Upload
dong-tuyet
View
2.409
Download
6
Embed Size (px)
DESCRIPTION
Vovinam
Citation preview
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO TP. HỒ CHÍ MINH
GIÁO TRÌNH GIẢNG DẠY
MÔN VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN
(LÖU HAØNH NOÄI BOÄ)
TP. HỒ CHÍ MINH, NĂM 2013
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
A. PHẦN LÝ THUYẾTI. LÝ THUYẾT CHUNG :I.1. Lịch sử Olympic thể giới, Việt Nam :
LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO OLYMPIC QUỐC TẾ
VÀ OLYMPIC VIỆT NAM
--------------------------
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN PHONG TRÀO
OLYMPIC QUỐC TẾ
Phong trào Olympic cổ đại
Cuộc thi đấu Olympic cổ đại lần đầu tiên được tổ chức tại thung lũng Olympia – Hy Lạp
vào năm 776 trước CN. Theo truyền thuyết cổ, các vị thần linh và các vị anh hùng là những
người đầu tiên tranh tài tại Olympia, vì thế các môn thi đấu thể thao trở thành một phần quan
trọng trong đời sống người dân Hy Lạp, là cách để người Hy Lạp gìn giữ, tôn vinh truyền thống
lịch sử văn hóa và huyền thoại của họ.
Vào ngày khai mạc Đại hội, tại thánh đường thiêng
liêng Olympia, tất cả mọi người đều đứng đón mặt trời mọc.
Thần Apollo, vị thần mặt trời, sẽ hiện lên trên cỗ xe ngựa
kéo, vượt qua những ngọn núi trong ánh sáng và màu sắc
rực rỡ. Những tia lửa vàng của người sẽ thắp sáng trên mái
và những cây cột của đền rồi chiếu sáng hình bóng những
công trình kiến trúc mái vòm nối tiếp dẫn đến sân vận động
Olympia. Đây chính là ý tưởng của nghi lễ đốt đuốc trong lễ
khai mạc Đại hội Olympic hiện nay. Thánh đường cổ
Olympia là nơi tôn kính đã có từ hơn 1.300 năm trước công nguyên. Các công trình khảo cổ học
cho thấy thần Dớt là vị thần quan trọng nhất của Olympia.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 1
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Ở những kỳ Đại hội Olympic cổ đại đầu tiên, thời gian thi đấu chỉ kéo dài một ngày, tại
một sân vận động với một nội dung thi đấu duy nhất là thi chạy. Những năm sau đó, các nội
dung thi đấu, các nghi lễ và nghi thức mới dần dần được bổ xung thêm. Đến năm 600 trước công
nguyên, các môn thể thao được đưa vào chương trình đại hội gồm có: Đua ngựa, 5 môn phối hợp
(nhảy xa, ném lao, ném đĩa, chạy và vật), Quyền, Vật và Chạy chân đất. Đại hội diễn ra trong 5
ngày tại sân vận động Olympic cổ đại có sức chứa 40.000 người và được xem là lễ hội tôn giáo
lớn nhất vào thời gian đó. Những người chiến thắng được trao một vương miện tết bằng cành ô
liu và trở thành anh hùng. Đại hội chỉ dành cho nam giới, tất cả phụ nữ, ngoại trừ các nữ tu sĩ,
đều không được tham dự dù với tư cách khán giả do quan điểm lời nói của phụ nữ có thể làm suy
yếu sức mạnh tinh thần của binh lính. Cương lĩnh của Olympic cổ đại là “Cao hơn, nhanh hơn,
mạnh hơn”, cho đến nay, cương lĩnh này vẫn là nguồn cảm hứng tinh thần của tinh thần Olympic
hiện đại.
Năm 490 trước CN: Phillipides, người đưa tin của quân đội Hy Lạp, chết sau khi chạy từ
chiến trường Marathon về thành phố Athens để báo tin chiến thắng quân đội Ba tư (Iran). Cuộc
thi Marathon hiện nay (cự ly 42,195 km) được đặt tên để tôn vinh chiến công này.
Đến năm 393 sau công nguyên, các cuộc thi Olympic cổ đại bị hoàng đế La Mã cổ đại
Theodosius I hủy bỏ vì quan điểm các cuộc thi đấu này là ngoại đạo. Năm 426, theo lệnh của
hoàng đế Theodosius II, các công trình thi đấu Olympic này bị phá hủy. Động đất và lũ lụt đã
chôn vùi những gì còn lại mà đến thế kỷ 19 người ta mới tìm thấy chúng dưới lớp đất dầy 4, 5
mét.
Nhiều nghiên cứu cho thấy: Thành công của phong trào Olympic cổ đại ngoài lý tưởng
gìn giữ, tôn vinh truyền thống lịch sử văn hóa và huyền thoại, nghi lễ tôn giáo của người Hy Lạp,
một phần còn do tình yêu của người Hy Lạp đối với thể thao. Do sự ngưỡng mộ của người Hy
Lạp đối với vẻ đẹp hài hòa của cơ thể và đối với các giá trị đặc biệt về cách sống dựa trên sự hợp
nhất của trí tuệ, thể chất và tâm hồn con người.
Phong trào Olympic hiện đại
Việc khôi phục phong trào Oplimpic hiện đại được bá tước Pierre de Coubertin (1863-
1937) phát triển từ ý tưởng đưa hoạt động thể chất vào chương trình giáo dục của đất nước mình.
Sự say mê triết lý và lối sống của người Hy Lạp cổ đại của ông, người được xem cha đẻ phong
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 2
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
trào Olympic hiện đại, là yếu tố quan trọng dẫn đến sự hồi sinh Đại hội Olympic hiện đại. De
Coubertin kết hợp ý tưởng tổ chức Đại hội thể thao quốc tế với Đại hội Olympic kiểu Hy Lạp cổ
đại. Lý tưởng của ông là tôn vinh những giá trị sức khỏe và sự thông thái của tuổi trẻ, tán dương
những vận động viên và thống nhất các cộng đồng trên thế giới.
Năm 1894, Thế vận hội Olympic đã sống lại. Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) được thành lập tại
Paris để tổ chức và điều hành tất cả các đại hội Olympic. De Coubertin trở thành chủ tịch đầu
tiên của IOC và giữ chức vụ này đến năm 1925.
Thế vận hội (TVH) hiện đại lần 1 được tổ chức vào năm
1896 tại Athen – Hy Lạp. De Coubertin là đạo diễn chính cho
việc hình thành và xác định tính chất của đại hội. Hiến
chương Olympic, nghi thức cho lễ khai mạc và bế mạc, lời
thể của vận động viên và biểu tượng năm vòng tròn là kết
quả sự lao động sáng tạo và miệt mài của ông. Để tôn vinh
người được xem là cha đẻ của phong trào Olympic hiện đại, khi ông mất vào năm 1937 tại
Geneva (thụy sỹ), trái tim ông được chôn cất tạo đất thánh Olympia – Hy Lạp, nơi đây một đài
tưởng niệm đã được dựng lên để tưởng nhớ tới công lao của ông đối với lý tưởng và tinh thần
Olympic.
TVH mùa hè được tổ chức thường xuyên 4 năm/lần. Từ TVH lần 1 (1896 – Athen) đến
nay đã có 29 kỳ TVH, lần 29 (2008 – Beijing). TVH lần 30 sẽ được tổ chức vào năm 2012 tại
London (Anh). Trong đó có ba kỳ phải hủy bỏ là TVH lần 6 vào năm 1916 (Đệ nhất thế chiến),
TVH lần 12 năm 1940 và lần 13 năm1944 (Đệ nhị thế chiến). Số Ủy ban Olympic quốc gia tham
dự TVH lần 1 từ 14 quốc gia với 311 vận động viên đã tăng lên 201 quốc gia, vùng lãnh thổ với
10.564 vận động viên ở TVH lần 29.
Đến 1924, TVH mùa đông lần 1 được tổ chức tại Chamonix, Pháp. Đây là Đại hội dành cho các
môn thể thao mùa đông (trượt tuyết, Trượt băng, Hốc cây, Xe trượt đồng đội, Trượt lòng máng,
Trượt tuyết…) được tổ chức thường xuyên 4 năm/lần.
Paralympic là một đại hội thể thao thế giới dành cho những người bị khuyết tật do "Ủy
Ban Paralympic Quốc tế" (IPC: International Paralympic Committee) tổ chức vào cùng năm và
cùng địa điểm với Thế Vận Hội. Theo một số tài liệu về lịch sử thể thao thế giới có ghi chép về
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 3
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
những đại hội thể thao dành cho những người bị khuyết tật được tổ chức từ đầu thế kỷ 20, nhưng
lịch sử của Paralympic được nhìn nhận là chính thức bắt nguồn từ ngày 28/7/1948 (tức trùng vào
ngày khai mạc Thế Vận Hội London) với tên gọi "Ðại Hội Thể Thao Stoke Mandeville" được
diễn ra tại bệnh viện Stoke Mandeville ở Anh Quốc. Vào năm 1960, bác sĩ Guttmann với tư cách
là Hội Trưởng đã thành lập một Ủy Ban Ðiều Hành và tổ chức "Ðại Hội Thể Thao Quốc Tế
Stoke Mandeville" cùng năm cùng địa điểm với Thế Vận Hội Roma. Vì vậy, cho đến nay "Ðại
Hội Thể Thao Stoke Mandeville Quốc Tế 1960" được gọi là "Paralympic Lần Thứ Nhất". Năm
1976 là năm bắt đầu ra đời "Paralympic Mùa Ðông". Vào năm 1989, "Ủy Ban Paralympic Quốc
Tế" (IPC: International Paralympic Committee) được thành lập để tiếp tục điều hành đại hội thể
thao đặc biệt này. Đến TVH Sydney 2000 thì IOC và IPC chính thức ký những văn kiện liên kết
với nhau, trong đó quy định 2 điều căn bản quan trọng là: Paralympic sẽ được tổ chức tại cùng
địa điểm ngay sau thời điểm Thế Vận Hội bế mạc và IOC sẽ được quyền tuyển chọn những ủy
viên phụ trách từ IPC.
Tổ chức và các hoạt động của Ủy ban Olympic Quốc tế (IOC)
IOC là một tổ chức phi chính phủ, được hình thành và có
lịch sử phát triển hơn 100 năm, điều hành 2 sự kiện thể
thao lớn nhất thế giới: Thế vận hội (TVH) Olympic mùa
hè và TVH Olympic mùa đông. IOC đã định hướng trở
thành một tổ chức kinh tế hưng thịnh từ thập kỷ 1980
cho dù về tình trạng pháp lý thì tổ chức này vẫn là một
hiệp hội phi lợi nhuận giống tất cả các liên đoàn thể thao
quốc tế và quốc gia.
IOC là một hiệp hội thành viên, là cơ quan có quyền hành cao nhất về hoạt động
Olympic. Ý tưởng của De Coubertin là đưa Thế vận hội trở thành trung tâm của hoạt động thể
thao toàn thế giới. Theo quan điểm của Coubertin, Đại hội Olympic không đơn giản chỉ là một
sự kiện thể thao, điểm trọng tâm của phong trào mang tính xã hội rộng rãi này là thông qua hoạt
động TDTT để tăng cường hiểu biết quốc tế và phát triển con người. Bản hiến chương Olympic
đầu tiên được xuất bản vào năm 1894, trong đó De Coubertin đã viết: “Vì sao tôi khôi phục Đại
hội Olympic? Đó là để đẩy mạnh các hoạt động thể thao, đảm bảo tính độc lập và lâu dài của nó,
và như vậy sẽ cho phép phát triển tốt hơn các môn TT, để thực hiện vai trò giáo dục trong thế
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 4
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
giới hiện đại, tôn vinh những cá nhân VĐV mà hoạt động thể thao của họ là rất quan trọng để
duy trì tinh thần thể thao chung”. Từ tuyên bố đầu tiên này, các mục tiêu của phong trào Olypic
đã lớn mạnh và phát triển. Ngày nay, các mục tiêu đó được thể hiện trong hiến chương Olympic
như là các nguyên tắc cơ bản.
IOC xác định 6 chức năng chính là:
- Thúc đẩy tinh thần Olympic.
- Phối hợp tổ chức, điều hành các TVH.
- Ủng hộ, khích lệ hoạt động Olympic
- Khuyến khích sự phát triển thể thao.
- Phát triển khoa học thể thao.
- Góp phần phát triển xã hội thông qua TT.
Ban đầu, IOC có 15 thành viên từ 12 quốc gia, vào lễ kỷ niệm 100 năm thành lập, 1994,
số thành viên đã tăng lên hơn 100. Các thành viên của IOC bao gồm các Ủy ban tổ chức của các
TVH mùa hè và mùa đông, Các Ủy ban Olympic quốc gia thành viên (NOC), tất cả các Liên
đoàn Thể thao Quốc tế và quốc gia. Phong trào Olympic dưới sự điều hành của IOC liên tục phát
triển qua các giai đoạn và luôn thể hiện vai trò tổ chức có quyền lực cao nhất trong các hoạt động
thể thao trên toàn thế giới, có tác động đến tất cả các lĩnh vực văn hóa, xã hội, chính trị, kinh tế
của thế giới.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động và phát triển, IOC cũng phải vượt qua nhiều thử
thách và phải điều chỉnh, thay đổi một số quy định trong hiến chương để phù hợp với sự phát
triển của thế giới nhằm đưa phong trào Olympic ngày càng phát triển.
Sự kiện: Năm 1999, 10 thành viên IOC phải từ chức hoặc bị cách chức và 10 thành viên
khác bị khiển trách vì liên quan đến việc nhận quà “trên mức tình cảm” của Ủy ban tranh cử tổ
chức Olympic mùa đông Salt Lake city 2002. Sau scandal này, IOC quyết định cải tổ và giới hạn
số lượng ủy viên còn 115 người, trong đó 70 người, với tư cách đại diện IOC, hoạt động tại quốc
gia của mình, và 45 quan chức điều hành IOC (15 người đại diện cho các VĐV Olympic, 15
người từ các NOC và 15 người từ các Liên đoàn thể thao quốc tế (IF). Các ủy viên đều được bầu
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 5
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
theo hình thức bỏ phiếu kín, nhiệm kỳ là 8 năm và tuổi giới hạn là 70. Trước đây, nhiệm kỳ làm
việc là không giới hạn, ủy viên được sự phê chuẩn chứ không bỏ phiếu và tuổi giới hạn là 80.
Năm 2004, năm tổ chức Olympic Athens, IOC gồm 122 ủy viên từ 81 quốc gia. IOC có 22 ủy
viên danh dự, bao gồm 1 chủ tịch danh dự là nguyên chủ tịch Juan Antonio Samaranch. Nhìn
chung, sức khỏe của tất cả các ủy viên đều khá tốt. Tất cả các ủy viên đều không được hưởng
lương, từ 1981 họ được thanh toán chi phí đi dự các cuộc họp Olympic.
Nhiệm vụ chính của các ủy viên Ban chấp hành IOC là:
- Thúc đẩy và thực thi lý tưởng Olympic tại đất nước và tổ chức của mình.
- Bầu chọn chủ tịch, các ủy viên ban chấp hành và các ủy viên mới.
- Chọn lựa thành phố tổ chức Olympic.
Đại hội thường niên của IOC thực hiện các điều chỉnh, bổ xung hiến chương Olympic
nhằm phát triển hoạt động Olympic và thiết lập, củng cố vai trò và uy tín của IOC. Đại hội được
tổ chức theo hình thức quốc hội dưới sự chủ trì của ban chấp hành theo đúng luật pháp của Thụy
sỹ (điều 60 bộ luật dân sự Thụy Sỹ). Trụ sở IOC đặt tại Lausanne (Thụy Sỹ) từ 1915.
Ủy ban Olympic Quốc gia (National Olympic Committee - NOC) được IOC công nhận ở
từng quốc gia, lãnh thổ là thành viên IOC. Năm 2004, IOC có 202 quốc gia, lãnh thổ thành viên.
Nhiệm vụ chính của NOC là gửi đoàn tham gia thi đấu tại các Thế vận hội (TVH) (năm 2004 tất
cả các NOC đều tham dự TVH mùa hè; 2002 có 77 đoàn tham dự TVH mùa đông). Đổi lại, các
NOC nhận được sự trợ giúp của IOC dưới nhiều hình thức để phát triển phong trào TDTT tại đất
nước.
Các Liên đoàn thể thao thế giới (International Federartion - IF) đều tổ chức các hoạt động
của môn ở quy mô thế giới. IF điều hành hoạt động của các liên đoàn quốc gia (NF). Với nhiệm
vụ gửi các VĐV của mình tham dự TVH, các Liên đoàn thể thao quốc gia (NF) của từng quốc
gia cũng có thể là thành viên của NOC. Năm 1998, IOC công nhận 65 IF, trong đó có 35 IF trong
chương trình Olympic (các môn mùa đông và mùa hè). IF phải ủng hộ các cuộc thi đấu Olympic.
Đổi lại, các IF nhận được 1 phần từ nguồn thu nhập tổ chức các TVH. IF cũng có nguồn thu
nhập từ các giải thi đấu thuộc quyền hạn của mình (Giải vô địch thế giới, Giải vô địch châu lục,
khu vực…). Nhiều tổ chức khác có liên kết với thể thao, TVH… cũng được IOC công nhận.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 6
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN ỦY BAN OLYMPIC
VIỆT NAM (VIETNAM OLYMPIC COMMITTEE – VOC)
Vào thập kỷ 50 ở Việt Nam đã xuất hiện một số tổ chức Thể thao
Olympic tiền thân của Phong trào Olympic hiện nay. Theo tài liệu của
IOC, vào những năm 50 Việt Nam đã có 9 Hiệp hội Thể thao Quốc gia, được các Liên đoàn,
Hiệp hội Thể thao Quốc tế công nhận. Đó là: Điền kinh, Bơi lội, Bóng đá, Bóng bàn, Bóng rổ, Xe
đạp, Quần vợt, Quyền anh, Đấu kiếm. Vào thời gian đó, Việt Nam đã cử các đoàn Thể thao tham
dự các Đại hội Olympic, Đại hội Thể thao châu Á và khu vực Đông Nam Á. Việt Nam là một
trong 6 nước thành viên sáng lập Liên đoàn Thể thao Bán đảo Đông nam Á (The South East
Asian Peninsular Games Federation hay SEAP Games Federation) vào năm 1959. Đến năm
1977, Liên đoàn SEAP đổi tên thành Liên đoàn Thể thao Đông Nam Á (South East Asian Games
Federation, SEAGF).
Sau khi nước nhà thống nhất, phong trào Thể thao Olympic của Việt Nam mới có điều
kiện phát triển trên quy mô rộng lớn, theo xu hướng chung của phong trào Olympic Quốc tế là
hoà nhập với cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực thể thao nhằm thúc đẩy tình đoàn kết hữu nghị và
hợp tác quốc tế vì hoà bình và tiến bộ xã hội.
Theo Hiến chương Olympic, tất cả các Uỷ ban Olympic Quốc gia muốn gia nhập phong
trào Olympic Quốc tế cần phải thành lập một tổ chức Thể thao thống nhất với những Điều luật,
Điều lệ riêng và được chính phủ nước mình cho phép.
- Ngày 20/12/1976, Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã ký quyết định số 500 TTG cho phép thành
lập Uỷ ban Olympic Quốc gia Việt Nam (Vietnam Olympic Committee - VOC)
- Tháng 12/1979, VOC đã trình đơn xin gia nhập Phong trào Olympic Quốc tế.
- Ngày 28/4/1980, Uỷ ban Olympic Quốc tế đã ra Quyết định công nhận chính thức Uỷ ban
Olympic Quốc gia Việt Nam là thành viên của phong trào Olympic Quốc tế. Từ đây Uỷ ban
Olympic Việt Nam là Đại biểu duy nhất của Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam trong
Phong trào Olympic Quốc tế có quyền được tham gia các Đại hội Thể
thao Olympic, các Đại hội thể thao các châu lục và khu vực Đông Nam Á.
Hội đồng Olympic Châu Á (The Olympic Council of Asia - OCA) được
thành lập ngày 05/12/1982 trên cơ sở tiền thân là tổ chức Liên đoàn Thể
thao Châu Á (The Asian Games Federation) ra đời ngày 13/03/1949.
VOC đã tham dự phiên họp Hội đồng Liên đoàn Thể thao Châu Á năm
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 7
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1981 tại New Dehli - Ấn Độ và thông qua điều lệ của Hội đồng. Như vậy, VOC là một trong 34
thành viên sáng lập OCA.
Sau khi trở thành thành viên chính thức của IOC, đoàn thể thao Việt Nam bắt đầu tham
gia Đại hội thể thao thế giới từ năm 1980 (Olympic XXII- Moscow); Đại hội thể thao Châu Á
năm 1982 (Asiad lần IX – tại New Dehli - Ấn Độ) và Đại hội thể thao Đông Nam Á (SEA
Games XV) tại Kuala Lumpur – Malaysia.
