. Tuy nhiên, người ta cho rằng các ngành công nghiệp hay các thị trường có những
đặc trưng dưới đây đều dễ xảy ra các-ten:
(i) Thị trường mà có chỉ có tương đối ít doanh nghiệp và có số lượng khách hàng lớn;
(ii) Nhu cầu thị trường không quá thay đổi nhiều;
(iii)Sản phẩm/dịch vụ nhìn chung là đồng đều và không có sản phẩm thay thế; và
(iv) Đầu ra của mỗi doanh nghiệp, giá cả đặt ra và doanh số bán hàng có thể dễ dàng kiểm
soát được bởi các tổ chức doanh nghiệp, ví dụ trên thị trường bán lẻ xăng dầu giá bán
lẻ được hiển thị tại tất cả mọi thời điểm tại tất cả các điểm bán xăng dầu (nhằm ngăn
chặn các doanh nghiệp thành viên lừa dối và giải tán tổ chức doanh nghiệp).
Thỏa thuận ấn định giá hàng hóa, thỏa thuận phân chia thị trường hay thỏa thuận hạn chế số
lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hóa bị cấm theo khoản 1-3 của điều 8 Luật Cạnh
tranh 2004 của Việt Nam, tuy nhiên chỉ có thể áp dụng các điều khoản này khi các bên tham
gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.28
Điều khoản theo
nguyên tắc “Bến an toàn” này đưa tới dấu hiệu để xác định thị trường liên quan cũng như là
đánh giá sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp trong quá trình phân tích các vụ việc.
Nếu việc xác định thị trường không rõ ràng thì điểm khởi đầu 30% để được miễn trừ sẽ loại
trừ hầu hết tất cả các thỏa thuận ngoại trừ những thỏa thuận giữa các nhà độc quyền nhóm.
4.4.1. Ấn định giá cả
Như đã đề cập ở phần trước, hầu hết các các-ten đều chủ yếu được xây dựn trên cơ sở ấn định
giá cả hàng hóa. Đây là thuật ngữ tổng quát áp dụng cho việc thống nhất cùng hành động
được tiến hành bởi các đối hủ cạnh tranh gây ra ảnh hưởng trực tiếp lên giá cả. Hình thức đơn
Bản dịch 5/2008
23
giản nhất là thỏa thuận áp đặt mức giá thống nhất một số hoặc tất cả khách hàng. Ngoài các
thỏa thuận đơn giản về giá cả thống nhất, những thỏa thuận sau cũng được coi là thỏa thuận
ấn định giá cả:29
Thỏa thuận về việc tăng giá;
Thỏa thuận về áp dụng cách thức tiêu chuẩn tính giá chung;
Thỏa thuận duy trì tỷ lệ cố định về giá của sản phẩm cạnh tranh nhưng không đồng
nhất;
Thỏa thuận không chiết khấu giá hoặc áp dụng mức chiết khấu giá thống nhất;
Hộp 1: Các-ten của các nhà sản xuất xi măng và hành động của Cơ quan Chống Độc
quyền Pakistan (MCA)
Tháng 10 năm 1998, các nhà sản xuất xi măng tại Pakistan tăng giá của một bao xi măng
nặng 50 ki-lô-gam lên 100 Rs từ 135 Rs/bao lên 235 Rs/bao. Trong tình hình đó, MCA tiến
hành một cuộc điều tra đặc biệt về nguyên nhân của sự tăng giá này. Hiệp hội các nhà sản
xuất xi măng Pakistan (APCMA) đã thông báo cho MCA rằng giá xi măng tăng là do thuế
cao và chi phí đầu vào cao.
Tuy nhiên, theo điều tra của MCA thì không có sự tăng chi phí đầu vào nào ngoại trừ một sự
tăng cận biên trong thuế đánh vào ngành điện, trong khi mức độ thuế trên thực tế đã giảm.
Cuộc điều tra cho rằng giá xi măng tăng để thu lợi bất chính theo một thỏa thuận ngầm giữa
các nhà sản xuất xi măng thông qua hình thức các-ten chống lại lợi ích công cộng.
Cơ quan quản lí đã thông qua lệnh phá bỏ các-ten và chuyển mức giá về mức giá ban đầu.
Các nhà sản xuất xi măng cũng bị ra lệnh trả 4.25 tỷ Rs số tiền kiếm được từ việc tăng giá
gian lận tại Baitul Mal để đền bù lại những đòi hỏi chính đáng của người tiêu dùng. Hơn
nữa, cơ quan này còn áp đặt một mức phạt 100,000 Rs đối với mỗi doanh nghiệp và trong
trường hợp tiếp tục không chấp hành thì sẽ phạt them 10,000 Rs mỗi ngày.
Nguồn: Mukhtar Almad Ali (2006), Pakistan, trong cuốn sách Các thể chế cạnh tranh trên
Thế giới – CUTS.
Thỏa thuận dành hạn mức tín dụng cho khách hàng;
Thỏa thuận nhằm loại bỏ những sản phẩm có giá thành thấp ra khỏi thị trường để hạn
chế nguồn cung và duy trì mức giá cao;
Thỏa thuận không giảm giá nếu không thông báo cho các thành viên khác của thỏa
thuận;
Thỏa thuận giữ vững mức giá cả đã công bố;
Thỏa thuận không bán hàng hóa trừ phi có sự nhất trí về mức giá; và
Thỏa thuận sử dụng mức giá thống nhất tại thời điểm các cuộc đàm phán về giá bắt
đầu.
Đây cũng là những miêu tả chi tiết về việc tiến hành một thỏa thuận ấn định giá cả được đưa
ra tại nghị định 116/2005.30
Bản dịch 5/2008
24
Một điều quan trọng cần đề cập tới ở đây là mặc dù các thỏa thuận ấn định giá cả dường như
được coi như là bất hợp pháp trong mọi trường hợp (theo quy tắc per se) tại hầu hết các khu
vực tài phán, trong trường hợp của Việt Nam, Luật CT vẫn cho phép xem xét miễn trừ thậm
chí là cho hình thức thỏa thuận hạn chế cạnh tranh này. (xem phần 4.2)
4.4.2 Phân chia thị trường và chia sẻ khách hàng
Kế tiếp theo danh sách là những thỏa thuận các-ten phân chia thị trường theo lãnh thổ hay
theo khách hàng giữa các đối thủ cạnh tranh. Có thể nói những thỏa thuận này thậm chí còn
hạn chế cạnh tranh hơn rất nhiều so với thỏa thuận ấn định giá, bởi vì những thỏa thuận ngăn
chặn mọi hình thức cạnh tranh và vì vậy thường được xem xét theo quy tắc per se. Tuy nhiên
thì đây không phải là thực tiễn ở Việt Nam.
Ở các nước đang phát triển như Việt Nam, hình thức phổ biến của phân chia thị trường là
thỏa thuận ngầm giữa các nhà độc quyền nội địa có tác dụng tương tự như các thỏa thuận các-
ten. Một doanh nghiệp bán vật liệu xây dựng tại tỉnh Hòa Bình có thể không dám mạo hiểm
cung cấp sản phẩm cho một khách hàng ở tỉnh Vĩnh Phúc. Một doanh nghiệp vận tải tại Hà
Nội có thể từ chối phục vụ một khách hàng tại Hải Phòng. Hành vi này có thể không cần có
sự phối hợp mà chỉ cần một quyết định độc lập được đưa ra bởi sự cân nhắc tới hiệu quả kinh
doanh, và do đó nó hợp pháp và có tính hợp pháp chiến lược. Tuy nhiên, các cơ quan quản lí
cạnh tranh nên theo dõi sát sao mọi hành vi của các doanh nghiệp này phòng trường hợp họ
cố ý che giấu các thỏa thuận phân chia thị trường.
Các thỏa thuận phân chia thị trường và phân chia khách hàng được xác định một cách chi tiết
theo điều 15 của Nghị định 116/2005 của Việt Nam nhằm giải thích thêm về việc cấm các
hình thức thỏa thuận này theo Luật Cạnh tranh 2004.31
4.4.3 Hạn chế số lượng khối lượng sản xuất, mua bán hàng hóa, dịch vụ
Theo thỏa thuận này thì các doanh nghiệp sản xuất/cung cấp cùng một loại hàng hóa/dịch vụ
cùng thống nhất hạn chế nguồn cung xuống mức thấp hơn trước. Hậu quả của việc hạn chế
này là gây ra sự khan hiếm trên thị trường từ đó giúp cho người bán có thể tăng giá hàng
hóa/dịch vụ.32
Tại Việt Nam việc sắp xếp khối lượng sản xuất là hoạt động khá phổ biến của các hiệp hội
các nhà sản xuất. Những biện minh cho hoạt động này bao gồm các lí do như để tránh tình
trạng “cung vượt quá cầu”, nhằm hạn chế sự cạnh tranh “khốc liệt” giữa các nhà sản xuất
nhỏ, hoặc mức độ lãng phí các nguồn lực hướng tới việc ổn định thị trường và giúp ích cho
người tiêu dùng với giá cả ổn định và chất lượng tốt. Rất nhiều qui định và luật pháp về các
lĩnh vực tại Việt Nam hợp pháp hóa thể thức và hoạt động của các thỏa thuận các-ten đi
ngược lại tinh thần và câu chữ của Luật Cạnh tranh 2004. Theo điều 8 của Luật Cạnh tranh
nghiêm cấm loại thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và được giải thích cụ thể
hơn tại điều 16 của Nghị định 116/2005. Luật CT vốn có thẩm quyền thay thế tất cả các luật
và quy định khác về tất cả các vấn đề cạnh tranh. Chính vì vậy rất khó khăn để giải quyết vấn
đề xung đột luật ở đây.
Bản dịch 5/2008
25
Cuối cùng, cũng giống như trường hợp các thỏa thuận phân chia thị trường, cơ quan quản lí
cạnh tranh nên đảm bảo đây không phải là một hành động “giả mạo” để che giấu một ý định
hạn chế cạnh tranh. Cơ quan quản lý có thể tiến hành điều tra cụ thể dựa theo yêu cầu của thị
trường thực tế, trong sự tương quan với năng lực và hạn mức của mỗi doanh nghiệp mà do
hiệp hội áp đặt lên họ. Hơn nữa, việc sắp xếp khối lượng hàng hóa không có nghĩa là chia sẻ
các kênh phân phối, xác định giá bán hay phân chia thị trường và khách hàng. Bất cứ một sự
sắp xếp thêm nào khác có thể dẫn tới sự tồn tại một hành vi thỏa thận các-ten.
Hộp 2: Hệ thống nghiệp đoàn trong ngành vận tải tại Nepal
Đa số các doanh nghiệp vận tải tại Nepal đều tham gia các nghiệp đoàn địa phương. Các
nghiệp đoàn này không cho phép bất kỳ doanh nghiệp nào ngoài thành viên của nghiệp đoàn
được phép chạy tuyến đường dài mà họ đã xác định rõ. Họ không những ngăn cản các doanh
nghiệp khác không được tham gia vào hoạt động kinh doanh vận tải mà còn cố ý phá hoại xe
bus nào xâm lấn vào khu vực đã được phân định của các nghiệp đoàn khác nhau.
Những người điều hành nghiệp đoàn cho rằng họ không cho phép những doanh nghiệp
không phải là thành viên/xe bus chạy trên tuyến đường “của họ” và nếu họ vi phạm thì họ sẽ
phải chịu phạt rất nặng. Các doanh nghiệp không thuộc hệ thống nghiệp đoàn cảm thấy rằng
điều này đã nảy sinh vấn đề cho hoạt động kinh doanh của họ. Họ đổ lỗi cho Chính phủ đã
không lên tiếng phản ứng đối hệ thống này và có trách nhiệm cho sự duy trì một hình thức
gần giống với độc quyền này do đó tạo ra sự thiếu hiệu quả và thiếu cận trọng.
Chính phủ Nepal đã tiến hành một nền kinh tế tự do hóa và mở cửa cách đây khoảng một
thập kỷ. Thậm chí trong đạo luật Vận tải, Chính phủ vẫn công nhận vai trò của các nghiệp
đoàn xe bus, không có vấn đề nào cho phép duy trì một cách giả tạo hình thức độc quyền.
Tuy nhiên sự cưỡng chế thi hành vẫn còn yếu và tình hình bất ổn định về chính trị gần đây
đã không giúp ích được nhiều nếu không nói là còn làm tình hình trở nên xấu thêm.
Nepal đang trong quá trình hình thành Luật pháp về cạnh tranh theo những cam kết gia nhập
tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) của đất nước này. Tuy nhiên thì quá trình này vẫn
đang bị trì hoãn.
Nguồn: Các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Nepal, Adhikari và Regmi, CUTS và SAWTEE,
2001
4.4.4 Thông thầu
Một hình thức khác của thỏa thuận các-ten là đấu thầu gian lận, bị nghiêm cấm theo điều 8
của Luật Cạnh tranh 2004, liên quan tới việc phân chia thị trường của những doanh nghiệp
cấu kết đấu thầu.33
Bản dịch 5/2008
26
Hộp 3: Lịch blốc – Thỏa thuận các-ten hay thỏa thuận làm tăng hiệu qủa kinh tế
Cho đến năm 2006 khi hiệp hội của 48 nhà in lớn tại Việt Nam tách ra hoạt động riêng lẻ,
thì họ đã cùng phối hợp trong việc sản xuất lịch blốc được một thập kỷ. Lịch blốc là loại lịch
bóc tờ hàng ngày được sản xuất và bán quanh năm.
Năm 2005, Hiệp hội đã nhất trí sản xuất một lượng lớn khoảng 13,5 triệu blốc lịch để phục
vụ nhu cầu cho năm mới 2006 cho cả nước. Những blốc lịch này sau đó được sản xuất và
cất giữ tại kho của Tổng doanh nghiệp sách Việt nam sẵn sàng cho việc phân phối. Tuy
nhiên tới cuối năm 2005, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh đột ngột
rút khỏi Hiệp hội và cùng lúc đó tuyên bố họ sẽ sản xuất và tung ra thị trường một lượng lớn
khoảng 2 triệu blốc lịch.
Hiệp hội cùng các thành viên tỏ ra hết sức bất ngờ trước sự thay đổi đột ngột này. Nhà xuất
bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh chỉ dự định sản xuất 200,000 blốc lịch trước
đó, song số lượng mà họ sản xuất về sau có thể chiếm toàn bộ thị trường. Do đó, Hiệp hội đã
kiến nghị lên Vụ phát hành và xuất bản (Bộ Văn hóa Thông tin). Tuy nhiên, theo lời mở đầu
của Luật xuất bản 2004 và tài liệu số 1187 về việc mở rộng cho phép các doanh nghiệp được
xuất bản, Vụ phát hành và xuất bản không thấy bất kì một lỗi vi phạm nào của Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, cũng như không thể cưỡng chế họ trở lại tham
gia vào Hiệp hội.
Trong khi Hiệp hội chỉ trích Nhà xuất bản Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh về việc
không tuân theo đúng cam kết dẫn đến tình trạng cung vượt quá cầu gây ra tổn thất cho tất
cả các thành viên của Hiệp hội, thì Nhà xuất bản ĐHQG TPHCM lập luận rằng họ chỉ tuân
theo đúng tinh thần của chính sách tự do hóa trong ngành Xuất bản. Mặt khác, Nhà xuất bản
ĐHQG TPHCM cũng buộc tội Hiệp hội về việc hạn chế số lượng sản xuất ra và áp đặt giá
cả với mức cao hơn bình thường gây ra thiệt hại cho người tiêu dùng.
Đấu thầu gian lận thường liên quan tới việc phối hợp của các đối thủ cạnh tranh theo một số
cách nhằm hạn chế cạnh tranh trong một cuộc đấu thầu bất kể là cuộc đầu thầu này do cơ
quan chức năng hay một thực thể tư nhân đứng ra tổ chức. Đây được coi như là một trong
những loại thỏa thuận các-ten tồi tệ và “cứng nhắc” nhất bên cạnh thỏa thuận áp đặt giá cả,
thỏa thuận hạn chế số lượng, khối lượng hàng hóa/dịch vụ và thỏa thuận phân chia thị trường,
gian lận đấu thầu thường là sự kết hợp của tất cả các hành vi này.34
Gian lận đấu thấu cũng như tất cả các hành vi thỏa thuận các-ten khác đều rất khó phát hiện
ra và khởi tố. Tuy nhiên hầu hết các Luật Cạnh tranh đều nghiêm cấm các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh và các hành vi cấu kết giữa các đối thủ cạnh tranh, và không hề cần bất kỳ ràng
buộc pháp lí hay thỏa thuận chính thức hay bất cứ hình phạt nào hoặc các thiết chế cưỡng ép
khác để xác lập rằng đã có gian lận đấu thầu. Cũng như trong trường hợp các hình thức thỏa
thuận các-ten khác, chỉ cần các bằng chứng gián tiếp, không cần các bằng chứng cụ thể, là đủ
để xác định đã có vi phạm xảy ra.35
Bản dịch 5/2008
27
Các nhà chức trách ngày càng nhận ra rằng có một số điều kiện thị trường cụ thể là nhân tố
chính tạo điều kiện cho gian lận đấu thầu xảy ra. Những điều kiện này bao gồm: (i) sự có mặt
của một vài người bán hàng hay một nhóm nhỏ dẫn đầu những người bán hàng có khả năng
kiểm soát hầu hết thị trường; (ii) thiếu các sản phẩm thay thế khác; và (iii) sản phẩm được
tiêu chuẩn hóa. Điều này gần giống với trường hợp các hình thức thỏa thuận các-ten khác như
đã đề cập ở trên. Trong khi những nghiên cứu mới đây cho thấy ngành thiết kế và xây dựng
công trình là ngành có dễ có khả năng xảy ra hoạt động thỏa thuận các-ten nhất, các vụ việc
gian lận đấu thầu cũng được phát hiện tại nhiều ngành công nghiệp khác.
4.4.5. Thỏa thuận tẩy chay các doanh nghiệp không phải là các bên thỏa thuận
Một thỏa thuận tẩy chay các doanh nghiệp không phải là các bên thỏa thuận là một hành động
chung giữa các đối thủ cạnh tranh nhằm mục đích sử dụng sức mạnh thị trường kết hợp của
những đối thủ cạnh tranh này nhằm áp đặt lên một nhà cung cấp, một đối thủ cạnh tranh hay
một khách hàng phải nhất trí về một hành động mà sẽ ảnh hưởng tới cạnh tranh, những ai
không nhất trí về thỏa thuận này thì sẽ không tham vào hành động chung này. Ví dụ, bằng
việc đe dọa ngừng việc mua từ một nhà cung cấp, hai khách hàng bán lẻ lớn có thể ép buộc
một nhà cung cấp đồng ý không bán một hoặc nhiều hơn sản phẩm của họ cho những nhà bán
lẻ khác. Nếu nhà cung cấp đồng ý, những cửa hàng bán lẻ khác sẽ phải đóng cửa nếu không
một doanh nghiệp nào cung cấp sản phẩm cho họ. Hơn nữa, người mua có thể phải chịu thiệt
thòi khi phải tìm mua sản phẩm chỉ có ở hai cửa hàng. Việc sử dụng hình thức đe dọa này
thường để loại bỏ những người bán lẻ khác hoặc để hạn chế cạnh tranh thong qua việc chỉ
bán sản phẩm cho hai cửa hàng để tạo thuận lợi cho việc tăng giá.
Hộp 4: Một vụ gian lận đấu thầu tại Việt Nam
Gian lận đấu thầu bị phát hiện ra trong rất nhiều dự án được tài trợ bởi ngân sách Nhà nước.
Ví dụ, trong dự án xây dựng tuyến đường Vân Lâm – Sơn Hải II, có bốn doanh nghiệp tham
gia đấu thầu cho dự án này và Công ty 98 đã thắng thầu. Tuy nhiên sau đó phát hiện ra rằng
cả bốn doanh nghiệp tham dự đấu thầu đều trực thuộc cùng một nhóm doanh nghiệp mà
Công ty 98 kiểm soát. Công ty 98 đã sắp xếp cho ba doanh nghiệp vỏ bọc đệ trình đơn xin
đấu giá không trung thực với mức giá thổi phồng để nhằm tạo ra quá trình cạnh tranh ảo.
Với sự sắp đặt từ trước, Công ty 98 đã thắng trong vụ đấu thầu này với mức giá chỉ chênh
lệch có mười phần triệu của một phần trăm mức giá ước tính của chính phủ đã công bố (141
VND trên hợp đồng trị giá 1.56 tỷ VND).
Nguồn: “Đầu thầu xây dựng: Có cạnh tranh hay không?” Báo Ninh Thuận, 17/12/2002, trích
từ trang 118 cuốn Xin hãy công bằng – CUTS (2006).
Hộp 5: Đấu thầu bổ sung tại các xưởng in
Bốn xưởng in lớn thường cung cấp các hình thức kinh doanh đa dạng sử dụng cho giấy in
máy tính, các mẫu thống kê, và các sản phẩm tương tự. Trong quá khứ thì chính phủ chỉ đấu
Bản dịch 5/2008
28
thầu một lần các đơn đặt hàng và tiếp tục để cho doanh nghiệp đã trúng thấu lần đầu tiên
được nhận các đơn đặt hàng tiếp theo. Sau khi thấy rằng các doanh nghiệp này có thể cải
thiện giá cả thông quá đấu thầu tất cả các đơn đặt hàng thì chính phủ bắt đẩu làm như vậy
bằng việc lựa chọn một danh sách các xưởng in có chất lượng tổt, trong đó bao gồm bốn
xưởng in lớn. Việc giá cả tổng hợp giảm đã trở thành mối lo ngại cho các doanh nghiệp lớn
và các giám đốc kinh doanh của họ.
Giám đôc kinh doanh của bốn doanh nghiệp này gặp nhau và nhất trí về một chiến lược đấu
thầu. Việc đặt giá của người đứng đầu thị trường thường xác định làm giá chuẩn cho mỗi
sản phẩm của tất cả các doanh nghiệp. Họ cũng nhất trí rằng khi có kêu gọi đấu thầu thì
người cung cấp trước ở một hình thức đặc biệt sẽ đưa ra giá bằng hoặc thấp hơn mức giá
chuẩn, khi đó tất cả các doanh nghiệp khác sẽ đưa ra giá cao hơn. Sau đó những doanh
nghiệp này kết luận lại rằng phương pháp này quá khó và nhất trí rằng người cung cấp trước
đơn giản sẽ chỉ cần nói cho các đối thủ cạnh tranh biết giá của đơn đặt hàng trước là bao
nhiêu và những người khác sẽ ra giá cao hơn hay không.
Trong sự thỏa thuận này, khoảng 300 nhà thầu được chính phủ mời tham gia đấu thầu và
đấu thầu các đơn đặt hàng phù hợp với các thỏa thuận. Sự sắp xếp này bị phá vỡ sau sự gia
nhập của một đối thủ cạnh tranh mới mà bẳt đầu thằng thầu. Doanh nghiệp mới có xu hướng
tham gia vào thỏa thuận đang có. Thay vào đó thì những đối thủ cạnh tranh mới phàn nàn
với các nhà chức trách và cung cấp các thông tin mới để bắt đầu tiến hành một cuộc điều tra.
Nguồn: Khemani, R.Shyam, Khuôn khổ cho việc triển khai xây dựng luật và chính sách
cạnh tranh. Ngân hàng Thế giới và OECD, được trích từ trang 10 trong cuốn Luật và chính
sách cạnh tranh tạo điều kiện dễ dàng, CUTS (2001).
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam nghiêm cấm những hành vi này và coi chúng là các hành
vi bất hợp pháp hoàn toàn (theo quy tắc per se) không tính tới thị phần kết hợp của các bên
tham gia thỏa thuận theo điều 8(6) và điều 8(7). Các hành vi này còn được giải thích thêm
theo điều 19-20 của Nghị định 116/2005.
4.4.6. Các thỏa thuận theo chiều ngang khác giữa các đối thủ cạnh tranh
Rất nhiều thỏa thuận phi các-ten theo chiều ngang có thể có tác dụng tăng cường hiệu quả
kinh tế thông qua việc thúc đẩy nghiên cứu và phát triển, tạo ra các sản phẩm hay các
phương pháp phân phối mới hoặc cải thiện các nguồn thông tin. Mặt khác nhiều loại thỏa
thuận loại này có thể hạn chế cạnh tranh, hạn chế số lượng và làm tăng giá.
Một ví dụ cho các thỏa thuận này là trường hợp của các tổ chức giám định tiêu chuẩn. Ví dụ
những minh chứng hiệu quả xuất hiện khi một số hiệp hội thương mại hay các cơ quan kiểm
tra chất lượng cho rằng loại ổ cắm điện này sẽ cắm vào ổ cắm một cách an toàn, hay chất
lượng và cấp bậc hay bất cứ tiêu chuần nào khác an toàn khi ăn hay an toàn khi sử dụng theo
hướng dẫn. Những tiêu chuẩn này thường không cấm việc sử dụng các sản phẩm thay thế
khác (trừ phi chúng được đưa vào bộ luật xây dựng hay bộ luật sức khỏe) nhưng người mua
Bản dịch 5/2008
29
thì lại thường e ngại việc sử dụng các sản phẩm không được chứng nhận vì vậy mà kết quả
của loại thỏa thuận này lại giống với thỏa thuận loại bỏ các doanh nghiệp không phải là các
bên của thỏa thuận. Và quá trình giám định tiêu chuẩn có thể bị lạm dụng để hạn chế các đối
thủ cạnh tranh hay tăng giá mà có thể là một sự vi phạm Luật Cạnh tranh.
Một ví dụ khác nữa là những người thợ lắp nước có thể ngăn cản sự ủng hộ của hiệp hội xây
dựng an toàn cho việc sử dụng đường ống nước thải bằng nhựa bởi vì những thợ lắp nước có
thể kiếm lợi nhiều hơn từ việc hàn các ống nước thải bằng kim loại hơn là việc gắn keo các
ống nhưa. Cũng tương tự như vậy, các nhóm bác sĩ kiện một số hiệp hội vì đã từ chối cho
phép thành viên của họ hợp tác với y tá chăm sóc hoặc y tá gây mê, điều này khiến cho các y
tá thực hiện chuyên môn của họ một cách phi pháp.
Hộp 6: Thỏa thuận các-ten trong bán lẻ dược phẩm tại Ấn Độ
Tại Ấn Độ, mặc dù có tới 20,000 nhà sản xuất dược phẩm nhưng mới chỉ có gần 800,000
nhà bán lẻ. Những nhà bán lẻ này là người quyết định cho một doanh nghiệp dược phẩm
chọn cách phân phối; bao nhiêu loại sản phẩm hay hàng hóa kết hợp sẽ có mặt trên thị
trường; có những chiến lược kinh doanh tự do nào làm mẫu, v.v…Số dư tự do mà các doanh
nghiệp dược phẩm yêu cầu và đặt ra đối với các loại dược phẩm cơ bản lên tới 2000 phần
trăm.
Năm 1984, Hiệp hội phân phối và bán lẻ dược phẩm tại thành phố Bombay bị triệu tập tới
Ủy ban về các hành vi hạn chế cạnh tranh và độc quyền (MRTPC) sau khi Hiệp hội này đã
ra lệnh cho tất cả các nhà bán buôn và bán lẻ tẩy chay sản phẩm của một doanh nghiệp cho
tới tận khi mọi đòi hỏi của Hiệp hội này được doanh nghiệp này đáp ứng. MRTPC cho rằng
tác động của việc tẩy chay này hầu như không đáng kể. Việc tẩy chay này là một cố gằng để
ngăn không cho người tiêu dùng tiếp cận với các sản phẩm mà họ đã quen thuộc và vì vậy
khó khăn đối với người tiêu dùng là một điều rõ ràng. MRTPC sau đó đã thông qua lệnh
ngừng ngay việc tẩy chay này.
Trước đó vào năm 1992, tổ chức dược phẩm của Ấn Độ (AIOCD) cũng phải đối mặt với
tình huống tương tự. AIOCD bị triệu tập trước Ủy ban MRTPC vào năm 1983 khi mà tổ
chức này thông qua một thông tư tới một số doanh nghiệp dược phẩm đe dọa nếu họ hợp tác
với các tổ chức nhà nước và có vị trí như là một nhà phân phối và có quyền kinh doanh sản
phẩm của họ, thì các doanh nghiệp này sẽ bị tẩy chay bởi các thành viên của tổ chức. Vụ
việc này được quyết định vào năm 1993 và Ủy ban MRTPC đã kết luận đây là một hành vi
hạn chế cạnh tranh là thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường các doanh nghiệp không phải là các
bên của thỏa thuận.
Nguồn: Pradeep S Mehta (2005) Cạnh tranh phá vỡ các thỏa thuận các-ten. Tạp chí Thương
mại Hindu 12/1/2005, xem bài viết này tại trang web:
<http://thehindubusinessline.com/2005/01/12/stories/2005011200330900.htm>
Bản dịch 5/2008
30
Luật Cạnh tranh của Việt Nam, như đã đề cập ở trên, đưa ra một giải pháp quy tắc có lí cho
những thỏa thuận này. Tuy nhiên Luật Cạnh tranh lại không trao cho cơ quan cạnh tranh vai
trò tiên phong trong việc xem xét những hiệu quả tốt đối với cạnh tranh mà hành vi này mang
lại, mà để cho cơ quan này phải chờ các doanh nghiệp đệ trình đơn xin được miễn trừ cho
mỗi trường hợp. Một cuộc điều tra đỉển hình đối với những hành vi này theo Luật Cạnh tranh
sẽ bao gồm việc xác định thị trường liên quan cho một trường hợp, chứng minh có thị phần
của doanh nghiệp trong thị trường liên quan đó đã được xác định, và tập hợp, phân tích các
bằng chứng về các hành vi vi phạm.36
Phương pháp này khá cứng nhắc không kể tới sự thiếu
bao quát và có thể thiếu hiệu quả trong các trường hợp cụ thể. Năm câu hỏi khác có thể được
phân tích để bổ sung thêm vào quá trình điều tra bao gồm:37
Liệu rằng hành vi hạn chế cạnh tranh dường như vốn đã hạn chế số lượng đầu và tăng
giá cả hay không?
Liệu hành vi hạn chế này là hoàn toàn rõ ràng, hay có liên quan tới việc thúc đẩy cạnh
tranh thông qua việc hợp nhất các nguồn lực kinh tế hay không?
Liệu hành vi hạn chế này có hạn chế số lượng đầu ra và tăng giá hoặc mặt khác tạo
điều kiện cho việc thực thi sức mạnh thị trường hay không?
Liệu hành vi hạn chế này có cần thiết để đạt được những mục tiêu ủng hộ cạnh tranh
đã đặt ra hay không?
Liệu những lợi ích mà hành vi hạn chế này mang lại trong thúc đẩy cạnh tranh có
vượt quá được những nguy cơ phản cạnh tranh mà chúng có thể gây ra hay không?
4.5 Thỏa thuận theo chiều dọc trong phân phối và bán sản phẩm
Thỏa thuận theo chiều dọc hạn chế cạnh tranh liên quan tới hoạt động thương mại ở những
giai đoạn kế tiếp nhau trong một quá trình sản xuất. Một ví dụ đơn giản về thỏa thuận chiều
dọc có thể bao gồm hai doanh nghiệp, trong đó một doanh nghiệp là nhà cung cấp nguyên
liệu đầu vào cho hoạt động thương mại của doanh nghiệp kia. Nói chung, các thỏa thuận theo
chiều dọc gây ra hậu quả ít nghiêm trọng hơn so với các thỏa thuận theo chiều ngang, và
thường được xem xét theo quy tắc có lí bởi các cơ quan quản lí cạnh tranh. Tuy nhiên, một
điều chắc chắn là những thỏa thuận theo chiều dọc cụ thể có ảnh hưởng tới cạnh tranh trên thị
trường đều hoàn toàn bị lên án ví dụ như thỏa thuận hợp tác bán sản phẩm, duy trì một thỏa
thuận loại trừ hoặc thỏa thuận về giá bán lại.
Những thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc có thể chịu sự điều chỉnh của pháp luật
cạnh tranh thường có trong các thỏa thuận hợp đồng giữa các nhà cung cấp (các nhà sản xuất)
và các nhà phân phối (các nhà bán lẻ), những thỏa thuận này có thể vượt quá giá giao dịch
công bằng. Do mong muốn có thể thực hiện kiểm soát theo chiều dọc trong mối quan hệ giữa
các đại lí chính các thỏa thuận này được thúc đẩy theo đó những doanh nghiệp lớn (các nhà
sản xuất) áp đặt những ràng buộc theo hợp đồng lên các đại lí của mình (nhà bán lẻ) khi ủy
thác trách nhiệm cho họ bán các sản phẩm của mình.38
Các thoả thuận này khác với các hành
vi hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc dựa trên vị trí thống lĩnh thị trường, sẽ được xem xét tại
phần về sự lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Bản dịch 5/2008
31
Những thỏa thuận này có thể mang lại những ảnh hưởng tốt, ví dụ như thông qua việc loại bỏ
sự bóp méo về giá cả, đánh giá lạc quan các mức độ đầu tư và hạn chế những phí tổn giao
dịch có thể tránh được. Những thỏa thuận này cũng có những ảnh hưởng ngược lại không chỉ
ở việc ngăn chặn sự tiếp cận thị trường của các doanh nghiệp mới mà còn giảm sự cạnh tranh
giữa các đối thủ hiện có thông qua những hạn chế cạnh tranh trong cùng một hãng và cạnh
tranh khác hãng.39
Cũng giống như những hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang, người ta thường cho rằng sức
mạnh thị trường tại một hoặc cả hai cấp độ là điều kiện cần thiết cho hạn chế cạnh tranh theo
chiều dọc để có được một tác động ngược bền vững đối với cạnh tranh. Với sự có mặt của
sức mạnh thị trường, một số các yếu tố khác đặc biệt là những tác động đối với cạnh tranh
của các thỏa thuận chính, và bất kỳ một chỉ số hiệu quả nào có thể bù đắp những tác động xấu
của các thỏa thuận này đối với cạnh tranh sẽ được tính đến trong khi giải quyết những loại
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc này.40
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam không đề cập một cách trực tiếp tới các thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh theo chiều dọc này. Thực tế chỉ có ba khoản của điều 8 (trong đó liệt kê một
số thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật Cạnh tranh) có thể được hiều theo cách
này đó là khoản 5-7. Theo đó, cấm “thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký
kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” (Điều 8(5) của Luật Cạnh tranh),
“thỏa thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường hoặc phát
triển kinh doanh” (Điều 8(6) của Luật Cạnh tranh), và “thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường
những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận” (Điều 8(7) của Luật Cạnh tranh).
Điều thú vị là những điều khoản này có thể được áp dụng cho cả hai trường hợp của quan hệ
theo chiều dọc và quan hệ theo chiều ngang, vấn đề này sẽ được bàn luận ở phần sau.
4.5.1 Duy trì giá bán lại
Duy trì giá bán lại là hành vi của một nhà sản xuất và những nhà phân phối của mình đồng ý
về việc những nhà phân phối sẽ bán sản phẩm của nhà sản xuất với mức giá cụ thể (Duy trì
giá bán lại) bằng hoặc thấp hơn mức giá trần (duy trì mức giá bán lại cao nhất).41
Duy trì giá bán lại đôi khi có thể mang lại hiệu quả tốt hay giúp tăng cường hiệu quả kinh
doanh và như vậy sẽ được điều chỉnh theo nguyên tắc có lí. Duy trì giá bán lại thường là công
cụ cho việc thúc đẩy các loại hình dịch vụ theo mức độ bán lẻ. Những dịch vụ này bao gồm
những hoạt động như tư vấn cho khách hàng, duy trì đủ nhân viên để các đường dây chi trả
được rút ngắn lại, giữ cho các bản kiểm kê được tổ chức tốt, thậm chí là bất cứ hoạt động nào
mà một nhà bán lẻ có thể làm ngoại trừ việc thay đổi giá cả.
Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của Luật Cạnh tranh, duy trì giá bán lại dường như không là
gì khác ngoài nỗ lực ấn định giá bán lẻ theo cấp độ độc quyền bởi một nhà độc quyền.
Nguyên tắc per se bất hợp pháp vì vậy thường được áp dụng để điều chỉnh hành vi này, và
hiện nay nguyên tắc này vẫn có thể được áp dụng tại Luật Cạnh tranh của nhiều quốc gia.
Bản dịch 5/2008
32
Tuy nhiên ở đây hành vi này thường được tiến hành đơn phương chứ không phải là các thỏa
thuận hay hành vi phối hợp theo chiều dọc như chúng ta đang bàn luận ở đây.
Hộp 7: Tòa án Nam Phi ngăn chặn việc duy trì giá bán lại thấp nhất
Tòa án cạnh tranh của Nam Phi đã đưa ra mức phạt ba triệu rand (tương đương 419.000 đô la
Mỹ) đối với Công ty Federal Mogul Nam Phi vì đã vi phạm Luật cạnh tranh nước này. Đây là
hình phạt lớn nhất của Tòa án cạnh tranh từ trước tới giờ. Hình phạt này là kết quả của cuộc
điều tra do Tòa án tiến hành theo đó công ty Mogul đã tiến hành hành vi duy trì giá bán lại
bằng cách bắt buộc các nhà phân phối bán phanh Ferodo ở một mức giá xác định và sẽ phạt
những nhà phân phối nào không tuân thủ theo.
Federal Mogul đầu tiên đã cho rằng Tòa án không có thẩm quyền ban hành hình phạt này
theo hiến pháp. Tuy nhiên, Tòa án thấy rằng bị đơn tiến hành hành vi bị cấm này không có vị
trí tương tự với người bị cáo buộc trong các thủ tục tố tụng, và Đạo luật đã qui định đầy đủ cơ
chế thủ tục. Vì vậy, việc biện luận dựa trên hiến pháp này thất bại.
Trong khi hình phạt tối đa (có nghĩa là 10 % của doanh thu hàng năm) mà Tòa án đưa ra để
áp dụng chỉ lên tới 6 triệu rand (tương đương với 838.000 đô la Mỹ), Tòa án thấy rằng sau
những phân tích kĩ lưỡng về các qui định cụ thể trong điều 59(3) Đạo luật cạnh tranh, mức
phạt 3 triệu Rand là hoàn toàn hợp lí. Theo Luật cạnh tranh của Nam Phi, việc duy trì giá bán
lại là một hình thức của hành vi áp đặt giá cả, và không thể được chứng minh dựa trên cơ sở
hành vi này đưa tới những tác dụng về công nghệ, hiệu quả hay thúc đẩy cạnh tranh.
