45
Thảo luận: Tiền tệ ngân hàng Chủ đề Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam Giảng viên: Nguyễn Thành Nam Nhóm: 1. Tạ Thị Kiều Oanh – TCDNA.K11 (nhóm trưởng) 6. Đào Thị Huệ - TCDNA.K11 2. Nguyễn Tuấn Anh – TCDNA.K11 7. Mai Thị Thu Huyền – TCDNA.K11 3. Phạm Tuấn Anh – NHTMB.CĐ26 8. Trần Xuân Tâm – TCDNA.K11 4. Nguyễn Tiến Dũng – TCDNA.K11 9. Nguyễn Thị Thương – TCDNA.K11 1

cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Thảo luận: Tiền tệ ngân hàngChủ đề

Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Giảng viên: Nguyễn Thành Nam

Nhóm:

1. Tạ Thị Kiều Oanh – TCDNA.K11

(nhóm trưởng)6. Đào Thị Huệ - TCDNA.K11

2. Nguyễn Tuấn Anh – TCDNA.K11 7. Mai Thị Thu Huyền – TCDNA.K11

3. Phạm Tuấn Anh – NHTMB.CĐ26 8. Trần Xuân Tâm – TCDNA.K11

4. Nguyễn Tiến Dũng – TCDNA.K11 9. Nguyễn Thị Thương – TCDNA.K11

5. Đỗ Thị Hải – TCDNA.K11 10. Nguyễn Thị Trang – TCDNA.K11

1

Page 2: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Mục lụcLỜI MỞ ĐẦU…………………………………………………………… 4

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN VIỆT NAM…………………………………………. 5

I. Tìm hiểu về lãi suất……………………………………………………………………. 5

1. Khái niệm………………………………………………………………………….. 5

2. Phân loại lãi suất…………………………………………………………………... 5

a. Quan hệ giữa NHTM – Khách hàng…………………………………………... 5

b. Quan hệ giữa NHTM – NHTM……………………………………………….. 5

c. Quan hệ giữa NHTW – NHTM……………………………………………….. 5

3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế…………………………………………….. 6

a. Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư………………………………….. 6

b. Là công cụ điêu tiết nên kinh tế vi mô………………………………………… 6

c. Là công cụ phân phôi vôn và kích thích sư dụng vôn co hiệu qua……………. 7

d. Là công cụ đo lương tinh trang sưc khoe cua nên kinh tế…………………….. 7

e. Là công cụ thưc hiện chính sach tiên tệ quôc gia……………………………... 7

II. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam…………………………………….... 8

1. Khái niệm………………………………………………………………………… 8

2. Mục tiêu của cơ chế điều hành lãi suất…………………………………………... 8

3. Phân loại cơ chế điều hành lãi suất………………………………………………. 8

a. Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa LS)…………………………….. 8

b. Cơ chế điều hành trực tiếp…………………………………………………….. 9

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN VIỆT NAM………………………………………………………... 9

I. Thực trạng cơ chế điều hành LS của NHNN qua các thời kỳ………………………... 10

1. Cơ chế lãi suất thực âm giai đoạn trước 1992……………………………………. 10

2

Page 3: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

2. Cơ chế điều hành khung lãi suất (06/1992 – 1995)……………………………… 11

3. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996 – 07/2000)………………………………… 12

4. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (08/2000 – 05/2002)……………. 13

5. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 5.2008)………………………………….... 14

6. Cơ chế LSCB bằng Đồng Việt Nam (5.2008 – nay)…………………………….. 15

II. Đánh giá về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam qua các thời kỳ………. 20

1. Thành tựu………………………………………………………………………… 20

2. Hạn chế…………………………………………………………………………... 21

CHƯƠNG III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA NHNN VIỆT NAM………………………..…………………………... 23

1. Cụ thể những việc cần làm trước mắt của NHNN trong giai đoạn hiện nay ...……… 24

2. Đề xuất những giải pháp lâu dài những giải pháp lâu dài……………………………. 25

a. Củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng……………. 25

b. Phát huy vai trò của các công cụ gián tiếp…………………………………… 26

c. Phát triển thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán…………... 27

d. Nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản lý và năng lực kiểm soát rủi ro của các TCTD …………..…………………………………………………………... 28

e. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý……………………………………… 29

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………….. 30

3

Page 4: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Lời mở đầuĐối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, lãi suất là một công cụ quan trọng trong

điều hành và quản lý kinh tế vĩ mô. Lãi suất ảnh hưởng tới quan hệ cung- cầu về vốn, đến việc phân bổ các nguồn tài chính của nền kinh tế, tác động đến thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến tỷ giá, lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Lãi suất cũng là cơ sở để các cá nhân, doanh nghiệp quyết định sử dụng vốn như thế nào, chi tiêu hay tiết kiệm, đầu tư vào cái này hay cái khác.

Ở Việt Nam, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, lãi suất chưa được sử dụng một cách đầy đủ như đòn bẩy kinh tế, nhằm kích thích kinh tế phát triển. Từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, lãi suất đã phần nào phát huy vai trò của mình. Tuy nhiên, để có một chính sách lãi suất phù hợp với nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong thời gian tới, làm “hạt nhân” thúc đẩy thị trường tài chính phát triển còn là vấn đề đáng được quan tâm, nghiên cứu. NHNN đã đưa ra các cơ chế lãi suất ở từng thời kỳ khác nhau nhằm mục tiêu ổn định nền kinh tế. Vậy thì, câu hỏi được đặt ra ở đây là: Cơ chế lãi suất nào là phù hợp với tình hình kinh tế của Việt Nam hiện nay?

Bài thảo luận của chúng tôi tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng của các cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam qua các giai đoạn với những tác động tích cực và hạn chế. Việc nghiên cứu cũng nhằm đề xuất các giải pháp trước mắt cũng như lâu dài nhằm làm cho cơ chế điều hành lãi suất của NHNN hoạt động có hiệu quả.

Bài thảo luận gồm 3 chương:

Chương I: Lý luận chung về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Chương II: Thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Chương III: Giải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

4

Page 5: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Chương I: Lý luận chung về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

I. Tìm hiểu về lãi suất

1. Khái niệm

Lãi suất phản ánh mối quan hệ giữa chủ thể sử dụng vốn (người vay vốn) với chủ thể sở hữu vốn (người cho vay) theo nguyên tắc hoàn trả có kỳ hạn kèm theo lãi ở thị trường vốn ở một thời điểm nhất định. Nói cách khác, lãi suất là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong một thời gian nhất định mà người sử dụng trả cho người sở hữu nó hay lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền tăng thêm mà người đi vay phải trả cho người cho vay so với phần giá trị vay ban đầu.

Tư duy kinh tế hiện đại có nhiều cách định nghĩa về lãi suất. Đồng thời cũng có rất nhiều khái niệm được đưa ra để giải thích về vấn đề này. Nhưng nhìn chung, điều không thể tránh là lãi suất luôn hàm chứa một mâu thuẫn: người đi vay muốn có lãi suất thấp nhất trong khi người cho vay muốn lãi suất cao nhất. Vì vậy, như mọi loại hàng hoá khác, lãi suất chủ yếu được xác định bởi cung-cầu về vốn.

2. Phân loại lãi suất

a. Quan hệ giữa NHTM – Khách hàng:

Lãi suất tiền gửi

Lãi suất cho vay

b. Quan hệ giữa NHTM – NHTM:

Lãi suất liên ngân hàng

Lãi suất tiền gửi giữa các ngân hàng

c. Quan hệ giữa NHTW – NHTM:

Lãi suất tiền gửi

Lãi suất cho vay: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cầm cố thế chấp hay lãi suất tái cấp vốn và lãi suất cho vay qua đêm

Trong bài thảo luận này chúng ta sẽ tìm hiểu kỹ hơn về cách phân loại lãi suất theo quan hệ giữa NHTW – NHTM.

Lãi suất tiền gửi: Là LS áp dụng để tính lãi cho NHTM khi NHTM gửi tiền tại NHTW. Gồm có LS tiền gửi DTBB và lãi suất tiền gửi thanh toán. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau tùy thuộc vào thời hạn gửi và quy mô tiền gửi. Sự biến động ở mức độ lớn của lãi suất tiền gửi không chỉ ảnh hưởng tới quy mô nguồn vốn của các ngân

5

Page 6: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

hàng mà còn ảnh hưởng tới lượng cung, cầu tiền và qua đó ảnh hưởng tới lạm phát. Chính vì vậy, việc áp dụng chính sách tăng mạnh lãi suất tiền gửi có hiệu quả cao trong kiềm chế, đẩy lùi lạm phát.

Lãi suất cho vay: là lãi suất ngân hàng trung ương áp dụng khi cho các tổ chức tín dụng vay đáp ứng các nhu cầu tạm thời về vốn theo các điều kiện do ngân hàng trung ương qui định. Lãi suất cho vay do NHTW ấn định căn cứ vào mục tiêu của CSTT trong từng thời kỳ và chiều hướng biến động lãi suất trên thị trường tiền tệ. Đây là 1 trong những kênh phát hành tiền của NHTW. Sự thay đổi lãi suất cho vay tác động đến khả năng cung ứng tiền của hệ thống NHTM và quy mô cho vay, lãi suất cho vay của NHTM đối với nền kinh tế. Vì vậy, NHTW có thể thực hiện mục tiêu nới lỏng hoặc thắt chặt cung ứng tiền thông qua công cụ lãi suất cho vay. Lãi suất cho vay bao gồm:

Lãi suất tái chiết khấu: áp dụng khi NHTW tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức chiết khấu lại các thương phiếu hay các giấy tờ có giá ngắn hạn chưa đến hạn thanh toán cho các ngân hàng . Nó được tính bằng tỉ lệ % trên mệnh giá của giấy tờ có giá và cũng được khấu trừ ngay khi NHTW cấp vốn tiền vay cho NHTM.

Lãi suất tái cấp vốn (lãi suất cầm cố, thế chấp): áp dụng khi NHTW tái cấp vốn cho các ngân hàng dưới hình thức cho vay cầm cố hoặc thế chấp giấy tờ có giá.

Lãi suất cho vay qua đêm: là lãi suất vay nóng giữa các NHTM với nhau hoặc NHTM với NHTW trong thanh toán điện tử liên ngân hàng nhằm đáp ứng tỷ lệ dự trữ bắt buộc hoặc bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của NHTW đối với các ngân hàng với thời hạn 24h.

3. Vai trò của lãi suất trong nền kinh tế

Trước đây, trong nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp thì vai trò của lãi suất hết sức mờ nhạt và lệ thuộc nhiều yếu tố. Nhiều khi được hiểu như là một sự phân phối cuối cùng của sản phẩm giữa người đi vay và người cho vay. Ngày nay, khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, lãi suất đã giữ một vai trò hết sức quan trọng, tác động đến tất cả lĩnh vực của nền kinh tế. Lãi suất là biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế thị trường. Căn cứ vào sự biến động của lãi suất, người ta có thể dự báo các yếu tố khác của nền kinh tế như: tính sinh lời của các cơ hội đầu tư, mức lạm phát dự tính, mức thiếu hụt ngân sách Nhà nước. Người ta cũng có thể dựa vào mức lãi suất trong một thời kỳ để dự báo tình hình kinh tế trong tương lai.

