36
HAI ĐỨA TRẺ 1. Giá trị biểu tượng ngọn đèn chị Tí Mở bài: Giới thiệu khái quát về Thạch Lam, về tác phẩm "Hai đứa trẻ" và vấn đề cần giải quyết: Đọc truyện ngắn Thạch Lam-cây bút xuất sắc của VHVN trước 1945, người đọc luôn luôn có những dư âm nhức nhối trong lòng. Những truyện không có chuyện, thế mà vẫn vượt qua được lớp bụi thời gian hơn nửa thế kỉ, sống mãi trong lòng độc giả. Truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng vậy; mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết đều gợi cho người đọc những liên tưởng sâu xa. Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn leo lắt từ gian hàng của chị Tí – Hình ảnh nhỏ những lại có sức gợi ám lớn. Thân bài: 1, giới thiệu hình ảnh ngọn đèn trong tác phẩm: 1.1: xuất hiện trực tiếp qua cảm nhận của nhân vật Liên - Ngọn đèn Hoa Kì... - Quần sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng chị Tí... - giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí và bếp lửa bác Siêu.... 1.2: Xuất hiện qua bút pháp tương phản: ánh sáng ngọn đèn với ánh sáng của đoàn tàu: - Một TG khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu.. - Ngọn đèn con chỉ chiếu sáng 1 vùng đất nhỏ... ==> ngọn đèn gắn với chõng hàng chị Tí, là hình ảnh quen thuộc , chân thực và bình dị của cuộc sống đời thường của những người lao động nghèo 2. Ý nghĩa: - Đây là hình ảnh xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, gắn với hàng chõng chị Tí - Hình ảnh bình dị, gần gũi , thân thương...trong cuộc sống đời thường của người lao động - Hình ảnh có sức gợi, sức ám ảnh dư ba: gợi sự cảm thương sâu sắc về những kiếp sống lay lắt, vật vờ...gợi sự đồng cảm, nâng niu, trân trọng những khát vọng bé nhỏ, mong manh, mơ hồ...về 1 cuộc sống tươi sáng hơn

Câu 2 điểm

  • Upload
    thaole

  • View
    227

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: Câu 2 điểm

HAI ĐỨA TRẺ

1. Giá trị biểu tượng ngọn đèn chị TíMở bài: Giới thiệu khái quát về Thạch Lam, về tác phẩm "Hai đứa trẻ" và vấn đề cần giải quyết: Đọc truyện ngắn Thạch Lam-cây bút xuất sắc của VHVN trước 1945, người đọc luôn luôn có những dư âm nhức nhối trong lòng. Những truyện không có chuyện, thế mà vẫn vượt qua được lớp bụi thời gian hơn nửa thế kỉ, sống mãi trong lòng độc giả. Truyện ngắn Hai đứa trẻ cũng vậy; mỗi hình ảnh, mỗi chi tiết đều gợi cho người đọc những liên tưởng sâu xa. Đặc biệt là hình ảnh ngọn đèn leo lắt từ gian hàng của chị Tí – Hình ảnh nhỏ những lại có sức gợi ám lớn.

Thân bài:

1, giới thiệu hình ảnh ngọn đèn trong tác phẩm:

1.1: xuất hiện trực tiếp qua cảm nhận của nhân vật Liên

- Ngọn đèn Hoa Kì...- Quần sáng thân mật chung quanh ngọn đèn lay động trên chõng hàng chị Tí...- giờ chỉ còn ngọn đèn con của chị Tí và bếp lửa bác Siêu....

1.2: Xuất hiện qua bút pháp tương phản: ánh sáng ngọn đèn với ánh sáng của đoàn tàu:

- Một TG khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng của ngọn đèn chị Tí và ánh lửa bác Siêu..

- Ngọn đèn con chỉ chiếu sáng 1 vùng đất nhỏ...

==> ngọn đèn gắn với chõng hàng chị Tí, là hình ảnh quen thuộc , chân thực và bình dị của cuộc sống đời thường của những người lao động nghèo

2. Ý nghĩa:

- Đây là hình ảnh xuất hiện nhiều lần trong tác phẩm, gắn với hàng chõng chị Tí- Hình ảnh bình dị, gần gũi , thân thương...trong cuộc sống đời thường của người lao động- Hình ảnh có sức gợi, sức ám ảnh dư ba: gợi sự cảm thương sâu sắc về những kiếp sống lay lắt, vật vờ...gợi sự đồng cảm, nâng niu, trân trọng những khát vọng bé nhỏ, mong manh, mơ hồ...về 1 cuộc sống tươi sáng hơn của người lao động nghèo.

2.1: Hình ảnh ngọn đèn tô đậm bức tranh phố huyện nghèo khổ, tù đọng cùng những kiếp người tàn nơi đây:

+ ngọn đèn gắn với chõng hàng chị Tí nên trước hết nó cho thấy được cuộc sống nghèo khổ, vất vả của chị Tí:

- Ngày chị đi mò cua bắt tép, tối đến chị dọn cái hàng nước....

- Chị Tí chả kiếm đc bao nhiêu...

+ Ko chỉ là chị Tí, ngọn đèn còn là biểu tượng của những kiếp người tàn trong phố huyện (những đứa trẻ con nhà nghèo, chị em Liên, gia đình bác Xẩm, bác Siêu, bà cụ Thi điên...)

+, ngọn đèn chỉ chiếu sáng 1 vùng đất nhỏ giữa không gian bao la đặc 1 màu đen tối==> chỉ là nguồn sáng leo lắt và yếu ớt, dường như vô nghĩa với màn đêm=> gợi lên sự tàn lụi, leo lắt của cuộc sống vất vả, cơ hàn nơi phố huyện.

Page 2: Câu 2 điểm

2.2: Ngọn đèn cũng là biểu tượng cho một niềm hi vọng về 1 tương lai tươi sáng, về sự không tàn lụi của cuộc đời mà Liên và người dân phố huyện vẫn hằng mong ước:

+ trong sự ngự trị của đêm tối ở phố huyện, Thạch Lam vẫn thắp lên cho con người nơi đây một chút hi vọng nhỏ nhoi, le lói. Một ánh sáng sáng lên trong đêm tối không đủ xua tan bóng đêm nhưng đủ để người dân quê có thể hi vọng cải thiện cuộc sống của mình...- Chị Tí ngày nào cũng thắp đèn từ chiều tối đến đêm khuya, những mong có thể kiếm thêm chút gì đó...

2.3: Hình ảnh ngọn đèn còn biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn của con người nơi đây:

+, Ngọn đèn leo lắt nhưng vẫn bền bỉ cháy từ lúc chiều tà đến đêm khuya thể hiện sự kiên trì trong lòng con người nơi phố huyện, không chỉ là kiên trì, đó còn là sự chăm chỉ, cần mẫn, chịu thương chịu khó của những người con phố huyện.+ Quầng sáng thân mật: Đó chính là tình làng nghĩa xóm của những con người nơi đây. Tình người ấm áp, nghĩa tình của những người cùng cảnh ngộ, trong đêm tối, họ cùng nhau thao thức chờ tàu đêm đi qua phố huyện

3, Đánh giá:

3.1: Nghệ thuật:

- Hình ảnh ngọn đèn là 1 hình ảnh đặc sắc, được miêu tả qua cảm nhận của nhân vật Liên và qua thủ pháp tương phản- Là hình ảnh đa nghĩa, giàu sức gợi, giúp cho người đọc khả năng liên tưởng, lay thức tâm hồn- Thể hiện đặc điểm phong cách truyện ngắn Thạch Lam + Khả năng khám phá những nét đẹp trong cuộc sống đời thường + Đậm yếu tố hiện thực mà vẫn giàu chất thơ, chất lãng mạn + Khả năng viết truyện ngắn bậc thầy .- Hình ảnh giúp người đọc cảm nhận được ở Thạch Lam: Tấm lòng chân cảm sâu kín

3.2: Nội dung tư tưởng:

- Góp phần nổi bật bức tranh thiên nhiên, cuộc sống phố huyện tĩnh lặng, tối tăm, đượm buồn- Thể hiện tình cảm nhân đạo sâu sắc của tác giả: Cổ vũ, đề cao khát vọng đổi thay của con người phố huyện, đề cao vẻ đẹp tâm hồn con người và thương xót cho những kiếp người khổ cực, lầm than...

Kết bài:

Chỉ một ngọn đèn đủ để người đọc phải thổn thức suốt hơn 50 năm, Thạch Lam thực sự đã để lại dấu ấn lớn trên văn đàn Văn học Việt Nam hiện đại với cái tài và cái tâm của một người nghệ sĩ chân chính.

2. Ý nghĩa của chuyến tàu đêm

Thạch Lam là nhà văn xuất sắc trước Cách mạng tháng Tám. Những việc hết sức bình thường trong đời sống đã được nhà văn miêu tả một cách chân thực, sâu sắc, gợi nên nhiều nghĩ suy. Truyện ngắn Hai đứa trẻ, với hình ảnh đoàn tàu đi qua phố huyện chỉ vài ba phút trong đêm là hình ảnh đầy ý nghĩa.Giữa một buổi chiều là buồn tẻ, “tiếng trống thu không” vang lên “từng tiếng một” để gợi buổi chiều. Rồi màn đêm dần dần đến mà dấu hiệu là “dãy tre làng đen lại” và “bóng tối ngập đầy dần cái buồn của buổi chiều quê thấm thìa và tâm hồn ngây thơ” trong đôi mắt của Liên. Phố huyện về đêm gần như vắng tanh, chỉ có vài “ngọn đèn lay đọng trên chõng hàng của chị Tí”, gánh phở bác Siêu, vợ chồng bác xẩm. Tuy “buồn ngủ rức cả mắt”, chị em Liên vẫn có thức, để bán hàng với hi vọng “may ra còn có một vài người mua”. Song “Liên và em cố thức là vì cớ khác, vì muốn được nhìn chuyến tàu, đó là hoạt động cuối cùng của đêm khuya”. 

Page 3: Câu 2 điểm

Thạch Lam khá am hiểu tình cảm của người dân nghèo nơi phố huyện nhỏ này. Đoàn tàu đến là hoạt động náo nhiệt nhất của đêm khuya, đem đến cho mọi người cái hi yọng được nhìn thấy “một chút thế giới khác”. Nhà văn đã miêu tả đoàn tàu đêm một cách chi tiết và ừân trọng. Đó cũng chính là sự trân trọng ước muốn của con người. Nhà vãn đã miêu tả từ những dấu hiệu đầu tiên: “Mấy người làm công ở hiệu khách đi đón bà chủ ở tỉnh về”, “hai ba người cầm đèn lồng lung lay các bóng dài”, “đèn ghi đã ra”. Con tàu từ xa đang tiến đến với “ngọn lửa xanh biếc, sát mặt đất như ma trơi. Rồi tiếng còi xe lửa ở đâu vang lại, trong đêm khuya kéo dài ra ngọn gió xa xôi”. Dấu hiệu ấy khiến mọi người xôn xao; tiếng bác Siêu báo đèn ghi đã ra, tiếng của Liên gọi em An. Và chuyến tàu đến: “Tiếng còi đã rít lên, và rầm rộ đi tới. Liên dắt em đứng dậy để nhìn đoàn xe vượt qua, các toa đèn sáng trưng, chiếu ánh sáng cả xuống đường”. Trước mắt Liên “những toa hạng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh, và các cửa kính sáng”. Chuyến tàu đi qua, “để lại những đốm than đỏ bay tung trên đường sắt”, “cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo lên trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre”. Thạch Lam đã quan sát và miêu tả bằng những chi tiết khá sâu nét. Ánh sáng, màu sắc, âm thanh, hoạt động được thể hiện phù hợp và đầy sức gợi cảm trong đêm tối. Vì sao chị em Liên và mọi người lại háo hức chờ đón đoàn tàu như vậy? Chuyến tàu về gợi cho “hai đứa trẻ” cảm xúc gì? Phải sành tâm lí trẻ thơ lắm mới có được dòng miêu tả như vậy. Đoàn tàu đi qua gợi lên trong các em nhiều ý nghĩa lắm. Hình ảnh con tàu gợi lại trong chị em Liên trong dòng mơ tưởng về “Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo”, nơi các em đã sống một thời êm ấm và sung sướng. Đó là một thế giới khác, một thế giới đã qua, khác hẳn nơi phố huyện buồn tẻ và nghèo nàn. Đó là thế giới của ước mơ và không biết bao giờ còn có thể trở lại… Thạch Lam đã dẫn người đọc cùng ông về một phố huyện nghèo nàn, buồn tẻ và đơn điệu, cùng ông cảm thông với cuộc sống của cả một lớp người, sống không có hi vọng vào ngày mai, nếu có chăng là nhìn thấy thoáng qua sự ồn ào, vẻ sang trọng của người khác. Phố huyện bây giờ, khi đoàn tàu đã đi xa, “chỉ còn đêm khuya, tiếng trống cầm canh và tiếng chó cắn”, chỉ còn “vợ chồng bác xẩm ngủ gục ữên manh chiếu tự bao giờ”, và “hình ảnh thế giới quanh mình, mờ mờ đi trong đôi mát” của Liên. Phải chăng dưới ngòi bút của Thạch Lam, cuộc sống chẳng còn ý nghĩa gì? Không, dù chưa lạ được gì cho con người nghèo khổ, Thạch Lam đã góp một tiếng nói cảm thông, đã nhen nhóm trong họ một chút hi vọng để vượt lên ừên cái tẻ nhạt, tầm thường của cuộc sống. Miêu tả cả một lớp người và tâm trạng của họ như thế, chúng ta thấy được lòng trắc ẩn của nhả vãn trước số phận của con người. Vì thế, truyện ngắn Hai đứa trẻ là một truyện ngắn hay, gợi lên trong người đọc nhiều nghĩ suy trước số phận con người, nhất là những con người nhỏ bé.

