Upload
meo-bom
View
658
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
DÒNG TIỀN VÀ NHỮNG ĐIỀU CHỈNH ĐÒN BẨY
Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh tác động của chi phí giao dịch đến việc điều
chỉnh đòn bẩy của công ty. Nhóm tác giả nhận ra rằng dòng tiền thực có thể đem
đến những cơ hội để điều chỉnh đòn bẩy với chi phí cận biên tương đối thấp. Bên
cạnh đó, họ nhận ra rằng các đặc tính của dòng tiền không chỉ tác động đến mục
tiêu đòn bẩy mà còn ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh nó. Tính không đồng nhất
trong tác độ điều chỉnh là do tác động của yếu tố kinh tế: Chi phí điều chỉnh. Điều
này làm cho tốc độ điều chỉnh nhanh hơn đang kể so với những ước tính của tài
liệu trước đây. Nhóm tác giả cũng phân tích các hạn chế tài chính và biến thời gian
ảnh hưởng như thế nào tới việc điều chỉnh hướng tới mục tiêu đòn bẩy.
1. Giới thiệu:
Có phải các công ty đều sử dụng đòn bẩy mục tiêu hay không? Cách nhanh nhất để
các công ty tiếp cận với mục tiêu này là gì? Cách điều chỉnh những mục tiêu này
như thế nào? Những trở ngại để đạt được mục tiêu đó?
Nhóm tác giả không phải là những người đầu tiên đặt ra những câu hỏi này và các
nghiên cứu trước đây có sự tranh cãi để đưa ra câu trả lời một cách chính xác.
Những nghiên cứu gần đây bao gồm Leary và Roberts (2005), Flannery và Rangan
(2006), Huang và Ritter (2009), và Frank và Goyal (2009). Hầu hết các nghiên cứu
trong lĩnh vực này ngoại trừ nghiên cứu của Welch(2004) kết luận rằng các công ty
đều đưa ra mục tiêu nhưng tốc độ để đạt được mục tiêu này là rất chậm. Điều này
đã chuyển hướng cho các nghiên cứu là tìm nguồn tài liệu có liên quan đến chi phí
điều chỉnh. Ví dụ, Fisher, Heinkel, và Zechner (1989) lập luận rằng các công ty chỉ
điều chỉnh đòn bẩy khi lợi ích đem lại bù đắp nhiều hơn chi phí trong việc giảm độ
lệch so đòn bẩy mục tiêu. Altinkilic và Hansen (2000) ước tính chi phí phát hành
chứng khoán và những tác giả khác xây dựng mô hình đo lường tác động của chi
phí giao dịch đến mô hình đòn bẩy được quan sát (ví dụ, Strebulaev, 2007;
Shivdasani và Stefanescu, 2010; Korajczyk và Levy, 2003). Leary và Roberts
(2005) tìm ra mức độ điều chỉnh đòn bẩy tối ưu khi các thành phần cấu thành chi
phí giao dịch là cố định hoặc biến đổi.
Vì những lí do khác nhau nên chi phí điều chỉnh đòn bẩy không chỉ phụ thuộc vào
chi phí giao dịch mà còn phụ thuộc vào động thái của công ty trong việc tiếp cận
thị trường vốn. Các cơ hội đầu tư sinh lợi sẽ thúc đẩy một số công ty huy động vốn
từ bên ngoài và mức đòn bẩy có thể được điều chỉnh bằng việc lựa chọn giữa việc
phát hành nợ hoặc vốn cổ phần. Các công ty (có khả năng tạo ra lượng tiền mặt
lớn, ổn định, lợi nhuận biên cao ) luôn tạo ra lượng tiền mặt vượt quá giá trị những
cơ hội đầu tư sinh lợi và có thể chi trả lượng tiền mặt này cho cổ đông. Mức đòn
bẩy có thể thay đổi bằng cách trả lại nợ hoặc mua lại cổ phần hoặc thanh toán cổ
tức. Trong ngắn hạn, một phần nào đó của việc tiếp cận thị trường vốn có thể được
sử dụng để điều chỉnh mức độ đòn bẩy theo theo mong muốn của công ty. Dòng
tiền thực của một công ty có thể ảnh hưởng một cách đáng kể đến chi phí điều
chỉnh đòn bẩy, cho dù công ty được tài trợ và phân phối vốn từ bên ngoài. Các
công ty không được tài trợ vốn từ bên ngoài phải đối mặt với chi phí điều chỉnh
cao hơn. Hai ví dụ minh họa dưới đây cho thấy ảnh hưởng của chi phí điều chỉnh
và dòng tiền đến điều chỉnh đòn bẩy quan sát.
Đầu tiên, hãy xem xét một công ty với tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu không đổi và chi phí
tiếp cận thị trường vốn bên ngoài cao. Lúc ban đầu công ty có mức đòn bẩy thấp
hơn mức mục tiêu (tối ưu) và tiến hành thu hẹp chênh lệch đạt được mục tiêu này.
Trong năm đầu, dòng tiền thực gần như bằng không và có rất ít cơ hội đầu tư.
Trong các năm tiếp theo, dòng tiền thấp so với số tiền cần thiết để tài trợ cho tất cả
các cơ hội đầu tư có giá trị. Nếu tiếp cận thị trường vốn bên ngoài đòi hỏi chi phí
giao dịch thì công ty có nhiều khả năng để điều chỉnh đòn bẩy trong năm thứ hai.
Tuy nhiên, chi phí tiếp cận thị trường đã là không thay đổi giữa hai năm. Thứ hai,
hãy xem xét hai công ty, cả hai đều là sử dụng nợ thấp và đều muốn đạt được đòn
bẩy mục tiêu. Công ty A có chi phí tiếp cận thị trường vốn bên ngoài thấp, nhưng
hiếm khi sử dụng nguồn vốn bên ngoài này bởi vì dòng tiền hoạt động của nó đủ
để tài trợ cho các cơ hội đầu tư có giá trị. Điều chỉnh đòn bẩy của công ty A sẽ là
một bước'' đặc biệt'' tiếp cận đến thị trường vốn và các chi phí liên quan sẽ được bù
đắp bởi những lợi ích đạt đến đòn bẩy mục tiêu. Công ty B có chi phí tiếp cận thị
trường cao hơn so với công ty A, nhưng dòng tiền hoạt động không ổn định. Trong
một số năm, cơ hội đầu tư công ty B được tài trợ từ vốn từ bên ngoài rất cao.
Trong một số năm tiếp theo, Công ty B có dòng tiền mặt khá lớn để phân phối cho
các cổ đông một cách tốt nhất. Khi giao dịch trên thị trường vốn, công ty có thể
đồng thời điều chỉnh đòn bẩy của mình với chi phí cận biên tương đối thấp. Chúng
ta có thể thấy rằng mặc dù công ty B điều chỉnh cơ cấu vốn của mình thường
xuyên hơn công ty A nhưng chi phí điều chỉnh của nó vẫn cao hơn.
Cả hai ví dụ cho thấy tình hình lưu chuyển tiền mặt của một công ty có thể ảnh
hưởng đáng kể đến việc mong muốn đạt được tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu, nếu như
công ty thực sự quan tâm đến điều này. Thêm vào đó vai trò của các thành phần
cấu thành nên dòng tiền có thể ảnh hưởng đến tỉ lệ đòn bẩy mục tiêu. Một số
nghiên cứu trước đây đã điều tra tác động của các chi phí điều chỉnh đại diện cho
đòn bẩy mục tiêu hoặc lựa chọn chứng khoán phát hành (ví dụ, Hovakimian,
Opler, và Titman năm 2001; Korajczyk và Levy, năm 2003; Leary và Roberts,
2005). Tuy nhiên, nhóm tác giả là người đầu tiên đưa ra mối tương tác giữa đo
lường tốc độ điều chỉnh với dòng tiền và từ đó đánh giá tác động của chi phí giao
dịch và nhu cầu dòng tiền trong việc điều chỉnh của công ty theo hướng đến mục
tiêu.1
Việc tính toán dòng tiền thực của một công ty đưa ra cách giải thích khác với tài
liệu nghiên cứu trước đây. Nhóm tác giả ước tính rằng các công ty có dòng tiền
1 Giả định này phản ánh thực tế rằng một vài nhà nghiên cứu ước tính mô hình cấu trúc vốn với quyết định đầu tư nội bộ. Trường hợp ngoại lệ bao gồm Brennan và Schwartz (1984), Whited và Hennessy (2005), Titman và Tsyplakov (2007), và DeAngelo, DeAngelo, và Whited (2011).
thực gần bằng không thì có chênh lệch giữa tỷ lệ đòn bẩy thực tế và mục tiêu xấp
xĩ 23-26% mỗi năm. Tốc độ điều chỉnh này tương tự như những báo cáo trước đây
trong các nghiên cứu (ví dụ, Lemmon, Roberts, và Zender, 2008, Huang và Ritter,
2009). Tuy nhiên, các công ty có dòng tiền vượt trội có tốc độ điều chỉnh độ lệch
đòn bẩy lớn hơn 50%. Con số này tăng hơn 70% nếu công ty sử dụng nợ cao. Độ
lớn của các thông số ước tính cho thấy rằng dòng tiền thực là nhân tố đầu tiền ảnh
hưởng đến việc đưa công ty hướng đến tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu. Bằng việc đưa ra
cách điều chỉnh hướng đến đòn bẩy mục tiêu và các chi phí cận biên của việc điều
chỉnh, nhóm tác giả cung cấp bằng chứng thực nghiệm phù hợp với mô hình điều
chỉnh cục bộ đã được sử dụng rộng rãi. Việc bỏ qua yếu tố dòng tiền tạo ra hạn chế
đo lường tốc độ điều chỉnh trong mô hình điều chỉnh cục bộ. Kết quả của nhóm tác
giả đưa phương pháp đo lường dòng tiền, sự kết hợp của vị thế tiền mặt thời kì đầu
của công ty vào tính toán dòng tiền và những ước tính thay thế của mức độ đòn
bẩy mục tiêu.