Vậy vai trò chủ yếu của lãi suất tín dụng trong nền kinh tế được thể hiện như thế nào?

a. Là công cụ để khuyến khích tiết kiệm đầu tư:

Là công cụ kích thích lợi ích vật chất để thu hút các khoản tiền tiết kiệm của các chủ thể kinh tế : lãi suất cao kích thích người ta hi sinh tiêu dùng hiện tại, tiết kiệm nhiều hơn để có khoản tiêu dùng cao hơn trong tương lai và ngược lại.

b. Là công cụ điều tiết nền kinh tế vi mô:

Đối với nhà đầu tư, khi mà lãi suất gia tăng, chi phí bỏ ra cũng sẽ tăng theo, do đó là lợi nhuận trên một đồng vốn sẽ giảm đi, nhà đầu tư sẽ không muốn đầu tư nữa, và ngược lại.

6

Page 7: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Đối với người tiêu dùng, khi mà lãi suất gia tăng, số tiền mà họ bỏ ra để có được hàng hoá sẽ tăng lên, vì vậy họ sẽ chờ đợi chứ không mua ngay, tiêu dùng sẽ giảm và ngược lại.

Vì sự biến động lãi suất có tác động đến đầu tư, đến tiêu dùng nên nó có tác động gián tiếp đến các mục tiêu của nền kinh tế vĩ mô, biểu hiện trong các trường hợp:

+ lãi suất thấp ═> khuyến khích đầu tư, khuyến khích tiêu dùng ═> tăng tổng cầu ═> sản lượng tăng, giá cả tăng, thất nghiệp giảm, nội tệ có xu hướng giảm giá so với ngoại tệ.

+ lãi suất cao ═> hạn chế đầu tư, hạn chế tiêu dùng ═> giảm tổng cầu ═> sản lượng giảm, giá cả giảm, thất nghiệp tăng, nội tệ có xu hướng tăng giá so với ngoại tệ.

Như vậy bằng cách giảm lãi suất, NHNN có thể tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế phát triển. Tương tự, NHNN có thể tăng lãi suất khi muốn thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, giảm bớt lượng khối lượng tiền cần thiết cho việc mở rộng hoạt  động sản xuất kinh doanh và chi tiêu của người tiêu dùng.   

c. Là công cụ phân phối vốn và kích thích sử dụng vốn co hiệu qua:

Khi Nhà nước muốn khuyến khích phát triển một ngành nghề quan trọng nào đó trong nền kinh tế, Nhà nước có thể thực hiện bằng cách ưu đãi về lãi suất cho vay (như giảm lãi suất cho vay ...), và ngược lại khi muốn hạn chế sự phát triển của các ngành chưa cần thiết để dành nguồn lực cho các ngành khác thì Nhà nước có thể tăng lãi suất cho vay của ngành đó. Như vậy, những ngành được hỗ trợ sẽ phát triển hơn còn các ngành bị hạn chế sẽ ít phát triển hơn. Do đó chính sách lãi suất là một công cụ để phân phối cơ cấu của nền kinh tế nhằm sử dụng hiệu quả nhất các nguồn lực.

d. Là công cụ đo lương tinh trang sưc khoe cua nền kinh tế:

Nhìn vào đường cong lãi suất, có thể thấy được xu hướng biến động của lãi suất và tình trạng sức khoẻ của nền kinh tế. Lãi suất lại là một biến số thường xuyên biến động trong nền kinh tế. Căn cứ vào sự biên động của lãi suất người ta có thể dự báo được các yếu tố khác của nền kinh tế như tính sinh lời của các dự án đầu tư, mức độ lạm phát, mức độ thiếu hụt ngân sách và qua đó còn có thể dự báo được tình hình nền kinh tế trong tương lai . 

e. Là công cụ thưc hiện chính sách tiền tệ quốc gia:

Trong quá trình hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước nới lỏng các rào cản mang tính hành chính để trả về cho nền kinh tế vận hành theo đúng quy luật vốn có của nó. Và một trong những lĩnh vực thể hiện ro cơ chế này là chính sách điều hành lãi suất của NHNN. Khả năng điều tiết nền kinh tế vĩ mô của lãi suất làm cho nó trở thành công cụ quan trọng để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.

NHTW sử dụng loại công cụ này dưới các hình thức ấn định trực tiếp lãi suất kinh doanh cho các ngân hàng hoặc quy định khung lãi suất tiền gửi – lãi suất tiền vay hoặc trần lãi suất tiền vay qua đó khống chế lãi suất cho vay của các ngân hàng theo hướng thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ. Trong điều kiện thị trường tài chính phát triển, NHTW sử dụng công cụ lãi suất gián tiếp chăng hạn như lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay cầm cố để tác động tới lãi suất thị trường. Lãi suất thị trường thay đổi sẽ tác động tới các biến

7

Page 8: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

số kinh tế vĩ mô. Ngày nay theo xu hướng tự do hóa tài chính, cơ chế điều tiết nền kinh tế bằng công cụ lãi suất ngày càng trở nên phổ biến trên thế giới.

II. Cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

1. Khái niệm

Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ trương, chính sách và giải pháp cụ thể của NHTW, nhằm kiểm soát và điều tiết lãi suất trên thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định. Cơ chế điều hành lãi suất luôn gắn chặt không tách rời với cơ chế lãi suất từng thời kỳ

2. Mục tiêu của cơ chế điều hành lãi suất

Hơn các công cụ quản lý kinh tế vĩ mô khác, cơ chế lãi suất mà theo đó cơ cấu lãi suất định hình và tác động tới môi trường hoạt động và phát triển của hệ thống tài chính mỗi quốc gia với 3 mục tiêu chính:

Một là, khuyến khích việc tiết kiệm và sự phát triển của các trung gian tài chính, phát triển chiều sâu thị trường tài chính.

Hai là, hướng các nguồn lực tài chính vào các lĩnh vực hoạt động có tỷ suất lợi tức cao nhất tức các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao nhất.

Ba là, mang lại mức chênh lệch đủ để các định chế tài chính trang trải các chi phí hoạt động, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.

3. Phân loại cơ chế điều hành lãi suất

a. Cơ chế điều hành gián tiếp (cơ chế tự do hóa LS)

NHTW thực hiện quản lý gián tiếp lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế thông qua cơ chế tái cấp vốn (chiết khấu, tái chiết khấu, cho vay cầm cố chứng từ có giá…) đối với các tổ chức tín dụng.

Cơ chế này được thực hiện theo 2 nguyên tắc: NHTW chỉ công bố các mức lãi suất áp dụng đối với các khoản cho vay tái chiết khấu hoặc cho vay cầm cố các chứng từ có giá của mình đối với các tổ chức tín dụng. Các mức lãi suất tiền gửi và cho vay cụ thể theo từng kỳ hạn, từng đối tượng của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế sẽ do tổ chức tín dụng tự ấn định, dựa trên cơ sở cung-cầu về vốn và sự cạnh tranh trên thị trường, từ đó mà hình thành nên các mức lãi suất phản ánh đúng yêu cầu của thị trường.

Cơ chế điều hành lãi suất này được áp dụng phổ biến đối với các nền kinh tế có hệ thống tài chính phát triển. Cơ chế này cũng trở nên linh hoạt hơn khi bên cạnh các loại lãi suất trên, NHTW chấp nhận lãi suất do thị trường hình thành và tác động vào lãi suất này để duy trì ở mức mong.Vai trò điều hành lãi suất của NHTW chỉ mang tính định hướng cho thị trường tiền tệ theo mục tiêu của CSTT từng giai đoạn. Đối với các quốc gia có nền kinh tế chưa phát triển thì cơ chế này là một khó khăn.

Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất gián tiếp là không có sự can thiệp trực tiếp của NHTW vào lãi suất thị trường tiền tệ, lãi suất trên thị trường được hình thành và vận

8

Page 9: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

động linh hoạt hoàn toàn phụ thuộc vào cung - cầu về vốn, mà không mang tính chủ quan, áp đặt của Nhà nước. Vai trò điều hành lãi suất của NHTW chỉ mang tính định hướng cho thị trường tiền tệ theo mục tiêu của chính sách tiền tệ từng giai đoạn.

b. Cơ chế điều hành trực tiếp

NHTW quản lý thống nhất lãi suất đối với nền kinh tế, thông qua các hình thức quản lý lãi suất của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế quy định mức lãi suất cho vay tối đa hoặc tiền gửi tối thiểu của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế. Trong phạm vi lãi suất được phép, các tổ chức tín dụng được quyền ấn định mức lãi suất kinh doanh phù hợp. Khi có các thay đổi về kinh tế vĩ mô, NHTW có thể xem xét để điều chỉnh giới hạn lãi suất tối đa ở mức hợp lý. Theo cách thức điều hành lãi suất, cơ chế điều hành trực tiếp gồm:

Cơ chế ấn định lãi suất: Nhà nước quản lý trực tiếp lãi suất bằng cách công bố tất cả các loại lãi suất. Các ngân hàng và các tổ chức tín dụng đều phải thực hiện một cách tuyệt đối (cơ chế này đã tồn tại ở VN trong thời kỳ nền kinh tế kế hoạch tập trung).

Cơ chế khống chế lãi suất: Nhà nước không ấn định các mức lãi suất, mà chỉ quy định các mức lãi suất tối đa (lãi suất trần) và mức lãi suất tối thiểu (lãi suất sàn) tạo thành khung giới hạn để trong đó các ngân hàng, các tổ chức tín dụng xác định lãi suất kinh doanh. Phương pháp này không hoàn toàn cứng nhắc như cơ chế ấn định lãi suất, nhưng vẫn giữ được vai trò điều hành lãi suất của nhà nước.

Ở nước ta từ 1992 đến đầu 1996 đã áp dụng phương pháp này. Cụ thể là NHNN quy định lãi suất tối đa và lãi suất tối thiểu nhưng đến đầu năm 1996 NHNN chỉ quy định lãi suất tối đa, không quy định lãi suất tối thiểu, đồng thời quy định mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay bình quân và lãi suất tiền gửi bình quân là 0,35%/tháng. Sau đó đến đầu năm 1998 NHNN bãi bỏ quy định chênh lệch này và chỉ quy định lãi suất tối đa cho đến nay.

Ưu điểm của cơ chế điều hành lãi suất trực tiếp là NHTW quản lý thống nhất lãi suất đối với nền kinh tế, vì vậy cơ chế lãi suất này chỉ thích hợp và được áp dụng phổ biến ở các nước có hệ thống tài chính chưa phát triển. Trong các nền kinh tế phát triển, lãi suất ngày càng được tự do hoá, xu hướng chung là ngày càng giảm dần sự quản lý lãi suất mang tính trực tiếp này.

Chương II: Thực trạng của cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam

Ngày 6 tháng 5 năm 1951, chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam với các nhiệm vụ: phát hành giấy bạc, quản lý kho bạc, thực hiện chính sách tín dụng để phát triển sản xuất, phối hợp với mậu dịch để quản lý tiền tệ và đấu tranh tiền tệ với thực dân Pháp.

9

Page 10: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Điều hành LS là cách thức được NHNN sử dụng chủ yếu để thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động ngân hàng bên cạnh việc kiểm soát cung tiền, các biện pháp hành chính,…

I. Thực trạng cơ chế điều hành LS của NHNN qua các thời kỳ

1. Cơ chế lãi suất thực âm giai đoạn trước 1992

Trước 1992, hệ thống ngân hàng Việt Nam là hệ thống một cấp, nền kinh tế được quản lý theo phương thức kế hoạch hóa tập trung, bao cấp, vì vậy lãi suất được đặc trưng bởi các đặc điểm sau:

- Lãi suất thực âm và cố định, được quy định một cách cứng nhắc bởi Nhà nước nhằm phục vụ cho các mục tiêu phát triển của doanh nghiệp quốc doanh, phản ánh cơ chế bao cấp qua tín dụng. Thời kỳ này các doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, vay ngân hàng không trả được nợ và cuối cùng các ngân hàng phải xoá nợ.