Nguồn: Prabhala (2006), Nam Phi, Các thể chế cạnh tranh trên toàn thế giới, Một báo cáo
của tổ chức dân sự xã hộ, CUTS, trang 282.
Là một hành vi được tiến hành đơn phương, duy trì giá bán lại bị cấm theo khoản 2 điều 13
(về lạm dụng vị trí chiếm lĩnh thị trường) trong Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam. Trong
trường hợp hành vi này bảo vệ những thành viên của một thỏa thuận các-ten hạn chế các
doanh nghiệp mới tham gia thị trường thay bằng những doanh nghiệp khác hoạt động có hiệu
quả hơn, vấn đề này được đề cập tới tại điều 8(6) của Luật Cạnh tranh và hành vi này bị cấm
nếu các bên tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở
lên.42
Một trong những lĩnh vực phổ biến nhất của việc duy trì giá bán lại là đối với các sản phẩm
có dán nhãn mác. Các nhà sản xuất mong muốn duy trì một hình ảnh của một nhãn mác cụ
thể thường khiến cho các nhà bán lẻ không thể giảm giá hàng hóa của họ, bởi các nhà sản
xuất lo sợ rằng điều này sẽ làm giảm “hình ảnh độc quyền” của hàng hóa của họ.
Một lĩnh vực khác mà việc duy trì giá bán lại thường xảy ra là hình thức kinh doanh franchise
(nhượng quyền). Trong trường hợp này, những doanh nghiệp nhượng quyền (franchisers) có
thể duy trì một mức độ kiểm soát cao đối với các doanh nghiệp mua franchise, ví dụ như xem
xét xem những sản phẩm nào mà họ có thể mua và bán, và các hoạt động kinh doanh diễn ra
Bản dịch 5/2008
33
như thế nào, thậm chí còn xem xem giá thấp nhất cho việc bán lại hàng hóa, dưới mức đó
những doanh nghiệp mua franchise không thể bán được hàng hóa, phụ thuộc vào cả nội dung
của thỏa thuận franchise. Tại Việt Nam cũng như ở hầu hết các nước khác, franchise là hoạt
động kinh doanh hoàn toàn hợp pháp. Vì vậy, việc áp dụng điều 8(6) đối với các thỏa thuận
này phải thận trọng.
4.5.2 Độc quyền giao dịch
Độc quyền giao dịch là thỏa thuận theo chiều dọc trong đó một nhà bán lẻ và một nhà bán
buôn câu kết để nhận được một sự thỏa thuận với nhà cung cấp về việc không có một nhà
phân phối nào khác được chỉ định và nhận được sự cung cấp hàng hóa tại một khu vực đã xác
định.
Người ta thường cho rằng các thỏa thuận độc quyền giao dịch giúp cho một doanh nghiệp có
thể tổ chức việc phân phối của họ một cách hiệu qủa. Trong những trường hợp này, thỏa
thuận nào dẫn tới việc giảm chi phí và một số lợi tức hiệu quả khác thì thỏa thuận đó có thể
không gây ra bất kì một vấn đề nào ảnh hưởng tới cạnh tranh hoặc nếu có thì rất nhỏ.43
Mặt khác, những thỏa thuận này cũng có những ảnh hưởng xấu tới cạnh tranh bởi vì chúng có
thể hạn chế các đối thủ khác trở thành nhà phân phối. Các đối thủ cạnh tranh này có thể bị
hạn chế tiếp cận thị trường một cách hoàn toàn hoặc phổ biến hơn là bị áp đặt một mức chi
phí cao hơn hay các phương pháp kém hiệu quả hơn để đưa sản phẩm của họ tới thị trường.
Cũng như vậy, có thể giảm tính cạnh tranh thông qua cả việc giảm số lượng các nhà sản xuất
trên thị trường lẫn việc tăng chi phí một cách giả tạo của một số nhà sản xuất.44
Do tính chất hai mặt này, ở một số khu vực pháp lí, việc tiến hành hành vi này bị cấm hoàn
toàn (nguyên tắc per se) trong khi ở một số khu vực pháp lí khác thì hànhvi này có thể được
xem xét trên cơ sở tất cả các tác động tích cực cũng như tiêu cực của nó (liệu hành vi này có
làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường hay không). Ví dụ tại Mỹ độc quyền giao dịch được
điều chỉnnh theo quy tắc per se, bị coi là bất hợp pháp hoàn toàn. Tuy nhiên sau vài năm đưa
ra thông báo này, Tòa án tối cao Mỹ đã thay đổi quyết định trong vụ GTE Sylvania và tuyên
bố rằng nhìn chung các thỏa thuận độc quyền giao dịch là hợp pháp.45
Quyết định này có một
số hạn chế khi trong một số trường hợp đặc biệt các thỏa thuận độc quyền giao dịch này là
phương tiện hiệu qủa cho độc quyền hóa.
Mặc dù khái niệm “độc quyền giao dịch” không được đề cập tới một cách cụ thể nhưng một
số hình thức của thỏa thuận này bị cấm theo khoản 5 và 6 điều 8 Luật Cạnh tranh 2004 của
Việt Nam.
Hộp 8: Vấn đề của các nhà xuất bản sách ở Hung-ga-ri
Hiệp hội các nhà xuất bản và bán lẻ sách Hung-ga-ri đã bị Hội đồng cạnh tranh quốc gia cáo
buộc vi phạm Luật Cạnh tranh.
Theo phán quyết ngày 11/4/2006, Hội đồng đã cho rằng những qui định cụ thể của Hiệp hội
là có ý định tiến hành hành vi duy trì giá bán lại thông qua việc hạn chế các nhà bán lẻ độc
Bản dịch 5/2008
34
lập bán sách dưới một mức giá cụ thể. Bộ Luật Cạnh tranh của Hung-ga-ri có chứa các điều
khoản trong đó cấm bán lại ở mức giá thấp hơn giá mua vào. Nếu người bán không phải là
một đại lí của nhà xuất bản thì hành động này là bất hợp pháp.
Bộ luật này cũng cấm bán một khối lượng lớn hàng hóa với mức giá thấp hơn từ ngày 1
tháng 3 đến ngày 15 tháng 6 và từ ngày 1 tháng 10 đến 31 tháng 12 năm 2005. Số lượng
sách lớn được xác định là trên 192,300 quyển. Theo hội đồng đây không chỉ là hành vi hạn
chế cạnh tranh đối với hàng hóa có cùng nhãn mác mà còn đối với hàng hóa không cùng
nhãn mác.
Hội đồng cạnh tranh đã không đưa ra một mức phạt nào những đã cấm việc sử dụng những
điều khoản này và bắt buộc Hiệp hội phải thông báo tới thành viên trong vòng 15 ngày.
Nguồn: http://www.globalcompetitionreview.com/news_item.cfm?item_id=3891
Điều 8(5) của Luật Cạnh tranh cấm “thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện kí
kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa
vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng” nếu các bên tham gia thỏa thuận có
thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên (điều 9(2) của Luật Cạnh tranh).
Theo điều 18 Nghị định 116/2005 đã giải thích thêm những thỏa thuận này dưới hình thức ép
buộc mua một sản phẩm khác mà không có trong hợp đồng giao dịch hiện tại như đã đề cập
tới ở trên. Tuy nhiên thay vì qui định những thỏa thuận này theo nguyên tắc per se, luật và
các qui định của Việt Nam chỉ đưa những thỏa thuận này vào phép thử xem những ảnh hưởng
tới cạnh tranh một cách đáng kể hay không.
Cả điều 8(6) và điều 9(2) của Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam đều cấm các thỏa thuận
độc quyền giao dịch nhằm ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị
trường hoặc phát triển kinh doanh mà không cần tính tới thị phần kết hợp của các bên tham
gia thỏa thuận. Cụ thể điều 19 khoản 2(a) Nghị định 116/2005 cũng giải thích cụ thể thêm
điều 8(6) của Luật Cạnh tranh theo đó qui định hành vi thiết lập một mạng lưới độc quyền
giao dịch với các nhà phân phối và nhà bán lẻ để gây khó khăn cho đối thủ cạnh tranh là bất
hợp pháp.
Hộp 9: Doanh nghiệp Ceylon Oxygen thoát tội độc quyền giao dịch
Công ty Ceylon Oxygen (COL) chiếm khoảng 80% thị phần trong sản xuất và phân phối khí
oxygen và các sản phẩm liên quan từ ngày bắt đầu khai trương năm 1936 cho tới năm 1993
tại Sri Lanka. Tháng 12 năm 1993, công ty Industrial Gases (IGL) bắt đầu tiến hành hoạt
động trên thị trường này. Năm 1994, IGL phản đối những hành vi thương mại không lành
mạnh của COL làm phương hại tới IGL.
IGL cho là để đối phó với việc doanh nghiệp này tham gia vào thị trường, COL đã sử dụng
các chiến thuật ép giá xuống thấp thông qua việc giảm phí đặt cọc cho các cy-lanh oxygen
từ 8,500 LKR xuống còn 3,000 LKR. Ngoài ra, doanh nghiệp này còn giảm phí bảo dưỡng
Bản dịch 5/2008
35
từ 75 LKR xuống mức 55 LKR rồi tiếp tục xuống mức 35 LKR sau khi doanh nghiệp IGL
gia nhập thị trường.
Hơn nữa, công ty này còn bị cho là thực hiện hành vi giảm giá có phân biệt và độc quyền
giao dịch theo đó COL đã tiến hành các thỏa thuận viết tay với những khách hàng lớn bắt
buộc họ phải mua một lượng hàng hóa lớn của COL trong một giai đoạn đã được thỏa thuận.
Thỏa thuận này cũng tạo ra mức giảm giá lâu dài đối với mức giá của các loại khí và cylanh
khác nhau.
Về vấn đề này, Ủy ban thương mại công bằng của Sri Lanka (FTC) đã xác định ba hành vi
hạn chế cạnh tranh do doanh nghiệp này tiến hành như ép giá, giảm giá phân biệt và độc
quyền giao dịch. Tuy nhiên, Tòa án Phúc Thẩm cho rằng FTC không có thẩm quyền pháp lí
để điều tra những hành vi này theo khoản 11 của Đạo luật về Ủy ban thương mại công bằng,
và do đó Tòa án này đã không coi những hành vi này như là những hành vi hạn chế, bóp
méo, và chống cạnh tranh theo khoản 14 của đạo luật này.
Nguồn: CUTS (2002), Hướng tới Luật Cạnh tranh mới tại Sri Lanka.
Hộp 10: Chiến lược khuyến mãi đã ngăn cản các doanh nghiệp mới gia nhập thị
trường bia Việt Nam
Bia Tiger, Heineken và Bivina (là các sản phẩm được sản xuất bởi doanh nghiệp Liên
doanh bia Việt Nam) bị cho là đã liên kết với nhau sử dụng các chiến thuật độc quyền giao
dịch để ngăn chặn việc gia nhập thị trường của hãng bia Laser - nhãn hiệu bia chai đầu tiên
của Việt Nam (được sản xuất bởi doanh nghiệp Tân Hiệp Phát).
Có mặt trên thị trường vào năm 2004, tuy nhiên bia Laser không thể tiếp cận được các cửa
hàng bán lẻ, đại lý phân phối và các quan bar, v.v… vì các cửa hàng và đại lí này đã có hợp
đồng với các sản phẩm bia đã nhắc tới ở trên trong đó bao gồm một điều khoản quan trọng
là cấm các nhà phân phối, người bán không được bán, trưng bày, giới thiệu, tiếp thị… thậm
chí là không cho phép nhân viên tiếp thị của các hãng bia khác hoạt động trên địa bàn kinh
doanh của họ. Để đền bù hàng năm các cửa hàng và nhà phân phối nhận được một khoản hỗ
trợ từ 50 triệu đồng tới 100 triệu đồng.
Tình hình còn xấu hơn khi mà gần đây một cửa hàng bia đã bị các hãng bia lớn này kiện vì lí
do “vi phạm hợp đồng kinh tế”. Tòa án Nhân dân thành phố Hồ Chí Minh đã đưa ra phán
quyết là cửa hàng bia “Cây Dừa” không được phép quảng cáo, bán hoặc cho phép nhân viên
tiếp thị của bia Laser hoạt động trong khu vực kinh doanh của họ cho tới tháng 11 năm 2004
theo hợp đồng được kí giữa cửa hàng này với doanh nghiệp Liên doanh bia Việt Nam từ
tháng 11 năm 2003.
Mặc dù các nhà phân tích cho rằng những điều khoản trong hợp đồng này là một sự lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp liên doanh bia Việt Nam để cạnh tranh
không lành mạnh và nhằm duy trì vị trì vị trí thống lĩnh thị trường thông qua các hành vi
Bản dịch 5/2008
36
không công bằng, nhưng hợp đồng này vẫn thoát khỏi sự kiểm soát của luật pháp bởi vì ở
thời điểm đó Việt Nam vẫn chưa có Luật Cạnh tranh trong khi Luật thương mại và Sắc lệnh
Nhà nước về các Hợp đồng kinh tế không điều chỉnh các vấn đề này.
Nguồn: Vietnamnet, 04.07.2004 và 18.05.2004
Hộp 11: Ghana: Các nhà sản xuất cạnh tranh với nhau
Công ty Brewery Accra đã kiện công ty Guiness Ghana vì công ty này đã ra lệnhh tạm thời
hạn chế các doanh nghiệp khác gia nhập thị trường đồng thời còn tăng cường một thỏa thuận
có tên là “Guinness có nghĩa là lợi nhuận” với các nhà đại lý đồ uống có cồn. Sản phẩm của
các nhà sản xuất nguyên đơn (Club Super Stout, Club Dark Beer và Castle Milk Stout) cạnh
tranh với các sản phẩm (Guinness Foreign Extra Stout) của Guinness. Công ty Accra
Brewery lập luận rằng:
Công ty Guiness Ghana đã tham gia vào một thỏa thuận “mang lại tiền” với khoảng
183 nhà bán lẻ đồ uống có cồn vào năm 1999, theo đó ràng buộc các nhà bán lẻ này
chỉ nhập và quảng cáo cho riêng sản phẩm của họ. Vì vậy, những nhà bán lẻ này đã
từ chối nhập các sản phẩm của công ty Accra Brewery;
Guinness đã phạm pháp khi xúi giục khách hàng phá hợp đồng với công ty Accra
Brewery;
Hành vi của công ty Guinness đã ngăn cản người dân Ghana có quyền tự do lựa chọn
bất kì sản phẩm đồ uống có cồn và không cồn nào tại các quầy bar đồ uống hoặc các
nơi bán sản phẩm của cả hai doanh nghiệp khác;
Hành vi xúi giục của Guinness đã đi ngược lại với nguyên lí tự do kinh tế và xã hội
và sự thành công của mỗi cá nhân khi giao thương với một người mà anh ta mong
muốn cũng như sự thịnh vượng của cả đất nước khi mở rộng qui mô thương mại; và
Công ty Accra Brewery đã mất một nguồn thu nhập đáng kể vì hậu quả từ hoạt động
của Guinness.
Thẩm phán đã bác bỏ lập luận của công ty Accra Brewery và đưa ra phán quyết như sau:
Không có bằng chứng nào cho thấy Guinness muốn tạo ra độc quyền;
Không có bằng chứng nào cho thấy Guinness thông qua các hành vi của họ đang có
ý định ngăn chặn khách hàng mua các sản phẩm tương tự nhưng có giá rẻ hơn ở bất
cứ đâu. Bởi vì các sản phẩm này có giá bán giống nhau đã được xác định thông qua
thỏa thuận giữa các nhà sản xuất; và khách hàng được tự do lựa chọn bất kì đại lí bán
nào mà họ có thể mua sản phẩm được từ đó;
Không có bằng chứng nào cho thấy thị phần của Guinness tăng lên nhờ thỏa thuận
này; và
Không có bằng chứng nào chứng tỏ rằng lợi ích công cộng bị tác động do kết quả từ
thỏa thuận của Guinness với các nhà bán lẻ được lựa chọn bởi vì người tiêu dùng vẫn
Bản dịch 5/2008
37
có một sự lựa chọn.
Nguồn: Aryeetey & Ahene (2006), Ghana, Các thể chế cạnh tranh trên thế giới, CUTS
4.5.3. Bán kèm
Bán kèm là hành vi ép khách hàng phải mua kèm hàng hóa khác thì mới mua được hàng hóa
mà anh ta muốn mua. Một số thỏa thuận bán kèm, đặc biệt là trong các hợp đồng, trước đây
thường được coi là các hành vi phản cạnh tranh, khi mà trong gói hàng hóa bán kèm đó bao
gồm một hoặc một số hàng hóa là mặt hàng chủ lực của các doanh nghiệp khác và như vậy
theo đó gói hàng hóa này có thể gây ảnh hưởng xấu tới hoạt động kinh doanh của các doanh
nghiệp này. Cũng có thể thấy rằng khi mà một doanh nghiệp tiến hành hành vi bán kèm có thị
phần lớn và điều này có thể gây tác động xấu tới các doanh nghiệp chỉ bán một loại hàng hóa.
Hành vi bán kèm được miễn trừ khi mục tiêu là tối đa hóa tổng lợi ích của sản phẩm trong
một vài trường hợp. Nếu như hàng hóa chính sẽ phát huy lợi ích tốt hơn với sản phẩm bán
kèm hơn là với các sản phẩm khác, nhà sản xuất có thể bán kèm các sản phẩm này để tránh
các vấn đề về chất lượng có thể dẫn tới các vụ kiện đối với sản phẩm hay làm giảm danh
tiếng của doanh nghiệp. Hành vi bán kèm cũng có thể được sử dụng cùng hoặc thay thế cho
các quyền sở hữu trí tuệ để giúp bảo vệ sự tham gia thị trường của doanh nghiệp thúc đẩy đổi
mới sáng tạo.
Hành vi bán kèm thường được nhà cung cấp tiến hành với một sản phẩm thiết yếu với nhiều
khách hàng. Người ta cho rằng bằng cách đe dọa sẽ không bán sản phẩm chính nếu khách
hàng không mua các sản phẩm khác, nhờ cách này nhà cung cấp có thể tăng được doanh số
bán của các sản phẩm phụ khác.
Hộp 12: Bán kèm bếp ga cùng với ống dẫn ga
Ở bất kì các nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung nào, một số hàng hóa và dịch vụ luôn trong
tình trạng thiếu nguồn cung điều này dẫn tới tình trạng lạm dụng và bảo trợ về mặt chính trị.
Các doanh nghiệp đã lợi dụng tình hình này thông qua các hành vi hạn chế cạnh tranh như
hành vi bán kèm. Trường hợp của doanh nghiệp gas Shyam khi doanh nghiệp này bị triệu
tập lên trước Ủy ban về các hành vi hạn chế thương mại và vấn đề độc quyền (MRTPC) là
một ví dụ. Doanh nghiệp Shyam Gas nhà phân phối duy nhất các bình chứa gas dân dụng tại
Hathras (Uttar Pradesh) của Tổng doanh nghiệp xăng dầu Bharat bị cho là đã tiến hành các
hành vi hạn chế cạnh tranh sau:
Chỉ bán ống dẫn gas khi khách hàng mua một bếp gas hoặc một đĩa khuyếch nhiệt
của doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp chị em của doanh nghiệp là doanh nghiệp
Shyam Jyoti; và
Đòi khách hàng trả gấp đôi giá thị trường cho việc cung cấp các thiết bị và dụng cụ.
Bản dịch 5/2008
38
MRTPC cho rằng doanh nghiệp này tiến hành một hành vi hạn chế thương mại (RTPs) gây
thiệt hại tới lợi ích cộng đồng. Khi bị kết tội, doanh nghiệp Shyam Gas đã đồng ý dừng hành
vi hạn chế thương mại này lại và MRTPC đã ra lệnh cho doanh nghiệp này thi hành ngay
lệnh này.
Doanh nghiệp này cũng bị buộc phải viết lên bảng thông báo của họ rằng khách hàng có thể
tự do mua bếp gas và đĩa khuyếch nhiệt ở bất kì đâu họ muốn và việc bán ống dẫn gas sẽ
không bị từ chối hoặc trì hoãn nếu như khách hàng không mua bếp gas hoặc đĩa hâm nóng
của doanh nghiệp này hoặc doanh nghiệp chị em của họ. Lệnh này cũng thiết lập một nền
tảng cho việc yêu cầu tất cả các đại lí bán gas hóa lỏng phải đưa ra thông báo tương tự trong
cửa hàng của họ.
Nguồn: Điều tiết thương mại độc quyền và Bảo vệ người tiêu dùng, D P S Verma, 1985.
Một số vụ kiện chống độc quyền nổi tiếng gần đây đối với tập đoàn Microsoft tại Mỹ và Liên
minh Châu Âu theo đó tập đoàn khổng lồ về phần mềm này đã bị cáo buộc là thực hiện hành
vi bán kèm cùng với hệ điều hành Microsoft Window 2 sản phẩm độc lập khác là trình duyệt
Internet Explorer và phần mềm Windows Media Player. Microsoft cho rằng trình duyệt web
và phần mềm nghe nhạc này đơn giản là một phần của hệ điều hành (và có trong tất cả mọi hệ
điều hành máy tính cá nhân khác). Ngay cả việc xác định một chiếc ôtô cũng chuyển sang
bao gồm cả những thứ thường là các sản phẩm bán riêng lẻ như công tơ mét và đài, việc xác
định một hệ điều hành cũng bao gồm cả những sản phẩm mà trước đây là sản phẩm được bán
riêng. Tuy nhiên, phán quyết của tòa án Mỹ là một ví dụ đã bác bỏ lời bào chữa của
Microsoft rằng trình duyệt Internet Explorer chỉ là một phần của hệ điều hành. Cùng lúc đó
tòa án cũng tuyên bố rằng việc bán kèm trình duyệt Internet Explorer với hệ điều hành
Microsoft Windows sẽ được xem xét theo nguyên tắc có lí chứ không phải nguyên tắc per se
bất hợp pháp.46
Hộp 13: Các hành vi bán kèm trên thị trường Việt Nam
Năm 2002, khi nhu cầu về xe máy nhãn hiệu “Wave @” tại Việt Nam tăng cao thì hành vi
bán kèm đã xảy ra ở rất nhiều cửa hàng theo cách xe máy được bán kèm với một mũ bảo
hiểm. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt ở bộ máy kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi cầu
vượt quá cung thì hành vi bán kèm thường rất phổ biến.
Vào giữa tháng 3 năm 2004 doanh nghiệp thông tin viễn thông tại thành phố Hồ Chí Minh
(Netsoft) bắt buộc tất cả các đại lí của họ tại thành phố Hồ Chí Minh phải kí một hợp đồng
theo điều kiện mỗi đại lý Internet phải đăng kí bán thẻ Internet trả trước ngoài các dịch vụ
khác mà họ muốn đăng kí và doanh số bán loại thẻ này phải đạt ít nhất 400,000 VNĐ một
tháng.
Nguồn: 1. http://vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2002/02/3B9B9479/
2. Trịnh Thị Thanh Thúy (2004), Cơ sở khoa học cho việc xác định mức độ các thỏa
Bản dịch 5/2008
39
thuận hạn chế cạnh tranh và các yếu tố miễn trừ trong Luật Cạnh tranh, báo cáo hội nghị,
Bộ thương mại, Dự án nghiên cứu 2003-78-009.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam không có qui định nào về việc cấm hành vi bán kèm một
cách cụ thể. Tuy nhiên trong luật có qui định về cấm “thỏa thuận áp đặt cho doanh nghiệp
khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hóa, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác
chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng”47
khi các bên
tham gia thỏa thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên. Nghị định
116/2005 giải thích thêm về điểm này tại khoản 1a) của điều 18. Tuy nhiên, điều khoản này
chỉ đề cập tới khía cạnh bất hợp pháp của hành động áp đặt các đại lí bán hoặc cung cấp hàng
hóa hoặc dịch vụ không liên quan trực tiếp tới đối tượng của hợp đồng bán.
4.6. Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Thuật ngữ “lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường” đề cập tới các hành vi thương mại hạn chế
cạnh tranh mà một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có thể tiến hành để duy trì
hoặc để tăng vị trí thống lĩnh của mình trên thị trường. Những hành vi này không còn nghi
ngờ gì có thể được coi là các hành vi lạm dụng việc kiểt soát độc quyền một thị trường nhằm
hạn chế cạnh tranh.
Thuật ngữ “lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường” được qui định rõ ràng trong Luật Cạnh
tranh của một số nước như Canada, Liên minh Châu Âu và Đức. Tại Mỹ, các điều khoản
giống như vậy có thể là các điều khoản giải quyết vấn đề độc quyền và các nỗ lực độc quyền
hóa một thị trường. Những loại hành vi thương mại nào được coi là hành vi lạm dụng sẽ thay
đổi trên cơ sở từng trường hợp cụ thể và trên phạm vi các quốc gia. Nhìn chung, các hành vi
thương mại đã được tranh luận bao gồm các hành vi sau:
Phân biệt về giá cả;
Ép giá;
Ép giá bởi các doanh nghiệp trong cùng một thỏa thuận;
Thỏa thuận tẩy chay các doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận;
Bán kèm; và
Dành quyền ưu tiên đặt trước/mua trước các phương tiện thiết yếu để doanh nghiệp có
thể cạnh tranh được một cách hiệu quả.
Một số ít các hành vi này đã được bàn luận ở các phần trước về các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh theo chiều dọc như bán kèm và dành quyền ưu tiên đặt trước/mua trước các phương tiện
thiết yếu để doanh nghiệp có thể cạnh tranh được một cách hiệu quả (theo đó đại lý phân
phối/bán lẻ chỉ có một), và các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang như tẩy chay
và thỏa thuận hạn chế các doanh nghiệp không phải là bên tham gia thỏa thuận. Tuy nhiên
trong phần này sẽ tập trung hơn nữa vào khía cạnh “tiến hành một cách đơn phương” của các
hành vi này.
Bản dịch 5/2008
40
Ngoài ra, như đã đề cập ở các phần trước, tác động phản cạnh tranh của một vài thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh thường bị xử lí hết sức nghiêm khắc khi có một mức độ cụ thể sức mạnh
thị trường giữa trong số các doanh nghiệp của một thỏa thuận. Cũng tương tự như vậy, ở
phần này, các hành vi chính trước khi xem xét về tác động hạn chế của chúng tới cạnh tranh
cơ quan quản lý cạnh tranh cần thẩm định xem liệu các doanh nghiệp này có nắm giữ vị trí
thống lĩnh thống lĩnh thị trường hay vị trí độc quyền hay không.
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hay vị trí độc quyền, như đã được đề cập ở phần trước,
bị cấm theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam tại điều 11-12 theo đó đã liệt kê một danh
sách dài (mặc dù chưa đề cập một cách thấu đáo cần thiết) vài hành vi của các doanh nghiệp
có vị trí thống lĩnh thị trường có thể vi phạm Luật Cạnh tranh. Một điểm quan trọng là những
điều khoản cấm này không có phần miễn trừ như phần các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Có
lẽ bởi vì các doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường hay có vị trí
độc quyền, được xác định theo Luật Cạnh tranh, có ít nhất 30% thị phần kết hợp trên thị
trường liên quan đã bước qua ngưỡng “bến an toàn” theo Luật Cạnh tranh nên do đó có thể
có khả năng hạn chế cạnh tranh.
Điều 117 Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam đã đưa ra một phạm vi rộng các biện pháp chế
tài áp dụng trong trường hợp phát hiện ra việc lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường bao gồm
phạt tiền, cải chính công khai, cơ cấu lại doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và tước quyền sử dụng giấy phép, chứng chỉ
hành nghề, v.v…Ngoài ra chính phủ Việt Nam còn đưa ra những qui định khác về vấn đề này
trong Nghị định số 120/2005/ND-CP về việc giải quyết các vi phạm về cạnh tranh.
4.6.1. Phân biệt về giá cả
Phân biệt về giá cả là hành vi áp dụng các điều kiện khác nhau, giá cả khác nhau thông
thường cho các giao dịch tương đương. Một ví dụ đơn giản là việc áp dụng các mức giá khác
nhau đối với các khách hàng khác nhau, cho cùng một loại hàng hóa giống nhau mà giá cả
không phản ánh được số lượng, chất lượng hay bất kì một thuộc tính nào khác của sản phẩm.
Hộp 14: Doanh nghiệp địa phương đối đầu với doanh nghiệp Sasol
Cơ quan giám sát cạnh tranh của Nam Phi gần đây đã giúp các doanh nghiệp địa phương có
được chiến thắng lớn trước công ty dầu lửa quốc tế Sasol.
Vào ngày 1 tháng 4 năm 2005, Tòa án cạnh tranh của Nam Phi cho rằng Sasol - một tập
đoàn đa quốc gia có trụ sở tại Johannesburg chuyên chuyển hóa than thành các sản phẩm khí
đốt hóa lỏng như xăng, dầu, và các loại dầu đốt – đã có hành vi phân biệt về giá phạm pháp,
theo một khiếu nại của một doanh nghiệp nhỏ có tên là Nationalwide Poles.
Nationalwide đã khiếu nại lên Ủy ban Cạnh tranh từ trước. Theo một cuộc điều tra, Ủy ban
đã kết luận rằng không có bằng chứng nào cho thấy có sự phân biệt về giá cả một cách phạm
pháp. Sau đó Nationalwide đã khiếu nại lên Tòa án.
Nationalwide Poles mua creozot, một chất hóa học xử lí gỗ từ Sasol. Doanh nghiệp này cho
Bản dịch 5/2008
41
rằng Sasol đã có sự phân biệt đối với các doanh nghiệp nhỏ thông qua việc dành sự khấu trừ
giá đầy đủ cho các khách hàng lớn hơn ví dụ như đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp này là
Woodline.
Sasol đã biện minh rằng công ty này không phải là một tập đoàn có vị trí thống lĩnh thị
trường và còn có các mặt hàng thay thế khác cho chất creozot trên thị trường. Tòa án đã
không đồng tình với biện minh này và ra phán quyết rằng Sasol đã vi phạm luật chống độc
quyền.
Nguồn: http://www.globalcompetitionreview.com/news/news_items.cfm?item_id=2513
Hành vi phân biệt về giá cả bị cấm tại điều 13(4) của Luật Cạnh tranh 2004. Theo đó, những
hành vi “áp đặt điều kiện thương mại khác nhau trong giao dịch như nhau nhằm tạo bất bình
đẳng trong cạnh tranh”. Vấn đề này cũng được qui định thêm tại điều 29 của Nghị định
116/2005.
Tại các quốc gia với nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung tồn tại lâu năm như Việt Nam, thì
khối nhà nước được cho là vẫn có một vị trí hết sức quan trọng, hành vi phân biệt này là khá
phổ biến. Trong khi cân bằng về cạnh tranh không được cân nhắc chính đáng bởi các hành vi
này thì cạnh tranh phải cố gắng để có được tiếng nói để bảo vệ sự công bằng trong kinh tế.
Đặc biệt là trong trường hợp của Việt Nam, nơi mà “các doanh nghiệp sản xuất/cung cấp sản
phẩm hay dịch vụ công cộng, các doanh nghiệp hoạt động trong khối và lĩnh vực độc quyền
nhà nước” đều là chủ thể để xem xét của Luật Cạnh tranh.48
4.6.2. Hành vi ép giá
Hành vi ép giá xảy ra khi một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường đưa ra các mức giá
cả thấp tạm thời trong một nỗ lực nhằm xóa bỏ sự tồn tại của đối thủ cạnh tranh, hay tạo ra
một rào cản đối với việc thâm nhập thị trường của các đối thủ tiềm năng mới. Các doanh
nghiệp ép giá sẽ gánh vác các thiệt hại tạm thời trong suốt thời gian của chính sách hạ giá của
mình với ý định tăng giá trong tương lai để bù đắp thiệt hại và kiếm được lợi nhuận nhiều
hơn. Hành vi này có thể đưa lại thuận lợi cho khách hàng trong thời gian ngắn song lại đưa
tới các bất lợi nếu như người bán có thể duy trì mức giá ở một cấp độ độc quyền.
Hộp 15: Khuyến mại hay Ép giá: Liệu Viettel có vi phạm Luật Cạnh tranh?
Viettel, một thành viên mới tham gia vào thị trường dịch vụ di dộng tại Việt Nam, gần đây
đã tiến hành một chương trình khuyến mại lớn chưa từng có vào tháng 9 năm 2005. Để kỉ
niệm 1 năm hoạt động, nhà phân phối dịch vụ di động của quân đội này đã dành cho khách
hàng các cuộc gọi đầu tiên miễn phí không giới hạn trong nội mạng hàng ngày. Viettel cũng
miễn phí hòa mạng cho các thuê bao mới trả sau và nhân đôi tài khoản cho các thuê báo mới
trả trước. Viettel còn giảm giá thuê bao di động xuống 10.000 đồng còn 59.000 đồng một
tháng bắt đầu từ 1/10/2005. Các nhà quản lí của tập đoàn này còn thông báo rằng hãng cũng
Bản dịch 5/2008
42
sẽ giữ giá thuê bao thấp hơn từ 10-15% so với các hãng di động khác.
Rất nhiều khách hàng đã ủng hộ động thái này của Viettel. Tuy nhiên, một số người khác
còn nghi ngờ rằng chất lượng dịch vụ không đáp ứng được khối luợng lớn các khuyến mãi
này. Xem xét từ góc độ của Luật Cạnh tranh 2004, rất nhiều người cũng đặt ra câu hỏi liệu
chương trình khuyến mãi này có tạo ra một hành vi ép giá vi phạm Luật Cạnh tranh.
Ông Trần Anh Sơn, Phó cục trưởng Cục cạnh tranh thuộc Bộ thương mại cho rằng Ưu đãi
của Viettel miễn phí hòa mạng cho các thuê bao trả sau là phù hợp với khoản B điều 181
Luật thương mại và Luật Cạnh tranh không cấm những loại khuyến mại này. Trả lời câu hỏi
liệu những chương trình khuyến mại của Viettel có phải là các hành vi cạnh tranh không
công bằng để thu hút các nhóm khách hàng quen thuộc của đối thủ cạnh tranh hay là hành vi
ép giá hay không, ông Sơn cho rằng điều khoản trong Luật Cạnh tranh về hành vi ép giá chỉ
áp dụng với các doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường với từ 30% thị phần trở lên,
trong khi Viettel chỉ nắm giữ khoảng 10% thị phần trong thời điểm đó. Ông Sơn cũng nhấn
mạnh rằng các động thái giảm giá của Viettel cũng không phải là hành vi ép giá và không vi
phạm Luật Cạnh tranh.
Nguồn: VietNamnet, 24.09.05
Hộp 16: Các hành vi ép giá ở ngành bia tại Zimbabwe
Công ty bia rượu Nesbitt, một công ty bia nhỏ tại Chiredzi, Zimbabwe, khiếu nại lên Ủy ban
cạnh tranh của Zimbabwe về việc Công ty bia rượu quốc gia đã có hành vi ép giá, khiến cho
giá bia sạch tại Chiredzi giảm mạnh tới mức không còn lợi nhuận, với ý định là loại Nesbitt
ra khỏi thị trường.
Các cuộc điều tra cho thấy ngành công nghiệp bia sạch tại Zimbabwe có sự tập trung cao.
Nesbitt là một doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường, thách thức vị trí độc quyền lâu
năm của Công ty bia rượu quốc gia đã chiếm 90% thị phần. Công ty bia rượu quốc gia có
mạng lưới phân phối trên toàn quốc, trong khi Nesbitt chỉ hoạt động ở Chiredzi.
Các cuộc điều tra khác cũng cho thấy Công ty bia rượu quốc gia đã tiến hành một chương
trình khuyến mại tại Chiredzi từ tháng 5 năm 1999 tới tháng 4 năm 2000, khi Ủy ban bắt
đầu tiến hành thu thập thông tin về vụ kiện. Khuyến mại bao gồm các phần quà và áo phông
miễn phí, phiếu bốc thăm trúng thưởng, bia miễn phí và giảm giá đặc biệt. Chương trình
khuyến mại chỉ được tổ chức tại Chiredzi nơi mà công ty Nesbitt đang hoạt động và bán
phần lớn bia ở đây. Giá bán lẻ bia của Công ty bia rượu quốc gia tại Chiredzi trong suốt thời
gian khuyến mại còn thấp hơn mức giá thấp thông thường tại tỉnh này.
Ủy ban đã tiến hành một cuộc điều tra đầy đủ theo khoản 28 của đạo Luật Cạnh tranh năm
1996. Các hành vi được viện dẫn bị cho là các hành vi ép giá theo khoản 2 của Đạo luật.
Mặc dù Công ty bia rượu quốc gia đã dừng ngay các hoạt động khuyến mại của mình ngay
sau khi họ bắt đầu nhận ra mình đang bị điều tra, Ủy ban vẫn ra lệnh cho công ty này phải kí
Bản dịch 5/2008
43
vào bản cam kết sẽ không tiến hành các hoạt động khuyến mại trong tương lai nhằm loại bỏ
công ty Nesbitt ra khỏi thị trường.
Nguồn: UNCTAD, Nhóm chuyên gia liên chính phủ về luật và chính sách cạnh tranh,
Geneva, 3/7/2005, 2002
Hành vi ép giá là cần thiết đối với khả năng tăng giá khi các đối thủ đã bị loại bỏ hoặc không
còn tồn tại trên thị trường. Kết quả là một sự cân nhắc quan trọng trong việc xác định rằng
các mức giá thấp thực tế là ép giá và có thể dẫn tới việc giảm cạnh tranh một cách đáng kể là
liệu thị trường được xem xét bởi các đối thủ cạnh tranh tiềm năng có chứa các rào cản gia
nhập hay không. Các rào cản này có thể bao gồm các chi phí tài chính cao để gia nhập, với
tiêu chuẩn kĩ thuật khó khăn và khả năng thấp để bán tài sản nếu như việc giá nhập thất bại.