3. Sự đối lập giữa bóng tối và ánh sáng

Trong lời tựa cho “Gió đầu mùa”, Thạch Lam (TL) viết: “Đối với tôi, văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát ly hay sự quên; trái lại, văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực mà chúng ta có, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới đầy giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn…”. Với tư tưởng ấy, dẫu là một thành viên của Tự lực văn đoàn, là một nhà văn lãng mạn nhưng Thạch Lam đã lắc đầu trước xu hướng thoát ly của văn chương lãng mạn đương thời; ngòi bút hiện thực- trữ tình Thạch Lam thường nghiêng xuống những thân phận bé mọn, những mảnh đời khốn khó để xót thương. Văn chương của ông là những trang hiện thực thoáng qua, không gồ ghề dữ dội mà có sức lay động. Những truyện không có chuyện của nhà văn đưa ta về với một cõi hiền hòa, dịu dàng để rung cảm với thời gian của “Gió đầu mùa”, để lắng mình trong không gian của “Nắng trong vườn”. Và có lần, cũng với tư tưởng nghệ thuật ấy, bằng những ký ức, hồi ức về tuổi thơ ông ở phố huyện Cẩm Giàng, Hải Dương, nhà văn đưa ta về với thế giới của một phố huyện nghèo, đến với thế giới tâm hồn “Hai đứa trẻ”(HĐT) để cùng nghĩ suy về những cảnh đời trong cuộc sống cũ. Bằng nghệ thuật đối lập- một thủ pháp nghệ thuật quen thuộc của văn chương lãng mạn, thiên truyện này đã miêu tả ánh sáng và bóng tối như là biểu tượng cho cuộc sống lay lắt tăm tối của những người nghèo khổ và ước mơ của họ về một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Page 4: Câu 2 điểm

1. Trong văn chương-không nhất thiết là trong thơ mà kể cả trong văn xuôi- có nhiều hình ảnh được miêu tả không chỉ vì nó mà còn vì những ý tưởng, những suy nghĩ, cảm xúc mà qua đó nhà văn muốn giãi bày, kí thác. Ánh sáng và bóng tối trong “HĐT” của TL là những hình tượng đem đến cho chúng ta “một cách cảm nhận cuộc đời, một lối rung cảm xót xa trìu mến trước những cảnh đời nghèo túng đôi lúc tủi cực, đôi lúc hắt hiu”(Huy Cận) 2. Trước hết, hãy cùng nghĩ về chi tiết bóng tối trong truyện ngắn HĐT của TL.Truyện của TL có quá nhiều những chi tiết về bóng tối, nhiều đến nỗi khi đọc truyện ,bóng tối luôn ám ảnh chúng ta.. Thời gian của câu chuyện bắt đầu từ một buổi chiều muộn với những hình ảnh, âm thanh báo hiệu một ngày tàn. Ấy là lúc “trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn”,. Ở đây, ánh nắng chiều tắt thì dãy tre làng đen lại cắt hình trên nền trời. Ánh nắng vụt tắt thì bóng đêm ùa về., thời gian chuyển dần vào đêm, để rồi đêm tối mênh mông, , đêm về khuya và cuối cùng kết thúc cũng bằng hình ảnh một phố huyện “tịch mịch và đầy bóng tối”. Thời gian ấy gắn liền với không gian của phố huyện nghèo, một nơi nhỏ và hẹp, nửa quê, nửa tỉnh. Ây là nơi khi hoàng hôn buông xuống có tiếng ếch nhái, tiếng muỗi vo ve, có. “ tiếng trống thu không trên cái chòi của huyện nhỏ, từng tiếng một vang ra để gọi buổi chiều”. Thời gian và không gian nghệ thuật của thiên truyện ngắn được dệt đan bởi rất nhiều chi tiết của bóng tối.. a. Rất nhiều chi tiết được sử dụng để miêu tả trực tiếp bóng tối, để dựng nên không gian nơi phố huyện bắt đầu từ chiều muộn đến tận đêm khuya, những chi tiết tả bóng tối cứ dày thêm qua từng trang truyện HĐT, bóng tối của thiên nhiên và bóng đêm của những cảnh đời bàng bạc trong không gian của phố huyện nghèo. Trời phố huyện càng lúc càng tối, tối cả con đường ra sông, con đường vào làng , các ngõ càng thẫm đen hơn nữa, tối đến mức cả tiếng đàn bầu của bác xẩm và tiếng trống cầm canh tưởng chừng cũng không vang lên được..Bên cạnh những chi tiết tả thực bóng tối, cũng có lúc bóng tối đóng vai trò một ẩn dụ .Chẳng hạn khi nhà văn viết về Liên khi ngồi trong bóng chiều của phố huyên : “đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần” , hay tả hình ảnh của bà cụ Thi: “cụ đi lần vào bóng tối”. Bóng tối hay là nỗi buồn sớm đến trong tâm hồn một tâm hồn vẫn còn thơ ngây; bóng tối của đất trời hay bóng đêm của một cảnh đời? b. Thỉnh thoảng trên những trang văn của HĐT xuất hiện những chi tiết tả ánh sáng. Không hề vô tình, cũng chẳng phải ngẫu nhiên mà dụng ý của người viết ở những chi tiết này khá rõ. Dùng đôi chút ánh sáng để làm nổi bật gam màu tối của bức tranh nơi phố huyện cũng là một cách tả bóng tối gián tiếp của người viết truyện. Có ánh lửa trên bếp than của gánh phở bác Siêu, có ánh sáng nhấp nháy phát ra từ những con đom đóm bay trong đêm. Và khi đặc tả bóng tối bằng những chi tiết ánh sáng, trên những trang văn của TL cứ trở đi trở lại (có người đã thống kê cả thảy 7 lần) hình ảnh “chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ”. Đó là sự lặp lại có tính nghệ thuật. Về ngôn ngữ miêu tả, có cả loại từ được dùng để miêu tả kích cỡ của ánh sáng: khe sáng, hột sáng, vệt sáng, đốm sáng, quầng sáng. Chúng khác nhau về kích cỡ, hình dáng nhưng lại giống nhau về cường độ. Tất cả đều yếu ớt, lay lắt, hắt hiu. Chút ánh sáng ấy làm cho bóng tối như là một nỗi ám ảnh, gợi nỗi buồn, không làm cho không gian nơi đây tối hẳn mà cũng không đủ sức phá vỡ bóng đêm. Những chi tiết đó cứ khiến người đọc suy nghĩ mãi về những cảnh đời cũng lay lắt, leo lét như hình ảnh ánh sáng kia. Nó gợi cuộc sống đơn điệu, buồn tẻ trong một nhịp chảy rất chậm của thời gian. Cuộc sống cứ kéo dài lê thê trong bóng đêm nối dài từ ngày này sang tháng khác mà chẳng có đổi thay gì. Đó là cảm giác chung của nhiều người khi đọc HĐT . Nhà thơ Thế Lữ đã gọi đó là “thứ bóng tối nhẫn nại uất ức đời thôn quê”. Đến đay, chúng ta tự hỏi: sao truyện HĐT của TL lại quá nhiều bóng tối đến vậy? Xin mượn ý kiến của Phong Lê để làm lời giải thích: “ Thạch lam nhìn sâu vào cuộc sống ở những ngõ khuất của nó và do vậy mà ít có ánh sáng, mà làm ta bồi hồi, khắc khoải, lo âu”.

3..Khi tả ánh sáng, trong HĐT có thứ ánh sáng tương tranh vời bóng tối ở đầu truyện, có thứ ánh sáng cứ nhạt nhòa , nhỏ nhoi, hiu hắt ở phần giữa của thiên truyện mà chúng ta vừa đề cập, và đến cuối truyện có một thứ ánh sáng khác, cường độ sáng mạnh hơn, nói như nhà văn, đó là thứ ánh sáng của một thế giới khác, soi rọi vào một thế giới khác. Đó là ánh sáng con tàu đem đến cho phố huyện đêm đêm, nó tạo ra một thời khắc mà ở đó phố huyện nghèo cảm nhận được sự đổi thay, cảm thấy cuộc sống của mình có đôi chút ý nghĩa, có được niềm vui. Trong truyện, TL miêu tả ở phố huyện có một ga nhỏ hằng đêm có chuyến tàu từ Hà Nội về, các toa đèn sáng trưng chiếu xuống cả đường, ánh sáng phản quang ở đồng và kền lấp lánh, phản quang vào các cửa kính. Cùng với âm thanh huyên náo, vẻ “sáng trưng” của đoàn tàu khi đi qua phố huyện đã tạm xua đi bóng đêm tăm tối đang bao bọc, làm “sáng rực” lên những tâm hồn người phố huyện chưa bao giờ tắt hẳn những ước mơ; người phố huyện cũng tạm quên đi sự buồn tẻ và chìm lặng của cuộc sống tẻ nhạt ở nơi này. Với người phố huyện, thứ ánh sáng ấy đã đem đến niềm vui của sự chờ đợi, đánh thức

Page 5: Câu 2 điểm

những ước mơ về một sự đổi thay, họ tạm thoát ra khỏi sự tẻ nhạt , nhàm chán của cuộc sống quẩn quanh hằng ngày, cuộc sống buồn tẻ không chỉ với một người: Quanh quẩn mãi với vài ba dáng điệu Tới hay lui vẫn từng ấy mặt người (Huy Cận) Thứ ánh sáng ấy , với chị em Liên, vừa là ánh hồi quang-bởi nó gợi nhớ về một Hà Nội xa xăm, Hà nội sáng rực ánh đèn hoa lệ với những kỷ niệm ngọt ngào của tuổi thơ, vừa “gióng lên một cái gì ở tương lai” (Nguyễn Tuân). Vậy là, đoàn tàu, với ánh sáng của nó vừa là hiện thân của dĩ vãng, là niềm vui trong khoảnh khắc của người phố huyện sau một ngày đơn điệu, buồn chán; vừa là hình ảnh tượng trưng cho thế giới của mơ ước. Chỉ buồn vì ánh sáng ấy vụt đến rồi vụt đi rất nhanh, buồn bởi cuộc vui đợi tàu của người phố huyện quá ngắn ngủi. Nhưng có còn hơn không, người phố huyện có được niềm vui trong khoảnh khắc dẫu sau niềm vui là nỗi buồn , khi đoàn tàu đã đi qua, họ trở về với thế giới bóng tối của mình.

Đọc những câu văn tả ánh sáng và bóng tối trong HĐT, chúng ta không khỏi suy nghĩ về cuộc sống và ước mơ của những con người phố huyện. Ta lại nghĩ về cách nhìn giàu lòng nhân ái của nhà văn TL- một cây bút luôn tâm niệm: văn chương “làm cho lòng người thêm trong sạch và phong phú hơn”. Những câu chữ trong HĐT cứ như sợi dây tơ mang đến cho người đọc một cảm giác nhẹ và sâu. Chúng ta hiểu và cảm thông sâu sắc hơn với những cuộc đời tăm tối, nghèo khổ nhưng không phải đã hết ước mơ. Thì ra không ai muốn kéo dài cuộc đời của mình trong vô vị và nhạt nhẽo, ai cũng muốn hướng đến một cuộc sống đích thực, thoạt khỏi bóng tối đề đến với ánh sáng, thoát khỏi sương mù của mùa đông để đến với rực rỡ của mặt trời :

Hoa sen nở trong ánh mặt trời Rồi mất đi những gì nó có Nhưng chắc nó không muốn làm chiếc nụ Trong sương mù vĩnh viễn của mùa đông (Ta go)

Page 6: Câu 2 điểm

VỢ CHỒNG A PHỦ

1. Chi tiết tiếng sáo

-Được nhắc đến nhiều lần

+Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sáo rủ bạn đi chơi

+Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng

+Mà tiếng sao gọi bạn yêu vẫn lơ lửng bay ngoài đương

+Mị vẫn nghe tiếng sao đưa Mị đi theo những cuộc chơi,..

-Ý nghĩa

+Tiếng sao biểu hiện cho vẻ đẹp của phong tục, nét đẹp văn hóa người dân miền núi.

+Là biểu tượng cho tiếng gọi cuộc sống, tình yêu; nó đã lay gọi, khơi gợi lòng yêu đời, yêu cuộc sống tự do trong Mĩ

+Có quan hệ mật thiết với quá trình diễn biến tâm lí của Mị, là động lực thúc đẩy Mị đi đến hành động chuẩn bị đi chơi xuân

+Thể hiện tư tưởng của tác phẩm: sức sống con người cho dù bị giẫm đạp, trói buộc nhưng vẫn luôn âm ỉ chờ cơ hội bùng lên giá trị nhân đạo

*Tiếng sáo gọi bạn đi chơi trong đêm tình mùa xuân + L1: "Mị nghe tiếng sáo vọng lại, thiết tha, bồi hồi. Mị ngồi nhẩm thầm Bài hát của người đang thổi Dấu hiệu đầu tiên của việc sống lại đó là Mị nhớ lại quá khứ"Ngày trước, Mị thổi sáo giỏi… Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi khác-> nhớ về hạnh phúc ngắn ngủi trong cuộc đời tuổi trẻ của mình và niềm ham sống trở lại "Mị thấy phơi phới trở lại, lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước". "Mị còn trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ lắm. Mị muốn đi chơi.."-> những câu văn ngắn đã diễn tả niềm khao khát mãnh liệt của Mị =>HTại(dcsgk8)Phản ứng đầu tiên của Mị là: "nếu có nắm lá ngón rong tay Mị sẽ ăn cho chết"=> với ý nghĩ lạ lùng nhưng chân thực=> Mị đã ý thức được tình cảnh đau xót của mình. Những giọt nước mắt tưởng đã cạn kiệt vì đau khổ đã lại có thể lăn dài. " + L2: "mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngoài đường: Từ những sôi sục trong tâm tư đã dẫn Mị tới hành động "lấy ống mỡ sắn một miếng bỏ thêm vào đĩa dầu". Mị muốn thắp lên ánh sáng cho căn phòng bấy lâu chỉ là bóng tối. Mị muốn thắp lên ánh sáng cho cuộc đời tăm tối của mình.Hành động này đẩy tới hành động tiếp: Mị "quấn tóc lại, với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách".--> HTại(dcsgk8). Mị quên hẳn sự có mặt của A Sử, quên hẳn mình đang bị trói, tiếng sáo vẫn dìu tâm hồn Mị + L3: "Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi, những đám chơi""=>Mị vùng dậy bước đi.-> vẫn nguyên vẹn niềm ham sống, khao khát Ty mà bấy lâu nay tưởng như héo úa,lụi tàn=> HTại(dcsgk8)-> Trong đoạn diễn tả tâm trạng hồi sinh của Mị, tiếng sáo có một vai trò đặc biệt quan trọng. +Tô Hoài đã miêu tả tiếng sáo như một dụng ý nghệ thuật để lay tỉnh tâm hồn Mị.+ Tiếng sáo là biểu tượng của khát vọng tình yêu tự do, đã theo sát diễn biến tâm trạng Mị, là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa tưởng đã nguội tắt. 

Page 7: Câu 2 điểm

2. Hình tượng lá ngón

Tô Hoài là một trong những nhà văn ưu tú của văn đàn Việt Nam. Có lẽ do sự trải nghiệm và dồi dào vốn sống mà ông có thể viết nên những trang văn hay dù chỉ mới học hết bậc tiểu học. Nhưng tác phẩm của ông thường là truyện ngắn và bút kí viết về thiên nhiên và đời sống thôn quê. Năm 1952, trong chuyến đi dài tám tháng sống cùng đồng bào Tây Bắc, Tô Hoài đã cho ra tập truyện “Tây Bắc”, đặc sắc với tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” để rồi từ đó, hình tượng “lá ngón”trở thành một trong những chi tiết nghệ thuật đặc trưng, mang nhiều tầng ý nghĩa và để lại ấn tượng sâu sắc trong tâm tưởng độc giả Việt Nam.