- Lãi suất cho vay ngân hàng nhỏ hơn lãi suất tiền gửi.

- Lãi suất cho vay dài hạn nhỏ hơn lãi suất cho vay ngắn hạn.

Như vậy, lãi suất thời kỳ này hoàn toàn thoát ly khỏi thị trường, không phát huy được vai trò của mình trong nền kinh tế. Và khủng hoảng là 1 tất yếu khi mà cơ chế lãi suất này không còn phù hợp trong thời bình. Mức siêu lạm phát 700% năm 1986 là 1 minh chứng cho sự suy sụp trầm trọng của nền kinh tế nước ta.

Trước tình hình đó, ngày 26/3/1988, cùng với công cuộc cải tổ toàn nền kinh tế, Chính phủ ra quyết định chuyển đổi thành hệ thống ngân hàng hai cấp, nhờ đó các ngân hàng được kinh doanh độc lập, thực hiện hạch toán kinh tế. Vì vậy lãi suất đã bước đầu được điều chỉnh.

Bảng 1: Các lần điều chỉnh lãi suất tín dụng 1989 – 1990

Đơn vị: %/tháng

Thời điểm Lãi suất huy động vốn Lãi suất cho vay bình

quânThời gian của tổ chức kinh tế

Thời gian của dân cư

3 tháng Không kỳ hạn

3 tháng Không kỳ hạn

1/3/1989 2,5 1,8 12,0 9,0 3,37

1/4/1989 5,8 4,0 12,0 9,0 3,37

1/6/1989 4,0 2,7 9,0 7,0 5,0

10

Page 11: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

1/7/1989 3,0 1,8 7,0 5,0 3,8

10/2/1990 2,4 1,2 6,0 4,0 3,0

20/3/1990 1,8 0,9 4,0 2,4 2,4

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước

Lãi suất dần được điều chỉnh phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội và chặn đứng được siêu lạm phát vào năm 1989 với mức lạm phát 35%. Tuy nhiên, lãi suất thực thời kỳ này vẫn âm, thể hiện sự bao cấp về vốn của Nhà nước đối với nền kinh tế. NHNN quy định chi tiết từng mức lãi suất tiền gửi, và lãi suất cho vay với từng loại hình doanh nghiệp, từng ngành nghề và theo từng thành phần kinh tế.

Đến năm 1991, cơ chế thực thi lãi suất cố định đã bộc lộ ro nét những hạn chế của nó, làm tăng tính ỷ lại của các doanh nghiệp Nhà nước, không khuyến khích họ làm ăn có hiệu quả, lỗ thì có Nhà nước chịu. Các ngân hàng không có cơ hội quyết định hoạt động kinh doanh của mình, hoàn toàn phụ thuộc vào Nhà nước. Chính sách này đã không còn phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, yêu cầu một chính sách lãi suất mềm dẻo, linh hoạt hơn.

2. Cơ chế điều hành khung lãi suất (06/1992 – 1995)

Đặc trưng của cơ chế này là NHNN điều hành cơ chế lãi suất theo khung lãi suất, quy định ro sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay đối với nền kinh tế. Các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng căn cứ khung lãi suất của ngân hàng thương mại để đưa ra các lãi suất thích hợp cho mình. Thời kỳ này, lãi suất cho vay bình quân > lãi suất tiền gửi bình quân > tỷ lệ lạm phát. Đồng thời không có sự phân biệt giữa các thành phần kinh tế, mọi doanh nghiệp đều bình đăng, do vậy một phần hạn chế được sự trì trệ của nền kinh tế, đặc điểm của khu vực kinh tế Nhà nước.

Thực chất chính là bước chuyển đổi căn bản từ cơ chế lãi suất âm sang cơ chế lãi suất dương, đảm bảo cho các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng kinh doanh có hiệu quả, đây là cơ chế lãi suất khởi đầu cho quá trình tự do hóa lãi suất ở nước ta. 

Bảng 2: Diễn biến lãi suất bình quân các năm 1986 – 1995

Đơn vị tính: %/tháng

Lãi suất/năm 86-90 91 92 93 94 95

Cho vay BQ 4,3 2,5 2,5 1,8 1,6 1,7

11

Page 12: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Tiền gửi BQ 6,0 2,9 1,9 1,4 1,3 1,4

Chênh lệch -1,7 -0,4 +0,6 +0,4 +0,3 +0,3

Nguồn: Quỹ tiên tệ quôc tế

Tuy nhiên, việc khống chế chặt chẽ mức trần lãi suất cho vay ở mức thấp đã khuyến khích việc vay mượn trên thị trường tự do cũng như những tiêu cực trong cơ chế cho vay của ngân hàng. Lãi suất tiền gửi liên tục tăng, lãi suất cho vay bị khống chế trần khiến cho lợi nhuận của ngân hàng giảm, khả năng tài chính yếu đi trong khi nền kinh tế đang trên đà tăng trưởng với những nhu cầu về vốn rất lớn. Có thể thấy, cơ chế này không còn phù hợp.

3. Cơ chế điều hành lãi suất trần (1996 – 07/2000)

NHNN đã thay đổi căn bản cơ chế điều hành linh hoạt trần lãi suất, bước đầu thực hiện tự do hóa lãi suất huy động và linh hoạt trần lãi suất cho vay. Mức lãi suất tái cấp vốn được quy định cụ thể và điều chỉnh phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu - vốn trên thị trường.

Năm 1996-1997, NHNN khống chế về mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi là 0,35%/ tháng. Quy định này đã gây mất công bằng giữa các tổ chức tín dụng, bởi vì mỗi tổ chức có đặc thù riêng về chi phí huy động vốn. Vì vậy, đến năm 1998, quy định này bị bãi bỏ. Đầu năm 1998, theo quyết định 39/1998/QĐ-NHNN, của Thống đốc NHNN, trần lãi suất cho vay đã tăng thêm 1%/tháng lên 1,2%/ tháng, cho vay trung và dài hạn tăng từ 1,10%/tháng lên 1, 25%/tháng. Việc điều hành nâng trần lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với nền kinh tế là cơ sở để các tổ chức tín dụng tăng lãi suất huy động vốn tương ứng, tạo điều kiện huy động vốn đủ đáp ứng các nhu cầu cho vay, phát triển kinh tế xã hội.

Sang năm 1999, nền kinh tế có dấu hiệu thiểu phát, nhằm kích cầu NHNN liên tục điều chỉnh giảm trần lãi suất, lãi suất cuối năm giảm 0,35%-0,4% so với đầu năm và ở mức thấp so với những năm trước:

+ Cho vay khu vực thành thị : 0,85% /tháng

+ Cho vay khu vực nông thôn : 1%/tháng

11/1999, nghiệp vụ chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá được bổ sung vào các công cụ điều hành lãi suất. Đến 7/2000, NHNN đưa vào sử dụng nghiệp vụ thị trường mở với lãi suất được hình thành qua các phiên giao dịch theo quan hệ cung – cầu.

Cơ chế lãi suất này đã góp phần duy trì sự tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định sức mua của VND trong sự tương quan của các đồng tiền trong khu vực do có khủng hoảng tiền tệ năm 1997-1998 ở các nước Đông Nam Á.  Song cơ chế này vẫn có những hạn chế nhất định.

- Chênh lệch lãi suất cho vay và lãi suất huy động vốn thời kỳ này rất nhỏ, thậm chí lãi suất cho vay thời kỳ hiện tại thấp hơn lãi suất huy động vốn của thời kỳ trước đó đang còn số dư có. Khi NHNN quyết định không giảm lãi suất đối với các khoản cho vay trước

12

Page 13: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

đây, người vay lập tức đến vay ở một ngân hàng khác có lãi suất thấp hơn để trả nợ cũ với lãi suất cao. Kết cục rủi ro lãi suất luôn đặt gánh nặng lên vai các NHTM.

- Một hạn chế nữa của chính sách lãi suất thời kỳ này là các NHTM quốc doanh vẫn phải bao cấp về tài chính. Trong việc cho vay các đối tượng chính sách lãi suất thấp như cho vay giảm 15% và 30% lãi suất đối với khu vực 3 và khu vực 4, cho vay khắc phục hậu quả thiên tai theo chỉ định của chính phủ với lãi suất 0,5 /tháng đối với cho vay ngắn hạn, 0,6%/tháng đối với trung và dài hạn. Trong khi đó, lãi suất huy động bình quân của các NHTM còn cao hơn lãi suất cho vay, có nghiã là NHTM quốc doanh cho vay lỗ hoặc không có thu nhập, rủi ro tín dụng không nguồn bù đắp. Các ngân hàng không còn hăng hái để cho vay.

- Hơn nữa, diễn biến lãi suất trong giai đoạn này ít có tác dụng đến việc tăng cường huy động vốn trung và dài hạn thì lãi suất cao trong khi NHNN liên tục giảm lãi suất. Mặt khác, do tồn tại trong một thời gian dài trước đây, lãi suất cho vay trung và dài hạn thấp hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Trong khi đó nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước lại cần rất nhiều vốn đầu tư trung và dài hạn. Nhiều ngân hàng đã huy động vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, rủi ro thanh toán rất cao khi có dòng tiền rút ra.

Như vậy, chính sách lãi suất thời kỳ này đã có những tác dụng tích cực, song những hạn chế của nó đòi hỏi phải có 1 cơ chế điều hành phát huy được chức năng vốn có của lãi suất hơn nữa.

4. Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản kèm biên độ (08/2000 – 05/2002)

Đây là giai đoạn sử dụng LSCB – “Lãi suất do NHTW công bố làm cơ sở cho các tổ chức ín dụng ấn định lãi suất kinh doanh” cùng với lãi suất tái cấp vốn trong điều hành CSTT. Theo đó NHNN hàng tháng công bố LSCB (căn cứ vào lãi suất cho vay thương mại tốt nhất của 1 nhóm các tổ chức tín dụng chiếm phần lớn thị phần tín dụng) và một biên độ thích hợp làm căn cứ cho việc ấn định lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng, trong trường hợp cần thiết, NHNN sẽ công bố điều chỉnh kịp thời.

Bảng 3: Lãi suất cơ bản từ tháng 8/2000 – 12/2002

Đơn vị tính: %/tháng

Thời điểm Mức lãi suất

8/2000-2/2001

3/2001

4-5/2001

6-9/2001

10/2001-7/2002

8-12/2002

0,750

0,725

0,700

0,650

0,600

0,620

Nguồn: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam

Biên độ trên được quy định hợp lý để đảm bảo cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất một cách linh hoạt phù hợp với điều kiện kinh doanh và mức độ rủi ro cụ thể đồng

13

Page 14: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

thời NHNN kiểm soát được lãi suất cho vay. Biên độ trên không phân biệt đối với lãi suất áp dụng giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các loại hình tổ chức tín dụng (trừ Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) mà chỉ quy định có sự phân biệt giữa lãi suất ngắn hạn và lãi suất trung, dài hạn. Biên độ trên bao gồm cả các khoản phí liên quan đến khoản vay nhằm tránh việc tổ chức tín dụng lợi dụng để thu phí nâng lãi suất cho vay lên quá mức biên độ cho phép.