Kết quả của nhóm tác giả cũng tương tư với những bằng chứng gần đây là việc
điều chỉnh đòn bẩy ngẫu nhiên có thể mang lại kết quả thực nghiệm tương tự như
trạng thái điều chỉnh đòn bẩy mục tiêu và điều chỉnh cục bộ (ví dụ, Chang và
Dasgupta, 2009; Iliev và Welch, 2010). Chang và Dasgupta (2009, p. 1794) kết
luận rằng về xác định trạng thái mục tiêu,'' Nhìn vào tỷ lệ đòn bẩy là không đủ và
thậm chí có thể gây hiểu nhầm.'' Những nghiên cứu này áp đặt tốc độ điều chỉnh
giống nhau trên tất cả các công ty trong mẫu. 2 Một trong những đóng góp của
nhóm tác giả là xác định các công ty ex ante có điều chỉnh đòn bẩy lớn hơn dựa
trên sở thích đòn bẩy khác biệt của họ. Các kết quả là bằng chứng xác nhận việc
thực hiện một mô hình điều chỉnh cục bộ trong một môi trường tinh tế hơn so với
các nghiên cứu ước tính tốc độ điều chỉnh trên cùng tất cả các công ty mẫu. Hơn
2 Pesaran và Smith (1995) trình bày tổng hợp bảng động với thay đổi tốc độ điều chỉnh có thể dẫn đến ước tính hệ số không chính xác.
nữa, tốc độ điều chỉnh ước tính lớn sẽ có ý nghĩa kinh tế khác biệt so tốc độ điều
chỉnh từ những tính toán trong mô phỏng Chang và Dasgupta (2009).
Với bảng thống kê nhóm tác giả nghiên cứu tác động của hạn chế tài chính và biến
thời điểm thị trường đến tốc độ điều chỉnh. Các công ty hạn chế về tài chính khó có
thể phát hành chứng khoán để hướng đến tỉ lệ đòn bẩy mục tiêu (Korajczyk và
Levy, 2003). Tương tự như vậy, việc phát hành hoặc mua lại chứng khoán của các
công ty có thể tác động biến thời điểm thị trường hoặc việc định giá sai tài sản
cũng như khả năng mong muốn đạt được đòn bẩy mục tiêu. Ví dụ, một công ty sử
dụng nợ cao và có cổ phiếu được định giá cao sẽ điều chỉnh đòn bẩy mục tiêu
thông qua phát hành cổ phiếu với chi phí thấp. Tuy nhiên, khicông ty sử dụng nợ
thấp, nếu lợi ích nhận được từ phát hành cổ phiếu bị định giá sai vượt quá giá trị
biên tại mức đòn bẩy mục tiêu thì công ty sẽ sử dụng nợ sẽ thấp hơn nữa
Nhóm tác giả thấy rằng điều kiện thị trường và các chỉ số hạn chế tài chính (chi phí
tiếp cận cao) đều ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh đòn bẩy. Hạn chế tài chính có
ảnh hưởng lớn hơn so với biến thời điểm thị trường. Khả năng tiếp cận tương đối
của thị trường tạo ra sự thay đổi đáng kể trong chi phí công ty phải đối mặt khi tiếp
cận điều chỉnh cơ cấu vốn. Mặc dù biến thời điểm thị trường làm thay đổi biên độ
điểu chỉnh cấu trúc vốn (những tính toán có ý nghĩa thống kê), các biến số kinh tế
không thể giải thích được tốc độ điều chỉnh chậm được ước tính từ các mẫu lớn
Bài nghiên cứu này được cấu trúc như sau. Phần 2 trình bày một số mô hình thực
nghiệm cơ bản của đòn bẩy công ty, mô tả các nguồn dữ liệu, và giải thích cách
tính toán tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu cho mỗi công ty trên năm. Minh họa một số tính
năng nổi bật của phương pháp tiếp cận của nhóm tác giả trong phần 3, bao gồm cả
tầm quan trọng của việc phân biệt giữa sự điều chỉnh đòn bẩy của công ty sử dụng
nợ cao và thấp. Phần 4 giới thiệu sự đổi mới của bài nghiên cứu. Nhóm tác giả giải
thích lý do tại sao dòng tiền hoạt động ảnh hưởng đến chi phí điều chỉnh đòn bẩy
của một công ty, và sửa đổi mô hình điều chỉnh cục bộ để phản ánh sự tương tác
giữa nhu cầu lưu chuyển tiền tệ và điều chỉnh cơ cấu vốn. Kết quả là tốc độ điều
chỉnh ước tính lớn hơn so các nghiên cứu trước. Nhóm tác giả kiểm tra tính thiết
thực của các kết quả trong phần 5. Phần 6 mở rộng mô hình từ phần 4 để kiểm tra
xem liệu hạn chế tài chính và điều kiện thị trường ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh
không. Nhóm tác giả thấy rằng tốc độ điều chỉnh khác nhau với các biến dữ liệu
chéo và liên thời gian, hỗ trợ mô hình điều chỉnh cục bộ về điều chỉnh cấu trúc
vốn. Phần cuối cùng tóm tắt kết quả và thảo luận về tác động của chúng đối với lý
thuyết cấu trúc vốn.
2. Mô hình và dữ liệu mức đòn bẩy cơ bản :
Mô hình tiêu chuẩn điều chỉnh cục bộ về cấu trúc vốn của công ty ước tính bằng
một hồi quy mẫu3
Di ,t: dự nợ của công ty i tại thời điểm t. Ai , t: Giá trị tài sản trên sổ sách của công ty i
tại thời điểm t. Li ,t: Tỉ lệ đòn bẩy của công ty i tại thời điểm t. Li ,t−1:Tỉ lệ đòn bẩy
của công ty i tại thời điểm t – 1. L¿i , t: Tỉ lệ đòn bẩy mục tiêu ước lượng của công ty
i tại thời t – 1. Công ty điển hình trong mẫu chiếm λ phần trăm (mỗi khoảng thời
gian) giữa chệnh lệch đòn bẩy mục tiêu và đòn bẩy thời kì đầu. λ: Tốc độ điều
chỉnh đòn bẩy mục tiêu của công ty
Lưu ý rằng công thức (1) giả định rằng việc điều chỉnh của công ty bắt đầu từ thời
điểm t - 1. Tuy nhiên bỏ qua bất kỳ điều chỉnh cấu trúc vốn hoạt động nào thì đòn
bẩy cũng sẽ thay đổi từ Li ,t−1 khi mà công ty tuyên bố thu nhập hằng năm được đưa
vào tài khoản vốn chủ sở hữu. Chủ động điều chỉnh yêu cầu các công ty tiếp cận
với thị trường vốn bằng mọi cách, ngay cả khi dùng để chi trả cổ tức. Tương tự
như vậy, chỉ những điều chỉnh chủ động kéo theo chi phí giao dịch, vì thế việc 3 Tham khảo bài nghiên cứu của Flannery và Rangan (2006), Lemmon, Roberts, và Zender (2008), và Huang và Ritter (2009).
kiểm định các mô hình điều chỉnh mục tiêu nên tập trung vào những điều chỉnh
chủ động. Nhóm tác giả chỉnh sửa công thức (1) để phân thành mức đòn bẩy của
một công ty gồm phần bị động và phần điều chỉnh
Trong đó:
và ¿t tương đương với thu nhập ròng trong năm tại thời điểm t. Nếu các công ty
tham gia vào bất cứ hoạt động thị trường vốn ròng tại thời điểm t mức đòn bẩy sẽ
là Li ,t−1p .` Do đó vế bên trái của công thức (2) bằng việc điều chỉnh chủ động của
công ty hướng tới thay đổi cấu trúc vốn mục tiêu
Nhóm tác giả dựa theo các nhà nghiên cứu trước đây gồm các công ty có dữ liệu từ
Compustat và bổ sung dữ liệu từ Trung tâm nghiên cứu giá chứng khoán (CRSP)
trừ công ty tài chính (phân loại tiêu chuẩn công nghiệp (SIC) (6000-6999) và
( 4900-4999) trong khoảng thời gian 1965-2006. Bằng cách sử dụng sự kết hợp dữ
liệu của Compustat hàng năm và Trung tâm nghiên cứu giá chứng khoán (CRSP),
nhóm tác giả ước tính một mô hình điều chỉnh cục bộ có tỷ lệ vốn mục tiêu tùy
thuộc vào đặc điểm công ty theo nghiên cứu của Flannery và Rangan (2006). Mặc
dù các nghiên cứu trước đây đã sử dụng giá trị thị trường và giá trị sổ sách nhưng
nhóm tác giả tập trung vào giá trị sổ sách để phân tích thành những phần bị động
và chủ động được đơn giản hơn. 4 Để giảm ảnh hưởng bên ngoài, tất cả các tỷ lệ
lượt bớt giá trị ( winsorized) tại phân vị 1và 99. Bảng 1 định nghĩa tất cả các biến
và trình bày thống kê tóm tắt.
Hồi quy (1) và (2) dựa vào đòn bẩy mục tiêu dự kiến Li ,t¿ . Các khía cạnh khó khăn
nhất của ước tính hoặc hồi quy cách ước tính xây dựng đòn bẩy mục tiêu dự kiến
4 Thay thế giá trị đòn bẩy thị trường cho giá trị sổ sách mang lại kết quả tương tự, theo như trình bày của hai cột đầu tiên của bảng 2.
của công ty. Nhiều nghiên cứu gần đây ước tính đồng thời mức đòn bẩy mục tiêu
và tốc độ điều chỉnh mục tiêu, như trong công thức (2). Lý do đó sẽ giải thích rõ
ràng hơn trong Phần 6.1, nhóm tác giả ước tính một mục tiêu đầu tiên, sau đó công
thức (1) hoặc (2) có thể được ước tính bằng cách bình phương nhỏ nhất (OLS) với
sai số chuẩn bootstrapped.
Các tài liệu gần đây nghiên cứu về mô hình đòn bẩy công ty tập trung hướng đến
mức điều chỉnh không hoàn toàn là rất quan trọng và những tác động cố định đòi
hỏi nắm được sự không đồng nhất của các loại công ty chưa được quan sát
(Flannery và Rangan, 2006; Lemmon, Roberts, và Zender, 2008). Chúng ta bắt đầu
bằng cách ước tính một mô hình điều chỉnh cục bộ của đòn bẩy cho tất cả các công
ty mẫu, bằng cách sử dụng hạn chế đó
Với β là hệ số vector ước tính bằng γ và X i , t−1 bao gồm:
Tác động cố định lên công ty
EBIT_TA = ( Thu nhập trước hạng mục đặc biệt + Chi phí lãi vay + Thuế thu
nhập)/ Tổng tài sản
MB = ( Giá trị sổ sách của nợ + Giá trị thị trường của vốn cổ phần)/ Tổng tài sản
DEP_TA = Khấu hao / Tổng tài sản
LnTA = Ln( Tổng tài sản bị giảm theo chỉ số giá tiêu dùng đô la 1983)
FA_TA = ( Bất động sản, nhà máy và thiết bị ròng)/Tổng tài sản
R&D_TA = Chi phí nghiên cứu và phát triển/ Tổng Tài sản ( Nếu không có chi phí
R&D thì R&D _TA= 0)
R&D_Dum = 1 Nếu chi phí nghiên cứu và phát triển = 0
Ind_Median Leverage = Tỷ lệ nợ trung bình của của công ty trong ngành công
nghiệp Fama và French(1997)
Việc sắp xếp mô hình bảng điều khiển động đòi hỏi một số vấn đề ước tính quan
trọng (Nickell, năm 1981; Baltagi, 2008), một số kỹ thuật kinh tế đã được thiết kế
để giải quyết. Flannery và Hankins (2011) kết luận rằng hệ thống Blundell và trái
phiếu (1998) Phương pháp tổng quát của Moments (GMM) phương pháp ước
lượng đưa ra ước tính đầy đủ. Nhóm tác giả ước tính (3) thông qua Blundell và hệ
thống GMM Bond và tính toán tỷ i, t. Công thức (1) và (2) sau đó có thể được ước
tính bằng sử dụng OLS, với sai số chuẩn bootstrapped vào các kết quả hồi quy
(Pagan, 1984).
