26

Click here to load reader

Cao trần ngọc

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Cao trần ngọc

Tiểu luận Luật kinh tế:

Luật Chứng khoán Việt Nam và những cải cách hoàn thiện

Thực hiện: Lớp QT9 – K34.

Cao Trần Ngọc.

TP.Hồ Chí Minh. Ngày 10 tháng 4 năm 2010

Page 2: Cao trần ngọc

Lời nói đầu

Những năm qua, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ phát triển đáng kinh ngạc, thu hút nhiều sự chú ý của thế giới. Theo báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã vạch rõ đường lối phát triển kinh tế của nước ta là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa…” Điều này đòi hỏi phải có nguồn lực lớn mà cụ thể là huy động được nguồn lực lớn cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Nước ta là một nước đi sau nên có điều kiện tận dụng những thành quả phát triển của các nước phát triển mà một bộ phận quan trọng là sự tham khảo về mô hình phát triển kinh tế. Các quốc gia phát triển đã chứng minh rằng xây dựng thị trường chứng khoán hoàn thiện chính là cách tốt nhất để các quốc gia huy động nguồn vốn nhàn rỗi cho tiến trình phát triển. Thị trường chứng khoán cho phép sử dụng các chứng từ có giá, bán cổ phiếu, trái phiếu từ đó ngân hàng có thể điều tiết hoạt động của thị trường, khống chế sự co giãn cung cầu tiền tệ, khống chế quy mô đầu tư, thúc đẩy phát triển kinh tế và giá trị đồng tiền. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện để sử dụng vốn có hiệu quả hơn đối với cả người có tiền đầu tư và người vay tiền để đầu tư. Thông thường lãi thu được qua đầu tư chứng khoán cao hơn lãi phiếu nhà nước hay lãi gửi tiết kiệm. Thị trường này rất nhạy cảm với các sự kiện, hoạt động kinh tế xảy ra, do đó là thước đo hiệu quả các hoạt động kinh tế. Chỉ số chung của thị trường chứng khoán phản ánh mức tăng trưởng kinh tế của quốc gia đó trong thời gian ngắn, trung và dài hạn.Chỉ số này cao hay thấp thể hiện sức khỏe nền kinh tế tốt hay xấu. Ngoài ra phát triển thị trường chứng khoán tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện chính sách mở cửa, cải cách kinh tế thông qua việc phát hành chứng khoán ra nước ngoài.

Một vấn đề đặt ra là Việt Nam nên xây dựng thị trường chứng khoán theo mô hình nào, những yếu tố có thể áp dụng từ nước ngoài.

Muốn đảm bảo hoạt động tốt thì yếu tố đặc biệt quan trọng là hoàn thiện hệ thống luật pháp cho thị trường chứng khoán. Đây là vấn đề đang rất nóng bỏng và thu hút sự chú ý từ nhiều phía. Bài tiểu luận của em có nội dung:“Luật Chứng khoán Việt Nam và những cải cách hoàn thiện” với mục tiêu cung cấp hơn nữa những thông tin về hệ thống pháp luật Chứng khoán hiện hành cũng như kiến nghị hướng hoàn thiện. Để thị trường Chứng khoán phát huy được vai trò của mình, trở thành sân chơi công bằng, lành mạnh cho các nhà đầu tư, tạo một động lực mạnh mẽ cho tiến trình phát triển kinh tế của đất nước. Bài viết này còn rất nhiều thiếu sót, do đó rất mong được sự góp ý từ phía cô giáo và các bạn.Chân thành cám ơn!

Page 3: Cao trần ngọc

Mục lục

Chương I: Lý luận chung về luật chứng khoán.

1. Giới thiệu Luật Chứng khoán.

1.1) Hoàn cảnh ra đời.

1.2) Ban hành luật chứng khoán.

2. Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán.

Chương II: Luật thị trường chứng khoán Việt Nam.

1. Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán.

2. Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường.

3. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng khoán.

4. Sự điều tiết của Chính phủ đối với thị trường Chứng khoán.

Chương III: Hướng xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật Chứng khoán

1. Những hạn chế.

2. Định hướng cho dự thảo Luật.

Page 4: Cao trần ngọc

Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ LUẬT CHỨNG KHOÁN.

1. Luật Chứng Khoán :

1.1 Hoàn cảnh ra đời.

Thị trường chứng khoán là yếu tố cơ bản của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đến nay, tại hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển, thị trường chứng khoán đều đã khá hoàn thiện. Tuy nhiên cũng không thiếu những vấn đề còn tồn tại, nhất là ở các thị trường mới nổi. Một TTCK không hoàn thiện thì khó tạo tiềm năng thúc đẩy kinh tế phát triển mà trái lại còn gây thiệt hại, mất uy tín cho nền kinh tế. Báo cáo của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước cho biết, thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đã có hơn 28.000 tài khoản chứng khoán, tăng hơn 8 lần so với năm đầu mở cửa thị trường, trong đó có 246 nhà đầu tư có tổ chức và 251 nhà đầu tư nước ngoài. Bên cạnh những yếu tố tích cực, hoạt động thị trường chứng khoán cũng chứa đựng nhiều rủi ro. Nguyên nhân chính là do các văn bản pháp luật hiện hành mới chỉ dừng lại ở Nghị định, chưa điều chỉnh được toàn diện hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy, nhất thiết phải có một văn bản pháp lý cao hơn để tạo cơ sở pháp lý cho thị trường chứng khoán phát triển. Là nước đi sau, luật chứng khoán của các nước phát triển cũng là một nguồn tham khảo quan trọng tuy nhiên cần áp dụng cho phù hợp với từng giai đoạn cũng như sự khác biệt trong tâm lý nhà đầu tư.

1.2) Ban hành luật chứng khoán.

