Upload
others
View
3
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
LIÊN MINH CHIẾN LƯỢC NGA – TRUNG QUỐC:
CÁC QUAN ĐIỂM SAI LẦM VÀ SỰ THẬT
Lưu Dục Huy
TLD #03
TÀI LIỆU DỊCH TLD-12
Alexander Korolev
Một ấn phẩm của VEPR
ii
Liên minh Chiến lược Nga – Trung Quốc:
Các quan điểm Sai lầm và Sự thật1
Alexander Korolev 2
Biên dịch: Nguyễn Phú Quốc3
Hiệu đính: Đỗ Thiện4
Quan điểm được trình bày trong bài viết này là của (các) tác giả và không nhất
thiết phản ánh quan điểm của dịch giả hoặc VEPR và VCES.
1 Nguồn: “The Strategic Alignment between Russia and China: Myths and Reality”, The Asan Forum, May
04,2015. Toàn văn có thể truy cập tại địa chỉ: http://www.theasanforum.org/the-strategic-alignment-between-
russia-and-china-myths-and-reality/ 2 Trung tâm về châu Á và Toàn cầu hóa, Trường Chính sách Công Lý Quang Diệu tại Đại học Quốc gia
Singapore (NUS) 3 Cộng tác viên Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES) 4 Cộng tác viên Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)
© 2015 Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Tài liệu dịch TLD-12
Phạm Nguyên Trường dịch
TÁC PHẨM DỊCH DC-21
Nguyễn Đôn Phước dịch
TÁC PHẨM DỊCH DC-20
TLD-12
1
Những suy nghĩ về khả năng Trung Quốc và Nga cùng tạo ra một liên minh chiến lược chính
thức để đối phó với sự thống trị đơn cực của Mỹ không phải là một thông tin mới mẻ, vốn đã
xuất hiện từ đầu những năm 1990. Tuy nhiên, chiến lược “Xoay trục sang châu Á” của Mỹ,
những tham vọng mới của Trung Quốc trong tranh chấp lãnh thổ, chiến lược “hướng về phương
Đông” rất đáng chú ý của Nga, mối quan hệ Nga-Mỹ và rộng hơn là Nga-phương Tây suy giảm
do hậu quả từ cuộc khủng hoảng Ukraine gần đây, tất cả đã tạo nên một môi trường địa chính
trị phức tạp, làm nhen nhóm trở lại các cuộc tranh luận giữa các nhà tư vấn chính sách lẫn các
học giả về triển vọng hình thành một liên minh chiến lược Nga-Trung.
Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại thuộc viện Duma Quốc gia (Hạ viện-NHĐ) Nga Alexei
Pushkov tuyên bố: "Hoa Kỳ đang đối diện rủi ro vì những sai lầm lớn trong chính sách đối
ngoại khi cùng lúc làm phật lòng hai cường quốc lớn trên thế giới.... Đối với Hoa Kỳ, Nga là
kẻ thù, còn Trung Quốc là kẻ thù tiềm năng. Nhưng quá trình đối đầu với cả hai cường quốc
lớn đó là một chiến lược sai lầm."1 Một số nhà phân tích người Nga cũng lập luận,"Mỹ không
thể dừng việc kiềm chế Trung Quốc. Mỹ cũng không thể ngừng kiềm chế Nga. Mỹ không thể
dừng lại việc đẩy Trung Quốc và Nga vào một liên minh mới về chính trị lẫn quân sự"2. Tại
Trung Quốc, nơi mà cho tới thời gian gần đây vẫn duy trì quan điểm chính thức là "không liên
kết" (bu jiemeng zhengce), thì giờ đây một số học giả có sức ảnh hưởng đã bắt đầu cùng đưa
ra các lời kêu gọi thống nhất về một chiến lược liên minh toàn diện với Nga, thông qua cách
luận điểm được thể hiện trong các ấn phẩm nội bộ của Trường Đảng Trung ương thuộc Đảng
Cộng sản Trung Quốc: "Các mối quan hệ chiến lược Nga-Trung chính là các mối quan hệ trọng
yếu nhất"3, đồng thời trên các phương tiện khác, (các học giả Trung Quốc – NHĐ) cho rằng
"Trung Quốc sẽ không thể lái thế giới từ đơn cực sang lưỡng cực trừ khi nước này tạo ra một
liên minh chính thức với Nga."4 Mới đây, John Mearsheimer (giáo sư Hoa Kỳ về khoa học
chính trị tại đại học Chicago, Mỹ - NHĐ) đã chỉ trích chính sách của Mỹ đối với Nga "ngay từ
đầu là một chiến lược ngu xuẩn" vì khiến cho Nga và Trung Quốc xích lại gần nhau hơn, đi
ngược lại với lợi ích của Mỹ5. Song song với các cuộc thảo luận được hâm nóng về triển vọng
của một liên minh Nga-Trung là sự nổi lên của những quan niệm sai lầm lạc hậu về mối quan
hệ Nga-Trung, vốn dựa trên những hiểu biết thiếu cặn kẽ về Nga, Trung Quốc và các mối quan
hệ giữa hai nước này, trở thành nền tảng hùng biện mang tính định kiến của nhiều người khi
đánh giá về cơ hội xuất hiện một liên minh (giữa Nga và Trung Quốc).
Dưới đây, tôi sử dụng bằng chứng để làm rõ bốn quan điểm sai lầm phổ biến được đưa ra
như những rào cản đối với một liên minh tiềm năng.
TLD-12
2
Ý niệm sai lầm đầu tiên chính là việc cho rằng: vì nước Nga hậu Xô Viết yếu hơn nhiều
so với Trung Quốc, nên bất kỳ liên minh nào giữa hai nước này cũng sẽ bất cân đối, giống như
một "khối không đồng đều". Điều này không nằm trong lợi ích của Nga, và do đó, Nga bất đắc
dĩ mới gia nhập vào một liên minh như thế.
Quan điểm hoang đường thứ hai đề cập về vấn đề nhân khẩu học, làm sống lại “yellow
peril” bogeyman (“ông kẹ da vàng nguy hiểm”), câu chuyện gần như đã bị lãng quên ở Nga.
Theo câu chuyện này, nếu Nga và Trung Quốc quá gần nhau, các khu vực có ít dân cư của Nga
như vùng Viễn Đông và Siberia sẽ bị người Trung Quốc, vốn đang sống trong một quốc gia
quá tải về dân số, âm thầm cát cứ. Nga rõ ràng không mong muốn điều này, và do đó sẽ không
thể tạo ra một liên minh.