Kết quả ước lượng công thức (3) khá tương đồng với các ước tính trước đây về đo
lường giá trị thị trường và giá trị sổ sách của đòn bầy, và không trình không ngắn
gọn. 5
Bảng 1
Tóm tắt thống kê
Bảng 1 trình bày trung bình, trung vị và độ lẹch chuẩn của các biến . Mẫu có chứa tất cả các
công ty Compustat được bổ sung dữ liệu từ Trung tâm nghiên cứu Giá chứng khoán ( CRSP )
ngoại trừ các công ty tài chính ( phân loại theo tiêu chuẩn công nghiệp (SIC) 6000-6999 ) và
(SIC 4900-4999 ) , trong khoảng thời gian năm 1965 -2006 . Trong bảng A và B, giá trị trung
bình sử dụng nợ thấp và cao được đưa ra . Giá trị này không được trình bày trong bảng C bởi vì
các biến được sử dụng để ước tính những mục tiêu và các chỉ tiêu được ước tính trên toàn mẫu
(trừ khi biến Rated bao gồm trong việc tính toán những mục tiêu, mẫu được giới hạn sau năm
1985 ). Giá trị mục tiêu sổ sách và thị trường được ước tính sử dụng phương pháp được trình
bày trong phần 2 . Book dev là giá trị sổ sách mục tiêu trừ đi mức đòn bẩy sổ sách so với năm
trước . Book active dev là đòn bẩy sổ sách trừ đi mức đòn bẩy số sách điều chỉnh được định
nghĩa là tổng số nợ năm trước chia cho tổng tài sản sổ sách năm trước cộng với thu nhập ròng
trong năm này . Điều chỉnh mức đòn bẩy số sách được giới hạn ở mức hai để giảm hiệu ứng của
thu nhập thực biên . Market dev là giá trị mục tiêu thị trường trừ mức đòn bẩy thị trường so với
năm trước . CF là thu nhập hoạt động trước khấu hao trừ tổng số thuế trừ chi phí lãi vay chia
5 Mục tiêu ước tính từ toàn bộ thời gian mẫu (1965-2006) được sử dụng trong tất cả các kết quả báo cáo của nhóm tác giả, ngoại trừ Bảng 6 khi dữ liệu đánh giá chỉ có từ năm 1986-2006. Nhóm tác giả đứa ra các biến để giải thích đòn bẩy mục tiêu trong một số trường hợp, nhưng kết quả của chúng tôi là không nhạy cảm với những thay đổi đó. Xem Phần 5 bên dưới
cho giá trị tài sản sổ sách năm trước trừ chi phí đầu tư ngành công nghiệp . Chi phí đầu tư
ngành công nghiệp được xác định bằng trung bình chi đầu tư các ngành công nghiệp hằng năm
của Fama - French chuẩn hóa bằng giá trị tài sản số sách năm trước . DevLarger là một nếu khi
giá trị tuyệt đối của Dev hoạt động số sách lớn hơn giá trị tuyệt đối của dòng tiền và bằng nếu
ngược lại. Sign là một nếu công ty sử dụng nợ cao và bằng -1 nếu công ty sử dụng nợ thấp .
ExcessDev là DevLarger nhân với chênh lệch về giá trị tuyệt đối của Bookdev trừ giá trị tuyệt
đối của CF. Overlap. |Dev| > |CF| là DevLarger nhân với giá trị tuyệt đối của CF . Overlap , |
CF| > |Dev| là ( 1 - DevLarger ) nhân với giá trị tuyệt đối của Book dev. ExcessCF là ( 1 -
DevLarger ) nhân với chênh lệch giữa giá trị tuyệt đối của dòng tiền trừ giá trị tuyệt đối của
Bookdev. Baa là năng suất bình quân Baa giai đoạn t - 1 và t . MBDiff là giá trị thị trường trên
giá trị sổ sách công ty trừ đi trung bình giá trị thị trường trên giá trị sổ sách các ngành công
nghiệp Fama và Pháp (1997). IndMB là tỷ lệ trung bình giá trị thị trường trên giá trị sổ sách các
ngành công nghiệp Fama và French (1997). Ln(Basset ) là ln của giá trị tài sản sổ sách trong
các năm trước . Rated là một nếu công ty có xếp hạng trái phiếu và không nếu ngược lại . Div
bằng một nếu công ty trả cổ tức trong các năm trước và không nếu ngược lại. Book Lev là tổng
số nợ trên giá trị sổ sách của tài sản. EBIT_TA là thu nhập trước các hạng mục đặc biệt cộng
với chi phí lãi vay cộng với thuế thu nhập trên tổng tài sản. MB là tổng giá trị sổ sách của nợ và
giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu chia cho tổng tài sản. DEP_TA là khấu hao chia tổng tài
sản. LnTA là ln của Tổng tài sản bị giảm theo chỉ số giá tiêu dùng đô la 1983. FA_TA là tổng
tài sản, nhà máy , thiết bị chia tổng tài sản. R & D_TA là chi phí nghiên cứu và phát triển chia
cho tổng tài sản . R & D_Dum bằng một nếu chi phí nghiên cứu và phát triển lớn hơn không và
bằng không nếu ngược lại. Trung bình ngành là trung bình mục tiêu hàng năm các ngành công
nghiệp Fama và French ( 1997).
Bảng 2
Tốc độ điều chỉnh đường cơ sở.
Bảng 2 trình bày các kết quả từ phân tích hồi quy trong đó biến phụ thuộc là sự thay đổi mức
đòn bẩy sổ sách trong cột 1, sự thay đổi mức đòn bẩy thị trường trong cột 2, và sự thay đổi mức
đòn bẩy sổ sách được giới hạn bằng sự điều chỉnh hoạt động trong cột 3 tất cả đều được trình
bày tại Bảng 1. Sai số chuẩn được kiểm định bootstrapped để tính toán biến hồi quy tạo ra. p-
Values được trình bày trong dấu ngoặc đơn.
***,**,* đại diện cho mức ý nghĩa 1%, 5%, 10%
3. Kết quả ước tính ban đầu:
Bảng 2 trình bày kết quả ước lượng mô hình hồi quy cơ bản. Hai cột đầu tiên thể
hiện ước tính từ công thức (1), sử dụng mức đòn bẩy tương ứng theo giá trị sổ sách
và giá trị thị trường. Đòn bẩy theo giá trị sổ sách và giá trị thị trường đã tạo ra tốc
độ điều chỉnh hàng năm là 21,9% (22,3%). Những kết quả này gần giống với tốc
độ điều chỉnh ước tính trước đó (ví dụ , Lemmon , Roberts, và Zender , 2008). Phù
hợp với hầu hết các tài liệu hiện có, chứng tỏ tốc độ điều chỉnh rất giống nhau giữa
giá trị thị trường và giá trị sổ sách. Cột thứ ba của bảng 2 đo lường tốc độ điều
chỉnh cơ bản sử dụng thước đo về đòn bẩy hoạt động trong phương trình (2). Tốc
độ điều chỉnh ước tính tăng lên đến 31,6% trong việc đo lường điều chỉnh đòn bẩy
hoạt động. Một lý do của sự gia tăng này có thể là do các công ty trung bình có thu
nhập ròng dương và sử dụng nợ thấp. Bỏ qua việc điều chỉnh đòn bẩy chủ động,
các công ty trung bình có xu hướng sử dụng vốn vay ngày càng thấp, vì vậy khi
một công ty chủ động điều chỉnh cấu trúc vốn, thước đo đòn bẩy thay thế được sử
dụng mang lại cho công ty một vài khoản tín dụng giúp xóa bỏ ảnh hưởng của thu
nhập ròng dương. Phần điều chỉnh này không bị ràng buộc trong phương trình (1).
Tác giả quan tâm tới việc lưu chuyển tiền tệ ảnh hưởng đến (chi phí) sự điều chỉnh
đòn bẩy chủ động và hiệu quả thực nghiệm của việc sử dụng LPi,t-1 là điểm khởi đầu
của việc điều chỉnh đòn bẩy, tác giả duy trì lập luận này trong suốt phần còn lại của
bài nghiên cứu.
Điều lưu ý thứ hai là phương trình (1) loại bỏ sự đối xứng giữa các công ty sử dụng
nợ thấp và cao. Các nhà nghiên cứu trước đây giả định tất cả các công ty điều
chỉnh tỷ lệ đòn bẩy ở mức tương tự nhau, trừ nghiên cứu của DeAngelo,
DeAngelo, và Whited (2011). Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng tưởng tượng ra
lý do tại sao sự điều chỉnh tối ưu khác biệt bất đối xứng giữa các công ty. 6 Ngay cả
khi chi phí điều chỉnh là bằng nhau giữa các công ty sử dụng nợ thấp và cao,
những lợi ích có thể cũng bất đối xứng. Các công ty sử dụng nợ thấp từ bỏ lợi ích
tấm chắn thuế của đòn bẩy và khá lo lắng về chi phí kiệt quệ tài chính. Tuy nhiên,
rủi ro chi phí kiệt quệ tài chính là khá lớn đối với các công ty sử dụng nợ cao.
Không có lý do nào về mặt lý thuyết giải thích tại sao lợi ích tấm chắn thuế ròng
trừ đi chi phí kiệt quệ tài chính dự kiến phải tương xứng với tỷ lệ đòn bẩy tối ưu
của công ty, và do đó không có lý do để duy trì khoảng cách tuyệt đối từ đòn bẩy
mục tiêu làm động cơ công ty để điều chỉnh. Korteweg (2010) ước tính mức dưới
tỷ lệ đòn bẩy tối ưu của công ty, hàm giá trị của công ty có mức đòn bẩy giảm
nhiều có độ dốc tương đối thấp. Ngược lại, đối với các công ty sử dụng nợ cao, giá
trị của công ty giảm đáng kể khi đòn bẩy tăng thêm.