Mục đích ban hành Luật Chứng khoán để tạo kênh huy động một cách ổn định nguồn vốn trung và dài hạn quan trọng cho nền kinh tế, cùng với việc tạo khung pháp lý đầy đủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, cũng phải bảo đảm sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan, đặc biệt là Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Các tổ chức tín dụng, Luật Kinh doanh bảo hiểm... Mặt khác, xây dựng Luật Chứng khoán sẽ tạo cơ sở cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và ổn định, tạo tâm lý yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào thị trường chứng khoán và bảo đảm lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; giúp công chúng dễ dàng hiểu biết về chứng khoán, thị trường chứng khoán và có cơ sở pháp lý để công chúng tham gia thị trường khi có điều kiện. Đồng thời, giúp việc phân định rõ vai trò của từng thị trường vốn trung hạn, dài hạn và ngắn hạn trong cơ cấu thị trường tài chính; bảo đảm và phát huy quyền tự chủ của doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường chứng khoán, giảm gánh nặng trong việc dùng vốn ngắn hạn cho vay dài hạn của hệ thống ngân hàng hiện nay và góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong cộng đồng các doanh nghiệp và cả nền kinh tế. Đáp ứng yêu cầu của các cam kết quốc tế trong quá trình hội nhập, đặc biệt là các cam kết về hệ thống pháp luật phục vụ quá trình đàm phán gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Page 5: Cao trần ngọc

 Uỷ ban Kinh tế và ngân sách cho rằng, hoạt động chứng khoán là hoạt động kinh doanh có điều kiện; do vậy trên cơ sở Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán phải quy định cụ thể các điều kiện để được cấp phép hoạt động. Các điều kiện cơ bản phải có gồm: cơ sở vật chất, kỹ thuật bảo đảm nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán; có vốn pháp định; người hoạt động kinh doanh chứng khoán phải có chứng chỉ hành nghề. Về thủ tục thành lập mới, nội dung giấy phép, nội dung điều lệ... cần dẫn chiếu Luật Doanh nghiệp, Luật Chứng khoán chỉ nên quy định những đặc thù riêng của hoạt động chứng khoán. Các cụm từ sử dụng trong dự thảo Luật Chứng khoán như: đăng ký, chấp thuận, xin phép thành lập... cần thể hiện rõ ràng dưới hình thức là văn bản và đều phải có thời hạn, quy định rõ thời hạn tối đa phải trả lời. Cần rà soát lại các quy định này theo nguyên tắc; phải cải cách hành chính mạnh mẽ nhưng đối với lĩnh vực mới, hoạt động kinh doanh có điều kiện như lĩnh vực chứng khoán thì phải bảo đảm các yêu cầu kiểm soát của Nhà nước.  

Để thị trường chứng khoán hoạt động nề nếp, quy cũ... nhất thiết phải xác định cụ thể địa vị pháp lý của Uỷ ban Chứng khoán ngay trong Luật. Việc xác định rõ mô hình tổ chức của Uỷ ban Chứng khoán là rất quan trọng, chi phối nhiều quy định trong Luật. Có thể tóm gọn 3 loại mô hình cơ quan quản lý về chứng khoán. Thứ nhất, Uỷ ban Chứng khoán là cơ quan của Chính phủ hay tổ chức dưới dạng Hội đồng trực tiếp báo cáo lên Thủ tướng, hoàn toàn độc lập trong chỉ đạo, điều hành hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán, có quyền thanh tra, giám sát thị trường, điều tra và xử lý các vi phạm. Thứ hai, Uỷ ban Chứng khoán được tổ chức như một Hội đồng, có một số thành viên gồm Bộ trưởng Bộ Tài chính, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Thứ trưởng Bộ Thương mại và một số chuyên gia kinh tế, tài chính... Giúp việc cho Hội đồng này là một Văn phòng Uỷ ban Chứng khoán. Thứ ba, Uỷ ban Chứng khoán trực thuộc Bộ Tài chính hoặc một Bộ nào đó. Nhìn từ thực tiễn, mô hình tổ chức, hoạt động của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước ở Việt Nam chia làm 2 giai đoạn: từ 1997 đến tháng 3/2004, Uỷ ban chứng khoán nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ; từ tháng 3/2004 đến nay, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vào Bộ Tài chính. Được sự hỗ trợ trực tiếp, thường xuyên của Bộ Tài chính, cùng với việc kết hợp thực hiện chính sách cổ phần hoá, kế toán, kiểm toán, chính sách thuế... nên từ năm 2005 trở lại đây, thị trường chứng khoán có xu hướng phát triển mạnh hơn, tạo sự tin tưởng cho các nhà đầu tư. Theo Uỷ ban Kinh tế và Ngân sách, trước mắt, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước vẫn là cơ quan trong Bộ Tài chính, nhưng trong Luật cần giao cho Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước một số chức năng và thẩm quyền, bảo đảm tính độc lập cần thiết và thực quyền của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước trong việc xử lý các vấn đề nghiệp vụ chứng khoán. Về lâu dài, khi thị trường chứng khoán đã phát triển ổn định sẽ sắp xếp lại cho phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường.

Tuy nhiên, trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán cũng cần loại bỏ các thủ tục hành chính, các loại giấy phép không cần thiết, nhưng cũng phải bảo đảm yêu cầu quản lý của nhà nước để thị trường này phát triển an toàn, ổn định. Các nội dung liên quan đến việc cấp các loại Giấy phép cần

Page 6: Cao trần ngọc

phải được quy định rõ ràng, chi tiết, đặc biệt là quy định cụ thể về điều kiện, thủ tục, thời hạn cấp giấy phép. Nói tóm lại, hoạt động chứng khoán là lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, còn mới, nhiều rủi ro. Vì vậy, áp dụng Luật Chứng khoán ở Việt Nam làm sao phải phù hợp với điều kiện cũng như đặc thù thể chế của Việt Nam, cần chọn bước đi cởi mở, nhưng thận trọng.

2. Vai trò của Luật đối với thị trường Chứng khoán :

1. Luật Chứng khoán ra đời góp phần hoàn chỉnh thể chế về kinh tế thị trường ở nước ta, quán triệt tinh thần đổi mới của Đảng và Nhà nước thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ IX và lần thứ X.