Nếu không có các rào cản này, bất kì một mức giá sau khi có sự ép giá nào tăng bởi doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh thị truờng có thể thu hút sự gia nhập do dó doanh nghiệp có vị trí
thống lĩnh thị trường sẽ không thể tăng giá và bù đắp lại thiệt hại của việc ép giá. 49
Hành vi ép giá bị cấm tại điều 13(1) của Luật Cạnh tranh 2004. Theo Luật Cạnh tranh những
hành vi này là “bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ nhằm loại bỏ đối thủ
cạnh tranh”. Vấn đề này được qui định thêm tại điều 23-26 và điều 31 của Nghị định
166/2005 theo đó qui định cụ thể khá nhiều yếu tố cho việc tính toán chi phí trong những
trường hợp này. Nói chung, những chi phí này bao gồm các chi phí sản xuất, chi phí phân
phối và chi phí quản lí.
Nghị định cũng đề cập tới một vài trường hợp bán dưới chi phí mà không bị coi là hành vi ép
giá, ví dụ trong trường hợp giá cả cho các loại sản phẩm sắp hỏng, sản phẩm/dịch vụ trong
mùa giảm giá, giảm giá, hay giá cả được điều chỉnh bởi nhà nước. Tuy nhiên, trong những
trường hợp này, các hoạt động giảm giá phải được giải thích theo một hình thức rõ ràng nhất
có thể tại các điểm bán.
4.6.3 Thỏa thuận từ chối kinh doanh/cung ứng
Ngoại trừ trường hợp thiếu các chế định pháp luật hay một số trường hợp đặc biệt khác, một
doanh nghiệp trong một thị trường tự do có quyền không hạn chế trong việc từ chối kinh
doanh với bất kì người mua nào với bất cứ lí do nào hay không. Tinh thần này được xác nhận
tại điều 4 của Luật Cạnh tranh 2004, theo đó “doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong
khuôn khổ luật pháp. Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh”.
Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người ta sẽ thấy rằng qui định về cạnh tranh của nhiều
quốc gia cấm hành vi này bởi vì theo đó một nhà cung ứng có thể từ chối cung cấp hàng hóa
cho người mua mà không cần có sự chứng minh hợp lí. Trong một số trường hợp đặc biệt
khác, có thể là một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nắm giữ “các nguồn lực thiết
yếu” của một ngành công nghiệp hay một thị trường sẽ bị Luật Cạnh tranh cấm hành vi từ
chối/hạn chế sự tiếp cận các điều kiện này bởi các đối thủ cạnh tranh khác, nếu đây được coi
là một nỗ lực để duy trì vị trí thống lĩnh thị trường.50
Bản dịch 5/2008
44
Hộp 17: Hãng di động Viettel đối mặt với phá sản do sự động quyền của Tập đoàn bưu
chính Viễn thông Việt Nam (VNPT)
Nhà cung cấp dịch vụ điện thoại di động non trẻ tại Việt Nam, Viettel, đã khiếu nại tới chính
phủ về vấn đề phá sản tiềm ẩn của mình do sự bế tắc về mạng lưới kết nối với VNPT. Tập
đoàn này bị cáo buộc đã hạn chế các cuộc gọi từ khách hàng của Viettel tới mạng di động và
các thuê bao cố định của VNPT.
Theo các qui định luật pháp của Việt Nam hiện tại, là một nhà cung cấp dịch vụ điện thoại
cố định và di động lớn nhất Việt Nam và có vị trí thống lĩnh thị trường, VNPT phải đảm bảo
mạng lưới kết nối thông tin liên lạc giữa các tập đoàn và các doanh nghiệp mới thành lập.
Hai tập đoàn này đã kí một thỏa thuận vào tháng 12 năm 2004 về các vấn đề kết nối. Không
kể tới việc trong khi thuê bao di động của Viettel tăng lên rất nhanh trong quí I năm 2005 thì
VNPT chỉ cung cấp được dưới 50% nhu cầu hòa mạng, gây ra một làn sóng phàn nàn từ
khách hàng của Viettel về chất lượng dịch vụ.
VNPT đã giải thích rằng đây không phải là ý định của VNPT nhằm gây khó khăn cho
Viettel. Họ cho rằng vấn đề ở đây là các tổng đài mạch dẫn của VNPT đang sử dụng các kĩ
thuật cũ và hiện tại sẽ không có hiệu quả kinh tế nếu nâng cấp hệ thống. Viettel cho rằng
giải thích này là không thích đáng bởi vì VNPT chỉ cần đầu tư 2 triệu đô la hoặc 0,3% tổng
vốn đầu tư hàng năm để đáp ứng nhu cầu cho Viettel, thấp hơn rất nhiều so với 30 triệu đô
la mà Viettel đã trả cho VNPT trong thỏa thuận kết nối vào năm 2004.
Nguồn: Dự án 7Up2 - CUTS, Tuyên truyền và xây dựng năng lực về luật và chính sách cạnh
tranh tại Châu Á, E-newsletter số V.
Một nhà cung ứng có thể từ chối cung cấp vì một số lí do, ví dụ như để kiểm soát giá bán lẻ
mà theo đó sản phẩm của họ được bán và để bảo vệ thị trường đầu ra của họ. Trong một
trường hợp khác một nhà cung ứng đưa ra mức giá bán lại cho khách hàng và từ chối cung
cấp cho các khách hàng mà không bán lại với mức giá này.
Vấn đề là khi một doanh nghiệp chủ động trong cả hoạt động đầu vào và đầu ra (đây là kết
hợp theo chiều dọc) và từ chối chuyển nhượng cho các doanh nghiệp khác mà mong muốn
chỉ cung cấp các dịch vụ đầu ra hoặc các dịch vụ đầu vào, hạn chế họ tiếp cận với “các nguồn
lực thiết yếu”. Từ chối cung ứng có thể là hành vi phản cạnh tranh nếu như nó hạn chế doanh
nghiệp thứ ba gia nhập thị trường và hậu quả là làm giảm cạnh tranh. Một doanh nghiệp có vị
trí thống lĩnh thị trường kiểm soát việc tiếp cận một điều kiện cần thiết có thể lạm dụng vị trí
thống lĩnh của mình nếu như doanh nghiệp này từ chối việc tiếp cận với “nguồn lực thiết
yếu” của doanh nghiệp khác mà không có chứng minh hợp lí hay chỉ cho phép tiếp cận với
các điều khoản phân biệt là bất lợi đối thủ cạnh tranh của họ trên thị trường liên quan.
Thỏa thuận từ chối kinh doanh/cung ứng không được qui định rõ ràng như các điều khoản
cấm trong Luật Cạnh tranh 2004, ngoại trừ trong điều 13(6) và điều 8(6) cũng như tại các
điều khoản khác (ví dụ tại điều 14) dường như cấm các loại phân biệt này đối với việc gia
Bản dịch 5/2008
45
nhập trong tương lai hoặc đang tiến hành của các đối thủ cạnh tranh hay các nhà bán lẻ các
sản phẩm của một doanh nghiệp. Điều 20 Nghị định 166/2005 khi giải thích khái niệm các
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh nhằm loại bỏ các doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa
thuận khỏi thị trường (bị cấm bất kể thị phần kết hợp của các bên của thỏa thuận có theo
trong điều 8(7) của Luật Cạnh tranh hay không) đã đề cập tới một số vấn đề liên quan tới thỏa
thuận từ chối kinh doanh hay các chiến thuật thỏa thuận ép giá. Tuy nhiên cả Luật Cạnh tranh
2004 và Nghị định 166/2005 đều không đề cập tới hành vi được tiến hành đơn phương hoặc
hành vi hạn chế sự tiếp cận “các nguồn lực thiết yếu. Điều này cũng không được đề cập tới
tại điều 31 của Nghị định 166/2005 về việc dựng lên các rào cản đối với sự gia nhập thị
trường của các đối thủ cạnh tranh, ở đây chỉ đề cập tới độc quyền giao dịch và các chiến thuật
ép giá.
Hộp 18: IPRs đối với sự lạm dụng của chương trình TV Guide hàng tuần
Toà án Sơ thẩm của Liên minh Châu Âu (ECJ) trong quyết định của mình vào ngày 6/4/1995
đã khẳng định rằng công ty Radio Telefis Eireann (RTE) và công ty ITP, là hai nguồn thông
tin duy nhất trong danh mục chương trình, vốn là tài liệu không thể thiếu được cho việc sản
xuất chương trình TV Guide hàng tuần, nên không được phép dựa trên những qui định về luật
bản quyền quốc gia để từ chối cung cấp thông tin cho bên thứ ba. Do hành vi từ chối này, Tòa
án cho rằng trong trường hợp phát sinh hành vi vượt qua thẩm quyền quyền sở hữu trí tuệ đối
với vấn đề cụ thể và vì vậy, được coi là sự lạm dụng vị trí thống lĩnh theo điều 86 của Hiệp
ước Rome.
Tòa án cho rằng RTE và ITP nắm vị trí thống lĩnh thị trường, bởi vì họ là nguồn thông tin
duy nhất tại Ailen đối với nhu cầu thông tin cơ bản để cung cấp cho các chương trình TV
Guide hàng tuần và vì vậy có vị trí duy trì thị trường thứ hai cho các chương trình TV Guide
hàng tuần bằng cách loại bỏ tất cả cạnh tranh ra khỏi thị trường đó.
Tòa án thấy rằng, trong khi từ chối cấp phép trên thực tế một IPR không phải là sự lạm dụng
vị trí thống lĩnh, hành vi này có thể là một sự lạm dụng sức mạnh thị trường trong các trường
hợp cụ thể. Các trường hợp cụ thể này bao gồm việc thiếu các nguồn thay thế tiềm năng và
thực tế cho chương trình TV Guide hàng tuần, sự tồn tại của một nhu cầu thường xuyên cụ
thể đối với chương trình này, và thực tế là việc từ chối cấp giấy phép Magill để sản xuất
chương trình này đã ngăn chặn sự xuất hiện một sản phẩm mới trên thị trường mà RTE và
ITP không cung cấp.
Nguồn: Các vụ việc tập thể 241/91 P etc. RTE và ITP và Ủy ban [1995] ERC 1-743
Tuy nhiên Luật pháp về các ngành khác ở Việt Nam ví dụ như Pháp lệnh số 43/2002 về Bưu
chính viễn thông và Luật Điện lực 2004 đã đưa ra nghĩa vụ đối với các doanh nghiệp đang
hoạt động kinh doanh trong các lĩnh vực này phải hỗ trợ kết nối đối với mạng lưới của họ cho
các đối thủ cạnh tranh khác theo các điều khoản công bằng. Ví dụ trong Pháp lệnh số 43/2002
Bản dịch 5/2008
46
về Bưu chính viễn thông đã đưa ra các nghĩa vụ này đối với các doanh nghiệp có vị trí thống
lĩnh thị trường liên quan tới vấn đề kết nối và ai kiểm soát các “nguồn lực thiết yếu”.
Bản dịch 5/2008
47
5. THỰC THI LUẬT CẠNH TRANH ĐIỀU CHỈNH CÁC RBPs
Theo Luật Cạnh tranh 2004, Cục Quản lí cạnh tranh (CAD) có thể tự tiến hành điều tra các
RBPs tại Việt Nam cũng như dựa trên một khiếu nại.51
Bất cứ tổ chức hay cá nhân nào, neus
cho rằng quyền và lợi ích của họ có thể bị xâm hại bởi sự vi phạm Luật Cạnh tranh (ví dụ,
một doanh nghiệp cho rằng các hành vi của đối thủ cạnh tranh là vi phạm Luật Cạnh tranh)
đều có quyền gửi khiếu nại tới CAD. (Theo điều 58(1) Luật Cạnh tranh). Thời hiệu cho việc
bắt đầu một cuộc điều tra là 2 năm kể từ ngày hành vi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về cạnh
tranh được thực hiện.
Một hồ sơ khiếu nại phải bao gồm bằng chứng về hành vi cạnh tranh bị khiếu nại. CAD sẽ trả
lại hồ sơ khiếu nại cho bên khiếu nại nếu như thời hiệu đã chấm dứt, trong trường hợp nếu
như vượt quá thẩm quyền điều tra của CAD, hoặc nếu như hồ sơ khiếu nại chưa hoàn chỉnh
(hay được bổ sung trong khi thời hiệu chấm dứt). Bên khiếu nại có thể kháng cáo lại việc trả
lại hồ sơ khiếu kiện trong vòng 5 ngày kể từ ngày trả lại; và Bộ trưởng Bộ thương mại có thể
quyết định về đơn kháng cáo trong vòng 7 ngày kể từ ngày nhận được đơn kháng cáo. Nếu
như đơn khiếu nại được chấp nhận, một khoản tạm ứng chi phí xử lí vụ việc cạnh tranh là 100
triệu đồng (tương đương với 6000 đô la) phải được nộp cho CAD trong trường hợp các khiếu
kiện về các hành vi hạn chế cạnh tranh. (Theo Điều 62-63 Luật Cạnh tranh và điều 47(1) và
điều 53 Nghị định 116/2005) Phí tạm ứng này sẽ được trả lại cho bên khiếu kiện thắng cuộc,
hoặc các chi phí này sẽ được trả bởi bên thua kiện. Cơ quan cạnh tranh sẽ phải chịu toàn bộ
chi phí xử lí vụ việc cạnh tranh trong trường hợp cơ quan này tự tiến hành điều tra nhưng bên
bị điều tra không vi phạm qui định của Luật. (Điều 63(3) Luật Cạnh tranh). Sau khi bên khiếu
nại trả chi phí xử lí vụ việc, CAD sẽ bắt đầu tiến hành quá trình điều tra pháp lí cạnh tranh
dựa trên khiếu nại.
Sơ đồ dưới đây sẽ tóm tắt lại qui trình điều tra một vụ việc cạnh tranh tại Việt Nam.52
Ngoài
các vấn đề thủ tục khó khăn, còn một số vấn đề cần được các cơ quan cạnh tranh tính đến
trong quá trình tăng cường việc thực thi luật đối với việc giải quyết các vụ việc một cách hiệu
quả.
Bản dịch 5/2008
48
5.1. Điều tra các vụ việc vi phạm
Có ít nhất là ba đối tượng sẽ cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lí cạnh tranh mà đôi
khi sẽ dẫn tới các cuộc điều tra về các vụ việc vi phạm là: người cung cấp thông tin bí mật
(người lao động hoặc các cá nhân hay các doanh nghiệp tìm kiếm để lợi dụng các điều khoản
giảm tội); nạn nhân của các hành vi phản cạnh tranh (thường là khách hàng hoặc người cung
ứng, họ nghi ngờ về nguyên nhân mà họ không thể có được mức giá mà họ mong đợi là do có
sự tăng giá giả tạo bởi một thỏa thuận các-ten); và các nhân viên của cơ quan quản lí cạnh
tranh, những người theo dõi về hoạt động công cộng của các doanh nghiệp (ví dụ, một nhà
điều tra về cạnh tranh không thấy có sự bất thường về giá cả của các nhà sản xuất khác nhau
của cùng một loại sản phẩm bởi vì những người bán với giá cao sẽ không có người mua,
nhưng nhà điều tra sẽ nghi ngờ có một thỏa thuận các-ten về giá tồn tại nếu chỉ cần có 5 nhà
sản xuất của sản phẩm xác định thông báo về thời gian chính xác việc tăng giá của một lượng
chính xác sản phẩm tương tự).
Điều 58.1, 86.1
nhận đơn khiếu nại
Điều 86.8
Tiến hành vụ kiện
Điều
76.7,86,87
Điều tra sơ bộ
Điều 88.2
Điều 117
Quyết định hình thức xử
phạt vi phạm
Điều 107.2
Khiếu nại lên thủ tướng
Điều 115.1
Khiếu nại lên tòa án
Điều 79.1
Thành lập
Hội đồng
Điều 98,104
Phiên điều trần
Điều 81.3
Quyết định hình thức
xử phạt vi phạm
Điều 107.1
Khiếu nại lên Hội đồng
cạnh tranh
Điều 112.1
Giữ nguyên
quyết định xử
lí vụ việc
cạnh tranh
Điều 112
Quyết định của Hội đồng
cạnh tranh về quyết định
xử lí vụ việc cạnh tranh
của Hội đồng xử lí vụ việc
Điều 112.2
Sửa quyết
định xử lí
vụ việc
cạnh tranh
Điều 115.1
Khiếu nại lên tòa án
Điều 122.3
Hủy quyết
định xử lí
vụ việc
cạnh tranh
Điều
99.2,101
Đình chỉ giải
quyết vụ
việc cạnh
tranh
Điều 19.1 Khi đang ở trong
nguy cơ giải thể hoặc phá sản:
Điều 25.1 Bộ trưởng Bộ thương
mại có quyền quyết định
Điều 19.2 có tác dụng mở rộng
xuất khẩu hoặc đóng góp cho
sự phát triển:
Điều 25.2 Thủ tướng có quyền
quyết định
Điều
101.1(a)
Đề nghị đình
chi giải
quyết vụ
việc cạnh
tranh
Điều 38
Khiếu nại theo Luật
pháp về khiếu nại
và tố cáo
Điều 32.1
Thụ lí đơn xin
hưởng miễn trừ
Điều 88.1
Quyết định đình
chỉ điều tra
Điều 22
Thụ lí hồ sơ thông báo việc tập trung kinh tế
Thụ
Điều 23.1
Quyết định về việc tập trung kinh tế
Điều 88.2
Điều tra
chính thức
Điều 93.1
Báo cáo tới
Ủy ban cạnh
tranh
Bản dịch 5/2008
49
Hiện nay có nhiều lí do khiến cho một số người có thể là hầu hết những người thuộc ba đối
tượng này không sẵn sàng đưa một khiếu nại công khai hoặc trả phí đặt cọc trước theo Luật
Cạnh tranh 2004. Xem xét một ví dụ về một nhân viên tình cờ nghe được hoặc nhìn thấy một
tài liệu cho thấy doanh nghiệp của anh ta đã tham gia vào một thỏa các-ten về giá. Là một
công dân tốt, anh ta có thể sẵn sàng nói cho các nhà quản lí cạnh tranh biết về những nghi
ngờ của mình. Nhưng chừng nào mà đây chỉ là những nghi ngờ, anh ta sẽ không muốn cho
doanh nghiệp của mình biết về những gì anh ta nói. Thực tế các nhà quản lí cạnh tranh thông
thường đều cố gắng giữ bí mật cả danh tính lẫn những lời cáo buộc của họ cho tới khi có
nhiều thông tin hơn được tìm ra. Vì vậy, họ thường muốn người cung cấp thông tin tiếp tục
tìm kiếm thêm các chứng cứ về các hành vi vi phạm pháp luật, điều này là không thể nếu như
doanh nghiệp biết được nhân viên của mình đang cung cấp thông tin cho cơ quan quản lí
cạnh tranh. Hơn nữa, nhân viên thường không thể trả được số tiền đặt cọc 100 triệu đồng
hoặc cũng không muốn phải trả số tiền đó.
Nhiều trường hợp tương tự cũng đúng với một đồng phạm đang tìm kiếm chính sách khoan
hồng. Một doanh nghiệp đồng phạm có thể có đủ tiền để trả phí đặt cọc nhưng họ lại không
chắc chắn về việc có đủ bằng chứng để chứng tỏ về âm mưu đó nếu như các cáo buộc bị công
khai trước khi tiến hành điều tra. Nếu như các bên của thỏa thuận thận trọng khi tổ chức các
cuộc họp và không có thỏa thuận viết tay và đặc biệt là còn có một số thành viên của thỏa
thuận gian dối, chứng cứ của một đối thủ cạnh tranh đơn lẻ có thể không đủ để chứng minh
có tồn tại một thỏa thuận các-ten. Họ cũng có thể phủ nhận về các cuộc họp hoặc các thỏa
thuận và chỉ ra các ví dụ gian dối (bán với giá thấp hơn giá đã thống nhất) như là bằng chứng
cho thấy họ chưa bao giờ có một thỏa thuận về giá. Vì vậy, cơ quan quản lí cạnh tranh có thể
khuyến khích người cung cấp thông tin hẹn gặp các thành viên của thỏa thuận một lần nữa tại
một địa điểm mà cơ quan quản lí cạnh tranh có thể quay video các thành viên của thỏa thuận
(việc này đã được tiến hành tại Mỹ trong vụ thỏa thuận các-ten Lyzin).
Khách hàng có thể sẵn sàng thông báo cho cơ quan quản lí cạnh tranh rằng các nhà cung ứng
dường như đang tham gia vào một thỏa thuận các-ten phân bổ khu vực khách hàng. Khách
hàng có thể nghi ngờ rằng điều này đang xảy ra khi anh ta cố gắng tìm một nhà cung cấp mới
và hai nhà cung cấp mới mà anh ta tìm thấy đầu tiên đều nói rằng họ đã cam kết cung cấp sản
phẩm cho các khách hàng hiện có. Khách hàng đưa ra cáo buộc này có thể cố gắng tìm kiếm
nếu như đối thủ của anh ta cũng phải đối mặt với vấn đề tương tự, nhưng sẽ không biết chắc
chắn liệu rằng đối thủ của anh ta có sẵn sàng nói cho anh ta biết sự thật hay không và nếu như
những khiếu nại của anh ta tới cơ quan cạnh tranh lọt ra ngoài, các nhà cung cấp có thể khiến
cho nguồn cung ứng của anh ta gặp khó khăn hơn. Trong khi dường như khách hàng sẽ phải
làm chứng một vài lần, anh ta có thể hỗ trợ cho cơ quan cạnh tranh nếu như anh ta có thể cố
gắng thu thập thêm chứng cứ về thỏa thuận các-ten phân trước khi các thành viên của thỏa
thuận biết được về cuộc điều tra này.
Thời điểm thông báo tới các bên bị nghi ngờ vi phạm cũng hết sức quan trọng để có thể thu
thập thêm thông tin về hành vi bị nghi ngờ vi phạm pháp luật. Trong trường hợp tăng giá của
Bản dịch 5/2008
50
các doanh nghiệp trong cùng một khoảng thời gian chính xác, có thể là do một số hoặc một
chuỗi sự kiện khách quan khiến cho các doanh nghiệp đồng loạt thông báo về việc tăng giá ở
cùng một thời điểm. Ví dụ, nếu một hiệp hội doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm của họ
chuẩn bị gặp nhau và các đối thủ cạnh tranh đều biết rằng các nhà cung cấp của họ sắp tăng
giá; có thể thấy được rằng tất cả các doanh nghiệp đều tự quyết định sẽ thận trọng khi thông
báo về việc tăng giá trước khi họ gặp nhau. Một cuộc điều tra không công khai có thể diễn ra
để xác định thực tế và để tránh các khả năng buộc tội sai một nhóm doanh nghiệp không vi
phạm luật hay cảnh báo cho những doanh nghiệp vi phạm về cuộc điều tra và để tránh việc
cho phép họ tạo ra chứng cứ giả để bác bỏ các sai phạm của mình.
Ở Việt Nam do đó ý tưởng về việc một nhân viên điều tra hoặc cơ quan cạnh tranh sẽ chi trả
tiền đặt cọc để giải quyết một vụ kiện trước khi tiến hành một cuộc điều tra không được
khuyến khích. Ngoài ra, sẽ không phải là một ý tưởng hay nếu như công khai về một cuộc
điều tra cạnh tranh đang được tiến hành trước khi cuộc điều tra này kết thúc. Một thông báo
nên được công khai chỉ khi cuộc điều tra này kết thúc. Lí do khiến cho tất cả các cuộc điều tra
không được công khai là vì vừa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân viên tiến hành cuộc
điều tra đồng thời điều này có thể là sự tổn hại không cần thiết tới một doanh nghiệp nếu như
bị công khai về cuộc điều tra và sau đó lại cho rằng doanh nghiệp này không hề vi phạm luật.
5.2. Thu thập bằng chứng vi phạm
Loại bằng chứng cần thiết sẽ phụ thuộc vào tính chất vi phạm và bằng chứng cần cho việc chỉ
ra rằng có sự vi phạm luật pháp về cạnh tranh.
Thị phần: Có một tập hợp các con số cần thiết trong việc chứng minh các hành vi hạn chế
cạnh tranh bất hợp pháp, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, và sáp nhập hoặc liên doanh
phi pháp (sẽ được bàn luận tại Phần 6). Ví dụ, điều 8(1-5) Luật Cạnh tranh 2004 yêu cầu cần
có sự chứng minh về thị phần; trong khi điều 8(6-8) thì không cần phải chứng minh điều này.
Bằng chứng về vị trí thống lĩnh thị trường cũng yêu cầu phải chỉ ra thị phần.
Để xác định thị phần, cần phải xác định thị trường liên quan và xác định phần của doanh
nghiệp hoặc các doanh nghiệp đang bị điều tra.
Như đã đề cập từ trước, cần phải xác định các thị trường sản phẩm lẫn thị trường địa lí liên
quan. Nhìn chung, các cơ quan quản lí cạnh tranh thường bắt đầu với những gì mà các nhà
điều tra tìm được, với những gì mà cơ quan chức năng biết được từ các cuộc điều tra trước và
với những thông tin thu được từ các nguồn công cộng.
Như vậy, một cuộc điều tra có thể được so sánh với việc phác thảo một bản đồ về một vùng
đất chưa được khám phá. Trong một cuộc điều tra về các nhà sản xuất của một sản phẩm,
người ta có thể bắt đầu bằng việc phỏng vấn các đại lí bán lẻ để xác định xem những sản
phẩm nào được khách hàng coi là các sản phẩm thay thế và những doanh nghiệp nào cung
cấp sản phẩm cho các nhà bán lẻ, liệu các nhà cung ứng này có thể có các điều kiện sản xuất
thuận lợi ở địa phương hay không hay liệu sản phẩm này được sản xuất ở cấp độ quốc gia hay
quốc tế. Những cuộc phỏng vấn này có thể chỉ là để bắt đầu xác định thị trường sản phẩm và
Bản dịch 5/2008
51
thị trường địa lí liên quan. Danh sách các nhà sản xuất có được từ các đại lí bán lẻ có thể tạo
ra một khởi đầu để có thể đưa tới các cuộc phỏng vấn với các nhà phân phối hay các nhà bán
buôn. Bất cứ cuộc phỏng vấn nào cũng phải hướng tới các nhà sản xuất khác mà có thể sản
xuất ra các sản phẩm hoặc có kế hoạch sản xuất ra sản phẩm. Dần dần một bức tranh phù hợp
về ngành công nghiệp có thể hiện ra khi các câu hỏi đối với các doanh nghiệp được trả lời.
Cuối cùng, cần thiết phải có được thông tin từ chính các nhà sản xuất để xác định qui mô
doanh số bán của họ trên thị trường tương đương và khả năng sản xuất thêm sản phẩm cho thị
trường này.
Hầu hết các cơ quan quản lí cạnh tranh đã được thiết lập có thể nhanh chóng tập hợp một bản
phác thảo sơ bộ về một ngành công nghiệp từ các cuộc phỏng vấn tình nguyện với những các
bên tham gia thị trường. Để có được những thông tin này một cách tình nguyện và nhanh
chóng chỉ khi các doanh nghiệp tin rằng cơ quan quản lí cạnh tranh sẽ giữ bí mật thông tin.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam qui định cơ quan quản lí cạnh tranh phải giữ bí mật các
thông tin này, đây là một điểm tích cực của luật. (Điều 56(3) của Luật, không kể tới các điều
khác). Các thủ tục đặc biệt cho việc công bố những thông tin này tại tòa án là nhằm bảo vệ
tính bí mật cho thông tin thương mại.
Cơ quan quản lí cạnh tranh sẽ thấy dễ dàng hơn trong việc thu thập thông tin không chính
thức nếu họ có thể cho các doanh nghiệp thấy rằng họ được yêu cầu phải giữ bí mật các bí
mật thương mại và họ phải chỉ ra rằng có tuân thủ yêu cầu của việc giữ bí mật. Do vậy, đối
với một cơ quan quản lí cạnh tranh mới, điều quan trọng là phải xây dựng lòng tin với cộng
động doanh nghiệp; những cũng hữu ích nếu như cơ quan cạnh tranh có thẩm quyền chính
thức để yêu cầu phải đệ trình các thông tin. Ở một số điểm trong một qui trình điều tra cạnh
tranh, cần thiết phải thu thập các tài liệu chính thức, những trong việc xác định sơ bộ xem
liệu một cuộc điều tra có nên được tiến hành hay không có thể thấy rằng gánh nặng trách
nhiệm lên tất cả mọi người sẽ bị giảm đi nếu các cuộc phỏng vấn trong quá trình điều tra sơ
bộ được tiến hành một cách không chính thức. Rất nhiều cáo buộc và nghi vấn về các vi
phạm có thể nhanh chóng bị bác bỏ và có giá trị thấp nếu như sử dụng các kĩ thuật điều tra
không chính thức.
Bằng chứng thực tế: thường là rất khó khăn để có được bằng chứng thực tế. Như đã đề cập ở
trên, bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp là các bên của một thỏa thuận bất hợp pháp
thường rất khó khăn để có được, đặc biệt là nếu như không có người cung cấp thông tin đáng
tin cậy. Một vụ kiện về vấn đề lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường có thể cũng gặp phải khó
khăn trong việc thu thập các chứng cứ về việc vi phạm. Tuy nhiên việc thu thập các bằng
chứng này không chỉ đơn giản phụ thuộc vào may mắn hay điều kì diệu nào đó mà thường thì
còn phụ thuộc vào công việc điều tra thực tế. Ví dụ, có thể chứng minh được nhà quản lí của
các doanh nghiệp đối thủ thường bí mật gặp nhau từ các chứng cứ về nhà hàng hay khách sạn
hay thẻ tín dụng các chứng cứ của ngân hàng. Để đưa ra một vụ kiện về ép giá thông thường
cần phải sử dụng một kế toán để chỉ ra mức giá thấp hơn chi phí sản xuất và cần đến các nhà
điều tra khác để xác định xem liệu doanh nghiệp này có đơn giản chỉ đang hủy bỏ các biên
bản kiểm kê thừa của những dòng sản phẩm không sản xuất nữa hay không. Nếu như chúng
ta coi việc xác định thị phần như việc phác thảo một bản đồ về một lãnh thổ chưa xác định,
Bản dịch 5/2008
52
thì chúng ta có thể thấy rằng việc thu thập các bằng chứng thực tế giống như một công việc
khám phá. Mục đích không chỉ là việc có được sự thú nhận sai phạm mà còn là để hạn chế
khả năng có những cáo buộc sai cho các doanh nghiệp xảy ra.
Trong một số trường hợp có một số các thủ thuật đặc biệt giống như việc đưa ra các khoan
hồng cho một bên đồng phạm hay một cuộc khám xét bất ngờ cơ sở kinh doanh có thể là chìa
khóa để chứng minh các vi phạm.
Khám xét bất ngờ: Trong thế giới cạnh tranh, khám xét bất ngờ có nghĩa là những cuộc điều
tra bất ngờ được tiến hành bởi nhân viên của cơ quan quản lí cạnh tranh tại cơ sở kinh doanh
của doanh nghiệp bị nghi ngờ, để thu thập các bằng chứng buộc tội. Tiến hành khám xét bất
ngờ không gặp khó khăn và có thể mang lại các kết quả khả quan, đặc biệt là trong trường
hợp các doanh nghiệp bị cáo buộc không đồng ý hợp tác.
Trong Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam không qui định cụ thể việc sử dụng các cuộc
khám xét bất ngờ trong quá trình điều tra các vụ kiện cạnh tranh, nhưng trong Nghị định
116/2005, điều 94 có qui định về vấn đề này. Thông tin thêm về các kĩ thuật cần thiết để tiến
hành các cuộc khám xét bất ngờ, điều tra thu thập chứng cứ nói chung có tại trang web của
Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (ICN):
<http://www.internationalcompetitionnetwork.org/cartels/Section2_Anti-
Cartel_Enforcement_Manual.pdf>
Khoan hồng: Chính sách khoan hồng là một thuật ngữ chung để miêu tả một hệ thống các
hình thức ân xá một phần hoặc toàn bộ khỏi các hình phạt mà lẽ ra sẽ được áp dụng đối với
một thành viên của thỏa thuận các-ten, nếu như các thành viên của thỏa thuận đã khai báo với
các cơ quan thực thi Luật Cạnh tranh về những hành vi này.53
Ngoài ra, quyết định của cơ
quan cạnh tranh có thể được xem như là các chính sách khoan hồng bao gồm việc đồng ý
giảm nhẹ các hình phạt hoặc là sẽ không khởi tố vụ kiện. Vì vậy mà thuật ngữ khoan hồng có
thể được sử dụng để đề cập tới các miễn trừ toàn bộ hình phạt và miễn trừ một phần hình
phạt.
Một chính sách khoan hồng là bản điều lệ tập hợp các quy tắc và điều kiện được thông qua
bởi cơ quan cạnh tranh quản lí một qui trình cho hưởng chính sách khoan hồng. Chính sách
khoan hồng là một phần của chương trình khoan hồng, nó cũng bao gồm cả qui trình quan lí
nội bộ, ví dụ một cơ quan quản lí sẽ thực hiện chính sách khoan hồng của họ như thế nào.
Nhiều khu vực pháp lí đã phát triển các chính sách khoan hồng để khuyến khích những người
vi phạm nhận tội và chỉ ra đồng phạm của họ, hướng tới những người “tay trong” để cung cấp
chứng cứ mà các bên muốn che giấu. Chính sách này để mở cho những đồng phạm mà không
bị điều tra ra có thể phá các thỏa thuận các-ten đang tồn tại và có thể hành động như một yếu
tố ngăn cản việc tham gia vào các thỏa thuận các-ten. Chính sách này tạo ra việc đầu thú,
hướng tới các chứng cứ của các thành viên khác của thỏa thuận, và dẫn các nhà điều tra có
thể đi theo một bằng chứng khác. Các chứng cứ có thể được thu thập một cách nhanh chóng
hơn và với chi phí thấp hơn so với các phương pháp điều tra khác, đưa tới các giải pháp
Bản dịch 5/2008
53
nhanh chóng và hiệu quả cho các vụ việc. Để có được thông tin này, các bên cung cấp thông
tin sẽ được hứa cho hưởng mức phạt thấp, hình phạt nhẹ hơn, các lệnh hạn chế kinh doanh ít
hơn hay thậm chí là được hưởng khoan hồng toàn bộ.
Một số chính sách khoan hồng có trong Luật Việt Nam như được qui định tại điều 85 của
Nghị định 116/2005. Tuy nhiên, những qui định này mới chỉ ở giai đoạn ban đầu và có thể sẽ
giúp cho việc thuyết phục các thành viên của thỏa thuận hợp tác với cơ quan quản lí cạnh
tranh. Do đó một chính sách khoan hồng phù hợp cần phải được xây dựng tại Việt Nam.
Thông tin thêm về làm thế nào để soạn thảo một chính sách khoan hồng hiệu quả có thể xem
tại trang web của mạng lưới cạnh tranh quốc tế (ICN):
<http://www.internationalcompetitionnetwork.org/capetown2006/FINALFormattedChapter2-
modres.pdf>
5.3. Bảo quản chứng cứ vi phạm
Ý tưởng cho rằng cơ quan quản lí cạnh tranh nên tạo một hồ sơ dữ liệu trong khi thu thập
chứng cứ, bao gồm bằng chứng của tất cả các yếu tố sai phạm. Ví dụ, tại Mỹ khi một doanh
nghiệp được thông báo rằng có một điều tra đã được tiến hành, doanh nghiệp sẽ được thông
báo rằng luật pháp cấm không được hủy bất cứ một tài liệu nào có thể liên quan tới cuộc điều
tra. Trong một khoảng thời gian hợp lí, bằng chứng này có thể được tập hợp theo một hình
thức nào đó mà có thể được thừa nhận trong cuộc điều trần về cạnh tranh và nếu có thể trong
một hình thức nào đó mà không thể bị bác bỏ bởi các doanh nghiệp vi phạm Luật Cạnh tranh.
Ví dụ yêu cầu hay đòi hỏi về thông tin và tài liệu luôn yêu cầu doanh nghiệp đệ trình lên phải
bao gồm một giấy chứng nhận từ một nhân viên có thẩm quyền, việc đệ trình này phải bao
gồm tất cả các tài liệu cần thiết (hoặc các bản sao chứng nhận của họ) và đây là các tài liệu
không thể thay đổi được. Tài liệu viết tay và các chứng cứ bằng miệng sẽ ràng buộc theo các
hình phạt đối với những lời khai trước tòa.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam giải quyết vấn đề này khá ngắn gọn tại điều 60, theo đó
chỉ xác định các bằng chứng là gì. Tuy nhiên, Nghị định 166/2005 dành toàn bộ một phần với
11 điều về vấn đề “thu thập chứng cứ/bằng chứng” (Phần 5, Điều 74-84). Đặc biệt, điều 82
của Nghị định đề cập tới việc bảo quản chứng cứ đã được giao nộp, mặc dù tất nhiên các kĩ
thuật cho việc bảo quản không được đề cập ở đây.
Bản dịch 5/2008
54
6. SÁT NHẬP VÀ MUA LẠI
Cụm từ “Sáp nhập và mua lại” hay “M&A” đề cập tới khía cạnh chiến lược tập trung tài
chính và quản lí cùng với việc sáp nhập và mua lại của nhiều doanh nghiệp khác nhau cũng
như các tài sản kinh doanh của họ.54
6.1. Sự khác biệt giữa sáp nhập và mua lại
Mặc dù chúng có vẻ là các khái niệm hoàn toàn giống nhau và được sử dụng như thể đều là
một, song thuật ngữ M&A lại là hai khái niệm có một chút khác nhau.
Khi một doanh nghiệp kiểm soát một doanh nghiệp khác và thiết lập một cách rõ ràng quyền
sở hữu của họ đối với doanh nghiệp đó thì gọi là việc mua lại. Xem xét ở khía cạnh luật pháp,
một doanh nghiệp sẽ dừng việc tồn tại và doanh nghiệp khác sẽ nắm lấy công việc kinh
doanh của doanh nghiệp này.
