161
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH YÊN NGỌC TRUNG TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC HÀ NỘI - 2017

TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

  • Upload
    others

  • View
    3

  • Download
    0

Embed Size (px)

Citation preview

Page 1: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

YÊN NGỌC TRUNG

TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

HÀ NỘI - 2017

Page 2: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

YÊN NGỌC TRUNG

TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

CHUYÊN NGÀNH: HỒ CHÍ MINH HỌC

Mã số: 62 31 02 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

1. PGS.TS. BÙI ĐÌNH PHONG

2. PGS.TS. LÊ VĂN TÍCH

HÀ NỘI - 2017

Page 3: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là trung

thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo

quy định.

Tác giả

Yên Ngọc Trung

Page 4: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU 6

1.1. Nghiên cứu triết lý 6

1.2. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh 11

1.3. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh 16

1.4. Kết quả nghiên cứu và vấn đề đặt ra cho luận án 30

Chương 2: KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH, BẢN CHẤT TRIẾT LÝ

HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 33

2.1. Một số khái niệm 33

2.2. Cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh 43

2.3. Bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh 67

Chương 3: NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH 78

3.1. Triết lý về mục tiêu hành động 78

3.2. Triết lý về động lực hành động 88

3.3. Triết lý về phương pháp hành động 102

Chương 4: GIÁ TRỊ DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG

HỒ CHÍ MINH 123

4.1. Giá trị đối với sự phát triển dân tộc 123

4.2. Giá trị thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh 137

KẾT LUẬN 148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN

ĐẾN LUẬN ÁN 151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 152

Page 5: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài luận án

Bằng hành động thực tiễn, nghiên cứu lý luận, trải qua một cuộc đời oanh

liệt, đầy gian khổ hy sinh, vô cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng

và đẹp đẽ, Hồ Chí Minh đã hình thành triết lý hành động của mình từ rất sớm, trở

thành chủ đề nhất quán xuyên suốt đến tận cuối đời. Cùng với tư tưởng, đạo đức,

phong cách, phương pháp, triết lý hành động Hồ Chí Minh được thực hiện trên

thực tế đã đem lại thắng lợi cho cách mạng Việt Nam. Những thắng lợi đã đưa

nhân dân một nước nghèo nàn, lạc hậu, bị thực dân, đế quốc đô hộ trở thành người

làm chủ, đất nước được độc lập, hòa bình, nhân dân được tự do, hạnh phúc.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh hình thành trước nhu cầu lựa chọn con

đường cách mạng để giải phóng và phát triển dân tộc. Đi ra thế giới, đến với chủ

nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân

tộc là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Triết lý hành động Hồ Chí

Minh chỉ ra độc lập dân tộc, quyền độc lập dân tộc là thiêng liêng, bất khả xâm

phạm và tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu hành động. Nội dung mục

tiêu hành động Hồ Chí Minh là những giá trị bất biến, mục tiêu bất biến được thể

hiện bằng những hành động phong phú, mạnh mẽ của Hồ Chí Minh trong quá

trình lãnh đạo, thực hiện hóa các mục tiêu cách mạng. Triết lý về mục tiêu hành

động Hồ Chí Minh còn nguyên giá trị, góp phần định hướng hành động cho

Đảng, nhân dân ta trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

Qua lăng kính chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh không chỉ chọn lọc

được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây mà còn nhận

thấy và phát triển các động lực cho hành động cách mạng. Triết lý về sức mạnh

của quần chúng, vai trò của quần chúng nhân dân được quán triệt trong hành

động. Dân là điểm mấu chốt, cốt lõi của mọi hành động, triết lý hành động Hồ

Chí Minh. Lòng yêu nước và tinh thần yêu nước của nhân dân trong truyền

thống dân tộc được Hồ Chí Minh xác định như các thứ của quý, Người bằng

hành động cụ thể, thiết thực khơi dậy và phát huy các thứ của quý đó phục vụ

Page 6: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

2

cho sự nghiệp cách mạng. Lòng yêu nước được phát huy bằng thi đua là yêu

nước, yêu nước phải thi đua, cùng tinh thần đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết dân

tộc và quốc tế, tạo ra động lực hành động mạnh mẽ quyết định cho những thắng

lợi cách mạng. Trong sự nghiệp cách mạng, phương pháp dân chủ, phong cách

dân chủ được thực hành đã trở thành cái chìa khóa vạn năng để có thể giải quyết

mọi khó khăn. Triết lý về động lực hành động thể hiện trong triết lý hành động

Hồ Chí Minh có cơ sở lý luận khoa học, có kết quả thực tiễn phong phú khẳng

định, đã và đang là những nội dung định hướng cho hành động của Đảng trong

hoạch định chủ trương, xây dựng chính sách nhằm phát huy tốt nhất các động

lực cho sự nghiệp cách mạng trong điều kiện mới của đất nước.

Triết lý về phương pháp hành động Hồ Chí Minh thể hiện trong sự nghiệp

cách mạng phong phú và sâu sắc. Triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là phương

pháp hành động, chỉ đạo hành động số một của Hồ Chí Minh. Quán triệt triết lý

này trong hành động đảm bảo kiên định mục tiêu độc lập của dân tộc, tự do,

hạnh phúc của nhân dân, đồng thời thể hiện tính linh hoạt, sáng tạo trong phương

pháp hành động cụ thể nhằm hoàn thành các mục tiêu mà cách mạng đặt ra.

Trước thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, nói không đi đôi với làm,

nói một đằng, làm một nẻo,... trong đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện nay, các triết lý

về phương pháp hành động miệng nói tay làm, nêu gương trong hành động, đảng

viên đi trước làng nước theo sau, đảng viên là đầu tàu gương mẫu trong triết lý

hành động Hồ Chí Minh càng khẳng định giá trị mạnh mẽ của việc vận dụng, thực

hành triết lý. Triết lý hành động Hồ Chí Minh về nói đi đôi với làm, nêu gương,

làm gương trong hành động là một giá trị cần được phát triển, mở rộng, trở thành

các tiêu chí quan trọng trong đánh giá phẩm chất đạo đức, tư tưởng của cán bộ,

đảng viên hiện nay.

Với những kết quả đạt được trong thực tế hành động cách mạng, triết lý

hành động Hồ Chí Minh đã góp phần phát triển triết lý hành động có trong chủ

nghĩa Mác - Lênin, phát triển triết lý hành động của dân tộc lên tầm cao mới. Nội

Page 7: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

3

dung triết lý định hướng hành động cho Đảng, định hướng xây dựng phẩm chất,

chuẩn mực hành động, chiến đấu, lao động học tập cho cán bộ, đảng viên. Đồng

thời những thắng lợi của cách mạng Việt Nam, của triết lý hành động Hồ Chí

Minh đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa trên

thế giới. Thực hiện triết lý hành động của mình, Hồ Chí Minh cho thấy tấm

gương người chiến sĩ cộng sản quốc tế trong sáng, thủy chung, khẳng định triết

lý hành động nhân văn của dân tộc Việt Nam.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh, với những nội dung khoa học và sâu sắc,

các giá trị của nó làm phong phú di sản Hồ Chí Minh, tài sản tinh thần vô cùng

to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, giá trị lý luận và thực tiễn của triết lý

có ý nghĩa đối với sự phát triển của dân tộc và thời đại. Vì những lý do đó tôi

chọn Triết lý hành động Hồ Chí Minh làm luận án tiến sĩ với mong muốn được

hiểu biết và góp phần làm sáng tỏ kho tàng di sản Hồ Chí Minh.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích

Luận án nghiên cứu làm rõ về khái niệm, cơ sở hình thành, bản chất, nội

dung cơ bản; giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh.

2.2. Nhiệm vụ

Để đạt được mục đích, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau đây:

- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, chỉ ra

những kết quả và xác định những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.

- Xác định khái niệm; cơ sở hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh.

- Phân tích nội dung, xác định bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh.

- Đánh giá giá trị dân tộc và thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Triết lý hành động Hồ Chí Minh bao gồm các khía cạnh cơ sở hình thành,

nội dung, bản chất, giá trị dân tộc và thời đại của triết lý.

Page 8: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

4

3.2. Phạm vi nghiên cứu

Dưới góc độ Hồ Chí Minh học, về tư liệu, luận án phân tích hành động,

việc làm, bài viết, bài nói, chỉ đạo thực tiễn của Hồ Chí Minh; về nội dung là

những quan điểm, hành động thực tiễn; về thời gian chủ yếu từ sau Cách mạng

Tháng Tám năm 1945 đến năm 1969, để làm rõ nội dung, giá trị của triết lý.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4.1. Cơ sở lý luận

Cơ sở lý luận của luận án là những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,

tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

con đường, mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cách mạng.

4.2. Phương pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và

các phương pháp cụ thể như: phương pháp logic và phương pháp lịch sử trong

phân tích, đánh giá các sự kiện, hành động của Hồ Chí Minh; sử dụng phương

pháp trừu tượng hóa và khái quát hóa để làm rõ triết lý hành động Hồ Chí Minh

biểu đạt trên các lĩnh vực, đồng thời sử dụng một số phương pháp cụ thể khác

như phân tích, so sánh, tổng hợp,… để hoàn thành mục đích luận án đặt ra.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu

5.1. Ý nghĩa khoa học

- Đề tài góp phần làm rõ khái niệm, xác định bản chất triết lý hành động

Hồ Chí Minh.

- Đề tài làm rõ cơ sở hình thành, nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh.

- Xác định giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh;

góp phần khẳng định tính toàn diện của di sản Hồ Chí Minh.

- Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, đề tài góp phần là cơ sở khoa học định

hướng hành động cho các chủ thể lãnh đạo tiến trình cách mạng, đảm bảo sự

thống nhất, xuyên suốt trong mọi hành động. Định hướng xây dựng mục tiêu

hành động, lựa chọn phương pháp hành động, xác định động lực và phát huy

động lực cách mạng. Triết lý góp phần làm căn cứ khoa học trong xây dựng,

Page 9: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

5

cũng như đánh giá đội ngũ cán bộ, đảng viên. Góp phần truyền cảm hứng hành

động đến cán bộ, đảng viên và nhân dân, hình thành nên một đội ngũ cán bộ,

đảng viên có tâm, có đức, có tài trong xây dựng, đổi mới, phát triển đất nước vì

mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

5.2. Ý nghĩa thực tiễn

Luận án góp phần gia tăng tri thức về khoa học chính trị nói chung, Hồ

Chí Minh học nói riêng và là cơ sở lý luận để khai thác tốt hơn di sản Hồ Chí

Minh vào quá trình phát triển xã hội.

Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, học tập

trong các chuyên ngành của khoa học chính trị như: Hồ Chí Minh học, chính trị

học, xây dựng Đảng cũng như vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn

Đảng hiện nay.

6. Kết cấu của luận án

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình đã công bố của tác

giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được kết cấu

thành 4 chương, 12 tiết.

Page 10: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

6

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

1.1. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ

Triết lý là khái niệm có lịch sử ra đời sớm và được bàn luận nhiều trong các

công trình nghiên cứu liên quan đến nhân sinh quan, thế giới quan. Nhưng cho đến

nay, chưa có công trình chuyên biệt nào nghiên cứu triết lý. Khái niệm triết lý chỉ

được luận bàn trong mối quan hệ với triết học hoặc minh triết, cũng có thể được

bàn đến trong các nghiên cứu liên quan đến một số triết lý cụ thể như: triết lý phát

triển, triết lý giáo dục, triết lý nhân sinh,… Trong những công trình này, các tác

giả bước đầu đưa ra khái niệm triết lý, đặc điểm nhận biết, phân biệt giữa triết lý,

triết học hay minh triết. Mặc dù còn có những quan điểm chưa thống nhất về vị trí

của triết lý trong mối quan hệ với minh triết, triết học nhưng cơ bản các nhà

nghiên cứu dần đi đến sự thống nhất về đặc điểm, nội dung, bản chất để xác định

vị trí của các khái niệm này trong mối quan hệ với nhau.

Nghiên cứu khái niệm triết lý, có thể kể đến Những dị biệt giữa hai nền

triết lý Đông Tây [11] của Kim Định. Trong tiểu luận này, tác giả so sánh cả ba

khái niệm triết lý, minh triết và triết học. Qua nghiên cứu, ông cho rằng triết lý

và minh triết giống nhau ở đối tượng, cả hai lấy cứu cánh con người làm trọng

tâm suy nghĩ, lấy sự thực hiện đến rốt ráo cái tính bản nhiên của con người làm

mục tiêu. Triết lý và minh triết khác nhau ở phương pháp, minh triết nhìn thẳng

trực nghiệm không đưa ra lý sự biện chứng, bàn giải như triết lý. Ông đi đến kết

luận, xét về nội tại triết lý thấp hơn minh triết, nhưng lại có giá trị hơn minh triết

ở chỗ nó gần với quảng đại quần chúng nhân dân, phần nào giúp quần chúng

nhân dân hiểu được minh triết.

So sánh triết lý và triết học, tác giả nhận định triết học khác triết lý ở ba

điểm: Thứ nhất, triết học không lấy con người mà lấy thiên nhiên sự vật làm trung

tâm suy tư. Thứ hai, triết học theo lối khoa học phê phán và phân tích cố gắng tìm

ra những ý niệm độc đáo và tích lũy sự kiện để kết thành những hệ thống mạch lạc

chặt chẽ. Về mục tiêu, triết học lấy tri thức làm cùng đích, vì thế nó không nhằm

Page 11: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

7

thực hiện vào bản thân như triết lý mà nhằm tìm biết sự khách quan. Thứ ba,

phương Đông thiên về minh triết và triết lý còn phương Tây thiên về triết học.

Như vậy, trong Tiểu luận nghiên cứu Những dị biệt giữa hai nền triết lý

Đông Tây, tác giả không xác định các khái niệm triết học, triết lý, minh triết mà

là đưa ra các đặc điểm để phân biệt các khái niệm này.

Cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu [74], một công

trình nghiên cứu của nhiều học giả về phát triển xã hội. Cuốn sách trình bày khái

niệm triết học, triết lý và phân tích mối quan hệ về bản chất giữa hai khái niệm.

Trong sách, các tác giả trích dẫn quan điểm của Trần Văn Giàu cho rằng,

triết học và triết lý không giống nhau, “triết học chủ yếu là lý luận về nhận

thức… Còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý; hướng về đạo lý, chứ không chỉ là

đạo lý” [74, tr.20-21]. Triết lý chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên

chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải. Giữa hai loại vấn đề ấy

tuy có quan hệ với nhau, nhưng có khác nhau. Quan hệ với nhau của hai vấn đề

có thể hiểu đều là những nội dung của tư tưởng, nhưng phạm trù và nội dung cần

tìm hiểu của mỗi vấn đề là khác nhau.

Trên cùng mạch luận giải vấn đề, các tác giả trích dẫn quan điểm của Vũ

Khiêu, “Triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Triết lý không thể hiện tầm

khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà thể hiện ý nghĩ và hành vi có ý nghĩa

chỉ đạo cuộc sống con người” [74, tr.21]. Như vậy, triết lý cũng giống như triết

học, đều đề cập những vấn đề thuộc phạm trù tư tưởng, nhưng triết lý ở mức độ

khiêm tốn hơn triết học về tầm khái quát. Quan điểm này phản ánh sự thâm trầm

nhưng hết sức sâu sắc, ý nghĩa của triết lý. Không thể hiện là một hệ thống như

triết học nhưng chứa đựng những giá trị quan trọng, cốt lõi của tư tưởng, của đạo

lý, trực tiếp chỉ đạo cuộc sống của con người.

Cũng bàn về vấn đề này, Hoàng Trinh cho rằng,

Triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản được dùng

làm nền tảng cho sự tìm tòi và suy lý của con người về cội nguồn, bản

chất và các hình thái tự nhiên, xã hội và bản thân, làm phương châm

Page 12: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

8

cho sự xử thế và xử sự của con người trong các hành động sống hàng

ngày,… Có những dân tộc đã có những triết lý từ lâu mặc dầu chưa có

triết học với hệ thống các khái niệm của nó [93, tr.8].

Như vậy, Hoàng Trinh cùng quan điểm với Vũ Khiêu khi cho rằng triết lý

là những ý tưởng cơ bản, nền tảng cho sự tìm tòi. Quan điểm này có điểm tương

đồng với quan điểm triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình. Tuy nhiên, ở đây

ông lại quan niệm đó là những nguyên lý đầu tiên, cơ bản, nền tảng cho sự tìm

tòi và suy lý. Và đi đến khẳng định có những dân tộc có triết lý từ lâu mặc dù

chưa có triết học.

Từ quan điểm của các giáo sư, cùng với sự phân tích, ví dụ minh chứng cụ

thể để so sánh sự khác biệt giữa triết học và triết lý, các tác giả của cuốn sách đi

đến nhận định và đưa ra một cách hiểu khác về triết lý. Các tác giả không hướng

tới việc đánh giá triết học và triết lý cái nào có trước, cái nào có sau, cái nào cao

hơn cái nào mà chỉ đánh giá về tính hệ thống, mức độ khái quát của các khái

niệm. Trong quan niệm của các tác giả, triết lý ở khía cạnh là những kết luận

được rút ra, suy ra từ một triết thuyết, một hệ thống các nguyên lý triết học nhất

định, như vậy, triết lý cô đọng hơn triết học. Chính đặc điểm này của triết lý tạo

nên cảm quan về sự rời rạc của những nội dung triết lý. Khó có thể thấy tính hệ

thống khi mỗi nội dung được cô đọng theo một cách và ở mức sâu sắc nhất có

thể. Các tác giả còn chỉ ra triết lý là những kết luận được rút ra, triết lý còn là

những tư tưởng, những quan niệm, “là kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm

và đúc kết thành những quan điểm, luận điểm, phương châm cơ bản và cốt lõi

nhất về cuộc sống cũng như về những hoạt động thực tiễn rất đa dạng của con

người trong xã hội” [74, tr.31]. Đưa đến một cách hiểu về triết lý như vậy, cũng

cho thấy sự phù hợp trong quá trình phát triển của triết học và triết lý. Rõ ràng,

khi các trường phái triết học đã phát triển, được phổ biến sâu rộng nhưng không

làm hạn chế hay đánh mất cơ hội ra đời của triết lý, các triết lý vẫn tiếp tục được

đúc kết, ra đời và phát huy những giá trị của nó trong đời sống xã hội. Và nó thể

hiện rõ nghiên cứu triết học hay triết lý thì đều trên cùng một cấp độ là nghiên

Page 13: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

9

cứu tư tưởng, chỉ khác ở góc độ triết học và triết lý hướng đến cái gì, hình thành

như thế nào trên cùng một chủ thể tư tưởng.

Bài viết Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý [83] của Hồ Sỹ Quý chứa

đựng những suy nghĩ, nghiền ngẫm có chiều sâu về mối quan hệ giữa triết học và

triết lý. Hồ Sỹ Quý đồng quan điểm với Trần Văn Giàu khi cho rằng triết lý và

triết học là hai khái niệm khác nhau. Nhưng trong bài viết, Hồ Sỹ Quý quan

niệm “nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn luôn ở trình độ thấp

hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết

vấn đề mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy” [83, tr.57]. Quan điểm này thống nhất

với quan điểm của các nhà nghiên cứu khác khi so sánh về tính hệ thống, đặc

điểm hình thức của triết học và triết lý. Tuy nhiên, khi chỉ ra trong “đa số các

trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có nhiều khả

năng chứa đựng mâu thuẫn hơn so với triết học” [83, tr.57], thì đã cho thấy một

cách đánh giá vừa có sự thống nhất vừa có sự khác biệt với quan điểm triết lý là

triết học khiêm tốn nói về mình của Vũ Khiêu, hay triết lý là những nguyên lý

đầu tiên, những ý tưởng cơ bản của Hoàng Trinh.

Về mặt hình thức thể hiện triết lý, Hồ Sỹ Quý cũng cho rằng “triết lý có

thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm,… mang tính

khái quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các

cách phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngữ pháp” [83, tr.57] và nó cũng có

giá trị định hướng cho hoạt động của con người trong đời sống xã hội về mặt thế

giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan. Quan điểm này hoàn toàn

đồng nhất với quan điểm của các nhà khoa học khi nghiên cứu về triết lý.

Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - giá trị lý luận và thực tiễn

[2] do Phạm Ngọc Anh chủ biên, các tác giả phân tích, lý giải rõ hơn về mối

quan hệ giữa triết học và triết lý. Về mặt hình thức thể hiện, giá trị của triết lý,

các tác giả đồng quan điểm với nhận định trong các nghiên cứu trước đó của các

nhà khoa học. Trên cơ sở nhận định của các nhà nghiên cứu, các tác giả vừa bổ

sung và hệ thống các đánh giá, đưa ra nhận định về triết lý, triết học. Các tác giả

nhận định,

Page 14: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

10

Triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những nguyên lý triết học,

hay cơ sở thực tiễn của con người, được thể hiện dưới dạng những luận

điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc

sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận, coi đó là

nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động [2, tr.27-28].

Điểm khác trong quan điểm của các tác giả so với các nhà nghiên cứu

trước đó khi khẳng định triết lý là kết quả của sự kết tinh trên cơ sở những

nguyên lý triết học rõ ràng, dứt khoát. Đây là cách một số triết lý được hình

thành sau khi khoa học triết học đã ra đời và được biết đến rộng rãi. Quan điểm

này có hơi hướng từ những quan điểm của các nhà nghiên cứu trước triết lý là

triết học khiêm tốn nói về mình, hay triết lý là những nguyên lý đầu tiên, những ý

tưởng cơ bản nhưng chưa khẳng định rõ.

Trong sách Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam [21] của Phạm Minh

Hạc, nhắc đến ba khái niệm triết học, triết lý, minh triết. Cả ba khái niệm được

dẫn theo các cuốn từ điển. Tác giả không đi sâu tìm chỗ giống nhau và điểm

khác biệt mà dẫn người đọc hiểu đại thể triết lý là triết học đã được vận dụng vào

một trường hợp cụ thể, gắn với cuộc sống thực ở một cấp độ nào đó, trong một

phạm vi nào đó. Hay sách, Văn hóa và triết lý phát triển trong tư tưởng Hồ Chí

Minh [50], các tác giả hiểu về triết lý theo quan điểm nêu trong Từ điển tiếng

Việt [77] do Hoàng Phê chủ biên, Triết lý là lý luận về triết học hoặc là quan

niệm chung của con người về những vấn đề nhân sinh và xã hội.

Tóm lại, nghiên cứu về triết lý không nhiều, một số công trình nghiên cứu

có bàn đến triết lý chỉ nhằm thống nhất nhận thức về triết lý, làm cơ sở nghiên cứu

nội dung một triết lý cụ thể. Tổng quan tình hình nghiên cứu triết lý cho thấy nhận

thức về khái niệm, đặc điểm nhận biết trong mối quan hệ với triết học của các nhà

nghiên cứu là tương đối thống nhất. Các nghiên cứu cũng cho thấy điểm chưa

thống nhất trong nhận định về triết lý, nhưng các điểm đó không mâu thuẫn mà

chỉ thể hiện khía cạnh quan sát khác nhau. Đặc biệt, các nghiên cứu luôn đặt triết

lý trong mối quan hệ với triết học, so sánh, phân biệt các khái niệm, cũng như

Page 15: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

11

quan hệ bổ sung cho nhau của các khái niệm. Các công trình nghiên cứu về sau có

kế thừa và bổ sung cho các công trình công bố trước đó, ngày càng làm sáng rõ

mối quan hệ hay cách hiểu về mối quan hệ giữa triết học và triết lý. Dựa vào tổng

quan nghiên cứu triết lý, tác giả luận án có thêm cơ sở để xác định rõ khái niệm,

bản chất của triết lý hành động Hồ Chí Minh, hoàn thành mục tiêu luận án đặt ra.

1.2. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HỒ CHÍ MINH

Trước những vấn đề đặt ra trong phát triển xã hội, trong nghiên cứu di sản

Hồ Chí Minh, nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh thời gian gần đây được nhiều nhà

nghiên cứu quan tâm. Tần suất xuất hiện các khái niệm triết lý, triết lý phát triển

trên các sách, báo, tạp chí, phương tiện truyền thông ngày càng nhiều. Lựa chọn

cho mình một triết lý phát triển không chỉ đặt ở cấp độ quốc gia mà còn là vấn đề

của từng địa phương, vùng miền, từng doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế,… Tuy

nhiên, các công trình chuyên biệt nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh không nhiều.

Triết lý Hồ Chí Minh, cách thức tiếp cận triết lý được đề cập sớm trong

các công trình nghiên cứu về Hồ Chí Minh của Trần Văn Giàu. Trong sách Sự

hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh [19], Trần Văn Giàu không bàn về

triết lý Hồ Chí Minh nhưng đưa ra một gợi ý hết sức quan trọng cho nghiên cứu

triết lý Hồ Chí Minh. Đó là, “Đạo đức học Hồ Chí Minh là một bộ phận lớn của

triết lý Hồ Chí Minh” [19, tr.164]. Bộ phận lớn ấy chính là, “Tận tụy quên mình,

vì đời, vì người, vì nước, vì dân, và suốt đời như vậy đó chỉ có thể là nhân cách

của một bậc thánh, một nhà hiền triết hành động” [19, tr.170].

Trong sách Vĩ đại một con người [20], Trần Văn Giàu “xem việc lấy hành

động mà xét tư tưởng, như là một phương pháp để nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí

Minh. Mà đó cũng là phương pháp của Nguyễn Ái Quốc sẽ dùng để đi tìm tư

tưởng đích thực của một người hay một tổ chức” [20, tr.226]. Tuy nhiên, để lấy

hành động mà xét tư tưởng có những trở ngại nhất định, vì thế:

Thực ra thì vẫn căn cứ vào tư liệu viết, nhưng khi cần phải theo

phương châm xưa “ý tại ngôn ngoại” mới tiếp cận nổi những chỗ thâm

thúy nhất của tư tưởng triết học của Hồ Chí Minh. Lại phải xem toàn

Page 16: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

12

bộ cuộc đời hoạt động trước sau như một của Cụ Hồ như là kho tư

tưởng triết học phong phú nhất [20, tr.284].

Đây là chỉ dẫn hết sức quý báu trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh, đặc

biệt nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Trần Văn Giàu thêm một gợi ý

khi nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh,

Cụ Hồ là mácxít, thế giới quan của Cụ là duy vật biện chứng. Nhưng

chủ nghĩa Mác chưa hề cấm cản người mácxít uyên bác đóng góp tư

tưởng triết lý vào vũ trụ quan mácxít làm cho nó phong phú thêm lên.

Một chiến sĩ cách mạng Đông phương sao lại không thể, trong lúc

mình là mácxít hay chính vì mình là mácxít có kế thừa và làm cho duy

vật biện chứng càng có tác dụng tích cực trong nhận thức luận và hành

động thực tiễn ở Đông phương [20, tr.285].

Nhận định này lý giải điều đặc biệt, Hồ Chí Minh không có công trình đồ sộ

bàn về triết học nhưng về mặt nào đó triết lý Hồ Chí Minh thực tiễn hơn triết học.

Thấy rõ Hồ Chí Minh là nhà triết học hành động, Người chỉ thâu nạp những gì cần

thiết, hữu ích cho cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân.

Đây là những định hướng quan trọng cho nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh.

Triết lý phát triển xã hội Hồ Chí Minh không là trọng tâm nghiên cứu

trong cuốn Triết lý phát triển ở Việt Nam - mấy vấn đề cốt yếu [74] do Phạm

Xuân Nam chủ biên, nhưng sách có một chương bàn về Triết lý phát triển xã hội

của Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh chỉ ra cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát

triển cho đất nước. Phải lấy triết lý phát triển đó làm “một trong những công cụ

định hướng hành động quan trọng nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước

mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa

xã hội” [74, tr.41-42].

Từ việc nhận định nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí

Minh là cơ sở khoa học để xác định, xây dựng triết lý phát triển đất nước, các tác

giả tiến đến bàn về triết lý Hồ Chí Minh. Các tác giả khẳng định, “Triết lý Hồ

Page 17: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

13

Chí Minh nặng về những chiêm nghiệm làm người và ở đời… những quan niệm

gắn liền với cách sống, lối sống, với hành vi và phẩm chất của hành vi, với hoạt

động cách mạng giải phóng con người và giải phóng dân tộc…” [74, tr.463].

Nhận định này, cùng quan niệm về triết lý Hồ Chí Minh của các nhà nghiên cứu

ở các công trình khác. Trong sách, các tác giả đồng tình với Trần Văn Giàu trong

quan điểm triết lý Hồ Chí Minh mang thế giới quan triết học mácxít, bổ sung

làm phong phú triết học mácxít. Các tác giả chỉ ra, “điều vừa nói không cản trở

việc tiếp thu, vận dụng và phát triển phong cách duy lý của các trường phái tư

tưởng phương Tây cũng như tinh hoa của các trường phái tư tưởng mà Hồ Chí

Minh đã từng lĩnh hội” [74, tr.463]. Đây cũng là quan niệm có sự thống nhất với

một số nhà nghiên cứu khác.

Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo không

luận bàn về một triết lý cụ thể của Hồ Chí Minh, nhưng đề cập đến tên gọi của

nhiều triết lý: triết lý nhân sinh, triết lý thân dân, triết lý sống, triết lý hành động,

triết lý hạnh phúc, triết lý phát triển, triết lý giáo dục, triết lý đạo đức,… và nhận

định về triết lý Hồ Chí Minh, đó là triết lý về lẽ sống ở đời và đạo làm người, triết lý

đó có nền tảng thế giới quan khoa học duy vật biện chứng và nhân sinh quan cách

mạng. Tác giả khẳng định, “Đó là triết lý hành động chủ động, tích cực và sáng tạo

để thực hiện khát vọng giải phóng con người, phát triển xã hội nhằm đạt tới những

giá trị đích thực của cuộc sống: Độc lập, Tự do và Hạnh phúc” [3, tr.177].

Mục tiêu Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, nhưng nội dung sách

không chỉ là nét phác thảo cơ bản về một số triết lý Hồ Chí Minh mà còn sử

dụng một số khái niệm như: triết học hành động; triết học chính trị thực tiễn;

triết học nhân sinh và cách mạng, đồng thời nhận định:

Triết học mang hình hài, sắc thái, diện mạo của những triết lý Hồ Chí

Minh, nó chính là linh hồn của Hồ Chí Minh học - triết học để hành

động và phát triển, triết lý nhân sinh quy tụ ở chữ Dân, nó hướng tới

Đạo đức Thân Dân và Chính Tâm, nó trở thành lẽ sống và đạo lý ở đời

và làm người [3, tr.304].

Page 18: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

14

Việc đưa các khái niệm, đặt ra yêu cầu giải quyết, làm rõ mối quan hệ

giữa triết học và triết lý trong nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh theo xu hướng

triết học làm nền tảng hình thành triết lý của Hoàng Chí Bảo trùng với quan

điểm Trần Nhâm trong sách: Hồ Chí Minh nhà tư tưởng thiên tài [76]. Trong

sách này, Trần Nhâm nhận định, Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng lớn, nhà tư tưởng

thiên tài, mà “là nhà tư tưởng, không thể không lấy tư tưởng triết học làm điểm

xuất phát cho hệ thống lý luận của mình. Hệ tư tưởng với tư duy triết học của

một nhà tư tưởng gắn với nhau như hình với bóng. Không có nhà tư tưởng nào

lại không có hệ tư tưởng triết học của riêng mình” [76, tr.470].

Với những nhận định về mối quan hệ giữa triết học và triết lý ở Hồ Chí

Minh, cho thấy Hồ Chí Minh khá đặc biệt khi nắm hệ thống quan điểm, hệ tư tưởng

triết học của mình - triết học mácxít, nhưng không trình bày các quan điểm tư tưởng

của mình thiên về cách mà các nhà triết học làm. Hồ Chí Minh thể hiện hầu hết các

quan điểm, tư tưởng phong phú và toàn diện dưới hình hài, màu sắc, diện mạo của

triết lý. Đây cũng chính là điều tạo nên sự gần gũi, dễ hiểu, tính khoa học và sâu sắc

của triết lý Hồ Chí Minh, cũng như phản ánh đặc điểm hình thành triết lý.

Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh đáng kể nhất có hai công trình: Triết lý

“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh [25] của Nguyễn Hùng

Hậu; Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn [2] của Phạm

Ngọc Anh chủ biên được xuất bản.

Sách Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh

[25], tác giả khẳng định “dĩ bất biến, ứng vạn biến” là đỉnh cao phương pháp

hành động Hồ Chí Minh. Tác giả tập trung nghiên cứu làm rõ cái bất biến trong

tư tưởng Hồ Chí Minh và chỉ ra là độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc, dân chủ

cho nhân dân. Mọi sự vạn biến trong hành động, chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí

Minh suốt cuộc đời xoay quanh cái bất biến xác định. Tác giả cho thấy sự vạn

biến trong hành động, chỉ đạo của Hồ Chí Minh không phải là những thay đổi

giản đơn mà nó chứa đựng sự sâu sắc của tri thức, kinh nghiệm và vốn sống. Tìm

hiểu cụ thể từng sự kiện, từng hành động thấy rõ nó mang tính nghệ thuật, thể

Page 19: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

15

hiện rõ sự thâu thái tinh hoa văn hóa, nắm chắc thời cuộc và vạn biến - thay đổi

để giành lấy thế chủ động cho mình. Trên cơ sở nhận thức về cái bất biến trong

tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất vận dụng triết lý này vào sự

nghiệp xây dựng và đổi mới đất nước trên một số lĩnh vực.

Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giá trị lý luận và thực tiễn [2],

các tác giả phân tích khái niệm: triết lý, triết lý phát triển, triết lý phát triển Hồ Chí

Minh và mối quan hệ giữa triết lý với triết học. Sách thể hiện những khảo cứu về

triết lý Việt Nam, triết lý phương Đông và phương Tây, tìm hiểu nguồn gốc tư

tưởng - lý luận hình thành nên triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Trên cơ sở làm rõ

khái niệm, nguồn gốc hình thành, các tác giả tìm hiểu về Bản chất của triết lý phát

triển Hồ Chí Minh và Nội dung của triết lý phát triển Hồ Chí Minh; đồng thời,

Vận dụng triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện

nay. Các tác giả trình bày những nghiên cứu khá toàn diện về triết lý phát triển Hồ

Chí Minh - những vấn đề đặt ra trong phát triển ở Việt Nam.

Bên cạnh các công trình nghiên cứu chuyên biệt, dày dặn, công phu kể trên,

còn một số bài viết trên các tạp chí, kỷ yếu Hội thảo khoa học có bàn về triết lý Hồ

Chí Minh. Tuy nhiên, nội dung các bài viết, cũng như quan điểm thể hiện trong bài

viết đã được đề cập trong các công trình nghiên cứu của chính tác giả được xuất bản

thành sách. Chính vì vậy, trong tổng quan đánh giá về các công trình, bài viết tạp

chí, luận án không đi vào phân tích, đánh giá lại các công trình, bài viết này.

Các nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh chưa được xã hội hóa, còn là luận

án, luận văn không có nhiều, đáng kể nhất trong số này có bài của Phan Duy

Anh nghiên cứu về Triết lý chính trị Hồ Chí Minh: Cơ sở hình thành và nội dung

cơ bản. Trong bài, tác giả đưa ra cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn hình thành triết lý

chính trị Hồ Chí Minh và những nội dung cơ bản. Trong đó, Triết lý về mục tiêu

và giá trị chính trị; Triết lý về quá trình chính trị; Triết lý về chủ thể chính trị;

Triết lý về thể chế chính trị là những nội dung triết lý chính trị Hồ Chí Minh

được đề cập.

Page 20: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

16

Trong nghiên cứu về triết lý Hồ Chí Minh, đa số các nhà nghiên cứu khi

luận giải, làm rõ nội dung một triết lý cụ thể đều có luận bàn đến triết lý hành

động Hồ Chí Minh. Đây là nội dung sẽ được trình bày rõ hơn trong luận án. Có

thể đánh giá nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh chưa nhiều, các công trình nghiên

cứu chuyên biệt về một triết lý còn ít, đa số các nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh

mới dừng lại ở cấp độ bài viết tạp chí hay bài viết chuyên đề khoa học. Nghiên

cứu triết lý Hồ Chí Minh cần tiếp tục nhận được quan tâm hơn nữa từ các nhà

khoa học, giới nghiên cứu Hồ Chí Minh học.

1.3. NGHIÊN CỨU TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

Cho đến nay, chưa có nhà khoa học nào lấy triết lý hành động Hồ Chí

Minh làm đối tượng nghiên cứu. Tuy nhiên, trong nghiên cứu các triết lý của Hồ

Chí Minh hoặc trong nghiên cứu phương pháp, phong cách hay tư tưởng triết

học Hồ Chí Minh, các nhà khoa học ít nhiều có đề cập đến triết lý hành động Hồ

Chí Minh. Qua các công trình nghiên cứu, tiếp cận từ góc độ nghiên cứu triết lý

hành động Hồ Chí Minh, luận án đánh giá một số nội dung sau:

- Về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh, trong cuốn Tìm hiểu phương pháp

Hồ Chí Minh [3], Hoàng Chí Bảo cho rằng, cuộc đời Hồ Chí Minh là cuộc đời

của một con người mọi hành động đều xuất phát từ Dân. “Người hướng tới dân,

hòa trong dân, hóa thân vào nhân dân, lấy sức mạnh từ lực lượng đoàn kết của

dân, mưu sự vững bền từ đồng tâm nhất trí, đoàn kết, đồng thuận của muôn dân”

[3, tr.10]. Tác giả khẳng định, từ những hành động đó mà “triết lý Hồ Chí Minh

là triết lý thân dân, là triết lý nhân sinh, triết lý hành động [3, tr.10]. Đây không

chỉ là điểm nổi bật, cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh mà nó là mục tiêu cơ bản, mục

tiêu cốt lõi của mọi triết lý Hồ Chí Minh, được triết lý hành động Hồ Chí Minh

chuyển tải vào thực tiễn cuộc sống và được thể hiện trong mục tiêu triết lý hành

động Hồ Chí Minh.

Trong sách, Hoàng Chí Bảo không khẳng định triết lý hành động Hồ Chí

Minh có giá trị định hướng cho các triết lý khác, nhưng nhận thấy: “Lôgíc trong

triết lý sống ở đời và làm người của Hồ Chí Minh đã từ triết lý hành động, triết

Page 21: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

17

lý nhân sinh vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội thấm sâu vào triết lý giáo

dục, đào tạo để phát triển con người, đem lại hạnh phúc làm người cho từng

người và cho tất cả” [3, tr.186]. Điều đó cũng có nghĩa là thấm sâu vào mỗi triết

lý là mục tiêu, là cái đích hướng tới của triết lý hành động. Ngược lại triết lý

hành động cũng có thể được rút ra từ sự biểu đạt của các triết lý khác, triết lý

hành động là cơ sở biểu đạt cho các triết lý khác. Điều này không chỉ khẳng định

giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh mà còn gợi ý để luận giải làm rõ triết lý

hành động Hồ Chí Minh.

Cũng trong sách này, Hoàng Chí Bảo cho thấy chiều sâu của văn hóa, đạo

lý tinh thần Việt Nam ảnh hưởng đến sự hình thành triết lý Hồ Chí Minh. “Ở

đời” và “làm người” là điều cốt lõi của triết lý ấy, nó làm cho triết lý Hồ Chí

Minh về thực chất là triết lý nhân sinh, triết lý hành động. Vì nhân sinh phải

hành động, trước hết và chủ yếu là hành động” [3, tr.178]. Đây là thứ động lực

nội sinh mạnh mẽ để con người hành động. Một giá trị được đúc rút, thấm sâu

vào tâm hồn mỗi người con đất Việt qua ngàn đời chiến đấu và dựng xây. Là thứ

động lực khiến con người đứng lên chiến đấu, sẵn sàng hy sinh, quên mình vì Tổ

quốc, là mục tiêu cho mọi hành động.

Trong sách Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng thiên tài [76], Trần Nhâm cho

rằng: “Đặc điểm nổi bật của tư tưởng triết học Hồ Chí Minh là triết học hành

động và nhân sinh, triết học giải phóng và phát triển” [76, tr.471]. Và “triết

học Hồ Chí Minh là triết học hành động, vì triết học đó lấy thực tiễn Việt Nam

làm điểm xuất phát, lấy cải tạo, biến đổi xã hội Việt Nam làm mục tiêu cho

hành động cách mạng của cả cuộc đời mình” [76, tr.472-473]. Tác giả khẳng

định tư duy triết học Hồ Chí Minh là tư duy triết học hành động vì thế vượt qua

lối mòn, qua hướng đi của các bậc tiền bối, một cách đầy tự chủ, sáng tạo, Hồ

Chí Minh lựa chọn cho mình một hướng đi khác với một câu hỏi đầy trăn trở là

làm thế nào để giành được độc lập, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho đồng

bào. “Lẽ sống ở đời và đạo làm người là nền tảng thế giới quan và nhân sinh

quan của triết lý hành động vì nhân sinh của Hồ Chí Minh. Triết lý đó lấy việc

Page 22: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

18

giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người làm mục tiêu hành

động” [76, tr.504].

Qua đó, có thể thấy quan điểm của Trần Nhâm đồng nhất với các nhà

nghiên cứu khác khi nghiên cứu tư tưởng triết học Hồ Chí Minh hay chủ nghĩa

nhân văn hành động Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, trong quan điểm này, Trần Nhâm

nghiêng nhiều hơn về cách tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh. Lẽ sống ở

đời và đạo làm người trở thành nền tảng thế giới quan và nhân sinh quan hành

động Hồ Chí Minh. Đồng thời Trần Nhâm cho rằng:

Triết lý ấy chỉ có thể nảy sinh, tồn tại và phát triển từ con người có

mục đích và lý tưởng, có hoài bão và lòng tin lớn lao, có ý chí và bản

lĩnh kiên cường. Điểm tựa cho suy nghĩ và hành động của Hồ Chí

Minh chính là triết lý hành động vì nhân sinh gắn tư tưởng, đạo đức,

phương pháp và phong cách với cuộc đời, sự nghiệp, lẽ sống và đạo

làm người của Người [76, tr.504-505].

Trong sách này, Trần Nhâm cũng có quan điểm tương đồng với Hoàng

Chí Bảo khi cho rằng Hồ Chí Minh thấy rõ muốn hành động phải hiểu biết và sự

hiểu biết ấy phải được tích lũy qua học tập không ngừng để thâu thái kiến thức,

tích lũy vốn sống và kinh nghiệm nhằm nâng cao hiểu biết, làm cơ sở cho hành

động. Và “phải chăng ngay từ đầu, phương hướng ấy, triết lý ấy đã chi phối lẽ

sống, đạo làm người và hành động vì nhân sinh của Hồ Chí Minh” [76, tr.504].

Do định hướng nhận thức như vậy, “suốt cuộc đời mình, trong nhận thức cũng

như trong hành động, Hồ Chí Minh luôn trung thành với nguyên tắc nhận thức

luận của mình là gắn lý luận với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực tiễn, học đi

đôi với hành” [76, tr.564].

Qua các quan điểm, Trần Nhâm khẳng định tư duy triết lý Hồ Chí Minh

là tư duy triết lý thực tiễn, tư duy triết lý hành động. Tư duy triết lý Hồ Chí

Minh xoay quanh câu hỏi làm sao để dân tộc được độc lập, nhân dân được tự

do, hạnh phúc. Đây là mấu chốt làm cho triết lý hành động Hồ Chí Minh không

hề phi lịch sử, đầy tính thực tiễn. Từ khi nảy sinh triết lý Hồ Chí Minh có điểm

Page 23: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

19

tựa là thực tiễn lịch sử, thực tiễn đấu tranh của dân tộc. Triết lý được hoàn

chỉnh, trở nên sâu sắc trong quá trình thực hiện lẽ sống và đạo làm người của

con người có mục đích, có lý tưởng, hoài bão, niềm tin, bản lĩnh và nghị lực

kiên cường - Hồ Chí Minh.

Trong sách Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - Giá trị lý luận và thực tiễn, các

tác giả không nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, nhưng từ nghiên cứu triết

lý phát triển Hồ Chí Minh, các tác giả nhận định: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh

bắt đầu từ triết lý giải phóng dân tộc đến triết lý phát triển đất nước và hòa quyện

trong đó là triết lý hành động” [2, tr.228]. Quan điểm cho thấy sự tương đồng với

quan điểm trong sách Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu.

Nhìn một cách tổng quát, đặc điểm tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng

- hành động. Triết lý của Hồ Chí Minh về một xã hội phát triển và giải

pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện quá trình phát triển xã

hội không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà nó được hòa quyện vào mọi

hành động của Người; nó thể hiện ngay trong toàn bộ sự nghiệp cách

mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam do

Người sáng lập và rèn luyện [74, tr.123-124].

Với quan điểm triết lý Hồ Chí Minh hòa quyện vào mọi hành động và đây

là giải pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện phát triển xã hội. Tiếp cận

triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong nghiên cứu, các tác giả khẳng định,

“Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về hầu hết các chủ đề, theo chúng tôi, ngoài

việc tìm hiểu, khái quát từ văn bản, còn cần thiết phải tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí

Minh thông qua các triết lý hành động của Người” [74, tr.461]. Thực hiện các

triết lý hành động của Người cũng nhằm mục tiêu phát triển xã hội, mục tiêu bao

trùm các mục tiêu khác bắt đầu từ giải phóng, đổi mới, phát triển, nhân văn,

nhân đạo,… của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Trong sách Suy ngẫm về triết Hồ Chí Minh [26], Nguyễn Hùng Hậu nhận

định: “Ở Hồ Chí Minh, triết lý và hành động không tách rời nhau; triết lý hướng

đến hành động, bao chứa xu hướng hành động, hành động nói lên triết lý, trong

Page 24: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

20

hành động đã bao hàm triết lý; từ đó hình thành nên triết lý hành động mà không

phải vĩ nhân nào cũng có được” [26, tr.21].

Đối với tác giả luận án, nhận định triết lý hành động hòa quyện trong các

triết lý khác, gợi ý cho việc nghiên cứu, tìm hiểu về bản chất triết lý hành động

Hồ Chí Minh, làm rõ sự biểu đạt, giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Trong sách Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh [9], Thành Duy cho

rằng: “Vấn đề không phải ở chỗ khẳng định có tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh

mà quan trọng là tìm hiểu triết lý hành động tạo nên chủ nghĩa nhân văn mang

đặc điểm và sắc thái riêng của Người” [9, tr.27-28]. Tác giả khẳng định, đó

không phải là quá trình nhận thức lý luận để hình thành nên chủ nghĩa nhân văn

Hồ Chí Minh mà “phải trải qua hoạt động thực tiễn, biến tình cảm yêu thương

con người thành ý chí cách mạng, thành nguyên tắc và phương pháp giải phóng

con người, giải phóng xã hội, đem lại hạnh phúc, tự do thật sự cho con người”

[9, tr.27-28]. Mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh, mọi hành động trong quá

trình cách mạng của Hồ Chí Minh đều hướng tới mục tiêu nhân văn cao đẹp đó.

Thành Duy nhấn mạnh phải thông qua hành động thực tiễn, có nguyên tắc và

phương pháp mới đạt mục tiêu. Tác giả chỉ ra, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp nối

triết lý hành động theo triết học mácxít mà quan trọng hơn là Người tìm ra con

đường hành động theo triết lý nhân văn mácxít phù hợp với điều kiện và thực

tiễn xã hội Việt Nam. Qua những nội dung Thành Duy trình bày trong sách Về

chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, tác giả cũng chỉ ra một số nội dung mục tiêu

triết lý hành động Hồ Chí Minh, có điều chưa khái quát nội dung đó theo hướng

tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh.

- Về phương pháp hành động Hồ Chí Minh, trong sách Vĩ đại một con

người [20], Trần Văn Giàu khẳng định: “Ở Nguyễn, tri và hành thống nhất, sáng

tạo tư tưởng là sáng tạo trong thực tiễn công tác, thực tiễn chứng minh và bổ

sung tư tưởng, hai mặt không hề tách rời nhau” [20, tr.232]. Đánh giá này cho

thấy sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong hành động Hồ Chí Minh không

chỉ có ý nghĩa là nguyên tắc tối cao mà còn là phương pháp để vận dụng, sáng

Page 25: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

21

tạo, phát triển lý luận, làm phong phú lý luận. Điều này, đã được Trần Văn Giàu

đề cập trong sách Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh,

Hẳn Cụ Hồ là một người hành động, một nhà hành động xuất sắc,

song nhận ra như thế mà không nói rằng hành động của ông Hồ là

hành động thủy chung như nhất, tức là hành động theo một hệ thống

tư tưởng, chủ trương trước sau như một, thì đó là nói có một phần ông

Hồ mà quên phần chính, phần hồn, phần lý tính;… Hành động thực

tiễn xuất sắc chính là do lý luận tư tưởng đúng đắn [19, tr.10].

Ở Hồ Chí Minh, hành động theo một hệ thống tư tưởng là hành động cả

đời vì nước, vì dân, đó là mục tiêu hành động cốt lõi, quán xuyến mọi hành

động. Hay cũng nên hiểu hệ thống tư tưởng ấy không chỉ có mục tiêu mà bao

gồm cả nguyên tắc, phương pháp,… hình thành hệ thống lý luận để hành động

và đó là phần lý luận tư tưởng đúng đắn của Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định,

“có thể nói rằng từ Vương Dương Minh, qua Tôn Dật Tiên, đến Hồ Chí Minh

mới thấy có một điển hình của sự thống nhất giữa tri và hành, giữa lý luận và

thực tiễn” [19, tr.10].

Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo cho

rằng: “Hồ Chí Minh là người thấm nhuần sâu sắc quan điểm thực tiễn và lấy

hành động làm điều căn bản trong triết lý sống của mình” [3, tr.119]. Từ quan

điểm thực tiễn, Hồ Chí Minh bằng hành động để cụ thể hóa và thực chứng về thế

giới quan duy vật và phương pháp biện chứng mácxít trong cách mạng Việt

Nam. Tác giả khẳng định đó là thực hành triết học duy vật biện chứng vào đời

sống, vào thực tiễn cách mạng. Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh “nổi bật ở hành

động thực tiễn, ở sự thực hành phép biện chứng duy vật” [3, tr.160].