Bảng 3 Phân tích đường tốc độ điều chỉnh cơ bản
Bảng 3 trình bày kết quả của phân tích hồi quy với biến phụ thuộc là sự thay đổi đòn bẩy theo sổ
sách giới hạn điều chỉnh hoạt động .Cột 1 và 3 đại diện cho công ty có đòn bẩy thấp hơn mức
đòn bẩy mục tiêu trong khi cột 2 và 4 đại diện công ty có đòn bẩy cao hơn mục tiêu. Xác định sự
biến đổi và mẫu mô tả thể hiện trong bảng1 . p - Values được trình bày trong dấu ngoặc đơn.
6 Ví dụ , Korajczyk và Levy (2003) cung cấp bằng chứng cho thấy việc điều chỉnh đòn bẩy ở các công ty bị hạn chế và không bị hạn chế là khác nhau.
***, **, * lần lượt là các mức ý nghĩa thống kê 1%, 5%, 10%.
Nửa bên trái của Bảng 3 trình bày kết quả ước lượng của mô hình cơ bản (2) một
cách riêng rẽ đối với công ty sử dụng nợ cao và thấp. Tốc độ điều chỉnh ước tính là
khác nhau một cách đáng chú ý: 29,8% một năm ở các công ty sử dụng nợ thấp, so
với 56,4% ở công ty sử dụng nợ cao.7 Theo đó, kết quả này chỉ ra rằng các công ty 7 Một kết quả tương tự được trình bày bởi Byoun (2009) , với mô hình hồi quy kiểm tra những thay đổi trong dư nợ của một công ty khi điều kiện dòng tiền khác nhau. Những ước tính của tác giả khác với Byoun ở hai khía cạnh quan
trọng . Thứ nhất , tính toán của Byoun lờ đi những thay đổi rõ ràng trong vốn cổ phần đang lưu hành, và do đó
không thể phát hiện ra những thay đổi trong đòn bẩy, ở phần tử số của dư nợ . Thứ hai, tính toán của tác giả sử dụng
các biến dòng tiền liên tục và độ lệch đòn bẩy mục tiêu để rút ra kết luận về chi phí điều chỉnh biến đổi , trong khi
sử dụng nợ cao có lợi nhuận lớn hơn hoặc chi phí thấp hơn khi có các điều chỉnh
hướng đến tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu của họ. Kết quả này phù hợp với Hovakimian
(2004), người đã phát hiện ra xu hướng hướng tới mục tiêu đòn bẩy là nổi bật hơn
ở các công ty sử dụng nợ cao. Chúng tôi xây dựng dựa trên những phát hiện này
bằng cách chỉ ra rằng sự dòng tiền thực của công ty cho thể giúp xác định thời
điểm và mức độ giảm nợ. Tiềm hiểu xem khi nào và bao nhiêu công ty đạt tới tỷ lệ
đòn bẩy mục tiêu là một trong những đóng góp hàng đầu trong công việc của
chúng tôi.
Với sự khác biệt đáng kể trong tốc độ điều chỉnh giữa các công ty sử dụng nợ thấp
và cao, tất cả các tính toán tiếp theo sẽ ước tính riêng cho hai mẫu con này. Như
một lợi ích tăng thêm, chúng ta sẽ thấy trong phần 6, ước lượng mô hình riêng biệt
của các công ty sử dụng nợ thấp và cao giúp làm sáng tỏ cách thức biến thời gian
ảnh hưởng đến sự hội tụ hướng đến đòn bẩy mục tiêu như thế nào.
Bảng 4:
Định nghĩa khác về dòng tiền hoạt động (Eq. (4)).
Bảng 4 trình bày các kết quả ước tính từ công thức (6) cho các biện pháp đo lường dòng tiền
hoạt động, cho từng quan sát trong đó đòn bẩy lớn hơn hoặc nho hơn so với đòn bẩy mục tiêu.
Cột 1 và 3 thêm thời gian đầu nắm giữ tiền mặt của công ty trên tử số của CF trong công thức
(4). Cột 2 và 4 thêm ước tính tiền mặt dư thừa trên tử số của (4). Sai số chuẩn được cho là do
biến hồi quy tạo ra. Định nghĩa biến và mô tả mẫu được miêu tả trong bảng 1. Giá trị p được
trình bày trong dấu ngoặc đơn
Byoun sử dụng một biến giả thể hiện dòng tiền của công ty là dương hay âm.
***,**,* đại diện cho ý nghĩa ở mức một phần trăm, năm phần trăm, và mức mười phần trăm,
tương ứng.
4. Ảnh hưởng của dòng tiền lên chi phí điều chỉnh thị trường
vốn:
Sự biến đổi thứ ba và quan trọng nhất của tác giả với mô hình điều chỉnh cục phần
chuẩn (1) là dòng tiền hoạt động của một công ty (CF) có thể ảnh hưởng đến chi
phí thực hiện điều chỉnh đòn bẩy. CF có hai khả năng điều chỉnh đòn bẩy. Đầu
tiên, nhu cầu đáp ứng CF trên thị trường tạo ra một chi phí cơ hội thấp để điều
chỉnh đòn bẩy. Nếu một công ty cần phải huy động vốn bên ngoài và có mức đòn
bẩy mục tiêu, công ty có thể chọn cách phát hành nợ hoặc vốn chủ sở hữu tùy theo
công ty sử dụng nợ thấp hay cao. Tương tự như vậy, một công ty có dòng tiền
dương cao sẽ có xu hướng phân phối quỹ cho nhà đầu tư, nhưng nó có thể ảnh
hưởng đến đòn bẩy bằng cách chọn nợ hoặc vốn cổ phần để chi trả. Các dấu của
dòng tiền không quan trọng, quan trọng là giá trị tuyệt đối của nó. Thứ hai, nếu các
công ty đối mặt với một mức chi phí cố định khi tiếp cận các thị trường vốn, họ có
nhiều khả năng thực hiện điều chỉnh đòn bẩy khi một phần của định phí tiếp cận thị
trường là do công ty cần phải bù đắp cho sự mất cân bằng của dòng tiền.
Chúng tôi xác định dòng tiền hoạt động của công ty ( hoặc thâm hụt tài chính ) như
sau:
Trong đó: OIBDi,t là thu nhập hoạt động trước khấu hao, Ti,t là tổng thuế được ấn
định trên báo cáo thu nhập, Inti, t là lãi được trả, Industry_CapExt là giá trị trung
bình của chi phí vốn trong năm t ( giảm do giá trị tài sản trên sổ sách giảm) cho tất
cả các công ty Compustat trong ngành công nghiệp theo Fama và (1997) French,
và Ai, t 1 là giá trị của tổng tài sản trong năm tài chính kết thúc tại t-1.
Ba điều kiện đầu tiên trong (4) là gồm sự đo lường chuẩn mức thâm hụt tài chính
của một công ty, bắt đầu với Shyam Sunder-và Myers (1999). Một số nhà nghiên
cứu trước đã loại trừ chi phí vốn thực tế từ việc sử dụng nguồn tài chính bên ngoài
của công ty. Thay vào đó, cơ hội đầu tư của công ty được thiết lập với
Industry_CapExt. Chi phí giám sát của một công ty phản ánh cả việc thiết lập cơ
hội đầu tư của công ty và quyết định tiếp cận thị trường tài chính. Cuối cùng tác
giả sử dụng Industry_CapExt như một công cụ để tìm mối tương quan với chênh
lệch đòn bẩy của một công ty.
Nếu mục tiêu đòn bẩy là quan trọng, cúng tôi hi vọng rằng các công ty có giá trị
tuyệt đối CF cao sẽ có nhiều khả năng thực hiện điều chỉnh đòn bẩy. Theo như ước
lượng ban đầu, dấu của CF không quan trọng. Xem xét một công ty ban đầu có cơ
hội đầu tư lớn và tạo ra một CF âm. Nếu hiện giá ròng của các cơ hội đầu tư vượt
quá chi phí tiếp cận thị trường tài chính, công ty sẽ huy động vốn bên ngoài và
thực hiện các giao dịch liên quan đến điều chỉnh đòn bẩy mà có thể không tốn định
phí tiếp cận. Ngay cả khi các cơ hội đầu tư không đủ để đảm bảo tiếp cận thị
trường, sự kết hợp giữa lợi ích của việc đầu tư và sử dụng đòn bẩy có thể biện
minh cho chi phí tiếp cận thị trường vốn. Tương tự, một công ty có CF dương lớn
sẽ xem xét phân phối những quỹ thặng dư ra thị trường bằng cách mua lại cổ phiếu
hoặc nợ, tương ứng với mức chênh lệch đòn bẩy.
Chúng ta có thể tìm hiểu về chi phí của việc điều chỉnh cấu trúc vốn bằng cách so
sánh độ lớn CFi,t của một công ty theo độ lệch của nó với đòn bẩy mục tiêu :
Một công ty có |Dev| lớn hơn |CF| của nó sẽ tạo ra việc điều chỉnh đòn bẩy đạt đến
|CF| với chi phí thấp do chi phí tiếp cận thị trường được chia sẻ giữa lợi ích của
việc đạt tới cấu trúc vốn mục tiêu và quỹ / phân phối các dòng tiền thực. Tuy nhiên
, một chênh lệch đòn bẩy vượt quá |CF| sẽ được thu hẹp chỉ khi chi phí cận biên
của các giao dịch thị trường vốn bổ sung là đủ thấp. Trừ khi biến phí là 0, tác giả
hy vọng rằng tốc độ điều chỉnh của công ty hướng tới mục tiêu sẽ nhanh hơn trong
khoảng |Dev| đến |CF|.
Tiếp theo, hãy xem xét một công ty có |CF| vượt quá |Dev|. Công ty này có nhu cầu
kinh phí đầy đủ (hoặc dư thừa tiền mặt để trả lại các cổ đông) để đạt được mục tiêu
sử dụng đòn bẩy bằng cách chọn một cách thích hợp giữa các giao dịch nợ và
chứng khoán. Nói cách khác, các công ty đồng thời có thể thu hẹp chênh lệch đòn
bẩy và giải quyết nhu cầu lưu chuyển tiền tệ của nó. Do đó tác giả dự đoán rằng
các công ty có lượng tiền mặt lớn (tuyệt đối) sẽ gây ra sự chuyển đổi lớn để thu
hẹp |Dev|. Trong trường hợp không có biến phí điều chỉnh, hệ số này có thể đạt đến
sự đồng nhất. Tuy nhiên, nếu cho |CF| vượt quá |Dev| ban đầu, sự lựa chọn giữa nợ
và vốn chủ sở hữu của công ty nên hướng tới mức độ đòn bẩy mục tiêu, do đó, tác
giả cho rằng không có sự thay đổi có hệ thống mức đòn bẩy từ việc phân loại dòng
tiền dư thừa.