Cũng như nhãn tự trong một bài thơ, chi tiết nghệ thuạt có vị trí nghệ thuật vô cùng quan trọng đối với tác phẩm văn xuôi, nó có thể thâu tóm linh hồn của tác phẩm. Và dù thời gian trôi qua, tác giả không còn nữa thì khi nhắc đến chi tiết nghệ thuật liền nhớ lại nội dung tác phẩm. Điều đó kể như không bỏ công người nằm xuống. Truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác khi Tô Hoài tham gia kháng chiến, căn cứ hoạt động ở miền cao Tây Bắc. Câu chuyện là cuộc đời tủi nhục của Mị và A Phủ - hai mảnh đời có số phận bất hạnh gần như nhau, đại diện cho những kiếp đời lầm than dưới ách thống trị tàn ác của bọn thực dân phong kiến. Họ gặp nhau, tự giải thoát và tìm đến Cách mạng như một lẽ hiển nhiên, biểu trưng cho con đường tìm đến Cách mạng, tìm đến giải phóng và tự do của đồng bào miền cao Tây Bắc.

Hình ảnh “lá ngón” xuất hiện ba lần trong tác phẩm và chỉ gắn liền với nhân vật Mị - người con gái miền cao lương thiện, xinh đẹp, tài hoa nhưng cuộc đời nhiều bất hạnh. Mị xuất hiện với hình ảnh mở đầu u ám: “Ai ở xa về...có một cô con gái. Lúc nào cũng vậy,...mặt buồn rười rượi”. Đó cũng chính là phong cách của Tô Hoài: Đi thẳng vào vấn đề, nêu ngay nhân vật. Sự xuất hiện ủ dột báo hiệu một thực tại không tươi sáng. Sự hiện diện song song giưx “cô gái – tàu ngựa – tảng đá” cho thấy sự ngang tầm giữa các chủ thể: “người và súc vật, súc vật và vô tri”. Hay đó cũng chính là ngầm ý của tác giả muốn nói đến cái xã hội đương thời. Cái thực tại xám xịt này là hệ luỵ của chế độ thực dân phong kiến thối tha, là kết cục bi thương của con người lành tính. Mị - một cô gái miền cao đang tràn bung sức trẻ - ngay trong đêm tình hội xuân nồng nàn thì cuộc đời màu hồng chấm dứt. Cô bị trói gô như súc nô, bắt về nhà thống lí Pá Tra “cũng trình ma” như một món hàng. Người ta làm gì cuộc đời cô, thực sự lúc đó cô không biết, mãi cho đến lúc A Sử đứng trước mặt bố cô tuyên bố đã cúng trình ma, thôi thì cô đã là người nhà thống lí mất rồi! Một cú đánh ngã tự do, một cái rơi thật sự thẳng. Mị đi từ cuộc đời đẹp như trong tranh xuống hố sâu của địa ngục – nơi mà kẻ khác sống bằng âm thanh của tiếng than và hít thở hhơi mùi máu, mà mỗi bước đi là một nỗi tủi nhụcđến tột cùng. Mị sôngs không bằng chết, sống như một xác người trong kiếp cầm súc và rồi “có áp bức có đấu tranh”. Cô tìm về cha già, tay cầm nắm lá ngón. “Lá ngón” xuất hiện lần đầu tiên như một lối thoát đen. Đây là lối thoát ngắn và hữu hiệu nhất. Nhưng lại là lối thoát cho những ai muốn chấm dứt hiện tại nghiệt ngã chứ không phải lối thoát cho người muốn sang trang mới. Rõ ràng, đây là sự phản kháng quyết liệt nhưng vô vọng – một hình thức phản kháng bị động. Và sự xuất hiện của “lá ngón” lúc này mang tầm ý nghĩa tố cáo cao độ: Sự dã man của xã hội ép buộc con người lương thiện đi tìm cái chết. Nó – lá ngón, cũng là hiện thân cho nỗi thống khổ của nhân dân, cho những tích tụ đắng cay, đầy đau đớn và uất hận. Cô ném phịch xuống đất nắm lá ngón mình tự tìm hái trong rừng như một sự chuẩn bị sẵn sàng trước đó, ném trong nước mắt. Tự mình tìm đến lá ngón – độc dược của rừng xanh – đã là sự can đảm của người con gái. Nhưng ném đi độc dược để tiếp tục sống khổ lại càng can đảm hơn. Đối với Mị, thà chết đi hơn sống nhục, nhưng rồi lại thà sống nhục còn hơn bất hiếu. Chính chữ hiếu là bản lĩnh cao đẹp nơi người con gái trẻ. Đoc cũng chính là nguyên nhân cốt yếu cho sự can đảm bán mình chuộc cha của Vương Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” của đại thi hào Nguyễn Du. Cả hai người con gái tài năng, sắc diện và nhân phẩm tuyệt vời, điều đó kết cục chung vì chế độ xấu xa mục rữa, những thiên hương vô phúc sinh nhầm thời, những cánh hoa trôi dạt trong bão dữ. “Lá ngón” như vậy, đã mang một tầng ý nghĩa nhân sinh tuy bản thân tượng trưng cho cái chết.

Ta có thể nhìn thấy sự kiên quyết và chút gì đó vụt sáng trong lòng Mị khi cô tìm đến lá ngón với ý nghĩ đã tìm ra lối thoát. Nhưng đồng thời cũng nhận ra nỗi đớn lòng của cô khi thấy rằng chưa phải lúc và lối thoát ấy một lần nữa tuột khỏi tầm tay. Nhưng rồi cơn đau nào cũng phải qua đi đi sau thời hạn định. Mị trở về, tiếp tục sống cho hết kiếp cùng mạt nhục nhã. Nhiều năm trôi qua, cha già – người thân duy nhất cũng qua đời nhưng cái thôi thúc giải thoát trong ***g ngực son nay đã tắt. Mị không còn nghĩ đến đấu tranh bởi lẽ sống hay chết đối với cô lúc này không quan trọng nữa và đương nhên “lá ngón” cũng chẳng còn lảng vảng

Page 8: Câu 2 điểm

trong tâm trí đã ngủ quên.

Đó chính là sự xuất hiện lần thứ hai của “lá ngón” vì ở lần này, “lá ngón” xuất hiện bằng cách ra đi. Lá ngón phai mờ tượng trưng cho sự ham sống đã nguội lạnh. Nỗi ám ảnh về cái chết giờ đây không còn gặm nhấm tâm hồn cho sự tự do của lí trí. Nhưng đối với Mị, đó lại là nỗi đáng sợ! “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Dần thay thế cho “phản kháng” là “chấp nhận chịu đựng”. Một cô gái với bản lĩnh tự hái thuốc độc cho mình nay buông xuôi chấp thuận. Cô buông xuôi không bởi cô chấp thuận, cô đông thuận mà sự thả trôi kia là kết cục của cuộc tự đấu tranh trong đơn độc, dai dẳng cuối cùng kết thúc bằng sự mỏi mệt và tuyệt vọng đổ ập xuống đôi bờ vai yếu ớt. Vậy ra, “lá ngón” kia đang ngầm kêu thay tiếng đồng bào hướng về Cách mạng. Chẳng biết tự bao giờ, Mị quay cuồng vào công việc nhà Pá Tra như một cái máy và cho tới khi trâu ngựa đã về chuồng, cô vẫn còn đứng đó tiếp tục mãi không thôi. Lúc nào cũng vậy, ngồi một mình trong căn buồng tối trông ra lôc vuông trắng đục chẳng biết “của sương hay nắng”, Mị luôn đăm đắm một ánh nhìn. Ánh nhìn ấy vừa khát khao, vừa hồi tưởng. Nếu như xem lỗ vuông nơi căn phòng là vách ngăn giữa lao tù và tự do, thì ít ra mỗi khi nhìn vào đó, Mị vẫn còn chút gì khao khát sống. Còn đối với “lá ngón”, nghĩ đến nó là nghĩ đến cái chết và chỉ khi Mị muốn kết liễu đời mình thì lá ngón lại là hình ảnh mặc định đầu tiên hiện ra.

Rồi đêm nay, đêm tình mùa xuân lại kéo đến – cái đêm tình tứ lứa đôi ngọt ngào, đêm của những xúc cảm yêu thương được chuẩn bị trước bởi “những chiếc váy hoa phơi trên mõm đá” hay đêm được tượng hình bởi tiếng sáo mê li. Đêm hội mùa xuân vẫn đến và đi như hằng năm vẫn thế. Và năm nay, đến hẹn lại lên, đêm được chờ mong lại đến. Nó đến vẫn với diện mạo xinh tươi và bản chất ngọt ngào. Vẫn rừng xanh đó, vẫn triền núi xưa nhưng người đưa đã khác. Đêm xuân ny vắng bóng má đào. Tiếng sáo cũ vẫn cứ vô tư bay đi cùng gió với mây, đi tìm người tình ngày nào lâu nay vắng bóng. Rồi như trách oán, như không muốn đi, tiếng sáo ấy cứ réo mãi bên tai người con gái như lưu luyến, tần ngần. Như một phép tiên, đôi môi tưởng chừng đã bị phong kín bởi thời gian nay mấp máy điều gì! Gì thế kia? Hỡi ôi bài hát cũ – bài hát thiết tha dạo cùng khúc nhạc rừng vàng. Hình ảnh ấy ôi thật xót xa. Người con gái làm say đắm biết bao chàng trai, bông hoa của núi rừng hùng vĩ ngày nào biến mất đi trong đêm oan nghiệt. Để giờ đây chỉ còn tiếng hát nhẩm ngày xưa. Mị đang hát, đang cố hát để kéo về những kí ức xúc cảm vàng son. Sau không biết bao ngày sống kiếp nô lệ, Mị vẫn nhớ từng khúc nhạc từng lời ca. Chứng tỏ trong cô, vàng son không khép. Quá khứ và thực tại là hai đỉnh trái chiều và sống về quá khứ giữa thực tại tài nhẫn, Mị đang khao khát vô cùng, con tim cô vẫn còn thổn thức. Kí ức kéo về tiếp theo cho Mị lòng can đảm, lòng can đảm tồn tại khiến Mị muốn sống về kí ức và cô tìm đến rượu để tiếp tục lối đi trái chiều với thời gian. Người ta uống rượu thì say, còn Mị càng uống càng tỉnh. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại mình ngày xưa và đem so với mình hiện tại như chợt giật mình cho những gì bấy lâu xảy ra với bản thân. Mị tỉnh bởi Mị nhớ lại những đối xử dã man của những kẻ đón mạt ấy dành cho cô. Rồi cái ý thức cá nhân dâng lên mạnh mẽ mà một khi ý thức ấy đỉnh điểm thì Mị lại càng không thể chấp nhận nhục nhã đớn đau trong cái cảnh “sống không ra người” này đây. Sao Mị có thể?! Giải thoát! Tự do! Mị không thể tự do thể xác và... cô sẽ tự do tâm hồn, và ... lá ngón một lần nữa xuất hiện.

Ai cần cho ai và ai phụ thuộc ai?! Khi Mị muốn giải thoát, Mị tìm tới lá ngón hay là khi Mị muốn chết, lá ngón lại hiện về? “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa”. Càng nhớ càng buồn, càng buồn càng khổ. Thà chết đi cho xong chứ nhớ lại làm chi khi mình bất khả kháng! Như vậy, lá ngón lại lần nữa xuất hiện với tầng ý nghĩa giải thoát, giải thoát khỏi địa ngục trần gian. Địa ngục trần gian ở đây không đơn giản là nỗi đau xác thịt và linh hồn khi bị hành hạ, mà địa ngục thật sự khi phải sống trong lầm than với những hồi ức ngọt ngào cứ hiện hữu.Và “lá ngón” lại nâng tầm ý nghĩa lên một nấc nữa, đó là “sự tự ý thức”. Đánh dấu sự trở lại của ý thức sống, đánh dấu sự thức tỉnh của một tâm hồn tưởng chừng như đã “chết đi trong cõi sống”. Có lẽ lần xuất hiện này của lá ngón là quan trọng nhất, mạnh mẽ nhất. Bởi lẽ, Mị nghĩ đến lá ngón với sự cương quyết tột cùng, trạng thái phẫn nộ và ý thức rõ nhất vì giờ đây, cô không còn cái gì để hối tiếc, để luyến lưu. Tuổi xuân đầu đời – thời gian đẹp nhất – nay đã hết, cha già – nguồn yêu thương vô tận cũng không còn. Lòng Mị nay là cõi chết. Lá ngón đối với nàng không là liều thuốc độc, mà trở thành thứ phương tiện, hình thức, con đường để đi đến một bến bờ khác không còn đớn đau, để phản kháng lại cái xã hội đương thời mạt hạn.

Mị tìm đến lá ngón là tìm đến cái chết như một sự tự cứu và phản kháng. Ta bắt gặp trong văn học những

Page 9: Câu 2 điểm

cảnh ngộ bi thương tương tự: Thuý Kiều trong “Đoạn trường tân thanh” đã tự vẫn, dù không thành, để bảo quản chữ “tiết”, không chấp nhận nhơ nhuốc tấm thân, không thể tiếp tục tồn tại với xã hội bẩn thỉu; Chí Phèo, có lẽ vì là bậc nam nhân nên cái chết của Chí diễ ra có phần chủ động và tác động lớn. Vì anh tự tay đâm chết bá Kiến – tượng trưng cho việc kết thúc cuộc đời dưới đáy xã hội mục ruỗng và tự tay kết liễu đời mình – như thể làm con người đúng nghĩa, dù cái “bắt đầu” đó cũng là dấu chấm hết của anh. Cùng thuộc mô típ nhân vật mang số phận bi đát, những con người đáng quý trọng nhưng “sinh bất phùng thời”, Mị là hình ảnh của đồng bào miền cao Tây Bắc sống kiếp nô cầm trong xã hộ của bọn thực dân phong kiến, cũng như đồng bào miền xuôi hay khắp mọi miền đất nước khi ánh sáng cách mạng chưa kịp soi sáng. Mị cũng có sự tự tôn của mình, nhưng để bảo vệ sự tự tôn ấy, cô đã chọn lá ngón. Và có lẽ, đó là lẽ đương nhiên đối với một cô gái đơn độc có tâm hồn quá sáng trong nhưng vị thế lại quá nhỏ nhoi, nhất là khi ánh sáng cách mạng chưa thể rọi đến Hồng Ngài xa xăm.