Cùng với cơ quan quản lý Nhà nước về thể dục thể thao (TDTT), VOC đã quy tụ các tổ
chức thể thao trong nước, chăm lo phát triển phong trào TDTT quần chúng và mở rộng quan hệ
ngoại giao với các nước trong phong trào Olympic quốc tế. Từng bước tham gia đều đặn các kỳ
Đại hội thể thao quốc tế. Đặc biệt Việt Nam đã tổ chức thành công SEA Games 22 – 2003,
ASEAN Para Games 2 – 2003 và ASIAN Indoor Games lần III năm 2009. Qua hoạt động thực
tiễn, Uỷ ban Olympic Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào sự nghiệp phát triển Thể thao
Olympic của nước nhà, tạo ra những chuyển biến tích cực của Phong trào Olympic Việt Nam
trên 3 lĩnh vực chiến lược: Thể thao cho mọi người, Thể thao đỉnh cao và Quan hệ Quốc tế trong
lĩnh vực Thể thao.
Thành tích tại Đại hội Thể thao Olympic: Cho đến nay, Thể thao Việt Nam đã đạt được 2
huy chương bạc tại các kỳ Olympic.
- Tại Đại hội Olympic Sydney 2000, nữ võ sỹ Taekwondo Trần Hiếu Ngân đạt tấm huy chương
đầu tiên cho thể thao Việt Nam sau 5 kỳ tham dự Đại hội Olympic. Đây được ghi nhận là thành
tích có ý nghĩa lịch sử của thể thao Việt Nam trên đấu trường Olympic.
- Tại Đại hội Olympic Bắc Kinh 2008, Lực sĩ cử tạ Hoàng Anh Tuấn đã làm nức lòng người hâm
mộ thể thao khi vượt qua mọi áp lực để giành chiếc HCB Olympic thứ hai trong lịch sử thể thao
Việt Nam.
Thành tích tại Đại hội Thể thao Châu Á (ASIAD):
- New Delhi 1982: 1 HC đồng (Bắn súng)
- Hiroshima 1994: 1 HC vàng (Trần Quang Hạ - Taekwondo) & 2 HC bạc (karatedo).
- Bangkok 1998: 1 HCV (Hồ Nhất Thống - Taekwondo), 5 HCB & 11 HCĐ.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 8
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
- Busan 2002: 4 HCV (Vũ Kim Anh, Nguyễn Trọng Bảo Ngọc - karatedo, Lý Đức- thể hình, Trần
Đình Hòa- billards), 7 HCB & 7 HCĐ.
- Doha 2006: 3HCV (2 cầu mây, Vũ Nguyệt Ánh- karatedo), 13 HCB & 7HCĐ.
- Guangzhou 2010: 1 HCV (Lê Bích Phương-karatedo), 17 HCB và 15 HCĐ
Thành tích tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á (SEA Games):
- Kualar Lumpur -1989: 3 HCV - 11 HCB - 5 HCĐ. Hạng 7/9 đoàn tham dự.
- Manila 1991: 7 HCV - 12 HCB - 10 HCĐ. Hạng 7/9.
- Singapore 1993: 9 HCV - 6 HCB - 19 HCĐ. Hạng 6/9.
- Chiangmai 1995: 10 HCV - 18 HCB - 24 HCĐ. Hạng 6/10.
- Jakatar 1997: 35 HCV - 48 HCB - 50 HCĐ. Hạng 6/10
- Brunei Sarussalam 1999: 17 HCV - 20 HCB - 27 HCĐ. Hạng 6/10.
- Kuala Lumpur 2001: 33 HCV - 35 HCB - 64 HCĐ. Hạng 4/10.
- Việt Nam 2003: 156 HCV - 91 HCB - 93 HCĐ. Hạng 1.
- Philippin 2005: 71 HCV - 68 – 89. Hạng 3.
- Thailand 2007: 64 HCV - 54 HCB - 83 HCĐ. Hạng 3.
- Lào 2009: 83 HCV, 75 HCB, 57 HCB. Hạng 2.
1.2. Ý nghĩa của việc tâp luyện TDTT :
LỢI ÍCH CỦA THỂ DỤC THỂ THAO
Tổ chức y tế thế giới (WHO, 1946) đưa ra quan điểm sức
khỏe là “Trạng thái toàn diện về thể chất, tinh thần và sự
thịnh vượng xã hội” (a complete state of physical, mental
and social prosperity). Định nghĩa này cho thấy quan
điểm sức khỏe không chỉ là không bệnh tật. Trạng thái
khỏe mạnh không phải là bất biến, một số yếu tố nhất định có thể duy trì hay làm tăng tình trạng
sức khỏe và cũng có những yếu tố làm suy giảm sức khỏe. Trong đó, việc tập luyện TDTT là
những hoạt động có lợi cho sức khỏe.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 9
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Trong quá khứ, thể thao không phải là mục tiêu phát triển sức khỏe, cho đến cuối thế kỷ 19
với câu châm ngôn của Juvenal “mens sana in corpore sano” có nghĩa: “Một tinh thần khỏe
mạnh trong 1 cơ thể cường tráng” đã hình thành một quan điểm mới về tập luyện TDTT khi
những lợi ích của TDTT được thừa nhận. Quan điểm này ngày càng chứng tỏ rõ ràng hơn khi
hiện tượng cơ giới hóa và tự động hóa của xã hội xuất hiện, có nghĩa là các hoạt động thể chất
trong lúc lao động bị giảm sút và lối sống ít vận động bắt đầu biểu lộ một số tác hại.
Tham gia vào tất cả các hoạt động mà cơ thể phải tiêu hao năng lượng nhiều hơn trạng
thái nghỉ ngơi, vận động thể chất bao gồm không chỉ là thể thao mà còn là các trò chơi vận động,
đi bộ, khiêu vũ, bơi lội…
Đã có rất nhiều nghiên cứu về vai trò, lợi ích của tập luyện TDTT đối với sức khỏe (thể
chất và tinh thần) con người, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống. Sau đây là một số tổng kết:
1. Tuổi thọ: Từ thế kỷ 19, các nhà khoa học đã nghiên cứu tác động của TDTT đến việc
kéo dài tuổi thọ. Kết quả nhiều nghiên cứu cho thấy việc tham gia hoạt động TDTT ở đại đa số
các môn đều có thể làm tăng tuổi thọ. Thí dụ: Theo Bouchard (1994): các VĐV môn chèo thuyền
ở ĐH Cambridge và Oxford, cũng như VĐV trượt tuyết Phần Lan có tuổi thọ cao hơn người
không tập luyện. Một nghiên cứu khác của Paffenbarger và cộng sự (1986) trên hơn 15.000 cựu
sinh viên ĐH Harvard cho thấy những người tham gia hoạt động TDTT, đặc biệt là đi bộ, thì tuổi
thọ tăng lên gần 2 năm so với người bình thường.
2. Bệnh tật:
Báo cáo của WHO (2002, 2003), ước lượng trên toàn cầu, không vận động thể chất là
nguyên nhân chính gây ra 1.9 triệu người chết hàng năm, trong đó có 250.000 người Mỹ. Lối
sống ít vận động ở Mỹ là nguyên nhân gây bịnh, chiếm 18% các ca bịnh tim mạch, 22% các ca
ung thư ruột kết, tiêu tốn 3.5% chi phí dành cho sức khỏe toàn liên bang (US Department of
Health,1996). Ở Canada, 21.000 trường hợp chết yểu do không vận động, tiêu tốn 2.1 tỷ USD
trong năm 1999, chiếm 2.5 % quỹ chăm sóc sức khỏe (Katzmarzyk et al., 2000). Rất nhiều
nghiên cứu đã cho thấy cái giá phải trả cho lối sống ít vận động và lợi ích của tập luyện TDTT,
dẫn đến việc thúc đẩy mạnh các chương trình hoạt động TDTT ngày càng rộng lớn trên thế giới.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 10
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Béo phì: Cho dù lượng calory tiêu thụ trung bình không tăng trong thế kỷ 20 nhưng số
lượng người bịnh béo phì lại tăng cao ở các nước phát triển. Năm 1850, 1/3 năng lượng được
dùng trong lao động ở các nhà máy và nông trường, trong khi ước lượng hiện nay chỉ khoảng 1
%. Lối sống đô thị hóa, sử dụng thường xuyên xe hơi, ít đi bộ, thời gian ngồi trước tivi ngày
càng tăng, lười vận động, ít tập TDTT… là những yếu tố góp phần vào việc tăng số lượng người
béo phì ngày nay (Prentice & Jebb, 1995).
Bệnh tim mạch: Một trong những tác động có hại dễ thấy nhất của rối loạn chức năng vận
động là các bệnh tim mạch. Từ 1953, nghiên cứu của Morris (1953) về các nhân viên làm việc tại
công ty xe bus London cho thấy các tài xế bị bệnh tim mạch gấp 2 người bán vé (có đi lại). Đây
là lần đầu tiên lợi ích của hoạt động vận động được chứng minh bằng tỉ lệ bệnh tim mạch. Các
nghiên cứu tiếp tục được tiến hành từ 1968 đến 1978, trên 16.882 người, Morris khẳng định tỉ lệ
bịnh tim mạch xảy ra ít hơn đối với nhóm có hoạt động TDTT, 3.1 % so với 6.9 % ở nhóm
không TDTT (1980). Một nghiên cứu trên 16.936 cựu sinh viên Harvard cho thấy: những người
có tham gia TDTT nhưng ít, 1 lần/tuần, có nguy cơ bị tim mạch cao hơn 64% so với nhóm tham
gia TDTT cường độ cao (Paffenbarger et al., 1978).
Phân tích các kết quả nghiên cứu tại Mỹ, nghiên cứu tất cả các yếu tố liên quan đến bịnh
tim mạch trên 12.866 người từ 35 đến 57 tuổi, cho thấy: tỉ lệ tử vong ở nhóm tập luyện TDTT
45phút/ngày thấp hơn đáng kể nhóm chỉ tập 15 phút / ngày (Leon & Connett, 1988). Nhiều
nghiên cứu khác cũng cho thấy rõ tập luyện TDTT sẽ làm giảm nguy cơ bịnh tật, đặc biệt là tim
mạch. Vận động thể chất có xu hướng làm giảm triglyceride và cholesterol (tác nhân gây nghẽn
động mạch), nâng cao độ nhạy insulin, nâng cao chức năng cơ tim, giúp máu lưu thông đến tim
dễ dàng và giúp hạn chế sự hình thành máu cục. phòng chống bịnh loãng xương và tiểu đường,
làm giảm căng thẳng và lo âu.
Bệnh Parkinson: Một nghiên cứu của trường ĐH Harvard trên 48.000 người đàn ông, kết
quả cho thấy: hầu hết những ai vận động ít thì phải đối mặt với nguy cơ mắc bệnh và phát triển
bệnh kinh phong (Parkinson) 50% so với những người thường xuyên vận động.
Ung thư tuyến tiền liệt: Một nghiên cứu kéo dài 14 năm tại Đại học Harvard nhận thấy
rằng những người nào trên 65 tuổi thực hiện việc chạy bộ, đạp xe hay đi bơi ít nhất 3 lần/tuần thì
rủi ro mắc bệnh bị ung thư tuyến tiền liệt thấp hơn 70% so với người không tập luyện TDTT.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 11
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Bệnh giảm trí nhớ: Một nghiên cứu ở ĐH Honolulu cho thấy: những người đi bộ ít hơn
400 mét/ngày hầu như có nguy cơ giảm trí nhớ gấp 2 lần so với người có vận động thường
xuyên.
3. Hình thành nhân cách, đặc biệt là đối với trẻ em.
Cái quý nhất của mỗi con người là sức khỏe và trí tuệ. Có sức khỏe tốt sẽ tạo điều kiện
cho trí tuệ phát triển được tốt hơn và ngược lại. TDTT giúp người tập có được sức khỏe tốt, từ đó
hiệu quả học tập, công tác và tham gia các hoạt động ở nhà trường, xã hội đạt hiệu quả cao hơn.
Khi tham gia các hoạt động TDTT đòi hỏi phải có tính tổ chức, kỷ luật, tinh thần đoàn kết và
trách nhiệm trước tập thể, tác phong nhanh nhẹn, sự cố gắng, tính thật thà, trung thực... Đây
chính là quá trình giáo dục đạo đức và hình thành nhân cách trẻ em, giúp người tập có một nếp
sống lành mạnh, vui tươi, học tập và làm việc khoa học.
Trong quá trình tập luyện và thi đấu TDTT, nếu thất bại, người tập sẽ học được cách chấp
nhận thất bại và tìm cách vượt qua, có nghĩa là đang học cách để thành công. Ngoài ra, quá trình
tập luyện thể thao sẽ tạo cho người tập phong cách riêng, không còn mắc cở, rụt rè trước đám
đông, mạnh mẽ trong thể hiện năng lực... chính phong cách này sẽ góp phần giúp người tập tự tin
hơn trong cuộc sống.
4. Sức khỏe thể chất: Tổng kết nhiều nghiên cứu cho thấy tập luyện TDTT có thể cải
thiện hoạt động các hệ thống cơ xương, tuần hoàn, hô hấp, tiêu hóa…, nâng cao khả năng thích
nghi của cơ thể đối với môi trường bên ngoài.
- Tập luyện TDTT thường xuyên, đúng khoa học sẽ làm cho hệ cơ xương phát triển hài hòa. Cơ
bắp nở nang, rắn chắc, tạo ra vẻ đẹp hình thể và dáng đi khỏe mạnh của con người. Sức mạnh,
sức nhanh, sức bền, năng lực mềm dẻo và linh hoạt của cơ tăng lên.
- Tập luyện TDTT với lượng vận động phù hợp có tác dụng kích thích tích cực đến sự phát triển
chiều dài và chu vi của xương, nói cách khác, có tác dụng kích thích phát triển chiều cao và chất
lượng xương đối với thiếu niên (Mc Ardle, 2000). Những môn như chạy, đi bộ, nâng tạ đều có
thể giúp phòng tránh loãng xương khi lớn tuổi.
-Tập TDTT sẽ làm nhịp tim tăng lên, tăng cường sức co bóp của cơ tim, dung lượng máu trong
tim tăng lên, tỷ lệ hấp thụ oxy của cơ thể tăng lên. Sự tăng cường hoạt động của tim sẽ giúp làm
chậm quá trình suy thoái của tim, giảm tỷ lệ sơ cứng mạch máu, huyết áp cao.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 12
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
- Tập TDTT giúp hô hấp có phản xạ thở sâu, thở nhanh hơn, tăng hoạt động của các cơ hô hấp,
tăng lượng oxy cung cấp cho tế bào, giúp cơ thể khỏe mạnh hơn do khả năng chịu đựng sự mệt
mỏi tăng lên.
- Tập TDTT đều đặn có khả năng tăng hàm lượng hồng cầu trong máu, sức đề kháng cơ thể cũng
tăng lên, ít bệnh tật hơn.
- Tập TDTT sẽ cải thiện kỹ năng vận động như đi, đứng, chạy, nhảy, leo trèo… giúp ích rất
nhiều cho các vận động sinh hoạt, làm việc hàng ngày.
5. Làm tinh thần sảng khoái, giảm stress.
Trong cuộc sống hiện đại, với cường độ làm việc căng thẳng, nhiều áp lực trong cuộc
sống, ngày càng có nhiều người bị stress. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập luyện TDTT là một
trong những biện pháp hữu hiệu để giải tỏa stress nhanh và hiệu quả nhất, đặc biệt trong chữa
bệnh trầm cảm. Nhiều nghiên cứu cho thấy, tập luyện TDTT thường xuyên, kể cả chỉ 30 phút
mỗi ngày, cũng có tác dụng làm bớt nóng nảy, buồn rầu, người tập cảm thấy sảng khoái, lạc
quan, yêu đời hơn. Những thay đổi về tâm lý này có thể xảy ra do sự thay đổi của endorphin,
tăng hóc môn senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.
6. Cải thiện chức năng não bộ
TS John Ratey, một trong những nhà tâm lý hàng đầu của ĐH Y khoa Harvard, cho rằng:
chính tập luyện TDTT, chứ không phải dầu cá hay trò chơi sudoku, là một trong những phương
tiện hữu hiệu nhất giúp bạn luôn lạc quan và tin tưởng vào trí tuệ của bản thân. Thường xuyên
tập luyện TDTT không chỉ tốt cho cơ thể mà còn giúp cải thiện não bộ, tăng cường khả năng học
hỏi, tăng trí nhớ, giảm stress, giảm sự lão hóa của não bộ. Kết quả nghiên cứu của Ratey cho
thấy: càng hào hứng với tập luyện thì não bộ càng làm việc hiệu quả. Quá trình luyện tập sẽ huy
động tối đa các hợp chất trong máu mà khi được vận chuyển tới não bộ sẽ hỗ trợ tối đa cho các tế
bào nơron. Một trong những hợp chất hóa này là protein BDNF, được xem là có tác động rất lớn
tới sự phát triển của não bộ.
Nghiên cứu này cũng cho thấy việc luyện tập có thể làm đảo ngược sự tác động của tuổi tác đối
với não bộ. Bước vào tuổi 40, thể tích não bộ sẽ giảm 5% sau từng thập kỷ. Điều này xảy ra do
các khớp thần kinh, vùng giữa các tế bào não có nhiệm vụ truyền các tín hiệu thần kinh, bị mòn
thậm chí là bị đứt. Các mao mạch dẫn truyền dưỡng chất cho não cũng sẽ co hẹp cùng với tuổi
tác, giảm lưu lượng máu tới não và kết quả là làm suy giảm các chức năng não bộ. Đây chính là
nguyên nhân vì sao càng lớn tuổi càng hay quên. Tập luyện TDTT sẽ khích thích một loạt các
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 13
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
phản ứng có tính chất trẻ hóa và kích thích các tế bào não, bảo vệ não bộ khỏi những tác hại của
stress và lão hóa.
7. Kỹ năng sống
Quá trình tập luyện TDTT là quá trình làm việc, giao tiếp với một tập thể gồm huấn luyện
viên, giảng viên, đồng đội, người tập chung. Qua đó, người tập có thể học hỏi những kỹ năng
sống có giá trị như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng làm việc nhóm cũng như kỹ năng lãnh đạo. Sự tự
tin sẽ tăng lên khi giành chiến thắng và đạt được mục tiêu. Trong môi trường TDTT, bạn sẽ có
cơ hội gặp gỡ, kết bạn với những người có cùng sở thích, có điều kiện có thêm nhiều bạn mới,
mở rộng mối quan hệ xã hội.
ĐI BỘ - HÌNH THỨC TẬP LUYỆN ĐƠN GIẢN VÀ PHỔ BIẾN NHẤT
Tổng kết nhiều công trình nghiên cứu cho thấy,
hoạt động thể chất phổ biến nhất là đi bộ có 8 lợi ích sau:
1. Tốt cho tim: Chỉ cần đi bộ nhanh 30 phút/ngày
sẽ làm giảm hội chứng chuyển hóa (metabolic syndrome)
– là hội chứng dẫn đến nguy cơ mắc các bệnh tim mạch,
tiểu đường và đột quỵ. Một nghiên cứu ở Anh cho biết
hoạt động thường xuyên (có thể kết hợp giữa đi bộ và đi
xe đạp) có thể giảm 11% nguy cơ mắc các bệnh tim mạch, đặc biệt là đối với phụ nữ).
2. Giảm nguy cơ mắc bịnh ung thư vú: Theo công bố trên tạp chí Hội y học Mỹ, đi bộ
vài giờ / tuần có ý nghĩ đặc biệt trong việc giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư vú, đồng thời còn
giảm béo. Kết quả nghiên cứu trên 74.000 phụ nữ ở tuổi mãn kinh (50 -79 tuổi) cho thấy nguy cơ
mắc bịnh ung thư vú giảm đi 30% và thừa cân giảm 10 – 20% so với nhóm người có thể trạng
bình thường. Các nghiên cứu trên phụ nữ trẻ hơn cũng cho kết quả tương tự.
3. Giúp ngủ ngon: Theo tổ chức giấc ngủ Mỹ, đi bộ nhanh vào buổi chiều giúp người tập
có giấc ngủ ngon hơn.
4. Làm giảm sự đau nhức cơ thể: đặc biệt là môn đi bộ nhanh (Chiwalking – kết hợp
Thái cực quyền, yoga và pilates (một môn thể dục mềm dẻo). Vì người tập thư giãn có ý thức,
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 14
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
làm cơ thể trở nên cân bằng qua việc vận động cánh tay, giảm áp lực lên chân trong khi đi, kết
quả làm giảm đau nhức cơ thể.
5. Làm tinh thần sảng khoái, hạnh phúc hơn: Đi bộ làm giảm sự buồn chán, lo âu và
stresss. Theo các nhà nghiên cứu thuộc ĐH Texas thì chỉ cần đi bộ 30 phút tâm trạng sẽ khá hơn.
Kết quả nghiên cứu của ĐH Temple (Mỹ) cho thấy đi bộ 90 phút, 5 lần/tuần có thể duy trì tâm
trạng tốt nhất. Theo nhiều nhà nghiên cứu: đi bộ giúp cơ thể sản sinh ra endorphin, tăng hóc môn
senotonin sẽ cải thiện tâm trạng, giúp thư giãn, yêu đời hơn.
6. Giữ vóc dáng mảnh mai: Đi bộ 30 phút mỗi ngày có thể tránh tăng cân ở hầu hết
những người ít vận động tự nhiên. Ở phụ nữ, nếu đi bộ 60 phút/ngày, 5 lần / tuần sẽ tiêu hao
khoảng 1500 Kcal/ngày và giảm 11 kg thừa / năm.