Thảo luận trực quan này đã chia CF và Dev thành bốn phân đoạn:
DevLarger =1 nếu |Dev| > |CF| , nếu ngược lại thì = 0 . Đầu tiên phân tách độ lệch
đòn bẩy thành 3 biến : exceeds |CF| và hai phần Overlap |CF| .Biến thứ tư ,
“ExcessCF” đo lường nhu cầu dòng tiền ngoài những yêu cầu thu hẹp độ lệch đòn
bẩy hoàn toàn . Nếu các phân đoạn này liên quan đến những chi phí khác nhau của
việc điều chỉnh đòn bẩy, chúng ta nên mở rộng (2) thành mô hình điều chỉnh biến
đổi cục bộ :
Trong đó: Sign=1 nếu là công ty sử dụng nợ cao và = -1 nếu ngược lại. Công thức (
6 ) dùng để xác định sự điều chỉnh đòn bẩy một cách dễ dàng.8 γ 2 và γ 3 đo lường
khuynh hướng công ty điều chỉnh mức độ đòn bẩy khi tình hình lưu chuyển tiền tệ
8 Dấu hiệu của tài khoản điều chỉnh trên thực tế được biểu hiện bởi các biến phụ thuộc, trong khi các biến giải thích được xây dựng đều là dương
giúp thực hiện những điều chỉnh đơn giản nhất.9 Giả định rằng các công ty muốn
đạt tới tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu , γ 2 và γ 3 khá lớn :
Khi |Dev| vượt quá |CF| , tất cả các |CF| có thể dùng để điều chỉnh đòn bẩy để đạt
mục tiêu.
Khi |CF| vượt quá |Dev| , nhu cầu lưu chuyển tiền của công ty cho phép nó đạt
được đòn bẩy mục tiêu.
Với biến phí giao dịch bằng 0 , γ 1 phải bằng γ 2 : một khi chi phí cố định của việc
tiếp cận thị trường bên ngoài phát sinh , các công ty nên thu hẹp |Dev| bằng với
CF- các quỹ có liên quan hoặc thực hiện các giao dịch nhằm mục đích duy nhất là
thu hẹp |Dev| .
Tuy nhiên , biến phí dương sẽ làm cho γ 1< γ 2 vì giao dịch nhằm mục đích duy nhất
là thu hẹp |Dev| đem lại lợi ích ít hơn. γ 4 sẽ là một số nhỏ: một công ty với Excess
|CF| có thể đạt được đòn bẩy mục tiêu trong quá trình đáp ứng nhu cầu CF , giao
dịch nhiều hơn cho phép mức độ đòn bẩy không bị ảnh hưởng. Tóm lại, tác giả cho
rằng γ 3 ≈ γ2>γ1>γ4 .
Ví dụ, xem xét một công ty sử dụng nợ thấp bằng 5% (lagged) tổng tài sản và có
mức thâm hụt dòng tiền tương đương với 8% tổng tài sản. Mô hình điều chỉnh cục
bộ dự đoán rằng năm điểm phần trăm đầu tiên của thâm hụt dòng tiền (tương ứng
với giá trị của biến γ 3 trong (6)) sẽ tăng lên theo các mức độ nợ, dẫn tới γ 3= 1. Về
3% còn lại của mức thâm hụt dòng tiền? Giả định rằng các công ty nhận thấy sẽ
tốn kém để thanh lý tài sản hơn huy động vốn và không có đủ khả năng thanh toán
nội bộ, công ty sẽ tăng thêm 3% tài sản theo tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu của nó. Ví dụ,
nếu tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu của công ty là 40% và phát hành nợ ban đầu (5%) đã
đạt được mức độ đòn bẩy, 1,2 điểm phần trăm của 3% còn lại của nhu cầu tài chính
9 Các công ty có DevLarger = 0 sẽ có xu hướng tiến gần đến đòn bẩy mục tiêu của họ hơn so với các công ty có
DevLarger = 1 . Vì vậy , chúng tôi dự đoán ( 1 cách mơ hồ) rằng γ 3>γ 2.
sẽ tăng lên từ nợ và 1,8 điểm phần trăm khác tăng từ vốn chủ sở hữu. Kết quả, tác
giả đưa ra giả thuyết rằng CF biên này sẽ làm cho mức độ đòn bẩy không bị ảnh
hưởng, trên trung bình. Hệ số γ 4 sẽ gần bằng 0. Bây giờ, đảo ngược những con số
trong ví dụ: cho công ty sử dụng nợ thấp bằng 8% tổng tài sản, với mức thâm hụt
dòng tiền bằng 5% tổng tài sản. Công ty một lần nữa được dự đoán sẽ thu hẹp 5%
đầu tiên của thâm hụt đòn bẩy bằng một phát hành nợ (γ 2 = 1). Về 3% còn lại của
Dev? Với một chi phí giao dịch biên cao (biến đổi), các công ty sẽ không làm gì để
thu hẹp phần độ lệch này. Mặt khác, với biến phí đủ thấp, nó sẽ tăng thêm 3% tài
sản dưới hình thức nợ (cho rằng chi phí tiếp cận cố định đã được thanh toán). Với
biến phí cao hơn, γ 1 được dự đoán là gần =0.
Kết quả ước lượng của (6) được trình bày ở phần bên phải của bảng 3, riêng biệt
cho những công ty sử dụng nợ thấp và cao. Giả thuyết sắp xếp thứ hạng của ước
lượng hệ số γ nằm trong cả hai mẫu. Khi dòng tiền lớn (về giá trị tuyệt đối), những
điều chỉnh mức đòn bẩy (γ 2, γ 3) cũng lớn. Các công ty sử dụng nợ cao điển hình
dành từ 69% đến 90% dòng tiền thực của nó cho các giao dịch vốn nhằm thu hẹp
khoảng cách giữa đòn bẩy thực tế và đòn bẩy mục tiêu, so với 27-52% của các
công ty sử dụng nợ thấp. Trong Bảng 3, những lợi ích của việc giảm sử dụng đòn
bẩy quá mức dường như vượt quá những lợi ích của việc theo đuổi đòn bẩy mục
tiêu khi công ty sử dụng đòn bẩy thấp. Lưu ý rằng điều chỉnh đòn bẩy là nhỏ hơn
đáng kể đối với ExcessDev, điều này cho thấy các giao dịch thị trường vốn liên
quan đến ít nhất một số biến phí giao dịch. Cuối cùng, các hệ số không có ý nghĩa
trên ExcessCF chỉ ra rằng các công ty không thay đổi đòn bẩy theo hệ thống một
khi họ đã loại bỏ độ lệch khỏi mục tiêu.
Bảng 4 làm rõ các biến xác định CF (4) để phản ánh khả năng của một công ty để
phòng ngừa những ảnh hưởng của biến động dòng tiền bằng cách duy trì các tài
sản có tính thanh khoản. Định nghĩa dòng tiền trong (4) bỏ qua số dư tiền mặt tích
lũy, số dư này có thể tách biệt dòng tiền thực từ nhu cầu phải tiếp cận thị trường
vốn bên ngoài (ví dụ, Opler, Pinkowitz, Stulz và Williamson, 1999; Almeida,
Campello, và Weisbach, 2004). Tác giả đưa ra hai cách để tổng hợp số dư tiền mặt:
xem xét lại cách xác định CF (4) và ước tính ở (6). Đầu tiên, “tiền mặt” được thêm
vào tử số của (4). Kết quả ước lượng trong cột đầu tiên và thứ ba của Bảng 4 cho
thấy một vài thay đổi trong tốc độ điều chỉnh ước tính, nhưng kết quả chính vẫn
không thay đổi trong phần bên phải của Bảng 3: các công ty đóng một phần quan
trọng trong sự khác biệt đòn bẩy mục tiêu khi chi phí điều chỉnh được kết hợp với
việc nhắm tới dòng tiền thực. Tốc độ điều chỉnh thì nhỏ hơn đáng kể khi chi phí
điều chỉnh chỉ được bù đắp bằng những lợi ích của việc tiếp cận đòn bẩy mục tiêu:
giả thuyết cho rằng γ 1 = γ 2 bị bác bỏ. Một cách khác để kết hợp số dư tiền mặt với
việc đo lường CF là ghi nhận một vài khoản tiền mặt của một công ty có thể được
dùng cho duy trì tính thanh khoản. tác giả làm điều này bằng cách thay thế vị thế
tiền mặt thời kì đầu của công ty (trong (4)) với ước lượng vượt quá vị thế tiền mặt,
đo lường tiền mặt thời kì đầu của công ty trừ mức tiền mặt trung bình ngành công
nghiệp thời kỳ đầu theo Fama and French (năm 1997 ), theo quy mô. Kết quả trong
cột 2 và 4 của Bảng 4 xác định một cách gần đúng để tìm ra cách sử dụng vị thế
tiền mặt của công ty.
Chúng tôi kết luận hai điều từ Bảng 4. Thứ nhất, chi phí điều chỉnh đòn bẩy thì
quan trọng trong việc xác định có bao nhiêu công ty điều chỉnh. Mặt khác, dòng
tiền thực sẽ không có ảnh hưởng lớn nhất lên phạm vi điều chỉnh đòn bẩy. Thứ hai,
chi phí điều chỉnh xuất hiện có ít nhất một thành phần biến đổi. Nếu các chi phí đã
được cố định hoàn toàn, một khi công ty dùng các chi phí cố định hướng tới dòng
tiền thực, nó sẽ điều chỉnh tất cả để nhắm đến mục tiêu của nó. Điều này sẽ tạo ra
hệ số γ 1 và γ 2 không khác biệt đáng kể với nhau.
5. Robustness
Kết quả của chúng tôi là có ý nghĩa với các cách đo lường thay thế của đòn bẩy
mục tiêu và sự thay đổi của dòng tiền được đo lường.. BecauseKorajczyk và Levy
(2003) thấy rằng mức độ đòn bẩy khác nhau với từng điều kiện kinh tế vĩ mô,
chúng tôi ước tính lại tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu với biến giả theo năm để cho phép
thay đổi chuỗi thời gian ở cấp độ kinh tế vĩ mô để thay đổi mức đòn bẩy mục tiêu
của các công ty cho năm tài chính tương ứng. Sử dụng các mục tiêu thay thế,
chúng tôi ước tính lại phương trình (6) và trình bày kết quả trong hai cột của bảng
5 cột I. So sánh kết quả với kết quả tìm thấy ở nửa bên phải của Bảng 3 chỉ ra rằng
việc thay đổi đòn bẩy theo biến động kinh tế vĩ mô nhưng không làm thay đổi ảnh
hưởng của dòng tiền thực lên tốc độ điều chỉnh đòn bẩy.