Quan điểm thứ ba cho rằng sự phụ thuộc kinh tế quá mức của Nga đối với Trung Quốc
khiến nước này đánh mất đi các mối quan hệ với các nước châu Á khác. Mối quan hệ thân thiết
quá mức với Trung Quốc sẽ biến Nga thành một nhà cung cấp năng lượng phụ thuộc nước này,
và trong kịch bản xấu nhất, sự phụ thuộc đó có thể tạo ra các áp lực ly tâm mạnh mẽ trong lòng
nước Nga, thậm chí dẫn đến hệ lụy chính phủ Nga mất kiểm soát tại các vùng lãnh thổ kém
phát triển ở phía đông. Do đó, rất khó để Nga liên minh với Trung Quốc.
Quan điểm sai lầm thứ tư chính là việc cho rằng giữa Trung Quốc và Nga không hề có
lòng tin.Bởi vì họ không tin tưởng lẫn nhau, nên liên minh này khó trở thành hiện thực.
Cả bốn quan điểm trên xuất hiện với nhiều dạng thức, sắc thái khác nhau trong các phân
tích về những rào cản đối với một liên minh trong tương lai. Một số quan điểm nghe có vẻ
thuyết phục vì chúng dựa trên tiền đề hoàn cảnh địa lý, kinh tế, xã hội và nhân khẩu học của
các khu vực, trong đó có đường biên giới chung Nga-Trung.Tuy nhiên, khi kiểm chứng một
cách chặt chẽ, có thể thấy rằng cả bốn “quan điểm hoang đường” đều thiếu nền tảng thực
nghiệm vững chắc.
Quan điểm sai lầm thứ nhất: Quyền lực suy giảm của Nga và sự không liên
kết với Trung Quốc
Nga luôn bị đánh giá là một quốc gia yếu kém hoặc đang suy thoái. Điển hình, gần đây khi đưa
ra bình luận về khả năng liên minh Nga-Trung, Joseph Nye cho rằng Nga không thể quản lý
được một liên minh thực sự với Trung Quốc, và một trong những lý do để chứng minh cho lập
luận này chính là "Quyền lực kinh tế và quân sự của Nga hiện đang suy giảm, trong khi Trung
Quốc thì lại bùng nổ."6 Hơn nữa, ông còn lập luận rằng Nga đang lo lắng về "ưu thế lực lượng
TLD-12
3
quân sự thông thường của Trung Quốc" (over China’s conventional military superiority), và
sự mất cân bằng quyền lực giữa Nga-Trung Quốc là lý do khiến Nga không mong muốn một
liên minh quân sự bền chặt với Trung Quốc7. Các lập luận này có thể bị bác bỏ bởi lẽ sự tương
quan yếu kém hay sức mạnh không phải là yếu tố quyết định việc hình thành liên minh. Hầu
hết các liên minh quân sự đều không cân xứng về tương quan sức mạnh giữa các nước thành
viên. Tất cả các nước đồng minh của Mỹ đều yếu thế hơn so với nước này nhưng trái lại, các
đồng minh rất hữu ích cho sự bá quyền toàn cầu của Mỹ, và hơn nữa, các nước đồng minh
không mong muốn rút khỏi liên minh.Tuy nhiên, sức mạnh của Nga trước Trung Quốc đã thay
đổi như thế nào trong suốt thập kỷ vừa qua? Có phải Nga đang rơi vào tình trạng suy thoái trầm
trọng?
Chỉ cần nhìn lướt qua các dữ liệu cũng đủ để khẳng định quan điểm cho rằng sức mạnh về
kinh tế và quân sự của Nga "bị suy giảm" là sai lầm. Nước Nga hậu Xô Viết đã đạt được tiến
bộ đáng kể cả về kinh tế lẫn quân sự, bất chấp việc nhiều người không tin rằng Nga là một
cường quốc đang lên. Biểu đồ 1 cho thấy những thay đổi trong GDP và chi tiêu quân sự của
Nga. Bên cạnh giai đoạn tám năm suy thoái sau sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết, Nga đã phát
triển ấn tượng và vững chải trong suốt mười bốn năm qua. Năm 1999, GDP của Nga giảm
xuống còn 196 tỷ USD; đến năm 2013 con số này đạt mức 2,1 ngàn tỷ USD, tăng gấp 11 lần.
Chi tiêu quân sự của Nga trong năm 2013 là 88 tỷ USD, tăng 14 lần so với con số 6,47 tỷ USD
vào năm 1999.
TLD-12
4
Biểu đồ 1: Sự phát triển quân sự và kinh tế của Nga hậu Xô Viết
Nguồn: World Bank; SIPRI Military Expenditure Database
Nga cũng không hề suy giảm sức mạnh trong tương quan với các nước khác. Biểu đồ 2
cho thấy chi tiêu quân sự của các quốc gia thành viên khối BRIC (các nền kinh tế mới nổi, gồm
Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc – NHĐ) từ năm 1991. Nga đứng dưới cả Ấn Độ và Brazil
vào cuối những năm 1990, nhưng lại vượt qua ở giai đoạn tiếp theo của thế kỷ. Theo một báo
cáo của SIPRI (Viện nghiên cứu hòa bình quốc tế Stockholm - NHĐ), trong năm 2014 ngân
sách quân sự của Nga khoảng 2,5 nghìn tỷ rúp, trong đó Nga xếp hạng thứ ba trên thế giới sau
Hoa Kỳ và Trung Quốc. Từ năm 2008, ngân sách quân sự của Nga đã tăng trưởng 31%, vượt
qua Anh và Ả Rập Xê Út. Hơn 16 năm qua, ngân sách quân sự của Nga đã tăng gần 14 lần.
Xem xét tương quan, trong năm 1999, ngân sách quân sự của Trung Quốc lớn hơn gấp 3,2 lần
so với Nga (20,56 tỷ USD và 6,47 tỷ USD), nhưng vào năm 2013, con số này đã giảm xuống
còn 2,2 lần (188,46 tỷ USD và 86,84 tỷ USD). Vì vậy, không thể khẳng định rằng sức mạnh
của Nga đã bị suy giảm dù là tương đối hay tuyệt đối. Nếu vấn đề tương quan quyền lực tương
đóng vai trò quan trọng đối với sự hình thành liên minh, thì một liên minh Nga-Trung hiện nay
có lẽ càng khả thi hơn so với cách đây 10-15 năm, bởi vì trái với tuyên bố cho rằng Nga đang
suy yếu liên tục, quyền lực của nước này ngày càng tăng tiến nhanh chóng.