7. Duy trì trí nhớ cho người cao tuổi: nhiều nghiên cứu ở nhóm người cao tuổi cho thấy
đi bộ thậm chí 45 phút/tuần sẽ giảm nguy cơ bịnh Alzheimer, trong khi đi bộ trí não được tập
luyện và trở nên minh mẫn hơn.
8. Bảo vệ xương: Khi đi bộ đòi hỏi sử dụng 95% hệ cơ, giúp hệ xương khỏe mạnh và rắn
chắc hơn.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 15
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1.3. Chấn thương trong thể thao :
CHẤN THƯƠNG TRONG HOẠT ĐỘNG TDTT
Trong những nǎm gần đây cùng với sự phát triển về
kinh tế xã hội, nhu cầu tập luyện thể thao của người dân ngày
một tǎng. Tập luyện TDTT mang lại lợi ích to lớn trong việc
duy trì, tǎng cường sức khỏe, phòng chống bệnh tật cho người
tập. Tuy nhiên cùng với những vai trò tích cực đó, tập luyện
TDTT kể cả TDTT quần chúng và thể thao thành tích cao cũng
đặt ra những vấn đề hết sức bức xúc đó là còn nhiều trường hợp
chấn thương và tai nạn đáng tiếc xảy ra kể cả tai nạn chết người
trong quá trình luyện tập và thi đấu thể thao.
Khái niệm: Chấn thương trong thể dục thể thao (TDTT)
là những tổn thương về thực thể hoặc chức năng do tập luyện và thi đấu thể thao gây nên.
Vài con số về chấn thương và tại nạn trong TDTT
Các công ty bảo hiểm ở Pháp ước tính tai nạn trong hoạt động TDTT chiếm tỉ lệ khoảng
5% trong tổng số các tai nạn xảy ra tại Pháp. Hai cuộc điều tra toàn quốc về các tại nạn từ 1987 –
1995 cho thấy có vấn đề về tai nạn thể thao, đặc biệt là đối với thanh thiếu niên (Garry,1999).
Hàng năm xảy ra 850.000 ca tai nạn thể thao ở thanh niên. Trong các ca tai nạn thể thao, bóng đá
chiếm 29%, bóng chuyền và bóng ném: 19%, bóng bầu dục: 6%, thể dục: 6%, trượt tuyết: 6%, xe
đạp:6%, điền kinh:4%. Tỉ lệ tai nạn cao ở các môn bóng được cho rằng do là môn tập thể, số
lượng VĐV tham gia thi đấu đông, sự va chạm đối kháng là thường xuyên.
Một nghiên cứu tại Bỉ về 3.203 tại nạn thể thao thuộc chương trình “Hệ thống giám sát
tại nạn giải trí Châu Âu (EHLASS) cho thấy ¾ ca do té ngã (41%) hay bị va đập (36%)
(Vandercammen, 2003). Các môn TT có nguy cơ chấn thương cao là bóng tường, hốc cây, bóng
bầu dục,đua mô tô và bóng chuyền. Các môn ít xảy ra chấn thương là quần vợt, bơi lội, xe đạp và
điền kinh. Các yếu tố khởi động không phù hợp, thiếu trang phục ấm, trang thiết bị dụng cụ
không phù hợp, thể lực không đảm bảo cũng góp phần làm tăng nguy cơ chấn thương. Ngoài ra,
áp lực tâm lý cũng là yếu tố làm tăng nguy cơ chấn thương ở các VĐV chuyên nghiệp.
Nhiều nghiên cứu đưa ra những con số phí tổn vì chấn thương và tai nạn thể thao. Ở
Pháp, riêng năm 1995 phí tổn chăm sóc y tế cho tai nạn TT ước lượng khoảng 2.96 tỉ frances
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 16
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
(450 triệu bảng Anh) (Garry, 1999). Tại Úc, phí tổn cho chấn thương TT là 1.5 tỉ đô la Úc hàng
năm (Medibank, 2003). Các môn nguy hiểm nhất tại Úc là Bóng đá kiểu Mỹ (21.6%), đua xe đạp
(10%), bóng đá (8%), bóng bầu dục (7.8%) và cricket (7.3%).
Trong quá trình tập luyện, nếu người tập nỗ lực quá sức thì lại có hại cho sức khỏe. Tất
cả các nghiên cứu đều cho thấy tác động có lợi của TDTT đều biến mất khi tập luyện quá sức.
Đã có rất nhiều trường hợp người tập “sụp đổ” khi vượt quá giới hạn chịu đựng của cơ thể, như
trường hợp gần đây, VĐV Tom Simpson đã đột quỵ và chết trong cuộc đua Tour de france.
Nguyên nhân chính gây ra chấn thương.
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới và trong nước, các nhà
khoa học đã tổng kết một số nguyên nhân chính dẫn đến chấn thương trong tập luyện và thi đấu
thể thao sau:
1. Sai lầm trong phương pháp giảng dạy và huấn luyện:
Là nguyên nhân dẫn tới 30-60% trường hợp chấn thương ở các môn thể thao khác nhau.
Các chấn thương này liên quan đến việc chưa tuân thủ các nguyên tắc huấn luyện cơ bản như:
tập luyện chưa hợp lý, chưa thường xuyên và liên tục, tǎng lượng vận động, độ khó của động tác
đột ngột, cũng như chưa tuân thủ nguyên tắc đối xử cá biệt trong tập luyện TDTT. Nguyên nhân
này trong hoạt động thể thao cho mọi người còn cao hơn, bởi không phải ở đâu người tập cũng
có sự hướng dẫn của huấn luyện viên (HLV) hay hướng dẫn viên. Thí dụ, nhiều khi chỉ do không
khởi động hoặc khởi động không tốt cũng có thể dẫn đến những chấn thương đáng tiếc.
2. Thiếu sót trong tổ chức tập luyện và thi đấu
Là nguyên nhân dẫn tới 4-8% các trường hợp chấn thương. Những chấn thương này xảy
ra là do việc bố trí người tập bất hợp lý, không đảm bảo kỷ luật trật tự, duy trì tổ chức tập luyện
lộn xộn, mật độ người tập quá đông, sự phối hợp tập luyện giữa các nhóm vận động viên (VĐV)
có trình độ, đẳng cấp, hạng cân thi đấu không đều, tổ chức bảo hiểm không tốt, hoặc tổ chức tập
luyện và thi đấu không có mặt của HLV và giáo viên TDTT.
3. Không đáp ứng đầy đủ yêu cầu vật chất, trang thiết bị, dụng cụ tập luyện của buổi tập.
Nguyên nhân này dẫn đến tới 25% các ca chấn thương. Cụ thể là chất lượng trang thiết bị
dụng cụ, sân bãi thi đấu và trang phục cá nhân kém, các phương tiện bảo vệ, bảo hiểm không có,
thiếu hoặc không đúng tiêu chuẩn. Nguyên nhân này rất dễ nhận thấy khi ta quan sát bất kỳ một
sân chơi nào, bởi chúng ta còn thiếu hiểu biết hoặc do tâm lý coi thường hay tùy tiện trong việc
chọn địa điểm và các phương tiện, giày dép và trang bị tập luyện.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 17
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
4. Điều kiện khí hậu và điều kiện vệ sinh không phù hợp:
Là nguyên nhân gây ra 2-6% các trường hợp chấn thương. Thí dụ như: sân bãi, dụng cụ
thi đấu tập luyện không được vệ sinh sạch sẽ, ánh sáng không đảm bảo (tối hoặc chói sáng),
thông gió kém, nhiệt độ của phòng tập, môi trường tập không đúng yêu cầu vệ sinh, độ ẩm môi
trường tập quá cao...
5. Hành vi không đúng đắn của người tập.
Là nguyên nhân gây ra 5-15% các trường hợp chấn thương. Đó là sự vội vàng, thiếu tập
trung chú ý, ý thức tổ chức kỷ luật kém hoặc phạm luật bằng các động tác bị nghiêm cấm, đặc
biệt trong các môn đối kháng trực tiếp.
6. Vi phạm các nguyên tắc kiểm tra y học.
Dẫn đến 2 - 10% các trường hợp chấn thương. Đó là các trường hợp cho phép tập luyện
và thi đấu thể thao không qua kiểm tra y học, kiểm tra sức khỏe, không thực hiện chỉ dẫn của bác
sĩ. Đây là một trong những khâu rất yếu của y học thể thao nước ta hiện nay. Hiện nay, nước ta
chưa có hệ thống y học thể thao rộng khắp để có thể tư vấn và hướng dẫn cho mọi người là mình
có được phép tập luyện hay không hoặc tập luyện ở mức độ nào thì có lợi cho sức khỏe của mỗi
người.
7. Tham gia tập luyện và thi đấu thể thao trong tình trạng chuẩn bị thể lực chưa tốt , chưa
đáp ứng được yêu cầu thực hiện các động tác khó, hoặc có biểu hiện rối loạn về khả nǎng định
hình động lực trong không gian, giảm sút các phản ứng bảo vệ và độ tập trung chú ý, có thể do
quá cǎng thẳng hoặc tập luyện quá sức cũng là một trong những nguyên nhân đưa đến nguy cơ
chấn thương cao.
Các loại chấn thương thường gặp trong TDTT:
1. Trầy, xây sát da.
2. Vết thương: rách da và tổ chức dưới da (cơ, mạch máu), chảy máu.
3. Vết đụng dập: Do va chạm gây nên, tuy không rách da nhưng bị chảy máu trong do đứt
các mao mạch, nhanh chóng bị sưng tấy và bầm tím, tuy có đau, nhưng vẫn cử động được cơ,
khớp.
4. Bong gân: Là tổn thương thường gặp nhất đặc biệt là khớp cổ chân, khớp gối, cổ tay
và ngón tay. Khi có tác động mạnh, khớp sẽ bị vặn mạnh, khe khớp bị mở rộng, các dây chằng bị
kéo căng, giãn mạnh hoặc đứt hẳn. Đồng thời làm tổn thương bao khớp, gây chảy máu trong
nhiều, cảm giác rất đau.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 18
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
5. Tổn thương cơ (giãn, rách hoặc đứt cơ): Khi cơ co mạnh đột ngột có thể gây rách hoặc
đứt cơ, cảm giác đau dữ dội, chảy máu trong nhiều tạo thành các vết bầm tím.
6. Gãy xương: Là chấn thương nặng trong thể thao, có thể phân loại: gãy xương kín, gãy
xương hở, gãy hoàn toàn và gãy xương không hoàn toàn.
7. Sai khớp (trật khớp): là sự sai lệch các diện khớp, thay đổi vị trí giải phẫu của khớp do
đầu xương rời khỏi ổ khớp.
8. Chấn thương cột sống: Ít xảy ra trong TDTT, nhưng khi xảy ra thì gây hậu quả rất
nghiêm trọng.
9. Chấn thương sọ não: Thường gặp trong sinh hoạt cũng như trong hoạt động TDTT,
thường ở mức độ nhẹ, tỷ lệ chấn thương nặng chỉ chiếm khoảng 2% ở các môn Thể dục dụng cụ,
nhảy cầu, võ thuật, bóng đá.
Sơ cứu
Tùy theo tình hình chấn thương sẽ có những biện pháp sơ cứu khác nhau. Với các chấn
thương trầy da, chảy máu… cần làm sạch vết thương, sát trùng và cầm máu. Khi vết thương chảy
máu nhiều và nghiêm trọng, cần đưa đi bệnh viện kịp thời. Đối với các chấn thương nghiêm
trọng như: gãy xương hở, chấn thương cột sống, chấn thương sọ não… cần cấm không cho ai
đụng đến bệnh nhân, giữ nguyên tư thế, gọi cấp cứu càng sớm càng tốt.
Với chấn thương phần mềm như đụng dập, bong gân, tổn thương cơ, sai khớp… việc sơ
cứu ban đầu đúng phương pháp là rất cần thiết, giúp chỗ tổn thương ổn định và mau lành. Sử
dụng phương pháp RICE (Rest: ngưng tập luyện; Ice: chườm đá, Compression: băng ép cố định
chỗ chấn thương và Elevation: nâng cao chỗ chấn thương). Thực hiện bốn bước sau đây ngay sau
khi chấn thương xảy ra:
- Ngưng tập luyện: ngay sau khi bị chấn thương, cần ngưng ngay tập luyện hoặc thi đấu.
- Chườm lạnh: Có tác dụng làm co các mao mạch, mạch máu bị tổn thương, làm giảm phù nề do
lượng máu chảy ra giảm. Dùng túi đá ướp chườm lạnh ngay tại chỗ 10-15 phút, mỗi lần cách
nhau khoảng 1 giờ, lặp lại nhiều lần trong ngày. Có thể chườm lạnh trong 1-3 ngày đầu sau khi
bị thương. Không nên chườm một lần quá lâu hoặc chườm lạnh trực tiếp vì da sẽ bị bỏng.
- Băng ép: Dùng băng thun quấn ép vùng tổn thương nhằm cố định khớp, giảm chảy máu, sưng
bầm và đau nhức.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 19
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
- Kê cao vùng bị thương: Làm giảm sưng, đau. Rất hiệu quả khi vùng bị chấn thương được nâng
cao hơn độ cao của tim. Thí dụ, khi bị chấn thương gối hay cổ chân, khi nằm nên kê cao gối hay
cổ chân cao lên.
Lưu ý: Khi bị chấn thương, có thể dùng thuốc giảm đau, nhưng tuyệt đối không nên xoa
các loại dầu nóng. Nhiều người làm vậy vì lầm tưởng loại thuốc mà các vận động viên được xịt
khi bị chấn thương là dầu nóng. Thực ra, đó là một loại khí lạnh dễ bốc hơi, có công dụng giống
như chườm lạnh. Hoặc theo quan niệm xưa, bị đau thì xức dầu nóng. Khi mới bị chấn thương,
không được chườm nóng hoặc xoa bóp. Việc chườm nóng, xức dầu nóng hay xoa bóp sẽ làm tổn
thương nghiêm trọng hơn, các mao mạch vùng chấn thương nở lớn khiến máu chảy nhiều hơn,
gây phù nề nhiều hơn.
Thông thường, nếu tổn thương nhẹ, bệnh nhân sẽ hoàn toàn phục hồi sau khi điều trị
được 2-3 ngày. Nếu là chấn thương nặng hoặc đã qua sơ cứu mà hoạt động vẫn còn khó khăn,
nên đến khám ở các bệnh việc chuyên khoa để được điều trị càng sớm càng tốt.
Giải pháp phòng ngừa
Để hạn chế và giảm thiểu tình trạng này, người tập TDTT cần lưu ý thực hiện một số giải
pháp sau:
1. Phải kiểm tra sức khỏe để phát hiện bệnh tật trước khi tham gia tập luyện TDTT.
2. Lựa chọn môn thể thao phù hợp với sức khỏe bản thân.
3. Tuân thủ hướng dẫn của HLV, Giáo viên về tổ chức, nguyên tắc và phương pháp tập
luyện trong quá trình tập luyện và thi đấu.
4. Tuân thủ các quy định về trang phục, giầy vớ, dụng cụ và vệ sinh tập luyện.
5. Luôn khởi động và thả lỏng đúng và đủ.
6. Không mạo hiểm khi không cần thiết với các động tác quá khó hay các dụng cụ thiết bị
tập luyện lạ.
7. Nêu cao tinh thần trung thực cao thượng và fair play trong thi đấu thể thao.
8. Tuân thủ chế độ dinh dưỡng, nghỉ ngơi và hồi phục hợp lý khi tham gia tập luyện và
thi đấu thể thao.
9. Nắm kiến thức về nguyên nhân, biện pháp sơ cứu các chấn thương trong hoạt động
TDTT.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 20
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
II. LÝ THUYẾT CHUYÊN MÔN :
2.1. Nguồn gốc của môn Võ Thuật Cổ Truyền :
Con người nguyên thủy từ thời Cổ Ðại, sinh sống dựa trên thu lượm, nhặt hái các thức ăn
có trong ở thiên nhiên và săn bắt thú rừng là chủ yếu. Những động tác, cách thức rình rập, rượt
đuổi đánh giết dần trở thành quen thuộc hàng ngày.
Tiếp đến là những trường hợp phải xử trí trong quan hệ giữa người và vật trong săn bắn,
giữa người và người để tự vệ, để chiến đấu gìn giữ các vật thực do thành quả lao động, hoặc
quyền sở hữu miếng đất, khoảnh rừng đang sinh sống. Tất cả các động tác, các cách thế đó, từ
đơn giản đến phức tạp, đã là cội nguồn của các đòn thế, bài bản của các trường phái võ thuật trên
thế giới.
Qua quá trình gian khổ dựng nước và giữ nước, từ thời khai nguyên dân tộc và kháng
chiến chống quân xâm lược, giữ yên bờ cõi, bảo vệ sự toàn vẹn lảnh thổ. Người dân Việt trưởng
thành từ vùng đất châu thổ sông Hồng đã tự hình thành, phát triển và đúc kết được những kinh
nghiệm quý báu về kỷ thuật chiến đấu cá nhân và những cách thức, sách lược trong vận dụng và
huy động lực lượng quân sự vào cuộc chiến đấu tập thể "chiến tranh".
Kỹ thuật chiến đấu cá nhân, cơ sở cho một đội quân tự vệ quốc gia đó chính là nguồn gốc
sâu xa,đích thực của một nền võ học cổ truyền phong phú và đa dạng của đất nước Việt Nam anh
hùng, bất khuất. Ðặc thù của võ học cổ truyền Việt Nam.
Thời Pháp mới chiếm Việt Nam, các hệ phái võ thuật cổ truyền bị thực dân Pháp cấm lưu
hành vì những người đứng đầu các phong trào khởi nghĩa chống Pháp đều là người giỏi võ Việt
Nam. Khoảng năm 1925, võ cổ truyền Việt Nam được khôi phục song song với các môn võ
ngoại quốc khác được đưa vào Việt Nam, như: Quyền Anh (Boxing, Boxe), Thiếu Lâm
(Kungfu)...
Trong giai đoạn này, nhiều võ sư huyền thoại đã để lại danh tiếng: ba võ sư được mệnh
danh là "Tam Nhựt" gồm: Hàn Bái, Bá Cát, Bảy Mùa vì có công lớn trong việc khôi phục truyền
thống võ Việt Nam trong thời gian này. Mãi đến khi Pháp rời khỏi Việt Nam, chính quyền Ngô
Đình Diệm ở miền Nam Việt Nam đã tiếp tục duy trì sự phục hồi võ Việt Nam dưới sự lãnh đạo
của Tổng Cục Quyền thuật Việt Nam. Ba võ sư có công lớn trong giai đọan này là: Trương
Thanh Đăng ( sư tổ của võ phái Bình Định Sa Long Cương ), Quách Văn Kế và Vũ Bá Oai
(được mệnh danh là "Tam Nguyệt") tiếp nối việc khôi phục và phát triển võ Việt Nam.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 21
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Tuy nhiên, tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1960 đến năm 1963, Ngô Đình Diệm lại tiếp
tục cấm các đoàn võ thuật phát triển (trong đó có võ Việt Nam), vì năm 1960, trong lực lượng
tham gia đảo chính Ngô Đình Diệm thất bại đoàn võ sĩ Judo do võ sư Phạm Lợi chỉ huy. Năm
1964, võ thuật được tiếp tục họat động, trong đó có võ Việt Nam. Trong giai đoạn này, võ thuật
Việt Nam đã lớn mạnh, sánh vai ngang hàng với võ thuật các nước trong khu vực, như: Thái
Lan, Indonesia, Hồng Kông, Đài Loan, Lào, Cam bốt... Nhiều võ sĩ Việt Nam đã chiến thắng vẻ
vang trước nhà vô địch của các nước bạn trong trong khu vực. Bốn võ sư đã có công đào tạo
nhiều võ sĩ ưu tú cho làng quyền thuật Việt Nam, nhất là đào tạo nhiều võ sĩ giỏi đại diện cho
màu cờ sắc áo Việt Nam chiến thắng vẻ vang nhiều nhà vô địch của các nước bạn, chính là: Từ
Thiện Hồ Văn Lành, Trần Xil, Xuân Bình và Lý Huỳnh. Bốn võ sư này đã được Tổng Nha
Thanh Niên trao tặng Bằng Khen về các thành tích vẻ vang cho đất nước, và từ đó, giới võ thuật
gọi bốn võ sư này là "Tứ Tú" (bốn ngôi sao sáng), nối tiếp "Tam Nhựt" (ba mặt trời) và "Tam
Nguyệt" (ba mặt trăng) trong việc khôi phục và phát huy truyền thống võ thuật Việt Nam.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, do tình hình trật tự an ninh còn hỗn loạn, võ thuật Việt
Nam tạm ngừng phát triển một thời gian. Năm 1979, nhân sự kiện quân đội Bắc Kinh và quân
đội Khmer Đỏ tấn công Việt Nam, nhà nước Việt Nam đã cho khôi phục hoạt động võ thuật,
trong đó có võ thuật cổ truyền Việt Nam, để tập hợp thanh niên rèn luyện tinh thần bất khuất sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Sau đó, các Liên đoàn võ thuật hình thành để quản lý phong trào
võ thuật, trong đó có Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam hình thành ngày 19 tháng 8 năm
1991. Tuy nhiên, do nhiều lý do, từ đó cho đến năm 2007, võ thuật Việt Nam vẫn chưa được nhà
nước Việt Nam quan tâm phát triển như những môn võ thuật có thi đấu quốc tế như: Taekwondo,
Judo, Karatedo, Wushu, Pencat Silat, Boxing, Vovinam...
