27
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHÙNG VĂN TÀI HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT MÃ SỐ: 62 38 01 01 Hà Nội – 2018

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH PHÙNG VĂN TÀI …hcma.vn/Uploads/2018/6/3/Tom tat LA.pdfqua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban hành các

  • Upload
    others

  • View
    8

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHÙNG VĂN TÀI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

MÃ SỐ: 62 38 01 01

Hà Nội – 2018

Công trình được hoàn thành tại

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. Nguyễn Ngọc Anh

Phản biện 1:

Phản biện 2:

Phản biện 3:

Luận án được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện

họp tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Vào hồi giờ ngày tháng năm 2018

Có thể tìm hiểu luận án tại: Thư viện Quốc gia và

Thư viện Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1 MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của luận án

Bí mật nhà nước là những thông tin quan trọng, liên quan đến sự ổn định

và phát triển bền vững của quốc gia, dân tộc. Bảo vệ bí mật nhà nước

(BMNN) là một quy luật tất yếu cho sự tồn tại, phát triển của mỗi cơ quan, tổ

chức và nhà nước; có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong bảo vệ an ninh

quốc gia (ANQG), đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi công nghệ, thông tin

phát triển mạnh mẽ, thế giới bước vào cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ

tư, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hoà

bình” nhằm xoá bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam.

Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến công tác bảo vệ

BMNN; sử dụng nhiều lực lượng, phương tiện, biện pháp để bảo vệ

BMNN, trong đó, pháp luật được coi là “công cụ sắc bén, hữu hiệu”. Trải

qua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban hành các quy phạm pháp

luật (QPPL) về bảo vệ BMNN phù hợp với đặc điểm tình hình và nhiệm vụ

của cách mạng trong từng giai đoạn, các QPPL đó là cơ sở để hình thành

nên pháp luật về bảo vệ BMNN.

Từ khi hình thành, pháp luật về bảo vệ BMNN đã sớm đi vào cuộc

sống và phát huy vai trò, tác dụng là công cụ sắc bén, hữu hiệu, là cơ sở

pháp lý để tiến hành các hoạt động bảo vệ BMNN, góp phần giữ vững an

ninh, trật tự, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội và hội nhập quốc tế

của đất nước. Quá trình từ khi hình thành đến nay, pháp luật về bảo vệ

BMNN không ngừng được xây dựng, bổ sung, đã tạo ra một hệ thống các

QPPL quy định về công tác bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, do sự thay đổi của

tình hình chính trị, kinh tế, xã hội trong và ngoài nước, pháp luật về bảo vệ

BMNN đã bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định, ảnh hưởng không nhỏ

đến công tác bảo vệ BMNN, là một nguyên nhân dẫn đến tình hình lộ, lọt,

mất BMNN diễn biến phức tạp hiện nay. Điều đó đã đặt ra yêu cầu phải

hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, đây cũng là yêu cầu tất yếu của quá

2 trình xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam và là một nội dung

quan trọng của hoàn thiện pháp luật về ANQG.

Với các lý do trên, cùng với việc chưa có công trình nào nghiên cứu

một cách toàn diện và có hệ thống ở cấp độ luận án về vấn đề này nên

nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở

Việt Nam” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành “Lý luận và lịch sử nhà

nước và pháp luật”.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

Mục đích nghiên cứu luận án: làm rõ cơ sở lý luận của hoàn thiện pháp

luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; đánh giá đúng thực trạng pháp luật về

bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; trên cơ sở đó đề xuất giải pháp góp

phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.

Để đạt được mục đích trên, luận án định ra và giải quyết các nhiệm vụ:

Làm rõ khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, đặc điểm, nội dung điều

chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các

tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN và các

yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Ở mức

độ nhất định, luận án nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước

trên thế giới và rút ra những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam.

Nghiên cứu tổng quan về quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ

BMNN ở Việt Nam từ 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng pháp

luật về bảo vệ BMNN Việt Nam hiện nay để chỉ ra những kết quả đạt được,

những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập đó.

Đề xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN

ở Việt Nam hiện nay.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn

của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.

Phạm vi nghiên cứu của luận án:

- Phạm vi về nội dung: Luận án nghiên cứu cơ sở lý luận của hoàn

thiện pháp luật về bảo vệ BMNN; quá trình phát triển và thực trạng của

3 pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; quan điểm và giải pháp

hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.

- Phạm vi về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về

bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 nhưng tập trung vào giai đoạn hiện

nay (từ năm 2000 đến nay) và có sự tham chiếu kinh nghiệm của nước ngoài.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa

Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về

bảo vệ ANQG, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, pháp chế

XHCN và xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.

Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử

của triết học Mác - Lênin, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ

thể như: phương pháp hệ thống, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp,

quy nạp, diễn dịch, trao đổi, chuyên gia và phương pháp thống kê, so sánh

để nghiên cứu, luận giải các khái niệm, phạm trù có tính chất lý luận của

hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ quá trình phát triển và thực

trạng pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; xác định rõ quan

điểm và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt

Nam hiện nay.

5. Những điểm mới của luận án

Luận án đã xây dựng khái niệm pháp luật về bảo vệ BMNN, làm rõ đặc

điểm, nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ

các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN, các

yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt

Nam hiện nay. Luận án đã rút ra những giá trị tham khảo cho Việt Nam

trong quá trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc

nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới.

Làm rõ quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt

Nam từ năm 1945 đến nay; phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về

bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay, khẳng định những kết quả đạt được,

4 đồng thời chỉ ra những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của những hạn chế,

bất cập ấy. Từ đó, luận án đề xuất 5 quan điểm và 3 nhóm giải pháp góp

phần hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.

6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

- Về lý luận: Luận án góp phần làm phong phú thêm lý luận về hoàn

thiện pháp luật nói chung và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN nói riêng.

- Về thực tiễn: Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách toàn

diện và hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN. Kết quả nghiên cứu của luận

án có giá trị quan trọng đối với các nhà hoạch định chính sách, các cơ quan

nhà nước có thẩm quyền trong việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN

ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo

phục vụ cho công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập.

7. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, danh mục

các công trình của tác giả liên quan đến luận án đã công bố và phụ lục, luận

án bao gồm 4 chương, 9 tiết.

