Upload
vucong
View
214
Download
1
Embed Size (px)
Citation preview
CON QUÁI VẬTCON QUÁI VẬT
(Tập truyện ngắn)
Tác giả: ALBERTO MORAVIA
HÀN THỦY GIANG dịch
TUÂN LỆNH
Là một người chạy tin ở nhà băng, khi sắp xếp lại tổ chức, tôi bị sa thải.
Đầu tiên, tôi hoàn toàn lúng túng. Tôi đã quen với việc nhận đủ loại mệnh
lệnh, nào là rung chuông, điền những dấu xanh dấu đỏ vào bảng chỉ dẫn, nào
là nhận những yêu cầu từ khách hàng, những việc lặt vặt và việc được ủy
thác. Thế rồi bỗng nhiên chẳng gì hết, chẳng có gì ngoài việc nằm dài trên
ghế xô-pha trong phòng khách, khoanh tay, gác chân, mắt nhìn chằm chằm
vào khoảng không. Nhưng tôi không muốn để bạn đọc hiểu nhầm. Tôi không
còn gì để làm chẳng phải vì thất nghiệp, mà bởi giờ đây không một ai ra
những mệnh lệnh cho tôi. Một vài bạn có thể không nhận thấy sự khác
thường này, nhưng nó có đấy, một sự khác biệt rất lớn, chí ít thì cũng là với
tôi.
Hãy để tôi giải thích nhé. Sau vài ngày đi kiếm việc trong vô vọng, một
buổi sáng, khi tôi nằm trên giường, cố tự đánh lừa rằng mình vẫn còn đương
say giấc, thì giọng nói của vợ làm tôi chồm dậy. Giọng nói vang lên cáu kỉnh:
- Đến tận giờ này vẫn còn trên giường, anh làm cái quái gì ở đó thế?
Nào, dậy đi đánh răng rửa mặt và trong lúc tôi mặc quần áo hãy làm một việc
gì có ích như chuẩn bị bữa sáng.
Lời lẽ chỉ có thế, hoàn toàn bình thường và không có gì nghiêm trọng,
nhưng với tôi, kẻ đang cuộn tròn trong chăn, chúng có một hiệu lực hoàn toàn
khác. Tôi tự nhủ: "Dậy! Mặc quần áo! Làm một việc có ích! Chuẩn bị bữa
sáng! Đây là những yêu cầu, thực sự là những yêu cầu, chúng không hề kém
phần rõ ràng và dứt khoát so với những mệnh lệnh tôi vẫn nhận ở nhà băng.
Chúng là những mệnh lệnh. Và lúc đó, tôi cảm thấy một thứ gì mang bản chất
kích thích trào ra từ tâm trí, do bị khích động bởi những mệnh lệnh này, lan
toả xuống đôi chân. Ngay lập tức, tôi tung chăn, thò chân xuống sàn chạy đến
nhà tắm, mở cửa, vặn vòi hoa sen.... Tóm lại, tôi làm những gì được chỉ dẫn.
Sau đó, giữa lúc con người tôi hoạt động, tôi nhận thấy những mệnh
lệnh này tuy đơn giản nhưng lại hàm chứa rất nhiều lệnh khác, có thể gọi là
lệnh loại hai, loại ba. Ví dụ như một câu ngắn: Hãy chuẩn bị bữa ăn sáng!
Câu này hàm nghĩa: thứ nhất, đi vào bếp; thứ hai: châm bếp ga; thứ ba: đổ cà
phê và nước vào máy pha; thứ tư: cắt bánh mỳ; thứ năm: nướng chả và kẹp
vào bánh mỳ; thứ sáu: sắp chén, bình đựng đường, đĩa bò vào khay; thứ bảy:
đặt bình cà phê và bánh mỳ nướng lên khay ăn; thứ tám: mang khay ăn vào
buồng ngủ và đặt nó lên giường. Các bạn thấy đấy, thật là một chuỗi hành
động, chúng thật phức tạp, và nếu như tôi quên không ghi lại vào ngay thời
điểm chúng được ban ra, thì sẽ đặc biệt khó khăn lúc đem ra thực hiện. Hơn
nữa, những lệnh loại hai này hàm chứa những lệnh khác loại ba như tôi đã
nói ở trên. Một ví dụ nữa. Chuẩn bị bơ lên khay ăn, có nghĩa: lấy gói bơ ra
khỏi tủ lạnh, bóc giấy bọc, lấy dao cắt, sắp từng miếng lên đĩa, vân vân và
vân vân... Tất cả những sự phân tích này ngụ ý gì? Chúng minh chứng rằng
tôi đang dần dần có ý thức về việc tìm lại được sự tồn tại, về việc một lần nữa
lại được thực hiện chức năng sau tất cả những ngày tháng không làm gì cả
khi bị sa thải khỏi nhà băng. Khi còn làm việc ở đó, tôi đã từng là một viên
chức. Và giờ đây, tôi đang quay trở lại làm một viên chức nhờ một lý do thật
xác đáng, ấy là tôi lại đang được thực hiện chức năng.
Vợ tôi làm nghề đánh máy tốc ký, và ngày ngày nàng tới công sở làm
việc. Sáng hôm đó, nàng không đưa ra thêm một mệnh lệnh nào nữa, tất cả
chỉ là vừa chạy khỏi nhà vừa hét lên với tôi:
- Anh nhớ trả lời điện thoại và ghi tên những người gọi đến.
Thế là đủ cho tôi rồi. Tôi ngồi xuống ghế xô-pha trong phòng khách và
chờ đợi. Tôi đợi cái gì nhỉ? Tôi đợi tiếng chuông điện thoại réo như lời dặn
của nàng. Xin cám ơn những cú điện thoại, tôi sẽ có hai mươi, hay bốn mươi,
hay sáu mươi giây được tồn tại, tức là được hoạt động chức năng sau hai giờ
ngồi bất động, và theo ý kiến của tôi, việc này quả thực rất hời. Bên cạnh đó,
nếu chuông điện thoại réo không chỉ một lần, thì sự tồn tại của tôi sẽ đạt được
một đặc tính, tức là một chừng mực nào đó có tính chất thường xuyên và hệ
thống. Tôi cứ nghĩ vẩn vơ về những điều đó, rồi khi ngước lên, tôi thấy đằng
trước mặt, bên trên chiếc bàn nhỏ kê trong hộc cửa sổ, một chiếc máy chữ vợ
tôi thường dùng trong các buổi tối, nếu có việc làm thêm. Và khi ngắm những
hàng phím mang nặng một khả năng ngôn từ, nhưng lúc ấy chúng vẫn câm
lặng và bất động, tôi nhận thấy một tình cảm anh em máu mủ. Bản thân tôi
cũng giống chiếc máy chữ, cũng bất động khi vợ tôi vắng nhà và cũng hoạt
động lúc có mặt nàng. Tôi tự nhủ, chúng tôi quả là anh em, ấy là nói vậy chứ,
về một mặt nào đấy chiếc máy còn "người" hơn tôi, bởi vì ít nhất nó cũng còn
có một giọng nói riêng của mình, một giọng nói ngắn gọn, âm vang, trong khi
bản thân tôi gần như luôn luôn câm lặng.
Bữa đó, chẳng biết thế nào mà chuông điện thoại không reo đến một
tiếng. Nhưng tôi lại khám phá ra, trên thực tế, người ta có thể nhận được
mệnh lệnh bất cứ lúc nào, miễn là phải chú ý. Chuông cửa reo vang, ấy là
lệnh hãy đứng dậy, đi ra mở cửa và nhìn xem ai. Hai người đàn bà đang la
hét cãi vã dưới sân sau, ấy là lệnh hãy đi tới và nhìn qua cửa sổ xem cái gì
đang xảy ra. Nước đang rỏ tí tách trong bếp, ấy là một lệnh hãy tới và khóa
vòi lại. Vân vân....
Cố nhiên tôi rất hài lòng, tôi làm những việc linh tinh bất đắc dĩ mà vẫn
vui. Nhưng một con người không thể gọi là tồn tại nếu chức năng độc nhất
của hắn chỉ là khóa một chiếc vòi nước đang ri ri. Cần phải có một thứ gì đó
quan trọng hơn, hoặc phần nào chính qui hơn, hoặc thường xuyên hơn,
chẳng hạn như có một trăm cái vòi đang rỉ nước, và cứ mười phút lại khóa
một cái. Nhưng dù sao cũng đừng cầu toàn. Những việc ít ỏi kể trên cũng đã
là một cái gì đó, khi tất cả được phát ra và thi hành, bất luận thế nào cũng đều
tốt hơn thân phận cái máy chữ - người anh em vẫn đang ngồi kia, im lặng và
bất động, và cứ giữ mãi thế cho đến khi vợ tôi về nhà.
Dường như vợ tôi cũng đoán ra trong cuộc sống của tôi, nàng đã thành
công ở vị trí trước đây thuộc quyền của người quản lý nhà băng, nên từ hôm
đó mệnh lệnh ban ra tới tấp, nhanh gọn và chính xác:
- Anh là đồ vô tích sự, là kẻ lười nhác kinh niên, một tên ăn bám. Ít nhất
thì cũng phải trở nên có ích một chút chứ, lau nhà lau cửa, giặt áo giặt quần,
là sơ-mi, đi chợ, nấu nướng cái gì đó, rồi dọn dẹp phòng đi chứ.... Nàng cho
người ở thôi việc. Các bạn có thể nghĩ bằng việc ra lệnh cho tôi, nàng muốn
ngụ ý trách tôi không có khả năng tìm việc làm và mang tiền về nhà. Nhưng
cái mà chính nàng không nhận ra là nàng đang đem đến cho tôi sự thoải mái
hoan hỉ.
Tôi đang nói cái gì, sự thoải mái hoan hỉ ư? Ấy là vì nàng đang khiến tôi
hoạt động, mà điều đó nghĩa là tồn tại. Vào các buổi sáng, tôi ghi lại những
mệnh lệnh nàng ban ra trước khi rời nhà, và rồi trong suốt buổi, tôi thực hiện
chúng một cách không chậm trễ và không cần sáng tạo thêm gì hết. Trong
những khoảnh khắc hiếm hoi khi chẳng có lệnh nào để thực hiện, tôi nhận
thấy rằng mình ngày càng lệ thuộc vào vợ vì chức năng hoạt động của tôi.
Nàng, chính nàng và chỉ có nàng mới có thể khiến chân tôi, cánh tay tôi, bàn
tay tôi và cả ngón tay tôi cử động. Khi nhận ra điều ấy, trong tôi một tình cảm
yêu thương mãnh liệt trộn lẫn lòng hàm ơn và tin cậy dâng lên.
Chúng tôi cứ sống với nhau như thế chừng một năm. Dần dà, qua một
số dấu hiệu, tôi thấy mối quan hệ kiểu này giữa chúng tôi, mối liên lạc chuẩn
xác và lệ thuộc nhau vì chức năng, đang trở nên xấu đi. Trước kia nó đã từng
là mối quan hệ giữa một người đánh máy và cái máy chữ, như tôi đã so sánh
ở trên, nhưng giờ đây, cứ mỗi ngày trôi qua, nó dần biến thành mối quan hệ
của vẫn cái máy đó với một người bán đồng nát. Có lẽ nàng đã nhận ra, cứ
làm tôi ngạt thở với những mệnh lệnh, vô tình nàng đã không thể khiển trách
tôi nhiều bằng giúp tôi được tồn tại, hoặc có lẽ nàng đã tìm được ai đó ghi
chép và thực thi mệnh lệnh của mình mẫn cán hơn tôi. Thực tế nàng bắt đầu
quên không giao nhiệm vụ cho tôi vào các buổi sáng trước lúc đi làm, mà điều
đó có nghĩa đã quên trao cho tôi những lời chỉ dẫn trong ngày như lệ thường.
Và vì thế, tôi càng ngày càng ngồi ì ra nhiều hơn trên chiếc ghế xô-pha quen
thuộc kê trong phòng khách, khoanh tay, gác chân, mắt nhìn chằm chằm vào
khoảng không, như một con búp bê thực sự với chiếc chìa khóa phía lưng và
dây cót trong ngực. Còn nàng như sống động hẳn lên, luôn luôn vội vã một
cách đầy khinh thị, nàng mặc áo quần chẳng thềm nói với tôi nửa lời, tự pha
cà phê cho mình, rồi chạy đi làm, thậm chí không buồn chào từ biệt. Nàng đi
suốt ngày, đôi khi cả đêm nữa. Trong thời kỳ đó, chẳng có ai gọi điện đến hay
bấm chuông ngoài cửa, và tôi không làm bất cứ công việc dọn dẹp lau chùi
nào, tôi bị đẩy vào nỗi hoài nghi vì lẽ nàng đã không hề ra lệnh phải làm. Còn
vấn đề ăn uống, tôi tuân theo những đòi hỏi thờ ơ và thi thoảng của dạ dày,
đấy là thứ lệnh duy nhất tôi còn được nhận, và rồi giải quyết chúng với mấy
món đồ hộp.
Cứ như thế, như thế, ngôi nhà của chúng tôi càng ngày càng biến
thành một nơi bỏ hoang và tăm tối, sàn không cọ rửa, đồ đạc lộn xộn, đĩa
tách bẩn trong bếp, giấy vụn quăng khắp các góc, áo xống vắt vạ vật trên
thành ghế, giường chiếu nhàu nhĩ. Rõ ràng nàng cũng nhìn thấy, nhưng ai
dám chắc trước cảnh đó nàng không nghĩ ngợi, có lẽ nàng muốn truyền cho
tôi qua tất cả những cảnh dơ dáy bẩn thỉu đó một mệnh lệnh, nhưng chẳng
biết vì sao tôi lại thất bại khi giải mã mệnh lệnh này. Vào những ngày chủ
nhật, nàng lưu lại nhà trong vài giờ, lau chùi và sắp xếp qua loa hai căn
buồng của chúng tôi.
Một buổi sáng, tôi tỉnh giấc thấy nàng đã chỉnh tề áo quần và đang im
lặng xếp va-li trên giường. Tôi quan sát nàng đi đi lại lại từ cái tủ đến va-li khá
lâu. Cuối cùng tôi nhận ra đấy là một mệnh lệnh, một mệnh lệnh cay đắng và
đau đớn, phải hỏi nàng xem cái gì đang xảy ra. Một thứ gì đó nổ bùng trong
tôi, lưỡi tôi chuyển động, qua cặp môi, thốt ra vài lời:
- Em làm cái gì thế?
Nàng quay lại nhìn tôi, sau đó tới ngồi xuống bên giường. Nàng nói:
- Tullio! Giờ là lúc chúng ta chia tay nhau. Em đã cố gắng để anh hiểu
bằng mọi cách có thể, nhưng anh cứ vờ như không biết, và vì thế em buộc
lòng phải nói cho anh hay. Cuộc hôn nhân của chúng ta đã chấm dứt. Em đã
tìm được một người yêu em và em cũng yêu người đó. Nói thật, em đã sống
với anh ấy hai tháng nay rồi nên em không thể tiếp tục ở đây được nữa. Anh
nhận thấy điều ấy dù đồ đạc của em ở đây chẳng còn lại bao nhiêu ngoài ít
quần áo cũ này và chiếc máy chữ. Giờ anh phải rộng lượng và giúp đỡ em
như mọi lần. Người em sẽ chung sống đang đợi em dưới phố. Anh hãy làm
ơn mang chiếc máy chữ này xuống và để nó vào xe anh ấy cho em. Đấy là tất
cả những gì em muốn.
Tôi cảm thấy một nỗi đớn đau khủng khiếp, một nỗi đau mà theo suy
tính của tôi và căn cứ vào tính mãnh liệt của nó, chắc chắn phải biến chuyển
thành một mệnh lệnh. Tôi ấp úng:
- Nhưng, nhưng anh không thể sống thiếu em!
Đấy là sự thật. Tôi không thể tồn tại nếu không nhận được mệnh lệnh
của nàng. Nhưng nàng lại hiểu lời tôi nói theo kiểu của mình.
- Thật bất hạnh - Nàng đáp - Nhưng em thì ngược lại, có thể sống rất
thoải mái mà không cần anh. Đúng là anh đã tự mình làm nhiều việc có ích,
nhưng trong cuộc sống vợ chồng, nội việc trở thành người hữu ích thôi chưa
đủ, anh còn phải trở nên cần thiết nữa. Giờ anh không cần thiết cho em. Em
có thể thay anh bằng một chiếc máy hút bụi chân không, hay một máy giặt,
hay một thiết bị tự động trả lời điện thoại.
Vì phải tiếp tục tuân theo một mệnh lệnh phát ra từ nỗi đau, tôi nói:
- Anh không thể để em ra đi!
Nàng đáp trả vẻ quả quyết:
- Nào! Đừng cư xử như trẻ con thế nữa. Hãy mặc quần áo vào, bê
chiếc máy chữ lên, mang xuống cầu thang, và đặt nó vào trong xe. Em sẽ tự
mình chuẩn bị va-li.
Lần đầu tiên kể từ khi chúng tôi chung sống, tôi phát hiện thấy mình
phải đối mặt với hai thứ mệnh lệnh, mà về một góc độ nào đấy, rất trái ngược
nhau. Một mặt, nỗi đớn đau ra lệnh cho tôi phải ngăn chặn việc ra đi của
nàng, mặt khác, nàng lại tự mình ra lệnh cho tôi mang chiếc máy chữ xuống
cầu thang. Tôi bắt đầu nghĩ xem mình phải làm cái gì đây trong lúc mặc quần
áo như nàng đã ra lệnh. Vợ tôi vẫn đi đi lại lại, sau đó nàng đóng va-li và tới
bên chiếc gương, quay lưng lại phía tôi. Và thế là khích động nổi lên. Tôi nhảy
đến bên nàng hét lên:
- Em không thể bỏ anh!
Tôi bóp chặt cổ nàng. Tất cả mọi thứ xảy ra dễ dàng, chính xác và vô ý
thức. Khi thấy nàng lả đi và bắt đầu khuyu xuống, gần như khiến tôi muốn té
ngửa, tôi lôi nàng lên giường, đặt nằm ngửa, tay duỗi dài.
Bây giờ là lúc tôi thực hiện mệnh lệnh kia. Tôi bê chiếc máy chữ cho
vào hộp, mang ra khỏi phòng và theo thang máy đi xuống. Chiếc ô-tô vẫn đậu
ở đó, ngay trước cửa. Nhưng tôi không thể nom thấy mặt người lái xe vì kính
xe chói nắng. Tôi đi vòng ra thùng xe, mở nắp và đặt máy chữ vào đó. Rồi tôi
lại theo cầu thang đi lên phòng, ngồi xuống ghế xô-pha, khoanh tay, gác chân,
mắt nhìn chằm chằm vào khoảng không, đợi lệnh.
THIÊN SỨ
Chúng tôi quen nhau ở trường đại học tổng hợp, nơi tôi theo học ngành
toán, còn cô ấy theo ngành tâm lý. Sau một thời gian dài quen biết, một cách
ngắn gọn, tôi ngỏ lời và cô ấy đã đồng ý. Ngay sau ngày cưới, chúng tôi về
sống ở một miền quê. Và khoảng chừng hai năm saư, đứa bé đầu lòng,
Cẹlestina, thiên sứ bé bòng của hai chúng tôi chào đời.
Tôi còn nhớ rất rõ Celestina đã chập chững những bước chân đầu đời
như thế nào. Cho đến tận ngay hôm đó, cô bé vẫn còn đứng bất động trong
chiếc cũi mạ kẽm, đứng bất động nhưng không hề im lặng. (Cô bé có một
giọng nói vui nẻ, kêu tích tắc êm dịu và chính xác). Thế rồi bất ngờ, ngay khi
chúng tôi gắn bộ bánh xe vào, cô bé thình lình đứng dậy và đi xuống sàn. Tôi
và vợ nép vào nhau nín thở, Celestina tiến ra phía cửa với một dáng vẻ quả
quyết. Nhưng một chiếc ghế đã chặn mất đường đi và cô bé phải dừng lại. Có
một thoáng cô bé không cử động, thế rồi điều mới lạ đã xảy ra, ấy là
Celestina trở nên cáu kỉnh. Chúng tôi nghe thấy một âm thanh leng keng như
thiếc chạm nhau và đám thiết bị của cô rung lên bần bật. Cô bé lại bước đi,
đầu đâm sầm vào chiếc ghế. Cô ngã ngửa, và khi đổ xuống, ít nhiều mảnh vỡ
ra. Trên sàn nhà xung quanh la liệt những đai ốc, đinh vít, cùng dây dợ và
đinh tán. Hai vợ chồng tôi lao tới bế Celestina trở lại chiếc cũi và phải mất bốn
giờ đồng hồ để lắp lại mọi thứ cho cô. Dần dà, khi công việc bắt đầu có kết
quả, chúng tôi nhận thấy một âm thanh u u liên tục cùng những cơn rùng
mình mạnh mẽ. Celestina đang suy nghĩ. Cô bé đang nghĩ gì thế nhỉ? Chẳng
bao lâu chúng ta sẽ biết. Vừa đúng lúc chúng tôi xiết xong cái đai ốc cuối
cùng, Celestina lại nhảy ra khỏi cũi và quả quyết lao về phía đối thủ của mình.
Lần này, chẳng biết sao, cô bé dừng lại trước nó một khoảng ngắn, đứng yên
một lát, rồi lùi lại phía sau đi vòng sang trái. Và cuối cùng hân hoan chiến
thắng tiến ra cửa. Tôi mô tả sự việc này thật kỹ để thấy Celestina đã chứng
minh được mình có ba khả năng quan trọng và chúng đều ở mức độ cao
nhất. Đấy là óc quan sát, trí nhớ và năng lực tổ chức các hành vi ứng xử.
Nhờ có khả năng thứ nhất mà cô bé đã thấy được nguyên nhân khiến mình
phải bối rối; nhờ khả năng thứ hai, cô đã ghi nhớ nó; và cuối cùng, nhờ khả
năng thứ ba, cô đã có được kinh nghiệm để hành động theo một cách thức
hợp lý.
Sau sự việc này, một vài năm trôi qua, và chúng tôi nhận thấy, bằng
cách này hay cách khác, Thiên sứ bé bỏng đáng yêu của vợ chồng tôi đã đạt
được vô số tiến bộ. Nhưng đầu tiên, tôi bị bất ngờ trước sự khiêm tốn trong
những nhu cầu dinh dưỡng của Celestina. Cô bé được nuôi dưỡng bằng gì?
Ở một góc độ, con người là một sáng tạo của Thượng đế, và cô bé được nuôi
dưỡng nhờ thức ăn của những thiên thần, đấy là ánh sáng. Khi thời tiết đẹp
chúng tôi chỉ cần mỡ toang cánh cửa căn buồng có kê chiếc cũi cho cô bé.
Ngay tức thì, cô chuỗi xuống đất, tới ngồi một mình giữa ánh sáng mặt trời.
Cô bé nồi đó, im lặng và bất động để những bộ pin của mình được dần dần
nạp đầy, đầy đến no nê. Cô bé hấp thụ ánh sáng khoảng ba bốn giờ đồng hồ
và tất cả thái độ của cô như toát ra một tấm lòng khiêm tốn đầy hàm ơn khiến
tôi muốn ứa nước mắt. Thì tác dụng đơn thuần của phản ứng quang điện, có
thể nói như vậy, sự hoạt động bình thường của một quá trình đã được qui
định. Điều đó có thể đúng là thế. Tuy nhiên, sao người ta lại có thể quên
không nhìn thấy trong làn ánh sáng mặt trời kia, Celestina đã khát khao thế
nào, và đấy thực sự là biểu tượng sống động, toả ánh sáng tinh thần hoàn
toàn cao quí, ánh sáng tinh thần mà... Thôi không sao. Cũng không nên nghĩ
nhiều về những người như thế. Nếu thời tiết xấu như mưa chẳng hạn chúng
tôi bật chiếc đèn lớn trong phòng làm phim lên và Celestina hấp thụ ánh sáng
ở luôn đó, chẳng cần phải bước ra khỏi chiếc cũi. Và cũng rất kỳ lạ là cô bé
luôn bướng bỉnh từ chối hấp thu thứ ánh sáng từ những cái đèn nê-ông. Sau
khi nhận đủ ánh sáng, Celestina lui vào trong bóng tối hoặc những nơi tranh
tối tranh sáng, đấy là lúc dành cho những trò chơi và các thuật toán.
Tôi thường đặt bàn cờ trước mặt cô bé và chúng tôi cùng chơi với
nhau. Celestina là một đấu thủ bền bỉ, bền bỉ ngay cả sau hai mươi ván liên
tục. Nhưng vì trời phú cho cô một trí nhớ mạnh hơn cả khả năng tưởng tượng
nên cô thường chú tâm nhiều đến việc không lặp lại những bước đi sai lầm
hơn là dũng cảm sáng tạo ra những bước đi mới để có thể đảm bảo cho
thắng lợi. Luôn tỏ ra đầy uy quyền và tin tưởng vào việc không thể sai lầm
của bản thân, cô bé luôn giành phần thắng. Nhưng cũng không chỉ một lần,
khi thấy mình bị chiếu hết cờ, cô bé hủy bỏ cuộc chơi với lý do pin của mình
đã cạn và cần phải đi ra chỗ có ánh sáng mặt trời.
Bên cạnh khả năng chơi cờ, Celestina còn tỏ ra đặc biệt xuất sắc khi
tham gia giải những câu đố và chơi trò ô chữ. Tôi thường đọc cho cô bé nghe
những câu đố này từ những trang báo có in trò đố vui của vài tờ báo tuần và
chỉ trong nháy mắt, cô đã đưa ra lời giải. Cuối cùng, với chiếc bút chì và tờ
giấy, tôi thử tài năng làm toán của cô. Và thực là kỳ diệu, có thể nói tài năng
ấy còn tăng lên hàng ngày. Năm lên mười, Celestina đã có thể giải những bài
toán cực kỳ phức tạp chỉ trong ít phút, những bài toán mà mười nhà toán học
như tôi phải làm việc cật lực trong vài tháng. Cứ thế, toán học, chơi cờ, giải
câu đố chữ, thời gian trôi đi. Năm tháng đi qua trong tình thân mật, hạnh phúc
thẳm sâu, quấn quít vui vầy và không có gì đáng nghi ngại.
Thế nhưng, ở trên cái thế gian này tất cả mọi thứ đều đi đến chỗ kết
thúc. Ở tuổi dậy thì, Celestina đã có thay đổi trong tâm tính. Celestina đáng
thương, qui luật tự nhiên đã hành hạ cô mà chính bản thân chẳng biết vì sao
phải chịu đựng và không chỉ có thế, cô còn phải chịu đựng tới hơn hai lần.
Một vài buổi tối, khi đi xem phim về, hai vợ chồng tôi ngó vào căn buồng để
hôn cô trước lúc đi ngủ như thường lệ, nhưng chúng tôi chi thấy chiếc cũi
trống không. Chúng tôi lao đi tìm cô khắp trong nhà, ngoài vườn, rồi khắp mọi
nơi, và cuối cùng, phát hiện thấy cô đang ngồi trên mỏm một quả đồi nhỏ. Cô
đang lặng lẽ ngắm khoảng đất bằng phẳng trải ra phía trước, cô như chìm
vào ánh sáng bàng bạc và tĩnh lặng của đêm mùa trăng. Hoặc có những thời
kỳ thật khó hiểu cô bé luôn luôn thờ ơ với việc hấp thụ ánh sáng. Celestina đi
đâu đó ba bốn ngày liền không ăn không uống, tránh xa ánh sáng, nằm bẹp
trong một góc nhà tối tăm, u sầu và lấm lét như một con gián. Càng ngày cô
bé càng hay thua trong những ván cờ, sai lầm trong việc giải các câu đố,
thậm chí còn mắc những lỗi rất hiển nhiên khi làm toán. Nhưng tồi tệ và đáng
thất vọng hơn cả là Celestina không hề nhận thấy những lỗi này, không sửa
chữa cũng chẳng buồn nhớ đến chúng. Thay vào đó, cô liên tục vấp phải, hết
lần này qua lần khác, chậm hiểu và đần độn. Ở góc độ một người, cũng như
theo lối mòn dành sẵn cho tất cả loài người, Celestina, một nạn nhân với cơn
khủng hoảng kỳ quặc của chính mình, đã mất hết ký ức.
Đến lúc này vợ tôi phải can thiệp. Là một nhà toán học, bản thân tôi
nghiêng về quan điểm cho rằng cơn khủng hoảng của Celestina khởi nguồn
từ một lầm lỗi nào đó trong cấu trúc nhưng vợ tôi với tư cách một nhà tâm lý
ngay lập tức nhúng tay vào, phải thừa nhận là thế. Sau khi cố gắng một cách
tuyệt vọng nhằm thay đổi và tháo gỡ những vướng mắc trong tâm lý cô bé
bằng cách chọc chọc ấn ấn những cái nút, như kiểu người ta sửa chữa máy
điện thoại dùng những đồng xu tự động, vợ tôi tự mình đóng cửa lại và bắt
đầu công việc trắc nghiệm tâm lý khá lâu. Kết thúc, cô ấy bước ra với một
phát hiện gây chấn động, rằng Celestina bị căng thẳng thần kinh, và ca bệnh
này rõ là xuất phát từ mặc cảm Ơ-đíp. Nói cho rõ hơn, mặc dầu cô bé hoàn
toàn trong sáng và vô ý thức, cô đã rơi vào dòng tình cảm yêu đương với tôi,
tức là cha nó. Vợ tôi kết luận:
- Chính sự thân mật quá mức của một mình anh với con bé hết năm
này qua năm khác đã gây hậu quả thế đấy. Em đã đoán trước điều nay.
Nhưng không sao. Cái chúng ta phải làm ngay lập tức là thay đổi tình cảnh
này.
Nghe thế, tôi hỏi cô ấy là nên làm gì bây giờ. Vợ tôi đáp:
- Tìm ngay cho con bé một tấm chồng, phải ngay lập tức để nó có thể
quên anh và thôi không nghĩ ngợi về anh.
Tim chồng cho Celestina ư? vấn đề ấy hình như cũng dễ. Nhưng rồi
chẳng mấy chốc đã xuất hiện đôi chút khó khăn. Khó khăn vì, như người ta
thường nói "phải một người nào đó". Cô bé đã được dưỡng dục trong một
môi trường văn hóa, mà xét theo quan điểm hàn lâm, là rất cao cấp, cũng như
được sống trong những điều kiện hết sức phong lưu, tuy không hẳn là giàu có
nhưng đã quen với những giao tiếp thanh nhã. Người cô bé cần phải ngang
bằng, nếu không nói là hơn so với bản thân cô.
Sau cuộc thảo luận và tìm kiếm hết sức kỹ lưỡng, hai chúng tôi đi đến
kết luận ở nước Italia này, một đất nước tụt hậu trong lĩnh vực điều khiển học,
không thể có một chú rể đáng giá cho Celestina, và vì thế, chúng tôi để ý
khắp nơi, đặc biệt là nước Mỹ. Rút cuộc rồi cũng tìm ra một người đáp ứng
được những yêu cầu của chúng tôi. Anh chàng tên là Tictac, sống ở Chicago,
là nơi anh ta được sinh ra và lớn lên. Tôi sẽ tự giới hạn chỉ đưa ra một vài dữ
liệu để có thể hình dung ra anh ta là loại người nào. Chiều dài: mười hai mét
tây; cao: hai mét tây; mười bảy ngàn bóng điện tử, bốn trăm mét dây dợ; tổng
cộng diện tích bề mặt: hai trăm mét vuông.
- Không còn mặc cảm Ơ-đíp hay thần kinh gì hết. - Tôi bảo vợ - Rồi em
sẽ thấy mọi sự, ngay khi Celestina gặp anh chàng Hoa kỳ trẻ tuổi này tất cả
khúc mắc của con bé sẽ biến mất như phép thần vậy.
Tôi viết thư cho cha Tictac, ông cũng là một nhà khoa học nổi tiếng và
thêm vào lời cầu hôn những thông tin thích hợp. Sau đó tôi nhanh chóng
nhận được thư phúc đáp. Celestina đã được chấp thuận, Tictac rất vui khi
xem ảnh cô bé. Nhưng dù sao, với một trọng lượng khổng lồ, một sự phức
tạp đến kinh hoàng của chú rể tương lai, cha của Tictac có ý kiến, Celestina
người nhẹ hơn, nhỏ hơn và đơn giản hơn phải làm cuộc hành trình sang Hoa
kỳ. Tôi đáp điều ấy hoàn toàn đúng và yêu cầu một người thợ mộc trong vùng
đóng chiếc hòm có đệm lót cho Celestina. Nhưng vào thời điểm này, một
thảm họa đã xảy ra.
Celestina biến mất. Chiếc cũi mạ kẽm trống không, căn buồng cũng
trống không. Không một vết gì của cô bé ngoài vườn trong nhà và cả vùng
nông thôn lân cận. Tuy vậy có một đầu mối, mong manh nhưng lại đầy ý
nghĩa, đấy là việc biến mất đồng thời cái bình nóng lạnh cổ lỗ sĩ, han gỉ và cũ
nát của chúng tôi. Vì thế, rút cuộc, chúng tôi hiểu ra Celestina đã giấu chúng
tôi, bắt đầu một chuyện tình ái với cái bình nóng lạnh, một cá thể có bản tính
nồng nàn và khuynh hướng làm nước trở nên quá nóng. Khi thấy tôi có ý
muốn gả cô cho Tictac, cô đã bỏ trốn cùng gã tình nhân.
Hậu quả của việc này rõ ràng thật đau lòng. Việc phá hủy cuộc hôn
nhân với Tictac thật bẽ mặt, một vụ xì-căng-đan tình ái, có Chúa mới biết báo
chí sẽ làm um lên thế nào, rồi một cuộc nghiên cứu gây đau khổ cho
Celestina nữa. Con gái chúng tôi đã đến tuổi trưởng thành, nên chúng tôi
không thể tố cáo gã nóng lạnh kia về tội quyến rũ và bắt cóc một vị thành niên
được, mặc dù đấy là điềụ cả hai chúng tôi rất muốn làm. Tất cả những gì
chúng tôi có thể làm chỉ là mở một cuộc tìm kiếm hai kẻ chạy trốn vì tình. Cuối
cùng chúng tôi cũng tìm thấy. Nơi chúng lẩn trốn thật đáng chú ý, nơi ấy làm
cho tâm lý đám thanh niên trẻ ngày hôm nay khó tiêu hóa. Thực tế, đấy chẳng
phải là một nơi đẹp thơ mộng gì, bãi biển hay trong núi, ngược lại, chúng tôi
tìm thấy chúng ở một nghĩa địa dơ dáy xếp những chiếc ô tô vô chủ, ngoại vi
thành phố Rome, vùng Via Cassia.
Dưới đây là những lời nói của người trông coi cái nghĩa địa ấy, một
người ít học thức nhưng có lẽ luôn thẳng thắn:
- Hình như chúng đã chạy trốn cùng nhau và gã kia đã cưỡng bức con
bé. Con bé đã đính hôn với một người khác. Chúng lần mò đến đây và hình
như rất quyến luyến nhau. Chúng tự trốn ở đằng kia, giữa những đống sắt
vụn. Nhưng gã tình nhân không được khoẻ lắm, gã đã nhiều tuổi và rất hom
hem. Ở vào cái tuổi của gã không nên quan hệ với bất cứ ai trẻ trung như thế.
Thế rồi rút cục gã hoen gỉ và vỡ tung ra từng mảnh, trở nên hoàn toàn vô tích
sự. Những người công nhân gỡ gã, lấy đi những bộ phận còn đôi chũt hữu
ích và để trơ lại một khung xương. Còn về phần con bé, tôi cho rằng nó mang
thai đã lâu rồi, và có lẽ đấy cũng là lý do khiến nó chạy trốn. Con bé cho ra
đời một quái thai không hề có những bộ pin nên không thể hấp thụ ánh sáng
và đã chết ngay khi chào đời. Ngài sẽ không tin, nhưng cái chết của gã tình
nhân và đứa con không hề gây một ấn tượng nào cho con bé hết. Thực tế, nó
đã bắt đầu ngay lập tức một cuộc sống thực đáng hổ thẹn, đặc biệt khi ngài
nghĩ rằng nó là một cô gái được dưỡng dục chu đáo. Ngài có thấy khúc
đường ngoặt đằng kia không? Đấy, nó đứng ở đó và bắt những chiếc xe phải
dừng lại khi chúng giảm tốc độ qua đoạn đường cong. Đấy, đấy, thưa ngài
kính mến, đạo đức là một món thuộc về quá khứ mất rồi.
Cuối cùng, chúng tôi bế Celestina về nhà. Chúng tôi đặt cô bé vào
chiếc cũi và mất liền hai tháng trời làm việc với cô. Nhưng cố gắng ấy chỉ
mang lại một kết quả thật phiền muộn. Celestina lấy lại được tất cả năng lực
làm toán và trí nhớ, hay ít nhất cũng gần như thế, chỉ trừ khả năng di chuyển.
Celestina không bao giờ rời khỏi chiếc cũi nữa và cô bé chỉ sống dựa vào duy
nhất một thứ ánh sáng nhân tạo. Cô đã mất hết niềm say mê khám phá thế
giới bên ngoài. Vì thế, tôi quyết định tháo bộ bánh xe mà giờ đây chúng đã
thành vô tác dụng ra khỏi cô bé, và khi làm như thế đã hạ thấp vị trí của cô
xuống thành một cỗ máy chỉ làm mỗi việc là suy nghĩ. Hơn nữa, bạn đọc chưa
hay rằng chúng tôi đã có một chiếc bình nóng lạnh mới, kiểu hiện đại nhất, rất
trẻ trung và nhạy cảm. Do vậy tôi chẳng hề muốn Celestina biết đi và có thể
tìm thấy anh ta một ngày nào đó khi chúng tôi vắng nhà, rồi lại nảy sinh tình
cảm với anh ta.
TRUNG BÌNH
Ngay lập tức tôi thấy thoải mái trong ngôi nhà mới. Đó là căn hộ ba
buồng, trên tầng hai một toà nhà hiện đại xây cất trong khu vực ngoại ô lớn và
yên tĩnh. Tôi hài lòng, nói chính xác vì căn hộ này không giống bất cứ căn hộ
nào, do nó thực sự là của tôi, đúng như sở thích và hình dung. Cũng vì thế,
có thể nói nó còn là duy nhất nữa, bởi lẽ làm gì có hai kẻ cùng một sở thích?
Tôi bỏ ra hàng tháng trời sửa sang tiện nghi, mua sắm đồ đạc, từ vật nhỏ
nhất với một chú tâm đặc biệt. Rồi hai tháng sau, tôi được dịp thưởng ngoạn
chúng với lòng thoả mãn sung sướng mê ly không biết mệt. Cũng như đôi khi
tự chiêm ngưỡng khuôn mặt mình trong gương - khuôn mặt này cũng là duy
nhất bởi vì nó chính là tôi, tôi có lòng thoả mãn như thế!
Hơn nữa, cũng như căn hộ, tôi còn yêu thích tòa nhà. Nó không quá
mới cũng không quá cũ, trung bình, xây theo một lối khó xác định. Đường phố
có những cây trúc đào đang ra hoa, tầng một có những cửa hàng hiện đại với
những đặc điểm dễ gây chú ý, những ô cửa to: tiệm bán thuốc lá, tiệm hớt
tóc, bán nước hoa, bán đồ ăn ngon, tiệm bánh mỳ, cửa hàng văn phòng
phẩm. Đối diện với cửa sổ căn phòng tôi, phía bên phải là một cửa hàng bán
hoa tươi. Người ta có thể nhìn qua cửa sổ thấy lờ mờ những cây, chậu cao
thanh mảnh nở đầy hoa, vòi phun nước nhỏ để tô điểm thêm. Người bán
hàng là một cô gái cao, ngăm đen, xinh xắn và có thân hình cân đối. Nàng
trông không quá hai mươi lăm, cử chỉ chậm rãi, những bước đi vẻ thầm lặng.
Nàng chỉ có một mình. Nàng tới bán hàng vào buổi sáng, mở cửa cuốn, đi đi
lại lại bầy hoa rồi ngồi đợi khách. Hầu như suốt buổi nàng ngồi sau quầy đọc
những tờ tranh truyện vui. Nhưng nàng cũng thường xuất hiện bên khung
cửa, tư lự nhìn ra phố, nơi chẳng có gì để ngắm, cũng chẳng có gì xảy ra.
Ngay lập tức tôi để ý đến nàng. Hiện giờ đang đầu tháng Chín, bạn bè
đều đi nghỉ nên tôi chỉ ở nhà, và rốt cuộc tôi dành phần lớn thời gian để quan
sát nàng.
Tôi ngồi làm việc bên bàn, viết một bản tin công nghiệp, nhưng chốc
chốc, cứ mười phút tôi lại đứng dậy đi đến cửa sổ nhìn qua bên hàng hoa.
Dưới kia là nàng đang ngồi sau quầy, mái đầu thẫm màu cúi xuống bên tờ
truyện vui, hoặc giả nàng đang tựa mình bên khung cửa. Tôi ngắm nàng một
lát rồi quay lại với công việc.
Cuối cùng tôi có một ý kiến: để thu hút sự chú ý tôi dùng gương chiếu
những tia sáng mặt trời lên nàng. Với tôi đây đúng là một suy nghĩ độc đáo và
hoàn toàn mới mẻ. Vậy là với một chiếc gương bỏ túi tôi bắt đầu đưa ánh
nắng vào cửa hàng hoa. Đầu tiên tia nắng luồn qua tấm cửa sổ, rồi biển hiệu
và cuối cùng, như một sợi chỉ sau biết bao cố gắng để xuyên qua lỗ kim, tia
sáng lách qua khung cửa hẹp, dừng lại, như một bàn tay mơn trớn vuốt ve
mái đầu đang cúi xuống của nàng. Tia nắng lưu luyến trên mái tóc nàng một
lát, trườn qua cánh tay để trần, xuống tờ báo, dừng lại, chốc chốc lại lắc nhè
nhẹ. Cô gái tiếp tục đọc một chút rồi ngửng lên nhìn qua cửa. Phát hoảng về
sự thô lỗ tôi vội vàng rút lui vào phòng.
Nhưng lát sau tôi lại đứng dậy đến bên cửa sổ. Cô gái đang đứng tựa
cửa, mắt nàng như dán vào con phố. Tôi lại chiếu ánh nắng vào nàng. Rồi đột
nhiên tôi quyết định điểm một chấm sáng lên khuôn mặt nàng. Lần này nàng
ngước mắt nhìn tôi, mỉm cười. Tôi cười đáp lại, ra dấu: Lên đây, tới phòng tôi!
Cô gái lưỡng lự rồi ra dấu đáp lại: Được, nhưng lát nữa nhé. Tràn đầy
vui sướng trước thành công quá nhanh tôi chỉ đồng hồ và hỏi nàng: Khi nào?
- Nàng đáp lại bằng cử chỉ: Lúc 12 giờ 30 phút. Lúc này là 11 giờ. Tôi vẫy cô
gái rồi đi vào phòng. Tôi quay một vòng như múa balê, xoa tay đi tới gương
ngắm nghía và tự thưởng cho mình một cái hôn.
Giờ đây thật khó lòng tiếp tục công việc. Cứ năm phút tôi lại nhìn đồng
hồ, đứng dậy tới bên cửa sổ. Cô gái vẫn ở đó, ngồi sau quầy cắm cúi đọc. Có
một lần tôi quan sát nàng chọn hoa hồng cho một người đàn bà. Thân hình dễ
thương của nàng ngả ra trước, cánh tay để trần khoẻ mạnh thận trọng giữa
những đoá hoa, rút một bông đưa cho khách. Tôi ngẫm nghĩ nàng quả là một
cô gái quyến rũ nhất, nhưng có một điều gì đó không ổn khi nàng chấp thuận
lời mời một cách dễ dãi và bí ẩn.
12 giờ 25 tôi tới bên cửa lần cuối. Cô gái đang thu dọn những bông hoa
vẻ chậm rãi, điềm tĩnh và trịnh trọng. Tôi nhìn nàng bước ra ngoài, bình tĩnh
hạ cửa cuốn. Tôi nhìn nàng băng qua đường và biến mất sau cửa chính vào
toà nhà.
Khoái trá, tôi chạy ra tiền sảnh đứng sau cánh cửa. Tôi hài lòng nhận
thấy một cây lớn thuộc họ sung mua hôm trước tạo vẻ đẹp trong góc giữa hai
cánh cửa. Hơn nữa, trước đó đáo mắt qua tôi cũng nhận thấy buồng khách
của mình thật hiện đại theo kiểu Thụy Điển. Căn hộ quả là trang nhã, độc đáo,
và tôi chắc rằng nó sẽ gây ấn tượng tốt cho cô gái.
Cuối cùng tôi nghe thấy tiếng thang máy giật khựng rồi dừng lại, tiếng
cửa thang mở ra, đóng lại, tiếng gót chân ở hành lang ngoài. Im lặng một lát,
chuông reo vang. Tôi đi nhón chân trở lại phòng khách, tránh gây ấn tượng
đang đứng đợi sau cánh cửa. Rồi tôi quay ra, cố gây tiếng động và mở cửa.
Tôi hơi thất vọng. Nhìn từ xa nàng có vẻ xinh, nhưng gần hơn mọi
người có thể thấy nàng chỉ trẻ trung và dễ mến. Nàng đen, phần dưới khuôn
mặt hơi tròn, miệng rộng, mũi khoằm và cặp mắt to đen vẻ hiền lành như mắt
loài bò ăn cỏ. Khi bước vào nàng nói giọng hiền hậu pha lẫn tiếng địa
phương:
- Tôi không nên tới đây. Tôi chỉ muốn lên chào ông, ông biết đấy chúng
ta là hàng xóm mà, coi như để làm quen.
Cô thứ lỗi cho tôi. Nhưng nếu không có phát kiến về cái gương tôi thực
sự không biết làm thế nào để quen cô.
Tôi nhận thấy nàng hơi nhún vai. Nàng đáp:
- Đầu tiên tôi nghĩ đó là ông kỹ sư, rồi đó tôi mới nhận ra ông.
- Ông kỹ sư nào?
- Ông kỹ sư sống ở đây trước ông. Ông ấy cũng bắt đầu như thế, bằng
cách làm chói mắt tôi. Hay có lẽ chính ông ta đã gợi ý ông chơi trò chơi lôi
kéo sự chú ý của tôi?
- Không. Thực sự tôi không biết ông ta.
- Xin lỗi nhé, nhưng mọi sự thường xẩy ra như vậy.
Nàng đi trước, vẻ thân thiện và nói hơi nhiều. Tới cửa nàng dừng lại:
- Tại sao mọi thứ ở đây vẫn như hồi trước nhỉ? Hay khi ông nhận căn
hộ nó đã có sẵn mọi thứ đồ đạc?
Lần này tôi nghĩ một lát trước khi trả lời. Hình như có một điều gì đó bất
ngờ xuất hiện giữa tôi và cô gái, một điều xa lạ, bối rối, dễ gây tổn thương,
cũng khó định nghĩa. Thế rồi tôi đáp:
- Không, căn hộ không đồ đạc. Chính tôi là người mua sắm chúng.
- Ồ, quả là một sự trùng hợp. Ở tiền sảnh trước đây cũng có một cây to
như thế kia, nhưng có lẽ nhỏ hơn một chút. Nó thuộc họ sung phải không?
- Đúng.
- Ông kỹ sư luôn lo lắng cho nó. Ông ấy còn bảo rằng phải tưới cho nó
một tuần hai lần.
Về vấn đề này tôi tự hỏi, có nên chăng? Bởi lẽ cô gái đã nhận ra vẻ đẹp
của cái cây thì tôi cũng không nên nói thêm nữa. Nhưng tôi lưỡng lự vì không
thể tống ý nghĩ đó ra khỏi đầu. Cô gái tiếp tục:
- Tôi muốn nói kỳ lạ sao! Ông kỹ sư cũng có bức tranh này.
Thật bực mình, tôi lưu ý nàng:
- Nghệ thuật trừu tượng thoáng nhìn có vẻ giống nhau, nhưng thực
không phải vậy.
Chúng tôi đi vào phòng khách. Cô gái vỗ tay vẻ vui mừng.
- Sao thế nhỉ? Phòng khách cũng vậy, cùng một thứ đồ đạc. Có lẽ chỉ
việc bầy biện là khác nhau một chút ít.
Lần này tôi im lặng. Cô gái tới ngồi xuống ghế xô-pha, bắt chéo chân và
bắt đầu cởi ngực áo khoác rộng lùng thùng. Nàng có vẻ vui, và rõ ràng nàng
chờ đợi chuyện làm tình với tôi. Tôi định bật máy quay đĩa, nhưng rồi đổi ý
bước tơi tủ, nơi để rượu khai vị và ly tách. Thế rồi một lần nữa tôi nghĩ tốt hơn
nên đến ngồi với nàng. Tôi nói:
- Tôi có thể hỏi cô vài câu chăng?
- Vâng!
- Lần đầu cô tới đây, ông kỹ sư đã đặt một đĩa hát vào máy, phải
không?
- Vâng! Tôi nghĩ ông ta đã làm thế.
- Rồi ông ta mời cô một chút gì đó, rượu mùi hoặc rượu khai vị chẳng
hạn?.
- Vâng ông ta mời tôi uống vec-mut.
- Và rồi ngay lập tức ông ta ngồi xuống bên cô?
- Đúng, ông ta ngồi xuống, nhưng sao?
- Nào. Rồi ông ta bắt đầu làm tình với cô?
Với câu hỏi này nàng lộ vẻ bối rối:
- Xin lỗi. Nhưng tại sao ông muốn biết những điều này?
- Đừng bận tâm. Tôi không hỏi cô những câu hỏi hớ hênh đâu. Tôi chỉ
muốn biết những tình tiết có thể gọi là bên ngoài thôi. Ông ta làm tình với cô,
điều đó dễ hiểu.
Tôi ngẫm nghĩ rồi tiếp tục:
- Hãy nói cho tôi. Để làm cho mọi thứ tự nhiên và không quá lộ liễu, vào
lúc nào đó ông ta không đề nghị xem những đường chỉ trên tay cô?
Nàng phá lên cười:
- Vâng, hoàn toàn đúng. Nhưng làm thế nào ông đoán được? Ông phải
có máu phù thủy trong người.
Tôi muốn đáp đó chính là những gì tôi sắp làm nhưng không đủ can
đảm. Tôi nhìn thấy hình như quanh nàng có cái gì đó thật nguy hiểm, không
thể vượt qua như cái toả ra quanh điện cao thế. Thực tế, tôi không thể làm
cũng như nói cho nàng bất cứ điều gì ra ngoài những điều người kỹ sư đã nói
và làm. Và tôi cũng như nhìn thấy người kỹ sư chỉ là cái đầu tiên của một dãy
vô tận những tấm gương cạo râu; những tấm gương trong tầm nhìn được, tôi
trông thấy chính tôi. Cuối cùng tôi hỏi:
- Hãy nói cho tôi biết ông kỹ sư có giống tôi?.
- Theo ý nghĩa nào?
- Hình thể chẳng hạn.
Nàng nhìn tôi khá lâu rồi nói:
- Vâng. Theo một cách nào đó, các ông giống nhau, điều trung bình.
- Trung bình?
- Vâng, không xấu cũng không bảnh, không cao không thấp, không già
không trẻ, tóm lại: trung bình.