TLD-12
5
Biểu đồ 2: Chi tiêu quân sự của nước thành viên khối BRIC (tỷ USD)
Nguồn: SIPRI Military Expenditure Database
Một khía cạnh khác quan trọng trong các mối quan hệ Nga-Trung chính là việc Nga là
nước xuất khẩu lớn các loại vũ khí công nghệ cao. Tầm quan trọng của điều này là không thể
chối cãi, nhất là khi sự thiếu thốn các công nghệ quân sự tiên tiến đã trở thành gót chân Achilles
đối vị thế siêu cường của Trung Quốc, là căng nguyên khiến chính phủ nước này thất vọng.
Mặc dù các hoạt động xuất khẩu vũ khí của Trung Quốc đang tăng trưởng, nhưng nước này
vẫn thiếu công nghệ quân sự tiên tiến, và vũ khí của Nga vẫn là một "chén thánh" (holy grail)
đối với Trung Quốc. Lợi thế so sánh chất lượng về công nghệ quân sự của Nga trong tương
quan với Trung Quốc đã giúp nâng cao đáng kể vị trí của Nga trong mối quan hệ song phương,
làm giảm lợi thế về số lượng vũ khí của Trung Quốc vốn không nhất thiết phải đồng nghĩa với
khả năng tạo ra sức mạnh.
Luận điểm cuối cùng cần ghi nhớ chính là Nga đang sở hữu số lượng, chất lượng các loại
vũ khí hạt nhân ngang ngửa, và thậm chí còn tốt hơn ở một số khía cạnh so với Hoa Kỳ. Câu
chuyện về năng lực hạt nhân tầm cỡ toàn cầu vẫn là câu chuyện của riêng hai nước. Hơn nữa,
nước Nga vẫn là quốc gia độc tôn trong việc đảm bảo được khả năng đánh trả Hoa Kỳ. Sẽ là
sai lầm khi cho rằng trong thế giới thời kì hậu chiến tranh lạnh, Mỹ mạnh đến mức không nước
nào có thể đe dọa được. Nếu như năng lực hạt nhân của Liên Xô có thể ngăn chặn Hoa Kỳ hiệu
quả trong thời đại Chiến tranh Lạnh, thì hiện nay vũ khí hạt nhân của Nga được hiện đại hóa
đáng kể, tiếp tục đủ sức chống lại Mỹ. Các cơ sở dự trữ hạt nhân của Nga và Mỹ vẫn là nhân
tố bảo đảm rằng các binh sĩ Mỹ sẽ không bao giờ bắn vào lính Nga và ngược lại trong một cuộc
TLD-12
6
xung đột quân sự trực tiếp. Sở hữu năng lực hạt nhân đủ để chống đối Hoa Kỳ, Nga sẽ không
cảm thấy khó khăn khi hợp tác với Trung Quốc, một đất nước có năng lực hạt nhân lạc hậu hơn
so với cả Hoa Kỳ và Nga.
Quan điểm sai lầm thứ hai: Nhân tố nhân khẩu học chính là rào cản đối với
liên minh Nga-Trung.
Một mối lo ngại khác có thể làm suy yếu tiềm năng hình thành một liên minh Nga-Trung chính
là vấn đề nhân khẩu học. Thực trạng dân số quá đông đúc của Trung Quốc so với lượng dân cư
thưa thớt của Nga, đặc biệt ở vùng lãnh thổ Viễn Đông, thường xuyên xuất hiện trong các ấn
phẩm sách, báo, tạp chí. Một số ấn phẩm đề cập đến khả năng một lượng lớn dân chúng sẽ di
cư từ Trung Quốc8. Các ấn phẩm khác khắc họa nên một bức tranh đáng sợ về sự tiêu vong bản
sắc dân tộc, đe dọa tính toàn vẹn lãnh thổ của Nga, đồng thời tình trạng “Hán hóa trầm trọng"
(creeping sinicization) có thể xảy ra bởi có quá nhiều người Trung Quốc và quá ít người Nga
sinh sống dọc theo đường biên giới Nga-Trung9. Theo Nye, một trong những vấn đề chính yếu
cản trở sự hình thành của một liên minh chính thức Nga-Trung là tỷ lệ dân số sáu triệu người
Nga trên 120 triệu người Trung Quốc sống tại khu vực phía Đông Siberia10. Những học giả
khác viết rằng Nga miễn cưỡng trong việc hình thành một liên minh với Trung Quốc bởi nước
này “bị suy giảm về dân số" (demographically in decline), và lo ngại rằng tình trạng di cư
không được kiểm soát của các công dân Trung Quốc vào khu vực có dân cư thưa thớt tại vùng
Viễn Đông và Siberia của Nga, dẫn đến nguy cơ các khu vực này bị Trung Quốc lấn át11.
Nếu xem xét vấn đề kỹ càng hơn thì quan điểm cho rằng nhân khẩu học là vấn đề khiến
Nga lo lắng khi hình thành liên minh với Trung Quốc đã phá sản. Trước hết, sự suy giảm dân
số của Nga hiện nay không còn đúng nữa; mà thay vào đó xu hướng đã bị đảo ngược từ cuối
những năm 2000. Trong năm 2009, dân số Nga đã phát triển, tăng thêm 23.300 người12. Năm
2012, dân số của nước này tăng thêm 292.400 người13. Trong năm 2013, tổng tỷ suất sinh của
Nga đạt 1.707 trẻ em trên một phụ nữ, xếp vào loại cao nhất tại khu vực phía Đông, phía Nam
và miền Trung của châu Âu14; xu hướng suy giảm dân số đã bị đảo ngược, tăng trưởng dân số
tự nhiên đã bắt đầu diễn ra15. Biểu đồ 3 phản ánh xu hướng nhân khẩu học trong dài hạn của
Nga, phủ định quan niệm cho rằng dân số nước Nga đang bị suy giảm.