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN

ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Các công trình nghiên cứu về công tác bảo vệ bí mật nhà

nước liên quan đến luận án

ưới góc độ pháp luật, các công trình nghiên cứu về công tác bảo vệ

BMNN liên quan đến luận án đã đề cập đến một số vấn đề của pháp luật về

bảo vệ BMNN như: các quy định làm cơ sở pháp lý cho công tác bảo vệ

BMNN; mối quan hệ giữa bảo vệ BMNN với thực hiện quyền tự do dân

chủ của công dân; vấn đề giải mật BMNN để đảm bảo quyền tiếp cận thông

tin; đề xuất xây dựng ự án Luật Bảo vệ BMNN và sửa đổi các văn bản

hướng dẫn thi hành.

5 1.1.2. Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Các công trình nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN được công bố

đã đề cập đến nhiều vấn đề của pháp luật về bảo vệ BMNN như: khái niệm,

đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN; hệ thống các văn bản quy phạm

pháp luật (VBQPPL) của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay; một số hạn

chế, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay; nhu cầu,

quan điểm và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở

Việt Nam hiện nay...

1.2. ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

1.2.1. Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu liên quan đến

luận án

Đến nay đã có các công trình nghiên cứu đề cập đến khái niệm BMNN

và bảo vệ BMNN, nhưng chủ yếu dưới góc độ công tác bảo vệ BMNN của

lực lượng Công an. Ở các mức độ và khía cạnh khác nhau, các công trình

nghiên cứu được công bố đã đề cập đến khái niệm và đặc điểm của pháp

luật về bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, các công trình đó chủ yếu đề cập một

cách gián tiếp về khái niệm và đặc điểm của pháp luật về bảo vệ BMNN.

Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo

vệ BMNN đã đề cập một cách khái quát lịch sử và sự phát triển của pháp

luật về bảo vệ BMNN. Tuy nhiên, các công trình đó chưa phân chia thành

các giai đoạn phát triển và gắn với yêu cầu bảo vệ BMNN trong từng giai

đoạn của cách mạng Việt Nam. Mặt khác, các công trình nghiên cứu đó mới

đề cập đến thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN dưới dạng liệt kê các

VBQPPL về bảo vệ BMNN; chưa đánh giá toàn diện thực trạng của pháp

luật về bảo vệ BMNN, chưa chỉ ra kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập

và nguyên nhân của những hạn chế bất cập đó của pháp luật về bảo vệ

BMNN ở Việt Nam hiện nay.

Các công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ

BMNN bước đầu đã chỉ ra mục tiêu, quan điểm hoàn thiện pháp luật về bảo

vệ BMNN, nhưng chưa có sự thống nhất trong việc xác định mục tiêu, quan

6 điểm hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Với các mức độ khác nhau, các

công trình nghiên cứu liên quan đến hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN

đã đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN.

1.2.2. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu, giả thuyết và

câu hỏi nghiên cứu

1.2.2.1. Những vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu

- Về mặt lý luận, các vấn đề cần phải giải quyết là: xây dựng khái niệm

pháp luật về bảo vệ BMNN, phân tích đặc điểm, nội dung điều chỉnh và vai

trò của pháp luật về bảo vệ BMNN; làm rõ hệ thống các tiêu chí đánh giá

mức độ hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam; phân tích các

yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt

Nam hiện nay; rút ra những giá trị tham khảo trong quá trình hoàn thiện

pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay qua việc nghiên cứu pháp luật về bảo

vệ BMNN ở một số nước trên thế giới.

- Về mặt thực tiễn, các vấn đề cần phải giải quyết là: làm rõ quá trình

phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ năm 1945 đến nay;

phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam

hiện nay, làm rõ những kết quả đạt được, những hạn chế, bất cập và nguyên

nhân của những hạn chế, bất cập đó; xác định các quan điểm và đề xuất các

giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam hiện nay.

1.2.2.2. Giả thuyết và câu hỏi nghiên cứu đề tài luận án

Với kết quả tổng quan tình hình nghiên cứu và căn cứ vào các lý thuyết

có liên quan đến chủ đề nghiên cứu, luận án đặt ra giả thuyết nghiên cứu. Từ

đó, luận án đứng trước một số câu hỏi nghiên cứu quan trọng cần phải trả lời:

- Pháp luật về bảo vệ BMNN là gì?

- Pháp luật về bảo vệ BMNN có đặc điểm, vai trò như thế nào?

- Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN ra sao?

- Việc đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ BMNN dựa

vào những tiêu chí nào?

- Quá trình phát triển của pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam từ

năm 1945 đến nay như thế nào?

7 - Những kết quả đạt được; những hạn chế, bất cập và nguyên nhân của

những hạn chế, bất cập đó của pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay là gì?

- Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay cần xuất

phát từ những quan điểm mang tính chất định hướng nào?

- Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam

hiện nay là gì?

Chương 2

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ

BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

2.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, NỘI DUNG ĐIỀU CHỈNH VÀ VAI TRÒ

CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC

2.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước và bảo vệ bí mật nhà nước

2.1.1.1. Khái niệm bí mật nhà nước

Hiện nay, BMNN được hiểu là những tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa

điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị,

quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực

khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố và nếu bị tiết lộ thì

gây nguy hại cho Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

2.1.1.2. Khái niệm bảo vệ bí mật nhà nước

Bảo vệ BMNN là phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất

bại các hoạt động xâm phạm BMNN.

Nội dung bảo vệ BMNN gồm có: tham mưu cho Đảng, Nhà nước tổ

chức triển khai công tác bảo vệ BMNN; thực hiện chức năng quản lý nhà

nước về bảo vệ BMNN; xây dựng, triển khai các phương án, kế hoạch, áp

dụng các biện pháp bảo vệ BMNN, khu vực, địa điểm cấm, nơi diễn ra các

hoạt động có nội dung thuộc phạm vi BMNN; phòng, chống lộ, mất BMNN

và hoạt động của các thế lực thù địch, các đối tượng phạm tội hoạt động thu

thập BMNN; điều tra, xử lý các vụ lộ, mất BMNN, đối tượng có hành vi thu

thập, chiếm đoạt, tiết lộ, tiêu huỷ trái phép BMNN.

8 2.1.2. Khái niệm, đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

2.1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL điều chỉnh các quan hệ

xã hội phát sinh trong phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh làm thất

bại các hoạt động xâm phạm BMNN, được thể hiện trong các VBQPPL do

các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục nhất định.

2.1.2.2. Đặc điểm của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Ngoài các đặc trưng của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ

BMNN có những đặc điểm riêng như:

- Pháp luật về bảo vệ BMNN được hình thành từ rất sớm.