Nhóm tác giả đưa ra thêm ba điều chỉnh để xác định về dòng tiền thực của công ty
trong công thức (Eq. (4)), và trình bày kết quả tương ứng trong cột II, III, và IV,
Bảng 5. Đầu tiên, chúng tôi bỏ qua sự thay đổi trong vốn luân chuyển, công nhận
rằng các tài sản và nợ phải trả ngắn hạn có thể được coi như là nguồn thay thế và
sử dụng như tiền mặt. Thứ hai, chúng tôi bỏ qua việc chi trả cổ bằng tức tiền mặt
trong năm tài chính trước, dựa trên giả định các công ty xem dòng cổ tức của họ
như là một cam kết sử dụng tiền mặt tương tự như lãi vay phải trả cho chủ nợ
(Graham và Harvey, 2001). Thứ ba, nếu các công ty có nợ đáo hạn trong năm tài
chính hiện tại, họ sẽ cần phải tái tài trợ món nợ đáo hạn trừ khi dòng tiền hoạt động
của họ là đủ mạnh. Khai thác thị trường vốn bên ngoài để tái tài trợ khoản nợ hiện
tại cũng sẽ giảm chi phí phát sinh của một công ty từ việc tiếp cận đòn bẩy mục
tiêu. Vì vậy, nhóm tác giả bỏ qua nợ ngắn hạn (Compustat dữ liệu 34-nợ trong nợ
ngắn hạn) để thiết lập phương pháp đo lường thứ ba về dòng tiền thực . Kết quả là
cực kỳ thuyết phục và phù hợp với kết quả trước đó của nhóm tác giả. Tốc độ điều
chỉnh rất nhanh trên hai biến Overlap chỉ ra rằng nhu cầu CF làm giảm đáng kể chi
phí điều chỉnh đòn bẩy. Các hệ số nhỏ hơn trên ExcessDev phù hợp với giả thuyết
cho rằng chi phí điều chỉnh đòn bẩy bao gồm thành phần biến đổi. 10
Cuối cùng, chi phí điều chỉnh cố định sẽ làm các công ty đưa ra quyết định riêng
về việc tiếp cận thị trường vốn, thay đổi đòn bẩy bao nhiêu và điều kiện để tiếp cận
như thế nào. Do đó chúng tôi ước tính (6) như một phần của mô hình lựa chon nội
sinh (Heckman), trong đó mô hình đầu tiên (probit) giải thích cách mà các công ty
tiếp cận thị trường vốn trong các hình thức thay đổi đủ lớn của dư nợ và / hoặc vốn
cổ phần.11 Sau đó chúng tôi ước tính (6) chỉ cho các doanh nghiệp tiếp cận thị
trường, và bao gồm tỷ lệ nghịch đảo Mills làm biến giải thích thêm. Kết quả
Untabulated cho rằng các công ty có nhiều khả năng tiếp cận thị trường vốn bên
ngoài khi họ có CF lớn hơn hoặc Dev lớn hơn, phù hợp với sự tồn tại của một chi
phí tiếp cận cố định. Kết quả giai đoạn thứ tương tự như trình bày trong Bảng 3.
6. Han chế về tài chính và thời điểm thị trường
Một bài nghiên cứu đang phổ biến cho thấy khả năng để khai thác thị trường vốn
khác nhau giữa các doanh nghiệp và chi phí điều chỉnh đòn bẩy có thể khác nhau
giữa các công ty tài chính bị hạn chế và công ty không bị hạn chế (ví dụ,
Korajczyk và Levy, 2003). Ví dụ, Faulkender và Petersen (2006) cho thấy rằng
tham gia vào các thị trường trái phiếu chính phủ cho phép một công ty được sử
dụng vốn vay nhiều hơn, đặc biệt khi có những cú sốc trêm thị trường tín dụng
(Leary, 2009). Như trong các nghiên cứu trước đây, nhóm tác giả đưa ra hai biện
pháp đo lường hạn chế tài chính để ước tính đòn bầy mục tiêu ( kích thước và đánh
giá). Nhưng khó khăn tài chính cũng có thể ảnh hưởng đến khả năng của một công
ty để điều chỉnh theo hướng đòn bẩy mục tiêu. Thật vậy, người ta có thể xác định
một cách tiếp cận thị trường vốn tốt hơn như là chi phí thấp hơn hướng tới đòn
10 11
bẩy mục tiêu. Trong khi một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng hạn chế tài chính và
điều kiện thị trường ảnh hưởng đến sự lựa chọn phát hành chứng khoán của các
công ty (Hovakimian, Opler, và Titman năm 2001; Korajczyk và Levy, năm 2003;
Leary và Roberts, 2005), rằng không ai có thể kết hợp các biện pháp này để ước
tính tốc độ điều chỉnh. Bây giờ nhóm tác giả sửa đổi mô hình cơ bản bằng cách
kiểm tra đặc điểm thị trường và công ty tài chính ảnh hưởng như thế nào đến tốc
độ điều chỉnh. Các nhà nghiên cứu cũng đã kết luận rằng các điều kiện thị trường
tạm thời -''thời điểm thị trường'' -ảnh hưởng sự lựa chọn chứng khoán bằng những
cách mà có thể ảnh hưởng vĩnh viễn đến cấu trúc vốn của công ty (Baker và
Wurgler, 2002; Korajczyk và Levy, năm 2003; Huang và Ritter, 2009). Nhóm tác
giả nhận thấy rằng khá hợp lí khi mà xem xét thời điểm thị trường ảnh hưởng đến
động lực trong ngắn hạn của một công ty để thu hẹp chênh lệch mức đòn bẩy.12 Ví
dụ, hãy xem xét một công ty sử dụng nợ cao đang muốn giảm bớt một vài khoản
nợ của nó. Khuynh hướng này có thể gia tăng nếu lãi suất trái phiếu của công ty
đang tạm thời cao (làm cho giá trị nợ thấp), nhưng nó có thể bị trì hoãn nếu lãi suất
đang tạm thời thấp. Vì vậy, công ty này sẽ có nhiều khả năng sẽ thực hiên một sự
điều chỉnh lớn hướng tới đòn bẩy mục tiêu như việc tăng lãi suất trái phiếu .13 Một
công ty có sử dụng nợ cao có thể lên kế hoạch phát hành cổ phiếu. Lãi suất trái
phiếu có thể ít tác động đến công ty này, nhưng công ty sẽ sẵn lòng để phát hành
cổ phiếu nếu giá cổ phiếu đang tạm thời cao. Chi phí cơ hội việc định giá sai này
sẽ ảnh hưởng bao nhiêu đến việc điều chỉnh để hướng tới đòn bẩy mục tiêu, và ảnh
hưởng đến cấu trúc vốn sẽ vẫn tồn tại cho đến khi công ty nhận thấy đáng để thay
đổi cấu trúc vốn. Do đó nhóm tác giả đưa ra giả thuyết rằng tốc độ điều chỉnh cấu
12 Kết quả của chúng tôi được dựa trên các mục tiêu mà không cần tính toán biến giả năm. Tuy nhiên, họ mạnh mẽ đến sự bao gồm của biến giả năm, mà nên bao hàm nhiều sự thay đổi liên thời gian trong điều kiện kinh tế vĩ mô13 Graham và Harvey (2001) tìm thấy bằng chứng khảo sát rằng Giám đốc tài chính cố gắng để phát hành trái phiếu khi lãi suất tương đối thấp
trúc vốn phải thích hợp với một số biến về thời điểm thị trường đã xác định trong
các tài liệu nghiên cứu trước đây về ảnh hưởng của mức độ đòn bẩy.
Bang 5: Robustness
Bảng 5 trình bày kết quả ước tính từ công thức (6) một cách riêng biệt cho các công ty có nhiều
nợ và các công ty ít nợ. Cột I trình bày hệ số tốc độ điều chỉnh cho mỗi bốn phép phân tích khi
các mục tiêu được tính toán với các biến giả năm để kiểm soát các điều kiện kinh tế vĩ mô. Cột II
trình bày hệ số điều chỉnh khi các biện pháp đo lường cơ bản của dòng tiền tự do được điều
chỉnh bằng cách trừ sự thay đổi trong vốn lưu động. Cột III trình bày hệ số điều chỉnh khi các
biện pháp đo lường cơ bản của dòng tiền tự do được điều chỉnh bằng cách trừ đi cổ tức giai
đoạn trước. Cột IV trình bày hệ số điều chỉnh khi các biện pháp đo lường cơ bản của dòng tiền
tự do được điều chỉnh bằng cách trừ nợ trong nợ ngắn hạn. Tất cả các bổ sung điều chỉnh đều
có chung cơ sở bắt đầu từ phương pháp đo lường dòng tiền cơ bản (thời gian bắt đầu của tài sản
sổ sách). Định nghĩa biến và mô tả mẫu được trình bày trong bảng 1. p-giá trị được báo cáo
trong dấu ngoặc đơn.
***,**,* đại diện tương ứng cho ý nghĩa ở mức một phần trăm, năm phần trăm, và mức mười
phần trăm.
6.1. Sư mở rộng mô hình điều chỉnh cuc bộ (Modifications to the partial
adjustment model)
Kết hợp tốc độ điều chỉnh điều kiện độc lập ( state-dependent) với mục tiêu cụ thể
của công ty liên quan đến một số nhân tố kinh tế quan trọng. Ban đầu có thể xem
xét ước tính một hồi quy riêng biệt theo công thức (6) cho khoảng thời gian với các
biến có giá trị cao và thấp ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh. Tuy nhiên, nhiều ước
lượng của công thức (6) thất bại trong việc áp đặt một mô hình phù hợp của đòn
bẩy mục tiêu (bao gồm cả hiệu ứng công ty cố định) trên những đặc tính của mô
hình. Nhóm tác giả có thể xác định mô hình bảng điều khiển cơ bản bằng cách xác
định rằng tốc độ điều chỉnh công ty thứ i tại thời điểm t phụ thuộc vào biến lãi suất,
Zk,t:
Như trên, đại diện cho giá trị mục tiêu được tạo ra từ công thức (3). Zi,t bao
gồm cả hai biến “hạn chế tài chính'' và'' thời điểm thị trường''.