Theo nghĩa thuần túy của thuật ngữ này, việc sáp nhập xảy ra khi cả hai doanh nghiệp nhất trí
đi đến quyết định thành lập một doanh nghiệp chứ không phải là sở hữu và hoạt động riêng
lẻ. Ví dụ cả hai doanh nghiệp Daimler-Benz và Chrysler ngừng tồn tại khi hai doanh nghiệp
này sáp nhập và một doanh nghiệp mới ra đời là DaimlerChrysler.55
Theo luật Việt Nam, các trường hợp M&A được gọi là “tập trung kinh tế” trong đó bao gồm
sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, liên doanh, hợp nhất doanh nghiệp và các hành vi tập trung
kinh tế khác theo qui định của Pháp luật. Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam đã qui định
như sau:
“1. Sáp nhập doanh nghiệp là việc một hoặc một số doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình sang một doanh nghiệp khác, đồng
thời chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp vị sáp nhập.
2. Hợp nhất doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp chuyển toàn bộ tài
sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành một doanh nghiệp
mới, đồng thời chấm dứt sự tồn tại của các doanh nghiệp bị hợp nhất.
3. Mua lại doanh nghiệp là việc một doanh nghiệp mua toàn bộ hoặc một phần tài sản
của doanh nghiệp khác đủ để kiểm soát, chi phối toàn bộ hoặc một ngành nghề của
doanh nghiệp bị mua lại.
4. Liên doanh giữa các doanh nghiệp là việc hai hoặc nhiều doanh nghiệp cùng nhau
góp một phần tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình để hình thành
một doanh nghiệp mới.56
6.2. Các loại Sáp nhập và Mua lại
Sáp nhập được đặc trưng theo ba loại sau: sáp nhập theo chiều ngang xảy ra giữa các doanh
nghiệp là các đối thủ cạnh tranh thực tế hoặc tiềm năng ở những vị trí giống nhau trong chuỗi
Bản dịch 5/2008
55
sản xuất; sáp nhập theo chiều dọc xảy ra giữa các doanh nghiệp ở các cấp độ khác nhau trong
chuỗi sản xuất (ví dụ như giữa các nhà sản xuất và các nhà bán lẻ); và các loại sáp nhập khác,
như sáp nhập giữa các doanh nghiệp bán cùng một loại sản phẩm trên các thị trường khác
nhau (sáp nhập mở rộng thị trường), hay các doanh nghiệp bán các loại sản phẩm khác nhau
nhưng có liên quan với nhau trên cùng một thị trường (sáp nhập mở rộng sản phẩm), hay liên
kết với các hình thức doanh nghiệp khác nhau.
Mua lại doanh nghiệp chỉ khác một chút so với sáp nhập. Thực tế, chỉ khác nhau ở tên gọi.
Giống như sáp nhập, mua lại là hành động mà các doanh nghiệp muốn có được sự tiết kiệm
về qui mô, có được hiệu quả kinh doanh và tăng cường tầm nhìn thị trường. Không giống như
sáp nhập, tất cả hành động mua lại doanh nghiệp đều có một doanh nghiệp mua lại một doanh
nghiệp khác - không có sự trao đổi cổ phiếu hay hợp nhất thành một doanh nghiệp mới.
Trong mua lại doanh nghiệp, một doanh nghiệp có thể mua một doanh nghiệp khác bằng tiền
mặt, cổ phiếu hay cả hai. Trong trường hợp khác khá phổ biến trong các hợp đồng mua bán
nhỏ, là một doanh nghiệp mua tất cả tài sản của một doanh nghiệp khác. Doanh nghiệp X
mua tất cả tài sản cố định của doanh nghiệp Y bằng tiền mặt có nghĩa là khi đó doanh nghiệp
Y sẽ chỉ có tiền mặt (và các khoản nợ nếu như họ có các khỏan nợ trước đó). Tất nhiên,
doanh nghiệp Y sẽ chỉ còn cái vỏ và cuối cùng sẽ giải thể hoặc chuyển sang một hình thức
kinh doanh khác.
6.3. Các vấn đề liên quan tới M&A
Thụ lí và phê chuẩn cho các hành vi sáp nhập doanh nghiệp, mua lại doanh nghiệp và các
hành vi hợp nhất khác (sau đây sẽ gọi là các hành vi sáp nhập cho thuận tiện) thường được
giao trách nhiệm cho các cơ quan quản lí cạnh tranh hoặc các ban ngành tương đương khác
của chính phủ như Bộ về các vấn đề doanh nghiệp hoặc các cơ quan điều tiết ngành.
Nhiều hành vi sáp nhập sẽ có ít hoặc không có ảnh hưởng xấu tới cạnh tranh. Một hành vi sáp
nhập có thể thúc đẩy cạnh tranh ví dụ như thông qua hiệu quả kinh tế về qui mô doanh nghiệp
mà có thể tăng cường hiệu quả sản xuất. Hành vi sáp nhập cũng có thể tạo ra sự hiệp lực mới
dẫn tới việc đổi mới thông qua sự kết hợp tài lực từ các doanh nghiệp khác nhau và cung cấp
thêm các nguồn lực để phát triển các sản phẩm và dịch vụ mới.
Các vấn đề liên quan tới hành vi sáp nhập, mua lại và các hành vi hợp nhất khác thường dựa
trên các mối quan tâm giống nhau về các hành vi phản cạnh tranh như đã được bàn luận ở các
phần trước. Vấn đề chính là một doanh nghiệp đã được sáp nhập lớn hơn có thể tăng sức
mạnh thị trường của họ. Theo đó doanh nghiệp đã được sáp nhập này sẽ chiếm lĩnh thị trường
nhiều hơn, như vậy sẽ tiềm ẩn nguy cơ lớn hơn để lạm dụng việc sáp nhập này và dùng sức
mạnh thị trường nhằm gây thiệt hại cho các đối thủ cạnh tranh khác và người tiêu dùng. Trên
thực tế, thụ lí hành vi sáp nhập và việc áp dụng những quyền năng liên quan của các cơ quan
quản lí cạnh tranh thường dựa trên việc đánh giá về ảnh hưởng của hành vi sáp nhập cụ thể
đối với cạnh tranh trên các thị trường liên quan.
Bản dịch 5/2008
56
Trong phần sau về các vấn đề cạnh tranh xuyên quốc gia, hành vi sáp nhập sẽ được bàn luận
có thể không gây ra các vấn đề về cạnh tranh tại quốc gia đó nhưng lại có thể tác động tới các
doanh nghiệp con của chúng tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên, mặc dù thực tế hành vi
sáp nhập các doanh nghiệp con có những hưởng tiêu cực rõ ràng tới quá trình cạnh tranh tại
nước sở tại thì các cơ quan quản lí cạnh tranh tại nước đó không thể hành động được nhiều để
điều chỉnh một hành vi sáp nhập đã xảy ra rồi. (Xem ví dụ trong Hộp 21)
Theo Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam, những trường hợp M&A cụ thể (hay “tập trung
kinh tê”, như trong thuật ngữ Luật) “sẽ bị cấm nếu như thị phần kết hợp của các doanh
nghiệp tham gia tập trung kinh tế…chiếm trên 50% trên thị trường tương đương”, ngoại trừ
các trường hợp khi “một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải
thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản, hoặc “việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất
khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế-xã hội, tiến bộ, kĩ thuật, công nghệ”, hoặc “trường hợp
doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo
qui định của pháp luật”.57
6.4. Thụ lí hồ sơ sáp nhập
Các trường hợp sáp nhập lớn cần được cơ quan quản lý cạnh tranh xét duyệt trước tại rất
nhiều khu vực pháp lí. Như một phần của quá trình thụ lí hồ sơ, các cơ quan cạnh tranh có thể
cấm thực hiện hành vi sáp nhập hoặc thông qua đi kèm với điều kiện. Sáp nhập thường chỉ bị
cấm hoặc phải có điều kiện đi kèm nếu như cơ quan quản lí cạnh tranh kết luận rằng hành vi
sáp nhập này sẽ “gây hại nghiêm trọng cho cạnh tranh”. Nhằm tránh việc tùy tiện trong vấn
đề giải thích luật đối với vấn đề này, một số cơ quan cạnh tranh đã đưa ra các hướng dẫn về
vấn đề sáp nhập doanh nghiệp. Những hướng dẫn này nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp và các
cố vấn của họ có thể nắm bắt trước được về các thủ tục và các tiêu chuẩn sẽ được áp dụng
trong quá trình đánh giá một hành vi sáp nhập.
Một ví dụ về các hướng dẫn này là các hướng dẫn về sáp nhập theo chiều ngang được phát
hành năm 1997 bởi Bộ Tư pháp Hoa Kì (DOJ) và Ủy ban thương mại Liên bang (FTC).
Hướng dẫn này đưa ra một phân tích 5 giai đoạn trong các vấn đề dưới đây:58
Xác định thị trường;
Xác định sự tham gia của các doanh nghiệp vào thị trường liên quan và thị phần của
họ;
Xác định các ảnh hưởng tiêu cực tiềm ẩn của hành vi sáp nhập;
Phân tích các rào cản tham gia thị trường; và
Đánh giá tác động nảy sinh từ hành vi sáp nhập.
Thông tin cụ thể về các kĩ thuật điều tra được khuyến khích sử dụng trong quá trình thụ lí hồ
sơ xin sáp nhập có tại trang web của ICN:
<http://www.internationalcompetitionnetwork.org/media/library/conference_5th_capetown_2
006/ICNMergerGuidelinesWorkbook.pdf>
Bản dịch 5/2008
57
6.5. Thông tin trong hồ sơ thông báo việc sáp nhập
Trong quá trình thụ lý hồ sơ thông báo việc sáp nhập, các doanh nghiệp xin sáp nhập thường
phải cung cấp thông tin cho các cơ quan thụ lý. Đây là thông lệ trong các khu vực pháp lí áp
đặt đối với hồ sơ xin sáp nhập, để yêu cầu các doanh nghiệp nộp thông báo trước về đề nghị
sáp nhập. Thông tin được nộp trong thông báo đầu tiên về việc sáp nhập thường được cơ
quan quản lí cạnh tranh sử dụng trong giai đoạn đầu thụ lý hồ sơ xin sáp nhập (ví dụ để xác
định xem có nguy cơ phản cạnh tranh nào tồn tại và liệu có thể tiếp tục với các hồ sơ cụ thể
hơn về việc sáp nhập hay không)59
Theo luật Việt Nam, thông báo trước về việc sáp nhập là cần thiết “nếu doanh nghiệp tham
gia tập trung kinh tế có thị phần kết hợp từ 30% đến 50% trên thị trường liên quan”. “Trường
hợp thị phần kết hợp của các doanh nghiệp tham gia tập trung kinh tế thấp hơn 30% trên thị
trường liên quan hoặc trường hợp doanh nghiệp sau khi thực hiện tập trung kinh tế vẫn thuộc
loại doanh nghiệp nhỏ và vừa theo qui định của pháp luật thì không phải thông báo”.60
Những điều khoản này tạo ra một sự thiếu sót về thủ tục có thể sẽ làm ảnh hưởng tới tính khả
thi của bộ luật. Làm thế nào để một công ty có thể biết được thị phần của mình là cho sản
phẩm nào? Giả sử chỉ một hoặc hai sản phẩm của một công ty có 20 sản phẩm chiếm 30% thị
phần và hai sản phẩm này chỉ có hơn 30% phần chỉ trên 2 thị trường nhỏ địa phương. Liệu
doanh nghiệp có lưu trữ một thông báo trước chỉ dành cho các sản phẩm và chi dành cho các
thị trường này? Nhìn chung, bắt buộc phải lưu trữ một báo cáo dường như yêu cầu bất cứ một
doanh nghiệp nào có ý định sáp nhập với hoặc mua lại một doanh nghiệp khác phải hiểu biết
về sản phẩm tương đương hay thị trường địa lí hay tổng doanh số bán trên thị trường này; và
thị phần kết hợp hay thị phần riêng lẻ của họ. Thị trường tương đương rõ ràng là không thể
xác định được trên lí thuyết và thậm chí trên thực tế, các bên tham gia sáp nhập thường
không biết liệu rằng họ có cần phải thông báo cho các cơ quan quản lí cạnh tranh hay không,
liệu họ có cần một miễn trừ hay là họ có phải là đối tượng của sáp nhập bị kiểm soát hay
không, v.v… Đây là cơ sở tồi nhất mà một bộ luật có thể xây dựng cùng với nó. Các doanh
nghiệp phải biết liệu họ có phải bắt buộc thực hiện hay không. Ở đây họ sẽ không biết cho tới
khi việc kiện tụng đã kết thúc, ở thời điểm đó họ có thể đã phải nhận những mức phạt lớn
thậm chí họ không biết rằng họ nằm trong phạm vi điều chỉnh. Việc xác định thực tế phạm vi
điều chỉnh sau đó sẽ ảnh hưởng tới uy tín của bộ luật.
Hộp 19: Sáp nhập dẫn tới độc quyền trong ngành truyền hình cáp
Dịch vụ truyền hình cáp quốc gia tại Thái Lan đã trở thành một ngành công nghiệp độc quyền
vào tháng 2/1998, khi hai nhà kinh doanh là Tập đoàn truyền thanh quốc tế (IBC) và Mạng
lưới truyền hình thống nhất (UTV) sáp nhập lại trở thành một tập đoàn có tên là Tập đoàn
truyền thông thống nhất (UBC).
Chống lại quan điểm của cộng đồng, Tổ chức truyền thông quần chúng của Thái Lan
(MCOT), doanh nghiệp trực thuộc nhà nước có thẩm quyền cấp phép cho ngành truyền hình
tại Bangkok đã cho phép việc sáp nhập này. Lí do chính cho việc sáp nhập này là sự cần thiết
cho các nhà kinh doanh có thể củng cố lại hoạt động kinh doanh do có sự tăng chi phí mạnh
Bản dịch 5/2008
58
sau việc giảm đột ngột giá trị đồng baht trong tháng 6 năm 1997, đánh dấu mở đầu khủng
hoảng tài chính của quốc gia này và sau đó đã lan rộng trên qui mô toàn cầu.
Tháng 5 năm 1999, UBC đã tăng phí thuê bao hàng tháng cho dịch vụ “gói vàng”- tức là gói
thuê bao có số lượng kênh nhiều nhất- một mức lớn là 22.47% từ 890 baht (23 đô la Mỹ) lên
1090 baht (28 đô la Mỹ) một tháng.
Một tiểu ban gồm các chuyên gia được thành lập để điều tra xem liệu sự độc quyền về truyền
hình cáp này có đang lạm dụng sức mạnh thị trường của nó nói chung hay không và liệu giá
cả có tăng một cách quá mức hay không. Tiểu ban này đã đưa ra một bản báo cáo điều tra
gồm 80 trang.
Sau đó, Ủy ban thương mại cạnh tranh Thái Lan đã quyết định rằng bởi vì dịch vụ truyền
hình cáp là một ngành dịch vụ được điều tiết nên cơ quan điều tiết trên thực tế là MCOT sẽ
giải quyết vấn đề này, cơ quan này có trách nhiệm đối với việc xét hạn mức thuế và đảm bảo
việc tuân thủ các điều khoản cấp phép của các doanh nghiệp. Vụ việc này do đó đã được
chuyển cho cơ quan khác giải quyết và không bao giờ người ta nghe nhắc đến nó nữa.
Nguồn: Vụ việc độc quyền trong ngành truyền hình cáp: Một cuộc điều tra của Ủy ban cạnh
tranh thương mại Thái Lan: Deunden Nikomborirak, Giám đốc nghiên cứu, Viện nghiên cứu
phát triển Thái Lan.
Nội dung của thông báo trước việc sáp nhập thường được xác định thông qua các qui định và
luật pháp. Thông tin cơ bản cần thiết bao gồm:
Danh tính của các doanh nghiệp tham gia vào vụ sáp nhập được đề xuất;
Mô tả tính chất và các điều khoản thương mại của việc sáp nhập;
Thời hạn sáp nhập;
Thông tin tài chính về việc tham gia (bao gồm thu nhập, tài sản cố định và bản sao
báo cáo tài chính hàng năm và các loại báo cáo khác);
Xác định quyền lợi của chủ sở hữu liên quan và cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp
tham gia sáp nhập; và
Mô tả các sản phẩm tương tự và thị trường dịch vụ trong đó các doanh nghiệp tiến
hành hoạt động kinh doanh.
Thông tin được điền cơ bản đầu tiên khởi đầu cho một giai đoạn chờ đợi, trong khoảng thời
gian đó, cơ quan thụ lí hồ sơ sẽ có quyền yêu cầu cung cấp thêm thông tin. Quá trình này kết
thúc với việc xác định của cơ quan thụ lí hồ sơ xem liệu rằng có cần tiếp tục với các điều tra
cụ thể hơn hay không.
Nếu cơ quan quản lí cạnh tranh quyết định tiếp tục điều tra cụ thể hơn thì cơ quan này sẽ thu
thập thêm thông tin về những doanh nghiệp tham gia sáp nhập. Thông tin thêm thường được
thu thập từ bên thứ ba như các đối thủ cạnh tranh và khách hàng. Các thông tin thương mại
nhạy cảm thường được bảo vệ, không cho công bố rộng rãi.
Bản dịch 5/2008
59
Trong suốt quá trình thụ lí cụ thể hơn này, một cơ quan quan lí cạnh tranh thường sẽ tìm kiếm
thông tin về các vấn đề như:
Sản phẩm, khách hàng, nhà cung cấp, thị phần, khả năng tài chính;
Hoạt động của các đối thủ cạnh tranh và thị phần của các đối thủ cạnh tranh;
Sự có mặt của các sản phẩm thay thế;
Ảnh hưởng của cạnh tranh tiềm ẩn (bao gồm cạnh tranh từ nước ngoài);
Nhịp độ phát triển của kĩ thuật hay các thay đổi khác trong thị trường tương đương, và
ảnh hưởng của nó tới cạnh tranh;
Tính chất và mức độ của điều tiết trong thị trường tương đương; và
Chất lượng của việc thụ lí hồ sơ xin sáp nhập sẽ phụ thuộc phần lớn vào chất lượng và
phạm vi thông tin mà cơ quan xem xét hồ sơ xin sáp nhập có được.
6.6. Các biện pháp khắc phục sai phạm trong sáp nhập
Mục đích của luật pháp kiểm soát sáp nhập là để ngăn chặn và hủy bỏ những tác động phản
cạnh tranh của việc sáp nhập. Có ba loại biện pháp khắc phục điển hình được sử dụng cho
mục tiêu này.
Lệnh cấm hoặc giải thể: phương pháp khắc phục đầu tiên trong việc ngăn chặn việc sáp nhập
trọn vẹn, hoặc nếu việc sáp nhập đã được hoàn thành trước đó, thì cần phải giải thể thực thể
đã được sáp nhập.
Loại bỏ từng phần: phương pháp khắc phục thứ hai là loại bỏ từng phần. Doanh nghiệp đã
sáp nhập có thể bị tước bỏ một số tài sản cố định hay hoạt động kinh doanh nhằm hạn chế
những tác động phản cạnh tranh đã được xác định rõ ràng, với sự cho phép được tiếp tục thực
hiện sáp nhập trong khía cạnh khác.
Sự cho phép có điều kiện/bị điều chỉnh: phương pháp khắc phục thứ ba là điều chỉnh hoặc
thay đổi hành vi của doanh nghiệp đã sáp nhập nhằm ngăn chặn hoặc giảm các tác động phản
cạnh tranh. Điều này có thể đạt được thông qua nhiều điều kiện một lần và các yêu cầu liên
tục.
Hai biện pháp khắc phục đầu tiên mang tính cơ cấu, và biện pháp khắc phục thứ ba là mang
tính cư xử. Các biện pháp mang tính cư xử yêu cầu theo dõi liên tục thường xuyên và có sự
can thiệp của chính phủ. Các biện pháp khắc phục mang tính cơ cấu thường có hiệu quả trong
dài hạn và cần tới ít sự can thiệp của chính phủ hơn.
Hộp 20: Sáp nhập ngành dược phẩm tại Nam Phi: Điều kiện cho Aspen
Công ty Aspen, một công ty dược phẩm giữ vai trò chủ đạo trong hai vụ việc sáp nhập, cả
hai đều được Ủy ban cạnh tranh của Nam Phi cho phép tiến hành sáp nhập có điều kiện.
Trong vụ việc đầu tiên, công ty này đã mua lại một trong số những đối thủ cạnh tranh trực
tiếp của mình là công ty Triomed. Dựa trên tiêu chuẩn quốc tế đã được thừa nhận về việc
xác định thị trường liên quan của các sản phẩm dược, người ta thấy rằng có 26 sản phẩm
Bản dịch 5/2008
60
chồng chéo giữa hai công ty. Việc xóa bỏ sản phẩm Tetracycline bởi Aspen được qui định
như là điều kiện để có thể tiến hành sáp nhập.
Trong trường hợp sáp nhập thứ hai của Aspen, một công ty con quốc tịch Nam Phi của tập
đoàn dược phẩm đa quốc gia GlaxoSmithKline muốn mua lại công ty này. Việc sáp nhập
tiến hành trong sự thay đổi nhanh chóng môi trường thị trường, tại thời điểm mà một sự điều
tiết thị trường mới được đưa ra nhằm vào dược phẩm. Sự điều tiết mới này hạn chế một
phần đáng kể doanh số bán cận biên của các công ty bán buôn, nó cũng tạo ra một hệ thống
khuyến khích việc thay thế các loại thuốc cải tiến bằng các loại thuốc cùng chủng loại và
nhìn chung, nó tạo ra hệ thống được coi là minh bạch về giá. Người ta cho rằng ít nhất thì
việc tiến hành sáp nhập này của công ty đa quốc gia là nhằm có vị trí cạnh tranh hơn trên thị
trường nội địa về các loại thuốc cùng chủng loại. Việc cho phép sáp nhập có điều kiện này
đã chỉ ảnh hưởng tới doanh số bán của một sản phẩm cụ thể (Lanoxin). Điều này qui định
không có sự loại bỏ sản phẩm nào như ở trường hợp thứ nhất nhưng chỉ có điều kiện là sản
phẩm này không nằm trong danh mục được sáp nhập.
Nguồn: Adam Torok (2005), Cải cách chính sách cạnh tranh ở Nam Phi – Theo xu hướng
mô hình chính sách cạnh tranh cho chuyển đổi kinh tế tại thế giới thứ ba, Budapest, Trang
39.
Hộp 21: Nhãn hiệu Rothmans của tập đoàn Pall Mall/Sáp nhập công ty thuốc lá của
Anh-Mỹ tại Zimbabwe
Tháng 1 năm 1999, công ty cổ phần thuốc lá Anh Mỹ của Vương quốc Anh thông báo rằng
công ty này đã đạt được một hiệp định với các cổ đông của hãng Rothmans International,
công ty trách nhiệm hữu hạn tài chính của Thụy Sỹ và tập đoàn Rembrandt của Nam Phi về
việc sáp nhập các công ty thuốc lá quốc tế của họ. Sau khi hoàn thành việc sáp nhập quốc tế
giữa công ty thuốc lá Anh Mỹ và công ty Rothmans International, Rothmans của Pall Mall
(Zimbabwe) vào tháng 9 năm 1999 đã đệ trình đơn xin cho phép mua lại toàn bộ cổ phần
vốn đã phát hành của công ty trách nhiệm hữu hạn thuốc lá Anh Mỹ tại Zimbabwe.
Các thành viên sáp nhập đã đưa ra lí do cho việc sáp nhập này là sự giảm thị trường tiêu thụ
thuốc lá ở Zimbabwe. Người ta cho rằng thị trường sản xuất thuốc lá ở Zimbabwe đã giảm
đến mức không đủ để tiếp tục duy trì việc tồn tại của hai nhà sản xuất như được chứng minh
bởi hoạt động kinh doanh xuống dốc của công ty thuốc lá Anh – Mỹ tại Zimbabwe trong
năm tài chính kết thúc vào ngày 31 tháng 12 năm 1998.
Vụ việc này được đánh giá như một sáp nhập theo chiều dọc được xác định tại điều 2 của
Luật Cạnh tranh Zimbabwe.
Ủy ban cho rằng mặc dù việc sáp nhập có thể tạo ra độc quyền trên thị trường tương đương
(có nghĩa là thị trường sản xuất thuốc lá), nhưng nó cũng tạo ra các lợi ích công cộng khác
được qui định trong Luật Cạnh tranh. Các công ty có ý định sáp nhập cũng có thể viện lý lẽ
Bản dịch 5/2008
61
rằng một trong các bên đang trong tình trạng khó khăn, hoặc có nguy cơ phá sản để biện hộ
cho tính hợp lí của việc sáp nhập. Đây được coi là một biện luận rất có tính thuyết phục.
Vì vậy Ủy ban đã cho phép sáp nhập với các điều kiện cụ thể nhằm hạn chế những ảnh
hưởng tiêu cực mà độc quyền gây ra. Các điều kiện này liên quan đến chuyển nhượng trang
thiết bị sản xuất thuốc lá thêm cho bên thứ ba quan tâm tới việc tham gia vào ngành công
nghiệp sản xuất thuốc lá Zimbabwe, và sự giám sát bởi Ủy ban cạnh tranh về việc tăng giá
thuốc trong tương lai khi mà độc quyền gây ra những hạn chế đến cạnh tranh tồn tại, với bất
cứ việc tăng giá nào cũng đều phải chứng minh trước Ủy ban trước khi tiến hành.
Nguồn: Alexander J Kububa, một số vấn đề về thống lĩnh thị trường: kiểm soát sáp nhập tại
Zimbabwe, nghiên cứu được giới thiệu tại hội nghị khu vực của Ngân hàng thế giới về chính
sách cạnh tranh, tính cạnh tranh, và đầu tư trong nền kinh tế toàn cầu, Dar-es-Salaam,
Tanzania:10-12 tháng 5 năm 2004.
Loại bỏ từng phần hoặc các hạn chế hành vi ít có tính can thiệp hơn đối với hoạt động của thị
trường hơn là ngăn cản việc sáp nhập xảy ra hoặc giải thể theo yêu cầu một sáp nhập đã hoàn
thành từ trước. Loại bỏ từng phần có thể giảm hoặc xóa bỏ những tác động tiêu cực đồng thời
vẫn giữ được một số thuận lợi về thương mại của sáp nhập. Loại bỏ từng phần được coi là
một biện pháp khắc phục được ưa chuộng ở nhiều khu vực pháp lí.
Tại Việt Nam, nếu một vụ việc M&A vi phạm Luật Cạnh tranh 2004, có nghĩa là những bên
tham gia sáp nhập có thị phần kết hợp từ 50% trở lên trên thị trường tương đương và việc sáp
nhập không được hưởng miễn trừ theo qui định của Luật,61
sau đó “việc chia tách các công ty
đã thực hiện sáp nhập, hợp nhất; buộc bán lại phần doanh nghiệp đã mua”62
sẽ có thể là các
biện pháp khắc phục.
Xem thêm chi tiết về các biện pháp khắc phục được khuyến nghị sử dụng cho các cơ quan
cạnh tranh tại trang web của ICN:
<http://www.internationalcompetitionnetwork.org/ICN_Remedies_StudyFINAL5-10.pdf>.
6.7. Liên doanh
Trong một số trường hợp, các đối thủ cạnh tranh trong một thị trường có thể quyết định tham
gia vào một liên doanh. Phân tích về tính cạnh tranh của các liên doanh thường đưa ra các
mối quan tâm giống với những vấn đề đã được bàn luận ở phần các thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh, và vì vậy có thể vi phạm các nguyên tắc cạnh tranh per se. Tuy nhiên, qui trình và các
thủ tục cần thiết cho việc thụ lí hồ sơ thông báo việc liên doanh có thể giống với qui trình đã
được bàn luận ở phần M&A trước.
Những lí do cho việc thừa nhận này có thể được coi là khá quan trọng. Liên doanh tạo ra tập
trung kinh tế ít hơn là sáp nhập, vì vậy có một số chính sách kinh tế ưu tiên hơn hay ít nhất là
không phân biệt đối với những dạng ít có sự tập trung kinh tế hơn. Trong khi điều này có vẻ
Bản dịch 5/2008
62
khá logic thì Luật Cạnh tranh lại không khuyến khích phát triển theo hướng này bởi vì liên
doanh thường là các thỏa thuận theo chiều ngang giữa các đối thủ cạnh tranh có thể dẫn tới
hạn chế tính cạnh tranh giữa họ với nhau. Tất nhiên sáp nhập cũng giống như vậy nhưng
người ta cho rằng luôn có một số hiệu quả nhất định. Vì vậy, ngay từ ban đầu, liên doanh
được chấp nhận chỉ khi chúng thật sự cần thiết phải liên doanh, điều này có nghĩa là không
một công ty đơn lẻ nào có thể tự tiến hành được một dự án mới. Tuy nhiên, theo thời gian,
vấn đề này chuyển hướng từ nhu cầu hợp tác giữa các đối thủ cạnh tranh sang thành vấn đề
liệu có tiết kiệm kinh tế từ liên doanh không, và nếu như có thì liên doanh sẽ được tiến hành
hợp pháp nếu như nó được cho phép như việc sáp nhập (có nghĩa là nếu việc kết hợp của hai
công ty có thể khiến cho các công ty này có thể vẫn duy trì được tính cạnh tranh trên thị
trường).
Hộp 22: Liên doanh phân phối túi pô-ly-e-tin
Vào năm 1994, Cơ quan Chống Độc quyền Israel nhận được một đơn xin miễn trừ, gọi là đơn
Poligar, từ hai nhà sản xuất túi pô-ly-e-tin của nước này trong việc liên doanh phân phối loại
túi này.
Khi phân tích các tác động của liên doanh được đề xuất này, Chủ tịch của Cơ quan Chống
Độc quyền Israel nhấn mạnh tác động cân bằng của hàng hoá nhập khẩu hiện tại và trong
tương lai lên sức mạnh thị trường của các doanh nghiệp trong nước. Ông ta đã thông qua đơn
xin miễn trừ này, do nhận thấy liên doanh đó có thể giúp các doanh nghiệp trong nước giảm
chi phí, có khả năng cạnh tranh hiệu quả hơn với các đối thủ nước ngoài, mà vẫn không gây
hại gì cho người tiêu dùng Israel.
Các suy luận này khác hẳn các những căn cứ mà cơ quan này thường sử dụng trong quá khứ
để thông qua cho các liên doanh được đề xuất. Trong quá khứ, người ta thường nhấn mạnh
tới khả năng của các bên tham gia liên doanh có thể giảm chi phí, mà không đếm xỉa gì tới
các ảnh hưởng mà liên doanh đó có thể có đối với phúc lợi xã hội. Trong khi đó, trong vụ
Poligar, liên doanh được thông qua trên cơ sở nhu cầu của các bên cần hoạt động hiệu quả
hơn để cạnh tranh với hàng hoá nhập khẩu.
Các suy luận mới này đảm bảo rằng người tiêu dùng Israel, cũng như các doanh nghiệp
Israel, có thể được lợi từ việc thành lập liên doanh. Cách suy luận này, vốn chú trọng nhiều
vào các quan tâm liên quan đến tiến trình cạnh tranh, căn cứ trên các điều kiện thị trường,
đánh giá ảnh hưởng của các hành vi đối với tất cả các thành viên thị trường, là đặc trưng của
các quyết định của cơ quan này từ những năm 90 đến na.
Nguồn: Gal & Israeli (2006), Chương về Israel trong cuốn sách về Các thể chế cạnh tranh
trên thế giới do CUTS xuất bản, trang 69.
Bản dịch 5/2008
63
7. HÀNH VI CẠNH TRANH KHÔNG LÀNH MẠNH: CẠNH TRANH VÀ BẢO VỆ
NGƯỜI TIÊU DÙNG
Các yếu tố bổ sung lẫn nhau giữa cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng không còn là vấn đề
mới và gây tranh cãi trong bất kì cuộc thảo luận nào liên quan tới Luật Cạnh tranh, nhưng nó
lại là một vấn đề trọng điểm then chốt.63
Cạnh tranh gây áp lực lên các nhà sản xuất để đưa ra giá cả tốt nhất và các lựa chọn phong
phú, cũng như chất lượng cao. Trong một thị trường có tính cạnh tranh, các nhà sản xuất có
thể đạt được các đơn đặt hàng mới, nhóm khách hàng mới thông qua việc đáp ứng được nhu
cầu của người tiêu dùng bằng cách tăng thêm lựa chọn sẵn có, bởi vì nếu như người tiêu dùng
không thích hàng hóa của người bán này, họ có thể chuyển sang những người bán khác. Có
được điều này là bởi vì có sẵn hàng hóa thay thế với một mức giá có thể chấp nhận được
trong thị trường cạnh tranh thúc đẩy người tiêu dùng thay đổi việc mua bán của mình, điều
này cũng khuyến khích mỗi người bán phải cố gằng làm hài lòng thị hiếu của khách hàng.
Ngoài việc tăng các lựa chọn sẵn có cho người tiêu dùng, trong thị trường có tính cạnh tranh,
các chiến dịch cạnh tranh dài hạn bắt buộc các nhà sản xuất phải cung cấp thông tin hữu ích
và chính xác về sản phẩm của họ, để bảo đảm những cam kết của họ về giá cả, chất lượng và
các điều kiện bán hàng khác, đồng thời do đó cải thiện được hình ảnh của công ty họ đối với
khách hàng. Như vậy, với quyền năng bảo đảm cho chức năng thị trường có tính cạnh tranh,
Luật Cạnh tranh trở thành công cụ hữu hiệu để thúc đẩy lợi ích của người tiêu dùng, đây cũng
là mục tiêu của chính sách bảo vệ người tiêu dùng.
Chính sách bảo vệ người tiêu dùng nhằm đảm bảo cho người tiêu dùng có thể đưa ra các
quyết định tối ưu cho sự lựa chọn của họ và khiến người bán có thể bảo đảm những cam kết
về sản phẩm mà họ cung cấp. Nói cách khác, chính sách bảo bệ người tiêu dùng ngăn chặn
các nhà sản xuất khỏi việc tham gia vào các hành vi thương mại không lành mạnh (UTPs) để
nhằm tăng doanh thu bán hàng.
UTPs không chỉ tác động xấu tới người tiêu dùng, mà còn ảnh hưởng tới các thành viên tham
gia thị trường khác, và quan trọng hơn, nó ảnh hưởng xấu tới toàn bộ thị trường.64
Nhiều
nghiên cứu cho thấy người tiêu dùng bị một nhà sản xuất đánh lừa, một nhóm doanh nghiệp
có thể khiến người tiêu dùng mất lòng tin vào toàn bộ một ngành công nghiệp hay cả thị
trường, theo đó sẽ tác động xấu trở lại doanh số bán trong thị trường đó. Nói tóm lại, trong
khi ngăn ngừa và trừng phạt các hành vi thương mại không lành mạnh, chính sách bảo vệ
người tiêu dùng bảo vệ lợi ích hay thúc đẩy phúc lợi của người tiêu dùng nhiều hơn, nó cũng
tác động trở lại tạo điều kiện phát triển cạnh tranh.
7.1. Hành vi thương mại không lành mạnh
UTPs chứa đựng hàng loạt ảnh hưởng xấu, toàn bộ trong số đó đều gây ra thiệt hại về kinh tế
thông qua các hành vi sai trái và lừa dối. Theo luật pháp, hành vi thương mại không lành
mạnh có thể được xác nhận bao gồm các hành vi như đánh cắp bí mật thương mại, cạnh tranh
không lành mạnh, quảng cáo sai lệch, hối lộ, làm giảm bớt hoặc làm mất danh tiếng của đối
Bản dịch 5/2008
64
thủ cạnh tranh. UTPs có thể xuất hiện ở bất kì lĩnh vực kĩ thuật nào và thường xuất hiện
trong lĩnh vực liên quan tới các vụ kiện về quyền sở hữu trí tuệ truyền thống của văn bằng
phát minh sáng chế, sự xâm phạm nhãn mác và bản quyền.
Những hình thức đặc biệt của UTPs bị cấm trong luật địa phương phụ thuộc vào luật của một
quốc gia cụ thể. Luật Mẫu của Ngân hàng thế giới (WB) và Tổ chức Hợp tác và Phát triển
Kinh tế (OECD) là một ví dụ đã liệt kê các hành vi thương mại dưới đây là không lành
mạnh:65
Phổ biến thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn có khả năng gây ảnh hưởng xấu tới lợi
ích thương mại của công ty khác;
Phổ biến thông tin sai lệch hoặc gây nhầm lẫn tới người tiêu dùng, bao gồm truyền bá
thông tin thiếu cơ sở hợp lí, liên quan tới giá cả, đặc điểm, phương pháp hay nơi sản
xuất của sản phẩm, tỷ lệ, và tính năng sử dụng hay chất lượng của hàng hóa;
So sánh sai lệch hoặc gây nhầm lẫn về hàng hóa trong quá trình quảng cáo;
Sử dụng gian lận nhãn hiệu thương mại, tên, hay nhãn hiệu sản phẩm hoặc cách đóng
gói của công ty khác; và
Hóa đơn không có giá trị, sử dụng hoặc phổ biến các bí mật về khoa học, kĩ thuật, sản
xuất, thông tin thương mại hoặc kinh doanh.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam gọi tên những hành vi này là “hành vi cạnh tranh không
lành mạnh”, có nghĩa là “hành vi cạnh tranh của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh trái
với các chuẩn mực thông thường về đạo đức kinh doanh, gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt
hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp khác hoặc người
tiêu dùng”.66
Những hành vi này bao gồm:
(i) Chỉ dẫn gây nhầm lẫn;
(ii) Xâm phạm bí mật kinh doanh;
(iii) Ép buộc trong kinh doanh;
(iv) Gièm pha doanh nghiệp khác;
(v) Gây rối hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp khác;
(vi) Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
(vii) Khuyến mại nhằm cạnh tranh không lành mạnh;
(viii) Phân biệt đối xử của hiệp hội;
(ix) Bán hàng đa cấp bất chính, v.v…67
Hộp 23: Quảng cáo sai lệch & thủ đoạn treo đầu dê bán thịt chó
UTPs, được điều chỉnh bởi Đạo luật MRTP vào tháng 8 năm 1984, nhưng hiện nay chịu sự
điều chỉnh bởi Đạo luật bảo vệ người tiêu dùng của Ấn Độ (COPRA). Người tổ chức khuyến
mại về bán hàng đầu tiên bị điều chỉnh bởi Đạo luật này là Bal Krishna Khurana, một người
khá nổi tiếng ở hầu khắp miền Bắc Ấn Độ, do đã bán hàng hóa hàng dệt kim “chất lượng xuất
khẩu” với giá thấp đến khó tin.