2. Luật Chứng khoán ra đời khắc phục những khiếm khuyết, bất cập trong khuôn khổ pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán (Nghị định 144), đồng bộ hoá với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư mà Quốc hội đã thông qua. Điều này hết sức quan trọng vì tạo ra môi trường pháp luật ổn định cho các nhà đầu tư.

3. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện hình thành khuôn khổ pháp luật trong việc quản lý, giám sát thị trường, đảm bảo nguyên tắc hoạt động thị trường: công khai, công bằng, minh bạch và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư.

4. Luật Chứng khoán ra đời tạo điều kiện cho thị trường chứng khoán phát triển nhanh và bền vững; tăng cường khả năng huy động vốn của Chính phủ, các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán cho đầu tư phát triển; tạo cơ hội đầu tư cho công chúng nhằm tăng nhanh luồng luân chuẩn vốn đầu tư. Thị trường chứng khoán phát triển sẽ làm cho các doanh nghiệp minh bạch. Điều này góp phần làm cho nền kinh tế của chúng ta minh bạch.

5. Luật Chứng khoán tạo điều kiện thị trường chứng khoán Việt Nam hội nhập với thị trường chứng khoán khu vực và quốc tế. Thông qua hoạt động đầu tư gián tiếp có khả năng khơi thông nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam, đồng thời tạo cơ hội để các nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước ngoài.

Page 7: Cao trần ngọc

Chương II: THỰC TRẠNG CỦA LUẬT CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Được Quốc hội ban hành ngày 29/6/2006 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2007, Luật Chứng khoán đã tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của TTCK; tăng cường vai trò quản lý nhà nước đối với TTCK; tạo cơ sở pháp luật để bảo đảm các doanh nghiệp tham gia trên thị trường phải hoạt động công khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch hoá nền kinh tế; đồng thời tạo lập các quy định phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực.

1. Yêu cầu của nền kinh tế đối với Luật Chứng khoán :

Kinh tế phát triển cao, nhu cầu huy động vốn cho đầu tư phát triển lớn, đòi hỏi thị trường chứng khoán (TTCK) phải trở thành kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế. Để đạt được mục tiêu phát triển quy mô TTCK từ 10 đến 15% GDP vào năm 2010, đồng thời tạo ra khuôn khổ pháp luật nhằm quản lý thị trường hoạt động có hiệu quả và lành mạnh, đáp ứng với điều kiện hội nhập, một yêu cầu đặt ra là cần phải hoàn chỉnh thể chế về chứng khoán và TTCK.

Sau 5 năm, kể từ khi Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.HCM chính thức khai trương, TTCK đã đạt được những kết quả bước đầu. Đến cuối năm 2005, tổng giá trị chứng khoán niêm yết và đăng ký giao dịch đạt 41.800 tỉ đồng. TTCK đã thu hút được sự tham gia của công chúng đầu tư trong và ngoài nước với số lượng trên 29.000 tài khoản.

Từ thực tế đó, việc ban hành Luật Chứng khoán trở nên cần thiết vì sẽ tạo lập được khuôn khổ pháp lý cao cho hoạt động của TTCK, loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột với các văn bản pháp luật khác có liên quan. Hơn nữa, việc ban hành Luật Chứng khoán cũng tăng cường vai trò quản lý Nhà nước đối với TTCK, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các tổ chức tham gia thị trường, tạo cơ sở pháp luật để giám sát, cưỡng chế thực thi, bảo đảm các DN tham gia trên thị trường phải hoạt động công khai, minh bạch, từ đó góp phần làm minh bạch hoá nền kinh tế. Mặt khác việc xây dựng Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn phù hợp với luật pháp, thông lệ quốc tế nhằm tạo điều kiện cho TTCK Việt Nam có khả năng hội nhập với các thị trường vốn quốc tế và khu vực, đặc biệt là đáp ứng đươc lộ trình thực hiện các cam kết trong Hiệp định thương mại Việt -Mỹ và gia nhập WTO.

2. Những tác động của Luật Chứng khoán đến thị trường thời gian qua:

Page 8: Cao trần ngọc

Qua một năm thi hành, Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn là

nhân tố quan trọng góp phần đạt được những kết quả của TTCK Việt Nam thời

gian qua:

- Thứ nhất: Luật Chứng khoán đã tạo cơ sở pháp lý cho việc chuyển đổi

Trung tâm GDCK Hồ Chí Minh thành công ty TNHH Nhà nước một thành

viên làm tăng tính chủ động trong hoạt động của Sở GDCK.

- Thứ hai: Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn đã thúc đẩy các

công ty niêm yết, nâng điều kiện niêm yết phù hợp với quy mô vốn và chất

lượng của các công ty niêm yết (CTNY) tương xứng với các TTCK khu vực

trong xu thế hội nhập.

- Thứ ba: Luật chứng khoán và các văn bản hướng dẫn thi hành đã tạo cơ

sở pháp lý để quản lý các công ty đại chúng và hoạt động chào bán chứng

khoán ra công chúng.

- Thứ tư: Luật Chứng khoán và các văn bản hướng dẫn mở rộng hơn các

quy định về bảo vệ lợi ích của nhà đầu tư, đặc biệt được áp dụng chung cho các

tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên

TTCK Việt Nam, không phân biệt đối xử giữa nhà đầu tư trong nước và nước

ngoài (trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên có quy định

khác với quy định của Luật này thì áp dụng điều ước quốc tế đó). Do vậy, thị

trường đã thu hút được đông đảo các nhà đầu tư tham gia đặc biệt là nhà đầu tư

có tổ chức và nhà đầu tư nước ngoài.