TLD-12
7
Biểu đồ 3: Biến động dân số tại Nga
Nguồn: Calculated based on data from ROSSTAT http://www.gks.ru/
Nếu nhìn vào khoảng cách nhân khẩu học giữa các khu vực biên giới của Nga và Trung Quốc,
thì tình hình không hề căng thẳng như bức tranh được khắc họa, và cũng không có lý do gì để
dự báo rằng dân cư của Trung Quốc sẽ di cư ào ạt đến vùng Viễn Đông của Nga. Bảng 1 so
sánh mật độ dân số ở các tỉnh biên giới của Trung Quốc (cột đầu tiên) với các tỉnh/khu vực
biên giới tương ứng của Nga và Mông Cổ (một quốc gia Trung-Đông Á giáp với Liên bang
Nga về phía bắc và Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa về phía nam, phía đông và phía tây – NHĐ)
(xem cột thứ hai). Cột thứ ba thể hiện tỷ lệ giữa mật độ dân số của một tỉnh Trung Quốc với
một tỉnh biên giới tương ứng ở Nga và Mông Cổ. Mật độ trung bình của hai vùng krai và oblast
của Nga giáp với Trung Quốc thấp hơn 17,83 lần so với các tỉnh Trung Quốc giáp biên giới
với Nga. Đối với trường hợp của Mông Cổ, đất nước có chung đường biên giới dài với Trung
Quốc, thì con số này là 32,9 lần. Khoảng cách dân số giữa các tỉnh Mông Cổ và Trung Quốc
giáp biên còn lớn hơn nhiều.Trung Quốc cho đến nay vẫn chưa có biểu hiện mong muốn chiếm
lấy các tỉnh của Mông Cổ (một nhà nước hầu như không có khả năng tự vệ), có dân cư thưa
thớt hơn cả Nga. Nếu Trung Quốc không chiếm các lãnh thổ biên giới của Mông Cổ, vậy lý do
gì thúc đẩy Trung Quốc tiến hành chiếm lấy lãnh thổ của một siêu cường hạt nhân? Hơn nữa,
Bảng 3 cho thấy Trung Quốc đã có sẵn một “Siberia” của riêng mình – khu vực Tây Tạng và
Thanh Hải-với mật độ dân số thấp hơn 60 và 20 lần so với các tỉnh Cát Lâm và Hắc Long
Giang, giáp biên với Nga. Sự mất cân bằng dân số tự nhiên không phải là một điều kiện cần và
đủ để vấn đề di cư diễn ra.
TLD-12
8
Bảng 1: So sánh mật độ dân số các khu vực giáp biên giới (người/km2)
Nguồn: World Bank Provincial level data are from various sources, including provincial statistical reports.
Trái với các giả định cho rằng Trung Quốc sẽ bành trướng về dân số, các xu hướng nhân
khẩu học ở quốc gia này hiện đã và đang bước vào giai đoạn tỷ lệ sinh rất thấp.Vào đầu những
TLD-12
9
năm 1990, tổng tỷ suất sinh vượt mức 2.14, bằng với mức tỷ sinh thay thế16. Vào cuối năm
1990, tổng tỷ suất sinh đạt 1.8, và vào năm 2011 con số này là 1,5, thấp hơn nhiều so với Hoa
Kỳ, Vương quốc Anh, và Pháp17. Theo kết quả điều tra dân số lần thứ sáu của Trung Quốc, tại
các thành phố lớn, tổng tỷ suất sinh đã giảm xuống còn 0,88, một trong những tỷ suất sinh thấp
nhất trên thế giới. Mức thấp nhất 0,14 trong toàn bộ lịch sử tỷ suất sinh của con người đã được
ghi nhận vào năm 2000 trong khu đô thị của Giai Mộc Tư, tỉnh Hắc Long Giang, giáp biên giới
với Nga18. Các chuyển biến mạnh mẽ này gây ra tình trạng lão hóa dân số nhanh chóng. Trong
những năm tới, Trung Quốc sẽ cần đến lực lượng dân số trong độ tuổi lao động ở lại (phụng
sự) đất nước.
Quan trọng nhất, nghiên cứu gần đây về các mô hình di cư cho thấy rằng người Trung
Quốc không đến Nga và vùng Viễn Đông của Nga với số lượng lớn. Hầu hết những người di
cư đều trở về nhà sau khi thị thực hoặc giấy phép lao động của họ hết hiệu lực. Đây chính là
trường hợp điển hình trong giai đoạn đầu những năm 2000, khi dân số của Nga giảm xuống và
Trung Quốc còn là nước nghèo; thậm chí tình hình này vẫn kéo dài cho đến hiện nay, khi xu
hướng giảm dân số ở Nga đã bị đảo ngược và mức sống ở Trung Quốc đã được cải thiện nhiều
hơn. V.Ya. Portyakov trong một loạt các bài viết nghiên cứu về sự di dân của người Trung
Quốc sang Nga đã bác bỏ một cách thuyết phục vấn đề quy mô di cư19. Thực trạng người Trung
Quốc di cư sang Nga đã bị thổi phồng bởi giới phương tiện truyền thông thiếu trách nhiệm, và
các chính trị gia địa phương của Nga – những người cố gắng dựng lên một thành trì chính trị
bằng cách vẽ ra một bức tranh, trong đó họ (các chính trị gia) đang chống lại mối đe dọa Trung
Quốc. Một nhà báo người Nga đã nhận định nội hàm của hiện tượng này như sau: "Nga không
phải là một vùng đất hứa cho những người Trung Quốc mong muốn định cư ở đó, trong khi
các chuyến đi tới Nga đơn giản chỉ là một nhu cầu mang tính cưỡng bách về kinh tế20."
Portyakov chứng tỏ rằng Nga không phải là một điểm đến ưu tiên cho những người di cư Trung
Quốc. Lực lượng những tiếng nói đại diện có trách nhiệm trong cộng đồng hàn lâm Nga, những
người không bao giờ tự bịa ra các “mối đe dọa”, đang ngày càng tăng lên. Mọi người đều đồng
ý rằng người nhập cư Trung Quốc không hề có tác động đáng kể đến tình hình nhân khẩu ở
vùng Viễn Đông Nga, và khi được quản lý đúng cách thì nơi đây có thể trở thành lợi ích địa
chính trị của Nga. Các quan điểm thiếu căn cứ, và những khuôn khổ mang tính áp đặt về hiện
tượng di cư Trung Quốc sang Nga đang dần biến mất, trong khi sự hiểu biết đầy đủ về bản chất
của việc di cư tạm thời đang dần được hình thành21.