CUTS đã lên tiếng ngay sau đó khi Khurana xâm nhập vào Jaipur để bán hàng hóa của ông ta
Bản dịch 5/2008
65
với mức giá cho không. CUTS đã nhận được nhiều đơn khiếu nại của một số lượng lớn nạn
nhân của việc bán hàng này và quyết định tiến hành điều tra.
Cuối cùng, CUTS đã chuyển các khiếu nại chống lại ông Khurana này lên Ủy Ban MRTP và
yêu cầu phải được biết làm thế nào ông ta có thể bán được hàng dệt kim có chất lượng xuất
khẩu trị giá 210 Rs với mức giá thấp từ 5 đến 15 Rs.
Trong đơn khiếu nại lên Ủy ban, CUTS cho rằng quảng cáo sai lệch và thủ đoạn treo đầu dê
bán thịt chó theo đó đã gây ra thiệt hại và bất thuận lợi đối với cộng đồng và người mua. Đến
các quầy hàng của Khurana không chỉ gây bối rối cho khách hàng mà những thứ họ mang về
nhà sau khi lãng phí thời gian và tiền bạc chỉ là hàng hóa giả.
Ủy ban MRTP đã ngay lập tức ra lệnh tiến hành một cuộc điều tra theo khiếu nại này, sau đó
đưa ra lệnh cấm Khuruna không được tổ chức thêm bất kì một khuyến mại bán hàng nào như
vậy nữa.
Thêm vào đó, Ủy ban MRTP còn khuyến cáo các tờ báo không được cho đăng các quảng cáo
sai lệch, như là một nhiệm vụ của giới truyền thông để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng,
và không được kiếm lời thông qua các quảng cáo sai lệch này. Các tờ báo này đã chấp nhận
lời khuyến nghị này. Tuy nhiên, sau một vài năm, thật đáng buồn là các tờ báo này lại tiếp tục
đưa ra các quảng cáo sai lệch như vậy.
Nguồn: Mehta, Pradeep S. “ Làm thế nào để một người tiêu dùng có thể tồn tại”, CUTS, 1998
Hộp 24: Các siêu thị lớn ở Argentina lừa dối người tiêu dùng
Tháng 4 năm 2002, cơ quan thực thi Đạo luật thương mại công bằng đã lên án công ty Wal-
Mart Argentina vì đã vi phạm điều 9 Dự luật 22.802 theo đó cấm quảng cáo và khuyến mại
sai lệch hàng hóa và dịch vụ.
Trong năm 2002, là năm chỉ tiêu cho chuỗi siêu thị lớn (Wal-Mart, Carrefourm, và một vài
hãng khác) cung cấp sản phẩm với mức giá đặc biệt nhằm thu hút khách hàng. Tuy nhiên, khi
thời gian phải trả hóa đơn tới, nhiều trường hợp khách hàng thấy rằng giá phải trả cho một số
sản phẩm là khác hơn nhiều so với giá đã công bố trên quảng cáo hoặc tại nơi bán.
Trong khi tiến hành xem xét, cơ quan thực thi quyết định điều chỉnh giá của một vài sản
phẩm thực phẩm cơ bản. Trong quá trình điều tra, cơ quan này thấy rằng có 8% khác biệt
trong hai sản phẩm được lựa chọn. Giá được ghi trong quảng cáo và tại điểm bán hàng thấp
hơn với giá cuối cùng mà khách hàng phải trả.
Tính nghiêm minh của lệnh trừng phạt đã tính đến thực tế rằng Wal-Mart đã bị phạt cho cùng
kiểu vi phạm này hơn 30 lần trong khoảng thời gian 3 năm.
Nguồn: Andrea Botto (2006), Argentina, Các thể chế cạnh tranh trên thế giới- CUTS
Bản dịch 5/2008
66
7.2. Quảng cáo sai lệch
Quảng cáo sai lệch đề cập tới bất cứ hành giới thiệu sai lệch hoặc gây nhầm lẫn nào tới cộng
đồng bởi một người trong khi tiến hành hoạt động kinh doanh. Hành vi giới thiệu này có thể
là về đặc tính, đặc điểm, hay hình dáng của một sản phẩm, như kích cỡ, kiểu nội dung hay
khối lượng. Nó cũng bao gồm cả bảo hành, lời nói, hay những bảo đảm mà không dựa trên
các cuộc kiểm tra đầy đủ và cụ thể.68
Một ví dụ khá rõ ràng về quảng cáo sai lệch là một quảng cáo về một đôi giầy được sản xuất
tại Đài Loan như là được sản xuất bằng tay tại Anh. Thông qua việc sử dụng một câu liên
quan tới lịch sử lâu dài của giầy chất lượng, người bán hàng đã tạo ra một sự giới thiệu sai
lệch như đề cập tới loại giầy đã được bán. Một ví dụ khác về quảng cáo sai lệch xảy ra là khi
người bán hàng hứa với khách hàng sẽ đưa ra một mặt hàng trong một vài ngày cụ thể nhưng
cuối cùng thì anh ta đã không thực hiện lời hứa. Không cung cấp thông tin chính xác cho
khách hàng để họ có thể dựa vào đó mà đưa ra các quyết định mua sắm cũng có thể được coi
là quảng cáo sai lệch.
Quảng cáo sai lệch bị cấm tại điều 45 của Luật Cạnh tranh 2004, cùng với hoạt động quảng
cáo so sánh trực tiếp hàng hóa của mình với hàng hóa của doanh nghiệp khác và quảng cáo
bắt chước với các sản phẩm quảng cáo của các doanh nghiệp khác. Hy vọng là khi Luật Cạnh
tranh có hiệu lực hoàn toàn nó sẽ giúp xóa bỏ các hành vi hiện đang khá phổ biến này ở Việt
Nam. Ví dụ, rất nhiều người tiêu dùng tại Việt Nam phàn nàn về những thất vọng của họ với
sản phẩm dầu gội đầu nhãn hiệu CLEAR, bản quyền của Viện nghiên cứu ELIDA (Paris)
được cho là có thể xóa bỏ gầu hoàn toàn trong bảy lần gội như theo quảng cáo, mặc dù tất
nhiên điều kì diệu này không xảy ra trên thực tế, mà CLEAR chỉ có thể giúp một chút trong
việc kiểm soát gầu.69
Ngoài quảng cáo sai lệch, một số hành vi thương mại không lành mạnh và lừa dối đã được
liệt kê ở trên cũng được qui định và cấm hoàn toàn trong Luật Cạnh tranh 2004 của Việt
Nam. Dưới đây, chúng tôi chọn để bàn luận thêm một loại hành vi thương mại không lành
mạnh nữa cũng khá phổ biến tại Việt Nam, và đã gây tổn thất lớn tới người tiêu dùng đó là:
Bán hàng đa cấp bất hợp pháp.
7.3 Bán hàng đa cấp bị cấm
Bán hàng đa cấp bị cấm hay còn được gọi là “chuỗi chuyển giao”, “đền bù nhị phân”, hay
“bán hàng ma trận” là một hình thức kinh doanh không ổn định mà tham gia vào việc chuyển
đổi tiền đầu tiên cho những người khác mới kết nạp vào hệ thống bán hàng đa cấp, thường thì
không có bất cứ sản phẩm hay dịch vụ nào thật sự được giao bán.
Có một vài hình thức thương mại khác sử dụng phương thức bán hàng luân chuyển như bán
hàng đa cấp trực tiếp (MLM) là hoàn toàn hợp pháp và có thể chấp nhận được.70
Hầu hết bán
hàng đa cấp bị cấm đều lợi dụng sự nhầm lẫn giữa các doanh nghiệp thực sự và các doanh
nghiệp phức tạp nhưng lại phục vụ cho những mưu đồ kiếm tiền phi pháp. Bản chất của bán
hàng đa cấp là lợi nhuận của doanh nghiệp đến từ việc bán franchise, chứ không phải là từ
Bản dịch 5/2008
67
việc bán sản phẩm hoặc là bởi vì không có sản phẩm hay sản phẩm không thể bán được ở
mức giá khiến cho đầu tư vào franchise có lợi nhuận. Lí do khiến chúng được gọi là bán hàng
đa cấp là đầu tiên những cấp bậc đầu của franchise có thể và đang tạo ra tiền bởi vì ngoài việc
bán một số sản phẩm, họ cũng có thể bán 10 franchise cho bạn bè. Để cho 10 franchise này
có thể tạo tiền mỗi người trong số họ sẽ phải bán 10 franchise (hoặc cả tổng 100). Để cho 100
franchise này tiếp tục tạo ra tiền, họ sẽ phải bán 1000 franchise. Và 1000 người này sẽ phải
bán 10,000 franchise và tiếp tục cứ như vậy.
Ở đây việc bán franchise không vi phạm pháp luật hay thậm chí là việc chi trả của một khoản
phí cho người tìm ra cho người bán franchise người mà sẽ gia nhập một franchise mới. Phạm
pháp ở đây là thông tin về lợi nhuận của việc bán sản phẩm cơ bản là sai lệch. Không một cấp
độ nào việc bán sản phẩm này có lợi nhuận. Việc kinh doanh dường như có lợi nhuận với
người mua franchise triển vọng bởi vì người bán cho họ những franchise này đang tạo ra tiền
từ việc bán những franchise mới. Nhưng như những con số ở trên cho thấy, số lượng người
mua franchise mới tăng lên một cách nhanh chóng tới một số lượng lớn đến phi lí. Điều này
sẽ rõ ràng nếu như những người đầu tiên sở hữu franchise chỉ rõ làm thế nào bán được nhiều
sản phẩm để khiến cho franchise có thể mang lại lợi nhuận và khả năng có thể bán được
nhiều sản phẩm này là gì.
Hộp 25: Thanh tra công ty bán hàng đa cấp Lô Hội
Ngày 7/9/2006, Thanh tra Sở Thương mại TP HCM đã công bố quyết định thanh tra Công ty
TNHH Lô Hội có địa chỉ tại 199 Nam Kỳ Khởi Nghĩa, quận 3. Thời hạn thanh tra 30 ngày kể
từ khi công bố quyết định. Đây là công ty chuyên kinh doanh hàng đa cấp, vừa bị 8 người
tiêu dùng Đồng Nai khiếu kiện tập thể.
Sở Thương mại sẽ thanh tra tình hình hoạt động kinh doanh, trưng bày, giới thiệu hàng hóa,
tổ chức hội thảo, tuyên truyền, tập huấn về hàng hóa và tuyển dụng nhân viên, người tham
gia mạng lưới phân phối hàng hóa của doanh nghiệp.
Thanh tra Sở cũng kiểm tra việc thực hiện nghĩa vụ thuế, nộp thuế thu nhập cá nhân không
thường xuyên của những người tham gia mạng lưới phân phối hàng hóa, kể cả người nước
ngoài.
Những nội dung thanh tra khác là tính hợp pháp trong lưu thông hàng hóa, quy chế ghi nhãn
hàng hóa, việc quảng cáo, tờ rơi; nội dung giới thiệu tác dụng chữa bệnh của sản phẩm hay là
thực phẩm dinh dưỡng, dụng cụ bảo vệ sức khỏe, đăng ký lao động của người tham gia bán
hàng.
Quyết định thanh tra Lô Hội được Sở Thương mại đưa ra sau khi có đơn khiếu nại tố cáo của
người tiêu dùng, do Hội bảo vệ người tiêu dùng VN chuyển đến. Hiện Lô Hội có 85.000 nhà
phân phối trên cả nước. Nhà kinh doanh đa cấp này bán hàng được giới thiệu là thực phẩm
dinh dưỡng.
Mới đây, Sở Thương mại cũng đã tiến hành thanh tra công ty bán hàng đa cấp Sinh Lợi, sau
Bản dịch 5/2008
68
đó ra quyết định rút giấy phép kinh doanh của công ty này.
Nguồn: http://english.vietnamnet.vn/biz/2006/08/603121/ và các bài khác
Ở Việt Nam, Luật Cạnh tranh 2004 (điều 48) và Nghị định kèm theo số 110/2005/ND-CP
giải thích cụ thể sự khác nhau giữa bán hàng đa cấp trực tiếp và bán hàng đa cấp bất chính, và
qui định trách nhiệm cho những người tham gia và hoạt động vào những hình thức bán hàng
này. Bán hàng đa cấp trực tiếp, khi được tiến hành trong phạm vi giới hạn của Luật pháp thì
là hoạt động kinh doanh hợp pháp, trong khi đó bán hàng đa cấp bất chính là hoạt động bán
hàng đa cấp mà tập hợp một số hành vi bán hàng gian dối là hành vi phạm tội nghiêm trọng.
Là hành vi bất hợp pháp khi:
Yêu cầu người muốn tham gia phải đặt cọc, phải mua một số lượng hàng hóa ban đầu
hoặc phải trả một khoản tiền để được quyền tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Không cam kết mua lại với mức giá ít nhất là 90% giá hàng hóa đã bán cho người
tham gia để bán lại;
Cho người tham gia nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng, lợi ích kinh tế khác chủ yếu từ
việc dụ dỗ người khác tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp;
Cung cấp thông tin gian dối về lợi ích của việc tham gia mạng lưới bán hàng đa cấp,
thông tin sai lệch về tính chất, công dụng của hàng hóa để dụ dỗ người khác tham gia.
Bản dịch 5/2008
69
8. CÁC VẤN ĐỀ XUYÊN QUỐC GIA
Cùng với việc mở rộng thị trường trong nước đối với cạnh tranh nước ngoài, các quốc gia
ngày càng trở nên dễ bị ảnh hưởng bởi các hành vi phản cạnh tranh bắt nguồn từ ngoài lãnh
thổ quốc gia.71
Những hình thức của hành vi phản cạnh tranh xuyên quốc gia thường khá
giống với hình thức vi phạm trong phạm vi biên giới quốc gia. Chỉ có một điểm khác nhau
duy nhất là các xu hướng xuyên biên giới (thành tố quốc tế) của hành vi phản cạnh tranh. Ở
một số lĩnh vực những hành vi phản cạnh tranh xuyên quốc gia gây ra các mối lo ngại về
cạnh tranh cùng với các xu hướng quốc tế sẽ được bàn luận trong phần này, mặc dù không có
cách nào có thể ước lượng được hậu quả mà những hành vi này gây ra. Tuy nhiên cũng có thể
hiểu được tính chất và xu hướng của những vấn đề này thông qua việc phân tích những kinh
nghiệm thực tế. Những vấn đề này có thể được phân loại thành bốn nhóm sau:72
Sức mạnh thị trường trên thị trường toàn cầu và xuất khẩu;
Các hàng rào đối với cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu;
Các vấn đề liên quan đến đầu tư nước ngoài; và
Các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ.
8.1. Sức mạnh thị trường trong thị trường toàn cầu và thị trường xuất khẩu
Các thỏa thuận các-ten quốc tế, thỏa thuận các-ten trong xuất khẩu, và các thỏa thuận liên
quan có thể được gộp cùng loại này, cùng với sáp nhập và mua lại trên phạm vi nhiều khu
vực pháp lí, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường trong các thị trường nước ngoài, hành vi ép
giá xuyên quốc gia và phân biệt về giá cả.
Một số loại thỏa thuận các-ten quốc tế, vào thập kỷ 1990 người ta thấy rằng, phần lớn trong
số đó được tiến hành bởi các nhà sản xuất từ các nước công nghiệp phát triển. Những thỏa
thuận này đã tác động nghiêm trọng tới trào lưu thương mại quốc tế trong suốt giai đoạn này,
đặc biệt khiến cho giá cả hàng hóa tăng đột biến bao gồm hàng hóa nhập khẩu vào các nước
có thu nhập thấp. Nhập khẩu hàng hóa có thỏa thuận các-ten của các nước đang phát triển vào
năm 1997 là một ví dụ, ước tính lượng nhập khẩu lên tới 81,1 tỷ đô la Mỹ, chiếm 6,7% nhập
khẩu của các nước này và 1,2 % thu nhập quốc gia.
Tuy nhiên các-ten hóa không chỉ tổn hại tới phúc lợi của người tiêu dùng mà còn tác động
xấu tới sự phát triển của các nước nghèo, và sự phát triển của các doanh nghiệp tại các nước
này, theo các cách khác nhau. Một vài thủ thuật, rút ra từ nguy cơ chiến tranh giá cả trả đũa
nhau, sử dụng các đại lí bán và phân phối chung, đến việc sử dụng chung các bằng sáng chế,
được sử dụng bởi các thỏa thuận các-ten quốc tế để nhằm hạn chế đối thủ cạnh tranh từ các
nước đang phát triển tham gia vào các thị trường tương đương.
Hộp 26: Thỏa thuận các-ten của các nhà sản xuất điện cực than chì và ảnh hưởng của
nó tới các nhà sản xuất thép của quốc gia đang phát triển
Chất điện cực than chì được sử dụng đầu tiên trong sản xuất thép tại các lò cung lửa điện. Ở
một thị trường thế giới có tính tập trung cao, hai công ty (một của Đức, một của Mỹ) có
Bản dịch 5/2008
70
khoảng 2/3 thị phần kết hợp vào những năm đầu thập kỷ 1990. Các nhà sản xuất Nhật Bản
cung cấp một phần đáng kể phần còn lại, với sự đóng góp khiêm tốn từ một vài nhà sản xuất
nhỏ ở một số nước đang phát triển, chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc. Tất cả các nhà sản xuất
lớn trong thị trường này tiến hành các hoạt động sản xuất tại một số quốc gia, bao gồm các
quốc gia đang phát triển như: Brazil, Mexico, Nam Phi, Nga, và Ba lan, đồng thời bán sản
phẩm của họ trên toàn thế giới.
OECD ước tính rằng “thỏa thuận các-ten làm thiệt hại từ 5 đến 7 tỷ đô la Mỹ trong doanh thu
hàng hóa toàn thế giới. Thỏa thuận các-ten dẫn tới hậu quả làm tăng giá cả từ gần 2000 đô la
Mỹ trên 1 tấn hàng hóa tới 3200-3500 đô la Mỹ ở các thị trường khác nhau trên toàn thế
giới”.
Chỉ tính riêng tới tác động tài chính đối với người tiêu dùng tại các nước đang phát triển, Ủy
ban thương mại công bằng Hàn Quốc (KFTC) trong tháng 3 năm 2002 đã lên án 6 nhà sản
xuất chất điện cực than chì của Hoa Kì, Đức và Nhật Bản. Theo KFTC, ngành sản xuất thép
của Hàn Quốc “đã nhập khẩu 553 triệu đô la Mỹ chất điện cực than chì của 6 công ty này tù
tháng 5 năm 1992 tới tháng 2 năm 1998, và trong suốt khoảng thời gian này giá nhập khẩu
tăng trung bình từ 2,225 đô la Mỹ trên một tấn vào năm 1992 tới 3,356 đô la Mỹ vào năm
1997 (khoảng 48,9% tăng giá). Tổn thất mà các công ty nhập khẩu chất điện cực than chì
phải gánh chịu ước tính gần 139 triệu đô la Mỹ. Các ngành công nghiệp lớn của Hàn Quốc
như ngành công nghiệp xe hơi và đóng tàu phải tiêu tốn nhiều nguyên liệu thép cũng bị ảnh
hưởng nặng nề từ thỏa thuận các-ten quốc tế này”.
Nguồn: Evenett, Simon J. (2003), Nghiên cứu về các vấn đề liên quan tới một khuôn khổ
chính sách đa phương có thể có đối với chính sách cạnh tranhm tài liệu WTO số
WT/WGTCP/W/228.
Cũng là một hình thức khác của thỏa thuận câu kết mà các nhà sản xuất tiến hành để nắm
được sức mạnh thị trường trên thị trường nước ngoài, tuy nhiên thỏa thuận các-ten trong xuất
khẩu là “hạn chế thương mại” không bị cấm một cách chính thức bởi nhiều chính phủ theo
chính sách “ăn mày hay hàng xóm” thông qua việc cho phép các doanh nghiệp tư nhân của
họ tiến hành các-ten, miễn là chỉ tác động tới các thị trường bên ngoài quốc gia của họ.73
Những doanh nghiệp lớn sáp nhập tại các nước phát triển và kết quả là công ty con của họ tại
các nước đang phát triển cũng sáp nhập lại thành các công ty mới. Điều này có thể dẫn tới
việc tạo ra vị trí thống lĩnh thị trường cho các doanh nghiệp đã sáp nhập đồng thời có mang
theo nguy cơ có lạm dụng vị trí này trong tương lai. Hơn nữa, các quốc gia đang phát triển có
thể cũng bị tác động bởi các hoạt động sáp nhập và mua lại xảy ra bên ngoài lãnh thổ của họ,
và ảnh hưởng tới các công ty con trong nước của họ. Trường hợp sáp nhập ngành thuốc lá
Zimbabwe được giới thiệu trong hộp 20 (ở phần 5.6) là một ví dụ điển hình về vấn đề này.
Bản dịch 5/2008
71
Ngoài các thỏa thuận câu kết và việc sáp nhập, tầm cỡ và qui mô của các công ty xuyên quốc
gia (TNCs) cũng có thể khiến cho họ dễ dàng tham gia vào một số thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh. Lấy ví dụ như tập đoàn Microsoft. Tập đoàn này đã được hậu thuẫn trong thời gian tiến
hành các hành vi hạn chế cạnh tranh và một lần nữa cũng được ủng hộ tại Mỹ và Châu Âu.
Nói chung, tập đoàn này không gặp khó khăn trong khi tiến hành hành vi này tại các khu vực
pháp lí khác, đặc biệt là tại các nước đang phát triển, nơi mà tác động của các hành vi phản
cạnh tranh của tập đoàn Microsoft ngày một tăng cùng với sự mở rộng qui mô kinh doanh
của tập đoàn này.
8.2. Rào cản đối với cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu
Các thỏa thuận các-ten trong nhập khẩu, các rào cản trên thị trường nhập khẩu tạo ra các hạn
chế thị trường theo chiều dọc, các hành vi điều chỉnh tiêu chuẩn riêng, hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền, v.v… có thể được coi là các rào cản đối với thị trường
nhập khẩu. Thỏa thuận các-ten trong nhập khẩu được hình thành bởi các nhà nhập khẩu hay
người mua trong nước và các thỏa thuận tương tự có thể là mối nguy cơ đối với việc duy trì
tính cạnh tranh trong một thị trường. Nhìn chung, các luật Cạnh tranh của các quốc gia
thường có thể giải quyết được rào cản đối với việc tham gia thị trường của các nhà cung cấp
nước ngoài, mặc dù trên thực tế các loại rào cản này vẫn được cân nhắc cho qua khá nhiều.
Trong một số trường hợp, thỏa thuận các-ten nhập khẩu được cho phép để đối chọi với thỏa
thuận các-ten xuất khẩu.
Một vụ việc khá nổi tiếng về vấn đề này là vụ tranh chấp giữa Nhật Bản và Hoa Kì theo đó
hãng Fuji bị cáo buộc là ngăn cản việc xuất khẩu của hãng Kodak vào thị trường Nhật Bản
thông qua việc kiểm soát kênh phân phối. Vào đầu thập niên 1990, những vấn đề này đã được
xem xét lại theo các hướng dẫn của Mỹ liên quan tới việc thực thi quốc tế nhằm cho phép áp
dụng Luật Cạnh tranh của Mỹ đối với các vụ việc có yếu tố nước ngoài như các thỏa thuận
các-ten nhập khẩu đã hạn chế sự gia nhập của các nhà sản xuất Hoa Kì vào các thị trường
nước ngoài.
8.3. Đầu tư nước ngoài- các vấn đề liên quan tới cạnh tranh
Đầu tư nước ngoài được cho rằng thường mang nhiều tác động phức tạp tới cấu trúc thị
trường và cạnh tranh tại các nước nhận đầu tư. Đặc biệt M&As có thể được sử dụng để giảm
tính cạnh tranh thông qua “M&As độc quyền” có thể xảy ra khi:
Công ty mua lại đang xuất khẩu chủ yếu tới một thị trường mà trước đó công ty này
mua lại công ty của đối thủ cạnh tranh ở đó.
Một doanh nghiệp nước cùng với một chi nhánh đã có mặt trên thị trường mua lại một
công ty khác; do đó cũng mua lại thị phần độc quyền hoặc có vị trí thống lĩnh thị
trường;
Công ty đầu tư TNC mua lại một công ty có vị trí dẫn đầu thị trường mà truớc đó
công ty này cạnh tranh với nó; và
Việc mua lại là nhằm xóa bỏ chứ không phải là phát triển tiềm năng cạnh tranh của
công ty được mua lại.
Bản dịch 5/2008
72
Trong khi những tác động trái chiều của M&As độc quyền này đối với cấu trúc thị trường và
cạnh tranh của các nước nhận đầu tư có thể được giải quyết nếu như các quốc gia này có
khuôn khổ luật pháp đầy đủ để đưa ra một số cách khắc phục, như trong nhiều tình huống đã
xảy ra tại các nước phát triển, thực tế này vẫn là một điều viển vông tại các nước đang phát
triển.
Tại Ấn Độ là một ví dụ, năm 1994, công ty trách nhiệm hữu hạn Hindustan Lever (HLL),
Công ty con của tập đoàn Unilever tại Ấn Độ, mua lại đối thủ chính trong nước của mình là
công ty Tata Oil Mills (TOMCO), để có được vị trí thống lĩnh trên thị trường xà bông tắm
(75%) và thị trường chất tẩy (35%).74
Đề nghị sáp nhập này đã vấp phải một số trở ngại từ
liên đoàn nhân viên của HLL trong một số vấn đề như việc sáp nhập có thể dẫn tới hậu quả
một công ty đa quốc gia (TNC) sẽ kiểm soát một thị phần lớn, và lợi ích của người tiêu dùng
có thể bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, không có một biện pháp nào được tiến hành đối với sự việc
này bởi vì theo Luật Cạnh tranh sửa đổi của Ấn Độ năm 1991, Đạo luật MRTP 1969 đã xóa
bỏ sự cần thiết của việc xem xét một hành vi sáp nhập, mua lại cũng như việc mua lại một
công ty lớn hay có vị trí thống lĩnh thị trường bởi cơ quan cạnh tranh.75
Sau đó, HLL cũng
mua lại một vài công ty trong nước ở các thị trường khác như hãng sản xuất kem Dollops,
Kwality và Milkfood. Chính nhờ hành động này đã nâng thị phần của HLL trên thị trường
kem từ con số 0 trong năm 1992-1993 lên 69% trong năm 1996-1997 và trên 74 % trong năm
1997-1998.76
8.4. Các vấn đề quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới cạnh tranh
Do không có một khuôn khổ luật pháp phù hợp và hoàn thiện nào để kiểm tra hành vi phản
cạnh tranh của những người nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ nên khả năng TNCs sẽ lạm dụng
sức mạnh thị trường của họ là không thể tránh khỏi. Khiến cho tình hình trở nên xấu hơn,
mặc dù hiệp định thương mại liên quan tới các khía cạnh quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) đưa ra
một khuôn khổ rộng lớn cho các quốc gia tiến hành các động thái cần thiết khi một IPR bị
lạm dụng, dẫn tới hậu quả hạn chế cạnh tranh, nhưng hiệp định này cũng không thể áp đặt tất
cả các quốc gia thực hiện điều này. Ví dụ, trong trường hợp có sự chênh lệch trong sức mạnh
tương quan giữa “bên phạm pháp” – thường là các TNCs và “bên thực thi luật” – khi họ là
các quốc gia đang phát triển với khả năng thực thi luật kém và thị trường nhỏ, thì khó có thể
loại trừ được các vụ việc lạm dụng IPR. Trong một tình huống khác, biện pháp khắc phục
được gợi ý về bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế không thể tiến hành
được ở một quốc gia không có khả năng sản xuất trong nước, ngoại trừ trong trường hợp các
sản phẩm dược.
8.5. Luật Cạnh tranh của Việt Nam giải quyết các vấn đề cạnh tranh xuyên quốc gia
Cho dù là để đối phó với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở cấp độ quốc gia hay ở cấp độ quốc
tế thì việc có một thể chế cạnh tranh mạnh và hoàn chỉnh là điều kiện tiên quyết. Ngay cả khi
có một thể chế cạnh tranh mạnh ở cấp độ quốc gia cũng có thể chưa đủ để đối phó với các
hành vi phản cạnh tranh xuyên quốc gia. Do đó cần phải ban hành các điều khoản có tác dụng
Bản dịch 5/2008
73
pháp lí ngoài lãnh thổ quốc gia để tăng cường năng lực pháp lí của các cơ quan quản lí cạnh
tranh tại các nước đang phát triển nhằm giải quyết những vấn đề này.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam, cũng như các qui định thực thi của Luật không đưa ra
bất cứ vấn đề cạnh tranh xuyên quốc gia nào như đã được bàn luận ở phần trên. Yếu tố nước
ngoài duy nhất được giải quyết bởi những qui định này xảy ra khi một trong các bên trong vụ
việc cạnh tranh là công ty đầu tư nước ngoài, có trụ sở và hoạt động tại Việt Nam. (Điều 2(1)
của Luật Cạnh tranh).
Đây là một điểm khá hạn chế của Luật bởi vì trên thực tế Việt Nam đang mở cửa nền kinh tế
và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Việt Nam đang trong quá trình gia nhập vào
WTO, điều này có nghĩa là hầu hết các biện pháp bảo hộ đang tiến hành sẽ phải loại bỏ hoàn
toàn, các doanh nghiệp của Việt Nam sẽ phải đối mặt với không chỉ các sức ép cạnh tranh ở
trong và ngoài nước mà còn với các hành vi hạn chế cạnh tranh từ bên ngoài.
Ngoài ra, ngày nay các đường biên giới tự nhiên ngày càng trở nên mờ nhạt do quá trình toàn
cầu hóa và qúa trình hội nhập quốc tế, giao lưu thương mại không còn bó hẹp trong phạm vi
lãnh thổ một quốc gia, nhiều hiệp định khu vực và toàn cầu được kí kết. Trong bối cảnh đó,
khi mà đối tác nước ngoài có thể trông chờ vào các cơ quan cạnh tranh quốc gia và khu vực
của họ (như trong trường hợp của EU), thì các doanh nghiệp Việt Nam có thể không có chỗ
nương tựa trong các vụ kiện cạnh tranh, nếu như hiệp định hay vụ việc kinh doanh được tiến
hành ở ngoài lãnh thổ của Việt Nam, hoặc nếu như đối tác của họ không có mặt thực tế tại
quốc gia.
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, với các vụ việc cạnh tranh toàn cầu có hậu quả
nghiêm trọng tới thương mại, kinh tế và người tiêu dùng trên toàn thế giới (như các thỏa
thuận các-ten quốc tế, mua lại và sáp nhập xuyên quốc gia, v.v…), Việt Nam với tư cách là
một quốc gia và người tiêu dùng Việt Nam sẽ không thể khẳng định được quyền và lợi ích cơ
bản của mình cũng như bù đắp lại những thiệt hại mà các hành vi này gây ra.
Về vấn đề này, một điểm quan trọng cần thấy rằng thể chế cạnh tranh của Việt Nam vẫn còn
non trẻ và có những hạn chế trầm trọng về năng lực và nguồn lực, điều này gây khiến cho các
cơ quan cạnh tranh ở Việt Nam không thể tiến hành các biện pháp trừng phạt đối với các
công ty xuyên quốc gia lớn hay các vụ việc điều tra với hành vi có yếu tố nước ngoài. Tuy
nhiên, có được các điều khoản pháp lí điều chỉnh các yếu tố ngoài lãnh thổ quốc gia có thể
giúp cho cơ quan cạnh tranh non trẻ này đối phó được với các hành vi có tác động tới thị
trường trong nước. Điều này cũng giúp cho Việt Nam tham gia vào hợp tác, thỏa thuận hay
đạt được các hiệp định với các cơ quan cạnh tranh khác nhằm có được thông tin về vấn đề
này. Việc thông qua các điều khoản nhằm giải quyết các vấn đề cạnh tranh xuyên quốc gia sẽ
là ưu tiên hàng đầu của Việt Nam trong tương lai.
Hộp 27: Luật văn bằng sáng chế quốc tế gây khó khăn cho các quốc gia đang phát triển
Năm 1998, tại Nam Phi, khoảng 1 trong năm người lớn phải sống chung với căn bệnh thế kỷ
HIV/AIDS. Từ năm 1996, cả thế giới biết rằng hỗn hợp thuốc anti-retroviral có thể cứu
Bản dịch 5/2008
74
những con người này. Loại thuốc này không phải là thuốc chữa được bệnh AIDS, nhưng ở
đây, chúng có thể chuyển AIDS thành bệnh kinh niên, gần giống với bệnh tiểu đường. Tỷ lệ
người chết vì AIDS ở Mỹ đã giảm xuống, nhưng tại Nam Phi, không một ai ngoại trừ những
người cực kì giàu có có thể mua được loại thuốc này. Ở Mỹ, trợ cấp về thuế cho chi phí của
loại thuốc này lên tới khoảng 15 nghìn đô la Mỹ một năm. Tại Nam Phi, điều trị phổ biến
bằng loại thuốc này với giá tương tự sẽ khiến cho chính phủ phá sản. Nhưng ở đây chi phí đẳt
không phải ở giá thuốc mà là ở văn bằng sáng chế ra nó.
Chính phủ Nam Phi không chỉ bị ràng buộc bởi một hệ thống bảo vệ các văn bằng sáng chế
chặt chẽ - di sản từ chế độ Apartheid, mà còn bởi sức ép từ các quốc gia khác như Hoa Kì. Có
đủ lượng thuốc sẵn có nhưng không phải là để dành cho họ. Vì vậy, năm 1998, chính phủ
Nam Phi đã làm tất cả những gì mà họ có thể: Họ đã thông qua luật theo đó cho phép họ có
thẩm quyền hạ giá xuống. Luật này cũng cho phép họ nhập khẩu đồng thời các loại thuốc rẻ
hơn, điều này hoàn toàn hợp pháp theo hiệp định TRIPs, theo thực tế rằng các loại thuốc đã
đăng kí bản quyền được bán ở các mức giá khác nhau ở các quốc gia khác nhau.
Đối mặt với nguy cơ xảy ra khủng hoảng sức khỏe cộng đồng, Hạ viện Hoa Kì đã thừa nhận
những gì mà các quốc gia khác đã đòi hỏi như: các văn bằng sáng chế không phải là “quyền”
mà là đặc quyền- và nó không được ưu tiền hơn quyền được hưởng sức khỏe và quyền được
sống. Nhưng ở đây họ - hay ngành công nghiệp dược phẩm không thể giải quyết được vấn đề
liên quan tới Nam Phi. Có một khả năng là Nam Phi – một phần trăm rất nhỏ của thị trường
dược phẩm thế giới- có thể bắt đầu sử dụng dược phẩm căn bản được xem như là nguy cơ đe
dọa lớn tới lợi ích của ngành công nghiệp dược phẩm Hoa Kì. Điều này không có ý nghĩa gì
đối với họ cho dù là Hoa Kì đã kí hiệp định TRIPs năm 1994, thừa nhận rằng chính phủ của
các quốc gia đang phát triển có khả năng thực hiện những gì mà Hoa Kì tiến hành và phải
tiến hành trong các trường hợp tương tự. Và cũng không có ý nghĩa gì khi mà hàng triệu sinh
mạng đang lâm nguy. Theo ông Charlene Barshefsky, Đại diện thương mại Hoa Kì tại thời
điểm đó: “Tất cả chúng tôi đã bỏ lỡ nó…Tôi hoàn toàn không cho rằng những gì mà chúng
tôi hiểu về các ràng buộc đối với luật sở hữu trí tuệ quốc tế của Nam Phi là quá hà khắc”.
Các nhà hoạt động trên toàn thế giới thừa nhận điều này, và vận động chống lại vụ kiện với
khẩu hiệu rằng “Quyền của bệnh nhân vượt trên quyền văn bằng sáng chế”, và “Xóa bỏ luật
Y tế Apartheid”. Tháng 3 năm 2001, khi vụ kiện cuối cùng đi tới phòng xử án, các công ty
dược phẩm lo sợ về phản ứng dữ dội trong cộng đồng đã rút lui khỏi vụ kiện.
Nguồn: Kapczynski (2002), luật văn bằng sáng chế quốc tế gây khó khăn cho các quốc gia
đang phát triển, YaleGlobal Online tại trang web:
http://yaleglobal.yale.edu/display.article?id=562
Bản dịch 5/2008
75
9. CẠNH TRANH VÀ LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ
Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ là một công cụ chính sách nhằm thúc đẩy đổi mới, có lợi cho
người tiêu dùng thông qua việc phát triển hàng hóa và dịch vụ mới và cải thiện hơn, đồng
thời tăng cường tăng trưởng kinh tế. Quyền sở hữu trí tuệ (IPRs) đem lại cho những người
sáng tạo quyền hợp pháp được ngăn chặn, trong một khoảng thời gian giới hạn, việc những
người khác được hưởng lợi miễn phí từ kiến thức mới, và đặc biệt hơn ngăn họ không được
sử dụng các sáng tạo này vì mục đích thương mại. Nói một cách khác, người sáng tạo hay
người sở hữu IPRs được luật pháp cho phép hưởng đặc quyền tạm thời để bù đắp lại những
chi phí tiêu tốn trong quá trình nghiên cứu và đổi mới.
Mặt khác, Luật Cạnh tranh luôn được công nhận là công cụ hữu ích trong việc hạn chế các
méo mó của thị trường, đối phó với các hành vi hạn chế cạnh tranh, ngăn chặn độc quyền và
lạm dụng vị trí độc quyền, khuyến khích phân bổ các nguồn lực một cách tốt nhất và đem lại
lợi ích cho người tiêu dùng thông qua giá cả phù hợp, nhiều lựa chọn hơn và chất lượng tốt
hơn. Vì vậy, Luật Cạnh tranh đảm bảo rằng sức mạnh độc quyền cùng với IPRs không làm
tồi tệ hơn hay trở thành gánh nặng, cũng như không phương hại tới cạnh tranh. Hơn nữa,
trong khi bảo vệ cạnh tranh và quá trình cạnh tranh, Luật Cạnh tranh đồng thời thúc đẩy
những người sáng tạo đi đầu trên thị trường với sản phẩm và dịch vụ mới theo mức giá và
chất lượng mà người tiêu dùng mong muốn. Luật Cạnh tranh nhấn mạnh tới tầm quan trọng
của việc thúc đẩy đổi mới như là kết quả của cạnh tranh, và vì vậy cũng tăng cường phúc lợi
cho người tiêu dùng.