Hoàng Chí Bảo khẳng định sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong

tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh. “Người đã nhận đường từ tổng kết thực

tiễn,… lý luận thống nhất với thực tiễn, nhận thức để hành động” [3, tr.9]. Hơn

thế, “Hồ Chí Minh tổng kết thực tiễn vừa là thực hành lý luận vừa là khảo duyệt,

đánh giá lý luận, nâng cao lý luận bằng sức sống của thực tiễn đồng thời mở

Page 26: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

22

rộng và làm sâu sắc thêm bản chất của thực tiễn nhờ sức mạng của lý luận khoa

học và cách mạng” [3, tr.9]. Hoàng Chí Bảo khẳng định Hồ Chí Minh sớm nhận

ra cái đích, mục tiêu của mình là hành động, là thực hành sự lãnh đạo của lý

luận, Hồ Chí Minh thể hiện phương pháp trong hành động, bằng việc làm, và

“Người thực hành phép biện chứng trong cuộc sống, trong thực tiễn đấu tranh

cách mạng một cách thành thục” [3, tr.33].

Hồ Chí Minh luôn luôn chú trọng tính hữu ích thực tế, bất cứ việc gì dù

to hay nhỏ cũng phải xuất phát từ yêu cầu thực tế, thiết thực, có ích

không phù phiếm, khoa trương, hình thức,… Thực tiễn là điểm xuất phát

mà cũng là chỗ trở về, chỗ đi tới của mọi nhận thức [3, tr.136-137].

Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam

[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp còn chỉ ra, “Người là một con người có lòng

tin mãnh liệt ở nhân dân; có ý chí, nghị lực phi thường; có đầu óc thực tiễn, thiết

thực cụ thể, lý luận gắn liền với thực tiễn, nói đi đôi với làm” [16, tr.67].

“Nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, xuyên suốt, có ý nghĩa cơ sở xuất phát và

quyết định mọi nhận thức, tư duy của Hồ Chí Minh là quan điểm thực tiễn và

nguyên tắc thống nhất lý luận và thực tiễn” [16, tr.295].

Khi luận bàn về phương pháp hành động Hồ Chí Minh, trong các công

trình nghiên cứu, các tác giả đặc biệt quan tâm đến Dĩ bất biến ứng vạn biến như

là nguyên tắc, phương pháp luận hành động Hồ Chí Minh. Trong sách Tìm hiểu

phương pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo chỉ ra nó “là triết lý hành động,

phương châm công tác, cách ứng xử của Người” [3, tr.168]. Biểu hiện của nó là

“sự kết hợp giữa tính kiên định về nguyên tắc, lập trường, quan điểm với tính

linh hoạt về phương pháp, biện pháp, sách lược, mưu lược, mềm dẻo và uyển

chuyển trước mọi thay đổi của tình hình, sự kiện” [3, tr.168].

Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam

[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong khi luận bàn về phương pháp Hồ Chí

Minh, tác giả nhấn mạnh đến Dĩ bất biến ứng vạn biến, và khẳng định “nhiều tác

giả nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh cho “Dĩ bất biến ứng vạn biến” là nguyên

Page 27: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

23

tắc xem xét và hành động số một của Hồ Chí Minh trong giải quyết những vấn

đề chiến lược và sách lược” [16, tr.305]. Tác giả nhấn mạnh, Dĩ bất biến ứng vạn

biến là quan điểm, phương pháp cách mạng, khoa học, là sự vận dụng tổng hợp

các nguyên tắc, quy luật của phép biện chứng duy vật từ nguyên tắc khách quan,

toàn diện, lịch sử đến phát triển” [16, tr.306]. Và khẳng định “Dĩ bất biến ứng

vạn biến” không chỉ là một nguyên tắc cụ thể mà là phép biện chứng Hồ Chí

Minh, là phương châm xem xét và hành động đúng đắn, khoa học được Người

vận dụng, xử lý thành công trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh, mọi tình

huống” [16, tr.306].

Trong sách Triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí

Minh [25], tác giả Nguyễn Hùng Hậu cho rằng dĩ bất biến ứng vạn biến là đỉnh

cao phương pháp hành động Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định chữ dĩ nói lên

triết lý không phải để triết lý, mà triết lý phải dẫn đến làm, đến hành động. Đó là

triết lý và hành động, nói và làm, lý luận và thực tiễn liên hệ mật thiết với nhau,

không tách rời nhau. Đó chỉ có thể là triết lý sinh ra trong hoạt động thực tiễn,

không phải là lý luận suông, có tính tư biện. Đây là công trình nghiên cứu có

đánh giá sâu sắc về chữ dĩ với ý nghĩa triết lý để hành động, sinh ra trong hành

động, vạn biến trong hành động.

Từ những nghiên cứu, lập luận, tác giả nêu một số giải pháp vận dụng triết

lý Dĩ bất biến ứng vạn biến trong thời đại ngày nay. Xác định yếu tố bất biến

trong bối cảnh đất nước và quốc tế mới, cũng như những tác động của bối cảnh

đến những yếu tố bất biến để có lựa chọn thích hợp cho sự phát triển đất nước.

Về cơ bản, Dĩ bất biến ứng vạn biến trong tư tưởng, phương pháp hành

động Hồ Chí Minh được nhiều học giả, nhà nghiên cứu đề cập và khai thác ở

nhiều góc độ. Có thể thấy Dĩ bất biến ứng vạn biến khi là phương châm, là mục

tiêu hành động, có khi lại là nguyên tắc, phương pháp hành động. Nhiều nhà

nghiên cứu còn khẳng định Dĩ bất biến ứng vạn biến là phương pháp luận hành

động. Hay có quan điểm khẳng định Dĩ bất biến ứng vạn biến là đỉnh cao nghệ

thuật hành động Hồ Chí Minh. Điều đó không chỉ khẳng định tính khoa học,

Page 28: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

24

biện chứng cách mạng mà còn cho thấy sự tinh tế, sâu sắc, uyển chuyển đặc sắc

của tư duy phương Đông trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh. Về cơ bản,

các nhà nghiên cứu có quan điểm thống nhất với nhau và trong các nghiên cứu

không chỉ dừng lại xem xét Dĩ bất biến ứng vạn biến ở một góc độ mà thường ở

nhiều góc độ khác nhau, để khẳng định giá trị của Dĩ bất biến ứng vạn biến trong

di sản Hồ Chí Minh.

- Về hình thức biểu đạt triết lý Hồ Chí Minh, trong sách Tìm hiểu phương

pháp Hồ Chí Minh tác giả nhận định:

Triết lý cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh đã vượt ra khỏi câu chữ lời

văn của Người, càng không phải trên bề mặt câu chữ mà thấm sâu, ẩn

kín đằng sau, bên trong câu chữ ấy, hơn thế nữa nó thấm nhuần trong

hoạt động của Người giữa cuộc đời và trong dân chúng. Triết lý ấy

hàm súc, cô đọng, mang phong vị cổ điển của truyền thống phương

Đông “ý tại ngôn ngoại, hàm súc dư ba”. Hồ Chí Minh là nhà tư tưởng

lớn mà tư tưởng ở giữa hai dòng chữ. Nhà tư tưởng ấy vĩ đại, sống

động bởi tư tưởng và hành động đều xuất phát từ cuộc sống của dân,

vì dân mà sống, tranh đấu, yêu thương cho trọn đời [3, tr.193].

Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam

[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp nhận xét, đối với vấn đề phức tạp, lý luận sâu

sắc, thực tiễn cách mạng đa đạng, Người thường “đề cập một cách giản dị dễ

hiểu, gắn nguyên lý với hành động, lý luận với thực tiễn, gắn những nguyên lý

phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa văn hóa Việt Nam và văn hóa

phương Đông” [16, tr.63]. Nhận xét cho thấy hành động của Hồ Chí Minh luôn

có nguyên lý chỉ dẫn, là sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đồng thời khẳng

định, sự thống nhất giữa những nguyên lý phổ biến với hành động, với thực tiễn

ở Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện trên bề mặt mà còn là sự thống nhất trong

chiều sâu nền tảng văn hóa dân tộc. Điều này đem lại giản dị, dễ hiểu nhưng

không giản đơn mà sâu sắc, khoa học của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Page 29: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

25

Hoàng Chí Bảo nhận thấy sự biểu đạt triết lý hành động Hồ Chí Minh

chính ở “Nói và làm đi đôi với nhau, nhất quán từ lối sống đến hành động, trong

cả cuộc đời, đó là thước đo hàng đầu đối với đạo đức và nhân cách” [3, tr.11]

của Hồ Chí Minh. Tác giả khẳng định ở Hồ Chí Minh, “cái chủ yếu, cái đích vẫn

là hành động. Lời nói phục vụ cho hành động, dẫn tới hành động, qua hành động

mà thấy lời nói (ở đây là tư tưởng và phương pháp) chân xác đến đâu, có giá trị

và ý nghĩa tới mức nào” [3, tr.52]. Đồng thời chỉ rõ cái tạo nên sự nhất quán giữa

lời nói và việc làm, giữa tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh chính là “tất cả

phải hướng tới dân, vì quyền lợi của dân, hạnh phúc của dân” [3, tr.53]. Tác giả

chỉ ra:

Người chủ trương hành động là chủ yếu, nói ít làm nhiều, đã viết và

nói thì phải ngắn, gọn, rõ ràng, dễ hiểu, sao cho quần chúng hiểu

đúng để làm đúng. Chỉ nói và viết những khi cần thiết. Lấy kết quả và

tác dụng của những việc làm thiết thực mà thuyết phục dân chúng.

Đặc biệt là, Người luôn luôn nhấn mạnh lời nói phải đi đôi với việc

làm, phải nhất quán giữa động cơ và hành động, từ việc lớn tới việc

nhỏ, cái gì cũng phải rõ ràng, thấu đáo, cụ thể, có chương trình, biện

pháp, có kế hoạch và cách làm với bước đi hợp lý [3, tr.179].

Về vấn đề nói đi đôi với làm trong hành động Hồ Chí Minh, biểu đạt triết lý

hành động Hồ Chí Minh cũng được nhiều nhà nghiên cứu luận bàn. Trong sách

Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh [78], Bùi Đình Phong khẳng định:

Hồ Chí Minh luôn thống nhất giữa nói và làm. Triết lý sống của

Người là “ở đời và làm người”, tức là phải “thương nước, thương dân,

thương nhân loại bị đau khổ, áp bức”,… Tư tưởng và hành động của

Người là đem lại độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho mỗi

người và muôn người,… [78, tr.221- 222].

Quan điểm của Bùi Đình Phong tiếp tục khẳng định sự thống nhất giữa

nói và làm ở Hồ Chí Minh. Đồng thời, tác giả chỉ ra sự thống nhất giữa động lực

hành động và mục tiêu hành động trong nói và làm ở Hồ Chí Minh. Nó không

Page 30: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

26

chỉ dừng lại là nguyên tắc hành động mà tác giả xem nó như một nguyên tắc đạo

đức, đạo đức hành động Hồ Chí Minh. Đây cũng là quan điểm mà ta thấy trong

sách Minh triết Hồ Chí Minh [35], Vũ Ngọc Khánh đã đề cập.

Ta thường nói đến nguyên tắc: nói và làm đi đôi (ngôn hành hợp

nhất), nhắc ra để làm một lời khuyên bảo hay chỉ dẫn. Quần chúng

Việt Nam không xem đó là một sự chỉ dẫn, một sự nhắc nhở mà xem

là một nội dung đạo đức hẳn hoi. Những lý thuyết đạo đức nêu lên,

dẫn chứng thường không được bàn bạc tranh cãi xem giá trị lý luận

của nó như thế nào (họ không có trình độ và cũng không quen làm

việc đó). Nhưng họ cần thấy lý thuyết ấy đã được cụ thể hóa ra sao

trong hành vi, trong tư cách của con người [35, tr.13].

Và trong sách Luận bàn minh triết và minh triết Việt [27], Hoàng Ngọc

Hiến còn khẳng định mạnh mẽ hơn khi cho rằng: “Nói đi đôi với làm” là một giá

trị hằng hữu của minh triết Hồ Chí Minh” [27, tr.51]. “Những “tấm gương sống”,

những “người tốt” có sức thuyết phục hồn nhiên và sâu sắc vì họ là hiện thân của

công việc, của lao động, của thực hành, của “miệng nói tay làm”, của “nói ít làm

nhiều”, họ là sự hiện thân của minh triết Hồ Chí Minh” [27, tr.53].

- Về con đường hình thành triết lý, trong sách Vĩ đại một con người, Trần

Văn Giàu nhận thấy tri của Hồ Chí Minh cũng được hình thành theo cách riêng,

thông qua hoạt động yêu nước và cách mạng với đồng đội, đồng bào, đồng tâm

trên khắp thế giới, thông qua thực tiễn Hồ Chí Minh “tích lũy kinh nghiệm cá

nhân, quốc gia và quốc tế, từng vụ từng thời sơ kết, tổng kết kinh nghiệm, từ đó

nảy sinh tư tưởng, lý luận làm sáng tỏ thêm, làm phong phú thêm học thuyết

chứa đựng trong sách vở của các hiền triết tiền bối và của các nhà kinh điển chủ

nghĩa Mác - Lênin” [20, tr.231].

Trong sách Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh tác giả Hoàng Chí Bảo chỉ

ra, Hồ Chí Minh biết rõ nhận thức là một quá trình, phải trải qua hành động, bằng

hành động trong thực tiễn mới biết mình hay, dở ở chỗ nào, mạnh yếu ra sao để

không ngừng rút kinh nghiệm, sửa chữa, bổ sung làm cho mình mau chóng tiến bộ

Page 31: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

27

và dần trở nên hoàn thiện. “Lấy hành động làm lẽ sống nên Hồ Chí Minh đã lao

động và tranh đấu không mệt mỏi, đồng thời Người kiên trì học tập, bằng mọi con

đường tự học để thâu thái kiến thức, tích lũy vốn sống và tạo thành kinh nghiệm

tạo thành hiểu biết để hành động” [3, tr.178]. Những hiểu biết của Người được

tích lũy từ trong sách vở, nhưng đặc biệt quan trọng là tích lũy qua lao động và

thực tiễn đấu tranh. Lấy hành động làm điều căn bản trong triết lý sống của mình,

Hồ Chí Minh “biến mọi tri thức và kinh nghiệm thành phương pháp ứng xử và

hành động với một thái độ độc lập, tự chủ, sáng tạo, không bị cầm tù bởi giáo điều

sách vở, không chịu lệ thuộc vào những kết luận đã có trước, những lối mòn

khuôn sáo đã định hình” [3, tr.178]. Và hành động luôn lấy thực tiễn làm căn cứ

thì cũng không thể có gì là giáo điều, sách vở có thể tồn tại ở Hồ Chí Minh.

Trong sách Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam

[16], Đại tướng Võ Nguyên Giáp cho thấy thông qua thực tiễn phong phú, sinh

động làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh hình thành và phát triển ngày càng toàn

diện. “Nó là kết quả của sự tác động biện chứng giữa nhận thức và hành động, lý

luận và thực tiễn, vì vậy mà ngày càng tiếp cận với chân lý của cuộc sống” [16,

tr.66]. Thực tiễn hành động Hồ Chí Minh chỉ ra rằng không chỉ có sự thống nhất

giữa lý luận và thực tiễn mà còn là sự thống nhất giữa nhận thức và hành động,

nó nặng yếu tố chủ quan của con người, nó chứng tỏ lý luận được tiêu hóa, thấm

nhuần, biến thành hành động cụ thể.

Một số nội dung triết lý về động lực hành động, phát huy động lực hành

động Hồ Chí Minh được các nhà nghiên cứu đề cập, trong sách Tìm hiểu phương

pháp Hồ Chí Minh, Hoàng Chí Bảo chỉ ra, “Để hành động, Người còn chú trọng

xây dựng tổ chức, lực lượng, phát động thành phong trào thực tiễn và tự mình

làm gương trong những hành động kiểu mẫu” [3, tr.151]. Đây là những vấn đề

căn bản trong nội dung động lực hành động của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Muốn thống nhất hành động phải có lãnh đạo hành động. Có lãnh đạo rồi phải

triển khai trên thực tế, biến thành các phong trào hành động rộng lớn, thông qua

Page 32: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

28

các hình thức thi đua. Được làm gương, cũng như được nêu gương là một động

lực thúc đẩy hành động của con người.

Hay vấn đề Hồ Chí Minh nhận thức về thời đại, quy luật thời đại để hành

động, Phan Ngọc Liên trong sách Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động

cách mạng [55], cho rằng “Sự cống hiến của Hồ Chí Minh được thế giới công nhận,

một phần không nhỏ là do người đã đạt được sự thống nhất trong nhận thức về thời

đại và hành động theo xu thế chung, hợp quy luật của thời đại” [55, tr.62]. Đánh giá

khẳng định vai trò của nhận thức thực tiễn trong hành động cách mạng. Tuy không

trình bày sự thống nhất biện chứng giữa lý luận và thực tiễn hay là sáng tạo lý luận

trong chính thực tiễn hành động thành chương, mục, nhưng cuốn sách cho thấy tính

thống nhất biện chứng giữa nhận thức lý luận và hành động thực tiễn của Hồ Chí

Minh, cũng như khẳng định thực tiễn là cơ sở để Hồ Chí Minh hoàn thiện lý luận

của mình, phù hợp với xu thế chung, quy luật thời đại.

- Về giá trị tư tưởng, triết lý Hồ Chí Minh, hầu hết các sách, công trình

nghiên cứu về tư tưởng, triết lý, hay đề cập triết lý hành động Hồ Chí Minh đều có

nhận định, đánh giá về những giá trị, nêu phương hướng vận dụng vào công cuộc

xây dựng, đổi mới, hội nhập của đất nước hiện nay. Trong sách Triết lý “Dĩ bất

biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí Minh, sau khi phân tích về cái bất

biến, mối quan hệ giữa cái bất biến và cái vạn biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh,

tác giả dành Chương ba để phân tích về cái bất biến và cái vạn biến trong công

cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế hiện nay. Giá trị triết lý Dĩ bất biến ứng vạn

biến Hồ Chí Minh thể hiện ở mục tiêu: “Trong quá trình đổi mới phải kiên định

mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin

và tư tưởng Hồ Chí Minh” [25, tr.158]; là “Hội nhập nhưng không hòa tan, hội

nhập nhưng vẫn giữ độc lập tự chủ” [25, tr.163]; là kiên định “Phát triển nền kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế tổng quát của cả thời

kỳ quá độ” [25, tr.175].

Trong sách, Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn đề cốt yếu, khi bàn về

Triết lý phát triển xã hội của Hồ Chí Minh các tác giả khẳng định:

Page 33: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

29

Nội dung cơ bản của triết lý Hồ Chí Minh về phát triển xã hội, đặc biệt

là linh hồn của triết lý phát triển đó - kết hợp độc lập dân tộc với chủ

nghĩa xã hội nhằm phát triển theo hướng nhân văn, phát triển bền vững

- chính là quan điểm phát triển khoa học, đúng đắn và tiến bộ, phù hợp

với xu thế phát triển của thời đại ngày nay [74, tr.124].

Trong sách, Triết lý phát triển Hồ Chí Minh giá trị lý luận và thực tiễn, các

tác giả khẳng định: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh - cơ sở lý luận xác lập và

hoàn thiện triết lý phát triển Việt Nam hiện đại” [2, tr.226]. Những cơ sở lý luận

được các tác giả chỉ ra trước đó trong nội dung triết lý phát triển Hồ Chí Minh là

lý luận về mục tiêu trên ba phương diện cơ bản: phương diện vật chất - kinh tế;

phương diện chính trị; phương diện văn hóa - xã hội và con đường phát triển Việt

Nam: xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Lý luận về mô thức phát triển đất

nước, giữa phát triển đồng đều, toàn diện các mặt đời sống của xã hội Việt Nam

với xử lý mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại trong phát triển, cũng như

mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế trong triết lý phát triển

Hồ Chí Minh. Đây là những nội dung, giá trị nổi bật của triết lý phát triển Hồ Chí

Minh được các tác giả chỉ ra phương hướng vận dụng trong điều kiện phát triển

hiện nay của đất nước.

Tác giả luận án tổng quan một số công trình đánh giá về giá trị triết lý Hồ

Chí Minh nhằm có cơ sở, cũng như cách tiếp cận khi đánh giá triết lý hành động

Hồ Chí Minh về giá trị đối với dân tộc và thời đại của triết lý này.

Tóm lại, nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh chưa nhiều, các

nghiên cứu có đề cập triết lý hành động Hồ Chí Minh còn ở mức độ là những nét

vẽ đầu tiên chưa hoàn thiện. Trong các công trình nghiên cứu triết lý Hồ Chí

Minh, các tác giả có sự kế thừa kết quả của những công trình nghiên cứu trước

đó, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu làm rõ triết lý hành động Hồ Chí

Minh. Nhiệm vụ đặt ra trong nghiên cứu Triết lý hành động Hồ Chí Minh là tiếp

tục làm rõ cơ sở hình thành, chỉ ra bản chất, nội dung cơ bản, giá trị và ý nghĩa

thời đại của triết lý.

Page 34: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

30

1.4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA CHO LUẬN ÁN

1.4.1. Kết quả các công trình nghiên cứu đạt được

Qua tìm hiểu, đánh giá kết quả nghiên cứu của những công trình được công

bố có đề cập đến triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh, tác

giả luận án nhận thấy các công trình nghiên cứu đã đề cập những vấn đề sau:

Thứ nhất, qua các công trình, các tác giả cơ bản thống nhất khái niệm

triết lý, triết lý Hồ Chí Minh, triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Bước đầu tìm

hiểu mối quan hệ giữa triết học và triết lý Hồ Chí Minh, mối quan hệ giữa

triết lý hành động Hồ Chí Minh với các triết lý khác của Hồ Chí Minh. Không

trình bày cụ thể, nhưng các công trình đều đánh giá mối quan hệ giữa triết lý,

triết học hay các triết lý với nhau trên cùng một cấp độ là nghiên cứu tư tưởng

Hồ Chí Minh.

Thứ hai, các nhà nghiên cứu khẳng định Hồ Chí Minh có nhiều triết lý

như triết lý phát triển, triết lý về dân, triết lý nhân sinh, triết lý đạo đức, triết lý

giáo dục,… và khẳng định có triết lý hành động Hồ Chí Minh. Ở Hồ Chí Minh,

triết lý về mọi vấn đề được thể hiện bằng hành động cụ thể, hình thành nên triết

lý hành động, thông qua triết lý hành động Hồ Chí Minh để biểu đạt cho các triết

lý khác. Triết lý hành động Hồ Chí Minh hòa quyện trong các triết lý khác.

Thứ ba, các nhà nghiên cứu nhận định triết học Mác - Lênin là nền tảng

cơ bản hình thành triết lý Hồ Chí Minh. Các nhà nghiên cứu thống nhất, Hồ Chí

Minh là nhà triết học thực hành. Người vận dụng các nguyên lý, quy luật, các

cặp phạm trù triết học Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam theo cách

người Việt Nam, người phương Đông, thực hiện cải tạo và phát triển xã hội theo

đúng tinh thần Mác - Lênin, hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Thứ tư, các công trình nghiên cứu khẳng định có triết lý hành động Hồ

Chí Minh, nêu ra một số khía cạnh nội dung, biểu hiện của hình thức, mối quan

hệ của triết lý hành động với các phạm trù đạo đức, nhân văn,… hay mối quan

hệ giữa triết lý hành động với triết lý phát triển Hồ Chí Minh nhưng chưa đầy đủ

và chỉ đặt trong mục tiêu nghiên cứu nội dung khác.

Page 35: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

31

Thứ năm, các công trình nghiên cứu khi đề cập đến triết lý Hồ Chí Minh,

vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm và tần suất xuất hiện nhiều là: triết lý

về dân, triết lý thân dân, mục tiêu hành động là giải phóng nhân dân, giải phóng

con người, giải phóng xã hội; lý luận gắn liền với thực tiễn là nguyên tắc tối cao,

là cái đích cho hành động; lời nói đi đôi với việc làm là một trong những nội

dung thể hiện đặc trưng phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh; dĩ bất biến ứng

vạn biến là nguyên tắc xem xét hành động số một, đỉnh cao phương pháp hành

động Hồ Chí Minh. Đây là những vấn đề sẽ được tác giả luận án luận giải từ góc

độ tiếp cận triết lý hành động Hồ Chí Minh.

1.4.2. Những vấn đề đặt ra cho Luận án tiếp tục nghiên cứu

Trên cơ sở kết quả các nghiên cứu, các gợi ý, luận án tiếp thu, kế thừa và

tiếp tục nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh trên một số nội dung sau:

Thứ nhất, tiếp thu và trình bày hệ thống các khái niệm liên quan đến triết

lý, triết lý hành động Hồ Chí Minh. Hình thành khái niệm Triết lý hành động Hồ

Chí Minh. Khẳng định Triết lý hành động Hồ Chí Minh là cơ sở để xác định nội

dung mục tiêu, động lực, phương pháp hành động cho các triết lý khác của Hồ

Chí Minh, đồng thời cũng là phương pháp cơ bản để biểu đạt cho các triết lý của

Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng.

Thứ hai, luận án nghiên cứu tìm hiểu cơ sở hình thành, xác định bản chất

triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Thứ ba, từ các gợi ý, lập luận trong các công trình nghiên cứu về thống

nhất giữa lý luận và thực tiễn, về nói đi đôi với làm, về dĩ bất biến ứng vạn

biến,… tác giả luận án tiếp tục nghiên cứu làm rõ nội dung triết lý hành động Hồ

Chí Minh, các vấn đề về mục tiêu, động lực, phương pháp hành động trong nội

dung triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Thứ tư, từ xác định cơ sở hình thành, bản chất, nội dung cơ bản, luận án

xác định giá trị đối với dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Page 36: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

32

Tiểu kết Chương 1

Tổng quan tình hình nghiên cứu cho thấy, nghiên cứu triết lý, triết lý Hồ

Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh đã đạt được một số kết quả bước đầu.

Các nhà nghiên cứu thống nhất có triết lý hành động Hồ Chí Minh. Triết lý này

thể hiện trong các bài viết, bài nói, hành động của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc

đời hoạt động cách mạng. Trong các công trình, các nhà nghiên cứu chỉ nêu ra

một hoặc một số khía cạnh nội dung của triết lý hành động Hồ Chí Minh, không

có công trình nào lấy triết lý hành động Hồ Chí Minh làm đối tượng nghiên cứu.

Tiếp cận nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh, luận án chỉ ra một số nội

dung của triết lý đã được các công trình đề cập, trên cơ sở đó đánh giá kết quả

các công trình nghiên cứu đạt được và những vấn đề đặt ra cho luận án tiếp tục

nghiên cứu. Tổng quan tình hình nghiên cứu là cơ sở để luận án hoàn thành mục

đích, nhiệm vụ nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Page 37: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

33

Chương 2

KHÁI NIỆM, CƠ SỞ HÌNH THÀNH,

BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

2.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM

2.1.1. Khái niệm “Triết học”

Triết học là thuật ngữ có gốc xuất phát từ tiếng Hy Lạp, chữ Philosophia

có nghĩa là yêu mến sự thông thái, anh minh. Theo truyền thuyết, Pythagoras là

người đầu tiên sử dụng khái niệm triết học, nhưng ở thời kỳ này các nhà triết học

không gọi học thuyết của mình là triết học mà gọi là sử học. Đến thế kỷ IV trước

công nguyên, các học trò của Socrates mới sử dụng danh từ triết học. Trong quá

trình phát triển của khoa học triết học, ở phương Tây và phương Đông, triết học

được dùng với nghĩa phổ biến là môn khoa học nghiên cứu những vấn đề chung

nhất của tự nhiên, xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói chung,

của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Triết học cung cấp thế

giới quan và phương pháp luận tổng quát cho các khoa học khác.

Về hình thức, triết học là một dạng đặc biệt của ý thức và nhận thức, được

thể hiện bằng một hệ thống các nguyên lý, quan điểm có tính trừu tượng, tính

khái quát hóa cao với logic nội tại tương đối chặt chẽ. Nó là hệ thống tri thức về

những cơ sở và những nguyên tắc cơ bản của quan hệ giữa con người với tự

nhiên, xã hội và đời sống tinh thần, là sự biểu thị một kiểu nhận thức duy lý đặc

biệt về hệ thống những vấn đề cơ bản của tồn tại người. “Triết học một trong

những hình thái ý thức xã hội, hệ thống các quan điểm chung nhất của con người

về thế giới và sự nhận thức thế giới ấy” [41].

Tuy nhiên, cùng là nghiên cứu về triết học nhưng triết học phương Tây

chú ý đến sự mạch lạc của hệ thống lý luận, chú ý đến nhận thức thế giới xung

quanh, tìm những hiểu biết về thế giới xung quanh, tìm chân lý ở bên ngoài con

người bằng suy luận logic và thực nghiệm, thí nghiệm khoa học còn triết học

Page 38: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

34

phương Đông, nổi bật là triết học Trung Quốc và Ấn Độ, là triết lý của đời sống,

là đạo sống của con người.

Ngay từ khi ra đời, triết học đã phân làm hai phe đối lập nhau là chủ nghĩa

duy vật và chủ nghĩa duy tâm, sự đấu tranh giữa hai phe làm cho triết học phát

triển. Cùng với sự phát triển của triết học, hay đúng hơn là sự phát triển của

phương pháp tư duy về thế giới và con người của hai phe làm cho sự mâu thuẫn

giữa hai phương pháp tư duy biện chứng và tư duy siêu hình ngày càng đối lập.

Cuộc đấu tranh của giữa hai trường phái thể hiện tính tiến bộ, của lực lượng tiến

bộ, giai cấp tiến bộ, đặc biệt trong nhận thức về quy luật phát triển xã hội.

Theo Ph.Ăngghen, vấn đề cơ bản của mọi triết học là vấn đề quan hệ giữa

tư duy và tồn tại, ý thức và vật chất. Khi đề cập đến vấn đề cơ bản của triết học,

hai câu hỏi lớn luôn được các nhà triết học đặt ra là: Giữa tư duy và tồn tại, ý

thức và vật chất, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định? Tư duy

của con người có thể nhận thức được thế giới hiện thực hay không? Tùy theo

cách giải đáp hai câu hỏi đó mà các nhà triết học đặt mình vào trường phái duy

vật hay duy tâm, khả tri hay bất khả tri.

Đồng thời với sự phát triển lực lượng sản xuất, sự mâu thuẫn ngày càng lớn

trong quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối triết học mácxít đã ra đời. Sự ra đời

của triết học mácxít góp phần quyết định lý giải nguyên nhân các mâu thuẫn xã

hội và chỉ ra con đường, quy luật tất yếu đi đến xóa bỏ những mâu thuẫn đó.

Triết học mácxít ra đời trên cơ sở kế thừa những di sản quý báu trong

lịch sử phát triển của triết học và văn minh nhân loại, trên cơ sở khái

quát thực tiễn xã hội hiện đại, là triết học duy vật biện chứng - khoa

học về những mối liên hệ phổ biến và các quy luật vận động và phát

triển chung nhất của cả tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết học mácxít là

thế giới quan, đồng thời là vũ khí lí luận của giai cấp vô sản trong

cuộc đấu tranh giải phóng bản thân và giải phóng những người lao

động khỏi áp bức và bóc lột [41, tr.585].

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy vũ khí lý luận,

nhận ra con đường để giải phóng và phát triển dân tộc. Thế giới quan, nhân sinh

Page 39: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

35

quan Hồ Chí Minh là duy vật biện chứng. Nền tảng cơ bản tư duy triết học Hồ

Chí Minh là triết học mácxít - vũ khí lý luận của chiến sĩ cách mạng vô sản Hồ

Chí Minh. Nghiên cứu triết lý hành động Hồ Chí Minh phải thấy rõ lập trường,

quan điểm triết học mácxít trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh.

2.1.2. Khái niệm “Triết lý”

Ở phương Tây, châu Âu, do những điều kiện hình thành nền văn minh cổ

đại, để tồn tại và phát triển con người phải khắc chế, chinh phục tự nhiên. Khám

phá khoa học và phát triển kỹ thuật là những vấn đề được quan tâm hàng đầu,

đóng vai trò quyết định cho sự phát triển xã hội. Khoa học và tính duy lý khoa

học đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội. Đặc điểm này tác động đến mọi

loại hình tư duy và bản thân các nhà triết học chính là các nhà khoa học, nhà bác

học. Triết học gắn liền với những thành tựu khoa học, đặc biệt khoa học tự nhiên

như vật lý, toán học, thiên văn học,... Trong buổi đầu hình thành và phát triển,

triết học đóng vai trò quan trọng cho sự khám phá, tìm tòi của các ngành khoa

học khác. Ảnh hưởng của nó dẫn đến quan niệm coi triết học như khoa học về

các quy luật chung nhất cho sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy con

người, khoa học của mọi khoa học.

Quá trình hình thành các nền văn minh cổ đại, tùy theo điều kiện địa lý

- tự nhiên, mỗi nền văn minh có những đặc điểm văn hóa, xã hội khác nhau.

Sự khác biệt về điều kiện, hoàn cảnh sống dẫn tới sự khác biệt trong lối tư

duy, ứng xử và hành động. Nếu như tư duy của người phương Tây lấy sự vật,

hiện tượng trong tự nhiên làm đối tượng để khám phá, tìm hiểu, tìm chân lý ở

bên ngoài con người bằng suy luận logic và thực nghiệm khoa học thì ngược

lại người phương Đông lấy suy nghĩ và hành động của con người làm đối

tượng, mọi hành động đều hướng vào con người làm thay đổi cách suy nghĩ,

ứng xử và hành động của con người. Tư duy của người phương Tây thiên về

logic chặt chẽ, khoa học thực nghiệm hướng vào các sự vật, hiện tượng bên

ngoài con người. Còn tư duy của người phương Đông thường là triết lý về đời

sống, đạo sống của con người. Tư duy phương Tây thiên về lý tính, còn tư

duy phương Đông nặng về cảm tính, trực giác.

Page 40: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

36

Có thể phần nào lý giải điều này, bởi điều kiện địa lý - tự nhiên của các

nền văn minh cổ đại phương Đông khá thuận lợi cho cuộc sống của con người.

Vấn đề của xã hội phương Đông không phải là khắc chế, chinh phục tự nhiên mà

là vấn đề quan hệ giữa người với người. Xử lý mối quan hệ con người với con

người trong tập thể, cộng đồng hướng tới sự cố kết gắn bó để cùng nhau sản xuất

và chiến đấu. Người phương Đông, về cơ bản sống hài hòa với tự nhiên, thuận

theo tự nhiên. Vì thế, đặc trưng nổi bật trong xử lý mối quan hệ của con người là

những suy ngẫm về các mối quan hệ giữa người với người hằng ngày, những vấn

đề về luân lý, đạo đức, nghệ thuật,... chứ không phải là xử lý mối quan hệ giữa

con người với tự nhiên.

Từ những đặc trưng của điều kiện sống mà sự hình thành nền văn minh

phương Đông khác với phương Tây. Văn minh phương Tây đánh giá mối quan

hệ giữa con người với con người cơ bản là bình đẳng, chỉ trong mối quan hệ với

tự nhiên con người mới thể hiện vai trò làm chủ và chinh phục. Lấy sự vật, hiện

tượng tự nhiên làm đối tượng nghiên cứu, các nhà khoa học phương Tây mong

muốn mở rộng hiểu biết của con người về vạn vật xung quanh.

Triết học phương Tây được xem xét dựa vào các tri thức khoa học, những

khám phá về tự nhiên, vạn vật tồn tại trong thế giới. Hệ quả của nó là nhiều kết

quả nghiên cứu trong thời đại này phải đến những thời đại sau mới được công

nhận và sử dụng, cũng có những kết quả nghiên cứu hiện vẫn còn là câu hỏi chưa

có lời giải. Cũng như triết học phương Tây nhiều khi là khá trừu tượng so với tư

duy triết học phương Đông. Phương Đông lấy con người làm đối tượng, làm

trọng tâm nghiên cứu nên biết không chỉ để biết, mà biết để làm ngay, điều chỉnh

ngay mối quan hệ, hành vi xã hội của con người. Thậm chí, ngay trong cái cần

biết, cái hướng tới cũng là cái để nhằm điều chỉnh hành vi con người, ứng xử

giữa người với người, giải quyết cụ thể một mối quan hệ trong xã hội.

Đây là lý do mà cùng một thuật ngữ philosophia khi dịch ra tiếng Việt hay

tiếng Trung Quốc thành triết học như môn triết học, khoa triết học, trường phái

triết học,… nhưng bên cạnh thuật ngữ triết học còn có thuật ngữ triết lý.

Page 41: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

37

Trong Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ do Hoàng Phê chủ biên [77],

triết lý được hiểu theo ba nghĩa: là lý luận triết học, quan niệm chung của con

người về những vấn đề nhân sinh và xã hội, thuyết lý về những vấn đề nhân

sinh và xã hội. Còn trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam [49] định nghĩa triết lý

theo kiểu chiết tự: triết là sự sáng suốt, lý là lẽ, lý lẽ, ví dụ, lý luận về triết học.

Như vậy có thể hiểu triết lý là lý lẽ sáng suốt phù hợp với quy luật của tự

nhiên, xã hội. Trong Đại từ điển tiếng Việt [96] triết lý được coi là lý luận triết

học và còn được hiểu là quan niệm chung và sâu sắc nhất của con người về

những vấn đề nhân sinh và xã hội,… Các cách định nghĩa này đúng về một

khía cạnh nào đó của triết lý nhưng vẫn không làm thỏa mãn những đòi hỏi cần

lý giải của các nhà khoa học. Vì vậy, khi nghiên cứu về triết lý có nhiều cách

hiểu, cách lý giải khác nhau.

Trong các công trình nghiên cứu, các nhà khoa học Việt Nam có những

cách lý giải khá phong phú về khái niệm triết lý. Trần Văn Giàu cho rằng, “triết

lý chủ yếu hướng về đạo lý; hướng về đạo lý, chứ không chỉ là đạo lý. Nó chủ

yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay chăng, chứ không đặt vấn đề đúng hay sai,

phải hay không phải” [74, tr.20-21]; hay Vũ Khiêu quan niệm: “Triết lý là triết

học khiêm tốn nói về mình.” [74, tr.21]; còn Hoàng Trinh quan niệm, “Triết lý là

những nguyên lý đầu tiên, những ý tưởng cơ bản” [74, tr.21-22]. Quan niệm về

triết lý của các nhà khoa học luôn đặt trong mối quan hệ với triết học. Ngay

trong cách hiểu về triết lý, nói về triết lý dù không đề cập đến khái niệm triết học

thì bóng dáng của triết học vẫn còn tồn tại, vẫn như khẳng định mối quan hệ của

triết học và triết lý.

Khái niệm triết lý ở mức độ độc lập nhất được hiểu là những luận điểm,

mệnh đề, kết quả của sự suy ngẫm, chiêm nghiệm về những hoạt động thực tiễn

rất đa dạng của con người trong xã hội. Triết lý sinh ra trong tư tưởng, trong sự

suy ngẫm, đúc kết, tổng kết những điều cơ bản nhất về các mối quan hệ trong

đời sống của cộng đồng xã hội. Với tư cách là những luận điểm, mệnh đề nhằm

điều chỉnh hành vi của con người trong xã hội, triết lý tất yếu phản ánh tính giai

cấp. Bởi “trong xã hội có giai cấp không thể nào có một khoa học xã hội vô tư,

Page 42: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

38

và tính chất tiến bộ hay lạc hậu, phản động của khoa học xã hội tùy thuộc ở việc

phục vụ giai cấp nào” [55, tr.130]. Hay nói khác, bất kể triết lý nào, học thuyết

triết học nào nhằm điều chỉnh nhận thức, hành vi con người trong hoạt động xã

hội cũng phản ánh quan điểm giai cấp, ý thức, hệ tư tưởng của một giai cấp nhất

định, hiện thực khách quan của đời sống xã hội trong một giai đoạn nhất định.

Nghiên cứu về triết học hay triết lý vì thế xét đến cùng là nghiên cứu về tư

tưởng. Có khác chăng chính là ở phương cách tiếp cận, nhu cầu tìm hiểu vấn đề,

cách thức biểu hiện vấn đề của xã hội, của chủ thể sản sinh ra nó. Và như thế,

chúng ta nên thừa nhận rằng: “Nếu triết học thế giới thực sự tồn tại, thì chỉ tồn

tại dưới hình thức kế thừa, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các hành vi, kết quả,

phương pháp và phong cách triết lý độc đáo, không lặp lại, bao giờ cũng nằm

trong bối cảnh văn hóa dân tộc, khu vực, lịch sử độc đáo” [31, tr.55]. Chính trên

cùng một cấp độ là nghiên cứu về tư tưởng mà thấy rõ mối quan hệ qua lại giữa

triết học và triết lý. Trên mỗi khía cạnh của mối quan hệ, trước - sau, chi phối -

hay không chi phối, mà hình thành nên những đặc trưng của triết lý, triết học đó.

Và “Mỗi nền triết học đều có thể có những đóng góp quý giá của mình cho việc

xây dựng hệ giá trị chung nhân loại như những định hướng thế giới quan của loài

người” [31, tr.44].

Bối cảnh văn hóa, dân tộc, khu vực quy định tính không lặp lại của triết

học hay triết lý, đồng nghĩa với việc triết học và triết lý không ngừng phát triển,

nó luôn luôn được bổ sung bằng những cơ sở thực tiễn mới, những thành tựu

khoa học mới. Trong xã hội hiện đại, một dân tộc, một quốc gia hay một cá nhân

có thể không xây dựng hệ thống quan điểm triết học của mình nhưng luôn đứng

trên một triết thuyết nhất định để xây dựng các triết lý của mình. Điều này hoàn

toàn đúng với trường hợp Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh không chỉ biết đến triết

học Mác - Lênin mà Người còn nghiên cứu nhiều trường phái triết học, tư tưởng

triết học, có tư tưởng triết học, nhưng không bàn về, nghiên cứu về triết học với

tính chất hệ thống và logic mà chủ yếu hình thành các triết lý. Các triết lý Hồ

Chí Minh sống động hơn, thực tiễn hơn trong sự nghiệp cách mạng, định hướng

ngay cho hành động cách mạng.

Page 43: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

39

Trong triết lý Hồ Chí Minh không chỉ có những tinh túy triết lý Việt Nam,

phương Đông, phương Tây mà còn có cả những tinh túy của triết học Mác -

Lênin. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh cho thấy Hồ Chí Minh thâu thái tất cả

những gì hữu ích cho lý tưởng đấu tranh giành độc lập, tự do, những gì phù hợp

cho phát triển xã hội Việt Nam trên nền tảng cơ bản và chủ đạo là phương pháp,

tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin. Nghiên cứu triết lý Hồ Chí Minh hay nghiên cứu

tư tưởng triết học Hồ Chí Minh chính để làm sáng tỏ những giá trị của di sản tư

tưởng Hồ Chí Minh theo những hướng tiếp cận khác nhau.

Tóm lại, từ những quan điểm về triết lý, cùng với những luận giải trên, có

thể hiểu: Triết lý là những mệnh đề được cô đúc từ sự trải nghiệm, chiêm nghiệm

của con người mang tính hướng về đạo lý trong quan hệ giữa con người với con

người, con người với tự nhiên, con người với xã hội, trở thành phương châm

sống và hành động của con người.

Với cách hiểu triết lý như trên, cho thấy mối quan hệ giữa triết lý với triết

học được xem xét là những bộ phận, những cách thể hiện khác nhau của tư

tưởng. Triết học ở mức độ nào đó thể hiện một nội dung tư tưởng theo cách có

hệ thống, lớp lang chặt chẽ. Ngược lại triết lý thể hiện nội dung tư tưởng ở mức

độ cô đúc, khái quát sâu sắc. Cách hiểu này lý giải cho việc nghiên cứu triết lý

luôn đặt trong mối quan hệ với triết học. Mối quan hệ giữa triết lý và triết học

cần phải được xem như hai mặt của một vấn đề, hai hình thức quan trọng thể

hiện tư tưởng.

2.1.3. Khái niệm “triết lý hành động Hồ Chí Minh”

Khi nghiên cứu về tư tưởng, phương pháp, phong cách cũng như sự

nghiệp Hồ Chí Minh, các nhà khoa học khẳng định tư duy Hồ Chí Minh là tư

duy cách mạng được hình thành sớm. Chính vì vậy, ngay từ khi chưa biết đến

chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước,

đến nơi sinh ra của khẩu hiệu Tự Do - Bình Đẳng - Bác Ái. Bằng hành động cụ

thể của mình, Người tìm hiểu, lý giải cho những vấn đề đặt ra trong tư duy, trả

lời cho những mâu thuẫn trong thực tế của xã hội.

Page 44: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

40

Trong hoạt động tìm đường cứu nước và lãnh đạo cách mạng Việt Nam,

Hồ Chí Minh trở thành nhà lý luận. Lý luận cách mạng được Hồ Chí Minh thể

hiện trong hành động, bằng hành động để nói lên lý luận. Vì vậy, nhiều người

nhà nghiên cứu khẳng định Hồ Chí Minh là nhà lý luận hành động, nhà triết học

ứng dụng, triết học hành động.

Hồ Chí Minh nghiên cứu triết học, lý luận cổ, kim, Đông, Tây nhằm mục

đích vận dụng, sáng tạo sao cho phù hợp với hoàn cảnh cách mạng Việt Nam,

giành độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân, làm cho đồng bào ai cũng có

cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Mọi hành động của Hồ Chí Minh luôn

ăn nhập với triết học. Cả cuộc đời hoạt động cách mạng hết sức phong phú là

quá trình Người thực hành các nguyên lý, quy luật nhằm cải tạo và phát triển xã

hội theo tinh thần triết học Mác - Lênin. Hành động của Người mang đặc điểm

triết lý truyền thống dân tộc nhưng được bổ sung, phát triển bằng triết lý hành

động của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hồ Chí Minh nhận xét: “Nếu đưa một lý luận rất đúng ra nói, rồi xếp nó

lại một xó, không đưa ra thực hành, thì lý luận ấy thành lý luận suông” [64,

tr.127]. Nghiên cứu lý luận không chỉ dừng lại ở nhận thức, chiêm ngưỡng mà

điều cốt yếu là phải chuyển thành hành động. Hồ Chí Minh khẳng định: “Lý luận

sở dĩ quan trọng là vì nó dạy ta hành động” [64, tr.127]. Để hành động, con

người nói chung và đặc biệt với người làm cách mạng nói riêng cần có sự soi

sáng của lý luận. Hồ Chí Minh gắn lý luận với thực tiễn một cách nhuần nhuyễn,

thực tiễn hóa lý luận và lý luận hóa thực tiễn. Thực tiễn là cái cuối cùng duy nhất

kiểm tra tính đúng đắn của tư tưởng. Chính hoạt động thực tiễn nói lên tư tưởng.

Đồng chí Phạm Văn Đồng nhận định: “Hồ Chủ tịch bao giờ cũng khái quát lý

luận từ trong thực tiễn. Do đó, Người không chỉ vận dụng sáng tạo chủ nghĩa

Mác - Lênin mà còn phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin một

cách thiết thực” [13, tr.23].

Hồ Chí Minh thấm nhuần sâu sắc quan điểm lịch sử cụ thể và chú trọng

hành động thực tiễn. Người luôn chủ trương hành động và bằng hành động để

cải tạo thực tiễn, nói luôn đi đôi với làm, thậm chí nói ít làm nhiều. Bản thân Hồ

Page 45: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

41

Chí Minh là một tấm gương thuyết phục, là người truyền lửa hành động, người

đi thức tỉnh quần chúng công nông, thức tỉnh các tâm hồn người nô lệ, bị áp bức,

bóc lột. Người làm cho quần chúng noi theo vì kết quả và tác dụng từ những việc

làm thiết thực của tấm gương sống là minh chứng mạnh mẽ. Trong hành động,

Hồ Chí Minh cho thấy sự nhất quán giữa động cơ với hành động, từ việc lớn đến

việc nhỏ, từ việc gần đến việc xa tất cả đều rõ ràng, thấu đáo, cụ thể, có kế

hoạch, chương trình, biện pháp, cách làm với bước đi hợp lý. Hành động của Hồ

Chí Minh không chỉ nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trước mắt, những đòi

hỏi bức thiết của cách mạng mà còn là những trù tính, dự liệu cho tương lai phát

triển của dân tộc.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh trên mọi lĩnh vực luôn đặt vị trí của dân

lên trên hết, xem lực lượng của dân là quan trọng nhất, dân quyết định sự tồn

vong của đất nước, sự phát triển của phong trào cách mạng. Dân là chủ của nước

và là chủ xã hội, là chủ vận mệnh của chính mình. Từ đó, đặt ra trách nhiệm của

Đảng và Nhà nước trong mọi hành động đối với dân, phải được lòng dân, luôn

yêu dân, tin dân, kính dân, đặt quyền lợi của dân lên trên hết thảy, phải có tinh

thần chí công vô tư, phải làm lợi cho dân, tránh việc có hại đối với dân.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh được biểu hiện bằng nhiều hình thức

khác nhau. Chủ yếu nhất là qua những hoạt động thực tiễn, cùng với một số bài

viết, bài nói của Người. Chúng ta còn thấy triết lý hành động Hồ Chí Minh thể

hiện qua các tác phẩm thơ ca, ký họa, qua tác phong, phong cách, lối sống, thái

độ, cử chỉ, cách đối nhân xử thế của Người. Với những hình thức cụ thể của

hành động đều toát lên triết lý uyên sâu, tinh tế rất riêng của một tâm hồn có cốt

cách, truyền thống mà hiện đại, yêu nước mà rất cộng sản, bình dị mà vô cùng vĩ

đại - Hồ Chí Minh.