Trong khi đó, ở nước ngoài, nhiều người Việt đã âm thầm phát triển võ thuật Việt Nam
dưới nhiều tên gọi khác nhau, như: Vivodo (Australia), Võ Việt, Võ Thuật (Nguyễn Văn Trung,
Pháp quốc), Võ Việt Nam (Nguyễn Đức Mộc, Pháp quốc),Lâm sơn Võ Đạo, Quán Khí Đạo
(Phạm Xuân Tòng, Pháp quốc), Thanh Long (Nguyen Dan Phu)...
Một nhược điểm lớn nhất của võ thuật cổ truyền Việt Nam là mỗi một võ sư đều muốn
trở thành chưởng môn nhân của một môn phái độc lập, mà quên mất đi nhiệm vụ cấp thiết là
cùng nhau xây dựng một "thương hiệu" có uy tín cho võ thuật Việt Nam, để sánh vai cùng các
môn võ thuật khác trong giới võ lâm quốc tế, điều này có nghĩa dù là võ đường nào đi nữa nhưng
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 22
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
nên cùng nhau thống nhất một cội nguồn là cùng một "môn phái võ thuật Việt Nam" đó là "Võ
Thuật Cổ Truyền Việt Nam".
2.2. Sự hình thành và phát triển môn Võ Thuật Cổ Truyền :
ĐẶC ĐIỂM CHUNG :Có lẽ không một người dân Việt nào “chưa nhìn thấy” hoặc “chưa nghe nói” đến Võ cổ truyền
của dân tộc mình. Bởi nó gắn liền với cuộc sống và đi theo suốt chiều dài của lịch sử. Tuy có lúc
thăng, lúc trầm nhưng nó đã tồn tại và thấm sâu vào máu thịt, vào tư tưởng, vào hành động của
mọi người, là một mảng văn hóa tinh thần đầy tự hào của nhiều thế hệ người Việt Nam.
Lịch sử đã ghi chép, chứng minh biết bao gương hy sinh dũng cảm đã nêu cao tinh thần thượng
võ, biết vận dụng tài năng, trí tuệ, đạo đức, lối sống để xây dựng môn võ thành triết lý sống cho
dân tộc mình.
Từ khi loài người thông qua lao động cần cù, sáng tạo cùng với sự tồn tại và phát triển, sống
mưu sinh thoát hiểm chống lại thú dữ, thiên tai, địch họa, những động tác luyện tập, các công cụ
sử dụng đã tạo nên những bài võ đích thực và dần hoàn chỉnh theo thời gian.
Soi rọi vào công lao, trí tuệ của tiền nhân chúng ta thấy chạnh lòng và vô cùng cảm phục, để tiếp
bước các thế hệ hiện tại và sau này phải gìn giữ phát huy, tài bồi cho nền võ học nước nhà thêm
cường thịnh vì mỗi dân tộc trên thế giới đều có những bản sắc, đặc thù của dân tộc mình, trong
đó có những môn truyền thống gắn liền với lịch sử, với lao động, với văn hóa lâu đời.
Dân tộc ta, đất nước ta, trải qua các thời kỳ giữ nước và dựng nước, môn Võ cổ truyền đã có quá
trình hình thành, phát triển, được các thế hệ tiếp tục truyền bá, học tập tài bồi. Nó là món ăn tinh
thần, là giấc ngủ yên bình, là sự sống còn, là sự cảm thông chia sẻ thì hiển nhiên là của quốc gia
dân tộc, không có gì để luận bàn mà phải trân trọng bảo lưu với niềm tự hào đầy kiêu hãnh. Có
điều vốn quý phải được mài dũa như thế nào? dùng vào thời điểm thích hợp để có hiệu quả cao
nhất. Dân tộc ta vốn sống có hiếu đạo, làm việc trượng nghĩa, càng thấm nhuần đạo lý: Nhân,
Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Do vậy, Võ cổ truyền Việt Nam chính là của người Việt Nam.
“Việc tu dưỡng, rèn luyện võ thuật là một cuộc trường chinh để tự thắng chính mình, đưa con
người đến sự giản dị, điềm đạm, khiêm tốn, đạt đến Chân - Thiện - Mỹ trong cuộc sống.
Võ là văn hóa, vì võ dạy cho con người biết nuôi dưỡng nhân tính, sống theo đạo lý làm người
trong một tôn chỉ giáo dục và rèn luyện nhân cách cao xa. Chỉ có những ai không đi hết trọn con
đường mới tự quảng cáo, khoe khoang, biện bạch.”
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 23
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Để tổng kết những hoạt động của môn võ cho cụ thể, rõ ràng hơn sau chặn đường 30 năm kể từ
ngày đất nước thống nhất (1975 – 2008) có thể chia làm 3 giai đoạn:
A. GIAI ĐOẠN I :
1975 – 1985: Sau ngày đất nước thống nhất, mọi hoạt động võ thuật dường như rơi vào sự im
lặng, nhưng thực tế luôn sục sôi với khí thế mới ở một số Tỉnh, Thành như: TP. Hồ Chí Minh,
Khánh Hòa, Phú Yên, Bình Định, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Huế, Nghệ An, Thanh Hóa, Hà Nội,
Hải Phòng, Cần Thơ, An Giang, Tiền Giang, Cà Mau v.v… đã có những hoạt động mang tính
tập hợp lại như: Tham gia hội diễn, huấn luyện nhiều môn võ trong cùng một câu lạc bộ. Các
phòng VHTT và các trung tâm bước đầu có sự quản lý chặt chẽ có kế hoạch phổ cập cơ bản, đã
có bộ môn theo dõi các hoạt động và hướng dẫn phong trào.
Các võ sư, HLV đều mong ước được học tập, mở lớp huấn luyện nhằm truyền bá và đáp ứng các
yêu cầu thực tế của xã hội và cả sự khao khát yêu mến võ thuật của quần chúng.
B. GIAI ĐOẠN II :
Đến năm 1987 : Tổng cục TDTT cho phép các môn võ hoạt động chính thức. Thêm một
bước ngoặc lịch sử ra đời, đánh dấu một thời kỳ hưng thịnh mới, một nền võ học hoạt động theo
chiều hướng đoàn kết, tập hợp trí tuệ, sức lực để xây dựng nền tảng võ học, võ thuật cho mọi
người.
Các ban chuyên môn ra đời nhằm bước đầu ổn định tổ chức, xây dựng chương trình kế
hoạch và định hướng phát triển – các cuộc hội diễn toàn Tỉnh, Thành được tổ chức, các võ phái
hăng say tập luyện, biểu diễn, thi tài cống hiến cho quần chúng những nét đẹp võ thuật. Bởi sự
ganh đua có tổ chức có mục đích rõ ràng là nhằm đáp ứng yêu cầu hưởng thụ của nhân dân, bảo
lưu phát triển, nâng tầm nền võ học tiên tiến nhưng đậm đà bản sắc dân tộc. Có lẽ chưa bao giờ
tâm tư giới võ mở rộng và mong muốn có những hoạt động mang tính đặc thù, có sự đoàn kết
nhất trí cao như trong giai đoạn này, họ có rất nhiều kỳ vọng ước mơ nhưng tựu trung phải có
được hệ thống huấn luyện thống nhất, có quy chế hoạt động, có tổ chức vững mạnh mới thực
hiện được một nền võ thuật võ học đúng tầm trong chế độ xã hội mới Xã Hội Chủ Nghĩa.
Từ những thực tế đó, năm 1989 các Hội võ cổ truyền được thành lập. Ở một số địa
phương có phong trào võ sớm phát triển nhằm tăng cường nhân lực, có đủ trình độ, điều kiện để
tiến lên theo định hướng.
Đến năm 1991, Liên đoàn võ thuật cổ truyền Việt Nam ra đời, đây là một thời điểm quan
trọng để đánh giá, rút kinh nghiệm tổng kết các hoạt động võ thuật tại các Tỉnh, Thành phố nhằm
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 24
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
đóng góp cho Liên đoàn những thành tựu để làm cơ sở cho Liên đoàn nghiên cứu lập kế hoạch,
xây dựng chuyên môn trên phạm vi cả nước.
Việc đầu tiên là cần rà soát và biên soạn lại hệ thống đai, đẳng cấp cho môn võ mà nhiều
thập kỷ qua chưa có hoặc có nhưng chưa đầy đủ là điều kiện tất yếu. Ban biên soạn đã tham khảo
ý kiến các vị võ sư lão thành, các nhà học giả và dựa theo hệ thống giáo dục văn hóa để đưa ra
một hệ thống từ sơ cấp đến cao cấp bao gồm 18 cấp.
5 màu đai: đen, xanh, vàng, đỏ, trắng.
5 bậc: bậc học viên, bậc hướng dẫn viên, bậc HLV, chuẩn võ sư, võ sư.
Bên cạnh đó, một chương trình huấn luyện thống nhất được Hội đồng võ sư cả nước
tuyển chọn, giới thiệu những bài võ có đầy đủ lý luận cơ bản, có quá trình tập luyện lâu năm, có
nhiều dòng võ biết đến, thực áp dụng được cho tất cả các môn sinh theo học võ cổ truyền ở hiện
tại và là tư liệu quan trọng cho sau này. Khi hệ thống đai, đẳng cùng với chương trình huấn luyện
thống nhất hình thành thì quy chế hoạt động chuyên môn phải phù hợp với mục đích yêu cầu để
giúp cho việc quản lý nhân sự, trình độ chuyên môn mới được xuyên suốt trong hệ thống huấn
luyện, quản lý và nghiên cứu ứng dụng cho các cấp theo trình tự từ thấp đến cao.
Tất cả các công trình tâm huyết trên là nguyên nhân của sự thành công, đẩy lùi được
những khó khăn mà bản thân môn võ gánh chịu. Ngoài ra, còn là tiền đề cho ý chí thống nhất, cơ
sở cho việc thi lên đai đẳng, thi tài trong các cuộc hội thi, hội diễn. Đặc biệt, qua những chương
trình này đã tập hợp được sự say mê tập luyện của nhiều người. Đây là nhân tố chính để góp
phần phát triển võ thuật rộng khắp trong cả nước và nước ngoài.
Từ đó, các cuộc hội diễn khu vực, toàn quốc đã trở thành các giải thi đấu chính thức
trong hệ thống thi đấu cấp quốc gia.
Đến năm 1993, Hội nghị chuyên môn toàn quốc lần đầu tiên được tổ chức tại TP. Hồ Chí
Minh, với mục đích quy tụ các võ phái trong cả nước, đưa ra định hướng hoạt động chuyên môn
nhằm xây dựng và tuyển chọn các bài võ hiện đang có nhiều võ phái tập luyện. Những năm về
sau, các Hội nghị liên tục tổ chức các lớp tập huấn trọng tài, chỉnh sửa tài liệu, Luật thi đấu luôn
luôn được Liên đoàn quan tâm và thực hiện triệt để. Đến nay đã có sách giáo khoa với chương
trình huấn luyện căn bản và 10 bài võ tiêu biểu.
Về quan hệ quốc tế, một số chuyên gia được cử đi huấn luyện ở một số nước trên thế
giới, đến nay vẫn tiếp tục truyền bá Võ cổ truyền Việt Nam, tạo được mối quan hệ giao lưu tốt
cho Liên đoàn và cho môn võ học nước nhà. Các VĐV xuất sắc được cử đi biểu diễn nhiều nơi
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 25
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
trong nước và tham dự các ký đại hội võ thuật truyền thống thế giới. Đây là dịp giới thiệu một
nền võ học dân tộc, gắn liền với bản sắc văn hóa tốt đẹp có truyền thống lâu đời, bền vững.
C. GIAI ĐOẠN III:
Từ năm 1995 đến năm 2008 : Các Hội, cùng với Liên đoàn Võ cổ truyền Việt Nam tiếp
tục hoàn thiện và nâng cao về mọi mặt: hệ thống thi đấu, nội dung thi đấu, các phương tiện phục
vụ thi đấu đảm bảo đúng thời gian, an toàn và hiệu quả. Các lớp chuyên môn nghiệp vụ nâng cao
trình độ cho các cấp từ học viên đến HLV cao cấp được tổ chức hằng năm, chất lượng ngày càng
cao. Các cuộc hội thảo thường xuyên hơn, các võ sư, HLV có dịp trao đổi học hỏi lẫn nhau nên
rất cảm thông nhau, giúp cho mọi sinh hoạt vào nề nếp xuyên suốt từ trên xuống dưới. Đến năm
2002, Đại hội TDTT toàn quốc lần thứ IV là lần đầu tiên có môn Võ cổ truyền thi đấu, góp phần
làm phong phú thêm cho Đại hội quan trọng này. Năm 2006, Festival Võ cổ truyền lần thứ I tổ
chức tại Bình Định đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của võ cổ truyền Việt Nam.
Cùng với những thành tựu trên, sách về giáo trình huấn luyện cơ bản được ấn hành, Luật
thi đấu được Bộ trưởng chủ nhiệm UBTDTT ký ban hành chính thức, cũng có ý nghĩa là hệ
thống thi đấu của môn võ được công nhận và gắn kết giữa lao động sáng tạo với tinh thần hiếu
học, ý chí quật cường, lòng yêu nước của dân tộc ta. Nó đã cùng chúng ta góp phần bảo vệ an
ninh trật tự xã hội, bảo vệ giá trị đạo đức, tôn vinh ý tưởng cao đẹp, tăng cường sức khỏe cho
mọi người, xứng đáng là một trong những vốn quý mà không một dân tộc nào không tự hào khi
sở hữu được.
Năm 2007, nhiệm kỳ III Ban chấp hành Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam tiếp tục
được củng cố về nhân sự, về định hướng phát triển, cùng với Điều lệ sửa đổi và bổ sung Liên
đoàn đã ban hành nhiều quyết định, quy chế quan trọng. Từ đó dấy lên một phong trào thi đua
thực hiện Nghị quyết của Ban chấp hành: tiêu biểu là các lớp tập huấn, huấn luyện viên, trọng tài
các giải khu vực và toàn quốc. Đặc biệt là Giải Quốc tế Võ cổ truyền lần thứ I từ ngày 21 đến
24/07/2008 tại TP. Hồ Chí Minh và Festival Quốc tế Võ cổ truyền lần thứ II tháng 08 năm 2008
tại Bình Định đã thành công rực rỡ, để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp về đất nước và giới Võ cổ
truyền Việt Nam. Kết thúc năm 2008 với nhiều thành công hoàn hảo, lớp tập huấn huấn luyện
viên được tổ chức từ ngày 15 đến ngày 21/12/2008 tại Khánh Hòa. Để triển khai 8 bài võ mới đã
được tuyển chọn và hoàn thiện phần Căn bản công, nhằm tiến tới xây dựng giáo trình huấn luyện
làm nền tảng để môn võ được phổ cập rộng rãi.
2.3. Đạo đức trong Võ Thuật Cổ Truyền :
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 26
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Võ đức là� phẩm chất cao quý của những người học và dạy võ, là hành trang không thể
thiếu của người dụng võ.
Cổ nhân dạy rằng: “Tập võ chi Đạo có thể được cường thân, mẫn trí”. Một người tập võ
thì được cường thân, một nhà tập võ thì được cường tộc. Đường lối của võ thuật trước tiên là
phải trọng võ đức, muốn có võ đức phải hiểu rõ công lý, muốn hiểu rõ công lý thì phải có học
vấn.
Võ thuật là môn học của khoa học, nghệ thuật, văn hoá truyền thống…
Võ là khoa học, nghệ thuật vì võ dạy cho con người pháp luyện thân tăng cường sức
khoẻ, ngăn ngừa bệnh tật theo khoa học giáo dục thể chất, cùng nghệ thuật thần kỳ nuôi dưỡng
tinh, khí, thần và nghệ thuật tự vệ, chiến đấu. Khoa học võ thuật đích thực có các nguyên lý cấu
thành và liên hệ mật thiết với những khoa học tương cận như vật lý học, sinh học, y học, quân
sự…, đặc biệt là triết học Đông phương.
Võ là văn hóa truyền thống vì võ dạy cho người học biết nuôi dưỡng nhân tính, rèn luyện
nhân cách, tu dưỡng đạo đức làm người. Việc luyện tập võ thuật là một cuộc trường chinh để tự
thắng chính mình, trên tinh thần giản dị, khiêm tốn, điềm đạm, đạt đến Chân-Thiện-Mỹ trong
cuộc sống. Võ thuật không chỉ là loại hình vận động thể dục thể thao giản đơn mà còn là văn hoá
thượng võ tôn sư trọng đạo. Đó là Võ Đức. Chỉ có những ai không đi hết trọn con đường mới
phải tự quảng cáo, khoe khoang, biện bạch.
Tuy đặc thù của võ thuật là chiến đấu nhưng tập võ còn là phương pháp tốt để nâng cao
sức khỏe, qua đó học được nhiều đức tính quý báu như :bền bỉ, chịu đựng, nhanh nhẹn, mưu trí,
gan dạ và nhất là đỉnh cao người học võ khiêm tốn, điềm đạm, giản dị, giàu lòng vị tha, nhân ái.
Có rất nhiều thuật làm cho thân thể khỏe mạnh, biết được một thuật đủ để khỏe mạnh và sống
lâu. Võ thuật là một trong các nghệ thuật đó.
Các môn phái võ cổ truyền có mục đích, tôn chỉ, môn qui, những điều tâm niệm để giáo
dục võ sinh. Không phản thầy, phế đạo; không bất hiếu, bất trung ; không bất nhân, bất nghĩa.
Võ thuật khởi đầu bằng lễ và kết thúc cũng bằng lễ. Khi diễn quyền, bắt đầu bằng bái tổ (Tam bộ
bái tổ, nhị bộ kính sư, hồi thân lập trụ…) và kết thúc cũng bằng bái tổ (Thối hồi đơn phụng
quang châu; Chân theo xà tấn kiếm hầu tổ sư). Đó là thông điệp mà các bậc chân sư gửi vào bài
võ để nói lên tinh thần đạo đức trong võ thuật.
Người học võ cần chọn người hiền đức làm thầy, bản thân mình thì khiêm hư hiếu học,
tôn kính sư trưởng, phát huy võ đức. Lòng tâm niệm: “Một chữ truyền trao cũng là thầy mà nửa
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 27
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
chữ truyền trao cũng là thầy”. Nếu làm được những điều cao đẹp ấy thì thật là tôn quý biết chừng
nào. Nhưng thực tế cuộc sống và tôn chỉ võ đức đôi khi bị vùi dấn bởi dòng sông cuộc đời như
dòng sông cuồn cuộn, lôi cuốn những lý tưởng cao đẹp, nhấn chìm lẫn trong hôi tanh của bùn
đất. Bởi vậy mới thấy những cảnh tranh giành quyền lợi, thủ đoạn luồn cúi bất minh mưu cầu
một chút hư danh, ảo giác, vọng ngữ khoe khoang những điều không đúng với thực chất của
mình, xa rời liêm sỉ, bỏ thực cầu hư.
Trong binh pháp cũng đề cao võ đức “Bổn đức tôn đạo – dùng đức làm nền gốc, lấy đạo
làm cao quý: An mục an ư nhẫn nhục; tiên mạc tiên ư tu đức; lạc mạc lạc ư hiếu thiện; thần mạc
thần ư chí thành… nghĩa là chẳng có gì yên bằng nhẫn nhục, chẳng có gì cần trước hơn là tu đức,
chẳng gì vui bằng mến điều lành, chẳng có gì mầu nhiệm hơn lòng chí thành…” (Thái Công
Binh pháp)
“Dùng mưu trí hàng phục thiên hạ mà thiên hạ chịu khuất phục mưu trí của minhdthì�
mưu trí ấy cũng chưa phải là tối thắng. Dùng hình pháp để chế ngự thiên hạ mà thiên hạ chịu
theo hình pháp của mình thì hình pháp ấy cũng chẳng có gì hay. Dùng mưu trí hay hình pháp đều
chẳng phải là điều hay nhất trong những điều hay. Ngày xưa Thánh Võ giữ thế mà chẳng vây
thành, chẳng đánh lũy, chẳng bày trận, đó là nhờ nương náu ở chỗ hư không. Hun đúc trong thế
không tranh mà được vậy”. (Binh Thư Yếu Lược – Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn).
Tài năng của tướng súy là “Đạo chi dĩ đức; tề chi dĩ lễ; tri kỳ cơ hàn; sát kỳ lao khổ; thử
chi vị nhân tướng… Dùng đức để đem đường cho người, dùng lễ nghi để sắp đặt yên ổn cho
người, hiểu biết việc đói rét của họ, đó là hạng tướng có lòng nhân ái…” (Binh pháp – Khổng
Minh Gia Cát Lượng)
Sách Luận ngữ chép: “Làm việc chánh dùng lấy đức ví như sao Bắc Thần đứng một chỗ
mà các vì sao khác đều qui chầu tất cả” và Trương Cửu Thành thì: “Người biết đạo tất không
khoe, người biết nghĩa tất không tham, người biết đức tất không thích tiếng tăm lừng lẫy”.