Do đó, người ta cho rằng mục tiêu của Luật Cạnh tranh và luật sở hữu trí tuệ có tính bổ sung
và tăng cường cho nhau. Chúng chia sẻ mục đích chung trong việc thúc đẩy đổi mới, tăng
cường và đem lại phúc lợi cho người tiêu dùng cũng như phân bổ hiệu quả các nguồn lực
kinh tế. Hơn nữa, chúng cũng là các cấp độ khác nhau trong điều tiết thị trường. Các sai lầm
và thành kiến hệ thống trong việc hiểu và thực thi các qui định của một chính sách có thể ảnh
hưởng tới hiệu quả của chính sách khác. Thách thức đối với cả hai chính sách là tìm ra sự cân
bằng phù hợp của trong bảo vệ cạnh tranh và thúc đẩy sáng tạo.
9.1. Các tiêu chuẩn IPRs có thể được sử dụng để điều chỉnh các vấn đề về cạnh tranh
Các quy định về bả hộ quyền sơ hũu trí tuệ cũng có thể được coi là khuôn khổ thể chế điều
chỉnh các vấn đề phi vật thể, và do vậy luôn được miễn trừ hỏi sự điều chỉnh của luật chống
độc quyền. Luật Cạnh tranh ở hầu hết các quốc gia do đó đều có các qui định rõ ràng hoặc
ngụ ý về việc miễn trừ cho các đặc quyền có được do việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ được
nhà nước cho phép khỏi sự áp dụng của Luật Cạnh tranh. Sự bảo hộ này có thể coi là cơ sở
cho việc miễn trừ các hạn chế cạnh tranh, mà trong trường hợp bình thường phải chịu sự xem
xét của luật cạnh tranh.
Tương tự, Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam cũng đưa ra các miễn trừ đối các hành vi hạn
chế cạnh tranh có tác dụng “thúc đẩy tiến bộ kĩ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng
hóa, dịch vụ”.77
Các trường hợp tập trung kinh tế bị cấm theo luật, cũng sẽ được hưởng miễn
trừ nếu như chúng đóng góp cho “các tiến bộ kĩ thuật, công nghệ”78
Bản dịch 5/2008
76
9.2. Sử dụng Luật Cạnh tranh để điều chỉnh việc thực thi IPRs
Do bản chất cũng là một sở hữu cá nhân, IPRs có thể là đối tượng điều chỉnh của các nguyên
tắc cạnh tranh chung, khi chúng được sử dụng trong mục đích thương mại trên thị trường. Vì
vậy, Luật Cạnh tranh, mặc dù không tác động tới sự tồn tại thực tế của IPRs, có thể hạn chế
việc sử dụng các quyền sở hữu này trong phạm vi cho phép và hợp lý do các đặc quyền hợp
pháp mà quyền sở hữu trí tuệ mang lại. Nói cách khác, khi việc sử dụng IPRs đưa tới một số
quan ngại về cạnh tranh, Luật Cạnh tranh sẽ có vai trò trong việc giải quyết các vấn đề này.
Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam không trực tiếp đưa ra các qui định về việc giải quyết
hành vi hạn chế cạnh tranh do việc sử dụng IPRs gây ra, tuy nhiên luật cũng qui định về các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan tới việc xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như: bí
mật thương mại, thương hiệu và tên nhãn mác.79
Tuy nhiên, việc Luật này cấm một số thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và lạm dụng vị trí độc quyền
đã ngầm qui định về các hành vi hạn chế cạnh tranh bắt nguồn từ việc sử dụng IPRs cho dù là
IPRs có là một yếu tố cấu thành các hành vi này hay không.
Hơn nữa, điều 5(1) của Luật CT qui định rằng “trường hợp có sự khác nhau giữa qui định của
Luật này với qui định của luật khác về hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành
mạnh thì áp dụng qui định của Luật này”. Điều này cũng được qui định thêm tại Luật mới về
IPRs thông qua vào tháng 11 năm 2005, có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm 2006 (sau đây sẽ
gọi là Luật IPRs 2005), theo đó “việc sử dụng các quyền sở hữu trí tuệ này không được xâm
phạm tới lợi ích của Nhà nước và lợi ích của cộng đồng, quyền và lợi ích chính đáng của các
tổ chức và cá nhân khác, và không được vi phạm các qui định và luật pháp liên quan.”80
Mặt khác, tại Việt Nam, trước khi ban hành Luật dân sự vào ngày 28 tháng 10 năm 1995 (sau
đây sẽ viết tắt là VCC 1995),81
IPRs được qui định riêng lẻ trong một vài văn bản dưới luât
như Pháp lệnh về chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt Nam năm 1988, Pháp lệnh về
sở hữu công nghiệp năm 1989, và Pháp lệnh về bảo hộ bản quyền năm 1994. Trong 8 phần
của VCC 1995, phần 6 (Điều 745 đến điều 825) qui định về IPRs và chuyển giao công nghệ,
nhưng không có điều khoản cụ thể nào xem xét về mối quan hệ giữa IPRs và cạnh tranh. Tuy
nhiên, trong Nghị định số 45/1998/ND-CP ngày 1 tháng 7 năm 1998 có qui định cụ thể về
chuyển giao công nghệ (từ đây sẽ gọi là nghị định TT 1998), nghị định đã liệt kê một số hành
vi phản cạnh tranh không được phép tham gia các thỏa thuận chuyển giao công nghệ. Vì vậy,
một số hành vi hạn chế cạnh tranh bị coi là bất hợp pháp, nếu theo đó người được cho phép
sử dụng sáng chế bị cưỡng ép làm các việc mà họ sẽ không làm nếu hành động độc lập.
Theo sự phân loại các thỏa thuận thoả thuận li-xăng về sở hữu công nghiệp, Luật về IPRs
năm 2005 thừa nhận các thỏa thuận đặc quyền.82
Tuy nhiên, luật này cũng qui định rằng các
thỏa thuận li-xăng về sở hữu công nghiệp sẽ không hạn chế một cách không hợp lí các quyền
của người được cho phép sử dụng sáng chế. Đặc biệt, luật này cũng không cho phép đặt ra
các điều kiện có tính hạn chế nằm ngoài thẩm quyền của người sở hữu sáng chế, ví dụ như
cải thiện sáng chế; quyền xuất khẩu hàng hóa; các điều kiện mua bán và điều khoản „không
thách thức‟.
Bản dịch 5/2008
77
9.3. Những quan ngại về cạnh tranh trong các hợp đồng li-xăng
Như đã nói, các hợp đồng li-xăng giữ một phần quan trọng trong thể chế IPRs, hoặc cụ thể
hơn trong các quy định về quyền sở hữu công nghiệp. Không những không hạn chế cạnh
tranh, nhìn chung, các hợp đồng li-xăng mở rộng cơ hội cho các thương nhân thúc đẩy thị
trường phát triển, thông qua việc tạo điều kiện phổ biến rộng rãi hơn các công nghệ/kiến thức
đã được đăng kí bảo hộ cũng như sản phẩm và dịch vụ sử dụng bằng phát minh đã đăng kí
như là các yếu tố đầu vào.
Vì vậy, những xu hướng có thể đem lại cho thỏa thuận li-xăng đặc tính hạn chế cạnh tranh là
các thỏa thuận hợp đồng cụ thể và các điều kiện thị trường, theo đó nếu như thỏa thuận này
có bất kì giá trị nào thì nó sẽ mang tới ít nhiều hạn chế thực chất. Một số các yếu tố này là:
Hạn chế lãnh thổ;
Độc quyền giao dịch
Bó buộc; và
Li-xăng tương hỗ.
Hộp 28: Tập đoàn Microsoft lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
Microsoft là chủ sở hữu hợp pháp của quyền sở hữu trí tuệ đối với hệ điều hành máy tính cá
nhân (PC/OS), vốn là sản phẩm sáng tạo của công ty. PC/OS là môi trường cần thiết để người
sử dụng có thể thao tác được các phần mềm ứng dụng như xử lí văn bản, bảng tính, v.v…; và
để lập trình viên ứng dụng có thể đưa ra các sản phẩm thích hợp đối với người sử dụng. Điều
này khiến cho Microsoft có vị trí độc quyền đối với việc cho phép sử dụng sáng chế về hệ
điều hành dành cho máy tính cá nhân (với thị phần trên 90% và một rào cản gia nhập thị
trường vững chắc do các phần mềm ứng dụng tạo nên). Hạn chế đối với người sử dụng cuối
cùng và tính giá độc quyền được cho là nằm trong số rất nhiều các hành vi phản cạnh tranh
mà hãng phần mềm khổng lồ này đã tiến hành.
Microsoft không bán phần mềm của mình cho bất cứ ai. Thay vào đó, tập đoàn này đã gộp
các loại quyền khác nhau liên quan quan tới phần mềm của họ lại. Những quyền này, được
gộp chung vào thành một “chứng chỉ li-xăng”, là “”những sản phẩm” duy nhất mà Microsoft
chuyển nhượng. Microsoft giữ lại quyền sở hữu và các quyền đối với sản phẩm phần mềm
của họ ngoại trừ các quyền mà Microsoft chuyển nhượng thông qua một trong số các chứng
chỉ li-xăng này.
Microsoft ký kết một loại thoả thuận li-xăng riêng với các các nhà sản xuất trang thiết bị
nguyên gốc (OEMs). Mục đích cụ thể của thoả thuận li-xăng này với các OEMs là cho phép
họ “cài sẵn các phần mềm lên các máy tính cá nhân được bán cho người sử dụng cuối cùng”.
Mặt khác, Microsoft đưa ra một chứng chỉ li-xăng hoàn toàn khác với người tiêu dùng, gọi là
chứng chỉ li-xăng sáng chế cho người sử dụng cuối cùng (EULA). Microsoft chỉ nhượng
quyền sử dụng phần mềm trên máy tính cá nhân tới duy nhất người sử dụng cuối cùng.
Chứng chỉ li-xăng dành cho người sử dụng cuối cùng này của Microsoft là một thoả thuận
Bản dịch 5/2008
78
măng tính áp chế, không phải là dựa trên tinh thần thỏa thuận với người tiêu dùng. Người sử
dụng chọn hình thức hưởng giấy phép EULA từ Microsoft chỉ khi họ lần đầu tiên bắt đầu sử
dụng hệ điều hành, chứ không phải là thời điểm họ thực hiện giao dịch, trả phí, hay trong các
hình thức giao dịch khác.
Tác động trực tiếp từ hành vi độc quyền và hạn chế cạnh tranh của Microsoft là việc người sử
dụng phải chịu một loạt các tổn thất. Họ không chỉ bị ảnh hưởng ở việc hạn chế đổi mới công
nghệ, lựa chọn thị trường, chủng loại sản phẩm và nguồn cung các sản phẩm thay thế mà họ
còn không được hưởng các lợi ích khác từ cạnh tranh.
Theo thời gian, Microsoft đã nhân đôi những hạn chế này cùng với các hành vi hạn chế cạnh
tranh khác. Những hành vi này bao gồm việc tăng giá gấp hai lần trong năm 1998 đối với
giấy phép sử dụng dành cho phiên bản PC/OS cũ (tuy không hẳn đã quá lỗi thời) với cùng
mức giá phải trả cho phiên bản PC/OS mới (từ 49 đô la Mỹ lên 89 đô la Mỹ).
Nguồn: Quan điểm về việc tranh chấp liên quan tới cạnh tranh của tập đoàn Microsoft, đối
với tòa án liên bang quận Maryland, MDL số 1332, tháng 1/2001, bởi J.Frederick Motz, thẩm
phán cấp quận Hoa Kì.
9.4. IPRs và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
IPRs, do thuộc tính căn bản của mình, tạo ra một hình thức độc quyền hoặc nói cách khác, nó
tạo ra một cấp độ độc quyền kinh tế. Tuy nhiên việc tạo ra tính độc quyền chính đáng này
không nhất thiết tạo ra sức mạnh thị trường, hay thậm chí là dù có tạo ra sức mạnh thị trường
(như đã được bàn luận ở phần trước), thì theo đó vị trí thống lĩnh thị trường không tự nó vi
phạm Luật Cạnh tranh. Sức mạnh thị trường này cũng không tạo ra sức ép buộc người nắm
giữ IPRs có nghĩa vụ phải cấp bản quyền sử dụng cho những người khác. Ngoài ra, các cơ
quan quản lí cạnh tranh cùng thường quan tâm tới hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, bất kể nguồn gốc của vị trí thống lĩnh này chứ không riêng gì đối với các vụ lạm dụng
IPRs. Tuy nhiên thì hầu hết là phụ thuộc vào thực tế của mỗi vụ việc liên quan.
Các vụ việc lạm dụng vị trí độc quyền khác liên quan tới IPRs có thể được xác định như sau:
Tính giá độc quyền: Hành vi này hiếm khi là mối e ngại nghiêm trọng đối với cạnh
tranh tại các nước phát triển do sự tràn ngập hàng hóa thay thế trên thị trường. Trong khi tại
các nước đang phát triển, do số lượng hàng hóa thay thế hạn chế và hầu hết các sản phẩm
được IPRs bảo hộ đều được sở hữu bởi các doanh nghiệp nước ngoài, nên việc giám sát việc
xử lí đối với các hành vi đặt giá độc quyền bởi người sở hữu IPR có vị trí khá quan trọng.
Các hạn chế đối với người sử dụng cuối cùng: Một vụ việc khá thú vị về vấn đề này
đề cập tới các hạn chế đối với người sử dụng cuối cùng được coi như hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường là trường hợp của tập đoàn Microsoft, đây cũng được coi là hành vi
độc quyền về giá. (Xem hộp 35)
Bản dịch 5/2008
79
Độc quyền giao dịch: Các khía cạnh cạnh tranh về các hạn chế đối với khả năng của
người được cho phép sử dụng sáng chế trong việc sử dụng các công nghệ cạnh tranh sẽ được
phân tích dựa trên cơ sở (i) thời gian, (ii) cơ sở hợp lí, và (iii) cấp độ thiệt hại do các hạn chế
này gây ra đối với đối thủ cạnh tranh.
Bó buộc: Bó buộc trong các thoả thuận li-xăng thường được coi là hành vi bất hợp
pháp theo nguyên tắc per se nếu như (i) hành vi này được tiến hành đối với hai sản phẩm và
dịch vụ riêng rẽ không liên quan đến nhau; (ii) người bán nắm được sức mạnh thị trường đối
với các sản phẩm bán kèm và có khả năng mở rộng sức mạnh thị trường này đối với các sản
phẩm bán kèm, do có các điều kiện thị trường thuận lợi (nắm các rào cản thị trường cao,
v.v…); (iii) thỏa thuận bó buộc có tác động tiêu cực đối với cạnh tranh trên thị trường tương
đương dành cho sản phẩm bán kèm; và (iv) chứng minh cần thiết đối với các thỏa thuận này
không vượt quá các ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh.
9.5. Từ chối giao dịch
Một tiền đề được chấp nhận rộng rãi trong các bộ luật về sở hữu trí tuệ là những người sở
hữu IP không có nghĩa vụ phải cấp giấy phép sử dụng các sản phẩm đã được được đăng kí
bảo hộ của mình cho những người khác. Nguyên tắc này được thừa nhận phổ biến ngay cả
khi một doanh nghiệp đang nắm giữ vị trí độc quyền trên thị trường do họ đang sở hữu quyền
sở hữu trí tuệ. Một quyết định về cạnh tranh trước đây của Tòa án tối cao Hoa Kì cho rằng
khả năng loại bỏ cạnh tranh ra khỏi việc sử dụng một văn bằng sáng chế mới “có thể được coi
là cần thiết đối với các quyền có được từ văn bằng sáng chế, cũng như là danh tiếng của bất
kì người chủ sở hữu nào của văn bằng sáng chế đó đối với việc sử dụng hoặc không sử dụng
mà không có động cơ nào.”83
Mặt khác, từ khía cạnh các giao thoa giữa Luật Cạnh tranh và
luật về IPR, có thể thấy nổi lên vấn đề là liệu rằng nghĩa vụ này có tồn tại hay không.
Đôi khi các tòa án ở Châu Âu và Mỹ cho rằng từ chối thỏa thuận li-xăng sáng chế là vi phạm
Luật Cạnh tranh. Tuy nhiên, không một khu vực pháp lí nào, cho dù là họ có nằm trong số
các khu vực pháp lí tiên tiến nhất về Luật Cạnh tranh và luật IP chăng nữa thì họ cũng không
không qui định một cách rõ ràng những thỏa thuận liên quan tới quyền sở hữu kiểu này có
phải là hành vi hạn chế cạnh tranh hay không. Ở Brazil có sự khác biệt nhỏ, tại điều 21 Luật
Cạnh tranh đã qui định “việc sử dụng không đẩy đủ hoặc không khai thác hết quyền sở hữu
trí tuệ và công nghệ của một công ty” là sự cho thấy rõ ràng rằng các nguyên tắc cạnh tranh
tự do đã bị vi phạm.
9.6. Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế
Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế là một hợp đồng không tự nguyện giữa người
sẵn sàng muốn mua và người không muốn bán, dưới sự áp đặt và cưỡng chế của Nhà nước.
Có ba điều khoản bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế phổ biến nhất, bao gồm khi
một sáng chế phụ thuộc bị hạn chế, khi một sáng chế không được khai thác, hay khi sáng chế
này liên quan tới thực phẩm hoặc dược phẩm. Thêm vào đó, bắt buộc chuyển giao quyền sử
dụng sáng chế có thể được tiến hành như là một biện pháp khắc phục trong các tình huống
độc quyền hoặc lạm dụng, khi mà sáng chế đó có vai trò quan trọng đối với an ninh quốc gia
Bản dịch 5/2008
80
hoặc khi một thực thể mua lại bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng đối với sáng chế có chủ
quyền. Trong những tình huống như vậy, lợi ích cộng đồng trong việc tiếp cận sâu hơn với
phát minh đã được cấp văn bằng sáng chế có vị trí quan trọng hơn là lợi ích cá nhân của
người nắm giữ các đặc quyền đối với sáng chế của anh ta. Bên thứ ba sẽ phải trả một khoản
tiền cho người sở hữu sáng chế. Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế không phủ
nhận các quyền của người sở hữu sáng chế đối với các bên không được li-xăng.
Liên quan tới quan hệ giữa Luật Cạnh tranh và luật IPR, bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng
sáng chế có thể được cấp dựa trên các cơ sở có sự tồn tại của (i) hành vi từ chối li-xăng và (ii)
các hành vi hạn chế cạnh tranh liên quan tới IPRs của người sở hữu sáng chế.
Bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng chế không chỉ được cho phép trong Hiệp định về
các Khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs) của Tổ chức
thương mại thế giới (WTO) mà còn trong hiệp định thương mại song phương giữa Việt Nam
và Hoa Kì (BTA) (Điều 31 (c) và 31(k), TRIPs; Điều 7.8.K, Chương II, BTA). Luật sở hữu
trí tuệ 2005 của Việt Nam cũng qui định về việc bắt buộc chuyển giao quyền sử dụng sáng
chế khi “Người có nhu cầu sử dụng sáng chế không đạt được thoả thuận với người nắm độc
quyền sử dụng sáng chế về việc ký kết hợp đồng sử dụng sáng chế mặc dù trong một thời
gian hợp lý đã cố gắng thương lượng với mức giá và các điều kiện thương mại thoả đáng”
(thỏa thuận từ chối trao quyền sử dụng đối với sáng chế) hoặc “Người nắm độc quyền sử
dụng sáng chế có quyền yêu cầu chấm dứt quyền sử dụng khi căn cứ chuyển giao quy định tại
khoản 1 Điều này không còn tồn tại và không có khả năng tái xuất hiện với điều kiện việc
chấm dứt quyền sử dụng đó không gây thiệt hại cho người được chuyển giao quyền sử dụng
sáng chế.”84
9.7. Nhập khẩu song song
Một trong các vấn đề khác gây tranh cãi trực tiếp và khá quan trọng trong mối liên quan giữa
IPRs và Luật Cạnh tranh chưa được bàn luận ở trên là vấn đề nhập khẩu song song.
Hộp 29: Chi-lê cho phép nhập khẩu song song để thúc đẩy cạnh tranh
Nhiều vấn đề của nhập khẩu song song được đưa ra trước Ủy ban Ngăn ngừa của Chi-lê, hầu
hết trong số đó bắt nguồn từ các khiếu nại của các doanh nghiệp tư nhân. Nhìn chung, những
nhà nhập khẩu đều tham vấn Ủy ban về tính hợp pháp của các sản phẩm có nguồn gốc nhập
khẩu, đã được tung ra thị trường từ thỏa thuận phân phối trước kia. Ủy ban Ngăn ngừa đã cho
rằng hàng hóa có nguồn gốc nhập khẩu song song đều thúc đẩy cạnh tranh trên thị trường và
cho phép hành vi này.
Nguồn: Gesner Oliviera, Chi-lê, Các thể chế cạnh tranh trên Thế giới- Một báo cáo của Tổ
chức dân sự xã hội, CUTS (2006), trang 565.
Nhập khẩu song song là hàng hóa được mang vào một quốc gia mà không có sự cho phép của
người nắm giữ văn bằng sáng chế, thương hiệu hay bản quyền sau khi những hàng hóa này đã
Bản dịch 5/2008
81
đưa ra thị trường một cách hợp pháp. Không giống như hàng hóa xâm phạm bản quyền hay
hàng hóa giả thương hiệu, nhiều người cho rằng hàng hóa nhập khẩu song song là hàng hóa
hợp pháp, bởi vì người nắm giữ IPR đã chấp nhận cho các hàng hóa này được đưa vào thị
trường và vì vậy đã ngầm cho phép việc sử dụng tiếp theo, là việc hàng hóa này được nhập
khẩu bởi một nhà phân phối không được cho phép.
Hộp 30: Bộ Y tế điều chỉnh giá thuốc và dược phẩm nước ngoài
Đầu năm 2004, Bộ Y tế Việt Nam đã quyết định thành lập một nhóm làm việc có trách nhiệm
xem xét đơn xin nhập khẩu dược phẩm nước ngoài mà chưa đăng kí phân phối tại Việt Nam.
Thứ trưởng Bộ Y tế, Ông Lê Ngọc Trọng ra quyết định ngày 20 tháng 4 được coi như một nỗ
lực dài hạn khác nhằm kiểm soát việc nhập khẩu và phân phối dược phẩm nước ngoài và
cũng là phương tiện để bình ổn giá thuốc trong nước.
Nhóm làm việc này mỗi tuần một lần xem xét các đơn xin nhập khẩu dược phẩm không có số
đăng kí. Nhóm này có trách nhiệm hoàn toàn trong việc ra các quyết định tại các cuộc họp và
kí vào biên bản.
Đây là một trong số 18 kế hoạch của Bộ Y tế đề ra trước tháng 6 năm 2004 để đối phó với
tình trạng tăng giá thuốc. Chính sách nhập khẩu dược phẩm mới này được mong đợi là để cho
phép các doanh nghiệp trong nước được trực tiếp nhập khẩu dược phẩm từ các nhà sản xuất
nước ngoài nếu như các nhà phân phối không hoặc không thể cung cấp đầy đủ cho thị trường
hoặc cung cấp với mức giá cao.
Một quyết định khác sẽ sớm được ban hành theo đó cho phép các doanh nghiệp trong nước
có “giấy phép xuất khẩu song song” (có nghĩa là họ sẽ được phép nhập khẩu các nhãn hiệu
dược phẩm rẻ hơn hiện đang được bán với mức giá cao tại Việt Nam), đối với các loại dược
phẩm chữa trị các căn bệnh trầm trọng khi các nhà sản xuất, các nhà phân phối hoặc các công
ty sỏe hữu thương hiệu dược phẩm đã được đăng kí không thể cung cấp đầy đủ cho thị
trường, hoặc bán dược phẩm với mức giá cao.
Biện pháp này cũng nhằm ngăn chặn tình trạng độc quyền đang diễn ra trên thị trường. Tạm
thời, Bộ Y tế sẽ tập trung vào các biện pháp nhằm tăng cường kiểm soát đối với việc nhập
khẩu và phân phối dược phẩm nước ngoài, đưa ra các thủ tục hành chính mới điều chỉnh
nguồn cung cấp dược phẩm tại tất cả các bệnh viện, ngăn chặn độc quyền, kiểm soát các đơn
thuốc và việc bán thuốc và thực thi nghiêm khắc các chế tài xử phạt.
Nguồn: http://english.vietnamnet.vn/social/2004/04/143011
Các chính sách điều chỉnh nhập khẩu song song bắt nguồn từ việc xác định cụ thể tình trạng
hết phạm vi hiệu lực của IPRs. Thuật ngữ “hết phạm vi hiệu lực” đề cập tới các quyền lãnh
thổ của người nắm giữ IPR sau việc bán hợp pháp đầu tiên các sản phẩm đã được bảo hộ sở
Bản dịch 5/2008
82
hữu trí tuệ của họ. Có ba dạng khác nhau của các học thuyết về vấn đề hết phạm vi hiệu lực,
cụ thể là:
Hết hiệu lực trong phạm vi quốc gia: IPRs hết hiệu lực sau lần bán hợp pháp đầu tiên
trong phạm vi một quốc gia nhưng người sở hữu IPRs có thể ngăn cản việc tiến hành
thương mại song song với các quốc gia khác.
Hết hiệu lực trong phạm vi khu vực: IPRs hết hiệu lực sau lần bán hợp pháp đầu tiên
chỉ trong một khu vực cụ thể.
Hết hiệu lực trong phạm vi quốc tế: IPRs hết hiệu lực sau lần bán đầu tiên ở bất cứ
đâu và nhập khẩu song song sẽ được cho phép (cũng được coi như là “học thuyết của
lần bán đầu tiên”).
Có nhiều tranh luận và quan điểm về nhập khẩu song song khác nhau. Ví dụ, Nhật Bản
cho phép nhập khẩu song song đối với hàng hóa đã đăng kí bảo hộ và đã đăng kí thương
hiệu ngoại trừ có điều khoản hợp đồng không cho phép điều đó hoặc ngoại trừ việc bán
đầu tiên của họ là đối tượng của việc điều chỉnh giá hàng hóa nước ngoài. Chính sách đối
với nhập khẩu song song của Mỹ không nhất quán, theo đó hạn chế đối với nhập khẩu
song song chỉ áp dụng đối với từng loại hàng hóa cụ thể.
Không một hiệp định ràng buộc đa phương nào hay Hiệp định TRIPs cũng như Hiệp
địnhvề bản quyền của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới (WIPO) trực tiếp giải quyết vấn đề
nhập khẩu song song; mà vấn đề này được các quốc gia tự giải quyết theo cách họ cho là
phù hợp. Điều 6 Hiệp định TRIPs qui định cụ thể rằng: “Không có điều khoản nào trong
Hiệp định này được sử dụng để giải quyết vấn đề hết phạm vi hiệu lực của IPRs”.
Hộp 31: Nhập khẩu và Bán lẻ đĩa Compact
Ủy ban Cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng Australia (ACCC) cho rằng các công ty
Universal Music, Sony Music và Warner Music cùng những công ty khác đã tiến hành
các hành vi phạm pháp (đe dọa rút lợi nhuận thương mại quan trọng từ người bán lẻ và
cắt nguồn cung ứng tới đại lí bán lẻ đang bán đĩa compact nhập khẩu song song) để gây
khó khăn hoặc cản trở các doanh nghiệp Australia bán đĩa compact nhập khẩu song song
với giá cạnh tranh.
Hành vi này bị cáo buộc đã lạm dụng sức mạnh thị trường và là hành vi độc quyền giao
dịch bị cấm tại Đạo luật về các hành vi thương mại của Australia. Ban giám đốc bị cáo
buộc là đã tiến hành các hành vi này.
Toàn Tòa thuộc Tòa án Liên bang đã ủng hộ kháng cáo của Universal và Warner theo đó
hành vi của các công ty này không lạm dụng điều khoản về sức mạnh thị trường nhưng
Tòa cũng xác nhận rằng hành vi này đã vi phạm các điều khoản về hành vi độc quyền
kinh doanh.
Toàn Tòa cũng nhất trí về kháng cáo của ACCC về việc nâng mức phạt từ 760,231.59 đô
Bản dịch 5/2008
83
la Mỹ lên mức 1,520,786.52 đô la Mỹ
Nguồn: các vụ kiện được tiến hành trong tháng 9 năm 1999- Xem tóm tắt vụ kiện tại
trang web: http://www.accc.gov.au/content/index.phtml/itemId/322787
Bản dịch 5/2008
84
10. CÁC NHÂN TỐ THIẾT YẾU ĐẺ THÀNH CÔNG
Xây dựng một thể chế cạnh tranh hiệu quả trong bối cảnh các quốc gia đang phát triển không
phải là một công việc dễ dàng. Thiếu chuyên môn trong các vấn đề cạnh tranh cũng như tính
chất luôn mới mẻ của vấn đề này khiến cho nhiệm vụ đơn giản là thảo ra các qui định luật
pháp phù hợp cũng trở nên khó khăn. Hơn nữa, ngay cả khi Luật được thảo ra với nhiều ý
định và lời cảnh báo thì vẫn không có có thể đảm bảo là nó có thể thực hiện được các mục
tiêu của nó.
10.1. Trình tự thực hiện Luật cạnh tranh
Để đạt được thành công trong việc thực thi luật cạnh tranh, một trong những gợi ý hiệu quả
cho đến nay là thiết lập một cơ quan quản lí cạnh tranh với cách tiếp cận theo giai đoạn dối
với việc thực thi luật, có thể phù hợp đối với việc hoạch địch và triển khai Luật Cạnh tranh.85
Sự sắp xếp dưới đây là một phiên bản cải tiến hơn dựa trên bài phát biểu của Gesner Oliviera
(cựu chủ tịch của cơ quan cạnh tranh Brazil) tại một cuộc họp của tổ chức CUTS vào năm
2002. Ông đã phát triển phiên bản này dựa trên ý tưởng của Shyam Khemani và Mark Dutz
của World Bank.86
Do nguồn lực hạn chế và tính mới của nó, một cơ quan cạnh tranh nên bắt đầu công việc của
mình với việc làm lợi nhất cho thị trường và xây dựng uy tín của mình trên thị trường. Dần
dần cơ quan này sẽ đưa ra các biện pháp phức hợp hơn nữa về các phân tích chi phí/lợi ích.
Việc điều chỉnh các hành vi sáp nhập có thể được tiến hành sau việc kiểm soát hành vi bởi vì
thực tế là những tác động về lợi ích của một hành vi sáp nhập có thể không rõ ràng như là
hành vi ấn định giá cả hoặc hành vi câu kết thông đồng, hành vi này trực tiếp hạn chế phúc
lợi xã hội và có thể dễ dàng bị phát hiện bởi chính quyền và cộng đồng.
Phát triển là một quá trình không ngừng nghỉ và các giai đoạn của quá trình này không bao
giờ có thể xác định một cách rõ ràng, đồng thời trong một số trường hợp các ưu tiên khác
nhau có thể phù hợp hơn với từng giai đoạn. Trong một số nền kinh tế, đặc biệt là những nền
kinh tế tồn tại di sản sở hữu nhà nước hoặc các công ty có vị trí thống lĩnh thị trường khác
như ở Việt Nam, hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường/ độc quyền có thể cũng cần có
một chính sách tương tự như trường hợp các hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang.87
Tuy
nhiên, trong khi sử dụng sức mạnh của mình để chế ngự các hành vi độc quyền trong khối sở
hữu công, cơ quan cạnh tranh phải tiến hành từng bước chứ không phải tuân theo các nguyên
tắc cứng nhắc. Bởi vì, trong khi người tiêu dùng muốn hạn chế các hành vi phản cạnh tranh
và các hành vi ảnh hưởng tới lợi ích của người tiêu dùng do khối sở hữu công tiến hành, theo
tiềm thức, cơ quan quản lí cạnh tranh cảm thấy e ngại khi chống lại lợi ích của khối này. Vấn
đề này thường được ủng hộ bởi cộng đồng, được dàn xếp bởi các chính trị gia và công đoàn,
đây là những cá nhân và đơn vị sẽ bị phạt nếu như các doanh nghiệp sở hữu công bị nhắc
nhở. Điều này là mối lo ngại lớn đối với khối tư nhân cũng như đối với các doanh nghiệp
nước ngoài.
Bản dịch 5/2008
85
Bảng 1: Các giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển cơ chế đối với các thể chế
cạnh tranh quốc gia
I. Khởi đầu II. Tăng cường III. Tiến bộ IV. Trưởng thành
1. Tuyên truyền về cạnh
tranh và giáo dục cộng
đồng
6. Kiểm soát hành vi
sáp nhập
9. Điều tiết
kinh tế
11. Các cơ quan hợp
tác quốc tế thế hệ thứ
hai
2. Kiểm soát các hành vi
hạn chế cạnh tranh theo
chiều ngang
7. Các hành vi hạn
chế cạnh tranh theo
chiều dọc
10. Các cơ
quan hợp tác
quốc tế
12. Tuyên truyền
cạnh tranh một cách
tích cực
3. Kiểm soát các hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường
8. Sự phát triển của
học thuyết về tác
động
4. Miến trừ và miễn giảm
trên cơ sở lợi ích cộng
đồng
5. Hỗ trợ kĩ thuật
Nguồn: Pradeep S. Mehta (2003), Những người bạn của Cạnh tranh – Làm thế nào để xấy
dựng một thể chế cạnh tranh hiệu quả tại các nước đang phát triển và các nền kinh tế đang
chuyển đổi , CUTS, India, p.20
Các giai đoạn gợi ý ở trên được sắp xếp theo mức độ khó khăn mà một cơ quan quản lí cạnh
tranh có thể phải đối mặt trong việc tiến hành phân tích chi phí – lợi ích của những ảnh
hưởng mà các biện pháp điều tiết cạnh tranh mang lại đối với phúc lợi xã hội. Tuy nhiên, có
thể nói rằng một cách chắc chắn rằng việc khởi tố hành vi ấn định giá cả sẽ gặp khó khăn hơn
nhiều việc thông qua một hành vi sáp nhập. Trên thực tế, hành vi thông đồng cùng với hậu
quả xấu của nó được tiến hành một cách dễ dàng song lại khó có thể chứng minh trong một
phiên tòa do thiếu cơ sở pháp lí và bằng chứng đầy đủ. Vì vậy, ngoài khả năng thành công
tương đối thông qua các kênh khác hoặc các chính sách công cộng, kế hoạch thực tế không
chỉ phải tính đến thiệt hại của một hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra cho nền kinh tế và người
tiêu dùng mà còn phải tính đến các cơ hội thành công và khoản tiền hoàn trả mong đợi sau
khi phải chi trả cho việc theo đuổi vụ kiện,
10.2. Xây dựng một văn hóa cạnh tranh lành mạnh
Nhân tố chính thứ hai nhưng không kém phần quan trọng để thực thi thành công luật Cạnh
tranh là xây dựng một văn hóa cạnh tranh lành mạnh. Để tạo ra một văn hóa cạnh tranh lành
mạnh cần phụ thuộc vào việc thực thi hiệu quả Luật Cạnh tranh và môi trường chính sách có
ích. Có một vài nhân tố góp phần (nhưng cũng có tiềm năng thực hiện) cho việc thực thi
thành công Luật Cạnh tranh như:88
Thẩm quyền của cơ quan quản lí cạnh tranh;
Độc lập khỏi sự can thiệp về chính trị;
Sự ủng hộ của chính trị đối với các mục tiêu của cạnh tranh; và
Bản dịch 5/2008
86
Tính sẵn có của các nguồn lực.
10.2.1 Thẩm quyền của cơ quan quản lí cạnh tranh
Khuôn khổ thể chế: Để cơ quan quản lí cạnh tranh có thể hoạt động một cách hiệu quả, điều
quan trọng là cơ quan này có toàn quyền điều tra và xét xử. Thẩm quyền điều tra đương nhiên
lúc nào cũng được trao cho cơ quan này.
Trong các trường hợp khi cơ quan quản lí cạnh tranh có cả thẩm quyền xét xử, thì cơ quan
này có thể đưa ra các mệnh lệnh hoặc phán quyết độc lập về các vụ việc cụ thể dựa trên quá
trình điều tra và các kết quả phân tích. Khi đó, hệ thống thực thi Luật Cạnh tranh hoàn chỉnh
trong một cơ quan riêng biệt. Mặc dù vậy, để minh bạch hóa, các quyết định của cơ quan
cạnh tranh thường có thể được kháng án bởi các doanh nghiệp liên quan tại tòa án có thẩm
quyền cao hơn trong hệ thống pháp lí của một quốc gia. Trong trường hợp này, quyền khởi
kiện của các cá nhân thường bị hạn chế. Liên minh Châu Âu theo hệ thống này; với các quyết
định và mệnh lệnh được đưa ra bởi Ủy Ban Châu Âu thì có thể bị kháng án.
Cũng có những hệ thống khác, trong đó thẩm quyền xét xử được tách ra khỏi thẩm quyền
điều tra của cơ quan quản lí cạnh tranh. Một trong số các hệ thống kiểu này là khi cơ quan
cạnh tranh (có trách nhiệm điều tra các hành vi hạn chế cạnh tranh cũng như các vụ việc
M&A) có thể đưa một vụ kiện ra trước tòa án để xét xử. Trong khi đó, các bên liên quan cũng
có quyền song song là có thể đưa vụ kiện riêng của mình ra trước tòa án. Đây là trường hợp
của Mỹ. Ở Ấn Độ thẩm quyền này cũng tồn tại như vậy. Thêm vào đó, người tiêu dùng và
các tổ chức của họ cũng có thể có thể khiếu kiện ra trước tòa. Hệ thống này giúp cho việc
kiểm soát dựa trên thẩm quyền điều tra và khởi kiện của cơ quan cạnh tranh được thận trọng
và chủ động hơn.