TLD-12
10
Quan điểm sai lầm thứ ba: Sự phụ thuộc quá mức của Nga vào Trung Quốc
Quan điểm này là sự tiếp nối của một câu chuyện đã cũ về nước Nga, đặc biệt là khu vực Viễn
Đông, trở nên quá phụ thuộc vào Trung Quốc, và thậm chí tệ hại hơn là trở thành một nhà cung
cấp năng lượng lệ thuộc của Trung Quốc. Mankoff đã viết, "Những tham vọng của Nga trong
việc trở thành một người chơi quan trọng đang bất cân đối với sự phụ thuộc ngày càng tăng
của nước này đối với Trung Quốc."22 Trong khi đó, Rozman tin rằng "Suy cho cùng chiến lược
tối đa hóa đòn bẩy của Nga tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương và phát triển vùng Viễn Đông
của Nga cũng chỉ dẫn tới việc Nga trở thành một nhà cung cấp tài nguyên phụ thuộc vào Trung
Quốc."23 Do đó, chiến lược xoay trục sang châu Á của Nga, thực tế chỉ giới hạn tại Trung Quốc,
chứ không phải cả khu vực châu Á rộng lớn. Đây có thể chính là nút thắt đối với liên minh
Nga-Trung vì "có những lo ngại rằng việc xuất khẩu vật liệu thô cùng với tài nguyên khác cho
Trung Quốc, Nga sẽ ngày càng trói chặt mình vào mối quan hệ bán thuộc địa."24 Quan điểm
sai lầm này xuất hiện mỗi khi mối quan hệ Nga-Trung phát triển và hai nước bước vào giai
đoạn hợp tác mới.
Thực tế là các đối tác thương mại ổn định lớn nhất của Nga vẫn là EU. Hầu hết 50% ngoại
thương của Nga là với EU, trong khi Trung Quốc chiếm khoảng hơn 10%. Cho đến thời điểm
hiện tại, không còn là bí mật về việc tài nguyên thiên nhiên vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong xuất
khẩu của Nga sang EU. Như vậy, nếu nói Nga là một "nhà cung cấp năng lượng bị phụ thuộc"
vào nước nào đó, thì đó sẽ phải là châu Âu, chứ không phải Trung Quốc. Nếu Nga đã và đang
có thể quản lý các mối quan hệ thương mại bất cân xứng với châu Âu qua nhiều thập kỷ (thậm
chí sự kiện xung đột Ukraine), thì tại sao lại cho rằng một mô hình tương tự trong mối quan hệ
với Trung Quốc sẽ là vấn đề? Bằng chứng thuyết phục nhất là phép so sánh về sức nặng tương
quan của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong ngoại thương của vùng Đặc khu Liên bang
Viễn Đông Nga (RFEFD) – khu vực mà theo nhiều người dự đoán không thể tránh khỏi trở
thành một thuộc địa tài nguyên của Trung Quốc. Như minh họa rõ ràng trong Bảng 4, ngoại
thương của RFEFD thực sự phụ thuộc vào Hàn Quốc nhiều hơn so với Trung Quốc. Con số
xuất khẩu từ RFEFD sang Trung Quốc nhỏ hơn rất nhiều so với xuất khẩu tới Nhật Bản hay
Hàn Quốc, và tỷ lệ trên vẫn không tăng lên trong vòng 8 năm qua. Điều này phủ định hoàn
toàn quan niệm sai lầm cho rằng khu vực này đang trở thành một thuộc địa năng lượng của
Trung Quốc.Dẫu có là thuộc địa năng lượng, thì khu vực này thuộc về Hàn Quốc và Nhật Bản,
chứ không phải Trung Quốc.
TLD-12
11
Bảng 4: Phần đóng góp của Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc trong ngoại thương
của FREFD (%)
Nguồn:Far Eastern Branch of Federal Custom Service of Russia
Khi nói về thỏa thuận 400 tỷ đô la khí đốt và tác động của nó đối với quan hệ Nga-Trung
gần đây, đặc biệt xét ở khía cạnh ai đang phụ thuộc vào ai, là không hề rõ ràng bởi vì Trung
Quốc với Nga đều bị ràng buộc qua lại như nhau. Đây cũng là một sự thay đổi mang tính chiến
lược đối với Trung Quốc-một dấu hiệu khẳng định không chỉ Nga đang từng bước tiếp cận
Trung Quốc một cách nghiêm túc, mà chính Trung Quốc cũng đang làm điều tương tự đối với
Nga. Để thực hiện con đường khí đốt từ Nga sang Trung Quốc, cả hai nước đã cùng cam kết
phát triển một mạng lưới ống dẫn hiệu quả có giá trị lên đến hàng trăm tỷ USD. Khi triểu khai,
hệ thống ống dẫn sẽ được cố định, và hai bên cam kết sử dụng hệ thống này và thực hiện một
loạt các nghĩa vụ chung đối với nhau. Các cam kết cơ sở hạ tầng mang tính dài hạn như vậy sẽ
không bao giờ bị chính phủ hai nước xem nhẹ; cả hai nước đều cam đoan về độ tin cậy với đối
tác, và sẵn sàng tìm thỏa hiệp - một tín hiệu tích cực cho những kết nối trong tương lai.
Buôn bán vũ khí giữa hai nước là lĩnh vực mà Trung Quốc phụ thuộc vào Nga, chứ không
phải theo chiều ngược lại. Trung Quốc không phải là thị trường lớn về vũ khí của Nga, nhưng
đối với Trung Quốc, Nga là nguồn cung cấp chủ chốt về phần cứng quân sự tiên tiến.Bảng 5
cho thấy xu hướng chuyển giao vũ khí quốc tế. Vũ khí của Nga chiếm hơn 60 % tổng số nhập
khẩu thiết bị quân sự của Trung Quốc, trong khi vai trò của thị trường Trung Quốc đối với xuất
khẩu vũ khí của Nga chỉ chiếm 11%. Trong trường hợp Nga quyết định cắt giảm xuất khẩu
sang Trung Quốc, nước này sẽ mất đi 11% doanh thu, trong khi đó Trung Quốc sẽ phải mất
TLD-12
12
61% lượng hàng hóa vũ khí mua được. Nếu nói về sự phụ thuộc của Nga vào thị trường bên
ngoài, thì có lẽ thị trường Ấn Độ quan trọng hơn cả vì nó chiếm tới 40 % của tổng xuất khẩu
của Nga.