Đối với lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, về cơ bản các ngân hàng thương mại, các tổ chức tín dụng được ấn định lãi suất cho vay trên cơ sở lãi suất thị trường quốc tế và cung cầu vốn trong nước của từng loại ngoại tệ.

Có thể thấy chính sách lãi suất thời kỳ này đã tiến gần đến các nguyên tắc lãi suất thị trường hơn, NHNNVN đã quyết tâm đổi mới chính sách lãi suất theo hướng tự do hóa và từng bước gắn lãi suất trong nước vào thị trường khu vực và thế giới. 

Việc sử dụng LSCB làm tham chiếu khi cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng chính là bước chuẩn bị cho tự do hóa lãi suất hoàn toàn sau này.

5. Cơ chế lãi suất thỏa thuận (6.2002 – 5.2008)

NHNN đã có những thay đổi mang tính bước ngoặt trong điều hành lãi suất. Theo QĐ 546 của NHNN ban hành ngày 30/5/2002 (có hiệu lực từ ngày 1/6/2002): Các tổ chức tín dụng xác định lãi suất cho vay bằng Đồng Việt Nam trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm đối với khách hàng vay. LSCB do NHNN công bố (trên cơ sở tham khảo mức lãi suất cho vay thương mại đối với khách hàng tốt nhất của nhóm các tổ chức tín dụng được lựa chọn theo Quyết định của Thống đốc NHNN) trong từng thời kỳ để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.

Sang đầu năm 2003, cơ chế điều hành lãi suất tiếp tục được điều chỉnh, theo đó lãi suất tái cấp vốn đóng vai trò là lãi suất trần, lãi suất tái chiết khấu là lãi suất sàn trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng, lãi suất thị trường mở là công cụ điều hành thường xuyên của NHNN. Lãi suất cho vay qua đêm được áp dụng trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và thanh toán bù trừ, lãi suất tiền gửi của các tổ chức tín dụng tại NHNN đóng vai trò làm phương tiện thường xuyên điều tiết lãi suất liên ngân hàng.

LSCV qua đêm của NHNN

LSTCV

LS liên NH

LSTCK

LSTG tại NHNN

Việc thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận đã tạo điều kiện cho các ngân hàng chủ động trong việc huy động và cho vay vốn, lãi suất phản ánh được cung cầu trên thị trường, tạo điều kiện khai thác triệt để sức mạnh của cơ chế thị trường, các nguồn lực

14

Page 15: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

được phân phối và sử dụng có hiệu quả do đó đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế.

Tuy nhiên, thực tế từ khi cơ chế lãi suất thỏa thuận được đưa vào thực hiện lãi suất vẫn còn thiếu tính thị trường. Nguyên nhân là thời kỳ này 4 “đại gia” NHTM quốc doanh (Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam - VCB, Ngân hàng Nhà đồng bằng sông Cửu Long - MHB, Ngân hàng Công thương Việt Nam - ICB và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV) hiện đang chiếm 70% tổng tài sản của toàn bộ hệ thống ngân hàng, trong đó mỗi NHTMQD hiện đang quản lý một khối tài sản tương đương 15 - 20% GDP với các khách hàng chính là các DNNN. Trong khi đó, Chính phủ hạn chế việc tiếp cận thị trường ngân hàng của các Ngân hàng liên doanh và chi nhánh Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam. Do vậy 4 “đại gia” này dễ dàng chi phối lãi suất trên thị trường. Thêm vào đó, quá nhiều ưu đãi về lãi suất của Chỉnh phủ thông qua con đường cho vay chỉ định cũng làm mất đi tính thị trường của lãi suất.

Mặt khác, các tác động tiêu cực của tốc độ tăng trưởng nhanh cũng dần bộc lộ. Lạm phát phi mã (lạm phát ở mức 2 con số) năm 2007 (được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng cuối năm so với cuối năm 2006) là 12,63%, cao nhất trong hơn chục năm trước đó khiến cho các mặt hàng đua nhau tăng giá, đặc biệt một số mặt hàng tăng giá 1 cách chóng mặt (như trong tháng 9/2007 ,tại các chợ đầu mối rau quả, một số  loại như cải ngọt, gừng nội địa, hành củ đỏ, khoai lang, xà lách búp… tăng 200 đồng đến 1.000 đồng/kg. Riêng giá cải thảo tăng 1.100 đồng/kg lên 5.500 đồng/kg). Chính sách thắt chặt tiền tệ được đua ra để đối phó với lạm phát. Theo Quyết định số 187/2008/QĐ-NHNN, NHNN sẽ mở rộng diện các loại tiền gửi phải dự trữ bắt buộc, bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn, thay cho việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống trong thời gian qua. Tiếp đó là quyết định số 346/QĐ-NHNN về việc phát hành tín phiếu Ngân hàng Nhà nước bằng tiền đồng dưới hình thức bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng nhằm thu hút 20.300 tỉ đồng.

Tình trạng khan hiếm tiền đồng trên thị trường tiền tệ xuất hiện và ngày càng trầm trọng trong 6 tháng đầu năm 2008 (do các khoản thanh toán của doanh nghiệp tăng mạnh trong thời gian này; sự thiếu hỗ trợ trong cơ chế tái cấp vốn của và những hoạt động rút tiền khỏi hệ thống liên NH trên thị trường mở của NHNN) khiến cho lãi suất tiền gửi VND liên ngân hàng tăng dữ dội, có thời điểm lên tới 30 - 40%/năm, đẩy các NHTM vào cuộc chạy đua lãi suất huy động như một phản ứng tự nhiên nhằm huy động đủ một lượng vốn lớn trong thời gian ngắn đáp ứng hàng loạt các yêu cầu thắt chặt tiền tệ của NHNN như dự trữ bắt buộc, mua tín phiếu bắt buộc…

Và chỉ sau vài ngày chạy đua, lãi suất huy động của các NHTM (lên đến 15%-16%/năm) đã cao hơn khá nhiều so với lãi suất tái cấp vốn của NHNN (13%/năm) và lãi suất tái chiết khấu (11%/năm) mà NHNN cũng vừa nâng lên, đã tạo ra một làn sóng chuyển tiền từ ngân hàng lãi suất thấp sang ngân hàng lãi suất cao, mà đi kèm với đó là áp lực lạm phát. Lãi suất huy động liên tục tăng dẫn đến lãi suất cho vay cũng tăng theo tỷ lệ thuận khiến hệ thống tài chính – ngân hàng mất an toàn, các doanh nghiệp đều phải cân nhắc lại cơ cấu vốn của mình cũng như các dự định sản xuất.

Cùng với đó là dấu hiệu của những tác động của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ diễn ra vào tháng 8/2007 ngày càng ro nét.

15

Page 16: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Như vậy, hiện thời chưa thể phát huy hiệu quả của cơ chế lãi suất thỏa thuận bởi các yếu tố nền tảng của cơ chế này vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Do đó, đòi hỏi phải có sự điều chỉnh trong cơ chế điều hành cho phù hợp với tình hình hiện tại.

6. Cơ chế LSCB bằng Đồng Việt Nam (5.2008 – nay)

a. Nhằm hạn chế cuộc chạy đua lãi suất huy động của các NHTM, NHNN đã quy định trần lãi suất huy động là 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008.

Đến ngày 17/05/2008, NHNN thông báo những điều chỉnh trong chính sách điều hành lãi suất. Đó chính là Quyết định số 16/2008/QĐ-NHNN về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam. Theo Quyết định này, các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh (lãi suất huy động và lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không vượt quá 150% của lãi suất cơ bản do NHNN công bố áp dụng trong từng thời kỳ; quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN ngày 30 tháng 5 năm 2002 về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng VNĐ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng hết hiệu lực thi hành. Việc huy động vốn bằng VNĐ của các tổ chức tín dụng phù hợp với quy định về cơ chế điều hành lãi suất cơ bản, mức trần lãi suất huy động 12%/năm theo công điện số 02/CĐ-NHNN ngày 26/02/2008 cũng không còn hiệu lực.

Việc áp dụng kịp thời cơ chế điều hành LSCB đã ngăn chặn được nguy cơ xáo trộn thị trường tiền tệ và mất khả năng thanh toán của các NHTM trong những tháng đầu năm 2008, an toàn hệ thống ngân hàng được đảm bảo, củng cố lòng tin của các nhà đầu tư, doanh nghiệp và người dân đối với hệ thống ngân hàng. Khắc phục được tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong huy động vốn giữa các NHTM bằng cách đẩy lãi suất lên cao .

Cùng với diễn biến lạm phát có xu hướng giảm, kinh tế vĩ mô ổn định và hoạt động của các NHTM đảm bảo khả năng thanh toán, làm cho thị trường tiền tệ và lãi suất trong những tháng đầu năm 2009 tương đối ổn định. CPI bình quân năm 2009 chỉ tăng 6,88% so với năm 2008, mức thấp nhất trong 6 năm trở lại đây (CPI bình quân năm 2004 t ăng 7,71%; năm 2005 tăng 8,29%; năm 2006 tăng 7,48%; năm 2007 tăng 8,3%; năm 2008 tăng 22,97%).

Cơ chế truyền dẫn của các biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh của NHTM và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất thị trường liên ngân hàng đã biến động xoay quanh các mức lãi suất chủ đạo của NHNN; lãi suất huy động và cho vay của các NHTM biến động theo cung – cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của các mức lãi suất điều hành của NHNN, đã tác động làm cho thu hẹp hoặc mở rộng tín dụng.

Việc điều hành linh hoạt LSCB, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của NHNN là “thắt chặt” hay “nới lỏng” tiền tệ. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng. Từ tháng 10/2008 đến nửa đầu năm 2009, NHNN chuyển hướng điều hành chính sách tiền tệ từ “thắt chặt” để chống lạm phát sang “nới lỏng” nhằm mục tiêu hàng đầu là ngăn chặn suy giảm kinh tế, điều chỉnh giảm mạnh

16

Page 17: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

lãi suất cơ bản từ 14% – 13% – 11% – 8,5% – 7%/năm. Tính đến cuối tháng 5/2009, tăng trưởng tín dụng tăng 14,01% so với cuối năm 2008.

Ngoài ra, cơ chế điều hành LSCB là phù hợp với quy định của Luật NHNN và Bộ luật Dân sự, mục tiêu của chính sách tiền tệ hiện nay và các năm tới đây là kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức cao và bền vững.

Tuy công cụ LSCB của NHNN đã phát huy hiệu quả trong năm 2008 và 6 tháng đầu năm 2009 ở bối cảnh kinh tế vĩ mô có nhiều biến động, góp phần kiềm chế lạm phát rồi chống suy giảm kinh tế...cơ chế LSCB cũng có những hạn chế nhất định.

Việc khống chế biên độ lãi suất làm cho các TCTD không thể phản ánh kịp thời để phòng tránh rủi ro về lãi suất và thanh khoản khi lãi suất thị trường tiền tệ trong nước và ngoài nước có biến động, chênh lệch lãi suất huy động và cho vay bị thu hep do lãi suất huy động tăng nhưng lãi suất cho vay không thể tăng được nữa.