Xuất sắc chấm màu xanh lá ngón vào bức tranh xô bồ của thời cuộc, Tô Hoài đã đưa “lá ngón” từ chỗ độc dược ngàn đời của núi rừng, là cái chết từ thiên nhiên, nay bỗng nhiên lại là sự giải thoát. Lá ngón xuất hiện ba lần với ba tầng ý nghĩa ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội hơn. Cái độc của lá ngón vậy ra vẫn còn thua cái độc của xã hội. Lá càng độc là đớn đau đồng bào chịu càng nhiều. Lá ngón trở thành dấu hiệu báo động cho sự khẩn thiết, cầu cứu của đồng bào miền cao đối với Cách mạng còn quá xa và cũng chính là tư tưởng nhân đạo cao đẹp mà tác giả muốn gửi gắm đến chúng ta qua hồn thiêng gió núi của đại ngàn Tây Bắc xa xăm!

3. Hành động Mị “vùng bước đi” khi bị trói đứng

Mị đâu còn sống bằng thể xác nữa mà Mị đang thực sự đang sống bằng tâm hồn. A Sử trói được thể xác của Mị nhưng không thể nào trói được tâm hồn của Mị. Bởi tâm hồn Mị đã vượt ra khỏi cái lỗ vuông bằng bàn tay kia để sống cùng đêm tình của tuổi trẻ.  Thể xác Mị nằm đây, giữa bốn bức tường câm lặng nhưng hồn Mị đang "đi theo những cuộc chơi những đám chơi". Tâm hồn Mị ngập đầy tiếng sáo, ăm ắp những kỷ niệm đẹp tươi. Có lúc tiếng sáo nhập cả vào hồn Mị làm Mị bừng lên như ngọn lửa gặp cơn gió lớn, Quên đi những đau đớn thể xác, Mị đã "vùng bước đi". Hành động này cho thấy Mị không hề biết mình đang bị trói (hoặc có thể biết bị trói nhưng đã quên vì sức sống của tâm hồn lớn hơn nỗi đau thể xác). Nhưng rồi "tay chân đau không cựa được" lại đưa Mị về với hiện thực cay đắng "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Nhưng sức sống ấy vẫn âm ỉ cháy dù đau đớn, tủi nhục. Suốt đêm, Mị lúc mê lúc tỉnh. Lúc mê thì sống trong "hơi rượu tỏa" cùng tiếng sáo mênh mang gọi bạn tình. Lúc tỉnh thì "nồng nàn tha thiết nhớ". Có một chi tiết rất đắt khi nhà văn kết thúc diễn biến tâm trạng của Mị trong đêm tình mùa xuân. Đó là chi tiết: Mị tỉnh dậy và nhớ lại câu chuyện người đàn bà bị chồng trói chết trong căn nhà này. Và Mị đã sợ, sợ chết "Mị cựa quậy xem thử mình còn sống hay đã chết". Sợ chết là biểu hiện của lòng ham sống. Sức sống trong con người khốn khổ ấy đã không lụi tàn mà ngược lại vẫn mãnh liệt như những đợt sóng ngầm gầm gào trong lòng đại dương tưởng như không gì có thể dập tắt nổi. Nói như nhà văn Lỗ Tấn "Một tia lửa hôm nay báo hiệu một đám cháy ngày mai". Chắc chắn đợt sóng ngầm ấy sẽ hứa hẹn trở thành đợt sóng thần của ngày mai. Đó là đêm cởi trói cho A Phủ một năm sau đó.

4. Hành động Mị thắp ngọn đèn

Mị đang sống trong hoàn cảnh bi thảm mà cô khó có thể thoát ra được.Ý nghĩ về cái chết lúc này có thể được coi như một hành động phản kháng để lên tiếng đòi quyền được sống hạnh phúc.Nhưng không có nắm lá ngón, tâm trạng Mị chợt xoay sang hướng khác. Khi mà tiếng sáo gọi bạn yêu ngoài kia đang réo gọi, khi mà cả thiên đường hạnh phúc của mùa xuân phía sau ô cửa nhỏ kia đang nồng nàn, thôi thúc trái tim Mị. Mị không thể ngồi yên được nữa. Mị phải đứng dậy thôi! Mị hành động trong  lặng lẽ. Lặng lẽ nhưng mãnh liệt. ”Mị đến góc nhà,lấy ống mỡ,xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”Đây là hành động của sự thức tỉnh. Mị thắp đèn là thắp lên ánh sáng để xua tan bóng tối đang bao phủ căn buồng mình, cuộc đời mình.Mị thắp đèn là Mị đang làm sáng lên cuộc đời mình,là làm cho khát vọng về hạnh phúc của mình sớm trở thành hiện thực.Có thể nói hành động Mị thắp đèn là một bước chuyển quan trọng đánh dấu sự thức tỉnh trong tâm hồn Mị.Cô đang thắp lên ánh sáng của niềm tin, hi vọng cho cuộc đời mình. Mị đã thắp lên ngọn đèn trong căn phòng u ám, đặc cóng muộn phiền. Ngọn đèn như xua tan đi tất cả cái bóng tối u ám đang bao quanh cuộc đời Mị. Ngọn đèn thắp sáng tâm hồn Mị, đốt cháy cả nỗi khát khao vượt ra khỏi bức tường địa ngục để

Page 10: Câu 2 điểm

đến với thế giới ngoài kia đang dập dìu tiếng sáo. Tô Hoài đã diễn tả thật sâu sắc cái khát vọng cháy bỏng ấy của Mị bằng một đoạn văn ngắn nhưng giàu nỗi cảm thông chia sẻ.

4. Hành động Mị cắt dây cởi trói cho A Phủ

Mùa đông rét buốt như cắt da cắt thịt, vì thế đêm nào Mị cũng ra bên ngoài bếp lửa để thổi lửa hơ tay. Trong những đêm đó Mị gặp A Phủ đang bị trói đứng chờ chết giữa trời giá rét. Thế nhưng Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay "dù A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi". Tại sao Mị lại lãnh cảm, thờ ơ trước sự việc ấy? Phải chăng việc trói người đến chết là một việc làm bình thường ở nhà thống lý Pá Tra và ai cũng quen với điều đó nên chẳng ai quan tâm đến. Hay bởi Mị "sống lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi" nên Mị lãnh đạm, thờ ơ trước nỗi đau khổ của người khác. Một đêm nữa lại đến, lúc đó mọi người trong nhà đã ngủ yên cả rồi, Mị lại thức dậy đến bếp đốt lửa lên để hơ tay. Lửa cháy sáng, "Mị lé mắt trông sang, thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại". Đó là dòng nước mắt của một kẻ nô lệ khi phải đối mặt với cái chết đến rất gần. Chính "dòng nước mắt lấp lánh ấy" đã làm tan chảy lớp băng giá lạnh trong lòng Mị. Lòng Mị chợt bồi hồi trước một người, trùng cảnh ngộ. Đêm mùa xuân trước Mị cũng bị A Sử trói đứng thế kia, có nhiều lần khóc nước mắt rơi xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi được. Mị chợt nhận ra người ấy giống mình về cảnh ngộ, mà những người cùng cảnh ngộ rất dễ cảm thông cho nhau. Mị nhớ lại những chuyện thật khủng khiếp lúc trước kia, “chúng nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở trong cài nhà này”. Lí trí giúp Mị nhận ra “Chúng nó thật độc ác”. Việc trói người đến chết còn các hơn cả thú dữ trong rừng. Chỉ vì bị hổ ăn mất một con bò mà một người thanh niên khỏe mạnh, siêng năng, say sưa với cuộc đời đã phải lấy mạng mình thay cho nó. Bọn thống trị coi sinh mạng của A Phủ không bằng một con vật. Và dẫu ai phạm tội như A Phủ cũng bị xử phạt như thế mà thôi. Nhớ đến những chuyện ngày trước, trở về với hiện tại, Mị đau khổ cay dắng cho thân phận của mình: “Ta là thân đàn bà chúng nó đẵ bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết chờ ngày rũ xương ở đây thôi”. Nghĩ về mình, Mị lại nghĩ đến A Phủ “có chừng này chỉ đêm nay thôi là người kia chết, chết đau, chết đói, chết rét, phải chết. Người kia việc gì mà phải chết như thế. A Phủ…. Mị phảng phất nghĩ như vậy”. Thật sự, chẳng có lí do gì mà bọn thống lí Pá Tra bắt A Phủ phải chết vì cái tội để mất một con bò! Trong đầu Mị bỗng nhiên nghĩ đến cảnh A Phủ bỏ trốn và chính Mị sẽ là người chết thay cho A Phủ trên cái cột tưởng tượng đó. Thế nhưng, Mị vẫn không thấy sợ, sự suy tưởng của Mị là có cơ sở của nó. Cha con Pá Tra đã biến Mị từ một con người yêu đời, yêu cuộc sống, tài hoa chăm chỉ, hiếu thảo, tha thiết với tình yêu thành một con dâu gạt nợ, một kẻ nô lệ đúng nghĩa, chúng đã tàn ác khi trói một người đàn bà ngày trước đến chết thì chẳng lẽ chúng lại không đối xử với Mị như thế ư? Như vậy, chứng kiến “dòng nước mắt lấp lánh” của A Phủ, tâm trạng của Mị diễn biến phức tạp. Mị thông cảm với người cùng cảnh ngộ, Mị nhớ đến chuyện người đàn bà ngày trước, lí trí giúp Mị nhận ra bọn lãnh chúa phong kiến thật độc ác, Mị xót xa trước số phận của mình rồi Mị lại nghĩ đến A Phủ; sau đó Mị lại tưởng tượng đến cái cảnh mình bị trói đứng… Một loạt nét tâm lí ấy thúc đẩy Mị đến với hành động: dùng dao cắt lúa rút dây mây cởi trói cho A Phủ. Đó là một việc làm táo bạo và hết sức nguy hiểm nhưng nó phù hợp với nét tâm lí của Mị trong đêm mùa đông này. Sau khi cắt dây cởi trói cho A Phủ, Mị cũng không ngờ mình dám làm một chuyện động trời đến vậy. Mị thì thào lên một tiếng “đi ngay” rồi Mị nghẹn lại. A Phủ vùng chạy đi còn Mị vẫn đứng lặng trong bóng tối. Ta có thể hình dung được nét tâm lí ngổn ngang trăm mối của Mị lúc này. Lòng Mị rối bời với trăm câu hỏi: Vụt chạy theo A Phủ hay ở đây chờ chết?. Thế là cuối cùng sức sống tiềm tàng đã thôi thúc Mị phải sống và Mị vụt chạy theo A Phủ. Trời tối lắm nhưng Mị vẫn băng đi. Bước chân của Mị như đạp đổ uy quyền, thần quyền của bọn lãnh chúa phong kiến đương thời đã đè nặng tâm hồn Mị suốt bao nhiêu năm qua. Mị đuổi kịp A Phủ và nói lời đầu tiên. Mị nói với A Phủ sau bao nhiêu năm câm nín: “A Phủ. Cho tôi đi! Ở đây thì chết mất”. Đó là lời nói khao khát sống và khát khao tự do của nhân vật Mị. Câu nói ấy chứa đựng biết bao tình cảm và làm quặn đau trái tim bạn đọc. Đó chính là nguyên nhân - hệ quả của việc Mị cắt đứt sợi dây vô hình ràng buộc cuộc đời của mình. Thế là Mị và A Phủ dìu nhau chạy xuống dốc núi. Hai người đã rời bỏ Hồng Ngài - một nơi mà những kỉ niệm đẹp đối với họ quá ít, còn nỗi buồn đau, tủi nhục thì chồng chất không sao kể xiết. Hai người rời bỏ Hồng Ngài và đến Phiềng Sa, nhưng những ngày phía trước ra sao họ cũng chưa biết đến…

Cắt dây trói cứu A Phủ ,Mị cũng cắt dây trói buộc cuộc đời mình với nhà Thống Lý Pá Tra. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ không phải là hành động bột phát nhất thời mà hành động ấy phản ánh chân thực hợp lý

Page 11: Câu 2 điểm

quá trình chuyển biến tâm lý của Mị từ lúc cam chịu thân nô lệ đến khi thức tỉnh rồi cắt dây trói cho A Phủ. Hành động của Mị tuy không thể đoán trước ,bất ngờ ,nhưng vẫn nằm trong sức sống nội tại nhân vật .Bởi Mị từng nguyện làm rẫy chịu khổ để trả nợ cho bố ,toan chết để tìm sự giải thoát lẽ nào lại không dám chết đi để cứu người vô tội. Nên tính cách ,diễn biến tâm lý của Mị có sự hợp lý ,hợp qui luật mà vẫn gây được sự ngạc nhiên thú vị .- Thực chất quá trình Mị cắt dây trói chạy theo A Phủ là một quá trình tự nhận thức. Mị nhận thức thấy thực tại xã hội tàn bạo lạnh lùng. Mị cứu A Phủ bởi cô thấy sự bất công phi lý sắp giết chết một con người vô tội .Và nhận thức người cũng là để qua đó hiểu mình. Cho nên có thể nói : Mị cắt dây trói cứu A Phủ cũng là Mị cắt dây trói buộc cô với nhà thống Lý. Điều đó hoàn toàn đúng với lý luận cũng như thực tiễn thời đại.-Tô Hoài đã tìm cho nhân vật một con đường tốt đẹp (so sánh với tắt đèn của NTT,Chí Phèo của NC).

- Ý nghĩa: +trong đêm mùa đông này, sức sống tiềm tàng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Chính nó đã giúp Mị vượt lên trên số phận đen tối của mình. Mị cứu A Phủ cũng đồng nghĩa với việc Mị tự cứu lấy bản thân mình.+ Tô Hoài đã ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của người phụ nữ miền núi nói riêng và những người phụ nự Việt Nam nói chung. Tô Hoài đã rất cảm thông và xót thương cho số phận hẩm hiu, không lối thoát của Mị. Tô Hoài đã phát hiện và ngợi ca đốm lửa còn sót lại trong trái tim Mị. Tư tưởng nhân đạo của nhà văn sáng lên ở đó+ . Đồng thời qua tác phẩm, Tô Hoài cũng đã khẳng định được chân lí muôn đời: ở đâu có áp bức bất công thì ở đó có sự đấu tranh để chống lại nó dù đó là sự vùng lên một cách tự phát như Mị

5. Giá trị biểu tượng của ô cửa sổ và căn buồng Mị

-Đó là căn buồng “kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”

-Ý nghĩa tả thực: là nơi Mị sống hằng ngày, chật chội và tù túng.