1. Hạn chế tài chính có thể sẽ phản ánh sự thay đổi dữ liệu chéo trong chi phí
và lợi ích của việc điều chỉnh đòn bẩy công ty. Vì vậy, nhóm tác giả thấy
rằng đối với cùng một độ lệch từ đòn bẩy mục tiêu và cùng một dòng tiền
thực, các công ty có hạn chế ít và nhiều sẽ có cấu trúc vốn khác nhau. Nhóm
tác giả sử dụng ba biến đại diện cho hạn chế tài chính:
Size= Ln(Basseti,t-1)
Divs= 1 nếu công ty chi trả cổ tức trong năm t-1, ngược lại thì bằng 0
Rated = 1 nếu công ty có xếp hạng tín dụng, bằng 0 nếu ngược lại
Theo như Faulkender và Wang (2006) và Almeida,Campello, và Weisbach (2004),
bên cạnh những yếu tố khác, khả năng tiếp cận vào thị trường vốn của một công ty
thay đổi theo quy mô (ln(basset)). Trong phạm vi chi phí tiếp cận cố định, công ty
lớn sẽ thấy rằng đáng để chịu chi phí cố định hơn so với công ty nhỏ hơn. Người
trả cổ tức được cho là không bị giới hạn khi tiếp cận thị trường vốn, nếu không, họ
sẽ giữ lại các khoản tiền mà họ tạo ra chứ không chi trả cổ tức. Các công ty được
xếp hạng sẽ có chi phí tiếp cận thị trường tài chính tương đối thấp hơn. Chúng tôi
xem xét sự khác biệt trong tốc độ điều chỉnh cấu trúc vốn cho cả ba biện pháp đo
lường.
2. Biến thời điểm thị trường đo điều kiện thị trường tài chính có thể ảnh hưởng
đến lợi ích của doanh nghiệp trong việc tiếp cận các thị trường vốn tại một
thời điểm cụ thể. Nhóm tác giả sử dụng ba đại diện cho biến điểm thị trường
Baa = tỷ lệ Baa trung bình khoảng thời gian t-1 và t
IndMB= Trung bình MB của ngành
MBDiff = MB của công ty – IndMB
Một tỷ lệ Baa tạm thời cao có thể ngăn cản phát hành trái phiếu mới (Graham,
1996), cũng có thể làm giảm tốc độ điều chỉnh đòn bẩy cho các doanh nghiệp sử
dụng ít nợ. Tuy nhiên, tỷ lệ Baa cao cũng có thể khuyến khích điều chỉnh bởi các
công ty có nhu cầu loại bỏ một vài khoản nợ (như một khoản chiết khấu). Tương tự
như vậy, tỷ lệ giá trị thị trường trên giá trị sổ sách của công ty có liên quan tới
ngành này có thể ảnh hưởng đến lãi suất của các công ty khi tiếp cận thị trường
vốn (phù hợp với Baker và Wurgler năm 2002, và những người khác), nhưng hiệu
quả sẽ khác nhau tùy thuộc vào việc công ty đã lập kế hoạch phát hành hoặc mua
lại cổ phần hay chưa. Nhóm tác giả ước tính các đặc điểm hồi quy sau, riêng biệt
cho các công ty có nợ cao và thấp.
Để phù hợp ý nghĩa về mặt kinh tế, bốn biến liên tục (Size, Baarate, MB Diff, và
IndMB) được chuẩn hóa để có giá trị trung bình bằng không và độ lệch tiêu chuẩn
là một. Điều này cho phép tính toán đơn giản về tác động của những thay đổi trong
các giá trị Z vào tốc độ điều chỉnh. Bảng 6 trình bày kết quả ước lượng cho tương
tác của ba biến hạn chế tài chính và Bảng 7 trình bày kết quả tương tự cho tương
tác của ba biến về thời điểm thị trường
6.2 Các kết quả của sư han chế tài chính:( Financial constraints results)
Các công ty sử dụng ít nợ được mô tả trong 4 cột đầu tiên của bảng 6 và các công
ty sử dụng nhiều nợ được mô tả trong 4 cột còn lại. 14
Đầu tiên, hãy xem xét các công ty sử dụng ít nợ. Cơ sở ”base” ước tính tương ứng
với 1 công ty có Div=0, Rate=0, và (bởi vì các biến đã được chuẩn hóa) Size tại
trung bình mẫu. Chúng tôi nhận thấy rằng các doanh nghiệp lớn điều chỉnh chậm
hơn so với những doanh nghiệp nhỏ hơn, mặc dù thực tế là các DN này sẽ có ít
nhạy cảm với chi phí giao dịch cố định. Nói như vậy tức là các DN lớn, sử dụng ít
nợ hưởng lợi ích thấp hơn từ việc gia tăng sử dụng đòn bẩy. Tuy nhiên, hai chỉ số
khác của hạn chế tài chính thì dương và có ý nghĩa thống kê , hàm ý về việc điều
chỉnh nhanh hơn ở các DN ít bị hạn chế tài chính. Một sự xếp hạng trái phiếu làm
tốc độ điều chỉnh tăng gấp đôi liên quan đến một độ trùng khớp giữa /Dev/ và /CF/.
14 Bởi vì thông tin đánh giá là có sẵn chỉ sau năm 1985, các hồi quy trong Bảng 6 bao gồm những ngày tháng trong 1986-2006. Kết quả trong Bảng 6 sử dụng các đại diện mục tiêu tính bằng cách ước tính (3) trong thời kỳ mẫu 1986 – 2006. Các kết quả phát hiện là giống nhau nếu chúng tôi sử dụng các ước tính mục tiêu dựa trên thời kỳ mẫu đầy đủ (1965-2006). Hơn nữa, các kết quả của chúng tôi trong bảng 6 và 7 không bị ảnh hưởng bởi việc thêm hạn chế tài chính hoặc các biến thời điểm thị trường vào các yếu tố quyết định mục tiêu đòn bẩy trong (3).
(xem hàng (b) và (c)). Nó cũng tăng với tốc độ bằng một nửa tốc độ của
ExcessDev (hàng(a)). Theo dự kiến, Rated không ảnh hưởng đến việc điều chỉnh
ExcessCF trong hàng d, bởi vì các CF này chỉ có liên quan sau khi công ty đã đạt
được tỷ lệ nợ mục tiêu. Các hệ số của các biến Div tương tự cũng chứng tỏ có sự
điều chỉnh nhanh hơn ở các công ty ít hạn chế, nhưng những ảnh hưởng ước tính
khiêm tốn hơn nhiều.
Bang 6: Các tương tác của sự hạn chế tài chính
Bảng 6 trình bày các kết quả ước tính (6) riêng biệt cho các DN sử dụng nhiều nợ và các DN sử
dụng ít nợ. Cột Base là hệ số tốc độ điều chỉnh cho mỗi phép phân tích trong số 4 phân tích,
trong khi mỗi cột khác là một sự tương tác của mỗi phân tích với biến tiêu đề. Những sự tương
tác này đại diện cho mức độ hạn chế tài chính của một doanh nghiệp. Mỗi biến tương tác liên
tục được chuyển đổi thành một biến chuẩn bình thường trước khi tương tác. Biến tương tác được
xác định: Div=1 nếu Dn trả cổ tức trong năm t-1 và ngược lại bằng 0. Size=ln(Basset i,t-1) và
Rated =1 nếu DN có định hạng trái phiếu và =0 nếu không có. Các định nghĩa biến và mô tả
mẫu được trình bày trong bảng 1. P-values được trình bày trong dấu ngoặc đơn.
***, ** và * lần lượt đại diện cho mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
Các kết quả tập mẫu con DN sử dụng nhiều nợ(nửa bên phải của Bảng 6) một lần
nữa cho thấy tốc độ điều chỉnh nhanh hơn nhiều so với các DN sử dụng ít nợ.
Chúng tôi một lần nữa thấy rằng các doanh nghiệp lớn điều chỉnh ít nhưng mà
nhanh, mặc dù những tác động lên các DN này nhỏ hơn so với các DN ít dùng vốn
vay. Chúng tôi thấy rằng các DN tiếp cận tốt hơn với nguồn tài chính (Div
=1,Rated=1) có sự điều chỉnh về mặt thống kê và kinh tế ít nhưng nhanh hơn. Các
DN bị hạn chế tài chính hành động một cách nhanh chóng để loại bỏ đòn bẩy quá
mức. Ví dụ, các DN với sự trùng khớp giữa dòng tiền và độ lệch chuẩn(dòng (b) và
(c)) điều chỉnh trong khoảng 75% đến 87.8% nếu các DN này không chi trả cổ tức,
có quy mô trung bình và không có đánh giá xếp hạng(no rating). Tuy nhiên, một cổ
tức chi trả có độ lệch chuẩn so với kích thước trung bình và được xếp hạng thì điều
chỉnh hướng tới mục tiêu đòn bẩy với tốc độ hàng năm từ 35,9% (0.878 _ 0.139 _
0.080 _ 0.300) xuống 16,3% (0.750 _ 0,287 _ 0,037 _ 0,263). Sự tiếp cận thị
trường tài chính tốt hơn làm giảm mối quan tâm của một DN về đòn bẩy quá mức.
Nhìn chung, những hạn chế tài chính thay đổi đáng kể tốc độ điều chỉnh hướng tới
đòn bẩy mục tiêu một cách rất bất đối xứng. Các DN hạn chế tài chính điều chỉnh
chậm hơn so với các DN không bị ràng buộc khi họ sử dụng ít vốn vay, nhưng
nhanh hơn khi họ sử dụng vốn vay nhiều. Các hạn chế về tài chính ảnh hưởng đến
tốc độ điều chỉnh đòn bẩy rất lớn đến mức có thể đảo ngược những kết quả thông
thường (từ Bảng 3), dẫn đến các DN ít sử dụng vốn vay điều chỉnh chậm hơn so
với các công ty sử dụng nhiều vốn vay. Khi dòng tiền trùng khớp với độ lệch đòn
bẩy (hàng (b) và (c) trong bảng 6), một DN không hạn chế tài chính sử dụng nhiều
nợ điều chỉnh ít hơn (35,9% hay 16,3%) một DN không hạn chế có cùng quy mô
sử dụng ít nợ (45,4% hay 46,9%).
Các kết quả ở bảng 6 cho thấy tầm quan trọng của việc xác định hạn chế về tài
chính khi nghiên cứu điều chỉnh vốn, và nhấn mạnh giá trị của quá trình ước tính
sự điều chỉnh khác nhau giữa các DN sử dụng nợ nhiều và các DN sử dụng nợ ít
trong cùng một mẫu.