Thực tế hoạt động ngân hàng thời gian qua cho thấy, do vướng trần lãi suất cơ bản, quan hệ cung cầu vốn và lãi suất đã bị biến dạng nghiêm trọng. Về nguyên tắc kinh doanh, khi cho vay, ngân hàng không thể cho vay với mức lãi suất thấp hơn chi phí và người gửi tiền sẽ không gửi vào ngân hàng nếu các cơ hội đầu tư tương tự có mức sinh

17

Page 18: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

lời tốt hơn. Do vậy, khi phải chịu khống chế bởi trần lãi suất các ngân hàng đã có những phản ứng tiêu cực để có một mức lãi suất huy động cũng như cho vay sao cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng có được mức sinh lợi cao nhất. chăng hạn như việc lách lãi suất trần bằng việc thu phí dịch vụ “bất thành văn” khác từ các doanh nghiệp đi vay để đảm bảo khả năng sinh lời. Những khoản phí phụ trội này khiến cho lãi suất cho vay thực vượt xa 150% LSCB, cộng dồn lại có lúc một số nơi lên đến 18 – 20%, trong khi trần là 12%. Thanh khoản ngân hàng thường xuyên bị căng thăng, lãi suất huy động bị biến tướng và đẩy lên rất cao so với mức khống chế 10,5%/năm bởi nhiều chiêu khuyến mãi phá rào.

Các điều chỉnh lãi suất của NHTW còn chưa linh hoạt , thường chậm hơn so với các diễn biến của nền kinh tế và do đó chưa đạt được hiệu quả như mong muốn . Lấy ví dụ như tình trạng lạm phát diễn ra trong năm 2007 với mục tiêu kiềm chế tốc độ lạm phát thấp hơn tăng trưởng kinh tế , tuy nhiên khi tình trạng lạm phát diễn ra ( lên đến 12.63% ) thì NHNN vẫn duy trì mức lãi suất cơ bản như năm 2006 là 8,25% trong khi mức độ lạm phát năm 2006 chỉ là 6,6% . Tiếp đó vào thời điểm lạm phát được kiểm soát vào khoảng cuối năm 2008 thì lãi suất cơ bản không những không giảm mà còn tiếp tục tăng lên ( lên đến 14% năm ) , điều này đã đẩy nhiều doanh nghiệp vào thế khó khi lãi suất quá cao gây khó khăn cho việc vay vốn trong khi giá sản phẩm đã giảm xuống do tác động của lạm phát đã được đẩy lùi . Mặt khác, nếu NHNN thi hành ngay việc tăng lãi suất cơ bản vào cuối năm 2007 thì lạm phát đã không thể bùng phát mạnh mẽ như vậy và kéo dài sang cả năm 2008 . 

Thêm vào đó, quy định trần lãi suất như nhau cho mọi loại hình kinh tế là điều chưa hợp lý. Nếu áp dụng cùng một mức lãi suất thì khả năng tiếp cận vốn của vay tiêu dùng bị xếp sau thứ tự ưu tiên, làm ảnh hưởng tiêu cực và là nguyên nhân đẩy khách hàng cá nhân ra khỏi hệ thống ngân hàng, họ phải tìm tới thị trường không chính thức với lãi suất cao, nạn cho vay nặng lãi xuất hiện.

Chính sách lãi suất cơ bản chưa khuyến khích được các tổ chức tín dụng cho vay trung và dài hạn . Trên thực tế, cho vay ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng rất lớn trong tổng số nguồn vốn cho vay của các ngân hàng . Do đó các dự án trung và dại hạn thường gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng . 

Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp đối với lãi suất kinh doanh của NHTM,do đó gây ra hạn chế nhất định trong việc thử nghiệm và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị trường của các NHTM.

Cơ chế LSCB phải chăng chỉ là giải pháp tình huống để giữ lãi suất thị trường theo mục tieu của CSTT nhằm đối phó với những biến động kinh tế đầu năm 2008?

b. Hiện nay, với sự phục hồi của các nền kinh tế lớn trên thế giới như Nga, Mỹ, Nhật, chúng ta có thể dự đoán rằng kinh tế thế giới sẽ đi lên trong thời gian tới.

Nền kinh tế VN cũng có những tín hiệu tốt như năm 2009 đạt mức tăng trưởng GDP 5,32% so với các nước trong khu vực là 4-5%, kinh tế tháng 7/2010  tiếp tục thể hiện sự ổn định khá tích cực ở hầu hết các số liệu vĩ mô (CPI tháng 7 chỉ tăng 0.06%, đưa mức tăng luỹ kế 7 tháng lên 4.84%, đây là mức tăng thấp nhất trong vòng 14 tháng qua; Dự báo lãi suất cho vay giảm xuống quanh 12% vào cuối quý 3, khi chính sách tiền tệ

18

Page 19: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

được mở rộng; GDP 7 tháng đầu năm 2010 là 6,16% và ước tính cho cả năm là 6,67% (sourse: tintuc.xalo.vn).

Có thể thấy với hoàn cảnh hiện nay, vai trò của việc áp đặt LSCB như 1 biện pháp hành chính để ổn định thị trường tỏ ra mờ nhạt và không còn phù hợp. LSCB đang dần mất đi ý nghĩa và trở thành “vòng kim cô” đối với lãi suất thị trường. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng cần thiết phải để cung cầu trên thị trường quyết định giá của quyền sử dụng vốn, và chỉ nên xem LSCB là lãi suất định hướng thị trường của NHNN. Liệu đã đến lúc thay đổi cơ chế LSCB bằng 1 cơ chế khác phù hợp hơn?

Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số 01/2009/TT-NHNN (có hiệu lực từ ngày 01/02/2009) hướng dẫn về lãi suất thỏa thuận của các Ngân hàng thương mại đối với cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo doi và thanh tra, giám sát nhằm hạn chế rủi ro.

Ngày 26/2/2010, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước chính thức có văn bản mở lại cơ chế cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với các khoản vay trung và dài hạn theo Thông tư số 07.

Ngày 14/4/2010, NHNN ban hành Thông tư 13 hướng dẫn tổ chức tín dụng cho vay bằng VND đối với khách hàng theo lãi suất thỏa thuận. Với thông tư này, chỉ đạo của Chính phủ về việc mở cơ chế thỏa thuận lãi suất đối với các khoản vay ngắn hạn chính thức được triển khai. Theo nội dung Thông tư, các tổ chức tín dụng thực hiện cho vay bằng VND phải niêm yết công khai lãi suất cho vay ở mức hợp lý, trên cơ sở cung – cầu vốn thị trường, nhu cầu vay vốn và mức độ tín nhiệm của khách hàng vay, tiết kiệm chi phí hoạt động, tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận vốn vay để phát triển sản xuất – kinh doanh, nhất là khu vực nông nghiệp và nông thôn, doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Sự điều chỉnh này đã mang lại những lợi ích cụ thể như sau:

- Thứ nhất, hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, ro ràng và phản ánh đúng tín hiệu của thị trường, chấm dứt tình trạng phí “ngầm” mà Ngân hàng Nhà nước cũng khó kiểm soát.       

- Thứ hai, tạo điều kiện cho các NHTM chủ động xác định mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng; mức độ rủi ro của từng khách hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và một số yếu tố liên quan khác. Sự phân hóa khách hàng sẽ diễn ra ro hơn: Khách hàng có uy tín sẽ được hưỡng lãi suất thấp, còn khách hàng kém uy tín phải chịu lãi suất cao với mức độ khác nhau ro rệt. 

- Thứ ba, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng mạng lưới để huy độngvốn với mức lãi suất phù hợp; đáp ứng đầy đủ và kịp thời nhu cầu vốn của nền kinh tế. Khi các ngân hàng chủ động hơn trong xác định lãi suất và quy mô huy động với thời hạn hợp lý, rủi ro thanh khoản sẽ giảm.

- Thứ tư, chính sách lãi suất thỏa thuận làm tăng sức ép lên việc đổi mới cách thức điều hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trên thị trường tài chính- ngân hàng  Việt Nam. 

19

Page 20: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

- Thêm vào đó, hạn chế đối với các khoản vay trung và dài hạn khi áp dụng cơ chế lãi suất cơ bản được giải quyết. Cụ thể theo báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư Tp.HCM, đến cuối tháng 9/2010, cho vay trung dài hạn có mức tăng trưởng cao hơn cho vay ngắn hạn, dư nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm 44,7% và tăng 30,1%; dư nợ tín dụng ngắn hạn tăng 17,4% so với cùng kỳ.

Đồng thời việc thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuận cũng có những tác động tiêu cực:

Thứ nhất, việc chưa gỡ bỏ trần lãi suất huy động trong khi thực hiện cơ chế lãi suất cho vay thỏa thuận làm xuất hiện những vấn đề phát sinh:  

+ Lãi suất “đầu ra” không có trần (cả ngoại tệ và VNĐ), nhưng “đầu vào” lại có trần (đối với VNĐ), thì lợi ích sẽ nghiêng về các NHTM, chứ không nghiêng về người gửi tiền và cũng không nghiêng về người vay.

+ Người vay tiền mới được “giải cứu” khi được cấp bù lãi suất, nhiều người chưa hết khó khăn, nay vay vốn ngân hàng với lãi suất cao hơn khá nhiều thì sản xuất kinh doanh sẽ khó khăn hơn, tác động không nhỏ tới tăng trưởng kinh tế vừa mới thoát đáy, đang vượt dốc đi lên, đích phục hồi hoàn toàn sẽ còn xa.

+ Nguy cơ tái lạm phát cao đã được nhiều chuyên gia cảnh báo nay đã đến gần, thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện.            

Thứ hai, cạnh tranh giữa các ngân hàng khi không còn kiểm soát lãi suất sẽ dẫn tới tình trạng các ngân hàng nhỏ khó có khả năng cho vay với lãi suất thấp để cạnh tranh với các ngân hàng lớn. 

Thứ ba, tăng trưởng tín dụng sẽ tăng lên do các NHTM đẩy mạnh cho vay nhằm tìm kiếm lợi nhuận hoặc tiến hành các hoạt động kinh doanh mạo hiểm do sức ép phải cho vay lại với lãi cao. Điều này cũng có nghĩa là sẽ tạo sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, thậm chí cấu thành các tội phạm và vỡ nợ tín dụng dây chuyền mang tính xã hội, làm tăng tính rủi ro và nhạy cảm, sự mất ổn định  của hệ thống ngân hàng và  kinh tế vĩ mô trong nước. 

II. Đánh giá về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam qua các thời kỳ

1. Thành tựu

Có thể nói quá trình đổi mới cơ chế điều hành lãi suất ngân hàng ở nước ta từ khi có mô hình ngân hàng hai cấp (1988) đến nay đã trải qua sáu bước chuyển đổi căn bản, đó là những bước đi khá thận trọng, phù hợp với tình hình kinh tế từng thời kỳ và khăng định xu hướng tất yếu của quá trình tự do hóa lãi suất ở nước ta. Quá trình đã đạt được những thành tựu không nhỏ:

Tiến hành cải cách, điều chỉnh chính sách lãi suất làm cho lãi suất trong nền kinh tế đã trở thành công cụ quan trọng của Nhà nước nhằm thực thi chính sách tiền tệ, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, kiềm chế được lạm phát. 