Di sản Hồ Chí Minh để lại cho dân tộc là vô cùng phong phú, cả di sản

thành văn cũng như không thành văn. Nếu như giới nghiên cứu, những nhà lý

luận, chính trị biết đến Hồ Chí Minh, khai thác tư liệu về Hồ Chí Minh qua

những tài liệu thành văn và không thành văn, thì đại bộ phận nhân dân biết đến

Hồ Chí Minh chủ yếu qua những tài liệu không thành văn, qua câu chuyện kể từ

Page 46: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

42

những người được tiếp xúc, làm việc với Hồ Chí Minh, qua những hành động

thực tiễn, cụ thể của Hồ Chí Minh mà mình có cơ hội được chứng kiến. Nguồn

tư liệu không thành văn phong phú hơn, lặp đi lặp lại nhiều lần và chứa đựng

những nội dung sâu sắc hơn rất nhiều so với những tài liệu thành văn. Đó là

những hoạt động cụ thể, những sự kiện, những lần tiếp xúc trực tiếp của Hồ Chí

Minh với nhân dân; những câu chuyện, hồi tưởng của những người có cơ hội

được làm việc với Người, những người may mắn và có vinh dự được gặp gỡ

Người. Qua đó nó đi thẳng vào lòng người, đọng lại trong trái tim, khối óc của

quần chúng và được lưu giữ, truyền bá trong đời sống tinh thần của nhân dân, trở

thành một bộ phận, một giá trị của văn hóa dân tộc.

Tóm lại, triết lý hành động Hồ Chí Minh là những mệnh đề được cô đúc,

khái quát sâu sắc từ những hành động của Hồ Chí Minh, thể hiện mục tiêu, động

lực, phương pháp hành động trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp độc lập của dân

tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân và phát triển của đất nước.

Với cách hiểu khái niệm như trên, triết lý hành động Hồ Chí Minh được

tiếp cận ở phạm vi rộng nhất, với tính cách là một chỉnh thể, một đối tượng

nghiên cứu độc lập và chỉ ra những nội dung cơ bản của triết lý hành động Hồ

Chí Minh.

Thứ nhất, triết lý hành động Hồ Chí Minh là những mệnh đề được cô đúc,

khái quát sâu sắc từ những hành động, việc làm của Hồ Chí Minh thể hiện mục

tiêu, động lực, phương pháp hành động cách mạng của Hồ Chí Minh.

Thứ hai, triết lý hành động Hồ Chí Minh vì sự nghiệp độc lập của dân tộc,

tự do, hạnh phúc của nhân dân và phát triển của đất nước, sự nghiệp vĩ đại đó là

duy nhất, sự thể hiện các mệnh đề, các khái quát của Hồ Chí Minh xuyên suốt,

thống nhất trong cả sự nghiệp, do đó có thể sắp xếp các mệnh đề triết lý thành hệ

thống với những nội dung tương đối chỉnh thể để hiểu rõ hơn giá trị triết lý hành

động Hồ Chí Minh.

Thứ ba, triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện chủ yếu qua hành động,

việc làm trong sự nghiệp cách mạng, trong thực tế dẫn dắt, rèn luyện đội ngũ

cán bộ, đảng viên, vì thế để hiểu rõ triết lý cần khai thác toàn bộ di sản thành

Page 47: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

43

văn cũng như không thành văn của Hồ Chí Minh trong suốt cuộc đời hoạt động

cách mạng.

Thứ tư, nội dung triết lý thể hiện mục tiêu, động lực, phương pháp hành

động Hồ Chí Minh vì thế không nằm ngoài việc thể hiện tư tưởng Hồ Chí Minh,

làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh, ở mức độ là triết lý nó phản ánh cô đúc và khái quát

sâu sắc giá trị tư tưởng trên những nội dung này. Từ những triết lý nhất định, có

thể mở rộng nội dung để hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh, nhưng không phải tư tưởng

nào của Hồ Chí Minh cũng là triết lý, thể hiện thành triết lý. Triết lý hành động Hồ

Chí Minh thống nhất với tư tưởng, thuộc loại triết lý giải phóng và phát triển.

2.2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

2.2.1. Cơ sở khách quan

2.2.1.1. Triết lý hành động trong truyền thống tư tưởng - văn hóa Việt Nam

Điều kiện ra đời, xuất hiện nền văn hóa, văn minh ở mỗi khu vực trên thế

giới quyết định đến phong cách sống, lối tư duy, phương thức tổ chức xã hội của

chính những con người sinh ra trên mảnh đất đó. Mỗi nền văn hóa, văn minh khác

nhau yêu cầu con người phải có phương pháp hành động riêng, phù hợp với điều

kiện tự nhiên, phù hợp với lối sống và cách tư duy của cộng đồng xã hội nơi đó.

Trong điều kiện sinh tồn của mình, tư duy truyền thống của người Việt Nam thường

thiên về thể hiện kinh nghiệm, sự chiêm nghiệm về một vấn đề cụ thể, được đúc kết

lại dưới dạng ca dao, tục ngữ, châm ngôn,… mang tính sản phẩm tập thể, có tác

dụng định hướng hành động của con người với con người, của con người với mình,

của con người với tự nhiên, nổi trội là các vấn đề về đạo đức, nhân sinh.

Những triết lý, triết lý hành động có trong truyền thống tư tưởng - văn hóa

Việt Nam tác động đến sự hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh theo hai

tầng nấc cơ bản:

Thứ nhất, từ những triết lý được lưu truyền trong dân gian. Triết lý về ở

đời và làm người là nhân lõi triết lý truyền thống Việt Nam đã trở thành nền tảng

cho mọi quan điểm và hành động của Hồ Chí Minh. Điều này thể hiện, tư tưởng

- văn hóa Việt Nam, luân lý, đạo lý Việt Nam có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự

Page 48: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

44

hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh chiêm nghiệm: “Nghĩ

cho cùng, mọi vấn đề… là vấn đề ở đời và làm người. Ở đời và làm người là

phải thương nước, thương dân, thương nhân loại đau khổ bị áp bức” [73, tr.174].

Điều này hoàn toàn không xa lạ với những triết lý sống được thể hiện dưới dạng

những câu tục ngữ, ca dao mà ông cha lưu truyền từ đời này sang đời khác như:

Bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn; Một con

ngựa đau cả tàu bỏ cỏ; Thương người như thể thương thân, Thuận vợ thuận

chồng, tát biển Đông cũng cạn, v.v.

Lấy yêu nước, thương dân làm lẽ sống, Hồ Chí Minh đi ra thế giới tìm

đường cứu nước, cứu dân. Trong quá trình đó, Người kiên trì học hỏi, thâu thái

kiến thức, tích lũy hiểu biết, kinh nghiệm, lao động và đấu tranh không mệt mỏi

để tìm đường, lựa chọn con đường và thực hiện mục tiêu nước được độc lập,

nhân dân được tự do, người người được hạnh phúc trên con đường mình đã

chọn. Mọi hành động, từ việc nhỏ đến việc lớn, Hồ Chí Minh đều hướng tới lợi

ích của nhân dân, tận tụy, trung thành một đời vì nhân dân.

Thứ hai, ảnh hưởng từ triết lý hành động của các nhà tư tưởng lớn

trong lịch sử dân tộc, không xuất phát từ dân gian nhưng lưu truyền rộng rãi

trong nhân gian thể hiện tư tưởng của những con người kiệt xuất. Từ những

triết lý về chủ nghĩa yêu nước, độc lập, tự chủ của cha ông như Lý Thường

Kiệt với Nam quốc sơn hà, Trần Quốc Tuấn với Hịch tướng sỹ, Nguyễn Trãi

với Đại cáo bình Ngô,… với tinh thần Lấy đại nghĩa thắng hung tàn, lấy chí

nhân thay cường bạo, việc nhân nghĩa cốt ở an dân, đến những triết lý về xây

dựng đất nước như Xây dựng đất nước lấy việc dạy học làm đầu, tìm lẽ trị

bình lấy tuyển nhân tài làm gốc (Quang Trung), hay Phi nông bất ổn, phi

công bất phú, phi thương bất hoạt, phi trí bất hưng (Lê Quý Đôn),... Những

triết lý này, cùng với những triết lý dân gian thể hiện tinh thần yêu nước, độc

lập, tự chủ của nhân dân qua ca dao, tục ngữ: giặc tới nhà đàn bà cũng đánh;

Thù này ắt hẳn còn lâu, Trồng tre nên gậy, gặp đâu đánh què;… đã trở thành

quyết tâm hành động thể hiện trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Lời

kêu gọi chống Mỹ, cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu cao tinh thần:

Page 49: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

45

Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu

làm nô lệ; Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia tôn

giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực

dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm,

không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc; Dù phải đốt cháy cả dãy

Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập; Không có gì quý

hơn độc lập, tự do.

Hồ Chí Minh mang trong mình chủ nghĩa yêu nước, là sản phẩm tinh thần

cao quý nhất của dân tộc, thứ tình cảm thiêng liêng, thứ chuẩn mực đạo đức cao

nhất để đánh giá về một con người. Người thể hiện lòng yêu nước hay chủ nghĩa

yêu nước ở Người không phải sinh ra vốn đã có, mà nó được hun đúc, phát triển

qua thực tiễn hoạt động, qua chứng kiến sự áp bức, bóc lột, sự dã man, tàn bạo

của thực dân, đế quốc. Qua thực tiễn, lòng yêu nước ở Người thể hiện ngày càng

mạnh mẽ và sâu sắc, cùng với thấm nhuần lý luận khoa học cách mạng đã biến

lòng yêu nước trở thành chủ nghĩa yêu nước và cách mạng. Chủ nghĩa yêu nước

Hồ Chí Minh là một sản phẩm của lịch sử, được hun đúc trong tiến trình cách

mạng, gắn liền với quá trình hình thành nhân cách Hồ Chí Minh.

2.2.1.2. Triết lý phương Đông và phương Tây

Triết lý phương Đông với việc hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh

Thứ nhất, những tác động từ triết lý Khổng giáo và triết lý phát triển trên

nền tảng Khổng giáo ở Trung Quốc.

Hồ Chí Minh sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước, am hiểu giáo

lý nho học, thông thạo Hán học. Tập thơ viết bằng chữ Hán Nhật ký trong tù của

Hồ Chí Minh, có nhiều bài nhà thơ Quách Mạt Nhược cho rằng, nếu không có

lời chú thì sẽ lẫn với thơ Đường, thơ Tống. Xét ở góc độ này, Hồ Chí Minh hẳn

là một nho sĩ thực thụ. Đồng thời với trình độ Hán học sâu, rộng, Người có am

hiểu sâu sắc về những triết lý Nho giáo, triết lý về nguồn gốc, bản chất, sức

mạnh của con người và về vai trò của những triết lý trong việc tu thân, tề gia, trị

quốc, bình thiên hạ.

Page 50: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

46

Người phương Đông nói chung, các nho sĩ Khổng giáo nói riêng không chú

trọng viết sách, lập thuyết. Học thuyết Khổng Tử hình thành, được lưu truyền, phổ

biến rộng rãi phải qua những ghi chép của học trò. Đặc điểm này cũng thể hiện rất

rõ ở Hồ Chí Minh, Người viết ít, chủ yếu bằng hành động để thể hiện tư tưởng,

quan điểm cũng như triết lý sống. Điều này, một phần cũng giống như:

Đa số các triết học gia Trung Quốc không cho tự thân tri thức là tốt, cho

nên không vì tri thức mà cầu tri thức, mà những tri thức có thể làm con

người tăng thêm hạnh phúc thì họ cũng muốn đem ra thực hành để con

người tăng thêm hạnh phúc chứ không muốn thảo luận suông: “Ta

muốn gửi nó vào lời nói suông, nhưng điều đó không bằng thấy nó ở

trong hành vi, rõ ràng và sâu sắc hơn.” Vì thế, xưa nay người Trung

Quốc không xem trọng việc viết sách, lập thuyết… Nếu không thực

hành được nghiệp đế vương và không thực hành được đạo thánh nhân,

thì bất đắc dĩ mới quay về mà lập ngôn. Vì thế các triết học gia Trung

Quốc coi việc viết sách và lập thuyết là chuyện bất đắc dĩ [47, tr.30].

Mặc Tử có quan điểm cho rằng: Điều nghĩa thì ít người làm, nhưng một

hai người làm thì có công hơn là chẳng ai làm. Đi khắp nơi để thuyết nhân nghĩa,

tuy khó khiến mọi người nghe theo hết, nhưng cái kết quả còn hơn là không có ai

đi thuyết nhân nghĩa cả. Cái kết quả ấy rốt cuộc có lợi cho thiên hạ.

Mặc Tử chỉ ra:

Hễ nói thì phải có tiêu chuẩn trước. Nói mà không theo tiêu chuẩn có

sẵn thì khác gì ở trên bàn xoay của thợ gốm mà biện luận sớm tối,

phải trái, lợi hại khác nhau như thế nào… Mặc Tử xem “ích nước lợi

dân” là tiêu chuẩn để đánh giá mọi việc. Mọi sự vật đều phải hữu

dụng. Lời nói mà thực hiện được thì mới có giá trị. Sách Mặc Tử

chép: “Lời nói có thực hành được thì hãy nói; không thực hành được

thì đừng nói. Không thực hành được mà cứ nói hoài thì chỉ mỏi miệng

thôi” [47, tr.136].

Hồ Chí Minh cả đời hành động, lời nói gắn với việc làm, lý luận gắn với

thực tiễn, thiết thực vì dân vì nước chắc hẳn bởi một phần từ sự thấm nhuần sâu

Page 51: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

47

sắc các quan điểm này. Trong quá trình phát triển quan điểm nói đi đôi với làm

còn được Tôn Dật Tiên phát triển thêm nhiều ý nghĩa, giá trị mới. Triết lý Tôn

Dật Tiên về tri hành hợp nhất có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự hình thành triết lý

hành động Hồ Chí Minh.

Vấn đề tri và hành là cống hiến quan trọng trong lý luận nhận thức của

Tôn Dật Tiên. Hồ Chí Minh tiếp nhận thuyết tri hành hợp nhất và thể hiện sâu

sắc trong triết lý hành động của mình. Cốt lõi của thuyết tri hành hợp nhất là biết

(tri) và thực hành (hành), chúng ta phải thực hành rồi mới biết, chỉ qua thực hành

thì cái biết mới trở nên đầy đủ. Chưa từng có tri mà không hành; tri mà chưa

hành thì không phải là tri. Tri là chủ ý của hành; hành công phu của tri. Tri là

khởi đầu của hành; hành là kết quả của tri. Trong quan hệ đó, tuy người ta chỉ

nói một chữ tri thôi nhưng tự trong đó đã có hành; chỉ nói một chữ hành thôi

nhưng tự trong đó đã có tri [xem 48, tr.664].

Tôn Dật Tiên đưa ra học thuyết tri nan hành dị (biết khó làm dễ) để chống

lại thuyết tri dị hành nan với mục đích khuyến khích học tập, tìm tòi tri thức

khoa học. Nhưng không vì thế mà đi đến quan điểm biết trước làm sau, ông chủ

trương làm trước biết sau, làm là cơ sở để có được tri thức. Ông đưa ra quan

điểm không biết cũng có thể làm, làm từ chỗ chưa biết đến chỗ biết. Ông thừa

nhận, hành là cơ sở, nguồn gốc của tri, ông nhấn mạnh chính trong thực tiễn con

người mới rút ra được những kinh nghiệm để không ngừng nâng cao tri thức cho

mình. Ông khẳng định làm không nghỉ là mấu chốt thúc đẩy nhân loại tiến bộ

mau chóng [xem 7, tr.640-641]. Quan điểm Hồ Chí Minh về làm việc gì học việc

ấy, việc gì cũng phải làm từ việc dễ đến việc khó, thực hành sinh ra hiểu biết,

hiểu biết tiến lên lý luận, lý luận lãnh đạo thực hành, về phương pháp thống nhất

tư tưởng trong hành động, có phần cơ sở từ chính những triết lý này.

Cống hiến mang tính triết lý, vấn đề có ảnh hưởng không chỉ đối với

Hồ Chí Minh mà cả đối với các nhà cách mạng Việt Nam thế hệ trước Hồ Chí

Minh của Tôn Dật Tiên là Chủ nghĩa tam dân với nội dung cốt lõi Dân tộc

độc lập - Dân quyền tự do - Dân sinh hạnh phúc. Trong đó, dân tộc độc lập là

một vấn đề mà cả dân tộc Việt Nam đang theo đuổi, là vấn đề mà Hồ Chí

Page 52: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

48

Minh đang đi tìm con đường, phương pháp để thực hiện, một vấn đề trở thành

mục tiêu, trở thành cái bất biến trong tư tưởng và hành động Hồ Chí Minh.

Các giá trị dân quyền, dân sinh là những giá trị phổ quát của nhân loại, giá trị

con người, làm người mà triết lý phương Tây, triết lý của người Pháp nêu ra

trong khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái mà Hồ Chí Minh sớm được biết

đến. Đây là những giá trị trong chiều sâu triết lý, hành động Hồ Chí Minh

theo đuổi, thực hiện trong suốt cuộc đời. Hồ Chí Minh đọc Tuyên Ngôn độc

lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thông điệp được khẳng

định ngay dưới quốc hiệu là Độc lập - Tự do - Hạnh phúc một phần cơ sở từ

giá trị triết lý tốt đẹp của Chủ nghĩa tam dân.

Thứ hai, những tác động từ triết lý Phật giáo

Từ thế kỷ I đầu Công nguyên, Phật giáo du nhập vào Việt Nam qua hai con

đường, gián tiếp có phần áp đặt qua các phật tử đến từ Trung Quốc và trực tiếp tự

do, hòa bình qua các tăng ni, phật tử đến từ Ấn Độ. Trong quá trình phát triển ở

Việt Nam, thời kỳ hoàng kim của Phật giáo dưới thời phong kiến là thời Lý - Trần.

Với vai trò là học thuyết kiến lập nên vương triều Lý, dưới triều Lý, Phật giáo được

coi như là quốc giáo. Đây cũng là triều đại mở đầu cho thời kỳ thịnh trị của phong

kiến Việt Nam, làm nên những thắng lợi trước quân xâm lược phương Bắc và có

những thành tựu phát triển về mọi mặt, nhất là về văn hóa tinh thần, tư tưởng.

Thuở thiếu thời, Hồ Chí Minh không chỉ sống trong không gian giáo lý,

văn hóa Nho giáo mà còn sống trong không gian văn hóa Phật giáo, được tiếp

xúc tự nhiên với giáo lý Phật giáo qua những lần cùng bà ngoại đi lễ chùa, vãn

cảnh chùa, qua những chiêm nghiệm thấm đẫm triết lý Phật giáo của cụ Nguyễn

Sinh Sắc trước thói đời, sự giả dối, tham ô, hà lạm của đám quan trường và nỗi

cực khổ của nhân dân.

Ở Việt Nam, trên cơ sở nền tảng Phật giáo Thiền tông, vua Trần Nhân

Tông kế thừa, phát triển, hình thành Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Giáo lý thiền

phái khẳng định: Người tu hành muốn giác ngộ không thể từ bỏ thế gian để giác

ngộ, mà phải sống gắn bó với nhân dân, với đất nước; phải tham gia vào cộng

đồng, vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc; khi thanh bình thì trở về với

Page 53: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

49

cuộc sống tu hành thoát tục. Phật giáo Việt Nam khuyên con người phải sống đời

sống thực, coi trọng lao động, sản xuất bởi Niết bàn không nằm ở đâu xa, không

ở thế giới mây mù trừu tượng mà nó ở chính trong cuộc sống thường ngày. Quan

niệm thứ nhất tu tại gia, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa hay tu đâu cho bằng tu

nhà, thờ cha kính mẹ mới là chân tu là kết quả của những kinh nghiệm, của sự

tiếp biến triết lý Phật giáo của người Việt Nam. Bản thân cụ Phó bảng Nguyễn

Sinh Sắc dù là một nhà nho nhưng có đời sống gần gũi chan hòa với những

người lao động. Tránh khỏi chốn quan trường nô lệ, ông lui về nơi thôn dã, sống

cùng những người lao động, làm nghề bốc thuốc chữa bệnh, cứu chữa cho nhân

dân. Điều đó có ảnh hưởng không nhỏ đến Hồ Chí Minh.

Nét độc đáo của Phật giáo Việt Nam là quan niệm Niết bàn nằm trong thế

giới trần tục, con người trần tục muốn đạt đến cõi Niết bàn phải bằng con đường

trần tục, làm những việc đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người như hái củi,

chăn trâu, trồng cây, nuôi cá,… Đây là đặc điểm khác với quan niệm, giáo lý của

Phật giáo nguyên thủy, coi Niết bàn ở trốn mây mù, trừu tượng không nhận thức

được, mà chỉ có thể hướng tới trong tâm niệm của người tu hành. Các vị Thiền

sư thời Lý - Trần trái lại, định hướng cho mình một triết lý sống, đó là sống cống

hiến cho dân tộc, cho đất nước, cho đạo pháp, không vì một cá nhân hay một

dòng tộc nào, gắn đạo với đời. Triết lý sống này,

Đặt nghĩa lớn của dân tộc và đạo pháp lên trên những quyền lợi nhỏ

nhen của cá nhân và dòng họ, từ đó trở thành một triết lý hành động

mẫu mực có những ảnh hưởng to lớn đến cách ứng xử của nhiều

người Phật tử Việt Nam về sau. Nó giúp cho họ có một thái độ đúng

đắn, lúc đất nước đang trải qua những giai đoạn khó khăn, rối ren cần

có những quyết sách thích hợp [89, tr.458-459].

Tư tưởng Dĩ thiên hạ chi dục vi dục, dĩ thiên hạ chi tâm vi tâm (Lấy ý

muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình, lấy tâm của thiên hạ làm tâm của

mình) hay Dĩ chúng tâm vi kỷ tâm chỉ ra con đường tu tâm, hướng thiện bằng

việc phục vụ nhân sinh, nhân quần xã hội đáp ứng mong muốn của chúng sinh,

đã là kim chỉ nam hành động cho nhiều Phật tử.

Page 54: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

50

Phật giáo Việt Nam mở ra con đường giác ngộ bằng tâm khai mở bao

trùm thiên hạ, muôn loài, vạn pháp, tức là đạt đến hiểu và nắm được cái trung

tâm cốt lõi quy luật của vạn vật. Bằng con đường giác ngộ như vậy, Phật giáo

tìm cho mình một vị trí vững chắc trong con đường phát triển ở Việt Nam. Nếu

không mang trong mình tinh thần yêu nước, tinh thần nhập thế hành đạo, cứu

đời, không lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình thì Phật giáo Việt

Nam không thể tồn tại được cùng với Nho giáo - hệ tưởng cơ bản của giai cấp

phong kiến thống trị, hệ tư tưởng của nước láng giềng lớn có ảnh hưởng không

nhỏ về văn hóa, tư tưởng. Không thể nói yêu nước thương dân mà lại không lấy

nguyện vọng, mong muốn của dân làm nguyện vọng, mong muốn của mình.

Không thể nói yêu nước, thương dân mà lại thờ ơ, lãnh đạm trước những nỗi

đau, trước những bất hạnh của nhân dân. Đối với bậc đại trí, đại nhân, tâm ngày

càng phải mở rộng, dần dần bao chứa tâm mọi người, đồng cảm với tâm mọi

người để hành động trong thực tế.

Trong triết lý Phật giáo Ấn Độ, triết lý tuỳ duyên nhi bất biến hay nói

ngắn gọn là triết lý tuỳ duyên, thể hiện hành động rất thoáng, rất cởi mở; theo

triết lý này thì hành giả giữ vững đạo tâm, lý tưởng giải thoát khổ, nương theo

duyên mà hành xử việc đạo, việc đời, không cố chấp, không câu nệ. Đức Phật

dạy trong kinh tạng Nikàya đại ý rằng: Phật đến một hội chúng nào thì ứng xử

theo cung cách, ngôn ngữ của hội chúng đó. Nói chuyện với bác tiều phu, đức

Phật sử dụng ngôn ngữ thường nhật gần gũi với bác tiều phu, không phải vì thế

mà đức Phật đánh mất mình. Bởi mục tiêu của việc làm đó là để phổ biến cho

mọi người, mọi đối tượng trong xã hội về con đường giải thoát khỏi nỗi khổ. Hồ

Chí Minh bôn ba qua nhiều châu lục, tiếp xúc với nhiều hạng người, tùy duyên

mà học tập, hành động nhằm mục tiêu tìm ra con đường cứu nước, giải phóng

dân tộc, giải phóng nhân dân phải chăng chính là thực hiện triết lý sống của Phật.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh có ảnh hưởng từ triết lý của Phật. Về

điểm này, Hồ Chí Minh cũng giống như các vĩ nhân, anh hùng dân tộc, các nhà

hiền triết Việt Nam. Họ thường viết rất ít, thậm chí là không viết, đối với họ chủ

Page 55: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

51

yếu là hành động, bằng hành động cụ thể và thiết thực đem đến những điều ích

nước, lợi dân.

Hồ Chí Minh cũng học được đức tính thường giữ im lặng, ít nói, ít bàn

đến những vấn đề không thiết thực. Nếu giáo lý của Đức Phật thể hiện trong một

chữ là giải thoát thì mọi hành động, triết lý, quan điểm của Hồ Chí Minh cũng

chỉ tập trung trong một chữ Dân. “Đức Phật không dạy tất cả những điều ông

biết, mà chỉ dạy những điều cần thiết, có lợi cho việc tu luyện đạo đức và trí tuệ

để giác ngộ, giải thoát” [6, tr.274]. Hồ Chí Minh gần ba thập kỷ đi nhiều nơi trên

thế giới, thông thạo nhiều ngoại ngữ, có vốn kinh nghiệm và khối tri thức học

vấn đồ sộ nhưng trong tư tưởng, quan điểm cũng chỉ thể hiện những gì cần kíp,

hữu ích, thiết thực nhất cho công cuộc giải phóng nhân dân, độc lập dân tộc, phát

triển đất nước.

Thứ ba, những giá trị triết lý đạo Lão

Triết lý của đạo Lão chủ yếu chứa đựng trong hai cuốn sách Đạo Đức

kinh và Sách Trang tử, nội dung cơ bản bàn tới vấn đề điều hòa những năng

lượng cơ bản trong vũ trụ, điều hòa các lực âm dương trong cơ thể để trường

sinh bất lão. Con người cần rèn luyện để có được cơ thể dẻo dai bền bỉ, hoặc đạt

đến trạng thái tự nhiên và thanh thoát trong tâm hồn. Đạo Lão chủ trương tìm

kiếm một hình thức bất tử về tinh thần, một hình thức đạt được trong một kiểu

sống tự nhiên, hài hòa với tự nhiên, không quan trọng, không ham cái lợi vật

chất, không màng danh lợi.

Kế thừa, phát triển tư tưởng gắn bó với thiên nhiên, hòa đồng với thiên

nhiên, thoát mọi ràng buộc danh lợi của Lão Tử, quan điểm sống của Hồ Chí

Minh cũng tuyệt nhiên không ham muốn vật chất hay công danh phú quý. Người

làm Chủ tịch vì đồng bào ủy thác, “như một người lính vâng mệnh lệnh của quốc

dân ra trước mặt trận. Bao giờ đồng bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui” [61,

tr.187]. Về phần mình chỉ mong muốn “làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non

xanh, nước biếc để câu cá, trồng hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi,

em trẻ chăn trâu, không dính líu gì với vòng danh lợi” [61, tr.187]. Điều này

được thể hiện thống nhất, xuyên suốt trong hành động của Hồ Chí Minh suốt

Page 56: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

52

cuộc đời, đặc biệt rõ khi Người gặp những cảnh huống khó khăn nơi chốn lao tù,

nhưng luôn vững niềm tin, niềm lạc quan yêu đời, Người rèn luyện đạt đến trạng

thái tự nhiên, thanh thoát trong tâm hồn, trạng thái của một thiền sư, để có những

vần thơ bất hủ, để có những tứ thơ chỉ có thể thấy trong Nhật ký trong tù. Trong

những giờ phút quan trọng của các mạng, Hồ Chí Minh vẫn giữ được trạng thái

tinh thần chủ động, tích cực, sẵn sàng đối phó với những tình huống khó khăn

xảy ra. Khi Người giữ những cương vị, trách nhiệm quan trọng của Đảng và Nhà

nước nhưng vẫn giữ nếp sống thanh bạch, giản dị, gần gũi với thiên nhiên, hòa

với thiên nhiên.

Triết lý phương Tây với việc hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh

Trong quá trình bôn ba sống và làm việc ở nhiều nơi trên thế giới, Hồ Chí

Minh tích lũy được vốn kinh nghiệm, tri thức thực tiễn phong phú, làm cho vốn

sống, vốn hiểu biết trở nên sâu sắc về nhiều mặt. Vốn hiểu biết thực tiễn Hồ Chí

Minh thu nhận được từ phương Tây góp phần làm cho tư tưởng Hồ Chí Minh

hình thành và phát triển ngày càng phong phú, toàn diện. Trong gần ba thập kỷ

sống và làm việc trong môi trường văn hóa phương Tây, với người phương Tây

thì lối sống, cách tư duy, phong cách làm việc, không gian văn hóa, qua tiếp xúc

hằng ngày tự nó đã thấm vào Hồ Chí Minh. Những giá trị tốt đẹp của văn hóa

phương Tây góp phần hình thành nên tư duy, phong cách, phương pháp làm

việc, triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Bản thân Hồ Chí Minh là người ham hiểu biết, tích cực học hỏi. Nếu như

khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái như lời mời gọi để Người hướng sang

phương Tây, đến với nước Pháp, thì chính trên đất Pháp, Người có được nhiều

bài học sâu sắc. Người nhận thấy đằng sau khẩu hiệu Tự do - Bình đẳng - Bác ái

đời sống nhân dân lao động Pháp vẫn cực khổ, khẩu hiệu đó chỉ dành cho một số

ít người ở tầng lớp trên. Qua các tác phẩm thời kỳ Phục hưng, thế kỷ Ánh sáng,

của các đại văn hào nổi tiếng như Vônte, Môngtétxkiơ, Điđơrô, J.J.Rútxô,... Hồ

Chí Minh hiểu rõ hơn về những tư tưởng mới mẻ, giá trị thực sự của tư tưởng Tự

do - Bình đẳng - Bác ái. Để rồi với bản lĩnh hơn người, trên một nền tảng văn

hóa tích lũy được trước đó, Hồ Chí Minh tạo ra cho mình cái màng lọc tri thức

Page 57: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

53

hữu ích để tiếp nhận, và chỉ tiếp nhận những gì là khoa học, tốt đẹp cho sự

nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc.

Những gì Hồ Chí Minh thu nhận được và thể hiện trong quá trình lãnh đạo

cách mạng, trong phương pháp và phong cách làm việc đưa đến nhận định của

Đại tướng Võ Nguyên Giáp: “Phải chăng, phương pháp tư duy, phương pháp

xem xét và hành động của Người đã kết hợp tính cách nặng về lý tính và sự phân

tích khoa học của tư duy phương Tây và tính cách nặng về cảm tính, trực giác,

tổng hợp của tư duy phương Đông và Việt Nam” [16, tr.295].

Văn hóa phương Tây phát triển trên cơ sở nền tảng của các hệ tư tưởng

lấy lý tính và khoa học làm tiêu chuẩn chân lý. Chính trên nền tảng của hệ tư

tưởng này đã tạo điều kiện cho khoa học - kỹ thuật phát triển mạnh mẽ. Với

phương Tây, thế giới khó chối bỏ được vai trò tiên phong của khoa học - kỹ

thuật và những giá trị tích cực của nền văn minh công nghiệp.

Trong quá trình làm việc ở phương Tây, tư duy phân tích lý tính của Hồ

Chí Minh ngày càng được củng cố qua những bài học từ những người bạn,

những người đồng chí, những đảng viên xã hội, đảng viên cộng sản Pháp. Trong

các buổi thảo luận, tham dự các buổi nói chuyện của các nhà hoạt động chính trị

hay học viết báo Hồ Chí Minh được rèn luyện và học được lối phân tích sắc sảo.

Trình bày một vấn đề, một ý tưởng, Hồ Chí Minh học được cách diễn đạt, cách

viết thật ngắn, rồi viết thật dài, sau đó lại rút ngắn, với cách đó, làm cho khả

năng phân tích, lựa chọn ý tưởng, khả năng lập luận logic của Hồ Chí Minh càng

được nâng cao. Hồ Chí Minh có thể diễn đạt ý hết sức cô đọng, ngắn gọn, súc

tích, cũng có thể phát triển ý tưởng và trình bày cụ thể, mạch lạc, chi tiết những

khi cần thiết, phù hợp với từng đối tượng giao tiếp. Thậm chí, trong những tác

phẩm kịch được viết trên đất Pháp, Hồ Chí Minh còn sử dụng lối châm biếm, ẩn

dụ đúng như cách người Pháp thể hiện trong văn hóa của mình.

Tư duy lý tính đặt mọi suy nghĩ và hành động của con người trong mạch

logic, sự kết nối giữa các sự vật, hiện tượng, sự kiện để hiểu rõ bản chất của nó.

Hồ Chí Minh có được tư duy phân tích sắc sảo, duy vật biện chứng từ học hỏi lối

tư duy phương Tây. Lối tư duy đó đưa đến nhận định của Hồ Chí Minh, khẳng

Page 58: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

54

định những giá trị tích cực, tiến bộ của cách mạng dân chủ tư sản ở phương Tây.

Những giá trị nhân văn, giải phóng con người khỏi sự thống trị của thần quyền

và quan hệ phong kiến được thừa nhận, đồng thời Người phân tích và nhận rõ

những hạn chế của các cuộc cách mạng đó. Hồ Chí Minh chỉ ra, cách mạng Mỹ

tuy đã thành công hơn 150 năm “nhưng công nông vẫn cứ cực khổ, vẫn cứ lo

tính cách mệnh lần thứ hai. Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, mà

cách mệnh tư bản là chưa phải cách mệnh đến nơi” [59, tr.291]. Hay cách mạng

Pháp cũng như cách mạng Mỹ, cũng là cách mạng tư bản nhưng “cách mệnh

không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công

nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” [59, tr.296]. Phân tích, thấy rõ những hạn

chế của cách mạng tư bản, Hồ Chí Minh chỉ ra cho cách mạng Việt Nam “đã hy

sinh làm cách mệnh, thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi thì

quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người. Thế mới

khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được hạnh phúc” [59, tr.292]. Với tư

duy lý tính, Hồ Chí Minh đặt tất cả mọi việc, trong suy nghĩ cũng như trong

hành động trên những quy luật khách quan để nhìn nhận, xem xét và đánh giá, để

hiểu rõ bản chất của vấn đề.

Tư duy của con người suy đến cùng đều xuất phát từ chính hiện thực cuộc

sống, nhằm giải quyết những vấn đề của cuộc sống, có thể cấp bách, có thể lâu dài.

Tư tưởng thực dụng của phương Tây thể hiện cái gì, việc gì có thật, chứng nghiệm

được, mang lại lợi ích cho con người thì có giá trị cao đối với đời sống con người.

Trong bối cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân đang rên riết dưới tròng áp bức, bóc lột

của thực dân, đế quốc thì hẳn tư duy thực tiễn, thực tế lại xuất phát từ chính hoàn

cảnh khách quan đó. Hồ Chí Minh không thể không thực tế khi tính đến các biện

pháp và hành động thiết thực nhất để làm sao giành độc lập cho đất nước, tự do,

hạnh phúc cho nhân dân. Người đã rất thực tế, trong những hoàn cảnh khó khăn của

đất nước, sẵn sàng chấp nhận những nhân nhượng dù đau đớn nhưng cần thiết để

dành cơ hội đạt tới mục tiêu cao nhất cho nhân dân, cho đất nước.

Triết lý sống của người phương Tây coi con người là trung tâm của vũ trụ,

con người luôn tìm cách khẳng định và vai trò cá nhân được đề cao. Người

Page 59: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

55

phương Tây ứng xử trong cuộc sống chú trọng cá nhân hơn cộng đồng, quyền tự

do cá nhân được coi trọng, cá nhân luôn tìm mọi cách khẳng định mình. Khoa

học kỹ thuật cũng vì thế mà phát triển, bởi khẳng định mình bằng các kết quả

trong nghiên cứu, phát minh khoa học là rõ ràng nhất, thực chứng được.

Sự phát triển của khoa học - kỹ thuật làm xuất hiện một nền văn minh

công nghiệp và một phong cách sống công nghiệp. Phong cách sống này, đặc

điểm rõ nhất là mọi hoạt động xã hội được lập kế hoạch, chi tiết, cụ thể. Có kế

hoạch và kế hoạch đến từng chi tiết, cụ thể đến từng thao tác trong lao động, sản

xuất trở thành một phong cách sống của người phương Tây.

Có thể thấy một đặc điểm nổi bật của phong cách sống, triết lý sống của

phương Tây, của người Pháp, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến Hồ Chí Minh đó là

trọng phụ nữ. Văn hóa truyền thống Việt Nam, ảnh hưởng của tư tưởng Nho

giáo trọng nam, khinh nữ, coi thường phụ nữ, ngược với văn hóa phương Tây,

đặc biệt văn hóa Pháp. Hồ Chí Minh chỉ rõ “Phải kính trọng phụ nữ. Chúng ta

làm cách mạng là để tranh lấy bình quyền bình đẳng, trai gái đều ngang quyền

như nhau” [72, tr.260]. Tư tưởng trọng nữ thể hiện trong hành động Hồ Chí

Minh suốt quá trình hoạt động cách mạng. Người luôn dành tình cảm đặc biệt,

sự tiếp đón nồng hậu nhất có thể cho các chiến sĩ nữ, các bạn bè quốc tế thuộc

phái nữ. Người trân trọng phụ nữ và bằng nhiều cách khác nhau như thường

xuyên viết thư động viên, nói chuyện với phụ nữ các địa phương, thăm hỏi,

tặng quà,... đề ra các chủ trương, chính sách riêng đối với phụ nữ để động viên,

khuyến khích phát triển, chăm lo cho “những phụ nữ khuyên chồng con đi tòng

quân mà mình thì xung phong giúp việc vận tải, cho đến các bà mẹ chiến sĩ săn

sóc yêu thương bộ đội như con đẻ của mình” [64, tr.38], những người vợ,

những người mẹ, hăng hái sản xuất và chiến đấu, xây dựng hậu phương vững

mạnh để người chồng, người cha ngoài mặt trận luôn chắc tay súng bảo vệ độc

lập của Tổ quốc.

Có thể thấy những nét phương Tây trong triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Đó là phong cách làm việc khoa học, có kế hoạch và biện pháp thực hiện cụ thể.

Page 60: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

56

Một triết lý hành động mà con người - nhân dân được đặt vào vị trí trung tâm,

quyền con người - nhân dân được quan tâm và khẳng định.

2.2.1.3. Chủ nghĩa Mác - Lênin

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin là tất yếu lịch sử, sự gặp gỡ

của những tư tưởng lớn. Phương pháp luận Mác - Lênin hướng dẫn hành động

Hồ Chí Minh, quyết định hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh. Thông qua

hành động của Hồ Chí Minh, chủ nghĩa Mác - Lênin lại được gieo trên mảnh đất

hiện thực, được bổ sung những điểm khuyết thiếu để ngày càng phát triển.

Trong Luận cương về Phoiơbắc, năm 1845, C.Mác nhấn mạnh cải tạo thế

giới mới là vấn đề cốt lõi, chứ không phải là giải thích thế giới bằng nhiều cách

khác nhau. Xuất phát từ nhận thức vai trò cải tạo thế giới của chủ nghĩa Mác,

xây dựng xã hội mới xã hội xã hội chủ nghĩa, tiến bộ và công bằng, Hồ Chí

Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng, kim chỉ nam cho hành động của

mình, của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hồ Chí Minh không đề ra học thuyết về

xây dựng xã hội mới nhưng dành cả đời thực hành, vận dụng và phát triển sáng

tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện Việt Nam. Trên nền tảng lập

trường, quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh xây dựng kế hoạch

hành động cho mình, cho dân tộc. Thông qua hành động cụ thể, vận dụng, phát

triển lý luận đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phù hợp quy luật phát triển lịch sử, Hồ

Chí Minh đặt nền móng, cơ sở lý luận cho xây dựng và phát triển đất nước.

Triết học Mác - Lênin chỉ ra rằng tiêu chuẩn cao nhất của tính khoa học là

sự phù hợp của lý luận với thực tế. V.I.Lênin khẳng định, “Một trong những thiếu

sót chính của chủ nghĩa duy vật cũ là không hiểu được những điều kiện và cũng

không đánh giá được ý nghĩa của hoạt động thực tiễn cách mạng” [52, tr.91]. Và:

“Chúng ta đã thực tế bắt tay vào giải quyết những nhiệm vụ mà trước kia người

ta đã đặt ra một cách trừu tượng và trên lý luận” [54, tr.473]. Hồ Chí Minh từ

những hành động thực tế, thiết thực đưa cách mạng Việt Nam vào quỹ đạo chung

của phong trào cách mạng thế giới và gặt hái những thắng lợi. Lênin khẳng định

chủ nghĩa Mác đề ra các vấn đề “cũng chính trên cơ sở lịch sử ấy,… không phải

chỉ để giải thích quá khứ, mà còn để dự kiến tương lai một cách mạnh dạn và thực

Page 61: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

57

hiện dự kiến ấy bằng một hành động dũng cảm” [52, tr.88]. Thấm nhuần triết lý

ấy, sự cống hiến của Hồ Chí Minh “được cả thế giới công nhận, một phần không

nhỏ là do Người đã đạt được sự thống nhất trong nhận thức về thời đại và hành

động theo xu thế chung, hợp quy luật của thời đại” [55, tr.62].

Sự hiểu biết về thời đại, bao hàm những tri thức về các sự kiện, hiện tượng

đang xảy ra, là một nhân tố quan trọng trực tiếp ảnh hưởng đến tư tưởng và hành

động của Hồ Chí Minh. Theo tinh thần V.I.Lênin “Chỉ có dựa trên cơ sở hiểu biết

những đặc điểm cơ bản của một thời đại, chúng ta mới có thể tính đến những đặc

điểm chi tiết của nước này nước nọ” [52, tr.174], Hồ Chí Minh khẳng định, “Lý

luận cách mạng không phải là giáo điều, không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy

tính chất sáng tạo, là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, cần phải luôn bổ sung

bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động” [68, tr.95].

Suốt cuộc đời, trong nhận thức cũng như trong hành động, Hồ Chí Minh

luôn quán triệt nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn, lý luận liên hệ với thực

tiễn, nói đi đôi với làm và thường xuyên tổng kết rút kinh nghiệm từ thực tiễn để

bổ sung phát triển, làm phong phú lý luận. Người cũng xem lý luận gắn liền với

thực tiễn, nói đi đôi với làm là phương pháp, cách thức để đạt được thông nhất

trong nhận thức, trong tư tưởng và trong hành động của Đảng, cũng như trong

đội ngũ cán bộ, đảng viên của đảng.

Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin hướng con người đến những hành

động, cụ thể và thiết thực để giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Chủ

nghĩa Mác - Lênin hóa giải cho Hồ Chí Minh những vấn đề đặt ra đối với cách

mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh tìm thấy ở chủ nghĩa Mác - Lênin những chỉ dẫn -

như cuốn cẩm nang thần kỳ, để tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc, giải

phóng nhân dân lao động. Hồ Chí Minh chỉ ra “Lênin dạy chúng ta đối với mọi

việc phải xem xét kỹ lưỡng mọi mặt, không nóng nảy, hấp tấp. Song khi đã định

kế hoạch hẳn hoi rồi thì phải quả quyết thực hiện cho kỳ được. Lênin dạy chúng

ta giản đơn và khiêm tốn, trong sạch và chính trực” [64, tr.288]. “Đối với nhân

dân, phải yêu kính quần chúng, gần gũi quần chúng, tin tưởng lực lượng vĩ đại

và đầu óc thông minh của quần chúng, học hỏi quần chúng,... Đối với kẻ địch...,

Page 62: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

58

thì phải kiên quyết, dũng cảm chống lại,... Đối với công việc, phải thấy trước, lo

trước, tính trước” [65, tr.12]. Những chỉ dẫn đó là cơ sở lý luận, là nền tảng quan

trọng hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đi ra thế giới tìm đường cứu nước, bằng hành động thực

tiễn, cụ thể tìm hiểu, lý giải cho những thất bại của các phong trào, khuynh

hướng cứu nước, giải phóng dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trong quá

trình đó, Hồ Chí Minh nghiên cứu nhiều chủ nghĩa, nhiều hệ tư tưởng, tích lũy

vốn tri thức văn hóa và kiến thức thực tiễn, kinh nghiệm trên nhiều mặt. Đến với

chủ nghĩa Mác - Lênin, đứng vững trên lập trường, quan điểm, tinh thần Mác -

Lênin, Hồ Chí Minh lựa chọn lấy tinh hoa của các học thuyết tư tưởng, giáo lý,

đạo lý của các bậc thánh hiền, vĩ nhân ở cả hai nền văn hóa Đông, Tây. Qua lăng

kính Mác - Lênin, Hồ Chí Minh thấy,

Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng đạo đức cá

nhân. Tôn giáo Giêsu có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ

nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp biện chứng. Chủ nghĩa

Tôn Dật Tiên có ưu điểm của nó, chính sách của nó thích hợp với điều

kiện nước ta. Khổng Tử, Giêsu, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng những có

điểm chung đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho loài người,

mưu cầu phúc lợi cho xã hội. Nếu hôm nay họ còn sống trên đời này,

nếu họ hợp lại một chỗ, tôi tin rằng họ nhất định chung sống với nhau

rất hoàn mỹ như những người bạn thân thiết [94, tr.152].

Đó là sự đúc rút những giá trị cốt lõi về triết lý sống, triết lý phát triển xã hội của

các bậc vĩ nhân, thánh nhân từ Đông sang Tây của Hồ Chí Minh. Đồng thời thể

hiện sự phân tích, đánh giá các triết lý một cách khách quan trên nền tảng lập

trường, quan điểm, tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin.

Hồ Chí Minh tiếp thu, chọn lọc triết lý nhân loại qua lăng kính lập trường,

quan điểm Mác - Lênin, cùng tư duy phân tích sắc sảo của mình hình thành nên

lý luận cách mạng, hình thành triết lý hành động nhằm giải phóng và phát triển

đất nước. Thực hiện triết lý hành động Hồ Chí Minh đưa chủ nghĩa Mác - Lênin

vào phong trào cách mạng Việt Nam, mở ra con đường cứu nước, giải phóng dân

Page 63: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

59

tộc cho nhân dân Việt Nam. Những thắng lợi của triết lý trên thực tế đưa cách

mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, đưa nhân dân Việt Nam

từ tăm tối tù đày, đói nghèo, lạc hậu tiến lên làm chủ, xây dựng và phát triển đất

nước, từng bước sánh vai với các quốc gia giàu mạnh trên thế giới.

2.2.2. Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh

2.2.2.1. Hoài bão, lý tưởng cứu nước, cứu dân

Thực dân Pháp xâm lược, thiết lập nền đô hộ, xã hội Việt Nam trở thành

xã hội thuộc địa, nửa phong kiến. Trong lòng xã hội, mâu thuẫn mới giữa toàn

thể dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai bao trùm lên mâu thuẫn cũ.

Các phong trào vũ trang chống Pháp mang ý thức hệ phong kiến, ý thức hệ tư

sản lan rộng ra cả nước nhưng lần lượt thất bại. Xã hội Việt Nam khủng hoảng

về đường lối cứu nước, giải phóng dân tộc.

Hồ Chí Minh trước khi ra đi tìm đường cứu nước đã tham gia vào các

phong trào yêu nước, đấu tranh chống thực dân Pháp, quan sát và phân tích

khuynh hướng, nguyên nhân thất bại của các phong trào. Trên cơ sở trực tiếp đấu

tranh và phân tích các phong trào cách mạng, các khuynh hướng cứu nước, Hồ

Chí Minh nhận thấy không thể cứu nước, giải phóng dân tộc bằng các con đường

cũ, phương pháp cũ, lực lượng cũ. Người thấy cần phải tìm một con đường mới,

một phương pháp cách mạng mới.

Từ tấm lòng yêu nước, thương dân, Hồ Chí Minh trải qua gần 30 năm bôn

ba, đi qua nhiều nơi trên thế giới, làm đủ mọi nghề để sống, để đi và học tập.

Người tận mắt chứng kiến tình cảnh khổ đau của những người lao động, của

nhân dân cần lao trên khắp thế giới bởi sự bóc lột, áp bức của đế quốc, thực dân,

của giới tư bản bạo tàn. Chứng kiến những cảnh bạo tàn ấy, nung nấu trong tâm

trí Người luôn là làm sao nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân ta được hoàn

toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Người

đã cả đời hành động phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc

dân, vượt qua nhiều khó khăn, có những khi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào

chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, lo lắng đêm ngày, nhẫn nhục cố gắng -

cũng vì mục đích đó.

Page 64: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

60

Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đến với cách làm chính trị

hiện đại, được soi sáng bởi quan điểm, lập trường khoa học cách mạng. Người

tìm thấy con đường để thực hiện lý tưởng cứu nước, cứu dân của mình. Một con

đường luôn xem cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng và vì

quần chúng. Cùng với những kiến thức lịch sử tích lũy được từ khi còn ở trong

nước, Hồ Chí Minh luận giải về sức mạnh vô địch của quần chúng nhân dân

trong đấu tranh cách mạng. Người đồng thời nghiên cứu sức mạnh của quần

chúng trong các cuộc cách mạng ở phương Tây. Người chứng kiến sức mạnh của

quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột ở khắp

nơi trên thế giới. Càng chứng kiến, càng nghiên cứu, Hồ Chí Minh càng hiểu rõ

về vai trò của khối đại đoàn kết toàn dân, về sức mạnh của quần chúng nhân dân

trong đấu tranh cách mạng. Vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, quán triệt Vô sản

tất cả các nước đoàn kết lại, Hồ Chí Minh thực hành triệt để mọi cách thức,

phương pháp nhằm phát huy vai trò quần chúng nhân dân, và để quần chúng

nhân dân ý thức về vai trò của mình trong cuộc đấu tranh giành độc lập, tự do.