-Ý nghĩa biểu tượng

+Như một nhà tù, tuy không giam hãm thân xác nhưng đã giam hãm cuộc đời Mịm tuổi xuân của Mị, làm tê liệt ý thức sống, ý thức phản kháng của Mị. Sống ở đó Mị đã mất hết ý thức về thời gian, không còn nghĩ đến quá khứ hiện tại, tương lai mà xem “mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”, ngày càng “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”

Phản ánh cuộc sống đen tối, mờ mịt của người lao động miền núi dưới ách thống tị của cường quyền và thần quyền

Giá trị hiện thực, tố cáo

Page 12: Câu 2 điểm

RỪNG XÀ NU

1. Chi tiết bàn tay Tnú

   Tôi đã dừng lại thật lâu bên tác phẩm “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành). Ở tác phẩm ấy, cùng với hình tượng cây xà nu, tôi ấn tượng nhất trước hình ảnh đôi bàn tay Tnú như điểm sáng, là biểu tượng cho ý chí căm thù giặc và tinh thần cách mạng vô song.      Đôi bàn tay Tnú không chỉ dừng lại ở bàn tay lao động mà còn là bàn tay chiến đấu của người chiến sĩ, bàn tay trong máu lửa khốc liệt. Bàn tay ấy hiện lên trong những câu văn xuôi, nhưng vẫn đẹp như thơ, nổi bật khối và hình, như chạm khắc của hội họa, của vũ, nhạc và đặc biệt hơn là gửi tới bạn đọc biết bao điều vừa giản dị thân thương, vừa thiêng liêng, vừa cao cả.      Thoạt đầu, đấy là hai bàn tay lúc còn lành lặn. Đôi bàn tay chú bé mồ côi nắm lấy tay cô bé Mai chăm chỉ chặt củi, xách nước, lên rẫy trồng tỉa, xách xà lét giấu gạo đi nuôi cán bộ Quyết. Đôi bàn tay Tnú cầm viên phấn bằng đá trắng lấy từ núi Ngọc Linh về tập viết chữ, mở dần cánh cửa cuộc đời để đến với cách mạng. Và cũng chính đôi bàn tay bé nhỏ ấy đã dũng cảm mang công văn đi làm liên lạc vì căm thù thằng giặc vô ngần. Bọn giặc bắt được Tnú, tra tấn đã man, hỏi cộng sản ở đâu, Tnú đặt tay lên bụng mình và nói: “Ở đây này”. Bàn tay Tnú chỉ rõ và khẳng định lý tưởng cách mạng không ở đâu xa mà ở ngay trong tâm hồn mình. Đây chính là nét đẹp thứ nhất của bàn tay Tnú: bàn tay của sự tín nghĩa, thủy chung.      Bàn tay Tnú còn là bàn tay của sự yêu thương, bàn tay đau đớn, căm thù, mang chất vàng của nhân phẩm, bàn tay người chiến sĩ cộng sản. Tnú yêu Mai – cô bạn thuở thiếu thời. Bàn tay ấy cũng đã được Mai nắm chặt mà khóc những giọt nước mắt nóng bỏng yêu thương, đồng cảm khi Tnú vượt ngục trở về. Những tưởng hạnh phúc ấy sẽ mãi mãi tròn đầy. Vậy mà….bọn giặc lại nhẫn tâm phá tan đi niềm hạnh phúc đơn sơ ấy! Không bắt được Tnú, chúng bắt Dít rồi tới mẹ con Mai tra tấn dã man bằng gậy sắt hòng để anh ra mặt. “Trận mưa cây sắt mỗi lúc một dồn dập. Không nghe thấy tiếng thét của Mai nữa. Chỉ nghe đứa bé khóc ré lên một tiếng rồi im bặt”. Lửa hận dâng lên ngút ngàn, đốt cháy tâm can Tnú, truyền từ đôi tay lên đôi mắt “ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”. Mỗi ngón tay anh như nóng bỏng lên bởi tình thương, nỗi lo và sự căm hờn. “Hai cánh tay như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Mười ngón tay nóng bỏng lửa căm thù, thương xót đã truyền sức mạnh vào hai cánh tay. Nhưng mà “Tnú chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Và khi chỉ có tay không thì Tnú cũng không cứu được chính đời mình, không bảo vệ được sự sống và tình yêu, không bảo vệ được hòn máu của đời anh” (Đỗ Kim Hồi). Mẹ con Mai chết còn Tnú thì bị giặc bắt tra tấn. Bọn thằng Dục tàn nhẫn tẩm thứ dầu xà nu của quê hương anh vào giẻ rồi quấn giẻ lên mười đầu ngón tay anh, mười điểm chót vót, bén nhạy nhất của hệ thần kinh. Bàn tay Tnú như đang đỏ rực lên, lung linh, dữ dội. Nguyễn Trung Thành không miêu tả chi tiết bằng những động từ, tính từ đặc tả mà chỉ ngắn gọn mấy câu và một hình ảnh ví ngầm “Mười ngón tay đã thành mười ngọn đuốc” nhưng cũng đủ truyền tới người đọc biết bao cảm xúc: Khủng khiếp, ghê sợ, đau xót rồi cảm thương, căm giận. Nhưng “Tnú không thèm, không thèm kêu van”. Từ văn tự sự chuyển thành văn trữ tình, đoạn truyện không còn là lời kể của tác giả nữa mà đã cất lên tiếng nói nội tâm nhân vật, đầy những giằng xé, quằn quại. Ngọn lửa của âm mưu thâm độc, của tội ác dã man đã không đốt cháy được chất vàng mười trung thành, bất khuất của người chiến sĩ trẻ tuổi Tây Nguyên. Hai bàn tay đuốc lửa của Tnú đã châm ngòi cho phong trào Đồng khởi của dân làng Xô Man vùng lên tiêu diệt bọn giặc tàn ác và trở thành biểu tượng của khí phách Việt Nam trong công cuộc kháng chiến chống ngoại xâm thời đại ngày nay:                                                  “Chúng muốn đốt ta thành tro bụi                                                  Ta hóa vàng nhân phẩm, lương tâm                                                  Chúng muốn ta bán mình ô nhục                                                  Ta làm sen thơm ngát giữa đầm….”                                                  (“Việt Nam máu và hoa” – Tố Hữu)      Bàn tay lành lại, mỗi ngón tay cụt một đốt, trở thành chứng tích của tội ác chiến tranh mà Tnú mang theo suốt cả cuộc đời. Đôi bàn tay với ngón tay chỉ còn lại hai đốt vẫn có thể cầm giáo, cầm súng để Tnú lên đường chiến đấu. “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”, chân lý này giúp người ta ý thức được tầm quan trọng của vũ khí, không thể không cầm vũ khí, nhưng cũng không nên ỷ lại vào vũ khí, cái quyết định cuối cùng vẫn là đôi bàn tay con người. Chính vì thế, Nguyễn Trung Thành đã cẩn thận kể thêm chi tiết Tnú dùng hai bàn tay không, cụt đốt, đôi bàn tay quả báo để xiết cổ tất cả những thằng Dục tàn ác hơn cả dã thú. Có thể nói, bàn tay Tnú biểu tượng cho sức mạnh của khối đoàn kết cộng đồng, sự gắn bó mạch sống

Page 13: Câu 2 điểm

của mảnh đất, rừng cây và sức sống con người. Đó là đôi bàn tay huyền thoại, vô địch trước sức mạnh của mọi kẻ thù.      Bàn tay Tnú – một hình tượng nghệ thuật giàu tính thẩm mỹ như có một số phận riêng, gắn bó mật thiết với cuộc đời Tnú và góp phần tô đậm thêm những nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của anh. Đẹp biết bao những bàn tay chiến sĩ Việt Nam, những bàn tay lao động ViệtNam: “Bàn tay ta làm nên tất cả…”, tôi muốn ngân lên mãi câu thơ ấy của nhà thơ Hoàng Trung Thông. “Tay người như có phép tiên”, tôi muốn hát lên mãi lời ca ấy của nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Đình Thi. Và tôi muốn nói lại nhiều lần những vẻ đẹp của bàn tay Tnú trong truyện ngắn “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành) bởi tự hào biết mấy hai tiếng Việt Nam.

2. Hình tượng cây xà nu

Gió thổi qua cánh rừng xào xạc. Bao giờ cũng vậy, gió thổi làm tâm hồn ta thêm trong sáng và tươi mát hơn. Gió lại thổi qua cánh “rừng xà nu” đau thương, quả cảm của Nguyễn Trung Thành. Gió ơi, gió hãy thổi nữa đi để hồn ta cảm nhận thêm sâu sắc, hình tượng cây xà nu trong khói lửa của một cuộc chiến tranh.Xà nu, tùng, bách hay phi lao? Đã có biết bao thi sĩ mượn hình ảnh của cây này để biểu đạt lòng mình. Ta như vừa thoát khỏi thế giới bồng bềnh êm dịu và mình ta còn bám đầy “phấn thông vàng” của Xuân Diệu. Cây thông độ lượng đêm Giáng sinh có ông già Nôen phát quà bánh cho em nhỏ dưới ánh sáng lung linh. Và giờ đây ta lại gặp hình tượng cây xà nu.Xà nu! Cái tên thân thuộc gắn với dân làng Xô man tự bao đời. Và cũng không biết từ baogiờ ai đã trồng và đặt tên đó là cây xà nu để chúng thành bãi, thành rừng đến hôm nay. Xà nu! Cái tên ấy dường như có cùng với sự xuất hiện dân làng Xô man bởi vì xà nu và người dân là một, xà nu là một biểu tượng cho dân làng chốn rừng núi Tây Nguyên này. Quả thật như vậy, gần hai mươi lăm lần nhà văn nhắc đến “xà nu” bằng thứ ngôn ngữ giàu chất thơ và cảm xúc say mê mãnh liệt. Xà nu biết căm giận, biết quật khởi và khát khao mãnh liệt cuộc sống di truyền cho con cháu mai sau. Cả một thiên truyện dài đều có cây xà nu. Xà nu mọc thành rừng, xà nu làm đuốc soi đường cho Dít giã gạo, xà nu làm lửa thổi cơm cho dân làng và nó cũng làm cháy sáng mười đầu ngón tay của Tnú. Xà nu đi vào cuộc sống chân chất đời thường và lao vào cuộc chiến đấu một mất một còn của dân tộc. Xà nu là nhân chứng của bản anh hùng ca hào hùng quật khởi của một thời đại đầy bão tố khốc liệt trong chiến tranh giải phóng dân tộc, chống Mĩ ngụy của nhân dân Tây Nguyên và đồng bào miền Nam.Xà nu là biểu tượng của dân Xô man hứng chịu bao hậu quả tàn khốc mà chiến tranh gâyra. Mỗi một người mất đi là thêm một cây xà nu gục ngã. Cây to, cây nhỏ và vô số cây lấm tấm những vết đạn như dân làng từ trẻ đến già không thể không bị ảnh hưởng chiến tranh, cơn lốc quái ác ấy cứ xoắn xít và vây lấy từng số phận con người. Xà nu gục ngã hay Mai chết do bị đánh đập vào kì sinh nở? Xà nu gãy hay anh Quyết hi sinh vì bom đạn kẻ thù! Và còn biết bao đồng chí anh em khác đã hi sinh trong cuộc chiến này. Mai chết hay xà nu xanh sớm vội lìa đời? Máu chị hay nhựa xà nu đã ứa ra từng cục quyện bầm tím lại? Máu ứa ra kèm theo những điều linh thiêng quan trọng. Máu ứa ra như một di hận mà dân làng phải trả thù cho mẹ con Mai. Từng giọt, từng giọt rỉ ra như kim đâm muối xát vào lòng người dân Xô man thôi thúc họ cầm súng cầm mác mà diệt giặc.Xà nu vốn che chở cho dân làng thế mà dầu xà nu biến thành ngọn lửa hủy diệt mười ngón tay của Tnú. Ngọn lửa tai quái ấy phải chăng bọn thằng Dục – bọn tay sai “rước voi về giày mả tổ” phản bội lại lợi ích của nhân dân, phản bội lại tác dụng có ích của xà nu? Xà nu không phải là dầu nhập cảng cũng như bọn thằng Dục từ đời ông cha nhà nó vẫn ở cái xứ nầy…kẻ thù nguy hiểm muốn giấu bàn tay tội ác nên nó âm mưu “dùng người Việt trị người Việt” cũng như nhựa xà nu đốt đỏ mười ngón tay Tnú. Vậy là đối với dân làng Xô man, cây xà nu phần lớn là gắn bó trong cuộc tử sinh với cuộc đời của họ. Nhưng trong cả rừng xà nu như thế cũng có những cây bị lợi dụng để hủy diệt anh em mình? Phải chăng lũ lính man rợ là thứ nhựa xà nu nung ruột nung gan Tnú khi nó phừng phừng trên mười đầu ngón tay anh? … Cũng có thể hiểu nhựa xà nu bốc lửa ấy là biểu tượng cho lòng căm hận. Tội ác trời không dung, đất không tha của lũ thằng Dục đã bị mười ngọn lửa ấy cảnh cáo. Chúng là kẻ thắp lửa để hủy diệt. Nhưng xà nu đã thành mười bó đuốc có tác dụng chỉ lối soi đường, kêu gọi lòng người đánh thức lí trí con người, bắt người Xô man nhận thức ngay ra chân lí. “Chúng nó cầm súng mình phải cầm mác”. Có lẽ ý sau nhất quán với hình tượng cây xà nu hơn.Mặc dù bị vùi dập bởi đạn đại bác nhưng không vì thế mà cây xà nu nhụt chí, nó vẫn vươn lên và hướng về ánh sáng, về phía trước. Đó chính là khát vọng sống mãnh liệt của người dân ở làng Xô man. “Cạnh một cây gục ngã đã có bốn, năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời. Xà nu đã