Hoặc là việc xét xử có thể được tiến hành bởi một tòa án cạnh tranh đặc biệt thuộc về hệ
thống pháp luật toàn diện của một quốc gia. Điều này có ý nghĩa lớn trong tình trạng thiếu
chuyên gia có chuyên môn trong số các thẩm phán tiến hành xét xử tất cả các vấn đề dân sự
và hình sự trong cùng một thời gian. Mặt khác, điều này tránh được tình trạng tập trung quá
nhiều thẩm quyền vào một cơ quan cạnh tranh. Một mô hình hệ thống kiểu này được đánh giá
là thành công cho đến nay là ở Nam Phi, nơi mà hệ thống thực thi Luật Cạnh tranh được chia
đôi ra thành ủy ban cạnh tranh và tòa án cạnh tranh. Đây được gọi là hệ thống “độc lập” và
được khuyến khích trong Luật mẫu của OECD – World Bank.
Trong trường hợp của Việt Nam, thẩm quyền điều tra được dành riêng cho Cục quản lí cạnh
tranh thuộc Bộ thương mại, cơ quan này cũng có thể đưa ra mệnh lệnh và sự phê chuẩn trong
trường hợp các hành vi hạn chế cạnh tranh và M&As. Thẩm quyền xét xử các hành vi phản
cạnh tranh được trao cho Hội đồng cạnh tranh. Bộ trưởng Bộ thương mại và Thủ tướng chính
phủ có quyền cho hưởng ngoại lệ và miễn trừ.89
Việc phân chia thẩm quyền này được mong đợi là có thể giúp tạo ra niềm tin trong việc thực
thi Luật Cạnh tranh một cách công bằng, đặc biệt là vấn đề cơ quan quản lí cạnh tranh sẽ trực
thuộc Bộ thương mại. Việc thiết lập một cơ quan đặc biệt giúp phát triển kiến thức và chuyên
Bản dịch 5/2008
87
môn cũng như tránh rắc rối phải đưa ra tòa án trong tất cả các vụ việc, sự hạn chế về thời gian
và nguồn lực, do đó sẽ hạn chế được số lượng các vụ việc mà một cấu trúc cạnh tranh tách
đôi có thể giải quyết được. Tuy nhiên, trên thực tế, hầu hết các thành viên của Hội đồng đều
là quan chức cấp cao từ các Bộ liên quan và các cơ quan luật pháp được bổ nhiệm như các
cán bộ kiêm nhiệm chứ không phải các thẩm phán làm việc toàn thời gian. Mặc dù điều này
có thể giúp tạo điều kiện cho sự hợp tác giữa các ban ngành nhưng cũng có mặt hạn chế là
tính chuyên nghiệp và trình độ chuyên môn chỉ ở mức thấp, điều này có thể làm thất bại các
mục tiêu ban đầu của các cơ quan chia tách và sự phát triển chuyên môn cụ thể.
Chức năng tuyên truyền: Một trong các chức năng quan trọng của cơ quan quản lí cạnh tranh
tại các nước đang phát triển là chức năng tuyên truyền. Để tạo ra một nền văn hóa cạnh tranh,
nhận thức về các vấn đề cạnh tranh và làm thế nào đề chúng có thể tác động tích cực tới các
nhóm lợi ích khác nhau cần được thiết lập trong giới doanh nghiệp, người tiêu dùng, những
người hoạch định chính sách và giới truyền thông. Điều này tăng cường việc tuân thủ luật và
các thúc đẩy các ảnh hưởng ngăn chăn, thúc đẩy nhận thức và sự chấp nhận bộ máy cạnh
tranh trong xã hội cũng như tạo ra sự ủng hộ đối với việc thực thi Luật Cạnh tranh. Cơ quan
quản lí cần phải phân bổ hợp lí các nguồn lực cho các hoạt động này. Ngoài ra, để thực hiện
các hoạt động này một cách hiệu quả, hoạt động tuyên truyền cần được cụ thể hóa theo như
thẩm quyên của cơ quan quản lí. Tại nhiều quốc gia trong đó có Ấn Độ, thẩm quyền này
được trao cho cơ quan quản lí cạnh tranh.
Trong trường hợp Việt Nam, Luật Cạnh tranh không trao quyền cho cơ quan quản lí cạnh
tranh và hội đồng xét xử tiến hành bất cứ hoạt độnh nào ngoài hoạt động thực thi luật, tuy
nhiên Cục Quản lí Cạnh tranh đã cố gắng tiến hành các hoạt động tuyên truyền trong phạm vi
hoạt động của mình. Tuy nhiên do thiếu thẩm quyền pháp lí nên điều này có thể ảnh hưởng
tới ngân sách của cơ quan này. Có một lựa chọn cho vấn đề này là thu hút sự ủng hộ từ các
quĩ quốc tế, hay làm đối tác trong hoạt động tuyên truyền với một số tổ chức dân sự xã hội
(CSOs) có uy tín.
Các công cụ thực thi luật pháp: Có một số điều khoản luật pháp tác động tới sự hoàn thiện
thể chế của các cơ quan quản lí cạnh tranh.
Để bắt đầu với các điều khoản luật pháp, đặc biệt là các điều khoản qui định cấu trúc thể chể
và thẩm quyền của cơ quan quản lí cạnh tranh, cần phải phù hợp với các nguyên tắc luật pháp
chung và các qui định của hiến pháp.
Thứ hai, thẩm quyền điều tra của cơ quan quản lí cạnh tranh nên được mở rộng. Các cơ quan
cạnh tranh cần theo dõi các thị trường và nắm bắt thông tin đối với hoạt động của các thành
viên tham gia thị trường một cách hiệu quả. Để thực hiện được những nhiệm vụ này, cơ quan
quản lí cạnh tranh cần được trang bị các công cụ điều tra giúp cho quá trình thu thập thông tin
liên quan. Ví dụ, họ có thể được phép vào cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp để thu thập
thông tin, để điều tra các nhà quản lí và nhân viên của công ty đồng thời để yêu cầu các
doanh nghiệp bị nghi ngờ vi phạm cung cấp thông tin. Cũng cần có một hình phạt thích đáng
đối với những đối tượng không hợp tác trong quá trình điều tra.
Bản dịch 5/2008
88
Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, các cơ quan cạnh tranh nên qui định các hình
phạt nặng đối với hành vi hạn chế cạnh tranh. Mức độ ngăn chặn của một bộ luật thường
được xác định thông qua khả năng điều tra về hành vi vi phạm và mức độ hình phạt áp dụng
đối với người vi phạm. Nếu như các biện pháp trừng phạt không đủ nghiêm minh, nó có thể
khuyến khích các thành viên của thị trường tiến hành các hành vi hạn chế cạnh tranh, và sau
đó họ sẵn sàng nộp tiền phạt nếu như bị phát hiện. Đây là một thực tế khá phổ biến đối với
các công ty xuyên quốc gia lớn, hoặc các vụ vi phạm nghiêm trọng có thể mang lại lợi ích
kinh tế vô cùng lớn. Do vậy, Luật nên thành lập các cơ quan thực thi với các biện pháp chế
tài đủ mạnh để có thể hạn chế được các hành vi phản cạnh tranh, khi tính tới các cấp độ thực
thi luật.
Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã đáp ứng được các điều kiện này. Cơ quan quản lí cạnh
tranh và Hội đồng xét xử đã được thành lập và sắp đi vào hoạt động. Họ cũng có thẩm quyền
tiến hành các vụ khám xét cơ sở kinh doanh và các vụ khám xét cá nhân, đưa ra cảnh báo và
các lệnh đình chỉ - tạm ngừng kinh doanh. “Đối với các hành vi vi phạm qui định về thỏa
thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền
hoặc tập trung kinh tế, cơ quan có thẩm quyền xử phạt có thể phạt tiền tối đa đến 10% tổng
doanh thu của tổ chức, cá nhân vi phạm trong năm tài chính trước năm thực hiện hành vi vi
phạm”90
10.2.2. Độc lập khỏi can thiệp về chính trị
Quyền tự quyết: Các cơ quan quản lí cạnh tranh có thể có một số cấu trúc khác nhau. Các cơ
quan độc lập nhất không chỉ độc lập về mặt hành chính khỏi chính phủ mà còn được bố trí
thông qua tính chuyên trách về các vấn đề cạnh tranh và không phải phụ thuộc vào chính phủ
đối với việc phân bổ ngân sách. Các cơ quan cạnh tranh ít độc lập hơn là các cơ quan trực
thuộc một Bộ trong chính phủ và với vị thế như vậy sẽ phải chịu các hạn chế trong việc tuyển
chọn công chức cũng như việc phân bổ ngân sách từ trung ương.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc chính trị hóa cơ quan cạnh tranh được chấp nhận.
Nga là một ví dụ điển hình. Nga đã ban hành một Bộ luật chống độc quyền được coi như một
phần không thể thiếu trong công cuộc cải cách kinh tế toàn diện để chuyển từ chế độ xã hội
chủ nghĩa tập trung bao cấp sang một nền kinh tế theo hướng thị trường. Đầu tiên, Bộ trưởng,
một thành viên tích cực của chính phủ, là người đứng đầu Bộ chống cạnh tranh của Nga.
Điều này có lợi là: các nguyên tắc cạnh tranh khá khác biệt so với các nguyên tắc cũ trở nên
khá hiệu quả, người đứng đầu cơ quan quản lí cạnh tranh phải có một thẩm quyền chính trị
mạnh để có thể tham gia vào các quyết định của Bộ trưởng đối với việc ban hành chính sách
kinh tế. Tuy có một số quyết định dựa trên các cân nhắc chính trị, nhưng một số khác thì
không thể được giải quyết hay thực thi mà không có sức mạnh chính trị mạnh mẽ. Tuy nhiên
khi một chính sách kinh tế đi vào thực thi thì cần phải thay đổi tổ chức cơ cấu và thiết lập một
cơ quan có quyền tự quyết hơn. 91
Hệ thống của Nga được thay đổi vào năm 2004, sau một
thời gian đúc kết được một vài kinh nghiệm hoạt động, cơ quan này được chuyển từ trực
thuộc một Bộ sang thành Cơ quan quan lí cạnh tranh Liên Bang. Người đứng đầu của Ủy ban
Thương mại công bằng Hàn Quốc (KFTC) cũng là một thành viên trong nội các chính phủ.
Bản dịch 5/2008
89
Can thiệp về mặt chính trị vì vậy rõ ràng không thể được xác định chỉ thông qua việc xem xét
cấu trúc các thể chế tương đương.
Đây cũng là trường hợp của Việt Nam khi mà cơ quan quản lí cạnh tranh không có quyền tự
quyết (quyền này nằm trong tay Bộ thương mại, mà Bộ trưởng là người có quyền quyết định
nhiều nhất). Đây là vấn đề gây khá nhiều tranh cãi. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng Bộ
thương mại là nơi duy nhất có sẵn mọi kiến thức và chuyên môn về cạnh tranh. Có lẽ đây là
mô hình tối ưu nhất tại thời điểm này và cần phải có một thời gian dài để cơ quan này phát
triển thành một cơ quan có tính độc lập hoàn toàn.
Đội ngũ lãnh đạo tốt: Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy hiệu quả của một cơ quan cạnh
tranh thay đổi cùng với chất lượng của đội ngũ lãnh đạo cơ quan. Trên thực tế, người đứng
đầu của cơ quan này thường xác định các công việc ưu tiên của cơ quan và kết quả của các
quyết định đó. Ngay cả khi nhà lãnh đạo đó không được trao thẩm quyền một cách hợp pháp
để tiến hành các công việc cụ thể, tuy nhiên người này có thể quyết định xem liệu rằng có nên
tiến hành một cuộc điều tra tại các thị trường cụ thể. Vì vậy quan trọng là người lãnh đạo đó
phải không bị điều khiển về mặt chính trị để phục vụ cho lợi ích của bất cứ nhóm cụ thể nào.
Mặc dù các áp lực chính trị đối với quá trình bổ nhiệm chức vụ không thể hoàn toàn hạn chế
được, những điều quan trọng là phải giảm đến mức tối thiểu những áp lực chính trị này.
Ngoài ra, như đã đề cập trong các ví dụ của Nga và Hàn Quốc ở trên, sẽ là rất có lợi nếu như
nhà lãnh đạo của một cơ quan quản lí cạnh tranh mới có uy tín cá nhân cao, bởi vì điều này sẽ
mang lại vị thế cao hơn cho cơ quan này trên chính trường và trong con mắt của cộng đồng.
Cũng sẽ rất có lợi nếu như nhà lãnh đạo có được các mối quan hệ chính trị tốt, điều này có
thể hỗ trợ nhà lãnh đạo giải quyết được các trường hợp gây nhiều tranh cãi.
10.2.3. Hỗ trợ về mặt chính trị
Hỗ trợ về mặt chính trị và giải quyết các nhóm lợi ích khác nhau: Xem xét ở phương diện mở
rộng hơn về vấn đề trên, sự hỗ trợ về mặt chính trị khá quan trọng đối với thành công của một
Bộ Luật Cạnh tranh. Điều này tạo điều kiện cho sự thông suốt của quá trình xây dựng luật,
và có thể tạo ra nhiều tính độc lập và các nguồn lực hơn cho cơ quan sẽ thực thi chính sách.
Công khai hóa rộng rãi về cơ quan quan lí cạnh tranh và sự ủng hộ từ các nhà chính trị chủ
chốt sẽ gây khó khăn hơn cho các nhà chính trị khi rút lại các cam kết của mình dưới áp lực
của các nhóm lợi ích đặc biệt. Sự ủng hộ về chính trị sẽ làm tăng vị thế cho các vấn đề cạnh
tranh và xây dựng nhận thức của cộng đồng thông qua phương tiện truyền thông.
Trong hoạt động của mình, cơ quan quản lí cạnh trạnh sẽ phải tiến hành công việc của mình
dựa trên các nhóm lợi ích trong nước. Trong quá khứ, rất nhiều nhóm này sẽ được hưởng lợi
từ việc bảo hộ khỏi cạnh tranh có nguồn gốc từ nước ngoài cũng như ở trong nước và tiếp tục
có ảnh hưởng trong hệ thống chính trị. Sự ủng hộ về chính trị ở cấp cao sẽ là cần thiết để đảm
bảo rằng không có một sự can thiệp về chính trị nào trong hoạt động của cơ quan quản lí cạnh
tranh và trong việc ban hành các quyết định của cơ quan này.
Bản dịch 5/2008
90
Quan hệ với các cơ quan điều tiết nghành: Như đã đề cập ở trên, Luật Cạnh tranh chỉ là một
phần của chính sách cạnh tranh. Hiệu quả của một Bộ Luật Cạnh tranh sẽ phụ thuộc vào mức
độ tương quan của nó với các chính sách điều tiết ngành khác, và theo đó, sự chồng chéo trực
tiếp nhất sẽ là với các cơ quan điều tiết ngành quản lí các ngành trọng yếu có nhiệm vụ xây
dựng và thúc đẩy cạnh tranh trong các ngành đã được điều tiết. Ranh giới và vai trò của các
cơ quan điều tiết cũng như của cơ quan quan lí cạnh tranh khó có thể xác định và tại nhiều
quốc gia các vấn đề chồng chéo này vẫn chưa được giải quyết. Lí tưởng nhất là các cơ quan
điều tiết ngành sẽ tập trung vào cấu trúc của ngành, có gắng xây dựng một thị trường có tính
cạnh tranh để vai trò của các cơ quan điều tiết trong việc điều chỉnh giá cả ngày càng được
hạn chế.
Vai trò của cơ quan quản lí cạnh tranh là giải quyết các vụ việc hạn chế cạnh tranh. Tuy
nhiên, chắc chắn là các cơ quan điều tiết ngành sẽ tiếp tục đóng vai trò tích cực trong tương
lai không xa. Để tránh các xung đột và nhầm lẫn có thể có, Luật Cạnh tranh và các bộ luật
của các ngành nên cụ thể rõ ràng các trường hợp nào mà cơ quan cạnh tranh có thể tiến hành
điều tra hoạt động của các công ty trong ngành được điều tiết riêng. Luật pháp cũng nên qui
định vai trò tham vấn của các cơ quan cạnh tranh trong việc thực thi và phát triển các chính
sách điều tiết ngành.
Trong trường hợp của Việt Nam, Luật Cạnh tranh 2004 qui định “Trường hợp có sự khác
nhau giữa qui định của Luật này với qui định của Luật khác về hành vi hạnc hế cạnh tranh,
cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng qui định của Luật này”.92
Điều này có nghĩa là cơ
quan cạnh tranh sẽ có thẩm đối với tất cả mọi vấn đề liên quan đến cạnh tranh trong tất cả các
ngành, bao gồm các các ngành đã điều tiết, trong khi các cơ quan điều tiết ngành sẽ quản lí
các vấn đề về cấu trúc và kĩ thuật.
Ủng hộ của từ hoạt động tích cực của Người tiêu dùng: Hoạt động tích cực của người tiêu
dùng đã được thừa nhận từ lâu như một yếu tố quan trọng trong thành công của một Bộ luật
cạnh tranh nói riêng và trong các cải cách nói chung. Trao quyền cho người tiêu dùng và các
tổ chức đại diện có thể đưa đơn kiện các vụ việc hạn chế cạnh tranh, bao gồm lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường và các hành vi thông đồng tới cơ quan quản lí cạnh tranh. Họ cũng sẽ
được coi là một lực lượng chủ động trong việc chống lại sự phản đối của các doanh nghiệp
trong việc thực thi thành công Luật cạnh tranh.
Nhiều người tiêu dùng không nhận thức đầy đủ về vai trò của luật cạnh tranh. Vì vậy, các tổ
chức của người tiêu dùng có vai trò lớn trong việc giải thích tầm quan trọng của luật cạnh
tranh thông qua việc tuyên truyền về luật trong các sản phẩm và hoạt động quen thuộc hàng
ngày của người dân.
Tổ chức duy nhất của người tiêu dùng tại Việt Nam cho đến thời điểm này là Hiệp Hội Tiêu
chuẩn và Bảo vệ người tiêu dùng (VINASTAS), có trụ sở tại Hà Nội cùng với các chi nhánh
tại khắp cả nước. Tổ chức này đã tham gia một cách tích cực vào việc ban hành và thực hiện
Luật Cạnh tranh 2004. Tuy nhiên, tổ chức này còn phải đối mặt với vấn đề thiếu nguồn lực
trầm trọng cũng như khủng hoảng ban lãnh đạo (bởi vì ban lãnh đạo cũ đã khá cao tuổi khó
Bản dịch 5/2008
91
có thể gánh vác được trách nhiệm lâu nữa). Do vậy, chính phủ cũng như sự ủng hộ của cộng
đồng để phát triển tổ chức này là vô cùng quan trọng.
10.2.4. Các nguồn lực sẵn có
Nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan quản lí cạnh tranh hoạt động một cách hiệu quả, các cơ
quan này cần phải có các nguồn lực đầy đủ. Mức độ hỗ trợ về tài chính cần phải sẵn có và
cách sử dụng nguồn tài chính này cũng hết sức quan trọng, bên cạnh đó nguồn lực con người
cũng không kém phần quan trọng.
Nguồn lực con người: Một bộ luật tốt nhất cũng không thể áp dụng được mà không có nguồn
lực con người đầy đủ, nghĩa là một nhân viên có đầy đủ tiêu chuẩn và khả năng chuyên môn.
Điều kiện cuối là đặc biệt quan trọng trong lĩnh vực luật cạnh tranh, điều kiện này thường bao
gồm sự phân tích kinh tế ở cấp độ cao bổ sung thêm yếu tố pháp lí để điều tra và phân tích
ảnh hưởng của các hoạt động kinh doanh.
Vì vậy các cơ quan cạnh tranh cần phải thuê luật sư, các nhà kinh tế và các nhà điều tra có
liên quan tới các vấn đề cạnh tranh. Ngoài ra, cũng có thể thuê một số luật sư có kinh nghiệm
trong xử lí các tranh chấp và có kiến thức vững vàng về luật hành chính và các thủ tục dân sự.
Đặc biệt trong những năm đầu hoạt động, cơ quan cạnh tranh có thể bị yêu cầu phải thuyết
phục các tòa án rằng các vụ kiện của mình hoàn toàn hợp lí về mặt thủ tục và thực sự quan
trọng.
Nguồn lực tài chính: Nguồn lực tài chính là một yếu tố bổ sung cần thiết cho nguồn lực con
người. Những nguồn chi tiêu này bao gồm tiền lương của chuyên gia và nhân viên hành
chính và chi phí cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng để phục vụ cho công việc của những người
này.
Bởi vì các vụ việc liên quan tới luật cạnh tranh thường tiêu tốn một khoản lớn trong quá trình
điều tra và chi phí cho tòa án, điều quan trọng là các quyết định thi hành phải tiến hành trên
cơ sở hợp lí và các vụ kiện chỉ nên tiến hành trong trường hợp chi phí thi hành thấp hơn
những tổn thất đã được ngăn chặn trong trường hợp cụ thể hoặc thông qua các biện pháp
ngăn chặn có thể có và sẽ được sử dụng trong việc ngăn chặn các vụ việc tương tự xảy ra.
Điều này đặc biệt đúng với các nền kinh tế nhỏ có ngân sách cho việc thực thi luật thấp hơn.
Bản dịch 5/2008
92
11. KHUÔN KHỔ LÝ TƯỞNG CHO VIỆT NAM
Mục tiêu của Luật cạnh tranh là đảm bảo cho cạnh tranh có mặt trên thị trường. Một bộ luật
cạnh tranh thành công trong mục tiêu này là một bộ luật hiệu quả. Có một số trường hợp luật
cạnh tranh tỏ ra quá khắt khe, cứng nhắc ví dụ như Đạo luật về các hành vi hạn chế cạnh
tranh và các hành vi độc quyền (Đạo luật MRTP) năm 1969 của Ấn Độ, điều này có thể gây
cản trở tới quá trình cạnh tranh trên thị trường do sự kiểm soát quan liêu quá mức.93
Mặt khác, một bộ luật cạnh tranh quá lỏng lẻo có thể tạo điều kiện cho các công ty lớn thấy
dễ dàng để có thể loại các công ty khác khỏi thị trường thông qua việc tiến hành các hành vi
hạn chế cạnh tranh, hoặc lợi dụng người tiêu dùng. Vì vậy, luật cạnh tranh của một quốc gia
phải cân bằng một cách phù hợp giữa quyền tự do tiến hành hoạt động kinh doanh và qui
định về các hoạt động kinh doanh này. Như đã nói ở trên, một số quan điểm cần phải chú
trọng trong khi xây dựng một thể chế cạnh tranh tại Việt Nam sẽ được tóm tắt lại dưới đây:
11.1. Chỉnh sửa phù hợp các qui định cụ thể của Luật
Qui định cụ thể trong các bộ luật có thể quá lỏng lẻo hoặc quá cứng nhắc, và cần phải được
chỉnh sửa cho phù hợp hơn để đáp ứng được các nguồn lực con người và tài chính sẵn có.
Điều này sẽ giúp tiết kiệm chi phí thực thi, đây là gánh nặng quá lớn đối với một cơ quan
cạnh tranh non trẻ và thiếu nguồn lực như cơ quan quản lí cạnh tranh của Việt Nam. Ví dụ
như nguyên tắc có lí được áp dụng cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam qúa
lỏng lẻo và có thể đặt ra những gánh nặng cho việc thực thi một cách không cần thiết. Mặt
khác, các điều khoản qui định chi tiết nội dung của một cuộc điều tra và các bước tiến hành
(ví dụ như xác định các thị trường tương đương, tính toán thị phần, v.v…- Điều 89(1) của
Luật cạnh tranh) trong tất cả các trường hợp là qúa cứng nhắc một cách không cần thiết.
Một điều quan trọng nữa là, điều 8 và điều 13 yêu cầu các doanh nghiệp phải biết thị phần
riêng của họ trước khi tiến hành các hoạt động kinh doanh cụ thể trong các thỏa thuận gia
nhập lẫn trong các trường hợp sáp nhập với các doanh nghiệp khác, và vì vậy phải biết xem
liệu họ có nằm trong sự điều chỉnh của Luật hay không. Đây rõ ràng là điều không thể và có
thể ảnh hưởng tới sự tín nhiệm và tính thực thi của Luật, như đã bàn luận trong các phần
trước. Sẽ thích hợp hơn nếu như miễn trừ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi xác định
phạm vi của Luật thông qua việc xác định vấn đề này. Còn lại tất cả các doanh nghiệp khác
phải tuân theo các yêu cầu của Luật. Các chỉ số về thị phần vẫn sẽ là cơ sở để xác định các
ảnh hưởng hạn chế cạnh tranh nhưng ít nhất thì các doanh nghiệp cũng được biết xem liệu họ
có chịu sự điều chỉnh của Luật hay không.
11.2. Sự phân biệt rõ ràng giữa các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và
theo chiều ngang
Các điều khoản trong Luật Cạnh tranh 2004 của Viêt Nam điều chỉnh các thỏa thuận hạn chế
cạnh tranh không phân biệt rõ ràng giữa thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang và
thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc. Rất nhiều điều khoản có thể được áp dụng cho
cả hai trường hợp. Điều này nên được xem xét lại trong lần sửa đổi Luật tiếp theo, hoặc việc
Bản dịch 5/2008
93
áp dụng Luật đối với hai thỏa thuận hạn chế cạnh tranh loại này cần được giải thích rõ ràng
trong các hướng dẫn thi hành đối với công chúng, nhằm tránh việc xử lí một cách khắt khe để
tăng cường hiệu quả các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc hoặc các miễn trừ
không cần thiết đối với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang.
11.3. Phát hành các hướng dẫn thực thi Luật dễ đọc, dễ hiểu
Việc ban hành Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam là một bước tiến lớn nhằm thúc đẩy cạnh
tranh trong nền kinh tế Việt Nam. Cùng với nó, một vài qui định thực thi đã được ban hành
như Nghị định 116/2005, giải thích các điều khoản của Luật, Nghị định 120/2005 qui định
một số cấp độ hình phạt và biện pháp sửa chữa đối với các hành vi vi phạm cạnh tranh,v.v…
Tuy nhiên tất cả các tài liệu này đều mang tính kĩ thuật cao và vẫn chưa được công bố rộng
rãi đối với công chúng. Về vấn đề này, các hướng dẫn hiệu quả đối với người đọc về các qui
định quan trọng của Luật nên được xuất bản và phân phát rộng, điều này có vai trò khá quan
trọng trong công tác tuyên truyền, giáo dục cộng đồng cũng như trong quá trình thực thi Luật.
Cũng nên mở một trang web để mọi người có thể truy cập thông tin.
11.4. Phạm vi điều chỉnh toàn diện hơn của Luật cạnh tranh
Một vài vấn đề quan trọng đã không được đề cập đến trong Luật Cạnh tranh 2004 nên được
thêm vào như vấn đề thỏa thuận từ chối kinh doanh, sự tương tác với các cơ quan điều tiết
ngành, các vấn đề liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ, kiến thức kinh tế,v.v…
Một hành vi hạn chế cạnh tranh khác cũng khá quan trọng mà không được quy định cụ thể
trong Luật cạnh tranh là hành vi từ chối giao dịch, trong khi đây là vấn đề xảy ra nhiều trong
thực tế điều tiết ngành thông tin và truyền thông. Mặt khác, Luật cạnh tranh được cho là để
giải quyết tất cả các vấn đề liên quan tới cạnh tranh thay cho các luật và chính sách khác từ
trước. Trong khi hành vi từ chối giao dịch là một vấn đề cạnh tranh, người ta sẽ không biết
giải quyết vấn đề này như thế nào khi mà có xung đột giữa hai Luật này.
11.5. Qui định cụ thể đối với các vấn đề cạnh tranh liên quan tới quyền sở hữu trí tuệ
Luật cạnh tranh và Luật sở hữu trí tuệ, đặc biệt là việc thực thi các bộ luật này là vấn đề khá
mới mẻ đối với Việt Nam. Liên quan tới sự tương tác thực chất giữa hai lĩnh vực này, nếu
những người làm chính sách và các cơ quan thực thi Việt Nam có thể xác định được một sự
cân bằng hợp lí giữa chúng thì điều này có thể giúp cho việc thu hút và thúc đẩy chuyển giao
công nghệ, đồng thời thúc đẩy quá trình xây dựng môi trường kinh doanh có tính cạnh tranh
tăng cường cả phúc lợi cho khách hàng lẫn lợi ích xã hội. Trong khi Luật sở hữu trí tuệ 2005
của Việt Nam đã đề cấp tới vấn đề này và dẫn chiếu tất cả các vấn đề cạnh tranh liên quan tới
quyền sở hữu trí tuệ tới Luật cạnh tranh 2004, thì bộ luật này lại không thể giải quyết vấn đề
này một cách thấu đáo và phù hợp.
11.6. Sự mở rộng quy mô pháp lí của Luật Cạnh tranh ra ngoài biên giới lãnh thổ
Trong kỉ nguyên toàn cầu hóa, một bộ Luật cạnh tranh thiếu thẩm quyển pháp lí để giải quyết
bất kì một hành vi hạn chế cạnh tranh có nguồn gốc từ bên ngoài nào (mặc dù lại có tác động
Bản dịch 5/2008
94
thực chất tới quá trình cạnh tranh của thị trường trong nước) thì bộ luật đó chỉ có một nửa tác
dụng. Luật Cạnh tranh 2004 của Việt Nam do đó trong lần sửa đổi tiếp theo nên mở rộng
phạm vi điều chỉnh đối với các hành vi này để tránh các khó khăn có thể khắc phục được này.
Ngoài ra, các vấn đề có yếu tố nước ngoài khác, có tác động thực chất đối với thương mại và
đời sống trong nước ví dụ như các thỏa thuận xuất nhập khẩu, bằng sáng chế bắt buộc của
quyền sở hữu trí tuệ liên quan tới lợi ích công cộng cũng cần được giải quyết.
11.7. Xây dựng nguồn nhân lực cho các cơ quan quản lí cạnh tranh
Hội đồng cạnh tranh, cơ quan xét xử về các vấn đề cạnh tranh tại Việt Nam, như đã nói, có
thành viên là các cán bộ từ một vài Bộ và cơ quan điều tiết liên quan. Việc bổ nhiệm các
thẩm phán độc lập (ít nhất là đa số từ Hội đồng, ngoài ra là một số cán bộ chủ chốt từ chính
phủ) là một khả năng khác có thể thực hiện được. Ngoài ra, cần phải xây dựng khả năng xét
xử cho tất cả thành viên của Hội đồng, cũng như các kĩ năng điều tra của cơ quan cạnh tranh
cũng cần được tăng cường liên tục.
Do tình hình thiếu trầm trọng nguồn nhân lực với năng lực và chuyên môn tại các nước đang
phát triển, các cơ quan cạnh tranh cần phải tìm ra cách để vượt qua khó khăn này. Trong dài
hạn, các cấp độ nghiệp vụ thấp cần được tính tới thông qua việc xây dựng các mối liên kết
với các trường đại học. Trong ngắn hạn, các chương trình đào tạo cán bộ về các vấn đề thủ
tục, phương thức và thực chất cũng cần được coi là ưu tiên hàng đầu. Các chương trình đào
tạo này có thể được thực hiện trong nước, song các chương trình đào tạo ngoài nước cũng có
vị trí quan trọng. Các chương trình trao đổi nhân viên và nhân viên tập sự từ các cơ quan lớn
hơn nên được sắp xếp để đồng thời hướng dẫn nhân viên của cơ quan cạnh tranh và qua đó
đạt được các kinh nghiệm thực tiễn.
11.8. Tính độc lập/quyền tự quyết của cơ quan cạnh tranh
Tính độc lập của cơ quan cạnh tranh, như đã bàn luận trong phần trước có ảnh hưởng quan
trọng tới tính hiệu quả của toàn bộ thể chế cạnh tranh tại bất kì một quốc gia nào. Tại thời
điểm hiện tại, một cấu trúc kém độc lập hơn có thể phù hợp cho trường hợp của Việt Nam.
Tuy nhiên, trong tương lai, cấu trúc này cần được thay đổi dần dần và cơ quan này sẽ trở nên
hoàn toàn độc lập.
11.9. Sự tham gia tích cực của người tiêu dùng và các tổ chức dân sự xã hội (CSOs)
Cơ quan cạnh tranh cần tham gia cùng với các nhóm người tiêu dùng và các tổ chức dân sự
xã hội khác trong việc giáo dục và giúp đỡ người dân hiểu biết về các vấn đề cạnh tranh, dựa
trên sự tín nhiệm và tính trung lập của các tổ chức này.
Hoạt động của người tiêu dùng tại Việt Nam, như đã nói, vẫn còn ở giai đoạn ban đầu, trong
khi hầu hết các CSOs đang tồn tại đều hoạt động theo xu hướng nghiên cứu (không có khả
năng tuyên truyền rộng rãi) hoặc chính trị hóa một phần. Nhận thức của người tiêu dùng về
các vấn đề cạnh tranh cũng như sự tiếp cận của họ đối với luật và các vấn đề pháp lí còn ở
mức thấp. Cơ quan quản lí cạnh tranh của Việt nam cần phải liên tục phối hợp các tổ chức
dân sự xã hội và các tổ chức người tiêu dùng để thực hiện các mục tiêu này, tăng cường hỗ
Bản dịch 5/2008
95
trợ cho các tổ chức này và hợp tác chặt chẽ với họ trong quá trình xây dựng một nền văn hóa
cạnh tranh tại Việt Nam.
Bản dịch 5/2008
96
CHÚ GIẢI VỀ CÁC KHAI NIỆM QUAN TRỌNG
Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường đề cập tới việc tiến hành các hành vi hạn chế cạnh
tranh bởi một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường nhằm hạn chế cạnh tranh và do đó
duy trì và tăng cường vị trí của doanh nghiệp đó trên thị trường.
Hành vi Mua lại của doanh nghiệp có nghĩa là một công ty mua lại toàn bộ hoặc một phần
tài sản của công ty khác, đủ để kiểm soát hoặc chiếm lĩnh toàn bộ hoặc một phần công việc
kinh doanh của doanh nghiệp bị mua lại. Trong một hành vi mua lại, một công ty có thể mua
công ty khác bằng tiền mặt, cổ phần hoặc một phần kết hợp của cả hai. Một lựa chọn khác có
thể xảy ra thường với các vụ mua lại nhỏ hơn là việc một công ty mua lại toàn bộ tài sản của
một công ty khác.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là những thỏa thuận giữa các đối thủ cạnh tranh (các
doanh nghiệp trong một mối quan hệ theo chiều ngang) hoặc những thỏa thuận tại các cấp độ
khác nhau của chuỗi sản xuất và chuỗi phân phối (các doanh nghiệp trong mối quan hệ theo
chiều dọc) liên quan tới giá cả, phân bổ khách hàng, v.v… những thỏa thuận này giúp các
doanh nghiệp thành viên tiến hành sức mạnh thị trường tập thể, hạn chế cạnh tranh để tìm
kiếm lợi nhuận kinh tế bất chính cho tất cả các thành viên của thỏa thuận.
Rào cản gia nhập là các yếu tố ngăn chặn sự gia nhập của các doanh nghiệp mới vào một
ngành công nghiệp hoặc một thị trường ngay cả khi các doanh nghiệp đang tồn tại trên thị
trường đó kiếm được lợi nhuận lớn. Có hai loại rào cản lớn: Rào cản Cơ cấu (còn gọi là rào
cản “kinh tế”) và Rào cản hành vi (còn gọi là rào cản “chiến lược”). Cũng cần phải nói thêm
rằng chính phủ cũng có thể là nguồn gốc của những rào cản gia nhập thông qua việc cấp phép
và các qui định khác (luật pháp hay hành chính).
Đấu thầu gian lận thường đề cập tới thỏa thuận của các doanh nghiệp nhằm hạn chế cạnh
tranh trong một cuộc đấu thầu của một cơ quan nhà nước hoặc một thực thể tư nhân. Nó
thường được coi là một trong những hình thức thỏa thuận các-ten tồi tệ nhất cùng với hành vi
ấn định giá cả, hạn chế đầu ra và phân bổ thị trường, và cũng thường được tiến hành kết hợp
với các hành vi này.
Thỏa thuận các-ten là thỏa thuận giữa các nhóm doanh nghiệp sản xuất và bán cùng một loại
sản phẩm để đòi hỏi và chia sẻ lợi nhuận độc quyền. Hầu như họ thường tiến hành hành vi
này thông qua việc nhất trí về một mức giá thỏa thuận chung tương đối cho sản phẩm của họ
mà không một thành viên nào của thỏa thuận được phép bán dưới giá thành đó (có nghĩa là
thỏa thuận các-ten ấn định giá cả). Hoặc là các doanh nghiệp thành viên có thể đơn giản nhất
trí chia sẻ thị trường theo khu vực địa lý hoặc theo khách hàng và dành cho mỗi thành viên
khác vị trí độc quyền địa phương mà không cần phải ấn định một cấu trúc giá cả đồng bộ (có
nghĩa là các-ten phân bổ thị trường hoặc chia sẻ khách hàng).
Thông thầu: Xem Đấu thầu gian lận.
Luật cạnh tranh là một bộ luật bao gồm các điều khoản và nguyên tắc luật nhằm đảm bảo
công bằng và tự do trên thị trường thông qua điều tiết các hành vi của doanh nghiệp, nghiêm
Bản dịch 5/2008
97
cấm các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường làm
cản trở đến quá trình cạnh tranh và gây hại tới quyền và lợi ích chính đáng của các thành viên
tham gia thị trường khác, trong đó bao gồm cả người tiêu dùng.
Chính sách cạnh tranh đề cập tới các biện pháp của chính phủ tác động trực tiếp tới hành vi
của các doanh nghiệp và cấu trúc của ngành công nghiệp. Đây là một phần không thể thiếu
của chính sách kinh tế, và có thể bao gồm một số yếu tố như: tự do hóa thương mại, các
chính sách công nghiệp, đầu tư và tư nhân hóa đều là những mục tiêu chính trong việc duy trì
và thúc đẩy cạnh tranh như một phương tiện để đảm bảo phân bổ hiệu quả các nguồn lực
trong một nền kinh tế, mang đến sự lựa chọn tối ưu nhất về chất lượng, giá cả thấp nhất,
nguồn cung đầy đủ dành cho người tiêu dùng.
Bắt buộc nhượng quyền sử dụng sang chế là hành vi của một nhà nước áp đặt việc nhượng
quyền sử dụng sáng chế giữa một người bán không tự nguyện và một người mua tự nguyện.