3. Một số thuận lợi và khó khăn trong việc áp dụng Luật Chứng khoán:

- Thực trạng là một cuộc chạy đua thành lập mới các công ty chứng khoán đã diễn ra ngay sát thời điểm Luật có hiệu lực. Nguyên do là khi Luật đi vào cuộc sống, các điều kiện về thành lập mới công ty chứng khoán sẽ được nâng cao, mang tính chọn lọc hơn.

Cụ thể, các quy định về mức vốn tối thiểu đối với các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán sẽ được nâng lên, như: để thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, vốn điều lệ tối tthiểu dự kiến sẽ nâng từ 2 tỷ lên 10 tỷ đồng; với nghiệp vụ tự doanh là từ 12 lên 70 tỷ đồng; bảo lãnh phát hành từ 22 lên 120 tỷ đồng; đặc biệt là để thực hiện đầy đủ các nghiệp vụ thì mức vốn tối thiểu dự kiến sẽ là 200 tỷ đồng thay vì quy định 43 tỷ đồng trước đó.

Page 9: Cao trần ngọc

Những quy định dự kiến trên là một áp lực lớn đối với các đề án thành lập công ty chứng khoán mới sau thời điểm 1/1/2007. Ngay với bản thân phần lớn các công ty đã có thâm niên trên thị trường, đó cũng là một khó khăn khi mà quy mô vốn hiện vẫn phổ biến dưới mức 200 tỷ đồng.

Và để tránh thời điểm Luật có hiệu lực, một loạt công ty chứng khoán mới đã được thành lập vào cuối năm 2006. Hiện trên thị trường đã có gần 50 công ty hoạt động, thay cho chưa đầy 15 công ty vào thời điểm đầu năm. Con số này cũng liên tục thay đổi khi mà số giấy phép Ủy ban Chứng khoán liên tục cấp trong những ngày cuối năm vừa qua (riêng trong hai ngày 28 và 29/12/2006, có ít nhất 10 giấy phép được ký).

- Luật có hiệu lực và các văn bản hướng dẫn sẽ đặt ra những điều kiện cao hơn đối với doanh nghiệp được niêm yết. Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật, đã được Ủy ban Chứng khoán lấy ý kiến các ban ngành liên quan và trình Chính phủ duyệt, đưa ra một số quy định mới đã khiến thị trường xôn xao.

Dự thảo đưa ra quy định: Để được niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Tp.HCM, doanh nghiệp phải có mức vốn điều lệ tối thiểu là 80 tỷ đồng, cao gấp 8 lần so với quy định trước đó; còn tại sàn Hà Nội là mức vốn tối thiểu 10 tỷ đồng thay cho mức 5 tỷ đồng.

Với quy định dự kiến này, thị trường và nhiều doanh nghiệp xôn xao về khả năng những doanh nghiệp đang niêm yết tại sàn TP.HCM không đủ và không tăng kịp vốn lên trên 80 tỷ có thể sẽ phải chuyển sang sàn Hà Nội. Hiện Ủy ban Chứng khoán vẫn chưa có thông tin định hướng cụ thể về khả năng này vì nghị định hướng dẫn vẫn chưa được ban hành.

- Luật có quy định về tổ chức và hoạt động của Trung tâm Lưu ký chứng khoán, giống như Sở và Trung tâm Giao dịch chứng khoán, là sẽ được tổ chức theo mô hình công ty TNHH hoặc công ty cổ phần, có chức năng tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.

- Luật có hiệu lực sẽ là một cú hích quan trọng trong việc công khai, minh bạch thông tin của các công ty đại chúng, nhằm đảm bảo tất cả các doanh nghiệp có chứng khoán được công chúng sở hữu rộng rãi phải tuân thủ nguyên tắc công khai, minh bạch, từ đó có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.

Về hoạt động chào mua công khai, để bảo đảm tính công khai, minh bạch trong việc chào mua thâu tóm doanh nghiệp, tránh việc các công ty đại chúng bị thâu tóm một cách không công bằng, không công khai và bảo vệ các cổ đông thiểu số trong doanh nghiệp bị thâu tóm, Luật cũng quy định việc chào mua công khai phải báo cáo Uỷ ban Chứng khoán và chỉ được thực hiện sau khi Ủy ban chấp thuận và đã được công bố trên các phương tiện thông tin đại chúng trước thời điểm dự kiến thực hiện.

Page 10: Cao trần ngọc

- Một trong những yêu cầu cấp thiết mà nhiều nhà đầu tư mong Luật khi đi vào đời sống sẽ có sự điều chỉnh cần thiết, cho phép các nhà đầu tư được mở thêm tài khoản giao dịch thay vì chỉ một tài khoản như hiện nay.

Nhiều nhà đầu tư cho rằng chỉ với một tài khoản, họ không có được nhiều thuận lợi để nắm bắt những cơ hội trên thị trường khi việc đặt lệnh bị bó hẹp tại một công ty chứng khoán, hoặc vì hạn chế về thời hạn 3 ngày tiền hoặc cổ phiếu mới về tài khoản như quy trình hiện hành…

Tuy nhiên, việc một nhà đầu tư được mở nhiều tài khoản có thể sẽ gây ảnh hưởng xấu đến các cổ phiếu, đến thị trường nếu nhà đầu tư lợi dụng thuận lợi này để tạo những hoạt động mua – bán “ảo”, để làm giá theo mục đích của mình. Vì vậy, khả năng nới rộng quy định về số lượng tài khoản được mở đối với một nhà đầu tư vẫn đang phải xem xét.