- Pháp luật về bảo vệ BMNN luôn phải đáp ứng đồng thời các yêu cầu

của quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN và công nhận, bảo vệ quyền con

người, quyền công dân.

- Pháp luật về bảo vệ BMNN gồm các QPPL thể hiện trong nhiều

VBQPPL với các cấp độ hiệu lực pháp lý khác nhau.

- Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN là những quan hệ

xã hội có tầm quan trọng đặc biệt, thuộc nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội.

2.1.3. Nội dung điều chỉnh và vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật

nhà nước

2.1.3.1. Nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Pháp luật về bảo vệ BMNN là tổng thể các QPPL có mối liên hệ chặt

chẽ, thống nhất, điều chỉnh các nhóm quan hệ xã hội, gồm:

- Nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN.

- Nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN.

- Nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công dân

trong bảo vệ BMNN.

- Nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật về bảo

vệ BMNN.

2.1.3.2. Vai trò của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Ngoài vai trò của pháp luật nói chung, pháp luật về bảo vệ BMNN còn

thể hiện vai trò riêng của mình như:

9 - Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần thể chế hóa chủ trương, đường

lối, quan điểm của Đảng về bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

- Pháp luật về bảo vệ BMNN góp phần bảo vệ nhóm quan hệ xã hội có

tầm quan trọng đặc biệt liên quan đến sự an nguy của chế độ XHCN và Nhà

nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

- Pháp luật về bảo vệ BMNN tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động bảo vệ

BMNN, góp phần xây dựng, củng cố lực lượng chuyên trách bảo vệ BMNN.

2.2. TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HOÀN THIỆN VÀ CÁC YẾU TỐ

ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ

MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

2.2.1. Tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về bảo vệ

bí mật nhà nước ở Việt Nam

Một là, tính toàn diện của pháp luật về bảo vệ BMNN.

Hai là, tính đồng bộ, thống nhất của pháp luật về bảo vệ BMNN.

Ba là, tính phù hợp của pháp luật về bảo vệ BMNN.

Bốn là, tính minh bạch và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN.

Năm là, hình thức văn bản pháp luật về bảo vệ BMNN.

Sáu là, kỹ thuật lập pháp của pháp luật về bảo vệ BMNN.

2.2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về bảo

vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam

2.2.2.1. Quan điểm của Đảng về bảo vệ bí mật nhà nước

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN chịu sự tác động trực tiếp từ

yếu tố quan điểm của Đảng về bảo vệ BMNN

2.2.2.2. Những vấn đề về pháp lý

Những vấn đề về pháp lý ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về

bảo vệ BMNN ở nước ta hiện nay có thể kể đến là: trình độ, năng lực xây

dựng pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật; ý thức pháp luật và văn hóa

pháp lý; yêu cầu của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung.

2.2.2.3. Tình hình thế giới và khu vực liên quan đến an ninh quốc gia

Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, gây mất ổn định, bất

trắc, khó lường nhưng hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Các

10 mối đe dọa an ninh truyền thống và phi truyền thống tiếp tục gia tăng trong

đó hoạt động khủng bố và vấn đề an ninh mạng đang đặt ra nhiều thách

thức lớn đối với ANQG của nhiều nước và Việt Nam. Khu vực châu Á -

Thái Bình ương trở thành khu vực địa chiến lược quan trọng của thế giới

và tiềm ẩn nhiều nguy cơ mất ổn định, đặc biệt là tranh chấp chủ quyền trên

biển, sự trỗi dậy của Trung Quốc và quan hệ Mỹ - Trung Quốc. ASEAN trở

thành một cộng đồng phát triển năng động, là nhân tố quan trọng đối với

hòa bình, ổn định, hợp tác, phát triển ở khu vực, tiếp tục là nơi diễn ra tranh

giành ảnh hưởng giữa các nước lớn. Tranh chấp chủ quyền biển Đông giữa

một số nước ASEAN với Trung Quốc tiếp tục căng thẳng, quyết liệt, không

loại trừ xảy ra va chạm trên biển. Việt Nam đang trở thành nhân tố quan

trọng góp phần tích cực đối với hòa bình, ổn định khu vực và luôn được các

nước lớn tính toán trong chiến lược của mình.

2.2.2.4. Tình hình kinh tế, xã hội và đối ngoại của đất nước

Về kinh tế, việc thực hiện đường lối đổi mới đã đạt được những thành

tựu to lớn. Cùng với các luật khác trong hệ thống pháp luật nước ta, pháp

luật về bảo vệ BMNN cũng đang dần được hoàn thiện để bảo vệ và thúc đẩy

nền kinh tế thị trường ở nước ta phát triển đúng hướng. Tuy vậy, nhiều

QPPL về bảo vệ BMNN vẫn là “sản phẩm” của thời kỳ đầu của quá trình đổi

mới, do vậy, nó chưa phản ánh được một cách đầy đủ, toàn diện các quy luật

của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

Về mặt xã hội, tư tưởng dân chủ, nhân quyền, tư tưởng nhà nước pháp

quyền XHCN mà cốt lõi là đề cao quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ

bản của công dân ngày càng được phổ biến rộng rãi và được nhận thức rõ

ràng hơn. Việc thực hiện các quyền con người, quyền công dân liên quan

nhiều đến việc bảo vệ BMNN, thậm chí có khi xảy ra sự xung đột. Mặt khác,

trên thực tế còn xảy ra tình trạng lạm dụng bảo vệ BMNN để từ chối tạo điều

kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền con người, quyền công dân.

Về đối ngoại, nước ta đang hội nhập sâu, rộng vào đời sống quốc tế.

Bên cạnh những cơ hội và thuận lợi trong quá trình phát triển mà hội nhập

11 quốc tế mang lại, nước ta cũng phải đối mặt với không ít thách thức, khó

khăn, trong đó có những vấn đề liên quan trực tiếp đến bảo vệ BMNN.

2.3. PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở MỘT SỐ NƯỚC

TRÊN THẾ GIỚI VÀ NHỮNG GIÁ TRỊ THAM KHẢO CHO VIỆT NAM

2.3.1. Pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở một số nước trên thế giới

Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số nước trên thế giới, ta

thấy có một số nội dung sau:

Một là, về hình thức: Ở nhiều nước trên thế giới, nhất là các nước

thuộc hệ thống pháp luật XHCN và châu Âu lục địa, pháp luật về bảo vệ

BMNN là một hệ thống các VBQPPL có chứa các quy phạm quy định về

bảo vệ BMNN, trong đó đa số các nước đã ban hành một đạo luật riêng quy

định về bảo vệ BMNN.