Page 14: Câu 2 điểm

gần kề với cái chết nhưng vẫn cố gắng vùng dậy giành sự sống. Chỉ có những tấm lòng nhiệt tình muốn sống mới có được điều ấy. Thật đáng trân trọng làm sao hình ảnh quên mình vì dân làng, quên nỗi đau riêng mình để bảo vệ người khác “Những vết thương của chúng chóng lành như một thân thể cường tráng” và rồi “ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho dân làng”.Bom đạn giặc có thể diệt được một hai cây xà nu chứ không thể nào làm lay chuyển cảrừng xà nu thay nhau mọc ấy. Giặc có thể giết dã man Mai, anh Quyết chứ chúng không thể giết được lòng căm hận ngùn ngụt của dân làng truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Làm sao chúng có thể ngăn chặn lòng căm thù của những Dít, Tnú, bé Heng… nối tiếp các bậc tiền bối khi xưa? Xà nu bị thay đổi đó nhưng vẫn đứng gượng dậy lên da non để sống. Tnú mất mười đốt ngón tay nhưng bàn tay anh vẫn còn và hẳn nhiên anh vẫn còn cầm súng được để tiêu diệt kẻ thù. Tnú mất mười đốt ngón tay nhưng bàn tay anh vẫn còn và hẳn nhiên anh vẫn còn cầm súng được để tiêu diệt kẻ thù. Tnú bị trói đó nhưng đôi mắt anh như có lửa thiêu đốt mọi tâm đồ đen tối của kẻ thù. Lòng căm hận, nỗi xót xa chạy giần giật trong anh như nhựa xà nu bốc cháy. Nó gan góc bền vững dù đạn đại bác xả vào vẫn không làm rung chuyền… xà nu bị thương nhưng vẫn giữ hình ảnh tuyệt đẹp “vết thương đọng lại lóng lánh nắng hè” phải chăng những con người Xô man đến chết vẫn giữ được bản chất anh hùng của họ? Đầu tác phẩm là hình ảnh cây xà nu và cuối tác phẩm vẫn là hình ảnh rừng xà nu nối tiếp nhau chạy tới chân trời. Không phải ngẫu nhiên có sự trùng hợp kì lạ đó có lẽ nhà văn muốn nói: Không một sức mạnh tàn bạo nào hủy diệt được con người vùng Xô man này. Chính vì lẽ đó mà cụ Mết – người đại diện cho dân làng Xô man đã nói với mọi người “Không có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta”. Đó phải chăng là lời khẳng định đầy tự hào về sức mạnh tiềm tàng của chính dân làng mình? Câu chuyện mang đậm tính sử thi thần thoại. Bếp lửa hồng bên ngôi nhà sàn rộng bừng bừng tỏa lửa soi sáng những khuôn mặt người Xô man cùng giọng kể trầm trầm của cụ Mết đưa ta về với thế giới huyền hoặc xa xưa, thế giới cuả trận quyết đấu mà dân làng Xô man đã chiến thắng. Ánh sáng mười ngón tay Tnú bị đốt như có ma lực thúc đẩy mọi người hành động. Bên bếp lửa xà nu ta cũng nghe kể được một chuyện tình đẹp, thật sáng trong nhưng cũng thật là thương tâm cảm động giữa Mai và Tnú… Cụ Mết có lẽ là cây xà nu đại thụ. Cụ là sợi dây nối giữa xa xưa và hiện đại, là pho sử sống của làng Xô man. Cụ chính là linh hồn, là vị tướng chỉ huy tài tình của dân làng, phải chăng cây xà nu ưỡn tấm ngực lớn ra che chở cho dân làng” chính là hình ảnh cụ Mết – vị già làng đáng kính. Trải bao bao sóng dập gió vùi nhưng cây đại thụ ấy ngày càng chắc chắn hơn, rễ cây bám sâu vào từng thớ đất buôn làng….Như đã nói ở trên, cây xà nu như một chứng nhân lịch sử. Ánh lửa xà nu soi sáng và dường như chính nó là động lực tăng thêm sức mạnh lời anh Quyết dặn “Người còn sống phải chuẩn bị dao, rựa… sẽ có ngày dùng tới”. Ngọn lửa xà nu cũng đã soi sáng, minh chứng tấm lòng trung thành của Tnú: “Tnú sẽ không kêu thanm anh Quyết ơi! Cháy! Không! Tnú sẽ không kêu…” Nhưng có lẽ linh thiêng nhứt vẫn là ngọn lửa xà nu chứng kiến mười tên giặc phơi thây trước sân nhà: “đống lửa xà nu giữa nhà vẫn đỏ” và lửa xà nu vẫn âm ỉ cháy khắp rừng.

Cùng với Đất nước đứng lên, Rừng xà nu đã biểu hiện sinh động cuộc chiến đấu của người dân vùng núi rừng Tây Nguyên. Cám ơn nhà văn Nguyễn Trung Thành, người đã góp phần xây dựng mối quan hệ tốt đẹp anh em miền xuôi ngược trong cuộc kháng chiến cứu nước. Quả thật, đọc tác phẩm của anh xong tôi thấy cả một trang sử vàng “đau thương nhưng anh dũng” của làng Xô man, của Tây Nguyên quật khởi và cả gương mặt của miền Nam trong thời lửa đạn chống Mĩ – ngụy, có những nỗi đau ghê gớm nhưng vẫn sáng ngời nhân phẩm, ý chí tiêu diệt kẻ thù. Rừng xà nu vẫn cứ sinh sôi chạy mãi tít tắp chân trời, nó bất chấp đạn bom và vì thế nó cứ ưỡn tấm ngực lớn che chở cho dân làng lao động chiến đấu và dám đối đầu với những hoàn cảnh khốc liệt nhất.

3. Phân tích câu nói của Cụ Mết : “Nghe rõ chưa các con, nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi bay còn sống phải nói lại cho con cháu, chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”

I.Mở bài

Có thể nói xu hướng của các truyện ngắn thời kì kháng chiến chống Mĩ va xây dựng chủ nghĩa xã hội là tính luận đề. Nếu Nguyễn Minh Châu say sưa với “sợi chỉ xanh óng ánh”, Nguyễn Khải thể hiện luận đề “sự sống nảy sinh từ trong cái chết” thì Nguyễn Trung Thành lại thể hiện luận đề “chúng nó đã cầm súng mình

Page 15: Câu 2 điểm

phải cầm giáo” trong tác phẩm “Rừng xà nu” Nguyễn Trung Thành đã để cụ Mết thiết tha nhắc đi nhắc lại chân lí thời đại giản dị mà sâu sắc “Nghe …” lời nhắc nhở ấy ẩn chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc đồng thời được nhà văn thể hiện một cách tinh tế sôi động qua toàn tác phẩm.

II.Thân bài

1)Xuất xứ tác phẩm2)Giải thíchLời căn dặn của cụ Mết chỉ được Nguyễn Trung Thành thể hiện trong tác phẩm sau khi ông cụ đã hồi tưởng về cuộc đời Tnú và những mất mát đau thương bất hạnh khi vợ con Tnú bị hành hạ đến chết khi bàn tay cầm giáo mác của anh cũng bị huỷ hoại, nó là lời căn dặn của vị già làng, một người có uy tín và đáng kính nhất trong cộng đồng Xôman. Cụ mết lại cất lên lời nhắc nhở ấy trong đêm Tnú về thăm làng khi cụ kể toàn bộ câu chuyện về cuộc đời Tnú cho toàn thể cộng đồng Xôman nghe ở nơi nhà Ưng bên đống lửa lớn trong một không khí thành kính, thiêng liêng. Trong hoàn cảnh ấy lời cụ Mết trở thành lời di huấn của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Lời dạy ấy có lẽ đã được nhắc tới bao nhiêu lần khi cụ Mệt kể chuyện về cuộc đời Tnú và chắc chắn còn được truyền lại từ đời này qua đời khác.

-Lời căn dặn của cụ Mết được phát biểu một cách ngắn gọn, giản dị qua những hình ảnh có ý nghĩa ẩn dụ và được diễn đạt trong nhiều tương phản ẩn dụ “Chúng nó” là cách gọi mà cụ Mết dùng để chỉ kẻ thù, cả bọn bán nước và cướp nước; còn “mình” là lời tự xưng của cụ Mết có ý nghĩa chỉ chung dân làng Xôman, cộng đồng Tây Nguyên và mọi người yêu nước; “súng và giáo” đều là những hoán dụ chỉ vũ khí và vật chất nhưng nếu “súng” tượng trưng cho vũ khí hiện đại đủ đầy thì “giáo”tượng trưng cho vũ khí thô sơ, tự tạo. Trong hình thức tương phản và cách nói giản dị, mộc mạc, cụ Mết đã thể hiện. Một tư tưởng lớn: phải dùng vũ khí đáp lại vũ khí, phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực hung bạo của kẻ thù. Nó kín đáo khẳng định tầm quan trọng của vũ khí, của vật chất mà CácMac đã khẳng định:”vũ khí phê phán không thể thay thế được sự phê phán của vũ khí. Chỉ những lực lượng vật chất mới đánh đổ được những lực lượng vật chất”. Lời khẳng định của cụ Mết cũng thể hiện một quy luật của phong trào đấu tranh cách mạng, quy luật có áp bức có đấu tranh. Có thể nói lời căn dặn của cụ Mết là một chân lí thời đại sâu sắc khẳng định vai trò, tầm quan trọng của vũ khí cũng như quy luật của phong trào đấu tranh cách mạng.

a)Trong văn học nghệ thuật mọi tư tưởng dù lơn lao sâu sắc đến đâu cũng không thể tồn tại độc lập trừu tượng, mà phải hoá thân thành những hình tượng nghệ thuật sống động bão hoà cảm xúc và giàu sức sáng tạo. ở trong “Rừng xà nu” cái tư tưởng lớn lao sâu sắc được thể hiện qua lời cụ Mết là tư tưởng được rút ra từ chính câu chuyện về cuộc đời Tnú, về hành trình lịch sử và số phận của cộng đồng Xôman, Nguyễn Trung Thành đã khéo léo thể hiện tư tưởng sâu sắc khái quát của mình thông qua hình tượng nhân vật Tnú.

b)Qua hồi tưởng của cụ Mết, cuộc đời số phận của Tnú hiện lên rất rõ nét với nhiều chi tiét giàu ý nghĩa: cha mẹ mất sớm Tnú được cả cộng đồng Xôman đùm bọc, cưu mang, ngay từ nhỏ Tnú đã bộc lộ rõ nét phương châm tốt đẹp của một người lao động bình dị và yêu nước. Đó là tấm lòng trong sạch:”Đời …làng ta” (203,204), là tình cảm thân thiết với cán bộ cách mạng, với cuộc kháng chiến của dân tộc giữa những ngày địch khủng bố gắt gao sát hại nhiều thanh niên, ông già, bà cả thì Tnú vẫn cùng Mai dũng cảm mang cơm nuôi giấu bộ đội trong rừng. Được anh Quyết giác ngộ lí tưởng cách mạng từ sớm, Tnú luôn tin tưởng vào Đảng, vào cách mạng luôn cố gắng học chữ để lớn lên thay anh Quyết làm cán bộ (trong hoàn cảnh của những ngày đầu chống Mĩ ở miền núi heo hút, mà đã nghĩ đến việc trang bị chữ nghĩa cho người làm cán bộ chính là điểm sâu sắc trong cái nhìn của nhà văn ở Tnú có nét tình cách dũng cảm ngang tàng gan góc quả cảm giống như những tráng sĩ trong sử thi Tây Nguyên. Học chữ thua Mai Tnú đập bể cái bảng nứa và còn cầm đá từ đập vào đầu mình máu chảy ròng ròng. Nếu mọi người dỗ không được Mai dỗ Tnú còn doạ đánh thì chỉ cần một lời vỗ về thủ thỉ của anh Quyết: “Sau…giỏi” (205)(làm cho Tnú yên lòng thậm chí còn khóc vì hối hận ( Tnú còn là người biết lỗi, phục thiện và luôn thiết tha với lí tưởng cách mạng. Đi liên lạc Tnú biết leo cây cao quan sát định để xé vòng vây mà đi hoặc chọn chỗ thác dữ định ít phục kích, cưỡi lên thác vượt băng băng như một con cá kình (mọi hoạt động suy nghĩ đều bộc lộ sự thông mịnh sáng suốt tận dụng những yếu tố bất ngờ cho thấy lòng dũng cảm gan dạ của Tnú. Khi bị địch bắt, lưng Tnú ngang dọc vết dao chém, nhưng Tnú vẫn một mực không khai trước câu hỏi “cộng sản ở đâu”, tnú chỉ đặt tay lên bụng mà nói “ở đây này” -( đó là bàn tay ân nghĩa thuỷ chung không bao giờ biết phản bội.

Page 16: Câu 2 điểm

-Những thử thách của đời sống hoạt động cách mạng cùng với phong cách vốn có đã tôi luyện Tnú trở thành người chiến sĩ kiên trung. Thoát ngục KonTum trở về, anh lại trở thành linh hồn của phong trào cách mạng ở Xôman, thành người kế thừa xuất sắc sự nghiệp anh Quyết để lại, không bắt được Tnú kẻ thù bắt và hành hạ vợ con anh đến chết ( những mất mát này mở đầu cho những mất mát đau thương của cuộc đời Tnú nhưng lại nhân lên gấp bội những mất mát của cộng đồng Xôman sau cái chết của bà Nhan, anh Xút:”Cây sắt …hơn”(207) ( chứng kiến sự hành hạ dã man của kẻ thù đối với vợ con mình, nơi tâm hồn Tnú dồn lên bao nhiêu đau đớn, uất ức, căm thù:”ở…lớn”(208) (bản năng yêu thương đã thôi thúc Tnú xông ra cứu vợ con: “rồi…Mai”(208 (đó là vòng tay che chở cưu mang của một người chồng rất mực yêu vợ, người cha rất mực yêu con. Nhưng Tnú không cứu được mẹ con Mai ngay cả khi anh đã liều lĩnh hi sinh cả mạng sống của mình. Mai không bảo vệ đượ đứa con dù chị đã dùng tất cả tình yêu thương của người mẹ, dùng cả cơ thể của mình để che chở cho nó. Điệp khúc Tnú không cứu được mẹ con Mai “được cụ Mết nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Trước đó ông cụ đã khẳng định bao nhiêu phẩm chất tốt đẹp của Tnú A có lòng can đảm, sự quả cảm có khi đối phó với kẻ thù, có ý thức giác ngộ cách mạng sâu sắc, có tình yêu thương sâu sắc có cơ thể cường tráng dù thế Tnú vẫn không cứu được vợ con bởi anh “chỉ có hai bàn tay trắng”, không có vũ khí trong tay Tnú không bảo vệ được người phụ nữ mình rất mực yêu thương, không bảo vệ được giọt máu của đời mình và cũng không bảo vệ được chính mình ( Tnú bị giặc bắt trói lại kẻ thù thâm độc tẩm nhựa xà nu vào giẻ cuốn lên mười đầu ngón tay A – nơi tập trung những dây thần kinh nhạy cảm nhất, nơi cầm giáo mác mà châm lửa đốt dần từng ngón một vừa để nhấm nháp cảm giác thích thú đao phủ, vừa để huỷ hoại bàn tay cầm vũ khí của người cộng sản kiên trung “một …đuốc”(209) mọi giây phút trôi qua là bao nhiêu đau đớn khắc sâu vào cơ thể Tnú “A nghe…rồi”(210) khẳng định bản lĩnh kiên trung cứng cáp của mình, vẫn khẳng định lòng trung thành với Đảng, giữ vững tư cách của người cộng sản bên tai Tnú chỉ văng vẳng lời dặn dạy của anh Quyết ”Người…van”(210) ( đó là vẻ đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Nếu Tnú không cứu được vợ con thì cụ Mết và dân làng cũng không cứu được Tnú: “Tnú không…chết rồi”;”Nhớ không…trắng”(208); “Tau…không” (nhấn mạnh những chi tiết ấy cụ Mết cho thấy nếu chỉ có bàn tay không, không có vũ khí thì ngay cả những con người ưu tú như Tnú cũng không thể bảo vệ được mình, không thể bảo vệ được hạnh phúc của mình, không thể chống lại kẻ thù, không thể bảo vệ được sự sống. Chính điều ấy đã thức tỉnh vai trò, sức mạnh của vũ khí trong cuộc đấu tranh cách mạng của con người.