Kết hợp giá trị dân tộc với giá trị thời đại, triết lý dân tộc với triết lý Mác, Lênin

Người chỉ ra “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người chung giai cấp phải thương

nhau cùng!” [71, tr.192].

Trong những ngày đầu ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân ở Hồ Chí Minh

chưa hình thành một triết lý hành động sâu sắc, nhưng qua thực tiễn hoạt động,

qua thực tiễn vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin từng bước hình thành nên một

triết lý hành động Hồ Chí Minh cách mạng, khoa học, nhân văn sâu sắc để thực

hiện hoài bão, lý tưởng của mình.

Thấm nhuần triết lý hành động Mác - Lênin, Hồ Chí Minh luôn quan tâm

đến quyền, lợi ích của số đông quần chúng, những người lao động. Người thấy

rõ sự bất công giữa quyền và lợi ích của số đông người lao động với số ít bọn đi

bóc lột. Lòng thương yêu con người khiến Hồ Chí Minh “không chỉ đấu tranh

cho một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người muốn tiến hành

một cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải phóng và phúc lợi toàn

dân” [40, tr.112]. Không đấu tranh cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài,

Page 65: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

61

Hồ Chí Minh hướng đến “làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính

sự phát triển và hoàn thiện của mình” [58, tr.XXV]. Quần chúng đứng lên tự giải

phóng bằng chính sức mạnh của quần chúng, tự phát triển và vươn lên hoàn

thiện mình qua đấu tranh, học tập và lao động, là chiều sâu triết lý hành động Hồ

Chí Minh, mục tiêu hành động Hồ Chí Minh.

Trong chủ trương và hành động, Hồ Chí Minh không ngừng giáo dục

quần chúng, lãnh đạo quần chúng, đưa quần chúng nhân dân đến với con đường

cách mạng, con đường của độc lập, tự do, hạnh phúc. Nhưng không phải là giáo

dục một cách khó hiểu mà Hồ Chí Minh học hỏi từ quần chúng, lắng nghe ý kiến

quần chúng, sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng để sửa chữa, nói tiếng

nói của quần chúng để giáo dục, lãnh đạo quần chúng. Bản thân Hồ Chí Minh

trong hành động luôn mực thước, nêu gương để quần chúng tin cậy, làm theo và

để xứng đáng với sự tin cậy của quần chúng. Phong cách, hành động Hồ Chí

Minh đối với quần chúng là không đứng trên quần chúng mà luôn đứng trong

quần chúng, đứng cùng quần chúng, tôn cao vị thế, vai trò của quần chúng,

hướng quần chúng đến tự giải phóng.

Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nhà nước Việt Nam

Dân chủ Cộng hòa ra đời, những khó khăn, thách thức còn nhiều, đế quốc, thực

dân vẫn xem Việt Nam là miếng mồi béo bở, có vị trí địa chính trị quan trọng

trong âm mưu thống trị thế giới của chúng. Đất nước giành được độc lập trong

thời gian ngắn ngủi, lại phải đối mặt với hai cuộc chiến tranh do thực dân, đế

quốc gây ra với vô vàn khó khăn thách thức đối với sự nghiệp cách mạng. Tuy

nhiên, trong giai đoạn tiếp theo, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế ngày

càng giành nhiều thắng lợi, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa được định hình,

trở thành đối trọng với các nước tư bản chủ nghĩa trong cuộc đấu tranh vì một

thế giới hòa bình. Các nước trong khối xã hội chủ nghĩa có những đóng góp,

động viên, giúp đỡ quan trọng về cả vật chất và tinh thần cho cuộc đấu tranh vì

hòa bình, độc lập và thống nhất của nhân dân Việt Nam. Để có được sự giúp đỡ

của bạn bè quốc tế, trước hết là do những nỗ lực của nhân dân Việt Nam trong

sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Cuộc đấu tranh đó

Page 66: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

62

góp phần vào phong trào đấu tranh chống thực dân, đế quốc, vào phong trào

cách mạng thế giới. Và để có sự giúp đỡ, một phần trong đó nhờ sự khôn khéo,

tế nhị của Hồ Chí Minh trong các hoạt động ngoại giao cấp nhà nước, cũng như

qua thiết lập mối quan hệ bằng hữu vô sản giữa cá nhân các lãnh tụ cách mạng.

Người luôn tìm kiếm sự ủng hộ, giúp đỡ của bạn bè, đồng chí, của những con

người, dân tộc yêu chuộng hòa bình, ủng hộ hòa bình về cả vật chất và tinh thần

cho cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân Việt Nam. Trong bất kỳ cảnh huống

nào, lựa chọn hành động của Hồ Chí Minh cũng thể hiện tấm lòng yêu nước,

thương dân, hoài bão, lý tưởng cứu nước, cứu dân của mình.

2.2.2.2. Trí tuệ mẫn tiệp, tư duy phân tích sắc sảo, độc lập, tự chủ,

sáng tạo

Trên cơ sở nền tảng lịch sử dân tộc, với trí tuệ mẫn tiệp, tư duy phân tích

sắc sảo, Hồ Chí Minh nhận định về xu hướng phát triển của các phong trào cứu

nước, giải phóng dân tộc theo những khuynh hướng khác nhau, từ đó lựa chọn cho

mình một hướng đi riêng tìm đường cứu nước. Trong nhận thức của Hồ Chí Minh:

“Xã hội bây giờ ngày một phát triển. Tư tưởng hành động cũng phát triển. Nếu cứ

giữ lấy cái kẹp giấy cũ không thay đổi là không đi đến đâu cả” [65, tr.55]. Cái gì

cũ mà xấu thì phải bỏ, cái gì cũ mà không xấu nhưng phiền phức thì phải sửa đổi

lại cho hợp lý, cái cũ mà tốt thì ta phải phát triển thêm, cái mới mà hay thì ta phải

làm [xem 62, tr.113-114]. Đó là tinh thần hành động Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin không phải là một cơ may mà

là một tất yếu. Tất yếu thể hiện ngay ở chỗ, khởi đầu quá trình bôn ba Hồ Chí

Minh xác định đi tìm một con đường cứu nước, giải phóng dân tộc, đem lại độc

lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Còn chủ nghĩa Mác - Lênin, một học thuyết

chính trị xã hội tiến bộ, cách mạng, hướng tới giải phóng con người triệt để, xây

dựng một xã hội mới vì con người. Tư tưởng cách mạng triệt để, giải phóng con

người triệt để là những tư tưởng lớn, những tư tưởng đó gặp nhau là tất yếu. Với

tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo, điều quan trọng nhất ở Hồ Chí Minh là trung

thành với chủ nghĩa Mác - Lênin không phải trên câu chữ, mà ở chỗ Người nắm

vững lập trường, quan điểm, phương pháp, tinh thần Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác

- Lênin đối với Người không phải là kinh thánh mà là kim chỉ nam cho hành động.

Page 67: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

63

Ở các quốc gia khu vực châu Á, trong ba thập niên đầu thế kỷ XX, hàng

loạt các Đảng Cộng sản được thành lập như: Đảng cộng sản Inđônêxia ra đời

năm 1920; Đảng cộng sản Trung Quốc năm 1921; Đảng cộng sản Nhật Bản năm

1922; Đảng cộng sản Triều Tiên năm 1925; Đảng cộng sản Ấn Độ năm 1928,...

cho thấy tính tất yếu lãnh đạo cách mạng của đội tiên phong của giai cấp công

nhân. Bối cảnh đó thôi thúc các nhà cách mạng Việt Nam, đặc biệt Hồ Chí Minh

tích cực hơn nữa trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước và

chuẩn bị các điều kiện cho sự ra đời của Đảng.

Tiếp thu, vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trong điều

kiện thực tiễn Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định con đường giải phóng và phát

triển của dân tộc. Đường cách mạng mà Hồ Chí Minh xác định mang những yếu

tố, giá trị cốt lõi của học thuyết lý luận Mác - Lênin về cách mạng và giải phóng

dân tộc thuộc địa, nhưng trong nội dung, cũng như hành động trên thực tế, nó thể

hiện sự tiếp nối giá trị tư tưởng cách mạng Việt Nam. Con đường cách mạng,

giải phóng dân tộc ở Việt Nam có bước chuyển nhảy vọt, khoa học và cách

mạng, thông qua những hoạt động truyền bá, chuẩn bị cơ sở chính trị, tư tưởng

và tổ chức cho cách mạng của Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh hiểu rõ, nắm bắt sâu sắc những chỉ dẫn quan trọng của Mác,

Lênin để tập hợp lực lượng cách mạng, tổ chức các lớp huấn luyện cho thanh

niên Việt Nam yêu nước, giác ngộ họ thấm nhuần tư tưởng của chủ nghĩa xã hội

khoa học và tư tưởng về vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Bằng

hành động cụ thể, kiên trì và bền bỉ chuyển họ từ lập trường của các giai tầng

khác nhau sang cùng lập trường giai cấp công nhân. Để rồi sau khi huấn luyện

đưa họ về nước, đi vào phong trào công nhân, hướng dẫn, tổ chức phong trào

làm cho tư tưởng cách mạng tiến bộ được phổ biến rộng rãi ở Việt Nam, tạo điều

kiện cần thiết, đầy đủ cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam.

Những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình tìm đường cứu

nước, truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin về trong nước, chuẩn bị mọi điều kiện

cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam cho thấy quyết tâm cao độ trong thực

Page 68: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

64

hiện lời nói đi đôi với việc làm, đưa lý luận vào thực tiễn phong trào, từ đó triết

lý hành động Hồ Chí Minh trở nên sâu sắc hơn, phát huy giá trị trong thực tiễn.

Nếu không có những hành động của Hồ Chí Minh không thể có được sự chuyển

biến phong trào công nhân mạnh mẽ, không có cơ sở, điều kiện, các yếu tố cần

thiết cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời của Đảng thể hiện rõ nhất

tư duy độc lập, tự chủ, sáng tạo của Hồ Chí Minh. Một tư duy có được từ trí tuệ

mẫn tiệp, khả năng phân tích sâu sắc những sự kiện. Một tư duy sắc sảo đến từ

những tri thức về nhiều mặt được trang bị, những kinh nghiệm có được qua thực

tiễn hành động phong phú và đa dạng của Hồ Chí Minh.

Chỉ có một trí tuệ mẫn tiệp, một tư duy phân tích sắc sảo, độc lập, tự chủ,

sáng tạo Hồ Chí Minh mới có thể tìm thấy con đường cách mạng đúng đắn. Và

cũng chính trí tuệ đó, tư duy đó đưa lý tưởng cách mạng, mục tiêu cách mạng Hồ

Chí Minh vượt qua sóng gió, thử thách, vượt qua những tình huống hiểm nghèo,

nguy hiểm đến tính mạng cũng như vận mệnh dân tộc để giành thắng lợi. Trí tuệ

sáng suốt, tự chủ, sáng tạo trong hành động cách mạng đã biến lý tưởng, hoài bão

thành hiện thực, đất nước có độc lập, tự do, nhân dân được ấm no, hạnh phúc.

2.2.2.3. Ý chí, nghị lực, bản lĩnh kiên cường

Ý chí, nghị lực, bản lĩnh Hồ Chí Minh không chỉ có được qua thực tế rèn

luyện, qua tích lũy tri thức, kinh nghiệm từ bản thân và kinh nghiệm thế giới mà

còn từ chính tấm lòng yêu nước, thương dân sâu sắc, từ lòng tin mãnh liệt vào

sức mạnh vô địch, khả năng vô tận của quần chúng, nhân dân.

Hồ Chí Minh chiếm lĩnh, làm chủ được khối lượng tri thức văn hóa nhân

loại đồ sộ, kinh nghiệm ứng xử văn hóa phong phú. Nhờ đó, Hồ Chí Minh luôn

nắm bắt được tọa độ cảm xúc, chiều sâu văn hóa của nhiều hạng người với nhiều

màu da và quốc tịch, niềm tin tôn giáo khác nhau để có những hành động, cách

hành xử khôn khéo, hợp lý, hiệu quả. Những tri thức văn hóa giúp Hồ Chí Minh

luôn tự tin, mạnh dạn, chủ động trong hành động làm nên nghị lực, bản lĩnh kiên

cường. Tiếp chuyện với các chính khách, các nhà báo, nhà ngoại giao trên khắp

thế giới, Hồ Chí Minh luôn thể hiện bản lĩnh, sự tự tin, ý chí và quyết tâm hành

động vì nhân dân, vì đất nước của mình, trong đôi mắt Người luôn ngời sáng, tự

Page 69: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

65

tin, đầy quắc thước nhưng hấp dẫn, lôi cuốn. Cũng con người ấy, khi tiếp xúc với

đồng bào, với nhân dân, với các cháu thiếu niên, nhi đồng,... lại trìu mến, thân

thương, đầy xúc động. Là ánh mắt bao dung, nhân hậu đối với những người lính,

mà lúc nào đó họ đã từng là kẻ thù của nhân dân Việt Nam, của cách mạng Việt

Nam. Bản lĩnh Hồ Chí Minh đưa đến dáng đi tự tin, chắc chắn, dứt khoát, đầy

mạnh mẽ khi tiếp xúc nguyên thủ, chính khách các quốc gia, nhưng hoàn toàn

thư thái, tự tại khi nghỉ ngơi, khi hòa mình vào thiên nhiên, cảnh vật. Thậm chí

với bản lĩnh kiên cường, một tâm hồn luôn được nuôi dưỡng, Hồ Chí Minh ngay

cả khi ở trong chốn lao tù, trong gông cùm, xiềng xích cũng có thể liên tưởng

đến những điều thú vị.

Hôm nay xiềng sắt thay dây trói,

Mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung;

Tuy bị tình nghi là gián điệp,

Mà như khanh tướng vẻ ung dung [60, tr.364].

Hay thể hiện tấm lòng của người thi sĩ, một người yêu cái đẹp của thiên nhiên

cảnh vật, và vượt lên trên tất cả là của một người có bản lĩnh, có nghị lực, biết

thời, thế để hành động.

Trong tù không rượu cũng không hoa,

Cảnh đẹp đêm nay, khó hững hờ;

Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ,

Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ [60, tr.327].

Hay

Phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ,

Kiên quyết, không ngừng thế tấn công;

Lạc nước, hai xe đành bỏ phí,

Gặp thời, một tốt cũng thành công [60, tr.326].

Và cũng chính trong những cảnh huống khó khăn đó, Hồ Chí Minh thể hiện một

triết lý sống, một triết lý hành động, một niềm tin mãnh liệt vào ngày mai tươi

sáng của sự nghiệp cách mạng.

Page 70: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

66

Phương đông màu trắng chuyển sang hồng

Bóng tối đêm tàn, sớm sạch không;

Hơi ấm bao la trùm vũ trụ,

Người đi, thi hứng bỗng thêm nồng [60, tr.352].

Trong bất kỳ cảnh huống nào, điều kiện nào, không một ai có thể thấy sự

thiếu tự tin, sự lúng túng trong ánh mắt cũng như trong cử chỉ, hành vi Hồ Chí

Minh. Ở Hồ Chí Minh luôn toát lên một tinh thần lạc quan hiếm thấy, một niềm

tin sắt đá vào sự nghiệp cách mạng.

Nắm cốt lõi những giá trị tri thức văn hóa tiến bộ của nhân loại, cùng tri

thức kinh nghiệm văn hóa phong phú, sự trải nghiệm các nền văn hóa rộng lớn

tạo nên bản lĩnh Hồ Chí Minh. Đồng thời Hồ Chí Minh không ngừng học hỏi,

nắm bắt những kiến thức mới. Người luôn kịp thời tổng kết thực tiễn, rút ra kết

luận từ thực tiễn để chỉ đạo hành động cho mình, đảm bảo cho hành động luôn

khoa học, đúng đắn. Đó là bản lĩnh của người nắm được quy luật vận động và phát

triển của lịch sử, tin vào thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Tin tưởng vững chắc

vào khoa học cách mạng, tin vào lý luận, bảo vệ và phát triển lý luận. Bản lĩnh của

người đã trang bị được cho mình vũ khí lý luận sắc bén, tiên tiến nhất của thời đại

và không ngừng mài sắc vũ khí đó trong thực tiễn đấu tranh cách mạng.

Ý chí, nghị lực, bản lĩnh có được còn do Hồ Chí Minh tâm khai mở bao

trùm thiên hạ, bao chứa muôn dân, ở Người không có những hành vi, tư tưởng

vụ lợi cá nhân, vì cá nhân. Hồ Chí Minh không tìm lợi ích trong nhân dân, trong

xã hội, mà là tạo ra lợi ích cho nhân dân, cho đất nước. Hồ Chí Minh có toan tính

thì cũng chỉ toan tính những gì có ích cho dân tộc, có lợi cho nhân dân. Với một

người không vụ lợi cá nhân, sẵn sàng “một là ngồi tù, hai là lên máy chém” [72,

tr.669] thì không thể có gì có lợi cho dân, cho nước mà không dám làm, cũng

không có thể bằng cách nào, uy lực nào mua chuộc, lay chuyển cho được ý chí,

nghị lực, quyết tâm của người đó. Tất cả vì nhân dân, vì dân tộc tạo nên ý chí,

bản lĩnh, nghị lực kiên cường trong hành động Hồ Chí Minh.

Tóm lại, triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ có nền tảng chủ nghĩa

Mác - Lênin, mà còn có lăng kính Mác - Lênin để lựa chọn những giá trị tích

Page 71: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

67

cực trong triết lý dân tộc, triết lý phương Đông, phương Tây, triết lý của nhân

loại để trở nên khoa học và sâu sắc. Triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện

Người đã tiếp nối truyền thống đấu tranh, tư tưởng đấu tranh của cha ông

nhưng đã gắn nó với lý luận cách mạng khoa học nhất của thời đại để thành

công. Hồ Chí Minh cả đời hành động vì Dân, vì nước tạo nên những phẩm chất

cá nhân đặc biệt, nổi trội. Đó là phẩm của người đặt Dân lên vị trí cao nhất,

đánh giá đúng vai trò, lực lượng, sức mạnh của Dân để huy động Dân, dùng

sức Dân làm lợi cho Dân.

2.3. BẢN CHẤT TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

2.3.1. Bản chất khoa học

Triết lý là những đúc rút từ sự trải nghiệm, kinh nghiệm sống về những

điều nên hay không nên làm, hướng về đạo lý, định hướng hành động. Việc lựa

chọn triết lý nào làm định hướng trong cuộc sống hoàn toàn mang tính chủ quan.

Triết lý không thể hiện tính đúng - sai mà thể hiện sự hợp lý tương đối theo quan

điểm của chủ thể hành động, bởi nếu so sánh đánh giá thì trong đa số các trường

hợp, triết lý còn chứa đựng những mâu thuẫn, sự phiến diện. Tuy nhiên, triết lý

hành động Hồ Chí Minh được thể hiện thống nhất, xuyên suốt trên một nền tảng

lý luận khoa học, thể hiện là một lựa chọn tất yếu cho hành động nhằm đạt tới

những mục tiêu tốt đẹp, sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước.

Hồ Chí Minh lấy chủ nghĩa Mác - Lênin để hoạch định, hình thành con

đường cứu nước, giải phóng và phát triển dân tộc, làm cơ sở phương pháp luận

để thâu thái, tiếp thu, chọn lọc những giá trị tiến bộ, tích cực trong tư tưởng, văn

hóa truyền thống dân tộc, phương Đông, phương Tây và của nhân loại. Triết lý

hành động Hồ Chí Minh khoa học, dễ đi vào quần chúng, gần gũi với cách hiểu,

sự hiểu biết của quần chúng, chứa đựng giá trị sâu sắc trong sự giản dị của lời

nói, hành động, việc làm. Sự không biệt phái của triết lý chính từ việc tiếp nhận

những giá trị tinh túy nhất trong mọi học thuyết tư tưởng, triết lý của nhân loại.

Thực hành, thực hiện triết lý hành động Hồ Chí Minh đưa đến những thắng lợi

cho cách mạng Việt Nam, khẳng định giá trị khoa học của triết lý trên thực tiễn.

Page 72: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

68

Triết lý Hồ Chí Minh được hình thành từ góc nhìn của lý luận khoa học,

dùng lý luận khoa học để đánh giá, lựa chọn, trải nghiệm rồi đúc kết thành những

mệnh đề, luận điểm. Triết lý đó không phải là những khái quát từ sự mò mẫm, qua

nhiều phép thử không có cơ sở khoa học, không dựa trên cơ sở khoa học, mà là sự

đúc kết có được từ quá trình đưa lý luận gắn liền với thực tiễn, từ tổng kết thực

tiễn, hiểu biết thực tiễn một cách khoa học. Hình thành từ nhận thức khoa học, có

khoa học dẫn dắt, triết lý hành động Hồ Chí Minh khám phá được những quy luật

khách quan của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, đi đến giải thích được các hiện

tượng, các quy luật xã hội và tiến hành cải tạo thế giới, giải phóng dân tộc và phát

triển đất nước, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Tinh thần, phương pháp Mác - Lênin cùng với thực tiễn cách mạng được

kết hợp nhuần nhuyễn đưa đến những bước sáng tạo đột phá trong tư duy lý luận

Hồ Chí Minh. Là một nhà biện chứng thực hành, nhà triết học hành động ở Hồ

Chí Minh, không chỉ có biện chứng giữa lý luận và thực hành, mà còn là biện

chứng của tư duy và hành động. Thực tiễn khách quan là ngọn nguồn của tư duy

và hành động Hồ Chí Minh, thực hành lý luận là cơ sở thực tiễn để đánh giá lý

luận, phát triển lý luận. Người nói ít, viết ít, đặc biệt ít viết lý luận. Người thể

hiện lý luận trong hành động, lấy hành động làm chủ yếu. Người thực hành phép

biện chứng duy vật mácxít trong đấu tranh cách mạng, trong cải tạo thế giới cũ,

xây dựng thế giới mới. Triết lý hành động Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa

nhận thức với hành động, giữa lý luận và thực tiễn một cách chặt chẽ.

Trải qua cuộc đấu tranh cách mạng, với sự vận động của lịch sử, những

thắng lợi của cách mạng đưa Hồ Chí Minh đến những thực tiễn lịch sử, bối cảnh

xã hội phong phú. Chính vì vậy, trong triết lý hành động Hồ Chí Minh còn thể

hiện tính biện chứng giữa không gian và thời gian; giữa quá khứ và hiện tại; giữa

cũ kỹ, lạc hậu với hiện đại, mới mẻ; giữa cá nhân với tập thể, cộng đồng; giữa lợi

ích cá nhân và lợi ích quốc gia; giữa lợi ích dân tộc và lợi ích quốc tế,… Nó là một

triết lý được hình thành trong quá trình lâu dài, được kiểm nghiệm trong thực tế

cách mạng. Thông qua đó phép biện chứng duy vật được phát triển lên một tầm

cao mới, phong phú, thực tiễn, phương Đông hơn, khoa học và toàn diện.

Page 73: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

69

Triết lý hành động Hồ Chí Minh là những mệnh đề được cô đúc, khái quát

cao độ thể hiện quan điểm tư tưởng cốt lõi của Hồ Chí Minh, thống nhất và

xuyên suốt trong sự nghiệp cách mạng. Nội dung triết lý hành động Hồ Chí

Minh từ góc độ tiếp cận hành động, triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện

mục tiêu, động lực, phương pháp hành động. Nội dung đó thể hiện mối quan hệ

có thứ tự, lớp lang, trước sau theo góc độ tiếp cận hành động chứ không tùy tiện

xếp đặt theo ý muốn chủ quan. Để hành động, trước hết phải xác định được mục

tiêu. Mọi hành động phải thể hiện hướng tới những mục tiêu nhất định, chứ

không phải là những hành động không thống nhất, mất phương hướng. Trên cơ

sở mục tiêu, định ra nguồn lực, vật chất, tinh thần để tổ chức hành động, hoạt

động có kết quả. Đồng thời từ mục tiêu, để đạt kết quả còn cần có các phương

pháp hành động phù hợp, chỉ đạo mới có thể đảm bảo những thắng lợi.

Nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện ở mục tiêu, động lực,

phương pháp hành động. Trong mỗi nội dung là những mệnh đề, luận điểm thể

hiện sự đúc rút, sự chiêm nghiệm sâu sắc từ hành động, kinh nghiệm thực tiễn

của Hồ Chí Minh. Điều này khác với các triết lý thường thấy, trong những triết

lý này nội dung triết lý thể hiện trong một mệnh đề hoặc một luận điểm. Triết lý

hành động Hồ Chí Minh là những luận điểm, mệnh đề có tính hệ thống, chỉnh

thể, có sự kết nối, thống nhất, xuyên suốt trong sự nghiệp Hồ Chí Minh.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh mang tư tưởng chính trị khoa học sâu sắc

nhưng có đặc thù dễ phân biệt so với các triết lý khác bởi Hồ Chí Minh sử dụng là

ngôn ngữ hình ảnh, không phải là một hình ảnh cao xa mà chính là hình ảnh giản dị,

gần gũi từ trong hành động thực tiễn. Hồ Chí Minh diễn đạt triết lý, những ý tưởng

trong cuộc sống bằng hành động của mình đối với mình, cũng như của mình đối với

người, của người lãnh đạo đối với cấp dưới, của người cha già dân tộc đối với nhân

dân. Sức thuyết phục, cảm hóa đối với người khác không phải từ lời nói mà chủ yếu

từ hành động, việc làm. Đó là một cách thức khoa học, phù hợp để đưa lý luận vào

hành động thực tiễn.

Cùng với thể hiện lý luận, triết lý bằng hành động, để quần chúng nhân

dân dễ hiểu Hồ Chí Minh còn sử dụng ngôn ngữ của quần chúng, lối nói của

Page 74: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

70

nhân dân để nói với nhân dân. Hồ Chí Minh sử dụng phong cách nói, viết của

quần chúng và cũng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải nâng cao ý thức, phát huy,

học hỏi cách nói của quần chúng để vận động quần chúng, để giữ gìn sự trong

sáng của tiếng Việt. Người yêu cầu tránh sử dụng các từ ngữ quá khoa học, to

tát, lối nói tầm chương trích cú nhưng sáo rỗng, không giúp cho quần chúng

nhân dân hiểu đúng để làm đúng, làm ngay. Người chỉ rõ, “Không nên lúc nào

cũng trích Các Mác, cũng trích Lênin, làm cho đồng bào khó hiểu. Nói thế nào

cho đồng bào hiểu được, đồng bào làm được, đó là nói được chủ nghĩa Mác -

Lênin” [71, tr.161].

Hồ Chí Minh truyền tải giá trị căn cốt của lý luận mácxít bằng những

ngôn từ thuần Việt, ngôn ngữ dân gian. Quan niệm về hiểu chủ nghĩa Mác -

Lênin, Người cho rằng phải sống với nhau có tình có nghĩa. Phạm trù tình nghĩa

là khá quen thuộc trong lối nói dân gian truyền thống. Nói sống với nhau có tình

có nghĩa ai là người Việt Nam đều hiểu, mà về bản chất diễn đạt được giá trị căn

cốt của chủ nghĩa Mác - Lênin. Hay, Hồ Chí Minh định nghĩa chính trị là đoàn

kết và thanh khiết từ to đến nhỏ. Diễn đạt tinh thần đoàn kết vô sản quốc tế của

Mác, Lênin, Người dùng “Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người chung giai cấp

phải thương nhau cùng!” [71, tr.192], hay “Lọ là thân thích ruột rà, Công nông

thế giới đều là anh em” [71, tr.312]. Người sử dụng những yếu tố quan trọng

trong triết lý sống của truyền thống văn hóa dân tộc để diễn đạt, diễn giải cho các

thuật ngữ chính trị phức tạp khó hiểu.

Không chỉ chuyển tải các thuật ngữ phức tạp khó hiểu sang ngôn ngữ dân

gian, truyền thống dễ hiểu mà Hồ Chí Minh còn luôn thực hành chính những lý

luận chính trị mới mẻ đó trong thực tế công tác của mình. Thông qua hành động,

Hồ Chí Minh giải thích cho mọi người hiểu rõ, hiểu sâu hơn về lý luận cách

mạng. Người thực hành, thực hiện chính những điều Người đã lý giải trong thực

tiễn cách mạng để làm minh chứng thuyết phục, cảm hóa quần chúng.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học từ cơ sở, cách

thức hình thành, nội dung cho đến hình thức biểu đạt các nội dung của triết lý.

Page 75: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

71

2.3.2. Bản chất cách mạng

Hồ Chí Minh đi ra thế giới tìm đường cứu nước khi thực tế phong trào

cách mạng dưới sự dẫn dắt của các lực lượng giai cấp xã hội cũ ở Việt Nam gặp

khó khăn và thất bại. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận ra con đường

giải phóng dân tộc. Tiếp thu lý luận Mác - Lênin, Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng

định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh giải phóng giai

cấp, giải phóng con người, đưa con người tới bến bờ tự do, hạnh phúc, được làm

chủ và là người làm chủ trong thực tiễn cách mạng. Vận dụng lý luận Mác -

Lênin trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng và phát triển dân tộc, Hồ Chí Minh

đã hình thành nên một triết lý hành động cách mạng.

Nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh về mục tiêu, động lực, phương

pháp hành động cho thấy cuộc cách mạng trong nhận thức và hành động. Triết lý

không chỉ là những nhận thức khoa học về hành động cách mạng mà còn là

những nhận thức sâu sắc về quy luật phát triển xã hội thể hiện trong mục tiêu

hành động, động lực hành động cách mạng. Đây là những nội dung mà không có

triết lý hành động nào trước đó đã thể hiện cụ thể và đầy đủ.

Trong triết lý hành động Hồ Chí Minh những vấn đề cách mạng lớn lao

được đề cập một cách giản dị, dễ hiểu, bằng hành động, nhưng không vì thế mà

nó mất đi bản chất cách mạng, ngược lại bản chất cách mạng được khẳng định

mạnh mẽ hơn trong thực tiễn hành động. Tinh thần cách mạng trong triết lý hành

động Hồ Chí Minh là cuộc cách mạng không ngừng, một cuộc cải biến tất cả

những gì cũ kỹ, lạc hậu từ trong cách thức tổ chức, quản lý xã hội cho đến gột

rửa những vết tích cũ kỹ, lạc hậu trong tư tưởng từng cá nhân, ở cán bộ, đảng

viên và nhân dân. Đó là cuộc cách mạng trước hết để giành độc lập dân tộc, và

tiếp đó là cuộc cách mạng đổi mới về tư tưởng, chính trị, kinh tế, văn hóa, khoa

học, kỹ thuật,... cuộc cách mạng nhằm làm thay đổi tất cả, xóa bỏ tất cả những gì

cản trở sự phát triển của con người, cho con người, vì con người. Trong thực

tiễn, chủ thể lãnh đạo, Đảng và Nhà nước, phải luôn ý thức rất rõ về mục tiêu và

phương pháp hành động. Đó cũng chính là tinh thần cách mạng, giải phóng và

phát triển trong chính hành động của mỗi người, vì mọi người.

Page 76: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

72

Mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh là giải phóng và phát triển đất

nước. Để thực hiện mục tiêu đó, trước hết phải giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp và giải phóng con người, đó là sự nghiệp độc lập dân tộc gắn liền với

chủ nghĩa xã hội. Kế thừa tư tưởng cách mạng triệt để của học thuyết Mác -

Lênin, Hồ Chí Minh tiến hành trên thực tế cuộc cách mạng để giải phóng dân

tộc, giải phóng nhân dân. Cuộc cách mạng đó diễn ra trên tất cả các lĩnh vực đời

sống xã hội từ chính trị, kinh tế, văn hóa,... và có được những kết quả cụ thể,

sinh động. Thông qua thực tiễn trên các lĩnh vực, triết lý hành động Hồ Chí

Minh được biểu đạt đầy đủ, phong phú và khẳng định tính thống nhất, xuyên

suốt, rõ ràng, mạnh mẽ. Ngược lại, triết lý hành động Hồ Chí Minh có ý nghĩa

nền tảng, giá trị định hướng cho hành động trên các lĩnh vực của đời sống xã hội

trong quá trình cách mạng, quá trình phát triển.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện rõ chủ thể quan trọng của hành

động, của thực hiện triết lý là Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Mục

tiêu, động lực, phương pháp hành động được Hồ Chí Minh xác định cho thấy

chủ thể hành động, lãnh đạo hành động là giai cấp vô sản, giai cấp tiên phong

lãnh đạo, dẫn dắt phong trào cách mạng. Triết lý thể hiện chủ thể lãnh đạo trong

khi phấn đấu cho lợi ích chung xã hội, cho sự giải phóng và phát triển con người

thì cũng chính là quá trình đạt được các lợi ích chính đáng của mình. Hay nói

khác, triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện lợi ích của giai cấp công nhân,

của chủ thể lãnh đạo hành động cách mạng là đem lại lợi ích cho nhân dân lao

động, giải phóng và phát triển đất nước. Triết lý cũng cho thấy, cuộc cách mạng

giải phóng và phát triển mà chủ thể hành động lựa chọn không chỉ trong phạm vi

quốc gia, dân tộc mà nó còn có ý nghĩa trên phạm vi thế giới, đó là những giá trị,

mục tiêu nhân loại hướng tới vì hòa bình và phát triển.

Thực hiện, thực hành triết lý hành động Hồ Chí Minh đưa con người tiến

đến tự giải phóng, con người tận hưởng những giá trị thực sự của độc lập, tự do,

hạnh phúc. Xây dựng Đời sống mới cho mình, của mình và Đời sống mới cho

một dân tộc độc lập, tự do. Đây chính là chiều sâu giá trị văn hóa, giá trị triết lý

Page 77: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

73

hành động Hồ Chí Minh. Tính cách mạng trong triết lý hành động Hồ Chí Minh

thể hiện chính ở giải phóng con người theo nghĩa phát triển hoàn thiện con

người. Cách mạng bằng văn hóa, từ trong phát triển văn hóa, tư tưởng của mỗi

con người. Đó là cuộc cách mạng đưa nhân dân, đưa con người đến cái đích cao

nhất làm chủ chính mình, làm chủ vận mệnh của mình, dân tộc mình và không

ngừng góp phần ngày càng lớn vào xây dựng, phát triển đất nước.

2.3.3. Bản chất nhân văn

Nhân văn, nhân ái là một đặc điểm nổi bật của truyền thống văn hóa Việt

Nam, nó là một phẩm chất của con người Việt Nam. Hồ Chí Minh mang trong

mình truyền thống nhân văn của dân tộc để lĩnh hội các giá trị tinh thần nhân văn

cộng sản, các giá trị tinh túy tư tưởng nhân văn của nhân loại. Qua hành động

cách mạng nhằm cứu nước và giải phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đưa tư tưởng

nhân văn trong truyền thống văn hóa dân tộc lên một tầm cao mới. Triết lý hành

động Hồ Chí Minh thể hiện triết lý nhân văn cộng sản, triết lý hành động vì độc

lập, tự do, hạnh phúc của con người, thể hiện một giá trị nhân văn hành động,

hành động một cách khoa học, có mục tiêu, động lực và phương pháp khoa học.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh hình thành trong yêu cầu của cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người ở Việt

Nam. Chủ nghĩa nhân văn hình thành thông qua hành động cách mạng, thông

qua thực hành triết lý với mục tiêu giải phóng triệt để, phát triển con người.

Nhưng triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh khát vọng của nhân

dân Việt Nam, tư tưởng nhân văn Việt Nam mà còn phản ánh khát vọng của

loài người tiến bộ của các học thuyết, chủ thuyết phát triển xã hội, giải phóng

con người trên thế giới, cả phương Đông và phương Tây. Triết lý hành động

Hồ Chí Minh vượt lên yêu cầu cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng

giai cấp và giải phóng con người ở Việt Nam. Triết lý phản ánh những khát

vọng chung nhất về tình thương yêu con người, về sự cảm thông với những số

phận khổ đau không phân biệt màu da, tôn giáo trên khắp thế giới. Triết lý

hướng con người đến hành động, thúc đẩy hành động, hướng con người đến

Page 78: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

74

hành động có mục tiêu, xác định đúng động lực, có phương pháp hành động

đúng đắn để giải phóng dân tộc, giải phóng chính mình, đưa mình lên địa vị

làm chủ, tự do và phát triển.

Bản chất nhân văn thể hiện sâu sắc hơn khi hướng con người đến hành động

cách mạng, hướng con người đến tự giải phóng mình và giải phóng cho dân tộc

mình. Nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh vì thế đi vào chiều sâu nhất,

nhằm giá trị nhân văn cao cả nhất mà con người, loài người tiến bộ hướng tới và

đang hành động vì nó.

Hồ Chí Minh cả đời hành động vì dân, vì nước, hình thành nên triết lý

nhân văn hành động Hồ Chí Minh. Tinh thần nhân văn được thể hiện qua hành

động, bằng hành động để thực hiện các mục tiêu nhân văn, đó không phải là chủ

nghĩa nhân văn được giao giảng, được viết trong sách. Vì yêu nước, thương dân,

thương nhân loại đau khổ thì phải hành động, đó là nhân văn, là vì con người.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh, động viên, thúc đẩy con người đứng lên chiến

đấu để giải phóng và phát triển. Những giá trị nhân văn cao đẹp thể hiện trong

triết lý góp phần làm nên những thắng lợi cách mạng Việt Nam, góp phần hình

thành nên chủ nghĩa nhân văn mới, chủ nghĩa nhân văn hành động Hồ Chí Minh.

Mang bản chất nhân văn sâu sắc về quyền con người, quyền dân tộc, triết

lý hành động Hồ Chí Minh tiến đến thực hiện các quyền đó bằng hành động thực

tiễn, bằng những kết quả thực tế của hành động khẳng định bản chất nhân văn

của triết lý. Giải phóng và phát triển trong triết lý hành động Hồ Chí Minh xoay

quanh điểm mấu chốt, cốt lõi là vì nhân dân. Thực hiện cuộc cách mạng, giải

phóng để phát triển, nhưng là sự phát triển được đánh giá bằng thước đo về đời

sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Độc lập trở nên vô nghĩa nếu như nhân

dân vẫn đói khổ. Độc lập chỉ thực sự có ý nghĩa khi cuộc sống ngày càng tốt đẹp

hơn, nhân dân no ấm hơn, đất nước to đẹp hơn, đàng hoàng hơn.

Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu nước xuất phát từ lòng yêu nước,

thương dân. Người dành cả đời để đấu tranh và hướng dẫn nhân dân đấu tranh,

cứu nước theo con đường đã chọn. Dân là điểm đồng quy của mọi suy tư và hành

động, để hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh. Triết lý thể hiện nhất

Page 79: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

75

quán chân lý, cách mạng là sự nghiệp của Dân, do Dân, vì Dân. Chủ nghĩa nhân

văn hình thành thông qua hành động cách mạng, thể hiện trong thực hành triết lý

hành động Hồ Chí Minh.

Trong chiều sâu của triết lý hành động, chữ Dân được mở rộng hướng đến

chữ Nhân, nhân dân, nhân loại. Trong hành động, xây dựng kế hoạch hành động,

Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng đến nhân hòa, xem nhân hòa là yếu tố quan

trọng trong chỉnh thể các yếu tố quyết định hành động hiệu quả là: Thiên thời,

Địa lợi, Nhân hòa. Hồ Chí Minh nhận thức rõ về quy luật phát triển khách quan

của xã hội, giải thích các hiện tượng vận động về mọi mặt của đời sống xã hội và

hành động thực hiện theo quy luật để cải tạo xã hội vì con người, vì nhân dân và

nhân loại. Phát huy sức mạnh con người trong triết lý hành động Hồ Chí Minh là

phát huy sức mạnh của người chủ và làm chủ, của con người tự do chứ không

phải con người nô lệ. Con người vươn tới làm chủ trong hành động, trong quá

trình phát triển, đạt tới tự do, hạnh phúc thực sự là mục tiêu sâu xa của triết lý.

Bản chất nhân văn không chỉ thể hiện trong nội dung mục tiêu hành động

mà còn được thể hiện trong xác định nội dung các động lực, phương pháp hành

động. Trong những nội dung đó, Hồ Chí Minh đánh giá cao vị trí, vai trò của

quần chúng nhân dân, đề cao trách nhiệm của Đảng và Chính phủ, của cán bộ,

đảng viên trước nhân dân, vì nhân dân. Người nhận rõ mang tài dân, sức dân mà

làm lợi cho dân, cách mạng dựa vào nhân dân, nhân dân giúp đỡ nhiều thì thắng

lợi nhiều, nhân dân giúp đỡ ít thì thắng lợi ít. Đời sống thực tiễn của nhân dân,

tình cảnh của đất nước là cơ sở tiên quyết cho việc xác định, thiết lập nguyên tắc

hành động. Từ thực tiễn đời sống của nhân dân, tình cảnh của đất nước mà lựa

chọn con đường cách mạng, lựa chọn cách thức hành động cho phù hợp với nhân

dân. Phương pháp hành động đối với nhân dân, bên cạnh các phương pháp bao

quát, mang tính phương pháp luận chỉ đạo hành động thì Người cũng rất chú ý

đến phương pháp cụ thể, mang tính chất cầm tay chỉ việc. Người hướng dẫn một

cách cụ thể, tỉ mỉ đến từng chi tiết, từng hành động nhỏ nhất để cán bộ, quần

chúng nhân dân có thể hiểu đúng, hiểu ngay, làm được.

Không phải mọi triết lý đều là lẽ phải, luôn định hướng hành động đúng

đắn, được lựa chọn làm kim chỉ nam cho hành động. Chỉ có những triết lý nào

Page 80: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

76

nhằm mục tiêu thúc đẩy sự phát triển hoàn thiện của con người, đưa con người

vươn tới những giá trị cao đẹp nhất, tốt đẹp nhất và cho tất cả mọi người mới là

đúng đắn. Cũng có nghĩa là giữa nhận thức về cái đúng, đi đến hành động đúng

cần phải có sự thống nhất gắn bó. Hồ Chí Minh nhận thức những vấn đề đặt ra

đối với quốc gia, dân tộc, nhân dân trên cơ sở khoa học và hành động trong thực

tế nhằm cải tạo những vấn đề đặt ra theo đúng lý luận khoa học nhận thức được.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh là điển hình mẫu mực của việc thống nhất giữa

nhận thức đúng đắn và hành động khoa học vì con người, nhân danh con người.

Tóm lại, triết lý hành động Hồ Chí Minh hình thành trong quá trình lãnh

đạo sự nghiệp giải phóng và phát triển dân tộc của Hồ Chí Minh. Trên nền tảng

khoa học Mác - Lênin, thông qua lăng kính Mác - Lênin, Hồ Chí Minh lựa chọn

một cách khoa học các giá trị tích cực triết lý hành động của nhân loại để hình

thành nên triết lý hành động của mình. Thông qua hành động trong thực tiễn cách

mạng, Hồ Chí Minh không ngừng bổ sung phát triển triết lý hành động, mài sắc

vũ khí lý luận cách mạng Mác - Lênin để gặt hái những thắng lợi cách mạng. Triết

lý hành động Hồ Chí Minh là triết lý hành động cách mạng, hành động để giải

phóng và phát triển. Sự nghiệp cách mạng mà triết lý hành động Hồ Chí Minh

hướng tới là giải phóng nhân dân, đặc biệt là nhân dân lao động ở thuộc địa, đưa

nhân dân từ địa vị nô lệ lên địa vị làm chủ. Những thắng lợi của cách mạng Việt

Nam cũng là những thắng lợi trong thực tiễn triết lý hành động Hồ Chí Minh,

thắng lợi đó không chỉ đưa nhân dân Việt Nam đến độc lập, tự do, hạnh phúc mà

còn cổ vũ, động viên nhân dân bị áp bức, bóc lột ở các thuộc địa trên khắp thế giới

đứng lên làm cách mạng giải phóng cho mình. Khoa học, cách mạng và nhân văn

vừa là bản chất vừa là giá trị của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Tiểu kết Chương 2

Triết lý hành động Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát

triển các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, đặc biệt triết lý có trong chủ

nghĩa Mác - Lênin. Trên nền tảng phương pháp luận, tinh thần biện chứng Mác -

Lênin, Hồ Chí Minh chọn lọc và phát triển các giá trị văn hóa, tư tưởng, triết lý

Page 81: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

77

làm cho triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện chất cộng sản nhưng không

giống với những người cộng sản khác. Triết lý thể hiện phương pháp duy vật biện

chứng Mác - Lênin nhưng rất Việt Nam, gần gũi với cách hiểu của người Việt

Nam. Các phạm trù, quy phạm, giá trị triết lý Phật giáo, Nho giáo, truyền thống

đạo lý, văn hóa dân tộc được sử dụng, thậm chí số lần lặp lại nhiều hơn cả số ngôn

từ khoa học mácxít, nhưng cái rượu mới trong bình cũ lại thể hiện, truyền tải được

những giá trị cốt lõi triết lý mácxít, rất khoa học và cách mạng.

Quá trình hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh đồng thời với quá

trình hoạt động, lãnh đạo phong trào cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh.

Trong quá trình này, nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh ngày càng được

hoàn thiện, bản chất khoa học, cách mạng, nhân văn của triết lý ngày càng sâu

sắc. Các nội dung triết lý thể hiện trong thực tiễn, được thực tiễn cách mạng

kiểm nghiệm, đánh giá và khẳng định giá trị. Triết lý hành động Hồ Chí Minh

không còn là triết lý về cách sống ở đời và làm người của một cá nhân mà nó

phản ánh một triết lý sống có tầm cỡ, có ý nghĩa thời đại, chứa đựng những giá

trị nhân văn phổ quát và sâu sắc.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh chỉ ra mục tiêu, động lực, phương pháp

hành động để thực hiện các giá trị nhân văn trong quá trình phát triển lịch sử.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh không ngừng được thực hiện và ngày càng mở

rộng các giá trị. Hình thành một cách khoa học, không biệt phái, triết lý hành

động Hồ Chí Minh không chỉ mang tính quốc gia, dân tộc mà còn mang tính

quốc tế, vì sự phát triển tốt đẹp của con người, vì loài người.

Trên cơ sở đánh giá nguồn gốc, bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh,

cho phép bước đầu xác định khái niệm triết lý hành động Hồ Chí Minh. Khái

niệm Triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện nội dung, bản chất triết lý hành

động Hồ Chí Minh. Đây là cơ sở quan trọng, quyết định các nội dung nghiên cứu

triết lý hành động Hồ Chí Minh sẽ tiếp tục được triển khai trong luận án này.

Page 82: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

78

Chương 3

NỘI DUNG CƠ BẢN TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

Hồ Chí Minh chỉ ra rằng trong vô luận việc gì cũng phải xác định mục

tiêu - phương châm cần đạt tới, phương pháp và kế hoạch để thực hiện, khi thực

hiện thì cần phải có chính sách để hoàn thành công việc. Có nghĩa khi muốn làm

một việc, quan trọng cần xác định rõ mục tiêu, kế hoạch, phương pháp thực hiện.

Trong kế hoạch đầy đủ thể hiện chính sách, nguồn lực, phương pháp... để thực

hiện mục tiêu đặt ra. Trong tư tưởng, hành động hết sức nhuần nhuyễn và thống

nhất xuyên suốt của Hồ Chí Minh rất khó tách bạch một cách rạch ròi giữa mục

tiêu và động lực, cũng như mục tiêu, động lực với các vấn đề khác. Có nhiều

khía cạnh, yếu tố vừa là mục tiêu vừa là động lực. Luận án chia một cách tương

đối thành ba nội dung mục tiêu, động lực, phương pháp là một cách tiếp cận triết

lý hành động Hồ Chí Minh.

3.1. TRIẾT LÝ VỀ MỤC TIÊU HÀNH ĐỘNG

3.1.1. Độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc

Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh nước mất, nhân dân chịu cảnh một cổ hai

tròng, rên riết dưới ách áp bức bóc lột của thực dân, đế quốc. Chứng kiến các

phong trào yêu nước của cha ông chống thực dân Pháp lần lượt thất bại, Hồ Chí

Minh nung nấu ý chí giành độc lập cho dân tộc và tự do cho nhân dân. Khát

vọng giải phóng dân tộc cháy bỏng hơn bất cứ điều gì khác thúc đẩy Hồ Chí

Minh đi ra thế giới tìm đường cứu nước, cứu dân.

Ngay từ những ngày đầu tiên bôn ba tìm đường cứu nước, cũng như trong

suốt cuộc đời cách mạng, Hồ Chí Minh luôn thể hiện một ham muốn tột bậc là

nước ta được hoàn toàn độc lập, nhân dân được hoàn toàn tự do, đồng bào ai

cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Đến với chủ nghĩa Mác -

Lênin, Hồ Chí Minh tìm thấy con đường giải phóng dân tộc với đường lối

giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Thực hiện con

đường giải phóng dân tộc bằng sự kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với

Page 83: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

79

sức mạnh lý luận của giai cấp công nhân, phong trào công nhân, bằng sự kết hợp

sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.

Nắm chắc đường lối cách mạng, con đường cách mạng mà chủ nghĩa Mác

- Lênin chỉ ra, Hồ Chí Minh chiến đấu, hy sinh cả đời vì độc lập, tự do của Tổ

quốc. Trong hành động, Hồ Chí Minh đặt Tổ quốc trên hết và Không có gì quý

hơn độc lập, tự do, Người luôn đấu tranh với tinh thần cương quyết kháng chiến,

tranh cho kỳ được thống nhất độc lập mới thôi. Nhưng không chỉ dừng lại với

tinh thần trận này là trận cuối, tinh thần cương quyết kháng chiến giành kỳ được

độc lập, thống nhất thực sự của dân tộc còn được thể hiện bằng một quyết tâm

bền bỉ, lâu dài. “Để giành lại nền độc lập dân tộc và sự thống nhất đất nước của

mình, nhân dân Việt Nam sẵn sàng đấu tranh 10 năm, 15 năm, 20 năm hoặc hơn

nữa, nếu cần thiết!” [63, tr.339]. Và xác định rõ, “Càng gần đến thắng lợi, chúng

ta càng gặp nhiều khó khăn. Nhưng chúng ta đã quyết tâm khắc phục tất cả

những khó khăn và chịu đựng mọi hy sinh để đạt mục đích của mình: Đánh đuổi

tất cả bọn xâm lược và giải phóng Tổ quốc của chúng ta” [63, tr.339]. Chiến

tranh có thể tàn phá một số thành phố, xí nghiệp, song nhân dân Việt Nam quyết

không sợ. “Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng

hoàng hơn, to đẹp hơn!” [72, tr.131].

Triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện mục tiêu hướng đến phải xây

dựng nền thống nhất và độc lập thực sự của dân tộc. Điều này không chỉ được

thể hiện ngay trong tiêu ngữ của nước, trên mọi văn bản hành chính nhà nước từ

khi lập quốc câu đầu tiên là: Việt Nam Dân chủ Cộng hoà: Độc lập - Tự do -

Hạnh phúc như một tôn chỉ hành động của quốc gia, dân tộc, mà còn được thể

hiện qua hành động, quyết tâm của Hồ Chí Minh trong quá trình lãnh đạo Đảng,

Chính phủ thực hiện công cuộc đấu tranh giành độc lập. Không chỉ dừng lại ở

độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, để giữ vững nền độc

lập, Hồ Chí Minh khẳng định: “Muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân

mạnh nước giàu, mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn

phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây

dựng nước nhà” [61, tr.40]. Và Người khẳng định, trước hết phải biết đọc, biết

Page 84: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

80

viết. Người coi dốt nát, mù chữ cũng là một loại giặc, bởi một dân tộc dốt là một

dân tộc yếu.

Hồ Chí Minh lấy văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Cuộc cách mạng Hồ

Chí Minh phát động, được thực hiện từ chính những con người trước đây bị áp

bức, bóc lột, nhờ được trang bị vũ khí lý luận, trang bị kiến thức văn hóa đã

đứng lên tranh đấu, giải phóng dân tộc, tự giải phóng mình. Trong hành động vì

mục tiêu độc lập, tự do cho Tổ quốc, ngay sau khi đến với chủ nghĩa Mác -

Lênin, Hồ Chí Minh đã tích cực truyền bá lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về

trong nước, thức tỉnh quần chúng công nông, thức tỉnh nhân dân bị áp bức đứng

lên làm cách mạng. Cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ

nghĩa dưới sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh vì thế thực chất là sự nghiệp văn hóa vĩ

đại, mà khởi đầu của nó là độc lập, tự do của dân tộc. Khởi đầu là cuộc cách

mạng giải phóng, độc lập cho dân tộc, trên cơ sở độc lập dân tộc con người được

tự do phát triển và hoàn thiện. Đó là cuộc cách mạng văn hóa để phát triển và

hoàn thiện con người, đưa con người đến hạnh phúc thực sự.

Rõ ràng, khi nước mất độc lập, mục tiêu hành động hàng đầu, bất biến là

phải giành lại độc lập cho dân tộc, cho đất nước. Nhân dân tự do mới có thể

dựng xây, phát triển được đất nước, thực hiện được những mục tiêu tốt đẹp. Và

cũng chỉ trong độc lập, tự do của dân tộc nhân dân mới có điều kiện thụ hưởng,

cũng như phát huy các giá trị làm người khác.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, không chỉ tìm thấy con

đường cách mạng giải phóng dân tộc mà còn tìm thấy con đường phát triển, con

đường đảm bảo nền độc lập thực sự và bền vững cho dân tộc. Con đường đó

chính là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để đảm bảo nền độc lập

thực sự của Tổ quốc, Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, “Cách mạng giải phóng dân tộc

phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi

hoàn toàn” [72, tr.392]. Triết lý hành động này định hướng mọi hành động của

Hồ Chí Minh, của Đảng và Nhà nước trong lãnh đạo, trong xây dựng và thực

hiện chủ trương, chính sách. Hồ Chí Minh chỉ rõ, sau khi đánh đổ thực dân,

phong kiến, đế quốc cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách

Page 85: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

81

mạng xã hội chủ nghĩa, “vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi

ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh thêm” [71, tr.401].

Triết lý hành động Hồ Chí Minh về mục tiêu vì nền độc lập, thống nhất

của Tổ quốc phát triển thêm một bước, tiến đến chiều sâu của văn hóa, đạo đức.

Triết lý đó xem hành động trang bị các giá trị văn hóa cho con người, xây dựng

con người có văn hóa như một cách thức hữu hiệu đảm bảo cho nền độc lập, tự

do của dân tộc. Sức mạnh văn hóa, sức mạnh của sự tự hoàn thiện cá nhân một

cách có văn hóa tạo nên sức mạnh vô địch để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh còn thể hiện giá trị mang tầm

vóc quốc tế khi xác định rõ độc lập, thống nhất, sự phát triển bền vững của một

dân tộc phải đặt trong mối quan hệ, trong sự phát triển bền vững của các quốc

gia, dân tộc trên thế giới. Triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện con đường

cách mạng giải phóng dân tộc, phương thức thực hiện đường lối kết hợp giữa

chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân

trong hành động là phù hợp điều kiện Việt Nam đem tới thắng lợi công cuộc giải

phóng đất nước.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa ra đời, trong Lời kêu gọi Liên hợp quốc Hồ Chí Minh khẳng định: “nước

Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực” trên

cơ sở “toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước”, “bình đẳng tuyệt

đối giữa các nước có chủ quyền” [61, tr.523]. Người nhiều lần khẳng định Việt

Nam là một “bộ phận trong phe hòa bình và dân chủ thế giới”, triết lý hành động

được xác định Việt Nam: “Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù

oán với một ai” [62, tr.256]. Tuyên bố đi liền với hành động, thực hiện triết lý hành

động Hồ Chí Minh, Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã kiên trì, bền bỉ

thiết lập và xây dựng quan hệ với các nước dân chủ, hòa bình trên thế giới, đặc biệt

các nước xã hội chủ nghĩa. Sự công nhận, thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước

hòa bình, dân chủ trên thế giới mở ra cơ hội khẳng định vị thế độc lập, tự do, có chủ

quyền cũng như cơ hội nhận được sự giúp đỡ của các nước về vật chất, tinh thần

trong cuộc đấu tranh vì độc lập và thống nhất Tổ quốc.

Page 86: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

82

Quyền độc lập, tự do của dân tộc trong triết lý hành động Hồ Chí Minh

không bó hẹp trong phạm vi quốc gia, dân tộc mà được mở rộng ra là quyền của

mọi dân tộc trên thế giới. Trong khi khẳng định quyền độc lập của dân tộc mình,

Tổ quốc mình, Hồ Chí Minh khẳng định: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều

sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền

tự do” [61, tr.1]. Hồ Chí Minh đã phát triển triết lý về quyền cá nhân thành

quyền dân tộc và bằng hành động để khẳng định triết lý đó. Trong hành động

cách mạng, khi giải quyết mối quan hệ giữa cách mạng Việt Nam với cách mạng

thế giới, Hồ Chí Minh luôn khẳng định rõ triết lý về quyền dân tộc mình và

quyền của mọi dân tộc trên thế giới. Mệnh đề triết lý đó khẳng định giá trị, tầm

vóc quốc tế, ý nghĩa thời đại triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Không chỉ xây dựng nền hòa bình, độc lập, tự do của dân tộc mình, Hồ

Chí Minh nhận thức rõ hòa bình thế giới phải được xây dựng, độc lập thực sự

của dân tộc không thể tách khỏi nền hòa bình của thế giới. Vì thế, trong hành

động phải đấu tranh để xây dựng một nền hòa bình, dân chủ chân chính trên thế

giới. Phải xây dựng một thế giới hòa bình trên cơ sở tôn trọng các quyền cơ bản

của tất cả các dân tộc. Mỗi dân tộc tự quyết định lấy vận mệnh của mình dựa trên

điều kiện, hoàn cảnh của mình. Tôn trọng sự lựa chọn và con đường phát triển

của các quốc gia khác, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Các quốc

gia bình đẳng và có trách nhiệm phải tham gia vào giải quyết các vấn đề quốc tế.

Các vấn đề quốc tế được giải quyết thông qua thương lượng, hòa giải và không

phụ thuộc vào quyết định của những nước lớn.

Hồ Chí Minh thể hiện quan điểm:

Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa theo một chính sách

ngoại giao hòa bình và hữu nghị giữa các dân tộc. Nhân dân Việt Nam

đã từng sống đau khổ dưới ách áp bức của thực dân, đã đổ máu hy

sinh giành lấy tự do và độc lập dân tộc, vì vậy nhân dân Việt Nam

kiên quyết chống chủ nghĩa thực dân, kiên quyết bảo vệ hòa bình,

chống chiến tranh. Khẩu hiệu của chúng tôi là: Việt Nam hòa bình,

độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh [68, tr.285].

Page 87: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

83

Đó là những quan điểm, mệnh đề triết lý, mang tính triết lý chỉ đạo hành

động cho Đảng, Chính phủ và nhân dân ta trong hành động, góp phần xây dựng

nền hòa bình thế giới, thúc đẩy, tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và

các quốc gia trên thế giới. Trong thế giới hòa bình và định hướng xây dựng thế

giới hòa bình, quyền tự quyết dân tộc là thiêng liêng bất khả xâm phạm. Các vấn

đề trong quan hệ được giải quyết bằng thương lượng, hòa giải. Triết lý hành

động Hồ Chí Minh về mục tiêu độc lập, tự do của Tổ quốc đặt trong yêu cầu

“công bình và lý tưởng dân chủ - phải thay cho chiến tranh, rằng tự do, bình

đẳng, bác ái phải thực hiện trên khắp các nước không phân biệt chủng tộc và

màu da” [61, tr.77], nhân dân các nước phải nhận lấy trách nhiệm bảo vệ hòa

bình thế giới.

Triết lý hành động về mục tiêu xây dựng một thế giới hòa bình không chỉ

có ý nghĩa đảm bảo cho độc lập, tự do thực sự vững bền của Tổ quốc mà nó vượt

qua tầm mức quốc gia, dân tộc mang ý nghĩa quốc tế, ý nghĩa thời đại sâu sắc.

3.1.2. Tự do, hạnh phúc của nhân dân

Trong niềm nung nấu về dân, về nước, độc lập dân tộc là mục tiêu đầu

tiên mà Hồ Chí Minh xác định. Người hiểu rõ độc lập dân tộc là điểm khởi đầu,

là điều kiện tiên quyết, là cơ sở để thực hiện, thực hành tự do, dân chủ và tiến tới

hạnh phúc cho nhân dân. Nhưng khi nước được độc lập rồi thì tự do, hạnh phúc,

dân chủ lại trở thành mục tiêu tập trung của mọi hành động. Bởi không phải cứ

có độc lập là có ngay tự do, hạnh phúc, dân chủ. Ở những nước tư bản, không

mất độc lập, đất nước tự do nhưng nhân dân vẫn đau khổ, vẫn bị áp bức bóc lột.

Rõ ràng, những giá trị của tự do, hạnh phúc, dân chủ bất kể ai cũng có thể cảm

nhận được ở một mức độ nhất định ngay sau khi giành được độc lập, đất nước có

tự do. Nhưng thực sự để thụ hưởng hết những giá trị của tự do, hạnh phúc, dân

chủ có thể đem lại, con người cần phải có một quá trình nâng mình lên, nâng cao

trình độ hiểu biết, nâng cao khả năng hưởng thụ hạnh phúc. Cần tiếp tục đấu

tranh và tự hoàn thiện mình trong học tập và lao động. Không có hiểu biết,

không có trình độ văn hóa, con người cũng không thể hưởng thụ được các giá trị

văn hóa, giá trị làm người.

Page 88: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

84

Triết lý chỉ đạo hành động của Hồ Chí Minh là “Dân chỉ biết rõ giá trị của tự

do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ” [61, tr.175]. “Dân dĩ thực vi thiên”

dân lấy ăn làm trời, nếu không có ăn là không có trời. Người chỉ ra loài người ai

cũng “dĩ thực vi tiên”, “Có thực mới vực được đạo” không có ăn thì chẳng làm

được việc gì cả, dân “bụng no thì lo học” [65, tr.70]. Vì thế, mục tiêu trong hành

động Hồ Chí Minh là “phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân” [66,

tr.518] được xem là vấn đề được quan tâm nhất, tập trung nhất, xuyên suốt nhất và

Người dành tất cả tâm huyết, sức lực để thực hiện tự do, hạnh phúc cho nhân dân,

những người đang chịu áp bức, bóc lột. Giáo dục nhân dân, giác ngộ nhân dân đứng

lên làm cách mạng, tổ chức lại đời sống cho nhân dân trở thành vấn đề trung tâm

trong mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh. Chính mức độ quan tâm đến con

người, những con người đang chịu áp bức, bất công và tìm cách giải phóng triệt để

cho con người đã xác lập tầm cỡ của nhà hiền triết hành động Hồ Chí Minh.

Vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, ngay sau thắng lợi Cách mạng tháng

Tám năm 1945, Hồ Chí Minh chỉ ra, chúng ta phải thực hiện ngay “1. Làm cho

dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có

học hành. Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta

xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập” [61, tr.175].

Mục tiêu hành động Hồ Chí Minh đặt ra cho hành động của Đảng, Chính phủ là

hết sức rõ ràng. Nhưng trong chiều sâu, sự thể hiện của triết lý hành động Hồ

Chí Minh về mục tiêu vì tự do, hạnh phúc của nhân dân lại thể hiện ở tầng nấc

sâu sắc hơn, để dân nước ta xứng đáng với tự do độc lập và giúp sức được cho

tự do độc lập. Sự sâu sắc của mệnh đề triết lý này không chỉ động viên, thôi thúc

hành động của mỗi cán bộ, đảng viên mà còn của mỗi người dân làm sao sống

cho xứng đáng với tự do độc lập. Mục tiêu biến thành mục tiêu hành động của

Đảng, Chính phủ, đặt trong hành động của Đảng, Chính phủ đối với dân và

ngược lại là trách nhiệm của dân đối với Đảng, Chính phủ trong sự nghiệp xây

dựng tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Trong mọi hành động của Đảng, Chính phủ, cho tới từng cán bộ, đảng

viên phải xác định:

Page 89: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

85

Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.

Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.

Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân.

Sự nghiệp kháng chiến kiến quốc là công việc của dân.

Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra.

Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên.

Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân [63, tr.232].

Rõ ràng, Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền, chính quyền thuộc

về nhân dân. Triết lý hành động Hồ Chí Minh trong mục tiêu hành động cho thấy

quyền tối cao của nhân dân đối với nhà nước, nhà nước của dân, do dân quyết

định và xây dựng nên. Quyền lợi, quyền hạn, công việc đổi mới, xây dựng, kiến

thiết, lực lượng đều của dân. Vị trí của nhân dân là cao nhất, là tối thượng, “ý

dân là ý trời”, dân là “thánh hiền”, mà “thánh hiền ngày nay bao gồm hàng triệu

con người có thật trong nhân dân Việt Nam ta, ở trong nhà hay ra ngõ đều có thể

gặp được” [72, tr.673]. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ,

tức là nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân

dân. Chính phủ chỉ có một mục đích là: Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc,

phục vụ nhân dân” [66, tr.382].

Chính phủ, từ Hồ Chủ tịch cho đến các vị uỷ ban đây, rồi các bộ

trưởng, đến các cán bộ thôn, xã, gọi là chính quyền, gọi là Chính phủ,

đều là đày tớ của nhân dân. Không phải như khi trước nói hoàng đế,

bệ hạ, rồi có những quan này, quan khác cao cao tại thượng. Bây giờ

chúng ta là dân chủ. Dân chủ là thế nào? Là dân làm chủ. Dân làm chủ

thì Chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, uỷ viên này khác là làm gì? Làm

đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân, chứ không phải là làm quan cách

mạng [67, tr.572-573].

Xác định mục tiêu hành động Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân

dân, Chính phủ Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Triết lý

hành động vì tự do, hạnh phúc của nhân, quy định, ràng buộc mọi hành động của

Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên phải phù hợp với địa vị của mình, tức là

Page 90: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

86

phải đáp ứng quyền, địa vị của nhân dân, luôn đặt quyền và địa vị của nhân dân

lên vị trí cao nhất, tối thượng.

Và Người khẳng định, đã là cán bộ thì phải phục vụ nhân dân,

Nếu cán bộ không phục vụ nhân dân thì phục vụ ai? Muốn phục vụ

nhân dân thì phải đi đến nhân dân mà phục vụ;... Phục vụ nhân dân mà

không vẻ vang, thì cái gì là vẻ vang? Được phục vụ nhân dân là rất vẻ

vang. Chúng ta đều là đày tớ nhân dân, phải hết lòng hết sức phục vụ

nhân dân [66, tr.306].

Từ đó yêu cầu: Cán bộ phải chân đi, mắt thấy, tai nghe, miệng nói, tay làm, óc

nghĩ. Có như vậy mới nắm bắt được tình hình thực tiễn, thiết thực kiểm soát,

giúp đỡ cũng như rút kinh nghiệm cho những hoạt động của mình. Và quan

trọng hơn, chính trong quá trình đó người cán bộ học hỏi được những điều thiết

thực từ nhân dân để quay lại phục vụ nhân dân. Những người nào mà tư tưởng

và hành động có ích cho nước, lợi cho dân thì là bạn, còn ngược lại những người

có tư tưởng và hành động trái với lợi ích của nước, ngược nguyện vọng của nhân

dân là kẻ thù. Người khẳng định, “Trung thành thẳng thắn với Đảng, với nhân

dân là đạo đức cốt yếu của mỗi người cách mạng. Trái lại, giấu giếm sai lầm tức

là dối trá với Đảng, với nhân dân, là trái với đạo đức cách mạng” [68, tr.209].

“Đảng viên, cán bộ ta từ nhân dân anh hùng mà ra, phải sống cho xứng với nhân

dân và Đảng anh hùng” [72, tr.671].

Trong hành động của Đảng và Chính phủ thì mỗi,

Cán bộ và đảng viên càng phải nâng cao tinh thần phụ trách trước

Đảng và trước quần chúng, hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Phải

yêu kính nhân dân. Phải thật sự tôn trọng quyền làm chủ của nhân

dân. Tuyệt đối không được lên mặt “quan cách mạng” ra lệnh ra oai.

Phải nắm vững quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng,

thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, giáo

dục và phát động quần chúng tiến hành mọi chủ trương, chính sách

của Đảng và của Nhà nước. Phải thật thà, ngay thẳng; không được

giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn, gần gũi quần

Page 91: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

87

chúng, không được kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ

quan. Phải luôn luôn chăm lo đến đời sống của quần chúng. Phải “chí

công vô tư”, và có tinh thần “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Đó

là đạo đức của người cộng sản [70, tr.67].

Hồ Chí Minh sớm hiểu rằng, đối với nhân dân thì một tấm gương sống có

giá trị, tác dụng hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền. Với nhân dân không

nên nói nhiều, nói dài dòng mà quan trọng là cần phải làm gương, làm mẫu.

Thậm chí nói nhiều, nói dài dòng còn làm cho dân khó hiểu hoặc hiểu không

đúng, làm sai. Vì thế, trong mục tiêu hành động vì tự do, hạnh phúc cho nhân

dân, Hồ Chí Minh luôn chủ trương nói ít làm nhiều, thậm chí không nói. Người

khẳng định chủ trương, chính sách bằng hành động cụ thể, thiết thực, nêu gương

làm sao cho quần chúng hiểu đúng để làm ngay, làm đúng để thấy mình thực sự

tự do, hạnh phúc.

Lấy kết quả thiết thực, lấy tấm gương cụ thể để thuyết phục dân chúng.

Hồ Chí Minh thường khuyên “Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán

bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau” [72, tr.665], nó vừa sinh động lại gần gũi nên

dễ hiểu, dễ làm theo. Người quán triệt từ việc nhỏ đến việc lớn cái gì cũng phải

cụ thể, rõ ràng, làm gì cũng phải có chương trình, biện pháp cụ thể. Đặc biệt,

Người nhấn mạnh phải bắt đầu từ việc nhỏ “Còn những việc nhỏ, bình thường

thôi, nhưng ích nước lợi dân, thì hay bị xem thường. Hình như các chú cũng

chưa coi trọng những việc nhỏ như thế” [72, tr.663]. Với Hồ Chí Minh, tất cả

mọi hành động của cán bộ, đảng viên từ việc nhỏ nhất đều phải xuất phát từ lợi

ích của dân, hướng tới dân, vì quyền lợi của dân, hạnh phúc của dân, trung

thành, tận tụy, suốt một đời vì nước vì dân mới là người cách mạng.

Như vậy, có thể thấy triết lý vì tự do, hạnh phúc của nhân dân cốt yếu lại

là xác định các quyền và lợi ích của nhân dân để cán bộ, đảng viên hành động

cho phù hợp với quyền và địa vị của mình; các công việc xây dựng, kiến thiết đất

nước là do nhân dân; Đảng, Chính phủ, mọi cán bộ, đảng viên phải vì nhân dân

mà phục vụ. Triết lý đó được tiếp tục khẳng định và quán triệt mạnh mẽ trong

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Đó

Page 92: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

88

không chỉ là sự tiếp nối, cụ thể hóa về mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh,

vì tự do, hạnh phúc của nhân dân, mà còn là sự khẳng định giá trị triết lý hành

động Hồ Chí Minh trong định hướng hành động của Đảng.

3.2. TRIẾT LÝ VỀ ĐỘNG LỰC HÀNH ĐỘNG

Động lực là tất cả những gì thúc đẩy con người hành động. Triết lý hành

động Hồ Chí Minh cho thấy có cả một hệ động lực, trong đó có những yếu tố

vừa là động lực vừa là mục tiêu cách mạng. Luận án phân tích một số động lực

chủ yếu.

3.2.1. Động lực lòng yêu nước và tinh thần dân tộc

Trong suốt tiến trình lịch sử, chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn tiêu biểu

cho giá trị bền vững, đứng đầu trong hệ giá trị truyền thống và được coi là tiêu

chí cao nhất của đạo lý, phẩm giá con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam. Biểu

hiện cao nhất của chủ nghĩa yêu nước là coi độc lập dân tộc, thống nhất, toàn vẹn

lãnh thổ đất nước, chủ quyền quốc gia là thiêng liêng, bất khả xâm phạm và sẵn

sàng từ bỏ mọi lợi ích cá nhân, không ngại gian khổ, hy sinh, để giữ vững.

Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tiến trình lịch sử, là tư tưởng

tình cảm chủ đạo của con người Việt Nam, luôn tồn tại cùng với con người, xã

hội, văn hóa và non sông đất nước Việt Nam. Nó quy định hành vi của con

người trong đời sống thường nhật, là chất keo để gắn kết cộng đồng. Nó trở

thành nội lực tinh thần, là động lực hành động của con người Việt Nam mỗi khi

đất nước bị xâm lăng, nhân dân bị áp bức.

Hồ Chí Minh khẳng định:

Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý

báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần

ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó

lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước

và lũ cướp nước [64, tr.38].

Tinh thần yêu nước của dân ta được chứng minh qua những trang sử vẻ vang

thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v.. các vị

Page 93: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

89

ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng. Sống, chiến đấu, hành động xứng đáng

với tổ tiên ta ngày trước các thế hệ người Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng

và phát triển đất nước, ở mỗi vị trí, độ tuổi, giới tính khác nhau đều thể hiện một

lòng nồng nàn yêu nước.

Triết lý về động lực lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, Hồ Chí Minh phát

hiện ra là, Tinh thần yêu nước cũng như các thứ của quý. Các thứ quý đó “Có khi

được trưng bày trong tủ kính, trong bình pha lê, rõ ràng dễ thấy. Nhưng cũng có

khi cất giấu kín đáo trong rương, trong hòm. Bổn phận của chúng ta là làm cho

những của quý kín đáo ấy đều được đưa ra trưng bày” [64, tr.38].

Trong quá trình vừa đấu tranh vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, sức

mạnh khoa học lý luận mácxít đưa chủ nghĩa yêu nước ở Hồ Chí Minh lên một

tầm cao mới, hình thành chủ nghĩa yêu nước Hồ Chí Minh. Nhận thức rõ giá trị

của tinh thần yêu nước, Hồ Chí Minh “ra sức giải thích, tuyên truyền, tổ chức,

lãnh đạo, làm cho tinh thần yêu nước của tất cả mọi người đều được thực hành

vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến” [64, tr.38-39], mang những của

quý kín đáo trưng bày ra trong sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước.

Trong quá trình đấu tranh cách mạng, trong xây dựng, lãnh đạo cách

mạng, Hồ Chí Minh luôn quán triệt nhằm đảm bảo: “Đảng ta luôn luôn giương

cao ngọn cờ của chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa xã hội, kiên quyết lãnh đạo

toàn dân đấu tranh xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập,

dân chủ và giàu mạnh” [69, tr.419]. Thể hiện rõ tinh thần “nước Việt Nam ta là

một, dân tộc Việt Nam ta là một” [71, tr.12], “sông có thể cạn, núi có thể mòn

song chân lý đó không bao giờ thay đổi” [61, tr.280].

Mệnh đề nước Việt Nam ta là một, dân tộc Việt Nam ta là một; sông có

thể cạn, núi có thể mòn song chân lý đó không bao giờ thay đổi thể hiện một triết

lý về động lực hành động căn bản, cao nhất mà bất kể một người Việt Nam đích

thực nào cũng đều có và luôn hành động vì triết lý đó. Trong từng hành vi, hành

động, trong từng lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh suốt cuộc đời thể hiện

Người có động lực đó và cũng luôn tìm cách để bồi dưỡng, tạo động lực đó cho

người khác nhằm thực hiện mục tiêu chung, vì nước, vì dân.

Page 94: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

90

Hồ Chí Minh không ngừng tố cáo tội ác thực dân, đế quốc để khơi dậy

tinh thần yêu nước ở mỗi người dân. Người chỉ ra: “Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư

bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt

giống của công cuộc giải phóng nữa thôi” [58, tr.40]. Triết lý hành động này của

Người chỉ rõ cơ hội chín muồi, thời cơ, nó không chỉ thúc đẩy nhân dân Việt

Nam đứng lên đấu tranh giải phóng, giành độc lập, thống nhất mà còn phát động

một cuộc đấu tranh giải phóng rộng lớn trên khắp thế giới, ở những nơi chủ

nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi.

Lòng căm thù mạnh mẽ đối với bọn xâm lược dã man, tàn bạo cũng là thứ

tình cảm tự nhiên, xuất phát từ bên trong mỗi người. Lòng thương yêu gia đình,

quê hương, tình cảm máu mủ ruột già là một thứ tình cảm tự nhiên, có trước. Từ

lòng thương yêu gia đình, quê hương phát triển lên trở thành lòng yêu nước, chủ

nghĩa yêu nước. Khéo khơi dậy lòng căm thù, biến lòng căm thù trở thành hành

động cách mạng là việc Hồ Chí Minh đã làm trong suốt cuộc đời hoạt động cách

mạng. Người đã ra sức tố cáo, tố cáo mạnh mẽ, phơi bày tội ác trời không dung

đất không tha của bè lũ thực dân, đế quốc không chỉ bằng ngòi bút chiến đấu mà

còn bằng những hành động thực tế phát huy lòng yêu nước, tinh thần yêu nước,

biến thành sức mạnh vô địch ở mỗi người Việt Nam yêu nước để đi đến kết án,

nghị tội và để xóa bỏ sự áp bức, bóc lột mang đến tự do, hạnh phúc và phát triển

cho toàn dân.

3.2.2. Động lực đại đoàn kết toàn dân tộc

Trên cơ sở nhận thức, đánh giá về sức mạnh của quần chúng nhân dân, Hồ

Chí Minh khẳng định, trong thế giới không gì mạnh bằng sức mạnh đoàn kết của

nhân dân. Triết lý dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng

xong, định hướng hành động, định hướng giải quyết những vấn đề khó khăn của

sự nghiệp cách mạng. Mỗi khi sự nghiệp cách mạng gặp khó khăn, nhờ sự giúp

đỡ, góp sức của nhân dân các khó khăn bị đẩy lùi, kẻ thù nào cũng đánh thắng,

khó khăn nào cũng vượt qua.

Từ thực tiễn hành động Hồ Chí Minh chỉ ra:

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.

Thành công, thành công, đại thành công” [70, tr.119].

Page 95: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

91

Đây là một tổng kết, một triết lý về động lực hành động, Người khẳng định:

“Những thắng lợi chúng ta giành được trong mấy năm qua đã chứng thực điều

đó” [70, tr.120]. Triết lý về động lực đoàn kết, đại đoàn kết trở thành tư tưởng

chỉ đạo chiến lược, quán xuyến mọi hành động, xuyên suốt cả quá trình cách

mạng Việt Nam.

Thực hiện triết lý về đoàn kết, đại đoàn kết, nhận thức rõ “cách mệnh là

việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người” [59, tr.283], Hồ

Chí Minh chủ trương thành lập Hội phản đế đồng minh, xây dựng Mặt trận dân

tộc dân chủ, thành lập Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên - Việt, Mặt trận Tổ

quốc Việt Nam. Mục tiêu các tổ chức này nhằm tập hợp, đoàn kết tất cả mọi

người, mọi lực lượng yêu nước để thống nhất hành động, cùng hành động vì độc

lập, thống nhất cho Tổ quốc, hạnh phúc, tự do cho mọi người.

Bằng những hành động cụ thể trong thực tiễn cách mạng, cũng như trong

tư tưởng, Hồ Chí Minh khẳng định đoàn kết dân tộc là một động lực lớn, là

nhiệm vụ chiến lược, là chính sách lớn của dân tộc. Trong chủ trương và hành

động Người luôn hướng tới sự đoàn kết thật sự, đoàn kết lâu dài. Hồ Chí Minh

khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn

chính trị. Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn

phải đoàn kết để xây dựng nước nhà” [66, tr.244].

Trong khối đại đoàn kết, Hồ Chí Minh xác định “công nông là gốc cách

mệnh” [59, tr.288], những lực lượng, tầng lớp khác là “bầu bạn cách mệnh của

công nông”. “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho

nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất” [69,

tr.417]. Xác định rõ lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết để có chính sách và

hành động phù hợp nhưng chủ trương chung vẫn là: “Đại đoàn kết tức là trước

hết phải đoàn kết đại đa số nhân dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân,

nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác” [66, tr.244]. Người coi đoàn

kết đại đa số nhân dân “Đó là nền gốc của đại đoàn kết. Nó cũng như cái nền của

nhà, gốc của cây” [66, tr.244].

Xác định rõ nền và gốc Người khẳng định: “Muốn đoàn kết rộng rãi thì

cái gốc phải vững, tức là công nông liên minh, có vững chắc mới đoàn kết được

Page 96: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

92

các giai cấp khác” [66, tr.69]. Trên cơ sở đó, trong chiến lược đại đoàn kết: “Bất

kỳ ai mà thật thà tán thành hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù những

người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với

họ”. “Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân

thì ta đoàn kết với họ” [66, tr.244].

Đoàn kết chỉ trở thành động lực của cách mạng khi lấy lợi ích tối cao của

dân tộc và quyền lợi cơ bản của nhân dân lao động làm nền tảng, làm mục tiêu

hành động. Đoàn kết không thể trở thành động lực hành động khi lợi ích tập thể

không hài hòa với lợi ích cá nhân, lợi ích dân tộc không phù hợp với lợi ích địa

phương, lợi ích quốc gia không phù hợp lợi ích quốc tế, đi ngược lại với sự vận

động phát triển của nhân loại.

Triết lý về động lực đoàn kết, đại đoàn kết Hồ Chí Minh không chỉ dừng lại

ở đoàn kết trong nước, với đoàn kết công nông là gốc, hay đoàn kết với các giai cấp,

tầng lớp khác là nền gốc, không chỉ là giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng

như giữ gìn con ngươi của mắt mình, mà còn là đoàn kết quốc tế, đoàn kết với các

phong trào cách mạng tiến bộ trên thế giới, với nhân dân tiến bộ thế giới với tinh

thần “Bốn phương vô sản đều là anh em!” [69, tr.670]. Đây là sự phát triển mệnh đề

triết lý, tư tưởng chỉ đạo hành động của Mác, Lênin về đoàn kết quốc tế Vô sản tất

cả các nước, đoàn kết lại, nhưng đã được thể hiện ở mức độ sâu sắc hơn, như tình

anh em ruột thịt và cũng gần gũi với cách hiểu của người Việt Nam.

Hồ Chí Minh đúc rút: “Xét về nguyên tắc, tiến bộ chung phụ thuộc vào

việc phát triển chủ nghĩa quốc tế; và văn minh chỉ có lợi khi các quan hệ quốc tế

được mở rộng và tăng cường” [58, tr.14]. Trong chiến lược đại đoàn kết, trong

hành động Hồ Chí Minh luôn khẳng định: “Cách mệnh An Nam cũng là một bộ

phận trong cách mệnh thế giới. Ai làm cách mệnh trong thế giới đều là đồng chí

của dân An Nam cả” [59, tr.329]. Đồng thời quán triệt, nêu cao tinh thần độc lập

tự chủ, tự lực, tự cường “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta” [56, tr.596], Người

luôn nhắc nhở “phải củng cố tình đoàn kết hữu nghị giữa nhân dân ta và nhân

dân các nước bạn, nhân dân Pháp, nhân dân yêu chuộng hòa bình thế giới, trước

hết là với nhân dân châu Á” [66, tr.70]. Người khẳng định:

Page 97: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

93

trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, ở một nước thuộc địa nhỏ, với sự

lãnh đạo của giai cấp vô sản và đảng của nó, dựa vào quần chúng nhân

dân rộng rãi trước hết là nông dân và đoàn kết được mọi tầng lớp nhân

dân yêu nước trong mặt trận thống nhất, với sự đồng tình và ủng hộ

của phong trào cách mạng thế giới, trước hết là của phe xã hội chủ

nghĩa hùng mạnh, nhân dân nước đó nhất định thắng lợi [69, tr.31-32].

Đoàn kết với nhân dân tiến bộ, với các nước tiến bộ trên thế giới chống

lại áp bức, bóc lột, chống lại bá quyền của chủ nghĩa thực dân, đế quốc vừa tạo

ra động lực gián tiếp vừa tạo ra động lực trực tiếp cho hành động của Đảng và

nhân dân ta. Thắng lợi Cách mạng Tháng Mười Nga, cùng với những thành tựu

mà nhân dân Nga xây dựng dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhân dân được

hưởng tự do, sung sướng và hạnh phúc đã gián tiếp thúc đẩy, động viên nhân

dân các dân tộc bị áp bức hành động theo ngọn cờ chủ nghĩa Mác - Lênin.

Đồng thời, đoàn kết với nhân dân tiến bộ thế giới, cách mạng Việt Nam nhận

được sự giúp đỡ về cả vật chất và tinh thần cho sự nghiệp cách mạng. “Do sự

giúp đỡ của Liên Xô, mà chúng ta đã giành được nhiều thắng lợi. Sự đoàn kết,

nhất trí giữa các đảng anh em và giữa các nước anh em là sức mạnh vô địch của

phe xã hội chủ nghĩa” [69, tr.729].

Đoàn kết trong hành động, theo triết lý hành động Hồ Chí Minh đã và mãi

mãi là một sức mạnh, là một động lực cho hành động để làm nên những thắng lợi

to lớn của cách mạng Việt Nam.

3.2.3. Động lực thực hành dân chủ

Dân chủ là một giá trị được xét trên nhiều khía cạnh như là một chế độ xã

hội, môi trường xã hội, một nguyên tắc tổ chức, một phương pháp làm việc, một

phong cách làm việc... Tiếp cận thực hành dân chủ ở góc độ triết lý hành động

về động lực, Hồ Chí Minh chỉ ra, “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng

có thể giải quyết mọi khó khăn” [72, tr,325]. Mệnh đề triết lý này cho thấy, thông

qua thực hành dân chủ cán bộ, đảng viên và nhân dân thấy được các giá trị của

dân chủ, từ đó thúc đẩy hành động vươn tới xây dựng một chế độ dân chủ, như

một mục tiêu của hành động cách mạng. Thực hành dân chủ tạo ra một môi

Page 98: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

94

trường dân chủ, nơi mà các nguyên tắc, phương pháp dân chủ được thực hiện.

Động lực hành động cho mỗi thành viên trong xã hội theo hướng tiến bộ chính là

môi trường hoạt động, môi trường làm việc dân chủ. Tất cả những điều đó sẽ

phát huy sức mạnh, sự đóng góp từ đại đa số quần chúng nhân dân để giải quyết

mọi khó khăn trong tiến trình cách mạng.

Thực hành dân chủ, phát huy vai trò của cái chìa khóa vạn năng để giải

quyết mọi khó khăn trong triết lý hành động Hồ Chí Minh được thể hiện ở hai

khía cạnh giá trị. Thực hành quyền làm chủ, quyền dân chủ của nhân dân để phát

huy quyền làm chủ, là chủ của đa số quần chúng nhân dân và thực hành nguyên

tắc, phương pháp, phong cách làm việc dân chủ để phát huy dân chủ nhân dân.

Ở khía cạnh thực hành quyền làm chủ, quyền dân chủ của nhân dân để

phát huy quyền làm chủ, là chủ, nhận thức đúng và hành động đúng đến từ hai

phía. Một là, nhân dân phải ý thức được vị trí của mình để thực hiện đúng vai

trò, trách nhiệm của mình. Hồ Chí Minh chỉ ra: “ngày nay tất cả những người lao

động - lao động chân tay và lao động trí óc - đều phải nhận thật rõ: Mình là

người chủ nước nhà” [70, tr.52] và với Người đã là người làm chủ “thì phải làm

trọn nghĩa vụ của người chủ. Nghĩa vụ đó là: Cần kiệm xây dựng nước nhà, xây

dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống vật chất

và văn hóa của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động” [70, tr.52].

Nhận thức rõ thực hành dân chủ là một động lực cách mạng, Hồ Chí Minh

khẳng định: “Nhân dân ta đoàn kết nhất trí, mọi người hiểu rõ mình là người chủ

nước nhà và quyết tâm làm trọn nghĩa vụ người chủ, thì khó khăn gì chúng ta

cũng vượt qua được, và chúng ta nhất định sẽ giành được thắng lợi nhiều hơn

nữa và to lớn hơn nữa” [70, tr.119].

Vì thế, ở phía thứ hai, phía Đảng và Chính phủ, phía công bộc, đầy tớ của

nhân dân, Hồ Chí Minh yêu cầu: “Thực hành dân chủ, nghĩa là công việc đều

phải bàn bạc với xã viên, cán bộ không được quan liêu, mệnh lệnh” [72, tr.260]

và “Mỗi khi ra một chỉ thị, nghị quyết đều phải vì lợi ích chung của quần chúng,

tìm hiểu trình độ tiếp thu của quần chúng để biết kết quả thực tế mà uốn nắn sửa

chữa. Bất cứ làm gì cũng đều phải chuẩn bị cho tốt, có kế hoạch làm cho thiết

Page 99: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

95

thực” [72, tr.684]. “Trong mọi công việc, ngay từ khi lập kế hoạch và suốt cả

thời gian thực hiện, phải mạnh dạn phát động quần chúng, làm cho mọi người

thấm nhuần tinh thần làm chủ tập thể. Quần chúng thật sự có quyền dân chủ”

[72, tr.325]. Ý nghĩa sâu xa yêu cầu của Hồ Chí Minh chính là ở chỗ: “Dân chủ

là dựa vào lực lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng” [64, tr.362].

Mệnh đề triết lý này hướng hành động của cán bộ, đảng viên đi đúng đường lối

quần chúng, biến yêu cầu, ý kiến, kinh nghiệm, nguyện vọng thiết thực của quần

chúng thành chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Chính phủ và nhân

dân. Nó trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy quần chúng nhân dân hăng hái

tham gia, góp sức vào sự nghiệp cách mạng. Có “làm cho quần chúng hăng hái

tham gia thì mới chắc chắn thành công. Quần chúng tham gia càng đông, thành

công càng đầy đủ, mau chóng.” [64, tr.362]. Quần chúng dám nói và được nói,

để cho quần chúng nói và nói ý kiến của quần chúng là cách thức để phát huy

sức mạnh từ quần chúng cho thực hiện các nhiệm vụ cách mạng. Thực hành dân

chủ trong quần chúng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, biến dân

chủ thành động lực hành động cách mạng ở Hồ Chí Minh là như vậy.

Ở khía cạnh thực hành nguyên tắc, phương pháp, phong cách làm việc dân

chủ để phát huy dân chủ nhân dân. Dân chủ chỉ trở thành động lực thực sự khi nó

được thực hiện, thực hành trong thực tế. Các nguyên tắc dân chủ, phương pháp,

phong cách dân chủ phải được thực hành, biểu đạt cụ thể trong hành động thì mới

làm cho nhân dân, cán bộ cấp dưới hiểu rõ vị trí, vai trò làm chủ của mình. Từ đó,

nhân dân sử dụng quyền làm chủ, phát huy dân chủ để chung tay, đoàn kết xây

dựng nước nhà, đấu tranh chống lại những trở lực kéo lùi sự tiến bộ của xã hội.

Trong thực tiễn, xuất phát điểm mọi chủ trương, chính sách bắt nguồn từ

sự vận động của cuộc sống, đòi hỏi của cuộc sống. Mỗi chủ trương, chính sách

có thể được đề xuất do một cá nhân, một vài cá nhân nhưng cần được tập thể

thảo luận, bàn bạc, thông qua. Chủ trương, chính sách nhằm cụ thể hóa mục tiêu

trong từng giai đoạn cụ thể. Chủ trương xuất phát từ thực tiễn, phải phản ánh

đúng tình hình thực tiễn đất nước, địa phương và phải được sự đồng tình, ủng hộ

của đại đa số quần chúng. Một chủ trương đúng, một chính sách phù hợp được

Page 100: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

96

xây dựng trên cơ sở đóng góp, sự đồng thuận của tập thể. Để đảm bảo dân chủ

chân chính, dân chủ thực sự, Hồ Chí Minh cho rằng: “Đưa cách giải quyết một

vấn đề nào đó có quan hệ đến vận mệnh của nước nhà, của dân tộc, để hỏi ý kiến

chung của toàn dân. Nhân dân hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến. Đó là một

phương pháp dân chủ” [67, tr.173].

Tuy nhiên, là người cán bộ lãnh đạo, người hoạch định đường lối, chính sách

của Đảng, Chính phủ bên cạnh dân chủ trong lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp

của nhân dân thì còn phải lắng nghe ý kiến đóng góp, bàn bạc trong tập thể, trong tổ

chức. Bởi: “dân chúng không nhất luật như nhau. Trong dân chúng, có nhiều tầng

lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiền tiến, có lớp chừng

chừng, có lớp lạc hậu” [62, tr.336]. Nên: “tuyệt đối không nên theo đuôi quần

chúng”, “không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ

cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh” [62, tr.337]. Vì thế

còn cần phải dân chủ trong tập thể, dân chủ trong phong cách làm việc của cán bộ,

để phát huy trí tuệ, sức mạnh tập thể, tập thể lãnh đạo và lãnh đạo tập thể. Có nghĩa

là, Người cán bộ phải “khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái

đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải

quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân” [62, tr.338].

Trong khía cạnh thứ hai này, Hồ Chí Minh cho thấy thực hành dân chủ

trong tập thể, dân chủ trong xây dựng chủ trương, đường lối tạo ra sự thống nhất

trong tư tưởng và hành động. Đây là một nguyên tắc hoạt động, nguyên tắc sống

còn của mỗi tổ chức, đoàn thể, của Đảng. Có thực hành dân chủ, có thực hiện

dân chủ trong tập thể mới tránh được tình trạng “người ý kiến này, kẻ ý kiến

khác, trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, chẳng những hại đến nội bộ mà còn hại

đến nhân dân nữa” [71, tr.167]. Có dân chủ trong tập thể mới đưa đến tư tưởng

nhất trí, hành động nhất trí.

Như vậy, thực hành dân chủ rõ ràng không chỉ là cái chìa khóa vạn năng

để tháo gỡ những khó khăn, mà còn là động lực thúc đẩy nhân dân, cán bộ, đảng

viên hành động nhằm đảm bảo quyền độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân

dân. Để đất nước phát triển ổn định và lâu dài, thực hành dân chủ theo triết lý

Page 101: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

97

hành động Hồ Chí Minh cần được quán triệt thực hiện thường xuyên, liên tục

không phải để tháo gỡ những khó khăn mà để tiến tới không còn khó khăn, đặc

biệt những khó khăn do thiếu dân chủ gây nên.

3.2.4. Động lực thi đua yêu nước

Hồ Chí Minh sớm nhận thấy vị trí, vai trò của thi đua đối với sự nghiệp

cách mạng. Triết lý hành động mà Hồ Chí Minh chỉ ra là, “Thi đua là yêu nước,

yêu nước thì phải thi đua” [64, tr.407]. Người nhận thức rõ con người là động

lực thực sự của cách mạng, của hành động cách mạng, khẳng định những người

thi đua là những người yêu nước nhất [64, tr.407] và thi đua thì cải tạo con

người [64, tr.408]. Con người là động lực hành động của cách mạng, chính con

người làm cho động lực cách mạng ngày càng trở nên mạnh mẽ, giải phóng con

người bằng sức mạnh của con người là một động lực mà không trở lực nào có

thể ngăn cản nổi.

Trong quá trình lãnh đạo Đảng, lãnh đạo Chính phủ, Hồ Chí Minh đã khởi

xướng, chỉ đạo và tổ chức thành công nhiều phong trào thi đua yêu nước. Các

phong trào thi đua được phát động rộng khắp trên tất cả các mặt trận từ chính trị,

quân sự đến kinh tế, văn hóa, giáo dục, từ trung ương đến địa phương, trong tất

cả các ngành, các cấp, đoàn thể quần chúng, lực lượng cách mạng. Thông qua thi

đua con người nhận thức, tự hoàn thiện và phát triển mình, đáp ứng những yêu

cầu cách mạng, đáp ứng những yêu cầu phát triển mà chính mình là một bộ phận

trong đó. Thi đua yêu nước trở thành một động lực hành động, một phong trào

cách mạng rộng lớn của nhân dân.

Bản chất của thi đua là để khuyến khích, tạo ra động lực cho mọi hành

động của các giai cấp, tầng lớp, tổ chức trong xã hội đạt tới mục tiêu cách mạng

đã xác định. Để tham gia thi đua, từ cá nhân đến tổ chức, từ quần chúng nhân

dân đến đảng viên và cán bộ không có con đường nào khác là phải qua những

hoạt động, những hành động cụ thể trong thực tế công tác. Những hành động,

hoạt động thực tế đó có mục tiêu cách mạng rõ ràng. Thi đua không chỉ để đẩy

mạnh sản xuất mà còn thi đua để hoàn thiện mình, thi đua xây dựng con người

mới, xây dựng nền đạo đức mới.

Page 102: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

98

Đồng thời với thi đua phải khen thưởng. Khen thưởng là hình thức động

viên, khuyến khích bằng tinh thần và vật chất cho những cá nhân, những tập thể

tiến bộ nhất, đạt được thành tích tốt nhất. Khen thưởng tạo ra động lực về lợi ích,

vì lợi ích vật chất cũng như lợi ích tinh thần, từ đó thúc đẩy mọi tầng lớp nhân

dân, mọi cán bộ, đảng viên tích cực thi đua, tích cực hoàn thiện cá nhân, xây

dựng tập thể vững mạnh, đoàn kết, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được giao.

Hồ Chí Minh chỉ ra: “thưởng để khuyến khích những người làm tốt, và thúc đẩy

những người khác cố gắng làm theo” [67, tr.469]. Rõ ràng, khi xem xét động lực

hành động, chúng ta thấy Hồ Chí Minh đề cao quyền và lợi ích của nhân dân lao

động. Bên cạnh những quyền và lợi ích gián tiếp còn có những quyền và lợi ích

trực tiếp. Hồ Chí Minh biết rõ dân dĩ thực vi thiên, bụng no thì lo học để trong

hành động của mình cũng như trong yêu cầu đối với Đảng và Chính phủ trong

chủ trương, chính sách đặc biệt chú trọng động lực lợi ích, thi đua phải đạt đến

các lợi ích cụ thể, vật chất và tinh thần. Đảng, Chính phủ xây dựng kế hoạch,

chương trình hành động cụ thể để tôn vinh đối với cá nhân, tập thể người lao

động, tác động đến mọi người, làm cho phong trào thi đua ngày càng sôi nổi.

Khen thưởng không chỉ là một động lực để người được khen thưởng tiếp

tục hành động, phấn đấu, hi sinh mà còn tạo ra động lực hành động cho những

người khác, nhìn thấy mà làm theo. Nhân dân ta vẫn có quan niệm, một miếng

ngoài đàng bằng sàng xó bếp, và nhiều khi con gà tức nhau tiếng gáy. Nếu người

cán bộ, người tổ chức phong trào thi đua khéo vận dụng, khích lệ sẽ biến những

suy nghĩ này trở nên tích cực. Hồ Chí Minh nhận định: “Đặc điểm rõ nhất trong tư

tưởng của dân chúng là họ hay so sánh. Họ so sánh bây giờ và họ so sánh thời kỳ

đã qua. Họ so sánh từng việc và họ so sánh toàn bộ phận” [62, tr.335]. Bằng cách

so sánh nhân dân thấy rõ điểm mạnh, cũng như điểm yếu để đề ra cách giải quyết

khắc phục những khó khăn, để phấn đấu trong từng hành động, từng mục tiêu mà

cách mạng đặt ra. Vận dụng khéo các đặc điểm của quần chúng nhân dân, Hồ Chí

Minh còn chỉ ra phương thức thách nhau trong thi đua giữa các cán bộ, các địa

phương với yêu cầu lời thách phải thiết thực cụ thể chớ bông lông.