Hai là, về nội dung: Nghiên cứu pháp luật về bảo vệ BMNN ở một số

nước trên thế giới cho thấy một số vấn đề quan trọng nổi lên sau:

Về khái niệm BMNN: Ở mỗi nước khác nhau, quy định về khái niệm

BMNN cũng khác nhau. Tuy nhiên, đa số các nước đều coi BMNN là những

thông tin, tài liệu của nhà nước, chính phủ trên các lĩnh vực an ninh, quốc

phòng, ngoại giao, kinh tế, tố tụng hình sự… (gọi chung là các lĩnh vực công)

mà có ảnh hưởng quan trọng đến ANQG và lợi ích dân tộc hoặc an toàn của

công dân (chẳng hạn Nhật Bản).

Về phạm vi BMNN: Các nước với các tên gọi khác nhau nhưng đều

phân thành các cấp độ bí mật đối với BMNN. Đa số các nước đều phân

thành ba loại, gồm: Mật, Tối mật, Tuyệt mật. Việc phân loại độ mật BMNN

căn cứ vào nội dung, tầm quan trọng và lợi ích quốc gia mà thông tin, tài

liệu đó chứa đựng.

Về chủ thể thực hiện việc phân loại BMNN: Các nước giao cho các cơ

quan nhà nước có liên quan ở cả cấp độ quốc gia, khu vực và trong phạm vi

cơ quan nhà nước đó.

Về trách nhiệm bảo vệ BMNN: Đa số các nước quy định trách nhiệm

bảo vệ BMNN thuộc các cơ quan của nhà nước; riêng Trung Quốc quy

định: BMNN phải được bảo vệ bởi pháp luật, tất cả các cơ quan nhà nước,

12 lực lượng vũ trang, các đảng chính trị, tổ chức xã hội, doanh nghiệp, các tổ

chức và công dân có nghĩa vụ bảo vệ BMNN.

Về giải mật BMNN: Các nước khác nhau, quy định về vấn đề này cũng

khác nhau nhưng nhiều nước áp dụng cơ chế tự động giải mật.

2.3.2. Những giá trị tham khảo cho Việt Nam trong quá trình hoàn

thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Trong lộ trình hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, Việt Nam có thể

tham khảo một số kinh nghiệm sau đây:

Một là, xây dựng một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN. Đa số

các nước đều đã có một đạo luật riêng quy định về bảo vệ BMNN.

Hai là, quy định rõ ràng, chính xác khái niệm BMNN và phạm vi

BMNN. Khái niệm BMNN cần đi vào bản chất và chỉ ra những đặc trưng

của BMNN để làm cơ sở cho việc xác định cái gì là BMNN. Đồng thời

pháp luật về bảo vệ BMNN cần quy định rõ phạm vi BMNN gồm các nội

dung cơ bản như: quy định về độ mật; chủ thể có thẩm quyền phân loại

BMNN và trình tự, thủ tục để phân loại BMNN.

Ba là, hoàn thiện quy định về trách nhiệm bảo vệ BMNN. Đa số các

nước quy định trách nhiệm bảo vệ BMNN thuộc về các cơ quan nhà nước

và phân rõ trách nhiệm của cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan

tư pháp; trách nhiệm của các cơ quan trung ương và của các cơ quan địa

phương. Trung Quốc là nước XHCN có quy định trách nhiệm bảo vệ

BMNN thuộc về cả hệ thống chính trị, các tổ chức kinh tế và cả công dân.

Bốn là, hoàn thiện quy định về giải mật BMNN. Pháp luật các nước

quy định về cách thức, cơ chế giải mật thông tin là khác nhau, trong đó

nhiều nước quy định cơ chế tự động giải mật.

Chương 3

QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT

VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

3.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN CỦA PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ

MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM

13 3.1.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1950

Nước ta mới giành được chính quyền, chấm dứt thời kỳ thực dân,

phong kiến, đất nước còn muôn vàn khó khăn nhưng đã phải bước vào thời

kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp. Trong giai đoạn này, chưa có

VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN, các QPPL quy định về bảo

vệ BMNN chủ yếu nằm trong các VBQPPL quy định về bảo vệ ANQG.

3.1.2. Gai đoạn từ năm 1950 đến năm 1991

Nhân dân ta tiến hành công cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ

cứu nước, hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, thống nhất đất nước

và cả nước tiến lên CNXH. Để thực hiện nhiệm vụ của cách mạng trong

giai đoạn này, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL về bảo vệ ANQG,

phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm. Đặc biệt, Nhà nước đã ban hành

những VBQPPL trực tiếp quy định về việc bảo vệ BMNN, BMQG, đó là

Sắc lệnh số 154/SL; Sắc lệnh số 69/SL và các văn bản hướng dẫn thi hành.

3.1.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2000

Đã có rất nhiều VBQPPL về bảo vệ BMNN được ban hành, đặc biệt là

Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 và các văn bản hướng dẫn thi hành có

ý nghĩa, vai trò quan trọng đáp ứng yêu cầu bảo vệ bảo vệ ANQG nói

chung và bảo vệ BMNN nói riêng trong thời kỳ đổi mới đất nước.

3.1.4. Giai đoạn từ năm 2000 đến nay

Pháp luật về bảo vệ BMNN có bước phát triển quan trọng, một mặt

Nhà nước ta tiếp tục ban hành Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 để thay

thế Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 1991 cùng các văn bản hướng dẫn thi

hành. Mặt khác, Nhà nước ta đã ban hành nhiều VBQPPL khác có chứa

QPPL về bảo vệ BMNN, từ Hiến pháp, đến các bộ luật, luật, văn bản dưới

luật, cùng với các điều ước quốc tế song phương và đa phương liên quan

đến bảo vệ BMNN. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN trong giai đoạn này

bước đầu đã đáp ứng được yêu cầu bảo vệ BMNN trong điều kiện đẩy

mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế, tôn trọng và bảo vệ

các quyền con người, quyền công dân.