Lãi suất góp phần nâng cao hiệu quả của nền kinh tế nói chung, kích thích sự tiết kiệm và khuyến khích đầu tư. Việc xóa dần chính sách ưu đãi về lãi suất đã dần dần tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại thực hiện tốt công tác hạch toán kinh tế và kinh

20

Page 21: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

doanh của mình được chủ động và thuận lợi.  Chính sách lãi suất qua các lần biến đổi đã tiến dần đến tự do hóa lãi suất, chuẩn

bị cho sự hội nhập về lãi suất với nền kinh tế thế giới. Những phản ứng tích cực của thị trường là cơ sở khăng định tính đúng đắn của Thông tư 07, 13. Và những phản ứng này là một tín hiệu tốt để NHNN thực hiện những bước tiếp theo nhằm tự do hóa hoàn toàn lãi suất.

2. Hạn chế

Hiệu lực, hiệu quả của các cơ chế điều hành LS chưa cao

Nguyên nhân: Năng lực tài chính, năng lực quản trị, khả năng cạnh tranh của các thành viên trên thị trường tài chính không đồng đều, tính bền vững trong phát triển chưa cao.

Nguồn: NHNN

Trên thị trường có sự cạnh tranh không lành mạnh. Biểu hiện là tình trạng đua nhau tăng lãi suất cho vay và lãi suất huy động của các NHTM. Khi NHNN thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với cho vay trung hạn, các NHTM đã đẩy mức lãi suất cho vay rất cao, khoảng 18%. Những động thái tiêu cực đó là nguyên nhân gây ra sự bất ổn trong hệ thống tài chính. Các dự án trung và dài hạn gặp nhiều khó khăn hơn trong việc tìm kiếm các nguồn vốn từ Ngân hàng. Điều này là 1 trở ngại đối việc phát huy hiệu lực, hiệu quả của các chính sách do NHNN đưa ra.

Bên cạnh đó, đối với nhóm ngân hàng lớn, thông qua vị thế mạnh của mình trong hệ thống, những hành vi chi phối thị trường của các ngân hàng này có thể gây ảnh hưởng tới tác động tổng thể của chính sách NHNN nói chung và chính sách lãi suất nói riêng.

Mức độ tự do của LS còn hạn chế: Một trong những lý do là thị phần tín dụng áp dụng mức lãi suất chính sách là không nhỏ. Ngoài các khoản vay áp dụng cơ chế hỗ trợ lãi suất trong thời gian qua, thì chúng ta cũng có không ít các dự án, các lĩnh vực sản xuất được áp dụng lãi suất ưu đãi được thực hiện thông qua Ngân hàng Phát triển, Ngân hàng

21

Page 22: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Chính sách xã hội, các dự án đầu tư phát triển được sử dụng các nguồn vốn ưu đãi ODA khác nữa... Ở chừng mực nào đó nó làm giảm hiệu quả của chính sách tự do hóa lãi suất, vì khi đó lãi suất hình thành trên thị trường chưa phản ánh đúng cung cầu vốn nên việc phân bổ nguồn vốn qua công cụ lãi suất cũng bị méo mó.

Việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất rất dễ gây ra mất ổn định trong nền kinh tế và khó có thể đảm bảo các mục tiêu của CSTT.

Các nhà đầu tư nắm bắt thông tin thị trường không đầy đủ, dẫn đến phản ứng theo “bầy đàn” - là đặc điểm nổi bật của thị trường tài chính của Việt Nam hiện nay. Đặc điểm này dễ gây nên những kỳ vọng về lạm phát trước bất cứ một động thái chính sách kinh tế vĩ mô nào tạo tín hiệu áp lực lạm phát, nhất là chính sách tiền tệ - một chính sách theo đuổi mục tiêu lạm phát là trụ cột.

Những tác động không mong muốn trong cơ chế truyền dẫn.

Lãi suất thực dương là 1 tất yếu trong cơ chế tự do hóa lãi suất. Nhìn vào thực tế của Việt Nam, hiện tại, mức lãi suất thực mà người gửi tiền nhận được là mức lãi suất thực dương, trung bình trong 3 tháng đầu năm 2010 khoảng 2,8% - chưa kể đến các hình thức khuyến mại khác. Tuy nhiên, lãi suất thực đang có xu hướng giảm xuống bắt đầu từ tháng 2 do ảnh hưởng của tốc độ gia tăng CPI. Để thu hút nguồn vốn, các ngân hàng có thể bước vào 1 cuộc chạy đua tăng lãi suất huy động khi NHNN dỡ bỏ trần lãi suất huy động. Với xu hướng này, một tín hiệu nâng lãi suất chính sách có thể tạo ra kỳ vọng về lạm phát.

Xét về góc độ lãi suất thực tác động đến tăng trưởng kinh tế, thì hiện nay, các nhà đầu tư vay vốn ngân hàng đang chịu một mức lãi suất thực tương đối cao. Đánh giá tác động của lãi suất thực đến tăng trưởng kinh tế, theo kết quả ước lượng mô hình đánh giá tác động của lãi suất thực lên tăng trưởng kinh tế theo phương pháp OLS (41 quan sát từ quý I/2000 đến tháng 3/2010 với mức ý nghĩa 10%) cho thấy khi lãi suất thực cho vay ngắn hạn tăng 1% sẽ làm tăng trưởng kinh tế giảm 0,04% so với quý trước. Tuy nhiên, ngoài lãi suất thực còn nhiều yếu tố khác tác động lên tăng trưởng kinh tế, vì vậy, mức độ biến động của lãi suất thực mới chỉ giải thích được 12,3% biến động của tăng trưởng kinh tế.

Tính kỷ luật trong hoạch định các chính sách vĩ mô chưa cao, tình trạng mâu thuẫn của các mục tiêu của các chính sách vẫn thường xảy ra.

Là một nền kinh tế đôla hóa, lãi suất đồng nội tệ, lãi suất ngoại tệ và tỷ giá có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, với mức chênh lệch quá lớn giữa lãi suất nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ cộng với mức kỳ vọng về tỷ giá sẽ làm dịch chuyển sự nắm giữ giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ của các thành viên trong thị trường, điều này sẽ gây ra những rối loạn thị trường, tạo áp lực lên tỷ giá. Do vậy, chính sách lãi suất tiền đồng cũng phải giải quyết hài hòa mối quan hệ này. Trong năm 2009, vấn đề tỷ giá nổi lên như một điểm nhấn của sự ổn định, chính sách lãi suất của NHNN cùng hàng loạt các chính sách khác (như yêu cầu các tổng công ty lớn bán ngoại tệ cho NHNN, điều chỉnh tỷ giá công bố, điều chỉnh dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ, qui định trần lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các doanh nghiệp...) đã phải hướng tới sự ổn định này.

22

Page 23: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Chương IIIGiải pháp hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất của

NHNN Việt Nam

Chính sách lãi suất là một công cụ của CSTT, vì vậy, mục tiêu theo đuổi của chính sách lãi suất phải nằm trong mục tiêu của CSTT, quá trình hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất trong từng thời kỳ luôn phải đảm bảo mục tiêu bao trùm của CSTT là ổn định tiền tệ, kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Điều đó có nghĩa, sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất không được gây ra những cú sốc thị trường, đảm bảo tính ổn định và thực hiện các mục tiêu kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế. Đây là nguyên tắc cơ bản trong hoạch định chính sách lãi suất từng thời kỳ.

Thực trạng của nền kinh tế nước ta hiện nay đang phải đối mặt với áp lực lạm phát và với sức phục hồi nền kinh tế còn thiếu vững chắc: Mặc dù tăng trưởng kinh tế quý I/2010 đạt 5,83%, cao hơn nhiều mức tăng trưởng quý I/2009, vốn đầu tư toàn xã hội tăng 26,23%, cao hơn rất nhiều mức tăng 9% của quý I/2009, song nhập siêu vẫn ở mức đáng lo ngại (xuất khẩu đạt 14 tỷ USD, nhập khẩu đạt 17,5 tỷ USD, nhập siêu đạt 3,5 tỷ USD), lạm phát tuy vẫn trong tầm kiểm soát nhưng đang có xu hướng tăng trở lại.

Nguồn: Tổng cục Thông kê

Do đó trong năm 2010, hai vấn đề nổi lên mà việc điều chỉnh cơ chế điều hành lãi suất cần hướng tới nhiều hơn là áp lực lạm phát gắn với hỗ trợ tăng trưởng kinh tế và ổn định kinh tế vĩ mô. Theo đó, chính sách này phải giải quyết được những mối quan hệ ràng buộc và bất cập hiện nay trên thị trường tiền tệ, nhưng đồng thời cùng với các công cụ chính sách khác thúc đẩy thị trường tiền tệ phát triển. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt và trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2010.

Tự do hóa lãi suất là mục tiêu cần hướng tới để đảm bảo sự vận hành của thị trường về cơ bản tuân theo qui luật cung cầu, phân bổ nguồn vốn hợp lý. Song với thực trạng

23

Page 24: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

nền kinh tế đang phải đối mặt cùng với những bất cập của thị trường tiền tệ thì áp dụng cơ chế kiểm soát lãi suất trực tiếp là cần thiết, và từng bước tạo dựng những điều kiện cần thiết để tự do hóa lãi suất.

Những điều kiện đó là:

- Môi trường kinh tế vĩ mô đã ổn định và khá chắc chắn.

- Hành lang pháp lý đã tương đối đồng bộ và hoàn chỉnh.

- Hệ thống ngân hàng ổn định, hoạt động hữu hiệu.

- Thị trường tài chính (bao gồm thị trường tiền tệ và thị trường chứng khoán) đã hình thành và đã vận hành có hiệu quả.

- Các nguồn lực trong nước đã được phân phối và sư dụng hợp lý.

- Các tổ chức kinh tế đều đảm bảo khả năng sư dụng vốn triệt để, có hiệu quả.

1. Cụ thể những việc cần làm trước mắt của NHNN trong giai đoạn hiện nay là:

Trước mắt là phải thiết lập một mức lãi suất cơ bản định hướng được lãi suất thị trường. Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, để có thể phát huy được tốt vai trò định hướng của lãi suất cơ bản thì bản thân NHTW của quốc gia đó phải xác định được những mục tiêu điều hành cụ thể trên cơ sở định lượng cụ thể về lạm phát, tăng trưởng, hoặc lãi suất ngắn hạn mà tại đó nền kinh tế đạt trạng thái cân bằng. Vì vậy, việc hoàn thiện cơ chế hình thành lãi suất cơ bản - làm cơ sở định hướng chuẩn mực cho lãi suất thị trường liên ngân hàng, thị trường tiền tệ là một việc cần thiết phải thực hiện trong thời gian này.

Trên cơ sở mức lãi suất cơ bản, hình thành đồng bộ các mức lãi suất chỉ đạo, như lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu, lãi suất cho vay qua đêm và lãi suất nghiệp vụ thị trường mở nhằm chủ động điều tiết lãi suất thị trường và các hành vi cho vay, đi vay của các thành viên trên thị trường tiền tệ. Lượng tiền cung ứng sẽ được điều tiết hợp lý để đảm bảo các mức lãi suất mục tiêu.

Đối với lãi suất huy động, do những bất cập về cấu trúc thị trường hiện nay làm nảy sinh tình trạng cạnh tranh lãi suất thiếu lành mạnh, cũng như là diễn biến của lãi suất thực huy động có thể làm kỳ vọng lạm phát gia tăng nên việc thực hiện duy trì mức lãi suất trần trong giai đoạn này là cần thiết để bình ổn mặt bằng lãi suất.