Khen thưởng, động viên có vai trò trực tiếp thúc đẩy phong trào thi đua,

biến thi đua thành động lực hành động. Tuy nhiên, thi đua, khen thưởng chỉ thực

Page 103: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

99

sự phát huy vai trò khi đi cùng với nó là kỷ luật. Khen thưởng phải đúng người,

đúng việc mới có tác động thực sự đến thi đua. Kỷ luật, đúng người, đúng việc

không chỉ là sự cảnh báo, thức tỉnh cho người khác mà nó còn góp phần tạo ra

niềm tin cho những người đang tích cực thi đua. Công bằng trong xã hội là giá trị

nhân loại tiến bộ đang hướng tới và cố gắng hoàn thiện. Nhưng công bằng về

quyền, lợi ích trong thi đua góp phần từng bước giải quyết hài hòa các quan hệ

về lợi ích trong xã hội. Người thi đua, tập thể thi đua đạt được thành tích tốt,

năng suất, chất lượng công việc nâng cao, tất yếu phải có được những lợi ích lớn

hơn những cá nhân, tập thể còn yếu kém. Nó góp phần làm hài hòa các mối quan

hệ về lợi ích vật chất, tinh thần trên cơ sở đánh giá thực chất hiệu quả của hoạt

động, chất lượng của công việc.

Với Hồ Chí Minh, thi đua luôn phải đi cùng với khen thưởng và kỷ luật.

Công tác kiểm tra, giám sát phải được thực hiện nghiêm túc và chặt chẽ. Thực

hiện đồng bộ những nội dung này thì thi đua mới trở thành một phong trào thực

sự, đúng nghĩa, mới phát huy vai trò động lực thúc đẩy hành động của mỗi người.

3.2.5. Động lực văn hóa

Văn hóa là nhân tố căn bản để hoàn thiện nhân cách, để dẫn dắt con người

đi tới tự giải phóng và hoàn thiện mình. Thức tỉnh và hoàn thiện con người,

hướng con người đến tự giải phóng bằng chính sự phát triển, hoàn thiện về mọi

mặt của mình là cách thức Hồ Chí Minh tạo nên một động lực hành động vô

cùng mạnh mẽ. Động lực này không ngừng được bổ sung, tăng cường bằng

chính sự phát triển và hoàn thiện, bằng sự hiểu biết không ngừng của con người.

Hồ Chí Minh từ khát vọng tự do cho dân tộc, tự do cho nhân dân, đến với chủ

nghĩa Mác - Lênin, truyền bá lý luận cách mạng giải phóng về trong nước, khơi

lên khát vọng về độc lập tự do cho nhân dân, cho dân tộc. Trang bị vũ khí lý luận

Mác - Lênin cho những người Việt Nam yêu nước, chính là trang bị vốn văn

hóa, giá trị văn hóa đỉnh cao của nhân loại để giải phóng và phát triển con người.

Không có lý luận dẫn đường, cũng như tàu không có bàn chỉ nam, không thể đi

đúng hướng. Lý luận cách mạng Mác - Lênin, Hồ Chí Minh là kết tinh lớn nhất

của mọi giá trị văn hóa, dân tộc và thế giới. Một khát vọng tự do được biến thành

Page 104: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

100

hiện thực trên con đường cách mạng khoa học, triệt để. Sự sâu sắc và tầm cao

văn hóa, tính cách mạng triệt để, động lực hành động trong triết lý hành động Hồ

Chí Minh chính là ở đó.

Từ thực tiễn hành động và trong hành động, triết lý Hồ Chí Minh là lấy

văn hóa soi đường cho quốc dân đi. Thực hiện triết lý đó, trong hành động Hồ

Chí Minh tìm mọi cách để trang bị, bồi dưỡng kiến thức văn hóa, lý luận cách

mạng cho cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân nhằm hướng đến sự hoàn

thiện và phát triển không ngừng của mỗi cá nhân. Hoàn thiện và phát triển con

người bằng văn hóa, có văn hóa, trên nền tảng văn hóa là sự nghiệp cách mạng

của Hồ Chí Minh. Con người tiến tới giải phóng bằng tự giải phóng, bằng sự tự

hoàn thiện và phát triển về mọi mặt thì không thể có một phương thức sản xuất

hạn chế nào, một sự áp bức, một thế lực phản động nào có thể kìm hãm được sự

tự do và phát triển của con người. Đó mới là giải phóng thực sự, là động lực

hành động thực sự, cao nhất và triệt để nhất.

Triết lý về động lực văn hóa, Hồ Chí Minh chỉ rõ một dân tộc dốt là một

dân tộc yếu. Nhận thức sâu sắc điều đó, trong sự nghiệp văn hóa, sự nghiệp cách

mạng, Hồ Chí Minh bằng hành động cụ thể và quyết liệt chiến đấu chống giặc

dốt, nạn mù chữ. Hồ Chí Minh dùng sức mạnh văn hóa để đẩy lùi kẻ thù của đói

nghèo, lạc hậu, giải quyết tận gốc rễ nguyên nhân của nước mất độc lập, nhân

dân không được tự do, hạnh phúc.

Với Hồ Chí Minh “Văn hoá phải gắn liền với lao động, sản xuất. Văn hoá

xa đời sống, xa lao động là văn hoá suông. Nhiệm vụ của người cán bộ văn hoá

là phải dùng văn hoá để tuyên truyền cho việc cần kiệm xây dựng nước nhà, xây

dựng chủ nghĩa xã hội” [69, tr.470]. Người nhận thức rõ “nông dân “bụng no thì

lo học” và văn hóa nhân dân ngày thêm phong phú” [65, tr.70]. Vì thế, “Văn

hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở

trong kinh tế và chính trị” [64, tr.246]. Với mệnh đề triết lý này, văn hóa trong tư

tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là động lực để hành động mà còn là mục tiêu

hành động, một phương diện mà chủ thể hành động phải hướng tới trên mọi

phương diện, nhằm phát triển xã hội. Sự sâu sắc của triết lý ở chỗ, văn hóa là

Page 105: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

101

động lực, là cơ sở để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, là cơ sở để phát triển

bền vững, đảm bảo cho sự nghiệp giải phóng và phát triển đất nước.

Con người phát triển không ngừng và ngày càng hoàn thiện chính trong

lĩnh hội, làm giàu các trị văn hóa, các giá trị, chuẩn mực đạo đức. Con người tiến

tới văn hóa bằng văn hóa, là con đường Hồ Chí Minh đã thực hiện và thành

công. Không có con đường phát triển, hoàn thiện nào khác dành cho con người

ngoài con đường tích lũy, lĩnh hội vốn văn hóa rộng lớn, phong phú, sâu sắc của

dân tộc, cũng như của nhân loại. Những giá trị văn hóa truyền thống dân tộc,

những tinh hoa văn hóa thế giới được trau dồi ngày càng nhiều càng đưa con

người đạt tới khả năng tự làm chủ và tự hoàn thiện mình. Con người trong quá

trình phát triển xã hội, khả năng làm chủ thể hiện trong chính khả năng chiếm

lĩnh các tri thức, vốn văn hóa của cả loài người. Đứng trên đỉnh cao nền tảng văn

hóa, tri thức khoa học, văn hóa tiến bộ, con người hoàn toàn có khả năng, có

quyền lựa chọn cho mình, cho dân tộc mình con đường phát triển theo ý muốn.

Nền tảng văn hóa dân tộc cùng với kiến thức văn hóa được tích lũy phong phú,

rộng lớn và sâu sắc là động lực quan trọng để Hồ Chí Minh lựa chọn con đường

cứu nước, giải phóng dân tộc, lựa chọn con đường phát triển cho dân tộc, con

đường đem hạnh phúc, tự do đến cho nhân dân.

Con người ngay khi sinh ra đã mang trong mình những giá trị đạo đức

mang tính nhân bản. Đó là cơ sở để cùng với quá trình trưởng thành trong xã hội

hình thành nên những yếu tố cơ bản của đạo đức con người, đạo đức công dân.

Tuy nhiên, trong tổng hòa các mối quan hệ xã hội, con người muốn tiến tới đạo

đức cách mạng phải lĩnh hội được các giá trị văn hóa tiến bộ. Trên cơ sở của các

giá trị văn hóa tiến bộ mà lĩnh hội các giá trị đạo đức, các chuẩn mực đạo đức

cách mạng, rồi tiếp tục phát triển, biến các chuẩn mực đạo đức cách mạng trở

thành đạo đức công dân, nâng tầm các chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân

tộc lên một bước mới. Cứ như vậy, bằng văn hóa, có văn hóa con người không

ngừng làm cho mình hoàn thiện về đạo đức, nhân cách. Lĩnh hội, tích lũy văn

hóa hướng tới hoàn thiện đạo đức cá nhân, đạo đức xã hội, quyết định hành động

của con người. Hồ Chí Minh hướng đến giải phóng con người bằng chính sức

Page 106: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

102

mạnh con người, sức mạnh đó không gì khác chính là sức mạnh của văn hóa và

đạo đức. Vũ trang cách mạng chỉ có thể giải phóng được phần con, phần cơ thể

sinh học của con người, phải bằng văn hóa, đạo đức mới giải phóng và phát huy

được giá trị người, đi đến giải phóng triệt để con người. Và đó là cách để phát

huy động lực hành động không ngừng cho những mục tiêu vì con người trong

triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Tóm lại, Hồ Chí Minh thấy rõ khát vọng của nhân dân trong cuộc đấu

tranh giành độc lập, Hồ Chí Minh nhận thấy chính lòng yêu nước đã thúc đẩy

nhân dân đứng lên đấu tranh. Trên cơ sở quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về

con đường cách mạng, động lực cách mạng, Hồ Chí Minh tổ chức lực lượng, xây

dựng khối đoàn kết, đại đoàn kết dân tộc trong sự nghiệp giải phóng, đòi lại độc

lập tự do của dân tộc, của nhân dân. Trong sự nghiệp cách mạng, Hồ Chí Minh

bằng nhiều hành động thực hiện dân chủ, đoàn kết, thi đua đã phát huy được chủ

nghĩa yêu nước, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, thúc đẩy

cách mạng Việt Nam giành thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng, đổi mới và phát

triển. Trong sự nghiệp cách mạng, con người là trung tâm của sự phát triển và

cũng là cội nguồn của mọi động lực cách mạng. Mỗi động lực cách mạng có

cách thể hiện, biểu đạt, phát huy riêng, nhưng luôn có sự thống nhất chặt chẽ

trong mỗi cá nhân, tập thể, nó là sự kết hợp nhuần nhuyễn của đạo đức cách

mạng và tri thức văn hóa cách mạng trong mỗi con người.

3.3. TRIẾT LÝ VỀ PHƯƠNG PHÁP HÀNH ĐỘNG

Phương pháp hành động Hồ Chí Minh được thể hiện là một hệ thống quan

điểm đa dạng và phong phú. Tiếp cận phương pháp cách mạng, có thể thấy đó là

hệ thống về phương pháp bạo lực cách mạng kết hợp nhuần nhuyễn với phương

pháp đấu tranh hòa bình; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh ngoại giao; kết

hợp chặt chẽ giữa lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân với lực lượng vũ

trang của nhân dân; phương pháp kết hợp giữa khởi nghĩa từng phần, tiến lên

tổng khởi nghĩa. Tiếp cận phương pháp đấu tranh ngoại giao, các phương pháp

như vừa đánh vừa đàm; biết thắng từng bước; dựa vào thực lực; lợi dụng mâu

thuẫn trong nội bộ của địch; phân hóa, cô lập kẻ thù; kết hợp sức mạnh dân tộc

Page 107: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

103

với sức mạnh thời đại; thêm bạn bớt thù; ngoại giao tâm công;... Hay phương

pháp giáo dục, có thể thấy phương pháp tổ chức trường học; phương pháp kết

hợp vừa học vừa làm; phương pháp tự giáo dục; phương pháp tự học, tự nghiên

cứu;... Triết lý hành động Hồ Chí Minh trên từng lĩnh vực, trên mỗi lát cắt tư

tưởng trong cải tạo, phát triển xã hội, đều thể hiện có những phương pháp hành

động riêng, cụ thể. Tuy nhiên, luận án không đánh giá triết lý hành động Hồ Chí

Minh về phương pháp trên một lĩnh vực cụ thể, một lát cát cụ thể. Tiếp cận triết

lý về phương pháp hành động, luận án phân tích những triết lý về phương pháp

hành động chung nhất, có giá trị định hướng lựa chọn phương pháp hành động

cho từng triết lý hành động trên một lĩnh vực cụ thể. Luận án đi vào phân tích

một số triết lý về phương pháp hành động của Hồ Chí Minh như sau:

3.3.1. Phương pháp “Dĩ bất biến ứng vạn biến”

Triết lý hành động Hồ Chí Minh là triết lý hành động chủ động. Triết lý

về phương pháp hành động Dĩ bất biến ứng vạn biến cho thấy hành động luôn

nắm chắc cái bất biến, kiên định mục tiêu, nhưng luôn nhìn thấu sự vạn biến

trong từng thời khắc để xác định, lựa chọn hình thức đấu tranh, cách thức hành

động phù hợp. Nó thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính kiên định về

quan điểm, lập trường, mục tiêu với tính linh hoạt, uyển chuyển, mềm dẻo về

phương pháp hành động. Thể hiện trong hành động luôn nắm chắc mục tiêu,

kiên định mục tiêu. Dù sự vật hiện tượng có thiên biến vạn hóa, có thay đổi như

thế nào, mọi hành động cũng phải xoay quanh cái bất biến, xoay quanh mục

tiêu đã xác định. Trong hành động, chủ thể có các bước chuyển về sách lược

phù hợp với chiến lược, phù hợp với sự biến đổi của hoàn cảnh thực tế, đúng

quy luật phát triển xã hội, hợp thời đại. Chữ dĩ và chữ ứng thể hiện phương

pháp hành động linh hoạt, lấy cái này để ứng phó, ứng biến với cái kia nhưng

luôn nắm lấy cái bản chất, cái mục tiêu cốt lõi để ứng phó với sự biến đổi của

sự vật, hiện tượng, các diễn biến mới xảy ra trong quá trình phát triển, trong sự

nghiệp cách mạng.

Trong xã hội, quy luật phát triển xã hội là bất biến, không ai, không lực

lượng nào, thế lực nào có thể ngăn cản được bước tiến của lịch sử. Lý luận đúng

Page 108: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

104

chỉ khi lý luận xuất phát từ thực tiễn lịch sử, chỉ ra được quy luật phát triển xã

hội, bước tiến của lịch sử. Trong triết lý hành động Hồ Chí Minh, các mục tiêu

cách mạng, mục tiêu hành động được xác lập chính là những nội dung bất biến

quy định phương pháp hành động. Độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam cũng

như của các dân tộc bị áp bức, bị bóc lột trên thế giới là xu thế, là yêu cầu phù

hợp với quy luật phát triển xã hội, của lịch sử loài người. Tự do, hạnh phúc, sự

phát triển của con người, của nhân dân Việt Nam cũng như của mọi người trên

thế giới là một tất yếu. Xét đến cùng, mọi hành động, việc làm, mọi khoa học

đều hướng tới con người, vì con người. Hành động nào, việc làm nào trái với

quyền và lợi ích, trái với tự do và phát triển con người là đi ngược lại quy luật,

chống lại quy luật, tất yếu sẽ bị xóa bỏ.

Trên cơ sở xác định các mục tiêu cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong

hành động của mình, cũng như trong yêu cầu hành động đối với Đảng, Chính phủ,

cán bộ, đảng viên, Người luôn yêu cầu phải quán triệt phương pháp hành động số

một Dĩ bất biến ứng vạn biến. Người luôn xác định Không có gì quý hơn độc lập,

tự do, Tổ quốc trên hết, và Đảng, Chính phủ trong mọi hành động phải hết lòng

hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân, nhân dân là chủ thì Chính phủ là

đầy tớ, là công bộc của nhân dân,... đó là cái đích, là mục tiêu mà nhân dân, dân

tộc Việt Nam cần đi tới. Trên con đường đạt tới những mục tiêu đó, trong hành

động khi cần thiết phải có sự vạn biến về mục tiêu trước mắt, thay đổi sách lược

trong ngắn hạn với các cách thức cụ thể, biến hóa để khắc chế, đi đến xóa bỏ

những hành động, những lực lượng đang cố níu kéo làm chậm bước tiến của lịch

sử, làm sai lệch quy luật phát triển của xã hội, xa dời mục tiêu cách mạng.

Sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh, với sự thể

hiện trong tư tưởng cũng như trên thực tiễn hành động, con đường cách mạng,

mục tiêu bất biến của cách mạng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.

Độc lập cho dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân là mục tiêu hướng tới

của cách mạng Việt Nam dưới sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh, là cội nguồn của

mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trong Chính cương vắt tắt, Sách lược

vắn tắt và Điều lệ vắn tắt của Đảng, Hồ Chí Minh xác định mục tiêu cuối cùng

Page 109: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

105

là: xây dựng chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam. Người cụ thể hoá mục tiêu: Làm

cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, giải phóng công nông khỏi áp bức của đế quốc

và phong kiến, thiết lập nền dân chủ mới trên tất cả các lĩnh vực, chính trị, kinh

tế, văn hoá, xã hội, thực hiện giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng

con người và tạo ra những điều kiện phát triển mới vì lợi ích dân tộc và con

người Việt Nam.

Độc lập dân tộc phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội, bởi “chỉ có chủ nghĩa xã

hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người

lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ” [69, tr.563]; “chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới

cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự

do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì

mọi người, niềm vui, hoà bình, hạnh phúc” [58, tr.496]. Chủ nghĩa xã hội là bước

phát triển tất yếu của độc lập dân tộc, là quy luật phát triển của lịch sử, phù hợp với

yêu cầu của đất nước, của nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định “Trong thời đại ngày

nay,… cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ

nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn” [72, tr.392].

Chủ nghĩa xã hội, theo Hồ Chí Minh là một chế độ xã hội do nhân dân lao

động làm chủ, kinh tế phát triển trên cơ sở công nghiệp hiện đại, nông nghiệp

hiện đại, khoa học - kỹ thuật tiên tiến, sản xuất ngày càng tiến, vật chất ngày

càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, không còn áp bức, bất công, xã hội bình

đẳng, vui tươi, lành mạnh, quyền làm chủ của nhân dân được bảo đảm và phát

huy, các giá trị nhân văn được đề cao.

Kiên định con đường Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, đó là

cái bất biến thể hiện trong tư tưởng, hành động Hồ Chí Minh và ngày nay là kim

chỉ nam cho hành động của Đảng và nhân dân. Cái bất biến đó thể hiện mục tiêu,

lý tưởng cách mạng, sự nghiệp của quần chúng nhân dân ta. Nó thể hiện tính quy

luật, kế thừa và phát triển của xã hội Việt Nam, cách mạng Việt Nam; phản ánh

xu thế phát triển của thời đại, xu thế phát triển của lịch sử loài người.

Mục tiêu bất biến của sự nghiệp cách mạng là độc lập của Tổ quốc, tự do

và hạnh phúc của nhân dân, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Cốt

Page 110: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

106

lõi của phương pháp hành động là linh hoạt, hài hòa nhằm mục đích lớn nhất giải

phóng, đổi mới và phát triển đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định: “Mục đích bất

di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Nguyên tắc của

ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt. Các công tác phải

phối hợp và liên hệ với nhau, bộ phận phối hợp với toàn cục, v.v..” [65, tr.555].

Hồ Chí Minh luôn căn dặn: “Mỗi khi gặp tình hình mới, công tác mới”

phải kiên định về lập trường, sáng suốt về tư tưởng, thống nhất về nhận thức.

“Thắng lợi mới làm cho tình hình nước ta đổi mới.... Tình hình mới đặt cho nhân

dân, quân đội, cán bộ và Chính phủ ta những nhiệm vụ mới” [66, tr.37]. Trong

tình hình mới, đặc biệt trong những tình huống phát sinh phức tạp của bối cảnh

quốc tế ở trong nước cũng như quốc tế, Hồ Chí Minh luôn hành động mềm dẻo,

linh hoạt, hài hòa và khôn khéo để giành lấy những thắng lợi, những cơ hội tốt

nhất cho cách mạng.

Trong chuyến thăm chính thức nước Pháp từ đầu tháng 6 đến cuối tháng

10 năm 1946 theo lời mời của Chính phủ Pháp, Hồ Chí Minh với mục đích thể

hiện tinh thần giương cao ngọn cờ độc lập và thiện chí hòa bình của nhân dân

Việt Nam, nhưng trong bối cảnh Hội nghị Phôngtennơblô thất bại, Hồ Chí Minh

chủ động ký với Pháp bản Tạm ước ngày 14 tháng 9 năm 1946 nhằm cứu vãn

nền hòa bình đang bị đe dọa bởi cuộc chiến tranh mà các thế lực thực dân phản

động Pháp đang ráo riết chuẩn bị. Mặc dù ở thời điểm đó, hành động Hồ Chí

Minh bị nghi vấn, bị cho là bán nước cho thực dân Pháp nhưng thực tế lịch sử đã

chứng minh hành động của Hồ Chí Minh là đúng đắn, linh hoạt, sáng tạo, đầy

bản lĩnh mà thể hiện sự kiên trì nguyên tắc, kiên định mục tiêu hành động.

Đó chính là Hồ Chí Minh đã thực hiện triết lý về phương pháp hành động

Dĩ bất biến ứng vạn biến cho phù hợp với việc, với người, với hoàn cảnh để đạt

tới mục tiêu đã xác định. Phương pháp biện chứng này không chỉ được quán triệt

trong lời nói mà chủ yếu là quán triệt trong việc làm, trong hành động. Bằng

hành động cụ thể, Người thực hành thiết thực phương pháp Dĩ bất biến ứng vạn

biến để đưa một đất nước nghèo nàn, lạc hậu, bị nô dịch tiến tới độc lập, tự do,

hạnh phúc và dân chủ.

Page 111: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

107

3.3.2. Phương pháp nói đi đôi với làm

Hồ Chí Minh không đề ra phương pháp nói đi đôi với làm với câu chữ cụ

thể, nhưng trong hành động, trong cách diễn đạt thì luôn thể hiện nói đi đôi với

làm, nói gắn với hành động, miệng nói tay làm và cũng yêu cầu cán bộ, đảng

viên hành động theo phương pháp này. Hồ Chí Minh phê phán các loại nghị

quyết để trong tủ kính, phê phán trăm bài diễn văn tuyên truyền không bằng một

tấm gương sống,... Người nhận thức rõ, lời nói chỉ có tác dụng mạnh mẽ khi nó

được quán triệt trong hành động thực tế, bằng những việc làm, hành động cụ thể.

Chủ thể của lời nói phải bằng những hành động cụ thể, những việc làm thật sự

cần mẫn và siêng năng, hiệu quả mới chứng tỏ, thuyết phục được cho người khác

về lời nói của mình.

C.Mác khẳng định mỗi bước tiến của phong trào thực tế còn quan trọng

hơn là cả một tá cương lĩnh, còn Lênin cho rằng: “... Đã đến một thời kỳ lịch sử

mà lý luận biến thành thực tiễn, trở nên sinh động nhờ thực tiễn, được sửa chữa

bằng thực tiễn, được kiểm tra lại trong thực tiễn.” và “Mỗi biện pháp thực tiễn...

tốt hơn là một tá những bài nghị luận hay ho về chủ nghĩa xã hội” [53, tr.243].

Thấm nhuần quan điểm các nhà cách mạng tiền bối, Hồ Chí Minh nhận thấy

trong hành động: “Đề ra những luận cương dài dằng dặc và thông qua những

nghị quyết rất kêu để sau Đại hội đưa vào viện bảo tàng như từ trước vẫn làm thì

chưa đủ” [58, tr.303]. Người nhận thấy đối với các dân tộc phương Đông thì một

tấm gương sống có giá trị gấp nhiều lần lời nói. Thấm nhuần điều đó, ở Người,

lời nói luôn đi đôi với việc làm. Tất cả những câu nói của Người, ngoài sức

thuyết phục của tính khoa học, tính cách mạng, tính lý luận, còn có sức thuyết

phục vô cùng mạnh mẽ từ những hành động, việc làm gương mẫu trong thực tế

công tác, thực tế lãnh đạo cách mạng.

Hồ Chí Minh cho rằng: “Nói thì phải nói một cách giản đơn, thiết thực với

hoàn cảnh mỗi người; nói sao cho người ta nghe rồi làm được ngay. Việc dễ,

việc nhỏ làm được rồi, sẽ nói đến việc to, việc khó” [62, tr.126]. Người yêu cầu:

Nói phải cho gọn gàng, có đầu có đuôi, có nội dung. Nói lung tung

như nhiều người cán bộ nói ở các mít tinh, nói rồi không biết đường

Page 112: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

108

nào mà đi ra nữa, thôi đi thì cũng dở, nói nữa thì không biết nói gì!

Nói ít, nhưng nói cho thấm thía, nói cho chắc chắn thì quần chúng

thích hơn. Muốn nói gì phải chuẩn bị trước [65, tr.209].

Nói nôm na để cho người ta dễ hiểu, hiểu để người ta làm được.

Không nên lúc nào cũng trích Các Mác, cũng trích Lênin, làm cho

đồng bào khó hiểu. Nói thế nào cho đồng bào hiểu được, đồng bào

làm được, đó là nói được chủ nghĩa Mác - Lênin. Nói thiết thực, nói

đúng lúc, đúng chỗ, mới là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin. Nếu nói

không đúng chỗ không phải là chủ nghĩa Mác - Lênin [71, tr.161].

Với yêu cầu như vậy, nói không chỉ có ý nghĩa là phương tiện giao tiếp, là

lời tuyên bố mà còn là phương pháp hành động. Để nói thiết thực, nói đúng lúc,

đúng chỗ, Người yêu cầu: “Nói cũng phải học, mà phải chịu khó học mới được.

Vì cách nói của dân chúng rất đầy đủ, rất hoạt bát, rất thiết thực, mà lại rất giản

đơn” [62, tr.341]. Hồ Chí Minh khi trở về quê hương, rời những nơi phồn hoa đô

hội bậc nhất thế giới trở về sống, hoạt động nơi rừng thiêng, nước độc; một con

người đọc thông viết thạo, nói được nhiều thứ tiếng, vẫn nói chuyện với mọi

người bằng tiếng nói của xứ sở, vẫn đậm chất giọng xứ Nghệ quê nhà, nói tiếng

nói của nhân dân, cách nói của nhân dân, vẫn luôn “nói theo cách Việt Nam cho

dễ hiểu” [64, tr.120].

Về việc làm, Người quan niệm,

Chớ đặt những chương trình, kế hoạch mênh mông, đọc nghe sướng

tai nhưng không thực hiện được. Việc gì cũng cần phải thiết thực, nói

được, làm được. Việc gì cũng phải từ nhỏ dần dần đến to, từ dễ dần

dần đến khó, từ thấp dần dần đến cao. Một chương trình nhỏ mà thực

hành được hẳn hoi, hơn là một trăm chương trình to tát mà làm không

được [62, tr.217].

Xem xét mục đích và hành động trên cơ sở thực tiễn, làm từ việc nhỏ tiến

dần dần đến việc to, làm từ việc dễ tiến dần dần đến việc khó là phương pháp mà

Hồ Chí Minh được học, được rèn luyện từ rất sớm ngay trong quá trình tìm

đường cứu nước. Việc học làm báo, viết báo của Hồ Chí Minh cũng bắt đầu từ

Page 113: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

109

dễ đến khó, từ viết dài đến viết ngắn, gọn, dễ hiểu. Việc chuẩn bị các điều kiện,

tiền đề cho sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam từ lý luận dẫn đường, đến xây

dựng tổ chức, hợp nhất các tổ chức chẳng phải Hồ Chí Minh đã làm từng bước

một, rất tỉ mỉ, rất chu đáo, kỹ lưỡng với kế hoạch rõ ràng để ngay khi ra đời

Đảng lãnh đạo và lãnh đạo thắng lợi các phong trào, cao trào cách mạng, đi đến

giành độc lập tự do cho dân tộc, giải phóng cho nhân dân. Sau khi giành độc lập,

trong kế hoạch xây dựng, phát triển đất nước, Người chỉ ra: “Việc gì cũng phải

từ việc dễ đến việc khó, từ việc gấp đến việc hoãn, từ việc ít tốn tiền đến việc tốn

nhiều tiền. Nói tóm lại: kế hoạch phải thiết thực, phải làm được. Chớ làm kế

hoạch đẹp mặt, to tát, kể hàng triệu nhưng không thực hiện được” [62, tr.81].

Trong hành động, Hồ Chí Minh luôn chú trọng đến cách làm, đến biện

pháp thực hiện để làm sao cho dân chúng hiểu đúng và làm ngay. Hồ Chí Minh

chú trọng làm mẫu và yêu cầu cán bộ, đảng viên phải làm việc thực tế, cụ thể để

học hỏi và làm mẫu cho nhân dân. Hồ Chí Minh chú trọng sự thiết thực, hiệu

quả, nhiều chỉ dẫn của Người mang tính chất cầm tay chỉ việc chi tiết, cụ thể.

Chẳng hạn, Hồ Chí Minh chỉ rất rõ muốn làm dân vận tốt phải như thế nào?

Muốn thực hành đoàn kết, tự phê bình và phê bình phải như thế nào? Muốn đẩy

mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm thì phải bắt đầu như thế nào? Muốn xây dựng

hợp tác xã thì phải bắt đầu từ đâu? Muốn xây dựng tổ đổi công thì phải làm như

thế nào? Làm mương dẫn nước chống hạn thì phải như thế nào? v.v.

Khẩu hiệu, triết lý hành động Hồ Chí Minh yêu cầu phải thực hành là:

“làm việc gì học việc ấy” [62, tr.309]. Đây là phương pháp, là cách thức hành

động nhanh nhất để làm tốt công việc được giao và thiết thực với sự nghiệp cách

mạng. Tùy từng đối tượng cụ thể theo giới tính, độ tuổi, ngành nghề, lĩnh vực

công tác Hồ Chí Minh chỉ ra mục tiêu hành động, cũng như phương pháp hành

động cụ thể, phù hợp với đối tượng.

Khi thăm hỏi nông dân, Hồ Chí Minh ít đề cập các vấn đề chính trị, xã

hội, nếu không phải là bàn cách thức, phương pháp xây dựng đời sống mới trong

nhân dân thì là phương pháp làm sao để đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm.

Bàn đến những vấn đề hết sức cụ thể, chi tiết như cách thức làm phân bón, cách

Page 114: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

110

thức làm mương phai, cách thức gieo trồng và chăm bón, cách thức để hướng

dẫn nhanh nhất, cho nhiều người nhất kỹ thuật canh tác. Người hướng dẫn cách

để bảo vệ rừng, phát triển rừng, hướng khai thác gỗ để đổi lấy máy móc, phương

tiện sản xuất thay thế sức con người,... Và trong nhiều trường hợp, nhiều lần

Người còn cùng thực hành sản xuất với nông dân, thử dùng máy cấy, cùng đạp

cọn lấy nước, phát động trồng cây gây rừng và cùng trồng cây với mọi người đều

đặn hàng năm. Người luôn tìm cách để giữ lại, tìm cách để phát triển được nhiều

nhất số cây quanh nơi mình ở và làm việc. Khi làm việc với công nhân, Người

không chỉ giác ngộ ý thức giai cấp, tinh thần làm việc tập thể, hăng hái lao động

sản xuất mà Người còn chỉ ra phương pháp thi đua, thi đua giữa các cá nhân với

cá nhân, giữa các tổ sản xuất với nhau.

Vấn đề đảm bảo sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, giữa lời nói

và việc làm là vấn đề bức thiết, vừa phản ánh trình độ và năng lực lãnh đạo cách

mạng của Đảng, vừa thể hiện nhân cách, phẩm chất đạo đức của mỗi cán bộ,

đảng viên. Người khẳng định: “Do lời nói và việc làm, đảng viên, đoàn viên và

cán bộ làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ chung

quanh Đảng, tổ chức, tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực hiện

chính sách và nghị quyết của Đảng” [68, tr.609]. Nhận thức lý luận biểu hiện cụ

thể trong lời nói, trong hành động, ở việc làm. Nếu không thông qua hành động,

việc làm cụ thể thì mọi lý tưởng, mọi lý luận trong lời nói đều trở nên trống

rỗng, vô nghĩa. Tư tưởng lý luận chỉ có sức mạnh khi nó xâm nhập vào phong

trào của quần chúng, được thể hiện bằng hành động cải tạo hiện thực, xây dựng

cuộc sống ngày càng tốt đẹp.

Đối với cán bộ nói chung, Người chỉ rõ phương pháp hành động trong

công việc cụ thể là: “Làm theo cách quần chúng. Việc gì cũng hỏi ý kiến dân

chúng, cùng dân chúng bàn bạc” [62, tr.334]. Cán bộ,

Phải lấy thực tế hành động tranh đấu hàng ngày để giáo dục, làm cho

quần chúng thấy lực lượng của họ, phát huy sáng kiến, tự họ giải

quyết vấn đề, tự họ nâng cao địa vị kinh tế, chính trị, văn hóa của họ.

Muốn thực hiện như thế, không phải mệnh lệnh bắt quần chúng phải

Page 115: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

111

theo, mà phải làm cho họ tự giác tự động. Cán bộ phải nắm vững

chính sách của Đảng, của Chính phủ, đi đúng đường lối quần chúng.

Quần chúng rất nhiều sáng kiến, họ hiểu biết rất mau, nhất là những

cái thuộc về quyền lợi của họ. Cán bộ phải tìm hiểu quần chúng, phải

học hỏi quần chúng để lãnh đạo quần chúng [59, tr.48].

Người cho rằng:

Bất kỳ công việc gì, cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: một là

liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người

lãnh đạo với quần chúng. Thế nào là liên hợp chính sách chung với chỉ

đạo riêng? Bất kỳ việc gì, nếu không có chính sách chung, kêu gọi

chung, không thể động viên khắp quần chúng. Song, nếu người lãnh

đạo chỉ làm chung, làm khắp cả một lúc, mà không trực tiếp nhằm một

nơi nào đó, thực hành cho kỳ được, rồi lấy kinh nghiệm nơi đó mà chỉ

đạo những nơi khác, thì không thể biết chính sách của mình đúng hay

sai. Cũng không thể làm cho nội dung của chính sách đó đầy đủ, thiết

thực [62, tr.328].

Với Hồ Chí Minh đối với mỗi vật, mỗi việc cần phải có một phương pháp

nhất định, cụ thể để tác động làm biến đổi nó theo hướng đã định. Từ nhiều việc

nhỏ, hành động nhỏ với vô vàn các cách thức và phương pháp hành động thực

tiễn thì mới có thể đi đến một kết quả to lớn, mới có thể làm cho đất nước, con

người đều đổi mới, phát triển.

Hồ Chí Minh bàn về phương pháp một thì Người thực hiện phương pháp,

thực hành phương pháp mười. Cũng như Người yêu cầu, và đã thực hiện, “kế

hoạch 10 phần thì biện pháp phải 20 phần và quyết tâm 30 phần” [65, tr.485]

trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng đầy biến động của mình. Người hướng

dẫn phương pháp hành động cho người khác thông qua hành động của chính

mình, nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc.

Hồ Chí Minh cho rằng đối với những người: “Chỉ biết nói là nói, nói giờ

này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực cũng

không làm được. Những người như thế cũng không thể dùng vào công việc thực

Page 116: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

112

tế” [62, tr.327]. Người đưa ra yêu cầu, “Bất kỳ người lãnh đạo nào, nếu không

học tập nổi những việc thiết thực, những người thiết thực và những bộ phận thiết

thực của cấp dưới, để rút kinh nghiệm, thì nhất định không biết chỉ đạo chung

cho tất cả các bộ phận. Mỗi cán bộ phụ trách cần phải làm theo cách này cho kỳ

được” [62, tr.329]. Khi đã làm thì phải: “So đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách

làm việc có khoa học. Mỗi công việc, chúng ta đều phải làm như thế. Làm như

thế mới tránh khỏi cái độc đoán, mới tránh khỏi sai lầm” [62, tr.337].

Nói đi đôi với làm là một phương pháp ứng xử văn hóa của người cách

mạng là cơ sở để phân biệt giữa cán bộ cách mạng với những loại giả danh khác.

Hồ Chí Minh chỉ ra:

Bọn phong kiến ngày xưa nêu cần, kiệm, liêm, chính nhưng không

bao giờ làm mà lại bắt nhân dân ta phải tuân theo để phụng sự quyền

lợi của chúng. Ngày nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ

thực hiện làm gương cho nhân dân noi theo để lợi cho nước cho dân

[64, tr.220].

Người luôn yêu cầu cán bộ, đảng viên là miệng nói tay làm, và cao hơn là

mình phải làm trước, làm nhiều, làm gương: “Muốn hướng dẫn nhân dân, mình

phải làm mực thước cho người ta bắt chước” [63, tr.16]. Những người nói nhiều

làm ít, nói một đằng làm một nẻo, hoặc nói mà không làm là những cán bộ dở.

Đây là điều nguy hại, vừa làm suy yếu sức mạnh tổ chức, vừa làm giảm sút niềm

tin nơi quần chúng nhân dân, dẫn đến sự tha hóa của bản thân cán bộ, đảng viên.

Hồ Chí Minh “cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp độc lập dân tộc, nên mỗi

lời nói của Người đều gắn chặt với nguyện vọng của nhân dân” [40, tr.52].

Trong lãnh đạo thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng

nhân dân, từ những hành động nhỏ nhất, việc cá nhân cho đến những hành động

vì đất nước Hồ Chí Minh đều thể hiện sự thiết thực, hữu ích, có trù tính cho

tương lai. Đến với những nơi Người từng ở thấy rõ những hành động, những tính

toán chi li, cụ thể, thiết thực, những trù tính dự liệu của Người về sự phát triển

của phong trào cách mạng, sự nghiệp cách mạng, thậm chí để ứng phó với những

tình huống sẽ xảy ra trong chiến tranh. Hành động của Hồ Chí Minh, từ việc nhỏ

Page 117: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

113

đến việc lớn luôn thể hiện sự giản dị nhưng chứa đựng những triết lý nhân sinh

sâu sắc. Hành động đặt tay che nòng đại bác khi đi thăm chiến trường ở Pháp, ẩn

ý, sự sâu sắc của nó không chỉ là ngăn chặn chiến tranh trên thế giới bằng hành

động mà còn là thể hiện lập trường hòa bình, mong muốn hòa bình, tinh thần yêu

chuộng hòa bình của nhân dân Việt Nam. Một hành động trao chiếc khăn quàng

cho một hàng binh, không chỉ thể hiện tình cảm yêu thương con người, tình cảm

giữa người với người, mà nó còn thể hiện quan điểm phát triển, vì tiến bộ, đoàn

kết và hòa bình cho tương lai phát triển của dân tộc, nhân loại.

Di chúc của Người là sự kết tinh, là đại tổng kết và thể hiện rõ nét, mạnh

mẽ những yêu cầu, căn dặn của Người về những hành động thiết thực, những trù

tính cho tương lai phát triển của dân tộc. Di chúc chỉ ra cho dân tộc, cho đất

nước những vấn đề, nội dung quan trọng của sự nghiệp cách mạng, nhưng trong

mỗi nội dung, mỗi khía cạnh đều thể hiện sự cụ thể, một yêu cầu rõ ràng. Mỗi

câu, mỗi chữ của Di chúc là những nội dung cụ thể, mà xét đến cùng nội dung

đó, sự nghiệp đó Công việc đầu tiên là công việc đối với con người - một triết lý

về mục tiêu, định hướng phương pháp hành động của Đảng và nhân dân. Những

căn dặn cụ thể, thiết thực, quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng được thể hiện

trong Di chúc là cơ sở để xây dựng một chương trình hành động lâu dài vì sự đổi

mới, phát triển bền vững của đất nước.

Tóm lại, triết lý về phương pháp hành động nói đi đôi với làm được thể hiện

phong phú và sâu sắc qua thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh. Tiếp cận triết lý về

phương pháp hành động ở góc độ cách nói và cách làm cụ thể, thiết thực việc bám

sát thực tiễn, từ thực tiễn hoạt động của Hồ Chí Minh có ý nghĩa quyết định để thấy

rõ giá trị triết lý. Nghiên cứu, đánh giá phương pháp hành động nói và làm cụ thể,

thiết thực thể hiện trong triết lý hành động Hồ Chí Minh là nhiệm vụ khó khăn,

nhưng cũng là cách thức cơ bản để làm sáng tỏ giá trị triết lý hành động Hồ Chí

Minh, một triết lý thể hiện chủ yếu qua những hành động cụ thể, thiết thực.

3.3.3. Phương pháp nêu gương

Triết lý định hướng hành động Hồ Chí Minh là một tấm gương sống còn có

giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền, thực hiện triết lý đó trong sự nghiệp

Page 118: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

114

cách mạng, Hồ Chí Minh trở thành hiện thân của tấm gương sáng ngời về đạo đức,

về nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn, về thực hành đoàn kết, dân

chủ,... Toát lên từ tấm gương hành động Hồ Chí Minh là tấm lòng yêu nước, yêu

đồng bào, yêu nhân dân lao động, yêu con người; tấm gương của một người kiên trì,

bền bỉ, cách mạng triệt để nhưng cũng vô cùng nhân từ, nhân đạo; tấm gương về tự

học, không ngừng học, uyên bác nhưng khiêm tốn, giản dị; tấm gương kiên định

hành động quán triệt nguyên tắc chiến lược, kiên định mục tiêu tối cao của cách

mạng nhưng cũng rất linh hoạt, mềm dẻo, hài hòa về sách lược; tấm gương của một

người vượt lên thời đại, nhìn xa trông rộng từ chính những phân tích thực tiễn sắc

sảo, vận dụng lý luận sáng tạo; tấm gương của một con người hết sức vĩ đại nhưng

cũng rất mực bình dị, rất đời; một chiến sĩ cách mạng đi đầu trong đấu tranh chống

áp bức bóc lột nhưng có đời sống tâm hồn của một thi nhân,... “Cả cuộc đời vĩ đại

của HỒ CHỦ TỊCH là tấm gương mãi mãi sáng ngời chí khí cách mạng kiên

cường, tinh thần độc lập tự chủ, lòng yêu nhân dân thắm thiết, đạo đức chí công vô

tư, tác phong khiêm tốn, giản dị” [72, tr.629]. Tấm gương hành động Hồ Chí Minh

trên các mặt trở thành mẫu hình cao đẹp nhất của người cách mạng, của con người

Việt Nam. Tấm gương đó, hình mẫu đó thiết lập một hệ tiêu chí mới để đánh giá, để

hướng tới hoàn thiện con người cả về đạo đức và văn hóa.

Tấm gương hành động Hồ Chí Minh không chỉ đến từ nhận thức một tấm

gương sống có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên tuyền, từ những giá trị

về ở đời và làm người mà Hồ Chí Minh nhận thức, thể hiện trong hành động, nó

còn là kết quả của quá trình Người gương mẫu, thực hiện nêu gương và làm mẫu

để cán bộ, đảng viên học theo, làm theo, cống hiến cho sự nghiệp cách mạng. Hồ

Chí Minh yêu cầu trong hành động phải nêu gương và biến nêu gương thành một

phương pháp hành động, một yêu cầu với người cách mạng: “Trong mọi công

việc, bất kỳ to nhỏ, chi bộ Đảng, chi đoàn, công đoàn, nông hội phải gương mẫu,

phải đi trước, làm trước, phải biến quyết tâm của Đảng và Chính phủ thành

quyết tâm của toàn dân để lôi cuốn mọi người cùng tiến lên” [68, tr.486]. Người

chỉ rõ:

Nói miệng, ai cũng nói được. Ta cần phải thực hành. Kháng chiến, kiến

quốc, ta phải cần kiệm. Nhưng tự mình phải cần và kiệm trước đã.

Page 119: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

115

Trước hết, mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em, và khi

đi công tác, gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: Tinh

thần, vật chất và văn hoá. Không có gì là khó. Khó như cách mạng mà

ta đã làm được và đã thành công. Muốn làm được, ta phải: Quyết tâm,

tín tâm và đồng tâm. Ta nhớ ba chữ ấy, thực hành làm gương nêu ba

chữ ấy lên, tất là các đồng chí phải thành công [61, tr.171].

Xem nêu gương và làm gương là một phương pháp hành động, mục tiêu

hành động, cả cuộc đời Hồ Chí Minh từ việc nhỏ đến việc lớn, từ việc cá nhân

cho đến việc tập thể, việc quốc gia, từ việc quốc gia cho đến việc quốc tế luôn

thể hiện tấm gương thực hành lý luận trong thực tiễn; thực hành dân chủ; dân

vận; đoàn kết và đại đoàn kết; đạo đức và đạo đức cách mạng. Người luôn nêu

gương, làm gương cho mọi người noi theo. Không một chút ích kỷ, vụ lợi cá nhân,

không sống chỉ để cho riêng mình mà là sống quên mình, vì người, vì nhân dân.

Tất cả thể hiện quyết tâm, sự tín tâm và cầu đồng tâm trong hành động.

Người hiểu rất rõ và yêu cầu, muốn tổ chức thực tiễn giỏi thì cán bộ, đảng

viên chẳng những phải là người lãnh đạo quần chúng, có khả năng tuyên truyền,

vận động quần chúng rất giỏi bằng lời nói mà còn phải là người lính xung kích,

người cán bộ, đảng viên rất gương mẫu, tiên phong trong hành động thực tế. Nếu

chỉ nói mà không làm, không nêu gương bằng hành động cụ thể thì không thể

nào động viên, tổ chức được quần chúng thực hiện thắng lợi mọi chủ trương,

đường lối của Đảng. Muốn quần chúng, đảng viên cấp dưới làm theo thì cán bộ,

đảng viên cấp trên phải gương mẫu làm trước, thực hiện trước, đó mới thực sự là

phương pháp tuyên truyền có hiệu quả cao. Trong tuyên truyền giáo dục không

thể chỉ bằng lời nói khô khan, bằng lý thuyết chung chung, những khẩu hiệu trừu

tượng mà chính phải bằng hành động thực tế, bằng sự gương mẫu đến mực

thước của bản thân người cán bộ, đảng viên. Chỉ có bằng những việc làm thực tế,

những hành động gương mẫu, người ta mới có thể làm cho lời nói của mình có

độ tin cậy và sức thuyết phục mạnh mẽ.

Theo Người “Trong mọi công việc, đảng viên đều xung phong gương

mẫu, thực hiện khẩu hiệu “Đảng viên đi trước, làng nước đi sau” [71, tr.205].

Page 120: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

116

trước hết cán bộ, đảng viên, đoàn viên, phải làm đầu tàu, gương mẫu.

Muốn làm gương mẫu thì điều quan trọng nhất là các chú từ tỉnh đến

huyện, đến xã phải đoàn kết, đoàn kết thật sự, làm sao tự mình nêu

gương và giáo dục cho đảng viên, đoàn viên, cán bộ giữ gìn, phát triển

đạo đức cách mạng, làm sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ,

biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm [72, tr.293].

Đây là triết lý hành động mà thực hiện nó, biến nó thành phương pháp hành

động hiệu quả trước những khó khăn, do dự mà quần chúng nhân dân chưa có

được quyết đoán hành động. Thực hiện phương pháp đó đưa đến quan niệm nhân

dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau; đảng viên là đầu tàu

gương mẫu, và xem đó là một lời khen chân thành đối với hành động gương mẫu

của đảng viên và cán bộ. Phương pháp hành động, cách thức hành động này vẫn

còn nguyên giá trị trong quá trình đổi mới và phát triển đất nước hiện nay.

Chủ trương, đường lối của Đảng đưa ra cần được triển khai bằng những

hành động cụ thể, tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Việc cán bộ,

đảng viên phổ biến lại chủ trương, chính sách là quan trọng, nhưng quan trọng

hơn là cán bộ, đảng viên thực hiện bằng hành động, việc làm cụ thể để quần

chúng nhân dân hiểu rõ, thấy được chủ trương, đường lối của Đảng và làm theo,

thoát ra khỏi những do dự, những toan tính không nên có. Người yêu cầu cán bộ,

đảng viên “về xuôi phải làm gương mẫu trong mọi việc, tuỳ hoàn cảnh của mình

mà gần gũi, giúp đỡ nhân dân. Gương mẫu trong lời nói, việc làm, thái độ, sao

cho người ta thấy rõ mình là con người kháng chiến” [66, tr.47].

Hồ Chí Minh đề nghị xuất bản loại sách Người tốt, việc tốt ghi lại những tấm

gương trong nhân dân, những việc làm, hành động cụ thể trong nhân dân để ca

ngợi, tôn vinh, cũng như để mọi người học theo, làm theo cho dễ. Làm cho “Người

tốt việc tốt” như hoa nở mùa Xuân, nêu gương sáng của chủ nghĩa anh hùng cách

mạng” [72, tr.542]. Người chỉ rõ: “Lấy gương tốt trong quần chúng nhân dân và cán

bộ đảng viên để giáo dục lẫn nhau còn là một phương pháp lấy quần chúng giáo dục

quần chúng rất sinh động và có sức thuyết phục rất lớn. Đó cũng là cách thực hành

đường lối quần chúng trong công tác giáo dục” [72, tr.665].

Page 121: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

117

Phương pháp nêu gương người tốt, việc tốt trong quần chúng nhân dân

của Hồ Chí Minh cũng hết sức phong phú, đa dạng. Để nêu gương, biểu dương

người tốt, việc tốt, Người thường xuyên viết thư biểu dương người, việc cụ thể.

