Upload
others
View
1
Download
0
Embed Size (px)
Citation preview
1
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI –
NHÂN TỐ QUAN TRỌNG TRONG LIÊN KẾT
PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CỦA NÔNG DÂN
2
HỢP TÁC XÃ NÔNG NGHIỆP TRÊN THẾ GIỚI - NHÂN TỐ QUAN TRỌNG
TRONG LIÊN KẾT PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT CỦA NÔNG DÂN
Nguyễn Mạnh Dũng
1. Hợp tác xã - mô hình tất yếu trong sản xuất nông nghiệp Về cơ bản, hợp tác xã (HTX) là tổ chức kinh tế mang tính xã hội cao, hoạt động
không hoàn toàn giống như một doanh nghiệp mà dựa trên các giá trị và nguyên tắc
tương trợ, tự chịu trách nhiệm, dân chủ, bình đẳng, công bằng và đoàn kết, tạo nên sức
mạnh trong việc giúp các hộ gia đình, cá thể, tiểu chủ hoạt động kinh doanh có hiệu quả
hơn, tăng khả năng cạnh tranh mạnh hơn trên thị trường. Hơn thế, ở nhiều nước, hợp tác
xã còn được coi là một tổ chức để nhà nước có thể thực hiện được các chương trình
quan trọng về phát triển sản xuất và an sinh xã hội như: xoá đói giảm nghèo, ứng dụng
công nghệ mới, công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn, khôi phục và phát huy ngành
nghề truyền thống, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tham gia bảo đảm an ninh chính trị và
xã hội...
Hợp tác xã đầu tiên trên thế giới được hình thành vào năm 1761 tại Vương quốc
Anh, sau đó phát triển ra ở hầu hết các nước trên thế giới, không phân biệt ở nước có
nền kinh tế phát triển hay đang phát triển. Do vị trí và vai trò quan trọng trong việc phát
triển kinh tế và ổn định xã hội, nên số lượng người tham gia vào các hợp tác xã ngày
càng đông, tổ chức của hợp tác xã ngày được hoàn thiện và mở rộng phạm vi hoạt động
trong từng nước và trên toàn thế giới. Hiện nay, rất nhiều nước đã và đang có hệ thống
tổ chức hợp tác xã từ cơ sở đến toàn quốc. Một số châu lục cũng đã hình thành tổ chức
hợp tác xã. Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA-International Cooperative Alliance) là tổ
chức cao nhất của phong trào hợp tác xã toàn thế giới. Tổ chức này được thành lập từ
năm 1895 tại Luân Đôn (Anh). Từ năm 1946, ICA đã trở thành đối tác của Liên hiệp
quốc về các vấn đề kinh tế - xã hội thông qua Ủy ban kinh tế - xã hội (COPAC) của
Liên Hiệp Quốc. Theo Liên minh hợp tác xã Quốc tế (ICA), trên thế giới có khoảng 2,4
triệu hợp tác xã tại gần 180 quốc gia và vùng lãnh thổ, thu hút hơn 250 triệu lao động
và tạo ra doanh số tương đương 2.200 tỷ USD. Trong đó châu Âu có gần 290.000 hợp
tác xã (HTX) với 140 triệu thành viên và khoảng 4,9 triệu người làm thuê, Mỹ có gần
50.000 HTX với khoảng 150 triệu thành viên; Đức, Pháp, Đan Mạch, Hà Lan, Phần lan,
Ấn Độ, Thái Lan,… là những nước có phong trào hợp tác xã phát triển rất sớm và mạnh
mẽ. Hợp tác xã nông nghiệp hiện nay đã và đang là một bộ phận của phong trào hợp tác
xã nói riêng của các nước này, cũng như trên phạm vi toàn thế giới nói chung.
Hộp 1:
Một số mốc lịch sử của Liên minh hợp tác xã quốc tế (ICA)
1895 - Thành lập ngày 19/8/1895 tại Luân Đôn thủ đô nước Anh.
1896 - Ra tuyên bố chung khẳng định trung lập về chính trị.
1922 - ICA Thành lập một ủy ban "Ngân hàng Hợp tác quốc tế". Ngày nay nó được
biết đến như là Hiệp hội Ngân hàng Hợp tác quốc tế (ICBA), một tổ chức thuộc ICA
tập hợp các thành viên là các ngân hàng hợp tác và các tổ chức tài chính khác.
1922 - ICA thành lập Ủy ban Bảo hiểm quốc tế. Đổi tên vào năm 1971 là Liên đoàn
bảo hiểm Hợp tác quốc tế, ngày nay nó được gọi là Liên đoàn bảo hiểm Hợp tác và
tương hỗ quốc tế (ICMIF).
1923 - Ngày Hợp tác xã quốc tế đầu tiên được tổ chức.
1937 - ICA đưa ra các nguyên tắc cơ bản của hợp tác xã.
3
1946 - ICA là một trong ba tổ chức phi chính phủ đầu tiên trở thành thành viên của
Liên Hợp Quốc.
1951 - ICA thành lập Ủy ban nông nghiệp liên kết các hợp tác xã nông nghiệp. Ngày
nay được gọi là Ủy Ban Hợp tác xã nông nghiệp quốc tế (ICAO).
1952 - ICA thành lập Ủy ban Hợp tác xã nhà ở. Ngày nay là Ủy ban Hợp tác xã nhà ở
quốc tế.
1966 - ICA Lần thứ hai đưa ra các nguyên tắc hợp tác xã.
1966 - ICA thành lập một tiểu ban của Ủy ban Nông nghiệp của ICA để tập trung vào
hợp tác xã thủy sản. Ủy ban Hợp tác xã thủy sản trở thành một cơ quan độc lập vào
năm 1976 và bây giờ được gọi là Tổ chức Hợp tác xã nghề cá quốc tế (ICFO).
1968 - ICA thành lập Văn phòng khu vực Châu Á và Thái Bình Dương đặt tại New
Delhi (Ấn Độ).
1976 - Hiệp hội Quốc tế về Hợp tác xã du lịch (TICA) được thành lập bởi một theo
Nghị quyết Đại hội đồng ICA lần 26 tại Paris (Pháp) có trụ sở tại Copenhagen. Tháng
sáu năm 1985 nó đã trở thành một tổ chức của ICA và ngày nay được biết đến bởi
TICA từ viết tắt của tổ chức.
1982 - ICA di chuyển trụ sở chính từ Luân Đôn, Vương quốc Anh đến Geneva, Thụy
Sĩ.
1990 - ICA thiết lập Văn phòng khu vực của các nước châu Mỹ ở San Jose, Costa
Rica.
1992 - ICA bắt đầu một quá trình phân cấp và thiết lập bốn khu vực: Châu Phi, Châu
Mỹ, Châu Á và Thái Bình Dương và châu Âu.
1995 - ICA thông qua sửa đổi nguyên tắc hợp tác xã và các giá trị hợp tác xã và bổ
sung thêm một nguyên tắc thứ bảy, "Quan tâm đến cộng đồng".
1996 - ICA thành lập Tổ chức Hợp tác xã Y tế Quốc tế (IHCO)..
2001 - Liên Hiệp Quốc thông qua hướng dẫn nhằm tạo ra một môi trường hỗ trợ cho
sự phát triển của Hợp tác xã.
2002 - ICA thông qua ILO khuyến nghị về Hợp tác xã (R.193).
2003 - ICA thông qua điều lệ mới và đơn đặt Ủy ban thường vụ Đại hội đồng của
mình tại Oslo (Na Uy).
2009 - ICA bầu Chủ tịch nữ đầu tiên của mình, bà Dame Pauline Green.
2012 - Liên Hiệp Quốc lấy năm 2012 là năm Quốc tế Hợp tác xã
(Nguồn: http://www.saigonco-op.com.vn/tintucsukien/lich-su-phat-trien-cua-lien-
minh-hop-tac-xa-quoc-te_1406.html).
Sản xuất nông nghiệp là một trong những hoạt động sản xuất sơ khai nhất của
con người và còn tiếp tục cùng con người trong suốt chặng đường tiến hóa. Đây cũng
là một hoạt động quan trọng tạo ra cơ sở vật chất phục vụ cho cuộc sống của loài
người, cho dù nhân loại có đạt được những tiến bộ bao nhiêu chăng nữa. Đặc trưng cơ
bản nhất của hoạt động sản xuất nông nghiệp chính là tác động của con người lên đất
đai để tạo ra của cải vật chất. Chính vì vậy, người nông dân, những người sản xuất nông
nghiệp thường yếu thế và dễ bị tổn thương nhất. Xã hội càng tiến bước mạnh mẽ vào
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mức độ cạnh tranh trong tiêu thụ hàng hóa sản
xuất ra càng gay gắt thì người sản xuất nông nghiệp lại càng yếm thế và dễ bị tổn
thương hơn. Để chống lại tình cảnh đó, họ cần được liên kết lại trong những tổ chức
khác nhau nhằm tạo nên sức mạnh cần thiết. Đã có rất nhiều hình thức liên kết của nông
dân, nhưng lịch sử đã chứng minh chỉ có hợp tác xã nông nghiệp là hình thức liên kết
khả thi nhất, bền vững nhất đối với hoạt động sản xuất của họ.
4
Cùng với sự phát triển của hợp tác xã ở những lĩnh vực khác, hợp tác xã nông
nghiệp cũng phát triển từ rất sớm ở một số nước trên thế giới. Ngay từ năm 1843 ở
Nhật bản đã hình thành một số hợp tác xã nhằm phục vụ các hoạt động tín dụng của
những người nông dân, khi đó chưa có tổ chức hình mẫu về hợp tác xã nông nghiệp.
Vào năm 1900 Luật hợp tác xã Nhật Bản đầu tiên ra đời nhằm quy định cho 5 loại
hình HTX hoạt động là HTX tín dụng, tiếp thị, mua bán, sản xuất và tiêu dùng. Đến
năm 1947 Luật hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản cũng chính thức được ban
hành. Tại châu Âu, Đức và Phần Lan là những cái nôi của phong trào hợp tác xã,
trong đó có việc hình thành và phát triển hợp tác xã nông nghiệp. Các hợp tác xã ở
Đức hiện nay vẫn hoạt động theo luật Hợp tác xã được ban hành từ năm 1890. Trong
số gần 290.000 hợp tác xã ở châu Âu hiện nay có khoảng 30.000 hợp tác xã nông
nghiệp với doanh số khoảng 210 tỷ Euro. Các hợp tác xã nông nghiệp lớn nhất hoạt
động trong các ngành chế biến bơ sữa, thịt và thương mại nông nghiệp. Đặc biệt, các
hợp tác xã nông nghiệp đều có thị phần lớn trong lĩnh vực ngân hàng. Ở Hoa Kỳ, gần
4.000 hợp tác xã nông nghiệp đã đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sản xuất nông
nghiệp ở nước này với khoảng gần 30% công việc thu hoạch, chế biến và thương mại
nông nghiệp. Tổng doanh thu của các hợp tác xã ở Hoa Kỳ vào khoảng 150 tỷ USD.
Điểm đáng quan tâm là các hợp tác xã chuyên ngành hoạt động rất mạnh và rất thành
công với những tên tuổi như: Blue Diamond (hợp tác xã của những người trồng hạnh),
Sunmaid (hợp tác xã chế biến nho khô), hay Ocean Spray (hợp tác xã của những người
trồng việt quất),… Trong vòng 20 năm gần đây, đã xuất hiện các hợp tác xã nông
nghiệp thế hệ mới dựa trên việc đánh giá lại các nguyên tắc hợp tác xã. Sự ra đời của
thế hệ hợp tác xã mới này xuất phát từ nhu cầu tạo thêm nguồn sinh lực mới cho các
hợp tác xã nông nghiệp để nâng cao sức cạnh tranh.
Hợp tác xã nông nghiệp đầu tiên ở Thái Lan, Wat Chan Cooperative
Unlimited Liability, được thành lập vào ngày 26 tháng 02 năm 1916 ở huyện Muang,
Phitsanulok dưới hình thức hợp tác xã tín dụng nhỏ. Kể từ đó, số lượng gia tăng ổn
định cho đến lúc ra đời Luật HTX vào năm 1967. Sau đó rất nhiều HTX nhỏ hợp
nhất để cho ra đời HTX cấp huyện với sự mở rộng về qui mô và phạm vi hoạt động.
Để tạo điều kiện cho hợp tác xã phát triển và khuyến khích xuất khẩu, Chính phủ Thái
Lan đã thành lập Bộ Nông nghiệp và Hợp tác xã. Bộ này có hai vụ chuyên trách về hợp
tác xã. Đó là vụ Phát triển hợp tác xã - có chức năng giúp các hợp tác xã thực hiện các
hoạt động kinh doanh, nhằm đạt được các mục tiêu đã định và vụ Kiểm toán hợp tác xã
- thực hiện chức năng kiểm toán hợp tác xã và hướng dẫn nghiệp vụ kế toán trong công
tác quản lý tài chính, kế toán của các hợp tác xã. Chính phủ Thái Lan cũng ban hành
nhiều chính sách, như chính sách giá, tín dụng với mục tiêu bảo đảm chi phí đầu vào
hợp lý để có giá bán ổn định cho người tiêu dùng, qua đó ổn định giá nông sản tại thị
trường trong nước thấp hơn giá thị trường thế giới, khuyến khích xuất khẩu. Năm 2001,
Thái Lan có 5.611 hợp tác xã các loại với hơn 8 triệu xã viên, trong đó có 3.370 hợp
tác xã nông nghiệp với hơn 4 triệu xã viên, 100 hợp tác xã đất đai với hơn 147 nghìn
xã viên, 76 hợp tác xã thủy sản với hơn 13 nghìn xã viên, 1.296 hợp tác xã tín dụng
với hơn 2 triệu xã viên và 400 hợp tác xã dịch vụ với hơn 146 nghìn xã viên. Hợp tác
xã nông nghiệp ở Thái Lan được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu của xã viên trong các
lĩnh vực vay vốn, gửi tiết kiệm và tiền ký quỹ, tiêu thụ sản phẩm, tiếp thụ, hỗ trợ phát
triển nông nghiệp và các dịch vụ khác. Thông qua sự trợ giúp của chính phủ, ngân hàng
nông nghiệp và hợp tác xã nông nghiệp, xã viên được vay vốn với lãi suất thấp, thời hạn
ưu đãi thích hợp cho việc kinh doanh hoặc sản xuất của họ. Hiện nay, số HTX tham gia
hoạt động kinh doanh này chiếm khoảng 39%.