Với võ thuật cổ truyền, giữ được lòng tự trọng dân tộc Việt Nam là giữ được tinh thần võ
đức cao cả và luôn gắn liền với 5 chữ “ nhân, lễ, nghĩa, trí, tín”
2.4. Trang phục võ thuật cổ truyền Việt Nam :
2.4.1. Trọng tài :
a. Quyền :
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 28
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Võ phục màu đen, phù hiệu của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam rộng 9cm
bên ngực trái ( không ngọn đuốc ), tên bên ngực phải, giầy bata trắng, đai đẳng đúng qui chế
chuyên môn.
b. Đối kháng :
Áo sơ mi trắng, quần tây trắng, chữ trọng tài bên ngực phải, cổ đeo nơ, mang giầy
bata hoặc loại giầy tương tự.
2.4.2. Vân động viên :
a. Quyền :
Võ phục màu đen, phù hiệu của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam rộng 9cm
bên ngực trái ( không ngọn đuốc ), tên bên ngực phải, lá cờ Việt Nam bên vai trái, phía sau lưng
là tên đơn vị ( Tỉnh, Thành, Nghành ), áo nữ 9 nút ( nam 7 nút ), nút áo là nút khuy, đai đẳng
theo đúng qui chế chuyên môn.
b. Đối kháng :
Mũ bảo hiểm, bao răng, bảo vệ hạ bộ, băng chân bảo vệ cổ chân, băng tay bảo vệ
khuỷu tay, quần võ phục màu đen ( quần dài ), áo thun sát nách ( hoặc tay ngắn ), áo giáp, găng
tay.
2.5. Hệ thống cấp đai trong võ cổ truyền :
2.5.1 Đai và màu đai :
Đai bằng loại vải mềm có bề rộng từ 6 đến 8 cm, có thêu chữ “VÕ THUẬT CỔ
TRUYỀN VIỆT NAM”.
Màu đai của Võ thuật cổ truyền Việt Nam được chia 5 mầu theo đẳng cấp và xếp thứ
tự từ thấp đến cao như sau:
- Đai đen.
- Đai xanh (lá cây).
- Đai đỏ.
- Đai vàng.
- Đai trắng.
2.5.2. Đẳng cấp : Chương trình huấn luyện của Võ thuật cổ truyền Việt Nam được chia
thành 18 cấp và 6 bậc như sau:
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 29
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1. Học viên: từ cấp 1 đến cấp 8.
2. Hướng dẫn viên: từ cấp 9 đến cấp 11.
3. Huấn luyện viên sơ cấp: từ cấp 12 đến cấp 14.
4. Huấn luyện viên trung cấp: từ cấp 15 đến cấp 16 (lứa tuổi từ 20 trở lên).
5. Huấn luyện viên cao cấp: cấp 17 (lứa tuổi từ 25 trở lên).
6. Võ sư: cấp 18 (lứa tuổi 27 trở lên).
HUẤN LUYỆN THỂ LỰC TRONG VÕ CỔ TRUYỀN:
1.1.Huấn luyện thể lực và vai trò của nó trong huấn luyện thể thao
Theo PGS – PTS Nguyễn Toán “ cơ sở lý luận và đào tạo vận động viên” nhà xuất
bản TDTT – 1998, trang 180) đã nêu: huấn luyện thể lực đó là quá trình huấn luyện bằng các
phương tiện của TDTT (chủ yếu là các bài tập thể lực), để tác động có chủ đích đến sự phát
triển và hoàn thiện về hình thái, chức năng, tố chất thể lực (sức nhanh, sức bền, sức mạnh, sự
mềm dẻo và khả năng phối hợp vận động) và sức khỏe của VĐV. Trong công trình nghiên
cứu nói trên của mình ông cũng đã khẳng định rằng: “ huấn luyện thể lực là cơ sở của huấn
luyện kỹ thuật và chiến thuật” (trang 181). Trình độ sức khỏe và phát triển toàn diện các tố
chất thể lực giúp cho VĐV có thể nắm bắt được tốt hơn các kỹ chiến thuật phức tạp, chịu
đựng được những lượng vận động lớn trong tập luyện gay go, căng thẳng, nâng cao không
ngừng thành tích thể thao. Ngoài ra, trình độ thể lực tốt còn giúp cho VĐV tránh được bệnh
tật, kéo dài tuổi thọ thành tích thể thao.
1.2. Yêu cầu cơ bản về huấn luyện thể lực
Để cho việc tiến hành huấn luyện thể lực cho VĐV đạt hiệu quả cao thì theo PGS –
PTS Nguyễn Toán ( Cơ sở lý luận và phương pháp đào tạo VĐV. Nhà xuất bản TDTT –
1998): trong quá trình tiến hành huấn luyện, huấn luyện viên (HLV) cần phải nắm bắt được
những yêu cầu cơ bản sau:
Huấn luyện thể lực phải toàn diện. Qua huấn luyện toàn diện, năng lực chức năng được
nâng cao nhiều mặt, cân đối, tạo cơ sở vững chắc cho năng lực thể thao chuyên sâu. Cụ thể
hơn, các tố chất thể lực được phát triển toàn diện, vốn kỹ năng phong phú, nhiều mặt sẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, cải thiện các tố chất thể lực chuyên môn cùng các kỹ
thuật ở môn chuyên sâu.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 30
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Huấn luyện thể lực toàn diện phải làm cho cơ thể phát dục, phát triển toàn diện, lành
mạnh về sức bền, sức nhanh, độ dẻo và khả năng phối hợp vận động. Trên cơ sở phát triển
toàn diện về thể lực chung và nâng cao các tố chất thể lực chuyên môn.
Huấn luyện thể lực cần theo kế hoạch từng năm và nhiều năm: kết hợp tốt giữa huấn
luyện thể lực chung và huấn luyện thể lực chuyên môn, giữa huấn luyện thể lực và huấn luyện
kỹ thuật, có khi dùng một loại phương tiện như chạy hoặc bơi mà đạt được mục đích huấn
luyện về nhiều mặt.
Cần phải căn cứ vào nhiệm vụ huấn luyện từng thời kỳ, môn thể thao và từng người cụ
thể mà xác định kỹ kết hợp giữa huấn luyện thể lực chung và chuyên môn trong kế hoạch
huấn luyện toàn năm.
Lượng vận động trong huấn luyện thể lực có vượt lượng vận động trong thi đấu về thời
gian, số lượng, độ khó, mức căng thẳng… Sử dụng lượng vận động cụ thể và tập trung rõ nhất
trong giai đoạn hai của thời kỳ chuẩn bị.
Nội dung chủ yếu của huấn luyện thể lực là phát triển các tố chất thể lực. Mỗi tố chất thể
lực đều có sự phát triển khác nhau theo lứa tuổi và giới tính về tốc độ và mức độ, cũng như
khả năng cải tiến. Tố chất nào cũng có thời kỳ phát triển tốt nhất của nó (còn gọi là thời kỳ
nhạy cảm). Trong quá trình đào tạo VĐV phải nắm được những thời kỳ thuận lợi đó để phát
triển một cách tối ưu.
Rèn luyện thể lực thường mệt mỏi, tốn nhiều năng lượng và các phương tiện tập luyện lại
tương đối khô khan, đơn điệu. Do đó, ngoài sự cố gắng đa dạng hóa về hình thức, phải chú
trọng đến công tác giáo dục ý thức, tư tưởng, sao cho VĐV thấy rõ tầm quan trọng của huấn
luyện thể lực, mối quan hệ của nó đối với thành tích thể thao, để chịu khó rèn luyện tinh thần,
ý chí kiên trì, chịu đựng gian khổ trong tập luyện.
1.3. Các phương tiện, tố chất thể lực trong võ thuật
Trong xu thế ngày nay người ta coi các môn võ thuật như các môn thể thao khác để đạt
được thành tích cao cũng phải trải qua quá trình huấn luyện bao gồm: huấn luyện thể lực
chung, huấn luyện chuyên môn, huấn luyện tâm lý, huấn luyện cá biệt và trang bị lý thuyết cơ
bản.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 31
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
- Huấn luyện thể lực chung nhằm phát triển hệ thống cơ, tăng cường độ chắc của hệ thống
xương, độ linh hoạt của các khớp, tăng chức hệ thống tim mạch và hệ thống hô hấp…
- Huấn luyện chuyên môn nhằm trang bị các tố chất cần thiết cho từng môn võ riêng biệt
như phản xạ, phản ứng, sức nhanh linh hoạt, sức bền chuyên môn, nâng cao kỹ thuật, kỹ chiến
thuật trong môn võ thuật.
- Huấn luyện tâm lý đóng vai trò quan trọng, trong thi đấu võ thuật ngoài yếu tố trình độ
thể lực và chuyên môn phụ thuộc vào tâm lý của các võ sĩ, yếu tố tâm lý gắn liền với nỗ lực
của từng võ sĩ.
- Huấn luyện cá biệt là cơ sở xây dựng quá trình huấn luyện với tài năng bẩm sinh, độ
thông minh, sự phát triển thể chất, tư chất cũng như tư duy sáng tạo của từng võ sĩ
- Cuối cùng trang bị lý thuyết nhằm cho người tập võ thuật nắm bắt được khái niệm, bản
chất, nội dung mình tập luyện những vấn đề về kỹ thuật, kỹ chiến thuật cũng như là luật thi
đấu của môn mình tập luyện.
Trong các phương tiện để phát triển các tố chất thể lực thì các bài tập phát triển thể lực
chung luôn là phương tiện đầu tiên, và quan trọng nhất. Khi sử dụng các bài tập phát triển thể
lực chung sẽ làm biến đổi cơ thể người tập, làm thay đổi chức năng vận động của các cơ quan,
phát triển thể lực. Ngoài sự phát triển thể lực, bài tập phát triển thể lực chung còn tác động ở
mức độ khác nhau như tâm lý, sinh lý, sinh hóa…
Trong các môn thể thao có những yêu cầu đặc biệt cho từng môn thì việc chuẩn bị thể lực
chiếm vị trí hàng đầu so với các nhiệm vụ khác. Trong môn võ nói riêng và các môn thể thao
nói chung phát triển thể lực chung giúp nâng cao được khối lượng bài tập chuyên môn. Ngoài
ra việc hoàn thiện các kỹ thuật thể thao bằng khối lượng các bài tập thì VĐV đó cần phải có
một nền tảng thể lực tốt. Do đó, trong nhiều môn thể thao, việc tập luyện các bài tập chuyên
môn chiếm một phần lớn trong khối lượng tập luyện chung.
Theo Dietrichtaroce và Netreep (1983) cho rằng “Trong huấn luyện thể thao hiện đại, dù
bất cứ ở giai đoạn nào của quá trình đào tạo vận động viên công tác huấn luyện thể lực chung
được coi là then chốt bởi thể lực chung cùng thể lực chuyên môn được coi là nền tảng của
viêc đào tạo thành tích cao”
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 32
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Theo S.CochRan (chuyên gia sức mạnh và thể lực và thể lực, thành viên của hiệp hội sức
mạnh và thể lực quốc gia Mỹ - NSCA – chuyên gia nghiên cứu về các môn võ thuật) đã tổng
kết các yêu cầu đặc thù của từng môn võ thuật riêng biệt như sau:
MônSức bền
ưa khí
Sức bền
yếm khíLinh hoạt Sức mạnh
Công suất
(sức mạnh
tối đa)
Taekwondo Cao Cao Cao Trung bình Cao
Judo – Vật Cao Cao Trung bình Cao Cao
Karatedo Cao Cao Cao Trung bình Cao
Kungfu Thấp Thấp Thấp Trung bình Thấp
Aikido Cao Cao Cao Trung bình Cao
Muay Thai Cao Cao Trung bình Trung bình Cao
Dựa bảng trên chúng ta thấy rằng ở mỗi môn võ khác nhau có khi cần thể lực chuyên môn
tương ứng khác nhau vì vậy việc huấn luyện thể lực chung nhằm phát triển cơ bắp, độ rắn
chắc hệ thống xương và dây chằng, tăng cao độ linh hoạt các khớp, khả năng phối hợp vận
động, kỹ năng giữ thăng bằng cơ thể, nâng cao hệ thống hô hấp và tuần hoàn.
Các bài tập để huấn luyện thể lực chung thường thực hiện tại chỗ hoặc động tác di chuyển
có dụng cụ, hoặc không có dụng cụ bổ trợ. Trên những trang thiết bị tập luyện, theo từng
nhóm để phát triển các nhóm cơ, tập cá nhân một mình hoặc với đồng đội. Nội dung tập luyện
bao gồm khối lượng, cường độ, lượng vận động phù hợp vào lứa tuổi, trình độ tập luyện, hay
trình độ phát triển thể lực nó được xây dựng dưới mục đích nhiệm vụ của từng giai đoạn huấn
luyện và từng buổi tập luyện[15].
Để đánh giá tính hiệu quả của huấn luyện thể lực chung được xác định bởi các huấn luyện
viên, chuyên gia theo dõi y học có thể tự đánh giá từng võ sĩ. Tự kiểm tra giúp cho các võ sĩ
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 33
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
theo dõi được sức khỏe của mình, sự phát triển thể lực của chính mình, có thể tiến hành bằng
ghi nhật ký tập luyện tự điều chỉnh (không ít nhất một lần/1 tuần) cảm giác sức khỏe thế nào,
khả năng tập luyện như thế nào, trọng lượng cơ thể hoặc mạch đập…[15]
Phương pháp huấn luyện thể lực chung trong võ thuật phụ thuộc vào một số bài tập tùy
theo đặc điểm của từng môn võ theo yêu cầu các tố chất chính trong từng môn đó, có nghĩa
các bài tập phát triển chung của các môn võ như Taekwondo, Karatedo, Pencat-silat, Võ cổ
truyền… Dù sao đi nữa thì tất cả các môn đều có chung bài tập phát triển chung độ dẻo và
linh hoạt các khớp bắt đầu từ cổ, vai, cẳng tay, cổ tay, khớp bàn tay, bụng, hông, chân, đầu
gối, cổ chân, bàn chân mỗi động tác xoay vòng trái phải ngược lại, hoặc trước sau mỗi động
tác từ 10 – 15 lần.
- Động tác xoay vòng, gập trước sau, trái phải, tỳ đầu xuống thảm trước sau chống tay, khuym
tỳ cổ xuống thảm, ở dạng cầu vòng.
- Động tác tay, cánh tay: xoay tròn các khớp vai, cổ tay, cuồi chỏ duỗi. gập trước sau trái phải,
nằm sấp chống đẩy…
- Động tác bụng: gập bụng phía trước sau, hai bên hông phối hợp với tay, nằm xuống gập cơ
bụng, cơ lưng, vặn mình, bật ngồi dậy…
- Động tác chân: đứng lên ngồi xuống, gập duỗi chân khi ngồi, nhảy, chạy zic zắc, bật cao tại
chỗ…
Khi thực hiện động tác trên phối hợp với động tác thở mỗi động tác 10 – 15 lần lặp lại.
Nhiệm vụ chính của huấn luyện thể lực chung là phát triển sức nhanh, sức mạnh, sức bền,
dẻo và khéo léo đồng thời kỹ năng thở đúng.
VỀ SỨC MẠNH:
Sức mạnh là tố chất thể lực dùng để chống lại lực cản bên trong cũng như lực cản bên
ngoài do sự nỗ lực của cơ bắp.
Để phát triển sức mạnh sử dụng các bài tập phát triển sức mạnh chung và sức mạnh
chuyên môn. Thường sử dụng các bài tập với tạ nắm, tạ hình vòi, tạ đeo, thang going, xà đơn,
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 34
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
xà kép, dây leo, dây thung chằng đá giựt, giàng tập tổng hợp có thể đấm đá có đeo chì, đá,
đấm vào bao cát, ram ly, lăm pơ…
Khi tập sức mạnh luôn khởi động và thả lỏng. Sử dụng các bài tập khởi động chung và
chuyên môn, sẽ làm giảm hiện tượng đau nhức cơ, đồng thời đưa chương trình tập mềm dẻo
và căn cơ nhằm ngăn chặn sự giảm súc năng lực mềm dẻo và phòng ngừa chấn thương. Điều
quan trọng là phải luôn tập kỹ thuật chuyên môn song song với tập sức mạnh[15].
Khi tập sức mạnh tối đa không tập với trọng lượng tạ lớn mà tập với trọng lượng tạ nhỏ
với số lần lặp lại lớn, và tốc độ cao làm cơ săn chắc và không to nở cơ thì phù hợp cho các
môn võ.
Các nguyên tắc trong huấn luyện sức mạnh trong môn võ
Đặc thù kỹ thuật, và tăng dần lượng vận động
Biên độ động tác tối đa
Sự cân bằng phần trên và phần dưới cơ thể, phần trước phần sau cơ thể.
Hồi phục
Cường độ tập luyện
Huấn luyện viên phải nắm rõ các loại sức mạnh cần thiết cho thi đấu của các môn võ,
cũng như các nhóm cơ đóng vai trò quan trọng trong thực hiện các kỹ thuật, trong các môn võ
tố chất quan trọng là sức bền yếm khí, với đặc điểm là hoạt động của sức bền cơ bắp với
cường độ cao (10 – 20) với trọng lượng tạ thấp có thể tập luyện tố chất này với quãng nghỉ
dưới 1 phút giữa các bài tập sức mạnh.
Tùy theo các giai đoạn huấn luyện mà đưa ra chương trình huấn luyện sức mạnh: giai
đoạn chuẩn bị, giai đoạn thi đấu và giai đoạn chuyển tiếp[15].
VỀ SỨC BỀN:
Sức bền là khả năng kéo dài hoạt động cơ thể ở mức độ cao, thực hiện các bài tập với thời
gian dài không có sự mệt mỏi là điều kiện phát triển chính của sức bền.
Đặc tính sinh lý phát triển sức bền chỉ được tính khi mà cơ thể hoạt động đến mệt mỏi đã
tiêu hao một số năng lượng nhất định sau khi nghỉ ngơi đầy đủ và được hồi phục lại thực hiện
lần sau cao so với mức độ ban đầu. Do đó để phát triển sức bền mỗi buổi tập cần thiết được
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 35
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
tiến hành có những lượng vận động cao hơn. Những dạng bài tập để phát triển sức bền như: đi
bộ thể thao, chạy, bơi cự ly dài, chạy băng đồng, chạy xe đạp, marathon, hoặc nhiều lần lặp lại
các bài tập phát triển thể lực với dụng cụ tập luyện hoặc tay không.
Cũng như các môn thể thao sức bền trong các môn võ rất quan trọng trong thi đấu đỉnh
cao. Sức bền tạo ra sự khác biệt trong thắng và thua trận. Sức bền cho phép VĐV liên tục hoạt
động với cường độ cao trong suốt hiệp đấu trong khoảng thời gian dài hơn, VĐV thực hiện kỹ
thuật chính xác hơn và duy trì sự tập trung suốt trận đấu, và phòng ngừa chấn thương tốt hơn.
Trong các môn võ thì cần phát triển sức bền ưa khí và sức bền yếm khí, nên chú ý phát triển
sức bền ưa khí trong các môn võ tương tự như các môn giãn cách nếu tập luyện nhiều hơn là
không cần thiết, sẽ vượt ngưỡng dẫn đến kết quả cơ thể thích nghi quá nhiều với lượng vận
động ưa khí làm ảnh hưởng đến sức mạnh bộc phát cần thiết trong thi đấu. Trong thi đấu các
môn võ cần cường độ cao tối đa đặc điểm của các bài tập yếm khí. Tuy nhiên sức bền ưa khí
cũng đóng vai trò quan trọng, chỉ phát triển sức bền ưa khí trên nền tảng sức bền yếm khí.
Hơn nữa bản chất của thi đấu các môn võ là sự xen kẽ giữa hoạt động ở cường độ tối đa và
cận tối đa trong từng hiệp đấu riêng lẽ và khả năng hoạt động kéo dài suốt trận đấu và giải
đấu, cần có sức bền ưa khí [15].
NGUYÊN TẮC TẬP LUYỆN SỨC BỀN ƯA KHÍ TRONG CÁC MÔN VÕ:
- Tần số tập luyện: Tối thiểu 3 buổi / 1 tuần. Nên tập sức bền ưa khí cách ngày.
- Thời gian tập luyện: Không tính thời gian khởi động và thả lỏng tối thiểu là 10 phút và
không kéo dài quá 30 phút trong mỗi buổi tập.
- Cường độ tập luyện: Nên tăng dần, biên độ nhịp tim khoảng 65 – 85% max(theo công
thức của Karvonen) ví dụ: Nhịp tim của VĐV 20 tuổi lúc yên tĩnh là 54L/phút nhịp tim dự
kiến tối đa là 200L/phút (220 – số tuổi) thì nhịp tim max sẽ là:
HR lúc tập = HR yên tĩnh + 0.70 (HR max – HR yên tĩnh) (Karvonen)
HR lúc tập = 54 + 0.70 (200 – 54) = 156L/phút.
Dĩ nhiên tùy theo trình độ của VĐV để điều chỉnh tăng dần cường độ trong suốt giai đoạn
chuẩn bị.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 36
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
- Hình thức tập luyện: Thông dụng nhất vẫn là các bài tập có tính chu kỳ và sử dụng các
nhóm cơ lớn như chạy bộ, bơi, chạy xe đạp, kỹ thuật( sức bền chuyên môn).
NGUYÊN TẮC TẬP LUYỆN SỨC BỀN YẾM KHÍ TRONG CÁC MÔN VÕ:
- Tần số tập luyện: 3 buổi / 1 tuần nên tập sức bền yếm khí sau 6 tuần đầu tiên giai đoạn
chuẩn bị sau chương trình sức bền ưa khí.