4. Sự điều tiết của Chính phủ đối với Thị trường Chứng khoán:

1) Các tiêu chí cơ bản nhằm đánh giá tính hiệu quả của Luật chứng khoán:

Cho đến khi các nghiên cứu về kinh tế học pháp luật đem lại kết quả khả quan thì việc đánh giá, đo lường tính hiệu quả của pháp luật nói chung và pháp luật về chứng khoán nói riêng đã trở nên thuận lợi, dễ dàng hơn trước rất nhiều. Dựa trên những thành tựu nghiên cứu của kinh tế học pháp luật, chúng tôi cho rằng việc đo lường, đánh giá tính hiệu quả của Luật chứng khoán cần được thực hiện bằng việc tiếp cận các tiêu chí cơ bản sau đây:

* Tính rõ ràng, minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán

Không thể phủ nhận rằng pháp luật vốn có vai trò và bổn phận dẫn dắt hành vi xử sự của con người trong xã hội để hướng tới sự thoả mãn các nhu cầu riêng của từng chủ thể pháp luật cũng như các lợi ích chung mang tính cộng đồng. Nếu các quy định luật pháp về chứng khoán không được rõ ràng và minh bạch thì các chủ thể pháp luật tham gia thị trường chứng khoán sẽ không có điều kiện để lựa chọn được cách hành xử có lợi nhất cho mình. Điều đó sẽ làm tăng chi phí giao dịch cho các bên tham gia thị trường do họ phải “bơi” trong môi trường pháp lí kém chuẩn mực, ít công khai, thiếu tính định hướng chiến lược và chưa sẵn sàng tương thích với môi trường giao thương quốc tế đương đại.

Nói cách khác, “nếu pháp luật rõ ràng, dễ tiệm cận và có thể tin cậy được thì chi phí để tìm hiểu, ra quyết định và thương thảo cũng như triển khai một giao dịch kinh doanh sẽ giảm”.

Vậy, cần phải quan niệm như thế nào về tính rõ ràng, minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán?

Page 11: Cao trần ngọc

Có thể nói, ngoài việc đáp ứng các yêu cầu cơ bản vốn đã nhận được sự đồng thuận của các nhà khoa học như tính đồng bộ và nhất quán; tính công khai và khả năng tiếp cận dễ dàng đối với người dân; tính tin cậy và khả năng dự đoán trước thì tính minh bạch của các quy định trong Luật chứng khoán còn phải đảm bảo được những yêu cầu sau đây:

- Một là, các quy định trong Luật chứng khoán phải thể hiện một cách rõ ràng các ý tưởng hợp lí của người làm luật. Nếu Luật chứng khoán không có khả năng thể hiện một cách rõ ràng các ý tưởng, nhất là các ý tưởng hợp lí của người làm luật thì đạo luật này rất khó được thi hành trong thực tế và không được dân chúng chào đón, ủng hộ. Những ý tưởng hợp lý - tức là những ý tưởng được xây dựng từ nền tảng thực tại xã hội, có thể được xem như là một trong các yếu tố quan trọng làm nên tính hiệu quả của việc thực thi Luật chứng khoán.

- Hai là, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia thị trường chứng khoán cần được thiết kế một cách đơn giản, rõ ràng và chắc chắn về mức độ an toàn cũng như khả năng thực hiện.

Nếu người dân không có khả năng hiểu và tiếp cận được với các quy định trong Luật chứng khoán, đặc biệt là những quyền và nghĩa vụ pháp lí cơ bản thì cơ hội để họ tham gia thị trường là rất ít và nếu có tham gia thì các chi phí giao dịch bỏ ra cho việc tiếp cận thị trường và phòng tránh rủi ro cũng là rất lớn. Khi người đầu tư và các chủ thể khác có liên quan như tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán, cá nhân hành nghề kinh doanh chứng khoán hay các cơ quan quản lí, giám sát thị trường chứng khoán không thể hình dung được một cách rõ ràng về nội dung và cơ chế thực hiện những quyền, nghĩa vụ cơ bản của họ như thế nào thì việc tham gia thị trường hay không sẽ là một quyết định rất khó khăn, mạo hiểm, chứa đựng nhiều rủi ro và tốn nhiều chi phí. Việc thiết kế những quyền năng hay những nghĩa vụ không hợp lí cho mỗi chủ thể tham gia thị trường, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của tổ chức phát hành chứng khoán có thể gây ra sự hoang mang cho giới đầu tư chứng khoán, nhất là các nhà đầu tư nước ngoài bởi lẽ khoảng cách về địa lí cũng như sự khác biệt về hệ thống pháp luật không cho phép họ tiếp cận và thẩm định một cách dễ dàng những thông tin được cung cấp về tổ chức phát hành chứng khoán.

Ở Việt Nam, Luật chứng khoán được soạn thảo và ban hành trong bối cảnh cải cách toàn diện hệ thống pháp lí để kịp thời gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2006. Vì lẽ đó, nhiều quy định của Luật chứng khoán đã đáp ứng được yêu cầu chung về tính minh bạch theo thông lệ quốc tế (ví dụ: Các quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng; quy định về công ti đại chúng; quy định về giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung; quy định về đăng kí, lưu kí, bù trừ, thanh toán chứng khoán…). Tuy nhiên, do quy trình soạn thảo luật ở Việt Nam lâu nay vẫn được thực hiện theo kiểu “cắt khúc, chia đoạn”, nghĩa là luật điều chỉnh lĩnh vực nào thì giao cho cơ quan nhà nước, tổ

Page 12: Cao trần ngọc

chức có chức năng quản lí trong lĩnh vực đó chủ trì soạn thảo nên khó tránh khỏi tình trạng chồng chéo hoặc bỏ sót, thậm chí mâu thuẫn về nội dung giữa các đạo luật. Không phải là ngoại lệ, Luật chứng khoán hiện hành vẫn còn một số quy định chưa thực sự rõ ràng và minh bạch, khó áp dụng trong thực tế, ví dụ: Quy định về chính sách phát triển thị trường chứng khoán; quy định về các loại chứng khoán tại điểm b, khoản 1 Điều 6 Luật chứng khoán; các quy định về một số loại chứng khoán đặc thù như quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua và quyền chọn bán, hợp đồng tương lai…; các quy định về vấn đề thông tin bất cân xứng và những giao dịch không công bằng trên thị trường chứng khoán; các quy định về quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư và phương thức, cơ chế bảo đảm thực thi các quyền năng đó…

* Khả năng làm giảm thiểu các chi phí tiếp cận thị trường và chi phí giao dịch cho các bên tham gia thị trường chứng khoán

Tại sao việc giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường lại được xem là một tiêu chí cơ bản để đo lường tính hiệu quả của Luật chứng khoán?