5
Từ khi thành lập vào năm 1961, Liên đoàn quốc gia hợp tác xã nông nghiệp Hàn
Quốc (NACF) đã tạo ra mạng lưới hợp tác xã từ trung ương đến cơ sở. Cho đến nay, hệ
thống hợp tác xã ở Hàn Quốc đã phát triển nhanh, đáp ứng được nhu cầu ngày càng
tăng lên của nông dân về hỗ trợ dịch vụ, làm chủ toàn bộ thị trường và kinh tế nông
thôn, từng bước tiến vào các đô thị, tiến tới hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Hiện tại,
Liên đoàn quốc gia hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc, với gần 1.400 hợp tác xã thành
viên, hoạt động rất đa dạng, bao gồm từ tiếp thị sản phẩm, chế biến nông sản, cung cấp
vật tư và hàng tiêu dùng, tín dụng và ngân hàng, bảo hiểm, kho tàng, vận tải, khuyến
nông, xuất bản và các dịch vụ hỗ trợ cho 5 triệu nông dân và cộng đồng nông thôn trong
cả nước. Liên đoàn quốc gia hợp tác xã nông nghiệp hiện đang nắm giữ 40% thị phẩn
nông sản trong nước và là một ngân hàng có số tiền gửi lớn nhất Hàn Quốc. Nhằm mở
rộng thị trường nông sản, NACF quản lý một mạng lưới dịch vụ vận chuyển nông sản
từ cửa nông trại đến người tiêu dùng, giúp người nông dân sản xuất theo yêu cầu của thị
trường, giảm tối thiểu chi phí lưu thông, hao hụt, thất thoát. Liên đoàn quốc gia hợp tác
xã nông nghiệp Hàn Quốc cũng điều hành một hệ thống doanh nghiệp kinh doanh nông
sản lớn nhất và cạnh tranh mạnh nhất ở đất nước này. Liên đoàn quốc gia hợp tác xã
nông nghiệp là nơi chịu trách nhiệm cung cấp các vật tư nông nghiệp bảo đảm cho nông
dân có đủ vật tư thiết yếu, đúng thời gian, giá rẻ, chất lượng. Trong khâu chế biến, Liên
đoàn quốc gia hợp tác xã nông nghiệp Hàn Quốc sở hữu một hệ thống hạ tầng và thiết
bị hiện đại để chế biến và qua đó làm tăng thêm giá trị cho hàng nông sản. Trong hoạt
động tín dụng ngân hàng, NACF điều hành cả hệ thống ngân hàng nông nghiệp và các
quỹ tín dụng của hợp tác xã, cung cấp nhiều loại dịch vụ: giao dịch ngân hàng, dịch vụ
thẻ tín dụng, tín dụng cho vay, đầu tư, bảo hiểm, giao dịch quốc tế… Hệ thống bảo
hiểm của NACF chiếm lĩnh toàn bộ thị trường nông thôn.
Ở Malaixia, các tổ chức hợp tác xã được thành lập từ những năm đầu của thế kỷ
XX. Tổ chức hợp tác xã Malaixia (ANGKASA) là tổ chức cấp cao của các hợp tác xã
Malaixia, có nhiệm vụ hỗ trợ các HTX thành viên về phương thức điều hành và quản lý
các hoạt động của hợp tác xã qua việc tư vấn, giáo dục hoặc tổ chức những dịch vụ cần
thiết. Các nguyên tắc của hợp tác xã được ANGKASA nêu cụ thể như sau: quản lý dân
chủ; thành viên tự nguyện; thu nhập bình đẳng; phân phối lợi nhuận kinh doanh theo
mức độ sử dụng các dịch vụ của các xã viên và mức đóng góp cổ phần của xã viên;
hoàn trả vốn theo mức đầu tư; xúc tiến công tác đào tạo phổ cập kiến thức quản lý và
khoa học kỹ thuật nông nghiệp cho các xã viên. Hiện nay, ANGKASA có 4.049 hợp
tác xã các loại với 4,33 triệu xã viên, trong đó: lĩnh vực tín dụng và ngân hàng có 442
hợp tác xã với 1,32 triệu xã viên, lĩnh vực nông nghiệp có 205 hợp tác xã với 0,19
triệu xã viên, hợp tác xã xây dựng nhà ở là 103 với 0,07 triệu xã viên, hợp tác xã công
nghiệp là 51 với 0,01 triệu xã viên, lĩnh vực tiêu dùng có 2.359 hợp tác xã với 2 triệu
xã viên và lĩnh vực dịch vụ có 362 hợp tác xã với 0,14 triệu xã viên, v.v… Sự phát
triển vững chắc của các khu vực kinh tế hợp tác xã đã thúc đẩy nền kinh tế Malaixia
có bước phát triển mới. Năm 1922, Pháp lệnh đầu tiên về hợp tác xã của Nhà nước
Malaixia ra đời. Ngay năm sau (1923), Luật hợp tác xã cũng được Chính phủ Malaixia
ban hành, tạo khung pháp lý để các hợp tác xã hoạt động, xây dựng kế hoạch phát triển
và đào tạo cán bộ quản lý, củng cố quyền của xã viên cũng như công tác đào tạo xã
viên. Luật này cũng quy định về luật kiểm toán nội bộ và xây dựng báo cáo tổng hợp
của ban chủ nhiệm hợp tác xã trong đại hội xã viên thường kỳ hằng năm. Chính phủ
Malaixia đã thành lập Cục phát triển hợp tác xã với một số hoạt động chính, như quản
lý và giám sát các hoạt động của hợp tác xã, giúp đỡ tài chính và phát triển kết cấu hạ
tầng; xây dựng kế hoạch phát triển hợp tác xã, đào tạo cán bộ quản lý,…
6
Trải qua một thời gian dài hình thành và phát triển, phong trào hợp tác xã đã và
đang trở thành một phong trào mạnh mẽ trên toàn thế giới. Trong đó, hợp tác xã nông
nghiệp là một bộ phận quan trọng của quá trình phát triển này. Thực tế phát triển đã chỉ
cho thấy hợp tác xã nông nghiệp là một tổ chức liên kết nông dân trong sản xuất, chế
biến và tiêu thụ sản phẩm. Loại hình liên kết này được hình thành từ rất sớm, được phát
triển ở cả những nước phát triển, có nền kinh tế giàu mạnh, thị trường tiêu thụ rộng lớn
lẫn ở các nước đang phát triển, đang từng bước gia nhập vào thị trường thế giới. Không
những chỉ làm tốt vai trò liên kết nông dân mà hợp tác xã còn là nơi để nhà nước đầu tư
chính sách và những nguồn lực cụ thể giúp cho người nông dân thực hiện sản xuất theo
định hướng của mình, qua đó làm ngày một tốt hơn các chính sách an sinh xã hội và
phát triển nông thôn một cách bền vững. Thực tế cũng cho thấy các nước trong khu vực
Đông Nam Á như Thái Lan, Malaixia,… đã chú trọng phát triển loại hình hợp tác xã
nông nghiệp từ rất sớm và vẫn đang dành nhiều nguồn lực để phát triển loại hình tổ
chức liên kết của nông dân này.
2. Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp điển hình trên thế giới
2.1. HTX nông nghiệp ở CHLB Đức
Cộng hòa liên bang (CHLB) Đức nằm ở trung tâm của châu Âu, có biên giới
chung với 9 nước láng giềng và là cầu nối giữa các nước Tây Âu với Trung Âu và Đông
Âu. Đất nước này có tổng diện tích 357.000 km2, bằng khoảng 1,1 lần diện tích
Việt Nam. Chiều dài lớn nhất từ Bắc xuống Nam là 870 km, chiều rộng lớn nhất từ
Đông sang Tây là 640 km. Dân số CHLB Đức gần tương đương với Việt Nam, với 82
triệu dân, đứng thứ hai về dân số ở châu Âu sau Cộng hòa liên bang Nga. Khoảng 18
triệu ha đất, tương đương với 50% diện tích lãnh thổ của Đức, được sử dụng cho mục
đích nông nghiệp. Một nửa còn lại là đất đô thị, khu công nghiệp và đất rừng. Kinh tế
nông nghiệp của đất nước này theo truyền thống vẫn phần lớn thuộc về cá nhân nông
dân, kinh tế hộ và chủ trang trại nhỏ với số lượng khoảng hơn 400.000 đơn vị sản xuất
nông nghiệp. Không như ở Mỹ hay các nước Tây Âu khác chủ trang trại thường có diện
tích canh tác rất lớn, tại Đức có tới trên 90% số hộ nông dân hay chủ trang trại nhỏ chỉ
có từ 1 đến dưới 50 ha đất nông nghiệp. Bên cạnh các mục tiêu cung cấp lương thực và
thực phẩm thì ngành nông nghiệp của Đức hiện nay, cũng như nhiều quốc gia khác đều
có thêm các nhiệm vụ, chức năng mới, ngoài nông nghiệp, như cung cấp các sản phẩm
nguyên vật liệu cho công nghiệp, công tác bảo tồn chăm sóc môi trường, cảnh quan
nông nghiệp, phát triển và cung cấp năng lượng mới từ mặt trời và sức gió,... Hiện nay
có tới hơn 30% diện tích canh tác nông nghiệp ở Đức được khai thác, sử dụng theo các
phương pháp thân thiện với môi trường. Trong đó, các phương pháp như canh tác sinh
thái, sử dụng phân hữu cơ, giảm thiểu phân hoá học và thuốc trừ sâu độc hại, áp dụng
các biện pháp bảo vệ cảnh quan, xây dựng các đồng cỏ, bãi chăn thả súc vật gần gũi với
thiên nhiên,... được đặc biệt quan tâm. Do đó, hợp tác xã nông nghiệp nói riêng và lĩnh
vực nông nghiệp nói chung luôn nhận được sự quan tâm với những chính sách cụ thể.
Nước Đức được coi là một trong những chiếc nôi đầu tiên của mô hình kinh tế
hợp tác xã ở châu Âu. Từ những năm 40 của thế kỷ 19, Friedrich Wilhem và Schlulze-
Delitz, đã có ý tưởng về mô hình kinh tế hợp tác xã. Mô hình này ngay sau đó được
thành lập và phổ biến ở một số địa phương. Hiện nay, cả nước Đức có 3.188 hợp tác xã
(chiếm 60% tổng số hợp tác xã của cả nước), thu hút khoảng 2,2 triệu thành viên. Ngoài
dịch vụ cung cấp cho thành viên ra, các hợp tác xã nông nghiệp tạo ra khoảng 150.000
việc làm trực tiếp. Tổng doanh thu của tất cả các hợp tác xã nông nghiệp và 26 liên hiệp
hợp tác xã nông nghiệp năm 2007 là hơn 38,3 tỷ Euro. Các hợp tác xã nông nghiệp của
CHLB Đức hoạt động đa dạng ở tất cả các lĩnh vực kinh doanh, dịch vụ khác nhau
7
trong ngành nông nghiệp cũng như ở các ngành nghề khác như dịch vụ quản lý chợ,
dịch vụ vệ sinh, dịch vụ vật liệu xây dựng, dịch vụ sấy khô, đóng gói sản phẩm, dịch vụ
than, dầu đốt,... Trong số các hợp tác xã nông nghiệp hiện nay vẫn còn có 214 hợp tác
xã đang thực hiện đồng thời hoạt động tiết kiệm - tín dụng nội bộ theo giấy phép của cơ
quan chức năng ngành ngân hàng. Tỷ lệ về số lượng hợp tác xã trong các lĩnh vực nông
nghiệp ở Đức như sau: Lĩnh vực dịch vụ nông nghiệp tổng hợp 29,02%, lĩnh vực mua
bán nông nghiệp 13,3%, lĩnh vực sữa và sản phẩm sữa 9,44%, lĩnh vực trồng và bảo
quản nho 6,96%, lĩnh vực cung cấp nước sạch 4,33%, lĩnh vực chăn nuôi và chế biến
sản phẩm thịt 3,07%, lĩnh vực chế biến rau, quả 2,26%, lĩnh vực trồng cỏ và chế biến
thức ăn gia súc 2,13%, lĩnh vực cung cấp điện 1,63%, lĩnh vực dịch vụ máy nông
nghiệp 1,51%, lĩnh vực thủy hải sản 1,13%, lĩnh vực hoa, cây cảnh 0,94%, lĩnh vực
bánh mỳ, bánh ngọt 0,72%, lĩnh vực dịch vụ nhà kho, nhà đông lạnh 0,53%, lĩnh vực
chế biến rượu nho 0,31%, và các lĩnh vực khác là 23,7%. Các hợp tác xã nông nghiệp
của Đức hiện đang nắm thị phần cao đối với rất nhiều sản phẩm nông nghiệp quan
trọng, chẳng hạn như 70% thị phần sản phẩm thịt chế biến, hơn 60% thị phần của các
sản phẩm sữa, hơn 30% thị phần rượu nho,… Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ cấu
kinh tế của Cộng hòa liên bang Đức đã có những thay đổi mạnh. Các ngành công
nghiệp và dịch vụ đã thay thế và áp đảo kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên,
kinh tế hợp tác xã của CHLB vẫn được coi là một bộ phận quan trọng của thành phần
kinh tế dân doanh và thực tế vẫn là một hệ thống kinh tế hợp tác xã vững mạnh, đặc biệt
tại khu vực nông nghiệp và nông thôn, đóng góp quan trọng vào kinh tế nông nghiệp
nói riêng và kinh tế quốc dân nói chung của CHLB Đức với tổng sản phẩm quốc nội
(GDP) năm 2007 của Đức đạt khoảng 2.300 tỷ Euro (tương đương 3.500 tỷ USD, gấp
hơn 50 lần GDP của Việt Nam năm 2007).
Về nguyên tắc các hợp tác xã nông nghiệp ở Đức được đối xử hoàn toàn bình
đẳng về mọi quyền lợi cũng như mọi nghĩa vụ theo luật định với các loại hình doanh
nghiệp khác trong lĩnh vực nông nghiệp. Các chính sách hỗ trợ, khuyến khích cho nông
nghiệp đều được áp dụng chung cho tất cả đối tượng tham gia lĩnh vực này, trong đó có
hợp tác xã và xã viên của nó. Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn được nhà nước chú
trọng đầu tư. Trước kia tất cả các chủ thể kinh doanh nông nghiệp, cá nhân, hộ gia đình,
doanh nghiệp nông thôn hay hợp tác xã nông nghiệp đều được nhà nước Đức hỗ trợ khi
họ bị ảnh hưởng hoặc thiệt thòi vì các điều kiện hạ tầng khó khăn, không đảm bảo canh
tranh. Hiện nay, các hỗ trợ trực tiếp đó đối với kinh tế nông nghiệp không còn phù hợp
với chính sách chung của Uỷ ban châu Âu nên bị bãi bỏ. Do vậy, hiện nay nước này sử
dụng các chính sách hỗ trợ gián tiếp như thông qua các chương trình bảo vệ môi trường
nông nghiệp, ưu đãi về thuế khi đầu tư vào thiết bị sử dụng năng lượng mặt trời, sức
gió,…. Nhà nước đặc biệt chú trọng đến việc đào tạo cho người nông dân, giúp họ nâng
cao ý thức bảo vệ môi trường và hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu tới hệ sinh thái. Do đa số
người nông dân tham gia và là thành viên của một hợp tác xã nông nghiệp nào đó nên
rất nhiều chương trình đào tạo hay hỗ trợ gián tiếp cho người nông dân đều được chủ
động thực hiện thông qua tổ chức hợp tác xã hoặc do hợp tác xã kết hợp, hợp tác với
các cơ quan, tổ chức khác.
Hợp tác xã nông nghiệp của Cộng hòa liên bang Đức không thay thế kinh tế hộ,
kinh tế trang trại hay kinh tế tư nhân của người nông dân mà chủ yếu thực hiện việc
cung cấp các dịch vụ mang tính hỗ trợ cho các thành viên của mình. Đa phần các dịch
vụ này là các dịch vụ mà tự thân những người nông dân, các hộ gia đình, trang trại
không thể thực hiện được hoặc phải thực hiện với chí phí cao hơn dịch vụ của hợp tác
xã, hiệu quả thấp hơn so với sử dụng dịch vụ của hợp tác xã. Các dịch vụ của hợp tác xã
8
đối với xã viên, thành viên là các hỗ trợ mang tính kinh tế, đem lại lợi ích kinh tế trực
tiếp, cũng như lâu dài cho xã viên. Đây chính là nguyên nhân cơ bản để các xã viên tự
nguyện tham gia hợp tác xã, gắn bó và có trách nhiệm với hợp tác xã và cũng chính là
nguyên nhân quan trọng để hợp tác xã được thành lập, được duy trì để tồn tại và phát
triển. Hợp tác xã luôn coi xã viên và các thành viên là những khách hàng quan trọng
nhất của mình, vì vậy bất cứ nhu cầu nào của thành viên thì hợp tác xã đều có thể thiết
kế sản phẩm nhằm đáp ứng phục vụ dựa trên nguyên tắc kinh doanh “Lợi thế nhờ qui
mô, mua bán sỉ tốt hơn mua bán lẻ”.
Trước hết, theo truyền thống, các hợp tác xã nông nghiệp của Đức cung cấp các
dịch vụ đầu vào như cung cấp dịch vụ thuỷ nông, điện, cung cấp nguyên vật liệu sản
xuất nông nghiệp như hạt giống, cây giống, con giống, phân bón, thuốc trừ sâu, thức ăn
gia súc... Bên cạnh đó là các dịch phục khác như dịch vụ làm đất, cung cấp máy nông
nghiệp, dụng cụ lao động, vật tư chuồng trại, xăng dầu, chất đốt,.... Cũng thuộc nhóm
dịch vụ đầu vào mà các hợp tác xã nông nghiệp cung cấp cho xã viên của mình còn có
dịch vụ tư vấn, hỗ trợ chuyển giao kỹ thuật, công nghệ mới (cây, con giống mới, kỹ
thuật chăm bón, nuôi dưỡng, sử dụng máy móc thiết bị hiện đại,...), dịch vụ nhà kho,
dịch vụ bảo quản đông lạnh, hỗ trợ cung cấp các dịch vụ tài chính (vốn vay, bảo
hiểm),...
Thứ hai là các dịch vụ hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm. Trong nền kinh tế thị trường,
canh tranh hàng hoá ngày càng gay gắt. Các sản phẩm nông nghiệp của nông dân cũng
không là ngoại lệ. Cũng như những người sản xuất khác, những người nông dân, chủ
trang trại rất cần đến các dịch vụ hỗ trợ đầu ra vì tiêu thụ sản phẩm chính là khó khăn
lớn nhất, thách thức lớn nhất của người nông dân trong nền kinh tế thị trường. Các hợp
tác xã nông nghiệp của Đức đã đặc biệt chú ý đến vấn đề này. Các dịch vụ đầu ra chính
của hợp tác xã là hỗ trợ về gia công, chế biến và tiêu thụ các sản phẩm của thành viên
với giá tốt nhất, có lợi nhất cho thành viên. Nhiều hợp tác xã nông nghiệp đã xây dựng
được các xưởng sản xuất, nhà máy hiện đại để chế biến sản phẩm của nông dân thành
các thành phẩm có giá trị thương mại cao. Để có thể hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, các hợp
tác xã nông nghiệp của Đức còn rất chú trọng đến phát triển các sản phẩm thành phẩm
mới, theo dõi và cung cấp, tư vấn cho thành viên về các thông tin thị trường, giúp cho
các sản phẩm của thành viên luôn đựơc đổi mới, định hướng theo nhu cầu của thị
trường. Ngoài ra, các hợp tác xã nông nghiệp của Đức còn đặc biệt chú ý đến chất
lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu mạnh cũng như quảng bá thương hiệu vì đó
cũng là lợi ích của thành viên.
Thứ ba là các hợp tác xã nông nghiệp ở CHLB Đức đã rất chú trọng định hướng,
tư vấn và hỗ trợ thành viên của mình trong việc trồng trọt, chăn nuôi, sản xuất, chế biến
theo đúng các tiêu chuẩn, qui định cần thiết. Bởi lẽ theo xu thế chung của thị trường,
các loại nông sản sinh thái, các sản phẩm lương thực, thực phẩm “sạch” ngày càng được
ưa chuộng và có giá trị thương mại cao. Do đó các sản phẩm thịt “sạch”, sữa “sạch”,
rau quả “sạch”,… mang thương hiệu hợp tác xã đang là những sản phẩm rất có lợi thế
trên thị trường tiêu dùng ở Đức, giúp người nông dân tiêu thụ sản phầm làm ra tốt hơn,
hiệu quả hơn, mặc dù cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt hơn.
Thu nhập chủ yếu của hợp tác xã là từ thu phí dịch vụ đầu ra hoặc đầu vào khi
cung cấp dịch vụ cho thành viên. Nếu chênh lệch thu chi lớn thì các hợp tác xã nông
nghiệp có thể hoàn trả lại một phần phí đã tạm thu trước từ các thành viên. Do vậy các
thành viên có thể được hưởng lợi khá nhiều từ các dịch vụ của hợp tác xã, đồng thời thu
nhập chịu thuế thật sự của hợp tác xã cũng không quá cao. Đây là điểm khác nhau cơ
9
bản giữa hoạt động của mô hình hợp tác xã và mô hình doanh nghiệp ở đất nước rất
phát triển với mức thuế suất thu nhập doanh nghiệp thường ở mức rất cao (45%).
Đa số các hợp tác xã nông nghiệp ở Đức có số lượng thành viên tương đối lớn,
trung bình khoảng 150 đến 400 thành viên mỗi hợp tác xã. Ví dụ hợp tác xã chăn nuôi,
chế biến thịt trung bình có từ 70 đến 150 thành viên; hợp tác xã chế biến sữa có từ 350
đến 400 thành viên; hợp tác xã mua bán nông nghiệp có từ 250 đến 500 thành viên; hợp
tác xã trồng nho có từ 200 đến 300 thành viên,.... Nhờ số lượng thành viên lớn, một mặt
các hợp tác xã nông nghiệp luôn có sẵn các khách hàng truyền thống và chính yếu cho
mình, mặt khác mô hình này có thể huy động được vốn điều lệ cao từ số đông thành
viên. Ở các hợp tác xã nông nghiệp ở Đức, không có những thành viên góp vốn lớn, có
thể chi phối, gây sức ép về mặt vốn đối với hợp tác xã. Phần lớn các hợp tác xã qui định
tỉ lệ góp vốn tối thiểu (thường từ khoảng 100 –500 Euro) và tối đa (thường được gấp 5-
10 mức tối thiểu). Như vậy mỗi thành viên hợp tác xã thường chỉ góp 0,1% -0,5% vốn
điều lệ, cao nhất cũng chỉ khoảng 1%-3%). Để có được số vốn cần thiết cho hoạt động,
các hợp tác xã có thể dễ dàng vay vốn từ các ngân hàng thương mại. Khi vay vốn từ các
ngân hàng này, họ không nhất thiết phải có đủ tài sản thế chấp mà chỉ cần có dự án vay
vốn khả thi và hợp tác xã có uy tín, hoạt động quản trị, điều hành minh bạch, hiệu quả.
Theo qui định của Luật hợp tác xã Đức, hàng năm các hợp tác xã đều được kiểm toán
định kỳ do Hiệp hội hợp tác xã thực hiện. Đây là một trong những căn cứ chính để ngân
hàng thương mại cho các hợp tác xã vay vốn thực hiện các hoạt động của mình. Các
thành viên hợp tác xã do góp vốn ít nên không quá quan tâm đến việc được chia cổ tức
nhiều hay ít mà họ quan tâm chủ yếu đến các dịch vụ mà hợp tác xã cung cấp để nâng
cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đời sống của mình. Với chính sách thành viên và
chính sách góp vốn như vậy, các hợp tác xã nông nghiệp không bị áp lực chạy theo lợi
nhuận tối đa để chia cổ tức càng cao càng tốt. Do đó các hợp tác xã có điều kiện thực
hiện chức năng hỗ trợ, cung cấp dịch vụ tốt nhất, có lợi nhất cho thành viên của
mình. Chính vì vậy, số lượng thành viên các hợp tác xã ở Đức hiện nay đã lên tới 20
triệu người, bằng khoảng một phần tư dân số nước này.
2.2. HTX nông nghiệp ở Ấn Độ
Nằm ở khu vực Tây Nam Á, Ấn Độ có diện tích tự nhiên gần 33 triệu km2, trong
đó, diện tích đất nông nghiệp là 141,23 triệu ha với dân số trên 1 tỷ người, có truyền
thống văn hóa, lịch sử lâu đời và thế mạnh về phát triển nông nghiệp. Lục địa này có
những đồng bằng rộng lớn mà không một quốc gia nào trên thế giới có được. Chỉ riêng
đồng bằng Ấn - Hằng, diện tích khoảng 775.000 km2 (gấp 2,3 lần diện tích Việt Nam)
với điều kiện tự nhiên thuận lợi đã tạo nên vùng kinh tế trù phú. Đây là nơi canh tác các
loại cây lương thực, thực phẩm chủ yếu và nuôi sống cả dân tộc Ấn Độ từ ngàn đời nay.
Hệ thống sông ngòi của Ấn Độ cũng khá phong phú, với lưu lượng nước rất lớn, đủ
nước phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, dân sinh và phát triển thuỷ điện.
Ở Ấn Độ, tổ chức hợp tác xã được ra đời từ lâu và chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế của nước này, trong đó, Liên minh hợp tác xã Quốc gia Ấn Độ (NCUI) là
tổ chức cao nhất, đại diện cho toàn bộ hợp tác xã ở Ấn Độ. NCUI có 212 thành viên,
gồm 17 liên đoàn hợp tác xã chuyên ngành cấp quốc gia, 171 liên đoàn hợp tác xã
thuộc các bang và 24 liên hiệp hợp tác xã đa chức năng cấp quốc gia. Mục tiêu chính
của NCUI là hỗ trợ và phát triển phong trào hợp tác xã ở Ấn Độ, giáo dục và hướng
dẫn nông dân cùng nhau xây dựng và phát triển hợp tác xã. Nhiệm vụ quan trọng của
NCUI là công tác đào tạo với hệ thống đào tạo 3 cấp: Viện Đào tạo quốc gia có nhiệm
vụ đào tạo và cấp bằng cao đẳng về quản lý kinh doanh hợp tác xã; Viện Đào tạo cấp
bằng đào tạo và bằng trung cấp về quản lý, kinh doanh hợp tác xã; Trung tâm đào tạo
10
cấp quận, huyện đào tạo cán bộ hợp tác xã cơ sở, đào tạo nghề. Do có các chính sách
và phân cấp đào tạo hợp lý nên Ấn Độ đã có một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, thúc
đẩy khu vực kinh tế hợp tác xã phát triển và mô hình hợp tác xã trở thành lực lượng
vững mạnh, tham gia vào hầu hết các hoạt động kinh tế của đất nước.
Là một nước nông nghiệp, sự phát triển kinh tế của Ấn Độ phụ thuộc rất nhiều
vào việc phát triển nông nghiệp. Người nông dân coi hợp tác xã là phương tiện để tiếp
nhận tín dụng, đầu vào và các nhu cầu cần thiết về dịch vụ. Các hợp tác xã thường có
cơ sở hạ tầng rộng lớn, hoạt động trong các lĩnh vực tín dụng, chế biến nông sản, hàng
tiêu dùng, hàng thủ công mỹ nghệ và xây dựng nhà ở với tổng số vốn hoạt động
khoảng 18,33 tỷ USD. Những lĩnh vực hoạt động quan trọng của khu vực kinh tế hợp
tác xã ở Ấn Độ đang nổi lên là hợp tác xã tín dụng nông nghiệp, có tỷ trọng chiếm tới
43% tổng số tín dụng trong cả nước, các hợp tác xã sản xuất đường chiếm tới 62,4%
tổng sản lượng đường của cả nước, hợp tác xã sản xuất phân bón chiếm 34% tổng số
phân bón của cả nước,…. Nổi bật hơn cả là Liên hiệp hợp tác xã sản xuất sữa Amul,
bang Gujaza, được thành lập từ năm 1953. Đây là một liên hiệp sản xuất sữa lớn nhất
của Ấn Độ và là một trong những liên hiệp hợp tác xã hoạt động kinh doanh có hiệu
quả. Sau gần 50 năm hoạt động, Liên hiệp này có gần 2 triệu cổ phần. Mỗi ngày, Liên
hiệp sản xuất 1 triệu lít sữa. Sản lượng sữa do Liên hiệp sản xuất chiếm 42,6%
thị phần trong cả nước.
Nhận rõ vai trò của các hợp tác xã chiếm vị trí trọng yếu trong các lĩnh vực của
nền kinh tế quốc dân, Chính phủ Ấn Độ đã thành lập công ty quốc gia phát triển hợp
tác xã, thực hiện nhiều dự án khác nhau trong lĩnh vực chế biến, bảo quản, tiêu thụ
nông sản, hàng tiêu dùng, lâm sản và các mặt hàng khác, đồng thời thực hiện các dự
án về phát triển những vùng nông thôn còn lạc hậu. Ngoài ra, Chính phủ đã thực hiện
chiến lược phát triển cho khu vực hợp tác xã như: Xúc tiến xuất khẩu; Sửa đổi Luật
hợp tác xã, tạo điều kiện cho các hợp tác xã tự chủ và năng động hơn; Chấn chỉnh hệ
thống tín dụng hợp tác xã; Thiết lập mạng lưới thông tin hai chiều giữa những người
nghèo nông thôn với các tổ chức hợp tác xã; Bảo đảm trách nhiệm của các liên đoàn
hợp tác xã đối với các hợp tác xã thành viên.
2.3. Hợp tác xã nông nghiệp ở Israel
Israel là một nước nhỏ ở Trung Đông có điều kiện tự nhiên vô cùng khắc nghiệt,
2/3 diện tích lãnh thổ là sa mạc, còn lại là đồi núi đá trọc, khí hậu nơi đây cực kỳ khô
hạn không thích hợp cho nông nghiệp. Tính đến năm 2014, 24,2% diện tích Israel là đất
nông nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp chiếm 2,5% tổng GDP và 3,6% giá trị xuất khẩu.
Mặc dù lao động trong nông nghiệp chỉ chiếm 3,7% tổng lực lượng lao động trong
nước, Israel tự sản xuất được 95% nhu cầu thực phẩm, phần còn lại được bổ sung từ
việc nhập khẩu ngũ cốc, các loại hạt lấy dầu, thịt, cà phê, ca cao, đường. Tổng diện tích
đất canh tác đã tăng từ 1.650 km2 (năm 1948) lên 4.300 km
2 hiện nay, số cộng đồng
nông nghiệp tăng từ 400 lên 725. Sản lượng nông nghiệp tăng 16 lần, nhanh gấp 3 lần
tốc độ tăng dân số. Mặc dù thiếu nước nghiêm trọng, nhưng sản xuất nông nghiệp ở
Israel vẫn phát triển không ngừng. Sản lượng nông nghiệp tăng 26% trong giai đoạn 10
(từ năm 1999 tới năm 2009), trong khi số lượng nông dân giảm từ 23.500 người xuống
17.000 người, đồng thời lượng nước sử dụng trong nông nghiệp cũng giảm khoảng
12%.
Do có sự đa dạng về đất đai và khí hậu, Israel có thể trồng nhiều loại cây nông
nghiệp khác nhau như lúa mì, lúa miến, ngô, cây ăn quả các loại, cây công nghiệp,….
Diện tích lúa mì, lúa miến và ngô vào khoảng 215.000 hecta, trong đó 156.000 hecta chỉ
trồng vào mùa đông. Có hơn 40 loại trái cây khác nhau được trồng ở Israel như các loại
11
cam chanh, bơ, kiwi, ổi, xoài, nho,… được trồng ở đồng bằng ven biển Địa Trung Hải.
Cà chua, dưa leo, tiêu và bí được trồng phổ biến ở mọi miền đất nước. Chuối và chà là
được trồng ở các vùng có khí hậu cận nhiệt đới. Táo, lê, chery được trồng nhiều ở vùng
đồi núi phía bắc. Israel là một trong những nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất
khẩu trái cây thuộc chi cam chanh, bao gồm cam, bưởi chùm, quýt và pomelit - một
giống lai giữa bưởi chùm và bưởi thông thường được phát triển tại Israel. Ngoài ra, nho
được trồng khắp nơi trên đất nước này, đưa ngành chế biến rượu của Israel phát triển
mạnh mẽ, có thể cạnh tranh mạnh với các nước trên thế giới. Bông vải được trồng trên
diện tích khoảng 28.560 hecta, tất cả đều được canh tác bằng phương pháp tưới nước
nhỏ giọt. Năng suất bông vải trung bình đối với giống Acala là 5,5 tấn một hecta, giống
Pima là 5 tấn một hecta. Đây là năng suất bông vải cao nhất thế giới. Bò sữa của Israel
cũng cho lượng sữa trung bình hàng năm cao nhất thế giới, 10.208 kg (khoảng 10.000
lít) vượt qua bò sữa Mỹ (9.331 kg mỗi con), Nhật Bản (7.497), châu Âu (6.139) và Úc
(5.601). Trồng hoa cũng là một nghề khá phát triển ở Israel. Loại hoa phổ biến nhất là
Chamelaucium, tiếp đến là hoa hồng,…., ngoài ra còn có các loại hoa được phương Tây
ưa chuộng như là hoa huệ, tu líp. Israel là đối thủ lớn trên thị trường hoa thế giới, nhất
là cung cấp các loại hoa truyền thống châu Âu trong các tháng mùa đông
Israel là nơi khai sinh ra hai loại hình cộng đồng nông nghiệp độc đáo, cộng
đồng hợp tác xã Kibbutz và Moshav, tương đối giống như mô hình hợp tác xã nông
nghiệp của Việt Nam trước khoán 10.
Kibbutz theo tiếng Do Thái có nghĩa là “tổ hợp” hay là "hợp tác xã", một hình
thức tổ chức kinh tế nông - công nghiệp nông thôn độc nhất vô nhị trên thế giới đang
tồn tại ở Israel. Kibbutz được hình thành từ năm 1949 và tồn tại cho đến ngày nay. Hiện
nay trên toàn đất nước Israel có khoảng 270 Kibbutz, trung bình mỗi Kibbutz này có
trên dưới 300 xã viên, hoạt động tương tự như nhau, sở hữu những cánh đồng trồng cây
nông nghiệp, trại chăn nuôi gia súc, các nhà máy chế biến sản phẩm nông nghiệp và
công nghiệp nhẹ như sản xuất bột giặt, đồng hồ đo nước xuất khẩu, van và khớp nối
ống nước,..
Kiến trúc Kibbutz theo hình tròn, tâm điểm là các công trình công cộng. Tỏa đều
ra từ trung tâm là các hộ dân, mỗi hộ được chia 4,5 ha đất. Phần giáp trung tâm là nhà
ở, phía sau là đất canh tác hay chăn nuôi. Lãnh đạo Kibbutz gồm một hội đồng 21
người do tất cả xã viên trên 18 tuổi bầu, Hội đồng bầu chọn chủ nhiệm. Chủ nhiệm là
người duy nhất có lương, chịu trách nhiệm điều phối mọi hoạt động của Kibbutz trong
nhiệm kỳ 4 năm.
Kibbutz là mô hình kinh tế đặc biệt với đặc trưng theo nguyên nghĩa "làm theo
năng lực, hưởng theo nhu cầu", trong đó tài sản và các phương tiện sản xuất được sở
hữu chung và mọi quyết định được hội đồng các thành viên bỏ phiếu tán thành. Trong
Kibbutz, các thành viên có trách nhiệm và tận tụy với cộng đồng, mặt khác họ được đáp
ứng mọi nhu cầu từ lúc sơ sinh đến khi về già. Mọi thành viên thuộc gia đình các xã
viên Kibbutz đều được ăn miễn phí hàng ngày hai bữa sáng và trưa tại một bếp ăn tập
thể ở giữa làng tổ chức theo hình thức phục vụ món ăn tự chọn, riêng bữa tối, các gia
đình tổ chức ăn ở nhà để cho gắn bó tình cảm giữa các thành viên trong gia đình mình.
Các xã viên Kibbutz không cần phải mua xe ôtô riêng. Mỗi Kibbutz đã mua khoảng 60
ôtô con các loại để tại một bãi xe có người trông coi. Nếu xã viên nào cần dùng xe, chỉ
việc vào website của Kibbutz rồi tìm chọn những xe nào còn rỗi thì cứ việc tới bãi xe
lấy chìa khoá ôtô mình cần để dùng thoải mái theo nhu cầu. Xăng, sửa chữa và các chi
phí khác cho xe do Kibbutz chịu trách nhiệm. Trường hợp cần xe lớn hơn những chiếc
12
xe có sẵn, xã viên có thể yêu cầu ban quản lý xe đi thuê theo yêu cầu của mình, Kibbutz
sẽ thanh toán cho tiền thuê đó.
Kibbutz xây dựng và cấp miễn phí nhà ở cho các gia đình xã viên. Khi cần xây
dựng mở rộng và cải tạo theo ý mình, chủ nhà trao đổi với ban quản trị sẽ có đội xây
dựng đến thực hiện theo yêu cầu của chủ nhà, Kibbutz thanh toán chi phí. Kibbutz cấp
miễn phí hoặc trả toàn bộ tiền điện, nước, gas cho các gia đình xã viên. Con em xã viên
được Kibbutz cấp học bổng toàn phần cho thời gian học 12 năm phổ thông và đại học
trong nước. Khi các xã viên và con cái họ ốm đau, Kibbutz chịu trách nhiệm thanh toán
hoàn toàn mọi chi phí về y tế căn cứ vào thực tế chữa bệnh theo nhu cầu.
Xã viên Kibbutz được nghỉ hưu theo qui định chung của nhà nước ở tuổi 69 đối
với nam giới, 67 đối với nữ giới. Nhưng ở Kibbutz nếu muốn, xã viên có thể tiếp tục
làm việc trong thời gian tuỳ thích. Khi tuổi già, sức yếu hoặc bệnh tật, xã viên được đến
trại dưỡng lão miễn phí hoặc được Kibbutz thuê người lao động nước ngoài đến chăm
sóc tại gia đình. Ngoài các hưởng thụ theo nhu cầu do Kibbutz chi phí, mỗi xã viên
được nhận phụ cấp 350 USD/tháng (1.300 shekol/tháng) để chi phí cá nhân. Mức phụ
cấp này bằng nhau đối với tất cả mọi người, không phân biệt vị trí công tác của xã viên
dù là giám đốc, chủ nhiệm hay người quét rác, trông trẻ. Do nhu cầu của cá nhân và xã
hội, xã viên có thể làm những công việc không thuộc địa bàn Kibbutz của mình như
giáo sư đại học, bộ trưởng, chuyên gia vệ tinh,… Nhưng toàn bộ tiền lương của người
đó phải nộp về cho ngân quĩ của Kibbutz.
Trong các Kibbutz, động cơ để người lao động cống hiến hết mình là danh dự,
sự tuyên dương, động viên kịp thời của ban lãnh đạo Kibbutz và sự tôn vinh của cộng
đồng. Tên và thành tích của người có công được công bố kịp thời và công khai trên bản
tin địa phương. Để tránh tham nhũng, mọi khoản thu nhập và chi phí của Kibbutz được
công khai dán trên bảng thông tin của cộng đồng. Ban lãnh đạo được đại hội xã viên
bầu ra, chịu trách nhiệm giám sát theo một cơ chế công khai hoàn toàn mọi quyết định
và chính sách của Kibbutz.
Moshav cũng là một loại hình hợp tác xã nông nghiệp độc đáo của Israel. Đây là
một làng nông nghiệp trong đó mỗi một gia đình đều duy trì trang trại riêng của mình.
Hợp tác giữa các thành viên trong Moshav được áp dụng trong việc mua bán, tiếp thị và
cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng, chính họ cung cấp phần lớn lượng nông sản cho
đất nước.
Moshav thực chất là một dạng tổ chức hợp tác xã phức tạp của Israel, bao gồm
năm thành tố: (i) Đây là một tập thể hợp tác toàn diện trên mười lăm phương diện: tín
dụng và tiết kiệm, kế toán, hưu trí, bảo hiểm, cung cấp nguyên liệu đầu vào, sản xuất,
tưới tiêu, tích trữ hàng, xử lý sản phẩm, tiếp thị, tiêu thụ, xây dựng, nhà ở, vận tải, và
các dịch vụ kỹ thuật; (ii) Mỗi Moshav gắn liền với một làng mạc nào đó và mọi dân
làng đều là thành viên. Vì vậy, danh tính của Moshav cũng chính là danh tính của một
làng cùng toàn thể cộng đồng cư dân; (iii) Moshav cung cấp toàn diện những dịch vụ cần
thiết cho cộng đồng, gồm giáo dục, tôn giáo, văn hóa, hoạt động xã hội, phong trào thanh
thiếu niên, thể thao, y tế, công viên, xử lý rác thải, ánh sáng công cộng, đường sá, và các
tiện ích cho người cao tuổi. Trưởng làng là người chịu trách nhiệm trong cung cấp các
dịch vụ cộng đồng này cũng đồng thời là chủ nhiệm hợp tác xã; (iv) Các thành viên trong
cộng đồng đều phải tự nguyện sống trong Moshav và tham gia các hoạt động của nó. Tuy
nhiên, mỗi cá nhân tự lựa chọn cách thức làm việc của mình trong mọi khía cạnh công
việc, làm những gì họ thấy là hợp lý và phù hợp nhất cho khả năng của mình; và (v) Các
thành viên trong Moshav chia sẻ trách nhiệm và hỗ trợ lẫn nhau, đặc biệt là khi có khó
khăn. Sự chia sẻ trách nhiệm giữa các thành viên cho phép vận hành một cơ chế tín dụng
13
hợp tác, trong đó các thành viên cùng tham gia vay các khoản tín dụng và cùng chia sẻ
nghĩa vụ thanh toán.
Các Moshav cũng giống Kibbutz ở khía cạnh chú trọng lao động theo hình thức
cộng đồng. Nhưng khác với Kibbutz, các thửa ruộng trong Moshav được sở hữu riêng
bởi từng cá nhân, với diện tích cố định và bằng nhau. Nông dân sản xuất lương thực và
thực phẩm trên ruộng của mình theo hình thức lao động cá nhân hoặc tập thể và dùng
lợi nhuận cùng nông sản để tự cung cấp cho mình. Các Moshav được điều hành bởi
những cộng đồng được cư dân bầu lên. Các dịch vụ hỗ trợ cộng đồng dùng một nguồn
thuế đặc biệt. Loại thuế này thu bình đẳng trên mỗi hộ gia đình, tạo ra một hệ thống sản
xuất trong đó người nông dân giỏi sẽ được lợi hơn người kém. Đây là điểm khác biệt
giữa mô hình này với mô hình Kibbutz nơi mọi thành viên hưởng chất lượng đời sống
như nhau.
Kinh nghiệm từ việc tổ chức các Moshav ở Israel có thể là những bài học hữu
ích cho việc tổ chức các làng truyền thống ở nhiều nước trên thế giới. Tuy nhiên, mỗi
Moshav bao giờ cũng là một tổ chức khá phức tạp, chỉ phù hợp cho những cộng đồng
cư dân đã nhất trí và sẵn sàng chung sống theo một hình thức đặc biệt, chấp nhận những
nguyên tắc mà sự chung sống ấy đòi hỏi. Vào thập kỷ 1950, hàng trăm Moshav cho
người nhập cư đã được thành lập ở Israel. Các mô hình này phải trải qua nhiều thăng
trầm và mất nhiều thời gian mới có thể phát triển ổn định được, dù đa số cư dân thành
viên của chúng đều từng là nông dân từ các nước khác chuyển đến. Tới thập kỷ 1960,
với sự hỗ trợ từ các dự án quốc tế, Israel lập ra các hợp tác xã phỏng theo mô hình
Moshav ở nhiều nước đang phát triển trên thế giới, những nơi vốn đã có truyền thống
làm nông nghiệp. Tuy nhiên, cả hai phong trào mô phỏng theo Moshav nói trên đều
không hoàn toàn thành công. Nguyên nhân chủ yếu là tuy được áp dụng ở các cộng
đồng đã có truyền thống làm nông nghiệp, nhưng quy trình các bước triển khai Moshav
không được tuân thủ một cách chặt chẽ.
2.4. Hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản
Nhật Bản có nền công nghiệp và dịch vụ phát triển, nhưng họ vẫn chú trọng
vào phát triển nông nghiệp, phần lớn người nông dân Nhật Bản đều tham gia hợp tác
xã nông nghiệp. Hiện nay, nông nghiệp Nhật Bản chiểm khoảng 1% GDP của cả
nước, tổng số hộ làm nông nghiệp khoảng 3 triệu, chiếm 6,4% trên tổng số gần 50
triệu hộ gia đình của Nhật Bản. Dân số trong sản xuất nông nghiệp là gần 10 triệu
người, chiếm khoảng 7,8% dân số của cả nước.
Hợp tác xã ở Nhật Bản được hình thành từ năm 1843 nhằm phục vụ các hoạt
động tín dụng của những người nông dân, khi đó chưa có tổ chức hình mẫu về hợp
tác xã nông nghiệp. Luật hợp tác xã Nhật Bản đầu tiên ra đời vào 1900 nhằm quy
định cho 5 loại hình hợp tác xã hoạt động là hợp tác xã tín dụng, tiếp thị, mua bán,
sản xuất và tiêu dùng. Đến năm 1947 Luật hợp tác xã nông nghiệp ra đời.
Về mặt tổ chức hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản chia làm 3 cấp. Ở cấp trung
ương là Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản (JA) bao gồm: Liên hiệp HTX
nông nghiệp quốc gia Nhật Bản (ZEN-NOH), Liên đoàn bảo hiểm hợp tác xã nông
nghiệp quốc gia (Zenkyoren), Tổng công ty du lịch Nokyo (N Tour), ngoài ra còn có
Liên đoàn xuất bản và thông tin hợp tác xã nông nghiệp quốc gia, hiệp hội IE-NO-
HIKARI về các hoạt động xuất bản, giáo dục và văn hoá. Cấp tỉnh/thành phố trực
thuộc trung ương có Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp và Liên đoàn hợp tác xã địa
phương (Prefecture level) hoặc văn phòng của các Liên đoàn Quốc gia. Ở cấp thành
phố, làng thì có hợp tác xã nông nghiệp đa chức năng cơ sở và hợp tác xã chuyên
ngành cơ sở (hiện cả nước Nhật Bản có khoảng gần 800 HTX với gần 9,0 triệu xã
14
viện bao gồm cả xã viên thường xuyên và xã viên kết hợp). Ngoài ra, trong HTX
nông nghiệp còn có Hội phụ nữ (nâng cao đời sống) và Hội thanh niên (khuyến
khích thanh niên tham gia vào HTX nông nghiệp).
Trong mỗi hợp tác xã của Nhật bản đều có hai loại hình xã viên. Đó là xã viên
thường xuyên và xã viên liên kết. Xã viên thường xuyên là những hộ nông dân, hộ
gia đình hoặc doanh nghiệp trong khu vực mà hoạt động của họ gắn chặt với các
hoạt động sản xuất nông nghiệp của địa phương. Xã viên liên kết là những người, hộ
gia đình hoặc tổ chức, doanh nghiệp không trực tiếp sản xuất nông nghiệp, nhưng có
những hoạt động liên quan đến lĩnh vực hoạt động nông nghiệp của hợp tác xã, tán
thành điều lệ của hợp tác xã và có đơn xin vào hợp tác xã. Các xã viên liên kết có
mọi quyền lợi như xã viên thường xuyên, trừ quyền bầu cử và ứng cử vào Ban chủ
nhiệm và Ban quản trị. Trước đây, xã viên liên kết thường là những cư dân trong
khu vực của hợp tác xã, nhưng ngày nay thì khoảng cách địa lý không còn có ý
nghĩa nữa. Một người, hộ gia đình, doanh nghiệp có thể là thành viên liên kết của
một hoặc nhiều hợp tác xã nông nghiệp khác nhau. Chính điều này tạo nên sức mạnh
của hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản hiện nay. Bởi lẽ mỗi thành viên liên kết đồng
thời cũng là một khách hàng của hợp tác xã nên họ đóng vai trò quan trọng cả trong
các dịch vụ đầu vào lẫn dịch vụ đầu ra của các hợp tác xã. Tỷ lệ giữa xã viên thường
xuyên và xã viên liên kết dao động tùy theo từng địa phương, theo từng thời điểm,
nhưng tính chung cho cả nước tỷ lệ này dao động trong khoảng 55,0% và 45,0%.
Khi mới bắt đầu hình thành, hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản đa phần là
loại hình hợp tác xã chuyên ngành, mỗi hợp tác xã thực hiện một loại sản phẩm hoặc
dịch vụ chuyên biệt. Tuy nhiên, theo thời gian, số lượng các hợp tác xã nông nghiệp
chuyên ngành ngày càng giảm dần, nhường chỗ cho các hợp tác xã nông nghiệp đa
chức năng. Hiện nay phần lớn các hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản đều thực hiện
các dịch vụ đầu vào, đầu ra của sản xuất nông nghiệp (kể cả các dịch vụ tín dụng),
đồng thời cũng đảm nhiệm luôn nhiều dịch vụ và hoạt động khác ở khu vực nông
thôn.
Các hoạt động của Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản được quy định
bởi Luật hợp tác xã nông nghiệp và nhiều Luật chuyên ngành. Luật quy định các
hoạt động về Đại hội xã viên, viên chức, lao động, nguyên tắc của JA, hướng dẫn và
giám sát của chính phủ.
Chức năng của Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản là cung cấp các
chương trình đào tạo để gia tăng việc sử dụng công nghệ trong nông nghiệp, hợp tác
nhằm nâng cao mức sống và mở rộng các hoạt động văn hóa; phát triển và mở rộng
diện tích đất nông nghiệp, chú trọng công tác thủy lợi và hướng dẫn thành lập trang
trại, vận động các thành viên liên kết đất đai làm trang trại; nghiên cứu thị trường,
bảo quản và vận chuyển các sản phẩm nông nghiệp; cung cấp vật tư cho sản xuất
nông nghiệp và các hàng hóa thiết yếu phục vụ nông dân; thành lập và quản lý quỹ
phục vụ sản xuất nông nghiệp; cung cấp các dịch vụ bảo hiểm; sản xuất phân bón;
chế biến các sản phẩm nông nghiệp; cung cấp phúc lợi công cộng; thành lập bệnh
viện phục vụ cho nông dân; các hoạt động nhằm nâng cao quyền công dân.
Dịch vụ đầu vào cho sản xuất nông nghiệp
Đối với dịch vụ cung ứng vật tư cho sản xuất nông nghiệp, thì hệ thống hợp
tác xã nông nghiệp Nhật Bản đứng đầu là Liên hiệp hợp tác xã nông nghiệp quốc gia
Nhật Bản (ZEN-NOH), đã đảm đương 55% thị phần của 15 loại phân bón chính của
cả nước. Đối với các loại hoá chất nông nghiệp, ZEN-NOH chiếm 37% thị phần.
Ngoài ra đối với thức ăn tổng hợp ZEN-NOH cũng chiếm 30% thị phần phân phối.
15
Việc phân phối, cung cấp dịch vụ sản xuất nông nghiệp cho xã viên được thực hiện
theo hệ thống xuyên suốt từ ZEN-NOH đến Liên đoàn kinh tế và hợp tác xã nông
nghiệp đa chức năng cơ sở. Ngoài ra, hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản còn cung
cấp các nhu yếu phẩm cho xã viên với giá cả hợp lý và chất lượng cao. Hệ thống hợp
tác xã có các trung tâm mua sắm, siêu thị nhỏ, cây xăng, cửa hàng kinh doanh…
Dịch vụ tiếp thị và tiêu thụ nông sản
Hệ thống hợp tác xã nông nghiệp của Nhật Bản được xem là cầu nối giữa
người sản xuất và người tiêu dùng nhằm mục tiêu đưa nông sản từ người sản xuất
đến người tiêu dùng với chất lượng, giá cả, và thời gian nhanh nhất. Thông qua hệ
thống này, hợp tác xã nông nghiệp còn có thể điều chỉnh giá cả theo mùa, tránh
trung gian ép giá, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm, cân đối được cung sản
xuất và cầu tiêu dùng. Khâu tiếp thị và phân phối hàng nông sản thông qua hợp tác
xã nông nghiệp Nhật Bản được thực hiện qua các khâu (i) phối hợp cùng vận
chuyển, (ii) phối hợp lựa chọn sản phẩm, (iii) phối hợp tiêu thụ và (iv) phối hợp điều
chỉnh cung cầu để ổn định giá cả.
Hiện nay, hệ thống hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản đã xây dựng các kho
lạnh nhằm bảo quản sản phẩm tại các trung tâm chợ đầu mối, các trung tâm đóng gói
phân loại sản phẩm, hệ thống phân phối bán buôn (chợ đầu mối bán đấu giá hàng
nông sản) và bán lẻ (siêu thị bán lẻ hợp tác xã)… Hình thức thanh toán trong quá
trình giao dịch được hợp tác xã áp dụng cho nông dân theo (i) Uỷ thác vô điều kiện
để người nông dân có thể gửi các sản phẩm để bán mà không có yêu cầu về giá, thời
gian bán và nơi bán sản phẩm. (ii) Phí dịch vụ trên thực tế giúp người nông dân tiêu
thụ sản phẩm nhưng họ phải trả cho tiền phí dịch vụ để chi trả các chi phí giao dịch
và chi phí vận chuyển các sản phẩm và (iii) Thanh toán chung giúp người nông dân
chuyên chở và bán sản phẩm để có được giá cả ổn định. Với cách làm này, lợi thế
kinh tế của qui mô từ việc phân bổ và tiếp thị với số lượng lớn sẽ mang lại lợi nhuận
cao hơn cho người nông dân.
Thị phần bao tiêu sản phẩm nông sản của xã viên thông qua hệ thống như gạo
chiếm 90%, rau quả chiếm 48%, ngoài ra hợp tác xã còn bao tiêu các sản phẩm từ
chăn nuôi.
Nhằm trợ giúp cho việc tiêu thụ nông sản cho xã viên của các hợp tác xã nông
nghiệp tại các chợ bán buôn trong cả nước, chính phủ Nhật Bản đã ban hành luật
Bán buôn. Theo luật này các chợ đầu mối bán buôn trên phạm vi cả nước đều được
hình thành và hoạt động bởi các công ty tư nhân. Các chợ này sẽ trả một khoản hoa
hồng (commission) nhất định cho người bán buôn các loại hàng hóa dễ bị thối hỏng
(rau củ, trái cây, hoa, nông sản, thủy sản,…) khi họ tham gia lưu thông các loại hàng
hóa này đến người tiêu dùng nhằm ổn định giá cả. Tỷ lệ hoa hồng (tính theo % tiền
lãi bán hàng) của một số mặt hàng được quy định như sau: Rau các loại: 8,5%, quả
các loại: 7,0%, thủy sản: 5,5%, thịt: 3,5%, hoa tươi các loại: 9,5%,… Chính vì vậy,
thị phần bán buôn của các loại nông sản hàng hóa của hợp tác xã nông nghiệp tại
Nhật Bản là khá cao (rau các loại: 80,3%, quả các loại: 57,2%, thủy sản 68,6%, thịt
bò: 22,5%, thịt lợn: 12,8%, hoa các loại: 83,7%,…).
Hoạt động chế biến nông sản Hoạt động chế biến và tiêu thụ nông sản của hợp tác xã nông nghiệp nhằm tạo
giá trị gia tăng cho các sản phẩm nông nghiệp và để giá trị đó lại khu vực nông thôn;
phát triển thực phẩm mới để tăng nhu cầu sử dụng sản phẩm chế biến; duy trì sự cân
đối cung cầu thông qua việc phân chia thị trường và tích trữ và phần quan trọng là
tạo thêm việc làm cho khu vực nông thôn.
16
Hoạt động chế biến nông sản được thực hiện ở hợp tác xã Nhật Bản với hai
mục đích là chế biến các sản phẩm để bán và tiêu dùng của gia đình. Hiện nay, các
hợp tác xã nông nghiệp thực hiện chế biến theo ba loại: (i) chế biến và tiêu thụ nông
sản, (ii) kết hợp sử dụng tập thể các phương tiện chế biến, và (iii) mua hàng và chế
biến.
Trong hệ thống hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản đã hình thành các cơ sở chế
biến hàng nông sản theo kỹ thuật chế biến sản phẩm cổ truyền. Mô hình "mỗi làng
một sản phẩm" đã được hình thành và phát triển từ cách suy nghĩ này. Bên cạnh việc
duy trì và phát triển các mặt hàng truyền thống, một cách làm khác đã mang lại
thành công cho nhiều hợp tác xã chế biến ở Nhật Bản là phát triển mặt hàng mới, có
giá trị gia tăng và tính cạnh tranh cao.
Hoạt động tín dụng
Nguyên tắc hoạt động của hợp tác xã tín dụng nông nghiệp là hoạt động tương
hỗ. Hợp tác xã nông nghiệp huy động vốn từ xã viên có tiền nhàn rỗi cho xã viên có
nhu cầu vay để sản xuất. Hiện nay, nguồn huy động vốn đã tăng quá nhu cầu cho
vay và số vốn dôi dư này được chuyển cho Ngân hàng nông, lâm, ngư nghiệp trung
ương để phục vụ cho các ngành khác. Bên cạnh đó, hợp tác xã còn là nơi tiếp nhận
vốn cho vay và hỗ trợ lãi suất từ chính phủ nhằm đảm bảo cung cấp nguồn vốn dài
hạn với lãi suất thấp cho xã viên sản xuất nông nghiệp. Tổ chức tín dụng hợp tác xã
nông nghiệp còn tiến hành nhiều hoạt động như chiết khấu hoá đơn, giao dịch trao
đổi trong nước, bảo lãnh pháp lý, giao dịch ngoại hối.
Dịch vụ hướng dẫn nhà nông, hỗ trợ đào tạo (Chuyển giao các tiến bộ
KHKT trong HTX cho hộ xã viên nông dân)
Việc chuyển giao các tiến bộ khoa học kỹ thuật của hợp tác xã nông nghiệp
Nhật Bản được tiến hành bởi hệ thống hướng dẫn nhà nông (farm guidance), với đội
ngũ cố vấn nhà nông (farm advior), là người hướng dẫn trực tiếp người dân áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật như giống mới, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, quy trình chăm
bón, giảm chí phí sản xuất bằng việc khuyến khích người dân tham gia sử dụng các
cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật sản xuất nông nghiệp mới, vật tư đầu vào và thị
trường đầu ra. Đây cũng là kênh kết nối giữa hệ thống khuyến nông quốc gia với
nông dân. Mối quan hệ được thực hiện 2 chiều, thông tin đề xuất, kiến nghị từ người
dân đến cơ quan khuyến nông, hợp tác xã nông nghiệp, chính phủ và ngược lại là
chính sách, hướng dẫn, hỗ trợ... cho người dân. Hiện nay toàn hệ thống hợp tác xã
nông nghiệp Nhật Bản có 14.380 cố vấn nhà nông làm việc trên khắp cả nước, họ
hợp tác chặt chẽ với tác tổ chức hành chính, cán bộ khuyến nông, các trạm nghiên
cứu, trạm vệ sinh dịch tễ, bác sỹ thú y và các tổ chức khác.
Dịch vụ bảo hiểm và an sinh xã hội
Hợp tác xã nông nghiệp ngoài các hoạt động liên quan đến sản xuất nông
nghiệp còn tham gia vào rất nhiều những dịch vụ bảo hiểm và an sinh xã hội trong
cộng đồng cư dân nông thôn địa phương. Đó là những loại dịch vụ bảo hiểm khác
nhau như bảo hiểm cuộc sống, bảo hiểm lương hưu hay bảo hiểm rủi ro trong cuộc
sống như bị cháy, gặp bão, lụt, động đất,... Ngoài ra hợp tác xã nông nghiệp còn
tham gia vào dịch vụ khác như dịch vụ phúc lợi cho người già, dịch vụ cưới , tang,...
Do tham gia rất sâu rộng vào các dịch vụ này nên hợp tác xã nông nghiệp ở nhiều
nơi còn là trung tâm văn hóa, trung tâm sinh hoạt cộng đồng của cư dân địa phương.
3. Một số bài học kinh nghiệm từ mô hình HTX nông nghiệp trên thế giới
3.1. Về cơ cấu tổ chức HTX
17
Cơ cấu tổ chức hợp tác xã nông nghiệp ở mỗi nước, mỗi thời điểm khác nhau có
những sự khác nhau nhất định. Tuy nhiên, hầu như tất cả (trừ mô hình hợp tác xã nông
nghiệp của Israel và CHLB Đức) đều có một điểm chung là phải có được một tổ chức
hợp tác xã ở quy mô toàn quốc, chí ít cũng là một tổ chức hợp tác xã ở quy mô vùng.
Nói cách khác mỗi nước đều cần hình thành mạng lưới hợp tác xã nông nghiệp ở 2-3
cấp. Tổ chức hợp tác xã nông nghiệp cấp quốc gia hoặc cấp vùng không phải là cấp trên
của các hợp tác xã ở làng, xã mà là tổ chức tạo ra sự hợp tác giữa các hợp tác xã cơ sở
với nhau, cũng như tạo ra sự hợp tác giữa các hợp tác xã cơ sở với các tổ chức, doanh
nghiệp liên quan. Sự hợp tác này một mặt cung cấp các thông tin thị trường cho người
nông dân để họ có thể sản xuất đúng cái mà thị trường cần, nhưng mặt khác sẽ góp phần
tạo ra thị trường rộng lớn hơn cho hợp tác xã. Nhờ đó mà nguyên tắc “Lợi thế nhờ qui
mô, mua bán sỉ tốt hơn mua bán lẻ” được thực thi một cách có hiệu quả. Nhờ đó các xã
viên hợp tác xã nông nghiệp được hưởng lợi cả trong việc mua vật tư đầu vào cho sản
xuất lẫn trong việc tiêu thụ nông sản làm ra. Từ việc hưởng lợi này mà số người tự
nguyện tham gia vào các hợp tác xã ngày càng đông và hợp tác xã nông nghiệp ngày
càng phát triển bền vững hơn. Ngoài ra, các hợp tác xã nông nghiệp quốc gia hay cấp
vùng còn đóng một vai trò quan trọng trong quá trình phát triển mạng lưới hợp tác xã
nông nghiệp trong nước thông qua quá trình định hướng phát triển, qua dịch vụ đào tạo
nguồn nhân lực,… và thông qua việc đại diện cho mạng lưới hợp tác xã cả nước tiếp
nhận và phản biện chính sách về nông nghiệp và về hợp tác xã từ các cơ quan quản lý
nhà nước. Các tổ chức hợp tác xã nông nghiệp cấp quốc gia hay cấp vùng còn giữ một
vai trò cực kỳ quan trọng khi thực hiện hướng dẫn nghiệp vụ quản lý, nghiệp vụ kế
toán, tài chính, đồng thời kiểm toán định kỳ cho các hợp tác xã nông nghiệp cơ sở.
Chính điều này tạo ra sự minh bạch trong hoạt động của các hợp tác xã nông nghiệp cơ
sở và là một trong những điều kiện để các hợp tác xã cơ sở có thể dễ dàng vay được vốn
phục vụ cho các hoạt động của mình từ các ngân hàng thương mại. Kinh nghiệm phát
triển hợp tác xã nông nghiệp thành công ở các nước cho thấy đây là một trong những
nguyên nhân thành công cơ bản của các mô hình này. Trừ những trường hợp đặc biệt
như ở CHLB Đức và Israel thì không một đất nước nào có phong trào hợp tác xã nông
nghiệp thành công chỉ với việc hình thành duy nhất các hợp tác xã nông nghiệp cơ sở ở
cấp thôn, xã hay thị trấn.
Cơ cấu tổ chức của mỗi hợp tác xã nông nghiệp cơ sở về cơ bản ở các nước đều
giống nhau. Tất cả các hợp tác xã nông nghiệp thành công đều thực hiện nguyên tắc dân
chủ, tránh sự áp đặt của một cá nhân, nhóm xã viên hay một tổ chức nào trong hợp tác
xã, đồng thời thực hiện phân phối đều lợi ích thu được. Các hợp tác xã nông nghiệp
được thành lập theo nguyên tắc góp cố phẩn (như ở CHLB Đức chẳng hạn) thì tỷ lệ cổ
phần của các thành viên luôn được duy trì ở mức dưới 3% vốn điều lệ nhằm tránh gây
sức ép về vốn trong quá trình hoạt động. Các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động theo
nguyên tắc tự nguyện (như hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản) thì duy trì hình thức chỉ
bầu ban quản trị, ban chủ nhiệm và các ban chuyên môn khác từ các xã viên thường
xuyên. Điều này vừa nhằm phát huy thế mạnh nông nghiệp địa phương, vừa tránh được
sức ép của các thành viên đến từ địa phương khác, khu vực khác (nhất là từ khu vực
thành thị) vốn có những thế mạnh lớn hơn cư dân địa phương, nơi hình thành hợp tác
xã. Một điều đáng nói nữa là hầu hết các chi phí hoạt động của các cơ quan quản lý hợp
tác xã nông nghiệp đều ở mức thấp nhất có thể. Một số nơi quy định chỉ chủ nhiệm
được hưởng lương và làm đủ thời gian, các thành biên quản lý khác đều kiêm nhiệm và
hầu hết đều không có lương.
18
Hộp 2:
Chỉ có khoảng 10% HTX làm ăn hiệu quả
Ngày 22/9/2015, Ban Bí thư TƯ Đảng tổ chức hội nghị trực tuyến với 63 tỉnh, thành
phố sơ kết 3 năm thực hiện Kết luận số 56-KL/TW của Bộ Chính trị khoá XI về đẩy
mạnh việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị TƯ 5 khoá IX về tiếp tục đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể.
Uỷ viên Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Lê Hồng Anh, Uỷ viên Bộ Chính trị,
Chủ tịch UBTƯ MTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, Phó Thủ tướng Chính phủ
Vũ Văn Ninh, Trưởng Ban Kinh tế TƯ Vương Đình Huệ chủ trì hội nghị tại đầu cầu
Hà Nội.
Ba năm qua, các cấp uỷ, chính quyền các cấp đã quan tâm phát triển kinh tế tập thể.
Kinh tế tập thể tiếp tục phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực, xuất hiện nhiều mô
hình HTX kiểu mới hoạt động hiệu quả, nâng cao thu nhập cho các thành viên. Cả
nước hiện có 143.000 tổ hợp tác đang hoạt động với trên 1,5 triệu thành viên. Có
18.837 HTX trên toàn quốc với tổng số gần 7,4 triệu thành viên, vốn điều lệ bình
quân khoảng 1,3 tỷ đồng/HTX. Hiện nay doanh thu bình quân các HTX đạt khoảng
2,9 tỷ đồng/năm, đạt lợi nhuận bình quân 261 triệu đồng/HTX/năm, thu nhập bình
quân của thành viên, người lao động ước đạt 1,7 triệu đồng/tháng.
Năm 2013, lần đầu tiên trong gần 20 năm, đóng góp của khu vực HTX đã tăng so với
năm trước, đạt 5,05% GDP so với mức 5,0% năm 2012, trong khi tỷ lệ vốn đầu tư chỉ
chiếm khoảng 0,6% tổng vốn đầu tư của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng của khu vực
HTX năm 2013 đạt 3,27% cao hơn nhiều so với mức 2,75% năm 2012. Tổng doanh
thu của các HTX năm 2014 đạt 26.400 tỷ đồng, tăng 2.460 tỷ đồng so với năm 2013.
Tổng số lãi trước thuế của HTX năm 2014 đạt 1.410 tỷ đồng, tăng 0,7% so với năm
2013. Tổng số lao động làm việc thường xuyên trong HTX năm 2014 đạt trên 1,5
triệu người, tăng 57.421 người so với năm 2013.
HTX mới thành lập xuất phát từ nhu cầu hợp tác của các hộ thành viên và phát triển
khá đa dạng. Nhiều HTX kiểu mới hoạt động hiệu quả, mang lại lợi ích cho các thành
viên như: HTX chăn nuôi Quý Hiền (huyện Bảo Thắng, Lào Cai), HTX Đan Phượng
(Hà Nội), HTX Rạch Gầm (Tiền Giang), HTX Bò sữa Ever Growth...
Tuy nhiên, cả nước có 43 liên hiệp HTX thì 15 trong số đó ngừng hoạt động chờ giải
thể hoặc chuyển đổi sang hình thức khác. Chất lượng, hiệu quả hoạt động và lợi
nhuận của các HTX, tổ hợp tác còn thấp. Ước tính chỉ có khoảng 10% số HTX nông
nghiệp làm ăn hiệu quả tốt, khoảng 60-70% số HTX hoạt động cầm chừng, không
hiệu quả, còn lại 20-30% HTX đã phải ngừng hoạt động.
Tham luận tại hội nghị, đại diện nhiều tỉnh, thành phố đã đề xuất cần thiết thành lập
Ban chỉ đạo TƯ về phát triển kinh tế tập thể, đề xuất đẩy mạnh tuyên truyền nhằm
thay đổi nhận thức về mô hình HTX kiểu mới, có giải pháp đột phá trong đào tạo cán
bộ lãnh đạo HTX, giảm thuế thu nhập cho các HTX xuống 10% thay vì 20% như hiện
nay... (HNMO, 22/9/2015)
Cơ cấu tổ chức hợp tác xã theo nguyên tắc hợp tác cùng có lợi dựa trên sự tự
chủ, sáng tạo của mỗi thành viên cũng được triệt để tôn trọng, góp phần làm nên sự
thành công của mô hình hợp tác xã nông nghiệp của nhiều nước trên thế giới. Trừ mô
hình Kibbutz của Israel ra, xã viên của tất cả các mô hình hợp tác xã nông nghiệp thành
công khác đều tự mình làm chủ tư liệu sản xuất của mình, đều tự do sáng tạo trên mảnh
đất của mình dựa trên định hướng phát triển sản xuất được hợp tác xã thống nhất quy
19
định từ các đại hội xã viên. Đây là điều khác căn bản với các hợp tác xã nông nghiệp
kiểu cũ của Việt Nam.
Điều quan trọng cần được nhấn mạnh là các hợp tác xã nông nghiệp hược hình
thành nên để thực hiện những công việc mà bản thân người nông dân không thể tự mình
thực hiện được hoặc có thực hiện được chỉ với chi phí cao, hiệu quả thấp. Do vậy bất cứ
một cơ cấu tổ chức hợp tác xã nông nghiệp nào tuân thủ triệt để nguyên tắc này đều có
thể thành công và phát triển bền vững.
3.2. Về khả năng liên kết sản xuất, tận dụng thế mạnh của các thành phần
kinh tế trong xã hội
Các mô hình hợp tác xã nông nghiệp thu được nhiều thành công trên thế giới đều
biết cách tận dụng thế mạnh liên kết của các đơn vị, tổ chức và các thành phần kinh tế
khác nhau trong xã hôi. Ngoài việc liên kết với các tổ chức, doanh nghiệp ở các lĩnh
vực khác nhau như tín dụng, kinh doanh,…việc không hạn chế các thành viên (xã viên)
liên kết trong các hợp tác xã nông nghiệp Nhật Bản hay việc coi xã viên là những khách
hàng của mình như các hợp tác xã nông nghiệp của CHLB Đức đã tạo ra khả năng tận
dụng các thế mạnh đến từ rất nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong xã hội. Chính
những thành viên liên kết này vừa chia sẻ kinh nghiệm sản xuất, thông tin trung thực
các tín hiệu thị trường góp phần định hướng sản xuất của hợp tác xã, vừa là những tổ
chức tiêu thụ sản phẩm của hợp tác xã một cách phù hợp và hiệu quả. Nhờ kết hợp các
thông tin thị trường và thế mạnh trong sản xuất nông nghiệp của các thành viên hợp tác
xã mà hợp tác xã nông nghiệp có thể thực hiện các dịch vụ hỗ trợ sản xuất từ đầu vào
đến khi tiêu thụ sản phẩm của xã viên một cách tốt nhất, hiệu quả nhất, đem lại lợi ích
kinh tế cho cả xã viên và hợp tác xã. Nói cách khác, việc tổ chức thực hiện các dịch vụ
hỗ trợ cho sản xuất của xã viên từ định hướng sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm được thực
hiện một cách có hiệu quả nhờ vào sức mạnh liên kết trong nội tại của mỗi hợp tác xã
chứ không trông chờ vào những tổ chức bên ngoài, trông chờ vào các loại hợp đồng
dịch vụ giữa hợp tác xã với các tổ chức, doanh nghiệp bên ngoài. Cũng chính nhờ vào
sức mạnh liên kết nội tại này mà hầu hết các mô hình hợp tác xã nông nghiệp thành
công trên thế giới luôn phát triển bền vững, không lo nhiều đến việc hợp đồng dịch vụ
bị phá vỡ mỗi khi có biến động của thị trường về giá vật tư đầu vào cho sản xuất hay
giá nông sản.
Ngoài ra, việc liên kết chặt chẽ các thành viên trong hợp tác xã nông nghiệp còn
tạo ra khả năng tận dụng hết công suất của máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất và cơ sở
vật chất sẵn có khiến cho chi phí sản xuất nông sản giảm đến mức thấp nhất có thể, tạo
điều kiện nâng cao tính cạnh tranh, khả năng tiêu thụ nông sản và nâng cao lợi ích, thu
nhập của xã viên.
Làm tốt các dịch vụ hỗ trợ cho sản xuất của xã viên dựa trên sức mạnh nội tại
của tổ chức hợp tác xã nông nghiệp là một trong những chìa khóa tạo nên sự phát triển
bền vững của mô hình tổ chức này.
3.3. Về khả năng hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm của nông dân
Tiêu thụ sản phẩm do người nông dân làm ra là vấn đề khó khăn, nan giải và cần
thiết nhất đối với bất kỳ một tổ chức của người nông dân hoặc một tổ chức muốn giúp
đỡ người nông dân nào. Đặc biệt trong hoàn cảnh cạnh tranh trên thị trường ngày càng
gay gắt như hiện nay. Mô hình hợp tác xã nông nghiệp có tồn tại và phát triển được hay
không phụ thuộc rất nhiều vào quá trình hỗ trợ người nông dân tiêu thụ sản phẩm của
mình. Rất nhiều mô hình hợp tác xã nông nghiệp thành công trên thế giới đều nhờ giải
quyết rất tốt vấn đề này.
20
Trước hết, các hợp tác xã nông nghiệp đó luôn chủ động trong việc định hướng
sản xuất cho các xã viên của mình từ những kỳ họp hội nghị toàn thể hay đại biểu toàn
thể nhờ các thông tin thị trường của các xã viên, nhất là các xã viên liên kết hoặc từ các
khách hàng của mình và nhờ vào sự mẫn cán của đội ngũ lãnh đạo hợp tác xã. Sự liên
kết giữa các xã viên trong hợp tác xã nông nghiệp, giữa các hợp tác xã nông nghiệp với
nhau và giữa hợp tác xã nông nghiệp với các tổ chức, doanh nghiệp liên quan trong xã
hội là những yếu tố quan trọng tạo nên định hướng sản xuất của mỗi xã viên trong các
hợp tác xã. Có thể nói rằng mỗi xã viên hợp tác xã trước khi trồng cây gì, nuôi con gì
đều biết mình sẽ bán nó ở đâu, bán nó như thế nào nhờ vào các dịch vụ hỗ trợ của hợp
tác xã.
Chất lượng sản phẩm (bao gồm cả cách thức và thời điểm giao hàng) và vấn đề
vệ sinh an toàn thực phẩm trong sản xuất của các xã viên luôn được củng cố và bảo
đảm thông qua các dịch vụ hỗ trợ huấn luyện, dịch vụ khuyến nông, thông qua yêu cầu
của người tiêu thụ và sự tuân thủ luật pháp,… mà họ nhận được từ hợp tác xã của mình
và mạng lưới hợp tác xã trong khu vực và của quốc gia, cũng như sự tự nguyện tuân thủ
của mỗi xã viên. Mỗi gia đình xã viên đều tuân thủ nghiêm ngặt quy trình sản xuất được
đề ra, đồng thời họ đều có những thiết bị kiểm tra chất lượng sản phẩm, những máy
móc phân loại, đóng gói sản phẩm,… đảm bảo tất cả sản phẩm làm ra đều đạt được chất
lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm ở mức cao nhất có thể. Hệ thống truy xuất nguồn
gốc sản phẩm luôn được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm nâng cao tính tự giác, tự
chịu trách nhiệm của mỗi xã viên đối với sản phẩm của mình. Thậm chí trong mỗi cửa
hàng nông sản ở vùng thôn quê Nhật Bản, gian hàng bán nông sản của mỗi xã viên đều
ghi đầy đủ tên, tuổi, hình ảnh của người sản xuất phục vụ cho việc truy xuất nguồn gốc
này.
Nhờ vào việc phục vụ nhu cầu cho một số đông xã viên theo nguyên tắc “Lợi thế
nhờ qui mô, mua bán sỉ tốt hơn mua bán lẻ” hợp tác xã có thể phối hợp làm tốt tất cả
các khâu từ vận chuyển, lựa chọn, đóng gói sản phẩm đến tiêu thụ, thanh toán sau bán
hàng và thậm chí là phối hợp nhằm điều chỉnh cung, cầu để ổn định giá cả. Chính điều
này khiến cho sản phẩm của xã viên, nhất là những loại sản phẩm dễ thối hỏng như rau,
quả, thịt,… dễ dàng được tiêu thụ với mức giá hợp lý, hiệu quả cao nhất nhất đối với
họ. Không những thế, các hợp tác xã nông nghiệp còn thực hiện dịch vụ thuê hoặc tự
mình xây dựng các kho lạnh để tồn trữ nông sản của xã viên ở mức phí tối thiểu trước
khi xã viên quyết định bán chúng ở những thời điểm có giá phù hợp nhất. Dịch vụ hỗ
trợ này của hợp tác xã nông nghiệp khiến cho xã viên ngày càng yên tâm hơn trong việc
sản xuất, cũng như tham gia vào hợp tác xã.
Rất nhiều hợp tác xã nông nghiệp, nhất là các hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật
Bản, Đức, Hàn Quốc,… còn tổ chức các hoạt động chế biến nông sản tại địa phương.
Dịch vụ này vừa có thể nâng cao giá trị gia tăng của nông sản, ổn định cung, cầu qua đó
nâng cao thu nhập của xã viên và hợp tác xã, vừa tạo ra những sản phẩm mới, góp phần
vào sự đa dạng hóa sản phẩm nông nghiệp và chuyển tải các giá trị văn hóa độc đáo của
mỗi địa phương vào từng sản phẩm của xã viên và hợp tác xã. Những thành công vang
dội của phong trào “mỗi làng một sản phẩm” ở nhiều khu vực nông thôn không chỉ ở
Nhật Bản một phần là do tổ chức được các hoạt động chế biến nông sản trong khu vực
nông thôn thông qua các tổ chức hợp tác xã nông nghiệp hoặc các tổ chức liên kết
người nông dân tại địa phương. Không những thế, nhờ vào lợi thế quy mô lớn, giá rẻ
nên các sản phẩm chế biến của các hợp tác xã nông nghiệp hoàn toàn có thể cạnh tranh
được với các hàng hóa cùng loại của các tổ chức chế biến kinh doanh nông sản khác.
21
Các hoạt động tín dụng và thanh toán của hợp tác xã nông nghiệp vừa là một
dịch vụ hỗ trơ cho xã viên, lại vừa là một công cụ đắc lực trong hoạt động của hợp tác
xã. Các hoạt động này giúp cho xã viên có đủ nguồn vốn trong sản xuất, dễ dàng thanh
toán trong việc bán sản phẩm làm ra, nhưng cũng giúp hợp tác xã có được nguồn lực
quan trọng phục vụ hoạt động của mình từ việc thu phí hoa hồng trong bán sản phẩm.
Ngày nay việc thu phí hoa hồng bán hàng, nhất là dịch vụ bán buôn, bán xỉ được luật
hóa không chỉ ở Nhật Bản mà còn ở nhiều nơi khác trên thế giới bao gồm cả các nước
trong khu vực như Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia,…
Rõ ràng là dịch vụ hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm của xã viên vừa là mục đích, vừa là
phương tiện của các mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Dịch vụ hỗ trợ này phát huy triệt
để các mối liên kết trong từng hợp tác xã nông nghiệp, cũng như trong mạng lưới hợp
tác xã nông nghiệp của khu vực và trên cả quốc gia, đồng thời tạo nên sức hút của mô
hình này đối với người nông dân ở mỗi địa phương.
3.4. Hợp tác xã nông nghiệp với các hoạt động xã hội vùng nông thôn
Không chỉ mô hình hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản hay mô hình Kibbutz và
Moshav ở Israel chú trọng thực hiện các hoạt động an sinh xã hội trong khu vực nông
thôn của mình như các dịch vụ bảo hiểm, phúc lợi xã hội, phúc lợi hưu trí, dịch vụ cưới
hỏi, tang ma,… mà hầu như tất cả các mô hình hợp tác xã nông nghiệp thành công trên
thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển, các nước trong khu vực châu Á và Đông
Nam Á đều hướng tới việc thực hiện các hoạt động dịch vụ này. Đây có thể là chất keo
kết gắn cộng đồng cư dân nông thôn với nhau trong các hoạt động kinh tế của khu vực
nông thôn, làng xã. Nhiều khi những hoạt động phát huy giá trị văn hóa, giá trị nhân
văn trong cộng đồng cư dân nông thôn lại là phương tiện hữu hiệu, là con đường ngắn
nhất dẫn đến các thành công về mặt kinh tế của các hợp tác xã nông nghiệp ở địa
phương. Các hoạt động này có thể dẫn đến những thành công khó ngờ tới mà các mô
hình Kibbutz và Moshav ở Israel đã làm được trong thời gian qua.
3.5. Vai trò của nhà nước trong hỗ trợ và phát triển hợp tác xã nông nghiệp Nhà nước đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong việc hình thành và phát triển
các mô hình hợp tác xã nông nghiệp. Các quốc gia có mô hình này thành công đều coi
kinh tế hợp tác xã là một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân nói chung và
kinh tế nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Hầu hết các quốc gia này đều ban hành bộ
luật hợp tác xã từ rất sớm và có tính khả thi cao. Ở CHLB Đức luật H,ợp tác xã được ra
đời từ năm 1890; Ở Nhật Bản, luật Hợp tác xã cũng ra đời từ năm 1900 và luật Hợp tác
xã nông nghiệp được ban hành từ năm 1947 đến nay vẫn còn được tuân thủ, Pháp lệnh
Hợp tác xã và luật Hợp tác xã của Malaysia cũng được ban hành từ rất sớm (1922 và
1923),… Luật Hợp tác xã và luật Hợp tác xã nông nghiệp cũng với những bộ luật liên
quan đã tạo khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của các mô hình hợp tác xã nông
nghiệp của mỗi quốc gia. Điều quan trọng là mặc dù hệ thống luật pháp này luôn bảo
đảm tính cạnh tranh công bằng giữa mô hình hợp tác xã nông nghiệp với các hình thức
tổ chức kinh tế khác trong xã hội, nhưng vân luôn tạo ra những lợi thế nhất định cho mô
hình hợp tác xã nông nghiệp phát triển thuận lợi. Nhằm thúc đẩy dịch vụ hỗ trợ tiêu thụ
sản phẩm cho xã viên, CHLB Đức một mặt đánh thuế thu nhập doanh nghiệp khá cao
(45%), nhưng mặt khác lại tạo ra cơ chế phân chia hoa hồng bán hàng nông sản một
cách mềm dẻo trong khu vực hợp tác xã khiến cho không những thu nhập của xã viên
mà cả thu nhập của hợp tác xã được nâng cao một cách hợp lý. Ở Nhật Bản, luật Bán
buôn cũng tạo điều kiện cho hợp tác xã nông nghiệp rất thuận lợi trong việc hỗ trợ xã
viên tiêu thụ sản phẩm của mình, nhất là các loại nông sản khó bảo quản, mau thối hỏng
như rau quả, thịt các loại,... Nhờ vậy mà thị phần bán buôn của hợp tác xã nông nghiệp
22
đối vớicác loại nông sản này rất cao, chi phối thị trường và tạo ra sự ổn định về giá,
cũng như trong cung cầu nông sản.
Thứ hai là nhà nước luôn đề cao vai trò của hợp tác xã nông nghiệp trong việc
hình thành và triển khai chính sách. Điều này luôn tạo ra hệ thống chính sách, pháp luật
phù hợp và khả thi đối với các điều kiện cụ thể tại mỗi thời điểm và mỗi định hướng
phát triển khu vực này.
Thứ ba là nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để hình thành và phát triển các hợp
tác xã nông nghiệp ở cấp làng xã và mạng lưới hợp tác xã ở khu vực và trong cả nước,
đồng thời với việc tạo ra mối liên hệ giữa các hợp tác xã với các tổ chức, doanh nghiệp
liên quan khác. Điều này đem lại nhiều cơ hội phát triển hơn cho mô hình hợp tác xã,
góp phần quan trọng trong việc tạo dựng và ổn định thị trường tiêu thụ nông sản hàng
hóa của hợp tác xã.
Thứ tư là nhà nước có thể hỗ trợ trực tiếp cho khu vực hợp tác xã các dịch vụ tín
dụng thông qua hình thức cho vay vốn ưu đãi, hỗ trợ lãi suất,… phục vụ sản xuất.
Thứ năm là nhà nước cung cung cấp các dịch vụ đào tạo nâng cao nguồn nhân
lực cho khu vực hợp tác xã nông nghiệp. Rất nhiều nước trên thế giới đều có những
hoạt động đào tạo nguồn nhân lực về chuyên môn sản xuất nông nghiệp và nghiệp vụ
quản lý hợp tác xã sử dụng ngân sách nhà nước. Một số quốc gia như Nhật Bản, Hàn
Quốc, Ấn Độ,… thường hình thành hệ thống đào tạo riêng phục vụ cho việc nâng cao
năng lực quản lý cho lãnh đạo hợp tác xã nông nghiệp. Thái Lan, Malaysia,.. hình thành
hệ thống cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành hợp tác xã để nâng cao nghiệp vụ
kinh doanh, nghiệp vụ kế toán tài chính của hợp tác xã nông nghiệp… Liên minh hợp
tác xã thế giới (ICA) hàng năm đều tổ chức rất nhiều khóa huấn luyện nâng cao nghiệp
vụ quản lý và marketing, tiêu thụ nông sản cho khu vực hợp tác xã nông nghiệp ở nhiều
quốc gia với nhiều trình độ phát triển khác nhau.
Thứ sáu là nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc hỗ trợ, kết nối tổ chức nhiều
dịch vụ trong sản xuất nông nghiệp như dịch vụ khuyến nông, chuyển giao tiến bộ kỹ
thuật, dịch vụ đảm bảo chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm đối với nông sản,…
Cuối cùng là thông qua các chương trình phát triển nông thôn, nhà nước có thể
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, bao gồm cả hệ thống chợ đầu mối, trung tâm
sơ chế nông sản, kho bảo quản tạm thời nông sản,… giúp cho các hợp tác xã nông
nghiệp có thêm cơ sở vật chất hỗ trợ dịch vụ cho xã viên.
Kết luận
Kinh tế hợp tác xã nói chung và hợp tác xã nông nghiệp nói riêng là một bộ phận
quan trọng của kinh tế quốc dân và kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Hình thành và phát
triển các hợp tác xã nông nghiệp hoạt động có hiệu quả là mong muốn của nhiều quốc
gia trên thế giới. Thực tiễn cho thấy các mô hình hợp tác xã nông nghiệp thành công
trên thế giới đều dựa trên các nguyên tắc cơ bản như (i) Hình thành hợp tác xã để thực
hiện các công việc mà cá nhân người nông dân không thể thực hiện được hoặc thực
hiện hiệu quả thấp, (ii) Luôn thực hiện liên kết cả trong nội tại hợp tác xã, trong mạng
lưới hợp tác xã của quốc gia lẫn liên kết với các tổ chức bên ngoài để thực hiện triệt để
nguyên tắc kinh doanh, cung cấp dịch vụ “Lợi thế nhờ qui mô, mua bán sỉ tốt hơn mua
bán lẻ”, (iii) Quan tâm thực hiện dịch vụ hỗ trợ cho người nông dân trong cả chuỗi hành
trình của sản phẩm, từ đặt kế hoạch sản xuất đến chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Đặc
biệt quan tâm hỗ trợ dịch vụ tiêu thụ sản phẩm của xã viên. Mặc dù đối với một số quốc
gia việc hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho xã viên vừa là mục tiêu, vừa là phương tiện của
hợp tác xã nông nghiệp, nhưng đối với một số địa phương, một số quốc gia việc hỗ trợ
tiêu thụ sản phẩm cho xã viên lại có thể trở thành điều kiện sống còn đối với sự tồn tại
23
của hợp tác xã nông nghiệp, (iv) Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực có trình độ quản
lý cao, nhất là trình độ nghiệp vụ kế toán, tài chính, kiểm toán,… Đồng thời thực hiện
dịch vụ kiểm toán định kỳ hợp tác xã nhằm nâng cao uy tín trong hoạt động của các hợp
tác xã này và (v) Hợp tác xã nông nghiệp phải quan tâm thích đáng đến bản sắc văn hóa
và các dịch vụ an sinh xã hội tại địa phương. Đây chính là chất keo kết dính các thành
viên của hợp tác xã lại với nhau, đặc biệt là các hợp tác xã nông nghiệp ở châu Á và
khu vực Đông Nam Á. Có thể nói hợp tác xã nông nghiệp là nhân tố quan trọng nhất
trong liên kết nông dân để phát triển nông nghiệp và nông thôn. Đã có nhiều mô hình
hợp tác xã nông nghiệp thành công trên thế giới tạo ra con đường chắc chắn cho phát
triển hợp tác xã nông nghiệp ở Việt Nam.
24
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban kinh tế Trung ương, Hợp tác xã kiểu mới trong nông nghiệp: Nhìn từ mô
hình Kibbutz và Moshav tại Israel, https://kinhtetrunguong.vn/BaiViet/hop-
tac-xa-kieu-moi-trong-nong-nghiep-nhin-tu-mo-hinh-kibbutz-va-moshav-tai-
i-xra-en-b4833-m61
2. Nguyễn Mạnh Dũng, Phát triển ngành nghề ở nông thôn, Nhà xuất bản nông
nghiệp, Hà Nội 2004.
3. Nguyễn Mạnh Dũng, Phong trào “Mỗi làng, một sản phẩm”- Một chiến lược
phát triển nông thôn trong quá trình công ghiệp hóa, Nhà xuất bản nông
nghiệp, Hà Nội 2006.
4. Nguyễn Mạnh Dũng, Quản lý chất lượng sản phẩm và vệ sinh an toàn thực
phẩm trong chế biến nông lâm thủy sản, Nhà xuất bản nông nghiệp, Hà Nội
2008.
5. Nguyễn Mạnh Dũng, Hai khuynh hướng phát triển nông thôn, Tạp chí Nông
nghiệp và PTNT số 2/2011
6. Nguyễn Mạnh Dũng, Xây dựng mô hình chuỗi liên kết trong sản xuất và tiêu
thụ nông sản, Tạp chí Nông nghiệp và PTNT số 19/2012.
7. Nguyễn Mạnh Dũng, Doanh nghiệp chế biến nông sản trong quá trình tái cơ
cấu ngành nông nghiệp, Bản tin phục vụ lãnh đạo, Trung tâm tin học và
Thống kê Bộ Nông nghiệp và PTNT số 3/2015.
8. http://www.vca.org.vn/hop-tac-xa/kinh-nghiem-quoc-te/10090-vai-tro-cua-
hop-tac-xa-o-mot-so-nuoc-tren-the-gioi.html, Vai trò của hợp tác xã ở một số
nước trên thế giới, 9/2014.
9. http://sac.edu.vn/tinchitiet.php?id1=131&id2=183&id=197, Mô hình HTX
nông nghiệp của CHLB Đức.
25
MỤC LỤC
1. Hợp tác xã - mô hình tất yếu trong sản xuất nông nghiệp
2. Một số mô hình hợp tác xã nông nghiệp điển hình trên thế giới
2.1. HTX nông nghiệp ở CHLB Đức
2.2. HTX nông nghiệp ở Ấn Độ
2.3. Hợp tác xã nông nghiệp ở Israel
2.4. Hợp tác xã nông nghiệp ở Nhật Bản
3. Một số bài học kinh nghiệm từ mô hình HTX nông nghiệp trên thế giới
3.1. Về cơ cấu tổ chức HTX
3.2. Về khả năng liên kết sản xuất, tận dụng thế mạnh của các thành phần kinh tế trong
xã hội
3.3. Về khả năng hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm của nông dân
3.4. Hợp tác xã nông nghiệp với các hoạt động xã hội vùng nông thôn
3.5. Vai trò của nhà nước trong hỗ trợ và phát triển hợp tác xã nông nghiệp
Kết luận
Tài liệu tham khảo