- Thời gian tập luyện: Thời gian mỗi bài tập là rất ngắn có thể biến đổi từ 5 giây đến tối đa
2 phút.
- Cường độ tập luyện: Các bài tập yếm khí với cường độ tối đa và cận tối đa khoảng 95%
max. Có thể điều chỉnh cường độ tập luyện sức bền yếm khí bằng cách điều chỉnh khối lượng,
quãng nghỉ hay giữa cự ly chạy [15].
- Hình thức tập luyện: Phương pháp tốt nhất vẫn là phương pháp giãn cách. Phương pháp
giãn cách là vận động và nghỉ xen kẽ nhau. Tùy theo thời gian và cường độ tập luyện, các
khoảng nghỉ có thể biến đổi từ vài giây cho đến vài phút, mạch 120L/phút bắt đầu tổ tiếp theo.
Tùy theo trình độ tập luyện, tài năng thể thao và tình trạng sức khỏe của từng VĐV. Các bài
tập phát triển sức bền yếm khí thường được sử dụng là: Chạy biến tốc, chạy giựt, đấm, đá lăm
pơ liên tục, bao cát, kỹ thuật liên hoàn, với cường độ cao, thi đấu có quy định thời gian…[15].
VỀ SỨC NHANH:
Sức nhanh là khả năng phản ứng nhanh và phản xạ tính với thời gian ngắn nhất.
Trong võ thuật đóng vai trò quan trọng khoảnh khắc tốc độ ra đòn, ra đòn với khoảng thời
gian sử dụng tối thiểu tình huống xuất hiện.
Tốc độ là một trong những tố chất quan trọng trong thi đấu các môn võ là khả năng di
chuyển, ra đòn, thay đổi vị trí, thực hiện các động tác tiếp theo, đòn liên hoàn. Sự nhanh nhẹn
có mối quan hệ mật thiết với: Sức mạnh, sức nhanh, tính linh hoạt, khả năng phản xạ và phối
hợp động tác. Nó được quyết định bởi tốc độ co cơ và tốc độ phản xạ của hệ thần kinh. Trong
thi đấu các môn võ tất cả kỹ, chiến thuật trong tấn công và phòng thủ phải được thực hiện với
một tốc độ và độ khó tối đa. Ví dụ: Khi đối phương tấn công đấu thủ bắt buộc phải di chuyển
hợp lí để tránh đòn và thực hiện kỹ thuật phản công tương ứng.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 37
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Để phát triển sức nhanh có thể sử dụng các bài tập tập trung cao độ phản ứng, tốc độ thực
hiện chạy nước rút 20 – 30m đồng đội, thay đổi hướng theo tín hiệu thực hiện các đòn kỹ
thuật, kỹ thuật với tốc độ cao nhất. Thực hiện các động tác với dụng cụ bổ trợ theo tần số,
nhịp độ cao nhất(ví dụ: Mới đầu tập luyện đấm đá có tạ đeo hoặc dây thun với tốc độ cao sau
đó thực hiện lại không có tạ và dây thun), nhảy dây tập theo tín hiệu.
Phương pháp thường sử dụng để phát triển sức nhanh là phương pháp giãn cách trong đó
các kỹ chiến thuật bắt buộc phải đạt với độ chính xác và tốc độ tối đa, thời gian nghỉ phải
được nghỉ đủ.
MỀM DẺO:
Dẻo là tố chất được thể hiện khả năng thực hiện động tác với biên độ lớn của các khớp.
Dẻo là yếu tố cần thiết trong buổi tập võ thuật, nó cần thiết để thực hiện các đòn đấm, đá,
thủ, tấn công, phòng ngừa chấn thương nó có thể giúp thoát đòn ở tình huống khó khăn, nó có
thể rơi vào tình huống lúc thi đấu.
Bài tập phát triển độ dẻo được tiến hành rất đa dạng trong mỗi buổi tập. Trước khi tiến
hành các bài tập dẻo cần phải làm nóng cơ trước, các bài tập được tập lặp lại 10 – 12 lần seri,
sau mỗi seri cần phải thả lỏng cơ. Các bài tập dẻo bao gồm các bài tập uốn cong, xoạc ngang,
xoạc dọc, khôm, gập cột sống, bẻ ngược khớp…[15].
KHÉO LÉO:
Khéo léo là tố chất thể lực, tố chất đó thể hiện khả năng của người võ sinh thực hiện
những khả năng của mình một cách chính xác và đa dạng.
Khéo léo có thể là toàn bộ các tố chất kết hợp lại không đơn giản mà nó được liên kết lại
với các tố chất còn lại mà nó còn phụ thuộc vào các tố chất đó. Khéo léo còn phụ thuộc vào
những gì mà võ sinh điều khiển chính xác các động tác của mình trong không gian một cách
nhanh chóng mà còn biến chuyển từ động tác này sang động tác khác một cách khéo léo.
Các bài tập khéo léo như các bài tập trên các dụng cụ của môn thể dục gồm các bài tập xà
đơn, xà kép, xà lệch… 900, 1800, 3600, nhào lộn, chống đứng trên đầu và tay, trên 2 tay, các
bài tập giữ thăng bằng…, có thể sử dụng trò chơi vận động như bóng đá, bóng chuyền, bóng
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 38
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
rổ, bóng ném…, các bài tập có độ khó như santo trước, sau, lộn bánh xe, bật ngồi dậy từ tư
thế nằm, bật tì dần…
1.1.Lượng vận động trong võ thuật
Hiện nay thật là khó xác định những tiêu chuẩn phổ biến để đánh giá lượng vận động trong
môn võ vật. Tuy nhiên gần đây đã có nhiều công trình nghiên cứu thuộc về phương pháp
khách quan, cho phép xác định khối lượng trong môn võ vật nhất là có đề nghị đánh giá sự
gắng sức, đánh giá giá trị tần số nhịp tim (koulak) bằng tốc độ thích ứng của nó (chepilow)
cũng như bằng giá trị trung bình cuả tần số nhịp tim nhằm xác định cường độ gắng sức thực
hiện trong thi đấu và nghỉ ngơi (syntic).
Nhiều cuộc thí nghiệm đã chứng minh rằng chính tần số nhịp tim phát hiện ra mức độ
thích ứng của cơ thể với một sự cố gắng sức lớn của cơ. Đồng thời ở mức độ nào đó từ 90 –
180 lần/phút, nó phản ánh chính xác sự hấp thụ oxy. Nó phản ánh mức độ tiêu hao năng lượng
trong khi thực hiện một động tác kỹ thuật nào đó và thể hiện một cách đo cường độ của nó
(andrayev) [15]
1.2.Đặc điểm sinh lý võ thuật
Võ cổ truyền là di sản văn hóa dân tộc của nhân dân ta, là môn thể thao truyền thống có lịch
sử lâu đời, được quần chúng nhân dân ưa thích. Nội dung võ thuật rất phong phú, kết cấu
động tác đa dạng, lượng vận động không giống nhau.
Rèn luyện võ thuật tăng cường thể chất cơ thể, bồi dưỡng phẩm chất ý chí và trị bệnh.
Tập luyện võ thuật trở thành một trong những phương pháp rèn luyện tố chất thể lực đối với
những môn thể thao khác[17].
1.2.1.Sự thay đổi chức năng thần kinh
Cải thiện tính nhịp điệu của hệ thống thần kinh
Môn võ bao gồm các động tác phức tạp, đa dạng không đối xứng, yêu cầu động tác nghiêm
ngặt, hoàn chỉnh và hài hòa. Trong quá trình tập luyện “ hợp nhất nội – ngoại” tám bộ thế. Nội
có nghĩa là tâm, thần, ý, khí; tâm hoạt động, khí vận hành. Ngoại: có nghĩa hoạt động hình
dáng bên ngoài như tay, mắt, thân, bước bộ, còn quyền hình ý lại cần kết hợp “tam hợp” của
tâm với “tam hợp” của ngoại. Tam hợp tâm có nghĩa: tâm hợp với ý, ý hợp với khí, khí hợp
với lực, còn tam hợp ngoại có nghĩa là: tay hợp chân, khuỷu tay hợp khớp gối, vai hợp háng.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 39
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Động tác võ thuật động – tĩnh phân minh, điều này võ thuật yêu cầu cơ thể rất nghiêm khắc.
Chúng yêu cầu tính nhịp điệu và tính chuẩn xác rất cao giữa các trung khu của vỏ não đối với
cơ đối kháng và cơ không đối kháng. Đồng thời còn yêu cầu tính nhịp điệu và chuẩn xác giữa
các trung khu thần kinh trung ương, hệ thần kinh thực vật. Do vậy, mối quan hệ giữa các
trung khu thần kinh trong quá trình tập luyện võ thuật yêu cầu rất nghiêm khắc. Vì vậy, luyện
tập võ thuật lâu dài cải thiện được mối quan hệ nhịp điệu giữa các trung khu thần kinh vỏ não
và các khu vỏ đại não[18].
Nâng cao tính linh hoạt, tính cân bằng và cường độ hoạt động của quá trình hoạt động
thần kinh
Do võ thuật có tính kích đấu, hợp nhất nội – ngoại; nội luyện tâm, thần, ý, khí; ngoại luyện
mắt, tay, chân, lưng, cho nên khi luyện võ thuật, yêu cầu động tác có lực và nhanh, bền. Do
vậy nâng cao tính linh hoạt, tính cân bằng và cường độ của quá trình thần kinh. Võ thuật có
quyền thuật, binh khí, luyện đối đôi, yêu cầu thân linh hoạt, bước cần ổn định, lực cần phát
triển. Cho nên lực lưng, lực cơ bụng, lực đùi và lực co – duỗi cơ được nâng cao[18].
1.2.2. Phân tích các cơ quan chức năng triền đình
Trong võ thuật, luyện tập các bài ngã, lộn và đứng dậy, như động tác mã long giao trục, quay
vòng, nhào lộn trên không v.v… Do động tác quay có tác động giảm tốc độ nên nâng cao tính
ổn định chức năng triền đình.
Như vậy, trong môn võ trình độ huấn luyện càng cao thì cơ quan triền đình càng ổn định
hơn các VĐV bóng rổ, bóng ném, điền kinh và bằng VĐV thể dục dụng cụ[18].
1.2.3. Sự thay đổi chức năng tuần hoàn
Luyện tập môn võ vật lâu dài cải thiện được chức năng hệ tuần hoàn. Lúc yên tĩnh, huyết áp,
mạch đập đều có trị số giảm, hiện tượng này đã được khám phá ra cách đây 15 năm do các
nhà Sinh lý học Nga tìm ra.
Chức năng tuần hoàn được nâng cao của VĐV võ thuật có liên quan đến số năm tập
luyện. Số năm tập càng lâu thì chức năng hệ tuần hoàn có ảnh hưởng càng sâu sắc, có nghĩa là
số năm tập càng lâu thì mạch đập và huyết áp có trị số giảm lúc yên tĩnh. (xem bảng)
Mạch, huyết áp lúc yên tĩnh của VĐV võ thuật đoạt huy chương hạng I, II trong các cuộc thi
đấu võ thuật toàn quốc.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 40
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
THEO TÀI LIỆU
Giới
Tính
Nhóm
lứa tuổi
Số
ngườiSố năm tập luyện
Mạch
(lần/
phút
Huyết
áp
(mmHg)
Nam
12 – 17
18 – 25
26 – 35
8
15
13
1 - 6 năm trung bình 3,2 năm
4 - 13 năm trung bình 8,3 năm
8 - 22 năm trung bình 12 năm
65,2
65,0
50,7
99/66
106/68
106/70
Nam 36 – 44 16 10 - 30 năm trung bình 17,4 năm 54,3 117/70
Nữ12 – 17
28 – 46
11
15
1 - 10 năm
10 - 33 năm
64
64
109/80
111/70
Vận động viên võ thuật nâng cao khả năng điều tiết hệ tuần hoàn, thực nghiệm chứng
minh: Sau khi thực hiện test định lượng đứng lên ngồi xuống 20 lần trong 30 giây, VĐV võ
thuật chuyên nghiệp có mức độ dao động lên xuống chỉ tiêu mạch đập và huyết áp nhỏ, thời
gian hồi phục ngắn, điều này nói lên năng lực, chức năng điều tiết của hê tuần hoàn được
nâng cao, xuất hiện hiện tượng “tiết kiệm hóa”.
Sự phân loại hoạt động, động tác của VĐV võ thuật rất đa dạng và phong phú, cho nên sự
ảnh hưởng tập luyện võ thuật đối với cơ thể khác nhau thì khác nhau, do vậy yêu cầu chức
năng hệ tim mạch có sự khác nhau [17].
1.2.4. Sự biến đổi hệ hô hấp
Trong võ thuật, nhấn mạnh “tâm hợp ý”; “khí hợp lực” khí cần trầm lặng, dùng khí đẩy lực,
cho nên chức năng hô hấp có sự ảnh hưởng đặc biệt.
Khoa Sinh lý học, học viện TDTT Bắc Kinh nghiên cứu dung tích sống của VĐV võ
thuật: kết quả là dung tích sống VĐV võ thuật đạt trung bình 4200 ml, VĐV võ thuật nam có
dung tích sống trung bình lớn hơn người bình thường: 489,17 ml và nữ: 496,16 ml. Bất kỳ
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 41
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
VĐV võ thuật chuyên nghiệp hoặc không chuyên nghiệp, dung tích sống đều tốt hơn sinh viên
bình thường, nam trung bình hơn 2,1 ml, nữ trung bình hơn 1,38 ml. Ngoài ra chức năng hô
hấp và hình thức hô hấp có yêu cầu đặc biệt.
Động tác hô hấp kết hợp với động tác võ thuật. Ví dụ: động tác đá chân, thần quyền và
động tác đá hạ bộ đều phải thở ra, khi làm động tác gập thân thu lại thì hít vào và yêu cầu
động tác thở sâu và nhẹ nhàng[17].
Trong tập luyện võ thuật cần biết phương pháp thở
Đề khí (ngước lên thở), ở trong tình huống này do động tác từ thấp ngẩng lên cao, dùng
phương pháp đề khí, phương pháp này là: hóp bụng, mở lồng ngực, cơ bả vai co lại. Thở sâu
ngực, để cho khí chuyển từ dưới lên, khí tống đầy nâng trọng tâm cơ thể lên có lợi cho khí di
chuyển, để thực hiện các động tác bước ngang, nhảy, đá, như động tác song phi, quay đá gió,
lộn trên không.
Thác khí: Khi thực hiện động tác tĩnh lực đứng hoặc ngồi cần dùng phương pháp thác
khí, phương pháp thác khí là khi kết thúc thở kiên trì tiếp tục thở chậm, nhanh dần và “nín
khí” thác khí bằng động tác bụng trợ giúp, thác khí tập tư thế đẹp và cơ thể có thần, khỏe
mạnh, khí thế hùng dũng, khi thực hiện yêu cầu cơ thể cân bằng yên tĩnh.
Tụ khí: Khi làm động tác từ cao xuống thấp dùng phương pháp tụ khí. Phương pháp tụ
khí là: sau khi hít thở vào giữ “nín thở”, đồng thời các động tác tay dùng lực thở đẩy khí toàn
thân, đó là hình thức dùng lực trong võ thuật. Chúng không những tăng lực mà loại trừ “yếm
khí” xuất hiện, ảnh hưởng không tốt đến hệ tuần hoàn.
Trầm khí: Khi thực hiện động tác từ cao xuống thấp, dùng phương pháp trầm khí,
phương pháp này là quá trình hô hấp thở bụng cổ điển, thông qua cơ hoành cách, vận động cơ
hoành theo làn sóng, làm cho cơ bụng nhu động. Do đó động tác hơi thở có tiếng kêu. Khi thở
trầm khí yêu cầu “trầm khí Đan điền” điều này làm cho ngực mở rộng, thành bụng chắc, hạ
thấp trọng tâm cơ thể, đạt đến sự ổn định chắc chắn, khổ luyện cứng như đá. Những động tác
thấp, chân bước trước sau, động tác ngồi tọa sen v.v… dễ làm phương pháp trầm khí.
Những hình thức thở trên đều biến hóa theo động tác, nhưng cần tôn trọng yêu cầu cơ bản
“khí dễ trầm” vận khí cần thuận – tự nhiên[18].
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 42
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1.2.5. Sự trao đổi chất trong võ thuật
Động tác võ và bài võ rất nhiều, môn phái võ rất đa dạng, nên sự tiêu hao năng lực có khác
nhau.
Qua nghiên cứu chứng minh rằng, trình độ VĐV được nâng cao, thì năng lực cung cấp
năng lượng (ATP) được nâng cao. Đặc điểm biến đổi chức năng hô hấp của VĐV võ thuật là
nhu cầu O2 tương đối cao, sự cung cấp năng lượng (ATP) chủ yếu bằng con đường: đường
phân yếm khí, cho nên môn võ thuật có thể nâng cao khả năng yếm khí cơ thể [17].
1.3. Sự thích nghi về giải phẩu
Trong huấn luyện thể thao nói chung và Võ cổ truyền nói riêng thì huấn luyện viên cần chú ý
đến hình thái (thể trạng) của VĐV mà đưa ra các bài tập cho hợp lý.
Theo PGS.TS Lâm Quang Thành và TS. Bùi Trọng Toại biên dịch (“Tính chu kỳ huấn
luyện thể thao” NXB TDTT – 2002): Các nghiên cứu về thích nghi giải phẩu cho rằng tập
luyện với lượng vận động cường độ cao và không thay đổi có thể làm giảm chất lượng sức
mạnh của xương ( Mtsuda et al., 1986). Bởi vì nếu không biến đổi lượng vận động từ thấp đến
cao trong quá trình tập luyện dẫn đến việc giảm chất lượng sức mạnh của xương, có thể dẫn
đến chấn thương cướng, các đặc tính cơ học của cướng cũng bị tác động bởi cấu trúc động tác
trong tập luyện sức mạnh, nói cách khác cột sống có thể thương tổn do chịu một lực tác động
cơ học lớn nếu không trải qua một quá trình thích nghi dần. Đối với các VĐV năng khiếu và
VĐV bắt đầu tập luyện, lượng vận động cường độ thấp có tác dụng kích thích tích cực lên
chiều dài và chu vi của xương, trong khi đó nếu tập với lượng vận động nặng, cường độ cao
có thể hạn chế vĩnh viễn sự tăng trưởng của xương ở VĐV năng khiếu (Matsuda et al., 1986).
Huấn luyện viên và VĐV cần cân nhắc cẩn thận những nguyên tắc trên, đặc biệt đối với
VĐV trẻ và người mới tập. Phương pháp thích hợp nhất cho các đối tượng trên là tập theo một
kế hoạch dài hạn và lượng vận động tăng dần từ năm này qua năm khác. Mục đích của huấn
luyện là tạo ra sự thích nghi của cơ thể chứ không phải sự tổn hại. Việc theo dõi chặt chẽ mức
độ tăng tiến của lượng vận động cũng có hiệu quả tích cực đối với các VĐV trưởng thành, đó
là làm tăng mật độ xương chịu được tác động cơ học tốt[19].
Sự thích nghi của gân cũng cần được chú ý. Cần ghi nhớ rằng cơ không gắn trực tiếp vào
xương mà thông qua gân. Khả của cơ tác động kéo mạnh lên xương và thực hiện một chuyển
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 43
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
động phụ thuộc vào sức mạnh các gân của nhóm cơ đó. Sự thích nghi của gân là một quá trình
tập luyện lâu dài. So với cơ, gân phải mất một thời gian dài hơn để thích nghi với lực co
mạnh, vì vậy sức mạnh cơ không nên vượt quá tỷ lệ thích nghi của gân.
1.1. Các nguyên tắc huấn luyện trong võ thuật
Trong quá trình huấn luyện võ thuật cần phải tuân theo các nguyên tắc sư phạm như sau:
nguyên tắc tự giác tích cực, nguyên tắc dễ hiểu, nguyên tắc vừa sức, nguyên tắc hệ thống và
liên tục, nguyên tắc vững chắc, nguyên tắc khoa học, nguyên tắc liên kết giữa lý luận và thực
tiễn[15].
1.1.1. Nguyên tắc tự giác tích cực:
Trong tập luyện võ thuật đòi hỏi võ sinh phải có tính tự giác trong tập luyện nhất là trong kỹ
thuật và chiến thuật, sự lĩnh hội kỹ thuật từng đòn, miếng, thế, đòn đấm, đòn đá trong mỗi
ngày có thể tự tập thêm ở nhà. Người học cũng phải có tính tự giác tích cực tự đánh giá khả
năng của mình trong lĩnh hội nghệ thuật các môn võ, tự đánh giá kết quả tập luyện của mình
để từ đó tự đề ra kế hoạch tự hoàn thiện cho mình, hay tự tập cho mình khả năng tự vượt qua
gian khổ, tự liên kết, suy nghĩ về mối quan hệ kỹ thuật và chiến thuật, sự vận dụng trong tự vệ
bản thân, tự kiểm tra cảm giác của mình trong tập luyện và cuộc sống hàng ngày.
1.1.2. Nguyên tắc trực quan:
Trong huấn luyện các huấn luyện viên phải thực hiện các phương pháp giảng dạy các kỹ
thuật đòn, thế, và các bài tập bằng sự giải thích lời nói, thị phạm, minh họa hình ảnh, phim
ảnh, tranh ảnh, sơ đồ mô phỏng, trong đó không ngoại trừ sử dụng các dụng cụ bổ trợ và máy
móc khác nhau.