14 3.2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY

3.2.1. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về nội dung

điều chỉnh của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay

3.2.1.1. Kết quả đạt được về nội dung điều chỉnh của pháp luật về

bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Một là, nhóm QPPL quy định chung về bảo vệ BMNN. Pháp luật về

bảo vệ BMNN hiện nay có một hệ thống các QPPL quy định chung về bảo

vệ BMNN, bao gồm: quy định chung về BMNN; quy định về các hành vi bị

nghiêm cấm; về phạm vi BMNN và về biện pháp bảo vệ BMNN.

Hai là, nhóm QPPL quy định quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, bao

gồm: quy định về chủ thể quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN, với trách

nhiệm của từng chủ thể và quy định về nội dung quản lý nhà nước về bảo

vệ BMNN.

Ba là, nhóm QPPL quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và công

dân trong bảo vệ BMNN, bao gồm: quy định về trách nhiệm của cơ quan, tổ

chức và công dân nói chung; quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, tổ

chức và công dân trong các hoạt động cụ thể; quy định về trách nhiệm thực

hiện công tác bảo vệ BMNN của Bộ Công an với tư cách là cơ quan được

giao thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN.

Bốn là, nhóm QPPL quy định khen thưởng và xử lý vi phạm pháp luật

về bảo vệ BMNN:

Về khen thưởng, pháp luật về bảo vệ BMNN quy định: Cơ quan, tổ

chức, công dân có thành tích bảo vệ BMNN thì được khen thưởng theo quy

định của pháp luật và quy định cụ thể thành tích bảo vệ BMNN là như thế

nào bằng việc quy định cụ thể các trường hợp (hành vi) được khen thưởng

trong bảo vệ BMNN.

Về xử lý vi phạm, pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay đã quy định khá

cụ thể, đầy đủ về các hành vi xâm phạm BMNN bị coi là tội phạm, bị truy

cứu truy cứu trách nhiệm hình sự và cả những vi phạm pháp luật về bảo vệ

15 BMNN bị xử lý hành chính, đồng thời quy định rõ cả các hình thức xử lý

đối với các vi phạm đó.

3.2.1.2. Những hạn chế, bất cập về nội dung điều chỉnh của pháp

luật về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay

Một là, nhiều vấn đề liên quan đến bảo vệ BMNN chưa được điều

chỉnh bằng pháp luật, chưa có QPPL quy định, chưa đảm được tính toàn

diện của pháp luật về bảo vệ BMNN.

Hai là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN còn

bất cập, chưa đầy đủ, cụ thể, chưa đảm bảo được tính phù hợp, minh bạch

và khả thi của pháp luật về bảo vệ BMNN, như: về khái niệm BMNN; về

trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức, công dân tham gia bảo vệ

BMNN; về bảo vệ BMNN và bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của công

dân. Ngoài các nội dung trên, còn nhiều nội dung về bảo vệ BMNN cũng

chưa được quy định đầy đủ, cụ thể.

Ba là, một số nội dung điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ BMNN

không đồng bộ, thống nhất, như: Sự không thống nhất trong nội dung điều

chỉnh của BLHS với nội dung điều chỉnh của Pháp lệnh Bảo vệ BMNN

năm 2000; sự không thống nhất trong nội dung điều chỉnh của các

VBQPPL trực tiếp quy định về bảo vệ BMNN; sự không thống nhất trong

nội dung điều chỉnh về phạm vi độ mật.

3.2.2. Kết quả đạt được và những hạn chế, bất cập về hình thức

của pháp về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay

3.2.2.1. Kết quả đạt được về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà

nước ở Việt Nam hiện nay

Cho đến nay, pháp luật về bảo vệ BMNN đã có một hệ thống VBQPPL

về bảo vệ BMNN thuộc nhiều ngành luật khác nhau với các độ hiệu lực

pháp lý khác nhau, từ Hiến pháp đến các luật và VBQPPL dưới luật. Cùng

với các VBQPPL về bảo vệ BMNN ở trong nước, hiện nay Việt Nam đã ký

kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế song phương và đa phương, trong đó

có chứa các QPPL về bảo vệ BMNN.

16 3.2.2.2. Hạn chế, bất cập về hình thức của pháp về bảo vệ bí mật nhà

nước ở Việt Nam hiện nay

Một là, hệ thống VBQPPL về bảo vệ BMNN ít được hệ thống hoá.

Hai là, ở nước ta vẫn chưa có Luật Bảo vệ BMNN, VBQPPL có hiệu

lực pháp lý cao nhất mang tính chất chuyên ngành, trực tiếp quy định về

bảo vệ BMNN hiện nay là Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000.

Ba là, các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia về bảo

vệ BMNN rất ít và mới chỉ tập trung vào một số nước mà Việt Nam có

quan hệ truyền thống trước đây.

Bốn là, kỹ thuật lập pháp trong một số văn bản về bảo vệ BMNN còn

hạn chế. Có thể thấy những hạn chế về kỹ thuật lập pháp trong quy định của

Bộ luật hình sự (BLHS) về các tội xâm phạm BMNN, thể hiện trong Điều

337, 338 BLHS năm 2015.

Năm là, các danh mục BMNN chưa được ban hành kịp thời, đầy đủ.

áu là, một số QPPL về bảo vệ BMNN được ban hành đã lâu nhưng

chưa thực sự đi vào cuộc sống, còn thiếu các văn bản hướng dẫn thi hành

cũng như cơ chế để thực hiện.

3.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập của pháp luật về

bảo vệ bí mật nhà nước

3.2.3.1. Nguyên nhân khách quan

- Những thay đổi to lớn trong đời sống xã hội của đất nước thời gian

qua. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước tạo ra những thay đổi to lớn trên

tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong khi đó pháp luật về bảo vệ

BMNN có trên tất cả các lĩnh vực đó, là một bộ phận thuộc thượng tầng

kiến trúc nên mặc dù đã được quan tâm sửa đổi, bổ sung nhưng còn nhiều

nội dung chưa theo kịp những thay đổi nhanh chóng của cuộc sống.

- Sự gia tăng các VBQPPL về bảo vệ BMNN thuộc các ngành, lĩnh

vực khác nhau, do nhiều cơ quan có thẩm quyền ban hành và trong một thời

gian dài.

17 3.2.3.2. Nguyên nhân chủ quan

- Trong một thời gian dài Nhà nước ta chưa có chương trình xây dựng

pháp luật toàn diện, tổng thể, có tầm nhìn chiến lược trong đó có pháp luật về

bảo vệ BMNN.