Ba điều khoản về bắt buộc nhượng quyền sáng chế thường gặp nhất có thể được áp dụng là
khi một văn bằng sáng chế phụ thuộc hết hiệu lực, khi văn bằng sáng chế không thực hiện
được, hoặc khi một phát minh liên quan tới thực phẩm hoặc dược phẩm. Ngoài ra, bắt buộc
nhượng quyền có thể được tiến hành như một biện pháp khắc phục trong chống độc quyền
hoặc các tình huống lạm dụng, các tính huống mà sự can thiệp là cần thiết đối với an ninh
quốc gia hoặc trong tình huống thực thể được nhượng quyền sử dụng sáng chế là chủ quyền
quốc gia. Xem Hợp đồng li-xăng
Chính sách bảo vệ người tiêu dùng là chính sách bao gồm các nguyên tắc luật được thực
hiện để đảm bảo cho người tiêu dùng có thể đưa ra các quyết định đúng đắn cho sự lựa chọn
của mình và người bán sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết đối với sản phẩm mà họ cung cấp.
Nói cách khác, chính sách bảo vệ người tiêu dùng ngăn chặn các nhà sản xuất tiến hành các
hành vi thương mại không lành mạnh trong khi tăng doanh số bán hàng của họ.
Tập trung kinh tế là hành vi trong đó một công ty muốn điều hành các đối thủ cạnh tranh
khác, hành vi này không chỉ giới hạn ở việc sáp nhập, mua lại, liên doanh và hợp nhất.
Sự cho phép có điều kiện là sự điều tiết hoặc thay đổi hành vi của các công ty đã thực hiện
sáp nhập để ngăn chặn hoặc giảm các tác động hạn chế cạnh tranh có thể có từ một số hành vi
sáp nhập. Điều này có thể đạt được thông qua một số điều kiện kịp thời và các yêu cầu trong
tương lai.
Khám xét bất ngờ là hành vi điều tra bất ngờ được tiến hành bởi nhân viên của các cơ quan
quản lí cạnh tranh tại cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp bị tình nghi
để thu thập bằng chứng cáo buộc.
Giải thể là hành vi của các cơ quan quản lí cạnh tranh để chia tách lại một vụ sáp nhập đã
được tiến hành do các tác động hạn chế cạnh tranh và/hoặc sự thất bại (của các bên tham gia
sáp nhập) để thông báo và có được sự chấp thuận của cơ quan cạnh tranh đối với việc sáp
nhập.
Bản dịch 5/2008
98
Chia tách (hay còn gọi là “chia tách một phần”) là tình huống một công ty đã thực hiện sáp
nhập được yêu cầu chia tách một phần hoặc toàn bộ tài sản hoặc hoạt động kinh doanh của họ
nhằm loại bỏ các tác động hạn chế cạnh tranh đã được xác định, cùng với sự cho phép tiến
hành sáp nhập ở khía cạnh khác.
Độc quyền kinh doanh là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc theo đó một người
bán lẻ hoặc bán buôn bị bắt buộc phải mua từ một nhà cung cấp nhất định trên cơ sở hiểu biết
rằng không có một nhà phân phối nào khác sẽ được chỉ định hoặc nhận được nguồn cung cấp
trong một khu vực cụ thể.
Thỏa thuận các-ten xuất khẩu là các thỏa thuận giữa các công ty để đưa ra một mức giá xuất
khẩu cụ thể và/hoặc để phân chia thị trường xuất khẩu. Loại thỏa thuận này thường được
miễn trừ khỏi sự điều chỉnh của chế độ cạnh tranh tại nhiều quốc gia, trừ khi các thỏa thuận
này dẫn tới các tác động có hại cho cạnh tranh trong thị trường trong nước, ví dụ như làm
tăng giá đã được thỏa thuận từ trước hoặc dẫn tới việc giảm xuất khẩu.
Thẩm quyền pháp lí vượt khỏi biên giới lãnh thổ là thẩm quyền được trao cho các cơ quan
quản lí cạnh tranh quốc gia dựa trên thể chế luật cạnh tranh của họ để xử lí với các hành vi
hạn chế cạnh tranh bắt nguồn từ bên ngoài lãnh thổ quốc gia của họ mà có tác động căn bản
xấu tới quá trình cạnh tranh trên các thị trường trong nước.
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều ngang: Xem Thỏa thuận Các-ten
Thỏa thuận các-ten nhập khẩu là thỏa thuận giữa các nhà nhập khẩu trong nước nhằm nắm
được sự kiểm soát đối với một vài thị trường nhập khẩu cụ thể và để lấy lại thế cân bằng với
các thỏa thuận các-ten xuất khẩu. Xem Thỏa thuận các-ten xuất khẩu
Thỏa thuận loại bỏ những doanh nghiệp không phải là các bên của thỏa thuận (còn gọi là
“tẩy chay”) là hành vi tập thể của các đối thủ cạnh tranh nhằm sử dụng sức mạnh thị trường
kết hợp của mình để áp đặt lên một nhà cung cấp, một đối thủ cạnh tranh hoặc một khách
hàng phải nhất trí tiến hành một hành vi gây hại cho cạnh tranh, nếu như họ từ chối sẽ bị loại
khỏi hành vi tập thể. Xem thêm Thỏa thuận từ chối kinh doanh
Liên doanh là một liên hiệp các công ty hoặc cá nhân được thiết lập để thực hiện một dự án
kinh doanh cụ thể. Các cơ quan quản lí cạnh tranh nên giám sát hoạt động của liên doanh nếu
như nó được thành lập bởi các công ty đối thủ cạnh tranh trên một thị trường tương đương.
Khoan hồng là khái niệm chung được sử dụng để mô tả một hệ thống khoan hồng một phần
hoặc toàn bộ từ các hình phạt mà lẽ ra sẽ được áp dụng cho các thành viên của một thỏa
thuận các-ten được báo cáo tới một cơ quan quản lí cạnh tranh. Ngoài ra, các quyết định của
cơ quan cạnh tranh có thể được coi như là các biện pháp khoan hồng bao gồm sự nhất trí cho
phép giảm các hình phạt hoặc không khởi tố hình sự. Khái niệm khoan hồng vì vậy có thể
được sử dụng để đề cập tới sự miễn giảm toàn bộ và “cách giải quyết khoan hồng” có nghĩa
là không phải là miễn giảm hoàn toàn.
Bản dịch 5/2008
99
Hợp đồng li-xăng là các thỏa thuận được tiến hành bởi một công ty hay một cá nhân trao
quyền làm một việc gì đó như sử dụng văn bằng sáng chế, hay sản xuất ra một sản phẩm cho
một cá nhân hoặc một công ty khác mà trước đó không có các quyền này. Hợp đồng li-xăng
có thể bao gồm các hạn chế như giấy phép sẽ được thuê như thế nào, điều này có thể gây ảnh
hưởng bất lợi tới quá trình cạnh tranh.
Sức mạnh thị trường là khả năng của một công ty hay một nhóm công ty tăng hoặc duy trì
giá cả trên mức thông thường. Cấp độ cao nhất của sức mạnh thị trường liên quan tới độc
quyền, mặc dù tất cả các công ty, ngoại trừ các công ty hoạt động trên các thị trường hoàn
toàn mang tính cạnh tranh; đều nắm giữ một vài cấp độ sức mạnh thị trường.
Thị phần trong quản lí chiến lược và kinh doanh là phần trăm hoặc tỷ lệ của tổng phần thị
trường hoặc thị trường mà công ty nắm giữ. Trong thế giới cạnh tranh, thị phần của một công
ty sẽ thay đổi theo sự xác định thị trường tương đương. Thị trường tương đương được xác
định càng nhỏ trong một trường hợp cụ thể thì thị phần của công ty có thể tính trong thị
trường đó càng cao.
Phân bổ thị trường (hay”chia sẻ khách hàng”) là thỏa thuận các-ten phân chia thị trường
theo lãnh thổ hoặc theo khách hàng giữa các đối thủ cạnh tranh.
Sáp nhập là sự hợp nhất hay gia nhập của hai công ty trở lên trong đó một hoặc một vài công
ty chuuyển tất cả tài sản, quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của mình vào một công ty đã
tồn tại từ trước hay thành lập ra một công ty mới. Sáp nhập có thể được đặc trưng theo ba
loại: sáp nhập theo chiều ngang, xảy ra giữa các công ty là các đối thủ cạnh tranh tiềm năng
hoặc thực tế có vị trí giống nhau trong chuỗi sản xuất; sáp nhập theo chiều dọc xảy ra giữa
các công ty ở các cấp độ khác nhau trong chuỗi sản xuất (ví dụ như giữa các nhà sản xuất và
các nhà bán lẻ); và các sáp nhập khác như sáp nhập xảy ra giữa các công ty bán cùng một loại
sản phẩm tại các thị trường khác nhau (sáp nhập mở rộng thị trường), hoặc các công ty bán
các sản phẩm liên quan hoặc khác nhau trên cùng một thị trường (sáp nhập mở rộng sản
phẩm), hoặc kết hợp với các loại hình kinh doanh khác nhau
Thụ lý hồ sơ sáp nhập là quá trình đánh giá các điều kiện hiện tại của một sáp nhập cũng như
các ảnh hưởng tiềm ẩn của nó tới quá trình cạnh tranh trên các thị trường tương đương bởi cơ
quan quản lý cạnh tranh để quyết định xem nên cấm hay cho phép thực hiện sáp nhập (cấm
hoàn toàn hoặc với điều kiện).
Quảng cáo sai lệch là bất cứ giới thiệu của một công ty nào sai sự sự thật hoặc không có cơ
sở liên quan tới sản phẩm trước công chúng. Giới thiệu có thể về tính chất, đặc tính hoặc hình
dáng của một sản phẩm, ví dụ như kích cỡ, hình thức nội dung hoặc cân nặng. Nó cũng bao
gồm cả chế độ bảo hành, các tuyên bố, hoặc các đảm bảo đó không hề dựa trên các thẩm định
có cơ sở thực tế nào cả.
Độc quyền là một cấu trúc thị trường được đặc trưng bởi một công ty bán sản phẩm mà sản
phẩm đó không có sản phẩm thay thế và thông qua các hàng rào vững chắc để thâm nhập vào
thị trường.
Bản dịch 5/2008
100
Cạnh tranh thông thường là một cấu trúc thị trường trong đó một số lượng lớn công ty cạnh
tranh với nhau thông qua các sản phẩm gần giống nhau. Mỗi công ty có một vài mức giá khác
nhau bởi vì các sản phẩm khác nhau. Tuy nhiên, bởi vì không có các rào cản gia nhập đáng
kể và các sản phẩm có thể gần như thay thế được cho nhau nên công ty không có ảnh hưởng
nhiều tới thị trường.
Thị trường độc quyền nhóm bán là một cấu trúc thị trường trong đó thị trường bị chi phối
bởi một số lượng nhỏ người bán hoặc người mua (“độc quyền nhóm”). Bởi vì chỉ có một vài
thành viên tham gia vào loại thị trường này nên mỗi độc quyền nhóm đều có thể tác động tới
giá cả thị trường và vì vậy cả lợi nhuận của các đối thủ cạnh tranh trong đó. Thị trường độc
quyền nhóm bán do đó có thể nói rằng được đặc trưng bởi mối quan hệ giữa các thành viên
tham gia thị trường. Một công ty phải xem xét tới hành vi của các công ty đối thủ để đưa ra
được chính sách kinh doanh tốt nhất cho mình.
Hạn chế đầu ra thường xảy ra khi các doanh nghiệp cung cấp/sản xuất cùng một loại sản
phẩm/dịch vụ cùng nhất trí hạn chế nguồn cung xuống mức thấp hơn số lượng bán trước đó.
Kết quả của việc giảm nguồn cung này là để tạo ra sự khan hiếm trên thị trường, từ đó tạo
điều kiện cho nguời bán tăng giá sản phẩm/dịch vụ.
Nhập khẩu song song là hàng hóa được chuyển vào một quốc gia mà không có sự cho phép
về văn bằng sáng chế, thương hiệu hoặc bản quyền của người nắm giữ sau khi những hàng
hóa này được chuyển một cách hợp pháp vào bất cứ thị trường khác. Một số người cho rằng,
không giống như hàng hóa bị xâm phạm bản quyền hoặc hàng hóa có thương hiệu giả, hàng
hóa nhập khẩu song song là hàng hóa hợp pháp, bởi vì ngừoi nắm giữ quyền sở hữu trí tuệ về
vấn đề này đã đồng ý cho phép chúng vào thị trường và vì vậy ngầm ý cho phép việc sử dụng
tiếp theo, cho dù là hàng hóa được nhập khẩu bởi các nhà phân phối không có thẩm quyền.
Cạnh tranh hoàn hảo là một cấu trúc thị trường hoàn hảo trong đó tất cả các công ty tạo ra
một đầu ra thống nhất được phân chia một cách hoàn hảo; nhà sản xuất và người tiêu dùng có
đầy đủ thông tin, tự gánh vác các chi phí giao dịch và là những người kiểm soát giá cả; và
không có các yếu tố bên ngoài. Bởi vì cạnh tranh hoàn hảo hiếm khi tồn tại, kể cả trong thế
giới thực, nếu có thì chỉ như một ý tưởng để so sánh với các cấu trúc thị trường khác mà thôi.
Quy tắc per se là một phương thức điều tiết theo đó một số hành vi kinh doanh cụ thể được
coi là áp đặt các hạn chế vô lí lên quá trình cạnh tranh và vì vậy được xem là hành vi hạn chế
cạnh tranh, hoặc có thể bị coi là bất hợp pháp và không được hưởng miễn trừ. Xem thêm Quy
tắc có lí.
Ép giá xảy ra khi một công ty có vị trí thống lĩnh thị trường tạm đặt ra một mức giá thấp cụ
thể nhằm loại bỏ các đối thủ hiện có, hoặc tạo ra rào cản gia nhập thị trường đối với các đối
thủ cạnh tranh mới tiềm năng. Người tiến hành hành vi ép giá chỉ tạm thời bị thiệt hại trong
thời gian thực hiện chính sách giá thấp để đạt được mục đích tăng giá trong tương lai và bù
đắp được thiệt hại cũng như giành được nhiều lợi nhuận hơn.
Bản dịch 5/2008
101
Phân biệt về giá là hành vi áp dụng các điều kiện khác nhau, giá cả khác nhau thông thường
cho cùng một loại sản phẩm đối với các khách hàng khác nhau.
Áp đặt giá cả bao gồm các một số hành vi phối hợp do các đối thủ cạnh tranh tiến hành có tác
động trực tiếp tới giá cả.
Thỏa thuận các-ten quốc tế tư nhân là các thỏa thuận hạn chế thương mại (hoặc là áp đặt
giá cả, phân bổ thị trường hoặc khách hàng, hoặc là đấu thầu gian lận, v.v…) có từ một bên
hoặc cá nhân tham gia trở lên cùng với trụ sở chính, công dân có quốc tịch bên ngoài khu vực
pháp lí của các cơ quan điều tra cạnh tranh.
Bán hàng đa cấp là hình thức kinh doanh không bền vững bao gồm chủ yếu việc thu tiền của
những người mới gia nhập vào mạng lưới bán hàng, thường khong có bất cứ sản phẩm hay
dịch vụ nào thực sự được đưa ra kinh doanh.
Từ chối kinh doanh là tình huống mà người bán hàng từ chối kinh doanh với một người
mua, thường là khi người mua không có nhiều sự lựa chọn do hạn chế về nguồn cung. Những
tác động đối với cạnh tranh của hành vi từ chối kinh doanh được xem xét tùy thuộc vào từng
trường hợp. Xem thêm Thỏa thuận loại bỏ những doanh nghiệp không phải là các bên của
thỏa thuận.
Thị trường liên quan là khái niệm được sử dụng trong các phân tích về các vụ việc liên quan
tới cạnh tranh để xác định mức độ tác động của các hành vi hạn chế cạnh tranh trên thị trường
liên quan tới sản phẩm/dịch vụ, thời gian và địa điểm. Xem thêm Thị trường sản phẩm và
thị trường địa lý.
Các biện pháp khắc phục là những biện pháp được tiến hành và cưỡng chế bởi các cơ quan
quản lí cạnh tranh nhằm loại bỏ các ảnh hưởng xấu từ các hành vi hoặc thỏa thuận kinh
doanh cụ thể đối với cạnh tranh và người tiêu dùng hoặc để ngăn chặn các ảnh hưởng này
trong tương lai.
Duy trì mức giá bán lại là hành vi mà một nhà sản xuất và nhà phân phối của mình nhất trí
nhất trí về việc nhà phân phối sẽ bán sản phẩm của nhà sản xuất ở mức giá cụ thể (duy trì
mức giá bán lại), bằng hoặc hơn mức giá sàn (duy trì giá bán lại ở mức thấp nhất) hoặc bằng
hoặc thấp hơn mức giá trần (duy trì giá bán lại ở mức cao nhất).
Hạn chế đối với người sử dụng cuối cùng là các yêu cầu hạn chế do người sở hữu quyền sở
hữu trí tuệ đặt ra, theo đó không cho phép người sử dụng cuối cùng được hưởng các lợi ích
của cạnh tranh, nhưng các yêu cầu này không hạn chế đối với sáng tạo công nghệ, lựa chọn
thị trường, chủng loại sản phẩm, và nguồn thay thế.
Các hành vi hạn chế cạnh tranh (hay còn gọi là “các hành vi phản cạnh tranh”) là các hành
vi do các doanh nghiệp tiến hành, dù là doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nhà nước
nhằm hạn chế sự tiếp cận thị trường hoặc hạn chế cạnh tranh trên thị trường để duy trì hoặc
tăng vị trí và lợi nhuận trên thị trường liên quan mà không cần thiết phải cung cấp sản phẩm
và dịch vụ ở mức giá thấp hoặc chất lượng cao.
Bản dịch 5/2008
102
Quy tắc có lí là phương thức điều tiết điều tiết theo đó cơ quan cạnh tranh cân nhắc giữa các
ảnh hưởng do hành vi hạn chế cạnh tranh gây ra đối với cạnh tranh và hiệu quả kinh tế mà
hành vi kinh doanh này mang lại để từ đó quyết định xem liệu rằng có nên cấm các hành vi
này hay không. Trong trường hợp hành vi kinh doanh đó mang lại lợi ích kinh tế nhiều hơn là
gây ra hạn chế đối với cạnh tranh thì nó có thể được cho phép tiến hành. Xem thêm Quy tắc
per se.
Trình tự thực hiện luật cạnh tranh là phương thức được tiến hành tại một số quốc gia trên
thế giới theo đó đặt quá trình thực thi luật cạnh tranh vào các giai đoạn khác nhau để tối đa
hóa hiệu quả và lợi ích của quá trình thực hiện luật trong bối cảnh các cơ quan quản lí cạnh
tranh có những hạn chế về nguồn lực và tính mới.
Sản phẩm thay thế là sản phẩm mà có thể thay thế được cho một sản phẩm khác (tương
đương) dựa trên các thuộc tính, giá cả, mục đích sử dụng và thị hiếu cũng như thỏa mãn được
nhu cầu cân bằng của khách hàng.
Bán kèm là hành vi bắt buộc khách hàng phải mua thêm sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ không
muốn mua như một điều kiện để họ có thể mua sản phẩm hoặc dịch vụ mà họ thực sự muốn
mua, đặc biệt là trong trường hợp nhà cung cấp có sản phẩm hoặc dịch vụ có vai trò quan
trọng đối với nhiều khách hàng.
Hành vi thương mại không công bằng bao gồm hàng loạt các hành vi sai lệch gây ra hậu
quả xấu tới nền kinh tế. Lí thuyết luật pháp có thể xác định những hành vi này bao gồm đánh
cắp bí mật thương mại, cạnh tranh không lành mạnh, quảng cáo sai lệch, hối lộ, làm giảm và
bôi nhọ danh tiếng của doanh nghiệp khác.
Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc là các thỏa thuận giữa các nhà cung cấp
(các nhà sản xuất) và các nhà phân phối (nhà bán lẻ) đặt ra các điều kiện theo đó các bên có
thể mua, bán hoặc bán lại sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể.
Bản dịch 5/2008
103
CHÚ THÍCH
1 Từ Wikipedia, từ điển bách khoa miễn phí, tại http://en.wikipedia.org/wiki/Market, ngày 3
tháng 4 năm 2007.
2 Để giải thích một cách đơn giản, chỉ có hai thành phần tham gia thị trường được đề cập tới ở
đây, đó là người mua và người bán, hoặc nhà sản xuất và người tiêu dùng, có thể ở trong một
ngành riêng lẻ. Vai trò của chính phủ cũng như các thành viên và các nhân tố khác sẽ được
bàn luận ở phần sau.
3 Yingyi Qian (2000), Nền kinh tế thị trường hiện đại và nguyên tắc của Luật pháp, xem tại:
http://www.oycf.org/Perspectives/5_043000/modern_market_economy_and_the_ru.htm.
4 Ở đây loại trừ trường hợp nhà sản xuất có thể có các hành vi cơ hội, trục lợi hoặc có tính
chiến lược, vấn đề này sẽ được bàn tại các phần sau. Nhằm đơn giản hóa, từ đây về sau, cạnh
tranh sẽ được giải thích rộng hơn trong các phạm trù giá cả.
5 Reckon LLP, Glossary, Tại <http://www.reckon.co.uk/open/Glossary>, Ngày 3 tháng 4,
2007.
6 Xem tại trang web:
<media.pearsoncmg.com/intl/ema/ema_uk_he_lipczynski_indorg_2/0273688073_glossary.ht
ml>
7 Rai, Qureshi & Saroliya (2003), Các hành vi hạn chế cạnh tranh và hàn vi thương mại
không lành mạnh – Đâu là chỗ đứng cho người tiêu dùng?, CUTS, Ấn Độ, Trang 5.
8 Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam, trang 3(1)
9 Điều 4(5) Nghị định qui định: Hµng hãa, dÞch vô ®îc coi lµ cã thÓ thay thÕ ®îc cho nhau vÒ
gi¸ c¶ nÕu trªn 50% cña mét lîng mÉu ngÉu nhiªn 1.000 ngêi tiªu dïng sinh sèng t¹i khu vùc ®Þa lý liªn quan chuyÓn sang mua hoÆc cã ý ®Þnh mua hµng hãa, dÞch vô kh¸c cã ®Æc tÝnh, môc ®Ých sö dông gièng víi hµng hãa, dÞch vô mµ hä ®ang sö dông hoÆc cã ý ®Þnh sö dông trong trêng hîp gi¸ cña hµng hãa, dÞch vô ®ã t¨ng lªn qu¸ 10% vµ ®îc duy tr× trong 06 th¸ng liªn tiÕp
Trêng hîp sè ngêi tiªu dïng sinh sèng t¹i khu vùc ®Þa lý liªn quan quy ®Þnh t¹i ®iÓm nµy kh«ng ®ñ 1000 ngêi th× lîng mÉu ngÉu nhiªn ®îc x¸c ®Þnh tèi thiÓu b»ng 50% tæng sè ngêi tiªu dïng ®ã.”
10 Dựa trên Cơ quan thương mại công bằng (2004), Tính cạnh tranh thị trường – Hiểu biết về
luật cạnh tranh (Luật cạnh tranh 2004), Anh Quốc, trang 20
11 Chú thích 1 ở trên, tại <http://en.wikipedia.org/wiki/Market_share> Ngày 3 tháng 4 năm
2007
12 Chú thích 8 ở trên, điều 3(5)
13 Dennis Carlton & Jeffrey Perloff (2005), Tổ chức công nghiệp hiện đại, tái bản lần thứ 4,
The Addison – Weasley Series in Economics, trang 57
14 <www.econ100.com/eu5e/open/glossary.html>, Ngày 3 tháng 4 năm 2007
15 Từ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp đối với một vài người bán hàng.
Bản dịch 5/2008
104
16 Addison Wesley, Nguồn sinh viên – Bảng chú giải thuật ngữ, Tại
http://wps.aw.com/aw_rohlf_econreason_5/0,5759,11635-,00.html; ngày 3 tháng 4 năm 2007
17 Thảo luận tại phần này được trích dẫn từ CUTS (2006), Thúc đẩy chính sách và Luật cạnh
tranh tại Lào – Tầm nhìn từ tổ chức dân sự xã hội, trang 1-2.
18 Cho việc thảo luận thêm về vấn đề này xem tại Kenneth Davidson (2005), Xây dựng các
thể chế cạnh tranh hiệu quả: Ý tưởng cho các nền kinh tế chuyển đổi, Asian & Pacific Law &
Policy Journal, Volume 6, Issue 1 (Winter 2005)
19 ADB (2005), Tầm nhìn phát triển cho Châu Á 2005, Chương III: Thúc đẩy cạnh tranh trong
sự phát triển lâu dài, Ngân hàng phát triển Châu Á, Tại
http://www.adb.org/documents/books/ADO/2005/part030200.asp
20 Chú thích 8 ở trên, Điều 3(3)
21 Chú giải của OECD về các hạng mục thống kê, tại trang web
http://stats.oecd.org/glossary/detail.asp?ID=3256
22 Thảo luận tại phần này được trích dẫn từ Fruitman (2006), Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường tại các nền kinh tế đang phát – Nhìn nhận vấn đề tại Campuchia, Lào và Việt Nam,
CUTS, Trang10
23 Chú thích 8 ở trên, Điều 11
24 Cùng ở đoạn đó, Điều 12
25 Nghị định 116/2005, Điều 22
26 Chú thích 1 ở trên, tại <http://en.wikipedia.org/wiki/Illegal_per_se> Ngày 3 tháng 4 năm
2007
27 Chú thích 8 ở trên, Điều 10(1)
28 Chú thích 6 ở trên, Điều 9(2)
29Chú thích 7 ở trên, Trang 16
30 Nghị định 116/2005, Điều 14
31 Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam, chương II, Điều 8(1)
32 CUTS (2001), Competition Policy and Law Made Easy, trang 8
33 Một điều thú vị về sự thiếu xót yêu cầu phải chỉ ra 30 phần trăm thị phần theo qui định của
điều 8 Luật cạnh tranh là nếu như tất cả những người tham gia đấu thầu thỏa thuận với nhau
thì thị phần kết hợp của họ cho các mục đích của gói thầu là 100 phần trăm. Nhưng theo tinh
thần của Luật cạnh tranh 2004, thì đây cũng là hành vi bất hợp pháp nếu chỉ một vài người
tham gia đấu thầu có thỏa thuận với nhau và một người nào đó đưa ra giá thấp hơn và có
được hợp đồng.
34 Chú thích 7 ở trên, trang 18
35 Luật Cạnh tranh Gram(3/2006), Xây dựng Olympics: Tại sao thỏa thuận cho các hợp đồng
có thể khiến bạn phải ra tòa?, Lawrence Graham LLP, London, Vol I, Trang 2,Tham khảo
thêm tại http://www.lawgram.com/s e r v l e t . c g i ? p a g e _ i d = r e s o u r c e s / p u b l i
c a t i o n s /CompetitionLawgram1.pdf;section=publications
36 Chú thích 8 ở trên, Điều 89
Bản dịch 5/2008
105
37 Khemani, R. Shyam, Khuôn khổ cho việc triển khai việc xây dựng chính sách và luật cạnh
tranh, Ngân hàng Thế giới và OECD, Trang 20, Kí tại in Rai, Qureshi & Saroliya(2003),
Hành vi hạn chế cạnh tranh và hành vi thương mại không công bằng– Đâu là chỗ đứng cho
người tiêu dùng?, CUTS, Ấn Độ.
38 Để tham khảo thêm, xem Verouden (2005), Các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh theo chiều
dọc: Động lực và tác động, forthcoming in Directions in Competition Law and Policy, (W.D.
Collins,ed.), American Bar Association, 2006, có tại trang web
http://ec.europa.eu/dgs/competition/verouden.pdf
39 Dobson & Waterson (1996), Hạn chế cạnh tranh theo chiều dọc và chính sách cạnh tranh,
Cơ quan nghiên cứu chính sách thương mại công bằng, Tài liệu 12, v-vi
40 Cùng ở cuốn sách đó
41 Xem thêm OECD (1997), Duy trì giá bán lại, Paris, OECD/GD(97)229
42 Chú thích 8 ở trên, Điều 9(2)
43 Asker J. (2004), Đánh giá các thuận lợi về giá cả từ hành vi kinh doanh độc quyền – Một
nghiên cứu trong ngành phân phối bia, Đại học Harvard, trang 2
44 Cùng ở cuốn sách đó
45 Xem Continental TV.Inc. cùng với GTE Sylvania Inc.433 US 36 (1997)
46 Xem tại United States v. Microsoft, 253 F.3d 34 (D.C. Cir. 2001)
47 Chú thích 8 ở trên, Điều 8(5)
48 Chú thích 8 ở trên, Điều 2(1)
49 Xem thêm DiLorenzo (1992), Điều kì diệu của hành vi ép giá, Cato Policy Analysis Số
169, hay http://en.wikipedia.org/wiki/Predatory_pricing
50 Một nguồn lực thiết yếu có thể được coi như một nguồn lực hoặc cơ sở hạ tầng, nếu như
không có nguồn lực thiết yếu thì các đối thủ cạnh tranh không thể cung cấp dịch vụ tới khách
hàng. Nguồn lực thiết yếu có thể tồn tại cả ở cấp độ sản xuất (bên trên) hoặc cấp độ phân
phối (bên dưới). Một số ví dụ về các nguồn lực thiết yếu như thông tin kĩ thuật, cơ sở hạ tầng
giao thông (ví dụ đường tàu, bến cảng, sân bay) và các đường ống/dây dẫn nước, khí gas,
điện hoặc các dịch vụ thông tin viễn thông
51 Luật cạnh tranh không đề cập tới vấn đề này một cách rõ ràng, nhưng có thể được hiểu tại
đièu 86 của Luật theo đó qui định “ việc điều tra sơ bộ vụ việc cạnh tranh được tiến hành theo
quyết định của Thủ trưởng cơ quan quản lý cạnh tranh trong những trường hợp sau đây (i) Hồ
sơ khiếu nại vụ việc cạnh tranh đã được cơ quan quản lý cạnh tranh thụ lý; (ii) Cơ quan quản
lý cạnh tranh phát hiện có dấu hiệu vi phạm qui định của Luật này.”
52 John R. Davis, Cấu trúc của sự thận trong trong Luật cạnh tranh tại ASEAN, Bài phát biểu
tại hội nghị chính sách cạnh tranh về các thách thức trong Luật cạnh tranh tại Châu Á tháng 5
năm 2007 tại Jakarta, xem
<http://www.asiancompetitionforum.org/presentation/Jakarta/schedule.htm> Tháng 6 năm
2007
53 Bàn luận tại phần này được trích từ Mạng lưới cạnh tranh quốc tế (2006), Hướng dẫn thực
hiện chống thỏa thuận các-ten (chươgng 2- Soạn thảo và thực hiện một chương trình Ân xá
hiệu quả), Nhóm làm việc về thỏa thuận các-ten – nhóm 2: Các kĩ thuật thực thi
Bản dịch 5/2008
106
54 Dựa trên các định nghĩa tại Wikipedia, <http://en.wikipedia.org/wiki/Merger> ngày 5 tháng
4 năm 2007
55 Cùng trong sách đó
56 Chú thích 8 ở trên, điều 17
57 Chú thích 8 ở trên, điều 18-19
58 Bàn luận tại phần này được trích dẫn từ trường đại học Quốc gia Washington,
NetTel@Africa Off-line Content (2004), Sáp nhập, Mua lại và các thỏa thuận sáp nhập khác,
Ngành công nghiệp và thị trường ICT, trang 53 của 73, có tại
http://cbdd.wsu.edu/kewlcontent/cdoutput/TR503/page53.htm
59 Cùng trong đoạn đó
60 Chú thích 8, điều 20
61 Chú thích 8, điều 18-19
62 Chú thích 8, diều 117(3b)
63 Bàn luận tại phần này được trích dẫn từ CUTS(2006), Xin hãy công bằng!, trang 112-113
64 Hành vi thương mại không công bằng trong bối cảnh này khác với hành vi thương mại
không công bằng trong bối cảnh thương mại quốc tế, thường liên quan tới bán phá giá và trợ
cấp.
65 Chú thích 7 ở trên, trang 32
66 Chú thích 8 ở trên, Điều 3(4)
67 Chú thích 8 ở trên, Điều 39
68 Ủy ban thương mại công bằng Jamaica, Các điều khoản cấm FCA, tại
http://www.jftc.com/TheFCA/Prohibitions/prohibitions3.htm
69 Xem thêm chi tiết tại: http://vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/01/3B9DADF3/
70 Bán hàng đa cấp (MLM) (hay còn gọi là bán hàng mạng lưới hay NM) là hình thức kinh
doanh mà kết hợp cả hình thức bán hàng trực tiếp lẫn bán franchise. Trong một thỏa thuận
bán hàng đa cấp điển hình, cá nhân có liên quan tới công ty bố mẹ được coi như một người kí
hợp đồng độc lập và được đền bù dựa trên doanh số bán sản phẩm hoặc dịch vụ của họ, cũng
như doanh số bán của những người họ giới thiệu tới việc bán hàng đa cấp này. Tại một công
ty bán hàng đa cấp hợp pháp, tiền thưởng chỉ kiếm được thông qua doanh số bán sản phẩm
của công ty. Tiền thưởng không phải kiếm được từ mỗi việc kết nạp thành viên mới (“phí gia
nhập”). Một số công ty có tính hợp pháp thấp hơn thì tạo ra doanh thu sơ cấp thông qua việc
thu hút các thành viên mới hoặc bán cho họ các dịch vụ bán hàng, đây không phải là việc bán
sản phẩm thực tế. Một người phải phân tích kế hoạch bồi thường để xác định xem liệu rằng
những người tham gia có được trả từ doanh số bán thực tế cho khách hàng hay không và
không phải từ tiền thưởng cho việc kết nạp thành viên mới hay việc kinh doanh ủng hộ cho
doanh số.
71 Bàn luận ở phần này được trích từ Mehta, Nanda & Pham (2005), Khuôn khổ cạnh tranh đa
phương: Cần thiết có một định hướng rõ ràng, CUTS, Ấn Độ
72 Sự phân loại này được trích dẫn từ “ Nghiên cứu đặc biệt về chính sách cạnh tranh và
thương mại” nằm trong chương IV, báo cáo hàng năm của WTO,1997.
Bản dịch 5/2008
107
73 Điều quan trọng để ghi nhận một trường hợp đặc biệt về thỏa thuận các-ten trong xuất khẩu
(quốc tế), điều này không được bàn luận tại đây, không tính đến bản chất của các thỏa thuận
này – Tổ chức các quốc gia xuất khẩu dầu lửa (OPEC). Thỏa thuận các-ten trong ngành dầu
lửa được coi là nằm ngoài phạm vi cạnh tranh, bởi vì đây là hành vi mang tính chủ quyền của
các chính phủ.
74 Mehta (1999), Đầu tư trực tiếp nước ngoài, các sáp nhập lớn và liên minh chiến lược: Liệu
cạnh tranh toàn cầu thúc đẩy phát phiển hay mang lại độc quyền thế giới? UNCTAD, Vai trò
của chính sách cạnh tranh cho sự phát triển trong các thị trường thế giới đang toàn cầu hóa,
các ấn phẩm của UNCTAD về các vấn đề trong chính sách và Luật cạnh tranh, Gieneva, Liên
Hợp Quốc
75 Một phần của Đạo luật MRTP yêu cầu chính phủ cho phép hành vi bán lại hoặc chuyển
giao trên 25% cổ phiếu của một công ty đồng thời được chuyển sang Đạo luật về Doanh
nghiệp và chỉ áp dụng cho việc bán lại của các công ty có vị trí thống lĩnh thị trường như đã
được qui định trong Đạo luật MRTP (những doanh nghiệp chiếm một phần tư thị phần hoặc
hơn). Tuy nhiên không áp dụng đối với các trường hợp sáp nhập và mua lại.
76 Nagesh Kumar (2000), Các công ty đa quốc gia và M&As tại Ấn Độ: Mô hình và chỉ dẫn.
Nghiên cứu được trình bày tại Hội thảo của UNCTAD về vấn đề Sáp nhập và Mua lại xuyên
quốc gia và tính cạnh tranh bền vững tại Châu Á: Xu hướng, tác động và chỉ dẫn chính sách
(Bangkok),mimeo.
77 Chỉ dẫn 8 ở trên, Điều 10(1c)
78 Chỉ dẫn 8 ở trên, Điều 19(2)
79 Chỉ dẫn 8 ở trên, Điều 40, 41 &199
80 Luật sở hữu trí tuệ 2005, Điều 7(2)
81 VCC 1995 được thay thế bởi Bộ Luật dân sự mới, do Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam ban hành vào ngày 14 tháng 6 năm 2005
82 Luật sở hữu trí tuệ 2005, Điều 143(1)
83 Luật sở hữu trí tuệ 2005, Điều 143(1)
84 Continental Paper Bag Co. v. Eastern Paper Bag Co., 210 U.S. 405, 429 (1908)
85 Luật sở hữu trí tuệ 2005, Điều 145 (1c-d)
86 Khemani, R. Shyam & M.A. Dutz, (196), Các phương tiện cho chính sách cạnh tranh & Sự
phù hợp của chúng đối với sự phát triển kinh tế, PSD Nghiên cứu đặc biệt số 26
(Washington, World Bank)
87 Russell Damtoft, Ủy ban thương mại Liên Bang, Hoa kì, trong một cuộc nói chuyện cá
nhân với Pradeep S. Mehta, Tổng thư kí CUTS
88 CUTS (2003), Hướng tới một nền văn hóa cạnh tranh lành mạnh, trang 40
89 Chú thích 8 ở trên, Điều 49-55
90 Chú thích 8 ở trên, Điều 118(1)
91 Michal Gal (2004), Các điều kiện tiên quyết sinh thái học cho việc chống độc quyền đối với
việc thực thi Luật cạnh tranh tại các nước đang phát triển, trường đại học New York, Nghiên
Bản dịch 5/2008
108
cứu Luật và kinh tế số 10/2004, Berkeley Electronic Press
<http://lsr.nellco.org/nyu/lewp/papers/10>
92 Chú thích 8 ở trên, Điều 5(1)
93 Rai, Qureshi & Saroliya (2003), Các hành vi thương mại không công bằng và các hành vi
hạn chế cạnh tranh – Đâu là chỗ đứng cho người tiêu dùng?, CUTS, trang 37