Đồng thời trong thời gian này, NHNN cần tích cực hỗ trợ thanh khoản đối với NHTM với kỳ hạn dài hơn, khối lượng lớn hơn so với trước đây, hỗ trợ thông qua tái cấp vốn và hoán đổi ngoại tệ và chỉ đạo các NHTM nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong cung ứng vốn và điều chỉnh lãi suất giảm dần phù hợp diễn biến nền kinh tế. Tuy nhiên, về lâu dài, khi các xu hướng đầu tư đã ro nét, nền kinh tế dần ổn định thì việc tháo dỡ trần lãi suất huy động cũng sẽ được thực hiện nhằm tuân thủ các nguyên tắc trên con đường tự do hóa lãi suất đã lựa chọn.

Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chế điều hành lãi suất, ổn định mặt bằng lãi suất để kiểm soát lạm phát hướng tới ổn định kinh tế vĩ mô là nhiệm vụ trước mắt và trọng tâm của ngành Ngân hàng trong năm 2010. Để thực hiện nhiệm vụ đó, ngành Ngân hàng đang triển khai những giải pháp ứng phó kịp thời. Tuy nhiên, để hỗ trợ cho các giải pháp ngắn hạn này có hiệu quả, có cơ sở đầy đủ cho việc xây dựng các giải pháp điều hành trong dài hạn, bên cạnh sự nỗ lực của toàn ngành Ngân hàng, cũng rất cần thiết phải có sự chỉ đạo

24

Page 25: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

sát sao của Chính phủ và sự phối hợp chặt chẽ của các bộ, ngành hữu quan trong việc cơ cấu lại thị trường tài chính, giảm dần cho vay với lãi suất ưu đãi, phát triển các thị trường nợ một cách có hiệu quả, từ đó sẽ giảm bớt gánh nặng cho khu vực ngân hàng trong việc cung cấp vốn phục vụ cho các mục tiêu phát triển kinh tế của cả nước.

2. Về lâu dài đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, góp sức của cả NHNN và hệ thống NHTM nói riêng, hệ thống tài chính trong nền kinh tế nói chung. Dưới đây là một số biện pháp được đề xuất:

a. Củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng:

Trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập toàn cầu, quá trình hội nhập trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng diễn ra 1 cách mạnh mẽ. Theo lộ trình gia nhập WTO từ 1/4/2007, các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép thành lập và hoạt động dưới hình thức 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam. Sau lộ trình 5 năm gia nhập WTO các tổ chức tín dụng nước ngoài sẽ được hưởng các ưu đãi như ngân hàng nội địa. Sự xâm nhập của các ngân hàng nước ngoài ở mức độ ngày càng sâu, vì vậy củng cố, hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng là việc làm vừa cấp bách vừa lâu dài nhằm đảm bảo cho hệ thống ngân hàng, hệ thống tài chính ổn định, đứng vững trước những tác động trong quá trình hội nhập. Một hệ thống ngân hàng phát triển chính là 1 trong những điều kiện để các cơ chế điều hành lãi suất của NHTW phát huy hiệu quả, lãi suất có thể tự do hóa.

Ngày 17 tháng 10 năm 2007, Thống đốc NHNN đã ban hành Quyết định số 2449/QĐ-NHNN về chương trình hành động sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới giai đoạn 2007-2012. Nội dung chương trình thể hiện những vấn đề cơ bản sau:

+Xây dựng và phát triển thị trường tiền tệ, hoàn thiện những điều kiện kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng phù hợp với chuẩn mực của Việt Nam. Cụ thể là: Nâng cao năng lực xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ theo hướng chủ động, linh hoạt, bảo đảm ổn định giá trị đồng tiền, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế...

+ Phát triển toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng theo hướng hiện đại, hoạt động đa năng, đa dạng về sở hữu và về loại hình, đủ điều kiện hoạt động lành mạnh, ổn định và nâng cao năng lực cạnh tranh; đa dạng hóa dịch vụ ngân hàng, tăng quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của các tổ chức tín dụng theo nguyên tắc thị trường...

+ Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát của NHNN, hoàn thiện các quy định quản lý, đặc biệt là việc nâng cao năng lực giám sát và quản lý rủi ro đối với hoạt động của các tổ chức tín dụng.

+ Đổi mới mạnh mẽ công tác cải cách hành chính, xây dựng NHNN Việt Nam trở thành Ngân hàng Trung ương hiện đại với mô hình tổ chức và quản lý mới; chú trọng phát triển nguồn nhân lực có chuyên môn nghiệp vụ cao...

Về những giải pháp cụ thể:

+ Nâng cao hiệu quả điều hành chính sách tiền tệ trong điều kiện hội nhập, trong đó chú trọng:

· Tăng cường công tác dự báo những diễn biến về kinh tế thế giới, nhất là những

25

Page 26: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

biến động của kinh tế Mỹ, các nước EU; sự biến động của đồng USD, Euro và những vấn đề liên quan khác.

· Tham mưu cho Chính phủ thực hiện việc quản lý luồng vốn nước ngoài vào Việt Nam (cả ngắn và dài hạn); theo doi chặt chẽ cán cân thanh toán, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam.

· Tiếp tục  triển khai có hiệu quả sự chỉ đạo của Chính phủ về chống lạm phát tại văn bản số 75/TTg-KTTH ngày 15/01/2008 và văn bản số 319/TTg-KTTH ngày 03/3/2008 của Thủ tướng Chính phủ ưu tiên chống lạm phát, bảo đảm an sinh xã hội, tiếp tục ổn định và tăng trưởng kinh tế.

+ Tiếp tục củng cố hệ thống ngân hàng, chú trọng việc ổn định hệ thống, tiến hành cơ cấu lại để tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều kiện mới

+ Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về ngân hàng, trong đó chú trọng việc hoàn thiện các quy định về đảm bảo an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế; bổ sung, sửa đổi các quy định về cấp phép thành lập, ngân hàng mới một cách chặt chẽ, tăng mức vốn điều lệ, yêu cầu về năng lực quản trị cao hơn…

+ Củng cố tổ chức và hoạt động giám sát và kiểm soát hoạt động của Ngân hàng thương mại chuyển từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra, giám sát, kiểm toán nội bộ theo định hướng  rủi ro

+ Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực, tiếp tục hiện đại hoá ngân hàng, đẩy mạnh các hoạt động ngân hàng mới…

b. Phát huy vai trò của các công cụ gián tiếp (chỉ nêu vê LS cho vay cua NHNN (LSTCK, LSTCV và LSCVQĐ) vi chỉ làm vê cơ chế điêu hành LS mà ko phai là CSTT, dư trữ bắt buộc, chính sach tai cấp vôn và nghiệp vụ thị trương mở là công cụ gian tiếp cua CSTT)

Công cụ dư trữ tối thiểu bắt buộc (dư trữ bắt buộc): Về mặt lý thuyết khi thực hiện công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc sẽ đạt được ba mục tiêu.

Thư nhất là đảm bảo khả năng thanh toán cho tổ chức tín dụng, đây là mục đích quan trọng nhất của công cụ này;

Thư hai là khống chế bội số tiền tệ, tín dụng. Tỷ lệ dự trữ tối thiểu càng cao thì bội số tiền tệ, tín dụng càng nhỏ và ngược lại;

Thư ba là gây nên hiệu ứng lãi suất của dự trữ tối thiểu.

Công cụ dự trữ tối thiểu bắt buộc lần đầu tiên được qui định trong pháp lệnh Ngân hàng nhà nước ban hành vào tháng 5/1990. Trên thực tế qua các năm thực hiện, công cụ dự trữ tối thiểu mới phát huy được tác dụng ở mức độ còn hạn chế nhưng ba năm trở lại đây tỷ lệ này ngày càng được giảm dần từ 15% xuống 12% v.v... và quyết định mới nhất gần đây của Ngân hàng nhà nước qui định dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng ở mức rất thấp là 2%/tổng tiền gửi để tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn dồi dào đáp ứng thanh toán đầu tư cho vay đó là quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 9/6/2003 và QĐ831/QĐ-NHNN ngày 30/7/2003.

Công cụ lãi suất cho vay: Khi NHTW tăng lãi suất cho vay sẽ làm giảm nhu cầu vay NHTW của các tổ chức tín dụng đồng thời làm tăng nhu cầu vay giữa các tổ chức tín

26

Page 27: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

dụng trên thị trường liên ngân hàng dẫn đến sẽ làm tăng lãi suất thị trường liên ngân hàng. Khi NHTW giảm lãi suất cho vay thì xảy ra hiện tượng ngược lại làm tăng nhu cầu vay NHTW của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay vốn lẫn nhau như vậy làm giảm lãi suất trên thị trường liên ngân hàng. Như đã đề cập, lãi suất thị trường liên ngân hàng thay đổi sẽ tác động làm thay đổi lãi suất cơ bản của các tổ chức tín dụng  và mặt bằng lãi suất trong nền kinh tế.

Từ tháng 10/1992,NHNN đã tiến hành cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh vay dưới hình thức cho vay lại các khế ước cho vay có chất lượng tốt. Lãi suất cho vay được qui định dưới dạng tỷ lệ phần trăm (nhỏ hơn hoặc bằng 100%) so với lãi suất trên khế ước cho vay của các Ngân hàng thương mại quốc doanh. Mục đích của loại hình cho vay này là NHNN tạo thêm nguồn vốn cho các Ngân hàng thương mại quốc doanh để mở rộng cho vay đối với nền kinh tế .

Từ năm 1997 đến nay Ngân hàng nhà nước từng bước điều chỉnh và biến lãi suất cho vay thành công cụ của chính sách tiền tệ. Đối tượng được vay NHTW không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ các Ngân hàng thương mại quốc doanh mà được mở rộng đến các loại hình tổ chức tín dụng  khác, làm tài sản cầm cố cho khoản vay không chỉ các hoạt động tín dụng cho vay có chất lượng tốt mà còn có các chứng từ có giá của tổ chức tín dụng.

Công cụ nghiệp vụ thị trương mở: Thực hiện nghiệp vụ thị trường mở là việc ngân hàng trung ương mua hoặc bán các chứng từ có giá trên thị trường chứng khoán (chủ yếu là thị trường OTC) thông qua đó thực hiện việc cung ứng hoặc rút khối lượng tiền khỏi lưu thông. Tín phiếu và trái phiếu kho bạc sẽ là công cụ chủ yếu của thị trường mở hiện nay có thêm trái phiếu chính phủ.

Như vậy khác với cho vay là hoạt động trong nội bộ hệ thống ngân hàng, trong hoạt động thị trường mở Ngân hàng nhà nước can thiệp trực tiếp vào thị trường chứng khoán, trong đó ngoài các tổ chức tín dụng còn có sự tham gia của các khu vực ngoài ngân hàng, tức là các đơn vị kinh tế và dân cư. Về nguyên tắc khi ngân hàng trung ương bán chứng khoán còn người mua bất kỳ có thể là tổ chức tín dụng, các tổ chức khác hay cá nhân thì cũng đều làm giảm tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, bởi vậy sẽ làm tăng nhu cầu vay mượn giữa các tổ chức tín dụng dẫn đến lãi suất thị trường liên ngân hàng tăng lên. Ngược lại, khi ngân hàng trung ương mua chứng khoán sẽ làm tăng tiền dự trữ của các tổ chức tín dụng, giảm nhu cầu vay mượn của các tổ chức tín dụng và dẫn đến giảm lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng.