Tôi không thốt lên lời, tự nhủ một cách tuyệt vọng, cáu kỉnh phiền muội
rằng cuộc phiêu lưu này nên chấm dứt. Cô gái này giờ đây là một điều cấm
kỵ với tôi.
Điều duy nhất phải làm là tìm cách sao cho lịch sự tống khứ đi cho
rảnh. Cô gái như biết được sự thay đổi trong thái độ của tôi, nàng dò hỏi nghi
ngại:
- Có vấn đề gì vậy? Có gì không ổn chăng?
Tôi cố gượng hỏi nàng:
- Theo ý cô thì có rất nhiều đàn ông như tôi và ông kỹ sư?
- Vâng. Biết nói thế nào nhỉ? Ông là một trong số đó.
Tôi lúng túng. Đột nhiên cô gái kêu lên:
- Bây giờ thì tôi đã hiểu. Ông phiền lòng khi tôi nói ông trung bình, phải
không?
- Không phiền lòng, mà nên nói tôi bị tê liệt.
- Tê liệt à, tại sao?
- Thế này nhé: tôi làm những điều mà tất cả mọi người đều làm, vì vậy
tôi chẳng thiết làm gì nữa.
Nàng tìm cách an ủi:
- Nhưng ông sẽ không cảm thấy tê liệt với tôi. Ngoài ra tôi thề với ông
tôi thích những người đàn ông như ông hơn, những người không tách mình
ra khỏi đám đông, và người ta luôn biết trước những điều họ sắp nói và làm.
- Được rồi. Tôi có vài việc phải làm. Hãy thứ cho tôi nhưng tôi phải
hoàn thành chúng gấp.
Chúng tôi đi qua sảnh. Cô gái không lộ vẻ gì đau đớn quá, nàng mỉm
cười:
- Xin ông đừng giận, vả chăng ông cũng xử sự như ông kỹ sư.
- Ông kỹ sư đã làm gì?
- Khi tôi nói với ông ta rằng ông ta chỉ như người đàn ông khác, ông ta
nổi giận, cũng như ông bây giờ, đuổi tôi ra khỏi cửa.
ĐA THỊ
Tôi âu lo về năng lực nhìn được nhiều thứ cùng lúc đang ngày một phát
triển, và trở thành không kiềm chế nổi. Từ vài năm trước phạm vi nhìn của tôi
đã trở nên rộng, sâu không tưởng tượng được, và tôi đã nhìn nhiều hơn cần
thiết. Để hình thành khả năng này, tôi hiểu đối tượng nhìn ngày một kém đi,
hay đúng hơn, tôi nhìn được quá nhiều thứ trong khi nên chọn một trong số
đó, dừng lại, hiểu nó, suy xét về nó.
Câu chuyện bắt đầu như thế này. Một hôm khi đang dạo phố tôi nghe
thấy rõ ràng tiếng gọi: "Lucio!". Tôi đứng lại, ngước mắt và thấy mình đang
ngó trân trân vào mặt trước một toà nhà rất hiện đại, tất cả cửa kính đều màu
xanh, khung thép màu nâu. Đưa cặp mắt đi du ngoạn khắp bề mặt bóng
nhoáng nhoàng, tôi chợt thấy mình nhìn được cùng lúc mọi điều đang diễn ra
sau tất cả ô cửa kia. Ngay lập tức tôi cảm thấy sự đa thị này đáng chú ý, vì
chí ít nó gây bối rồi. Từ khi nhìn được "mọi thứ", thực tế tôi không thể tách ra
hay phân biệt được bất cứ điều gì. Này nhé, ở trên kia sau cái cửa có những
ô vuông, một người đàn bà đang ngồi bên bàn đánh máy chữ trong khi một
người đàn ông vừa đi đi lại lại, vừa đọc cho cô ta. Xa hơn nữa, một người
đàn ông và một người đàn bà đang hôn nhau điên cuồng, vội vã, dữ dội như
thể vụng trộm. Rồi xa chút nữa, một cô gái đang chăm mái tóc trước gương.
Cao hơn, hai người đàn ông đang đánh nhau và một người đang bóp cổ
người kia. Phía trên một nhóm người đang đứng, tay cầm cốc, dưới ngọn đèn
chùm đính những giọt pha lê, phía dưới một người ở gái đeo tạp dề đang
nhìn xuống phố.
Tất nhiên có một vài ô cửa được che kín bằng cửa cuốn hoặc bị che
khuất bởi phần mái nhô ra. Đầu tiên là nhìn, sau tôi hiểu ra nếu tất cả mọi
người đều nhìn được mọi thứ thì thế giới này sẽ bớt đi nhiều kẻ luôn mồm đòi
xét xử người khác, chính sự đa thị sẽ dẫn đến công bằng. Tôi đứng nhìn một
lát, ngạc nhiên và như bị thôi miên, rồi nhắín mắt lại, bỏ đi với công việc riêng.
Từ hôm đó trở đi, mặc dầu cuộc sống tiếp tục một cách bình thường, tôi
luôn có cảm giác không bình thường, tất nhiên nó vẫn thoải mái. Thực tế tôi
không thể để mắt đến bất cứ điều gì, mà ngay lập tức, không nhìn thấy tất cả
những điều khác vây xung quanh điều tôi muốn nhìn. Ví dụ, tôi còn nhớ một
hôm ở Borghese Gardens, khi đang dạo trên triền dốc đầy cỏ, ý thức về điểm
khác biệt của mình, cố gắng không nhìn chi tiết bất cứ điều gì thì bất đồ một
chú bướm đẹp cánh nâu vàng sậm với những chấm vàng nhỏ chập choạng
bay trước mắt. Tôi ngó theo, chú bướm bay rồi đậu rất nhẹ nhàng lên một cây
cúc. Thế rồi tôi không thể cứu vãn nổi thị giác của mình nữa, một cảnh hỗn
độn hiện ra trước mắt. Nào hoa, lá, cành to, cành nhỏ; trên cây côn trùng màu
xanh, màu nâu, màu đỏ; dưới đất hàng đàn kiến đi lại, ngậm những hạt màu
trắng, những cành mềm; và kia một con bọ ngựa cái vừa như đang chắp càng
cầu nguyện lại vừa nhai ngấu nghiến bắt đầu từ bụng người bạn tình của
mình ít phút trước đó; một con bọ cánh cứng chui ra từ một tràng hoa, rồi một
con ong lại chui vào, một con gián thập thò bên cái lỗ... nói ngắn gọn điều này
giống như đứng trên tháp cao nhìn xuống quảng trường đầy người, tìm kiếm
một gương mặt nào đó trong đám đông, một gương mặt với những đường nét
cụ thể, nhưng rồi nhận ra mình hoàn toàn bất lực và phải từ bỏ ngay ý định.
Đôi khi sự đa thị khiến tôi suy nghĩ, đánh thức trong tôi những suy tư
triết học. Như một hôm khi đang ở cửa hàng phụ tùng điện, tôi muốn gọi về
nhà cho vợ nhưng điện thoại bị hỏng. Lúc ấy đã bốn giờ chiều, vắng khách,
tôi bàn giao mọi thứ cho người giúp việc rồi ra khỏi cửa với ý định gọi nhờ từ
cửa hàng Alessio. Alessio là bạn tôi, bán đồ nữ trang, có cửa hiệu nằm cách
chỗ tôi hai con phố. Tôi đến và nhìn thấy cái chuông, loại thường nhưng nổi
bật trên cánh cửa. Tôi đẩy cửa bước vào. Cửa hàng của Alessio chia làm hai
phần. Một kê bàn làm quầy, kê giá để những đồ dùng thường ngày như cặp,
nhẫn, dây chuyền có trái tim lồng ảnh, thánh giá, xuyến, trâm cài tóc... phía
bên là buồng tiếp khách nhỏ của ông chủ. Alessio thường ngồi cạnh chiếc
bàn kiểu chân cong, dựa lưng vào két bọc thép, tiếp đón những khách hàng
quan trọng.
Như đã nói, mục đích là gọi nhờ điện thoại, nên ngay từ cửa tôi đã nhìn
thẳng têlêphôn đặt trên quầy. Ngay lập tức tôi lại nhìn thấy tất cả, nhìn rõ từng
cái trong một giây. Những đồ vật nằm trong hộp da dê thuộc màu đỏ lót lụa
trắng xếp trên giá; phía trong két sắt mở toang, trống rỗng, phía bên phải có
chiếc tủ nhiều ngăn, trên tủ một bình hoa Trung Quốc xanh lá cây nhạt đặt
trong giá gỗ mun đục lỗ. Và Alessio, sấp người về phía trước, mặt gục xuống
bàn, đầu và tay đong đưa, máu nhỏ xuống từ mũi từng giọt, từng giọt, tình
trạng như những con thú vừa bị chọc tiết, treo ngược đầu trong cửa hàng bán
thịt. Phía bên trái chiếc bàn, cái giá như sáng lên cùng những nhẫn cưới bằng
vàng và vàng mạ; bên trên giá, một bức tranh vẽ cảnh bão tố trùng khơi lồng
trong khung màu đen; phía bên kia, một chiếc đồng hồ kiểu Westminster với
hai vật nặng lên xuống chỉ giây và phút. Trên sàn, phía dưới gầm bàn, cạnh
vũng máu của Alessio, một chiếc vòng cổ khảm ngọc rơi từ bàn xuống nằm
lăn lóc...
Cho phép tôi dừng lại mặc dầu có thể tiếp tục liệt kê những gì đã thấy,
bởi nếu không, tôi không biết bao giờ mới kết thúc. Và ngay chính các bạn
cũng chả lạ gì với những thứ tìm được ở một tiệm nữ trang trong khu vực
không lấy gì làm giàu có xa hoa. Gọi điện xong, tôi quay ra lúng túng nói mấy
câu khi bước qua ngưỡng cửa: "Tạm biệt nhé, Alessio. Cám ơn cậu và tha
thứ cho sự quấy rầy của mình". Khi quay về cửa hàng tôi bắt đầu nghĩ ngợi.
Tôi tự nhủ rằng có hai kiểu đa thị. Kiểu thứ nhất, trường hợp tôi, rất con
người, kết thúc trong nỗi kinh hoàng, tuyệt vọng và không nhận biết được
điều gì cả. Kiểu thứ hai, thuộc loại siêu phàm, trái ngược hẳn, là nguyên bản
của toàn năng và toàn thức. Nếu tôi có một phép lạ nào đó, cho phép kéo dài
tầm nhìn ra xa nhất trong hoàn vũ để thấy muôn vàn chi tiết, thì có lẽ tôi đã
thành một thằng ngốc ngay lập tức, không bao giờ nói nổi một lời về cái tôi đã
nhìn.
Vào dịp khác, ở miền quê, tôi và vợ nằm trên quả đồi đầy cỏ gần xa lộ.
Một cánh đồng đang cày xới trải ra bên dưới, đây đó lác đác vài lán trại, vài
khu rừng nhỏ. Chân trời được bao lại bằng những dãy núi xanh lơ. Tôi bắt
đầu việc nhìn xuống cánh đồng bởi lẽ gần một ngôi nhà có hai cậu bé đang
đuổi nhau, tôi muốn xem việc đó kết thúc ra sao. Chúng đuổi nhau, cuối cùng
cả hai ngã lăn ra cỏ vùng vẫy đánh lộn. Ngay lập tức việc chú tâm nhẹ nhàng
này đã đủ đưa vô vàn chi tiết tràn ngập thị giác. Biết bao nhiêu thứ trên
khoảng đất bằng kia! Tôi càng nhìn, chúng càng nhảy vào mắt. Lán trại có
những ống khói, bóng cây trên những ngôi nhà, bò ngựa đang gặm cỏ, những
người nông dân bận bịu với công việc đồng áng, những lối mòn uốn quanh,
những dòng mương đang chảy, hàng triệu, hàng triệu cây thân thảo cúi rạp
mình khi gió xuân đi qua... thôn quê hiện ra với biết bao giai thoại, biết bao
câu chuyện cổ tích nho nhỏ cần khám phá.
Nhưng rồi đúng lúc đó một tiếng va chạm khủng khiếp từ đường cái
vọng lại. Một thứ gì đó đen đen, có lẽ là người lái xe văng lên không trung
mắc vào trạc cây, y như con búp bê bị tháo rời với cánh tay chới với, chết
ngay tại chỗ. Nhưng tôi không thể chú tâm vào thảm hoạ này được bởi hai
cậu bé lại bắt đầu đuổi nhau, và một đám mây đen khổng lồ bắt đầu trôi qua
trước vầng dương. Thực tế thì đám mây vẫn bay nhưng bóng râm kéo dài
khiến ta cảm tưởng như đang trên máy bay bay qua vùng đầy mây mù. Giọng
nói của vợ khiến tôi giật mình: “-Sao thế? Anh làm cái quái gì vậy? Chúng ta
phải tới xem cái gì xảy ra. Anh không thể nhìn thấy người đàn ông đáng
thương kia bị mắc trên cây sao! Anh đang làm gì thế? Ba hồn bảy vía anh ở
đâu?"
Với tôi câu hỏi cuối cùng gây một cử chỉ âu yếm. Tôi hôn vào gáy nàng,
nơi có những sợi tóc quăn vàng vàng vì chúng lọt vào tầm nhìn của tôi. Tối đó
vợ tôi chê trách: “-Anh là đồ quái vật. Người đàn ông đó đã chết, ngực bị đâm
thủng trên cây. Đáng ra anh phải chạy lại xem, giúp đỡ người ta thì lại bày đặt
trò nịnh đầm".
Tôi đáp: "- Điều khác nhau giữa anh và em là lúc đó em không nhìn
thấy gì ngoài người đàn ông đã chết trên cây, còn anh, anh nhìn thấy mọi
thứ".
Nói vậy nhưng cứ nhìn cặp mắt đầy chê trách của nàng, tôi biết nàng
không hiểu gì hết.
Giờ đây chúng tôi đã chia tay nhau. Lý do vì tôi không có lòng ghen
tuông, không ghen cũng vì khả năng đa thị của tôi. Số là thế này. Một bữa khi
tới cửa hàng, đứng trước cánh cửa khoá trái, tôi phát hiện ra mình lỡ quên
chìa khoá ở nhà. Từ nhà đến cửa hàng đi mất bốn lăm phút, vì thế khi quay
về đến nhà thì một tiếng rưỡi đã trôi qua. Tôi không bấm chuông mà mở cửa
đi thẳng vào tiền sảnh. Tôi vẫn nhớ chiếc chìa khoá nằm trong túi áo khoác
mắc trên giá đằng kia. Và như mọi lần, khi dừng ở ngưỡng cửa tôi lại trông
thấy mọi thứ.
Tôi xin kể mọi điều theo thứ tự. Đầu tiên, trong phòng khách vợ tôi mặc
áo dài, đứng trước cửa sổ xây lưng lại. Nàng đang ngắm một người công
nhân trèo lên mặt trước một toà nhà phía xa, có Chúa mới biết anh ta nghịch
ngợm gì với những dây điện chăng phía ngoài. Thứ hai, cửa buồng tắm mở
toang, bồn tắm đầy phè mà nước vẫn tiếp tục xối ra từ vòi. Thứ ba, trong bếp
có một người công nhân khác mặc quần xanh, ngồi xổm trên mái đua, vắt vẻo
ngoài khung cửa sổ. Trên bếp có miếng chả và hai lát bánh mì đang bốc ra
một làn khói đen. Cuối cùng là phòng ngủ. Một người đàn ông tôi không quen
đang nằm dài trên giường, nghếch mắt nhìn trần nhà. Nửa thân trên anh ta để
trần, lực lưỡng, rậm lông, lòi ra khỏi chăn nệm, cánh tay thõng thượt, kẹp một
điếu thuốc cháy dở. Cạnh anh ta, đứa con bé bỏng của tôi, Gianninô, mới
được mười tám tháng đang đứng trong cũi, mặc đồ len xanh, vẫy vẫy tay nói
bi bô. Phía cuối phòng, hai con bạch yến của vợ chồng tôi nhốt trong lồng treo
trước rèm cửa, đập cánh bay đi bay lại không biết mệt. Bỗng nhiên người đàn
ông đang nằm bắt gặp cái nhìn của tôi. Anh ta nhìn tôi, tôi cũng nhìn anh ta,
nhưng rồi tôi lấy chìa khoá trong túi áo và bỏ đi.
Thế đấy, các bạn có tin điều đó không? Vợ tôi thì sử dụng ngay thái độ
cư xử này - một thái độ có thể gọi là khách quan - để yêu cầu và thực hiện
được việc ly dị. Kể từ đó tôi sống cô đơn, hay đúng hơn, sống giữa những
thứ vây quanh tôi khi tôi buộc phải nhìn chúng. Một đôi khi tôi có gặp lại vợ tôi
trong vòng tay một người đàn ông xa lạ, có lẽ là người tôi đã nom thấy lờ mờ
buổi sáng hôm đó, khi anh ta nằm dài trên giường, trong nhà tôi. Nhưng
chẳng có chuyện gì xảy ra vì lúc tôi nhìn thấy họ, tôi cũng nhìn thấy vô vàn
điều khác, với tôi, những điều này cũng lôi cuốn sự chú ý và quan trọng
không kém.
TỈNH DẬY ĐI
Hai mươi tuổi, tôi theo học ngành luật và trọ ở nhà một quả phụ. Bà
sông cô đơn cùng cô con gái Angelica. Angelica hoàn toàn không đẹp; nhưng
với cặp mắt phần nào nhỏ, mũi quá khổ, môi dày tai tái trên gương mặt xanh
xao mầu tro, những lọn tóc nâu, sợi nhỏ kỳ lạ, khô, dường như dẫn điện nàng
đã quyến rũ tôi tới mức tôi cảm thấy không thể phân biệt nổi sự lôi cuốn thực
sự từ đâu. Hoặc giả đó chỉ là nỗi ám ảnh sản sinh từ tuổi trẻ non nớt thơ dại.
Thân hình đẹp lạnh lùng như pho tượng, linh động như con rắn, Angelica
thoắt hiện thoắt biến khỏi tầm mắt tôi nơi cuối hành lang dài hẹp ngoằn
ngoèo. Có thể là tôi yêu nàng đơn giản vì tôi sống cùng nàng dưới một mái
nhà, còn nàng thì về sau mang một dáng vẻ thần bí của mạch sống tượng
trưng cho tinh thần những vùng đất cổ xưa.
Tôi kể cho các bạn rằng những hành lang trong toà nhà hẹp và tăm tối,
nhưng buồng riêng của tôi, trái lại sáng sủa và rộng rãi. Điều hay nhất là căn
buồng có một cửa sổ trông sang khu vườn toà biệt thự kề bên. Trong những
ngày ấy biết bao lần tôi đứng dậy từ bàn làm việc tới ngắm khu vườn. Nói thật
thì khu vườn cũng chẳng có gì khác thường, nhưng cái quyến rũ tôi chính là
nó thường bị bỏ hoang, mặc dầu vườn không tạo ra cho người ở mà cho cây
cối hoa lá. Kể vậy không phải ý muốn nói nó bị bỏ rơi cho cây cối mọc hoang,
nhưng các loại cây cỏ trong khu vườn hình như đang sống trong hoan lạc,
sống như những vị khách được nhiều đặc ân của chủ nhà, người để chúng
thoải mái nhất đảm bảo những tiện nghi nhất có thể có được. Khi tôi đứng
ngắm từ cửa sổ, những cây to cành lá xum xuê, những cây bụi điểm hoa
trắng hoa đỏ, những cây hoa hồng, hoa trà, những luống uất kim hương, quả
thực chúng rất hạnh phúc. Cũng có thể do bản thân tôi hạnh phúc - khi tôi
ngắm chúng, tôi đã ban hạnh phúc của mình trong những cơn ngẫu hứng
không thể ý thức được, xuống khu vườn kia, khu vườn đang chìm sâu vào
tĩnh mịch, vào ánh sáng vào hơi ấm của vầng dương?
Tôi biết mình đang hạnh phúc, trước hết vì mình trẻ trung; rồi sau tôi
hạnh phúc bởi tôi yêu Angelica. Tôi dùng hết thời gian đèn sách ngồi nghĩ
duyên cớ gặp nàng. Duyên cớ gì nhỉ? Chúng là những ý nẩy ra từ đầu óc một
cậu bé cô đơn, ngây thơ và thiếu kinh nghiệm như đi ra buồng tắm không để
làm gì, gọi điện thoại không cho ai, không cần nhưng vẫn xin diêm, mượn
báo, mượn sách, yêu cầu cà phê, trà hoặc nước sắc cây cúc La Mã mà
không uống. Khi cảm thấy tự tin hơn, tôi giả đò tìm thấy vật gì đó trên sàn nhà
như cái khăn, hộp phấn, ví.... những thứ này thực ra tôi mua từ hôm trước, và
mang đến hỏi nàng xem có phải tình cờ nàng đánh rơi chúng không. Tất
nhiên những duyên cớ này đòi hỏi thời gian; đầu tiên chúng xuất hiện trong
óc, thứ nữa phải chiến thắng được tính nhút nhát rồi mới đem ra thực hiện.
Và như thế, cứ từ sáng tới tối, thời gian của tôi được điền đầy, niềm hạnh
phúc của tôi được nhân lên.
Tôi thường rời buồng riêng mạo hiểm đi qua những dẫy hành làng
ngoằn ngoèo tranh tối tranh sáng, kê những chiếc tủ buýp-phê, những thứ đồ
lỉnh kỉnh xếp chồng lên nhau như ở trên căn gác áp mái. Nhưng tôi thường
thất bại không đến được phòng của Angelica bởi vì bất ngờ, như thể phép gọi
hồn thần bí - các bạn có thể nghĩ như vậy khi chứng kiến những sự việc xẩy
đến với tôi trong cuộc tìm kiếm nàng, nàng xuất hiện và bằng một giọng nói
trầm, tin cậy, thân mật pha chút tò mò: “- Anh muốn điều gì hở Xi-nho
Giacômô?.
Những cuộc chạm trán như thế diễn ra thường xuyên tới mức trong óc
tôi nẩy ra ý nghĩ Angelica cũng đang băn khoăn và đau khổ trong phòng riêng
vì những nỗi niềm như tôi băn khoăn và đau khổ trong phòng tôi. Và chính
nàng cũng đang bịa ra những duyên cớ cốt để ra khỏi phòng, lang thang trong
những dẫy hành lang tìm kiếm chạm mặt tôi. Nhưng thực tế nàng không bao
giờ đi xa hơn câu hỏi: “- Anh muốn điều gì Xi-nho Giacômô?". Một câu hỏi mù
mờ, nhưng mang lại hy vọng cho người nghe. Có lẽ đó là một lời nài xin,
thậm crí đang ám chỉ đến mối quan hệ của chúng tôi theo một lối khiêu khích
chọc tức khi thực nàng muốn nói: “- Anh có muốn em không hở Xi-nho
Giacômô?".
Những cuộc gặp đó thường ngắn ngủi, cay đắng vì không toại nguvện,
không dẫn đến điều gì cả vì tính e lệ và nôn nóng. Chúng tôi nhìn nhau, và
các bạn có thể nghĩ rằng thực tế chúng tôi đang hằn sâu lên tâm trí những
đường nét khuôn mặt của nhau để rồi mang chúng về buồng rêng, nhấm
nháp nhìn lại trong phút giây thư giãn. Một ngày chúng tôi gặp gỡ bao lần?
Tôi không thể nói được, chỉ biết rằng cuộc sống của tôi đã thành một chuỗi
hành trình qua lại liên tục từ phòng riêng ra dẫy hành lang, rồi từ hành lang
quay lại phòng. Cuộc sống đó luôn khắc khoải, vỡ mộng, cay đắng, đau khổ
với niềm hy vọng trộn lẫn nỗi thất vọng, nhưng căn bản cuộc sống đó hạnh
phúc, hạnh phúc tuổi trẻ nuôi dưỡng những sáng tạo và không bao giờ để ý
đến cảnh khó khăn bần hàn của cuộc đời thực.
Một buổi trưa tôi rời phòng như thường lệ, đi dọc hành lang với một
dáng vẻ quả quyết. Tôi cảm nghiệm nỗi phiền muộn chết chóc vì lẽ duyên cớ
gặp Angelica lần này thật rõ ràng và quan trọng một cách khác thường. Mới đi
một đoạn ngắn, qua góc rẽ thì kỳ lạ làm sao, Angelica đã ở ngay trước mặt:
- Anh muốn điều gì hở Xi-nho Giacômô?
- Tôi tìm thấy cái nhẫn này trên sàn nhà ít phút trước đây. Có phải cô
đánh rơi?.
- Nhẫn à?
Ngay lập tức tôi rút ra cho nàng coi. Sáng nay tôi vừa mua nó, nhẫn
vàng đính một hạt kim cương nhỏ và một hạt ngọc lục bảo, không đắt tiền
lắm. Với tôi, cũng như với nàng đây là nhẫn đính ước không một mảy may
nghi ngờ. Nàng nhìn nó một lát đoạn chìa cánh tay dài, xanh xao, xương
xương với những móng tay quét sơn đỏ đậm đến nỗi chúng gần như có màu
đen.
- Vâng, đúng thế. Em đã làm rơi nó. Làm ơn đeo nó vào cho em. Tôi
không đủ sức để thốt ra một lời. Tôi cúi đầu khẽ lồng nhẫn vào ngón tay nàng.
Ngay tức thì nàng nắm tay tôi, móng tay sắc như móng loài ác điểu, vô tình
ấn vào gan bàn tay tôi. Bằng một giọng trầm trầm Angelica nói:
- Nào, nào, đi theo em. Và cứ thế tay trong tay nàng dẫn tôi đi từ hành
làng này qua hành lang khác tới phòng nàng.
Cuộc đời tôi đã bước sang một trang mới đầy kỳ lạ và kỳ diệu như thế
đấy. Chúng tôi tự cho rằng chúng tôi đã đính hôn, một cuộc đính ước không
bình thường,. không lễ nghi chính thức, không một ai ngoài bản thân chúng
tôi được biết. Lúc đó mối quan hệ này trong sáng và gần gụi hơn quan hệ thể
xác. Nói tóm lại chúng tôi có một bí mật, chúng tôi là những kẻ đồng lõa với
nhau. Cái tội a tòng này là gì? Có lẽ nó giống với tội cùng nhau có một âm
mưu, trong đó những kẻ đồng mưu chống lại một điều gì đó hoặc một ai đó.
Chúng tôi, hai kẻ đồng mưu cùng chống lại cả thế giới, vì nếu thế gian kia
biết, nó sẽ làm hỏng quan hệ của chúng tôi bằng sự tò mò, sự thông cảm của
nó. Chúng tôi thoả thuận cùng nhau không để ai biết, ngay cả mẹ nàng, cho
đến khi chúng tôi làm hôn lễ. Điều đó sẽ xảy ra vài năm sau, khi tôi đỗ đạt.
Tôi bắt đầu học trở lại. Lời thoả thuận với Angelica mang lại một sức
mạnh ghê gớm. Tôi ngồi học miệt mài và kiên tâm hơn trước cửa sổ rộng mở.
Trời đang xuân, tôi nghe thấy tiếng đập cánh vù vù của một chú ong lêu lổng
nào đó quanh mái đầu cúi bên chồng sách vở, mùi hương hoa ngào ngạt,
chốc chốc những hơi thở của gió xuân lại chạm nhè nhẹ vào má, thế mà tôi
không hề ngửng đầu lên sao nhãng. Học tập, đó là việc tôi phải làm để đạt tới
bằng cấp ngay khi có thể và cưới Angelica. Chỉ đêm xuống tôi mới rời bàn tới
bên cửa sổ. Trước đây tôi ban phát hạnh phúc của mình xuống khu vườn,
còn bây giờ tôi chỉ trút nỗi mệt nhọc lên nó. Tôi ngắm hàng cây đứng câm
lặng trong bầu không khí ban đêm mệt mỏi tù hãm, những lối mòn rải sõi nửa
lồng trong bóng tối, bên những luống hoa, cánh hoa đã khép lại say sưa. Tôi
tự nhủ khu vườn cũng như tôi, đang rã rời trong niềm hạnh phúc vui sống, và
con người chỉ rã rời như thế khi nhựa sống dồi dào thừa thãi.
Rồi bỗng nhiên một sự không thoải mái bắt đầu len lén bò vào niềm
hạnh phúc của tôi. Có những lúc rõ ràng do học hành quá sức, lần lần đêm
diễn ra một giấc mơ rất khó chịu. Không phải cơn ác mộng bởi không có điều
gì gây hoảng sợ, nhưng tồi tệ hơn ác mộng bởi nó, biết nói thế nào đây, rất
bình thường. Giấc mơ thế này. Tôi mơ mình đang ở một căn hộ phần nào
rộng rãi nhưng khiêm tốn trên tầng hai một toà nhà xấu xí trong khu công
nhân viên chức. Đường chỉ có những cửa hiệu tồi tàn, ô tô đỗ la liệt. Cảnh tồi
tàn hoang vắng đặc biệt có thể nhận thấy trong căn nhà trước đây, một gia
đình đông đúc đã sống, nhưng giờ bọn trẻ trưởng thành đã lập gia đình đi ở
riêng. Căn hộ quá nhiều buồng và chất đầy những đồ đạc cũ nát, mệt mỏi;
không ai ngoại trừ hai ông bà già. Chỗ này trước đây có hai ba phòng dành
cho lũ trẻ nhưng giờ thì không để làm gì, và tôi, vợ tôi, hai con người già cả
đang cùng nhau ngồi chờ vị khách bất đắc dĩ khoác áo choàng đen tay cầm
lưỡi hái.
Như tôi đã kể, giấc mơ này có tính ác mộng ở chỗ nó rất bình thường,
ở sự chính xác khủng khiếp đến từng chi tiết, và hơn hết ở sự đều đều quái
ác. Tôi nhìn mọi thứ: những căn buồng, đồ đạc, đường phố, cửa hiệu, đang
chìm trong bầu không khí không thể chịu nổi của thói quen hàng ngày, y như
trong đời thực. Cảm giác khó chịu này không phải đang mơ mà đang sống
thực trong cuộc đời thực, đi cùng cảm giác khác còn tồi tệ hơn, đó là sự tắt
ngấm dòng nhựa sống cùng tuổi tác già nua. Trong đời thực, tôi bị cuốn theo
khi truyền ban nhựa sống hoan lạc của mình cho khu vườn, trong mơ tôi nhận
ra sự biến mất dòng nhựa này nơi mọi thứ đã đi cùng tôi suốt cuộc đời lạnh
lùng, nhu nhược và vô vị. Mơ đến thế, tôi tỉnh giấc, vội chạy lại soi mình trong
gương. Ngắm đôi mắt nhâm nhấp nước còn rực sáng, mái đầu còn xanh
bóng, đôi má tươi màu, tôi thở phào:
- Ôi, may mắn, may mắn quá! Đó chỉ là chuyện mộng mị.
Lần nào cũng thế, giấc mơ làm tôi hoảng hốt. Cuối cùng một ngày, khi
ngồi cùng Angelica trên ghế xô pha trong phòng riêng của nàng tôi không thể
kìm mình kể cho nàng nghe về nó, nói tỷ mỷ về nỗi chán chường những thứ
tầm thường nhạt nhẽo, những thứ y như thật. Rồi tôi hỏi nàng: - Chẳng lẽ với
em giấc mơ này không tồi tệ hơn một cơn ác mộng sao? Em nghĩ gì?.
Câu trả lời của nàng thật bất ngờ:
- Anh yêu, những gì anh thấy ở giấc mơ đều là thực. Anh không nhận
ra bản thân em cũng là một giấc mơ sao? Em là một giấc mơ hàng đêm lặp
lại. Trong mơ chúng mình đều trẻ trung, chúng mình đã đính ước, chúng mình
mong chờ hôn lễ. Nhưng thực tế chúng mình đã cưới nhau cách đây bốn
mươi năm, chúng mình có ba đứa con. chúng đã lần lượt đi ở riêng và giờ
đây chúng mình đã già, sống cô đơn. Hãy tĩnh dậy đi! Lấy tay chạm vào mặt
mình xem, anh sẽ nhận ra tuổi tác thực sự của mình. Để tay lên ghế xô pha
cạnh chỗ anh ngồi, anh sẽ thấy dưới những ngón tay này thân thể em, rất gần
anh, đã biến đổi biết bao kể từ ngày anh lồng nhẫn đính ước vào ngón tay
em.
ĐÚNG VẬY!
Không biết cái từ tầm thường "đúng vậy" có gì mà thôi miên tôi đến
thế? Một bữa, tôi bị vợ thắc mắc, lối thường vẫn xảy ra với những cặp đã
cưới; yêu nhau và muốn tìm hiểu thói quen của nhau. "Tại sao, anh Ma-ri-ô,
anh luôn nói "đúng vậy"? Nghĩ ngợi một lát, tôi đáp: "Anh không biết, Vê-rô-ni-
ca à. Có thể vì anh thích những luận lý chính xác, hợp lô gích, không một lầm
lỗi. Nếu em nói điều gì đó theo lối lờ mờ, kể cả nói với một xúc cảm thành thật
nhất cũng không thuyết phục được anh. Ngược lại nếu em nối điều đó với
anh theo kiểu "hai cộng hai bằng bốn", em sẽ thuyết phục được anh ngay, và
anh bộc lộ sự hài lòng bằng câu nói "đúng vậy”.
Nhưng vợ tôi cố gặng: "Có những điều không thể nói theo kiểu hai cộng
hai bằng bốn được, phải nói bằng ngôn ngữ của trái tim, của cảm xúc. Những
điều đó thường không chính xác, không chắc chắn, mơ hồ và tối nghĩa".
Tôi đáp "Đúng vậy! Nhưng những gì có vẻ quá mập mờ, quá tối nghĩa
thực tế lại không phải vậy. Bên dưới cái vẻ tối nghĩa thường ẩn chứa một cái
gì chính xác, một cái gì rõ ràng và tuyệt đối. Giờ anh hỏi em nhé. Trong một
chiếc xe hơi, cái vỏ xe, dù tốt đẹp đến mấy, đáng kể hay cỗ máy mới đáng
kể? Anh sẽ bảo: cỗ máy. Vì thế, khi giáp mặt điều gì, bất cứ cái gì người ta
phải kiên quyết mở nắp xe, xem xét nó ra sao".
Vợ tôi nói "Vậy hãy nói cho em biết loại máy nào ẩn chứa trong cụm từ
"Em yêu anh?" Một câu như thế không thuyết phục anh bởi cỗ máy, không có
và cũng không thể có; mà bằng giọng nói, bằng dáng vẻ".
“Đúng vậy! Nhưng giọng nói kia, dáng vẻ nọ, thực tế chứng nhận cho
sự hiện diện của một cỗ máy. Thực tế khi em nói "Em yêu anh" thực sự em
đang nói: "Em có vào lúc này đây một xúc cảm thúc giục em, như thể một
động cơ điều khiển, nhờ đôi môi thốt ra "em yêu anh".
Nàng đáp lại "Vậy nếu trong mọi thứ đều có động cơ, nói theo kiểu anh,
một động cơ điều khiển thì người ta có thể không cần bàn nhiều về nó, chỉ
cần nói một cách giản đơn "Tôi yêu anh” như nhân loại đã và đang nói hàng
thế kỷ nay”
“Đúng vậy! Em hòan toàn đúng nếu cái vỏ cảm xúc đủ chứng minh cho
sự tồn tại thực của xúc cảm. Nhưng bất hạnh thay, chẳng có gì dễ làm rởm
hơn cảm xúc. Hãy nhìn bọn nghệ sĩ mà xem, họ khều từ đôi mắt em những
dòng dư lệ khi bản thân họ có cảm thấy gì đâu. Luận lý, ngược lại, không thể
rởm. Nó là cái nó là, nó chắc chắn đáng tin."
Vợ tôi nói: "À vậy anh tự cho phép mình tin vào bất cứ thứ lý luận gì
miễn nó chính xác, hợp lô gích, ngay cả khi nó đi ngược lại quyền lợi của
chính mình?"
"Đúng vậy"
"Ví dụ như có một tên đạo chích đi vào cửa hàng, giải thích một lý do
chính xác, hợp lô gích tại sao hắn phải ăn trộm của anh, anh sẽ tin và đưa
chìa khóa két bạc cho hắn chứ?"
Với câu hỏi này, tôi bị cuốn theo sức xô đẩy của cuộc nói chuyện nên
đáp: "Đúng vậy!"
Vợ tôi bắt đầu cười phá lên, và cuộc trao đổi kết thúc.
Tôi dùng ví dụ xe hơi, so sánh thân xe với cỗ máy đầy năng lực bởi tôi
làm nghề bán xe. Và có lẽ niềm say mê với tất cả những gì lô gích, có tính cơ
khí xuất phát từ sự thông thạo về máy móc của tôi. Cửa hiệu của tôi rộng và
đẹp, nằm trên một phố quan trọng mặc dầu ở ngoại ô. Nó có ba cửa sổ lớn.
Phòng trưng bầy có ba xe mẫu: một chiếc nhỏ, không sang trọng lắm, màu
cát, một chiếc Sallon de Luxe màu xanh, một chiếc mui trần màu lửa. Sàn lát
đá hoa, tường không một vết ố, tất cả đều được lau chùi bóng loáng. Một
phòng nhỏ phía trong làm văn phòng bán hàng. Đây là nơi tôi tìm và đón tiếp
khách hàng. Tôi giới thiệu xe, thậm chí cùng khách ra ngoài đi thử. Trong các
lần trình diễn, tiếng la "Đúng vậy" của tôi đổ lên đầu họ như nưa rào có khi
như mưa đá. Và tôi nhận thấy từ này mang lại may mắn bởi nó gây ấn tượng
lên tâm trí người mua, rằng chiếc xe chẳng có gì không thể biết trước, chẳng
có gì không chắc chắn hoặc không chính xác, quả thực không có gì mập mờ
đánh lộn, rằng trái lại mọi thứ đều có thể dự đoán, hợp lô gích, chính xác.
Nhưng than ôi, sự bác bẻ niềm tin lại đang chờ tôi tại chính căn nhà
của mình. Vê-rô-ni-ca, khi đổ nghi ngờ lên ý kiến về sự luôn tồn tại một cỗ
máy ẩn chứa trong vực thẳm của vạn vật - nếu bạn nhìn nó kỹ lưỡng, đã tự
mình là hiện thân sống động của sự mập mờ đáng hồ nghi nhất. Mập mờ
thậm chí hiện ra trong hình thức: nàng trẻ trung, ít tuổi hơn tôi rất nhiều
nhưng lại trông như một phụ nữ trung niên. Có một thoáng tối tăm khó phân
biệt như một lời ám chỉ sự già nua trên thân hình cân đối nhưng phần nào
nhẽo nhợt, bắt đầu có nếp nhăn, bắt đầu thiếu vắng vẽ tươi tắn. Tính cách
nàng cũng có nhiều trái ngược: ít hiểu biết, ít tu dưỡng, thiếu khả năng và
không thể làm bất cứ việc gì; kể cả việc vặt trong nhà, ấy vậy nàng lại rất
thông minh.
Nàng có một trí thông minh khôn khéo và hiểm độc, có lẽ do nhàn cư,
suốt ngày cuộn tròn trên ghế xô pha, hút thuốc, không làm gì ngoài việc nói
huyên thuyên qua điện thoại với đám bạn gái hoặc lật giở những trang báo
ảnh. Vì vậy dù trông nàng không trẻ, không lôi cuốn, thêm đó còn không biết
cách ăn mặc sửa sang đầu tóc, đi đứng tơi tả, bù xù, Vê-rô-ni-ca vẫn gây ấn
tượng hơn rất nhiều cô gái đẹp áo quần xông xênh. Khi nàng bước đi ngoài
phố, cánh đàn ông ngoái cổ ngó theo, thậm chí họ còn lẽo đẽo theo nàng như
cách bộc lộ tình cảm của loài chó. Ngay bản thân tôi cũng từng nghe không
chỉ một người nói rằng Vê-rô-ni-ca vẫn quyến rũ bởi "một cái gì đó" cho dù
nàng có vẻ tăm tối, thờ ơ, cẩu thả, lúc nào cũng như sắp rời ra từng mảnh.
Ôi tôi thù "cái gì đó" biết bao nhiêu! Tôi mong muốn mở nó ra như
người ta mở nắp xe ô tô quanan sát máy móc bên trong ấy biết bao nhiêu.
Nhưng phải nói thật rằng đối với nó tôi cảm thấy không có gì để quan sát cả,
hay ngược lại có quá nhiều thứ để quan sát. Nó có quá nhiều thứ hay chẳng
có gì thì cũng như nhau thôi. Quả thực, tôi thích những gì hợp lô gích, đúng
chức năng hơn, và để thể hiện niềm thích thú này, vào mọi dịp tôi luôn nói
"Đúng vậy". Nhưng giờ đây trái khóay làm sao tôi lại say đắm một người đàn
bà luôn mập mờ, lộn xộn, một người đàn bà tôi không thể hiểu nổi, một người
đàn bà không bao giờ ban tặng cho tôi một cái gì rõ ràng về bản thân nàng,
về thực chất mối quan hệ giữa chúng tôi. Ở cửa hàng mọi thứ luôn bảo đảm
chính xác, ở nhà mọi điều đều mong manh và đáng ngờ. Tôi vô cùng chán
ghét điều không rõ ràng này, tôi khước từ sự tồn tại thực của nó, thì nó lại
bám rễ sâu vào chính cuộc đời tôi một cách bí ẩn và không thể giải thích
được.
Một sớm khi đang ngồi trong văn phòng tôi bỗng thấy Vê-rô-ni-ca.
Không thể tin đó là sự thật. Hình dáng của nàng nổi bật đối ngược với những
chiếc xe bóng loáng, những ô kính sáng chói, sàn đá hoa sạch sẽ. Thật kỳ lạ
từ trước đến giờ nàng chưa bao giờ lai vãng đến chốn này, nhưng khi đó tôi
quên mất điều ấy. Tôi ngạc nhiên quan sát và nhận thấy sự tương phản giữa
nàng, quá lôi thôi, quá bù xù và mờ xỉn với gian trưng bầy toàn những ô tô
bóng bẩy. Tôi không thể cứu vãn nổi suy tư của mình. Nàng thuộc về thế giới
của điều mơ hồ tối nghĩa, của "cái gì đó", còn những chiếc xe trái lại thuộc về
thế giới chính xác, hữu ích. Ve-rô-ni-ca không đến một mình, nàng đi cùng
một gã trẻ tuổi. Gã này ăn mặc như một tên đầu đường xó chợ, quần gin màu
xanh bó sát, mông đít bẩn thỉu, áo sơ mi ca-rô tồi tàn, một chiếc áo gió quấn
ngang hông, một đôi giày mỏng, vẹt gót, và tất nhiên một mớ tóc dài kềm
hàng ria mép. Cả hai bước thận trọng trên sàn đá hoa bóng lộn đến cửa
phòng làm việc. Vê-rô-ni-ca nói: "Anh có rỗi không, chúng tôi đến để nói
chuyện với anh." Cái từ "chúng tôi" thật vừa đủ để cho tôi tái mặt.
- Vào đi và ngồi xuống. Tôi đáp uể oải.
Họ đi vào, ngồi xuống. Vợ tôi châm một điếu thuốc, giới thiệu người
bạn của mình:
- Đây là Lu-i-sô
Tôi nhìn họ, họ đi với nhau thật xứng đôi vừa lứa. Vợ tôi thở khói ra
đằng mồm đằng mũi rồi nói:
- Ma-ri-ô, anh vẫn bảo anh tự cho phép mình tin theo những lý luận
chính xác. Tốt, đây là dịp thuận lợi ấy: đi Pa-ri bằng xe lửa, vé khứ hồi hạng
hai cần ba ngàn lia...
Tôi không ghìm được "Đúng vậy!"
- "Hai người cần sáu ngàn..."
- "Đúng vậy!"
- Ở lại Pa ri, hai người như chúng tôi, tối thểu cần...., để tôi xem nào...
mười ngàn lia mỗi ngày,"
- “Đúng vậy!”
- Mười ngàn một ngày, nếu ba mươi ngày, vị chi là ba trăm ngàn lia"
- “Đúng vậy!”
- “Thêm sáu ngàn đi tàu, cả thảy là ba trăm linh sáu ngàn lia"
- “Đúng vậy!”
- “Hai người thích nhau, thật hợp lô gích, họ nên yêu nhau, đúng
không?”
- “Đúng vậy!”
- “Và họ nên đi cùng nhau đến những nơi họ thích, có phải không?”
- “Đúng vậy, nhưng...”
- “Đừng ngắt lời tôi. Hãy theo dòng lý luận. Chúng tôi là hai kẻ đang
yêu, chúng tôi muốn đi Pa-ri. Để đến đó chúng tôi cần ba trăm linh sáu ngàn
lia. Người duy nhất có thể đưa số tiền đó là anh bởi anh là người đàn ông duy
nhất thực sự yêu tôi, đúng không?”
- “Đúng vậy, nhưng tôi...”
- "Không thể khác được. Hãy viết séc, ba trăm linh sáu ngàn, rồi để
chúng tôi đi."
Đó la tất cả những gì tôi muốn nói. Tôi viết séc và nàng nói sẽ quay về
sau một tháng. Tuy tâm can rung chuyển, trái tim xáo động nhưng tôi vẫn yên
lặng dõi theo bóng họ. Tả tơi hung hãn, mơ hồ, họ bước qua phòng trưng bầy
tráng lệ, lát đá hoa, kính, những chiếc xe anh ánh sáng rồi biến mất.
Tháng sau, như lời hứa Vê-rô-ni-ca về. Xung quanh nàng là cả một bầu
hơi thở của ai đó, của người đã làm những gì nàng mong muốn, khiến nàng
thoả mãn. Tôi ngắm nàng ngay khi nàng về nhà, trong buổi tối lúc từ cửa
hàng trở về, cuộn tròn như mọi lần trên ghế xô pha tơi tả trong phòng khách,
hút thuốc lá, cứ như chẳng có điều gì xảy ra, nàng vẫn ở đó suốt tháng vừa
qua chờ đợi tôi. Tôi chạy đến bên nàng, quăng mình xuống chân nàng, ghì
lấy khóc nức nở. Nàng để tôi dịu đi, vuốt ve mái đầu. Cuối cùng nói: "Một
người biết yêu thực sự, như anh yêu em, luôn hiểu và tha thứ. Và em chắc
rằng anh đã hiểu và tha thứ, phải thế không?"
- "Đúng vậy!"
CÔ EM VỢ
Vợ tôi nhỏ người, có gương mặt không sáng sủa của loài gặm nhấm,
đôi mắt bé, tóc đen xỉn, mũi nhọn gồ ra, khuôn miệng kéo về sau, cằm lẹm.
Em gái cô, cao, rực rỡ, tóc hạt dể bao quanh khuôn mặt nghiêm trang và bất
thường như một thiên sứ. Ba năm trước, nàng sống ở Ostia, gần sân bay
Fiumicino, bởi chồng nàng là phi công. Nhưng đúng một năm sau hôn lễ, máy
bay của anh ta bị tai nạn. Gilda bị bỏ rơi trên cõi đời làm goá phụ, và nàng
đến Rome sống cùng chúng tôi.
Vợ chồng tôi làm nghề dạy học. Nàng không đi làm, nhưng thực tế lại
làm rất nhiều, và tôi thực sự không hình dung ra chúng tôi sẽ xoay xở thế nào
nếu thiếu nàng. Gilda chăm sóc hai con chúng tôi từ lúc chúng mở mắt tỉnh
giấc đến khi đưa chúng đi ngủ. Hơn nữa, nàng còn giúp vợ tôi việc nhà, nàng
đi chợ, nấu nướng. Có thể nỗi mất mát, khi tạo ra khoảng trống vô tư lự giữa
nàng và thế giới đã tinh luyện nàng, trao cho nàng sự khéo léo gần như
huyền thoại. Tất nhiên, tôi chưa bao giờ thấy người đàn bà nào dọn dẹp nhà
cửa một cách sạch sẽ, một cách điềm tĩnh như nàng. Có thể nói, qua đôi tay
nàng, mọi thứ công việc như tự chúng giải quyết. Nhưng nàng giải thích sự
hoạt bát khéo léo đó là do nàng luôn mong muốn có một mái ấm gia đình, và
vì nàng đã thất bại nên giờ nàng coi chúng tôi là gia đình mình. Lúc đó cũng
có một số người đến cầu hôn, nàng lần lượt đi chơi với từng người, các buổi
tối, đến nhà hát hay rạp chiếu bóng. Nhưng chuyện hôn nhân có vẻ còn xa
lắm. Ngay cả khi nàng mong muốn tìm một vị hôn phu mới, hình như nàng
cũng không vội vàng trong vấn đề cưới xin.
Một sáng, vợ tôi rời nhà đến trường dạy học. Vì tới bến xe hơi nhỡ giờ,
xe đã chuyển bánh vợ tôi còn cố bám theo, kết cục cô ấy ngã sóng soài,
không đứng dậy được. Lúc hai giờ tôi quay về nhà thì Gilda đã thu xếp xong
mọi thứ. Cũng như làm việc vặt trong nhà, nàng giải quyết mọi điều một cách
kỳ diệu, thực giống một thiên thần, chưa bao giờ cần gắng sức cả. Nàng đã
đưa bà chị tới bệnh viện. Tại đây người ta chẩn đoán bị gãy xương, và vợ tôi
phải bó bột hai tháng. Sau đó nàng đưa chị về nhà, thay áo quần đi nghỉ. Lúc
tôi về nhà, vợ tôi phải tựa mình vào hai, ba chiếc nạng, còn Gilda đứng kề
bên bón thức ăn từ cái bát để trên một chiếc bàn đặc biệt. Chiếc bàn này
nàng đã kịp mua hồi sáng, dành riêng cho việc đó. Trước cảnh ấy, tôi thấy
dường như vợ tôi đã gãy chân từ lâu lắm rồi, và bệnh tật đã thành một phần
cuộc sống hàng ngày của chúng tôi.
Chúng tôi là một gia đình rất đoàn kết, tôi chắc vậy. Từ sáng hôm đó,
trung tâm sinh hoạt của gia đình rời từ phòng khách, nơi kê những chiếc ghế
bành, ghế xô pha, sang chiếc giường nơi buồng ngủ của vợ tôi. Chiếc giường
đôi này choán gần hết chỗ trong căn buồng chật hẹp, nên tự nhiên tôi, các
con và Gilda hay có thói quen trên đầu giường, khoảng trống còn lại cạnh
thân hình vợ tôi gầy nhỏ. Mọi sinh hoạt đều diễn ra trên giường, tôi chấm bài,
Gilda khâu vá, hai đứa trẻ cãi nhau inh ỏi. Chúng tôi dùng bữa, nghe đài, xem
truyền hình trên giường. Sáng ra, ngay khi bàn tay kỳ lạ của Gilda chạm vào,
trên giường lại trở nên gọn ghẽ, chăn gấp phẳng phiu, ga trải giường mới,
sạch sẽ. Tối tối, khi chúng tôi đi ngủ, chiếc giường nhác nom như ổ chó.
Một tháng trời sau tai nạn, một buổi tối, tụi trẻ đã đi ngủ, tôi và Gilda
như mọi lần ngồi trên đầu giường xem truyền hình. Chúng tôi ngả người trên
giường, song song với nhau. Gilda nằm nghiêng, khuỷu tay chống xuống
giường, cánh tay kia duỗi dài dọc theo thân xuống đùi. Phía sau nàng, cách
một tầm tay, tôi cũng nằm nghiêng như thế, chính xác như một hình bóng
trong gương. Vợ tôi co cái chân lành lặn, ngồi tựa vào nàng, cũng đang theo
dõi truyền hình. Căn buồng chìm trong bóng tối. Trên màn hình đang trình
chiếu một cuốn phim cũ của Greta Garbo.