- Tư duy pháp lý về bảo vệ BMNN có những khía cạnh không theo kịp

sự thay đổi nhanh chóng và mạnh mẽ của đời sống.

- Thiếu các công trình nghiên cứu cơ bản, cung cấp luận chứng khoa

học cho việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN.

- Việc bồi dưỡng kiến thức về bảo vệ BMNN, tổ chức, sắp xếp đội ngũ

cán bộ chuyên trách làm công tác xây dựng và áp dụng pháp luật ở các bộ,

ngành chưa tương xứng với yêu cầu bảo vệ BMNN trong tình hình mới.

Chương 4

QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO

VỆ BÍ MẬT NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.1.1. Thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng về

bảo vệ an ninh quốc gia

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải quán triệt quan điểm chỉ

đạo là thể chế hóa quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản

Việt Nam về bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của

Tổ quốc, bảo vệ ANQG, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích nhà

nước, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.

4.1.2. Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh

bạch của pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải bảo đảm tạo ra hệ thống

QPPL về bảo vệ BMNN đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh

bạch. Hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN phải bảo đảm phù hợp với quy

định của Hiến pháp năm 2013, sự đồng bộ, thống nhất của hệ thống pháp

18 luật; bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, minh bạch, khả thi, hiệu quả của pháp

luật về bảo vệ BMNN.

4.1.3. Tạo khuôn khổ pháp lý đầy đủ, vững chắc cho công tác bảo

vệ bí mật nhà nước trong tình hình mới

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN để tạo khuôn khổ pháp lý đầy

đủ, vững chắc cho công tác bảo vệ BMNN đáp ứng yêu cầu xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế, xã

hội và hội nhập quốc tế của đất nước, đồng thời đảm bảo tốt các quyền tự

do, dân chủ của công dân; phòng ngừa các hành vi lộ, lọt, mất BMNN và

hoạt động thu thập BMNN của các đối tượng; nghiêm cấm các hành vi lợi

dụng bảo vệ BMNN để che giấu hành vi vi phạm pháp luật.

4.1.4. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước vừa mang tính

thường xuyên, lâu dài, vừa mang tính cấp bách nhưng phải được tiến hành

thận trọng

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN là việc làm thường xuyên, lâu

dài và và mang tính cấp bách, là yêu cầu khách quan của quá trình xây dựng

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, xây dựng Nhà nước pháp quyền

XHCN Việt Nam; phải đặt trong chiến lược tổng thể xây dựng và hoàn thiện

hệ thống pháp luật Việt Nam. Mặt khác, pháp luật về bảo vệ BMNN điều

chỉnh các quan hệ xã hội có tính chất quan trọng, nhạy cảm, liên quan đến

vấn đề chính trị nội bộ, liên quan đến sự ổn định, phát triển của chế độ, nhà

nước và xã hội nên việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được

tiến hành kịp thời nhưng thận trọng, đảm bảo vững chắc ANQG, không để

tạo ra sơ hở, tạo cớ để các thế lực thù địch lợi dụng xâm phạm ANQG.

4.1.5. Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước phải đảm

bảo tính kế thừa, tiếp thu kinh nghiệm lập pháp của nước ngoài

Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN phải được tiến hành trên cơ sở

tổng kết đầy đủ, toàn diện thực tiễn công tác bảo vệ BMNN ở nước ta trong

những năm qua, khắc phục những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong

thực tiễn, kế thừa những quy định còn phù hợp; cần tập trung nghiên cứu

kinh nghiệm lập pháp, tham khảo kinh nghiệm lập pháp về bảo vệ BMNN

19 của nước ngoài để vận dụng có chọn lọc vào quá trình xây dựng, hoàn thiện

pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam.

4.2. GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO VỆ BÍ MẬT

NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

4.2.1. Các giải pháp xây dựng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

4.2.1.1. Cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ bí mật nhà nước

Quá trình thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN, với những bất cập, hạn

chế của hệ thống pháp luật về bảo vệ BMNN nói chung và Pháp lệnh Bảo vệ

BMNN năm 2000 nói riêng, cùng với sự thay đổi của tình hình chính trị, kinh

tế, xã hội, đặc biệt là để cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013 về tôn

trọng, bảo vệ quyền con người, quyền công dân đã đặt ra yêu cầu cấp thiết

cần sớm xây dựng Luật Bảo vệ BMNN thay thế cho Pháp lệnh Bảo vệ

BMNN năm 2000.

4.2.1.2. Cần kịp thời ban hành văn bản hướng dẫn thi hành và sửa

đổi, bổ sung các văn bản có liên quan

Để đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và khả thi của hệ thống pháp luật

về bảo vệ BMNN thì cần phải có một chiến lược tổng thể trong việc xây

dựng và hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN, trong đó cần sửa đổi, bổ

sung các VBQPPL khác có liên quan đến bảo vệ BMNN và kịp thời ban hành

các văn bản hướng dẫn thi hành để các QPPL về bảo vệ BMNN sớm đi vào

cuộc sống nhất là sau khi dự thảo Luật Bảo vệ BMNN được thông qua.

4.2.1.3. Cần kịp thời xác lập các loại danh mục bí mật nhà nước

Việc xác lập danh mục BMNN cần căn cứ vào quy định khái niệm

BMNN và tiêu chí xác định phạm vi BMNN để lập danh mục BMNN tương

ứng với các phạm vi cấp độ mật. Cần kịp thời xác lập và ban hành các loại

danh mục BMNN, vừa bảo đảm đúng phạm vi, vừa toàn diện, đồng bộ cho

tất cả các lĩnh vực, bộ, ngành, tổ chức và địa phương. Việc xác lập và ban

hành danh mục BMNN phải bảo đảm cập nhật, khả thi và tính đến sự thay

đổi của thực tiễn.

20 4.2.2. Các giải pháp hoàn thiện nội dung của pháp luật về bảo vệ bí

mật nhà nước

4.2.2.1. Hoàn thiện quy định khái niệm bí mật nhà nước

Cần phải luật hóa khái niệm BMNN, trong đó sử dụng thống nhất một

thuật ngữ, một khái niệm là BMNN. Theo đó, BMNN được hiểu là thông

tin về vụ, việc, tài liệu, vật, địa điểm, thời gian, lời nói hoặc các dạng khác

có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh

tế, đối ngoại, văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, y tế và các lĩnh vực

khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố, nếu bị lộ, mất sẽ ảnh

hưởng đến ANQG và lợi ích của quốc gia, dân tộc.