Bảng 5: Xuất khẩu vũ khí từ Nga sang Trung Quốc và Ấn Độ (%)
Nguồn:SIPRI, Trends in International Arms Transfer
Trái với nhiều quan điểm, sự phụ thuộc quá mức của Nga, đặc biệt là vùng lãnh thổ Viễn
Đông vào Trung Quốc, đã không còn là quan niệm phù hợp với thực tế. Một khi hai nước quyết
định hình thành một liên minh chính thức, sự phụ thuộc quá mức không phải là một vấn đề cản
trở.
Quan điểm sai lầm thứ tư: Không đủ lòng tin giữa Trung Quốc và Nga
Quan niệm hoang đường thứ tư chính là việc cho rằng thiếu "niềm tin" trong quan hệ Trung-
Nga. Vai trò của “lòng tin” – một khái niệm mơ hồ - đã được nhiều nhà bình luận quan hệ Nga-
Trung nói chung và cơ hội hình thành một liên minh nói riêng, nhấn mạnh. Một số người đề
cập tới "nội hàm việc giao dịch trong mối quan hệ Trung-Nga" và cho rằng "quan hệ Trung-
Nga thiếu sự tin tưởng và được đặc tả bởi sự cạnh tranh, đặc biệt ở khu vực mà hai nước tiếp
giáp nhau".25 Những người còn lại lập luận rằng "bất chấp một loạt các lợi ích chung trong bối
cảnh toàn cầu, có một sự thiếu thốn căn bản về niềm tin chiến lược giữa hai nước (Trung Quốc
và Nga)."26 Có những người còn tranh luận xa hơn: "Ở châu Á, Nga không tin bất kỳ nước nào,
và ngược lại cũng không được bất kỳ ai tin tưởng."27
TLD-12
13
Thực tế là chính sách của các nước được định hình dựa trên yếu tố tiên quyết là lợi ích
quốc gia chứ không phải sự tin cậy."Niềm tin" giữa các quốc gia trong nền chính trị quốc tế
không hề chắc chắn. Sự trao đổi qua lại dựa trên lợi ích chung chính là điều cốt lõi của bất kỳ
liên minh nào; mức độ trùng lắp các lợi ích này đóng vai trò quyết định có xuất hiện “niềm tin”
hay không. Một liên minh giữa hai nước không phải một cuộc hôn nhân giữa hai người - niềm
tin đóng một vai trò rất quan trọng. Niềm tin không bao giờ đóng một vai trò quyết định trong
việc định hình chính sách đối ngoại của các quốc gia. Tương tự như Nga, Hoa Kỳ và Trung
Quốc cũng không tin tưởng bất kỳ nước nào và không được bất kỳ ai tin tưởng. Liên minh xuất
hiện và biến mất theo hoàn cảnh quốc tế. Trung Quốc là một đồng minh của Liên Xô trong
những năm 1950. Tuy nhiên, vào những năm 1970, xuất hiện một mối liên kết giữa Trung
Quốc và Hoa Kỳ. Trong những năm 1980, Trung Quốc công bố một chiến lược không liên
minh, khác với Nga luôn luôn có các đồng minh. Hoa Kỳ là quốc gia đi đầu trong việc chống
lại quốc gia Xã hội Chủ nghĩa thời kì Chiến tranh Lạnh. Tuy nhiên, như một số học giả nhận
rất tường minh, làm thế nào để có thể giải thích sự kiện Nixon, người từng là đối thủ nặng ký
của chủ nghĩa xã hội, lại có quan hệ thân thiết với Trung Quốc thời kỳ chủ tịch Mao Trạch
Đông và lạnh nhạt với Đài Loan, một đồng minh chống Cộng trung thành của nước Mỹ? Tại
sao Carter, một người ủng hộ lý tưởng nhân quyền, nhắm mắt làm ngơ để Trung Quốc vi phạm
quyền con người, và nêu cao mối quan hệ Mỹ-Trung? Tại sao Reagan, một người chiến đấu
chống Cộng sản, lại khôi phục hợp tác quân sự Mỹ-trung? Và điều gì đã khiến Clinton nhanh
chóng tách rời mối quan hệ Đãi ngộ Tối huệ quốc của Trung Quốc với tình trạng vi phạm nhân
quyền của nước này?28 Có phải đó là niềm tin tưởng bùng phát đột ngột của Mỹ dành cho
Trung Quốc hay không?
Khi các điều kiện để thành lập một liên minh cân bằng đã chín muồi, các quốc gia sẽ không
xa xỉ đến mức theo đuổi sở thích chủ quan của họ và đặt mối quan hệ của họ vào thứ được gọi
là "niềm tin". Quan hệ Nga-Trung đã có những thăng trầm trong suốt quá trình lịch sử lâu dài
của họ, nhưng không có bất kỳ ảnh hưởng nào xuất phát từ ý niệm niềm tin và ngờ vực.Giống
như nhiều quốc gia khác, Trung Quốc và Nga không cần tin lẫn nhau để hình thành nên một
liên minh phục vụ cho các mục đích nhất định và sau đó giải thể một khi tình hình quốc tế thay
đổi.Ngay cả khi chúng ta chấp nhận giả định “lòng tin” là quan trọng trong việc hình thành liên
minh, thì không có lý do gì để nhận định lòng tin đang là vấn đề trong mối quan hệ Trung-Nga.
Hai bên đã bắt đầu tương tác với nhau trước khi Hoa Kỳ trỗi dậy trên bản đồ thế giới, và có
một ý nghĩa địa chính trị nhất định khi cả hai nước giúp đỡ quốc gia láng giềng khổng lồ của
mình. Gần đây, theo như nhiều học giả ghi nhận, Putin và Tập Cận Bình trông như bạn bè, và
TLD-12
14
mức độ tin cậy giữa họ cao hơn hẳn so với thế hệ lãnh đạo trước đây của hai nước. Theo
Alexander Gabuev: “Ông Putin tin tưởng Ông Tập nhiều hơn so với bất kỳ nhà lãnh đạo Trung
Quốc nào trước đó và bất kỳ nhà lãnh đạo hiện tại nào của phương Tây," và "sự chân thành mà
ông Putin cảm nhận được từ ông Bình đã giúp Kremlin điều chỉnh nhiều chính sách đối với
Trung Quốc vốn đã giậm chân tại chỗ trong suốt hơn một thập kỷ."29 So với các hệ thống chính
trị phân cấp, trong hệ thống chính trị tập quyền như Trung Quốc và Nga, sự tin tưởng cá nhân
giữa các nhà lãnh đạo có thể tạo ra tác động lớn hơn cho chính sách ngoại giao.