Chúng tôi ngồi xem yên lặng, không bình phẩm vì không ai có thói quen
đó. Một lát vợ tôi nói: "Xin lỗi nhé, vì cái chân đau này tôi phải đi nghỉ thôi.
Anh làm ơn nằm nhích ra một chút được không?" Tôi tuân lời vợ một cách
máy móc, dịch người ra phía ngoài, gần như muốn chạm vào lưng Gilda. Để
xê dịch, tôi tỳ tay xuống khoảng trống trên giường giữa hai chúng tôi. Và kìa,
tôi cảm thấy dưới ngón tay tôi không phải chất vải của chăn nệm, mà tay của
Gilda, ấm nóng, đầy sinh lực. Tôi ngó ngoáy muốn rút tay ra, nhưng bàn tay
của nàng, nhưng một con thú nằm rình mồi, bất ngờ chồm lên nắm lấy tay tôi.
Rồi bàn tay ấy xoa nhè nhẹ, bao bọc, khép chặt lại như tổ kén, thịt da nàng
mềm mại và ấm áp. Vì quá bất ngờ, có một lúc tôi chống cự lại, nhưng rồi
trong sâu thẳm mọi thứ đều bị kích động, tôi ngoan ngoãn nằm yên.
Như đã kể, tôi nằm gần phía sau nàng. Tôi không xem phim nữa mà
nhìn ngắm nàng. Tôi nhận thấy sau một thời gian coi nàng như em gái, đây là
lần đầu tôi ngắm nàng như ngắm một người đàn bà. Tôi thấy được nét đổi
thay trong dáng vẻ nơi đôi bờ vai nàng. Cho đến tận hôm qua chúng chỉ là
một đôi vai, không gì nhiều hơn thế, một đôi vai nín thinh, bất động, không
gây xúc cảm, chúng chẳng nói gì với tôi, và tôi cũng cảm thấy không cần nói
gì với chúng cả. Nhưng giờ đây hình như ngắm bao nhiêu cũng không thoả,
và tôi biết chúng không phải là đôi vai bình thường, chúng là đôi bờ vai của
Gilda, người em vợ trẻ trung, sớm goá bụa của tôi. Và có thể nói từ đôi bờ vai
này phát ra những dấu hiệu, những đòi hỏi cùng thịt da ấm áp, căng đầy, có
màu hổ phách khi nhìn qua tấm mạng đen trong suốt dệt nên áo váy nàng.
Tôi có cảm giác mình đang thu nhận những tín hiệu, những khẩn nài này, và
cặp mắt tôi đang biến đổi, đang đền đáp lại chúng.
Chúng tôi nắm tay nhau nằm xem truyền hình khoảng một giờ. Khi hết
phim, nàng rút tay ra, đứng dậy giúp vợ tôi chuẩn bị nghỉ đêm. Tôi nằm nán
lại trên giường một lát, ngắm nghía bàn tay mình rồi đưa lên mũi. Lại một dấu
hiệu khác thay đổi trong tôi. Trước đây tôi không cảm thấy gì, giờ đây hình
như tôi khám phá ra hơi ấm bàn tay cùng hương vị của nàng lưu luyến trên
tay tôi. Đêm đó tôi trằn trọc giữa niềm khát khao và ý nghĩ phải từ bỏ điều tội
lỗi ấy. Nhưng hôm sau, lúc đi làm về, tôi bước vào buồng vợ tôi và nhận thấy
chẳng có lý do gì để tự hành hạ mình quá nhiều về việc phải cư xử ra sao.
Thực tế chẳng có gì thay đổi hết. Tôi cảm thấy ngay giữa tôi và Gilda chẳng
có mặc cảm ngại ngùng gì, chẳng có cái cảm giác thường bắt các cặp tình
nhân cư xử với nhau cẩn trọng hơn cái vốn có giữa họ, cái họ vẫn tuân theo
nếu thực sự họ không là tình nhân của nhau. Chúng tôi lại là anh em, và điều
bất ngờ xẩy ra đêm qua hình như chỉ là mơ là mộng, một giấc chiêm bao
người ta thường mơ tưởng khi người ta yêu một người cùng huyết thống.
Nhưng không, đó không hề là giấc mộng. Tối đến, ngay khi chúng tôi
nằm ngả người xuống giường, Gilda thậm chí không chờ tôi có phản ứng.
Nàng nhẹ nhàng quờ tay ra sau tìm bàn tay tôi. Khi thấy, nàng bao bọc nó
bằng lòng bàn tay, bằng những ngón tay nàng. Thế rồi mọi sự diễn ra y như
đêm trước. Chúng tôi nằm xem truyền hình, hay đúng hơn nàng xem, còn tôi
ngắm bờ vai nàng. Khi chương trình kết thúc, nàng ngồi dậy giúp vợ tôi dọn
giường. Nàng nhìn tôi, như nàng đã từng nhìn, nàng nói với tôi, như nàng đã
từng nói suốt ba năm qua, ba năm của tình anh em đồng hao và không nói gì
hơn thế.
Câu chuyện khởi đầu như thế. Tôi yêu Gilda, một tình yêu điên dại,
nhưng tôi không bao giờ có thể đi xa hơn việc cầm tay nàng trước vô tuyến
truyền hình. Gilda không cổ vũ tôi làm việc đó, trái lại, nàng còn ngăn cản
những lúc tôi thử thân mật hơn. Dù sao đi nữa, mọi điều xảy ra giống như
trong một mối quan hệ yêu đương hòan chỉnh: chúng tôi có liên lạc thân xác,
chúng tôi yêu nhau, cùng lừa dối vợ, cùng mặc cảm phạm tội, hệt như một
cặp tình nhân. Nhưng thực tế, tất cả những gì chúng tôi làm chỉ là vừa nắm
tay nhau vừa xem truyền hình.
Khi vợ tôi bình phục, bắt đầu đi dạy học trở lại, tôi phát hiện ra chuyện
yêu đương của chúng tôi giờ phải tan vỡ, vì đó là một chuyện tình không bình
thường. Cũng như mọi chuyện tình khác, điều bất thường ở chỗ Gilda chỉ có
thể yêu trong một hòan cảnh đặc biệt và xác định đó. Tôi muốn nói nàng chỉ
có thể yêu khi ngã người trên giường bệnh của chị mình, trong thời gian xem
truyền hình. Một vài bạn có thể cho rằng thật điên khùng khi tôi lập ra một giả
thuyết kỳ quặc nào đó. Nhưng tôi không điên, cho dù Gilda có làm tôi gần hóa
điên bằng hành vi của nàng. Tôi chỉ đơn thuần là người đương gắng bàn một
sự kiện không thể lý giải theo cách hợp lý. Có một cách thanh minh khác nằm
trong hình thức đạo luật của vũ trụ: người ta không thể yêu em gái vợ mình
theo cách nào khác hơn cùng ngả người trên giường bệnh của vợ, tay trong
tay xem truyền hình. Tính quá mức của giả thuyết thứ hai này nên nhìn nhận
như phát xuất từ lòng say đắm Gilda gây xúc động trong tâm trí tôi. Gì thì gì
tôi cũng biết một điều tất yếu, tôi yêu Gilda và vì thế điều cần thiết nhất là một
ngày nào đó vợ tôi lại phải nằm liệt giường.
Nhưng tôi không phải là một gã tội lỗi. Thậm chí trong một tưởng tượng
vô trách nhiệm, tôi cũng không xếp đặt trù tính việc làm gãy chân vợ tôi một
lần nữa. Tôi chi mong vợ tôi ngã bệnh, đơn độc, không có sự giúp đỡ của tôi,
chi cần ít ngày thôi. Gilda gần đây đã rời gia đình chúng tôi, bởi lẽ cuối cùng
nàng lấy một trong những anh chàng đến cầu hôn. Nhưng điều ấy không
thành vấn đề. Ngay khi vợ tôi bị dịch bệnh tấn công, thậm chí sau mười năm,
tôi sẽ gọi điện ngay cho Gilda, cầu xin nàng tới sống cùng chị nàng cho có
bầu bạn. Nàng sẽ tới như một người giải cứu. Chúng tôi sẽ lại ngả người trên
giường bệnh của vợ tôi cùng xem truyền, hình. Và Gilda, nàng sẽ nắm tay tôi.
Chúng tôi sẽ yêu nhau như yêu lần đầu, không hề biết đến bao thời gian, bao
năm tháng đã trôi qua.
CUỘC SĂN ĐUỔI
Tôi chưa từng là vận động viên, hay đúng hơn có một lần, lần đầu và
cũng là lần cuối. Hồi còn thơ ấu, một hôm không biết vì lý do gì tôi phát hiện
thấy mình đang cùng cha, tay lăm lăm khẩu súng, nấp sau bụi cây rình một
con chim đậu trên cành gần đó. Con chim lớn màu xám hay nâu, mỏ dài hay
ngắn, tôi không nhớ nữa. Chỉ nhớ cảm giác lúc đó, khi nhìn nó, tôi như đang
rình rập một con thú sức sống dâng trào, một con thú không hề biết mình bị
theo dõi.
Lúc đó ý niệm "hoang dã" xuất hiện trong tâm trí và không bao giờ tôi
rời bỏ được nó. Mọi thứ hoang dã luôn tự chủ, bất thường và không tuỳ thuộc
ở chúng ta. Thế rồi bỗng nhiên súng nổ. Tôi không nhìn thấy con chim nữa,
tôi cho rằng nó đã bay đi mất. Nhưng không, cha tôi đang dẫn tôi bước qua
những bụi cây lúp xúp. Cuối cùng, người cúi xuống nhặt một vật gi đó đặt vào
tay tôi. Vật đó âm ấm, mềm mềm. Cúi nhìn đó là con chim, đầu nó đung đưa
vỡ nát, túm lỏng nhuốm đầy máu bết lại như đội vương miện trong lòng bàn
tay tôi. Tôi oà khóc, vứt cái xác chết xuống đất. Thế đấy, thế là kết thúc kinh
nghiệm đầu đời vận động viên bắn súng của tôi.
Tôi nhớ lại chút kỷ niệm xa xôi trong đời mình vào đúng ngày đi theo
dõi vợ, lần đầu cũng là lần cuối, khi nàng lang thang qua những con đường
thành phố. Nhưng xin các bạn để tôi kể cho có thứ tự. Trước đây vợ tôi như
thế nào và giờ đây nàng ra sao? Nói ngắn gọn thì trước đây vợ tôi "hoang
dã", nàng hòan toàn tự chủ, không ai biết trước hành vi nào nàng sẽ làm; rồi
sau đó nàng trở nên "thuần hóa", nghĩa là nàng không còn độc lập, và ta luôn
biết trước mọi điều. Một thời gian dài trước đây, nàng giống con chim đậu trên
cành tôi đã thấy vào buổi sáng xa xưa của thời thơ ấu, rồi gần đây, thật tiếc
nàng trở thành một con gà mái, một con gà mái người ta luôn biết trước mọi
hành vi, nó đi đứng, ăn ngủ, đẻ trứng ra sao...
Tuy nhiên tôi không muốn để các bạn nghĩ đến tính hoang dã của vợ tôi
như một thứ không văn minh, thô lỗ, nổi loạn ương bướng. Ngoài vẻ đẹp
chim sa cá lặn, nàng còn là người đàn bà hiền lành nhất, chín chắn nhất và
lịch lãm nhất trên thế gian này. Không, hòan toàn ngược lại, tính hoang dã
của nàng toát ra từ bầu không khí luôn bất thường một cách mê hoặc, luôn
độc lập trong cách sống nàng vẫn biểu hiện trước mặt tôi, cả ở nhà lẫn ngoài
phố những năm đầu chung sống. Hoang dã trong việc chăn gối, trong sự xa
cách với mọi người, trong tính tình kín đáo bí mật. Khi nàng ngồi trước bàn
phấn, dán mắt vào gương, chải đi chải lại mái tóc dài, buông lơi, nàng hoang
dã như một con chim cun cút cô đơn nhẩy lò cò dọc theo những luống cày
ngập tràn ánh nắng, hoặc như con cáo lén lút ló ra từ đâu đó, nhìn quanh rồi
chạy biến. Hoang dã bởi lúc ngắm nàng tôi không bao giờ biết được khi nào
nàng sẽ chải nhát lược cuối cùng, khi nào nàng sẽ đứng dậy đến với tôi.
Hoang dã tới độ đôi khi bước chân vào phòng ngủ, hương vị nàng toả trong
không khí hăng xì như bước chân vào một ổ thú hoang.
Thế rồi từ hoang dã nàng dần trở thành thuần hóa. Như tôi đã kể, trước
đây tôi có bên mình một con cáo, một con chim cun cút, giờ đây tôi phát hiện
mình có một con gà mái. Một con gà mái gây ấn tượng gì cho người quan sát
nó? Có thể nói nó là một cỗ máy tự động trong hình hài của loài chim. Tự
động đi lại bằng những bước nhanh và ngắn, tự động trong những cú mổ
mạnh, dứt khóat, tự động trong những cái liếc ngang dọc bằng cặp mắt mở
tròn gắn trên cái đầu quen gật hoặc lắc, tự động trong việc sẵn sàng nằm
dưới con gà trống, tự động đẻ trứng bất cứ chỗ nào kèm theo những tiếng
cục tác báo hiệu. Thôi rồi con cáo, cũng như thôi rồi con chim cun cút! Hương
vị của nàng không còn toả trong tâm trí tôi cái thứ hôi hôi trinh khiết của loài
thú hoang nữa, thế vào đó tôi chỉ nhận thấy mùi hóa chất thơm ngọt sản sinh
từ một loại nước hoa Pháp bình thường nào đó.
Căn hộ chúng tôi trên tầng hai một toà nhà lớn xây cất trong một khu
hiện đại của thành phố. Những ô cửa sổ trông xuống quảng trường nơi có
khu vườn công cộng nhỏ. Đây là chỗ tụ họp của những cô bảo mẫu,những
đứa trẻ cùng những con chó. Một hôm, tôi đứng ngắm khu vườn trong nỗi
phiền muội. Trước đó ít phút, vợ tôi đóng bộ đi dạo phố, và lần nữa tôi lại
quan sát nàng. Tôi nhận thấy một đặc điểm tuy vô hình nhưng không thể thay
đổi được trong cử chỉ, trong cá tính của nàng, một cái gì đó khiến ta cảm giác
nó đã được thấy, đã được làm, và vì thế nó thóat ra ngoài thậm chí một sự để
ý khắt khe nhất. Bấy giờ tôi vừa đứng ngắm khu vườn vừa tự hỏi không biết
vì sao sự hoang dã tôi luôn sùng bái trước kia lại hòan toàn biến mất khỏi
nàng. Bỗng nhiên, nàng xuất hiện trước mắt tôi, băng qua khu vườn hướng
tới bến xe buýt. Tôi quan sát nàng rồi chợt nhảy lên vì vui mừng. Qua động
tác nàng kéo nếp nhầu trên thân váy hẹp, vuốt vuốt nó phẳng phiu sát bắp đùi
bằng đầu móng tay dài sắc tôi lại nhận thấy sự hoang dã trước đây đã khiến
tôi say mê nàng. Nó chỉ diễn ra trong khoảnh khắc, nhưng tôi vẫn kịp tự nhủ:
nàng lại trở nên hoang dã bởi tin rằng tôi không hiện diện ở đó để chằm chặp
ngó nàng. Tôi bèn rời ô cửa, xuống đi theo nàng.
Nhưng tôi không theo nàng ra bến xe, tôi không được phép lộ mặt.
Thay vào đó, tôi vội vã chạy tới xe con của tôi đậu gần đó. Tôi mở cửa chui
vào ngồi đợi xe buýt tới. Xe buýt đã tới, nàng bước lên cùng một vài người
khách. Khi xe chuyển bánh, tôi bám theo. Trong lúc lái theo chiếc xe chở
nàng, ký ức về cuộc đi săn lại trở về trong tâm trí, khi tôi còn là một đứa trẻ.
Tôi nhìn chiếc xe như một tầng lúp xúp những bụi cây, thân cây, còn vợ tôi
như con chim đậu trên cành, sống động và đang bị bí mật theo dõi. Và toàn
thành phố trong cuộc săn đuổi này, như có phép lạ đều biến thành quang
cảnh thiên nhiên như ở nông thôn: những ngôi nhà là những quả đồi, đường
phố là thung lũng, xe cộ là những hàng rào và rừng cây, ngay cả những
khách bộ hành trên vỉa hè cũng mang một cái gì đó tự chủ và khó đoán định -
nghĩa là hoang dã. Trong mồm tôi, đằng sau hai hàm răng cắn chặt là vị hăng
xì, tanh tưởi hơi đồng của súng đạn, cặp mắt tôi thường đờ đẫn, bất định
bỗng trở nên sắc nhọn, đầy chú tâm quan sát.
Đôi mắt tôi như đóng đinh vào lối đi xuống khi chiếc xe đến bến cuối
cùng. Nhiều người bước xuống, vợ tôi cũng theo họ. Một lần nữa tôi lại thấy
dáng vẻ nàng, khi chen khỏi đám đông, đi về một phố gần đó mới hoang dã
làm sao và điều đó làm tôi thật thích thú. Tôi nhẩy ra khỏi xe, cuốc bộ theo
nàng.
Nàng đi phía trước, không hề biết tôi phía sau, thanh nhã trong hình hài
một người đàn bà có đôi chân dài, hông hẹp, lưng rộng cùng mái tóc đổ
xuống đôi bờ vai. Khi nàng bước qua, bao gã trai ngoái đầu nhìn lại, có lẽ họ
cũng cảm nhận được cái tôi đang cảm thấy cùng sức dữ dội khiến con tim
đập loạn xạ, hơi thở như muốn ngừng, nét hoang dã bí ẩn của nàng đang
tăng lên một cách đều đều, không kiểm soát nổi và không giới hạn. Nàng
bước đi trong vội vã, rõ ràng có một chủ đích nào đó. Và ngay mục đích
không hề biết đó cũng tô điểm thêm tính hoang dã của nàng: tôi không biết
nàng sẽ đi đâu, cũng như buổi sáng xa xưa đó không biết con chim đậu trên
cành để làm gì. Hơn nữa, tôi nghĩ ngợi, thực tế cho thấy tính hoang dã đã
tăng lên từ từ và đều đặn khi nàng càng lúc càng tới gần đối tượng cuộc dạo
chơi bí ẩn, tôi biết diễn đạt thế nào? Đó là sự tăng lên của trạng thái căng
thẳng sinh học, của niềm phấn khích sinh tồn, của sự sôi nổi đầy sức sống.
Rồi bất thình lình, như cởi nút một bộ phim, mục đích nàng hé lộ.
Một gã trai trẻ tóc vàng mang áo khoác da, quần nhung kẻ đang đứng
dựa lưng vào bức tường xây quanh ngôi nhà trong một phố hẹp và cổ kính.
Anh ta nhàn tản hút thuốc, mắt ngó về phía trước. Thế nhưng khi vợ tôi đến
gần, anh ta ném mẩu thuốc vẻ quả quyết, bước theo và nắm lấy cánh tay
nàng. Tôi những mong nàng cự tuyệt anh ta, nàng tránh xa anh ta, nhưng
không một điều nào xảy ra. Nàng bước đi cạnh anh ta, rõ ràng nàng đang
tuân theo những qui luật của một loại nghi thức ái tình nào đó. Đi được vài
bước, bằng một cử chỉ chứng tỏ sự đồng loã của chính mình, nàng vòng tay
ôm ngang lưng người bạn trai, và anh ta cũng làm điều tương tự.
Tôi hiểu rằng gã trai lạ mặt này, kẻ có những cử chỉ suồng sã với vợ tôi
cũng bị tính hoang dã lôi cuốn. Vì thế, đáng lẽ phải hò hẹn theo lối thường
tình với nàng: gặp gỡ ở quán giải khát, một cái bắt tay, một sự tiếp đón khả
kính trên tình bạn bè giả tạo, anh ta thích thú hơn, tất nhiên có sự đồng ý của
vợ tôi, làm nàng bất ngờ hoặc giả đò làm như vậy, trong khi rõ ràng làm như
vô ý và như một người xa lạ, vợ tôi đang bước đi với mục đích đó của chính
nàng. Bằng trực giác tôi biết khi gã trai bước theo và nắm lấy cánh tay nàng,
tính hoang dã của nàng, có thể nói, đạt được một bước đột biến. Đã nhiều
năm rồi tôi không được nhìn thấy vợ tôi sống động đến như vậy, nhưng Chúa
ơi, nguồn sống này không chảy đến với tôi.
Họ bước đi, họ quấn lấy nhau như hai con thú hoang, không nghi lễ
mào đầu, họ làm điều thật bất ngờ. Họ lôi nhau vào một góc tối, họ hôn nhau.
Tôi cũng dừng lại chui vào một góc quan sát. Vợ tôi quay về hướng khác, ngả
người dưới sức nặng tấm thân gã trai, tóc nàng sổ tung. Tôi ngắm những lọn
tóc nâu nâu, dài và dày khi ngả người nàng đã để chúng đổ xuống đôi bờ vai,
và tôi cũng cảm thấy lúc ấy sức sống của nàng đạt đến giới hạn của nó; giống
như hai con thú hoang khi chúng tình tự, tính hoang dã thường tồn còn được
nhân lên gấp bội bởi sức mạnh tình yêu. Tôi quan sát thật lâu từ lúc những
cái hôn đổ xuống như mưa gió đến khi hình như chúng kéo dài vượt quá sức
chịu đựng của tôi. Tôi cho rằng đã đến lúc phải xen vào.
Tức là tôi phải tiến lên phía trước, nắm lấy cánh tay nàng hoặc túm lấy
mái tóc đang sổ tung của nàng - mái tóc buông lơi đưa lại cảm giác về sự thụ
động đàn bà. Rồi đó, tôi phải lao vào gã tóc vàng với hai nắm đấm. Sau cuộc
bắt quả tang này tôi phải lôi vợ về trong tiếng nức nở, mất mặt, xấu hổ, giận
dữ với trái tim tan nát, phải đay nghiến nàng, phải trút khinh bỉ lên nàng.
Nhưng sự can thiệp này có khác gì phát súng cha tôi đã bắn vào con
chim tự do, không ý thức, đậu trên cành sáng đó. Náo loạn, bối rối, xấu hổ,
mất mặt theo sau sự can thiệp của tôi sẽ phá huỷ không gì chuộc lại khoảnh
khắc quý giá và hiếm hoi dành cho tính hoang dã tôi đang được chứng kiến
trong cánh cổng tối tăm. Đúng là hoang dã kiểu này đang chống lại tôi, nhưng
tôi phải tự nhớ rằng tính hoang dã mọi nơi mọi lúc luôn chống lại mọi điều và
tất cả mọi người. Sau trận cãi nhau này có thể tôi lại chiếm hữu được vợ tôi,
nhưng tôi chỉ chiếm hữu được nàng vỡ nát và không hồn như con chim năm
xưa cha tôi đặt vào bàn tay để tôi ném vào túi thợ săn.
Những cái hôn vẫn như mưa tháng Bảy, ôi đúng rồi, đó là những nụ
hôn của tình yêu, không ai dám phủ nhận. Và tôi chờ đợi đến khi họ kết thúc,
đến khi họ bước ra ngoài cái cổng tăm tối, đến khi họ lại bước đi, quấn quít
bên nhau. Rồi tôi quay về...
BƯỚC ĐƯỜNG CÙNG
Đầu tôi như những túi áo khoác, những cái túi chứa một vài thứ, nhưng
là những thứ cũ nát, vô dụng và kỳ bí. Những túi vải đó, nay đã ngả màu
xanh, biến dạng và nếu xét theo lối cắt may hẳn là túi áo lính, chứa đựng
những gì? Này nhé! Xì gà, mẩu thuốc hút thừa, vài đoạn dây (thay thế cho
cúc áo), hai ba cái khăn mùi xoa đã dần đổi màu theo năm tháng; một con
dao nhíp mất lưỡi nhưng vẫn còn chiếc kéo nhỏ (hẳn là hữu dụng cho một gã
rậm râu nào đó); một bao diêm rỗng đựng vài lưỡi dao lam cũ thường dùng
để vót nhọn những que diêm thành tăm xỉa răng; những que diêm này tôi lại
cất trong hộp khác; một cái lược gãy gần hết răng; một mẩu xà phòng màu
tím hoa cà, thú thật chưa bao giờ đem ra dùng và nó vẫn nguyên xi như khi
người ta bố thí cho tôi (người ta cho một miếng bánh mì, một mẩu pho mát,
một miếng xà phòng; bánh mì và pho mát tôi đã ăn, còn xà phòng không đụng
đến), một nửa miếng gương tròn nhỏ viền nhựa xen-lu-lô-it màu trắng; cuốn
vở bẩn thỉu, nhàu nát tồn tại sáu năm qua không chút ích lợi gì bởi lẽ tôi
không biết viết (về điểm này không chắc lắm, tôi chưa bao giờ thử cả); một
chùm bốn chiếc chìa khóa, một chiếc là khóa ô tô, tất cả đều không giải thích
nổi vì các bạn sẽ thấy tôi sống dưới một mái lều, cửa giả chẳng hề khóa và
không có xe ô tô riêng; một chiếc đồng hồ vỏ thép chế tạo rất tốt nhưng chẳng
còn một cái kim nào; một gói bọc giấy xanh, khâu chỉ hồng không biết đựng
thứ gì, mặc dầu tôi thấy nó đã lâu nhưng chưa bao giờ nảy ý định mở ra
xem... Tôi đang kể lể những gi? Ô đúng! Cái đầu tôi cũng như túi áo khóac
ngoài, rặt những đồ vật bí hiểm, không thể truy ra nguồn gốc. Bắt đầu với tên
họ của tôi nhé. Tên tôi là gì? An-tô-ni-ô? An-gie-li-nô? A-ri-ghi-nô? An-bec-ti-
no? An-phret-di-nô? Tên tôi bắt đầu bằng chữ "A", kết thúc với âm "i-nô"
nhưng cái gì ở giữa thì tôi chịu. Họ cũng thế. Nó là Di - Donato? Di - Dotado?
Hay Di - Dorato? Hồi trước khi hai người cảnh binh kiểm tra giấy tờ, tôi có nói
với họ là Di-Dosato.
Bây giờ là ai, hay trước đây là ai? Tôi không thể dò ra, bởi lẽ như người
ta từng nói, tôi không có ký ức. Thế nên có thể trước đây bản thân là một cái
gì đó nhưng giờ không là gì cả. Đôi lần trong lúc kéo lê tấm thân quanh thành
phố xin ăn, lúc quận này, khi quận nọ, có những chi tiết khiến tôi nghĩ ngợi;
hay đúng hơn đưa lại một nỗi khát khao suy tưởng, với tôi nỗi khát khao này
cũng là thứ khác thường. Ví dụ vài ngày trước đây khi ngồi trên ghế băng
trong công viên, trước một tượng đài hai người lính bằng đồng đặt trên bệ
cao ốp đá hoa cương đen bóng, hay đúng hơn hai "con người" khóac quân
phục ở những tư thế không bình thường; không nghi ngờ gì nữa họ là những
nhân vật chính trong một cảnh trận mạc nào đó như bao cảnh chém giết trên
thế gian này và qua những vẻ anh hùng được đúc lại vĩnh viễn, nằm dưới
bóng mát cây cổ thụ, hình như tôi nhận thấy một điều gì thân thuộc. Nhưng
điều này cũng chỉ là nghi nghi thế thôi.
Lần khác, bức hình chụp một người đàn bà trẻ đẹp treo trên cửa sổ
hiệu ảnh cũng gây cho tôi cảm giác về điều gì hòan toàn không xa lạ. Người
thiếu phụ trẻ ôm ghì trên ngực đứa con gái nhỏ mặc đồ trắng ngắm thấy quen
quen. Nhưng ngay lúc tôi bắt đầu lục tìm trong ký ức, hay đúng hơn ký ức của
ký ức thì bỗng dưng thấy một mẩu thuốc hút thừa ai đó vứt trên vỉa hè. Mẩu
thuốc này dài một cách khác thường, gần như một điếu nguyên. Tôi cúi xuống
lượm, thế rồi lúc đứng dậy, hình ảnh người thiếu phụ bồng con đã không
cánh mà bay một cách vô vọng khỏi tâm trí tôi.
Tôi có phải là người lính mất tích trong chiến tranh? (tượng đài của họ
dựng trong công viên), kẻ đã mất hết trí nhớ, kẻ không bao giờ quay về được
với gia đình mình (là người đàn bà bồng con trong bức ảnh), là kẻ qua bao
năm tháng đã thành tên ăn mày lang thang đây đó. Ơn Chúa, có thể tin vào
điều đó, nhưng mọi thứ lại khiến tôi nghĩ mình đã bịa ra câu chuyện thảm
thương này từ lâu rồi vì một lý do nào đấy, lý do nào thì không nhớ nữa.
Dù sao tôi cũng không quan tâm tới việc làm gì trong dĩ vãng, vấn đề
quan trọng hơn cả phải biết được hiện giờ mình là gì. Tôi không nhớ nghe ai,
ở đâu, khi nào có nói mục đích của con người là tìm biết chính mình. Quả
thực qua nhiều năm tôi đã và đang nghiên cứu chính mình, cố gắng tìm biết
chính mình. Nhưng hiện tại, có thể nói tôi mới chỉ bắt đầu. Theo thói thường
tôi bắt đầu từ đôi chân và phải tiêu phí một năm trời để nhận biết riêng chân
bên trái. Tôi quan sát nó kỹ càng, theo chiều dọc, qua bên này, bên kia, phía
trên, phía dưới, quan sát lúc mang tất, lúc để trần, chạm vào gót, gan bàn
chân, từng ngón, từng cái móng, kiểm tra lúc nó khô ráo, lúc nó đẫm mồ hôi,
lúc nóng, lúc lạnh, khi thư giãn.... Cuối cùng nhận ra một năm chẳng ăn nhằm
gì, thậm chí cả đời cũng chẳng đi đến đâu. Vì thế phải tạm thời dừng lại,
chuyển qua chân phải thôi. Cái chân này vẫn đang còn nghiên cứu và không
thể biết sẽ hòan thành sau bao lâu, bởi lẽ tôi chắc chân phải khó hơn chân
trái nhiều. Thường thì người ta tin hai chân như nhau, nhưng đó là ý nghĩ sai
lầm. Ở chỗ này thì chân trái thuộc về bên trái, chân phải thuộc về bên phải, ở
chỗ khác lại không như thế nếu một chân chuyển động, chân kia lại đứng yên,
hoặc nếu một chân giơ lên, chân kia vẫn trụ trên mặt đất?! Từ đó nảy ra rất
nhiều khác biệt, nếu thống kê chi tiết phải mất khá thời gian.
Vậy nếu đôi chân, rõ ràng một bộ phận đơn giản của thân thể còn khó
biết đến thế thì cái gì xảy ra khi tôi nghiên cứu cái đầu, một thứ quá phức tạp
và kỳ bí? Tất nhiên tự tìm hiểu bản thân không dễ dàng gì ngay với một kẻ
như tôi, kẻ trong thực tế không có gì để làm. Tuy nhiên dù giá nào cũng phải
tìm biết chính mình. Mặt khác, rất có khả năng một người tự trở thành xa lạ
với chính mình. Điều này đã xẩy ra với tôi vài năm trước. Một lần, trong căn
lều tối đen như hắc ín, tôi giật mình tỉnh giấc, tay phải nắm lấy một bàn tay
đang động đậy ở đầu ổ rơm. Tôi cho rằng bàn tay của ai đó. Hoảng hốt, tôi
cấu mạnh vào một ngón tay trong bàn tay xa lạ. Suýt ngất vì đau đớn, hóa ra
đó chính là tay mình. Từ sự việc không may này tôi nghiêm túc quyết định
dấn bước vào tìm biết bản thân. Nếu không cái quái gì xảy đến khi tôi nhầm
đầu mình với ai đó, ví dụ cố gắng móc mắt hoặc bóp cổ chính mình chẳng
hạn?
Trong bất cứ hòan cảnh nào thân thể con người cũng không được tự ý
lãng quên. Khi tôi chờ mong ở nó ít nhất, nó liền nhắc tôi đến sự tồn tại của
nó bằng hai cách thật lạ lùng, vì hai cách đó rất khó chịu và thường không
đúng lúc. Nếu bạn có nghĩ về nó thì đó là đói và lạnh. Chưa bao giờ và không
khi nào tấm thấn tôi gợi chú ý của chính nó bằng một cảm giác dễ chịu cả.
Nhưng thật may mắn, điều này không khó khăn gì. Nó ngốn ngấu mọi thứ:
những đồ thừa vứt trong thùng rác, rau quả ôi thiu ngoài chợ, mỡ ở lò sát
sinh. Nó cũng thờ ơ và cam chịu khóac những mảnh giẻ rách nát và hôi thối.
Nỗi phiền duy nhất là tôi thường xuyên không sao ràng buộc được sợi dây nối
giữa cơn đói và thực phẩm, giữa giá lạnh và quần áo hoặc lửa ấm; vì thế điều
thường xảy đến là ngồi lì ra trong túp lều tăm tối, tự hỏi vô vọng xem cần cái
gì để tống khứ đi cảm giác về đói và lạnh... Tôi băn khoăn rất lâu nhưng
chẳng khám phá được gì, cuối cùng lú lẫn và ngủ thiếp đi. Một vài tiếng sau
tỉnh dậy vẫn lởn vởn câu chuyện cũ - cái gì có thể xua đi cơn đói? Cái gì có
thể dứt cơn lạnh? Có lẽ rất kỳ quặc nhưng đôi khi câu trả lời đến từ những
con thú hoang, những con chim, chó hay mèo - chúng là những cư dân duy
nhất sống trên triền đê vắng vẻ cạnh mái lều này. Còn nhớ lần quan sát một
con chó bới đống rác lôi miếng xương ra gặm, tâm trí cũng nảy ra ý làm theo.
Tôi nhặt một quả đậu carob lăn lóc cạnh đó gặm lấy gặm để. Dần dà vừa nhai
vừa nuốt cơn đói cũng dịu đi. Và thế là bữa đó vấn đề đói được giải quyết ổn
thoả. Nhưng hôm sau giải pháp dễ chịu đó lại biến mất, khi cơn đói tấn công,
tôi phải nặn óc trong tuyệt vọng để tìm ra phương cách giải quyết.
Đến đây có lẽ các bạn cho rằng tôi hơi điên?! Nhưng không phải đâu.
Tôi có khả năng đấy, và đây là bằng chứng. Mấy bữa trước tôi như đã tìm ra
mình là ai trước khi cái thằng tôi trở thành như bây giờ. Giống mọi lần tôi nhìn
thấy một cái gì đó thật gần gũi, một cái gì tôi đã được chứng kiến, đã được
nếm trải, có thể nói như vậy, trong một kiếp sống khác. Tôi muốn kể cho Lu-i-
gi-nô nghe. Anh ta cũng là kẻ cùng đường như tôi, ngoại trừ một vài điểm
khác biệt: anh ta bủng beo vàng vọt, gầy gò nhăn nheo trong khi tôi thô
người, phúng phính và hồng hào. Chúng tôi ngồi dưới mặt trời, trên tảng đá
của con đê chắn sóng..., bỗng nhiên tôi bảo:
- “Hôm nay mình nhìn thấy một đám ma hạng nhất”.
- “Sao lại hạng nhất?” Lu-i-gi-nô hỏi lại.
Tôi giải thích cho anh ta khi xe tang được trang hòang hình những thiên
thần, những cột sơn son thếp vàng, đó là đám tang hạng nhất. Tôi tiếp tục:
- “Có thể cậu không tin lắm nhưng mình có cản giác trước đây đã thấy
đám tang này, nó không xa lạ với minh”.
- “Rồi sao!"
- “Mình biết mình đã chết, không nhớ bao giờ và được người ta khiêng
đi vòng quanh thành phố trong một tang lễ như thế”.
Lu-i-gi-nô không phản đối gì. Anh ta là một con người không chú ý đến
hành động mà chỉ quan tâm đến ngôn từ. Ví dụ nếu một ai đó nói với anh ta:
"Này, Lu-i-gi-nô! Hôm nay là thứ ba đấy!" Thì anh ta không đáp rằng hôm nay
không phải thứ ba, mà là thứ tư... anh ta sẽ hỏi lại: Thế "thứ ba" nghĩa là gì?
Câu hỏi này luôn khiến mọi người cứng họng bởi từ "thứ ba" tự bản thân nó
rõ ràng chẳng có nghĩa gì hết. Và thế một lần nữa anh ta không đi tìm bất cứ
sự vô lý nào trong giả thuyết nêu ra về cái chết của tôi, anh ta chỉ hỏi:
- "Chết?" Từ "Chết" nghĩa là gì?"
Tôi chưng hửng. Với một cố gắng sau chót tôi đáp lại:
- "Chết là điều ngược với sống!"
- "Thế còn "sống", nghĩa là gì?"
- “Sống là điều ngược lại với chết!”
Nhưng anh ta chả hài lòng gì với kiểu trả lời như thế và cuộc thảo luận
cứ tràng giang. Khi kết thúc tôi không còn chắc lắm về việc mình đã chết nữa,
bởi bản thân cũng không biết cái từ "chết" này nghĩa là gì và mọi sự chấm dứt
trong bực bội. Ôi vâng! Bởi vì nếu như thực sự biết được mình đã chết, có lẽ
tôi cũng có thể biết được mình đã sống. Nhưng do không làm sao biết được
điều này, tôi như bị ném vào nỗi hòai nghi không biết tôi đã bao giờ sống, đã
bao giờ tồn tại, đã bao giờ có mặt ở đây chưa?!
RỜI RẠC
Tôi ra khỏi nhà, trĩu nặng cảm giác vừa rõ ràng vừa mờ mịt về một điều
gì đó không như thường lệ đã xảy ra hoặc đang diễn ra với bản thân. Khi ngồi
trên bờ đê dòng sông Tiber, tôi quay lại ngắm khối nhà nhỏ bằng phẳng, vàng
vàng với những ban công hình hộp đựng xà phòng, những ô cửa sổ viền
quanh bằng khung gỗ thông hẹp, khối nhà ấy tự bản thân chẳng có gì dị
thường. Nhưng đúng hơn, lại có một thứ gì đó không như lệ thường, đấy là
tất cả cửa chớp trên tầng hai đều đóng chặt không loại trừ một ô nào. Tôi băn
khoăn không biết đấy có phải là cái đang gây xáo trộn trong tôi không, nhưng
rồi cũng nhận ra chẳng phải nó. Và thế là tôi bắt đầu tản bộ dọc theo bức
tường chắn sóng của dòng sông.
Cũng chẳng có gì bất bình thường ở dẫy nhà cao tầng, tất cả dẫy nhà
ấy phần nào đều giống với toà nhà tôi vừa mới đi qua, chúng đứng xếp thành
hàng dài hút tầm mắt dọc theo vỉa hè, và chẳng có gì trái lệ thường trên bề
mặt xám vàng phía xa cùng những ban công đồ sộ, trên bầu trời phơn phớt
màu tía giá lạnh của mùa đông, hoặc trên lớp nhựa trải đường rải rác đó đây
nhưng vũng dầu nhờn ô tô đang phát ra ánh ngũ sắc lấp lánh. Không có gì
trái lệ thường dọc theo toàn bộ phố Lungotevere, ngoại trừ việc có ít nhất sáu
chiếc ô tô nhỏ cùng kiểu dáng và màu sơn nối đuôi nhau chạy qua. Ngay cả
trên thân, trên đám cành lốm đốm trắng những cây ngô đồng cùng vài chiếc lá
mắc bệnh gỉ sắt đang bám leo bám lắt đây đó, với tôi cũng là bình thường,
nhưng tôi nhận thấy cứ ba cây lại có một cây rõ ràng nhỏ hơn và tự hỏi điều
ấy có ngụ ý gì nhỉ. Vừa đi tôi vừa đưa mắt nhìn theo dòng sông, mặt nước
loang loáng vàng như da bụng loài cóc. Dòng sông Tiber đáng lẽ đã hiện ra
với vẻ bất động nếu như cứ cách quãng đều đặn không có một cái cành gầy
gò đen đúa trôi trên mặt nước khiến nước nhăn nheo, và đám cành lao vùn
vụt đưa lại một cảm giác về dòng chảy. Ở đây cũng lại chẳng có gì trái lệ
thường ngoại trừ việc tôi đếm được chín cành. Đã từng có đều đặn cách ba
cây ngô đồng lại một cây nhỏ hơn, sáu chiếc xe hoàn toàn giống nhau, và giờ
đây chín cái cành trôi nổi trên dòng nước, với tôi hình như nó là một cái gì đó
không rõ rệt lắm, hoặc tất cả phần nào cũng rõ ràng trong cuộc dấn thân -
nhận thức này. Tôi vẫn bước đi và tới một khoảng trống trước con đường dẫn
tới cây cầu.
Ở giữa khoảng đất trống có khu vườn công cộng xum xuê cây lá, toàn
bộ tầng một những khối nhà viền xung quanh là các loại cửa hàng cửa hiệu
và trên vỉa hè có một trạm xăng. Tôi cẩn thận ngắm nghía khoảng đất trống
này để tìm xem có điều gì đó trái lệ thường không, nhưng việc ấy hoàn toàn
vô ích. Ở trạm xăng, hai người công nhân đang bơm cho một chiếc xe hơi.
Máy bơm xăng sơn màu xanh lục, hai người công nhân mặc áo xanh lục và
chiếc xe hơi cũng sơn màu xanh lục. Tất cả màu xanh này bỗng nhiên khiến
tôi nghi ngại. Tôi lại gần và nghe được mẩu đối thoại sau:
- Chúng tôi cho chất chống đông vào nhé?
- Không, cảm ơn!
- Nhưng đêm qua nhiệt độ đã tụt xuống dưới 0°.
- Tối tối tôi đều để xe trong gara.
- À! Nếu vậy thì thôi!
Tôi rời trạm xăng, đi bộ vòng quanh khoảng đất trống, qua hết cửa hiệu
này đến cửa hiệu khác. Có một quán cà phê rộng rãi, bình dân với ba ô cửa
sổ bầy kín những lọ kẹo và chai rượu, phía trên quầy thu tiền xếp hàng đống
bát đĩa sành bôi màu. Chỉ có hai người khách đang ngồi trong đó, nhấm nháp
cà phê bên quầy thu tiền, xây lưng ra phía cửa. Cả hai cùng mang áo khoác
lông lạc đà màu nâu nhạt giống y như nhau. Nhưng ngay cả sự việc này, mặc
dù có vẽ bất thường, vẫn không phải là điều trái lệ thường đang gây xáo trộn
trong tôi. Có một thoáng tôi thấy mình qua tấm gương treo trước quán cà phê,
một vết bẩn màu đỏ loang rộng ở ống tay áo sơ mi, đúng chỗ cổ tay. Tôi là
người ưa sạch sẽ, cho dù rất nghèo khổ. Tôi nghĩ mình phải đi gột ngay vết
bẩn này càng sớm càng tốt. Nhưng làm sao đây? Chỉ có hai cách, một là phải
giặt ngay và hai là về nhà thay áo. Tôi quyết định tìm chỗ giặt ngay bởi lẽ nhà
tôi mãi tận ngoại ô rất xa chỗ này, vả lại ở phía bên kia khu đất trống, tôi thấy
một tấm biển viết chữ lớn màu trắng “Quầy hoá chất”. Để tiết kiệm thời gian,
tôi đi cắt ngang khu vườn.
Lúc qua khu vườn tôi nhận thấy một điều gì thực sự kỳ lạ. Dưới tán cây
có bốn chiếc ghế và bốn đôi tình nhân đang ngồi. Điều ấy cũng tốt lành thôi,
nhưng cả bốn người đàn ông đang ngồi với phụ nữ của họ đều là những
quân nhân, và với tôi cảnh ấy sao có vẻ quá ư đầy ứ. Cảnh ấy ngụ ý gì nhỉ?
Cứ nghĩ ngợi miên man về vấn đề ấy, tôi tới vỉa hè đối diện lúc nào không
hay. Tôi đi thẳng vào cửa hàng bán hoá chất.
Quầy hoá chất dài, hẹp, ánh sáng chói mắt, bàn thu tiền kê mãi cuối
căn phòng. Dọc theo cả bốn bức tường kê những chiếc giá đầy chai lọ sáng
lấp lánh. Bán hàng là một phụ nữ trạc năm mươi, trang điểm vụng về, tóc đen
nhánh búi hình tháp trên đỉnh đầu. Bà ta chào đón tôi bằng một cái nhìn dò
xét qua đôi mắt tròn, đen lánh. Đây là đoạn đối thoại giữa hai chúng tôi.
- Tôi muốn mua bánh xà phòng giặt vết bẩn này.
- Tôi không có loại xà phòng ấy. Tôi chỉ có xà phòng rửa tay thôi.
- Tại sao? Thế xà phòng nào có thể giặt được?
- Phải xà phòng giặt. Hay tốt nhất ngài nên thay áo sơ mi. Ngài nghĩ
làm sao có thể giặt sạch nó? Máu đã loang thấm vào tận sợi vải rồi.
- Thế có loại xà phòng rửa nào có thể giặt được không?
- Vâng có thể. Nhưng nó không thể tốt như xà phòng giặt.
- Cũng được! Cho tôi một bánh như thế.
Trong lúc trao đổi, tôi nhận thấy một điều khác nữa thực sự đáng nghi
ngại. Người đàn bà mặc một chiếc váy rộng cổ trễ xuống để lộ khoảng trên
vùng ngực. Và ngay chính giữa hai vùng cong mềm mại, bà ta cài vào cổ
chiếc váy liền một cái ghim men sứ. Chiếc ghim sứ có màu xanh lục như màu
máy bơm xăng, màu áo của người công nhân, và chiếc xe hơi tôi đã thấy ít
phút trước đó. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên chăng? Tôi cầm bánh xà phòng,
trả tiền rồi ra ngoài đi tới quán cà phê.
Bước vào quán, tôi hỏi lối đi tới phòng rửa tay, rồi tự đóng cửa phòng
lại và cảm thấy thật thoải mái. Nhưng cảm giác thoải mái không kéo dài, bởi
vì gạch lát nền cũng lại màu xanh lục, như màu chiếc ghim sứ của người đàn
bà, màu máy bơm xăng, màu chiếc xe... Tôi khó nhọc cởi áo khoác ngoài, áo
Jacket, áo thun, vắt tất cả lên mắc. Tôi vặn vòi nước, nhúng cổ tay áo sơ mi
vào và bắt đầu hăng hái vò mạnh. Vừa giặt tôi vừa thấy trên bức tường có
một vết nứt hơi giống hình dáng một người đàn ông đang đứng. Nếu tôi đứng
ở một chỗ thích hợp, cái bóng sẽ đỗ lên gần như vừa khít vết nứt đó. Đây
cũng là một sự trùng hợp ngẫu nhiên ư? Tôi chấm dứt cái việc giặt cổ tay áo,
chẳng biết có sạch không nữa, tháo bồn nước đỏ ngầu sủi bọt, vứt bánh xà
phòng lại bên cạnh rồi đi ra. Lúc đã ra khỏi quán cà phê, một lần nữa tôi thấy
giặt giũ quả là vô ích. Vết bẩn, dù đã nhạt đi vẫn không sạch hẳn và cái ống
tay áo sơ mi nhớp nháp dính quanh cổ tay khiến tôi khó chịu.
Tôi suy nghĩ có lẽ nên mua một chiếc áo sơ mi và thay ngay lập tức tại
cửa hàng. Nói là làm ngay. Tôi bước vào một phố lớn hướng ra khỏi khu đất
trống. Chỉ ít bước chân là đến ngay nơi cần đến. Lúc bước vào, cửa hiệu
vắng tanh. Gã bán hàng còn trẻ, còm nhom, gương mặt trắng bệch như tờ
giấy, thắt nơ con bướm quanh cái cổ dài ngẳng. Gã hỏi tôi vẻ nghiêm trang:
- Tôi giúp gì được ngài?
Và đây là mẩu đối thoại:
- Tôi muốn mua một áo sơ mi
- Vải Zephyr hay Poplin?
- Vải Zephyr
- Áo trắng hay màu?
- Áo màu
- Ngài mặc cỡ nào?
- Tôi nghĩ cỡ 42
- Đây là một vài chiếc rất lịch sự. Kẻ sọc to, sọc nhỏ và màu trơn.
- Tôi mua chiếc này. Có thể mặc ngay ở đây không?
Gã hình như hơi ngạc nhiên trước yêu cầu của tôi, nhưng vẫn mở cánh
cửa phòng thay đồ bé xíu và sau khi bật điện, gã để mặc tôi ở lại. Cái cảm
giác về một điều gì đó trái với lệ thường đã hoặc đang xảy đến với tôi, giờ đây
trở nên quá dữ dội và đau đớn. Cởi áo xong tôi ngồi xuống chiếc ghế, nửa
người để trần và ứa nước mắt. Một phút trôi qua trong thổn thức. Và mặc dù
đang ở trong phòng thay quần áo, tôi vẫn nhận thấy một điều rất đáng hồ
nghi. Đấy là có ba thanh ván lát sàn bằng gỗ bị bong ra và tôi hoàn toàn có
thể dùng tay bẩy cả ba thanh lên. Một lần nữa lại con số ba. Tôi kinh hoàng
và cố sức bật thanh thứ tư, nhưng thất bại. Chỉ có ba thanh, và ba là con số
cố định. Mặc xong áo mới, chỉnh lại áo quần, tôi vo viên cái áo cũ rồi đi ra
ngoài.
Lúc thanh toán, tôi thọc tay vào túi áo khoác. Tôi còn nhớ mình có một
tờ năm nghìn lia, thế nhưng lại tìm thấy một nắm những tờ mười nghìn lia mà
không tài nào nhớ ra vì sao lại có. Tôi trao tận tay cho gã bán hàng một tờ
trong số đó, nhưng gã chỉ vào một vết máu bẩn dính ờ góc và trả lại. Tôi đổi
cho gã tờ khác và nhủ thầm "Tờ bạc hơi bẩn mà đã nhặng xị lên. Gã không
hề thấy ba thanh ván gỗ bị bong ra trong phòng thử quần áo của gã mới là
nghiêm trọng, thực sự nghiêm trọng". Sau đó gã gói chiếc áo cũ lại đưa cho
tôi, rồi chạy ra mở cửa cúi đầu chào. Tôi bỏ đi.
Tôi quay về vuông đất trống và từ đây lại đi bộ dọc phố Lungotevere.
Tuy không còn cảm thấy khó chịu vì cái ống tay áo ướt nữa, nhưng cảm giác
về điều trái lệ thường nào đó đang bủa vây như một cái bẫy rình rập, thì vẫn
còn đó. Lúc đi bộ, tôi nhận thấy dọc theo phố Lungotevere những ký hiệu
ngày càng nhiều hơn. Những chiếc xe hơi cùng kiểu dáng, màu sơn nối đuôi
nhau vun vút lao qua, một con chim đốm đen đốm trắng, có lẽ là chim ác là,
đậu trên một cành ngô đồng, và cách đó một vài gốc cây, một con chim khác
đen tuyền, có thể là quạ, cũng đậu trên một cái cành, ba đứa trẻ đi cùng bà
mẹ đội ba chiếc mũ kêpi với cái màu xanh lục như định mệnh, rồi ba tảng đã
lát vỉa hè bong ra bập bênh như ba thanh ván trong phòng thay quần áo... Sợ
hãi kinh hoàng, tôi dừng lại một lúc trước khối nhà vàng vàng vừa mới đi qua.