Câu trả lời sẽ trở nên rõ ràng khi ta giải đáp được câu hỏi: Nhà đầu tư và các chủ thể khác như tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức kinh doanh chứng khoán hướng tới mục đích gì khi họ quyết định tham gia vào thị trường chứng khoán? Nếu câu trả lời đơn giản chỉ là mục đích thoả mãn các lợi ích kinh tế của mỗi chủ thể tham gia thị trường thì rõ ràng Luật chứng khoán sẽ không phải là quan trọng và không có ý nghĩa gì đối với họ - tức là không hiệu quả, nếu các quy định của Luật chứng khoán có thể làm cho các chi phí giao dịch của họ gia tăng, đến mức triệt tiêu luôn các lợi ích kinh tế đơn thuần mà họ mong nhận được từ việc gia nhập thị trường.

Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng giảm thiểu các chi phí gia nhập thị trường chứng khoán? Đây là bài toán tương đối khó giải quyết đối với các nhà làm luật về chứng khoán. Tuy nhiên, có thể hình dung các yêu cầu cơ bản khi thiết kế ban hành và hoàn thiện Luật chứng khoán mà người soạn luật cần đáp ứng, bao gồm:

- Thứ nhất, làm cho các quy định của Luật chứng khoán trở nên rõ ràng, minh bạch, công khai, dễ tiếp cận đối với mỗi người dân, mỗi tổ chức hay mỗi công chức chính quyền. Khi người ta có thể tìm hiểu và nghiên cứu pháp luật về chứng khoán một cách dễ dàng, nhanh chóng và hiệu quả ở mọi nơi, bằng mọi phương tiện thì hiển nhiên là chi phí cho việc tìm hiểu thị trường, gia nhập thị trường và thực thi các giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ giảm đi đáng kể

- Thứ hai, làm cho các quy định của Luật chứng khoán ngày càng hợp lí và được thực thi nghiêm túc trong bất kì hoàn cảnh nào. Yêu cầu này liên quan đến quan niệm về tính hợp lí của các quy định luật pháp. Tuy còn nhiều ý kiến tranh luận về vấn đề này nhưng ở mức khái quát, có thể hiểu tính hợp lí của các quy định pháp luật, trong đó bao gồm các quy định của Luật chứng khoán, chính là sự phù hợp hay tương thích của các quy định đó với tình trạng xã hội

Page 13: Cao trần ngọc

hiện tại, bao gồm cả sự phù hợp với trình độ phát triển của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế. Mặt khác, muốn cho các quy định của Luật chứng khoán có thể được thực thi nghiêm túc thì ngoài việc đảm bảo tính hợp lí cho các quy định đó, Luật chứng khoán cần thể hiện được tính nghiêm khắc trong việc áp dụng các chế tài xử lí đối với những hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán, bất luận người vi phạm là ai. Kinh nghiệm thực tiễn còn cho thấy, nếu người dân không được tiếp cận đầy đủ với hệ thống pháp luật và họ không được khuyến khích hành xử theo tinh thần thượng tôn pháp luật, không được trang bị những khả năng và phương tiện pháp lí để kiên quyết đấu tranh với những hành vi vi phạm pháp luật thì hiệu quả trong việc thi hành pháp luật nói chung và Luật chứng khoán nói riêng sẽ là không đáng kể. Trong trường hợp như vậy, đương nhiên các quy định của Luật chứng khoán có thể bị xem là không hiệu quả vì khi đó người dân nói chung và các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nói riêng sẽ phải bỏ ra nhiều chi phí hơn cho việc tuân thủ những quy định không hợp lí và khắc phục các hậu quả tổn thất do những hành vi vi phạm pháp luật gây ra.

* Nâng cao mức độ thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán

Như đã đề cập ở trên, các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán luôn hướng tới mục tiêu cơ bản là tìm cách thoả mãn tối đa các nhu cầu và lợi ích chính đáng của mình khi quyết định gia nhập thị trường. Vì lẽ đó, không thể nói rằng Luật chứng khoán đã đảm bảo tính hiệu quả về phương diện kinh tế nếu quyền và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư, các tổ chức phát hành hay các nhà kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp không được đảm bảo bằng các quy định đó, dù là ở mức độ tối thiểu.

Vậy, làm thế nào để cho Luật chứng khoán có khả năng đảm bảo và nâng cao dần mức độ thoả mãn các nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán?

Trên thực tế, việc đo lường mức độ thoả mãn nhu cầu và lợi ích của các bên tham gia thị trường chứng khoán để từ đó đánh giá, đo lường mức độ hiệu quả của Luật chứng khoán là vấn đề rất khó khăn và nan giải. Tuy vậy, ở mức khái quát, chúng tôi cho rằng người soạn luật vẫn có thể làm được việc đó nếu quan tâm thoả đáng đến những khía cạnh sau đây:

- Một là, người soạn luật phải xác định và nhận diện chính xác những nhu cầu, lợi ích cơ bản mà các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán nhằm hướng tới. Đối với các chủ thể tham gia thị trường, những nhu cầu, lợi ích này thường gắn với quyền tư hữu và chúng được phát sinh từ quyền tư hữu. Ví dụ, nhà đầu tư bỏ tiền ra để mua chứng khoán nhằm mưu lợi cho mình, do đó họ có nhu cầu được biết chính xác về tình hình hoạt động hiện tại và khả năng tài chính của tổ chức phát hành để từ đó đánh giá mức độ tin cậy cũng như khả năng tăng, giảm giá của loại chứng khoán họ đã hoặc sẽ đầu tư. Còn đối với tổ chức phát hành, do lợi ích của họ nằm ở số vốn mà họ muốn huy động từ các

Page 14: Cao trần ngọc

nhà đầu tư nên đương nhiên chủ thể này có nhu cầu được phát hành chứng khoán ra công chúng với thủ tục nhanh chóng nhất, thuận lợi nhất với chi phí phát hành thấp nhất.