Đồng thời, các cuộc điều tra dư luận gần đây ở Nga đã chứng minh, cái nhìn của người
Nga đối với Trung Quốc đã cải thiện đáng kể.Hơn 60% thường dân Nga xem các mối quan hệ
Nga-Trung là thân thiện.30 Hơn nữa, sự thay đổi sang quan điểm tích cực của Nga dành cho
Trung Quốc đã diễn ra từ lâu, trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng Ukraine và sự suy giảm trong
mối quan hệ Nga - phương Tây. Các trung tâm nghiên cứu dư luận đã ghi nhận động thái nhận
thức tích cực trong mối quan hệ Nga-Trung Quốc ít nhất kể từ năm 2006.31 Điều này khẳng
định sự biến mất của khái niệm "mối đe dọa mang tên Trung Quốc" vốn phức tạp trong xã hội
Nga.Ngày nay, đa số công chúng (của Nga) coi Trung Quốc là một nhà nước thân thiện và tin
rằng một Trung Quốc mạnh hơn không phải là một mối đe dọa cho Nga. Có lý do để tìn rằng
những xu hướng này sẽ tạo điều kiện hợp tác Nga-Trung Quốc phát triển toàn diện.
Kết luận
Mục đích chính của bài phân tích này không phải để chứng minh rằng Trung Quốc và Nga sẽ
sớm hòa nhập và phát triển thành mối quan hệ liên minh. Điều này còn phụ thuộc vào nhiều
yếu tố, mà một trong số đó chính là chính sách của Mỹ đối với cả hai nước. Khi các nhà hoạch
định chính sách Mỹ càng nhận thức rõ ràng về động thái xích lại gần nhau đang diễn ra giữa
Nga-Trung, Hoa Kỳ có khả năng sẽ bắt đầu cố gắng chia rẽ Trung Quốc và Nga, và thật khó
để dự đoán kết quả của các chính sách đó. Thay vào đó, mục đích của phân tích này là phủ định
các quan điểm máy móc và những định kiến về mối quan hệ Nga-Trung, những thứ mà theo
nhiều người quan sát, sẽ có thể trở thành rào cản trong việc hình thành một liên minh. Như đã
chứng minh, cả bốn quan điểm nói trên đều huyễn hoặc và không phù hợp với thực tế. Chúng
là những yếu tố tạo nên một "ma trận” trái chiều mang tính phổ biến khi nghĩ đến các mối quan
hệ Nga-Trung.
TLD-12
15
Tài liệu trích dẫn
1 “Confronting Both Russia and China ‘Strategic Mistake’ for US – Russian,” Lawmaker
http://en.ria.ru/world/20140421/189291820/Confronting-Both-Russia-and-China-Strategic-
Mistake-for-US-.html
2 ANALYSIS: US Containment Policy Pushes Russia, China Together
http://en.ria.ru/world/20140421/189366921/ANALYSIS-US-Containment-Policy-Pushes-
Russia-China-Together.html
3 Yan Xuetong, “Zhonge zhanlue guanxi zui youshi zhi yiyi,” Zhengdang ganbu cankao,
No. 4, 2013, 31-32.
4 Xuetong Yan, “The Weakening of the Unipolar Configuration,” in Mark Leonard, ed.,
China 3.0 (European Council on Foreign Relations, 2012), 112-118.
5 See the interview with John Mearsheimer by Nikkei Asian Review “US, China heading
toward face-off,” http://asia.nikkei.com/magazine/20150326-Singapore-after-
Lee/Viewpoints/US-China-heading-toward-face-off-says-Mearsheimer
6 Joseph Nye, “A New Sino-Russian Alliance?” Project Syndicate, January12, 2015
http://www.project-syndicate.org/commentary/russia-china-alliance-by-joseph-s–nye-2015-
01, accessed 2 April 2015.
7 Ibid.
8 Gilbert Rozman, “The Russian Pivot to Asia,” The Asan Forum, Vol. 2, No. 6
(November-December 2014) http://www.theasanforum.org/the-russian-pivot-to-asia/ accessed
4 April 2015.
9 Marlene Laruelle, “Russia’s National Identity and Foreign Policy toward the Asia-
Pacific,” The Asan Forum, January 24, 2014, 10. Joseph Nye, “A New Sino-Russian Alliance?”
10 Joseph Nye, “A New Sino-Russian Alliance?”
11James D.J. Brown “Ukraine and the Russia-China Axis,” The Diplomat, April 2, 2015,
http://thediplomat.com/2015/04/ukraine-and-the-russia-china-axis/ accessed April 3, 2015.
TLD-12
16
12 Rosstat 2009, http://www.gks.ru/bgd/free/b10_00/IssWWW.exe/Stg/d01/7-0.htm
accessed April 4, 2015.
13 Rosstat 2012, http://connection.ebscohost.com/c/articles/85653155/russian-population-
rises-by-292-400-2012-rosstat, accessed April 5, 2015.
14 “Russian Birth Rate above Regional Average,” Euromonitor International
http://blog.euromonitor.com/2013/02/russian-birth-rate-above-regional-average.html,
accessed April 8, 2014.
15 Rosstat http://www.gks.ru/bgd/free/B13_00/IssWWW.exe/Stg/dk12/8-0.htm
16 Alexander Korolev “The Demographically Uncertain Foreign Policy of Today’s China,”
Russian International Affairs Council, March 7, 2013.
http://russiancouncil.ru/en/inner/?id_4=1505#4, accessed April 5, 2015.
17 World Bank
18 H.K.M, Terrell, Fertility in China in 2000: A County Level Analysis. (Unpublished
Master of Science dissertation, Texas A&M University, 2005).p. 52.
19 Vladimir Portyakov, “The Russian vector in global Chinese migration,” Far Eastern
Affairs, 2006. No 1, 47-64.
20 Vitali Kurennoi, “Threat from the East or Mechanism for Delivering Goods?”
Politicheskii zhurnal, No. 27 (August 15, 2004), pp. 70-73.