Một đám đông đang xúm xít quanh lối cửa vào, hai chiếc xe cảnh sát đỗ bên
lề đường. Và tôi nghe thấy mẩu đối thoại sau:
- Cái gì xảy ra thế?
- Một bà già bị giết
- Ai giết
- Có Chúa biết!
- Bà ta bị giết như thế nào?
- Rõ ràng bị dao găm đâm.
Vào dịp khác, chắc tôi đã đứng lại để nghe ngóng, bởi vì trước hết đấy
là một câu chuyện gây chú ý. Nhưng cảm giác về một cái gì đó trái lệ đang
xảy ra với tôi, đã đẩy tôi đi mau. Choán đầy tâm trí là một thứ khác hẳn với
chuyện các bà già bị dao găm đâm chết. Một con chim nữa, lần này mang bộ
lông màu nâu, đang đậu trên cành cây ngô đồng phía trước một đoạn ngắn.
Con chim đó, cùng với hai con kể trên, làm nên con số ba. Nó vỗ cánh bay lên
và tôi bắt đầu chạy. Cặp mắt tôi dõi theo khi nó lao sâu vào bầu trời, như thể
bị rơi ngược vào khoảng không, càng lúc càng nhỏ hơn, mỗi lúc một vời vợi
hơn, thành một chấm đen giữa mênh mông xám ngắt. Tôi vừa chạy vừa khóc,
khóc và chạy mãi, mãi cho đến khi con chim hoàn toàn biến mất trong bầu
trời.
CARLO, ANH BIẾT TÔI RỒI
Tôi đi chúc mừng lễ Giáng sinh Carlo, người bạn thân cùng tuổi hiện
đang sống với gia đình trong một căn hộ ở quận Parioli. Việc này đã thành
thông lệ. Cả năm chúng tôi không hề gặp nhau, nhưng đến lễ Giáng sinh, tôi
lại tới chúc những điều tốt đẹp nhất. Trong những năm tháng tuổi trẻ, chúng
tôi bên nhau, rồi tiếp sau chúng tôi mất liên lạc. Mười năm trước, khi chúng tôi
gặp lại nhau, khi ấy cả hai đều đã ngũ tuần. Rồi kể từ đó, cứ đến lễ Giáng
sinh hàng năm, tôi lại tới chúc mừng anh ta. Như tôi đã nói, việc ấy đã thành
thông lệ. Và chỉ căn cứ vào cái cách anh ta chào đón tôi, có thể thấy đấy
không chỉ đơn thuần là tôi muốn thế mà cả anh ta nữa.
Tôi đang kể chuyện vào dịp Giáng sinh, tôi rời nhà đến với anh ta. Tôi
sống ở ngoại ô và không ngần ngại thú nhận rằng nhà tôi thực khác hẳn nhà
của Carlo. Phải gọi nó là cái liều thì phần nào đúng hơn gọi là nhà, và bạn
đọc chắc sẽ có hình dung chính xác về nó.
Chen chúc giữa hàng đống những mái lều nằm tựa lưng vào cống
Mandrione, nó chẳng thiếu những tiện nghi cần thiết. Một mái lều nhỏ xíu bày
biện như phòng rửa tay chân, bếp lò dùng bơm ga, sàn nhà lát gạch, cửa sổ
che kính, mái lợp ngói. Tôi đã sống dưới mái lều này bao lâu rồi? Đấy là một
điều bí ẩn. Làm sao tôi có mặt ở đây? Một điều bí ẩn khác. Trước kia tôi ở
đâu? Lại một điều bí ẩn nữa. Nhưng cho dù tôi có mất hết ký ức thì cũng
không có nghĩa tôi không là một ai đó. Tôi được gọi, hay đúng hơn mọi người
gọi tôi là Tullio. Và nếu như có ai đó trong cai xóm lều này gọi: "Giáo sư!", thì
chính tôi sẽ quay đầu lại trả lời chứ không còn ai khác. Giáo sư gì?, tôi không
biết, nhưng cơ mà đó là giáo sư, không thể khác đi.
Lễ Giáng sinh thời tiết không mấy dễ chịu, ở Rome cũng hiếm khi thế,
vừa lạnh, vừa ẩm ướt, rồi sương muối và mưa. Evelina, vợ tôi tự tay quấn
chiếc khăn len quanh cổ và cài nhanh hàng khuy áo khoác ngoài cho tôi.
Nàng giúi vào tay tôi thêm một chiếc ô. Chiếc khăn thủng lỗ chỗ, áo khoác có
một vết toạc hình chữ z ngay trước ngực. Còn cái ô, chà, một nan nổi loạn
chọc thẳng ra phía ngoài. Tôi than thở:
- Tại sao? Tại sao anh phải khoác cái đống giẻ rách này lên người?
Hãy giải thích tại sao đi?
Nàng đáp:
- Để đánh động lòng trắc ẩn. Và nhớ nói vợ anh đang ốm nặng trong
bệnh viện. Đừng quên thế nhé.
Tôi lặng thinh nhún vai rồi bước ra, ngoài trời mưa như trút nước.
Trên xe buýt, tôi ngồi cạnh cửa sổ mờ mịt vì mưa, chiếc ô kẹp giữa hai
chân. Tôi ngoảnh mặt về phía cửa kính. Tôi đương nghĩ ngợi về cái gì? Tôi
nghĩ về cái điều cứ mang Carlo và tôi lại gần nhau chính là điều thường mang
hai người đàn ông khác nhau về tài sản đến với nhau, đấy là văn hoá. Điều
này thì Evelina, với đặc điểm mù chữ, sơ cấp và rõ ràng ít học ít hành không
thể hiểu được. Đối với nàng, sợi dây liên lạc duy nhất giữa bản thân tôi và
Carlo là mối liên hệ giữa một người giàu và một người nghèo. Hoàn toàn
không phải vậy. Thực tế, Carlo và tôi đã bên nhau những tháng năm trẻ tuổi,
làm việc cùng nhau vì một nguyên do quan trọng nào đó, một thứ gì phục vụ
lợi ích toàn nhân loại, một cái gì thuộc văn hoá. Nhưng vì ký ức luôn ốm yếu
nên tôi không thể nhớ ra nổi đấy là cái gì, cái gì trong lĩnh vực đó đã khiến
chúng tôi hợp tác bình đẳng cùng nhau, tranh đấu cùng nhau. Đấy, dù sao
cũng đã có một điều như thế, có không một mảy may nghi ngờ. Vả lại, nếu
không thế thì mười năm trước đây, khi tôi gặp lại Carlo, tại sao anh ta không
hét lên: "Cút đi! Tôi không biết anh, tôi chưa bao giờ gặp anh".
Dù sao đi nữa cái khúc mắc không chỉ ở chỗ tôi không biết trong những
năm tháng trẻ tuổi chúng tôi đã làm cái gì, mà một cách lô - gíc, tôi còn không
biết anh ta là ai và anh ta làm gì. Tôi chỉ biết anh ta tên gọi là Carlo, và đấy là
cái tên tôi đã gọi anh ta khi gặp lại mười năm trước đây. Chắc là tên đó đúng
bởi lẽ anh ta chẳng phản đối gì cả. Hơn nữa tôi đã thử một vài bận, tế nhị và
thận trọng tìm ra tên họ và nghề nghiệp, nhưng chưa bao giờ thành công cả.
Tôi chắc đã hỏi anh ta điều này vào lúc bắt đầu quen nhau, rồi nhồi thẳng nó
vào mớ ký ức đã bị đánh mất của mình; giờ đây, sau mười năm, mọi sự đã
quá trễ tràng.
Tôi tự nhủ ngày hôm nay mình sẽ cố gắng lần chót để khám phá vấn đề
này. Trời ơi, tôi Không thể cứ tiếp tục mãi như thế, không thể nhận quần áo,
tiền bạc và thức ăn năm một lần mà không hề hay biết ai cho và với mục đích
gì. Lẽ đương nhiên, tôi không được xúc phạm đến sự nhạy cảm của anh ta
bằng việc để anh ta nghĩ rằng trong mười năm qua tôi đã và đang đóng kịch.
Ngay hôm nay, thật kín đáo, ngay hôm nay tôi phải, vâng phải đạt đến sự
thật.
Quyết định này khiến tôi cảm thấy dễ chịu hơn. Dễ chịu tới mức tôi cố
tình bỏ lại trên xe buýt chiếc ô có cái nan chọc ra ngoài mà Evelina đưa nhằm
đánh động lòng trắc ẩn. Khi bước đi trên phố, tôi cởi nốt chiếc khăn len tơi tả
quấn quanh cổ, một vật dụng khác dễ khiến người ta thương hại, và ném
xuống rãnh nước. Tôi không cần lòng thương xót, không muốn lòng từ thiện
chi hết. Tôi muốn gặp một người bạn, như một con người và một con người,
ôn lại cùng nhau những tháng năm tuổi trẻ tốt đẹp, những sự hợp tác đầy
vinh quang.
Đã tới toà nhà nơi anh ta sống. Ôi trời, không có ai gác cổng cả. Tôi lên
thang máy và tới phòng anh ta. Trời, lại nữa, không cả biển đồng khắc tên
treo ngoài cửa. Trong lúc người hầu gái chạy đi tìm chủ nhà, tôi đảo mắt
quanh tiền sảnh với hy vọng nhìn thấy một điều gì đấy để ít nhất từ đó có thể
luận ra nghề nghiệp anh ta. Nhưng không, không có gì hết. Một chiếc bàn với
cái gương, bốn cái ghế, một vài bức tranh treo trong khung, một cái giá treo ô.
Quả là một người đàn ông đầy bí ẩn, một người đàn ông giấu biệt những gì
của chính mình, nhưng để làm gì nhỉ? Và rồi, lúc anh ta bước ra, lại câu chúc
mừng như thường lệ:
- Carlo, tôi đã tới chúc anh ngày lễ Giáng sinh hạnh phúc. Cho phép tôi
hôn anh.
- Tốt lắm ông bạn già Tullio. Tôi vui mừng được gặp anh. Cảm ơn anh
đã tới đây.
Chúng tôi im lặng nhìn nhau một lát. Đoạn tôi nói với một chút lúng
túng:
- Nghe này Carlo! Chúng ta dành một chút cho việc nghiên cứu của
anh. Tôi có cái này để nói với anh.
Bạn đọc phải thấy tôi dùng từ "nghiên cứu" một cách có chủ ý kín đáo.
Nếu anh ta có "nghiên cứu", tôi hoàn toàn đã tiến được một bước, vì điều ấy
có nghĩa phải nghiên cứu một vấn đề hay lãnh vực gì đấy. Trái lại nếu anh ta
nói "Tôi không nghiên cứu, tôi có một phòng thí nghiệm, hay một phòng khám
bệnh, hay một thư viện" thì khi ấy tôi sẽ biết anh ta là một nhà khoa học, một
bác sĩ, hay một người thủ thư. Nhưng anh ta im lặng. Sau một lát ngó tôi vẻ lạ
lùng và bằng một cử chỉ, anh ta mời tôi vào một căn phòng. Tôi bước vào và
nhận thấy đây là một phòng khách thật khó mô tả. Anh ta chỉ vào một chiếc
ghế, ngồi xuống phía đối diện và lại nhìn tôi chằm chặp với bầu không khí của
một kẻ chuẩn bị lắng nghe. Tôi nói, càng lúc càng lúng túng hơn:
- Carlo, tôi là Giáo sư! ít nhất thì họ cũng gọi tôi thế.
- Vâng, tôi hiểu!
- Anh biết tôi rồi, Carlo. Anh biết văn hoá đã từng và đang là một đặc
trưng của tôi.
- Vâng. Anh đã nói với tôi điều ấy rồi.
- Con người sẽ ra sao nếu thiếu đi văn hoá, Carlo? Một khối đông xám
xịt, trong đó sự khác biệt duy nhất chỉ là tiền bạc. Anh, một người giàu, tôi một
người nghèo. Anh, kẻ làm từ thiện và tôi, kẻ nhận lãnh. Nhưng may mắn sao
đã có văn hoá.
- Vâng, thật may mắn
- Và vì thế mối quan hệ của chúng ta không phải quan hệ giữa một
người giầu và một người nghèo, mà giữa hai người đàn ông thời trẻ đã tranh
đấu bên nhau, hợp tác với nhau và cùng gia nhập các lực lượng nhằm đạt tới
một chung cục văn hoá chung cho con người.
- Nói hay lắm.
Bỗng nhiên tôi thấy mình chưa khám phá được bất cứ điều gì cả. Tôi
cố kéo anh ta lại gần. Tôi nói:
- Anh đã thành công, trong bất cứ trường hợp nào đều xứng đáng, còn
tôi trái lại... vẫn như xưa, khi tôi gặp lại anh, hình như mới chỉ là hôm qua thôi,
chúng ta cùng nhau làm các thí nghiệm trong cùng một phòng thí nghiệm.
Anh ta không một lần chớp mắt.
- Vâng. Anh ta nói. Với tôi, cũng như mới chỉ hôm qua thôi.
Tôi nhận thấy mình bắt đầu lúng túng, mồ hôi túa ra dưới lần áo khoác
nặng nề. Tôi cảm thấy mình đã sai lầm và phải chữa lại:
- Chúng ta đã cùng nhau làm việc ở một thư viện.
- Vâng. Đúng thế.
- Ý tôi muốn nói chúng ta đã cùng nhau viết một cái.... một cái.... một
cái luận văn.
- Vâng, Tullio! Anh ta đáp. Điều anh nói là sự thật.
- Sự hợp tác của chúng ta ngắn ngủi, Carlo, tuy nhiên không thể phủ
nhận việc chúng ta đã góp phần vào sự tiến bộ của loài người, một sự đóng
góp có lẽ cũng không đến nỗi hoàn toàn vô ích.
Tôi nhìn anh ta, anh ta đang nghe với cặp mắt nheo nheo. Tôi tiếp tục.
- Carlo, bản thân tôi đương nhiên không còn như trước đây nữa.
Nhưng những ký ức này luôn đánh thức lòng nhiệt tình mê say già cả trong
tôi. A Carlo, chúng ta là một đôi bạn hết sức ăn ý. Anh còn nhớ khi chúng ta
cho xuất bản cái... cái... anh biết rồi đấy, cái chúng ta viết chung với nhau...
anh còn nhớ hiệu quả, trong thực tế vụ xôn xao dư luận ấy không, rõ ràng mọi
khám phá đều gây nguy hiểm cho những định kiến chắc chắn, tạo ra những
mối quan tâm và các thái độ dè dặt... Nhưng chúng ta không chùn bước,
không do dự, phải không Carlo?
Tôi nhận thấy mình không biết nói gì hơn nữa. Đầu tôi trống rỗng và
người đầm đìa mồ hôi. Còn anh ta, trái lại, điềm tĩnh và kín đáo nhìn tôi nói,
không thốt ra một lời. Chúng tôi im lặng một lát, đoạn anh ta nhìn đồng hồ và
bảo:
- Được rồi. Tôi rất tiếc nhưng còn nhiều việc phải giải quyết. Cám ơn
anh đã tới chúc phúc ngày lễ Giáng sinh. Tôi cũng chúc lại như thế cho anh
với tất cả trái tim này. Và bây giờ người phụ nữ trẻ này sẽ tiễn chân anh - Anh
ta chỉ người hầu gái, hình như chị ta luôn đứng phía ngoài cửa trong suốt câu
chuyện của chúng tôi.
Chị ấy sẽ tặng anh gói quà Giáng sinh như thường lệ.
Tôi đứng dậy, kêu to lúng túng:
- Tôi không muốn nhận bất cứ quà gì từ tay một người mà... mà... mà
đã lấy đi những suy nghĩ của tôi và chuyển nó thành của mình, đã thành công
trong việc tạo lập sự nghiệp cho bản thân nhờ những cách như vậy.
Đây là cố gắng cuối cùng nhằm nhổ bật anh ta, bắt anh ta phải nói ra
anh ta là ai, và nhờ thế, biết được tôi là ai. Nhưng trời hỡi tôi đang phải tiếp
xúc với một loại người không dễ gì phản bội bản thân. Anh ta nói vẻ lạnh giá:
- À, sẽ phải như thế, đúng không? Nhưng sáng nay khi gọi điện cho tôi
anh không nghĩ thế.
- Tôi đã. thay đổi cách nghĩ.
- Được rồi, không sao đâu. Luisa, cô tiễn chân ông này ra cửa được
không?
Tôi thấy mình ra khỏi phòng và lúng túng đi xuống phố. Mưa tầm, mưa
tã. Mưa lạnh giá và nó làm tâm trí tôi tỉnh táo. Tôi lại theo thang máy đi lên và
ấn chuông. Luisa ra mở cửa.
- Chúc cô lễ Giáng sinh hạnh phúc. Cô có thứ gì cho con người già cả
đáng thương sống trong lêu, còn bà vợ đang nằm viện này không?
Chị ta không nói nửa lời, biến đi. Một lát chị ta quay lại với một gói giấy
màu nâu lớn buộc dây.
- Đây, của ông đây - Chị ta nói - Tôi tự tay gói nó. Một bộ com-lê, hai
chai rượu và một chút kẹo ngon. Có được vừa ý ông không?
- Xin cảm ơn cô. Cám ơn. Cám ơn. Và một lần nữa xin cầu chúc cô
hạnh phúc.
Ra đến phố, tôi bước cắm cúi giữa trời mưa. Tôi tự nhủ "Điểm nào là
mấu chốt để nói ra sự thật? Anh thì cứ thế, cứ thế, tôi vẫn vậy, vẫn vậy. Chí ít
giờ đây tôi nên biết anh là ai, và hơn tất thảy, tôi là ai".
CÂY GIU - ĐA
Sáng nay tôi đã định chuồn ra khỏi nhà, nhưng từ phòng làm việc cha
tôi gọi:
- Adalberto, lại đây!
Tôi bước vào - Ông đang đứng sau chiếc bàn đẹp đóng từ thế kỷ 19,
chiếc bàn rất hợp với địa vị ông, một luật sư riêng của các gia đình La mã
danh giá, nó nhỏ bé xinh xắn. Ông mặc một bộ com-lê cài chéo ngực, may
bằng vải Anh cát lợi nặng trịch với những sọc xanh và đỏ thắm trên nền xam
xám. Cặp mắt ông xanh nhạt, như hai cái hốc trên gương mặt màu đất. Tiu
nghỉu, tôi chào:
- Chào ba, ba gọi con?
Ông điềm tĩnh đáp, khiến tôi ngay lập tức thấy chán ứ.
- Đúng, tao gọi mày. Xem đây. Gã thư ký của tao không có ở đây, hắn
ốm đau gì đó. Mày có sẵn lòng cầm mấy cái thư bảo đảm này ra bưu điện
không? Và đây nữa, đây là tiền, mua cho tao bốn bao thuốc lá, loại tao vẫn
hút ấy.
Tôi ngoan ngoãn:
- Được ạ! - Và chìa tay ra nhận phong thư cùng với tiền.
Thế rồi bỗng nhiên ông đấm nắm tay đánh thình xuống bàn hét lên:
- Màv còn đồng ý làm một thằng thư ký mà không càu nhàu gì nữa kia
đấy! Mày không phản ứng, mày không rủa tao đi xuống địa ngục cho rồi. Đây
này, hơn hai tám tuổi đầu, không bằng cấp, không làm gì, mà mày đâu có
muốn làm gì, một tên ăn bám hạng nhất. Tao phải làm như nô lệ cả đời để
nuôi mày. Còn mày? Một thằng thư ký quèn, một thằng chạy việc loăng quăng
chẳng được tích sự gì ngoài việc đi gửi mấy bì thư và mua dăm bao thuốc lá.
Tôi quan sát ông la hét, khuôn mặt xung huyết dưới lớp da vàng vàng,
cập mắt xanh nảy lửa và như lồi ra vì tức giận, đôi môi kéo ngược ra phía sau
để lộ những cái răng ám khói thuốc đen xì. Và lúc tôi nhìn ông, tôi gần như
mất hồn, bị đánh chìm trong cơn thịnh nộ. Có lẽ ba tôi nhận thấy điều này cho
nên ông bỗng gào lên:
- Xéo đi! Xéo đi! Xéo đi!
Tôi không đợi ông nói thêm câu thứ hai, vội quờ tay nhặt thư và chạy
biến. Nhưng những ngôn từ dữ tợn "Xéo đi! Xéo đi!" còn theo chân mãi đến
tận cầu thang.
Ra đến ngoài phố tôi mới đi chậm lại và bắt đầu thoải mái tiến về phía
toà nhà bưu điện ở Piazza Mazzini. Vừa đi tôi vừa nghĩ về cha mình cùng cơn
nổ bùng giận dữ của ông. Tôi cứ ngạc nhiên tự hỏi tại sao và từ đâu ông lại
tin chắc tôi không làm gì trong lúc tôi có ấn tượng rằng mình quá bận rộn, vô
cùng bận rộn, rằng mình đang lao động gần như kiệt sức?
Tôi châm một điếu thuốc và nhòm ngó xung quánh. Bỗng nhiên tôi hiểu,
sống, hay nói cách khác, tồn tại có ý thức, trong bất cứ thời khắc nào của đời
người,khi người ta còn sống là một điều vĩ đại đối với tôi, và thực tế điều ấy là
quá dư thừa. Trong những điều kiện như vậy, làm việc chỉ là cộng thêm vào
sự mệt mỏi kiệt sức mà tôi cảm thấy không thể đối mặt. Để giải thích tường
tận hơn ý tưởng này của bản thân. Tôi xin lấy thí dụ về những ga-lê-ri bầy
tranh. Người ta bỏ ra hai, ba tiếng đồng hồ đi lại loanh quanh, xem xét các
bức tranh từng cái từng cái một cho đến lúc nhoài người ra, kiệt sức, hoàn
toàn tận diệt, người ta vội vã lao về nhà ném mình xuống giường và bất động.
Dù sao với tôi cuộc sống cũng là vậy, một phòng bầy tranh tôi cứ đi qua đi
qua, và chỉ nội việc nhìn chúng thôi đã rút cạn kiệt sức sống của tôi. Thế thì
còn đâu sức lực để làm cái mà cha tôi gọi là công việc.
Giữa lúc đắm chìm trong suy tư như vậy, tôi rẽ vào một đại lộ lớn,
thẳng tắp, và nhận thấy cảnh vật đúng y như tôi suy nghĩ. Lại như, đây là
đường phố, lớp nhựa trải trên mặt bóng loáng, hồng hồng xam xám; hai hàng
cây cao ngất, có lẽ là bạch dương, đang trổ những chồi xuân tươi màu nhỏ
xíu; những ngôi nhà, vàng có, đỏ có, trắng có; tầng một là những cửa hàng
cửa hiệu với những ô cửa bày ngồn ngộn hàng hoá; đám khách bộ hành, rồi
mũ áo họ, gương mặt họ; phía trên cao, qua những mái nhà, bầu trời mùa
xuân tung những tấm chăn mây rực sáng ánh nắng có viền màu xám và đang
cuồn cuộn cùng gió trời y như đám ruột non ruột già quấn quít rối beng trong
ổ bụng; một chiếc phi cơ, hay đúng hơn là loại máy bay bà già đang ló ra từ
đống mây vừa tả ở trên. Và cuối cùng, khi tôi cúi mặt xuống, hầu hết những
phiến đá lát vỉa hè đều màu xanh, trên những phiến đá ấy, đám đầu mẩu
thuốc lá màu trắng vương vãi cùng tàn đen đen, rồi đó đây những bãi nước
bọt, những cục phân chó màu nâu, màu đen, từ rãnh đất giữa những phiến đá
những lưỡi cỏ xanh lục ngoe nguẩy, trên bức tường có con kiến đang hì hục
tha một cọng rơm khổng lồ, có Chúa mới biết nó định lôi đi đâu...
Tất cả những cảnh này và muôn vàn cảnh khác xâm chiếm tôi, thu hút
tôi, đánh đắm tôi, và mỗi cảnh trong số ấy, với sự hiện diện của chính mình
như đang dùng cái nắm đấm đấm thình thình vào những cánh cửa các giác
quan của tôi, đòi hỏi tôi, xâu xé chú tâm của tôi. Và còn cái khoảng hở nào ở
giữa đống lộn xộn đó để có thể có thời gian hiến mình cho công việc? Mà quả
thực tại sao tôi lại phải làm thế chứ?
Vấn đề ấy tôi không biết tại sao. Tôi ngước nhìn lên dãy cửa sổ các
cửa hàng ở tầng một của toà nhà lúc đang đi ngang qua và thấy một ai đó lấp
ló ngó ra sau tấm kính. Vội rảo bước, nhưng không kịp nữa rồi. Một hai phút
sau tôi nghe thấy một giọng nói quen thuộc:
- Adalberto!
Đến chịu, tôi dừng lại và chào:
- Xin chào Sofia!
Nàng chạy lại chỗ tôi. Mái tóc nàng dài, xổ tung xuống đôi bờ vai thanh
mảnh và viền quanh gương mặt bầu bĩnh. Mái tóc ấy chơi vơi bập bềnh theo
nhịp bước chân nàng.
- Thật tình cờ - Nàng nói lúc bắt kịp tôi - Em đi mua tờ báo và tình cờ
thấy anh.
- Nói dối. Em biết sáng sáng anh đều qua đây vào giờ này. Em đứng
bên cửa sổ và chạy ra ngay khi thấy anh.
Nàng không phủ nhận điều đó mà rảo bước đi theo. Nàng quàng tay tôi
kéo lại gần và bảo:
- Anh biết không? Anh là một người tình kỳ quặc!
- Tại sao? Thế những người tình phải thế nào?
- Anh có biết anh chưa lần nào hôn em thực sự cả không?
Tôi ngó nàng nghiêng nghiêng. Hình như tôi thấy ở nơi nàng đứng là
bóng hình cha tôi khi ông hét rằng tôi chẳng làm cái gì cả. Thật vậy, nàng
cũng thế, nàng đang tố cáo lầm lỗi của tôi vì đã không làm cái gì hết. Nàng
muốn tôi phải làm một điều gì đó, làm thật chính xác cái mà người khác vẫn
làm, mà trong trường hợp này là làm người tình. Tôi nói rành rọt:
- Em hãy bằng lòng với tình yêu của anh dành cho em theo cái cách
của riêng anh.
- Cách của riêng anh là cách gì?
Tôi đứng lại và nhờ một cơn hứng khởi bất ngờ đã giải thích mọi điều
cho nàng:
- Cái cách yêu của anh là nhận biết rằng em có ở đó, ý thức rằng em
tồn tại. Ví dụ lúc này đây, bốn trong năm giác quan của anh đang ra sức hoạt
động, có thể nói đang ghi nhận sự tồn tại của em. Anh nhìn em, anh ngắm
gương mặt tròn trịa, hơi mập, có phần tai tái với cái mũi nhò khoằm khoằm,
cái miệng vẻ thất thường, cặp mắt to đen pha trộn đâu đó giữa màu xám và
xanh với hai vạch tô đen dưới mí mắt, đó là thị giác. Anh nghe thấy giọng nói,
nó vang lên cũng dễ chịu, đầy nhịp điệu như hát, đó là thinh giác. Anh ngửi
thấy một mùi đậm, phần nào hoang dã, một thứ gì đó giữa một con thú hoang
và một tấm thảm cũ từ mái tóc em, em đã không gội đầu thường xuyên, đó là
khứu giác. Và trên cánh tay anh, anh cảm thấy móng vuốt loài diều hâu, đỏ là
xúc giác. Em còn muốn gì hơn nữa? Vị giác không thể xuất hiện và hoạt động
bởi lẽ em không phải là một thứ để người ta có thể đặt miệng vào thưởng
thức hương vị của nó. Nhưng lúc này đây, ngoài những cái kể trên, ít nhất
anh cũng hoàn toàn bị em thu hút, thế đấy!
- Một kiểu yêu thú vị đấy! Nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy, anh
là một kẻ háo sắc.
Ngoài ra anh nhầm khi bảo em không thường xuyên gội đầu. Em vừa
mới ở tiệm làm đầu sáng hôm qua.
- Anh không hiếu sắc. Anh không nhận biết em bằng các giác quan của
mình. Đúng hơn anh nhận biết rằng anh đang nhận biết em, tức là anh nhận
biết em đang tồn tại, em đang ở đó, em đang hiện diện trước mặt anh bằng
xương bằng thịt. Đối với anh, điều này là một công việc vĩ đại, thực sự rất vĩ
đại. Trong thực tế chúng ta không làm gì cả và anh mệt muốn chết, kiệt sức.
Em giết anh đấy Sofia, chỉ nội bằng sự việc em ở đó, em đang tồn tại, thế mà
em còn muốn anh hôn em, điều ấy thật không thể.
Tôi nói, giọng vui vẻ, nhưng những điều này quả thực rất nghiêm túc.
Nàng hiểu rằng tôi đang nói nghiêm chỉnh, bởi vì nàng nhăn mặt, nhăn mũi,
lánh xa tôi và kêu lên.
- Còn em, trái lại, không hề cảm thấy anh đang ở đó, anh đang tồn tại,
anh đang hiện diện, dù chỉ một phút. Vĩnh biệt.
Nói xong nàng quay gót biến mất.
Tôi những muốn gọi to lên bảo nàng quay lại, nhưng rồi kìm lại. Lúc tôi
nói chuyện với nàng, tôi thấy mệt, rất mệt vì nàng. Ngày hôm nay như thế là
đủ. Ngay lúc đó, một người đàn ông đi mua đồng nát còn trẻ tuổi, ăn mặc lôi
thôi, đang chầm chậm đạp xe ba bánh qua phố, kéo theo sau một cái thùng
nhỏ để ít chai lọ, vài nắm giẻ và hai chiếc ô rách. Anh ta rao, giọng thê thảm:
- Ai bán giẻ rách, chai lọ không?
Và rồi, không biết vì lý do gì, đầu tôi nảy ra ý so sánh giữa anh ta và cái
cây Giu-đa khổng lồ mọc bên lề đường, cái cây đứng vẻ đối ngược với bầu
trời sắp bão. Mọi người có thể thấy nó như tự ngạc nhiên vì cái màu tím ngắt,
lồ lộ nơi các bông hoa của chính nó. Tôi thấy mình hình như gần với cái cây
đó hơn anh chàng trẻ tuổi kia. Anh chàng là kẻ không thiết gì đến ý thức sống
để rồi hành động, tức là lê thân từ đầu này đến đầu kia thành phố mua bán
bán mua đống đồ cũ nát. Còn cái cây, trái lại, đứng im lặng và không làm gì
cả, hay đúng hơn là nó tự giới hạn mình ở cảm giác đang tồn tại, thế giới
xung quanh nó tồn tại và điều ấy là đủ cho nó rồi. Vâng, quả thực để cảm
nhận được rằng mình đang tồn tại, thế giới quanh mình đang tồn tại đã là một
cố gắng lớn lao. Và nếu một người thực hiện được nỗ lực này, hắn ta không
thể làm được một nỗ lực khác là kiên trì đi lòng vòng mua mua bán bán giẻ
rách, chai lọ và ô hỏng. Nói tóm lại hắn ta phải chọn lựa.
Lúc này tôi đã tới toà nhà bưu điện. Nhưng một ý nghĩ thoáng qua đã
khiến tôi quay lại và về nhà, chẳng có dán tem hay gửi thư gì hết. Thậm chí
tôi cũng không mua thuốc lá. Biến thẳng. Tôi chạy lên nhà và đi vào phòng
làm việc. Cha tôi đang cúi đầu ngồi trước một cuốn sổ cái để mở, điếu thuốc
kẹp giữa hai ngón tay. Tôi trả lại phong bì và tiền đặt lên bàn, nói:
- Ba thấy rồi đấy. Con chưa gửi thư cũng chưa mua thuốc lá. Đây là thư
và tiền.
Ngạc nhiên thật. Lần này ông không bay lượn trong giận dữ. Chẳng
buồn ngước lên, ông hỏi:
- Tại sao?
- Tại sao ư? Vì con không chịu làm cái việc của một gã đầu sai. Con
không muốn làm cái gì cả.
- Không làm cái gì ư?
- Không. Thực sự không. Tuyệt đối không.
- Được rồi. Nhưng một người không làm gì cả cũng có nghĩa không là
gì cả. Anh không nghĩ thế sao?
- Con không cho là như vậy.
- Và vì thế từ nay tôi sẽ coi anh không là gì hết. Anh có biết thế là thế
nào không?
- Con không biết và cũng không mong biết.
- Nghĩa là từ nay trở đi tôi sẽ cư xử như anh không tồn tại, anh không
có mặt ở đó.
Tôi nghĩ ngợi, những từ này hoàn toàn giống với những từ Sofia đã
dùng. Và tôi lặng lẽ bỏ ra ngoài. Bước vào phòng riêng tôi quăng mình xuống
giường thiếp đi ngay lập tức bởi kiệt sức vì nỗi mệt mỏi sáng nay. Tôi ngủ
không say dù có ngon giấc, đôi bàn tay và hàm răng mím chặt, mắt nhắm
nghiền như một con sò khép vỏ, đầu gối áp vào ngực. Cuối cùng, lúc tỉnh giấc
tôi vẫn không có cảm giác được nghỉ ngơi, thực tế là vẫn cảm thấy mệt muốn
chết. Ngay cả giấc ngủ cũng là một cơn mệt mỏi, vì trong giấc ngủ, đặc biệt
khi ngủ, ý thức về việc đang sống vẫn tiếp tục quay tròn và rung động như
một cái cối chẳng khi nào hết ngô để xay. Và suy luận theo kiểu Sofia và kiểu
của cha tôi thì tôi không tồn tại. Tôi mệt mỏi vô bờ về sự tồn tại của mình, sự
tồn tại ấy không ngừng nghỉ và quá hỗn độn chen chúc. Vì thế tôi lại thiếp vào
giấc ngủ từ cơn mệt mỏi này.
ĐỪNG GIẢ BỘ BI THẢM
Tuyệt vọng thì ích gì? Ngay hôm sau cái chết của vợ, tôi lập tức nói với
Eunice. Eunice là người giúp việc già của tôi, người chưa bao giờ hoà hợp
với nàng, không thể chịu đựng được nàng, tuy nhiên tôi nghĩ bà ta lại luôn tỏ
một thái độ đúng mực.
- Trước hết, chúng ta đừng giả bộ bi thảm. Vợ tôi đã chết, đấy là sự
thật, nhưng cuộc sống vẫn phải tiếp tục như nó đã từng trong quá khứ không
một chút thay đổi.
Và vì thế tôi vẫn làm mọi việc như tôi đã quen làm hàng ngày lúc nàng
còn trên cõi đời. Tôi tới cơ quan giải quyết đủ loại công việc trong buổi sáng
đến gần một giờ mới ra về. Tôi mua một hộp bánh Sisin mà nàng rất hay ăn ở
tiệm bánh đối diện với toà nhà chỗ làm việc, thậm chí mua cả một bó hoa
chân ngỗng, loại hoa nàng cũng rất yêu, ở quầy hoa nơi góc phố. Thực sự là
người bán hoa còn hỏi tôi:
- Dạo này bà nhà ra sao? Cũng lâu lâu rồi chúng tôi không gặp bà.
Và tôi bất chấp cả tình cảnh đã đáp lại rằng:
- Xin cảm ơn, vợ tôi vẫn khoẻ.
Tôi về nhà trao tận tay Eunice hộp bánh và tự theo dõi mình cắm bó
hoa vào chiếc bình đặt trên bàn trang điểm của nàng. Rồi theo một thói quen
lâu ngày mà chính mình cũng không nhận thấy, tôi nói:
- Eunice, dọn bữa trưa đi đừng đợi bà nhà. Tôi e rằng hôm nay bà sẽ
về muộn một chút.
Eunice nhìn tôi vẻ lạ lùng nhưng không nói. Bà ta đi ngay vào phòng ăn
dọn một chỗ trống bên cạnh chỗ của tôi.
Lát sau tôi ngồi xuống trong phòng ăn, hoàn toàn đơn độc bên chiếc
bàn quá trống trải. Căn phòng này đã từng một lần âm vang tiếng líu ríu trò
chuyện của nàng. Tôi lúng túng nhìn chỗ nàng để trống, và hình như tôi thấy
nàng đang ngồi đối diện, tóc nàng vàng, khuôn mặt nhợt nhạt đang lặng lẽ
ngắm tôi bằng đôi mắt mở to, màu thanh thiên buồn bã. Nàng nói:
- Hôm nay anh có chuyện gì thế? Anh có vẻ hơi khang khác.
Tôi đã gần như bật lên:
- Anh hoàn toàn tin là mình có vẻ hơi lạ lùng. Vì em không còn nữa.
Nhưng lúc đó Eunica bước vào và thông báo có một ai đó đang muốn
gặp tôi. Tôi cứ nghĩ bà ta muốn bảo có ai đó gọi điện, nên đáp lại:
- Bà biết tôi không trả lời điện thoại trong các bữa ăn.
Thế là Eunice liền đáp:
- Người ta không gọi điện mà đang ở trong tiền sảnh
- Ai thế?
- Một cô gái.
- Cô ta muốn gì?
- Cô ta nói đến vì công việc
- Thế à, tôi đến ngay.
Tôi đứng lên ra khỏi phòng ăn và đi vào tiền sảnh. Cô ta đang ngồi ghe
ghé bên mép ghế kê trong góc. Thấy tôi, cô ta nhỏm dậy. Ngay lập tức tôi
nhận thấy cô ta hoàn toàn không giống với vợ tôi. Vợ tôi tóc vàng rực, còn cô
ta tóc nâu. Vợ tôi mảnh dẻ, vóc người mỏng manh duyên dáng, trong khi đó
cô gái này da sẫm màu hơi phúng phình và vóc dáng thô thô. Nàng thanh nhã
quí phái chứ cô này đơn giản và bình dân. Nàng ba mươi còn cô ta chắc chỉ
hai mươi. Quả thực nàng như một mệnh phụ, còn cô gái chỉ như một đứa trẻ
cầu bơ cầu bất một cô bé lang thang, một ả đầu đường xó chợ.
Cách ăn mặc của cô gái cũng thế, chẳng có gì giống với người vợ của
tôi. Vợ tôi ăn mặc đẹp, thậm chí rất đẹp, quần áo kiểu thành thị, luôn luôn như
một người đàn bà đã có chồng phục sức sành điệu, tất lụa, giày gót nhọn, váy
lụa mỏng màu sắc trang nhã, đồ trang sức cầu kỳ, tóc uốn kiểu. Trái lại, cô
gái này ăn mặc bụi bặm lang thang, áo len dài tay cổ cao đến tận tai, áo
khoác cũ nát và cái váy cũn cỡn. Đôi tất len lưng lửng đến đầu gối, giầy con
trai, đeo túi nhựa và đôi cánh tay đỏ phồng không mang găng. Tóm lại, vợ tôi
thì tinh tươm trang điểm cầu kỳ cẩn thận và thơm nức nước hoa. Cô gái tóc
rối bù, đôi môi quết đỏ cẩu thả và tôi không thể phân biệt xem đôi gò má tròn
tròn kia là bẩn hay rám nắng.
Nhưng dù khác biệt như vậy, không thể kìm mình được, tôi vẫn nói
ngay khi vừa bước vào tiền sảnh:
- Cô tới xin việc phải không? Cho phép tôi nhìn cô một chút nhé.
Tôi nắm lấy bàn tay cô gái và dắt đi vòng quanh căn phòng. Cô nàng
hơi ngạc nhiên nhưng vẫn ngoan ngoãn làm theo. Cuối cùng tôi nói:
- Tôi cho rằng cô sẽ làm được. Thế tên cô là gì?
- Tôi là Maura.
- Vợ tôi là Elisabetta, một cái tên khác xa tên Maura. Nào Maura đi theo
tôi.
Cô ta nhìn tôi đôi chút tò mò nhưng không nói năng gì và lặng lẽ đi
theo. Tôi đưa cô gái xuống hành lang dẫn lối về phòng ngủ. Đêm qua tôi
không ngủ ở đây mà tự thu xếp một chỗ tốt nhất có thể trên ghế sô pha trong
phòng khách. Tôi bước vào, bật đèn và nói:
- Vào đi, vào đi! Cứ tự nhiên như ở nhà nhé Maura.
Cô gái nhón chân bước qua tấm thảm tuyết nhung màu ô lưu rồi nhìn
quanh thốt lên.
- Căn phòng đáng yêu quá!
- Vâng, đây là phòng ngủ của hai vợ chồng tôi. Nào lại đây Maura. Đợi
một chút nhé!
Từ phòng ngủ tôi đi thẳng tới buồng tắm. Phía trước cửa sổ kê chiếc
bàn trang điểm của vợ tôi.
- Ngồi xuống đây! - Tôi nói.
Cô gái ngồi xuống. Tôi cầm lọ nước hoa Eau - de - Cologne và bắt đầu
dùng một miếng len bông nhanh chóng thấm cho cô. Miếng len bỏng quết nhẹ
trên cổ, trên má và dần biến thành màu đen điều ấy chứng tỏ không phải cô
nàng có nước da cháy nắng mà bẩn. Tôi nâng mái tóc lên, đôi tai cô nhỏ, tròn
và đẹp, nhưng chúng có một màu sắc lạ lùng như màu lòng đỏ trứng gà. Tôi
lau luôn cả đôi tai cho cô. Sau đó tôi ngồi xuống trước mặt cô gái, lấy một thỏi
son và tô vài nét lên bờ môi cô. Tôi kẻ nhẹ đôi mắt cô bằng chì đen, thoa nhẹ
lên đôi gò má cô một lớp phấn mỏng.
- Nào, giờ thì cô đi lại chỗ kia.
Cô gái ngạc nhiên nhưng không dám thở ra một từ nào. Tôi tới bên
chiếc tủ gắn tường lớn và mở các ngăn ra. Elisabetta có rất nhiều quần áo,
chúng treo san sát nhau thành một dẫy. Áo váy của nàng thôi thì đủ kiểu, đủ
mọi loại vải. Váy hai mảnh, một mảnh bằng lụa, bằng len, vải muslin, vải
bông, màu đen, màu trơn, nhiều màu, có hoạ tiết hoặc không hoạ tiết. Tôi
chọn một lát rồi lôi ra một bộ vắy áo khoác bằng len đỏ ném lên giường:
- Mặc vào đi! - Tôi bảo cô gái.
Rồi từ đống giầy dép dựng ngay ngắn phía dưới những bộ váy, tôi chọn
một đôi giầy kiểu thành phố, gót thấp. Từ một ngăn tủ, một đôi tất len màu
xanh lá cây, từ một ngăn khác, một chiếc xu-chiêng, một thắt lưng, một cái
váy lót, tất cả đều màu đen, và từ ngăn thứ ba, một chiếc áo lót màu xám. Tôi
ném tất cả những thứ đó xuống bên cạnh áo khoác và váy rồi nói:
- Thay tất cả đồ đi. Tôi sẽ ra ngoài. Hãy gọi tôi khi cô đã chỉnh tề.
Cô gái tròn mắt kinh ngạc trước đống quần áo và ngượng nghịu chạm
tay vào.
- Khẩn trương lên đi - tôi giục - Bữa trưa đang chờ đấy.
Lúc ra đến hành lang, tôi xoa xoa tay, đi tới đi lui và cảm thấy thật dễ
chịu. Bỗng nhiên một ý nghĩ loé ra trong óc, tôi bèn quay lại căn phòng không
buồn gõ cửa. Một tiếng kêu vang lên: - Đợi một chút. Tôi chẳng có gì trên
người cả.
- Tôi không nhìn trộm cô đâu. Tôi quên một thứ.
Tôi quay đầu lại phía khác và bước tới bên bức tranh treo tường gần
cánh cửa buồng tắm. Lúc gỡ nó xuống, một cái két bằng thép hình chữ nhật
lộ ra. Tôi mở két lôi ra từng thứ một, một cái vòng cổ bằng ngọc trai, một đôi
hoa tai cũng bằng ngọc trai, trâm vàng khảm đá quí, hai chiếc nhẫn xaphia, và
kim cương, đấy là những món nữ trang Elisabetta yêu thích. Tôi đặt tất cả lên
tủ chẳng buồn ngoái lại:
- Cô đeo chúng vào đi!
- Có thật tôi được đeo tất cả chúng không? - Cô gái hỏi lại. Câu nói này
khiến tôi nổi cáu.
- Nếu tôi bảo cô đeo vào thì cô đừng có cãi lại. Hãy làm những gì được
ra lệnh.
Tôi lại bỏ ra ngoài, bước vào phòng ăn. Người giúp việc đứng bên cửa
bếp, tay cầm khay:
- Tôi dọn bữa trưa nhé?
- Chưa! Chúng ta phải đợi bà nhà đã!
Bà ta nhìn tôi lạ lùng kinh ngạc nhưng vẫn chẳng nói gì. Bà ta bỏ vào
bếp. Còn lại một mình, tôi đặt một đĩa nhạc Vivaldi vào máy hát. Tôi rót rượu
vang và nước vào những chiếc cốc, ném vài thanh củi vào đống lửa đang lụi
tàn rồi xoa xoa tay phấn chấn, đi tới đi lui trước bàn. Tôi nhớ Elisabetta trước
khi dùng bữa thường hay uống thuốc, và thế là tôi tới bên tủ lấy thuốc ra đặt
cạnh đĩa của nàng. Sau đó tôi lại đi tới đi lui, xoa xoa tay vừa thoả mãn vừa
thấy sốt ruột.
Năm phút, mười phút, rồi mười lăm phút trôi qua. Cuối cùng tôi rung
chuông gọi:
- Eunice! Hãy tới xem bà nhà đang làm gì? Trời ơi, giờ này bà ấy phải
xong rồi chứ
Eunice thở dài nhưng vẫn không hề hé răng. Bà ta đi ra ngoài. Một lát
sau bà ta xuất hiện, đứng bên cửa và nói, một giọng nói lạ lùng đầy vẻ bao
dung:
- Bà nhà không có ở đó. Bà đã đi!
- Bà ấy đi rồi ư? Ý bà muốn nói bà ấy đã ra ngoài phố ư?
- Vâng! Bà đã đi phố.
- Ô được! Tôi nghĩ chắc bà ấy có việc gì đó, có lẽ mẹ vợ tôi gọi điện và
bà ấy phải đến ngay. Eunice! Tôi nghĩ tốt hơn là chúng ta không đợi bà ấy
nữa. Tôi sẽ ăn bữa trưa một mình. Nhưng bà nhớ hâm thức ăn nóng lúc bà
ấy quay về nhé. Bà ấy không thể đi quá lâu đâu.
Tôi ngồi xuống và Eunice đưa cái khay để món thịt nguội cùng nước
giầm đến trước mặt. Lúc bắt đầu ăn tôi bảo:
- Thời tiết bên ngoài thế nào hả Eunice?
- Trời đang mưa.
- Tôi đoán bà nhà đi phố chẳng ô mũ gì cả, và rồi thế nào bà ấy cũng ca
cẩm là bị nhiễm lạnh cho mà xem.
- Không! Bà ấy có mang theo một cái ô. Cái đẹp nhất, cái có cán bằng
bạc.
- Ô, tốt lắm. - Một cái ngày quỉ tha ma bất đi cho rồi, trong phòng ăn thì
tranh tối tranh sáng. Tôi bước tới bật đèn và đến bên cửa sổ ngắm nhìn một
lát những giọt mưa rơi xiên xiên, mưa nặng hạt tung bức mành xám chì. Thế
rồi tôi lại ngồi xuống bên bàn và bắt đầu dùng bữa trưa, thật ngon lành.
ENRICA BAILE
Sớm nay tôi nhận được bức thư:
"Bức thư này từ Venezuela tới, do Brango danh tiếng viết và nó phải đi
một vòng quanh thế giới. Bạn phải phô tô ra 24 bản và gửi chúng đi, sau chín
ngày bạn sẽ gặp một điều bất ngờ thú vị. Thậm chí nếu bạn không mê tín, nó
vẫn xảy ra. Veleriano Banga một vị tướng vùng Nam Mỹ đã nhận được giải
thưởng 5 triệu đô la, Enrica Baile Brango ở Vercelli (Columbia) khi nhận được
bức thư dây chuyền đã ném chúng đi và thế là bất hạnh đã giáng xuống gia
đình cô ta, cô ta bị mất hết người thân và khánh kiệt.
Năm 1940, Walter Beroche, một viên tướng trong quân đội Venezuela
đã nhờ thư ký phô tô bức thư này, và thế là mọi sự thay đổi ngay tức thì, địa
vị ông ta vọt lên cao vòi vọi. Một người làm thuê nhận được những bản copy
rồi quên không gửi chúng đi, anh ta bị mất việc, sau đó ít ngày anh ta lại quyết
định làm điều đó và thế là tìm được một việc khác hơn hẳn việc trước. Một
người ở Silla nhận được lá thư dây chuyền, ném nó đi, sau chín ngày anh ta
bị chết trong một tai nạn.".
Tôi đọc lá thư và trầm ngâm nghĩ ngợi. Chỉ ít dòng ấy thôi mà bao
nhiêu là câu hỏi gây tò mò dựng lên trong óc. Tôi chìm đắm vào suy tư, bức
thư chính là tác nhân cần thiết để tôi bắt đầu “giấc mộng ban ngày”. Đầu tiên
là một vài sự trùng lặp đầy bí ẩn, tất cả nhân vật được nhắc đến trong bức
thư, dù may mắn hay không may mắn đều ở châu Mỹ La tinh và tên họ của
tất cả đều bắt đầu bằng chữ cái B như Brango, Baile, Beroche. Tiếp theo đó
là những chi tiết đầy mù mờ lôi cuốn tò mò như Brango danh tiếng (tại sao lại
danh tiếng?); thành phố Silla (có phải lấy từ tên Hoàng đế La Mã?); giải
thưởng năm triệu đôla (giải thưởng nào? giải thưởng vì cái gì?); một người
làm công (người ta thuê làm gì?); nghề nghiệp anh ta (nhưng nghề gì?); một
tai nạn (tai nạn gì?).
Nhưng dù sao, trước hết, một con người được nhắc đến rất sống động,
Enrica Baile, người khiến tôi bắt đầu mơ mộng. Đẹp, kiêu hãnh, can đảm, cô
đã từ chối gửi đi những bản phô tô, và cô đã chịu những bất hạnh (nhưng bất
hạnh thế nào?), đã mất hết người thân (những ai?) đã khánh kiệt. Cái gì đã
xảy đến với cô? Cô ta làm gì? Cô ta đã ở đâu?
Tiếng vợ tôi vang lên kéo tôi ra khỏi "giấc mộng ban ngày". Nàng bước
vào phòng làm việc la lối:
- À, thì ra hắn ta ở đây kia đấy. Hút thuốc và mơ màng trong khi đáng ra
hắn phải làm việc từ lâu rồi! Tại sao thế? -Anh ta đang làm gì vậy, tại sao
không tới các toà báo? Anh có biết đã gần bốn giờ rồi không?
Tôi đáp, hoàn toàn tỉnh táo:
- Anh có nhiệm vụ phòng vấn một người danh tiếng cao sang nào đó
dừng chân qua Rome. Nhưng hôm nay không một nhân vật nào như thế ghé
qua Rome cả. Vì vậy anh không có gì để làm.
- Ồ đây đây! Tại sao anh không đi phỏng vấn Banga?
Tôi giật nảy người:
- Sao? Làm sao em biết?
- Biết cái gì? Dư luận xôn xao về cái ông tướng này mà anh lại không
hề hay biết. Anh chỉ có ngồi đấy mơ mơ màng màng.
- Xôn xao thế nào?
- Sao? Nó được đưa trên tất cả các báo. Anh hồ nghi à, anh nhìn đây!
Nàng cho tôi xem một tờ báo, và quả thực, trên trang nhất một dòng tít
lớn chạy suốt ba cột: "Biểu tình chống lại tướng Banga. Ông tướng cố thủ
trong khách sạn, tuyên bố sẽ ở lại Thủ đô trong ba ngày"
- Nào! Bình tĩnh lại đi - Vợ tôi nói - Hãy tới và phỏng vấn vị tướng đó.
- Nhưng lão ta xuất hiện trên đời như một kẻ khát máu, kẻ phải chịu
trách nhiệm về cái chết của hàng ngàn người. Vả lại lão còn là một tên trộm
cướp láu lỉnh.
- Với anh những điều ấy thành gì vấn đề kia chứ? Anh có phải là một
nhà báo hay không? Từ tướng Banga không có một tin tức gì có giá trị à?
Tóm lại, tôi đã để cho mình bị thuyết phục. Vợ tôi giả làm thư ký gọi
điện đến khách sạn. Thật đáng ngạc nhiên, cuộc phỏng vấn nhanh chóng
được chiếu cố cho phép. Tướng Banga sẽ tiếp tôi khoảng một giờ ở phòng
415 của khách sạn.
Vợ tôi rộng lời khuyên nhủ:
- Hãy nắm lấy cơ hội thuận lợi này làm một bài phỏng vấn gây xôn xao
dư luận. Hãy làm sao để hắn phun ra cho anh bao nhiêu người đã chết dưới
bàn tay hắn, bao nhiêu triệu đô la hắn đã cướp được. Chỉ cần chút phỉnh nịnh
và lời khen là anh có thể moi tất cả. Đừng để ý gì đến bọn đồng nghiệp nhà
anh, bọn chúng bản thân là những nhà đạo đức giả, hoặc những thằng ngố
khác, cái bọn đi biểu tình ấy, hành động đó chỉ xuất phát từ ghen tị thôi.
Không một thằng cha nào trong đám ấy lại không dám tự mình giết chóc và
cướp bóc nhiều gấp đôi thế để có được số tiền như của ông ta. Họ nói ông ta
là triệu triệu phú, đâu chỉ một vài triệu mà hàng trăm triệu. Ông ta mới hên
làm sao! Giờ thì anh hãy mặc bộ com lê mới màu xanh da trời vào, đi đôi giầy
đen, sơ mi trắng, cà vạt sẫm. Quỉ tha ma bắt, ông ta là một vị tướng. Và nhớ
đừng quên phải luôn xưng hô với ông ta là “Thưa ngài” đấy nhé. Có nhớ thế
không?
Và thế là súng sính trong bộ com lê cùng quyển vở và cây bút Biro mới
trong túi, tôi đến khách sạn. Ở đó, ngay trước lối ra vào, một đám đông đen
kịt đầy vẻ đe doạ bị một hàng rào cảnh sát mặc quân phục chật vật đẩy lùi về
phía sau. Trên đầu đám biểu tình phấp phới những tấm áp phích mang khẩu
hiệu như: "Banga cút về nhà", "Đả đảo tên giết người Banga", "Banga cút đi",
"Đưa Banga đến giá treo cổ"... Nhưng lúc đã vào đến hành lang khách sạn,
tôi nhận thấy cuộc sống ở đây chẳng hề bị đám biểu tình quấy rối tí nào cả.
Mọi thứ vẫn êm ả, đèn thắp sáng, khách trọ đi đi lại lại, một ban nhạc nhỏ
đang biểu diễn. Tôi bước tới bàn nhân viên xếp hành lý, xưng tên, và rồi ngay
tức thì được thông báo mọi người đang chờ. Tôi được dẫn đến thang máy, ít
phút sau đã lên đến tầng ba. Những dãy hành lang dài hun hút, ánh sáng lan
toả, những tấm thảm dày câm lặng. Phòng số 415, tôi gõ cửa và được mời
vào.
Tôi thấy mình đứng trong phòng khách bài trí như một cung điện Hoàng
đế, tất cả đều màu trắng và lấp lánh ánh vàng. Một cánh cửa để ngỏ và trong
phòng kế bên có thể nhìn thấy một cái giường ngủ bừa bộn. Đứng giữa
phòng khách là một gã trẻ tuổi ngăm đen, tóc mai dài, bộ ria xén tỉa gọn ghẽ.
Gã nói với tôi:
- Tôi là thư ký. Tướng quân vừa mới tỉnh giấc trưa và đang mặc quần
áo. Ngài sẽ chiếu cố cho ông phỏng vấn ngay khi đã chuẩn bị xong xuôi.
- Cảm ơn ông!
Tôi ngồi xuống móc quyển vờ và cây bút ra. Gã thư ký đi tới bên cửa sổ
ngó ra ngoài, xoay lưng lại phía tôi. Một giọng nói già lão, khàn khàn, trầm
đục, có vẻ mắc bệnh viêm nhiễm, run run vì tuổi tác nhưng đầy uy quyền,
bỗng vang lên từ phòng kế bên.
- Ủng của ta!
Ngay lập tức gã thư ký lao đi và biến mất trong một căn phòng khác. Im
lặng lại bao trùm. Rồi:
- Áo chẽn của ta!
- Thắt lưng của ta!
- Súng lục của ta!
- Huân chương của ta!
- Mũ kê pi của ta!
Lại im lặng, lần này lâu hơn. Cuối cùng gã thư ký xuất hiện bên cửa và
nói.
- Tướng quân đã sẵn sàng trả lời phỏng vấn
- Nhưng ngài đâu?
- Tướng quân chiếu cố trả lời các câu phỏng vấn, nhưng bản thân
không xuất hiện, ông có thể hỏi và ngài sẽ đáp lại từ phòng ngủ.
- Nhưng tại sao lại như thế?
- Không có tại sao. Là thế!
Trong đầu tôi nảy ra ý rằng ông tướng này đáng sợ hơn đáng yêu. Ông
ta luôn sợ hãi bị ám hại trong cuộc sống. Gã thư ký nói thêm, vẻ nhanh nhảu:
- Tiện đây nói luôn, tướng quân không trả lời các câu hỏi liên quan đến
các vấn đề chính trị, tôn giáo, kinh tế, xã hội, tóm lại, những chủ đề liên quan
đến số đông. Ngài chỉ trả lời các câu hỏi có tính chất riêng tư.
- Riêng tư là sao?
- Các câu hỏi, ví dụ như liên quan đến sở thích cá nhân về nghệ thuật,
du lịch, thời trang...
- Thế còn về những cá nhân khác. Ngài có chấp thuận những câu hỏi
về những cá nhân khác không?
- Về các cá nhân khác, cũng được, miễn họ không phải là những nhân
vật xã hội.
Thế rồi tôi lấy hết can đảm ra hỏi:
- Hôm nay tôi muốn tướng quân trả lời câu hỏi này: Ngài có bao giờ biết
một người phụ nữ có tên Enrica Baile không?
Thật kinh ngạc, tôi nghe thấy một giọng nói nặng nề đáp lại.
- Có!
- Enrica Baile là ai?
- Một người nghèo khổ bất hạnh.
- Vì sao?
- Chồng Enrica Baile tự mình chống lại tôi. Một vài thủ hạ của tôi trong
đêm đã đến giữa nhà của Baile. Họ dùng vũ lực với Enrica. Họ giết chồng,
con và gia nhân của cô ta, rồi họ đốt nhà. Cũng hơi quá, tôi không nghi ngờ
điều ấy, nhưng họ phải phòng xa mầm mống của một cuộc đấu tranh chính
trị.
- Lúc đó Enrica bao tuổi?
- Hai mươi lăm
- Cô ta có đẹp không?
- Rất đẹp nhưng khuôn mặt cô ta đã bị lửa làm biến dạng không thể
chữa chạy được nữa.
- Giờ cô ta ở đâu?
- Cô ta sống trong một khu nghèo khổ nhất thủ đô của tôi.
- Cô ta làm gì?
- Cô ta lang thang đầu đường cuối bãi.
- Nghĩa là sao?
- Cô ta đi ăn xin, cô ta ngủ lều, cô ta ăn rác, cô ta mặc giẻ rách.
Im lặng lại kéo dài, tôi đang cố nghĩ những câu hỏi mới. Cuối cùng tôi
lên tiếng:
- Thưa ngài! Ngài có nhớ đã bao giờ nhận được một giải thưởng trị giá
năm triệu đô la không? Và nếu ngài được nhận nó, thì đấy là giải thưởng gì
và vì sao nó được trao cho ngài?
Tôi hồi hộp chờ câu trả lời. Giọng nói nặng nề lại cất lên:
- Giải thưởng năm triệu đô la cho tôi là để tưởng thưởng một hoạt động
kéo dài suốt ba tháng. Tôi đánh tan một băng khủng bố cố thủ trên dãy núi
gần Thủ đô.
- Ai đã trao ngài phần thưởng đó?
- Chính phủ.
- Lúc đó ai đứng đầu chính phủ?
- Bản thân tôi đứng đầu chính phủ
- Tức là trong vụ đó chính ngài trao phần thưởng cho ngài?
- Đúng vậy!
Tôi cứng họng. Gã thư ký xen vào:
- Cuộc phỏng vấn đã kết thúc. Ông có thể đi
- Nhưng vẫn còn vài điều nữa.
- Ông không thể. Đã kết thúc!
Gã đẩy tôi ra khỏi phòng bằng một cử chỉ thô bạo. Tôi đành phải về
nhà. Ở nhà, tôi viết một bài tường thuật tỉ mỉ về cuộc phỏng vấn, không bỏ
qua một chi tiết nào, bức thư, cuộc biểu tình, gã thư ký, ông tướng, Enrica
Baile, và mang đến toà báo. Nhưng bạn có tin nổi không? Tay biên tập thông
báo cho tôi hay rằng hắn không thể cho in được vì tôi đã thất bại không làm vị
tướng nói về bản thân mình, mà lại nói về một Enrica Baile nào đó, một người
hoàn toàn vô danh tiểu tốt, và vì bài ấy không có những tin tức giá trị, nên
không mang lại lợi lộc gì cho tờ báo.
TẠI SAO, AI NÓI THẾ
Tôi mơ một giấc mơ thế này. Tôi nằm ngửa trong một cái hộp thuỷ tinh,
ngước mắt lên và thấy chân của rất nhiều người bước qua phía trên nắp hộp.
Nào là chân đàn bà, nào là chân đàn ông, và tôi phân biệt được chúng nhờ
vào hình dạng của những cái đế giày. Tôi muốn nói với họ: "Đừng có bước
qua tôi, các ông các bà không thấy là đang bước qua người tôi sao?", nhưng
giọng nói không thoát ra nổi cuống họng. Thế rồi có hai đôi chân, một đàn ông
một đàn bà dừng lại ngay trên nắp hộp, đúng đầu tôi. Rõ ràng có hai kẻ đang
thản nhiên trao đổi chuyện riêng tư, một đàn ông, một đàn bà, có lẽ là một đôi
tình nhân đang tâm sự chuyện yêu đương và họ đã chọn đúng chỗ này để
nói. Tôi cũng muốn nói với họ: "đừng có đạp lên đầu tôi như thế, hai vị không
nhận thấy có tôi đang nằm dưới chân trong lúc các vị nói năng âu yếm và bàn
soạn các kế hoạch cho tương lai sao? Hai vị không nhìn thấy gì à?". Nhưng
ngay cả lần này tôi cũng không thế nói ra lời. Rồi bỗng nhiên một thứ còn tồi
tệ hơn xuất hiện. Một vật khổng lồ, nặng nề, một thân cây, một cái tủ, một cái
rương bằng gỗ được hì hụi đẩy tới, đặt ngay trên mình tôi và để lại vĩnh viễn.
Tôi nghe thấy lao xao giọng nói của đám người đang khuân vác. Cái vật thể
khổng lồ giờ đây đang làm một nửa chiếc hộp mờ tối, bóng đen ấy cứ lừ lừ
chiếm lĩnh và chẳng mấy chốc xung quanh tôi tối om. Tôi lấy hết hơi trong
lòng ngực hét lên: "Dừng ngay lại, các vị làm cái gì thế? Tôi đang nằm dưới
đây này, các vị không thấy tôi à?" Và tôi rướn tay lên đẩy cái nắp hộp. Nhưng
đã quá muộn, cái nắp chẳng hề suy suyển. Bóng tối dâng lên, bao phủ và
nhấn chìm tôi. Rồi đó tôi rên một tiếng dài đầy cay đắng và tỉnh giấc.
Ngay lập tức tôi hiểu mình đang nằm mơ về cái chết. Theo bản năng tôi
tự quẳng mình sang phía bên kia giường, chỗ vợ tôi đương nằm ngủ. Tôi ôm
choàng lấy nàng, hét lên hỏi rành mạch:
- Có phải thế không? Anh phải chết à?
Nàng rên một tiếng, nhưng tôi vẫn vật nài:
- Hãy nói cho anh biết đấy có phải là sự thật không? Anh sẽ phải chết
à?
Lần này câu trả lời xuất hiện qua một giọng nói chậm chạp, từng từ
được phát âm thật rõ ràng:
- Tại sao, ai nói thế?
Thoạt tiên tôi nghĩ mình đã không nghe rõ. Rồi một niềm vui mênh
mông, dù rất đáng ngờ tràn ngập trái tim tôi một cách ngốc nghếch và không
cưỡng lại được. Tôi cảm thấy có lẽ đấy là sự thật, có lẽ như vợ tôi đã ngụ ý,
tôi sẽ không chết, sẽ bất tử, sẽ không về thế giới bên kia mà tiếp diễn cuộc
sống một cách mơ hồ. Tôi tiếp tục hỏi:
- Ý em muốn nói gì khi bảo: "Ai nói thế?. Tất cả mọi người đều nói thế.
Chúng ta đều biết điều ấy là không thể tránh khỏi cơ mà?
Không một câu đáp lại. Sau những ngôn từ rõ ràng và quan trọng đến
thế, vợ tôi, giống như một bà lên đồng phát ngôn những lời tiên tri, đã lại rơi
vào tình trạng vô ý thức, lại ngủ, hay đúng hơn lại ngáy, tuy là ngáy nhưng
một điệu ngáy dịu dàng, đều đặn và duyên dáng, thực thế. Có một lúc tôi nghĩ
đến việc đánh thức nàng dậy nhưng rồi sợ việc đó sẽ làm nàng cáu và rút lại
lời tiên tri vừa rồi. Thôi tốt hơn cả để đến sáng mai. Vì thế, vừa yên tâm vừa
ngập tràn hy vọng, tôi lại chìm vào giấc ngủ cùng một cảm giác kỳ diệu rằng
có lẽ, vâng, có lẽ đấy là sự thật, tôi sẽ không bao giờ chết.
Như thường lệ, chín giờ sáng tôi tỉnh giấc, và ngay lập tức nhớ lại giấc
mơ cùng lời nói của nàng đêm qua. Tôi chống khuỷu tay nhỏm dậy. Trong
cảnh tranh tối tranh sáng nàng vẫn đang say giấc, co mình về một bên, tóc
xoã buông trên đôi vai để trần. Tôi đặt tay lên cổ nàng:
- Đến giờ rồi đấy, em dậy đi.
Nàng cựa quậy, chầm chậm trở mình, he hé cặp mắt vì chói. Tôi bảo:
- Đêm qua anh nằm mơ một cơn ác mộng.
- Mơ thấy gì?
- Mơ hình như anh bị chết. Anh tĩnh giấc và hỏi em anh có phải chết
không, và em trả lời: "Tại sao, ai nói thế?" Và bây giờ anh thực lòng muốn biết
em ngụ ý gì khi nói thế?
- Anh ra mở cửa sổ đi!
Tôi ra khỏi giường, đến bên cửa sổ và đẩy những lá cửa cuốn lên. Lúc
quay lại phòng tôi thấy nàng đang nằm ở cuối giường, lấy tay che đôi mắt bị
chói nắng. Nàng hỏi:
- Ngoài trời thế nào?
- Đẹp lắm!
- Hay quá. Chúng ta có thể lái xe đi chơi.
Tôi lại bắt đầu:
- Hôm qua anh nằm mơ một cơn ác mộng. Anh nghĩ mình đã lìa đời, vì
thế anh hỏi em:
“Anh phải chết à?” và em...
Nhưng tôi chưa kịp nói hết. Vợ tôi tung đống chăn gối ra phía sau với
một sức mạnh cục cằn, nhảy khỏi giường và lao ra khỏi phòng. Tôi đi theo
nàng. Buồng tắm của chúng tôi ở tận cuối hành lang, đối diện với phòng ngủ.
Vừa thoáng thấy chiếc váy ngủ màu hồng nhàu nhĩ của nàng biến vào phòng
tắm thì cánh cửa đã đóng lại trước mắt tôi. Lát sau tiếng nước phun rào rào
từ vòi hoa sen, và xuyên qua âm thanh rào rào ấy là tiếng hát của vợ tôi.
Tiếng hát vọng ra không được đều lắm, chỗ thì cao chỗ thì thấp như thể
người hát đang thở hổn hển, và như đệm cho tiếng thở hổn hển ấy, tiếng
nước lạnh vui nhộn đang xối lên người nàng. Thế rồi tiếng hát trở nên rõ ràng
và đều đặn hơn, ấy là lúc phun xong nước lạnh, giờ đây nàng đương giầm
mình bằng nước ấm. Bỗng nhiên cánh cửa buồng tắm bật mở, nàng bước ra
ngoài trong bộ váy dài liền áo và quay lại phòng ngủ. Nàng đứng trước bàn
trang điểm, quay lưng lại phía tôi. Nàng ngắm nghía săm soi khuôn mặt mình
trong gương khá lâu, đấy như một cái thú khám phá tìm hiểu sau lúc tỉnh ngủ
của nàng vào buổi sáng. Tôi lợi dụng ngay dịp này để nhắc lại lần thứ ba:
- Đêm qua anh có một cơn ác mộng. Anh giật mình tỉnh giấc và...
Nhưng một lần nữa tôi lại không thể nói hết câu chuyện. Vợ tôi bật
chiếc đài xinh xắn trên bàn trang điểm và vặn to hết cỡ âm thanh một ban
nhạc Jazz. Đây cũng là một trong những sở thích của nàng, hết mặc áo này
vào rồi lại cởi ra thay áo khác và để cho căn buồng tràn ngập tiếng nhạc Jazz.
Bất đồ nàng quay lại hét lên:
- Anh không hài lòng, không hạnh phúc khi được sống à? Em thì khác,
thật là một ngày đẹp trời đáng yêu. Chúng ta sẽ lái xe về miền quê. Nước
lạnh như ong châm làm em khoan khoái tỉnh ngủ. Và bây giờ, nào bây giờ
hãy khiêu vũ.
Thế và thế, nàng thành thạo, nhanh nhẹn đầy hứng khởi trong khi tôi
vụng về, vừa lóng ngóng vừa tiếc rẻ, chúng tôi khiêu vũ ngay giữa căn phòng
bề bộn, trước cái giường ngủ chăn gối lộn xộn. Một lát, nàng dừng lại kêu lên:
- Hà em mệt đứt hơn. Hơi nữa muộn rồi, em còn phải mặc quần áo.
Tôi bước tới tắt ra-đi-ô, rồi đến bên cạnh vợ. Nàng ngồi trên giường,
một chân giơ lên kéo tất. Tôi nói một cách quả quyết:
- Bây giờ hãy nghe anh nói, một lần thôi, và hãy trả lời anh. Đêm qua
anh nằm mơ một cơn ác mộng. Anh nghĩ mình đã chết, anh giật mình tỉnh
giấc và...
Đột nhiên có tiếng gõ cửa. Vợ tôi theo thói quen kêu lên:
- Vào đi!
Và thế là một lần nữa tôi lại bị bỏ dở câu chuyện. Người đầu bếp bước
vào. Đấy là một người đàn bà còn trẻ, tuy không đẹp nhưng tính tình hăng hái
năng nổ. Chị ta vào để nhận nhiệm vụ trong ngày hôm nay.
- Vào đi - vợ tôi bảo - Vào đi Egle! Được rồi, hôm nay tôi và ông bác sĩ
sẽ không ăn trưa ở nhà. Chúng tôi đi biển. Tối nay sẽ có bốn người ăn.
Nhưng Egle, tôi phải nhắc chị ngay. Bữa tối hôm qua thực sự là một tai hoạ,
và nếu hôm nay mà còn tiếp tục như thế thì tôi sẽ không dám mời bất cứ ai
đến nhà nữa.
- Nhưng thưa bà, tai họa gì và tai hoạ ở chỗ nào?
- Ở chỗ nào ư? Trong bếp, và thậm chí trước khi nó xảy ra ở bếp thì nó
đã ở trong chính con người chị, Egle à. Món "timbale", dở sống dở chín và để
trang điểm cho nó, món măng lại quá nhừ. Đấy là tôi không muốn nhắc tới
món sa-lát. Rõ ràng các câu chuyện tình ái của chị có vẻ không xuôi lắm hay
sao ấy, bởi chị cho muối đến hai lần. Còn món thịt nướng thì...
Vân vân... Trong lúc vợ tôi và chị đầu bếp cứ bị hút chặt vào cuộc thảo
luận, tôi lẻn từng bước ra khòi phòng, không để họ phát hiện và đi vào phòng
khách. Tôi bật nhạc, ngồi lọt thỏm ở ghế bành và bắt đầu lắng nghe. Tôi cố
gắng dùng âm nhạc tự giải thoát mình ra khỏi những suy tư bệnh hoạn. Thế
rồi bỗng nhiên giữa lúc suy tư về cái cách mà vợ tôi đã trả lời cho câu hỏi
sống chết của tôi trong đêm, tôi nhận thấy về cơ bản nàng cũng đã vừa đáp
lại theo cùng một cách như thế ít phút trước đây khi tôi lặp lại câu hỏi của
mình. Trong đêm nàng đã nói: "Tại sao, ai nói thế?", còn bây giờ nàng hoàn
toàn không trả lời, hay đúng hơn, nàng trả lời bằng cách làm những gì mà
nàng hay làm vào mỗi buổi sáng trong cuộc sống của mình. Và cứ suy xét
một cách kỹ lưỡng, hai câu trả lời này giống nhau. Vô ý thức và mù mờ,
chúng như những lời phán bảo của một bà đồng địa phương, tính khí thất
thường, chúng như chỉ ra rằng thật vô ích nếu cứ nghĩ về cái chết trong lúc
bản thân còn sống trơ trơ. Nó là một câu trả lời có tính ru ngủ, cho dù có vẻ
giản đơn và khiêm nhường, nó phần nào giống như câu nói của một bà mẹ
nhằm xoa đầu con trai khi cậu đặt cho bà một câu hỏi như tôi đã đặt. Và trước
hết tôi đa xử sự như một đứa trẻ.
Tiếng động của những cánh cửa hết đóng rồi mở vang lên. Vợ tôi xuất
hiện và kêu toáng:
- Chúng ta đi chứ? Muộn rồi đấy, họ đang đợi chúng ta đấy.
Chúng tôi bước ra khỏi nhà. Lúc đứng trong thang máy, nàng ngó tôi và
bất ngờ bảo:
- Tiện đây anh muốn hỏi điều gì? Nhiều việc quá em đã không nghe
được anh nói. Vài lần anh đã hỏi em một điều gì đấy nhưng em không hiểu.
Có lẽ phải giải quyết với những gì đã xảy ra đêm qua.
- Đúng! - Tôi đáp - Anh muốn biết anh có làm em thức giấc không anh
có một cơn ác mộng và hình như đã làm em thức giấc.
- Không! Anh không làm. Em ngủ một mạch từ tối qua đến sớm nay.
Anh hoàn toàn không làm em thức giấc.
- Em có chắc thế không?
- Chắc chắn thế! Anh không làm em mất ngủ. Em đã ngủ một mạch
suốt đêm.
NHƯ NHAU
Chúng tôi không trao đổi với nhau, hay đúng hơn chúng tôi trao đổi
theo nhiều cách mà không dùng đến ngôn từ. Tôi hỏi nàng “Sáng nay em làm
gì?” Nàng trả lời "Em đi dạo"
- Ở đâu?
- Đi lòng vòng.
- Lòng vòng ở đâu
- Những con phố trung tâm thị trấn
- Nhưng em làm cái gì?
- Thì em đi dạo
Tôi im lặng một lát, gắng chuyển đống từ ngữ này trong óc ra hình ảnh
nào đi dạo, lòng vòng, nào những con phố, trung tâm thị trấn, để hình dung
được nàng với những động tác đích thực đang đủng đỉnh đi quanh đi quẩn
theo những đường phố nơi trung tâm thị trấn. Nhưng tôi chẳng thấy được gì
hết. Tôi nhíu mắt lại không để nàng nom thấy, giả đò nhìn xuống cái đĩa đựng
thức ăn. Tôi hình dung nàng, cao, thanh nhã, mềm mại, vẻ khêu gợi trong sự
vụng dại và đầy khích động nơi bờ hông hẹp, cặp chân dài. Thật quyến rũ hết
sức. Tôi hình dung cảnh nàng tản bộ qua những con phố ở trung tâm thị trấn,
nhưng nào có thấy nàng, có thấy những cửa hiệu, ô tô, vỉa hè, nào có thấy
được bất cứ thứ gì. Với tôi ngôn từ chẳng có nghĩa gì hết, chúng không hề
đánh thức một cảm xúc nào trong tôi. Và thực tế cứ nhai đi nhai lại chúng sẽ
xuất hiện một đường mòn đáng sợ mà theo đó chúng tự biến đổi ra những
âm thanh vô xúc cảm.
Tôi lim dim đôi mí mắt ngắm nàng qua những tia sáng sắc nét phản
chiếu từ bề mặt thuỷ tinh những chiếc cốc và cái bình đựng nước. Nàng vận
một chiếc áo bu-dông hở cổ có những sọc màu vàng và da cam xen kẽ. Bỗng
nhiên tôi giật nảy mình vì một sự bộc lộ đầy dữ dội, có thể nói, đầy khó chịu
của một trong những chiếc cúc, chiếc trên cùng. Chiếc cúc đang lèm bèm,
đúng ra là đang gào lên với tôi:
- Tôi là cúc cổ áo bu dông. Sáng nay lúc vợ anh đi phố tôi được cài vào
khuyết, còn giờ đây tôi lại bật ra ngoài. Cũng có thể tôi được cởi ra do tính
đòng đảnh ngây thơ muốn để vùng trên bộ ngực được chiêm ngưỡng, nhưng
cũng có thể chiếc áo này đã bị cởi tuột ra bằng một bàn tay nhanh nhẹn, kém
kiên nhẫn, bị ném thành một đống cùng những áo quần khác lên thành ghế
trong một căn phòng xa lạ. Sau đó, sau khoảng một hai giờ nó lại được mặc
vào, cúc cài vội vã. Tất cả đều tề chỉnh, chỉ có mình tôi vô tình bị bỏ lại.
Một câu chuyện dài phải không? Và thêm nữa nó được thêu dệt một
cách có ác ý thành thứ chuyện rẻ tiền, hay một khúc tình ca khá là lãng mạn.
Tôi tự hỏi chẳng biết mình có đang trở nên ghen tuông hay không, nhưng rồi
nhanh chóng tôi điều chỉnh lại được bản thân. Quả thực lúc ngước lên đưa
mắt từ chiếc áo đến khuôn mặt nàng, tôi nhận ra mọi đường nét của khuôn
mặt ấy đầy thân quen và ném ra một mẩu thông tin, mà theo đó những bộc lộ
vô ý thức trong bất kỳ cảm xúc nào của tôi cũng đều là vô căn cứ không thể
hiểu nổi. Trên thực tế, những mẩu tin tức này rất khách quan, chúng chẳng có
thù oán gì với bản thân tôi cả. Đây, cặp mắt dài, hẹp, màu xanh xám long lanh
sáng gào lên: "Chúng tôi là đôi mắt", cái mũi phần nào quá khổ, hình hơi móc
câu thì: "Tôi là cái mũi", còn cái miệng đầy đặn, ủ rũ: "Tôi là cái miệng". Thực
là lúng túng y như phải tìm ai đó giữa một đám đông đang gào thét và không
biết phải chú ý vào ai.
Tôi quyết định chọn một cách ngẫu nhiên giữa cái đám đông như đang
ra sức xin gia nhập giáo phái này, chọn cái miệng chẳng hạn. Nhưng ngay lập
tức tôi lại thấy những bức thông điệp khác, những mẩu thông tin khác văng
tới tôi qua khoảng không gian giống như cả làn tên dày đặc, rung bần bật, đầy
bạo lực mà hàng đống cung thủ đang bật lẫy: "Tôi là hàng lông sẫm màu có
thể nhìn thấy bằng mắt thường đang đổ bóng xuống bờ môi trên. Tôi là một
vết gập nghiêm nghị bên khoé miệng. Tôi là son tô môi bóng sáng màu máu.
Tôi là vẻ đẹp huy hoàng ẩm ướt như xà cừ của hàm răng mà mọi người đều
thấy. Tôi là sự ấm áp của hơi thở tạo tác nên những vết nứt nhỏ trên cặp môi.
Tôi vừa là khuôn mẫu cho cặp môi, cong và chắc nịch, lại vừa như vô hình
dạng một cách kỳ lạ. Tôi là vết hằn nhỏ phía trên bờ môi. Tôi là đầu cái lưỡi
màu hồng mà lúc này đang rướn lên để chạm vào hàm răng..." Thực là những
bản báo cáo đầy sách nhiễu, ầm ĩ đến điếc tai, tôi lắc đầu:
- Anh muốn đề nghị với em một việc
- Gì thế?
- Từ giờ trở đi chúng ta không nói chuyện với nhau nữa.
- Ý anh muốn gì? Anh làm sao vậy?
- Anh muốn cái gì thì anh đã nói rồi đấy, chúng ta không nói chuyện với
nhau nữa.
- Nhưng tại sao?
- Vì không cần phải thế!
- Anh không còn yêu em nữa. Anh sẽ thích thú hơn nếu em biến đi,
không tồn tại, và vì anh không thể làm em biến mất nên anh gắng bắt em phải
câm miệng.
- Ngược lại. Em lắm chuyện đến mức từ ngữ giờ đây không còn cần
thiết nữa.
- Không. Em biết đấy là cái gì. Anh sẽ khoái chí hơn nếu em cũng là
một vật chỉ như những vật khác, một đồ vật anh có thể ngắm nghía rồi bỏ lại
nơi nó vẫn ở. Anh chỉ muốn em như cái cốc thuỷ tinh kia.
Tôi vừa định đáp lại rằng thực ra nàng mãi mãi biểu cảm hơn, cởi mở
hơn một chiếc cốc, nhưng bỗng nhiên tôi câm bặt. Khi nàng đưa ra lời nhận
xét đầy cáu kỉnh, tôi vô tình đưa mắt hướng về chiếc cốc, và thế là chiếc cốc
như tự mình kiễng chân gào đến vỡ giọng với tôi: "Tôi là cái cốc. Anh có hiểu
không? Tôi là cái cốc". Rối loạn cả tâm trí, tôi thôi không quan tâm đến kẻ
đang đối thoại với mình tuy bé nhỏ nhưng đầy xấc xược và tự mãn ấy nữa.
Cuối cùng, khi đã hết cơn bực tức, tôi ngước lên và thấy cái ghế của vợ tôi
trống trơn. Đau đớn, phẫn nộ, nàng đã đứng dậy và bỏ đi đâu mất.
Tôi vẫn ngồi nhìn chiếc ghế, lòng bồn chồn lo lắng và tự hỏi xem mình
phải làm gì đây. Thế rồi bất chợt chiếc ghế, hay đúng hơn quỉ xa tăng trong
hình hài con rắn, phải ví thế vì không một cái tên nào khá hơn cho xứng với
nó, bỗng gào vào mặt tôi, đầy xúc phạm: "Tại sao, anh nhìn tôi làm gì? Tôi là
cái ghế, anh có hiểu không? Tôi là một cái ghế!" - Tối tăm mặt mũi, tôi chuồn
khỏi căn phòng chạy ra ngoài tiền sảnh, mở cửa bước đi.
Chúng tôi sống trong tầng trệt một toà nhà trông ra khu vườn công
cộng nhỏ. Khu vườn có bốn luống hoa, mỗi luống có bốn cây. Giữa những
luống hoa có một khoảng trống rải sỏi kê bốn chiếc ghế. Ở giữa khoảng trống
có một đài phun nước nhỏ. Tôi bước tới và ngồi xuống một chiếc ghế kê dưới
bóng cây sồi xanh. Khu vườn vắng vẻ, những mẩu giấy vụn nhiều vô kể
vương vãi khắp nơi, hàng rào bị xé rách, cọc rào bị nhổ tận gốc, bãi cỏ nhàu
nát... ngay lập tức chúng gào lên với tôi: "Khu vườn giờ thì vắng vẻ vì mới
đầu giờ chiều. Chỉ lát nữa sẽ đầy trẻ con. Tất cả sự lộn xộn và phá phách này
đều do bọn trẻ gây ra". Tôi giả bộ không nghe thấy những lời nói ấy, những
lời nói mà ở một khía cạnh đang gây ra bao nỗi muộn phiền, cứ chằm chặp
trước mắt. Trên cái ghế kê đối diện có một người lính, một con người duy
nhất hiện diện trong cả khu vườn. Tôi tập trung chú ý vào người lính này.
Lúc ấy, tôi nhận ra giữa người lính và những cái cây, ghế ngồi, sỏi, đài
phun nước, những bụi cây, tức là toàn bộ các vật thể xung quanh anh ta đang
diễn ra một kiểu đua tranh, hay chính xác hơn một cuộc thi. Bản thân người
lính, bằng một giọng điệu thờ ơ, nhẫn nhục và đầy dịu dàng nói với tôi "Tôi là
một người lính". Nhưng tất cả vật thể hiện diện quanh anh ta, trái lại đang ra
sức khẳng định cá tính của chúng bằng những giọng điệu quá quả quyết, nói
như lấy được: "Không có một kẻ nào ngoại trừ tôi. Những kẻ khác không hề
tồn tại".
Thêm nữa, trên thân mình người lính, bất kỳ một chi tiết nào cũng đều
biểu lộ bản thân mình một cách sống động hơn chính tự thân anh ta. Lấy ví
dụ như đôi ủng nhà binh chẳng hạn: “Chúng tôi là đôi ủng”- hai vật thể màu
đen xếp vụng về trên đám sỏi màu trắng, chiếc quay hướng này, chiếc nhằm
hướng kia, dõng dạc tuyên bố: "Có lẽ anh không thể nhận ra điều này, nhưng
chúng tôi là một đôi ủng chả kém cạnh gì ai."
Bị chưng hửng vì vẻ quá tự mãn ấy, sau khi quan sát một lát đôi giầy
nhà binh, tôi ngước lên nhìn người lính. Anh ta đang cúi mình chống khuỷu
tay lên đầu gối, giải những câu đố vui, theo phán đoán của tôi là từ một tờ tạp
chí giải trí. Tôi đã không nhầm, thực sự có một cuộc đua tranh giữa người
lính và những vật thể bao quanh anh ta. Lúc này khuôn mặt đầy vẻ miệt mài
của người lính trẻ không còn bảo tôi: "Tôi là một người lính" nữa; mà khuôn
mặt ấy, tựa như một kẻ xin gia nhập giáo phái đang trình ra bằng cấp chứng
tỏ trình độ giáo dục hay vẻ cao quý hay một vật trang trí để được người khác
lắng nghe, chắc chắn vậy đấy và đi theo những cái đó là một thứ giọng điệu
nhân nhấn vừa ướm thử vừa tỏ vẻ ngán ngẩm kín đáo: "Tôi là một con
người". Tôi lại đưa mắt nhìn xuống. Dưới đất, một mẩu giấy vụn bên cạnh
ghế ngồi hét lên mạnh mẽ nhưng vô tích sự: "Tôi là một mẩu giấy" - Mẩu giấy
vụn mới tự tin mới hiện thực theo cái cách của riêng mình, mới thắm sâu hơn
khuôn mặt tăm tối và vô biểu cảm của người lính biết bao.
Tôi gần như ngộp thở, và tất cả còn hơn thế bởi một ý nghĩ nảy ra trong
đầu, phải chăng vợ tôi đã có lý? Vợ tôi đã đúng khi nói rằng với tôi nàng thực
sự chỉ là một vật như bất cứ vật gì khác, chẳng có gì quan trọng và ý nghĩa
hơn? Tôi đứng dậy và bắt đầu quay về, đi gần như chạy. Tôi bước vào toà
nhà và mở cửa căn hộ của mình. Vừa đi thẳng vào buồng ngủ, vừa lờ tịt đi
bao nhiêu đồ vật đang hét lên với tôi trong ánh sáng lờ mờ để đánh động tôi
lưu ý đến sự hiện diện của chúng, tôi biết chắc vợ tôi đang ở trong đó.
Cánh cửa khép hờ. Tôi nhẹ nhàng đẩy cửa và đứng nhìn ngó khắp
xung quanh. Những tấm rèm màu trắng treo trên cửa sổ khiến căn phòng tràn
đầy ánh sáng dìu dịu, những đồ vật trong phòng, có thể nói không hề có bóng
cũng như tương phản sáng tối. Thể tích của chúng, sắc màu của chúng,
đường nét của chúng rõ ràng, giản dị, chính xác, không cái nào nổi bật đường
bệ hơn cái nào. Tất cả đám đồ vật trong buồng ngủ ấy đều như nhau, bình
đẳng, không một thứ nào có vẻ hoặc thực chất dễ nhìn hơn, ý nghĩa hơn hay
biểu cảm hơn cái nào. Bình hoa để trên tủ đa ngăn cũng như cái bình nước
để trên bàn, cái đèn bên giường ngủ cũng như ghế bành chễm chệ gần cửa
sổ, cái tủ cũng như cái bàn phấn. Mắt tôi nhìn khắp lượt tìm kiếm một nguyên
cớ, một lý do để thấy một vật nào đó trội hơn. Không, không có gì hết. Mái
đầu của vợ tôi vùi vào giữa đôi cánh tay khoanh tròn cũng như cái gối nó
đang nằm lút xuống, thân thể nàng cũng như tấm ga trải giường đã bị cuốn
lại. Cặp chân nàng cũng như tấm mền lụa lót cho chúng nghỉ ngơi. Tôi nhìn
như dán mắt vào tấm thân nằm co quắp, dĩ nhiên nàng đang khóc bởi tôi
nghe thấy tiếng thút thít trộn lẫn những tiếng thở dài và tiếng lầm bầm khe
khẽ, nhưng với tôi những âm thanh này cũng chẳng có gì quan trọng hoặc
đáng chú ý hơn những âm thanh của chiếc đài nằm úp sấp trên tủ đang rên
rẩm vẻ vụng trộm. Thế rồi từ toàn bộ con người của nàng văng lên một thông
điệp quả quyết và dứt khoát: "Anh làm cái gì vậy, anh nhìn gì tôi? Hãy khắc
ghi điều này vào trong đầu, một lần để nhớ mãi, rằng tấm thân này chỉ là một
vật giống như các vật khác, chả có gì hơn thế". Thế rồi tôi khép lại cánh cửa,
nhẹ nhàng nhón chân bò đi.
ĐA NGHĨA
Đèn đỏ, một màu đỏ của đá ru-bi rất đẹp, nhưng tôi, dù nhìn thấy chúng
đang đỏ, thế này hay thế khác cũng chỉ đơn thuần thấy đấy là đỏ và tiếp tục
lái xe đi qua. Tiếng còi huýt vang lên khiến tôi tức khắc dừng lại. Tiếp đó viên
cảnh sát chậm rãi, đúng nghi lễ và tự mãn hung hiểm giơ tay vẫy tôi dừng xe
bên vỉa hè. Tôi tuân thủ. Viên cảnh sát bước tới, vẫn với dáng vẻ chậm rãi,
chìa đôi tay đeo găng da màu đen to xù chạm vào cửa xe, nói:
- Rồi, đèn đỏ không nói một điều gì với anh cả ư?
Tôi sững sờ vì sự khác lạ trong thái độ của anh ta. Anh ta đã không hỏi
tôi một câu như thường lệ: "Anh không nhìn thấy là đèn đang đỏ sao?" mà lại:
"Đèn đỏ không nói một điều gì với anh cả ư?" Vậy đấy, bằng sự thay đổi động
từ một cách gọn lỏn, chủ đề của câu nói không còn nhằm vào bản thân tôi,
một lái xe lơ đễnh, mà nhằm vào đền giao thông, cái đèn lúc ấy bằng sự sáng
đỏ, chắc chắn phải đang nói một điều gì đó với tôi. Tôi lắp bắp:
- Tôi xin lỗi. Tôi sơ ý quá.
Đi làm cảnh sát có hai kiểu người. Kiểu thứ nhất cứ lặng lẽ ghi giấy
phạt, kiểu thứ hai trái lại, không chỉ đơn thuần bắt phạt mà còn lên lớp một
bài. Viên cảnh sát này thuộc kiểu người thứ hai. Anh ta nói:
- A! Anh sơ ý à? Để tôi nói cho anh biết, nếu anh bạn bè với một phụ
nữ xinh đẹp, tôi xin đánh cuộc anh sẽ rất cẩn thận nhìn vào cặp mắt của cô
ta. Đương nhiên anh sẽ không nhầm lẫn cho rằng cô ta có thiện cảm khi cái
nhìn của cô ta không thiện cảm. Được rồi thưa ngài quí mến, đèn giao thông
là một phụ nữ xinh đẹp. Người ta phải chú tâm vào những cái liếc của cô ta,
và hiểu lúc nào cô ta nói: dừng lại, thì đó không phải lúc, khi nào cô ta nói:
được, thì đấy đến lượt anh. Sơ ý à? Nào xin hãy cho xem đăng ký và bằng lái
xe của anh. Chuẩn bị một ngàn lia tiền phạt.
Tôi chẳng nói chẳng rằng đưa anh ta giấy tờ, tiền phạt rồi lái xe đi.
Nhưng một điều gì đó xảy ra khiến tôi nhận thấy giờ đây mình không còn nhìn
quá kỹ vào các vật thể để quan sát chúng, ghi nhận muôn dáng vẻ bề ngoài
của chúng mà tự đặt bản thân vào một trạng thái nhạy cảm để nhờ đó, trong
thực tế có thể lĩnh hội những ký hiệu, những huấn thị. những thông điệp của
chúng. Trước lúc bị phạt, tôi ngắm nhìn các vật thể, khi cần thiết còn gắng
hiểu chúng nhưng chỉ thấy chúng vẫn nguyên như chúng là trước mắt, bất
động, vô hồn, im lặng. Thế mà giờ đây trái lại, các vật thể trở nên sống động,
vô cùng sống động, thậm chí còn hơn cả bản thân tôi, cho dù đấy là một sự
sống tối nghĩa, lập lờ nước đôi và chẳng ngay thẳng chút nào. Tất cả bọn
chúng đều đang nói một điều gì đó, nhưng vì chúng nói quá nhiều điều cùng
lúc nên rất khó hiểu cái chúng đang thực sự nói là gì. Lấy ví dụ, (ý nghĩ này
cũng an ủi tôi đôi phần trước số tiền bị phạt) đèn giao thông lúc ấy nói ít nhất
ba điều. Thứ nhất, tôi đỏ, thứ hai, tôi là một vật bằng kính và thép, tự gọi mình
là đèn giao thông. Thứ ba, hãy dừng lại nếu không anh sẽ vi phạm luật đi
đường. Đấy là còn chưa kể nó cũng có thể nói: Tôi là một thứ gây phiền phức
không cần thiết. Tôi là một thứ quyền lực độc đoán mà anh cần nổi loạn
chống lại vân vân... Cũng chẳng cần thiết phải định rõ xem thông điệp nào
trong số ấy là thông điệp khiến tôi chú ý.
Tôi tiếp tục lái xe đi và chẳng mấy chốc đã đến cái toà nhà xấu xí ở
Corso Vittorio nơi Gisella sống. Tiền sảnh tối tăm, cầu thang hôi hám và ọp
ẹp, chiếu nghỉ giữa thang chìm trong ánh sáng nhờ nhờ (tất cả đấy đều là
những kỷ hiệu, huấn thị, thông điệp, cái này còn khẩn cấp hơn cái kia, nhưng
vì vội nên tôi chẳng bận tâm đến chúng). Tôi bấm chuông, bồn chồn đợi. Có
lẽ một phút đã trôi qua, và lần này tôi không thể không dịch nghĩa bức thông
điệp của cái cánh cửa cũ kỹ, lạnh lùng, với những miếng to thô lỗ lồi ra, đang
trao cho tôi, hay đúng hơn đang hét lên với tất cả sức lực: "Không ai ở nhà,
chờ đợi uổng công. Tốt hơn là anh nên bỏ đi!" Nhưng rõ ràng tôi đã nhầm lẫn,
bức thông điệp lại khác, vì cuối cùng cánh cửa mở ra và Gisella đứng trên
bậc. Nàng kêu lên tức thì:
- Ôi Luigi! Anh mới đúng giờ làm sao! Đúng ra anh đến hơi sớm. Em
chờ anh lúc bảy giờ mà bây giờ mới có sáu rưỡi. Nhưng vẫn rất vui được gặp
anh. Anh vào đi, vào đi.
Tôi nhận thấy những ngôn từ này, theo cách nhìn sự vật mới của tôi
không biểu thị cái chúng sẽ biểu thị. Ví dụ, những lời lẽ của Gisella gửi tới tôi
một thông điệp, hay chí ít nó cũng xuất hịện nơi tôi. "Đồ ngốc. Ai bảo anh tới
trước làm gì nhưng nửa tiếng để gặp tôi lúc chưa kịp chuẩn bị và chưa kịp
mặc quần áo?"
Gisella khoác áo dài trong nhà, tấm thân nàng trẻ trung và mỏng mảnh,
hông rộng, đôi bờ vai hẹp, cổ cao đầu bé trông tựa như một con khủng long
nhỏ. Nàng đi lại vẻ nặng nề, ngái ngủ và biếng nhác giữa những tấm màn xếp
nếp màu hoa đào, dẫn tôi qua một hành lang mờ tối đến phòng khách. Vừa
bước vào, nàng liền quay lại bảo:
- Giờ anh đợi em ở đây nhé. Em đang dở mặc quần áo - Nói rồi nàng
biến mất.
Lòng phiền muộn, tôi bước tới bên cửa sổ, tỳ trán vào kính ngó ra
ngoài, ở mặt trước toà nhà đối diện có tấm bảng hiệu phát sáng mác một
hãng xe hơi (lại một thông điệp) và phía bên dưới gờ mái đua ra, qua những
ô cửa sổ sáng đèn của một cơ quan có đám nhân viên đánh máy ngồi bên
dãy bàn và những người đàn ông vừa đi đi lại lại trong phòng vừa đọc cho họ,
(một thông điệp khác). Tôi nhìn một lát, đoạn đột ngột ngoái đầu nhìn lại căn
phòng như để các đồ vật bị bất ngờ, không kịp thời gian hoàn hồn mà nói dối
tôi.
Như thường lệ tôi nhận thấy các đồ vật, hầu hết bọn chúng đều phát ra
không chỉ một thông diệp, một vài cái thì hai, vài cái khác bốn, cái lại những
sáu. Ví dụ như chiếc ghế xô pha nửa nằm nửa ngồi lớn kê dọc bức tường nói
với tôi bốn điều. Đầu tiên: tôi được trải một lớp nệm in hình đã cũ, ở chỗ tỳ tay
và lưng hơi bẩn. Thứ hai: tôi là một cái ghế ngủ và đến đêm một ai đó không
phải Gisella nằm ở trên. Thứ ba: đám gối nệm của tôi quăng lộn xộn và vẫn
hằn rõ hai thân người vừa mới ngồi. Thứ tư: Gisella không có tiền, nếu không
nàng đã phải xúc tiến việc thay lớp vải bọc đáng xấu hổ này cho tôi. Một chiếc
áo len cổ lọ nam giới màu đỏ vắt trên tay ghế, trái lại chỉ nói có hai điều: tôi
màu đỏ, tôi là của cái người vừa mới cởi ra một lát trước đây. Cuối cùng là
đám đồ vật chỉ nói một điều: "Tôi là chiếc bình cắm vài bông hồng anh đã gửi
tặng Gisella ngày hôm qua". "Chúng tôi là hai điếu thuốc đang cháy dở". "Tôi
là cái khăn tay phụ nữ bị rơi xuống tấm thảm cạnh chân giường". Tôi nhận
thấy không một đồ vật nào đơn lẻ, câm lặng; không một vật nào lại thờ ơ với
việc truyền ban thông điệp. Tất cả bọn chúng đều nói, tất cả. Và tất cả chúng
đều đa sự, gở mồm, tất cả đều không chỉ một ý nghĩa.
Tôi bước tới cái ngăn kéo để hở và bức thông điệp thứ nhất bay ra từ
một tờ hoá đơn có kèm theo bức thư của người thợ may yêu cầu thanh toán
với những lời lẽ kiên quyết. Bức thông điệp của tờ hoá đơn và lá thư bay tới
tôi hình như là thế này: "Chúng tôi là một tờ hoá đơn và một lá thư đòi trả
món nợ ghi trong hoá đơn. Chúng tôi có mặt ở đây để nói với anh rằng
Gisella luôn muốn mình đỏm dáng và mặc đẹp nhưng lại không trả tiền. Dĩ
nhiên một ai đó sẽ phải trả, đúng không?"
Tôi không còn thì giờ để nghĩ về bức thông điệp này, bức thông điệp
mà dù hiểu thế nào cũng rất rõ ràng, trước lúc nhận được một bức khác liền
ngay sau nó, tối tăm cả mặt mũi. Bức thông điệp sau văng ra từ một trong
những chiếc phong bì màu vàng đỏ anh ánh mà những người thợ ảnh đã
tống những bức ảnh vào. Chiếc phong bì ấy để hở, những tấm ảnh vương vãi
lung tung. Bức thông điệp thế này: "chúng tôi là những tấm hình của một
người đàn ông ngăm đen, trẻ trung khoảng ba mươi tuổi. Gisella đã chụp
chúng tôi trong chuyến đi về nông thôn. Anh nói gì về điều này?"
Tôi quay về phía giá sách và lập tức nhận được hai bức: "chúng tôi là
một tủ sách trinh thám, thứ ấn phẩm duy nhất mà Gisella đọc. Nàng là một
người đàn bà ngu dốt và ít học". “Tôi là tấm ảnh người chồng đã quá cố của
nàng. Nhưng liệu có thật là ông ta đã chết rồi không?”. Có một tấm gương
treo gần cánh cửa ra vào, và tôi bước tới sửa lại nút cà vạt.. Với tôi đấy là một
động tác ghi nhận sự lúng túng và cảm giác mất thoải mái. Và đây là bức
thông điệp của chiếc gương: "Anh đã năm mươi. Anh làm gì ở chốn này,
trong nhà một người đàn bà khó hiểu, người có một tính cách rất đáng ngờ?
Anh chờ đợi điều gì? Tại sao anh không nhanh chân thoát đi?".
Tôi không để bị nói đến lần thứ hai. Tôi nhón chân ra ngoài, nhảy xuống
cầu thang cứ hai bậc một, lao đến cỗ xe đỗ ở phố kề bên, rồ máy lao đi với
tốc độ hết khả năng có thể. Thoáng cái. tiếng còi huýt bất ngờ vang lên bắt tôi
đỗ lại chỗ quá đèn giao thông một quãng, cái đèn ấy, trời ơi đang đỏ. Viên
cảnh sát, như thường lệ, chậm rãi, đúng nghi lễ, vẻ tự mãn hung hiểm bước
tới tỳ tay vào cửa xe:
- Tôi đồ rằng với anh, màu đỏ và màu xanh đều như nhau phải không?
Anh ta bắt phạt như thông lệ. Lúc ấy tôi quan sát anh ta, đầu hơi cúi,
ghi nguệch ngoạc trong cuốn sổ, và không thể không nhận một bức thông
điệp từ má bên trái viên cảnh sát: "tôi là má bên trái. Sáng nay anh ta không
cạo. Thêm nữa, anh ta có một cái mụn rất lớn gần phía mũi". Giọng nói viên
cảnh sát vẻ hết kiên nhẫn khiến tôi giật nảy:
- Anh đúng là người lơ đễnh, phải không? Nào, đưa tôi một nghìn lia.
Lát sau, trong lúc đang lái xe dọc theo một con phố đông đúc tôi nhớ lại
lời nhận xét của viên cảnh sát. "Tôi đồ rằng với anh màu đỏ và màu xanh đều
như nhau". Thế rồi tôi ngẫm nghĩ không biết có phải mình đã nhầm lẫn khi
nhận các thông điệp từ đám đồ vật trong nhà Gisella hay không. Có lẽ Gisella
cũng không thiếu tiền, nàng thực sự là một goá phụ và cũng không đi xa hơn
trong tình bạn với gã đàn ông trẻ, ngăm đen trong các tấm ảnh. Và trước hết,
bằng một thái độ rõ ràng là ác độc, đám đồ vật đã nói dối tôi, đáng phải nói
thế này chúng đã nói thế khác chỉ mục đích duy nhất là chọc quê tôi. Tôi thở
dài, bắt đầu đánh xe về hướng ngoại thành. Tôi cần chút không khí trong lành
bởi một cảm giác ngạt thở vì nghi ngờ và chẳng biết quyết định sao.
Tôi lái khoảng hai mươi phút dọc theo Via Cassia. Hình như tất thảy
cây cối, bầu trời, đồng cỏ những trái đồi, cánh rừng và trang trại đều đang
chuyển tới tôi bức thông điệp duy nhất, đại ý thế này: "Chúng tôi đây, luôn sẵn
lòng là chỗ ngồi cho anh khi anh đưa Gisella đi chơi về vùng này. Tại sao anh
lại lưỡng lự không đưa cô ấy đi?"
Nhanh chóng tôi cho xe quay lại. Đến trạm xăng đầu tiên tôi dừng xe
bước ra gọi điện cho Gisella. Tôi nghe thấy giọng nói của nàng ở đầu dây bên
kia:
- Có chuyện gì thế? Làm sao anh lại bỏ đi? Em chẳng hiểu gì cả.
Tôi nói với nàng vài lời lấp liếm, đả thông cho nàng rằng tôi đang vội vã
quay về mời nàng đi ăn bữa tối. Thế rồi lúc lái xe quay trở lại Rome tôi cố
gắng dịch bức thông điệp ẩn chứa trong lời lẽ của Gisella, nhưng lần này tôi
thất bại.
TỪ NGỮ LÀ MỘT BẦY CỪU
Vẫn nghe nói, chúng ta phát ngôn ra cái chúng ta nghĩ, hoặc là cái mà
chúng ta nghĩ đến thì được nói ra để thay cho cái chúng ta nghĩ, vẫn nghe
nói, chúng ta lựa chọn từ ngữ để nói cái chúng ta nói. Lại nghe nói đầu tiên
chính là chúng ta, những kẻ mong muốn giao tiếp, rồi thứ đến từ ngữ kéo tới
cho chúng ta sử dụng để đạt được giao tiếp. Điều ấy có thể vẫn đúng. Nhưng
cũng có thể rằng chúng ta đi nói những từ mà theo bất cứ kiểu cách nào cũng
đều chẳng liên quan gì đến chúng ta, rằng không phải chính chúng ta là
những kẻ lựa chọn từ ngữ mà từ ngữ chúng lựa chọn chúng ta, và cuối cùng
chính là từ ngữ có mặt tại đó trước nhất, luôn trong tư thế sẵn sàng, để rồi
chũng ta phải dùng thông qua chúng.
Dưới đây là một bằng chứng về điều ấy. Ngày hôm qua, tôi tìm đến
Gino, tay hoạ sĩ, một trong số bạn thân của tôi sống ở Trastevere. Lý do cuộc
gặp này không như một lý do có thể vẫn thường được hình dung trong một
tình huống tương tự, là vì các bức vẽ. Lý do lần này khác, Gino đã cướp mất
Ginetta, cô bạn gái của tôi. Và tôi sẽ đến gặp anh ta để đối chất, nếu như có
thể còn đòi lại uy danh của mình bằng những quả đấm. Kế hoạch thật rõ ràng,
và để thực hiện được kế hoạch ấy một cách chính xác, tôi còn lưu ý đến mức
chuẩn bị sẵn cả đoạn mào đầu: "Gino, tối qua một điều gì đó đã mách tôi, đã
khiến tôi cảm thấy cần thiết phải đến gặp anh hôm nay và yêu cầu một lời giải
thích". Các bạn có thể cho đấy là một đoạn mở đầu phức tạp và vụng về, nếu
các bạn muốn nghĩ vậy, nhưng lời nói ấy phản ánh rất trung thực tâm trạng và
tính chất mối quan hệ giữa tôi và Gino.
Thế là tôi trèo qua bốn tầng cầu thang cũ, hẹp trong một ngôi nhà xiêu
vẹo, nằm tận cuối hẻm, tới phòng anh ta bấm chuông. Gino mặc áo len dài
tay, quần bó, chân xỏ đôi dép lê ra mở cửa và đón tôi vui vẻ nồng nhiệt:
- Sao thế này Mario? Lại chính là cậu ư? Vào đi Mario. Mình đang nghĩ
đến cậu. Vào đây với mình. Mình muốn cho cậu xem mấy bức tranh mới nhất.
Tôi nhận thấy mình phải nói thật nhanh, trước lúc ánh ta dùng sự giả bộ
thân mật thành công trong việc xì hơi quyết định của tôi. Tôi hắng giọng mở
đầu:
- Gino, tối hôm qua...
Vẫn biết đoạn mở đầu mình chuẩn bị sẵn là vụng về và phức tạp,
nhưng sau rốt đấy chính là điều tôi phải nói. Vừa lúng túng, tôi vừa nhận ra
rằng sau đoạn mào đầu ấy: "Gino, tối hôm qua...", những từ ngữ khác tôi
không hề muốn nói, những từ ngữ hoàn toàn chẳng có việc gì để làm với mối
quan hệ của tôi và Gino bắt đầu văng ra từ mồm. Những từ ngữ theo logic và
liền mạch như một bầy cừu, trong bầy cừu đó hễ con đầu đàn tự ý mò vào
một khe núi có nước là tất cả số còn lại đều kéo theo, mặc cho người chăn
gào hết hơi. Đây là cái câu hoàn chỉnh, tức là cái đàn cừu ấy, lao rã khỏi mồm
tôi:
- Gino, tối hôm qua chúng mình gặp nhau vẫn ở quán ăn ấy. Giorgio,
Clara, Ginetta và mình, nhưng cậu không tới. Chúng mình đã đợi cậu và cuối
bữa để lại mẩu giấy trên bàn, sau đó kéo nhau đi xem phim. Mình muốn biết
lúc ấy cậu làm cái gì thế?
Tôi ngạc nhiên. Bản thân tôi không nói, những từ ngữ đã nói thay. Tôi
chỉ mới bảo. "Tối hôm qua..." và thế là đủ, tất cả phần còn lại tự chúng kéo
đến. Trong lúc ấy Gino đã bước tới bên bàn và nhanh chóng bóp đủ loại tuýp
màu ra pa-lét. Thế rồi anh ta tiến lại đứng bên một khung tranh lớn có đèn
sáng mạnh rọi lên từ phía dưới.
- Cậu không phiền lòng nếu tớ tiếp tục làm việc chứ Mario? Anh ta hỏi -
Tối hôm qua mình làm cái gì ấy à? Chẳng gì hết, tớ vẽ trong xưởng.
Anh ta quay lưng lại phía tôi và cắm cúi dùng bút sửa lại một góc bức
tranh. Tôi nghĩ có lẽ sẽ là một kế hoạch tuyệt diệu nếu tôi làm cho anh ta hiểu
được tâm trạng của mình theo con đường gián tiếp, tức là bằng một nhận xét
không hài lòng, chất chứa thù địch nào đó. Ví dụ nhục mạ những bức vẽ của
anh ta chẳng hạn, những bức vẽ mà cho đến giờ tôi vẫn hết lời tán tụng.
Thảng hoặc tôi vẫn viết phê bình nghệ thuật, và hai năm về trước tôi đã từng
viết lời giới thiệu cho một cuộc triển lãm của Gino. Lần này quan điểm của tôi
sẽ như sau: "Thời gian gần đây với Gino, những bức tranh của anh ngày một
sa sút", và quan điểm ấy không thể không làm cho anh ta khó chịu. Thế, với
sự khó chịu của anh ta cùng cơn phẫn hận của tôi, lý lẽ sẽ nảy sinh, và cách
này hay cách khác, sự thật về Ginetta sẽ hé lộ. Vậy là tôi mở miệng tuyên bố:
- Gino, những bức vẽ của cậu...
Sức mạnh của từ ngữ! Lời nhận xét đơn giản nhưng trái thông lệ (bởi lẽ
ai mà rốt cuộc lại đi rêu rao với một hoạ sĩ rằng tranh của anh ta đáng tởm?)
bị thay đổi ngay trên đầu lưỡi của tôi, thế đấy, bằng một nhận định khác tuy
phức tạp hơn nhưng lại đúng lệ hơn, và thế nào mà nó lại theo đúng ngôn
ngữ phê bình nghệ thuật đương đại:
- Gino, những bức vẽ của cậu gần đây đã và đang được sáng tác theo
một phương pháp bố cục khác. Cậu đã có thể giải phóng bản thân ra khỏi
những bức vẽ thể nghiệm của năm ngoái, đã có thể chuyển mình sang một
trình độ hoàn toàn đối ngược với nhân sinh quan bình thường cùng một sự
quyết liệt làm nảy sinh mọi dấu hiệu của một cuộc tranh luận...
Lúc kiểm kê lại đàn cừu từ ngữ, kêu be be ngớ ngẩn nhưng đầy ý thức
kỷ luật, lao ra khỏi mồm tôi, đạp vào khoảng trống, một lần nữa tôi sửng sốt.
Anh ta không hề quay lại, vẫn tiếp tục vẽ và nhận xét vẻ thân thiện:
- Mario ơi, những điều cậu nói là rất tốt đẹp và rất công bằng. Sao cậu
lại không viết một bài giới thiệu cho cuộc triển lãm sau của tớ kèm những,
điều thú vị cậu vừa mới nói nhỉ?
Tôi đã có thể cắn nát tay mình ra vì giận dữ. Tôi nghĩ thực vô tích sự
khi chuẩn bị trước các câu nói, bởi lẽ luôn luôn có một câu khác hợp lôgic
hơn, tự nhiên hơn, dù ngu xuẩn, thay thế những câu đã định sẵn ngay trên bờ
môi và vào thời điểm sau rốt. Tôi tự nhủ rằng mình nên thốt ra bất cứ từ nào
xuất hiện trong đầu, chẳng cần băn khoăn gì về những từ khác, những từ có
thể kéo lê kéo lết theo sau nó.
Rồi bỗng nhiên tôi bảo:
- Hôm nay...
Hôm nay, cái gì đây? "Hôm nay", là một từ mang nặng những gợi ý,
bằng sự đánh động của mình, nó có thể kéo theo bất cứ một loại câu nào,
thậm chí có thể một câu liên quan đến Ginetta, kiểu như: "Hôm nay, dù thế
nào đi nữa, tôi đã tới đây để đập vào cái mặt của anh..."
Nhưng hoàn toàn không thể. Cái "hôm nay", đặc biệt này chẳng có việc
gì để làm với Ginetta cả. Đó quả là một "hôm nay" rất đặc biệt, một "hôm nay"
kéo theo sau một đàn cừu nhỏ của chính mình và chẳng có ý định nào tống
khứ chúng đi được. Đó là một từ "hôm nay", tóm lại như thường lệ, hoàn toàn
độc lập với ý chí của tôi. Điều tôi nói lại là thế này:
- Hôm nay, Gino ơi, ngay lúc rời nhà cậu, tớ muốn mua một đôi dép da
dê như của cậu. Cậu có thể tiết lộ cho tớ biết cậu đã mua nó ở đâu không?
Anh ta vươn tay lên sửa ngọn đèn phía trên bức vẽ, đáp:
- Tớ mua nó ở Porta Portese. Nó là hàng chợ đen ở khu người Anh. Nó
đẹp phải không?
Anh ta lại vẽ. Và rồi tôi nắm thật chắc lấy vấn đề của mình, đặt nó tựa
lưng vào bức tường, có thể nói đến như vậy. Tôi “phải” nói cho hắn biết
chuyện giữa bản thân hắn và Ginetta. Vì thế, tôi phải bắt đầu cuộc đối thoại
bằng một từ chỉ có thể liên quan tới hắn và Ginetta. Và còn cái từ nào thích
hợp hơn để đạt được kết cục ngoài chính tên hắn? Tôi bắt đầu quả quyết:
- Gino...
- Ơi, cái gì?
- Gino...
- Hả, cậu muốn gì?
- Gino...
Một lần nữa tôi lại chưng hửng. Tóm lại tôi đã tác động lên một từ mà
nó chẳng lôi theo bất cứ một từ nào khác sau nó. Nó là một từ cô lập, ẩn dật,
duy nhất, một con cừu đã bị tách khỏi đàn, đã đi lạc đường, cho dù nó, cũng
như những từ khác, có thể khao khát lao mình vào khoảng trống. Thật may
mắn, anh ta không hề biết điều đó, đã tới giải cứu:
- Cậu nhắc đi nhắc lại tên mình. Có lẽ cậu cho rằng cái tên ấy quá bình
dân, nhưng hoàn toàn không phải. Cậu có biết Gino gọi thay cho cái gì
không?
- Không phải tên cậu là Gino?
- Không bao giờ nữa. Cậu sẽ không tin nhưng tên thật của tớ là Iginio
Anh ta cười váng và tiếp tục vẽ. Tôi châm một điếu thuốc, thoáng quan
sát anh ta rồi đắm chìm trong nghĩ ngợi. Sau đó cướp thời gian tôi nói:
- Gino, có một điều tớ phải nói với cậu.
Tôi thở thật sâu. Tôi đã làm được điều ấy. Cụm từ đó không tối nghĩa.
Nếu những con cừu thực có mặt ở đó thì lần này chúng sẽ là “của tôi”. Anh ta
hỏi, đạo đức giả hơn bao giờ hết:
- Có một điều cậu phải nói với tớ? Điều gì thế?
- Ginetta là một trong những người đàn bà mà chuyện yêu đương...
Tôi định kết thúc như thế này: "... không loại trừ những cuộc phiêu lưu
lúc này lúc khác với Tom, Dick và Hary, có thể thậm chí cả cậu".
Nhưng tôi đã không tính đến sức cuốn hút mạnh hơn, như nam châm
với thép, của một câu gợi ý đối nghịch, gần với thông lệ hơn so với câu định
nói. Câu định nói tắc nghẹn trong cổ. Câu tôi thốt ra chính lại là:
- Ginetta là một trong những người đàn bà mà chuyện yêu đương là
một chuyện nghiêm túc.
Ngược hẳn lại với điều tôi muốn nói trên thực tế. Anh ta đáp vẻ quả
quyết:
- Tớ tin.
Và tôi, trong trạng thái tuyệt vọng bèn đứng dậy. Anh ta quay lại hỏi:
- Cậu đi đấy à?
Còn tôi, vẫn bị cầm tù trong cái logic đáng nguyền rủa của từ ngữ nên
đáp lại:
- Ừ! Tớ có nhiều việc phải làm, Ginetta đang mong tớ đến để rủ nàng đi
xem phim.
Tôi thấy anh ta ngó tôi vẻ lạ lùng, như thể anh ta đã đoán được đám từ
ngữ ấy chẳng liên quan gì đến sự thật, và có thể nói không hơn gì một trò
chơi chữ. Nhưng anh ta không nói không rằng tiễn tôi ra cửa.
Tôi đi xuống. Lúc ở dưới phố, gần như vô tình tôi ngước mắt nhìn lên
những ô cửa sổ nhà Gino. Và rồi, ở một trong những ô cửa ấy tôi thấy
Ginetta. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, đó là nàng. Tôi nhận ra nàng, nếu không
bằng một điều gì khác, thi đó là từ mái tóc đang nằm lơi lả trên đôi bò vai, mái
tóc nâu vẻ u buồn lãnh đạm, mờ tối, được chải bòng lên, loăn xoăn và không
dùng cặp, mái tóc ấy như làm cho khuôn mặt nàng có vẻ nhợt nhạt hơn, cặp
mắt nàng u tối và thẳm sâu hơn. Chỉ một khoảnh khắc nàng tụt ngay vào
trong hay đúng hơn nàng biến mất như một bóng ma. Và rồi tôi bỏ đi. Vậy là
Ginetta ở trên đó, trong xưởng vẽ của Gino. Nàng ở phòng kế bên suốt thời
gian chúng tôi nói chuyện. Nhưng cứ theo đám từ ngữ của tôi thì nàng đang ở
một đâu đó mà tôi không biết, đang chờ tôi tới rủ nàng đi xem phim. Đâu là sự
thật đây, đám từ ngữ đã thông báo rằng nàng ở rất xa xưởng vẽ của Gino hay
chính cặp mắt tôi đã thấy nàng qua một khung cửa sổ cái xưởng vẽ ấy?
NHỮNG BẢN SAO
Vào một ngày gần đây tôi đi đến một quyết định. Tôi nhặt ra mẩu quảng
cáo cho thuê nhà "Phòng tốt, tràn đầy ánh nắng, có buồng tắm, bầu không khí
thân thiện": tại một địa chỉ rất xa nơi đang ở. Tôi bèn lấy xe lái đến đó. Nơi tôi
ở về phía Via Cassia, một hơi gần như giáp với thôn quê, còn căn buồng kia,
theo lời giới thiệu ở về phía Via Appia Nuova, và khoảng cách xa đến thế với
tôi hình như là một đảm bảo an toàn cho sự độc lập, bí mật cùng tính chất
không lặp lại, không thể giống nhau.
Bản thân tôi chẳng hế biết chính xác mình muốn làm cái gì nữa. Phải
chăng tôi sẽ lao vào sống nghiêm túc một cuộc sống kép với hai ngôi nhà,
một gần Via Cassia, một gần Via Appia? Tôi là một sinh viên, gia đình ở tỉnh
xa, và sẽ rất dễ để mỗi bà chủ nhà tin rằng mình phải dành mười lăm trong số
ba mươi ngày của tháng để về quê. Hoặc giả mặt khác, tôi sẽ chỉ đơn thuần
nhìn ngắm một cuộc sống kép mà không hề thực hành nó? Dụng công khám
phá ra những khả năng của cuộc sống ấy, có được hương vị từ nó?
Vâng, quả có thế, bởi vì tôi không hề khao khát một cuộc sống kép với
mục đích nhằm cho thoát ra những bản năng khó thú nhận. Tôi không hề ước
ao cái sự, như chúng ta vẫn nói, làm một người chồng chưa cưới chung tình
ở Via Cassia và một gã Don Juan ở Via Appia. Không, tôi chẳng có gì phải
giấu diếm và tìm lối thoát trong bí mật. Tôi chỉ đơn giản muốn nhân đôi bản
thân, tức là trở nên hai con người thay cho một, và quả thực làm thế chỉ như
làm những việc bình thường nhất, vô tội nhất. Cuộc sống kép, tóm lại với tôi
không phải phương tiện mà là mục đích.
Tôi thấy ngôi nhà nói đến trong quảng cáo ở gần vùng Via Appia nằm
trên một con phố rất giống với con phố nơi tôi đang ở gần Via Cassia. Hai bên
hai dãy nhà hiện đại, mặt đường mấp mô, lỗ chỗ ổ gà, gò đống. Mãi phía xa,
trời cao một dải xanh lơ phủ lên một dải xanh lục của đồng quê. Hơn nữa,
bản thân toà nhà này cũng giống với toà nhà tôi đang ở, cũng bề mặt tám
tầng lô nhô cửa sổ, ban công, cũng tiền sảnh đá cẩm thạch, cũng buồng
thang máy, cầu thang tay vịn, cũng hàng lan can. Nghĩ cho cùng thì điều ấy
cũng chẳng quá lạ lùng, toà nhà này có thể được dựng lên bởi cùng loại vật
liệu, cùng thời kỳ, và thậm chí có thể cùng một nhà thầu, theo những thiết kế
của cùng một kỹ sư. Tôi tới tầng bốn. Như không thể tin nổi vào mắt mình khi
thấy tấm biển khắc tên bà chủ nhà vùng Via Cassia của tôi: "Longo". Thế rồi
tôi nghĩ đây cũng chẳng phải là một sự trùng lặp ngẫu nhiên hoàn toàn không
thể xảy ra, Longo không phải là một cái tên hiếm có, trong cuốn danh bạ điện
thoại có đến một trang rưỡi những Longo. Tôi bấm chuông.
Lúc đợi cửa mở, tôi thấy một cảm giác cũng bí ẩn như nỗi chờ đợi mình
đã trải nghiệm khi bấm chuông trước cửa nhà bà Longo thứ nhất gần vùng
Via Cassia. Thêm nữa, cảm giác mong đợi này không hề giả tạo vì cánh cửa
đã được Elena, con gái bà chủ mở ra, nàng là người mà tôi chẳng mất chút
thời gian nào đã lập được một mối quan hệ đầy đắm say nhẹ nhàng. Và lúc
này cánh cửa mở ra cùng giọng nói nhẹ êm:
- Dạ, anh cần gì?
Tôi ngước mắt lên. Elena tóc vàng, cô này tóc đen. Khuôn mặt Elena
đầy sinh lực, đôi mắt xanh da trời, đôi gò má ửng hồng, môi đỏ thắm cô gái
này trái lại, có gương mặt thanh tú, xam xám vẻ đau yếu với cặp mắt to, long
lanh, màu thẫm. Thế nhưng kiểu đón khách thì giống nhau cùng e dè, trầm
lặng, thậm chí ngượng nghịu, tuy vậy không hờ hững, thái độ thường thấy ở
một cô gái phát hiện ra giá trị của bản thân khi đối mặt với một người khác
giới trạc tuổi.
Tôi giải thích cái mình định làm. Ngay tức thì nàng đưa tôi vào phòng
khách và nói nàng sẽ đi thưa lại với mẹ. Rồi biến đi. Tôi nhìn quanh, trong
nhà của bà Longo thứ nhất đa phần nhại theo kiểu thời Phục hưng, còn ở đây
giả theo kiểu thời Luis XVI, thế nhưng cái không giống nhau này chỉ là bề
ngoài, và cũng như hai cô gái họ Longo hai kiểu phục sức, theo như quan sát
của tôi đều cùng một "mục đích". "Mục đích” này có thể là gì thì tôi không thể
nói ra được nhưng chúng giống nhau. Tôi chắc vậy. Tôi ngồi xuống, và lúc
nhớ lại Elena cũng thế, cũng nói vào cái ngày ấy rằng: "Em sẽ đi thưa lại với
mẹ", tôi không khỏi rùng mình.
Thoáng cái, bà mẹ xuất hiện. Với bà này, một tình cảnh tương tự lặp
lại, tình cảnh ấy đã từng xảy ra như với bà Longo thứ nhất. Đó là tôi không
nhìn bà ta. Quả thực, tôi thấy rõ trước mặt mình một cái gì đó ngọt ngào, thân
ái, chút toan tính, chút tỉnh lẻ, nhưng uy quyền, tuy nhiên bản thân tôi lại thất
bại khi định xem khuôn mặt, thân hình của bà Longo thứ hai thuộc loại nào,
cũng như thậm chí đến tận giờ tôi vần không biết về bà Longo thứ nhất trông
ra sao. Đương nhiên tất cả chúng ta đều biết trên đời này có những con
người sống mãnh liệt cho dù luôn che dấu, tuy vậy những con người đó
chẳng gây được hiệu quả gì hơn một vết ố ẩm ướt trên mặt tường.
Thế nhưng, đoạn đối thoại sau đã diễn ra:
- Cậu là sinh viên?
- Vâng, cháu học văn học
- Còn gia đình cậu sống ở đâu?
- Ở Ancona
- Ancona, một thành phố thực dễ thương. Tôi có một người họ hàng ở
Ancona. Cậu là con một?
- Vâng
- Tôi e rằng cậu được nuông chiều đến hư mất. Các cô các cậu đều
con một... như Elena của tôi.
Tôi giật mình:
- Ai là Elena?
- Con gái tôi
- Xin lỗi, bà vừa nói?
- Ô vâng. Tôi đang nói trời hỡi Elena cũng là con một
- Sao bà lại bảo trời hỡi?
- Tôi rất muốn có một cậu con trai. Tôi luôn chừa lại cái phòng ấy cho
những thanh niên trẻ như cậu. Để rồi tôi có thể tự đánh lừa bản thân bằng ý
nghĩ mình có một con trai.
- Cháu cũng biết điều đó - tôi buột miệng.
- Sao?
- Cháu biết rằng bà rất muốn có một cậu con trai, và bà không có, rằng
bà chữa lại cái phòng ấy cho những thanh niên trẻ như cháu.
- Xin lỗi, nhưng làm sao cậu biết điều đó?
- À cháu đoán. Lúc bà bảo cháu rằng Elena là con gái độc nhất và lúc
cháu thấy bà thở dài
- Trực giác cậu rất nhạy bén, điều ấy không thể phủ nhận. Dù sao cũng
đừng băn khoăn gì cả, ở đây cậu sẽ như con trong gia đình, mà cậu vẫn sẽ tự
do, hoàn toàn tự do. Cậu có muốn xem căn phòng ấy không?
- Cảm ơn bà, cháu muốn.
Bà ta đưa tôi đi xuyên qua hành lang. Một chiếc cửa đang mở, phía
cuối của căn phòng dài, hẹp, Elena thứ hai đang ngồi bên bàn của nàng ngó
ra cửa sổ. Lúc chúng tôi đi ngang qua, mẹ nàng bảo:
- Elena, mẹ giới thiệu với con, đây là Xinho... ồ mà xin lỗi, tên cậu là gì?
- Cháu là Fabiani
- Xi-nho Fabiani, người sắp tới sẽ đến ở đây cùng chúng ta.
Elana đứng vội dậy và ngay lập tức tiến đến chỗ chúng tôi, như thể
nàng chỉ đợi để gọi đến tên. Chúng tôi bắt tay nhau và tôi nhận ra trong thời
gian tôi nói chuyện với mẹ nàng, Elena đã thay trang phục lúc ra mở cửa cho
tôi, nàng mặc bộ váy áo màu xanh lá cây xinh xắn tuy hơi cũ. Còn giờ đây
nàng khoác áo bu dông màu đỏ, mặc váy xám, áo váy trông đến mới. Nàng đi
theo chúng tôi, cả ba theo nhau vào căn phòng ấy.
Bà Longo thứ hai nói:
- Căn phòng này vừa sáng vừa yên tĩnh. Những ngày đẹp trời, cậu có
thể nhìn thấy Castelli Romani. Còn đây là buồng tắm, tất cả trang thiết bị đều
mới. Qua lối này, chiếc cửa đây, cậu có thể đi lại không ai làm phiền.
Bà Longo thứ hai đi đi lại lại, đẩy những ô cửa mở ra mở vào ngăn kéo,
tủ tường, chính xác hệt như bà Longo thứ nhất đã làm. Lúc đó Elena đứng
tránh sang một bên nhìn chúng tôi, và tôi thay vì ngắm nghía đám đồ đạc và
cảnh vật bên ngoài, lại nhìn nàng. Có mấy hồi chuông điện thoại vọng đến,
mẹ nàng nói sẽ đi nghe, rồi bà bước ra ngoài để chúng tôi ở lại cùng nhau.
Tôi đứng gần cửa ra vào. Elena đứng phía bên kia căn phòng, gần cửa
sổ. Chúng tôi nhìn nhau, đúng y như khung cảnh tương tự ở nhà bà Longo
thứ nhất (tuy lần ấy có tiếng chuông ai bấm ngoài cửa), tôi và Elena kia cũng
nhìn nhau. Lúc ấy, từ Elena kia, tôi đã nhận thấy nàng như đang cầu khẩn tôi
hãy nhận phòng và tôi đã hứa với nàng sẽ làm điều đó. Tôi cảm thấy mình
vững tâm hơn, phần nào như khi các vật liệu xây dựng được dùng, bản thiết
kế được chấp nhận, viên kỹ sư cùng nhà thầu được giao việc, và tất cả đã tạo
nên toà nhà mà ở đó tôi thấy bản thân mình vào thời điểm này, toà nhà về
mọi phương diện đều giống với toà nhà tôi đang sống ở Via Cassia. Vì thế,
trên cùng một khía cạnh, một số lượng không thể so sánh với nhau, các lực
đẩy đã đưa tôi đến sự cư xử với Elena thứ hai chính xác y hệt như vơi Elena
thứ nhất. Bỗng nhiên một ý nghĩ xuất hiện trong đầu, đây là một cuộc sống
kép, hoàn toàn không khác với cuộc sống tôi đã vẽ nên. Một cuộc sống mà
bản chất chính của nó không hề thay đổi gì nhiều bằng các việc đổi chỗ và
khung cảnh, vì nó vẫn giống hệt nhau ở những nét chính yếu. Cảm giác nhân
đôi bản thân mà tôi đang theo đuổi về cơ bản chỉ là thế này: trong lúc làm một
cái gì đó, chỉ đạt tới một ý thức rằng mình đã làm điều này, và rằng với tôi
không thể không làm cái đó chính xác bằng đúng cách ấy, không một ngoại
lệ.
Suy tư này kéo dài không quá một giây. Thế rồi bà Longo quay lại và
nói:
- Nhầm số
Chẳng còn việc gì để làm nữa. Phải đi thôi. Tôi nói với bà Longo thứ hai
rằng sẽ trả lời vào hôm sau. Tôi bắt tay Elena, nàng để yên tay mình trong tay
tôi có lẽ lâu hơn cần thiết (cũng như Elena kia đã làm). Rồi đó tôi theo thang
máy xuống tầng một, cái thang ấy cũng y như cái trong toà nhà gần Via
Cassia, thậm chí giống cả đến hàng chữ viết thiếu nắn nót bò nguệch ngoạc
trên mặt gỗ bóng lộn bằng đầu một chiếc đinh nhọn.
Tôi trở về nhà. Vừa đúng lúc quăng mình xuống giường, mệt mỏi vì quá
nhiều phiêu lưu thì có tiếng gõ cửa. Giọng của Elena bảo:
- Anh có điện thoại.
Tôi bước ra ngoài đi nghe điện, Elena theo tôi. Lúc tôi cầm máy, nàng
cầm tay tôi nghịch nghịch mấy ngón, ở đầu dây bên kia tôi nghe thấy giọng
Elena thứ hai:
- Xi-nho Fabiani?
- Vâng.
- Mẹ tôi bảo nói với anh không cần trả lời bà nữa. Có một ai đó được
cân nhắc trước anh và mẹ tôi đã quyết định dành phòng đó cho anh ta.
Ngay lập tức tôi hỏi dồn:
- Anh ta là ai?
- Một sinh viên có tên Mariani.
- Ồ, một sinh viên. Anh ta trông thế nào? Tóc đen, tóc vàng? Cao hay
thấp?
- Anh hỏi kỳ quặc đấy, đúng không? Anh ta cũng nhang nhác như anh.
Tóc không đen, không vàng, cũng không cao không thấp, tầm thước. Nhưng
vì sao anh muốn biết?
- Cám ơn. Tôi xin lỗi. Tạm biệt.
Tôi gác máy. Elena lại bên tôi thì thầm:
- Người con gái ấy là ai? Có gì giữa cô ta và anh không?
Tôi muốn nói rằng: "Người đàn bà đó là em. Giữa anh và cô ta có đúng
cái có giữa anh và em. Hoặc chàng sinh viên Mariani, người rất giống anh sẽ
cùng cô ta làm cái anh có thể sẽ làm, và vì thế anh không cần phải thuê một
căn buồng ở tận Via Appia nữa, bởi anh ta làm mọi cái cho anh. Và tất cả
chúng ta, nếu muốn đều có thể sống không chỉ hai cuộc sống mà hàng triệu
hàng triệu. Với chúng ta, tất cả những gì cần thiết là phải ý thức rằng chúng ta
giống với hàng triệu hàng triệu người khác trên cái thế gian này.". Nhưng lại
nghĩ nàng sẽ không hiểu nên tôi trả lời quấy quá cho xong chuyện rồi quay về
phòng ném mình xuống giường. Đầu tôi nảy ra ý rằng vào lúc này đây có vô
có vàn bao kẻ khác giống tôi cũng đang ném mình xuống giường của họ, và
kỳ lạ chưa, ý nghĩ này an ủi tôi. Giữa lúc nghĩ ngợi rằng mình đang làm một
điều gì đó mà bao kẻ khác cũng đang làm, tôi thiếp đi.
MỘT LƯƠNG TÂM KHÔNG MẮC MÍU
Trí nhớ của tôi rất tồi và chẳng được tích sự gì với nó. Tôi quên hết
thảy mọi thứ, từ ngày tháng, thời gian, tên tuổi, những con số, những gương
mặt, các sự kiện cho đến các cuộc hẹn. Nhưng khác với một số người có tính
hay quên, như họ nói, là vì có những điều khác trong đầu, bản thân tôi hoàn
toàn chẳng có gì trong cái đầu tôi cả. Đúng ra trong đầu phải có những điều
để rồi quên, nhưng vì tôi quên tiệt nên chẳng có gì hết.
Vợ tôi cho rằng tôi quên vì trong vô thức tôi mong muốn được quên.
Đấy là một cách nói hiện đại và hợp thời để bảo rằng anh là một gã nhút nhát,
một gã không thích giáp mặt với hiện thực. Nàng cũng nói rằng tôi quên bởi
tôi không có cảm giác về thời gian, và không có cảm giác về thời gian bởi tôi
không làm việc, nên vì thế trong cuộc sống không có gì thúc đẩy tiến bộ, phát
triển, gặt hái thành quả. Cũng có thể là thế. Tuy nhiên, đâu là lỗi của tôi khi
nàng giàu có, nàng muốn lấy tôi và do vậy đã biến tôi thành một gã hay quên,
kỳ cục, vô tích sự?
Tôi gắng làm đủ cách để chiến đấu với tính hay quên. Một trong các
cách ấy là cứ sáng sáng tôi ghi vào một quyển vở tất cả những yêu cầu,
những cuộc hẹn trong ngày. Thế nhưng vì tôi hay quên đi lấy và xem vở, nên
vợ tôi, người chưa bao giờ quên bất cứ điều gì, phải tự mình cầm vở nhắc
nhở vào những lúc tôi chuẩn bị rời nhà về những việc phải làm. Và cứ thế đến
một hôm, nàng cáu giận bước vào phòng, lúc tôi vẫn đang nằm trên giường
nghỉ trưa. Nàng tỳ vào đầu giường, hét lên:
- Dậy! Anh có muốn em đọc những việc phải làm chiều nay không.
- Có.
- Đến quầy hoá chất mua thuốc đánh răng, lấy vé nghe hát, xem trang
561, quyển thứ nhất Bách khoa toàn thư.
Tôi tròn mắt ngạc nhiên:
- Thế là nghĩa lý gì? Bách khoa toàn thư làm gì ở đây?
- Làm sao em biết được? Chính tay mình viết thì phải biết nó có nghĩa
gì chứ. Thôi tạm biệt, em đi đây.
- Tại sao, em đi đâu?
- Em có nhiều việc phải làm. Em là một người ưa hoạt động. Tối nay
gặp lại nhé. Chào anh.
Tôi nghĩ ngợi một lát về sự kỳ lạ của dòng chữ như sấm truyền mà
chính mình đã viết. Thế rồi tôi ngồi dậy khoác áo đi vào phòng khách. Tôi lôi
từ giá sách xuống quyển Bách khoa toàn thư thứ nhất, và quả thực ở đầu
trang 561 là dòng chữ: "Tới Via Solferino, số 64"
Tôi đứng như trời trồng mất một lúc, nhìn vào đống từ ngữ chính tay
mình viết ra mà bản thân không hiểu được. Đầu tiên tại sao mình không viết
thẳng chúng vào quyển vở? Sau cùng tại sao lại vào Bách khoa toàn thư? Và
ở địa chỉ đó có cái gì mà phải phòng bị cẩn thận đến như vậy? Cuối cùng, với
tôi, sự khôn ngoan thường tình nhắc chỉ có làm một cuộc điều tra ở Via
Solferino có lẽ mới có thể tìm được lời giải thích cho điều bí ẩn này. Thế là tôi
khoác áo quần mò đi.
Nằm giữa nhà ga và khu trại lính Macao là mội trong những quảng
trường tăm tối, hoang tàn, đổ nát nhất của thành Rome.
Được xây dựng trong thời đại Umberto I đường phố của nó mang tên
những trận đánh Risorgimento, ở đó người ta cảm thấy bầu không khí như
trong những trang sách lịch sử hồi tiểu học. Lúc đi vào Via Solferino, cặp mắt
đầy tò mò của tôi bắt gặp ngay một đường phố điển hình cho khu quảng
trường tăm tối, nó vừa dài vừa hẹp, uốn lượn theo những dãy nhà vàng vọt,
đầy bụi bặm, khắc khổ cùng dãy cửa sổ vừa phải và cửa ra vào tiền sảnh quá
khổ. Một đường phố điển hình, ngay tức thì tôi liên tưởng, cho bất cứ ai muốn
giấu mình, muốn ngụy trang bản thân, muốn biến mất.
Tôi lái xe chầm chậm tới nhà số 64. Điều bất ngờ đầu tiên: đây là một
cửa hàng với cái cửa xếp kéo xuống kín mít. Thế có nghĩa gì? Tôi đứng lại
kiểm tra cánh cửa. Nó thuộc loại cửa bình thường và tồi tệ nhất, những lá
thép sơn xám, gỉ lỗ chỗ xếp lên nhau. Như đã tả, nó được kéo xuống kín mít
và chi tiết này gợi cho tôi ý nghĩ đầu tiên có vẻ kích thích, thật lạ lùng làm sao
cửa hiệu này lại đóng cửa vào lúc 5 giờ, cái giờ mà tất cả cửa hàng cửa hiệu
đều mở. Tôi nhìn lại một lần nữa, như trò chơi cố tìm những khiếm khuyết
trong một bức tranh vẽ, tôi phát hiện thấy những điều kỳ quặc khác. Đấy là ở
phía bên trên cánh cửa không có biển hiệu, chỉ có một ô cửa sổ dài hẹp, cao
khoảng nửa mét, rộng chừng ba mét. Thêm nữa, ổ khoá đã bị đẩy khỏi vị trí
để lộ ra lỗ hổng, và xuyên qua nó có thể thấy thay vì bề mặt láng bóng của
lớp kính, chỉ một mặt tường xù xì. Điều này có nghĩa cửa đã bị xây bít và cửa
xếp được kéo xuống trùm ra ngoài bức tường, thực hiện chức năng như cái
mặt nạ treo trên khuôn mặt. Nhưng cái thứ cửa hiệu vờ vĩnh này cất giấu cái
gì? Tôi nghĩ có thể nó là một phòng cho người ở, được chiếu sáng từ ô cửa
sổ phía trên cửa xếp. Thế làm sao người ta có thể đi vào phòng này? Cũng
có thể qua cánh cửa nhỏ kề bên, một cánh cửa bằng gỗ đánh véc-ni sáng
màu có ổ khoá và tay nắm bằng đồng sáng bóng. Qua cái vẽ sáng bóng khác
với cửa xếp cũ kỹ, xấu xí, đã bộc lộ sự chuyển đổi mới đây từ một cửa hiệu ra
một căn hộ. Tóm lại, đây chắc chắn là một căn hộ thường được sử dụng như
nơi để lẩn tránh, nơi chui rúc bí mật, một địa điểm tồi tàn và đầy tai tiếng kiểu
như "Garconnière". Nhưng đến đây sự giải thích của tôi bị dừng lại. Làm sao
bản thân tôi hiểu được tất cả điều này?
Vừa lúng túng, vừa miên man nghĩ ngợi, thậm chí còn lo lắng tôi quay
về nhà, đi thẳng vào phòng khách. Quyển Bách khoa toàn thư vẫn nằm ở chỗ
của nó trên giá sách. Tôi lôi nó ra, lật trang 561 và thấy ở đó có ba từ
Adularia, một tập hợp đủ loại các khoáng Octopa Fenspat có ở dãy núi cùng
tên Adula (Grions); Aduli, một hải cảng cổ xưa ở vương quốc Aksum; Adultery
(tiếng Latinh: Adulterium, xuất xứ từ Adulter...)
Việc ghi lại địa chỉ căn hộ ở Via Solferirno lên đầu cái trang đặc biệt ấy
ngay lập tức trở nên rõ ràng: Tôi định ám chỉ tới một trong ba từ trên. Bởi lẽ
chẳng có vấn đề gì trong những cái tôi đang muốn tìm hiểu liên quan đến
"Adularia, hay "Aduli", nên buộc phải tin rằng ý ám chỉ ấy liên quan đến
"Adultery" nghĩa là tội ngoại tình. Hơn nữa chính cái đặc điểm trá hình, bất
bình thường của căn hộ ở Via Solferino củng cố chắc thêm giả thuyết này.
Rõ ràng tôi đã muốn bằng cảch nào đó nhằm nhắc mình nhớ cái địa chỉ
ấy gắn liền với suy nghĩ về tội ngoại tình và tôi cũng muốn nhớ điều ấy mà
không để vợ biết. Nhưng tội ngoại tình của ai? Hình như câu trả lời sau đây
chẳng có gì đáng hồ nghi: tội của chính tôi. Tôi là một gã đi ngoại tình, chính
tôi, kẻ có ý phạm tội ngoại tình, chính tôi, kẻ đang kiếm tìm một căn hộ để
thuê hoặc mua làm địa điểm gặp gỡ người đàn bà mình yêu. Thế nhưng bằng
cách nào tôi lại chú ý đến địa chỉ ở Via Solferino? Và người đàn bà ấy là ai?
Đến chỗ này giả thuyết của tôi như xe sa lầy trên bãi sa mạc vô ký ức
thường lệ. Tôi miên man nghĩ ngợi và chẳng đi đến một kết luận nào cả. Kỷ
ức của tôi như một cánh cửa đóng kín dù có gõ có đập thế nào cũng không
mở. Cuối cùng trong tôi tràn ngập một nỗi khó chịu khủng khiếp, bởi lần này,
tôi đã đi quá xa trong việc quên lãng sự tồn tại của một người đàn bà, người
ấy chắc chắn phải có một tầm quan trọng nào đó trong đời. Đem vùi lấp nơi
ký ức như cất châu cất ngọc trong tận cùng hang sâu, tôi đã giấu nàng giỏi
đến nỗi không còn khả năng nào tìm thấy nữa. Trong tôi tất cả xung động như
thúc giục, như đòi hỏi bằng được sự hiện diện của nàng, như lớp phún thạch
giờ đây đã đông cứng, nó vẫn còn lưu giữ dấu vết một thân thể, quá khứ vén
lớp sương mù để lộ khuôn hình nàng trống rỗng, nhưng con người lại không
có ở đó.
Cứ thế tôi trải qua vài tiếng đồng hồ đớn đau, quằn quại giữa lòng
thương xót vì sự phản bội người mình không còn nhớ đã từng mong mỏi khắc
ghi mãi mãi, cùng nỗi khát khao về dáng hình một người đàn bà mà mình
không thể thành công khi lần theo dấu vết. Tôi ném mình xuống giường, mặc
cho bản thân chìm vào cảnh tranh tối tranh sáng của buổi nhá nhem. Thế rồi
tôi nghe thấy những âm thanh, tiếng cánh cửa đóng mở, tiếng bước chân, vợ
tôi lại bước vào nhà. Lát sau nàng xuất hiện bên ngưỡng cửa, tay cầm một
mẩu giấy. Nàng nói:
- Anh có tin vào những lá thư nặc danh không?
- Thư nặc danh nào?
- Một bức thư đê tiện nói em có những cuộc gặp gỡ với một người đàn
ông trong một căn hộ ở Via Solferino.
Tôi chềm dậy kêu lên:
- Không, lạy Chúa. Anh đã nhận được bức thư ấy nhưng không tin nó.
Sự thật là anh đã hoàn toàn quên việc nhận được nó.
- Tuy nhiên anh lại giữ nó.
- Tại sao, ở đâu?
- Ở một chỗ an toàn, dưới cái bình lớn trên sân hiên. Nhưng không may
cho anh, người làm vườn bê chiếc bình và hắn tìm được bức thư. Hắn liền
trao cho em.
- Thế tất cả việc đó xảy ra khi nào?
- Khoảng một tháng trước đây.
- Thế là em đã biết...
- Em biết tất cả. Em còn biết rằng anh sẽ đi và điều tra ở Via Solferino
như thực tế anh đã quyết định làm thế ngày hôm nay.
Hình như tôi đã chép vào cuốn vở ghi công việc phải làm, nhưng lại
thận trọng hoãn một tháng để có thời gian xoá sạch động cơ của nó trong ký
ức. Và tôi đã giấu bức thư ở một nơi, nơi đó gần như rõ ràng minh chứng là
tôi đã quên nó. Tôi cảm thấy lần này không gì có thể nghi ngờ, một cách vô
thức đã mong mỏi xoá sạch trí nhớ về toàn bộ câu chuyện tình ái này, và đã
gần như thành công. Tôi kể:
- Hãy tưởng tượng xem, anh đã quên mất bức thư đến độ hôm nay sau
lúc tới Via Solferino anh đã gần như cho rằng chính anh mới là kẻ có ý định
không chung thuỷ với em. Và anh đã có cảm giác phạm tội thậm chí còn tự
hỏi xem người đàn bà trong câu chuyện tình ái kia là ai.
- Vô lương tâm - Vợ tôi bảo.
- Hoàn toàn không có chuyện vô lương tâm - Tôi phản bác - Cũng
không có xấu có tốt. Nếu là cái gì đó, thì đấy là một lương tâm không mắc
míu.
NHỮNG TẠO VẬT CÓ TÍNH SINH TRƯỞNG
Một thời gian, mọi tạo vật có tính sinh trưởng cuốn hút tôi, hay nói chính
xác hơn, tôi bị ám ảnh bởi chúng. Tôi tin mình đã khám phá ra: tất cả tạo vật
trên cõi đời chia thành hai phạm trù lớn; một loại không vận động, không biến
đổi trừ phi có ai tác động, thay đổi chúng, loại kia trái lại có một khả năng, về
cơ bản là kỳ quặc, để tự mình làm mọi thứ kể cả sinh ra, kể cả trưởng thành,
thậm chí chết đi. Các kim loại không sinh trưởng, cũng như các thứ đá, hay
các vật thể làm từ đá hoặc kim loại; cây cỏ trái lại, lớn lên như muông thú và
con người. Và không chỉ chúng lớn lên, mà thông qua dinh dưỡng chúng còn
biến đổi bản thân dễ dàng sang nhau, cây cỏ thành muông thú, muông thú ra
cây cỏ, cỏ cây muông thú ra con người và con người thành cỏ cây muông
thú. Tôi hoàn toàn biết đấy là sự sống như người ta vẫn bảo thế, nhưng điều
ấy không làm thay đổi một thực tế: trong lúc chúng ta có thể yên tâm vì các
vật làm từ đá và kim loại không biến đổi, nên mối quan hệ chúng ta có với
chúng cũng không đổi theo; thì cái có thể xảy đến giữa chúng ta và cây cỏ,
chúng ta và muông thú, chúng ta và con người, có thể nói ít nhất là đáng âu
lo. Bạn hãy mua một gốc cây nhỏ, không gì quan trọng, và sau một thời gian
tán lá sẽ phủ kín ngôi nhà của bạn, nếu bạn không cẩn thận, nó thậm chí còn
bò vào tận trong phòng. Bạn hãy nuôi một chú chó nhỏ đáng yêu làm cảnh,
sau một năm đi xa bạn sẽ thấy một con lai to kềnh càng nhảy chồm lên bạn.
Bạn kết hôn, và...
Những suy tưởng như vậy xuất hiện trong tâm trí lần đầu tiên cách đây
vài buổi tối, lúc vợ tôi đang múc xúp ra đĩa cho tôi và năm đứa con. Đấy là
một động tác thành thông lệ, nàng đã thiết lập nó mười lăm năm nay, và
những đĩa sứ Trung Quốc in các vòng hoa điểm những bông nhỏ, những cái
thìa, dĩa bạch kim, bộ cốc không chân rẻ tiền vẫn không biến đổi từ khi chúng
tôi dùng chúng, cũng mười lăm năm trước đây, rồi chiếc đèn bằng đồng treo
phía trên bàn với những cái bóng, những thanh đỡ, rồi chính chiếc bàn tròn
bằng gỗ óc chó, chạm khắc giả kiểu thế kỷ XV chúng vẫn thế. Nhưng ngược
với những vật thể được chế tạo bằng các vật liệu không biến đổi, bền vững,
những vật thể vẫn y nguyên như bản thân chúng chừng mười lăm năm trước
đây, tôi phát hiện thấy một gia đình xa lạ với chính nó, cái gia đình mà trong
quá khứ đã tụ họp nhau hai lần trong ngày ở ngay căn phòng này. Phát hiện
này lao tới tôi như một cú sốc, như một gã mù bẩm sinh bỗng thành sáng
mắt, tự nhiên tôi nghĩ: "Tại sao, cái gì đã xảy đến? Ai là kẻ đã đổi vợ và đám
con của ta? Ai đã thay người đàn bà trẻ trung xinh xắn ta cưới bằng một mụ
có chồng béo phị, hình dung dị dạng và những đứa bé tóc xoăn của ta, bằng
đám người trưởng thành vô duyên này, đám người tóc tai mụn nhọt? Ai bầy
trò đùa khó chịu này với ta? Và ta có gì chung với sáu con người này?
Tôi cúi đầu trên đĩa xúp cùng những ý nghĩ như vậy, múc một thìa đưa
lên miệng và như thường lệ dùng môi húp đánh soạt gây một tiếng động nhẹ.
Nói thật, tiếng động ấy làm tôi rất khoái chí, và nếu không làm thế thì hình
như xúp chẳng ngon lành gì với tôi cả. Ngay tức thì vợ tôi càu nhàu như liếc
dao.
- Anh đừng có húp xúp từ thìa soàn soạt như thế. Đấy không chỉ là một
hành vi xấu, mà anh biết đấy, nó còn làm bọn trẻ khó chịu.
Tôi nhìn quanh xem trên nét mặt đám trẻ có đang ủng hộ tôi trước lời
nhận xét quá xấu xa, thêm nữa giọng nói còn thô lỗ ấy không. Nhưng không,
trái lại, Gina và Lavia giữ thái độ như những quí bà trẻ tuổi ghê tởm ra mặt
trước vẻ thô lỗ của cha chúng. Còn ba cậu con trai Giuliano mười bốn tuổi,
Luciano mười lăm. Massimiliano mười sáu, rõ ràng đang nhạo báng. Chúng
cười vẻ giễu cợt.
- Không, không mẹ ơi. Không một ai nói gì đâu. Chúng con rất thích cái
thứ tiếng động cha làm ra khi ăn. Xem này, chúng con cũng làm thế!
Và rồi chúng lại múc thìa xúp, húp đánh soạt rõ to nhại lại. Tôi bảo vợ:
- Đủ rồi. Tôi sẽ không tha thứ cho những lời xét nét cái tôi làm hoặc
không làm. Trước hết tôi sẽ không tha thứ khi bị những đứa trẻ chế nhạo do
lời xúi bẩy của cô.
Vợ tôi đáp lại, vẻ bình tĩnh của người tin rằng mình đang đúng:
- Đám trẻ sẽ không chế nhạo anh nếu anh có những cử chỉ đứng đắn
hơn
- Tôi làm cái tôi thích trong nhà của tôi.
- Không. Không một ai được làm cái hắn ta muốn. Tất cả chúng ta phải
vì người khác.
Tôi lại nhìn quanh. Hai ái nữ ngu xuẩn của tôi trông có vẻ khó chịu hơn
bao giờ hết. Còn mấy cậu con trai lại cười lên sằng sặc. Chúng nhại:
- Chúng con hiểu. Mỗi người phải làm cái mình thích.
Và một đứa trong bọn chúng đưa hai tay lên gãi đầu sồn sột, một đứa
khác ngoáy mũi, đứa thứ ba phô trương cường điệu xỉa răng. Vợ tôi nói:
- Anh thấy rồi đấy. Anh đã nhìn thấy cái gì sẽ xảy ra nếu mọi người đều
làm theo ý mình.
Tuy cáu kỉnh nhưng còn nén được, tôi tháo kính xuống, vừa giả đò
dùng khăn ăn lau đôi tròng mắt vừa chậm rãi dằn giọng:
- Mười năm về trước, một gia đình khác hẳn cũng đang ngồi quanh
chiếc bàn này, người cha thật hạnh phúc vì được yêu thương, kính trọng,
người mẹ hiền thục, dịu dàng, những đứa con đầy tình cảm. Tất cả đã đổi
khác. Rõ ràng có một cái gì đó đã xảy ra.
Massimiliano, đứa duy nhất trong ba đứa đã tập tọng cạo mặt cho dù
nó mới có một ít lông xấu xí rải rác trên đôi gò má và môi trên, cắt ngang lời:
- Con sẽ nói cho cha hay cái gì đã xảy ra, chúng con không còn là trẻ
con nữa nên phải biết nghĩ về bản thân. Đấy là cái đã xảy ra.
Tôi thầm so sánh trong đầu Massimiliano của mười năm trước với
chính nó ngày hôm nay, rồi quả quyết:
- Không. Không phải chúng mày nghĩ đến bản thân vì chúng mày không
còn là trẻ con nữa. Chúng mày nghĩ đến bản thân bởi vì chúng mày không
còn như trước.
- Vâng, đúng vậy. Chúng con không còn như trước bởi chúng con
không còn là những đứa trẻ.
Tôi nhìn vợ đầy thù hận, đưa tay chỉ thẳng và hét lên như sấm:
- Cái người đanh đá này là ai? Cái cối xay phục phịch, cái giống hà mã
này là ai? Tôi không biết cô. Người đàn bà tôi cưới hoàn toàn khác.
Phải ghi nhận là tôi không có ý xúc phạm vợ, tôi chỉ muốn nói cho cô ta
biết sự thật. Và sự thật ấy là vào lúc này đây tôi có cảm giác cô ta đã bị thay
thế bằng người khác. Nhưng lời nói của tôi không được hiểu. Vợ tôi nhìn tôi
một lát đầy sửng sốt rồi hai tay bưng mặt, cô ta khóc nức lên. Hai đứa con gái
lao đến bên mẹ an ủi, mấy cậu con trai phản ứng mạnh mẽ đến mức tôi phát
sợ. Thế rồi Massimiliano, đứa làm sôi tiết nhất trong bọn, hét lên:
- Thế còn cha, cha tưởng mình không đổi khác à? Có bao giờ cha nhìn
vào gương không?
Tôi bối rối khi nhưng lý lẽ của mình thành gậy ông đập lưng ông, lắp
bắp nói:
- Tao cấm mày không được ăn nói như thế với cha mày.
- Cha cấm hay không, con không quan tâm. Cha đã thực lòng nói mẹ
không còn như trước đây nữa, thế còn cha thì sao?
Bỗng nhiên tôi cảm thấy kinh hoàng:
- Thôi đủ rồi, đủ rồi - Tôi hét lên - tao sẽ đi và không quay về chừng nào
chúng mày chưa im lặng.
Ở phòng ngoài, lúc đang mặc áo khoác, tôi cảm thấy buộc phải nghe
theo cái thứ lời khuyên chẳng lấy gì làm thân ái của Massimiliano. Tôi liếc
nhanh vào cái gương đặt phía trên chiếc bàn trang điểm. Hai cột chạm hình
thiếu nữ bằng gỗ mun bịt đồng đỡ tấm gương, vẫn như mười lăm năm trước
đây, đen sì, tanh mùi kim loại và buồn thảm như đưa đám. Thế nhưng bộ mặt
tôi trong tấm gương lại biến đổi một cách đau đớn, nó vàng vọt, xạm lại vì
bệnh mật với hai đường nhăn vừa sâu vừa dài như rãnh cày trên đôi gò má
khô héo và cả một đám tóc xám rối tung bao quanh trán. Tôi lắc đầu giận dữ
chạy lao ra vườn, rồi từ đó đi xuống phố.
Tôi sống trong một ngôi nhà nhỏ cũ kỹ gần Sant Agnese. Đêm tối ấm
áp và ẩm ướt, thời tiết lãng mạn với gió xi-rô-cô như thường lệ. Tôi tới ngồi
trong một khu vườn nhỏ ở Via Nomentana để bình tĩnh lại và suy nghĩ được
thư thái. Từ chiếc ghế dài có thể nhìn thấy bên phía vỉa hè đối diện một cánh
cổng sắt lớn màu đen giữa hai cột cao màu trắng của biệt thự Torlonia. Tất
thảy những thứ ấy được chế tạo từ đá và kim loại, không thay đổi, bền vững
ngày hôm nay cũng như ngày hôm qua, ngược lại hẳn với vợ tôi, các con tôi
và cả bản thân tôi nữa. Tôi nghĩ một đặc điểm khác của những tạo vật có tính
sinh trưởng và phát triển là khả năng cảm nhận đau đớn, và tôi khao khát
được làm một tảng đá xây trong cái cột thay vì làn; một con người bằng
xương bằng thịt mang khả năng hứng chịu và phiêu lưu qua những chuyển
dịch biến hình không tên gọi, không thể nhận biết. Đúng lúc ấy tôi nghe thấy
một ai đó nói:
- Tại sao thế nhỉ, chúng ta đã từng biết nhau trước đây. Tôi quay lại và
thấy ngay bên cạnh một người ăn xin đã đứng tuổi. Quả thực tôi có biết người
này, nhưng không phải “biết” theo kiểu ông ta nói.
Tôi đã hoàn toàn nhận ra cái thân hình rách rưới của ông ta, béo tốt và
chuyên đi ăn xin một cách không công khai vào những dịp khác trong những
khu vườn cũng giống thế này sau lúc từ cơ quan về. Thường thường tôi né
tránh ông ta, cái kiểu tự hạ mình ấy khiến tôi khó chịu. Nhưng lần này tôi cảm
thấy thương hại cho ông ta, dù tôi nhận ra cái lòng thương xót ấy chỉ là vì bản
thân mình thôi, mình cũng giống ông ta, đứng tuổi, tóc xám bạc. Tôi nói:
- Vâng. Đấy là sự thật, nhưng ở đâu nhỉ?
Ông ta ngạc nhiên vì kiểu chào hỏi không như thường lệ
- Ở đâu ư? - Ông ta lắp bắp - tôi không biết, chắc ở đâu đó.
- Trong một kiếp sống khác lần ấy tôi trẻ trung, ông cũng trẻ trung và ai
mà biết được chúng ta làm cái gì cũng như chúng ta là ai. Trong kiếp này, ở
đây chúng ta không còn trẻ nữa và ông là một người ăn xin, còn tôi, một luật
sư. Chúng ta không biết về nhau. Đây là một cái gì dành cho ông. Xin tạm
biệt.
- Tôi không biết ông đang nói về cái gì, tuy nhiên cũng xin cảm ơn ông -
ông ta hét lên lúc tôi đã bỏ đi.
Tôi về nhà và đi vào khu vườn. Qua ánh sáng mờ nhạt của ngọn đèn
trước cổng tôi thấy mờ mờ những đường nét kỳ quái của vợ tôi đang đứng
ngay trước bức tượng đá cẩm thạch màu trắng tạc một nữ thần sông hay
thần núi khoả thân. Bức tượng đứng ở giữa bể nước, trên đỉnh hòn non bộ
mọc đầy những cây dương xỉ tóc tố nữ. Không nghi ngờ gì nữa, vợ tôi đang
nóng lòng đợi tôi về nhà. Tôi nghĩ bụng, trong kiếp sống khác, tất nhiên sau
một cuộc cãi vã như thế chúng ta nên chia tay, nhưng trong kiếp sống này,
giữa đám cây cối này, đám cây mà mười lăm năm trước đây chỉ là vài cái bụi
nhỏ, ngay trước bức tượng này, bức tượng không hề biến đổi, chẳng có gì
cho chúng ta làm ngoài việc làm lành.
Và quả là thế. Lát sau, lúc chúng tôi cùng nhau ngồi bên thành bể ngắm
pho tượng màu trắng nổi bật trên nền màu đen của nước, tôi không thể không
thốt ra những suy nghĩ của mình:
- Ôi! Làm người mới phiền muộn đau đớn làm sao, sinh ra, lớn lên, chịu
đựng rồi chết. Anh chỉ muốn mình như đá cẩm thạch, giống bức tượng này.
Vợ tôi đáp, dằn dỗi:
- Đừng có nghĩ đến việc nói những điều kỳ quặc nữa. Anh đã hoàn toàn
có một trái tim bằng đá rồi còn gì. Mà trái tim mới là đáng kể chứ!
CON QUÁI VẬT
Trả lời điện thoại xong, tôi quay về phòng làm việc với ý định đọc thêm
chừng mười phút nữa. Sau đó theo đúng thông lệ, tôi sẽ ngủ khoảng nửa giờ,
rồi đến cơ quan làm việc. Thế nhưng lúc quay lại tìm cuốn sách mà tôi còn
nhớ như in mình vẫn cầm trên tay khi vợ gọi ra nghe điện thoại, lại chẳng thấy
đâu cả. Đầu tiên tôi tìm ở những chỗ dễ thấy như trên ghế xô-pha giữa đống
báo và tạp chí, trên bàn viết, trên ghế, sau đó lục lọi giá sách, phía trên các
cuốn sách, nhưng vẫn chẳng thấy tăm hơi. Tôi bắt đầu việc tìm kiếm một
cách bình tĩnh và thoải mái, nhưng tiếp sau tôi trở nên cáu kỉnh, quăng giấy tờ
sách vở lung tung, gần như chẳng biết mình đang làm cái gì nữa. Cuối cùng
tôi thét lên:
- Sách của tôi đâu?
Nghe tiếng hét, vợ tôi liền bước vào, cứ như thể nàng vẫn nấp sau
cánh cửa. Nàng hỏi có chuyện gì xảy ra, rồi vừa im lặng, vừa mỉm cười với
những động tác đầy tự tin, nhẹ nhàng như một thiên thần nhìn thấu mọi sự,
nàng trèo lên ghế, lôi quyển sách từ nơi nó đang nằm trên đỉnh giá sách, vượt
ngoài tầm tay, vẫn không nói không rằng, nàng bỏ đi để lại tôi đứng chết lặng
vì kinh ngạc, sách trong tay, mắt ngó trân trân vào cái giá. Làm thế nào tôi lại
để được nó lên tận đấy nhỉ, mà lại còn không biết gì về việc đó nữa chứ? "Ta
làm mọi thứ mà chẳng biết đang làm cái gì"- Tôi bối rối tự nhủ. Thế rồi tôi nằm
trên ghế xô-pha và chẳng mấy chốc thiếp đi.
Tôi mơ một giấc mơ, tuy nhiên lại không phải là giấc mơ, bởi nó hiện ra
không bằng những hình ảnh mà bằng một cảm giác, hoặc bởi nó không gắn
với ký ức. Tôi biết chắc chắn mình đã phạm một tội ác, một tội ác kinh hoàng,
hèn hạ, ô nhục, không thể cứu chuộc, và tôi cũng biết rằng không một ai biết
được điều ấy. Tôi có một cảm giác thống khổ, sợ hãi, và hơn tất cả một mặc
cảm phạm tội tồi tệ. Từ mặc cảm phạm tội này, cho dù hoàn toàn không xác
định được trong bối cảnh vật chất, tội lỗi ấy hiện lên mang một nét hiện thực
rõ ràng và đay nghiến, không còn nghi ngờ gì nữa, mình đã mắc một tội
khủng khiếp. Một dáng vẻ kỳ quặc khác luôn đeo bám dai dắng với mặc cảm
phạm tội là cảm giác vô tội của chính tôi. Nó tức là cảm giác vô tội ấy - nói
rằng, cho dù là tội ác, tôi vẫn là Massimo, người không thể làm bất cứ điều gì
sai trái, và cái tội ác ấy, có thể- nói chỉ là sơ suất, lầm lỡ. Cảm giác vô tội
cũng giải thích tại sao tôi lại không biết một chút gì về tội ác ấy cho dù vẫn tin
chắc mình đã phạm, và rõ ràng tội ấy do tôi gây ra trong trạng thái vô ý thức,
như một kẻ nào đó hành động dưới ánh hưởng của rượu và ma tuý.
Như tôi đã kể, tội ác, hay ký ức đau đớn về tội ác không hiện lên trong
giấc mơ bằng bất cứ loại hình ảnh nào ngoại trừ một cuộc chạy đua đến đứt
hơi qua một vùng đất tăm tối, nơi chẳng có gì ngoài các hình bóng, những
hiện diện lờ mờ vô hình dạng và các ảo tượng đêm đen. Tuy nhiên giấc mơ
ấy không hề diễn ra trong im lặng, một tiếng động đinh tai nhức óc như sấm
rền liên tục giống đoàn tàu hỏa chạy qua đường hầm gây cảm giác đang lao
thẳng qua bóng tối. Ở một điểm nào đó tiếng động ấy tăng lên, như âm thanh
của đoàn tàu sắp ra cửa đường hầm khiến tôi tỉnh giấc.
Ngay lập tức tôi nghĩ về giấc mơ, hay đúng hơn là cơn ác mộng bắt
nguồn từ một thứ gì đó mình đã ăn. Và quả thực tôi nhớ lại bữa trưa có món
thịt lợn rừng tôi đã ăn quá nhiều. Tôi trở dậy đi vào nhà tắm rửa chân tay mặt
mũi rồi ra khỏi nhà, không nói gì với vợ bởi giờ này nàng vẫn đang nghỉ trưa.
Con phố nơi tôi sống ngắn và yên tĩnh. Tất cả mọi thứ xảy ra ở đây,
một con chó đi lang thang, một người bán sữa đang bấm chuông trước một
ngôi nhà, hai đứa trẻ đang chơi đùa, tất cả đều rõ ràng rành mạch. Lúc bước
ra ngoài, ngay lập tức tôi thấy hai người cảnh binh đang tiến đến. Tức thì hơi
thở như ngừng lại, cặp mặt tối sầm, đầu gối khuỵu xuống. Chẳng còn nghi
ngờ gì nữa, cảnh sát đang đến bắt vì tội ác tôi đã phạm, tội ác ấy không tên,
không hình hài cụ thể, tuy nhiên lại rất thực, bộc lộ chính xác một bản chất ô
nhục, đáng kinh tởm, hèn hạ.
Đứng như hoá đá trước bậu cửa, tôi chờ đợi những người cảnh binh.
Hai người này tuổi tác chênh lệch nhau, một người trẻ, gầy, ngăm đen, người
kia già hơn, lùn và có phần hơi mập. Người bước đến sau nói:
- Ngài là chủ nhân chiếc xe này?
- Vâng.
- Ngài phạm luật. Ngài đỗ xe chỗ đường vòng.
Sau đó mọi điều diễn ra đúng như những công thức thường lệ. Nhưng
lúc này mặc cảm phạm tội lại dấy lên và không rời tôi nửa bước. Nó hiện thực
như vết thương sau một cú đánh, nó vừa đau đớn vừa liên tục gợi lại nguyên
nhân của nỗi đau. Ngay lúc đó một sự khẳng định kỳ lạ gắn vào mặc cảm
phạm tội, đấy là tôi đã gây tội ác đúng ba ngày trước đây, không sớm hơn
hay muộn hơn dù một ngày. Chỉ cần thêm một cố gắng nhỏ của ký ức, tôi
kinh hoàng nghĩ như thế lúc chui vào ô tô nổ máy, một cố gắng nhỏ thôi là tội
ác sẽ ngay lập tức hiện ra trước mắt cùng những hình ảnh chính xác của bản
thân, của nạn nhân, nơi xảy ra, các hành động, bạo lực và cái chết.
Tuy nhiên tôi lại không thể thực hiện cái cố gắng nhỏ nhoi ấy. Tội ác ấy,
có thể nói đã nằm ngay trên đỉnh của ký ức, như người ta thường bảo một từ
trên đầu lưỡi, tuy nhiên khó nhọc lôi nó ra, nó chẳng ra. Hơn nữa, cố gắng ấy
bị nỗi sợ hãi làm vô hiệu, quả tình tôi khao khát muốn biết tội ác ấy là gì,
nhưng cùng lúc lại sợ phải biết nó. Và nếu một khi thực sự biết nó, cái gì sẽ
xảy đến cho cuộc sống của tôi?
Chỗ tôi làm việc yên tĩnh, thích hợp cho việc suy tư. Đấy là căn phòng
nằm phía cuối một hành lang trong xưởng phim. Công việc của tôi ngày ngày
liên tục đọc các kịch bản phim đánh máy và gửi chúng cho nhà sản xuất. Từ
bàn làm việc, nhìn xuyên qua khung cửa sổ, không treo rèm là cảnh thôn quê
xanh nhờ, không cây, một vùng đất có những dãy đồi trọc, xanh xám xếp
thành hàng kế tiếp nhau gọn ghẽ. Tôi gác điện thoại, khoá cửa, rồi ngồi xuống
ghế đưa mắt ngó về phía cửa sổ, bắt đầu dồn sức suy nghĩ. Tôi chắc chắn
đây không phải là trường hợp một giấc mơ được hình thành để bộc lộ nỗi đau
đớn cho một tội ác, có thể nói mang bản chất chung chung, xã hội hay tổ
tông. Một tội ác hiển nhiên, chính tôi là kẻ đã phạm nó, phạm một cách cụ thể,
không phải biểu tượng, là một sự thật khách quan chứ không phải trong cảm
giác ẩn dụ. Thế nhưng ở đâu, khi nào và thế nào?
Trước tiên tôi bới đống báo cũ, đống báo tôi có thói quen giữ lại xem
những bản tin của cảnh sát từ ba hôm trước. Quả là có hai vụ tội ác, nhưng
vụ thứ nhất không có tính ô nhục như tôi cảm thấy ở tội của tôi, vụ thứ hai
người ta đã biết chắc tội phạm là ai. Vậy là chẳng còn lại chút gì, phải bỏ một
phút ra xây dựng lại cái ngày cách đây ba hôm thôi. Tôi châm một điếu thuốc,
lấy giấy, bút chì chép lại từng giờ từ tám giờ sáng trở dậy cho đến nửa đêm đi
ngủ, những việc đã làm. Tôi phát hiện, ít nhất là thế, một chi tiết khác thường,
đấy là từ lúc hai đến năm giờ chiều có một lỗ hổng. Trong ba tiếng đồng hồ
bỏ trống ấy bất cứ cái gì cũng đều có thể xảy ra, và chi tiết này cho thấy tôi đã
không có được một sự hồi tưởng mong manh nhất cho việc đã dùng ba giờ
đó như thế nào.
Thế là dù sao đã có một yếu tố để có thể tạm chấp nhận được việc giả
thuyết rằng tôi đã phạm tội ác đúng trong ba cái giờ đó. Khoảng thời gian ấy,
nếu không ngủ và thời tiết đẹp, tôi hay lái xe đi dạo ngay sau bữa trưa ra
vùng ngoại ô gần thành phố. Tôi thích vùng thôn quê nằm giáp thị thành này,
nó đầy vẻ khô cằn, xám nhợt, bạc màu, không hẳn là không có những thung
lũng, những bụi cây, hang động, đường hẻm hay khe nứt uốn lượn. Tôi thích
lang thang qua những nơi hoang vu không bóng người để luôn luôn được
nhìn ngắm những ngôi nhà trong thành phố phía xa xa, ngắm một đường rõ
nét nơi chân trời. Tuy nhiên những cuộc đi như vậy không phải thường
xuyên, do vậy tôi hoàn toàn không chắc mình có ở vùng đó ba ngày trước đây
không. Nếu tôi có đến đó, thì không nghi ngờ gì nữa, tôi đã phạm tội ở một
trong ba thung lũng mọc đầy những bụi tầm xuân, ở nơi ấy có thể thường
xuyên gặp những cái mồm đang ngáp đen ngòm của khu mỏ đá bỏ hoang
hay núi lửa đã tắt. Nhưng tội ác như thế nào nhỉ? Bằng việc đưa ra địa điểm,
thời gian và tính chất đặc biệt của mặc cảm phạm tội, với tôi dường như rõ
ràng đấy phải là một tội lỗi thuộc loại bất vụ lợi, tóm lại nó thảng hoặc, vu vơ,
nó - một tội lỗi thuần tính ác độc, một tội xâm phạm tình dục trong thực tế.
Cũng chẳng biết thế nào nữa, có lẽ tôi đã tấn công, đã hãm hiếp, rồi giết chết
một người đàn bà, có thể là một thiếu nữ, rồi vùi xác cô ta ở một trong những
cái hang ấy, rồi chuồn mất... Cũng chẳng biết ra sao nữa...
Đến đây việc điều tra đi vào ngõ cụt. Cái tội ác mà tôi luôn lưu giữ tính
chất khủng khiếp và kinh hoàng trong ký ức vẫn không hề có tên mặc dù đã
hết sức cố gắng trong buổi chiều ấy tôi cũng không thể tìm ra tên cho nó.
Cuối cùng, với tôi hình như việc không thể gọi tên tội lỗi một cách chính xác
còn kinh hoàng hơn việc đã chính thức phạm tội. Đêm ập xuống. Tôi đem đổ
cái gạt tàn đầy ngập đầu mẩu thuốc lá vào thùng rác, mở cửa sổ cho thoáng
căn phòng mù mịt khói thuốc, rồi ra về.
Chân ướt chân ráo đến nhà, thậm chí ngay từ ngoài tiền sảnh, tôi đã
nghe thấy giọng nói của vợ tôi nơi phòng khách gào lên giận dữ. Giọng nói
của nàng đặc biệt như giọng người ta thường nói với một đứa trẻ, hoặc một
ai không hiểu, hoặc một ai mà người ta biết là không hiểu:
- Quái vật! Quái vật! Quái vật! Mày là con quái vật. Đừng có lại gần tao,
mày là giống yêu tinh. Tao không bao giờ muốn nhìn thấy mày nữa, quái vật.
Bỗng nhiên trong đầu hiện ra ý nghĩ nàng đang quát tôi, quát qua cánh
cửa vì biết tôi đã về nhà. Một lần nữa, giống như khi nhìn thấy mấy viên cảnh
binh, tôi lại có một cảm giác kinh hoàng xuất phát từ cơn mất tinh thần. Thực
tế tôi là đồ quái vật, chỉ một con quái vật mới có thể phạm một tội như tội của
tôi. Tôi đẩy cửa bước vào, lòng rối như canh hẹ.
Vợ tôi đang đứng giữa phòng quát chú mèo Siamese nhỏ bé, con vật
hoàn toàn không ý thức được cơn giận dữ của nàng, vẫn đang cọ mình vào
chân nàng, đuôi dựng ngược, mồm meo meo và hướng đôi mắt xanh đáng
yêu về phía nàng.
- Em sẽ không nuôi con mèo này trong nhà nữa. Nó làm em kinh hoàng
- Vợ tôi gào lên.
- Nhưng tại sao?
- Ba con mèo con mới đẻ của nó, anh có biết nó đã làm gì không? Nó
ăn thịt tất, cả ba. Thật là kinh hoàng, em phải nói cho anh biết. Nó chỉ chừa lại
móng của một con và đuôi của một con khác. Anh hãy đi vào bếp mà xem.
Thế mà giờ đây lại cứ như không, nó kêu gừ gừ và đến cọ mình vào em, nói
chuyện với em. Đồ quái vật, quái vật, quái vật...
Giọng nói của vợ tôi không đùa cợt chút nào, nàng kinh hoàng thực sự.
Tôi bảo:
- Đừng cáu kỉnh như vậy. Loài mèo vẫn làm như thế. Hơn nữa em
không thể bực mình với một con vật, nó không biết nó đang làm cái gì đâu.
- Không biết, tất nhiên là thế. Nhưng ít nhất giá mà nó nhớ rằng nó đã
ăn thịt con nó, giá mà ít nhất nó trông chờ con nó, giá mà nó khóc...
Tôi nói tất cả những gì có thể để an ủi và thuyết phục nàng. Sau đó tôi
đi vào phòng làm việc và tự nhốt mình lại. Rồi tôi nhớ đến cuốn sách mình đã
để trên chốc giá sách vài tiếng trước đây mà không ý thức gì về việc đó. Và
tôi tin tưởng hơn bao giờ hết về cái tội lỗi, nếu thực sự đã phạm nó, nó cũng
xảy ra trong một tình trạng lơ đễnh tương tự. Tôi nghĩ, hơn nữa chính con
mèo đã ăn thịt những đứa con của nó mà cũng không nhớ gì vê việc ây. Do
vậy, hành động theo cách máy móc, không ý thức gì về cái người ta đang làm
là có thể xảy ra. Trở thành một con quái vật lúc nào không biết cũng có thể
xảy ra. Vì thế một giấc mơ có là cần thiết hay không để khám phá ra sự thật
thật có, khám phá ra rằng ý thức không thể không tồn tại?
HÒA NHỊP
Đọc hết mẩu tin thông báo cho thuê một căn hộ đủ tiện nghi năm
buồng, trên tầng bốn toà nhà số 34, Via dei Villini, tôi thật băn khoăn. Tôi rời
khách sạn lấy ô tô lái đến đó. Sau mười phút, tôi đã ngoặt khỏi Via
Nomentana đến Via dei Villini. Những toà nhà ở đây có phần cổ kính với dẫy
cổng sắt chằng chịt dây leo, đôi cây trúc đào trổ bông đỏ, bông trắng. Tôi
dừng lại trước ngôi nhà đã từng sống với vợ suốt ba năm, ra khỏi xe đi tới
cánh cổng nằm mãi phía bên kia khu vườn hẹp như hành lang, bấm chuông
tầng bốn. Sau ít phút, cánh cổng tự mở với tiếng vo vo quen thuộc. Tôi tiến
vào tiền sảnh đã cũ, sàn lát ô đen ô trắng, cúi đầu bám vào lan can cầu thang
đi lên.
Tầng một, tầng hai, tầng ba, đến chiếu nghỉ thứ hai sau đầu cầu thang
thứ ba, tôi ngước mắt nhìn và thấy đôi bàn chân một phụ nữ đang đứng đợi ở
bậc trên cùng. Đôi bàn chân to, dài, thô thô với vẻ vui mừng khó diễn tả. Tiếp
tục đi lên, tôi mào đầu:
- Đây có phải căn hộ định cho thuê?
Tôi lên tới bậc trên cùng, chúng tôi đứng đối diện nhau. Chúng tôi nhìn
nhau. Nàng vẫn như xưa, đôi mắt sáng một màu xanh lá cây non, khuôn mặt
trắng xương xương, cặp môi thật đỏ dưới đôi sóng tóc vàng óng chải bồng
mềm mại. Nàng ngập ngừng một lát như để tính xem có nên chấp nhận cùng
chơi cái trò tôi đang bày ra hay không; thế rồi nàng đáp "Vâng"!
- Xin tự giới thiệu tôi là Lorini
- Tôi là Dora
- Dora gì?
- Dora Moretti
Đấy là tên hồi con gái của nàng. Nàng dẫn tôi vào nhà, khéo xoay
người trên đôi chân dài, rắn chắc, cánh tay trắng trẻo đầy đặn lướt nhanh.
- Sảnh vào!
- Đồ đạc trang trí thật tuyệt! Có phải chính bà đã mua sắm chúng?
- Không! Không! Tôi chẳng biết gì. Chính chồng tôi đã mua chúng.
- Bà đã kết hôn?
- Đã ly hôn!
Nàng đưa tôi xuống hành lang. Áo khoác nàng xanh lá cây nhạt không
tay, mềm và nhiều nếp gấp, váy nàng ngắn, xam xám, vận sát người. Nàng
mở một cánh cửa đứng né sang cho tôi vào trước.
- Buồng ngủ!
Tôi đã đi khắp các hiệu đồ cổ mua sắm đồ đạc cho căn phòng này, một
cái giường sắt uốn lối Tây Ban Nha với ghế tựa, tủ đa ngăn, hòm gỗ cùng
kiểu và rèm đò treo cửa sổ. Tôi nhận thấy vẻ lạnh lẽo tràn ngập ở đây, chăn
đệm bị quấn lại.
- Bà không ngủ ở đây?
- Không. Tôi không tài nào chịu đựng nổi cái đống đồng nát này. Từ khi
không còn cô giúp việc, tôi ngủ ở buồng cô ta...
Tôi tới mở cửa sổ nhìn ra ngoài như thói quen hồi còn sống ở đây,
ngắm một cây mộc lan to trong vườn hàng xóm. Nàng bước tới đứng cạnh
tôi, tay chúng tôi khẽ chạm vào nhau. Nàng nói:
- Một cái vườn thật dễ thương phải không? Nó không phải của tôi
nhưng nó vẫn như xưa.
Bất chợt tôi hỏi:
- Vì sao bà chia tay với chồng, bà Moretti?
Nàng nhìn tôi, ánh mắt lấp lánh vui vẻ:
- Ngài muốn biết nhiều quá đấy. Tại sao ngài quan tâm thế?
- À, chỉ tò mò thôi!
- Được. Nếu ngài thực lòng muốn biết thì đó là tính tình không hoà hợp.
Nàng thốt ra một câu thật khuôn mẫu với giọng tự mãn khiến tôi không
khỏi mỉm cười.
- Chính xác hơn là gì? - Tôi gặng
- Ý tôi muốn nói tôi và chồng quá khác biệt. Tôi dù sao cũng là cô gái
con nhà lao động, còn ông ấy sinh ra trong một gia đình tất cả đều là tiến sĩ
hoặc giáo sư. Tôi ít học, còn ông ấy đọc nhiều. Tôi hâm mộ vũ hội, thể thao,
cuộc sống ngoài trời cùng tất cả những gì vui vẻ, sống động, còn ông ấy trầm
tư, chăm học, suốt ngày ở nhà, xa lánh mọi người và hay hờn dỗi.
- Vâng. Tôi hiểu, nhưng đôi khi chính bởi người ta khác nhau mà...
- Còn nữa...
- Cái gì vậy
- Tôi mong đợi dù một lần thôi, khi chúng tôi đã thành hôn, ông ấy sẽ
dạy tôi, sẽ chỉ bảo cho tôi tất cả những điều hay điều tốt ông ấy được học.
Nhưng trái lại, ông ấy chỉ muốn tôi là người đầu bếp, người giữ nhà, người
quản gia. Vì thế cuối cùng chúng tôi không thể ở cùng nhau được nữa.
- Tôi hiểu. Việc đó kết thúc thế nào?
- Thật tồi tệ!
Nàng rời cửa sổ đi về phía cửa, nói thêm:
- Chồng tôi không chỉ muốn tôi là người giúp việc mà ông ấy còn tin
chắc tôi chỉ làm được tốt mỗi việc đó. Ngài có biết câu ông ta nói với tôi suốt
ngày, như một thứ điệp khúc, là gì không? - Là gì?
- Mụ ngốc! Em là một mụ ngốc, em xinh đẹp như sao ngốc nghếch, ôi
mụ ngốc mà anh yêu anh sùng bái.
- Chồng bà yêu bà lắm, phải không?
- Ông ấy yêu tôi, tôi không nói ông ta không. Nhưng ngài thử nghe mình
được gọi là ngốc từ sáng tới tối xem...
Nàng vung tay làm một cử chỉ hết sức thô kệch như để diễn tả nỗi quá
quắt chịu không nổi. Thế rồi nàng nhìn vào một căn buồng khác nói:
- Phòng làm việc của chồng tôi.
Tôi nhìn theo:
- Ôi! Núi sách! Tại sao chồng bà không mang chúng đi?
- Tôi không biết. Khi ra đi ông ấy nói chẳng cần bất cứ cái gì, đồ đạc
cũng như sách vở, ông ấy để lại cho tôi mọi thứ. Ông ấy còn nói từ nay sẽ ở
khách sạn, không sách, không đồ đạc.
- Chồng bà làm gì?
- Ông ấy viết cho các báo
- Ông ta là nhà báo?
- Không. Không phải nhà báo mà là nhà phê bình. Ông ấy viết phê bình
cho báo.
- Thế bà, bà có đọc các bài đó không?
- Không. Tôi không đọc, ông ấy không muốn thế. Ông ta bảo tôi ngốc,
không hiểu được đâu. Tất cả việc tôi làm là cắt chúng ra dán vào an - bom khi
chúng được đăng.
- Chồng bà đọc nhiều lắm phải không?
- Nhiều ư? Hơn thế nhiều! Ông ấy thường ngồi trên cái ghế bành gần
cửa sổ kia và đọc cả ngày. Ông ấy còn đọc ngay trên giường, sách một bên,
tôi một bên.
- Chồng bà bao tuổi?
- Không già, mới ba sáu, nhưng ông ta như chín mươi. Ngài có biết ông
ta đã nói gi khi tôi tỏ một chút âu yếm không?
- Ông ta nói gì?
- Dừng ngay cái thói vớ vẩn.
Nàng đóng cửa lại và mở một phòng kế bên:
- Phòng ăn.
Tôi đã xếp đặt phòng này theo kiểu Prô - van -xơ. Và cũng như buồng
ngủ, tôi thấy nó hoang lạnh.
- Bà không dùng bữa ở đây?
- Không. Tất tật cái thứ tăm tối này khiến tôi phiền muộn. Tôi ăn trong
bếp. Vả lại cái phòng này gợi tôi nhớ lại lần đổ vỡ.
- Sao?
Nàng nhìn quanh, im lặng một lát rồi chậm rãi:
- Thế này. Tôi đã nói với ngài chúng tôi không thuê đầu bếp, chỉ có
người ở làm công theo giờ. Tôi làm đầu bếp. Tôi nấu nướng khá, phải tự thừa
nhận thế, và ông ấy cũng bảo tôi nên làm việc bếp núc. Bữa đó, sáng thứ
sáu, tôi nấu một trong những món sở trường của mình, món xúp cá alla -
livornese. Chồng tôi ngồi kia, chỗ đầu bàn, và trong lúc ăn ông ta vẫn tiếp tục
đọc một cuốn sách kê vào cái cốc. Có một lúc ông ấy nói trong khi vẫn cắm
cúi đọc, chẳng thèm ngẩng đầu lên. "Dora! Món xúp cá này tuyệt thật!". Thế
rồi tôi cũng chẳng biết cái gì diễn ra, hai tay tôi nắm lấy tấm khăn trải bàn hất
tung xúp ca vào mặt ông ấy.
- Thật thế sao?
- Vâng!
- Sau đó?
- Sau đó chúng tôi thanh minh vài lời nhưng sự thật đã mất hút. Tôi nói
với ông ấy rằng tôi không muốn sống cùng nữa, dù trong điều kiện nào, rằng
tôi sẽ về bên ngoại. Đến đây, ông ấy xin tôi cứ ở lại cùng với đồ đạc, sách vở
và tất cả mọi thứ. Nói rồi ông ta quơ ít đồ nhét vào va li đi thẳng đến khách
sạn.
- Từ đó bà có gặp lại ông nhà không?
- Không. Hơn năm rồi tôi chưa nhìn thấy ông ấy. Đôi khi tôi tự hỏi
chẳng biết ông ta có thay đổi hay vẫn chứng nào tật ấy.
- Bà nghĩ sao?
- Tôi cho rằng ông ấy vẫn thế, khó mà thay đổi được
- Thế nếu ông ấy đã khác trước, bà có thuận lòng không?
- Ôi! Ai mà biết được
Nàng đóng cửa bếp lại, đi tới cuối hành lang mở một cánh cửa nhỏ
khác.
- Buồng cho người giúp việc. Tôi ngủ ở đây.
Căn buồng này thật bé, bé đến nỗi cái giường choán gần hết chỗ. Một
cái váy ngủ vải mút-xơ-lin màu thanh thiên lấp ló dưới gối, một đôi dép lê đặt
trên tấm thảm cạnh giường, một khăn tắm, một đôi tất mới giặt vắt trên ghế.
Chợt nàng làm một động tác khó ngờ, nằm ngửa người trên giường, hai tay
kê dưới gáy, một chút lả lơi ánh lên trên cặp mắt xanh biếc:
- Tôi có thể hỏi một câu không, ông Lorini?
- Mời bà.
- Ông đã kết hôn chưa?
- Tôi đã ly hôn, thưa bà.
- Thế cũng tốt. Nếu ông định thuê căn hộ này, tôi có một đề nghị.
- Thế nào?
- Ông để lại cho tôi căn buồng nhỏ này, nhà tắm và cái bếp. Đổi lại, tôi
sẽ nấu ăn, dọn nhà và đảm đương mọi công việc cho ông.
- Nói khác đi, bà tự đề nghị làm người giúp việc cho tôi?
- Nếu ông gọi thế thì tôi cũng nói: đúng vậy!
- Nhưng bà chẳng nói bà chia tay chồng chỉ vì ông ấy bắt bà làm đầy tớ
đó sao?
- Nhưng ông khác chồng tôi. Ông hiểu biết hơn, trẻ trung nhân ái hơn.
Với ông thì tôi tự nguyện.
Nàng vẫn nằm ngửa, hai tay kê dưới gáy nhìn tôi vui vẻ, và như xúi
giục người ta thuận tình. Tôi đáp:
- Đó là một đề nghị thú vị. Chúng ta hãy làm thế này, tôi sẽ suy nghĩ và
trả lời bà vào sáng mai.
Lúc đó chuông điện thoại reo lên, nàng vừa nhấc máy vừa đáp.
- Hiểu rồi. Ông không phật ý khi tôi không tiễn được ông ra cửa chứ?
- Tất nhiên không!
Tôi bước ra ngoài. Tới cầu thang, tôi sực nhớ mình để quên mũ trong
nhà, và thế là chẳng băn khoăn gì tôi quay lại móc chìa khoá trong túi ra mở
cửa. Cái mũ vẫn nằm kia, trên mặt bàn. Lúc cầm nó lên tôi nghe Dora nói qua
điện thoại: "Cecillia, thử tưởng tượng xem ai vừa tới gặp mình ít phút trước
đây..."
Tôi không nghe thêm gì nữa, cầm mũ nhón chân đi ra và nhẹ nhàng
khép lại cửa.
KẺ NÓI LẮP
Mới được hai tháng sống đời sống vợ chồng, tôi đã bắt đầu nói lắp.
Ban đầu tôi không thể hiểu được tại sao. Sau đó nghĩ đi nghĩ lại mãi tôi đã
phát hiện ra nguyên do của cái tật không đâu này. Tôi không còn khả năng
thành công trong việc nói chuyện một cách bình thường với vợ nữa bởi vì vào
lúc mở mồm thốt ra những từ ngữ tôi chỉ thấy mệt mỏi và thất vọng với cái
mình định nói ra, hay đúng hơn, mệt mỏi thất vọng với cái cách mình sẽ nói.
Mặc dù có rất nhiều điều để nói với Fausta, càng ngày càng nhiều hơn,
nhưng rồi bị chặn đứng bởi cái nghi thức, mà ít nhiều về mặt ý thức phải theo
nó để sắp xếp các từ thành cụm. Với tôi, nghi thức này xuất hiện để chuyển ý
nghĩa từ xúc cảm định biểu đạt ra công cụ từ ngữ dùng để diễn đạt, và đến
lượt nó, công cụ này hình như hoàn toàn khác và xa lạ với cảm giác nguyên
thuỷ ban đầu, cảm giác mà lúc này không tài nào nắm bắt được nữa. Cảm
giác ấy tựa như dòng nước mát từ một dòng suối thẳm sâu, còn công cụ thì
trái ngược lại, tôi biết nói gì đây, như một cỗ máy cơ khí. Ý tôi muốn nói đến
một thứ gì đó khô cứng, rõ ràng trong việc phát âm, ầm ĩ, một cái gì đó cụ thể
như chốt cửa hay ổ khoá lò xo.
Đến ngay một cụm từ giản dị và trực tiếp nhất như: "Anh yêu em" giờ
đây cũng chỉ thấy vang lên tiếng lách cách của kim loại, tiếng loảng xoảng của
máy móc va đập nhau, tiếng cót két từ các khớp nối. Tôi muốn tặng Fausta
một bông hồng mới hái, nhưng tất cả những gì có thể làm được là trao nàng
một thứ dụng cụ đập vỏ hạt dẻ về mặt ngôn từ, cái của nợ này hoàn toàn
chẳng diễn đạt được gì, cho dù nó thực thi chức năng rất hoàn hảo. Nên thay
vì việc nói một cụm từ chính xác "anh yêu em" tôi lại bắt đầu lắp bắp.
- Anh... anh.... anh
Fausta vội lao đến cứu giúp:
- Nói đi, nói đi! Anh định nói gì với em? Nói đi mà!
Nhưng quả thực, nói chính là điều tôi chẳng muốn tí nào, bởi lẽ cảm
thấy lúc này bất cứ cái gì mình nói, mình sẽ phải nói với một cụm từ, một kỹ
xảo mang tính cơ khí máy móc.
Vì thế càng ngày tôi càng lắp bắp nhiều hơn, đặc biệt khi phải biểu lộ
tình cảm với vợ. Tuy nhiên việc nói lắp không phải không làm hài lòng. Vì tôi
hy vọng việc này sẽ khiến nàng nghĩ rằng tôi yêu nàng đến mức không nói nổi
lên lời. Nhưng kỳ thực trong tim, tôi biết hơn ai hết điều ấy không phải như
vậy. Trong đầu tôi quả là có một băng chuyền những cụm từ đã hoàn toàn
sẵn sàng để chuyển động, và tất cả những gì cần thiết chỉ là dừng sự nói lắp
lại một lát, rồi chẳng mấy chốc hàng đàn hàng đống từ ngữ sẽ bắt đầu theo
nhau văng ra khỏi miệng, tháo cũi xổ lồng, những ngôn từ dựa trên lý trí, nào
danh từ, đại từ, tính từ, động từ, trạng từ hoa mỹ...
Một đêm mùa hạ, chúng tôi ngồi bên nhau trong bếp quanh chiếc bàn
ăn bữa tối. Cửa sổ mở toang nhưng trời vẫn quá nóng nực. Fausta mặc chiếc
áo dài màu đen nhỏ nhắn, hai cánh tay và đôi vai nàng để trần. Thế rồi lúc
ngắm nàng, tôi nhận thấy mình có một điều gì đó rất quan trọng cần phải nói,
và bằng mọi giá phải nói ngay lúc này. Điều quan trọng ấy là mỗi ngày qua đi
chúng tôi càng gần gũi nhau hơn, nhưng thật kỳ lạ, càng gần gũi nhau tôi lại
càng thấy mối quan hệ trở nên mờ mịt hơn, bí ẩn hơn, rầy rà hơn. Nói cách
khác, tôi đang trải nghiệm điều ngược với cái vẫn có trong sự từng trải
thường tình của cuộc sống. Trong những từng trải ấy, việc quen nhau nảy ra
sự biết nhau, và sự biết nhau gây ra nỗi thờ ơ. Trái lại ở mối quan hệ của
chúng tôi, việc quen nhau dẫn đến chẳng biết về nhau, và từ chỗ chẳng biết
về nhau đưa lại nỗi đắm say. Có lẽ có chút gì gượng gạo chăng? Và không
chỉ gượng gạo mà còn hết sức kỳ khôi. Tôi đã hoàn toàn cảm thấy đằng sau
những sự kỳ khối kia có một thứ gì đó rất khó nói (ít nhất với tôi là thế) và
quan trọng nữa, đấy là cái cốt yếu nhất tôi nên nói cho Fausta.
Rút cục tôi lấy hết can đảm bắt đầu:
- Fausta này, anh muốn nói điều này với em. Với anh, dù thế nào đi
nữa, mối quan hệ của hai ta đã đơn giản hơn khi...
Tôi đã nói một câu dài không bị lắp. Fausta ngạc nhiên, rồi sốt ruột,
ngay tức thì thúc giục động viên tôi:
- Khi nào... Khi nào? Hãy nói cho em biết... Nói đi!
- Khi anh... anh...
- Khi anh sao... anh muốn nói gì? Khi anh yêu em ít hơn? Hay nhiều
hơn? Khi anh... nào, hãy nói hết câu đi, nói hết đi!
- Khi anh...
- Được rồi, anh nói đi! Khi nào?
Đến lúc này tôi lắc đầu, im lặng. Nàng nài nỉ.
- Nói đi, nói đi anh! Nếu anh không làm sao nói được, ít nhất cũng viết
ra giấy. Hãy viết cái anh định nói với em đi.
Tôi có một cảm giác kinh hoàng. Đã thất vọng ê chề với kỹ xảo máy
móc đường miệng thì chớ, nay viết lại còn tồi tệ hơn. Cuối cùng tôi nói:
- Không. Thế là đủ rồi. Anh không thể nói thêm gì nữa.
- Nhưng tại sao? Anh nói đi, nói đi!
- Không, điều ấy đã bỏ đi rồi, anh không còn gì để nói nữa.
- Được rồi, em sẽ không ngồi đây với anh nữa. Em sang phòng khác,
lúc nào cảm thấy muốn nói chuyện với em, thì khi đó, và chỉ khi đó thôi anh
mới có thể tới với em. Không sớm hơn.
Nói xong những lời này, nàng đứng dậy bỏ đi.
Tôi ngồi lại bên bàn một lát, sau cũng đứng dậy dạo gót khắp các
phòng, nhưng không có chút can đảm nào đặt chân vào phòng ngủ, đây là
nơi chắc chắn Fausta đã tự giam mình. Sau cùng, tôi ra khỏi nhà.
Tôi bắt đầu tản bộ dọc theo đại lộ dài, tối thẫm, hai bên trồng hai hàng
cây, nằm vắt sau nhà. Tôi sống trong một khu vực đông dân, hiện đại, không
có một quán giải khát, rạp chiếu bóng cửa hiệu nào. Thêm nữa, lúc này đã
quá khuya nên không cả một khách bộ hành. Tôi tiếp tục bước đi một lát
chẳng nghĩ về bất cứ cái gì, lòng bối rối nhiều hơn lo lắng vì một cảm giác mơ
hồ rằng bằng việc đi bộ như thế này, đi bộ vô mục đích có thể may mắn vớ
được cách giải quyết cho vấn đề diễn đạt của tôi.
Bỗng nhiên lúc đi ngang qua một cánh cổng khu vườn phủ đầy dây leo,
tôi nghe thấy hai giọng nói. Chân bước chậm lại. Ngay lối cửa nhỏ bên cạnh,
lờ mờ trong bóng tối hai hình người, một đàn ông và một đàn bà. Thân hình
người đàn ông còn trẻ mặc áo len dài tay màu đô, chiếc quần màu đen, còn
thân hình người đàn bà rất khó thấy, nó bị lấp sau người bạn cô ta, kẻ đang
co kéo, đang đứng chồm lên phía trên cô ta. Hẳn là hắn đang ép uổng cô ta
làm một cái gì đó. Trong lúc họ nói chuyện, tôi nghe được mẩu đối thoại thế
này:
- Nào!
- Không!
- Nào!
- Không!
- Tại sao!
- Không!
- Ngốc!
- Để tôi yên!
- Đi nào!
- Thôi!
- Vĩnh biệt!
- Vĩnh biệt!
Tôi thấy điều đã xảy ra là thế này, gã trai trẻ kia đòi hôn cô gái, nhưng
cô từ chối. Thế rồi gã gọi cô là đồ ngốc và bỏ đi. Tôi nhìn thấy gã đang bỏ đi
bên dưới hàng cây của đại lộ, mồm huýt sáo để giấu nỗi thất vọng của chính
gã. Còn cô gái, có lẽ là một người ở gái và chủ nhân của cô ta đã đi nghỉ xa.
Cô nhanh chóng quay vào khu vườn, khép cánh cổng lại sau lưng.
Nhưng khúc rô-măng này, cuộc phiêu lưu này, câu chuyện này của hai
người không cuốn hút tôi. Trái lại, cái làm tôi bị bất ngờ chính là phong cách
cuộc nói chuyện giữa họ. Hầu như toàn từ ngữ đơn lẻ cho dù chúng được
thốt ra với những giọng điệu rất khác nhau. Không một câu, có nghĩa là không
một cỗ máy nào, hay đúng hơn không có sự can thiệp của lý trí. Một lô một
lốc sự kiện diễn ra như đòi được hôn, từ chối, lăng mạ đuổi đi, một lô một lốc
cảm xúc bùng lên rồi tắt ngóm như khát khao, xung đột, hy vọng, khinh bỉ,
thất vọng, cáu kỉnh, chối bỏ, nhưng tất tần tật đều được gói gọn trong những
giới hạn của sự phi lý khắt khe tột cùng. Tôi, kẻ trong lúc không còn biết phải
ra làm sao để giao tiếp với Fausta, theo bản năng đã phải nhờ đến nói lắp. Và
giờ đây hai kẻ kia, một gã trẻ tuổi thuộc tầng lớp lao động, và một cô hầu, đã
gián tiếp dạy tôi một bài học.
Tôi trở về nhà, cũng chẳng buồn bật đèn đóm, đi xuyên qua những căn
phòng tối thẫm vào buồng ngủ. Fausta có ở đó, nàng nằm co mình trên
giường nhưng vẫn thức. Rõ ràng nàng đang đăm chiêu nghĩ ngợi. Tôi nói,
chẳng hề bị lắp chút nào:
- Anh có một đề nghị thế này.
- Gì thế?
- Chúng ta sẽ chỉ trao đổi với nhau bằng những từ ngữ đơn lẻ, không
cần cả câu, bằng những tiếng một như hú.
Tôi thấy cặp mắt màu đen u buồn lãnh đạm của nàng ánh lên một niềm
vui trẻ thơ, cứ như thế lời đề nghị của tôi đã đi qua người đàn bà là nàng bây
giờ, chạm tới một em gái nhỏ ngày xưa. Tuy nhiên nàng lại nói:
- Em không hiểu.