- Hai là, cần thiết kế những quy định nhằm đảm bảo hợp lí các nhu cầu, lợi ích của mỗi loại chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, đặt trong mối quan hệ với việc đảm bảo hợp lí các nhu cầu, lợi ích chung mang tính cộng đồng. Tuy nhiên, việc cân bằng lợi ích giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán là điều rất khó và có lẽ cần được hiểu theo nghĩa, bên nào có vị thế kinh tế bất lợi hơn so với các bên còn lại thì cần được Nhà nước quan tâm bảo vệ đặc biệt bằng các quy tắc pháp lí công bằng, ví dụ như nhu cầu ưu tiên bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư chứng khoán, xét trong mối quan hệ lợi ích với tổ chức phát hành chứng khoán hay với các tổ chức kinh doanh chứng khoán chuyên nghiệp.

Mặt khác, những quy định của Luật chứng khoán cũng cần đảm bảo sự đối xử công bằng giữa các nhà đầu tư trong nước với các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán để không tạo ra những rào cản bất hợp lí cho sự gia nhập thị trường của các nhà đầu tư tiềm năng như tổ chức và cá nhân nước ngoài.

Tóm lại, những phân tích trên đây cho phép nhận định rằng, muốn có một thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả thì không thể thiếu khung pháp luật an toàn và hiệu quả, trong đó tính hiệu quả của Luật chứng khoán được xem là vấn đề cốt lõi. Với niềm tin có cơ sở, chúng ta có quyền bày tỏ sự kì vọng vào những thành công của Việt Nam trên địa hạt kinh tế, trong nỗ lực cải cách hệ thống pháp lí hiện hành, trong đó có lĩnh vực pháp luật về chứng khoán để đáp ứng yêu cầu phát triển nền kinh tế theo hướng thị trường và hội nhập.

Page 15: Cao trần ngọc

Chương III:

MỘT SỐ GIẢI PHÁP KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ HIỆU QUẢ CỦA LUẬT ĐỐI VỚI THỊ TRƯỜNG

CHỨNG KHOÁN

1. Một số mặt còn tồn tại hiện nay :

Khi doanh nghiệp sợ thủ tục hành chính họ sẽ không tự nguyện tham gia niêm yết, các nhà đầu tư sẽ thiếu niềm tin để bỏ vốn vào TTCK", Hiệp hội các nhà đầu tư chứng khoán (VAFI) góp ý dự thảo Luật Chứng khoán lần thứ 4 vừa được hoàn thành.

Trong văn bản đóng góp ý kiến, VAFI tập trung phân tích vào chính sách đối với 2 nhóm đối tượng chính: nhà đầu tư cá nhân và các công ty. Dự luật quy định, cá nhân tham gia hoạt động trên TTCK phải thực hiện chế độ báo cáo và công bố thông tin theo quy định của pháp luật. Điều này theo VAFI khó khả thi, vì có hàng nghìn cá nhân đầu tư, luật chỉ cần yêu cầu một số trường hợp đã vi phạm pháp luật là đủ.

Tổng thư ký hiệp hội Nguyễn Hoàng Hải cho rằng quy định “bán chứng khoán cho trên 100 nhà đầu tư thì được coi là chào bán chứng khoán ra công chúng" cũng không có căn cứ, vì tổ chức phát hành không thể biết chính xác bao nhiêu nhà đầu tư sẽ mua cổ phiếu của mình.

Khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán được đề cập trong dự thảo theo nhận xét của các nhà đầu tư là không hợp lý. Trên thực tế, thị trường được hình thành ở bất kỳ địa điểm nào, thậm chí chỉ cần một cú điện thoại hay email là có giao dịch. Theo dự thảo những hoạt động này sẽ được quản lý bởi UBCKNN.

Dự luật có hẳn một chương đề cập đến thanh tra và xử lý vi phạm, tuy nhiên chương này chỉ đề cập đến trách nhiệm của các thành phần khác mà không đề cập đến trách nhiệm của UBCKNN. Do vậy VAFI đề nghị cần bổ sung trách nhiệm của UBCKNN và cán bộ của UBCKNN vào luật. Ông Hải nhận xét: "Sự phức tạp của luật sẽ tạo điều kiện cho nạn nhũng nhiễu, còn về phía nhà đầu tư và doanh nghiệp có thể bị vi phạm luật mà không biết".

Phó chủ tịch UBCKNN Vũ Bằng cho hay, do đây là một nghiệp vụ rất mới mẻ, việc soạn thảo luật không thể tránh khỏi thiếu sót, UBCKNN sẽ tổ chức các buổi hội thảo và đăng tải chi tiết dự luật trên website của ủy ban để thu nhận ý kiến đóng góp. Dự luật cũng được các chuyên gia chứng khoán của Mỹ và Ngân hàng phát triển châu Á hỗ trợ soạn thảo.

Page 16: Cao trần ngọc

2. Định hướng cho các dự thảo Luật chứng khoán:

Luật chứng khoán là một đạo luật rất quan trọng, hơn thế nữa, đó là một

đạo luật liên quan đến các ngành an ninh, tài chính, tiền tệ của quốc gia, nghĩa

là đến an ninh kinh tế và nói rộng hơn là ảnh hưởng đến an ninh chính trị quốc

gia. Vì vậy, phải xem xét luật này một cách hết sức kỹ lưỡng, nhất là khi chúng

ra dự kiến thông qua nó trong một kỳ họp.

Dự thảo lần này đã tiếp thu thêm nhiều ý kiến và đã có cấu trúc chặt chẽ

hơn. Tuy nhiên, chúng tôi có mấy vấn đề cần xem xét kỹ lưỡng hơn.