4.2.2.2. Hoàn thiện quy định về phạm vi độ mật của bí mật nhà nước

Phạm vi BMNN được xác định căn cứ vào khái niệm và những dấu

hiệu của BMNN và được chia làm các cấp độ phù hợp, tương ứng với tính

chất, mức độ, tầm quan trọng của thông tin và mức độ gây nguy hại nếu bị

lộ, mất. Pháp luật về bảo vệ BMNN nên quy định chỉ có ba cấp độ mật là:

Tuyệt mật, Tối mật và Mật. Đồng thời phải xác định rõ thông tin thuộc

phạm vi “nội bộ”, “lưu hành nội bộ” không đồng nhất với phạm vi BMNN.

4.2.2.3. Cần quy định về nguyên tắc hoạt động bảo vệ bí mật nhà nước

Cần phải luật hóa nguyên tắc hoạt động bảo vệ BMNN; nguyên tắc này

cần thể hiện được một số nội dung như: (1). Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật,

bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc. (2). Đặt dưới sự lãnh đạo tuyệt đối, trực

tiếp của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất của Nhà nước và

sự tham gia của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân. (3). Chủ động phòng ngừa

là chính; kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý nghiêm cơ quan, tổ chức, cá

nhân làm lộ, làm mất, chiếm đoạt, mua bán BMNN hoặc thu thập, tiêu hủy

trái phép BMNN. (4). Bảo vệ BMNN gắn liền và phục vụ có hiệu quả

nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát triển kinh tế - xã hội và hội

nhập quốc tế của đất nước. (5). Tăng cường hợp tác quốc tế về bảo vệ

BMNN trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và đáp ứng yêu

cầu, nhiệm vụ bảo vệ ANQG, giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

21 4.2.2.4. Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ

chức và công dân tham gia bảo vệ bí mật nhà nước

Hoàn thiện quy định về quyền, nghĩa vụ của cơ quan, tổ chức và công

dân tham gia bảo vệ BMNN cần tập trung vào các nội dung: tiếp xúc, trao

đổi, cung cấp thông tin, tài liệu, vật mang BMNN cho cá nhận, tổ chức trong

và nước ngoài; soạn thảo, in, sao, chụp, vận chuyển, giao nhận, tiêu hủy tài

liệu, vật mang BMNN; thống kê, lưu giữ, bảo quản, sử dụng tài liệu, vật

mang BMNN; phổ biến, nghiên cứu tin thuộc phạm vi BMNN; đăng ký các

phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích có nội dung thuộc phạm vi BMNN;

phát hiện, ngăn chặn vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN; bảo vệ an toàn

BMNN; khen thưởng, xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ BMNN.

Trong các nội dung trên, cần quy định rõ cơ quan, tổ chức và công dân

có quyền như thế nào, được làm những gì, làm đến đâu. Đồng thời pháp

luật về bảo vệ BMNN cũng phải quy định cụ thể nghĩa vụ trong các nội

dung đó, phải làm những gì, làm ra sao.

4.2.2.5. Hoàn thiện quy định về tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách

của cơ quan chuyên trách quản lý nhà nước và người trực tiếp bảo vệ bí mật

nhà nước

Pháp luật về bảo vệ BMNN cần quy định thống nhất, hệ thống cơ

quan, bộ phận quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN từ trung ương đến địa

phương, bao gồm: cơ quan, bộ phận làm công tác quản lý nhà nước về bảo

vệ BMNN ở trung ương (thuộc Chính phủ); cơ quan, bộ phận làm công tác

quản lý nhà nước về bảo vệ BMNN ở Bộ Công an và ở Công an các cấp.

Đề xuất thành lập đơn vị cấp Phòng thuộc Bộ Công an, cấp Đội thuộc Công

an cấp tỉnh và cấp Tổ thuộc Công an cấp huyện làm nhiệm vụ quản lý nhà

nước về bảo vệ BMNN. Các cơ quan, bộ phận này được áp dụng dụng các

phương tiện, biện pháp quản lý nhà nước nói chung và các phương tiện,

biện pháp đặc thù để thực hiện theo đúng chức năng quản lý nhà nước về

bảo vệ BMNN, để bảo vệ an toàn cho BMNN.

Pháp luật về bảo vệ BMNN cũng cần quy định cụ thể về việc bố trí các

cán bộ trực tiếp làm công tác bảo vệ BMNN trong tất cả các cơ quan, tổ chức

22 của Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, hướng vào những

người làm ở các bộ phận thiết yếu, cơ mật, đảm bảo về phẩm chất, năng lực

và trình độ chuyên môn. Để hiện thực hóa quy định này cần có các quy định

đi kèm về trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức trong việc bố trí

cán bộ trực tiếp làm công tác bảo vệ BMNN; quy định số lượng biên chế bắt

buộc cho các cán bộ làm công tác này đồng thời quy định rõ về quyền, nghĩa

vụ và chế độ, chính sách cụ thể với những người trực tiếp làm công tác này.

4.2.2.6. Hoàn thiện quy định về xử lý các hành vi xâm phạm bí mật

nhà nước và thống nhất sử dụng một số thuật ngữ pháp lý

Pháp luật về bảo vệ BMNN cần quy định rõ hành vi xâm phạm BMNN

bị coi là tội phạm và cho phép phân biệt được với những hành vi vi phạm

hành chính về bảo vệ BMNN; quy định về những hành vi bị nghiêm cấm cụ

thể, rõ ràng hơn; quy định trách nhiệm pháp lý tương ứng với từng loại vi

phạm đó. Đồng thời, ngay trong quy định của Luật Hình sự về các hành vi

xâm phạm BMNN cũng cần quy định rõ các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của

các tội xâm phạm BMNN, cho phép dễ dàng phân biệt tội này với các tội

khác liên quan đến bí mật như bí mật quân sự, bí mật công tác; làm rõ

BMNN với vật mang BMNN…

Đối với Điều 337, 338 BLHS năm 2015 có thể sửa đổi như sau:

“Điều 337. Tội cố ý làm lộ BMNN; tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu

huỷ trái phép vật hoặc tài liệu BMNN: (1) Người nào cố ý làm lộ BMNN;

chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy trái phép vật hoặc tài liệu BMNN…(2)

Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau đây…(3) Phạm tội thuộc một

trong những trường hợp sau đây…(4) Người phạm tội còn có thể bị phạt ….”.