6.3 Các kết quả biến thời điểm thị trường:
Chúng tôi bắt đầu các kiểm tra của mình về vai trò của thời điểm thị trường với các
doanh nghiệp ít sử dụng vốn vay trong bốn cột đầu tiên của Bảng 7. Những DN
này nên phát hành nợ(trái phiếu) hoặc thu hồi vốn cổ phần để thu hẹp các chênh
lệch đòn bẩy. Các ước tính Base trong cột đầu tiên của Bảng 7 tương đối giống với
nửa bên phải của bảng 3. Phù hợp với các giả thuyết của chúng tôi, một thị trường
lãi suất cao hơn và định giá vốn cao hơn làm giảm tốc độ điều chỉnh tỷ lệ đòn bẩy
của các DN sử dụng ít vốn vay. Tuy nhiên, độ lớn của sự thay đổi trong tốc độ điều
chỉnh là nhỏ hơn so với kết quả mà chúng tôi ước tính với các ảnh hưởng của việc
hạn chế tài chính. Việc giảm tỷ lệ Baa của một độ lệch chuẩn(giảm 11.8%) làm
tăng tốc độ điều chỉnh của các DN có dòng tiền mặt dồi dào (hàng (c)) từ 35,7%
đến 47,5% (35,7%- 1* (- 11,8%)). Đối với các doanh nghiệp có dòng tiền đủ để thu
hẹp khoảng chênh lệch đòn bẩy (hàng (b)), sự gia tăng tốc độ điều chỉnh là kết quả
từ một khoản giảm độ lệch chuẩn trong tỷ lệ Baa là 2,0%, từ 27,1% đến 29,1%.
Tương tự như vậy, giá trị ngành cao hơn làm giảm tốc độ điều chỉnh của DN đang
cần phải tăng mức đòn bẩy, nhưng độ lớn của việc điều chỉnh này là nhỏ.
Bốn cột cuối cùng của Bảng 7 trình bày các kết quả của các công ty sử dụng nhiều
nợ, những DN này sẽ giảm nợ hoặc phát hành cổ phiếu để thu hẹp các chênh lệch
đòn bẩy. Đối với các doanh nghiệp này, tác động của lãi suất cao là ít, nhưng khi
cổ phần được định giá cao làm cho nó dễ dàng điều chỉnh để đạt được đòn bẩy mục
tiêu. Khi giá trị ngành và công ty được định giá cao (độ lệch chuẩn trên trung
bình), tốc độ điều chỉnh tăng từ 80,5% đến 90,8% (0.805+0.016+0.087) khi dòng
tiền không đủ để bù đắp thâm hụt đòn bẩy, và từ 61,1% đến 73,0%
(0.611+0.020+0.099) khi dòng tiền đủ để cho phép một DN sử dụng nợ nhiều thu
hẹp hoàn toàn chênh lệch đòn bẩy (hàng (c)). Những tỷ lệ phần trăm lớn và những
sự khác biệt phát sinh từ sự thay đổi trong định giá thị trường có ý nghĩa về mặt
thống kê và mặt kinh tế. Nó cũng có ý nghĩa rằng các DN chủ yếu tham gia vào
các giao dịch để làm tăng vốn chủ sở hữu thì nhạy cảm với việc định giá cổ phần
hơn là việc đo lường nợ khi thu hẹp chênh lệch đòn bẩy.
Tóm lại, các kết quả trong Bảng 7 chủ yếu trình bày kết quả trực quan về tác động
của điều kiện thị trường lên tốc độ điều chỉnh. Các DN sử dụng ít nợ điều chỉnh
less quickly hướng tới các mức độ đòn bẩy mục tiêu cao hơn khi lãi suất cao. Các
công ty sử dụng nhiều nợ giải thích sự gia tăng đáng kể tốc độ điều chỉnh của họ là
do định giá vốn cao hơn. Các kết quả này tạm thời phù hợp với các điều kiện thị
trường thay thế cho chi phí điều chỉnh cầu trúc vốn
Bang 7: Các tương tác thời gian:
Bảng 7 trình bày các kết quả ước tính (6) riêng biệt cho các DN sử dụng nhiều và ít vốn vay.
Cột Base là hệ số tốc độ điều chỉnh cho mỗi phép phân tích trong số 4 phân tích, trong khi mỗi
cột khác là một sự tương tác của mỗi phân tích với biến tiêu đề. Những sự tương tác này đại diện
cho mức độ hạn chế tài chính của một doanh nghiệp. Mỗi biến tương tác liên tục được chuyển
đổi thành một biến chuẩn bình thường trước khi tương tác. Biến tương tác được xác định: Baa=
tỷ lệ Baa trung bình theo năm giữa năm t-1 và t, IndMB= MB( lợi ích cận biên) trung bình
ngành và MBDiff= MB doanh nghiệp – IndMB. Các định nghĩa biến và mô tả mẫu được trình
bày ở bảng 1. P-values được thể hiện trong ngoặc.
***, ** và * đại diện cho mức ý nghĩa 1%, 5% và 10%.
7. Tóm tắt và kết luận:
Hầu hết các đánh giá trước đây về cấu trúc vốn DN ước tính một mô hình hồi quy
duy nhất cho tất cả các DN, một vài đánh giá đã ước tính các DN quan tâm như
thế nào để đạt được tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu. Điều chỉnh chậm cũng có thể phản ánh
sự hiện diện của chi phí điều chỉnh như gợi ý của Fisher, Heinkel, và Zechner
(1989), Leary và Roberts (2005), và Strebulaev (2007). Các doanh nghiệp sẽ điều
chỉnh một cách tối ưu cấu trúc vốn của họ chỉ khi lợi ích của việc điều chỉnh là cao
hoặc chi phí điều chỉnh đặc biệt thấp. Một số nhà nghiên cứu chia mẫu thành các
mẫu con gồm các DN hạn chế tài chính và các DN không bị hạn chế tài chính để
phản ánh sự khác biệt giả định trong tốc độ điều chỉnh đối với tỷ lệ vốn mục tiêu.
Các chi phí giao dịch đo lường theo cách thông thường chỉ cung cấp một phần của
việc tính toán, các DN với nhiều lý do khác nhau nhằm tiếp cận thị trường vốn có
thể điều chỉnh đòn bẩy của họ với chi phí cận biên tương đối thấp, bất kể chi phí
giao dịch là cao hay thấp. Ở đây, chúng tôi chỉ ra rằng dòng tiền ảnh hưởng đáng
kể đến các quyết định nội bộ để điều chỉnh đòn bẩy. Mô hình hồi quy của chúng tôi
nắm bắt được các tác động này bằng cách kết hợp những biện pháp đo lường dòng
tiền của công ty với độ lệch của nó từ đòn bẩy mục tiêu. Bằng cách xác định những
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau giữa dòng tiền và độ lệch đòn bẩy, chúng tôi ước tính
thấy tốc độ điều chỉnh khá lớn ở các công ty đang đối mặt với chi phí điều chỉnh
đòn bẩy thấp. Những thay đổi hợp lý trong tốc độ điều chỉnh ước tính đã hỗ trợ cho
các mô hình điều chỉnh cục bộ đòn bẩy mục tiêu.
Các ước tính của chúng tôi chứng minh rằng các doanh nghiệp có dòng tiền hoạt
động lớn (dương hoặc âm) tạo ra những thay đổi linh hoạt hơn trong tỷ lệ vốn của
doanh nghiệp. Phù hợp với các giả thuyết cho rằng các chi phí tiếp cận thị trường
vốn bên ngoài ảnh hưởng quan trọng tới đòn bẩy được quan sát, các DN có giá trị
tuyệt đối của dòng tiền cao và của độ lệch đòn bẩy cao thực hiện điều chỉnh cấu
trúc vốn lớn hơn so với các DN có cùng độ lệch đòn bẩy nhưng có dòng tiền thực
gần bằng không. Nói cách khác, sự điều chỉnh đòn bẩy có nhiều khả năng được
thực hiện khi chi phí điều chỉnh được '' chia sẻ'' với các giao dịch liên quan đến
dòng tiền hoạt động của doanh nghiệp. Điều này đặc biệt đúng với các doanh
nghiệp sử dụng nhiều vốn vay, những DN mà có chênh lệch tỷ lệ đòn bẩy khoảng
80% khi họ đang giao dịch với mục đích lưu chuyển tiền tệ. Những DN sử dụng ít
vốn vay thường có chênh lệch tỷ lệ đòn bẩy khoảng 39%, điều này cho thấy lợi ích
của việc tăng đòn bẩy có thể nhỏ hơn so với những lợi ích từ việc giảm đòn bẩy.
Sự bất đối xứng giữa các doanh nghiệp sử dụng nợ nhiều và ít cần được đưa vào
nghiên cứu thực nghiệm.
Chúng tôi nhận thấy rằng các hạn chế tài chính ảnh hưởng đến tốc độ điều chỉnh
nhằm đạt tỷ lệ đòn bẩy mục tiêu. Các DN chi trả cổ tức hoặc có một sự xếp hạng
tín dụng điều chỉnh nhanh hơn nhiều so với các công ty hạn chế tài chính khi các
DN này sử dụng ít vốn vay, và sự điều chỉnh này tương đối chậm hơn khi sử dụng
nhiều vốn vay. Tương tự như vậy, các doanh nghiệp lớn điều chỉnh đòn bẩy quá
mức(excess leverage: dư thừa đòn bẩy) chậm hơn, vì các doanh nghiệp lớn này có
chi phí điều chỉnh đòn bẩy quá mức nhỏ. Chúng tôi cũng xem xét những tác động
tương tự của các biến thị trường trong quá trình điều chỉnh. Các DN sử dụng ít vốn
vay nên giảm vốn cổ phần, thu hẹp ít hơn(close less) chênh lệch đòn bẩy khi giá cổ
phiếu cao (so với giá trị sổ sách). Tương tự, các DN sử dụng nhiều vốn vay nên thu
hẹp nhiều hơn các khoảng chênh lệch đòn bẩy khi giá cổ phiếu cao. Tuy nhiên,
những ảnh hưởng này ít quan trọng hơn so với ảnh hưởng của hạn chế tài chính lên
tốc độ điều chỉnh DN.
Nhìn chung, kết quả thực nghiệm của chúng tôi phù hợp với giả thuyết cân bằng
cấu trúc nguồn vốn: các công ty có các mục tiêu, và mong muốn đạt được những
mục tiêu đó với chi phí tối ưu. Mô hình điều chỉnh cục bộ mang lại những kết quả
hợp lí về mặt lý thuyết về cách mà các đặc trưng của 1 DN và điều kiện thị trường
ảnh hưởng đến việc điều chỉnh đòn bẩy được quan sát. Những lợi ích và chi phí
của việc điều chỉnh biến đổi khác nhau ở các mức độ khác nhau của chênh lệch
đòn bẩy (các DN sử dụng vốn vay nhiều điều chỉnh nhanh hơn), dòng tiền hoạt
động của DN, cơ hội đầu tư, khả năng tiếp cận các thị trường vốn, và một số yếu tố
của điều kiện thị trường. Nghiên cứu tiếp theo cần tiếp tục điều tra các yếu tố quyết
định cơ bản của chi phí và lợi ích từ việc điều chỉnh trên các loại doanh nghiệp
khác nhau, kết hợp với các ảnh hưởng của dòng tiền thực và sự khác biệt giữa các
doanh nghiệp sử dụng nợ nhiều và ít.