Các NHTW đều cố gắng để điều hành lãi suất trên cơ sở phân tích, đánh giá các chỉ số vi mô trong nền kinh tế để co thể xác định được lãi suất trên thị trương là cao hay thấp, co tương ưng so với yêu cầu phát triển cua nền kinh tế thi việc lãi suất được hinh thành tư do trên thị trương cũng chưa phai là lãi suất tối ưu. Điều đo được lý giai tai sao những nước co nền kinh tế thị trương phát triển ở mưc cao Ngân hàng trung ương cũng phai co những biện pháp để tác động điều chỉnh lãi suất thị trương thông qua các công cụ gián tiếp. Chính vi thế ngoài các biện pháp can thiệp trên thi để co được các mưc lãi suất cơ ban công bố phù hợp với các chỉ tiêu kinh tế vi mô thi Ngân hàng nhà nước cần phai co sư điều chỉnh thích hợp được tính toán dưa trên kinh nghiệm thưc tế trong quan lý, điều hành lãi suất trong nhiều năm qua.

27

Page 28: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

c. Phát triển thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chứng khoán

Việt Nam không thể đẩy quá nhanh việc xây dựng thị trường tài chính, cũng như thị trường chứng khoán vượt lên trên sự phát triển chung của nền kinh tế,mà phải phát triển đồng bộ có ưu tiên. Thị trương tiên tệ và thị trương chưng khoan co môi liên hệ mật thiết với nhau, khi lãi suất trên thị trương tiên tệ tăng lên, thị trương tiên tệ nong lên, thi thị trương chưng khoan cũng sôi động. Phat triển thị trương tiên tệ, làm tăng tôc độ chu chuyển vôn ngắn han trong nên kinh tế, nâng cao kha năng kinh doanh trên thị trương tiên tệ cua cac tổ chưc trung gian tài chính, tao điêu kiện cho cac tổ chưc này sẵn sàng tham gia co hiệu qua trên thị trương chưng khoan.

Một số kiến nghị nhằm phát triển thị trường tài chính đặc biệt là thị trường chúng khoán là:

- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính, trực tiếp là Ủy ban chứng khoán Nhà nước phối hợp chặt chẽ, mạnh dạn đưa 2 - 4 NHTM cổ phần đầu tiên niêm yết cổ phiếu trên Trung tâm giao dịch chứng khoán. Phối hợp chặt chẽ, trên cơ sở tài trợ quốc tế, tổ chức các cuộc hội thảo, khóa đào tạo, tập huấn ngắn ngày về nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và niêm yết cổ phiếu của NHTM trên thị trường chứng khoán. Bộ Tài chính cũng nên cùng NHNN tập trung tháo gỡ vướng mắc trong việc định giá NHTM và một số giải pháp khác đẩy nhanh tiến trình cổ phần hóa hai NHTM NN đầu tiên theo kế hoạch.

- Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính phối hợp tăng khối lượng tín phiếu Kho bạc Nhà nước đấu thầu hàng quý, hàng năm. Có thể tăng tần suất các phiên đấu thầu từ 1 phiên/1tuần hiện nay lên 2 phiên/tuần. Linh hoạt hơn nữa lãi suất đấu thầu qua các phiên theo sát diễn biến trên thị trường. Thời hạn tín phiếu cũng có thể đa dạng hơn, như kỳ hạn 60 ngày, 90 ngày... thay cho chỉ có loại 360 ngày như hiện nay. Cần có cơ chế để các NHTM cổ phần và Ngân hàng khác có quy mô nhỏ hơn có thể trúng thầu tín phiếu trên thị trường này. Đặc biệt là Bộ Tài chính cần có biện pháp đưa các Công ty bảo hiểm, tổ chức bảo hiểm tham gia đấu thầu tín phiếu, không nên để tình trạng lãng phí vốn hay quan hệ tiền gửi không kỳ hạn trực tiếp với các TCTD như hiện nay.

- Ngân hàng Nhà nước có biện pháp bảo đảm tính hệ thống của Quỹ tín dụng, có cơ chế điều hòa vốn linh hoạt hơn của hệ thống này. Trên cơ sở đó tạo điều kiện thu hút Quỹ tín dụng tham gia thị trường liên ngân hàng và các dạng khác của thị trường tiền tệ so NHNN tổ chức, vận hành.

- NHNN nâng cấp thị trường nội tệ liên ngân hàng, thể hiện ro vai trò can thiệp cuối cùng của NHNN trên thị trường này. Tiến tới công bố được lãi suất thị trường nội tệ liên ngân hàng ở Việt Nam do là lãi suất chủ đạo của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.

- Bản thân các Tổ chức trung gian tài chính cần phải nhanh chóng đa dạng hóa các nghiệp vụ kinh doanh của mình, nhất là nghiệp vụ kinh doanh trên thị trường tiền tệ theo thông lệ quốc tế. Các NHTM mạnh dạn đầu tư hơn nữa cho các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán và thu hút tiền gửi không kỳ hạn, dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Đây cũng chính là các nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán trong thời gian tới, cũng như là khách hàng tiềm năng của nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà Ngân hàng thương mại cần nhằm tới thu hút.

d. Nâng cao năng lực tài chính, năng lực quản lý và năng lực kiểm soát rủi ro của các TCTD

28

Page 29: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

Trong bối cảnh hiện nay, mục tiêu an toàn - hiệu quả được đặt ra không chỉ để đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM mà còn đảm bảo an toàn cho cả hệ thống. Theo TS.Tô Ngọc Hưng- Giám đốc Học viện Ngân hàng, các NHTM cần có những biện pháp củng cố hoạt động hướng đến mục tiêu an toàn và hiệu quả, đặc biệt, cần củng cố năng lực quản trị rủi ro tín dụng, thời gian tới các NHTM Việt Nam cần tập trung xử lý những rủi ro tiềm ẩn của tín dụng bất động sản. Để hạn chế rủi ro thanh khoản, các NHTM cần tập trung hoàn thiện kịch bản dự báo nhu cầu thanh khoản của ngân hàng, qua đó giúp các NHTM nâng cao khả năng chủ động dự đoán cung- cầu thanh khoản trong các tình huống xấu.

Để quản trị rủi ro tác nghiệp trong phát triển các sản phẩm tài chính ngân hàng mới, các ngân hàng cần xác định và đánh giá đươc các rủi ro tác nghiệp tiềm ẩn trong mỗi sản phẩm, hoạt động, quy trình, hệ thống của các sản phẩm mới. Nên xây dựng một quy trình theo doi, quản lý rủi ro chi tiết và cụ thể đối với các sản phẩm dịch vụ mới, đồng thời phải có hệ thống thông tin báo cáo thường xuyên về các sản phẩm trên. Nếu có hệ thống chỉ báo giúp cảnh báo sớm rủi ro gây ra tổn thất liên quan đến phát triển các sản phẩm dịch vụ tài chính mới, nhất là khi tốc độ tăng trưởng cao. Đồng thời, phải thường xuyên đánh giá việc nghiên cứu và phát triển các sản phẩm mới.

Các NHTM cần đặc biệt lưu ý việc dự báo và lập kế hoạch dự phòng trước rủi ro lãi suất suất và tỷ giá. Điều này cũng liên quan đến vấn đề quản trị đủ vốn tự có. Vốn tự có sẽ phải được tính toán không chỉ là “tấm đệm” cho rủi ro tín dụng mà còn phải là tấm đệm cho cả rủi ro thị trường như lãi suất, tỷ giá.

PGS.TS Lê Quốc Lý, Phó Giám đốc Học viện Chính trị- hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh nhấn mạnh, ngay từ bây giờ phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng tín dụng, không vì kích cầu mà bỏ qua các điều kiện tín dụng. Tăng cường sự giám sát đối với hệ thống tài chính, ngân hàng. Kiểm tra chất lượng tín dụng của các NHTM, đặc biệt là tín dụng dành cho các lĩnh vực nhiều rủi ro.

Đi kèm với đó là vấn đề tăng cường năng lực giám sát đối với hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn cho toàn hệ thống ngân hàng. Một trong những kế hoạch đã và đang được triển khai của TTGS (thanh tra giám sát) ngân hàng là  áp dụng phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro theo thông lệ quốc tế. Được sự giúp đỡ của chuyên gia Quỹ tiền tệ Quốc tế, TTGS ngân hàng đã tiến hành thanh tra thử nghiệm theo phương pháp này tại một số TCTD. Kết quả bước đầu đã cho thấy mặt tích cực và tính hiệu quả của phương pháp thanh tra trên cơ sở rủi ro.

e. Tiếp tục hoàn thiện môi trường pháp lý

Hệ thống pháp lý đầy đủ và thống nhất là nền tảng cơ bản cho sự phát triển của hệ thống tài chính, tạo ra môi trường để hệ thống tài chính có thể có các quyết định đúng đắn, hạn chế rủi ro, bảo đảm cho hệ thống tài chính hoạt động lành mạnh trong an toàn thông qua các hoạt động kiểm tra, giám sát.

Nhằm đáp ứng đòi hỏi về quản lý đối với các hoạt động ngân hàng ngày càng đa dạng và có tính nghiệp vụ cao của một thị trường tài chính – tiền tệ trong tiến trình hội nhập, nhiều văn bản pháp lý đã được sửa đổi hoặc ban hành, điển hình là:

- Pháp lệnh ngoại hối

- Luật Công cụ chuyển nhượng

29

Page 30: cơ chế điều hành lãi suất của NHNNVN

- Nghị định 22/2006/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, văn phòng đại diện TCTD

- Nghị định 141/2006/NĐ-CP về mức vốn pháp định của các TCTD (thay thế Nghị định 82/1998/NĐ-CP).

Khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của các TCTD phi ngân hàng cũng dần được hoàn thiện, nhiều qui định cụ thể được ban hành liên quan đến việc đổi mới cơ chế quản lý, hoạt động và nghiệp vụ của các NHTM. NHNN đã xây dựng và ban hành các qui định pháp lý phù hợp với thông lệ quốc tế để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức tài chính nước ngoài đầu tư vào Việt Nam.

Tuy nhiên, nhìn chung chế độ công bố thông tin tài chính, chế độ kế toán, kiểm toán ở VN chưa hiệu quả, thiếu minh bạch, nên gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong việc mở rộng tín dụng hơn nữa theo cơ chế LS thương mại thực sự. Do đó, việc hoàn thiện hệ thống pháp lý, tạo cơ sở cho hệ thống tài chính hoạt động là rất cấp thiết. Đồng thời cũng cần đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm soát để đảm bảo tính minh bạch.

Kết luậnChính sách lãi suất của Việt Nam đã được điều chỉnh liên tục theo hướng giảm dần

mức độ kiểm soát của NHNN Việt Nam diễn ra trong suốt những năm qua nhằm phát huy một cách tối đa vai trò của lãi suất đối với nền kinh tế.

Qua việc phân tích thực trạng cơ chế điều hành lãi suất của NHNN Việt Nam ta có thể thấy rằng, các cơ chế được thay đổi sao cho phù hợp với những biến động của thị trường. Bên cạnh những thành tựu mà chúng ta đã đạt được thì chúng ta vẫn còn gặp phải rất nhiều khó khăn và sai lầm.Chúng ta mong rằng, NHNN sẽ có những bước đi phù hợp để đưa nền kinh tế nước ta ngày càng phát triển hơn.

Do vốn kiến thức và thời gian nghiên cứu có hạn, bài thảo luận không tránh khỏi còn những thiếu sót, kính mong thầy và các bạn cho ý kiến để bài làm của nhóm hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cảm ơn!

30