- Thứ nhất, làm gì để chúng ta có thể giảm thiểu được nguy cơ ảnh hưởng của

thị trường chứng khoán đối với an ninh quốc gia. Tôi chỉ nói đến vấn đề giảm

thiểu nguy cơ bởi vì những mặt tích cực của thị trường chứng khoán là đã quá

rõ và bản thân Dự thảo luật này cũng đã đề ra những biện pháp để phát huy tích

cực của thị trường chứng khoán.

Chúng ra đều đã biết nguy cơ của thị trường tiền tệ tài chính “bong bóng”

hay nền kinh tế “bong bóng” ra đời và phát triển cùng thị trường chứng khoán.

Xin hình dung rằng, khi chúng ta có Quỹ đầu tư chứng khoán, những người có

tiền, kể cả nhà nước, đầu tư vào Quỹ đầu tư chứng khoán để mua cổ phiếu ở

những nơi nào có thể sinh lời cao nhất. Nhưng từ Quỹ đầu tư chứng khoán, sẽ

có Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và công ty này bản thân nó cũng có

thể tham gia phát hành trái phiếu và tham gia vào thị trường chứng khoán.

Công ty này không có vốn mà vốn kinh doanh của nó chính là từ Quỹ đầu tư

chứng khoán và cứ như thế - đây là một ví dụ thôi -cái bong bóng này đẻ ra

bong bóng kia hoặc nó  tự thổi phồng lên thành một bong bóng to hơn, cao hơn

và cứ như thế, nó dẫn đến nền kinh tế chúng ta vào nền kinh tế bong bóng. Đã

có nhiều nước là nạn nhân của chuyện này. Nền kinh tế các nước Đông Nam Á

năm 1997 là một ví dụ. Nền kinh tế Achentina năm 1999 và đầu những năm

2000 cũng là một ví dụ.

Trong thị trường chứng khoán, người mua chứng khoán và người bán

chứng khoán không bao giờ tách bạch. Một người có thể bán chứng khoán để

làm cho chứng khoán đó hạ giá xuống, khi giá đã thấp nhất thì người đó lại

mua trở lại để chờ lúc giá lên mà kiếm lời cao nhất. Và chính đây là hiện tượng

đầu cơ chứng khoán. Vì thế, không thể tách bạch mua chứng khoán là một lớp

người và bán chứng khoán là một lớp người. Đây cũng là chỗ tế nhị của thị

trường chứng khoán, nhất là trong điều kiện đa số  ta chưa hiểu rõ chuyện này,

do vậy, khi xây dựng Luật chứng khoán chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ. Có

thể từng cá nhân riêng lẻ bỏ tiền để mua rất nhiều chứng khoán, nhưng người

chi phối thị trường chứng khoán lại chính là những tổ chức tài chính tiền tệ,

Page 17: Cao trần ngọc

chính là maphia tiền tệ. Có thể có rất đông người mua chứng khoán cá thể,

nhưng người quyết định giá cả thị trường lại thường chỉ là một số công ty thôi.

Cũng vì vậy mà ở các nước phương Tây, chỉ trong một ngày, thậm chí trong

một giờ, giá trị của cổ phiếu có thể rớt xuống mức thấp nhất, hoặc có thể được

đôn lên cao gấp 4 – 5 lần mức bình thường. Điều này xảy ra hoàn toàn độc lập

với điều kiện khách quan về vật chất, kinh tế, kỹ thuật của doanh nghiệp phát

hành cổ phiếu đó và rất dễ dẫn đến sự phá sản của doanh nghiệp, kéo theo đó là

sản phẩm của hàng chục ngàn lao động bị thất nghiệp một cách không thương

tiếc. Những cảnh báo này, cả Mác và Lênin đã nói trước đây.

- Thứ hai là, Dự thảo luật này đã chú ý đến hạn chế mặt tiêu cực của đầu cơ

chứng khoán bằng cách đề ra một loạt các biện pháp như quản lý ngoại hối,

chính sách thuế, kế toán, kiểm toán…Nhưng nếu đem áp dụng, thì áp dụng như

thế nào? Chúng ta biết là thị trường chứng khoán là thị trường tiền tệ trung và

dài hạn, nhưng nếu người nào đó chỉ mua cổ phiếu rồi bán lại với mục đích đầu

cơ trong thời gian ngắn thì xử lý như thế nào? Thuế đánh như thế nào và đánh

bao nhiêu? Theo như tôi biết, trong các chính sách về thuế, chúng ta chưa có

những quy định nào về vấn đề này, cũng như chưa bàn về việc sử dụng phương

pháp đánh giá thuế trong các lĩnh vực khác của hoạt động chứng khoán. Tổ

chức UNCTAD của LHQ về kinh tế đã có khuyến cáo là nên có thuế TOBIN là

thuế đánh lên trên những việc chuyển đổi, tức là mua bán chứng khoán ngắn

hơn. Chúng ta nên nghiên cứu và có đề xuất cụ thể để sửa ngay Luật thuế nhằm

có sự đồng bộ về pháp lý.

Đối với quy định đặt Uỷ ban chứng khoán là cơ quan thuộc Bộ Tài chính, tôi cho rằng cần phải xem xét lại. Chúng ra đã biết, Bộ Tài chính là người thay mặt cho Chính phủ để phát hành trái phiếu, trái phiếu của trung ương cũng như trái phiếu của địa phương. Cho nên, với những kinh nghiệm chúng ta đã có trong 7 năm qua, kết hợp với cách làm chúng học được trên thế giới về lĩnh vực này và với những khuyến cáo của các tổ chức tài chính, những định chế tài chính quốc tế…thì chúng ta nên tách nó ra, không nên nhập lại. Chúng ta cần cân nhắc kỹ và xác định cho Uỷ ban chứng khoán một vị trí, địa vị pháp lý cần có để nó làm tốt nhiệm vụ của nó. Có thể có khó khăn trong giai đoạn đầu, nhưng nếu chúng ta quyết tâm thì sẽ làm tốt được.