Khi học từng đòn, từng kỹ thuật đầu tiên là giải thích và thị phạm. Thị phạm phải chính
xác và đúng, rõ ràng để thấy dễ hiểu, chú ý cho người học các điểm quan trọng trong khi thực
hiện các động tác đó, phải phân tích, phân đoạn cần giải thích tránh những lỗi cần mắc phải.
Để học đòn mới nào đó phải liên hệ với những đòn đã học trước để dễ hiểu và dễ thực hiện
hơn. Chú ý có một số đòn trong quyền thuật cũng có thể sử dụng trong thi đấu đối kháng, nên
có thể tập đối luyện từng đôi một và làm cho các võ sinh hiểu và thực hiện các động tác kỹ
thuật đó có ý nghĩa gì trong thi đấu.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 44
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1.1.3. Nguyên tắc vừa sức:
Việc tập luyện các môn võ phải tuân theo các giai đoạn phát triển sinh học của cơ thể người
tùy theo lứa tuổi, giới tính, trình độ thể lực của võ sinh.
Luyện tập võ thuật trước hết phải tập luyện các kỹ thuật cơ bản đơn giản nhất sau đó
liên kết lại các kỹ thuật đó từ từ nâng cao độ khó, người ta chia làm 3 giai đoạn trong lĩnh hội
kỹ thuật, chiến thuật.
Giai đoạn 1: Học từng kỹ thuật, chiến thuật, tạo trí nhớ cho người tập khi đã lĩnh hội các kỹ
thuật đó và khả năng thực hiện các kỹ thuật đó.
Giai đoạn 2: Giai đoạn tập và nắm bắt sâu sắc các kỹ thuật. hoàn thiện các kỹ thuật, tránh
được các lỗi mắc phải, đảm bảo được khả năng tự thực hiện các kỹ thuật đó của võ sinh[15].
Giai đoạn 3: Giai đoạn củng cố và hoàn thiện kỹ thuật trong quá trình đi đến tự động hóa động
tác và có thể trình bày nhuần nhuyễn trong thi quyền và đối kháng.
Trong lúc huấn luyện kỹ thuật động tác đòn thế cần quan sát nhìn sửa chữa lỗi mắc phải,
nếu số đông võ sinh thực hiện không đúng vì hướng dẫn thiếu thì phải tìm các động tác bổ trợ
khác để hướng dẫn tập lại và kiểm tra liên tục, khi các võ sinh tập đúng rồi cần phải chỉ bảo
nhau để cùng tiến bộ, tập cho võ sinh tính đoàn kết tích cực[15].
1.1.4. Nguyên tắc hệ thống và liên tục:
Huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật cũng như thể lực chung và chuyên môn trong võ thuật cũng
phải theo trình tự và hệ thống nhất định. Nó đòi hỏi phải xây dựng một cách logic về nội
dung, cũng như quá trình huấn luyện.( Ví dụ: trước hết là thế tấn, di chuyển rồi đến đấm đá,
hoặc trong Judo trước hết là té, di chuyển rồi mới tới đánh đòn v.v…) Khi tập đòn thế ngày
hôm trước thì ngày hôm sau ôn lại và tập đòn mới phải liên quan với đòn cũ. Mỗi một môn võ
đều có hệ thống kỹ thuật riêng biệt, nhưng hệ thống kỹ thuật đó được xây dựng theo nguyên
tắc từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp, khi tập cũng phải trên nguyên tắc đó không được
dừng đứt quãng và nghỉ thời gian dài sẽ ảnh hưởng đến quá trình lĩnh hội kỹ thuật, chiến thuật
một cách toàn vẹn[15].
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 45
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
1.1.5. Nguyên tắc vững chắc:
Khi tập kỹ thuật, chiến thuật sự tiếp thu của võ sinh phải được ghi sâu trong tiềm thức, trí
nhớ, thể hiện sự nhận thức và hành vi của người tập cho nên để nắm vững kỹ thuật, chiến
thuật trong môn võ cần tạo sự thích thú cho người tập, và sự vận dụng nó trong nghệ thuật thi
đấu, tự vệ trong cuộc sống. Ngoài ra sự nắm chắc kỹ thuật và chiến thuật trong huấn luyện,
người huấn luyện viên phải biết phương pháp giảng dạy tốt bằng kinh nghiệm của mình để
truyền đạt tốt tạo phấn khởi cho người tập và khơi dậy trí thông minh, sáng tạo người tập dễ
nhìn ra vấn đề và tạo lòng kiên trì lặp lại bài tập kỹ thuật trau dồi liên tục và tự giác, tích cực
tập thêm ngoài các buổi tập chính, cần phải thường xuyên kiểm tra liên tục, có thể cá nhân
hoặc tập thể như thi đấu quyền, hoặc đối luyện hoặc thi đấu[15].
Trong huấn luyện cần phải thường xuyên thay đổi liên tục các bài tập phát triển chung và
chuyên môn, xây dựng nhiều buổi tập thi đấu khác nhau để biết được (ai nhanh hơn, mạnh
hơn, cao hơn) sử dụng các bài tập trò chơi vận động tối ưu, chọn lựa các cặp cân xứng để tập
chung từng đôi và có sử dụng trang bị tốt thì tập luyện mới có độ vững chắc và từng bước
nâng cao thành tích tập luyện trong võ thuật để tạo cho từng võ sinh có lòng tin, phấn chấn ở
sức mạnh của mình.
1.1.6. Nguyên tắc khoa học và nguyên tắc liên hệ giữa lý luận và thực tiễn:
Ngày nay khoa học ngày càng phát triển đối với các môn võ thuật cũng tuân theo quy luật
phát triển của mình nên sự nhìn nhận các môn võ thuật cũng như các môn thể thao khác, sự
tham gia của khoa học vào lĩnh vực võ thuật phù hợp với xu thế chung, sự phân tích kỹ thuật,
chiến thuật dựa trên nguyên lý sinh cơ, vật lý học, sách lý luận lý thuyết về từng môn võ ngày
càng đề cập đến vấn đề khoa học như y học, sinh lý, tâm lý học. Việc huấn luyện và giảng dạy
được hệ thống hơn, logic hơn, rút ngắn hơn thời kỳ xa xưa nhờ hệ thống lý thuyết và phần
huấn luyện thực hành cũng đơn giản hơn. Sự can thiệp của y sinh học và sinh hóa giúp cho
người tập yên tâm hơn khi chịu đựng lượng vận động lớn trong tập võ thuật để đạt thành tích
cao trong giải quốc tế, đại hội thế giới[15].
1.4. Nguyên tắc tăng dần lượng vận động
Theo thần thoại Hy Lạp, người đầu tiên áp dụng nguyên tắc tăng dần lượng vận động là
Milo ở Croton. Để trở thành người mạnh nhất thế giới, Milo bắt đầu vác một con bê mỗi ngày.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 46
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
Khi con bê ngày càng nặng hơn, Milo càng khỏe hơn. Khi con bê trở thành con bò đực trưởng
thành, Milo trở thành người mạnh nhất thế giới [19].
Thành tích phát triển là kết quả trực tiếp của quá trình tập luyện có chất lượng. Từ giai
đoạn ban đầu đến giai đoạn đạt thành tích cao nhất, lượng vận động tăng dần tùy theo khả
năng về sinh lý và tâm lý của từng VĐV. Về sinh lý, tăng dần lượng vận động sẽ phát triển
hiệu quả các chức năng của cơ thể, tăng năng lực vận động của chúng. Bất kỳ sự tăng tiến
mạnh mẽ nào về thành tích đều đòi hỏi sự tập luyện và thích nghi tổng thời gian dài (Astrand
và Rodahl, 1986), cơ thể luôn phản ứng về mặt sinh lý và tâm lý đối với lượng vận động, các
phản ứng về thần kinh và chức năng, sự phối hợp thần kinh cơ, năng lực tâm lý… để đối phó
với các tác động tăng dần. Toàn bộ quá trình đòi hỏi thời gian và sự hoàn thiện kỹ thuật thi
đấu, (theo “ Tính chu kỳ trong huấn luyện thể thao” do PGS. TS Lâm Quang Thành và TS.
Bùi Trọng Toại biên dịch).
IV.ĐẶC TÍNH VÀ TÁC DỤNG CỦA KHỞI ĐỘNG
Khởi động là quá trình chuẩn bị cho cơ thể trước khi tập luyện hay thi đấu về thể chất, tinh thần và trí lực, mục đích là chuẩn bị cho cơ thể trước khi tập luyện hay thi đấu.
- Hệ tim mạch hoạt động tăng lên nhằm đưa máu đủ vào các cơ, khớp và các chi trên toàn thân.
- Hệ xương, khớp, thần kinh được dẻo dai, lỉnh hoạt.- Tinh thẩn được tập trung.
1. Đặc tính
Không có kỹ thuật khởi động chuẩn cho tất cả mọi người, tuy nhiên có những kỹ thuật căn bản chung, mỗi người có cách riêng nhưng phải phù hợp với môn tập, thời tiết và điểu kiện của mình. Sự khởi động phải tuần tự đủ thời gian, ít nhất là 30 phút và phải hợp với từng người. Sự khởi động cần có tính tập thể, vui vẻ, thoải mái nhưng phải tập trung, chỉ ngưng khởi động khi mạch tăng lên 100 lần trong một phút (90 - 120 lần trong một phút).
2. Các kỹ thuật khởi động cơ bản
Vận động viên có thể chạy lúp xúp trong sân tập của mình. Những kỹ thuật căn bản của khởi động là tùy thuộc vào nhu cầu của mỗi vận động viên, theo từng môn tập và tình trạng sức khỏe cùng tâm lý của họ. Đầu tiên là sự khởi động ở vùng đầu, cổ, mắt, kế đến là các vai, tay, hông, bụng, các khớp gối, chân, và sau cùng là lưng. Phương pháp là tập kéo dãn giữ trong 30 giây và thả lỏng sau 30 giây nghỉ, đổng thời của tập kéo dãn là tập thở sâu bằng mũi. Qua sự kéo dãn vận động viên có thể biết cơ thể của mình và những nhu cầu của cơ thể đổng thời hiểu được giới hạn của cơ thể mình trong lúc đó.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 47
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
3. Tác dụng
Các động tác khởi động phải phối hợp khoa học với hơi thở. Hơi thở cẩn phải được khởi động bằng hơi thở bụng, hít vô bằng mũi chậm và sâu, vận động viên thở vào chậm qua mũi và thở ra cũng bằng mũi. Thở bụng là khi hít vào bụng phình ra và khi thở ra bụng hóp lại, khi hít vào hết sức, hơi thở được ngưng 5-10 giây rồi thở ra chậm lại. Hơi thở sâu và chậm làm tim đập chậm lại đưa nhiều oxy vào các mô và làm tăng mức chịu đựng của hệ tim mạch. Thở sâu và chậm là một kỹ thuật thư giãn quan trọng giúp vận động viên chuẩn bị tốt cho sự tập luyện và thi đấu với nhiểu cường độ khác nhau.
Danh y Hoa Đà, thời Tam Quốc, nhà Hán nhận định rằng: “Cơ thể cẩn được hoạt động song không được quá sức. Hoạt động có thể hấp thu cốc khí, lưu thông huyết mạch, ví như bản lể cửa không bao giờ bị gỉ mọt”.
Vl Lực PHÁP TRONG VÕ THUẬT
Lực có nghĩa là sức lực, sức mạnh tiềm ẩn bên trong cơ thể, khái niệm vể lực theo khoa học vật lý có phần rõ ràng dễ hiểu hơn khái niệm vể lực trong võ thuật. Các môn phái Võ cổ truyền Đông phương, dù cương hay nhu, dù nội gia hay ngoại gia quyển, muốn sử dụng chiêu thức có hiệu quả, tất cả đểu phải dùng lực. Thuật ngữ diễn tả cho khái niệm lực ẫy trong võ thuật gọi là “kình”. Kình thường gắn liền với nhiểu huyền thoại võ công của các cao thủ bởi tính cách hiệu quả kỳ bí của nó.
Người xưa nói: “Luyện quyền bất ỉuyện công, đáo lão nhất trường không”, ý nghĩa đó ngầm nhắc đến công phu của kình, một sức mạnh tiểm ẩn bên trong mà chỉ có những ai dày công luyện tập mới đạt được kết quả. Nếu không có lực thì các chiêu thức trong võ thuật dù có tuyệt nghệ đến đâu cũng chỉ là những động tác thuần cơ học, đơn điệu, vô lực. Đó là lý do cho thấy có những bậc sư sử dụng đòn thế tuy ít nhưng hiệu quả rất cao và độ sát thương gây cho đối phương thật không lường được là vì phát huy được lực trong dụng võ.
Khái niệm về Kình trong Võ thuật cổ truyền Đông phương chính là lực tạo ra do khí đi vào hệ cơ bắp trong một cơ chế sinh học đặc biệt và lực lại là hệ quả tất yếu của quá trình phát kình với các hiệu ứng mang tính chất vật lý, đó là tạo ra áp lực lên đối tượng và gầy ra tác động ở các mức độ và mục đích khác nhau. Nói một cách dễ hiểu là đòn thế đánh ra có một sức mạnh xuyên phá lớn làm cho đối phương bị chấn thương. Có một số nguyên tắc cơ bản để phát huy lực pháp trong võ thuật, bất luận công việc gì, môn học nào muốn có kết quả tốt cũng đểu đòi hỏi phải có công phu. Lý thuyết vê' sức mạnh là sự phối hợp của nhiều yếu tố sau đây:
+ Khối lượng - điểm tiếp xúc: Vật tiến công có trọng lượng càng lớn, sức mạnh xúc tác càng cao và điểm tiếp xúc của vật càng nhỏ thì sức xuyên phá càng lớn.
+ Tập trung tinh thán: Đây là một yếu tố không kém phần quan trọng bởi nếu tinh thần không tập trung được thì dễ bị tản lực khi ra đòn.
+ Sự thăng bằng: Giữ vững trọng tâm cơ thể khi phát đòn sẽ giúp cho lực tập trung không bị phát tán.
+ Kiểm soát hơi thở: Hơi thở có một vị trí quan trọng trong nguyên tắc phát lực, nhờ vào vận khí đúng lúc mà sức công phá của đòn tăng lên gấp bội và khả năng duy trì được sức bển.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 48
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
+ Kết cấu cơ thể: Cơ thể có cấu trúc tốt sẽ thuận lợi trong việc luyện tập và phát huy hiệu quả phát lực, điểu này do bẩm sinh hoặc do kết cấu giữa việc luyện tập và chế độ dinh dưỡng.
+ Gia tốc: Theo nguyên tắc vật lý, gia tốc tỷ lệ thuận với tốc độ, vì vậy đòn nào có gia tốc càng lớn thì sức tiêm kích của đòn ấy càng mạnh.
VIII VAI TRÒ HUẤN LUYỆN VIÊN
uấn luyện là phần nội dung chính trong đào tạo vận động viên. Quá trình đó bao gồm hai mặt hoạt động diễn ra hẩu như đồng thời. Tuy vậy, mặt tác động chủ đạo vẫn thuộc về huấn luyệnH
viên.Có nhiểu danh xưng, tên gọi cho người dạy võ thuật như: sư phụ, sư trưởng, đại sư, võ sư...
nhưng tiếng vẫn thường gọi là thầy, theo trào lưu thể thao hóa các phong trào võ thuật, nhất là các môn võ hiện đại thì tên gọi chung là huấn luyện viên.
Huấn luyện viên trong lãnh vực thể dục thể thao, võ thuật là nhà giáo dục thể chất bởi vì họ thiết kế, lập kế hoạch, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Mặt khác, phần lớn các vận động viên đểu tập luyện dưới sự chỉ đạo trực tiếp của huấn luyện viên. Hoàn thành chỉ tiêu, đạt kết quả tốt, dẫn dắt vận động viên đi đến thành công phần lớn nhờ vào khả năng, kiến thức, kinh nghiệm của các huấn luyện viên. Vì vậy vai trò huấn luyện viên vô cùng quan trọng.
1. Vai trò lãnh đạo - tổ chức
Huấn luyện viên không phải chỉ làm công việc huấn luyện mà phải chỉ đạo và chịu trách nhiệm chính vê' tất cả các khâu trong quá trình huấn luyện. Đó là công việc tổng hợp đòi hỏi người huấn luyện phải có kiến thức rộng, kinh nghiệm sâu, thực hành giỏi, vừa khoa học và nghệ thuật, phải có năng lực tổ chức để các vận động viên tập luyện tốt và đạt kết quả cao.
2. Vai trò và trách nhiệm giáo dục của huấn luyện viên
Huấn luyện viên không chỉ là người tổ chức, lãnh đạo mà còn là nhà giáo dục chính trong quá trình này. Công tác giáo dục lý tưởng, lòng yêu nước, yêu nghề, đạo đức, động cơ, ý chí rèn luyện, tập luyện đúng đắn và tích cực nhất thiết phải được thể hiện trong từng buổi tập. Trong thực tế rất cẩn các huấn luyện viên có đạo đức cao thượng, hiểu biết khoa học, văn hóa phong phú, hành vi văn minh, có uy tín lớn, có tài năng đức độ thực sự, trình độ chuyên môn cao và nhất là phải có phẩm chất giáo dục của một huấn luyện viên.
3. Ý thức và lòng yêu nghề của huấn luyện viên
Ý thức gắn liền với tinh thẩn trách nhiệm, danh dự của huấn luyện viên vì sự nghiệp chung của xã hội. Không có lòng yêu nghê' sâu đậm thì không thể kiên trì đảm nhận công việc đào tạo các thế hệ mầm non một cách lâu dài. Ý thức và lòng yêu nghể chính là phẩm chất đạo đức của huấn luyện viên.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 49
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
4. Có văn hoá, kinh nghiệm và hiểu biết phong phú
Huấn luyện viên phải có trình độ văn hoá mới nhạy bén trong nhiều mặt để kịp thời thích nghi, nắm bắt, hiểu biết, điểu chỉnh mọi vấn đề. Văn hoá giúp huấn luyện viên dễ dàng tiếp cận, nghiên cứu, soạn thảo các kế hoạch, phương pháp khoa học, vận dụng kiến thức xưa và nay vào công tác huấn luyện. Huấn luyện viên phải có kinh nghiệm và hiểu biết sâu rộng, có tinh thần ham học hỏi, cầu tiến, không tự mãn bảo thủ, trực tiếp làm công tác huấn luyện, đích thân nghiên cứu, trải qua, kết hợp thực tế với lý luận để có một phương pháp hợp khoa học tốt nhất trong huấn luyện đào tạo, đổng thời cũng cần có sự hiểu biết rộng rãi về các lãnh vực xã hội, tâm lý, giáo dục, triết học...
5. Kỹ năng giáo dục thành thạo
Muốn truyền đạt được những kiến thức chuyên môn, kinh nghiệm thực tế, và đào tạo vận động viên, dạy dỗ học trò, huấn luyện viên phải có trình độ sư phạm, kỹ năng giáo dục thành thạo để vận dụng thích hợp các nguyên tắc, trình tự, phương pháp, biện pháp tổ chức giáo dục giúp cho vận động viên dễ hiểu, tiếp thu nhanh, đạt hiệu quả cao trong huấn luyện cũng như tập luyện.
6. Tinh thần học hỏi và mạnh dạn cải tiến
Huấn luyện là lao động trực tiếp, trong quá trình làm việc đó sẽ tích luỹ được kiến thức, kinh nghiệm. Tình hình công việc, môi trường đào tạo và trình độ, tâm lý, sinh lý vận động viên cộng với trào lưu tiến hoá của xã hội hiện đại, nên phương pháp huấn luyện phải luôn thích nghi để phù hợp với đà tiến triển của từng giai đoạn. Vì vậy huấn luyện viên cần chịu khó tìm tòi học hỏi, tránh đặt nặng “cái tôi”, gạt bỏ tính tự mãn mà phải luôn không ngừng bổ sung kiến thức, mạnh dạn cải tiến phương pháp, giáo trình huấn luyện nếu nghiên cứu thấy không phù hợp và không mang lại kết quả.
7. Đạo đức và tình cảm cao thượng:Điểu cần hướng đến của người thầy dạy võ là võ đức và tinh thần thượng võ, cũng như
ngành y có y đức vậy, đó là tôn chỉ của giới võ từ bao đời nay gần như không đổi. Lời nói đi đôi với việc làm để làm sáng lên phẩm chất đạo đức cuả người thẩy. Hiện nay không ít điều tai tiếng đối với nhiều huấn luyện viên thể thao và võ thuật mà phương tiện truyền thông đã phản ánh, đó là tiếng chuông cảnh tỉnh nhắc nhở chính mình luôn nêu cao đạo đức bản thân và hành xử bằng tình cảm cao thượng.
IX.CÁC PHƯƠNG PHÁP HUẤN LUYỆN
gày xưa võ thuật thuộc vê' lãnh vực quân sự (military arts), tướng đấu tướng, quân đấu quân, sự thành bại trong trận chiến còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác, lý tưởng về tổ quốc, ý thức hệ, chiến thuật, chiến lược, thiên thời, địa lợi, nhân hoà. ử. Vì vậy
phương pháp huấn luyện võ thuật quân sự hoặc các đại môn phái võ thuật cổ truyền có những phương pháp riêng mang tính “bí truyền” hay “bí mật quân sự”.