-Những bàn tay không, tay trắng khi có vũ khí trong tay bỗng có sức mạnh phi thường, lập nên những chiến công lừng lẫy, cụ Mết cùng thanh niên trai tráng vào rừng tìm giáo mác đã giấu sẵn từ trước. Thằng Dục gục ngã dưới lưỡi mác của cụ Mết và cả tiểu đội lính gục ngã dưới vũ khí của thanh niên trai tráng trong làng: “Tnú tỉnh…đổ”(210). Sức mạnh của vũ khí đã được khẳng định qua kết quả đồng khởi của dân làng tất nhiên đó không chỉ là sức mạnh của khí giới mà còn là sức mạnh làm nên từ sự đồng lòng chung sức của con người chính ý thức về sức mạnh của khí giới như thế đã làm nên tư tưởng lớn lao mà sâu sắc của cụ Mết: “chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo”.

-Ngay trong đêm đồng khởi ấy ý thức về sức mạnh của vũ khí đã thấm sâu vào tất cả người dân Xôman qua lời kêu gọi của cụ Mết.”Tất cả …chông”(210). Vai trò của vũ khí đã từng được nhắc nhở qua lời anh Quyết và được hiện thực hoá qua lời cụ Mết và dân làng, vũ khí của người dân Xôman cũng ngày càng một hiện đại hơn không chỉ là giáo, mác, vụng, rựa mà còn là khẩu sùng trường Mát của bé Heng đến khẩu tiểu liên Tôm xông tự động của Tnú. Người dân Xôman đã thực hiện đúng lời di huấn của cụ Mết đã đứng dậy đấu tranh chống lại áp bức đã dùng vũ khí đáp lại vũ khí. Đó là cuộc đấu tranh nhân danh sự sống vvì sự sống và để bảo vệ sự sống.

-Chiều sâu trong tư tưởng của Nguyễn Trung Thành là ở chỗ ông không khẳng định vai trò sức mạnh của vũ khí một chiều. ở cuối tác phẩm nhà văn còn để cho Tnú kể thêm câu chuyện anh hùng đôi tay cụt của mình giết chết thằng chỉ huy địch dưới hầm ngầm, giết chết kẻ mà anh gọi là thằng Dục – không phải thằng Dục thật bởi nó đã giục giã dưới lưỡi mác của cụ Mết mà là với Tnú: “Chúng nó đứa nào cũng là thằng Dục”,”Dục tau có dao đâu! Tau giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi! Tau bóp cổ mày thôi” Bàn tay Tnú ngay cả khi không cần sức mạnh của vũ khí vẫn giết được kẻ thù bảo vệ được mình. Đó là bàn tay quả báo. Với Nguyễn Trung Thành vũ khí rất quan trọng cần phải cầm vũ khí chống lại kẻ thù nhưng cái quan trọng hơn cả vẫn là bàn tay của con người dám cầm vũ khí.

Page 17: Câu 2 điểm

4)Tư tưởng chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo được cụ Mết rút ra từ chính cuộc đời Tnú cũng là câu chuyện về số phận về hành trình lịch sử của dân làng Xôman Nguyễn Trung Thành bằng tài năng của mình đã để cho tư tưởng ấy hoá thân thành những hình tượng nghệ thuật sôi động bão hoà cảm xúc, tư tưởng ấy vì vậy không phải là thứ triết lí trừu tượng khô cứng không mang thứ màu xám của lí thuyết mà là thứ “cây đời mãi mãi xanh tươi”(W.Gớt).

Tư tưởng ấy đã khái quát được quy luật đấu tranh cách mạng đồng thời khẳng định vai trò sức mạnh của vũ khí cũng như những phẩm chất tốt đẹp của con người. Đó là quy luật có áp bức có đấu tranh, phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực hung bạo của kẻ thù được diễn đạt dưới hình thức giá trị mộc mạc của một già làng miền núi, triết lí ấy càng dễ thấm sâu vào tâm hồn của những người dân xôman, của các cộng đồng dân tộc trên các dải đất tự nhiên.

III.Kết bài

Nguyễn Trung Thành đã thể hiện đặc biệt thành công cái chân lí thời đại giản dị mà sâu sắc”chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo” qua hệ thống hiện tượng của toàn bộ trong “rừng xà nu” nhờ vậy mặc dù là tác phẩm có tính luận đề, nhưng “rừng xà nu” không trở nên công thức, khô cứng trừu tượng mà vẫn có sự thống nhất giữa chiều sâu tư tưởng với sức gợi cảm sôi động của hiện tượng trở thành tác phẩm có sức hấp dẫn và có giá trị lâu bền.

4. Kết cấu vòng tròn trong tác phẩm “Rừng xà nu”

Truyện ngắn có cách mở đầu và kết thúc kết cấu vòng tròn (hay còn được gọi là đầu cuối tương ứng)Tác phẩm mở đầu bằng một trang đặc tả: "Rừng xà nu nằm trong tằm đại bác của giặc" đang ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho làng Xôman và kết thúc là hình ảnh "những cây xà nu nối tiếp nhau chạy đến chân trời" trong tầm mắt của cụ Mết, Tnú, Dít. Kết cấu này tạo nền vững chãi để triển khai câu chuyện. Những trang sử đau thương, bất khuất của làng Xôman lần lượt sống dậy trên nền cảnh xà nu. Lối kết cấu này còn tạo dư âm hùng tráng cho thiên truyện và nó như một bài ca bất tận về sức sống của thiên nhiên Tây Nguyên về chủ nghĩa anh hùng Cách mạng của con người Tây Nguyên

Để tạo ra không gian cho tác phẩm và không gian này mang ý nghĩa cho đại ngàn Tây Nguyên, truyền thống và phẩm chất của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, tác giả đã mở đầu bằng dựng cảnh rừng xà nu ở thời điểm hiện tại (đang chịu sự hủy diệt của kẻ thù). Cây xà nu là biểu tượng nổi bật và xuyên suốt tác phẩm, tham gia vào kết cấu của tác phẩm (mở đầu là cánh rừng xà nu tit 1 tắp đến tận chân trời và kết thúc cũng như vậy).

Kết cấu truyện theo lối vòng tròn hay còn gọi là đầu cuối tương ứng. Chính kết cấu đó tạo nên dư âm hùng tráng. Lối kết cấu này như cái khung bền vững để nhà văn khai triển câu truyện. Đây là lối kết cấu vừa đóng vừa mở. Câu chuyện đóng lại để mở một câu truyện khác. Điều này làm chúng ta tưởng tượng đây chỉ là một chương trong lịch sử ngàn đời của người Xô man, chỉ là một chương trong bản anh hùng ca vô tận của Tây Nguyên.

- Trong cấu trúc văn bản:

• Mở ra: đồi xà nu

• Khép lại: những rừng xà nu nối tiếp chạy đến chân trời.

Tác dụng:

o Không gian mở rộng > Sức sinh sôi, sự sống mạnh hơn cái chết và sự huỷ diệt.

o Tạo cấu trúc điệp vòng tròn > hình tượng xuyên suốt, mang tầm vóc sử thi.

Page 18: Câu 2 điểm

CHÍ PHÈO

1. Chi tiết bát cháo hành

Bát cháo hành là một chi tiết nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm Chí Phèo góp phần thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm.- Bát cháo ấy không những giúp Chí thoát khỏi trận ốm đang hoành hành mà hơn hết, nó là liều thuốc giải độc cho quãng đời tội lỗi của Chí Phèo. - Tuy nhiên hương vị của bát cháo hành cũng làm tăng thêm bi kịch mồ côi của Chí Phèo. Hương vị bát cháo hành cũng là hương vị của tình yêu Thị Nở, làm xúc động Chí, đây là lần đầu tiên Chí có tình cảm của một con người: bâng khuâng buồn, vui hồn nhiên như đứa trẻ “muốn làm nũng với thị như với mẹ”. - Chí sung sướng hạnh phúc khi cảm nhận được vi ngọt của tình yêu qua bát cháo hành của Thị. Vì vậy, bát cháo hành của Thị chất chứa tình yêu thương chân thành của mụ đã biến Chí thành một con người khác hẳn, biến Chí từ một thằng lưu manh chuyên rạch mặt ăn vạ thành một anh nông dân lương thiện, hiền lành với biết bao những cảm xúc, nghĩ suy của một con người khát khao được trở về với xã hội loài người. Bát cháo đầy tình yêu thương của Thị đã giúp Chí lột đi vỏ quỷ để trở lại làm người.

2. Chi tiết cái lò gạch cũ

- Kết thúc tác phẩm “Chí Phèo” của Nam Cao đầy ám ảnh không chỉ tạo nên một kiểu kết thúc khép kín, đầu cuối tương ứng mà còn để lại một nỗi day dứt và bi thương trong lòng độc giả. “Cái lò gạch cũ” đầu tác phẩm là nơi mở đầu một số phận, một kiếp người đau khổ đầy bi kịch thương tâm.- Hình ảnh “cái lò gạch cũ” ở cuối tác phẩm không phải là một hình ảnh thực mà là một hình ảnh tưởng tượng nói lên rằng: “Rất có thể từ cái lò gạch cũ ấy, Thị Nở lại cho ra đời một Chí Phèo con ngỗ ngược hơn bố nó để nối nghiệp. Điều ấy chưa có gì đảm bảo, nhưng có điều chắc chắn rằng chừng nào còn tồn tại xã hội “người ăn thịt người”, thì chừng ấy còn tồn tại hiện tượng Chí Phèo”. - Nghĩa là Chí Phèo chết, nhưng hiện tượng Chí Phèo chưa chấm dứt (Hiện tượng Chí Phèo là hiện tượng hàng vạn người nông dân lao động lương thiện bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa và khi ý thức nhân phẩm trở về thì lại bị xã hội lạnh lùng cự tuyệt để phải tìm đến cái chết thảm thương). Giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm được toát ra từ một chi tiết giản dị như thế. Qua chi tiết này, Nam Cao lúc đó hình như cảm thấy số phận người nông dân cứ rơi vào một vòng luẩn quẩn “Con kiến mà leo cành đa, leo phải cành cụt leo ra leo vào” không lối thoát. Đây là một cái kết đầy bi quan khác xa với kết thúc của truyện ngắn Vợ Nhặt (Kim Lân). Kết thúc tác phẩm này là hình ảnh đoàn người đói và lá cờ đỏ báo hiệu cách mạng đã trở về, chỉ có cách mạng mới có thể giải phóng cho nỗi thống khổ của nhân dân.

3. Chi tiết tiếng chửi của Chí Phèo và câu nói “Ai cho tao lương thiện?”

• Mở đầu truyện là một Chí Phèo say rượu và chửi bới: + “Hắn vừa đi vừa chửi” + Hắn chửi tất cả : từ trời,  đời ,cả làng Vũ Đại , “Chửii cha đứa nào không chửi nhau với hắn”  “đứa chết mẹ nào đẻ ra thân hắn”=> đối tượng chửi đã được xác định : xã hội thực dân nửa phong kiến đã sinh ra cái thằng Chí Phèo, đối tượng chửi qua đó cũng thu hẹp dần > chứng tỏ Chí đang rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc. • Cái mà Chí nhận được là : “ trời có của riêng nhà nào”,“đời là tất cả nhưng chẳng là ai” , “không ai lên tiếng cả” ,“không ai ra điều” , “nhưng mà biết đứa nào đã đẻ ra Chí Phèo”. Đáp lại tiếng chửi ấy trớ trêu thay lại là “ tiếng chó cắn lao xao”. • Ý nghĩa tiếng chửi của Chí Phèo: + Chí chửi tức là Chí muốn giao tiếp với mọi người nhưng tất cả đều im lặng, Chí đã bị đánh bật, chỉ có “ba con chó dữ với một thằng say rượu”) ra khỏi xã hội loài người, tiếng chửi trở nên vật vã, tuyệt vọng. + Tiếng chửi của Chí là tiếng nói đau thương của một con người ý thức về bi kịch của mình: sống giữa cuộc đời nhưng đã mất quyền làm người. Đó chính là sự đau xót của nhà văn đối với nhân vật của mình.

Page 19: Câu 2 điểm

+ “ Ai cho tao lương thiện?” Đó là những câu hỏi vút lên đầy cay đắng và không lời giải đáp. Câu hỏi chất chứa nỗi đau của một con người thấm thía được nỗi đau khôn cùng của bi kịch cá nhân. Câu hỏi đánh thẳng vào bộ mặt của xã hội bất lương. Câu hỏi như cứa vào tâm can người đọc về một thân phận con người đầy đắng cay trong xã hội cũ. Và Chí Phèo cũng đã tự kết liễu cuộc đời mình sau khi kết liễu tên cáo già Bá Kiến. Cái chết bi thảm của Chí Phèo là lời kết tội đanh thép cái xã hội vô nhân đạo, là tiếng kêu cứu về quyền làm người, cũng là tiếng gọi thảm thiết cấp bách của nhà văn: Hãy cứu lấy con người! Hãy yêu thương con người! 

Page 20: Câu 2 điểm

VỢ NHẶT

1. Hình ảnh “nồi chè khoán”

- Nồi chè cám là hình ảnh cuộc sống khốn khó, là cái đói năm 45 => con người ta phải ăn thứ thức ăn vốn không dành cho con người! => Giá trị hiện thực.( liên hệ phân tích về người vợ nhặt, theo không anh Tràng xấu xí về làm vợ những tưởng có cuộc sống no ấm hơn nhưng bị gần như " vỡ mộng" ngay trong bữa cơm đầu )- Xen vào giữa cuộc nói chuyện về tương lai vui vẻ giữa 3 người, khi bà cụ Tứ " lễ mễ bưng ra" nồi " chè khoán" với câu nói đùa" Chè đây" " Chè khoán đây, ngon đáo để cơ" => Vừa thể hiện thái độ lạc quan, vừa thể hiện tấm lòng của người mẹ nghèo. ( Thương con trong niềm đắng cay, tủi cực chua chát của sự nghèo đói, bần hàn).- " Tràng cầm đôi đũa gợt một miếng bỏ vội vào miệng. mặt hắn chun ngay lại, miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Bữa cơm từ đấy ko ai nói câu gì, họ cắm đầu ăn cho xong lần, họ tránh nhìn mặt nhau. Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người- -> từ câu chuyện vui vẻ trở về hiện thực tàn nhẫn hiện tại, khi mà cái đói vẫn còn đeo bám, con người ta nhanh chóng rơi vào trạng thái "tủi hờn" của sự ám ảnh bởi vật chất nghèo khó -> đặt ra vấn đề về hướng giải pháp: không thể chối bỏ thực tại bằng tương lai tươi sáng trong tưởng tưởng, muốn đạt được hạnh phúc con người phải đấu trạnh để thoát khỏi thực tại đó( liên hệ với chi tiết lá cờ đỏ bay phấp phới và h/a đoàn người đi phá kho thóc Nhật).