21 Russia’s current immigration laws and their enforcement are very strict, and there are
simply no channels through which the Chinese could sneak into Russia in large numbers and
“quietly occupy” Russian territories.
22 Jeffrey Mankoff, “US Perspective,” The Asan Forum, July 25, 2014,
http://www.theasanforum.org/us-perspective-3/ accessed April 5, 2015.
23 Gilbert Rozman, “The Russian Pivot to Asia.”
24 James D.J. Brown, “Ukraine and the Russia-China Axis.”
25 Jeffrey Mankoff, “US Perspective.”
26 Valerie Niquet, “French Perspective,” The Asan Forum,July 25, 2014,
http://www.theasanforum.org/french-perspective/ accessed April 6, 2015.
TLD-12
17
27 Sergey Radchenko, “Multilateralism in Northeast Asia – 3,” The Asan Forum,
http://www.theasanforum.org/multilateralism-in-northeast-asia-3/ accessed April 6, 2014
28 Zhang Ruizhuang, American Foreign Policy Motives: National Interest vs. Ideology,
Unpublished PhD dissertation, University of California, Berkeley, 1997.
29 Alexander Gabuev, “Russia’s Policy towards China: Key Players and the Decision-
making Process,” The Asan Forum, March 5, 2015, http://www.theasanforum.org/russias-
policy-towards-china-key-players-and-the-decision-making-process/, accessed April 6, 2015.
30 Levada-Center, population survey “Vneshnepoliticheskie vragi i dryz’ia Rossii,”
September 26-29, 2014, http://www.levada.ru/21-10-2014/vneshnepoliticheskie-vragi-i-
partnery-rossii, accessed December 12, 2014.
31 FOM survey “Otnosheniia mezhdu Rossiei i Kitaem,” April 5-6, 2014,
http://fom.ru/Mir/11460#, accessed December 14, 2014.
GIỚI THIỆU DỰ ÁN BIÊN DỊCH TÀI LIỆU HỌC THUẬT
VỀ KINH TẾ VÀ CHIẾN LƯỢC TRUNG QUỐC
Mọi ý kiến đóng góp và trao đổi xin vui lòng gửi tới:
Ms.Nguyễn Thị Thanh Tú Email: [email protected]
Hotline: 0906 069 196
Mục đích
Dự án Biên dịch tài liệu học thuật về Kinh tế và Chiến lược Trung Quốc là một dự án phi
chính trị, phi thương mại và phi lợi nhuận do Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc
thuộc VEPR (VCES) tổ chức thực hiện nhằm mục đích cung cấp, phát triển nguồn học liệu
có giá trị, cập nhật những thông tin kịp thời và có hệ thống, đồng thời cung cấp những nhận
định sâu sắc về chuyên ngành nghiên cứu kinh tế và chiến lược Trung Quốc bằng tiếng Việt,
góp phần thúc đẩy việc học tập, nghiên cứu các vấn đề về Trung Quốc tại Việt Nam.
Hoạt động chính
Hoạt động chính của Dự án Biên dịch tài liệu học thuật về Kinh tế và Chiến lược của
Trung Quốc là biên dịch sang tiếng Việt và xuất bản trên website của mình các tài liệu mang
tính học thuật bằng tiếng Trung, tiếng Anh về các vấn đề của Trung Quốc, trong đó chủ yếu
là về lĩnh vực kinh tế, chiến lược.
Nguồn tài liệu này chủ yếu là các bài báo trên các tập san quốc tế, các chương sách, tài
liệu hội thảo khoa học hoặc các tài liệu tương ứng, đã được xuất bản bởi các nhà xuất bản,
các trường đại học và viện nghiên cứu có uy tín trên thế giới.
Dự án ưu tiên biên dịch và xuất bản:
Các bài viết mang tính nền tảng đối với lĩnh vực Kinh tế và Chiến lược của Trung
Quốc;
Các bài viết có nhiều ảnh hưởng trong lĩnh vực này;
Các bài viết liên quan trực tiếp hoặc có ảnh hưởng, hàm ý gián tiếp đến Việt Nam;
Các bài viết được đông đảo độc giả quan tâm.
~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~
Trang chủ VEPR: www.vepr.org.vn
Thông tin thêm về dự án: Đang cập nhật
Danh mục các bài đã xuất bản: Đang cập nhật
Theo dõi Dự án trên Facebook:
https://www.facebook.com/DuAnBienDichKinhTeChienLuocTQ
NHỮNG TÁC PHẨM DỊCH KHÁC
DC-22 Quyền lực bị kìm hãm: Nguồn gốc những nghi ngờ chiến lược
chung trong quan hệ Hoa Kỳ-Trung Quốc, David M. Lampton, Nguyễn Thu
Thủy dịch, Vũ Minh Long hiệu đính.
DC-21 Hai mươi ngộ nhận về thị trường, Tom G. Palmer, Phạm Nguyên
Trường dịch.
DC-20 Phỏng vấn Esther Duflo: Khi kinh tế học phát triển được thử thách
trên thực địa, Nguyễn Đôn Phước dịch.
DC-19 Kinh tế học và Tri thức, Kreidrich A. von Hayek, Đinh Tuấn Minh dịch.
DC-18 Cuộc khủng hoảng kinh tế là khủng hoảng về lý thuyết kinh tế, Paul
Alan Kirman, Nguyễn Quang A dịch.
NHỮNG TÁC PHẨM DỊCH KHÁC
TLD-08 Đông Nam Á: Dưới cái bóng của Trung Quốc
TLD-09 Mười sáu nỗi sợ hãi: Tâm lý chiến lược của Trung
Quốc
TLD-10 Hợp đồng khí đốt Trung Quốc – Nga: Bối cảnh và ý
nghĩa với việc mở rộng mối quan hệ
TLD-11 Tầm nhìn và hành động Thúc đẩy cùng xây dựng
Vành đai Kinh tế Con đường tơ lụa và Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ XXI
LIÊN HỆ
Chương trình Nghiên cứu Kinh tế Trung Quốc thuộc VEPR (VCES)
Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội
Địa chỉ: Phòng 707, Nhà E4
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy
Hà Nội, Việt Nam
Tel: (84-4) 3 754 7506 -704/714
Fax: (84-4) 3 754 9921
Email: [email protected]
Website: www.vepr.org.vn
Bản quyền © VCES 2015