NNgày nay ngoài các môn võ cổ truyền có truyền thống lâu đời vẫn giữ riêng các phương
pháp huấn luyện đặc thù, còn thì đa phần võ thuật phát triển theo hướng thể thao hiện đại hóa (martial arts), nên các phương pháp huấn luyện nặng phần về thi đấu thành tích tranh giải cá
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 50
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
nhân hay đổng đội. Phương pháp huấn luyện là cách thức mà huấn luyện viên dùng để hoàn thành nhiệm vụ của mình với kết quả cao nhất. Phương pháp huấn luyện rất cần thiết vì nó có tác dụng thực tế và quyết định kết quả.
1. Phương pháp huấn luyện liên tục
Là phương pháp tập luyện liên tục trong một thời gian tương đối dài với cường độ không lớn và ổn định.
2. Phương pháp huấn luyện lặp lại
Là phương pháp lặp lại các bài tập theo yêu cẩu đã định, trong điểu kiện cơ bản không thay đổi vê' kết cấu động tác và trị số của lượng vận động nhằm hoàn thiện các chức năng vận động của cơ thể. Phương pháp này được sử dụng để huấn luyện thể lực, kỹ thuật và chiến thuật đối với các môn có chu kỳ hoặc không có chu kỳ.
3. Phương pháp huấn luyện giãn cách
Là phương pháp lặp lại có quy định chặt chẽ vể thời gian nghỉ và tính chất nghỉ ngơi tích cực giữa mỗi lẩn tập, nhóm bài tập, lặp lại trong điều kiện các chức năng của cơ thể chưa phục hổi hoàn toàn.
4 Phương pháp huấn luyện biến đổi
Là phương pháp biến đổi có mục đích các thành phần của lượng vận động, tổ hợp các bài tập, hoàn cảnh và điều kiện tập luyện trong quá trình đào tạo vận động viên. Phương pháp này tương đối linh hoạt, biến hoá giúp vận động viên có thể thích ứng với điều kiện biến hoá không ngừng vê' lượng vận động trong thi đấu. -
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 51
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
PHẦN THỰC HÀNH
I. CĂN BẢN CONG :
I.1. Tấn pháp thập lục thế :
STT Tên gọi Phân tích Ảnh minh họa
1 Lập tấn
Người ở tư thế nghiêm, 2 chân khép sát nhau, 2 tay
nắm quyền để ngang hông (thắt lưng), ngực thẳng,
lưng thẳng, mắt nhìn thẳng.
2 Miêu tấn
Từ Lập tấn trùn 2 gối xuống ( góc độ 2 khớp gối phía
sau là 900 ), ngực thẳng, lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, 2
tay nắm quyền để ngang hông (thắt lưng).
3Trung bình
tấn
Từ Miêu tấn 2 mũi bàn chân và 2 gót chân mở lần
lượt từ trong ra ngoài sang 2 bên 3 lần, mỗi lần mở
450. Lần thứ 4 mở 2 gót chân cho 2 bàn chân song
song với nhau, mũi bàn chân hướng ra trước. Khoảng
cách 2 bàn chân rộng gấp đôi 2 vai, trọng tâm rơi trên
trung điểm giữa đoạn thẳng của 2 bàn chân, ngực
thẳng, lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, 2 tay nắm quyền
để ngang hông (thắt lưng).
4 Đinh tấn
ĐINH TẤN TRÁI : Từ Trung Bình tấn xoay thân
người qua bên trái ( khoảng cách 2 bàn chân không
thay đổi ), 2 bàn chân xoay vào trong 1 góc từ 300 –
350, gối chân sau thẳng ( gối chân phải), gối chân trái
cong, góc độ giữa cẳng chân trái và đùi trái từ 1000 –
1200 ), ngực thẳng, lưng thẳng, mắt nhìn thẳng, 2 tay
nắm quyền để ngang hông (thắt lưng).
ĐINH TẤN PHẢI : Xoay qua phải, chân phải trước
co lại.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 52
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
5Âm dương
tấn
Động tác như Trung Bình Tấn nhưng gối chân phải
thẳng, bàn chân phải mở ra ngoài góc 900 ( chân
phải ). Chân trái thì gối trái thẳng, bàn chân trái mở.
6 Trảo mã tấn
Trảo Mã Phải : Từ Âm Dương Tấn trái ( chân trái
thẳng ) kéo chân phải về với chân trái rồi hướng ra
trước ( một góc 900 ), bàn chân trái xoay vào trong 1
góc từ 300 – 350. Trọng lượng dồn 80% về chân sau
( chân trái ), gối chân trái khuỵu, bàn chân phải kiểng
gót lên tiếp xúc bằng ức bàn chân và các đầu ngón
chân, gối chân phải hơi co lại và hướng lên trên.
Trảo mã trái : như trảo mã phải nhưng chân trái trước,
chân phải sau.
7 Xà tấn thuận
Từ Trảo mã tấn chân trái bước lên trước một khoảng
vừa đủ sao cho gối chân phải dấu vào khớp gối chân
trái, bàn chân trái mở góc 900 ra ngoài ( ngang ), 2 gối
trùn xuống, trọng tâm rơi đều về 2 chân.
8 Kim kê tấn
Từ Xà Tấn Thuận nâng chân phải lên qua bên trái ở
tư thế đứng một chân, chân phải co, góc độ giữa cẳng
chân và đùi là 900 ( phần khớp gối phía sau ), đùi và
thân người là 900, bàn chân phải song song với mặt
đất ( nằm ngang ), chân trái thẳng.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 53
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
9 Hạc tấn
Như động tác Kim Kê Tấn nhưng mũi chân phải duỗi
hướng xuống đất ( góc độ cổ chân là 1800 ).
10 Tọa bàn tấn
Từ Hạc tấn bỏ bàn chân phải ra sau, bàn chân phải
tiếp xúc với mặt đất bằng lưng bàn chân ( ngồi trong
tư thế một chân dựng đứng, một chân gập lại ), mông
đặt lên gót chân sau, gót chân trái và gối chân phải
nằm trên đường thẳng ngang.
11 Tọa qui tấn
Như Tọa Bàn Tấn nhưng bàn chân trái ( chân sau )
tiếp xúc với mặt đất bằng ức bàn chân ( các ngón
chân co lại ).
I.2. Thủ pháp :
I.2.1. Bộ sơn :
Cách cầm nắm đấm : cuộn từ từ các đốt ngón tay từ ngoài vào trong, ngón cái đặt ở
đốt xa xương bàn tay ( ngón tay ).
Tư thế chuẩn bị : 2 tay nắm quyền ( nắm đấm ) để ngửa, ngang thắt lưng ( hông ),
chân đứng ở tư thế Trung Bình Tấn.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 54
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
STT Tên gọi Phân tích Ảnh minh họa
1Thôi sơn
(đấm thẳng )
Tay đấm xoáy từ hông ra phía trước, bàn tay úp ( lưng
bàn tay hướng lên trên, lòng bàn tay hướng xuống
dưới ), tay thẳng.
2
Đảo sơn
( đấm vòng,
đòn sin )
Tay đấm từ hông đi úp từ trong vòng ra ngoài tới
trước, dừng ở trước mặt, tay nằm ngang, góc độ khớp
khuỷu từ 1200 – 1500, cổ tay thẳng.
3
Đăng sơn
(đấm móc,
đòn câu )
Tay đấm từ trong đi xuống dưới lên trên ra trước và
dừng lại ở trước mặt, nắm đấm và vai trên một đường
thẳng từ trong ra ngoài tới trước, góc độ khớp khuỷu
từ 1200 – 1500, cổ tay thẳng, nắm đấm ngửa ( lòng bàn
tay hướng lên trên, lưng bàn tay hướng xuống dưới ).
4 Bạt sơn
Tay đưa từ vai trái đi vòng từ trái qua phải ( hoặc
ngược lại) ra tới trước ngang vai phải ( hoặc trái ), bàn
tay dựng đứng, góc độ khớp khuỷu từ 1400 – 1600 ,
nắm đấm và vai trên một đường thẳng từ trong ra
ngoài.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 55
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
5 Giáng sơn
Gập khớp khuỷu về một bên, lòng bàn tay hướng vào
trong vai, đánh từ trong đi vòng từ trên xuống dưới ra
trước, dừng lại phía trước, nắm đấm và vai trên một
đường thẳng từ trong ra ngoài tới trước, góc độ khớp
khuỷu từ 1200 – 1500.
6 Hoành sơnĐộng tác như Bạt Sơn nhưng đánh ra phía sau lưng,
mắt nhìn theo tay, kết hợp xoay thân trên ra sau.
7 Hạ sơn Tay đấm thẳng từ trên xuống dưới phía trước.
I.2.2. Bộ đao :
Tay đao : bàn tay mở ra và duỗi thẳng, khép toàn bộ 4 ngón tay ( trỏ, giữa, áp
út, út ), ngón cái co lại để ngay ngón trỏ ), sử dụng cạnh ngoài và cạnh trong của bàn tay.
Tư thể chuẩn bị : mở tay đao để ngang ngực, lòng bàn tay hướng lên trên, chân
đứng Trung Bình Tấn.
ST Tên gọi Phân tích Ảnh minh họa
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 56
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
T
1Khai đao
(chém thẳng )
Gập khớp khuỷu về một bên, mở tay đao đánh từ
trong từ trên xuống dưới ra trước, bàn tay đứng và
nghiêng góc 450 ( đứng ), góc độ khớp khuỷu từ
1200 – 1500.
2 Đảo đao
Tay tay đao đánh vòng từ trong ra ngoài tới trước,
cổ tay mở góc 950 – 1000, góc độ khớp khuỷu từ
1200 – 1500.
3Đăng đao
Tay đao đánh từ dưới lên trên ra trước, bàn tay
đứng, mũi tay hướng ra trước, sử dụng cạnh trong
bàn tay, góc độ khớp khuỷu từ 1200 – 1500.
4 Bạt đao
Tay đao đánh vòng từ trái ( hoặc phải ) ra ngoài,
bàn tay úp, cổ tay thẳng, góc độ khớp khuỷu từ
1400 – 1600, sử dụng cạnh ngoài của bàn tay.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 57
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
5 Giáng đao
Gập khớp khuỷu về một bên, tay đao đánh xéo từ
trên xuống dưới, từ ngoài vào trong, bàn tay đao
ngửa và nghiêng góc 450 từ trên xuống dưới, cổ tay
thẳng, góc độ khớp khuỷu từ 1200 – 1500.
6 Hậu đao
Động tác như Bạt Đao nhưng đánh ra phía sau
lưng, mắt nhìn theo tay, kết hợp xoay thân trên ra
sau, góc độ khớp khuỷu từ 1400 – 1600, bàn tay úp,
nằm ngang thắt lưng ( hông ), 2 cạnh bàn tay song
song với thân người, bàn tay úp, mũi tay hướng ra
ngoài.
7 Khóa đao
Tay đao đánh từ ngoài vào trong trước mặt, sử dụng
cạnh ngoài bàn tay và kết hớp với cẳng tay, cẳng
tay đứng song song với thân người, cổ tay thẳng,
bàn tay hướng lên trên góc độ khớp khuỷu 450,
cánh tay xiêng tới trước 450.
I.2.3. Bộ Trửu ( chỏ ) :
Cẳng tay gập sát về với cánh tay, đưa phần chỏ ra ngoài.
Tư thế chuẩn bị : 2 tay thủ phía trước mặt ( tay trái trước, tay phải sau hoặc 2
dựng đứng song song với nhau ).
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 58
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
ST
TTên gọi Phân tích Ảnh minh họa
1
Trực trửu :
Trực trửu
đứng
Trực trửu
ngang
Tay chỏ đưa từ trong ra sau đánh tới trước ( cắm chỏ
từ trong ra ngoài ), chỏ đứng.
Giật chỏ ngang từ trong ra ngoài, tay nằm ngang.
II. Song luyện tự vệ : Tay Không – tay không
Đòn không đánh ngã
STTTên kỹ
thuậtTư thế chuẩn bị Người tấn công Người phòng thủ
Ghi
chú
1Thôi sơn tầm cao
2 học viên đứng chân rộng bằng 2 vai , chân trái trước, chân phải sau, thân người hướng về phía trước. 2 bàn tay cuộn về thành nắm đấm, tay trái thủ trước, tay phải sau.
Chân phải bước lên, tay phải đấm thẳng vào mặt người phòng thủ.
Chân trái bước sang trái 1 góc 100 – 150, tay phải dùng cạnh cẳng tay chặn đòn đấm, đồng thời dùng bàn tay phải nắm ( bắt ) tay tấn công của người tấn công; tay trái chuyển thành nắm đấm, đấm từ thắt lưng vào phần nách người tấn công.
2 Đảo sơn
2 học viên đứng chân rộng bằng 2 vai , chân trái trước, chân phải sau, thân người hướng về phía trước. 2 bàn tay cuộn về thành nắm đấm, tay trái thủ trước, tay phải sau.
Chân trái tiến lên, dùng tay phải đánh đòn vòng ( đảo sơn ) từ ngoài vào phần đầu người phòng thủ.
Tư thế giữ nguyên; dùng tay thủ trước đỡ bằng cạnh cẳng tay, đồng thời tay phải đấm thẳng ( thôi sơn ) vào ngực ( chấn thủy ) người tấn công.
3 Đăng sơn
2 học viên đứng chân rộng bằng 2 vai , chân trái
Chân trái tiến lên, dùng tay phải đánh
Tư thế giữ nguyên; hạ cẳng tay trái xuống song song
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 59
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
trước, chân phải sau, thân người hướng về phía trước. 2 bàn tay cuộn về thành nắm đấm, tay trái thủ trước, tay phải sau.
đòn móc ( câu ) (đăng sơn) từ dưới lên vào phần bụng hoặc ngực người phòng thủ.
với mặt đất và dùng mặt trong của cánh tay chặn đòn móc ( câu ); đồng thời tay phải chuyển thành đòn chỏ ( trửu ) đánh từ dưới lên vào phần cằm của người tấn công.
4Giáng
sơn
2 học viên đứng chân rộng bằng 2 vai , chân trái trước, chân phải sau, thân người hướng về phía trước. 2 bàn tay cuộn về thành nắm đấm, tay trái thủ trước, tay phải sau.
Chân phải bước lên, tay phải chuyển thành nắm đấm, đánh từ trên xuống vào phần đỉnh đầu người phòng thủ ( đấm hình cây búa ).
Tư thế giữ nguyên; nâng cẳng tay trái lên cao trên đầu song song với mặt đất và dùng cạnh ngoài của cẳng tay chặn đòn; tay phải từ thắt lưng đấm thẳng (thôi sơn) vào mặt, đồng thời 2 tay túm giữ phần đầu người tấn công và đánh thẳng gối vào hạ bộ người tấn công.
5 Bạt Sơn
2 học viên đứng chân rộng bằng 2 vai , chân trái trước, chân phải sau, thân người hướng về phía trước. 2 bàn tay cuộn về thành nắm đấm, tay trái thủ trước, tay phải sau.
Chân phải bước lên, tay phải dùng đòn bạt sơn ( dùng lưng bàn tay đánh vòng từ trong ra ngoài ngang mặt ) đánh vào mặt người phòng thủ.
Tư thế giữ nguyên, dùng cạnh trong của cẳng tay phải gạt từ trong ra ngoài về phía bên trái; đồng thời tay dùng cạnh ngoài của bàn tay trái đánh vào cổ ( yết hầu ) của người tấn công.
III. Bài quyền Tứ Linh Đao :
III.1. Nguồn gốc :
Trong thời kỳ kháng Pháp ( 1945 – 1954 ). Đao là một trong những loại vó khí chiến
đấu đa dụng trong việc giữ nước và dựng nước, nhân dân ta còn gọi là mã tấu. Tuy nhiên rất ít ai
biết đến một người đã góp phần hoàn thiện kỹ thuật sử dụng và đặc cách huấn luyện cho các lực
lượng võ trang kháng Pháp tại Phước Vân, Cân Đước, Gò Đen do đệ nhất trưởng môn phái Tây
Sơn Nhạn là võ sư Chính Hòa và võ sư Đặng Vân Anh, tự là Ông Năm Thép ( theo tư liệu võ
phái ). Đến năm 1962 vị trưởng môn đời thứ 1 qua đời. Tính theo thời gian chính thức về võ phái
Tây Sơn Nhạn có lai lịch khoảng thời gian đầu thế kỷ XIX. Người sáng lập ra môn phái xuất
hiện vào cuối thế kỷ XVIII. Mặc dù võ phái mới có khoảng 200 năm lịch sử nhưng đã đóng góp
rất lớn cho phong trào võ thuật nói chung và võ cổ truyền Việt Nam.
Bài Tứ Linh Đao là bài đao pháp cơ bản của võ phái “Thiếu Lâm Nội Quyền – Tây
Sơn Nhạn ”.
Biên soạn : Cố võ sư Kim Kê.
Thị phạm lần 1, 2,3 : Võ sư Lê Đình Long tại TP Hồ Chí Minh.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 60
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
III.2. Đồ hình đi quyền :
Lưu ý : Các hướng Đông, Tây, Nam, Bắc là các hướng qui định trong bài. Ta có thể suy ra
hướng trước mặt là hướng Đông ( hướng chính ), hướng sau lưng là hướng Tây, phải Nam, trái
Bắc. Khi chúng ta diễn bài thì là lúc chúng ta chuyển hướng nên lưu ý theo thứ tự : tiền, hậu,
hữu, tả ( trước, sau, phải, trái ) so với hướng ban đầu ( hướng chính ).
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 61
Đông
NamBắc
Tây
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
III.3. Bài thiệu bài quyền :
Nguyên văn Phú nôm
1. Bình thân bái Tổ.
2. Thối bộ đề đao.
3. Lưỡng long tranh châu.
4. Điếu ngư trì hạ.
5. Diệp liên qui ngoạ.
6. Sát thảo tầm xà.
7. Phượng lạc bình sa.
8. Tấn kỳ lân bộ.
9. Nhị long kỳ ngộ.
10. Như thử nhị môn.
11. Kỳ lân quá sơn.
12. Bình sa phượng lạc.
13. Quá quan trảm phạt.
14. Ngọc nữ hiến đào.
15. Phụng vũ sơn cao.
16. Tứ môn như thử.
17. Thất đao trảm thủ.
18. Ngư việt vũ môn.
19. Giáng hổ thăng long.
20. Như tiền bái Tổ.
1.Hướng đông chấp thủ nghiêng chào
2.Chụm về tay phải cầm đao loan liền
3.Lui chân tay kéo lên trên
4.Chém qua trái phải vớt liền một phen
5Nghiêng về rùa núp lá sen
6.Chém ngang phát cỏ bay lên phượng hoàng
7.Đỡ đâm hình dạng kỳ lân
8.Cheo chân chem. Dưới bước lên chẻ đầu
9.Hướng tây nào khác gì đâu
10.Hướng nam xoay vớt bay lên phượng hoàng
11.Đỡ trên chếm dưới hai lần
12.Đao dâng ngang mặt bay sau nhảy chồm
13.Chém liền hai ngọn dưới,trên
14.Hướng bắc như thử xoay tròn tứ môn
15.Tung mình cá vượt vũ môn
16.Tọa địa hổ giáng,phi long theo liền
17.Trở về bái tổ tiếp lien
18.Chụm chân tại chỗ -Tứ linh hết bài.
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 62
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
3.4. Hình ảnh bài quyền :
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 63
Hình 1
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 64
Hình 2
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 65
Hình 3
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
MỤC LỤC
A. PHẦN LÝ THUYẾT...........................................................................................................................1
I. LÝ THUYẾT CHUNG :.............................................................................................................1
1.1. Lịch sử Olympic thể giới, Việt Nam :....................................................................................1
1.2. Ý nghĩa của việc tâp luyện TDTT :.........................................................................................9
1.3. Chấn thương trong thể thao :............................................................................................16
II. LÝ THUYẾT CHUNG :...........................................................................................................21
2.1. Nguồn gốc của môn Võ Thuật Cổ Truyền :.........................................................................21
2.2. Sự hình thành và phát triển môn Võ Thuật Cổ Truyền :......................................................23
2.3. Đạo đức trong Võ Thuật Cổ Truyền :.................................................................................26
2.4. Trang phục võ thuật cổ truyền Việt Nam :..........................................................................29
2.5. Hệ thống cấp đai trong võ cổ truyền :.................................................................................29
B. PHẦN THỰC HÀNH........................................................................................................................31
I. CĂN BẢN CONG :...................................................................................................................31
1.1. Tấn pháp thập lục thế :.......................................................................................................31
1.2. Thủ pháp :...........................................................................................................................33
II. Song luyện tự vệ : Tay Không – tay không................................................................................38
III. Bài quyền Tứ Linh Đao :.....................................................................................................39
3.1. Nguồn gốc :.........................................................................................................................39
3.2. Đồ hình đi quyền :...............................................................................................................40
3.3. Bài thiệu bài quyền :...........................................................................................................41
3.4. Hình ảnh bài quyền :............................................................................................................42
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 66
ĐẠI HỌC TDTT TP. HỒ CHÍ MINH VÕ THUẬT CỔ TRUYỀN VIỆT NAM
BỘ MÔN VÕ CỔ TRUYỀN Trang 67