Có những khi Người còn dùng lời thơ để động viên như Thơ tặng cháu Nông Thị

Trưng “Vở này ta tặng cháu yêu ta, Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là. Mong cháu ra

công mà học tập, Mai sau cháu giúp nước non nhà” [60, tr.541], những câu thơ

“Em người Mán, em người Mèo, Đều là con cháu dân cày nghèo. Tuy nghèo, chí

khí rất giàu, Nêu gương oanh liệt, đời sau dài truyền” [65, tr.74]. Hay viết về Nữ

anh hùng Nguyễn Thị Bươi (Mạc Thị Bưởi) “Chị luôn giữ vững tinh thần, Hô to

khẩu hiệu, chửi quân bạo tàn. Vì lòng yêu nước nồng nàn, Nêu gương oanh liệt

muôn ngàn đời sau” [66, tr.420] là một phương pháp nêu gương, động viên hành

động thiết thực của Hồ Chí Minh. Những bức thư, vần thơ được lưu truyền có

tác dụng không nhỏ thúc đẩy hành động của chính mỗi người được khen, được

động viên cũng như những người xem đó như một động lực để hành động.

Tóm lại, dù cho lời nói có dễ hiểu đến đâu cũng vẫn có thể còn có người

không hiểu. Vì thế, để người khác thực sự hiểu, ai cũng hiểu không gì bằng vừa

nói vừa làm, làm gương, làm mẫu cho người khác hiểu đúng để làm theo. Cả đời

Hồ Chí Minh đã sử dụng phương pháp nêu gương để thúc đẩy hành động cách

mạng, góp phần đưa sự nghiệp cách mạng đến thắng lợi, đất nước độc lập và

phát triển, nhân dân tự do, hạnh phúc.

3.3.4. Phương pháp tạo đồng thuận, thống nhất hành động

Hành động bao giờ cũng được diễn ra trên cơ sở định hướng từ nhận thức

thực tiễn. Nhận thức đúng là cơ sở dẫn đến hành động đúng. Trong quá trình

hành động, có thể có những yếu tố nhận thức mới tác động làm chệch hướng,

dẫn đến kết quả hành động không đúng. Vì vậy, nhận thức đúng, nắm chắc cốt

lõi vấn đề, cốt lõi mục tiêu là điều kiện tiên quyết dẫn đến hành động đúng.

Nhưng muốn hành động đúng thì ngoài điều kiện có nhận thức đúng, còn cần có

bản lĩnh, ý chí để thực hiện mục tiêu nhận thức đặt ra.

Triết lý hành động về phương pháp thống nhất hành động Hồ Chí Minh

thể hiện trên hai khía cạnh, thứ nhất là phương pháp thống nhất nhận thức để

Page 122: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

118

hành động đó là thực hành lý luận gắn liền với thực tiễn, tuân theo “Đảng

cương” và thứ hai là phương pháp thực hành đoàn kết, dân chủ, dân vận, thi đua

yêu nước nhằm đảm bảo sự đồng thuận, thống nhất trong hành động. Có phương

pháp nhận thức đúng đắn các vấn đề lý luận và thực tiễn là cơ sở quan trọng để

đồng thuận, thống nhất về tư tưởng, từ đó tổ chức hành động được thống nhất,

đạt được các mục tiêu hành động đặt ra.

Để có được sự đồng thuận, thống nhất về nhận thức trong hành động, Hồ

Chí Minh chú trọng phương pháp nhận thức lý luận, cách thức tìm ra lý luận

đúng đắn, Người chỉ ra, “Lý luận là đem Thực tế trong lịch sử trong kinh

nghiệm, trong các cuộc tranh đấu, xem xét, so sánh thật kỹ lưỡng, rõ ràng, làm

thành kết luận. Rồi lại đem nó chứng minh với thực tế. Đó là lý luận chân chính”

[62, tr.273]. Đó là phương pháp để nhận biết và cũng là phương pháp để hình

thành lý luận khoa học. Vận dụng phương pháp đó, dù các chủ thể khác nhau

nhưng trên cùng một thực tế sẽ có nhận thức giống nhau để hành động, tạo nên

sự thống nhất, nhất trí trong hành động. Người còn chỉ rõ “lý luận cốt để áp dụng

vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận

suông” [62, tr.273], đây chính là phương pháp cơ bản để xem xét, đánh giá một

lý luận, khẳng định giá trị của lý luận. Mệnh đề “Chủ nghĩa Mác - Lênin không

phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xôviết” [63, tr,369], thể hiện

triết lý, phương pháp của Người trong vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là

sự đúc rút của Hồ Chí Minh trong thực tiễn hoạt động cách mạng, thống nhất với

tinh thần, lập trường Mác - Lênin trong chiều sâu của nhận thức và hành động.

Theo Hồ Chí Minh, nhận thức phải gắn với hành động, lý luận phải đem

ra thực hành. Thực hành là cơ sở, là phương pháp, cách thức để đánh giá sự đúng

đắn của lý luận. Hành động thiếu nhận thức đúng đắn cũng như không có lý luận

soi đường sẽ dẫn đến hành động mù quáng. Nhận thức đúng, hành động đúng

mới đóng góp được cho sự nghiệp cách mạng.

Đối với mỗi cán bộ, đảng viên, sự không thống nhất giữa lý luận và hành

động, giữa nói và làm là biểu hiện của suy thoái đạo đức, lối sống. Sự không

nhất quán này không chỉ do hạn chế về phương pháp tiếp cận chân lý, tìm ra lý

Page 123: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

119

luận đúng đắn mà còn là sự yếu kém của tư tưởng chính trị và suy thoái đạo đức

cách mạng. Vì thế, trong hành động, đặc biệt hành động của Đảng, Hồ Chí Minh

đề cao các cách thức, phương pháp để tạo ra sự thống nhất hành động. Hồ Chí

Minh xem thống nhất trong nhận thức và hành động là trách nhiệm chính trị, là

quyết tâm chính trị và là nghĩa vụ đạo đức của cán bộ, đảng viên trước Đảng, của

Đảng trước nhân dân. Để làm được điều đó,

Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài

Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới

thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong

Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng

thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc

tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi [65, tr.554-555].

Nếu cán bộ, đảng viên luôn nói đi đôi với làm, nhưng mỗi lúc lại nói một

kiểu, làm một kiểu không thống nhất với nhau thì cũng không mang lại hiệu quả.

“Đảng ta là một tập thể lớn, tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí” [69, tr.335].

Muốn tư tưởng nhất trí, hành động nhất trí thì mọi cán bộ, đảng viên phải tuân

theo quy định của “Đảng cương” vì: “Đảng cương là lý luận nền tảng, Đảng

dùng để lãnh đạo cách mạng. Nó đảm bảo cho chính trị thống nhất, tư tưởng

thống nhất của Đảng” [65, tr.282]. Mỗi cán bộ, đảng viên thấm nhuần tư tưởng,

chủ trương, chính sách và thực hiện đúng, thực hiện triệt để là cơ sở để tránh tư

tưởng rối loạn, ý kiến lung tung, hành động rời rạc, trống đánh xuôi, kèn thổi

ngược. Không thấm nhuần tư tưởng, chủ trương, chính sách của Đảng thì không

thể lãnh đạo quần chúng, nhân dân, không thể làm cách mạng.

Người khẳng định: “Sở dĩ Đảng ta có thể lãnh đạo giai cấp công nhân và

toàn dân tiến lên chủ nghĩa xã hội, là vì Đảng ta có chính sách đúng đắn và lãnh

đạo thống nhất. Mà lãnh đạo thống nhất là vì toàn thể đảng viên tư tưởng nhất trí

và hành động nhất trí” [68, tr.606]. Sự thống nhất tư tưởng và hành động của toàn

thể cán bộ, đảng viên tạo nên sức mạnh của Đảng. “Đảng ta mạnh vì Đảng ta tư

tưởng nhất trí, hành động nhất trí, suốt từ trên xuống dưới” [65, tr.514]. Nhờ có tư

tưởng nhất trí, hành động nhất trí mà Đảng ta khắc phục được khó khăn, phát huy

Page 124: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

120

được thuận lợi trong hành động cách mạng, làm trọn nhiệm vụ của Đảng. “Nhờ

chính sách đúng, lãnh đạo chắc, kỷ luật nghiêm, nhờ tư tưởng thống nhất, mà

Đảng ta và dân tộc ta được những thắng lợi vẻ vang ngày nay” [63, tr.5-6].

Trong thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ thống nhất không chỉ thể

hiện trong tư tưởng mà trên tất cả các lĩnh vực. Các lĩnh vực đều phải thể hiện, thực

hiện theo một mục tiêu mà chủ trương, chính sách của Đảng đã chỉ ra để tạo nên sự

thống nhất trong hành động. Chính mục tiêu hành động là căn cứ để xây dựng các

chủ trương, chính sách cụ thể trong hành động thực tiễn. “Cuộc đấu tranh kinh tế,

chính trị và tư tưởng nhất trí với nhau. Nhiệm vụ của cán bộ là cần phải nhận rõ để

khắc phục mọi trở lực” [67, tr.66]. Đặt Tổ quốc, nhân dân lên trên hết, trước hết, vì

sự phát triển chung của cả dân tộc là mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh, cũng

là cơ sở để xây dựng và thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước

được thống nhất. Dù trong lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng hay văn hóa, đạo

đức,… đều phải đặt trong mục tiêu vì nước, vì dân để hành động, để xây dựng

chính sách cụ thể phù hợp mục tiêu chung vì phát triển đất nước.

Hồ Chí Minh trong hành động cách mạng chỉ rõ sự quý trọng và ra sức bảo

vệ sự đoàn kết nhất trí, đoàn kết trong nước cũng như đoàn kết quốc tế như giữ gìn

con ngươi của mình. Đoàn kết tạo nên sự thống nhất, thực hành các phương pháp

đoàn kết trong hành động, nhằm thống nhất toàn dân, huy động sức mạnh toàn

dân, toàn quân cho mục tiêu các mạng. Để đoàn kết, thống nhất Người cũng chỉ ra

dân chủ là mọi việc đảng viên đều được thảo luận hay Dân chủ là dựa vào lực

lượng quần chúng, đi đúng đường lối quần chúng. Dân chủ không chỉ là nguyên

tắc sống còn của tổ chức, của Đảng mà đây là phương pháp khoa học để thống

nhất hành động, tạo nên động lực hành động cách mạng. Cùng với phương pháp

hành động dân chủ, Hồ Chí Minh còn đề cao phương pháp dân vận để tạo sự đồng

thuận, thống nhất trong hành động. Nếu thi đua yêu nước là một phương pháp để

thống nhất hành động, để phong trào thi đua trở nên sâu rộng mọi người đều thống

nhất hăng hái tham gia, thì đánh thông tư tưởng trong thi đua lại thể hiện phương

pháp dân vận tạo nên sự đồng thuận hiệu quả nhất. Phương pháp hành động tạo sự

đồng thuận, thống nhất của Hồ Chí Minh thể hiện phong phú, đa dạng và thống

Page 125: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

121

nhất chặt chẽ với nhau. Có thể thấy các phương pháp đồng thuận, thống nhất hành

động của Hồ Chí Minh là một hệ phương pháp, giải pháp nhưng cốt lõi của

phương pháp là lấy đoàn kết, dân chủ để đồng thuận toàn dân, cầu đồng tôn dị để

thống nhất nhằm giải phóng và phát triển đất nước.

Mọi hành động của Hồ Chí Minh trước sau như một, thủy chung như nhất

chính bởi Người đã nắm chắc các phương pháp hành động, cho một mục tiêu

duy nhất là độc lập của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Mỗi cán bộ,

đảng viên, cũng như mỗi cá nhân trong xã hội để cho lời nói của mình luôn

thống nhất, trước sau như một trước hết phải xác định cho được mục tiêu phấn

đấu, mục tiêu hành động rõ ràng. Cá nhân mỗi con người có thể có một mục tiêu

hành động riêng mà mình theo đuổi, nhưng đứng trước các khó khăn, thách thức,

cơ hội phát triển của dân tộc, của đất nước thì chỉ có thực hiện các mục tiêu mà

Đảng và Nhà nước đã đề ra cụ thể trong hành động của mình mới là người cán

bộ, đảng viên chân chính, là người yêu nước và cách mạng.

Tiểu kết Chương 3

Nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện mục tiêu, động lực và

phương pháp hành động Hồ Chí Minh trong thực tiễn hoạt động cách mạng. Mỗi

nội dung cụ thể chứa đựng giá trị cơ bản, cốt lõi của tư tưởng được đúc kết thành

các luận điểm, mệnh đề. Nội dung triết lý hành động thống nhất với tư tưởng Hồ

Chí Minh về sự nghiệp giải phóng, đổi mới và phát triển đất nước. Hay nói khác

triết lý hành động Hồ Chí Minh là sự biểu đạt cô đọng và sâu sắc nhất cho tư

tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng.

Ở góc độ tiếp cận từ lý thuyết hành vi, hành động nội dung triết lý hành

động Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa quyết định đối với cách mạng Việt Nam

trong sự nghiệp giải phóng dân tộc mà nó còn có ý nghĩa quan trọng định hướng

hành động trong sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Mỗi lĩnh vực hành

động, hay sự biểu đạt cụ thể của một lát cắt tư tưởng cần phải lấy những nội

dung triết lý làm căn cứ định hướng hành động nhằm đạt được sự thống nhất với

mục tiêu, động lực, phương pháp hành động đã chỉ ra. Sự rời bỏ mục tiêu, không

Page 126: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

122

xét đến các động lực và phương pháp, hay nói khác là không thực hiện triết lý

hành động Hồ Chí Minh trong mỗi hành động của người cách mạng nếu không

đi đến thất bại thì cũng không vì lợi ích quốc gia, dân tộc, không vì nhân dân.

Trong từng nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh điểm nổi bật xuyên

suốt và thống nhất nhuần nhuyễn đó là giải phóng và phát triển đất nước vì nhân

dân. Nội dung mục tiêu không chỉ là những vấn đề căn cốt của sự nghiệp cách

mạng mà nó còn thể hiện là động lực hành động. Động lực đó có được từ mục

tiêu xác định đúng vị trí, vai trò của nhân dân trong sự nghiệp giải phóng và phát

triển đất nước. Mục tiêu đó chỉ ra con đường giải phóng và phát triển là độc lập

dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Mục tiêu về con đường cũng trở thành

động lực khi nó phản ánh đúng khát vọng của nhân dân, của dân tộc là độc lập,

tự do và phát triển.

Nội dung phương pháp hành động Hồ Chí Minh cũng cho thấy sự quán

triệt mục tiêu vì nhân dân. Phương pháp hành động luôn lấy nhân dân làm trung

tâm. Phát huy vai trò của nhân dân, tự do, hạnh phúc của nhân dân là trọng tâm

để xác định các phương pháp hành động. Nội dung triết lý hành động Hồ Chí

Minh thể hiện bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, thể hiện quan điểm

đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo đức hành động Hồ Chí Minh. Vì con

người, vì tự do, hạnh phúc, sự phát triển của con người không thể có một mục

tiêu, một phương pháp hành động phi khoa học, trà đạp lên chính nhân phẩm và

danh dự của con người, đi ngược lại quyền và lợi ích của dân tộc. Nội dung triết

lý hành động Hồ Chí Minh tiếp cận từ góc độ chính trị là như vậy.

Nghiên cứu, làm rõ các giá trị lý luận và thực tiễn của triết lý hành động

Hồ Chí Minh có ý nghĩa quan trọng. Phát huy các giá trị triết lý hành động Hồ

Chí Minh không chỉ trong hoạch định kế hoạch hành động cho phù hợp với

đường lối, chiến lược phát triển đất nước trong giai đoạn hiện nay mà còn là để

tiếp tục xây dựng, hoàn chỉnh đạo đức cách mạng, đạo đức trong hành động của

cán bộ, đảng viên. Một con đường có văn hóa, có đạo đức và khoa học để hiện

thực hóa ngày càng triệt để mục tiêu phát triển xã hội, mục tiêu hành động mà

Hồ Chí Minh đã xác định và thực hiện có kết quả.

Page 127: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

123

Chương 4

GIÁ TRỊ DÂN TỘC VÀ THỜI ĐẠI

TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

Giá trị có thể được hiểu trên những nghĩa chính là: “Cái được xác định có

ích, có hiệu quả trong cuộc sống vật chất và tinh thần”, “Xác định hiệu lực của

một việc làm” [96]. Giá trị cũng có thể được hiểu theo nghĩa: “Phẩm chất tốt hay

xấu, tác dụng lớn hay nhỏ của sự vật hoặc của con người”, “Phẩm chất tốt đẹp,

tác dụng lớn lao” [49]. Có khi giá trị được hiểu là “Cái làm cho một vật có ích

lợi, có ý nghĩa, là đáng quý, về một mặt nào đó” [77]. Mặc dù không có sự đồng

nhất tuyệt đối, nhưng về cơ bản giá trị được hiểu là cái có ích, là cái làm cho một

vật có ích về một mặt nào đó, trên cả hai khía cạnh vật chất và tinh thần.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh mang bản chất khoa học, cách mạng,

nhân văn, thực hiện triết lý đó mang đến những giá trị to lớn đối với dân tộc và

thời đại. Đánh giá giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa

làm sáng rõ di sản tư tưởng lý luận Hồ Chí Minh mà còn là căn cứ lý luận, cơ sở

lý luận trong sự nghiệp giữ vững nền độc lập, đổi mới và phát triển đất nước

hiện nay. Với ý nghĩa đó, luận án đi vào luận giải giá trị dân tộc và giá trị thời

đại triết lý hành động Hồ Chí Minh.

4.1. GIÁ TRỊ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN DÂN TỘC

4.1.1. Kế thừa và phát triển triết lý hành động của dân tộc

Triết lý hành động của nhân dân Việt Nam dân tộc Việt Nam trước và

trong thời kỳ phong kiến được thể hiện mạnh mẽ ở chủ nghĩa yêu nước. Với

người Việt Nam, yêu nước là yêu quê hương, nơi mình được sinh ra; yêu non

sông, đất nước nơi mình lớn lên; yêu nhân dân, đồng bào, yêu những người ở

quanh mình, những người bao bọc, chở che cho mình. Tình yêu đó không chỉ thể

hiện trong thơ, ca, hò, vè ca ngợi quê hương, đất nước mà còn thể hiện bằng

những hành động anh dũng, quyết liệt, bằng máu và cả sự hy sinh tính mạng của

những người con đất Việt để bảo vệ quê hương, đất nước mình.

Page 128: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

124

Chủ nghĩa yêu nước được thể hiện bằng hành động, bằng nói đi đôi với

làm là một đặc điểm nổi bật, dễ nhận thấy. Truyền thuyết Thánh Gióng kể về

một chú bé ba tuổi chưa biết nói đến khi có giặc tràn vào thì tiếng nói đầu tiên

cất lên là tiếng nói đòi đi giết giặc, thể hiện đặc điểm lớn nhất chủ nghĩa yêu

nước Việt Nam là sẵn sàng hành động, sẵn sàng hy sinh, xả thân vì đất nước, vì

dân tộc luôn được đặt lên hàng đầu, là nói đi đôi với làm. Đạo đức, đạo lý truyền

thống Việt Nam lấy biểu hiện cụ thể, hành động thể hiện chủ nghĩa yêu nước làm

căn cứ, làm điều cốt yếu để đánh giá, nhận định về con người.

Triết lý hành động trong truyền thống văn hóa Việt Nam thể hiện trên

nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Tuy nhiên, triết lý này thể hiện rõ nét hơn trong

đấu tranh chống ngoại xâm qua quan điểm của người đứng đầu triều đại, một bộ

phận các tướng lĩnh, bá quan văn võ trong thể hiện phương sách đánh đuổi giặc;

quyết tâm bảo vệ đất nước Sông núi nước Nam, vua Nam ở, Rành rành định

phận ở sách trời, Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm, Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời,

hay Đánh cho để dài tóc, Đánh cho để đen răng, Đánh cho nó chích luân bất

phản, Đánh cho nó phiến giáp bất hoàn, Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi

hữu chủ thậm chí khẳng định Bao giờ người Tây nhổ hết cỏ nước Nam, nước

Nam mới hết người đánh Tây,... được thể hiện trong quan niệm về huy động sức

dân, khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước.

Triết lý hành động thể hiện trong các lĩnh vực khác khá rõ nét nhưng không

mạnh mẽ bằng, bởi bối cảnh phát triển của đất nước nếu không có giặc xâm lược

là khá yên bình, con người được thiên nhiên ưu đãi có nhiều thuận lợi cho sinh

sống, sống hòa thuận, đoàn kết, hài hòa với tự nhiên.

Xuất phát từ điều kiện, hoàn cảnh phát triển mà động cơ của con người

được đem ra để đánh giá hành vi, hành động. Người có đạo đức là người yêu

nước, yêu nước phải hành động, phải chiến đấu để bảo vệ quê hương đất nước,

con người trước hết phải chiến đấu. Chiến đấu dù cho có thất bại bởi thiếu các

yếu tố cần thiết nhưng đó vẫn là căn cứ để đánh giá con người. Triết lý hành

động giặc đến nhà đàn bà cũng đánh hay không thành công cũng thành nhân đã

Page 129: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

125

góp phần hình thành nên chủ nghĩa yêu nước chiến đấu ở mỗi con người Việt

Nam một phần là do bối cảnh đó.

Tuy nhiên, khi không được lý luận cách mạng soi sáng, dẫn đường, khẩu

hiệu không thành công thì thành nhân trong hành động cho thấy sự bế tắc và hạn

chế có phần mù quáng của nó. Khởi nghĩa Yên Bái năm 1930, là mốc dấu cuối

cùng cho sự tồn tại của khẩu hiệu không thành công thì thành nhân, của một

quan niệm coi việc có động cơ hành động là điều tiên quyết để đánh giá con

người. Khởi nghĩa Yên Bái thất bại, cũng là sự cáo chung cho vai trò lãnh đạo

các phong trào đấu tranh, các phương pháp đấu tranh, phương pháp hành động

cách mạng theo khuynh hướng cũ. Vai trò lịch sử của các giai cấp xã hội cũ khép

lại. Lịch sử Việt Nam mở ra một trang mới với vai trò, sứ mệnh của giai cấp

mới, được dẫn dắt bởi một lý luận cách mạng khoa học và tiến bộ.

Hồ Chí Minh kế thừa những giá trị tích cực trong triết lý hành động truyền

thống dân tộc. Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, được tiếp cận với một

phương pháp phổ biến, phương pháp đúng đắn cho hành động, hoạt động cách

mạng. Đó là phương pháp biện chứng duy vật. Phương pháp này được thể hiện

là một hệ thống các nguyên tắc điều chỉnh hoạt động nhận thức, hoạt động tư

duy và các bước trong hành động nhằm cải tạo hiện thực. Tuân theo sự chỉ dẫn

của chủ nghĩa Mác - Lênin trong hoạt động cách mạng Hồ Chí Minh đã hình

thành nên cho mình một triết lý hành động cách mạng, đúng đắn, phù hợp.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ được thấy rõ trong hành động

của Hồ Chí Minh mà còn có thể thấy trong hành động, chủ trương, đường lối,

chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam, đảng do Người sáng lập và rèn luyện.

Ngay trong triết lý về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh, khi so sánh, đánh

giá với mục tiêu triết lý hành động truyền thống của dân tộc, đều có một điểm

chung độc lập dân tộc là bất biến. Trong quan niệm về độc lập dân tộc, quan niệm

cũ cũng coi độc lập là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm, nếu nước bị mất độc

lập thì bằng mọi giá đòi lại. Nhưng khi đã giành được độc lập rồi, đòi lại được tự

chủ rồi, chế độ cũ lại tiếp tục xây dựng, phát triển xã hội trên chính cái nền, gốc

của nguyên nhân mất độc lập. Và rồi việc mất độc lập, tự do lại tiếp tục xảy ra.

Page 130: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

126

Đỉnh cao chế độ phong kiến Việt Nam là dưới triều Lý, Trần với những

thắng lợi lớn trước quân xâm lược, giành lại độc lập cho đất nước nhưng sau đó

các vua triều Trần lui về ở ẩn, tìm lối thoát cho sự bế tắc của số kiếp con người,

tìm sự giải thoát, an lạc cho con người bằng con đường tu hành. Hạn chế của

hoàn cảnh lịch sử không cho phép các vua triều Lý, Trần có thể nhìn ra xa hơn,

nhìn rộng hơn, khoa học hơn về con đường phát triển đất nước.

Trong mục tiêu hành động Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc cũng là mục tiêu

bất biến số một. Nhưng quan trọng hơn, Người quan niệm, độc lập dân tộc cũng

chẳng có nghĩa lý gì nếu tranh được độc lập rồi mà dân vẫn cứ chết đói, chết rét.

Mục tiêu triết lý hành động truyền thống không đi tìm căn nguyên, gốc tích của

vấn đề làm sao nước mất độc lập, nhân dân mất tự do. Còn mục tiêu của triết lý

hành động Hồ Chí Minh là hướng tới xóa bỏ căn nguyên, gốc dễ dẫn đến mất

độc lập, tự do. Đó là vấn đề phát triển con người, trình độ làm người, trình độ

làm chủ xã hội của con người. Đó là xây dựng nền hòa bình của dân tộc, đất

nước trên cơ sở đấu tranh cho nền hòa bình, dân chủ chung của nhân loại của các

dân tộc trên thế giới. Độc lập, tự do, hạnh phúc do con người làm nên và vì chính

con người, đó là mục tiêu sâu xa của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện độc lập dân tộc chỉ là điều kiện,

tiền đề cho việc thực hiện các mục tiêu khác như tự do, hạnh phúc, dân chủ của

nhân dân; là điều kiện để giải phóng giai cấp và là điều kiện thực hiện cuộc giải

phóng triệt để nhất - giải phóng con người. Triết lý hành động Hồ Chí Minh phát

triển trên nền tảng triết lý dân tộc và nâng tầm triết lý dân tộc chính nhờ có lý

luận khoa học cách mạng chủ nghĩa Mác - Lênin dẫn đường. Mục tiêu hành

động Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xây dựng

một xã hội mà sống trong xã hội ấy, con người được tự do phát triển và hoàn

thiện, có cơm no, áo ấm, có hạnh phúc và dân chủ, là cái đích mà hành động Hồ

Chí Minh hướng đến.

Một mục tiêu xa hơn, cao hơn yêu cầu phải có một động lực mạnh mẽ

hơn, một phương pháp thực hiện khoa học được quán triệt. Đây là những điều

mà triết lý hành động truyền thống không hình thành được trong nội dung của

Page 131: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

127

mình. Có thể thấy, triết lý hành động truyền thống coi trọng việc nêu gương,

coi trọng lời nói đi đôi với việc làm,... nhưng trong thực hiện không có sự

nhất quán và không thường xuyên. Trải qua mấy ngàn năm lịch sử cũng chỉ

tìm thấy ở đâu đó, mỗi chỗ một ý, mỗi nơi một điều phải dày công góp nhặt

mới thấy được. Còn triết lý hành động Hồ Chí Minh khoa học, cách mạng bởi

có mục tiêu rõ ràng, mục tiêu trước mắt cũng như mục tiêu lâu dài, mục tiêu

phát triển đất nước phù hợp yêu cầu hiện tại, nhưng không đi ngược quy luật

phát triển của xã hội tương lai. Mục tiêu đó được thực hiện xuyên suốt, nhất

quán trong mọi hành động, lời nói, việc làm của Hồ Chí Minh. Có thể thông

qua bất kỳ một hành động, việc làm, một lời nói nào của Hồ Chí Minh, chúng ta

cũng thấy được điều đó.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh có phương pháp hành động khoa học và

hiệu quả, phương pháp đó không chỉ được Hồ Chí Minh - người đứng đầu thực

hiện mà còn cả các tổ chức, mọi chủ thể hành động quán triệt. Có một hệ động

lực được phát hiện, phát huy và phát triển, khuyến khích động viên hành động

ngày càng nhiều, ngày càng tích cực. Đây là những điều mà trong triết lý hành

động truyền thống của cha ông chưa có được.

Đó là cách Hồ Chí Minh phát triển các giá trị trong triết lý hành động

truyền thống của dân tộc, hình thành nên triết lý hành động Hồ Chí Minh, có tất

cả nhưng đậm nét riêng Hồ Chí Minh.

4.1.2. Nền tảng, cơ sở lý luận xây dựng triết lý hành động của Đảng

Đối với mỗi chủ thể lãnh đạo, quản lý luôn phải ý thức rất rõ mục tiêu,

nguyên tắc chi phối hành động cũng như động lực và phương pháp được sử dụng

để đạt tới kết quả mà mục tiêu đã định. Đồng thời cũng phải xác định nội dung

nào phải kiên định, nội dung nào có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của

những tình huống, bối cảnh mới phát sinh. Thay đổi cái gì và như thế nào phải

có cơ sở khoa học, có lý luận dẫn đường, soi sáng, thể hiện sự nhất quán, xuyên

suốt vì mục tiêu phát triển tốt đẹp.

Ngày nay, mỗi dân tộc, quốc gia trong hành động luôn thể hiện có triết lý

phát triển và có triết lý hành động của riêng mình. Mỗi hành động nhằm mục

Page 132: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

128

tiêu nhất định, có thể trước mắt hay lâu dài với những phương pháp hành động

được lựa chọn phù hợp. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển mà

mỗi nước, mỗi dân tộc hoặc có thể là nhóm các nước, các dân tộc tuân theo một

triết lý hành động nhất định.

Ở Việt Nam, với những thắng lợi, thành tựu đạt được trong việc tuân theo

triết lý hành động Hồ Chí Minh khẳng định tính khoa học, sự đúng đắn của triết

lý. Có nghĩa mục tiêu, con đường và phương pháp biến đổi xã hội mà Hồ Chí

Minh lựa chọn đang tiếp tục được vận dụng, kế thừa và phát triển. Triết lý hành

động Hồ Chí Minh tiếp tục định hướng hành động của Đảng và nhân dân Việt

Nam trong thời đại mới. Thực hành triết lý hành động Hồ Chí Minh có kết quả là

con đường ngắn nhất để hiện thực hóa những nội dung phát triển xã hội mà Hồ

Chí Minh lựa chọn.

Xét đến cùng mọi hành động, quan điểm tư tưởng, phương pháp, mọi triết

lý của Hồ Chí Minh đều hướng tới độc lập, tự do, hạnh phúc, dân chủ và giàu

mạnh cho dân tộc, cho nhân dân. Trước hết là dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt

Nam và rộng ra là của các dân tộc trên thế giới, nhân dân thế giới. Không chỉ

dưới thời đại Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Hồ Chí Minh mới

thực hiện những mục tiêu ấy. Hồ Chí Minh đúc kết từ lịch sử dân tộc ngàn năm

trước, rút ra từ trong phong trào cách mạng thế giới hàng trăm năm để làm cơ sở

xác định rõ mục tiêu hành động cho mình. Mục tiêu đó đúng với quy luật phát

triển, hợp với thời đại, đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, giải phóng và phát

triển đất nước. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí

Minh, bất kể lực lượng nào lãnh đạo cách mạng, muốn cho sự nghiệp của mình

còn tồn tại ngàn năm sau thì cũng phải hành động vì mục tiêu tối thượng như Hồ

Chí Minh chỉ ra và cả đời thực hiện.

Mục tiêu triết lý hành động Hồ Chí Minh vì thế không chỉ còn là việc vận

dụng, lựa chọn hay không lựa chọn cho sự phát triển của dân tộc mà là một tất

yếu, một giá trị lý luận cần được quán triệt thực hiện, cụ thể hóa trong hành động.

Trong thời đại hội nhập toàn cầu đã đặt ra những yêu cầu và thách thức

mới cho quá trình phát triển của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Có mục tiêu nhưng

Page 133: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

129

cũng cần có một phương pháp hành động phù hợp mới mong đạt được kết quả

mong muốn. Hội nhập với thế giới là cơ hội để xóa bỏ khoảng cách, xóa bỏ sự

chênh lệch về trình độ, về thu nhập nhưng cũng là thách thức sống còn cho sự

phát triển của dân tộc. Nếu không phát huy được nội lực, động lực hành động,

động lực phát triển của mình, dân tộc đó tất yếu bị cuốn theo một triết lý phát

triển không mong muốn, đánh mất những mục tiêu, giá trị truyền thống tốt đẹp.

Trước yêu cầu phát triển của xã hội, triết lý về phương pháp hành động

Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện giá trị trong cách mạng giải phóng mà thể hiện

nhiều hơn trong đổi mới, phát triển. Việc nói đi đôi với làm không chỉ còn thể

hiện là một cách thức, một phương pháp hành động có hiệu quả, trách nhiệm của

cán bộ cấp trên với cấp dưới, của cán bộ với nhân dân, của những người yêu

nước và cách mạng, mà còn là việc tôn trọng và thực hiện các cam trong xây

dựng mối quan hệ hợp tác, phát triển lâu dài với các quốc gia, dân tộc khác.

Trong xu thế hợp tác và cạnh tranh, các đối tác luôn quan sát các tuyên bố, các

cam kết, các hành động cụ thể đảm bảo cho cam kết của đối phương để đưa ra

quyết định hợp tác. Các tuyên bố, các chính sách có thống nhất với hành động

trong quá trình hợp tác mới là cơ sở để sự hợp tác tồn tại và phát triển lâu dài.

Các phương pháp hành động được cán bộ, đảng viên thực hiện cũng là

căn cứ để lựa chọn cán bộ cho bộ máy của Đảng và Nhà nước. Chỉ có những ai

luôn thực hiện phương pháp nhằm đảm bảo lời nói gắn liền với hành động, dám

nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm thì mới xứng đáng đứng vào bộ máy để

phục vụ nhân dân.

Triết lý về phương pháp tạo sự thống nhất trong hành động, là cơ sở lý

luận để xem xét đánh giá kết quả của việc áp dụng các chủ trương, chính sách

của từng địa phương, cũng như đánh giá khả năng, thái độ của các đối tác trong

hợp tác và phát triển. Chủ trương, chính sách của một doanh nghiệp, một địa

phương,... chỉ đúng khi được thực hiện, được biến thành hành động, thống nhất

với lợi ích quốc gia, dân tộc. Đồng thời thể hiện giá trị khi đem lại những lợi ích

thực tế cho sự phát triển kinh tế, xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần

của nhân dân, góp phần ổn định xã hội và phát triển của quốc gia, dân tộc.

Page 134: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

130

Tương tự như vậy, không thể dựa vào cái bắt tay của tình hữu hảo, của

những ngôn từ hoa mỹ được lựa chọn kỹ lưỡng khi xúc tiến thiết lập quan hệ hợp

tác, mà phải căn cứ vào hành động thực tế, lợi ích thiết thực trong quá trình triển

khai các chương trình hợp tác. Đánh giá hiệu quả của chương trình hợp tác trên

cơ sở thực tế thúc đẩy kinh tế, phát triển xã hội, vào sự không ngừng tin cậy và

hiểu biết lẫn nhau là căn cứ để thiết lập, xây dựng chiến lược hợp tác lâu dài, bền

vững. Chỉ có sự thống nhất trong tư tưởng, trong hành động mới là minh chứng,

là căn cứ để hợp tác vì phát triển.

Chỉ có dựa trên cơ sở lý luận vững chắc, đúng đắn, khoa học mới giúp cho

hành động trở nên phù hợp, có hiệu quả. Để phát triển đất nước, phát triển địa

phương, mỗi cán bộ, đảng viên cần trang bị cho mình một cơ sở lý luận vững

chắc. Phải nắm chắc và thực hiện theo đúng chủ trương, đường lối, chính sách

của Đảng và Nhà nước. Phải đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu vận dụng phát triển

sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, quán triệt triết lý hành

động Hồ Chí Minh vào điều kiện, hoàn cảnh mới của đất nước. Nắm chắc

phương pháp Dĩ bất biến ứng vạn biến để đề ra những chủ trương, chính sách

mới thúc đẩy sự phát triển đất nước, ấm no, hạnh phúc của nhân dân.

Mọi hành động, hoạt động của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt

Nam đạt được kết quả, mục tiêu như mong muốn bởi chính Người nắm rất

vững quan điểm, phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Hơn thế, để có

hành động đúng, bên cạnh việc được trang bị và tự trang bị cho mình một cơ sở

lý luận vững chắc còn cần phải có lòng thương yêu, kính trọng và niềm tin ở

nhân dân. Mọi hoạt động, hành động phải đặt quyền lợi của nhân dân, của dân

tộc lên trên hết, trước hết. Có cơ sở lý luận đúng đắn dẫn đường, có lòng tin

yêu nhân dân, có tấm lòng vì dân, vì nước chắc chắn mỗi hành động của từng

cán bộ, đảng viên sẽ đem đến những hiệu quả thiết thực, tích cực tạo ra lòng tin

ở nhân dân và sự phát triển cho đất nước.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh chỉ ra, trong hành động mục tiêu trước

mắt có thể thay đổi cho phù hợp với yêu cầu của hoàn cảnh thực tế, nhưng mục

tiêu cốt lõi, mục tiêu lâu dài là bất biến. Phương pháp hành động trong triết lý

Page 135: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

131

hành động Hồ Chí Minh là chuẩn mực để đánh giá hành vi, việc làm của mỗi chủ

thể hành động. Phương pháp hành động Hồ Chí Minh là vạn biến, linh hoạt,

trong hành động, có khi Hồ Chí Minh chỉ sử dụng một phương pháp để đạt mục

đích, nhưng đa phần là sự phối hợp nhuần nhuyễn các phương pháp. Thậm chí

sử dụng cả các phương pháp tưởng như là trái ngược nhau, mâu thuẫn với nhau

nhưng bản chất là kiên định mục tiêu, khéo chèo lái con thuyền cách mạng cập

bến bờ thắng lợi.

Trong bối cảnh mới của xã hội, sự vận dụng triết lý về phương pháp hành

động Hồ Chí Minh cần thể hiện tinh thần vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào

Việt Nam của Hồ Chí Minh. Khi vận dụng triết lý hành động Hồ Chí Minh vào

thực tế cần quán triệt tinh thần của phương pháp, thể hiện rõ sự đồng tâm nhất

trí, sự nhất quán trong thực hiện nhiệm vụ, triển khai các chủ trương, chính sách.

Đồng thời cũng cần có sự sáng tạo, linh hoạt về những phương pháp hành động

cụ thể để hướng dẫn, tập huấn cho người thực hiện, làm việc trực tiếp ở từng địa

phương, ngành, nghề,... cho phù hợp, nhằm đạt được mục tiêu chung.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh là một lý luận khoa học về hành động

cách mạng. Trước hết, nó chỉ ra cho người cách mạng mục tiêu, phương hướng

để phấn đấu, thực hiện mục tiêu. Nó cung cấp các nguyên tắc, phương pháp để

hành động có hiệu quả. Ở bình diện lớn nhất mà triết lý hành động Hồ Chí

Minh đã thực hiện được là độc lập của Tổ quốc, tự do, hạnh phúc của nhân dân.

Đó là tiếp cận triết lý ở phương diện chính trị. Nhưng nếu chỉ đánh giá, vận

dụng triết lý hành động Hồ Chí Minh ở phương diện này, thì dường như chúng

ta lại đang làm nghèo đi những giá trị vốn có, những giá trị gia tăng của triết lý

hành động Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh luôn quan niệm làm phải từ việc nhỏ tiến dần dần đến việc lớn,

làm từ việc dễ tiến dần dần đến việc khó, một việc lớn bắt đầu từ nhiều việc nhỏ.

Vận dụng triết lý hành động Hồ Chí Minh, cần thiết và nên trong từng hành động,

với các quy mô hành động từ cá nhân, gia đình, cộng đồng, làng xóm, địa phương,

đất nước,... hay trong từng doanh nghiệp, công ty, tổng công ty đến từng ngành

nghề, lĩnh vực kinh doanh, sản xuất,... Bất kể chủ thể hành động ở cấp độ nào, quy

Page 136: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

132

mô nào khi hành động đều cần phải xác định mục tiêu rõ ràng, một mục tiêu được

xem xét và kiên trì thực hiện với quyết tâm cao, đồng thời có nguyên tắc cũng như

phương pháp thực hiện. Triết lý hành động của từng cá nhân, cho đến từng địa

phương, ngành nghề, mỗi quốc gia cần được hiểu, được quán triệt và truyền đạt từ

thế hệ này sang thế hệ khác. Tuân thủ một triết lý hành động đúng đắn, hành động

kiên trì, bền bỉ, với quyết tâm cao độ vừa thể hiện được bản thân, vừa là cách để

truyền đạt các thông điệp tốt đẹp đến thế hệ sau, đó là cách để xây dựng thương

hiệu, là cách để phát triển bền vững cho chính mình, gia đình mình, dân tộc mình.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh vì thế trở thành cơ sở lý luận chủ đạo

định hướng hành động của Đảng và nhân dân ta trong tiến trình cách mạng. Mặc

dù nội dung của triết lý là hết sức sâu sắc và giá trị của nó đã được khẳng định

trong thực tiễn phong trào cách mạng, nhưng giá trị của triết lý hành động Hồ

Chí Minh còn sâu sắc hơn chính ở chỗ nó luôn luôn được bổ sung, hoàn chỉnh

bằng thực tiễn phong trào cách mạng. Không ngừng được mở rộng phạm vi ảnh

hưởng và quán triệt mạnh mẽ hơn trong chính quá trình thực hiện, thực hành triết

lý này bất chấp không gian và thời gian bởi cùng đích của triết lý này là độc lập

của dân tộc, tự do, hạnh phúc của nhân dân, đổi mới và phát triển dân tộc.

4.1.3. Xây dựng phẩm chất, chuẩn mực sống, chiến đấu, lao động, học

tập cho cán bộ, đảng viên

Không chỉ dừng lại là chuẩn mực cho mình, vì mình, thông qua quá trình

tự nhận thức, tự lĩnh hội để hành động cách mạng, Hồ Chí Minh còn hết sức chú

trọng xây dựng, đào tạo, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Các nội

dung của triết lý hành động Hồ Chí Minh trong buổi đầu của cuộc đấu tranh cách

mạng chưa thực sự được quán triệt và giác ngộ rộng rãi. Phải thông qua quá trình

đấu tranh cách mạng, thực hành triết lý hành động Hồ Chí Minh, bắt đầu từ Hồ

Chí Minh cho đến lớp lớp cán bộ, đảng viên do Hồ Chí Minh đào tạo và rèn

luyện mà các nội dung của triết lý ngày càng được quán triệt rộng rãi và triệt để.

Việc quán triệt thực hiện các mục tiêu, động lực, cũng như phương pháp triết lý

hành động Hồ Chí Minh chỉ ra trở thành một trong những tiêu chí đánh giá thái

độ, năng lực, hiệu quả hành động của cán bộ, đảng viên.

Page 137: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

133

Thực tế cách mạng cho thấy, bất cứ nơi nào, khi nào cán bộ, đảng viên xa

rời, không thực hiện các mục tiêu, phương pháp hành động mà triết lý chỉ ra thì

phong trào cách mạng ở nơi đó yếu kém, thậm chí gặp thất bại. Nơi nào mục

tiêu, phương pháp hành động được quán triệt tốt, động lực hành động được phát

huy thì nơi đó kết quả phong trào cách mạng tiến bộ hơn, đạt được nhiều thắng

lợi hơn. Mục tiêu, động lực, phương pháp trong triết lý hành động Hồ Chí Minh

trở thành cơ sở lý luận chỉ đạo hành động cho cán bộ, đảng viên và được làm cho

ngày càng sâu sắc chính trong hành động cách mạng như vậy.

Triết lý về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh thông qua thực tế cách mạng

trở thành mục tiêu hành động của đội ngũ cán bộ, đảng viên, những chiến sĩ cách

mạng dưới sự dẫn dắt của Người. Triết lý về mục tiêu độc lập của Tổ quốc, tự

do, hạnh phúc của nhân dân trở thành hướng phấn đấu, trở thành động lực hành

động cho mỗi người trong đấu tranh cách mạng. Hành động vì những mục tiêu

đó trở thành tiêu chí đánh giá về phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên, của

những chiến sĩ cách mạng trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc.

Quán triệt động lực hành động trong triết lý hành động Hồ Chí Minh,

phương pháp và biện pháp phát huy các động lực này trở thành lý luận cách

mạng. Trên cơ sở lý luận cách mạng mà các thế hệ cán bộ, đảng viên tiếp tục

thực hiện, quán triệt, vận dụng làm cho động lực hành động cách mạng không

ngừng được bổ sung và phát huy mạnh mẽ. Lý luận về động lực và sự vận dụng

nó trong hành động thực tiễn góp phần tích cực vào các thắng lợi của phong trào

cách mạng dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chuẩn mực hành động triết lý hành động Hồ Chí Minh xây dựng, chính là

không có hành động đi ngược, trái với lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Đó là

một chuẩn mực về đạo đức, một giá trị đạo đức mới, đạo đức cách mạng, đạo

đức Hồ Chí Minh. Hành động tận tâm và tận lực, cả cuộc đời chỉ vì dân, vì nước

một cách khoa học và cách mạng là chuẩn mực cao nhất của hành động.

Cán bộ, đảng viên của Đảng thấm nhuần triết lý hành động Hồ Chí Minh

làm cho không chỉ trên lĩnh vực chính trị mà cả trong kinh tế, giáo dục, văn hóa,

xã hội có được những thành tích, thành tựu làm thay đổi bộ mặt đất nước. Bằng

Page 138: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

134

những hành động, với những phương cách rất sáng tạo biến một đất nước có tới

hơn 95% dân số mù chữ chỉ trong một thời gian ngắn cơ bản xóa được nạn mù

chữ. Trong Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt, Hồ Chí Minh nêu:

Dưới thời thực dân Pháp thống trị, 95% dân ta mù chữ, ngày nay 95%

dân ta đều biết đọc biết viết. So với ngày hòa bình mới lập lại, số học

sinh phổ thông tăng gấp 3 lần rưỡi; số học sinh đại học và chuyên

nghiệp trung cấp tăng gấp 25 lần [71, tr.275].

Bằng hành động cụ thể từ chỗ người dân không biết thế nào là quyền tự

do, quyền dân chủ đã biết thể hiện quyền tự do, dân chủ của mình khi đi bầu cử,

bỏ lá phiếu lựa chọn những người có đức, có tài vào trong bộ máy nhà nước.

Bằng hành động cụ thể, bằng tấm gương thực hiện đời sống mới của cán bộ,

đảng viên, bằng sự hướng dẫn tận tâm và tận lực của cán bộ, đảng viên mà

phong trào xây dựng đời sống mới được mở rộng và phát triển, nhân dân được

hưởng những giá trị do độc lập, tự do đem lại.

4.1.4. Truyền cảm hứng cho dân tộc giành những thắng lợi vĩ đại

Hồ Chí Minh sinh ra trong cảnh nước mất, nhà tan, nhân dân lao động sống

trong bần cùng, tăm tối; bị áp bức, bóc lột bởi thực dân và tay sai phong kiến. Các

phong trào yêu nước và cách mạng theo những con đường, những khuynh hướng

khác nhau dưới sự lãnh đạo của các lực lượng, bộ phận giai cấp cũ lần lượt bị thất

bại. Con đường cứu nước giải phóng dân tộc bế tắc không có đường ra. Cả dân tộc

quằn quại, rên riết dưới ngọn roi, gót giày, họng súng quân xâm lược.

Từ truyền thống triết lý dân tộc, truyền thống triết lý phương Đông, kết hợp

với triết lý phương Tây, đặc biệt là triết lý hành động được rút ra từ chủ nghĩa

Mác - Lênin, Hồ Chí Minh hình thành triết lý hành động khoa học và sâu sắc.

Thực hiện, thực hành triết lý hành động của mình trong quá trình truyền

bá lý luận cách mạng, cũng như lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh cùng với

nhân dân Việt Nam từng bước làm thay đổi diện mạo, địa vị chính trị, kinh tế

của đất nước, của nhân dân.

Trong lĩnh vực chính trị, bằng những hành động thiết thực, chi tiết và cụ thể,

Hồ Chí Minh từng bước truyền bá lý luận cách mạng, con đường giải phóng dân tộc

Page 139: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

135

theo chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Những hành động của Hồ Chí Minh

trong việc mở các lớp huấn luyện chính trị ở Quảng Châu - Trung Quốc cho những

thanh niên yêu nước Việt Nam mang tính quyết định cho việc chuyển từ lập trường

của các giai cấp, tầng lớp khác sang lập trường giai cấp công nhân của những thanh

niên này. Quyết định cho việc chủ nghĩa Mác - Lênin được truyền bá sâu rộng vào

đời sống chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam. Thúc đẩy giai cấp công nhân

Việt Nam ý thức về sứ mệnh lịch sử của mình trong đấu tranh giải phóng dân tộc,

giải phóng nhân dân lao động, giải phóng chính mình.

Hồ Chí Minh giữ vai trò quyết định trong việc thúc đẩy sự ra đời của các

tổ chức Cộng sản ở Việt Nam. Để rồi chính bằng hành động của mình, trực tiếp,

khôn khéo và khoa học đi đến thống nhất các tổ chức cộng sản này thành lập

Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam là dấu mốc thắng

lợi của Hồ Chí Minh trong hành động cách mạng. Ngay sau ngày 3 tháng 2 năm

1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng, cùng sự dẫn dắt của Hồ Chí Minh cách mạng

Việt Nam có được những thắng lợi bước đầu trong sự nghiệp đấu tranh giành

độc lập, tự do.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh, với mục tiêu được xác định rõ ràng, cụ

thể, được ứng biến với các phương pháp linh hoạt góp phần quan trọng trong

việc đưa ra những quyết định hành động của Đảng, của nhân dân ta. Cao trào

cách mạng năm 1930 - 1931, nếu không có sự lãnh đạo, hành động mau lẹ của

Đảng những thắng lợi bước đầu rất khó được bảo toàn. Phong trào dân tộc, dân

chủ những năm 1936 - 1939, nếu không xác định rõ thời điểm thực hiện các mục

tiêu, đưa ra mục tiêu để hành động thì không thể có được sự tập dượt các hình

thức đấu tranh cách mạng cho nhân dân, tập dượt khả năng lãnh đạo trực tiếp của

Đảng. Đặc biệt giai đoạn những năm 1939 - 1945, với sự ra đời của Mặt trận

Việt Minh, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, Cứu quốc quân, Ủy ban

Khu giải phóng, thực hành 10 chính sách của Việt Minh trong Khu giải phóng,...

thể hiện rõ giá trị, ý nghĩa đối với dân tộc của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Sau thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, triết lý hành động Hồ

Chí Minh qua thực tiễn được hoàn thiện, phát triển sâu sắc hơn. Thông qua

Page 140: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

136

những hành động, cứu vãn tình thế hiểm nghèo của số phận dân tộc, triết lý Hồ

Chí Minh không chỉ còn là một khoa học lý luận về hành động cách mạng mà

còn đạt tới đỉnh cao của nghệ thuật hành động cách mạng. Bằng những hành

động, sự chỉ đạo hành động mạnh mẽ, quyết liệt mà những khó khăn của buổi

đầu giành được chính quyền nhanh chóng được khắc phục. Từ việc thực hiện

quyết liệt, sáng tạo và triệt để các biện pháp cứu đói, cùng hành động của bản

thân Hồ Chí Minh cũng như yêu cầu hành động của cả dân tộc, nhân dân vượt

qua nạn đói. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm với những phương

pháp, hành động cụ thể nhân dân ta đã có sự chuẩn bị cho một cuộc chiến đấu

mới trường kỳ và gian khổ.

Giành được chính quyền trong điều kiện các lực lượng phản cách mạng

trong và ngoài nước còn rất mạnh, chúng đang toan tính tìm cách trở lại thôn

tính nước ta một lần nữa. Chỉ có một phương pháp hành động khoa học, dựa trên

cơ sở đánh giá đúng bản chất từng kẻ thù và không xa rời mục tiêu hành động

xác định, Hồ Chí Minh mới có thể chèo lái con thuyền cách mạng vượt qua

những khó khăn, thách thức. Không có những hành động kịp thời, những tính

toán hợp lý, sự linh hoạt của Hồ Chí Minh, nhân dân ta cùng một lúc không thể

chống đỡ được sức mạnh của 20 vạn quân Tưởng, không thể cản được sự quay

trở lại của thực dân Pháp, sự ngóc đầu hoạt động của phát xít Nhật và sự nổi dậy

của các tổ chức phản cách mạng trong nước. Chỉ có nắm vững mục tiêu, Hồ Chí

Minh mới có thể áp dụng phương pháp hành động thậm chí tưởng là cực đoan

khi ký Hòa ước với thực dân Pháp. Rõ ràng, “Là một nhà chính trị có tầm cỡ,

Người có khả năng phân biệt được cái gì có tính chất sống còn bắt buộc phải

chiến đấu và cái gì có thể đàm phán, dù là đau đớn; điều đó đã tạo thành năng

lực đứng vững trên đường lối chiến lược, đồng thời chuyển động giữa những cản

trở cực kỳ to lớn” [40, tr.56]. Có thể thấy, đồng thời với sự lớn mạnh của lực

lượng, sự chuẩn bị cho cuộc kháng chiến trường kỳ là sự thắng lợi của triết lý

hành động Hồ Chí Minh trên thực tế.

Những thành tựu mà đất nước ta, nhân dân ta giành được dưới sự lãnh đạo

của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định giá trị triết lý hành động Hồ Chí

Page 141: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

137

Minh. Vấn đề đặt ra là trong thời đại cách mạng mới, trong điều kiện cách mạng

mới, cần tiếp tục quán triệt, vận dụng tốt hơn triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Tiếp tục truyền cảm hứng hành động cho lớp lớp cán bộ, đảng viên, cho cả dân

tộc từ triết lý hành động Hồ Chí Minh, bằng triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Trên cơ sở triết lý hành động Hồ Chí Minh, mỗi chủ thể hành động xác lập cho

mình một triết lý hành động phù hợp. Đó là điều kiện tiên quyết để tiếp tục gặt

hái những thành tựu trong phát triển, giải phóng con người mà Hồ Chí Minh mở

ra trong thời đại phát triển mới của dân tộc.

Tóm lại, đối với dân tộc, giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ

thể hiện là lý luận hành động khoa học để giải phóng dân tộc, đòi lại độc lập,

đem lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân mà còn phát triển triết lý hành động của

dân tộc, có giá trị định hướng hành động cho mọi chủ thể trong quá trình đổi mới

và phát triển đất nước, đặc biệt đối với Đảng. Triết lý hành động Hồ Chí Minh

còn là cơ sở lý luận, khoa học cách mạng để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Cán bộ, đảng viên thông qua thực hiện, thực hành triết lý hành động Hồ Chí

Minh trong lao động, chiến đấu, học tập để rèn luyện và chứng tỏ những phẩm

chất, chuẩn mực về đạo đức, về lối sống của mình. Càng thực hiện triết lý hành

động, thực hành triết lý hành động Hồ Chí Minh trong thực tiễn bao nhiêu thì giá

trị, sức lan tỏa, mở rộng và tính sâu sắc của nó càng tăng thêm bấy nhiêu. Thông

qua đó khẳng định giá trị làm người, đạo đức làm người trong xã hội, không

ngừng góp phần vào quá trình bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, giữ vững độc lập dân

tộc, đổi mới và phát triển đất nước.

4.2. GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH

4.2.1. Phát triển sáng tạo triết lý hành động của chủ nghĩa Mác - Lênin

Triết lý hành động Hồ Chí Minh là một sản phẩm đặc biệt của quá trình lịch

sử, là lý luận khoa học về hành động cách mạng. C.Mác nhận xét: “... khoa học do

vận động lịch sử sản sinh ra và tham dự vào vận động lịch sử ấy một cách hoàn

toàn tự giác, không còn tính chất lý thuyết suông nữa, khoa học đã trở thành

khoa học cách mạng” [57, tr.205]. Triết lý hành động Hồ Chí Minh được hình

Page 142: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

138

thành sớm và được thực hiện thống nhất, xuyên suốt trong sự nghiệp cách mạng.

Nhưng không phải ngay từ đầu Hồ Chí Minh có cho mình một triết lý hành động

được hoàn thiện đầy đủ với các lớp ý nghĩa sâu sắc của nó. Qua quá trình bôn ba

học tập, quá trình đấu tranh cách mạng, đặc biệt trong lãnh đạo cách mạng Việt

Nam dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin triết lý hành động Hồ Chí Minh mới

được hoàn thiện đầy đủ và sâu sắc.

Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh được tiếp nhận phương

pháp duy vật biện chứng, được tiếp nhận nguyên tắc lý luận gắn liền với thực

tiễn, lĩnh hội cái tinh túy nhất là tinh thần duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác

- Lênin. Trên nền tảng, lăng kính của chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với những

hiểu biết về lịch sử và phong trào cách mạng, vốn tư tưởng văn hóa Đông - Tây

tích lũy được, Hồ Chí Minh lựa chọn những giá trị tinh túy nhất đi đến hình

thành, hoàn thiện triết lý hành động của mình.

Những quan điểm ban đầu, những triết lý cơ bản về mục tiêu hành động

Hồ Chí Minh có trong triết lý truyền thống của dân tộc. Những quan điểm đó là

cơ sở nền tảng thúc đẩy Hồ Chí Minh hành động, thúc đẩy Hồ Chí Minh đi ra thế

giới tìm đường cứu nước để rồi đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhưng phải đến

với chủ nghĩa Mác - Lênin thì những triết lý có trong truyền thống dân tộc mới

trở nên hoàn thiện, sâu sắc và cách mạng.

Quá trình hoạt động cách mạng và lãnh đạo phong trào cách mạng chính

là quá trình Hồ Chí Minh thực hành các chỉ dẫn lý luận của chủ nghĩa Mác -

Lênin ở Việt Nam. Là quá trình thử nghiệm, kiểm nghiệm, minh chứng và hoàn

thiện cho triết lý hành động Hồ Chí Minh. Những quan điểm cơ bản của nội

dung triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ là những nội dung được chắt lọc

từ triết lý của chủ nghĩa Mác - Lênin mà quan trọng hơn trên nền tảng tinh thần,

phương pháp Mác - Lênin, Hồ Chí Minh chọn lọc các giá trị từ thực tiễn, từ

truyền thống triết lý Việt Nam, truyền thống triết lý phương Đông.

V.I.Lênin viết: “... đã đến một thời kỳ lịch sử mà lý luận biến thành thực

tiễn, trở nên sinh động nhờ thực tiễn, được sửa chữa bằng thực tiễn, được kiểm

tra lại trong thực tiễn” [52, tr.243]. Hồ Chí Minh thực hành lý luận Mác - Lênin

Page 143: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

139

trong thực tiễn Việt Nam. Bằng thực tiễn Việt Nam kiểm nghiệm, minh chứng

và làm phong phú lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin. Đến lượt mình, cũng chính

thông qua phong trào cách mạng, thông qua thực tiễn sự vận dụng và sáng tạo lý

luận, lý luận cách mạng của Hồ Chí Minh cũng được chỉnh sửa cho hoàn chỉnh.

Không chỉ dừng lại ở việc nâng tầm triết lý hành động dân tộc lên tầm cao

mới với những mục tiêu, phương pháp hành động khoa học mà trên cơ sở kế

thừa nền tảng triết lý truyền thống dân tộc, triết lý truyền thống phương Đông,

Hồ Chí Minh còn làm cho triết lý hành động Mác - Lênin được hoàn thiện đầy

đủ hơn. Triết lý hành động Mác - Lênin có được sự tinh tế, mềm dẻo trong cách

ứng xử, hành xử của triết lý phương Đông. Cũng là hành động bạo lực cách

mạng, dùng bạo lực cách mạng để giành, giữ chính quyền nhưng ở Hồ Chí Minh

nó còn thể hiện phương cách Việt Nam. Cũng là giải quyết vấn đề dân tộc và

giai cấp, nhưng phương pháp của Hồ Chí Minh mềm dẻo và tinh tế. Bằng

phương pháp đó, Hồ Chí Minh loại trừ bớt các mâu thuẫn trong dân tộc và giai

cấp, không để lại hố sâu ngăn cách khó san lấp giữa các giai cấp, tầng lớp trong

xã hội sau khi giành lại được độc lập. Cũng là vấn đề thế, thời, lực trong đấu

tranh cách mạng nhưng phương pháp thực hiện của Hồ Chí Minh dường như

không chỉ chú trọng tạo lực mà còn sử dụng thế và thời như một yếu tố quyết

định cho thắng lợi cuối cùng. Người không chỉ dự báo về thế và thời mà còn

bằng mọi cách để lập thế, chờ thời rồi huy động toàn lực, cùng với toàn dân

giành lấy quyền của mình, của dân tộc mình. Ngược lại hẳn với cách của phương

Tây, cách của triết lý Mác - Lênin xem lực là yếu tố quyết định. Vì thế,

Chúng ta có thể khẳng định rằng, cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh

đạo của Hồ Chí Minh và lý luận của Người về chiến tranh nhân dân đã

góp phần làm phong phú học thuyết Mác - Lênin về phương pháp mà

các dân tộc phải làm theo khi tiến hành một cuộc cách mạng dân chủ...

Đó là cống hiến to lớn của Người vào cuộc đấu tranh giải phóng của

các dân tộc bị áp bức trên thế giới [40, tr.76-77].

Tóm lại, chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận quan trọng, quyết

định hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, không phải là sự

Page 144: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

140

vận dụng giáo điều, theo những quan điểm cứng nhắc mà là sự vận dụng sáng

tạo, đặc biệt sáng tạo khi nắm tinh thần và phương pháp. Nắm lấy giá trị cốt lõi

Mác - Lênin, Hồ Chí Minh có được phương pháp đánh giá và lựa chọn các giá

trị, cũng như bổ sung quan điểm để hình thành nên triết lý hành động. Thực hành

triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ là quá trình khảo nghiệm mà nó còn là

quá trình khẳng định những giá trị khoa học và cách mạng của lý luận Mác -

Lênin trong điều kiện thực tiễn Việt Nam, phát triển, bổ sung những điểm khuyết

thiếu ở thời mình Mác, Lênin không có được.

4.2.2. Khởi xướng và giương cao ngọn cờ giải phóng các dân tộc thuộc địa

Bối cảnh thế giới những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, vấn đề

hòa bình, độc lập dân tộc là nhu cầu, khát vọng của nhiều quốc gia, dân tộc

trước sự bành trướng của thế lực thực dân, đế quốc. Triết lý hành động Hồ Chí

Minh hình thành trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc của nhân

dân Việt Nam. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam không nằm ngoài cuộc

đấu tranh của nhân dân tiến bộ thế giới, cách mạng Việt Nam tham gia phong

trào cách mạng thế giới, góp phần làm cho dòng thác cách mạng giải phóng dân

tộc ở thuộc địa dâng cao.

Những thắng lợi của nhân dân Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng

sản Việt Nam, đảng do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã cổ vũ mạnh mẽ

phong trào đấu tranh của nhân dân bị áp bức, bóc lột, các dân tộc thuộc địa và phụ

thuộc trên khắp thế giới. Bằng những hành động cụ thể và thiết thực trong lãnh

đạo, chỉ đạo cách mạng, Hồ Chí Minh góp phần chặt đứt mắt xích quan trọng

trong hệ thống áp bức, xâm lược của thực dân, đế quốc. Những thắng lợi của cách

mạng Việt Nam không chỉ cổ vũ, khởi xướng, tạo cơ hội quyết định cho phong

trào đấu tranh của nhân dân Đông Dương giành thắng lợi mà nó còn tạo ra hiệu

ứng mạnh mẽ cho phong trào đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa ở Á, Phi,

Mỹ La Tinh. “Người là tượng trưng cho tinh thần của cuộc kháng chiến do những

người cộng sản đã tiến hành để chống lại chủ nghĩa thực dân cũng như chủ nghĩa

phát xít và quốc xã” [40, tr.34]. Là Người luận tội chủ nghĩa thực dân bằng Bản

án chế độ thực dân Pháp, cũng là người thực thi công lý khi “Chính Người, Bác

Page 145: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

141

Hồ, đã đóng hàng triệu mũi đinh lên chiếc quan tài của chủ nghĩa đế quốc Mỹ ở

trên đất nước Việt Nam” [40, tr.30-31]. Hồ Chí Minh “đã làm thay đổi thế giới và

đặc biệt đã làm thay đổi chính đất nước và dân tộc của Người” [40, tr.19].

Tấm gương hành động Hồ Chí Minh, phương thức hành động Hồ Chí

Minh, phương pháp đấu tranh cách mạng Hồ Chí Minh, con đường cách mạng

Hồ Chí Minh thực hiện góp phần soi sáng, lan tỏa trong phong trào đấu tranh vì

hòa bình, độc lập của nhân dân bị áp bức trên khắp thế giới. Mục tiêu triết lý

hành động Hồ Chí Minh thể hiện những quan điểm, tư tưởng cốt lõi về độc lập

dân tộc, quyền của mỗi dân tộc, cũng như cách thức để có được nền độc lập thực

sự, vững bền, để đất nước phát triển. Thực hiện mục tiêu đó bằng hành động cụ

thể, hiệu quả góp phần đấu tranh và xây dựng một thế giới hòa bình, dân chủ,

thịnh vượng. “Người… đã đi vào hàng ngũ của tất cả những chiến sĩ và những

lãnh tụ vĩ đại, những người đầy lòng yêu dân tộc mình đang làm phong phú thêm

lịch sử của loài người, những người mà tên tuổi đã là tượng trưng cho lý tưởng

thiêng liêng” [40, tr.35].

Lòng thương yêu con người khiến Hồ Chí Minh “không chỉ đấu tranh cho

một lá cờ, cho một sự giải phóng ở bề mặt bên ngoài, Người muốn tiến hành một

cuộc chiến đấu cho phẩm giá con người, cho sự giải phóng và phúc lợi toàn dân

và nhờ thế mà cuộc cách mạng Người phát động đã mang tầm cỡ thế giới” [40,

tr.112]. Không đấu tranh cho “một sự giải phóng bề mặt bên ngoài”, Hồ Chí

Minh muốn hướng đến “làm cho con người tự đứng lên giải phóng bằng chính

sự phát triển và hoàn thiện của mình” [58, tr.XXV]. Cả cuộc đời và những hành

động của Hồ Chí Minh là cách mạng. Cách mạng không chỉ với nghĩa là cuộc

đấu tranh giải phóng, cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức, bóc lột mà còn với ý

nghĩa là cuộc cải biến toàn diện về mọi mặt, là cách mạng về đạo đức, cách

mạng về tư tưởng, kinh tế, văn hóa, chính trị,… cuộc cách mạng “mang lại sự

thay đổi căn bản trong mọi ngóc ngách đời sống nhân dân” [40, tr.65], cách

mạng về con người, thân phận con người.

Với kết quả đạt được từ thực hiện triết lý hành động Hồ Chí Minh trong

cách mạng Việt Nam, những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam, thắng lợi

Page 146: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

142

không chỉ đánh vào mắt xích quan trọng, mở đầu cho quá trình đập tan ách áp

bức, bóc lột của thực dân, đế quốc mà nó còn là động lực thúc đẩy nhân dân ở

các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh giải phóng cho mình. “Bác

Hồ đã gieo những hạt giống cho cuộc đấu tranh cách mạng ở tất cả các nơi đang

áp bức, bóc lột. Người đã thành công trong việc gieo trồng những giá trị văn

minh nhất, nhân đạo nhất trong tâm trí mỗi người công dân Việt Nam” [40,

tr.108]. Đối với nhân dân thế giới, đặc biệt nhân dân ở các nước thuộc địa, phụ

thuộc, Hồ Chí Minh là con người vĩ đại. Những vấn đề cách mạng được Hồ Chí

Minh viết khi “ở trong tù, ở nước ngoài, ở trên chiến trường là tập thánh kinh

chính trị của nửa thế giới” [40, tr.64].

... Hồ Chí Minh: một cái tên đã đi vào truyền thuyết; một người anh

hùng chân chính của thời đại chúng ta,... một lãnh tụ được những

người lao động, các sinh viên, các tầng lớp nhân dân và các dân tộc ở

khắp mọi nơi trên thế giới giương cao hình ảnh, coi hình ảnh của

Người là tiêu biểu cho sự chiến thắng đế quốc, cho khả năng của các

dân tộc đánh thắng giặc Mỹ xâm lược [40, tr.122-123].

Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh với những thắng lợi trong

thực tiễn sự nghiệp cách mạng, không chỉ đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô

lệ lên địa vị người làm chủ, đưa nước Việt Nam từ mất tự do trở thành nước độc

lập, tự do mà còn là tác nhân khởi xướng, người đi đầu giương cao ngọn cờ giải

phóng các dân tộc thuộc địa, người mở rộng quyền của con người thành quyền của

các dân tộc. Trong những năm cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, vấn đề dân tộc

thuộc địa không còn, nhưng những hình thức mới, nguy cơ của việc phụ thuộc, lệ

thuộc vào các nước lớn, tham vọng bành trướng của các nước lớn vẫn còn. Trong

thực tế, triết lý về mục tiêu hành động Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị.

Không chỉ là kim chỉ nam hành động cho dân tộc Việt Nam, cho nhân dân Việt

Nam mà vẫn còn giá trị bài học trong giữ vững độc lập chủ quyền, trong đảm bảo

quyền độc lập và phát triển của bất cứ dân tộc nào trên thế giới. “Người đã thành

công trong việc gieo trồng những giá trị văn minh nhất, nhân đạo nhất” [40,

tr.106], những giá trị trường tồn với sự tồn tại và phát triển của con người.

Page 147: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

143

4.2.3. Lôi cuốn, thúc đẩy hành động cách mạng của những chiến sĩ vô

sản trên khắp thế giới

Triết lý hành động Hồ Chí Minh có sức lan tỏa mạnh mẽ bởi nó không chỉ

hình thành từ lòng thương dân, yêu Tổ quốc của Hồ Chí Minh, mà trong quá

trình bôn ba qua nhiều châu lục, Người chứng kiến sự cùng khổ của nhân dân,

người lao động trên khắp thế giới. Người học tập, rèn luyện không chỉ với những

đồng chí, đồng tâm, những chiến sĩ cộng sản quốc tế, những người yêu nước và

cách mạng trên khắp thế giới mà còn chính trong cuộc sống, cuộc chiến đấu

cùng với những người lao động nghèo khổ, những người bị áp bức bóc lột.

Người học tập và rèn luyện trong cuộc đấu tranh chống lại ách áp bức, nạn bóc

lột đến cùng cực ở khắp nơi trên thế giới. Người xây dựng triết lý phát triển xã

hội, triết lý hành động của mình chính trong lòng nhân dân lao động nhằm giải

phóng nhân dân lao động, đem đến tự do, hạnh phúc, sự phát triển cho mọi

người lao động.

Hồ Chí Minh cho thấy một khả năng đặc biệt trong việc lôi cuốn người

khác vào những hành động, cùng chung một mục đích hướng đến con người. Sự

hiểu biết về văn hóa, những giá trị triết lý cốt lõi về sống ở đời và làm người của

nhiều dân tộc trên thế giới, của các nền văn hóa, truyền thống triết lý khác nhau

giúp cho Hồ Chí Minh nắm bắt tọa độ cảm xúc, chiều sâu văn hóa của đối tượng

để có những hành động hợp lý, hiệu quả hướng đến xây dựng tình đoàn kết, hữu

nghị giữa các dân tộc trên thế giới. Thể hiện trong hành động của Người, nhất

quán và thuyết phục tinh thần không muốn dùng giải pháp bạo lực trong giải

quyết các vấn đề xung đột quốc tế.

Hồ Chí Minh là hiện thân của nhà cách mạng với một hình ảnh hoàn toàn

trái ngược trong sự tưởng tượng của các nhà ngoại giao, các nhà báo phương Tây

với một “hình ảnh đã được tiêu chuẩn hóa ở phương Tây về một nhà cách mạng

hung hăng, mị dân và giống như người lính” [40, tr.108]. Hồ Chí Minh nhận

thức rõ dù văn hóa Pháp hay văn hóa Việt Nam thì cũng chung nhau ở một điểm

là những gì mình không muốn thì cũng đừng làm cho người khác. Người không

ngừng hành động, thúc đẩy mối quan hệ cũng như sự hiểu biết lẫn nhau giữa các

Page 148: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

144

dân tộc, giữa những người tiến bộ và cách mạng khắp nơi trên thế giới. Người là

hiện thân của sự kết hợp nhuần nhuyễn các giá trị triết lý tiến bộ Đông - Tây, “dù

vóc dáng mảnh khảnh, Người tạo ra một sức mạnh to lớn vượt qua mọi trở ngại.

Người là hiện thân của những phẩm chất tốt đẹp nhất của một nhà cách mạng,

một người nhìn xa trông rộng và một nhà nhân văn vĩ đại” [40, tr.100], đó là sự

hiện thân của những giá trị tốt đẹp mà con người, loài người tiến bộ hướng tới.

Hồ Chí Minh là người tiêu biểu cho sự thống nhất hài hòa chủ nghĩa yêu

nước và chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Các nhà tư tưởng, các lãnh tụ trên thế giới

đã dành nhiều lời ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, nó không chỉ cho thấy những

gì Hồ Chí Minh đã làm được cho dân tộc, cho phong trào mà còn là một sự vị nể,

kính trọng, tôn vinh đặc biệt. Jules Archer người Mỹ cho rằng “Cụ Hồ Chí Minh

chắc chắn sẽ đi vào lịch sử với tư cách là một nhà yêu nước vĩ đại nhất, một

trong những con người kỳ diệu của thế kỷ” [40, tr.11]. Còn David Halberstam

khẳng định: “Ông là một người yêu nước nhất của dân tộc trong thế kỷ này.

Nhưng ảnh hưởng của Ông còn to lớn hơn nhiều. Ở châu Âu thắng lợi của Ông

dạy cho người Pháp biết rằng thời đại thực dân đã kết thúc… và ở Hoa Kỳ, thậm

chí ảnh hưởng của Ông còn lớn hơn nữa” [40, tr.12].

Khẳng định: “Cụ vừa là người quốc gia nhất, đồng thời là người quốc tế nhất

trong số các lãnh tụ cộng sản” [40, tr.13]. Hay nhận xét “Đối với Hồ Chí Minh thì

cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân Việt Nam được thống nhất trên hai nhiệm

vụ dân tộc và quốc tế nhằm bảo vệ hòa bình và làm suy yếu hệ thống của chủ nghĩa

tư bản” [40, tr.17]. Đối với Hồ Chí Minh, “nếu chiến lược thực dân là việc phân

chia thuộc địa giữa các nước tư bản, thì chiến lược chống chủ nghĩa thực dân và giải

phóng dân tộc sẽ là sự đoàn kết tất cả các dân tộc thuộc địa theo con đường CNXH

và chủ nghĩa quốc tế” [40, tr.46]. Và “Chủ nghĩa thực dân đã bị quét sạch khỏi mặt

đất. Người là một tấm gương của lòng nhân hậu, tính giản dị và khiêm tốn. Đồng

thời Người còn là tấm gương của tính kiên quyết và táo bạo cách mạng” [40,

tr.46],… chỉ là một trong số rất nhiều những nhận xét của các lãnh tụ, nhà nghiên

cứu trên thế giới dành để nói về Hồ Chí Minh, ca ngợi Hồ Chí Minh.

Page 149: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

145

Bản chất triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện mục tiêu không chỉ

dừng lại ở độc lập, ở tự do, hạnh phúc mà chiều sâu hơn của nó là thực hiện dân

chủ, thực hiện hợp tác và phát triển giữa các quốc gia trên thế giới vì sự tiến bộ

và phát triển chung của loài người. “Những tư tưởng của Hồ Chí Minh, chiến

thắng của Việt Nam là cống hiến quí báu vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và

tấm gương cho tất cả các dân tộc bị áp bức” [40, tr.44]. Hồ Chí Minh trong hành

động luôn hướng tới thiết lập, xây dựng các mối quan hệ hữu hảo, cùng nhau

phát triển giữa các quốc gia. Người “vẫn tìm mọi cách duy trì mối quan hệ hữu

nghị với nhân dân Pháp. Người muốn có những quan hệ tốt với nước Pháp trong

tương lai, và phải nói rằng, Người có một tầm nhìn xa trông rộng về tương lai rất

đặc biệt” [40, tr.40]. Trong hành động xây dựng, thiết lập quan hệ luôn thể hiện

thái độ trân trọng và am hiểu về văn hóa, phong tục tập quán của đối tác, luôn để

lại những tình cảm vô cùng tốt đẹp trong lòng nhân dân các quốc gia mà Người

đã đến thăm, thiết lập quan hệ ngoại giao.

Những giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh, giá trị từ những hành động

nêu gương của Hồ Chí Minh được nhiều người nước ngoài quan tâm và đánh giá

cao, coi đó là một trong những giá trị văn hóa, đạo đức mà con người phải học

tập, phải làm theo. Nhà văn Úc, Allan Asbolt viết:

Chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát triển những phẩm

chất đã thể hiện trong suốt cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài của

Người: kiên nhẫn và vững vàng theo đuổi mục đích và bình tĩnh

trong những lúc khó khăn; linh hoạt về tư duy và chính trị khi xây

dựng khối đại đoàn kết XHCN; khiêm tốn và gần gũi với nhân dân,

nhất là đối với công nhân và nông dân; có sự đồng cảm để đạt đến sự

hòa giải dân tộc; có tinh thần quốc tế mạnh mẽ, sự sáng tạo và nhạy

bén về lịch sử, đặc biệt là cách thức mà những biến đổi lịch sử đã

diễn ra: mà phẩm chất Hồ Chí Minh có một cách dồi dào - đó là sự

lạc quan của ý chí [40, tr.110].

Như vậy, triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ là hiện thân của tính

cách, tư tưởng con người Việt Nam, của Hồ Chí Minh mà còn là sự kết tinh, sự phát

Page 150: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

146

triển các giá trị chủ nghĩa Mác - Lênin và các giá trị văn hóa nhân loại tiến bộ khác.

Hành động, chiến đấu vì phẩm giá con người, vì quyền và lợi ích của con người, Hồ

Chí Minh không chỉ đem đến cho dân tộc mà còn đem đến những giá trị bất diệt

cho cuộc đấu tranh của loài người tiến bộ. Thực hiện, thực hành triết lý hành động

Hồ Chí Minh, Việt Nam độc lập, tự do, hạnh phúc, ngày càng đổi mới và phát triển,

nhân dân thế giới biết đến dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Và thế giới

biết đến Hồ Chí Minh, tôn vinh Hồ Chí Minh người anh hùng giải phóng dân tộc,

danh nhân văn hóa Việt Nam, người khơi lên ngọn lửa đấu tranh, giải phóng cho

các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Ở phương diện cá nhân, Người không chỉ là

lãnh tụ vĩ đại, người cha, người bác, người anh của nhân dân Việt Nam mà đối với

nhân dân thế giới Người là người bạn, người đồng chí tin cậy, người chiến sĩ cộng

sản trung kiên và mẫu mực, một tấm gương để học tập.

Tiểu kết Chương 4

Đánh giá, định vị giá trị của một quan điểm đã khó thì đối với một triết lý

hành động được hình thành bởi cả hệ thống các quan điểm, luận điểm cốt lõi

được cô đúc dưới dạng các mệnh đề lại càng khó khăn, phức tạp hơn rất nhiều

lần. Đối với những đánh giá, nhận định về giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh

như trên cũng chỉ mới dừng lại ở mức độ nhất định, là những khái quát mang

tính cảm nhận là chủ yếu. Trong thực tiễn vận dụng, thực hành triết lý hành động

Hồ Chí Minh còn có thể có những khía cạnh giá trị mà từ những góc quan sát

khác mới có thể đánh giá được. Đặc biệt, triết lý hành động Hồ Chí Minh thể

hiện giá trị cận biên ngày càng gia tăng chính trong quá trình thực hiện, thực

hành triết lý.

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, triết lý hành động Hồ Chí Minh dù quan

sát ở góc độ nào thì nó cũng mang giá trị đối với dân tộc, cho dân tộc trên cả hai

mặt thực tiễn và lý luận. Đồng thời còn có giá trị thời đại, mang tầm vóc quốc tế

khi không chỉ phát triển làm phong phú triết lý hành động Mác - Lênin, mà còn

thúc đẩy một phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc rộng lớn trên thế giới, thúc

đẩy sự hiểu biết, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia trên thế giới.

Page 151: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

147

Đối với dân tộc, triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ đưa ra một hệ

thống các luận điểm cốt lõi cho hành động hiện thực hóa các mục tiêu cách

mạng, hay nói khác là để thực hiện triết lý phát triển xã hội Việt Nam mà nó còn

thúc đẩy, tạo ra động lực hành động mạnh mẽ đối với đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Những nội dung của triết lý còn trở thành những tiêu chuẩn để xác định, để đánh

giá cán bộ, đảng viên trong quá trình phấn đấu, rèn luyện, trong thực hiện công

việc, trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân. Trên cơ sở mục tiêu, định hướng

hành động của Đảng mà mỗi cán bộ, đảng viên thực hiện, hành động đảm bảo

nền độc lập dân tộc, vì sự đổi mới, phát triển không ngừng của đất nước.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ mang giá trị đối với sự nghiệp

giải phóng, đổi mới, phát triển của đất nước, như ngọn hải đăng cho cuộc chiến

đấu ngày nay mà nó còn thể hiện những giá trị của đạo đức và văn hóa. Giá trị

của một tấm gương đạo đức thể hiện trong hành động, một tấm gương nhân văn

chủ nghĩa. Hồ Chí Minh là tấm gương lớn về tình đoàn kết, về mong muốn hòa

bình, đấu tranh vì hòa bình, sáng tạo và nhạy bén về văn hóa,... Những giá trị,

nội dung kết tinh trong triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện là giá trị văn hóa

khi nó thúc đẩy ham muốn hành động để thực hiện những giá trị của tự do, phát

triển một cách khoa học và cách mạng.

Giá trị dân tộc và thời đại của triết lý hành động Hồ Chí Minh cần tiếp

tục có sự vận dụng, đặc biệt phát huy các giá trị đó trong công cuộc đổi mới,

hội nhập và phát triển đất nước hiện nay. Những giá trị này cần được tiếp tục

nghiên cứu, mở rộng và đánh giá chính xác hơn để phát huy giá trị, khẳng định

giá trị di sản Hồ Chí Minh. Đồng thời khẳng định sự đúng đắn con đường phát

triển mà Hồ Chí Minh định hướng cho Đảng và dân tộc trên cả hai phương diện

lý luận và thực tiễn.

Page 152: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

148

KẾT LUẬN

Xuất phát điểm hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh là từ tấm lòng

yêu nước thương dân. Vì yêu nước, thương dân Hồ Chí Minh đi ra thế giới tìm

đường cứu nước, cứu dân. Chính trong quá trình tìm đường cứu nước Người học

tập, nghiên cứu, lĩnh hội các giá trị văn hóa, tư tưởng tiến bộ của nhân loại.

Trong đó, đặc biệt quyết định hình thành triết lý hành động Hồ Chí Minh là chủ

nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ giúp Hồ Chí Minh lựa

chọn con đường đúng đắn để cứu nước và giải phóng dân tộc mà còn chỉ ra

phương pháp để thực hiện mục tiêu đó.

Kết hợp triết lý hành động có trong chủ nghĩa Mác - Lênin với triết lý

hành động truyền thống của dân tộc, phương Đông và phương Tây, Hồ Chí Minh

hình thành cho mình một triết lý hành động khoa học và sâu sắc. Triết lý này thể

hiện rõ bản chất khoa học, nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, thể hiện

được cả tính mềm dẻo, linh hoạt của triết lý hành động phương Đông. Triết lý

hành động Hồ Chí Minh thể hiện bản chất khoa học, cách mạng và nhân văn, gắn

với thực tiễn một cách sâu sắc. Bản chất đó có được không chỉ do kế thừa một

cách khoa học các giá trị triết lý dân tộc, nhân loại từ góc nhìn chủ nghĩa Mác -

Lênin mà còn phát triển sáng tạo, nâng tầm các triết lý ấy phù hợp với điều kiện,

hoàn cảnh mới mang đặc điểm, dấu ấn cá nhân Hồ Chí Minh.

Nội dung triết lý hành động Hồ Chí Minh thể hiện rõ mục tiêu của mọi

hành động, động lực cho hành động, phương pháp để hành động. Mục tiêu hành

động Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là giải

phóng và phát triển, củng cố, giữ vững nền độc lập, phát triển và giải phóng triệt

để con người. Mục tiêu của mọi hành động đều vì Dân, xem độc lập của dân tộc,

tự do, hạnh phúc của nhân dân là cao nhất, duy nhất. Một mục tiêu đi tìm độc

lập, tự do, hạnh phúc và phát triển của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Hướng tới Dân, vì Nhân Dân thể hiện rõ trong các quan điểm về phát huy các

động lực để phát triển, hình thành triết lý về động lực hành động Hồ Chí Minh.

Thực hành triết lý về động lực hành động Hồ Chí Minh trước hết tạo nên sức

Page 153: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

149

mạnh vật chất và tinh thần quyết định cho những thắng lợi trong cách mạng giải

phóng dân tộc Việt Nam. Tiếp tục phát huy, bồi dưỡng các động lực cách mạng

theo triết lý hành động Hồ Chí Minh còn là cơ sở để phát triển đất nước bền

vững, thực hiện triệt để giải phóng con người.

Mục tiêu, động lực, phương pháp hành động là một thể thống nhất, làm

nên triết lý hành động Hồ Chí Minh. Thực hành, thực hiện triết lý hành động Hồ

Chí Minh góp phần đem lại những thắng lợi có ý nghĩa quyết định đối với vận

mệnh và sự phát triển của dân tộc Việt Nam, với những thắng lợi của cách mạng

Việt Nam dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh. Triết lý hành động Hồ Chí Minh

góp phần nâng tầm triết lý hành động của dân tộc lên tầm cao mới. Sự vận dụng

các triết lý chủ nghĩa Mác - Lênin của Hồ Chí Minh góp phần hoàn chỉnh và làm

phong phú triết lý hành động của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thực hành, thực hiện triết lý hành động Hồ Chí Minh trong cuộc sống,

trong công việc, trong xử lý các mối quan hệ là một yêu cầu đặt ra đối với Đảng

và Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội và cũng là cách thức để rèn luyện đội

ngũ cán bộ, đảng viên. Thông qua việc quán triệt mục tiêu, phương pháp, cách

thức phát huy các động lực mà có căn cứ để đánh giá tư cách, phẩm chất, đạo đức

của mỗi cán bộ, đảng viên. Nội dung cơ bản của triết lý hành động Hồ Chí Minh

trở thành một hệ tiêu chí góp phần để rèn luyện và đánh giá cán bộ, đảng viên.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam minh chứng cho tính đúng đắn, khoa học

lý luận hành động Hồ Chí Minh, triết lý hành động Hồ Chí Minh. Sự nghiệp

cách mạng Hồ Chí Minh khởi đầu vẫn đang tiếp tục, nhân dân Việt Nam đang

sống trong thời đại Hồ Chí Minh. Vận dụng, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh,

triết lý hành động Hồ Chí Minh là biện pháp, là con đường rút ngắn và hiệu quả

để hiện thực hóa những mục tiêu hành động, mục tiêu phát triển xã hội Hồ Chí

Minh chỉ ra.

Nội dung và giá trị triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ có ý nghĩa

đối với Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế,... mà

nó có ý nghĩa đối với từng cá nhân với tư cách là chủ thể hành động. Triết lý

hành động Hồ Chí Minh, ngày càng trở nên sâu sắc và được hiểu sâu sắc trong

Page 154: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

150

chính quá trình thực hành, thực hiện triết lý. Triết lý hành động Hồ Chí Minh

thông qua quá trình vận dụng, thực hành không còn là một triết lý về lý luận

cách mạng, về phát triển xã hội mà nó còn có ý nghĩa văn hóa, trở thành một giá

trị văn hóa, đạo đức mới.

Có thể thấy rằng, triết lý hành động Hồ Chí Minh soi đường, định hướng

cho quốc dân đi, lãnh đạo quốc dân để thực hiện độc lập, tự do, hạnh phúc. Với

các mục tiêu, động lực, phát huy động lực có phương pháp, triết lý định hướng

hành động cho con người trong quá trình hiện thực hóa các giá trị mục tiêu. Con

người hướng tới văn hóa một cách có văn hóa, có định hướng khoa học, đó cũng

là mục tiêu sâu xa của triết lý hành động Hồ Chí Minh.

Triết lý hành động Hồ Chí Minh không chỉ là kết quả từ việc giải quyết

một vấn đề cụ thể, mà còn là kết quả của quá trình hoạt động lâu dài, giải quyết

nhiều vấn đề trong thực tiễn cách mạng được đúc rút lại. Triết lý hành động Hồ

Chí Minh đem lại những thắng lợi cho cách mạng, cho dân tộc Việt Nam trên

mọi lĩnh vực. Triết lý hành động Hồ Chí Minh cần được thực hiện, quán triệt

trên từng lĩnh vực thực tiễn của đời sống để đạt tới, hoàn thành những mục tiêu

Hồ Chí Minh nêu ra, đã thực hiện và đạt được những thắng lợi, thành công bước

đầu trong công cuộc gải phóng dân tộc, giải phóng con người, phát triển kinh tế,

văn hóa và xã hội ở Việt Nam.

Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất Việt

Nam mang tầm vóc nhân loại chắc hẳn phần lớn bởi giá trị những hành động và

giá trị văn hóa thể hiện trong triết lý hành động của Người.

Page 155: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Yên Ngọc Trung (2014), "Quan điểm Hồ Chí Minh về lời nói đi đôi với

việc làm và sự vận dụng để rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên hiện

nay", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (208), tr.3-6.

2. Yên Ngọc Trung (2014), "Triết lý hành động Hồ Chí Minh trong vận

động thành lập Đảng", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (211), tr.3-5.

3. Yên Ngọc Trung, Hà Thị Mỹ Hạnh (2016), "Thực hiện quan điểm "lời nói

đi đôi với việc làm" của Hồ Chí Minh trong rèn luyện cán bộ, đảng

viên hiện nay", Tạp chí Lịch sử Đảng, (303), tr.32-35.

4. Yên Ngọc Trung (2016), "Triết lý về Dân trong mục tiêu hành động Hồ Chí

Minh", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (247), tr.11-13.

5. Yên Ngọc Trung (2016), "Bản lĩnh tiếp biến văn hóa Hồ Chí Minh", Tạp

chí Giáo dục Lý luận, (250), tr.3-5.

6. Yên Ngọc Trung (2016), "Ảnh hưởng của triết lý Phật giáo trong văn hóa

chính trị Việt Nam", in trong Văn hóa và ngôn ngữ các dân tộc trong

sự giao thoa giữa các quốc gia Đông Nam Á, Kỷ yếu Hội thảo khoa

học quốc tế, Nxb Đại học Thái Nguyên, tr.100-101.

7. Yên Ngọc Trung (2017), "Tầm quan trọng của lý luận và giáo dục lý luận theo

quan điểm Hồ Chí Minh", Tạp chí Giáo dục Lý luận, (255), tr.13-17.

Page 156: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

152

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phạm Ngọc Anh, Bùi Đình Phong (2009), Hồ Chí Minh, văn hoá và phát

triển, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

2. Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (2009), Triết lý phát triển Hồ Chí Minh, giá trị

lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3. Hoàng Chí Bảo (2002), Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

4. Phạm Văn Bính (2007), Phương pháp dân chủ Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005), Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

6. Doãn Chính (2010), Lịch sử tư tưởng triết học Ấn Độ cổ đại, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

7. Doãn Chính (2015), Lịch sử triết học phương Đông, Nxb Chính trị quốc gia,

Hà Nội.

8. Thành Duy (2002), Tư Tưởng Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây dựng con

người Việt Nam phát triển toàn diện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Thành Duy (2008), Về chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

10. Nguyễn Đức Đạt (2007), Biện chứng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

11. Kim Định (1960), "Những dị biệt giữa hai nền triết lý Đông Tây", tại trang

http://www.vietnamvanhien.net, [truy cập ngày 20/8/2016].

12. Lê Quý Đôn (2007), Vân đài loại ngữ, tập 3, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

13. Phạm Văn Đồng (1970), Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh hoa khí phách của dân

tộc, lương tâm của thời đại, Nxb Sự thật, Hà Nội.

14. Phạm Văn Đồng (1990), Hồ Chí Minh - Một con người, một dân tộc, một

thời đại, một sự nghiệp, Nxb Sự thật, Hà Nội.

Page 157: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

153

15. Võ Nguyên Giáp (1969), Từ nhân dân mà ra, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.

16. Võ Nguyên Giáp (chủ biên) (2008), Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường

cách mạng Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

17. Trần Văn Giàu (1996), “Triết lý Hồ Chí Minh” trong sách Giáo sư, Nhà

giáo Nhân dân Trần Văn Giàu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

18. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX

đến Cách mạng Tháng Tám, tập I, Hệ ý thức phong kiến và sự thất bại

của nó trước các nhiệm vụ lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

19. Trần Văn Giàu (1997), Sự hình thành về cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

20. Trần Văn Giàu (2010), Vĩ đại một con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Phạm Minh Hạc (2013), Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

22. Nguyễn Hùng Hậu (2002), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam,

tập 1, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.

23. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại

học Sư phạm, Hà Nội.

24. Nguyễn Hùng Hậu (2007), “Suy nghĩ về triết học Việt Nam và triết học Hồ

Chí Minh”, Tạp chí Lý luận chính trị, (5), tr.8.

25. Nguyễn Hùng Hậu (2011), Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư

tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

26. Nguyễn Hùng Hậu (2015), Suy ngẫm về triết Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.

27. Hoàng Ngọc Hiến (2011), Luận bàn minh triết và minh triết Việt, Nxb Tri

thức, Hà Nội.

28. Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2010), “Di sản Hồ

Chí Minh trong thời đại ngày nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế kỷ

niệm 120 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1980 - 19-5-2010),

Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

Page 158: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

154

29. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2015), Tư tưởng Hồ Chí Minh

giá trị nhân văn và phát triển, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội.

30. Tô Duy Hợp (2007), Khinh - Trọng - Một quan điểm lý thuyết trong nghiên

cứu triết học và xã hội học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

31. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 1, Triết học cổ đại,

triết học trung cổ, triết học phục hưng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 2, Triết học phương

Tây cận hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 3, Triết học phương

Tây hiện đại, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

34. Quang Hùng, Minh Nguyệt (2007), Từ điển tiếng Việt, Nxb Từ điển bách

khoa, Hà Nội.

35. Vũ Ngọc Khánh (1999), Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa thông tin,

Hà Nội.

36. Vũ Khiêu, Thành Duy (2000), Đạo đức và pháp luật trong triết lý phát triển

ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

37. Vũ Khiêu (2013), Hồ Chí Minh, ngôi sao sáng mãi trên bầu trời Việt Nam,

Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

38. Không rõ tác giả (1975), Từ điển triết học, Bản dịch ra tiếng Việt có sửa

chữa và bổ sung của Nxb Tiến bộ và Nxb Sự thật, Hà Nội.

39. Không rõ tác giả (1987), Lịch sử phép biện chứng mác-xít giai đoạn Lênin,

Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

40. Không rõ tác giả (1993), Chương trình KX.02 “Tư tưởng Hồ Chí Minh”, Đề

tài KX.02.09: Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay

(Qua sách báo nước ngoài), Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I, Viện

Thông tin khoa học xã hội - Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Xưởng in

Đại học Sư phạm Hà Nội I, Hà Nội.

41. Không rõ tác giả (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển

bách khoa, Hà Nội.

Page 159: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

155

42. Không rõ tác giả (2009), Mãi mãi học tập và làm theo tấm gương đạo đức

Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

43. Không rõ tác giả (2010), Hồ Chí Minh, tấm gương sáng trung với nước, hiếu

với dân, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

44. Đặng Xuân Kỳ (2004), Phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh, Nxb Lý

luận chính trị, Hà Nội.

45. Đặng Xuân Kỳ (2005), Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển văn hóa và con

người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

46. Vũ Kỳ (2005), Thư ký Bác Hồ kể chuyện, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

47. Phùng Hữu Lan (2013), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 1, Thời đại Tử

học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Phùng Hữu Lan (2013), Lịch sử triết học Trung Quốc, tập 2, Thời đại Kinh

học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Lân (2000), Từ điển từ và ngữ Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

50. Đinh Xuân Lâm, Bùi Đình Phong (2008), Văn hóa và triết lý phát triển

trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

51. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 25, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

52. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 26, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

53. V.I.Lênin (1976), Toàn tập, tập 35, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

54. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ Mát-xcơ-va.

55. Phan Ngọc Liên (1999), Hồ Chí Minh từ nhận thức lịch sử đến hành động

cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

56. Phan Ngọc Liên (2010), Chiến sĩ quốc tế Hồ Chí Minh hoạt động thực tiễn

và lý luận cách mạng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

57. C.Mác, Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

58. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

59. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

60. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

Page 160: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

156

61. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

62. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

63. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

64. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

65. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

66. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

67. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

68. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

69. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

70. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 13, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

71. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 14, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

72. Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, tập 15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

73. Hồ Chí Minh (1990), Nhà nước và pháp luật Việt Nam. Nxb Pháp lý, Hà Nội.

74. Phạm Xuân Nam (chủ biên) (2002), Triết lý phát triển ở Việt Nam mấy vấn

đề cốt yếu, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

75. Lê Hữu Nghĩa (2000), Tư tưởng triết học Hồ Chí Minh, Nxb Lao động, Hà Nội.

76. Trần Nhâm (2011), Hồ Chí Minh, nhà tư tưởng thiên tài, Nxb Chính trị quốc

gia, Hà Nội.

77. Hoàng Phê (chủ biên) (1988), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

78. Bùi Đình Phong (2011), Hồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí Minh, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

79. Bùi Đình Phong (2011), Ý nghĩa lịch sử và giá trị thời đại của sự kiện Bác

Hồ ra đi tìm đường cứu nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

80. Bùi Đình Phong (2015), Hồ Chí Minh sáng tạo, đổi mới, Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

81. Phùng Hữu Phú, Thích Minh Trí (1997), Hồ Chí Minh với Phật giáo Việt

Nam (1945-1969), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

82. Nguyễn Trọng Phúc (2011), Hồ Chí Minh, từ hoạt động thực tiễn đến tư duy

lý luận, Nxb Chính trị - Hành chính, Hà Nội.

Page 161: TRIẾT LÝ HÀNH ĐỘNG HỒ CHÍ MINH - hcma.vn _ Ngoc Trung _Bao ve cap HV_..pdf · được các giá trị triết lý của dân tộc, của phương Đông, phương Tây

157

83. Hồ Sỹ Quý (1998), "Mấy suy nghĩ về triết học và triết lý", Tạp chí Triết học,

(3), tr.56-59.

84. Song Thành (2005), Hồ Chí Minh - Nhà tư tưởng lỗi lạc, Nxb Lý luận chính

trị, Hà Nội.

85. Đoàn Duy Thành (2011), Một số cảm nhận về tư tưởng - hành động của Hồ

Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.

86. Mạch Quang Thắng (2009), Hồ Chí Minh, nhà cách mạng sáng tạo, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2010), Nhân cách Hồ Chí Minh, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

88. Mạch Quang Thắng (2014), Hồ Chí Minh con người của sự sống, Nxb Tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh, Thanh phố Hồ Chí Minh.

89. Lê Mạnh Thát (2001), Lịch Sử Phật Giáo Việt Nam, tập 2, Nxb Thành phố

Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

90. Lê Văn Tích (chủ biên) (2006), Đưa tư tưởng Hồ Chí Minh vào cuộc sống

mấy vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

91. Nguyễn Đài Trang (2010), Hồ Chí Minh, tâm và tài của một người yêu

nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

92. Nguyễn Đài Trang (2013), Hồ Chí Minh, nhân văn và phát triển, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

93. Hoàng Trinh (2000), Bản sắc dân tộc và hiện đại hóa trong văn hóa, Nxb

Chính trị quốc gia, Hà Nội.

94. Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn quốc gia, viện nghiên cứu tôn giáo

(1996), Hồ Chí Minh về vấn đề tôn giáo tín ngưỡng, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

95. Hồ Kiếm Việt (2002), Góp phần tìm hiểu đặc sắc tư duy triết học Hồ Chí

Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

96. Nguyễn Như Ý (chủ biên) (1999), Đại từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa -

Thông tin.