“Điều 338. Tội vô ý làm lộ BMNN; tội làm mất vật, tài liệu BMNN:

(1) Người nào vô ý làm lộ BMNN hoặc làm mất vật, tài liệu BMNN….(2)

Phạm tội thuộc một trong những trường hợp sau ...(3) Người phạm tội còn

có thể bị …”.

Cần thống nhất trong việc sử dụng thuật ngữ, khái niệm “tài liệu

BMNN”, có thể dùng đồng thời hai khái niệm này với nghĩa tương đương

nhau là: tài liệu BMNN hoặc vật khác mang BMNN.

23 4.2.3. Các giải pháp tạo lập điều kiện đảm bảo cho hoàn thiện

pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

4.2.3.1. Xây dựng chiến lược tổng thể hoàn thiện pháp luật về bảo vệ

bí mật nhà nước

Việc hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN cần được xác định là việc

làm thường xuyên nhưng cần có chiến lược tổng thể và đặt trong mối quan

hệ với chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam theo

Nghị quyết số 48-NQ/TW. Nội dung quan trọng trong chiến lược hoàn

thiện pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay là triển khai kế hoạch pháp điển

hệ thống QPPL về bảo vệ BMNN và xây dựng Luật Bảo vệ BMNN.

4.2.3.2. Thường xuyên rà soát thực trạng pháp luật về bảo vệ bí mật nhà

nước, kết hợp với tổng kết thi hành pháp luật về bảo vệ bí mật nhà nước

Cần tiến hành rà soát, đánh giá đầy đủ, chính xác thực trạng pháp luật

về bảo vệ BMNN nhằm phát hiện những bất cập về: tính hợp hiến, hợp

pháp, tính thống nhất, sự phù hợp giữa nội dung và hình thức của các

VBQPPL; thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục xây dựng, ban hành

VBQPPL; tính khả thi của các VBQPPL đã được ban hành. Đi đôi với việc

rà soát, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo vệ BMNN hiện nay thì cần

phải tiến hành tổng kết việc thực hiện pháp luật về bảo vệ BMNN. Thời

gian tổng kết được tính từ thời điểm Pháp lệnh Bảo vệ BMNN năm 2000 có

hiệu lực (từ năm 2001) đến nay. Nội dung cụ thể là: tiếp tục làm rõ sự phù

hợp, hiệu quả của pháp luật về bảo vệ BMNN trong thực tiễn thi hành; phát

hiện những điểm tồn tại, bất cập của pháp luật về bảo vệ BMNN trước đòi

hỏi của thực tiễn và các cam kết quốc tế có liên quan.

4.2.3.3. Tăng cường hợp tác quốc tế và tham khảo có chọn lọc kinh

nghiệm lập pháp về bảo vệ bí mật nhà nước của nước ngoài

Việt Nam đã và đang hội nhập quốc tế một cách sâu rộng, trên tất cả

các lĩnh vực của đời sống xã hội, điều đó đặt ra cho nước ta rất nhiều vấn đề

có liên quan, trong đó có hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp

luật về bảo vệ BMNN nói riêng. Thực tế cho thấy, kinh nghiệm lập pháp về

bảo vệ BMNN của nước ta chưa nhiều, hệ thống pháp luật về bảo vệ

24 BMNN còn nhiều hạn chế, bất cập. Vì vậy, cần tổ chức nghiên cứu pháp

luật nước ngoài về bảo vệ BMNN để vận dụng có chọn lọc những kinh

nghiệm của họ vào quá trình xây dựng, hoàn thiện pháp luật về bảo vệ

BMNN của Việt Nam. Trong đó chú ý các vấn đề về xác định BMNN, về tổ

chức, hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, nhiệm vụ, quyền hạn

của các lực lượng, cá nhân trực tiếp bảo vệ BMNN, phạm vi của từng mức

độ mật, việc giải mật BMNN…

KẾT LUẬN

Từ trước tới nay, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến

việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật nói chung và pháp luật về bảo vệ

BMNN nói riêng. Trải qua các giai đoạn khác nhau, Nhà nước ta đều ban

hành các QPPL về bảo vệ BMNN phù hợp với đặc điểm của tình hình và

nhiệm vụ của cách mạng trong từng giai đoạn. Các QPPL đó là cơ sở để

hình thành nên pháp luật về bảo vệ BMNN và là cơ sở pháp lý để tiến hành

công tác bảo vệ BMNN.

Trên cơ sở các QPPL đó, công tác bảo vệ BMNN đã đạt được những

kết quả quan trọng, góp phần giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy kinh tế -

xã hội phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho hội nhập và mở rộng hợp tác

quốc tế; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Tuy nhiên,

pháp luật về bảo vệ BMNN vẫn còn những hạn chế, bất cập ảnh hưởng

không nhỏ đến công tác bảo vệ BMNN. Xuất phát từ thực tế đó, cùng với

yêu cầu cụ thể hóa quy định của Hiến pháp năm 2013, nhất là các quy định

về bảo vệ quyền con người, quyền công dân; yêu cầu xây dựng và hoàn

thiện hệ thống pháp luật Việt Nam, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN

Việt Nam nên việc nghiên cứu và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật

về bảo vệ BMNN là cần thiết và và mang tính cấp bách.

Bằng phương pháp tiếp cận và nghiên cứu khoa học phù hợp, luận án

“Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ BMNN ở Việt Nam” đã đạt được mục đích

và hoàn thành mục tiêu nghiên cứu đề ra.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Phùng Văn Tài (2017), “Hoàn thiện pháp luật về bảo vệ bí mật nhà

nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, Số

9(353).

2. Phùng Văn Tài (2017), “Bàn về việc xác định cấu thành tội phạm của

các tội xâm phạm an ninh quốc gia trong Bộ luật hình sự năm 2015”,

Tạp chí Công an nhân dân, Số kỳ 1/8.

3. Phùng Văn Tài (2017), “Một số vấn đề cần chú ý trong xây dựng ự

án Luật Bảo vệ bí mật nhà nước”, Tạp chí Khoa học và Chiến lược

Công an, Số 07.

4. Phùng Văn Tài (2017), “Một số ý kiến góp phần hoàn thiện pháp luật

về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Khoa học

và giáo dục an ninh, Số 03/T2.

5. Phùng Văn Tài (2016), “Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật

về bảo vệ bí mật nhà nước ở Việt Nam hiện nay”, Đặc san Khoa học

an ninh, Số 11-9.