2. Chi tiết những giọt nước mắt của bà cụ Tứ. Ý nghĩa?

Trong thiên truyện, bà cụ Tứ luôn cố giấu những giọt nước mắt xót thương vì sợ phiền cho chính những người mà mình thương xót. Nhưng tình cảm yêu thương thấm thía và lòng trắc ẩn đã không thể nào dấu hết… => Kim Lân đã 3 lần miêu tả những giọt nước mắt của người mẹ nhân từ:

+ “Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường của con mình thế kia?... Bà lão hấp háy cặp mắt… vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải.”+ “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con… Còn mình thì… Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…”+ “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá… Bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng.” - Ý nghĩa: + Đó là tình cảm trắc ẩn, xót xa cho hoàn cảnh trớ trêu của gia đình mình, cho thân phận của đứa con dâu tội nghiệp.+ Đó là giọt nước mắt hạnh phúc của tình mẫu tử thiêng liêng trước niềm vui bất ngờ của đứa con trai.

Page 21: Câu 2 điểm

CHIẾC THUYỀN NGOÀI XA

1. Ý nghĩa nhan đề

Đây là 1 nhan đề mang ý nghĩa biểu tưng, hé mở tình huống và thể hiện được chủ đề của tác phẩm.

- Chiếc thuyền ngoài xa là biểu tượng của bức tranh thiên nhiên về biển và cũng là biểu tượng về cuộc sống sinh hoạt của người dân hàng chài.

- Chiếc thuyền ngoài xa là một hình ảnh gợi cảm, có sức ám ảnh về cuộc sồng bấp bênh, dập dềnh của những thân phận, những cuộc đời trôi nổi trên sông nước.

- Chiếc thuyền ngoài xa biểu tượng cho mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống. Cái hồn của bức tranh nghệ thuật ấy chính là vẻ đẽp rất đỗi bình dị của những con người lam lũ, vất vả trong cuộc sống thường nhật (Liên hệ « Giăng sáng » - Nam Cao)

- “Cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” -> hình ảnh 1 cánh buồm nhòa mờ trong màn sương huyền ảo của buổi sớm mai trên biển xa. Vẻ đẹp hài hòa, toàn bích như trong “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ” khiến người nghệ sĩ xúc động như vừa “khám phá thấy chân lí của sự toàn thiên, khám phá thấy cái khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Nhưng đằng sau vẻ đẹp tuyệt diệu ấy lại là cuộc sống của những người dân chài bị giam cầm bở đó nghèo tăm tối và bạo lực gia đình. -> sự đối lập giữa ngoại cảnh và hiện thực cuộc sống.

- Ý nghĩa về cách nhìn cuộc sống: k phải bao giờ cái đẹp cũng tồn tại song song với cái thiện, k phải cái bên ngoài lúc nào cũng thể hiện bản chất bên trong và muốn hiểu đúng 1 con người, hiểu cuộc sống cần có cái nhìn thấu đáo, đa chiều, sâu sắc ở nhiều góc độ.Nhan đề còn đưa đến 1 quan niệm về trách nhiệm của người nghệ sĩ: chỉ khi nào người nghệ sĩ có trách nhiệm trong cái nhìn hiện thực cuộc sống, có “mối quan hoài thường trực về số phận, hạnh phúc của những người xung quanh” thì khi ấy tác phẩm nghệ thuật mới đạt được giá trị cao nhất. Ấy là “giá trị nhân đạo” .

- Nhan đề "Chiếc thuyền ngoài xa" là một ẩn dụ về mối quan giữa cuộc đời và nghệ thuật. Đó là chiếc thuyền có thật trong cuộc đời, là không gian sinh hoạt của gia đình người đàn bà hàng chài. Ở đó, ngoài vợ chồng họ còn có cả một đàn con. Cuộc sống khó khăn đói kém, nơi ở chật chội,.. làm con người thay đổi tâm tính. Trước đây, anh là một người hiền lành, lấy chị - một người đàn bà xấu xí nhưng hết sức chăm lo cho cuộc sống gia đình; đông con, khó kiếm ăn, cuộc sống túng quẫn là nguyên  nhân làm cho người chồng trở nên cục cằn, thô lỗ và biến vợ thành đối tượng của những trận đòn. Những cảnh tượng đó, những thân phận đó nếu nhìn từ xa, ở ngoài xa thì sẽ không thấy được.

    - Nhưng cũng chính vì ở ngoài xa nên con thuyền mới đơn độc. Đó là sự đơn độc của con thuyền nghệ thuật  trên đại dương cuộc sống, đơn độc của con người trong cuộc đời. Chính sự thiếu gần gũi, chia sẻ ấy là nguyên nhân cuả bế tắc và lầm lạc. Phùng đã chụp được cảnh chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm- một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích, một chân lí của sự toàn thiện.. Chiếc thuyền là biểu tượng cho sự toàn mĩ mà chiêm ngưỡng nó, anh thấy tâm hồn mình trong ngần. Nhưng khi chiếc thuyền đâm thẳng vào bờ, chứng kiến cảnh đánh vợ của người đàn ông kia, anh đã kinh ngạc…và vứt chiếc máy ảnh xuống đất. Anh nhận ra rằng, cái đẹp ngoài xa kia cũng ẩn chứa nhiều oái oăm, ngang trái và nghịch lý. Nếu ko đến gần thì chẳng bao giờ anh phát hiện ra. Xa và gần, bên ngoài và thẳm sâu…đó cũng chính là cách nhìn, cách tiếp cận của nghệ thuật chân chính.

Page 22: Câu 2 điểm

2. Anh/chị thử tìm những nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài. Chi tiết lão đàn ông rút “chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa”, “quật tới tấp vào lưng người đàn bà”, ngay ở bên “chiếc xe rà phá mìn của công binh Mĩ” có phải là một sự gợi ý về nguyên nhân của tình trạng này không? Anh/chị có nhận xét gì về tư tưởng nhân đạo của tác giả khi đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình?- Trong tác phẩm, cảnh lão đàn ông hành hạ, đánh đập vợ tàn bạo bằng “chiếc thắt lưng của lính ngụy” thường diễn ra bên những chiếc xe tăng và xe rà phá mìn sét gỉ trên bãi biển – là những thứ tàn tích sau chiến tranh – là một sắp đặt đầy dụng ý của tác giả. Tuy nhiên, tái hiện những hình ảnh này, Nguyễn Minh Châu không hề giản đơn để ám chỉ về cái xấu và cái ác kia như một thứ tàn tích của chiến tranh. Phải chăng trong những hình ảnh ấy còn hàm chứa một ẩn ý bề sâu? Đó là bạo lực chiến tranh do kẻ địch gây ra đã bị tiêu diệt còn chưa lùi xa, thì đã sinh ra thứ bạo lực khác, dai dẳng và đáng sợ hơn nhiều. Là vì thứ bạo lực này chà đạp lên phẩm giá người, hủy hoại nhân tính, làm tha hóa cuộc sống con người, nhưng nó lại khó nhận ra, khó tiêu diệt hơn. Nhưng thứ bạo lực đáng sợ này sinh ra từ đâu? Qua tính cách lão đàn ông hàng chài, người đọc có thể thấy nó nằm sẵn trong lão, nó sinh ra từ tình trạng đời sống đói khổ, tăm tối, từ sự lạc hậu, mông muội, khiến lão bị thui chột ý thức về nhân tính, về tư cách người, giá trị người, vì thế lão chà đạp lên nhân phẩm, giá trị người mà vẫn không nhận ra.- Đề cập tình trạng bạo lực trong gia đình hàng chài – chồng đánh vợ, con đánh bố, Nguyễn Minh Châu đã làm dấy lên nỗi xót thương và niềm lo âu về tình trạng phụ nữ và trẻ em bị hành hạ, ngược đãi, về nguy cơ trẻ em sẽ sớm nhiễm thói vũ phu thô bạo, tồi tệ do bị tổn thương tâm hồn, đánh mất niềm tin vào gia đạo, cuộc sống. Tác giả không chỉ lên án bạo lực, phê phán sự lạc hậu, mông muội, không chỉ bày tỏ tình thương yêu đối với những con người nhỏ bé, bất hạnh, lam lũ, khổ đau mà còn cảnh báo một nguy cơ đáng sợ: nếu không giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu thì không thể tiêu diệt được cái xấu cái ác. Chính nhà văn đã chỉ ra điều này trong lời kể đầy ẩn ý: “… cái lão đàn ông đã từng hành hạ mụ, và không khéo sẽ còn hành hạ mụ cho đến khi chết – nếu không có cách mạng về”. Đó là chiều sâu tư tưởng nhân đạo của thiên truyện.

3. Tên truyện là Chiếc thuyền ngoài xa. Gần cuối truyện, hình ảnh chiếc thuyền ấy lại hiện lên trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Anh/chị có nhận xét gì về dụng ý nghệ thuật và ý nghĩa thể hiện qua chi tiết này?

- Tên truyện Chiếc thuyền ngoài xa rõ ràng hàm chứa một ẩn ý của nhà văn. Qua nội dung câu chuyện, hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa nơi nhan đề gắn với cái đẹp “tuyệt đỉnh của ngoại cảnh”, cái đẹp “toàn bích, toàn thiện”, nhưng cuộc sống đích thực của gia đình hàng chài trên con thuyền ấy biết bao khó nhọc, lam lũ, khổ đau, bất hạnh, bạo hành tồi tệ. Thì ra hình ảnh chiếc thuyền nhìn từ xa rất khác với nhìn gần; nhìn từ xa thì thấy thơ mộng, tuyệt đỉnh; nhìn gần thì thấy sự thực tàn bạo, tồi tệ, nhức nhối. Đó là nghịch lí giữa cái đẹp bên ngoài và sự thực xấu xa, tồi tệ bên trong mà một cái nhìn giản đơn, sơ lược không thể phát hiện khám phá ra được. Nhan đề truyện là một khái quát giản dị về mối quan hệ giữa nghệ thuật và đời sống và là một ẩn dụ tượng trưng cho cái nhìn nghệ thuật về cuộc đời và con người.- Gần cuối truyện, vẫn là hình ảnh chiếc thuyền ấy, nhưng trước một cơn giông tố lớn đang ập đến. Hàm ý tượng trưng ẩn ở tầng sâu hơn. Đó không giản đơn là một cảnh báo với niềm lo âu về một nguy cơ cuộc sống trước cơn bão bạo lực mà là một dự cảm với chiều sâu nhân đạo về cơn bão cách mạng để tiêu diệt cái ác, để đổi thay cuộc sống, giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối để con người được sống xứng đáng là con người.

4. Phân tích đoạn văn cuối truyện (“Không những trong bộ lịch năm ấy …, hòa lẫn trong đám đông…”); qua đó phát biểu nhận xét về quan điểm nghệ thuật và tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu.

- Đoạn văn cuối truyện là một ấn tượng lạ lùng của nhân vật Phùng. Là một nghệ sĩ say mê, nhạy cảm trước cái đẹp “toàn thiện, toàn bích”, anh đã thực sự xúc động, ngỡ ngàng, cảm thấy “hạnh phúc tràn ngập tâm hồn” trong cái khoảnh khắc phát hiện “cái đẹp tuyệt đỉnh” của chiếc thuyền ngoài xa hòa vào “bầu sương

Page 23: Câu 2 điểm

mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Và anh đã chủ tâm chụp lấy bức ảnh “không có người. Hoàn toàn là thế giới tĩnh vật” như trưởng phòng mong muốn. Nhưng anh không ngờ chính trên chiếc thuyền ấy là một gia đình hàng chài đang sống trong tình trạng bạo hành, dã man, tồi tệ. Trước sự đối lập, nghịch lí giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” với cuộc sống lầm than, cay cực của gia đình hàng chài, anh đã day dứt, trăn trở, trải qua một cuộc đối chất riết ráo giữa thứ nghệ thuật “hoàn toàn tĩnh vật” mà vị trưởng phòng mong muốn với nghệ thuật vì sự thực ở đời, vì những kiếp lầm than. Điều này đã luôn ám ảnh anh, đến nỗi sau này, mỗi lần nhìn ngắm bức ảnh chụp cảnh biển buổi sáng có sương, “tuy là ảnh đen trắng” nhưng anh “vẫn thấy hiện lên cái màu hồng hồng của ánh sương mai”, và “bao giờ cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh”. Cái ám ảnh, cái ấn tượng lạ lùng này của Phùng cho thấy trong sâu thẳm nhận thức, tư tưởng của anh, anh đã li khai với thứ nghệ thuật “màu hồng” xa lạ với sự thật về đời sống và con người; lòng người nghệ sĩ này đã thấu hiểu nghệ thuật chân chính luôn là sự thực ở đời, là vì cuộc đời, vì những kiếp lầm than; nó không thể nhân danh bất cứ điều gì để lảng tránh sự thật về con người, mà phải có trách nhiệm can dự vào cuộc đời, phải góp tiếng nói tích cực vào việc giải phóng con người khỏi sự cầm tù của nghèo đói, tăm tối và bạo lực để con người có một cuộc sống xứng đáng với con người. Đó cũng chính là tuyên ngôn nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua truyện ngắn này mà nhan đề Chiếc thuyền ngoài xa là một ẩn ý về tuyên ngôn đó. - Tuy nhiên, ý nghĩa của đoạn kết truyện không chỉ dừng lại ở đấy. Câu văn “và nếu nhìn lâu hơn, bao giờ tôi cũng thấy người đàn bà ấy đang bước ra khỏi tấm ảnh, […] Mụ bước những bước chậm rãi, bàn chân dậm trên mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đông…” chứa đựng chiều sâu ý nghĩa nhân đạo của tác phẩm. Phải chăng tình trạng khốn khổ, cay cực của người đàn bà hàng chài kia không hề là cá biệt, mà trong đám đông kia, ai cũng là một người như thế. Câu văn canh cánh một niềm lo âu ấy không chỉ thể hiện tình thương yêu đối với những kiếp lầm than, cay cực mà còn là tiếng kêu giải phóng con người khỏi đói nghèo, tăm tối, lạc hậu, để có thể xóa bỏ được cái xấu cái ác, làm cho con người được sống xứng đáng với con người. Muốn vậy, không còn giải pháp nào khác ngoài con đường cách mạng. Ấy là một cuộc cách mạng diệt trừ cái xấu cái ác, xóa bỏ các thứ bạo lực để con người ngày càng hoàn thiện, đất nước ngày càng đẹp tươi. Cuộc cách mạng ấy đã và đang về, chứ không còn là dự cảm, là kì vọng đau đáu của một nhà văn suốt đời không ngừng trăn trở về số phận nhân dân và trách nhiệm của người cầm bút – Nguyễn Minh Châu.

Page 24: Câu 2 điểm

NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH