Upload
vanphuc
View
236
Download
5
Embed Size (px)
Citation preview
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC
Tác giả: NGÔ ĐÌNH QUA
LỜI NÓI ĐẦU
Trong chương trình đào tạo bậc đại học của Khoa Tâm tý Giáo dục, Đại
học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, học phần Phương pháp nghiên cứu
khoa học giáo dục được thiết kế nhằm trang bị kiến thức hình thành kỹ năng,
thái độ cho sinh viên để họ có thể thực hiện một công trình nghiên cứu khoa
học giáo dục, một khóa luận tốt nghiệp đại học. Học phần này gồm 4 đơn vị
học trình, trong đó số tiết lý thuyết: 40, số tiết thực hành: 20.
Trong giới hạn thời gian đó, tập tài liệu này được biên soạn nhằm giúp
giảng viên và sinh viên thực hiện mục tiêu học tập của học phần. Nội dung tài
liệu được sắp xếp thành 8 chương với tên chương và mục tiêu cụ thể của một
chương như sau:
Chương 1: Phương pháp làm nghiên cứu khoa học
+ Về kiến thức, sau khi học xong chương này, sinh viên có thể.
- Giải thích được các khái niệm phương pháp luận nghiên cứu khoa
học, phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục (KHGD)
- Phân biệt được hệ thống ba bậc của lý luận về phương pháp
- Hiểu được ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học giáo dục
- Hiểu được cơ sở phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục.
+ Về kỹ năng, sinh viên vận dụng được các quan điểm phương pháp
luận trong suốt quá trình nghiên cứu một công trình.
Chương 2: Khái niệm và phân loại trong nghiên cứu khoa học
+ Về kiến thức, sau khi học xong chương này, sinh viên có thể.
- Giải thích được khái niệm nghiên cứu khoa học
- Mô tả cách phân loại trong nghiên cứu khoa học
- Kể tên các phương pháp nghiên cứu.
+ Về kỹ năng, sinh viên xác định được loại nghiên cứu khi biết tên đề
tài
Chương 3: Trình tự tiến hành một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục
+ Về kiến thức, sinh viên cần đạt được những lĩnh vực sau:
- Biết các giai đoạn của một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục
- Biết các công việc cần làm trong từng giai đoạn
+ Về kỹ năng, sinh lên có thể.
- Vận dụng các quan điểm phương pháp luận để chọn, xác định và giới
hạn một đề tài nghiên cứu khoa học giáo dục.
Soạn được một đề cương nghiên cứu cho đề tài mình đã giới hạn.
+ Về thái độ sinh viên cần có thái độ tích cực làm các bài tập thực hành
trong chương để bước đầu có được một số kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Chương 4: Phương pháp và phương tiện nghiên cứu
+ Về kiên thức, sinh viên biết những nội dung cần làm khi xây dựng, sử
dụng những phương tiện, phương pháp nghiên cứu cụ thể.
+ Về kỹ năng, sinh viên hình thành được kỹ năng soạn bảng bút vấn
Chương 5: Phương pháp nghiên cứu lịch sử giáo dục
+ Về kiến thức, sinh viên:
- Phân biệt được đề tài nghiên cứu lịch sử giáo dục với các loại đề tài
khác.
- Phân biệt được tài liệu hạng nhất (tài liệu gốc) với tài liệu hạng nhì.
- Biết cách thu thập tài liệu và chứng tích lịch sử.
- Trả lời được như thế nào là phê khảo hình thức cà phê khảo nội dung
một tài liệu lịch sử giáo dục.
+ Về kỹ năng, sinh viên:
- Chọn, xác định và giới hạn được một đề tài nghiên cứu lịch sử giáo
dục.
- Xây dựng được giả thuyết nghiên cứu phù hợp với đề tài nghiên cứu
lịch sử giáo dục của mình.
Chương 6. Nghiên cứu mô tả
+ Về kiến thức, sinh viên:
- Biết được ba loại nghiên cứu mô tả thông dụng: Khảo sát hiện trạng,
nghiên cứu tương quan và nghiên cứu phát triển. Biết được các loại khảo sát
thông dụng trong khảo sát hiện trạng giáo dục: Khảo sát học đường, phân
tích công tác, phân tích tài liệu thăm dò dư luận, khảo sát địa phương; và nội
dung công việc cần làm trong từng loại khảo sát nói trên.
- Hiểu được nội dung của ba loại nghiên cứu tương quan thông dụng là
nghiên cứu trường hợp đặc thù, nghiên cứu đối chiếu tương quan nhân qủa
Và nghiên cứu liên hệ
- Hiểu nội dung của các loại nghiên cứu phát triển gồm nghiên cứu tăng
trưởng và nghiên cứu khuynh hướng phát triển (nghiên cứu dự báo)
+ Về kỹ năng, sinh viên vận dụng một số nghiên cứu mô tả vào bài tập
nghiên cứu của mình.
Chương 7. Nghiên cứu thực nghiệm
+ Về kiến thức, sinh viên:
- Kể tên được các giai đoạn của một công trình nghiên cứu thực
nghiệm giáo dục.
- Phân tích được những điểm căn bản của một thực nghiệm giáo dục.
+ Về kỹ năng, sinh viên:
- Chọn, xác định, giới hạn được một đề tài nghiên cứu thực nghiệm
giáo dục.
- Nêu và phân tích được giả thuyết thực nghiệm.
Chương 8. Cách trình bày một công trình nghiên cứu
Chương này có mục tiêu là giúp sinh viên có kiến thức và kỹ năng trình
bày một công trình nghiên cứu, một khóa luận tốt nghiệp đại học.
Phần phụ lục giới thiệu thang điểm đánh giá khóa luận tốt nghiệp đại
học do Khoa Tâm lý Giáo dục biên soạn năm 2003 nhằm giúp các bạn sinh
viên biết được những tiêu chuẩn đánh giá, từ đó có những chuẩn bị cần thiết
trong việc thực hiện khóa luận. Trong khuôn khổ số trang bị hạn chế của tài
liệu phục vụ việc giảng dạy và học tập một học phần 4 đơn vị học trình, soạn
giả không thể trình bày tài liệu phục vụ việc tự học không có sự hướng dẫn.
Vì vậy, khi theo học học phần này, sinh viên có thể đọc trước tài liệu trả lời
câu hỏi, làm bài tập thực hành ở nhà, nhưng cũng cằn phải đến lớp để nghe
giảng viên giảng giải những chỗ khó hiểu và sửa những bài tập thực hành.
Với mục tiêu học để biết để hiểu và để làm, soạn giả nghĩ rằng nếu sinh
viên chịu khó lĩnh hội kiến thức trong con đường tự học. nghe giảng và hợp
tác với bạn; hình thành kỹ năng theo cách thực hiện những bài tập thực hành
trong tập tài liệu này thì khả năng thực hiện tốt một khóa luận tốt nghiệp dễ
trở thành hiện thực.
Mặc dù đã cố gồng biên soạn, song tài liệu khó tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy, soạn giả rất mong nhận được sự góp ý chân thành của quý đồng
nghiệp cùng các bạn sinh viên.
Soạn giả Ngô Đình Qua
Chương 1. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể đạt được:
1. Về kiến thức- Giải thích được khái niệm phương pháp luận nghiên cứu khoa học,
phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC.
- Phân biệt được hệ thống ba bậc của lý luận về phương pháp.
- Hiểu được ý nghĩa của việc nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC.
- Hiểu được cơ sở phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO
DỤC.
2. Về kỹ năng- Vận dụng các quan điểm phương pháp luận trong suốt quá trình
nghiên cứu một công trình.
NỘI DUNGI. Phương pháp luận nghiên cứu khoa họcPhương pháp luận nghiên cứu khoa học là một lý thuyết bao gồm các
bộ phận sau:
1. Hệ thống các luận điểm chung nhất với tư cách là những quan
điểm, những cách tiếp cận, chỉ đạo quá trình tố chức và nghiên cứu khoa học.
2. Hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa họcPhương pháp nhận thức là quá trình phản ánh cái khách quan vào ý
thức chủ quan của con người. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học đề
cập tới:
- Cơ chế sáng tạo khoa học.
- Logic và kỹ thuật nghiên cứu
- Kỹ năng thực hiện hoạt động nghiên cứu khoa học.
3. Lý thuyết về quá trình tổ chức, quản lý, thực hiện và đánh giá một công trình khoa học.
II. Phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC
Phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC là lý thuyết về
phương pháp nghiên cứu các hiện tượng giáo dục để tìm ra các quy luật giáo
dục, từ đó vận dụng vào việc giải quyết các vấn đề của thực tiễn giáo dục.
Phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC có hai chức
năng:
1. Chức năng thế giới quanVới chức năng này, phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO
DỤC phân tích các quan điểm và cách tiếp cận hiện tượng giáo dục nhằm
hướng dẫn quá trình sáng tạo của các nhà giáo dục.
2. Chức năng nhận thức các hiện tượng giáo dụcVới chức năng này, phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO
DỤC đề cập tới các phương pháp nghiên cứu hiện tượng giáo dục bao gồm
cả lý thuyết về cấu trúc logic của một công trình khoa học và các giai đoạn
tiến hành một công trình khoa học cụ thể.
Ý nghĩa của phương pháp luận trong nghiên cứu khoa học
Quan điểm của V.I Lê-nin chỉ cho ta ý nghĩa của phương pháp luận
trong nghiên cứu khoa học: “Người nào bắt tay vào việc giải quyết những vấn
đề riêng trước khi giải quyết những vấn đề chung thì người đó trong mỗi
bước đi sẽ không tránh khỏi những vấp váp một cách không tự giác”
III. Hệ thống ba bậc của lý luận về phương phápTrong hệ thống thứ bậc của lý luận về phương pháp, bậc thấp nhất có
tên gọi là phương pháp hay là phương pháp nghiên cứu cụ thể.
1. Phương phápPhương pháp nghiên cứu là tổ hợp các cách thức mà nhà khoa học sử
dụng để tác động, khám phá đối tượng.
Phương pháp nghiên cứu được nhìn nhận ở hai mặt: khách quan và
chủ quan vì phương pháp nghiên cứu khoa học là những quy luật nội tại của
sự vận động của tư duy với tư cách là sự phản ánh chủ quan của thế giới
khách quan, là những quy luật khách quan được chuyển dịch vào ý thức con
người và được sử dụng một cách có ý thức và có hệ thống như một phương
tiện để giải thích và cải tạo thế giới.
Ý thức của chủ thể cũng là mặt chủ quan của phương pháp. Nhà
nghiên cứu lựa chọn phương pháp này hay phương pháp kia, điều đó phụ
thuộc vào trình độ kinh nghiệm và khả năng thực hành của họ. Mặt khách
quan còn thể hiện ở chỗ: Việc lựa chọn phương pháp phụ thuộc vào mục
đích, nhiệm vụ nghiên cứu, đặc điểm của đối tượng mà ta cần khám phá.
Bậc cao hơn phương pháp là phương pháp hệ.
2. Phương pháp hệPhương pháp hệ là nhóm các phương pháp được sử dụng trong một
lĩnh vực khoa học hay đề tài cụ thể. Các phương pháp này hỗ trợ, bổ sung và
kiểm tra lẫn nhau trong quá trình nghiên cứu để khẳng định tính chân thực
của các luận điểm khoa học.
3. Phương pháp luậnTheo nghĩa hẹp, phương pháp luận là lý luận tổng quát là những quan
điểm chung, là cách tiếp cận khoa học.
Những quan điểm phương pháp luận là kim chỉ nam hướng dẫn nhà
khoa học con đường tìm tòi nghiên cứu. Có những quan điểm phương pháp
luận chung cho nhiều ngành khoa học, cũng có những quan điểm riêng, đặc
thù của một lĩnh vực khoa học gọi là phương pháp luận chuyên ngành.
Nếu trong khoa học tự nhiên, việc nghiên cứu có thể đi từ phương pháp
cụ thể sau đó mới xuất hiện nhu cầu về phương pháp luận, thì trong khoa học
xã hội bao giờ cũng có quan điểm dẫn đường, cho nên vai trò của phương
pháp luận là vô cùng to lớn.
IV. Ý nghĩa của việc nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC1. Ở cấp vĩ môỞ cấp này, các nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC nhằm tìm ra:
- Mối quan hệ chi phối giữa xã hội với giáo dục để xây dựng một chiến
lược giáo dục quốc gia.
- Một mô hình giáo dục
- Một hệ thống giáo dục quốc dân
- Một chính sách giáo dục và cơ chế quản lí phù hợp
- Mục tiêu giáo dục hợp lí.
2. Ở cấp vi môỞ cấp này, nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC hướng tới việc:
- Xác định lại nội dung giáo dục cho phù hợp với mục đích.
- Tìm ra các phương pháp giáo dục tích cực, phát huy mọi tiềm năng
sẵn có của học sinh.
- Tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển nhân cách của học
sinh.
Kết quả nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC sẽ góp phần nâng cao hiểu
biết của các nhà sư phạm và kết quả đó sẽ được phổ biến rộng rãi trong xã
hội, sẽ đem lại lợi ích chung cho sự nghiệp giáo dục của chúng ta.
V. Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤCCơ sở phương pháp luận nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC là những
luận điểm chung có tính chất phương hướng, chỉ đạo quá trình nghiên cứu
KHOA HỌC GIÁO DỤC. Những luận điểm này còn gọi là phương pháp tiếp
cận hay quan điểm tiếp cận đối tượng. Quan điểm phương pháp luận có ý
nghĩa to lớn đối với quá trình nghiên cứu: sự thành công hay thất bại, chất
lượng cao hay thấp của công trình khoa học phần lớn phụ thuộc vào cách tiếp
cận đối tượng. Quan điểm phương pháp luận là một hệ thống có thứ bậc.
Quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Có những quan điểm chung
cho nhiều ngành và cũng có những quan điểm nghiên cứu riêng cho một
ngành cụ thể. Đối với KHOA HỌC GIÁO DỤC, người nghiên cứu cần quán
triệt những quan điểm dưới đây trong quá trình nghiên cứu của mình.
1. Quan điểm hệ thống – cấu trúc trong nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC
Khi nghiên cứu hiện tượng giáo dục theo quan điểm hệ thống – cấu
trúc ta cần chú ý:
a. Nghiên cứu hiện tượng đó một cách toàn diện, trên nhiều mặt dựa
vào việc phân tích đối tượng thành các bộ phận.
b. Xác định mối quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống để tìm
quy luật phát triển của hiện tượng giáo dục.
c. Nghiên cứu hiện tượng giáo dục trong mối tương tác với các hiện
tượng xã hội khác, với toàn bộ nền văn hóa xã hội.
d. Trình bày kết quả nghiên cứu rõ ràng, khúc chiết, theo một hệ thống
chặt chẽ có tính logic cao.
2. Quan điểm lịch sử trong nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤCQuan điểm lịch sử trong nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC chính là
việc thực hiện quá trình nghiên cứu đối tượng bằng phương pháp lịch sử, tức
là tìm hiểu, phát hiện sự nảy sinh, phát triển của giáo dục trong những khoảng
thời gian và không gian cụ thể, với những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể phát
hiện cho được quy luật tất yếu của quá trình giáo dục.
3. Quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤCQuan điểm này đòi hỏi nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC phải bám
sát thực tiễn, phục vụ cho sự nghiệp giáo dục của đất nước.
Những yêu cầu của thực tiễn giáo dục nhằm nâng cao chất lượng của
giáo dục và đào tạo là động lực thúc đẩy quá trình nghiên cứu. Bên cạnh đó,
thực tiễn giáo dục còn là quá trình tiêu chuẩn để đánh giá các kết quả nghiên
cứu giáo dục. Các kết quả nghiên cứu sẽ được ứng dụng nhằm cải tạo thực
tiễn giáo dục. Vì vậy thực tiễn giáo dục là nguồn gốc, động lực, tiêu chuẩn và
mục đích của toàn bộ quá trình nghiên cứu khoa học.
Để vận dụng quan điểm thực tiễn, khi nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO
DỤC cần lưu ý những điểm sau đây:
a. Phát hiện những mâu thuẫn, những khó khăn, cản trở trong thực tiễn
giáo dục và lựa chọn trong số đó những vấn đề nổi cộm, cấp thiết để làm đề
tài nghiên cứu. Như vậy, đối tượng nghiên cứu sẽ là một trong những vấn đề
của thực tiễn khách quan có nhu cầu cấp thiết phải nghiên cứu và giải quyết.
Những vấn đề của thực tiễn giáo dục hiện nay thường là:
- Tổ chức cơ cấu của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Cải tiến, tìm tòi những phương pháp dạy học mới.
Tìm ra các hình thức tổ chức giáo dục phù hợp với hứng thú của lứa tuổi HS
- Vấn đề tổ chức, quản lí giáo dục.
b. Làm cho lý luận và thực tiễn gắn bó với nhau.
Câu hỏi:1. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là gì? Nội dụng của phương
pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục gồm những gì ?
2. Trình bày hệ thống ba bậc của phương pháp nghiên cứu khoa học.
3. Trình bày nội dung các quan điểm phương pháp luận cơ bản trong
nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC.
4. Hãy chỉ ra cách thức để vận dụng các quan điểm phương pháp luận
vào việc thực hiện một đề tài cụ thể.
Chương 2. Khái niệm và phân loại trong nghiên cứu khoa họcMỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương trình này, SINH VIÊN có thể đạt được:
1. Về kiến thức- Giải thích được khái niệm nghiên cứu khoa học
- Mô tả cách phân loại trong nghiên cứu khoa học
- Kể tên các phương pháp nghiên cứu.
2. Về kỹ năng- Xác định được loại nghiên cứu khi biết tên đề tài
3. Về thái độ- Tích cực tiếp thu kiến thức, rèn luyện kỹ năng để có thể thực hiện một
công trình nghiên cứu cá nhân.
NỘI DUNGI. Khái niệm nghiên cứu khoa học
Thế nào là nghiên cứu khoa học? Cho đến nay, các tác giả đều chưa
có câu trả lời thống nhất cho câu hỏi này. Bởi vì nghiên cứu có thể là hoạt
động nhận thức hay tư duy của con người trong sinh hoạt hằng ngày, trong
lao động sản xuất, hoạt động xã hội, nhưng nó cũng có thể là công việc của
các nhà khoa học trong phòng thí nghiệm với các trang thiết bị tinh vi.
Trong cuộc sống đời thường, trong học tập, bạn có bao giờ có những
thắc mắc, những băn khoăn chưa giải đáp được không? Nếu có, bạn hãy viết
ra dưới dạng câu hỏi:
Những câu hỏi mà bạn vừa nêu có thể thuộc những dạng sau: Ai? Ở
đâu? Khi nào? Tại sao? Làm cách nào? Như thế nào?... Chẳng hạn như
những câu hỏi: Tại sao học sinh ngày nay đi học thêm nhiều hơn trước đây?
Những tác hại của áp lực học tập quá căng thẳng là gì? Làm cách nào để
khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan?
Tiếp theo, bạn hãy nêu cách thức mà bạn dự định sẽ dùng để tìm câu
trả lời cho những câu hỏi ấy. (Lưu ý: nêu cách thức dùng để tìm câu trả lời
chứ không cần trả lời; mỗi cách được diễn tả ngắn gọn bằng một dòng với
gạch đầu dòng)
Những cách thức mà bạn sử dụng có thể là:
- Sử dụng vốn kiến thức hiện có của mình
- Hỏi người khác
- Đọc sách
- Tri giác sự vật hiện tượng
- Nêu giả thiết và kiểm chứng giả thuyết
Với vấn đề dạy thêm, học thêm nêu trên, trong cuộc sống đời thường,
người ta có thể sử dụng vốn hiểu biết hiện có của mình để tự trả lời những
thắc mắc đã đặt ra. Với câu hỏi “Tại sao học sinh ngày nay đi học thêm nhiều
hơn trước đây?”, bằng vốn hiểu biết cá nhân, người ta có thể tự giải đáp: Vì
họ sinh muốn thi đỗ vào các trường chuyên, lớp chọn, muốn có một chỗ học
trong nhà trường đại học, cao đẳng. Với câu hỏi “Những tác hại của áp lực
học tập quá căng thẳng là gì?”, câu trả lời có thể là: Sức khỏe giảm sút, nhân
cách phiến diện, giảm khả năng tự lực trong học tập… Và “Làm cách nào để
khắc phục tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan?”, thì câu trả lời có thể là:
Cải tổ hệ thống giáo dục, chương trình học, chế độ tiền lương…
Trong cuộc sống đời thường, người ta có thể thôi không suy nghĩ nữa
sau khi đã tìm được câu trả lời. Nhưng trong khoa học, sau khi xuất hiện
những thắc mắc, người nghiên cứu phải chính xác hóa đề tài, xây dựng đề
cương, soạn thảo công cụ và triển khai nghiên cứu. Có nghĩa là họ phải tiến
hành một hoạt động có hệ thống nhằm tìm kiếm câu trả lời cho đề tài nghiên
cứu. Câu trả lời của nhà khoa học khác với câu trả lời trong cuộc sống đời
thường ở chỗ câu trả lời ấy phải được kiểm chứng thì công trình khoa học
mới có giá trị. Những câu trả lời cho vấn đề dạy thêm, học thêm trên đây
trong cuộc sống đời thường sẽ trở thành giả thuyết nghiên cứu đối với người
nghiên cứu và chúng sẽ phải được kiểm chứng bằng hiện thực khác quan.
Đến đây bạn có thể tự mình trả lời câu hỏi “Nghiên cứu khoa học là gì?
Vào những dòng chừa trống dưới đây, trước khi xem định nghĩa nghiên cứu
khoa học.
Nghiên cứu khoa học là một hoạt động có hệ thống nhằm đạt đến sự
hiểu biết được kiểm chứng.
Cần lưu ý rằng, sự hiểu biết được kiểm chứng ấy chính là chân lý, là
quy luật. Cho nên, có tác giả cho rằng: “Nghiên cứu khoa học là phát hiện
những hiện tượng, sự việc mới có tính chân lý trong hiện thực hoặc khám phá
những quy luật, nguyên lý mới trong hiện thực đó”. Quy luật, nguyên lý mới
hay tri thức mới là một yếu tố không thể thiếu trong một công trình khoa học.
Vì vậy, tác giả Dương Thiệu Tống định nghĩa: “Nghiên cứu khoa học là một
phương thức hoạt động trí tuệ nhằm khám phá, phát triển và kiểm chứng
những kiến thức mới mẻ”. Một công trình nghiên cứu dù hoàn hảo đến đâu
cũng chỉ đạt đến chân lý tương đối mà thôi. Bởi vì người nghiên cứu bao giờ
cũng bị giới hạn bởi hoàn cảnh lịch sử, kinh nghiệm, hiểu biết kỹ thuật. Trong
thực tiễn, con người luôn phát triển chân lý tương đối cho phù hợp với hoàn
cảnh hiện tại và tích lũy những chân lý tương đối để đi dần đến chân lý tuyệt
đối.
Tóm lại, ta có thể định nghĩa: nghiên cứu khoa học là một hoạt động có
hệ thống nhằm khám phá, phát triển và kiểm chứng những kiến thức mới mẻ.
Đối với người nghiên cứu, khi kê khai đăng ký đề tài, họ phải xác định
loại hình nghiên cứu của đề tài. Vì vậy, bạn cần phải biết có những loại hình
nghiên cứu khoa học nào.
II. Các loại hình nghiên cứu khoa họcHiện nay, các tác giả đều chưa thống nhất về cách phân loại hình
nghiên cứu khoa học, nhất là trong lĩnh vực KHOA HỌC GIÁO DỤC. Vì vậy,
tài liệu này giới thiệu với các bạn hai cách phân loại của tác giả Vũ Cao Đàm
và tác giả Dương Thiệu Tống
Theo tác giả Vũ Cao Đàm, trong các lĩnh vực khoa học (tự nhiên, xã
hội, kỹ thuật và công nghệ) hiện đang tồn tại ba loại hình nghiên cứu khoa
học. Đó là: nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và nghiên cứu triển
khai. Mỗi loại hình đều cho ta một loại sản phẩm đặc trưng.
1. Nghiên cứu cơ bảnNghiên cứu cơ bản (fundamental research) là những nghiên cứu nhằm
phát hiện bản chất và quy luật của các sự vật hoặc hiện tượng trong tự nhiên,
xã hội, con người.
Nghiên cứu cơ bản có thể được thực hiện bằng phương pháp nghiên
cứu lý thuyết hay còn được gọi là nghiên cứu tham khảo. Trong đó, người
nghiên cứu dựa trên những tiêu đề hoặc hệ tiền đề, xây dựng những khái
niệm, thực hiện các phán đoán, suy luận mà hình thành những lý thuyết về
một sự vật hoặc hiện tượng.
Nghiên cứu cơ bản cũng có thể được thực hiện bằng các phương pháp
như thí nghiệm, quan sát, đo đạc những biểu hiện, ảnh hưởng và tác động
của một quy luật chưa biết nào đó. Sau đó người nghiên cứu tính toán, phân
tích, xây dựng giả thuyết vừa mang tính định tính vừa mang tính định hướng
về quy luật rồi tiến hành thí nghiệm nhiều lần trong những điều kiện và tham
số khác nhau cho đến khi tính đúng đắn của giả thuyết được khẳng định hoặc
phủ định.
Kết quả của nghiên cứu cơ bản luôn là những phân tích lý luận, những
kết luận về quy luật, những định luật, định lý,… cuối cùng, trên cơ sổ những
nghiên cứu này, người nghiên cứu đưa ra những phát hiện, phát kiến, phát
minh, xây dựng nên những cơ sở lý thuyết có một giá trị tổng quát cho nhiều
lĩnh vực hoạt động.
Nghiên cứu cơ bản được phân thành hai loại: nghiên cứu cơ bản thuần
túy hoặc nghiên cứu cơ bản tự do và nghiên cứu cơ bản định hướng.
Sản phẩm của nghiên cứu cơ bản có thể là các phát kiến, công thức,
phát minh và thường dẫn đến một hệ thống lý thuyết có ảnh hưởng đến một
hoặc nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, chẳng hạn Newton phát minh định
luật hấp dẫn vụ trụ. Marrie và Pierre Curie phát hiện nguyên tố phóng xạ
radium.
Phát minh:Phát minh là sự phát hiện ra những quy luật, những tính chất hoặc
những hiện tượng của thế giới vật chất tồn tại một cách khách quan mà trước
đó chưa ai biết, nhờ đó làm thay đổi cơ bản nhận thức con người.
Ví dụ: định luật về sức nâng của nước do Archimede khám phá.
Đối tượng của phát minh là những hiện tượng, quy luật, tính chất của
thế giới vật chất đang tồn tại một cách khách quan, nhưng theo quy ước, thì
những trường hợp sau không được xem là các phát minh hoặc phát kiến:
- Phát hiện về địa lý tự nhiên, địa chất, tài nguyên và điều kiện thiên
nhiên.
- Phát hiện khảo cổ học.
- Phát hiện trong khoa học xã hội.
Nghiên cứu cơ bản thuần túyNghiên cứu cơ bản thuần túy còn được gọi là nghiên cứu cơ bản tự do
hoặc nghiên cứu cơ bản không định hướng. Đây là những nghiên cứu chỉ mới
nhằm mục đích duy nhất là tìm ra bản chất và quy luật của các hiện tượng tự
nhiên và xă hội để nâng cao nhận thức, chưa có sự vận dụng vào một hoạt
động cụ thể của con người.
Nghiên cứu cơ bản thuần túy (tự do, không định hướng) nói chung
mang tính chất cá nhân hoặc ít ra cũng do một nhà nghiên cứu có uy tín giữ
vai trò chủ yếu quyết định việc chọn lựa đối tượng nghiên cứu và tổ chức
công việc nghiên cứu một cách độc lập, có thể không phụ thuộc một cấp
quyết định nào.
Nghiên cứu cơ bản định hướngĐây là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến trước mục đích ứng dụng.
Loại nghiên cứu này còn được gọi là nghiên cứu thăm dò nhằm xác định
phương hướng nghiên cứu.
Có thể lấy ví dụ trường hợp Pasteur nghiên cứu tìm ra vắc-xin chủng
ngừa làm trường hợp điển hình cho loại nghiên cứu này. Sau khi Pasteur
khẳng định một số loại vi khuẩn là mầm gây bệnh cho người và súc vật, và
nhờ quan sát, ông phát hiện thấy những con vật bị nhiễm khẩn yếu lại có khả
năng đề kháng với bệnh cao hơn những con vật không bị nhiễm khuẩn.
Pasteur đã làm một loạt thí nghiệm để kiểm chứng giả thuyết của ông về một
quy luật gây bệnh do vi khuẩn. Đây là một nghiên cứu cơ bản định hướng.
Nghiên cứu này đã xác định rõ mục đích áp dụng là tìm cơ chế gây bệnh.
Ông đã nêu giả thuyết rằng: “Nếu cơ thể bị nhiễm vi khuẩn yếu, thì động vật
có khả năng đề kháng với loại bệnh do chính vi khuẩn đó gây ra”.
Hoạt động thăm dò địa chất mỏ cũng có thể xem là nghiên cứu cơ bản
định hướng, bởi vì nó nhằm khám phá quy luật (định tính và định hướng)
phân bố khoáng sản trong lòng đất. Hoạt động nghiên cứu này hướng vào
mục đích phục vụ nhu cầu khai thác khoáng sản.
UNESCO chia nghiên cứu cơ bản định hướng thành nghiên cứu nền
tảng (background research) và nghiên cứu chuyên đề (thematic research).
Nghiên cứu nền tảngNghiên cứu nền tảng là những nghiên cứu dựa trên các quan sát, đo
đạc để thu thập số liệu và dữ liệu nhằm mục đích tìm hiểu và khám phá quy
luật của tự nhiên, xã hội.
Thuộc loại hình nghiên cứu nền tảng có thể liệt kê một số dạng như:
nghiên cứu dịch tễ học trong y học nhằm mô tả sự phân bố sức khỏe trong
một cộng động dân cư; điều tra cơ bản tài nguyên và các điều kiện thiên
nhiên như điều tra địa chất, nghiên cứu đại dương, khí quyển, khí tượng, tổng
hợp các hóa chất, nghiên cứu bản chất vật lý, hóa học, sinh học của vật chất,
điều tra cơ bản về thực trạng chất lượng giáo dục của một nước…
Nghiên cứu chuyên đềNghiên cứu chuyên đề là nghiên cứu có hệ thống một hiện tượng đặc
biệt của tự nhiên, xã hội (ví dụ: bức xạ vũ trụ, gien di truyền, đào tạo giáo
viên, phương pháp dạy học, phương pháp giáo dục…)
Những loại nghiên cứu cơ bản định hướng thuộc dạng này không chỉ
dẫn đến những cơ sở lý thuyết quan trọng mà còn có thể dẫn đến những ứng
dụng có ý nghĩa lớn lao trong hoạt động kinh tế và các lĩnh vực khác nhau
của đời sống xã hội.
2. Nghiên cứu ứng dụngNghiên cứu ứng dụng (applied research) là sự vận dụng các quy luật từ
trong nghiên cứu cơ bản (thường là nghiên cứu cơ bản định hướng) để đưa
ra các giải pháp, có thể bao gồm công nghệ, sản phẩm, vật liệu, thiết bị.
Sản phẩm của nghiên cứu ứng dụng có thể là một giải pháp mới về tổ
chức, quản lý, xã hội hoặc công nghệ, vật liệu, sản phẩm,… giải pháp hữu
ích, sáng chế cũng là sản phẩm thuộc loại hình này.
Sáng chế là một dạng sản phẩm đặc biệt trong nghiên cứu ứng dụng.
Sáng chế là một giải pháp kỹ thuật mang tính mới (về nguyên lý kỹ thuật), tính
sáng tạo và áp dụng được (về mặt kỹ thuật thực hiện)
Vì sáng chế có khả năng áp dũng nên nó có ý nghĩa thương mại và
được bảo hộ pháp lý trong một phạm trù gọi là bảo hộ quyền sở hữu công
nghiệp.
3. Nghiên cứu triển khaiNghiên cứu triển khai là sự vận dụng các giải pháp thu được từ nghiên
cứu ứng dụng trên một quy mô rộng lớn.
Trong lĩnh vực KHOA HỌC GIÁO DỤC, tác giả Dương Thiệu Tống chia
ra bốn loại nghiên cứu : nghiên cứu lịch sử, nghiên cứu mô tả, nghiên cứu
thực nghiệm và nghiên cứu ứng dụng.
III. Các phương pháp nghiên cứu (phương pháp thu thập và xử lí thông tin)
Phần này chỉ giới thiệu sơ lược các phương pháp nghiên cứu theo một
hệ thống phân loại đã được nhiều tác giả mô tả. Theo đó, các phương pháp
nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC được chia thành ba nhóm: nhóm các
phương pháp nghiên cứu lý thuyết, nhóm các phương pháp nghiên cứu thực
tiễn và nhóm các phương pháp toán học. Những nội dung này sẽ được trình
bày kỹ ở những chương sau.
1. Các phương pháp nghiên cứu lý thuyết1.1. Phân tích và tổng hợp lý thuyếtPhân tích lý thuyết là tách tài liệu lý thuyết thành các đơn vị kiến thức,
cho phép ta có thể tìm những dấu hiệu đặc thù, cấu thúc bên trong của ly
thuyết. Từ đó ta có thể nắm vững bản chất của từng đơn vị kiến thức và của
toàn bộ lý thuyết. Trên cơ sở phân tích, ta chỉ chú ý đến những nét lơn,
những điểm khái quát của một hay nhiều lý thuyết để có thể phát biểu những
điều cô đọng, đại diện cho một hay nhiều lý thuyết. Phương pháp này được
người nghiên cứu sử dụng khi tham khảo tài liệu nhằm phác thảo lịch sử vấn
đề nghiên cứu cũng như cơ sở lý luận cho công trình nghiên cứu của mình.
1.2. Phân loại, hệ thống hóa lý thuyếtTrên cơ sở phân tích lý thuyết để tiến tới tổng hợp chúng, người ta phải
thực hiện quá trình phân loại kiến thức. Phân loại, hệ thống hóa lý thuyết là
sắp xếp tài liệu khoa học theo những vấn đề có cùng một dấu hiệu bản chất,
cùng một hướng phát triển. Phân loại làm cho nội dung lý luận từ phức tạp
trong kết cấu trở thành dễ nhận biết, dễ sử dụng theo những mục đích của đề
tài. Phân loại còn giúp ta nhìn thấy các quy luật tiến triển của khách thể, phát
triển của kiến thức. Từ quy luật được phát hiện, ta có thể dự đoán những xu
hướng tiếp theo.
1.3. Mô hình hóa
Mô hình hóa là phương pháp nghiên cứu các hiện tượng và quá trình
giáo dục vào mô hình của chúng, là sự nghiên cứu gián tiếp đối tượng giáo
dục.
Trong quá trình nghiên cứu, các hiện tượng và quá trình giáo dục được
tái hiện thông qua hệ thống mô hình thay thế nguyên bản trong quá trình nhận
thức. Mô hình đối tượng là hệ thống các yếu tố vật chất và ý niệm (tư duy).
Hệ thống mô hình giống đối tượng nghiên cứu và tái hiện những mối liên hệ
cơ cấu – chức năng, nhân – quả của các yếu tố đó.
Đặc tính quan trọng là mô hình luôn tương ứng với nguyên bản. Mô
hình thay thế đối tượng và bản thân nó cũng trở thành đối tượng nghiên cứu,
nó phục vụ cho việc nhận thức đối tượng.
Mô hình luôn tái hiện đối tượng giáo dục dưới dạng đơn giản hóa, tri
thức thu được nhờ có mô hình có thể chuyển sang nguyên bản.
Mô hình trong nghiên cứu lý thuyết có nhiệm vụ cấu trúc cái mới chưa
có trong hiện thực tức là mô hình các chưa biết đề nghiên cứu chúng, tạo nên
mô hình giả thuyết. Ví dụ, người nghiên cứu nêu giả thuyết: Hệ thống giáo
dục quốc dân Việt Nam hiện nay có nhược điểm và trở thành một trong các
nguyên nhân của tình trạng dạy thêm, học thêm tràn lan. Từ đó người nghiên
cứu xây dựng một mô hình hệ thống giáo dục mới khả dĩ mang lại hệ quả
giảm bớt tình trạng dạy thêm, học thêm.
2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn2.1. Quan sát sư phạmQuan sát sư phạm là phương pháp thu thập thông tin về quá trình giáo
dục, trên cơ sở tri giác trực tiếp các loại hoạt động sư phạm, cho ta những tài
liệu sống về thực tiễn giáo dục để có thể khái quát ra những quy luật nhằm
chỉ đạo quá trình tổ chức giáo dục thế hệ trẻ tốt hơn.
2.2. Điều tra giáo dụcĐiều tra giáo dục nhằm khảo sát một số lượng lớn các đối tượng
nghiên cứu ở một hay nhiều khu vực, vào một hay nhiều thời điểm. Điều tra
giáo dục nhằm thu thập rộng rãi các số liệu, hiện trạng để từ đó phát hiện các
vấn đề cần giải quyết, xác định nguyên nhân, chuẩn bị cho các bước nghiên
cứu tiếp theo
Có hai loại điều tra trong nghiên cứu giáo dục:
- Điều tra cơ bản trong giáo dục như điều tra đình độ học vấn của dân
cư trong một địa phương.
- Trưng cầu ý kiến là phương pháp tìm hiểu tâm trạng, nguyện vọng
của giáo viên, học sinh, phụ huynh học sinh và các lực lượng xã hội khác.
2.3. Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm giáo dụcTổng kết kinh nghiệm giáo dục bắt đầu từ việc phát hiện ra một sự kiện
nổi bật nào đó của thực tiễn giáo dục mà các giải pháp của nó đem lại kết quả
có giá trị thực tiễn hay lý luận và ngược lại giải pháp của nó đem lại những
hậu quả xấu. Như vậy, tổng kế kinh nghiệm giáo dục là tìm ra được các điển
hình tích cực hoặc tiêu cực để phổ biến, áp dụng và cũng để ngăn ngừa khả
năng lặp lại ở những khu vực khác.
2.4. Thực nghiệm sư phạmThực nghiệm sư phạm là phương pháp nghiên cứu nhằm chứng minh
giả thuyết thực nghiệm bằng những tác động sư phạm gồm một số tác nhân
điều khiển và đã được kiểm tra. Phương pháp này sẽ được trình bày kỹ ở
chương 7
2.5. Phương pháp lấy ý kiến chuyên giaĐó là phương pháp thu thập thông tin khoa học, nhận định, đánh giá
một sản phẩm khoa học bằng cách sử dụng trí tuệ của một đội ngũ chuyên
gia có trình độ cao về một lĩnh vực nhất định. Theo đó, ý kiến của từng người
sẽ bổ sung lẫn nhau, kiểm tra lẫn nhau cho ta một ý kiến đa số, khách quan
về một vấn đề khoa học.
2.6. Phương pháp thống kê toán họcĐây là phương pháp sử dụng các phép toán thống kê để xử lý số liệu
thu thập được từ các cuộc điều tra hoặc thử nghiệm giáo dục. Trong chương
trình đào tạo bậc đại học, thống kê toán học là môn học phần riêng nên ở tài
liệu này, chúng tôi không trình bày chi tiết.
Câu hỏi:1. Nghiên cứu khoa học là gì?
2. Theo tác giả Vũ Cao Đàm, có những loại nghiên cứu nào? Những đề
tài dưới đây thuộc loại nghiên cứu nào theo cách phân loại trên? Tại sao?
- “Thực trạng và giải pháp quản lí giáo dục đào tạo cho học sinh trung
học phổ thông huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai hiện nay”
- “Thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục tại trung tâm Giáo dục và
Dạy nghề thiếu niên 2 và 3 thành phố Hồ Chí Minh”
3. Trình bày sơ lược nội dung các phương pháp nghiên cứu trong khoa
học giáo dục.
Chương 3. Trình tự tiến hành một công trình nghiên cứu khoa học giáo dụcMỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể đạt được
1. Về kiến thức- Biết các giai đoạn của một công trình nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO
DỤC
- Biết các công việc cần làm trong từng giai đoạn.
2. Về kỹ năng- Vận dụng các quan điểm phương pháp luận để chọn, xác định và giới
hạn đề tài nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC.
- Soạn được một đề cương nghiên cứu cho đề mà mình đã giới hạn.
3. Về thái độTích cực thực hành để bước đầu có được một số kỹ năng nghiên cứu
khoa học.
NỘI DUNG
Thông thường khi tiến hành một công trình nghiên cứu khoa học, người
ta thường phải qua các giải đoạn như chuẩn bị, thực hiện, hoàn thành,
nghiệm thu, phổ biến và áp dụng kết quả nghiên cứu.
I. Giai đoạn chuẩn bịCông việc đầu tiên trong chuẩn bị nghiên cứu là tìm kiếm một đề tài
nghiên cứu. Để có được đề tài, thông thường người nghiên cứu phải bắt đầu
từ việc lựa chọn vấn đề nghiên cứu, bởi vì ít khi ta có ngay được một đề tài
xác định và giới hạn khi ta cần.
1. Lựa chọn vấn đề nghiên cứuĐối tượng nghiên cứu của khoa học giáo dục là quá trình giáo dục, là lý
luận và thực tiễn giáo dục muôn màu, muôn vẻ, có thể ở tầm vĩ mô, cũng có
thể ở tầm vi mô. Trong nghiên cứu, thông thường, người ta xem quá trình
giáo dục (QTGD) gồm hai hệ thống. Hệ thống các thành tố tác nhân bao gồm
nhà giáo dục và người được giáo dục, hệ thống các thành tố cơ bản bao gồm
mục đích, nội dung, phương pháp, phương tiện, kích thích – động cơ, kiểm
tra, điều tiết. Quá trình giáo dục diễn ra trong những điều kiện kinh tế, xã hội,
chính trị nhất định. Cho nên tầm vĩ mô của nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO
DỤC là những vấn đề có liên quan đến việc xây dựng mục đích của nền giáo
dục, chiến lược và chương trình giáo dục, đánh giá chất lượng của nền giáo
dục, mối quan hệ giữa giáo dục với nền kinh tế, với xã hội và chế độ chính
trị,.. Còn tầm vi mô của giáo dục là những vấn đề giáo dục của một địa
phương của nhà trường, của lớp học có liên quan trực tiếp đến nhà giáo dục,
người được giáo dục, nhân vật trung tâm của toàn bộ hệ thống giáo dục. Đối
với sinh viên, những người mới tập sự nghiên cứu, có lẽ nên đi vào những
vấn đề vi mô của giáo dục mà nghiên cứu, vì như thế sẽ phù hợp với khả
năng của mình hơn.
Nếu ta chọn hoạt động giáo dục của nhà trường trung học phổ thông
(THPT) làm vấn đề hoặc phạm vi nghiên cứu thì theo quan điểm hệ thống –
cấu trúc, hoạt động của nhà trường THPT gồm hai hoạt động cơ bản: dạy học
và giáo dục HS hiểu theo nghĩa hẹp. Hai hoạt động này đều có hệ thống các
thành phố tác nhân và các thành tố cơ bản nằm trong một hoàn cảnh kinh tế,
xã hội, chính trị nhất định, tức là nằm trong mối quan hệ với gia đình và xã
hội. Bên cạnh đó còn có vấn đề quản lí giáo dục. Ta có thể biểu diễn vấn đề
nghiên cứu dưới dạng sơ đồ.
Co quan QLGD cap tren
Quan lyday hocgiao duc
Gia đinhHoan canh
& cac to chuc CTXH
Hình 3.1. Sơ đồ các vấn đề nghiên cứu vi mô ở nhà trường THPT
Trong số các vấn đề nghiên cứu vi mô nói trên, cố nhiên người nghiên
cứu cùng một lúc không thể nghiên cứu tất cả, mà với khả năng cá nhân, họ
chỉ có thể chọn cho mình một vấn đề để nghiên cứu mà thôi. Đối với các giáo
viên đã có nhiều năm công tác, việc lựa chọn cho mình một đề tài nghiên cứu
là việc không có gì khó khăn. Nhưng đối với các bạn sinh viên, họ thường có
thiếu sót là chọn một đề tài quá rộng, không phù hợp với khả năng của cá
nhân, tức là chọn một vấn đề, một nội dung nghiên cứu vi mô như hoạt động
dạy học trong nhà trường PT chẳng hạn.
Thông thường, đề tài nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC do các giáo
viên chọn là những mâu thuẫn, thắc mắc nảy sinh trong thực tiễn công tác,
các tình huống quản lý đòi hỏi phải có giải pháp mới mà vốn tri thức và kinh
nghiệm cá nhân chưa giải đáp được.
Nói chung, khi lựa chọn vấn đề nghiên cứu nên theo bốn nguyên tắc
căn bản sau:
a. Sự ham thích thành thật của người nghiên cứu về vấn đề mình muốn
tìm hiểu
b. Giá trị của đề tài
Một đề tài nghiên cứu được lựa chọn phải là đề tài có giá trị, nghĩa là
phải có mới mẻ, có ích lợi cho nhiều người và có giá trị thực tiễn. Đề tài mới
là đề tài chưa được nghiên cứu trong quá khứ. Nhưng nói vậy không có nghĩa
là ngăn cấm người nghiên cứu làm lại một công trình nghiên cứu đã có trong
nước hay ngoài nước với những yếu tố và hoàn cảnh khác hẳn với những
công trình đã có trước kia.
c. Khả năng của người nghiên cứu
Muốn biết mình có đủ khả năng nghiên cứu hay không, xin bạn hãy tự
trả lời các câu hỏi sau:
- Ta đã được học đầy đủ về vấn đề dự định nghiên cứu này hay chưa?
- Ta đã có đủ khả năng, phương tiện thu lượm và giải thích các dữ liệu
hay không? (Dữ kiện là những đối tượng mà nhà nghiên cứu thu thập đề làm
sáng tỏ vấn đề nghiên cứu). Nếu sự phân tích dữ kiện đòi hỏi sử dụng
phương pháp thống kê, thì ta đã được học về phương pháp này hay chưa?
- Đề tài nghiên cứu có đòi hỏi thời gian và tài chính quá nhiều?
- Đã có người hướng dẫn hay chưa?
d. Dữ liệu cần thiết
Người nghiên cứu phải hình dung xem mình có thể thu thập đủ dữ kiện
cho vấn đề nghiên cứu của mình hay không. Tùy theo tên đề tài mà dữ kiện
có thể thay đổi. Ví dụ: một sinh viên nghiên cứu về “ Các loại hình nhà trường
trong xã hội phong kiến Việt Nam” mà trong tay lại không có một quyển sách
nào về giáo dục Việt Nam thời phong kiến thì không thể nào tiến hành được.
Các nguyên tắc trên mới chỉ là định hướng ban đầu cho người nghiên
cứu trong việc chọn vấn đề, nhưng khi vào cụ thể, làm sao ta có thể tìm ra
một vấn đề nghiên cứu? Thông thường, người ta theo những cách sau:
a. Nghiên cứu trong lĩnh vực chuyên môn của mình
Trong tương lai, nếu bạn là giáo viên giảng dạy các bộ môn Tâm lý học,
Giáo dục học thì những vấn đề của Tâm lý học, Giáo dục học thuộc phạm vi
nghiên cứu của bạn, còn nếu bạn là giáo viên THPT thì những vấn đề về dạy
học và giáo dục của nhà trường chính là lĩnh vực chuyên môn của mình.
b. Tiếp xúc và quan sát
c. Nghe ý kiến người khác và thảo luận
d. Tiếp tục công trình nghiên cứu có sẵn
e. Tìm hiểu những vấn đề thường tạo nên sự bất đồng ý kiến trong
quần chúng hay giáo giới.
Sau khi thực hiện theo những cách trên, vấn đề nghiên cứu thường
xuất hiện ở người nghiên cứu dưới dạng một câu hỏi, một thắc mắc chưa có
lời giải đáp. Công việc của người nghiên cứu chính là đi tìm lời giải cho câu
hỏi, thắc mắc nói trên. Nếu không có thắc mắc, không có câu hỏi tức là không
có vấn đề thì chẳng có gì để nghiên cứu cả.
Trong cái mênh mông của nền giáo dục nước nhà, giả sử bạn có hứng
thú với vấn đề dạy học trong nhà trường phổ thông và chọn vấn đề này để
nghiên cứu. Thông qua việc đọc sách báo trong lĩnh vực chuyên môn, bạn
thắc mắc: “Vì sao học sinh hiện nay đi học thêm quá nhiều và liệu việc học
thêm như vậy có hiệu quả gì không?” Như vậy, vấn đề bạn muốn nghiên cứu
đã xuất hiện, nhưng bạn không thể diễn đạt tên đề tài khoa học dưới dạng
một câu hỏi mà cần phải xác định tên đề tài.
2. Xác định tên đề tàiTừ thắc mắc nêu trên bạn phát biểu thành một đề tài nghiên cứu: “Tìm
hiểu nguyên nhân, thực trạng và hiệu quả của việc dạy thêm, học thêm hiện
nay”. Tên đề tài được diễn đạt dưới dạng một câu phát biểu ngắn gọn chứa
đựng mục đích nghiên cứu. Muốn cho công trình nghiên cứu của mình tiến
triển thuận lợi, người nghiên cứu phải làm công việc tiếp theo là thu thập tài
liệu.
3. Thu thập tài liệuVì sao người nghiên cứu phải thu thập tài liệu? Vì lịch sử của một khoa
học là một tiến trình có quá khứ, hiện tại và tương lai. Nhà nghiên cứu là
người viết tiếp trang sử của khoa học ấy nên cần phải biết trước đây vấn đề
mà mình dự định tìm hiểu, người ta đã nghiên cứu đến đâu rồi, khái quát
thành lý luận như thế nào. Nhà nghiên cứu sẽ dùng những lý luận đã được
kiểm chứng ấy làm cơ sở lý luận và lịch sử nghiên cứu vấn đề của mình. Nhờ
việc sưu tầm và khảo cứu những tài liệu này, nhà nghiên cứu có thể đưa ra
những phát triển mới mẻ, tránh sự trùng lắp với các công trình nghiên cứu đã
có, đồng thời có thể khảo sát vấn đề dưới một nhãn quan rộng lớn hơn.
Một đề tài đã được xác định chưa cho phép ta bắt tay vào thực hiện
ngay được mà còn phải giới hạn cho nó phù hợp khả năng người nghiên cứu.
4. Giới hạn đề tàiMột đề tài đã được xác định thường là một đề tài rộng, không phù hợp
với khả năng của cá nhân người nghiên cứu, nhất là sinh viên. Ví dụ với đề
tài:”Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng và hiệu quả của việc dạy thêm, học
thêm hiện nay.”, nếu muốn biết đề tài rộng hay hẹp, ta hãy dùng quan điểm
hệ thống – cấu trúc để phân tích vấn đề. Ta nên bắt đầu với việc xác định
khái niệm chủ chốt của đề tài. Bạn hãy thử lấy bút gạch dưới những từ chỉ
khái niệm chủ chốt (khái niệm trung tâm) của đề tài. Đó là những từ gì ?
Khi đã xác định được dạy thêm, học thêm là khái niệm trung tâm của
đề tài rồi, với quan điểm hệ thống – cấu trúc, bạn sẽ nảy sinh những câu hỏi
như: Ai dạy? Ai học? Dạy và học thêm ấy có liên quan đến loại nhà trường
nào, cấp, bậc học nào? Lúc này, người nghiên cứu sẽ nhận ra được rằng,
nếu giữ nguyên tên đề tài thì anh ta phải nghiên cứu việc dạy thêm, học thêm
ở tất cả các bậc học từ mầm non đến đại học. Vì đề tài của anh ta là nghiên
cứu việc dạy thêm, học thêm hiện nay, chứ không nói rõ việc dạy thêm, học
thêm hiện nay chứ không nói rõ việc dạy thêm, học thêm ở cấp, bậc học.
Chính vì vậy, người nghiên cứu nếu nuốn thực hiện được đề tài thì phải tự
giới hạn phạm vi nghiên cứu. Ví dụ ở bậc trung học, bạn thấy việc dạy thêm,
học thêm ở cấp THPT diễn ra mạnh mẽ nhất và bạn cũng có điều kiện thuận
lợi nghiên cứu ở cấp bậc học này. Vì vậy, bạn sẽ giới hạn và phát biểu tên đề
tài như sau: “Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng và hiệu quả của việc dạy
thêm, học thêm hiện nay ở trung học phổ thông.”
Với tên đề tài vừa được giới hạn, bạn sẽ phải nghiên cứu việc dạy
thêm, học thêm ở học sinh của ba khối lớp 10, 11, 12 trên một mẫu học sinh
đại diện cho toàn thể học sinh trong phạm vi cả nước, vì đề tài của bạn không
giới hạn địa bàn nghiên cứu. Nếu không có điều kiện chọn mẫu và khảo sát
trên mẫu như trên, bạn sẽ giới hạn địa bàn nghiên cứu, từ phạm vi cả nước
xuống còn phạm vi thành phố Hồ Chí Minh. Và đề tài được giới hạn lại thành:
“Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng và hiệu quả của việc dạy thêm, học thêm
hiện nay ở học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh.”
Với tên đề tài vừa được giới hạn, bạn sẽ phải chọn một mẫu học sinh ở
ba khối lớp 10, 11, 12 đại diện cho toàn thể dân số học sinh THPT ở thành
phố Hồ Chí Minh. Liệu bạn có điều kiện để đi khảo sát đúng theo mẫu đã lựa
chọn hay không? Nếu không, bạn nên phát biểu tên đề tài theo cách khác:
“Tìm hiểu nguyên nhân, thực trạng và hiệu quả của việc dạy thêm, học thêm
hiện nay ở học sinh một số trường trung học phổ thông thành phố Hồ Chí
Minh.”
Bạn có nhận thấy đề tài vừa mới phát biểu có gì khác với tên đề tài
trước đó hay không?
Từ “một số” được thêm vào sẽ cho người đọc biết tác giả đề tài không
chọn mẫu và khảo sát trên mẫu. Tất nhiên, một đề tài có chọn mẫu và khảo
sát trên mẫu sẽ có giá trị khoa học cao hơn một đề tài không chọn mẫu.
Sau khi đề tài được giới hạn, bạn đã có tên đề tài có thể tiến hành
nghiên cứu được. Về cách phát biểu tên đề tài, bạn cần lưu ý mấy điểm:
- Tên đề tài khoa học cần được diễn đạt ngắn gọn, chính xác, đúng ngữ
pháp, đúng chính tả, không thừa, không thiếu. Ví dụ đề tài: “Thực trạng việc
quản lí giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông trên địa bàn huyện
Long Thành và một số giải pháp”. Theo bạn, đề tài trên còn thiếu yếu tố nào
và thừa từ nào?
Một số người đọc có thể không biết huyện Long Thành thuộc tỉnh Đồng
Nai. Và cụm từ trên địa bàn có thể bỏ bớt mà nội dung đề tài vẫn không thay
đổi. Vì vậy, đề tài cần được phát biểu đầy đủ như sau: “Thực trạng việc quản
lí giáo dục đạo đức cho học sinh trung học phổ thông huyện Long Thành, tỉnh
Đồng Nai hiện nay”. Ta phải thêm từ hiện nay vào vì theo quan điểm lịch sử
thì đối tượng nghiên cứu cần được xác định trong một không gian và thời
gian cụ thể. Đề tài trên, tác giả chỉ mới xác định không gian và chưa xác định
thời gian.
- Tên đề tài khoa học khác với tên một bài báo, tựa một quyển sách,
một quyển tiểu thuyết. Người ta có thể diễn đạt tên một bài báo rằng một câu
hỏi, nhưng ít ai diễn đạt tên một đề tài khoa học dưới dạng như vậy, mà câu
hỏi được ẩn chứa trong tên đề tài. Người ta có thể dùng những từ “giật gân”
để đặt cho tựa một quyển tiểu thuyết để thu hút người đọc vì mục đích
thương mại, còn tên đề tài khoa học thuộc dạng văn bản khoa học cần rõ
ràng, chính xác.
Thực hành:Với những lý thuyết đã được giới thiệu, bạn hãy lựa chọn, xác định và
giới hạn một đề tài nghiên cứu KHOA HỌC GIÁO DỤC phù hợp với khả năng
của bản thân mình, kèm theo là danh mục các tài liệu tham khảo có liên quan
đến tên đề tài.
5. Soạn đề cương nghiên cứu5.1 Đề cương nghiên cứu là gì?Đề cương nghiên cứu là một văn bản có tác dụng định hướng và dự
kiến trước những nội dung cần thiết đối với người nghiên cứu.
5.2 Tại sao người nghiên cứu phải soạn đề cương?Có hay lý do buộc người nghiên cứu phải soạn đề cương:
Một là: như đã trình bày ở phần 5.1, đề cương nghiên cứu có tác dụng
định hướng và dự kiến trước những nội dung cần thiết đối với ngườoi nghiên
cứu, vì vậy nếu không soạn đề cương mà bắt tay ngay vào việc nghiên cứu
thì đó không phải là một hoạt động khoa học.
Hai là: thông qua đề cương, các cấp quản lí xem xét và quyết định chấp
thuận hay không chấp thuận cho tác giả thực hiện đề tài.
5.3 Đề cương nghiên cứu gồm có những gì?Thông thường, một đề cương nghiên cứu gồm:
5.3.1 – Một trang bìa ghi tên cơ quan quản lí đề tài, tên tác giả đề bài,
tên đề bài, đề cương khóa luận tốt nghiệp, chuyên ngành, nơi và năm soạn
đề cương.
Ví dụ:
Đại học sư phạm TP hồ chí minh
Khoa học tâm lý giáo dục
Tên tác giả:
Đề tài:
Thực trạng, nguyên nhân, hiệu quả của việc dạy thêm, học thêm hiện nay ở
học sinh trung học phổ thông thành phố Hồ Chí Minh
Đề cương khóa luận tốt nghiệp
Chuyên ngành: Giáo dục học
TP. Hồ Chí Minh – 2005
- Những trang còn lại trình bày các phần: lý do chọn đề tài, mục đích
nghiên cứu, khách thể và đối tượng nghiên cứu, giả thuyết khoa học, nhiệm
vụ nghiên cứu giới hạn đề tài, phương pháp luận và phương pháp nghiên
cứu, dàn ý nội dung công trình, kế hoạch nghiên cứu
- Mỗi cơ quan quản lý khoa học thường cung cấp một mẫu đề cương
nghiên cứu hoặc phiếu đăng ký đề tài gồm các mục như: tên đề tài, lĩnh vực
nghiên cứu, loại hình nghiên cứu, thời gian thực hiện, cơ quan chủ trì, chủ
nhiệm đề tài, kết quả nghiên cứu và sản phẩm trong và ngoài nước có liên
quan trực tiếp đến đề tài, tính cấp thiết của đề tài, mục tiêu của đề tài, tóm tắt
nội dung của đề tài và tiến độ thực hiện, dự kiến sản phẩm và địa chỉ ứng
dụng, các khoản kinh phí dự trù.
5.3.2 Lý do chọn đề tàiPhần này còn có thể viết dưới những tên khác như: tầm quan trọng của
vấn đề, tính cấp thiết của đề tài, đặt vấn đề.
Phần này nhằm trả lời câu hỏi: Tại sao chọn đề tài này hay vấn đề kia
làm đề tài nghiên cứu? Câu hỏi này được trả lời trên cơ sở phát hiện các mâu
thuẫn, các thiếu sót của lý thuyết hay thực tế, trên cơ sở những yêu cầu bức
thiết phải giải quyết. Như vậy, việc nghiên cứu đề tài như là một yêu cầu cấp
thiết của thực tế giáo dục hiện tại.
Tính cấp thiết của đề tài cũng có thể lập luận bằng cách xác định tầm
quan trọng của vấn đề mà ta vừa phát hiện. Giải quyết được vấn đề này sẽ
đem lại lợi ích thiết thực gì và ngược lại nếu vấn đề không được giải quyết
dẫn tới tai họa gì cho tương lai gần và tương lai xa.
Có hai cách đặt vấn đề như vậy làm nổi bật lên ý nghĩa của vấn đề
khoa học và làm rõ tính cấp thiết phải giải quyết.
Thực hành: Viết lý do chọn đề tài của đề tài nghiên cứu của bản thân.
5.3.3 Mục đích nghiên cứuBản thân tên đề tài đã ngầm chứa đựng mục đích nghiên cứu, nhưng
người nghiên cứu cần xác định rõ các mục đích nghiên cứu, trong đó có mục
đích chủ yếu và mục đích thứ yếu. Như vậy từ một đề tài nghiên cứu, ta có
thể xác định một hay nhiều mục đích nghiên cứu. Nghiên cứu khoa học là một
hoạt động có ý thức cho nên việc xác định mục đích nghiên cứu là cần thiết.
Mục đích nghiên cứu có tác dụng định hướng cho nhà nghiên cứu. Giữa mục
đích, giả thuyết, nhiệm vụ và kết luận của công trình nghiên cứu có liên hệ
hợp lý.
Thực hành: Xác định mục đích nghiên cứu cho một đề tài cụ thể
Với đề tài của bản thân, sinh viên tập xác định mục đích nghiên cứu.
Ví dụ: Đề tài: Khảo sát thực trạng sử dụng hình thức dạy học lớp – bài
trong quá trình dạy học các môn khoa học xã hội tại một số trường trung học
phổ thông trên địa bàn tỉnh Bình Dương.
Tác giả đề tài đã xác định mục đích nghiên cứu của đề tài là: Khảo sát
thực trạng của việc sử dụng hình thức tổ chức dạy học lớp – bài trong quá
trình dạy học các môn khoa học xã hội tại một số trường trung học phổ thông
trên địa bàn tỉnh Bình Dương và đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sửng dụng hình thức tổ chức dạy học này.
Bạn có nhận xét gì về mục đích nghiên cứu của đề này trên? Hãy viết
nhận xét ấy vào những dòng dưới đây:
- Trả lời: Mục đích nghiên cứu được thể hiện ở tên đề tài nên việc diễn
tả mục đích gần giống với tên đề tài là chuyện bình thường. Ở đây tác giả
diễn đạt cả hai mục đích nghiên cứu trong một câu văn bản (khảo sát thực
trạng và đề xuất biện pháp)
5.3.4 Khách thể và đối tượng nghiên cứu* Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu của một đề tài khoa học cụ thể là một bộ phận
của thế giới khách quan mà nhà khoa học tác động và đề tìm kiếm các quy
luật, các giải pháp khoa học hợp lý. Vì giới hạn của bộ phận của thế giới
khách quan thật linh động, uyển chuyển, nên nhà nghiên cứu có thể xác định
khách thể rộng hay hẹp, gần hay xa tùy ý, nhưng phải bao trùm đối tượng
nghiên cứu của đề tài. Từ đó có tác giả cho rằng trong một đề tài, ta có thể
xác định nhiều khách thể.
Ví dụ: Đề tài: Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy và học môn
Làm quen tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo lớn ở trường mầm non Hoa Hồng quận
10 thành phố Hồ Chí Minh.
Khách thể nghiên cứu được xác định là: Quá trình dạy học ở mẫu giáo.
Như vậy làm sao xác định được khách thể nghiên cứu của một đề tài?
Với đề tài trên, mục đích của người nghiên cứu là tìm kiểm những biện pháp
nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Làm quen tiếng Việt cho trẻ mẫu
giáo lớn, thì bộ phận của thế giới khách quan mà nhà khoa học phải tác động
vào đề tìm kiếm các quy luật, các giải pháp chắc chắn phải là quá trình dạy
học ở mẫu giáo. Trong quá trình này có những thành tố như cô giáo, trẻ, nhà
quản lý, … chính vì vậy, người ta mới có thể xác định nhiều khách thể nghiên
cứu cho một đề tài. Ở đề tài trên, ngoài quá trình dạy học ở mẫu giáo ra,
khách thể nghiên cứu còn có thể là cô giáo, trẻ, nhà quản lý,… khi xác định
khách thể ta nên bắt đầu từ nên đề tài và nghĩ ngay đến một bộ phận của thế
giới khách quan liên quan trực tiếp vào bao trùm vấn đề của đề tài nghiên
cứu.
Thực hành: Hãy xác định khách thể nghiên cứu của đề tài của bạn.
Tại sao nhà nghiên cứu phải xác định khách thể? Việc xác định khách
thể sẽ giúp ích gì cho nhà nghiên cứu?
Nếu không xác định khách thể, nhà nghiên cứu sẽ không hình dung
được vấn đề mình nghiên cứu nằm ở đâu trong cái mênh mông của thực tiễn
và lý luận giáo dục. Nhờ xác định đúng khách thể, người nghiên cứu sẽ thấy
được mối liên hệ giữa vấn đề mình đang nghiên cứu với các thành tố khác
trong khách thể, từ đó xây dựng được dàn ý nội dung công trình. Đây chính là
lúc người nghiên cứu vận dụng quan điểm hệ thống – cấu trúc nêu trên, nếu
người nghiên cứu xác định khách thể nghiên cứu là quá trình dạy học ở mẫu
giáo và dùng quan điểm hệ thống – cấu trúc để phân tích các thành tố tham
gia vào quá trình này như: Cô giáo, trẻ, nhà quản lí, phương pháp và phương
tiện dạy học, cơ sở vật chất, gia đình của trẻ, hoàn cảnh xã hội – kinh tế nơi
trường đóng, kiểm tra đánh giá, động cơ, .. Thì người ấy sẽ hình dung ra
được hệ thống biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học… là những biện
pháp liên quan đến những thành tố của quá trình dạy học nói trên.
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đối tượng trực tiếp của nhận thức là
cái phải khám phá, phải tìm hiểu bản chất và quy luật vận động của nó
Ở đề tài trên, đối tượng nghiên cứu là biện pháp nâng cao chất lượng
dạy và học môn Làm quen tiếng Việt ở trẻ mẫu giáo lớn
Như vậy, bạn có nhận xét gì về mục đích và đối tượng nghiên cứu ?
- Trả lời: Mục đích và đối tượng nghiên cứu được tác giả diễn đạt ngay
trong tên đề tài. Đối tượng nghiên cứu là cái mà người nghiên cứu nhằm tác
động vào. Ở đề tài trên, đối tượng nghiên cứu là biện pháp, mục đích nghiên
cứu là tìm kiếm các biện pháp. Cho nên ta có thể tìm thấy mục đích và đối
tượng nghiên cứu ngay trong tên đề tài.
Quan hệ giữa khách thể và đối tượng nghiên cứu là quan hệ bao trùm.
Khách thể bao giờ cũng bao trùm đối tượng.
Ở đề tài trên, khách thể nghiên cứu là quá trình dạy học ở mẫu giáo.
Quá trình này gồm nhiều thành tố, trong đó các biện pháp mà tác giả tìm kiếm
chỉ là một.
Cần phân biệt đối tượng nghiên cứu của đề tài khoa học với đối tượng
khảo sát của từng phương pháp nghiên cứu cụ thể. Ví dụ với đề tài trên, nếu
tác giả sử dụng phương pháp thực nghiệm, thì đối tượng thực nghiệm có thể
là các cháu mẫu giáo lớn.
5.3.5 Giả thuyết khoa học* Định nghĩa: Giả thuyết khoa học là câu trả lời có tính chất phỏng đoán
cho câu hỏi hoặc băn khoăn mà tác giả tự nêu lên khi xác định đề tài.
Ví dụ: Với đề tài trên, tác giả có thể nêu giả thuyết như sau:
Nếu áp dụng hệ thống biện pháp sau:
A)…
B)…
C)…
trong dạy học môn Làm quen tiếng Việt cho trẻ mẫu giáo lớn thì chất lượng
dạy học sẽ được nâng lên. (Nếu tác giả sử dụng phương pháp thực nghiệm)
Hoặc:
Để nâng cao chất lượng dạy học môn Làm quen tiếng Việt cho trẻ mẫu
giáo lớn, giáo viên trường Mầm non Hoa Hồng quận 10 thành phố Hồ Chí
Minh có thể đã sử dụng các biện pháp sau:
A)…
B)…
C)…
(Nếu tác giả sử dụng các phương pháp điều tra viết, quan sát). Bạn cần
lưu ý cấu trúc nếu... thì và từ có thể trong hai giả thuyết nên thể hiện tính chất
phỏng đoán của giả thuyết.
* Làm sao xây dựng được giả thuyết?
Câu trả lời có tính chất phỏng đoán cho câu hỏi ngầm chứa trong tên
đề tài chính là giả thuyết.
* Vì sao người nghiên cứu phải xây dựng giả thuyết?
* Vì hoạt động nghiên cứu khoa học là hoạt động nhận thức, trong đó
có hoạt động tư duy. Quá trình thực hiện một công trình khoa học gần giống
với quá trình tư duy. Nghiên cứu khoa học là đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ẩn
chứa trong tên đề tài.
* Giả thuyết có vai trò gì đối với người nghiên cứu?
Giả thuyết có vai trò định hướng, dẫn dắt đối với người nghiên cứu. Nhiệm vụ
của người nghiên cứu gần giống với nhiệm vụ của người cảnh sát trong việc
phá án. Người cảnh sát trong khi làm nhiệm vụ phá án, anh ta phải trả lời câu
hỏi: Kẻ gây án hiện giờ đang ở đâu? Với trình độ nghiệp vụ của mình, anh ta
chắc chắn sẽ có những câu trả lời. Những câu trả lời này chính là giả thuyết.
Nếu giả thuyết đúng, anh ta sẽ tốn ít thời gian và nhanh chóng kết thúc vụ án.
Như vậy, giả thuyết đúng là một định hướng đúng đối với người nghiên cứu.
* Ta cần lưu ý những gì khi xây dựng giả thuyết?
+ Giả thuyết chỉ là một sự phỏng đoán tiên khởi, một lối giải thích hay
giải đáp tạm thời có thể chấp nhận được với những dữ liệu có sẵn trong lúc
điều tra sơ khởi.
+ Sau cuộc điều tra sơ khởi, người nghiên cứu có thể đưa ra một hay
nhiều giả thuyết.
+ Mỗi giả thuyết như thế cần phải được nghiên cứu riêng rẽ và chứng
minh bằng các dữ kiện thu lượm được tùy theo mỗi trường hợp.
+ Giả thuyết nào phù hợp với tất cả các dữ kiện và giải thích thỏa đáng
hơn cả có thể xem như là giải pháp chính thức cho vấn đề và trở thành kết
luận cho cuộc nghiên cứu.
* Trường hợp nào cần đặt giả thuyết?
Nếu mục đích của cuộc nghiên cứu chỉ là thu lượm sự kiện thì ít khi sử
dụng giả thuyết. Ví dụ: Nghiên cứu về tiền lương của giáo viên, số học sinh
tiểu học Việt Nam. Nhưng nếu cuộc nghiên cứu không chỉ trình bày sự kiện
mà còn phải giải thích các sự kiện ấy thì giả thuyết cần phải đặt ra.
Trong tất cả các công trình nghiên cứu lớn, giá trị của nghiên cứu là ở
việc đặt giả thuyết và kiểm chứng giả thuyết để chấp nhận hay bác bỏ.
* Có thể dùng giả thuyết thống kê làm giả thuyết khoa học của đề tài
được không?
Trước khi trả lời câu hỏi này, bạn hãy tự trả lời câu hỏi Giả thuyết thống
kê là gì?
Trong môn Thống kê Toán học ứng dụng vào KHOA HỌC GIÁO DỤC
có phần Kiểm nghiệm giả thuyết nhằm kiểm nghiệm sự khác biệt giữa các giá
trị của các biến số như giới tính, khối lớp, trường, kết quả học tập, hạnh kiểm,
thành phần gia đình, nơi cư trú… Ví dụ người nghiên cứu muốn tìm hiểu Thái
độ của học sinh trung học phổ thông trong việc học tập môn Giáo dục công
dân (thích hoặc ghét). Với biến số Khối lớp học, giả sử, người nghiên cứu thu
được các giá trị (điểm trung bình): Khối 10: 2.5; khối 11: 2.8; khối 12:3.5.
Muốn biết có sự khác biệt ý nghĩa hay không giữa các điểm số thể hiện thái
độ của học sinh các khối lớp đó đối với việc học môn Giáo dục công dân,
người nghiên cứu phải dùng các giả thuyết thống kê gồm:
- Giả thuyết H0: Không có sự khác biệt ý nghĩa giữa ba điểm trung bình
nói trên.
- Giả thuyết H1: Có sự khác biệt ý nghĩa giữa ba điểm trung bình nói
trên.
Như vậy, cứ mỗi biến số, người nghiên cứu sẽ xây dựng được một cặp
giả thuyết thống kê. Và với đề tài trên, anh ta sẽ có ít nhất là bảy cặp giả
thuyết thống kê. Nếu chọn giả thuyết thống kê làm giả thuyết nghiên cứu tất
nhiên trong mỗi cặp, anh ta chỉ chọn một mà thôi, hoặc là H0 hoặc là H1.
Nếu người nghiên cứu sử dụng giả thuyết thống kê làm giả thuyết
nghiên cứu thì việc gì sẽ xảy ra?
Bạn hãy suy nghĩa và trả lời:
Thứ nhất, anh ta sẽ lẫn lộn giả thuyết nghiên cứu với giả thuyết thống
kê, không thấy được nhiệm vụ trọng tâm của mình là chứng minh giả thuyết
nghiên cứu để hoàn thành nhiệm vụ và đạt được mục đích nghiên cứu.
Thứ hai, anh ta sẽ trình bày phần giả thuyết nghiên cứu quá dài dòng
làm cho người đọc không biết tác giả thuyết chính mà anh ta muốn chứng
minh là gì.
Như vậy đến đây bạn đã trả lời được câu hỏi nêu trên rồi đấy.
* Thực hành xây dựng giả thuyết.
Với những hướng dẫn đã trình bày trên đây, bạn hãy tự mình xây dựng
giả thuyết cho đề tài nghiên cứu của mình.
5.3.6 Nhiệm vụ nghiên cứuNhiệm vụ nghiên cứu là những công việc cụ thể mà người nghiên cứu
phải làm nhằm đạt được mục đích nghiên cứu. Các nhiệm vụ nghiên cứu gần
tương ứng với các phần của nội dung đề tài. Điều cần lưu ý là nhiệm vụ
nghiên cứu có tính cụ thể còn mục đích nghiên cứu mang tính khái quát. Vì
vậy không nên phát biểu mục đích nghiên cứu trùng với nhiệm vụ nghiên cứu
như ở đề tài sau:
Đề tài: Thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục tại Trung tâm Giáo
dục Dạy nghề thiếu niên 2 và 3 thành phố Hồ Chí Minh.
Mục đích nghiên cứu:
- Khảo sát thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục trẻ chưa ngoan,
phạm pháp tại Trung tâm Giáo dục Dạy nghề thiếu niên 2 và 3 thuộc địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng trên
- Đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ chưa ngoan
và trẻ phạm pháp.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Phân tích hệ thống hóa cơ sở lý luận về trẻ chưa ngoan và trẻ phạm
pháp, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ chưa ngoan và trẻ phạm pháp và
phương pháp giáo dục lại đối tượng trên.
- Khảo sát thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục trẻ chưa ngoan,
trẻ phạm pháp tại Trung tâm giáo dục Dạy nghề thiếu niên 2 và 3, thành phố
Hồ Chí Minh.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng trên.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ chưa ngoan,
trẻ phạm pháp.
Làm thế nào tránh sự trùng lắp trên?
Với mục đích nghiên cứu, nên phát triển khái quát và ngắn gọn hơn
như sau:
Tìm hiểu thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục tại Trung tâm Giáo
dục Dạy nghề thiếu niên 2 và 3 thàh phố Hồ Chí Minh và đề xuất biện pháp
nâng cao hiệu quả giáo dục.
Với nhiệm vụ nghiên cứu, nên phát biểu cụ thể như sau:
- Phân tích hệ thống hóa cơ sở lý luận về trẻ chưa ngoan và trẻ phạm
pháp, nguyên nhân dẫn đến tình trạng trẻ chưa ngoan và trẻ phạm pháp và
phương pháp giáo dục lại đối tượng trên.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như quan sát, phỏng vấn, điều
tra viết để khảo sát thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục tại Trung tâm
giáo dục Dạy nghề thiếu niên 2 và 3, tìm hiểu nguyên nhân của thực trạng.
- Đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục trẻ chưa ngoan,
trẻ phạm pháp.
Thực hành xác định nhiệm vụ nghiên cứu
Bạn hãy xác định nhiệm vụ nghiên cứu cho đề tài của mình
5.3.7. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu * Phương pháp luận nghiên cứu
Ở phần này, người nghiên cứu nêu tên và nội dung cơ bản của các
quan điểm phương pháp luận được vận dụng vào công trình của mình. Ví dụ
các quan điểm: hệ thống – cấu trúc, thực tiễn, lịch sử - logic…
* Phương pháp nghiên cứu
Trong đề cương nghiên cứu, người nghiên cứu chỉ nên nêu tên các
phương pháp nghiên cứu cụ thể mà mình sẽ sử dụng trong công trình như
chúng tôi đã trình bày ở phần phương pháp nghiên cứu của Chương 2. Trong
khóa luận tốt nghiệp, người nghiên cứu có thể mô tả kỹ những phương pháp
mà mình sử dụng, cách thức chọn mẫu nghiên cứu nếu có trong phần Mở
đầu hoặc trong phần Nội dung. Kết quả nghiên cứu (Chương 2,3). Cần lưu ý
đến tính chất khách quan và chủ quan của phương pháp nghiên cứu để đảm
bảo cá phương pháp được sử dụng phù hợp với tên đề tài.
Thực hànhSinh viên tự soạn phần Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
cho đề tài của mình.
5.3.8 Dự thảo nội dung nghiên cứuDự thảo nội dung là dàn ý chi tiết của công trình sẽ tiến hành. Các
chương mục trong dự thảo nội dung thường phù hợp với các nhiệm vụ nghiên
cứu. Ví dụ với đề tài Thực trạng sử dụng phương pháp giáo dục…., ta có một
dự thảo nội dung với các tiêu đề như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu (Tương ứng với nhiệm
vụ 1)
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
1.2. Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng sử dụng các phương pháp giáo dục tại Trung
tâm Giáo dục Dạy nghề thiếu niên 2 và 3 thành phố Hồ Chí Minh.
2.1. Thực trạng
2.2. Nguyên nhân
2.3. Một số biện pháp giáo dục…
Thực hành
Sinh viên soạn Dự thảo nội dung đề tài cho mình.
5.3.9 Kế hoạch nghiên cứuKế hoạch nghiên cứu là một văn bản do người nghiên cứu soạn thảo,
quy định những nội dung công việc cần phải hoàn thành trong từng giai đoạn
với thời gian và biện pháp tương ứng.
Với đề tài trên, người nghiên cứu có thể xây dựng một bảng kế hoạch
như sau:
Thời
gian
Giai
đoạn
Nội dung công việc Phương
pháp,
biện pháp
Người
cộng tác
Ghi
chú
Tháng
9-12
Chuẩn
bị
- Chọn, xác định, giới hạn đề
tài
- Thu thập tài liệu
- Soạn đề cương nghiên cứu,
trình Hội đồng GV
Tháng
1-3
Thực
hiện
- Tham khảo tài liệu
- Soạn, thử công cụ nghiên
cứu
- Triển khai các phương pháp
nghien cứ (Thu và xử lý số
liệu)
Tháng
4-5
Hoàn
thành
- Đánh máy bản thảo
- Trình bản thảo lên giáo viên
hướng dẫn
- Chỉnh sửa và hoàn thành
khoá luận, bản tóm tắt
Tháng
6
Bảo
vệ
Ứng
dụng
Viết bài báo
Thực hành
Sinh viên soạn kế hoạch nghiên cứu cho đề tài của mình.
5.3.10 Dự đoán kinh phí thực hiệnNếu công trình do cơ quan quản lí cấp kinh phí, thì các khoản kinh phí
được phép chỉ gồm:
- Lập đề cương tổng quát
- Lập đề cương chi tiết
- Hợp đồng nghiên cứu 3 chuyên đề lý thuyết
- Hợp đồng báo cáo tổng thuật tài liệu
- Hợp đồng lập mẫu phiếu điều tra
- Công tác phí
- Nghiệm thu
II. Giai đoạn thực hiện công trình khoa họcSau khi lập đề cương, kế hoạch nghiên cứu để đăng ký với cấp quản lí,
nếu đề tài được phê duyệt cũng là lúc bắt đầu giai đoạn quan trọng đó là thực
hiện công trình. Trong giai đoạn này, người nghiên cứu sẽ lần lượt thực hiện
những công việc sau:
1. Thu thập xử lí thông tin lý luậnĐể thu thập thông tin lý luận, người nghiên cứu bắt đầu tìm kiếm các
thư mục khoa học tại các thư viện, chọn lọc các tài liệu liên quan đến đề tài và
bắt đầu việc nghiên cứu chúng. Quá trình đọc các tài liệu, tra cứu các sách
báo, tạp chí là lúc chọn lọc ra được những thông tin cần thiết, sắp xếp chúng
thành những ô, những mục theo chủ đề. Cần phải nghiên cứu những nguồn
tài liệu lý luận khác nhau, các quan điểm, xu hướng khoa học khác nhau. Các
tài liệu thu được đa dạng, phong phú, là cơ sở quan trọng để tiến hành bước
xử lí chính.
Xử lý tài liệu lý luận là quá trình phân tích các tài liệu, tìm hiểu kỹ những
nội dung quan trọng , gạt bỏ những thông tin không cần thiết, phê phán
những sai lầm, phân loại những thông tin đó để sắp xếp chúng thành hệ
thống theo yêu cầu của đề tài, theo những chương, mục, theo vấn đề. Từ việc
hệ thống hóa đó mà ta có thể khái quát, sử dụng suy luận logic để rút ra
những kết luận điểm chân thực.
Tài liệu lý thuyết được thu thập ở giai đoạn này sẽ được người nghiên
cứu sử dụng phần “Lịch sử nghiên cứu vấn đề: và phần “Cơ sở lý luận của đề
tài”.
2. Chuẩn bị dụng cụ, chọn mẫu nghiên cứu phù hợp với những phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài.
Tùy theo để tài đòi hỏi phải sử dụng những phương pháp nào mà sẽ có
hay không việc soạn thảo dụng cụ, chọn mẫu nghiên cứu. Chương 4 của giáo
trình sẽ đề cập đến các phương tiện nghiên cứu và việc chọn mẫu, còn phần
này, chúng tôi chỉ đề cập đến những vấn đề chung.
Nếu đề tài cần đến phương pháp điều tra viết (bút vấn, enquête) thì ở
giai đoạn này, người nghiên cứu phải soạn hệ thống câu hỏi ban đầu, thường
là câu hỏi mở, còn gọi là bảng thăm dò. Sau đó, người nghiên cứu mang
bảng thăm dò đi khảo sát trên một nhóm nhỏ đối tượng gần giống mẫu nghiên
cứu. Kế đến là việc thu bảng thăm dò về xử lý thành bảng enquête.
Nếu đề tài cần đến phương pháp phỏng vấn, thì ở giai đoạn này ta phải
xác định đối tượng sẽ phỏng vấn, chuẩn bị bảng câu hỏi, phương tiện phỏng
vấn (các phương tiện ghi âm, ghi hnh,…)
Nếu đề tài cần đến phương pháp thực nghiệm thì ở giai đoạn này ta
phải chọn mô hình thí nghiệm, đối tượng thực nghiệm, các dụng cụ đo lường
kết quả thực nghiệm.
Nếu đề tài cần phương pháp quan sát, thì ở giai đoạn này ta phải phát
thảo biên bản quan sát bao gồm: Mục đích, đối tượng, nội dung, thời gian
quan sát, liên hệ trước để xin phép, chuẩn bị phương tiện.
3. Tiến hành thực hiện các phương pháp nghiên cứu Trong nghiên cứu khảo sát, đây là bước thu số liệu, tức là mang dụng
cụ nghiên cứu (bảng bút vấn) đi khảo sát trên mẫu nghiên cứu và thu về
những tài liệu thực tiễn. Trong nghiên cứu thực nghiệm, đây là bước tiến
hành thực nghiệm.
Thời gian để tiến hành các phương pháp nghiên cứu cụ thể này có thể
kéo dài vài tuần, vài tháng, có khi đến nhiều năm.
4. Xử lý các dữ kiện (số liệu) do các phương pháp nghiên cứu đem lại.
Đây là lúc người nghiên cứu dùng các dữ kiện thu được để kiểm chứng
giả thuyết đã nêu lên ở phần trước. Các phương pháp như thống kê, phân
tích nội dung sẽ được ứng dụng để khái quát hóa, so sánh nhằm kiểm chứng
giả thuyết của mình. Nếu dữ kiện thu được phù hợp với giả thuyết trở thành
kết luận của công trình nghiên cứu. Nếu dữ kiện thu được trái ngược với giả
thuyết thì giả thuyết bị bác bỏ và người nghiên cứu cần phải dè dặt khi đưa ra
kết luận.
Nếu biết khái quát và bám sám mục đích, nhiệm vụ, giả thuyết của đề
tài thì người nghiên cứu dễ dàng đi đến kết luận, ngược lại sẽ bị chìm ngập
trong đống dữ kiện ngồn ngộn mà không tìm thấy lối ra.
III. Giai đoạn hoàn thành công trình khoa học.Từ kết quả nghiên cứu (kết quả quan sát, phỏng vấn, bút vấn và thực
nghiệm) đã qua xử lí về mặt thống kê hay phân tích nội dung, người nghiên
cứu sẽ đánh máy bản thảo công trình nghiên cứu. Chương 8 của giáo trình
này sẽ hướng dẫn cách trình bày một công trình nghiên cứu cả về nội dung
lẫn hình thức.
Phần Dàn ý nội dung mà người nghiên cứu dự kiến trong đề cương
nghiên cứu nếu được ví như bộ xương của công trình, thì phần dữ kiện thu
được sẽ được ví như phần thịt bồi đắp vào bộ xương đó để có một cơ thể
hoàn chỉnh.
Từ thực tiễn nghiên cứu, người nghiên cứu có thể điều chỉnh bằng
cách thêm hoặc bớt một vài mục trong Dàn ý nội dung.
Về đại thể, một công trình nghiên cứu gồm các phần sau:
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Phương pháp nghiên cứu
7. Giới hạn đề tài
8. Những đóng góp mới của đề tài
Nội dung
(Kết quả nghiên cứu)
Trình các các kết quả thu được từ các phương pháp nghiên cứu theo
một trình tự phù hợp với mục đích, nhiệm vụ, giả thuyết đã nêu.
Phần này đòi hỏi tinh thần khách quan, vô tư của nhà nghiên cứu. Cần
tôn trọng tính khách quan của các số liệu và phải thận trọng trong việc tính
toán. Không nên bóp méo, gọt giũa hoặc sửa các số liệu để bênh vực cho giả
thuyết của mình. Nên nhớ rằng giả thuyết bị bác bỏ, không có nghĩa là công
trình nghiên cứu thất bại. Điều đó chỉ cho thấy khả năng dự đoán của người
nghiên cứu chưa cao.
Thông thường, phần này được chia thành các chương 1, 2, 3,…
Chương 1
Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chương 2
(Tiêu đề chương 2 tương ứng với nhiệm vụ 2)
Chương 3
(Tiêu đề chương 3 tương ứng với nhiệm vụ 3)
Kết luận và kiến nghị
Phần Kết luận phải bám sát các mục tiêu, nhiệm vụ và giả thuyết đã
nêu. Nếu kết quả nghiên cứu phù hợp với giả thuyết đã nêu thì giả thuyết trở
thành kết luận. Trường hợp ngược lại, nhà nghiên cứu phải dè dặt trong kết
luận của mình, nếu không sẽ đưa ra những kết luận vội vàng, chủ quan, thiếu
chính xác. Kiến thức logic học trở nên cần thiết và hữu ích cho nhà nghiên
cứu trong lúc này.
Phần Kiến nghị bao gồm những ý kiến được rút ra từ kết luận nhằm
góp phần cải thiện hiện trạng giáo dục và những ý kiến đề nghị các nhà
nghiên cứu khác nếu có điều kiện nên tiếp tục công việc dở dang của đề tài.
Sau khi hoàn thành bản nháp trên máy tính, sinh viên cần xem lại, sửa
chữa các lỗi chính tả, ngữ pháp; tránh những lối diễn tả khó hiểu hoặc tối
nghĩa. Cần hoàn thành công trình đúng thời hạn để trình lên giáo viên hướng
dẫn. Giáo viên hướng dẫn xem, sửa chữa, góp ý. Sau đó sinh viên chỉ chỉnh
sửa những trang có góp ý cần sửa chữa mà thôi.
Sau cùng là nộp công trình cho giáo viên hướng dẫn. Giáo viên hướng
dẫn xem lại lần cuối rồi trả lại để sinh viên photo thành 5 bản nộp cho Khoa
theo thời hạn đã định.
Ngoài ra, sinh viên còn phải viết bản tóm tắt khóa luận. Quy cách của
bản tóm tắt khóa luận cũng như khóa luận theo quy định chung của Bộ giáo
dục và Đào tạo. Theo đó bản tóm tắt được trình bày trên giấy A5, in hai mặt,
tổng cộng gồm 24 trang.
IV. Giai đoạn báo cáo (bảo vệ), nghiệm thu, đánh giá công trìnhTrình tự buổi bảo vệ khóa luận thường theo các bước:
- Chủ tịch Hội đồng đọc quyết định thành lập Hội đồng chấm khóa luận
tốt nghiệp.
- Sinh viên bảo vệ trình bày tóm tắt khóa luận trong thời gian khoảng 20
phút (thứ tự trình bày của các sinh viên trong buổi bảo vệ do Hội đồng sắp
xếp theo thứ tự a, b, c tên).
- Chủ tịch Hội đồng mời giáo viên phản biện đọc bản nhận xét phản
biện.
- Chủ tịch Hội đồng mời các thành viên trong Hội đồng và những người
tham dự nêu câu hỏi.
- Sinh viên ghi chép các câu hỏi và trả lời.
- Thư ký đọc bản nhận xét của giáo viên hướng dẫn.
- Các thành viên Hội đồng cho điểm theo chuẩn đánh giá khóa luận tốt
nghiệp đại học rồi nộp cho thư ký. Điểm số gồm hai phần: Điểm luận văn và
điểm bảo vệ. Kết quả cuối cùng sẽ được công bố sau khi thông qua Hội đồng
khoa học cấp khoa.
Vì thời gian dành cho người nghiên cứu trình bày công trình của mình
trước Hội đồng bị giới hạn (20 phút) nên người nghiên cứu phải tổ chức bảo
vệ thử để rút kinh nghiệm và chỉ nên trình bày những vấn đề sau: Tên đề tài,
mục đích nghiên cứu, khách thể và đối tượng nghiên cứu, giả thuyết và nhiệm
vụ nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, tóm tắt kết quả, kết luận và kiến
nghị.
V. Giai đoạn ứng dụng kết quả nghiên cứu vào thực tiễn
Nếu công trình nghiên cứu có giá trị thực tiễn, cần thiết, có lợi ích cho
nhiều người; sau khi bảo vệ xong, có thể sẽ có tổ chức, cơ quan xin phép
được xuất bản, phát hành phổ biến rộng rãi; cũng có thể được các địa
phương, các ngành áp dụng vào thực tiễn trên công tác của mình.
Thông thường người nghiên cứu viết các bài báo cáo là kết quả nghiên
cứu của đề tài đăng trên các báo chuyên ngành, đề nhiều người có thể tìm
hiểu và áp dụng. Theo quy định, một bài báo bao gồm có những thành phần
sau: Tên bài báo, tên tác giả, đặt vấn đề, thể thức nghiên cứu, kết quả nghiên
cứu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo. Bài báo được trình bày trong
khuôn khổ từ 2 đến 3 trang giấy A4.
Câu hỏi và bài tập1. Kế tên các giai đoạn của một công trình nghiên cứu khoa học giáo
dục.
2. Vận dụng quan điểm hệ thống – cấu trúc để phân tích nội hàm của
khái niệm trung tâm của đề tài nghiên cứu của bạn. Từ đó xây dựng dàn ý nội
dung công trình.
Chương 4. Các phương pháp và phương tiện nghiên cứuMỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương trình này sinh viên có thể đạt được:
1. Về kiến thức:Biết những nội dung cần làm khi xây dựng,sử dụng những phương tiện,
phương pháp nghiên cứu cụ thể.
2. Về kỹ năng:Soạn được bản bút vấn.
3. Về thái độ:Tự lực chiếm lĩnh kiến thức, rèn luyện kỹ năng để hình thành năng lực
nghiên cứu.
NỘI DUNG
Trong chương trình này “phương tiện” (công cụ) được hiểu theo 2
nghĩa vừa là phương tiện vừa là phương pháp, vì ở các phương pháp nghiên
cứu cụ thể người ta thường dùng các phương tiện liên quan, những phương
pháp trình bày trong chương trình này gồm: chọn mẫu, điều tra giáo dục (bút
vấn,thang đo, bảng chấm điểm), phỏng vấn, trắc nghiệm, …
I. Chọn mẫuChọn mẫu là một công việc cần thiết và quan trọng trong đa số các
công trình nghiên cứu.cố nhiên ta không thể khảo sát được tất cả mọi phần tử
trong một dân số. Để lợi thời giờ và công sức, ta phải chọn một số phần tử
(đơn vị) tiêu biểu cho dân số, bằng cách khảo sát ,thực nghiệm với mẫu lựa
chọn ta có thể suy ra tính chất của toàn thể dân số.
Việc chọn mẫu không phải là công việc dễ dàng tiện đâu đấy, muốn
chọn một mẫu có thể tiêu biểu cho một dân số, ta phải lựa chọn mỗi đơn vị
một cách có hệ thống,theo một phương thức thích hợp. Đó là lý thuyết chọn
mẫu.
1. Lý thuyết chọn mẫu
Công việc này gồm có 4 phần : xác định dân số,lập danh sách đầy đủ
các phần tử trong dân số,chọn một mẫu tiêu biểu, chọn một mẫu thích hợp.
1.1. Xác định dân số
Trước khi chọn mẫu, ta cần phải xác định dân số mà mẫu ấy đại
diện .nếu dân số không được xác định thì kết luận ta thu thập được sau khi
khảo sát mẫu lựa chọn ,khó có thể khái quát hóa để áp dụng với toàn thể dân
số.nhưng làm sao để có thể xác định dân số có liên quan đến 1 đề tài.theo
định nghĩa, dân số (p) là tập hợp gồm tất cả những phần tử thuộc đối tượng
có thể được khảo sát ,thí nghiệm của phương pháp cụ thể được sử dụng
trong đề tài,ví dụ, với đề tài “ khảo sát thực trạng dạy thêm,học thêm ở cấp
trung học phổ thông tại thành phố hồ chí minh hiện nay” , thì dân số p gồm :
p1 là tổng số gv THPT đang giảng dạy tại tphcm (ở hệ chính quy và hệ giáo
dục thường xuyên , ở trường công lập và trường tư thục) và p2 là tổng số hs
THPT đang học tại tphcm ở các hệ và các loại hình trường . Vì người nghiên
cứu khảo sát thực trạng dạy thêm .như vậy , việc xác định dân số phụ thuộc
vào nội dung , phạm vi nghiên cứu của đề tài.
1.2. Lập danh sách
Một khi đã xác định được dân số ta muốn tìm hiểu, công việc kế tiếp là
lập danh sách đầy đủ, chính xác và được cập nhật hóa của dân số. Đó là một
công việc khó khăn, nếu không nói là không thể làm được trong nhiều trường
hợp. Thường thường .danh sách ấy vẫn có sẵn, chẳng hạn danh sách gv
trong 1 trường, 1 tỉnh, …
1.3. Chọn mẫu tiêu biểu
Một mẫu tiêu biểu hay mẫu đại diện cho dân số là mẫu có đầy đủ
những đặc điểm của dân số.nhưng làm sao để có một mẫu tiêu biểu ? Các
phương thức chọn mẫu được trình bày ở phần sau sẽ giải đáp vấn đề này.
1.4. Chọn mẫu thích hợp
Vấn đề làm nhiều người nghiên cứu băn khoăn khi chọn mẫu là số
phần tử (đơn vị) trong mẫu hay còn gọi là cỡ của mẫu bao nhiêu để có một
mẫu thích hợp.mẫu lớn hay nhỏ quyết định tính chất tiêu biểu của mẫu đối với
dân số.nếu quá ít thì không thể đại diện được ,nhiều quá thì công việc nghiên
cứu sẽ tốn kém mất công mà nhiều khi vô ích.nếu dân số không đồng
đều ,nghĩa là bao gồm nhiều thành phần khác nhau,thì một mẫu quá nhỏ lựa
chọn từ dân số ấy sẽ không tiêu biểu cho dân số.chẳng hạn nếu ta lấy số tiền
lương của vài giáo viên trong tập thể 5000 người,thì lương ấy không tiêu biểu
cho lương bổng trung bình của 5000 giáo viên.mặt khác,nếu dân số đồng
đều nghĩa là gồm nhưng đơn vị có đặc tính giống nhau thì một mẫu rất nhỏ có
thể tiêu biểu cho toàn thể dân số.chẳng hạn chỉ vài mili lít lấy từ thùng 1000 lít
xăng cũng đủ tiêu biểu cho thùng xăng ấy.nói chung, có 3 yếu tố quyết định
lựa chọn số đơn vị cho một mẫu
- Tính chất của dân số (đồng đều hay không đồng đều)
- Phương thức chọn mẫu
- Độ chính xác cần phải có
Từ 3 yếu tố trên và biến lượng điểm số của dân số,người ta lập công
thức xác định cỡ mẫu như sau:
n =N
ND +
Trong đó:
n: Cỡ của mẫu
N: P
: Biến lượng điểm số của dân số
D: Mức độ chính xác mà ta cần đến
D = B/4
B: Độ chính xác. Ta có thể chọn B = 1, B = 2
Ví dụ:
Với N = 117395
: = 225
B = 1
Ta có:
n =(117395).(225)
= 894[(117395).(0,25)] + (225)
Một yếu tố vừa có ảnh hưởng đến số đơn vị trong mẫu .có những
phương thức lựa chọn mẫu nào ? Và phương thức chọn mẫu nào là thông
dụng ?
2. Phương thức chọn mẫu
2.1. Chọn mẫu ngẫu nhiên
Theo phương thức này ta phải làm sao kiểm soát mọi điều kiện để cho
mỗi đơn vị trong dân số đều có cơ hội được chọn một cách đồng đều, như
vậy sự lựa chọn các đơn vị không thể phụ thuộc vào chủ quan của người
nghiên cứu. Phương pháp thông thường là áp dụng lối bốc thăm hay sử dụng
bảng số ngẫu nhiên
Chọn mẫu ngẫu nhiên theo lối bốc thăm
Nếu chỉ có một tập thể nhỏ thôi như danh sách 100 học sinh ta cần
chọn ngẫu nhiên 50 học sinh vào nhóm thực nghiệm và 50 em vào nhóm đối
chứng, thì từ danh sách 100 đã được đánh số thứ tự ấy ta viết 100 lá thăm
từ 1 đến 100 rồi chọn ngẫu nhiên 1 thăm trong lớp thực nghiệm và 1 thăm đối
chứng cho đến khi biết hết số thăm ấy,cuối cùng , ta có được 50 học sinh của
nhóm thực nghiệm và 50 học sinh của nhóm đối chứng gồm các em có số thứ
tự được chọn
Chọn mẫu ngẫu nhiên từ bảng chọn ngẫu nhiên
Bảng số ngẫu nhiên là một bảng gồm nhiều cột số,trong mỗi cột có
nhiều số hạng.những số hạng này là kết quả của việc quay sổ số với 3- 4- 5
hoặc 6 lồng cầu .như vậy ,mỗi số hạng gồm 3- 4 -5 hoặc 6 chữ số tùy theo
người ta quay 3- 4- 5 hoặc 6 lồng cầu
Dưới đây là một phần của bảng số ngẫu nhiên
10480 15011 01536 02011 81647 91646 69177
22368 46573 25595 85393 30995 89198 27982
24130 48360 22527 97265 76393 64809 15179
Trong những cuộc thăm dò với quy mô dân số lớn như thăm dò trước
các kỳ bầu cử ở nước ngoài, để báo cáo ứng cử viên nào sẽ thắng cử , người
ta thường chọn mẫu bằng cách sử dụng bảng số ngẫu nhiên .theo cách này ,
ở từng đơn vị hành chánh ( tỉnh,thành phố ,tiểu bang) đã có sẵn danh sách
cử tri đánh số từ 1 đến hàng chục nghìn .trước tiên ta chọn một điểm nào đó
trên bảng số ngẫu nhiên để làm khởi điểm,ví dụ ta bắt đầu từ cột thứ nhất bên
trái với số hạng thứ hai tức là số 23368 có nghĩa là cử tri có số thứ tự 23368
trong danh sách được chọn một cách ngẫu nhiên vào mẫu nghiên cứu .tứ đó
ta đọc các con số tiếp theo chiều nào cũng được : ngang dọc hoặc chéo: ví
dụ ta đọc hàng ngang về bên phải ta sẽ có những số 46572 , 25595 ,… thì
những cử tri có số thứ tự 46572 , 25595, … sẽ được chọn ngẫu nhiên vào
mẫu nghiên cứu .ta cứ tiếp tục như thế cho đến khi chọn một số người cần
thiết cho mẫu nghiên cứu
2.2 Chọn mẫu theo lối chia tầng lớp
Theo phương thức này,ta chia dân số ra thành tầng lớp căn cứ trên đặc
tính nào đó, rồi mỗi lớp như thế ta rút ra theo lối ngẫu nhiên số đơn vị đã định.
Chẳng hạn, muốn thăm dò ý kiến phhs trong trường công về vấn đề học phí,
ta chia dân số ( phhs toàn trường) ra thành những lớp nhỏ căn cứ trên thành
phần xã hội: nông dân, công nhân viên chức, buôn bán và các thành phần
khác.từ mỗi lớp ấy, ta rút theo lối ngẫu nhiên số đơn vị dự định để thăm dò ý
kiến.trong nhiều trường hợp, ta cần phải chọn mẫu theo tỉ lệ để có một mẫu
tiêu biểu cho dân số hơn.như vậy ta sẽ lựa chọn trong mỗi tầng lớp số đơn vị
theo tỉ lệ của thành phần ấy trong toàn thể dân số. Ví dụ các thành phần của
dân số có tỉ lệ như sau: nông dân 20%,công nhân viên chức 30%, buôn bán
30%, thành phần khác 20% . Nếu ta muốn chọn một mẫu 200 người từ dân
số 2000 người nói trên thì ta sẽ chọn 40 người thuộc thành phần nông dân 60
người thuộc thành phần công nhân viên chức 60 người thuộc thành phần
buôn bán và 40 người thuộc thành phần khác. Kết quả, ta có một mẫu với các
tỉ lệ thành phần giống tỉ lệ thành phần của dân số.
2.3 Chọn mẫu đôi
Khi ta đặt những câu hỏi viết (bảng bút vấn) và gởi đến các đơn vị trong
mẫu mực được lựa chọn theo lối ngẫu nhiên, ta khó có thể thu được 100%
bảng trả lời. Tỉ lệ mong mỏi thường là 70-80%. Sự hao hụt ấy có thể làm sai
lệch kết quả, nếu số người không trả lời quá nhiều và nếu họ có những đặc
điểm khác biệt với những người khác đã sẵn sàng trả lời câu hỏi của ta.
Muốn chắc chắn hơn, ta có thể rút 1 mẫu thứ 2 lựa chọn trong số người
không trả lời ấy để phỏng vấn. Lối lựa chọn mẫu đôi như thế có thể giúp ta
kiểm soát lại sự đáng tin cậy của những chi tiết hay kết quả thu được ở mẫu
thứ nhất
2.4 Chọn mẫu theo hệ thống
Khi ta có sẵn danh sách dân số, chẳng hạn danh sách hs trong
trường,một thành phố ,…. Ta có thể chọn mẫu theo khoảng cách nhất định
trong danh sách. Ví dụ: ta muốn chọn 50 hs trong danh sách 500 hs của một
trường. Như vậy khoảng cách lựa chọn là 500/50 =10 đơn vị. Ta sẽ bắt đầu
từ một con số nào đó từ 1 đến 10 trên danh sách, chẳng hạn bắt đầu từ số 6
rồi ta cứ cách 10 tên lại chọn ra một . Như vậy ta sẽ lấy các số 6,16,26,….
Trên danh sách cho đến khi đủ 50 tên.
2.5 Chọn mẫu theo nhóm
Một phương pháp thường được áp dụng trong các cuộc nghiên cứu hs,
gv trong một địa phương và được xem là giản dị và đỡ tốn kém hơn những
phương pháp trên là lối lựa chọn theo từng nhóm thay vì từng cá nhân.theo
lối này, thay vì lấy danh sách của toàn thể hs hay gv THPT trong một tỉnh
chẳng hạn, rồi chọn 10% số hs ấy cho mẫu mình, ta có thể lập danh sách
của tất cả các trường THPT trong tỉnh (như vậy mỗi trường là một nhóm) rồi
lựa chọn theo lối ngẫu nhiên 10% số trường ấy ,rồi dùng tất cả hs hay gv
trong các trường ấy làm mẫu
II. Điều tra giáo dục
Điều tra giáo dục là 1 phương pháp nghiên cứu, trong đó người nghiên
cứu sử dụng những phương tiện như bảng câu hỏi, thang đo, bảng chấm
điểm,…để thu thập về hiện trạng giáo dục
1. Điều tra bằng bảng câu hỏi (bút vấn)
Bút vấn (hay thư tín) là phương pháp nghiên cứu trong đó người sử
dụng một bảng câu hỏi(bảng bút vấn) để thu lượm dữ kiện, nhất là những chi
tiết về hoàn cảnh hiện tại ý kiến của đối tượng về một vấn đề nào đó. Khi sử
dụng bút vấn ta cần phải lưu ý đến những yếu tố thực tế như sau:
+ Người trả lời có thể hiểu sai về câu hỏi có thể đưa ra nhận xét sai lầm
hay không thể diễn tả rõ ràng ý nghĩ của mình
+ Người nhận có thể e ngại nên không thể trả lời một cách hoàn toàn tự
do các câu hỏi đặt ra. Ví dụ câu “ nếu biết người yêu của bạn bị nhiễm HIV
bạn sẽ có phản ứng ra sao? “
+ Người nhận có thể trả lời có cách tắc trách, không suy nghĩ kỹ lưỡng
cốt làm sao cho xong chuyện
+ Người nhận có thể trả lời theo chủ quan của mình để bảo vệ quyền
lợi riêng tư
+ Người nhận có thể trả lời không đúng theo ý nghĩ của mình cốt làm
sao phù hợp với tiêu chuẩn chung của xã hội hay cốt làm vui lòng người đặt
câu hỏi
Tóm lại có thể có rất nhiều lầm lẫn xảy ra cho các dữ liệu thu lượm
được qua cuộc bút vấn nếu công việc này không được nghiên cứu và chuẩn
bị chu đáo
Trước hết cần biết các hình thức bút vấn
1.1. Các hình thức bút vấn
Có ba lối bút vấn thông thường là : bút vấn xếp đặt sẵn (câu hỏi kín )bút
vấn tự do ( câu hỏi mở) vấn đáp bằng tranh ảnh
1.1.1. Bút vấn xếp đặt sẵn (câu hỏi kín )
Bút vấn xếp đặt sẵn bao gồm những câu hỏi cụ thể và một số câu trả
lời có sẵn để lựa chọn.người ta chỉ việc đánh dấu vào những câu trả lời phù
hợp với mình.
Ví dụ : câu : bạn lựa chọn trường ĐH sư phạm thay vì các trường ĐH
khác vì:
a. Bạn thích nghề dạy học
b. Sự khuyến khích gia đình
c. Muốn bắt chước bạn bè
d. Không phải các lý do kể trên (lý do khác:….
Giải thích về lý do lựa chọn nếu cần …..)
1.1.2. Bút vấn tự do
Thay vì bắt buộc người trả lời lựa chọn một số câu có sẵn ta để cho
người ấy tự do diễn tả ý nghĩ của mình. Phương pháp này giúp cho người trả
lời có thể nói lên tất cả những gì mình muốn nói. Tuy nhiên lối bút vấn này có
nhiều bất tiện:
+ Người trả lời không có tiêu chuẩn hướng dẫn tư tưởng của mình và
có thể vô tình bỏ quên những chi tiết quan trọng
+ Nếu người trả lời ít học hay không chịu dành nhiều thời gian suy nghĩ,
phê phán, thì dữ kiện thu lượm được không có ích lợi gì cho lắm
+ Người nghiên cứu sẽ gặp khó khăn khi đút kết, phân loại, xếp đặt các
ý kiến, nhiều khi có thể hiểu lầm ý của người trả lời. Tất cả những công việc
ấy đòi hỏi rất nhiều công phu và thời giờ và sự giải thích ý kiến của người trả
lời nhiều khi chỉ phản ánh ý nghĩ chủ quan của người nghiên cứu
1.1.3. Vấn đáp bằng tranh ảnh
Hình thức vấn đáp bằng tranh ảnh thích hợp cho việc thu lượm dữ kiện
với trẻ em và người lớn không đủ khả năng đọc và hiểu các câu hỏi.thay vì
đặt các câu hỏi viết, ta đưa các tranh ảnh, hình vẽ và dùng lối khẩu vấn để lấy
ý kiến của người đối ngoại
Câu hỏi: bảng bút vấn của đề tài có liên quan gì đến giả thuyết và
nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài ?
Người nghiên cứu cần phải hiểu rằng bảng bút vấn được soạn ra nhằm
mục đích chứng minh cho giả thuyết nghiên cứu đã nêu hay thực hiện nhiệm
vụ nghiên cứu của đề tài
Câu hỏi: để soạn một bảng bút vấn ta cần phải thực hiện lần lượt các
bước như thế nào ?
1.2. Quy trình các bước để soạn một bảng bút vấn
1.2.1. Xác định mục tiêu của bảng bút vấn
Như trên đã trình bày, bảng bút vấn được soạn ra để chứng minh cho
giả thuyết nghiên cứu và thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Vì vậy, người
nghiên cứu cần xem lại giả thuyết và nhiệm vụ nghiên cứu trong đề cương
nghiên cứu để xác định mục tiêu của bảng bút vấn. Ví dụ với đề tài “thực
trạng và biện pháp phát huy tính tự lực trong học tập của học sinh THPT”
người nghiên cứu nêu:
+ Giả thuyết : “ tính tự lực trong học tập của học sinh trung học phổ
thông hiện nay không cao và các biện pháp phát huy phẩm chất này là những
biện pháp dạy học tích cực dựa trên nền tảng của các phương pháp dạy học
truyền thống”
+ Nhiệm vụ :
- Nghiên cứu lý thuyết nhằm xác định cơ sở lý luận cho đề tài nghiên
cứu
- Khảo sát thực trạng biểu hiện tính tự lực trong học tập của học sinh
dựa theo cấu trúc của sản phẩm này
- Khảo sát thực trạng sử dụng các biện pháp phát huy tính tự lực trong
học tập của hs
- Đề xuất các biện pháp bổ sung nhằm phát huy tính tự lực trong học
tập của hs
Với giả thuyết và nhiệm vụ nghiên cứu trên bảng bút vấn được soạn
thảo nhằm chứng minh cho giả thuyết và thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu số 2,
3 ,4 .để đạt được mục đích trên ,người nghiên cứu cần xây dựng một dàn bài
bảng bút vấn.
1.2.2. Xây dựng dàn bài bảng bút vấn
- Bảng bút vấn dành cho học sinh sẽ liệt kê những biểu hiện của tính tự
lực trong học tập của hs dựa theo cấu trúc của sản phẩm chất này.
- Bảng bút vấn dành cho giáo viên sẽ liệt kê những phương pháp biện
pháp dạy học nhằm phát huy tính tự lực học tập của hs
Như vậy, ta thấy bảng bút vấn được soạn ra dựa trên nền tảng lý luận
của đề tài cũng như giả thuyết nhiệm vụ nghiên cứu
1.2.3. Soạn bảng câu hỏi mở và bảng câu hỏi kín
Đối với những câu hỏi có các phương án trả lời phong phú, người
nghiên cứu nên bắt đầu bằng câu trả lời càng tốt. Sau đó, thu về và hình
thành bảng bút vấn xếp đặt sẵn.
Ở trường hợp của ví dụ nêu trên những biểu hiện của tính tự lực, lý
luận chuyên môn sẵn có, nếu ta đặt câu hỏi mở, cũng chỉ thu được ít thông tin
mà thôi.
Những điều cần lưu ý khi soạn bảng bút vấn:
+ Các câu hỏi không nên quá dài
Câu hỏi quá dài dễ làm cho người trả lời chán ngán hoặc e ngại, câu
hỏi ngắn quá thì không đầy đủ các chi tiếc mà ta cần muốn biết. Vậy trong khi
soạn bút vấn, ta chỉ nên hỏi những chi tiết cần thiết, gạt ra ngoài những chi
tiết rườm rà vô ích. Ngoài ra cũng cần phải để ý đến hình thức của các câu
hỏi. Cần làm sao cho các câu hỏi có vẻ ngắn bằng cách đánh máy sao cho
gọn. Nên chia bảng bút vấn thành nhiều đoạn, (phần) mỗi đoạn đánh số từ 1
trở đi.
Phần tiêu đề ở đầu bảng bút vấn, không nên đề tên trường , tên khoa
nếu đề tài không do khoa, trường quản lý.
Nên có lời chào với đối tượng mà ta nhờ trả lời bút vấn, kế đến là vài
dòng nêu rõ tính chất và mục tiêu của cuộc nghiên cứu, hướng dẫn cách trả
lời và lời cảm ơn trước. Chú ý viết đúng chính tả, ngữ pháp trong bảng bút
vấn.
Phần thông tin liên quan đến người trả lời :
Họ tên, tuổi, nơi cư trú: nếu người nghiên cứu không cần thì khỏi kê
phần này
Chỉ thu thập những thông tin có liên quan đến người trả lời mà ta cần
nghiên cứu mà thôi. Ví dụ : giới, thành phần gia đình, hoàn cảnh kinh tế, trình
độ học vấn, kết quả học tập, xếp loại hạnh kiểm, …
Như vậy, cấu trúc của một bảng bút vấn sẽ gồm: tên bảng, lời chào và
hướng dẫn, các thông tin của đối tượng mà ta cần thu thập, phần câu hỏi.
Ở phần câu hỏi, nên lưu ý đến cách xử lý các câu hỏi bằng phần mềm
vi tính.
Nên thử các câu hỏi trước khi khảo sát thực sự
Để tránh sự chủ quan và lầm lẫn của người nghiên cứu, các câu hỏi
cần được thử trước với một số ít người để xem họ trả lời ra sao. Ta có thể
thảo luận với họ nếu cần, để sửa đổi cách đặt câu hỏi. Sau đó ta thử lập
bảng đúc kết tạm để xem cách phân loại sắp xếp dự kiện có thuận tiện hay
không
Thực hành: soạn dàn bài bảng bút vấn và bảng bút vấn dùng cho đề tài
nghiên cứu của bạn
2. Điều tra bằng thanh đo
Nhiều dữ kiện trong khoa học xã hội không thể đó lường bằng các đơn
vị tiêu chuẩn như mét, kilôgam. Vì vậy, trong khoa học xã hội cũng như khoa
học giáo dục, các nhà nghiên cứu đã tìm ra kỹ thuật thang đo để diễn tả bằng
những con số độ lớn hay nhỏ của các biến số. Muốn lập những thang đo như
thế, người nghiên cứu xác định yếu tố cần phải đo lường, đặt những đơn vị
trên thang điểm để phân biệt mức độ của yếu tố, rồi mô tả các đơn vị ấy một
cách rõ ràng. Ví dụ ta muốn tìm hiểu mức độ quan tâm của đối tượng đến vấn
đề triết lý giáo dục, ta đặt câu hỏi :
Bạn có bỏ tiền túi ra mua một cuốn sách triết lý giáo dục hay không?
Vậy thang điểm dành cho người trả lời sẽ như sau :
1. Luôn luôn
2. Thỉnh thoảng
3. Ít khi
4. Không bao giờ
Thang đo có khi được sử dụng trong các cuộc quan sát để nhận phẩm
chất, bình phẩm về thái độ, khả năng của con người nói chung và hs nói
riêng. Thang đó được trình bày trên đây là thang đo khoảng ( interval scale).
Ngoài ra còn có các loại thang đo như thang đo thứ bậc ( ordinal scale) ,thang
đo tỷ lệ (ratio scale)
Thực hành : soạn một thang đo khoảng tương ứng với đề tài nghiên
cứu của bạn
3. Điều tra bằng bảng chấm điểm
Thường thường trong các cuộc khảo sát, ta không có thời giờ khi chép
ngay tại chỗ những nhận xét, những chi tiết cần thiết. Trong trường hợp ta
thường sử dụng bảng chấm điểm. Bảng chấm điểm ghi sẵn những chi tiết
nào mà ta cần phải quan sát và coi như là cần thiết để xác định giá trị. Chẳng
hạn, khi đến quan sát một trường học về phương diện cơ sở vật chất, ta có
thể lập sẵn một bảng chấm điểm trong đó ghi sẵn những chi tiết nào mà nhà
trường cần phải có. Ví dụ như: văn phòng, phòng y tế, thư viện, phòng thí
nghiệm, sân chơi, sân thể thao, dụng cụ thể thao, phòng tư vấn, nhà vệ sinh,
…. Ta lập một bảng chấm điểm như sau:
Tên
trường
Văn
phòng
Phòng
giám thị
Phòng
tư vấn
Thư
viện
Phòng
thí
Sân thể
thao
Dụng
cụ thể
hiệu
trưởng
nghiệm thao
Hoàng
Hoa
Thám
Lê Quý
Đôn
Trong khi quan sát tại mỗi trường ,ta chỉ cần đánh dấu (v) vào khung
thích hợp nếu thấy có những chi tiết ghi sẵn.
III. Phỏng vấn
Phỏng vấn là phương pháp nghiên cứu trong đó người nghiên cứu trực
tiếp nêu ra một hệ thống câu hỏi bằng lời cho đối tượng để thu lượm những
dữ kiện cần thiết.
Khi sử dụng phỏng vấn, người nghiên cứu cần phải lưu ý đến những
nguyên tắc sau giúp việc phỏng vấn đạt hiệu quả :
1. Xác định nhân vật phỏng vấn
Trước tiên cần phải xác định những nhân vật nào cần được phỏng vấn
vì có thể cung cấp cho ta những dữ kiện cần thiết cho cuộc nghiên cứu
Trong trường hợp có thể được, cần phải thu lượm các chi tiết về người
được phỏng vấn: địa vị, khả năng, thành tích, kinh nghiệm… Ngoài ra cũng
cần phải xác định trước số người được phỏng vấn để có những dữ kiện đáng
tin cậy và giá trị. Số người ấy có tiêu biểu cho dân số mà ta muốn tìm hiểu
hay không.
2. Chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn
Nên ấn định trước thời gian và nơi phỏng vấn với sự thoả thuận của
người được phỏng vấn. Về thời gian, cần lựa chọn lúc nào thuận tiện nhất
cho người được phỏng vấn. Về vị trí cũng thế, cần phải có một nơi thích hợp,
kín đáo. Đôi khi nên có thư giới thiệu hoặc nhờ sự trung gian của bạn bè hay
người quan biết. Cố gắng tránh những cuộc phỏng vấn đột ngột vào những
thời gian hay nơi chốn không thuận tiện cho người được phỏng vấn trình bày
đầy đủ và trung thực ý kiến của mình.
3. Dàn bài phỏng vấn và cách chuẩn bị câu hỏi
Trong khi chuẩn bị cho cuộc phỏng vấn cần phải xác định rõ mục tiêu
mình muốn đạt đến, những sự kiện nào cần tìm hiểu, lĩnh vực mình muốn
nghiên cứu, rồi từ đó đặt ra những câu hỏi cần thiết. Thông thường, số lượng
câu hỏi cho cuộc phỏng vấn không nên quá nhiều làm mất thời gian của đối
tượng. Tùy thuộc vào thời gian người được phỏng vấn cho ta tiếp xúc mà ta
có thể đặt nhiều hay ít câu hỏi, từ 4 đến 8 câu là vừa
4. Thử trước câu hỏi
Cần phải thử trước các câu hỏi dự định sẽ hỏi với một số bạn bè hay
những người quen thuộc thành phần hay có những đặt tính giống như những
người ta sẽ phỏng vấn thực sự. Như vậy, ta có thể sửa đổi câu hỏi để tránh
những câu hỏi tối nghĩa có thể gây hiểu lầm và nhờ đó ta có những khái niệm
tổng quát về các loại câu trả lời có thể thu thập được
5. Nắm vững kỹ thuật phỏng vấn
Có 3 điểm quan trọng trong kỹ thuật phỏng vấn là :
+ Làm sao tạo được không khí thân mật cởi mở trong cuộc phỏng vấn
+ Đặt câu hỏi làm sao tạo được tin cậy ở người đối thoại để họ sẵn
lòng trả lời một cách chân thật. Muốn vậy, cần tránh đi ngay vào câu hỏi tế nhị
có thể tức khắc gây những phản ứng chống đối hay từ chối của người được
phỏng vấn, nhất là khi thấy họ chưa sẵn lòng cộng tác với mình.
+ Trong lúc phỏng vấn nên cố ý lắng nghe hơn là nói, hay để cho người
được phỏng vấn trình bày hết ý kiến của họ. Đừng biểu lộ sự bất đồng ý kiến
của mình mà cố gắng tò ra thông cảm với quan điểm người đối thoại. Trong
khi phỏng vấn, cần phải quan sát cử chỉ, giọng nói , nét mặt của người được
phỏng vấn.
6. Ghi chép trong cuộc phỏng vấn
+ Việc ghi chép bình thường có thể là cho một số người được phỏng
vấn trở nên e ngại dè dặt.
+ Việc dùng các phương tiện ghi âm, ghi hình được sự đồng ý của
người phỏng vấn
Nói chung, giá trị của phương pháp phỏng vấn tuý thuộc vào yếu tố
sau:
+ Khả năng chuyên môn của người phỏng vấn. Người này phải nắm
vững kỹ thuật chuyên môn liên quan đến vấn đề đang tìm hiểu.
+ Sự khéo léo của người phỏng vấn, nắm vững các kỹ thuật phỏng vấn,
biết cách đối thoại, biết tạo điều kiện đặt câu hỏi và thu hút sự chú ý của
người đối thoại.
+ Khả năng hiểu và phân tích các điểm chính yếu của cuộc phỏng vấn
Người phỏng vấn phải có đủ khả năng hiểu chính xác và nhanh chóng
ý kiến của người đối thoại. Không gì tai hại bằng hiểu sai lời nói người khác
mà cứ tưởng mình đã hiểu.
+ Khả năng ghi chép và thuật lại trung thực và chính xác cuộc phỏng
vấn
Thực hành: xác định mục tiêu, nhân vật, dàn bài và hệ thống câu hỏi
phỏng vấn cho đề tài nghiên cứu của bạn.
IV. Trắc nhiệm
1. Định nghĩa
Trắc nghiệm là một phương pháp đo lường khả năng, thành tích.
Phẩm chất của cá nhân, và thường được dùng trong nhiều nghiên cứu thực
nghiệm.
Làm sao để có một bài trắc nghiệm
2. Quy trình soạn một bài trắc nghiệm
Khi soạn một bài trắc nghiệm, công việc đầu tiên là xác định dân số ta
đang muốn khảo sát qua bài trắc nghiệm ấy. Sau đó phải xác định khả năng
nào ta muốn khảo sát, phân tích các thành phần cấu tạo nên khả năng ấy để
đặt những câu hỏi riêng cho từng phần một. Khi đặt các câu hỏi khảo sát, cần
phải lựa chọn hình thức trắc nghiệm thích hợp (đúng sai, nhiều lựa chọn, điền
thế, đối chiếu, ….) Sau khi soạn xong bài trắc nghiệm theo đúng phương
pháp, ta cần đặt thời hạn cho các giai đoạn kế tiếp sau :
+ Thử bài trắc nghiệm với một nhóm người, thu thập và phân tích kết
quả của từng câu, sửa đổi hay loại bỏ những câu yếu kém hay sai lầm
+ Đặt tiêu chuẩn( norms) giúp cho người sử dụng giải thích điểm nào là
trung bình , dưới hay trên trung bình. Muốn xác định tiêu chuẩn để xác định
giá trị của điểm số ta phải lựa chọn mẫu trong số muốn khảo sát, ra bài trắc
nghiệm đã được sữa chữa cho nhóm mẫu ấy làm, thu thập kết quả , lập các
tiêu chuẩn căn cứ trên kết quả ấy (điểm trung bình , độ lệch chuẩn)
+ Những đặt điểm chủ yếu cả bài trắc nghiệm mà người soạn quan tâm
là gì ?
3. Những đặt điểm chủ yếu của một bài trắc nghiệm
+ Khách quan
Một bài trắc nghiệm khách quan là một bài khảo sát có thể trao bất kì
người nào chấm điểm mà số điểm vẫn không thay đổi. Muốn vậy, bài trắc
nghiệm phải soạn làm sao cho người chấm điểm không bị lệ thuộc vào nhận
định chủ quan của mình. Các bài trắc nghiệm ấy có thể được chấm bằng máy
hay bảng đục lỗ sẵn. Người soạn bài trắc nghiệm đưa ra những hướng dẫn rõ
ràng cho người chấm điểm làm theo, sao cho các giám khảo không thể nào
không đồng ý với nhau được về các câu đúng hay sai.
+ Giá trị
Một bài trắc nghiệm có giá trị là một phương tiện đo lường đúng khả
năng hay bất cứ những gì mà ta dự định khảo sát
Một bài trắc nghiệm có thể là phương tiện đo lường rất giá trị trong một
trường hợp nhưng lại vô giá trị trong trường hợp khác. Có 3 loại cần xác định
cho một bài trắc nghiệm:
+ Giá trị nội dung
Việc xác định giá trị nội dung rất cần thiết nhất là cho loại trắc nghiệm
thành tích học tập. Muốn xác định giá trị nội dung, người soạn trắc nghiệm
cần phải phân tích nội dung của yếu tố muốn khảo sát, rồi soạn một bài trắc
nghiệm để làm dụng cụ đo lường tất cả cá khía cạnh khác nhau của nội dung
ấy.
+ Giá trị tiên đoán
Trắc nghiệm có thể được sử dụng tiên đoán thành quả tương lai .
Chẳng hạn như sự hình thành công trong học tập, thành công trong nghề
nghiệp. Thể thức thông thường để xác định giá trị tiên đoán của bài trắc
nghiệm là :
Cho đối tượng làm bài trắc nghiệm
Chờ đến khi thành tích tiên đoán xảy ra
Tính hệ số tương quan giữa điểm số trắc nghiệm và thành tích thực sự
của đối tượng. Nếu hệ số tương quan cao :#1 , ta nói bài trắc nghiệm giá trị
tiên đoán cao.
+ Giá trị đồng quy
Khác với thể thức xác định giá trị tiên đoán nói trên, việc xác định giá trị
đồng quy được thực hiện cùng một lúc với bài trắc nghiệm được đem ra sử
dụng, thay vì chờ đợi một thời gian nào đó để cho thành tích xảy ra như nói
trên.
Ví dụ: ta soạn xong một bài trắc nghiệm, ta cho hs làm bài trắc nghiệm
ấy. Muốn xác định giá trị đồng quy của bài trắc nghiệm ấy ta khảo sát sự
tương quan của điểm số của hs về bài trắc nghiệm với các điểm số khác cũng
của những hs ấy về môn học.
+ Đáng tin cậy
Một trắc nghiệm được coi là đáng tin cậy nếu kết quả của những cuộc
đo lường liên tiếp với đối tượng không thay đổi trong cùng những điều kiện
hay hoàn cảnh giống nhau.
Có ba phương pháp đo lường sự đáng tin cậy của bài trắc nghiệm:
+ Trắc nghiệm hai lần
Cùng một bài trắc nghiệm được dùng để khảo sát hai lần trên cùng một
nhóm hs. Sau đó, tính hệ số tương quan giữa hai tập hợp điểm số của hai lần
khảo sát. Từ hệ số tương quan tính hệ số tin cậy theo công thức
- Sử dụng hai bộ trắc nghiệm tương đương rồi tính hệ số tương quan
giữa hai tập hợp điểm số của hai bộ trắc nghiệm ấy. Từ hệ số tương quan, ta
tính hệ số tin cậy. Hai bộ trắc nghiệm tương đương là hai bộ trắc nghiệm có
giá trị nội dung như nhau và độ khó tương đương.
- Phương pháp phân đôi bài trắc nghiệm
Sau khi cho hs làm bài trắc nghiệm xong, ta thu bài và chấm điểm. Ở
mỗi bài làm của hs, ta cộng điểm số của tất cả những câu lẻ (1,3,5…) ta được
một tổng x, cộng điểm số của tất cả những câu chẵn ta được một tổng gọi là
y. Như vậy mỗi hs sẽ có một điểm x và một điểm y. Ta tính hệ số tương quan
giữa hai tập hợp các điểm số x và y ấy, rồi tính hệ số tin cậy như phần trên.
Trong phần mềm spss 9.0, sau khi đã nhập điểm số từng câu của từng hs
(câu đúng: 1, câu sai: 0, ta vào analysys, chọn scale, chọn reliability, chọn
split half ) ok ta sẽ có hệ số tin cậy của bài trắc nghiệm theo phương pháp
phân tích đôi này.
+ Thích hợp
Một bài trắc nghiệm được coi là đáng tin cậy và có giá trị, nhưng có thể
không thích hợp cho mục tiêu nghiên cứu. Trong hai bài trắc nghiệm cùng có
giá trị và đáng tin cậy như nhau thì bài trắc nghiệm dễ chấm, chấm mau, ít tốn
tiền, có phân chỉ rõ ràng về cách áp dụng hoặc có những tiêu chuẩn (norms)
sẵn. Ở các nước mỹ, pháp, nhật các nhà xuất bản thường phát hành các tập
trắc nghiệm với đầy đủ chi tiết về cách soạn, cách chấm bài, hệ số tin cậy,
các giá trị, điểm trung bình, độ lệch tiêu chuẩn, của từng bài trắc nghiệm căn
cứ trên việc khảo sát các mẫu hs được chọn ngẫu nhiên từ dân số được xác
định rõ ràng.
Câu hỏi
1. Nội dung của lý thuyết chọn mẫu gồm những công việc gì? Trình bày
những phương thức chọn mẫu? Phương thức chọn mẫu nào được xem là
tiện lợi và khoa học? Chọn mẫu theo lối ngẫu nhiên thường được áp dụng khi
nào?
2. Kể tên các bước của quy trình soạn bảng bút vấn.
3. Phân biệt bảng bút vấn với bài trắc nghiệm.
4. Trình bày quy trình soạn một bài trắc nghiệm, những đặc điểm chủ
yếu của một bài trắc nghiệm.
5. Khi nào ta dùng bảng bút vấn? Khi nào ta dùng trắc nghiệm? Khi nào
ta dùng thang đo như thang đo khoảng? Có thể sử dung cả ba phương tiện
trên trong một bảng hỏi không?
Chương 5. Phương pháp nghiên cứu lịch sửMỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể đạt được:
1. Về kiến thức:
- Phân biệt được đề tài nghiên cứu lịch sử giáo dục với các loại đề tài
khác.
- Phân biệt được tài liệu hạng nhất (tài liệu gốc) với tài liệu hạng nhì
trong nghiên cứu lịch sử giáo dục.
- Biết cách thu thập tài liệu và chứng tích lịch sử.
- Trả lời được như thế nào là nhận xét về hình thức và nhận xét về nội
dung một tài liệu lịch sử giáo dục.
2. Về kỹ năng:
- Chọn, xác định và giới hạn được một đề tài nghiên cứu lịch sử giáo
dục.
- Xây dựng được giả thuyết nghiên cứu phù hợp với đề tài nghiên cứu
lịch sử giáo dục của mình.
3. Về thái độ:
Thái độ tự lực tiếp thu tài liệu, rèn luyện kỹ năng để có thể thực hiện
một đề tài nghiên cứu lịch sử giáo giáo dục.
NỘI DUNG
Chương này đề cập đến phương pháp nghiên cứu lịch sử áp dụng
trong giáo dục. Nghiên cứu lịch sử là phương pháp nghiên cứu liên hệ đến
những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ. Nhà nghiên cứu phải thu lượm, khảo
sát, lựa chọn, kiểm chứng, phân loại các sự kiện và cố gắng giải thích, trình
bày các sự kiện ấy với tinh thần khách quan, phê phán. Một công trình nghiên
cứu lịch sử tiên tiến là một công trình phê phán khách quan để tìm sự thật của
vấn đề.
Nói một cách tổng quát, công việc của nhà nghiên cứu lịch sử giáo dục
bao gồm:
1. Lựa chọn, xác định, giới hạn đề tài.
2. Đưa ra những giả thuyết để giải thích sự kiện hay tình trạng.
3. Thu lượm các tài liệu.
4. Nhận xét tài liệu.
5. Giải thích và tường trình kết quả của cuộc nghiên cứu (dùng các tài
liệu, sự kiện để chứng minh cho giả thuyết đã nêu).
I. Lựa chọn, xác định và giới hạn đề tài
Trong phần này, người nghiên cứu cần mô tả một cách đầy đủ, rõ ràng,
đơn giản vấn đề mà mình muốn tìm hiểu. Sau đó phải giới hạn phạm vi, đối
tượng nghiên cứu.
Thực hành: sinh viên chọn, xác định và giới hạn một đề tài nghiên cứu
lịch sử giáo dục.
II. Xây dựng giả thuyết
Giả thuyết nghiên cứu là câu trả lời tạm thời cho câu trả lời ngầm chứa
trong tên đề tài, có tác dụng định hướng cho người nghiên cứu trong công
việc của mình. Như vậy, người nghiên cứu có thể đưa ra một hay nhiều giả
thuyết để hướng dẫn công việc thu nhập và lựa chọn tài liệu liên hệ.
Ngoài việc dặt giả thuyết, người nghiên cứu cũng còn phải nêu rõ một
số giả định (assumptions) căn bản mà tác giả đã phải dựa vào để nghiên cứu
vấn đề. Giả thuyết (hypothesis) khác với giả định ở chỗ là các giả thuyết còn
phải được kiểm chứng bằng các dữ kiện trong cuộc nghiên cứu, tạo nên căn
bản cho sự lựa chọn phương pháp nghiên cứu và sự giải thích các dữ kiện
thu lượm được.
Thực hành: sinh viên xây dựng giả thuyết cho đề tài nghiên cứu đã
chọn.
III. Thu thập tài liệu
Đi tìm những dữ kiện sẵn có để giải đáp cho vấn đề tìm hiểu, chứng
minh cho giả thuyết nghiên cứu là công việc đầu tiên và quan trọng đối với
nhà nghiên cứu lịch sử. Vì vậy trong giai đoạn đầu tiên của công trình nghiên
cứu thực sự, người nghiên cứu phải tìm cách khảo lược tất cả các tài liệu,
chứng tích liên quan xa gần đến vấn đề rồi lựa chọn những dẫn chứng nào
thích hợp nhất cho đề tài của mình. Mặc dù người nghiên cứu có thể bắt đầu
bằng những dữ kiện hạng nhì, nhưng mục tiêu tối hậu là cố làm sao tìm ra
các dữ kiện hạng nhất hay gần với các dữ kiện ấy.
Vì sao người nghiên cứu phải cố tìm các tài liệu hạng nhất?
Vì người nghiên cứu không thể tự mình quan sát được những sự kiện
của quá khứ nên phải cố tìm những dữ kiện, dẫn chứng tiêu biểu nhất trong
các tài liệu hạng nhất.
Tài liệu hạng nhất là gì?
Đó là:
- Những tường thuật của các nhân chứng thời đại.
- Những tài liệu, chứng tích sử dụng trong quá khứ mà bây giờ ta có
thể tham khảo trực tiếp. Đó là những dẫn chứng đầu tay có giá trị mà người
nghiên cứu phải cố tìm cho ra.
Nhưng cũng có khi người nghiên cứu phải sử dụng và chỉ sử dụng các
tài liệu hạng nhì, là dự kiện do một người không trực tiếp quan sát các sự
kiện xã hội trong quá khứ cung cấp. Tường trình của họ thường phổ biến
trong sách vở, báo chí. Tuy gọi là hạng nhì, thật ra các dữ kiện do các tài liệu
ấy cung cấp là những dự kiện có thể đã chuyển qua tay nhiều người. Trong
khoảng thời gian từ khi sự kiện xảy ra cho đến khi dữ liệu truyền lại đến tay
người nghiên cứu, đã có bao nhiêu sự sửa đổi, nhiều khi xuyên tạc, giải thích
sai lạc. Vì vậy các tài liệu hạng nhì thường ít có giá trị với người nghiên cứu.
Trong thực tế có những trường hợp khó phân biệt tài liệu hạng nhất với hạng
nhì. Chẳng hạn báo cáo của ông bộ trưởng bộ giáo dục và đào tạo về hiện
tượng giáo dục việt nam bao gồm những nhận xét cá nhân về những sự kiện
do mình quan sát (vậy tài liệu ấy là hạng nhất), đồng thời cũng xuất phát từ
những báo cáo và nhận xét của các cán bộ thuộc quyền (tài liệu thuộc loại
hạng nhì). Trong nhiều trường hợp khác nhau, tài liệu được coi như là hạng
nhất hay hạng nhì tùy theo tài liệu ấy được sử dụng như thế nào.
Một cuốn sách về lịch sử giáo dục do một tác giả viết mà không trực
tiếp quan sát các sự kiện xảy ra trong quá khứ, chỉ là một tài liệu hạng nhì.
Nhưng nếu nhà nghiên cứu khảo sát tất cả các sách vở viết về lịch sử - giáo
dục đề tìm hiểu xem cách phân loại các giai đoạn lịch sử của nhiều tác giả
khác nhau như thế nào thì các cuốn sách về lịch sử giáo dục việt nam ấy đều
là tài liệu hạng nhất.
Các tài liệu, chứng tích có thể
- Các văn kiện chính thức, chẳng hạn như các văn kiện pháp lý (hiến
pháp, luật, sắc lệnh, nghị định, v.v…), các nghị quyết, các tài liệu thống kê,
các sách báo do cơ quan chính phủ xuất bản, các tài liệu đúc kết tường trình
của các hội nghị, các hội đồng, ủy ban giáo dục, báo cáo, hồ sơ, biên bản của
nhà trường, thời khóa biểu, danh sách học sinh, v.v…
- Hồ sơ cá nhân.
- Tài liệu truyền khẩu.
- Tranh ảnh.
- Các tư liệu ghi chép bằng máy.
Ngoài ra còn phải kể đến các chứng tích lịch sử:
- Chứng tích vật chất.
- Tài liệu in ấn
- Tài liệu viết tay.
Làm sao tìm ra các tài liệu và chứng tích?
+ Đến thư viện
Một số đề nghị khi tham khảo, tìm tài liệu ở thư viện
- Đọc một số công trình nghiên cứu hay sách báo đã có từ trước có liên
quan đến đề tài của ta. Để làm việc này, người nghiên cứu phải biết điều cần
chứng minh trong giả thuyết khoa học của đề tài là gì. Từ đó có định hướng
đúng trong việc tìm tài liệu. Trong tài liệu nói trên, ta chú ý xem phần tài liệu
tham khảo của tác giả, trong đó có thể có tài liệu có liên quan đến đề tài của
ta. Nếu tài liệu không có phần tài liệu tham khảo thì để ý đến các tài liệu được
tác giả đem ra dẫn chứng hay chủ thích.
- Đọc các tài liệu dẫn chứng ấy rồi lại cố tìm các dẫn chứng khác nữa
được đề cập và cứ tiếp tục như thế.
- Tra cứu phần tên sách trong thư mục điện tử, lựa chọn phần đề mục
liên hệ.
- Khảo sát các thư mục giáo dục chỉ nam (educational index) thường
xuất bản hằng năm ở nước ngoài. Ở nước ta, tạp chí giáo dục số cuối năm có
đăng tải tên các công trình nghiên cứu, các bài báo đã được đang tải trong
năm.
+ Tiếp xúc với các nhà khoa học, giáo viên, các cơ quan công quyền để
được chỉ dẫn.
+ Đến các tư gia hoặc các đền đài, văn miếu để tìm các chứng tích lịch
sử như bằng sắc, chiếu chỉ, gia phả, mũ áo, sách vở, dụng cụ học tập, v,v…
IV. Khảo sát và nhận xét tài liệu
Nhà nghiên cứu giáo dục không bao giờ chấp nhận đương nhiên rằng
tài liệu hay chứng tích mình có trong tay là xác thực hoặc đáng tin cậy. Người
ấy phải khảo sát kỹ lưỡng xem tài liệu ấy có xác thực hay không và giá trị như
thế nào. Công việc này đòi hỏi sự khảo sát tỉ mỉ từ căn nguyên tài liệu đến nội
dung của nó. Nếu không làm như thế thì công trình nghiên cứu có thể là chỉ
dựa trên những tài liệu giả tạo, xuyên tạc sự thật và do đó tất cả công phu
nghiên cứu của mình trở nên công dã tràng, không giúp ích được cho ai.
Vì vậy việc khảo sát và nhận xét tài liệu và chứng tích là công việc quan
trọng nhất trong các công trình nghiên cứu lịch sử giáo dục. Công việc này
bao gồm hai phần: khảo sát và nhận xét về hình thức và khảo sát và nhận xét
nội dung.
1. Khảo sát và nhận xét hình thức
Khảo sát và nhận xét hình thức là khảo sát về xuất xứ của tài liệu. Mục
đích là khảo sát xem tài liệu là xác thực hay chỉ là tài liệu giả tạo, được sửa
đổi hay không phải chính tác giả viết. Người nghiên cứu luôn luôn tự đặt câu
hỏi: ai là tác giả? Tài liệu được viết lúc nào? Nơi nào?
Những câu hỏi dưới đây sẽ giúp người nghiên cứu xác định tính chất
xác thực của tài liệu.
+ Lời văn, lối dùng chữ, chính tả, chữ viết (tài liệu viết tay), cách in, giấy
in, v.v… có thật là của chính tác giả, so với tài liệu khác mang cùng tên hoặc
có phù hợp với thời đại khi tài liệu ấy được viết ra hay không?
+ Trong các tài liệu ấy có những lỗi lầm nào mà tài học, khả năng của
một người như tác giả lúc bất giờ không thể cho phép người ấy phạm phải?
+ Tác giả có kể đến những nơi chốn, những sự kiện, những sự vật mà
một người đồng thời với tác giả không thể nào biết được?
+ Có kẻ nào đã sửa đổi bản thảo của tác giả một cách vô tình hay hữu
ý bằng cách chép sai hay thêm bớt?
+ Tài liệu là nguyên bản của tác giả hay chỉ là sao chép hay dịch lại?
+ Nếu tài liệu không mang tên tác giả, không ghi rõ ngày và nơi xuất
bản, có những điểm nào trong tài liệu giúp ta tìm ra xuất xứ của nó?
2. Khảo sát và nhận xét về nội dung
Khảo sát và nhận xét về nội dung là việc xác định giá trị và ý nghĩa của
các dữ kiện được trình bày trong tài liệu. Nhà nghiên cứu chú trọng đến hai
điểm chính:
+ Tìm hiểu ý nghĩa của những lời nói, những câu viết, những từ ngữ mà
tác giả sử dụng.
+ Xác định giá trị của các ý kiến, các chi tiết mà tác giả đã trình bày.
Người nghiên cứu lịch sử giáo dục bao giờ cũng hoài nghi về giá trị của
tài liệu cho đến khi nào họ điều tra chắc chắn và có thể nói lên sự thực của
vấn đề. Để làm công việc điều tra ấy, người nghiên cứu tự trả lời những câu
hỏi sau:
a. Tác giả có phải là người nằm trong lĩnh vực chuyên môn của tài liệu
hay không?
b. Khả năng của tác giả và hoàn cảnh xã hội, chính trị có cho phép tác
giả nói lên những ý kiến trung thực, xác đáng hay không?
c. Có thể tài liệu bị ảnh hưởng bởi những xúc cảm riêng tư, tuổi tác,
điều kiện sức khỏe của tác giả?
d. Tài liệu được viết ra do sự quan sát trực tiếp của tác giả hay chỉ là
nghe nói lại hay vay mượn ở các tài liệu khác?
e. Có thể nào tác giả bị chi phối bởi những thành kiến hay thiên kiến về
tôn giáo, nghề nghiệp, căn bản học vấn, quyền lợi riêng tư,…?
f. Có thể nào tài liệu được viết ra do một tài trợ bên ngoài với mục đích
tuyên truyền hay ủng hộ một chương trình hay chính sách nào đó?
g. Có thể nào tác giả chỉ muốn phô trương ý kiến của mình vì muốn
khoe khoang, thanh minh, giải thích những hành động nào đó của mình hay
muốn đả kích, triệt hạ kẻ khác?
h. Tác giả có những điểm nào tự mâu thuẫn hay không?
i. Các nhà quan sát có đồng ý với tác giả hay không?
Mục đích của những câu hỏi trên là giúp người nghiên cứu xác định giá
trị của tài liệu và tìm hiểu xem tác giả có nói lên sự thực một cách khách quan
hay không?
Việc khảo sát và nhận xét tài liệu muốn có kết quả phải dựa vào những
nguyên tắc sau:
a. Đừng đọc tài liệu xưa theo quan điểm hiện nay.
b. Đừng bao giờ cho rằng tác giả không biết về một vài sự kiện hay
biến cố xảy ra chỉ vì lý do rằng tác giả không đề cập đến. Cũng không nên
cho rằng sự kiện ấy không có chỉ vì tác giả không hề nhắc đến.
c. Đừng đánh giá quá thấp một tài liệu cũng như đừng tôn sùng quá
đáng tài liệu ấy.
d. Chỉ sử dụng một tài liệu để xác định sự hiện hữu của một sự kiện thì
chưa đủ mà cần phải kiểm chứng bằng việc hỏi han các nhân chứng hoặc tìm
các chứng tích có giá trị.
e. Nhiều tài liệu có thể vấp phải những sai lầm giống nhau chỉ vì tất cả
đều xuất phát từ một nguồn gốc chung hoặc các tài liệu ấy đều phụ thuộc vào
nhau.
f. Nếu các nhân chứng hay chứng tích mâu thuẫn nhau về một điểm
nào đó thì cần phải nhắc kỹ lưỡng. Có thể tất cả đều sai.
g. Có thể chấp nhận những điểm tương đồng của các nhân chứng về
một sự kiện nào đó nếu họ là những người am tường sự việc và không phụ
thuộc vào nhau.
h. Các tài liệu chính thức (đã được công bố, xuất bản) cần phải được
đối chiếu với các tài liệu không chính thức (bản thảo) nếu có thể được.
i. Không phải tài liệu nào cũng có giá trị về tất cả những điểm nêu ra
trong ấy. Một tài liệu có thể cung cấp dữ kiện giá trị về một vài khía cạnh
nhưng lại sai lầm về các điểm khác.
Việc khảo sát và nhận xét về hình thức và nội dung nhằm tìm chứng cứ
để chứng minh cho những giả thuyết khoa học của đề tài.
V. Tường trình kết quả
Giả thuyết hướng dẫn người nghiên cứu lựa chọn những dữ kiện nào
thích hợp với đề tài và tạo nên một mô thức căn bản cho việc nghiên cứu để
đưa ra những kết luận có hệ thống.
Việc lựa chọn dữ kiện là vấn đề quan trọng trong nghiên cứu. Nếu
không có giả thuyết để tạo nên mô thức hướng dẫn thì người nghiên cứu có
thể thu thập rất nhiều dữ kiện về những điểm nhỏ k mấy quan trọng và ngược
lại nêu ra được rất ít dẫn chứng cho những phần cốt yếu. Nếu người nghiên
cứu tham lam muốn trình bày nhiều dữ kiện một cách phức tạp, hỗn độn và
các dữ kiện không mấy ích lợi cho cuộc nghiên cứu, thì công việc vô ích ấy
chỉ làm cho người đọc thêm bối rối, không rút ra được những kiến thức rõ rệt
và trung thực về các vấn đề lịch sử. Vì vậy, việc xếp đặt các dữ kiện một cách
có hệ thống, cân đối, có liên hệ chặt chẽ với nhau, là một việc làm công phu,
đòi hỏi người nghiên cứu phải có một ý niệm rõ rệt về những vấn đề nào,
những khía cạnh nào mà mình muốn nghiên cứu, tìm hiểu.
Câu hỏi
1. Phân tích tài liệu hạng nhất với tài liệu hạng nhì.
2. Trình bày những cách thức để thu thập tài liệu, chứng tích lịch sử
giáo dục.
3. Khảo sát và nhận xét về hình thức và khảo sát và nhận xét về nội
dung một tài liệu lịch sử giáo dục là gì? Trình bày những điều cần lưu ý khi
khảo sát và nhận xét về hình thức và nội dung.
Chương 6. Nghiên cứu mô tảMỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể đạt được:
1. Về kiến thức:
- Biết được ba loại nghiên cứu mô tả thông dụng: khảo sát hiện trạng,
nghiên cứu tương quan và nghiên cứu phát triển.
- Biết được các loại khảo sát thông dụng trong khảo sát hiện trạng giáo
dục: khảo sát học đường, phân tích công tác, phân tích tài liệu, thăm dò dư
luận, khảo sát địa phương, và nội dung công việc cần làm trong từng loại
khảo sát nói trên.
- Hiểu được nội dung của ba loại nghiên cứu tương quan thông dụng là
nghiên cứu trường hợp đặc thù, nghiên cứu đối chiếu tương quan nhân quả
và nghiên cứu liên hệ.
- Hiểu nội dung của các loại nghiên cứu phát triển gồm nghiên cứu tăng
trường và nghiên cứu khuynh hướng phát triển (nghiên cứu dự báo).
2. Về kỹ năng:
Vận dụng một số nghiên cứu mô tả vào bài tập nghiên cứu của mình.
3. Về thái độ:
Tích cực vận dụng lý thuyết về nghiên cứu mô tả vào thực tiễn nghiên
cứu của mình.
NỘI DUNG
Mục đích của nghiên cứu mô tả là giúp tìm hiểu hiện trạng của vấn đề,
mô tả các hoạt động giáo dục, các phương tiện, phương pháp sử dụng, các
nhân vật liên hệ giáo dục. Nhưng nghiên cứu mô tả không phải chỉ thu lượm
và trình bày các sự kiện. Có nhiều loại nghiên cứu mô tả hướng đến những
mục đích khác nhau. Trong chương này chỉ đề cập đến ba loại nghiên cứu
mô tả thông dụng. Khảo sát hiện trạng, nghiên cứu tương quan, nghiên cứu
phát triển.
I. Khảo sát hiện trạng
Trong các lĩnh vực giáo dục, chính trị, xã hội, công nghiệp, kinh tế, loại
nghiên cứu khảo sát này rất thông dụng để xác định hiện trạng và từ đó thiết
lập dự án cải tiến hay hoạch định chương trình hành động. Những loại khảo
sát hiện trạng được trình bày trong phần này là: khảo sát học đường, phân
tích công tác, phân tích tài liệu, thăm dò dư luận và khảo sát địa phương.
1. Khảo sát học đường
Người nghiên cứu thu lượm các dữ kiện về nhà trường bằng nhiều
phương pháp, phương tiện như quan sát, phỏng vấn, thư tín, trắc nghiệm,
v.v… do sự phân tích các dữ kiện ấy, họ có thể đưa ra những đề nghị cải tiến
nhà trường, từ công tác tổ chức quản lý đến công tác giáo dục hs. Những dữ
kiện thu lượm được trong những cuộc khảo sát này thuộc về những loại sau:
+ Môi trường giáo dục
Người nghiên cứu sẽ tìm hiểu và thu được những dữ kiện về tổ chức
quản lý, điều kiện vật chất của trường học (trường sở, tiện nghi, tài chính,…),
quan hệ giữa nhà trường với các tổ chức hay cơ quan địa phương.
+ Cán bộ quản lý, giáo viên, công nhân viên
Ở những đối tượng này, người nghiên cứu có thể thu được những dự
kiện về trình độ học vấn, kinh nghiệm tuổi tác, lương bổng, đời sống vật chất,
tình trạng sức khỏe, thái độ đối với nhà trường, quan hệ với hs và phụ huynh
hs, năng lực sư phạm.
+ Học sinh
Những dữ kiện có thể thu được từ đối tượng hs thường là: thái độ đối
với nhà trường, bạn bè, thầy cô; tình trạng sức khỏe, thành phần xã hội, kết
quả học tập, trí thông minh, sở thích, sĩ số, chuyên cần, tình trạng bỏ học; trẻ
khuyết tật, hs vi phạm kỉ luật, v.v…
+ Phương thức giáo dục
Khảo sát phương thức giáo dục, người nghiên cứu có thể thu được
những dữ kiện sau: chương trình học, sự sắp xếp thời khóa biểu, các hoạt
động ngoại khóa, việc sử dụng sách giáo khoa (sgk), thư viện, phòng thí
nghiệm, dụng cụ thí nghiệm.
Các nhà nghiên cứu thường sử dụng nghiên cứu khảo sát để xác định
hiện trạng giáo dục, hoặc để đối chiếu với những tiêu chuẩn đã được ấn định,
từ đó tìm kiếm giải pháp nhằm cải tiến hiện trạng. Những cuộc khảo sát học
đường có thể được thực hiện bởi:
a. Chuyên viên bên ngoài nhà trường
b. Chính cán bộ quản lí, giáo viên, công nhân viên của nhà trường.
c. Sự phối hợp bởi chuyên viên bên ngoài nhà trường với cán bộ, gv
trong trường.
2. Phân tích công tác
Loại khảo sát này có mục đích nghiên cứu các phần việc, trách nhiệm
hoạt động. Tình trạng hành chánh, điều kiện làm việc của cán bộ lãnh đạo,
giáo viên, công nhân viên, trong các trường học, cơ quan quản lí giáo dục.
Phân tích công tác của những đối tượng ấy có thể giúp các nhà lãnh đạo giáo
dục hiểu biết về:
a. Những ưu, khuyết điểm trong việc phân công, những sự trùng lắp
hay giẫm đạp lên công tác của nhau giữa các nhân viên có chức vụ khác
nhau.
b. Khả năng và trách nhiệm của các hạng cán bộ, nhân viên để xếp
hạng lương bổng tương ứng.
c. Sự phân công hợp lý để có hiệu năng công tác đối đa.
d. Những công việc thực sự mà mỗi người ở mỗi cương vị phải đảm
bảo trách cùng khả năng đòi hỏi ở họ. Từ sự hiểu biết đó, cơ quan quản lý có
thể soạn thảo chương trình huấn luyện hợp lý.
e. Những tiêu chuẩn và điều kiện đề bạt, thăng thưởng, thuyên chuyển
nhân viên.
f. Mô thức căn bản để cải tổ tổ chức hành chánh, quy chế nhân viên.
Loại nghiên cứu này rất cần thiết cho nền giáo dục của chúng ta.
3. Phân tích tài liệu
Loại nghiên cứu này gần giống với nghiên cứu lịch sử vì cả hai đều sử
dụng phương pháp tham khảo tài liệu. Tuy nhiên có sự khác biệt là loại
nghiên cứu này chú trọng đến các sự kiện hiện tại thay vì các sự kiện quá
khứ như với loại nghiên cứu lịch sử. Các tài liệu sử dụng có thể là:
a. Các văn kiện pháp lý, hành chánh, báo cáo, biên bản.
b. Chương trình học, bài vở, sổ điểm hs.
c. Sách giáo khoa, tài liệu tham khảo, tranh ảnh.
Ví dụ: nếu khảo sát sách báo cho trẻ em được bày bán ở các nhà sách
hiện nay, ta có thể nêu các giả thuyết sau:
a. Các tài liệu tham khảo bị sao chép trùng nhau
b. Số lượng sách báo dành cho trẻ em hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu
của chúng.
Nói chung, công việc phân tích tài liệu có thể người nghiên cứu:
a. Tìm hiểu và mô tả các phương thức giáo dục hiện được áp dụng
trong nhà trường và ngoài xã hội.
b. Tìm ra những hạn chế của hiện trạng giáo dục.
c. Tìm ra sự khác biệt giữa những phương thức giáo dục áp dụng trong
một vùng.
d. Biết được cách soạn thảo tài liệu giáo dục trong nhà trường và ngoài
xã hội.
e. Biết được những lỗi lầm thông trường của hs.
f. Biết được sự tương quan giữa mục tiêu giáo dục với nội dung giảng
dạy.
g. Biết được những thành kiến, thái độ, sở thích, ý thức về giá trị (định
hướng giá trị) của nhân dân.
4. Thăm dò dư luận
Loại nghiên cứu này thường được thực hiện để:
a. Thăm dò sở thích, thái độ của khách hàng đối với sản phẩm.
b. Thăm dò dư luận của gv, phụ huynh hs về các vấn đề giáo dục.
Người ta thường áp dụng phương pháp phỏng vấn, phương pháp thư
tín, bút vấn để thăm dò dư luận. Khó khăn trong thăm dò dư luận là việc chọn
cho được một mẫu đại diện cho toàn thể dân số. Nếu chọn mẫu không khách
quan thì kết quả nghiên cứu chỉ có giá trị đối với mẫu, không thể khái quát
cho toàn dân số.
Ví dụ, khi thăm dò dư luận phụ huynh hs về vấn đề dạy thêm học thêm,
ta thấy có nhiều biến số (đặc điểm) trong dân số phụ huynh hs như thành
phần xã hội, giới tính, hoàn cảnh kinh tế, nơi cư trú,… mẫu nghiên cứu được
xem là đại diện cho dân số với điều kiện mẫu đó phải có đầy đủ những đặc
điểm của dân số.
5. Khảo sát địa phương
Hoạt động giáo dục gắn liền với hoành cảnh địa phương, chính vì vậy
cần phải tiến hành khảo sát địa phương để từ đó đề ra các chủ trương, biện
pháp giáo dục phù hợp. Trong khảo sát địa phương cần chú ý tới các dữ kiện
sau:
a. Lịch sử địa phương
b. Tổ chức hành chính và văn kiện pháp lý liên hệ.
c. Tình hình ngân sách địa phương.
d. Hoàn cảnh kinh tế, địa lý.
e. Đặc điểm về văn hóa (tôn giáo, phong tục tập quán, giáo dục, các tổ
chức và cơ sở văn hóa).
f. Dân cư (dân số, thành phần dân cư, trình độ học vấn, nghề nghiệp,
sự gia tăng dân số).
Các phương pháp sử dụng: phỏng vấn, bút vấn, quan sát, thống kê.
II. Nghiên cứu tương quan
Nhà nghiên cứu giáo dục không phải chỉ biết trình bày và mô tả các sự
kiện, mà còn phải cố gắng tìm ra tương quang giữa các sự kiện, mà còn phải
cố gắng tìm ra tương quan giữa các sự kiện, để tìm hiểu hay giải thích các
hiện tượng. Có ba loại nghiên cứu tương quan thông dụng là: nghiên cứu
trường hợp đặc thù, nghiên cứu đối chiếu và tương quan nhân quả, nghiên
cứu liên hệ.
1. Nghiên cứu trường hợp đặc thù
Loại nghiên cứu này được xếp vào loại khảo sát nhưng có khác ở chỗ
là nó chỉ chú trọng đến một đơn vị xã hội hay đơn vị giáo dục (ví dụ một điển
hình giáo dục tiên tiến, một mô hình giáo dục), một cá nhân, một gia đình hay
một nhóm người đặc biệt nào đó, một tổ chức, một cơ quan mà thôi.
Nhà nghiên cứu sẽ phải mở một cuộc điều tra sâu rộng về đơn vị giáo
dục ấy, nghĩa là phải thu lượm các dữ kiện về tình trạng, kinh nghiệm quá
khứ và tất cả những yếu tố trong môi trường sinh hoạt của đơn vị giáo dục ấy
để tìm hiểu xem những yếu tố ấy đã ảnh hưởng như thế nào đến thành tích
của đơn vị, cá nhân. Thay vì khảo sát cả một tập thể rộng lớn, một điều không
thực hiện được, nếu muốn tìm hiểu cặn kẽ những yếu tố trong môi trường
sinh hoạt của nó, người nghiên cứu sẽ tập trung tất cả nỗ lực của mình trong
việc tìm hiểu một cá nhân hay một tập thể nhỏ được lựa chọn cẩn thận với hy
vọng có thể rút ra từ đó những hiểu biết tổng quát về tập thể (đơn vị xã hội)
mà cá nhân ấy tiêu biểu.
Chẳng hạn, nhà nghiên cứu muốn tìm hiểu nguyên nhân của tình trạng
sử dụng ma túy ở hs THPT việt nam. Thay vì mở một cuộc điều tra trên toàn
quốc, một điều khó có thể thực hiện được, người nghiên cứu sẽ mở một cuộc
điều tra trên những tập thể được lựa chọn cẩn thận, nghiên cứu cặn kẽ
những sự việc xảy ra: thời gian, nơi chốn, tính chất, biểu hiện, nguyên nhân,
… nhưng công việc không phải chỉ có thể vì những sự kiện lẻ tẻ xảy ra trong
đời sống của một cá nhân chỉ đem lại một sự hiểu biết hời hợt, nhiều khi rời
rạc, vô nghĩa, không giúp ích gì cho sự tìm hiểu tương quan nhân quả của
vấn đề. Vì thế, cuộc khảo sát phải mở rộng đến môi trường sinh hoạt của cá
nhân, tập thể, đến hoàn cảnh xã hội, kinh tế trong đó cá nhân sinh sống, đến
những nhóm người mà cá nhân ấy tiếp tục và tính chất của những cuộc tiếp
xúc ấy.
Loại khảo sát trường hợp đặc thù này giúp ích rất nhiều cho nghiên cứu
giáo dục, nhưng giá trị của nó cũng có nhiều giới hạn. Người nghiên cứu cần
phải dè dặt. Không nên tìm cách khái quát hóa vấn đề sau khi chỉ nghiên cứu
một vài trường hợp đặc thù.
2. Nghiên cứu đối chiếu và tương quan nhân quả
Mục đích của phương pháp này là tìm hiểu yếu tố hay những yếu tố
nào đã là nguyên nhân của hiện tượng xảy ra. Người nghiên cứu sẽ so sánh
sự giống nhau hay khác nhau của các hiện tượng rồi từ đó tìm ra yếu tố nào
có thể xem nguyên nhân gây nên sự kiện hay tình trạng nhận thấy.
Nhà khoa học tự nhiên nghiên cứu tương quan nhân quả giữa các sự
kiện bằng các cuộc thí nghiệm, trong đó các yếu tố (hay biến số) được kiểm
soát chặt chẽ ngoại trừ yếu tố mình muốn khảo sát, để xem ảnh hưởng của
yếu tố này tác dụng như thế nào. (vấn đề này sẽ được đề cập trong chương
trình nghiên cứu thực nghiệm) nhưng trong phạm vị giáo dục, nhiều khi nhà
nghiên cứu không tài nào kiểm soát nổi tất cả những yếu tố ảnh hưởng đến
thái độ hay khả năng của hs như hoàn cảnh gia đình, thành phần xã hội, trí
thông minh, v.v… để làm sao chỉ có một yếu tố mình muốn quan sát tác dụng
đến hiện tượng nghiên cứu mà thôi. Như vậy, phương pháp nghiên cứu thực
nghiệm như các nhà khoa học thực nghiệm thường sử dụng khung cảnh một
phòng thí nghiệm nhiều khi khó có thể thực hiện được với nhà giáo dục.
Trong trường hợp ấy, nhà giáo dục sẽ áp dụng phương pháp đối chiếu và
tương quan nhân quả. Loại nghiên cứu này phát sinh từ phương pháp hòa
đồng của john stuart mill như sau: “nếu trong hai hay nhiều hiện tượng đang
được khảo sát, chỉ có một hoàn cảnh chung, thì hoàn cảnh chung ấy là
nguyên nhân (hay là nhân quả) của hiện tượng đang được khảo sát ấy.
Ví dụ: người nghiên cứu muốn tìm hiểu nguyên nhân của hiện tượng
bỏ học ở hs THPT. Nếu áp dụng nguyên tắc hòa đồng thì người ấy phải hỏi
những hs bỏ học xem thứ nguyên nhân vì sao các em bỏ học. Giả sử các em
đều cho rằng nguyên nhân chính là do các em chán học (không có hứng thú
học tập), thì theo nguyên tắc trên, người nghiên cứu có thể kết luận: mất
hứng thú học tập là nguyên nhân dẫn đến việc bỏ học. Nhưng nếu áp dụng
phép kéo theo trong logic toán học (nếu x là nguyên nhân của người nghiên
cứu sẽ bị chỉ trích là chưa tìm hiểu xem những hs không bỏ học liệu họ có
không chán học hay không).
Để khắc phục hạn chế của phương pháp hòa đồng, người ta áp dụng
phương pháp hòa đồng và dị đồng cũng của tác giả trên. Phương pháp này
có thể tóm tắt như sau: “nếu hai hay nhiều trường hợp (a, b, c) trong đó hiện
tượng được nghiên cứu xảy ra, có một yếu tố chung nhất là x, trong khi hay
hay nhiều trường hợp khác (d, e, f) trong đó hiện tượng được nghiên cứu
không xảy ra, không có gì chung cả, ngoại trừ sự thiếu sót của yếu tố x, thì
yếu tố x là nguyên nhân của hiện tượng xảy ra đó”.
Áp dụng phép kéo theo trong phương pháp hòa đồng và dị đồng, người
nghiên cứu tìm hiểu xem có phải sự chán học (x) là yếu tố chung, là nguyên
nhân dẫn đến tình trạng bỏ học ở các hs, a, b, c hay không. Nếu quả thật như
vậy, người nghiên cứu phải tìm hiểu tiếp ở những hs khác (d, e, f) không bỏ
học. Và nếu kết quả cho thấy những hs, d, e, f và nhiều hs khác nữa không
bỏ học mà cũng không chán học, thì lúc đó người nghiên cứu mới có thể kết
luận được rằng sự chán học là nguyên nhân dẫn đến tình trạng bỏ học của hs
THPT (có x sẽ có y, không có x sẽ không có y), những hs d, e, f không bỏ học
nhưng có em cảm thấy chán học, thì yếu tố chán học không phải là nguyên
nhân của tình trạng bỏ học.
Tóm lại, nghiên cứu tương quan nhân quả bằng phương pháp đối chiếu
là một loại nghiên cứu khảo sát trong trường hợp nhà nghiên cứu không thể
nào làm chủ được các yếu tố và kiểm soát các yếu tố ấy chặt chẽ như nhà
khoa học thực nghiệm trong phòng thí nghiệm. Phương pháp đối chiếu tìm
tương quan nhân quả này do đó có nhiều giới hạn:
a. Khó có thể quyết đoán được yếu tố mình phỏng đoán là nguyên
nhân ấy có phải là yếu tố duy nhất ảnh hưởng đến hiện tượng hay không.
b. Cùng một hiện tượng xảy ra, có thể không do nhiều yếu tố kế hợp lại
mà trong trường hợp này thì do nguyên nhân y, trường hợp khác thì do
nguyên nhân z.
c. Có những trường hợp khó xác định yếu tố nào là nguyên nhân, yếu
tố nào là hậu quả. Ví dụ giữa sự chuyên cần và thành tích học tập của hs.
3. Nghiên cứu liên hệ
Mục đích của loại nghiên cứu này là xác định sự liên hệ giữa hai yếu tố
với nhau. Chẳng hạn, ta nghiên cứu xem có sự liên hệ nào giữa thương số trí
tuệ của trẻ với điểm số môn toán, sự liên hệ giữa thành tích môn toán với
thành tích các môn học khác ở bậc tiểu học.
Ví dụ: ta nghiên cứu xem có sự tương quan nào giữa thương số trí tuệ
(iq) với điểm số môn toán của hs lớp 9 tại trường x trong năm học 1995 –
1996. Ta nêu giả thuyết: “nếu iq cao thì điểm số môn toán trong năm học
cũng cao”. Vậy công việc của chúng ta là điểm kiểm nghiệm giả thuyết để xác
định sự tương quan.
Kết quả tính toán thống kê về hệ số tương quan r sẽ ở vào một trong
ba trường hợp sau:
a. R # 1: tương quan thuận hoàn toàn, giả thuyết đã được chứng minh
và ta có thể kết luận: điểm số môn toán có liên hệ với iq, iq cao thì điểm số
môn toán cao, iq thấp thì điểm số môn toán thấp.
b. R < 0: tương quan nghịch, có nghĩa là: iq cao thì điểm toán thấp, iq
thấp thì điểm toán cao; giả thuyết không được chứng minh. Kết luận: có sự
tương quan nghịch (liên hệ trái ngược) giữa iq và điểm toán.
c. R # 0: không có hay ít có sự tương quan; giả thuyết không được
chứng minh. Kết luận: không có sự tương quan, (liên hệ) giữa iq với điểm
toán.
Ta nên nhớ rằng hệ số tương quan r chỉ dùng để đo lường mức độ liên
hệ giữa hai yếu tố chứ không xác định rằng đó là sự tương quan nhân quả.
III. Nghiên cứu phát triển
Nghiên cứu phát triển khác với các loại nghiên cứu kể trên là không
những chú trọng đến hiện trạng và tương quan giữa các yếu tố mà còn khảo
sát cả sự thay đổi và sự diễn tiến của sự kiện theo thời gian. Có hai loại
nghiên cứu phát triển thông dụng là: nghiên cứu sự tăng trưởng và nghiên
cứu khuynh hướng phát triển.
1. Nghiên cứu sự tăng trưởng:
Loại nghiên cứu này rất thông dụng trong việc nghiên cứu sự phát triển
thể chất và trí tuệ của trẻ em và các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển ấy.
Nghiên cứu sự phát triển thể chất của trẻ chẳng hạn, thường được
thực hiện dưới hai dạng: nghiên cứu sự tăng trưởng theo chiều dọc và nghiên
cứu sự tăng trưởng theo chiều ngang.
+ Nghiên cứu sự tăng trưởng theo chiều dọc
Loại nghiên cứu này nhằm tìm hiểu sự tăng trưởng của cùng một hay
nhiều trẻ được đo lường trong nhiều năm ở các tuổi khác nhau.
+ Nghiên cứu theo chiều ngang
Thay vì khảo sát cùng những đứa trẻ ấy, người ta khảo sát nhiều đứa
trẻ khác nhau ở cùng một độ tuổi.
2. Nghiên cứu khuynh hướng phát triển
Mục tiêu của loại nghiên cứu này là dự báo khuynh hướng phát triển
của hiện trạng. Muốn vậy, người nghiên cứu phải theo dõi hiện trạng trong
nhiều năm liên tiếp, từ đó phát hiện ra quy luật vận động của hiện trạng, rồi
dựa vào quy luật và những điều kiện để dự báo khuynh hướng phát triển của
sĩ số hs tiểu học ở một địa phương, người nghiên cứu phải theo dõi sự tăng
trưởng sĩ số hs tiểu học của địa phương đó trong nhiều năm liền cùng những
điều kiện ảnh hưởng đến sự tăng hay giảm sĩ số hs, từ đó rút ra quy luật về
sự tăng giảm sĩ số hs và dự báo về sự tăng giảm sĩ số hs trong tương lai.
Loại nghiên cứu này rất cần cho các nhà quản lý giáo dục để hoạch định kế
hoạch phát triển giáo dục địa phương hay quốc gia.
Câu hỏi
1. Chọn, xác định, giới hạn một đề tài nghiên cứu thuộc loại khảo sát
thực trạng giáo dục.
2. Cho ví dụ về một nghiên cứu đối chiếu tìm tương quan nhân quả.
3. Nghiên cứu sự tăng trưởng theo chiều dọc là g? Cho ví dụ. Nghiên
cứu sự tăng trưởng theo chiều ngang là gì? Cho ví dụ.
Chương 7. Nghiên cứu thực nghiệmMỤC TIÊU HỌC TẬP
Sau khi học xong chương này, sinh viên có thể đạt được:
1. Về kiến thức
- Kể tên được các giai đoạn của một công trình nghiên cứu thực
nghiệm giáo dục.
- Phân tích được những điểm căn bản của một thực nghiệm giáo dục.
2. Về kỹ năng
- Chọn, xác định, giới hạn được một đề tài nghiên cứu thực nghiệm
giáo dục.
- Nêu và phân tích được giả thuyết thực nghiệm.
3. Về thái độ
- Tích cực lĩnh hội kiến thức và có ý thức rèn luyện kỹ năng để hình
thành năng lực nghiên cứu.
NỘI DUNG
I. Các giai đoạn của một công trình nghiên cứu thực nghiệm
1. Lựa chọn, xác định và giới hạn đề tài nghiên cứu.
2. Khảo sát các tài liệu sách báo liên hệ đến đề tài nghiên cứu.
3. Soạn đề cương nghiên cứu, trong đó có việc xây dựng giả thuyết
thực nghiệm và giải thích các biến số đem ra khảo sát.
4. Lập một dự án thực nghiệm bao gồm các công trình sau;
+ Kiểm soát biến số: tìm ra những biến số mà ta không chủ ý khảo sát
để loại ra ngoài vì những biến số ấy có thể ảnh hưởng sai lệch đến kết quả
cuộc thực nghiệm.
+ Lựa chọn một mô thức nghiên cứu.
+ Lựa chọn mẫu nghĩa là nhóm người được khảo sát có thể tiêu biểu
cho dân số, chia mẫu ấu thành từng nhóm, mỗi nhóm chịu tác động của
những biến số khác nhau.
+ Lựa chọn hoặc đặt ra những phương thức đo lường kết quả của cuộc
thực nghiệm, xác định giá trị của các phương tiện đó.
+ Nghĩ đến phương pháp thu lượm dữ kiện.
+ Lập giả thuyết theo phương pháp thống kê.
5. Thực hiện cuộc thực nghiệm.
6. Giảm bớt một số các dữ kiện để có thể nhận định kết quả của cuộc
thực nghiệm một cách rõ ràng, nổi bật nhất.
7. Áp dụng phương pháp thống kê để xác định mức độ tin cậy của cuộc
thực nghiệm.
II. Căn bản của một cuộc thực nghiệm giáo dục
Đối với người nghiên cứu, điều quan trọng là chứng minh giả thuyết
thực nghiệm. Giả thuyết thực nghiệm hàm chứa những gì bên trong và
thường được diễn ta theo cấu trúc như thế nào?
1. Giả thuyết thực nghiệm
Một số giả thuyết thực nghiệm được đặt ra một cách đúng đắn bao giờ
cũng làm nổi bật lên hai biến số xác định rõ rệt: biến số độc lập và biến số
phụ thuộc. Người ta gọi biến số độc lập là x và biến số phụ thuộc là y. Mối liên
hệ giữa x và y thường là mối liên hệ nhân quả. Trong chương trước, vì không
có điều kiện thực nghiệm nên người nghiên cứu phải dùng nghiên cứu đối
chiếu tìm tương quan nhân quả để xác định nguyên nhân của hiện tượng
hoặc tình trạng giáo dục. Nhưng cả thực nghiệm và đối chiếu tìm tương quan
đều dựa vào phép kéo theo trong logic học: nếu x là nguyên nhân của y, thì
có x sẽ có y, không x sẽ không có y. Vì vậy, giả thuyết thực nghiệm sẽ được
diễn tả theo cấu trúc của phép kéo theo: nếu có x thì y xảy ra. Giả thuyết này
thể hiện ý đồ của người nghiên cứu muốn chứng minh rằng x là nguyên nhân
của tình trạng y. Để làm được việc này, trước tiên, người nghiên cứu phải tìm
cách khống chế các biến số (yếu tố) khác bên ngoài biến số x, không cho
chúng ảnh hưởng đến biến số phụ thuộc y, chỉ để cho một mình biến số độc
lập x tác động lên biến số phụ thuộc y mà thôi. Đó chính là công việc kiểm
soát biến số, việc đầu tiên trong khi lập dự án thực nghiệm.
2. Kiểm soát biến số
Thực nghiệm sau sẽ minh họa cho giả thuyết thực nghiệm và việc kiểm
soát biến số: người nghiên cứu nhận thấy hiện nay do điều kiện kinh tế khá
giả nên ngày càng có nhiều trẻ mẫu giáo bị béo phì. Biện pháp nào khắc phục
được tình trạng này? Để trả lời câu hỏi này, người nghiên cứu đưa ra giả
thuyết: nếu áp dụng chế độ dinh dưỡng và vận động hợp lý trong một năm
học thì tình trạng béo phì ở trẻ mẫu giáo lớn tại thành phố hồ chí minh sẽ
được khắc phục.
Trong giả thuyết trên, biến số độc lập là: …
Và biến số phụ thuộc là: …
Để kiểm soát biến số, người nghiên cứu phải chọn một mô thức thực
nghiệm. Giả sử trong trường hợp này, người nghiên cứu chọn mô thức tiền
và hậu trắc nghiệm với nhóm kiểm soát lựa chọn ngẫu nhiên. Như vậy người
nghiên cứu phải chọn mẫu nghiên cứu từ dân số là tất cả trẻ mẫu giáo lớn tại
thành phố hồ chí minh (giả sử là 100.000 cháu, ta chọn ngẫu nhiên lấy 800
chấu ở 20 trường mầm non). Ta chia ngẫu nhiên mẫu nghiên cứu (800 cháu)
thành hai nhóm: nhóm thực nghiệm là nhóm sẽ được áp dụng biện pháp thực
nghiệm (chế độ dinh dưỡng và vận động phù hợp) trong một năm học và
nhóm kiểm soát là nhóm không chịu tác động của biện pháp thực nghiệm
(theo chế độ dinh dưỡng cũ).
Trong cuộc thực nghiệm này, người nghiên cứu đã kiểm soát biến số
bằng cách:
a. Cân bằng số trẻ ở nhóm thực nghiệm và nhóm kiểm soát
b. Lựa chọn ngẫu nhiên trẻ và nhóm thực nghiệm cũng như nhóm kiểm
soát, vì vậy tỉ lệ phần trăm trẻ bị béo phì ở cả hai nhóm xấp xỉ bằng nhau.
c. Thời gian thực nghiệm cân bằng giữa hai nhóm.
Trong điều kiện giống nhau như thế, người nghiên cứu chỉ đưa ra một
biến số khác nhau duy nhất là chế độ dinh dưỡng và vận động phù hợp ở
trường và ở nhà. Khi cuộc thực nghiệm hoàn tất, nếu nhóm thực nghiệm có tỉ
lệ phần trăm trẻ béo phì giảm đáng kể còn nhóm kiểm soát thì không, thì giả
thuyết thực nghiệm đã được chứng minh và người nghiên cứu có thể kết
luận: giải pháp nhằm khắc phục tình trạng béo phì ở trẻ mẫu giáo lớn tại
thành phố hồ chí minh là áp dụng chế độ dinh dưỡng và vận động phù hợp
trong một thời gian một năm học.
Như vậy là người nghiên cứu đã kiểm soát các biến số độc lập có thể
ảnh hưởng đến biến số phụ thuộc, làm sao có thể tìm ra được biến số mình
đang muốn nghiên cứu có phải là nguyên nhân gây nên sự khác biệt về tỉ lệ
trẻ béo phì ở cả hai nhóm. Phương thức kiểm soát thường dùng là lựa chọn
ngẫu nhiên đối tượng thực nghiệm vào nhóm thực nghiệm và đối tượng kiểm
soát vào nhóm kiểm soát.
3. Mô thức thực nghiệm
Lựa chọn một mô thức để thực hiện cuộc thực nghiệm là vấn đề cần
thiết, bắt buộc phải có trong một cuộc nghiên cứu. Trong khi phác họa mô
thức thực nghiệm, người nghiên cứu cần phải xác định những biến số nào
cần phải kiểm soát. Biến số độc lập x có phải là biến số tác động đến kết quả
nhận thấy ở biến số phụ thuộc y hay không? Làm sao ngăn chặn ảnh hưởng
của các biến số khác ngoài x?
Vậy, một mô thức thực nghiệm có giá trị là mô thức có kiểm soát chặt
chẽ để có thể đưa đến kết luận đúng đắn, tránh được những chỉ trích hay
nghi ngờ đến tối đa.
- Trong các mô thức thực nghiệm, người ta hay dùng những thuật ngữ
với các ký hiệu sau:
- Biến số độc lập x, còn được gọi là biến số thực nghiệm.
- Biến số phụ thuộc y.
- Người nt: e (experimenter) còn được gọi là nghiệm viên.
- Người hay sinh vật được đem thực nghiệm: s (subject): đối tượng
thực nghiệm hay nghiệm thể.
- Nhóm thực nghiệm: eg (experimenter group) là nhóm là chịu tác động
của x, cũng chính là s.
- Nhóm kiểm soát: cg (control group) là nhóm được kiểm soát để cho
nó không chịu tác động của x hay chịu tác động của biến số khác ngoài x. Ta
dùng nhóm này chỉ với mục đích đối chiếu với nhóm eg.
- Tiền trắc nghiệm t1: (tiền kiểm) và hậu trắc nghiệm t2 (hậu kiểm).
Tiền trắc nghiệm là bài trắc nghiệm được sử dụng trước khi có tác
động của x.
Hậu trắc nghiệm là bài trắc nghiệm được sử dụng sau khi có tác động
của x.
- Điểm trung bình m (mean): thương số có được bằng cách chia tổng
số điểm số của toàn nhóm cho tổng số người trong nhóm.
- Dân số p (population) là tập hợp gồm những phần tử nằm trong giới
hạn của đề tài nghiên cứu.
- Mẫu s (sample) là một là một tập hợp con được lựa chọn ngẫu nhiên
từ p.
Ngoài việc kiểm soát biến số, muốn nâng cao giá trị của mô thức thực
nghiệm, ta còn phải chú ý đến giá trị nội tại và giá trị ngoại tại của mô thức.
3.1 Giá trị nội tại của mô thức thực nghiệm.
Muốn cho mô thức thực nghiệm có giá trị nội tại, e cần phải lưu ý và
khắc phụ những yếu tố sau:
+ Sự kiện đồng thời
Trong khi cuộc thực nghiệm đang tiến hành, có thể có những sự kiện
bất ngờ xảy đến, ảnh hưởng đến biến số phụ thuộc y, e sẽ tưởng rằng kết
quả thay đổi ở y là do x tạo nên, nhưng thực sự là chính do biến số bất ngờ
ấy, chứ không phải hoàn toàn là do biến số x.
+ Ảnh hưởng tâm lý hay sự trưởng thành
Trong khi cuộc thực nghiệm diễn tiến, có thể có những yếu tố tâm lý
hay sinh lý ảnh hưởng đến kết quả. Kết quả t2 có thể khá hơn hay thua kém
t1 là vì lý do đối tượng thực nghiệm (s) đã lớn tuổi hơn, trưởng thành hơn,
mệt mỏi hơn hay kém thích thú đi so với lần đầu.
+ Dụng cụ đo lường
Điểm số về t1 và t2 có thể khác nhau không phải là do tác động của x
mà do sự thay đổi bài trắc nghiệm (t2 dễ hơn t1 chẳng hạn).
+ Sự hồi quy
Hồi quy là khuynh hướng quay về điểm trung bình của dân số của đối
tượng thực nghiệm làm cho e lầm tưởng là do tác dụng của x. Nguyên nhân
của tính trạng này là gì?
Hai nguyên nhân của tính trạng hồi quy là:
- Do giá trị của t1 và t2 không đo lường đúng khả năng mà ta muốn
quan sát hay không có sự tương quan hoàn toàn giữa hai bài trắc nghiệm.
- Do việc chọn lựa đối tượng thực nghiệm (s) của e không nghiêm túc,
thiếu công bằng, khách quan: căn cứ trên bài tiền trắc nghiệm t1, e chọn
những hs giỏi vào eg vào hs kém cho cg.
Ví dụ: căn cứ vào bài t1, ta chọn một nhóm hs thật giỏi, m của nhóm
này là 90. Nhưng đến khi chúng làm bài t2, m của nhóm <90 hướng về phía
trung bình của dân số. Trong đó thì m’ của nhóm kém lại tăng lên ở bài trắc
nghiệm t2, hướng về điểm trung bình của dân số. Trung bình m’ của nhóm
kém ở bài t1 không phản ánh đúng trình độ nhóm, có thể vì ngày hôm ấy
chúng bỡ ngỡ, không cẩn thận.
+ Sự hao mòn trong thời kì thực nghiệm.
Trong khi cuộc thực nghiệm tiến hành, nếu một hay nhiều người trong
nhóm bỏ cuộc, thì sự hao mòn ấy có thể ảnh hưởng đến kết quả. Chẳng hạn,
một hay nhiều hs kém bỏ cuộc thì điểm số của nhóm trên bài t2 sẽ tăng lên,
ấy là do sự bỏ cuộc của những hs kém chứ không phải là do tác động của X.
3.2. Giá trị ngoại tại
Ở phần 3. Mô thức thực nghiệm, ta đã đặt câu hỏi: “Biến số độc lập X
có phải là biến số tác động đến kết quả nhận thấy ở biến số phụ thuộc Y hay
không?” Trả lời được câu hỏi này ta mới chỉ xác định được giá trị nội tại của
mô thức thực nghiệm mà thôi. Như vậy vẫn chưa đủ. Câu hỏi kế tiếp sau khi
xác định giá trị nội tại của cuộc nghiên cứu là: “Ta có thể nào khái quát kết
quả liên quan đến tác dụng của X đến mỗi trường hợp khác ngoài phạm vi
cuộc nghiên cứu hay không?”
Ví dụ, ta so sánh hai phương pháp giảng dạy trong một cuộc nghiên
cứu thực hiện với các nhóm HS lớp 10 trường A. Sau cuộc thực nghiệm với
các nhóm ấy, ta thấy phương pháp X có hiệu quả hơn phương pháp X’. Vật
kết quả ấy có thể khái quát hóa cho tất cả HS lớp 10 trong toàn thành phố,
hay cả nước được không? Hay kết quả ấy chỉ có thể đúng với HS lớp 10
trường A mà thôi?
Do đó, để tăng cường giá trị ngoại tại của cuộc thực nghiệm, người
nghiên cứu cần phải xác định và mô tả dân số P mà mình muốn khảo sát để
đem ứng dụng kết quả. Như ở ví dụ trên, dân số P mà người nghiên cứu chú
ý khảo sát để đem ứng dụng kết quả có thể là toàn thể HS lớp 10 trong
trường A, trong toàn thành phố hay trên toàn quốc. Công việc xác định P này
cần phải thực hiện trước khi khởi nghiệp nghiên cứu. Sau đó, người nghiên
cứu sẽ chọn mẫu S từ P theo lối ngẫu nhiên. Rồi từ S, ta chia một cách ngẫu
nhiên thành Eg (tức là s) và Cg. Nhu vậy tác dụng của X đối với s cũng giống
nhau như tác dụng của X đối với P
Nói tóm lại, tính cách đại diện của mẫu S sẽ quyết định việc khái quát
hóa kết quả thu lượm được trong cuộc nghiên cứu.
III. Những mô thức thực nghiệm thông dụng
1. Mô thức 1: Tiền và hậu trắc nghiệm với một nhóm duy nhất
Khi nào người nghiên cứu áp dụng mô thức này?
Đó là lúc người nghiên cứu áp không có điều kiện để chọn lựa ngẫu
nhiên HS vào nhóm thực nghiệm Eg và nhóm đối chứng (kiểm soát) Cg.
- Tóm tắt mô thức nghiên cứu.
Ví dụ: E muốn nghiên cứu phương pháp giản dạy mới X có làm tăng
khả năng linh hoạt trong tư duy của HS hay không. E thực hiện cuộc thí
nghiệm theo các giai đoạn như sau:
- Dùng T1 để kháo sát khả năng linh hoạt trong tư duy của nhóm HS
trước khi áp dụng X. Tính M
- Áp dụng X với nhóm ấy trong một thời gian.
- Cho nhóm làm trắc nghiệm T2, do khả năng linh hoạt trong tư duy của
nhóm. Tính M của T2. So sánh T1 và T2, nếu có sự khác biệt thì đó là do tác
động của X.
- Dùng kỹ thuật thống kê để xác nhận rằng sự khác biệt ấy có ý nghĩa.
Bài tập: Hãy nêu điểm hạn chế của mô thức này.
2. Mô thức 2: Tiền và hậu trắc nghiệm thêm nhóm kiểm soát lựa chọn ngẫu nhiên.
Nếu chỉ dùng một nhóm Eg mà thôi theo như mô thức 1 thì các hiện
tượng như sự trưởng thành, sự kiện đồng thời, có thể xảy ra ảnh hưởng đến
biến số phụ thuộc Y, khiến cho ta không biết có phải kết quả nhận thấy là do
X tạo ra hay do các biến số khác. Bây giờ ta có thêm nhóm kiểm soát để so
sánh. Eg chịu tác động của X, Cg không chịu tác động của X. Nếu có các hiện
tượng kể trên xảy ra thì cả hai nhóm đều chịu ảnh hưởng giống nhau cả. Như
vậy, sự khác biệt giữa hai nhóm nếu có chỉ có thể phỏng đoán là do tác động
của X mà thôi.
- Tóm tắt mô thức nghiên cứu
Mô thức 2 được tiến hành theo các giai đoạn sau:
- Lựa chọn S từ P bằng phương pháp ngẫu nhiên.
- Chia S thành hai nhóm theo phương pháp ngẫu nhiên ta được nhóm
Eg và nhóm Cg.,
- Cho hai nhóm Cg và Eg làm trắc nghiệm T1. Tính M của Rg (TIE) và
M của Cg (TIC).
- Giữ mọi điều kiện cho thật giống nhau giữa hai nhóm, ngoại trừ việc
áp dụng X cho Eg mà thôi.
- Cho hai nhóm Eg và Cg làm trắc nghiệm T2. Tính M của mỗi nhóm
(T2E và T2C).
- Dùng kiểm nghiệm thống kê để xem sự khác biệt giữa T2E với TIE,
giữa T2C với T1C có phải là sự khác biệt có ý nghĩa hay chỉ là sự khác biệt
do may rủi. Nếu sự khác biệt giữa T2E và T1E là sự khác biệt có ý nghĩa còn
sự khác biệt giữa T2C và T1C là sự khác biệt không có ý nghĩa (chỉ do may
rủi mà thôi) thì ta có thể kết luận: Phương pháp giảng dạy mới X đã làm gia
tăng khả năng linh hoạt trong tư duy của HS (giả thuyết thực nghiệm đã được
chứng minh).
Câu hỏi và bài tập
1. Kể tên các giai đoạn thực hiện một công trình nghiên cứu thực
nghiệm giáo dục.
2. Phân tích những điểm căn bản trong một thực nghiệm giáo dục.
3. Chọn, xác định và giới hạn một đề tài nghiên cứu thực nghiệm giáo
dục, nêu giả thuyết thực nghiệm, chỉ ra biến số độc lập, biến số phụ thuộc, chỉ
ra phương thức kiểm soát biến số và mô thức thực nghiệm dự định sẽ sử
dụng.
Chương 8. CÁCH TRÌNH BÀY MỘT CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU MỤC TIÊU HỌC TẬP
Sinh viên có kiến thức và kỹ năng trình bày một công trình nghiên cứu,
một luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp.
NỘI DUNG
Thông thường một công trình nghiên cứu, một luận án, luận văn, khóa
luận tốt nghiệp gồm có các phần sau: Mở đầu nội dung, kết luận và kiến nghị,
tài liệu tham khảo, phụ lục.
Trước phần mở đầu, các trang được sắp xếp theo thứ tự như sau:
Trang bìa; trang phụ bìa; lời cam đoan (trang này chỉ bắt buộc đối với luận án
tiến sĩ); mục lục; danh mục các chữ viết tắt; danh mục các bảng; danh mục
các hình vẽ, đồ thị.
Trang bìa được trình bày theo quy định bắt buộc theo mẫu sau:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Đối với luận án tiến sĩ)
Tên cơ sở đào tạo
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
(Đối với luận văn, khóa luận)
Tên tác giả luận án, luận văn, khóa luận
(Phông chữ VNI- Times in hoa đậm cỡ 14 như trên)
Tên đề tài luận án, luận văn, khóa luận (Cùng phông chữ và kiểu chữ trên
nhưng sử dụng cỡ chữ 18, 20 tuỳ theo tên đề tài dài hay ngắn)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ .....
LUẬN VĂN THẠC SĨ....
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Nơi và năm bảo vệ
Trang phụ bìa
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Đối với luận án tiến sĩ)
Tên cơ sở đào tạo
ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
(Đối với luận văn, khoá luận)
Tên tác giả luận án, luận văn, khóa luận
(Phông chữ VNI- Times in hoa đậm cỡ 14 như trên)
Tên đề tài luận án, luận văn, khóa luận
(Cùng phông chữ và kiểu chữ trên nhưng sử dụng cỡ chữ 18, 20 tùy theo tên
đề tài dài hay ngắn)
Chuyên ngành:(Cả luận án, luận văn, khóa luận tết nghiệp đại học đều ghi)
Mã số: (Đối với luận văn, luận án)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ .....
LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGƯỜI HUỚNG DẪN KHOA HỌC
Học hàm, học vị, họ và tên
Nơi và năm bảo vệ
Lời cam đoan
(Đối với luận án tiến sĩ)
Tôi xin cam đoan đây là cống trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Họ và tên
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình vẽ, đồ thị
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4. Giả thuyết khoa học
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
6. Giới hạn đề tài
7. Những đóng góp mới của đề tài
8. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Chương 1: Tên chương 1
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.2. Một sốkhấi năm cơ bản
1.3. Cơ sở...
1.3.1.
1.4. Cơ sở ...
1.4.1.
1 4.2.
Kết luận chương 1
Chương 2: Tên chương 2
2.1
2.4
Kết luận Chương 2.
Chương 3: Tên chương 3
3.1.1
3.1.2
3.2
3.3.1
3.3.3
Kết luận chương 3
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Kết luận
Kiến ghi
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ (Đối với luận án tiến sĩ
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Tên phụ lục
Phụ lục 2: Tên phụ lục
Phụ lục 3: Tên phụ lục
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ Viết tắt
Giáo viên GV
Học sinh HS
Sách giáo khoa SKG
Trung học phổ thông THPT
Lưu ý: Cần hạn chế số chữ viết tắt trong luận án, luận văn, khóa luận tất
nghiệp.
DANH MỤC CÁC BẢNG
STT Ký hiệu Tên bảng Trang
1 Bảng 1.1 So sánh hai mô hình dạy học
2 Bảng 1.2 (bảng thứ hai
của chương 1)
Quy trình dạy học ba bước của một
tình huống sư phạm
3 Bảng 2.1 (bảng thứ
nhất của chương 2)
4 Bảng 2.2
5 Bảng 3.1
6 Bảng 3.2
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
STT Ký hiệu Tên hình Trang
1
2
3
4
5
6
7
Hình 1.1
Hình 1.2
Hình 1.3
Hình 2.1
Hình 2.2
Hình 3.1
Hình 3.2
Sơ đồ mô hình dạy kiến thức
MỞ ĐẦU(Cỡ chữ 1 6)
1. Lý do chọn đề tài (Có chữ 14)
Tri thuc
Thay chu theTro thu đong
Lưu ý: Toàn bộ luận án, luận văn, khóa luận được đánh máy theo cỡ
chữ 14, phông chữ? VNI-Times hoặc VN-Times, dãn dòng 1.5, 26 dòng 1
trang, lề trên và trái: 3.5 em, lề dưới: 3 em, lề phải 2cm. Số trang được đánh
ở đầu hoặc cuối trang và ở chính giữa, bắt đầu từ phần mở đầu
Phần mở đầu thường chiếm khoảng 10 trang hoặc ít hơn. Trong phần
này có mục 8 Phương pháp luận và lược và để sang các chương 2, 3 sẽ trình
bày kỹ hơn.
NỘI DUNG
Chương 1.
Tiêu đề chương được đánh máy bằng chữ in hoa đậm, cỡ 14
Tổng số trang của mỗi chương trong phần này phải tương đối cân bằng nhau,
đừng quá chênh lệch. Tên bảng được để ở đầu bảng. Ví dụ:
Bả 1.1. So sánh hai mô hình dạy học
Mô hùm dạy học truyền thụ một
chiều: dạy – ghi nhớ
Mô hình dạy học hợp tác hai mà
chiều dạy - tự học
1
2
3
1
2
3
Cần giới hạn số lượng bảng số liệu trong luận án, luận văn, khóa luận,
vì nếu ta đưa vào quá nhiều sẽ không làm nổi bật kết quả nghiên cứu một
cách khái quát. Thông thường, chỉ nên đưa vào vài chục bảng biểu là vừa.
Tên hình vẽ, đồ thị được để ở cuối đồ thị. Ví dụ :
Hình 1 .2. Sơ đồ mô hình dạy kiến thức
Chú thích và trích dẫn trong luận án, luận văn, khóa luận:
Có hai trường hợp:
Thứ nhất: Nếu người nghiên cứu trích nguyên văn một vài câu trong tài
liệu của tác giả khác thì phần trích dẫn ấy phải để trong ngoặc kép và được
diễn đạt phù hợp với đoạn văn. Cuối đoạn trích có ghi số thứ tự của tài liệu
trong phần Tài liệu tham khảo.
Ví dụ :
Theo tác giả Nguyễn Ngọc Bảo thì "Tính tích cực nhận thức là: thái độ
cải tạo của chủ thể đối với khách thể thông qua sự huy động ở mức độ cao
các chức năng tâm lý nhằm giải quyết những vấn đề học tập, nhận thức. Nó
vừa là mục đích hoạt động, vừa là phương tiện, là điều kiện để đạt được mục
đích, vừa là kết quả của hoạt động. Nó là phẩm chất hoạt động của cá nhân"
[3].
Như vậy, đoạn trích trên, người nghiên cứu đã trích từ tài liệu thứ 3
trong phần tài liệu tham khảo.
Nếu người nghiên cứa trích nguyên văn nửa hoặc một, hai trang tài liệu
của tác giả khác thì không cần phải để trong ngoặc kép, nhưng Phải đánh
máy lùi vào so với lề bình thường và với cỡ chữ nhỏ hơn. Cuối phần trích có
ghi số thứ tự của tài liệu trích dẫn.
Thứ hai: Nếu người nghiên cứu chỉ mượn ý trong nội dung tài liệu của
tác giả khác, thì phần trích dẫn theo kiểu mượn ý đó không cần để trong
ngoặc kép, nhưng cũng phải ghi số thứ tự của tài liệu trích dẫn ở cuối đoạn
trích dẫn. Nếu mượn ý ở nhiều tài liệu để trích dẫn vào một đoạn văn của
luận án, luận văn, thì cuối đoạn văn ta phải ghi lần lượt số thứ tự các tài liệu
trích dẫn ấy theo thứ tự từ bé đến lớn. Ví dụ : [3], [7], [11], [15]
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Ở phần này, người nghiên cứu nên viết ngắn gọn, khái quát khoảng 3
trang (kết luận 2 trang, kiến nghị 1 trang). Bởi vì phần này tác giả phải sử
dụng nguyên văn vào Tóm tắt luận án, Tóm tắt luận văn, Tóm tắt khóa luận.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
Phần này được trình bày giống phần Tài liệu tham khảo, nhưng chỉ là
phần bắt buộc đối với luận án tiến sĩ, không bắt buộc đối với luận văn, khóa
luận. Ví dụ
1. Tên tác giả (năm xuất bản tài liệu), "Phát triển năng lực hoạt động trí
tuệ của học sinh trong giờ lên lớp môn Lịch sử lớp 11 trung học phổ thông,
Tạp chí Giáo dục, 2001(1O), tr. 34-36
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tham khảo được xếp theo thứ tiếng được viết trong tài liệu ấy
và theo thứ tự a, b, c tên tác giả tài liệu. Các tài liệu được xếp theo thứ tự liên
tục qua các thứ tiếng. Ví dụ:
Tiếng Việt:
1. Nguyễn Duy ái, Hóa học 10, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
2. A-lêc-xê-ep (1976), Phát triển tư duy học sinh. Hoàng Yến dịch, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
3. Trần Hồng Quân (1995), "Cách mạng về phương pháp đem lại sức
sống mới cho giáo dục", Nghiên cứu Giáo dục, 95 (1).
Tiếng Anh:
4. Co hen, L.(2001), Research method in education, Laurence Manion.
Lon don.
5. Deterline, William A. (1963), An Introduction To Programed
Instruction, Prentice Han, N.J.
Tiếng Pháp:
6. Cousinet Roger (1949), U ne méthode dễ travaille 11bre phí groupe,
Les éditions du Cerf, Paris.
PHỤ LỤC
Ở phần này, người nghiên cứu nên xếp các công cụ nghiên cứu (Bảng
câu hỏi, bài trắc nghiệm,v.v... nếu có) và kết quả xử lý từ máy vi tính kèm theo
từng công cụ để người đọc tiện theo dõi.
TÓM TẮT LUẬN ÁN, LUẬN VĂN, KHÓA LUẬN
Tóm tắt luận án, luận văn, khóa luận được trình bày trên khổ giấy A5,
gồm 24 trang, in 2 mặt. Trong đó, người nghiên cứu trình bày tóm tắt, khái
quát luận án, luận văn, khóa luận của mình với đầy đủ các phần từ mở đầu
đến kết luận và kiến nghị. Riêng các phần mục đích, khách thể, đối tượng, giả
thuyết được rút gọn. Tất nhiên, các bảng biểu phải giản lược tối đa. Tóm tắt
luận án, luận văn, khóa luận không in phần tài liệu tham khảo, không ghi số
chú thích.
Trang bìa ngoài của tóm tắt luận án được trình bày như sau:
Tên cơ quan, quản lý và cấp bằng
Ví dụ: Bộ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
(Đối với luận án tiến sĩ)
Tên cơ sở đào tạo
Ví dụ: ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Tên tác giá luận án, luận văn, khóa luận
Tên đề tài luận án, luận văn, khóa luận
CHUYÊN NGÀNH..................................................
Mã Số. . . . . . . . . . . . . . . . .
(Khóa luận tốt nghiệp đại học không có mã số)
TÓM TĂT LUẬN VĂN TIẾN SĨ... ... ... ... ... ...
LUẬN VĂN THẠC SĨ....................
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NƠi VÀ NĂM BẢO VỆ
Bìa trong phía trước đối với luận án tiến sĩ:
Công trình được hoàn thành tại bộ môn…
Khoa...... Trường Đại học…
Người hướng dẫn khoa học:
1. Học hàm, Học vị, Họ và tên
2. Học hàm, Học vị, Họ và tên
Phản biện 1: Học hàm, Học vị, Họ và tên Cơ quan
Phản biện 2: Học hàm, Học vị, Họ và tên Cơ quan
Phản biện 3: Học hàm, Học vị, Họ và tên Cơ quan
Luận án sẽ được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước họp
tại ...............vào hồi.....giờ......ngày...... tháng.....năm 200....
Có thể tìm hiểu luận án tại Thư viện Quốc gia và Thư viện…
Bìa trong phía sau đối với luận án tiến sĩ
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
(Như trong luận án)
BẢNG SỐ NGẪU NHIÊN
10480 15011 01536 02011 81647 91646 69177
22368 46573 25595 85393 30995 89198 27982
24130 48360 22527 97265 76393 64809 15179
42167 93093 06243 61680 07856 16376 39440
37570 39975 81837 16656 06121 91782 60468
77921 06907 11008 42751 27756 53498 18602
99562 72905 56420 69994 98872 31016 71194
96301 91977 05463 07972 18876 20922 94595
89579 14342 63661 10281 07453 18103 57740
85475 36857 53342 53988 53060 59533 38867
28918 69578 88231 33276 70997 79936 56865
63553 40961 48235 03427 49626 69445 18663
09429 93969 52636 92737 88974 33488 36320
10365 61129 87529 85689 48237 52267 67689
07119 97336 71048 08178 77233 13916 47564
51085 12765 51821 51259 77452 16308 60756
02368 21382 52404 60268 89369 19885 55322
01011 54092 33362 94904 31273 04146 48594
52162 53916 46369 58586 23216 14513 83149
07056 97628 33787 09998 42398 06691 76988
48663 91245 85828 14346 09172 30168 90229
54164 58492 22421 74103 47070 25306 76468
32639 32363 05597 24200 13363 38005 94342
29334 27001 87637 87308 58731 00256 45834
02488 33062 28834 07351 19731 92420 60952
81525 72295 24839 96423 24878 82651 66566
29676 20591 60086 26432 46901 20849 89768
00742 57392 39064 66432 84673 40027 32832
05366 04213 25339 26422 44407 44048 37937
91921 26418 64117 94305 25766 25940 39972
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
THANG ĐIỂM ĐÁNH GIÁ LUÔN VĂN TỐT NGIỆP
(Áp dụng từ năm 2003)
Sau cuộc họp của các thành viên trong hội đồng TLH và GDH sáng
ngày 19/5/2003, toàn thể đã góp ý cách đánh giá và đi đến thống nhất nội
dung như sau. Các biểu mẫu này đã áp dụng cho đợt bảo vệ luận văn 2003
và sử dụng tiếp cho các năm sau (nếu không có điều chỉnh).
Năm nay, Khoa gửi đến các hội đồng, đề nghị xem lại để thống nhất
một lần nữa.
Phần NỘI DUNG : 9 điểm
STT Tiêu chí đánh giá Trọng tâm đánh giá Điểm tối đa
1 Tên đề tài: phải ghi rõ ràng,
chính xác, gọn, bộc lộ được
nội dung nghiên cứu, thời
điểm, địa bàn
Chú ý tên phải phù
hợp với nội dung
nghiên cứu trong suất
đề tài
0.5 điểm
2 Lý do chọn đề tài, mục đích
nhiệm vụ, khách thể, đối
tượng, giả thuyết nghiên
cứu: phải trình bày đầy đủ
các mục, nội dung rõ ràng,
thể hiện mạch liên hệ xuyên
suốt, chặt chẽ, hợp lý từ lý
do đến mục đích, . . . và giả
thuyết NC.
Quan tâm các phần:
mục đích, nhiệm vụ,
đối tượng và giả
thuyết nghiên cứu (ví
dụ: mục đích phải cụ
thể, giả thuyết phải có
cơ sở lý luận xác
đáng....).
1 điểm
3 Phương pháp và công cụ đo
phải phục vụ được mục đích
nhiên cứu
3.1. Về PP: có PP chính,
chủ lực làm cột sống cho
việc NC. Nếu có PP hỗ trợ
càng tốt
3.2. Về công cụ:
3.2.1. Nội.dung công cụ: thể
hiện sự sáng tạo của tác
Quan tâm đánh giá:
- Phương pháp chính,
chủ lực: phù hợp tính
chất đề tài
- Công cụ:
a. Cấu trúc các phần
đáp ứng đo đủ để các
mặt mà mục đích NC
đề cập.
b. Các câu hỏi trong
Toàn mục 3
chiếm 1,5 điểm
trong đó: 3.1
chiếm 0,5 điểm
3.2 chiếm 1
điểm
giả. Công cụ có có trúc
mạch lạc, các phần phải
phục vụ mục đích nghiên
cứu
3.2.2. Về hình thức công cụ:
có nhiều dạng câu hỏi thể
hiện lệnh phong phú trong
việc đo lường
mỗi phần phải tách
bạch, không chồng lấp
nhau.
4 Lịch sử vấn đề (LSVĐ) và
Cơ sở lý luận (CSLL):
4.1. LSVĐ: tóm tắt hoặc nêu
được nhữg nét chính của
các công trình nghiên cứu
liên hệ
4.2. CSLL: làm rõ các khái
niệm công cụ liên hệ:
+ biết xác định dúng khái
niệm
+ các khái niệm bám sát vấn
đề nghiên cứu
+ thể hiện khả năng đọc
nhiều, hiểu được các khái
niệm
+ khả năng vận dụng lý luận
vào đề tài
a. LSVĐ
- nêu càng nhiều càng
tốt
- chú ý cách tác giả
tóm lược các đề tài đã
có
b. CSLL: chú trọng
bản lĩnh, quan điểm
của người NC trong
việc chấp nhận, lựa
chọn lý thuyết làm chỉ
đạo việc tạo công cụ
đo, phân tích số liệu
Trong đó:
4.1 chiếm 0,5
điểm
4.2 chiếm 1,5
điểm
5 Xử lý số liệu phân tích và
trình bày kết quả:
Chú ý:
+ Dùng thống kê có
Toàn mục 5
chiếm 3 điểm
5.1. Các phép tính xử lý
thống kê:
+ Sử dụng các số thống kê
mô tả đúng, phù hợp tính
chất của vấn đề đang
nghiên Cứu
+ Áp dụng được nhiều loại
thống kê khi phân tích dữ
kiện.
5.2. Phân tích: Nêu các
nhận xét ngắn, sắc nét, căn
cứ vào số liệu
5.3. Trình bày kết quả:
+ xây dựng được các bảng
số liệu cô đọng, phục vụ
nhiệm vụ nghiên cứu.
+ Biết xếp đặt trật tự trình
bày, thể hiện tính hệ thống.
cân nhấc, biết chọn
lọc. Không được lạm
dụng.
+ Các bảng, biểu giàu
thông tin, rõ ràng.
+ Các nhận xét đều
dựa vào số liệu. Cấm
bình luận tràn lan,
dùng nhiều ý chủ
quan, viết dài.
trong đó:
5.1 chiếm 0,5
điểm
5.2 chiếm 1,5
điểm
5.3 chiếm 1
điểm
6 Kết luận và kiến nghị :
6.1. Tóm tắt, kết luận: phải
là những kết luận rút ra từ
kết quả nghiên cứu chứ
không từ tổng kết kinh
nghiệm hay ý kiến cho quan
của người nghiên cứu
6.2. Kiến nghi: phải xuất
phát từ các kết quá NC, đối
chiếu với tình hình thực tiễn
Chú trọng vào:
+ Các kết luận phải
được trình bày theo
hướng tổng bợp, khái
quát, ngắn, toát lên
được cái chung..
+ Các kiến nghị cần cụ
thể có tính khả thi chứ
không chung chung
hay lý luận đơn thuần,
Toàn mục 6
chiếm 1 điểm
trong đó:
6.1 chiếm 0,5
điểm
6.2 chiếm 0,5
điểm
mà tác giả đã thâm nhập. Ví
dụ: N/c về tuổi thiếu niên
phải có các đề xuất liên hệ
những kết quả thu được và
phục vụ việc tìm hiểu, giáo
dục TN
không cần nghiên cứu
cũng nói được
Phần HÌNH THỨC: 1 điểm
STT Tiêu chí đánh giá Trọng tâm đánh giá Điểm tối đa
1 Các phần, chương, các tiểu
mục lớn, nhỏ trong từng
chương, các chú thích,
danh mục tài liệu tham
khảo, các phụ lục: trình bày
đúng qui cách Bộ GD và ĐT
đã ấn định cho 1 luận văn
tốt nghiệp.
Nhìn tổng quan luận
văn, các cỡ chữ, kiểu
chữ đậm, nghiêng,
gạch dưới hợp lý,
không rườm rà gây tối
mắt.
0,25 điểm
2 Không có những sai phạm
về ngữ pháp, chính tả. Lời
văn thuộc kiểu văn phong
khoa học, cô đọng, chính
xác
Quan tâm số lỗi chính
về ngữ pháp, chính tả,
các từ nước ngoài.
Phải có lối hành văn
khoa học, không phải
nghĩ gì, nói gì viết nấy.
0,5 điểm
3 Tỉ lệ các phần trong luận
văn phải cân đối, hợp lý. Số
trang luận văn không được
quá dài (trên 100 trang viết
không kể phụ lục là dài).
Quan tâm sự cân đối
giữa phần lý luận và
kết quả nghiên cứu.
0,25 điểm
Viết bản nhận xét xin dùng thống nhất kiểu, cỡ chữ là VNI-Times 13. Dưới
đây đề nghị các tiêu đề cho các bản nhận xét:
Tiêu đề cho bản nhận xét của phản biện
NHẬN XÉT PHẢN BIỆN
Tên luận văn :...........................................................................
Tên sinh viên: ..........................................................................
Tên người hướng dẫn: ...............................................................
Tên người phản biện: ................................................................
Các mục đề nghị viết:
I. Nhận xét về nội dung luận văn: gồm các phần: đề dẫn, các ưu điểm, các
khuyết điểm, v.v . . .
II. Nhận xét về hình thức luận văn.
III. Đánh giá chung, có thể đề nghị mức điểm hoặc loại điểm.
Người phản biện ký tên
Tiêu đề cho bản nhận xét của người hướng dẫn
BẢN NHẬN XÉT LUẬN VĂN
Tên luận văn :...........................................................................
Tên sinh viên: ..........................................................................
Tên người hướng dẫn: ...............................................................
Các mục cần viết:
I. Nhận xét về quá trình thực hiện đề tài.
II. Nhận xét về nội dung luận văn: gồm các điểm mạnh, các điểm yếu.
III. Nhận xét về hình thức luận văn.
IV. Đề nghị mức điểm hoặc loại điểm.
Người hướng dẫn ký tên
Trên đây là một số ý phục vụ cho buổi bảo vệ. Các bổ sung khác (nếu có) sẽ
có văn bản sau.
Mẫu 01/ĐT GD&ĐT
BAN CHỦ NHIỆM KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
Trường ĐHSP TP.HCM
THUYẾT MINH ĐỀ TÀI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHIỆP CẤP CƠ SỞ
1. TÊN ĐỀ TÀI
2. MÃ SỐ
3. LĨNH VỰC NGHIÊN CỨU
Tự nhiên…
Xã hội nhân văn…
Giáo dục…
Kỹ thuật…
Nông lâm ngư…
Y dược…
Môi trường…
4. LOẠI HÌNH NGHIÊN CỨU
Cơ bản
Ứng dụng
Triển khai
5. THỜI GIAN THỰC HIỆN
Từ thang năm đến tháng năm
6. CƠ QUAN CHỦ TRÌ
Tên cơ quan…
Địa chỉ…
Điện thoại…
Fax…
Email…
7. CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
Họ và tên…
Học vị, chức danh KH…
Chức vụ…
Địa chỉ…
Điện thoại CQ…
Fax…
Di động…
Điện thoại NR…
Email…
8. DANH SÁCH NHỮNG NGƯỪI CHỦ CHỐT THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Họ và tên…
Đơn vị công tác…
Nhiệm vụ được giao…
Chữ ký…
9. ĐƠN VỊ PHỐI HỢP CHÍNH
Tên đơn vị trong và ngoài nước…
Nội dung phối hợp...
Họ và tên người đại diện…
10. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ SẢN PHẨM TRONG, NGOàI NƯỚC LIÊN
QUAN TRỰC TIẾP ĐỀ TÀI
(Ghi cụ thể một số bài báo, tài liệu, nghiên cứu triển khai,... trong 5 năm
gần đây)
11. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
12. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
13. TÓM TẮT NỘI DUNG CỦA ĐỀ TÀI VÀ TIẾN ĐỘ THỰC HIỆN (ghi cụ thể)
Nội dung…
Thời gian thực hiện…
Dự kiến kết quả…
14. DỰ KIẾN SẢN PHẨM VÀ ĐỊA CHỈ ỨNG DỤNG
Loại sản phẩm…
Tên sản phâm…
Địa chỉ có thể ứng dụng (ghi cụ thể)…
15. KINH PHÍ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
Tổng kinh phí…
Trong đó:
Kinh phí sự nghiệp khoa học…
Các nguồn kinh phí khác…
Nhu cầu kinh phí từng năm:
Năm…
Năm…
Dự trù kinh phí theo các mục chi
Ngày... tháng... năm… Chủ nhiệm đề tài (Họ và tên, ký)
Ngày... tháng... năm… Cơ quan chủ trì (Ký tên, đóng dấu)
Ngày... tháng... năm… Cơ quan chủ quản (Ký tên, đóng dấu)
Ghi chú:
1. Các mục cần ghi đầy đủ, chính xác, rõ ràng, không tẩy xóa
2. Chữ ký, đóng dấu phải đúng thủ tục
Mẫu 02/ĐT GD&ĐT
Bộ Giáo Dục và Đào Tạo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
PHIẾU ĐÁNH GIÁ
THUYẾT MINH ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KH&CN
1 Họ và tên (thành viên Hội đồng): ......
2. Tên đề tài: .......
3. Quyết định thành lập Hội đồng: ........
4. Cơ quan chủ trì:…...
5. Ngày họp:…….
6. Địa điểm:.......
7. Ý kiến đánh giá theo các tiêu chuẩn sau:.......
Các tiêu chuẩn đánh giáĐiểm tối đa
Điểm đánh giá của thành viên Hội đồng
Mục tiêu, nội dung và sản phẩm dự kiến
của đề tài đáp ứng được yêu cầu đặt ra3
Tiềm lực của chủ nhiệm và đơn vị thực 3
3hiện đề tài, phương p3háp nghiên cứu
Dự toán kinh phí phù hợp với mục tiêu, nội
dung, tiến độ của đề tài3
Khả năng ứng dụng, phát triển sau khi đề
tài kết thúc3
Cộng 12
8. Ý kiến khác:…
Ngày… tháng… năm… (Ký tên)
TÀI LIỆU THAM KHẢOTiếng Việt
1. Phan Dũng (1997), Phương pháp-luận sáng tạo khoa học kỹ thuật,
Sở Khoa học Công nghệ và Môi trường thành phố Hồ Chí Minh.
2. Vũ Cao Đàm (1996), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb
Khoa học và kỹ thuật, Hà Nội.
3. Bùi Hiền - Nguyễn Văn Giao - Nguyễn Hữu Quỳnh - Vũ Văn Táo
(2001), Từ điển Giáo dục học, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
4. Nguyễn Như Khuông (2004), Khảo sát thực trạng sử dụng hình thức
dạy học lớp - bài trong quá trình dạy học các môn khoa học xã hội tại ít sổ
trường trung học phổ thông trên địa bàn tỉnh Bình Dương, khóa luận tốt
nghiệp đại học, Đại học Sư phạm TP.HCM
5. Nguyễn Bá Kim (1997), Phát triển Lý luận dạy học môn Toán, tập 1,
Nxb Giáo dục. Hà Nội.
6. Ngô Xán Tân - Điền Nải Cát (2004), Phương pháp động não tốt nhất,
Phạm Hồng Hải dịch, Nxb Trẻ, to Hồ Chí Minh.
7. Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục (1974), Bước đầu tìm hiểu phương
pháp nghiên cứu KHGD, Tạp chí Nghiên cứa Giáo dục xuất bản, Hà Nội.
8. Dương Thiệu Tống (1974). Phương pháp nghiên cứu khoa học. Tài
liệu in ronéo, Đại học Sư phạm Sài Gòn.
9. Dương Thiệu Tống (2002), Phương pháp nghiên cứu KHGD và Tâm
lý, tập 1 , Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
10. Phạm Viết Vượng (1997), Phương pháp luôn nghiên cứu khoa học,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tiếng Anh
11. Memfield, P.R. (1965), rrenđs in the Measurement of Special
Abilities", Review ofEducat(onaI Research, February 1965, Vol. XXXV No. 1 ,
p. 25, American Educational Research Association.
12. Shaughnessy, J.J. & Zechmeister. E.B. (2000), Research Methods
in Psychology, New York, Mc Graw Hill.
Tiếng Pháp
13. Albarello, L. (1999). Apprendre à chercher, Paris: De Boeck
Université.
14. Berthier, N.(1998), Les techniques d' enquête, Paris: Armand Colin.
15. Chauchat, H. (1985). Lenquête en psycho-sociotogie, Paris:
Presses Universitaires de France.
16. Lussier, D. (1992). èvaluerles apprentissnges. Pans: Hachette.
17. Mager, R.F. (1986). Comment mesurer les resultats de 1
enseignement, Pans: Bordas.
18. Quyvi, R. & Campenhnoudt, L.V. (1988). Manuet de rrecherche en
sciences sociales. Pans:Dunod
19. Thélot, C. (1993). E. évaluation du système esducatif paris: Nathan
Université.
MỤC LỤCLời nói đầu
Chương I. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
1. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học
2. Phương pháp luận nghiên cứu khoa học giáo dục
3. Hệ thống ba bậc của lý luận về phương pháp
4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu khoa học giáo dục
5. Cơ sở phương pháp luận của nghiên cứu khoa học giáo dục
Chương II. Khái niệm và phân loại trong nghiên cứa khoa bọc
1 Khái niệm về nghiên cứu khoa học
2. Các loại hình nghiên cứu khoa học
3. Các phương pháp nghiên cứu
Chương III. Trình tự tiến hành một công trình nghiên cứu khoa học giáo dục
1. Giai đoạn chuẩn bị
2. Giai đoạn thực hiện
3. Giai đoạn hoàn thành công trình khoa
4. Giai đoạn báo cáo (bảo vệ), nghiệm thu, đánh giá công trình
5. Giai đoạn ứng dụng kết quả nghiên cưa vào thực tiễn
Chương IV. Các phương pháp và phương tiện nghiên cứu
1. Chọn màu
2. Điều tra giao
3. Phỏng vấn
4. Trắc nghiệm
Chương V. Phương pháp nghiên cứu lịch sử
1. Lựa chọn , xác định và giới hạn đề tài
2. Xây dựng giả thuyết
3. Thu thập tài liệu
4. Khảo sát và nhận xét tài liệu
5. Tường trình kết quả
Chương VI. Nghiên cứa mô tả
1. Khảo sát hiện trạng
2. Nghiên cứu tương quan
3. Nghiên cứu phát triển
Chương VII. Nghiên cứu thực nghiệm
1. Các giai đoạn của một công trinh nghiên cứu thực nghiệm
2. Căn bản của một cuộc thực nghiệm giáo dục
3. Những mô thức thực nghiệm thông dụng
Chương VIII. Cách trình bày một công trình nghiên cứu
1. Mục tiêu học tập
2. Nội dung
-Phụ lục:
+ Bảng số ngẫu nhiên
+ Thang điểm đánh giá khóa luận tốt nghiệp đại học
- Tài liệu tham khảo
---//---
GIÁO TRÌNH PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC GIÁO DỤC
Tác giả: Ngô Đình Qua
Phản biện. TS. Mai Ngọc Luông - PGS TS. Bùi Ngọc Oánh
Giáo trình Lưu Hành Nội Bộ của Khoa Tâm lý Giáo dục Trường ĐHSP
TP.HCM đăng ký năm 2005. Ban Ấn Bản Phát Hành Nội bộ Trường ĐHSP
chế bản, sao chụp 1.000 cuốn, khổ 14,5 x 20,5cm theo Biên bản số
196/CTGT ngày 25/07/2005, in xong ngày 20 tháng 08 năm 2005.