Tôi liền giải thích một cách trơn tru, không hề lắp bắp. Nàng bắt đầu
cười, và cười rất lâu. Thế rồi nàng quẳng chân ra khỏi giường, đứng dậy bảo:
- Được rồi, em đồng ý. Chúng mình thử xem có làm anh bớt nói lắp đi
không. Làm ngay bây giờ nhé? Nhưng anh phải chạy theo em.
- Tại sao?
- Vì nếu em chạy, điều ấy sẽ trở nên dễ hơn cho em. Nào, em chạy còn
anh đuổi theo.
Nói xong nàng lao ra khỏi phòng hét lên:
- Chạy!
- Đợi!
- Cúc cu!
- Dừng lại!
- Đây!
- Nói đi!
- Gì!
- Không!
- Chạy!
- Đợi!
Kể từ đêm hôm đó, Fausta và tôi luôn nói chuyện với nhau như thế!
Còn đối với những cụm từ dài, rành mạch, được sắp xếp tỉa tót, tôi dành để
nói ở cơ quan, cửa hàng, lúc làm ăn, tức là trong những dịp va chạm với cuộc
sống. Và bằng cách ấy, tôi không còn nói lắp nữa.
CON NGƯỜI CỦA QUYỀN LỰC
Anh ta đang ngồi đối diện tôi, phía sau một chiếc bàn khổng lồ dài
chừng sáu mét, có lẽ được đóng bằng gỗ óc chó, chạm khắc theo lối cổ. Căn
phòng rộng mênh mông, những bông hoa màu đỏ in khắp các bức tường,
trần nhà vẽ tranh và xây vòm cuốn. Không có bất cứ một thứ đồ đạc gì khác
ngoại trừ chiếc bàn lớn đó, cái ghế bành của anh ta và cái ghế tôi đang ngồi.
Tôi nhìn anh ta. Anh ta mặc một bộ com lê màu đen, đeo cà vạt màu đen và
áo sơ mi màu trắng. Anh ta gây ấn tượng như một người lính trong trang
phục dân sự. Phía trên bàn ngổn ngang đủ loại đồ văn phòng, một bao đựng
giấy viết bằng da, một bút máy, các kiểu bút chì, một hộp đựng giấy nháp,
một bàn lăn thấm mực, nhưng tất cả còn rất mới, cứ như thể chúng chưa bao
giờ được đem ra dùng cả. Hai máy điện thoại và thêm một chiếc dùng nội bộ
nữa. Căn phòng chỉ có một cửa duy nhất, đấy là cánh cửa tôi đã bước vào.
Anh ta đã bắt tôi phải chờ khoảng nửa giờ vì một lý do đặc biệt nào đó rất khó
đoán, chẳng phải vì anh ta đang bận viết hay tiếp một người khách.
Từ chiếc bàn, cặp mắt tôi tiếp tục quan sát bản thân con người này.
Lần đầu tiên tôi nhận thấy anh ta có một cái mũi khoằm và đôi má hơi chảy
sệ. Kỳ lạ quá, trước đây mình đã không nhận ra điều này. Trước đây tôi cứ
tưởng mũi anh ta thẳng, còn đôi má thì phẳng. Cái mũi khoằm, với hai lỗ hẹp,
nhỏ cùng điểm gồ lên quí phái ở giữa chứng tỏ một uy quyền và một ý chí ra
mệnh lệnh, còn cặp má chảy sệ lại biểu hiện một tính tình kiêu ngạo. Bỗng
nhiên tôi nhớ lại một điểm khác nữa. Lúc tôi bước vào, anh ta đứng dậy đón
tiếp từ phía sau chiếc bàn, nhưng không bắt tay. Tôi đã nói:
- Lúc đi ngang qua đây mình nảy ra ý định vào thăm cậu.. Mình nghĩ có
thể cậu sẽ rất vui khi gặp lại một người bạn cũ.
Anh ta đưa cặp mắt bất động, xanh xám, vẻ tò mò im lặng nhìn tôi một
lát. Đoạn nói:
- Vui à, ừ. Mình luôn luôn rất vui khi gặp cậu. Nhưng đối với việc cậu tới
đây để gặp mình - Anh ta nhấn vào chữ "đây" bằng một thoáng ngừng lời -
đấy là một vấn đề khác. Cậu làm thế là đúng nếu cậu có một điều gì đó để
trao đổi, một điều gì đó để hỏi, một điều gì đó để đề đạt, nhưng cậu sẽ sai lầm
nếu đến đây chỉ để gặp mình.
Giọng nói của anh ta chậm rãi, nhấn nháy, tẻ ngắt như để làm cho tôi
thấy rõ anh ta đang nói chỉ vì lịch sự. Tôi hỏi:
- Tại sao?
- Vì đây là chỗ mình dành cho công việc. Mình không thể ban tặng một
cái gì xa xỉ như tiếp đám bạn bè kiểu thế này. Chỉ đơn giản nói chuyện một lát
thôi.
- Mình hiểu, cậu rất bận rộn.
Anh ta bắt đầu cười ầm lên, một điệu cười kỳ dị, phần như lịch sự,
phần lại như giễu cợt, nó khiến đôi mắt anh ta hoàn toàn bất động.
- Không. Mình không quá bận. Thực tế vào lúc này mình không có gì để
làm cả. Nhưng đc cũng là sự thật đấy, theo một khía cạnh mình đang rất bận.
- Mình chẳng hiểu gì cả, thế cậu bận hay không bận?
Cái kiểu nói hợp lý, đầy mô phạm khiến tôi bỗng nhận thấy phẩm chất
ưu việt nhất của hắn từ những ngày trong quá khứ. Đấy là ý thức sáng suốt
tỉnh táo trong phương cách hành động và tài khéo léo trong việc chuyển nó ra
những lý lẽ rõ ràng.
- Mình bận làm cái mà mình được đưa lên vị trí này để làm, và mình
không bận bởi như đã nói lúc này không có nhiều việc để làm. Nhưng mình lại
bận làm cái mình là, vâng, rất bận đấy.
- Xin lỗi, nhưng mình vẫn không hiểu cậu.
Anh ta nhìn tôi chằm chặp một lát như thể đang cân nhắc những yếu tố
thuận hay chống trong đoạn đối thoại. Thế rồi anh ta bảo:
- Chẳng có gì mù mờ trong những điều mình đang nói. Ở đây mình có
hai điều để làm, thứ nhất, cái được gọi là công việc của mình, thứ hai, còn
quan trọng hơn nhiều, đấy là thực thi quyền lực.
- Thực thi quyền lực? Mình đang bắt đầu nhận thấy...
- Đến lúc cậu nhận ra rồi đấy. Được rồi, thế tại sao thực thi quyền lực
lại quan trọng hơn nhiều so với công việc? Bởi vì trong lúc mà công việc chỉ là
một thứ nghề nghiệp bình thường kiểu văn phòng, về cơ bản không làm mình
quan tâm trên bất cứ khía cạnh nào và có thể được thực hiện bởi bất cứ ai,
thì thực thi quyền lực, trái lại, là một cái gì đấy chạm rất gần đến mình, quan
tâm đến chính con người mình. Và mình tin chắc nó đòi hỏi một thiên hướng
chính xác, những tài năng đặc biệt để giải quyết nó.
- Thế cậu có được thiên hướng và những tài năng đó không?
Anh ta lại ngó tôi, ngập ngừng. Một lần nữa bị đưa đến trước sự tự tri
chính mình như một điều ảo tưởng, anh ta phải lùi bước cho lòng trung thực
gần như ngây thơ của chính bản thân.
- Mình không nghĩ mình có chúng. Thế nhưng trái lại, mình tin chắc
rằng mình không có con đường nào để cắt bỏ quyền lực. Một cách tự nhiên
mình biết quyền lực tồn tại, nhưng khi đánh giá chúng từ cách nhìn của một
nhà đạo đức, mình đã viết chúng như một điều chẳng hề có tầm quan trọng
thực tế nào, một điều không được lưu ý đến, đặc biệt trong vai trò của một
người trí thức. Thế rồi một lần, ở trong căn phòng này, ngồi lút trong cái ghế
bành này, mình phát hiện thấy nơi bản thân những tài năng và thiên hướng
mà cho đến nay vẫn chẳng có gì đáng ngờ. Bỗng nhiên mình hiểu ra.
- Cậu đã hiểu ra điều gì?
- Mình khám phá ra ở một mức độ và những hoàn cảnh tất nhiên nào
đó, công việc nghề nghiệp không còn đáng đếm xỉa đến nữa. Không còn nữa
bất cứ thứ gì mà lại hơn được một sự biểu hiện của việc thực thi quyền lực,
ngay cả khi thứ đó là quan trọng nhất. Trái lại, việc thực thi quyền lực này có
trong tự bản thân, thậm chí bằng chính bản thân nó, ngay cả khi không hề có
một công việc thích hợp, thường xuyên đi kèm theo, một nghề nghiệp hay
một chuyên môn chẳng hạn.
Anh ta nói năng vẻ nhiệt thành, mỉm cười cùng cái nhìn đầy chiến thắng
tựa như một tay làm trò quỉ thuật đang chứng minh và giải thích những công
việc mang tính nghề ngón của chính mình. Tôi nói, phần nào cũng mơ hồ:
- Ồ đúng. Quyền lực là quyền lực như chúng ta biết đấy.
- Nói thế thì vô cùng, nhưng đúng như vậy đấy - Anh ta mỉm cười bình
luận. Tất nhiên quyền lực là quyền lực, nhưng hãy để mình nói thêm cho
chính xác. Trong trường hợp của mình thì quyền lực là gì?
Tôi nhìn anh ta ngạc nhiên và lặp lại như một con vẹt:
- Ừ, quả thực nó là cái gì?
- Quyền lực.... - Anh ta khơi mào qua giọng nói nhẹ nhàng, mô phạm và
đầy ý tứ - Đầu tiên là bộ com lê màu đen này, chiếc cà vạt màu đen này,
chiếc sơ mi màu trắng này. Cậu còn nhớ chiếc quần cũ cùng cái áo gió của
mình không? Những thứ ấy giờ đây đã hết đời.
- Quyền lực nằm trong trang phục của người ta ư? Hoàn toàn đúng!
- Tất nhiên là hoàn toàn đúng. Nào, xin hãy quan sát tấm thảm, những
đồ vật treo trên tường, những bức vẽ trên trần, rồi đến cái bàn này, cái ghế bệ
vệ này, cái ghế nhỏ cậu đang ngồi, tất cả đấy là quyền lực.
- Rõ là thế - Tôi bình luận với vẻ quả quyết.
- Thời gian biểu của mình là quyền lực. Mình bước vào cơ quan, có thể
nói sao nhỉ, như thổi linh hồn vào một thể xác nằm bất động và hờ hững.
Mình là linh hồn của khu vực này trong toà nhà. Là linh hồn của cái phòng
ngoài kia, nơi gã nhân viên chỉ lối cho cậu vào vẫn ngồi, của căn phòng kế
bên nơi cô thư ký làm việc. Linh hồn của mình, tức là quyền lực của mình lan
toả tới bờ bên này của cơ quan lưu trữ, tận bờ bên kia của dãy hành lang. Khi
không có mặt mình ở đây, mọi thứ cứ như treo lơ lửng, như chờ đợi, còn khi
có mặt mình, tất cả liền đúng chức năng hoàn hảo. Đó là quyền lực.
Anh ta lặng im trong chốc lát, và tôi hầu như có cảm tưởng rằng mình
nghe được anh ta đang hổn hển vì một sự khích động nào đó. Thế rồi anh ta
tiếp tục:
- Trong căn phòng này, quyền lực nằm ở hai cái máy điện thoại mình
có thể dùng cùng một lúc, một cái ống nghe cầm trong tay, một cái khác kẹp
giữa má và bờ vai. Nó cũng ở nơi cái máy gọi nội bộ mình dùng để liên lạc
với gã nhân viên và cô thư ký. Nó ở hộp đựng giấy viết này, cái giá để bút
mực này, hộp đựng giấy nháp này. Đúng là mình không gọi điện thoại, mình
không liên lạc gì với gã nhân viên và cô thư ký, mình không viết, nhưng mình
có thể làm những việc đó.
- Đúng - Tôi nhận xét - Có thể nói như thế, đấy là những bằng chứng
của quyền lực, những biểu hiện đầy ý nghĩa. Thế nhưng quyền lực, dưới góc
độ một công việc phải làm, thì chủ yếu là gì?.
Anh ta lại bắt đầu cười phá lên và đáp:
- Quyền lực dưới góc độ một công việc phải làm, chủ yếu là việc
chuyển bất cứ loại hành động nào, kể cả công việc, ra những hiển thị của
quyền lực.
- Giải thích rõ xem nào!
- Được! Lấy ví dụ mình rời khỏi căn phòng này đi tắm, tức là thực hiện
một nhu cầu hoàn toàn tự nhiên. Mình bước ra ngoài, giữ cho cái đầu thật
thẳng, ngực ưỡn ra, hai tay duỗi thẳng kẹp hai bên mình, mắt nhìn ra phía
trước. Gã nhân viên, khi thấy mình liền đứng vụt dậy. Vậy là một hành động
thuộc loại bình thường nhất, có tính ngày ngày lặp lại đã được chuyển ra một
hiện thị của quyền lực.
Lần này đến lượt tôi cười phá lên. Tôi bảo:
- Điều ấy không thể phủ nhận. Và mặc dù cứ quyền quyền lực lực cậu
vẫn giữ được tính hài hước.
Anh ta cũng cười:
- Rất đúng - Anh ta nói - Và đây là một ví dụ khác, một ví dụ có liên
quan đến công việc. Cậu biết cái công ty này quan tâm đến cái gì, nó có bộ
phận đầu não trong toà nhà này. Nhưng công việc thực sự được thực hiện
hoàn toàn do các công chức cấp dưới. Khi người ta leo dần lên bậc thang
chức vụ thì công việc ngày càng trở nên là một cái cớ, ấy là một cơ hội cho
quyền lực. Cuối cùng, trên nấc thang cao nhất, công việc bốc hơi và biến mất,
không còn lại gì ngoài quyền lực, điểm nút tận cùng trong chính bản thân
công việc.
- Lấy một ví dụ xem nào.
- Mình không rõ lắm. Chúng ta cùng giả thiết là phải quyết định xem có
nên mở một văn phòng ở một thành phố ngoại quốc nào đó hay không. Văn
phòng đó có cần thiết không, nó có tác dụng gì không, nó có đúng lúc không?
Những việc ấy mình không biết. Mình chỉ biết rằng việc tạo ra cái văn phòng
ấy cho phép bản thân quyền lực được hiển lộ.
- Theo cách thế nào?
- Thật đơn giản. Mình viết một bản báo cáo thấu đáo nhưng không cần
chi tiết rồi đem đánh máy. Mình xin gặp ông chủ tịch. Ông ta đồng ý, mình liền
tới và trình bày. Mình yêu cầu ông ta đọc bản báo cáo. Ông ta đọc nó, ông ta
nhận xét về nó, mình đáp lại rồi cả hai tiến hành một cuộc thảo luận dài. Và
mình hỏi cậu, trong vụ này cái gì quan trọng hơn: Quyền lực hay công việc?
Mình khẳng định là quyền lực. Trong thực tế, ông chủ tịch quyết định mở văn
phòng chăng? Đấy là thực thi quyền lực. Ông chủ tịch quyết định không mở
văn phòng ư? Cũng là thực thi quyền lực. Hoặc ông ta do dự, không nói có
cũng chẳng nói không? Cũng là thực thi quyền lực nốt.
Anh ta nhìn tôi, lắc lắc cái đầu, rồi mỉm cười vừa ngạo nghễ vừa giễu
cợt. Tôi nói:
- Đúng, điều ấy đúng. Tuy nhiên cái công ty này không hoàn toàn phụ
thuộc vào kiểu nghi thức như thế. Phải có những kết quả thực tế cũng như...
- Đương nhiên có. Có, nhưng ở những vị trí thấp hơn như mình đã nói.
Chỉ ở những nấc thang, những vị trí cao hơn mới tồn tại cái cậu gọi là nghi
thức của quyền lực như thế. Lấy ví dụ cuộc họp mà Ban giám đốc triệu tập
hàng năm trong phòng của Ban dưới tầng một. Trong thực tế, Ban giám đốc
bao gồm những con người xuất sắc, họ không chỉ thị bất cứ điều gì hết.
Nhưng lúc họp họ chỉ thị. Cũng như bản thân mình, người không làm bất cứ
điều gì ở đây cả, nhưng vào lúc ấy lại cực kỳ bận rộn. Họ chỉ đạo, vì thiếu đi
tên tuổi của họ, sự giúp đỡ của họ, những thành quả về mặt thực tiễn sẽ
không bao giờ có được. Như lúc này, mình cũng giống cậu, đã một lần cho
rằng Ban giám đốc chỉ thuần túy danh dự, không được tích sự gì cả. Nhưng
sau khi dự cuộc họp và nghe những bài phát biểu của một vài thành viên,
những bài phát biểu, mình xin nhấn mạnh hoàn toàn theo nghi lễ, mình đã
thay đổi đầu óc, hay đúng hơn mình khám phá ra một lãnh địa mênh mông,
mà sự tồn tại của nó từ trước mình không hề nghi ngờ.
Anh ta đã trở nên nghiêm trang. Đến lượt mình, tôi hỏi anh ta cũng đầy
vẻ nghiêm nghị:
- Cái lãnh địa này là gì?
Anh ta trang trọng đáp:
- Chính xác đấy là vùng đất đầy yêu thuật, bị bỏ bùa mê và bí ẩn vun
trồng quyền lực, ở vùng đất vô biên này, các hành động đạt đến một ý nghĩa
thực khác xa với cái ý nghĩa mà chúng có theo cảm giác thông thường, quả là
thế vì chúng được tiến hành trong sự thực thi quyền lực. Cậu đã nói về nghi
thức. Đúng, cậu đã một lần, dù không chủ định, dùng đúng ngôn từ. Quả đấy
là nghi thức.
Tại điểm này tôi xen vào:
- Tuy nhiên có một sự khác biệt giữa cậu và ông chủ tịch. Có thể nói
cậu hành động như một phần tử, tức là cậu ý thức về việc chuyển dạng
quyền lực đó đưa vào mọi hành động. Nhưng ông chủ tịch thì không. Ông ta
tin vào quyền lực và chỉ có thế thôi.
Anh ta cười, có đôi chút không hài lòng, tuy vẫn thân mật:
- Lại một nhầm lẫn, một khờ khạo khác. Ông chủ tịch tuyệt nhiên không
phải không biết về nó, và không chỉ ông chủ tịch mà thậm chí gã nhân viên,
thậm chí cô thư ký cũng thế. Và đây là điểm chính yếu, con người luôn luôn
biết anh ta đang làm cái gì, ngay cả khi có thể hình như anh ta không hiểu.
Tội ngọ nguậy muốn đứng dậy:
- Mình hiểu. Với mình việc duy nhất bây giờ là đi về. Mình cảm thấy
hình như không thể nói chuyện phiếm với một người bạn ở một nơi đầy nghi
thức và khách sáo như chốn này.
Anh ta cũng đứng dậy, nhìn tôi rồi bật lên một tràng cười vui vẻ như trẻ
thơ:
- Được rồi, cậu về đi, mình không giữ cậu đâu. Nhưng với cậu sự biến
đổi các giá trị cùng với quyền lực đã xảy đến rồi đấy. Chà! Chúng ta có một
cuộc nói chuyện phiếm nho nhỏ, thật thế. Nhưng cuộc nói chuyện này, bởi vì
cậu đã có nó ở đây với mình, nên nó cũng đã biến đổi, nó đã phát triển thành
những hiển thị của quyền lực.
- Của quyền lực nào?
- Sao lại hỏi thế, quyền lực của mình, đương nhiên.
NGÀI PROTO
Ngay khi nhận bằng tốt nghiệp, tôi cảm thấy bơ vơ, ở tiểu học, từng có
một thầy giáo, ở trung học một vị giáo sư và ở trường đại học tổng hợp một
người hướng dẫn học tập, thế mà giờ đây bỗng dưng tôi bị bỏ rơi, chẳng có ai
dạy dỗ, hay đúng hơn chẳng có ai mang lại cho tôi một ấn tượng về uy quyền
của người thầy. Với tôi, văn hoá là một tôn giáo, nếu như không muốn dùng
chữ đối tượng thờ phụng. Trong tôn giáo này có các thầy tu làm lễ, tức các vị
giáo sư, có những bài giảng huyền bí, tức các chủ đề học tập và cuối cùng có
những tín đồ, tức đám sinh viên, nhưng không hề có - tại sao lại không có
nhỉ? - những hoạt động học tập như nó vẫn được hiểu một cách bình thường.
Điều này lý giải một tình trạng trái ngược trong tôi, ấy là tôi - một tên học trò
cực kỳ dốt nát nhưng lại chẳng hề có ai chuyên cần hơn (rõ ràng thế), chăm
chú hơn. Và cũng không phải trái logic bình thường, tôi ngồi trong giảng
đường như nơi thánh đường, cùng một sự hiến thân, và cũng có thể nói,
cùng một sự dừng lơ lửng của những khả năng trí óc. Tôi nhìn chằm chằm
vào ông giáo sư, uống từng lời, từng lời, nhưng không hiểu và không học bất
cứ thứ gì.
Còn các kỳ kiểm tra, một ai đó sẽ hỏi thế. À, với các kỳ kiểm tra tôi nhờ
đến trí nhớ. Tuy nhiên điều ấy hình như không dễ. Việc tôi làm chính xác là
thế này, hết năm này qua năm khác tôi vào thi sau khi đã học thuộc lòng tất
cả mọi thứ mà những sinh viên khác thường nhớ do đã dùng trí óc nắm vững
thành thạo. Trong bất cứ kỳ kiểm tra nào, việc ấy không bắt tôi phải gắng sức
gì lắm, tôi có một trí nhớ thực khác thường. Thế rồi, lúc trì độn máy móc trả
lời đống câu hỏi của các giáo sư, tôi không khỏi có cảm giác hài lòng, theo
cách ấy, vẻ nghi lễ của văn hoá được củng cố và chiếm ưu thế trước những
đặc tính khác.
Trên thực tế, chỉ cần một khoảnh khắc để chuyển một mẩu kiến thức
sử học, một công thức đại số, một đoạn trích văn chương, một khái niệm
khoa học thành một khẩu hiệu thần bí, rồi tất cả mọi việc cần làm chỉ là nhắc
lại chúng như một con vẹt, không cần hiểu hay dụng công để hiểu ý nghĩa của
chúng. Đương nhiên đây không phải là phương cách lý tưởng để vượt qua thi
cử, vì thế khi còn là một sinh viên tôi thường bị đánh hỏng, và các vị giáo sư,
ngạc nhiên trước sự rắn đầu đến thế, thường hỏi một câu rành mạch thế này:
- Sao, thế cậu đi học để làm gì?
Tôi có thể trả lời thế nào? Chẳng nhẽ lại bảo, cái quan trọng với em
không phải là học mà là ngồi trước một ai đó đang lên lớp? Vì thế, tôi thường
thích giữ im lặng hơn. Lúc nhận tấm bằng văn chương cùng luận văn do một
gã sinh viên trong đám bạn bè viết hộ (đương nhiên phải trả công, và quan
trọng gì khi bản thân tôi có tự viết hay không, có gì nghiêm trọng quá đáng khi
nó được xem như một thứ nghi lễ?), tôi liền cảm thấy bơ vơ như đã nói ở
trên. Tôi tiếp tục lần mò ở trường Tổng hợp mất một thời gian, và có lẽ tôi có
thể theo con đường trở thành một trong những sinh viên trường diễn, những
kẻ đạt hết bằng này đến bằng khác cho tận lúc già, nếu khái niệm về văn hoá
như một nghi thức trong tôi không lên tiếng ngăn trở. Bằng cấp là một kiểu lễ
kết nạp đã một lần diễn ra thì không thể lặp lại. Thế rồi tôi bắt đầu dự các buổi
lên lớp, nhưng ở đây cũng có một sự bất tiện, đấy là những buổi thuyết trình
luôn luôn khác nhau và cái tôi thực sự cần đến là một ông thầy để đi theo hết
năm này qua năm khác, luôn luôn không đổi. Cuối cùng, tuyệt vọng quá tôi
ghi tên vào một lớp học ngoại ngữ. Tôi chọn tiếng Nhật vì sự khó học của
môn này hứa hẹn một khoá học kéo dài. Nhưng, đúng vào lúc đó tôi trở nên
lười nhác. Tôi không còn thấy hứng thú làm các bài tập, hay tồi tệ hơn, không
cả học thuộc lòng những thứ mình không hiểu. Tôi bỏ lớp ngoại ngữ.
Cùng tất cả những cố gắng và thử nghiệm này tôi đã đi qua tuổi thứ ba
mươi. Cha tôi, người có những đứa con trai khác đã bắt đầu lập nghiệp, thúc
giục tôi đi làm. Nhưng làm gì? Không thể đặt ra vấn đề đi dạy học được, trí
nhớ của tôi đã tống khứ hết đống kiến thức cóp nhặt trong những năm ngồi
trên ghế phổ thông và đại học, tựa như một cái dạ dày ốm yếu xua đuổi thứ
đồ ăn khó tiêu bị đem nuốt chửng mà không hề nhai. Vì thế, tôi nói với cha
rằng tôi sẵn sàng chấp nhận bất cứ công việc làm thuê nào. Điều đáng nói ở
chỗ cha tôi đã từng là bạn học của một tay được mệnh danh là "vua tư bản".
Ông liền đến gặp người này, trình bày tình cảnh của tôi, rồi quay về đầy vẻ
hân hoan. Có một chỗ làm, không cần vẽ vời thêm chi nữa, tôi sẽ đến trình
diện vào sáng hôm sau, ở phòng xuất nhập khẩu của ngài Proto, ông chủ
tương lai của tôi.
Linh cảm mới chính xác làm sao! Khi vượt qua những con phố xấu xí,
nhớp nhúa đầy những cửa hiệu cũ kỹ, những công sở bụi bặm và những
quán rượu tồi tàn nhưng lại đông đúc của khu trung tâm thương mại gần nhà
ga, ngay lập tức tôi rùng mình vì linh cảm. Cứ như thể mình là một gã hành
hương, với đôi mắt của đức tin đã nhận ra một chỗ đầy ưu đãi cho tín
ngưỡng của chính mình. Tôi không thể không suy tư: "Đây là chỗ cần tìm, đây
là nơi cần đến, mình chắc chắn thế, đây chính là chỗ ấy". Tôi tìm ra toà nhà
xây từ thế kỷ 19 ảm đạm, u buồn, vữa trát lở lói mà ngài Proto đặt văn phòng,
cầu thang bốc mùi, phủ một lớp bụi, gần như chìm trong bóng tối. Thế rồi có
hai cánh cửa lắp kính mang dòng chữ: J. Proto - Phòng xuất nhập khẩu.
Tôi dừng lại giây lát để thở và tự hỏi cái chữ J bí ẩn này nghĩa là gì,
Julius hay Jesus? Sau đó, tôi đẩy cửa bước vào, trống ngực đánh liên hồi,
nhưng chẳng phải vì vừa chạy lên cầu thang cứ bốn bậc một, mà bởi điều linh
cảm trong tâm trí như nhìn thấy bản thân chẳng mấy chốc sẽ đối mặt với một
con người mình hằng tìm kiếm suốt bao lâu nay, có thể nói từ thời thơ ấu xa
xôi, đã được xác nhận. Một nhân viên hướng dẫn đứng tuổi đưa tôi đi dọc
theo hành lang đến một căn phòng rộng rãi, sáng sủa và sạch sẽ. Có hai
chiếc bàn kê đối diện nhau. Một chiếc bỏ trống, còn phía sau chiếc kia ngài
Proto đang ngồi.
Tôi nhìn ngài và một ý nghĩ ập đến tức thì: "Người này, đúng là người
này. Không nghi ngờ gì nữa, chính là ông ta". Ngài Proto ra dấu cho tôi ngồi
xuống. Tôi sẵn lòng làm điều ấy vì đầu gối sắp khuỵu xuống, hơi thở dốc lên.
Tôi ngồi đối diện ngài, rồi trong lúc ngài nói, tôi quan sát như ăn tươi nuốt
sống.
Điều đầu tiên khiến tôi choáng váng là vóc dáng thô thiển, lặc lề đập
ngay vào mắt của ngài. Ngài Proto béo phị, cử chỉ nặng nề, ì ạch như một cái
bao tải đầy ắp. Đôi vai đồ sộ, cái cổ to phè, cánh tay ngắn ngủn, những ngón
tay bè bè dị dạng. Đầu ngài như quả cầu, tóc xén hầu như chẳng còn sợi nào,
vòng cung lông mày vồng lên, đôi mắt ti hí và cái miệng sưng phồng vô biểu
cảm. Ngài để một tay lên bàn, hai ngón tay kẹp điếu thuốc. Tôi nhìn nghiêng
vào bàn tay và rùng mình vì ghê tởm. Lòng bàn tay ngài là chỗ tiếp giáp của
những tấm đệm thịt nhỏ đỏ au, và thực đáng ngạc nhiên bàn tay ấy lại có thể
nắm chặt lại được. Ngài Proto bắt đầu hỏi tôi về học hành, về cuộc sống. Ngài
có một giọng nói trầm sâu, lạnh lùng và thô lỗ đúng như tôi đã dự đoán.
Ngài vẫn tiếp tục phỏng vấn tôi khi có một người đàn bà ngăm đen bé
nhỏ bước vào. Người này gọn ghẽ, lịch lãm và ngài giới thiệu với tôi một cách
vắn tắt:
- Vợ tôi.
Tôi quan sát bà ta cúi mình về phía cái đầu tròn xoe to tướng của ông
chồng, trong lúc ngài nghiêng cái tai nung núc thịt về hướng cặp môi mỏng
của vợ. Bà ta thì thầm điều gì đó một lát với chồng, rồi đứng thẳng người lên,
làm một động tác mà tôi dễ dàng đoán ra, như đã từng đoán giọng nói của
ngài Proto lúc trước, tức là thế này: bà ta nâng bàn tay của ông chồng lên, tôi
muốn nói móng vuốt của ngài thì rõ hơn, rồi hôn nó với một lòng dâng hiến
đầy xúc cảm cuồng tín. Tôi lại nghĩ: "Người này, thực sự là người này". Bất
chợt tôi cảm thấy lòng ghen tỵ nổi lên không sao cưỡng lại được. Tôi cũng
muốn được hôn vào cánh tay to lớn đầy lông lá kia. Bà ta quay lại nhìn tôi rồi
bất ngờ nói:
- Xin lỗi. Nhưng ông hiểu những xúc động như thế, phải không?
Tôi hơi cúi đầu bẽn lẽn, không nói không rằng.
Lúc bà vợ đi ra ngoài, ngài Proto vươn cánh tay ngắn ngủn với chồng
giấy để trên bàn đưa cho tôi và chỉ chiếc bàn đối diện:
- Ngồi xuống đó đi. Từ hôm nay đấy là chỗ của ông.
Tôi tuân lệnh một cách sung sướng. Tôi chỉ sợ nhỡ mình phải chuyển
sang, phòng khác. Nhưng vừa lúc định ngồi xuống, giọng nói của ngài Proto
khiến tôi giật nảy:
- Ông có thể giúp tôi một việc không?
Tôi quay lại, đi về phía ngài. Ngài liền giải thích:
- Cái chân của tôi bị cứng khớp, cử động thật khó khăn và không thể
cúi gập xuống. Việc ấy cũng vô tình khiến tôi bị béo phì. Ông có vui lòng buộc
hộ tôi dây giày không?
Tôi lập tức theo lời ngài, quì xuống trước cái chân đang chìa ra. Ngài
nâng nó lên, còn tôi đặt hai bàn tay vào cái dây lòi thòi. Thế rồi gập mình
xuống một chút nữa, tôi nhẹ nhàng chạm cặp môi vào mũi giày của ngài. Tôi
thắt một nút kẹp chắc chắn rồi đứng dậy, vừa đứng vừa ngó lên ngài. Ngài có
nhận thấy tôi đã hôn chân ngài không? Khuôn mặt ngài vô cảm, thực sự nó
mang một phẩm chất của vật để thờ hay của một pho tượng. Ngài nói:
- Rất cám ơn.
Xong xuôi, tôi quay lại ngồi xuống bên bàn của mình.
Kể từ bữa đó, tất cả mọi thứ trong cuộc sống của tôi đều biến đổi, xét
bề ngoài tôi đã ổn định cuộc sống, có nghề nghiệp, có cơ quan, có thời gian
biểu, có một cấp trên. Còn sự thực thì tôi đã tìm ra một người hướng dẫn tinh
thần mà bấy lâu nay vẫn tìm kiếm. Ai đó có quyền hỏi rằng ngài là kiểu người
hướng dẫn tinh thần nào, vì lẽ ngài Proto này quá gớm guốc, quá thô lậu, và
hơn tất cả là quá vô cảm. Tôi đáp lại rằng ngài đúng là người hướng dẫn tinh
thần bởi vì chẳng có một lý do nào giải thích tại sao ngài lại thế! Điều ấy quả
chính xác, vì sẽ quá ngờ nghệch khi hình dung ngài Proto là một ông thầy
giáo, nhưng cũng đúng vì nguyên cớ này mà tôi tin chắc ngài lại là.
Hai năm đã trôi qua và tôi vẫn ngồi ở đó, trong văn phòng của ngài
Proto, đối diện với ngài. Đôi khi tôi ngước mắt lên nhìn ngài và chờ đợi ngài
nhìn lại tôi, chờ đợi ngài động đậy cánh tay, chờ đợi ngài mở miệng để qua ít
nhiều từ ngữ đưa ra mệnh lệnh cho tôi. Nhưng tôi chẳng việc gì phải sốt ruột.
Sự bộc lộ, có thể tới trong năm, mười, hay hai mươi năm nữa. Cái quan trọng
nhất không phải là nó sẽ tới mà là tôi tin chắc nó có thể tới. Bất cứ lúc nào
hay thậm chí chẳng bao giờ.
MÙI VỊ VÀ KHÚC XƯƠNG
Chắc chắn thế giới này được cấu tạo từ xương và mùi vị. Khi tôi mạnh
hơn thế giới, vì một lý do bí ẩn không thể giải thích nào đó, nó được làm từ
xương. Còn khi thế giới mạnh hơn tôi, do những lý do khác cũng không kém
phần bí ẩn, nó được hình thành từ các mùi vị. Trong trường hợp đầu, một
hiện tượng thu gọn đến quyết liệt xảy ra, thế giới không biến ra cái gì khác
ngoài một khúc xương. Trong trường hợp thứ nhì, có một cơn nổ bùng sững
sờ đến ngây người, thế giới là hàng triệu, hàng triệu triệu mùi vị. Việc thế giới
giản lược thành một khúc xương sẽ xuất hiện những cảm giác có phần nào
hơi khó chịu và những biểu hiện như: đám lông dựng đứng, tôi nghiến răng,
sủa, sùi bọt mép, tôi tấn công, cắn xé. Cơn nổ bùng của mùi vị cũng đi kèm
với hành vi đặc biệt như rúc mũi xuống đất, tôi lần theo từng thứ mùi một, cái
nọ nối cái kia, cả một mênh mông mùi vị làm nên hiện thực, hoặc tôi ngồi lên
hai chân sau, đầu ngẩng cao, lỗ mũi nở rộng phân biệt vô số những bức
thông điệp dành cho khứu giác đập vào từ mọi hướng cùng niềm thích thú
hoan lạc.
Vẻ đa dạng của mùi vị thật không có chỗ tận cùng. Có mùi vị của loài
bốn chân như mèo, chó, ngựa; hai chân như con người; trườn bò như rắn;
bay bổng như chim, ngoe nguẩy bơi như cá; sống thành bầy đàn như ong,
kiến cùng đủ loại côn trùng. Có mùi vị của sắc màu diệp lục như cỏ, sắc lơ
như bầu trời, sắc vàng như vầng dương, sắc đỏ như huyết. Mùi vị chuyển
động như chớp được gọi là máy bay, ô tô, xe đạp, thằn lằn, thỏ rừng, mùi vị
phát ra tiếng ồn như ra-di-ô, máy hát, chuông, giống ong bắp cày, mùi vị im
ắng như các đồ vật kê trong nhà lúc chẳng có ai và những căn phòng ngập
tràn bóng tối.
Tất nhiên có những loại mùi tốt và những loại mùi dở. Chẳng cần phải
nhiêu khê vẽ ra một danh mục không thích hợp, tôi chỉ nói rằng mùi tốt là
những thứ gần với mùi của sự thối rữa nhất, còn mùi dở thì ít giống nó hơn.
Tuy nhiên, không phải là có một thang đo tuỳ tiện nào đó cho các giá trị.
Trong thực tế, sự thối rữa đồng nghĩa với phẩm tính, nói thế bởi vì bề dài của
thời gian là không thể thiếu được cho sự phát triển của phẩm tính, tức là của
sự mục nát thối rữa. Sự thực của vấn đề ở chỗ: không thể đạt đến một độ xác
định của thối rữa, tức là không thể thu lấy một phẩm tính mang khả năng
được công nhận theo sự thực ấy. Tất cả trong một khoảnh khắc, mà thời gian
luôn vận hành. Trong cuộc sống, những đứa trẻ và đám đồ vật mới không hề
có mùi vị hay là không có phẩm tính, bên cạnh đó, một người già hoặc một
tấm thảm đầy bụi bặm cỡ thế kỷ thì toả ra vô số những mùi vị hoà quyện nhau
phảng phất, điều ấy có nghĩa chúng hay họ rất phức tạp và mang những
phẩm tính thâm thuý.
Tôi xin lấy một ví dụ. Chiếc tất của cô chủ nhỏ tuổi nằm trên sàn, tôi
bước tới, hít hà và như tan biến trong hàng triệu mùi hương, cứ mùi sau hấp
dẫn hơn mùi trước. Nhưng bỗng nhiên, một cánh tay của người hầu gái vung
qua trước mũi nhặt mất chiếc tất. Thế là không còn bất cứ mùi vị nào nữa,
chẳng còn bất cứ cái gì, thế giới đã biến ra một khúc xương và tôi là một con
chó đối với kẻ nào sở hữu khúc xương ấy, là con vật sẽ chống đối lại bằng
mọi giá, sẵn sàng tấn công, cắn xé tơi bời.
Có thể với các bạn tất cả điều này phần nào hơi nặng chất triết lý.
Nhưng nếu các bạn biết được cái xó hiện nay, ở đây tôi phát hiện ra sở
trường của mình, các bạn sẽ hiểu nguyên cớ cho thứ triết học ấy. Đấy là triết
học của tuyệt vọng. Tóm lại, tôi đã bị nhốt trong một cái lồng ở khu chuồng
chó thành phố hai ngày nay, bị theo dõi xem vô tình có mắc bệnh dại không?
Bệnh dại, nếu các bạn không hiểu, thì đấy là một trạng thái tinh thần điên loạn
giận dữ. Một con chó chỉ ngã bệnh khi, vì một lý do riêng tư nào đó, nó tin
chắc chắn và tuyệt vọng rằng không còn một mùi vị nào nữa, chưa từng có
một mùi vị nào cả, rằng thế giới chỉ là một khúc xương, không gì khác ngoài
một khúc xương ghê rợn, kỳ hình dị tướng, vô tri vô giác, khổng lồ, thô thiển.
Và đấy là lý do làm sao tôi lại ở đây cùng câu chuyện muốn kể lại cho các
bạn.
Tôi phải quay lại từ mối quan hệ với cô chủ nhỏ tuổi. Tôi là con chó của
cô chủ, cô là cô chủ nhỏ của tôi. Nòi vậy muốn cắt nghĩa rằng trước vô vàn
các mùi vị, tất cả đều hấp dẫn, cô chủ nhỏ có một mùi vị mạnh hơn với một
mức độ rõ rệt nhất, ấy là "mùi chủ". Đương nhiên cha cô, mẹ cô, chị cô cũng
có cái "mùi chủ" của riêng mỗi người, nhưng mùi cô chủ nhỏ đượm hơn họ.
Tôi sẽ không dừng bước mô tả đến tận chi tiết mối quan hệ giữa tôi và cô gái
nhỏ vô cùng quyến rũ này. Lẽ ra tôi nên liệt kê từng thứ một vô vàn những
mùi hương toả ra mạnh mẽ và bất tận từ Con người cô, suốt các đầu ngón
chân đến mái tóc. Nhưng tôi chỉ muốn viết ra đây một sự phi thường duy
nhất, đấy là việc nhận thức các mùi vị của cô đã mở ra cho tôi cánh cửa thế
giới, hay có thể nói rằng thế giới đã hiển lộ ra cho tôi như bằng sự thông cảm,
vô vàn những mùi vị khác nhau, những mùi vị mà theo cách định tên thông
thường gọi là hiện thực. Chẳng hạn như tôi thường theo cô chủ nhỏ đi bộ vào
công viên, một cuộc dạo chơi mà tiện thể cô tiến hành vì lợi ích của tôi, để
cho tôi có thể duỗi chân thực hiện những nhu cầu tự nhiên. Thế rồi quả là kỳ
diệu, cứ như thể ranh giới giữa mùi vị của cô và những vật thể tồn tại nơi thế
giới bên ngoài kia bỗng nhiên biến mất, tôi cảm thấy lỗ mũi mình đã thâm
nhập, có thể nói, từ việc nhận thức CÁI RIÊNG BIỆT sang một nhận thức rất
khó diễn tả, về CÁI TOÀN THỂ.
Vâng, đúng là tôi đã gắn bó với những mùi vị của cô chủ khăng khít đến
mức bản thân như không tồn tại, và như thế, việc đi từ mùi hương đầu tiên
đến mùi vị của mặt trời ấm áp, chứa chan ánh sáng có thể nói không còn chút
khó khăn nào nữa. Tôi biết mình không thể lý giải nổi bản thân một cách rõ
ràng. Tuy nhiên vẫn đủ tự tin để phát biểu rằng cái thứ tình yêu mà con người
nói tới quá nhiều thường không hơn gì một bức tranh biếm hoạ thô thiển so
với cảm giác của một con chó có thể trải nghiệm khi bước sau cô chủ của nó
trong công viên một ngày đẹp trời chan hoà ánh nắng.
Thế rồi bất ngờ cô chủ nhỏ của tôi đính hôn với một gã đàn ông trẻ tuổi
tên là Piero. Gã là một luật sư chuyên nghiệp, người ngợm cực kỳ sạch sẽ,
tuy nhiên và cũng vì thế, gã không có phẩm tính. Việc đính ước khiến cô chủ
quên mất con chó của mình, cô đã quên mất rằng đối với nó cô là chiếc cầu
liên lạc duy nhất nối với thế giới. Như tôi đã tả, chồng chưa cưới của cô sạch
sẽ một cách đáng ghê tởm, luôn lẵng nhẵng theo cô. Từ ngày đính ước, cô
chủ nhỏ của tôi không bao giờ còn thuộc về tôi nữa, gã đàn ông kia đi dạo
cùng chúng tôi, gã có mặt trên xe, có mặt bên bàn ăn, trong các cửa hiệu, có
mặt trong chính ngôi nhà của gã (ở đó, họ nhốt tôi ngoài sân hiên hàng tiếng
đồng hồ). Gã theo về nông thôn, đi ra biển, khắp mọi nơi. Ai đó có thể phản
đối tại sao lại không thân thiện với gã? Vì dù thế nào gã cũng là người không
mùi vị, hoặc khó khăn lắm mới có chút ít, vả lại bên cạnh đó gã thiếu mất một
mùi quan trọng bậc nhất, tôi muốn nhắc đến "mùi chủ".
Sau chuyện đó, điều đầu tiên là sự biến đổi ngày một tăng lên, hầu như
khó nhận thấy. Với tôi thế giới đã mất đi tất cả mùi vị của nó, cứ từng cái từng
cái một. Cuối cùng, nó đã biến ra một khúc xương trơ trụi không sao chịu nổi.
Đã từng có hàng triệu mùi hương, tất cả đều phù du, hoà quyện tinh tế, đượm
nồng mà phảng phất. Khúc xương là một thứ đơn côi, ảm đạm, dị dạng,
khổng lồ và ác độc. Làm một phép so sánh thì mùi vị tựa như âm nhạc tràn
đầy vô số hoà điệu, còn khúc xương chỉ giống một cú đập đơn nhất, ủ rũ và
tàn nhẫn lên mặt trống. Tương tự như thế, tôi đã trôi tuột từ cơn mê ly đích
thực hít hà các mùi vị đến nỗi giận dữ gây ra bởi khúc xương. Đúng là cả thế
giới đã biến ra một khúc xương và họ muốn bứt nó ra khỏi tôi. Tôi phải giành
giật lại nó bằng mọi giá. Cũng kỳ lạ, cơn giận dữ này câm lặng và không có
một dấu hiệu nào bộc lộ ra ngoài. Tôi đang giận dữ đến điên đại mà không
một ai nhận ra.
Lễ cưới đã đến. Ngôi nhà ngập tràn khách khứa, tất cả bọn họ đều là
những khúc xương, hoàn toàn không có mùi vị gì, không gì khác ngoài xương
xẩu. Tôi lang thang chỗ này chỗ nọ, loanh quanh bên tất cả những cặp chân
bọn họ, thậm chí chẳng buồn hít ngửi chúng nữa. Đằng nào thì tôi cũng
chẳng ngửi được bất cứ thứ gì, do vậy cơn giận dữ đang bùng dậy trong tôi.
Có một ai đó cúi xuống vuốt ve, rồi một ai đó nữa cho tôi cái đá, với tôi tất cả
đều như nhau. Rõ ràng tôi đang trong quá trình nạp đầy mình cơn giận dữ
tựa như cỗ máy hơi nước chịu áp lực. Tôi không nhìn, không ngửi hay nhận
thức bất cứ điều gì. Tôi chỉ bối rối trước cơn giận dữ đang tăng lên vì toàn cả
thế gian lúc này là một khúc xương trước mắt tôi, và tôi sợ bị mất nó. Do vậy
khắp mồm và quai hàm như giục giã khẩn thiết, đã vài lần tôi phải rất khó
khăn mới kiềm chế được bản thân khỏi tấn công, cắn xé.
Tấn công và cắn xé ai? Không biết! Thì một ai hoặc một thứ gì đó, vào
lúc này muốn tước đoạt thế giới của tôi, tức là tước đoạt cái khúc xương
khổng lồ, thiếu cân xứng do thế giới biến ra cho tôi. Nhưng ngay lúc đó, tôi
cảm thấy là đến tận buổi tối hôm qua, với tôi, thế giới vẫn là cô chủ nhỏ tuổi,
chỉ cô thôi, không gì khác. Cô, người với vô vàn mùi vị, đã giúp tôi, đã chuẩn
bị cho tôi nhận thức toàn cả hoàn vũ. Và tôi lờ mờ nhận thấy kẻ ăn cướp khúc
xương kia chính la tay chú rể. Bỗng nhiên điều nghi hoặc này trở nên rõ ràng,
tôi đỏ mắt lên đầy thù hận và bắt đầu tìm kiếm thù nhân.
Đến đây, việc mô tả bản thân có lẽ cũng là một điều hợp lý. Tôi là một
võ sĩ lông nâu đốm, hung hung với những vệt màu đen. Phần thân sau mảnh
mai, duyên dáng, còn phần trước lại lực lưỡng. Mồm tôi đen sì, hình dạng
như con rồng xứ Trung Hoa, những nếp nhăn lượn vòng, sâu hoắm trên đầu
và quanh mép tạo nên vẻ sầu thảm. Thế nhưng tôi lại có cái cổ lực lưỡng như
cổ bò đực, răng nanh dưới chọc lên trên, cặp mắt đỏ nọc, bất động, tất cả tạo
nên một tướng mạo đáng kinh hãi. Tôi là giống chó săn, nếu đã cắn không
bao giờ để thoát con mồi. Tôi không thương xót, tôi lôi, tôi xé, tôi cắt nát... Và
ở đây, tôi đang đi tìm tay chú rể. Cuộc tìm kiếm chẳng mất bao thời gian.
Trong một căn phòng nhỏ nằm tách biệt, tôi tìm thấy đôi tình nhân. Cô chủ
đứng trước gương, còn tay chú rể đứng phía sau bận rộn chỉnh lại cái khoá
kéo đằng lưng chiếc váy.
Tôi không sủa, không tru, không gây một tiếng động. Bỗng nhiên cùng
với một động tác lao lên không kìm lại được, tôi nhảy bổ vào gã. Theo bản
năng tôi nhắm vào cổ gã, còn gã, cũng theo bản năng đưa tay lên che mặt tự
vệ. Tôi cắn vào tay gã, sâu hoăm hoắm và để nguyên hàm răng ở đó vài giây.
Răng tôi ngập ngụa trong máu và thịt. Rồi cô chủ kêu khóc, mọi người chạy
tới. Họ nắm lấy tôi, giằng ra và mang đi mất.
Thế là giờ đây tôi có mặt ở chốn này, trong một cái lồng của khu nhốt
chó thành phố và bị theo dõi. Tôi biết cái gì đang chờ đợi mình, hoặc là thế
giới trở nên tự do, đầy hương vị, đa dạng và mở rộng với tôi để tôi quay về
nhà, hoặc nữa nó tiếp tục là một khúc xương, không gì khác ngoài một khúc
xương mà trong cơn giận dữ tôi đã lo sợ mất nó, thế để rồi ít ngày sau sẽ bị
tống vào buồng hơi ngạt. Lựa chọn cái gì cũng không giải thoát được, vì
chính ngay lúc đó, với tất cả mọi cố gắng tôi vẫn không thể thành công trong
việc nhận ra bất cứ loại mùi vị nào. Vâng. Thế giới là một khúc xương, tôi đã
cắn ngập hàm răng mình vào nó và tôi thà chết chứ không đời nào nhả ra
nữa.
MỤC LỤC1. Tuân lệnh
2. Thiên sứ
3. Trung bình
4. Đa thị
5. Tỉnh dậy đi
6. Đúng vậy
7. Cô em vợ
8. Cuộc săn đuổi
9. Bước đường cùng
10. Rời rạc
11. Carlo anh biết tôi rồi
12. Cây Giu đa
13. Đừng giả bộ bi thảm
14. Enrica Baile
15. Tại sao, ai nói thế
16. Như nhau
17. Đa nghĩa
18. Tư ngữ là một bầy cừu
19. Những bản sao
20. Một lương tâm không mắc míu
21. Những tạo vật có tính sinh trưởng
22. Con quái vật
23. Hoà nhịp
24. Kẻ nói lắp
25. Con người của quyền lực
26. Ngài Proto
27. Mùi vị và khúc xương
---//---
CON QUÁI VẬT
(Tập truyện ngắn)
Tác giả: ALBERTO MORAVIA
HÀN THỦY GIANG dịch
NHÀ XUẤT BẢN HỘI NHÀ VĂN
65 Nguyễn Du, Hà Nội - Tel/Fax: 8.222.135
Chịu trách nhiệm xuất bản: NGUYỄN PHAN HÁCH
Biên tập: PHẠM SÔNG HỒNG
Vẽ bìa:
Trình bày:
Sửa bản in:
In 700 cuốn, khổ 13 x 19cm tại Công ty in Ba Đình Thanh Hóa. Giấy đăng ký
kế hoạch xuất bản số: 104/1535/CXB. Số in 1613. In xong và nộp lưu chiểu
tháng 7 năm 2000.